text
stringlengths 0
512k
|
---|
Andrés Iniesta Luján (; sinh ngày 11 tháng 5 năm 1984) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ UAE Pro League Emirates. Được coi là một trong những tiền vệ vĩ đại nhất mọi thời đại, Iniesta đã dành phần lớn sự nghiệp của mình tại Barcelona, nơi anh từng là đội trưởng trong ba mùa giải.
Iniesta đã đến với La Masia, lò đào tạo trẻ Barcelona, sau một cuộc di cư sớm từ nơi sinh của anh, và đã gây ấn tượng ngay từ khi còn nhỏ. Anh ra mắt đội một ở tuổi 18 vào năm 2002. Anh bắt đầu chơi thường xuyên trong mùa giải 2004–05 và ở lại đội cho đến năm 2018. Iniesta là một phần không thể thiếu của đội bóng Barcelona. đã giành được hai cú ăn ba lịch sử vào năm 2009 và 2015, và 35 danh hiệu của anh ấy, bao gồm chín danh hiệu La Liga và bốn danh hiệu UEFA Champions League, khiến anh trở thành người được vinh danh là Cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha nhiều danh hiệu nhất mọi thời đại. Sau 22 năm ở Barcelona, Iniesta đã ký hợp đồng với câu lạc bộ Nhật Bản Vissel Kobe vào năm 2018.
Iniesta chơi cho Tây Ban Nha ở các cấp độ U-16, U-19 và U-21 trước khi ra mắt đội tuyển quốc gia vào năm 2006. Anh giúp Tây Ban Nha vô địch UEFA Euro 2008, chơi mọi trận đấu và được chọn vào Đội hình của Giải đấu. Iniesta cũng là thành viên chủ chốt của đội tuyển Tây Ban Nha vô địch FIFA World Cup 2010; anh đã ghi bàn thắng quyết định trong trận chung kết với Hà Lan, trận đấu mà anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất trận, và được chọn vào danh sách Đội hình tiêu biểu của giải đấu. Tại UEFA Euro 2012, Iniesta đã dẫn dắt Tây Ban Nha giành chức vô địch châu lục thứ hai liên tiếp, một lần nữa được chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận của trận chung kết đấu với Ý, và được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất giải.
Iniesta đã được xướng tên trong FIFA FIFPro World XI chín lần và được chọn vào Đội hình UEFA của năm sáu lần. Anh có tên trong All-time UEFA Euro XI. Anh đã giành được Giải thưởng Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA vào năm 2012 và được vinh danh là Cầu thủ kiến thiết xuất sắc nhất thế giới của IFFHS vào năm 2012 và 2013. Iniesta là á quân trước Lionel Messi tại Quả bóng vàng FIFA 2010 và hạng ba tại 2012.
Sự nghiệp câu lạc bộ
FC Barcelona
Sự nghiệp ban đầu
Iniesta đến từ Fuentealbilla, một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Albacete, Castile-La Mancha, nơi anh chủ yếu chơi futsal do không có sân bóng trong làng. Ở tuổi 12, khi đang chơi cho Albacete Balompié trong một giải đấu bảy người dành cho lứa tuổi thiếu niên ở Albacete, anh ấy đã thu hút sự chú ý của các tuyển trạch viên từ các câu lạc bộ trên khắp Tây Ban Nha. Cha mẹ anh biết huấn luyện viên đội trẻ của Barcelona, Enrique Orizaola, và ông đã thuyết phục họ cân nhắc gửi Iniesta đến học viện đào tạo trẻ Barcelona. Iniesta đã đến đó cùng bố mẹ và thăm La Masia, trang trại nơi câu lạc bộ có các cầu thủ trẻ; chuyến đi đã thuyết phục họ ghi danh Iniesta vào đội trẻ Barcelona.
Iniesta nói rằng anh đã "khóc nhè" vào cái ngày anh đến La Masia và dấu tranh để tách khỏi cha mẹ của mình; he was very shy and kept to himself while there. Anh đeo băng đội trưởng đội U-15 Barcelona giành chiến thắng tại Nike Premier Cup năm 1999, ghi bàn thắng quyết định ở phút cuối cùng của trận chung kết, và được vinh danh là cầu thủ của giải đấu. Ngay sau khi Iniesta đến câu lạc bộ, đội trưởng Pep Guardiola đã có câu nói nổi tiếng với tiền vệ Xavi: "Cậu sẽ cho tôi nghỉ hưu. Cậu nhóc này [Iniesta] sẽ cho tất cả chúng ta phải giải nghệ mất."
2004–08
Iniesta gia nhập đội một trong nhiệm kỳ của Radomir Antić. Ngày 29 tháng 10 năm 2002, anh ra mắt đội một trong chiến thắng 1–0 trên sân khách trước Club Brugge ở vòng bảng UEFA Champions League. Trong mùa giải 2004–05, anh ra sân 37 trong số 38 trận đấu tại giải đấu — nhiều hơn bất kỳ cầu thủ nào khác — mặc dù 25 trong số này là vào sân thay người. Anh lập cú đúp giúp Barcelona vô địch La Liga. Chấn thương của Xavi khi bắt đầu mùa giải 2005–06 đã cho phép Iniesta đá chính thường xuyên hơn ở trung tâm hàng tiền vệ, và anh tiếp tục cải thiện và phát triển. Anh đã chơi 11 trận đấu tại UEFA Champions League, bao gồm cả lần ra sân trong hiệp một trận chung kết 2006, để thay thế Edmílson. Đóng góp của anh ấy cho đội đã được huấn luyện viên Frank Rijkaard khen ngợi khi Barcelona giành cú đúp chức vô địch quốc gia và Champions League.
Mùa giải 2006–07 chứng kiến hồ sơ của Iniesta tiếp tục nổi lên và anh đã nhận được nhiều lời khen ngợi vì sẵn sàng chơi ở bất kỳ vị trí nào cho đội của mình. Trong giai đoạn trước mùa giải, anh đã giành được Joan Gamper Trophy với tư cách là đội trưởng của đội sau chiến thắng 4–0 trước đội bóng Đức Bayern Munich. Iniesta lần đầu tiên chơi ở vị trí tiền đạo cánh trái cho Barça trong hai trận đấu Champions League gặp Levski Sofia, ghi hai bàn vào lưới. Ở vòng loại trực tiếp đầu tiên của cùng một giải đấu, anh chơi ở vị trí tiền vệ trung tâm trước Liverpool. Mặc dù được huấn luyện viên Rijkaard di chuyển khắp sân, mùa giải 2006–07 vẫn là mùa giải Iniesta ghi nhiều bàn thắng nhất cho đến nay.
Với sự ra đi của Ludovic Giuly trước chiến dịch 2007–08, Iniesta đã có thể chuyển đổi số áo 24 của anh sang số 8 ưa thích của anh ấy. Bất chấp những tin đồn về khả năng chuyển nhượng trước mùa giải, anh ấy đã gia hạn hợp đồng đến năm 2014 vào ngày 25 tháng 1 năm 2008, với điều khoản mua đứt của anh ấy được nâng lên 150 triệu euro. Don Balón, một thành viên của Tạp chí thể thao châu Âu, đã gọi Iniesta là một trong những cầu thủ có phong độ ổn định nhất trong hai mùa giải trước của La Liga; anh đứng thứ năm trong 2006–07 và thứ tư trong 2007–08. Anh cũng đứng thứ chín trong cuộc bầu chọn Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2008 của FIFA, giành được tổng cộng 37 điểm.
2008–09
Vào đầu mùa giải 2008–09, vào tháng 9 năm 2008, Iniesta được lựa chọn bầu làm đội trưởng thứ tư, sau lần lượt Carles Puyol, Xavi và Víctor Valdés; cả bốn đều là sản phẩm của lò đào tạo trẻ Barcelona. Màn trình diễn của anh ấy trong suốt mùa giải được đánh giá cao, và anh ấy đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt ở cả Barcelona tại Camp Nou, cũng như từ những người ủng hộ đối thủ trong các trận đấu trên sân khách. Một chấn thương ở chân vào giữa tháng 11 năm 2008 khiến Iniesta phải ngồi ngoài cho đến ngày 3 tháng 1; ban đầu dự kiến sẽ trở lại hành động sau sáu tuần, anh ấy không muốn quay lại cho đến khi anh ấy khỏe mạnh 100%. Khi trở lại thi đấu vào ngày 3 tháng 1, khi vào sân thay người ở phút thứ 65 trong trận đấu với Mallorca, anh đã ghi một bàn thắng quan trọng chỉ sau mười phút có mặt trên sân và hoàn tất cuộc lội ngược dòng của Barcelona trước Camp Nou. 3 ngày sau, anh lần đầu tiên đeo băng đội trưởng Barcelona trong một trận đấu chính thức, chiến thắng 3–1 trước Atlético Madrid tại Vicente Calderón ở trận lượt đi vòng 16 đội Copa del Rey.
Iniesta dính một chấn thương khác trong trận đấu trên sân nhà với Málaga, nhưng đã trở lại thi đấu trong trận lượt đi tứ kết Champions League với Bayern Munich vào ngày 8 tháng 4, trận đấu mà Barcelona đã thắng 4–0. Anh ấy đã ghi bàn gỡ hòa quan trọng ở phút bù giờ cuối cùng trong trận lượt về bán kết Champions League với Chelsea, với một cú trivela từ ngoài vòng cấm chân phải của anh ấy cách khung thành 25 mét, đảm bảo tỷ số hòa trên sân khách khi trận đấu kết thúc với tỷ số 1–1 tại Stamford Bridge. Trong bài đánh giá mùa giải, Un Any Al Paradis, Iniesta đã viết, "Tôi đã kết nối cú sút đó với bên ngoài, không phải bên trong hay mũi giày của tôi, mà ngay từ trái tim tôi, bằng tất cả sức lực của mình."
Bàn thắng của Iniesta vào lưới Chelsea đã đưa Barcelona lọt vào trận chung kết tại Rome trước các nhà đương kim vô địch Manchester United. Trước trận chung kết, huấn luyện viên của United Alex Ferguson đã xác định Iniesta là mối đe dọa lớn nhất của Barça: "Anh ấy thật tuyệt vời. Anh ấy khiến cả đội làm việc hiệu quả. Cách anh ấy tìm đường chuyền, khả năng di chuyển và tạo khoảng trống của anh ấy thật đáng kinh ngạc. Anh ấy rất quan trọng đối với Barcelona." Mặc dù bị chấn thương đùi, Iniesta đã chơi và có tầm ảnh hưởng trong trận đấu, kiến tạo cho bàn thắng đầu tiên được ghi bởi Samuel Eto'o khi đội của anh giành chiến thắng 2–0. Trong phân tích của mình, David Pleat đã viết, "Cuối cùng, nghệ thuật ở hàng tiền vệ của Iniesta và Xavi, được trợ giúp bởi [Lionel] Messi, là yếu tố quan trọng." Sau trận đấu, tiền đạo của United Wayne Rooney đã mô tả Iniesta là cầu thủ hay nhất thế giới.
Iniesta đã nhận được nhiều lời khen ngợi cho màn trình diễn của anh ấy trong mùa giải đó; Don Balón đánh giá anh là cầu thủ có phong độ ổn định nhất giải đấu. Cuối năm đó, anh đứng thứ năm cho giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2009 của FIFA, với 134 phiếu bầu., và thứ tư cho Ballon d'Or, nhận được 149 điểm. Barcelona đã gia hạn hợp đồng của anh ấy thêm một năm, đến năm 2015 và nâng điều khoản mua đứt của anh ấy lên 200 triệu euro.
2009–2012
Barcelona đã giành chức vô địch giải đấu thứ hai liên tiếp trong mùa giải 2009–10, giành được kỷ lục 99 điểm. Tuy nhiên, về mặt cá nhân, Iniesta đã phải chịu đựng một mùa giải bị gián đoạn phần lớn do chấn thương tái phát. Anh đã bỏ lỡ buổi tập thể lực trước mùa giải do vết rách ở đùi trong trận chung kết Champions League 2009. Mặc dù ra sân trong hầu hết các trận đấu như mùa giải trước, nhưng anh ấy hầu như chỉ vào sân thay người, chỉ đá chính 20 trận trong suốt mùa giải. Mùa giải của anh ấy đã kết thúc sớm vào tháng 4 sau khi anh ấy bị chấn thương bắp chân trước đó trầm trọng hơn trong quá trình tập luyện.
Một yếu tố góp phần khiến mùa giải rạn nứt của Iniesta là những giai đoạn bất ổn tâm lý mà anh ấy phải chịu đựng sau cái chết của người bạn thân Daniel Jarque, một cầu thủ bóng đá, vào tháng 8 năm 2009. Ngay cả khi khỏe mạnh, anh ấy thường không thể hoàn thành buổi tập phiên hoặc nỗ lực bản thân. Sau khi tìm kiếm sự trợ giúp tâm lý, kể cả từ nhà tâm lý học Inma Puig, anh đã trải qua cảm giác sảng khoái khi ghi bàn thắng ấn định chiến thắng cho Tây Ban Nha trong trận chung kết FIFA World Cup 2010, bàn thắng mà anh ấy dành tặng cho Jarque bằng cách tiết lộ thông điệp "Dani Jarque, luôn ở bên chúng tôi " được viết trên áo lót của anh ấy. "Tôi đã làm điều đó bởi vì tôi cảm thấy nó sâu sắc," Iniesta nói vào thời điểm đó. "Điều đó cho thấy rằng điều quan trọng hơn sự cạnh tranh, đội của bạn hay màu cờ sắc áo của bạn là trở thành con người và một người tốt. Tôi rất vui vì đó là thời điểm quan trọng nhất trong sự nghiệp của tôi." Về những chấn thương tái phát trong mùa giải của anh, anh nói, "Thật khó khăn, nhưng tôi sẽ bắt đầu với khát khao hơn bao giờ hết."
Iniesta ghi bàn thắng đầu tiên tại mùa giải 2010–11 trong trận mở màn giải đấu với Racing de Santander, đưa bóng vào lưới từ khoảng cách 30 mét. Trong suốt chiến dịch, anh ấy đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ những người hâm mộ đối phương, bao gồm cả tại El Sardinero và Sân vận động Vicente Calderón, để đánh giá cao bàn thắng vô địch World Cup của anh. Một sự hoan nghênh nhiệt liệt khác đã diễn ra trên sân nhà của Espanyol trong Derbi barceloní, với đám đông thừa nhận tình bạn của anh ấy với Daniel Jarque, đội trưởng của Espanyol vào thời điểm anh qua đời. Iniesta là một trong ba người vào chung kết cho Quả bóng vàng FIFA 2010 cùng với Xavi và Messi, xếp ở vị trí á quân sau cầu thủ người Argentina..
Iniesta bắt đầu mùa giải 2011–12 bằng cách ghi bàn mở tỷ số trong trận lượt về của Supercopa de España trước đối thủ Real Madrid. Barcelona tiếp tục giành chiến thắng với tỷ số 3–2 và giành cúp khi thắng 5–4 chung cuộc. Một trong những bàn thắng đẹp nhất của anh diễn ra vào tháng 10 vào lưới Viktoria Plzeň ở vòng bảng Champions League sau một pha chuyền bóng với Messi. Iniesta đã lập kỷ lục 51 trận bất bại tại La Liga, kết thúc bằng thất bại 0–2 của Barcelona trước Mallorca vào ngày 24 tháng 3. Tại Champions League, anh đã chấm dứt cơn hạn hán bàn thắng bằng cách ghi một bàn thắng quan trọng vào lưới Milan tại tứ kết. Từ đó, anh tiếp tục ghi bàn trong trận bán kết với Chelsea để nâng tỷ số lên 2–0, nhưng trận đấu kết thúc với tỷ số 2–2, loại đội của anh ấy với tỷ số chung cuộc 3–2. Đến cuối năm, vào ngày 25 tháng 11, Iniesta được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất trận sau khi ghi một bàn thắng và có ba pha kiến tạo trong chiến thắng 4–0 trước Levante. Màn trình diễn của anh ấy đã giúp anh ấy giành được vị trí thứ ba trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA 2012.
2013–2018
Iniesta đã ký hợp đồng mới với Barcelona vào tháng 12 năm 2013, giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến năm 2018. Với tư cách là đội phó, anh thường xuyên dẫn dắt Barça trong suốt chiến dịch giành cú ăn ba thứ hai của câu lạc bộ ở mùa giải 2014–15, và trở thành đội trưởng sau khi Carles Puyol giải nghệ và Xavi ra đi. Iniesta đã ghi ba bàn trong chiến dịch Copa del Rey của đội, và là cầu thủ xuất sắc nhất trận Chung kết UEFA Champions League 2015, đã kiến tạo cho Ivan Rakitić ghi bàn mở tỷ số trong trận thắng 3–1 trước nhà vô địch Ý Juventus tại Olympiastadion của Berlin. Chiến thắng ở châu Âu của họ đã biến Barcelona trở thành câu lạc bộ đầu tiên trong lịch sử giành được cú ăn ba bao gồm giải quốc gia, cúp quốc gia và cúp châu Âu hai lần; Iniesta nằm trong số bảy cầu thủ góp mặt trong cả hai đội giành cú ăn ba.
Trong trận Clásico đầu tiên của mùa giải 2015–16, vào ngày 21 tháng 11, Iniesta trở thành cầu thủ thứ ba của Barcelona, sau Diego Maradona năm 1983 và Ronaldinho năm 2005, đã nhận được tràng pháo tay từ người hâm mộ Real Madrid tại Santiago Bernabéu. Màn trình diễn xuất sắc nhất trận đấu của anh bao gồm một bàn thắng và một pha kiến tạo, góp phần vào chiến thắng vang dội 4–0.
Anh đã ký hợp đồng trọn đời với Barcelona vào ngày 6 tháng 10 năm 2017, giúp anh gắn bó với câu lạc bộ trong phần còn lại của sự nghiệp. Anh chơi trận thứ 650 trong sự nghiệp cho Barcelona trước Levante vào ngày 7 tháng 1 năm 2018, anh bị thay ra bởi André Gomes sau 76 phút khi trận đấu kết thúc với tỷ số 3–0 nghiêng về Barcelona.
Mặc dù đã ký hợp đồng trọn đời nhưng vào ngày 27 tháng 4 năm 2018, Iniesta tuyên bố anh sẽ rời Barcelona vào cuối mùa giải. Anh ra sân lần thứ 674 và cũng là trận cuối cùng cho Barcelona vào ngày 20 tháng 5, trong trận đấu cuối cùng của mùa giải, chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước Real Sociedad, khi Barcelona ăn mừng chức vô địch giải đấu thứ 25 và cúp Nhà vua lần thứ 30 tiêu đề; anh rời sân ở phút thứ 81 cho Paco Alcácer.
Vissel Kobe
Vào ngày 24 tháng 5 năm 2018, câu lạc bộ Nhật Bản Vissel Kobe thông báo về việc ký hợp đồng với Iniesta có thời hạn 3 năm. Anh có màn ra mắt vào ngày 22 tháng 7, vào sân trong hiệp hai thay cho Kazuma Watanabe trong thất bại 0–3 trước Shonan Bellmare. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2018, Iniesta ghi bàn thắng đầu tiên tại J1 League trong chiến thắng 2–1 trước Jubilo Iwata.
Vào ngày 21 tháng 12 năm 2019, anh ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 3–1 trước Shimizu S-Pulse trong trận bán kết Cúp Thiên Hoàng 2019. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2020, anh giành được chiếc cúp đầu tiên tại Nhật Bản, bắt đầu từ chiến thắng 2–0 của Vissel Kobe trước Kashima Antlers trong trận chung kết Cúp Thiên Hoàng 2019. Một tháng sau, anh ấy cũng giành được Siêu cúp Nhật Bản 2020. Vào ngày 7 tháng 12 năm 2020, Iniesta bị rách cơ trực tràng đùi trong chiến thắng 2–0 ở vòng 16 đội AFC Champions League 2020 trước Shanghai SIPG, trong đó anh ấy cũng đã ghi bàn thắng đầu tiên của trận đấu. Anh ấy đã phẫu thuật thành công ở Barcelona vài ngày sau đó.
Vào ngày 11 tháng 5 năm 2021, Iniesta ký gia hạn hợp đồng với Vissel Kobe, giữ anh ở lại câu lạc bộ thêm hai mùa giải. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2021, anh được vinh danh Cầu thủ xuất sắc nhất tháng J. League sau khi ghi ba bàn thắng vào tháng 10. Anh có tên trong J.League Best XI 2021 vào ngày 6 tháng 12 năm 2021.
Vào ngày 14 tháng 5 năm 2022, Iniesta đã ghi một bàn thắng và giúp Vissel Kobe giành chức vô địch giải đấu đầu tiên của mùa giải 2022 trong chiến thắng 4–0 trước Sagan Tosu.
Vào ngày 25 tháng 5 năm 2023, Vissel Kobe cho biết Iniesta sẽ rời câu lạc bộ giữa mùa giải J.League hiện tại, vào ngày 1 tháng 7. Iniesta đã chơi ít hơn đáng kể cho câu lạc bộ trong mùa giải cuối cùng của anh. Anh nói rằng anh chưa muốn giải nghệ và muốn chơi cho một câu lạc bộ mà anh có thể có thời gian thi đấu thường xuyên.
Emirates
Vào ngày 7 tháng 8 năm 2023, Iniesta đến Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất để tham gia câu lạc bộ UAE Pro League Emirates. Anh ký hợp đồng một năm với tùy chọn gia hạn đến năm 2025.
Sự nghiệp quốc tế
2001–2008
Iniesta bùng nổ trên đấu trường quốc tế vào năm 2001, giúp Tây Ban Nha giành chức vô địch Giải vô địch U-16 châu Âu. Sau khi đại diện cho quốc gia của mình tại Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2001 được tổ chức tại Trinidad và Tobago, anh có mặt trong đội giành chức vô địch Giải vô địch U19 châu Âu UEFA vào năm sau. Kể từ đó, anh ấy trở thành sự lựa chọn thường xuyên cho huấn luyện viên đội trẻ Juan Santisteban. Năm 2003, anh là thành viên của đội lọt vào trận chung kết Giải vô địch trẻ thế giới FIFA tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và có tên trong đội hình ngôi sao toàn năng FIFA. Trong thời gian thi đấu cho U-21 Tây Ban Nha, Iniesta đã nhiều lần được chỉ định làm đội trưởng.
Iniesta được triệu tập để đại diện cho đội tuyển Tây Ban Nha cấp cao tại FIFA World Cup 2006 vào ngày 15 tháng 5 năm 2006, trước sự ngạc nhiên của nhiều người. Anh có lần ra sân quốc tế đầu tiên cho La Furia Roja khi được tung vào sân ở hiệp một trong trận giao hữu với Nga vào ngày 27 tháng 5. Bàn thắng đầu tiên của anh diễn ra trong trận giao hữu với Anh vào ngày 7 tháng 2 năm 2007. Cú sút xa của anh chạm vào mặt dưới của xà ngang trên đường vào, giúp Tây Ban Nha vượt lên dẫn trước ở phút 63. Iniesta đã đóng một vai trò quan trọng trong vòng loại UEFA Euro 2008 của Tây Ban Nha bằng cách ghi bàn vào lưới Thụy Điển và hỗ trợ các tiền đạo.
2008–2012
Iniesta được chọn vào đội tuyển Tây Ban Nha tham dự UEFA Euro 2008 ở Áo và Thụy Sĩ. Mặc dù căn bệnh dạ dày phần nào cản trở màn trình diễn của anh ấy ở vòng bảng, nhưng anh ấy vẫn đóng vai trò không thể thiếu ở hàng tiền vệ. Anh ấy đã chơi trong hai trận đầu tiên ở vòng bảng của Tây Ban Nha và chứng tỏ là một phần quan trọng của đội, cung cấp đường chuyền cho bàn thắng thứ hai của David Villa vào lưới Nga. Anh ấy không được nghỉ ngơi, không giống như hầu hết các cầu thủ thường xuyên của Tây Ban Nha, trong trận đấu cuối cùng vòng bảng với Hy Lạp, trận đấu mà Tây Ban Nha đã thắng 2–1 nhờ cú vô lê của Rubén de la Red và một bàn thắng muộn. người chiến thắng từ Daniel Güiza. Iniesta trở lại trong trận tứ kết khi Tây Ban Nha đánh bại Ý trên chấm phạt đền; anh ấy đã bị thay ra trước loạt sút luân lưu. Trong trận bán kết với Nga, anh ấy đã chơi trọn vẹn 90 phút và thực hiện một quả tạt mà Xavi đã thực hiện thành công để mở tỷ số trong chiến thắng chung cuộc 3–0; sau đó anh ấy được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu. Anh ấy đã chơi trong suốt thời gian của trận chung kết trong chiến thắng 1–0 của Tây Ban Nha trước Đức. Iniesta được xướng tên trong Đội hình tiêu biểu cùng với các tiền vệ người Tây Ban Nha Xavi, Marcos Senna và sáu đồng đội khác. Iniesta đã không tham gia Cúp Liên đoàn các châu lục 2009 ở Nam Phi do chấn thương cơ đùi; Tây Ban Nha bị loại khỏi giải đấu ở vòng bán kết.
Iniesta đã được chọn cho Tây Ban Nha trong Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 và ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 2–1 ở vòng bảng trước Chile. Anh ấy cũng được vinh danh cầu thủ xuất sắc nhất trận. Với màn trình diễn xuất sắc giúp Tây Ban Nha lọt vào trận chung kết của giải đấu, Iniesta đã lọt vào danh sách rút gọn cho giải thưởng Quả bóng vàng. Trong trận chung kết, anh đã ghi bàn thắng quyết định ở phút thứ 116 trong chiến thắng 1–0 trước Hà Lan. Anh đã nhận một thẻ vàng vì đã cởi áo thi đấu trong màn ăn mừng bàn thắng ngây ngất của anh để tiết lộ thông điệp của anh với người bạn quá cố Dani Jarque. Anh \đã giành được giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu cho màn trình diễn của anh trong trận chung kết, giúp Tây Ban Nha lần đầu tiên vô địch World Cup.
Tại UEFA Euro 2012, Iniesta đã được trao giải cầu thủ xuất sắc nhất trận nhờ màn trình diễn của anh ấy trong ba trận đấu khác nhau. Anh ấy cũng được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu trong trận chung kết gặp Ý, đội mà Tây Ban Nha đã thắng 4–0. Khi giành được giải thưởng, Iniesta trở thành cầu thủ Tây Ban Nha duy nhất giành được giải thưởng này ít nhất một lần trong ba giải đấu thành công liên tiếp của Tây Ban Nha. Iniesta cũng được chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất giải UEFA Euro 2012.
2013–2018
Tại FIFA Confederations Cup 2013, Iniesta có tên trong Đội hình tiêu biểu của giải đấu và được trao Quả bóng bạc cho cầu thủ xuất sắc thứ hai của giải đấu, khi Tây Ban Nha về nhì trước quốc gia chủ nhà Brasil. Iniesta đá chính cả ba trận cho Tây Ban Nha tại FIFA World Cup 2014, có lần khoác áo thứ 100 trong trận đấu cuối cùng của đội với Úc. Tại UEFA Euro 2016, anh đã kiến tạo bàn thắng duy nhất của trận đấu với Cộng hòa Séc và trở thành cầu thủ xuất sắc nhất trận giúp Tây Ban Nha khởi đầu thắng lợi tại giải đấu. Anh đá chính trong cả bốn trận đấu của Tây Ban Nha và sau đó bị Ý loại ở Vòng 16 đội.
Vào tháng 5 năm 2018, Iniesta có tên trong đội tuyển Tây Ban Nha tham dự FIFA World Cup 2018 ở Nga. Anh đá chính trong cả ba trận của vòng bảng, kiến tạo cho Isco trong trận hòa 2–2 trước Maroc vào ngày 25 Tháng 6 năm 2018. Anh vào sân từ băng ghế dự bị ở phút 67 trong trận đấu cuối cùng của Tây Ban Nha tại giải đấu với Nga vào ngày 1 tháng 7 năm 2018 cho vòng 16 đội. Sau thất bại ở loạt sút luân lưu, Iniesta tuyên bố giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế. Anh ấy đã có 131 lần khoác áo đội tuyển quốc gia cho Tây Ban Nha và tại thời điểm giải nghệ, anh là cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều thứ tư mọi thời đại, chỉ sau Iker Casillas, Xavi và Sergio Ramos.
Phong cách thi đấu và đón nhận
Giống như người đồng nghiệp tốt nghiệp La Masia Cesc Fàbregas, Iniesta ban đầu khởi nghiệp ở vị trí tiền vệ phòng ngự, nhưng khả năng giữ thăng bằng, khả năng kiểm soát bóng và sự nhanh nhẹn trong không gian gần, kết hợp với kỹ năng, sự điềm tĩnh và sự tinh tế khi đi bóng, đã giúp anh ấy tiến bộ với tư cách là một tiền vệ tấn công. Ngoài tài năng bẩm sinh đã được các tuyển trạch viên của Barcelona phát hiện khi còn trẻ, chính sự linh hoạt, đạo đức làm việc và óc sáng tạo tuyệt vời của anh ấy đã cho phép anh ấy giành được vị trí trong đội một ở tuổi 18. Vicente del Bosque mô tả anh ấy là "Một cầu thủ bóng đá toàn diện. Anh ấy có thể tấn công và phòng thủ, anh ấy kiến tạo và ghi bàn," và Frank Rijkaard nói, "Tôi đã chơi anh ấy như một cầu thủ chạy cánh ảo, Tiền vệ trung tâm, tiền vệ kiến thiết lùi sâu và cả phía sau tiền đạo cắm và anh luôn xuất sắc." Ban đầu anh ấy được sử dụng như một tiền đạo cánh khi không có Juan Román Riquelme và Ronaldinho bởi Louis van Gaal và Rijkaard, nhưng anh ấy đã trở thành một cầu thủ đẳng cấp thế giới ở vị trí trung phong. hàng tiền vệ bên cạnh hoặc thay cho Xavi, ở cả cấp độ câu lạc bộ và quốc tế. Như FIFA.com nói, "Ở vị trí này, phong cách trực tiếp và đôi chân nhanh nhẹn của anh ấy có thể phát huy hết tác dụng, với quả bóng như dính chặt vào các ngón chân của anh ấy khi anh ấy lao vào các vị trí nguy hiểm." Là một tiền vệ nhỏ con, Iniesta là một cầu thủ được biết đến với khả năng chuyền bóng, kỹ thuật, tầm nhìn và khả năng di chuyển; anh ấy cũng được đánh giá cao về khả năng đọc trận đấu, cũng như khả năng tăng tốc và kiểm soát chặt chẽ ở tốc độ, điều mà — khi kết hợp với trọng tâm thấp — đã khiến anh trở thành một trong những cầu thủ rê bóng hay nhất mọi thời đại, bằng cách cho phép anh ta đổi hướng nhanh chóng, vượt qua đối thủ và thực hiện các pha chạy bóng cá nhân, mặc dù không đặc biệt nhanh. Hơn nữa, huấn luyện viên cũ của anh Guardiola đã ca ngợi anh vì "sự thông thạo về mối quan hệ giữa không gian và thời gian", điều mà anh ấy tận dụng để làm lợi thế của mình nhằm làm mất phương hướng của các cầu thủ đối phương khi cầm bóng. Động tác đặc trưng của anh ấy là La Croqueta – một động tác được tiên phong bởi Michael Laudrup và được phổ biến bởi Iniesta - nơi anh ấy nhanh chóng đẩy bóng từ chân phải sang chân trái để lấy bóng ra khỏi đối phương, cho phép anh ấy thoát khỏi tình thế ngặt nghèo. Vai trò của anh ấy cũng được ví như mezzala, theo thuật ngữ bóng đá Ý, cụ thể là box–to-box có đầu óc tấn công hoặc tiền vệ trung tâm.
Giống như những sản phẩm trẻ khác của Barcelona như Pep Guardiola, Xavi và Iván de la Peña, Iniesta là một kiến tạo kiến tạo dựa vào kỹ thuật, khả năng chuyền bóng, trực giác, khả năng di chuyển và khả năng sáng tạo của mình để kiểm soát thế trận. hàng tiền vệ, điều khiển nhịp độ lên xuống của lối chơi, đồng thời tạo cơ hội hoặc khoảng trống cho đồng đội. Iniesta được khen ngợi vì sự hiểu biết và ăn ý với Xavi; đồng đội cũ của Barcelona Giovanni van Bronckhorst nói về cặp đôi này, "Họ có một mối quan hệ đặc biệt, họ luôn có, họ dường như biết người kia đang ở đâu." Mặc dù không đặc biệt sung mãn trước khung thành, nhưng trong suốt quá trình trưởng thành của mình với tư cách là một cầu thủ, anh ấy đã nổi tiếng là một cầu thủ xuất sắc cho câu lạc bộ và quốc gia, kiến tạo một bàn thắng trong mỗi trận chung kết UEFA Champions League 2009, 2011 và 2015, cũng như ghi bàn ấn định chiến thắng trong trận Chung kết World Cup 2010, không thể bỏ qua những đóng góp quan trọng của anh trong Chung kết Champions League 2006, Chung kết Euro 2008 và Chung kết Euro 2012, được biết đến với khả năng ghi bàn từ những cú sút uy lực bên ngoài vòng cấm. Anh ấy cũng là cầu thủ bóng đá duy nhất trong lịch sử giành được danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận trong một trận chung kết World Cup, một trận chung kết Euro và một trận chung kết Champions League.
Sự sẵn sàng thi đấu ở bất cứ đâu trên sân của anh ấy đã khiến anh ấy được mệnh danh là El Ilusionista (Nhà ảo thuật), El Cerebro (Bộ não), El Anti-Galáctico (một cách chơi chữ biệt danh của các cầu thủ Real Madrid Los Galácticos), El Caballero Pálido (The Pale Knight) và gần đây nhất là Don Andrés từ báo chí Tây Ban Nha. Zinédine Zidane cũng ca ngợi Iniesta, phát biểu trên đài phát thanh Tây Ban Nha Cadena COPE, "Iniesta thực sự gây ấn tượng với tôi. Anh ấy có rất nhiều ảnh hưởng đến lối chơi của Tây Ban Nha. Anh ấy khiến tôi nhớ đến chính mình." Anh được nhiều người trong giới thể thao đánh giá là một trong những tiền vệ được kính trọng nhất và xuất sắc nhất mọi thời đại, và là một trong những người chuyền bóng và kiến tạo vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá thế giới. Mặc dù tính cách dè dặt, anh cũng được biết đến với khả năng lãnh đạo của mình.
Truyền thông và tài trợ
Iniesta đã có hợp đồng tài trợ với công ty đồ thể thao Nike, và đã xuất hiện trong các quảng cáo của Nike cùng với Cristiano Ronaldo, Neymar, Zlatan Ibrahimović và Wayne Rooney. Iniesta góp mặt trong loạt trò chơi FIFA của EA Sports, và là cầu thủ được đánh giá cao thứ sáu trong FIFA 15. Pha đi bóng đặc trưng của Iniesta, La Croqueta, xuất hiện trong FIFA 19. Vào tháng 3 năm 2015, Iniesta có thứ hạng trên mạng xã hội cao thứ chín trên thế giới trong số những người chơi thể thao, với 24 triệu người hâm mộ trên Facebook. Vào ngày 22 tháng 10 năm 2018, Iniesta đã ký hợp đồng tài trợ mới với công ty đồ thể thao Nhật Bản Asics, với đôi giày có chữ ký đầu tiên của anh ấy được phát hành vào ngày 15 tháng 7 năm 2019.
Đời tư
Iniesta kết hôn với Anna Ortiz; cặp đôi bắt đầu hẹn hò vào năm 2008 và kết hôn vào ngày 8 tháng 7 năm 2012. Họ có hai con gái, sinh năm 2011 và 2017, và hai con trai, sinh năm 2015 và 2019. Họ đã mất một đứa con chưa chào đời, một đứa con trai, do sảy thai vào tháng 3 năm 2014. Tháng 2 năm 2023, họ chào đón đứa con thứ năm, một bé gái. Iniesta là một người Công giáo.
Vào năm 2011, Iniesta đã đầu tư 420.000 € vào câu lạc bộ thời niên thiếu của mình, Albacete, do đó trở thành cổ đông lớn của nó.. Hai năm sau, khi câu lạc bộ phải đối mặt với việc xuống hạng hành chính xuống hạng tư của bóng đá Tây Ban Nha, anh đã cho họ vay thêm 240.000 € để trang trải các khoản lương chưa trả.
Vào tháng 5 năm 2018, Iniesta tiết lộ với Risto Mejide rằng anh bị trầm cảm trước FIFA World Cup 2010 do chấn thương và cái chết của Daniel Jarque.
Vào tháng 9 năm 2018, Iniesta cùng với cầu thủ bóng đá người Đức Lukas Podolski đã vận động và quyên góp tiền cho các nạn nhân của trận động đất Đông Iburi Hokkaido ở Nhật Bản.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Chú thích
Đội tuyển quốc gia
Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Tây Ban Nha trước, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Iniesta.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Barcelona
La Liga: 2004–05, 2005–06, 2008–09, 2009–10, 2010–11, 2012–13, 2014–15, 2015–16, 2017–18
Copa del Rey: 2008–09, 2011–12, 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18
Supercopa de España: 2005, 2006, 2010, 2011, 2013, 2016
UEFA Champions League: 2005–06, 2008–09, 2010–11, 2014–15
UEFA Super Cup: 2009, 2011, 2015
FIFA Club World Cup: 2009, 2011, 2015
Vissel Kobe
Emperor's Cup: 2019
Japanese Super Cup: 2020
Quốc tế
U-16 Tây Ban Nha
UEFA European Under-16 Championship: 2001
U-19 Tây Ban Nha
UEFA European Under-19 Championship (1): 2002
Tây Ban Nha
FIFA World Cup: 2010
UEFA European Championship: 2008, 2012
Cá Nhân
UEFA Euro Team of the Tournament: 2008, 2012
La Liga Best Spanish Player: 2009
La Liga Best Midfielder: 2009, 2011, 2012, 2013, 2014
FIFA FIFPro World11: 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017
UEFA Team of the Year: 2009, 2010, 2011, 2012, 2015, 2016
Onze de Bronze: 2009
FIFA World Cup Dream Team: 2010
Cầu thủ kiến tạo nhiều nhất UEFA Champions League: 2010–11
ESM Team of the Year: 2010–11, 2017–18
Onze d'Argent: 2011
Marca Legend Award: 2011
UEFA Best Player in Europe Award: 2012
UEFA Euro Player of the Tournament: 2012
IFFHS World's Best Playmaker: 2012, 2013
IFFHS World Team of the Decade 2011–2020
IFFHS UEFA Team of the decade 2011–2020
Quả bóng Bạc FIFA Confederations Cup: 2013
Cầu thủ kiến tạo nhiều nhất La Liga: 2012–13
Golden Foot: 2014
Đội hình của mùa giải UEFA Champions League: 2014–15, 2015–16
UEFA Ultimate Team of the Year (published 2015)
FIFA Club World Cup Bronze Ball: 2015
France Football World XI: 2015
La Liga Team of the Season: 2015–16
UEFA Euro All-time XI (phát hành 2016)
J.League Best XI: 2019, 2021
Ballon d'Or Dream Team (Bronze): 2020
Huân chương
Prince of Asturias Awards: 2010
Gold Medal of the Royal Order of Sporting Merit: 2011
Queen Sofia Award: 2017
Grand Cross of the Royal Order of Sports Merit: 2018
Chú thích |
Ludovic Giuly (sinh ngày 10 tháng 7 năm 1976 tại Lyon) là một cựu cầu thủ bóng đá Pháp. Anh thường chơi tiền vệ trung tâm hoặc tiền đạo cánh.
Giuly bắt đầu sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp năm 1994 tại Olympique Lyon. Năm 1999 anh chuyển đến Monaco chơi cho AS Monaco. Thành tích tốt nhất của anh tại đó là vào chung kết Champions League 2004, đội của anh thất bại trước Porto 0:3. Trong trận đấu đó đội trưởng Giuly đã sớm phải rời săn vì chấn thương sau 23 phút thi đấu.
Sau mùa bóng này anh chuyển đến thi đấu cho Barcelona tại Tây Ban Nha. Mùa bóng đầu tiên trong màu áo Barca anh giành được một chức vô địch La Liga và Siêu cúp, ghi tổng cộng 11 bàn.
Trận đấu đầu tiên của anh trong màu áo đội tuyển quốc Pháp ngày 29 tháng 3 năm 2000 gặp Scotland. Tới nay anh đã thi đấu 17 lần cho tuyển Pháp.
Thống kê sự nghiệp
Danh hiệu
UI Cup: 1997
Siêu cúp bóng đá Pháp: 2000
Vô địch quốc gia Pháp: 2001, 2003
Vô địch La Liga: 2005, 2006
Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha: 2005
Copa Carranza: 2005
UEFA Champions League: 2006
Đội bóng
1994-1998: Olympique Lyonnais
1998-2004: AS Monaco
2004-2008: FC Barcelona
Chú thích |
Máu là một tổ chức di động được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu) và huyết tương. Chức năng chính của máu là cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức cũng như loại bỏ các chất thải trong quá trình chuyển hóa của cơ thể như carbon dioxide và axit lactic. Máu cũng là phương tiện vận chuyển của các tế bào (cả tế bào có chức năng bảo vệ cơ thể lẫn tế bào bệnh lý) và các chất khác nhau (các amino acid, lipid, hormone) giữa các tổ chức và cơ quan trong cơ thể. Các rối loạn về thành phần cấu tạo của máu hay ảnh hưởng đến sự tuần hoàn bình thường của nó có thể dẫn đến rối loạn chức năng của nhiều cơ quan khác nhau.
Có hai vòng tuần hoàn tương đối độc lập về mặt giải phẫu nhưng liên quan chặt chẽ về mặt chức năng: tuần hoàn phổi (hay còn gọi tiểu tuần hoàn) và tuần hoàn hệ thống (hay còn gọi là đại tuần hoàn). Hai vòng tuần hoàn này đều hoạt động chủ yếu bởi sức bơm của cơ tim.
Thành phần cấu tạo của máu người
Máu chiếm 7% trọng lượng cơ thể, với tỷ trọng trung bình khoảng 1060 kg/m³, gần giống với tỷ trọng nước nguyên chất (1000 kg/m³). Người trưởng thành trung bình có khoảng 5 lít máu, bao gồm một số loại huyết cầu khác nhau hay còn gọi là thành phần hữu hình và huyết tương. Huyết cầu gồm hồng cầu, bạch cầu, và tiểu cầu. Theo thể tích hồng cầu chiếm khoảng 45% số tế bào máu, huyết tương chiếm khoảng 54,3%, và bạch cầu khoảng 0,7%.
Huyết cầu
Các thành phần hữu hình gồm:
Hồng cầu: chiếm khoảng 95%. Ở động vật có vú, hồng cầu trưởng thành mất nhân và các bào quan. Hồng cầu chứa hemoglobin và có nhiệm vụ chính là vận chuyển và phân phối oxy cũng như cacbonic.
Bạch cầu: chiếm khoảng 4% là một phần quan trọng của hệ miễn dịch có nhiệm vụ tiêu diệt các tác nhân gây nhiễm trùng và phát động đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
Tiểu cầu: chiếm khoảng 1%, chịu trách nhiệm trong quá trình đông máu. Tiểu cầu tham gia rất sớm vào việc hình thành nút tiểu cầu, bước khởi đầu của quá trình hình thành cục máu đông trong chấn thương mạch máu nhỏ.
Huyết tương
Huyết tương là dung dịch chứa đến 90% nước, 10% là các protein huyết tương và rất nhiều chất khác với một lượng nhỏ, đôi khi chỉ ở dạng vết. Các thành phần chính của huyết tương gồm:
Albumin
Các yếu tố đông máu
Các globulin miễn dịch (immunoglobulin) hay kháng thể (antibody)
Các hormone
Các protein khác
Các chất điện giải (chủ yếu là Natri và Clo, ngoài ra còn có calci, kali, phosphate.)
Các chất thải khác của cơ thể.
Trong cơ thể, dưới tác động của cơ tim, hệ thần kinh thực vật và các hormone, máu lưu thông không theo quy luật của lực trọng trường. Ví dụ não là cơ quan nằm cao nhất nhưng lại nhận lượng máu rất lớn (nếu tính theo khối lượng tổ chức não) so với bàn chân, đặc biệt là trong lúc lao động trí óc.
Ở người và các sinh vật sử dụng hemoglobin khác, máu được oxy hóa có màu đỏ tươi (máu động mạch). Máu khử oxy có màu đỏ bầm (máu tĩnh mạch).
Độ pH của máu
Độ pH của máu trong động mạch thường xấp xỉ 7,40 (dao động từ 7,35 đến 7,45), làm cho nó có tính kiềm nhẹ. pH máu giảm xuống dưới 7,35 được xem là toan máu (thường do nhiễm toan) và pH trên 7,45 được gọi là kiềm máu (thường do nhiễm kiềm). pH máu cùng với các chỉ số áp lực riêng phần của carbonic (PaCO2), bicarbonate (HCO3-) và kiềm dư (base excess) là những chỉ số xét nghiệm khí máu có ý nghĩa quan trọng trong việc theo dõi cân bằng toan-kiềm của cơ thể. Tỷ lệ thể tích máu so với cơ thể thay đổi theo lứa tuổi và tình trạng sinh lý bệnh. Trẻ nhỏ có tỷ lệ này cao hơn người trưởng thành. Phụ nữ có thai tỷ lệ này cũng tăng hơn phụ nữ bình thường. Ở người trưởng thành phương Tây, thể tích máu trung bình vào khoảng 8 lít trong đó có 2,7 đến 3 lít huyết tương. Tổng diện tích bề mặt của các hồng cầu (rất quan trọng trong trao đổi khí) lớn gấp 2.000 lần diện tích da cơ thể.
Máu ở các động vật có xương sống khác
Chức năng của máu
Vận chuyển: Máu vận chuyển Oxi từ phổi đến tế bào, nhận Oxi từ tế bào đến phổi để đào thải ra ngoài, giúp quá trình hô hấp diễn ra thuận lợi; Các chất dinh dưỡng hấp thu từ hệ tiêu hóa được máu vận chuyển đến các cơ quan đích, cung cấp dinh dưỡng để nuôi tế bào; Máu vận chuyển hormon và các chất dẫn truyền từ nơi sản xuất tới cơ quan đích; Máu vận chuyển nhiệt từ các bộ phận sâu trong trong cơ thể đến da và đường hô hấp để đưa nhiệt ra ngoài
Điều hòa pH máu: nhờ các thành phần trong máu như các chất điện giải K+, CH-, H+,... Hệ thống đệm trong máu chuyển các axit và base mạnh thành các axit và base yếu làm hạn chế đến mức tối thiểu những thay đổi của pH trong quá trình chuyển hóa
Điều hòa thân nhiệt: Máu có khả năng làm tăng giảm nhiệt độ cơ thể một cách khá nhanh chóng. Máu chứa đựng nhiều tỉ nhiệt của nước cao. Nước bốc hơi sẽ lấy nhiều nhiệt làm giảm nhiệt lúc chống nóng. Nước chứa nhiều nhiệt để chuyển đến các cơ quan chống lạnh. Nước trong máu là chất dẫn nhiệt tốt, nhạy để đem nhiệt đến nơi cần thiết rất nhanh.
Bảo vệ cơ thể: các loại bạch cầu của máu có khả năng thực bào và tiêu diệt vi trùng. Ngoài ra, trong máu có nhiều kháng thể, kháng độc có tác dụng bảo vệ cơ thể.
Sinh lý máu
Vòng đời
Trong quá trình phát triển phôi thai, đầu tiên quá trình tạo máu (haematopoiesis) xuất hiện ở túi noãn hoàng (yolk sack) rồi sau đó ở gan. Sau khi trẻ ra đời, quá trình tạo máu chủ yếu xảy ra ở tủy xương (phần tủy đỏ). Thành phần protein (nhất là albumin) được sản xuất chủ yếu bởi gan. Hormone được sản xuất bởi các tuyến nội tiết. Thành phần nước được cân bằng chủ yếu bởi hai cơ quan là tiêu hóa và thận dưới sự điều hòa của một mạng lưới thần kinh-thể dịch phức tạp.
Các tế bào máu bị giáng hóa chủ yếu ở lách và các tế bào Kupffer ở gan. Gan cũng có nhiệm vụ thanh lọc các protein và amino acid. Thận bài tiết các chất thải của quá trình chuyển hóa được máu mang đến để tạo thành nước tiểu. Đời sống bình thường của các hồng cầu kéo dài khoảng 120 ngày. Sau đó chúng sẽ bị phá hủy và được thay thế bởi các tế bào máu mới. Một phần vật chất của hồng cầu bị phá hủy được tái sử dụng cho quá trình tạo máu, phần khác được đào thải ra ngoài (ví dụ sắc tố mật bilirubin).
Vận chuyển oxy
Có nhiều cách đánh giá tình trạng oxy hóa máu, trong đó độ bão hòa haemoglobin thường được sử dụng và có ý nghĩa quan trọng. Độ bão hòa haemoglobin là một hàm không tuyến tính của áp lực riêng phần oxy trong máu. Khi áp lực riêng phần oxy trong máu động mạch thấp, sự thay đổi nhỏ của nó cũng làm ảnh hưởng rất lớn đến độ bão hòa oxy của haemoglobin. Tuy nhiên khi áp lực này đã ở một mức cao nhất định nào đó thì sự thay đổi của nó ít ảnh hưởng đến độ bão hòa. Khoảng 98,5% tổng lượng oxy trong máu động mạch của người khỏe mạnh ở dạng gắn với haemoglobin (Hb). Chỉ có 1,5% ở dạng hòa tan vật lý trong máu và không gắn với Hb. Phân tử Hb là chất vận chuyển oxy chính ở động vật có vú.
Trong tuần hoàn hệ thống, các động mạch mang máu được oxy hóa (máu đỏ) từ tim trái vào các tiểu động mạch rồi các mao mạch ở các cơ quan và tổ chức. Tại đây, một phần oxy được tiêu thụ và máu nhận thêm khí carbonic cũng như chất thải đi vào các tiểu tĩnh mạch sau mao mạch, về tĩnh mạch rồi trở lại tim phải để sau đó được đưa lên phổi trao đổi oxy. Máu có độ bão hòa oxy khác nhau sẽ hấp thu sóng ánh sáng hồng ngoại khác nhau. Đây là nguyên tắc sử dụng trong các phương pháp đo bão hòa oxy máu qua mạch nảy (pulse oxymetry) trong cấp cứu và hồi sức.
Tuần hoàn phổi và nhau thai không tuân theo nguyên tắc này. Bình thường máu rời phổi (về tim trái qua các tĩnh mạch phổi) có độ bão hòa oxy từ 96 đến 97%. Máu bị khử oxy từ tim phải lên phổi có độ bão hòa xấp xỉ 75%. Ở thai nhi do nhận oxy từ nhau thai nên áp lực oxy riêng phần thấp hơn nhiều do vậy thai nhi sản xuất một dạng haemoglobin khác là Hb F (F có nguồn gốc từ Fetus: thai nhi)có ái tính rất cao đối với oxy so với Haemoglobin của người lớn là Hb A (A có nguồn gốc từ Adult: trưởng thành). Nhờ ái tính cao của HbF mà thai nhi có thể thu nhận một lượng thỏa đáng oxy từ nguồn cung cấp có độ bão hòa oxy thấp này.
Ở côn trùng, máu không có nhiệm vụ vận chuyển oxy. Các lỗ mở nhỏ trên cơ thể các sinh vật này cũng gọi là khí quản cho phép oxy môi trường khuếch tán trực tiếp vào các tổ chức. Máu ở côn trùng chỉ có nhiệm vụ vận chuyển chất dinh dưỡng đến tổ chức và đào thải chất cặn bã.
Tương tự như ở côn trùng, một số các động vật không xương sống nhỏ cũng thu nhận oxy bằng cách khuếch tán trực tiếp từ môi trường vào huyết tương. Các động vật lớn cần phải có các protein hô hấp để nâng cao năng lực vận chuyển oxy. Haemoglobin (màu đỏ chứa sắt) là loại protein hô hấp thường gặp nhất trong tự nhiên. Haemocyanin (màu xanh dương) có chứa đồng hiện diện ở các loài giáp xác và động vật thân mềm.
Ở nhiều động vật không xương sống các protein mang oxy này vận chuyển tự do trong máu. Ngược lại, động vật có xương sống chứa những hồng cầu được biệt hóa, nhờ đó cơ thể có thể chứa được một lượng lớn các sắc tố hô hấp này mà không làm tăng độ nhớt của máu hay phá hủy các cơ quan có chức năng lọc như thận.
Vận chuyển khí carbonic
Khi máu động mạch lưu thông qua các mao mạch, khí carbonic khuếch tán từ tổ chức vào máu. Một lượng khí carbonic sẽ được hòa tan trong máu. Một phần khác kết hợp với Hb để tạo nên dạng carbamino hemoglobin. Phần carbonic còn lại được chuyển đổi thành bicarbonate và ion hydro. Phần lớn khí carbonic được vận chuyển trong máu dưới dạng ion bicarbonate.
Vận chuyển ion hydro
Một lượng oxyhaemoglobin mất oxy trở thành Hb khử oxy. Dạng Hb khử oxy này có ái tính với ion hydro cao hơn so với oxyhaemoglobin. Lượng Hb khử này tăng cao sau khi máu đã trao đổi khí ở tổ chức, đồng thời lúc này ion hydro cũng gia tăng. Nhờ đó phần lớn H+ được Hb khử vận chuyển.
Sinh lý bệnh
Y học thời cổ đại
Y học thời Hippocrates xem máu là một trong bốn dịch thể (cùng với niêm dịch, mật vàng và mật đen). Vì rất nhiều bệnh lý được quy cho là thừa máu nên việc trích máu chữa bệnh rất thịnh hành và kéo dài đến thế kỷ thứ 19.
Chẩn đoán
Xét nghiệm máu thường được sử dụng để chẩn đoán các bệnh lý của máu và của hầu như tất cả cơ quan khác trong cơ thể.
Các xét nghiệm huyết học thường dùng:
Công thức máu
Huyết tủy đồ
Chức năng đông máu (xét nghệm từng yếu tố đông máu hoặc một hệ thống các yếu tố đông máu liên quan.)
Các xét nghiệm vi sinh vật:
Cấy máu
Kéo máu tìm ký sinh trùng sốt rét
Xét nghiệm huyết thanh học: rất nhiều loại xét nghiệm khác nhau.
Xét nghiệm hóa sinh:
Điện giải đồ
Urê, creatinin
Khí máu
Protein máu
Đường máu
Xét nghiệm viêm….
Bệnh lý
Những rối loạn quá trình lưu thông máu cũng như thành phần của cấu tạo máu đóng vai trò quan trọng trong nhiều bệnh lý khác nhau:
Vết thương tùy theo mức độ có thể gây chảy máu nặng nhẹ khác nhau. Trong trường hợp vết thương nhỏ, tiểu cầu nhanh chóng tạo nút tiểu cầu bịt kín nơi chảy máu và khởi động chuỗi phản ứng đông cầm máu Tuy nhiên nếu các vết thương lớn hơn thì cơ chế này không còn hiệu quả và nếu không điều trị kịp thời bệnh nhân sẽ sốc mất máu và đưa đến tử vong. Tổn thương các nội tạng (cơ quan bên trong cơ thể) có thể đưa đến chảy máu trong. Trong chấn thương thường chú ý đến các vị trí chảy máu trong ổ bụng (do vỡ gan, lách, thận) hoặc chảy máu não…
Cản trở lưu thông dòng máu có thể gây nên thiếu máu cục bộ và tổn thương tái tưới máu (ischemia/reperfusion injury) nếu xảy ra trong thời gian ngắn hoặc gây nên nhồi máu, hoại tử nếu xảy ra trong thời gian khá dài.
Bệnh huyết hữu (Haemophilia) là một tình trạng bệnh lý di truyền lặn liên kết giới tính nên thường gặp ở con trai. Mẹ mang gene bệnh và truyền cho con trai. Tỷ lệ 50% con trai bị bệnh và 50% con gái mang gene bệnh. Có nhiều thể khác nhau nhưng cơ chế chung là do thiếu một yếu tố đông máu do đó làm rối loạn cơ chế đông cầm máu bình thường. Bệnh thường xuất hiện khi trẻ bắt đầu chạy nhảy và té ngã. Biến chứng nặng nề là xuất huyết nội tạng, hoặc chảy máu khi làm các thủ thuật như nhổ răng, phẫu thuật, do chấn thương….Biến chứng lâu dài (nếu trẻ sống đến tuổi trưởng thành) thường gặp là thoái hóa các khớp chịu lực (như khớp gối) do máu chảy vào trong khớp dần dần phá hủy cấu trúc bình thường.
Bệnh bạch cầu cấp (hay còn gọi với các tên khác như bệnh máu trắng, bệnh lơ xê mi cấp): là một nhóm gồm nhiều các bệnh ung thư máu có nguồn gôc từ các tổ chức tạo máu.
Mất máu nặng do chấn thương, phẫu thuật hoặc do tai biến sản khoa cần phải truyền máu.
Thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ em và phụ nữ mang thai hoặc thiếu máu do nhiễm vi sinh vật (nhiễm giun móc) thường gặp ở các nước nghèo và vùng nhiệt đới.
Thalasemia (bệnh thiếu máu vùng biển): một bệnh lý di truyền phát hiện đầu tiên ở vùng Địa Trung Hải và sau đó tìm thấy ở hầu hết các vùng địa lý và chủng tộc.
Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm: cũng là một bệnh di truyền, thường gặp ở người gốc châu Phi.
Máu cũng là một vector truyền các bệnh nhiễm trùng như AIDS, viêm gan virus B, C, nhiễm virus vùi hạt cự bào (CMV), đôi khi cả sốt rét…
Điều trị
Truyền máu là phương thức sử dụng máu trực tiếp nhất. Máu được lấy từ người cho máu tình nguyện. Có nhiều hệ nhóm máu khác nhau, điển hình là hệ nhóm máu ABO và Rhesus. Việc phân loại nhóm máu phù hợp cũng như các xét nghiệm phát hiện tác nhân gây bệnh trước khi truyền máu là những quy định bắt buộc và nghiêm ngặt.
Khuynh hướng hiện nay là không sử dụng máu toàn phần. Máu được lấy từ người cho sẽ được tách ra thành từng chế phẩm khác nhau tùy theo mục đích sử dụng. Các chế phẩm thường dùng là tiểu cầu khối, hồng cầu khối, huyết tương tươi đông lạnh, tủa lạnh, các yếu tố đông máu, globulin miễn dịch…
Phần điều trị cụ thể, xin xem thêm những bài riêng. |
Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam là cơ quan của Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công theo quy định của pháp luật.
Lịch sử phát triển
Xem chi tiết: Lịch sử 70 năm phát triển ngành Giao thông Vận tải Việt Nam
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 28/8/1945, Hồ Chủ tịch đã chính thức ký quyết định thành lập Bộ Giao thông Công chính thuộc Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giao cho nhân sĩ yêu nước Đào Trọng Kim làm Bộ trưởng.
Năm 1955, Chính phủ đã quyết định đổi tên Bộ Giao thông Công chính thành Bộ Giao thông và Bưu điện do ông Nguyễn Văn Trân làm Bộ trưởng.
Năm 1960, Bộ Giao thông và Bưu điện đổi tên thành Bộ Giao thông Vận tải.
Năm 1990, Bộ Giao thông Vận tải hợp nhất với Tổng cục Bưu điện và Cục Hàng không dân dụng thành Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện.
Năm 1992, ngành Bưu điện và ngành Hàng không tách ra khỏi Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện. Bộ Giao thông trở lại tên cũ là Bộ Giao thông Vận tải từ đó cho đến nay. Tuy nhiên, đến năm 2003, Cục Hàng không dân dụng trở lại trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Căn cứ theo Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 1/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, và Nghị định số 56/2022/NĐ-CP ngày 24/8/2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giao thông vận tải, Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực chính:
Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải và hàng không dân dụng.
Phương tiện giao thông, các tổng thành, hệ thống, linh kiện phụ tùng của phương tiện giao thông; phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác, vận chuyển trên biển; phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công chuyên dùng; máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động trong giao thông vận tải (trừ phương tiện phục vụ vào mục đích quốc phòng, an ninh và tàu cá) và trang bị, thiết bị kỹ thuật chuyên dùng.
Vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không dân dụng và vận tải đa phương thức.
An ninh, an toàn giao thông.
Môi trường trong hoạt động giao thông vận tải.
Dịch vụ công (trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ theo quy định của pháp luật).
Doanh nghiệp, hợp tác xã (trong lĩnh vực giao thông vận tải).
Hợp tác công - tư (về dự án kết cấu hạ tầng giao thông).
Quy định việc đào tạo, huấn luyện, sát hạch, cấp, công nhận, thu hồi giấy phép, bằng, chứng chỉ chuyên môn cho người điều khiển phương tiện giao thông, người vận hành phương tiện, thiết bị chuyên dùng trong giao thông vận tải (trừ người điều khiển phương tiện, thiết bị chuyên dùng phục vụ vào mục đích quốc phòng, an ninh và tàu cá); đăng kiểm viên, nhân viên nghiệp vụ kiểm định và đối tượng làm việc đặc thù trong lĩnh vực giao thông vận tải theo thẩm quyền.
Lãnh đạo hiện nay
Bộ trưởng: Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng
Thứ trưởng:
Lê Đình Thọ, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam
Lê Anh Tuấn, Bí thư Đảng ủy Bộ, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa
Nguyễn Duy Lâm, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông
Nguyễn Xuân Sang, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam
Nguyễn Danh Huy, nguyên Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Đầu tư
Tổ chức Đảng
Xem thêmː Đảng ủy Bộ Giao thông Vận tải
Cơ cấu tổ chức
(Theo Nghị định số 56/2022/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ)
Khối cơ quan thực hiện chức năng tham mưu và quản lý chuyên ngành
Các đơn vị tham mưu, tổng hợp
Văn phòng Bộ
Thanh tra Bộ
Vụ Kế hoạch - Đầu tư
Vụ Tổ chức cán bộ
Vụ Tài chính
Vụ Pháp chế
Vụ Khoa học - Công nghệ và Môi trường
Vụ Hợp tác quốc tế
Vụ Kết cấu hạ tầng giao thông
Vụ Vận tải
Vụ Quản lý doanh nghiệp (không được quy định, tiếp tục duy trì hoạt động theo quy định hiện hành cho đến khi Bộ hoàn thành việc tái cơ cấu Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy)
Các đơn vị chuyên ngành
Cục Đường bộ Việt Nam
Cục Đường cao tốc Việt Nam
Cục Đăng kiểm Việt Nam
Cục Đường sắt Việt Nam
Cục Đường thủy nội địa Việt Nam
Cục Hàng hải Việt Nam
Cục Hàng không Việt Nam
Cục Quản lý đầu tư xây dựng
Cục Y tế Giao thông vận tải (không được quy định, tiếp tục duy trì hoạt động theo quy định hiện hành cho đến khi Bộ hoàn thành việc bàn giao nguyên trạng các cơ sở y tế cho các đơn vị liên quan)
Khối tổ chức sự nghiệp và các ban quản lý dự án trực thuộc bộ
Các đơn vị sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước
Trung tâm Công nghệ thông tin
Báo Giao thông
Tạp chí Giao thông vận tải
Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải
Trường Cán bộ quản lý Giao thông vận tải
Khối Giáo dục, đào tạo
Khối Viện
Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông vận tải
Khối Ban quản lý dự án
Ban Quản lý dự án Đường Hồ Chí Minh
Ban Quản lý dự án 1 (PMU1)
Ban Quản lý dự án 2 (PMU2)
Ban Quản lý dự án 6 (PMU6)
Ban Quản lý dự án 7 (PMU7)
Ban Quản lý dự án 85 (PMU85)
Ban Quản lý dự án Thăng Long (PMU Thăng Long)
Ban Quản lý dự án An toàn giao thông (TSPMU)
Ban Quản lý dự án Đường Thủy (PMU-W)
Ban Quản lý dự án Đường sắt
Các doanh nghiệp trực thuộc
Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải Miền Bắc
Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải Miền Nam
Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam
Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam
Công ty TNHH MTV Thông tin điện tử hàng hải Việt Nam
Công ty TNHH MTV Nhà xuất bản Giao thông vận tải
Tổng công ty Xây dựng đường thủy CTCP
Công ty cổ phần Bệnh viện Giao thông vận tải
Bộ trưởng qua các thời kỳ
Thứ trưởng qua các thời kỳ
Dương Bạch Liên (1960 - 1974)
Bùi Danh Lưu (1982 - 1986)
Lê Ngọc Hoàn (1989 - 1996)
Đào Đình Bình (1996 - 2002)
Phạm Quang Tuyến (1997 - 2004)
Nguyễn Tiến Sâm (2002 - 2007)
Phạm Quý Tiêu (2009 - 2016)
Nguyễn Hồng Trường (2007 - 2017)
Nguyễn Văn Công (2012 - 2020)
Nguyễn Văn Thể (2013 - 2015)
Nguyễn Nhật (2015 - 2021)
Nguyễn Ngọc Đông (2010 - 2022)
Lê Đình Thọ (2013 - nay)
Lê Anh Tuấn (2019 - nay)
Nguyễn Duy Lâm (2021 - nay)
Nguyễn Xuân Sang (2021 - nay)
Nguyễn Danh Huy (2022 - nay)
Chú thích |
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Trần Nhân Tông
| tên gốc = 陳仁宗
| tước vị = Danh sách vua Việt Nam
| tước vị thêm =
| thêm = vietnam
| hình = Trần Nhân Tông.jpg
| ghi chú hình = Chân dung Vua Trần Nhân Tông người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm.
| chức vị = Hoàng đế Đại Việt
| tại vị = 8 tháng 11 năm 1278 – 16 tháng 4 năm 1293()
| kiểu tại vị = Trị vì
| đăng quang =
| tiền nhiệm = Trần Thánh Tông
| nhiếp chính = Trần Thánh Tông (1278-1290)
| kiểu nhiếp chính = Thái thượng hoàng
| kế nhiệm = Trần Anh Tông
| chức vị 1 = Thái thượng hoàng Đại Việt
| tại vị 1 = 16 tháng 4 năm 1293 – 16 tháng 12 năm 1308()
| tiền nhiệm 1 = Trần Thánh Tông
| kế nhiệm 1 = Trần Anh Tông
| tên đầy đủ = Trần Khâm (陳昑)
| tên tự =
| tên hiệu =
| kiểu tên đầy đủ = Tên húy
| thông tin phối ngẫu = ẩn
| kiểu phối ngẫu = Hậu phi
| phối ngẫu = Khâm Từ Hoàng hậu Tuyên Từ Hoàng hậu Đệ ngũ Cung phi
| thông tin con cái = ẩn
| con cái =
| triều đại = Hoàng triều Trần
| tước hiệu =
| tước vị đầy đủ =
| niên hiệu =
| thời gian của niên hiệu =
| tôn hiệu =
| miếu hiệu = Nhân Tông
| thụy hiệu = Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Huệ Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế法天崇道應世化民隆慈顯惠聖文神武元明睿孝皇帝
| cha = Trần Thánh Tông
| mẹ = Nguyên Thánh Hoàng hậu
| sinh =
| nơi sinh = Thăng Long, Đại Việt
| mất =
| nơi mất = Am Ngọa Vân, núi Yên Tử
| ngày an táng =
| nơi an táng = Lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, Đại Việt
| học vấn =
| nghề nghiệp =
| tôn giáo = Phật giáo Đại thừa
| chữ ký =
}}
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là Trần Khâm (陳昑), tự là Thanh Phúc, là vị vua Việt Nam thứ ba của nhà Trần nước Đại Việt. Vua Trần Nhân Tông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng rồi đi tu Sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị Hoàng đế anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng lãnh thổ đất nước. Ngoài ra, Trần Nhân Tông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam.
Là đích trưởng tử của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần) và là đích trưởng tôn của Trần Thái Tông Trần Cảnh (vua đầu tiên triều Trần), Trần Nhân Tông đã được truyền ngôi vào tháng 11 năm 1278 – lúc ông chưa đầy 20 tuổi. Do nguy cơ trước sự lăm le của Nguyên Mông, sau khi lên ngôi Trần Nhân Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế và ổn định chính trị – xã hội của Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành. Năm 1285, hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt đã huy động một lực lượng lớn (theo Đại Việt sử ký toàn thư là 50 vạn người) tấn công Đại Việt. Quân dân Đại Việt ban đầu gặp nhiều tổn thất; nhưng dưới sự chỉ huy của vua Nhân Tông, thượng hoàng Trần Thánh Tông và Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo, người Việt đã dần dần xoay chuyển tình thế và đánh bật quân Nguyên ra khỏi đất nước. Sau đó, 2 vua Trần và Hưng Đạo vương tiếp tục lãnh đạo dân Việt đánh bại một cuộc xâm lược khác của Mông – Nguyên vào năm 1287.
Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của người Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã khôi phục sự hưng thịnh của Đại Việt đồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó Nhân Tông xuất gia tu hành theo đạo Phật và lấy hiệu Trúc Lâm Đại Sĩ (竹林大士); nhưng ông vẫn tham gia điều hành chính sự, đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới và mở rộng . Trần Nhân Tông cũng chính là vị tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế.
Thân thế
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm (陳昑), Trần Nhật Tuấn/Trần Nhật Tôn (陳日燇), sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông là đích trưởng tử của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần) và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều, cũng là đích trưởng tôn của Trần Thái Tông Trần Cảnh (vua đầu tiên triều Trần). Theo Đại Việt sử ký toàn thư (bộ quốc sử Đại Việt biên soạn năm 1479 thời Lê Thánh Tông), Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội – Thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử (金仙童子). Các sách Tam Tổ thực lục và Thánh đăng ngữ lục (đều ra đời vào khoảng thế kỷ XIV) chép biệt hiệu này là Kim Phật (金佛). Cả hai sách này và Đại Việt Sử ký Toàn thư đều kể rằng bên vai trái Trần Khâm có nốt ruồi đen lớn như hạt đậu; người xem tướng đoán rằng hoàng tử về sau sẽ làm được việc lớn.
Năm 1274, ở tuổi 16, Trần Khâm được vua cha sách phong làm Hoàng thái tử. Trần Thánh Tông cũng lập trưởng nữ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (tức Khâm Từ Hoàng hậu sau này) làm Thái tử phi. Trần Thánh Tông còn vời các nho sĩ có tài đức trong cả nước về hầu cận thái tử. Tướng Lê Phụ Trần được phong chức Thiếu sư, kiêm Trừ cung Giáo thụ, đảm trách việc dạy học thái tử. Bản thân nhà vua cũng viết thơ và sách Di hậu lục (2 quyển) giáo huấn cho thái tử. Các chú giải của Trần Quang Chỉ trong tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ cho biết Trần Khâm đã đạt được trình độ cao về các lĩnh vực như quân sự, âm nhạc, lịch số học và thiên văn học. Ông cũng học kỹ về tam giáo Phật-Lão-Nho và am hiểu tường tận giáo pháp nhà Phật. Sách Thánh đăng ngữ lục cũng viết: "Bản chất Ngài rất thông minh và hiếu học, có nhiều tài năng, xem khắp hết các sách, thông suốt cả nội điển lẫn ngoại điển".
Tuy ở ngôi thái tử và có hôn nhân hạnh phúc, Trần Khâm có chí hướng xuất gia theo Phật. Ông đã nhiều lần xin nhường ngôi Thái tử cho em là Tá Thiên vương Trần Đức Việp nhưng không được vua cha chấp thuận. Có lần, Trần Khâm nhân đêm khuya vượt thành đi vào núi Yên Tử ẩn tu, đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời sáng, ông đã thấm mệt nên vào nghỉ trong tháp. Vị tu sĩ ở chùa thấy ông có dung mạo phi thường bèn mời cơm. Sau Trần Thánh Tông và hoàng hậu biết tin, sai quan quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô; Trần Khâm bèn miễn cưỡng nhận ngôi thái tử.
Hoàng đế Đại Việt
Ngày 22 tháng 10 âm lịch năm Mậu Dần (tức ngày 8 tháng 11 năm 1278) Trần Khâm được cha truyền ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông tự xưng làm Hiếu Hoàng (孝皇) và được bá quan dâng tôn hiệu là Pháp Thiên Ngự Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân Hoàng Đế (法天御極英烈武聖明仁皇帝). Thánh Tông lên làm Thái thượng hoàng và cùng trị vì với Nhân Tông cho đến khi mất năm 1290. Mùa xuân năm 1279, nhà vua lấy niên hiệu là Thiệu Bảo (紹寶). Đến tháng 9 âm lịch năm 1285 ông đổi niên hiệu thành Trùng Hưng (重興) và dùng niên hiệu này tới khi nhường ngôi năm 1293.
Trong thời kỳ làm vua, Trần Nhân Tông vẫn sống thanh tịnh trên tinh thần Phật giáo. Khi rảnh việc nước, ông thường mời các thiền giả đến hỏi về yếu chỉ Thiền tông. Đặc biệt, theo Thánh đăng ngữ lục, ông học đạo với Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (tức Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung, anh của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu), "đạt sâu tới chỗ thiền tủy và thờ Thượng Sĩ làm thầy". Ngoài ra, ông từng ăn chay khổ hạnh đến mức thân hình gầy guộc, khiến Thượng hoàng phải ngăn lại. Sách Thánh đăng ngữ lục kể: "Thánh Tông khóc, bảo: Ta nay già rồi, trông cậy một mình con, nếu con làm như thế thì sự nghiệp của Tổ tông sẽ ra sao? Ngài [Nhân Tông] nghe vua cha nói vậy cũng rơi nước mắt".
Buổi đầu trị nước
Trần Nhân Tông lên ngôi trong lúc nền độc lập Đại Việt bị đe dọa trầm trọng. Ở phương Bắc, Nguyên–Mông đã chinh phục hầu hết Nam Tống và bắt đầu dòm ngó Đại Việt. Ngay sau khi ông đăng quang, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt cử Lễ bộ Thượng thư Sài Thung sang Đại Việt, lấy cớ Nhân Tông "không xin mệnh mà tự lập" (nghĩa là tự xưng làm vua mà không chịu xin phép "thiên triều" Nguyên) để ép vua Trần sang triều kiến. Trần Nhân Tông đã đối đãi tử tế với Sài Thung, nhưng kiên quyết không sang chầu. Thung đành đi tay không về nước. Nhân Tông lại sai Trịnh Đình Toản và Đỗ Quốc Kế sang cống nạp nhà Nguyên. Tháng 12 năm 1279, Hốt Tất Liệt giam cầm Đình Toản ở thành Đại Đô, rồi ép Quốc Kế đi cùng một phái bộ mới của Sài Thung sang dụ Đại Việt. Nhân Tông vẫn không nhân nhượng, mặc dù Thung đã dọa nạt rằng nếu không sang chầu, "thì hãy sửa sang thành trì của ngươi, để đợi sự phán xét".
Đứng trước hiểm họa xâm lược từ Mông Cổ, Hoàng đế đã có nhiều nỗ lực nhằm phát triển kinh tế, đảm bảo sự ổn định và đoàn kết trong nước. Cụ thể, tháng 1 âm lịch năm 1280, ông ra lệnh hợp nhất hệ thống đo lường để thúc đẩy thương mại trên toàn quốc. Ngoài ra, ông khuyến khích nông dân tăng cường sản xuất, và nhờ vậy, Đại Việt đã "được mùa to, lúa ruộng ở hương Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giò hai bông" (theo Đại Việt sử ký toàn thư) vào tháng 10 âm lịch năm 1280. Mùa xuân năm 1284, Hoàng đế lại sai vét sông Tô Lịch nhằm biến sông này thành trục giao thông chính của kinh đô.
Trên phương diện Chính trị – Xã hội, tháng 2 âm lịch năm 1280, Trần Nhân Tông cho điều tra và cập nhật dân số, đồng thời giải quyết nhanh các khiếu nại oan sai của người dân. Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại, Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung có người em tên Đỗ Thiên Hư từng kiện cáo một người; dù Thiên Hư trái về cả tình lẫn lý nhưng viên quan xử án tỏ ra bênh vực. Người bị kiện thấy vua Trần Nhân Tông đang đi ngoài thành, bèn đón và kêu oan. Nhà vua phán: "Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy", rồi cử ngay Chánh chưởng Nội thư hỏa là Trần Hùng Thao kiêm chức Kiểm pháp quan để điều tra lại, cuối cùng Thiên Hư phải nhận sai. Sử quan nhà Hậu Lê Ngô Sĩ Liên có nhận định về việc làm của vua Trần Nhân Tông:
Cũng trong năm 1280, thủ lĩnh người Ngưu Hống tại Đà Giang là Trịnh Giác Mật nổi dậy, Trần Nhân Tông sai Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đi thuyết phục phiến quân quy hàng. Trần Nhật Duật nhờ khéo ngoại giao và hiểu biết văn hóa dân bản địa nên đã thu phục được Giác Mật mà không phải giao chiến. Chiêu Văn vương đưa cả nhà Giác Mật vào chầu Trần Nhân Tông. Nhà vua hết mực khen ngợi Nhật Duật, sau này tha Giác Mật và gia đình về Đà Giang. Từ đây, Ngưu Hống thần phục Đại Việt cho đến khi nổi dậy vào mùa đông năm 1329 thời Trần Hiến Tông.
Về quan chế, vua Trần Nhân Tông đã đặt ra một số chức quan mới: Hàn lâm viện học sĩ phụng chỉ (1282), Tả hữu bộc xạ (1283).
Về giáo dục, năm 1281, Trần Nhân Tông dựng nhà học ở phủ Thiên Trường (đất phát tích của hoàng triều, nay thuộc Nam Định). Tuy nhiên, nhà vua vẫn theo lệ cũ, cấm các chiến sĩ hiệu quân Thiên Thuộc được vào học. Cũng từ đầu đời vua Nhân Tông, chữ Nôm bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm thơ văn ở Đại Việt. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, dưới trướng Nhân Tông có Hình bộ Thượng thư Nguyễn Thuyên thạo thơ phú Quốc ngữ; năm 1282, khi có cá sấu tới sông Hồng, hoàng đế sai Nguyễn Thuyên làm văn tế cá sấu thả xuống sông. Sau này cá sấu bỏ đi, nhà vua cho là Nguyễn Thuyên có tài như Hàn Dũ, mới đổi gọi là Hàn Thuyên.
Trong việc đối ngoại, Trần Nhân Tông ứng xử vừa khéo léo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Sau khi tiếp đón Sài Thung lần 3 vào năm 1280, năm 1281 Nhân Tông phái Trần Di Ái cùng Lê Mục, Lê Tuân thay ông sang chầu vua Nguyên. Hốt Tất Liệt vẫn quyết tâm xâm lược phương Nam; nhà Nguyên cử một số quan lại sang giám sát các châu huyện của Đại Việt, nhưng Nhân Tông đã trục xuất những người này về Trung Quốc. Không bỏ cuộc, khoảng năm 1281–1282, vua Nguyên lập Trần Di Ái làm "An Nam Quốc vương", Lê Mục làm "Hàn lâm học sĩ" và Lê Tuân làm "Thượng thư", rồi lại sai Sài Thung đem 1 nghìn quân hộ tống nhóm Di Ái về bản quốc. Vua Nhân Tông đã huy động lực lượng chặn đánh ở ải Nam Quan và bắt giữ nhóm Di Ái, song vẫn nghênh đón Sài Thung về Thăng Long. Thất bại của việc lập Di Ái làm vua bù nhìn Đại Việt đã khiến Sài Thung tức giận đến mức khi "vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân [cách gọi khác của Sài Thung] nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp." Phải đến khi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đóng giả làm một tăng sĩ Trung Hoa đi vào sứ quán, Thung mới chịu tiếp.
Khoảng tháng 9 – 11 năm 1282, nhà Nguyên một mặt cử tướng Toa Đô từ Quảng Châu tấn công Chiêm Thành, mặt khác sai Trấn Nam vương Thoát Hoan tập trung 50 vạn quân chuẩn bị "mượn đường đánh Chiêm" (mà thực chất là xâm lược Đại Việt). Vào tháng 11, Nhân Tông mở Hội nghị Bình Than để thảo luận với bá quan về phương án tổ chức kháng chiến. Viết về hội nghị này, sử sách có đề cập việc phục chức Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, một tướng có tài, trước đã được Trần Thánh Tông phong làm Thiên tử nghĩa nam, sau bị đoạt hết quan tước, tịch biên tài sản vì tội thông dâm với Công chúa Thiên Thụy. Khi thuyền Nhân Tông đỗ trên bến Bình Than, nhà vua nhìn thấy một chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái đội nón lá, mặc áo ngắn. Ông nhận ra ngay là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Nhà vua sai nội thị chèo thuyền đuổi theo, dẫn Trần Khánh Dư đến yết kiến. Vua Nhân Tông xuống chiếu tha tội Khánh Dư, phục chức Phó Đô tướng quân. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua ban cho áo ngự, cho ngồi các hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua". Sau, Hưng Đạo vương giao cho Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, lập công lớn đánh bại đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ.
Cũng tại hội nghị này, sử cũ ghi lại việc Nhân Tông thấy Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản còn nhỏ, không cho dự việc nước. Quốc Toản phẫn kích, bóp nát quả cam trong tay, rồi lui về huy động hàng nghìn thân quyến và gia nô, sửa sang khí giới, thuyền chiến và dựng lá cờ thêu 6 chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, báo ơn vua). Trong cuộc chiến chống Nguyên năm 1285, Quốc Toản chiến đấu rất hăng, luôn đi đầu trận tuyến đánh quân Nguyên. Theo An Nam truyện của Nguyên sử, Quốc Toản tử trận ở sông Như Nguyệt trên đường truy kích bại binh Nguyên vào tháng 5 âm lịch năm 1285. Sử Việt kể vua Nhân Tông đích thân viết văn tế, lại truy tặng tước vương.
Tháng 10 âm lịch năm 1283, Trần Nhân Tông phong Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh chư quân, đồng thời tuyển các quân hiệu có năng lực, chia nhau chỉ huy các đơn vị quân đội. Cùng với Hưng Đạo vương, Nhân Tông đã trực tiếp chỉ đạo các hoạt động huấn luyện, diễn tập của lục quân và thủy quân. Tháng 10 năm 1284, triều đình chia quân trấn giữ các địa bàn quan trọng trong cả nước. Bên cạnh đó, Nhân Tông vẫn cử một số sứ giả mang lễ vật đi xin Thoát Hoan "hoãn binh" trong nửa cuối năm 1284.
Không những đương đầu với người Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã xây dựng mối quan hệ tích cực với nước Chiêm Thành ở phía Nam. Tháng 12 năm 1282, ông đã gửi 2 vạn quân cùng 500 chiến thuyền sang hỗ trợ người Chiêm chặn đánh cánh quân Nguyên của Toa Đô. Nhưng trong các văn thư gửi cho người Nguyên, Trần Nhân Tông một mực phủ nhận hành động này.
Kháng chiến chống Nguyên (1285)
Tháng 1 năm 1285, Thoát Hoan đưa quân đến sát ải Nam Quan và viết thư đòi "mượn đường" tấn công Chiêm Thành. Nhân Tông sai sứ thuyết phục Thoát Hoan rằng: "Từ nước tôi đến Chiêm Thành, đường thủy, đường bộ đều không tiện cả"; và đồng thời, nhà vua ra lệnh cho Hưng Đạo vương thành lập tuyến phòng thủ trên biên giới. Ngày 27 tháng 1, quân Nguyên vượt biên giới, đánh bại quân Đại Việt tại các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược và Chi Lăng. Hưng Đạo vương phải rút quân chạy về bến Vạn Kiếp (nay thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Sau khi nhận tin này, Nhân Tông bỏ cả bữa ăn sáng để đi thuyền nhẹ xuống Hải Đông và hội kiến với Quốc Tuấn. Trên đường đi, có người lính tên Trần Lai dâng cơm, dù gạo xấu nhưng hoàng đế ghi nhận lòng trung thành của Lai, cho Lai chức Thượng phẩm kiêm Tiểu tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng. Tại Hải Đông, ông truyền cho Trần Quốc Tuấn gọi quân từ các lộ phía đông bắc như Vân Trà, Ba Điểm về tập kết tại Vạn Kiếp. Các vương hầu như Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiện, Hưng Trí vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng cũng mang 20 vạn quân đến giữ nơi này. Để động viên tinh thần tướng sĩ, Nhân Tông đã đề ở cuối thuyền 2 câu thơ rằng:Cối Kê việc cũ người nên nhớ Hoan Diễn kia còn chục vạn quân.Ngày 11 tháng 2 năm 1285, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem binh thuyền tấn công Vạn Kiếp. Quân Đại Việt do nhà vua và Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh trả quyết liệt, giết được tướng Nguyên là Nghê Nhuận. Tuy nhiên, người Việt đã quyết định rút lui để tránh thế địch mạnh, thực hiện nghi binh khiến địch mệt mỏi rồi mới phản kích. Đến ngày 14, Ô Mã Nhi tổ chức bao vây 10 vạn quân của Nhân Tông tại Bình Than. Một trận thủy chiến lớn diễn ra và quân Nguyên cuối cùng đã không cản được quân Việt rút lui. Nhân Tông cùng Quốc Tuấn rút đại quân từ Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về đóng trên sông Hồng gần Thăng Long. Tại đây, vua Trần cho tập trung thủy quân và xây dựng các chiến lũy bằng gỗ trên bờ nam để cầm chân quân Nguyên, tạo thời gian cho việc sơ tán quân dân khỏi kinh thành theo kế vườn không nhà trống. Ngày 17 tháng 2, quân Nguyên lập doanh trại trên bờ bắc sông Hồng. Vua Nhân Tông muốn tìm người sang thương thuyết, thực tế là thăm dò tình hình quân Nguyên. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung xung phong đi, nhà vua cả mừng nói: "Ngờ đâu trong đám ngựa xe kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế!". Khắc Chung đem thư giảng hòa sang trại Ô Mã Nhi. Theo sử sách, tài đối đáp của Khắc Chung đã khiến các tướng Nguyên phải nhận xét: "Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được". Hôm sau, Khắc Chung về chỗ vua Trần đóng quân, ngay sau đó hai bên Nguyên-Việt đại chiến bên sông Hồng. Quân Nguyên giành được thế thượng phong, nhưng quân dân Đại Việt đã kịp thời di tản khỏi Thăng Long. Thánh Tông, Nhân Tông dẫn đại quân triệt thoái theo đường sông Hồng về hướng phủ Thiên Trường (Nam Định). Thoát Hoan chia quân làm 2 đường thủy bộ ráo riết truy kích. Hai vua và Trần Quốc Tuấn đã tổ chức một số trận đánh chặn tại bãi Đà Mạc và ải Hải Thị, nhưng bị thất bại. Sau trận Hải Thị, quân vua Trần lui hẳn về đóng quân tại Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình).
Tháng 3 năm 1285, cánh quân Nguyên của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh thốc vào mạn nam Đại Việt. Hưng Đạo vương xin Trần Nhân Tông sai Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải đón đánh Toa Đô ở Nghệ An. Quân Nguyên nhanh chóng đánh bật quân Việt khỏi Nghệ An và Thanh Hóa, đẩy đại quân của Nhân Tông vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Trần Quốc Tuấn đưa hai vua chạy về vùng bờ biển ở Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay. Trong hành trình rút lui, hai vua bị quân Nguyên đuổi gấp. Khi thấy quân Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên (Ninh Bình), ngày 7 tháng 4 năm 1285 Nhân Tông và Phụ hoàng lại vượt biển vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị đối phương kìm kẹp. Toa Đô đã đưa quân vào Thanh Hóa truy lùng nhà vua, nhưng không thể tìm ra ông.
Trong thời gian này, nhiều tôn thất hoàng gia như Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Thượng vị Chiêu Văn hầu Trần Lộng đầu hàng quân Nguyên. Tuy nhiên, quân Nguyên cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt lương thực, không hạp khí hậu và liên tục bị dân binh Việt đánh phá sau lưng.
Tại Thanh Hóa, vua Trần đã chỉnh đốn, tổ chức lại lực lượng. Khoảng tháng 3 – 4 âm lịch, Nhân Tông đã nhận định trong một cuộc họp với các quan:
Trên tinh thần đó, hai vua và Trần Quốc Tuấn chia đại quân thành nhiều mũi thực hiện tổng phản công. Dưới sự thống lĩnh của Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Tung, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Nguyễn Khoái và một số tướng khác, các cánh quân Đại Việt đã liên tiếp đánh thắng quân Nguyên tại đồn A Lỗ (nơi gần điểm hợp lưu của sông Luộc với sông Hồng), cửa Hàm Tử (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), Chương Dương Độ (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội) và giải phóng Thăng Long trong hai tháng 5, 6. Quyển 209 của Nguyên sử có nhận định:
Ngày 7 tháng 6 năm 1285, Hoàng đế Trần Nhân Tông rước Thượng hoàng ra bắc, đích thân đánh bại một lực lượng Nguyên trong trận Trường Yên ngày 7 tháng 6 năm 1285. Quân Nguyên chết hại "nhiều không kể xiết".
Ngày 24 tháng 6, hai vua tấn công quân chủ lực của Toa Đô tại Tây Kết (Khoái Châu). Quân hai vua thắng to, chém chết Nguyên soái Toa Đô, bắt được hơn 5 vạn quân Nguyên, tịch thu một lượng lớn khí giới. Tổng quản quân Nguyên là Trương Hiển đầu hàng. Đến nửa đêm, Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hóa, hai vua thúc quân truy kích nhưng không bắt được, Ô Mã Nhi dùng thuyền vượt biển thoát thân. Theo Toàn thư, Nhân Tông khi thấy thủ cấp của Toa Đô đã nhận xét "người làm tôi phải nên như thế này", rồi cởi áo ngự phủ lên và sai người khâm liệm tử tế. Cùng lúc đó, hai anh em Trần Quốc Tuấn, Quốc Tung mở nhiều cuộc tấn công lớn trên bờ bắc sông Hồng và quét sạch cánh quân Thoát Hoan khỏi Đại Việt. Ngày 9 tháng 7 năm 1285, hai vua ca khúc khải hoàn trở về Thăng Long. Sách Việt sử tiêu án có ghi lại lời bàn của sử thần về cách lãnh đạo của Trần Nhân Tông:
Kháng chiến chống Nguyên (1287-1288)
Sau khi đánh bại cuộc tấn công của Nguyên – Mông, tháng 7 năm 1285, vua Nhân Tông đã phóng thích các tù binh người Chiêm Thành (họ bị quân Nguyên bắt tòng quân khi Toa Đô xâm lược Chiêm Thành năm 1283) về nước. Tù binh quân chính quy Nguyên-Mông cũng được trở về quê hương vào mùa xuân năm 1286. Về nội trị, tháng 9 năm 1285, ông đã tiến hành phong thưởng các quan, tướng có công và trừng phạt những người từng đầu hàng địch. Đến tháng 11, ông ra lệnh xét duyệt hộ khẩu trong cả nước. Có bầy tôi ngăn cản vua, cho là dân vừa trải qua nhiều vất vả, nên việc duyệt hộ khẩu lúc này là không cần thiết. Vua Nhân Tông quả quyết: "Chỉ có thể định hộ khẩu vào lúc này, chẳng nên qua đó mà xem xét [tình trạng] hao hụt, điêu tàn của dân ta hay sao?"; các quan bèn nghe theo. Sử gia Ngô Thì Sĩ có phê phán quyết định của vua Nhân Tông:
Cuối năm 1286, Hốt Tất Liệt huy động 30 vạn quân và 500 thuyền chiến chuẩn bị xâm lược Đại Việt lần hai. Nhận được tin này từ các quan biên giới, vua Nhân Tông hỏi Hưng Đạo vương: ""Năm nay thế giặc ra sao?" và được trả lời: "Nước ta thái bình lâu ngày, dân không hiểu việc binh, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp, còn có kẻ ra hàng hay trốn tránh. Nhờ uy linh tổ tôn, ta đã quét sạch bụi Hồ. Nếu giặc lại đến, quân ta đánh đã quen, quân nó ngại đi xa. Ý thần xem ra tất phá được giặc". Sau đó, hai vua đôn đốc vương hầu chiêu mộ, huấn luyện binh sĩ, đồng thời chế tạo binh khí và tàu thuyền để chuẩn bị kháng chiến.
Tháng 12 năm 1287, quân thủy bộ nhà Nguyên chia làm 3 đạo tiến vào Đại Việt. Khác với cuộc chiến năm 1285, quân Việt chỉ đánh có tính kìm chân rồi chủ động lui khỏi biên giới. Thoát Hoan lại tung 2 vạn quân thủy bộ tấn công và chiếm Vạn Kiếp làm căn cứ, sau đó tiến về Thăng Long. Ngày 2 tháng 2 năm 1288, quân Nguyên mở màn đánh phá Thăng Long. Quân Đại Việt bỏ thành rút lui. Cũng ngày này, hải quân Đại Việt do Trần Khánh Dư chỉ huy đã tập kích và tiêu diệt hoàn toàn đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ tại Vân Đồn (Quảng Ninh). Các đoàn thuyền lương khác của quân Nguyên cũng không vào được Đại Việt vì bị bão biển, hoặc vì đi lạc tới Chiêm Thành.
Sau khi Thăng Long thất thủ, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi truy đuổi cha con vua Trần. Nhưng Thánh Tông và Nhân Tông đã lui xuống hạ lưu sông Hồng rồi eo cửa Giao Thủy đi ra biển vòng lên Tháp Sơn (Đồ Sơn). Thoát Hoan đành thu quân về Thăng Long, sau đó cử Ô Mã Nhi đi tìm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Lúc này hai vua và Trần Quốc Tuấn đã tập trung quân thủy bộ ở Tháp Sơn. Khi quân Ô Mã Nhi qua đây, Nhân Tông tổ chức tập kích ở cửa Văn Úc (ngày 10 tháng 2 năm 1288), và trên biển gần Tháp Sơn, gây nhiều thiệt hại cho quân Nguyên. Ô Mã Nhi bèn dẫn quân trở lại Vạn Kiếp.
Ở Thăng Long mà không có lương thực, Thoát Hoan lúng túng. Không những thế, quân Đại Việt đã phản công mạnh mẽ và kiểm soát vùng Hải Dương và Hải Phòng đẩy Thoát Hoan vào nguy cơ bị cắt đường về Vạn Kiếp. Tình huống này buộc Thoát Hoan rút quân khỏi Thăng Long quay về Vạn Kiếp. Hai vua Trần một mặt sai Hưng Ninh vương Quốc Tung đến giả vờ hẹn ngày đầu hàng để làm quân Nguyên mất cảnh giác, mặt khác cứ đến đêm lại tung quân đột kích vào Vạn Kiếp. Cuối tháng 3 năm 1288, Thoát Hoan quyết định lui quân khỏi Đại Việt; Ô Mã Nhi được lệnh dẫn một cánh quân thủy rút về trước. Ngày 9 tháng 4, cánh quân này tiến đến sông Bạch Đằng và lọt vào trận địa mai phục của đại quân Việt. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của hai vua và Trần Quốc Tuấn, quân Đại Việt đã tiêu diệt toàn bộ cánh thủy quân Nguyên, bắt sống nhiều tướng lĩnh (trong đó có Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ) và tịch thu 400 thuyền chiến.
Ngày 18 tháng 4, hai vua Trần về phủ Long Hưng (Thái Bình) và đưa các bại tướng của trận Bạch Đằng bị bắt đến trình diện trước lăng Trần Thái Tông. Tương truyền khi đó chân của các tượng ngựa đá trong lăng đều lấm bùn, như thể những vật này cũng vừa mới tham gia chiến đấu. Nhân Tông tức cảnh ngâm hai câu thơ rằng:Xã tắc hai phen bon ngựa đá,Non sông ngàn thuở vững âu vàng.Một ngày trước trận Bạch Đằng, đại quân Nguyên bắt đầu rút từ Vạn Kiếp lên biên giới. Hữu thừa Nguyên là Trình Bằng Phi chọn những binh sĩ thiện chiến yểm hộ cho Thoát Hoan chạy về nước. Quân Nguyên về tới ải Nội Bàng (thị trấn Chũ và xã Bình Nội của Bắc Giang ngày nay) thì bị quân Đại Việt phục kích dữ dội, Vạn hộ Nguyên là Trương Quân phải đem 3000 quân liều chết chiến đấu mới thoát khỏi cửa ải. Qua được Nội Bàng, Thoát Hoan lại nhận tin trinh sát rằng phía trước có 30 vạn quân Đại Việt trải dọc suốt 100 dặm mai phục, đành đổi hướng đi qua Đơn Kỷ (khoảng huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn ngày nay) về Lộc Châu. Tuy nhiên qua đường này, quân Nguyên vẫn bị quân Đại Việt tập kích. Quân Đại Việt từ trên cao bắn tên độc, giết các tướng Trương Ngọc và Abaci. Theo Nguyên sử, quân Nguyên lúc đó đã "thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc" nhưng vẫn phải "cố xông vào mà đánh" và "buộc vết thương lại mà đánh". Đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, quân Nguyên đã bị quét sạch hoàn toàn khỏi Đại Việt.
Trong bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục biên soạn thời vua Nguyễn Dực Tông (cai trị 1847 – 1883), sử quan Đại Nam có nhận xét về vai trò của vua Trần Nhân Tông và các tướng lĩnh tài ba trong hai lần đánh bại quân Nguyên:
Những năm cuối trị vì
Đối nội
Sau hai cuộc kháng chiến chống Nguyên thắng lợi, Hoàng đế Trần Nhân Tông đã bắt tay vào việc tái thiết kinh tế, xã hội Đại Việt. Khoảng tháng 5 năm 1288, ông xuống chiếu đại xá thiên hạ và cắt giảm thế má, sưu dịch cho dân chúng. Đặc biệt, các vùng bị chiến tranh tàn phá đều được miễn thuế và sưu dịch hoàn toàn. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trong thời gian này Trần Nhân Tông đã hòa giải thành công sự bất hòa của một số quan viên trong triều:"Lệ cũ, mỗi khi tuyên đọc lời vua, thì viện Hàn lâm lĩnh đưa bản thảo tờ chiếu cho Hành khiển để giảng tập trước. Đến khi tuyên đọc, thì giảng cả âm nghĩa cho dân thường dễ hiểu, vì chức Hành khiển để dùng hoạn quan thôi. Bấy giờ, Lê Tòng Giáo làm tả phụ, vốn bất hòa với Hàn lâm phụng chỉ Đinh Củng Viên. Ngày tuyên đọc lời vua đã đến rồi mà Củng Viên vẫn cố ý không đưa bản thảo. Tòng Giáo đòi nhiều lần vẫn không được.Hôm ấy, xa giá sắp ra ngoài cung, Củng Viên mới đưa bản thảo. Tòng Giáo tuyên đọc tờ chiếu đại xá, không hiểu âm nghĩa, phải im lặng. Vua gọi Củng Viên đứng đằng sau, nhắc bảo âm nghĩa. Tòng Giáo rất thẹn. Tiếng nhắc của Củng Viên to dần, mà tiếng đọc của Tòng Giáo lại nhỏ đi, trong triều chỉ còn nghe thấy tiếng của Củng Viên thôi. Vua về trong cung, gọi Tòng Giáo dụ bảo:"Củng Viên là sĩ nhân, ngươi là trung quan sao lại bất hòa đến thế? Ngươi là lưu thủ Thiên Trường, dùng con rươi quả quýt đi lại, đưa tặng lẫn nhau thì có việc gì?"Từ đó, Tòng Giáo và Củng Viên giao hảo với nhau càng gắn bó."Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi: "Vua bảo bề tôi giao hảo với nhau là để cùng nhau làm tốt việc của nhà vua. Nhà Trần trung hậu như thế [qua việc này] có thể thấy được'', nhưng phê phán vua Nhân Tông vì lấy một hoạn quan không biết chữ như Lê Tòng Giáo làm Hành khiển.
Tháng 4 âm lịch năm 1289, cùng với Thượng hoàng Trần Thánh Tông, Hoàng đế Trần Nhân Tông xét công lao các tướng lĩnh trong cuộc chiến với Nguyên – Mông. Hưng Đạo vương Quốc Tuấn được thăng lên Đại vương, Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn được phong Khai quốc công, Hưng Nhượng vương Quốc Tảng nhận chức Tiết độ sứ; Nguyễn Khoái được phong tước Liệt hầu và được cấp hẳn một hương làm thực ấp. Hai vua cũng phong quan tước cho các tù trưởng người dân tộc có công như Lương Uất và Hà Tất Năng. Bên cạnh đó, Nội Minh tự Đỗ Hành là người đã bắt Ô Mã Nhi trong trận Bạch Đằng, nhưng chỉ được phong Quan nội hầu vì không đem Ô Mã Nhi nộp cho Hoàng đế mà lại nộp Thượng hoàng. Hưng Trí vương Quốc Nghiễn cũng không được thăng chức vì cố chặn đánh tàn quân Nguyên ở biên giới dù nhà vua có lệnh không truy kích. Đối với những người từng đầu hàng quân Nguyên, quan lại thì bị xử tử hoặc bắt đi đày, còn quân dân thì được tha chết nhưng phải chịu các loại hình phạt khổ sai như "chở gỗ đá, xây cung điện để chuộc tội", hoặc phải làm lính hầu, nô tỳ cho vương hầu và tể tướng.
Tháng 2 âm lịch năm 1290, Nhân Tông cử quan văn đi trấn nhậm các lộ trong cả nước, để cơ cấu lại bộ máy hành chính vốn đã bị quân sự hóa trong chiến tranh. Ông cũng quan tâm theo dõi công việc của quan lại địa phương. Khi nghe tin An phủ sứ Diễn Châu là Phí Mạnh hay nhũng nhiễu dân, Nhân Tông đã triệu Phí Mạnh về kinh đô và phạt đánh bằng trượng. Sau lần đó, Phí Mạnh trở nên đức độ đến mức người dân truyền tụng rằng quan An phủ Diễn Châu trong sạch như nước. Nhà vua còn cất nhắc những văn thần có công trong thời chiến như Phùng Sĩ Chu làm Hành khiển (1289), Trần Thì Kiến làm An phủ sứ lộ Yên Khang (1292). Bên cạnh đó, hai vua Thánh Tông, Nhân Tông đã chủ trương hạn chế tối đa số viên chức nhà nước. Sau này khi Nhân Tông làm Thái thượng hoàng, có lần ông đã phàn nàn với Trần Anh Tông vì vua này bổ nhiệm quá nhiều quan chức: "Sao lại có một nước bé bằng bàn tay mà phong quan tước nhiều như thế".
Tháng 5 âm lịch năm 1290, Thượng hoàng Thánh Tông qua đời ở cung Nhân Thọ. Sau 3 tháng để tang, tháng 9 âm lịch, Ngự sử đại phu Đỗ Quốc Kế khuyên vua Nhân Tông: "Phàm để tang không nên làm thương tổn người sống. Nay thiên tử đều dùng kiệu khiêng, thế là người sống bị tổn thương, xin hãy cưỡi ngựa". Lời tâu này được nhà vua chấp thuận. Ngày 15 tháng 12 âm lịch năm 1290, Nhân Tông mai táng thượng hoàng ở Dụ Lăng, tôn miếu hiệu là Thánh Tông, thụy hiệu Tuyên Hiếu Hoàng đế. Từ đây đến năm 1293, Nhân Tông là vị hoàng đế duy nhất cai trị nước Việt.
Khoảng năm 1289–1290, sản xuất nông nghiệp bị đình trệ do sự chuyển biến thất thường của thời tiết. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, năm 1289 có tình trạng "hạn từ tháng 6 mùa hạ đến tháng 10 mùa đông", sau đó "mùa hạ, tháng 4 [năm 1290], sông Tô Lịch chảy ngược (sông này hễ có mưa to thì nước rút, tràn và chảy ngược)" và đến tháng 9 âm lịch năm 1290, nạn đói xảy ra khiến nhiều người phải bán ruộng đất và bán cả con mình làm nô tỳ cho người khác. Trước tình hình này, Nhân Tông chỉ thị phát chẩn thóc cho người dân và bãi bỏ thuế nhân đinh. Chính sách trị dân của ông đã giúp Đại Việt dần dần phục hồi sau những năm chiến tranh và đói kém. Năm 1293, khi sứ nhà Nguyên là Lương Tăng và Trần Phu sang Đại Việt, họ đã chứng kiến một Đại Việt phồn vinh với những hình ảnh như "lúa mỗi năm gặt bốn lần, tuy vào mùa đông rét, mạ vẫn phơi phới", hay "thôn xóm đều có chợ, mỗi hai ngày họp một lần, trăm món tạp hóa đều dồi dào" và "thuyền bè các nước mọi ngoài biển đều đến rất đông, buôn bán trên thuyền rất rộn rịp" (theo An nam tức sự của Trần Phu). Công nghiệp và thủ công nghiệp của Đại Việt cũng lớn mạnh tạo điều kiện cho triều đình Nhân Tông tu bổ, xây mới toàn bộ những cầu, đường và cung điện đã bị đốt phá trong chiến tranh.
Đối ngoại
Cuối thời Nhân Tông, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới phía tây Đại Việt, bởi vậy năm 1290 nhà vua quyết định thân chinh đánh Ai Lao. Các quan ngăn cản, lập luận rằng: "Giặc Hồ mới lui, vết thương của dân chưa lành, sao lại đã hưng binh". Vua Nhân Tông đáp lại: "Chỉ nên xuất binh vào lúc này; lân bang sẽ bảo ta có bao nhiêu voi ngựa mất hết, sắp có sự khinh rẻ ta, nên phải đại cử để thị oai"; đình thần không còn ý kiến.
Đối với nhà Nguyên, ông tiếp tục thực thiện chính sách đối ngoại mềm dẻo. Từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1288, Nhân Tông đã ba lần cử sứ giả sang Nguyên để triều cống và "tạ tội". Đồng thời, ông gửi vua Nguyên một bức thư biện hộ cho hai cuộc kháng chiến năm 1285 và 1287-1288, trong đó có đoạn: "Năm Chí Nguyên thứ 23 (1286), bình chương A Lý Hải Nha tham công ngoài biên giới, làm trái Thánh chỉ... Mùa đông năm Chí Nguyên thứ 24 (1287) lại thấy đại quân thủy bộ đều tiến sang, thiêu đốt chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mả tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp trăm họ...". Đến tháng 12 năm 1288, Hốt Tất Liệt sai Lý Tư Diễn và Vạn Nô đi đòi Nhân Tông sang chầu và thả tù binh Nguyên về nước. Vua Trần đã thiết đãi nồng hậu và biếu vàng bạc cho sứ Nguyên, nhưng dứt khoát không chịu sang chầu. Đầu năm 1289, Nhân Tông truyền lệnh đưa hết tù binh Nguyên về nước. Riêng đối với Ô Mã Nhi, Nhân Tông và Hưng Đạo Đại vương quyết định ám sát để trừ hậu họa. Nhà vua sai Nội thư Hoàng Tá Thốn cấp thuyền cho Ô Mã Nhi về, rồi chọn người lặn giỏi làm phu thuyền và nhân lúc đêm tối dùi thuyền thủng cho đắm. Vua Trần đã giải thích với Hốt Tất Liệt rằng Ô Mã Nhi chết đuối do thuyền bị rỉ nước. Người Nguyên không thể tra cứu việc này nên đành lờ đi, không trách cứ. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, sử thần đời Lê sơ Ngô Sĩ Liên chỉ trích mạnh mẽ hành động của Nhân Tông là "thất tín":
Sau thất bại trong cuộc chiến năm 1288, nhà Nguyên vẫn chưa bỏ mộng xâm lược Đại Việt. Mặc dù Nhân Tông đã sai Nghiêm Trọng Duy và Trần Tử Trường sang Nguyên dâng lễ vật và "tạ tội không vào chầu" vào tháng 9 âm lịch năm 1291, Hốt Tất Liệt lại cử Trương Lập Đạo và Thiếp Mộc Nhĩ sang dụ Nhân Tông đến chầu vào cuối năm 1291 – đầu năm 1292. Theo tư liệu Trương Thượng thư Hành lục chép trong An Nam chí lược của Lê Tắc, vua Nhân Tông đãi Lập Đạo thịt rượu rất thịnh soạn và còn đề thơ tặng sứ giả, nhưng tiếp tục lấy cớ tang cha, từ chối sang chầu. Sau khi Lập Đạo về nước, Nhân Tông sai Nguyễn Đại Phạp và Hà Duy Nghiêm sang cống nhà Nguyên. Năm 1293, sau khi Nhân Tông truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông, Hốt Tất Liệt lại sai sứ sang bắt vua Trần vào chầu. Anh Tông cáo bệnh không đi và sai Đào Tử Kỳ sang cống nạp. Nhà Nguyên giam Tử Kỳ ở Giang Lăng và sửa soạn tấn công Đại Việt. Nhưng việc chuẩn bị chưa hoàn tất thì Hốt Tất Liệt chết; tân hoàng đế Nguyên Thành Tông đã hủy bỏ kế hoạch xâm chiếm Đại Việt, đồng thời thả Tử Kỳ về nước.
Thái thượng hoàng
Ngày 9 tháng 3 âm lịch năm Quý Tỵ (tức ngày 16 tháng 4 năm 1293) Trần Nhân Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên – tức Hoàng đế Trần Anh Tông – rồi lên làm Thái thượng hoàng. Anh Tông tặng vua cha tôn hiệu là Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng Hoàng Đế (憲堯光聖太上皇帝). Năm sau (1294), Thượng hoàng xuất gia tu Phật tại hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình). Dựa trên dữ liệu từ Thánh đăng ngữ lục, tiến sĩ Lê Mạnh Thát phỏng đoán rằng Nhân Tông đã nhận được tâm ấn từ Tuệ Trung Thượng sĩ. Bên cạnh đó, Nhân Tông vẫn tham gia cùng Anh Tông trị nước. Tháng 8 âm lịch năm 1294, quân Ai Lao xâm lấn Đại Việt lần hai và Thượng hoàng lại thân chinh đánh dẹp. Quân Việt do Nhân Tông chỉ huy đã đánh tan quân Ai Lao, đồng thời thu được nhiều tù binh và chiến lợi phẩm. Nhân Tông cũng chủ trì tiếp phái bộ Lý Trọng Tân - Tiêu Phương Nhai của nhà Nguyên vào năm 1295 (trong dịp này Nhân Tông đã sáng tác bài Tiến sứ Bắc Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai – một trong hơn 30 bài thơ hiện còn lưu hành của ông). Sau đó, tháng 2 âm lịch năm 1295 Thượng hoàng sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo qua Nguyên để thỉnh Đại tạng kinh. Thỉnh cầu này được Nguyên Thành Tông chấp thuận. Các bộ kinh do sứ bộ đem về được cất ở phủ Thiên Trường, ngoài ra Thượng hoàng sai in bản phó để lưu hành trong nước.
Sơ tổ Trúc Lâm
Tháng 10 (âm lịch) năm 1299, Nhân Tông rời đến Yên Tử (Quảng Ninh), lấy pháp danh Hương Vân Đại Đầu đà (香雲大頭陀) và tu hành theo thập nhị đầu đà (mười hai điều khổ hạnh). Ông còn có đạo hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu đà (竹林大頭陀) hay Trúc Lâm Đại sĩ (竹林大士) và Giác hoàng Điều ngự (覺皇調御). Tại Yên Tử, Điều ngự đã mở tịnh xá, thuyết giảng độ tăng, thâu nhận được khá nhiều đệ tử. Vào thế kỷ XI – XIII, Phật giáo Đại Việt tồn tại chủ yếu dựa trên 3 dòng thiền Tì-ni-đa-lưu-chi, Thảo Đường và Vô Ngôn Thông. Điều ngự đã hợp nhất các tông phái này vào dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, còn gọi là Thiền phái Trúc Lâm. Đây được xem là giáo hội thống nhất đầu tiên của đạo Phật tại Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm vừa tiếp thu nền tảng Phật giáo Nam Á và thiền Đông Độ, vừa sử dụng các giá trị văn hóa Việt Nam và khuyến khích Phật tử cống hiến cho xã hội trên nền tảng Từ bi – Trí tuệ của Phật pháp. Bản thân Điều ngự không chỉ an cư tại Yên Tử, mà đi thuyết pháp nhiều lần ở các chùa như Phổ Minh (Thiên Trường), Sùng Nghiêm (Chí Linh), Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) và Báo Ân – Siêu Loại (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội). Ông cũng xây dựng nhiều tự viện và đi giáo hóa trong cả nước, kể cả ở thôn quê lẫn thành thị. Trên cương vị là thượng hoàng-thiền sư, ông đã dạy dân bài trừ các tập tục mê tín, dị đoan và tu dưỡng đức hạnh theo giáo pháp Thập thiện (mười điều thiện). Ông vẫn góp ý cho một số vấn đề chính sự, đồng thời khuyên bảo Anh Tông từ bỏ rượu chè và cúng dường cho tăng chúng.
Tháng 3 âm lịch năm 1301, Giác hoàng Điều ngự du hóa đến châu Bố Chính – một vùng đất địa đầu phía nam của Đại Việt – và dựng lên am Trì Kiến. Từ Bố Chính, ông sang Chiêm Thành và ở lại đây gần một năm. Bài dẫn của Trần Quang Chỉ trong tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ đã mô tả về chuyến đi này rằng: Có lúc ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm Thành biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước..." Cũng chính trong lần này, Điều ngự đã hứa gả con là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân; để đáp lễ, Chế Mân xin nhượng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt. Hôn lễ giữa Huyền Trân với vua Chiêm được cử hành vào năm 1306. Vua Anh Tông sáp nhập hai châu Ô, Lý vào Đại Việt và đổi tên châu Ô thành châu Thuận, châu Lý thành châu Hóa.
Sau cuộc vân du ở Chiêm Thành, Điều ngự về phủ Thiên Trường vào tháng 1 âm lịch năm 1303 để "mở hội Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước và giảng kinh Giới thí" (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư). Năm 1304, Điều ngự đến kinh đô Thăng Long trong sự đón tiếp long trọng của Anh Tông cùng vương hầu, quan lại. Tất cả họ đều được trao tâm giới Bồ-tát tại gia. Năm 1304, khi đang hoằng hóa tại huyện Nam Sách (Hải Dương), Điều ngự đã gặp và thu nhận Pháp Loa (Đồng Kiên Cương; 1284 – 1330) và làm đệ tử xuất gia. Sau đó ông đào tạo cho Pháp Loa trở thành người kế thừa thiền phái của mình. Ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1308, Điều ngự chính thức công nhận Pháp Loa làm người nối pháp. Lễ truyền đăng cho Pháp Loa được cử hành tại chùa Báo Ân-Siêu Loại và được tường thuật qua sách Tam Tổ thực lục (tờ 18b3-19a8) như sau:
Trong cuốn Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài (xuất bản năm 1995), tác giả Nguyễn Hiền Đức nhận định buổi lễ này đã cho thấy " Trúc Lâm muốn rằng vua Anh Tông và các đại thần trong triều đình phải chánh thức tôn kính Pháp Loa như "bậc thầy" giống như tôn kính Trúc Lâm. Ngoài ra, Trúc Lâm cũng muốn cho biết rằng: Từ vua, triều thần cho đến tất cả chư Tăng Ni, Phật tử cả nước phải công nhận Pháp Loa là vị Tổ thứ hai, thay thế Trúc Lâm lãnh đạo Giáo hội Phật giáo thống nhất từ thời Trần, tức lãnh đạo phái thiền Trúc Lâm do Trúc Lâm Đầu Đà khai sáng.". Sách Trần Nhân Tông toàn tập (xuất bản năm 2006) của tiến sĩ Lê Mạnh Thát còn có nhận xét rằng việc ban tặng "ngoại thư kinh sử" cho Pháp Loa chứng tỏ Điều ngự yêu cầu đệ tử phải biết kết hợp lý tưởng Bồ-tát của Phật pháp với lý tưởng trượng phu của thế gian.
Tháng 11 âm lịch (tháng 12 dương lịch) năm 1308, Điều ngự Trần Nhân Tông viên tịch trên đỉnh Ngọa Vân (Yên Tử). Về ngày mất của Điều ngự, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép là ngày 3 tháng 11 âm lịch năm Mậu Thân (tức ngày 16 tháng 12 năm 1308) trong khi Tam Tổ thực lục và Thánh đăng ngữ lục viết là ngày 1 tháng 11 âm lịch (tức ngày 14 tháng 12). Thánh đăng ngữ lục đã tường thuật về cuộc đối thoại cuối cùng giữa Điều ngự với thị giả Bảo Sát:
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng cung cấp một số chi tiết khác về sự qua đời của Trúc Lâm đại sĩ:
Theo thiên Tổ linh định mệnh (Linh hồn của Tổ định ngôi) trong sách Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng – quan nhà Minh gốc Việt đầu thế kỷ XV, khi Trần Anh Tông cùng các vương tử nhận bọc xá-lợi của Điều ngự, một số hạt xá-lợi bay vào tay áo Hoàng tử Trần Mạnh, rồi tỏa ra ánh sáng. Khi được lấy ra, xá-lợi lại bay vào. Theo Hồ Nguyên Trừng, Anh Tông bấy giờ chưa có con với vợ đích, chỉ có Hoàng tử Mạnh là con người vợ thứ. Nhà vua định chờ sinh con đích rồi chọn người nối ngôi. Cho nên việc xá-lợi bay vào ống tay áo Mạnh có nghĩa anh linh Điều Ngự nhắc Anh Tông phải truyền ngôi cho Mạnh. Sau khi vua Anh Tông khấn rằng: "Đâu dám không phụng mệnh", xá-lợi mới không bay nữa. Anh Tông lập Trần Mạnh làm Hoàng thái tử, tức vua Trần Minh Tông sau này.
Theo Thánh đăng ngữ lục và Tam tổ thực lục, xá lợi của Điều ngự được Anh Tông chia làm ba phần, tôn trí vào ba nơi: lăng Quy Đức (phủ Long Hưng), bảo tháp Huệ Quang tại chùa Hoa Yên (Yên Tử) và chùa Phổ Minh (Thiên Trường). Đại Việt Sử ký Toàn thư còn kể, trước khi đưa về lăng Quy Đức, di hài Nhân Tông Điều ngự được quàn tạm ở điện Diên Hiền. Các quan và nhân dân đổ về cung điện rất đông, cho nên đến gần giờ rước, đoàn linh cữu vẫn chưa đi được. Vua Anh Tông sai Chi hậu thánh chưởng Trịnh Trọng Tử, chỉ huy các quân Hải khẩu và Hổ dực, tìm cách khiến đoàn người giãn ra. Trọng Tử bèn sai quân Hải khẩu, Hổ dực đến trước thềm Thiên Trì, ngồi theo hàng lối rồi hát khúc Long ngâm. Nhiều người nghe thấy, chạy đến xem, từ đấy đoàn linh cữu mới đi được về lăng Quy Đức. Tại đây, Điều ngự được hợp táng với vợ đầu là Khâm Từ Bảo Thánh Thái hoàng thái hậu. Triều đình dâng ông miếu hiệu là Nhân Tông và thụy hiệu Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế (法天崇道應世化民隆慈顯惠聖文神武元明睿孝皇帝). Anh Tông còn dâng pháp hiệu Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật (大聖陳朝竹林頭陀靜慧覺皇調御祖佛), lại sai đắp hai pho tượng vàng thờ ông ở chùa Vân Yên (Yên Tử) và chùa Báo Ân (Siêu Loại).
Sách Tam Tổ thực lục khi chép về thời kỳ Trần Minh Tông làm Thái thượng hoàng, có ghi nhận một phần xá-lợi của Nhân Tông đã được đưa vào bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên (tháp trong khuôn viên chùa Báo Thiên, xây năm 1057 từ thời Lý Thánh Tông, nay không còn nữa). Từ phần xá-lợi này, tháng 11 âm lịch năm 1329, thiền sư Pháp Loa đem một số xá lợi về an trí trong tháp đá của viện Quỳnh Lâm (nay thuộc thị xã Đông Triều, Quảng Ninh).
Trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí, phần Văn tịch chí, danh sĩ thời Nguyễn Phan Huy Chú có nhận xét về nhà vua-tu sĩ Trần Nhân Tông:
Tác phẩm
Trần Nhân Tông được xem là một nhà thơ, nhà văn hóa tiêu biểu của Đại Việt thời trung đại. Tác phẩm của ông bao gồm: Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền).Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng).Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá), được vua Trần Anh Tông cho chép vào Đại Tạng kinh để lưu hành.Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm).Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông).Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược.
Các tác phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 32 bài thơ, kệ chép trong Thánh đăng ngữ lục, Thiền tông bản hạnh, An Nam chí lược, Nam Ông mộng lục, Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục, cộng thêm 3 đoạn phiến trong Đại Việt Sử ký Toàn thư và An Nam chí lược. Theo đánh giá trong sách Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn, thơ Trần Nhân Tông mang tính chất "kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ".
Một số bài thơ
Xuân Đình Thụy khởi khải song phiBất tri xuân dĩ quyNhất song bạch hồ điệpPhách phách sấn hoa phiBuổi sớm mùa xuânNgủ dậy ngỏ song mây,Xuân về vẫn chửa hay,Song song đôi bướm trắng,Phất phới sấn hoa bay.(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Thiên Trường vãn vọngThôn hậu thôn tiền đạm tự yênBán vô bán hữu tịch dương biênMục đồng địch lí ngưu quy tậnBạch lộ song song phi hạ điềnBuổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông raTrước xóm sau thôn tựa khói hồngBóng chiều man mác có dường khôngMục đồng sáo vẳng trâu về hếtCò trắng từng đôi liệng xuống đồng(Ngô Tất Tố dịch)
Thiên Trường PhủLục ám hồng hi bội tịch liêu, Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu. Trai đường giảng hậu tăng quy viện, Giang quán canh sơ nguyệt thượng kiều.Tam thập tiên cung hoành dạ tháp,Bát thiên hương sát động xuân triều. Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc, Phảng phất canh tường nhập mộng nghiêu.Phủ Thiên TrườngLục rậm, hồng thưa cảnh quạnh hiu, Mây quang, mưa tạnh đất tan rêu. Phòng trai giản đoạn, sư về viện,Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo. Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt, Tám nghìn bóng tháp, nước triều reo. Phổ Minh phong cảnh, chùa như cũ,Trong giấc mơ màng Thuấn thấy Nghiêu.(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Cư trần lạc đạo phúCư trần lạc đạo thả tùy duyênCơ tắc xan hề khốn tắc miênGia trung hữu bảo hưu tầm mịchĐối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.Bản dịch:Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền.Có báu trong nhà thôi tìm kiếm,Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.''
(người dịch: Lê Mạnh Thát)
Gia đình
Cha: Trần Thánh Tông (Trần Hoảng).
Mẹ: Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần thị (元聖天感皇后陳氏 ? – 1287), húy là Thiều (韶), con gái của Khâm Minh Đại vương Trần Liễu.
Hậu phi:
Khâm Từ Hoàng hậu Trần Thị Trinh (欽慈皇后; ? – 1293), con gái trưởng của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Nguyên Từ Quốc mẫu.
Tuyên Từ Hoàng hậu Trần Thị Tĩnh (宣慈皇后; ? – 1318), em gái của Khâm Từ Hoàng hậu, con gái thứ của Hưng Đạo Đại vương.
Đức phi Đặng Thị Loan, người con gái thôn quê vùng Kinh Bắc.
Con:
Trần Thuyên (陳烇), sau trở thành Trần Anh Tông (陳英宗), con của Khâm Từ Hoàng hậu.
Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn (惠武大王陳國瑱), không rõ mẹ, có thể là Tuyên Từ Hoàng hậu.
Thượng Trân Công chúa (上珍公主), lấy Văn Huệ công Trần Quang Triều, cháu nội Trần Hưng Đạo.
Thiên Trân Công chúa (天珍公主; ? – 1309), lấy Uy Túc công Trần Văn Bích, con Văn Túc vương Trần Đạo Tái, cháu nội Trần Quang Khải.
Huyền Trân Công chúa (玄珍公主), lấy Chế Mân, Quốc vương Chiêm Thành.
Hình ảnh công cộng
Tên của ông được đặt cho nhiều trường học ở Việt Nam, một số con đường của các thành phố, tỉnh. Trong khi đó, ở các tỉnh miền Trung và miền Nam lại viết là Trần Nhân Tôn.
Đền thờ |
Trần Anh Tông (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là Trần Thuyên (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở ngôi từ tháng 4 năm 1293 đến tháng 4 năm 1314, rồi làm Thái thượng hoàng từ năm 1314 đến khi qua đời. Được đánh giá là một vị hoàng đế anh minh, chăm lo quốc sự, triều đại của Anh Tông chứng kiến một giai đoạn phát triển hưng thịnh của Đại Việt sau 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Thời kỳ của ông và con ông đánh dấu sự hưng thịnh của vương triều nhà Trần, sử gọi là Anh Minh Thịnh Thế (英明盛世).
Trần Thuyên là là đích trưởng tử của Trần Nhân Tông Trần Khâm (vua thứ 3 triều Trần) và là đích trưởng tôn của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần). Năm 1293, sau khi đánh bại các đợt xâm lược của Nguyên-Mông, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Thuyên, tức Hoàng đế Anh Tông. Theo bộ chính sử Đại Việt, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Trần Anh Tông ban đầu khá buông thả, mê rượu chè, nhưng sau khi Thượng hoàng Trần Nhân Tông nghiêm khắc răn bảo, đã chịu tu sửa mình, trở thành một hoàng đế anh minh sáng suốt, tin dùng những nhân tài như Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn (ban văn) và Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật (ban võ). Trong thời kỳ trị vì của ông, Đại Việt phát triển hưng thịnh, dù phải chống lại một số đợt xâm lấn của Ai Lao trên hướng Tây. Vua Anh Tông sử dụng tướng tài Phạm Ngũ Lão đánh bại quân Ai Lao. Ông còn ngăn chặn sự lấn chiếm của người Nguyên ở biên giới phía Bắc, và mở rộng lãnh thổ Đại Việt về phương Nam thông qua cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa (em gái ông) với vua Chiêm Thành. Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức vua Trần Minh Tông) vào năm 1314, Thượng hoàng Anh Tông tiếp tục hỗ trợ Minh Tông cai quản nước Việt.
Giống như các tiên đế, Trần Anh Tông là một Phật tử mộ đạo. Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm – giáo hội thống nhất đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Trần Anh Tông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của giáo hội này, qua việc khuyến khích các thiền sư phái Trúc Lâm thuyết pháp ở nhiều nơi, cúng dường tiền của, vật liệu cho việc xây chùa, tháp và vận động các thành viên hoàng gia làm thế. Ông cũng hay sáng tác thơ ca, nhưng ngày nay chỉ còn 12 bài chép trong Việt âm thi tập.
Thiếu thời
Trần Anh Tông tên húy là Trần Thuyên, tên chữ là Nhật Sủy (日煃) hoặc Nhật Sáng (日㷃/日𤊞), là đích trưởng tử của Trần Nhân Tông Trần Khâm (vua thứ 3 triều Trần) và là đích trưởng tôn của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần). Ông sinh vào ngày 17 tháng 9 năm Bính Tý, tức ngày 25 tháng 10 năm 1276 theo Tây lịch, chỉ khoảng 7 tháng trước khi ông cố nội của ông là Thái thượng hoàng Trần Thái Tông qua đời. Mẹ ông, Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu, là con gái của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Vào thời điểm mà Trần Thuyên được sinh ra, phụ thân vẫn còn là Hoàng thái tử, vì vậy mà ông đã được ông nội lập làm Hoàng thái tôn.
Hơn một năm sau khi Thái thượng hoàng Thái Tông qua đời, Thánh Tông noi theo phụ hoàng truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông, mà lui về làm Thái thượng hoàng. Mẫu thân của ông là Trần phi cũng được tấn phong làm hoàng hậu. Tuy nhiên, mãi đến ngày 3 tháng 2 âm lịch năm Nhâm Thìn (1292), Trần Nhân Tông mới phong Trần Thuyên làm Hoàng thái tử, khi ấy ông đã 16 tuổi. Ngay dịp đó, triều đình đã chọn con gái của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng lập làm thái tử phi. Trần Quốc Tảng là em ruột của hoàng hậu, cho nên nếu xét về mối quan hệ, Trần Thuyên và thái tử phi là anh em họ con cô con cậu bên ngoại, còn về bên nội thì hai người đều gọi Thái Tổ Trần Thừa là kị nội. Hôn nhân cận huyết xảy ra với mật độ thường xuyên vào thời nhà Trần, nguyên nhân chính được cho là để đề phòng trường hợp bị ngoại tộc cướp ngôi, tương tự như cách mà họ đã sử dụng để đoạt lấy ngai vàng từ nhà Lý.
Thời kỳ Anh Minh Thịnh Thế
Ngày 9 tháng 3 âm lịch năm Quý Tỵ, tức ngày 16 tháng 4 năm 1293 theo Tây lịch, Trần Nhân Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên, tức Hoàng đế Trần Anh Tông. Anh Tông tự xưng là "Anh Hoàng" (英皇) và tôn vua cha làm Thái thượng hoàng. Nhà vua lấy niên hiệu là "Hưng Long" (興隆) và sử dụng nó cho đến khi ông noi theo các vị tiên đế thoái vị nhường ngôi cho con trai. Ông cũng được triều thần tặng tôn hiệu "Ứng Thiên Quảng Vận Nhân Minh Thánh Hiếu Hoàng Đế" (應天廣運仁明聖孝皇帝). Thời gian ông trị vì được coi là thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Trần.
Đối nội
Khi mới lên nối ngôi, Trần Anh Tông thích rượu chè và thường thích đi vi hành cùng mấy người thị vệ, có lần bị một số người "vô lại" ném gạch trúng đầu. Thượng hoàng biết chuyện, chỉ biết lắc đầu. Lúc bấy giờ, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã rút về hành cung Thiên Trường, thỉnh thoảng mới quay về Thăng Long. Sử cũ ghi chép, một ngày nọ Nhân Tông hồi cung, gặp phải Anh Tông do uống rượu say nên mãi trưa vẫn chưa ngủ dậy. Ông nổi giận liền quay về Thiên Trường, hạ chiếu cho bá quan ngày mai phải tề tập ở đó nghe chỉ. Khi tỉnh dậy ông vội vã cùng một người học trò là Đoàn Nhữ Hài tức tốc đến Thiên Trường dâng biểu tạ tội. Nhân Tông đọc biểu, mới mắng rằng: "Trẫm còn có con khác cũng có thể nối ngôi được. Trẫm còn sống mà người còn dám như thế. Huống chi sau này?" Từ đó Anh Tông trở nên minh mẫn hơn, không những thế ông còn không ưa những người nghiện rượu. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi Thượng hoàng gợi ý Anh Tông chọn Nội thị Chánh chưởng Nguyễn Quốc Phụ làm Hành khiển, Anh Tông từ chối: "Nếu lấy ngôi thứ mà bàn, thì Quốc phụ được rồi, chỉ hiềm hắn nghiện rượu thôi!".
Anh Tông cũng là người bãi bỏ tục xăm hình rồng vào đùi của các vua Đại Việt. Toàn thư ghi lại, Thượng hoàng Nhân Tông đã triệu Anh Tông đến cung Trùng Quang và bảo rằng: "Nhà ta vốn là người hạ lưu [sông nước], đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc". Khi đó thợ xăm đã chờ sẵn trước cổng cung; nhưng thừa lúc Thượng hoàng nhìn sang hướng khác, Anh Tông lẩn trốn về cung Trùng Hoa. Thượng hoàng biết ý và không bắt Anh Tông phải xăm mình nữa.
Bên cạnh đó, Trần Anh Tông đã chấp hành nghiêm túc nề nếp, kỷ cương của hoàng triều. Tháng 3 âm lịch năm 1296, ông sai đánh quan thượng phẩm Nguyễn Hưng đến chết vì tội mê bài bạc. Ông cũng ban chiếu cấm phạm húy tên của 8 vua nhà Lý, cùng với các tổ phụ nhà Trần là Trần Lý, Trần Thừa, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Ngoài ra, Toàn thư còn chép lại: có lần Anh Tông đi cùng thứ phi là Huy Tư; bà này không phải Chính cung Hoàng hậu nên không được đi kiệu. Thuận Thánh Hoàng hậu lấy kiệu của mình cho Huy Tư đi, nhưng Anh Tông ngăn cản: "Có yêu quý Huy Tư thì cho cái khác, chứ cái kiệu ngồi còn điển chế cũ, không thể cho được". Tháng 10 âm lịch năm 1300, Trần Anh Tông đặt quy chế mới về trang phục bá quan, theo đó quan văn đội mũ chữ đinh màu đen, thuộc quan đội mũ toàn hoa màu xanh có hai vòng vàng đính vào hai bên. Áo của quan văn, tướng võ phải có ống tay rộng từ 9 tấc đến 1 thước 2 tấc, không được rộng dưới 8 tấc. Ngoài ra, các quan văn võ đều không được phép mặc xiêm, tụng quan không được phép mặc thường. Đến mùa xuân năm 1301, nhà vua lại ban chiếu cho bá quan văn võ đều dùng mũ chữ đinh, có miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc.
Trần Anh Tông cũng chú trọng đến việc chiêu hiền đãi sĩ. Trong thời gian đầu trị vì, ông tỏ ra phóng khoáng trong việc bổ nhiệm quan chức. Nhưng sau khi nghe Thượng hoàng phê bình rằng: "Sao lại có một nước bé bằng bàn tay mà phong quan tước nhiều như thế", Anh Tông dùng người cẩn thận hơn. Ông đã trọng dụng những văn thần giỏi như Bùi Mộc Đạc, Trương Hán Siêu, Trần Thì Kiến hay Đoàn Nhữ Hài, cùng với những tướng lĩnh tài ba như Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật, Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn hay Phạm Ngũ Lão. Đặc biệt, Đoàn Nhữ Hài còn trẻ nhưng đã được Anh Tông phong chức Ngự sử trung tán, khiến có người châm chiếm bằng 2 câu thơ: " Ôn câu chữ cổ: Đài ngự sử; Miệng sữa còn hôi: Trung tán Đoàn". Anh Tông mặc kệ những lời đồn đại này. Trái lại, người kém tài đức như Bảo Hưng (1 tôn thất mà Anh Tông yêu mến), Nguyễn Sĩ Cố và Chu Bộ (cận thần của Anh Tông từ khi ông còn nhỏ) đều không được giữ các chức lớn.
Tháng 3 âm lịch năm 1304, Anh Tông mở khoa thi Thái học sinh tìm người hiền giúp nước. Thể lệ kỳ thi này gồm 4 bước: bước 1 là thi ám tả thiên Y quốc (lấy từ sách Quốc ngữ) và truyện Mục Thiên tử, người nào không qua được bước này sẽ bị loại thải; bước 2 thi giải nghĩa kinh sách Nho giáo, làm thơ theo thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên về "vương độ khoan mãnh" (dùng luật "tài nan xạ trĩ"), làm phú "đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm"; bước 3 thi về chế, chiếu, biểu; bước cuối cùng là thi đối sách. Khoa thi này lấy được 48 người gồm Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (được phong chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm Nội thư gia), Bảng nhãn Bùi Mộ (lãnh chức Chi hậu bạ thư mạo sam, sung làm Nội lệnh thư gia), Thám hoa Trương Phóng (lãnh chức Hiệu thư quyền miện, sung làm Nhị tư), Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn cùng 44 thái học sinh. Ba người đỗ đầu được ra cửa Long Môn dạo chơi đường phố 3 ngày. Nhờ sự giúp đỡ của Thượng hoàng và bề tôi, Anh Tông đã giữ vững sự hưng thịnh về chính trị, kinh tế và văn hóa của Đại Việt.
Tôn sùng Phật giáo
Cũng giống như nhiều vị vua Trần khác, Anh Tông cũng là một tín đồ Phật giáo thuần thành. Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia tại núi Yên Tử (Quảng Ninh), lấy đạo hiệu là Giác hoàng Điều ngự và lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Đây được xem là giáo hội thống nhất đầu tiên của đạo Phật ở Việt Nam. Đến năm 1308, Điều ngự viên tịch; đệ tử Điều ngự là Pháp Loa trở thành Tổ thứ hai của phái Thiền Trúc Lâm. Anh Tông hỗ trợ tích cực cho Điều ngự và Pháp Loa trong việc phát triển giáo hội. Sách Tam Tổ thực lực có chỗ mô tả Anh Tông là "đại thí chủ của Phật pháp". Mùa đông năm 1304, Anh Tông thỉnh cầu Điều ngự về Thăng Long để truyền tâm Tâm giới Bồ tát tại gia cho ông. Theo giải thích của Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận, với việc thực hành giới Bồ tát Tại gia, Anh Tông đã lập nguyện dùng hoàng quyền của mình như một phương tiện cho việc "cứu nhân độ thế" trên tinh thần Phật giáo Đại thừa. Việc Anh Tông thực hiện Tâm giới Bồ tát đã khuyến khích nhiều tôn thất, quan lại quy y Phật-Pháp-Tăng và thọ trì ngũ giới.
Theo sách Thánh đăng ngữ lục (một tác phẩm Phật giáo khuyết danh ra đời cuối thế kỷ 14), trong thời kỳ trị vì của mình, Trần Anh Tông đã khuyến khích các cao tăng như Nhị tổ Pháp Loa, Quốc sư Liễu Minh thuyết giảng kinh sách Phật giáo nói chung – và Thiền tông nói riêng – tại nhiều nơi như chùa Tư Phúc (Thăng Long) và am Thường Lạc (Thiên Trường). Cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận còn cho biết, Trần Anh Tông đã chu cấp thợ xây và vật liệu cho giáo hội để xây cất tự viện, tịnh thất. Đồng thời, ông cho đắp nhiều tượng Phật lớn và kêu gọi vương hầu, cung nhân cống hiến hàng trăm mẫu ruộng cho các trung tâm tu học. Nhà vua cũng dâng tặng tàu thuyền và dân phu cho thầy Pháp Loa nhưng thầy không lấy. Vào các năm 1313 và 1319, khi sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn, Trần Anh Tông đã lấy vàng bạc từ quốc khố và dâng cho Pháp Loa, sau đó thầy phân phát cho dân nghèo. Các vua đầu thời Trần đều là hành giả Thiền Tông; nhưng đến đời Anh Tông, Mật tông bắt đầu ảnh hưởng tới giới Phật tử Đại Việt – kể cả nhà vua. Năm 1318, Trần Anh Tông đã thỉnh cầu nhà sư người Nam Á là Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi dịch Bạch Tán Thần Chú kinh – một văn bản Phật giáo Mật tông. Sử cũ cũng ghi nhận sự hiện diện của một nhà sư Mật Tông người Ấn tên Du Chi Bà Lam "tự nói là 300 tuổi, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước, lại có thể thu cả ngũ tạng lên ngực, làm cho trong bụng lép kẹp, chỉ còn da bụng và xương sống thôi". Con gái sư là Đa La Thanh đã trở thần phi tần của Anh Tông.
Quan hệ với Nguyên Mông
Trần Anh Tông lên ngôi trong bối cảnh quan hệ Đại Việt – Nguyên Mông đang căng thẳng. Mặc dù nhà Trần đã đánh bại 3 cuộc xâm lược của Mông Nguyên vào các năm 1258, 1285 và 1287, người Nguyên vẫn chưa dứt bỏ tham vọng thôn tính Đại Việt. Năm 1293, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt sai Thượng thư Bộ binh Lương Tằng ép Anh Tông sang chầu. Anh Tông cáo bệnh không đi, đồng thời cử Đào Tử Kỳ đi triều cống. Hốt Tất Liệt sai giam Tử Kỳ tại Giang Lăng và chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Tuy nhiên, công việc chuẩn bị chưa hoàn tất thì Hốt Tất Liệt chết; tháng 1 âm lịch năm 1294, tân hoàng đế Nguyên Thành Tông ra lệnh bãi binh và trả Tử Kỳ về nước. Quan hệ Nguyên – Việt trở lại bình thường.
Tháng 2 âm lịch năm 1295, nhà Nguyên cử Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai đi sứ sang Đại Việt. Sứ bộ này đã được Thượng hoàng Trần Nhân Tông và vua Trần Anh Tông đón tiếp tử tế. Sau khi hai sứ Nguyên về nước, Anh Tông sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng cùng Phạm Thảo sang Nguyên để xin thỉnh ấn bản mới nhất của Đại tạng kinh Phật giáo. Triều đình nhà Nguyên chấp thuận. Kế tục chính sách của các vua trước, Trần Anh Tông cống nạp đều đặn cho nhà Nguyên vào các năm 1308, 1311 và 1312. Toàn thư có chép lại chuyến đi sứ của Mạc Đĩnh Chi năm 1308 và những diễn biến tích cực của hoạt động ngoại giao này. Bên cạnh thái độ mềm dẻo đó, Trần Anh Tông cũng kiên quyết không để người Nguyên xâm phạm Đại Việt. Trước khi Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn mất năm 1300, Anh Tông đã học hỏi vị tướng lão thành này về kinh nghiệm chống xâm lược từ phương Bắc. Dựa trên dữ liệu từ Nguyên sử loại biên (Trung Quốc), sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục có mô tả một cuộc tranh chấp giữa hai nước vào năm 1313:
"Lúc ấy, viên Tri châu Trấn An nhà Nguyên là Triệu Giác bắt người châu Tư Lang nước ta, lấy mất một lọ vàng, và lấn hơn một nghìn khoảng ruộng. Nhà vua bèn sai quân sang đánh châu Quy Thuận và châu Dưỡng Lợi nhà Nguyên, nói rõ là cốt sang đánh để báo thù. Nhà Nguyên sai viên thiên hộ Lưu Nguyên Hanh sang dò xét... rồi đưa công điệp sang ta nói: "Trước kia, nhà Hán đặt ra chín quận, danh giáo hóa của Trung Quốc đã tràn lan tới. Huống chi, An Nam đối với Trung Quốc, nào là dâng địa đồ, nào là nộp lệ cống, danh phận trên dưới đã phân minh, Trung Quốc đối với An Nam, thì ban cho một cách đầy đặn không kể đến việc đáp lại đơn sơ, cái ơn huệ yên ủy người phương xa thật là hết sức. Như thế thánh triều có phụ bạc gì quý quốc đâu! Thế mà bây giờ sao lại tự nhiên gây ra sự không yên lành, dùng sức ngông cuồng để mở rộng bờ cõi…""
Cương mục cũng thuật lại sự hồi đáp của Anh Tông, làm nhà Nguyên phải xuống nước:
"Nhà vua trả lời: "Đấy là những người nhỏ mọn ở ngoài biên giới tự làm việc không yên lành, nước tôi biết thế nào được việc ấy". Nhân thế, Nguyên Hanh dâng thư lên nói với vua Nguyên: "Trước kia An Nam đã từng xâm phạm vào đất Vĩnh Bình, nay lại quen thói cũ; nghĩ nên sai quan đến tuyên truyền dụ bảo, định lại bờ cõi và nghiêm sức quan lại ở biên giới không được xâm phạm lẫn nhau như thế mới giữ được sự yên ổn lâu dài ở ngoài biên giới". Vua Nguyên y theo lời tâu, sai người đem sắc thư đến dụ bảo. Do đấy nhà vua mới cho bãi binh."
Chiến tranh với Ai Lao
Sau năm 1294, tình hình biên giới phía Bắc tương đối ổn định; nhưng ở phía Tây Nam, hai vua Nhân Tông và Anh Tông phải đối mặt với các cuộc xâm lấn của Ai Lao. Tháng 8 âm lịch năm 1294, Thượng hoàng Trần Nhân Tông thân chinh đi dẹp. Mở màn trận đánh, đội quân tiên phong của Đại Việt đã bị quân Ai Lao vây đánh khốn đốn. Tướng Phạm Ngũ Lão đã thúc quân phá vây, sau đó đánh tan quân Ai Lao và "bắt được người và súc vật nhiều không kể xiết" (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư). Vua Anh Tông đã thưởng binh phù bằng vàng (kinh phù) cho Phạm Ngũ Lão.
Năm 1298, quân Ai Lao tràn tới chiếm sông Chàng Lang. Quân Đại Việt do Phạm Ngũ Lão chỉ huy đã phản công và lấy lại lãnh thổ. Sau trận đánh đó, Trần Anh Tông tặng binh phù hình đám mây (vân phù) cho Phạm Ngũ Lão. Tháng 10 âm lịch năm 1298, quân Ai Lao lại sang quấy phá, Anh Tông điều quân đi đối phó. Hàng tướng nhà Nguyên là Trương Hiển đã tử trận; Anh Tông sai lập bài vị thờ Trương Hiển trong Thái miếu. Đến tháng 3 âm lịch năm 1301, người Ai Lao tấn công Đà Giang. Vâng lệnh Anh Tông, Phạm Ngũ Lão đem quân tới Mường Mai (nay thuộc huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) và phá tan quân Ai Lao. Do chiến công này, Phạm Ngũ Lão được nhà vua phong chức Thân vệ Đại tướng quân. Sau trận Mường Mai, sử cũ không còn ghi lại một cuộc xâm lấn nào của Ai Lao trong thời Anh Tông nữa.
Mở rộng lãnh thổ
Khoảng tháng 3 âm lịch năm 1301, Điều ngự Trần Nhân Tông sang viếng thăm Chiêm Thành, được vua Chiêm là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu và ở lại Chiêm Thành gần 9 tháng. Trong chuyến đi này, Điều ngự đã hứa gả con gái là Huyền Trân (em Trần Anh Tông) cho Chế Mân. Sau đó Chế Mân đã nhiều lần sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng các đại thần nhà Trần đều phản đối, chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội Hành khiển Trần Khắc Chung chấp nhận. Tháng 6 âm lịch năm 1306, Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành và được phong làm hoàng hậu. Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) cho Đại Việt làm hồi môn. Trần Anh Tông đã đổi tên châu Ô thành châu Thuận và châu Lý thành châu Hóa. Dân Chiêm ở hai châu này không chịu phục tùng, nên Anh Tông sai Đoàn Nhữ Hài đến thu phục nhân tâm. Thông qua các biện pháp như bổ nhiệm quan tước, phân phát ruộng đất và xá thuế nhiều năm cho người bản địa, Nhữ Hài đã duy trì được ổn định tại vùng đất địa đầu phía Nam.
Một năm sau hôn lễ của Huyền Trân, Chế Mân qua đời vào tháng 5 âm lịch năm 1307. Thế tử Chiêm sai sứ sang Đại Việt báo tang. Theo phong tục nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Trần Anh Tông biết tin, sai Hành khiển Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền và rước bà về Đại Việt bằng đường biển. Sau khi Chế Mân chết, em là Chế Chí lên ngôi vua Chiêm Thành. Theo sách Việt Nam sử lược, Chế Chí "hay phản trắc, không giữ những điều giao ước trước" với Đại Việt. Tháng 12 âm lịch năm 1311, Trần Anh Tông quyết định tấn công Chiêm Thành. Dưới sự chỉ huy của nhà vua cùng Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn và Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, quân đội Đại Việt đã chia làm 3 cánh thủy, bộ tiến vào phương Nam, buộc vua Chiêm là Chế Chí đầu hàng. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư đã thuật lại một số chi tiết về cuộc chinh phạt Chiêm Thành thời Trần Anh Tông:
"Mùa hạ, tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về; phong em hắn là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu trấn giữ đất ấy.
Trước đó, Chế Chí sai người sang cống. Người ấy là trại chủ Câu Chiêm. Vua sai Đoàn Nhữ Hài bí mật ước hẹn với hắn. Đến khi vua đích thân đi đánh, đến phủ Lâm Bình, chia quân làm ba đường: Huệ Vũ vương Quốc Chẩn theo đường núi, Nhân Huệ vương Khánh Dư theo đường biển, vua tự dẫn sáu quân theo đường bộ; thủy bộ cùng tiến. Lấy Đoàn Nhữ Hài làm Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước.
Vua đến Câu Chiêm dừng lại. Nhữ Hài sai người tới chỗ trại chủ, nói rõ ý yêu cầu quốc chủ ra hàng. Trại chủ báo cáo với Chế Chí. Chế Chí nghe theo, đem gia thuộc đi đường biển tới hàng. Nhân Huệ vương đem quân đuổi theo. Nhữ Hài lập tức chạy thư tâu rằng:
"Khánh Dư định cướp công vua".
Vua giận lắm, sai bắt giám quân của Khánh Dư là Nguyễn Ngỗi đem chặt chân. Nhân Huệ sợ, đến ngự doanh tạ tội và nói rằng:
"Thần sợ nó đến giữa biển lại đổi bụng khác, nên mới chặn đằng sau thôi".
Vua nguôi giận, sai chia quân đi tuần các bộ lạc. Người Chiêm tụ tập định đánh vào ngự doanh. Tiếng voi đã gần, quân sĩ có vẻ lo sợ. Được vài hôm, quân của Huệ Vũ vương tự tìm đường mà tới, người Chiêm chạy tan. Trận này không mất một mũi tên mà Chiêm Thành bị dẹp, đó là công sức của Nhữ Hài."
Anh Tông lập em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm vua chư hầu đất Chiêm. Tháng 6 âm lịch năm 1312, vua Trần chiến thắng trở về kinh sư. Anh Tông không làm lễ phong thưởng công thần vì ông quan niệm "công lao của các quan ở lại giữ nước và các tướng theo ta đi đánh trận là ngang nhau". Chế Chí được phong tước Hiệu Thuận vương, không lâu sau thì chết ở hành cung Gia Lâm (Thăng Long) và được hỏa táng.
Theo sách An Nam chí lược của Lê Tắc bên nhà Nguyên, mùa đông năm 1311, nhà Nguyên sai Thượng thư Bộ Lễ Nãi Mã Thái đi sứ sang Đại Việt, để báo việc đăng quang của Nguyên Nhân Tông, nhưng Trần Anh Tông bận đánh Chiêm nên không thể đón tiếp. Giữa năm 1312, Anh Tông về đến kinh đô, liền sai sứ sang chúc mừng Nguyên Nhân Tông và tạ lỗi về việc không tiếp sứ Nguyên. Năm 1313, quân Xiêm La sang xâm lấn Chiêm Thành. Trần Anh Tông chỉ định Đỗ Thiên Hư làm Kinh lược sứ Nghệ An và Lâm Bình giúp người Chiêm chiến đấu giữ đất.
Truyền ngôi và qua đời
Tháng 1 âm lịch năm 1305, Trần Anh Tông lập con thứ 4 là Trần Mạnh làm thái tử. Ngày 18 tháng 3 âm lịch năm Giáp Dần (nhằm ngày 3 tháng 4) năm 1314, ông nhường ngôi cho Trần Mạnh, tức Hoàng đế Trần Minh Tông. Anh Tông lui về Thiên Trường (Nam Định) làm Thái thượng hoàng, được tặng tôn hiệu là "Quang Nghiêu Duệ Vũ Thái Thượng Hoàng Đế" (光尧睿武太上皇帝). Trên danh nghĩa Thượng hoàng, Trần Anh Tông vẫn tham gia công việc triều chính. Ông đã khuyên bảo Minh Tông phải tin dùng những người tài đức như Bùi Mộc Đạc hay Huệ Vũ Đại vương Quốc Chẩn, và phải hiểu biết kinh nghiệm từ các thời vua trước. Đại Việt tiếp tục thịnh trị dưới sự cai quản của hai vua Anh Tông, Minh Tông cùng các đại thần tài năng.
Cuối năm 1318, Thượng hoàng Trần Anh Tông đau nặng. Theo Toàn thư Bảo Từ Hoàng hậu đã cho gọi sư Pháp Loa (Phổ Tuệ) về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi mà bảo rằng: "Sư hãy đến đây, ta chết rồi, Quan gia có sai bảo gì, thì cứ việc làm. Còn như chuyện sau khi chết, thì sư cũng chưa chết, biết đâu mà trình bày việc chết với ta?" Tuy nhiên, căn cứ trên sự thân hữu của Anh Tông đối với Pháp Loa, tác giả Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận đã nghi vấn câu chuyện này như sau:
"Lời nói hắt hủi Pháp Loa gán cho Anh Tông có lẽ được một sử thần Nho gia ghét đạo Phật thêm vào. Có thể vì Anh Tông mệt quá không thể nói chuyện được với Pháp Loa, muốn được nghỉ yên đôi chút trước khi nhắm mắt nên đã lắc đầu không muốn Pháp Loa vào, thế thôi. Trong trạng thái đó, bảo người ra nhắn một câu nói vô lễ, đó không phải là phong độ của một người như Anh Tông."
Ngày 16 tháng 3 âm lịch năm Canh Thân (nhằm ngày 21 tháng 4 năm 1320) Trần Anh Tông qua đời ở cung Trùng Quang (thuộc phủ Thiên Trường), hưởng dương 45 tuổi. Ngày 12 tháng 12 âm lịch năm 1320 (tức 10 tháng 1 dương lịch năm 1321) ông được chôn cất vào Thái lăng tại Yên Sinh (nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh). Triều đình truy tôn ông miếu hiệu là Anh Tông (英宗), thụy hiệu là "Ứng Thiên Quảng Vận Hiển Văn Duệ Vũ Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng đế" (應天廣運顯文睿武欽明仁孝皇帝).
Tác phẩm
Tác phẩm của Trần Anh Tông có Thủy vân tùy bút ("Tùy bút nước mây") gồm 2 quyển, trong đó ông vẽ nhiều bức họa và dưới mỗi bức hoạ đều có thơ đề. Tuy nhiên, Anh Tông đã sai đốt tập thơ này trước khi ông mất. Nay thơ ông chỉ còn lại 12 bài chép trong Việt âm thi tập. Có bài làm trên đường đi chinh chiến, có bài vịnh sử, có bài bàn về đạo Thiền. Đáng chú ý là những bài tả cảnh như các bài "Vân tiêu am", "Đông Sơn tự". Tập thơ này được Phan Huy Chú khen là "bài nào cũng là thanh tân và có lực lượng" ("Văn tịch chí"). Ngoài ra ông còn có bài "Thạch dược châm" (Bài châm về những lời can ngăn trung trực), sáng tác để răn dạy cho Thái tử Trần Mạnh.
Theo nhận xét trong cuốn Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn, thơ của Trần Anh Tông "giản dị, trong sáng, giàu tình cảm và trau chuốt. Niềm hào hứng của người chiến thắng, mang lại yên vui cho dân cũng như niềm tự tin, sự tỉnh táo của một nhà lãnh đạo tối cao phản ánh trong thơ ông. Đặc biệt, Anh Tông đã mở đầu cho dòng thơ vịnh sử của nước nhà. Trong số thơ này, thái độ khen chê những nhân vật lịch sử thể hiện sự tiếp thu có phê phán với quá khứ, đồng thời bày tỏ những quan điểm trị nước và cũng là nhân sinh quan của tác giả..."
Sách Thơ văn Lý-Trần cũng chép lại một số thi phẩm của Trần Anh Tông như sau:
Nhận định
Các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư đã ca ngợi Trần Anh Tông là vị vua "sáng suốt, thận trọng về hình phạt" và " tính tình khiêm tốn hòa nhã, hòa mục với người trong họ, mọi việc của triều đình đều tự mình quyết đoán." Tuy nhiên, với nhãn quan Nho giáo, Toàn thư vẫn phê phán ông là quá mộ đạo Phật, rằng "vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao?" Trong bộ Việt giám thông khảo tổng luận (biên soạn vào thời Hậu Lê), sử gia Lê Tung cũng bàn rằng: "Anh Tông định cấp bậc triều ban của văn võ, đặt quy thức khoa cử của sĩ nhân; khi đại hạn thì soát ngục tha tù, năm đói to thì cho vay phát chẩn; trị đạo lấy nuôi dân làm kíp, chính sự lấy phong hiến làm đầu; văn vật chế độ một phen đổi mới, cũng đủ làm bậc vua giỏi của nhà Trần. Song theo bọn sa môn ở núi Yên Tử, làm nhọc sức dân xây gác Anh Vân, không phải là độ lượng của đế vương." Dưới góc nhìn của Phật giáo, tác giả Nguyễn Lang – Thiền sư Thích Nhất Hạnh có nhận xét trong cuốn Việt Nam Phật giáo Sử luận, tập 1, chương XII rằng: "Nhân Tông và Anh Tông là những nhà chính trị giỏi, nhưng đồng thời cũng là những Phật tử thật sự. Nhà phê bình lịch sử có thể nói họ lợi dụng đạo Phật cho chính trị nhưng nhà phê bình văn hóa cũng có thể nói họ là những người Phật tử sùng đạo."
Gia quyến
Cha: Trần Nhân Tông Trần Khâm.
Mẹ: Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu họ Trần (欽慈保聖皇后; ? - 1293), con gái Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Hậu phi
Văn Đức Phu nhân họ Trần (文德夫人), nguyên phối, cháu nội Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, con gái trưởng của Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng. Lập làm Thái tử phi năm 1292. Khi Anh Tông kế vị lại lập làm Văn Đức Phu nhân rồi lại phế đi. Không rõ kết cục.
Bảo Từ Hoàng hậu Trần Thị Phùng (陳氏豐) (保慈皇后; ? - 1330), con gái Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng, em gái Văn Đức Phu nhân. Anh Tông kế vị phong làm Thánh Tư Phu nhân (聖婆夫人) rồi Thuận Thánh Hoàng hậu (順聖皇后). Minh Tông kế vị tấn tôn làm Thuận Thánh Thái thượng hoàng hậu (順聖皇太后).
Chiêu Từ Hoàng hậu họ Trần (昭慈皇后; ? - 1359), lúc còn nhỏ có danh hiệu Chiêu Hiến Quận chúa (昭賢郡主), nguyên là Huy Tư Hoàng phi (徽思皇妃) của Anh Tông, con gái duy nhất của Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng và Thụy Bảo Công chúa (con gái vua Trần Thái Tông), mẹ sinh Trần Minh Tông. Khi Minh Tông kế vị, bà được tôn làm Huy Tư Thái thượng hoàng phi (徽思太皇妃). Thụy hiệu của bà là Chiêu Từ Hoàng thái hậu (昭慈皇太后).
Đệ nhị cung phi Nguyễn Thị La, sinh ngày mồng 7 tháng 3 năm Bính Dần 1266, quê quán ở ấp Dưỡng Phúc nay là thôn Dưỡng Phú, xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay ở quê quán còn miếu thờ và khu lăng mộ của bà.
Đệ Tam phi Nguyễn Nguyệt Ảnh, sinh năm 1280, mất ngày 14 tháng 4 năm Mậu Tuất, Quê tại Trang Quang Lang nay là thôn Trang Lang Đông xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình trong một gia đình làm nghề muối. Từ nhỏ bà là người có tài mạo khác thường, học rộng, biết nhiều, nhan sắc hơn người,
Tĩnh Huệ Thứ phi họ Phạm (静惠妃), con gái Phạm Ngũ Lão, không con, xuất gia năm 1309.
Giao Châu Thứ phi, có tư tình với Đoàn Nhữ Hài, triều đình luận án chém cả, nhưng được Huệ Túc Phu nhân (phi tần của Trần Thái Tông) xin tha tội.
Cung phi Đa La Thanh (德妃), con gái sư người Hồ là Du Chi Bà Lam.
Cung tần Trần Thái Bình (賢妃陳太平) mẹ sinh của Huy Chân Huy Chân, tính tình tham lam, từng chiếm ruộng đất của dân.
Nữ quan họ Vương (女官王氏) mẹ sinh của Huệ Chân công chúa, được yêu quý mà có thai, Bảo Từ Hoàng hậu cho Song Hương đường (phòng ngủ của mình) làm nơi đẻ. Tiếc rằng Vương thị bị bệnh hậu sản mà qua đời. Có Cung nhân tâu riêng với Anh Tông Vương thị là do Hoàng hậu hại chết, Anh Tông vốn biết tính Hoàng hậu, nổi giận lấy roi đánh người Cung nhân ấy, Hoàng hậu cũng bỏ qua không để lòng.
Nữ quan Nguyễn Thị Diên. Anh Tông có ý xuất gia nên sai cung nhân ăn chay. Các cung nhân đều ngần ngại, duy có nữ quan Nguyễn Thị Diên chặt ngón tay đem dâng. Thượng hoàng ngợi khen, ban cho 40 mẫu ruộng làm lương ăn tu hành ngày sau. Rồi Thị Diên quả nhiên đi tu cho đến lúc mất, Phật hiệu là Tịnh Quang.
Hậu Duệ |
Trần Minh Tông (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là Trần Mạnh (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông giữ ngôi từ ngày 3 tháng 4 năm 1314 đến ngày 15 tháng 3 năm 1329, sau đó làm Thái thượng hoàng đến khi qua đời. Thời kỳ của ông và cha ông được mệnh danh là thời kỳ hưng thịnh của vương triều nhà Trần, được sử gia xưng tụng là Anh Minh Thịnh Thế.
Trần Mạnh là con thứ tư của Trần Anh Tông, được vua cha lập làm thái tử năm 1305. Năm 1314, Anh Tông nhường ngôi lên làm Thượng hoàng, Trần Mạnh đăng cơ ở tuổi 14, tức Hoàng đế Minh Tông. Ông được sử cũ khen ngợi là một hoàng đế anh minh, trọng dụng các quan viên có năng lực như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, Phạm Sư Mạnh,..., dùng luật nghiêm minh và duy trì sự hưng thịnh kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, cuối thời ông trị vì, mâu thuẫn trở nên gay gắt giữa các phe đối lập trong triều đưa đến những vụ thanh toán tàn khốc mà nhà vua tỏ ra bất lực. Về đối ngoại, Minh Tông giữ được quan hệ ổn định với Nguyên-Mông; ở phương Nam, ông buộc Chiêm Thành phải thần phục dù đến năm 1326, người Chiêm thoát lệ thuộc vào Đại Việt.
Năm 1329, Trần Minh Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Vượng (tức Trần Hiến Tông), được tôn làm Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng Hoàng Đế (章堯文哲太上皇帝). Đến năm 1341, Hiến Tông mất; Thượng hoàng lập con áp út là Trần Hạo (Trần Dụ Tông) lên ngôi. Trong 12 năm tại vị của Hiến Tông và 16 năm đầu thời Dụ Tông, Thượng hoàng Minh Tông vẫn quyết định mọi việc triều chính. Tình hình Đại Việt vẫn tương đối ổn định, mặc dù khu vực phía Tây thường bị Ai Lao và Ngưu Hống xâm lấn. Thượng hoàng phải mất nhiều công sức mới dẹp yên được. Sau khi Thượng hoàng mất, Dụ Tông bỏ bê chính sự, ăn chơi sa đọa và thực lực Đại Việt xuống dốc.
Cũng như các đời vua trước, Trần Minh Tông ưa chuộng Phật giáo, nhưng cũng trọng dụng Nho thần, và hay sáng tác thơ, văn. Tuy nhiên, trong lúc lâm chung, ông đã sai đốt hầu hết các tập thơ của mình, và ngày nay chỉ còn 25 bài thơ chép rải rác trong Toàn Việt thi lục, Trần triều thế phả hành trạng, Việt âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thư và Nam Ông mộng lục. Ngoài ra, ông cũng viết bài tựa cho tập Đại hương hải ấn thi của Trần Nhân Tông.
Thân thế
Theo sách Đại Việt Sử ký Toàn thư do sử quan Ngô Sĩ Liên soạn năm 1479 đời Lê Thánh Tông, Trần Minh Tông có tên húy Trần Mạnh (陳奣), tên ngoại giao là Trần Nhật Khoáng (陳日爌), sinh ngày 21 tháng 8 âm lịch năm Canh Tý (tức 4 tháng 10 năm 1300), một ngày sau khi Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời. Ông là con thứ 4 và cũng là người con trai duy nhất sống đến khi trưởng thành của Trần Anh Tông. Mẹ ông là Huy Tư Hoàng phi (徽思皇妃) họ Trần, Thứ phi của Anh Tông; bà mất năm 1359 (2 năm sau khi Minh Tông mất). Cha bà là Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng, người có huyết thống của Lê Đại Hành, nên Trần Mạnh mang trong mình một phần dòng máu nhà Tiền Lê.
Do các hoàng tử sinh ra trước đó đều khó nuôi, sau khi Trần Mạnh chào đời, Anh Tông đã nhờ mẹ vợ là Thụy Bảo Công chúa (瑞寶公主), con gái Trần Thái Tông nuôi hộ. Thụy Bảo cho rằng mình đang gặp vận rủi nên đã trao Trần Mạnh cho anh trai là Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật nuôi. Theo sử cũ, Trần Nhật Duật đã chăm nuôi Hoàng tử Mạnh rất chu đáo. Nhật Duật còn đặt tên cho hoàng tử là Thánh Sinh (聖生) để giống với con trai mình là Thánh An (聖安) và con gái là Thánh Nô (聖奴). Sau này, khi Minh Tông làm vua, ông đã phong Trần Nhật Duật làm Tá thánh Thái sư đứng đầu triều đình (1324), gia phong Đại vương (1329).
Trần Mạnh cũng nhận được sự giáo dục nghiêm khắc từ vua cha; sách Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi lại lời kể của sử quan đời Lê Phan Phu Tiên: "[Minh Tông] đang tuổi ấu thơ, có lần nghịch làm chiếc giá đèn bằng tre, Anh Tông đòi xem, sợ không dám dâng. Hôm khác, vào hầu tẩm điện Anh Tông đang rửa mặt, nhân hỏi đến trò nghịch cũ, Anh Tông giận lắm, cầm ngay cái chậu rửa mặt ném vua. Vua nấp vào cánh cửa tránh được, chậu rơi trúng cánh cửa vỡ tan". Từ sự việc này, Ngô Sĩ Liên nhận định:
"Cái đức của Minh Tông mà nên được, tuy là do thiên tư tốt đẹp, còn là do sức dạy bảo của vua cha".
Tháng 1 âm lịch năm 1305, Trần Mạnh được vua cha tấn phong làm Đông cung Thái tử. Anh Tông còn tặng cho thái tử một bài giáo huấn mang tên Dược thạch châm, do nhà vua tự soạn. Sử chép năm 1305 Trần Mạnh là Đông cung Thái tử, nhưng đến tháng 1 âm lịch năm 1309 lại chép Đông cung Thái tử Mạnh được sách phong làm Hoàng thái tử. Trong lịch sử nhà Trần, Trần Mạnh là thái tử kế vị đầu tiên không phải do vợ chính của vua cha sinh ra, trong khi các vua Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông đều là con của chính thất hoàng hậu.
Tháng 11 âm lịch năm 1311 – tháng 5 âm lịch năm 1312, Trần Anh Tông đem đại quân chinh phạt Chiêm Thành. Thái tử Mạnh cùng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và Nghi Võ hầu Quốc Tú (tướng chỉ huy quân tả hữu Thánh Dực) nhận nhiệm vụ giám quốc. Đánh trận về, vua Anh Tông không ban thưởng các tướng thắng trận vì cho là công của thái tử và những người giám quốc cũng rất lớn, không thua các tướng trận.
Anh Minh Thịnh Thế thời Minh Tông
Ngày 18 tháng 3 âm lịch năm Giáp Dần (tức ngày 3 tháng 4 năm 1314), Trần Anh Tông nhường ngôi cho Thái tử Mạnh. Thái tử 14 tuổi lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Ninh Hoàng (寧皇), tôn Anh Tông làm Quang Nghiêu Duệ Vũ Thái thượng hoàng đế và tôn Thuận Thánh Hoàng hậu (chính cung của Anh Tông) làm Thuận Thánh Bảo Từ Thái thượng hoàng hậu. Các quan dâng Hoàng đế tôn hiệu là Thể Thiên Sùng Hóa Khâm Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế (體天崇化欽明睿孝皇帝). Sử sách gọi ông là Trần Minh Tông (陳明宗). Sứ thần nhà Nguyên đến dự lễ đăng quang của Minh Tông, đã khen ông có hình dáng nhẹ nhàng như thần tiên.
Trong thời trị vì của mình, Trần Minh Tông đã dùng các niên hiệu Đại Khánh (大慶 3 tháng 4 năm 1314 – 27 tháng 1 năm 1324) và Khai Thái (開泰 27 tháng 1 năm 1324 – 15 tháng 2 năm 1329).
Chính sách trị nước
Tháng 5 âm lịch năm 1315, Trần Minh Tông ra lệnh cấm cha con, vợ chồng và gia nhân kiện tụng nhau. Theo Ngô Sĩ Liên, quyết định này xuất phát từ sự trân trọng của ông đối với tổ tiên, cha mẹ và bà con: " Vua vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với bậc bề trên mà hiển quý lại càng tôn kính. Kẻ thần hạ hễ ai cùng tên (với họ hàng nhà vua) đều phải đổi cả, như Độ đổi thành Sư Mạnh vì là cùng tên với Thượng phụ, Tung đổi thành Thúc Cao vì là cùng tên với Hưng Ninh vương... Lại các tên của chú bác, cô cậu, khi nói đến vẫn kiêng cả. [Vua] có quyển sổ nhỏ biên những chữ húy không được nói đến, trao cho các hoàng tử và cung phi".
Trong 6 năm đầu triều Minh Tông, Thượng hoàng Anh Tông vẫn có ảnh hưởng lớn đến các quyết sách nhà nước. Mùa xuân năm 1320, thượng hoàng mất ở tuổi 44. Linh cữu thượng hoàng được rước từ phủ Thiên Trường (Nam Định) về cung Thánh Từ (Thăng Long) theo đường thủy. Theo phép tắc nhà Trần, Bảo Từ Thái hậu là chính cung của Anh Tông, nên được đi thuyền có 8 dây kéo; trái lại, mẹ Minh Tông là Huy Tư Hoàng phi chỉ được đi thuyền có 2 dây. Để lấy lòng Minh Tông, viên chỉ huy quân cấm vệ đã buộc thêm dây vào thuyền Huy Tư. Tướng Trần Hựu ngăn lại và rút gươm chém đứt dây kéo. Minh Tông không những không phạt mà còn khen Trần Hựu là người trung nghĩa.
Về giáo dục-khoa cử, hoàng đế đã hai lần tổ chức thi Thái học sinh (lần đầu vào tháng 10 âm lịch năm 1314; lần tiếp theo là tháng 8 âm lịch năm 1323) để tìm người tài giúp nước. Những thí sinh đỗ đạt được giữ chức Bạ thư lệnh. Hoàng đế sai Cục chính viên Nguyễn Bính tập huấn cho các Bạ thư lệnh, sau đó mới bổ nhiệm họ vào những chức vụ cao cấp. Ngoài ra, vào tháng 10 âm lịch năm 1321, Minh Tông tổ chức kỳ thi tuyển tu sĩ Phật giáo, lấy kinh Kim Cương làm nội dung thi.
Trần Minh Tông cũng chú trọng việc thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Mùa hạ năm 1315, nước sông Hồng dâng cao, hoàng đế đến tận nơi xem sửa chữa đê. Quan ngự sử đã khuyên ông chỉ nên ở cung mà "tu dưỡng đức hạnh" nhưng hoàng đế không nghe. Minh Tông còn tích cực ngăn chặn người quyền thế chiếm ruộng của dân. Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi lại: Trần Thị Thái Bình là một cung nữ của Anh Tông, đã nhiều lần xâm chiếm đất ruộng của nông dân. Năm 1317, một trong những người mất ruộng đã đệ đơn kiện lên Minh Tông. Để tránh gây mất mặt cho Thái Bình (và cho thượng hoàng), nhà vua không sai cơ quan tư pháp xét xử; thay vì đó, ông xuống chiếu cho con rể Thái Bình là Uy Giản hầu trả ruộng đất cho người kiện. Uy Giản đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh. Sau khi Trần Thị Thái Bình mất, Minh Tông và Uy Giản phục hồi toàn bộ số ruộng bị cưỡng chiếm cho các chủ cũ. Cũng theo Toàn thư, Minh Tông đã ban bố các chính sách như "những người tranh nhau ruộng đất, nếu khám xét thấy không phải của mình mà cố tranh bậy thì bị truy tố, tính giá tiền ruộng đất, bắt đền gấp đôi. Nếu làm văn khế giả, thì bị chặt một đốt ngón tay bên trái" (tháng 10 âm lịch năm 1320) và "khi tranh ruộng mà ruộng có lúa, thì hãy chia làm 2 phần, bồi thường cho người cày 1 phần, còn 1 phần lưu lại" (1323).
Nhà Trần ở thời đầu trao rất nhiều quyền lực chính trị, xã hội cho các tôn thất hoàng gia. Các tôn thất như Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư,... đóng vai trò rất lớn trong việc lãnh đạo quân dân đánh bại quân Nguyên xâm lược các năm 1285, 1287-88. Tuy nhiên, sang thời Anh Tông và đỉnh điểm là Minh Tông, thế hệ tôn thất-công thần này suy giảm do già (Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư,...) và chết (Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn,...), thế hệ sau họ không có nhiều hứng thú đến việc chính sự. Do vậy, Hoàng đế Minh Tông lệ thuộc nhiều hơn đến các văn sĩ Nho học xuất thân bình dân, có học thức và đỗ đạt các kỳ thi quốc gia. Ông cất nhắc hàng loạt văn thần có tài như Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Bùi Mộc Đạc, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Chu Văn An, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu,… vào những chức vụ lớn. Thời kỳ trị vì của Minh Tông được sử gia Ngô Thì Sĩ đánh giá là "lúc nhân tài [Nho học] thịnh nhất hơn triều các vua khác". Bản thân Minh Tông là một cư sĩ Phật giáo mộ đạo, nhưng ông sử dụng các nho sĩ vì năng lực và lòng trung thành của họ.
Tuy vậy, Minh Tông không để những người này vượt qua khuôn phép nhà nước: Trương Hán Siêu khi làm Hành khiển từng bị phạt 300 quan tiền vì ỷ được vua tin yêu, vu cáo hình quan Phạm Ngộ, Lê Duy ăn đút lót; Đoàn Nhữ Hài từng bị phạt vì không ngăn Thiếu bảo Trần Khắc Chung đùa giỡn khi sét đánh lăng tẩm tiên đế. Ông cũng từng bác bỏ đề xuất của một số Nho thần nhằm thay đổi chế độ chính trị-xã hội cho giống với Trung Quốc.
Đối với người tôn thất không có tài như Bảo Vũ vương, nhà vua rất yêu mến, nhưng không vì vậy mà cho làm chức lớn.
Năm 1323, Trần Minh Tông quy định quân đội phải tuyển người béo trắng; từ đây, binh lính Đại Việt không còn xăm hình rồng ở đùi và lưng nữa.
Chiến tranh với Chiêm Thành
Đầu triều Trần Minh Tông, bang giao giữa Đại Việt và Nguyên-Mông khá ổn định; song ở phía Nam, quan hệ với Chiêm Thành diễn ra căng thẳng. Trong chiến dịch tấn công Chiêm năm 1312, Trần Anh Tông đã bắt sống vua Chiêm Chế Chí, rồi lập em Chế Chí là Chế Năng làm vua chư hầu nhà Trần. Năm 1314, nhân lúc Minh Tông lên ngôi, Chế Năng lập mưu chiếm lại hai châu Thuận, Hóa (mà người Chiêm gọi là Ô, Lý) và thoát sự lệ thuộc vào Đại Việt. Quân Chiêm Thành thường kéo sang quấy phá biên giới.
Năm 1318, Trần Minh Tông sai Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn mở chiến dịch tấn công Chiêm Thành. Quân Đại Việt ban đầu bị thất lợi; tôn thất nhà Lý là Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến thiệt mạng. Nhưng sau đó, đạo quân Thiên Thuộc do Phạm Ngũ Lão chỉ huy đã đột kích vào lưng địch, đánh tan tác quân Chiêm và buộc Chế Năng phải trốn sang đảo Java (Indonesia). Trần Quốc Chẩn xin Minh Tông lập tù trưởng Chế A Nan làm vua chư hầu ở Chiêm, rồi đem quân trở về. Sau chiến thắng, Minh Tông ban tước Quan nội hầu và tặng binh phù hình rùa (phi ngư phù) cho Phạm Ngũ Lão, rồi phong con Phạm Ngũ Lão làm quan.
Sau khi quân nhà Trần rút lui, Chế A Nan tăng cường cống nạp cho nhà Nguyên, đồng thời thuyết phục vua Nguyên hỗ trợ Chiêm giành tự chủ khỏi Đại Việt. Năm 1324, Nguyên Anh Tông sai sứ sang dụ Minh Tông phải tôn trọng chủ quyền của Chiêm Thành. Lo sợ mất chư hầu về tay nhà Nguyên, Minh Tông sai Huệ Túc vương Trần Đại Niên tấn công Chiêm lần hai năm 1326. Quân của Chế A Nan đã đánh bại được quân Trần Đại Niên. Mặc dù nhà Trần không chính thức thừa nhận, thắng lợi này đã giúp Chiêm Thành giành quyền tự trị, không còn bất cứ sự liên đới nào với Đại Việt. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Minh Tông đã quy trách nhiệm thất bại cho chính bản thân mình; ông nói:
"Tiên đế tắm mưa gội gió mới bắt được chúa nước nó. Quốc phụ là một trọng thần, phụng mệnh đi đánh, khiến chúa nước giặc là Chế Năng phải chạy sang nước khác… Nay Huệ Túc chỉ là một vương thôi, uy vọng không thể sánh với Quốc phụ, thế mà ta cứ ở yên trong cung, trao cho chuyên việc đánh dẹp, muốn bắt sống chúa nó thì làm nổi chăng?".
Vụ án Trần Quốc Chẩn
Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn (陳國瑱) là con trai thứ của Trần Nhân Tông, em của Anh Tông và là chú của Minh Tông. Không những thế, Quốc Chẩn có con gái là Huy Thánh Công chúa được lập làm hoàng hậu của Minh Tông, tức Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu. Tháng 4 âm lịch năm 1324, Minh Tông bổ nhiệm Trần Quốc Chẩn làm Quốc phụ Thượng tể, trên cả ngạch Tể tướng.
Năm 1328, Minh Tông đã làm vua được 15 năm, tuổi khá cao mà chưa lập được Thái tử. Mặc dù các thứ phi đã sinh được các hoàng tử Trần Vượng, Trần Nguyên Trác, Trần Phủ nhưng Hiến Từ Hoàng hậu vẫn chưa sinh được con trai. Triều đình bấy giờ chia làm hai phái: phe của Trần Quốc Chẩn muốn Minh Tông đợi bằng được đến khi hoàng hậu sinh con trai, rồi mới lập Thái tử. Đây là lệ trước giờ của nhà Trần, vốn không lập con của người khác họ lên ngôi, mà đều lập con của các hoàng hậu, hoàng phi có xuất thân trong hoàng gia, cốt là để tránh họa ngoại thích mà bản thân họ Trần đã dùng khi thay ngôi nhà Lý. Trái lại, phe của Cương Đông Văn Hiến hầu (con hoặc em của Tá thánh Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật) và Thiếu bảo Trần Khắc Chung ủng hộ lập con của Quý phi Lê thị là Vượng làm thái tử. Khắc Chung cùng quê Giáp Sơn (Kinh Môn) với quý phi họ Lê, và từng là thầy học của Hoàng tử Vượng.
Để hạ bệ Hiến Từ Hoàng hậu, Cương Đông Văn Hiến hầu đã đưa 100 lạng vàng cho gia nô của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, rồi xúi giục Phẫu tố giác với Minh Tông rằng Quốc Chẩn có ý mưu phản. Ngay lập tức, nhà vua truyền lệnh bắt giam Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc trong hoàng thành Thăng Long, rồi xin ý kiến Trần Khắc Chung về vấn đề này. Khắc Chung đã thuyết phục Minh Tông rằng "bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Nghe lời Khắc Chung, Minh Tông truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực. Tháng 3 âm lịch năm 1328, Trần Quốc Chẩn chết, hàng trăm người khác cũng bị bắt vì có liên quan với Quốc Chẩn. Từ đây, ngôi Thái tử thuộc về Trần Vượng. Sử quan triều Lê Ngô Sĩ Liên có nhận xét về việc này:
Một thời gian sau, hai người vợ Trần Phẫu ghen nhau, bèn tố giác việc Phẫu nhận vàng của Văn Hiến hầu lên Minh Tông. Hoàng đế sai bắt giam Phẫu. Ngay ngày hôm đó, ngục quan Lê Duy tiến hành xét xử, khép Phẫu vào tội lăng trì. Bản án chưa kịp thi hành thì gia nô của Thiệu Võ, con trai Trần Quốc Chẩn, đã giết Phẫu làm thịt. Minh Tông tha chết cho Văn Hiến hầu, nhưng xoá tên khỏi hoàng gia và giáng làm thứ dân.
Theo sử gia Hoa Kỳ K. W. Taylor trong sách A History of the Vietnamese (2013), Trần Minh Tông về cuối đời thường bị ám ảnh về việc không ngăn chặn cái chết của Trần Quốc Chẩn. Việc Trần Quốc Chẩn bị xử tử đã chấm dứt sự đoàn kết, tin tưởng lẫn nhau trong hoàng tộc Trần – vốn là sức mạnh của các triều vua trước. Taylor viết: "Trần Mạnh từ đây trở thành một vị vua cô độc. Sự khuyên bảo từ các tôn thất cao niên và sự phục vụ trung thành từ các tôn thất trẻ trở nên suy giảm, như chưa từng có đối với một ông vua Trần".
Thái thượng hoàng
Thời Trần Hiến Tông
Ngày 7 tháng 2 âm lịch năm Kỷ Tỵ (tức ngày 7 tháng 3g năm 1329), Trần Minh Tông xuống chiếu phong Trần Vượng (10 tuổi) làm Thái tử. Đến ngày 15 tháng 3 thì ông nhường ngôi cho Thái tử Vượng. Thái tử lên ngôi Hoàng đế, tức Trần Hiến Tông (陳憲宗), tự xưng là Triết Hoàng (哲皇), tôn vua cha làm Thái thượng hoàng với hiệu là Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng Hoàng Đế (章堯文哲太上皇帝). Thượng hoàng lui về phủ Thiên Trường. Theo sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, Hiến Tông có "tư trời tinh anh, sáng suốt", nhưng vì tuổi còn trẻ nên Thượng hoàng nắm quyền quyết định mọi việc trong nước.
Sau khi Hiến Tông vừa lên ngôi, vào mùa đông năm 1329, quân Ngưu Hống tấn công miền tây bắc. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngưu Hống đã thần phục Đại Việt từ thời Trần Nhân Tông, nay lại sang đánh chiếm vùng Đà Giang. Minh Tông đốc suất đại quân đánh "man Ngưu Hống", và sai Thiêm tri Nguyễn Trung Ngạn đi theo để biên soạn thực lục. Trước ngày xuất quân, Trần Khắc Chung đã khuyên thượng hoàng nên đánh Chiêm Thành thay vì Ngưu Hống, viện lẽ rằng các đời vua trước đánh Chiêm Thành thường bắt được vua nước đó, đang khi Đà Giang "vốn có tiếng là đất lam chướng, lại nhiều ghềnh thác chảy xiết, không lợi cho việc hành quân". Thượng hoàng từ chối, bảo rằng ông có nghĩa vụ phải cứu giúp nhân dân ở bất cứ nơi nào có loạn, không được "so đo khó dễ lợi hại". Trong chiến dịch này, cánh quân tiên phong của Đại Việt do Chiêu Nghĩa hầu chỉ huy bại trận, Tuyên uy tướng quân Vũ Tư Hoằng chết. Thượng hoàng đưa đại quân lên đánh, quân Ngưu Hống chạy trốn vào rừng núi, rồi đại quân trở về Kinh sư.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, năm 1334, quân Ai Lao xâm lấn biên giới phía tây, Thượng hoàng lại thân chinh đi đánh dẹp. Khi đại quân của ông tới Châu Kiềm (Nghệ An), quân Ai Lao lập tức tháo chạy. Thượng hoàng sai Nguyễn Trung Ngạn soạn bài bia ghi lại chiến thắng khắc lên núi đá, rồi đem quân trở về. Năm sau (1335) Ai Lao lại kéo vào đánh phá ấp Nam Nhung thuộc Châu Kiềm (Nghệ An), Thượng hoàng Minh Tông định thân chinh, nhưng lại bị đau mắt, có người xin hoãn lại. Minh Tông không đồng tình, vì cho rằng thiên hạ sẽ bảo mình nhát và quyết tâm thân chinh. Đến Nghệ An, Thượng hoàng cử Đoàn Nhữ Hài làm chỉ huy quân Thần Vũ, Thần Sách và quân Nghệ An tấn công trại Ai Lao trên sông Tiết La (có lẽ là một đoạn sông Lam gần Cửa Rào). Đoàn Nhữ Hài khinh suất ra quân nên đúng lúc gặp sương mù bị rơi vào phục kích, bị thua trận và chết đuối. Thượng hoàng khóc thương tiếc và không coi đó là lỗi của Nhữ Hài. Tháng 2 âm lịch năm 1336, thượng hoàng rút quân về Thăng Long.
Ghi chép về chiến dịch Ai Lao của thượng hoàng Trần Minh Tông trong Đại Việt Sử ký Toàn thư có mâu thuẫn với nội dung Ma Nhai kỷ công bi văn, tấm văn bia khắc trên núi Thành Nam (xã Chi Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An ngày nay) do Nguyễn Trung Ngạn soạn thảo, để kỉ niệm chiến thằng của Minh Tông. Theo Toàn thư thì năm 1334, thượng hoàng đánh Ai Lao lần đầu, quân Ai Lao chưa đánh đã tan, rồi thượng hoàng sai Nguyễn Trung Ngạn khắc văn bia lên núi đá; năm 1335, thượng hoàng đánh Ai Lao lần hai, bị thua. Nhưng văn bia của Nguyễn Trung Ngạn lại ghi nhận thời điểm ra đời của nó là vào mùa đông năm Ất Hợi (1335) và kể rằng trong năm này, thượng hoàng đem sáu quân đánh bại Ai Lao, tù trưởng Ai Lao là Bổng phải trốn chạy.
Tháng 6 âm lịch năm 1336, thượng hoàng tiến hành xét duyệt các quan văn võ. Tháng 7 âm lịch năm 1337, thượng hoàng cho Nguyễn Trung Ngạn làm An phủ sứ Nghệ An kiêm Quốc sử viện giám tu quốc sử, Hành Khoái Châu lộ tào vận sứ. Trong khoảng năm 1333 – 1338 có nhiều thiên tai như lụt lội, bão gió, động đất; do vậy, Nguyễn Trung Ngạn đề xuất lập kho lương chứa thóc tô để kịp thời cứu trợ dân đói. Thượng hoàng chấp nhận, và xuống chiếu cho các lộ áp dụng theo ý Trung Ngạn.
Tháng 9 âm lịch năm 1337, thượng hoàng truyền lệnh cho các quan trong triều và ở các lộ, mỗi năm đều phải khảo sát các thuộc viên dưới quyền mình, ai có bằng chứng rõ ràng về sự cần mẫn, tận tụy thì được giữ lại, còn ai biếng nhác thì cho nghỉ việc.
Cũng trong nửa sau năm 1337, thượng hoàng sai Hưng Hiếu vương đêm quân đánh Ngưu Hống ở Đà Giang. Hưng Hiếu vương tấn công vào trại Trình Kỳ, tiêu diệt quân Ngưu Hống và chém chết tù trưởng Xa Phần. Về Thăng Long, các binh tướng có công đều được trọng thưởng. Hưng Hiếu vương xin thưởng cho cả người giữ thuyền, như Trần Khánh Dư đã làm khi chinh chiến ở Nam Nhung ngày trước. Thượng hoàng từ chối, vì xét thấy "Khánh Dư đi đánh Nam Nhung, từ Nghệ An đi bộ mấy ngày, đến sông Nam Nhung mới đục gỗ làm thuyền. Đó là giữ thuyền trong đất của giặc, chứ không phải là giữ thuyền ở Nghệ An. Người giữ thuyền lần này thì khác thế. Vả lại... nếu người giữ thuyền muốn nhờ ở chiến thắng để lấy thưởng, giả sử người đi đánh bị chết thì người giữ thuyền cũng chịu chết chăng?" Gia nô của Hưng Hiếu vương là Phạm Ngải có đóng góp vào chiến thắng, song thượng hoàng tuân theo lệ đời trước, nên không cho Ngải làm quan và chỉ tặng Ngải 5 phần suất ruộng.
Trong thời kỳ này có Hậu nghi đài lang, Thái sử cục lệnh là Đặng Lộ người huyện Sơn Minh (nay là Ứng Hòa, Hà Nội) đã chế ra một dụng cụ xét nghiệm khí tượng gọi là Lung Linh nghi, khi khảo nghiệm không việc gì là không đúng. Mùa xuân năm 1339, Đặng Lộ xin đổi tên lịch Thụ thì (tên lịch từ nhiều đời trước đến nay) thành lịch Hiệp kỷ, được thượng hoàng chuẩn tâu.
Thời Trần Dụ Tông
Ngày 11 tháng 6 năm Tân Tỵ (tức ngày 24 tháng 7 năm 1341), Trần Hiến Tông mất ở chính tẩm, hưởng dương 23 tuổi. Lúc này, bà Hiến Từ đã sinh cho Thượng hoàng 2 hoàng tử Trần Nguyên Dục và Trần Hạo. Nguyên Dục là trưởng nam, nhưng bị Thượng hoàng xem là "người ngông cuồng" và không chọn làm vua. Ngày 21 tháng 8 âm lịch (tức ngày 2 tháng 10) năm 1341, Thượng hoàng lập Trần Hạo lên ngôi, tức Hoàng đế Trần Dụ Tông (陳裕宗), lấy niên hiệu là Thiệu Phong. Dụ Tông mới 6 tuổi nên Thượng hoàng vẫn cai quản mọi việc triều chính. Cuối năm 1341, ông sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và khảo soạn bộ Hình thư để ban hành.
Mùa xuân năm 1342, Thượng hoàng tiến hành khảo sát các quan văn võ và tạp lưu. Đến tháng 7 âm lịch, ông phong Trương Hán Siêu làm Tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ Lạng Giang, lại sai Nguyễn Trung Ngạn tuyển đinh tráng các lộ để bổ sung vào Cấm vệ quân. Từ đây, Khu mật viện bắt đầu được nắm Cấm vệ quân.
Cũng trong năm 1342, Thượng hoàng sa thải Giám sát ngự sử Doãn Định và Nguyễn Như Vi. Nguyên là khi Ngự sử đài vừa được trùng tu, Thượng hoàng đến thăm Ngự sử đài, được Ngự sử Trung tán Lê Duy theo hầu. Doanh Định, Nguyễn Như Vi dâng sớ kháng nghị, nói Thượng hoàng không được vào Ngự sử đại và trách Lê Duy không chịu can gián. Thượng hoàng đã nhiều lần dụ họ, bảo là: "Ngự sử đài cũng là một trong các cung điện, chưa từng có cung điện nào mà thiên tử không được vào... Ngày xưa Đường Thái Tông còn xem Thực lục, huống chi là vào đài!"; nhưng hai người vẫn không phục, để rồi bị bãi chức. Theo sử gia Mỹ hiện đại K. W. Taylor, trong bối cảnh nhiều tôn thất-công thần đã mất (Trần Nhật Duật 1330, Trần Khánh Dư 1340...) và Nho quan gốc bình dân được cất nhắc nhiều hơn, thái độ của hai giám sát ngự sử cho thấy quan viên nguồn gốc bình dân đã bắt đầu trở nên gắn liền vào cái mà họ cho là đặc quyền của mình tại triều đình.
Mùa xuân năm 1344, Thượng hoàng ban bố một số cải cách hành chính, bao gồm:
"Đổi Hành khiển ty ở cung Thánh Từ làm Thương thư sảnh, còn Hành khiển ty ở cung Quan Triều vẫn để là môn hạ sảnh như cũ.
Đặt đại sứ và phó sứ của viện Tuyên Huy.
Đổi kiểm pháp quan của viện Đăng Văn thành Đình úy, Tự khanh và Thiếu khanh.
Đặt đồn điền sứ và phó sứ ở ty Khuyến nông.
Lộ lớn thì đặt An phủ sứ và phó sứ, thuộc châu thì đặt Thông phán. Lại đặt chức Đề hình và chức Tào ty chuyển vận ở lộ nhỏ. Phủ Thiên Trường thì đặt là Thái phủ và Thiếu phủ."
Trong thời Thiệu Phong, một vài đợt hạn hán, mất mùa lớn đã xảy ra, dẫn đến đói kém và bạo loạn ở nhiều nơi. Một số cuộc nổi dậy của nông dân đã bùng phát, như của Ngô Bệ người Trà Hương (tháng 2 âm lịch năm 1344) và người tên Tề xưng làm cháu ngoại Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn (tháng 3 âm lịch năm 1354). Ngoài ra còn có những cuộc bạo động khác của người Lạng Sơn và Thái Nguyên năm 1351. Thượng hoàng phải lập 20 đô phong đoàn ở các lộ để trấn áp. Trừ cuộc nổi dậy của Ngô Bệ tới năm 1360 mới bị dẹp, các cuộc nổi dậy khác đều nhanh chóng bị dập tắt. Bên cạnh đó, Minh Tông cũng ban hành những biện pháp như "giảm một nửa thuế nhân đinh" (1343), "soát tù, giảm tội bọn tội phạm" (1345) và "giảm một nửa tô ruộng" (1354) nhằm cải thiện dân tình.
Tháng 3 âm lịch năm 1345, Thượng hoàng mở khoa thi Thái học sinh để tuyển quan, trong đó cho thi các môn ám tả, cổ văn, kinh nghĩa và thi phú. Cũng trong thời gian này, ông ra lệnh khôi phục chức tước cho Huệ Vũ Đại vương Quốc Chẩn.
Trong thời kỳ này, thuyền buôn Trung Quốc và nước ngoài tập trung đông đúc ở trấn Vân Đồn (Quảng Ninh); hoạt động buôn bán nơi đây diễn ra rộn rịp. Điều này đem lại nhiều lợi ích kinh tế – tài chính cho Đại Việt, nhưng cũng ẩn chứa rủi ro. Chẳng hạn, khi Trung Quốc muốn tấn công Đại Việt, trong số thương nhân người Hoa ở Vân Đồn thường có người đứng ra làm trung gian giữa Trung Quốc với những người Đại Việt theo Trung Quốc. Do vậy, triều đình Đại Việt chủ trương kiểm soát ngoại thương. Tháng 11 âm lịch năm 1349, Thượng hoàng đặt ra quan trấn, quan lộ và sát hải sứ ở trấn Vân Đồn, lại đặt quân Bình Hải để đề phòng giặc cướp và quản lý Vân Đồn. Chính sách kiểm soát ngoại thương sẽ còn được phát triển rộng trong thời Lê, đưa đến tình trạng bế quan tỏa cảng.
Năm 1345, vì Chiêm Thành đã lâu không cống, Thượng hoàng cử sứ sang trách hỏi, Chiêm Thành chịu cống nhưng chỉ dâng lễ vật sơ sài. Tháng 5 âm lịch năm đó, người Ai Lao lại sang quấy nhiễu biên giới. Thượng hoàng sai Bảo Uy vương là Hoàn đi đánh, phá tan quân Ai Lao, thu được nhiều tù binh và gia súc. Từ đây đến khi nhà Trần cáo chung (1400), quân Ai Lao không còn xâm lấn Đại Việt nữa. Hai năm sau (tháng 6 âm lịch năm 1347), Minh Tông giết Bảo Uy vương vì tội tư thông với cung nữ và ăn cắp áo của Dụ Tông.
Sau khi vua Chiêm Chế A Nan chết, hai con rể là Trà Hòa và Chế Mỗ tranh đoạt quyền kế vị. Năm 1351, Chế Mỗ sang Đại Việt, dâng cống thú lạ và cầu viện vua Trần. Thượng hoàng sai đại quân đưa Chế Mỗ về nước. Bộ binh đến Cổ Lũy (Quảng Ngãi), thủy quân tải lương không kịp, bèn rút lui về. Chiến dịch đánh Chiêm 1351 thất bại, và Chế Mỗ ở lại Đại Việt cho tới khi chết.
Tháng 9 âm lịch năm 1353, Trà Hòa xua quân đánh phá châu Hóa (Thừa Thiên Huế ngày nay). Quân Đại Việt bị thiệt hại nặng nề. Phải đến khi vua Trần Dụ Tông cử Trương Hán Siêu làm chỉ huy quân Thần Sách tại châu Hóa, tình hình mới ổn định trở lại.
Qua đời
Năm 1356, Thượng hoàng Trần Minh Tông, Hoàng đế Trần Dụ Tông cùng đi tuần Nghệ An. Tháng 8 âm lịch năm này, Thượng hoàng lại đến chơi đền Huệ Vũ Đại vương Quốc Chẩn ở núi Kiệt Đặc, Chí Linh (Hải Dương); lúc trở về, ông bị một con ong vàng đốt ở má bên trái, do đó mà sinh bệnh. Vương hầu, quan lại định lập đàn chay cầu đảo; Thượng hoàng nghe tin, gọi con thứ ba là Hữu tướng quốc Trần Phủ đến hỏi. Trần Dụ Tông sợ, nên bảo Phủ nói là Phạm Ứng Mộng muốn chết thay Thượng hoàng. Trần Phủ đem lời này tâu với Thượng hoàng, Thượng hoàng phán:
"Ứng Mộng tự nhận làm địa vị Chu Công thì cứ lấy thân mình mà chết thay cho cha hắn, còn đàn chay thì không được làm!"
Hiến Từ Thái hậu muốn phóng sinh gia súc để cầu mong Thượng hoàng hết bệnh, ông cũng ngăn lại: "Thân ta không thể lấy con lợn, con dê mà đổi được". Nhà vua triệu các ngự y Trâu Canh, Vương Định, Phạm Thế Thường bắt mạch cho Thượng hoàng, Trâu Canh kết luận đây là "mạch phiền muộn". Thượng hoàng liền ứng khẩu một bài thơ chấm biếm nhóm Trâu Canh. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Thượng hoàng vốn không ưa Canh vì người này ra vào cung cấm, từng thông dâm với cung nữ, và dùng những lời nói mê hoặc, gian xảo để mê hoặc Trần Dụ Tông. Trâu Canh bèn sắc thuốc dâng lên, thượng hoàng từ chối uống, vì ""Người ta ở đời, bao nhiêu khổ não. Ngày nay thoát được khổ não này, thì ngày khác lại phải chịu khổ não khác".
Ngày 19 tháng 2 âm lịch (10 tháng 3 dương lịch) năm 1357, Thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời tại cung Bảo Nguyên, hưởng dương 57 tuổi. Ông được tôn thụy hiệu là Chương Nghiêu Văn Triết Hoàng Đế (章堯文哲皇帝). Ngày 11 tháng 11 âm lịch (22 tháng 12 dương lịch) năm đó, Minh Tông được mai táng vào Mục Lăng, xã Yên Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
Sau khi Trần Minh Tông mất, Trần Dụ Tông tự mình chấp chính. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, vị hoàng đế này ham mê hưởng lạc, rượu chè, đánh bạc, lại xây dựng nhiều cung điện xa hoa, tin dùng gian thần. Ở phía Nam, Chiêm Thành đã mạnh lên, liên tục đánh phá Đại Việt; triều Trần đến hồi suy vong.
Quan điểm
Trần Minh Tông thường dặn các con tìm hiểu về các nhân vật lịch sử, để biết điều đúng mà noi theo, biết điều sai mà tránh làm. Sau khi Minh Tông nhường ngôi lên làm Thái thượng hoàng, có lần Uy Túc công Văn Bích khuyên ông không nên kể về các bạo chúa (vì sợ các hoàng tử bắt chước), Thượng hoàng phản bác rằng:
Đối với việc an táng, Trần Minh Tông tỏ ra là người ít tin vào duy tâm. Năm 1332, khi làm lễ an táng Thuận Thánh Hoàng thái hậu vào Thái Lăng, ở Yên Sinh, Thượng hoàng Minh Tông sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người bác đi cho rằng: Chôn năm nay tất hại người tế chủ. Thượng hoàng không đồng tình, cho rằng:
Lễ cát lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thôi, chứ đâu có phải câu nệ họa phúc như các nhà âm dương.
Và ông vẫn cử hành lễ tang.
Thượng hoàng thường dạy các hoàng tử:
Ai mà trì khu làm giàu, co cỏm bỏn sẻn, thì không phải là con ta. Thà rằng hào phóng mà phải nghèo, dẫu không khỏi túng thiếu đấy thật, nhưng vẫn không phi tiếng là con nhà sang.
Ông cũng hay nói:
Trần Minh Tông còn là một Phật tử mộ đạo. Mối quan hệ giữa nhà vua với các thiền sư Thiền phái Trúc Lâm như Pháp Loa và Huyền Quang được ghi nhận là rất tích cực. Năm 1314, ngay sau khi lên ngôi, hoàng đế sai dựng 3 bức tượng Phật cao 17 thước ở chùa Báo Ân-Siêu Loại (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Cũng tại đây, ông cho lập điện Phật, gác kinh, nhà Tăng, tổng cộng 33 sở. Thầy Pháp Loa, tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm đã đặt tên cho các nơi này; Minh Tông tự mình viết tấm biển "Nhị hương điện" trao cho chùa. Năm 1316, Thượng hoàng Anh Tông hạ chiếu thỉnh thầy Pháp Loa vào đại nội trao giới Bồ-tát tại gia cho Minh Tông. Từ đó, Minh Tông càng chuyên tâm nghiên cứu, học hỏi về Thiền học. Theo Thánh đăng ngữ lục, Minh Tông đã khuyến khích các thiền sư Pháp Loa, Huyền Quang, Pháp Cổ, Kim Sơn và Cảnh Huy giảng kinh sách của Phật và các Tổ Thiền tông ở hai kinh đô: Thăng Long và Thiên Trường. Minh Tông còn cống hiến nhiều tiền, vàng và nhân công cho việc xây dựng Bảo tháp Viên Thông (nơi chứa nhục thân của Pháp Loa sau khi ông viên tịch) và chùa Đại Tư Quốc – đều ở Hải Dương. Toàn thư cũng ghi lại một lần Minh Tông bảo vệ lập trường trước Huệ Túc vương Trần Đại Niên, một người bài xích đạo Phật:
"Lại một hôm, [Thượng hoàng] mời Huệ Túc vương vào tẩm điện, bảo ông ngồi. Thượng hoàng đang ăn chay. Huệ Túc vương... nhân nói:
- Thần không biết ăn chay thì có ích lợi gì?
Thượng hoàng đoán biết ý ông, liền dụ rằng:
- Ông cha ta ngày xưa thường ăn cơm chay, cho nên ta bắt chước đó thôi, còn ích lợi gì thì ta không biết.
Huệ Túc im lặng rồi lui ra."
Tác phẩm
Tác phẩm của Trần Minh Tông có Minh Tông thi tập (1 quyển) nhưng nay đã mất. Một phần bị đốt theo yêu cầu của ông lúc lâm chung, một phần có lẽ bị người Minh hủy hoại trong thời Bắc thuộc 1407-1427. Hiện chỉ còn 25 bài thơ chép rải rác trong Việt âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thư và Nam Ông mộng lục. Ngoài ra, Trần Minh Tông còn có bài đề tựa tập thơ Đại hương hải ấn (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm) của Trần Nhân Tông.
Trong sách Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng), các tác giả Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu nhận xét thơ của Minh Tông "đã phản ánh trung thực tư tưởng, tình cảm và tính cách của ông. Qua thơ, Minh Tông tỏ ra là một vị vua có tinh thần chủ động, năng nổ với việc nước, ưu ái đối với các bề tôi giỏi, thương yêu dân chúng trong bờ cõi và cả dân chúng các nước láng giềng. Thơ Minh Tông hùng hồn, phóng khoáng, nhưng cũng bình dị, tự nhiên, tinh tế. Nhà thơ không ngần ngại bộc bạch những tâm sự sâu kín, những lỗi lầm thời trẻ mà sau này ông mới nhận thức được".
Cuốn Thơ văn Lý-Trần đã ghi lại một số thi phẩm của vua Minh Tông, như:
Cam Lộ tự:
Bạch Đằng giang:
Bài thơ Xem mạch (診脈 - Chẩn mạch) do Trần Minh Tông ứng khẩu trước khi mất, để châm biếm quan thầy thuốc Trâu Canh:
Trong Thánh đăng ngữ lục và Thơ văn Lý-Trần cũng chép lại một bài kệ Minh Tông sáng tác trước khi mất, tựa Tương tịch ký Kim Sơn thiền sư (將寂寄金山禪師其二 được dịch nghĩa là Sắp mất gửi Thiền sư Kim Sơn):
Nhận định
Đánh giá về Trần Minh Tông, sử thần đời Lê sơ Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt Sử ký Toàn thư:
Phan Phu Tiên, một sử thần khác thời Lê sơ, cũng bình luận:
Các sách Đại Việt Sử ký Toàn thư (kỷ Dụ Tông Hoàng đế) và Nam Ông mộng lục (thiên Đức tất hữu vị, tác giả: Hồ Nguyên Trừng, quan Đại Minh gốc Việt thế kỷ 15) có kể một việc tỏ rõ sự nhân hậu của vua Minh Tông. Theo đó, một thời gian sau khi Minh Tông lên ngôi hoàng đế, mẹ đích là Bảo Từ Hoàng hậu mới sinh được con trai. Đến ngày đầy tuổi tôi, Anh Tông bận đi tuần ngoài biên, Minh Tông xử lý mọi việc trong nhà. Khi một viên quan hỏi cách làm lễ, Minh Tông nói hãy làm theo nghi thức danh cho thái tử. Viên quan tỏ ra do dự vì "việc này ở các đời trước thường sinh ra lắm chuyện nguy hiểm", nhưng Minh Tông khẳng định: "Việc gì phải ngần ngại? Trước đây vì đích tự chưa sinh, nên ta mới tạm ở ngôi này; nay đích tự đã sinh rồi, chờ khi lớn lên, ta sẽ trao lại ngôi vua, có gì là khó!". Sau một cuộc tranh luận, mọi người đồng ý cử hành lễ theo nghi thức thái tử. Không lâu sau đó, người em này chết yểu, vua Minh Tông rất đau buồn. Chép xong chuyện này, Hồ Nguyên Trừng bình luận: "Sách Tả truyện nói: "Kẻ có đức thì thế nào cũng có địa vị", là để chỉ trường hợp như thế này chăng?".
Sử gia Hoa Kỳ K. W. Taylor trong sách A History of the Vietnamese (2013) nhìn nhận Trần Minh Tông chịu ảnh hưởng từ thuyết "bất nhị" trong đạo Phật mà Trần Thái Tông – vị vua khai quốc triều Trần đã giảng giải trong các tác phẩm của mình. K. W. Taylor cũng bình về Trần Minh Tông:
Gia đình
Cha: Anh Tông Hoàng đế Trần Thuyên.
Mẹ: Chiêu Từ Hoàng Thái hậu Trần thị (昭慈皇太后 陳氏 ? - 1359), nguyên là Huy Tư Hoàng phi (徽資皇妃) của Trần Anh Tông, con gái Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng và Công chúa Thụy Bảo. Hoàng phi được Anh Tông và Bảo Từ Hoàng hậu yêu mến, được phong ngôi cao nơi cung cấm dù không xuất thân từ dòng dõi Hoàng tộc nhà Trần. Minh Tông tôn làm Huy Tư Hoàng thái phi (徽姿皇太妃), sau khi mất truy tặng Chiêu Từ Hoàng Thái hậu (昭慈皇太后).
Mẹ đích: Bảo Từ Hoàng hậu Trần thị (? - 1330),là cháu nội của Trần Quốc Tuấn, con gái của Trần Quốc Tảng và là hoàng hậu của vua Trần Anh Tông
Hậu phi:
Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu Trần thị (憲慈宣聖皇后 陳氏 1299 - 1370), con gái Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn, cháu nội Trần Nhân Tông. Bà nguyên được gả cho Tông thất Uy Túc công, sau cải giá lấy Minh Tông làm Lệ Thánh Hoàng hậu (儷聖皇后) (1323).
Minh Từ Hoàng thái phi Lê thị (明慈皇太妃 黎氏 ? - 1365), người Giáp Sơn, cô ruột Lê Quý Ly (sau này đổi tên thành Hồ Quý Ly), em gái cùng mẹ bà Hiến Từ, do con gái của Nguyễn Thánh Huấn lấy một người họ Lê sinh ra. Bà hạ sinh hai Hoàng tử, sau là Hiến Tông và Nghệ Tông, được lập làm Anh Tư Nguyên phi (英姿元妃), đứng đầu các phi tần ở nội cung. Vì sủng ái Nguyên phi, Minh Tông bất chấp sự phản đối từ phía Quốc trượng Trần Quốc Chẩn, lập con trưởng là Trần Vượng làm Hoàng thái tử, sau lại nhường ngôi cho Hoàng thái tử, tức Triết Hoàng Hiến Tông. Năm 1371, Nghệ Tông truy tôn làm Minh Từ Hoàng thái phi.
Đôn Từ Hoàng thái phi Lê thị (惇慈皇太妃 黎氏 ? - 1347), người Giáp Sơn, em gái trong họ tộc bà Minh Từ, mẹ sinh Trần Duệ Tông. Bà làm Cung tần theo hầu Minh Tông, được phong Sung viên. Năm 1372, Cung Tuyên vương Trần Kính được Nghệ Tông lập làm Hoàng thái đệ, truy tặng mẹ sinh Hoàng thái tử làm Quang Hiến Thần phi (光憲宸妃). Năm 1373, Duệ Tông truy tôn làm Đôn Từ Hoàng thái phi'.
Triều Môn Thứ phi Trần thị , sinh Trần Nguyên Trác.
Thứ phi Thiên Xuân
Con:
Trần Hiến Tông Trần Vượng (陳旺), con của Minh Từ Hoàng thái phi.
Cung Tĩnh Đại vương Trần Nguyên Trác (恭静大王陈元晫; 1319 - 1370) , con của Triều Môn Thứ phi.
Trần Nghệ Tông Trần Phủ (陳暊), tước phong vốn là Cung Định vương (恭定王), con của Minh Từ Hoàng thái phi.
Cung Mẫn vương Trần Nguyên Hú (恭敏王陈元煦; ? - 1347).
Cung Giản vương Trần Nguyên Thạch (恭簡王陈元石; ? - 1350).
Cung Túc vương Trần Nguyên Dục (恭肃王陳元昱; ? - 1364), con của Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu.
Cung Tín vương Trần Thiên Trạch (恭信王陈善泽; ? - 1379).
Trần Dụ Tông Trần Hạo (陳暭), con của Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu.
Trần Duệ Tông Trần Kính (陳曔), tước phong là Cung Tuyên vương'' (恭宣王), con của Đôn Từ Hoàng thái phi.
Thiên Ninh Công chúa (天寕公主), con của Hiến Từ Hoàng hậu, lấy Chính Túc vương Trần Kham (陈堪).
Huy Ninh Công chúa (徽寕公主), trước lấy Tông thất Nhân Vinh (? - 1370), sau lấy Lê Quý Ly – tức Hồ Quý Ly, hoàng đế khai lập triều Hồ.
Chú thích
Thư mục |
Trong giải tích phức, nguyên lý Harnack là một định lý nói về giới hạn của dãy các hàm điều hòa.
Nếu các hàm , ,... điều hòa trong một tập mở của mặt phẳng phức C, và
tại mọi điểm của , thì giới hạn của dãy
hoặc là vô hạn với mọi điểm trong miền hoặc là hữu hạn với mọi điểm trong miền, trong cả hai trường hợp đều là hội tụ đều trong mỗi tập con đóng của . Ở trường hợp thứ hai, hàm
điều hòa trong tập . |
Nguyễn Đăng Lành (1935 - 1949) là một trong số ít các thiếu niên Việt Nam được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân bởi Chủ tịch nước Việt Nam.
Tiểu sử
Nguyễn Đăng Lành sinh năm 1935 trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Nam Hưng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Năm 13 tuổi, anh tham gia du kích địa phương, hoạt động cho lực lượng vũ trang của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Từ tháng 1 năm 1948, anh theo dõi hoạt động của quân Pháp tại bốt Linh Xá, lấy đạn của Pháp cho du kích, cung cấp số liệu, vị trí hỏa lực và cách phòng thủ của quân Pháp, giúp xã đội có phương án đánh bốt. Từ tháng 8 năm 1948 đến 30 tháng 8 năm 1949, anh tham gia hoạt động liên lạc cho Ủy ban Kháng chiến và Xã đội xã Nam Hưng, hướng dẫn các cán bộ vượt qua Quốc lộ 17 để hoạt động trong vùng tạm chiếm. Anh cũng tham gia rải truyền đơn trong vùng tạm chiếm, đánh quân Pháp trên Quốc lộ 17.
Sáng ngày 30 tháng 8 năm 1949, trên đường đưa tài liệu từ xã Hợp Tiến về, Nguyễn Đăng Lành phát hiện quân Pháp đang bao vây càn quét làng mình. Anh đã phát tín hiệu cho cán bộ xuống hầm, nhường hầm của mình cho cán bộ mới về, ngụy trang cho họ rồi về nấp ở góc ao xóm Trình. Anh bị quân Pháp phát hiện và bị bắt. Chúng đã tra tấn anh cựu kỳ dã man và tàn bạo, chúng dùng báng súng đánh vào người và làm anh gãy xương sườn, nhưng anh vẫn không khai nửa lời. Chúng dồn toàn bộ nhân dân về khu văn chỉ (mẫu giáo thôn Trần Xá - xã Nam Hưng - Nam Sách - Hải Dương) trong đó có cả cán bộ Việt Minh (cụ Mạc Đăng Chơ - Xã Đội trưởng) chúng đưa anh Lành về đó và dụ dỗ chỉ ra ai là cán bộ, ai là Việt Minh, nhưng anh chỉ nhìn bà con hàng xóm, chúng không khai thác được gì và đã treo anh lên cành của cây Quéo (hiện cây vẫn còn)tiếp tục đánh đập và tra tấn anh. Biết là sẽ chết, nên anh nói với chúng rằng "Chúng may đưa tao đi, tao chỉ chỗ cán bộ cho" chúng đã dẫn anh đi khắp làng Trần Xá, mục đích anh muốn nhìn lại làng quê lần cuối cùng trước khi chết. Khi chúng biết bị lừa, chúng đã đưa anh lên bốt Linh Xá và tiếp tục bị tra tấn bởi một quan hai Pháp cho đến lúc chết do các chấn thương của vụ tra tấn.
Ngày 25 tháng 3 năm 1997, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng anh danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tại thị trấn Nam Sách, có một con đường mang tên Nguyễn Đăng Lành để vinh danh anh. |
Động cơ tuốc bin phản lực luồng (tiếng Anh - Turbojet engine, viết tắt - TurboJet; tiếng Nga - Турбореактивный двигатель, viết tắt - ТРД) hay còn gọi là máy đẩy luồng là kiểu cổ nhất của động cơ phản lực không khí nói chung và đến ngày nay vẫn tiếp tục sử dụng, phát triển. Hai kỹ sư, Frank Whittle ở Anh Quốc và Hans von Ohain ở Đức, đã độc lập phát triển khái niệm về loại động cơ này từ cuối thập kỷ 1930. Máy bay chiến đấu, được trang bị động cơ phản lực, lần đầu tiên được đưa vào sử dụng năm 1944, giai đoạn cuối Chiến tranh thế giới thứ hai.
Một động cơ turbin phản lực thường được dùng làm động cơ đẩy cho máy bay. Không khí được đưa vào bên trong những máy nén quay thông qua cửa hút khí và được nén tới áp suất cao trước khi đi vào buồng đốt. Ở đây không khí trộn với nhiên liệu và được đốt cháy. Quá trình cháy này khiến nhiệt độ khí tăng lên rất nhiều. Các sản phẩm cháy nhiệt độ cao thoát ra khỏi buồng đốt và chạy qua turbin để làm quay máy nén. Dù quá trình này làm giảm nhiệt độ và áp suất khí thoát ra khỏi turbin, thì những tham số của chúng vẫn vượt cao hơn so với điều kiện bên ngoài. Luồng khí bên trong turbin thoát ra ngoài thông qua ống thoát khí, tạo ra một lực đẩy phản lực ngược chiều. Nếu tốc độ phản lực vượt quá tốc độ bay, máy bay sẽ có được lực đẩy tiến về phía trước. Tốc độ luồng khí phụt nói chung phụ thuộc vào tốc độ bay, đây cũng là lý do các máy bay muốn có tốc độ vượt âm, hiện nay phải sử dụng loại động cơ này.
Các động cơ tuabin phản lực tạo được vòng quay lớn, nhiệt độ làm việc cao nên đòi hỏi công nghệ chế tạo đặc biệt.
Cửa hút gió
Phía trước máy nén là cửa hút gió (hay cửa vào), nó được thiết kế để hút được càng nhiều không khí càng tốt. Sau khi qua cửa hút gió, không khí đi vào hệ thống nén.
Máy nén không khí
Máy nén quay ở tốc độ rất cao, làm tăng năng lượng cho dòng khí, cùng lúc nén khí lại khiến nó tăng áp suất và nhiệt độ.
Đối với hầu hết các máy bay dùng động cơ phản lực turbin, không khí nén được lấy từ máy nén trong nhiều giai đoạn để phục vụ các mục đích khác như điều hòa không khí/điều hòa áp suất, chống đóng băng cửa hút khí, và nhiều việc khác.
Có nhiều kiểu máy nén được dùng cho máy bay động cơ phản lực turbin và turbin khí nói chung: trục, ly tâm, trục-ly tâm, ly tâm đôi, vân vân.
Các máy nén giai đoạn đầu có tỷ lệ nén tổng thể ở mức thấp 5:1 (tương tự mức của đa số các động cơ phụ và máy bay động cơ turbin phản lực loại nhỏ ngày nay). Những cải tiến khí độc lực sau này cho phép các máy bay dùng động cơ turbin phản lực ngày nay đạt tỷ lệ nén tổng thể ở mức 15:1 hay cao hơn. So sánh với các động cơ phản lực cánh quạt đẩy) dân dụng hiện nay có tỷ lệ nén tổng thể lên tới 44:1 hay cao hơn.
Sau khi đi ra khỏi bộ phận nén, không khí nén vào trong buồng đốt.
Buồng đốt
Quá trình đốt bên trong buồng đốt khác rất nhiều so với quá trình đốt trong động cơ piston. Trong một động cơ piston khí cháy bị hạn chế ở khối lượng nhỏ, khi nhiên liệu cháy, áp suất tăng lên đột ngột. Trong một động cơ turbin phản lực, hỗn hợp không khí và nhiên liệu, không hạn chế, đi qua buồng đốt. Khi hỗn hợp cháy, nhiệt độ của nó tăng đột ngột, áp lực trên thực tế giảm đi vài phần trăm.
Nói chi tiết, hỗn hợp không khí-nhiên liệu phải được ngăn lại ở mức hầu như dừng hẳn để đảm bảo tồn tại một ngọn lửa cháy ổn định, quá trình này diễn ra ngay đầu buồng đốt. Và chưa tới 25% không khí tham gia vào quá trình cháy, ở một số loại động cơ tỷ lệ này chỉ đạt mức 12% phần còn lại đóng vai trò dự trữ để hấp thu nhiệt tỏa ra từ quá trình đốt nhiên liệu.
Một khác biệt nữa giữa động cơ piston và động cơ phản lực là nhiệt độ đỉnh điểm trong động cơ piston chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, trong một phần nhỏ của toàn bộ quá trình. Buồng đốt trong một động cơ phản lực luôn đạt mức nhiệt độ đỉnh và có thể làm chảy lớp vỏ ngoài. Vì thế chỉ một lõi ở giữa của dòng khí được trộn với đủ nhiên liệu đảm bảo cháy thực sự. Vỏ ngoài được thiết kế với hình dạng sao cho luôn có một lớp không khí sạch không cháy nằm giữa bề mặt kim loại và nhân giữa. Lớp không khí không cháy này được trộn với các khí cháy làm nhiệt độ giảm xuống ở mức turbin có thể chịu đựng được.
Một điểm quan trọng khác là ở động cơ turbine, quá trình đánh lửa của bugi chỉ xảy ra trong quá trình khởi động, và ngọn lửa được duy trì bởi chính nó trong suốt quá trình hoạt động.
Turbin
Khí nóng ra khỏi buồng đốt được hướng chạy qua các lá turbine làm quay turbine. Về mặt khí động các lá turbine có cấu tạo gần giống như các lá máy nén nhưng chỉ có hai hoặc ba tầng và bản chất hoàn toàn ngược với máy nén. Khí nóng qua turbine giãn nở sinh công làm quay các tầng turbine. Turbine quay sẽ kéo quay máy nén. Một phần năng lượng quay của turbine được tách ra để cung cấp cho các phụ kiện như bơm nhiên liệu, dầu, thủy lực...
Ống thoát khí
Sau turbin, khí cháy thoát ra ngoài qua ống thoát khí tạo ra một tốc độ phản lực lớn. Ở ống thoát khí hội tụ, các ống dẫn hẹp dần dẫn tới miệng thoát. Tỷ lệ áp lực ống thoát khí của một động cơ phản lực thường đủ lớn để khiến khí đạt tốc độ Mach 1.0.
Tuy nhiên, nếu có lắp một ống thoát khí kiểu hội tụ-phân kì "de Laval", vùng phân rã cho phép khí nóng đạt tới tốc độ trên âm ngay bên trong chính ống thoát khí. Cách này có hiệu suất lực đẩy hơi lớn hơn sử dụng ống thoát khí hội tụ. Tuy nhiên, nó lại làm tăng trọng lượng và độ phức tạp của động cơ.
Lực đẩy thực
Dưới đây là một phương trình gần đúng để tính toán lực đẩy thực của một động cơ phản lực:
khi:
lưu lượng khối lượng dòng khí vào
vận tốc của dòng khí sau động cơ (vận tốc dòng khí được phun ra) (in the exhaust plume)
vận tốc của dòng khí vào động cơ, bằng với tốc độ bay của máy bay
Trong khi thể hiện tổng lực đẩy của ống thoát khí, thể hiện the ram drag của cửa hút gió. Rõ ràng tốc độ phản lực phải vượt quá tốc độ bay nếu có một lực đẩy thực vào thân máy bay.
Tỷ lệ lực đẩy trên năng lượng
Một động cơ turbin phản lực đơn giản tạo ra lực đẩy gần: 2.5 pounds lực trên sức ngựa (15 mN/W).
Trong khi thể hiện tổng lực đẩy của ống thoát khí, thể hiện the ram drag của cửa hút gió. Rõ ràng tốc độ phản lực phải vượt quá tốc độ bay mới có một lực đẩy thực vào thân máy bay
Những cải tiến chu trình hoạt động
Việc tăng tỉ số nén chung của hệ thống nén làm tăng nhiệt độ đầu vào buồng đốt. Vì vậy, với một lưu lượng khí và nhiên liệu cố định, cũng làm tăng nhiệt độ đầu vào tua-bin. Tuy nhiệt độ tăng lên cao hơn qua máy nén, nhưng dẫn đến việc rơi nhiệt độ lớn hơn trên hệ thống tua-bin, nhiệt độ vòi phun không bị ảnh hưởng bởi vì lượng nhiệt như nhau được thêm vào hệ thống. Tuy nhiên việc đó làm tăng áp suất vòi phun, bởi vì tỉ số áp suất chung tăng nhanh hơn tỉ số giãn nở của tua-bin. Kết quả là tăng lực đẩy trong khi thiêu hao nhiên liệu (nhiên liệu/lực đẩy) giảm.
Do động cơ phản lực tăng áp (turbojets) có thể chế tạo để sử dụng nhiên liệu hiệu quả hơn bằng cách tăng tương ứng cả tỉ số áp suất chung và nhiệt độ đầu vào tua-bin. Tuy vậy, vật liệu tua bin phải tốt hơn và/hoặc phải cải thiện làm mát cánh quạt/cánh lòng máng tua bin để phù hợp với việc tăng cả nhiệt độ đầu vào tua bin và nhiệt độ khí nén đầu ra của máy nén. Cuối cùng việc tăng áp đòi hỏi vật liệu chế tạo máy nén phải tốt hơn.
Các động cơ ban đầu của người Đức gặp các vấn đề nghiêm trọng về điều khiển nhiệt độ đầu vào tua-bin. Các động cơ ban đầu của họ trung bình chỉ hoạt động khoảng 10 giờ là hỏng; Thường là các cánh lòng máng bằng kim loại bay ra phía sau động cơ khi tua-bin bị quá nhiệt.
Các động cơ của Anh chịu đựng tốt hơn bởi vì vật liệu tốt hơn. Người Mỹ có vật liệu tốt hơn bởi vì họ có độ tin cậy vào bộ tăng áp siêu nạp dùng cho động cơ máy bay ném bom ở độ cao lớn trong Thế chiến hai. Thời gian đầu, một số động cơ phản lực của Mỹ đã kết hợp khả năng phun nước vào động cơ để làm lạnh luồng khí nén trước khi đốt, thường là khi cất cánh. Nước làm cho việc đốt cháy không được hoàn toàn và kết quả là động cơ lại hoạt động làm mát lần nữa, nhưng máy bay cất cánh sẽ để lại một luồng khói lớn.
Ngày nay, các vấn đề như vậy được kiểm soát tốt hơn, nhưng nhiệt độ vẫn giới hạn tốc độ không khí trong các máy bay vượt tiếng động (máy bay siêu thanh). Tại tốc độ rất cao, việc nén không khí đầu vào làm tăng nhiệt độ đến mức mà các cánh nén có thể bị nung chảy. Tại tốc độ thấp hơn, vật liệu tốt nhất được tăng tới nhiệt độ tới hạn, và việc kiểm soát điều chỉnh nhiên liệu tự động làm cho việc động cơ bị quá nhiệt gần như được loại trừ.
Nguồn
Constructing A Turbocharger Turbojet Engine., Edwin H. Springer., Turbojet Technologies 2001. |
Trần Quốc Lặc (chữ Hán: 陳國扐, 1230 - ?) là Trạng nguyên của Việt Nam, ông là người làng Uông Hạ, huyện Thanh Lâm, châu Thượng Hồng (nay là thôn Uông Hạ, xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Tháng 2 năm 1256, ông đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Thìn niên hiệu Nguyên Phong thứ 6, đời Trần Thái Tông, cùng khoa với Trại trạng nguyên Trương Xán, bảng nhãn Chu Hinh, thám hoa lang Trần Uyên. Làm quan đến Thượng thư. Sau khi mất, vua phong làm Phúc thần, hiệu là Mạnh Đạo Đại Vương.
Ghi chú
Người Hải Dương
Trạng nguyên Việt Nam
Thái học sinh nhà Trần
Sinh năm 1230 |
Vũ Dương (chữ Hán: 武暘, 1472 - ?), có sách chép là Vũ Tích, người làng Man Nhuế, huyện Thanh Lâm, thừa tuyên Hải Dương (nay thuộc thôn Mạn Nhuế, thị trấn Nam Sách (xã Thanh Lâm cũ), huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Đỗ Trạng nguyên khoa Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493). Làm quan đến Hàn lâm Thị thư, đi sứ Trung Quốc, được thăng chức thượng thư bộ Công và được phong tước Hầu. Ông có tham gia nhóm Tao đàn Nhị thập bát Tú của Lê Thánh Tông.
Ghi chú
Quan lại nhà Lê sơ
Người Hải Dương
Tam nguyên Việt Nam
Tiến sĩ nhà Hậu Lê
Hầu tước nhà Lê sơ
Trạng nguyên Việt Nam |
Trần Sùng Dĩnh (chữ Hán: 陳崇穎, 1465–?) là một Trạng nguyên của Việt Nam. Ông là người làng Đồng Khê, huyện Thanh Lâm, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Đồng Khê, xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487), đời Lê Thánh Tông. Làm quan Đô ngự sử Thập nhị Kinh diên, rồi được thăng lên Hộ bộ hữu thị lang và Hộ bộ Thượng thư vào tháng 12 năm 1514 dưới thời vua Lê Tương Dực. Sau khi mất, ông được phong làm Phúc thần và được thờ phụng ở quê nhà. |
Hà thành chính khí ca là một thi phẩm dài nhằm ca ngợi sự tuẫn tiết của Tổng đốc Hoàng Diệu, đồng thời phê phán những viên quan phản bội (bỏ chạy hay đầu hàng) khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai (1882).
Nghi vấn tác giả
Theo lời truyền tụng trong dân gian và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Hà thành chính khí ca tương truyền là của Ba Giai, một nhà thơ châm biếm ở cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam. Không như như phong cách trào phúng quen thuộc của Ba Giai, chuyên châm biếm những đối tượng chính là các quan lại tham nhũng, các người trọc phú; Hà thành chính khí ca là một bài thơ chính luận, gồm 140 câu thơ lục bát, được sáng tác ngay sau khi Hà Nội bị quân Pháp xâm chiếm ngày 25 tháng 4 năm 1882.
Nội dung tác phẩm
Tác phẩm này, ngoài 6 câu đầu dùng để mở luận về chính khí của trời đất, của bậc nghĩa sĩ trung thần và 14 câu kết để người viết hướng về nhà vua, tỏ lòng kỳ vọng, số câu còn lại có thể chia làm hai phần.
Phần trên ca ngợi gương hy sinh lẫm liệt của Tổng đốc Hoàng Diệu, phần dưới tác giả tỏ nỗi căm giận đối với những viên quan đã phản bội, chạy trốn hay đầu hàng, như Đề đốc Lê Trinh, Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Án sát Tôn Thất Bá...
Giọng thơ đầy cảm khái và bi tráng như đoạn nói về Tổng đốc Hoàng Diệu:
...Một cơn gió thảm mưa sầu,Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây.
Trời cao biển rộng đất dày,Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!
Thương thay trong buổi gian nguy,Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,Rước người ra táng ở trong học đường.
Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường,Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa...Có chỗ mỉa mai sâu sắc như đoạn nói về những viên quan tham nhũng, bất tài, hèn nhát:Long thành thất thủ hai phen,
Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.Đổi thay trải mấy ông quan,
Quyên sanh tựu nghĩa, có gan mấy người?Trước quan Võ hiển khâm sai
Sau quan Tổng đốc một vài mà thôi.Ngoài ra võ giáp văn khôi,
Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là...Khi bình làm hại dân ta,
Túi tham vơ nhặt chẳng tha miếng gì.Đến khi hoạn nạn gian nguy,
Mắt trông ngơ ngác, chơn đi gập ghềnh...
Nhận xét
Viết về thành Hà Nội thất thủ lần thứ hai có vài bài như Điếu Hoàng Diệu tuẫn tiết, Hà Thành hiểu vọng, Hà Thành thất thủ, Hà Thành thất thủ ca (dài 262 câu lục bát); nhưng chỉ có Hà thành Chính khí ca là nổi tiếng hơn cả.
GS. Phạm Thế Ngũ viết:
"Hà Thành chính khí ca" về sau được truyền tụng hơn cả, phần vì cây bút nôm giản dị và điêu luyện của tác giả, phần vì lòng trung trực yêu chính khí, ghét gian tà đã bộc lộ trong lời lẽ. Thật chẳng kém chi bài Chính khí ca của Văn Thiên Tường đời Tống xưa...'
GS. Thanh Lãng cũng đã đưa ra nhận xét:Với một lối văn rõ ràng, giản dị, cảm động, hùng hồn. Nguyễn Văn Giai chỉ ra cái hèn nhát của bọn buôn dân bán nước, cốt đánh đổi cái "chánh khí" của các trung thần, nghĩa sĩ. Ở đây, tác giả đề cao cái triết lý Anh hùng theo Nho giáo, nghĩa là dù ở đâu và lúc nào cũng phải giũ được khí phách của con người quân tử, như tinh hoa của trời đất tỏa biến ra muôn vật."Chính khí ca" có thể xem như một bài hịch tướng sĩ, để cổ võ phong trào kháng chiến... Chính khí ca còn bộc lộ tâm lý và sức phản ứng của giới sĩ phu đối với thời cuộc: hai phe chủ hòa và chủ chiến đang xung đột nhau và ông đứng hẳn về hàng ngũ thứ hai, quyết dùng võ lực để đánh đuổi xâm lăng, thi hành chánh sách bất hợp tác để tỏ lòng căm phẫn...Xét về mặt nghệ thuật, Từ điển văn học (bộ mới) đánh giá:Tuy nghệ thuật của bài thơ chưa cao hơn truyện Nôm bình dân thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19, nhưng dẫu sao vẫn có ý nghĩa khái quát cao về bản chất những quan lại tham sinh, úy tử, vẫn ăn sâu vào tâm trí người nghe, người đọc.''
Chú thích |
Hoa Kỳ là một nước cộng hòa liên bang, trong đó Tổng thống, Quốc hội, và Toà án cùng nắm giữ và chia sẻ quyền lực của chính quyền liên bang theo Hiến pháp. Trong khi đó, chính quyền liên bang lại chia sẻ quyền lực với chính quyền của từng tiểu bang. Mô hình này kết hợp phân chia quyền lực theo cả chiều ngang (tam quyền phân lập) và chiều dọc (giữa liên bang với tiểu bang).
Chính quyền liên bang được thiết lập bởi Hiến pháp Hoa Kỳ. Hiện nay hai đảng chính trị lớn, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà, đang có ảnh hưởng thống trị trên nền chính trị Hoa Kỳ mặc dù vẫn tồn tại các nhóm hoặc các đảng chính trị với ảnh hưởng ít quan trọng hơn.
Chính quyền Liên bang, Tiểu bang và Địa phương
Chính quyền liên bang, được thiết lập bởi Hiến pháp, là nhân tố chủ đạo của hệ thống chính quyền Mỹ. Tuy nhiên, bất kỳ cá nhân nào sống bên ngoài thủ đô đều là đối tượng chịu sự quản lý của ít nhất ba định chế quyền lực: Chính quyền liên bang, tiểu bang, và quận (Ở một số địa phương không có cấp quận, thay vào đó là chính quyền thị trấn hoặc thành phố).
Tính đa dạng của các cấp chính quyền là hệ quả lịch sử của đất nước này. Chính quyền liên bang được kiến tạo bởi các khu định cư (colony), hình thành cách riêng lẻ với quyền tự trị và độc lập với nhau. Trong mỗi khu định cư có các quận (hạt) và thị trấn, hình thành theo các lộ trình phát triển khác nhau hầu đáp ứng các nhu cầu hành chính khác biệt. Thay vì thiết lập một chính quyền thay thế hệ thống pháp quyền địa phương của các tiểu bang, Quốc hội Lập hiến cho phép duy trì quyền tự trị cho các tiểu bang. Khi lãnh thổ của đất nước được mở rộng, các tiểu bang mới được cấu tạo theo mô hình của các tiểu bang hiện hữu trước đó.
Chính quyền Tiểu bang
Trước khi độc lập, dưới thẩm quyền của vương triều Anh, các khu định cư được quyền tự trị và độc lập với nhau. Trong giai đoạn đầu của nền cộng hoà còn non trẻ, trước khi có Hiến pháp, mỗi tiểu bang hầu như là một đơn vị hành chính tự trị. Các đại biểu của Quốc hội Lập hiến tìm kiếm một thể chế liên bang mạnh mẽ và khả thi hơn, nhưng không thể bỏ qua các truyền thống tiểu bang cũng như quyền lợi của các chính trị gia ở các tiểu bang.
Nhìn chung, các vụ việc bên trong địa giới tiểu bang là thuộc phạm vi quyền hạn của chính quyền tiểu bang, bao gồm truyền thông nội bang; các pháp qui về tài sản, công nghiệp, doanh nghiệp, tiện ích công; luật hình sự tiểu bang; và điều kiện làm việc trong tiểu bang. Trong khuôn khổ này, Chính quyền liên bang yêu cầu chính quyền tiểu bang phải theo mô hình thể chế cộng hoà, và luật lệ tiểu bang không được mâu thuẫn với hoặc vi phạm Hiến pháp liên bang hay luật lệ và các hiệp ước của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Cũng dễ hiểu khi tồn tại nhiều khu vực mà quyền tài phán giữa liên bang và tiểu bang chồng chéo lên nhau. Trong những năm gần đây, Chính quyền liên bang đảm nhận trách nhiệm rộng lớn hơn trong những lĩnh vực như y tế, giáo dục, phúc lợi, giao thông, gia cư và phát triển đô thị. Do đó, bất cứ nơi nào Chính quyền liên bang hành xử các chức trách trong lãnh thổ tiểu bang, các chương trình thường được duyệt xét trên căn bản hợp tác giữa hai cấp chính quyền hơn là một sự áp đặt từ bên trên.
Giống chính quyền quốc gia, chính quyền tiểu bang cũng có ba nhánh: hành pháp, lập pháp và tư pháp; có sự tương đồng rất lớn trong chức năng và mục tiêu giữa chính quyền tiểu bang và Chính quyền liên bang. Chức danh đứng đầu nhánh hành pháp tiểu bang là thống đốc, được bầu theo cách phổ thông đầu phiếu, thường là theo nhiệm kỳ bốn năm (trong một vài tiểu bang, nhiệm kỳ này chỉ kéo dài hai năm). Ngoại trừ bang Nebraska theo thể chế độc viện, nhánh lập pháp của các tiểu bang còn lại đều là lưỡng viện, với viện trên gọi là Thượng viện và viện dưới gọi là Viện Dân biểu, Viện Đại biểu hoặc Đại hội đồng. Một số tiểu bang còn gọi toàn bộ nhánh lập pháp của mình, bao gồm hai viện, là "Đại hội đồng", làm cho sự việc trở nên rắc rối hơn. Trong hầu hết các tiểu bang, thượng nghị sĩ phục vụ theo nhiệm kỳ bốn năm trong khi thành viên hạ viện có nhiệm kỳ kéo dài hai năm.
Hiến pháp của các tiểu bang khác nhau trong một số chi tiết, nhưng nhìn chung tuân theo một mô thức tương tự với hiến pháp liên bang, gồm có một tuyên ngôn về quyền của người dân và một phác đồ tổ chức chính quyền. Về các lĩnh vực như điều hành doanh nghiệp, ngân hàng, tiện ích công cộng, và các định chế từ thiện, hiến pháp các tiểu bang có những quy định rõ ràng và chi tiết hơn hiến pháp liên bang. Mỗi bản hiến pháp tiểu bang đều tuyên bố thẩm quyền tối thượng thuộc về nhân dân, và thiết lập các tiêu chuẩn và nguyên tắc nền tảng cho chính quyền.
Chính quyền Thành phố
Từng là một nước nông nghiệp, ngày nay Hoa Kỳ là một quốc gia đã đô thị hoá cao độ. Có đến 80% dân số hiện sống ở các thị trấn, thành phố lớn, hoặc ở khu ngoại ô của các đô thị. Con số thống kê này nói lên tầm quan trọng của chính quyền các thành phố trong bức tranh toàn cảnh của chính quyền Mỹ. Ở mức độ cao hơn chính quyền cấp liên bang hoặc cấp tiểu bang, thành phố trực tiếp đáp ứng các loại nhu cầu cho người dân, cung ứng mọi thứ từ lực lượng cảnh sát và lính cứu hoả đến luật lệ, quy định về vệ sinh, y tế, giáo dục, giao thông công cộng và gia cư.
Công việc điều hành những thành phố lớn là cực kỳ phức tạp. Thành phố New York có số cư dân đông hơn 41 trong tổng số 50 tiểu bang của nước Mỹ. Người ta nói rằng, chỉ sau chức vụ tổng thống, vị trí hành pháp khó khăn nhất là thị trưởng thành phố New York.
Chính quyền thành phố được thiết lập bởi tiểu bang, được quy định chi tiết về mục tiêu và thẩm quyền, nhưng trong nhiều phương diện các thành phố được vận hành độc lập với tiểu bang. Tuy nhiên, hầu hết thành phố trên đất nước này xem sự cộng tác với các cơ quan của tiểu bang và liên bang là yếu tố nền tảng hầu có thể đáp ứng các nhu cầu của người dân.
Mô hình của các chính quyền thành phố hiện hữu rải rác trên khắp đất nước là đa dạng, mặc dù hầu hết đều thiết lập một loại hình hội đồng trung ương, được cử tri bầu ra, và một viên chức hành pháp, được hỗ trợ bởi những người đứng đầu sở, ngành, để điều hành các loại sự vụ của thành phố.
Có ba mô hình chính cho chính quyền thành phố: thị trưởng- hội đồng, uỷ ban, hội đồng- nhà điều hành. Hiện có nhiều thành phố phát triển các mô hình tổng hợp từ hai hoặc ba mô hình trên.
Thị trưởng- Hội đồng. Đây là mô hình chính quyền thành phố lâu đời nhất hiện hữu ở Hoa Kỳ, cho đến đầu thế kỷ 20 vẫn được áp dụng tại hầu hết các thành phố ở đây. Cơ cấu của nó tương tự với chính quyền tiểu bang và quốc gia, với một thị trưởng được cử tri tuyển chọn để đảm nhiệm vị trí đứng đầu nhánh hành pháp, và một hội đồng, thông qua quy trình bầu cử đại diện các khu vực dân cư khác nhau, cấu thành nhánh lập pháp. Thị trưởng chỉ định những người đứng đầu các sở ngành cùng các viên chức khác, đôi khi cần có sự phê chuẩn của hội đồng. Thị trưởng có quyền phủ quyết các đạo luật của thành phố, thường trực chịu trách nhiệm về ngân sách thành phố. Hội đồng thông qua các dự luật, định mức thuế tài sản và phân bổ ngân sách cho các sở ngành.
Ủy ban. Mô hình này kết hợp các chức năng lập pháp và hành pháp vào một nhóm các viên chức, thường là ba người hoặc hơn, được cử tri toàn thành phố tuyển chọn qua bầu cử. Mỗi uỷ viên giám sát sự vụ của một số sở ngành của thành phố. Nhân vật được chỉ định làm chủ toạ ủy ban thường được gọi là thị trưởng, dù quyền hạn của người này cũng chỉ ngang bằng các uỷ viên khác.
Hội đồng- Nhà điều hành. Mô hình nhà điều hành thành phố là một giải pháp nhằm đáp ứng tình hình ngày càng trở nên phức tạp của các vấn nạn đô thị, đòi hỏi kỹ năng cao của nhà chuyên môn mà không thể tìm thấy nơi các viên chức dân cử. Điều cần làm là tin cậy và uỷ thác các quyền hành pháp, gồm quyền thi hành pháp luật và cung ứng các loại dịch vụ công, cho một nhà điều hành chuyên nghiệp, nhiều kinh nghiệm và được đào tạo tốt.
Mô hình này ngày càng được nhiều thành phố chấp nhận. Theo đó, một hội đồng được dân bầu ra với một ít nghị viên, ban hành luật và thiết lập chính sách cho thành phố, rồi thuê một nhà quản trị được trả lương, gọi là nhà điều hành thành phố, thực thi các nghị quyết của hội đồng. Nhà điều hành sẽ thiết kế ngân sách thành phố và giám sát hầu hết các sở ngành. Thường thì không có nhiệm kỳ cố định; bao lâu hội đồng thành phố còn hài lòng với công việc của nhà điều hành thì người ấy còn duy trì vị trí của mình.
Chính quyền Quận
Quận là một bộ phận của tiểu bang, mỗi quận thường có hai hoặc ba thị trấn và một vài xã. Cấu trúc mô phỏng theo chính quyền thành phố là mô hình phổ biến giống như Quận Mineral, tiểu bang Tây Virginia.
Trong hầu hết các quận ở Hoa Kỳ, một thị trấn hoặc thành phố được chỉ định làm quận lỵ, ở đây tọa lạc các văn phòng chính quyền, cũng là nơi ban uỷ viên hoặc ban giám sát hội họp. Tại các quận nhỏ, thành viên uỷ ban được cử tri toàn quận bầu chọn, trong khi ở các quận lớn, thành viên đại diện cho các khu vực hoặc thị trấn riêng biệt. Ủy ban chịu trách nhiệm đánh thuế; vay mượn và phân bổ tài chính; ấn định mức lương cho nhân viên của quận; giám sát các cuộc bầu cử; xây dựng và bảo trì xa lộ và cầu cống; và quản lý các chương trình phúc lợi cấp quận, tiểu bang và quốc gia. Tại một số tiểu bang ở vùng New England, quận không có chức năng chính quyền, mà chỉ đơn giản là một sự phân chia địa giới.
Chính quyền Thị trấn, Xã
Hiện có hàng ngàn đơn vị hành chính trong các đô thị. Chúng quá nhỏ để có thể gọi là chính quyền thành phố, nên được gọi là thị trấn hoặc xã với chức năng giải quyết các nhu cầu của địa phương như lót lề đường, chiếu sáng đường phố; bảo đảm nguồn cung cấp nước; cung ứng lực lượng cảnh sát và cứu hoả; thiết lập các quy định y tế địa phương; vận chuyển và xử lý rác, cống thoát và các loại chất thải; thu thuế để tài trợ các hoạt động của chính quyền; hợp tác với quận và tiểu bang để quản lý hệ thống trường học tại địa phương. Cần lưu ý rằng trong nhiều tiểu bang, từ "thị trấn" không có ý nghĩa đặc biệt nào - chỉ là một từ không chính thức áp dụng cho một khu dân cư (có thể là một phần của đô thị hoặc không). Trong một số tiểu bang, từ "thị trấn" là từ tương đương với xã dân sự (civil township) được dùng trong các tiểu bang khác.
Ở đây, chính quyền thường được uỷ thác cho một uỷ ban hoặc hội đồng dân cử, được biết với các tên khác nhau: hội đồng thị trấn hoặc xã, ban dân biểu, ban giám sát, ban uỷ viên. Ủy ban này có thể có một chủ tọa hoặc chủ tịch với chức năng của một viên chức lãnh đạo hành pháp, hoặc là một thị trưởng. Nhân sự chính quyền có thể có một thư ký, thủ quỹ, các nhân viên cảnh sát, cứu hoả, y tế và phúc lợi.
Một khía cạnh độc đáo của chính quyền địa phương, được tìm thấy ở nhiều nơi trong vùng New England, là "kỳ họp thị trấn". Mỗi năm một lần - có thể triệu tập nhiều kỳ họp nếu cần - cử tri có đăng ký trong thị trấn họp với các viên chức dân cử, thảo luận về các vấn đề của địa phương, và thông qua luật để điều hành chính quyền. Các kỳ họp này quyết định về các dự án xây dựng và sửa chữa đường sá, xây dựng các tòa nhà và các tiện ích công cộng, định mức thuế và ngân sách thị trấn. Kỳ họp thị trấn, tồn tại từ hơn hai thế kỷ, thường được nhắc đến như là mô hình tinh tuyền nhất của nền dân chủ trực tiếp, theo đó quyền lực cai trị không được uỷ thác cho các viên chức dân cử, mà được hành xử trực tiếp và thường xuyên bởi nhân dân.
Các cấp chính quyền khác
Các mô hình Chính quyền liên bang, tiểu bang và địa phương nêu trên không phải là toàn bộ đơn vị chính quyền tại Hoa Kỳ. Văn phòng Thống kê Hoa Kỳ (thuộc Bộ Thương mại) đã nhận diện được không ít hơn 84.955 đơn vị chính quyền ở Hoa Kỳ, bao gồm quận, thành phố, thị trấn, khu học chính và đặc khu.
Người dân Mỹ uỷ thác cho chính quyền các cấp thực thi các sứ mạng mà trong những ngày đầu của nền cộng hòa, người dân phải tự làm. Trong thời kỳ thuộc địa, chỉ có một ít cảnh sát và lính cứu hỏa, ngay cả tại các thành phố lớn; chính quyền không phải chịu trách nhiệm thắp sáng hay vệ sinh đường phố. Ở quy mô lớn, người dân phải tự bảo vệ tài sản và chăm sóc các nhu cầu của gia đình mình.
Ngày nay, việc đáp ứng các nhu cầu này được xem là trách nhiệm của toàn thể cộng đồng, được thực thi thông qua các cơ quan chức năng của chính quyền các cấp. Ngay cả tại các thị trấn nhỏ, các chức trách về cảnh sát, cứu hỏa, phúc lợi và y tế đều do chính quyền đảm trách. Do đó xuất hiện vô số tầng nấc về thẩm quyền.
Quyền Bầu cử
Quyền bầu cử dành cho mọi công dân từ 18 tuổi trở lên. Trong tất cả 50 tiểu bang, kể cả Đặc khu Columbia, đều có phiếu cử tri đoàn cho tiến trình bầu chọn tổng thống. Tuy nhiên, Đặc khu Columbia, và một số lãnh thổ khác của Hoa Kỳ như Puerto Rico và Guam, không có quyền đại diện tại Quốc hội. Mỗi khu thịnh vượng chung, lãnh thổ, hoặc hạt chỉ được bầu một đại biểu không có quyền bầu phiếu phục vụ tại Viện Dân biểu (Hạ viện).
Quyền bầu cử có thể bị hạn chế trong trường hợp phạm tội (những quy định như thế thường khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi tiểu bang).
Yếu tố đặc biệt quan trọng trong chính trường Hoa Kỳ, nhất là ở cấp liên bang, là muốn thành công trong các cuộc tuyển cử cần phải có nhiều tiền, đặc biệt là những khoản chi tiêu lớn cho quảng cáo trên truyền hình. Rất khó gây quỹ bằng cách kêu gọi sự quyên góp từ quần chúng, mặc dù Đảng Cộng hoà đã từng có một vài thành công như trường hợp của Howard Dean với chương trình vận động trên Internet. Thường thì cả hai đảng đều dựa vào những tổ chức và những nhà tài trợ giàu có – theo truyền thống, Đảng Dân chủ phụ thuộc vào những khoản tặng dữ từ các tổ chức nghiệp đoàn trong khi Đảng Cộng hoà trông cậy vào giới doanh nghiệp. Tuy nhiên, kể từ năm 1984, ngân quỹ quyên góp được từ giới doanh nghiệp vượt quá các tổ chức nghiệp đoàn. Sự phụ thuộc vào các nhà tài trợ, là một vấn đề gây nhiều tranh cãi, đã dẫn đến việc ban hành một số luật lệ nhằm hạn chế chi tiêu trong các chiến dịch tranh cử. Đây là một vấn đề phức tạp khi giải thích Hiến pháp, những người chống đối các đạo luật hạn chế viện dẫn quyền tự do ngôn luận trong Tu chính án thứ nhất, và tìm cách thách thức chúng vì cho rằng chúng hạn chế quyền hiến định của họ. Ngay cả nếu những luật này được tán thành, sự phức tạp nảy sinh khi áp dụng chúng sao cho phù hợp với Tu chính án thứ nhất đòi hỏi sự cẩn trọng và dè dặt khi soạn các pháp qui khiến chúng bị hạn chế nhiều nếu so sánh với quy trình này ở các quốc gia khác như Anh, Pháp hoặc Canada. Nhiều người cho rằng trong khi tập tục gây quỹ là chuyện bình thường ở Mỹ thì ở những nước khác điều này được xem là những ung nhọt chính trị.
Văn hóa chính trị
Bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp, Đạo luật về các Quyền Công dân, cùng những tác phẩm của các Nhà Lập Quốc (Founding Father), được xem là những định nghĩa cho ý thức hệ cầm quyền của đất nước, được giảng dạy tại các trường học ở Hoa Kỳ. Trong số những ý tưởng căn cốt của ý thức hệ này có:
Chính quyền chịu trách nhiệm trước công dân. Công dân có thể thay đổi chính quyền thông qua các cuộc bầu cử.
Quyền lực của chính quyền trong các lĩnh vực như tôn giáo, ngôn luận, và thi hành luật pháp cần bị hạn chế nhằm ngăn chặn nguy cơ lạm dụng quyền lực.
Luật pháp không được gắn kết với đặc quyền của bất kỳ công dân nào (nghĩa là, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật).
Các cá nhân và các đảng chính trị có quyền thảo luận về cách áp dụng ý thức hệ nêu trên vào các hoàn cảnh riêng biệt, và có quyền công khai bất đồng ý kiến với bất kỳ điều khoản nào của ý thức hệ này.
Trong thời kỳ lập quốc, nước Mỹ là một nền kinh tế với doanh nghiệp tư nhân là thành phần chủ đạo nên chính quyền các tiểu bang dành khu vực phúc lợi cho những sáng kiến tư nhân hoặc địa phương. Nhìn chung, Chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận một hệ thống các doanh nghiệp tư và chống lại chủ trương chi tiêu rộng rãi nhằm hỗ trợ người dân, mặc dù những kinh nghiệm có được từ cuộc Đại Suy thoái thách thức cả hai quan điểm này. Kết quả là, về mặt ý thức hệ, nước Mỹ có khuynh hướng thiên về chủ nghĩa tư bản dân chủ, đối nghịch với các nền văn hoá thiên về khuynh hướng dân chủ xã hội ở Âu châu và Canada.
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ theo đuổi chính sách cô lập trong các vấn đề đối ngoại bằng cách không đứng về phe nào khi xảy ra các cuộc tranh chấp. Mặc dù đã từ bỏ chủ trương này sau khi trở nên một siêu cường, người Mỹ vẫn tỏ ra hoài nghi với chủ nghĩa quốc tế. Ý thức hệ của tổng thống đương nhiệm và các cố vấn của ông là yếu tố quyết định cho thái độ của chính quyền trong lĩnh vực ngoại giao.
Các chính đảng
[[Tập tin:U.S. party affiliation.svg|nhỏ|200px|phải|Số lượng cử tri đăng ký theo chính đảng năm 2004 (Dân chủ: 72 triệu, Cộng hòa: 55 triệu, cử tri độc lập: 42 triệu.<ref name="Neuhart, P. (22 January, 2004). Why politics is fun from catbirds' seats. USA Today'''.">{{chú thích web|url=http://www.usatoday.com/news/opinion/columnist/neuharth/2004-01-22-neuharth_x.htm|title=Neuhart, P. (22 January, 2004). Why politics is fun from catbirds' seats. USA Today'.|access-date = ngày 11 tháng 7 năm 2007}}</ref>]]
Nhiều người trong số các nhà lập quốc không thích nghĩ đến các đảng phái chính trị, cho rằng các phe nhóm sẽ quan tâm đến việc tranh giành quyền lợi hơn là vì lợi ích quốc gia. Họ muốn cử tri bầu phiếu cho các ứng viên độc lập mà không cần có sự can thiệp của các nhóm có tổ chức – nhưng điều này đã không xảy ra.
Trong thập niên 1790, bùng nổ các quan điểm khác nhau về một lộ trình đúng cho tiến trình xây dựng đất nước còn non trẻ này. Những người ủng hộ Alexander Hamilton, liên kết với nhau dưới tên "Phái Liên bang", chọn mô hình chính quyền trung ương tập trung nhiều quyền lực nhằm hỗ trợ những lợi ích của giới công thương. Những người khác theo Thomas Jefferson, chống cánh Liên bang, chọn cho mình tên "Cộng hoà-Dân chủ", chủ trương một nước cộng hoà nông nghiệp phân quyền, theo đó chính quyền liên bang chỉ có quyền lực hạn chế. Khoảng năm 1828, cánh "Liên bang" biến mất, được thay thế bởi Đảng Whig, trở nên thành phần đối lập với Tổng thống Andrew Jackson trong cuộc bầu cử tổ chức trong năm. Việc Jackson đắc cử gây chia rẽ trong đảng Cộng hoà-Dân chủ: những người ủng hộ Jackson thành lập Đảng Dân chủ trong khi những người theo John Quincy Adams thành lập Đảng Cộng hoà Quốc gia. Hệ thống lưỡng đảng, tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay, đã được hình thành vào lúc này. Như thế Hoa Kỳ, như một ngoại lệ, đã có những đảng chính trị lâu đời.
Trong thập niên 1850, vấn đề nô lệ trở nên điểm nóng trên chính trường Mỹ, với những bất đồng về việc liệu có nên cho phép chế độ nô lệ tồn tại trên nhưng lãnh thổ tân lập ở miền Tây hay không. Đảng Whig vì không thể thống nhất lập trường nên cuối cùng bị khai tử và được thay thế bởi Đảng Cộng hoà trong năm 1854, đảng này chủ trương hoàn toàn loại bỏ chế độ nô lệ. Chỉ trong vòng sáu năm, đảng chính trị tân lập này giành được ghế tổng thống khi Abraham Lincoln đắc thắng trong cuộc tuyển cử năm 1860. Đến lúc ấy, các chính đảng đã thiết lập cho mình vị trí chủ đạo trong nền chính trị của đất nước, và sự trung thành với một đảng chính trị đã trở nên một phần quan trọng trong ý thức chính trị của ngườI dân. Lòng trung thành này được truyền từ cha sang con, và các hoạt động đảng phái như tham gia các cuộc vận động bầu cử, thường kết thúc với các cuộc diễu hành của các nhóm mặc đồng phục và các buổi rước đuốc, là một phần trong cuộc sống xã hội tại nhiều cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, đến thập niên 1920, những tập quán dân dã này đã tàn lụi dần. Những cải cách đô thị, dịch vụ công, những vụ tham ô, và những cuộc bầu cử sơ bộ đã thay thế quyền lực của các chính trị gia tại các đại hội toàn quốc đã giúp tẩy sạch nền chính trị - và khiến nó bớt sôi động hơn.
Làm sao mà hệ thống lưỡng đảng phát triển trên đất nước Mỹ? Lâu rồi trong lịch sử, nước Mỹ đã từng có nhiều chính đảng nhỏ, cũng từng có đảng thứ ba, một số có được sự ủng hộ đáng kể như Đảng Xã hội, Đảng Lao động Nông gia và Đảng Đại chúng, dù không thu được kết quả khả quan nào từ các cử tri đoàn.
Lăng kính chính trị của hai đảng chính
Trong hạ bán thế kỷ 20, triết lý chính trị của cả đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ đã thay đổi triệt để. Từ thập niên 1860 đến thập niên 1950, đảng Cộng hoà được xem là có khuynh hướng tự do hơn, trong khi đảng Dân chủ được cho là có chủ trương bảo thủ.
Nhưng hình ảnh này đã thay đổi kể từ nhiệm kỳ tổng thống của Franklin D. Roosevelt, chính sách New Deal của ông với sự hình thành hệ thống An sinh Xã hội cũng như các dự án dịch vụ và việc làm khác của chính quyền liên bang đã giúp hồi sinh đất nước tiếp theo sau những thiệt hại gây ra bởi cuộc Đại Suy thoái năm 1929. Những thành công của Roosevelt khi đối phó với hai cuộc khủng hoảng xảy ra cùng một lúc, Đại Suy thoái vàChiến tranh thế giới thứ hai, đã dẫn đến hiện tượng phân cực trong chính trường nước Mỹ, xoay quanh cá nhân tổng thống; điều này kết hợp khuynh hướng tự do đang gia tăng ảnh hưởng của tổng thống khiến đảng Dân chủ càng ngả về phía tả, trong khi đảng Cộng hoà càng trở nên hữu khuynh.
Suốt thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, cả hai đảng đều bày tỏ lập trường trung dung và để các nhóm bảo thủ, ôn hoà và tự do tạo lập ảnh hưởng đồng đều trong đảng.
Sau cuộc bầu cử tổng thống năm 1964, cánh bảo thủ chiếm ưu thế trong đảng Cộng hoà, trong khi cánh tự do kiểm soát đảng Dân chủ. Tiến trình này xảy ra cùng lúc với việc nhiều đảng viên Dân chủ chuyển sang đảng Cộng hoà vì chống đối Đạo luật Dân quyền năm 1964, hiện tượng này giúp đẩy mạnh Chiến lược miền Nam của Richard M. Nixon trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1968.
Sau đó, cánh tự do và cánh bảo thủ trong đảng Dân chủ cạnh tranh với nhau cho đến năm 1972 khi việc đề cử George McGovern đóng dấu chiến thắng cho cánh tự do. Tình trạng tương tự xảy ra bên trong đảng Cộng hoà cho đến khi Ronald Reagan nhận được sự đề cử rồi chiến thắng vẻ vang trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1980, chứng minh ưu thế của cánh bảo thủ.
Những hàn gắn chính trị hoàn tất sau cuộc bầu cử năm 1980 giúp củng cố sự đồng thuận trong mỗi đảng.
Những người có khuynh hướng tự do bên trong Đảng Cộng hoà và những người bảo thủ bên trong Đảng Dân chủ cùng những người tân tự do có tên trong Hội đồng Lãnh đạo Dân chủ thủ giữ vai trò biểu trưng cho giới đảng viên có tư tưởng độc lập, chủ trương trung tả, hoặc tìm cách hoà giải giữa hai chính đảng. Họ giúp chiếm được những vị trí dân cử trong những khu vực trước đây đảng của họ khó tìm được chiến thắng; Đảng Cộng hoà ứng dụng đối sách này với những đảng viên có khuynh hướng tự do như Rudy Giuliani, George Pataki, Richard Riordan và Arnold Schwarzenegger.
Cơ cấu tổ chức của các chính đảng
Không giống các quốc gia khác, cơ cấu tổ chức của các đảng chính trị tại Mỹ rất lỏng lẻo. Đối với hai đảng chính, không có thiết chế nào ở cấp quốc gia có chức năng kiểm soát số đảng viên, các hoạt động của đảng, hoặc quan điểm chính trị, mặc dù ở cấp tiểu bang có một số cơ quan đảm nhiệm công việc này. Như vậy, khi một người Mỹ nói rằng anh ta là đảng viên Dân chủ hay Cộng hoà, điều này có ý nghĩa khác với việc một người Anh tự nhận mình thuộc đảng Lao động hoặc Bảo thủ. Tại các tiểu bang, một cử tri có thể đăng ký là thành viên đảng này hay đảng kia, hoặc bầu cho đảng này hay đảng kia trong cuộc bầu cử sơ bộ, nhưng sự tham gia ấy không hề hạn chế sự chọn lựa của người ấy; cũng không dành cho người ấy bất cứ đặc quyền hoặc nghĩa vụ nào liên quan đến đảng phái. Hôm nay người ấy có thể chọn đến dự một buổi hội họp của uỷ ban địa phương của một đảng, ngày mai lại đến dự họp tại một đảng khác.
Sự tham gia đảng phái được quan tâm đến khi một người muốn tranh một chức vụ được đảng giới thiệu. Tại hầu hết các tiểu bang, điều này có nghĩa là khi tuyên bố tranh sự đề cử của một đảng để tham gia cuộc bầu cử sơ bộ cho một chức vụ dân cử. Một uỷ ban của đảng sẽ chọn và ủng hộ một trong số những người tranh sự đề cử, nhưng cuối cùng thì sự chọn lựa phụ thuộc vào các cử tri đi bầu trong cuộc bầu cử sơ bộ, thường thì không dễ xác định thành phần cử tri chịu đi đến phòng phiếu.
Đo đó, các chính đảng ở Mỹ chấp nhận một cơ cấu yếu ở trung ương cũng như thường tập trung vào các nỗ lực xây dựng sự đồng thuận hơn là quan tâm đến các vấn đề ý thức hệ. Các chính đảng không có quyền ngăn cản một người gia nhập đảng khi người ấy bất đồng với quan điểm đa số trong đảng, hoặc hoạt động tích cực chống lại các mục tiêu của đảng, miễn là cử tri chọn người ấy trong các cuộc bầu cử sơ bộ.
Ở cấp liên bang, cả hai đảng chính đều có uỷ ban quốc gia (Xem Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủ và Ủy ban Quốc gia Đảng Cộng hoà) với chức năng chính là gây quỹ và điều hành các chiến dịch tranh cử, đặc biệt trong các cuộc bầu cử tổng thống. Có khác biệt đôi chút trong thành phần uỷ ban của mỗi đảng, nhưng chủ yếu vẫn là đại biểu của các đảng bộ tiểu bang, các tổ chức hữu quan, cùng các nhân vật quan trọng trong mỗi đảng. Tuy nhiên, uỷ ban quốc gia không có quyền chỉ đạo các hoạt động của đảng viên.
Dù mỗi đảng đều có chủ tịch, chức danh này không được xem là "lãnh tụ" đảng, trong thực tế không dễ gì xác định vị trí lãnh đạo trong các đảng chính trị tại Hoa Kỳ. Lãnh tụ đảng thường khi là người có khả năng thuyết phục các đảng viên đi theo sự dẫn dắt của mình. Các nhà lãnh đạo trong thực tế của đảng thường là những đảng viên đang nắm giữ những vị trí cao trong chính quyền như tổng thống hoặc lãnh đạo phe đa số ở Viện Dân biểu hoặc ở Thượng viện. Tuy nhiên, vị trí lãnh đạo ấy chỉ có giá trị khi người này có được sự ủng hộ của các đảng viên. Chính thức thì tổng thống đương nhiệm được xem là người đứng đầu đảng của mình, cũng là người chọn chủ tịch uỷ ban quốc gia. Tương tự, ứng cử viên tổng thống của đảng đối lập trong năm bầu cử cũng được xem là nhà lãnh đạo đảng.
Cả hai đảng đều thành lập cho mình uỷ ban vận động, điều hành tiến trình bầu chọn ứng cử viên tại các cấp khác nhau. Quan trọng nhất là Ủy ban Đồi Capitol (Hill Committee), tuyển chọn ứng viên cho Quốc hội.
Các nhóm Áp lực Chính trị
Đó là những nhóm quyền lợi đặc biệt. Theo đó, các tổ chức doanh nghiệp sẽ ủng hộ mức thuế thấp dành cho công ty và hạn chế quyền đình công trong khi các nghiệp đoàn sẽ ủng luật quy định mức lương tối thiểu và bảo vệ quyền đàm phán tập thể. Những nhóm quyền lợi khác – như các tổ chức tôn giáo và các nhóm chủng tộc – quan tâm nhiều hơn về việc ban hành những chính sách có thể ảnh hưởng đến niềm tin hoặc tổ chức của họ.
Một mô hình nhóm quyền lợi đặc biệt hiện đang phát triển cả về số lượng và ảnh hưởng trong những năm gần đây là loại hình ủy ban hành động chính trị (political action committee – PAC). Đó là những nhóm độc lập, được tổ chức nhằm phục vụ một hoặc nhiều mục tiêu ví dụ như đóng góp tài chính cho các chiến dịch chính trị trong các cuộc bầu cử quốc hội hoặc tổng thống. Luật pháp hạn chế số tiền đóng góp trực tiếp cho các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử liên bang, nhưng không hạn chế số tiền các ủy ban hoạt động chính trị chi tiêu cho việc cổ xuý một quan điểm chính trị hoặc vận động bầu các ứng cử viên vào các chức vụ dân cử. Ngày nay, con số các uỷ ban này lên đến hàng ngàn.
Tác giả cuốn sách xuất bản năm 1998, The Good Citizen: A History of American Civic Life'', Michael Schudson viết, "Các chính đảng hiện đang bị đe dọa bởi số lượng những nhóm quyền lợi đang mọc nhiều như nấm, ngày càng có nhiều nhóm hơn đang điều hành các văn phòng ở Washington, D.C., có mặt thường xuyên tại quốc hội cùng các cơ quan liên bang. Nhiều tổ chức tìm kiếm sự ủng hộ tinh thần và tài chính từ các công dân bình thường. Bởi vì có nhiều nhóm trong số họ tập chú vào một phạm vi hẹp các vấn đề đang được quan tâm, hoặc có khi chỉ một vấn đề, thường là điểm nóng dễ gây xúc động trong quần chúng, họ đang cạnh tranh với các chính đảng trong việc tranh thủ tình cảm, thì giờ và tiền bạc của cử tri".
Các nhóm quyền lợi đặc biệt ngày càng chi tiêu nhiều hơn khi các cuộc vận động ngày càng trở nên tốn kém. Nhiều người Mỹ có cảm giác rằng quyền lợi của giới giàu có – các công ty hay nghiệp đoàn hoặc các ủy ban hoạt động chính trị được tổ chức nhằm vận động cho một quan điểm đặc biệt nào đó – đã có quá nhiều quyền lực đến nỗi các công dân bình thường khó có thể làm gì để kháng cự lại.
Chú thích |
Các định luật là các phát biểu mô tả hoặc dự đoán một loạt các hiện tượng tự nhiên. Mỗi định luật khoa học là một tuyên bố dựa trên những quan sát thử nghiệm lặp đi lặp lại mô tả một số khía cạnh của vũ trụ. Thuật ngữ này có cách sử dụng đa dạng trong nhiều trường hợp (lý thuyết gần đúng, chính xác, rộng hoặc hẹp) trên tất cả lĩnh vực khoa học tự nhiên (vật lý, hóa học, sinh học, địa chất, thiên văn học,...). Các định luật khoa học tóm tắt và giải thích một tập hợp lớn các sự kiện được xác định bằng thí nghiệm và được kiểm tra dựa trên khả năng dự đoán kết quả của các thí nghiệm trong tương lai. Chúng được phát triển từ thực tế hoặc thông qua toán học và được hỗ trợ mạnh mẽ bởi bằng chứng thực nghiệm. Người ta thường hiểu rằng chúng phản ánh các mối quan hệ nhân quả cơ bản với thực tế, và được phát hiện chứ không phải được phát minh.
Định luật phản ánh kiến thức khoa học rằng các thí nghiệm đã nhiều lần xác minh (và không bao giờ làm sai lệch). Độ chính xác của chúng không thay đổi khi các lý thuyết mới được thực hiện, mà là phạm vi áp dụng, vì phương trình (nếu có) đại diện cho luật không thay đổi. Cũng như các kiến thức khoa học khác, chúng không có sự chắc chắn tuyệt đối (như các định lý hoặc định danh toán học làm) và luôn luôn có thể luật bị đảo ngược bởi các quan sát trong tương lai. Một luật thường có thể được xây dựng dưới dạng một hoặc một số câu hoặc phương trình, để nó có thể được sử dụng để dự đoán kết quả của một thí nghiệm, do hoàn cảnh của các quá trình diễn ra.
Định luật khác với giả thuyết và định đề, được đề xuất trong quá trình khoa học trước và trong khi xác thực bằng thí nghiệm và quan sát. Các giả thuyết và định đề không phải là luật vì chúng chưa được xác minh ở cùng mức độ và có thể không đủ chung chung, mặc dù chúng có thể dẫn đến việc xây dựng luật. Một luật là một tuyên bố chính thức và vững chắc hơn, được chắt lọc từ thí nghiệm lặp đi lặp lại. Luật pháp có phạm vi hẹp hơn so với các lý thuyết khoa học, có thể chứa một hoặc một số luật. Khoa học phân biệt một định luật hoặc lý thuyết với thực tế. Gọi một định luật là một thực tế là mơ hồ, nói quá hoặc một sự không tương xứng. Mặc dù bản chất của một quy luật khoa học là một câu hỏi trong triết học và mặc dù các quy luật khoa học mô tả bản chất về mặt toán học, các định luật khoa học là những kết luận thực tế đạt được bằng phương pháp khoa học; chúng được dự định không mang nặng các cam kết về bản thể học cũng như các tuyên bố về sự tuyệt đối hợp lý.
Theo sự thống nhất của luận án khoa học, tất cả định luật khoa học đều tuân theo căn bản từ vật lý. Các luật xảy ra trong các ngành khoa học khác cuối cùng cũng tuân theo các quy luật vật lý. Thông thường, từ các quan điểm cơ bản về mặt toán học, các hằng số phổ biến xuất hiện từ một định luật khoa học. |
Di Hoà viên (giản thể: 颐和园; phồn thể: 頤和園; bính âm: Yíhé Yuán) là cung điện được xây dựng từ thời nhà Thanh, nằm cách Bắc Kinh 15 km về hướng tây bắc. Di Hoà viên (nghĩa đen là "vườn nuôi dưỡng sự ôn hòa") đến nay vẫn còn được bảo tồn tốt. Nơi đây nổi tiếng về nghệ thuật hoa viên truyền thống của Trung Quốc.
Lịch sử
Di Hoà viên có lịch sử tồn tại trên 800 năm với nhiều tên gọi khác nhau. Đầu đời nhà Tấn, một cung điện tên là Kim Sơn cung đã được xây dựng tại nơi mà ngày nay là Di Hoà viên. Năm 1750, Càn Long Đế xây Thanh Y viên tại khu vực này để mừng sinh nhật mẹ ông.
Năm 1860, trong Chiến tranh Nha Phiến, liên quân Anh - Pháp bắn phá khiến Thanh Y viên bị hư hại nặng. Khoảng 28 năm sau, Từ Hi Thái hậu lấy ngân quỹ vốn dùng để hiện đại hóa hải quân ra trùng tu hoa viên trong vòng 10 năm và đặt tên là Di Hoà viên.
Năm 1900, trong loạn Quyền Phỉ, liên quân 8 nước lại phá hoại hoa viên lần nữa. Khi Từ Hi Thái hậu hồi cung tại Bắc Kinh năm 1903, bà cho đại trùng tu hoa viên.
Kiến trúc
Hai cảnh nổi bật ở Di Hoà viên là Vạn Thọ sơn và hồ Côn Minh. Hoa viên rộng 294 mẫu, trong đó diện tích hồ chiếm 220 mẫu. Vườn chia làm ba khu vực: khu hành chính (chủ yếu là Nhân Thọ Điện - nơi Từ Hi tiếp các quan lại và giải quyết quốc sự), khu nghỉ ngơi (gồm các điện và vườn hoa) và khu phong cảnh.
Di Hoà viên là một công viên nằm ở phía tây Bắc Kinh, diện tích khoảng 290 hécta, trong đó 3/4 là diện tích mặt nước. Đây là khu vui chơi giải trí nổi tiếng dành riêng cho hoàng gia của các triều đại Trung Hoa.
Lịch sử đã ghi nhận, khu công viên này được hình thành từ triều Kim (1115 - 1234). Tại đây các vị hoàng đế nhà Kim đã dựng lên vô số những hành cung nguy nga và những khu giải trí cực kỳ xa xỉ. Từ đó các triều đại tiếp nối nhau xây thêm nhiều công trình hoành tráng khác. Đến đời Vua Càn Long (1736-1796) nhà Thanh, quy mô khu công viên không những đã mở rộng một cách đáng kể, mà còn được xây thêm nhiều công trình mới, và đổi tên là Thanh Ý viên. Năm 1860 liên quân Anh - Pháp tấn công Bắc Kinh đã tràn vào đây cướp bóc, đốt phá khiến Thanh Ý viên tan hoang.
Năm 1888, Từ Hy Thái Hậu đã lấy 500 vạn lạng bạc vốn dĩ dùng để xây dựng hải quân, trùng tu lại Thanh Ý viên thành một công viên tráng lệ, và đổi tên thành Di Hoà viên (khu vườn di dưỡng tinh thần). Di Hoà viên mà ta thấy ngày nay chính là những gì được tạo ra từ lần trùng tu này.
Nổi bật ở chính khu trung tâm là Phật Hương các, một ngôi chùa nhiều tầng nguy nga lộng lẫy nằm trong khu Vạn Thọ sơn, nơi để Từ Hy niệm Phật. Dưới chân Vạn Thọ sơn là hồ Côn Minh bao la gợn sóng. Một bến thuyền có hình dáng là một chiếc thuyền làm bằng đá nhô ra mặt hồ, ngay dưới Phật Hương các là nơi đón du khách lên thuyền dạo trên hồ. Men theo bờ hồ là một dãy hành lang dài 728 mét gồm nhiều gian, mỗi gian được kiến trúc khác nhau với những hình vẽ vô cùng tinh xảo mang đậm tính nghệ thuật Trung Hoa... Giữa hồ Côn Minh là hòn đảo nhỏ được nối với bờ bằng một chiếc cầu vồng làm bằng đá gồm 77 nhịp có tên là Thập Thất Khổng kiều. Cho tới ngày nay, Di Hoà viên vẫn được coi là một trong những công viên đẹp nhất thế giới.
Di Hoà viên không những chỉ là một công viên đẹp, được coi là một kiệt tác về kiến trúc, mà người ta còn đồn rằng toàn bộ khuôn viên của Di Hoà viên đã được xây dựng theo bố cục rất chặt chẽ về mặt phong thủy thể hiện ý tưởng Phúc Lộc Thọ, theo một mật chỉ của Từ Hy Thái Hậu.
Đã có nhiều người bỏ công nghiên cứu để tìm hiểu bí mật ẩn chứa trong Di Hoà viên, nhất là tìm hiểu xem có thật Di Hoà viên có bố cục thể hiện ý tưởng Phúc Lộc Thọ hay không, và nếu có thì nó đã được thể hiện như thế nào.
Bước đột phá có tính chất quyết định để trả lời cho câu hỏi này là từ khi các nhà nghiên cứu có trong tay những bức ảnh chụp toàn cảnh Di Hoà viên từ vệ tinh bằng kỹ thuật có độ phân giải siêu cao và kỹ thuật chụp hồng ngoại. Khi những tấm ảnh này được công bố, các nhà nghiên cứu đã vô cùng kinh ngạc về bố cục kỳ lạ của Di Hoà viên.
Nhìn vào những tấm ảnh ta thấy ngay hồ Côn Minh có hình dáng là một quả đào lớn mà cuống của nó là con sông dẫn nước vào hồ qua cửa Tây Môn quan nằm ở góc phía bắc của Di Hoà viên. Con đê hẹp mà dài ở phía chếch mặt hồ tạo ra vết rãnh trên quả đào rất hoàn chỉnh. Dãy hành lang dùng làm đường đi lại men theo hồ Côn Minh ngay sát chân Vạn Thọ sơn thì giống như đôi xương cánh của một con dơi đang dang ra. Đường hành lang ở bờ bắc hồ Côn Minh thì rõ ràng là hình một cánh cung mà phần thâm nhập vào lòng hồ hình thành phần đầu của con dơi, phần nhô ra một cách đơn độc được dùng làm bến thuyền cho khách du ngoạn hồ Côn Minh chính là mõm của con dơi đó. Đường hành lang vươn dài sang hai phía tả hữu chính là đôi cánh dơi đang vươn ra. Đoạn hành lang ở phía đông và mái hiên nhà Ngư Tảo thâm nhập vào mặt nước và bởi đoạn hành lang ở phía tây tạo thành đôi móng chân trước của con dơi, còn núi Vạn Thọ sơn và cái hồ phía sau núi tạo thành thân của con dơi. Thập Thất Khổng kiều ở phía đối diện Vạn Thọ sơn thì đúng là chiếc cổ của một con rùa đang vươn dài, mà đầu của nó chính là hòn đảo nhỏ giữa hồ Côn Minh.
Vì trước đây không có được bức ảnh chụp toàn cảnh Di Hoà viên nên kiến trúc độc đáo của nó ít người nhận ra. Ngay cả Từ Hy Thái Hậu mặc dù đã lên tầng cao nhất của Phật Hương các trên đỉnh Vạn Thọ sơn thì cũng chỉ nhìn thấy một cách đại khái hình trái đào, cái đầu và cái cổ con rùa cũng như cái đầu và đôi móng con dơi. Những phần còn lại thì không thể nhìn thấy, nhất là phần thân con dơi do bị những kiến trúc khác che lấp.
Theo thuật phong thủy truyền thống Trung Hoa thì quả đào tượng trưng cho Lộc, con dơi tượng trưng cho Phúc, còn rùa tượng trưng cho Thọ. Như vậy cấu trúc tổng thể của Di Hoà viên ẩn trong nó cả ba điều mà Từ Hy mong muốn là Phúc Lộc Thọ đã được thể hiện bằng những hình tượng tuyệt vời. Phải chăng chính cấu trúc này là điểm khác biệt cực kỳ đặc sắc mà không có ở bất cứ một công viên nào khác tại Trung Quốc cũng như trên thế giới.
Các công trình
Công trình Di Hoà viên tập trung quanh khu vực núi Vạn Thọ và hồ Côn Minh chiếm 3/4 diện tích của toàn bộ quần thể. Ngoài những cảnh quan quanh hồ và núi thì Di Hoà viên cũng bao gồm cả đền đài và danh thắng. Các tòa nhà chính tập trung theo chiều bắc nam của núi Vạn Thọ. Theo chiều đông tây từ thấp lên cao là Dưỡng Vân hiên (养云轩), Vô Tận Ý hiên, Giới Thọ đường, Bài Vân điện, Thanh Hoa hiên, Bảo Vân các, Cộng Nhất lâu, Thính Ly quán nằm giữa phong cảnh núi non. Chiều bắc nam là các đền chùa mang phong cách kiến trúc Trung Quốc-Tây Tạng gồm các tòa nhà nằm rải rác cho đến cả dãy gồm khu vườn nhỏ, Tô Châu nhai, Dần Huy Thành quan, Hoa Thừa các, Cai Xuân viên, Hội Phương đường cùng nhiều tòa nhà khác. Trong hồ Côn Minh có ba đảo nhỏ được gọi là Nam Hồ, Tảo Giám Đường, Trị Cảnh Các. Hồ nước được chia thành hai bởi một bờ kè ở phía tây.
Toàn bộ khu vực chính của Di Hoà viên chia thành 6 khu vực là: Khu vực đền thờ, khu vực thắng cảnh núi Vạn Thọ, khu vực thắng cảnh hồ Côn Minh, khu vực thắng cảnh Canh Chức Đồ (nơi vẽ và dệt vải), khu vực đi dạo và cuối cùng là khu vực thắng cảnh Trường lang bắt đầu từ Tiền sơn và kết thúc tại Hậu sơn)
Tiền sơn
Đông Cung môn: Là cổng chính của Di Hoà viên với hai con sư tử bằng đồng ở trước cổng với những bậc thang đá dẫn lên. Tên của nó được đặt bởi hoàng đế Quang Tự. Phía trước cổng là một quảng trường.
Nhân Thọ điện: Là nơi Hoàng đế Quang Tự và Từ Hy Thái hậu gặp gỡ các quan lại và các sứ thần ngoại giao. |
Bài hát (các từ đồng nghĩa trong tiếng Việt: bài ca, ca khúc hay khúc ca) là một sáng tác âm nhạc được trình bày bởi giọng người. Điều này thường được thực hiện ở các cao độ (giai điệu) riêng biệt và cố định bằng cách sử dụng các mẫu âm thanh và khoảng lặng. Các bài hát chứa nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như những hình thức bao gồm sự lặp lại và biến thể của các phần nhạc.
Những từ được viết ra dành riêng cho âm nhạc hoặc âm nhạc được tạo ra đặc biệt, được gọi là lời bài hát. Nếu một bài thơ có từ trước được đặt thành nhạc sáng tác trong nhạc cổ điển thì đó là một bài hát nghệ thuật. Các bài hát được hát trên các cao độ lặp đi lặp lại mà không có đường nét và khuôn mẫu lên xuống khác biệt được gọi là vịnh xướng. Những bài hát được sáng tác theo phong cách đơn giản được học một cách thông thường "bằng tai" thường được gọi là dân ca. Các bài hát được sáng tác cho các ca sĩ chuyên nghiệp bán bản thu âm hoặc chương trình trực tiếp của họ ra thị trường đại chúng được gọi là bài hát đại chúng. Những bài hát này, có sức hấp dẫn rộng rãi, thường được sáng tác bởi các nhạc sĩ, nhà soạn nhạc và người viết lời chuyên nghiệp. Các bài hát nghệ thuật được sáng tác bởi các nhà soạn nhạc cổ điển được đào tạo để biểu diễn hòa nhạc hoặc biểu diễn độc tấu. Các bài hát được biểu diễn trực tiếp và ghi lại trên âm thanh hoặc video (hoặc, trong một số trường hợp, một bài hát có thể được biểu diễn trực tiếp và được ghi âm đồng thời). Các bài hát cũng có thể xuất hiện trong các vở kịch, sân khấu ca nhạc, chương trình sân khấu dưới bất kỳ hình thức nào và trong các vở opera, phim và chương trình truyền hình.
Một bài hát có thể dành cho cho một ca sĩ hát một mình, một ca sĩ chính các ca sĩ nền hỗ trợ, một bản song ca, tam tấu, hoặc quần thể lớn hơn sự tham gia của nhiều giọng hát theo các bè, mặc dù thuật ngữ này thường không được sử dụng cho các hình thức thanh nhạc cổ điển lớn bao gồm cả opera và oratorio, thay vào đó sử dụng các thuật ngữ như aria và recitative. Một bài hát có thể được hát mà không có nhạc cụ đệm (a cappella) hoặc có nhạc cụ đi kèm. Trong âm nhạc đại chúng, một ca sĩ có thể biểu diễn với một nghệ sĩ guitar acoustic, nghệ sĩ piano, organ, accordion hoặc một ban nhạc đệm. Trong nhạc jazz, một ca sĩ có thể biểu diễn với một nghệ sĩ piano duy nhất, hoặc với một tổ hợp nhỏ (chẳng hạn như tam tấu hoặc tứ tấu), hoặc với một ban nhạc lớn. Một ca sĩ cổ điển có thể biểu diễn với một nghệ sĩ piano duy nhất, một nhóm nhạc nhỏ hoặc một dàn nhạc. Trong nhạc jazz và blues, ca sĩ thường học các bài hát "bằng tai" và họ có thể ứng biến một số dòng giai điệu. Trong âm nhạc cổ điển, giai điệu được viết bởi các nhà soạn nhạc dưới dạng bản nhạc, vì vậy người hát phải học cách đọc nốt nhạc.
Các bài hát có nhiều hơn một giọng hát cho đến một phần hát bằng phức điệu hoặc hòa âm được coi là tác phẩm hợp xướng. Bài hát có thể được chia thành nhiều hình thức và loại khác nhau, tùy thuộc vào tiêu chí sử dụng. Thông qua việc mở rộng ngữ nghĩa, một nghĩa rộng hơn của từ "bài hát" có thể dùng để chỉ các nhạc cụ, chẳng hạn như các bản Bài hát không lời thế kỷ 19 của Mendelssohn dành cho piano độc tấu.
Các thể loại
Bài hát nghệ thuật
Các bài hát nghệ thuật là những bài hát được tạo ra để biểu diễn do các nghệ sĩ cổ điển, thường có piano hoặc nhạc cụ đệm khác thực hiện, mặc dù chúng có thể được hát solo. Các ca khúc nghệ thuật đòi hỏi kỹ thuật thanh nhạc cao, hiểu biết về ngôn ngữ, cách diễn đạt và chất thơ để diễn giải. Mặc dù những ca sĩ như vậy cũng có thể biểu diễn các bài hát dân ca hoặc bình dân trong các chương trình của họ, nhưng những đặc điểm này và việc sử dụng thơ là những gì phân biệt các bài hát nghệ thuật với các bài hát nổi tiếng. Các bài hát nghệ thuật là một truyền thống từ hầu hết các nước Châu Âu, và bây giờ là các nước khác có truyền thống âm nhạc cổ điển. Các cộng đồng nói tiếng Đức sử dụng thuật ngữ bài hát nghệ thuật ("Kunstlied") để phân biệt những tác phẩm được gọi là "nghiêm túc" với bài hát dân gian (Volkslied). Lời bài hát thường được viết bởi một nhà thơ hoặc người viết lời và phần âm nhạc riêng biệt của một nhà soạn nhạc. Các bài hát nghệ thuật có thể phức tạp hơn về mặt hình thức so với các bài hát nổi tiếng hoặc dân ca, mặc dù nhiều bài hát Lieder đầu tiên của Franz Schubert ở dạng strophic đơn giản. Phần đệm của các bài hát nghệ thuật châu Âu được coi là một phần quan trọng trong sáng tác. Một số bài hát nghệ thuật được tôn sùng đến mức chúng trở thành có tính nhận dạng cho một quốc gia.
Ca khúc nghệ thuật nổi lên từ truyền thống hát các bài tình ca lãng mạn, thường hướng đến một lý tưởng hay một con người tưởng tượng và từ những bài hát tôn giáo. Những người hát rong và hát bội ở châu Âu đã bắt đầu truyền thống được ghi chép lại về các bài hát lãng mạn, được các nghệ sĩ đàn bầu thời Elizabeth tiếp tục phát triển thêm. Một số bài hát nghệ thuật sớm nhất được tìm thấy trong âm nhạc của Henry Purcell. Truyền thống của sự lãng mạn, một bản tình ca với phần đệm chảy, thường là ba mét, đã đi vào opera vào thế kỷ 19 và từ đó lan rộng khắp châu Âu. Nó lan rộng thành âm nhạc đại chúng và trở thành một trong những nền tảng của các bài hát nổi tiếng. Trong khi một câu chuyện tình lãng mạn thường có phần đệm đơn giản, các bài hát nghệ thuật có xu hướng có phần đệm phức tạp, phức tạp để củng cố, tô điểm, minh họa hoặc tạo sự tương phản cho giọng hát. Đôi khi người biểu diễn đệm đàn phần giai điệu, trong khi giọng hát tập trung vào phần kịch tính hơn của bài.
Dân ca
Dân ca là những bài hát có nguồn gốc vô danh (hoặc thuộc phạm vi công cộng) được truyền miệng. Chúng thường là một khía cạnh chính của bản sắc dân tộc hoặc văn hóa. Ca dao nghệ thuật thường tiếp cận trạng thái ca dao khi người ta quên mất tác giả là ai. Các bài hát dân gian cũng thường xuyên được truyền miệng (nghĩa là bản nhạc), đặc biệt là trong thời kỳ hiện đại. Các làn điệu dân ca tồn tại ở hầu hết các nền văn hóa. Thuật ngữ tiếng Đức Volkslied được đặt ra vào cuối thế kỷ 18, trong quá trình thu thập các bài hát cũ và viết bài mới. Các bài hát phổ biến cuối cùng có thể trở thành bài hát dân gian bằng cùng một quá trình tách rời khỏi nguồn gốc của nó. Theo định nghĩa, dân ca ít nhiều thuộc phạm vi công cộng, mặc dù có nhiều nghệ sĩ giải trí dân ca xuất bản và ghi lại tài liệu gốc có bản quyền. Truyền thống này cũng dẫn đến phong cách biểu diễn của ca sĩ-nhạc sĩ, nơi một nghệ sĩ viết thơ thú tội hoặc lời tuyên bố cá nhân và hát chúng theo nhạc, thường là với phần đệm guitar.
Có nhiều thể loại bài hát đại chúng, bao gồm các bài tình ca về tình yêu không được đáp lại, ballad, bài hát về những chủ đề mới xuất hiện, hợp ca, rock, blues và soul cũng như nhạc indie. Các thể loại thương mại khác bao gồm nhạc rap. Các bài hát dân gian bao gồm các bản ballad, các bài hát ru, bài hát tình yêu, bài hát than khóc, bài hát để múa, bài hát trong lao động, bài hát dùng trong nghi lễ và nhiều bài hát khác.
Bài hát thể thao
Bài hát thể thao là một bài hát dân gian ca ngợi việc săn cáo, đua ngựa, đánh bạc và các trò giải trí khác.
Mặc dù các bài hát về võ sĩ quyền anh và những con ngựa đua thành công rất phổ biến vào thế kỷ 19, nhưng rất ít bài hát được các ca sĩ hiện nay trình diễn. Đặc biệt việc săn cáo được coi là không đúng về mặt chính trị. Bài hát nổi tiếng nhất về một chú chó săn cáo, " D'ye ken John Peel " đã được đưa vào The National Song Book vào năm 1906 và bây giờ thường được nghe như một giai điệu diễu hành. AL Lloyd đã thu âm hai EP của các bản ballad thể thao; "Bold Sportsmen All" (1958) và "Gamblers and Sporting Blades (Song of the Ring and the Racecourse)" (1962). The High Level Ranters và Martin Wyndham-Read đã thu âm một album có tên "English Sporting Ballads" vào năm 1977. The Prospect Before Us (1976) của The Albion Dance Band chứa hai bài hát về săn bắn hiếm khi được nghe.
Bài hát với sáo
Thuật ngữ bài hát với sáo được đặt cho một phong cách âm nhạc từ cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17, cuối thời kỳ Phục hưng đến đầu thời kỳ Baroque, chủ yếu ở Anh và Pháp. Các bài hát với sáo thường ở dạng strophic hoặc lặp lại câu với kết cấu đồng âm. Sáng tác được viết cho một giọng solo có nhạc đệm, thường là với sáo. Ngoài ra còn có các hình thức đệm khác như violon trầm hoặc các nhạc cụ dây khác, và cũng có thể được viết cho nhiều giọng hát hơn. Sáng tác có thể được biểu diễn solo hoặc với một nhóm nhạc cụ nhỏ.
Một số hình thức bài hát
Quốc ca
Khúc aria (trong opera)
Ballad
Tụng ca
Dân ca
Bài hát ru
Ca khúc phổ thông (nhạc pop) |
Thuốc trừ dịch hại, hay thuốc bảo vệ thực vật, thuốc bảo vệ cây trồng (tiếng Anh: pesticide, crop protection agent) có thể là một hợp chất hoá học hay tác nhân sinh học có khả năng ngăn cản, tiêu diệt, xua đuổi hay hạn chế các loại dịch hại.
Dịch hại có thể là vi khuẩn, virus, nấm, tuyến trùng, cỏ dại, động vật gặm nhấm, chim, cá v.v có sự cạnh tranh với con người về một loại thức ăn nào đó
Thuốc trừ dịch hại thường được sử dụng như là một nhân tố đảm bảo sự phát triển của nền nông nghiệp, đảm bảo tăng năng suất cây trồng, nhưng nếu sử dụng thái quá sẽ gây độc cho con người do tiếp xúc, hay ăn phải nông sản có tồn dư thuốc hay môi trường xung quanh nhiễm độc, có thể làm suy thoái môi trường, ô nhiễm không khí, đất, nước....
Có thể dùng biện pháp Đấu tranh sinh học để thay thế cho thuốc bảo vệ thực vật vì Đấu tranh sinh học an toàn với con người và thân thiện với môi trường hơn.
Nhóm thuốc trừ dịch hại
Gồm có các nhóm thuốc phòng trừ: vi khuẩn, nấm, virus, cỏ dại, giun, động vật gặm nhấm, ve bét, sâu bọ.
Xu hướng sử dụng thuốc trừ dịch hại
Phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) sử dụng tất cả các biện pháp (trồng trọt, canh tác, bón phân, tưới nước, vệ sinh đồng rộng...) có thể hạn chế phát triển dịch hại và biện pháp sử dụng thuốc hóa học là biện pháp cuối cùng nhưng không làm ảnh hưởng đến các loài công trùng có ích và môi trường, chất độc không có tồn tại trong sản phẩm.
Sử dụng thuốc có tính chọn lọc cao không ảnh hưởng đến các loài có ích khác.
Sử dụng chế phẩm sinh học, thuốc thảo mộc, hay thiên địch chống lại dịch hại.
Sử dụng thuốc hóa học (thuốc trừ dịch hại): đúng đối tượng, đúng lúc, đúng cách, đúng liều lượng.
Nếu sử dụng thuốc không đúng thì một số loài dịch hại sẽ trở lên nguy hiểm hơn vì kháng thuốc.
Lịch sử
Từ 500 năm TCN, con người đã biết sử dụng thuốc trừ dịch hại để ngăn cản sự gây hại cho mùa vụ của họ. Thuốc trừ dịch hại đầu tiên được sử dụng là Lưu huỳnh. Vào thế kỷ thứ 15 chất độc hóa học được biết đến như là Asen (thạch tín), thủy ngân, chì đã được áp dụng để tiêu diệt dịch hại. Ở thế kỷ 17 muối Sunfat Nicotin được chiết suất từ lá cây thuốc lá được sử dụng như loại thuốc trừ côn trùng. Thế kỷ 19 người ta biết đến hai loại thuốc dạng tự nhiên là pyrethrum tìm thấy từ loài cây chi Cúc đại đóa (Chrysanthemum) và Rotenon tìm thấy từ rễ các loài cây nhiệt đới thuộc họ Đậu.
Năm 1939, Paul Müller người Đức phát hiện ra DDT nó có hiệu lực rất mạnh đối với côn trùng, và nhanh chóng sử dụng rộng dãi nhất thế giới. Nhưng đến năm 1960 người ta phát hiện nó ảnh hưởng đến cá và chim và đe dọa đến sự đa dạng sinh học. DDT được sử dụng ở ít nhất là 86 nước, hiện nay DDT vẫn được sử dụng ở những quốc gia nhiệt đới để ngăn chặn bệnh sốt rét vì nó có khả năng tiêu diệt muỗi rất mạnh và một số côn trùng mang bệnh truyền nhiễm khác.
Sử dụng thuốc trừ dịch hại ngày càng gia tăng từ năm 1950. Hàng năm khoảng 2,5 triệu tấn thuốc sản xuất được sử dụng cho đồng ruộng. |
Nhạc sĩ (Hán Nôm: 樂士), theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, được hiểu là một người hoạt động chuyên nghiệp và nắm vững một ngành nghệ thuật âm nhạc nào đó. Theo Từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1995), định nghĩa nhạc sĩ theo nghĩa hẹp hơn là người chuyên soạn hoặc biểu diễn âm nhạc. Như vậy nhạc sĩ bao gồm tất cả những người hoạt động nghệ thuật âm nhạc như các nhà soạn nhạc (sáng tác giai điệu cho ca khúc), người hòa âm phối khí, nhạc trưởng chỉ huy và nghệ sĩ biểu diễn. Ở Việt Nam, người ta quen coi nhạc sĩ là những người sáng tác âm nhạc, còn nghệ sĩ biểu diễn bằng giọng hát được gọi là ca sĩ, bằng nhạc cụ được gọi là nhạc công. Nhạc sĩ thường sáng tác những ca khúc và do chính họ thể hiện hay các ca sĩ thể hiện.
Hội Nhạc sĩ Việt Nam, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp lớn nhất của các nhạc sĩ Việt Nam, bao gồm cả những nghệ sĩ biểu diễn, nhạc sĩ lý luận, đào tạo chứ không chỉ cho các nhà soạn nhạc hay người viết ca khúc.
Trong tiếng Anh, "nhạc sĩ" tương đương với từ "musician" (Từ điển Anh Việt, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1993) |
Thịnh vượng chung Kentucky (tiếng Anh: Commonwealth of Kentucky, phát âm như "Ken-tắc-ky") là tiểu bang thứ 15 của Hoa Kỳ. Kentucky thường được coi là tiểu bang miền Nam.
Đây là nơi sinh của Tổng thống Abraham Lincoln (tại Hardin County).
Địa lý
Kentucky, có tên hiệu The Bluegrass State (Tiểu bang Cỏ poa), tiếp giáp với cả những tiểu bang miền Trung Tây và miền Trung Nam như Tây Virginia và Virginia về phía đông, Tennessee về phía nam, Missouri về phía tây, và Illinois, Indiana và Ohio về phía bắc.
Dọc theo ranh giới phía bắc và phía tây của tiểu bang lần lượt là sông Ohio và sông Mississippi. Các sông lớn khác của Kentucky là sông Kentucky, sông Tennessee, sông Cumberland, sông Xanh, và sông Licking.
Có thể chia Kentucky thành năm vùng chính: dãy núi Cumberland và cao nguyên Cumberland ở đông nam, vùng Cỏ poa (Bluegrass region) ở trung bắc, cao nguyên Pennyroyal ở phía trung nam và phía tây (còn được gọi Pennyrile) với hai thành phố Elizabethtown và Bowling Green), vùng than phía tây, và Miền đất mua Jackson (Jackson Purchase) ở xa miền tây.
Kentucky là tiểu bang duy nhất ở nước Mỹ có một vùng đất lọt vào giữa tiểu bang khác. Ở xa miền tây Kentucky có Kentucky Bend, một miến đất nhỏ trên bờ sông Mississippi. Nó giáp với Missouri và Tennessee (theo đường sông), do động đất New Madrid tạo ra.
Miền Cỏ poa thường được chia thành hai miền nhỏ hơn: miền Nội Cỏ poa (Inner Bluegrass) – trong vòng Lexington cách 145 kilômét (90 dặm) – và miền Ngoại Cỏ poa (Outer Bluegrass) bao gồm hầu hết các vùng phía bắc của tiểu bang, trên miền Gò (Knobs Region). Phần lớn miền Ngoại Cỏ poa thuộc về vùng dãy đồi Eden Shale (Eden Shale Hills), có những đồi thấp, dốc và rất hẹp.
Các kỳ quan tự nhiên nổi tiếng
Đèo Cumberland (Cumberland Gap) là đường chính qua dãy Appalachian trong lịch sử Mỹ.
Công viên Tiểu bang thác Cumberland (Cumberland Falls) có cầu vồng trắng duy nhất ở Tây bán cầu và một trong hai trên thế giới (cái kia ở Thác Victoria).
Công viên Quốc gia Hang Mammoth (Mammoth Cave) để khách đi bộ vào hầm dài nhất trên thế giới.
Khu địa chất hẻm Sông Đỏ là một phần của Rừng Quốc gia Daniel Boone.
Land Between the Lakes là Khu giải trí quốc gia trực thuộc Dịch vụ Rừng Hoa Kỳ.
Rừng Bernheim là vườn cây, rừng, và khu bảo tồn tự nhiên rộng 57 km² (14.000 mẫu Anh) tại Clermont.
Khu tưởng niệm Quốc gia Sinh quán Abraham Lincoln tại Hodgenville.
Sông và Khu giải trí quốc gia Big South Fork gần thành phố Whitley.
Đường mòn lịch sử Quốc gia Nước mắt cũng đi qua Kentucky.
Núi Đen, nơi cao nhất của tiểu bang, dọc theo ranh giới của hai quận Harlan và Letcher.
Khu bảo tồn tự nhiên Quốc gia Thác Bad Branch là khu bảo tồn tự nhiên rộng 10,68 km² (2.639 mẫu Anh) trên đường dốc phía nam của núi Pine tại Quận Letcher. Đây là một trong những nơi có nhiều loài quý hiếm và nguy hiểm trong tiểu bang, cũng như có thác nước 18 mét (60 foot) và dòng sông Kentucky Wild.
Rừng kỷ niệm Jefferson ở phía nam thành phố Louisville ở miền Gò. Đây là rừng trong thành phố lớn nhất ở Hoa Kỳ.
Công viên Tiểu bang Sông Xanh thuộc Quận Taylor.
Các thành phố lớn
Các thành phố lớn nhất của Kentucky và nhiều các quận đang phát triển nhanh nhất tập trung ở vùng Tam giác Vàng, phần lớn vùng này nằm trong miền Cỏ poa, trừ ba quận Hardin, Meade, và LaRue thuộc về miền Pennyroyal.
Thành phố lớn nhất của Kentucky là thành phố Louisville (cùng chính phủ với Quận Jefferson), có dân số ước lượng năm 2004 là 556.332. Bên Kentucky của khu vực thống kê tổng hợp Louisville (Kentuckiana) có 1.120.039 người. Thành phố lớn thứ hai là Lexington (cùng chính phủ với Quận Fayette) có 260.512 người, và khu vực thống kê tổng hợp của nó có dân số ướng lượng là 635.547 người vào năm 2005. Vùng Bắc Kentucky, tức là bảy quận của Kentucky thuộc về khu vực thống kê tổng hợp của Cincinnati, có dân số ước lượng năm 2005 là 403.727 người. Các khu vực đô thị của Louisville, Lexington, và Bắc Kentucky có dân số tổng cộng là 2.159.313 vào năm 2005, tương đương 51,7% của dân số toàn tiểu bang.
Hai vùng thành thị đang phát triển mạnh là vùng Bowling Green và "Miền Ba Thành phố" (Tri Cities Region) ở miền Đông Nam Kentucky, bao gồm Somerset, London, và Corbin.
Tuy chỉ có một thành phố, Somerset, ở miền Ba Thành phố có hơn 10.000 dân cư, vùng này đang phát triển dễ sợ về dân số và việc làm từ thập niên 1990, và nhiều nhà địa lý cho rằng đây là khu vực thành thị tiếp theo của Kentucky. Quận Laurel phát triển đặc biệt nhanh, và nhanh hơn những vùng khác như là Quận Scott và Quận Jessamine gần Lexington hay Quận Shelby và Quận Nelson gần Louisville. London, Kentucky coi như sắp tăng lên dân số gắp đôi từ 5.692 người vào năm 2000 tới 10.879 vào năm 2010. Wal-Mart đã xây một trung tâm phân phối ở London vào năm 1997, tao ra hàng ngàn việc làm với lương cao cho thành phố. |
Johan Cruyff ( ) (phát âm gần như Craif), tên đầy đủ: Hendrik Johannes Cruyff (thường được viết là Johan Cruyff ở bên ngoài Hà Lan) (sinh 25 tháng 4 năm 1947 tại Amsterdam – 24 tháng 3 năm 2016 tại Barcelona), là một cố cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Hà Lan. Khi là cầu thủ, ông từng giành giải thưởng Quả Bóng Vàng ba lần (1971, 1973 và 1974). Cruyff là một trong những thành viên nổi tiếng nhất của triết lý bóng đá có tên Bóng đá tổng lực do Rinus Michels tạo ra.. Trong thập niên 1970, bóng đá Hà Lan phát triển từ một nền bóng đá ít tên tuổi trở thành một thế lực. Cruyff dẫn dắt đội tuyển Hà Lan vào đến chung kết Giải bóng đá vô địch thế giới 1974 và đoạt được danh hiệu Quả bóng vàng dành cho cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu đó. Cruyff thành thạo năm ngoại ngữ.Với biệt danh "Thánh Johan", ông được coi là cầu thủ Hà Lan xuất sắc nhất mọi thời đại và là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới.
Tại cấp độ câu lạc bộ, Cruyff khởi nghiệp tại Ajax. Ông đã cùng câu lạc bộ 8 lần vô địch quốc gia và giành ba Cúp C1 châu Âu. Năm 1973 ông chuyển đến FC Barcelona và lập Kỷ lục chuyển nhượng cầu thủ bóng đá mới. Ông có được danh hiệu La Liga cùng đội bóng ngay mùa đầu tiên và giành Quả bóng vàng châu Âu năm đó. Sau khi giải nghệ vào năm 1984, Cruyff cũng có nhiều thành công trong sự nghiệp huấn luyện viên với Ajax và FC Barcelona. Sau này ông vẫn là một cố vấn có ảnh hưởng ở hai câu lạc bộ. Con trai ông Jordi cũng là một cầu thủ chuyên nghiệp.
Tháng 10 năm 2015, Cruyff, từng nghiện hút thuốc nặng, bị chẩn đoán mắc ung thư phổi. Ông qua đời vì bệnh này ngày 24 tháng 3 năm 2016 tại Barcelona.
Đầu đời
Hendrik Johannes "Johan" Cruyff sinh ngày 25 tháng 4 năm 1947 tại bệnh viện Burgerziekenhuis ở Amsterdam. Anh ấy lớn lên trên một con phố cách sân vận động của Ajax, câu lạc bộ bóng đá đầu tiên của anh ấy năm phút đi bộ. Johan là con trai thứ hai của Hermanus Cornelis Cruijff (1913–1959) và Petronella Bernarda Draaijer (1917–2007), xuất thân từ tầng lớp lao động khiêm tốn ở phía đông Amsterdam. Cruyff, được khuyến khích bởi người cha yêu bóng đá đầy ảnh hưởng và sự gần gũi của ông ở Sân vận động Akkerstraat, đã chơi bóng với các bạn học và anh trai của mình, Henny, bất cứ khi nào có thể, và thần tượng cầu thủ rê bóng cừ khôi người Hà Lan, Faas Wilkes.
Năm 1959, cha của Cruyff qua đời vì một cơn đau tim. Cái chết của cha anh đã ảnh hưởng lớn đến tâm lý của ông. Như Cruyff nhớ lại, trong lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50 của mình, "Cha tôi qua đời khi tôi mới 12 tuổi và ông ấy 45 tuổi. Kể từ ngày đó, tôi có cảm giác mạnh mẽ hơn rằng tôi sẽ chết ở độ tuổi tương tự và khi tôi mắc bệnh tim nghiêm trọng. khi tôi đến tuổi 45, tôi nghĩ: 'Đây rồi.' Chỉ có khoa học y tế, vốn không thể giúp cha tôi, mới giúp tôi sống sót." Xem một trận bóng đá tiềm năng sự nghiệp như một cách để tỏ lòng thành kính với cha mình, cái chết đã truyền cảm hứng cho Cruyff có ý chí mạnh mẽ, người cũng thường xuyên đến thăm khu chôn cất tại Oosterbegraafplaats. Mẹ ông bắt đầu làm việc tại Ajax với tư cách là người dọn dẹp, quyết định rằng cô ấy không thể tiếp tục ở cửa hàng tạp hóa nếu không có chồng, và trong tương lai, điều này khiến Cruyff gần như bị ám ảnh bởi sự đảm bảo tài chính nhưng cũng khiến ông đánh giá cao những hỗ trợ của cầu thủ. Mẹ anh nhanh chóng gặp người chồng thứ hai, Henk Angel, một nhân viên thực địa tại Ajax, người đã chứng tỏ ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời của Cruyff.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Gloria Ajax và kỷ nguyên vàng của Bóng đá tổng lực
Cruyff gia nhập lò đào tạo trẻ Ajax vào ngày sinh nhật thứ 10 của mình. Cruyff và những người bạn của anh ấy thường xuyên đến thăm một "sân chơi" trong khu phố của họ và huấn luyện viên đội trẻ Ajax Jany van der Veen, người sống gần đó, đã nhận thấy tài năng của Cruyff và quyết định mời anh ấy một suất tại Ajax mà không cần thử việc chính thức. Tuổi thơ"/> Khi mới gia nhập Ajax, Cruyff thích bóng chày hơn và tiếp tục chơi môn thể thao này cho đến khi mười lăm tuổi thì anh bỏ cuộc theo sự thúc giục của huấn luyện viên.
Anh ra mắt đội một vào ngày 15 tháng 11 năm 1964 tại Eredivisie, trước GVAV, ghi bàn thắng duy nhất cho Ajax trong trận thua 3-1. Năm đó, Ajax kết thúc ở vị trí thấp nhất kể từ khi thành lập bóng đá chuyên nghiệp, ở vị trí thứ 13. Cruyff thực sự bắt đầu gây ấn tượng trong mùa giải 1965–66 và khẳng định mình là cầu thủ thường xuyên của đội một sau khi ghi hai bàn vào lưới DWS tại sân vận động Olympic vào ngày 24 tháng 10 năm 1965 trong chiến thắng 2–0. Trong bảy trận mùa đông năm đó, anh ghi tám bàn và vào tháng 3 năm 1966, ông ghi ba bàn đầu tiên trong trận đấu với Telstar trong chiến thắng 6–2. Bốn ngày sau, trong một trận đấu cúp với Veendam với chiến thắng 7–0, anh ấy đã ghi được bốn bàn thắng. Tổng cộng mùa giải đó, Cruyff ghi 25 bàn sau 23 trận, và Ajax giành chức vô địch giải đấu.
Trong 1966–67 season, Ajax một lần nữa giành chức vô địch giải đấu, đồng thời giành được KNVB Cup, cho "cú đúp" đầu tiên của Cruyff.<ref name="FIFA Profile"/ > Cruyff kết thúc mùa giải với tư cách là tay săn bàn hàng đầu tại Eredivisie với 33. Cruyff vô địch giải đấu năm thứ ba liên tiếp trong 1967–68 season. Ông cũng được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của bóng đá Hà Lan lần thứ hai liên tiếp, thành tích mà ông lặp lại vào năm 1969. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1969, Cruyff chơi trận đầu tiên Cup châu Âu trận chung kết với Milan, nhưng người Ý đã thắng 4–1.
Trong 1969–70 season, Cruyff đã giành được "cú đúp" giải đấu và cúp thứ hai; vào đầu 1970–71 season, anh ấy bị chấn thương háng. Anh ấy trở lại vào ngày 30 tháng 10 năm 1970 trong trận đấu với PSV, và thay vì mặc áo số 9 quen thuộc, vốn được sử dụng bởi Gerrie Mühren, anh ấy lại sử dụng số 14. Ajax thắng 1–0. Mặc dù vào thời đó, việc những người bắt đầu trận đấu không mặc áo số từ 1 đến 11 là rất hiếm, nhưng kể từ thời điểm đó trở đi, Cruyff đã mặc áo số 14, ngay cả với Đội tuyển quốc gia Hà Lan. Có một bộ phim tài liệu về Cruyff, Số 14 Johan Cruyff và ở Hà Lan có một tạp chí của Voetbal International, Nummer 14.
Barcelona và chức vô địch La Liga đầu tiên sau 14 năm
nhỏ|Cruyff thi đấu cho Barcelona từ 1973 đến 1978
Vào giữa năm 1973, Cruyff được bán cho Barcelona với giá 6 triệu guilders (khoảng 2 triệu đô la Mỹ, c. 1973) trong một kỷ lục thế giới về phí chuyển nhượng. Ngày 19 tháng 8 năm 1973, anh chơi trận cuối cùng cho Ajax, nơi họ đánh bại FC Amsterdam 6–1, trận thứ hai của mùa giải 1973–74.
Cruyff được người hâm mộ Barcelona quý mến khi chọn một cái tên tiếng Catalan, Jordi, cho con trai mình. Anh ấy đã giúp câu lạc bộ vô địch La Liga lần đầu tiên kể từ năm 1960, đánh bại đối thủ mạnh nhất Real Madrid 5–0 tại sân nhà của Santiago Bernabéu. Hàng nghìn người hâm mộ Barcelona theo dõi trận đấu trên truyền hình đã đổ ra khỏi nhà để tham gia các hoạt động ăn mừng trên đường phố. Một nhà báo New York Times đã viết rằng Cruyff đã làm được nhiều điều hơn cho tinh thần của người dân Catalan trong 90 phút so với nhiều chính trị gia trong nhiều năm đấu tranh. Nhà sử học bóng đá Jimmy Burns đã nói, "với Cruyff, cả đội cảm thấy họ không thể thua". Ông ấy mang lại cho họ tốc độ, sự linh hoạt và ý thức về bản thân. Năm 1974, Cruyff được trao danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu.
Trong thời gian ở Barcelona, trong một trận đấu với Atlético Madrid, Cruyff đã ghi một bàn thắng trong đó anh nhảy lên không trung và sút bóng qua Miguel Reina trong khung thành Atlético bằng gót chân phải (quả bóng cao ngang cổ và đã đi hết cột phía xa). Bàn thắng được giới thiệu trong bộ phim tài liệu , trong đó những người hâm mộ Cruyff đã cố gắng tái hiện lại khoảnh khắc đó. Bàn thắng được mệnh danh là (Bàn thắng bất khả thi của Cruyff). Năm 1978, Barcelona đánh bại Las Palmas 3–1, để giành chiến thắng Copa del Rey. Cruyff đã chơi hai trận với Paris Saint -Germain vào năm 1975 trong giải đấu ở Paris. Anh ấy chỉ đồng ý vì anh ấy là người hâm mộ nhà thiết kế Daniel Hechter, lúc đó là chủ tịch của PSG.
Nghỉ hưu ngắn hạn và phép màu ở Hoa Kỳ
Cruyff nghỉ hưu một thời gian ngắn vào năm 1978. Nhưng sau khi thua lỗ gần hết số tiền của mình trong một loạt khoản đầu tư tồi tệ, bao gồm cả một trang trại lợn, được tư vấn bởi một kẻ lừa đảo, Cruyff và gia đình đã đến Hoa Kỳ. Khi ông nhớ lại, "Tôi đã mất hàng triệu USD vào việc chăn nuôi lợn và đó là lý do tôi quyết định trở lại trở thành cầu thủ bóng đá." Cruyff nhấn mạnh rằng quyết định tiếp tục sự nghiệp thi đấu ở Hoa Kỳ có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp của ông. "Thật sai lầm, một sai lầm khi nghỉ thi đấu ở tuổi 31 với tài năng độc nhất vô nhị mà tôi sở hữu", và nói thêm rằng "Bắt đầu từ con số không ở Mỹ, cách xa quá khứ của tôi nhiều dặm, là một trong những quyết định đúng đắn nhất mà tôi đã đưa ra. Ở đó tôi đã học được làm thế nào để phát triển những tham vọng không thể kiểm soát của tôi, để suy nghĩ với tư cách là một huấn luyện viên và về tài trợ."
Vào tháng 5 năm 1979, Cruyff đã ký một hợp đồng béo bở với Los Angeles Aztecs của Giải bóng đá Bắc Mỹ (NASL). Trước đây anh ấy đã được đồn đại là sẽ tham gia New York Cosmos nhưng thỏa thuận đã không thành hiện thực; ông đã chơi một vài trò chơi triển lãm cho Cosmos. Ông chỉ ở lại Aztecs trong một mùa giải và được bầu chọn Cầu thủ xuất sắc nhất năm của NASL. Sau khi xem xét lời đề nghị tham gia Dumbarton F.C. ở Scotland, vào tháng 2 năm 1980, anh chuyển sang chơi cho Các nhà ngoại giao Washington. Ông đã chơi toàn bộ chiến dịch năm 1980 cho các Nhà ngoại giao, ngay cả khi đội đang gặp khó khăn nghiêm trọng về tài chính. Vào tháng 5 năm 1981, Cruyff thi đấu với tư cách khách mời cho Milan trong một giải đấu, nhưng bị chấn thương. Kết quả là ông đã bỏ lỡ phần đầu của Mùa giải NASL 1981, điều này cuối cùng dẫn đến việc Cruyff quyết định rời đội. Cruyff cũng ghét chơi trên bề mặt nhân tạo, vốn phổ biến ở NASL vào thời điểm đó.
Trở lại Tây Ban Nha với Levante và lần thứ hai tại Washington Diplomats
Vào tháng 1 năm 1981, Cruyff chơi ba trận giao hữu cho FC Dordrecht. Cũng trong tháng 1 năm 1981, huấn luyện viên Jock Wallace của câu lạc bộ tiếng Anh Leicester City đã cố gắng ký hợp đồng với Cruyff, cạnh tranh với Arsenal và một cầu thủ giấu tên câu lạc bộ Đức cho các dịch vụ của ông, và bất chấp các cuộc đàm phán kéo dài ba tuần, trong đó Cruyff bày tỏ mong muốn được chơi cho câu lạc bộ, không thể đạt được thỏa thuận. Thay vào đó, Cruyff đã chọn ký hợp đồng với đội Segunda División của Tây Ban Nha Levante vào tháng 2 năm 1981. Leicester City đã tiến gần đến việc ký hợp đồng với bậc thầy người Hà Lan Johan Cruyff như thế nào?
Vào ngày 1 tháng 3 năm 1981, Cruyff ra sân lần đầu tiên cho Levante, bắt đầu trong chiến thắng 1–0 trước Palencia. Chấn thương và bất đồng với việc quản lý của tuy nhiên, câu lạc bộ đã làm hỏng câu thần chú của anh ấy ở Segunda División và ông chỉ ra sân mười lần, ghi được hai bàn thắng. Không giành được quyền thăng hạng lên Primera División, hợp đồng với Levante đã thất bại.
Vào tháng 6 năm 1981, Cruyff trở lại Hoa Kỳ và ông chơi cho Washington Diplomats trong Mùa giải NASL 1981.
Phép màu chú thứ hai tại Ajax
nhỏ|Cruyff gặp người hâm mộ Nhật Bản năm 1982
Sau thời gian ở Mỹ và thời gian ngắn ở Tây Ban Nha, Cruyff trở lại thi đấu cho Ajax vào tháng 12 năm 1981. Ban đầu, ông trở lại Ajax vào ngày 30 tháng 11 năm 1980, trước khi còn là cầu thủ của Levante, với tư cách là "cố vấn kỹ thuật" đến huấn luyện viên Leo Beenhakker, Ajax đang đứng thứ tám trên bảng xếp hạng vào thời điểm đó sau 13 trận đã đấu. Tuy nhiên, sau 34 trận đấu, Ajax đã kết thúc 1980–81 season ở vị trí thứ hai. Vào tháng 12 năm 1981, Cruyff ký hợp đồng với tư cách là "cầu thủ" với Ajax cho đến mùa hè năm 1983.
Trong các mùa 1981–82 và 1982–83, Ajax, cùng với Cruyff, trở thành nhà vô địch giải đấu. Năm 1982–83, Ajax vô địch Cúp Hà Lan (KNVB-Beker). Năm 1982, ông ghi một bàn thắng nổi tiếng vào lưới Helmond Sport. Khi còn chơi cho Ajax, Cruyff đã ghi một quả phạt đền giống như cách mà Rik Coppens đã thực hiện 25 năm trước. Ông đã đặt bóng xuống đối với một quả phạt đền thông thường, nhưng thay vì sút vào khung thành, Cruyff lại huých quả bóng sang một bên cho đồng đội Jesper Olsen, người sau đó chuyền ngược lại cho Cruyff để đệm bóng vào lưới trống, khi Otto Versfeld, cầu thủ ghi bàn. Thủ môn Helmond, nhìn vào.
Mùa giải cuối cùng ở Feyenoord và nghỉ hưu
Vào cuối mùa giải 1982–83, Ajax quyết định không đề nghị hợp đồng mới với Cruyff. Điều này khiến Cruyff tức giận, người đã phản ứng bằng cách ký hợp đồng với đối thủ không đội trời chung của Ajax Feyenoord. Mùa giải của Cruyff tại Feyenoord là một mùa giải thành công khi câu lạc bộ vô địch Eredivisie lần đầu tiên sau một thập kỷ , một phần của cú đúp league và KNVB Cup. Thành công của đội là nhờ màn trình diễn của Cruyff cùng với Ruud Gullit và Peter Houtman.
Mặc dù tuổi đã tương đối cao, Cruyff đã chơi tất cả các trận đấu trong mùa giải đó, ngoại trừ một trận. Vì màn trình diễn của ông trên sân, ông đã được bầu chọn là Cầu thủ Hà Lan của năm lần thứ năm. Vào cuối mùa giải, lão tướng này tuyên bố giải nghệ lần cuối. Anh kết thúc sự nghiệp thi đấu tại Eredivisie vào ngày 13 tháng 5 năm 1984 với bàn thắng vào lưới PEC Zwolle. Cruyff chơi trận cuối cùng ở Ả Rập Xê Út trước Al-Ahli, đưa Feyenoord trở lại cuộc chơi với một bàn thắng và một pha kiến tạo.{{clear} }
Sự nghiệp quốc tế
nhỏ|224x224px|Cruyff là đội trưởng của Hà Lan trước một trận đấu tại World Cup 1974
Với tư cách là một tuyển thủ Hà Lan, Cruyff đã chơi 48 matches, ghi được 33 bàn thắng. Đội tuyển quốc gia chưa từng thua trận nào trận đấu mà Cruyff ghi bàn. Vào ngày 7 tháng 9 năm 1966, ông ra mắt chính thức cho Hà Lan tại UEFA Euro 1968 vòng loại trước Hungary, ghi bàn trong tỷ số 2–2 vẽ tranh. Trong trận đấu thứ hai, trận giao hữu với Tiệp Khắc, Cruyff là cầu thủ quốc tế Hà Lan đầu tiên nhận thẻ đỏ. Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Hà Lan (KNVB) đã cấm anh ấy tham gia các trận đấu của Giải quốc tế nhưng không cấm các trận đấu của Eredivise hoặc KNVB Cup.
Những lời buộc tội về sự "xa cách" của Cruyff đã không bị bác bỏ bởi thói quen mặc áo sơ mi chỉ có hai sọc đen dọc theo tay áo, trái ngược với đặc điểm thiết kế ba sọc thông thường của Adidas, được mặc bởi tất cả các cầu thủ Hà Lan khác. Cruyff đã có một hợp đồng tài trợ riêng với Puma. Từ năm 1970 trở đi, anh ấy mặc áo số 14 cho đội tuyển Hà Lan, tạo ra xu hướng mặc số áo bên ngoài số đội hình xuất phát thông thường từ 1 đến 11.
Cruyff đã dẫn dắt Hà Lan giành huy chương á quân tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1974 và được vinh danh cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu. Nhờ khả năng thành thạo Bóng đá tổng lực, đội của anh ấy đã tiến thẳng đến trận chung kết, hạ gục Argentina (4–0), Đông Đức (2–0) và Brazil (2–0) trong suốt chặng đường. Cruyff đã ghi hai bàn vào lưới Argentina trong một trong những màn trình diễn ấn tượng nhất của đội ông, sau đó anh ấy đã ghi bàn thắng thứ hai vào lưới Brazil để hạ gục các nhà đương kim vô địch.
Hà Lan gặp chủ nhà Tây Đức trong trận chung kết. Cruyff bắt đầu và bóng được chuyền xung quanh đội Oranje 15 lần trước khi quay trở lại Cruyff, người sau đó đã chạy qua Berti Vogts và kết thúc khi ông bị Uli Hoeneß phạm lỗi trong vòng cấm cái hộp. Đồng đội Johan Neeskens ghi bàn từ chấm phạt đền giúp Hà Lan dẫn trước 1–0 và người Đức vẫn chưa chạm bóng. Trong nửa sau của trận chung kết, anh ấy tầm ảnh hưởng bị bóp nghẹt bởi khả năng kèm người hiệu quả của Vogts, trong khi Franz Beckenbauer, Uli Hoeneß và Wolfgang Overath thống trị khu vực giữa sân khi Tây Đức lội ngược dòng giành chiến thắng 2-1.
Sau 1976
Cruyff từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế vào tháng 10 năm 1977, sau khi giúp đội tuyển quốc gia vượt qua vòng loại World Cup sắp tới. Không có ông, Hà Lan lại về nhì tại World Cup. Ban đầu, có hai tin đồn về lý do ông bỏ lỡ Giải vô địch bóng đá thế giới 1978: hoặc là anh ấy bỏ lỡ nó vì lý do chính trị (một chế độ độc tài quân sự đang nắm quyền ở Argentina tại thời điểm đó), hoặc vợ ông ngăn cản ông ấy thi đấu. Năm 2008, Cruyff nói với nhà báo Antoni Bassas trong Đài phát thanh Catalunya rằng ông và gia đình là đối tượng của một vụ bắt cóc ở Barcelona một năm trước giải đấu, và điều này đã khiến anh ấy phải giải nghệ. "Để tham dự World Cup, bạn phải ổn định 200%, có những lúc cuộc sống còn có những giá trị khác."
Sự nghiệp huấn luyện
Tham gia quản lý với Ajax
Sau khi giải nghệ, Cruyff tiếp bước người thầy của mình Rinus Michels, huấn luyện một đội trẻ Ajax giành chiến thắng tại European Cup Winners' Cup ở 1987 (1–0). Vào tháng 5 và tháng 6 năm 1985, Cruyff trở lại Ajax một lần nữa. Trong 1985–86 season, chức vô địch đã bị mất vào tay PSV của Jan Reker, mặc dù Ajax có hiệu số bàn thắng bại là +85 (120 bàn thắng, 35 bàn thua) . Trong các mùa giải 1985–86 và 1986–87, Ajax đã giành được KNVB Cup.
Chính trong giai đoạn này với tư cách là huấn luyện viên, Cruyff đã có thể triển khai đội hình ưa thích của mình—ba hậu vệ cơ động; cộng thêm một khoảng trống nữa – trên thực tế, trở thành tiền vệ phòng ngự (từ Rijkaard, Blind, Silooy, Verlaat, Larsson, Spelbos), hai tiền vệ "kiểm soát" (từ Rijkaard, Scholten , Winter, Wouters, Mühren, Witschge) với trách nhiệm nuôi dưỡng những người chơi có đầu óc tấn công, một tiền đạo thứ hai (Bosman, Scholten), hai người ôm dọc biên tiền vệ cánh (từ Bergkamp, van't Schip, De Wit, Witschge) và một tiền đạo đa năng (từ Van Basten, Meijer, Bosman). Hệ thống này thành công đến mức Ajax đã giành được Champions League năm 1995 khi chơi hệ thống của Cruyff – một sự tôn vinh di sản của Cruyff với tư cách là huấn luyện viên Ajax.
Trở lại Barcelona với tư cách là huấn luyện viên và xây dựng Dream Team
Sau khi xuất hiện cho câu lạc bộ với tư cách là một cầu thủ, Cruyff trở lại Barcelona trong 1988–89 season, lần này để đảm nhận vai trò mới là huấn luyện viên của đội một. Tuy nhiên, trước khi trở lại Barcelona, Cruyff đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm với tư cách là một huấn luyện viên/nhà quản lý. Ở Hà Lan, ông được ca ngợi mạnh mẽ vì khả năng tấn công tinh tế mà anh ấy áp đặt cho các đội của mình và cũng vì công việc đáng khen ngợi của ông với tư cách là người phát hiện tài năng. Với Barça, Cruyff bắt đầu làm việc với một đội bóng được tu sửa hoàn toàn sau vụ bê bối mùa trước, được gọi là "Hesperia Mutiny" ("" bằng tiếng Catalunya). Chỉ huy thứ hai của anh ấy là Carles Rexach, người đã ở câu lạc bộ được một năm. Cruyff ngay lập tức buộc tội Barça đã chơi thứ bóng đá hấp dẫn của mình và kết quả không mất nhiều thời gian để có được. Tuy nhiên, điều này không chỉ xảy ra với đội một, các đội trẻ cũng thể hiện phong cách tấn công tương tự, một điều giúp các cầu thủ dự bị chuyển sang chơi bóng ở đội một dễ dàng hơn. Như Sid Lowe đã lưu ý, khi Cruyff tiếp quản vị trí huấn luyện viên, Barcelona của cuối những năm 1980 "là một câu lạc bộ nợ nần và khủng hoảng. Kết quả tồi tệ, màn trình diễn tệ hơn, bầu không khí khủng khiếp và lượng người tham dự giảm, trong khi thậm chí mối quan hệ giữa chủ tịch câu lạc bộ Josep Lluís Núñez và [[Chủ tịch câu lạc bộ] Generalitat de Catalunya|chủ tịch cộng đồng tự trị Tây Ban Nha]] mà họ đại diện, Jordi Pujol, đã xấu đi. Ôny chấp nhận rủi ro và phần thưởng theo sau."
trái|nhỏ|Mặt tiền chính của La Masia cũ, học viện đào tạo trẻ của Barcelona.
Tại Barça, Cruyff đã mang về những cầu thủ như Pep Guardiola, José Mari Bakero, Txiki Begiristain, Andoni Goikoetxea, Ronald Koeman, [ [Michael Laudrup]], Romário, Gheorghe Hagi và Hristo Stoichkov. Với Cruyff, Barça đã trải qua một kỷ nguyên huy hoàng. Trong khoảng thời gian 5 năm (1989–1994), ông đã dẫn dắt câu lạc bộ đến bốn trận chung kết châu Âu (hai trận chung kết Cúp vô địch châu Âu và hai trận chung kết Cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League). Thành tích của Cruyff bao gồm một Cúp C1 châu Âu, bốn chức vô địch Liga, một Cup Winners' Cup, một Copa del Rey và bốn Supercopa de España.
Dưới thời Cruyff, "Dream Team" của Barça đã giành được bốn chức vô địch La Liga liên tiếp (1991–1994) và đánh bại Sampdoria trong cả Chung kết cúp vô địch châu Âu 1989 và Chung kết cúp châu Âu 1992 tại Sân vận động Wembley. Vào ngày 10 tháng 5 năm 1989, các bàn thắng của Salinas và López Rekarte đã giúp Barcelona giành chiến thắng 2–0 trước Sampdoria. Hơn 25.000 cổ động viên đã đến Thụy Sĩ để cổ vũ cho đội. Barça mới của Cruyff đã mang về Cúp Winners' Cup lần thứ ba cho câu lạc bộ. Giấc mơ cúp châu Âu trở thành hiện thực vào ngày 20 tháng 5 năm 1992 tại Wembley ở London, khi Barça đánh bại Sampdoria. Chỉ dẫn cuối cùng của Cruyff dành cho các cầu thủ của ông trước khi họ bước vào sân là "Salid y disfrutad" (tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "Hãy ra ngoài và tận hưởng" hoặc "Hãy ra ngoài và tận hưởng"). Johan Cruyff là một trong những cầu thủ tiên phong vĩ đại nhất của bóng đá trong và ngoài sân cỏ Trận đấu bước sang hiệp phụ sau trận hòa không bàn thắng. Ở phút 111, cú sút phạt xuất thần của Ronald Koeman đã giúp Barça lần đầu tiên giành chức vô địch cúp châu Âu. 25.000 người ủng hộ đã tháp tùng đội đến Wembley, trong khi một triệu người đã đổ ra đường ở Barcelona để chào đón nhà vô địch châu Âu về nhà. Những chiến thắng dưới thời Cruyff bao gồm chiến thắng 5–0 trước Real tại La Liga Madrid trong El Clásico tại Camp Nou, cũng như chiến thắng 4–0 trước Manchester United tại Champions League. Barcelona đã giành được một Cúp nhà vua ở 1990, Siêu cúp châu Âu ở 1992 và ba Supercopa de España, cũng như về nhì trước Manchester United và Milan trong hai trận chung kết châu Âu.
Với 11 danh hiệu, Cruyff là huấn luyện viên thành công nhất của Barcelona, nhưng sau đó đã bị cựu cầu thủ Pep Guardiola vượt qua, người đã đạt được 15 danh hiệu. Cruyff cũng là huấn luyện viên tại vị lâu nhất của câu lạc bộ. Tuy nhiên, trong hai mùa giải cuối cùng, anh không giành được bất kỳ danh hiệu nào, bất hòa với chủ tịch Josep Lluís Núñez, người cuối cùng đã sa thải ông khỏi vị trí huấn luyện viên Barcelona.
Khi còn ở Barcelona, Cruyff đã đàm phán với KNVB để quản lý đội tuyển quốc gia cho vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1994, nhưng các cuộc đàm phán đã đổ vỡ vào phút cuối.
Đội tuyển quốc gia Catalonia
nhỏ|Cruyff với Đội tuyển quốc gia Catalonia vào tháng 1 năm 2013
Ngoài việc đại diện cho Catalonia trên sân vào năm 1976, Cruyff còn quản lý Đội tuyển quốc gia Catalonia từ năm 2009 đến 2013, dẫn dắt đội giành chiến thắng trước Argentina ở trận đấu đầu tiên của ông.
Vào ngày 2 tháng 11 năm 2009, Cruyff được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia Catalonia. Đó là công việc quản lý đầu tiên của ông sau 13 năm. Vào ngày 22 tháng 12 năm 2009, họ chơi một trận giao hữu với Argentina, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa Catalonia thắng, 4–2 tại Camp Nou. Vào ngày 28 tháng 12 năm 2010, Catalonia chơi một trận giao hữu với Honduras thắng 4–0 tại Estadi Olímpic Lluís Companys. Vào ngày 30 tháng 12 năm 2011, Catalonia đấu với Tunisia trong một trận hòa không bàn thắng trước Lluís Companys. Trong trận đấu cuối cùng của họ dưới thời Cruyff, vào ngày 2 tháng 1 năm 2013, Catalonia đã hòa với Nigeria tại Cornellà-El Prat, 1 –1.
Các hoạt động khác liên quan đến bóng đá
Là cố vấn kỹ thuật
Cố vấn không chính thức của chủ tịch Barcelona Joan Laporta
Sau đó, khi còn là huấn luyện viên Barcelona, Cruyff bị đau tim và được các bác sĩ khuyên nên từ bỏ công việc huấn luyện. Ông rời đi vào năm 1996 và không bao giờ đảm nhận một công việc cấp cao nào khác, nhưng ảnh hưởng của anh ấy không dừng lại ở đó. Mặc dù đã thề sẽ không bao giờ làm huấn luyện viên nữa, nhưng ông ấy vẫn là một nhà phân tích và phê bình bóng đá có tiếng nói. Sự ủng hộ cởi mở của Cruyff đã giúp ứng cử viên Joan Laporta giành chiến thắng trong cuộc bầu cử chủ tịch Barcelona. Anh ấy tiếp tục là cố vấn cho ông, mặc dù ông không giữ chức vụ chính thức nào tại Barcelona. Trở lại với vai trò cố vấn cùng với Joan Laporta, ông đề nghị bổ nhiệm Frank Rijkaard vào năm 2003. Một lần nữa, Barca lại thành công, liên tiếp giành chức vô địch quốc gia và một chức vô địch Champions League khác vào năm 2006.
Sau hai chiến dịch tương đối đáng thất vọng, Laporta đã sống sót sau một đợt chỉ trích và cần phải đại tu. Vào mùa hè năm 2008, Rijkaard rời câu lạc bộ và mặc dù José Mourinho đang thúc đẩy công việc ở Camp Nou, Cruyff đã chọn Pep Guardiola. Nhiều người nhanh chóng chỉ ra rằng Guardiola thiếu kinh nghiệm huấn luyện, nhưng Cruyff nói: "Bài kiểm tra lớn nhất đối với một huấn luyện viên tại một đội bóng như Barça là sức mạnh để đưa ra quyết định và khả năng nói chuyện với báo chí, bởi vì họ không giúp đỡ và bạn phải quản lý điều đó. Sau đó, thật dễ dàng cho những người biết bóng đá. Nhưng không có nhiều người biết."
Vào ngày 26 tháng 3 năm 2010, Cruyff được bổ nhiệm làm chủ tịch danh dự của Barcelona để ghi nhận những đóng góp của ông cho câu lạc bộ với tư cách là cầu thủ và huấn luyện viên. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 2010, ông đã bị chủ tịch mới [[Sandro Rosell] tước danh hiệu này].
Trở lại Ajax làm giám đốc kỹ thuật
Vào ngày 20 tháng 2 năm 2008, sau một cuộc nghiên cứu lớn về tình trạng quản lý yếu kém kéo dài 10 năm, Cruyff đã được thông báo rằng Cruyff sẽ là giám đốc kỹ thuật mới tại câu lạc bộ thời thơ ấu của ông là Ajax, lần thứ tư ông gắn bó với đội bóng. Câu lạc bộ Amsterdam. Vào tháng 3, Cruyff đã thông báo rằng ông rút khỏi kế hoạch trở lại Ajax vì "sự khác biệt về chuyên môn của ý kiến" giữa anh ấy và người quản lý mới của Ajax, Marco van Basten. Van Basten nói rằng kế hoạch của Cruyff "đang diễn ra quá nhanh", bởi vì ông "không quá hài lòng với cách mọi thứ đang diễn ra".
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2011, Cruyff trở lại Ajax trên cơ sở tư vấn sau khi đồng ý trở thành thành viên của một trong ba "nhóm điều tra". Sau khi trình bày kế hoạch cải tổ câu lạc bộ, đặc biệt là trẻ hóa học viện đào tạo trẻ, ban cố vấn Ajax và Giám đốc điều hành đã từ chức vào ngày 30 tháng 3 năm 2011. Vào ngày 6 tháng 6 năm 2011, ông được bổ nhiệm vào ban cố vấn mới của Ajax để thực hiện các kế hoạch cải cách của mình.<ref></ref>
Ban cố vấn Ajax đã thỏa thuận miệng với Louis van Gaal bổ nhiệm ông làm Giám đốc điều hành mới mà không hỏi ý kiến Cruyff. Cruyff, một thành viên hội đồng quản trị, đã kiện Ajax ra tòa trong nỗ lực ngăn chặn cuộc hẹn. Tòa hủy bỏ cuộc hẹn, nói rằng hội đồng quản trị đã "cố tình đặt Cruyff việt vị". Do cuộc cãi vã đang diễn ra trong ban cố vấn, Cruyff đã từ chức vào ngày 10 tháng 4 năm 2012, Ajax tuyên bố rằng Cruyff sẽ " vẫn tham gia vào việc thực hiện tầm nhìn bóng đá của ông trong câu lạc bộ".
Cố vấn kỹ thuật cho Chivas Guadalajara
Cruyff trở thành cố vấn kỹ thuật cho câu lạc bộ Mexico Guadalajara vào tháng 2 năm 2012. Jorge Vergara, chủ sở hữu của câu lạc bộ, đã chọn ông làm cố vấn thể thao của đội sau kỷ lục thua mà Guadalajara duy trì trong vài tháng cuối năm 2011. Mặc dù đã ký hợp đồng ba năm, hợp đồng của Cruyff đã bị chấm dứt vào tháng 12 năm 2012 chỉ sau chín tháng với câu lạc bộ. Guadalajara nói rằng các thành viên khác trong ban huấn luyện của đội có thể sẽ không bị chấm dứt hợp đồng.
Đại sứ cho Bỉ và Hà Lan đồng đăng cai tổ chức World Cup
Vào tháng 9 năm 2009, Cruyff và Ruud Gullit được công bố là đại sứ cho Bỉ–Hà Lan đấu thầu chung cho Vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới năm 2018 hoặc 2022 tại buổi ra mắt chính thức ở Eindhoven.
Phong cách chơi và di sản
Cruyff được nhiều người coi là một nhân vật cách mạng trong lịch sử của Ajax, Barcelona và Hà Lan. Phong cách chơi mà Cruyff giới thiệu tại Barcelona sau này được gọi là tiki-taka—đặc trưng bởi chuyền ngắn và di chuyển, đưa bóng qua nhiều kênh khác nhau và duy trì quyền kiểm soát bóng—sau này được áp dụng bởi Euro 2008, Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 và Euro 2012 vô địch Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha.
Cầu thủ toàn diện
trái|nhỏ|Cruyff thi đấu với Ajax năm 1971
Trong suốt sự nghiệp của mình, Cruyff đồng nghĩa với phong cách chơi "Bóng đá tổng lực". Đó là một hệ thống trong đó một cầu thủ rời khỏi vị trí của mình sẽ được thay thế bằng một người khác trong đội của anh ấy, do đó cho phép đội giữ nguyên cơ cấu tổ chức đã định của họ.
Trong hệ thống chất lỏng này, không có cầu thủ bóng đá nào cố định trong vai trò dự kiến của họ ở ngoài sân. Phong cách này đã được huấn luyện viên Rinus Michels của Ajax mài dũa, với Cruyff đóng vai trò là "nhạc trưởng" trên sân. Không gian và việc tạo ra nó là trung tâm của khái niệm Bóng đá tổng lực. Hậu vệ của Ajax Barry Hulshoff, người từng chơi với Cruyff, giải thích cách mà đội giành cúp C1 vào các năm 1971, 1972 và 1973 đã tận dụng lợi thế của họ: "Chúng tôi đã thảo luận về không gian suốt thời gian đó. Cruyff luôn nói về việc mọi người nên ở đâu chạy, nơi họ nên đứng, nơi họ không nên di chuyển. Tất cả chỉ là tạo khoảng trống và đi vào không gian. Đó là một kiểu kiến trúc trên sân. Chúng tôi luôn nói về tốc độ của quả bóng, không gian và thời gian. Đâu là nhiều không gian nhất? Cầu thủ có nhiều thời gian nhất ở đâu? Đó là nơi chúng ta phải chơi bóng. Mỗi cầu thủ phải hiểu toàn bộ hình học của toàn bộ sân và toàn bộ hệ thống."
Người điều phối đội, Cruyff là một kiến tạo sáng tạo với năng khiếu chuyền bóng đúng thời điểm. Trên danh nghĩa, anh ấy chơi ở vị trí tiền đạo trung tâm trong hệ thống này và là một tay săn bàn cừ khôi, nhưng lại lùi sâu xuống nhầm lẫn các điểm đánh dấu của ônh hoặc di chuyển sang cánh để tạo hiệu ứng tuyệt vời. Trong Chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1974 giữa Tây Đức và Hà Lan, từ trận đấu bắt đầu, người Hà Lan độc quyền sở hữu bóng. Khi bắt đầu pha di chuyển dẫn đến bàn mở tỷ số, Cruyff đã để bóng chạm tay bên phần sân nhà. Đội trưởng Hà Lan, người trên danh nghĩa là một trung vệ, là cầu thủ Hà Lan chơi sâu nhất sân, và sau một loạt đường chuyền, ông thực hiện một pha chạy chỗ từ vòng tròn trung tâm vào vòng cấm Tây Đức. Không thể ngăn Cruyff bằng những biện pháp công bằng, Uli Hoeness đã hạ gục Cruyff, để thủng lưới một quả phạt đền do Johan Neeskens ghi. Người Đức đầu tiên chạm bóng như vậy là thủ môn Sepp Maier đưa bóng ra khỏi lưới nhà. Do cách chơi của Cruyff, ông vẫn được gọi là "cầu thủ toàn diện".
Cruyff được biết đến với khả năng kỹ thuật, tốc độ, khả năng tăng tốc, rê bóng và tầm nhìn, đồng thời nhận thức được vị trí của các đồng đội khi một cuộc tấn công diễn ra. "Bóng đá bao gồm các yếu tố khác nhau: kỹ thuật, chiến thuật và thể lực", ông nói với các nhà báo Henk van Dorp và Frits Barend, trong một trong những cuộc phỏng vấn được thu thập trong cuốn sách "Ajax, Barcelona, Cruyff" của họ. "Có thể có người kỹ thuật hơn ta, có thể thể hình hơn ta, nhưng cái chính là chiến thuật. Phần lớn cầu thủ đều thiếu chiến thuật. Có thể chia chiến thuật thành sáng suốt, tin tưởng và táo bạo. Trong chiến thuật khu vực, tôi nghĩ rằng tôi chỉ có nhiều hơn hầu hết những người chơi khác." Về khái niệm kỹ thuật trong bóng đá, Cruyff từng nói: "Kỹ thuật không phải là tung hứng bóng 1.000 lần. Ai cũng có thể làm được điều đó bằng cách luyện tập. Sau đó, bạn có thể làm việc trong rạp xiếc. Kỹ thuật là chuyền bóng bằng một chạm, với tốc độ phù hợp, bằng chân phải của đồng đội."
Triết lý win-with-style
Cruyff luôn xem xét các khía cạnh thẩm mỹ và đạo đức của trò chơi; nó không chỉ là chiến thắng, mà là chiến thắng với phong cách 'đúng đắn' và theo cách 'đúng đắn'. Ông cũng luôn đánh giá cao giá trị giải trí của trò chơi. trò chơi đẹp mắt, đối với ôny, mang tính giải trí và niềm vui nhiều như kết quả. Trong suy nghĩ của Cruyff, chiến thắng chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có thể chiếm trọn trái tim của đối thủ và khán giả. Như ông đã từng lưu ý, "Chất lượng mà không có kết quả thì vô nghĩa. Kết quả mà không có chất lượng thì nhàm chán". Đối với Cruyff, việc chọn một phong cách chơi 'đúng' để giành chiến thắng thậm chí còn quan trọng hơn cả việc giành chiến thắng. <ref>Theo cách nói của Cruyff, được trích dẫn trong cuốn sách của David Winner Brilliant Orange: "Không có huy chương tốt hơn là được hoan nghênh cho phong cách của bạn.
Là một huấn luyện viên, các đội của tôi có thể đã thắng nhiều trận hơn nếu chúng tôi chơi theo cách ít mạo hiểm hơn. Có lẽ tôi đã kiếm được nhiều hơn một chút và tiền thưởng sẽ lớn hơn, nhưng nếu mọi người nói rằng Barcelona đang chơi thứ bóng đá đẹp nhất thế giới khi tôi làm huấn luyện viên, tôi còn đòi hỏi gì hơn nữa? Nếu bạn xuất hiện trong trận chung kết World Cup, đó có thể là cơ hội lớn nhất trong đời bạn, vậy tại sao phải buồn và sợ hãi? Hãy vui vẻ, thể hiện bản thân và vui chơi. Làm cho nó đặc biệt cho bạn và cho tất cả mọi người xem. Vì lợi ích của bóng đá, chúng ta cần một đội phát minh, ý tưởng tấn công và phong cách xuất hiện. Ngay cả khi nó không giành chiến thắng, nó sẽ truyền cảm hứng cho những người yêu bóng đá ở mọi lứa tuổi ở khắp mọi nơi. Đó là phần thưởng lớn nhất." Cruyff luôn tin vào sự đơn giản, coi sự đơn giản và cái đẹp là hai thứ không thể tách rời. "Bóng đá đơn giản là đẹp nhất . Nhưng chơi thứ bóng đá đơn giản mới là điều khó nhất", như Cruyff đã từng tóm tắt triết lý cơ bản của mình. "Bạn thấy đường chuyền dài 40 mét có thường xuyên không khi 20 mét là đủ?... Để chơi tốt, bạn cần những cầu thủ giỏi, nhưng một cầu thủ giỏi hầu như luôn có vấn đề thiếu hiệu quả. Anh ấy luôn muốn làm mọi thứ đẹp hơn mức cần thiết."
Cruyff cũng đã hoàn thiện feint hiện được gọi là "Cruyff Turn". Điểm yếu là một ví dụ về sự đơn giản trong triết lý bóng đá của Cruyff. Nó không được thực hiện để làm đối thủ bối rối cũng như kích thích đám đông đang xem, mà vì Cruyff ước tính rằng đó là phương pháp đơn giản nhất (về nỗ lực và rủi ro so với kết quả mong đợi) để đánh bại đối thủ của mình. Cruyff tìm cách chuyền hoặc cắt ngang quả bóng, sau đó, thay vì sút bóng, ông kéo quả bóng ra sau bàn chân đã trồng của mình bằng mặt trong của bàn chân kia, xoay 180 độ và tăng tốc. Như hậu vệ Thụy Điển Jan Olsson (một "nạn nhân" của Cruyff Turn tại World Cup 1974) nhớ lại, "Tôi đã chơi 18 năm ở bóng đá đỉnh cao và 17 lần khoác áo Thụy Điển nhưng khoảnh khắc gặp Cruyff đó là khoảnh khắc đáng tự hào nhất trong sự nghiệp của tôi. Tôi nghĩ mình chắc chắn sẽ giành được bóng, nhưng ông ấy đã lừa tôi. Tôi không thấy nhục nhã. Tôi không có cơ hội. Cruyff là một thiên tài ."
Giống như bóng đá Hà Lan nói chung cho đến giữa những năm 1960, sự nghiệp thi đấu ban đầu của Cruyff bị ảnh hưởng đáng kể bởi triết lý huấn luyện của các huấn luyện viên người Anh như Vic Buckingham.
Tính hai mặt của tinh thần và thể chất luôn đóng một vai trò quan trọng trong triết lý bóng đá của ông. Theo cách nói của Cruyff, được trích dẫn trong cuốn tự truyện Stillness and Speed: My Story của Dennis Bergkamp, "...Bởi vì bạn chơi bóng bằng đầu, và đôi chân của bạn ở đó để giúp bạn. Nếu bạn không "Không dùng đầu, dùng chân sẽ không đủ. Tại sao một cầu thủ phải đuổi theo bóng? Bởi vì anh ta bắt đầu chạy quá muộn. Bạn phải chú ý, sử dụng bộ não của mình và tìm đúng vị trí. Nếu bạn nhận được đến bóng muộn, nghĩa là bạn đã chọn sai vị trí. Bergkamp không bao giờ đến muộn." Đối với Cruyff, bóng đá là một trò chơi thể chất và trí óc thiên về nghệ thuật thay vì một cuộc thi thể chất thiên về thể lực. Như ông nói, "Mọi huấn luyện viên nói về chuyển động, về chạy nhiều. Tôi nói đừng chạy nhiều. Bóng đá là trò chơi bạn chơi bằng trí não. Bạn phải ở đúng nơi, đúng thời điểm, không quá sớm, không quá muộn."
Sự sáng tạo luôn là yếu tố then chốt trong triết lý bóng đá của ông, cả trên cương vị cầu thủ lẫn HLV. Cruyff từng so sánh cách tiếp cận cá nhân và trực quan hơn của ông với phong cách huấn luyện cứng nhắc và máy móc hơn của Louis van Gaal, "Van Gaal có tầm nhìn tốt về bóng đá. Nhưng nó không phải của tôi. Ông ấy muốn tạo ra những đội bóng chiến thắng và có cách làm việc quân sự với ông ấy." chiến thuật. Tôi không. Tôi muốn các cá nhân tự suy nghĩ và đưa ra quyết định trên sân phù hợp nhất với tình huống... Tôi không có gì chống lại máy tính, nhưng bạn đánh giá các cầu thủ bóng đá bằng trực giác và trái tim của mình. Dựa trên các tiêu chí hiện đang được sử dụng tại Ajax [do Van Gaal đề xuất], tôi đã trượt bài kiểm tra Khi tôi 15 tuổi, tôi chỉ có thể đá bóng 15 mét bằng bên trái và có lẽ là 20 mét bằng bên phải. Tôi sẽ không thể thực hiện một quả phạt góc. Bên cạnh đó, tôi yếu về thể chất và tương đối chậm chạp. Hai phẩm chất của tôi là kỹ thuật tuyệt vời và sự sáng suốt, đó là hai thứ mà bạn không thể đo lường bằng máy tính."
14 quy tắc của Cruyff
Trong cuốn tự truyện của mình, Cruyff giải thích lý do tại sao ông đưa ra một bộ gồm 14 quy tắc cơ bản, được trưng bày ở mọi Tòa án Cruyff trên thế giới: "Tôi đã từng đọc một bài báo về việc xây dựng kim tự tháp ở Ai Cập. Hóa ra một số con số hoàn toàn trùng khớp với các quy luật tự nhiên – vị trí của mặt trăng vào những thời điểm nhất định, v.v.. Và nó khiến bạn phải suy nghĩ: làm sao những người cổ đại đó có thể xây dựng được một thứ phức tạp về mặt khoa học như vậy? một cái gì đó mà chúng tôi không có, mặc dù chúng tôi luôn nghĩ rằng chúng tôi tiến bộ hơn họ rất nhiều. Ví dụ như Rembrandt và van Gogh: ngày nay ai có thể sánh được với họ? Khi tôi nghĩ như vậy, Tôi ngày càng tin rằng mọi thứ đều thực sự có thể. Nếu gần 5.000 năm trước, họ đã làm được điều không thể, tại sao chúng ta không làm được ngày nay? Điều đó áp dụng tương tự cho bóng đá, cũng như những thứ như Sân vận động Cruyff và các môn thể thao học đường mười bốn quy tắc của tôi được đặt ra cho mọi tòa án và mọi sân thể thao của trường phải tuân theo. Họ ở đó để dạy những người trẻ tuổi rằng thể thao và trò chơi cũng có thể áp dụng vào cuộc sống hàng ngày."
Và anh ấy đã liệt kê 14 quy tắc cơ bản của mình bao gồm:
Người chơi theo nhóm – 'Để hoàn thành mọi việc, bạn phải làm chúng cùng nhau.';
Trách nhiệm – 'Chăm sóc mọi thứ như thể chúng là của chính bạn.';
Tôn trọng – 'Tôn trọng lẫn nhau.';
Tích hợp – 'Thu hút người khác tham gia vào các hoạt động của bạn.';
Sáng kiến – 'Dám thử cái mới';
Huấn luyện – 'Luôn giúp đỡ lẫn nhau trong nhóm.';
Tính cách – 'Hãy là chính mình.';
Tham gia xã hội – 'Tương tác là rất quan trọng, cả trong thể thao và cuộc sống.';
Kỹ thuật – 'Biết những điều cơ bản.';
Chiến thuật – 'Biết làm gì.';
Phát triển – 'Thể thao rèn luyện thể chất và tâm hồn.';
Học tập – 'Cố gắng học điều gì đó mới mỗi ngày.';
Chơi cùng nhau – 'Một phần thiết yếu của bất kỳ trò chơi nào.';
Sáng tạo – 'Mang vẻ đẹp đến với thể thao.'
Trong văn hóa đại chúng
trái|nhỏ|Bức tượng đồng của Johan Cruyff và Berti Vogts (mô tả pha xử lý giữa Vogts và Cruyff trong trận chung kết World Cup 1974) trước Sân vận động Olympic ở Amsterdam, bởi Ek van Zanten.
trái|nhỏ|Bức tượng của Cruyff ở lối vào chính của Johan Cruijff Arena ở Amsterdam
Vào năm 2018, Cruyff đã được thêm làm biểu tượng cho Đội hình tối thượng trong trò chơi điện tử EA Sports' FIFA FIFA 19, nhận được xếp hạng 94. Cuốn sách viết về bóng đá Hà Lan năm 2000 của nhà văn thể thao người Anh David Winner, Brilliant Orange, thường xuyên nhắc đến Cruyff. Trong cuốn sách, các ý tưởng của bóng đá Hà Lan (đặc biệt là của Cruyff) liên quan một cách hiệu quả đến việc sử dụng không gian trong hội họa Hà Lan và kiến trúc Hà Lan.
Năm 1976, bộ phim phim tài liệu tiếng Ý Il profeta del gol do Sandro Ciotti đạo diễn. Bộ phim tài liệu thuật lại những thành công trong sự nghiệp bóng đá của Johan Cruyff vào những năm 1970. Năm 2004, bộ phim tài liệu Johan Cruijff – En un momento dado ("Johan Cruijff – At Any Given Moment") được thực hiện bởi Ramon Gieling và xếp hạng những năm Cruyff đã trải qua tại Barcelona, câu lạc bộ nơi ông có ảnh hưởng sâu sắc nhất về cả khía cạnh bóng đá và văn hóa. Năm 2014, bộ phim tài liệu tiếng Catalan L'últim partit: 40 anys de Johan Cruyff a Catalunya do Jordi Marcos đạo diễn, kỷ niệm 40 năm Johan Cruyff ký hợp đồng với Barcelona vào tháng 8 năm 1973.
Ở Hà Lan, và ở một mức độ nào đó là Tây Ban Nha, Cruyff nổi tiếng với những quan điểm đơn phương thường lơ lửng giữa cái nhìn sâu sắc tuyệt vời và cái hiển nhiên trắng trợn. Họ nổi tiếng với phương ngữ Amsterdam và ngữ pháp sai, đồng thời thường có tautologies và nghịch lý. Ở Tây Ban Nha, câu nói nổi tiếng nhất của ông là "En un momento dado" ( "Trong bất kỳ thời điểm nào"). Câu trích dẫn đã được sử dụng cho tiêu đề của một bộ phim tài liệu năm 2004 về cuộc đời của Cruyff: Johan Cruijff - En un momento dado. Ở Hà Lan, câu nói nổi tiếng nhất của anh ấy là "Ieder nadeel heb z'n voordeel'" ("Mọi bất lợi đều có ưu điểm của nó") và cách thể hiện bản thân của anh ấy được mệnh danh là "Cruijffiaans". Mặc dù vậy, Cruyff hiếm khi giới hạn bản thân trong một dòng duy nhất, và khi so sánh với Rinus Michels, huấn luyện viên bóng đá có tài ăn nói không kém nhưng dè dặt, Kees Fens đã coi những đoạn độc thoại của Cruyff giống như một bài văn xuôi thử nghiệm, "không có chủ đề, chỉ là nỗ lực bỏ bớt các từ trong một biển bất định... không có điểm dừng hoàn toàn".
Ngoài lề
Sở thích
Ngoài bóng đá, môn thể thao (và sở thích) yêu thích của Cruyff là golf. Vào những năm 1970, Cruyff thích sưu tập ô tô. Trong bộ phim tài liệu Il Profeta del gol (1976) của Sandro Ciotti, Cruyff nói: "Tôi thích lái xe quãng đường 20 km ngăn cách trại huấn luyện với nhà tôi, điều đó giúp tôi thư giãn. Tôi yêu những chiếc ô tô." ref name="NSSMag.com"></ref>
Dự án kinh doanh
Năm 1979, Cruyff đang bước vào giai đoạn hoàng hôn của sự nghiệp ở Barcelona. Anh ấy bắt đầu tưởng tượng việc tự mình tạo ra một loạt giày dép để thách thức chất lượng kỹ thuật và sang trọng của những sản phẩm trên thị trường trước đó. Sau một vài năm cố gắng và thất bại trong việc khuyến khích các thương hiệu đồ thể thao lớn nghiêm túc thực hiện ý tưởng của anh ấy, xét cho cùng thì đây là một tham vọng khá bất thường của một vận động viên thể thao chuyên nghiệp vào thời điểm đó. Cuối cùng, anh ấy đã kết hợp với người bạn thân của mình, nhà thiết kế người Ý Emilio Lazzarini, và sử dụng kiến thức của mình, anh ấy bắt đầu tạo ra một đôi giày kỹ thuật có thể cân bằng giữa chức năng và sự thanh lịch. Ban đầu, dòng sản phẩm này tràn ngập những đôi giày bóng đá trong nhà "sang trọng", nhưng chúng nhanh chóng được sử dụng như một loại giày thời trang do vẻ ngoài hấp dẫn của chúng. Và thế là thương hiệu Cruyff Classics ra đời.
Bệnh tật và qua đời
Cruyff luôn nghiện thuốc lá nặng từ thời niên thiếu cho đến khi ông trải qua một ca phẫu thuật khẩn cấp vào năm 1991. Sau khi bỏ hút thuốc sau cuộc phẫu thuật, ông chuyển sang ngậm kẹo mút khi xem các trận đấu. Ông xuất hiện trong một Quảng cáo của sở y tế Catalan, nói rằng, "Bóng đá đã cho tôi mọi thứ trong cuộc sống, thuốc lá gần như lấy đi tất cả." Sau một cơn đau tim nữa vào năm 1997, ông thề sẽ không bao giờ làm huấn luyện viên nữa (cho đến năm 2009), mặc dù ông vẫn là một nhà phân tích và phê bình bóng đá có tiếng nói. Vào giữa tháng 2 năm 2016, anh ấy nói rằng anh ấy đã phản ứng tốt với hóa trị và đang "chiến thắng" cuộc chiến với căn bệnh ung thư của mình. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2016, anh ấy đã tham gia vào ngày thứ hai của cuộc thử nghiệm mùa đông tại Circuit de Catalunya ngay bên ngoài Barcelona và đã đến thăm tay đua Formula One người Hà Lan Max Verstappen. Cruyff dường như có tinh thần tốt và người ta tin rằng đây là lần cuối cùng ông xuất hiện trước công chúng.< tham chiếu></ref> Vào sáng ngày 24 tháng 3 năm 2016, tại một phòng khám ở Barcelona, Cruyff qua đời ở tuổi 68, bên cạnh vợ, con và cháu
Cuộc sống cá nhân
Tại đám cưới của đồng đội Ajax Piet Keizer, vào ngày 13 tháng 6 năm 1967, Cruyff gặp người vợ tương lai của mình, Diana Margaretha "Danny" Coster (sinh năm 1949). Họ bắt đầu hẹn hò và vào ngày 2 tháng 12 năm 1968, ở tuổi 21, anh kết hôn với Danny. Cha cô là doanh nhân người Hà Lan Cor Coster, người tình cờ cũng là người đại diện của Cruyff. Ông cũng được ghi nhận là người đã giúp Cruyff chuyển đến FC Barcelona vào năm 1973. Cuộc hôn nhân được cho là đã hạnh phúc trong gần 50 năm. Trái ngược với tính cách mạnh mẽ và vị thế siêu sao nổi tiếng của mình, Cruyff có một cuộc sống riêng tư tương đối yên tĩnh bên ngoài thế giới bóng đá.<ref></ref> Là một người đàn ông có nguyên tắc cao, mạnh mẽ và tận tụy với gia đình, sự nghiệp bóng đá của Cruyff, cả với tư cách cầu thủ và tư cách một người quản lý, bị ảnh hưởng đáng kể bởi gia đình anh ta, đặc biệt là vợ anh ta, Danny.
Danh hiệu
Cầu thủ
Club Ajax Amsterdam: (1964-1973, 1981-1983)
Vô địch Eredivisie (Giải Hà Lan): 1966,1967,1968,1970,1972,1973,1982,1983
Vô địch Cúp Hà Lan (KNVB): 1967,1970,1971,1972,1983
Vô địch Cúp Liên Lục địa (Intercontinental Cúp): 1972
Vô địch Siêu Cúp châu Âu (UEFA Super cup): 1972,1973
Vô địch UEFA Intertoto cup: 1968
Vô địch European Cúp (c1): 1971,1972,1973
Á quân European Cúp (c1): 1969
Giải thưởng Quả bóng Vàng:1971, 1973
Club Barcelona (1974-1978)
Vô địch La Liga (Giải Tây Ban Nha): 1974
Vô địch Cúp Nhà Vua (copa del Rey): 1978
Bán Kết European Cúp (C1): 1975
Giải thưởng Quả bóng Vàng:1974
Club Feyenoord (1983-1984)
Vô địch Eredivisie (Giải Hà Lan): 1984
Vô địch koninklijke Nederlandse Voetbal Bon Beker (KNVB): 1984
ĐT Quốc gia Hà Lan (Netherlands)
Á quân World Cup: 1974
Xếp Thứ 3 danh sách cầu thủ hay nhất thế giới (FiFa)
Cầu thủ số 1 châu Âu (UEFA)
Huấn luyện viên
Club Ajax Amsterdam: (1985-1988)
Vô địch Cúp Hà Lan (KNVB): 1986,1987
Vô địch UEFA Cup Winner's Cúp (C2):1987
Á quân UEFA Cup Winner's Cúp (C2):1988
Club Barcelona (1988-1996)
Vô địch La Liga (Giải Tây Ban Nha): 1991,1992,1993,1994
Vô địch Cúp Nhà Vua (copa del Rey): 1990
Vo địch Siêu cúp Tây Ban Nha (Supercopa de Épanna): 1991,1992,1994
Á quân European Cúp (c1): 1994
Vô địch Siêu Cúp châu Âu (UEFA Super cup): 1992
Vô địch UEFA Cup Winner's Cúp (C2):1989
Á quân UEFA Cup Winner's Cúp (C2):1991
Vô địch Champions League: 1992
HLV Trưởng ĐT Catalonia (2009-2011)
Chú thích
Đọc thêm
Barend, Frits; Van Dorp, Henk: Ajax, Barcelona, Cruyff: The ABC of an Obstinate Maestro. Translated from the Dutch by David Winner and Lex Van Dam. (Bloomsbury Publishing, London, 1999)
Burns, Jimmy: Barça: A People's Passion. (Bloomsbury Publishing, 2011)
Burns, Jimmy: La Roja: How Soccer Conquered Spain and How Spanish Soccer Conquered the World. (Nation Books, 2012)
Casanovas, Josep María: Cruyff, una vida por el Barça. (Ediciones B, 1973, ISCOND-400-6710-0)
Conde Esteve, Justo: La cruyffcifixión del «mini-dios» Núñez. (Edimestre Serveis Editorials, 1996, ISBN 84-87888-20-8)
Cruijff, Johan; de Boer, Sytze: Johan Cruijff uitspraken. Een biografie in citaten. (Uitgeverij Schuyt Nederland, 2013, ISBN 9789081797412)
Cruyff, Johan: Mis futbolistas y yo. (Ediciones B, 1993, ISBN 84-406-3999-6)
Cruyff, Johan: Me gusta el fútbol. (RBA Libros, 2002)
Cruyff, Johan: Fútbol. Mi filosofía. (Ediciones B, 2012)
Ghemmour, Chérif: Johan Cruyff, génie pop et despote. Préface par Michel Platini. (Editions Hugo Sport, 2015)
Hiddema, Bert: El Cruijff. (Amsterdam: Uitgeverij Pandora Pockets, 2002)
Hiddema, Bert: Cruijff! Van Jopie tot Johan. (Amsterdam: Uitgeverij L.J. Veen, 2006)
Hilvoorde, I. van; Stokvis, R. (2013) ‘Pythagoras in boots’: Johan Cruijff and the Construction of Dutch National Identity, Sport in History, 33(4), 427-444
Hunter, Graham: Barça: The Making of the Greatest Team in the World. (BackPage Press, 2012)
Jensen, Ric (2014). Looking at the Extraordinary Success of the 'Clockwork Orange': Examining the Brilliance of Total Football Played by the Netherlands. [Special Issue: Heroes, Icons, Legends: Legacies of Great Men in World Soccer] (Soccer & Society, Volume 15, Issue 5, 2014)
Kuper, Simon: Football Against the Enemy. (Orion Publishing Group, 1994)
Kuper, Simon: Ajax, the Dutch, the War: Football in Europe during the Second World War. (Orion Publishing Group, 2003)
Richards, Ted: Soccer and Philosophy: Beautiful Thoughts on the Beautiful Game (Popular Culture and Philosophy). (Open Court Publishing, 2010)
Riera, Josep; Roca, Miquel: Van Barça: el Futbol Club Barcelona i Holanda, més que una relació. (Cossetània Edicions, 2007)
Schots, Mik; Luitzen, Jan: Wie is Johan Cruijff. Insiders duiden het Orakel. Maar Cruijff heeft zelf het laatste Woord. (Uitgeverij Arbeiderspers, 2007, ISBN 9789029564755)
Schulze-Marmeling, Dietrich: Der König und sein Spiel: Johan Cruyff und der Weltfußball. (Verlag Die Werkstatt GmbH, Göttingen, 2012)
Wilson, Jonathan: Inverting the Pyramid: The History of Football Tactics. (Orion Books Limited, 2010)
Winner, David: Brilliant Orange: The Neurotic Genius of Dutch Football. (Bloomsbury Publishing, London, 2000)
Winsemius, Pieter: Je gaat het pas zien als je het doorhebt. Over Cruijff en leiderschap''. (Amsterdam: Uitgeverij Balans, 2004) |
Trịnh Hoài Đức (chữ Hán: 鄭懷德; 1765 - 1825), còn có tên là An (安), tự Chỉ Sơn (止山), hiệu Cấn Trai (艮齋); là một công thần của triều Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 18-19. Sinh thời, ông từng được vua nhà Nguyễn ban tước An Toàn hầu .
Đặc biệt, quyển Gia Định thành thông chí của ông cho đến nay vẫn được xem là một trong những sử liệu quan trọng nhất cho các nhà nghiên cứu sử học và địa lý của Nam Bộ.
Thân thế và sự nghiệp
Tổ tiên ông vốn là người Phúc Kiến (Trung Quốc), sang Đàng Trong (thuộc Việt Nam ngày nay) thời chúa Nguyễn Phúc Tần ; trước ngụ ở Phú Xuân (Huế), sau vào ở Trấn Biên (vùng Biên Hòa ngày nay).
Cha ông tên là Khánh, vốn dòng dõi khoa hoạn, được chúa Nguyễn Phúc Khoát thu dụng, cho làm An Dương Cai thủ, rồi làm Chấp canh tam trường Cai đội .
Năm lên 10, cha mất, Trịnh Hoài Đức theo mẹ vào sống ở Gia Định, theo học với thầy Võ Trường Toản tại Hòa Hưng (nay thuộc quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh). Trong số bạn học của ông lúc bấy giờ, có Ngô Tùng Châu và Lê Quang Định, về sau cũng đều là công thần của nhà Nguyễn.
Khi quân Tây Sơn vào Nam, ông chạy sang Chân Lạp (Campuchia ngày nay) .
Năm Mậu Thân (1788), sau khi đánh lấy được Gia Định, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho mở khoa thi để chọn người giúp việc. Trịnh Hoài Đức đỗ khoa ấy, được bổ làm Hàn lâm chế cáo. Đến năm sau (1789), ông được bổ làm Tri huyện ở Tân Bình , rồi được kiêm làm Điền Tuấn trông coi việc khai khẩn đất đai ở Gia Định. Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
"Năm Kỷ Dậu (1789), tháng 6,...mới đặt quan Điền tuấn (coi về sự cày cấy làm ruộng), cho bọn Hàn lâm chế cáo là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu, Hoàng Minh Khánh, cả thảy 12 người kiêm việc này....
Tháng 3 năm Quý Sửu (1793), ông lãnh chức Đông Cung Thị Giảng. Tháng 11 năm đó, ông được cử theo Đông Cung Cảnh (Nguyễn Phúc Cảnh) ra giữ thành Diên Khánh.
Năm sau (Giáp Dần, 1794), ông được thăng làm ký lục dinh Trấn Dinh, rồi được bổ làm Hộ bộ Hữu Tham tri.
Năm Tân Dậu (1801), khi chúa Nguyễn mang quân ra đánh lấy Phú Xuân, Trịnh Hoài Đức lo việc gặt hái ở Quảng Nam và Quảng Ngãi để tiếp vận quân lương .
Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) chúa Nguyễn lên ngôi ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long. Sau đó, ông được phong làm Thượng thư bộ Hộ, đồng thời sung làm Chánh sứ sang Thanh (Trung Quốc). Cùng đi với ông hai Phó sứ là Hữu Tham tri bộ Binh Ngô Nhân Tịnh (hay Tĩnh) và Hữu Tham tri bộ Hình Hoàng Ngọc Uẩn .
Năm 1808, ông được bổ làm Hiệp trấn Gia Định Thành, phụ tá cho Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn (hay Nhân). Năm 1812, ông được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thượng thư, kiêm quản Khâm thiên giám. Năm 1813 lại đổi làm Lại bộ Thượng thư. Năm 1816 ông lại được bổ nhiệm làm Hiệp Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai. Sau khi, Tổng trấn Nhơn về kinh, ông tạm giữ quyền Tổng trấn (1820).
Đầu năm Canh Thìn (1820), vua Minh Mạng lên nối ngôi. Sau đó, nhà vua cho triệu ông về kinh làm Lại bộ Thượng thư như trước, lại kiêm cả Binh bộ Thượng thư, đồng thời sung chức Phó Tổng tài Quốc sử giám, thăng Hiệp biện Học sĩ. Kiêm lĩnh nhiều việc quan trọng, sợ mình không làm tròn, ông đã từ chối đôi ba lượt; nhưng vì vua Minh Mạng tỏ lòng ưu ái nên ông đành phải vâng mạng . Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua xuống chiếu cầu sách cũ. Trịnh Hoài Đức dâng lên quyển Gia Định thành thông chí (do ông biên soạn) và quyển Bột di ngư văn thảo (của Mạc Thiên Tứ).
Tháng 9 năm Tân Tỵ (1821), nhà vua ngự giá ra Bắc, ông được đi theo. Khi về, ông dâng lên vua hai quyển là Lịch đại kỷ nguyên và Khang tế lục
Năm 1822, ông được cử làm Giám khảo kỳ thi ân khoa.
Năm 1823, thấy mình già yếu, ông dâng sớ xin từ quan. Vua Minh Mạng sai đại thần Phạm Đăng Hưng đến thăm và lưu ở lại, ông đành phải xin về nghỉ dưỡng 3 tháng. Mãn hạn nghỉ phép, ông trở ra Huế, nhà vua ban cho ông 2.000 quan tiền và vật liệu để ông làm nhà ở phía cửa Đông ngoài thành.
Tháng 2 năm Tân Tỵ (1825), Trịnh Hoài Đức mất vì bệnh tại Huế, thọ 61 tuổi. Vua bãi triều 3 ngày, truy tặng ông là Thiếu bảo Cần chánh điện Đại học sĩ, ban tên thụy là Văn Khắc, phái Hoàng tử Miên Hoằng đưa linh cữu của ông về Gia Định. Khi linh cữu của ông về tới nơi, Tổng trấn Lê Văn Duyệt đã đích thân tới phúng điếu và đi đưa tới huyệt tại làng Bình Trúc (hay Trước; nay là tại khu phố III, thuộc phường Trung Dũng, TP. Biên Hòa)..
Năm Tự Đức thứ 5 (1852), bài vị của ông đưa đưa vào trong miếu Trung Hưng Công Thần; và đến năm 1858, lại được đưa vào thờ trong đền Hiền Lương.
Ngày 27 tháng 12 năm 1990, khu lăng mộ của Trịnh Hoài Đức và người vợ chính (họ Lê) được xếp vào di tích di tích Văn hóa - lịch sử quốc gia.
Trịnh Hoài Đức có một người con trai là Trịnh Hoài Cẩn, được vua Thiệu Trị gả em gái là Tân Hòa Công chúa Đoan Thận (con gái thứ 13 của vua Minh Mạng), phong làm Phò mã Đô úy. Phò mã Cẩn và công chúa mất vào năm Tự Đức thứ 19 (1866).
Tác phẩm
Tác phẩm bằng chữ Hán của Trịnh Hoài Đức có:
Cấn Trai thi tập: gồm 3 tập: Thối thực truy biên tập, Quan quang tập, Khả dĩ tập. Là những bài thơ làm từ năm 1783 đến năm 1819, được khắc in năm 1819.
Bắc sứ thi tập: gồm những bài thơ làm khi đi sứ sang nhà Thanh.
Gia Định tam gia thi tập: tức tập thơ của tam gia Gia Định, là: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định.
Đi sứ cảm tác: là tập gồm 18 bài viết theo kiểu liên hoàn chữ Nôm.
Nhìn chung, thơ Trịnh Hoài Đức thường là thơ thất ngôn bát cú; và đề tài thường là "trữ tình", hay miêu tả "cảnh vật, sinh hoạt" của nhân dân ở những nơi ông ở hoặc đi qua.
Lịch đại kỷ nguyên
Khang tế lục
Gia Định thành thông chí: gồm 6 quyển, viết bằng chữ Hán, không có lời tựa, nên không biết tác giả biên soạn vào năm nào và trong hoàn cảnh nào. Chỉ biết là sách hoàn thành trong đời Gia Long, cho nên ngay khi vua Minh Mạng xuống chiếu cầu sách cũ (1820), ông đã đem dâng lên. Nội dung bộ sách ghi chép khá đầy đủ về núi sông, cửa biển, phong tục, sản vật, con người ở Gia Định (Nam Bộ ngày nay),... Đây là một công trình được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao, và đã được dịch ra tiếng Pháp từ cuối thế kỷ 19.
Sách tham khảo chính
Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu. Bản dịch do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2002.
Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nhà xuất bản Thanh Niên in lại năm 2001.
Triêu Dương, mục từ "Trịnh Hoài Đức" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ - Điển tích - Danh nhân Từ điển (quyển 2). Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1967.
Bùi Văn Vượng, "Trịnh Hoài Đức và Gia Định thành thông chí", bài viết in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2012.
Chú thích |
Bùi Hữu Nghĩa (1807 - 1872), hay Thủ khoa Nghĩa, trước có tên là là Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi; là quan nhà Nguyễn, là nhà thơ và là nhà soạn tuồng Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh năm Đinh Mão (1807) tại làng Long Tuyền, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ). Cha ông tên Bùi Hữu Vị, làm nghề chài lưới.
Mặc dù thông minh và chăm chỉ, nhưng vì nhà quá nghèo nên Bùi Hữu Nghĩa chỉ theo học chữ Hán được mấy năm. Sau vì mến tài ông, một nhà giàu cùng xóm họ Ngô giúp ông lên Biên Hòa ngụ nơi nhà Hộ trưởng Nguyễn Văn Lý (về sau được ông Lý gả con cho), và theo học với thầy Đỗ Hoành.
Năm 1835 ông đỗ Giải nguyên (thủ khoa) kỳ thi Hương ở Gia Định, vì thế ông được gọi là Thủ Khoa Nghĩa.
Được bổ chức quan
Sau khi đỗ, Bùi Hữu Nghĩa ra Huế dự thi Hội nhưng trượt. Tuy vậy, ông vẫn được triều đình cho tập sự ở bộ Lễ, rồi bổ làm Tri huyện Phước Chính, thuộc phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Đồng Nai).
Nhưng với bản tính liêm chính, Bùi Hữu Nghĩa không được quan trên ưa, nên ông bị đổi làm Tri huyện Trà Vang (tức Trà Vinh, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Vĩnh Long), dưới quyền của Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện (Lê Khánh Trinh).
Khi làm Tri huyện Trà Vinh, Bùi Hữu Nghĩa được tặng thưởng tiền Phi Long hạng lớn vì có công bắt giữ một giám mục đạo Thiên Chúa ở tỉnh Vĩnh Long là Đô-ni-my-cô.
Ở nơi mới, Bùi Hữu Nghĩa cũng không được lòng quan trên bởi có lần ông cho đánh đòn em vợ bố chính Truyện bởi thói xấc láo. Cho nên nhân vụ Láng Thé, ông bị họ khép tội chết.
Vụ án Láng Thé
Trà Vang là một địa bàn cộng cư của các tộc người Kinh, Hoa, Khmer, nhưng đông nhất là tộc người Khmer.
Nguyên trước kia, vào năm 1783, khi chúa Nguyễn Phúc Ánh (về sau là vua Gia Long) bị quân Tây Sơn đánh đuổi phải về đây trú ẩn, không những chúa được người Khmer chia sẻ lương thực mà còn tình nguyện theo phò giúp. Vì vậy, khi lên ngôi vua, Gia Long đã xuống chiếu miễn thuế vĩnh viễn cho tất cả người Khmer đến khai thác nguồn lợi thủy sản ở rạch Láng Thé thuộc huyện Trà Vang. Thấy nguồn lợi lớn, một số địa chủ người Hoa đã đem tiền lo lót Bang biện Tống Văn Uyển (mới được điều đến đóng quân để quản người Khmer, do trùng tên với Tổng đốc Trương Văn Uyển nên thường bị lầm là Tổng đốc Uyển) và Bố chánh Truyện để giành quyền khai thác cá tôm ở con rạch trên.
Bị bức ép, tháng 10 năm Mậu Thân (1848), một số người Khmer do ông trưởng Sóc Nhêsrok dẫn đầu đã kéo đến gặp Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa để khiếu kiện. Biết được hành động tham gian của quan trên và hành động ỷ quyền của nhóm người Hoa, ông phán xử:
Việc tha thuế thủy lợi là ơn huệ của vua Thế Tổ (Gia Long) ban cho dân Thổ (Khmer), nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà dám đứng bán rạch ấy, thì có chém đầu nó cũng không sao!".
Nghe vậy, những người dân Khmer kéo nhau đến nhà những người Hoa tranh cãi dẫn đến xô xát, làm phía người Hoa chết 8 người.
Nhân cơ hội này, Tổng đốc Uyển và Bố chánh Truyện cho bắt những người Khmer gây án, đồng thời bắt luôn Bùi Hữu Nghĩa giam ở Vĩnh Long rồi giải về Gia Định, đệ sớ lên triều đình tố cáo ông đã kích động dân Khmer làm loạn và lạm phép giết người.
Nhận được tin dữ, vợ ông là Nguyễn Thị Tồn, đã quá giang ghe bầu, vượt sóng gió ra Huế.
Bấy giờ, Phan Thanh Giản đang làm Thượng thư bộ Lại, Nguyễn Thị Tồn tìm đến tư dinh ông Phan trình bày hết mọi việc, rồi nghe theo lời khuyên, bà đến Tam pháp ty gióng trống "kích cổ đăng văn" (đánh trống, đội đơn) kêu oan cho chồng.
Sau sự kiện chấn động này, Bùi Hữu Nghĩa được vua Tự Đức tha tội chết, song phải chịu "quân tiền hiệu lực", tức bị đày làm lính ở đồn Vĩnh Thông thuộc tổng Châu Phú (Châu Đốc) , đoái công chuộc tội.
Giai thoại về Bùi Hữu Nghĩa
Tại Gia Định xuất hiện một ông Tú, tên Văn Bình. Tài nghệ của ông ta chưa ai được thưởng thức nên chưa biết ra làm sao. Nhưng cái “đức” “gà tức nhau tiếng gáy” của ông ta thì không ai bằng. Nghe danh ông Thủ khoa Nghĩa nổi như cồn, ông ta nhất quyết “hỏi dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”, bèn khăn áo chỉnh tề “vi hành” xuống Bình Thủy, Cần Thơ để gặp ông Thủ khoa cho bằng được.
Tới giữa làng Long Tuyền, bỗng ông ta gặp một ông già đang ngồi đan rổ ở ngoài đường. Tú Văn Bình hỏi thăm đường vào nhà ông Thủ khoa Nghĩa, ông già đan rổ hỏi:
- Thưa, ông là ai, ở đâu ra mà tới kiếm ông Thủ khoa?
- Tôi là tú tài Văn Bình ở Gia Định, chắc bác đã biết tiếng. Nay tôi muốn gặp ông Thủ khoa xem ổng giỏi tới cỡ nào?
Ông già đan rổ khoắn khỏa mời ông Tú vào nhà nghỉ một lát để sai con cháu dẫn sang nhà ông thủ khoa. Đoạn chủ nhà chỉ vào những câu đối treo trong nhà nói:
- Những câu này là của ông Thủ khoa đó. Nhưng ông ta thích viết dài. Riêng tôi, tôi thích làm văn “chữ một” thôi, ở đây thỉnh thoảng tôi cũng có mời anh em bè bạn thích thơ cùng nhau đối đáp chơi.
Ông Tú không ngờ gặp được một người bình dân thích văn chương, cũng nổi hứng muốn được “thù tạc” đôi câu.
Ông già đan rổ đề xướng cách “đối chữ một” Văn Bình bằng lòng liền.
Chủ khách uống trà rất tương đắc. Chủ nhà bèn đọc một chữ “võ”. Văn Bình đối liền: “”văn”. Chủ nhà lại đọc “trắc”. Ông Tú đối “bình”.
Chủ đọc tiếp: “vãng”. Đối: “lai”.
Chủ lại đọc: “Nam”. Đối: “Bắc”.
Chủ đọc: “cô”. Đối: “cụ”.
Tú Văn Bình nghĩ vế đối “chữ một” của mình chỉnh không chê vào đâu được. Ông già đan rổ cười nói:
- Nào, bây giờ mời ông đọc cả hai vế xem sao!
Tú Văn Bình đọc:
Võ trắc vãng Nam cô
Văn Bình lai Bắc cụ!
Vừa đọc xong vế đối của mình, ông Tú giật nẩy mình, bèn vội vàng đứng lên vái như tế sống ông già mà rằng:
- Xin lỗi cụ! Cụ đích thị là cụ thủ khoa rồi. Tú này từ nay không dám vuốt râu cọp nữa!
Ông già đan rổ lúc bấy giờ mới cười xòa và bỏ qua mọi chuyện.
Thì ra ông thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa đã cho ông Tú Gia Định một đòn trời giáng:
Văn Bình lai (đến) bú… c!
Từ quan
Khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, năm 1862, Bùi Hữu Nghĩa xin từ quan về quê dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và làm thơ (lúc này ông lấy hiệu là "Liễu Lâm chủ nhân"). Nhà ông là nơi các sĩ phu yêu nước gặp gỡ, bàn bạc việc chống Pháp cứu nước
Ông lâm bệnh và mất ngày 21 tháng giêng năm Nhâm Thân (1872), thọ 65 tuổi.
Nhận xét
Bùi Hữu Nghĩa nổi tiếng thơ hay:
Đồng Nai có bốn rồng vàng,
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi.
Mặc dù từ quan, Bùi Hữu Nghĩa vẫn thầm kín tham gia phong trào Văn Thân. Cùng một chủ trương như Phan Văn Trị, ông họa thơ lên tiếng kết án đường lối thỏa hiệp với thực dân Pháp của Tôn Thọ Tường.
Nhìn chung, cảm hứng nổi bật trong thơ Bùi Hữu Nghĩa là nỗi niềm chua xót và tấm lòng vàng đá đối với đất nước, sự khao khát được trở lại một thuở thăng bình theo lý tưởng Nho giáo. Ông thường vịnh vật để tỏ thái độ khinh thị bọn người có địa vị trong xã hội đương thời, bất tài và hãnh tiến; vịnh các nhân vật lịch sử để bộc bạch tâm sự bất đắc chí, sinh không gặp thời...
Bên cạnh đó, văn thơ ông dành cho vợ cho con, cũng rất chân thật, cảm động. Đặc biệt, vở tuồng ba hồi Kim Thạch kỳ duyên (có sự góp sức của Huỳnh Mẫn Đạt), diễn tả cuộc tình duyên đầy sóng gió giữa chàng Kim Ngọc và nàng Thạch Võ Hà. Chủ ý của tác giả là ca ngợi tình yêu chung thủy, khinh ghét kẻ tham vàng bỏ ngãi, chiến thắng độc ác, vượt ra ngoài chủ đề tôn quân. Từ điển bách khoa toàn thư đánh giá: Cùng với các vở của Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh, vở "Kim Thạch kỳ duyên" của Bùi Hữu Nghĩa đánh dấu sự chuyển biến của tuồng Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Hiền phụ
Nguyễn Thị Tồn (? - ?) là người ở thôn Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, huyện Phước Chính, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Đồng Nai). Bà là con gái đầu lòng của Nguyễn Văn Lý (Hộ trưởng thôn Mỹ Khánh) và là vợ của Bùi Hữu Nghĩa.
Không rõ bà kết nghĩa vợ chồng với Bùi Hữu Nghĩa lúc nào, nhưng chắc phải sau năm 1836, khi ông Nghĩa ra thi ở Huế bị trượt, nhưng được triều đình cho tập sự ở bộ Lễ, rồi bổ làm Tri huyện Phước Chính, thuộc tỉnh Biên Hòa.
Sau khi ra Huế đánh trống kêu oan cho chồng, bà được Thái hậu Từ Dụ (mẹ vua Tự Đức), ban cho tấm biển chạm 4 chữ vàng Tiết phụ khả gia.
Tuy cứu được chồng, nhưng khi trở về đến quê nhà ở Biên Hòa, thì bà lâm bệnh mất và được an táng ở nơi đó.... Nghe tin vợ mất, nhưng lúc bấy giờ Bùi Hữu Nghĩa đang ở biên trấn xa xôi, nên khi đến Biên Hòa thì việc an táng đã xong, ông đành làm bài văn tế muộn, một cặp câu đối (một chữ Hán, một chữ Nôm) để tỏ lòng thương tiếc.
Giới thiệu cặp đối chữ Hán:
Ngã chi bần, khanh độc năng trợ; ngã chi oan khanh độc năng minh, triều quận công xưng khanh thị phụ
Khanh chi bệnh, ngã bất đắc dưỡng; khanh chi tử ngã bất đắc táng, thế gian ưng tiếu ngã phi phu.
Dịch:
Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ.
Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng.
Tưởng nhớ
Được tôn thờ trong đình, chùa
Ngưỡng mộ công đức của Bùi Hữu Nghĩa, nhân dân trong vùng đã lập thần chủ, bài vị tôn thờ vợ chồng ông ở đình Bình Thủy và chùa Nam Nhã. Hàng năm vào ngày 21 tháng giêng đều tổ chức lễ giỗ ông. Nhân dân ở xã Nhị Long (Càng Long, Trà Vinh) cũng đã lập đình Long Thạnh để thờ phụng Bùi Hữu Nghĩa.
Được lập khu tưởng niệm
Trên đường Cách mạng tháng Tám (cách cầu Bình Thủy khoảng 500 m), rẽ vào đường Huỳnh Mẫn Đạt khoảng 200 m là đến Khu tưởng niệm Bùi Hữu Nghĩa (nay thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ).
Ban đầu (1872), mộ Thủ Khoa Nghĩa được xây bằng đá ong, và sau đó đã được tu sửa ba lần. Năm 1987, chính quyền tỉnh Cần Thơ đã cho trùng tu lại khu mộ (gồm một nhà thờ nhỏ và ngôi mộ), và mở rộng diện tích (530 m²). Ngày 25 tháng 1 năm 1994, Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã ký Quyết định số 152 QĐ/BT công nhận khu mộ là di tích "Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia" (ngày 19 tháng 10 năm 2011 bằng di tích được cấp lại, và đổi tên là "Di tích Quốc gia").
Từ năm 2010 đến 2012, khu mộ trên lại được chính quyền cho xây dựng mới gồm mộ, nhà bia, nhà thờ, nhà khách, nhà trưng bày. Tất cả đều được xây theo lối kiến trúc cổ trên một diện tích hơn 1 ha, và đặt tên là "Khu tưởng niệm Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa". Công trình đã được khánh thành vào ngày 1 tháng 3 năm 2013, nhân lễ giỗ thứ 141 của ông .
Được xướng tên bằng các công trình công cộng
Ngoài ra, tên Bùi Hữu Nghĩa cũng đã được nhiều tỉnh thành trong nước Việt Nam, chọn đặt tên cho trường học và đường phố.
Trước năm 1975, tại thành phố Cần Thơ tên đường Thủ Khoa Nghĩa được đặt cho một phần quốc lộ 4 cũ (nay đổi thành quốc lộ 1), đoạn từ phà (bắc) Cần Thơ cho tới Ngã tư Bến xe Cần Thơ cũ (lúc bấy giờ lại gọi là Bến xe mới) với chiều dài gần 1 cây số. Sau năm 1975, đường này đã bị đổi tên thành đường Trần Phú cho đến ngày nay. Tuy nhiên, cũng ngay sau đó chính quyền mới đã cho đặt tên đường Bùi Hữu Nghĩa cho một đoạn của đường hương lộ (nay đã đổi thành tỉnh lộ) ngay tại khu vực chợ Bình Thủy vốn là quê hương của ông. Hiện nay toàn bộ tuyến đường tỉnh lộ này với chiều dài hơn 10 cây số đều đã mang tên là đường Bùi Hữu Nghĩa.
Ảnh
Dưới đây là một số hình ảnh trong Khu tưởng niệm Bùi Hữu Nghĩa. |
Bùi Viện (裴援, 1839 - 1878), hiệu Mạnh Dực, là một nhà cải cách, nhà ngoại giao của Việt Nam cuối thế kỷ 19, làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
Tiểu sử
Bùi Viện ra đời vào năm 1839, ở làng Trình Phố, tổng An Bồi, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định, Đại Nam (nay là Trình Trung, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Việt Nam), trong một gia đình nhà nho.
Năm 1864 ông đỗ Tú tài, năm 1868 đỗ Cử nhân. Em ông là Bùi Phủng cũng đỗ cử nhân, bổ làm án sát Hưng Hóa. Bùi Viện thì sau hai lần thi Hội năm 1868 và 1869 đều hỏng thi. Nhiều sách nói rằng khi vào Huế thi Hội, ông đã tập văn và học ông Vũ Duy Thanh (1806-1861) (tức ông Bảng Kim Bồng) nhưng có lẽ chi tiết này không chính xác vì Vũ Duy Thanh đã mất từ bảy năm trước khi Bùi Viện vào đến kinh đô.
Năm 1871 ông nhận nhiệm sở giúp Lê Tuấn, Tham tri Bộ Lễ ra Bắc dẹp loạn giặc khách Cờ Đen, Cờ Vàng là dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc từ bên Tàu tràn sang. Công việc hoàn thành, ông trở về Huế. Bùi Viện được Doãn Khuê, Doanh điền sứ Nam Định mời ra giúp việc khai hoang, lấn biển trong công tác xây dựng cửa bể Ninh Hải (tức Hải Phòng ngày nay).
Năm 1873, vua Tự Đức buộc phải ký Hòa ước Giáp Tuất (15 tháng 3 năm 1874) nhượng bộ nhiều yêu sách của thực dân Pháp và nguy cơ mất cả nước đã nhãn tiền, triều đình chủ trương tìm kiếm những đối trọng khác ở nước ngoài để chấn hưng đất nước và cứu vãn họa xâm lăng của thực dân Pháp. Tháng 4 năm Quý Dậu (1873), vua Tự Đức được các quan hộ giá ra chơi cửa Thuận An, Huế. Trong khi vua đang ngự lãm thì có 9 chiếc tàu buồm vận tải của nha kinh lược Bắc Kỳ chở tiền tài và quân lính vào Huế. Đột nhiên từ ngoài khơi hai chiếc tàu ô tiến đến chĩa súng bắn sang, hải quân nhà Nguyễn thua chạy, hai chiếc tàu bị giặc cướp mất. Các võ quan nhà Nguyễn bắn thần công ra nhưng không trúng được phát nào để cướp biển chạy mất. Bùi Viện đã làm một bài thơ kể rõ việc này, đồng thời chế nhạo sự hèn yếu của thủy binh Đại Nam. Tuy nhiên, trong Đại nam thực lục không chép việc tháng 4 năm Quý Dậu vua Tự Đức ngự giá đi Thuận An và không có chuyện cướp biển.
Biến cố đó ít nhiều khiến cho vua Tự Đức nhận chân được sự kém cỏi của đất nước và có lẽ vì thế đã chuẩn y đề nghị của Bùi Viện xin được xuất dương xem xét tình hình và tìm cách cầu viện. Bùi Viện đã lãnh nhận sứ mạng sang Hoa Kỳ do sự tiến cử của một viên đại thần trong triều với Vua Tự Đức. Bùi Viện lúc đó đang được xem như là một nhà kinh bang tế thế, có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, lập ra Tuần dương quân gồm 200 chiến thuyền và 2.000 quân thủy thiện chiến và lập ra hệ thống thương điếm ở các tỉnh ven biển Bắc Kỳ.
Thủy quân của Bùi Viện tuy còn non trẻ nhưng đã sớm lập được một số chiến công. Tháng tư năm 1878, quân nhà Nguyễn giao chiến với giặc Tàu Ô ở Hà Tĩnh, dùng hỏa công đốt tàu địch khiến chúng phải chạy trốn, tịch thu một chiến thuyền cùng lương thực đạn dược và bắt được 18 tên cướp.
Đến tháng 5 cùng năm, quân nhà Nguyễn lại giao tranh với hải tặc ở Thanh Hóa trong khi chúng đang cướp một tàu buôn. Họ truy kích bọn phỉ đến tận đảo Hải Nam (nhà Thanh), tịch thu một chiến thuyền cùng đạn dược và khí giới.
Ngày mồng 1 tháng 11 năm Tự Đức 31 (1878), ông đột ngột từ trần. Cái chết của ông cũng có nhều điểm còn mờ ám vì thật bất ngờ và không có dấu hiệu gì báo trước.
Sang Mỹ cầu viện
Lần thứ nhất
Từ cửa biển Thuận An ở kinh đô Huế, Bùi Viện xuống thuyền ngược ra Bắc vào tháng 7 năm Quý Dậu (tháng 8 năm 1873) và 2 tháng sau thì đến Hương Cảng lúc đó đã là nhượng địa của nước Anh và là đầu mối giao thông nối châu Á với thế giới phương Tây. Tại đây Bùi Viện đã kết giao được với viên lãnh sự Hoa Kỳ nên 2 bên giao thiệp được và ông có ý sang Hoa Kỳ cầu viện. Được biết ý đồ của Bùi Viện, viên lãnh sự đã viết thư giới thiệu với một người ở Hoa Kỳ có khả năng giúp ông tiếp cận với nguyên thủ của quốc gia này. Ông lập tức quay trở về trình lên vua Tự Đức. Từ Trung Quốc, Bùi Viện đi qua Yokohama (Hoành Tân, Nhật Bản) để xem xét tình hình. Sau thời gian ngắn, Bùi Viện nhận thấy đất nước này mới chỉ mở cửa chưa đủ mạnh để giúp Việt Nam nên ông đã đáp tàu sang San Francisco (Hoa Kỳ), rồi lưu lại ở đó mất một năm vận động mới gặp được gặp Tổng thống Mỹ thứ 18 là Ulysses Grant. Lúc này Pháp và Mỹ đang xung đột nhau trong chiến tranh ở México nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Tổng thống Mỹ bằng lòng giúp nhưng Bùi Viện không mang quốc thư nên hai bên không thể chính thức giao ước.
Lần thứ hai
Khi về đến Huế tâu bẩm tình hình của Hoa Kỳ và những việc mắt thấy tai nghe, vua Tự Đức đã bằng lòng cử ông làm chánh sứ và trao Bùi Viện quốc thư cho đầy đủ lề lối ngoại giao chính thức. Khi có được thư uỷ nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ - Pháp hết thù địch nên tổng thống Mỹ đã khước từ sự cam kết giúp Việt Nam đánh Pháp.
Thất vọng, ông đáp tàu lộn ngược đường cũ trở về nước. Vừa đặt chân lên bờ thì nghe tin mẹ từ trần nên về quê cư tang. Ba tháng sau, ông lại được triệu về kinh đô giữ chức Thương chánh tham biện rồi chuyển sang chức Chánh quản đốc nha Tuần hải.
Tuy vậy cho đến nay vẫn chưa tìm được chứng cứ khoa học đáng tin cậy nói về việc này, mà chỉ dựa theo tiểu thuyết hư cấu của Phan Trần Chúc. Giáo sư Nguyễn Quốc Trị có mấy chục năm giảng dạy ở Mỹ đã để công sưu tầm trong các kho lưu trữ ở Mỹ cũng như các tư liệu mà ông có về Triều Nguyễn nhưng cũng không tìm thấy tài liệu nào nói đến việc này.
Đánh giá
Hành trạng cũng như tư tưởng của Bùi Viện thường được ví và xếp chung vào lớp sĩ phu có tư tưởng canh tân như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ.
Vua Tự Đức đã có lời phê: Trẫm đối với ngươi chưa có ân nghĩa gì, mà ngươi đã coi việc nước như việc nhà, không quản xa xôi lo lắng, quỷ thần ắt cũng chứng cho.
Tài liệu và nghi vấn
Cho đến nay, một tiểu sử với hành trạng như vậy của Bùi Viện đều có chung một xuất xứ là cuốn sách viết về Bùi Viện của Phan Trần Chúc xuất bản vào cuối thập niên 1940 đến 1950 cũng là thời điểm nước Mỹ đang can thiệp vào Việt Nam để giúp thực dân Pháp nhưng cũng mưu đồ một âm mưu lâu dài ở khu vực này. Chưa thấy một bộ chính sử nào của triều Nguyễn hay những hồ sơ lưu trữ vốn rất phong phú của Hoa Kỳ đề cập tới. Cuộc viễn du qua Mỹ của Bùi Viện, cho đến nay vẫn được nhiều nhà sử học Việt Nam đinh ninh trong các công trình của mình; nhưng trong giới học giả Hoa Kỳ thì không thấy nói đến hoặc có nhắc đến tên tuổi và hành trạng này thì đều chú rằng "theo các nhà sử học Việt Nam". Nhưng có một tên tuổi Việt Nam nữa còn được coi là người Việt Nam đến Hoa Kỳ sớm hơn cả Bùi Viện đến 4 thập kỷ là Trần Trọng Khiêm, sinh năm 1821 tại làng Dòng, xã Xuân Lũng, huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ. Học giả Nguyễn Quốc Trị (giáo sư, viện trưởng giảng dạy đại học ở Mỹ) trong cuốn sách xuất bản tại Mỹ "Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp" (xuất bản năm 20), trong trang 125 đến 128 đã trình bày khá kỹ về Bùi Viện. Theo ông đến nay chưa có cơ sở chúng minh cho việc Tổng thống Hoa Kỳ tiếp ông Bùi Viện cả. Và các sách quốc sử triều Nguyễn không hề chép về sự kiện này mà chỉ dựa và tiểu thuyết hư cấu của Phan Trần Chúc là không có cơ sở khoa học. Vả lại ông Phan Trần Chúc viết truyện xẩy ra trước đó đã gần 100 năm, mà không có một nguồn tư liệu chính thống nào thì sự tồn nghi về cuộc hư cấu của tiểu thuyết của ông Phan. |
Viêm tụy cấp (acute pancreatitis) là tình trạng viêm đột ngột của tuyến tụy. Biểu hiện có thể nhẹ nhàng nhưng cũng có thể nặng nề với đáp ứng viêm hệ thống, rối loạn chức năng đa cơ quan và đe dọa mạng sống.
Ở các nước phương Tây, sỏi mật và lạm dụng rượu là nguyên nhân của 80% các trường hợp viêm tụy cấp phải nhập viện. . Ở Việt nam, ngoài nguyên nhân kinh điển như trên thì còn có một nguyên nhân quan trọng khác là do giun chui ống mật-tụy. Viêm tụy cấp do sỏi mật thường gặp ở phụ nữ nhiều hơn nam giới. Liệu viêm tụy cấp có ảnh hưởng gì đến những bệnh lý mạn tính liên quan đến sau này (như đái tháo đường) hay không vẫn chưa xác định chắc chắn.
Yếu tố nguy cơ gây bệnh
Sỏi mật
Lạm dụng thức uống có cồn
Giun chui ống mật-tụy
Các thuốc như furosemide và azathioprine
Sử dụng estrogen
Hội chứng cường giáp và tăng nồng độ calci trong máu
Quai bị
Hội chứng tăng lipid máu (nhất là tăng triglyceride)
Tổn thương tụy do phẫu thuật ổ bụng hoặc nội soi
Tổn thương tụy do vết thương đâm thấu hoặc chấn thương do vật tù (đấm, đá, tai nạn giao thông)
Ung thư tuyến tụy
Giảm tưới máu trầm trọng (sốc kéo dài)
Viêm tụy di truyền
Ghép thận
Sinh lý bệnh
Bình thường tụy ngoại tiết bài tiết dịch tụy, dịch này theo ống tụy (ống Wirsung) đổ vào khúc 2 tá tràng. Dịch tụy chứa các enzyme tiêu hóa có khả năng tiêu hủy chỉnh cả tụy. Tụy có một số các cơ chế nhằm tránh hiện tượng tự tiêu này. Đầu tiên các protein được chuyển thành dạng tiền enzyme được dự trữ ở những ngăn đặc biệt nhờ bộ máy Golgi. Dịch tụy được bài tiết dưới dạng bị bất hoạt. Trên đường từ ống tụy đổ vào tá tràng và khi vào tá tràng, các enzyme tiêu hóa này được hoạt hóa. Tắc nghẽn đường lưu thông dịch tụy do viên sỏi từ đường mật rơi xuống (vị trí thường ở cơ vòng Oddi) hoặc do giun từ ruột chui ngược lên sẽ làm ứ đọng dịch trong lòng ống tụy. Nếu tắc nghẽn tạm thời thì tổn thương thường giới hạn và được phục hồi nhanh nhưng nếu tắc nghẽn kéo dài thì các enzyme được hoạt hóa này sẽ tích tụ ngày càng nhiều trong tụy nhiều hơn chất ức chế.
Lượng enzyme được hoạt hóa sẽ tấn công làm tổn thương và gây viêm tụy nặng nề. Các chất hóa học giải phóng ra trong quá trình hoạt hóa này có tác dụng như các chất hóa ứng động gây tụ tập các tế bào viêm. Các bạch cầu trung tính được hoạt hóa sẽ làm nặng nề hơn tình trạng tổn thương do bài xuất các superoxide và các enzyme tiêu protein (cathepsin B, D và G; collagenase, elastase. Cuối cùng, đại thực bào sẽ bài tiết các cytokine gây nên viêm tại chỗ cũng như hội chứng đáp ứng viêm hệ thống trong trường hợp nặng. Các cytokine tham gia sớm vào quá trình này là TNF alpha, interleukin-6 và interleukin-8.
Việc dùng các thức uống chứa cồn lượng nhiều, liên tục và kéo dài sẽ làm cho các ống tụy nhỏ bên trong tụy trở nên hẹp hơn và có thể bít tắt gây nên viêm tụy. Cơn viêm tụy cấp có thể xuất hiện sau một lần dùng cồn quá nhiều hoặc sau một bữa ăn thịnh soạn.
Triệu chứng
Đau là dấu hiệu đặc trưng gợi ý nhất. Hầu hết bệnh nhân viêm tụy cấp đều có đau bụng dữ dội vùng thượng vị, dưới mũi kiếm xương ức. Đau thường lan ra sau. Hiếm gặp hơn, đôi khi đau xuất hiện ở vùng hạ vị. Nếu viêm tụy cấp do sỏi mật hoặc do giun thì đau thường xuất hiện đột ngột và nhanh chóng đạt đến cường độ dữ dội chỉ trong vòng vài phút. Đau có thể tồn tại liên tục trong vòng vài ngày.
Ho, cử động mạnh, thở sâu đều làm tăng đau. Tư thế ngồi xổm hoặc nằm phủ phục (tư thế Hồi giáo) có thể giảm đau phần nào. Thể trạng bệnh nhân có thể thay đổi rõ trong viêm tụy cấp.
Nhiễm trùng, trong viêm tụy cấp do rượu nhiễm trùng thường đến muộn sau 5-7 ngày do bội nhiễm. Trong thể nặng xuất huyết hoại tử các triệu chứng toàn thân nặng nề với hội chứng nhiễm trùng nhiễm độc, bụng chướng và đau lan rộng có thể có dấu bụng ngoại khoa. Ngoài ra còn có dấu xuất huyết nội hay các mảng bầm tím ở quanh rốn hay vùng hông (dấu Cullen và Turner).
Các dấu hiệu khác đi kèm gồm:
Sưng và tăng cảm giác đau thành bụng
Buồn nôn
Nôn mửa
Bụng chướng
Sốt
Mạch nhanh
Vàng da
Trong các trường hợp nặng, bệnh nhân có thể biểu hiện mất nước và hạ huyết áp. Các cơ quan như tim, phổi, thận có thể bị rối loạn chức năng. Nếu xuất hiện chảy máu trong tụy (thể hoại tử xuất huyết) thì bệnh nhân dễ rơi vào sốc vào đôi khi tử vong .
"Nếu viêm tụy cấp do sỏi mật hoặc do giun thì đau thường xuất hiện đột ngột và nhanh chóng đạt đến cường độ dữ dội chỉ trong vòng vài phút. Đau có thể tồn tại liên tục trong vòng vài ngày."
Biến chứng
Tổn thương tụy cấp có thể tạo điều kiện cho các enzyme hoạt hóa và các chất độc như cytokine tràn ra ngoài tụy và đổ vào ổ bụng. Tại đây chúng gây nên những kích thích và gây viêm lớp màng lót của ổ bụng (viêm phúc mạc) hay các cơ quan. Enzyme hoạt hóa và các cytokine cũng có thể được hấp thu từ ổ bụng vào mạch bạch huyết và sau đó vào máu gây nên hạ huyết áp và tổn thương các cơ quan bên ngoài ổ bụng như phổi. Phần bài tiết insulin của tụy thường ít bị tổn thương. . Các biến chứng thường gặp bao gồm :
1.giảm thể tích máu: Có thể gây ra hội chứng đông máu nội mạch (CIVD) như trong trường hợp viêm ruột xuất huyết hoại tử.
2. hoại tử tụy: Nhiễm trùng nặng, sốt cao 39 - 400C kéo dài trên 1 tuần, vùng tụy rất đau, khám có mảng gồ lên rất đau, xác định bằng siêu âm hay chụp cắt lớp tỷ trọng.
3.nang giả tụy: Vào tuần thứ 2 - 3, khám vùng tụy có khối ấn căng và tức, amylase còn cao 2 - 3 lần, siêu âm có khối echo trống, chụp cắt lớp tỷ trọng có dấu hiệu tương tự.
Báng do thủng hay vỡ ống tụy hay nang giả tụy vào ổ bụng trong trường hợp viêm tụy cấp xuất huyết do hoại tử mạch máu làm xuất huyết trong ổ bụng.
4. suy hô hấp cấp: Có tràn dịch nhất là đáy phổi trái, xẹp phổi hay viêm đáy phổi trái biến chứng nặng nề nhất là hội chứng suy hô hấp ở người lớn.
5. suy thận cấp: Thiểu hay vô niệu do suy thận chức năng do giảm thể tích tuần hoàn, hoại tử thận và thượng thận là một biến chứng ít gặp do viêm lan từ tụy. Viêm tắc tĩnh mạch và động mạch thận là biến chứng nằm trong bệnh cảnh chung của viêm tắc mạch.
6. liệt ruột co nặng
7.sock nhiễm độc: Giảm huyết áp hay sốc mà nguyên nhân do phối hợp nhiều yếu tố nhiễm trùng nhiễm độc, xuất huyết và thoát dịch.
8. nhiễm trùng huyết...
9.Tiêu hóa: Viêm loét dạ dày tá tràng cấp, như là một biến chứng Stress do đau hay nhiễm trùng, nhiễm độc và thường biểu hiện dưới dạng xuất huyết. Thuyên tắc tĩnh mạch cửa.
Chẩn đoán
Mặc dù dấu hiệu lâm sàng có giá trị gợi ý nhưng chẩn đoán xác định không thể dựa vào lâm sàng vì thường hay nhầm lẫn với các bệnh lý khác.
Khám lâm sàng
Hỏi bệnh có thể xác định các yếu tố nguy cơ gây viêm tụy ở trên. Khám có thể phát hiện vị trí đau ở đầu tụy hay đuôi tụy. Khám cũng nhằm phát hiện các biến chứng của viêm tụy cấp.
Xét nghiệm
Không có một xét nghiệm máu nào đặc hiệu cho chẩn đoán viêm tụy cấp, tuy nhiên kết hợp các xét nghiệm này sẽ nâng cao giá trị của từng xét nghiệm.
Amylase: nồng độ amylase huyết thanh ở bệnh nhân viêm tụy cấp thay đổi theo mức độ tổn thương tụy tuy nhiên không có sự tương quan chặt chẽ lắm. Thường nồng độ amylase huyết thanh bắt đầu tăng 12 giờ sau khi có triệu chứng đầu tiên và đạt đến nồng độ cao nhất sau khoảng 12 đến 72 giờ. Tuy nhiên một số bệnh lý không viêm tụy khác cũng có thể làm tăng men này.
Lipase: Bắt đầu tăng khoảng từ 4 đến 8 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng và đạt đỉnh sau 24 giờ. Lipase giảm dần trong khoảng từ 8 đến 12 ngày.
Trypsin/Elastase: Có thể được xem là xét nghiệm huyết thanh chính xác nhất trong chẩn đoán viêm tụy cấp .
Chụp X quang không chuẩn bị: thường ít có giá trị và ít khi dùng.
Siêu âm: Là một xét nghiệm sử dụng rộng rãi và cũng có độ tin cậy khá cao nếu tay nghề người là siêu âm tốt. Tuy nhiên trong trường hợp bụng chướng hơi, siêu âm rất khó khảo sát tụy.
Chụp cắt lớp vi tính (CT): là phương pháp rất có giá trị hiện nay, đặc biệt là chụp có cản quang.
Điều trị
Biện pháp làm giảm tiết dịch tụy, hạn chế tổn thương tiếp diễn: đặt ống thông mũi-dạ dày hút liên tục hoặc ngắt quãng, sử dụng các thuốc như ức chế receptor H2, atropine, glucagon, somatostatin, calcitonin.
Ngăn ngừa bội nhiễm: dùng một trong các kháng sinh ampicillin, cefuroxxime, ceftazidime kết hợp với amikacine và metronidazole.
Truyền huyết tương tươi đông lạnh để ức chế protease
Nuôi ăn hoàn toàn bằng đường tĩnh mạch: cũng nhằm hạn chế bài tiết dịch tụy.
Rửa ổ phúc mạc để loại bỏ chất độc.
Điều trị các biến chứng: chủ yếu là điều trị nâng đỡ.
Tiên lượng
Trong viêm tụy cấp thể nặng, chụp CT có thể giúp ích cho tiên lượng chính xác. Nếu trên hình ảnh CT, tụy chỉ bị phù nề thì tiên lượng rất tốt. Tuy nhiên nếu có hình ảnh hoại tử lan tỏa thì tiên lượng rất dè dặt.
Trong viêm tụy mức độ nhẹ, tử vong chỉ vào khoảng 5%. Nhưng nếu viêm tụy cấp kèm với xuất huyết và hoại tử nhiều hoặc có hội chứng đáp ứng viêm hệ thống thì tử vong có thể lên đến 10-50% . Trong những ngày đầu, tử vong thường do suy chức năng các cơ quan như tim, phổi, thận. Tử vong sau tuần đầu tiên thường do nhiễm trùng. Thật sự, nhiễm trùng thứ phát là nguyên nhân gây tử vong thường gặp nhất trong viêm tụy cấp. , . |
Cao Bá Nhạ (高伯迓, ? - ?) là một nhà thơ ở thế kỷ 19 trong văn học Việt Nam.
Cuộc đời
Cao Bá Nhạ, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Phú Thị huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông là con Cao Bá Đạt, và là cháu gọi Cao Bá Quát là chú ruột.
Hiện chưa biết Cao Bá Nhạ có đỗ đạt không, có làm quan không, chỉ biết ông là người giỏi việc văn chương.
Năm 1855, sau khi cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do chú ruột của ông là Cao Bá Quát lãnh đạo thất bại, dòng họ Cao chịu hình phạt tru di tam tộc, thì ông phải cải dạng đổi tên chạy trốn khắp nơi.
Cuối cùng, ông ẩn cư ở vùng Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) kiếm sống bằng nghề dạy học. Ở đây, ông lấy vợ sinh con, nhưng chỉ sống yên ấm được khoảng tám năm thì bị tố giác. Ông bị bắt và bị giải qua các nhà lao ở Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh.
Trong ngục, Cao Bá Nhạ viết một bài biểu trần tình (Trần tình văn) và một khúc ngâm (Tự tình khúc) trình lên nhà cầm quyền để tự minh oan cho mình, nhưng vẫn bị triều đình Huế đày lên mạn ngược (không tài liệu nào ghi địa danh cụ thể) và rồi chết ở đấy.
Tác phẩm
Hiện chỉ mới tìm thấy hai tác phẩm của Cao Bá Nhạ, đó là:
Trần tình văn hay còn gọi là Cao Bá Nhạ trần tình trạng. Đây là một bài biểu bằng chữ Hán, theo lối tứ lục.
Tự tình khúc, được viết bằng chữ Nôm theo lối song thất lục bát dài 608 câu (Xem chi tiết ở trang Tự tình khúc).
Đánh giá sơ lược hai tác phẩm này, Bách khoa toàn thư Việt Nam có đoạn:
Bài "Trần tình văn" bằng chữ Hán và bài "Tự tình khúc" bằng chữ Nôm đều viết khi Cao Bá Nhạ ngồi trong ngục chờ ra pháp trường. Cao Bá Nhạ bày tỏ tâm sự của mình. Nội dung hai bài giống nhau, có chỗ nói về Cao Bá Quát không đúng sự thật, chỉ cốt giải nỗi oan của mình.
Thông tin thêm
Cao Bá Đạt (1808-1855) là cha Cao Bá Nhạ là và anh sinh đôi với Cao Bá Quát. Ông sinh ra ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
Năm Giáp Ngọ (1834), ông đỗ cử nhân (sau Cao Bá Quát một khoa), được bổ làm Tri huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa, và có tiếng là một viên quan mẫn cán và thanh liêm.
Sau khi Cao Bá Quát khởi binh chống nhà Nguyễn năm 1854 ở Mỹ Lương rồi bị bắn chết tại trận (tháng 12 năm Giáp Ngọ - đầu năm 1855), ông đang tại chức cũng bị bắt giải về kinh đô Huế. Dọc đường, ông làm một tờ trần tình rồi dùng dao đâm cổ tự vẫn.
Danh sĩ Nguyễn Văn Siêu có làm câu đối chữ Hán để truy điệu hai anh em ông (tức ông và Cao Bá Quát) như sau:Ta tai! Quán cổ tài danh, nan đệ nan huynh, bất thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử;
Dĩ hỉ! Đáo đầu sự thế, khả liên khả ố, hỗn trần lưu xú diệc lưu phương.
Tạm dịch:Thương thay! Tài điệu tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác;
Thôi nhĩ! Sự cơ đến vậy, đáng thương đáng ghét, nghìn năm dây xấu cũng dây thơm. |
Hồ Zaysan (tiếng Nga: озеро Зайсан) là hồ nước ngọt nằm ở miền đông Kazakhstan, diện tích khoảng 1.810 km² (700 dặm vuông). Hồ nằm ở chỗ trũng giữa hai dãy núi Altai và Tarbagatay.
Hồ nằm ở độ cao 420 m so với mặt biển, dài 105 km và rộng từ 22–48 km, chỗ sâu nhất là 15 m. Những nguồn nước chính đổ vào hồ là các sông Kara-Irtysh (Irtysh đen) và Kendyrlyk từ phía đông, nguồn duy nhất chảy từ hồ ra là sông Irtysh (hay Irtysh Trắng).
Hồ rất lắm cá. Hồ đóng băng bắt đầu từ đầu tháng 11 cho đến hết tháng 4. Từ khi có đập nước Bukhtarma, mực nước của hồ đã dâng cao thêm 6 m (20 ft) so với mức tự nhiên của nó. |
Giải đua ô tô Công thức 1 Canada (tiếng Pháp: Grand Prix du Canada; tiếng Anh: Canadian Grand Prix) là một trong nhiều giải thuộc giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu trên đường đua Gilles Villeneuve tại Montréal, Québec, Canada.
Đường đua Gilles Villeneuve lần đầu tiên tổ chức giải Công thức 1 năm 1978 (khi đó mang tên đường đua Île Notre-Dame). Sau cái chết của tay đua Gilles Villeneuve năm 1982 (bố của Jacques Villeneuve), đường đua Île Notre-Dame được đổi tên như hiện nay.
Ngoài đường đua Gilles Villeneuve, giải đua ô tô Công thức 1 Canada còn được tổ chức trên 2 đường đua khác là Mosport Park (1967, 1969, 1971, 1972, 1973, 1974, 1975, 1976 và 1977) và Mont-Tremblant (1968 và 1970). Tính đến năm 2006, giải Canada đã 38 lần được tổ chức (trừ 2 năm 1975 và 1987).
Các thông số kỹ thuật của đường đua Gilles Villeneuve
Tham dự giải Công thức 1 từ: 1978
Số lần tham dự giải Công thức 1: 28 (tính đến năm 2006)
Chiều dài một vòng đua: 4,361 km
Số vòng đua: 70
Tốc độ tối đa:
Sức chứa tối đa:
Kỷ lục chạy một vòng nhanh nhất: 1 phút 14,384 giây của Kimi Räikkönen đội McLaren-Mercedes
Năm 2006
Thời gian: 25 tháng 6
Các cá nhân và đội đua vô địch |
Sông Irtysh (tiếng Nga: Иртыш; tiếng Kazakh: Ertis/Эртiс; tiếng Tatar:İrteş/Иртеш; tiếng Trung: Erqisi / 额尔齐斯河 - Ngạch nhĩ tề tư hà), là một con sông tại Trung Á, sông nhánh chính của sông Obi. Tên gọi của nó có nghĩa là sông trắng. Trên thực tế, nó dài hơn sông Obi cho đến chỗ hợp lưu của hai con sông này. Sông nhánh chính của Irtysh là sông Tobol. Hệ thống sông Obi-Irtysh tạo thành một lưu vực chính tại châu Á, bao gồm phần lớn miền tây Siberia và dãy núi Altay.
Từ đầu nguồn của nó, với tên gọi Kara-Irtysh (Irtysh đen) tại dãy núi Altay ở Tân Cương, Trung Quốc, Irtysh chảy theo hướng tây bắc qua hồ Zaysan, Kazakhstan cho đến khi nó gặp sông Obi gần Khanty-Mansiysk ở miền tây Siberi, Nga sau 4.248 km (2.640 dặm). Trang Иртыш ghi độ dài là 4.270 km, trong đó chảy qua Trung Quốc 525 km, Kazakhstan 1.835 km và Nga là 2.010 km. Diện tích lưu vực khoảng 1.643.000 km².
Các tàu khách, tàu vận tải và tàu chở dầu có thể đi lại trên phần lớn chiều dài sông này từ tháng Tư đến tháng Mười, khi nó không bị đóng băng. Thành phố Omsk là nơi đặt trụ sở của công ty vận tải thủy Irtysh và là cảng sông lớn nhất tại miền tây Siberi. Các nhà máy thủy điện lớn nhất tại Ust-Kamenogorsk và Bakhtarminsk (1959) nằm trên sông Irtysh gần biên giới Kazakhstan-Trung Quốc. Hệ thống thủy lợi Irtysh-Karaganda cung cấp nước cho các thảo nguyên khô cằn của Kazakstan.
Hai bên bờ sông đã từng có người Trung Hoa, Kalmyk và Mông Cổ sinh sống cho đến khi người Nga đến đây vào cuối thế kỷ 16. Sự chinh phục vùng lưu vực sông Irtysh của người Nga hoàn thành vào đầu thế kỷ 19.
Các thành thị chính hai bờ sông Irtysh, từ đầu nguồn tới cửa sông là:
Tại Kazakhstan: Öskemen/Ust-Kamenogorsk, Semey/Semipalatinsk, Pavlodar.
Tại Nga: Omsk, Tara, Tobolsk, Khanty-Mansiysk. |
{{Infobox Weapon|is_ranged=yes||name= Súng trường tấn công M16, 5,56 mm
|image=
|caption=Từ trên xuống: M16A1, M16A2, M4 Carbine, M16A4
|origin=
|type=Súng trường tấn công
|design_date=1957
|designer=Eugene StonerColt
|manufacturer=ColtFN Herstal H & R FirearmsGeneral Motors Hydramatic DivisionArmalite
|production_date=1960 – nay
|service=1963 – nay
|used_by= tự sản xuất súng trường M16 của Mỹ thay AK
|wars=Chiến tranh Việt NamChiến dịch Xuân – Hè 1972Chiến tranh Vùng Vịnh Chiến tranh Afghanistan Chiến tranh IraqXung đột vũ trang tại Bắc IrelandNội chiến CampuchiaNội chiến LàoNội chiến SyriaNổi dậy cộng sản Malaysia (1968-1989)Nội chiến Iraq (2014 đến nay)Khủng hoảng Marawi
|spec_type= Selective fire/súng trường tấn công
|spec_label=M16A2
|part_length=
|cartridge=5,56×45mm NATO
|feed=Hộp tiếp đạn 20 hoặc 30 viên STANAGHộp tiếp đạn trống 100 viên Beta C-Mag
|action=Trích khí trực tiếp, thoi nạp đạn xoay
|rate=700 – 900 phát/phút
|velocity=3200 ft/s (M16A1)3050 ft/s (M16A2)
|range=550 m
|weight=3,1 kg
|length=1006 mm
|variants=M16A1, M16A2, M16A3, M16A4, M4A1
|number=Khoảng 8 triệu khẩu
}}
M16 là một loạt súng trường do hãng Colt cải tiến từ súng AR-15 của hãng Armalite. Đây là loại súng tác chiến bắn đạn 5,56×45mm NATO. M16 là súng thông dụng của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1969.
M16 nhẹ, khoảng 3,1 kg, do có thành phần làm bằng thép, hợp kim, nhôm và nhựa cứng (sợi thủy tinh hoặc polymer), sử dụng kỹ thuật giảm nhiệt bằng hơi, tác động lên cò bằng khí ép, đạn nạp từ băng tiếp đạn với cơ cấu khóa nòng xoay.. Có ba loại khác nhau trong qua trình sản xuất súng M16. Loại đầu tiên là M16 và M16A1, sử dụng trong thập niên 1960, bắn đạn M193/M196 (hoặc .223 Remington), có thể bắn hoàn toàn tự động hay bán tự động, và hai mẫu XM16E1 và M16A1 đồng loạt được sử dụng ở chiến trường Việt Nam, sử dụng băng đạn 20 viên. Loại kế tiếp là M16A2, thập niên 1980, bắn đạn M855/M856 (do FN Herstal của Bỉ thiết kế), có khả năng bắn từng viên hay bắn từng loạt 3 viên, băng đạn được cải tiến lên 30 viên. Loại sau cùng là M16A4, súng trường tiêu chuẩn của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq. M16A4 và súng trường M4 Carbine dần dần được dùng thay thế M16A2, vốn đã hơi lỗi thời và kém tiện dụng. So với M16A1 và A2, M16A4 và M4/M4A1 có một số cải tiến về hình dáng ngoài: quai xách tháo rời có thể dùng để gắn kính ngắm, dụng cụ chấm mục tiêu bằng tia laser, kính nhìn ban đêm, đèn pin và súng phóng lựu.
Lịch sử
Nguồn gốc
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu nghiên cứu để tạo ra một loại súng trường tự động thay thế cho M1 Garand, M1 Carbine, M1918 BAR, M3 “Grease Gun” và Thompson. Tuy nhiên, những thí nghiệm ban đầu với phiên bản nhiều chế độ bắn của M1 Garand đã thất bại. Trong chiến tranh Triều Tiên, M1 Carbine đã thay thế những súng tiểu liên tiêu chuẩn và trở thành phiên bản súng carbine được sử dụng nhiều nhất. Dù vậy, những kinh nghiệm rút ra từ chiến trường đã nêu lên rằng loại đạn .30 Carbine (7,62x33 mm) không có nhiều uy lực, khi sát thương tầm xa đem lại kết quả kém do sử dụng loại đạn đầu tròn kéo dài của súng ngắn. Từ đó, những nhà thiết kế vũ khí Hoa Kỳ đã kết luận rằng một cỡ đạn tầm trung là cần thiết, và nó nên là một loại đạn cỡ nhỏ, đầu đạn nhọn, sơ tốc cao.
Những cuộc thử nghiệm đầu tiên giữa AK-47 và M14 đã diễn ra vào thời gian đầu của Chiến tranh Việt Nam. Những báo cáo từ chiến trường ghi lại rằng M14 gần như “không thể kiểm soát” khi bắn ở chế độ liên thanh, chiều dài và trọng lượng của M14 quá cao và người lính không mang đủ lượng đạn cần thiết để duy trì hỏa lực so với AK-47 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong khi M2 Carbine có tốc độ bắn cao (750 phát/phút), khả năng duy trì hỏa lực khá ổn vì lực giật của đạn .30 Carbine sinh ra khá thấp, nhưng sức mạnh của nó lại hoàn toàn bị lấn át trước AK-47. Do vậy, sự thay thế là hoàn toàn cần thiết - một sự kết hợp cân bằng giữa loại súng trường có uy lực mạnh, sức công phá cao như M14, và sự linh hoạt, cơ động của M2 Carbine.
Ưu điểm
Nhẹ, tốc độ bắn nhanh.
Độ chính xác cao.
Sát thương do gia tốc đạn gây ra lớn.
Phù hợp cho cả người thuận tay trái và tay phải.
Nhược điểm
Vật liệu phức tạp, nhiều chi tiết nhỏ.
Việc tháo lắp tương đối lâu, cần được đào tạo bài bản.
Dễ bị kẹt đạn do sử dụng cơ chế trích khí trực tiếp làm thuốc súng dính vào nòng súng (với các phiên bản trước M16A4)
Khó bảo quản trong điều kiện bình thường.
Các biến thể
M16: phiên bản đầu tiên của dòng M16, cải tiến từ khẩu AR-15, có ốp lót tay hình tam giác và hộp tiếp đạn 20 viên. Tuy nhiên, loại súng này rất dễ kẹt đạn vì hãng Colt làm nhẹ các bộ phận chuyển động của mẫu AR-15 đi.
M16A1: cải tiến từ M16, sửa một số lỗi, đặc biệt ít kẹt đạn hơn hẳn. Thay đổi rõ rệt nhất là M16A1 có một cần đẩy với nút nhấn ở bên phải cò súng (Foward Assist) giúp thay đạn nhanh hơn. Phiên bản hoàn chỉnh được thông qua và sản xuất vào năm 1967.
M16A2: Đây là phiên bản cải tiến lớn của dòng súng M16. Ngoài thay đổi về độ xoắn nòng, Colt cũng trang bị cho M16A2 một nòng dày và chịu lực tốt hơn, giúp chống uốn cong và cho phép bắn trong thời gian dài. Đặc biệt, nó có một loa che lửa mới giúp tránh bám bụi tốt hơn. Ngoài ra, hãng Colt còn thay đổi ốp lót tay của súng từ dạng tam giác sang dạng tròn với nhiều vân giúp cầm nắm dễ dàng hơn. Đặc biệt, M16A2 không còn chế độ bắn tự động mà thay vào đó là điểm xạ loạt 3 viên. Được thông qua và sử dụng vào đầu những năm 1980. M16A2 còn là tiền đề để hãng Colt thiết kế khẩu M4A1 danh tiếng của họ
M16A3: Cải tiến từ M16A2 với chức năng chọn chế độ bắn: tự động, bán tự động và khoá an toàn. Được sử dụng với số lượng nhỏ, chủ yếu trong một số lực lượng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.
M16A4: Phiên bản cuối cùng của dòng M16, được chia thành hai loại chính với các chế độ bắn khác nhau. Phiên bản có số hiệu R0901/ NSN 1005-01-383-2872 có 3 chế độ: khóa an toàn, bán tự động và tự động hoàn toàn. Còn phiên bản R0905 có 3 chế độ là: khóa an toàn, bán tự động và loạt 3 viên. Phiên bản này được nhận xét là tốt nhất trong dòng súng M16 với khả năng tản nhiệt tốt hơn và giảm tỉ lệ bị kẹt đạn đi rất nhiều lần so với các phiên bản trước. Ngoài ra, Colt đã gỡ bỏ quai xách đặc trưng phía bên trên thân súng và thay vào đó là hệ thống ray Picatinny hoàn chỉnh, giúp súng có khả năng gắn được nhiều loại kính ngắm hơn.
Các quốc gia sản xuất và sử dụng
M16 là súng trường được sản xuất phổ biến thứ hai ( sau AK-47 ) trên thế giới. Hiện tại, M16 đang được sử dụng bởi 15 quốc gia NATO và hơn 80 quốc gia trên toàn thế giới. Nhiều công ty ở Hoa Kỳ, Canada và Trung Quốc đã sản xuất hơn 8.000.000 khẩu súng trường của tất cả các biến thể M16. Khoảng 90% trong số chúng vẫn đang được sử dụng hết sức rộng rãi. M16 đã thay thế súng trường M14 và súng M2 Carbine làm súng trường bộ binh tiêu chuẩn của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ, mặc dù M14 vẫn được sử dụng hạn chế, chủ yếu là hỗ trợ trong chiến đấu và sử dụng trong các nghi lễ.
Khoảng 8 triệu khẩu M16 thuộc mọi phiên bản đã được sản xuất và bán cho nhiều lực lượng, đã hoặc đang là súng trường tấn công tiêu chuẩn của 10 nước:
: Lực lượng Taliban sử dụng súng trường M16A2 và M16A4 trước đây được cung cấp cho Quân đội Quốc gia Afghanistan. Cũng được sử dụng với Tiểu đoàn Badri 313.
: 15 quốc gia trong khối NATO sử dụng.
: Tự sản xuất với các phiên bản XM16E1, M16A1, M16A2, M16A3, M16A4, M4A1.
: M16A1/M16A2E3
: Để bảo vệ Tòa Thánh Vatican và chịu trách nhiệm bảo vệ Đức Giáo Hoàng
: Tịch thu rất nhiều XM16E1 và M16A1 của quân đội Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng hòa.
: Tự chế tạo sản xuất M16A1 (trang bị quan trọng cho Dân quân tự vệ) và chế tạo sản xuất M16A4
M16A2/A4
Đảng Lao động Kurd
Một số lượng nhỏ M16A2 được sử dụng bởi Biệt đội Hành động Đặc biệt của Hải quân Bồ Đào Nha
M16A2 được Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Brunei sử dụng làm súng trường phục vụ chính của họ.
Tịch thu từ trong tay của Phiến quân Syria những khẩu M16 và Nhiều vũ khí do Mỹ sản xuất như súng trường và súng chống tăng cũng xuất hiện trong triển lãm.
: Sử dụng mẫu M16A1
C7 và C8
C7 và C8
: Trong Chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã cung cấp 27.000 khẩu súng trường M16 cho Lực lượng Vũ trang Hàn Quốc tại Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra, 600.000 khẩu M16A1 (Colt Model 603K) đã được sản xuất theo giấy phép của Daewoo Precision Industries với các đợt giao hàng từ năm 1974 đến năm 1985. Những người lính KATUSA (Tăng cường Hàn Quốc cho Quân đội Hoa Kỳ) phục vụ trong Quân đội Hoa Kỳ sử dụng M16A2.
M16A1 (có thể là bản sao không được cấp phép) được sử dụng bởi lực lượng đặc biệt của KPA. Được sử dụng trong sự cố Gangneung năm 1996.
M16A1
Biến thể địa phương của M16A1 (M16S1) được ST Kinetics sản xuất theo giấy phép.
M16A1
Được sử dụng bởi các lực lượng chống khủng bố và hoạt động đặc biệt
: Được sản xuất theo giấy phép của Elisco Tool and Manufacturing. M16A1 và M653P đang được sử dụng. Được bổ sung trong Lực lượng Đặc biệt bởi M4 carbine.
M16S1
M16A1/A2/A4. Một biến thể của bản sao XM177 được gọi là carbine Loại 49 (ปลส.49) Được sử dụng trong cuộc nổi dậy ở Nam Thái Lan
M16A2/A4
M16A1/A2/A4
Sản xuất M16A1 với phiên bản Norinco CQ.
M16A1, cũng như bản địa Type 65/65K1/65K2, Type 86 và Type 91 (với hệ thống pít-tông khí kiểu AR-18).
Được Lực lượng Đặc biệt sử dụng. Có khả năng nhận được từ cổ phiếu Ma-rốc.
: M16A1 được giới thiệu trong Chiến tranh Việt Nam và được thay thế bởi F88 Austeyr vào năm 1989.
: Được thay thế vào năm 1988 bởi Steyr AUG, đã được thay thế bằng biến thể M16 không phải Colt vào năm 2016.
Một trong những khách hàng quân sự đầu tiên là Vương quốc Anh đã mua những khẩu AR-15 đầu tiên để sử dụng trong chiến tranh rừng rậm trong cuộc đối đầu Indonesia-Malaysia. Biến thể Colt Canada C8 (L119A1/L119A2) được sử dụng bởi các Đơn vị Bảo vệ Cận cảnh của Cảnh sát Quân sự Hoàng gia. Nhóm Người tìm đường, Lực lượng Đặc biệt Vương quốc Anh và Nhóm Bảo vệ Hạm đội Biệt kích 43 Thủy quân lục chiến Hoàng gia
Cùng hơn 80 quốc gia khác trên thế giới.
Quốc gia cũ từng sử dụng
: Súng trường phát hành tiêu chuẩn của Quân đội Quốc gia Afghanistan. Các biến thể Colt Canada C7 cũng được đưa vào phục vụ hạn chế.
: 6.000 M16 và 938.000 M16A1, 1966–1975
: Nhận được từ chính phủ Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam và Nội chiến Lào
: Biến thể M16A2. Được sử dụng bởi Trung đoàn Hoàng gia Hồng Kông.
Phiến quân khủng bố
Nhóm Maute
Bangsamoro Islamic Freedom Fighters
NPA
Chú thích |
Châu Giang (tiếng Trung: 珠江, bính âm: Zhū Jiāng) là con sông lớn thứ ba tại Trung Quốc với chiều dài 2.200 km, sau Trường Giang và Hoàng Hà, và là sông lớn thứ hai tính theo lưu lượng (sau Trường Giang). Nằm ở miền nam Trung Quốc, nó chảy vào biển Đông tại đoạn giữa Hồng Kông và Ma Cao. Khu vực hạ lưu của nó tạo thành vùng châu thổ Châu Giang.
Nó được đặt tên theo một hòn đảo cát và đá tại đoạn giữa của sông với tên gọi Hải Châu (海珠). Đảo này hiện nay nằm tại một bờ sông, do con sông đã thay đổi dòng chảy. Châu Giang còn có tên gọi là Việt Giang (粵江 - tức "sông Quảng Đông").
Nó được tạo thành từ hợp lưu của ba con sông là Tây Giang, Bắc Giang và Đông Giang. Con sông này chảy qua các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, một phần các tỉnh Hồ Nam và Giang Tây, tạo thành lưu vực Châu Giang (珠江流域) có diện tích 409.480 km².
Đường dây cao thế 500 kV, vượt qua sông này trên ba cột điện cao thế (phía đông: 240 m, giữa: 253 m và tây: 80 m) tại khu vực gần cửa sông, trong đó cột 253 m là cao nhất trên thế giới, được xây dựng trên một hòn đảo nhân tạo ở giữa sông. Khoảng cách giữa hai cột cao 253 m và 240 m là 1.547 m. Với khoảng cách này, điểm thấp nhất của đường dây cách mặt sông 70 m. Khẩu độ của hai thanh giằng của hai cột này là 63,5 m (cột cao 240 m) và 54,5 m (cột cao 253 m). Chúng được xây dựng năm 1987. |
Tứ đại kỳ thư (四大奇書) chỉ 4 bộ tiểu thuyết được xem như là hay nhất của văn học cổ điển Trung Quốc:
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung
Thủy hử của Thi Nại Am
Tây du ký của Ngô Thừa Ân
Kim Bình Mai của Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh |
Đại hồng thủy (hay hồng thủy) là đại thảm họa khủng khiếp được nhắc đến trong truyền thuyết của nhiều tôn giáo và nhiều dân tộc trên thế giới. Nó được miêu tả là một trận lụt cực lớn và đối với Kinh Thánh là sự trừng phạt của Thiên Chúa do sự suy đồi đạo đức, thoái hóa biến chất của loài người.
Đại hồng thủy trong Kinh Thánh
Chương 7 và 8 của Sách Sáng thế miêu tả đại hồng thủy xảy ra là sự trừng phạt của Thiên Chúa vì sự suy đồi đạo đức của loài người. Nước dâng lên cao hơn cả những đỉnh núi cao nhất, vào ngày 17 tháng 2, mưa 40 ngày đêm và nước dâng lên liên tục trong 150 ngày. Sau đại hồng thủy, chỉ có gia đình Nô-ê còn sống sót cùng các loài vật mỗi giống một cặp đôi, trên con thuyền Nô-ê. |
Giáo sư Lê Khả Kế (1918-2000) là một trong những nhà từ điển học hàng đầu của Việt Nam.
Tiểu sử
Lê Khả Kế sinh ra và lớn lên tại làng Hữu Bằng, nay là xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông là Cựu Sinh viên Trường Cao đẳng Canh nông, cùng khóa với Cù Huy Cận.
Lần đầu tiên trong đời ông đi Máy bay là do vua Bảo Đại mời đi cùng - Sự kiện này xảy ra, vì Nhà Vua rất nể tài học tập của ông.
Năm 1942–1945: Công tác tại Viện nghiên cứu Nông lâm Đông Dương.
Năm 1945, Ông được bổ nhiệm làm Trưởng ban Nông lâm Bắc Trung bộ.
Sau năm 1945 Ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Phổ thông Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Trường Trung học Chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng ở Vinh.
Từ năm 1955-1963, Ông là Chủ nhiệm Khoa Hóa - Sinh - Địa, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Năm 1963, Ông chuyển sang làm công tác nghiên cứu, biên soạn Từ điển Khoa học của Ủy ban Khoa học Nhà nước rồi Phụ trách Tổ Thuật ngữ - Từ điển học của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Ông là một trong những người đầu tiên xây dựng Viện Ngôn ngữ học (Việt Nam).
Phu nhân là bà Lê Thị Sơ, sinh năm 1922, hiện đang nghỉ hưu tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Ông nghỉ hưu năm 1997.
Ông mất ngày 23 tháng 7 năm 2000 tại Hà Nội, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) đã Tổ chức Lễ tang Trọng thể tiễn biệt Ông; người đọc Lời Điếu tại Lễ Truy điệu Ông là Viện sĩ Nguyễn Duy Quý, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia.
Đóng góp
Trong gần 30 nǎm, với tư cách là tác giả, đồng tác giả, chủ biên hoặc tổng biên tập, ông đã lần lượt cho ra đời 24 cuốn từ điển : từ điển song ngữ Anh-Việt, Việt-Anh, Pháp-Việt, Việt-Pháp, Hán-Việt, Nga-Việt; từ điển ngôn ngữ và từ điển thuật ngữ chuyên môn các ngành khoa học. Các bộ từ điển này đều được đánh giá cao về chất lượng nội dung, khoa học, nghiêm túc, được liệt kê trong nhiều danh sách từ điển tra cứu của các trường, viện.
Năm 2005, cuốn Từ điển Anh-Việt gồm 350.000 từ trong đó có 120.000 thí dụ của ông do nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1997 đã được tặng giải thưởng của Nhà nước Việt Nam dành cho công trình Khoa học và Công nghệ xuất sắc.
Công trình Khoa học đã Công bố
1. Vấn đề đặt danh từ thực vật học / Lê Khả Kế // Tạp chí Tổ quốc. - 1957. - số 122. - tr.: 19-20.
2. Danh từ sinh vật học Nga-Việt / Lê Khả Kế (đồng tác giả). - H.: Khoa học, 1960. - 320tr.; 19 cm; T.1.
3. Danh từ sinh vật học Nga-Việt / Lê Khả Kế (đồng tác giả). - H.: Khoa học, 1963. - 295tr; T. 2.
4. Xây dựng thuật ngữ khoa học / Lê Khả Kế // Études vietnamiennes. - 1965. - số 5. - tr.: 114-133. (Bằng tiếng Pháp).
5. Thuật ngữ tâm lý và giáo dục Nga-Pháp-Việt / Lê Khả Kế (đồng chủ biên). - H.: Khoa học, 1967. - 173tr; 22 cm.
6. Từ điển tiếng Việt / Văn Tân (chủ biên), Lê Khả Kế, Nguyễn Lân,... - H.: KHXH, 1967. - 1172; 19 cm.
7. Xây dựng thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt / Lê Khả Kế. - In lần 1 // Tiếng Việt và dạy đại học bằng tiếng Việt. - H.: KHXH, 1967. - tr.: 110-136. In lần 2, 1975.-tr.: 105-129.
8. Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam / Lê Khả Kế (chủ biên). - H.: KH và KT, 1969. - 387tr; T. 1.
9. Vietnamese and teaching Vietnamese in Universities in D.R.V.N. / Nguyễn Khánh Toàn,... - 2nd edition. - H.: Foreign languages publishing house, 1969. - 132p.; 19 cm.
10. Từ điển Nga-Việt nông nghiệp / Lê Khả Kế (chủ biên). - H.: Khoa học, 1970. - 770tr; 18 cm.
11. Từ điển thuật ngữ triết học-chính trị Nga-Việt: Có chú thêm tiếng Pháp / Lê Khả Kế (đồng tác giả). - H.: KHXH, 1970. - 190tr.
12. Về việc xây dựng thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt / Nguyễn Kim Thản, Lê Khả Kế // Những vấn đề ngôn ngữ học trong thuật ngữ khoa học kĩ thuật. - M.: Khoa học, 1970. - tr.: 95-101. (Bằng tiếng Pháp và tiếng Nga).
13. Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam / Lê Khả Kế (chủ biên). - H.: KH và KT, 1971. - 469tr; T. 2.
14. Từ điển học sinh: Cấp II / Nguyễn Lương Ngọc, Lê Khả Kế (chủ biên). In lần thứ hai. - H.: Giáo dục, 1971. - 724tr; 19 cm.
15. Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam / Lê Khả Kế (chủ biên). - H.: KH và KT, 1973. - 391tr; T. 3.
16. Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam / Lê Khả Kế (chủ biên). - H.: KH và KT, 1974. - 407tr; T. 4.
17. Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam / Lê Khả Kế (chủ biên). - H.: KH và KT, 1975. - 523tr; T. 5.
18. Về một vài vấn đề trong việc xây dựng thuật ngữ khoa học ở nước ta / Lê Khả Kế // Ngôn ngữ. - 1975. - số 3. - tr.: 15-18.
19. Từ điển Anh-Việt: 65.000 mục từ / Lê Khả Kế (tổng biên tập), Nguyễn Thượng Hùng,... - H.: KHXH, 1975. - 1960tr.
20. Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam / Lê Khả Kế (chủ biên). - H.: KH và KT, 1976. - 387tr; T. 6.
21. Về quyển ’Từ điển tiếng Việt phổ thông’ tập I / Lê Khả Kế // Báo Nhân dân chủ nhật. - 1976. - ngày 30/5. - tr.: 3.
22. Từ điển tiếng Việt / Văn Tân, Nguyễn Lân, Nguyễn Văn Đạm,... - In lần thứ hai. - H.: KHXH, 1977. - 894tr; 26 cm.
23. Từ điển nông nghiệp Anh-Việt / Lê Khả Kế (chủ biên). - H.: KH và KT, 1978. - 294tr.
24. Từ điển sinh học Anh-Việt / Lê Khả Kế (đồng tác giả). - H.: KH và KT, 1978. - 504tr.
25. Từ điển thuật ngữ triết học-chính trị Nga-Pháp-Việt / Lê Khả Kế (đồng tác giả). - In lần 2. - H.: KHXH, 1978. - 263tr.
26. Từ điển thực vật học Pháp-Việt: Khoảng 10.000 thuật ngữ / Lê Khả Kế (chủ biên), Võ Văn Chí, Vũ Đình Tuân. - H.: KH và KT, 1978. - 189tr; 19 cm.
27. Về vấn đề thống nhất và chuẩn hoá thuật ngữ khoa học tiếng Việt / Lê Khả Kế // Ngôn ngữ. - 1979. - số 3-4. - tr.: 25-44.
28. Từ điển thuật ngữ khoa học xã hội Nga-Pháp-Việt / Lê Khả Kế, Nguyễn Như Ý, Võ Xuân Trang. - H.: KHXH, 1979. - 561tr; 19 cm.
29. Về tính dân tộc của thuật ngữ khoa học / Lê Khả Kế // Báo Nhân dân. - 1979. - ngày 14/7. - tr.: 3.
30. Từ điển Pháp Việt: Khoảng 75.000 mục từ / Lê Khả Kế (tổng biên tập). - Paris: Tổ chức hợp tác văn hóa và kỹ thuật (ACCT), 1981. - 1276tr; 25 cm; (Tái bản năm 1988, 1991, 1992).
31. Từ điển sinh học Pháp-Việt / Lê Khả Kế. - H.: KH và KT, 1981. - 246tr.
32. 700 thành ngữ tiếng Nga / N.M.Sanxki, E.A.Bưrtơrôva, Lê Khả Kế. - M.: Tiếng Nga, 1982. - 134tr; 16 cm.
33. Chuẩn hoá thuật ngữ khoa học tiếng Việt / Lê Khả Kế // Chuẩn hoá chính tả và thuật ngữ. - H.: Giáo dục, 1983. - tr.: 133-147.
34. Từ điển Việt-Anh: 30.000 mục từ / Lê Khả Kế. - H.: KHXH, 1987. - 798tr.; 27 cm. (In lần hai, sửa chữa lại toàn bộ). Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1993.-1073 tr).
35. Từ điển Việt Anh / Đặng Chấn Liêu, Lê Khả Kế. - H.: KHXH, 1989. - 797tr; 24 cm.
36. Từ điển Việt-Pháp: Hơn 46.000 mục từ / Lê Khả Kế, Nguyễn Lân. - H.: KHXH, 1989. - 1132tr; 26 cm. (Tái bản năm 1992).
37. Từ điển Anh-Việt: 15.000 mục từ / Lê Khả Kế. - Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1991. - 840tr.
38. Từ điển bách khoa nông nghiệp: Gồm 3.000 mục từ / Lê Khả Kế, Nguyễn Văn Trương, Trịnh Văn Thịnh. - H.: Trung tâm quốc gia biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, 1991. - 454tr; 27 cm.
39. Từ điển Việt-Anh: 15.000 mục từ / Lê Khả Kế. - Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1991. - 417tr.
40. Từ điển Pháp-Việt, Việt-Pháp: Khoảng 10.000 mục từ / Lê Khả Kế. - In lần 2. - H.: KHXH, 1992. - 1089tr.
41. Từ điển Trung - Việt: Khoảng 60.000 từ / Phan Văn Các, Lê Xuân Thại, Lê Khả Kế,... - H.: KHXH, 1993. - 1653tr; 24 cm.
42. Từ điển Việt-Anh / Đặng Chấn Liêu, Lê Khả Kế, Phạm Duy Trọng. - Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1993. - 1073tr.; 21 cm.
43. Từ điển Anh- Việt: Khoảng 65.000 từ / Đặng Thế Bính, Trần Văn Chương, Đặng Văn Du...biên soạn, Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu, Bùi Ý hiệu đính. - H.: KHXH, 1994. - 1959tr; 24 cm.
44. Từ điển Pháp - Việt: 76 000 mục từ / Lê Khả Kế (chủ biên), Nguyễn Lân,... - In lần thứ ba, có sửa chữa và bổ sung. - H.: KHXH, 1994. - 2332tr; 24 cm.
45. Một vài suy nghĩ về từ điển song ngữ / Lê Khả Kế. - H.: KHXH, 1997.
46. Từ điển Pháp-Việt / Lê Khả Kế (chủ biên), Nguyễn Lân,... - In lần thứ 4, có sửa chữa và bổ sung. - H.: KHXH, 1997. - 1589tr; 24 cm.
Tác phẩm
Từ điển Pháp-Việt. Lê Khả Kế, Tổng biên tập; Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1988. [1381 tr., 23 cm. (bc) (1)]
Từ điển Việt–Pháp. Lê Khả Kế - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội
Từ điển tư liệu và thư viện học Pháp-Việt. Lê Khả Kế, Tạ Bá Hưng, Nguyễn Văn Đoá, Vũ Văn Sơn - Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia, 1997 [140 tr.; cm. (bm) (1)].
Từ điển Anh-Việt. Lê Khả Kế - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.
Từ điển Việt - Anh /Lê Khả Kế, Phạm Duy Trọng, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam. Võ Văn Chi, Vũ Văn Chuyên, Pham Nguyên Hồng, Lê Khả Kế, Đỗ Tất Lợi, Thái Văn Trừng - Nhà xuất bản KHKT, Hà Nội, 1971
Từ điển thuật ngữ khoa học xã hội Nga - Pháp - Việt/ Lê Khả Kế, Nguyễn Như Y, Võ Xuân Cang; H.đ: Đào Văn Tập,...- H.: Khoa học xã hội, 1979.- 561tr; 20 cm.
Từ điển thực vật học Pháp-Việt= Dictonnaire Français-Vietnamien de botanique/ Lê Khả Kế chủ biên; Võ Văn Chi, Vũ Đình Tuân.- H.: Khoa học và kỹ thuật, 1978.- 191tr; 20,5 cm.
Vấn đề hình thành các loài sinh vật/Lê Khả Kế.
Từ điển học sinh (cấp II) / chủ biên: Nguyễn Lương Ngọc, Lê Khả Kế; ban biên tập: Đỗ Hữu Châu,... [et al.], với sự cộng tác của Lê Quang Bảo / Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, 1971.
Tuyển tập sinh lý thực vật: T4 / Người dịch: Lê Đức Diên; Hiệu đính:Lê Khả Kế. - H.: KHKT, 1973.
Tôn vinh
Được Nhà Vua Bảo Đại mời cùng đi máy bay.
Năm 1980, Ông đã được phong Học hàm Giáo sư ngay từ đợt Phong Chức danh Khoa học đầu tiên của nước ta.
Bằng khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Huân chương Kháng chiến Chống Pháp hạng Nhì.
Huân chương Kháng chiến Chống Mỹ hạng Nhất.
Huân chương Lao động hạng Nhất.
Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ (Giải thưởng Cá nhân). |
Sứt môi, hở hàm ếch và chẻ vòm hầu là các dạng bất thường bẩm sinh ở môi và miệng thấy khá nhiều trong các sắc dân Á châu.
Dịch tễ học
Chứng sứt môi và chẻ vòm hầu đứng đầu trong các khuyết tật bẩm sinh - khoảng 1/600 trẻ sơ sinh bị chứng này, từ trường hợp rất nhẹ cho đến nặng.. Tỉ lệ cao nhất ở dân châu Á, tiếp theo là dân da trắng, và thấp nhất ở dân da đen. Nam nhiều hơn nữ. Nhiều gia đình có nhiều con cùng bị khuyết tật - đưa đến giả thuyết có yếu tố di truyền hay do độc tố môi trường chung quanh người mẹ. Một số có thêm những khuyết tật bẩm sinh khác, một số khác lại không.
Phân dạng
18% sứt môi một bên, không bị chẻ vòm hầu
2% sứt môi hai bên, không bị chẻ vòm hầu
38% sứt môi một bên và chẻ vòm hầu
12% sứt môi hai bên và chẻ vòm hầu
30% chẻ vòm hầu, không sứt môi. Dạng này tỉ lệ 1/2000, ở nữ nhiều hơn nam. Chia làm nhiều dạng khác, trong đó có dạng chẻ dưới mô mạc (1/1200-2000) và dạng chẻ lưỡi gà (1/80).
Điều trị
Sơ sinh
Vì các khuyết tật này có thể được chữa trị khi trẻ lớn trên 1 tuần , mọi cố gắng nên được thực hiện giúp trẻ sơ sinh có đủ dinh dưỡng để phát triển và đủ sức chịu đựng cuộc giải phẫu. Các trường hợp nhẹ hơn như sứt môi, hở hàm ếch phía trước miệng thì trẻ có thể bú mẹ. Khi trẻ có thể ngậm được cả quầng vú vào miệng thì một phần vú sẽ che được chỗ hở và trẻ có thể bú tốt hơn. Trẻ bị chẻ vòm hầu sâu (hở ở thành trên và sau họng) thì khi bú dễ bị sặc hay trào lên mũi, khó nuốt. Có thể cho uống sữa bằng muỗng hoặc theo ống thông vào dạ dày.
Phẫu thuật
Lịch sử
Nhà hùng biện Hy Lạp Demosthenes (384 – 323 TCN) dùng viên sỏi để lấp lỗ hở vòm hầu để nói rõ hơn
Năm 1552 Jacques Houllier đề nghị khâu hai phần vòm vào nhau.
Năm 1564 y sĩ tên Pare mô tả cách dùng mô giả làm lấp khe hở.
Năm 1764 nha sĩ Pháp LeMonnier thực hiện phẫu thuật thành công vá chỗ chẻ vòm hầu mềm.
Năm 1834 Dieffenbach vá cả phần cứng và mềm của vòm hầu.
Năm 1861 von Langenbeck sử dụng cách tách mô bọc xương hai bên kéo vào giữa lấp khe hở
Năm 1868 Billroth đề nghị cách đập vỡ khúc xương móc để dễ giải phẫu
Kỹ thuật của von Langenbeck được các y sĩ Gillies, Fry, Kilner, Wardill, Veau, và Dorrance lần lượt phát huy.
Nhiều bác sĩ và nhà nghiên cứu tranh cãi nhau về thời gian tốt nhất để giải phẫu. Vì không được giải quyết thỏa đáng, phẫu thuật vá khe hở bị đình lại.
Năm 1944 bác sĩ Schweckendiek khởi động và phát triển lại các cuộc giải phẫu giúp trẻ em bị hở vòm hầu.
Tổng quát
Khái niệm chung là nên sửa vòm hầu trước khi trẻ lên 1 tuổi, nghĩa là trước khi nói giỏi. Lợi điểm về khả năng phát âm quan trọng hơn tác hại của mổ sớm như khi lớn lên bị hở lại hay làm răng hô, cắn nghiên v.v... Mục đích của giải phẫu là tạo một nắp ngăn (kín hơi và kín nước) giữa miệng và mũi, để trẻ có thể nói rõ ràng. Ngoài ra giải phẫu cũng giúp sự phát triển bình thường của hàm răng và gương mặt. Ba điều kiện cần thiết của phần mềm vòm hầu để tạo tiếng nói rõ là phải dài đủ, phải di động đủ, và phải cong theo hình dạng của vòm khẩu. Sửa sứt môi có thể thực hiện trước khi sửa vòm hầu và giúp phát âm tốt hơn. Tuy nhiên có thể sửa môi quá sớm có thể đưa đến nhiều vấn đề khi trẻ lớn và xương hàm mặt to lên nhiều hơn.
Kỹ thuật von Langenbeck
Kỹ thuật Schweckendiek
Kỹ thuật Hai phần chắp
Kỹ thuật Wardill-Kilner-Veau
Kỹ thuật vá đôi ngược chữ Z
Kỹ thuật Submucous clefts
Kỹ thuật chắp xương
Nha khoa
Phát âm
Chú thích |
Victor Tardieu (30 tháng 4 năm 1870 – 12 tháng 6 năm 1937) là một họa sĩ người Pháp. Năm 1924, cùng họa sĩ Việt Nam Nam Sơn, ông thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Đại học Mỹ thuật Hà Nội ngày nay.
Tiểu sử
Victor Tardieu sinh tại Lyon. Từ năm 1887 tới 1889, ông theo học trường Mỹ thuật của thành phố Lyon, sau đó theo học tại Trường Mỹ thuật Paris, rồi xưởng vẽ Bonnat năm 1889 đến năm 1891.
Thời gian ở Paris, Victor Tardieu đã có những tác phẩm lớn, trong đó tác phẩm đầu tay là bức họa làm bằng kính màu tại tòa thị chính tỉnh Dunkerque nhưng tiếc rằng công trình này đã bị phá năm 1940. Nhiều tác phẩm của ông hiện được trưng bày ở các bảo tàng Lyon, Rennes và Bảo tàng Quân đội tại Paris (Musée de l’Armée à Paris). Năm 32 tuổi, Tardieu giành giải thưởng hội họa quốc gia với tác phẩm có kích thước lớn (4,05 x 4,80 m) mang tên Cần lao (Travail) thể hiện những công nhân trên công trường xây dựng. Nhờ giải thưởng này, ông có dịp đi du lịch châu Âu trong suốt hai năm. Ông vẽ chủ yếu về các hải cảng lớn như Gênes, London, Liverpool với khung cảnh nhộn nhịp, phồn thịnh của châu Âu những năm đầu thế kỷ 20. Sau đó, ông đã nhận vẽ trang trí cho một số công trình lớn của Toà thị chính Lilas và Montrouge cùng một số nhà thờ ở Pháp.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Tardieu tham gia trên chiến trường phía Bắc nước Pháp. Năm 1920, ông giành giải thưởng Indochine (Prix de l'Indochine) và phần thưởng là chuyến du lịch Đông Dương trong vòng một năm.
Tháng 1 năm 1921, Tardieu xuống tàu tại Marseille sang Đông Dương. Ngày 2 tháng 2 1921, Victor Tardieu đặt chân tới Sài Gòn rồi sau đó ra Bắc Kỳ, tới Hà Nội. Tại đây ông đã nhận lời vẽ một bức tranh khổ lớn (180 m²) cho cho giảng đường chính của Viện Đại học Đông Dương đang được xây dựng. Đó là một công trình kiến trúc đẹp của trường đại học lớn nhất xứ Đông Dương vừa mới hồi phục và phát triển nhờ chương trình cải cách giáo dục của Toàn quyền Albert Sarraut. Tardieu đã phải mất 6 năm làm việc để hoàn thành bức tranh đó. Ngoài ra ông còn vẽ trang trí trên tường tiền sảnh và mái vòm của toà nhà, tổng cộng gần 270m².
Victor Tardieu mất tại Hà Nội.
Tác phẩm tại giảng đường Viện Đại học Đông Dương
Tác phẩm của Tardieu được coi là tác phẩm mỹ thuật hiện đại lớn nhất Việt Nam. Trên một diện tích 77m², Tardieu đã minh họa khung cảnh xã hội Hà Nội hồi đầu thế kỷ 20, với sự hiện diện của 200 nhân vật đại diện chung cho xã hội thời bấy giờ, từ chính giới đến thường dân. Trong số đó có mặt cả bốn vị Toàn quyền Đông Dương: Paul Doumer, Jean Baptiste Paul Beau, Albert Sarraut, Maurice Long, một số nhân vật từng lãnh đạo và giảng dạy tại Đại học Đông Dương, thậm chí có cả con trai của chính ông - Jean Tardieu, người đã cùng sống với họa sĩ ở Hà Nội từ năm 1929 đến 1931.
Ở vị trí trung tâm tác phẩm là một cổng tam quan như cổng làng truyền thống ở thôn quê Việt Nam nằm dưới tán cây cổ thụ. Trán cửa ghi bốn chữ Nho: Thăng đường nhập thất 升堂入室 nghĩa là "chỉ dạy tới nới tới chốn": 升堂 Thăng Đường nghĩa là vị giảng sư lên giảng đường truyền giảng cho đại chúng (Dạy chung). 入室 Nhập Thất là người học còn những gút mắc, chỗ chưa thông hoặc muốn học hỏi cao sâu hơn thì Vào thất (chỗ ở riêng của Thầy) tham vấn thỉnh thị cho thấu đáo (Chỉ riêng).
Trên hai hàng cột chính thì có đôi câu đối:
人才國家之原氣 Nhân tài quốc gia chi nguyên khí
大學教化之本元 Đại học giáo hóa chi bản nguyên
Tức:
Nhân tài là nguyên khí quốc giaĐại học là gốc của giáo hóa
Ẩn hiện mờ ảo giữa cổng tam quan là Allégorie du Progrès - một nhân vật tượng trưng cho đà tiến hóa hiện đại, tay cầm sách biểu tượng cho việc dùng trí tuệ để thăng tiến. Trên khoảng không gian rộng trước cổng tam quan, họa sĩ cho phục hoạt một cách sinh động chân dung những con người đương thời gồm nhiều tầng lớp, cả người Pháp lẫn những cư dân bản xứ. Mỗi nhân vật xuất hiện với một gương mặt, một cách biểu hiện cảm xúc khác nhau.
Năm 2006 họa sĩ Hoàng Hưng, với những bức ảnh chụp nguyên mẫu họa phẩm, đã phục dựng lại bức tranh này trên giảng đường lớn của Đại học Đông Dương cũ, tại 19 Lê Thánh Tông, Hà Nội.
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Cũng trong khoảng thời gian đó, Tardieu làm quen và hòa nhập với cuộc sống ở đây. Nhờ những mối quan hệ rộng rãi với những nhân vật cao cấp, ông thuyết phục được Toàn quyền Đông Dương Martial Merlin ra sắc lệnh ngày 27 tháng 10 năm 1924 thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, phụ thuộc Viện Đại học Đông Dương. Cùng với sự cộng tác của họa sĩ Nam Sơn, ngày 24 tháng 11 năm 1924, Victor Tardieu đã trở thành hiệu trưởng đầu tiên của ngôi trường này. Sau đó Tardieu về Pháp trong vài tháng để tuyển giáo viên giảng dạy.
Tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Victor Tardieu đã không áp đặt cho học trò của mình một trường phái nào mà chỉ truyền cho họ lòng say mê và những kỹ thuật hội họa cơ bản, đặc biệt là sử dụng sơn dầu. Bên cạnh những ví dụ mẫu mực của các họa sĩ nổi tiếng phương Tây, Victor Tardieu lại nhấn mạnh nhiều hơn tới chính truyền thống nghệ thuật của Việt Nam như là điểm khởi đầu cho sự phát triển phù hợp với xu hướng thế giới. Ngay tại Triển lãm nghệ thuật quốc tế ở Paris năm 1931, những sinh viên này đã tạo được ấn tượng mạnh với khán giả và giành liền 3 giải thưởng lớn.
Gia đình
Ông cưới Caroline Luigini (còn có tên Caline). Bà là một nhạc sĩ, nhạc công hạc cầm và giảng viên hạc cầm; con gái của nhà chỉ huy dàn nhạc Alexandre Luigini. Con gái của hai ông bà, Jean Tardieu, là một nhà văn và nhà thơ Pháp.
Tác phẩm chọn lọc |
Ronald Wilson Reagan ( ; 6 tháng 2 năm 19115 tháng 6 năm 2004) là một chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ từ năm 1981 đến năm 1989. Là thành viên của Đảng Cộng hòa, trước đây ông từng là thống đốc thứ 33 của California từ năm 1967 đến năm 1975 sau sự nghiệp làm diễn viên Hollywood và lãnh đạo công đoàn.
Sinh ra trong một gia đình có thu nhập thấp ở Tampico, Illinois, Reagan tốt nghiệp Đại học Eureka năm 1932 và làm bình luận viên thể thao trên đài phát thanh ở Iowa. Sau khi chuyển đến California vào năm 1937, ông làm diễn viên và đóng vai chính trong một số tác phẩm điện ảnh lớn. Với tư cách chủ tịch Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh, Reagan đã loại bỏ những ảnh hưởng được cho là của cộng sản. Trong những năm 1950, ông chuyển sang lĩnh vực truyền hình và là một diễn giả truyền động lực tại các nhà máy của General Electric. Năm 1964, bài phát biểu "Thời điểm để lựa chọn" của ông đã thu hút sự chú ý của cả nước với tư cách là một phát ngôn viên bảo thủ mới. Xây dựng một mạng lưới những người ủng hộ, Reagan được bầu làm thống đốc California vào năm 1966. Với tư cách là thống đốc, ông tăng thuế, biến thâm hụt ngân sách nhà nước thành thặng dư, thách thức những người biểu tình tại UC Berkeley, và ra lệnh điều động lực lượng Vệ binh Quốc gia trong thời gian diễn ra phong trào phản đối.
Năm 1980, Reagan đại diện cho Đảng Cộng hòa tham gia tranh cử tổng thống và đánh bại tổng thống đương nhiệm, Jimmy Carter. Ở tuổi 69, 349 ngày vào thời điểm ông nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên, Reagan là người lớn tuổi nhất đảm nhận chức vụ tổng thống Hoa Kỳ cho đến năm 2017, khi Donald Trump nhậm chức ở tuổi 70, 220 ngày. Reagan đối đầu với cựu phó tổng thống Walter Mondale khi ông tái tranh cử vào năm 1984 và đã đánh bại Mondale, giành được nhiều phiếu đại cử tri nhất so với bất kỳ tổng thống Hoa Kỳ nào khác, 525, tương đương 97,6% trong số 538 phiếu bầu Đại cử tri đoàn. Đây là cuộc bầu cử tổng thống có kết quả một chiều thứ hai trong lịch sử Hoa Kỳ hiện đại sau chiến thắng năm 1936 của Franklin D. Roosevelt trước Alfred M. Landon, khi đó Roosevelt giành được 98,5%, hay 523, trong tổng số 531 phiếu đại cử tri.
Ngay sau khi nhậm chức tổng thống, Reagan bắt đầu thực hiện các sáng kiến kinh tế và chính trị sâu rộng. Các chính sách kinh tế học trọng cung của ông, được gọi là "Học thuyết Reagan", ủng hộ việc giảm thuế suất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bãi bỏ quy định kinh tế và giảm chi tiêu của chính phủ. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông sống sót sau một vụ ám sát, thúc đẩy Chiến tranh chống ma túy và đấu tranh với các liên đoàn lao động khu vực công. Trong hai nhiệm kỳ của mình, nền kinh tế đã giảm lạm phát từ 12,5% xuống 4,4% và tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm là 3,4%. Reagan ban hành lệnh cắt giảm chi tiêu tùy ý trong nước, giảm thuế và tăng chi tiêu quân sự, góp phần làm tăng nợ liên bang nói chung. Các vấn đề đối ngoại chi phối nhiệm kỳ thứ hai của ông bao gồm vụ ném bom ở Libya, Chiến tranh Iran-Iraq, vụ bê bối Iran-Contra và Chiến tranh Lạnh đang diễn ra. Vào tháng 6 năm 1987, bốn năm sau khi ông công khai mô tả Liên Xô là một "đế quốc xấu xa", Reagan đã thách thức Tổng Bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev "hãy phá đổ bức tường này!" trong một bài phát biểu tại Cổng Brandenburg. Ông đã chuyển chính sách Chiến tranh Lạnh từ hòa dịu sang leo thang bằng việc tiếp tục cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô trong khi vẫn tham gia vào các cuộc đàm phán với Gorbachev. Cuộc đàm phán lên tới đỉnh điểm là Hiệp ước INF, trong đó thu hẹp kho vũ khí hạt nhân của cả hai nước.
Khi Reagan rời nhiệm sở vào năm 1989, ông có tỷ lệ tán thành là 68%, tương đương với Franklin D. Roosevelt và sau này là Bill Clinton, là xếp hạng cao nhất của những tổng thống rời nhiệm trong kỷ nguyên hiện đại. Ông là tổng thống đầu tiên kể từ Dwight D. Eisenhower phục vụ đủ hai nhiệm kỳ. Vào tháng 11 năm 1994, Reagan tiết lộ rằng ông đã bị chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer đầu năm này. Sau đó, những lần xuất hiện không chính thức trước công chúng của ông trở nên ít dần hơn khi bệnh tiến triển nặng. Ông qua đời tại nhà riêng vào ngày 5 tháng 6 năm 2004. Nhiệm kỳ của ông đã tạo nên sự tái tổ chức đối với các chính sách bảo thủ ở Hoa Kỳ và ông là một biểu tượng trong số những người bảo thủ. Các đánh giá về nhiệm kỳ tổng thống của Reagan từ nhiều sử gia và công chúng đã xếp ông vào hàng ngũ các tổng thống Mỹ vĩ đại nhất.
Đầu đời
Ronald Wilson Reagan sinh ngày 6 tháng 2 năm 1911 trong căn hộ tầng hai của một tòa nhà thương mại ở Tampico, Illinois; ông là con trai út của Jack Reagan và Nelle Clyde (). Cha ông làm nghề bán hàng và viết truyện; là hậu duệ của những người nhập cư Công giáo đến từ Tỉnh Tipperary, Ireland còn mẹ ông gốc Scotland và Anh. Reagan có một người anh tên là Neil (1908–1996), một nhân viên hành chính của một hãng quảng cáo. Khi còn nhỏ, cha Reagan đặt cho ông biệt danh là "Dutch" (người Hà Lan) vì vẻ ngoài của ông giống như "một thằng nhỏ mập Hà Lan" và kiểu tóc cắt "cậu bé Hà Lan" của ông; cái biệt danh này bám theo Ronald trong suốt quãng đời trẻ. Gia đình của Reagan sống một thời gian ngắn tại một số thị trấn và thành phố của tiểu bang Illinois trong đó có Monmouth, Galesburg và Chicago, cho đến năm 1919, khi họ quay trở lại Tampico và sống bên trên cửa hàng H. C. Pitney Variety. Sau khi trở thành tổng thống, nghỉ ngơi tại tầng trên của khu cá nhân trong Tòa Bạch Ốc, Reagan đùa rằng ông đang "sống phía trên cửa hàng lần nữa".
Theo Paul Kengor, tác giả sách God and Ronald Reagan (Thượng đế và Ronald Reagan (tạm dịch)), Reagan có một niềm tin đặc biệt mạnh mẽ về cái thiện của con người, xuất phát từ niềm tin lạc quan của mẹ ông, bà Nelle, và niềm tin của một tín đồ Tin lành, mà ông đã được thanh tẩy vào năm 1922. Reagan chống đối mạnh mẽ tư tưởng kỳ thị chủng tộc. Ông nhớ lại có lần tại Dixon, lữ quán địa phương không cho phép người da đen nghỉ ở đó. Ông đã đưa họ về nhà của mình và mẹ ông mời họ nghỉ qua đêm rồi dùng điểm tâm vào sáng hôm sau.
Sau khi cửa hàng Pitney đóng cửa cuối năm 1920, gia đình Reagan chuyển đến Dixon; thị trấn "tiểu hoàn vũ" miền Trung Tây này có ấn tượng sâu sắc lâu dài đối với Reagan. Ronald học tại Trường Trung học Dixon, là nơi ông phát triển sở thích về kịch nghệ, thể thao, và kể chuyện. Công việc đầu tiên của ông là nhân viên cứu hộ ở sông Rock tại Lowell Park, gần Dixon, vào năm 1927. Reagan đã thực hiện 77 vụ cứu người khi làm tại đây. Mỗi khi cứu được một người, ông lại khắc một dấu vào khúc gỗ. Reagan theo học tại Đại học Eureka là nơi ông trở thành một thành viên của hội sinh viên Tau Kappa Epsilon, một cổ vũ viên, với bằng chính là kinh tế học và xã hội học. Thanh danh của Reagan được phát triển khi ông trong vai trò một người biết đủ mọi thứ ngành nghề, xuất sắc về chính trị tại trường, các môn thể thao và sân khấu. Ông tham gia đội bóng bầu dục, là đội trưởng đội bơi lội và được bầu làm chủ tịch hội sinh viên. Trong vai trò chủ tịch hội sinh viên, Reagan lãnh đạo một cuộc biểu tình của sinh viên chống lại chủ tịch trường đại học sau khi ông này tìm cách cắt giảm nhân sự trong ban giám hiệu.
Sự nghiệp trong ngành giải trí
Phát thanh viên và diễn viên điện ảnh
Sau khi tốt nghiệp Đại học Eureka năm 1932, Reagan lái xe đến tiểu bang Iowa để dự tuyển việc làm tại nhiều đài phát thanh ở các thị trấn nhỏ. Đại học Iowa thuê mướn ông làm bình luận viên các trận đấu của đội bóng bầu dục Hawkeyes của trường. Trường trả cho ông $10 cho mỗi trận. Chẳng bao lâu sau đó, đài phát thanh WOC tại Davenport thuê Reagan với tiền lương là $100 một tháng. Nhờ có giọng nói hấp dẫn người nghe, ông chuyển đến đài phát thanh WHO tại Des Moines để tường thuật các trận đấu bóng chày của đội Chicago Cubs. Ông chuyên về tường thuật chi tiết các trận đấu mà đài phát thanh nhận được qua điện tín.
Trong lúc đi cùng với đội bóng Cubs tại California, Reagan dự tuyển diễn viên điện ảnh năm 1937 với kết quả là công ty điện ảnh Warner Brothers ký hợp đồng 7 năm với ông. Trong mấy năm đầu tiên của sự nghiệp điện ảnh Hollywood, Reagan đóng phim với một nhóm làm phim có ngân sách hạn chế. Reagan nói đùa rằng các nhà sản xuất phim tại đây "không muốn chúng có chất lượng mà họ chỉ muốn chúng hoàn thành ngày Thứ năm (ý nói làm gấp rút để công chiếu vào tối thứ sáu cuối tuần)". Mặc dù chưa nổi tiếng so với các diễn viên khác, hoạt động điện ảnh của Reagan lúc đó cũng nhận được nhiều đánh giá tốt.
Vai diễn điện ảnh đầu tiên của ông là trong phim Love Is on the Air năm 1937, và đến cuối năm 1939 ông đã tham gia vào 19 bộ phim, trong đó có phim Dark Victory với Bette Davis và Humphrey Bogart. Trước bộ phim Santa Fe Trail, thủ diễn cùng với Errol Flynn năm 1940, ông đóng vai George "The Gipper" Gipp trong phim Knute Rockne, All American; từ đó, ông mang biệt danh trọn đời là "the Gipper". Năm 1941, các chủ rạp phim đã bình chọn ông là ngôi sao điện ảnh được ưa chuộng đứng thứ năm thuộc thế hệ diễn viên trẻ tại Hollywood.
Vai diễn ưa thích của Reagan là vai một người cụt mất hai chân trong phim Kings Row năm 1942, mà trong phim này ông có nói một câu thoại như sau: "Phần còn lại của tôi ở đâu?", sau này trở thành tựa đề cho cuốn sách tự truyện của ông vào năm 1965. Nhiều nhà phê bình phim xem Kings Row là bộ phim hay nhất mà ông từng đóng, mặc dù bộ phim này bị nhà phê bình Bosley Crowther của tờ New York Times lên án.
Tuy Reagan gọi Kings Row là bộ phim "đã làm cho tôi trở thành một ngôi sao", nhưng ông đã không tận dụng được ưu thế thành công này vì ông phải phục vụ hiện dịch trong Lục quân Hoa Kỳ tại San Francisco hai tháng sau khi bộ phim trình chiếu, và không bao giờ lấy lại được vị thế "ngôi sao" trên màn bạc lần nữa. Thời hậu chiến tranh, sau khi phục vụ gần bốn năm suốt thời Chiến tranh thế giới thứ hai tại một đơn vị nội địa Hoa Kỳ, ông giải ngũ vào tháng 12 năm 1945. Reagan đóng vai trong các phim như The Voice of the Turtle, John Loves Mary, The Hasty Heart, Bedtime for Bonzo, Cattle Queen of Montana, Tennessee's Partner, Hellcats of the Navy và The Killers (đây là phim cuối của ông và cũng là phim duy nhất mà ông đóng vai phản diện) là phiên bản làm lại vào năm 1964. Trong suốt sự nghiệp điện ảnh, mẹ ông thường trả lời phần lớn lượng thư tín đến từ những người hâm mộ ông.
Phục vụ quân đội
Sau khi hoàn thành 14 lớp lục quân mở rộng tự học ở nhà, Reagan đăng lính vào Lục quân Trừ bị ngày 29 tháng 4 năm 1937 với cấp bậc binh nhì, được phái đến Trung đội B thuộc Lực lượng Kị binh số 322 đóng tại Des Moines, Iowa. Ông được thăng cấp bậc thiếu úy trong Quân đoàn Sĩ quan Trừ bị thuộc lực lượng kỵ binh Lục quân Hoa Kỳ ngày 25 tháng 5 năm 1937.
Reagan phục vụ hiện dịch lần đầu tiên vào ngày 18 tháng 4 năm 1942. Vì ông bị cận thị nên người ta xếp ông chỉ phục vụ có giới hạn và không phải phục vụ ở nước ngoài. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là sĩ quan liên lạc cảng tại văn phòng giao thông của Cảng Embarkation thuộc trại quân Mason tại thành phố San Francisco, California. Sau khi được Không lực Lục quân Hoa Kỳ chấp thuận, ông làm đơn xin thuyên chuyển từ kỵ binh sang không lực lục quân ngày 15 tháng 5 năm 1942, và chuyển đến đơn vị Quan hệ Công chúng Không lực Lục quân và sau cùng đến Đơn vị Điện ảnh số 1 (First Motion Picture Unit), tên chính thức là "Đơn vị Căn cứ Không lực Lục quân số 18 đóng tại Culver City, California. Ngày 14 tháng 1 năm 1943, Reagan được thăng cấp bậc trung úy và chuyển đến một đơn vị tại Burbank, California. Ông trở lại Đơn vị Điện ảnh số 1 sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại đó và đạt cấp bậc đại úy ngày 22 tháng 7 năm 1943.
Tháng 1 năm 1944, Reagan phải phục vụ tạm thời tại Thành phố New York để tham gia lễ khai mạc vận động mua công trái tái thiết thời hậu chiến. Ông trở lại Đơn vị Điện ảnh số 1 ngày 14 tháng 11 năm 1944, nơi ông ở lại đó cho đến khiChiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Ông được đề nghị thăng cấp bậc lên thiếu tá ngày 2 tháng 2 năm 1945, nhưng lời đề nghị này không được chấp thuận ngày 17 tháng 7 năm đó. Trong khi phục vụ với Đơn vị Điện ảnh số 1 vào năm 1945, ông có vai trò gián tiếp trong việc khám phá tài năng của diễn viên Marilyn Monroe. Reagan trở lại Trại quân MacArthur tại California, nơi ông hoàn tất nghĩa vụ phục vụ hiện dịch ngày 9 tháng 12 năm 1945. Vào cuối chiến tranh, các đơn vị của ông đã sản xuất được khoảng 400 phim huấn luyện cho Không lực Lục quân Hoa Kỳ.
Reagan chưa bao giờ rời Hoa Kỳ trong suốt thời gian xảy ra chiến tranh và ông vẫn giữ một thước phim mà mình có được trong lúc phục vụ quân đội. Thước phim này mô tả trận đánh giải phóng trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc xã. Ông giữ thước phim này vì ông tin rằng có ngày nào đó người ta sẽ nghi ngờ về nạn diệt chủng người Do Thái có thực sự xảy ra hay không. Có người cho rằng đã nghe lén lời ông nói với ngoại trưởng Israel Yitzhak Shamir vào năm 1983 là ông đã tự quay thước phim này và nó đã giúp giải phóng trại tập trung Auschwitz, mặc dù lời thoại ngụ ý này đã bị Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ George Shultz làm gián đoạn.
Chủ tịch Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh (SAG)
Reagan được bầu lần đầu tiên vào ban lãnh đạo của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh (Screen Actors Guild), đây là liên đoàn đại diện cho các diễn viên điện ảnh và truyền hình trên toàn thế giới vào thời đó, trong vai trò dự khuyết vào năm 1941. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông tiếp tục công việc và trở thành phó chủ tịch thứ 3 vào năm 1946. Sự kiện luật phụ về xung đột lợi ích được thông qua vào năm 1947 đã khiến cho chủ tịch SAG và sáu thành viên ban lãnh đạo từ chức; Reagan được đề cử trong một cuộc bầu cử đặc biệt cho chức danh chủ tịch và sau đó đắc cử. Sau đó, các thành viên bầu chọn ông phục vụ thêm 7 nhiệm kỳ một năm, từ năm 1947 đến năm 1952 vào năm 1959. Có nhiều sự kiện xảy ra trong thời gian Reagan làm lãnh đạo SAG, thí dụ như các cuộc tranh chấp giữa giới lao động và giới quản trị, Đạo luật Taft-Hartley ra đời, các vụ điều trần của ủy ban hạ viện đặc trách theo dõi các hoạt động không thuộc Mỹ (House Committee on Un-American Activities) và thời đại sổ đen Hollywood (nghi ngờ hoạt động của cộng sản tại Hollywood).
Điềm chỉ viên bí mật của FBI tại Hollywood
Trong suốt cuối thập niên 1940, Reagan và vợ ông đã cung cấp cho FBI tên của các diễn viên trong ngành công nghiệp điện ảnh mà họ nghi ngờ là cảm tình viên cộng sản, cho dù ông có nói đến một số hạn chế nào đó. Ông nói "Không lẽ họ mong chúng tôi phải tự biến thành một thằng nhóc FBI và xác định đúng xem ai là cộng sản và ai không phải cộng sản?".
Reagan cũng có điều trần trước ủy ban Hạ viện đặc trách theo dõi các hoạt động không thuộc Mỹ về đề tài này. Là một người chống cộng nhiệt huyết, ông tái khẳng định dấn thân mình vào các nguyên tắc dân chủ và nói rằng "là một công dân tôi không bao giờ muốn thấy quốc gia này trở nên cấp bách vì sự e ngại hay bực tức với nhóm này, rằng chúng ta phải thỏa hiệp với bất cứ các nguyên tắc dân chủ nào vượt qua sự e ngại hay bực tức đó."
Truyền hình
Dù sớm là nhà phê bình của truyền hình, Reagan đã có vài vai diễn vào cuối thập niên 1950 và quyết định tham gia vào phương tiện truyền hình. Ông được thuê làm người dẫn chương trình General Electric Theater, một chương trình kịch hàng tuần rất được ưa thích. Hợp đồng yêu cầu ông phải thăm viếng các nhà máy của GE mười sáu tuần một năm, và thường đòi hỏi ông mười bốn bài phát thanh mỗi ngày. Ông nhận được khoảng $125.000 một năm (khoảng $1,07 triệu đô la tính theo giá trị năm 2010) trong vai trò này. Công việc cuối cùng của ông trong vai trò diễn viên là trong vai người dẫn chương trình và diễn viên của bộ phim truyền hình nhiều tập Death Valley Days từ năm 1964 đến 1965. Reagan và Nancy Davis xuất hiện cùng nhau vài lần, bao gồm một tập trong chương trình GE Theater năm 1958 có tựa đề "A Turkey for the President".
Hôn nhân và con cái
Năm 1938, Reagan đóng phim Brother Rat với sự tham gia của nữ diễn viên Jane Wyman (1917–2007). Họ hứa hôn tại Nhà hát Chicago, và lễ cưới tổ chức ngày 26 tháng 1 năm 1940 trong Thánh đường Wee Kirk o' the Heather tại Glendale, tiểu bang California. Reagan và Jane có với nhau hai người con, Maureen (1941–2001) và Christine (sinh năm 1947 nhưng chỉ sống có một ngày), và có một người con thứ ba là Reagan Michael (sinh năm 1945). Sau các lần tranh cãi về tham vọng chính trị của Reagan, Wyman nộp đơn xin ly dị vào năm 1948; vụ ly dị chính thức hoàn tất vào năm 1949. Ông là tổng thống Hoa Kỳ duy nhất từng bị ly dị.
Reagan gặp nữ diễn viên Nancy Davis (1921-2016) năm 1949, bà đến gặp ông khi ông đang là chủ tịch công đoàn lao động Screen Actors Guild để giúp bà một số vấn đề có liên quan đến chuyện tên bà có trong danh sách đen liệt kê những cảm tình viên cộng sản tại Hollywood (bà bị nhầm lẫn với một người khác cùng tên Nancy Davis). Bà mô tả cuộc gặp mặt của họ như sau, "Tôi không biết liệu nó có phải là tình yêu sét đánh hay không, nhưng nó khá giống vậy". Họ hứa hôn trong nhà hàng Chasen's ở thành phố Los Angeles và cưới vào ngày 4 tháng 3 năm 1952 tại Thánh đường Little Brown trong Thung lũng San Fernando. Diễn viên William Holden làm phù rể trong lễ cưới. Họ có chung hai người con: Patti (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1952) và Ron (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1958).
Những người quan sát mô tả mối quan hệ của ông bà Reagan là gần gũi, chân thật và mật thiết. Trong suốt thời gian làm tổng thống, họ thường xuyên biểu lộ tình cảm đối với nhau trước đám đông; một thư ký báo chi nói rằng "Họ không bao giờ giả vờ chân thật với nhau. Họ không bao giờ ngừng tán tỉnh nhau." Ông thường gọi bà là "Mommy" và bà gọi ông một cách thân thiết là "Ronnie". Có lần ông viết cho bà rằng "Tất cả những thứ anh trân trọng và thích thú... tất cả sẽ không còn ý nghĩa nếu như anh không có em." Khi ông nằm bệnh viện vào năm 1981, bà ngủ với một cái áo của ông để được an ủi bởi mùi hương của ông. Trong một lá thư gửi cho công dân Hoa Kỳ được viết vào năm 1994, Reagan viết "Vừa rồi tôi được thông báo rằng tôi là một trong số hàng triệu người Mỹ mắc phải chứng bệnh mất trí nhớ.... Tôi chỉ ước có vài cách để tôi có thể làm cho Nancy không phải vượt qua nỗi đau này", vào năm 1998 trong khi Reagan bị căn bệnh mất trí nhớ hành hạ, Nancy nói với tạp chí Vanity Fair rằng "Mối quan hệ của chúng tôi rất là đặc biệt. Chúng tôi yêu nhau rất nhiều và vẫn còn như thế. Khi tôi nói cuộc đời của tôi bắt đầu cùng với Ronnie (cách gọi tên thân thiết của ông), này, đấy là nói thật. Đúng vậy. Tôi không thể hình dung được cuộc sống không có ông ấy."
Sự nghiệp chính trị ban đầu
Reagan bắt đầu sự nghiệp chính trị với tư cách là đảng viên đảng Dân chủ, vào tháng 12 năm 1945, công ty điện ảnh Warner Brothers đã gây áp lực để ngăn việc ông lãnh đạo một cuộc biểu tình chống vũ khí hạt nhân ở Hollywood. Sau này ông đi tiên phong trong vận động chống lại vũ khí hạt nhân, một dấu mốc trong suốt thời gian làm tổng thống Hoa Kỳ. Ông cố tìm cách hạn chế sự lan tràn của vũ khí hạt nhân cho đến mục tiêu là giảm thiểu số lượng và chủng loại của chúng. Tuy nhiên, vào đầu thập niên 1950, khi bắt đầu mối quan hệ với nữ diễn viên Cộng hòa là Nancy Davis, ông chuyển đổi sang cánh hữu và trong khi vẫn còn là người thuộc đảng Dân chủ, ông công khai ủng hộ các ứng viên tổng thống thuộc đảng Cộng hòa là Dwight D. Eisenhower vào các năm 1952 và 1956 cũng như Richard Nixon năm 1960. Lần cuối cùng Reagan tích cực ủng hộ một ứng cử viên Dân chủ là vào năm 1950 khi ông giúp Helen Gahagan Douglas vận động tranh cử bất thành vào Thượng viện Hoa Kỳ trước đối thủ là Richard Nixon.
Sau khi trở thành người giới thiệu cho chương trình truyền hình General Electric Theater vào năm 1954, Reagan đã sớm đón nhận những quan điểm bảo thủ từ các viên chức tài trợ cho chương trình truyền hình này. Nhiều bài diễn văn đọc tại GE của ông — mà do chính ông viết — không có tính đảng phái nhưng chứa đựng một thông điệp bảo thủ, ủng hộ doanh nghiệp; tư tưởng chính trị của ông bị ảnh hưởng bởi Lemuel Boulware, một quản lý cao cấp của GE. Boulware là người có lập trường cứng rắn đối với các nghiệp đoàn và có các chiến lược đầy sáng tạo để thu phục công nhân, ông ủng hộ các giáo điều trọng tâm của chủ nghĩa bảo thủ Mỹ hiện đại: thị trường tự do, chủ nghĩa chống cộng, thuế thấp, và chính quyền thu gọn. Dần dần, chương trình của Reagan không còn hấp dẫn nữa và công ty GE sa thải Reagan năm 1962. Vào tháng 8 năm đó, Reagan chính thức chuyển sang đảng Cộng hòa và nói rằng "Tôi đã không bỏ đảng Dân chủ. Đảng Dân chủ đã bỏ tôi".
Trong đầu thập niên 1960, Reagan chống đối một số luật về quyền công dân khi ông cho rằng "nếu một cá nhân muốn phân biệt đối xử người da đen hay những người khác trong việc mua hay cho thuê nhà thì đó là quyền của cá nhân đó." Theo lý luận của ông, ông lên tiếng phản đối chính phủ xâm phạm vào quyền tự do cá nhân như chống lại chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc; ông mạnh mẽ bác bỏ rằng ông có căn nguyên của một người theo chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và sau này ông thay đổi không còn chống đối quyền bầu cử và các luật lệ công bằng về nhà ở. Khi luật liên quan đến chương trình Medicare (chăm sóc y tế) được giới thiệu vào năm 1961, Reagan thâu âm cho Hội Y tế Mỹ cảnh báo rằng luật như thế sẽ đồng nghĩa với sự kết thúc tự do dân chủ tại Mỹ. Reagan nói rằng nếu thính giả của ông không viết thư phản đối luật này thì "Chúng ta khi thức giấc sẽ thấy chúng ta có chủ nghĩa xã hội. Và nếu bạn không làm điều này và nếu tôi không làm điều này một trong những ngày hôm nay, bạn và tôi sẽ phải dành những năm tháng cuối đời của mình để kể cho con cháu chúng ta rằng trước đây như thế nào tại Mỹ khi con người được tự do." Ông cũng gia nhập Hội Súng trường Quốc gia và trở thành thành viên trọn đời.
Reagan ủng hộ cuộc vận động tranh cử của ứng cử viên tổng thống bảo thủ Barry Goldwater năm 1964. Phát ngôn thay cho Goldwater, Reagan nhấn mạnh niềm tin của ông về tầm quan trọng của chính phủ tinh gọn hơn. Ông tiết lộ động cơ tư tưởng của mình trong một bài diễn văn nổi tiếng, đọc vào ngày 27 tháng 10 năm 1964: "Những vị cha già lập quốc biết rằng một chính phủ không thể nào kiểm soát được nền kinh tế nếu như không kiểm soát được người dân. Và họ biết rằng khi một chính phủ khởi sự làm vậy thì chính phủ phải dùng vũ lực và ép buộc để đạt được mục đích của mình. Vì thế chúng ta đến lúc nào đó phải chọn lựa." Ông cũng nói rằng, "Bạn và tôi được bảo rằng chúng ta phải chọn giữa phe tả hay phe hữu, nhưng tôi đề nghị rằng không có điều gì như thể là phe tả hay phe hữu. Chỉ có lên cao hay xuống thấp. Lên cao vì giấc mơ lâu dài của con người – sự tối đa tự do cá nhân phù hợp với trật tự – hay xuống thấp đến ổ kiến của chủ nghĩa toàn trị." Bài diễn văn có tựa đề "A Time for Choosing" mà sau này gọi là "The Speech" đã quyên góp được $1 triệu đô la cho chiến dịch tranh cử tổng thống của ứng cử viên Goldwater và là sự kiện lớn khởi đầu cho sự nghiệp chính trị của Reagan.
Thống đốc California (1967–1975)
Các đảng viên Cộng hòa của tiểu bang California rất đỗi ấn tượng với uy tín và quan điểm chính trị của Reagan sau bài diễn văn "Time for Choosing" (đến lúc chọn lựa) của ông, và đề cử ông tranh chức thống đốc California năm 1966. Trong chiến dịch tranh cử của Reagan, ông nhấn mạnh hai chủ đề chính: "đưa những kẻ ăn bám trợ cấp xã hội trở lại làm việc", và khi nói đến các vụ biểu tình của sinh viên chống chiến tranh và tư tưởng chống đối xã hội đang ươm mầm tại Đại học California tại Berkeley, "để dọn dẹp lại trật tự tại Berkeley". Ông đắc cử, đánh bại thống đốc hai nhiệm kỳ Edmund G. "Pat" Brown, và tuyên thệ nhậm chức ngày 2 tháng 1 năm 1967. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông đình chỉ thuê mướn thêm nhân viên chính quyền và chấp thuận tăng thuế để cân bằng ngân sách tiểu bang.
Ngay sau khi bắt đầu nhiệm kỳ thống đốc, Reagan thử nghiệm tranh cử tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1968. Đây là một phần của phong trào "Chặn đứng Nixon" với hy vọng cắt đứt sự ủng hộ dành cho Nixon tại miền nam Hoa Kỳ và Reagan trở thành một ứng cử viên thỏa hiệp nếu như cả Nixon và người đứng hạng hai Nelson Rockefeller đều không nhận được đủ số đại biểu để chiến thắng trong vòng bầu cử đầu tiên tại Đại hội Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, cho đến kỳ đại hội, Nixon có được tổng số phiếu là 692 đại biểu, 25 phiếu cao hơn con số mà ông cần để được đảng Cộng hòa để cử ra tranh cử tổng thống, theo sau là Rockefeller, và thứ ba là Reagan.
Reagan có dính líu vào một số vụ xung đột lớn với các phong trào biểu tình của thời đại. Ngày 15 tháng 5 năm 1969, trong suốt thời gian có các vụ biểu tình tại Đại học California tại Berkeley, Reagan phái đội tuần tra xa lộ California và các viên chức khác đến để dập tắt các cuộc biểu tình. Đây là sự kiện mà sau này được biết đến với cái tên là "Thứ năm đẫm máu" với kết cục làm chết sinh viên tên James Rector và làm mù mắt thợ mộc Alan Blanchard. Reagan sau đó cho gọi 2.200 vệ binh quốc gia tại tiểu bang đến chiếm giữ thành phố Berkeley trong hai tuần để đàn áp những người biểu tình. Một năm sau sự kiện "Thứ năm đẫm máu", Reagan đáp trả lại các chất vấn về các cuộc biểu tình tại đại học rằng "Nếu như có tắm máu thì cứ để cho nó xảy ra. Không nhân nhượng nữa." Khi Quân đội Giải phóng Symbionese (nhóm cách mạng tả phái tự lập của Mỹ hoạt động giữa năm 1973 và 1975) bắt cóc Patty Hearst tại Berkeley và đòi hỏi phân phát thực phẩm cho người nghèo, Reagan đùa rằng, "Thật là quá tệ hại rằng chúng ta không thể có một nạn dịch ngộ độc thịt."
Đầu năm 1967, nổ ra cuộc tranh luận về phá thai. Thượng nghị sĩ tiểu bang California thuộc đảng Dân chủ Anthony Beilenson giới thiệu "Đạo luật Phá thai Trị liệu" nhằm giảm bớt con số các vụ phá thai bất hợp pháp được tiến hành trong tiểu bang California. Lập pháp tiểu bang gửi đạo luật này đến Reagan, sau nhiều ngày đắn đo, ông đã ký đạo luật này thành luật. Kết quả là khoảng hai triệu trường hợp phá thai đã được tiến hành phần lớn vì một điều khoản có nói trong luật là cho phép phá thai vì sức khỏe của người mẹ. Reagan chỉ nhận chức vụ thống đốc mới có bốn tháng khi ông ký thông qua đạo luật này, và phát biểu rằng nếu như ông có nhiều kinh nghiệm hơn với tư cách thống đốc thì đạo luật này sẽ không được ký thông qua. Sau khi ông nhận ra những điều mà ông gọi là "những hậu quả" của luật, Reagan công khai ông là người thuộc giới chống phá thai. Ông vẫn giữ lập trường này trong sự nghiệp chính trị của mình.
Mặc dù gặp phải một nỗ lực bất thành nhằm phế truất chức vụ thống đốc của ông năm 1968, nhưng Reagan đã tái đắc cử thống đốc năm 1970, đánh bại Jesse Unruh. Ông không tranh cử thống đốc cho nhiệm kỳ thứ ba. Một trong những thất vọng lớn nhất của Reagan khi tại chức là có liên quan đến hình phạt tử hình mà ông là người ủng hộ nó mạnh mẽ. Những nỗ lực của ông nhằm thi hành luật tiểu bang trong phạm vi này đã bị ngăn cản khi Tối cao Pháp viện California đưa ra phán quyết vụ Nhân dân đối đầu Anderson. Phán quyết này làm vô hiệu hóa tất cả các vụ kết án tử hình được đưa ra trong tiểu bang California trước năm 1972 mặc dù phán quyết này sau đó bị một tu chính án hiến pháp lật ngược. Vụ hành hình duy nhất trong lúc Reagan làm thống đốc là vào ngày 12 tháng 4 năm 1967 khi bản án của Aaron Mitchell được thi hành.
Năm 1969, Reagan, với tư cách thống đốc, ký Đạo luật Luật Gia đình. Đây là luật ly dị "không lỗi" (tự nguyện ly dị) đầu tiên tại Hoa Kỳ.
Hai nhiệm kỳ thống đốc của Reagan đã giúp hoạch định ra các chính sách mà ông sẽ theo đuổi trong sự nghiệp chính trị sau này với tư cách là tổng thống. Qua vận động với khẩu hiệu đưa "những kẻ ăn bám trợ cấp xã hội trở lại làm việc", ông lên tiếng chống lại ý tưởng về tình trạng phúc lợi xã hội. Ông cũng mạnh mẽ ủng hộ ý tưởng của đảng Cộng hòa về việc chính phủ nên có ít luật lệ áp đặt vào nền kinh tế.
Reagan không ra tranh cử thống đốc nhiệm kỳ ba năm 1974 và chức vụ thống đốc của ông được kế vị bởi Bộ trưởng Ngoại giao California là Jerry Brown, một đảng viên Dân chủ, vào ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Vận động tranh cử tổng thống năm 1976
Năm 1976, Reagan đối đầu với đương kim Tổng thống Gerald Ford để tìm sự đề cử của Đảng Cộng hòa ra tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ. Liền ngay khi đó, Reagan tự đặt mình thành ứng viên bảo thủ với sự ủng hộ của các tổ chức có cùng khuynh hướng như Liên đoàn Bảo thủ Mỹ. Liên đoàn này sau đó trở thành các yếu tố chủ yếu trong nền tảng chính trị của ông trong khi Tổng thống Ford được xem là một đảng viên Cộng hòa ôn hòa hơn.
Chiến dịch vận động của Reagan dựa vào chiến lược mà người điều hành cuộc vận động bầu cử của ông là John Sears hoạch định. Chiến lược này là chiến thắng một vài cuộc bầu cử sơ bộ ban đầu để gây tổn thất cho cơ hội của Ford vốn có nhiều ưu thế được đảng đề cử ra tranh cử tổng thống. Reagan thắng các cuộc bầu cử sơ bộ tại North Carolina, Texas, và California, nhưng chiến lược này bị thất bại khi ông thua các cuộc bầu cử sơ bộ tại New Hampshire, Florida, và tiểu bang gốc của mình Illinois. Chiến dịch vận động tại tiểu bang Texas cho ông hy vọng lật ngược khi ông thắng hết 96 đại biểu trong cuộc bầu cử sơ bộ ngày 1 tháng 5, với bốn đại biểu nữa đang chờ đợi tại đại hội đảng tiểu bang. Phần lớn công lao chiến thắng này là nhờ sự làm việc của ba vị đồng chủ tịch trong đó phải kể đến là Ernest Angelo, thị trưởng thành phố Midland, và Ray Barnhart của thành phố Houston. Ray Barnhart là người sau này được Reagan, với tư cách là tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1981, cách đặt làm giám đốc Cơ quan Quản trị Xa lộ Liên bang.
Tuy nhiên khi đại hội đảng Cộng hòa năm 1976 gần kề cận, Ford trông có vẻ gần như chiến thắng. Để có được sự ủng hộ của cánh ôn hòa trong đảng, Reagan chọn thượng nghị sĩ ôn hòa Richard Schweiker của tiểu bang Pennsylvania đứng chung liên danh với mình nếu được đề cử. Tuy nhiên, Ford chiến thắng với 1.187 đại biểu trong khi Reagan được 1.070. Ford tiếp tục cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ nhưng thất cử trước đối thủ đảng Dân chủ là Jimmy Carter.
Bài diễn văn thú nhận thất cử của Reagan nhấn mạnh đến sự nguy hiểm của chiến tranh hạt nhân và mối đe dọa từ Liên Xô. Mặc dù ông thất bại trong cuộc chạy đua dành sự đề cử của đảng nhưng ông nhận được 307 phiếu bầu tự do (cử tri tự viết tên người mình muốn bầu vào lá phiếu mặc dù tên này không có ghi trong lá phiếu) tại tiểu bang New Hampshire, 388 phiếu bầu trong tư cách ứng cử viên độc lập (không thuộc đảng Cộng hòa hay Dân chủ) tại tiểu bang Wyoming, và một phiếu đại cử tri duy nhất từ một đại cử tri "bất trung" (không bỏ phiếu theo sự chỉ dẫn của đảng) từ tiểu bang Washington, mà đáng ra Ford đã giành được phiếu đại cử tri này.
Sau chiến dịch tranh cử, Reagan vẫn tiếp tục tranh luận công khai trong một loạt chương trình bình luận trên đài phát thanh.
Vận động tranh cử tổng thống năm 1980
Cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 1980 giữa Reagan và đương kim tổng thống Jimmy Carter tiến hành trong lúc có những vấn đề quan tâm trong nước và cuộc khủng hoảng con tin tại Iran đang tiếp diễn. Chiến dịch vận động của ông nhấn mạnh một số nguyên tắc cơ bản của ông về thuế suất thấp để kích thích nền kinh tế, sự can thiệp ít hơn của chính phủ vào cuộc sống của nhân dân, dành nhiều quyền hơn cho các tiểu bang, tăng cường quốc phòng, và phục hồi đồng đô la Mỹ theo bản vị vàng.
Reagan mở đầu chiến dịch vận động bằng lời tuyên bố "Tôi tin vào quyền của các tiểu bang" tại Philadelphia, Mississippi. Thành phố này nổi tiếng vào lúc đó vì vụ ám sát ba nhân viên dân quyền khi họ đang tìm cách ghi danh cho những người Mỹ gốc châu Phi tham gia bỏ phiếu trong thời kỳ phong trào dân quyền Mỹ. Sau khi được đảng Cộng hòa đề cử ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, Reagan chọn một đối thủ của ông từ cuộc bầu cử sơ bộ là George H.W. Bush đứng chung liên danh tranh cử với ông. Sự xuất hiện của ông trong cuộc tranh luận truyền hình vào tháng 10 đã làm tăng thêm vị thế tranh cử của ông. Reagan thắng cử, chiếm được 44 tiểu bang với 489 phiếu đại cử tri so với 49 phiếu đại cử tri cho Carter (đại diện cho sáu tiểu bang và thủ đô Washington, D.C.). Reagan chiếm được 50,7% số phiếu phổ thông trong khi Carter được 41%, và ứng cử viên độc lập John B. Anderson (đảng viên Cộng hòa cấp tiến) nhận được 6,7%. Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế tại Thượng viện Hoa Kỳ lần đầu tiên kể từ năm 1952, và chiếm được 34 ghế Hạ viện nhưng đảng Dân chủ vẫn chiếm đa số tại Hạ viện Hoa Kỳ.
Trong suốt cuộc vận động tranh cử tổng thống, các phóng viên đã nêu lên những câu hỏi về lập trường của ông đối với Đề xướng Briggs, còn gọi là Đề xướng số 6, một đề xướng được đưa ra bỏ phiếu tại tiểu bang nhà của Reagan nơi ông làm thống đốc. Đề xướng này sẽ cấm những người đồng tình luyến ái và những ủng hộ viện của đồng tình luyến ái làm việc trong các trường công lập trong tiểu bang California. Sự chống đối của ông đối với đề xướng này là công cụ khiến cho nó bị cử tri California bác bỏ với số đông áp đảo. Reagan công bố một bài xã luận trong đó ông nói rằng "đồng tình luyến ái không phải là một căn bệnh gây lan giống như bệnh sởi", và rằng ý kiến khoa học hiện hành cho rằng thiên hướng tình dục của một đứa trẻ không thể bị người nào khác tác động được.
Tổng thống Hoa Kỳ (1981–1989)
Trong thời làm tổng thống, Reagan theo đuổi các chính sách phản ánh niềm tin cá nhân của ông về tự do cá nhân, mang đến những thay đổi trong nước, cả về nền kinh tế Hoa Kỳ và mở rộng quân sự, góp phần kết thúc Chiến tranh lạnh. Thời làm tổng thống của ông, được gọi là Cách mạng Reagan, đã tái tiếp sức tinh thần Mỹ và giảm thiểu sự phụ thuộc của người dân vào chính phủ. Với tư cách là Tổng thống, Reagan giữ một bộ nhật ký mà trong đó ông ghi lại những sự việc xảy ra hàng ngày trong thời gian làm tổng thống cũng như những quan điểm của ông về các vấn đề hàng ngày. Bộ nhật ký này được xuất bản vào tháng 5 năm 2007 và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất với tựa đề The Reagan Diaries.
Nhiệm kỳ thứ nhất 1981–1985
Reagan là người già nhất đắc cử Tổng thống (lúc 69 tuổi) cho đến khi Donald Trump (lúc 70 tuổi) vượt Reagan để trở thành người già nhất đắc cử tổng thống vào ngày 8 tháng 11 năm 2016. Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên ngày 20 tháng 1 năm 1981, do chính Reagan viết, ông nói về căn bệnh kinh tế của quốc gia khi cho rằng: "Trong cuộc khủng hoảng hiện tại, chính phủ không phải là giải pháp cho những vấn đề của chúng ta; chính phủ chính là vấn đề."
Bị mưu sát
Ngày 30 tháng 3 năm 1981, chỉ 69 ngày sau khi nhận chức Tổng thống, Reagan, thư ký báo chí James Brady, sĩ quan cảnh sát thành phố Washington Thomas Delahanty, và nhân viên đặc vụ Timothy McCarthy bị trúng đạn từ kẻ suýt trở thành sát nhân tên là John Hinckley, Jr. bên ngoài Khách sạn Washington Hilton. Mặc dù "suýt chết" lúc đưa đến Bệnh viện Đại học George Washington, Reagan được ổn định trong phòng cấp cứu, rồi trải qua một cuộc giải phẫu khẩn cấp. Ông hồi phục, rồi xuất viện vào ngày 11 tháng 4, và trở thành Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thoát chết sau khi bị bắn trong một vụ mưu sát. Vụ mưu sát này có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ủng hộ của dân chúng dành cho Reagan; các cuộc thăm dò cho thấy tỉ lệ chấp thuận dành cho ông là khoảng 73%. Reagan tin rằng Thượng đế đã giành lại cuộc sống cho ông để ông có thể tiếp tục hoàn thành một mục đích cao cả hơn.
Vụ đình công của các nhân viên kiểm soát không lưu
Vào mùa hè năm 1981, PATCO, công đoàn của các nhân viên kiểm soát không lưu liên bang tiến hành đình công, họ đã vi phạm luật liên bang nghiêm cấm các công đoàn chính phủ (nhân viên chính phủ nhưng có gia nhập công đoàn) đình công. Tuyên bố tình trạng khẩn cấp như được nêu trong Đạo luật Taft–Hartley năm 1947, Reagan phát biểu rằng nếu những nhân viên điều khiển không lưu "không đến làm việc trong vòng 48 giờ thì tư cách công việc của họ bị vô hiệu và họ sẽ bị đuổi việc". Họ không trở lại làm việc vào ngày 5 tháng 8, Reagan đuổi việc 11.345 nhân viên kiểm soát không lưu đang đình công, những người phớt lờ lệnh của ông. Reagan ra lệnh sử dụng những quản đốc và nhân viên kiểm soát không lưu quân sự trông coi không lưu thương mại quốc gia cho đến khi các nhân viên kiểm soát không lưu mới được tuyển dụng và đào tạo. Theo như một bản tóm tắt tham khảo hàng đầu về sự quản lý công cộng đã kết luận "Việc đuổi việc các nhân viên thuộc công đoàn PATCO không chỉ chứng tỏ một giải pháp mạnh của Tổng thống, người nắm trong tay bộ máy hành pháp và Chính phủ, mà nó cũng gửi một thông điệp rõ ràng đến khu vực tư nhân rằng các công đoàn không cần phải bị lo sợ nữa."
"Reaganomics" và nền kinh tế
Trong suốt năm cuối cùng của Tổng thống Jimmy Carter (1980), lạm phát trung bình là 12,5%, so với 4,4% suốt năm cuối cùng tại chức của Tổng thống Reagan (1988). Trong thời Chính phủ Reagan, tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 7,5% xuống 5,4%, với tỉ lệ lên đến mức cao là 10,8% năm 1982 và 10,4% năm 1983, trung bình 7,5% trong vòng tám năm ông tại chức.
Reagan triển khai các chính sách dựa vào chủ nghĩa kinh tế học trọng cung và chủ trương tán thành triết lý laissez-faire (tự do kinh tế) và Chủ nghĩa tự do cổ điển, tìm cách kích thích nền kinh tế bằng việc cắt giảm thuế lớn và rộng khắp mọi giới. Ông cũng ủng hộ đưa Hoa Kỳ trở lại sử dụng một số tiêu chuẩn dựa trên bản vị vàng, và thành công hối thúc Quốc hội Hoa Kỳ thiết lập Ủy ban Bản vị vàng Hoa Kỳ để nghiên cứu cách thức nào để có thể thực hiện. Nhắc lại các lý thuyết kinh tế của Arthur Laffer, Reagan vận động cắt giảm thuế như đã đề nghị nhằm kích thích một cách tiềm năng vào nền kinh tế, đủ để mở rộng nền tảng thuế (cơ sở tính thuế), cân bằng lại sự mất mát thu nhập thuế do tỉ lệ thuế giảm. Trường phái điều hành kinh tế kiểu Reagan (Reaganomics) là chủ đề tranh luận giữa những người ủng hộ và chỉ trích. Những người ủng hộ chỉ ra những cải thiện trong một số chỉ số kinh tế chủ lực để làm bằng chứng cho thấy sự thành công của Reaganomics trong khi đó những người chỉ trích tấn công vào sự gia tăng ngày càng lớn sự thâm thủng ngân sách liên bang và nợ quốc gia. Chính sách "hòa bình qua sức mạnh" của ông (cũng còn được mô tả là "chắc chắn và công bằng") dẫn đến sự gia tăng xây dựng quốc phòng thời bình trong đó con số chi tiêu thật sự cho quốc phòng tăng lên đến 40% giữa khoảng thời gian năm 1981 và năm 1985.
Trong thời gian làm tổng thống của Reagan, tỉ lệ thuế thu nhập liên bang được hạ thấp đáng kể khi Đạo luật Phục hồi Kinh tế 1981 được thông qua với sự ủng hộ của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa. Đạo luật này hạ thấp nhóm tỉ lệ thuế đỉnh điểm từ 70% xuống 50% (nhóm có thu nhập cao nhất) và nhóm tỉ lệ thuế thấp nhất (nhóm có thu nhập thấp nhất) từ 14% đến 11%. Tuy nhiên các thứ thuế khác lại bị gia tăng, do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua và được ký bởi Reagan, nhằm bảo đảm nguồn thu nhập thuế trong khoảng thời gian hai nhiệm kỳ của ông là 18,2% GDP so với 18,1% trong khoảng thời gian dài 40 năm giữa 1970-2010. Sau đó vào năm 1982, Đạo luật Liên hợp Đào tạo Việc làm 1982 được ký thành luật, khởi sự một trong số các nhóm liên hợp giữa tư nhân và công chính đầu tiên của quốc gia và là một phần chủ yếu của chương trình tạo việc làm của tổng thống. Trợ tá Bộ trưởng Lao động và Chánh văn phòng, Al Angrisani, là kiến trúc sư chính của đạo luật này. Đạo luật Cải cách Thuế 1986, một cố gắng khác của lưỡng đảng và được Reagan cổ vũ, tiếp tục giảm nhóm tỉ lệ thuế điểm đỉnh xuống đến 28% nhưng lại tăng nhóm tỉ lệ thuế đáy từ 11% lên 15% và cùng lúc đó cắt con số nhóm tỉ lệ thuế xuống còn 4 nhóm.
Ngược lại, Quốc hội thông qua và Reagan ký thành luật để tăng một số loại thuế mỗi năm từ 1981 đến 1987 để tài trợ các chương trình của chính phủ, thí dụ như Đạo luật Trách nhiệm Tài chính và Thu hồi Thuế (Tax Equity and Fiscal Responsibility Act of 1982, gọi tắt là TEFRA), an sinh xã hội, và Đạo luật Giảm Thâm hụt 1984 (Deficit Reduction Act of 1984, gọi tắt là DEFRA). Mặc dù thực tế TEFRA là "sự tăng thuế thời bình lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ" nhưng người ta lại biết đến Reagan nhiều hơn vì các vụ giảm thuế cũng như triết lý thuế thấp của ông. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) hồi phục mạnh sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế đầu thập niên 1980 kết thúc năm 1982, và phát triển trong suốt tám năm tổng thống của ông với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm là 3,85%. Nạn thất nghiệp lên điểm đỉnh 10.8% vào tháng 12 năm 1982 — cao hơn bất cứ thời gian nào kể từ thời đại khủng hoảng — sau đó hạ xuống trong suốt phần còn lại trong thời làm tổng thống của ông. Mười sáu triệu việc làm mới được tạo ra trong khi đó lạm phát giảm đáng kể. Hiệu quả thực giá của tất cả các đạo luật thuế thời tổng thống Reagan là nguồn thu nhập của chính phủ bị giảm 1% khi so sánh với các ước tính về thu nhập của Bộ Ngân khố Hoa Kỳ dự toán lúc ban đầu. Tuy nhiên, tiền thu được từ thuế thu nhập liên bang đã gia tăng từ 1980 đến 1989, tăng từ $308,7 tỉ lên đến $549 tỉ.
Trong suốt thời kỳ Tổng thống của Reagan, tiền thu của liên bang gia tăng với tỉ lệ trung bình 8,2% (2,5% là do tiền thu cao hơn từ thuế An sinh Xã hội), và chi tiêu liên bang gia tăng với tỉ lệ hàng năm là 7,1%. Reagan cũng sửa đổi luật thuế bằng Đạo luật Cải cách Thuế 1986 với sự ủng hộ của lưỡng đảng.
Các chính sách của Reagan nêu lên rằng sự phát triển kinh tế sẽ xảy ra khi tỉ lệ thuế cận biên đủ thấp để thúc đẩy sự đầu tư, sau đó sẽ kéo theo sự phát triển kinh tế gia tăng, việc làm và tiền lương tăng cao hơn. Những người chỉ trích thì gán cho nó là "nền kinh tế trickle-down" — đây là một niềm tin rằng các chính sách thuế mang lợi ích đến giới nhà giàu thì sau đó sẽ tạo ra một hiệu quả "trickle-down" (lan truyền dần xuống - "thấm" dần xuống) đến người nghèo. Những câu hỏi được đặt ra là có phải các chính sách của Reagan đã mang lợi ích đến cho giới nhà giàu hơn là những ai sống trong nghèo khổ. Nhiều người thiểu số và người nghèo xem Reagan không quan tâm đến những khó khăn của họ. Những quan điểm như thế xuất hiện thêm bởi sự thật rằng chính sách kinh tế của Reagan gồm có việc đóng băng lương tối thiểu ở mức $3,35 một giờ, cắt giảm trợ giúp liên bang dành cho chính quyền địa phương 60%, cắt giảm phân nửa ngân sách dành cho nhà ở công cộng và trợ giá thuê nhà, và loại bỏ chương trình cấp quỹ phát triển cộng đồng chống nghèo đói. Khoảng cách mở rộng giữa giàu và nghèo đã bắt đầu trong thập niên 1970 trước khi các chính sách kinh tế của Reagan có hiệu lực. Cùng lúc cắt giảm thuế năm 1981 đối với tỉ lệ thuế đỉnh điểm thông thường đánh vào thu nhập từ cho thuê mướn, Reagan cũng giảm tỉ lệ thuế tối đa đánh vào lợi nhuận tài chính (từ chứng khoán, tiền tiết kiệm) xuống còn 20%. Reagan sau đó định lại tỉ lệ thuế đánh vào lợi nhuận tài chính (từ chứng khoán, tiền tiết kiệm) bằng với tỉ lệ thu nhập thông thường là tiền lương. Tỉ lệ cao nhất cho cả hai thứ thuế này là 28%. Reagan được xem là một anh hùng chống thuế mặc dù tăng thuế 11 lần trong suốt thời gian làm tổng thống, tất cả với danh nghĩa là trách nhiệm năm tài chính. Theo Paul Krugman, "Chung qui lại, việc tăng thuế năm 1982 đã vô hiệu khoảng một phần ba việc giảm thuế năm 1981; nếu so sánh theo tổng sản lượng nội địa, việc tăng thuế này cao hơn việc tăng thuế của tổng thống Clinton năm 1993 một cách đáng kể." Theo sử gia kiêm cố vấn chính sách đối nội Bruce Bartlett, các lần tăng thuế của Reagan trong suốt thời gian làm tổng thống đã lấy lại phân nửa giá trị của lần giảm thuế năm 1981.
Xa hơn nữa khi theo đuổi các quan điểm ít can thiệp của chính phủ, Reagan cắt giảm các ngân sách phi quân sự trong đó có chương trình trợ giúp y tế, chương trình phiếu mua thực phẩm, các chương trình giáo dục liên bang và Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ. Trong khi ông bảo vệ các chương trình như An sinh Xã hội và chăm sóc sức khỏe, thì chính phủ của ông lại tìm cách loại bỏ nhiều người tàn tật ra khỏi danh sách hưởng chế độ tàn tật thuộc quỹ An sinh Xã hội.
Lập trường của chính phủ đối với nền công nghiệp tiết kiệm và cho vay đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay. Theo một nhóm thiểu số những người chỉ trích thuyết Reaganomics thì các chính sách này một phần có ảnh hưởng đến vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1987, nhưng không có sự đồng thuận nào nói rằng đây là cuội nguồn duy nhất gây ra vụ sụp đổ thị trường chứng khoán. Để lấp những khoản thâm hụt ngân sách liên bang vừa mới lan tràn, Hoa Kỳ vay mượn rất nhiều cả trong và ngoài nước, làm tăng nợ quốc gia từ $997 tỉ lên đến $2,85 ngàn tỷ đô la. Reagan mô tả mức nợ mới này là "nổi thất vọng lớn lao nhất" trong thời làm tổng thống của ông.
Ông tái bổ nhiệm Paul Volcker làm chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, và năm 1987 ông bổ nhiệm nhà tiền tệ học Alan Greenspan kế nhiệm Paul Volcker. Reagan kết thúc sự kiểm soát tiền tệ trên dầu lửa trong nước mà từng góp phần gây ra các cuộc khủng hoảng năng lượng trong đầu thập niên 1970. Giá dầu lửa từ từ giảm xuống vào thập niên 1980 không còn thiếu nhiên liệu nữa như trong thập niên 1970. Reagan cũng thực hiện lời hứa vận động tranh cử vào năm 1980 là bãi bỏ thuế lợi nhuận đột xuất (windfall profit tax) năm 1988 mà trước đây từng làm tăng sự lệ thuộc vào dầu lửa ngoại quốc. Một số nhà kinh tế, như người đoạt giải Nobel Milton Friedman và Robert A. Mundell, cho rằng các chính sách thuế của Reagan đã làm tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế Mỹ và góp phần mang đến một cuộc bùng nổ kinh tế vào thập niên 1990. Các nhà kinh tế khác, như người thắng giải Nobel Robert Solow, cho rằng những thâm thụt ngân sách là lý do chính yếu tại sao người kế nhiệm Reagan là George H. W. Bush đã không giữ được lời hứa lúc vận động tranh cử tổng thống và kết cuộc lại phải tăng các thứ thuế.
Trong suốt thời kỳ Reagan làm Tổng thống, một chương trình đã được khởi sự bên trong cộng đồng tình báo Hoa Kỳ để bảo đảm sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ. Chương trình với tên gọi "Dự án Socrates" phát triển và chứng thực các phương tiện cần thiết để Hoa Kỳ tạo ra và dẫn đầu bước nhảy tiến hóa tiếp theo trong việc tiếp thu và sử dụng kỹ thuật để có một lợi thế cạnh tranh - đó là các sáng kiến phát minh tự động hóa. Để bảo đảm rằng Hoa Kỳ đạt được lợi ích tối đa từ sáng kiến phát minh tự động hóa, trong nhiệm kỳ hai, Reagan thảo ra một lệnh hành pháp nhằm lập ra cơ quan liên bang mới để thực hiện các kết quả từ Dự án Socrates trên cơ bản toàn quốc. Tuy nhiên, nhiệm kỳ hai của Reagan kết thúc trước khi lệnh hành pháp có thể được điều phối và ký thông qua. Chính phủ mới của tổng thống Bush chỉ coi Dự án Socrates như một "chính sách công nghiệp" và kết thúc dự án này.
Liban và Chiến dịch Urgent Fury (Grenada) năm 1983
Lực lượng gìn giữ hòa bình của Mỹ tại Beirut, một thành phần trong lực lượng đa quốc gia trong thời gian Nội chiến Liban, trước đó được Reagan triển khai, bị tấn công ngày 23 tháng 10 năm 1983. Vụ đánh bom doanh trại quân Mỹ bởi một kẻ đánh bom tự sát bằng xe tải tại Beirut đã làm cho 241 binh sĩ Mỹ thiệt mạng và làm bị thương hơn 60 người khác. Reagan phái một toán nhân sự Tòa Bạch Ốc, dẫn đầu bởi phó tổng thống của ông là George H.W. Bush, đến nơi đánh bom bốn ngày sau đó. Reagan gọi vụ tấn công này là "hèn hạ", cam đoan giữ lực lượng quân sự ở lại Liban, và hoạch định mục tiêu nhắm vào bản doanh Sheik Abdullah tại Baalbek, Liban, một cơ sở huấn lệnh cho các chiến binh Hezbollah, nhưng sứ mệnh này sau đó bị rút lại. Ngày 7 tháng 2 năm 1984, Tổng thống Reagan ra lệnh cho thủy quân lục chiến bắt đầu rút quân khỏi Liban. Tháng tư năm 1984, trong bài diễn văn chủ đạo đọc trước 20.000 người tham dự đại hội "Baptist Fundamentalism '84" của mục sư Jerry Falwell tại Washington, D.C., ông đọc bản tường trình đầu tiên về vụ đánh bom do người tuyên giáo hải quân Arnold Resnicoff viết. Resnicoff là người được yêu cầu viết bản tường trình cho phó tổng thống và nhiệm vụ tìm hiểu sự thật vụ đánh bom. Osama bin Laden sau này dẫn giải sự rút quân của Reagan như dấu hiệu suy yếu của người Mỹ.
Ngày 25 tháng 10 năm 1983, chỉ hai ngày sau, Reagan ra lệnh lực lượng Hoa Kỳ can thiệp vào Grenada với mật danh là Chiến dịch Urgent Fury. Nơi đây đã xảy ra một vụ đảo chính năm 1979 và dựng lên một chính phủ không liên kết theo Chủ nghĩa Marx-Lenin. Sự can thiệp của lực lượng Hoa Kỳ là kết quả của một lời kêu gọi chính thức từ Tổ chức các quốc gia Đông Caribbe (OECS); Tổng thống Reagan cũng viện lẽ về một sự đe dọa trong vùng vì Liên Xô và Cuba tăng cường xây dựng quân sự tại vùng Caribbe và mối quan tâm về sự an toàn của hàng trăm sinh viên y khoa Mỹ tại Đại học St. George's như lý do để thực hiện vụ xâm chiếm. Chiến dịch Urgent Fury là một chiến dịch quân sự lớn đầu tiên của các lực lượng Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh Việt Nam. Sau mấy ngày giao tranh, lực lượng Hoa Kỳ giành được chiến thắng với tổn thất 19 binh sĩ Mỹ thiệt mạng và 116 binh sĩ khác bị thương. Giữa tháng 12, sau khi một chính phủ mới được toàn quyền bổ nhiệm, lực lượng Hoa Kỳ rút quân khỏi Grenada.
Leo thang chiến tranh lạnh
Reagan leo thang chiến tranh lạnh, tăng tốc đảo ngược chính sách "détente" (giảm thiểu căng thẳng để chung sống hòa bình) bắt đầu từ năm 1979 theo sau sự kiện Chiến tranh Xô Viết tại Afghanistan. Reagan ra lệnh tăng cường khổng lồ việc xây dựng các lực lượng quân sự Hoa Kỳ và thực hiện các chính sách mới đối đầu với Liên Xô: tái lập chương trình oanh tạc cơ B-1 Lancer mà đã bị chính phủ Carter hủy bỏ, và sản xuất tên lửa MX. Để đáp trả việc Liên Xô triển khai tên lửa SS-20, Reagan giám sát việc triển khai tên lửa Pershing của NATO tại Tây Đức.
Cùng với thủ tướng Vương quốc Anh Margaret Thatcher, Reagan lên án Liên Xô bằng những thuật ngữ tư tưởng. Trong một bài diễn văn nổi tiếng ngày 8 tháng 6 năm 1982 trước Nghị viện Vương quốc Anh trong phòng triển lãm hoàng gia tại Cung điện Westminster, Reagan nói, "bước chân tiến tới của tự do và dân chủ sẽ bỏ Chủ nghĩa Marx-Lenin trên đóng tro tàn của lịch sử". Ngày 3 tháng 3 năm 1983, ông tiên đoán chủ nghĩa cộng sản sẽ sụp đổ và nói rằng, "Chủ nghĩa cộng sản là một chương khác dị thường và đáng buồn trong lịch sử nhân loại mà những trang cuối của nó thậm chí hiện nay vẫn còn đang được viết." Trong một bài diễn văn trước Hội Evangelical Quốc gia ngày 8 tháng 3 năm 1983, Reagan gọi Liên Xô là "một đế quốc ma quỷ".
Sau khi Liên Xô bắn rơi chuyến bay 007 của Korean Air Lines gần đảo Moneron ngày 1 tháng 9 năm 1983, có chở 269 người trong đó có nghị sĩ tiểu bang Georgia là Larry McDonald, Reagan cho hành động này là một vụ "thảm sát" và tuyên bố rằng người Liên Xô đã quay lại "chống thế giới và những giáo huấn đạo lý mà hướng dẫn các mối quan hệ giữa con người với con người ở mọi nơi". Chính phủ Reagan đáp trả sự kiện này bằng việc ngưng dịch vụ hàng không thương mại của Liên Xô đến Hoa Kỳ, và hủy bỏ một số thỏa ước đang được thảo luận với Liên Xô, gây thiệt hại tài chính cho họ. Với hậu quả của vụ bắn rơi máy bay và nguyên nhân chuyến bay 007 bay trật khỏi đường bay có liên quan đến hệ thống hoa tiêu của nó, Reagan thông báo vào ngày 16 tháng 9 năm 1983 rằng Hệ thống Định vị Toàn cầu được cho phép sử dụng trong dân sự và được miễn phí để tránh xảy ra lỗi kỹ thuật về hoa tiêu trong tương lai.
Dưới một chính sách được biết đến như học thuyết Reagan, Reagan và chính phủ của ông cũng cung cấp trợ giúp công khai và cả bí mật cho các phong trào du kích chống cộng trong một cố gắng nhằm thay thế các chính phủ cộng sản do Liên Xô hậu thuẫn tại châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latin. Reagan triển khai phân bộ hoạt động đặc biệt của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ đến Afghanistan và Pakistan. Phân bộ này là có nhiệm vụ huấn luyện, trang bị và lãnh đạo các lực lượng chiến binh hồi giáo Mujaheddin chống quân đội Liên Xô. Chương trình hành động bí mật của Tổng thống Reagan có công trong việc giúp kết thúc sự chiếm đóng của Liên Xô tại Afghanistan, mặc dù số lượng vũ khi mà Hoa Kỳ cung cấp lúc đò lại trở thành mối đe dọa sau này cho các lực lượng của Hoa Kỳ trong chiến tranh Afghanistan vào thập niên 2000. Tuy nhiên, trong một hành động cắt ngang chính sách cung cấp vũ khí cho Đài Loan của chính phủ Carter theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan, Reagan cũng đồng ý giảm bán vũ khí cho Đài Loan với chính phủ cộng sản tại Trung Quốc.
Tháng 3 năm 1983, Reagan giới thiệu Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (viết tắt theo tiếng Anh là SDI ), một dự án quốc phòng mà sẽ sử dụng các hệ thống có căn cứ trên không gian và mặt đất để bảo vệ Hoa Kỳ khỏi các cuộc tấn công bằng tên lửa hạt nhân liên lục địa chiến lược. Reagan tin rằng lá chắn quốc phòng này có thể khiến cho chiến tranh hạt nhân không thể xảy ra, nhưng không tin tưởng rằng kỹ thuật như thế có thể hoạt động. Việc này khiến những người chống đối chương trình gán cho Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược cái tên là "Chiến tranh giữa các vì sao" và cho rằng mục tiêu kỹ thuật là không thể nắm bắt được. Liên Xô trở nên lo lắng về hiệu quả có thể có mà SDI sẽ mang lại lợi thế cho Hoa Kỳ; nhà lãnh đạo Yuri Andropov nói rằng nó sẽ đặt "toàn thế giới trong nguy cơ chạy đua vũ trang". Vì những lý do đó, David Gergen, một cựu phụ tá của Tổng thống Reagan, sau khi gợi lại ký ức, tin rằng Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược đã giúp kết thúc chiến tranh lạnh một cách vội vã.
Những người chỉ trích gán cho các chính sách ngoại giao của Reagan là hung hăng, mang tính đế quốc, và trách móc chúng là "hiếu chiến" tuy chúng được ủng hộ bởi những người đứng đầu chủ nghĩa bảo thủ Mỹ. Những người này cho rằng các chính sách như thế là cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh của Hoa Kỳ.
Vận động tranh cử tổng thống năm 1984
Reagan nhận đề cử của đảng Cộng hòa tại Dallas, Texas. Ông tuyên bố rằng "bình minh lại đến nước Mỹ", hàm ý nói đến nền kinh tế đang phục hồi và sự biểu diễn vượt trội của các vận động viên Hoa Kỳ tại Thế vận hội Mùa hè 1984, trong số nhiều sự việc khác. Ông trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên khai mạc một thế vận hội được tổ chức tại Hoa Kỳ.
Đối thủ của Reagan trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1984 là cựu phó tổng thống Walter Mondale. Với những câu hỏi về tuổi tác của ông và sự diễn đạt yếu kém trong lần tranh luận tổng thống đầu tiên của ông, người ta bắt đầu nghi ngờ đến khả năng thực hiện những nhiệm vụ tổng thống của ông thêm một nhiệm kỳ nữa. Hành vi và cách xử trí dễ quên và lầm lẫn thấy rõ của ông là bằng chứng khiến những người ủng hộ ông quan tâm vì họ đã từng biết đến ông là một người thông minh và dí dỏm. Những tin đồn bắt đầu lan rộng rằng ông bị bệnh mất trí nhớ. Reagan lật ngược thế cờ trong cuộc tranh luận tổng thống lần thứ hai, và đối chất với những câu hỏi về tuổi tác của ông. Ông nói nước đôi rằng "Tôi sẽ không coi tuổi tác là một vấn đề trong cuộc vận động tranh cử này. Tôi sẽ không khai thác sự thiếu kinh nghiệm và tuổi trẻ của đối thủ mình vì mục đích chính trị". Lời nói của ông tạo nên tiếng cười rộ và tiếng vỗ tay, ngay cả từ chính đối thủ của ông là Mondale.
Tháng 11, Reagan tái đắc cử tổng thống, thắng 49 trong số 50 tiểu bang. Ở tuổi 73 khi thắng cử, ông là người cao tuổi nhất được bầu làm tổng thống. Chiến thắng áp đảo của ông khiến cho Mondale chỉ thắng được tiểu bang nhà của mình là Minnesota (bằng sai khác 3800 phiếu phổ thông) và Đặc khu Columbia. Reagan thắng kỷ lục 525 phiếu đại cử tri, con số cao nhất đối với bất cứ ứng viên nào trong lịch sử Hoa Kỳ, và nhận được 58,8% số phiếu phổ thông so với Mondale là 40,6%.
Nhiệm kỳ thứ hai 1985–1989
Reagan tuyên thuệ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ hai vào ngày 20 tháng 1 năm 1985 trong một buổi lễ riêng tại Tòa Bạch Ốc. Vì 20 tháng 1 rơi vào ngày chủ nhật nên buổi lễ công cộng không được tổ chức nhưng được tiến hành tại gian phòng tròn của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày hôm sau. Ngày 21 tháng 1 là một ngày lạnh kỷ lục nhất tại Washington, D.C.; vì thời tiết xấu, buổi lễ nhậm chức được tổ chức bên trong tòa quốc hội. Trong những tuần kế tiếp, ông tái cơ cấu chút ít về nhân sự, chuyển chánh văn phòng Tòa Bạch Ốc James Baker làm bộ trưởng ngân khố và bộ trưởng ngân khố Donald Regan, cựu viên chức của công ty Merrill Lynch, làm chánh văn phòng.
Năm 1985, Reagan thăm viếng nghĩa trang quân sự Đức tại Bitburg để đặt vòng hoa cùng với Thủ tướng Tây Đức là Helmut Kohl. Khi biết được nghĩa trang này có mộ phần của bốn mươi chín thành viên của Waffen-SS, Reagan đưa ra lời tuyên bố, gọi các binh sĩ Đức Quốc xã được chôn cất trong nghĩa trang này cũng chính là "nạn nhân". Lời tuyên bố này gây xôn xao rằng chẳng lẽ Reagan coi các thành viên SS ngang hàng với nạn nhân của Holocaust; Pat Buchanan, Giám đốc Thông tin của Reagan, cho rằng tổng thống không coi các thành viên SS ngang hàng với nạn nhân Holocaust thật sự. Lúc này khi bị hối thúc hủy bỏ cuộc viếng thăm một cách mạnh mẽ, Reagan đáp lại rằng thật là sai lầm phải rút lại lời hứa với Thủ tướng Kohl. Sau cùng ông dự buổi lễ mà tại đó hai vị tướng quân đội đặt một vòng hoa.
Vụ tai nạn phi thuyền con thoi Challenger ngày 28 tháng 1 năm 1986 khiến cho bảy phi hành gia bị thiệt mạng. Vào đêm tai nạn, Reagan đọc một bài diễn văn do Peggy Noonan viết trong đó ông nói rằng:
Chiến tranh chống ma túy
Vào nữa nhiệm kỳ hai, Reagan công bố nhiều chính sách quân sự hơn trong cuộc chiến chống ma túy. Ông nói rằng "ma túy đang gây bệnh hoạn cho xã hội chúng ta". Ông hứa tranh đấu cho nơi làm việc và trường học không có ma túy, mở rộng điều trị nghiện ma túy, nỗ lực nghiêm cấm ma túy, lực lượng thi hành luật pháp phải lớn mạnh hơn, và gia tăng sự nhận thức của công chúng tốt hơn.
Năm 1986, Reagan ký đạo luật thi hành chống ma túy với ngân sách $1,7 tỷ đô la để tài trợ cho cuộc chiến chống ma túy và ấn định hình phạt tối thiểu bắt buộc đối với những kẻ vi phạm luật chống ma túy. Đạo luật này bị chỉ trích vì nó làm gia tăng sự mất cân đối chủng tộc đáng kể trong số tù nhân trong nước và những người chỉ trích cũng tố cáo rằng các chính sách này chỉ có ít hiệu lực làm giảm số ma túy lưu hành trên đường phố trong khi đó mang đến gánh nặng tài chính cho nước Mỹ. Những người ủng hộ nỗ lực này nêu lên sự thành công trong việc làm giảm tỉ lệ sử dụng ma túy trong giới thanh thiếu niên. Đệ Nhất Phu nhân Nancy Reagan coi cuộc chiến chống ma túy là ưu tiên chính của bà bằng cuộc vận động nhận thức về ma túy "Just Say No" với mục đích ngăn chặn trẻ em và thiếu niên không sử dụng ma túy như thú giải trí qua nhiều cách nói "không" khác nhau. Nancy Reagan đã đến 65 thành phố trong 33 tiểu bang để vận động sự nhận thức về tác hại của ma túy bao gồm cả chất rượu cồn.
Không kích Libya
Quan hệ giữa Libya và Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Reagan tiếp tục xấu đi, bắt đầu với sự kiện vịnh Sidra năm 1981. Năm 1982, nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi bị CIA xem là đồng minh của nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev và nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro, là phần tử của một nhóm được biết với tên gọi "unholy trinity" (ba ngôi bất thánh thiện) và cũng bị một viên chức CIA gán cho cái tên là "kẻ thù quốc tế công khai số một của chúng ta". Những căng thẳng này sau đó lại tái phát sinh vào đầu tháng 4 năm 1986 khi một quả bom phát nổ tại một quán nhảy disco trong thành phố Berlin, làm bị thương 63 quân nhân Mỹ và một binh sĩ khác thiệt mạng. Cho rằng có bằng chứng không thể chối cải là Libya chỉ thị "vụ đánh bom khủng bố", Reagan ra lệnh sử dụng lực lượng chống Libya. Vào cuối ngày 15 tháng 4 năm 1986, Hoa Kỳ mở màn một loại không kích vào các mục tiêu trên đất liền tại Libya. Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh Margaret Thatcher cho phép Không quân Hoa Kỳ sử dụng các căn cứ tại Anh để mở cuộc tấn công với viện lẽ rằng Vương quốc Liên hiệp Anh ủng hộ quyền tự vệ của Mỹ theo Điều khoản 51 trong Hiến chương Liên hiệp quốc. Cuộc tấn công được hoạch định để ngăn chặn "khả năng xuất khẩu khủng bố" của Gaddafi, cho ông ta "sáng kiến và lý do để thay đổi hành vi tội ác của mình". Tổng thống nói chuyện trước quốc dân từ Văn phòng Bầu dục sau khi vụ không kích được thông báo. Ông nói rằng "Khi công dân của chúng ta bị tấn công hay bị lạm dụng khắp nơi trên thế giới qua chỉ thị trực tiếp của các chế độ thù địch, chúng ta sẽ đáp trả khi mà tôi còn ở trong văn phòng này." Vụ tấn công bị nhiều quốc gia lên án. Với số phiếu 79 ủng hộ so với 28 phiếu chống và 33 phiếu trắng, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 41/38 lên án cuộc tấn công quân sự chống Libya ngày 15 tháng 4 năm 1986.
Di dân
Reagan ký Đạo luật Kiểm soát và Cải cách Di dân năm 1986. Đạo luật này bất hợp pháp hóa việc thuê mướn hoặc tuyển mộ các di dân mà giới chủ nhân biết rõ là di dân bất hợp pháp, bắt buộc các chủ nhân phải chứng minh tình trạng di trú của các công nhân. Đạo luật này cũng ân xá cho khoảng 3 triệu di dân bất hợp pháp vào Hoa Kỳ trước ngày 1 tháng 1 năm 1982 và đã sống liên tục tại nước Mỹ. Những người chỉ trích cho rằng việc cấm vận giới chủ nhân không có răng đe và thất bại trong việc ngăn chặn di dân bất hợp pháp. Ngay sau khi ký đạo luật trong một buổi lễ được tổ chức bên trong Tượng Nữ thần Tự do vừa mới được trùng tu, Reagan nói, "các điều khoản hợp pháp hóa trong đạo luật này sẽ đi xa hơn để cải thiện cuộc sống của một tầng lớp cá nhân mà hiện nay phải trốn trong bóng tối, không có được lối tiếp cận đến nhiều lợi ích của một xã hội cưởi mở và tự do. Chẳng mấy chốc, nhiều người đàn ông và đàn bà sẽ có thể bước ra ánh sáng mặt trời và, sau cùng, nếu họ chọn lựa, họ có thể trở thành người Mỹ." Reagan cũng nói "Chương trình cấm vận giới chủ nhân là thành phần chính và then chốt. Nó sẽ loại bỏ động cơ khích lệ di dân bất hợp pháp qua việc loại bỏ cơ hội tìm việc làm mà lôi kéo người ngoại quốc bất hợp pháp đến đây."
Vụ tai tiếng Iran–Contra
Năm 1986, một vụ tai tiếng làm rung động chính phủ Reagan. Vụ tai tiếng này bắt nguồn từ việc sử dụng tiền thu được trong vụ bán vũ khí bí mật cho Iran để tài trợ nhóm du kích Contras ở Nicaragua vốn từng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật bởi một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ. Vụ Iran–Contra trở thành vụ tai tiếng chính trị lớn nhất tại Hoa Kỳ trong thập niên 1980. Mặc dù Hoa Kỳ tranh chấp thẩm quyền phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế, tòa phán quyết rằng Hoa Kỳ đã vi phạm luật quốc tế và vi phạm các hiệp ước tại Nicaragua theo nhiều cách khác nhau.
Tổng thống Reagan thừa nhận không biết sự tồn tại của âm mưu này. Ông bổ nhiệm hai đảng viên cộng hòa và một đảng viên Dân chủ (John Tower, Brent Scowcroft và Edmund Muskie, được biết đến là "Ủy ban Tower") để điều tra vụ tai tiếng. Ủy ban không thể tìm ra bằng chứng trực tiếp là Reagan đã biết trước về chương trình này nhưng chỉ trích ông nặng nề vì buông lỏng kiểm soát nhân viên của mình, khiến cho việc chuyển dịch công quỹ có thể dễ dàng thực hiện được. Một báo cáo riêng của Quốc hội Hoa Kỳ kết luận rằng "nếu tổng thống không biết các cố vấn an ninh quốc gia của mình đang làm gì thì tổng thống đáng ra đã biết." Mức độ ủng hộ của công chúng dành cho Reagan xuống thấp từ 67% đến 46% trong non một tuần. Đây là mức độ giảm sút nhanh nhất và lớn nhất chưa từng có đối với một vị tổng thống. Vụ tai tiếng này đưa đến kết quả là 14 viên chức của Reagan bị truy tố và 11 người bị kết án.
Nhiều người ở Trung Mỹ chỉ trích Reagan vì ủng hộ nhóm du kích Contras, gọi ông là một kẻ quá khích chống cộng, làm ngơ trước các vụ vi phạm nhân quyền trong khi đó những người khác nói rằng ông "đã cứu Trung Mỹ". Daniel Ortega, chủ tịch Nicaragua và Sandinista, nói rằng ông hy vọng Thượng đế sẽ tha thứ cho Reagan vì "cuộc chiến dơ bẩn chống Nicaragua" của Reagan.
Kết thúc chiến tranh lạnh
Vào đầu thập niên 1980, nhiều người tại Hoa Kỳ nhận định rằng khả năng quân sự của Liên Xô đang vượt bậc khả năng quân sự của Hoa Kỳ. Trước đó, Hoa Kỳ đã cậy vào sự siêu đẳng chất lượng vũ khí của mình để làm cho Liên Xô nể sợ nhưng khoảng cách dần thu hẹp. Tuy Liên Xô không gia tăng chi tiêu quốc phòng sau khi tổng thống Reagan tăng cường xây dựng quốc phòng, nhưng các chi tiêu quân sự lớn của họ, kết hợp với nền nông nghiệp tập thể hóa và kỹ nghệ sản xuất theo kế hoạch, là một gánh nặng khổng lồ đối với nền kinh tế Liên Xô. Cùng thời gian đó, Ả Rập Xê Út gia tăng sản xuất dầu lửa, khiến cho dầu lửa rớt giá trong năm 1985 xuống còn một phần ba mức giá trước đó. Dầu lửa là nguồn thu nhập xuất cảng chính yếu của Liên Xô. Các yếu tố này dần dần đưa nền kinh tế Liên Xô đến tình trạng bi đát trong thời gian Gorbachev nắm quyền.
Reagan nhận ra sự thay đổi chiều hướng của giới lãnh đạo Liên Xô dưới thời Mikhail Gorbachev vì vậy ông đã chuyển dịch sang ngoại giao với quan điểm khuyến khích giới lãnh đạo Liên Xô theo đuổi các thỏa thuận về tài giảm vũ khí đáng kể. Sứ mệnh cá nhân của Reagan là có được "một thế giới không có vũ khí hạt nhân", thứ vũ khí mà ông coi là "hoàn toàn vô lý, hoàn toàn phi nhân, không gì tốt đẹp ngoài giết chóc, có thể hủy hoại sự sống trên Trái Đất và nền văn minh". Ông đã có thể bắt đầu các cuộc thương thảo về giải trừ hạt nhân với Tổng bí thư Gorbachev. Gorbachev và Reagan có bốn cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa năm 1985 và 1988: hội nghị đầu tiên tại Genève, Thụy Sỉ, hội nghị thứ hai tại Reykjavík, Iceland, hội nghị thứ ba tại Washington, D.C., và hội nghị thứ tư tại Moskva. Reagan tin rằng nếu ông có thể thuyết phục được người Liên Xô cho phép dân chủ hơn và tự do ngôn luận hơn thì điều này sẽ dẫn đến sự cải cách và chấm dứt chủ nghĩa cộng sản.
Nói chuyện tại Bức tường Berlin ngày 12 tháng 6 năm 1987, Reagan thách thức Gorbachev đi xa hơn nữa qua lời nói:
Trước lúc Gorbachev viếng thăm Washington, D.C. cho cuộc hội nghị thượng đỉnh năm 1987, nhà lãnh đạo Liên Xô thông báo ý định của mình theo đuổi các hiệp định tài giảm vũ khí đáng kể. Thời điểm về việc thông báo khiến các nhà ngoại giao phương Tây đoan chắc rằng Gorbachev đang đưa ra những nhượng bộ lớn đối với Hoa Kỳ về các tầm mức lực lượng thông thường, vũ khí hạt nhân, và chính sách tại Đông Âu. Ông và Reagan ký Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân tầm trung (Intermediate-Range Nuclear Forces Treaty hay viết tắt là INF Treaty) tại Tòa Bạch Ốc, loại bỏ hoàn toàn lớp vũ khi hạt nhân này. Hai nhà lãnh đạo đặt khuôn sườn cho Hiệp ước Tài giảm Quân bị Chiến lược hay gọi tắt là START I; Reagan nhất mực rằng tên của hiệp ước này nên đổi từ Đàm phán Hạn chế Quân bị Chiến lược thành Đàm phán Tài giảm Quân bị Chiến lược.
Khi Reagan viếng thăm Moskva cho hội nghị thượng đỉnh năm 1988, ông được người Liên Xô xem như một nhân vật nổi tiếng. Một nhà báo hỏi tổng thống rằng ông có còn xem Liên Xô là một đế quốc ma quỹ nữa không. Ông trả lời "Không", "Tôi đang nói chuyện về một thời điểm khác, một thời đại khác." Theo lời yêu cầu của Gorbachev, Reagan diễn thuyết về các nền kinh tế tự do tại Đại học Quốc gia Moskva. Trong cuốn sách tự truyện của mình có tựa đề An American Life (Một cuộc đời Mỹ), Reagan diễn tả sự lạc quan của mình về chiều hướng mới mà họ cùng vẽ ra và cảm giác nồng ấm của ông dành cho Gorbachev. Tháng 11 năm 1989, Bức tường Berlin bị phá sập, Chiến tranh lạnh chính thức được tuyên bố kết thúc tại hội nghị thượng đỉnh Malta ngày 3 tháng 12 năm 1989 và hai năm sau, Liên Xô sụp đổ.
Sức khỏe
Vào đầu thời gian làm tổng thống, Reagan bắt đầu đeo dụng cụ trợ thính với kỹ thuật tân tiến, lúc đầu là bên tai phải của ông và sau đó cả bên tai trái. Quyết định của ông công bố về việc ông đeo dụng cụ trợ thính vào năm 1983 đã giúp cho loại dụng cụ trợ thính này bán chạy.
Ngày 13 tháng 7 năm 1985, Reagan trải qua cuộc giải phẫu tại Bệnh viện Hải quân Bethesda để lấy bướu ung thư khỏi ruột kết của ông. Ông trao quyền tổng thống cho phó tổng thống trong khoảng thời gian 8 tiếng đồng hồ cho cuộc giải phẫu theo như tu chính hiến pháp 25 đã quy định. Cuộc giải phẫu chỉ kéo dài ba tiếng đồng hồ và thành công. Reagan nhận lại quyền lực tổng thống sau đó trong ngày. Tháng 8 năm đó, ông trải qua một cuộc giải phẫu để loại bỏ các tế bào ung thư da trên mũi của ông. Vào tháng mười, thêm các tế bào ung thư da được phát hiện trên mũi của ông và chúng bị loại bỏ.
Tháng 1 năm 1987, Reagan trải qua giải phẫu tuyến tiền liệt, gây thêm sự lo lắng về sức khỏe của ông. Tuy nhiên, không có phát hiện nào được tìm thấy về sự phát triển của ung thư và ông không phải bị gây mê cho cuộc giải phẫu. Tháng 7 năm đó, vào tuổi 76, ông trải qua một cuộc giải phẫu ung thư da lần thứ ba trên mũi ông.
Tư pháp
Trong suốt chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1980, Reagan tuyên bố rằng nếu có dịp, ông sẽ bổ nhiệm vị nữ thẩm phán tối cao pháp viện đầu tiên. Dịp đó đã đến trong năm đầu tại chức của ông khi ông đề cử Sandra Day O'Connor ngồi vào chiếc ghế trống do Thẩm pháp Potter Stewart nghỉ hưu để lại. Trong nhiệm kỳ hai, Reagan đề bạt William Rehnquist thay thế Warren Burger làm Thẩm phán trưởng Hoa Kỳ, và đưa Antonin Scalia thay thế chiếc ghế trống William Rehnquist vừa rời bỏ. Reagan đề cử luật gia bảo thủ Robert Bork vào tòa thượng thẩm năm 1987. Thượng nghị sĩ Ted Kennedy, một đảng viên Dân chủ của tiểu bang Massachusetts, mạnh mẽ lên án Bork, và sự việc gây tranh cãi lớn xảy ra ngay sau đó. Bork bị Thượng viện Hoa Kỳ bác bỏ với số phiếu 58–42. Reagan sau đó đề cử Douglas Ginsburg, nhưng Ginsburg rút tên khỏi đề cử sau khi bị công kích vì sử dụng chất ma túy gai dầu (cannabis). Sau cùng Anthony Kennedy được Thượng viện xác nhận thay thế vị trí này. Cùng với việc bổ nhiệm ba thẩm phán tối cao pháp viện, Reagan bổ nhiệm 83 thẩm phán tòa thượng thẩm, và 290 thẩm phán tòa án khu vực.
Reagan cũng đề cử Vaughn R. Walker, người về sau này bị tiết lộ là thẩm phán liên bang đồng tính được biết đến trước nhất, vào tòa án khu vực đặc trách Khu vực Trung tâm California. Tuy nhiên, sự đề cử này bị trì hoãn tại Thượng viện, và Walker không được xác nhận cho đến khi được người kế nhiệm Reagan là George H. W. Bush tái đề cử.
Vào thời gian đầu tại chức, Reagan bổ nhiệm Clarence M. Pendleton, Jr. của San Diego, một người Mỹ gốc châu Phi đầu tiên, làm chủ tịch Ủy ban đặc trách Dân quyền Hoa Kỳ. Pendleton cố gắng lái ủy ban này theo hướng bảo thủ để phù hợp với những quan điểm của Reagan về chính sách dân quyền và xã hội trong suốt thời gian tại chức của ông từ năm 1981 cho đến khi ông đột ngột qua đời vào năm 1988. Pendleton chẳng bao lâu sau đó đã làm nhiều nhà hoạt động dân quyền và nữ quyền giận dữ khi ông chế nhạo lời đề nghị về quyền bình đẳng lương bổng như là "Looney Tunes" (loạt phim hoạt hình ngắn của Warner Bros).
Những năm hậu tổng thống (1989–2004)
Sau khi rời nhiệm sở năm 1989, gia đình Reagan mua thêm một căn nhà tại Bel Air, Los Angeles tuy trước đó đã có Nông trại Reagan tại Santa Barbara. Họ thường xuyên dự thánh lễ tại Nhà thờ Giáo hội Trưởng Nhiệm Bel Air và đôi khi xuất hiện trước công chúng thay mặt cho đảng Cộng hòa; Reagan đọc một bài diễn văn rất được hoan nghênh tại Đại hội Quốc gia Đảng Cộng hòa năm 1992. Trước đó vào ngày 4 tháng 11 năm 1991, Thư viện Tổng thống Ronald Reagan được khánh thành và mở cửa cho công chúng. Tại các buổi lễ khánh thành, có năm vị tổng thống và sáu Đệ Nhất Phu nhân tham dự, đánh dấu đây là lần đầu tiên có đến năm vị tổng thống cùng tựu họp chung tại cùng một địa điểm. Reagan tiếp tục công khai bài tỏ sự ủng hộ đối với quyền phủ quyết từng phần của tổng thống (line-item veto); đạo luật Brady; tu chính hiến pháp bắt buộc chính phủ có ngân sách cân bằng; và việc bãi bỏ tu chính án 22 là tu chính án cấm bất cứ ai phục vụ hơn hai nhiệm kỳ tổng thống. Năm 1992 Reagan lập Giải thưởng Tự do Ronald Reagan cùng với Quỹ Tổng thống Ronald Reagan vừa mới lập ra. Bài diễn văn công cộng cuối cùng của ông là vào ngày 3 tháng 2 năm 1994 trong buổi lễ vinh danh ông tại Washington, D.C.. Ông xuất hiện lần cuối cùng trước công chúng là lúc tham dự lễ tang của cựu tổng thống Richard Nixon ngày 27 tháng 4 năm 1994.
Bệnh mất trí nhớ
Thông báo và phản ứng
Tháng 8 năm 1994, lúc 83 tuổi, Reagan được chẩn đoán bị bệnh mất trí nhớ, một loại bệnh rối loạn tâm thần không thể chữa trị. Bệnh này hủy hoại các tế bào não và sau cùng gây ra cái chết. Tháng 11, ông thông báo cùng quốc dân qua lá thư viết tay, một phần viết như sau:
Sau khi ông được chẩn đoán có bệnh mất trí nhớ, các lá thư ủng hộ từ những người cầu nguyện điều tốt lành đã đổ đến ngôi nhà của ông tại tiểu bang California, nhưng cũng có tin đồn lan truyền về việc Reagan đã có dấu hiệu và triệu chứng suy giảm về tâm thần từ bao lâu trước đó. Trong hồi ký của mình, cựu nữ thông tín viên đài CBS thường trực tại Tòa Bạch Ốc, Lesley Stahl nhớ lại cuộc gặp mặt cuối cùng của bà với tổng thống năm 1986: "Reagan dường như không biết tôi là ai.... Ôi, trời ơi, ông ta là một người vô hồn sắc, tôi đã nghĩ vậy. Tôi phải đi ra ngoài vườn hoa đêm nay và nói với nhân dân tôi rằng tổng thống Hoa Kỳ là một người vô hồn lặp cặp." Nhưng cuối cùng sau đó, ông tỉnh táo trở lại. Như bà mô tả là "Tôi đã gần như quyết định tường trình rằng Reagan già yếu." Tuy nhiên, bác sĩ Lawrence K. Altman, một y sĩ được điều động làm thông tín viên cho tờ The New York Times, ghi nhận rằng "khoảng cách giữa lảng trí và bắt đầu căn bệnh mất trí nhớ có thể khó mà biết được", và tất cả bốn bác sĩ của Reagan tại Tòa Bạch Ốc đều nói rằng họ đã không thấy bằng chứng nào về bệnh mất trí nhớ trong lúc ông làm tổng thống. Bác sĩ John E. Hutton, y sĩ chính của Reagan từ năm 1984 đến 1989, nói rằng tổng thống "tuyệt đối" không có "biểu lộ bất cứ dấu hiệu nào của chứng mất trí hay bệnh Alzheimer". Reagan có trải qua đôi lần lảng trí tuy nhiên chỉ là với những cái tên. Có lần trong lúc họp với Thủ tướng Nhật Bản Yasuhiro Nakasone, ông lặp lại nhiều lần khi gọi phó tổng thống Bush là "thủ tướng Bush." Tuy nhiên các bác sĩ của Reagan ghi nhận rằng ông chỉ bắt đầu biểu lộ triệu chứng ngầm của căn bệnh này vào cuối năm 1992 hay năm 1993, mấy năm sau khi rời nhiệm sở. Cựu chánh văn phòng của ông là James Baker xem ý tưởng cho rằng Reagan ngủ trong các buổi họp nội các là "lố bịch". Các viên chức trong văn phòng Tòa Bạch Ốc, các cựu trợ tá và bạn bè nói rằng họ không thấy dấu hiệu nào về bệnh mất trí nhớ trong khi ông làm tổng thống.
Vấn đề phức tạp là Reagan đã chụi đựng một cơn chấn thương đầu vào tháng 7 năm 1989, 5 năm trước khi được chẩn đoán. Sau khi bị ngã từ lưng ngựa tại Mexico, máu bầm trong vùng não được tìm thấy và được giải phẫu chữa trị ngay sau đó trong năm. Nancy Reagan quả quyết rằng vụ té từ lưng ngựa năm 1989 đã khiến cho ông sớm phát triển căn bệnh mất trí nhớ theo như lời các bác sĩ nói với ba, mặc dù sự tổn thương não cấp tính chưa từng được chứng minh là làm gia tăng sự mất trí nhớ và căn bệnh mất trí nhớ. Bác sĩ một thời gian ngắn của Reagan, Daniel Ruge nói rằng điều này có thể xảy ra nhưng không chắc chắn rằng vụ tai nạn té ngựa đã ảnh hưởng đến tiến trình trí nhớ của Reagan.
Tiến triển của căn bệnh
Khi năm tháng trôi qua, căn bệnh từ từ hủy hoại khả năng trí nhớ của Reagan. Ông chỉ có thể nhận ra một ít người trong đó có vợ của ông là bà Nancy. Tuy nhiên ông vẫn hoạt động: đi bộ qua các công viên gần nhà và trên bãi biển, chơi đánh golf đều đặn, và cho đến năm 1999 ông thường đến văn phòng của mình gần Century City.
Reagan bị té tại ngôi nhà của ông ở Bel Air ngày 13 tháng 1 năm 2001, khiến làm gãy xương mông. Ông được chỉnh xương ngày hôm sau và được trở về nhà một tuần sau đó tuy ông phải qua các buổi vật lý trị liệu khó khăn tại nhà. Ngày 6 tháng 2 năm 2001, Reagan bước sang tuổi 90, trở thành cựu tổng thống thứ ba sống thọ đến tuổi này (hai người kia là John Adams và Herbert Hoover và sau này Gerald Ford cũng sống đến 90 tuổi). Những lần xuất hiện trước công chúng của Reagan bắt đầu thưa dần khi bệnh tình tiến triển thêm. Cuối cùng gia đình quyết định đưa ông đến một nơi yên tĩnh hơn để sống cùng vợ của ông là bà Nancy. Nancy Reagan nói với Larry King của đài truyền hình cáp CNN vào năm 2001 rằng rất ít người được phép viếng thăm ông bởi vì bà cảm thấy rằng "Ronnie chắc hẳn muốn người ta nhớ đến ông là một người như trước kia." Sau khi chồng của bà được chẩn đoán mắc bệnh mất trí nhớ và qua đời, bà Reagan trở thành một người vận động cho việc nghiên cứu tế bào gốc, hối thúc Quốc hội Hoa Kỳ và tổng thống George W. Bush ủng hộ tài chính liên bang cho việc nghiên cứu tế bào gốc, một điều mà tổng thống Bush chống đối. Năm 2009, bà khen gợi tổng thống Barack Obama vì dỡ bỏ các hạn chế đối với sự nghiên cứu như vậy. Bà Reagan nói rằng bà tin rằng việc nghiên cứu này có thể đưa đến việc chữa lành bệnh mất trí nhớ.
Qua đời
Reagan qua đời vì viêm phổi (do bệnh mất trí nhớ gây ra) tại nhà của ông ở Bel Air, California vào trưa ngày 5 tháng 6 năm 2004. Ngay sau khi ông qua đời, Nancy Reagan đưa ra thông báo nói rằng "Gia đình tôi và tôi muốn thế giới biết rằng Tổng thống Ronald Reagan đã chết sau 10 năm mang bệnh mất trí nhớ ở tuổi 93. Chúng tôi cám ơn sự cầu nguyện của mọi người." Tổng thống George W. Bush tuyên bố ngày 11 tháng 6 là một ngày quốc tang. Nhiều lời chia buồn khắp thế giới được gởi đến. Thi thể của Reagan được đưa đến nhà tang lễ Kingsley và Gates ở Santa Monica, California vào cuối ngày hôm đó. Tại đây công chúng đến đặt vòng hoa và cờ Mỹ trên cỏ để tỏ lòng tôn kính. Ngày 7 tháng 6, thi thể của ông được đưa đến Thư viện Tổng thống Ronald Reagan là nơi gia đình tổ chức một buổi lễ tang ngắn do Mục sư Michael Wenning làm chủ lễ. Thi thể ông được đặt yên nghỉ trong thư viện cho đến ngày 9 tháng 6. Trên 100.000 người đến viếng thăm linh cữu.
Ngày 9 tháng 6, thi thể Reagan được đưa bằng máy bay đến Washington, D.C. và được đặt trang trọng theo nghi thức quốc tang. 104.684 người đi qua viếng linh cữu của ông.
Ngày 11 tháng 6, quốc tang được tiến hành tại Nhà thờ chính tòa Quốc gia Washington, và do Tổng thống George W. Bush làm chủ tọa. Cựu thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh Margaret Thatcher, cựu thủ tướng Canada Brian Mulroney, và cả hai tổng thống Bush đọc diễn văn ca ngợi Reagan. Dự tang lễ còn có Mikhail Gorbachev và nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới trong đó có thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh Tony Blair, thủ tướng Đức Gerhard Schröder, thủ tướng Ý Silvio Berlusconi, và các tổng thống lâm thời Hamid Karzai của Afghanistan, và Ghazi al-Yawer của Iraq.
Sau buổi lễ tang, thi thể Reagan được chở bằng máy bay trở về Thư viện Tổng thống Ronald Reagan ở California. Tại đây một buổi lễ khác được tổ chức và cựu tổng thống Reagan được chôn cất. Vào lúc qua đời, Reagan là vị tổng thống Hoa Kỳ sống thọ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông sống đến 93 năm và 120 ngày (2 năm, 8 tháng, và 23 ngày lâu hơn John Adams). Ông hiện là tổng thống sống thọ thứ tư, chỉ thua Gerald Ford, Jimmy Carter và George H. W. Bush. Ông là tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên chết trong thế kỷ XXI, và lễ tang của ông là quốc tang đầu tiên tại Hoa Kỳ kể từ khi quốc tang tổng thống Lyndon B. Johnson năm 1973.
Nơi chôn cất của ông có khắc hàng chữ mà ông đã đọc khi khai mạc Thư viện Tổng thống Ronald Reagan: "Trong tận trái tim, tôi biết rằng con người là tốt, rằng những gì đúng dần dần sẽ luôn chiến thắng và rằng có mục tiêu và giá trị với nhau và mọi cuộc đời."
Di sản
Từ khi Reagan rời nhiệm sở năm 1989, một cuộc tranh luận lớn xảy ra giữa những học giả, sử gia và công chúng quanh di sản của ông. Phe ủng hộ nêu ra nền kinh tế thịnh vượng và có hiệu quả hơn như là kết quả của chính sách kinh tế Reagan, những thành công về chính sách ngoại giao trong đó có sự kết thúc chiến tranh lạnh một cách hòa bình sau tám năm tại chức của Reagan, và việc tái lập tinh thần và niềm tự hào của người Mỹ. Phe chỉ trích cho rằng các chính sách kinh tế của Reagan đã làm gia tăng sự thâm thủng ngân sách khổng lồ, khoảng cách rộng giữa giàu và nghèo, và số người vô gia cư. Họ cũng cho rằng vụ tai tiếng Iran-Contra đã làm giảm uy tín của người Mỹ. Mặc dù cuộc tranh luận vẫn tiếp diễn nhưng theo các cuộc thăm dò ý kiến công chúng, Reagan được xếp trong số các vị tổng thống được lòng công chúng nhất trong số tất cả các tổng thống Hoa Kỳ hiện đại.
Các ý kiến và nhận định về di sản của Reagan trong số các nhà hoạch định chính sách hàng đầu và các nhà báo trong nước cũng khác nhau. Edwin Feulner, chủ tịch Quỹ The Heritage, nói rằng Reagan "đã giúp tạo một thế giới tự do hơn và an toàn hơn" và nói về các chính sách kinh tế của Reagan như sau: "Ông đảm nhận một nước Mỹ đang quằn quại 'bệnh hoạn'... và đã làm cho công dân của nó tin tưởng trở lại về vận mệnh của mình." Tuy nhiên, Mark Weisbrot, đồng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Kinh tế, cho rằng "các chính sách kinh tế của Reagan phần lớn ông làm để lại cho người con nuôi Viet nguyen" trong khi đó Howard Kurtz của tờ The Washington Post cho ý kiến rằng Reagan là "một khuôn mặt đương thời đầy tranh cãi vượt xa hơn là các tầm mức ảnh hưởng nổi phồng trên truyền hình đã nói đến."
Mặc dù cuộc tranh cãi tiếp diễn quanh di sản của ông, nhiều học giả bảo thủ và tự do đồng ý rằng Reagan là một vị tổng thống có ảnh hưởng nhất kể từ sau Franklin D. Roosevelt. Ông đã để lại dấu ấn của mình trên nền chính trị, ngoại giao, văn hóa và kinh tế Mỹ. Từ khi ông rời nhiệm sở, các sử gia đã đạt được sự đồng thuận, như đã được tóm tắt bởi sử gia Anh, M. J. Heale. Sử gia này thấy rằng các học giả hiện nay cùng tán thành rằng Reagan đã khôi phục lại chủ nghĩa bảo thủ, xoay quốc gia sang phía hữu, thực hiện chủ nghĩa bảo thủ tương đối giáo điều mà cân bằng giữa lý tưởng và kiềm chế chính trị, làm sống lại niềm tin vào tổng thống và sự tự trọng của người Mỹ, và góp phần chiến thắng chiến tranh lạnh.
Chiến tranh lạnh
Chiến tranh lạnh là một sự gắng sức lớn về kinh tế và chính trị trên bốn thập niên nhưng sự đối đầu giữa hai siêu cường đột ngột giảm cường độ vào cuối thời tổng thống Reagan. Các ý kiến về vai trò quan trọng của Reagan trong việc kết thúc chiến tranh lạnh đã và đang tạo nên một cuộc tranh luận gay gắt và dễ gây tranh cãi. Ý kiến rằng Reagan có một số vai trò góp phần làm sụp đổ Liên Xô được mọi người đồng ý với nhau nhưng mức độ rộng lớn của vai trò này thì vẫn còn tiếp tục bị tranh cãi. Nhiều người tin rằng các chính sách quốc phòng của Reagan, lời lẽ hùng hồn cứng rắn đối với Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản, cũng như các hội nghị thượng đỉnh với Tổng bí thư Gorbachev đã đóng một phần vai trò nổi bật trong việc kết thúc chiến tranh lạnh.
Ông là người nổi bật trong số những tổng thống thời hậu Chiến tranh thế giới thứ hai vì tin chắc rằng Liên Xô có thể bị đánh bại hơn là chỉ qua thương thuyết, một niềm tin được xác nhận bởi Gennadi Gerasimov, phát ngôn viên bộ ngoại giao dưới thời Gorbachev. Gerasimov nói rằng chương trình được mệnh danh, Chiến tranh giữa các vì sao, "là một sự tống tiền rất thành công.... Nền kinh tế Liên Xô không thể chịu đựng nổi cuộc chạy đua vũ trang như thế." Lời lẽ mạnh bạo của Reagan nhắm vào Liên Xô đã có những hiệu quả khác nhau; Jeffery W. Knopf nhận xét rằng bị dán nhãn là "ma quỷ" có lẽ không có gì khác biệt đối với người Liên Xô nhưng có khác biệt khi các công dân tại Đông Âu được khuyến khích chống lại chủ nghĩa cộng sản. Ý kiến rằng Reagan có ít hoặc không có ảnh hưởng gì trong việc kết thúc chiến tranh lạnh được tranh cãi ngang bằng nhau; rằng sự suy yếu nội bộ của chủ nghĩa cộng sản đã trở nên rõ ràng, và Liên Xô sẽ cuối cùng bị sụp đổ cho dù bất cứ ai đang nắm quyền. Chính sách Kiềm chế của Tổng thống Harry Truman cũng được xem là một sức mạnh đằng sau sự sụp đổ của Liên Xô, và sự xâm chiếm Afghanistan của Liên Xô đã làm hao mòn chính hệ thống Xô Viết.
Tổng bí thư Gorbachev nói về vai trò chiến tranh lạnh của cựu đối thủ của mình như sau: "[Ông ta là] một người mà là công cụ đưa đến sự kết thúc chiến tranh lạnh", và cho rằng ông ta là "một tổng thống vĩ đại". Gorbachev không công nhận có thắng hay bại trong cuộc chiến nhưng đúng hơn là một kết thúc hòa bình; ông nói rằng ông không bị bắt nạt bởi những lời lẽ cứng rắn của Reagan. Margaret Thatcher, cựu nữ thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh, nói về Reagan như sau: "ông cảnh báo rằng Liên Xô có một nỗ lực đầy tham vọng về sức mạnh quân sự... nhưng ông cũng cảm giác rằng nó đang bị ăn mòn bởi những sự thất bại có hệ thống mà không thể nào cải thiện được." Sau này bà nói rằng "Ronald Reagan có yêu cầu cao hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào khác để thắng Chiến tranh lạnh vì sự tự do và ông đã làm được mà không cần phải bắn một phát súng nào." Brian Mulroney, cựu thủ tướng Canada nói: "Ông ta đi vào lịch sử trong vai trò một người chơi ấn tượng và mạnh mẽ trong Chiến tranh lạnh." Cựu tổng thống Ba Lan Lech Wałęsa nhận định rằng "Reagan là một trong những nhà lãnh đạo thế giới đã góp phần to lớn làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản."
Di sản quốc nội và chính trị
Ronald Reagan đã làm thay hình đổi dạng đảng Cộng hòa, lãnh đạo phong trào bảo thủ hiện đại, và làm thay đổi sự năng động chính trị của Hoa Kỳ. Thêm nhiều người bỏ phiếu cho đảng Cộng hòa dưới thời Reagan, và Reagan lấy được phiếu bầu của các cử tri tôn giáo. Cái gọi là "Reagan Democrat" (người thuộc đảng Dân chủ nhưng bỏ đảng để ủng hộ Reagan) là kết quả của những năm ông làm tổng thống.
Sau khi rời nhiệm sở, Reagan trở thành một biểu tượng có ảnh hưởng bên trong đảng Cộng hòa. Các chính sách và niềm tin của ông thường xuyên được các ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Cộng hòa viện dẫn tới kể từ năm 1989. Các ứng viên tổng thống năm 2008 thuộc đảng Cộng hòa đều không ngoại lệ vì họ muốn nhắm tới việc so sánh họ giống như ông trong các cuộc tranh luận bầu cử sơ bộ, thậm chí bắt chước các chiến lược vận động tranh cử của ông. Người được đảng Cộng hòa đề cử ra tranh cử tổng thống là John McCain thường xuyên phát biểu rằng ông nhận nhiệm sở với tư cách là "một người lính chân đất trong cuộc cách mạng của Reagan". Sau cùng, lời nói nổi tiếng nhất của Reagan rằng "Chính phủ không phải là giải pháp đối với vấn đề của chúng ta mà chính phủ là vấn đề", đã trở thành khẩu hiệu không chính thức đối với sự trỗi dậy của những nhà bình luận bảo thủ như Glenn Beck và Rush Limbaugh cũng như sự ra đời của Phong trào Tea Party.
Khuôn mặt văn hóa và chính trị
Theo người viết xã luận Chuck Raasch, "Reagan đã chuyển hóa vai trò tổng thống Mỹ trong cách thức mà chỉ có ít người đã có thể làm được". Ông tái định nghĩa nghị trình chính trị của các thời đại, chủ trương thuế thấp hơn, một triết lý kinh tế bảo thủ, và một quân đội mạnh hơn. Vai trò của ông trong Chiến tranh lạnh càng làm gia tăng hình tượng của ông trong vai trò một loại người lãnh đạo khác biệt. "Phong cách cha chú, chủ nghĩa lạc quan, và cách cư xử bình dân" của Reagan cũng giúp ông biến "công khích chính phủ thành một hình thức nghệ thuật".
Trong lúc đương nhiệm, tổng thống Reagan không được tỉ lệ chấp thuận cao nhất của công chúng, nhưng sự ủng hộ dành cho ông gia tăng kể từ năm 1989. Các cuộc thăm dò công chúng của Gallup năm 2001 và 2007 đã xếp ông đứng đầu hoặc đứng thứ hai khi những người trả lời thăm dò được hỏi ai là tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử. Reagan được xếp thứ ba trong số các tổng thống thời hậu Chiến tranh thế giới thứ hai trong một cuộc thăm dò của Rasmussen Reports vào năm 2007, đứng thứ năm trong cuộc thăm dò của đài truyền hình ABC năm 2000, đứng thứ chín (trong số tất cả tổng thống của mọi thời đại) trong một cuộc thăm dò khác cũng của Rasmussen thực hiện vào năm 2007, và đứng thứ tám trong cuộc thăm dò cuối năm 2008 của tờ báo Vương quốc Liên hiệp Anh là tờ The Times. Tuy nhiên, trong một cuộc thăm dò của Đại học Siena, được thực hiện với trên 200 sử gia, Reagan được xếp thứ 16 trong số 42 vị tổng thống của Hoa Kỳ. Trong lúc cuộc tranh luận về di sản của Reagan còn đang tiếp diễn thì cuộc thăm dò công chúng về các vị tổng thống do C-SPAN tổ chức hàng năm vào năm 2009 đã xếp Reagan là vị tổng thống vĩ đại thứ mười. Cuộc thăm dò với các sử gia hàng đầu đã xếp Reagan đứng thứ 11 năm 2000.
Năm 2011, Viện Nghiên cứu Mỹ châu phát hành bảng thăm dò hàn lâm đầu tiên chưa từng có trước đây của Vương quốc Liên hiệp Anh với mục đích xếp hạng các vị tổng thống Hoa Kỳ. Cuộc thăm dò các chuyên gia Vương quốc Liên hiệp Anh về lịch sử và chính trị Hoa Kỳ đã xếp Reagan là tổng thống vĩ đại thứ tám của Hoa Kỳ.
Khả năng truyền đạt gần gũi với dân của Reagan đã giúp cho ông có được biệt danh đáng kính là "nhà truyền đạt vĩ đại". Về việc này, Reagan nói như sau: "tôi giành được biệt danh nhà truyền đạt vĩ đại. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ nghĩ rằng chính kiểu cách của tôi đã tạo nên sự khác biệt mà chính là phần nội dung. Tôi không phải là một nhà truyền đạt vĩ đại, nhưng (đúng hơn) tôi đã truyền đạt những điều vĩ đại." Tuổi tác và giọng nói nhẹ nhàng của ông đã giúp cho ông có một hình ảnh nồng ấm giống như cha già đối với người Mỹ.
Reagan cũng nhận được biệt danh là "Teflon President" (tổng thống với thanh danh không gì có thể gây tổn hại) mà theo đó nhận thức của công chúng đối với ông vẫn không bị lu mờ sau những vụ tai tiếng xảy ra trong suốt thời gian ông làm tổng thống. Theo nữ nghị sĩ Patricia Schroeder (người đặt ra thuật từ trên) và phóng viên Howard Kurtz, tính ngữ đó ám chỉ đến khả năng của Reagan "làm hầu như bất cứ điều gì sai trái và rồi không bị đổ lỗi vì điều sai trái đó".
Phản ứng của công chúng đối với Reagan luôn đa dạng; tổng thống già nhất được sự ủng hộ của các cử tri trẻ tuổi, và bắt đầu liên minh để rồi dịch chuyển nhiều người trong số họ sang đảng Cộng hòa. Reagan không được lòng cho lắm đối với các nhóm dân thiểu số, đặc biệt là người Mỹ gốc châu Phi. Sự việc này phần lớn là vì sự phản đối của ông đối với các chính sách "hành động khẳng định" (tại Mỹ, "affirmative action" là thuật ngữ được dùng để chỉ chính sách ưu tiên dành cho dân thiểu số). Tuy nhiên, sự ủng hộ của ông dành cho Israel suốt thời làm tổng thống đã giúp cho ông giành được sự ủng hộ của nhiều người Do Thái. Ông trở thành đảng viên Cộng hòa đầu tiên từng lấy được đa số phiếu bầu của các cử tri gốc Do Thái. Ông luôn nhấn mạnh đến giá trị gia đính trong các cuộc vận động tranh cữ và trong suốt những năm làm tổng thống mặc dù ông là tổng thống đầu tiên từng li dị. Sự kết hợp giữa các yếu tố bao gồm kiểu cách ăn nói, chủ nghĩa yêu nước không nao núng, tài năng thương thảo cũng như việc sử dụng giới truyền thông một cách khôn khéo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định nghĩa thập niên 1980 và di sản tương lai của ông.
Reagan được biết là thường hay nói đùa trong suốt cuộc đời của ông, biểu diễn tính khôi hài trong suốt thời gian làm tổng thống, và nổi tiếng với biệt tài kể chuyện. Vô số các lần nói đùa và nói đơn độc một câu của ông đã được gán nhãn là "hài hước, châm biếm cổ điển" và "huyền thoại". Trong số lần nói đùa nổi bật nhất là lần nói đùa liên quan đến chiến tranh lạnh. Khi kiểm tra âm thanh trước khi phát biểu hàng tuần trên radio vào tháng 8 năm 1984, Reagan đã nói đùa như sau khi kiểm tra âm thanh micrô: "Thưa đồng bào Mỹ của tôi, tôi trân trọng thông báo đến mọi người hôm nay rằng tôi đã ký luật nhằm đặt Nga ra khỏi vòng pháp luận vĩnh viễn. Chúng ta bắt đầu đánh bom trong vòng 5 phút." Cựu trợ tá David Gergen có ý kiến rằng "chính cái kiểu hài hước đó... mà theo tôi nghĩ, đã làm cho người dân quý mến Reagan."
Vinh danh
Reagan nhận một số giải thưởng trong những năm trước và sau khi mãn nhiệm tổng thống. Sau khi được bầu làm tổng thống, Reagan nhận được tư cách thành viên "vàng" trọn đời của công đoàn điện ảnh Screen Actors Guild, được tuyển chọn là Diễn giả Đại sảnh Danh vọng của Hội Diễn giả Quốc gia và nhận được giải Sylvanus Thayer của Học viện Quân sự Hoa Kỳ.
Năm 1989, Reagan được vinh danh là Hiệp sĩ Đại Thập tự Danh dự thuộc Huân chương Bath, một trong số các huân chương cao quý nhất của Vương quốc Liên hiệp Anh. Chỉ có hai tổng thống Mỹ đã nhận vinh dự này, đó là Reagan và George H.W. Bush. Reagan cũng được vinh danh viện sĩ danh dự của Đại học Keble, Oxford. Nhật Bản trao tặng ông Huân chương Hoa cúc năm 1989. Ông là người Mỹ thứ hai nhận được huân chương này và là người đầu tiên nhận được huân chương này vì những lý do cá nhân (Dwight D. Eisenhower nhận được huân chương này như một món quà lưu niệm cho mối quan hệ Nhật Bản và Hoa Kỳ).
Ngày 18 tháng 1 năm 1993, cựu phó tổng thống của Reagan đồng thời là tổng thống đương nhiệm George H. W. Bush trao tặng ông Huân chương Tự do Tổng thống, đây là huân chương vinh dự nhất của Hoa Kỳ. Reagan cũng được trao Huân chương Tự do Thượng viện đảng Cộng hòa, huân chương cao quý nhất dành cho thành viên đảng Cộng hòa tại Thượng viện Hoa Kỳ.
Vào sinh nhật thứ 87 của Reagan năm 1998, Sân bay Quốc gia Washington được đặt tên lại là Sân bay Quốc gia Ronald Reagan Washington bởi một đao luật được tổng thống Bill Clinton ký thành luật. Năm đó, Trung tâm Thương mại Quốc tế và Tòa nhà Ronald Reagan được khánh thành tại Washington, D.C. Ông là một trong số 18 người có tên trong Danh sách những người được kính mến rộng rải trong thế kỷ XX của viện Gallup. Danh sách này là kết quả từ cuộc thăm đò công chúng Mỹ được tiến hành trong năm 1999. Hai năm sau đó, siêu hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan được Nancy Reagan và Hải quân Hoa Kỳ làm lễ khánh thành. Đây là một trong số ít tài hải quân được khánh thành để vinh danh một người còn sống và là hàng không mẫu hạm đầu tiên được đặt tên để vinh danh một cựu tổng thống còn sống.
Năm 1998 Quỹ Tưởng niệm Hải quân Hoa Kỳ trao giải di sản hải quân cho Reagan vì sự ủng hộ của ông dành cho Hải quân và quân đội trong suốt cả sự nghiệp điện ảnh và trong lúc phục vụ trong vai trò tổng thống.
Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền thành lập Khu Lịch sử Quốc gia Nhà thời bé của Ronald Reagan tại Dixon, Illinois năm 2002 trong lúc chờ đợi chính phủ liên bang mua khu nhà này. Ngày 16 tháng 5 năm đó, Nancy Reagan nhận Huân chương Vàng Quốc hội, huân chương dân sự vinh dự nhất của Quốc hội Hoa Kỳ, thay mặt tổng thống và đây cũng chính là của bà.
Sau khi Reagan qua đời, Cục Bưu điện Hoa Kỳ phát hành tem tưởng niệm Tống thống Ronald Reagan năm 2005. Sau đó trong năm, CNN cùng với các biên tập viên của tạp chí Time nêu tên ông là "người quyến rũ nhất" trong 25 năm đầu tiên của hệ thống; Time cũng đưa Reagan vào danh sách 100 người quan trọng nhất thế kỷ XX. Discovery Channel hỏi khán giả của mình bình chọn người Mỹ vĩ đại nhất vào tháng 6 năm 2005; Reagan đứng hạng nhất, trước Lincoln và Martin Luther King, Jr.
Năm 2006, Reagan được chọn vào Đại sảnh Danh vọng California nằm tại Bảo tàng Lịch sử, Phụ nữ và Mỹ thuật California. Mỗi năm kể từ năm 2002, tống đốc California Gray Davis và Arnold Schwarzenegger đều tuyên bố ngày 6 tháng 2 là "Ngày Ronald Reagan" trong tiểu bang California để vinh danh người tiền nhiệm lừng danh của họ. Năm 2010, Schwarzenegger ký Đạo luật Thượng viện California 944 với sự ủy quyền của thượng nghị sĩ George Runner để biến ngày 6 tháng 2 là Ngày Ronald Reagan trong tiểu bang California.
Năm 2007, tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński phong tặng Reagan sau khi mất huân chương cao quý nhất Ba Lan là Huân chương Ó trắng và nói rằng Reagan đã tạo nguồn hứng khởi cho nhân dân Ba Lan làm việc để tạo thay đổi và giúp lật đổ chế độ cộng sản áp bức; Kaczyński nói rằng "điều đó đáng lẽ đã không thể xảy ra nếu như không có đầu óc cứng rắn, sự kiên định và cảm nghĩ về sứ mệnh của tổng thống Ronald Reagan". Reagan hậu thuẫn quốc gia Ba Lan trong suốt thời làm tổng thống, ủng hộ phong trào Đoàn kết chống cộng cùng với giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Ngày 3 tháng 6 năm 2009, Nancy Reagan ra mắt một bức tượng về người chồng quá cố của bà trong gian phòng tròn của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ. Bức tượng đại diện cho tiểu bang California trong Bộ sưu tập Đại sảnh Tượng Quốc gia. Sau khi Reagan qua đời, cả hai đảng chính trị lớn của Mỹ đồng ý dựng bức tượng của Reagan tại nơi bức tượng của Thomas Starr King. Ngày trước đó, Tổng thống Obama ký Đạo luật Ronald Reagan Centennial Commission (ủy ban tổ chức mừng sinh nhật thứ 100 của Ronald Reagan) thành luật nhằm thành lập ủy ban hoạch định các hoạt động để đánh dấu ngày sinh thứ 100 của Reagan sắp đến.
Lễ độc lập năm 2011 chứng kiến sự ra mắt một bức tượng khác của Reagan nhưng lần này tại thủ đô của Vương quốc Liên hiệp Anh là Luân Đôn, bên ngoài Đại sứ quán Hoa Kỳ trong Quảng trường Grosvenor. Buổi lễ ra mắt bức tượng đáng lẽ có sự hiện diện của phu nhân của Reagan là Nancy nhưng bà đã không đến dự. Cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice thay mặt bà đọc một bài diễn văn ngắn. Ngoài sự vắng mặt của cựu Đệ Nhất Phu nhân, người bạn của Reagan và cũng là thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh trong suốt thời gian tổng thống của ông là Baroness Thatcher cũng không thể đến dự vì sức khỏe yếu.
Chú thích
Sách tham khảo bằng tiếng Anh |
BitTorrent là một giao thức chia sẻ tài nguyên trên mạng ngang hàng, đồng thời là tên của một chương trình chia sẻ tài nguyên ngang hàng được phát triển bởi lập trình viên Bram Cohen. BitTorrent dùng để tải về những dữ liệu lớn mà không tốn chi phí máy chủ và băng thông mạng. CacheLogic ước đoán BitTorrent chiếm khoảng 35% lưu lượng trên mạng Internet trong khi một số nguồn khác cho rằng con số này không chính xác.
Giao thức BitTorrent có thể thay thế cho máy chủ và cung cấp mạng lưới để truyền các file lớn. Tốt hơn là download 1 file từ một máy chủ (nguồn cấp) duy nhất, BitTorrent cho phép người dùng tham gia vào một cộng đồng mạng để có thể upload/download (trao đổi tệp tin) với nhau. Giao thức này là một thay thế cho việc tải từ nguồn đơn cũ bằng nhiều nguồn khác (mirror sources) để phân phối dữ liệu và hoạt động tốt hơn rất nhiều đối với những mạng có băng thông thấp (băng thông giữa nguồn và đích thấp). Bằng cách sử dụng phương thức BitTorrent, rất nhiều máy tính (như máy tính cá nhân ở nhà) có thể thay thế cho một sever lớn, rất hiệu quả cho việc phân phối tập tin tới nhiều người nhận. Sử dụng băng thông thấp còn giúp ngăn ngừa đột biến lớn cho đường truyền Internet ở trong khu vực, giữ cho tốc độ Internet tốt hơn cho những người dùng khác bất kể họ có hay không sử dụng giao thức BitTorent.
Chương trình BitTorrent nguyên thủy được viết bằng Python và mã nguồn của chương trình BitTorrent phiên bản 4.0 được phát phát hành dưới dạng mã nguồn mở tuân theo "Bản quyền sử dụng mã nguồn BitTorrent". BitTorrent có rất nhiều biến thể khác nhau được viết bằng các ngôn ngữ lập trình khác nhau, chạy trên các hệ điều hành khác nhau.
BitTorrent hoạt động như thế nào?
Giao thức BitTorrent định nghĩa một phương thức để phổ biến và chia sẻ tệp trên mạng. Trước khi BitTorrent ra đời đã tồn tại các giao thức ngang hàng (Peer-to-Peer, hoặc viết tắt là P2P) có khả năng cho phép một nhóm máy tính trên mạng chia sẻ tệp với các máy tính khác nhóm mà không cần phải sử dụng một máy chủ để làm kho lưu trữ trung tâm. BitTorrent là một cải tiến từ các giao thức ngang hàng trước. Giao thức BitTorrent có một nguyên lý hoạt động chặt chẽ để có khả năng tùy biến, tin cậy và chi phí duy trì danh sách các máy tính chia sẻ tệp tốt hơn các giao thức ngang hàng trước đó. Do giao tiếp theo chuẩn TCP/IP nên giao thức BitTorrent có thể hoạt động trên đường truyền Internet thông thường.
Giao thức BitTorrent có thể thay thế cho máy chủ và cung cấp mạng lưới để truyền các file lớn. Tốt hơn là download 1 file từ một máy chủ (nguồn cấp) duy nhất, BitTorrent cho phép người dùng tham gia vào một cộng đồng mạng để có thể upload/download (trao đổi tệp tin) với nhau. Giao thức này là một thay thế cho việc tải từ nguồn đơn cũ bằng nhiều nguồn khác (mirror sources) để phân phối dữ liệu và hoạt động tốt hơn rất nhiều đối với những mạng có băng thông thấp (băng thông giữa nguồn và đích thấp). Bằng cách sử dụng phương thức BitTorrent, rất nhiều máy tính (như máy tính cá nhân ở nhà) có thể thay thế cho một sever lớn, rất hiệu quả cho việc phân phối tập tin tới nhiều người nhận. Sử dụng băng thông thấp còn giúp ngăn ngừa đột biến lớn cho đường truyền Internet ở trong khu vực, giữ cho tốt độ Internet tốt hơn cho những người dùng khác bất kể họ có hay không sử dụng giao thức BitTorent.
BitTorrent client là một chương trình hoạt động theo giao thức BitTorrent. Mỗi BitTorrent client có khả năng so sánh, yêu cầu, và vận chuyển tệp trên mạng sử dụng giao thức BitTorrent. Tệp có thể chứa bất kỳ thông tin nào, bao gồm cả văn bản, âm thanh, phim và nội dung đã được mã hóa.
Tạo và phát hành tệp Torrent lên mạng
Để chia sẻ một tệp hay nhiều tệp bằng giao thức BitTorrent, đầu tiên cần tạo tệp .torrent. Mỗi tệp torrent chứa thông tin mô tả tệp muốn chia sẻ, và thông tin về máy cung cấp bản gốc của tệp. Thông tin chi tiết lưu trên máy vi tính theo dõi sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào phiên bản của giao thức BitTorrent, nhưng dù ở phiên bản nào tệp "torrent" luôn luôn có đuôi mở rộng là .torrent. Cụ thể thì một tệp torrent chứa thông tin (địa chỉ URL của máy theo dõi), và thông tin về tên tệp được chia sẻ, kích thước mảnh, chiều dài khóa, chiều dài tệp, và vé thông hành để tải tệp. Một tệp torrent có thể chứa thông tin về một tệp hoặc nhiều tệp. Máy tính đã tải về tệp xong có thể lựa chọn hoạt động như máy gieo hạt, cung cấp bản sao hoàn chỉnh của tệp. Sau khi tệp torrent được tạo, một đường dẫn để tải tệp về từ máy bạn được đặt lên trang web, và tệp torrent được đăng ký với máy theo dõi (tiếng Anh: tracker). Máy theo dõi chứa một danh sách các máy vi tính hiện thời đang tải tệp về. Máy ngang hàng đang cung cấp tệp hoàn chỉnh được gọi là máy gieo hạt (seeder).
Tải xuống tệp torrent và chia sẻ tệp
Dùng một trình duyệt Internet bất kì, như FireFox, duyệt trang web có danh sách các tệp torrent, tải nó về, sau đó dùng chương trình BitTorrent client mở tệp đấy ra. Sau khi đã mở tệp torrent, chương trình BitTorrent sẽ kết nối với máy theo dõi, máy theo dõi sẽ cung cấp cho nó một danh sách các máy vi tính đang tải tệp này. Một nhóm các thành viên của một mạng BitTorrent (hoặc mạng đồng đẳng) để tải về cùng một tệp được gọi là quần thể (swarm).
Việc chia sẻ được bắt đầu từ máy gieo hạt. Các máy tính kết nối đầu tiên sẽ hướng trực tiếp tới máy gieo hạt để bắt đầu tải về các mảnh của tệp. Giao thức BitTorrent chia tệp cần tải về thành các phần nhỏ có kích thước bằng nhau (thường là 1/4 megabyte = 256 kilobyte), ví dụ một tệp có kích thước 4,37 GB thường sẽ bị chia thành các mảnh nhỏ có kích thước là 4 MB (4096 kB) hoặc nhỏ hơn nữa. Khi máy vi tính nhận được các mảnh này nó sẽ dùng giải thuật băm để kiểm tra xem mảnh nó tải về có bị lỗi hay không.
Khi máy vi tính kết nối vào quần thể, các máy vi tính sẽ bắt đầu chia sẻ tệp với nhau. Các máy vi tính sẽ chia sẻ các mảnh với nhau thay vì chia sẻ trực tiếp với máy gieo hạt, vì vậy số lượng máy trong quần thể chia sẻ theo giao thức BitTorrent có thể phát triển rất nhanh. Vì nguyên lý hoạt động của giao thức rất chặt chẽ nên các máy tự chọn máy ngang hàng có kết nối tốt nhất để tải về các mảnh nó cần. Một điểm mới đột phá của giao thức BitTorrent so với các giao thức đồng đẳng trước đó là nguyên lý "mảnh hiếm". Theo giao thức BitTorrent máy khách luôn luôn yêu các mảnh hiếm nhất, mảnh này ít máy vi tính trong quần thể có nhất. Với nguyên lý yêu cầu mảnh hiếm nhất giao thức BitTorrent làm giảm tải của các máy khách trong việc đáp ứng các yêu cầu gửi đến nó, và không còn hiện tượng nút cổ chai.
Giao thức BitTorrent có một nguyên lý là "tín nhiệm mở" tạo nên "nhóm máy ưa thích". Máy ưa thích là một tập các máy ngang hàng trong quần thể cung cấp băng thông tải lên lớn cho các máy khách có yêu cầu tải về. Tín nhiệm mở cho phép các chương trình BitTorrent kiểm tra định kỳ xem máy nào trong quần thể nên lựa chọn để tải về. Nếu một máy ngang hàng ngoài nhóm ưu thích có băng thông phục vụ các máy khác trong quần thể tốt hơn một máy trong nhóm ưa thích thì nó đẩy máy phục vụ kém hơn ra khỏi nhóm ưa thích và thay thế vào vị trí đó. Nguyên lý này làm cho các máy khách luôn luôn tải về từ nhóm máy ngang hàng phục vụ tốt nhất.
Giới hạn
Cần chú ý là giao thức BitTorrent không giúp người dùng giấu tên. Bởi vì máy theo dõi duy trì một danh sách các tệp đang được chia sẻ, đồng thời nó cũng chứa danh sách địa chỉ IP của các máy vi tính đang tải tệp, và danh sách các tệp đã được tải trước đó. Dựa vào giao thức BitTorrent còn biết chắc chắn địa chỉ của các máy ngang hàng trong quần thể, và tất nhiên là các máy ngang hàng có thể bị tấn công.
Nhược điểm của giao thức BitTorrent là ít khuyến khích các máy ngang hàng trở thành máy gieo hạt sau khi đã tải về xong tệp. Hệ quả là các máy gieo hạt sẽ biến mất và các máy trong quần thể cũng biến mất dần, nghĩa là tệp torrent càng cũ thì xác suất để tải tệp thành công càng thấp. BitTorrent có ưu thế trong môi trường băng thông rộng như DSL, cáp, vệ tinh...còn đối với người dùng Internet quay số sử dụng giao thức BitTorrent sẽ không hiệu quả, vì kết nối quay số hay bị đứt kết nối và tốc độ tải không cao.
Thuật ngữ
availability
Là số lượng bản sao hoàn chỉnh của tệp hiện hữu ở các máy ngang hàng. Mỗi máy chủ truyền tập tin cộng thêm 1 vào số này. Nếu máy ngang hàng có một phần của tệp chia sẻ mà các máy con khác không có thì cộng phần phân số này vào chỉ số hiệu lực (ví dụ: máy ngang hàng tải về 65,3% tệp thì cộng 0.653 vào chỉ số hiệu lực, khi có 2 máy ngang hàng có 50% của tệp cần tải về như nhau và có một máy chủ truyền tập tin thì chỉ số hiệu lực là 1,5).
choked
Diễn tả máy ngang hàng đang tải lên làm nghẹt đường truyền dữ liệu đến của các máy ngang hàng khác. Tình trạng này do hai nguyên nhân sau:
Máy ngang hàng là máy chủ, trong trường hợp này nó không muốn nhận thêm bất kỳ mảnh dữ liệu nào từ các máy ngang hàng khác.
Máy ngang hàng đang tải lên đã đạt đến giới hạn băng thông tải lên.
interested
Diễn tả máy ngang hàng cần tải về mảnh dữ liệu nó thiếu từ máy ngang hàng khác.
leech
Diễn tả một máy trong mạng hàng ngang tham gia chia sẻ tệp nhưng chưa có hoặc có không đầy đủ tệp đó, trong mạng hàng ngang máy này sẽ thực hiện hai công việc là chia sẻ những tệp mình đã có và nhận về những tệp mình chưa có. Khi một leech đã nhận về đủ tệp và vẫn tiếp tục tham gia chia sẻ tệp này thì sẽ được gọi là seed
peer
peer là máy sử dụng chương trình BitTorrent có tham gia chia sẻ dữ liệu (tải về hoặc gởi đi). Thường máy ngang hàng diễn tả máy chưa có đủ tệp hoàn chỉnh. Cần lưu ý là ‘peer’ chỉ bất kỳ máy nào trong quần thể liên quan đến tệp torrent bao gồm cả máy leech, máy seed.
scrape
Xảy ra khi máy ngang hàng gửi máy theo dõi (tracker) để lấy thông tin về tình trạng của tệp .torrent
seed
Máy chủ truyền tập tin là máy ngang hàng có bản sao của tệp và đang tải lên tệp. Càng nhiều máy chủ truyền tập tin thì xác suất tải về tệp thành công càng cao và thời gian tải về càng nhanh.
snubbed
Máy trạm bị gắn cờ có giá trị snubbed khi quá thời gian 60s mà các máy ngang hàng khác không tải về được dữ liệu từ nó.
superseed
Nếu máy trạm lần đầu tiên tải lên tệp thì nó có thể tốn rất nhiều thời gian vì gửi đi gửi lại một mảnh dữ liệu như nhau cho các máy trạm khác nhau kết nối với nó. Để ngăn ngừa trường hợp này, các chương trình BitTorrent có khả năng hỗ trợ tính năng siêu tải lên, khi đó chương trình BitTorrent sẽ cố gắng chỉ tải lên một lần duy nhất các mãnh dữ liệu, nó chỉ tải lên các mãnh dữ liệu trước đây chưa bao giờ gửi đi phân phối cho các máy ngang hàng khác nhau trong mạng.
swarm
Tập hợp tất cả máy ngang hàng và máy gieo hạt có nhu cầu một tệp.
torrent
Chỉ tệp .torrent hoặc tất cả các tệp miêu tả bởi nó. Tệp torrent chứa tất cả các tệp có thể tải về từ nó, gồm tên, kích thước tệp mà giá trị kiểm checksums của tất cả các mảnh dữ liệu, địa chỉ của máy chủ theo dõi vị trí của các máy trạm giữa các máy trong tập hợp máy trạm.
tracker
Máy theo dõi là một máy ngang hàng ghi lại nhật ký máy nào là máy gieo hạt, máy ngang hàng. Các máy ngang hàng báo cáo thông tin cho máy theo dõi định kỳ và nhận lấy thông tin về các máy ngang hàng mà nó có thể kết nối tới để tải về dữ liệu nó cần và tải lên dữ liệu nó có mà các máy khác yêu cầu. Máy theo dõi không chuyển dữ liệu giữa các máy và không có bản sao của tệp.
So sánh giữa các hệ thống chia sẻ tài nguyên khác
Phương pháp dùng để phân phối tệp giữa mạng eDonkey2000 và BitTorrent là giống nhau, nhưng những các máy trong mạng eDonkey thường chia sẻ và tải về rất nhiều tệp, làm cho băng thông cho mỗi vận chuyển trở nên ít hơn. Ngược lại, vận chuyển BitTorrent nhanh hơn nhiều do các máy tập trung vào một tệp hay một nhóm tệp cụ thể. Giao thức eDonkey2000 nguyên thủy cung cấp rất ít khả năng chống máy gian lận (tải về nhiều, tải lên rất ít), các phiên bản client mới của eDonkey2000 có cài đặt hệ thống khuyến khích tải lên nhiều hơn. Ví dụ chương trình eMule có hệ thống điểm (credits system) để thưởng các máy tải lên nhiều. Một máy sẽ ưu tiên các máy vận chuyển cho mình trước đây bằng cách chuyển các vị trí các máy này lên đầu của hàng đợi làm cho thời gian chờ ít hơn. Hệ thống này tỏ ra khá hiệu quả vì hàng đợi trong mỗi máy khách sử dụng eMule thường lên đến hàng trăm, thậm chí hàng ngàn.
KaZaA là một giao thức gần giống với giao thức BitTorrent nhưng nó có một điểm khác đó là nó phân biệt các máy trạm theo cấp cống hiến (Participation Level). Cấp cống hiến tăng khi bạn tải lên và giảm khi bạn tải về. Khi bạn tải lên một tài nguyên thì người có cấp cống hiến cao nhất nhận đầu tiên sau đó người có cấp cống hiến cao nhất này tải lên cho người có cấp cống hiến thấp hơn và cứ tiếp tục như vậy. Mô hình này tương tự như mô hình kim tự tháp, với người tải lên nhiều nhất ở vị trí đỉnh của kim tự tháp, và người ít tải lên ở các vị trí đáy của kim tự tháp. Mô hình KaZaA chỉ thích hợp phân phối tài nguyên cho một số lượng lớn người dùng, nó đã được chứng minh là người ở đáy kim tự tháp tải tệp về nhanh hơn trường hợp tải tệp về bằng phương pháp HTTP (trong trường hợp tệp rất lớn). Nhưng mô hình KaZaA có một nhược điểm nhỏ đó là nó tin tưởng vào báo cáo của các máy trạm về cấp cống hiến vì vậy các máy trạm có thể gian lận cấp cống hiến với rất nhiều các máy trạm không chính thức.
Bản quyền sử dụng BitTorrent
Với sự phát triển lớn mạnh của các cá nhân và tổ chức sử dụng giao thức BitTorrent để phân phối tài nguyên. Rất nhiều tổ chức thú nhận rằng chỉ có sử dụng giao thức BitTorrent mới có thể phân phối tệp của họ cho người dùng với chi phí phần cứng mạng và băng thông tối tiểu. Điều này làm tăng nhanh kích thước và chất lượng của tài nguyên phân phối trên mạng Internet.
Phần mềm
Rất nhiều phần mềm mã nguồn mở chính thức và phần mềm miễn phí được cung cấp bằng giao thức BitTorrent để tăng tính hiệu lực của tệp và giảm tải máy chủ của nhà cung cấp. Ví dụ trang web openoffice.org và hầu hết các bản phân phối của Linux, trong đó có SUSE và (K)ubuntu.
BitTorrent đồng thời cũng được dùng để phân phối bản cập nhật cho chính chương trình BitTorrent client, ví dụ chương trình BitTorrent Azureus.
Trò chơi
Trang http://www.gameupdates.org cung cấp trò chơi có bản quyền thông qua giao thức BitTorrent; phiên bản chơi thử của trò chơi mô phỏng lái máy bay X-Plan cũng được cung cấp thông qua giao thức BitTorrent. Bản vá của trò chơi ‘‘World of Warcraft’’ được tải về từ trong trò chơi thông qua giao thức BitTorrent. Một ví dụ khác là mã nguồn của trò chơi nhập vai PlaneShift (MMORPG) được cung cấp chủ yếu bằng BitTorrent.
Năm 2004 Valve Software thuê Bram Cohen, người tạo ra giao thức BitTorrent, để phát triển công cụ chuyên phân phối bản vá trò chơi của hãng và các nội dung cho trò chơi trực tuyến.
Phim
Xưởng phim Warner Brothers Records dự kiến phát hành phim và chương trình TV của họ bằng giao thức BitTorrent. Người hâm mộ bộ phim ‘‘Star Wars: Revelations’’ có thể xem được phim thông qua hai đĩa DVD do chính hãng cung cấp hoặc họ tự tải phim về thông qua BitTorrent.
Âm nhạc
Từ năm 2006 các tệp nhạc có định dạng mp3 tại Lễ hội âm nhạc SXSW (South by South West) ở Austin, Texas— thường có hàng nghìn tệp mp3—được phát hành bằng BitTorrent, đồng thời phát hành hai đĩa DVD phim giới thiệu. Nhóm nhạc Babyshambles, Pete Doherty phát hành hai tuyển tập âm nhạc, Shaking and Withdrawn Megamix và Untitled bằng BitTorrent thông qua trang web chính thức của nhóm.
Các tài nguyên khác
Nhà sản xuất Peter Jackson phát hành bộ phim King Kong bằng BitTorrent. Democracy Now! phân phối chương trình TV và chương trình trên đài phát thanh thường ngày song song bằng cả vệ tinh, cáp và giao thức BitTorrent.Một vài công ty Anime cũng sử dụng BitTorrent để phân phối một đoạn trong truyện hoặc đoạn giới thiệu để quảng cáo sản phẩm. Thêm vào đó NASA, cơ quan nghiên cứu vũ trụ của Mỹ, đã thêm BitTorrent làm phương tiện để giúp mọi người có thể tải về những bức ảnh không gian rất lớn.
Việc sử dụng bất hợp pháp
Giống như các giao thức chia sẻ tệp khác, BitTorrent cũng có thể sẽ bị sử dụng để phân phối tệp mà không có sự cho phép của tác giả. BitTorrent từng nhận rất nhiều lời chỉ trích về sự vi phạm bản quyền tác giả của nó (chủ yếu từ Hollywood của Mỹ).
Tháng 12 năm 2004, cảnh sát Phần Lan bất ngờ kiểm tra trang web phân phối tệp torrent Finreator, và trang web này bị buộc phải đóng cửa. Tháng 12 năm 2004, một trang web cung cấp tệp torrent rất phổ biến, Suprnova.org cũng bị buộc phải đóng cửa. LokiTorrent, trang web cung cấp tệp torrent lớn thứ hai sau Suprnova, cũng bị buộc đóng cửa không lâu sau đó. Nhiều người cho rằng chủ trang web Suprnova Edward Webber bị tố cáo bởi tổ chức MPAA, bị buộc phải trả tiền vi phạm bản quyền và phải cung cấp cho MPAA danh sách các địa chỉ IP của các máy vi tính tải tệp về.
Nhưng trong tuần sau đó Webber đã trả tiền cho luật sư để kiện lại MPAA. Trong bản báo cáo Webber nói rằng ông chỉ muốn bảo vệ những người đã chia sẻ tệp, mặc dù ông không phải là người chia sẻ tệp. Webber đã chi khoảng 45.000 đô la Mỹ cho vụ kiện. Không rõ MPAA đã nhận được bao nhiêu tiền nhưng theo một thỏa thuận MPAA yêu cầu chủ trang web LokiTorrent thêm một thông báo vào trang web của mình cảnh báo những người chia sẻ tệp.
Tháng 5 năm 2005, trang web cung cấp tệp torrent, EliteTorrents.org, bị buộc đóng cửa bởi Cục điều tra liên bang Mỹ (United States Federal Bureau of Investigation), Sở Di trú và Hải quan Mỹ. Người ta nghi ngờ rằng hacker đã chiếm được quyền điều khiển của trang web EliteTorrents.org nhưng sau đó mới khám phá ra rằng trang web bị tiếp quản bởi chính phủ Mỹ. 10 trát đòi hầu tòa các thành viên liên quan đến trang web đã được đưa ra.
Ngày 24 tháng 10 năm 2005, người sử dụng BitTorrent tại Hong Kong tên là Trần Nãi Minh (陳乃明 Chan Naiming, sử dụng biệt danh 古惑天皇, có nghĩa là Vua láu cá, còn quan tòa địa phương gọi ông ta là ‘‘Big Crook’’) đã phân phối ba bộ phim Daredevil, Red Planet và Miss Congeniality thông qua giao thức BitTorrent. Ông ta bị quan tòa kết án là vi phạm bản quyền tác giả theo chương 528 của luật Hồng Kông. Ông ta bị buộc phải trả 5000 đô la Hồng Kông. Ngày 7 tháng 11 năm 2005 ông ta sắp bị tống giam 3 tháng thì được Tòa án tối cao của Hồng Kông cho hưởng án treo.
Ngày 23 tháng 11 năm 2005, ngành công nghiệp phim và Bram Cohen, người tạo ra giao thức BitTorrent ký một bản cam kết giảm lượng phim chia sẻ bất hợp pháp trên mạng chia sẻ theo giao thức BitTorrent. Theo bản cam kết này trang web BitTorrent.com sẽ loại bỏ các tệp torrent có chứa phim vi phạm bản quyền của Hollywood.
Một trang web cung cấp tệp torrent khác, ThePirateBay.org cũng phải chỉnh sửa để tuân theo luật bản quyền của Thụy Điển. Trang web này có rất nhiều tệp torrent chỉ tới bảo về bản quyền tác giả. Trang web Pirate Bay nổi tiếng vì nó có riêng một phần gọi là ‘‘phần hợp pháp’’ trong đó chứa các lá thư và câu trả lời về sự vi phạm bản quyền được hiển thị công khai. Bản gốc của câu trả lời viết trên giấy có thời gian được bán trên trang ebay với giá 225 đô la Mỹ.
Những lời biện hộ hợp pháp
Có hai điểm khác biệt chính giữa giao thức BitTorrent và các giao thức chia sẻ tệp ngang hàng khác. Thứ nhất BitTorrent không cung cấp khả năng tìm tệp cần tải theo tên. Người sử dụng phải dùng công cụ tìm kiếm để tìm tệp torrent chứa tệp mình cần. Thứ hai, BitTorrent không có cố gắng kết nối thử với máy chủ để tăng khả năng dễ dàng chia sẻ tệp, người sử dụng muốn tải tệp đầu tiên là kết nối với máy theo dõi được ghi trong tệp .torrent. Khi các tổ chức cá nhân muốn kiểm tra trang web thì có thể yêu cầu trang web đóng cửa tạm thời để kiểm tra trong khi đó người dùng vẫn tải tệp và chia sẻ bình thường.
Phép lịch sự khi sử dụng giao thức BitTorrent
Do BitTorrent dựa vào băng thông tải lên của người dùng, nên càng nhiều người dùng thì càng nhiều băng thông có hiệu lực để chia sẻ tệp. Vì vậy người dùng sau khi hoàn thành tải về tệp thì nên để tài nguyên đấy tải lên một thời gian để những người dùng khác tải về các phần của tài nguyên đã phân phối cho người dùng đấy.
Vậy câu hỏi đặt ra là nên để thời gian bao nhiêu lâu để tải tệp lên sau khi đã hoàn thành việc tải tệp về. Rất nhiều chương trình BitTorrent theo dõi dung lượng mà máy khách tải lên và tải về, vì vậy người dùng có thể biết được mình đã tải về bao nhiêu và đã trả lại bao nhiêu cho mạng chia sẻ bao nhiêu dữ liệu. Một số chương trình BitTorrent dùng thông số "tỉ lệ chia sẻ" (Share ratio), tỉ lệ giữa lượng dữ liệu tải lên và tải về. Tỉ lệ chia sẻ lớn hơn 1 nghĩa là người dùng tải lên nhiều hơn tải về. Nói tóm lại trong mạng chia sẻ theo giao thức BitTorrent một quy tắc ứng xử lịch sự là đã tải về bao nhiêu tài nguyên thì nên tải lên bấy nhiêu tài nguyên.
Tỉ lệ chia sẻ là một thông số rất quan trọng trong giao thức BitTorrent, bởi vì rất nhiều máy chủ theo dõi yêu cầu người dùng phải đạt được một chỉ số chia sẻ tối thiểu. Một vài trường hợp máy chủ theo dõi còn yêu cầu người dùng phải đăng ký, giá trị tối tiểu của chỉ số chia sẻ thường là 0,5 và nó tăng thường xuyên, vì vậy người dùng có thời gian tương ứng để tải lên và chia sẻ tài nguyên của họ. Người dùng nào có tỉ lệ chia sẻ dưới giá trị tối tiểu có thể bị đặt trong tình trạng "chỉ tải lên", và không thể tải về cho đến khi tỉ lệ chia sẻ lớn hơn giá trị tối thiểu.
Tỉ lệ chia sẻ được khuyến cáo là 1,0 (được hiểu trả lại cho mạng chia sẻ những gì bạn đã lấy, hoặc 1:1). Thường thì tài nguyên bao giờ cũng có người tải lên đầu tiên, người tải lên đầu tiên này sẽ có tỷ lệ chia sẻ là vô cùng (chỉ có tải lên, không có tải xuống).
Những phát triển mới
Hiện nay BitTorrent vẫn đang được phát triển, nó vẫn cần thêm chức năng mới để tăng cường hiệu quả.
Tháng 5 năm 2005, Bram Cohen phát hành phiên bản thử nghiệm mới của BitTorrent, phiên bản này không cần trang web để làm vai trò máy chủ tập trung, còn được biết là máy chủ theo dõi. Phiên bản mới này có khả năng tải tệp torrent trong vòng một phút. Đồng thời Cohen cho thực hiện dịch vụ tìm kiếm trên trang chủ của BitTorrent, tương tự như các trang web tìm kiếm tệp .torrent khác như www.torrentspy.com.
Cohen giải thích rằng việc bỏ vai trò của máy chủ tập trung đóng vai trò theo dõi là sự cố gắng của ông trong việc phân phối tệp "painless and disruptively cheap". Sự loại bỏ này là một trong những sự loại bỏ sự phụ thuộc vào máy chủ theo dõi tập trung.
Sự loại bỏ này đồng thời ngăn ngừa khả năng cơ quan chức năng bắt buộc đóng cửa trang web thì các máy trạm vẫn chia sẻ tệp bình thường. Tuy nhiên Tarun Sawney, giám đốc Tổ chức chống sao chép bất hợp pháp châu Á BSA cho rằng dù không có trang máy chủ của trang web đóng vai trò là máy theo dõi vẫn có thể xác định được tệp được chia sẻ.
Các cách tiếp cận khác
Giao thức BitTorrent không cung cấp khả năng đánh chỉ mục các tệp torrent. Kết quả là một số trang web có thể chứa tệp torrent có chứa tài nguyên có bản quyền, đặt trang web này có nguy cơ đóng cửa vì vi phạm bản quyền. Để cải tiến, một số nhà phát triển đã tìm cách khác phân phối tệp bằng giao thức khác có tận dụng những thế mạnh của giao thức BitTorrent. Ví dụ chương trình Shareaza cung cấp ba giao thức đồng đẳng bao gồm: eDonkey2000, Gnutella và mạng Shareaza. Nếu máy theo dõi bị sập, chương trình có thể hoàn thành việc tải tệp bằng cách sử dụng giao thức khác. Azureus 2.3.02 và BitTorrent 4.1.2 cũng sử dụng máy chủ theo dõi phân phối riêng biệt để đề phòng một máy chủ theo dõi bị sập có các máy theo dõi khác thay thế, giúp các máy trạm còn lại hoàn thành tải về tệp.
BitTorrent search/Trackerless
Bram Cohen đã phát hành cơ chế tìm kiếm của riêng BitTorrent để tìm kiếm máy chủ theo dõi mặc dù nó không cung cấp tệp torrent và không theo dõi tệp torrent. Từ phiên bản 4.2.0 BitTorrent hỗ trợ tính năng "trackerless", tính năng DHT cho phép các máy khách tải tệp torrent vừa được tạo lập mà không cần theo dõi.
Web seeding (tính năng không chính thức)
Một tính năng mới của BitTorrent được phát triển gần đây là web seeding. Điểm mạnh của tính năng này là trang web có thể phân phối tệp torrent và cho phép tải về từ cùng một ứng dụng máy chủ web; điều này đơn giản quá trình gieo hạt và cân bằng tải khi tính năng này được nhiều chương trình BitTorrent hỗ trợ. Theo lý thuyết tính năng này làm cho việc sử dụng BitTorrent để xuất bản web dễ dàng như tải về trực tiếp. Tính năng này chưa có trong phên bản BitTorrent chính thức, tính năng này được tạo bởi TheSHAD0W, người phát triển chương trình BitTornado, một chương trình chia sẻ tệp ngang hàng theo giao thức BitTorrent.
Broadcasting
Một tính năng khác là kết hợp RSS và BitTorrent để tạo hệ thống phân phối tệp torrent.
API
Mã hóa
Protocol header encrypt (PHE), Mã hóa luồng thông báo (Message stream encryption MSE) hoặc mã hóa giao thức (Protocol encryption PE) là các tính năng của một vài chương trình BitTorrent cố gắng để BitTorrent khó để làm nghẹt (throttle). MSE và PE là hai từ cùng chỉ một giao thức. Tại thời điểm hiện nay chỉ có ba chương trình BitTorrent lớn nhất là Azureus, Bitcomet và µTorrent hỗ trợ mã hóa PE/MSE.
Một vài ISP làm nghẹt giao thông BitTorrent vì nó làm tăng tổng dung lượng vận chuyển của mạng và ISP không muốn mất tiền cho sự tăng băng thông này. ISP chi phí tiền trong thiết kế phần cứng để tìm kiếm và làm nghẹt giao thông BitTorrent. Mã hóa tạo khả năng cho giao thông BitTorrent khó để dò tìm hơn vì vậy khó để làm nghẹt hơn. Gần đây ISP thông báo rằng họ đã nâng cấp phần cứng để giảm thiểu tối đa giao thông BitTorrent. Một vài trường đại học gần đây cũng tham gia nghiên cứu nâng cấp phần cứng để làm nghẹt giao thông BitTorrent, trong đó có trường đại học Brigham Young, ASU, và UTC.
Trao đổi máy ngang hàng (Peer exchange)
Trao đổi máy ngang hàng (PEX) là một phương pháp khác để tập trung các máy ngang hàng dùng giao thức BitTorrent thêm vào máy theo dõi và DHT. Trao đổi máy ngang hàng sẽ kiểm tra xem máy ngang hàng này có danh sách các máy ngang hàng khác không.
Multitracker
Nhiều máy theo dõi là một tính năng mở rộng không chính thức của giao thức BitTorrent được phát triển bởi John Hoffman. Tính năng này cho phép một tệp torrent có nhiều máy theo dõi, có rất nhiều chương trình BitTorrent có tính năng naỳ như BitTornado và µTorrent. Máy theo dõi được đặt theo nhóm hoặc theo tầng, và máy theo dõi được lựa chọn ngẫu nhiên từ trên đỉnh, nếu các máy theo dõi trong tầng không tốt nó sẽ kiểm tra tầng tiếp theo.
Các ứng dụng BitTorrent liên quan
Do BitTorrent là một chương trình được tác giả phát hành dưới dạng ngôn ngữ mở vì vậy có rất nhiều biến thể của chương trình BitTorrent khác nhau viết bằng các ngôn ngữ khác nhau chạy trên nhiều nền hệ điều hành khác nhau.
Chương trình BitTorrent
So sánh các phần mềm BitTorrent
Phân loại chương trình BitTorrent
Cơ chế tìm kiếm của BitTorrent
So sánh các trang web cung cấp tệp torrent
Ứng dụng
So sánh các phần mềm BitTorrent
Anime fansub thường xuyên dùng giao thức BitTorrent để phát hành các sản phẩm của họ, và hầu hết các trang như Animesuki và downloadanime.org cung cấp tin vắn RSS.
GunZ The Duel là một trò chơi có sẵn tính năng torrent được xây dựng trong trò chơi để có thể tải về bản cập nhật cho trò chơi.
Blizzard Entertainment sử dụng để phân phối bản vá cho trò chơi World of Warcraft.
Podcasting
TBSource
Thinkingest
Magnet
Super-seeding
BitTorrent tracker
BitTorrent search engine
BitTornado |
Đức Thọ là một huyện trung du nằm ở phía bắc tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Đức Thọ nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh, nằm cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 57 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 325 km về phía nam, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thị xã Hồng Lĩnh và huyện Can Lộc
Phía tây giáp huyện Hương Sơn
Phía nam giáp huyện Vũ Quang
Phía bắc giáp huyện Nam Đàn và huyện Hưng Nguyên thuộc tỉnh Nghệ An.
Huyện Đức Thọ có diện tích 20.904 ha, dân số năm 2009 là 104.536 người. 11% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Diễn Châu – Bãi Vọt và dự án Đường cao tốc Bãi Vọt – Hàm Nghi đang được xây dựng đi qua.
Hành chính
Huyện Đức Thọ có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Đức Thọ (huyện lỵ) và 15 xã: An Dũng, Bùi La Nhân, Đức Đồng, Đức Lạng, Hòa Lạc, Lâm Trung Thủy, Liên Minh, Quang Vĩnh, Tân Dân, Tân Hương, Thanh Bình Thịnh, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Tùng Châu, Yên Hồ.
Lịch sử
Thời Hùng Vương, Đức Thọ thuộc bộ Cửu Đức trong tổng số 15 bộ của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.
Thời Nhà Tần (221 TCN - 206 TCN), nhà Hán (206 TCN – 220) đô hộ, Đức Thọ nằm trong địa phận huyện Hàm Hoan (bao gồm toàn bộ vùng đất Nghệ Tĩnh) thuộc huyện Cửu Chân.
Thời nhà Đường 629 (Đường Cao Tổ) đô hộ đến thời nhà Lý, Đức thọ có tên là Cổ La thuộc Hoan Châu.
Đến thế kỷ X, vùng đất Đức Thọ nằm trong huyện Cửu Đức.
Thời nhà Lý và nhà Trần, Đức Thọ có tên là Chi La thuộc phủ Đức Quang, Nghệ An châu.
Thời Lê sơ, Đức Thọ có tên là La Giang (1428) thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An.
Thời Lê Trung Hưng (1729 - 1740) để tránh trùng với tên huý của chúa Trịnh Giang nên đổi La Giang thành La Sơn thuộc phủ Đức Quang, trấn Nghệ An.
Thời Minh Mạng (1822) vì trùng tên huý nên phủ Đức Quang đổi tên thành phủ Đức Thọ. Huyện La Sơn (thuộc phủ Đức Thọ) tồn tại đến đầu thế kỷ XX, do phủ Đức Thọ kiêm nhiếp.
Năm Duy Tân thứ 9 (1915), tách tổng Đồng Công nhập về Đức Thọ. Tổng Đồng Công khi đó gồm các xã: Đức Hoà, Đức Lạc, Ân Phú.
Năm Khải Định thứ 6 (1921), tách tổng Lai Thạch thuộc Đức Thọ chuyển về huyện Can Lộc.
Sau 1945, huyện La Sơn đổi thành huyện Đức Thọ như hiện nay.
Trong các năm 1946 - 1947, sáp nhập các làng: Lâm Thao, Hòa Duyệt thuộc tổng Hương Khê, các làng: Thượng Bồng, Hạ Bồng, Phương Duệ, Yên Duệ thuộc tổng Thượng Bồng và xã Ân Phú thuộc tổng Dị Ốc, huyện Hương Sơn vào huyện Đức Thọ và chuyển thành 7 thôn thuộc xã Đồng Công (xã Đồng Công bao gồm 2 xã Ân Phú, Hoà Lạc ngày nay).
Năm 1948, lại tách nhập các xã, xã Ân Phú đổi tên thành xã Đức Ân, năm 1972 lại đổi trở lại là Ân Phú.
Ngày 13 tháng 1 năm 1969, thành lập xã Tân Hương ở vùng khai hoang thuộc huyện Đức Thọ.
Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm thị trấn Đức Thọ và 40 xã: Ân Phú, Châu Phong, Đức An, Đức Bồng, Đức Bùi, Đức Châu, Đức Diên, Đức Đồng, Đức Dũng, Đức Giang, Đức Hòa, Đức Hương, Đức La, Đức Lạc, Đức Lâm, Đức Lạng, Đức Lập, Đức Liên, Đức Lĩnh, Đức Long, Đức Nhân, Đức Ninh, Đức Phúc, Đức Quang, Đức Tân, Đức Thanh, Đức Thịnh, Đức Thuận, Đức Thủy, Đức Trường, Đức Tùng, Đức Vĩnh, Đức Xá, Đức Yên, Tân Hương, Thái Yên, Trung Lễ, Trung Lương, Tùng Ảnh, Yên Thái.
Ngày 23 tháng 2 năm 1977, hợp nhất 2 xã Đức Tân và Đức Trường thành xã Trường Sơn, sáp nhập xóm Minh Giang của xã Đức Giang vào xã Đức Đồng.
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, hợp nhất 2 xã Đức Bùi và Đức Xá thành xã Bùi Xá, hợp nhất 2 xã Đức Diên và Đức Phúc thành xã Yên Hồ, hợp nhất 2 xã Đức Ninh và Yên Thái thành xã Liên Minh, hợp nhất 2 xã Châu Phong và Tùng Ảnh thành xã Tùng Ảnh, sáp nhập xóm Bồng Phúc của xã Đức Bồng vào xã Đức Lạng.
Ngày 19 tháng 9 năm 1981, thành lập thị trấn Hồng Lĩnh.
Từ năm 1991, huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh, gồm 2 thị trấn: Đức Thọ (huyện lỵ), Hồng Lĩnh và 35 xã: Ân Phú, Bùi Xá, Đức An, Đức Bồng, Đức Châu, Đức Đồng, Đức Dũng, Đức Giang, Đức Hòa, Đức Hương, Đức La, Đức Lạc, Đức Lâm, Đức Lạng, Đức Lập, Đức Liên, Đức Lĩnh, Đức Long, Đức Nhân, Đức Quang, Đức Thanh, Đức Thịnh, Đức Thuận, Đức Thủy, Đức Tùng, Đức Vĩnh, Đức Yên, Liên Minh, Tân Hương, Thái Yên, Trung Lễ, Trung Lương, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Yên Hồ.
Ngày 2 tháng 3 năm 1992, tách thị trấn Hồng Lĩnh, xã Trung Lương, xã Đức Thuận và một phần xã Đức Thịnh thuộc huyện Đức Thọ để thành lập thị xã Hồng Lĩnh.
Sau khi thành lập thị xã Hồng Lĩnh, huyện Đức Thọ còn lại thị trấn Đức Thọ và 33 xã: Ân Phú, Bùi Xá, Đức An, Đức Bồng, Đức Châu, Đức Đồng, Đức Dũng, Đức Giang, Đức Hòa, Đức Hương, Đức La, Đức Lạc, Đức Lâm, Đức Lạng, Đức Lập, Đức Liên, Đức Lĩnh, Đức Long, Đức Nhân, Đức Quang, Đức Thanh, Đức Thịnh, Đức Thủy, Đức Tùng, Đức Vĩnh, Đức Yên, Liên Minh, Tân Hương, Thái Yên, Trung Lễ, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Yên Hồ.
Ngày 8 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 48-CP. Theo đó, sáp nhập toàn bộ 197 ha với 1.730 nhân khẩu của thôn Mai Hồ thuộc xã Đức Yên vào thị trấn Đức Thọ.
Ngày 4 tháng 8 năm 2000, tách 6 xã: Ân Phú, Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh và Đức Giang để thành lập huyện Vũ Quang. Huyện Đức Thọ còn lại 1 thị trấn và 27 xã.
Đến cuối năm 2018, huyện Đức Thọ có thị trấn Đức Thọ và 27 xã: Bùi Xá, Đức An, Đức Châu, Đức Đồng, Đức Dũng, Đức Hòa, Đức La, Đức Lạc, Đức Lâm, Đức Lạng, Đức Lập, Đức Long, Đức Nhân, Đức Quang, Đức Thanh, Đức Thịnh, Đức Thủy, Đức Tùng, Đức Vĩnh, Đức Yên, Liên Minh, Tân Hương, Thái Yên, Trung Lễ, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Yên Hồ.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Sáp nhập ba xã Đức La, Đức Nhân và Bùi Xá thành xã Bùi La Nhân
Sáp nhập ba xã Trung Lễ, Đức Thủy và Đức Lâm thành xã Lâm Trung Thủy
Sáp nhập ba xã Đức Thanh, Đức Thịnh và Thái Yên thành xã Thanh Bình Thịnh
Sáp nhập xã Đức Tùng và xã Đức Châu thành xã Tùng Châu
Sáp nhập xã Đức Vĩnh và xã Đức Quang thành xã Quang Vĩnh
Sáp nhập xã Đức An và xã Đức Dũng thành xã An Dũng
Sáp nhập xã Đức Hòa và xã Đức Lạc thành xã Hòa Lạc
Sáp nhập xã Đức Long và xã Đức Lập thành xã Tân Dân
Sáp nhập xã Đức Yên vào thị trấn Đức Thọ.
Huyện Đức Thọ có 1 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Văn hóa
Truyền thống
Đức Thọ xưa kia có tên gọi là La Sơn thuộc phủ Đức Quang (gồm cả Hương Sơn, Thiên Lộc, Nghi Xuân, Thanh Chương, Nghi Lộc...) được xem là vùng "địa linh nhân kiệt" của xứ Nghệ. Trong thời kỳ phong kiến, Đức Thọ có 39 vị đại khoa (Tiến sĩ) với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Lê Văn, Hoàng Xuân, Phan Đình, Hà Học,... và các làng giàu truyền thống văn hoá như: Yên Hồ, Đông Thái, Trung Lễ, Bùi Xá...
Thời phong kiến Hà Tĩnh có 4 vị trạng nguyên thì Đức Thọ có 2 vị là Đào Tiêu và Đoàn Nguyên Lợi đều quê ở Yên Hồ.
Nhiều người thành đạt xuất thân từ Đức Thọ, như nhà ngoại giao Nguyễn Biểu (đời Trần), nhà văn hóa Bùi Dương Lịch; Hoàng giáp Bùi Thức Kiên; Thượng thư, Tiến sĩ Phan Bá Đạt; lãnh đạo phong trào Cần Vương, Đình nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng, các chí sĩ Lê Văn Huân, Lê Thước, Lê Ninh, nhà cách mạng Trần Phú, nhà thơ Huy Cận, nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn, Luật sư Phan Anh, Luật sư Phan Mỹ, nhà toán học Lê Văn Thiêm, nhà văn Hoàng Ngọc Phách, Trung tướng Hoàng Hữu Thái, Tư lệnh Hải Quân QĐND Việt Nam, Phạm Văn Huyến; nhà thơ Thái Can, Luật sư Phạm Khắc Hòe.
Ngoài ra, còn có một nhân vật lịch sử khác cũng rất nổi tiếng nữa là Hoàng Cao Khải. Ông bị xem khinh vì đã cam tâm phục vụ hết lòng thực dân Pháp xâm lược, nhưng chính người Pháp từng nghi ngờ ông là một trợ lực ngầm cho phong trào Duy tân và Đông du, và ngay Phan Châu Trinh cũng có liên lạc thư từ với ông.
Trong số những người nổi tiếng hiện nay, từ huyện Đức Thọ có:
Giáo sư, TSKH, Viện sĩ Vật lý Đào Vọng Đức
Nữ luật sư Ngô Bá Thành
Giáo sư văn học Hoàng Xuân Nhị
Giáo sư- nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến
Giáo sư, nhà sinh học Võ Quý
Nhà văn hóa Hà Xuân Trường
Giáo sư- nhà Đông Nam Á học Phạm Đức Dương
Giáo sư Phan Văn Tiệm, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban vật giá chính phủ;
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ.
Võ Hồng Phúc (Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Giáo sư Hà Học Trạc, (Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam
Đạo diễn sân khấu Nghệ sĩ Nhân dân Phạm Thị Thành
Nhà báo Phạm Khắc Lãm (nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam)
Nguyễn Minh Quang-Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Luật sư Trịnh Hồng Dương (nguyên Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam)
Luật sư Lê Thúc Anh (nguyên Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam)
Thượng tướng Võ Trọng Việt - Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Quốc hội. Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (2015-2016).
Giáo sư Mai Trọng Nhuận (nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội)
Giáo sư, Tiến sĩ, Nghệ sĩ nhân dân, Nhà giáo nhân dân, Anh hùng lao động Trần Bạch Thu Hà (nguyên Giám đốc Nhạc viện Hà Nội)
Nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị
Nhà văn, nhà thơ Xuân Thiều
Trần Viết Ngãi, Nguyên tổng giám đốc điện lực Việt Nam, chủ tịch hiệp hội năng lượng việt nam
Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Trần Văn Bính (Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa phát triển,Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyên phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về văn hóa thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam)
Di tích và danh thắng
Đền thờ Nguyễn Biểu: Di tích thuộc xã Yên Hồ, đền được xây dựng vào thời nhà Lê để tưởng nhớ công lao của Nguyễn Biểu.
Mộ Phan Đình Phùng tại xã Tùng Ảnh.
Nhà thờ Phan Đình Phùng tại xã Tùng Ảnh: Di tích lịch sử văn hóa quốc gia (2007).
Khu lưu niệm Trần Phú ở xã Tùng Ảnh: Khu lưu niệm danh nhân lịch sử cách mạng.
Nhà thờ và mộ Lê Bôi ở xã Tùng Ảnh: Danh nhân lịch sử thế kỷ 15
Đền Cả Du Đồng ở xã Đức Đồng: Di tích kiến trúc thế kỷ 15.
Chùa Am ở xã Đức Hoà: Di tích kiến trúc thế kỷ 15.
Đền thờ Ngô Thị Ngọc Dao ở xã Đức Thịnh: Danh nhân lịch sử thế kỷ 15.
Đền Voi Mép ở xã Đức Thủy: Di tích kiến trúc thế kỷ 15.
Đền thờ Trần Duy ở xã Đức Châu: Danh nhân lịch sử thế kỷ 16
Nhà thờ Bùi Dương Lịch ở xã Tùng Ảnh: Danh nhân lịch sử - văn hóa thế kỷ 18
Nhà thờ Lê Ninh và họ Lê ở xã Trung Lễ : Danh nhân lịch sử thế kỷ 19
Đền Thái Yên ở xã Thái yên
Đền Đinh Lễ: ở xã Tùng Ảnh {Quyết định số: 03/2006/QĐ-BVHTT}.
Nhà thờ Hoàng Trừng ở xã Đức Nhân
Chùa Vền ở xã Đức Tùng
Chùa Phượng Tường ở xã Trường Sơn
Chùa Hoa Lâm ở xã Đức Lâm
Thắng cảnh núi Tùng Lĩnh, Sông La và bến Tam Soa, cầu Linh Cảm
Cầu Cố Bá ở Đức Lạc, Đền chợ nướt ở Bình Minh Đức Lạc
Đền Kim Nghê tại thôn Hà Cát, xã Đức lạng
Đền Cả tại xã Đức Xá
Đền Thờ Thánh Mẫu Thượng Thiên ở Đông xá xã Hoà Lạc
Đền Tượng Lĩnh xã Hoà Lạc
Đền quanh xã Hoà Lạc
Lễ hội truyền thống
Hội lễ đền Thái Yên ở xã Thái Yên: Vào mùa xuân hàng năm ở Thái Yên đều có lễ hội đền sau đó người dân xã Thái Yên tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao đến tận rằm tháng giêng như: kéo co, thi đấu bóng đá, bóng chuyền, bống bàn, cờ tướng, thi văn nghệ. Đặc biệt cứ hai năm một lần Thái Yên lại tổ chức rước kiệu vào ngày mồng 7 tháng giêng.
Hội xuân và trò chơi vạt cầu ở xã Trung Lễ: Đầu mùa xuân.
Hội hát ghẹo và tục ăn cá gỏi ở Mỹ Xuyên, xã Đức Lập: vào cuối xuân, đầu hạ.
Lễ rước Hến ở Kẻ Thượng ở xã Trường Sơn, Đức Thọ: 07 tháng Giêng âm lịch
Làng nghề
Làng mộc Thái Yên: thuộc xã Đức Bình, huyện Đức Thọ. Thợ mộc Thái Yên giỏi nghề kiến trúc nhà cửa, đình chùa với kỹ thuật cao về chạm, trổ, tiện, xoi...Đồng thời rất khéo tay làm đồ gia dụng kiểu mới như: giường, tủ, bàn ghế....Hàng mộc Thái Yên nổi tiếng trong nước, kể cả Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và cũng ăn khách ở Hồng Kông, Thượng Hải. Một phần này cũng nhờ vào những tên tuổi được mệnh danh là những bậc kỳ tài về chạm trổ "Long, Ly, Quy, Phượng" như: Cửu Ngại, ông Hồng, Võ Hồng.
Làng đóng thuyền Trường Xuân: thuộc xã Trường Sơn, huyện Đức Thọ, và làng có 170 hộ làm nghề đóng thuyền, xẻ gỗ. Thợ đóng thuyền Trường Xuân đã đóng hàng nghìn thuyền lớn nhỏ phục vụ đánh cá, vận tải trong hai cuộc kháng chiến, đến nay nghề truyền thống này vẫn được duy trì tốt.
Rượu Đức Thanh nay gọi là rượu Thanh Lạng, thuộc xã Đức Thanh, có truyền thống nấu Rượu từ hồi xa xưa, rất nổi tiếng với loại rượu cất từ gạo nếp, được nấu với công nghệ thủ công truyền thống "3 nồi". |
Torrent có thể đề cập đến:
BitTorrent, một giao thức chia sẻ tài nguyên trên mạng ngang hàng.
Torrent, Valencia, một đô thị trong tỉnh Valencia, Cộng đồng Valencia, Tây Ban Nha.
Torrent, Girona, một đô thị trong tỉnh Girona, Catalunya, Tây Ban Nha. |
AIM-9 Sidewinder (viết tắt của Air Intercept Missile-tên lửa đánh chặn) là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn. Nó được đưa vào trang bị cho Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1956 và sau đó là trong Không quân Hoa Kỳ vào năm 1964. Kể từ khi đi vào hoạt động, Sidewinder đã trở thành một loại tên lửa rất nổi tiếng, và các phiên bản mới nhất vẫn còn được trang bị trong không quân của các nước phương Tây. Tên lửa K-13 của Liên Xô, là một phiên bản copy của AIM-9, và cũng được triển khai tại nhiều quốc gia.
Các phát triển ở mức độ thấp đã được tiến hành từ cuối những năm 1940, và có những đột phá vào những năm 1950 với hệ thống dẫn đường module của tên lửa không đối đất Zuni. Tính module của tên lửa cho phép đưa vào sử dụng các đầu dò và động cơ tên lửa mới, bao gồm ở phiên bản AIM-9C, sử dụng radar dẫn đường bán chủ động và là cơ sở để phát triển tên lửa chống radar AGM-122 Sidearm. Các phiên bản đầu tiên của AIM-9 đã được sử dụng ở trong Chiến tranh Việt Nam nhưng có tỉ lệ bắn hạ mục tiêu thấp. Điều này dẫn đến việc quân đội Mỹ đã phát triển phiên bản hoàn toàn mới (AIM-9 L) có năng lực tác chiến cao được thể hiện trong cuộc chiến đảo Falklands và trong Chiến dịch Mole Cricket 19 tại Liban. Khả năng thích ứng của loại tên lửa này khiến cho nó vẫn được giữ trong trang bị của quân đội Mỹ dù cho các loại tên lửa mới như AIM-95 Agile và SRAAM được phát triển để thay thế nó.
Sidewinder là loại tên lửa không đối không được biết đến rộng rãi nhất ở các nước phương Tây, với hơn 110.000 tên lửa được sản xuất cung cấp cho quân đội Mỹ và 27 quốc gia đồng minh, với khoảng 1 phần trăm đã được sử dụng trong không chiến. AIM-9 cũng được chế tạo theo giấy phép tại một số quốc gia khác như Thụy Điển, và có thể được trang bị trên máy bay trực thăng, ví dụ như Bell AH-1Z Viper. AIM-9 là một trong những loại tên lửa không đối không rẻ nhất, có tuổi đời lâu nhất và là loại tên lửa không đối không hiệu quả nhất, ước tính nó đã tiêu diệt được 270 máy bay trong các cuộc không chiến. Khi sử dụng tên lửa Sidewinder, các phi công của NATO sử dụng mã tên gọi FOX-2.
Hải quân Hoa Kỳ đã kỷ niệm 50 năm đưa Sidewinder vào trang bị vào năm 2002. Tháng 3 năm 2010, Boeing đã dành được hợp đồng cung cấp Sidewinder cho quân đội đến năm 2055, đảm bảo AIM-9 sẽ vẫn còn trong trang bị quân đội Mỹ đến ít nhất là năm 2055.
Thiết kế
Xét một tên lửa AIM-9 được bắn ở một góc vuông với đường bay của mục tiêu, nếu như tên lửa bay với vận tốc tương đương với mục tiêu thì tên lửa sẽ phải "bắn đón" ở góc 45 độ, và tên lửa sẽ chạm mục tiêu ở một điểm đón cách xa về phía trước mục tiêu. Nếu như tên lửa có vận tốc bay lớn hơn 4 lần so với mục tiêu, thì nó sẽ có góc bắn đón là 11 độ phía trước mục tiêu. Trong bất kỳ trường hợp nào, tên lửa đều phải giữ góc bắn đón này trong suốt quá trình bay, đồng nghĩa với góc giữa mục tiêu và cảm biến trên tên lửa luôn là hằng số. Kỹ thuật này còn gọi tên tiếng Anh là "điều hướng theo tỉ lệ", nó cho phép tính toán dẫn đường cho tên lửa với hiệu suất cao đồng thời có khả năng thích ứng với việc thay đổi quỹ đạo bay của mục tiêu.
Lịch sử
Bối cảnh
Trong Thế chiến II, các nhà khoa học Đức đã thiết kế hệ thống đầu tự dẫn bằng hồng ngoại rất phức tạp. Sự phát triển xa nhất trong số này, có tên mã là Hamburg, được dự định sử dụng cho bom lượn Blohm & Voss BV 143 trong vai trò chống tàu. Đầu tự dẫn Hamburg sử dụng một điện trở quang hồng ngoại làm đầu dò cùng với một đĩa quay. Mặc dù đầu tự dẫn Hamburg và các hệ thống tương tự đã tương đối hoàn thiện nhưng không một hệ thống dẫn đường nào được trang bị cho tên lửa trước khi chiến tranh kết thúc.
Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, quân Đồng minh đã thu thập các tin tức tình báo về kỹ thuật đầu dò cho tên lửa, cùng với các kỹ sư người Đức trong chương trình phát triển đầu dò cho tên lửa của phát xít Đức. Một số báo cáo dài về các hệ thống khác nhau đã được xuất bản và phổ biến giữa các công ty máy bay phương Tây, trong khi một số kỹ sư đã gia nhập các công ty này để thực hiện các dự án tên lửa khác nhau. Vào cuối những năm 1940, nhiều dự án tên lửa đã được tiến hành, từ các hệ thống khổng lồ như máy bay ném bom mang tên lửa Bell Bomi đến các hệ thống nhỏ hơn như tên lửa không đối không. Đến những năm 1950, cả Không quân Hoa Kỳ và Không quân Hoàng gia Anh đều đã bắt đầu những chương trình phát triển tên lửa đầu dò hồng ngoại.
Việc phát triển tên lửa bắt đầu từ năm 1946 tại căn cứ thử nghiệm của Hải quân-Naval Ordnance Test Station (NOTS), Inyokern, California, nay là Căn cứ thử nghiệm vũ khí Không quân Hải quân China Lake với sự chỉ đạo của William B. McLean. Cái tên Sidewinder được lựa chọn vào năm 1950 theo tên của rắn Crotalus cerastes, một loài rắn độc đuôi chuông, có khả năng cảm nhận tia hồng ngoại phát ra từ cơ thể động vật máu nóng.
Năm 1951 dự án phát triển tên lửa được cấp nguồn kinh phí tài trợ sau khi đã thuyết phục được đô đốc William "Deak" Parsons, Phó cục trưởng Cục vũ khí Hải quân (Bureau of Ordnance) (BuOrd). Dự án phát triển bắt đầu mang tên gọi là Sidewinder 1, vụ bắn thử nghiệm đầu tiên diễn ra vào ngày 3/9/1952. Tên lửa được phóng lên đánh chặn một máy bay không người lái mục tiêu lần đầu vào ngày 11/9/1953. Tổng cộng đã có 51 vụ thử nghiệm tên lửa tự dẫn đường vào năm 1954, và đến năm 1955 tên lửa được đưa vào sản xuất hàng loạt.
Năm 1954, Không quân Hoa Kỳ đã thử nghiệm tên lửa nguyên mẫu AIM-9A và phiên bản nâng cấp của nó: AIM-9B tại Trung tâm phát triển Không quân Holloman. Loại tên lửa mới được trang bị cho Grumman F9F-8 Cougars và FJ-3 Furies của Không quân Hải quân Hoa Kỳ vào giữa năm 1956.
Có gần 100.000 tên lửa Sidewinder thuộc thế hệ đầu (AIM-9B/C/D/E) được Raytheon và General Electric sản xuất. Philco-Ford đảm nhiệm phần dẫn đường và điều khiển của tên lửa. Quân đội NATO sử dụng phiên bản tên lửa đầu tiên được chế tạo theo License bởi công ty Bodenseewerk Gerätetechnik của Đức; 9.200 tên lửa đã được sản xuất.
Sự kiện eo biển Đài Loan, 1958
Không quân Đài Loan sử dụng tên lửa Sidewinder lần đầu trong trận không chiến với không quân Trung Quốc ngày 24/9/1958 trong Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ 2. Không quân Đài Loan thường sử dụng máy bay North American F-86 Sabres trong vai trò đánh chặn trong các cuộc không chiến với Không quân Trung Quốc ở eo biển Đài Loan. Máy bay MiG-17 có trần bay cao hơn và tương tự như các cuộc chạm trán trong Chiến tranh Triều Tiên giữa F-86 và MiG-15 trước đó, đội hình Không quân CHND Trung Hoa bay phía trên các máy bay Sabre của Đp, miễn nhiễm với vũ khí.50 cal của chúng và chỉ lựa chọn chiến đấu khi có lợi thế.
Hoa Kỳ đã chuyển cho Đài Loan một vài tá tên lửa Sidewinder và giúp sửa đổi các máy bay để Đài Loan trang bị loại tên lửa mới. Trong trận không chiến ngày 24/9/1958, tên lửa Sidewinder đã được sử dụng để tập kích các máy bay Mig 17. Các chiếc máy bay Mig phá vỡ đội hình chiến đấu và hạ thấp xuống độ cao bay của F-86 Sabre để không chiến, mà không biết về sự có mặt của tên lửa Sidewinder. Đây là lần đầu tiên mà tên lửa không đối không được sử dụng trong chiến đấu, và những chiếc Mig 17 của Không quân Trung Quốc là những mục tiêu đầu tiên bị bắn hạ bởi tên lửa không đối không.
Trong các trận không chiến ở eo biển Đài Loan năm 1958, một quả tên lửa AIM-9B của Không quân Đài Loan đã bắn trúng MiG-17 nhưng không nổ tên lửa bị mắc vào khung thân của MiG và phi công Trung Quốc đã hạ cánh cả máy bay cùng với quả tên lửa về căn cứ. Các kỹ sư Liên Xô sau đó đã ví von rằng quả tên lửa Sidewinder thu được đã trở thành "trường đại học" cho thiết kế tên lửa không đối không của Liên Xô. Nhờ đó mà các nhà thiết kế của Liên Xô đã có thể thiết kế ngược và chế tạo được phiên bản coppy của Sidewinder, có tên là Vympel K-13/R-3S, tên ký hiệu NATO AA-2 Atoll. Ngoài ra Liên Xô cũng thu được một quả tên lửa Sidewinder thứ hai qua Đại tá Không quân Thụy Điển là Stig Wennerström.
Tên lửa Vympel K-13 đi vào trang bị trong Không quân Liên Xô từ năm 1961.
Trong chiến tranh Việt Nam 1965–1973
Trong suốt cuộc chiến Hoa Kỳ đã sử dụng 454 tên lửa Sidewinder nhưng kết quả không như ý.
Tổng số có 452 tên lửa được sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, với kết quả tỉ lệ bắn hạ thành công đối phương là 0,18.
Ghi chú: phiên bản tên lửa AIM-9 B có tốc độ khoảng 1,7 M và các phiên bản khác có vận tốc lớn hơn 2,5 M.
Các phiên bản tên lửa có tính năng bắn từ mọi hướng (all aspect)
AIM-9L
Các công nghệ tiên tiến của đầu dò hồng ngoại thế hệ tiếp theo được áp dụng trên tên lửa AIM-9L ("Lima") được giới thiệu năm 1977. Đây là loại tên lửa Sidewinder đầu tiên có khả năng theo dõi và bắn mục tiêu từ mọi hướng, đặc biệt quan trọng trong không chiến tầm gần. Tên lửa AIM-9L được Không quân Hải quân Mỹ sử dụng trong trận không chiến trong sự kiện Vịnh Sidra năm 1981 giữa hai máy bay F-14 và 2 máy bay Su-22 của Lybia, cả hai chiếc Su-22 đều bị tiêu diệt bởi AIM-9L. Không quân Hoàng gia Anh cũng sử dụng AIM-9L với số lượng lớn trong Chiến tranh Falkland năm 1982. Theo đó, tên lửa đạt tỉ lệ bắn hạ đối phương tới 80% (19 máy bay Arghentina bị bắn hạ), tăng đáng kể so với tỉ lệ 10–15% đối với các phiên bản tên lửa đời đầu.
BOA/Boxoffice
AIM-9X
Hughes Electronics đã giành được hợp đồng phát triển tên lửa AIM-9X Sidewinder vào năm 1996 sau khi đánh bại Raytheon trong cuộc đấu thầu phát triển tên lửa không đối không thế hệ mới. Tên lửa AIM-9X bắt đầu được đưa vào trang bị từ tháng 11 năm 2003 trong Không quân Hoa Kỳ (trang bị trên F-15C) và Hải quân Hoa Kỳ (trang bị trên F/A-18C) và là một phiên bản cải tiến đáng kể với đầu dò ảnh nhiệt, tương thích với kính chỉ thị mục tiêu trên hệ thống mũ mới (Joint Helmet Mounted Cueing System-JHMCS), cùng với hệ thống động cơ điều khiển vector (TVC) 2 trục giúp tên lửa tăng khả năng rẽ ngoặt thay cho các bề mặt điều khiển truyền thống. Sử dụng JHMCS, phi công có khả năng ngắm đầu dò của tên lửa AIM-9X và khóa mục tiêu bằng cách chỉ cần nhìn vào mục tiêu, làm tăng hiệu quả không chiến. AIM-9X vẫn giữ nguyên động cơ, ngòi nổ và đầu đạn, nhưng nhờ giảm lực cản khí động học mà nó có thể cải thiện được tầm bắn và tốc độ. AIM-9X có tính năng khóa mục tiêu sau khi phóng, tên lửa cũng được trang bị trên tàu ngầm để chống máy bay săn ngầm ASW. Tên lửa AIM-9X cũng được thử nghiệm trong vai trò tấn công mặt đất.
Block II
Những thử nghiệm trên tên lửa AIM-9X Block II bắt đầu từ tháng 9 năm 2008. Phiên bản Block II bổ sung khả năng khóa mục tiêu sau khi bắn (LOAL) cùng với đường truyền dữ liệu, do đó tên lửa có khả năng phóng trước sau đó mới được chỉ định mục tiêu từ máy bay mẹ. Tính đến tháng 6/2013, Raytheon đã chuyển giao cho quân đội 5.000 quả tên lửa AIM-9X.
Block III
Các biến thể khác của Sidewinder
Biến thể chống tăng
Năm 2008, tên lửa AIM-9X đã thử nghiệm thành công khả năng tấn công không đối đất.
Vào năm 2016, Diehl đã ký một thỏa thuận với Federal Office of Bundeswehr Equipment, Information Technology and In-Service Support để phát triển phiên bản không đối đất dẫn đường bằng laser dựa trên phiên bản AIM-9L. Trong thử nghiệm, máy bay tiêm kích Saab Gripen đã đánh trúng một mục tiêu tĩnh và 2 mục tiêu di động.
Vào ngày 28 tháng 2 năm 2018, Quân đoàn Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran đã công bố một phiên bản chống tăng của tên lửa Sidewinder có tên "Azarakhsh" nhằm mục đích sử dụng cho trực thăng tấn công Bell AH-1J SeaCobra.
Các phát triển tiếp theo
Động cơ cỡ lớn
Nằm trong chương trình High Altitude, các kỹ sư tại China Lake đã sử dụng đầu đạn của Sidewinder cùng với động cơ của tên lửa AIM-7 Sparrow để thử nghiệm tên lửa với động cơ cỡ lớn.
Các nền tảng phóng tên lửa từ mặt đất
Năm 2016 tên lửa AIM-9X được thử nghiệm phóng từ Multi-Mission Launcher tại Trường bắn thử nghiệm White Sands, New Mexico, Hoa Kỳ. Trong quá trình thử nghiệm, tên lửa AIM-9X đã gặp vấn đề bị quá nhiệt, vấn đề này sau đó đã được giải quyết. Tháng 9 năm 2021, quân đội Mỹ đã ký hợp đồng với Dynetics để chế tạo nguyên mẫu thử nghiệm bệ phóng tên lửa Sidewinder dựa trên MML chống UAV và tên lửa hành trình. Dự kiến hệ thống sẽ được đưa vào hoạt động vào năm 2023.
Các nước sử dụng
Các quốc gia hiện đang trang bị Sidewinder
Australia
Belgium
Czech Republic
Denmark
Finland
Israel
Nhật Bản
Kuwait
Malaysia
Netherlands
Norway
Oman
Philippines
Romania
Saudi Arabia
Singapore
Hàn Quốc
Switzerland
Taiwan
Thổ Nhĩ Kỳ
United States
Các quốc gia từng trang bị Sidewinder
Iran
South Africa |
AIM-7 Sparrow là loại tên lửa không-đối-không tầm trung dẫn hướng bằng radar bán chủ động được sử dụng bởi Không quân và Hải quân Hoa Kỳ cùng lực lượng của nhiều nước đồng minh khác. Tên lửa Sparrow và các biến thể của nó là công trình phát triển tên lửa không-đối-không truy kích ngoài tầm nhìn (BVR: beyond visual range) chủ yếu của phương Tây từ thập niên 1950 cho đến những năm 1990. Nó vẫn còn đang được tiếp tục sử dụng, cho dù đang được thay thế dần bằng kiểu AIM-120 AMRAAM hiện đại hơn. Không lực Phòng vệ Nhật Bản cũng đang thay thế chúng bằng kiểu Mitsubishi AAM-4. Phi công khối NATO trong liên lạc radio thường dùng mã ngắn gọn Fox One để cảnh báo việc phóng một kiểu tên lửa dẫn hướng bằng radar bán chủ động như kiểu Sparrow.
Sparrow đã được sử dụng như là căn bản để phát triển kiểu tên lửa hạm-đối-không RIM-7 Sea Sparrow, được Hải quân Mỹ sử dụng để phòng thủ chiến hạm của hạm đội. |
AIM-120 AMRAAM (Advanced Medium-Range Air-to-Air Missile - AMRAAM) (được đọc là "am-ram") là một tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn (BVRAAM) hoạt động mọi thời tiết do Mỹ sản xuất. Tên lửa có đường kính 18 cm và được trang bị một hệ thống dẫn đường bằng radar chủ động. Tên lửa có khả năng bắn bắn và quên, không giống như loại AIM-7 Sparrow cần được dẫn đường từ máy bay. Khi một tên lửa AMRAAM được phóng, các phi công NATO sẽ sử dụng mã giao tiếp là "Fox three".
AMRAAM là loại tên lửa đối không ngoài tầm nhìn phổ biến nhất trên thế giới; tính đến năm 2008 đã có hơn 14,000 tên lửa được sản xuất cho Không quân Hoa Kỳ, Hải quân Hoa Kỳ và hơn 33 quốc gia khác. Tên lửa cũng đã một vài lần bắn hạ thành công các máy bay trong các cuộc xung đột tại Iraq, Bosnia, Kosovo, Ấn Độ và Syria.
Nguồn gốc
Tên lửa tầm trung AIM-7 Sparrow
Hải quân Hoa Kỳ đã mua các tên lửa AIM-7 Sparrow từ Hughes Aircraft vào thập niên 1950 như là một tên lửa có khả năng "không chiến ngoài tầm nhìn" (BVR). Với tầm bắn hiệu quả vào khoảng 19 km, nó được giới thiệu ban đầu là một tên lửa dẫn đường bằng phuơng pháp bám chùm radar và sau đó được cải tiến lên thành dẫn đường bằng radar bán chủ động (bám bắt mục tiêu dựa vào radar của máy bay). Phiên bản bám chùm radar ban đầu được trang bị trên các máy bay McDonnell F3H Demon và Vought F7U Cutlass, và trở thành vũ khí chính của tiêm kích đánh chặn mọi thời tiết McDonnell Douglas F-4 Phantom II, vốn thiếu pháo gắn trong thân ở phiên bản của Hải quân Hoa Kỳ, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và các phiên bản đầu của Không quân Hoa Kỳ.
Mặc dù được thiết kể dùng để tấn công các mục tiêu với khả năng cơ động kém như máy bay ném bom, nhưng do thể hiện kém hiệu quả trước các tiêm kích của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các tên lửa này dần dần được cải tiến cho đến khi đạt hiệu quả cao trong không chiến. Cùng với tên lửa AIM-9 Sidewinder, nó đã thay thế tên lửa AIM-4 Falcon trong Không quân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, phuơng pháp dẫn đường bằng radar bán chủ động có một hạn chế rất lớn là chúng chỉ có thể tiêu diệt một mục tiêu trong cùng một lúc, hơn nữa, phi công phải luôn giữ máy bay cùng hướng với mục tiêu (trong giới hạn cho phép của radar), điều mà có thể dẫn đến các tình huống nguy hiểm cho phi công trong chiến đấu.
Một phiên bản sử dụng radar chủ động được gọi là Sparrow II đã được phát triển nhằm khắc phục các hạn chế này, tuy nhiên Hải quân Hoa Kỳ đã rút khỏi chuơng trình này vào năm 1956. Năm 1958, Không quân Hoàng gia Canada đã tiếp tục chưong trình này với hi vọng về việc sử dụng tên lửa này trên tiêm kích đánh chặn Avro Canada CF-105 Arrow của họ. Tuy nhiên hệ thống điện tử vào thời gian này đơn giản là không thể được thu nhỏ đủ mức để cho Sparrow II là một vũ khí hoạt động được. Sẽ mất hàng thập kỉ, và một nền tảng công nghệ điện tử mới để sản xuất ra một tên lửa sử dụng radar chủ động tối ưu và hiệu quả như thiết kế Sparrow.
Tên lửa tầm xa AIM-54 Phoenix
Hải quân Hoa Kỳ sau đó đã tiếp tục phát triển tên lửa AIM-54 Phoenix cho mục đích phòng thủ hạm đội trên biển. Tên lửa có trọng lượng 500 kg và tốc độ tối đa là Mach 5 nhằm đánh chặn tên lửa hành trình và máy bay ném bom. Ban đầu được dự định trang bị cho máy bay Douglas F6D Missileer nhưng sau đó được tối ưu hóa cho tiêm kích General Dynamics-Grumman F-111B, và sau cùng được trang bị trên tiêm kích Grumman F-14 Tomcat, loại tiêm kích duy nhất có khả năng mang loại tên lửa có trọng lượng lớn như thế. Phoenix là tên lửa đầu tiên của Hoa Kỳ có khả năng bắn và quên, phóng loạt, dẫn đường bằng radar chủ động ở khoảng cách gần. Trên lí thuyết, một chiếc F-14 có thể mang 6 tên lửa Phoenix có thể tấn công mục tiêu ngoài tầm nhìn cách xa đến 160 km - điều chưa từng thấy trước đây trên các tiêm kích của Hoa Kỳ.
Hoạt động của tên lửa trong Hải quân Hoa Kỳ trong các cuộc xung đột như Chiến tranh Vùng Vịnh, Chiến dịch Southern Watch và Chiến tranh Iraq thường bị cản trở do luật sử dụng vũ khí. Tên lửa Phoenix đã bị loại biên vào năm 2004 nhằm đưa tên lửa AIM-120 AMRAAM vào hoạt động trên tiêm kích McDonnell Douglas F/A-18 Hornet và toàn bộ các tiêm kích F-14 Tomcat cũng đã bị loại biên vào năm 2006.
ACEVAL/AIMVAL
Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã thử nghiệm các chiến thuật không chiến và các công nghệ tên lửa mới từ năm 1974 đến năm 1978 tại Căn cứ không quân Nellis. Sử dụng tiêm kích F-14 và F-15 trang bị tên lửa Sparrow và Sidewinder làm phe đồng minh và tiêm kích F-5E trang bị tên lửa AIM-9L làm phe đối địch. Chuơng trình thử nghiệm và đánh giá chung (JT&E) đã được chọn làm Chuơng trình đánh giá tác chiến trên không/ Chương trình đánh giá tên lửa đánh chặn (ACEVAL/AIMVAL). Chuơng trình đã dẫn đến một biên bản ghi nhớ giữa các đồng minh châu âu (Anh và Đức là 2 nước phát triển chính) với Mĩ về việc phát triển một tên lửa không đối không tầm trung mới do Mĩ chịu trách nhiệm chính. Biên bản cũng giao trách nhiệm về phía các đồng minh châu âu việc phát triển một tên lửa không đối không tầm ngắn mà sau này đã trở thành tên lửa ASRAAM của Anh.
Yêu cầu đặt ra
nhỏ|Phiên bản tên lửa đất dối không CATM-120C
Tới năm 1990, mức độ tin cậy của tên lửa Sparrow đã được cải thiện so với thời kì Chiến tranh Việt Nam đến mức mà nó đã chiếm tỉ lệ tiêu diệt lớn nhất trong các loại tên lửa trong chiến dịch Bão táp Sa mạc. Nhưng trong lúc Không quân Hoa Kỳ đã loại biên tên lửa Phoenix và AIM-47 Falcon cùng với tiêm kích đánh chặn Lockheed YF-12 để tối ưu hiệu quả không chiến, vẫn cần một loại tên lửa cho các tiêm kích F-15 và F-16 với khả năng phóng loạt nhiều tên lửa và có thể "bắn và quên". Tên lửa AMRAAM sẽ cần phải vừa với tiêm kích hạng nhẹ như F-16, BAE Sea Harrier và cũng phải vừa với các khoảng trống dùng để lắp tên lửa Sparrow trên F-4 Phantom. Hải quân Hoa Kỳ cũng yêu cầu AMRAAM có thể được trang bị trên F/A-18 Hornet với 2 tên lửa trên một điểm treo thay vì 1 tên lửa Sparrow như trước đây nhằm tăng khả năng mang vũ khí tấn công mặt đất. Cuối cùng, AMRAAM phải vừa với khoang chưa vũ khí của Lockheed Martin F-22 Raptor nhằm giúp máy bay có thể có diện tích phản xạ sóng radar cực thấp.
Phát triển
Việc phát triển tên lửa AMRAAM có nguồn gốc từ thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và các nước NATO về việc phát triển và chia sẻ công nghệ của tên lửa không đối không mới. Theo thỏa thuận, Hoa Kỳ sẽ phát triển tên lửa tầm trung thế hệ mới (AMRAAM), còn các nước châu âu sẽ phát triển tên lửa tầm ngắn (ASRAAM). Mặc dù các nước châu âu dự định sẽ nhận chuơng trình phát triển AMRAAM, một nổ lực nhằm phát triển tên lửa cạnh tranh là MBDA Meteor. Sau thời gian phát triển kéo dài, việc triển khai tên lửa AMRAAM (AIM-120A) đã bắt đầu vào tháng 9 năm 1991 cho các phi đoàn tiêm kích McDonnell Douglas F-15 Eagle của Không quân Hoa Kỳ. Hải quân Hoa Kỳ cũng sớm bắt đầu triển khai tên lửa này vào năm 1993 cho các phi đoàn tiêm kích McDonnell Douglas F/A-18 Hornet.
Không quân Nga cũng phát triển loại tên lủa dùng để đối đầu với AMRAAM là Vympel R-77 (AA-12 Adder), đôi lúc được gọi là "AMRAAMski". Bên cạnh đó, Pháp cũng phát triển tên lửa MICA sử dụng cả hai phuơng pháp dẫn đường là hồng ngoại và radar.
nhỏ|Phát bắn thử nghiệm thành công đầu tiên tại Trường bắn tên lửa White Sands, New Mexico, 1982
Lịch sử hoạt động
Hoa Kỳ
Tên lửa AMRAAM được sử dụng lần đầu vào ngày 27 tháng 12 năm 1992, khi một chiếc F-16 Fighting Falcon của Không quân Hoa Kỳ bắn hạ một chiếc Mikoyan-Gurevich MiG-25 của Iraq khi nó vi phạm vùng cấm bay. Tháng 1 năm 1993, một chiếc Mikoyan-Gurevich MiG-23 cũng đã bị bắn hạ bởi tên lửa AMRAAM phóng từ một chiếc F-16C.
Ngày 28 tháng 12 năm 1994, một chiếc Mikoyan-Gurevich MiG-21 của Không quân Cộng hòa Srpska đã bị bắn hạ bởi một tiêm kích F-16C khi đang tuần tra trên vùng cấm bay của Liên Hợp Quốc dọc Bosnia. Trong cùng lần không chiến đó, 3 máy bay khác của Serbia cũng đã bị bắn hạ bởi tên lửa AIM-9 Sidewinder (Sự kiện Banja Luka).
Năm 1994, 2 chiếc F-15 tuần tra trên vùng cấm bay bắc Iraq đã nhầm lẫn 2 trực thăng UH-60 Black Hawk của Hoa Kỳ với các trực thằng của Iraq. Một chiếc đã bị bắn hạ bởi tên lửa AMRAAM và chiếc còn lại bị bắn hạ bởi tên lửa Sidewinder.
Trong năm 1998 và 1999, các tên lửa AMRAAM tiếp tục được sử dụng trước những máy bay của Iraq vi phạm vùng cấm bay, nhưng chúng đã không thể bắn trúng mục tiêu. Vào mùa xuân năm 1999, tên lửa AMRAAM đã tham gia vào chiến dịch NATO ném bom Nam Tư. 6 tiêm kích Mikoyan MiG-29 đã bị bắn hạ bởi NATO (4 bởi F-15C của Không quân Hoa Kỳ, 1 bởi F-16C của Không quân Hoa Kỳ và một bởi F-16C của Không quân Hoàng gia Hà Lan), tất cả đều sử dụng tên lửa AIM-120. Tuy nhiên, có nhiều tranh cải về chiến tích của chiếc F-16C khi có giả thuyết rằng chiếc MiG-29 đã bị bắn hạ do một tên lửa Strela 2 của Serbia chứ không phải do chiếc F-16C.
Ngày 18 tháng 6 năm 2017, một chiếc Boeing F/A-18E Super Hornet đã bắn hạ một chiếc Su-22 của Syria bằng tên lửa AIM-120 ở miền bắc Syria. Trước đó, một tên lửa AIM-9X đã được phóng nhưng đã bắn trượt mục tiêu. Một số nguồn cho rằng tên lửa đã bị đánh lừa bằng pháo sáng phóng ra từ chiếc Su-22, mặc dù phi công của chiếc F/A-18E, trung úy Micheal Tremel nói rằng anh không hiểu tại sao tên lửa lại không thể bắn trúng mục tiêu và chiếc Su-22 đã không thả pháo sáng: "Tôi đã mất dấu của tên lửa và đã không biết chuyện gì đã xảy ra vào thời điểm đó".
Thổ Nhĩ Kỳ
Ngày 24 tháng 11 năm 2015, một chiếc F-16 của Không quân Thổ Nhĩ Kỳ đã bắn hạ một chiếc Sukhoi Su-24M bằng tên lửa AIM-120 tại bắc Syria khi chiếc Su-24 xâm phạm không phận Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngày 1 tháng 3 năm 2020, 2 chiếc Su-24 của Syria đã bị bắn hạ bởi tiêm kích F-16 bằng 2 tên lửa AIM-120C-7
Ngày 3 tháng 3 năm 2020, một chiếc Aero L-39 Albatros của Syria đã bị bắn hạ bởi tên lửa AIM-120C-7 ở khoảng cách 45 km. Tính đến 2020, đây là phát bắn tiêu diệt mục tiêu xa nhất của tên lửa AIM-120.
Pakistan
Ngày 27 tháng 2 năm 2019, Ấn Độ đã cáo buộc Pakistan sử dụng tên lửa AMRAAM trong chiến dịch Swift Retort. Ấn Độ đã trưng bày mãnh vỡ của tên lửa AIM-120C-5 như là bằng chứng của cáo buộc. Chỉ có một chiếc MiG-21 của Ấn Độ đã được xác nhận là bị bắn hạ, trong khi đó Pakistan nói rằng đã bắn hạ một chiếc Sukhoi Su-30MKI. Không quân Ấn Độ đã thông báo với truyền thông rằng chiếc Sukhoi Su-30MKI đã tránh né và gây nhiễu 3-4 tên lửa AMRAAM trong trận không chiến.
Ả Rập Xê Út
Trong Can thiệp của Ả Rập Xê Út ở Yemen, Ả Rập Xê Út đã sử dụng rộng rãi các máy bay F-15 và Typhoon cùng với các hệ thống Patriot để đánh chặn các tên lửa và máy bay không người lái của Yemen. Tháng 11 năm 2021, một hợp đồng mua bán vũ khí đã được để xuất với Quốc hội Hoa Kỳ bao gồm việc cung cấp 280 tên lửa AIM-120C-7, C-8 và các thiết bị hỗ trợ khác. Hợp đồng dùng để lấp đầy kho dự trữ tên lửa của Ả Rập Xê Út khi các tên lửa đang dần cạn kiệt do việc đánh chặn các tên lửa và drone của Yemen.
Tây Ban Nha
Tháng 7 năm 2018, một tiêm kích Typhoon của Tây Ban Nha đã vô tình phóng một tên lửa AMRAAM ở Estonia. Không có thuơng vong về người nhưng một tìm kiếm xác tên lửa đã không thành công.
Mức độ hiệu quả
Xác suất tiêu diệt (Pk) của tên lửa phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, bao gồm góc độ của tên lửa, độ cao, tốc độ của tên lửa và mục tiêu và mức độ rẽ ngoặt của mục tiêu. Thông thường, nếu tên lửa có tên lửa có động năng lớn trong giai đoạn tiếp cận, nó sẽ có cơ hội bắn trúng mục tiêu lớn hơn. Khoảng cách càng xa, xác suất càng giảm. Pk của tên lửa này trong không chiến ngoài tầm nhìn vào khoảng 0.59.
Sơ lược về chức năng hoạt động
AMRAAM là tên lửa có khả năng không chiến ngoài tầm nhìn, hoạt động mọi thời tiết, giúp tăng khả năng tác chiến trên không của Hoa Kỳ và các đồng minh. AMRAAM tiếp tục phục vụ như là một phiên bản nối tiếp của series tên lửa AIM-7 Sparrow. Tên lửa mới nhanh hơn, nhỏ hơn và nhẹ hơn và tăng khả năng tiêu diệt mục tiêu bay thấp. Tên lửa cũng tích hợp liên kết dữ liệu để dẫn đường tên lửa cho đến tầm hoạt động của radar tích hợp trên tên lửa. Hệ thống dẫn đường quán tính và máy tính trên tên lửa cũng làm giảm mức độ phụ thuộc của tên lửa vào hệ thống điều khiển hỏa lực trên máy bay.
Khi tên lửa tiếp cận gần mục tiêu, nó sử dụng radar chủ động để dẫn đường cho tên lửa đánh chặn. Tính năng này cũng được gọi là "bắn và quên", cho phép phi công không cần phải tiếp tục theo dõi mục tiêu và có thể phóng tên lửa vào nhiều mục tiêu cùng lúc.
Tên lửa cũng có tính năng "theo dõi tín hiệu gây nhiễu phát ra từ mục tiêu" (home-on jamming), giúp tên lửa có khả năng thay đổi phuơng thức dẫn đường từ chủ động sang bị động - tìm kiếm mục tiêu dựa vào tín hiệu gây nhiễu từ mục tiêu. Phần mềm máy tính cho phép tên lửa xác định rằng nếu nó đã bị gây nhiễu chưa để sử dụng phuơng pháp dẫn đường thích hợp.
Tổng quan về hệ thống dẫn đường
Các giai đoạn đánh chặn
nhỏ|Một chiếc Grumman F-14 Tomcat mang tên lửa AMRAAM trong một cuộc thử nghiệm năm 1982
AMRAAM sử dụng phuơng pháp dẫn đường 2 giai đoạn khi được phóng ở khoảng cách lớn. Máy bay chia sẻ dữ liệu về mục tiêu cho tên lửa trước khi phóng. Tên lửa sử dụng thông tin này để bay theo quỹ đạo đánh chặn bằng hệ thống dẫn đường quán tính được tích hợp trong tên lửa (INS). Thông tin này được thường xuyên được cập nhật thông qua radar hoặc hệ thống tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại của máy bay phóng hoặc từ các máy bay khác như các tiêm kích khác trong đội hình hay từ Hệ thống chỉ huy và cảnh báo trên không.
Sau khi phóng, nếu máy bay phóng hoặc máy bay khác tiếp tục theo dõi mục tiêu thì các thông số khác như sự thay đổi vị trí trong không gian và tốc độ sẽ được gửi đến tên lửa, cho phép tên lửa điều chỉnh đường bay thông qua cánh đuôi, rút ngắn khoảng cách của tên lửa của mục tiêu cho đén khi tên lửa "bắt được mục tiêu vào trong giỏ" (mục tiêu nằm trong vùng tìm kiếm của radar tên lửa).
Không phải tất cả các tên lửa AMRAAM đều có tùy chọn "cung cấp thông tin trong giai đoạn giữa" (mid-course update), làm giảm hiệu quả của tên lửa trong một số trường hợp. Như các tên lửa trên tiêm kích Panavia Tornado ADV của Không quân Hoàng gia Anh.
Giai đoạn tiếp cận và va chạm
Khi tên lửa đến gần mục tiêu, nó kích hoạt đầu dò radar và tìm kiếm mục tiêu. Nếu mục tiêu nằm trong vùng đã dự đoạn trước, tên lửa sẽ tự dẫn đường đến mục tiêu. Nếu tên lửa được bắn ở tầm ngắn, trong tầm quan sát (WVR) hoặc gần ngoài tầm nhìn, tên lửa có thể tự sử dụng đầu dò của nó để dẫn đường đánh chặn.
Chế độ dẫn đường tự do
Ngoài dẫn đường bằng radar, còn có một chế độ dẫn đường tự do, gọi là "tầm nhìn" (visual). Trong chế độ này, tên lửa sẽ bắn vào mục tiêu nó nhìn thấy đầu tiên, chế độ này phù hợp khi đang phải đối mặt với kẻ địch có số lượng áp đảo.
Các biến thể và nâng cấp
nhỏ|300x300px|Một tên lửa AIM-120 AMRAAM được trưng bày tại Bảo tàng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Smithsonian
Phiên bản tên lửa không đối không
Hiện đang có 4 phiên bản chính của tên lửa AMRAAM, tất cả đều đang phục vụ trong Không quân Hoa Kỳ, Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Phiên bản AIM-120A đã ngừng sản xuất và sử dụng chung kiểu cánh lưới và rộng với phiên bản kế tiếp là AIM-120B. Phiên bản AIM-120C có kích thước nhỏ hơn để có thể vừa với khoang vũ khí của F-22 Raptor. Việc chuyển giao phiên bản AIM-120B bắt đầu từ năm 1994, còn phiên bản AIM-120C bắt đầu từ năm 1996.
nhỏ|300x300px|Tên lửa AIM-120 AMRAAM (bên phải) gắn ở trong khoang vũ khí của F-22 Raptor
Phiên bản C đã được nâng cấp thường xuyên trước khi được giới thiệu. Phiên bản này có ngòi nổ được cải tiến (tích hợp Thiết bị phát hiện mục tiêu) so với các phiên bản tiền nhiệm. Việc phát triển biến thể AIM-120C-7 bắt đầu từ năm 1998 bao gồm các cải tiến trong bám bắt mục tiêu và tăng tầm bắn (cải tiến chi tiết không được tiết lô). Nó được thử nghiệm thành công vào năm 2003 và đang được sản xuất cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Phiên bản này giúp Hải quân Hoa Kỳ thay thế tiêm kích F-14 Tomcat bằng F/A-18E/F Super Hornet. Trọng lượng nhẹ của tên lửa đã cho phép các phi công có thể hạ cánh trên tàu sân bay với khối lượng lớn hơn.
Phiên bản AIM-120D là một phiên bản nâng cấp gần như toàn diện, bao gồm tăng 50% tầm bắn và hệ thống dẫn đường mới làm tăng tỉ lệ tiêu diệt (Pk). Raytheon bắt đầu thử nghiệm phiên bản D vào ngày 5 tháng 8 năm 2008. Tâm bắn của phiên bản D không được công bố nhưng được dự đoán vào khoảng 160 km.
Phiên bản AIM-120D (P3I Phase 4, trước kia thường gọi là AIM-120C-8) là một biến thể nâng cấp từ AIM-120C với hệ thống liên kết dữ liệu 2 kênh, nâng cao tính chính xác của hệ thống định vị nhờ GPS nâng cấp IMU, tăng tầm tiêu diệt mục tiêu, và khả năng phóng tên lửa với góc lệch tâm lớn (high off-boresight). Tốc độ tối đa của tên lửa này là Mach 4 và đang trong giai đoạn thử nghiệm. Hải quân Hoa Kỳ dự định đưa tên lửa này hoạt động vào năm 2014, và toàn bộ nhóm tác chiến tàu sân bay ở Thái bình duơng sẽ được trang bị phiên bản D vào năm 2020. Nhưng do cắt giảm ngân sách năm 2013 nên thời gian có thể bị lùi đến 2022.
Raytheon cũng đang có kế hoạch phát triển phiên bản sử dụng động cơ động cơ phản lực dòng thẳng có tên là FRAAM (tên lửa không đối không tầm trung tuơng lai). Phiên bản FRAAM đã không được sản xuất do thị trường tìm năng là Bộ quốc phòng Anh đã chọn tên lửa Meteor thay vì FRAAAM cho tiêm kích Typhoon.nhỏ|300x300px|Xe phóng mang 4 tên lửa SL-AMRAAM trên khung gầm xe HMMVV
Raytheon cũng đang làm việc với Cục phòng thủ tên lửa (MDA) để phát triển mạng lưới nhân tố phòng thủ trung tâm không phận (NCADE), một tên lửa chống tên lửa đạn đạo từ AIM-120. Loại vũ khí này sử dụng động cơ phản lực dòng thẳng và đầu dò hồng ngoại lấy từ tên lửa Sidewinder. Và thay vì sử dụng đầu nổ cận đích, NCADE sử dụng cơ chế phá hủy mục tiêu bằng động năng dựa trên tên lửa SM-3.
Phiên bản A và B đang gấn hết thời gian hoạt động của nó trong khi phiên bản D chỉ vừa mới bước vào giai đoạn sản xuất. AMRAAM được kì vọng là sẽ được thay thế sau năm 2020 bởi Chuơng trình tên lửa thế hệ mới (Next generation missile), nhưng đã bị hủy bỏ vào năm 2013 do vấn đề kinh phí. Một phiên bản thay thế khác gọi là Vũ khí khai hỏa tầm xa (Long-Range Engagement Weapon) đã được bắt đầu phát triển vào năm 2017.
Năm 2017, chưong trình phát triển tên lửa AIM-260 (JATM) nhằm thay thế cho AMRAAM nhằm đối đầu với các tên lửa như PL-15 của Trung Quốc được bắt đầu. Viếc phóng thử nghiệm dự kiến sẽ bắt đầu vào năm 2021 và đưa vào hoạt động năm 2022, kết thúc giai đoạn sản xuất của tên lửa AMRAAM vào năm 2026.
thế=Norwegian Advanced Surface to Air Missile System|nhỏ|300x300px|Bệ phóng của hệ thống NASAMS
Phiên bản tên lửa đất đối không
Bài chi tiết: SLAMRAAM và NASAMS
Hệ thống Tên lửa đất đối không tiên tiến của Na Uy (NASAMS), phát triển bởi Kongsberg Defence & Aerospace, bao gồm nhiều xe phóng (mỗi xe chứa 6 tên lửa AMRAAM) cùng với xe radar và chỉ huy. Một phiên bản mới hơn là Xe phóng có tính cơ động cao, cùng sản xuất bởi Raytheon, hệ thống sử dụng xe phóng M1152A1 mang 4 tên lửa AMRAAM mỗi xe.
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Lục quân Hoa Kỳ đã thực hiện các lần phóng thử nghiệm tên lửa AMRAAM từ xe Humvee như là một phần của chuơng trình CLAWS (Complementary Low-Attitude Weapon System) và SLAMRAAM (Surface Launched AMRAAM), tuy nhiên đều đã bị hủy bỏ do cắt giảm ngân sách. Một phiên bản gần đây hơn là Xe phóng có tính cơ động cao (High Mobility Launcher) dành cho hệ thống NASAMS được phát triển bởi Raytheon sử dụng một xe phóng dựa trên xe Humvee mang theo 4 tên lửa AMRAAM và 2 tên lửa AIM-9X Sidewinder.nhỏ|448x448px|Tên lửa AMRAAM-ER
AMRAAM-ER
Là một phần của chuơng trình SLAMRAAM, Raytheon đã giới thiệu một loại tên lửa đất đối không tăng tầm phát triển từ tên lửa AMRAAM gọi là AMRAAM-ER. Thực chất đây là tên lửa RIM-162 ESSM được trang bị đâu dò của AMRAAM với hệ thống dẫn đường 2 tầng. Tên lửa lần đầu xuất hiện tại Triển lãm hàng không Paris 2007 và được bắn thử nghiệm vào năm 2008.
Do dự án SLAMRAAM bị căt kinh phí vào năm 2011, việc phát triển hệ thống NASAMS đã được tái khởi động vòa năm 2014. Vào tháng hai năm 2015, Raytheon thông báo rằng tên lửa AMRAAAM-ER sẽ trở thành một loại tên lửa cho hệ thống NASAMS, dự kiến sẽ bắt đầu được sản xuất từ năm 2019 và dự kiến sẽ được bắn thử vào năm tháng 8 năm 2016. Phiên bản này có tầm bắn tối đa được nâng lên 50 % và trần bay được nâng lên 70 %.
Năm 2019 Qatar đã đặt mua các tên lửa AMRAAM-ER như một phần trong gói mua các hệ thống NASAMS.
Tên lửa đã được bắn thử nghiệm tại Trung tâm Vũ trụ Andøya vào tháng 5 năm 2021.
Quốc gia vận hành
Các quốc gia hiện đang vận hành
Không quân Hoàng gia Úc
nhỏ|450x450px|Bản đồ các quốc gia vận hành
Thành phần không quân Bỉ
Không quân Hoàng gia Baharin
Không quân Hoàng gia Canada
Không quân Chile
Không quân Cộng hòa Séc
Không quân Hoàng gia Đan Mạch
Không quân Phần Lan
Không quân Đức
Không quân Hy Lạp
Không quân Hungary
Không quân Indonesia
Không quân Isarel
Không quân Italy
Hải quân Italy
Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản
Không quân Hoàng gia Jordan
Không quân Kuwait
Không quân Hoàng hia Malaysia
Không quân Hoàng gia Morocco
Không quân Hoàng gia Hà Lan
Không quân Hoàng gia Na Uy
Không quân Hoàng gia Oman
Không quân Pakistan
Không quân Ba Lan
Không quân Bồ Đào Nha
Không quân Qatar
Không quân Romania
Không quân Hoàng gia Ả Rập Xê Út
Không quân Cộng hòa Singapore
Không quân Cộng hòa Hàn Quốc
Không quân Thụy Sĩ
Không quân Tây Ban Nha
Lục quân Tây Ban Nha
Hải quân Tây Ban Nha
Không quân Thụy Điển
Không quân Trung Hoa Dân Quốc
Không quân Hoàng gia Thái Lan
Không quân Thổ Nhĩ Kỳ
Không quân Các Tiểu vuơng quốc Ả Rập Thống nhất
Không quân Hoàng gia Anh
Không quân Hoa Kỳ
Hải quân Hoa Kỳ
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
Các quốc gia sẽ vận hành trong tuơng lai
Không quân Bulgaria |
Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất (tiếng Anh: Performance by an Actress in a Supporting Role) là một hạng mục trong hệ thống Giải Oscar được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (Academy of Motion Picture Arts and Sciences, viết tắt là AMPAS, Hoa Kỳ) trao tặng hàng năm cho diễn viên nữ có vai diễn phụ xuất sắc nhất trong năm đó của ngành công nghiệp điện ảnh. Tính cho đến lễ trao Giải Oscar lần thứ 80 (năm 2008) đã có tổng cộng 72 giải Oscar vai nữ phụ được trao cho 70 nữ diễn viên khác nhau trong đó người đầu tiên được nhận giải thưởng này là nữ diễn viên Gale Sondergaard, người chiến thắng trong lễ trao Giải Oscar lần thứ 9 cho vai diễn của cô trong bộ phim Anthony Adverse.
Các kỷ lục
Hai nữ diễn viên duy nhất cho đến nay từng hai lần giành chiến thắng ở hạng mục này là Shelley Winters (1959 và 1965) và Dianne Wiest (1986 và 1994).
Thelma Ritter đang là nữ diễn viên giữ kỷ lục về số lần đề cử (6 lần) cũng như kỷ lục về số lần đề cử của một người chưa từng chiến thắng trong hạng mục nữ diễn viên phụ. Ritter còn là người giữ kỷ lục về số lần được đề cử liên tiếp (4 lần, từ năm 1982 đến năm 1984). Xếp sau bà về số lần đề cử (4 lần) là các nữ diễn viên Ethel Barrymore, Agnes Moorehead, Lee Grant, Maureen Stapleton, Geraldine Page và Maggie Smith.
Danh sách cụ thể
Thập niên 1930
Thập niên 1940
Thập niên 1950
Thập niên 1960
Thập niên 1970
Thập niên 1980
Thập niên 1990
Thập niên 2000
Thập niên 2010 |
Nghi Xuân là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Hà Tĩnh, vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Nghi Xuân nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh, nằm cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 47 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 310 km về phía bắc, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp Biển Đông với đường bờ biển dài 32 km
Phía tây giáp thị xã Hồng Lĩnh và huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An
Phía nam giáp huyện Can Lộc và huyện Lộc Hà
Phía bắc giáp thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò và huyện Nghi Lộc thuộc tỉnh Nghệ An.
Huyện Nghi Xuân có diện tích 218 km² và dân số năm 2019 là 102.160 người. Huyện Nghi Xuân cách sân bay Vinh chưa đầy 20 km, đi cửa khẩu Cầu Treo biên giới Việt-Lào 110 km theo đường quốc lộ 8, đi khu kinh tế Vũng Áng (Kỳ Anh) 115 km. Có khu du lịch Xuân Thành, cảng cá Xuân Hội, cảng Xuân Hải; có hệ thống giao thông khá thuận lợi với hai nhánh đường quốc lộ với chiều dài gần 35 km; có 32 km bờ biển với các bãi biển thoải, nước biển trong xanh; sông Lam chảy ven phía tây bắc với chiều dài trong địa phận huyện là 28 km. 3,72% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Lịch sử hình thành và phát triển
Từ thời nhà Đường đến nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, địa bàn huyện Nghi Xuân thuộc đất Hoan Châu.
Thời nhà Lý, nhà Trần: Nghi Xuân thuộc Nghệ An châu, Nghệ An trại.
Thời nhà Hậu Lê, huyện Nghi Xuân thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An (rồi trấn Nghệ An).
Thời nhà Nguyễn, huyện Nghi Xuân thuộc phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Từ năm 1832 đến năm 1975, huyện Nghi Xuân trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Nghi Xuân trực thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 17 xã: Cổ Đạm, Cương Gián, Tiên Điền, Xuân An, Xuân Đan, Xuân Giang, Xuân Hải, Xuân Hội, Xuân Hồng, Xuân Lam, Xuân Liên, Xuân Mỹ, Xuân Phổ, Xuân Thành, Xuân Trường, Xuân Viên, Xuân Yên.
Ngày 5 tháng 9 năm 1975, sáp nhập xóm Hội Phúc thuộc xã Xuân Hội vào xã Xuân Trường.
Ngày 23 tháng 2 năm 1977, thành lập xã Xuân Lĩnh tại vùng đất khai hoang.
Ngày 1 tháng 3 năm 1988, tách toàn bộ 59,30 ha diện tích tự nhiên và 507 nhân khẩu của xóm Tiến Hòa, xã Tiên Điền; toàn bộ 22,5 ha diện tích tự nhiên và 588 nhân khẩu của xóm Giang Thủy, xã Xuân Giang cùng 2.298 nhân khẩu là cán bộ, công nhân viên Nhà nước và người ăn theo của các cơ quan đóng trên địa bàn này để thành lập thị trấn Nghi Xuân, thị trấn huyện lỵ huyện Nghi Xuân.
Từ năm 1991 đến nay, huyện Nghi Xuân thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Ngày 8 tháng 6 năm 1994, chuyển xã Xuân An thành thị trấn Xuân An.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Tiên Điền và thị trấn Nghi Xuân thành thị trấn Tiên Điền, sáp nhập xã Xuân Đan và xã Xuân Trường thành xã Đan Trường.
Hành chính
Huyện Nghi Xuân có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Tiên Điền (huyện lỵ), Xuân An và 15 xã: Cổ Đạm, Cương Gián, Đan Trường, Xuân Giang, Xuân Hải, Xuân Hội, Xuân Hồng, Xuân Lam, Xuân Liên, Xuân Lĩnh, Xuân Mỹ, Xuân Phổ, Xuân Thành, Xuân Viên, Xuân Yên.
Văn hóa
Nghi Xuân có nhiều di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu như Ca trù Cổ Đạm, Trò Kiều Tiên Điền và Xuân Liên, Sắc Bùa Xuân Lam, Chầu Văn Xuân Hồng, trò Sĩ - Nông - Công - Thương - Ngư Xuân Thành, Lễ hội Cầu ngư Xuân Hội, các làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh...
Làng nghề truyền thống
Làng nón Tiên Điền: thuộc thị trấn Tiên Điền
Làng nước mắm Cương Gián: nay là xã Cương Gián
Làng làm nồi đất Cổ Đạm: thuộc xã Cổ Đạm
Làng làm mộc: thuộc xã Xuân Phổ.
Làng làm trống: thuộc xã Xuân Hội.
Lễ hội truyền thống
Hội Mỹ Dương tại xã Xuân Mỹ, vào 17 tháng 12 âm lịch: Lễ cúng thần săn bằng thú rừng.
Hội Phan Xá vào 7 - 15 tháng 1 âm lịch: Lễ khai canh.
Lễ Tống Trùng tại xã Tiên Điền, vào tháng 2 âm lịch: Cúng ở đình thờ Thành hoàng, cúng trời đất, cầu yên mùa màng.
Hội Sĩ Nông Công Thương, tại xã Xuân Thành, vào tháng 5 âm lịch hàng năm.
Tục thờ thần và lễ cầu ngư ở làng xã Xuân Hội, vào ngày mồng 3 tháng 2 âm lịch.
Hội lễ ở làng Giáo Phường tại Đình Hoa Vân Hải xã Cổ Đạm, vào 11 tháng Chạp hàng năm.
Lễ hội Đầm vực vào tháng 6 dương lịch. Đầm Vực ở Xuân Viên nằm dưới chân dãy Hồng Lĩnh, có chiều dài hơn 1 km với diện tích khoảng 30 ha. Đây là khu vực có nhiều loài cá nước ngọt sinh trưởng.
Giáo dục
Tiểu học (cấp 1): mỗi xã, thị trấn có một trường tiểu học, toàn huyện có 17 trường tiểu học.
Trung học cơ sở (cấp 2): Hiện tại, trên địa bàn huyện có 11 trường THCS: Trường THCS Nguyễn Trãi (Thị trấn Tiên Điền), Trường THCS Phổ Hải, Trường THCS Hoa Liên, Trường THCS Xuân An, Trường THCS Đan Trường Hội, Trường THCS Cương Gián, Trường THCS Tiên Yên, Trường THCS Xuân Viên, Trường THCS Xuân Giang, Trường THCS Lam Hồng, Trường THCS Thành Mỹ.
Trung học phổ thông (cấp 3): Hiện tại, toàn huyện có 3 trường trung học phổ thông công lập là: THPT Nguyễn Du tại thị trấn Tiên Điền, THPT Nguyễn Công Trứ tại thị trấn Xuân An và THPT Nghi Xuân tại xã Cổ Đạm.
Danh nhân
Nghi Xuân khi xưa thuộc phủ Đức Quang (gồm cả Hương Sơn, Can Lộc, Đức Thọ, Thanh Chương, Nghi Lộc) được xem là vùng "địa linh nhân kiệt" của xứ Nghệ. Trong thời kì phong kiến, Nghi Xuân có 21 vị đỗ Đại khoa (Tiến sĩ) với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Nguyễn Tiên Điền, Ngụy Khắc, Trần, Phan, Uông, Đậu, và các làng giàu truyền thống văn hoá như: Tiên Điền, Uy Viễn, Cương Gián, Cổ Đạm, Tả Ao, Phan Xá.
Những danh nhân, nhà khoa bảng, văn nhân và quan lại nổi tiếng :
Nguyễn Du (1766-1820): Đại Thi hào dân tộc, Danh nhân Văn hóa Thế giới.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858): Đại doanh điền, Nhà thơ.
Tả Ao: Nhà Địa lý nổi tiếng đời Hậu Lê.
Nguyễn Xí (1397-1465): danh tướng, nhà chính trị, công thần khai quốc nhà Hậu Lê
Phạm Ngữ (1434-?) Thiêm đô Ngự sử.
Đặng Thái Phương: Danh nho
Phan Chính Nghị (1476-?): Hoàng giáp, làm quan đến chức đô ngự sử.
Nguyễn Nghiễm (1708-1776): Đại Tư đồ Xuân Quận công, Tể tướng triều Hậu Lê.
Nguyễn Huệ (1705-1733): Tiến sĩ khoa Quý Sửu, niên hiệu Long Đức năm thứ 2 (1733).
Đặng Sĩ Vinh: Liêu Quận công.
Nguyễn Quỳnh: Lĩnh Nam công.
Nguyễn Khàn: Tiến sĩ, Toản Quận công, Thượng thư Bộ lại.
Nguyễn Hành (1771-1824): Nhà thơ, "An nam ngũ tuyệt", tác giả: Quan Đông hải thi tập, Minh Quyên thi tập, Thiên hạ nhân vật thư.
Ngụy Khắc Tuần (1799-1854): đồng tiến sĩ xuất thân, Tổng đốc, Thượng thư
Trần Bảo Tín (1483-?): Bảng nhãn, Tả thị lang bộ Lại.
Nguyễn Bật Lạng: Thám hoa.
Ngụy Khắc Đản (1817-1873): Thám hoa, Thượng thư bộ Binh, Thượng thư bộ Công.
Hà Văn Đại: Phó bảng
Nguyễn Trọng: Lam Khê hầu
Nguyễn Điều: Điền Nhạc hầu
Trần Trọng Kim (1883-1953): Nhà sử học, Thủ tướng đầu tiên của Chính phủ Việt Nam...
Những người nổi tiếng, tiêu biểu hiện nay, xuất thân từ huyện Nghi Xuân:
- Văn hóa, giáo dục, khoa học, chính trị:
Hà Văn Tấn (1937-2019): Giáo sư, Nhà giáo nhân dân (1997), Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về khoa học (2001).
Đào Mộng Long (1915-2006): Nghệ sĩ nhân dân (1984).
Lê Đóa (1922-2008): Nghệ sĩ nhân dân (1993).
Lê Hải Châu (1926-2022): Nhà giáo nhân dân (2008).
Vũ Ngọc Khánh (1926-2012): Nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
Hà Văn Mạo (1928-2016): Giáo sư, Tiến sĩ y khoa, Thầy thuốc nhân dân (2001).
Nguyễn Mạnh Liên (1930-2011): Giáo sư, Tiến sỹ khoa học y khoa, Nhà giáo nhân dân.
Lê Văn Quang: Giáo sư, Tiến sĩ triết học, Nhà giáo nhân dân (2006).
Hà Văn Quyết: Giáo sư, Tiến sĩ Y khoa, Nhà giáo nhân dân (2017).
Đậu Ngọc Xuân (1927-2016): nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư.
Đặng Duy Báu: Tiến sĩ, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
Uông Chu Lưu: Tiến sĩ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
Đinh Văn Tư: nguyên Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Đình Hương: Giáo sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội.
Trần Ngọc Hiên: Giáo sư, nguyên Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Thuận Hữu: Nhà báo, Nhà thơ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, nguyên Tổng biên tập báo Nhân dân.
Lê Thế Đề, nguyên Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phạm Xuân Sơn, nguyên Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trần Quyết Thắng: Tiến sĩ, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, nguyên Cục trưởng Cục Quản trị A thuộc Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đặng Quốc Khánh: Tiến sĩ, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Nguyễn Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
Lê Hải An: Tiến sĩ, cố Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hà Thị Mỹ Dung: Tiến sĩ, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước .
Nguyễn Thị Phú Hà: Tiến sĩ, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội.
Trần Thị Nhị Hà, đại biểu Quốc hội, Giám đốc Sở Y tế Hà Nội.
Phan Văn Hùng, Phó Tổng biên tập Báo Nhân Dân.
Đậu Xuân Cảnh, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân dân, Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam.
Trần Tuấn Linh, Tổng Biên tập báo Sức khỏe và Đời sống, Bộ Y tế.
- Tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang:
Lê Hữu Đức (1925-2018): Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam, Bộ Quôc phòng.
Đặng Văn Duy (1924-2014): Thiếu tướng, nguyên Phó Ban Cơ Yếu Trung ương, nguyên Cục trưởng Cục Tuyên truyền đặc biệt Bộ Quốc phòng.
Trần Quốc Phú: Trung tướng, nguyên Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân I, Bộ Quốc phòng.
Trương Đình Quý: Trung tướng, nguyên Chính ủy Trường Sĩ quan Lục quân I, Bộ Quốc phòng.
Từ Ngọc Lương: Trung tướng, nguyên Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2, Bộ Quốc phòng.
Trần Nam Xuân: Thiếu tướng, nguyên Giám đốc Học viện Phòng không - Không quân, Bộ Quốc phòng.
Trần Văn Minh: Thiếu tướng, nguyên Chánh Văn phòng Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng.
Trần Hùng Nam: Thiếu tưởng, nguyên Cục trưởng Cục Xe Máy, Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng.
Nguyễn Mạnh Dũng: Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an.
Phan Xuân Sơn: Thiếu tướng, nguyên Phó Chánh Thanh tra Bộ Công an.
Du lịch
Hình thế đất Nghi Xuân như chiếc mũ cánh chuồn nhìn nghiêng, ba mặt là núi, sông biển. Thế đất tam hợp của núi, sông và biển chung tụ tạo nên một miền quê có nhiều cảnh quan danh thắng và di tích.
Danh thắng
Nói tới cảnh đẹp Nghi Xuân, thường người dân nơi đây hay nhắc tới câu "Nghi Xuân bát cảnh'' có từ xưa. Tám cảnh đó là:
Hồng Sơn liệt chướng (Núi Hồng thành dựng)
Đan Nhai quy phàm (Đan Nhai buồm về)
Song Ngư hý thủy (Đảo Song Ngư như đôi cá giỡn nước)
Cô Độc lâm lưu (Núi Cô Độc như con nghé lội rào)
Giang Đình cổ độ (Bến đò cổ Giang Đình)
Quần Mộc bình sa (Bãi cát bằng Quần Mộc)
Uyên Trừng danh tự (Chùa Uyên Trừng cảnh đẹp)
Hoa Phẩm thắng triền (Chợ Hoa Phẩm hàng đầy).
Lý giải cụ thể hơn tám cảnh nói trên, theo thứ tự từ núi đến sông và chảy xuôi ra biển:
Hồng Sơn liệt chướng:
Đây là dãy núi phía nam huyện, là phên dậu che chở cho Nghi Xuân, có 9 xã trong huyện nằm ven chân núi. Hồng Sơn là núi Hồng, là dải Hồng Lĩnh và còn được gọi là Ngàn Hống.
Cái tên Hồng bắt nguồn từ truyền thuyết: Dãy núi xưa có 100 đỉnh, có đỉnh Mồng Gà, đỉnh Đầu Voi, đỉnh Đầu Ngựa... Phải chăng vì thế mà đỉnh Ngọc tưởng mình là cao sang, tách ra khỏi quần thể, đứng một mình trên đất Đức Thuận (thuộc thị xã Hồng Lĩnh). Đàn chim Hồng nghe nơi đây có núi trăm đỉnh, bèn gửi 100 con đến tọa lạc, làm đẹp cho dãy núi, tạo cho thế đất càng linh hơn. Sau khi có 99 con hạ cánh đỗ lên 99 đỉnh, còn 1 con dù biết kia là đỉnh Ngọc, đậu lên đấy có thể sáng chói hơn, mà cũng chỉ cách có nửa dặm. Nhưng vì không muốn xa bầy, bèn bay lượn quanh. Một nông dân xã Mỹ Dương (nay là Xuân Mỹ) nhìn thấy, phần thì thương con chim lẻ loi, phần thì sợ đàn chim bỏ đi, nên ông cùng với một số bạn bè đến sát chân núi đắp một "Cục lịp" (lịp là hình cái nón) cho chim đậu. Cảm thông, con chim thứ 100 sà xuống đậu, nhưng do đắp vội, cục lịp vỡ ra, con chim đành bay lên. Cả đàn bèn cùng cất cánh bay theo. Sau này núi nối tiếc, mang tên Hồng làm kỷ niệm. Cục lịp vẫn còn cùng với dải Hồng Lĩnh thơ mộng, tạo nên nhiều cảnh đẹp. Có nền Trang Vương xa xưa với chùa Hương Tích đẹp và cổ kính, có dãy Ngũ Mã với đền Củi linh thiêng, có lăng mộ Ngọc Trần vợ vua Lê Lợi ở núi Na, có bàn cờ Tiên, có đá Ông, đá Mụ, có đá Nhoi nơi những người có tâm huyết với đất nước ở ẩn, có truông Cồng Khánh con đường mà Đại thi hào Nguyên Du đi tắt vượt Treo Vọt để hát phường vải, có di chỉ văn hóa Phôi Phối...
Hoa Phẩm thắng triền:
Hoa Phẩm là tên chợ nằm trước chân núi Na (trong dải Hồng Lĩnh, thuộc địa phận xã Xuân Lam), chợ nằm gần sông, gần đường cái quan, thông thương nam bắc, là cảnh "Chênh vênh quán lá chen hoa tím, vắt vẻo đường quan hương thoáng bay", chợ lại ở một bên trạm nơi dừng chân của các cuộc kinh lý, cũng gần nhà quản nên sầm uất. Sau này, khi táng bà Lê Nguyên Phi (vợ vua Lê Lợi) ở núi Na, chợ dời đến bãi Chế sát bờ sông, cảnh trên bến dưới thuyền tấp nập, trù phú, nên đã có những câu ngợi ca "chợ Chế một tháng sáu phiên. Một quan mà bán tám tiền cũng đi" (một quan = mười tiền).
Cô Độc lâm lưu:
Từ chợ Củi, xuôi xuống chút nữa ta gặp hòn núi Cô Độc (thuộc nhóm Ngũ Mã trong dải Hồng Lĩnh, địa phận xã Xuân Hồng). Nhìn cả nhóm núi như đàn trâu đang cúi mình và một con nghé đứng riêng. Chuyện kể: Trong lúc cả đàn đang ăn cỏ, một chú nghé non ngẩng đầu nhìn sang bên kia sông, nơi ấy cỏ hình như xanh hơn, mịn màng hơn, êm ả hơn, ngon lành hơn. Chú lặng lẽ tách khỏi đàn định vượt sông, khi hai chân trước vừa bước xuống sông, điều không may đã đến, trời bắt chú hóa đá. Thế là có một ngọn núi đá nằm bên bờ sông, lại có một phần chân núi cắm ra ngoài sông, nước chảy lồng phía dưới, thuyền chạy luồn thú vị biết bao...
Uyên Trừng danh tự:
Từ hòn Cô Độc xuôi dòng rồi rẽ vào hói Dằng (xã Xuân Hồng), trên sườn hữu ngạn là chùa Uyên Trừng, chùa còn có những tên khác nhau như chùa Hoa Tàng, Ba Tằng, tên nôm thường gọi là chùa Dằng. Chùa toạ lạc trong một cảnh quan đẹp trên dải Hồng Lĩnh, ẩn trong rừng cây cổ thụ, ba mặt là núi Hồng, có Am viện, trước chùa là con khe nhỏ, có cầu gỗ mảnh mai bắc qua. Phía trước chùa có vực sâu (chừng 2 cây nứa). Chuyện kể: Có nhiều người nghe được tiếng động lao xao dưới đáy. Cảnh chùa tĩnh mịch, huyền bí trong tiếng chuông ngân, nối với ngoài bằng tiếng chim. Đây là ngôi chùa cổ linh thiêng, nổi tiếng trên đất Nghi Xuân. Theo truyền ngôn, chùa có từ thời nhà Lý, nhưng cũng không rõ xây từ năm nào. Trong chiến tranh chống Mỹ, đây là khu vực bị ném bom rất ác liệt, cả một vùng rộng lớn bị tàn phá.
Ngày nay, di tích chùa Uyên Trừng và những cảnh quan vùng này đã khác hẳn xưa bởi thời gian và chiến tranh làm đảo lộn.
Quần Mộc bình sa:
Từ chùa Uyên Trừng trở ra Sông Lam, xuôi qua Bến Thủy ta trông thấy cồn nổi giữa sông, đó là Quần Mộc (nay thuộc xã Xuân Giang). Xưa Quần Mộc là bãi cát bồi bằng phẳng, viền quanh là rừng bần tươi xanh, trông như đang nổi bồng bềnh giữa sông, cứ chiều đến là hàng ngàn cò trắng về đậu trên rừng bần, trông như những đóa hoa trắng và buổi bình minh đàn chim lại bay kiếm ăn xa, dưới ánh nắng ban mai, cánh chim rực hồng lan tỏa. Ở đây xưa còn là bàn đạp để tấn công sang hai bờ và trở thành bãi chiến trường.
Ngày trước, Quần Mộc có khi còn chọn làm trường thi an toàn, dễ kiểm soát. Thời Tây Sơn ở đây còn đắp thành lũy.
Hiện nay, đây là vùng dân cư, đất đai màu mỡ, cây cối xanh tốt quanh năm. Trong làng có nhà thờ họ Hồ nổi tiếng.
Giang Đình cổ độ:
Quần Mộc đi xuôi chút nữa là bến Giang Đình. Xưa, đây là bến đò ngang nằm ở trung tâm huyện lại sát huyện lỵ, nên được chọn làm nơi gặp mặt trên sồng, về sau là nơi đón khách xa đến huyện (theo đường thủy), rồi là nơi đón các ông nghè vinh quy, mở hội ãn mừng và được rước về quê quán.
Bến Giang Đình đẹp, vì ngoài có rừng bần chắn gió, bến dốc nên sạch, trên bờ là nhũng cây cổ thụ rợp bóng mát; ngay sát là chợ huyện, nên chợ cũng được mang tên Giang Đình. Trên chợ dưới thuyền rất thuận lợi, buôn bán sầm uất. Bến xưa, có lúc là đón người vinh hiển, có lúc lại xôn xao với vành yếm thắm, cũng có lúc đò sang tím lại bởi tiếng tầm tình.
Đan Nhai quy phàm:
Rời bến Giang Đình xuôi ra cửa Sông Lam, trước đây gọi là cửa Đan Nhai còn nay gọi là cửa Hội (cửa Đan Nhai là tên của xã Đan Nhai, cửa Hội là tên của xã Hội Thống, còn nay là xã Xuân Hội).
Ngày trước, khi trời chiều buông xuống, ráng đỏ phủ lên cảnh vật, nhiều cánh buồm no gió lướt như đan nhau về bến cửa, những cánh buồm óng ánh đỏ, mật nước như tím lại, trên nền trời in những bóng hải âu sải cánh... Hơn nữa, cửa Đan Nhai là vùng cát bồi trên chân núi Hồng Lĩnh, sách cũ còn ghi: Cửa Đan Nhai đá chìm lởm chởm, thuyền bè rất khó ra vào cửa sông. Chính vì lẽ ấy, khi thuyền vào cửa lạch không thể chạy theo một đường thắng, mà còn phải căn cứ vào chớn nước để thay đổi đường đi, lúc "bát", lúc "cạy" (sang phải, sang trái) làm cho những cánh buồm no gió dập dờn qua lại khác nào đàn bướm đang vờn hoa, đàn cá đang dỡn nước.
Song Ngư hý thủy:
Đứng trên cửa biển Đan Nhai xưa, nay là đất xã Xuân Hội, nhìn về phương bắc sẽ thấy hòn đảo mang tên Song Ngư (đảo nay thuộc tỉnh Nghệ An quản lý). Đảo như hai con cá lớn đầy đủ thân và đuôi, đang châu đầu vào nhau như đùa giỡn trên biển. Nhất là những hôm sóng to, vỗ vào thân núi trắng xóa như hai con cá đang lội. Còn đứng trong làng nhìn ra, bị cây che lấp phía dưới, phía thân núi còn lại như thân hai con trâu, lưng oằn xuống, như đang gục đầu vào nhau thử sức.
Trong tám cảnh này, có những cảnh "Thiên phú" như Hồng Sơn liệt chướng, Song Ngư hý thủy sẽ trường tồn với thời gian. Có những cảnh thiên nhiên và con người cùng tác động đến như: Cô Độc lâm lưu, Quần Mộc bình sa. Có những cảnh do con người tác động đến mới có như: Hoa Phẩm thắng triền, Uyên Trừng danh tự, Giang Đình cổ độ, Đan Nhai quy phàm.
Nghỉ dưỡng
Khu du lịch biển Xuân Thành:
Là bãi biển thuộc địa phận thôn Đông Hội xưa, ngày nay là Khu du lịch sinh thái Xuân Thành, ở xã Xuân Thành. Bãi biển Xuân Thành trải dài hơn 5 km vớỉ độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn màng, nước biển ở đây có độ mặn vừa phải, trong, xanh và sạch. Bãi biển Xuân Thành còn giữ được vẻ nguyên sơ, kỳ bí, thơ mộng của núi, rừng và biển.
Điều tạo ra sự khác biệt cho bãi biển Xuân Thành chính là song song với biển là một dòng sông nước ngọt từ núi Hồng Lĩnh chảy qua các xã Xuân Giang, Tiên Điền, Xuân Mỹ, Xuân Yên tạo thành đầm Công Chúa. Từ đầm Công Chúa chảy về hướng thôn Hải Phòng, thuộc xã Xuân Hải rồi chuyển sang hướng nam đổ ra cửa lạch Đào ở bãi tắm ngày nay. Dòng nước ngọt chảy quanh co, uốn lượn theo chiều dài của biển, với những rặng dừa ngày đêm soi bóng. Lạch Đào không sâu nhưng nước không bao giờ cạn. Hai bên bờ lạch là thảm thực vật xanh tốt. Ngày nay, đoạn dòng chảy ở của lạch Đào được các chủ cơ sở kinh doanh du lịch bắc cầu cong nối liền đôi bờ dòng chảy. Đứng trên cầu bắc ngang qua sông, du khách sẽ được ngắm nhìn cảnh sắc bao la của biển cả. Khu du lịch biển Xuân Thành có thể xem là một cảnh biển mới hấp dẫn của đất Nghi Xuân.
Sau gần 20 năm đưa vào khai thác, đến nay Khu du lịch biển Xuân Thành đã có hơn 150 đơn vị, cá nhân đầu tư hoạt động kinh doanh du lịch, dịch vụ, nhiều nhà hàng và các cơ sở lưu trú với hơn 500 phòng nghỉ, trong đó có 9 cơ sở được thẩm định xếp hạng. Hiện tại, ở đây đã có cơ sở nghỉ dưỡng đạt tiêu chuẩn 5* là Khách sạn Mường Thanh.
Di tích
Nghi Xuân có trên 200 di tích văn hóa - lịch sử, trong đó có 83 di tích đã được cấp bằng di tích cấp tỉnh, cấp quốc gia, gồm 1 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 8 di tích cấp quốc gia và 74 di tích cấp tỉnh. Sau đây là một số di tích nổi bật:
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du tại thị trấn Tiên Điền: được hình thành, phát triển trên cơ sở các di tích của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, một thế tộc lừng danh. Đây là Di tích quốc gia đặc biệt (2012).
Nhà thờ và mộ Nguyễn Công Trứ: Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (1991)
Đền Chợ Củi tại xã Xuân Hồng: Di tích kiến trúc nghệ thuật tôn giáo thế kỉ 17, thờ Đức ông Hoàng Mười, Liễu Hạnh công chúa, là Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (1993)
Đình Hội Thống tại xã Xuân Hội: Kiến trúc nghệ thuật thế kỉ 17, Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (1995).
Nhà thờ và mộ Anh hùng Chí sỹ yêu nước Trịnh Khắc Lập tại xã Xuân Thành: Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (1998).
Đình Hoa Vân Hải tại làng Vân Hải, xã Cổ Đạm: Di tích cách mạng giai đoạn 1930-1931, là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (2001).
Đền thờ Nguyễn Xí tại xã Cổ Đạm: Di tích lịch sử cấp quốc gia (2008)
Di tích khảo cổ Phôi Phối - Bãi Cọ thuộc xã Xuân Viên: Di tích khảo cổ cấp quốc gia (2014).
Nhà thờ Nguyễn Bật Lãng tại xã Xuân Liên: Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (2019).
Nhà thờ Thiếu bảo Liêu Quận công Đặng Sĩ Vinh: được xây dựng từ năm 1770 thời Vua Lê Hiển Tông, là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2003).
Đền Thánh Mẫu ở xã Xuân Lam: Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh (2005).
Nhà thờ và lăng mộ Bảng nhãn Trần Bảo Tín ở Thị trấn Xuân An: Di tích văn hóa cấp tỉnh (2008).
Đền thờ Hoàng giáp Nguyễn Ngọc Huấn ở xã Xuân Yên: di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2008).
Đền Nhà Bà xã Cổ Đạm: Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2008).
Đền làng Cam Lâm ở xã Xuân Liên: Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2008).
Nhà thờ Hoàng giáp Phan Chính Nghị tại thôn Vinh Mỹ xã Xuân Mỹ. Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh (2006).
Đền Thượng tại thôn An Tiên, xã Xuân Giang thờ ba vị đại vương triều Lý gồm Uy Minh vương Lý Nhật Quang, Đông Chinh vương và Dực Thánh vương, là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2011).
Đền Thánh Mẫu ở xã Xuân Yên: 2011: Di tích văn hóa cấp tỉnh (2011).
Đền thượng ở xã Cổ Đạm thờ thái úy Tô Hiến Thành: Di tích Lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2015).
Đền Am và Đền Bến ở xã Xuân Liên: Di tích Lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2016).
Nhà thờ và Mộ Đậu Vĩnh Tường ở xã Xuân Viên: Di tích Lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2016).
Đền Huyện Nghi Xuân. Nơi đây thờ Hoàng tử triều Lý là Uy Minh vương Lý Nhật Quang. Đền thờ được xây dựng lâu đời và nổi tiếng linh thiêng. Đền Huyện, được phục dựng trên nền móng cũ vào năm 2011, gồm có các hạng mục tam quan, hạ điện, trung điện, thượng điện, giải văn, giải vũ, hồ nước và các hạng mục khác. Đền Huyện được công nhận, xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh (2019).
Đền Đông Hải Đại Vương và Nhà thờ Phan Thái ở xã Cương Gián: Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2020).
Đền thờ Đức Thánh Trần ở xã Cổ Đạm thờ Trần Hưng Đạo. Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh (2021).
Đền Cả (Miệu) ở xã Xuân Hội: lưu giữ 46 sắc cổ có niên đại từ Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783) đến Khải Định năm thứ 9 (1924). Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh (2008).
Chùa Trậu (Chùa Đà Liễu) ở xã Xuân Mỹ. Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh (2008).
Trúc Lâm đại giác - Việt Nam Trần triều điện tọa lạc trên khu đắc địa rộng 5000 m2 tại làng Kiều Lĩnh, xã Xuân Phổ, có kiến trúc đặc biệt độc đáo, vừa hiện đại vừa cổ kính. Ba tòa nhà chính là 3 cung điện thờ, được xây dựng 2 tầng, tầng một bằng bê tông cốt thép, tầng 2 bằng gỗ quý nhập khẩu từ nước CHDCND Lào, thờ các vị vua nhà Trần. |
Can Lộc là một huyện thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý:
Trong vùng nội chí tuyến bắc bán cầu, địa phận Can Lộc nằm gọn trên tọa độ từ 18o20' vĩ độ Bắc đến 18o30' vĩ độ Bắc, từ 105o37' kinh độ Đông đến 108o40' kinh độ Đông.
Huyện Can Lộc nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh, nằm cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 20 km về phía nam, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Lộc Hà
Phía tây giáp huyện Đức Thọ
Phía nam giáp huyện Thạch Hà và huyện Hương Khê
Phía bắc giáp thị xã Hồng Lĩnh và huyện Nghi Xuân.
Diện tích và dân số:
Theo thống kê của UBND huyện Can Lộc có tổng diện tích tự nhiên 373,03 km², dân số năm 2003 là 175.298 người, mật độ dân số 473 người/km², chiếm 6% diện tích và 13,6% dân số toàn tỉnh Hà Tĩnh. 17,2% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Địa hình:
Can Lộc có đa dạng các loại địa hình bao gồm: đồng bằng, đồi núi, đầm lầy, sông suối... Đồng bằng của Can Lộc nằm gọn giữa hai triều núi là Trà Sơn và Hồng Lĩnh gần như cân đối giữa địa phận.
Sông Nghèn là con sông chính chảy qua đây, bắt nguồn từ sông Lam chảy theo hướng tây bắc – đông nam rồi kết thúc ở cửa Sót đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Sông Nghèn uốn lượn quanh co đan xen với sông Nhà Lê cùng các khe suối, kênh mương lớn nhỏ khác nhau chia cắt đồng bằng ra thành nhiều mảng.
Đồi núi của Can Lộc chủ yếu có độ cao vừa phải, phân chia thành từng quần thể núi nối tiếp nhau phân bố không đồng đều, dáng vóc không giống nhau. Đứng trên bất cứ đâu tại huyện Can Lộc, đưa mắt nhìn về tứ phía, không gần thì xa, phía nào cũng có núi sông chằng chịt.
Khí hậu:
Khí hậu Can Lộc phân chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10, mùa mưa từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Can Lộc có lượng mưa hàng năm tương đối ít, tập trung vào các tháng 7 đến tháng 11, đạt từ 120mm đến 700, số giờ nắng trong năm tương đối lớn và chịu ảnh hưởng của hiệu ứng phơn (gió Lào).
Giao thông:
Xưa kia, giao thông của Can Lộc chủ yếu là đường sông. Ngày nay, đường Quốc lộ 1 là con đường huyết mạch chạy qua địa bàn huyện.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Bãi Vọt – Hàm Nghi đi qua đang được xây dựng.
Lịch sử
Can Lộc theo từ Hán Việt thì từ "Can" (甘) có nghĩa là bằng lòng, từ "Lộc" (禄) có nghĩa là bổng lộc, tốt lành.
Lịch sử Can Lộc bắt đầu từ rất sớm.
Thời Hồng Bàng, từng là nơi đặt kinh đô của nước Việt Thường Thị, sau đó cùng với Hà Tĩnh trở thành 1 bộ của nước Văn Lang.
Trong thời kỳ Bắc Thuộc, địa phận Can Lộc thuộc quận Cửu Chân. Huyện Can Lộc lúc đó mang nhiều tên gọi khác nhau như: Phù Lĩnh (dưới thời nhà Ngô), Việt Thường rồi Hà Hoàng (dưới thời nhà Đường).
Thời nhà Trần đặt là huyện Phỉ Lộc.
Thời Lê sơ, năm 1469, vua Lê Thánh Tông đặt là huyện Thiên Lộc thuộc phủ Đức Quang, thừa tuyên Nghệ An.
Thời Nguyễn, năm Tự Đức thứ 15 (1862) cho đổi tên thành Can Lộc.
Năm 1976, huyện Can Lộc thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 32 xã: An Lộc, Bình Lộc, Đại Lộc, Đậu Liêu, Đồng Lộc, Gia Hanh, Hồng Lộc, Ích Hậu, Khánh Lộc, Kim Lộc, Mỹ Lộc, Phú Lộc, Phù Lưu, Quang Lộc, Sơn Lộc, Song Lộc, Tân Lộc, Thanh Lộc, Thiên Lộc, Thịnh Lộc, Thuận Lộc, Thuần Thiện, Thượng Lộc, Thường Nga, Tiến Lộc, Trung Lộc, Trường Lộc, Tùng Lộc, Vĩnh Lộc, Vượng Lộc, Xuân Lộc và Yên Lộc.
Ngày 27 tháng 10 năm 1984, thành lập thị trấn Can Lộc trên cơ sở 81 hécta đất thuộc xã Đại Lộc và 44 hécta đất thuộc xã Thiên Lộc.
Năm 1991, tỉnh Hà Tĩnh được tái lập từ tỉnh Nghệ Tĩnh, huyện Can Lộc thuộc tỉnh Hà Tĩnh, bao gồm thị trấn Can Lộc và 32 xã: An Lộc, Bình Lộc, Đại Lộc, Đậu Liêu, Đồng Lộc, Gia Hanh, Hồng Lộc, Ích Hậu, Khánh Lộc, Kim Lộc, Mỹ Lộc, Phú Lộc, Phù Lưu, Quang Lộc, Sơn Lộc, Song Lộc, Tân Lộc, Thanh Lộc, Thiên Lộc, Thịnh Lộc, Thuận Lộc, Thuần Thiện, Thượng Lộc, Thường Nga, Tiến Lộc, Trung Lộc, Trường Lộc, Tùng Lộc, Vĩnh Lộc, Vượng Lộc, Xuân Lộc, Yên Lộc.
Ngày 2 tháng 3 năm 1992, tách 2 xã Đậu Liêu và Thuân Lộc để thành lập thị xã Hồng Lĩnh.
Ngày 2 tháng 8 năm 1999, Sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Đại Lộc vào thị trấn Can Lộc (thị trấn huyện lỵ) và đổi tên thành thị trấn Nghèn, thị trấn Nghèn có 1.136 ha diện tích tự nhiên và 11.824 nhân khẩu.
Ngày 7 tháng 2 năm 2007, điều chỉnh 7.579,8 ha diện tích tự nhiên và 43.204 nhân khẩu của huyện Can Lộc (gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã: Ích Hậu, Hồng Lộc, Phù Lưu, Bình Lộc, Tân Lộc, An Lộc, Thịnh Lộc) để thành lập huyện Lộc Hà.
Huyện Can Lộc còn lại 30.084,58 ha diện tích tự nhiên và 137.647 nhân khẩu với 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nghèn và 22 xã: Thường Nga, Song Lộc, Phú Lộc, Gia Hanh, Thượng Lộc, Đồng Lộc, Yên Lộc, Kim Lộc, Trường Lộc, Thanh Lộc, Trung Lộc, Vĩnh Lộc, Khánh Lộc, Mỹ Lộc, Sơn Lộc, Quang Lộc, Xuân Lộc, Tiến Lộc, Vượng Lộc, Thiên Lộc, Thuần Thiện, Tùng Lộc.
Ngày 11 tháng 7 năm 2018, thành lập thị trấn Đồng Lộc trên cơ sở toàn bộ 18,69 km² diện tích tự nhiên và 6.076 người của xã Đồng Lộc.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Thành lập xã Kim Song Trường trên cơ sở sáp nhập ba xã Song Lộc, Kim Lộc và Trường Lộc
Thành lập xã Khánh Vĩnh Yên trên cơ sở sáp nhập ba xã Khánh Lộc, Vĩnh Lộc và Yên Lộc
Sáp nhập xã Tiến Lộc vào thị trấn Nghèn.
Huyện Can Lộc có 2 thị trấn và 16 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Can Lộc có 18 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Nghèn (huyện lỵ), Đồng Lộc và 16 xã: Gia Hanh, Khánh Vĩnh Yên, Kim Song Trường, Mỹ Lộc, Phú Lộc, Quang Lộc, Sơn Lộc, Thanh Lộc, Thiên Lộc, Thuần Thiện, Thượng Lộc, Thường Nga, Trung Lộc, Tùng Lộc, Vượng Lộc, Xuân Lộc.
Danh nhân
Theo sử liệu, thời phong kiến, Can Lộc có tới 40 vị đỗ đại khoa (Tiến sĩ) cùng rất nhiều các danh nhân nổi tiếng khác:
Thời nhà Trần: Thám hoa Đặng Bá Tĩnh (đời nhà Trần); danh tướng Đặng Tất và Đặng Dung (thời Hậu Trần);
Thời Lê sơ: Quốc tử giám Tế tửu Phan Viên (1421-?); Thượng thư kiêm Sử quán Tổng tài Đặng Minh Khiêm, Đặng Chiêm, Tiến sĩ Nguyễn Hành,Trấn quốc Thượng tướng quân Tuy thọ Hầu Trần Phúc Tuy; Quan tổng trị thống lĩnh đạo Nghệ An Trần Đình Tương; Đội trưởng quản Phủ Trịnh Trần Tất Thục; La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp; danh tướng Ngô Phúc Vạn, nhà văn hóa Hà Tông Mục, Thượng thư Hà Tông Trình; Đình nguyên, Hoàng giáp Vũ Diễm; Tể tướng Dương Trí Trạch; Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Huy Oánh; nhà thơ Nguyễn Huy Tự; nhà thơ Nguyễn Huy Hổ; Đình nguyên Lưỡng quốc Thám hoa Phan Kính.
Thời Tây Sơn: Đô đốc Phan Văn Lân, Đại Tư mã Ngô Văn Sở (danh tướng nhà Tây Sơn).
Thời nhà Nguyễn: chí sĩ Ngô Đức Kế; nhà yêu nước Võ Liêm Sơn; chí sĩ Nguyễn Trạch, nhà cách mạng Đặng Văn Cáp, chỉ huy trưởng của lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định Nguyễn Đức Hùng...
Người nổi tiếng
Những người nổi tiếng ngày nay có: nhà thơ Xuân Diệu, nữ anh hùng La Thị Tám, Giáo sư vật lý hạt nhân Nguyễn Đình Tứ, Giáo sư toán học Phan Đình Diệu, Giáo sư, TS, NGND Trần Văn Huỳnh (nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Mỏ- Địa chất); Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thụ (nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội); Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Huy Mỹ; Trung tướng, phó giáo sư Trần Văn Độ (phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao), Thiếu tướng, Giáo sư Lê Năm (Giám đốc Viện bỏng quốc gia Lê Hữu Trác); Giáo sư TSKH Nguyễn Tử Cường; phó Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng Nguyễn Trường Cửu; TSKH Phan Xuân Dũng-Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội; Tiến sĩ Trần Hồng Hà- Phó Thủ Tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Lê Quang Tùng- Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Giáo sư TSKH toán học Nguyễn Tử Cường, anh hùng phi công Phan Như Cẩn...và nhiều chính khách, nhà khoa học, doanh nhân khác.
Kinh tế
Người dân làng Vĩnh Hoà (nay thuộc huyện Lộc Hà) mưu sinh với các nghề: nấu gang; đúc lưỡi cày; dệt võng.
Làng Trường Lưu (xã Trường Lưu), huyện Can Lộc trước đây đã hình thành phường vải và hát ví phường vải cũng phát triển ở đây nhưng nay nghề dệt vải ở đây đã mai một.
Nghề dệt chiếu Trảo Nha (thị trấn Can Lộc).
Nghề làm áo tơi ở xóm Yên Lạc - Quang Lộc, áo tơi là một biểu tượng của người dân xứ nghệ.
Văn hóa
Tôn giáo
Công giáo và phật giáo là hai tôn giáo chính tại Can lộc. Can Lộc nổi tiếng bởi chùa Hương Tích, đại diện tiêu biểu cho phật giáo nơi đây. Chùa Hương Tích được mệnh danh là Hoan Châu đệ nhất danh thắng, xếp vào hàng 21 thắng cảnh nước Nam xưa kia. Chùa không có các Tăng ni, hay tu sĩ phật giáo cư ngụ.
Riêng Công giáo, Can Lộc là một huyện có đông đồng bào Công giáo sinh sống với gần 18.000 giáo dân, chiếm gần 14% dân số toàn huyện, sinh hoạt tại 7 giáo xứ, 23 giáo họ và sinh sống tại 31 xóm, trong đó có 16 xóm giáo toàn tòng.
Di tích và danh thắng nổi tiếng
Nhà thờ họ Trần (陈) ở làng Thượng Hà,xã Phú lộc,huyện Can Lộc,tỉnh Hà Tĩnh.
Nhà thờ Trần Phúc Tuy ở Xóm Yên Đình Xã Thiên Lộc Huyện Can Lộc, dòng họ Trần ở Thiên Lộc là những người lập địa nên xã Thiên Lộc ngày nay, đóng góp 3 vị tướng có công với đất nước vào thời Hậu Lê và nhà Nguyễn. Ba vị tướng đó là: Trần Phúc Tuy, Trần Đình Tương, Trần Tất Thục.
Đền thờ Đặng Tất, Đặng Dung: thuộc xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, thờ hai vị tướng có công lao lớn trong chiến tranh Minh–Việt.
Nhà thờ hoàng giáp Vũ Diễm (dân địa phương đọc chệch thành Vũ Diệm): thuộc làng Đông Huề, xã Vượng Lộc, huyện Can Lộc.
Miếu Biên Sơn: được xây dựng thời nhà Lê ở huyện Can Lộc, thờ Phan Thị Sơn, một nữ tướng trong cuộc chiến tranh Minh–Việt.
Mộ trạng nguyên Bạch Liêu: thuộc xã Thiên Lộc, Can Lộc. Bạch Liêu sinh năm 1236 quê ở làng Yên Xá, huyện Đông Thành, Nghệ An. Ông đỗ Trạng nguyên năm 1266 nhưng không ra làm quan. Sau này, ông giúp Trần Quang Khải trấn Nghệ An và có công lớn trong Chiến tranh Nguyên Mông–Đại Việt.
Ngã ba Đồng Lộc nằm ở giao điểm 2 tỉnh lộ số 5 và 15. Trong chiến tranh Việt Nam, nơi đây đã phải hứng chịu oanh tạc của Không lực Hoa Kỳ, nổi tiếng vì làm chết gồm 10 cô gái phe Việt Minh.
Chùa Hương Tích ở xã Thiên Lộc: Di tích danh thắng thế kỷ 14
Nhà thờ Nguyễn Viết Phúc ở xã Quang Lộc: Danh nhân lịch sử thế kỷ 16
Nhà thờ Hà Tông Mục ở xã Tùng Lộc: Danh nhân lịch sử thế kỷ 17
Nhà thờ Phan Kính ở xã Song Lộc: Danh nhân lịch sử - văn hóa thế kỷ 18
Nhà thờ Ngô Phúc Vạn ở xã Đại Lộc: Danh nhân lịch sử - văn hóa thế kỷ 17
Nhà thờ Nguyễn Thiếp ở xã Kim Lộc: Danh nhân lịch sử - văn hóa thế kỷ 18
Mộ và nhà thờ Nguyễn Huy Oánh ở xã Trường Lộc: Danh nhân lịch sử - văn hóa thế kỷ 18
Nhà thờ Nguyễn Huy Tự ở xã Trường Lộc: Danh nhân lịch sử - văn hóa thế kỷ 18
Nhà thờ Nguyễn Huy Hổ ở xã Trường Lộc: Danh nhân văn hóa thế kỷ 19
Ngã ba Nghèn ở Thị trấn Nghèn: Di tích lịch sử (phong trào Xô viết Nghê-Tĩnh) giai đoạn 30-31.
Đền làng Nam và chùa Mộ Nghĩa ở xã Thanh Lộc
Chùa Bụt Sơn ở xã Phú Lộc
Di tích lưu niệm Ngô Đức Kế ở Thị trấn Nghèn.
+ Nhà thờ Nguyễn Văn Mạo ở Phúc Giang Vĩnh Lôc Can lộc. Một vị tướng thời Tây sơn
Lễ hội truyền thống
Lễ chùa Hương Tích: Lễ hội được tổ chức tại chùa Hương Tích thuộc xã Thiên Lộc. Chùa thờ Phật và con gái vua Sở Trang Vương. Hàng năm cứ đến ngày 18/2 âm lịch, nhân dân ở khắp mọi nơi đến hội chùa cúng Phật, cầu yên và thăm cảnh đẹp của chùa.
Lễ Kỳ phúc và Hội thi vật ở Thuần Thiện. Thời gian: Đầu Xuân và Rằm tháng Sáu
Kỷ niệm ngày Xô Viết Nghệ Tĩnh ở Khu di tích Ngã Ba Nghèn, thị trấn Nghèn. Thời gian: 12 tháng 9 dương lịch
Truyền thống
Đầu tiên phải kể đến công lao lớn của dòng họ Trần ở Thiên Lộc là những người lập địa nên xã Thiên Lộc ngày nay, đóng góp 3 vị tướng vào thời Hậu Lê và nhà Nguyễn. Ba vị tướng đó là: Trần Phúc Tuy, Trần Đình Tương, Trần Tất Thục.
Sự đóng góp của người Can Lộc với dân tộc có thể tính từ sự nghiệp của hai cha con hậu duệ của Thám hoa Đặng Bá Tĩnh là Đặng Tất và Đặng Dung- những danh tướng thời nhà Hậu Trần.
Thế kỷ 17 nhân dân Can Lộc đã ủng hộ nhà Lê xây dựng sự nghiệp của một quốc gia. Ở Can Lộc nổi bật lên một dòng thế tướng, truyền suốt mấy thế hệ gần 300 năm, đó là dòng họ Ngô với các tên như: Ngô Phúc Vạn, Ngô Văn Sở,... Thế kỷ này các văn thần ở Can Lộc cũng rất nhiều. Tể tướng Nguyễn Văn Giai (nay thuộc huyện Lộc Hà) là trọng thần coi sóc đến sáu bộ; Dương Trí Trạch đi sứ Trung Quốc; Hà Tông Mục kinh lý đất Tuyên Quang...
Sang thế kỷ 18 người Can Lộc đã đóng góp tích cực nhất cho văn hoá. Danh tiếng "Thiên Lộc tứ hổ" không kém gì "Tràng An tứ hổ". Kinh thành Thăng Long còn lưu truyền câu phương ngôn "Bút Cấm Chỉ, sĩ Thiên Lộc". Có rất nhiều người làm quan và đỗ Thám hoa, Bảng nhãn: Phan Kính, Đặng Văn Kiều, Nguyễn Huy Oánh, Vũ Diễm,... Giai đoạn này Can Lộc có rất nhiều ẩn sĩ nổi tiếng, giúp ích nhiều cho đất nước như Nguyễn Thiếp.
Phần đóng góp quan trọng nhất của Can Lộc đối với văn hóa cuối thế kỷ 17 là Can Lộc cùng với Nghi Xuân đã tạo ra một điểm giao lưu văn hóa có ảnh hưởng lớn trong văn học. Can Lộc có làng Trường Lưu, quê hương của hát phường vải nổi tiếng. Nguyễn Huy Oánh là một cây đại thụ trong nền văn hóa Hồng Lam. Nguyễn Huy Tự soạn cuốn Hoa Tiên tạo điều kiện mở đầu cho người chú vợ là Nguyễn Du sáng tác nên tác phẩm vĩ đại Truyện Kiều.
Nguyễn Huy Hổ lại tiếp nhận ảnh hưởng Hoa Tiên - Kiều viết nên Mai Đình Mộng ký. Đến bây giờ ý kiến về có một Hồng Sơn văn phái đã được chấp nhận.
Can Lộc còn cung cấp ba dòng họ văn hóa nổi tiếng cho truyền thống dòng họ văn hóa đặc biệt của Hà Tĩnh, đó là dòng họ Ngô ở Trảo Nha, dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu và dòng họ Nguyễn Chi ở Ích Hậu.
Những năm đầu thế kỷ 20 là những năm sôi nổi mãnh liệt nhất của người dân Can Lộc. Đỉnh cao là phong trào chống thuế 1908 hạt nhân của Nghệ Tĩnh do Nguyễn Hàng Chi cầm đầu, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931. Can Lộc do Đội Khởi nghĩa vũ trang thuộc Đoàn Thanh niên cứu quốc Can Lộc (mà một trong ba người lãnh đạo là nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi) đã giành chính quyền sớm hơn 3 ngày so với các địa phương khác tại Việt Nam trong cao trào Cách mạng tháng Tám (16/8/1945). Ngã ba Đồng Lộc chứng tích lịch sử.
Ẩm thực
Đặc sản rượu nếp vùng Can Lộc
Hình ảnh
Chú thích |
Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu (驩州) cũ từ thời nhà Hậu Lê, tức Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng - sông Lam. Núi Hồng Lĩnh nằm trọn trong đất Hà Tĩnh và sông Lam nằm ở ranh giới giữa Nghệ An và Hà Tĩnh. Trung tâm của Xứ Nghệ nằm ở hai bên dòng sông Lam là phủ Đức Quang và phủ Anh Đô khi xưa, tức là các huyện Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh và các huyện Thanh Chương, Nghi Lộc, thành phố Vinh, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương, Anh Sơn của Nghệ An ngày nay.
Danh xưng Nghệ An có từ năm 1030 thời nhà Lý, niên hiệu Thiên Thành thứ 2 đời Lý Thái Tông. Lúc đó gọi là Nghệ An châu trại (乂安州寨), sau đó thì đổi thành trại Nghệ An rồi Nghệ An phủ (乂安府), Nghệ An thừa tuyên (乂安承宣). Năm 1490, vua Lê Thánh Tông (niên hiệu Hồng Đức thứ 21) đổi tên từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (gọi tắt là xứ Nghệ) đồng thời với các đơn vị hành chính khác lúc bấy giờ như: xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam, xứ Đông, xứ Đoài, xứ Thanh Hóa, xứ Lạng Sơn... Năm 1831, thời vua Minh Mệnh, Xứ Nghệ bị tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1976, hai tỉnh lại hợp thành tỉnh lớn Nghệ Tĩnh. Năm 1991, tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay.
Cương vực xứ Nghệ bắt đầu được mở rộng sang lãnh thổ Lào ngày nay từ thời nhà Lê sơ, phát triển đến rộng nhất là thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (với 11 phủ), đến thời Pháp thuộc thì người Pháp cắt khoảng nửa về cho đất Lào (5/11 phủ), phần còn lại tương đương với lãnh thổ 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay.
Lịch sử
Đời Hùng Vương xưa và An Dương Vương
Thời xa xưa, Xứ Nghệ thuộc đất Việt Thường
Sau đó trở thành 2 trong 15 bộ của nước Văn Lang, có tên: bộ Hoài Hoan, bộ Cửu Đức
Bộ Hoài Hoan là tên gọi vùng đất tương đương với Diễn Châu khi xưa, ở phía bắc tỉnh Nghệ An. Bộ Cửu Đức là tên gọi vùng đất tương đương với phía nam tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, tức đất Hoan Châu thời nhà Đường.
Thời kỳ Bắc thuộc
Nhà Hán: là huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân
Nhà Đông Ngô: tách ra khỏi quận Cửu Chân, đặt làm quận Cửu Đức
Nhà Tấn, nhà Lưu Tống vẫn theo như nhà Ngô
Nhà Lương (năm 502-557): Chia đặt làm Đức Châu, Lỵ Châu và Minh Châu
Nhà Tùy:
Năm Khai Hoàng thứ 18 (598) đổi Đức Châu làm Hoan Châu, Lỵ Châu làm Trí Châu
Năm Đại Nghiệp thứ 3 (607) hợp cả Minh Châu, Trí Châu và Hoan Châu, đổi lệ thuộc quận Nhật Nam
Nhà Đường:
Niên hiệu Vũ Đức chia quận Nhật Nam đặt làm Đức Châu, Lạo Châu, Minh Châu và Hoan Châu.
Năm Trinh Quán thứ 1 (627) đổi Đức Châu lại làm Hoan Châu, còn Hoan Châu cũ thì đổi làm Diễn Châu.
Năm thứ 16 bỏ Diễn Châu hợp vào Hoan Châu
Đầu năm Thiên Bảo lại đổi là Hoan Châu, thuộc vào quận Nhật Nam
Từ năm Kiền Nguyên trở về sau gọi là Hoan Châu, rồi bỏ Tri Châu mà cho lệ thuộc vào Hoan Châu
Năm Quảng Đức thứ hai chia Hoan Châu đặt quận Long Trì thuộc Diễn Châu, lại gọi là quận Diễn Thủy
Thời kỳ đất nước độc lập tự chủ
Nhà Ngô, Nhà Đinh, nhà Tiền Lê: gọi là Hoan Châu
Nhà Lý: Đổi làm trại, gọi là Nghệ An Châu trại. Đây là lần đầu tiên xuất hiện danh xứ Nghệ An; năm Thiên Thành thứ 2 (năm 1030) đổi tên là Nghệ An châu. Lúc bấy giờ Diễn Châu là châu riêng, không thuộc Nghệ An Châu.
Nhà Trần:
năm Nguyên Phong thứ 6 lại gọi là Trại Nghệ An
năm Long Khánh thứ 3 (1375) đổi Diễn Châu làm Diễn Châu lộ, chia Hoan Châu làm 4 lộ: Nhật Nam, Nghệ An nam, Nghệ An bắc, Nghệ An trung, cũng gọi là Nghệ An phủ
năm Quang Thái thứ 10 đổi Nghệ An làm Lâm An trấn, Diễn Châu làm Vọng An trấn
Đời nhà Hồ đổi Diễn Châu làm Linh Nguyên phủ, cùng với Thanh Hóa, Cửu Chân, Ái Châu gọi là tứ phụ
Thời thuộc nhà Minh lại đổi làm 2 phủ Diễn Châu và Nghệ An; phủ Diễn Châu lĩnh 3 huyện là Quỳnh Lâm, Trà Thanh, Phù Lưu. phủ Nghệ An lĩnh 4 châu là Hoan Châu, Nam Tĩnh, Trà Lung, Ngọc Ma và 13 huyện là Nha Nghi, Chi La, Phi Lộc, Thổ Du, Kệ giang, Chân Phúc, Cổ Xã, Thổ Hoàng, Đông Ngàn, Thạch Đường, Kỳ La, Bàn Thạch, Hà Hoa
Nhà Hậu Lê:
năm Thuận Thiên nguyên niên thuộc đạo Hải Tây
năm Quang Thuận thứ 7, 2 phủ Diễn Châu và Nghệ An sáp nhập lại, gọi Nghệ An thừa tuyên; Năm Hồng Đức thứ 1, định bản đồ Nghệ An thừa tuyên có 9 phủ, 25 huyện, 2 châu. Thiên nam dư hạ lục chép rằng: Phủ Đức Quang lĩnh 6 huyện là Thiên Lộc, La Sơn, Nghi Xuân, Chân Phúc, Hương Sơn, Thanh Giang, Phủ Anh Đô lĩnh 2 huyện là Nam Đường, Hưng Nguyên. Phủ Diễn Châu lĩnh 2 huyện là Đông Thành và Quỳnh Lưu. Phủ Hà Hoa lĩnh 2 huyện là Thạch Hà, Hà Hoa. Phủ Trà Lân lĩnh 4 huyện là Kỳ Sơn, Tương Dương, Vĩnh Khang, Hội Ninh. Phủ Quỳ Châu lĩnh 2 huyện là Trung Sơn, Thuý Vân, Phủ Trấn Ninh lĩnh 7 huyện là Quang Vinh, Minh Quảng, Cảnh Thuần, Thanh Vị, Kim Sơn, Châu Giang, Trung Thuận. Phủ Ngọc Ma lĩnh một châu Trịnh Cao, phủ Lâm An lĩnh một châu Quy Hợp. Toàn hạt 25 huyện, 2 châu
năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi làm xứ: Xứ Nghệ
Lúc bấy giờ, Xứ Nghệ gồm 9 phủ:
Phủ Đức Quang quản lĩnh 6 huyện: Thiên Lộc (Can Lộc và bắc Lộc Hà ngày nay), La Sơn (Đức Thọ), Chân Phúc (Nghi Lộc), Thanh Chương (gồm huyện Thanh Chương và tây nam huyện Nam Đàn hiện nay), Hương Sơn (bao gồm các huyện: Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê ngày nay) và Nghi Xuân
Phủ Diễn Châu quản lĩnh 2 huyện: Đông Thành (Yên Thành và Diễn Châu) và Quỳnh Lưu (huyện Quỳnh Lưu và đông huyện Nghĩa Đàn hiện nay)
Phủ Anh Đô quản lĩnh 2 huyện: Hưng Nguyên và Nam Đường (Nam Đàn, Đô Lương, Anh Sơn)
Phủ Hà Hoa quản lĩnh 2 huyện: Thạch Hà (huyện Thạch Hà, nam Lộc Hà và thành phố Hà Tĩnh) và Kỳ Hoa (Kỳ Anh và Cẩm Xuyên)
Phủ Trà Lân quản lĩnh 4 huyện: Kỳ Sơn (đầu thế kỷ 19 gồm 5 tổng: Cổ Khuông, Chiêu Lưu, Nhân Lý (nay khoảng các xã Bắc Lý, Mỹ Lý), Đỗ Lãng, Hiếu Kiệm (nay khoảng xã Hữu Kiệm)), Tương Dương (đầu thế kỷ 19 gồm 3 tổng Cẩm Dã, Yên Lòng Bán, Tứ Dương), Vĩnh Khang (tức Vĩnh Hòa, đầu thế kỷ 19 gồm 3 tổng: Phi Cốc, Thanh Nhuế, Huyền Lãng) và Hội Ninh (tức Hội Nguyên, đầu thế kỷ 19 gồm 3 tổng Bàu Lá, Nga My, Bình Chuẩn).
Phủ Quỳ Châu quản lĩnh 2 huyện: Trung Sơn (Quế Phong) và Thúy Vân (nay là huyện Quỳ Châu và Quỳ Hợp tỉnh Nghệ An.)
Phủ Trấn Ninh tức là đất Bồn Man xưa, người bản xứ gọi là Mường Bồn (phần đất nay thuộc tỉnh Xiêng Khoảng Lào). Năm 1479 Cầm Công vua Bồn Man chống lại Đại Việt, Lê Thánh Tông thân chinh tiến đánh thu phục Bồn Man sáp nhập vào Đại Việt đổi thành Trấn Ninh trực thuộc Hoan Châu và cho thổ quan là Cầm Lư làm tù trưởng. Về sau lấy thêm đất Hô Mường ở phía Bắc, tức là đất thuộc Lão Qua xưa (Hô Mường (Huameuang) vùng đất nay là tỉnh Hủa Phăn Lào). Phía Tây Trấn Ninh tiếp giáp với Ai Lao.
Phủ Ngọc Ma quản lĩnh 1 châu: Trịnh Cao (Trịnh Cao chưa xác định được ở đâu, có thể hiện nay thuộc tỉnh Bô Ly Khăm Xay Lào (vùng giáp ranh với Việt Nam như: huyện Viengthong)). Theo Phan Huy Chú thì phủ Ngọc Ma cùng phủ Quỳ Châu ở phía tây trấn Nghệ An, nối liền với xứ Ai Lao. Năm 1827 phủ Ngọc Ma được đổi thành phủ Trấn Định và gộp thêm các châu Cam Môn, Cam Cát, Cam Linh (tức Phàm Linh, theo Nguyễn Văn Siêu). (Cam Môn thuộc đất tỉnh Khăm Muộn Lào, Cam Cát tức Khamkheuth tỉnh Bô Ly Khăm Xay Lào, Phàm Linh nay là khoảng vùng Pakkading tỉnh Bô Ly Khăm Xay Lào). Cam Cát và Cam Môn là những vùng đất tiếp giáp với địa bàn huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh ngày nay, vì theo Nguyễn Văn Siêu thì:"...Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), thổ mục và thổ dân 2 huyện Cam Môn, Cam Cát đến trú ngụ ở địa bàn huyện Hương Sơn, nhân thế cho chúng chia thuộc vào phủ Đức Thọ".
Phủ Lâm An quản lĩnh 1 châu Quy Hợp (thuộc đất Hà Tĩnh thời nhà Nguyễn). Theo Phan Huy Chú, phủ Lâm An vốn trước là phần đất của Bồn Man chư hầu của Ai Lao, đến năm 1448 niên hiệu Thái Hòa thứ 5, tù trưởng vùng này sang thần phục nhà Lê, Lê Nhân Tông cho nhập vào Đại Việt đổi tên thành Quy Hợp, địa giới nằm ở tận cùng phía tây xứ Nghệ. Châu thành châu Quy Hợp nhà Lê đặt tại làng Trừng Thanh nằm bên bờ nam sông Tiêm thượng nguồn của sông La nay là thôn Trừng Thanh xã Hương Vĩnh huyện Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1828 được đổi thành phủ Trấn Tĩnh. Theo Nguyễn Văn Siêu: Năm 1828-Minh Mạng thứ 9 trấn Nghệ An được đặt thêm 3 phủ: Trấn Tĩnh (bỏ phủ Lâm An, châu Quy Hợp đổi thành Tấn Hoàn), Trấn Biên và Lạc Biên. Phủ Trấn Tĩnh nằm ở phía tây nam tỉnh Nghệ An-Hà Tĩnh nhà Nguyễn (nay khoảng các huyện Hương Khê Hà Tĩnh, Tuyên Hóa Quảng Bình, và huyện Nakai Khăm Muộn Lào), vốn là đất thuộc 3 động Thâm Nguyên (đầu nguồn của sông Ngàn Sâu), Yên Sơn, Mộng Sơn của châu Quy Hợp phủ Lâm An. Năm 1827, Minh Mạng thứ 8, vua Vạn Tượng là Chiêu Nỗ (Chao Anou) bị quân Xiêm đánh thua bỏ nước chạy, thổ dân Trấn Tĩnh xin nhập vào Đại Nam, Minh Mạng cho nhập vào Nghệ An, đặt là Trấn Tĩnh và đổi động thành huyện.
Khoảng giữa năm Hồng Thuận (1510-1516) vua Lê Tương Dực đổi xứ Nghệ làm trấn Nghệ An
Năm Giáp Ngọ (1774) quân chúa Trịnh, vào chiếm được đất châu Bố Chính Nội (phía Nam sông Gianh, huyện Bố Trạch) đem sáp nhập cùng với Bố Chính Ngoại (phía Bắc sông Gianh, huyện Quảng Trạch, thị xã Ba Đồn và huyện Tuyên Hóa Quảng Bình) thuộc Quảng Bình đã của chúa Trịnh vào phủ Hà Hoa trấn Nghệ An. Nhưng đến năm Bính Ngọ (1786), quân nhà Tây Sơn chiếm lại được vùng này lại đổi về đất Quảng Bình như cũ nhưng đặt tên gọi khác.
Thời Nhà Tây Sơn (1778-1802): xứ Nghệ được đổi làm Trung Đô (Kinh đô tương lai của nhà Tây Sơn): Hoàng đế Quang Trung cho xây Phượng Hoàng Trung Đô ở thành phố Vinh ngày nay, lại gọi là Nghĩa An trấn
Thời nhà Nguyễn:
Theo Nguyễn Văn Siêu viết:"...Bản triều năm Gia Long nguyên niên lại đặt làm Nghệ An trấn; Đồ bản và sổ hộ năm Gia Long thứ 1, chép trấn Nghệ An, 9 phủ, là Đức Quang, Diễn Châu, Hà Hoa, Anh Đô, Trà Lân, Quỳ Châu, Trấn Ninh, Lâm An, Ngọc Ma; 18 huyện là Hương Sơn, Nghi Xuân, Thanh Chương, La Sơn, Chân Lộc, Thiên Lộc, Đông Thành, Quỳnh Lưu, Kỳ Hoa, Thạch Hà, Nam Đường, Hưng Nguyên,Tương Dương, Vĩnh Hoà, Hội Nguyên, Kỳ Sơn, Thuý Vân, Trung Sơn. So với bản đồ thời Hồng Đức thì thiếu 7 huyện như vùng Quang Vinh, và 2 châu Trịnh Cao, Quy Hợp. Có lẽ do biên chép sai lầm."
Năm 1826, Minh Mạng thứ 7, nhà Nguyễn cho lấy 3 dũng là: dũng Lan, dũng Đỏ và dũng Châu của mán Lèo thuộc châu Quy Hợp phủ Lâm An trấn Nghệ An, do ở giáp ranh với phía Tây Quảng Bình (khi đó gọi là dinh Quảng Bình), chuyển sang thuộc vào dinh Quảng Bình (năm 1828 dinh Quảng Bình đổi thành trấn Quảng Bình). Phần đất này ngày nay thuộc huyện Minh Hóa và phía tây huyện Tuyên Hóa Quảng Bình.
Năm 1828, trấn Nghệ An được nhập thêm 2 phủ mới là Trấn Biên và Lạc Biên, nâng tổng số lên 11 phủ. Phủ Trấn Biên ở Tây Bắc tỉnh Nghệ An thời nhà Nguyễn, có 4 huyện lệ thuộc vốn là 4 trong 7 mán Mang Hổ nước Ai Lao: Xa Hổ (trước gọi là Man Hổ), Xầm Tộ (trước đó là Hổ Phân Xầm Tộ, còn ngày nay là Xầm Tơ huyện Xamtay tỉnh Hủa Phăn Lào), Mang Lan (trước là Hổ Phân Mang Lan, ngày nay khoảng vùng Mương Lan huyện Xamtay Hủa Phăn), Man Soạn (vốn là Hổ Phân Man Soạn). Phủ Lạc Biên ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An nhà Nguyễn, vốn là đất Cống Man Lạc Hoàn (tức mường Lạc Hoàn (Muang Lakhone) của vương quốc Viêng Chăn (Vạn Tượng)).
năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) chia Nghệ An trấn thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam)
năm Tự Đức thứ 6 đổi tỉnh Hà Tĩnh làm đạo, hợp vào Nghệ An thành An Tĩnh
năm Tự Đức thứ 29 lại đặt tỉnh Hà Tĩnh như cũ
Thời Pháp thuộc
Cùng với việc phân lại địa giới hành chính giữa các kỳ và các xứ thuộc địa của Pháp trong Liên bang Đông Dương, người Pháp đã cắt một số các phủ huyện thuộc tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc xứ Trung Kỳ cho Lào thuộc Pháp vào các năm 1895 và 1903, bao gồm các vùng: phủ Trấn Biên (khoảng phía Đông Nam tỉnh Hủa Phăn), phủ Trấn Ninh (Xiêng Khoảng, Hủa Phăn (phần phía Nam Hủa Phăn)), phủ Trấn Định (Bô Ly Khăm Xay, Khăm Muộn (phía Bắc tỉnh Khăm Muộn)), phủ Trấn Tĩnh (khoảng phía Đông tỉnh Khăm Muộn, giáp các huyện Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh ngày nay, Tuyên Hóa, Minh Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay), phủ Lạc Biên (khoảng bờ Bắc và thượng lưu sông Xê Bang Phai và sông Xê Nơi, phía Nam tỉnh Khăm Muộn). Đất Nghệ An-Hà Tĩnh trở nên giống với hiện trạng ngày nay và lúc đó chỉ còn lại phần đất thuộc 6 phủ: Hà Hoa, Đức Quang, Anh Đô, Trà Lân, Diễn Châu, Quỳ Châu.
Hành chính vào đầu nhà Nguyễn của các phủ còn thuộc Nghệ Tĩnh ngày nay
Phủ Hà Hoa (nay thuộc Hà Tĩnh):
Huyện Kỳ Hoa gồm 6 tổng: Hoa Duệ, Vân Tản, Thổ Ngõa, Lạc Xuyên, Cấp Dẫn, Đỗ Chử.
Huyện Thạch Hà gồm 7 tổng: Thượng Nhất, Thượng Nhị, Hạ Nhất, Hạ Nhị, Trung, Đông, Đoài.
Phủ Đức Quang (tức phủ Đức Thọ, nay thuộc Hà Tĩnh và Nam Nghệ An):
Huyện Thanh Chương gồm 6 tổng: Bích Triều, Thổ Hào, Vũ Liệt, Cát Ngạn, Đặng Sơn, Nam Hoa.
Huyện Chân Lộc (tức huyện Nghi Lộc) gồm 4 tổng: Thượng Xá, Kim Nguyên, Đặng Xá, Ngô Trường (gồm 17 làng xã: Phan Xá (Phan, Xuân Liễu, Bảo Đài), Xuân An (An Toàn, Thượng Xá, Trung Ngũ, Mỹ Hậu), Tứ-Ngô Trường, Tứ-Ngô Xá, Chân An, Đức Quang (sở), Dũng Quyết (Thượng, Hạ), An Trường (tức Yên Trường), Giáp An, An Lưu, phường Thủy Cư; nay thuộc thành phố Vinh.).
Huyện Thiên Lộc gồm 7 tổng: Minh Lương, Độ Liêu, Nga Khê, Nội Ngoại, Phù Lưu, Canh Hoạch, Vĩnh Luật.
Huyện Hương Sơn gồm 8 tổng: Đỗ Xá, An Ấp, Hữu Bằng, Dị Ốc, Đồng Công, Thổ Hoàng, Thổ Lỗi, Bào Khê.
Huyện La Sơn gồm 7 tổng: An Việt, An Hồ, Hòa Lâm, Lai Thạch, Thịnh Cảo, Tự Đồng, Thượng Bồng.
Huyện Nghi Xuân gồm 5 tổng: Tam Chế, Phan Xá (gồm 5 xã: Phan Xá, Tiên Điền, Tiên Bào, Mỹ Đường, Uy Viễn.), Cổ Đạm (gồm 6 làng xã: Cổ Đạm (Kỳ Phi, An Giám, Mỹ Cầu, Vân Hải), Cương Gián, Cương Đoán, Động Giản, Liêu Đông, Nước Ra.), Hoa Viên (gồm 6 làng xã: Hoa Viên, Hồng, Khải Mông, Tiên Cần, Tả Úc (tức Tả Ao), Cồn Mộc.), Đan Hải (gồm 6 làng xã: Hội Thống, Đan Trường, Đan Phổ, Đan Hải, Đan Uyên, Đô Uyên.).
Phủ Anh Đô (nay thuộc Nghệ An):
Huyện Hưng Nguyên gồm 7 tổng: Phù Long, Thông Lãng, Đô An (gồm 16 làng xã: Đô An (Đô An, Thị Quang), An Phúc, Âm Công (Thành Công, Xuân Am), An Pháp, Mỹ Chân (Chân Đích, Kim Mã, An Mỹ, Ngọc Hốt, Xuân Thịnh), Hến, Mỹ Tục (Cự, Mỹ, Phú An, Thượng).), Hoa Viên, Hải Độ, Cảo Trình, La Hoàng.
Huyện Nam Đường gồm 8 tổng: Non Liễu, Lâm Thịnh (gồm 15 làng xã: Lâm Thịnh, Chung Mỹ, Duyên La, Trường Cát, Chung Cự (Ngọc Đình, Hoàng Trù, Kim Liên, Vân Hội, Tính, Kính Kỵ, Khoa Cử, Tiểu Ca), Gia Lạc, Hữu Biệt.), Đại Đồng, Hoa Lâm, Đô Lương, Thuần Trung, Bạch Hà, Lãng Điền.
Phủ Diễn Châu (nay thuộc Nghệ An):
Huyện Quỳnh Lưu gồm 4 tổng: Hoàn Hậu, Thanh Viên, Hoàng Mai, Quỳnh Lâm.
Huyện Đông Thành gồm 7 tổng: Cao Xá, Vạn Phần, Quan Trung, Quan Triều, Thái Trạch, Vân Trụ, Hoàng Trường.
Phủ Trà Lân (tức phủ Tương Dương, nay thuộc Nghệ An):
Huyện Tương Dương gồm 3 tổng: Cẩm Dã, Yên Lòng Bán, Tứ Dương.
Huyện Vĩnh Hòa gồm 3 tổng: Phi Cốc, Thanh Nhuế, Huyền Lãng.
Huyện Hội Nguyên gồm 3 tổng: Bàu Lá, Nga My, Bình Chuẩn.
Huyện Kỳ Sơn gồm 5 tổng: Cổ Khuông, Chiêu Lưu, Nhân Lý, Đỗ Lãng, Hiếu Kiệm.
Phủ Quỳ Châu (nay thuộc Nghệ An):
Huyện Trung Sơn gồm 16 động.
Huyện Thúy Vân gồm 23 động.
Ngày nay
Năm 1976, Nghệ An và Hà Tĩnh hợp thành tỉnh lớn Nghệ Tĩnh
Năm 1991, Nghệ Tĩnh lại tách ra Nghệ An và Hà Tĩnh
Văn hóa xứ Nghệ |
Đát Kỷ (chữ Hán: 妲己, cũng viết 妲妀; bính âm: Dájǐ), tính Kỷ (己), thị Hữu Tô (有苏), biểu tự Đát (妲), trong nhiều bản dịch Việt Nam hay được phiên âm là Đắc Kỷ, là một nhân vật nổi tiếng trong truyền thuyết Trung Quốc về thời nhà Thương. Bà được biết đến là Vương hậu thứ hai của Đế Tân (tức Trụ Vương), vị quân chủ cuối cùng của nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc.
Hiện chưa tìm thấy ghi chép giáp cốt văn nào thời nhà Thương viết về Đát Kỷ Vì vậy có nhiều nghi vấn rằng Đát Kỷ không có thật mà chỉ là nhân vật được truyền thuyết dân gian hư cấu nên. Theo các quan điểm này, sau mấy trăm năm lưu truyền, lịch sử và truyền thuyết dân gian dần bị pha trộn với nhau (do giai đoạn 3100 - 2900 năm trước thì Trung Quốc chưa hình thành việc ghi chép lịch sử mang tính hệ thống và liên tục để đời sau khảo chứng), kết quả là Đát Kỷ từ truyền thuyết đã được đưa vào sử sách chính thức vào thời nhà Hán.
Hình tượng phổ biến nhất về Đát Kỷ là sự tích bà do hồ ly tinh hóa thành. Trong nhiều câu chuyện cổ đến tiểu thuyết, sân khấu, bà luôn được mô tả là mỹ nữ có nhan sắc làm mê đắm lòng người, thuộc hàng đại mỹ nhân của Trung Hoa. Tuy nhiên, do là yêu tinh và có nhiều hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp làm chết quá nhiều người, nên dân gian thường gọi bà là yêu cơ. Tác phẩm Phong thần diễn nghĩa, một tiểu thuyết phổ biến hình tượng Đát Kỷ nhất, thì mô tả Đát Kỷ họ Tô, là con gái của Tô Hộ (蘇護), chỉ là người bình thường, nhưng trên đường dâng nạp cho Trụ Vương đã bị hồ ly tinh nhập xác để thực hiện nhiệm vụ của Nữ Oa là làm cho Trụ Vương mê muội và nhà Thương sụp đổ, tạo điều kiện cho nhà Chu thu phục thiên hạ.
Bà cùng với Muội Hỉ nhà Hạ, Bao Tự nhà Chu và Ly Cơ nước Tấn được xem là Tứ đại yêu cơ (四大妖姬), là những ví dụ điển hình của "hồng nhan họa thủy" (紅顏禍始), tức mỹ nhân tuyệt sắc gây đại họa liên lụy đến các quân vương, là nguyên nhân làm sụp đổ triều đại trong văn hóa không chỉ Trung Quốc mà cả các nước đồng văn như Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.
Câu chuyện
Các sách Quốc ngữ, Sử ký và Liệt nữ truyện là những cuốn sách ghi chép sớm nhất về Đát Kỷ theo hiểu biết cổ thư hiện tại. Nguyên lai Đát Kỷ là con gái chư hầu của nhà Thương. Đế Tân chinh phạt Hữu Tô thị, Vua của Hữu Tô Thị đem con gái Đát Kỷ vào hậu cung, sau đó rất được Đế Tân sủng ái. Đế Tân yêu thương Đát Kỷ, nói gì là làm theo, lập làm Vương hậu. Khi ấy, quyền hành của Đát Kỷ rất lớn, chính là vì hễ bà thích ai thì Đế Tân sẽ rất quý trọng người đó, còn ghét ai thì người đó chắc chắn sẽ có kết cuộc thê thảm.
Chính vì say luyến Đát Kỷ, triều Thương thời Đế Tân đã bị diệt vong, Đát Kỷ bị cho là thủ phạm chính khiến triều Thương lừng lẫy hỗn loạn. Tương truyền, trong cung Thương có một nơi dành riêng cho thú vui của Đế Tân, ông thường cùng Đát Kỷ say mê hưởng hết các trò khoái lạc. Họ ra lệnh dùng roi đánh khắp người các con vật thật đau, để hằn lên vết đỏ, rướm máu, rồi mang nướng lên để thưởng thức, đem thịt treo thành rừng, gọi là Nhục lâm (肉林; "rừng thịt"). Nơi này được thiết kế với những hồ nhỏ, Đế Tân cho đổ rượu vào đầy hồ, gọi là Tửu trì (酒池; "ao rượu"), rồi cùng Đát Kỷ và các mỹ nhân xuống tắm rượu. Đế Tân còn cho xây Lộc Đài (鹿臺; "đài hươu") vuông mỗi bên 3 dặm, cao ngàn thước, quy mô lớn chưa từng thấy, phải dùng đến hàng vạn thợ xây, xây 7 năm mới xong.
Đát Kỷ bất hòa với thân thuộc của Đế Tân là Tỷ Can, vì Tỷ Can luôn khuyên can Đế Tân và chủ trương phế giết Đát Kỷ. Một lần, Tỷ Can không thể chịu được hành vi của Đát Kỷ, khẳng khái trước mặt Đế Tân mà nói:
Đế Tân tức giận giết chết Tỷ Can rất tàn khốc bằng cách cho người mổ tim của ông. Vì việc làm tàn bạo, Chu Vũ vương Cơ Phát phát động chính biến, lật đổ Đế Tân. Đát Kỷ trong cơn loạn bị bắt và bị chém đầu thị chúng.
Di sản
Khảo chứng lịch sử
Thời nhà Thương, người Trung Hoa chưa có tục chép sử, các học giả không tìm thấy các giáp cốt văn nói trực tiếp về Đát Kỷ.
Tác phẩm nói về bà sớm nhất có lẽ là Quốc ngữ (國語) của Tả Khâu Minh, theo đó là các Sử ký của Tư Mã Thiên và Liệt nữ truyện của Lưu Hướng, phần Bế nguyệt, nói về các yêu cơ hủy hoại triều cương. Một số nhận định cho rằng, thời Thương thì địa vị phụ nữ cực cao, có thể tham gia bàn luận chính sự, cho nên việc Đát Kỷ có thể ảnh hưởng đến quốc chính khi ấy xét theo lẽ là bình thường. Chỉ từ thời nhà Chu về sau, do các học giả tôn thờ Chu Vũ vương lập nên nhà Chu muốn tô điểm lên cái gọi là "Thương Trụ hoang dâm", nên Đát Kỷ dần dần trở thành mục tiêu bị tô vẽ nên.
Từ sau Sử ký của Tư Mã Thiên, hình tượng Đát Kỷ mới dần dần trở nên phổ biến, và nhiều nhận định cho rằng các việc làm tàn ác của Đát Kỷ là do đời sau hình tượng hóa. Theo nghiên cứu, hình tượng hóa hồ ly của bà sớm nhất có lẽ là khoảng thời nhà Đường. Mãi đến thời nhà Minh, tác phẩm tiểu thuyết dã sử thần thoại Phong thần diễn nghĩa hay Đông Chu liệt quốc mới cung cấp những thông tin hệ thống về nhân vật này.
Hình tượng họa thủy
Về sau, Đát Kỷ là một nhân vật được khai thác rất nhiều trong văn hóa Trung Quốc. Rất nhiều thành ngữ có yếu tố nói về sắc đẹp của Đác Kỷ hoặc sắc đẹp hồ ly tinh để nói về những nữ nhân có sắc đẹp làm mê muội những nam nhân có quyền lực, từ đó dẫn đến những việc vô đạo. Trước khi có nghệ thuật điện ảnh, nhân vật Đát Kỷ đã được đưa vào các bộ môn nghệ thuật múa rối hoặc sân khấu Trung Quốc. Và khi nền điện ảnh ra đời, Đát Kỷ là nhân vật không thể thiếu trong các tác phẩm liên quan đến sự sụp đổ của nhà Thương.
Các câu chuyện dân gian đều cho rằng vì quá yêu Đát Kỷ, Trụ Vương đã làm nhiều điều thất đức, đi theo vết xe đổ của Hạ Kiệt say đắm Muội Hỉ đến nỗi làm hỏng chính sự và mất nước về tay nhà Chu. Sau này cuối thời Tây Chu lại có chuyện Chu U vương si mê Bao Tự mà cũng lặp lại bi kịch như Trụ Vương làm mất nhà Tây Chu. Tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa là tác phẩm đóng vai trò rất lớn trong việc hoàn thiện hình ảnh của Đát Kỷ trong dân gian. Trong tiểu thuyết này, Đát Kỷ thực ra chỉ là người bình thường, nhưng trên đường dâng nạp cho Trụ Vương đã bị hồ ly tinh nhập xác để thực hiện nhiệm vụ của Nữ Oa. Tuy nhiên, do quá tàn ác, vì vậy đã bị Khương Tử Nha chém chết. Hình tượng hồ ly tinh hóa thành trở thành một hình tượng rất đặc trưng của nhân vật Đát Kỷ, theo nhiều nghiên cứu thì có lẽ thịnh hành sớm nhất vào thời nhà Đường và cứ tiếp tục lưu truyền qua các thời đại sau.
Trong các sách cổ, Đát Kỷ cũng xuất hiện như một ví dụ điển hình của mỹ nhân gây họa cho đại cuộc. Sách Hậu Hán thư ghi lại, đại thần Khổng Dung vì châm chọc Tào Tháo, đã nói:"Khi quân nhà Chu công hãm Triều Ca, có ái phi của Trụ vương là Đát Kỷ tư sắc diễm lệ. Khi ấy, Chu Công rất yêu thích Đát Kỷ, đem về làm cơ thiếp phục vụ mình, hưởng giàu sang vui sướng". Lời này của Khổng Dung không theo tư duy lịch sử khi ấy, lúc đó Tào Phi cùng Tào Tháo vây hãm Nghiệp Thành, bắt con dâu của Viên Thiệu là Chân thị làm chiến lợi phẩm, Khổng Dung nói câu này ý chỉ Tào gia vô đức.
Sách Ngô Việt xuân thu thuật lại, khi Ngũ Tử Tư trông thấy Tây Thi, biết nàng ta sẽ là cái họa vong quốc, bèn khuyên can Ngô Phù Sai rằng: "Thần nghe, Hạ vong bởi Muội Hỉ, Ân vong bởi Đát Kỷ, Chu vong bởi Bao Tự. Mỹ nhân, là vật gây mất nước, nên từ chối".
Phát minh ra đôi đũa
Tương truyền rằng, vào thời nhà Thương, người dân khi ấy vẫn ăn bằng cách bốc bằng tay là chủ yếu, kẻ giàu thì có người hầu dùng tay dâng cơm đến tận miệng. Vốn bản tính khát máu, việc hầu Trụ Vương ăn cơm đã trở thành nỗi ám ảnh của cả hậu cung, tính cả Đát Kỷ. Ông yêu cầu tất cả các món không được quá nóng, cũng không được quá nguội. Chỉ cần một món không đạt yêu cầu này, tất cả các đầu bếp ngự trù đều bị xử tử, những hạ nhân bốc cơm cho vua cũng không tránh khỏi cảnh vạ lây.
Trong một lần, khi đang tiếp đồ ăn cho Trụ Vương, Đát Kỷ sợ hãi nhận ra món này đang hơi nóng. Vì sợ bị phạt nặng, nàng nhanh trí dùng luôn hai chiếc trâm cài đầu để "gắp" đồ ăn cho vua. Vừa dâng, nàng vừa thổi, nhờ đó, món ăn lại rất vừa miệng, Trụ Vương cũng không nổi giận nữa. Sau đó, nhận thấy đây là phương án an toàn nên Đát Kỷ hạ lệnh cho thợ chế tác ra đôi đũa vàng để tiện dùng. Từ đó, đôi đũa mà chúng ta thường sử dụng đã chính thức ra đời.
Phong thần diễn nghĩa
Theo Phong thần diễn nghĩa thì Đát Kỷ (có nơi đọc trại thành Đắc Kỷ) nguyên danh là Tô Đát Kỷ (蘇妲己), con gái của Ký Châu hầu Tô Hộ (蘇護).
Tô Hộ có hai người con, 1 là con trai trưởng Tô Toàn Trung (蘇全忠), văn võ song toàn, dũng trí hơn người, 2 là Tô Đát Kỷ 16 tuổi, quốc sắc thiên hương. Do Trụ Vương vốn háo sắc, nghe lời của Bí Trọng (費仲) và Vưu Hồn (尤渾), nên đòi Tô Hộ phải dâng con gái để nạp làm phi tần. Tuy Tô Hộ phản ứng mạnh trước yêu cầu này, nhưng sau khi có thư khuyên giải cân nhắc của Tây Bá hầu Cơ Xương, ông quyết định gả con gái đi.
Tương truyền, Đát Kỷ đẹp đến nỗi ngay cả khi nàng nổi giận cũng khiến Trụ Vương mê hồn. Trụ Vương cùng Đát Kỷ ngày đêm hoang lạc đến nỗi không màng tảo triều. Chánh cung vương hậu Khương thị thấy Trụ Vương bị mê hoặc bèn gọi Đát Kỷ đến mắng. Đát Kỷ không kính nể Khương hậu, còn nói khích nên bị Khương hậu trừng phạt. Trụ Vương biết được càng yêu chiều Đát Kỷ và căm ghét Khương hậu. Đát Kỷ muốn lật đổ Khương hậu nên vu cáo Khương hậu có ý ám sát Trụ Vương. Trụ Vương tức giận truyền chỉ tống giam và dụng hình ép cung. Khương hậu bất lực, khoét mắt tự minh oan rồi chết, Trụ Vương lập Đát Kỷ làm Kế hậu. Đát Kỷ truy sát 2 người con trai của Trụ Vương với Khương hậu là Ân Hồng (殷洪) và Ân Giao (殷郊), nhưng 2 công tử đã sớm trốn khỏi cung. Ả thanh trừng hậu cung, dọa nạt khiến Dương thị, một vương phi khác ở Ninh Khánh cung sợ hãi tự vẫn. Sau đó ả xin Trụ Vương đưa Hồ Hỷ Mỵ và Ngọc Mỹ nhân đều có yêu thuật và nhan sắc nhập cung.
Đát Kỷ đuổi Khương Tử Nha đi, Thân Công Báo (申公豹) được làm quốc sư là do tài nâng đỡ và mồm miệng của Đát Kỷ thuyết phục nhà vua. Sau một thời gian được Trụ Vương cung phụng, cuối cùng Đát Kỷ sinh cho vua một người con trai tên Vũ Canh tuy còn nhỏ song cũng khôn lanh, được Trụ Vương yêu hơn cả Ân Hồng và Ân Giao do Khương hậu sinh. Về sau, được Cơ Phát sắc phong cho một cõi chư hầu, nối kiếp lửa hương. Bá Ấp Khảo (伯邑考), một người tình cũ của Đát Kỷ, đẹp trai, văn hay, võ giỏi, con trai của Tây Bá hầu Cơ Xương. Đặc biệt chàng có biệt tài về âm nhạc, trời phú cho có đôi tay tinh tường, những ngón tay như thần có thể điều khiển tiếng đàn. Vẻ đẹp cùng với tài năng của chàng đương nhiên đã khiến Đát Kỷ say như điếu đổ. Vốn tính dâm dục, Đát Kỷ là gái có chồng đã bất chấp luân thường đạo lý, lập mưu tính kế chiếm giữ trái tim chàng. Có lẽ trên thế gian này có người nào đó ở trong một cung điện xa hoa cùng với một mỹ nữ tuyệt sắc như Đát Kỷ mà có thể giữ được bình tĩnh thì người đó chính là Bá Ấp Khảo. Vương hậu xinh đẹp, quyến rũ, vuốt ve mơn trớn thế nào, chàng cũng nhất định không phục tùng nên bị chặt đầu rồi băm thịt làm nhân bánh bao gửi về cho Cơ Xương.
Ân triều còn có một vị quan trung nghĩa tên Hoàng Phi Hổ, có người vợ là Giả thị (賈氏) có nhan sắc diễm lệ, nức tiếng xa gần. Theo lệ triều đình hàng năm, cứ đến Tết nguyên đán các quan phải đưa phu nhân vào cung bái yết đại vương. Giả phu nhân theo chồng vào cung, Trụ Vương thấy Giả thị xinh đẹp, nói chuyện duyên dáng nên cuồng si vọng tưởng. Đát Kỷ thấy vậy nên ganh ghét, bày kế hãm hại, giả vờ mời Giả thị tham dự dạ yến với Trụ Vương, sau đó cáo mệt về cung trước. Trụ Vương say rượu, không giữ lễ nghĩa nên cưỡng bức Giả thị. Vốn là người trọng tiết tháo, Giả thị không chịu được nhục nhã, lao mình từ trên lầu cao xuống đất tự tử. Vương phi Hoàng thị của Trụ Vương, vốn là em gái Hoàng Phi Hổ, nghe tin vô cùng phẫn nộ, chạy đến trách Trụ Vương vô sỉ, còn dọa giết Đát Kỷ để trả thù nên bị Trụ Vương lỡ tay đánh chết. Những câu chuyện về Đát Kỷ còn nhiều vô kể, nhưng có lẽ câu chuyện làm người đời "rùng mình" nhất chính về sự hiếu kỳ của ả. Chuyện kể rằng, một lần Trụ Vương cùng Đát Kỷ đi dạo, thấy cảnh một cụ già và một em bé đi trong mưa tuyết, cụ già thì khỏe mạnh, còn em bé run rẩy vì lạnh. Đát Kỷ cảm thấy thật hiếu kỳ. Không lẽ cụ già sinh ra lúc cha mẹ còn trẻ nên ống chân có tủy, đứa trẻ kia sinh ra lúc cha mẹ già yếu nên ống chân không có tủy? Nghĩ vậy, ả bèn sai người chặt chân cụ già và em bé ra xem rồi cười. Lại có một lần, Đát Kỷ cùng các cung nữ ra ngoài ngắm cảnh, thấy một người phụ nữ mang thai đi qua. Đát Kỷ tò mò giới tính của thai nhi nên sai quân lính mổ bụng người mẹ ra xem. Sự hiếu kỳ của ả một lúc đã cướp đi sinh mạng hai mẹ con. Trong triều có Tỷ Can là vị đại thần vô cùng giỏi giang, học vấn uyên thâm, là một trụ cột của nước Thương lúc bấy giờ. Đát Kỷ nghe câu: "Thánh nhân chi tâm hữu thất khiếu" (Trái tim người tài có bảy ngăn), bèn hạ lệnh moi tim ông ra để xem liệu tim Tỷ Can thật có bảy ngăn hay không.
Chu Vũ vương Cơ Phát được sự phò tá của Khương Tử Nha đã đánh đổ nhà Thương. Trụ Vương mất nước bèn mặc áo dát ngọc leo lên Lộc Đài tự châm lửa thiêu và chết trong đám cháy. Trụ Vương chết rồi, Thái Bạch Kim Tinh cho mang vong hồn về sao Phá Quân, phong làm thần phá hoại. Còn Đát Kỷ thì bị Khương Tử Nha xử tử hình. Thái Bạch Kim Tinh cho bắt vong hồn Đát Kỷ về phong làm thần dục vọng, ác liệt, hoang đàng để cai quản sao Tham Lang.
Trong văn hoá đại chúng
Phim nổi bật nhất về Đát Kỷ là bộ phim truyền hình do TVB sản xuất Bảng Phong Thần (2001) hay còn được biết đến với cái tên Đát Kỷ Trụ Vương, với các diễn viên: Ôn Bích Hà (vai Đắc Kỷ), Trần Hạo Dân (vai Na Tra), Tiền Gia Lạc (vai Dương Tiễn), Trịnh Tử Thành (vai Trụ Vương) của TVB...
Phim truyền hình
Phim điện ảnh |
Giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất (tiếng Anh: Academy Award for Best Actor) là một hạng mục trong hệ thống giải Oscar do Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (AMPAS) trao tặng hàng năm cho diễn viên nam có vai diễn chính xuất sắc nhất trong năm đó của ngành công nghiệp điện ảnh. Lễ trao giải Oscar lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1929; Emil Jannings là chủ nhân đầu tiên của giải thưởng nhờ diễn xuất của ông trong các phim The Last Command và The Way of All Flesh. Ngày nay việc bầu chọn và trao đổi phiếu (do hội nam diễn viên trong Viện Hàn lâm thực hiện) có thể quyết định danh sách các ứng cử viên; còn số đông lá phiếu từ toàn bộ các thành viên có quyền biểu quyết hợp lệ của Viện Hàn lâm sẽ chọn ra những người chiến thắng.
Trong ba năm đầu trao giải, các nam diễn viên giành đề cử cho màn thể hiện xuất sắc nhất trong các hạng mục của họ. Vào thời điểm đó toàn bộ tác phẩm của họ trong suốt giai đoạn vòng loại (trong một số trường hợp có tới ba phim) đều được đính tên trên giải thưởng. Tuy nhiên trong lễ trao giải lần thứ 3 tổ chức năm 1930, chỉ có một trong số những bộ phim đó được xướng tên trong giải thưởng cuối cùng của người thắng cử, mặc dù diễn xuất của mỗi người thắng cử có tới hai bộ phim đính tên họ trên những lá phiếu. Trong năm kế tiếp hệ thống hiện nay đã thay thế hệ thống phức tạp và khó sử dụng này, trong đó nam diễn viên đề cử cho một vai diễn cụ thể trong một bộ phim duy nhất. Kể từ lễ trao giải lần thứ 9, hạng mục được chính thức giới hạn năm đề cử mỗi năm. Kể từ khi thành lập, giải thưởng đã được trao cho 80 nam diễn viên. Daniel Day-Lewis giành nhiều giải nhất ở hạng mục này với ba tượng vàng. Spencer Tracy và Laurence Olivier đều nhận tới chín đề cử, nhiều hơn bất kì nam diễn viên nào khác.
Danh sách cụ thể
Trong bảng dưới đây, các năm được liệt kê theo quy ước của Viện hàn lâm, thường tương ứng với năm công chiếu phim tại quận Los Angeles; các lễ trao giải luôn tổ chức vào năm kế tiếp. Đối với năm lễ trao giải đầu tiên, thời gian đủ điều kiện đề cử kéo dài 12 tháng từ 1 tháng 8 đến 31 tháng 7. Đối với lễ trao giải lần thứ 6 tổ chức năm 1934, thời gian ứng cử kéo dài từ 1 tháng 8 năm 1932 đến 31 tháng 12 năm 1933. Kể từ lễ trao giải thứ 7 diễn ra năm 1935, thời gian ứng cử kéo dài tròn một năm dương lịch từ 1 tháng 1 đến 31 tháng 12.
Thập niên 1920/1930
Thập niên 1940
Thập niên 1950
Thập niên 1960
Thập niên 1970
Thập niên 1980
Thập niên 1990
Thập niên 2000
Thập niên 2010
Thập niên 2020
Nhiều chiến thắng và đề cử nhất
Những cá nhân dưới đây nhận từ hai giải Oscar cho nam chính trở lên
Những cá nhân dưới đây nhận được từ bốn đề cử Oscar cho nam chính trở lên
Kỷ lục về tuổi |
Giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (tiếng Anh: Academy Award for Best Supporting Actor) là một hạng mục trong hệ thống Giải Oscar được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (Academy of Motion Picture Arts and Sciences, viết tắt là AMPAS, Hoa Kỳ) trao tặng hàng năm cho diễn viên nam có vai diễn phụ xuất sắc nhất trong năm đó của ngành công nghiệp điện ảnh.
Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 9 được tổ chức vào năm 1937, Walter Brennan là người đầu tiên giành giải thưởng này cho vai diễn trong Come and Get It.
Tính cho đến lễ trao Giải Oscar lần thứ 89 năm 2016, đã có tổng cộng 81 giải Oscar vai nam phụ được trao cho 73 nam diễn viên. Đương kim năm 2023 là nam diễn viên người Mỹ gốc Việt-Hoa Quan Kế Huy.
Các kỷ lục
Walter Brennan, người đầu tiên giành giải Oscar nam diễn viên phụ xuất sắc cũng là nam diễn viên duy nhất từng 3 lần giành giải thưởng này (trong tổng số 4 lần được đề cử). Có 6 diễn viên đã từng hai lần chiến thắng ở hạng mục này, đó là Anthony Quinn, Melvyn Douglas, Michael Caine, Peter Ustinov, Jason Robards và Christoph Waltz. Trong số này chỉ có Robards là người chiến thắng trong hai năm liên tiếp với diễn xuất trong các phim All the President's Men (1976) và Julia (1977).
Claude Rains, và Arthur Kennedy đang giữ kỷ lục về số lần đề cử ở hạng mục Nam diễn viên phụ mà không giành giải với 4 lần. Những người đã từng 3 lần được đề cử mà chưa một lần giành chiến thắng có Charles Bickford, Jeff Bridges, Charles Durning, Robert Duvall, Ed Harris và Al Pacino (tuy rằng Al Pacino và Jeff Bridges chiến thắng ở hạng mục Vai nam chính lần lượt cho phim Scent of a Woman (1991) và Crazy Heart (2009)).
Năm 1944 Barry Fitzgerald với diễn xuất trong Going My Way trở thành người duy nhất được đề cử ở cả hai hạng mục Nam diễn viên chính và Nam diễn viên phụ cho cùng một vai diễn, ông giành tượng vàng Oscar ở hạng mục sau. Năm 1974, Robert De Niro được trao giải Oscar vai nam phụ cho vai diễn Bố già Vito Corleone thời trẻ trong phim Bố già phần II, cũng chính nhờ vào vai nhân vật này mà Marlon Brando đã giành chiến thắng ở hạng mục Nam diễn viên chính hai năm trước đó (1972) cho phim Bố già).
Danh sách cụ thể
Thập niên 1930
Thập niên 1940
Thập niên 1950
Thập niên 1960
Thập niên 1970
Thập niên 1980
Thập niên 1990
Thập niên 2000
Thập niên 2010 |
Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (tiếng Anh: Academy Award for Best Actress) là một hạng mục trong hệ thống Giải Oscar được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (Hoa Kỳ) trao tặng hàng năm cho diễn viên nữ có vai diễn chính xuất sắc nhất trong năm đó của ngành công nghiệp điện ảnh.
Cho đến trước lễ trao Giải Oscar lần thứ 19 (1936), chỉ có một hạng mục diễn xuất duy nhất cho nữ diễn viên, hạng mục Oscar cho diễn xuất của diễn viên nữ (Academy Award of Merit for Performance by an Actress). Từ lễ trao giải lần thứ 49 trở đi người ta mới tách riêng hạng mục này cho các vai nữ chính và vai nữ phụ. Tính cho đến năm 2010, đã có tổng cộng 69 nữ diễn viên khác nhau từng nhận được giải thưởng vinh dự này, người đầu tiên là Janet Gaynor với diễn xuất trong các phim Seventh Heaven, Street Angel và Sunrise. Nữ diễn viên gần đây nhất đoạt giải là Dương Tử Quỳnh trong Cuộc chiến đa vũ trụ.
Các kỷ lục
Katharine Hepburn cho đến nay vẫn là nữ diễn viên giữ kỷ lục về số lần chiến thắng tại hạng mục Nữ diễn viên chính với 4 tượng vàng Oscar. Nữ diễn viên Frances McDormand đã mang về 3 giải vào các năm 1996, 2017 và 2021. Có 11 nữ diễn viên khác đã từng chiến thắng hai lần, đó là Luise Rainer, Bette Davis, Olivia de Havilland, Vivien Leigh, Ingrid Bergman, Elizabeth Taylor, Glenda Jackson, Jane Fonda, Sally Field, Jodie Foster, Hilary Swank, Meryl Streep. Chỉ có hai người từng được trao giải này trong hai năm liên tiếp, đó là Luise Rainer (1936 và 1937) và Katharine Hepburn (1967 và 1968).
Meryl Streep là người giữ kỷ lục về số lần đề cử giải Oscar nữ diễn viên chính xuất sắc nhất với 13 đề cử. Ngoài ra bà còn có 3 đề cử khác ở hạng mục Vai nữ phụ, tổng cộng bà có 16 đề cử ở các hạng mục diễn xuất, kỷ lục của giải Oscar tính chung cho cả nam và nữ diễn viên.
Năm 1968, giải Oscar nữ diễn viên chính được trao lần duy nhất cho cùng lúc hai người, đó là Katharine Hepburn và Barbra Streisand khi họ nhận được số phiếu bầu đúng bằng nhau.
Đã từng có 2 lần các cặp chị em ruột cùng tham gia tranh giải Oscar vai nữ chính trong một năm, đó là cặp chị em Olivia de Havilland - Joan Fontaine (năm 1941) và cặp Lynn Redgrave - Vanessa Redgrave (năm 1966).
Helen Hayes, Ingrid Bergman, Maggie Smith, Meryl Streep, Jessica Lange và Cate Blanchett là những nữ diễn viên từng chiến thắng ở cả hai hạng mục diễn xuất dành cho nữ, đó là giải Oscar vai nữ chính và giải Oscar vai nữ phụ.
Halle Berry là nữ diễn viên da màu đầu tiên và duy nhất đến nay thắng giải nữ chính xuất sắc nhất.
Danh sách cụ thể
Thập niên 1920/30
Thập niên 1940
Thập niên 1950
Thập niên 1960
Thập niên 1970
Thập niên 1980
Thập niên 1990
Thập niên 2000
Thập niên 2010
Thập niên 2020 |
Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States Geological Survey, viết tắt USGS) là một cơ quan khoa học của chính phủ liên bang Hoa Kỳ. Các nhà khoa học của USGS nghiên cứu về cảnh quan, tài nguyên và hiểm họa tự nhiên của nước Mỹ. Cơ quan này có bốn ngành khoa học chính: sinh vật học, địa lý học, địa chất học và thủy văn học. USGS là cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu tìm hiểu thực tế mà không có trách nhiệm thi hành giải pháp khai thác, quản lý, phòng chống thiên tai.
Là một cục trong Bộ Nội vụ Hoa Kỳ, USGS là cơ quan khoa học duy nhất của bộ đó. USGS có khoảng 10.000 nhân viên. Nó có trụ sở tại Reston, Virginia, và các văn phòng lớn ở Denver, Colorado, và Menlo Park, California. |
Hamburger Sport-Verein e. V. (phát âm tiếng Việt: Hăm-buốc) hay Hamburg hoặc HSV là một câu lạc bộ thể thao nổi tiếng của Đức có trụ sở tại thành phố Hamburg, Đức và nổi tiếng nhất là đội bóng đá của câu lạc bộ. Đây là một trong những câu lạc bộ lâu đời, nổi tiếng, giàu thành tích và có lượng người hâm mộ lớn nhất tại Đức.
Sân nhà của Hamburg là sân Volksparkstadion ở Bahrenfeld, một quận phía tây của Hamburg, với sức chứa 57,000 chỗ ngồi.
Linh vật của đội bóng là Dino Hermann (Khủng long Hermann).
Màu sắc chính thức của câu lạc bộ là xanh lam, trắng và đen nhưng trang phục thi đấu sân nhà của đội là áo trắng và quần đùi đỏ. Vì vậy mà biệt danh phổ biến của Hamburg là "die Rothosen" (Quần đùi đỏ). Ngoài ra vì là một trong những câu lạc bộ lâu đời nhất của Đức, Hamburg còn được gọi là der Dinosaurier (Khủng long).
Hamburg là một trong những câu lạc bộ thể thao lớn nhất ở Đức với hơn 85,000 thành viên chính thức, và được tạp chí Forbes của Mỹ xếp hạng trong top 20 câu lạc bộ bóng đá giá trị nhất thế giới.
Hamburg từng giữ kỷ lục là đội duy nhất chưa từng xuống hạng khi thi đấu tại Giải vô địch bóng đá Đức (1.Bundesliga) cho đến khi chính thức xuống hạng vào mùa giải 2017/18 và cũng là câu lạc bộ Đức duy nhất chưa xuống hạng ở giải vô địch Đức tiền Bundesliga từ năm 1919 đến 1963.
Hamburg vô địch Đức 6 lần, DFB-Pokal 3 lần và 2 League Cup. Thời kỳ hoàng kim của CLB là giai đoạn thập niên 80, dưới sự chỉ đạo của huyền thoại Ernst Happel, HSV vô địch Cúp C2 châu Âu 1976-77 (tiền thân của UEFA Europa League) và đỉnh cao là Cúp C1 châu Âu năm 1983 (tiền thân của UEFA Champions League) khi đánh bại Juventus với tỉ số 1-0 với pha ghi bàn của tiền vệ tuyển Tây Đức Felix Magath. Ngôi sao của đội khi đó bao gồm Kevin Keegan, Horst Hrubesch, Manfred Kaltz, Thomas von Heesen, Wolfgang Rolff và Felix Magath.
Huyền thoại số 1 của đội bóng là Uwe Seeler.
HSV có đối thủ truyền kiếp là SV Werder Bremen, được gọi là Nordderby (Derby phương Bắc), và FC St. Pauli, được gọi là derby Hamburg.
Ngày 12/05/2018 là ngày đen tối nhất của câu lạc bộ khi họ lần đầu tiên xuống hạng Buldesliga kể từ khi giải đấu thành lập. Điều này khiến cổ động viên của họ rất tức giận và đã gây loạn trên SVĐ Volksparkstadion. Rất nhiều pháo sáng được ném xuống sân khiến trận đấu cuối cùng của họ tại Bundesliga bị gián đoạn.
Thành tích
Quốc tế
UEFA Champions League/Cúp C1
Vô địch (1): 1982–83
UEFA Cup Winners' Cup/Cúp C2
Vô địch (1): 1976–77
UEFA Cup / UEFA Europa League:
Á quân (1): 1982
Siêu Cúp châu Âu:
Á quân (2): 1977, 1983
Cúp Liên Lục Địa:
Á quân (1): 1983
UEFA Intertoto Cup:
Vô địch (2): 2005, 2007
Quốc nội
Bundesliga:
Vô địch (6): 1922–23, 1927–28, 1959–60, 1978–79, 1981–82, 1982–83
Cúp Quốc gia Đức:
Vô địch (3): 1962–63, 1975–76, 1986–87
Siêu Cúp Đức:
Á quân (3): 1977, 1982, 1987
German League Cup:
Vô địch (2): 1972–73, 2003
Khu vực
Northern German football championship
Vô địch (10): 1921, 1922, 1923, 1924, 1925, 1928, 1929, 1931, 1932, 1933
Gauliga Nordmark
Vô địch (4): 1937, 1938, 1939, 1941
Gauliga Hamburg
Vô địch (1): 1945
Stadtliga Hamburg
Vô địch (1): 1946
Championship of the British occupation zone
Vô địch (2): 1947, 1948
Oberliga Nord
Vô địch (15): 1948, 1949, 1950, 1951, 1952, 1953, 1955, 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1961, 1962, 1963
Khác
Trofeo Santiago Bernabéu:
Vô địch (1): 1982
Dubai Challenge Cup:
Vô địch (2): 2007, 2008
Emirates Cup:
Vô địch (1): 2008
T-Home Cup
Vô địch (1): 2009
Thành tích châu Âu
Hamburger SV trong tạp chí Forbes
Hamburger SV là một trong những câu lạc bộ giàu có của Đức và châu Âu.
Đội hình
Đội hình hiện tại
Cầu thủ cho mượn
Sân vận động
Hamburg đang chơi trên sân AOL Arena (47.000 chỗ ngồi/10.000 chỗ đứng). Đây là một trong những sân vận động 5 sao của UEFA, nơi có thể dùng để tổ chức các trận đấu chung kết của Cúp UEFA và UEFA Champions League. Sân cũng là một trong những sân đăng cai các trận đấu của World Cup 2006.
Chú thích
Câu lạc bộ bóng đá Đức
Thể thao Hamburg
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1887 |
Sau đây là danh sách các trận động đất lớn.
Danh sách các trận động đất lớn do USGS lập
Đây là danh sách các trận động đất lớn do USGS lập. Xem bảng dưới đây để biết thêm chi tiết.
† MG-R = Gutenberg and Richter's (1954) magnitude, MS = 20 s surface-wave magnitude, M = moment magnitude (Hanks and Kanamori, 1979), and MI is an intensity magnitude, ML is local magnitude (Richter, 1935).
‡ GMT
* Fatalities estimated as high as 655.000.
Nguồnn: USGS
Những trận động đất khác không trong danh mục liệt kê của USGS
ghi chú: Độ lớn (magnitude) thường được tính dựa vào các dữ liệu cường độ (intensity). Khi không có giá trị độ lớn thì người ta sử dụng thang maximum intensity, được viết là Roman numeral từ thế kỉ I đến XII.
Những trận động đất gần đây không liệt kê ở phần trên
Những trận động đất có cường độ lớn nhất
* Các nhà khoa học chưa đồng ý về cường độ chính thức.
Những trận động đất gây thiệt hại nhân mạng nhiều nhất mà sử sách còn ghi |
Lưỡng quốc Trạng nguyên, có nghĩa trạng nguyên hai nước, là một danh hiệu xưng tặng cho một vài trạng nguyên Việt Nam. Tuy không chính thức đỗ trạng nguyên ở một nước khác, nhưng học vấn của họ được công nhận như một trang nguyên của nước đó - đều là Trung Quốc. Trong 49 vị trạng nguyên của Việt Nam, có bốn người được xưng tặng là "Lưỡng quốc Trạng nguyên", đó là:
Mạc Đĩnh Chi triều vua Trần Anh Tông
Nguyễn Trực triều vua Lê Thái Tông
Nguyễn Đăng Đạo triều vua Lê Hy Tông
Nguyễn Nghiêu Tư triều vua Lê Nhân Tông
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên năm 1304 đời vua Trần Anh Tông. Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên Trung Quốc, đối đáp thông tuệ, học vấn uyên thâm. Trong một phiên chầu, sứ giả nước ngoài dâng vua Nguyên một chiếc quạt quý. Vua sai các sứ thần làm bài vịnh chiếc quạt. Mạc Đĩnh Chi đã nhanh chóng làm một bài thơ rất hay, có khí phách lớn và chữ nghĩa đối nhau rất tài tình. Một số nguồn viết rằng tương truyền hoàng đế nhà Nguyên (Nguyên Vũ Tông) xem xong rất khen ngợi. Ông ta đã phê vào bài thơ 4 chữ Lưỡng quốc Trạng nguyên và tự tay trao cho Mạc Đĩnh Chi. Tuy nhiên, việc phê bốn chữ Lưỡng quốc trạng nguyên không có nguồn chứng tin cậy, không thấy ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư mặc dù trong các sự kiện của năm 1308 có nhắc tới việc đi sứ, xé bức trướng vẽ chim sẻ đậu cành trúc và làm thơ vịnh chiếc quạt của ông..
Nguyễn Trực
Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên năm 1442 đời vua Lê Thái Tông. Một số nguồn viết rằng ông từng đi sứ nhà Minh Trung Quốc, gặp kỳ thi Đình, Nguyễn Trực cùng phó sứ là Trịnh Khiết Tường tham gia. Sau kỳ thi đó ông được xưng tặng là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Tuy nhiên, trong Đại Việt sử ký toàn thư không thấy nhắc tới việc này.
Nguyễn Đăng Đạo
Nguyễn Đăng Đạo đỗ Trạng nguyên năm 1683 đời vua Lê Hy Tông. Từ tháng 1 năm Đinh Sửu 1697 đến tháng 4 năm Mậu Dần 1698, Nguyễn Đăng Đạo đi xứ nhà Thanh Trung Quốc. Văn tài của Nguyễn Đăng Đạo đã làm kinh ngạc cả triều đình nhà Thanh cùng sứ thần các nước. Vua Thanh phong cho ông là Trạng nguyên của Bắc triều, ban mũ áo, võng lọng cho ông vinh quy về nước. Năm 1719 ông mất, được phong Lại bộ Thượng thư tước Thọ Quận công. Sau khi ông mất vua Lê Dụ Tông tặng ông 4 chữ đại tự Lưỡng quốc trạng nguyên và sắc phong cho ông làm thành hoàng làng Liên Bão.
Một vài người khác
Ngoài ra có thể kể đến Phùng Khắc Khoan đỗ hoàng giáp năm 1580, đời Lê Thế Tông. Khi đi sứ Trung Quốc, vua nhà Minh đặc cách phong ông làm Trạng nguyên.
Triệu Thái, người xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc vào thời Đại Việt thuộc nhà Minh, ông sang Trung Quốc thi và đỗ tiến sĩ dưới triều vua Vĩnh Lạc, rồi nhận chức quan học sĩ Viện Hàn lâm trong triều đình Trung Quốc. Năm 1428, Đại Việt giành độc lập sau khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, Triệu Thái về nước. Năm 1429 ông đỗ đầu trong khoa thi Minh Kinh đời Lê Thái Tổ.
Tống Trân
Tục truyền, vào thời tiền Lý ở xã An Đô, tổng Võng Phan, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ) có nhà họ Tống tên là Thiện Công dòng dõi thi thư, nghèo túng nhưng rất khoan hòa nhân đức, sinh được một cậu con trai khôi ngô, đặt tên là Tống Trân.
Tống Trân lên 5 tuổi đi học, học một biết mười, thiên văn địa lý đều tinh thông. Năm 7 tuổi, Tống Trân vào kinh ứng thi, cả ba kì thi đều được hạng ưu, đỗ thủ khoa. Ba năm sau đỗ Trạng nguyên vua khen là "Quốc sĩ tướng tài trong nước chỉ có một mình Tống Trân không ai sánh được". Sau khi vinh quy, Tống Trân kết duyên với Cúc Hoa, người xã Phù Anh cùng huyện. Cưới được 3 tháng, vua sai Tống Trân đi sứ Trung Quốc. Vua Trung Quốc muốn thử tài, sai bắt giam Tống Trân vào chùa Linh Long, trong chùa chỉ có tượng phật và nước lã. "Có nước uống, ắt phải có cái ăn, nghĩ vậy, Tống Trân bèn bẻ thử tay tượng thì quả nhiên tượng được đắp bằng chè lam. Bốn tháng sau, vua Tàu cho mở cửa chùa thì thấy Tống Trân vẫn sống đàng hoàng, nhưng tượng Phật không còn. Vua phục tài, phong Tống Trân là "Phụ quốc, thượng tể đẩu Nam Tống đại vương". Qua nhiều lần thử tài văn chương, võ nghệ, vua Tàu càng khâm phục phong là "Lưỡng quốc trạng nguyên".
Mười năm đi sứ, khi Tống Trân trở về thì Cúc Hoa đã bị ép lấy chồng khác. Tống Trân giả dạng tìm đến dò la ý tứ, biết vợ vẫn chung thủy với mình, Tống Trân đón nàng về, vợ chồng đoàn tụ. Nhà vua biết chuyện cảm động phong cho Cúc Hoa là Quận phu nhân. Còn Tống Trân sau làm Phụ chính đại nhẫn". Làm quan đến ngoài 60 tuổi, Tống Trân dâng biểu xin về, mở trường dạy học tại quê nhà, được 5 năm thì mất. Vua thương tiếc phong sắc "Thượng đẳng phúc thần", sau lại gia phong "Thượng đẳng tối linh phụ quốc thượng tể đẩu Nam song toán Tống đại vương", và truyền cho dân làng lập đền thờ. Ở làng An Cầu hiện còn đền thờ Tống Trân. Người đời sau đã viết truyện Tống Trân- Cúc Hoa, một tác phẩm thơ Nôm dân gian nổi tiếng, ca ngợi tài đức, tình yêu và lòng chung thủy của Tống Trân- Cúc Hoa. Có người còn làm câu đối về Tống Trân, dịch nghĩa như sau:
Tám tuổi đỗ Trạng Nam, đã nổi tài sanh vàng đất Việt
'Mười năm sang sứ Bắc, lại đem vận sự dõi đời sau'
Hiện nay, tại Văn Miếu Xích Đằng (Hưng Yên) còn tấm bia ghi tên Tống Trân, bia này được lập vào cuối triều Nguyễn.
Truyền thuyết ghi trên có khác chút ít so với truyện nôm Tống Trân- Cúc Hoa.
Lưỡng quốc trạng nguyên - Tống Trân |
Oracle là một tập đoàn công nghệ máy tính đa quốc gia của Mỹ có trụ sở chính tại Austin, Texas. Công ty trước đây có trụ sở chính tại Redwood Shores, California cho đến tháng 12 năm 2020 khi chuyển trụ sở chính đến Texas. Công ty bán phần mềm và công nghệ cơ sở dữ liệu, các hệ thống được thiết kế trên đám mây và các sản phẩm phần mềm doanh nghiệp — đặc biệt là các thương hiệu riêng của hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu. Năm 2019, Oracle là công ty phần mềm lớn thứ hai tính theo doanh thu và vốn hóa thị trường. Công ty cũng phát triển và xây dựng các công cụ để phát triển cơ sở dữ liệu và hệ thống phần mềm cấp trung, phần mềm hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP), phần mềm Quản lý nguồn nhân lực (HCM), phần mềm quản lý quan hệ khách hàng (CRM) và phần mềm quản lý chuỗi cung ứng (SCM).
Lịch sử
Larry Ellison đồng sáng lập Tập đoàn Oracle vào năm 1977 với Bob Miner và Ed Oates với tên Software Development Laboratories (SDL). Ellison đã lấy cảm hứng từ bài báo năm 1970 do Edgar F. Codd viết về hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ (RDBMS) có tên "Mô hình dữ liệu quan hệ cho các ngân hàng dữ liệu được chia sẻ lớn." Ellison đã nghe về cơ sở dữ liệu IBM System R từ một bài báo trên Tạp chí Nghiên cứu của IBM do Oates cung cấp. Ellison muốn làm cho sản phẩm của Oracle tương thích với System R, nhưng không thực hiện được vì IBM đã giữ bí mật mã lỗi cho DBMS của họ. SDL đổi tên thành Relational Software, Inc (RSI) vào năm 1979, sau đó lại đổi thành Oracle Systems Corporation vào năm 1983, để gắn kết chặt chẽ hơn với sản phẩm chủ lực Oracle Database. Ở giai đoạn này, Bob Miner là lập trình viên cấp cao của công ty. Ngày 12 tháng 3 năm 1986, công ty phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.
Năm 1995, Oracle Systems Corporation đổi tên thành Oracle Corporation, tên chính thức là Oracle, nhưng đôi khi được gọi là Oracle Corporation, tên của công ty mẹ. Một phần thành công ban đầu của Tập đoàn Oracle đến từ việc sử dụng ngôn ngữ lập trình C để triển khai các sản phẩm của mình. Điều này làm giảm việc chuyển sang các hệ điều hành khác nhau mà hầu hết đều hỗ trợ ngôn ngữ C.
Tài chính
Oracle xếp thứ 82 trong danh sách Fortune 500 năm 2018 về các tập đoàn lớn nhất Hoa Kỳ tính theo tổng doanh thu. Theo Bloomberg, tỷ lệ trả lương giữa CEO trên nhân viên của Oracle là 1.205: 1. Mức thù lao của CEO vào năm 2017 là 108.295.023 đô la. Oracle là một trong những nhà tuyển dụng được chấp thuận của ACCA và mức lương thưởng cho nhân viên trung bình là 89.887 đô la.
Sản phẩm và dịch vụ
Oracle thiết kế, sản xuất và bán cả sản phẩm phần mềm và phần cứng, cũng như cung cấp các dịch vụ bổ sung cho chúng (chẳng hạn như dịch vụ tài chính, đào tạo, tư vấn và lưu trữ). Nhiều sản phẩm đã được thêm vào danh mục đầu tư của Oracle thông qua các thương vụ mua lại.
Phần mềm
Dịch vụ E-Delivery của Oracle (Oracle Software Delivery Cloud) cung cấp phần mềm và tài liệu Oracle có thể tải xuống.
Cơ sở dữ liệu
Cơ sở dữ liệu Oracle
Bản phát hành 10: Năm 2004, Tập đoàn Oracle đã phát hành bản phát hành 10 g (g là viết tắt của "grid") là phiên bản mới nhất của Oracle Database. (Máy chủ ứng dụng Oracle 10 g sử dụng Java EE được tích hợp với phần máy chủ của phiên bản cơ sở dữ liệu đó, giúp nó có thể triển khai các ứng dụng công nghệ web. Máy chủ ứng dụng là phần mềm bậc trung đầu tiên được thiết kế cho tính toán lưới. Mối quan hệ qua lại giữa Oracle 10 g và Java cho phép các nhà phát triển thiết lập các thủ tục được lưu trữ được viết bằng ngôn ngữ Java, cũng như các thủ tục được viết bằng ngôn ngữ lập trình cơ sở dữ liệu Oracle truyền thống, PL / SQL.)[cần dẫn nguồn]
Bản phát hành 11: Bản phát hành 11g có sẵn vào năm 2007. Tập đoàn Oracle đã phát hành Oracle Database 11g Release 2 vào tháng 9 năm 2009. Phiên bản này có sẵn trong bốn phiên bản thương mại — Phiên bản Doanh nghiệp, Phiên bản Tiêu chuẩn, Phiên bản Tiêu chuẩn Một và Phiên bản Cá nhân — và trong một phiên bản miễn phí — Phiên bản Express. Việc cấp phép cho các ấn bản này cho thấy nhiều hạn chế và nghĩa vụ khác nhau được chuyên gia cấp phép Freirich Florea gọi là phức tạp. Phiên bản Doanh nghiệp (DB EE), phiên bản đắt nhất trong số các Phiên bản Cơ sở dữ liệu, có ít hạn chế nhất — nhưng tuy nhiên, có giấy phép phức tạp. Tập đoàn Oracle hạn chế Phiên bản Tiêu chuẩn (DB SE) và Phiên bản Tiêu chuẩn Một (SE1) với nhiều hạn chế cấp phép hơn, phù hợp với mức giá thấp hơn của chúng.
Bản phát hành 12: Bản phát hành 12 c (c viết tắt của "cloud") có sẵn vào ngày 1 tháng 7 năm 2013.
Tập đoàn Oracle đã mua lại và phát triển các công nghệ cơ sở dữ liệu bổ sung sau:
Berkeley DB, cung cấp xử lý cơ sở dữ liệu nhúng
Oracle Rdb, một hệ thống cơ sở dữ liệu quan hệ chạy trên nền tảng OpenVMS. Oracle mua lại Rdb vào năm 1994 từ Digital Equipment Corporation. Oracle kể từ đó đã thực hiện nhiều cải tiến cho sản phẩm này và sự phát triển vẫn tiếp tục tính đến năm 2008.
TimesTen, có tính năng hoạt động cơ sở dữ liệu trong bộ nhớ
Oracle Essbase, tiếp nối truyền thống của Hyperion Essbase về quản lý cơ sở dữ liệu đa chiều
MySQL, một hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ được cấp phép theo Giấy phép Công cộng GNU, được phát triển ban đầu bởi MySQL AB
Cơ sở dữ liệu Oracle NoSQL, một khả năng mở rộng, phân phối giá trị khóa NoSQL cơ sở dữ liệu
Middleware
Oracle Fusion Middleware là một dòng sản phẩm phần mềm trung gian, bao gồm (ví dụ) máy chủ ứng dụng, tích hợp hệ thống, quản lý quy trình kinh doanh (BPM), tương tác người dùng, quản lý nội dung, quản lý danh tính và các sản phẩm thông minh kinh doanh (BI).
Oracle Secure Enterprise Search
Oracle Secure Enterprise Search (SES), dịch vụ tìm kiếm doanh nghiệp của Oracle, cung cấp cho người dùng khả năng tìm kiếm nội dung trên nhiều vị trí, bao gồm trang web, tệp XML, máy chủ tệp, hệ thống quản lý nội dung, hệ thống lập kế hoạch tài nguyên doanh nghiệp, hệ thống quản lý quan hệ khách hàng, hệ thống doanh nghiệp thông minh và cơ sở dữ liệu.
Oracle Beehive
Được phát hành vào năm 2008, phần mềm cộng tác Oracle Beehive cung cấp không gian làm việc nhóm (bao gồm wiki, lập lịch nhóm và chia sẻ tệp), email, lịch, nhắn tin tức thời và hội nghị trên một nền tảng duy nhất. Khách hàng có thể sử dụng Beehive dưới dạng phần mềm được cấp phép hoặc dưới dạng phần mềm như một dịch vụ ("SaaS"). |
Nước phát triển, nước tiên tiến hay nước công nghiệp là các quốc gia và vùng lãnh thổ có trình độ phát triển vượt trội so với phần còn lại của thế giới. Được biểu hiện thông qua sự tiến bộ đồng đều của tổng hợp các chỉ số kinh tế, chính trị, xã hội.
Đặc điểm
Quốc gia phát triển bao gồm các đặc điểm như mức độ tăng trưởng kinh tế và an ninh cao. Các tiêu chí tiêu chuẩn để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia là thu nhập bình quân đầu người, tổng sản phẩm nội địa, mức độ công nghiệp hóa, bình quân tiêu chuẩn sinh hoạt và số lượng cơ sở hạ tầng công nghệ. Các yếu tố phi kinh tế, chẳng hạn như chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số đánh giá trình độ học vấn, khả năng đọc viết và sức khỏe của một quốc gia cũng có thể được sử dụng để đánh giá mức độ phát triển.
Ở những nước công nghiệp hiện nay, công nghiệp nặng, công nghệ cao và dịch vụ là ba ngành kinh tế chủ lực. Các quốc gia công nghiệp cũng có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn rất nhiều so với những nước đang phát triển. Điều này có nghĩa là nếu một nước công nghiệp mới muốn được coi là phát triển thì ngành công nghiệp của nước đó phải có tỷ trọng cùng trình độ cao hơn rất nhiều so với phần còn lại. Các nước công nghiệp cũng có chỉ số phát triển con người rất cao.
Ngoài danh xưng "nước công nghiệp", nhóm quốc gia này còn được gọi với những tên gọi khác như "nước phát triển", "nước tiên tiến", hay các nước thuộc Thế giới thứ nhất.
Danh sách
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 2022, thế giới có 40 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đạt tới cũng như vẫn tiếp tục giữ vững được trình độ của một nước công nghiệp. IMF gọi họ là các nền kinh tế tiên tiến (Advanced Economies). Danh sách bao gồm:
Châu Âu
Andorra
Áo
Bỉ
Cộng hòa Séc
Đan Mạch
Estonia
Phần Lan
Pháp
Đức
Hy Lạp
Iceland
Ireland
Ý
Latvia
Lithuania
Luxembourg
Malta
Hà Lan
Na Uy
Bồ Đào Nha
Tây Ban Nha
Thụy Điển
Thụy Sĩ
Vương quốc Anh
Châu Á
Châu Mỹ
Canada
Hoa Kỳ
Puerto Rico
Châu Đại Dương
Úc
New Zealand |
Cửa khẩu Hạ Lang hay cửa khẩu Thị Hoa, cửa khẩu Bí Hà, là cửa khẩu tại vùng đất xã Thị Hoa, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam .
Cửa khẩu Hạ Lang thông thương với cửa khẩu Khoa Giáp (科甲口岸) ở huyện Long Châu tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc .
Cửa khẩu Hạ Lang cách thành phố Cao Bằng 90 km. Năm 2010 đây là một trong 5 cửa khẩu địa phương của tỉnh, trong tương lai sẽ nâng cấp lên cửa khẩu quốc gia .
Lịch sử
Cửa khẩu Hạ Lang được mở từ năm 1952 với tên cửa khẩu Bí Hà, và tên đơn vị quản lý giao thương là "Hải quan cửa khẩu Bí Hà" .
Kinh tế
Từ khi có quyết định của chính phủ Việt Nam về chính sách khuyến khích phát triển kinh tế cửa khẩu, cửa khẩu Hạ Lang đã có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế.
Huyện Long Châu của Trung Quốc nằm đối diện với cửa khẩu, có đường giao thông thuận lợi, nối đến Nam Ninh cách đó 300 km, và đến các đặc khu kinh tế phía nam của Trung Quốc. Huyện này cũng có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế cửa khẩu, cơ sở hạ tầng sẽ được xây dựng như hệ thống ngân hàng, bách hoá tổng hợp, siêu thị, khách sạn, bãi đỗ xe, kho hàng hoá.
Cửa khẩu Hạ Lang là nơi xuất nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu cung cấp cho thị trường huyện Hạ Lang, một số huyện lân cận và thị xã Cao Bằng. Các hàng nhập khẩu gồm hoa quả tươi, đậu xanh hạt, kính xây dựng, than cốc, máy móc thiết bị. Hàng xuất khẩu gồm hàng điện tử cũ đã qua sử dụng, hàng đông lạnh và các hàng nông sản.
Quy hoạch
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, 2020 cửa khẩu Hạ Lang sẽ xây dựng thành
các khối chính như:
Các cơ quan kiểm soát cửa khẩu,
Các công trình thương mại dịch vụ,
Các công trình công cộng,
Khu bảo thuế,
Kho ngoại quan,
Các công trình văn hoá thể thao,
Khu công nghiệp cửa khẩu trong tương lai.
Ghi chú |
Giá thành, Bảo hiểm và Cước là một thuật ngữ chuyên ngành trong thương mại quốc tế được viết tắt là CIF (tiếng Anh: Cost, Insurance and Freight) được sử dụng rộng rãi trong các hợp đồng mua bán trong thương mại quốc tế khi người ta sử dụng phương thức vận tải biển.
Nội dung
CIF (COST, INSURANCE AND FREIGHT)... destination port's name = Giá thành, bảo hiểm và cước phí....cảng đến quy định
Khi giá cả được nêu là CIF, nó có nghĩa là giá của bên bán hàng đã bao gồm giá thành của sản phẩm, cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. CIF là một thuật ngữ thương mại quốc tế (xem bài Incoterm). Điều khoản này thường nằm trong điều khoản Giá cả trong hợp đồng ngoại thương (UNIT PRICE). ví dụ: USD 2000/MT, CIF Ho Chi Minh City port, incoterms 2000
CIF, ngoại trừ phần bảo hiểm, là đồng nhất với Giá thành và cước (CFR) trong mọi khía cạnh, và các dẫn giải như vậy được áp dụng, bao gồm cả khả năng áp dụng được của nó đối với hàng hải theo tập quán. Bổ sung thêm các trách nhiệm của CFR, bên bán hàng theo các điều kiện giá CIF cần phải có bảo hiểm đơn có thể chuyển nhượng được để bảo chứng (tiền đảm bảo) cho các rủi ro trong quá trình vận chuyển từ các nhà bảo hiểm. Giá trị của bảo hiểm đơn cần bảo chứng cho giá CIF cộng 10 phần trăm và khi có thể cần phải là loại hình tiền tệ đã được ghi trong hợp đồng mua bán. Lưu ý rằng chỉ có bảo chứng cơ bản nhất được yêu cầu tương đương với các khoản mục của điều khoản "C", và bên mua hàng thông thường hay đòi hỏi bảo hiểm đơn dạng bảo chứng cho "mọi rủi ro" ("all risks") phù hợp với các khoản mục trong điều khoản "A". Trách nhiệm của bên bán hàng đối với hàng hóa kết thúc khi hàng hóa được giao cho nhà vận tải hàng hải hoặc khi được giao lên boong tàu vận tải tại điểm đi, phụ thuộc vào các thuật ngữ trong hợp đồng bảo hiểm.
Thuật ngữ này chỉ thích hợp cho vận tải hàng hải tập quán, không phải là ro/ro hay vận chuyển container quốc tế.
Hoa Kỳ
Các thông lệ ngoại thương của Mỹ đưa ra trong "Định nghĩa ngoại thương của Mỹ" có sáu loại:
Giao hàng tại nơi sản xuất (Ex Point of Origin - EPO).
Giao hàng trên phương tiện vận chuyển (Free on Board - FOB)
Giao hàng cạnh phương tiện vận chuyển (Free Along Side - FAS)
Giao hàng gồm: giá thành, cộng cước phí vận chuyển (Cost and Freight - C&F hay CFR)
Giao hàng gồm: giá thành cộng bảo hiểm và cước phí vận chuyển (Cost Insurance and Freight- CIF)
Giao hàng tại bến cảng đích (Ex Dock - ED).
Liên hệ với FOB hay EXW
Theo ý kiến của một số chuyên gia về vận tải thì việc nhập khẩu hàng hóa theo giá FOB hoặc EXW (Ex-works), thay vì giá CIF có lợi cho bên mua hơn, vì lý do sau:
Nhập khẩu hàng trực tiếp từ nhà sản xuất nói chung có lợi hơn (giá tốt hơn, dễ thảo luận về mẫu mã, chất lượng - vì không qua khâu trung gian). Nhưng thường thì nhà sản xuất do chuyên môn hoá và tập trung cao vào sản xuất, họ sẽ không muốn lo việc vận chuyển và sẽ chỉ gửi báo giá Ex-Works (giá xuất xưởng) hoặc giá FOB cảng xếp hàng. Nếu bên mua vẫn cứ yêu cầu báo giá CFR/CIF, thì có thể sẽ bị thiệt, do nhà sản xuất thường không có chuyên môn cao về vận tải nên họ sẽ cộng thêm một giá cước khá cao, để đảm bảo an toàn. Trong khi đó, nếu nhập khẩu với giá FOB, bên mua có thể chủ động đàm phán với hãng vận tải (hoặc đại lý của họ) về vấn đề giá cước.
Cũng thuận lợi, hiệu quả và an toàn như CIF. Chỉ cần chỉ định cho người bán rằng việc vận tải do công ty vận chuyển cùng đại lý của mình đảm nhận. Bảo hiểm hàng hoá mua ngay tại quốc gia bên mua hàng. Mọi phát sinh về hư hại, thiếu hụt, mất mát hàng hoá, giải quyết trực tiếp tại quốc gia bên mua bao giờ cũng thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, đa số các công ty nhập khẩu hàng theo giá CIF/CFR cảng Việt Nam. Lý do có thể coi là cơ bản có lẽ là: Các công ty thường không có khả năng nhập khẩu trực tiếp khi hàng hóa đa dạng về chủng loại và phải thông qua một/vài trung gian tại nước sở tại để gom hàng. Chi phí để đảm bảo cho một văn phòng thu gom hàng tại nước bán hàng không rẻ cũng là một lý do để các công ty mua hàng qua trung gian. Trong trường hợp này thì bên bán hàng thường cố gắng giữ quyền thanh toán bảo hiểm và cước vận tải, nhằm giảm thiểu các chi phí. Một lý do khác là các công ty vận tải biển của Việt Nam chưa thực sự mạnh, đa phần làm đại lý cho các công ty vận tải nước ngoài và vấn đề cước không do các công ty Việt Nam quyết định.
Cho đến nay vẫn còn tồn tại một suy nghĩ sai lầm là nhập hàng theo giá CFR/CIF sẽ an toàn hơn so với giá FOB, chẳng hạn: "Với giá CIF, trách nhiệm [đối với các rủi ro] chuyển từ người bán sang người mua khi hàng nhập cảng đến. Với giá FOB, trách nhiệm này chuyển ngay tại cảng nước ngoài". Thực tế, theo các điều khoản của Incoterms thì trách nhiệm trên chuyển ngay tại cảng xếp hàng, đối với cả điều kiện CFR/CIF lẫn FOB. (CIF và CFR chuyển trách nhiệm cho nhà vận tải hay nhà bảo hiểm khi xảy ra rủi ro)! |
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại tỉnh Hòa Bình (từ năm 1979 đến năm 1991 là tỉnh Hà Sơn Bình), trên dòng sông Đà thuộc Bắc Bộ. Đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á từ năm 1994 đến 2012 (Bị phá vỡ kỉ lục vào năm 2012 bởi Nhà máy thủy điện Sơn La). Nhà máy thủy điện Hòa Bình do Liên Xô (sau năm 1991 đến 1994 là Liên bang Nga) viện trợ kinh phí, hỗ trợ công tác xây dựng và hướng dẫn vận hành.
Công trình khởi công 6/11/1979, khánh thành 20/12/1994.
Bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà do nhà thơ Quang Huy sáng tác nói về tình cảm xúc động trước sự giúp đỡ của Liên Xô với Việt Nam trong công cuộc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình.
Quá trình xây dựng
Ngày 6 tháng 11 năm 1979: Giải phóng mặt bằng bên sông
Ngày 12 tháng 1 năm 1983: Ngăn sông Đà đợt 1
Ngày 09 tháng 1 năm 1986: Ngăn sông Đà đợt 2
Ngày 30 tháng 12 năm 1988: Tổ máy số 1 hòa lưới điện quốc gia.
Ngày 04 tháng 4 năm 1994: Tổ máy số 8 hòa lưới điện quốc gia.
Ngày 20 tháng 12 năm 1994: Sau 15 năm xây dựng công trình, trong đó có 9 năm vừa quản lý vận hành vừa giám sát thi công các tổ máy, nhà máy thủy điện Hoà Bình đã được khánh thành.
Ngày 19 tháng 10 năm 2007: Ông Đào Văn Hưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị EVN đã ký Quyết định số 845/QĐ-EVN-HĐQT về việc phê duyệt Quyết toán vốn đầu tư công trình Nhà máy Thủy điện Hoà Bình với giá trị là: 1,904,783,458,926 VND.
Thông số kĩ thuật chính
Thủy điện Hòa Bình có thiết kế mực nước dâng bình thường cao 117 m;
Mực nước gia cường: 120 m;
Mực nước chết: 80m;
Các thông số trên đo độ cao so với mực nước biển;
Diện tích hồ chứa: 208 km²;
Dung tích toàn bộ hồ chứa: 9,45 tỉ mét khối nước;
Công suất lắp máy: 1.920 MW, gồm 8 tổ máy;
Điện lượng bình quân hằng năm: 8,6 tỉ KWh
Cao độ phát điện cột nước là 70m theo chiều thẳng đứng.
Đập thủy điện Hòa Bình có 12 cửa xả và 8 tổ máy phát điện;
Mỗi tổ máy có công suất 240 MW;
Vốn đầu tư: 1.904.783.458.926 đồng (150 triệu Đô la Mỹ) - Tỉ giá năm 1994.
Công dụng
Công trình phòng chống lũ lụt của tỉnh và vùng Đồng bằng sông Hồng
Sông Đà là một trong ba phụ lưu chính của hệ thống sông Hồng chiếm 55% lượng nước. Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội.
Phát điện
Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng Đường dây 500 kV Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền Nam và miền Trung Việt Nam. Nhà máy cung cấp khoảng 27% (Thời điểm trước năm 2010) nguồn điện của cả nước.
Cung cấp nước tưới tiêu
Đập thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô. Điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông.
Phục vụ giao thông - vận tải
Cải thiện việc đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004, công trình tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường này.
Tặng thưởng
Danh hiệu Anh hùng thời kỳ đổi mới (tháng 6 năm 1998)
Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba.
24 Huân chương Lao động hạng Nhì, Ba cho các đơn vị trực thuộc và cá nhân
5 cờ luân lưu của Chính phủ
2 cờ luân lưu của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
2 cúp kim cương - chứng nhận chất lượng quốc tế.
Nhiều cờ, bằng khen của các Bộ, các cấp, các ngành và tỉnh Hòa Bình.
Tổn thất
Trong quá trình xây dựng thủy điện Hòa Bình, 168 người đã hi sinh (do tai nạn lao động hoặc bệnh tật), trong đó có 11 chuyên gia Liên Xô. Đài tưởng niệm những người này được xây dựng cách nhà máy thủy điện về phía hạ lưu sông Đà khoảng 300 mét.
Thư gửi thế hệ năm 2100
Tại sân truyền thống nhà máy Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình chóp cụt, trên đó có tấm biển thép khắc dòng chữ: "Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư được mở vào ngày ngày 1 tháng 1 năm 2100". "Kho lưu trữ" lá thư thực chất chỉ là một khối bê tông hình chóp cụt tứ giác đều (4 mặt bên hình thang cân) có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8 mét, cạnh trên 0,8 mét, nặng gần 10 tấn. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười đồng ý, lãnh đạo Tổng Công ty Xây dựng nhà máy Thủy điện Hòa Bình mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam chưa có tục lệ này, cho nên không nên "chôn" vào lòng đập mà nên đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo tổng công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông. Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể. Sau khi lá thư được hoàn chỉnh về nội dung, một cán bộ viết chữ đẹp được giao nhiệm vụ chép hai bản đó với tiếng Việt và tiếng Nga bằng mực Tàu.
Thơ ca và nghệ thuật
Nhà thơ Quang Huy đã sáng tác bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà vào tháng 11 năm 1979, khi nhà máy mới được khởi công. Bài thơ lấy hình ảnh một cô gái Nga đang chơi một bản nhạc bằng chiếc đàn balalaika bên sông Đà để nói lên tình hữu nghị Việt-Xô và sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô trong việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình. Bài thơ đạt giải nhất trong cuộc thi thơ năm 1983 của Hội hữu nghị Việt Nam-Liên Xô
Có 14 nhạc sĩ đã phổ nhạc cho bài thơ này, trong đó phiên bản của nhạc sĩ An Thuyên đạt giải nhất của Hội Âm nhạc năm 1984.
Một đoạn trích của bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà đã được đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 của Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.
(...)
Trên sông Đà
Một đêm trăng chơi vơi
Tôi đã nghe tiếng Balalaika
Một cô gái Nga mái tóc màu hạt dẻ
Ngón tay đan trên những sợi dây đồng.
Lúc ấy
Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông
Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ
Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ
Chỉ còn tiếng đàn ngân nga
Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà.
Ngày mai
Chiếc đập lớn nối liền hai khối núi
Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên
Sông Đà chia ánh sáng đi muôn ngả
Từ công trình thủy điện lớn đầu tiên
(...)
Nguy cơ
Các chuyên gia đã tính toán và đưa ra cảnh báo: "Nếu vỡ đập thủy điện Hòa Bình thì toàn bộ 6 tỉnh đồng bằng sông Hồng sẽ bị cuốn trôi ra biển chỉ trong một ngày và Hà Nội sẽ ngập dưới 30 mét nước tính từ chỗ cao nhất của nhà ga Hà Nội." Do đó, cần phải chuẩn bị sẵn kịch bản đối phó nếu lũ quá lớn nếu đập thủy điện không chống chọi được
Tháng 10 năm 2017, sau 21 năm, thủy điện Hòa Bình - dung tích 9,74 tỉ m3 - đã phải xả 8/12 cửa xả đáy sau nhiều đợt mưa lớn kéo dài làm nước dâng cao hơn giới hạn cho phép gần 5 mét và đạt mức 117m so với mức tối đa cho phép là 120m.
Ảnh |
CIF là một từ viết tắt trong tiếng Anh và nó có thể là:
Giá thành, bảo hiểm và cước (Cost, Insurance and Freight) trong thương mại quốc tế.
Common Intermediate Format: một tiêu chuẩn cho kích thước video và hình ảnh trong máy tính chứa 352 x 288 điểm ảnh (pixel).
Cells In Frame trong công nghệ mạng.
California Interscholastic Federation: cơ quan quản lý các bộ môn thể thao tại cấp trung học ở California
Caltech Intermediate Form: Định dạng đuôi tập tin, ngôn ngữ hình học cho VLSI design, trong đó các thành phần cơ bản là các hình chữ nhật màu (tương tự như GDSII). |
Bất đẳng thức Harnack là một bất đẳng thức bắt nguồn từ giải tích.
Cho là một quả cầu mở và f là một hàm điều hòa trên D sao cho f(z) không âm với mọi . Khi đó bất đẳng thức sau đúng với mọi :
Đối với miền tổng quát bất đẳng thức được phát biểu như sau: Nếu là hàm khả vi hai lần, điều hòa và không âm, là một miền bị chặn với , thì sẽ có một hằng số không phụ thuộc vào sao cho . |
Mil Mi-8 (tên hiệu NATO "Hip") là một máy bay trực thăng lớn hai động cơ. Mẫu một động cơ đầu tiên (AI-24W), W-8, cất cánh ngày 9 tháng 7, 1961. Chiếc thứ hai với hai động cơ AI-24W cất cánh lần đầu ngày 17 tháng 9 năm 1962. Sau khi được sửa đổi một số chi tiết, nó được đưa vào phục vụ trong Không quân Xô viết năm 1967 với cái tên Mi-8. Có rất nhiều biến thể, gồm Mi-8T ngoài khả năng vận chuyển 24 binh sĩ còn được trang bị các tên lửa điều khiển chống tăng. Kiểu Mil Mi-14 dùng cho hải quân, và kiểu Mil Mi-24 tấn công cũng là biến thể từ loại Mi-8.
Mi-8 được sử dụng ở hơn 50 quốc gia, gồm Ấn Độ, Trung Quốc và Iran; biến thể mới nhất Mi-8MT/Mi-17 được trang bị nặng hơn và giới thiệu năm 1981. Mi-17 ít được biết đến hơn, hoạt động ở khoảng 20 nước.
Hơn 12.000 chiếc máy bay trực thăng đa chức năng Mi-8 (tên hiệu do NATO đặt: Hip) đã được sản xuất với hơn 2.800 chiếc được xuất khẩu và chúng hiện phục vụ trong lực lượng không quân hơn 50 nước.
Các máy bay trực thăng được chế tạo bởi công ty sản xuất máy bay trực thăng Mil Moscow Helicopter JSC ở Moskve, công ty Kazan JSC ở Kazan và công ty hàng không Ulan-Ude. Chúng gồm các phiên bản dùng trong dân sự và quân sự. Các phiên bản quân sự gồm Mi-8T vận tải, chuyên chở VIP, chiến tranh điện tử, trinh sát, phiên bản Mi-8TV có trang bị vũ khí và phiên bản tìm kiếm và cứu hộ Mi-8MPS.
Các đơn đặt hàng gần đây gồm: 40 chiếc trực thăng Mi-8TV cho Ấn Độ được trang bị tên lửa không đối đất Vikhr-M (AT-16), được chuyển giao vào cuối năm 2001, một số Mi-17 cho Iran, 10 cho Malaysia, 20 cho Colombia, sáu cho Ấn Độ, 12 cho Pakistan và 13 cho Venezuela. Tháng 2 năm 2005, Không quân Iraq đặt hàng mười chiếc Mi-17V-5 từ công ty Bumar Ba Lan. Đến tháng 12, quân đội Séc nhận 16 chiếc Mi-17SH như một phần trong sự giải quyết nợ của Nga.
Tháng 7 năm 2002, Kazan đã ký một thoả thuận thị trường quốc tế với BAE Systems của Anh Quốc và Kelowna Flightcraft của Canada về một phiên bản cải tiến, máy bay lên thẳng vận tải và các mục đích khác Mi-172. Chiếc The Mi-172 có một hệ thống nhiệm vụ mới từ BAE Systems Avionics, kính buồng lái mới với hệ thống công cụ bay điện tử mới từ Honeywell và tháp đa cảm biến ổn định Titan 385 của BAE Systems.
Trực thăng đa chức năng M-17 HIP
Phiên bản cải tiến của Mi-8 là máy bay trực thăng đa chức năng Mi-17 cũng được gọi là Mi-8TMB. Nó được thiết kế đặc biệt để cải tiến các tính năng ở độ cao lớn và trong các điều kiện thời tiết nóng.
Mi-17 có thể được phân biệt so với Mi-8 nhờ các bộ lọc không khí được lắp thêm ở các cửa hút gió turbine, cũng như cánh quạt đuôi ở bên trái, vì động cơ trục turbo TB-3-117A mạnh hơn được trang bị cho nó đòi hỏi.
Trực thăng vận tải MI-8T
Chiếc trực thăng vận tải quân sự Mi-8T có một pod and boom quy ước và một rotor đuôi và cơ cấu hạ cánh ba bánh không co lại được. Cánh quạt năm cánh được làm từ hợp kim nhôm. Buồng lái ba người - chỉ huy, hoa tiêu và thợ máy. Các hệ thống làm ấm cho buồng lái và cabin chính còn điều hoà không khí thì tuỳ chọn. Các phiên bản cứu hộ và cấp cứu có một hệ thống oxy cho tổ lái và người bị nạn.
Mi-8 có các đặc điểm tồn tại tuyệt vời gồm bình chứa nhiên liệu có nạp bọt chống nổ, buồng lái bọc thép, hệ thống chữa cháy và các mạch điều khiển chính dự trữ, hệ thống năng lượng và nước.
Trực thăng chở hàng MI-8
Thiết bị đỗ và vận chuyển của máy bay trực thăng có thể được dùng để treo những vũ khí chiến tranh nhẹ và đạn dược nhờ vào các tời và cứu hộ người dưới mặt đất hay trên biển bằng một tời kéo hoạt động điện (khả năng 200 kg).
Cabin có các điểm cài trên sàn. Các thang lên máy bay có thể dùng cho xe lên. Cabin có thể chứa 12 litters (stretchers). Dây đeo hàng bên ngoài có thể mang 3.000 kg.
Các động cơ trục Turbo Klimov TV-2117
Máy bay trực thăng Mi-8T có hai động cơ trục Turbo Klimov TV2-117. Bộ làm lệch được lắp trên các cửa hút gió của động cơ nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của bụi khi cất cánh từ những khoảng đất không được chuẩn bị trước. Máy bay cũng có bộ phận phát năng lượng dự bị (Auxiliary Power Unit - APU) cho những nhiệm vụ độc lập.
Máy bay chứa 1.870 lít nhiên liệu trong hai bình chứa đàn hồi bên trong và hai bình bên ngoài. Tổng dung tích nhiên liệu có thể lên đến 3.700 lít bằng cách lắp thêm hai bình chứa bằng sắt trong cabin.
Trực thăng vũ trang MI-8TV
Mi-8TV vũ trang là một phiên bản của Hip. Nó được trang bị súng máy gắn sẵn bên trong và sáu giá vũ khi với các rocket S-5 bên ngoài. Máy bay cũng có thể mang tên lửa chống tăng AT-2 Swatter 9M 17P Skorpion. Để điều khiển vũ khí, nó dùng ống ngắm vũ khí chuẩn PKV. Mi-8 cũng có khả năng rải mìn.
Các máy bay Mi-8TV vũ trang được trang bị động cơ TV3-117VMA mạnh hơn cải thiện trần bay (3.950m so với 1.760m của Mi-8MT). Khả năng treo hàng tối đa của phiên bản vũ trang tăng lên đến 4.000 kg.
Trực thăng tìm kiếm và cứu hộ MI-8MPS
Chiếc Mi-8MPS tìm kiếm và cứu hộ được phát triển từ máy bay trực thăng vận tải quân sự. Trong các nhiệm vụ tìm kiếm, tổ lái thả các đèn hiệu radio để đánh dấu vùng tai hoạ và chuyển đội cứu hộ tới giúp đỡ và cứu người bị nạn. Máy bay có thể nhấc mười người một lúc bằng dây treo qua bè cứu hộ PSN-10 và cũng có thiết bị hạ cánh khẩn cấp đảm bảo khả năng nổi tới 30 phút khi bắt buộc phải hạ khẩn cấp xuống biển.
Những sửa đổi đặc biệt của Mi-8MPS cho các nhiệm vụ tìm kiếm và cứu nạn ở thân gồm hai cửa mạn, một bè chứa, một cửa vào lớn và các bình nhiên liệu phụ. Các trang thiết bị lắp thêm gồm hệ thống radar YuR-40.1, thiết bị tầm nhiệt TAPAS, hệ thống lái/định vị PNKV-8PS và thiết bị cứu nạn, một cần trục bên trong với tời LPG-300 và cán dài.
Trực thăng tìm kiếm tàu vũ trụ MI-8MPS
Trực thăng tìm kiếm tàu vũ trụ Mi-8MPS chuyển chở các nhóm kỹ thuật và nhóm thao tác với thiết bị cứu hộ tới vùng hạ cánh. Các thiết bị và phương pháp tìm kiếm bằng thị giác được sử dụng để định vị tàu vũ trụ quay trở lại Trái Đất và đang hạ cánh bằng dù xuống vùng hạ cánh. Máy bay được sử dụng để cứu hộ các nhà du hành và đưa họ trở về căn cứ. Các vật thể vũ trụ nặng tới 3.000 kg được vận chuyển bằng dây treo tới sân bay gần nhất.
Tai nạn
Ngày 4 tháng 12/2003 một máy bay trực thăng Mi-8 của Ba Lan bị rơi gần Piaseczno.
Ngày 19 tháng 7/2009 một máy bay trực thăng Mi- 8 bị rơi tại sân bay Kandahar khi cất cánh làm chết 16 người và bị thương 5 người khác. Các máy bay trực thăng thuộc sở hữu của Vertikal -T, một công ty vận tải hàng không Nga.
Ngày 21 tháng 12/2012, một Mi-8 làm việc cho Phái đoàn Liên Hợp Quốc tại Nam Sudan (UNMISS) bị bắn rơi gần Likuangole ở Nam Sudan trong cuộc xung đột nội bộ tại miền Nam Sudan. Tất cả bốn người trên máy bay đều chết.
Ngày 9 Tháng 3/2013, một Mi-8 thuộc sở hữu của hãng UTair Aviation làm việc cho Liên Hợp Quốc bị rơi do thời tiết, làm chết toàn bộ phi hành đoàn gồm bốn người Nga.
Sáng 27/5/2013 đã xảy một vụ tai nạn trực thăng Mi-8 khiến 4 người thiệt mạng và 2 người khác bị thương tại khu tự trị Chukotk.
Ngày 2 tháng 7/2013, ít nhất 15 người thiệt mạng khi trực thăng Mi-8 của Hãng Polyarnye Avialinii đang thực hiện chuyến bay chở khách như thường lệ thì bị mất liên lạc với đài kiểm soát không lưu.
Ngày 31 tháng 5/2014 Trực thăng Mi-8 đã đâm xuống một hồ nước vùng Murmansk ở tây bắc Nga khiến 16 người mất tích, trực thăng chở các quan chức và doanh nhân. Máy bay trực thăng trên thuộc công ty Apatit, chuyên sản xuất phân bón. Người phát ngôn của Apatit nói rằng giám đốc công ty Alexei Grigoryev và phó giám đốc Konstantin Nikitin được cho là đáp chuyến bay này. Quan chức hàng đầu trong khu vực bao gồm cả Phó thống đốc Murmansk được cho là cũng đã lên chiếc trực thăng này.
Lúc 7h45 sáng 7/7, chiếc trực thăng Mi-171 rơi ở khu vực Hòa Lạc cách trung tâm Hà Nội khoảng 40 km về phía tây khi đang huấn luyện bay làm 18 chiến sĩ hi sinh, 5 người bị thương. Máy bay bị nạn mang số hiệu 01 thuộc Trung đoàn 916, Sư đoàn Không quân 371, Quân chủng Phòng không-Không quân (Việt Nam). Đây là một trong những vụ tai nạn máy bay quân sự nghiêm trọng nhất trong nhiều năm trở lại đây. Cất cánh lúc 7h30 để huấn luyện nhảy dù, đến 7h45 máy bay mất liên lạc và rơi cách sân bay Hòa Lạc khoảng 3 km. Loại trừ yếu tố "phá hoại từ bên ngoài", Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội, cho biết nguyên nhân do lỗi kỹ thuật. Theo Cục Cứu hộ cứu nạn thuộc Bộ Quốc phòng, chiếc trực thăng bị cháy động cơ trước khi rơi.
Khoảng 9h30 sáng ngày 26/3/2015, chiếc MI-8 7850 thuộc đoàn bay 937 chuyên làm nhiệm vụ cứu hộ cứu nạn chở tám chiến sĩ (gồm 4 thành viên phi hành đoàn và 4 người trong tổ tìm kiếm cứu nạn) đã bị rơi tại khu vực đường băng thuộc đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận ở độ cao khoảng 5-10m. Ba người bị thương nhẹ, đã được điều trị ổn định trong ngày.
Các biến thể
Mẫu thử/biến thể sản xuất số lượng nhỏ
V-8 (NATO – Hip-A)
Mẫu một động cơ nguyên bản.
V-8A
V-8AT
Phiên bản vận tải dân dụng với động cơ cải tiến.
Mi-8 (NATO – Hip-B)
Mẫu hai động cơ.
Mi-8TG
Mi-18
Biến thể vận tải quân sự cơ bản
Mi-8T (NATO – Hip-C)
Mi-8TV
Mi-8TVK (NATO – Hip-E, Mi-8TB)
Mi-8TBK (NATO – Hip-F)
Biến thể chỉ huy và tác chiến điện tử
Mi-8IV (NATO – Hip-G, Mi-9)
Mi-8PP (NATO – Hip-K)
Mi-8PD
Mi-8SMV (NATO – Hip-J)
Mi-8VPK (NATO – Hip-D, a.k.a. Mi-8VzPU)
Biến thể quân sự khác
Mi-8AD
Mi-8AV
Mi-8BT
Mi-8MB "Bissektrisa"
Mi-8R (a.k.a. Mi-8GR)
Phiên bản trinh sát chiến thuật với hệ thống Elint "Grebeshok-5".
Mi-8K
Mi-8TP
Mi-8SKA
Mi-8T(K)
Mi-8TZ
Mi-8MTYu
Biến thể dân sự
Mi-8T (NATO – Hip-C)
Mi-8P
Mi-8S "Salon"
Mi-8MPS
Mi-8MA
Mi-8MT
Mi-8AT
Mi-8ATS
Mi-8TL
Mi-8TM
Mi-8TS
Mi-8VIP
Mi-8PA
Quốc gia sử dụng
Tính năng kỹ chiến thuật (Mi-8T) |
Truyện kể Genji , là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu sống dưới trướng của thứ phi Akiko trong cung Fujitsubo, triều đại Thiên hoàng Nhất Điều (986-1011), không rõ tên thật của bà là gì. Truyện được sáng tác vào khoảng những năm 1010 thời đại Heian bằng chữ viết kana, theo thể loại monogatari (truyện) cổ điển đã có lịch sử phát triển từ 200 năm trước đó của Nhật Bản. Xoay quanh hình tượng nhân vật hoàng tử Genji trong phần chính và Kaoru, người con trai trên danh nghĩa của Genji trong phần thập thiếp cùng mối quan hệ của họ với những người phụ nữ, tác phẩm gồm 54 chương, thuộc một trong những truyện rất lớn về dung lượng, rất phức tạp về nội dung và rất quyến rũ về mặt hình thức trong lịch sử văn học thế giới. Trở thành một hiện tượng có một không hai đối với văn học nhân loại vào thời kỳ trung cổ tiền Phục Hưng: về mặt lịch sử truyện được đánh giá là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, sớm hơn rất nhiều so với sự ra đời của tiểu thuyết ở châu Âu với tác phẩm Đôn Kihôtê của Miguel de Cervantes vào thế kỷ 16.
Thông tin chung
Thời đại
Thời Trung cổ Nhật Bản kéo dài chừng 4 thế kỷ từ khi vương triều Nhật Bản thiên đô về Heian kyo (Bình An kinh) vào năm 794, cho đến khi Mạc phủ Kamakura được thiết lập năm 1183 (chính thức vào năm 1192). Đóng vai trò chủ yếu trong nền văn học trung cổ thời Heian là quý tộc triều đình Heian quây quần chung quanh dòng họ Fujiwara (Đằng Nguyên) nắm quyền bính thời bấy giờ.
Cuối thời Nara (710-794), chính trị lâm vào chỗ bế tắc. Thiên hoàng cho thiên đô từ Nara về Heian (nay là Kyoto) nhằm xây dựng lại một trật tự chính trị và pháp độ mới, trước hết là mô phỏng Trung Quốc từ kiến trúc đô thành đến việc tiếp thu nghi thức của nhà Đường. Thơ văn chữ Hán trở thành văn học cửa công, đồng nghĩa với sinh hoạt cung đình. Tuy nhiên, từ hậu bán thế kỷ 9, khi trào lưu sáng tác bằng ngôn ngữ và các thể loại chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa đã lắng xuống, giới quý tộc chú ý hơn đến văn học dân tộc. Một yếu tố quyết định sự phát triển của văn chương Nhật Bản đương thời là sự phát triển của chữ viết. Chữ manyogana được tạo ra từ chữ Hán trước đó đã phát triển thành hiragana và katakana, trở thành phương tiện tốt nhất cho sự biểu cảm văn tự đối với tầng lớp nữ lưu cung đình, những người vốn không mấy mặn mà với các thể loại cũng như ngôn ngữ văn chương Trung Quốc. Thời đại Heian chứng kiến sự thành công vang dội của các nhà văn, nhà thơ nữ, phần lớn trong họ thuộc tầng lớp thượng lưu và trung lưu cung đình. Sáng tác của họ thường là những ghi chép lại cuộc sống, kinh nghiệm của mình và nhất là những trải nghiệm trong chốn phồn hoa nơi đô hội. Dưới ngòi bút của nữ giới, sự nở rộ của các thể loại văn học quan trọng như nhật ký (nikki), tùy bút (zuihitsu) và tiểu thuyết (monogatari), tạo ra một nền văn học Heian trữ tình ngọt ngào nữ tính.
Tác giả và tác phẩm
Vào triều đại Thiên hoàng Nhất Điều (986-1011) cuối thời Heian, tiểu thuyết và tùy bút đạt đỉnh cao. Nếu dưới trướng của hoàng hậu Fujiwara no Teishi (976-1000) đương thời có Sei Shonagon với Sách gối đầu được coi là tùy bút đầu tiên của Nhật Bản, thì dưới trướng của thứ phi Akiko có Murasaki Shikibu với Truyện kể Genji như một ngôi sao băng sáng chói trên bầu trời văn học Nhật Bản, là tiểu thuyết tả thực, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết trữ tình theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại ra đời trước Đôn Kihôtê của Tây Ban Nha 6 thế kỷ và Hồng Lâu Mộng của Trung Quốc tới 8 thế kỷ.
Mặc dù Truyện kể Genji bản cổ ra đời khoảng năm 1008-1010 đã mất và bản còn biết ngày nay có niên đại thuộc thời Kamakura (200 năm sau khi tác phẩm ra đời), những nghiên cứu mới nhất từ giới học giả Nhật Bản vẫn cho thấy Truyện kể Genji là công trình của một người duy nhất, Murasaki Shikibu, với sự thêm thắt ở hai thế kỷ tiếp theo, tuy chúng không đủ tầm cỡ để làm thay đổi bản gốc. Ít ra cũng có chương 44, "Dòng sông trúc", được nhiều người cho là của một người khác viết, và hai chương ngắn ngủi trước đó cũng đáng ngờ. Đi xa hơn trong phán đoán, một số học giả còn cho rằng phần "Uji thập thiếp", 10 chương cuối Truyện kể Genji, rất có thể do một người khác viết và gán quyền tác giả cho con gái bà, Daini no Sammi, tuy rằng nhiều học giả khác chống lại sự gán ghép đó với quan điểm rằng khó mà hình dung nổi có một tài năng thứ hai không được chuẩn bị đầy đủ mà lại kế tục một cách xuất sắc như thế những gì mà Murasaki Shikibu đã triển khai. Bằng chứng khi nhìn lịch sử văn học Nhật Bản hậu Murasaki Shikibu, nhiều thế kỷ về sau những truyện tình lãng mạn khác, như Truyện kể Sagoromo (Sagoromo monogatari), Tẩm giác nửa đêm (Yowa no nezame), Truyện Hamamatsu Chūnagon (Hamamatsu Chūnagon monogatari), Truyện kể Torikaebaya (Torikaebaya monogatari), so với Genji monogatari vẫn còn khá nghèo nàn.
Tiếp nhận điển cố Trung Hoa
Tuy Truyện kể Genji được coi là một tác phẩm văn chương với đề tài và ngôn ngữ thuần Nhật nảy nở trong môi trường thời đại đang không ngừng hướng về những giá trị văn hóa truyền thống, Nghiêm Thiệu Sương, trong khi nghiên cứu thư tịch chữ Hán ở Nhật Bản, đã thống kê được trong 152 tình tiết phát triển của cốt truyện, Murasaki Shikibu vẫn dẫn dụng tới 131 đoạn văn thư tịch Trung Quốc. Điều đó chứng tỏ rằng đương thời, Hán tịch vẫn phổ biến rộng rãi tại Nhật Bản và hơn nữa, còn xâm nhập vào quan niệm văn hóa của các trí thức Nhật Bản, trở thành điểm tựa không thể thiếu trong tư duy của họ.
Nhân vật chính
Hoàng hậu Akashi: cũng được gọi là "cô gái Akashi" (Akashi-hina) hay "quận chúa Akashi", là con gái của Genji với nàng Akashi. Vợ vua đương quyền vào cuối tác phẩm.
Phu nhân Akashi: mẹ của hoàng hậu Akashi, ở dinh Đông Bắc tại Rokujo.
Akikonomu: con gái của hoàng tử kế vị quá cố với nàng Rokujo, vợ của vua Reisen, chị em họ với Genji và Asagao.
Aoi: con quan tể tướng, vợ đầu của Genji hơn Genji 4 tuổi, là vợ sau của To no Chujo và là mẹ của Yugini.
Asagao hay Hoa Bìm Bìm: chị em họ với Genji, con gái người anh em của cha Genji.
Bonnokimi: là người hầu của Kashiwagi và về sau hầu hạ các quận chúa Uji.
Công chúa Hai: có hai người cùng mang biệt hiệu này: 1. con gái của vua Suzaku và vợ của Kashiwaki; 2. con gái của vua đương quyền ở cuối truyện và là vợ của Kaoru.
Công chúa Ba hay "công chúa San-no-miya" (Onnasan): con gái của vua Suzaku, vợ của Genji và là mẹ của Kaoru.
Fujitsubo: con gái của hoàng đế cũ, vợ của cha Genji và là mẹ của vua Reidei.
Genji, còn gọi là Hikaru Genji (Quang Nguyên Thị hay Genji sáng chói), hoàng tử.
Higekuro: con một quan Hữu thừa tướng, chồng người chị Murasaki và Tamakatsura, và là cậu của vua đương quyền ở cuối truyện.
Hataru: anh em với Genji, chồng của Makibashira.
Hoàng tử thứ Tám hay "hoàng thân Hachi": anh Genji và là cha của các quận chúa Uji, Oigimi, Nakanokimi, Ukifune.
Hoàng tử Niou: con vua đương quyền với hoàng hậu Akashi.
Hyobu: hoàng thân, anh em với Fujitsubo và cha của Murasaki.
Kaoru: được coi là con của Genji, nhưng thực ra là con của Kashiwaki và San-no-miya.
Kashiwaki: con của To no Chujo và là cha của Kaoru, lấy Công chúa Hai con gái của vua Suzaku.
Kobai: em của Kashiwaki.
Kojiju: nữ tì hầu hạ Công chúa Ba.
Kokiden hay "Thái hậu Kokiden": con quan Hữu thừa tướng, vợ của vua cha Genji, là chị của Oborodukiyo và là mẹ của vua Suzaku.
Koremitsu: bộ hạ thân tín của Genji.
Kumoinokari: con gái To no Chujo, vợ của Yugiri.
Makibashira: coi gái Higekuro, vợ của Hotaru và Kobai.
Murasaki: con gái Hoàng thân Hyobu, cháu Fujitsubo, cháu gái một vị vua trước đó.
Nakanokimi: con gái thứ hai của Hoàng tử Tám.
Nàng Lốt Ve hay Utsusumi: vợ một tỉnh trưởng Iyo, là người thiếp của Genji, ở tại dinh Nijo.
Oborodukiyo: em gái Kokiden.
Oigimi: con gái của Hoàng tử Tám.
Omi: con gái bị thất lạc của To no Chujo.
Omiya: quận chúa, là bà cô và mẹ vợ của Genji.
Ono: ni cô, là người bảo trợ của Ukifune.
Phu nhân Hoa Cam hay Hana Chiru Sato: chị người thiếp của cha Genji, được ở dinh Rokujo, khu Đông Bắc.
Phu nhân Hoa Phấn hay "Yugao": một người phụ nữ dòng dõi thấp kém, lúc đầu là người tình của To no Chujo và sau đó quan hệ với Genji, là mẹ của Tamakatsura.
Phu nhân Rokujo: vợ góa của một hoàng tử kế vị quá cố cậu của Genji, là mẹ của Akikonomu.
Phu nhân Hoa Rum hay nàng Suetsumuhana: có dòng dõi hoàng gia nhưng bị thất thế, ở dinh Nujo.
Quan Tả thừa tướng: chồng quận chúa Omiya, cha của Aoi và To no Chujo.
Quan Hữu thừa tướng: cha của Kokiden và Oborodukiyo, ông ngoại vua Suzaku.
Rokumokimi: con gái Yugiri, vợ Nion.
Tamakatsura: con gái To no Chujo với nàng Hoa Phấn.
To no Chujo hay còn gọi là Chujo: em quan Tả thừa tướng và Omiya, là cha của Kashiwaki, Kobai, Kumoinokari, Tamakatsura và nàng Omi, là bạn của Genji.
Ukifune: con gái vợ chính thức của Hoàng tử Tám.
Ukon: người hầu của Ukufune.
Vua, gồm các vị vua và cựu hoàng: 1. vua cha Genji (chương 1); 2. vua Suzaku, anh của Genji nối ngôi cha (đầu chương 9) và thoái vị (chương 14); 3. vua Reisen, về danh nghĩa là em Genji nhưng thực ra là con của chàng với mẹ kế Fujitsubo, nối ngôi (chương 14) và thoái vị (chương 35); 4. một người con vua Suzaku nối ngôi (chương 35) và trị vì cho đến hết câu chuyện.
Yokawa: hòa thượng em của ni cô Ono.
Yugiri: con trai của Genji và Aoi.
Danh sách chương hồi
Cấu trúc tác phẩm
Cấu trúc tác phẩm gồm 2 phần bao quát thời gian kéo dài ba phần tư thế kỷ. Phần chính gồm khoảng 44 chương với 41 chương đầu tiên đề cập đến thân phận và những cuộc phiêu lưu tình ái trong cung đình của hoàng tử Genji tại kinh đô, từ chương đầu tiên với sự ra đời của chàng cho đến chương cuối khi chàng đã 52 tuổi. Ba chương sau đó, những chương đáng ngờ nhất và được coi là những chương chuyển tiếp, viết về những sự kiện xảy ra sau khi Genji đã chết. Mười chương còn lại của tác phẩm là những chương tuyệt tác được gọi bằng tên Uji thập thiếp (Uji jujo), lấy bối cảnh ngoài kinh đô là miền Uji. Các chương này tập trung viết về người con trai trên danh nghĩa của Genji tên là Kaoru và đứa cháu ngoại của Genji là hoàng tử Niou.
Tuy rõ ràng Truyện kể Genji đã bị ngắt làm hai với cái chết của Genji, nhưng trước đó trong tác phẩm cũng có một điểm ngắt quan trọng mà một số học giả về sau, căn cứ vào đó đã phân lập cấu trúc tác phẩm thành ba phần: Ba mươi ba chương đầu tập trung sự kiện trong thế kỷ 10, nói về một nhân vật hoàng tử được lý tưởng hóa, và mặc dù có thất bại nhưng sự nghiệp của chàng chủ yếu là một câu chuyện của sự thành công. Từ chương thứ 34 trở đi cho đến hết chương 41, 8 chương này cho thấy một hình ảnh hoàng tử Genji khác biệt, từ khi đã khoảng 40 tuổi cho đến khi chàng biến mất khỏi sân khấu một cách đột ngột. Sau khi hư cấu lãng mạn đã tạm đủ, Murasaki Shikibu như muốn nói rằng bà đang từ bỏ tuổi trẻ lại phía sau, rằng điều buồn bã nhất là thực tế. Bóng tối từ đây đã bao trùm lên cuộc sống của Genji, khiến cho câu chuyện kém bay bổng hơn nhưng thân mật hơn, và việc xây dựng nhân vật trở nên tinh tế hơn so với đoạn đầu. Sau 3 chương chuyển tiếp đến các chương Uji, cốt truyện đã đi theo hướng phát triển tính chất bi quan, không gian chuyển từ thủ đô tới làng Uji và tính cách cũng như hành động nhân vật trở nên loãng và yếu hơn.
Nội dung tóm tắt
Phần chính
Truyện bắt đầu từ sự sủng ái của hoàng đế với một cung phi xinh đẹp, nàng Kiritsubo, một phụ nữ không xuất thân từ tầng lớp thượng lưu. Kết quả của tình yêu giữa nàng với hoàng đế là đứa con trai được đặt tên Genji.
Cậu bé Genji, được tất cả mọi người yêu thương, kể cả những người trước kia ghen ghét mẹ cậu, bởi cậu rất khôi ngô, thông minh, tài ba và có sức quyến rũ lạ thường. Vì quá yêu con trai, không muốn con sa vào vòng thăng trầm của vận mệnh, vua cha đã quyết định không nhường ngôi cho chàng mà để chàng sống một cuộc sống tự do như những người bình thường.
Khi Genji 12 tuổi, theo lệnh của triều đình, chàng làm lễ trưởng thành và lấy cô gái con tể tướng, tên là Aoi, hơn chàng 4 tuổi làm vợ. Nhưng cũng từ đây cuộc đời của chàng là hành trình không mệt mỏi trong nhu cầu "hầu hạ" những người đàn bà mang lại cho chàng khoái cảm và bỏ rơi vợ. Xúc cảm tình yêu đầu tiên của chàng lại với chính người mẹ kế Fujitsubo, người thiếp của vua cha. Nàng rất trẻ và xinh đẹp nhưng với Genji đó là một người không thể với tới. Sau đó chàng tình cờ làm quen nàng Utsusemi, vợ của một viên quan cấp tỉnh. Nhưng mọi nỗ lực của Genji đều bị tan vỡ trước sự cứng rắn và khéo léo của Utsusemi. Genji đã từng lẻn đến giường Utsusemi nhưng nàng chạy thoát và để con gái mình là Nokia-no-ogi thay thế.
Trong năm này Genji cũng đã trải qua cú sốc đầu tiên trong đời do chuyện tình ái. Chàng yêu Yuugao, người tình của người bạn tên là Chujo, và tận hưởng mối tình tại một căn nhà nhỏ nghèo nàn bên rìa thành phố. Tại đây, Rokujo, một cung phi 27 tuổi bị chàng bỏ rơi đã thể hiện lòng ghen tuông dữ dội, dẫn tới cái chết của nàng Yuugao. Genji cũng suy sụp tinh thần nặng nề. Trong cố gắng thoát khỏi bùa mê của Rokujo, chàng gặp một pháp sư nổi tiếng trên đất Trung Quốc và tại đây chàng tìm thấy một người con gái sau này đã trở thành tình yêu lâu bền và sâu sắc nhất cuộc đời chàng: cô bé Murasaki, tuy mới 10 tuổi, nhưng có một nhan sắc tuyệt mĩ và giống Fujitsubo như đúc, làm sống dậy trong lòng chàng mối tình vụng trộm đầu tiên với Fujitsubo. Khi trở về thủ đô cùng Murasaki, chàng đã quay lại với Fujitsubo khi biết nàng không còn ở bên quốc vương, cha của chàng nữa. Mối tình vụng trộm để lại hậu quả: Fujitsubo sinh một đứa con giống hệt Genji. Sau này đứa con trai đó lên ngôi với cái tên Reisen.
Suốt những năm sau, Genji tiếp tục quan hệ với nhiều phụ nữ khác nhau; họ đều được hưởng thiện cảm lớn lao và ít nhiều bền lâu của chàng. Đó là Sue-tsumu-hona, cô gái hay ngượng ngùng và khiêm nhường, có chút nhược điểm về ngoại hình; Genji-no-naishi, người đàn bà quý phái đã cao tuổi có cặp lông mày trắng thôi miên người khác phái; Hanna-chiru-haso, một phụ nữ trầm tính, thiếu say đắm nhưng lại dễ chịu như một người bạn gái.
Khi Genji ngoài 20 tuổi, vua cha thoái vị nhường ngôi cho người con cả và Genji trở thành thái tử. Tại buổi lễ tấn phong công chúa San-no-miya làm tư tế một ngôi đền Thần đạo, tác giả mô tả cho chúng ta thấy sự xung đột giữa hai địch thủ: người vợ được luật pháp thừa nhận của Genji là nàng Aoi tuyệt sắc với người tình cũ Rokujo. Kết quả của cuộc đánh ghen ấy là sự đày đọa của dòng họ khiến Aoi phải đi đến cái chết, để lại đứa con trai của nàng với Genji tên là Yugiki. Genji cuối cùng đã đoán ra rằng Rokujo si tình là nguyên nhân cái chết bi thảm của cả Yugao và Aoi nên ra mặt lạnh nhạt. Rokujo cũng đoạn tuyệt với Genji để trở về tỉnh Ise, đồng thời gửi gắm con gái Akiyoshi cho Genji chăm sóc. Akiyoshi sau này đã trở thành nữ hoàng đệ nhị. Một thời gian ngắn sau khi Aoi chết, Genji đã chia sẻ tình cảm với Murasaki, vào lúc chàng 22 tuổi và Murasaki mới 15 tuổi. Tuy nhiên, dù rất yêu Murasaki, Genji cũng không thể lấy nàng vì nàng không thuộc tầng lớp đại quý tộc. Murasaki trở thành người vợ không chính thức, nhưng có ảnh hưởng sâu sắc đến chàng trong suốt những năm tháng về sau.
Vua cha từ trần, Genji lâm vào hoàn cảnh khó khăn do triều đình rơi vào tay dòng họ thù địch của mẹ tân quốc vương, thái hậu Kokiden. Trong những năm tháng ấy Genji bất ngờ làm quen với nàng Oborotsuki của dòng họ này, nhưng do những người thân của nàng luôn muốn nàng được đương kim quốc vương sủng ái nên đã đày Genji ra Tsuma. Genji bị lưu đày ở đây từ năm 26 đến năm 27 tuổi và cũng trong thời gian này, Akashi, con gái một vị tu sĩ, trở thành người tình của chàng.
Trong thời gian lưu đày, tại hoàng cung nhiều biến cố nghiêm trọng xảy ra dẫn tới cái chết của người đứng đầu dòng họ thù địch và mọi người giải thích do bắt Genji đi đày nên các thần linh trừng phạt. Genji lại được hồi cung trong trang trọng và danh dự. Hoàng đế Tsuraku thoái vị nhường ngôi cho Reisen, người được cho là con trai của Genji. Từ đây Genji bắt đầu có vị trí và quyền lực quan trọng trong giới quý tộc. Cũng trong những năm này, Akashi sinh con gái đặt tên là Akashi-hina, sau đó nàng trao con cho Genji nuôi dưỡng rồi bỏ vào núi.
Genji xây cho mình một cung điện mới tráng lệ ở kinh đô, đặt tên là Rokujo-in và đưa tất cả những người phụ nữ thân thiết của chàng đến vui vầy. Trong những năm này có lúc chàng còn ngẫu nhiên gặp lại tình yêu thời trẻ, nàng Utsusemi, trong một chuyến du ngoạn và họ trao cho nhau những bài thơ tashi. Nàng Utsusemi sau đó cắt tóc đi tu và rời khỏi thế giới trần tục.
Tại cung điện Rokujo-in, ngày nối ngày luân phiên như những ngày hội huy hoàng và vinh quang của Genji đã đạt tột đỉnh. Nhưng số phận bắt đầu rình rập chàng, những năm tháng cuối đời của chàng trôi qua trong sầu muộn, hạnh phúc lung lay, những tai họa ập đến nối tiếp nhau với ba biến cố chính: sự kiện thứ nhất là những câu chuyện xúc động quanh cô gái Tamakatsura, đó là đứa con của người tình cũ Yugao (đã chết trong vòng tay Genji vì sự ghen tuông của Rokujo) với bạn Genji là chàng Chujo. Tamakatsura là một cô gái cực kỳ sâu sắc và quyến rũ khiến Genji rất có cảm tình, và Genji đã vô cùng sầu não khi quanh Tamakatsura luôn rập rình những chàng trai kiệt xuất. Sự kiện thứ hai gây chấn động mạnh đến Genji đó là việc khám phá bí mật: vị hoàng đế Reisen chính là con trai ruột của chàng. Reisen sau khi biết chuyện đã phong cho Genji chức vụ cao nhất của quốc gia và lệnh cho tất cả phải tỏ lòng tôn kính với Genji như cha của hoàng đế. Điều này khiến mặc cảm phản bội vua cha hồi trẻ khi ngoại tình với người thiếp Fujitsubo của cha trở thành nỗi ám ảnh Genji khi về già. Sự kiện thứ ba hoàn toàn giết chết Genji. Nàng San-no-miya (Onnasan), con gái yêu của vị cựu hoàng Suzaku gửi gắm Genji nuôi nấng và bảo vệ, đã khiến Genji nảy nở mối tình sâu nặng cuối cùng lúc tuổi đã xế chiều. Tình yêu được thử thách từ lâu với nàng Murasaki bị nghiêng ngả và Murasaki qua đời trong tuyệt vọng vì bị bội bạc, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho cả Genji và chàng thanh niên Yugiri, con của Genji với người vợ đầu Aoi. Còn San-no-miya ngây thơ và thùy mị tuy bề ngoài vẫn ngoan ngoãn với Genji chồng nàng, nhưng trái tim của nàng lại thuộc về một người trai trẻ quý tộc Kashiwaki con của Chujo, bạn thân và cũng là tình địch trong tình yêu của Genji. San-no-miya và Kashiwaki thực sự đã hưởng hạnh phúc trọn vẹn ngay chính trong ngôi nhà của Genji. Kết quả nàng San-no-miya sinh một đứa con giống hệt Kashiwaki và đặt tên là Kaoru. Nhân vật Kaoru cuối cùng bổ sung cho cuốn tiểu thuyết đã đẩy số phận Genji đến sự định đoạt có tính nhân quả: gieo gió ắt gặt bão, nghiệp chướng đã nói lời của mình.
Uji thập thiếp
Phần hai của tác phẩm mở đầu bằng câu: "Genji đã chết, và không ai có thể thay thế được chàng", nhưng tác phẩm vẫn tiếp tục bám theo số phận các nhân vật còn sống, tập trung vào quan hệ tay ba giữa Kaoru, hoàng tử Niou cháu trai Genji, và cô gái xinh đẹp Ukifune. Tóm tắt của phần này như sau:
Hoàng thân Hachi em trai của Genji có hai cô con gái, Oigimi và Nakanokimi. Sau khi cung điện bị cháy, Hachi phải đưa gia đình chuyển về trang trại ở Uji sống. Hoàng tử Kaoru, trên danh nghĩa là con của Genji và San-no-miya, nhưng thực chất là con của Kashiwaki và San-no-miya, đến Uji theo học kinh Phật với hoàng thân. Mấy năm sau hoàng thân mất, Niou, cháu ngoại của Genji mới 14 tuổi, say mê cô em Nakanokimi và nhờ Kaoru làm mối. Còn Kaoru lại muốn cưới cô chị Oigimi. Nhưng Oigimi muốn Kaoru lấy cô em gái nàng nên đã tìm cách đẩy Kaoru đến giường của cô em.
Oigimi lâm trọng bệnh chết, hai chàng trai thu xếp cho Nakanokimi về kinh đô. Có một cô gái giống Oigimi đến tìm gặp Nakanokimi. Đây là đứa con hoang của hoàng thân Hachi tên là Ukifune (Phù Châu, tức con thuyền trôi nổi), đang được quan tổng trấn ở Hitachi nuôi dưỡng. Khi Ukifune ghé lại Uji trong chuyến đi viếng mộ cha, nàng đã gặp Kaoru, và Kaoru ngỡ tưởng Oigimi tái thế, do hai nàng giống nhau như đúc và đều xinh đẹp, tài hoa. Để tránh hoàn cảnh khó chịu ở nhà cha nuôi, Ukifune phải tìm đến chỗ Nakanokimi trú tạm và tại đây nàng lại gặp Niou. Với sự giúp đỡ của Kaoru, mẹ Ukifune thu xếp cho nàng về Uji. Kaoru đã có những ngày gần gũi bên Ukifune khi dạy nàng học đàn. Thật trớ trêu khi cả Kaoru và Niou đều yêu mê mệt Ukifune, còn Ukifune ban đầu yêu Kaoru, nhưng sau đó lại bị cuốn vào mối tình cháy rực của chàng trai trẻ Niou. Cuối cùng, hầu như quẫn trí khi đối diện với sự lựa chọn, cân nhắc khó khăn trong tình cảm, Ukifune đã bỏ trốn và trầm mình xuống dòng sông ở Uji. Một gia đình tăng ni đã cứu nàng, đưa nàng về Ono và nàng đã xuống tóc quy y.
Trong niềm thương nhớ Ukifune vô hạn, Kaoru đã nhận đứa em trai nàng (cùng cha khác mẹ) làm tiểu đồng. Khi biết Ukifune chưa chết mà đang ẩn tu, chàng đã đem theo cậu tiểu đồng đi tìm nàng. Đứa em trai cầm thư của Kaoru xin gặp người chị yêu, nhưng cậu vô cùng đau khổ khi Ukifune không ra gặp, ở sau bức màn lạnh lùng trả lại thư. Chàng sứ giả lủi thủi ra về. Câu chuyện dừng lại ở đây, khi con thuyền trôi nổi Ukifune đã ở bên kia bờ thế tục.
Việc tóm tắt tác phẩm như trên là rất sơ sài, do nội dung truyện hết sức phức tạp với khoảng 400 nhân vật, trong đó tập hợp nhiều bối cảnh khác nhau và có tới trên 30 nhân vật chính.
Những luận điểm chính
Igarashi, một nhà viết sử hiện đại của văn hóa Nhật Bản đã hướng độc giả vào một vài lời nhận định trong Truyện kể Genji, ở một mức độ nào đó những điểm này giống như những tuyên ngôn nhân danh tác giả và từ đó truyền đạt lại chính xác quan điểm của Murasaki Shikibu về bản chất của tiểu thuyết nói chung và nguồn tài liệu làm cơ sở cho chủ đề của tác phẩm. Nói cụ thể hơn, các luận điểm trên xác định ba tọa độ: thể loại của tác phẩm là tiểu thuyết hiện thực, phong cách tác phẩm là wabun (和文, Hòa văn, văn Nhật thuần túy từ thể tài cho đến ngôn ngữ, khác biệt với 漢文, kambun, Hán văn), và đề tài là bạn tình và những người phụ nữ thời Heian.
Thể loại
Tại chương 15 nêu lên đại ý rằng những truyện (monogatari) do chúng tôi ghi chép, tất cả diễn ra trên Trái Đất, bắt đầu từ chính kỷ nguyên của các thần linh. "Biên niên sử Nhật Bản" (Nihongi) đề cập đến một mặt của sự vật, còn trong các "truyện" thì chứa đựng đủ mọi chi tiết. Murasaki Shikibu đặt những lời này vào miệng nhân vật chính của mình, dám thể hiện một tư tưởng hết sức dũng cảm, về bản chất là rất mới so với thời đại mà sử ký đang được tôn vinh và phát triển cực thịnh bấy giờ trong văn xuôi Trung Hoa cũng như Nhật Bản: tư tưởng ấy xác lập thể loại văn học tự sự bên cạnh thể loại trần thuật lịch sử mà đặc tính chung của chúng là đều kể về quá khứ. Tư tưởng đó còn mạo hiểm cho rằng tiểu thuyết đứng trên và cao hơn lịch sử. Có lẽ trước Murasaki chưa ai dám phát biểu rằng, những cuốn biên niên sử nổi tiếng của Nhật Bản như Nihongi (Nhật Bản kỷ, 720) và Kojiki (Cổ sự ký, 712) là thấp hơn tiểu thuyết, mang tính phiến diện vì không truyền đạt lại đầy đủ nội dung của quá khứ.
Phong cách
Chương 32 của tác phẩm kết thúc bằng những lời sau: Thế giới của chúng ta đã bị thu nhỏ lại. Nó về mọi mặt đều phải nhường bước cho cái cổ xưa. Thế kỷ của chúng ta quả là chưa có cái gì sánh được với chữ kana. Những chữ viết cổ dường như là chuẩn và sáng rõ, nhưng toàn bộ thực chất của cõi lòng thì không thể chứa đựng được. Tuyên bố này chỉ ra cho ta biết rằng ngôn ngữ Nhật Bản, ngôn ngữ thuần túy của bộ tộc Yamato thời đại Heian chưa bị Hán hóa một cách nặng nề hoặc mới chỉ tiếp nhận ngôn ngữ Hán ở mức độ tối thiểu. Ngôn ngữ Nhật Bản giữa thế kỷ 10-11 đã đạt đến sự phát triển của mình khác hẳn ngôn ngữ còn lại bây giờ. Thêm vào đó, nó chỉ ra rằng loại ngôn ngữ đã phát triển này là phương tiện biểu đạt tuyệt vời của văn học: trở thành công cụ và chất liệu hoàn hảo cho nghệ thuật ngôn từ. Điều này hiển hiện rõ rệt qua ngôn ngữ sử dụng trong Truyện kể Genji, là kiểu mẫu của ngôn ngữ Nhật Bản hoàn thiện trong thời kỳ cổ điển và bằng bàn tay Murasaki ngôn ngữ đó trở thành phương tiện tuyệt vời để truyền đạt tất cả các trạng thái. Về phương diện này tác phẩm dường như đứng trên đỉnh dốc: trước nó là sự lên dốc và sau nó là sự tụt dốc, wabun trong Truyện kể Genji đạt đến sự phát triển tột đỉnh của mình và sau nó là sự suy thoái của ngôn ngữ thuần Nhật nhường chỗ cho sự ứng dụng ngày càng sâu sắc của chữ Hán.
Chủ đề
Tại chương 25 đề cập đến một vấn đề hoàn toàn khác trong phát ngôn: Đúng! Người phụ nữ sinh ra trên thế gian chỉ để cho bọn đàn ông lừa bịp. Cần phải hiểu nhận định ấy như thế nào? Ở phương diện tác giả là một người phụ nữ; phải chăng người phụ nữ cảm nhận được lẽ công bằng hơn trong lời tuyên bố này; kết quả của sự quan sát xung quanh tác giả với những bối cảnh gần gũi; hay đó là đặc tính cơ bản của thời đại? N.I. Konrad đã suy đoán đúng hơn cả có lẽ là giả thiết sau cùng, tính chính xác và tính lịch sử của nó liên quan đến quan điểm chung của tác giả về chủ đề của tiểu thuyết.
Murasaki Shikibu là một người phụ nữ Heian điển hình nhưng chưa hẳn là đối với bà có thể ứng dụng câu châm ngôn trên một cách đầy đủ: bà đã quá nghiêm túc và sâu sắc để suốt đời chống lại một cách khó khăn việc trở thành một thứ đồ chơi cho đàn ông, và thở phào nhẹ nhõm khi cho người khác nói ra nhận định đó.
Cũng không nghi ngờ gì về hoàn cảnh xung quanh đã trở thành nguyên cớ khiến Murasaki Shikibu đưa ra kết luận trên, trong cuốn tiểu thuyết khắc họa không chỉ môi trường thân thuộc của bà mà còn cả cuộc sống của thời kỳ Heian nói chung, và chọn ra từ sinh hoạt của giới quý tộc các nét tiêu biểu nhất: tình yêu, quan hệ qua lại giữa đàn ông và đàn bà. Đây chính là đề tài tiêu biểu đối với toàn bộ văn học tự sự của giai đoạn tiền-Genji monogatari và sau đó, bắt đầu từ tác phẩm đầu tiên theo tuyến này là Ise Monogatari, mà nhân vật đàn bà cùng người bạn trai hâm mộ nàng luôn hiện diện trong các trang monotagari, và tiếp nối với Kokinshū (Cổ kim tập) phản ánh xuất sắc quan hệ nam-nữ trong những bài tanka mẫu mực mà đề tài tình yêu, trực tiếp hay gián tiếp, chiếm hơn một nửa tổng số các bài thơ của thi tuyển. Rõ ràng, giới quý tộc thời Heian, điển hình cho sự ăn không ngồi rồi đến mức bão hòa đầy nhục dục trong sự thanh bình và phồn vinh của đất nước, thì người phụ nữ tất nhiên đóng vai trò hàng đầu. Mối quan hệ qua lại giữa những người đàn ông và những người đàn bà trở thành trung tâm của toàn bộ cuộc sống sung sướng, an nhàn và phong lưu của thời đại.
Giá trị khác của tác phẩm
Hệ thống đề tài
Tuy vậy, ý nghĩa đích thực của Truyện kể Genji vẫn khiến các học giả tranh cãi, người thì cho rằng tác phẩm có thể được hiểu như một sự truyền bá ngấm ngầm đạo Phật qua tư tưởng về nghiệp quả (karma); số khác lại thừa nhận Genji là một tác phẩm viết với mục đích giáo huấn; một số đánh giá truyện không hơn gì ý nghĩa là tiểu thuyết vô luân thậm chí là văn học khiêu dâm. Bên cạnh đó, nhiều người bám vào chủ đề chính của tác phẩm là quan hệ của những người đàn ông và những người đàn bà; nhưng cũng có ý kiến cho rằng có thể coi tác phẩm là một biên niên sử trá hình; và cuối cùng, một số nhà nghiên cứu xoay quanh nhận định rằng tác phẩm chuyên làm sáng tỏ nguyên tắc mono no aware (bi cảm) của mỹ học truyền thống Nhật Bản.
Nghệ thuật tự sự
Nhưng nếu tính đa nghĩa là thứ thu hút nhiều thế hệ độc giả Nhật Bản, thì cốt truyện lại khiến tác phẩm có thể được đọc như một tiểu sử nhân vật: Genji sinh ra, lớn lên, những mối tình, cuộc lưu đày, sự hiển đạt, tuổi già và cái chết. Sự nối liền thân phận của Genji và con trai Kaoru cũng phản ánh được nhận thức về tính hiện thực của dòng chảy thời gian, thể hiện được lòng trung thành của tác giả với những nguyên tắc của lịch sử. Nhân vật chết nhưng cuộc sống không ngừng lại và Murasaki vẫn tiếp tục ghi lại sự tiếp diễn của nó. Bằng tác phẩm mang hơi thở trữ tình ngọt ngào nữ tính của thời đại, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Nhật Bản, Murasaki đã khẳng định kiểu mẫu sáng chói và thuần túy nhất của nghệ thuật tiểu thuyết đích thực, hơn nữa, tác giả đã đặt tiểu thuyết tự sự ngang hàng và thậm chí cao hơn sử học: tiểu thuyết kể về tất cả, đụng chạm tới từng chi tiết, chuyển tải cái đã qua với toàn bộ sự trọn vẹn của nó. Nó không đơn thuần tuân thủ những nguyên tắc và nhiệm vụ của sử học, điều mà trước thời của Murasaki, được viết bởi các nhà biên sử qua Cổ sự ký hay Nhật Bản thư kỷ, nó còn sinh động hơn sử ký rất nhiều trong việc tái họa quá khứ cũng như những hư cấu lịch sử bởi khả năng vô hạn khắc họa tính cách và hành động của nhân vật, nói khác đi là một lịch sử đã được tái tạo nghệ thuật. Chính nguyên tắc dung hợp giữa tự sự và trữ tình, thực sự là một đột phá so với thời đại, đã tạo cho tác phẩm một chiều sâu cảm hứng đối với các văn sĩ hậu Murasaki, đem đến nhiều nhận thức khác nhau về ý nghĩa tác phẩm trong giới nghiên cứu văn học sử hiện đại.
Ảnh hưởng
Là một sáng tác đỉnh cao của văn xuôi Nhật Bản mọi thời đại, Truyện kể Genji có vị trí đặc biệt trong văn học thời kỳ Heian nói riêng và dòng chảy văn học Nhật Bản nói chung. Trước Truyện kể Genji, không có truyện nào có thể sánh bằng, mà văn học về sau đều chịu ảnh hưởng nhất định từ tác phẩm này. Kể từ khi xuất hiện Genji monogatari, văn học Nhật Bản bao giờ cũng hướng đến với nó và đã có nhiều tác phẩm bắt chước. Có thể tìm thấy sự ảnh hưởng đó trong trường hợp của các tiểu thuyết lịch sử như Truyện tướng Sagoromo (Sagoromo monogatari) miêu tả chuyện tình ái của võ quan Sagoromo Taishō; Truyện vinh hoa (Eiga monogatari) nói về dòng họ Fujiwara no Michinaga; tiểu thuyết Một đời trai đắm sắc (Kōshoku ichidai Otoko) của Ihara Saikaku (1642-1693); Genji giả, Murasaki ruộng (Nise Murasaki Inaka Genji) của Ryūtei Tanehiko (1783-1842) mô phỏng Truyện kể Genji với những nhân vật đóng vai quê mùa v.v. Ngay cả các nhà văn cận kim và hiện kim hàng đầu như Higuchi Ichiyo (1872-1896), Akutagawa Ryūnosuke (1892-1927), Tanizaki Jun'ichirō (1886-1965) đều ái mộ ngữ vựng, cách diễn tả và đề tài của Genji, đem nó vào tác phẩm của mình.
Văn hào Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel Văn học Kawabata Yasunari (1899-1972) là người chịu ảnh hưởng sâu sắc niềm bi cảm aware của Truyện kể Genji, trở thành một phần của hệ thống mỹ học thực hành. Kawabata Yasunari và biểu hiện rõ rệt trong nhiều sáng tác của ông. Trong Diễn từ Nobel mang tên Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản (Utsukushi Nihon no watakushi, 1968) Kawabata đã viết: ...vào thế kỷ thứ X xuất hiện một tác phẩm tuyệt vời và mang tinh thần hiện đại như vậy là một điều kì diệu của cả thế giới. Thuở nhỏ tôi không giỏi tiếng Nhật cổ lắm, nhưng dù sao tôi cũng đã đọc văn học Heian, và tôi rất thích tác phẩm này.
Những sáng tác từ hậu kỳ Heian cho tới ngày nay trong đủ các thể loại văn học và sân khấu như thi ca (các thể thơ waka); kịch nghệ (các bài ballad hay dao khúc kịch Nō); thậm chí nhiều loại hình nghệ thuật từ nghệ thuật ứng dụng (tranh thủy mạc, tranh cuộn) đến nghệ thuật bài trí vườn cảnh, đều tìm thấy trong Genji cội nguồn của cảm hứng cái đẹp.
Bản dịch
Đầu thế kỷ 20, nhiều nhà văn, dịch giả Nhật Bản đã cố công dịch Truyện kể Genji từ tiếng Nhật cổ ra kim văn, trong đó có bản của văn hào Tanizaki Jun'ichirō và nữ sĩ Setouchi Jakuchō. Bản thông dụng nhất có lẽ là bản khổ bỏ túi của nhà xuất bản Kōdansha năm 1978 gồm 7 cuốn, tổng cộng 3500 trang khổ A6 với cỡ chữ rất nhỏ, do Giáo sư Imaizumi Tadayoshi (1910-1976) dịch toàn văn.
Truyện kể Genji cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới nhờ nỗ lực của các dịch giả như Arthur Waley (Anh), Edward Seidensticker (Mỹ), René Sieffert (Pháp) v.v. Bản dịch tiếng Anh Truyện kể Genji chủ yếu dựa vào văn bản trong loạt truyện Nikon koten bungaku taikei gồm các tác phẩm cổ điển Nhật Bản do Iwanami Tokuhei xuất bản. Người biên tập là giáo sư Yamajishi Tokuhei đã sử dụng một bản thảo chép tay thời Muromachi trong Aobyoshi (sách xanh) xuất phát từ công trình của Fujiwara Teika, nhà thơ và học giả lớn thế kỷ thứ 12 và đầu thế kỷ 13. Hai văn bản khác cũng được tham khảo đều đặn cho bản dịch tiếng Anh là Genji monogatari Hyoshaku của giáo sư Tamagami Takuya và bản văn Shogakkan mà chỉ hai phần ba đã được xuất bản. Cả hai bản tham khảo này đều dựa trên bản thảo chép tay Aobyoshi. Ba bản dịch ra tiếng Nhật hiện đại của nữ thi sĩ Yosano Akiko và nhà văn Tanizaki Jun'ichiro, Enji Fumiko cũng được tham khảo từng phần.
Bản dịch tiếng Việt Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội in vào năm 1991 tại Hà Nội. Đây là bản dịch không đề tên dịch giả và được dịch lại từ bản tiếng Anh. Chịu trách nhiệm xuất bản: Nguyễn Đức Diệu; biên tập: Nguyễn Cừ; vẽ bìa: Minh Phương. Trong bản Việt văn có lời giới thiệu được dịch từ lời giới thiệu trong dịch phẩm tiếng Anh do Edward Seidensticker viết vào tháng 1 năm 1976.
Bản thảo và minh họa
Bản thảo gốc Truyện kể Genji do Murasaki Shikibu viết không còn được lưu lại cho đến ngày nay, chỉ còn khoảng 300 bản sao của bản thảo gốc nhưng giữa các bản sao này cũng có những điểm khác biệt. Vào thế kỷ 13, hai học giả Minamoto no Chikayuki và Fujiwara Teika đã có những nỗ lực trong việc duyệt lại các điểm khác biệt giữa những bản sao để biên tập lại chúng sao cho gần với bản thảo gốc nhất. Các bản thảo do Chikayuki sửa lại từ năm 1236 đến 1255 được goi là , các bản thảo do Teika sửa lại được gọi là , các bản thảo không thuộc một trong hai dạng trên được phân vào loại . Trong số này, các aobyōshibon của Teika được cho là gần với bản gốc hơn cả, cả hai loại bản thảo do Teika và Chikayuki biên tập sau này thường được dùng cho những bản sao mới của Truyện kể Genji. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2008, người ta đã tìm thấy ở Kyōto một bản sao của Truyện kể Genji có từ cuối thời Kamakura (1192–1333), bản sao này là chương 6 ("Suetsumuhana") của tác phẩm có độ dài 65 trang và không hề chịu ảnh hưởng của các aobyōshibon do Teika chỉnh sửa. Phát hiện này được đánh giá cao vì chúng chứng tỏ vào giai đoạn Kamakura vẫn có những bản sao không do Teika chỉnh sửa được sử dụng.
Vào thế kỷ 12, các nhà quý tộc Nhật Bản đã đặt những nghệ sĩ cung đình ở Kyoto làm 12 cuộn Truyện kể Genji có kèm tranh minh họa. Sau khi hoàn thành, bộ tranh minh họa xuất sắc này được coi là kiệt tác của hội họa Nhật Bản và là tác phẩm tiêu biểu nhất của phong cách vẽ yamato-e. Cho đến nay chỉ còn vài phần trong số các cuộn truyện này còn được lưu lại tại Bảo tàng Mỹ thuật Tokugawa (các cuộn tranh của gia đình Tokugawa Owari) và Bảo tàng Gotoh (các cuộn tranh của gia đình Hachisuka). Đây được coi là những bức hình minh họa sớm nhất về Truyện kể Genji còn được lưu giữ đến ngày nay, chúng được coi là Bảo vật quốc gia của Nhật Bản.
Ngoài các bức tranh theo phong cách yamato-e, tác phẩm Truyện kể Genji còn là nguồn cảm hứng minh họa cho nhiều họa sĩ khác, trong đó có bộ tranh khắc gỗ của họa sĩ Yamamoto Harumasa (1610-1682). 227 bức minh họa được Yamamoto hoàn thành vào năm 1650. Tuy chịu ảnh hưởng của bộ tranh minh họa ra đời trước đó vài chục năm nhưng tác phẩm của Yamamoto vẫn được đánh giá cao vì sự tinh tế của các chi tiết khắc vượt trội so với những bộ tranh minh họa ra đời trước đó.
Chuyển thể
Truyện kể Genji đã nhiều lần được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh. Đáng chú ý là hai bộ phim do đạo diễn Yoshimura Kōzaburō thực hiện năm 1951 và đạo diễn Ichikawa Kon thực hiện năm 1966. Năm 1987 đạo diễn Sugii Gisaburo đã làm một bộ phim hoạt hình dựa trên 12 chương đầu của tác phẩm.
Chú thích
Tài liệu tham khảo chính
. Toàn bộ phần "Đề dẫn", "Nội dung/phần chính", "Giá trị tác phẩm" và một phần của "Cấu trúc tác phẩm" được lấy gần như nguyên văn từ mục từ này.
được tóm lược và bổ sung để viết phần "Nội dung/Uji thập thiếp".
được tóm tắt cho phần "Những luận điểm chính" và bổ sung vài nhận định (có dẫn chứng) của mục từ Truyện kể Genji đăng trong cuốn sách 101 vẻ đẹp văn chương Việt Nam và thế giới nói trên.
Bản dịch tiếng Việt Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991 ấn hành, được sử dụng cho phần liệt kê các "Nhân vật chính" sau khi đã sửa chữa sai sót và bổ sung. Những thông tin trong bản dịch này cũng được biên soạn để sử dụng tại mục "Bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt". Một phần nội dung của "Lời giới thiệu" trong bản dịch được sử dụng để viết phần "Thời đại, Tác gia và Tác phẩm". |
Xuân Hương truyện () là một tiểu thuyết khuyết danh, niềm tự hào của nhân dân Triều Tiên, ra đời khoảng thế kỷ 18 thời Triều Tiên Anh Tổ.
Lịch sử
Xuân Hương truyện đã lưu truyền qua nhiều thế hệ trong dân gian và được các nghệ nhân kể lại bằng loại hình ả đào pansori hay còn gọi là Xuân Hương ca, một dạng văn xuôi có nhịp điệu. Dựa trên Xuân Hương ca, một số tác giả thuộc tầng lớp trí thức Triều Tiên đã sáng tạo nên Truyện thơ Xuân Hương bằng chữ Hán vào khoảng những năm 1754. Sau đó nhiều tác giả khác đã sáng tác Xuân Hương truyện viết bằng hệ chữ quốc văn Hangeul có nhịp điệu.
Tác phẩm còn nhiều dị bản hiện được lưu giữ: 30 bản chép tay, bảy bản gỗ, 60 bản in kẽm. Bản do Lee Sang Bo, giáo sư khoa Ngữ văn trường Đại học Kukmin chú giải, in lần đầu tiên năm 1984 và đã tái bản lần thứ 8, là văn bản được phổ biến rộng rãi ngày nay.
Nhân vật
Sung ChunHyang (成春香 성춘향, Thành Xuân Hương): Ái nữ nhà Walmae. Nàng rất xinh đẹp và có tài thi họa. Chun-yang đem lòng yêu chàng công tử MongRyong.
Lee MongRyong (李夢龍 이몽룡, Lý Mộng Long) là con trai của quan huyện. Chàng có dung mạo tuấn tú, khôi khô và chàng cũng đem lòng yêu ChunHyang
HyangDan (香丹 향단, Hương Đan) là tỳ nữ nhà ChunHyang.
BangJa (房子 방자, Phòng Tử) là nô bộc của MongRyong.
Walmae (月梅 월매, Nguyệt Mai) xuất thân là kỹ nữ và là mẹ của ChunHyang.
Biện Học Đạo là huyện lệnh Nam Nguyên.
Phiên bản Đại Hàn
Lý Hàn Lâm là cha Lý Mộng Long.
Phiên bản Bắc Triều Tiên
Lý phu nhân là mẹ Lý Mộng Long.
Lan Châu là kỹ bang trưởng.
Vĩnh Thế là tên thật của Phòng Tử.
Nội dung
Xuân Hương truyện xoay quanh tình yêu giữa nàng ChunHyang và công tử MongRyong, nhưng bao gồm nhiều chủ đề khác nhau với nội dung có ý nghĩa xã hội rộng lớn, là sự kết hợp những truyện kể lưu truyền đương thời như truyện kể liệt nữ, truyện kể mật sứ, truyện kể thân oan, truyện kể tình yêu. Câu truyện được kết cấu thành 5 đoạn theo trình tự: phát đoạn - triển khai - nguy biến - đỉnh điểm - kết mạt, thể hiện qua năm chương của tác phẩm.
Gặp gỡ
Câu chuyện bắt đầu với triều vua Lý Túc Tông, sự thanh bình phồn vinh của đất nước lan tỏa khắp nơi. Tại huyện Namwon tỉnh Jeonlla có kỹ nữ nổi tiếng Walmae, 40 tuổi mà chưa có con nên rất sầu não. Nàng cùng với chồng cầu tự tại một ngôi chùa và nhờ đó có thai, sinh ra một người con gái đặt tên là ChunHyang. ChunHyang càng lớn càng xinh đẹp, nàng yêu thích đọc sách và rất am hiểu thi thư âm luật.
Bấy giờ tại Sam Cheon-dong, quan huyện họ Lee có con trai tuổi đôi tám, diện mạo phi thường và trí tuệ rất uyên bác. Trong ngày xuân tươi đẹp, chàng cùng người hầu đến O-dak ngoạn cảnh. Như có duyên phận từ kiếp trước, ChunHyang cùng với nàng hầu cũng đi chơi đu tại đó và đôi trai tài gái sắc đã gặp nhau. Cảm tài mến sắc, tình yêu giữa hai người đã nhen nhóm. ChunHyang khéo léo khước từ sự nồng nhiệt của chàng Lee và hẹn chàng tới thăm nhà.
Tình yêu
Sau khi chàng Lee chia tay ChunHyang về nhà, lòng bâng khuâng lưu luyến nhớ mong không lúc nào nguôi. Chàng bước vào phòng học mà bên tai luôn văng vẳng tiếng ChunHyang, và trong mắt in đậm vẻ đẹp của nàng. Chàng nóng lòng chờ buổi tối tới nhà nàng như đã ước hẹn.
Tại nhà ChunHyang, chàng Lee ngỏ lời. Mẹ nàng viện dẫn luân thường đạo lý để mong chàng đưa cha mẹ đến cầu hôn. Nhưng chàng Lee bộc lộ tình cảm sâu xa và lời thề chung thủy của mình khiến mẹ ChunHyang cảm động, bà cũng nhớ lại giấc mơ đêm trước và hiểu rằng giữa chàng với con gái mình đã có duyên tiền định. Sau bữa ăn mà chàng Lee cùng Xuân Hương uống chén rượu hợp hoan, mẹ chàng cùng người hầu ra ngoài để lứa đôi ở lại. Chàng cùng nàng đối đáp thơ phú và thành thân với nhau.
Ly biệt
Ngày nối ngày trôi qua trong hạnh phúc, song đắng cay bắt đầu kéo đến. Cha chàng Lee được bổ nhiệm và gia đình phải chuyển đến Kinh thành. Chàng đau xót vì phải chia tay người yêu và chia sẻ tâm tư với mẹ nhưng bị quở trách nặng nề. Mẹ chàng viện lý do con nhà quan địa phương không thể chấp nhận con gái của kỹ nữ. Trong niềm đau khổ tột cùng, chàng đến nhà ChunHyang. ChunHyang và mẹ nàng hết sức tuyệt vọng trước sự chia ly và sự trớ trêu của thân phận. Chàng Lee dứt áo ra đi, tình yêu vẫn sâu nặng trong lòng và lời thề hẹn trở lại với ChunHyang vẫn vững như non cao. Ngày tháng trôi qua, chàng quyết chí học hành thi cử và định trước là nếu đỗ đạt được bổ nhiệm sẽ làm quan tại địa phương.
Chung thủy
Quan huyện mới đến nhậm chức tại Nam Won tên là Byun Hak Do. Ông ta là người có tài nhưng lại rất trăng hoa và sống không có đạo đức. Vừa đến Nam Uôn ông ta bèn triệu tập tất cả các kỹ nữ về với mình. Biết tiếng ChunHyang, ông ta lệnh cho các người hầu đưa nàng về. Quan huyện mê mẩn trước sắc đẹp của nàng và dùng mọi biện pháp từ dụ dỗ đến đe dọa để cầu hôn với nàng, nhưng nàng cương quyết chối từ. Tức giận, y đã dùng hình phạt trượng tàn khốc và giam nàng vào ngục. Máu và nước mắt của nàng tuôn chảy như hồng lưu thủy ở Đào Nguyên, nhưng nàng vẫn cương quyết giữ mình trung trinh. Mọi người cảm động rơi lệ vừa thương vừa phục nàng.
Trong ngục tối, ChunHyang vừa khóc vừa than thở với bài Trường thán ca, sau đó mệt quá nàng ngủ thiếp đi. Trong cơn mộng mị nàng thấy gương vỡ, hoa đào rơi rụng và ngỡ mình sắp chết. Nhưng sau đó được một thầy bói phán rằng đó là điềm lành và hồng phúc lớn sẽ đến với nàng.
Tái ngộ
Tại Kinh thành Hanyang, chàng Lee suốt ngày dùi mài kinh sử. Nỗ lực của chàng đã được đền đáp với bảng vàng Trạng nguyên trong khoa thi Thái Bình. Chàng Lee quay về về tỉnh Jeonlla làm Mật sứ. Chàng lệnh cho các tư lại và người hầu sắp đặt công việc, còn chàng cải trang thành người ăn xin vừa đi vừa vãn cảnh. Khi tới Nam Won, chàng thăm dò và được biết Xuân Hương vẫn giữ lòng trinh, nhưng đang nguy khốn trong ngục tù. Chàng tìm đến nhà nàng và nói dối rằng con đường công danh của chàng đã đứt gánh khiến mẹ nàng hết sức oán giận. Sau đó, chàng Lee cùng mẹ Xuân Hương đến ngục thăm nàng. Gặp lại người yêu mừng vui xen lẫn tủi hổ, ChunHyang như chết ngất khi thấy chàng trong hình trạng một người ăn mày.
Ngày hôm sau, trong buổi mừng thọ của quan huyện, chàng Lý mật sứ vẫn trong vai kẻ ăn mày đến dự. Khi những người dưới quyền của chàng vừa đến, chàng giơ cao Mã bài khiến mọi người run sợ, đồng thời ra lệnh bắt quan huyện và những kẻ dưới quyền của y để trừng phạt. Chàng gặp lại ChunHyang trong tình yêu lớn lao và niềm hạnh phúc vô bờ.
Sau khi thanh tra các tỉnh, chàng Lý trở lại Hanyang cùng với ChunHyang. Nhà vua biết chuyện đã bổ nhiệm chàng chức vụ mới và ban cho ChunHyang danh hiệu "Trinh liệt phu nhân". Những năm tháng sau này chàng Lee liên tục thăng chức tại triều đình và cùng vợ sống hạnh phúc trăm năm.
Ý nghĩa
Là một ca khúc của tình yêu lứa đôi trong nỗ lực chiến đấu chống bất bình đẳng và áp bức, Xuân Hương truyện một mặt thể hiện tình yêu say đắm, táo bạo vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến đương thời, một lễ giáo ràng buộc con người trong những quan niệm khe khắt về tình dục và môn đăng hộ đối, mặt khác khẳng định lý tưởng đạo đức lành mạnh, màu sắc vị tha đầy nữ tính và bản lĩnh thủy chung bất chấp cường quyền bạo lực của nàng ChunHyang. Tác phẩm cũng ca ngợi chàng Lee đã giữ lời thề vàng đá của mình, sau khi thành đạt đã trở lại giải thoát người yêu và đưa nàng về kinh. Tình yêu của họ thấu cảm trời xanh và làm rung động lòng người, khiến vua Lý Túc Tông đi ngược lại luật lệ triều đình và phong "Trinh liệt phu nhân" cho con gái một người kỹ nữ, khiến hạnh phúc đời đời bền chặt và vinh hoa phú quý gắn kết cuộc đời hai người.
Trên phương diện nghệ thuật, tiến trình văn học viết hóa Xuân Hương ca có một ý nghĩa lớn lao mang tính quy luật. Qua những thử thách lâu dài của thời gian, những người nghệ sĩ dân gian và văn nhân trí thức đã cùng sáng tác nên kiệt tác bất hủ tiêu biểu cho cả một truyền thống văn học. Tính chất tự sự của tích truyện truyền miệng]], phong cách trữ tình của cá nhân các nghệ sĩ, bút pháp kể truyện và miêu tả con người kết hợp giữa điển nhã bác học và chất hài hước thô tục bình dị của dân gian khiến tác phẩm thực sự là tổng hòa của văn hóa bình dân và tính hàn lâm bác học. Với rất nhiều dị bản còn lưu lại, với rất nhiều tích truyện còn lưu truyền trong nhân dân, với sự chuyển thể thành nhiều kịch bản và tác phẩm điện ảnh trong thời hiện đại, Xuân Hương truyện xứng đáng trở thành tinh thần của đất nước, trở thành biểu tượng "quốc hồn, quốc túy" đối với dân tộc trên bán đảo Triều Tiên, không một tác phẩm nào khác về sau có thể có được vị trí của nó.
Chuyển thể
Phim Xuân Hương năm 2000
Loạt phim truyền hình 17 tập Delightful Girl Choon-Hyang năm 2005
Manga Truyền thuyết Xuân Hương của nhóm CLAMP xuất bản năm 1996 |
Chợ Âm Phủ có thể là tên của một trong các chợ sau:
Chợ Âm Dương họp tại làng Ó, xã Võ Cường, Bắc Ninh.
Chợ 19 tháng 12 ở Hà Nội.
Chợ Âm Phủ ở Đà Lạt.
Chợ Viềng, chợ họp hàng năm vào đêm mồng 7 Tết Âm lịch tại Nam Định. |
Tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn của động vật, với chức năng bơm đều đặn để đẩy máu theo các động mạch và đem dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình trao đổi chất. Tim hút máu từ tĩnh mạch về tim sau đó đẩy máu đến phổi để trao đổi khí CO2 lấy khí O2. Tim nằm ở khoang giữa trung thất trong ngực.
Trong cơ thể người, động vật có vú và các loài chim, tim được chia thành bốn phần: tâm nhĩ trái và tâm nhĩ phải ở nửa trên; tâm thất trái và tâm thất phải ở nửa dưới. Thường tâm nhĩ phải và tâm thất phải được gộp vào gọi là nửa bên phải và phần kia được gọi là nửa bên trái của tim. Tim cá có hai ngăn, một tâm nhĩ và một tâm thất, trong khi tim các loài bò sát có ba ngăn. Máu chảy qua tim theo một chiều do van tim ngăn máu chảy ngược. Tim được bao bọc trong một túi bảo vệ, gọi là màng ngoài tim có chứa một lượng nhỏ chất bôi trơn. Tim được cấu tạo thành ba lớp: thượng tâm vị, cơ tim và màng trong của tim.
Tim bơm máu thông qua cả hai hệ thống tuần hoàn. Máu có nồng độ oxy thấp từ hệ tuần hoàn đi vào tâm nhĩ phải từ tĩnh mạch chủ trên và dưới và đi đến tâm thất phải. Từ đây máu được bơm vào hệ tuần hoàn phổi, tại đó máu nhận được oxy và thải ra carbon dioxide. Máu được tăng cường oxy trở về tâm nhĩ trái, đi qua tâm thất trái và được đẩy ra thông qua các động mạch chủ vào hệ tuần hoàn máu, nơi oxy được sử dụng và chuyển hóa thành carbon dioxide. Ngoài ra máu mang dưỡng chất từ gan và hệ tiêu hóa đến các cơ quan khác nhau của cơ thể, đồng thời vận chuyển chất thải đến gan và thận. Thông thường với mỗi nhịp tim đập, tâm thất phải bơm cùng một lượng máu vào phổi như các tâm thất trái đẩy máu vào cơ thể. Tĩnh mạch vận chuyển máu đến tim, trong khi động mạch đẩy máu ra khỏi tim. Tĩnh mạch thường có áp lực thấp hơn so với động mạch. Tim co bóp với tốc độ khoảng 72 nhịp mỗi phút khi ở trạng thái nghỉ. Tập thể dục làm tăng nhịp tim tạm thời, nhưng làm giảm nhịp tim nghỉ ngơi về lâu dài - điều này là tốt cho sức khỏe tim mạch.
Bệnh tim mạch (CVD) là nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong trên toàn cầu trong năm 2008, chiếm 30% các trường hợp tử vong của năm này. Trong số các ca tử vong hơn ba phần tư là do bệnh động mạch vành và đột quỵ. Các yếu tố nguy cơ bao gồm: hút thuốc, thừa cân, tập thể dục không đủ, cholesterol cao, huyết áp cao và tiểu đường v.v... Chẩn đoán bệnh tim mạch thường được thực hiện bằng cách lắng nghe tim đập bằng ống nghe, ECG hoặc bằng siêu âm. Bệnh tim được điều trị chủ yếu với bác sĩ chuyên khoa tim mạch, mặc dù rất nhiều chuyên môn khác có thể tham gia.
Tim được cấu tạo từ một loại cơ đặc biệt là cơ tim. Tim con người trung bình đập 72 lần mỗi phút, sẽ đập khoảng 2,5 tỷ lần trong thời gian trung bình 66 năm tuổi thọ. Nó nặng khoảng 250-300 gram (9-11 oz) ở nữ giới và 300 đến 350 gram (11-12 oz) ở nam giới.
Cấu trúc
Tim động vật có cấu tạo phức tạp tăng dần theo mức độ tiến hóa của loài. Từ loài bậc thấp có tim 1 ngăn (như giun đốt), rồi đến 2 ngăn ở lớp cá, 3 ngăn ở lưỡng cư, thường là 3 ngăn có vách hụt ở bò sát( trừ cá sấu 4 ngăn), 4 ngăn ở chim và thú. Kể từ lớp cá, tim có các van tim ngăn giữa các ngăn để giúp máu chảy theo 1 chiều duy nhất.
Tim người, các loài có vú, loài chim là một khối cơ rỗng, trọng lượng ở loài người trung bình khoảng 300gr, được chia thành 4 ngăn: 2 tâm nhĩ và 2 tâm thất. Nhĩ phải và nhĩ trái, thành mỏng, nhận máu tĩnh mạch, đưa xuống thất; thất phải và thất trái, thành dày, bơm máu vào động mạch với áp lực cao. Hai tâm nhĩ ngăn cách nhau bởi vách liên nhĩ, hai tâm thất ngăn cách nhau bởi vách liên thất.
Độ dày của các thành tim ở các buồng thay đổi tùy theo chức năng của nó. Thành cơ tim thất trái dày gấp 2 đến 4 lần thành thất phải, do nó phải bơm máu với áp lực cao hơn để thắng sức cản lớn của tuần hoàn hệ thống.
Năng lượng cần thiết cho sự chuyển động của máu xuất phát từ thành cơ tim.
Các ngăn tim
Tim có 4 ngăn, 2 tâm nhĩ trên và 2 tâm thất dưới. Tâm nhĩ mở thông với tâm thất thông qua các van nhĩ thất.
Hệ thống van tim
Giữa tâm nhĩ và tâm thất có van nhĩ thất (bên trái là van hai lá, bên phải là van ba lá). Giữa động mạch phổi và tâm thất có van bán nguyệt (van tổ chim).
Hướng chảy của máu được xác định bởi sự hiện diện của các van tim. Các van tim là những lá mỏng, mềm dẻo, là tổ chức liên kết được bao quanh bởi nội tâm mạc.
Van nhĩ - thất: ngăn giữa nhĩ và thất, bên trái có van hai lá, bên phải có van ba lá. Nó giúp máu chảy một chiều từ nhĩ xuống thất. Các cột cơ gắn với van nhĩ-thất bởi các dây chằng. Cột cơ co rút khi tâm thất co, nó không giúp cho sự đóng của van, mà nó kéo chân van về phía tâm thất, ngăn sự lồi của các lá van về tâm nhĩ trong kỳ thất co rút. Nếu dây chằng bị đứt hoặc nếu một trong các cột cơ bị tổn thương, máu có thể trào ngược về tâm nhĩ khi thất co, đôi khi gây nên rối loạn chức năng tim trầm trọng.
Van bán nguyệt: giữa tâm thất trái và động mạch chủ có van động mạch chủ, van động mạch phổi ở giữa tâm thất phải và động mạch phổi. Nó giúp máu chảy một chiều từ tâm thất ra động mạch.
Tất cả các van đóng mở một cách thụ động, sự đóng mở tùy thuộc vào sự chênh lệch áp suất qua van. Ví dụ như khi áp lực tâm nhĩ vượt quá áp lực tâm thất thì van nhĩ-thất mở ra, và máu từ nhĩ xuống thất; ngược lại khi áp lực tâm thất lớn hơn áp lực tâm nhĩ, van đóng lại, ngăn máu chảy ngược từ thất về nhĩ
Sợi cơ tim
Tim được cấu thành bởi ba loại cơ tim: cơ nhĩ, cơ thất và những sợi cơ có tính kích thích, dẫn truyền đặc biệt. Cơ nhĩ, cơ thất có hoạt động co rút giống cơ vân, loại còn lại co rút yếu hơn nhưng chúng có tính nhịp điệu và dẫn truyền nhanh các xung động trong tim.
Các tế bào cơ tim có tính chất trung gian giữa tế bào cơ vân và tế bào cơ trơn. Đó là những tế bào nhỏ, có vân, chia nhánh và chỉ một nhân. Khác với cơ vân, các tế bào cơ tim có các cầu nối, kết với nhau thành một khối vững chắc, có những đoạn màng tế bào hòa với nhau. Các sợi cơ tim mang tính hợp bào, hoạt động như một đơn vị duy nhất khi đáp ứng với kích thích, lan truyền điện thế giữa các sợi cơ tim nhanh chóng qua các cầu nối. Sự lan truyền điện thể từ nhĩ xuống thất được dẫn qua một đường dẫn truyền đặc biệt gọi là bộ nối nhĩ-thất.
Các sợi cơ tim chứa nhiều ty lạp thể và mạch máu, phù hợp với đặc tính hoạt động ái khí của tim. Thành phần chủ yếu của tế bào cơ tim là các tơ cơ (myofibrille), chứa các sợi dày (myosin) và sợi mỏng (actin, tropomyosin, troponin), sự co rút của chúng gây ra co rút toàn bộ tế bào cơ tim. Xung quanh các sợi cơ có mạng nội sinh cơ chất (reticulum sarcoplasmique) là nơi dự trữ calci.
Như vậy chức năng chính của cơ tim là tự co rút và chúng cũng phản ứng theo cùng một cách thức trong trường hợp bệnh lý: chúng cùng phì đại trong sự quá tải hoặc chúng hoại tử thành những mô xơ trong trường hợp khác.
Hệ thống dẫn truyền
Gồm các tế bào mãnh có khả năng phát nhịp (pacemaker) cho toàn bộ tim, chúng tạo thành hệ thống dẫn truyền, dẫn truyền điện thế qua cơ tim. Hệ thống dẫn truyền này đảm bảo cho các buồng tim co rút đồng bộ.
Hệ thống dẫn truyền chính thức
Nút xoang nhĩ: còn gọi là nút Keith-Flack, nằm ở cơ tâm nhĩ, chỗ tĩnh mạch chủ trên đổ vào tâm nhĩ phải. Nút xoang nhĩ phát xung khoảng 80l-100l/phút, là nút dẫn nhịp cho tim, nhận sự chi phối của sợi giao cảm và dây phó giao cảm (dây X).
Nút nhĩ thất: còn gọi là nút Aschoff-Tawara, ở phía sau bên phải vách liên nhĩ, cạnh lỗ xoang tĩnh mạch vành. Phát xung 40-60l/phút, được chi phối bởi dây giao cảm và dây X.
Bó His: đi từ nút nhĩ-thất tố vách liên thất, chạy dưới nội tâm mạc xuống phía phải của vách liên thất khoảng 1 cm, còn gọi là bộ nối nhĩ-thất, dẫn truyền điện thế giữa nhĩ và thất, rồi chia làm hai nhánh phải và trái.
Nhánh phải tiếp tục đi xuống phía phải vách liên thất, chia thành những nhánh nhỏ chạy giữa các sợi cơ tim thất phải gọi là mạng lưới Purkinje. Nhánh trái chui qua vách liên thất, chia một nhánh phía trước mỏng, nhỏ và một nhánh phía sau, dày, rồi cũng chia thành sợi Purkinje để đến nội tâm mạc thất trái. Bộ nối nhĩ-thất, hai nhánh hoặc các sợi Purkinje tần số phát xung rất chậm 20-40l/phút, chỉ nhận sợi giao cảm.
Hệ thống dẫn truyền phụ
Bình thường hệ thống dẫn truyền phụ không hoạt động.
Cầu Kent
Bó James
Bó Mahaim
Hệ thần kinh
Chi phối tim là hệ thần kinh tự chủ.
Dây X (thần kinh lang thang) phải chi phối cho nút xoang và dây X trái chi phối nút nhĩ-thất. Các sợi phó giao cảm đến cơ nhĩ chứ không đến cơ thất.
Dây giao cảm đến đáy tim theo mạch máu lớn, sau đó phân thành mạng vào cơ tim, thường là theo sau mạch vành.
Thần kinh giao cảm tiết Norepinephrin, làm tăng tần số nút xoang, tăng tốc độ dẫn truyền, và tăng lực co bóp. Thần kinh phó giao cảm làm giảm tần số nút xoang, giảm tốc độ dẫn truyền qua trung gian Acetylcholin. Tác dụng của hai hệ này trái ngược nhau, nhưng có tác dụng điều hòa để đảm bảo cho sự hoạt động tim.
Tim người
Giải phẫu tim
Tim là 2 khối cơ rỗng, hình chóp, đáy hướng lên trên đỉnh hướng xuống dưới.
Vách nhĩ-thất chia tim thành 2 phần: phải và trái. Tim phải chứa máu đỏ sẫm, nhiều cacbonic. Tim trái chứa máu đỏ tươi, nhiều khí oxi. Mỗi bên được chia thành 2 ngăn, trên là tâm nhĩ, dưới là tâm thất, ở giữa có van nối thông với nhau.
Giữa tâm thất phải và tâm nhĩ phải là van 3 lá (lá trước, lá sau, lá vách).
Giữa tâm thất trái và tâm nhĩ trái là van 2 lá (van tăng mạo hay van mũ ni - lá trước và lá sau).
Giữa 2 tâm thất là vách liên thất (vách gian thất) gồm có phần màng và phần cơ, khi phần màng bị tật thì gây ra tật thông liên thất.
Giữa 2 tâm nhĩ là vách liên nhĩ (vách gian nhĩ) trên đó có hố bầu dục ở tâm nhĩ phải và van bầu dục ở tâm nhĩ trái (khi có tật, gọi là lỗ bồ dục - tật thông liên nhĩ).
Máu từ tâm thất trái đi ra theo động mạch chủ. Máu từ tâm thất phải đi ra theo động mạch phổi. Giữa các động mạch và các tâm thất có van tổ chim ngăn không cho máu chảy ngược về tim.
Máu đỏ sẫm từ tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới đổ vào tâm nhĩ phải. Máu đỏ từ 4 tĩnh mạch phổi đổ vào tâm nhĩ trái.
Tim được cấu tạo bằng 3 lớp: màng ngoài tim (ngoại tâm mạc), cơ tim và màng trong tim (nội tâm mạc).
Tim được cung cấp máu từ 2 động mạch nhỏ: động mạch vành phải có nhánh gian thất sau (đi giữa rãnh gian thất sau cùng tĩnh mạch tim lớn) và động mạch vành trái cho nhánh gian thất trước đi trong rãnh gian thất trước cùng tĩnh mạch tim lớn.
Ngoài ra trên tim còn có các tĩnh mạch: tim trước, nhánh sau của tâm thất trái, tim nhỏ, tim cực nhỏ, nhánh chếch của tâm nhĩ trái, tất cả tĩnh mạch đều đổ vào xoang tĩnh mạch vành trừ hai nhánh tim trước (đổ vào tâm nhĩ phải) và tim cực nhỏ (đổ vào cả tâm nhĩ và thất qua lỗ tim cực nhỏ). |
Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (4 tháng 10 năm 1920 – 9 tháng 12 năm 2002) quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời ông còn là một chính khách, một cán bộ cách mạng lão thành. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ) nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguồn gốc bút danh Tố Hữu
Theo lời Tố Hữu tự giải thích về bút danh của mình thì năm 1938, ông sang Lào thăm một người anh. Ở đây ông gặp một cụ đồ người Quảng Bình. Cụ đồ đã đặt cho ông bút danh "Tố Hữu" (chữ Hán: 素有), lấy từ câu nói của Đỗ Thị "Ngô nhi tố hữu đại chí" (吾兒素有大志). Tố Hữu (素有) có nghĩa là "sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người". Tố Hữu nhận tên gọi này nhưng hiểu theo nghĩa là "người bạn trong trắng", viết bằng chữ Hán là "素友", khác với tên do cụ đồ đặt ở chữ "hữu".
Tiểu sử
Thiếu niên
Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại thành phố Huế, là con út trong gia đình. Đến năm 9 tuổi, ông cùng cha trở về sống tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho nghèo nhưng thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất yêu thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maksim Gorky,... và qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936, ông gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dương.
Hoạt động cách mạng
Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. 3/1942, ông vượt ngục Đắc Glêi (nay thuộc Kon Tum) rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng (về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa). Đến năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế.
Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
1952: Giám đốc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ.
1954: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền.
1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức.
Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư.
Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương.
Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị.
1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (nay gọi là Phó Thủ tướng) cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết liệt Phong trào Nhân văn – Giai phẩm (1958). Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khóa II và VII.
Năm 1969, ông được giao là người sửa cuối cùng bản điếu văn trong tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tố Hữu đã dùng ngòi bút và tâm huyết của mình để giúp cho bản điếu văn hay hơn, đi vào lòng người hơn:
Bản dự thảo viết: '"Thưa đồng bào, thưa các đồng chí và các bạn". Tố Hữu sửa lại thành: "Thưa đồng bào và chiến sĩ cả nước, thưa các đồng chí và các bạn".Bản dự thảo viết: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất lớn lao này không gì bù đắp được". Tố Hữu sửa lại thành: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao, đau thương này thật là vô hạn".
Bản dự thảo viết: "Phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết". Tố Hữu sửa lại thành: "Phong trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết".
Bản dự thảo viết: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sản sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Tố Hữu bỏ chữ "sản", trở thành: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta".
Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành Đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Do phải chịu một phần trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên ông bị miễn nhiệm các chức vụ về quản lý hành chính, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội và các chức danh lãnh đạo về lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (giải thưởng cao nhất về văn học tại Việt Nam) ngay trong đợt xét tặng đầu tiên (năm 1996).
Ông qua đời lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
Đóng góp văn học
Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lý tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu bút. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là "nhà thơ của cách mạng", "nhà thơ của nhân dân", "ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam", "người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam", "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu", "nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng".Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sĩ và nhân dân, gắn liền với suốt chiều dài lịch sử kháng chiến. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như Việt Bắc, Lượm, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Nam máu và hoa, Từ Cu-ba,...Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người "đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ" hay "người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu" (nhận xét của Nguyễn Khoa Điềm), được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm chính
Từ ấy (1937 – 1946), 72 bài thơ
Việt Bắc (1947 – 1954), 26 bài thơ
Gió lộng (1955 – 1961), 25 bài thơ
Ra trận (1962 – 1971), 35 bài thơ
Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
Máu và Hoa (1972 – 1977), 13 bài thơ
Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
Một tiếng đờn (1978 – 1992), 74 bài thơ
Ta với ta (1992 – 1999)
Nhớ lại một thời (hồi ký, 2000)
Một khúc ca xuân (thơ, 1977)
Bài thơ tiêu biểu của ông
Phong tặng và Giải thưởng văn học
Giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc).
Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ Một tiếng đờn.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996).
Huân chương Sao Vàng (1994).
Nhiều giải thưởng, danh hiệu khác...
Sự kiện rắc rối sau khi ông mất
Ông qua đời năm 2002 vì bệnh nặng. Bài phỏng vấn Tố Hữu với tựa đề: "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh được công bố sau khi ông mất đã gặp phải sự phản đối từ gia đình ông. Vào tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệ, báo chí tại Việt Nam. Vào tháng 5 năm 2004, báo Quân đội nhân dân trích đăng 3 kì một số đoạn từ tài liệu này với nhan đề "Tố Hữu" và "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" (kì số 3 vào ngày 7/5/2004). Ngoài ra bài này cũng được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác như Nhân dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội... Nội dung bài phỏng vấn có nhắc tới các sự kiện văn hóa trước đây như Nhân văn-Giai phẩm, phong trào sáng tác thơ văn cách mạng, ông Tố Hữu có những lời ca ngợi những người này.
Bài phỏng vấn thực hiện năm 1997, nhưng đến khi phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh, vợ của Tố Hữu, phủ nhận và cho đó là những tài liệu giả mạo, đã "pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình". Bà yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ sự giả mạo của tài liệu này, nhưng ông Nhật Hoa Khanh nói có đầy đủ băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện của ông với Tố Hữu. Bài phỏng vấn là thực hay giả chưa rõ, nhưng thực tế nó đã được nhiều tờ báo chính thống ở Việt Nam đăng lên. Sau đó sự kiện này không được các cơ quan báo chí, văn nghệ nhắc tới nữa.
Bị xuyên tạc thơ
Trên mạng internet sau này đã lan truyền những câu thơ được cho là của Tố Hữu: "Lửa trường kỳ kháng chiến! / Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ / Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong / Cho đảng bền lâu / Thờ Mao chủ Tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt". Dựa vào những câu thơ này, họ tuyên bố rằng Tố Hữu là người độc ác, nhẫn tâm.
Thực ra, bài thơ "Bài ca tháng 10" sáng tác năm 1950 của Tố Hữu không hề có những câu thơ như vậy, bài thơ này kết thúc như sau: "Hoan hô Hồ Chí Minh / Cây hải đăng mặt biển / Bão táp chẳng rung rinh / Lửa trường kỳ kháng chiến!", toàn bộ những câu thơ sau dòng "Lửa trường kỳ kháng chiến" đều là xuyên tạc nhằm bôi nhọ Tố Hữu. Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cũng nói rằng ông chưa từng gặp những câu thơ này trong các tập thơ Tố Hữu đã đọc.
Đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm
Tố Hữu, khi đó là Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người kiên quyết phản đối và tham gia dập tắt Nhân văn – Giai Phẩm, một phong trào mà ông cho là đã lợi dụng phê bình văn nghệ để tuyên truyền chống phá về chính trị, chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau: "Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ".Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn – Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm như sau: Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo, phản đối văn nghệ phục vụ chính trị nhưng thực ra là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân, muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động, đả kích nền văn nghệ kháng chiến, đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, trong nhật ký của mình, sau khi nhắc tới tên một số người trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm cũng đã cho hay: "Bọn họ có người nói: Đừng viết nữa, để dành cho trẻ viết. Vô luận một bài, một sáng tác nào của anh em mà họ gọi là "cây đa cây đề", họ đều gạt đi, cho là tồi. Trong khi đó thì họ tâng bốc những bài của họ mà phần lớn là không ngửi được!" (trích nhật ký ngày 23 tháng 1 năm 1956).
Gia đình
Phu nhân là Vũ Thị Thanh, nguyên Phó Trưởng ban Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương). Mối tình của hai người được khen ngợi là một mối tình đẹp và bà Thanh đã viết hồi ký về Tố Hữu mang tên Ký ức người ở lại''. Bà qua đời năm 2012.
Vợ chồng Tố Hữu có ba người con, hai gái và một trai.
Vinh danh
Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến đường ở thủ đô Hà Nội, nối từ ngã tư Khuất Duy Tiến - Lê Văn Lương đến ngã tư Vạn Phúc - Đại Mỗ - Thanh Bình. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, đường Tố Hữu là một con đường chính nối ngã tư chợ Ga Nam Lý đến đường Hữu Nghị đi qua bến xe Nam Lý. Ở Huế cũng có một con đường mang tên ông. Còn có một ngôi trường mang tên Tố Hữu ở huyện Quảng Điền (nơi ông sinh ra).
Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Chú thích |
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là danh hiệu vinh dự cao nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, phong tặng hoặc truy tặng cho các cá nhân "có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có đạo đức, phẩm chất cách mạng" và những tập thể "có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nội bộ đoàn kết tốt; tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh."
Tính đến năm 2006, đã có 3.738 đơn vị được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 36 đơn vị được tuyên dương danh hiệu này 2 lần, 4 đơn vị được tuyên dương 3 lần. Về cá nhân, đã có 1.286 quân nhân được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: 148 trong kháng chiến chống Pháp, 859 trong Kháng chiến chống Mỹ, 279 trong các cuộc chiến khác. Trong số đó, 160 anh hùng là nữ và 163 anh hùng là người dân tộc thiểu số. Có 1 anh hùng là người nước ngoài khi được công nhận (ông Nguyễn Văn Lập, tên khai sinh là Kostas Sarantidis, người Hy Lạp sau nhập quốc tịch Việt Nam).
Lịch sử
Để động viên, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước, từ năm 1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Hội Liên Việt chủ trương tổ chức Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua để khích lệ và tuyên dương những tấm gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao động sản xuất. Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức 19 tháng 5 năm 1952 tại căn cứ địa Việt Bắc. Tại Đại hội này, ông Trường Chinh, với tư cách là Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam đã có bài phát biểu "Thi đua ái quốc với chủ nghĩa anh hùng mới" và ông Hồ Viết Thắng, thay mặt Chính phủ và Mặt trận báo cáo tình hình thi đua ái quốc trước Đại hội, nêu khái niệm đầu tiên về danh hiệu anh hùng chiến đấu và anh hùng lao động. Một số gương tiêu biểu cũng được giới thiệu báo cáo trước Đại hội.
Sau kỳ Đại hội này, ngày 10 tháng 8 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 107/SL tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc cho 7 chiến sĩ thi đua và Sắc lệnh 108/SL tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhất cho 24 chiến sĩ thi đua. Bảy cá nhân đầu tiên được tặng danh hiệu Anh hùng gồm 4 Anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu và Cù Chính Lan; 3 Anh hùng Lao động Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, diễn ra thêm 2 lần tuyên dương Anh hùng quân đội (31 tháng 8, 1955 và 7 tháng 5, 1956). Sau khi kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, tính đến năm 1970, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn tổ chức thêm 3 kỳ Đại hội liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc, tổng cộng đã có 289 cá nhân và 85 tập thể được phong danh hiệu Anh hùng (cả Anh hùng quân đội và Anh hùng lao động).
Tại miền Nam, từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 5 năm 1965, Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất được tổ chức với gần 150 chiến sĩ thi đua về dự. Tại Đại hội này, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã quyết định tuyên dương 23 Anh hùng quân giải phóng, trong đó có 2 phụ nữ (Tạ Thị Kiều và Nguyễn Thị Út), 4 là dân tộc ít người (gồm Hồ Vai, Pi Năng Tăk, Puih Thu, ?). Hai năm sau, Đại hội lần thứ hai được tổ chức tháng 9 năm 1967, có thêm 47 cá nhân được phong tặng danh hiệu này.
Ngày 15 tháng 1 năm 1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Pháp lệnh đặt các danh hiệu vinh dự nhà nước, Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, cùng với Thông tư 34-TTg ngày 11/3/1970 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn. Theo đó các danh hiệu Anh hùng chính thức được pháp điển hóa. Cũng từ đây, danh hiệu Anh hùng quân đội được chuyển tên thành danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Chịu ảnh hưởng của văn bản này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng thay đổi danh hiệu Anh hùng quân giải phóng thành danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam tại Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ ba tổ chức vào năm 1973.
Sau khi Việt Nam thống nhất, 2 danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (miền Bắc) và Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (miền Nam) thống nhất lại thành một danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Cấp đề nghị và quyết định phong tặng
Theo Pháp lệnh đặt các danh hiệu vinh dự Nhà nước: Anh hùng Lao động và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1970 (không viết hoa), việc tặng danh hiệu Anh hùng lao động và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét và quyết định, căn cứ vào đề nghị của Hội đồng Chính phủ.
Theo quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng, Quyết định phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (viết hoa) do Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam ký theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Hình thức phong tặng đối với cá nhân và tập thể
Cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân được cấp bằng và huy hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tập thể được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân được cấp bằng và huy hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và cờ "Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân".
Danh sách các cá nhân được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Bài chi tiết: Danh sách các cá nhân được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân |
Xem các chợ cùng tên khác tại Chợ Âm Phủ
Chợ 19 tháng 12 (thường gọi là Chợ Âm Phủ) là chợ họp hàng ngày trên suốt chiều dài phố 19 tháng 12, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chợ nổi tiếng với món thịt chó.
Phố 19 tháng 12 là một phố ngắn nằm cạnh Tòa án Nhân dân Hà Nội, một đầu đâm ra phố Lý Thường Kiệt, đầu kia đâm ra phố Hai Bà Trưng. Thời thuộc Pháp, phố có tên Rue Simoni, tên một viên quan Pháp đã có thời kỳ giữ chức Thống sứ Bắc Kỳ (1909-1912). Năm 1945 - 1946, phố được đổi tên thành phố Lê Chân.
Năm 1946-1947, toàn quốc kháng chiến nổ ra ở Hà Nội, nơi đây thành khu mộ tập thể của các nạn nhân chết trong khu vực Hàng Bông - Cửa Nam. chính vì khu mộ tập thể nên khi động thổ xây dựng các công trình không được, phải làm chợ chỉ chuyên bán thịt chó đuổi ma tà. Năm 1986, di cốt các nạn nhân chiến tranh được chuyển đi nơi khác và phố được đặt tên mới là Phố 19 tháng 12 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến và tưởng niệm các nạn nhân chiến tranh trong thời gian đó.
Chợ bắt đầu họp rải rác trên phố từ thời Hà Nội bị ném bom trong Chiến tranh Việt Nam, khi một số người buôn bán dạt từ chợ Hàng Da và Hàng Bè về để tránh bom Mỹ. Chợ tạm đông dần. Năm 1986, sau khi di cốt nạn nhân chiến tranh được chuyển đi, chợ được chính thức đặt tên là Chợ 19 tháng 12, nhưng dân gian vẫn quen gọi là Chợ Âm Phủ.
Cuối năm 2008, chợ này nằm trong kế hoạch xây lại thành trung tâm thương mại với một lối đi cho xe thành "Tổ hợp công trình thương mại - dịch vụ 19/12" Tuy vậy sau đó không xây trung tâm thương mại ở đây, chợ bị giải tỏa và phố 19 tháng 12 trở thành phố đi bộ, bán sách. |
Chứng cương đau của dương vật là tên gọi hiện trạng dương vật cương cứng quá lâu, quá cứng mà không mềm lại được, thường làm đau đớn. Đa số trường hợp không rõ nguyên nhân. Một số do bệnh trong cơ thể, một số khác do chích thuốc vào dương vật trong điều trị chứng liệt dương.
Chứng cương đau của âm vật cũng có xảy ra nhưng rất hiếm.
Chỉ có hai ống chứa máu thể hang ở trên lưng dương vật bị căng cứng, thể xốp (có chứa niệu đạo) phía dưới không bị tình trạng này.
Có hai dạng cương đau:
Do máu tuôn từ động mạch vào khi động mạch bị vỡ - dạng này ít đau, hiếm bị biến chứng về sau.
Do tĩnh mạch bị căng cứng và nghẽn không trả máu trở ra được, dạng này có thể làm biến đổi tế bào, tạo xơ, dễ gây chứng liệt dương.
Điều trị:
Chứng cương đau của dương vật là bệnh cần được điều trị cấp cứu.
Có nhiều phương pháp điều trị nhưng không phương pháp nào hoàn hảo.
Thuốc uống: Terbutaline 5 mg, thêm 5 mg 15 phút sau
Làm tê và rút máu ra từ dương vật, đồng thời bơm dung dịch có thuốc Phenylephrine vào.
Phẫu thuật
Nguồn
Priapism - Martin J Carey, MD, MPH, BCh. www.emedicine.com |
Đồng Nai Thượng là một tỉnh cũ ở Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam.
Chính quyền thực dân Pháp
Ngày 1 tháng 11 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra nghị định lập tỉnh Đồng Nai Thượng (Province du Haut-Donnaï) ở khu vực thượng lưu sông Đồng Nai, được giới hạn bởi biên giới của Nam Kỳ và của Campuchia, tách từ tỉnh Bình Thuận ra. Tỉnh lỵ đặt tại Di Linh (Djiring). Các công sứ Pháp lần lượt: A. Outrey (1900 - 1902), O'Connell (1902 - 1903).
Ngày 11 tháng 9 năm 1903, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng, chuyển thành đại lý hành chính Di Linh, do đại diện của Garnier, Công sứ Bình Thuận cai trị. Đại diện đầu tiên là Laugier. Ngày 6 tháng 1 năm 1916: thành lập tỉnh Lâm Viên, gồm đại lý Đà Lạt mới lập lại và đại lý Di Linh, tách từ tỉnh Bình Thuận. Tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt.
Ngày 31 tháng 10 năm 1920: lập lại tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh, cử O'Connell tiếp tục cai trị. Năm 1928, thời công sứ Cunhac, Pháp chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt. Năm 1941, khi lập lại tỉnh Lâm Viên, tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt thì tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng chuyển về Di Linh.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa
Tháng 6 năm 1957, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng, sau khi đã tách một phần sáp nhập với thành phố Đà Lạt và tỉnh Lâm Viên, thành lập tỉnh Tuyên Đức.
Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau 1945, Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhập tỉnh Lâm Viên với tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng. Chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam về sau cũng giữ nguyên phân cấp hành chính này. |
Riềng hay riềng thuốc, lương khương, củ riềng (danh pháp hai phần: Alpinia officinarum) là cây thân thảo thuộc họ Gừng.
Đặc điểm
Cây có thể cao đến 1,2 m, ra hoa tháng 4 đến tháng 9. Thân rễ có thể dùng làm thuốc, lá, thân và thân rễ dùng làm gia vị. Củ riềng non vỏ có màu tía, củ riềng khi già ngả dần sang màu trắng. Củ riềng có rễ khi thu hoạch thường phải cắt bỏ rễ.
Cây mọc hoang hoặc được trồng ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Tại Việt Nam, riềng được trồng phổ biến.
Hóa thực vật
Củ riềng chứa hàm lượng lớn flavonol galangin là chất đã được chứng minh là ngăn cản quá trình phát triển của tế bào ung thư vú.
Tác dụng của riềng
Củ riềng cùng họ gừng, nhưng tên của nó còn độc đáo hơn, đông y gọi là Cao Lương Khương, được xếp vào bậc cao hơn. Chữ Lương nghĩa là tốt hơn, Khương là họ gừng, mang tên Cao Lương có nghĩa là hay hơn về độ ấm. Củ riềng theo quan niệm của Đông Y nằm ở dưới đất, có vị cay. Người ta gọi củ riềng là địa hỏa. Địa là đất, hỏa là vị cay.
Tác dụng 1: Trị tiêu chảy.
Cũng như củ gừng, riềng làm ấm bụng, nghĩa là dùng trong trường hợp bụng bị lạnh, đi tiêu chảy. Nếu độ ấm của gừng tản ra giúp ra mồ hôi, thì riềng không tản ra mà tập trung trong vùng bụng, có tác dụng tiêu thực đối với chứng khó tiêu, đầy hơi. Những ai bị khuẩn coli, đi tiêu chảy liên tục ra nước, ruột kích ứng, dã nát một tép riềng rồi đổ tí nước sôi vào ngâm uống như uống trà.
Tác dụng 2: Chống đau co thắt dạ dày.
Chẳng hạn thấy đang ngồi làm việc bỗng nhiên ôm bụng gục xuống đau dữ dội. Trường hợp này có thể do dạ dày co thắt, đau dưới dạng thần kinh. Nếu không phải do ăn no hoặc quá đói mà vẫn đau thì nên nghĩ đến đau do thần kinh, gây co thắt nhiều quá. Quan sát thấy tư thế nếu gập đè vào mà đỡ đau đi, thì ta nghĩ đến đau do co thắt. Trong trường hợp này, sử dụng 2 vị thuốc là củ riềng và hương phụ (dân gian gọi là củ cỏ cú hoặc củ gấu, bỏ vào nồi rang lên cho hết lông bên ngoài rồi băm nhỏ ra). Cho một nhúm hương phụ và vài lát riềng tươi vào một cái tô và chế nước sôi vào, đậy nắp lại. Để khoảng 30 phút và uống thì có thể làm dịu cơn đau.
Tác dụng 3: Trị nôn mửa, ợ hơi.
Những bệnh nhân bị nôn mửa, bị nấc, đau, ợ hơi là do hỏa trong dạ dày bốc lên. Địa là ở dưới đất mang đặc tính âm sẽ hút xuống. Khi dùng riềng vào, cái đang nóng đưa lên gặp hỏa này, hai cái gặp nhau, lấy tác dụng của địa để giáng xuống, kéo hết cái hỏa xuống. Người đang nấc, hơi nóng lên liên tục thì uống một tí riềng vào sẽ đẩy hơi xuống, Đông Y gọi là giáng nghịch. Khí không bị nghịch lên nữa thì sẽ không bị nấc lên. Những người bị ợ hơi, bị khí chặn ngang ngực gây co thắt hoặc thậm chí tức vùng ngực phải lấy tay đấm ngực. Trong khi đi khám bác sĩ nói tim tốt, dạ dày tốt, không bị gì cả, nhưng khi nằm xuống lại cảm thấy ngăn nghẹn rất khó chịu, ăn một tí muốn ói ra bởi khí ngăn, lên không lên, xuống không xuống, nếu nặng hơn, dần dần lên tới cổ như cảm thấy vướng, Đông Y gọi là mai hạch khí. Trong trường hợp như vậy, sử dụng một tép riềng. Dã dập, chế nước sôi vào, đậy nắp một lát thì uống. Hương thơm của riềng sẽ kích thích bao tử, chất cay sẽ vào với chất hỏa, tính chất địa sẽ rút xuống làm cho hơi không lên được nữa, hương thơm sẽ kích thích tì vị, đẩy được hơi xuống.
Cũng có thể có thể cắt một miếng riềng để lên lòng cổ tay, dán nhẹ, chất riềng sẽ thấm qua huyệt nội quan dẫn vào trong, chất riềng sẽ làm cho dạ dày ấm lại và không đưa khí lên nữa.
Tác dụng 4: Trị lang beng.
Gọt bỏ vỏ ngoài củ riềng đập dập bỏ vào nồi, đổ tí dấm vào. Đun sôi. Khi đang sôi, gắp một miếng bông gòn nhúng vào, thấy còn hơi âm ấm thì xoa vào tất cả những chỗ có lang beng. Xoa như vậy đến ngày thứ hai, thứ ba sẽ hết ngứa. Từ ngày thứ năm trở đi thì da không còn những mảng trắng lang beng nữa.
Tuy nhiên, đối với trường hợp cảm mạo, hoặc xông, thì củ gừng lại hay hơn củ riềng. Điểm khác nhau là, vị của gừng cay và phát tán nên khi dùng thì ra mồ hôi và giải cảm, còn riềng đặc biệt không phát ra ngoài mà chỉ tập trung trong dạ dày. Như đối với bệnh nhân bị khí thống, là đau do khí, thì trường hợp này lại sử dụng riềng chứ không sử dụng gừng.
Hình ảnh
Chú thích
O
Thực vật Việt Nam
Cây thuốc
Gia vị
O
Thực vật được mô tả năm 1873
Cây thuốc châu Á |
Nghệ hay nghệ nhà, nghệ ta, khương hoàng (danh pháp hai phần: Curcuma longa) là cây thân thảo lâu năm thuộc họ Gừng, (Zingiberaceae), có củ (thân rễ) dưới mặt đất. Nó có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Tamil Nadu, phía đông nam Ấn Độ, và cần nhiệt độ từ 20 độ C đến 30 độ C (68 độ F và 86 độ F) và một lượng mưa hàng năm đáng kể để phát triển mạnh. Cây được thu hoạch hàng năm để lấy phần củ, và được nhân giống từ một phần trong số củ đó vào mùa sau.
Khi không được sử dụng ngay, củ được luộc trong khoảng từ 30 đến 45 phút và sau đó đem sấy khô trong lò nóng. Sau đó chúng được nghiền ra thành một loại bột có màu vàng cam sậm mà thường được sử dụng làm gia vị trong ẩm thực Tamil và kể cả các loại cà ri, hoặc để nhuộm màu, tạo màu cho các loại gia vị mù tạc. Thành phần hoạt động của nó là chất curcumin với hương vị hơi cay nóng, hơi đắng, có mùi mù tạc, và ‘mang hương vị của đất’ một cách khác biệt. Curcumin là tâm điểm thu hút vì tính năng chữa bệnh tiềm tàng với một số chứng bệnh, bao gồm ung thư, Alzheimer, tiểu đường, dị ứng, viêm khớp, và các loại bệnh mãn tính khác. Ấn Độ là nước sản xuất nghệ chính, với những tên gọi theo vùng tùy vào ngôn ngữ và quốc gia.
Vì nghệ là một hợp chất thực vật tự nhiên, nên nó không mang tính độc quyền để được cấp bằng sáng chế riêng.
Lịch sử
Còn được biết là haldi, nghệ đã được sử dụng ở Nam Ấn Độ qua hàng ngàn năm và là một thành phần chính trong y học Siddha. Lần đầu tiên nó được sử dụng làm thuốc nhuộm và sau đó là vì các giá trị y học của nó.
Từ nguyên học
Tên gọi này dường như bắt nguồn từ nước Anh vào thời trung cổ / đầu thời kỳ hiện đại là turmeryte hay tarmaret với nguồn gốc không chắc chắn. Nó cũng có thể là từ tiếng La tin terra merita (đất có giá trị).
Còn tên gọi của chi, là curcuma bắt nguồn từ tiếng Ả Rập của cả saffron và nghệ.
Mô tả thực vật học
Vẻ ngoài
Nghệ là một loại thực vật thân thảo lâu năm, mà có thể đạt đến chiều cao 1 mét. Cây tạo nhánh cao, có màu vàng cam, hình trụ, và thân rễ có mùi thơm. Các lá mọc xen kẽ và xếp thành hai hàng. Chúng được 1 thành bẹ lá, cuống lá và phiến lá. Từ các bẹ lá, thân giả được hình thành. Cuống lá dài từ 50 – 115 cm. Các phiến lá đơn thường có chiều dài từ 76 – 115 cm và hiếm khi lên đến 230 cm. Chúng có chiều rộng từ 38 – 45 cm và có dạng hình thuôn hoặc elip và thu hẹp ở chóp.
Cụm hoa, hoa, và quả
Ở Trung Quốc, thời gian mà nghệ ra hoa thường là vào tháng tám.
Ở phần cuối trên thân giả có một cụm hoa với thân dài từ 12 – 20 cm với nhiều bông hoa. Các lá non màu xanh nhạt, hình trứng với chiều dài từ 3 – 5 cm hay hình thuôn với chóp lá dạng tù.
Ở phía chóp của cụm hoa mà lá non hiện diện ở đó thì không có hoa. Những lá này có màu trắng hay xanh và đôi khi nhuốm màu đỏ - tím và phần chóp có dạng thon.
Những bông hoa lưỡng tính, mọc đối xứng hai bên và lớn gấp ba lần. Ba đài hoa dài từ 0.8 – 1.2 cm kết hợp với nhau và màu trắng, cùng với lông mịn và ba mấu đài không cân xứng. Ba cánh hoa màu vàng nhạt kết hợp thành một ống tràng hoa dài đến khoảng 3 cm. Ba thùy của tràng hoa có chiều dài từ 1 – 1.5 cm, hình tam giác với đầu trên có gai mềm. Trong khi thùy của tràng hoa ở giữa là lớn hơn so với hai bên. Thì chỉ có nhị hoa ở vòng tròn bên trong là sinh sản được. Túi phấn hoa được gắn tại đáy của nó. Tất cả các nhị hoa khác đều chuyển thành nhị lép (staminode). Các nhị lép bên ngoài thì ngắn hơn so với môi của hoa. Môi hoa có màu vàng, với một dải màu vàng ở giữa và nó là dạng trứng ngược, với chiều dài từ 1.2 – 2 cm. Ba lá noãn nằm dưới một bầu nhụy gồm ba thùy dính và không đổi, với lông thưa thớt.
Quả nang mở với ba ngăn.
Thành phần hóa sinh
Các thành phần hóa học quan trọng nhất của nghệ là một nhóm các hợp chất được gọi là curcuminoid, trong đó bao gồm curcumin (diferuloylmethane), demethoxycurcumin, và bisdemethoxycurcumin. Hợp chất được nghiên cứu nhiều nhất là curcumin, tạo thành 3.14% (theo lượng trung bình) bột nghệ. Ngoài ra còn có các loại tinh dầu quan trọng khác như turmerone, atlantone, và zingiberene. Một số thành phần khác là các loại đường, protein và nhựa.
Củ nghệ chứa khoảng 5% tinh dầu và đến 5% curcumin, một dạng polyphenol. Curcumin là hoạt chất chính trong củ nghệ, với ký hiệu C.I. 75300, hay Natural Yellow 3. Tên hóa học của nó là(1E,6E)-1,7-bis(4-hydroxy-3-methoxyphenyl)-1,6-heptadien-3,5-dion.
Sử dụng
Trong chế biến thực phẩm
Nghệ mọc hoang trong các khu rừng ở Nam Á và Đông Nam Á. Nó là một trong những thành phần chính trong nhiều món ăn châu Á. Y học cổ truyền Tamil, còn được gọi là Siddha, đã đề nghị sử dụng nghệ trong thực phẩm vì giá trị chữa bệnh tiềm năng của nó, mà vẫn là một chủ đề đang được nghiên cứu. Việc sử dụng nó để làm chất tạo màu không có giá trị chính trong ẩm thực Nam Á.
Nghệ chủ yếu được sử dụng trong các món ăn ngon, nhưng cũng được sử dụng trong một số món ăn ngọt như bánh Sfouf. Ở Ấn Độ, lá cây nghệ được sử dụng để làm một món ăn ngọt đặc biệt là patoleo, bằng cách xếp bột gạo cùng hỗn hợp dừa và thốt nốt trên lá, sau đó gói lại rồi hấp trong một nồi hấp đặc biệt bằng đồng(Goa).
Trong những công thức nấu ăn bên ngoài Nam Á, nghệ đôi khi được sử dụng làm chất tạo màu vàng rực như bánh. Nó được sử dụng trong đồ uống đóng hộp và các sản phẩm nướng, các sản phẩm sữa, kem, sữa chua, bánh ngọt màu vàng, nước cam, bánh quy, màu của bắp rang, kẹo, bánh kem, ngũ cốc, nước sốt, gelatin... Đây là một thành phần quan trọng trong hầu hết các loại bột cà ri thương mại.
Hầu hết các loại nghệ đều được sử dụng ở dạng bột củ, ở một số vùng (đặc biệt là ở Maharashtra, Goa, Konkan và Kanara), lá nghệ được sử dụng để bọc và nấu thức ăn. Cách sử dụng lá nghệ như thế này thường là ở những nơi mà nghệ được trồng tại đó, vì lá được sử dụng ngay khi vừa thu hoạch. Lá nghệ tạo một hương vị đặc biệt.
Mặc dù thường được sử dụng ở dạng bột khô, nghệ cũng được sử dụng ở dạng tươi, như là gừng. Nó có rất nhiều ứng dụng trong những công thức nấu ăn Viễn Đông, chẳng hạn như dưa muối được làm từ củ nghệ tươi có chứa các khối nghệ mềm.
Nghệ được sử dụng rộng rãi làm gia vị trong ẩm thực Nam Á và Trung Đông. Nhiều món ăn Ba Tư sử dụng nghệ như một thành phần khởi động. Hầu như tất cả các món ăn chiên ở Iran đều có dầu, hành, và nghệ kèm theo bất kỳ thành phần khác mà sẽ được thêm vào.
Ở Nepal, nghệ được trồng và được sử dụng rộng rãi trong nhiều món rau quả và thịt vì màu sắc cũng như giá trị tiềm năng của nó trong y học cổ truyền. Ở Nam Phi, nghệ được sử dụng để tạo màu vàng cho cơm.
Ở Việt Nam, bột nghệ được sử dụng để tạo màu sắc, và tăng thêm hương vị của các món ăn nhất định, chẳng hạn như bánh xèo, bánh khọt và mì quảng. Bột nghệ cũng được sử dụng trong nhiều món xào và các món canh ở Việt Nam. Lá nghệ được dùng như loại rau mùi tạo hương thơm ấm nóng, hơi nồng và khử mùi tanh cho các món gỏi, cháo, kho và canh.
Tại Indonesia, lá nghệ được sử dụng cho món cà ri Minangese hoặc cà ri Padangese ở Sumatra, như rendang, sate padang và nhiều món khác.
Tại Thái Lan, củ nghệ tươi được sử dụng rộng rãi trong nhiều món ăn, đặc biệt là trong các món ăn ở miền nam Thái Lan, chẳng hạn như cà ri vàng (แกง เหลือง) và súp củ nghệ (ต้ม ขมิ้น).
Trong thời trung cổ Châu Âu, nghệ đã được gọi là saffron Ấn Độ vì nó được sử dụng rộng rãi để thay thế cho saffron, loại gia vị tốn kém hơn rất nhiều.
Sử dụng trong y học cổ truyền và dân gian
Ở Tamil Nadu, nghệ đã được sử dụng trong y học cổ truyền hàng ngàn năm như một phương thuốc chữa các bệnh về dạ dày và gan, cũng như thường dùng để chữa lành các vết loét, do những tính chất kháng khuẩn cơ bản của nó. Trong hệ thống y học Siddha (từ năm 1900 TCN), nghệ là thuốc chữa một số bệnh và tình trạng như ở da, phổi, hệ thống tiêu hóa, đau nhức, các vết thương, bong gân, và các rối loạn ở gan. Nước ép nghệ tươi thường được sử dụng trong nhiều tình trạng về da, bao gồm cả bệnh chàm, thủy đậu, bệnh zona, dị ứng, và ghẻ.
Manjal Pal (sữa bột nghệ) là sữa ấm trộn với một ít bột nghệ. Nó thường được sử dụng ở Tamil Nadu như một bài thuốc gia truyền khi có ai đó đang bị sốt. Bột nghệ nhão thường được sử dụng ở Tamil Nadu để làm chất khử trùng các vết thương hở, còn chun - holud (nghệ trộn với vôi tôi) được sử dụng để cầm máu như phương pháp gia truyền. Nó cũng được sử dụng làm chất tẩy nám da ở Tamil Nadu.
Hợp chất hoạt động curcumin được cho là có một loạt các hiệu ứng sinh học bao gồm chống viêm, chống oxy hóa, hóa trị liệu, kháng sinh, kháng virus và các hoạt động của virus, cho thấy tiềm năng trong y học lâm sàng. Trong y học Trung Quốc, nó được sử dụng để điều trị các chứng nhiễm trùng khác nhau và cũng là một chất khử trùng.
Nghiên cứu y học ban đầu
Theo Trung tâm Quốc gia về Y học bổ sung và thay thế, " có rất ít bằng chứng đáng tin cậy để bổ sung việc sử dụng nghệ cho bất kỳ tình trạng sức khỏe nào bởi vì có rất ít thử nghiệm lâm sàng được tiến hành. "
Mặc dù các thử nghiệm đang được tiến hành trên việc sử dụng nghệ để điều trị ung thư, liều cần thiết cho bất kỳ hiệu quả nào ở con người đều rất khó để thiết lập. Người ta không biết rằng, thật sự có hay không những hiệu quả tích cực của nghệ trong việc chống ung thư hay bất cứ bệnh nào khác. Kể từ tháng 12 năm 2013, nghệ vẫn đang được đánh giá về hiệu quả tiềm năng của nó đối với một số bệnh ở con người trong các thử nghiệm lâm sàng, bao gồm các bệnh thận và tim mạch, viêm khớp, vài loại ung thư và bệnh ruột kích thích.
Cụ thể hơn, nghệ cũng đang được nghiên cứu trong mối quan hệ với bệnh Alzheimer, bệnh tiểu đường, và các rối loạn lâm sàng khác.
Tuy nhiên, theo các nghiên cứu cơ bản khác nhau, việc sử dụng chất curcumin hoặc nghệ có thể ngăn chặn một số giai đoạn phát triển ung thư ở dạng đa khối u. Một nghiên cứu về curcumin trên các tế bào ung thư ở người trong ống nghiệm bằng cách sử dụng hỗn hợp các phân tử với thuốc chống buồn nôn thalidomide để tạo ra quá trình chết rụng tế bào ở các tế bào gây ra ung thư tủy. Một số nghiên cứu cho thấy các hợp chất trong nghệ có đặc tính chống nấm và kháng khuẩn; Tuy nhiên, chất curcumin không phải là một trong số chúng.
Curcumin, thành phần hoạt động của nghệ, cũng đã được chứng minh là một phối tử của thụ thể vitamin D "với các quan hệ mật thiết trong việc ngăn chặn hóa học đối với ung thư ruột kết".
Thuốc nhuộm
Nghệ là một chất nhuộm vải kém, vì nó không bền màu. Tuy nhiên, nghệ thường được sử dụng trong trang phục Ấn Độ và Bangladesh, chẳng hạn như sari và áo choàng của tăng lữ Phật giáo. Nghệ (ký hiệu là E100 khi được sử dụng làm phụ gia thực phẩm) được sử dụng để bảo vệ các sản phẩm thực phẩm khỏi ánh sáng mặt trời. Các nhựa dầu của cây được sử dụng cho các sản phẩm có dầu. Dung dịch curcumin và polysorbate hoặc bột curcumin hòa tan trong cồn được sử dụng cho các sản phẩm có nước. Quá trình làm đậm màu đôi khi được sử dụng để bù cho màu bị phai, chẳng hạn như trong dưa chua, gia vị, và mù tạc.
Khi kết hợp với hạt điều màu (E160b), nghệ được sử dụng để tạo màu cho pho mát, sữa chua, hỗn hợp khô, trộn salad, bơ mùa đông và bơ thực vật. Nghệ cũng được sử dụng để tạo màu vàng cho mù tạt làm sẵn, nước canh thịt gà đóng hộp và các thực phẩm khác (thường là do giá rẻ hơn rất nhiều so với saffron).
Dùng trong nghi lễ
Nghệ được coi là rất linh thiêng và cao quý, tốt lành tại Tamil Nadu và đã được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ khác nhau trong hàng ngàn năm. Thậm chí ngày nay, nghệ còn được sử dụng trong lễ cưới và nghi lễ tôn giáo.
Nghệ đã đóng một vai trò quan trọng trong Ấn Độ giáo và tín ngưỡng người Tamil. Chiếc áo choàng của các nhà sư Tamil theo truyền thống đã được nhuộm màu vàng với chất nhuộm làm bằng củ nghệ. Vì màu vàng - cam của nó, nghệ được liên kết với mặt trời hoặc Thirumal (một vị thần nổi tiếng trong Ấn Độ giáo, cũng là tên gọi khác của thần Vishnu) trong thần thoại của tín ngưỡng Tamil cổ đại, và được xem là tập trung của những luân xa, nguồn năng lượng tâm linh. |
Lâm Viên, đôi khi cũng được viết thành Lang Biang, Langbiang, Langbian hay Lâm Biên, là một tỉnh cũ ở Tây Nguyên.
Ngày 6 tháng 1 năm 1916: Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Lâm Viên, gồm đại lý Đà Lạt mới lập lại và đại lý Di Linh, tách từ tỉnh Bình Thuận. Tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt.
Ngày 31 tháng 10 năm 1920: Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định xóa bỏ tỉnh Lâm Viên, một phần lập ra thành phố Đà Lạt, phần còn lại lập lại tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh.
Ngày 8 tháng 1 năm 1941, lập lại tỉnh Lâm Viên, tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt.
Tháng 6 năm 1957, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập tỉnh Tuyên Đức trên cơ sở tỉnh Lâm Viên cộng với một phần nhỏ tỉnh Đồng Nai Thượng. Còn chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nhập tỉnh Lâm Viên với tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng. |
Patrick Süskind (sinh năm 1949) là một nhà văn và nhà viết kịch bản người Đức.
Tiểu sử và sự nghiệp
Patrick Süskind sinh ngày 26 tháng 3 năm 1949 tại Ambach gần hồ Starnberg. Ông học đại học về lịch sử tại München và Aix-en-Provence và hiện nay sống tại München và Paris.
Cha của ông, Wilhelm Emanuel Süskind, là nhà văn, người biên dịch và cộng tác viên lâu năm của tờ báo Süddeutsche Zeitung.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Mùi hương (Das Parfum, 1985) đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng và năm 2005 đã được đạo diễn Tom Tykwer chuyển thể phim sau khi hãng Constantin-Film đảm nhận phí tổn sản xuất và mua quyền sở hữu với tròn 10 triệu Euro. Ngoài ra Süskind còn tham gia viết các kịch bản cho bộ phim truyền hình nhiều tập Monaco Franze (1982) và Kir Royal (1986) cũng như cho các phim truyện Rossini - oder die mörderische Frage, wer mit wem schlief (1997) và Vom Suchen und Finden der Liebe (2005), được đạo diễn Helmut Dietl quay thành phim.
Der Kontrabaß, vở kịch độc thoại một hồi trong năm 1981, với hơn 500 lần diễn trong mùa diễn 1984/1985 là vở kịch được diễn nhiều nhất trên sân khấu tiếng Đức.
Có rất ít người khước từ cao độ các mong đợi từ đời sống văn học như Süskind. Ông gần như không tiếp nhận phỏng vấn mình, không xuất hiện trong giới công chúng và đã từ chối nhiều giải thưởng khác nhau như Giải Gutenberg, Giải Tukan và giải thưởng văn học của tờ báo Frankfurter Allgemeine Zeitung.
Ông đã có một vai diễn xuất nhỏ trong bộ phim truyền hình 10 tập Monaco Franze.
Tác phẩm
Der Kontrabaß, 1981
Mùi hương (Nguyên tác tiếng Đức: Das Parfum, 1985, ISBN 3-8044-0392-1)
Chỉ tại con chim bồ câu (Nguyên tác tiếng Đức: Die Taube, 1987)
Chuyện về chú Sommer (Nguyên tác tiếng Đức: Die Geschichte von Herrn Sommer, 1991)
Rossini – oder die mörderische Frage, wer mit wem schlief, 1997
Drei Geschichten, 2005, ISBN 3-257-23468-6
Chuyển thể
Tiểu thuyết Mùi hương của ông đã được chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 2006. |
UDP (User Datagram Protocol) là một trong những giao thức cốt lõi của giao thức TCP/IP. Dùng UDP, chương trình trên mạng máy tính có thể gửi những dữ liệu ngắn được gọi là datagram tới máy khác. UDP không cung cấp sự tin cậy và thứ tự truyền nhận mà TCP làm; các gói dữ liệu có thể đến không đúng thứ tự hoặc bị mất mà không có thông báo. Tuy nhiên UDP nhanh và hiệu quả hơn đối với các mục tiêu như kích thước nhỏ và yêu cầu khắt khe về thời gian. Do bản chất không trạng thái của nó nên nó hữu dụng đối với việc trả lời các truy vấn nhỏ với số lượng lớn người yêu cầu.
Những ứng dụng phổ biến sử dụng UDP như DNS (Domain Name System), ứng dụng streaming media, Voice over IP, Trivial File Transfer Protocol (TFTP), và game trực tuyến.
Cổng
UDP dùng cổng để cho phép các giao tiếp giữa các ứng dụng diễn ra.
Cổng dùng 16 bit để đánh địa chỉ, vì vậy số của cổng nằm trong khoản 0 đến 65.535. Cổng 0 được để dành và không nên sử dụng.
Cổng từ 1 đến 1023 được gọi là cổng "well-known" và trên các hệ điều hành tựa Unix, việc gắn kết tới một trong những cổng này đòi hỏi quyền root.
Cổng 1024 đến 49.151 là cổng đã đăng ký.
Cổng từ 49.152 đến 65.535 là các cổng tạm, được dùng chủ yếu bởi client khi liên lạc với server.
Cấu trúc gói
UDP là giao thức hướng thông điệp nhỏ nhất của tầng giao vận hiện được mô tả trong RFC 768 của IETF.
Trong bộ giao thức TCP/IP, UDP cung cấp một giao diện rất đơn giản giữa tầng mạng bên dưới (thí dụ, IPv4) và tầng phiên làm việc hoặc tầng ứng dụng phía trên.
UDP không đảm bảo cho các tầng phía trên thông điệp đã được gửi đi và người gửi cũng không có trạng thái thông điệp UDP một khi đã được gửi (Vì lý do này đôi khi UDP còn được gọi là Unreliable Datagram Protocol).
UDP chỉ thêm các thông tin multiplexing và giao dịch. Các loại thông tin tin cậy cho việc truyền dữ liệu nếu cần phải được xây dựng ở các tầng cao hơn.
Phần header của UDP chỉ chứa 4 trường dữ liệu, trong đó có 2 trường là tùy chọn (ô nền đỏ trong bảng).
Source port Trường này xác định cổng của người gửi thông tin và có ý nghĩa nếu muốn nhận thông tin phản hồi từ người nhận. Nếu không dùng đến thì đặt nó bằng 0.
Destination port Trường xác định cổng nhận thông tin, và trường này là cần thiết.
Length Trường có độ dài 16 bit xác định chiều dài của toàn bộ datagram: phần header và dữ liệu. Chiều dài tối thiểu là 8 byte khi gói tin không có dữ liệu, chỉ có header.
Checksum Trường checksum 16 bit dùng cho việc kiểm tra lỗi của phần header và dữ liệu. Phương pháp tính checksum được định nghĩa trong RFC 768.
Do thiếu tính tin cậy, các ứng dụng UDP nói chung phải chấp nhận mất mát, lỗi hoặc trùng dữ liệu. Một số ứng dụng như TFTP có nhu cầu phải thêm những kỹ thuật làm tin cậy cơ bản vào tầng ứng dụng. Hầu hết các ứng dụng UDP không cần những kỹ thuật làm tin cậy này và đôi khi nó bị bỏ đi. Streaming media, game trực tuyến và voice over IP (VoIP) là những thí dụ cho các ứng dụng thường dùng UDP. Nếu một ứng dụng đòi hỏi mức độ cao hơn về tính tin cậy, những giao thức như TCP hoặc mã erasure có thể được sử dụng để thay thế.
Thiếu những cơ chế kiểm soát tắc nghẽn và kiểm soát luồng, các kỹ thuật dựa trên mạng là cần thiết để giảm nguy hiệu ứng cơ tắc nghẽn dây chuyền do không kiểm soát, tỷ lệ tải UDP cao. Nói cách khác, vì người gởi gói UDP không thể phát hiện tắc nghẽn, các thành phần dựa trên mạng như router dùng hàng đợi gói (packet queueing) hoặc kỹ thuật bỏ gói như là những công cụ để giảm tải của UDP. Giao thức Datagram Congestion Control Protocol (DCCP) được thiết kế như một giải pháp cho vấn đề bằng cách thêm hành vi kiểm soát tắc nghẽn cho thiết bị đầu cuối cho các dòng dữ liệu UDP như streaming media.
Mặc dù tổng lượng lưu thông của UDP trên mạng thường chỉ vài phần trăm, nhưng có nhiều ứng dụng quan trọng dùng UDP, bao gồm DNS, SNMP, DHCP và RIP. |
Miễn trách nhiệm Dọc mạn Tàu nơi đi (tiếng Anh: Free Alongside Ship, viết tắt FAS)còn được gọi là " Giao dọc mạn tàu" là một thuật ngữ trong Incoterm. Nó có nghĩa là bên bán hàng chi trả cước vận chuyển (nội địa) hàng hóa tới cảng giao hàng. Bên mua thanh toán cước phí xếp hàng, vận tải, bảo hiểm, dỡ hàng và vận chuyển (nội địa) từ nơi dỡ hàng tới nơi lưu giữ hàng hóa của mình. Sự chuyển dịch rủi ro diễn ra khi hàng hóa được giao tại cầu cảng nơi giao hàng.
Theo điều kiện này, người bán phải:
Giao hàng dọc mạn con tàu do người mua chỉ định
Cung cấp chứng từ hoàn hảo thường lệ chứng minh hàng đã được đặt thực sự dọc mạn tàu.Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất
Người mua phải:
Kịp thời chỉ định tàu chuyên chở
Ký kết hợp đồng chuyên chở và trả cước
Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng kể từ khi hàng đã thực sự được giao dọc mạn tàu |
Giao Chưa nộp Thuế (tiếng Anh: Delivered Duty Unpaid, viết tắt: DDU) là một thuật ngữ về điều kiện giao hàng của Incoterm.
Theo điều kiện giao hàng này, trách nhiệm của các bên như sau:
Bên bán hàng có trách nhiệm:
Thanh toán mọi cước phí xếp dỡ, giao nhận,
Làm thủ tục xuất khẩu
Vận chuyển và chịu mọi rủi ro về hàng hóa cho đến khi hàng được giao tại địa điểm chỉ định của bên mua hàng (thường là tại nhà xưởng của bên mua), nhưng không phải nộp thuế nhập khẩu và các khoản thuế, phí, lệ phí nhập khẩu khác (nếu có).
Bên mua có trách nhiệm
Làm thủ tục nhập khẩu
Nộp các khoản thuế, phí, lệ phí nhập khẩu (nếu có) và bố trí nhận hàng, dỡ hàng từ trên phương tiện vận tải xuống (tại địa điểm chỉ định của bên mua hàng).
Điều kiện giao hàng này tại Việt Nam hiện nay chủ yếu được áp dụng cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế xuất - nhập khẩu nội địa, nghĩa là các doanh nghiệp hoạt động có đăng ký theo loại hình ĐT (đầu tư), GC (gia công) hoặc một số loại hình khác, nằm trong và ngoài các khu chế xuất, khu công nghiệp mua bán hàng hóa với nhau và về danh nghĩa đây là hoạt động xuất - nhập khẩu đối ứng, cho dù hàng hóa thực sự chưa vượt qua ranh giới lãnh thổ của quốc gia. |
Giao Đã nộp Thuế (tiếng Anh: Delivered Duty Paid, viết tắt: DDP) là một thuật ngữ của Incoterm. Nó có nghĩa là bên bán hàng phải thanh toán mọi cước phí vận chuyển và gánh chịu mọi rủi ro cho đến khi hàng hóa được giao cho bên mua hàng cũng như phải nộp mọi thứ thuế (nếu có) trước khi hàng được giao cho bên mua, chẳng hạn thuế nhập khẩu.Bên mua phải chịu chi phí bốc dỡ hàng khi hàng đã vận chuyển đến nơi nhận. |
Trần Độ (23 tháng 9 năm 1923 – 9 tháng 8 năm 2002) là nhà quân sự, chính trị gia người Việt Nam, Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong Quốc hội Việt Nam ông giữ chức vụ Phó chủ tịch Quốc hội khóa VII, giai đoạn 1987-1992.
Tiểu sử
Trần Độ tên thật là Tạ Ngọc Phách, sinh trưởng trong một gia đình công chức ở làng Thư Điền phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình (nay là xã Tây Giang huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Bố ông là thư ký ở tòa thông sứ tại Hà Nội, thường gọi là "quan phán".
Năm 1939, ông tham gia làm báo Người Mới cùng với Nguyễn Thường Khanh, tức Trần Mai Ninh ở Hà Nội. Trong cuộc ruồng bố năm đó, ông bị Pháp bắt giữ nhưng không có chứng cứ để buộc tội nên ông lại được thả.
Trần Độ gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1940. Cuối năm 1941, ông lại bị bắt. Tòa án tại Thái Bình xử án 15 năm tù giam. Cuối năm 1941, từ Hoả Lò (Hà Nội), Trần Độ bị đầy lên Sơn La. Tại đây, ở tù cùng thời gian này có Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy... Năm 1943, trên đường giải từ Sơn La ra Côn Đảo, Trần Độ đã trốn thoát để ra ngoài tiếp tục hoạt động cách mạng. Ông lãnh đạo giành chính quyền ở Đông Anh, Hà Nội rồi bước vào cuộc đời binh nghiệp.
Công tác chính trị trong quân đội
Năm 1946, ở tuổi 23, ông làm Chính ủy Mặt trận Hà Nội khi Toàn quốc kháng chiến. Năm 1948 ông được phong hàm đại tá. Sau đó ông tham gia làm báo Vệ quốc quân (sau này là báo Quân đội nhân dân) trực thuộc Cục Chính trị, từ số 21 trở đi ông là Chủ nhiệm báo.
Năm 1950, ông làm chính ủy Trung đoàn Sông Lô mà Lê Trọng Tấn làm Trung đoàn trưởng, rồi làm Chính ủy Đại đoàn 312. Năm 32 tuổi (1955), Trần Độ là Chính ủy Quân khu 3 (Quân khu Tả ngạn) và đến năm 1958 được phong hàm Thiếu tướng.
Đầu năm 1965 ông vào miền Nam Việt Nam với bí danh Chín Vinh, cùng với các tướng Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm để gây dựng lực lượng vũ trang chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa và giữ chức Phó Chính ủy và Phó Bí thư Quân ủy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Tháng 3 năm 1974, ông được phong hàm Trung tướng cùng đợt với Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đàm Quang Trung, Đồng Sĩ Nguyên.
Từ năm 1974 đến năm 1976, ông giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Công tác tuyên huấn, văn nghệ
Chuyển sang ngạch dân sự, ông giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa kiêm Phó Ban Tuyên huấn Trung ương phụ trách văn hóa văn nghệ. Khi Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương được thành lập (1981), ông giữ chức Trưởng ban kiêm Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Ở chức vụ này ông đã soạn nghị quyết số 5, củng cố tiến trình Cởi Mở văn hóa trong thời kỳ Đổi Mới.
Ông còn làm Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VII, Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa và giáo dục của Quốc hội, ủy viên Hội đồng Nhà nước (1989-1992).
Ông cũng là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa III (dự khuyết từ năm 1960 đến năm 1972), IV, V, VI (1960-1991).
Ông đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công (hạng nhất và hạng ba), Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì, Ba) và nhiều huân, huy chương khác của Đảng, nhà nước Việt Nam cùng các nước Xã hội Chủ nghĩa khác.
Thời kỳ này, ông bắt đầu tỏ ra bất đồng với một số lãnh đạo cao cấp khác của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông có những bài viết đòi đa nguyên đa đảng, áp dụng mô hình chính trị phương Tây, loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài viết này bị đánh giá là vi phạm nghiêm trọng điều lệ Đảng viên, ông bị khai trừ khỏi Đảng ngày 4 tháng 1 năm 1999 khi đã 59 năm tuổi đảng.
Ông mất ngày 9 tháng 8 năm 2002 sau một thời gian dài lâm bệnh nặng, tuổi cao, sức yếu.
Đám tang
Cái chết của ông 4 ngày sau mới được chính quyền Việt Nam chính thức đưa tin. Đám tang ông tuy vậy có sự tham dự đông đảo mọi tầng lớp quần chúng và trí thức, văn nghệ sĩ. Có đại diện của 130 hội đoàn, cơ quan, cựu chiến binh và cư dân sinh quán Thái Bình. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi vòng hoa đến viếng nhưng người đưa vòng hoa đại tá Huyên phải quyết liệt đấu tranh, mới được giữ hai chữ "thương tiếc", phải bỏ hai chữ "vô cùng" trên vòng hoa tang . Cả gia đình Đại tướng Lê Trọng Tấn cũng có mặt đông đủ.
Trong đôi câu đối tặng Trần Độ, Hà Sĩ Phu viết:
Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên, song trọng đảm
Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm.
Về phía chính quyền đại diện cao nhất là Phó chủ tịch Quốc hội. Trưởng ban tổ chức là Vũ Mão, đứng đầu ủy ban đối ngoại của Quốc hội, đã đọc điếu văn có một số đoạn mang nội dung chỉ trích lầm lỗi của ông, những đoạn này bị trưởng nam ông Độ phản đối.Lễ Oâng Trần Độ: Không Khí Chống Đảng Sôi Nổi, vietbao.com, 15/08/2002
Quan điểm chính trị của Trần Độ
Ở cương vị thay mặt Đảng lãnh đạo văn nghệ, ông có ý thức "cởi trói" cho văn nghệ. Ông nhận thức rằng: "Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp.".
Không có khả năng và phương pháp để phát hiện tài năng
Không có khả năng và không biết sử dụng tài năng, vì nó cho rằng tài năng thường có hại, tài năng không chịu ngoan ngoãn phục tùng
Nó lại càng không có khả năng phân biệt tài năng thật và tài năng giả, trí thức thật và trí thức giả. Nó chỉ thích nghe những điều xuôi chiều và xu nịnh, Nó không thể chịu được những cái độc đáo và không dung tha sự độc lập".
Về vấn đề Đảng lãnh đạo, Trần Độ phát biểu: "Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hoá, ruỗng nát, tắc tỵ không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể Đảng nữa".
Theo Trần Độ "nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng". Ông tuyên bố: "Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ "hiệp thương" mà thực chất là gò ép".
Trần Độ có 4 câu thơ giãi bày tâm sự bất mãn của mình (và được một số tài liệu đăng lại khác nhau):
Chính vì các quan điểm trên mà ông bị khai trừ khỏi đảng Cộng sản Việt Nam.
Ấn phẩm viết về cuộc đời ông sau khi ông mất
Tháng 10 năm 2007, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành cuốn Chuyện tướng Độ. Cuốn sách dày 318 trang đã vẽ lại chân dung của Trần Độ, là một vị tướng nổi tiếng tài ba đồng thời là nhà văn đã gắn chặt đời mình vào cây súng và cây bút đi cùng dân tộc suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại. Giúp bạn đọc tìm hiểu về một Trần Độ có nhiều công trạng, có cá tính, thuộc dạng lão thành của cách mạng Việt Nam: 16 tuổi đã đi hoạt động; 17 tuổi bị địch bắt, bị giam cầm qua nhiều nhà tù…rồi trốn thoát tiếp tục hoạt động.
Có đoạn đại ý: sau 1974 ông được đi công tác nước ngoài (Cộng hòa Dân chủ Đức), ông đã nhận ra rất nhiều điều chưa ổn và không ổn trong nguyên lý cũng như thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, ông nghiên cứu và viết một bức "Thư tâm huyết", dài 14 trang, trình bày tất cả những gì ông thấy, ông nghĩ, ông muốn về xây dựng chủ nghĩa xã hội, gửi tới lãnh đạo đảng Cộng sản. Ông viết vào kiến nghị phát hiện của ông về sự nhầm lẫn khái niệm trong lý luận của Stalin và dự báo những hậu quả của nó, ông hiến những giải pháp, ông không hề né tránh cả những điều mà ngày ấy nói ra rất khó nghe.
Giải pháp đáng chú ý nhất là ông đề nghị mời những nước có nền kinh tế phát triển vào trong nước hợp tác đầu tư, không kể đó là nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa.
Nhà văn Võ Bá Cường đã công bố nguyên vẹn bức thư ấy ở phần cuối cuốn sách. Bây giờ Trần Độ đã mất, cuốn sách này chỉ viết về những công trạng của ông chứ không nói về những chính kiến bất đồng mà ông phát biểu khi về già, dù rằng cuốn sách có nhắc đến việc ông là người bị khai trừ ra khỏi Đảng Cộng sản.. |
Hoàng Đạo (1907-1948), tên thật: Nguyễn Tường Long, là một nhà văn Việt Nam, trong nhóm Tự Lực văn đoàn.
Ngoài bút danh Hoàng Đạo, ông còn có những bút danh khác: Tứ Ly, Tường Minh.
Cuộc đời
Đi học
Hoàng Đạo, sinh ngày 16 tháng 11 năm 1907 tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, trong một gia đình công chức, gốc quan lại đã đến hồi sa sút.
Cha ông là Nguyễn Tường Nhu (1881-1918) làm Thông phán và mẹ là Lê Thị Sâm, con gái cả viên quan võ Lê Quang Thuật ở Cẩm Giàng (Hải Dương).
Hoàng Đạo là người con thứ tư trong một gia đình gồm sáu trai, một gái. Trừ người anh cả Nguyễn Tường Thụy, là công chức, từ người anh thứ hai Nguyễn Tường Cẩm đến Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Vinh và người em út là bác sĩ Nguyễn Tường Bách, đều đã ít nhiều dự vào nghiệp văn chương.
Khi ông chào đời, được cha đặt tên là Tứ (cho thuận vì trước đã có Tam [Nguyễn Tường Tam]), nhưng sau nghĩ lại, mới thấy cái tên này trùng tên người bạn thân của mình, nên gọi chệch là Tư (Nguyễn Tường Tư). Sau vì ông không đủ tuổi để đi thi, gia đình đã khai thêm bốn tuổi (thành ngày 3 tháng 4 năm 1903 trên giấy khai sinh) và đổi tên lại là Nguyễn Tường Long
Lúc nhỏ, Hoàng Đạo đi học ở trường huyện Cẩm Giàng. Hết bậc tiểu học, Hoàng Đạo bị ốm nên tự học tại nhà. Năm 1924, ông đậu bằng Cao đẳng tiểu học Pháp, được bổ làm Tham tá ngân khố Hà Nội.
Tiếp tục học, ông đỗ bằng Tú tài Pháp năm 1929. Năm sau, ông thi vào trường Luật Đông Dương tại Hà Nội. Tốt nghiệp với tấm bằng Cử nhân luật, ông được bổ làm Tham tá lục sự Tòa án Đà Nẵng rồi Hà Nội.
Theo Khúc Hà Linh, Hoàng Đạo học luật được một năm, thì có lệnh cử đi làm Tri huyện. Nhưng sau khi nghe mẹ lời khuyên, ông đã khéo từ chối.
Viết văn, làm báo, tham gia chính trị
Làm công chức ít lâu, năm 1932, Hoàng Đạo bước sang lĩnh vực báo chí. Khởi đầu, ông viết cho tờ Phong hóa của Nguyễn Tường Tam, rồi cùng với người anh này và Khái Hưng chủ trì bút nhóm Tự Lực văn đoàn.
Trên báo Phong hóa, ông lấy bút hiệu là Tứ Ly, chuyên viết những bài đả kích và châm biếm giới quan lại và bài trừ hủ tục trong xã hội Việt Nam. Năm 1936, tờ Phong hóa bị đóng cửa vì ông viết bài động chạm đến Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu.
Năm 1938, ông cho xuất bản tác phẩm đầu tay: Trước vành móng ngựa, gồm những bài phóng sự đã đăng trên báo Phong hóa.
Năm 1939, Nguyễn Tường Tam thành lập đảng Hưng Việt (sau đổi tên là đảng Đại Việt Dân Chính). Vì đảng chủ trương công khai chống Pháp và lật đổ triều đình Huế, cuối năm 1940, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt và bị đầy lên Sơn La. Mãi đến năm 1943 Hoàng Đạo mới được thả nhưng vẫn bị quản thúc tại Hà Nội.
Trong thời gian đó, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay đến cuối năm 1941, mới bị đóng cửa. Năm 1942, Nhất Linh chạy sang Quảng Châu, Thạch Lam mất tại Hà Nội.
Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, Hoàng Đạo cùng Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách lo tục bản tờ Ngày nay (khổ nhỏ, số đầu tiên ra ngày 5 tháng 3 năm 1945) và trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Việt Minh nắm chính quyền. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 Chính phủ liên hiệp ra đời. Sau đó, Hoàng Đạo được bổ sung (không qua bầu cử) làm đại biểu Quốc hội khóa I, được cử giữ chức Bộ trưởng Kinh tế một thời gian ngắn (sau Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội, ngày 2 tháng 3 năm 1946, thì Chu Bá Phượng lên thay). Ngày 4 tháng 6 năm 1946 Chu Bá Phượng được cử vào phái đoàn sang Paris đàm phán, Hoàng Đạo được cử làm Cố vấn Bộ Quốc dân Kinh tế.
Một lần được cử lên Vĩnh Yên giải quyết việc một vụ gây rối, Hoàng Đạo đã tìm cách sang Trung Quốc. Ngày 22 tháng 7 tháng 1948, trên chuyến xe lửa từ Hương Cảng về Quảng Châu, khi vừa tới ga Thạch Long, Hoàng Đạo bị đột quỵ rồi mất, lúc 42 tuổi.
Thi hài ông được gia đình an táng tại thị trấn Thạch Long (Trung Quốc).
Trước đây (1933), được một người bạn của mẹ làm mối, ông lập gia đình với Marie Nguyễn Bình (1913-1975), con gái một quả phụ khá giả. Ông và vợ sống hạnh phúc và có cả thảy bốn người con (ba gái và một trai).
Tác phẩm
Trước vành móng ngựa (phóng sự, 1938)
Mười điều tâm niệm (luận thuyết, 1939)
Bùn lầy nước đọng (luận thuyết, 1940)
Con đường sáng (tiểu thuyết, cùng viết chung với Nhất Linh, 1940)
Tiếng đàn (tập truyện ngắn, 1941)
Sách viết cho thiếu nhi (loại sách hồng):
Con cá thần
Lan và Huệ
Con chim di sừng
Sơn Tinh
Lên cung trăng
Tất cả các sách trên đều do Nhà xuất bản Đời Nay (Hà Nội) thuộc Tự Lực văn đoàn ấn hành.
Nhận xét
Về tác giả
Hoàng Đạo từng được bổ làm Tri huyện, với mức lương 140 đồng, nhưng ông đã từ chối. Ngày còn làm Tham Tá lục sự tòa án Đà Nẵng, có người cùng sở muốn làm mối cho ông một cô gái Huế, con một vị Hồng lô tự khanh rất có vị thế, nhưng ông cũng không ưng...
Sau này, khi ông tham gia chính trị, thì anh em và đồng chí đều nể Nhất Linh, nhưng quý Hoàng Đạo, bởi ông mới là người mưu lược. Khi nhận được tin Hoàng Đạo mất, những người thân đã nói rằng: "Hoàng Đạo không còn, nhất định Nhất Linh sẽ từ bỏ chính trị". Quả như vậy. Về nước gần mười năm (1950-1959), Nhất Linh xa lánh chính trị, tập trung vào việc viết sách báo, vui với thiên nhiên hoa cỏ...
Về tác phẩm
Trích đáng giá của:
Nhà văn Vũ Ngọc Phan:
Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh đều có khuynh hướng về gia đình...còn tiểu thuyết của Hoàng Đạo có khuynh hướng xã hội.
Tác phẩm đầu tay của ông (Trước vành móng ngựa), làm người đọc vừa phì cười vừa thương tâm. Quyển Con đường sáng có những ý hay, nhưng tác giả quá thiên về tả cảnh...Những nhân vật không có những ngôn ngữ và hành động sâu sắc, nên cá tính của họ không được rõ...
...Hoàng Đạo là một nhà văn sở trường về nghị luận, về châm biếm hơn là về tiểu thuyết. Ở hai loại trên, ông phán đoán vững vàng, lập luận chắc chắn, còn loại tiểu thuyết ông không được giàu tưởng tượng cho lắm....
Nhà nghiên cứu Văn Tâm:
"Trước vành móng ngựa", là tập phóng sự đặc sắc về tóa án. Tuy tác giả không mấy quan tâm đến "luận đề", nhưng sự thật giản đơn được chọn lọc phản ánh, lại tự nói lên ý nghĩa sâu xa của nó, từ đó có khả năng thuyết phục độc giả một cách thấm thía về hiện thực dân sinh và dân trí bi đát đương thời...
Với "Mười điều tâm niệm", Hoàng Đạo có hoài bão hướng dẫn lẽ sống đúng đắn cho thanh niên...Và chủ trương trong quyển này đã được tác giả hình tượng hóa qua cặp nhân vật nam nữ Duy và Thơ trong tiểu thuyết "Con đường sáng". Duy, sau một thời gian chơi bời, đến khi chán nản muốn tự sát, thì bỗng giác ngộ ra được "con đường sáng"...Cụ thể là lẽ sống của thanh niên tân tiến là nhẫn nại mưu tính cho giới bình dân có được một cuộc đời êm đẹp. Duy kết hôn với Thơ, một thiếu nữ có tâm hồn thanh cao, rồi cùng về nơi " bùn lầy nước đọng" cứu giúp đám nông dân nghèo khổ, thất học và bệnh tật...Nhưng cuối cùng công cuộc cải lương hương xã của họ đã thất bại..."Con đường sáng" có lối văn trong trẻo, đôi chỗ trữ tình. Tác giả chứa đựng những nét hiện thực, nhưng các hình tượng nhân vật thì còn mờ nhạt, ít gây ấn tượng sâu sắc...
Chú thích
Sách tham khảo
Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (tập 2). Nhà xuất bản KHXH in lại năm 1989.
Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam . Nhà xuất bản KHXH, 1992.
Nhiều người soạn, Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh: Ánh sáng và bóng tối. Nhà xuất bản Thanh Niên, 2008. |
Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng, sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941), nguyên quán xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội, là một nhà thơ Việt Nam. Ông đã từng là Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam và Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội.
Tiểu sử
Bằng Việt nguyên quán xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Ông sinh năm 1941 tại phường Phú Cát, thành phố Huế nhưng có cuộc sống tuổi thơ ở Hà Tây, học trung học tại Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lý, Đại học Tổng hợp Kiev. Liên Xô năm 1965, Bằng Việt về Việt Nam, công tác tại Viện Luật học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Đến năm 1969, ông chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1970, ông tham gia công tác ở chiến trường Bình Trị Thiên, với tư cách là một phóng viên chiến trường và làm tại Bảo tàng truyền thống cho đoàn Trường Sơn. Năm 1975, ông công tác ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
Sau khi về Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (gọi tắt là Hội Văn nghệ Hà Nội) năm 1983, ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1983-1989) và là một trong những người sáng lập tờ báo văn nghệ Người Hà Nội (xuất bản từ 1985).
Sau đó được bầu làm Uỷ viên Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, làm tổng biên tập tờ tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (1989-1991).
Năm 2001, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội và được bầu lại làm Chủ tịch Hội nhiệm kỳ 2006 - 2010.
Tại Đại hội lần thứ VII Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (tháng 9 năm 2005), Bằng Việt được bầu làm một trong 5 Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Ông cũng từng làm Thư ký thường trực, rồi Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội (1991-2000).
Sau Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII, Bằng Việt đã đệ đơn lên Ban Chấp hành xin từ chức sau khi đã giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng Thơ suốt hai nhiệm kỳ với lý do công việc.
Sự nghiệp
Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi, bài thơ đầu tiên của ông được công bố là bài Qua Trường Sa viết năm 1961. Ông đã thể hiện nhiều loại thơ không vần, xuống thang rồi bắc thang, tất cả những hình thức đã có trong thơ Việt Nam và thơ thế giới. Tập thơ đầu tay Hương cây - Bếp lửa của ông và Lưu Quang Vũ xuất bản lần đầu năm 1968 và mới được tái bản sau 37 năm.
Ông còn dịch thơ của các nhà thơ Yannis Ritsos (Hy Lạp), Pablo Neruda (Chile); các nhà thơ Nga cổ điển và hiện đại: A. Pushkin, M. Lermontov, S. Esenin, E. Evtushenko, O. Berggoltz, M. Aliger, A. Tvardovsky, M. Dudin, A. Akhmatova, R. Gamzatov...; các nhà thơ Pháp: G. Apollinaire, P. Eluard, J. Prévert và tham gia biên soạn một số từ điển văn học.
Ông cũng từng theo nghề luật cho đến khi thôi nhiệm kỳ cuối cùng ở Hội đồng Nhân dân thành phố (năm 2000).
Tác phẩm
Sáng tác
Hương cây - Bếp lửa, (Tập thơ; 1968, 2005), đồng tác giả với Lưu Quang Vũ, 21 bài thơ
Trong tập này có bài Bếp lửa sau này được in trong sách giáo khoa phổ thông lớp 9 THCS Học kì 1-trang 143, 144,145
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng thơm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
...
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ,
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng khi nào quên nhắc nhở:
-Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...
Đường Trường Sơn, cảnh và người (ký sự thơ 1972 - 1973)
Những gương mặt - Những khoảng trời (Some faces and pieces of sky; 1973), 24 bài thơ
Đất sau mưa (1977), 20 bài thơ
Khoảng cách giữa lời (1984), 16 bài thơ
Cát sáng (1985), in chung với Vũ Quần Phương
Bếp lửa - Khoảng trời (Tập thơ) (1986)
Phía nửa mặt trăng chìm (1995)
Ném câu thơ vào gió (Tập thơ; Flying a verse with the wind; 2001), 30 bài thơ
Thơ trữ tình (2002)
Thơ Bằng Việt (Tập thơ), (2003)
Nheo mắt nhìn vào gió (Tập thơ, 2008), 29 bài thơ
Hoa tường vi (Tập thơ), (7-2018)
Dịch thuật
Hãy nói bằng ngôn ngữ của tình yêu (1978), thơ Yannis Ritsos (Hy Lạp), dịch chung với Tế Hanh, Phạm Hổ, Đào Xuân Quý
Lọ lem (1982), thơ E. Evtushenko (Nga)
TASS được quyền tuyên bố, tiểu thuyết Liên Xô
Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX (hợp tuyển thơ dịch; 2005), Nhà xuất bản Văn Học và Công ty Văn hóa Việt
Biên soạn
Mozart, truyện danh nhân
Từ điển Văn học, 2 tập, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1983-1984, đồng tác giả
Từ điển Văn học (bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới, 2004, đồng tác giả
Từ điển tác gia văn học nước ngoài, đồng tác giả, Hữu Ngọc chủ biên
Giải thưởng
Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968)
Giải thưởng dịch thuật văn học quốc tế và giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình Liên Xô trao tặng năm 1982
Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001)
Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002)
Giải thưởng văn học ASEAN 2003 cho tập thơ "Ném câu thơ vào gió"
"Giải thành tựu trọn đời" của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX, với nhận xét: "Nhiều bài đã trở nên quen thuộc với các thế hệ người yêu thơ trong bốn thập kỷ qua, mang dấu ấn tâm hồn và nét sang trọng, tinh tế của người chuyển ngữ. Giải trao cho nhà thơ Bằng Việt để ghi nhận thành tựu trọn đời của một dịch giả tài hoa có nhiều đóng góp trong hoạt động giới thiệu văn chương nước ngoài". |
Nhà Rông là một kiểu nhà sàn đặc trưng, đây là ngôi nhà cộng đồng, như đình làng của người Kinh, dùng làm nơi tụ họp, trao đổi, thảo luận của dân làng trong các buôn làng trên Tây Nguyên, hoặc còn là nơi đón khách (theo phong tục người Ba Na), dù khách riêng của gia đình hay chung của làng.
Nhà Rông chỉ có ở những buôn làng người dân tộc như Gia Rai, Ba Na... ở phía Bắc Tây Nguyên, đặc biệt ở hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum.
Đặc điểm
Nhà Rông được xây dựng chủ yếu bằng các vật liệu của chính núi rừng Tây Nguyên như cỏ tranh, tre, gỗ, lồ ô... và được xây cất trên một khoảng đất rộng, nằm ngay tại khu vực trung tâm của buôn.
Nhà Rông của mỗi dân tộc đều có những nét riêng trong kiến trúc, tạo dáng, trang trí hoa văn. Nhìn chung nhà Rông là ngôi nhà to hơn nhiều so với nhà bình thường, có kiến trúc cao. Có những ngôi nhà cao tới 18 m, với đặc điểm là mái nhọn xuôi dốc hình lưỡi rìu vươn lên bầu trời với một dáng vẻ mạnh mẽ.
Nhà được dựng trên những cột cây to, thường là tám cột bằng cây đại thụ, thẳng, chắc, mái nhọn lợp bằng lá cỏ tranh, phơi kỹ cho đến khi khô vàng.
Chức năng
Nhà Rông là nơi thực thi các luật tục, nơi tiếp khách, nơi diễn ra các sự kiện trọng đại của buôn làng, nơi già làng tập hợp dân làng để bàn luận những việc quan trọng của buôn làng, của đất nước. Đây cũng là nơi tổ chức các lễ hội tâm linh cộng đồng và là nơi các thế hệ nghệ nhân già truyền đạt lại cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa truyền thống...
Ngoài ra nhà Rông còn là nơi lưu giữ các hiện vật truyền thống: cồng, chiêng, trống, vũ khí, đầu các con vật hiến sinh trong các ngày lễ. |
Nhà Gươl là loại nhà truyền thống của một số dân tộc ở Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam, như người Cơ Tu. Nhà Gươl của người Cơ Tu gần giống nhà sàn của người Cơtu nhưng được chạm khắc công phu hơn. Phía trên hai đầu nhà Gươl thường được chạm, khắc hình gà trống hoặc hai đầu trâu nhô sừng lên đối diện. Bên trong được chạm các hình ảnh rất độc đáo, mang những nét văn hóa riêng của người Cơ Tu, như: hình ảnh các chàng trai, thiếu nữ Cơ Tu múa cồng chiêng, săn bắt thú rừng. |
Ian Frazer (sinh ngày 6 tháng 1 năm 1953 tại Glasgow, Scotland) là bác sĩ nghiên cứu miễn dịch học, nổi tiếng nhờ công trình nghiên cứu tìm vaccine chống siêu vi trùng HPV, nguyên nhân gây bệnh ung thư cổ tử cung. Ông dược trao giải thưởng người Úc của năm 2006.
Ông Fraser tu nghiệp y khoa, chuyên khoa miễn nhiễm học tại Edinburgh. Di cư sang thành phố Melbourne nước Úc năm 1980 và năm 1985 lên dạy tại Đại học Queensland, sau đó làm viện trưởng viện nghiên cứu miễn nhiễm và ung thư của nhà thương Princess Alexandra. |
Đỗ Phủ (chữ Hán: 杜甫; 712 – 770), biểu tự Tử Mĩ (子美), hiệu Thiếu Lâm Diệp Lão (少陵野老), Đỗ Lăng dã khách (杜陵野客) hay Đỗ Lăng bố y (杜陵布衣), là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời kì nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Ông có tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi Sử (诗史) và Thi Thánh (诗圣).
Trong suốt cuộc đời của mình, tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng vì Loạn An Lộc Sơn năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Có một thời gian ngắn ông làm quan nhưng gần như suốt cuộc đời sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật. Năm 755, tướng An Lộc Sơn nổi dậy chống triều đình. Để tránh hiểm hoạ, vả lại cũng không được nhà vua tín nhiệm, năm 759, ông từ quan, đưa gia đình về vùng Tây Nam, một thời gian sống ở Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Năm 760, được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng được một ngôi nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa ở phía tây Thành Đô. Ông thường cùng Lý Bạch được gọi là Lý Đỗ (李杜). Về sau, có Lý Thương Ẩn cùng Đỗ Mục trứ danh thời Vãn Đường, được gọi là Tiểu Lý Đỗ (小李杜) để phân biệt, vì vậy cặp Lý Bạch-Đỗ Phủ được gọi là Đại Lý Đỗ (大李杜). Từ thời nhà Thanh, Đỗ Phủ được gọi là Lão Đỗ (老杜) để phân biệt với Đỗ Mục.
Mặc dù không nổi tiếng từ đầu, nhưng những tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến cả văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Đối với độc giả phương Tây, tầm vóc các tác phẩm của ông sánh ngang với Virgil, Horace, Ovid, Shakespeare, Milton, Burns, Wordsworth, Béranger, Hugo. Đến nay, bài Mao ốc vị thu phong sở phá ca là bài thơ nổi tiếng nhất của ông.
Cuộc đời
Những năm đầu tiên
Đỗ Phủ sinh năm 712, không biết rõ nơi sinh, chỉ biết đại khái là ở gần Lạc Dương, tỉnh Hà Nam (huyện Củng cũng có thể là nơi sinh của ông). Sau này ông tự coi mình là người kinh đô Hoa lư. Đỗ Phủ xuất thân trong một gia đình quý tộc, tự cho là dòng dõi vua Nghiêu đã sa sút. Cha ông tên Đỗ Nhàn (杜閒), mẹ là Thôi thị xuất thân từ gia tộc danh giá Thanh Hà Thôi thị (清河崔氏). Mẹ Đỗ Phủ mất sớm sau khi sinh ông, và được người thím nuôi một thời gian. Anh trai ông cũng mất sớm, riêng có ba em trai và một em gái khác mẹ, thường được nhắc đến trong thơ.
Vì là con trai của một học giả, quan lại bậc thấp, thời trẻ ông được tiếp thu nền giáo dục của Trung Quốc truyền thống để lúc trưởng thành có thể ra làm quan: học thuộc lòng các tác phẩm triết học kinh điển Khổng giáo, lịch sử và thi ca. Sau này ông cho rằng mình đã sáng tác một số bài thơ hay ngay từ khi tuổi còn trẻ, nhưng không lưu giữ lại.
Đầu những năm 730, ông đi tới vùng Giang Tô, Triết Giang; những bài thơ đầu tiên của ông, miêu tả một cuộc thi thơ, được cho là đã sáng tác ở cuối thời kỳ này, khoảng năm 735.
Cùng năm ấy ông đi tới Trường An để dự thi nhưng bất ngờ bị đánh hỏng, việc này đã gây ra chỉ trích trong nhiều thế kỷ tiếp sau. Có lẽ ông đã trượt bởi vì cách hành văn thời ấy quá rắc rối và tối nghĩa, nhưng có ý kiến khác lại cho rằng ông trượt vì đã không tìm kiếm được các mối quan hệ ở kinh đô. Sau kì thi này ông tiếp tục đi du lịch quanh vùng Sơn Đông và Hà Bắc.
Khoảng năm 740, cha của Đỗ Phủ qua đời. Theo cấp bậc của cha, Đỗ Phủ có thể được phép nhận một chức quan dân sự, nhưng ông đã dành ưu đãi này cho một người em khác mẹ. Bốn năm sau đó ông sống ở vùng Lạc Dương, thực hiện các bổn phận gia đình.
Mùa thu năm 744, ông gặp Lý Bạch lần đầu tiên, và giữa hai nhà thơ đã nảy sinh một tình bạn vong niên: Đỗ Phủ còn trẻ tuổi, trong khi Lý Bạch đã nổi tiếng trên văn đàn. Hai ông đã viết nhiều bài thơ về nhau. Họ chỉ gặp lại nhau một lần nữa năm 745.
Năm 746, Đỗ Phủ tới kinh đô để tìm kiếm một chức quan. Ông tham gia vào cuộc thi năm sau đó, nhưng tất cả thí sinh đều bị vị tể tướng đánh trượt (để chứng tỏ mình đã sáng suốt sử dụng hết người tài và ngăn chặn sự trỗi dậy của bất kỳ đối thủ tiềm tàng nào). Từ đó ông không bao giờ đi thi nữa, chỉ thỉnh cầu trực tiếp hoàng đế năm 751, 754 và có lẽ cả năm 755.
Cuối cùng, vào năm 755 ông được chỉ định làm quan coi kho vũ khí. Dù đây chỉ là một chức nhỏ, ít nhất trong thời bình nó cũng là một bước khởi đầu cho hoạn lộ của ông. Tuy nhiên, trước khi ông có thể nhậm chức, một loạt các sự kiện xảy ra đã khiến nó không bao giờ còn được thực hiện.
Chiến tranh
Sự Biến An Lộc Sơn xảy ra vào tháng 12 năm 755 và chỉ tan rã hoàn toàn sau tám năm. Nó tàn phá xã hội Trung Quốc: năm 754 nước này có 52.9 triệu người, nhưng tới năm 764 chỉ còn lại 16.9 triệu, số còn lại đã bị giết hoặc bị dời đi. Trong thời gian này, Đỗ Phủ trải qua một cuộc sống trôi nổi, không thể định cư lâu dài ở đâu vì chiến tranh, cũng như nạn đói và sự bạc đãi của triều đình. Tuy nhiên, thời gian không hạnh phúc này khiến Đỗ Phủ trở thành một nhà thơ đồng cảm với những đau khổ, bất hạnh của người dân thường. Thực tế xung quanh, cuộc sống của gia đình ông, những người hàng xóm, những người qua đường– những điều ông nghe thấy và những gì ông hy vọng hay sợ hãi về tương lai– đã trở thành chủ đề chính trong những sáng tác của ông.
Năm 756 Huyền Tông buộc phải thoái vị, bỏ kinh đô tháo chạy. Đỗ Phủ, khi ấy đã rời kinh đô, đưa gia đình tới nơi lánh nạn và tìm đường đi theo triều đình mới của Túc Tông, nhưng trên đường đi ông bị quân nổi loạn bắt đưa về Trường An. Vào mùa thu, con trai út của ông ra đời. Mọi người cho rằng trong khoảng thời gian này Đỗ Phủ đã bị bệnh sốt rét.
Năm sau ông bỏ trốn khỏi Trường An, và được cho giữ chức Tả thập di trong triều đình mới tháng 5 năm 757. Chức vụ này khiến ông có cơ hội gặp gỡ Hoàng đế, nhưng chỉ mang tính nghi lễ. Đỗ Phủ nhanh chóng gặp rắc rối khi ông lợi dụng cơ hội này để dâng thư can gián việc loại bỏ Phòng Quán, người bạn và là người bảo trợ của ông, chỉ vì một lỗi nhỏ. Sau đó tới lượt chính ông bị giam nhưng tới tháng 6 được thả ra. Tháng 9 năm ấy ông được cho phép về gặp gia đình, nhưng nhanh chóng quay lại triều ngày 8 tháng 12 năm 757. Ông cùng triều đình quay lại Trường An sau khi quân triều đình tái chiếm nó. Tuy nhiên, những lời can gián của ông không hợp với hoàng đế và vào mùa hè năm 758 ông bị giáng cấp làm Tư công tham quân ở Hoa Châu. Chức vụ này làm ông chán ngán: trong một bài thơ, ông đã viết:
Thúc đới phát cuồng dục đại khiếu,
Bạ thư hà cấp lai tương nhưng.
Xốc đai, điên những muốn gào:
Giấy tờ đâu cứ ào ào chạy vô?
Mùa hè năm 759 ông lại ra đi, lý do của lần này thường được cho là vì nạn đói nhưng cũng có ý cho rằng ông ra đi vì vỡ mộng. Năm sau đó ông sống sáu tuần tại Tần Châu (hiện nay là Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc), ở đây ông đã sáng tác sáu mươi bài thơ.
Thành Đô
Năm 760, ông tới Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên), nơi ông sẽ sống trong năm năm tiếp theo. Tới mùa thu năm đó ông rơi vào cảnh túng quẫn phải gửi thơ tới những người quen biết để cầu xin giúp đỡ. Ông được Nghiêm Vũ, một người bạn và là đồng môn đang làm tổng trấn ở Thành Đô giúp đỡ. Dù vậy đây vẫn là một trong những giai đoạn thanh bình và hạnh phúc nhất của ông, và nhiều bài thơ sáng tác trong thời kỳ này miêu tả lại cuộc sống thanh bình trong "thảo đường" ở đó. Năm 762, ông rời thành phố này để tránh một cuộc bạo loạn, chỉ quay lại vào mùa hè năm 764 và được chỉ định làm Kiểm hiệu công bộ viên ngoại lang, tham gia vào chiến dịch chống lại người Tạng.
Những năm sau này
Quân đội triều đình tái chiếm Lạc Dương, nơi sinh Đỗ Phủ, vào mùa đông năm 762, và vào mùa xuân năm 765 Đỗ Phủ cùng gia đình đi thuyền xuôi sông Dương Tử, với ý định quay về Lạc Dương. Chuyến đi rất chậm, vì tình trạng sức khỏe kém của ông (lúc ấy ông mắc thêm bệnh mắt, điếc và nói chung đã ở tuổi già lại thêm những lo lắng phiền não). Họ dừng lại ở Quỳ Châu (hiện nay là Bạch Đế, Trùng Khánh) trong hai năm cho tới tận cuối mùa đông năm 766. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ cuối cùng của thơ Đỗ Phủ, và cũng chính ở đây ông đã sáng tác 437 bài thơ đa phần là thơ luật. Mùa thu năm 766, Bo Maolin trở thành tổng trấn trong vùng: ông giúp đỡ tài chính và trao cho Đỗ Phủ một chức quan thư ký không chính thức.
Ông lập gia đình từ khoảng năm 752, và tới năm 757 họ đã có năm con (ba trai hai gái) nhưng một cậu con trai ông đã chết khi còn thơ ấu năm 755.
Từ năm 754, ông bắt đầu bị bệnh phổi (có lẽ là hen suyễn). Tháng 3 năm 768, ông lại bắt đầu chuyến hành trình tới tỉnh Hồ Nam. Ông mất tại Đàm Châu 潭州 (nay là Trường Sa) vào tháng 11 hay tháng 12 năm 770, ở tuổi 59, trên một chiếc thuyền rách nát. Vợ và hai con trai ông vẫn ở tại đó thêm ít nhất hai năm nữa. Cuối cùng dòng dõi còn được biết của ông là một cháu trai, người đã đề nghị Nguyên Chẩn viết bài minh trên mộ ông vào năm 813.
Tư tưởng và tác phẩm
Giới phê bình văn học chú trọng tới tính sử, đạo đức và kỹ thuật sáng tác điêu luyện của ông.
Lịch sử
Từ thời nhà Tống thơ Đỗ Phủ đã được gọi là "thi sử" (詩史). Vấn đề lịch sử được đề cập trực tiếp trong thơ ông là sự bình luận các sách lược quân sự, các thắng bại của triều đình hay những ý kiến ông muốn đề đạt trực tiếp tới hoàng đế. Một cách gián tiếp, ông viết về ảnh hưởng của thời đại đối với đời sống chính mình cũng như người dân thường Trung Quốc.
Những phản ánh chính trị của Đỗ Phủ dựa trên cảm xúc chứ không dựa trên tính toán. Ông ước ao mọi người bớt ích kỷ và làm tròn bổn phận của mình. Tuy nhiên, do người ta không thể không đồng ý với các quan điểm của ông nên các sự thật được biểu đạt đầy sức thuyết phục trong thơ ông đã khiến ông trở thành một nhân vật trung tâm trong thi sử Trung Quốc.
Đạo đức
Một danh hiệu thứ hai mà các nhà phê bình Trung Quốc đặt cho Đỗ Phủ là "thi thánh" (詩聖), ngang hàng với Khổng Tử, vị thánh về triết học. Trong một bài thơ ở thời kỳ đầu tiên của ông, Binh xa hành(兵車行) (khoảng năm 750), đã nói lên nỗi thống khổ của một người bị bắt đi lính trong quân đội triều đình, thậm chí trước khi xảy ra loạn An Lộc Sơn; bài thơ này nói lên sự xung đột giữa việc chấp nhận và hoàn thành nghĩa vụ, và sự ý thức rõ ràng về những đau khổ có thể nảy sinh. Chủ đề này liên tiếp được nhấn mạnh trong những bài thơ về cuộc đời của dân chúng và binh sĩ mà Đỗ Phủ sáng tác trong cả cuộc đời mình.
Tuy việc Đỗ Phủ hay nhắc đến sự thống khổ của riêng mình có thể đem lại một ấn tượng về chủ nghĩa duy ngã. Nhưng thực tế hình ảnh ông trong đó luôn được quan sát dưới góc độ khách quan và hầu như chỉ được đưa ra sau chót để tự cảm thán. Vì thế, ông khiến bức tranh xã hội trong thơ mang tính khái quát cao hơn khi so sánh nó với một cá nhân tầm thường là chính mình.
Tình thương của Đỗ Phủ đối với chính mình và với người khác chỉ là một phần trong các chủ đề của thơ ông: ông còn sáng tác nhiều bài về những chủ đề mà trước đó bị coi là không thích hợp để thể hiện trong thơ. Trương Kiệt đã viết rằng đối với Đỗ Phủ, "mọi thứ trên thế giới này đều là thơ" (Chou p. 67), các chủ đề trong thơ ông rất bao quát, như cuộc sống hàng ngày, thư họa, hội họa, thú vật và các chủ đề khác.
Kỹ thuật
Trước tác của Đỗ Phủ đặc biệt nổi tiếng nhất vì tầm vóc của nó. Các nhà phê bình Trung Quốc thường dùng từ Tập đại thành 集大成, theo lời ca ngợi của Mạnh Tử dành cho Khổng Tử. Nguyên Chẩn là người đầu tiên lưu ý tới mức độ to lớn của các tác phẩm của Đỗ Phủ, năm 813 ông đã viết, (Đỗ Phủ) "đã thống nhất trong tác phẩm của mình những nét tiêu biểu mà người trước mới chỉ đề cập riêng lẻ". Ông là nhà thơ tài nghệ trong mọi phong cách thơ Trung Quốc. Ở bất cứ hình thức nào ông đều mang lại những tiến bộ vượt bậc hay đóng góp những ví dụ mẫu mực. Hơn nữa, thơ ông có phạm vi sử dụng từ vựng rộng lớn, từ cách nói trực tiếp và thông tục cho đến cách nói bóng và ngôn ngữ văn chương. Nội dung chính trong thơ đã thay đổi khi ông phát triển phong cách của mình để thích hợp với hoàn cảnh xung quanh. Những bài thơ đầu tiên theo phong cách trang nhã nhưng về sau này khi trải qua những cơ cực của chiến tranh thơ ông đã trở lại với phong cách đích thực của mình. Những bài thơ sáng tác trong giai đoạn ở Tần Châu đơn giản đến tàn nhẫn, phản ánh quang cảnh hoang tàn. Những bài thơ giai đoạn ở Thành Đô nhẹ nhàng và đẹp đẽ, trong khi ở cuối giai đoạn Quỳ Châu đậm chi tiết và có tính dự báo.
Dù sáng tác ở mọi thể loại thơ, Đỗ Phủ nổi tiếng nhất ở cận thể thi, một kiểu thơ có nhiều ràng buộc về hình thức và số lượng từ trong câu. Khoảng hai phần ba trong 1.500 tác phẩm hiện còn của ông là ở thể này, và nói chung ông được coi là nhà thơ tiêu biểu cho thể loại này. Những bài thơ đạt nhất của ông trong thể loại dùng phép đối song song để thêm nội dung biểu đạt thay vì chỉ là một quy định kỹ thuật thông thường.
Ảnh hưởng
Sinh thời và ngay sau khi mất, Đỗ Phủ đã không được đánh giá cao, phần vì những đổi mới trong phong cách và hình thức thơ ông. Một số bị coi là quá táo bạo và kỳ cục đối với giới phê bình văn học Trung Quốc. Chỉ một số ít tác giả đương thời có nhắc tới ông và miêu tả ông với tính chất tình cảm cá nhân, chứ không phải như một nhà thơ xuất chúng hay lý tưởng đạo đức. Thơ Đỗ Phủ cũng ít xuất hiện trong những hợp tuyển văn học thời kỳ đó.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của ông đối với thi ca Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, và tới thế kỷ thứ 9 ông đã trở nên rất nổi tiếng. Những lời ngợi ca đầu tiên dành cho Đỗ Phủ là của Bạch Cư Dị, người đã ca ngợi những tình cảm đạo đức trong một số tác phẩm của Đỗ Phủ. Hàn Vũ đã viết bài bênh vực mỹ học trong thơ Đỗ Phủ và Lý Bạch trước những lời chỉ trích nhằm vào họ. Tới đầu thế kỷ thứ 10, Vi Trang đã cho dựng lại bản sao đầu tiên ngôi nhà tranh của ông ở Tứ Xuyên.
Tới thế kỷ 11, trong giai đoạn Bắc Tống, danh tiếng Đỗ Phủ lên tới cực điểm. Trong thời gian này các nhà thơ trước đó đã được đánh giá lại một cách toàn diện, theo đó Vương Duy, Lý Bạch và Đỗ Phủ lần lượt được coi là đại diện cho xu hướng Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo trong văn hóa Trung Quốc. Cùng lúc ấy, sự phát triển của Tân Khổng giáo đã đặt Đỗ Phủ lên vị trí cao nhất, vì trong cả cuộc đời, ông đã không vì đói nghèo cùng khổ mà quên đi quân vương của mình. Ảnh hưởng của ông càng tăng do khả năng hòa hợp những mặt đối lập: phe bảo thủ chính trị bị thu hút bởi sự trung thành của ông với hệ thống tôn ti trật tự sẵn có, còn phe cải cách nắm lấy mối quan tâm của ông đối với đời sống dân nghèo. Từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, sự trung thành với quốc gia và những quan tâm của ông tới người nghèo đã được giải thích sự phôi thai của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và ông được tán dương vì ông đã sử dụng ngôn ngữ giản dị "của nhân dân".
Sự nổi tiếng của Đỗ Phủ lớn tới mức có thể đo được, như trường hợp của Shakespeare ở Anh. Mỗi nhà thơ Trung Quốc đều khó có thể không bị ảnh hưởng từ ông. Không bao giờ có một Đỗ Phủ thứ hai, các nhà thơ sau này tiếp nối truyền thống trong từng khía cạnh cụ thể của thơ ông. Mối quan tâm của Bạch Cư Dị tới dân nghèo, lòng yêu nước của Lục Du, các phản ánh cuộc sống hàng ngày của Mai Nghiêu Thần là một vài ví dụ.
Trích dẫn tiêu biểu
"Gia thư vạn kim" (Thư quê, muôn vàng) - Từ bài Xuân vọng (春望) của Đỗ Phủ: "Phong hoả liên tam nguyệt, gia thư để vạn kim = Khói lửa liền ba tháng, thư quê đáng muôn đồng (烽火連三月、家書抵萬金)".
Cái chết của nhà thơ Đỗ Phủ |
Pyotr II (tiếng Nga: Пётр II Алексеевич; 23 tháng 10 năm 1715 – 30 tháng 1 năm 1730) là Hoàng đế Nga từ năm 1727 đến khi qua đời. Ông là con trai duy nhất của Thái tử Aleksei Petrovich và quận chúa Charlotte của Brunswick-Wolfenbüttel, người đã mất ngay sau khi sinh ra ông. Ông cũng là cháu nội (trực hệ) duy nhất của Pyotr I của Nga và hoàng hậu đầu tiên của ông này là Evdokiya Fyodorovna Lopukhina.
Cuộc đời
Pyotr sinh tại Sankt-Peterburg ngày 12 tháng 10 năm 1715 (lịch Julius). Từ thời thơ ấu của ông thì Đại công tước mồ côi sớm này đã được câu lưu tại nơi hẻo lánh một cách nghiêm ngặt. Ông là người đầu tiên trong Hoàng gia Nga không có tước hiệu Hoàng tử mà có tước hiệu đại công tước. Ông nội của ông, Nga hoàng Pyotr I (còn gọi là Pyotr Đại Đế), nói chung không thừa nhận đứa cháu trai này. Những người bảo mẫu đầu tiên của ông là các bà vợ của các thủy thủ và những người bán rượu vang gốc Hà Lan sống tại Nga; một thủy thủ tên là Norman đã dạy ông những kiến thức cơ bản của nghề hàng hải và khi ông nhiều tuổi hơn một chút thì ông đã được đặt dưới sự chăm sóc của một người tị nạn gốc Hungary, Janos Zeikin, là một người thầy rất tận tâm và chu đáo của ông. Pyotr I đã ra một sắc luật vào năm 1722, theo đó Sa hoàng có quyền chỉ định người kế vị, nhưng ông đã không sử dụng quyền lực này. Sau khi Pyotr I chết năm 1725, nhiều quý tộc đã ủng hộ người cháu 9 tuổi của ông là Pyotr Alekseevich, nhưng khi đó nắm quyền lực lại là những người ủng hộ người vợ góa của Nga hoàng Pyotr I là Ekaterina I, đã cùng trị vì với chồng từ năm 1724.
Trong thời gian trị vì của Yekaterina I, Pyotr đã bị chối bỏ hẳn; nhưng chỉ trước khi bà này chết thì một điều trở nên rõ ràng đối với những người đang nắm quyền lực tại Nga là cháu nội của Pyotr Đại Đế không thể bị tách khỏi quyền kế vị lâu hơn nữa. Phần lớn dân chúng và khoảng ba phần tư tầng lớp quý tộc ủng hộ ông, trong khi đó ông bác đằng mẹ (chồng của chị mẹ) của ông, hoàng đế La Mã Thần thánh Karl VI, thông qua đại sứ của mình tại Sankt-Peterburg, đã kiên trì vận động và thúc đẩy quyền lợi của ông. Vấn đề này đã được dàn xếp giữa Aleksandr Danilovich Menshikov và Bá tước Andrey Ivanovich Osterman; và vào ngày 18 tháng 5 năm 1727 vua Pyotr II, theo các điều kiện trong di chúc cuối cùng (có thể là giả mạo) của Ekaterina I, đã chính vị hiệu Hoàng đế và Đấng cầm quyền chuyên chính của tất cả nước Nga.
Tất cả thời gian trị vì của ông là cuộc đấu tranh giữa các nhóm quý tộc khác nhau, có ý định ràng buộc ông với các cuộc hôn nhân có lợi cho phe cánh của họ (với cô ruột, công chúa Elizaveta Petrovna hơn ông 6 tuổi - sau này là nữ hoàng Elizaveta của Nga trị vì từ năm 1741 đến 1762, sau đó là Maria, con gái của A. D. Menshikov, với nữ công tước Ekaterina Dolgoruka).
Thượng viện, hội đồng bí mật tối cao và những người bảo vệ đưa ra lời tuyên thệ trung thành ngay tức thì. Việc giáo dục vị hoàng tử trẻ được giao phố cho phó thủ tướng Ostermann. Menshikov đã khống chế Pyotr II và câu lưu ông tại cung điện của mình tại đảo Vasilievsky, có ý định gả con gái của mình là Maria cho Pyotr; nhưng ý định này đã thất bại do sự mất quyền lực của ông này (ngày 21 tháng 9 năm 1727); nhưng Pyotr cũng chỉ rơi vào tay của một công tước vô nguyên tắc là Vasiliy Lukich Dolgorukov, người đã đem ông từ Sankt-Peterburg tới Mạc Tư Khoa. Lễ đăng quang của Pyotr được tổ chức tại thành phố này vào ngày 25 tháng 2 năm 1728. Ông đã đính hôn với cháu gái của ông này là nữ công tước Ekaterina Dolgorukova, và đám cưới đã được định ngày vào 30 tháng 1 năm 1730; nhưng trong cùng ngày đó thì ông đã chết vì bệnh đậu mùa tại cung điện Petrovskii (Mạc Tư Khoa). Trong khi ông hấp hối, người vợ trẻ mới cưới đã được đưa vào giường ông nằm trong cố gắng vô vọng nhằm làm cho cô này có thai. Pyotr II cũng là vị Sa hoàng cuối cùng được chôn cất tại nhà thờ Arkhangelskii của Kremli tại Mạc Tư Khoa.
Sau khi vua Pyotr II qua đời, nhà Romanov đã không còn người kế vị là nam giới. Người kế vị ông là bác gái họ, nữ hoàng Anna Ioannovna. |
Polyethylen (tiếng Anh: polyethylene hay polyethene; viết tắt: PE), là một nhựa nhiệt dẻo (thermoplastic) được sử dụng rất phổ biến trên thế giới (hàng năm tiêu thụ trên 60 triệu tấn) để làm ra các sản phẩm như ống nhựa, mút cứng, túi nhựa.... Công thức tổng quát của nó là (̵C2H4)̵.
Polyethylen là một hợp chất hữu cơ (poly) gồm nhiều nhóm ethylen CH2-CH2 liên kết với nhau bằng các liên kết hydro nội phân tử.
Polyethylen được điều chế bằng phản ứng trùng hợp các monomer ethylen (C2H4).
n →
Tính chất vật lý
Polyethylen có màu trắng, hơi trong, không dẫn điện và không dẫn nhiệt, không cho nước và khí thấm qua.
Tùy thuộc vào loại PE mà chúng có nhiệt độ hóa thủy tinh Tg ≈ -100 ℃ và nhiệt độ nóng chảy Tm ≈ 120 ℃.
Tính chất hóa học
Ở nhiệt độ cao hơn 70 ℃ PE hòa tan kém trong các dung môi như toluen, xylen, amylacetat, trichloroethylen, dầu thông. dầu khoáng,… Dù ở nhiệt độ cao, PE cũng không thể hòa tan trong nước, trong các loại rượu béo, aceton, ether ethylic, glycerin và các loại dầu thảo mộc.
Ứng dụng
Do các tính chất trên, polyethylen được dùng bọc dây điện, bọc hàng, ruột đệm, chai lọ, chế tạo thiết bị trong ngành sản xuất hóa học.
Nhựa HDPE với đặc tính độ bền vật liệu vượt trội dần được ứng dụng nhiều trong cấp thoát nước, ống chịu nhiệt & hóa chất. Ngoài ra ở các nước phương Tây, ống HDPE đã được áp dụng làm ống bắn pháo hoa
Phân loại
Dựa vào khối lượng phân tử, tỷ trọng, độ kết tinh và mức độ khâu mạch mà PE được chia thành tám loại:
VLDPE
Là một polyme chủ yếu là mạch thẳng, còn các mạch nhánh rất ngắn.
Tỷ trọng: 0,880 - 0,915 g/cm³
Được chế tạo nhờ quá trình trùng hợp triệt để dưới áp suất cao.
Là chất vô định hình có độ mềm dẻo tuyệt đối, độ dai rất tốt, căng và tăng khả năng bảo vệ môi trường, mở rộng khả năng hỗn hợp với nguyên liệu chất dẻo mềm khác như PVC, EVA để thay đổi tính năng của nó.
Dùng để sản xuất màng co, màng căng, găng tay bảo hộ, tham gia quá trình biến đổi các loại chất dẻo khác, màng công nghiệp, màng nhiều lớp.
LDPE
Tỷ trọng: 0,910–0,925 g/cm³
Nhiệt độ hóa thủy tinh Tg ≈ 110 ℃
LLDPE
Tỷ trọng: 0,915–0,925 g/cm³
MDPE
Tỷ trọng: 0,926–0,940 g/cm³
HDPE
Ngược với LDPE, HDPE được sản xuất đưới áp suất thấp với các hệ xúc tác như crom/silic catalysts, Ziegler-Natta hay metanloxen (metallocene).
Tỷ trọng: 0,941–0,965 g/cm³
UHMWPE
Là loại PE có khối lượng phân tử trung bình cỡ hàng triệu (từ 3,1 đến 5,67 triệu). UHMWPE rất cứng nên được ứng dụng làm sợi và lớp lót thùng đạn.
Tỷ trọng: 0,935–0,940 g/cm³.
Nhiệt độ nóng chảy Tm ≈ 130 ℃
PEX hay XLPE
Được chế tạo bằng cách cho thêm các peoxit hữu cơ (ví dụ: dicumyl peoxit,…) vào PE trong quá trình gia công. Các phương pháp khâu mạch PE tốt nhất là phương pháp đúc quay (rotational molding) và bức xạ hồng ngoại (irradiation).
PEX được ứng dụng làm màng nhựa, ống, dây và cáp điện. |
Nguyễn Giản Thanh (chữ Hán: 阮簡清; thường được gọi là Trạng Me; 1482–1552) là trạng nguyên khoa thi Đoan Khánh năm thứ tư (1508), đời vua Lê Uy Mục. Ông là con của tiến sĩ Nguyễn Giản Liêm, người làng Ông Mặc (tục gọi là làng Me) huyện Đông Ngàn (nay là phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh.
Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị thư kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau đó, lại ra làm quan với nhà Mạc và được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc) để cầu phong cho Mạc Đăng Dung. Khi trở về, ông được thăng Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá. Khi mất được tặng tước hầu. Thân phụ của ông là tiến sĩ Nguyễn Giản Liêm (1453-?).
Giai thoại
Lúc Nguyễn Giản Thanh còn đi học, thầy học là Đàm Thận Huy, thấy học trò sắp ra về thì trời đổ mưa to, học trò không về được, thầy bèn ra vế đối để thử tài học trò:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách (雨無鈐鎖能留客 - Mưa không có then khóa mà có thể giữ được khách).
Nguyễn Giản Thanh liền đối lại là:
Sắc bất ba đào dị nịch nhân (色不波濤易溺人 - Cái sắc đẹp của phụ nữ, không phải là làn sóng nổi, nhưng dễ nhận chìm người).
Thầy Đàm Thận Huy nói:
Câu đối này thật hay và thật chỉnh, văn khí này có thể đậu Trạng nguyên, nhưng về sau coi chừng việc sắc dục làm hại sự nghiệp.
Tương truyền, Nguyễn Giản Thanh chỉ đậu bảng nhãn còn Hứa Tam Tỉnh (làng Ngọt) đậu trạng nguyên. Trong buổi lễ ra mắt vua, các tân khoa phải làm một bài phú dâng tặng vua và hoàng thái hậu (mẹ của vua). Hoàng thái hậu thấy Hứa Tam Tỉnh dung mạo xấu xí thì không ưng lắm, trong khi đó Nguyễn Giản Thanh khuôn mặt khôi ngô thanh tú nên bà muốn cân nhắc ông lên làm trạng nguyên. Vua vì muốn chiều lòng mẹ nên đánh giá bài phú của Nguyễn Giản Thanh cao hơn và trao danh hiệu trạng nguyên cho ông. Do đó dân gian có câu Trạng (làng) Me đè trạng (làng) Ngọt
Tác phẩm
Nguyễn Giản Thanh là tác giả của Phụng thành xuân sắc phú (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng). Bài phú bằng chữ Nôm tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long. Trong bài có đoạn:
Chợ hòe đầm ấm, phố ngọc tần vần,
Trai lanh lẹ đá cầu vén áo;
Gái éo le rủ yếm dôi quần.
Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa, rợp đường tử mạch;
Chàng công tử ngự xe trương tán, rạng mực thanh vân.
Ghi chú
Người Bắc Ninh
Quan lại nhà Lê sơ
Quan lại nhà Mạc
Sinh năm 1482
Năm mất thiếu
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Mất năm 1552 |
Tải dữ liệu trên mạng, thường gặp khi duyệt mạng Internet, chỉ đến việc truyền tải các tập tin qua mạng Internet hay FTP, Usenet... Tải xuống chỉ việc lấy các tập tin từ một máy tính khác về máy mình, qua đường truyền của mạng. Tải lên chỉ việc đưa một tập tin từ máy mình lên máy tính khác.
Tải xuống là một cách để các công ty buôn bán phần mềm đưa sản phẩm đến tay khách hàng. Các phần mềm tự do cũng thường được phân phát thông qua con đường này. |
Các tập hợp tương đương, còn gọi là tập hợp đẳng lực, là các tập hợp mà giữa các phần tử của chúng có thể thiết lập quan hệ tương đương, tức quan hệ tương ứng một-một (song ánh). Đây là quan hệ có tính chất phản xạ, đối xứng và bắc cầu.
Ví dụ: Tập hợp số chẵn và tập hợp số lẻ, tập hợp số dương và tập hợp số âm, tập hợp các điểm trên một cung tròn mở và tập hợp các điểm trên một đường thẳng...
Hai tập bất kỳ hoặc là tương đương, hoặc là không tương đương. Điều này dẫn đến việc tập hợp của tất cả các tập hợp được phân thành các lớp tập hợp tương đương. Đồng thời có thể định nghĩa khái niệm lực lượng tập hợp và bản số là sự suy rộng của số tự nhiên. |
Hoàng Phi Hồng (9 tháng 7 năm 1847 – 24 tháng 5 năm 1924) là một võ sư, nhà cách mạng người Trung Quốc, và là nhân vật trong nhiều bộ phim mang tên ông. Hoàng Phi Hồng còn là một thầy thuốc với hiệu thuốc Bảo Chi Lâm.
Nguồn gốc tên
Ban đầu tên gốc của ông là Tích Tường () trước khi đổi sang tên Phi Hồng. Tên chữ của ông là Đạt Vân ().
Tiểu sử
Hoàng Phi Hồng sinh ra vào thời hoàng đế Đạo Quang trị vì nhà Thanh, tại trấn Phật Sơn (nay là một phần của phường Tổ Miếu, quận Thiền Thành, thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông). Nhà thờ tổ của gia đình ông nằm tại làng Lộc Đan, núi Tây Tiều, thuộc phủ Nam Hải, tỉnh Quảng Đông (nay là thị trấn Tây Tiều, quận Nam Hải, thành phố Phật Sơn). Cha ông Hoàng Kỳ Anh nổi danh là một trong Quảng Đông thập hổ, truyền nhân đời thứ tư của Hồng gia quyền.
.
Khi lên 5 tuổi, Hoàng Phi Hồng được cha là Hoàng Kỳ Anh truyền dạy môn Hồng gia quyền. Ông thường theo cha trong những chuyến đi từ Phật Sơn đến Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Quảng Đông để biểu diễn võ thuật và bán thuốc rong trên đường.
Năm 13 tuổi, ông chạm trán với Lâm Phúc Thành (林福成), học trò của "Thiết Kiều Tam" Lương Khôn trên đường Đậu Xì, Phật Sơn. Sau đó, họ Lâm đã dạy ông những thế võ quan trọng của môn Thiết Tuyến quyền. Sau đó, ông học Vô Ảnh cước từ Tống Huy Thang (宋輝鏜).
Trong thời gian này, Hoàng Phi Hồng đã học thêm nhiều danh sư các môn võ khác nhau, do đó tài nghệ của ông còn hơn cả cha mình. Đương thời có người lớn thách đấu, Hoàng Phi Hồng đã sử dụng côn pháp để chiến thắng, nhờ thế nổi tiếng khắp nơi. Tuyệt chiêu của Hoàng Phi Hồng bao gồm Hổ Hạc Song Hình quyền, Thiết Tuyến quyền, Cung Tự Phục Hổ quyền, Vô Ảnh cước, Tử Mẫu đao, Đơn song hổ trảo, Tứ Lượng Tiêu Long côn, Song phi đà, La Hán bào.
Ngoài tinh thần cầu tiến, ham học hỏi cùng tư chất võ học hơn người, Hoàng Phi Hồng còn học võ của bà vợ cả là một danh thủ thuộc một môn phái khác.
Sự nghiệp
Hoàng Phi Hồng mở hiệu thuốc Bảo Chi Lâm ở đường Nhân An, chuyên bán thảo dược trị thương. Mặc dù là võ sư dân gian nhưng cuộc đời Hoàng Phi Hồng vẫn gắn liền với lịch sử Trung Quốc. Năm 1886, danh tướng Lưu Vĩnh Phúc được triều đình điều động về Phúc Kiến làm tổng binh, liền mời Hoàng Phi Hồng làm trưởng ban huấn luyện quân dưới trướng ông ta.
Năm 1895, khi Chiến tranh Trung-Nhật nổ ra, Hoàng Phi Hồng theo Lưu Vĩnh Phúc đến Đài Loan. Sau đó, quân nhà Thanh đại bại, triều đình cắt Đài Loan cho Nhật, quân dân trên đảo nổi dậy khởi nghĩa và phong Hoàng Phi Hồng lên làm "Điện Tiền Tướng Quân".
Hoàng Phi Hồng từng đến Hồng Kông để gặp lại môn đồ Lục Chính Cương và được Lục mời đến võ đường của ông ta tham quan. Thời gian ở đây, do bất bình trước cảnh một người cô thế bị uy hiếp, Hoàng Phi Hồng ra tay can ngăn và bị một đám đông có vũ khí bao vây. Một mình đánh bại cả chục người, Hoàng Phi Hồng trở thành vị anh hùng của những người bị áp bức. Bị triều đình truy nã, Hoàng Phi Hồng phải chạy trốn.
Về sau Lục Chính Cương tìm đến nơi trú ẩn của Hoàng Phi Hồng, kể lại chuyện người phương Tây dẫn chó béc-giê đến khiêu chiến, tấn công nhiều nhà sư. Hoàng Phi Hồng nghe xong nổi giận, lập tức đến Hương Giang bẻ gãy xương sống con chó hung dữ ấy. Ngày hôm sau báo chí Hồng Kông chạy tên bài đỏ về tin này và gọi đó là "chí khí người Trung Quốc".
Trở về Quảng Đông, Hoàng Phi Hồng mở thêm một nhà thuốc nữa ở Phật Sơn, trở thành một trong 4 vị đệ nhất danh y Quảng Đông bấy giờ. Thời gian này ông gặp người vợ thứ 4. Đây cũng là lúc ông sống sung túc nhất. Về chuyện tình cảm, ta thường thấy bên cạnh Hoàng Phi Hồng (trong các phim) là dì Mười Ba.
Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, Lưu Vĩnh Phúc mời Hoàng Phi Hồng làm "giáo luyện dân đoàn tỉnh Quảng Đông".
Đời tư
Sự thật Hoàng Phi Hồng có bốn người vợ, người vợ cả là một võ sư. Riêng chuyện gặp người vợ thứ tư đã là một giai thoại là năm đó khi bà Mạc Quế Lan 19 tuổi, một lần đi xem vía Phật có Hoàng Phi Hồng trình diễn võ thuật, không biết trời xui đất khiến thế nào mà khi múa bài Chĩa ba vũ gia, lại văng chiếc giày vào mặt Quế Lan. Cho là xúc phạm, Quế Lan liền leo lên khán đài tát vào mặt Hoàng Phi Hồng một cái, nói: "Một võ sư nổi tiếng như ông không thể phạm sai lầm như thế, đây là chiếc giày còn nếu là vũ khí thì sao". Kính phục, Hoàng Phi Hồng xin cưới nàng làm vợ.
Qua đời
Ngày 8 tháng 8 năm 1924 thương đoàn Quảng Đông, đoàn tự vệ vũ trang Quảng Đông tổ chức cuộc bạo loạn chống chính quyền Tôn Trung Sơn, đi đến đâu tổ chức này cũng thực hiện hành vi cướp phá. Bảo Chi Lâm cũng bị tổ chức này thiêu rụi, quá tức giận, Hoàng Phi Hồng ngã bệnh rồi qua đời, hưởng thọ 77 tuổi. Thi thể ông được chôn tại Quảng Đông...
Hoàng Phi Hồng trên phim ảnh
Hoàng Phi Hồng được biết đến nhiều trong lĩnh vực điện ảnh, là nhân vật truyền kỳ đã chinh phục hàng triệu trái tim khán giả qua tài diễn xuất của các bậc thầy võ thuật.
Từ cuối năm 1940 đến nay, Hồng Kông đã thực hiện hàng trăm bộ phim và kịch truyền hình về Hoàng Phi Hồng khiến tên tuổi nhà võ thuật yêu nước này trở nên thân thuộc với mọi tầng lớp khán giả. Sau khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách, các tác phẩm về Hoàng Phi Hồng được người dân Quảng Đông chào đón nhiệt liệt. Đề tài Hoàng Phi Hồng thực sự trở thành cơn sốt. Cuộc đời Hoàng Phi Hồng cùng với võ công siêu việt và đức độ trong sáng của ông đã thật sự chinh phục những người mê võ thuật.
Khoảng đầu những năm 1950 ở Hồng Kông, phim ảnh Quảng Đông chiếm lĩnh thị trường. Những phim võ thuật thời đó thường đưa lên màn ảnh những nhân vật huyền bí và những nhà thuật sĩ (một chút gì đó tựa tựa như truyện Liêu trai chí dị, truyện ma quỷ của Bồ Tùng Linh).
Nhưng giữa những năm 1950-1970, chúng ta gặp dấu vết tới hàng trăm phim mà nhân vật chính là một người mang tên Hoàng Phi Hồng. Kungfu không còn là tiết mục phụ mà đã trở thành ngay chính nền tảng của kịch bản. Những phim đó biểu diễn đích thực về nhiều thể loại võ thuật, chuyển hóa từ 5 trường phái lớn của miền nam Trung Quốc là Hồng, Lưu, Thái, Lý và Mạc. Để có bề ngoài thực hơn, những diễn viên đóng vai Hoàng Phi Hồng phải là những võ sư đích thực. Người đầu tiên thủ vai này là Quan Đức Hưng - một diễn viên nhạc kịch Quảng Đông và là bậc thầy trong môn phái võ Bạch Hạc. Ngoài ra ông còn thành công trong nhiều phái võ khác, trong đó có cả Hồng gia phái. Ông đóng vai Hoàng Phi Hồng trong nhiều hồi của loạt phim hiệu quả này. Nhân cách của ông biểu thị đức hạnh của đạo lý Khổng giáo dưới tất cả mọi hình thái; đó là một đứa con tôn trọng quê hương quốc gia, tôn ti trật tự xã hội và gia đình. Những phim võ hiệp đó ca tụng đức khiêm cung, lòng trung thành, ý thức tôn sư trọng đạo và chỉ chiến đấu trong những trường hợp thực sự cần thiết. Quan Đức Hưng đã tạo ấn tượng tốt đẹp cho người xem về người anh hùng này. Một chi tiết ấn tượng của phim là trong một lần nhìn cặp gà chọi đấu nhau, Hoàng Phi Hồng nghĩ ra ngay đến cách giả gà để đối phó với thế trận con rết, sự sáng tạo này được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt.
Gần nửa thế kỷ sau, khi mà Quan Đức Hưng đã 92 tuổi, trở thành bậc đàn anh trong lĩnh vực điện ảnh võ thuật thì cơn sốt Hoàng Phi Hồng lại rộn lên lần nữa. Không biết bao nhiêu bộ phim Hoàng Phi Hồng xuất hiện và không biết bao nhiêu tài tử đóng, vậy mà hình ảnh thần tượng này vẫn không phai nhòa mà còn trải rộng ra cả thế giới.
Khán giả gặp lại Hoàng Phi Hồng (khác hẳn với nửa thế kỷ trước) qua Lý Liên Kiệt, vượt xa phim của Quan Đức Hưng ở màu sắc, âm thanh và kỹ xảo. Lý Liên Kiệt kế vị Quan Đức Hưng, trở thành người đi đầu và đóng nhiều phim điện ảnh về Hoàng Phi Hồng nhất, với những chi tiết hài nhẹ nhàng, những pha đấu võ đẹp mắt, những nhân vật hư cấu có võ công cao cường như Quỷ Cước Thất (có người nói Quỷ Cước Thất là nhân vật có thật, tên Lương Khoán với chiêu đá bay bằng chân điển hình), Nha Sát Tô và cả người tình hư cấu dì Mười Ba; bộ phim đã thật sự lôi cuốn người xem, tạo được cơn sốt nóng, đưa Hoàng Phi Hồng trở thành nhân vật truyền kỳ trên màn ảnh lớn khắp Á châu và thế giới - những nơi có cộng đồng người Hoa sinh sống.
Sau thành công của loạt phim Hoàng Phi Hồng do Lý Liên Kiệt đóng, một võ sư quán quân võ thuật Trung Quốc là Triệu Văn Trác được mời vào thay thế. Đây cũng là một vai diễn thành công do Triệu Văn Trác đã biết cách biến hoá những đường Hồng gia quyền trở nên đẹp mắt hơn, diễn xuất với một phong cách khác hơn so với Lý Liên Kiệt, nhưng nhân vật Hoàng Phi Hồng do Triệu Văn Trác đóng vẫn không được số đông khán giả chấp nhận và yêu thích.
Ngoài các phim truyền hình về Hoàng Phi Hồng, một số phim đã khắc họa Hoàng Phi Hồng qua những hình tượng khác, như trong Sư phụ túy quyền (Drunken master), Thiết hầu (Iron monkey)... Những phim này không ngừng tô điểm cho những kỳ tích có thật hoặc giả định về ông, để lại một vật "hoàn hảo" trong lòng khán giả hâm mộ võ thuật...
Hoàng Phi Hồng còn xuất hiện trong phiên bản phim truyền hình năm 2006 mang tên Hoàng Phi Hồng và Ngũ Đại Đệ Tử do Đài truyền hình trung ương Trung Quốc sản xuất. Diễn viên chính: Trương Thần Quang (vai Hoàng Phi Hồng), Mạc Thiếu Thông (vai Lương Khoan), Trịnh Tắc Sĩ (vai Vinh Thịt Heo), Hùng Hân Hân (vai Quỷ Cước Thất), Cao Thiên (vai Nha Sát Tô), Hà Dư Văn (vai Alice), Đường Quốc Cường (vai Ông chủ Kim).
Danh sách phim
黄飞鸿五大弟子 (2006)
Hoàng Phi Hồng và Ngũ Đại Đệ Tử
Truyện tranh
Hiện có bộ truyện tranh manga mang tên Hoàng Phi Hồng viết bởi tác giả người Nhật Takeshi Maekawa, tên tiếng Anh Ironfist Chinmi tên tiếng Nhật: 鉄拳チンミ phiên âm: Tekken Chinmi.
Bộ truyện tranh này có 4 phần của bộ truyện tranh này, đã được đăng trên Goodreads. Phần 1: Hoàng Phi Hồng phiêu lưu học võ được xuất bản trong thời than 1983-1997; Phần 2: Phi Hồng giải cứu Hà Nam và Đảo Thuyền Quân 1997-2004; Phần 3: Phi Hồng giải cứu công chúa nước láng giềng 2004-2006; Phần 4: Phi Hồng cứu bạn gái trong trận lụt và tiêu diệt tập đoàn ám sát (chưa hoàn thành), ngoài ra còn có Phi Hồng ngoại truyện.
Theo trang Anime News Network truyện Hoàng Phi Hồng xếp hạng thứ 48 trong số các manga của Nhật, với số lượng in 11,592 bởi công ty Kodansa. |
Priston Tale là game nhập vai trực tuyến nhiều người chơi (MMORPG) dựa trên các cuộc phiêu lưu trên vùng đất Priston huyền bí. Môi trường 3D cho phép thể hiện sinh động các chi tiết của nhân vật cũng như những biến đổi thực sự về độ cao, tạo cảm giác như xem một bộ phim hoạt hình 3D sinh động. Được công ty FPT tại Việt Nam du nhập và giới thiệu từ năm 2005. Sau quá trình 5 năm gắn bó. Cho đến 2010 đã chính thức đóng cửa tựa game này.
Camera trôi tự do cho phép quan sát 360 độ, các diễn biến trong game sẽ mang đến cho các người chơi cả một thế giới hiệu ứng và ấn tượng bùng nổ.
Trên hết, việc bổ sung hệ thống chuyển cấp (class change) sẽ phá vỡ sự đơn điệu của việc "lên level" thường thấy ở các game MMORPG khác. Hệ thống này sẽ giúp người chơi thoải mái hơn trong việc chọn lựa hướng đi riêng cho các nhân vật của mình.
Tính năng
Đồ hoạ 3D
Game "EVERQUEST" (do Sony Mỹ sản xuất), được đánh giá là game online hay nhất hiện nay trên nền 3D cũng không sử dụng hết sức mạnh của chính nền đồ họa 3D của mình. Nhưng PRISTON TALE đã nâng tính cạnh trang bằng việc đưa ra khái niệm 3D thực.
Nghĩa là khái niệm của PRISTON TALE ở mức cao hơn các game khác, và các gamer tha hồ tung hoành trong không gian đa chiều thực hơn, sinh động hơn mà trước đây không thể có được.
Hành động
Priston Tale đã bổ sung các hiệu ứng về hình ảnh và âm thanh sống động trong các trận giao chiến thời gian thực nhằm tạo một sức lôi cuốn hơn cho từng người chơi. Bên cạnh đó, với giao diện trực quan, Priston Tale sẽ giới thiệu đến người chơi những gì hay nhất mà chưa một game MMORPG nào có được.
Game khai thác tối đa những lợi thế của môi trường 3D - khi nhân vật được trang bị thêm vũ khí hoặc áo giáp khác, thì không chỉ đồ họa của nhân vật thay đổi mà còn theo mỗi chuyển động của nhân vật. Hiệu ứng kỹ năng và phép thuật cũng rất linh hoạt, giúp cho người chơi có được cảm giác sống động và rất thực.
Nhằm tránh những cảnh săn quái thú đơn điệu, buồn tẻ, một hệ thống Party (Chơi tập thể) cho phép các nhân vật có thể kết hợp giúp đỡ nhau trong các trận giao chiến lớn. Ngoài ra, một hệ thống Item đặc biệt và khung hiển thị điểm mạnh/yếu của cả người chơi và quái thú sẽ giúp cho người chơi có được những cuộc chạm trán thú vị hơn. Điều này sẽ cuốn hút người chơi theo những hệ thống chiến đấu của thể loại game MMORPG ngay từ lúc đầu, nó buộc người chơi phải linh động thích ứng với những màn giao chiến không ngừng thay đổi.
Ngoài ra, các trận đánh liên tục trong Priston Tale sẽ buộc người chơi không thể ngừng tay.
Điều khiển
Những người mới chơi đều có thể dễ dàng làm quen với game, vì các chuyển động của nhân vật, hoạt động buôn bán, trò chuyện và tấn công tất cả đều có thể điều khiển bằng chuột. Giao diện màn hình bố trí rất hợp lý giúp người chơi chỉ nhìn sơ cũng có thể quản lý HP, MP, STM, la bàn và XP. Đồng thời cửa sổ thông tin về nhân vật phía dưới được điều khiển qua một cái click chuột hoặc sử dụng shortcut. Chức năng trò chuyện và thì thầm để giao tiếp giữa người chơi được thiết kết cực kỳ đơn giản, dễ hiểu. Khả năng quan sát của camera rất rộng, bạn có thể thay đổi tầm nhìn của mình theo ý thích.
Chế độ chơi
Hệ thống chuyển cấp (Class change)
Class Change, hệ thống chuyển đổi đẳng cấp nhân vật, là một trong những tính năng thú vị và nổi bật nhất trong Priston Tale. Người mới tham gia chơi sẽ chọn khởi đầu bằng một trong 4 nhân vật thuộc mỗi dân tộc, rồi có thể dần dần nâng cấp lên từng hạng cao hơn. Mỗi lần thay đổi đẳng cấp sẽ cho phép người chơi học những quyền năng và thần chú mới. Sự phát triển của nhân vật sẽ thay đổi theo đẳng cấp. Trò chơi còn có một số tính năng chỉ dành riêng cho những đẳng cấp cao hơn, trong đó cung cấp rất nhiều phần thưởng khích lệ cho những nỗ lực nâng hạng.
Kỹ năng và thần chú
Các nhân vật có thể học nhiều kỹ năng và thần chú khác nhau tùy theo đẳng cấp hiện có của mình. Mỗi đẳng cấp mà người chơi đạt tới sẽ có những quyền năng và thần chú riêng. Tất nhiên, muốn học được những phép thuật mạnh nhất, người chơi phải đạt được một số điều kiện tiên quyết như nâng cao đẳng cấp của nhân vật hoặc hoàn thành một nhiệm vụ tìm kiếm nào đó.
Nhân vật có thể học được các quyền năng và thần chú từ những Skill Master xuất hiện ở hầu hết làng và thành phố trong Priston Tale. Ngoài việc dạy thêm kỹ năng hay phép thuật mới, họ còn giúp nhân vật của bạn phát triển những kỹ năng đã học.
Thậm chí các nhân vật của cùng một đẳng cấp cũng có thể học những kỹ năng khác nhau, tạo cho mỗi nhân vật một phong cách riêng theo chủ định của người điều khiển chúng.
Priston Tale có 2 dòng nhân vật chủ Thuộc 2 trường phái:
Trường phái sức mạnh: Tempskron:
Gồm 6 dòng chiến binh chuyên dùng sức mạnh thể chất để trấn áp sức mạnh tàn ác. Họ có sức khỏe và bản năng hiếu chiến.
Pikeman
Fighter
Archer
Mechanician
Assassin
Martial
Trường phái phép thuật: Morion:
Gồm 5 dòng chiến binh. Trong đó có 3 dòng thuần pháp thuật và 2 dòng pha lẫn giữa pháp thuật và chiến binh.
Priestess
Magician
Knight
Atalanta
Shaman
Môi trường chiến đấu
Hệ thống các trận chiến trong Priston Tale bố trí theo một phong cách hành động thời gian thực.
Mỗi nhân vật được thiết kế để tự điều chỉnh phù hợp các chuyển động của mình với các vật dụng như vũ khí, giáp trụ. Vẻ ngoài của nhân vật cũng được tùy biến theo quyền năng và phép thuật có sẵn.
Hiệu ứng âm thanh và ánh sáng được sử dụng tối đa khiến tất cả hành động trở nên sống động hơn. Điều đó có nghĩa là người chơi sẽ cảm thấy sức hủy diệt rất thực nhờ hiệu ứng âm thanh và ánh sáng trên mỗi đòn tấn công.
Tất cả những hiệu ứng này diễn ra nhanh hơn bất kỳ trò chơi tương tự nào, vì thế người tham gia có thể dễ dàng cảm nhận được sự hấp dẫn và tốc độ của Priston Tale so với các game khác.
Vũ khí và Trang bị
Priston Tale có một hệ thống trang bị rất thú vị và độc đáo, trong đó vũ khí và giáp trụ có thể được chuyên biệt hóa, pha trộn hoặc chuyển đổi thành những phiên bản mạnh hơn. Sử dụng các kỹ thuật pha trộn và nâng cấp này, mỗi nhân vật sẽ có thể tự xây dựng cho mình một bộ trang bị độc nhất vô nhị. Người chơi nhờ đó sẽ có cảm giác gắn kết hơn không chỉ với nhân vật mà còn cả với những vật dụng của họ.
Hệ thống tùy biến trang bị cho nhân vật này đã thay đổi hẳn cách trình bày truyền thống mà hầu hết game MMORPG áp dụng.
Hệ thống Clan / Party
Mỗi Party là một tập hợp các nhân vật liên kết với nhau nhằm giành được ưu thế trong cuộc chiến với quái vật. Đội có thể bao gồm từ 2 đến 6 thành viên và số điểm thu về sẽ được chia đều cho các thành viên. Trong khi đó, Clan là một tập thể lớn và ổn định hơn, tạo nên một cộng đồng riêng. Điều này đem đến cho bản thân mỗi người cảm giác thuộc về một tổ chức mạnh và có trách nhiệm bảo vệ lẫn nhau. |
Tin có nhiều nghĩa có thể hiểu là:
Tin tức hay thông tin
Viết hoặc gọi tắt của tin học.
Viết hoặc gọi tắt của niềm tin, đức tin trong tôn giáo. |
Trong vật lý và kỹ thuật điện, một chất dẫn điện là một đối tượng hoặc loại vật liệu đó cho phép dòng chảy của dòng điện qua nó theo một hoặc nhiều hướng. Ví dụ, một dây điện là một dây dẫn điện có thể dẫn điện dọc theo chiều dài của nó.
Trong các kim loại như đồng hoặc nhôm, các hạt tích điện chuyển động là các electron. Điện tích dương cũng có thể di động, chẳng hạn như chất điện li cực dương của một pin, hoặc các proton di động của điện li proton của một tế bào nhiên liệu. Chất cách điện là vật liệu không dẫn điện với ít điện tích di động tự do và chỉ hỗ trợ các dòng điện không đáng kể.
Sách lịch sử về chất dẫn điện
Sách về lịch sử và khám phá chất dẫn điện
William Henry Preece. On Electrical Conductors. 1883.
Oliver Heaviside. Electrical Papers. Macmillan, 1894.
Sách tham khảo
Annual Book of ASTM Standards: Electrical Conductors. American Society for Testing and Materials. (every year)
IET Wiring Regulations. Institution for Engineering and Technology. wiringregulations.net |
Lương Triều Vỹ (tiếng Trung: 梁朝偉, tiếng Anh: Tony Leung Chiu-wai, sinh ngày 27 tháng 6 năm 1962) là một diễn viên người Hồng Kông. Từng được ví như "Clark Gable của châu Á", Lương Triều Vỹ là một trong những diễn viên châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại. Ông là nam diễn viên Hồng Kông đầu tiên giành giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes với bộ phim Tâm trạng khi yêu (2000), và hiện đang giữ kỷ lục về số lần chiến thắng giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại cả Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lẫn Giải Kim Mã.
Lương Triều Vỹ được biết đến nhiều nhất qua các bộ phim hợp tác với đạo diễn Vuơng Gia Vệ – bao gồm A Phi chính truyện (1990), Trùng Khánh Sâm Lâm (1994), Đông Tà, Tây Độc (1994), Xuân quang xạ tiết (1997), Tâm trạng khi yêu (2000), 2046 (2004) và Nhất đại tông sư (2013). Ông tham gia diễn xuất trong ba bộ phim đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice là Bi tình thành thị (1989), Xích lô (1995) và Sắc, Giới (2007). Lương Triều Vỹ cũng góp mặt trong bộ phim Anh hùng (2002) của đạo diễn Trương Nghệ Mưu, được đề cử Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Giải Oscar lần thứ 75.
Tiểu sử
Lương Triều Vỹ sinh ngày 27 tháng 6 năm 1962 tại Hồng Kông, trong một gia đình khó khăn, cha mẹ không hạnh phúc. Thuở nhỏ, ông rất hiếu động, thường xuyên đánh nhau với bạn bè và hay bị phê bình kiểm điểm ở trường. Năm Lương Triều Vỹ 10 tuổi, mẹ ông ly hôn với cha ông, một mình nuôi hai đứa con, vì không chịu được tính nết của người chồng cờ bạc, say xỉn. Năm 15 tuổi, ông phải bỏ học để đi làm kiếm tiền giúp mẹ, trải qua nhiều công việc khác nhau như bán báo, làm nhân viên giới thiệu sản phẩm, tạp vụ. Năm 19 tuổi, Lương Triều Vỹ xin được công việc ở một cửa hàng đồ điện gia dụng, có thu nhập tạm ổn. Ông từng chia sẻ rằng vào thời điểm đó, nếu không có biến động gì, bản thân sẽ phấn đấu lên chức giám đốc bán hàng. Bạn thân của Lương Triều Vỹ là Châu Tinh Trì – bấy giờ rất đam mê diễn xuất – đã không ngừng rủ ông cùng thi vào lớp đào tạo diễn xuất của đài TVB. Dù bị mẹ phản đối kịch liệt, Lương Triều Vỹ vẫn nghe theo lời Châu Tinh Trì, quyết định trở thành một diễn viên.
Sự nghiệp
1982 – 1988: Khởi đầu sự nghiệp với phim truyền hình
Năm 1982, Lương Triều Vỹ đăng ký khóa 11 lớp đào tạo diễn xuất TVB. Ngay từ khi vừa vào học, ông đã được phân vào nhóm ngôi sao. Năm 1983, Lương Triều Vỹ cùng với Thang Chấn Nghiệp, Miêu Kiều Vỹ, Huỳnh Nhật Hoa và Lưu Đức Hoa được Thiệu Dật Phu – ông chủ đài TVB – đặt cho danh hiệu Ngũ hổ tướng. Năm 1984, khi mới 22 tuổi, ông đóng vai Vi Tiểu Bảo trong bộ phim truyền hình Lộc Đỉnh ký. Bộ phim chuyển thể này thành công ngoài mong đợi còn vai diễn Vi Tiểu Bảo thì giúp tên tuổi của Lương Triều Vỹ nhanh chóng thăng hạng dù ông chỉ là diễn viên mới bước chân vào nghề. Một năm sau, Lương Triều Vỹ hóa thân thành viên cảnh sát anh hùng trong Tân trát sư huynh tục tập. Ông tiếp tục đóng vai chính trong hàng loạt bộ phim truyền hình đình đám của đài TVB như Ỷ Thiên Đồ Long ký (1986), Song hùng kỳ hiệp (1988), Hiệp khách hành (1989). Năm 1987, Lương Triều Vỹ nhận Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông đầu tiên với một vai phụ trong phim điện ảnh Nhân dân anh hùng. Sau bảy năm gắn bó với TVB, ông không tiếp tục đóng phim truyền hình cho đài này nữa. Kể từ năm 1990, Lương Triều Vỹ đã chính thức chuyển hẳn sang mảng phim điện ảnh.
1989 – 1999: Thăng tiến ở mảng phim điện ảnh
Năm 1989, Lương Triều Vỹ đóng vai chính trong Bi tình thành thị của đạo diễn Hầu Hiếu Hiền – bộ phim giành giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice lần thứ 46, từng được bầu chọn là tác phẩm vĩ đại nhất lịch sử điện ảnh Hoa ngữ. Bi tình thành thị đưa tên tuổi Lương Triều Vỹ vượt ra khỏi biên giới Hồng Kông, vươn tầm châu lục và thế giới. Năm 1990, ông có lần đầu hợp tác với đạo diễn Vương Gia Vệ trong A Phi chính truyện với một vai khách mời. Năm 1992, Lương Triều Vỹ đóng vai chính cùng Châu Nhuận Phát trong Lạt thủ thần thám – tác phẩm do Ngô Vũ Sâm đạo diễn, được Taste of Cinema bình chọn là bộ phim hành động có cảnh đấu súng đẹp mắt nhất. Tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 11, ông từ chối đề cử cho vai diễn trong Lạt thủ thần thám vì tin rằng vai của mình là vai chính chứ không phải vai phụ như trong danh sách đề cử.
Năm 1994, Lương Triều Vỹ giành cú đúp Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông và Giải Kim Mã sau khi tham gia bộ phim Trùng Khánh Sâm Lâm của đạo diễn Vương Gia Vệ – xếp thứ 17 trong danh sách phim hay nhất mọi thời đại do tạp chí Time bình chọn. Cùng trong năm 1994, ông tiếp tục hợp tác với Vương Gia Vệ trong Đông Tà, Tây Độc – tác phẩm giành giải tại Liên hoan phim Venice lần thứ 51, lọt Top 100 bộ phim Trung Quốc xuất sắc nhất mọi thời đại tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 24. Một năm sau, Lương Triều Vỹ góp mặt trong bộ phim Xích lô của đạo diễn Việt Nam Trần Anh Hùng gặt hái thành công với giải Sư tử vàng cho phim hay nhất tại Liên hoan phim Venice lần thứ 52.
Năm 1997, Lương Triều Vỹ tham gia Xuân quang xạ tiết cùng với Trương Quốc Vinh – được xem là một trong những bộ phim đề tài LGBT hay nhất trong làn sóng New Queer Cinema, mang về cho ông giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 17.
2000 – nay: Vươn tới đỉnh cao sự nghiệp
Năm 2000, Lương Triều Vỹ đóng cùng Trương Mạn Ngọc trong Tâm trạng khi yêu. Bộ phim tình cảm của đạo diễn Vương Gia Vệ trở thành tác phẩm hiếm hoi của điện ảnh châu Á khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ, được BBC bình chọn là phim điện ảnh vĩ đại thứ hai của màn ảnh thế giới trong thế kỷ 21, chỉ xếp sau Con đường ảo mộng (2001). Tâm trạng khi yêu giúp Lương Triều Vỹ trở thành nam diễn viên Hồng Kông đầu tiên nhận giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes.
Năm 2002, Lương Triều Vỹ lại tiếp tục sánh vai cùng Trương Mạn Ngọc trong bom tấn võ hiệp Anh hùng của đạo diễn Trương Nghệ Mưu. Anh hùng là bộ phim có kinh phí cao nhất lịch sử điện ảnh châu Á vào thời điểm ra mắt, nhận được đề cử Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Giải Oscar lần thứ 75. Cùng năm đó, Lương Triều Vỹ lại có thêm một vai diễn xuất sắc khi hóa thân thành một cảnh sát chìm được cấy vào băng đảng xã hội đen trong Vô gian đạo. Chính nhờ diễn xuất của ông cùng với Lưu Đức Hoa mà Vô gian đạo thành công vượt bậc dù không quá xuất sắc về mặt kịch bản và dàn dựng. Năm 2004, Lương Triều Vỹ đóng chung với Chương Tử Di trong 2046. Bộ phim này đem về cho Lương Triều Vỹ đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải Kim Mã lần thứ 41 và giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 24. Năm 2007, với bộ phim Thương thành (2006), ông nhận đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 26. Năm 2008, bộ phim Sắc, Giới mà Lương Triều Vỹ hợp tác với đạo diễn Lý An giành giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice lần thứ 64 và thắng đến bảy giải quan trọng tại Giải Kim Mã – trong đó có giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho chính ông. Hai năm 2008 và 2009, Lương Triều Vỹ đóng vai Chu Du trong hai phần phim lịch sử bom tấn Đại chiến Xích Bích của đạo diễn Ngô Vũ Sâm. Năm 2013, với bộ phim Thính phong giả (2012), ông lại nhận được một đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 32.Năm 2013, Lương Triều Vỹ đóng vai võ sư Diệp Vấn trong Nhất đại tông sư của đạo diễn Vương Gia Vệ. Tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 33, Nhất đại tông sư là Phim hay nhất nhưng Lương Triều Vỹ thì để vuột giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất vào tay Lương Gia Huy.
Năm năm sau Nhất đại tông sư (2013), Lương Triều Vỹ chỉ đóng thêm ba bộ phim điện ảnh – Người chèo thuyền (2016), Truy lùng quái yêu 2 (2018) và Công phá Âu châu (2018) – cả ba đều không tạo được dấu ấn trong lòng khán giả. Năm 2018, ông thông báo mãn hạn hợp đồng, chính thức rời khỏi Công ty điện ảnh Trạch Đông của đạo diễn Vương Gia Vệ, kết thúc 20 năm hợp tác đầy thành công. Cũng trong năm 2018, trả lời phỏng vấn của Sina, Lương Triều Vỹ chia sẻ rằng ông ngày càng ít hứng thú đóng phim vì vấn đề tuổi tác. Năm 2021, bộ phim Phong tái khởi thời có sự góp mặt của Lương Triều Vỹ và Quách Phú Thành bị hoãn chiếu do chưa qua vòng kiểm duyệt tại thị trường Trung Quốc đại lục vì một số nội dung liên quan đến tham nhũng, xã hội đen, dù đã đóng máy từ tận năm 2018.
Ngày 19 tháng 4 năm 2021, Marvel Studios bất ngờ tung trailer bộ phim về siêu anh hùng gốc Á Shang-Chi có sự góp mặt của Lương Triều Vỹ – Shang-Chi và huyền thoại Thập Luân. Lương Triều Vỹ được tiết lộ là sẽ đóng vai người cha hiểm ác của Shang-Chi và cũng chính là tên trùm The Mandarin của tổ chức Thập Luân. Đối với ông, Shang-Chi và huyền thoại Thập Nhẫn là phim Hollywood đầu tiên trong sự nghiệp. Phim dự kiến công chiếu vào ngày 3 tháng 9 năm 2021.
Đời tư
Lối sống
Lương Triều Vỹ được biết đến là người kiệm lời, khiêm tốn, thích cuộc sống riêng tư, không ồn ào và rất ưa du lịch một mình. Ông từng thừa nhận bản thân hay ngượng ngùng khi đứng trước máy quay hoặc phụ nữ đẹp. Năm 2000 khi đoạt giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes, Lương Triều Vỹ trả lời phóng viên: "Tất cả chỉ là nhờ may mắn thôi. Năm nay tôi may lắm, mà giải của tôi cũng không có sự cạnh tranh lớn." Nhiều nhà đài từng mời ông ghi hình chương trình truyền hình thực tế với thù lao cao ngất ngưởng nhưng ông từ chối vì không muốn công khai đời tư. Mặc dù giàu có nhưng Lương Triều Vỹ sống rất bình dân, thường xuyên bị bắt gặp đi mua quần áo, thực phẩm hoặc dạo phố một một mình. Theo QQ, chính thời thơ ấu khổ cực đã khiến nam diễn viên chọn lối sống tiết kiệm.
Quan hệ tình cảm, hôn nhân
Lương Triều Vỹ thừa nhận yêu ba người phụ nữ, gồm Tăng Hoa Thiên, Lê Mỹ Nhàn và người ông lấy làm vợ Lưu Gia Linh, cũng từng vướng tin đồn phải lòng Trương Mạn Ngọc khi cả hai đóng chung bộ phim Tâm trạng khi yêu (2000). Đã có lúc ông bị nghi ngờ có mối quan hệ đồng tính với Trương Quốc Vinh – nam diễn viên nổi tiếng với các vai diễn nhuốm màu bi thương. Tháng 7 năm 2008, Lương Triều Vỹ làm đám cưới với Lưu Gia Linh tại Bhutan. Sự kiện này diễn ra đúng vào thời điểm dư luận đang tranh cãi về vấn đề giới tính của ông.
Vợ chồng Lương Triều Vỹ và Lưu Gia Linh cùng cam kết với nhau về việc không sinh con, chọn duy trì một cuộc sống "bán độc thân" tự do: mỗi người có một công việc bận rộn của riêng mình, có nhà chung nhưng thi thoảng mới gặp nhau. Trong suốt nhiều năm, họ không ít lần vướng nghi vấn đổ vỡ, ly hôn song đều giữ im lặng.
Tài chính
Lương Triều Vỹ là một trong những nghệ sĩ giàu có nhất Hồng Kông với khối tài sản có thời điểm lên tới 116 triệu đô la Mỹ. Ông là ngôi sao có mức thù lao cao nhất nhì làng giải trí Hoa ngữ. Từ năm 2016 đến năm 2020, Lương Triều Vỹ đóng sáu phim, kiếm về tổng cộng gần 38 triệu đô la Mỹ, quảng cáo cho hai thương hiệu với mỗi hợp đồng trị giá 4,1 triệu đô la Mỹ. Hoạt động đầu tư bất động sản cũng góp phần vào khoản thu nhập hàng chục triệu đô của nam diễn viên. Năm 2020, theo thống kê của Sina, ông sở hữu 7 bất động sản cao cấp, đắc địa ở Hồng Kông. Tổng giá trị ước tính của chúng là hơn 55 triệu đô la Mỹ.
Tôn giáo
Lương Triều Vỹ là một tín đồ Phật giáo và cho biết mình đến với tôn giáo này một phần là do ảnh hưởng từ Lưu Gia Linh. Hôn lễ năm 2008 của vợ chồng Lương Triều Vỹ cũng được cử hành theo nghi thức Phật giáo. Năm 2016, truyền thông nhà nước Trung Quốc đã chỉ trích ông cùng một số nhân vật nổi tiếng khác vì tham dự một sự kiện Phật giáo ở Đông Bắc Ấn Độ với các thành viên của Chính phủ lưu vong Tây Tạng.
Công nhận
Lương Triều Vỹ là nam diễn viên Hồng Kông đầu tiên giành được giải thưởng Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes và là người đang giữ kỷ lục về số lần chiến thắng giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại cả Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lẫn Giải Kim Mã. Tính đến năm 2013, ông là nghệ sĩ duy nhất 20 lần chiến thắng giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại tất cả các giải thưởng điện ảnh trong nước và quốc tế.
Ngay từ thuở mới vào nghề, Lương Triều Vỹ đã cho thấy thái độ nghiêm túc với công việc cùng sự tận tụy với đam mê diễn xuất. Trang Sina bình luận rằng mỗi khi nhận lời đóng phim, toàn bộ tâm trí và sức lực của Lương Triều Vỹ đều dồn hết cho vai diễn. Mọi việc khác đều đặt ở bên ngoài phim trường. Đạo diễn Vương Gia Vệ, người cùng với Lương Triều Vỹ được xem là "cặp bài trùng" của điện ảnh Hồng Kông, từng nhấn mạnh: "Sự tận tâm trong công việc và thái độ luôn sẵn sàng mạo hiểm trong quá trình sáng tạo nghệ thuật đã đưa Lương Triều Vỹ trở thành một trong những tài tử được yêu thích nhất nền điện ảnh thế giới." Đạo diễn Lý An thì nhận xét: "Anh ấy [Lương Triều Vỹ] quả thực là diễn viên trong mơ, một trong những diễn viên hay nhất thế giới, người sinh ra để dành cho điện ảnh." Hàng loạt ngôi sao màn ảnh Trung Quốc như Lưu Đức Hoa, Củng Lợi, Trương Mạn Ngọc, Châu Tấn, Chương Tử Di, đều dành lời khen ngợi và sự kính trọng cho Lương Triều Vỹ. Robert De Niro ví von Lương Triều Vỹ là "Clark Gable của châu Á".
Năm 2005, Lương Triều Vỹ từng được Giải thưởng Truyền thông Điện ảnh Trung Quốc bình chọn là một trong 100 nhân vật điện ảnh kiệt xuất nhất lịch sử. Năm 2010, ông được CNN của Mỹ xếp hạng là một trong 25 diễn viên châu Á vĩ đại nhất, lọt vào Top 50 người đàn ông đẹp nhất thế giới do tạp chí People bình chọn. Năm 2013, trong một cuộc khảo sát với hơn 100 nghệ sĩ tham gia, Lương Triều Vỹ cùng với Lưu Đức Hoa được bầu chọn là hai nam diễn viên lôi cuốn nhất ngành công nghiệp giải trí Hồng Kông. Năm 2015, ông được Tổng lãnh sự Pháp ở Hồng Kông và Ma Cao trao tặng Huân chương Văn học và Nghệ thuật. Năm 2018, Lương Triều Vỹ trở thành diễn viên châu Á đầu tiên nhận Giải thưởng Chaplin.
Lương Triều Vỹ là một diễn viên được công nhận ở khả năng biểu đạt bằng mắt. Nhiều bạn diễn của Lương Triều Vỹ cho biết, khi đóng chung, họ không dám nhìn vào mắt ông. Steve Rose của The Guardian viết: "Lương Triều Vỹ có cách riêng để biểu đạt cảm xúc dồn nén, qua cái nhíu mày hay đôi mắt ướt. Điều đó khiến phụ nữ muốn mang ông về và chiều chuộng, còn đàn ông thì ganh đua với ông." Nhà phê bình phim Manohla Dargis của The New York Times thì gọi Lương Triều Vỹ là “nhà thơ của nỗi đau” và là người “cho thấy nỗi đau tột cùng qua đôi mắt u sầu của mình”.
Danh sách phim và chương trình truyền hình
Phim
Chương trình truyền hình
Giải thưởng và đề cử chính
Phim ảnh
Âm nhạc |
Tết Đoan Ngọ hoặc Tết Đoan Dương (Hán Việt: 端午節 - Đoan Ngọ Tiết, 端陽節 - Đoan Dương Tiết) (ngày mùng 5 tháng 5 theo âm lịch Trung Quốc) là một ngày Tết truyền thống tại một số nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tết Đoan Ngọ tồn tại từ lâu trong văn hóa dân gian phương Đông và có ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa. Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là khoảng thời gian từ 11 giờ trưa tới 1 giờ chiều, và ăn Tết Đoan Ngọ là ăn vào buổi trưa. Đoan ngọ lúc mặt trời bắt đầu ngắn nhất, ở gần trời đất nhất trùng với ngày hạ chí. Tết Đoan Ngọ còn được gọi là Tết Đoan dương. Theo triết lý y học Đông phương thì hỏa khí (thuộc dương) của trời đất và trong cơ thể của con người trong ngày Đoan ngọ đều lên đến tột bậc.
Người Việt Nam còn gọi Tết Đoan Ngọ là Tết giết sâu bọ, là ngày phát động bắt sâu bọ, tiêu diệt bớt các loài gây hại cho cây trồng trên cánh đồng, trong đó nhiều loài sâu có thể ăn được và chúng được coi như là chất bổ dưỡng.
Truyền thuyết về lịch sử ngày mùng 5 tháng năm được lưu truyền khác nhau ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trung Quốc với truyền thuyết Khuất Nguyên
Theo giải thích của học giả Chu Xử trong sách "Phong Thổ Ký" thì Tết Đoan Ngọ còn được gọi là Tết Đoan Dương. Đoan Ngọ là bắt đầu giữa trưa (Đoan: mở đầu, Ngọ: giữa trưa). Còn Dương là mặt trời, là khí dương; Đoan Dương có nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh. Ở Trung Quốc, thời Nam Bắc triều, Tết Đoan Ngọ còn được gọi là Dục Lan tiết. Lan có nghĩa là "túi đựng tên, hình dáng của nó như cái hộp gỗ" (Tr.2881, Từ Nguyên). Đến thời nhà Minh, bùa trừ ngũ độc (Ngũ độc phù) đã trở thành vật trang sức khá phổ biến của phụ nữ, được in trên một số vật như trâm cài tóc, vòng đeo tay, đeo cổ, quạt… Một học giả thời bấy giờ là Trầm Bảng chép: "Thời trước, phụ nữ thường vẽ hình con rết (Ngô công), rắn (Xà), bò cạp (Hiết), thằn lằn (Tích dịch), cóc (Thiềm thừ) trên những cây gỗ đào gọi là ngũ độc phù và cài trên đầu làm trâm (Thoa)…" (Trích Uyển Thự Tạp ký, quyển 17, bản in năm 1593).
Vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông là vị trung thần nước Sở và còn là nhà văn hóa nổi tiếng. Tương truyền ông là tác giả bài thơ Ly tao (thuộc thể loại Sở từ) nổi tiếng trong văn hóa cổ Trung Hoa, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong với họa mất nước. Do can ngăn Hoài vương nên đến cuối đời, ông lại bị vua Tương Vương (người nối ngôi Sở Hoài Vương) đày ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử). Ông thất chí, tự cho mình là người trong sống trong thời đục, suốt ngày ca hát như người điên, làm bài phú "Hoài Sa" rồi ôm một phiến đá, gieo mình xuống sông Mịch La tự tử.
Theo truyền thuyết này, để tưởng nhớ về con người và cái chết bi ai của ông, hàng năm người ta tổ chức vào ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc và một số nước khác ở Châu Á.
Sau này, Tết Đoan Ngọ còn được gắn thêm một tích khác nữa là tích 2 chàng Lưu – Nguyễn gặp tiên. Lưu Thần và Nguyễn Triệu là 2 người đời nhà Hán, nhân ngày Tết Đoan Dương cùng rủ nhau vào núi Thiên Thai hái thuốc, gặp hai tiên nữ kết duyên. Sau thời gian nửa năm sống nơi tiên cảnh với vợ tiên, hai người nhớ nhà đòi về. Giữ lại không được, hai tiên nữ đành đưa tiễn chồng về quê cũ. Vì thời gian ở tiên cảnh chỉ có nửa năm nhưng là mấy trăm năm ở cõi trần. Hai chàng thấy phong cảnh quê nhà đã khác xưa, người quen thì đã ra người thiên cổ, hai chàng bèn rủ nhau trở lại cõi tiên nhưng không được. Hai chàng ra đi mà không thấy trở về…
Trên thực tế, từ cuối thời Đông Hán, người ta đã tìm thấy những thư tịch sưu tầm về Tết Đoan ngọ.
Hầu hết các học giả thời đó cho rằng nguồn gốc của lễ tiết này có "liên quan" đến sự tưởng niệm thi hào nổi tiếng của nước Sở là Khuất Nguyên. Tuy nhiên các sử gia Trung Quốc lúc bấy giờ không hề đưa ra được những tư liệu cụ thể để chứng minh cho "sự liên quan" này.
Ngay trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên (145 – 86 TCN), tác phẩm được coi là thành tựu sớm nhất, ghi chép đầy đủ nhất về lịch sử Trung Quốc cổ đại (suốt 2000 năm từ thời Hoàng Đế đến đời Hán Vũ Đế), cũng hoàn toàn không xác định được rõ thời gian tự trầm của Khuất Nguyên là vào ngày, tháng nào. Những ghi chép của Tư Mã Thiên trong "Khuất Nguyên liệt truyện" (Sử ký) chỉ là những tư liệu được thu thập từ trong dân gian.
Như vậy, theo 2 truyền thuyết trên thì mùng 5 tháng 5 có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa.
Đua thuyền rồng và đeo túi thơm
Người Trung Quốc có tập tục đua thuyền vào ngày Tết Đoan Ngọ hàng năm. Đua thuyền rồng là một hoạt động náo nhiệt nhất của người Hoa. Theo tích xưa, khi nghe tin Khuất Nguyên (vị trung thần của nước Sở vào thời Chiến Quốc) khi trên đường bị đi đày nghe tin nước mất đã trầm mình xuống sông Mịch La, người dân ngay lập tức tổ chức đội thuyền chèo ra sông để cứu ông nhưng bất thành. Sau này, mỗi năm vào ngày Tết Đoan Ngọ của người Trung Quốc, họ đều tổ chức đua thuyền rồng để tưởng nhớ đến ông.
Ngoài ra, họ còn đeo túi thơm. Đây là loại túi dùng vải và chỉ ngũ sắc để may và được may thành hình quả cầu, chú cọp,... bên trong đựng các loại hương liệu như hạt mùi, hùng hoàng, hương nhu và một số loại hương liệu khác dùng để đuổi rắn rết, sâu bọ làm hại trẻ em. Người Trung Quốc quan niệm đeo túi thơm vào Tết Đoan Ngọ có thể chống bệnh tật và xua đuổi tà ma.
Ăn bánh ú
Tương truyền, sau khi Khuất Nguyên nhảy sông Mịch La tự vẫn, người dân yêu mến ông sợ cá tôm rỉa xác của ông nên đã dùng nếp và lá để gói thành bánh đem thả xuống sông cho cá ăn để bảo vệ thân xác của ông. Và từ đó xuất hiện tập tục ăn bánh ú trong ngày Tết này. Tùy mỗi vùng khác nhau mà nhân bánh nếp có thể là thịt, đỗ xanh, long nhãn, trứng mặn hay hạt dẻ nhuyễn, hạt tiêu,...
Uống rượu
Đây là loại rượu được nhiều người sử dụng trong dịp tết Đoan Ngọ, "hùng hoàng" (theo sách Bản Thảo Cương Mục) là một vị thuốc có thể giết sâu bọ và tiêu độc, dùng để pha rượu uống. Rượu hùng hoàng được làm bằng cách lên men lúa mạch với hùng hoàng, một khoáng vật màu vàng. Ngoài ra, rượu này còn được dùng để xức lên mặt, lòng bàn tay của trẻ em hoặc rưới lên các góc tường để trừ sâu độc.
Tuy diễn ra cùng ngày với Tết Đoan Ngọ Việt Nam nhưng Tết Đoan Ngọ của người Trung Quốc vẫn có những khác biệt với ý nghĩa, tập tục riêng. Đây là nét văn hóa độc đáo của một ngày lễ quan trọng trong lịch sử Trung Quốc đã được gìn giữ cho đến ngày nay.
Nhật Bản
Ngày này ban đầu được gọi là Tango no Sekku (端午の節句) từ thời Nara và được tổ chức vào ngày thứ năm của tháng năm tính theo âm lịch hay lịch Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản chuyển đổi sang lịch Gregorian, ngày này cũng được dịch chuyển sang ngày mùng 5 tháng 5, và được coi là ngày lễ dành cho các bé trai với tên gọi
Tết Thiếu nhi (こどもの日), là một ngày đại lễ của Nhật từ năm 1948.
Đây là dịp lễ đặc biệt, người Nhật thường treo cờ cá chép (Koinobori) tượng trưng cho những bé trai khoẻ mạnh thông minh với ý nghĩa "cá vượt vũ môn" và còn trang trí các bộ áo giáp Kabuto mang theo ước nguyện của những bậc cha mẹ mong muốn cho con mình sẽ thành đạt trong cuộc sống. Cứ đến đầu tháng 5 là ở Nhật rợp trời cờ cá chép tung bay trong gió, mỗi nhà treo 3 hoặc 5 cờ, với 5 màu chủ đạo là: xanh lam, đỏ, đen, xanh lá, xanh tím. Những lá cờ Koi (cá chép) vải đầy màu sắc được treo trên mái nhà hoặc hành lang chung cư của các gia đình có con trai.
Bên trong nhà, người Nhật cho trưng bày tượng chú bé "Kintaro" (金太郎) cưỡi cá "koi" và cái áo giáp hay nón giáp samurai gọi là "yoroi kabuto" (鎧兜) hay "kabuto" (兜, 冑). Ngày xưa bên Trung Quốc có truyền thuyết là cá chép leo thác nước để được thành rồng. Câu chuyện này được truyền sang những nước chịu ảnh hưởng của Hán học như Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản.
Người ta nói rằng Koi, nếu mổ sống, hoặc thậm chí nếu nấu sống, sẽ chẳng bao giờ hoảng loạn, giãy giụa và quật như một con cá khi nhảy lên khỏi mặt nước hoặc trong cát nóng, hình ảnh này cũng được thấy trong văn hóa phương Tây. Cá Koi luôn chịu đựng, chấp nhận ra đi với "nhân cách" cao đẹp và không hề hoảng sợ. Dù khi đang nằm trên thớt hoặc sắp bị cho vào lò, nó vẫn thế. Điều này gắn liền với đạo lý luân thường của các samurai là lòng dũng cảm, danh dự và cái chết. Cách hành xử này được coi là "nam tính" tại Nhật Bản (điều này gợi mở rất nhiều về lòng tự tôn của nam nhi). Vì vậy, Koi là một trong những biểu tượng quan trọng của ngày các bé trai.
Vào ngày Tết Đoan Ngọ (Tango), người Nhật làm bánh gio akumaki gói trong lá "ayame" (xương bồ) hay tre để cúng và ăn lễ Tết này.
Hàn Quốc và Triều Tiên
Hàn Quốc cũng coi ngày 5 tháng 5 âm lịch là ngày lễ theo truyền thống văn hóa của mình, gọi là Dano (단오) hay là Surit-nal (수릿날). Chưa rõ tục lệ và nguồn gốc liên quan đến ngày mùng 5 tháng 5 của người Hàn Quốc như thế nào, nhưng trong bài báo "Đừng đối đãi với di sản văn hóa như bánh mì" đăng trên báo Tuổi trẻ, trang 16, ngày 7 tháng 6 năm 2004, đã đưa tin:
Hàn Quốc đề nghị Liên Hợp Quốc công nhận Tết Đoan Ngọ vào ngày 5 tháng 5 là "di sản văn hóa phi vật thể" của Hàn Quốc.
Bài báo cũng cho biết có nhiều tờ báo Trung Quốc xem đó là việc làm xâm phạm văn hóa, nhiều học sinh thành phố Nhạc Dương (Hồ Nam) ký tên bảo vệ tết Đoan ngọ. Nhiều người Trung Quốc kiến nghị chính quyền đăng ký bản quyền di sản văn hóa. Bài báo có đoạn viết:
Dẫu mọi việc chẳng có gì để ầm ĩ; nhưng nhân vụ việc này người Trung Quốc mới thấy giá trị của văn hóa dân gian.
Việt Nam
Trong văn hóa Việt thì ngày mùng 5 tháng Năm âm lịch lại là ngày giỗ Quốc mẫu Âu Cơ. Trong dân gian đã lưu truyền câu ca dao:
Tháng Năm ngày tết Đoan Dương,
Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.
Ở vùng Đông Nam Bộ Việt Nam thì ngày mùng 5 tháng Năm còn được gọi là ngày "Vía Bà", thờ Linh sơn Thánh mẫu trên núi Bà Đen.
Ở Đồng Tháp nói riêng và các tỉnh Tây Nam Bộ nói chung, ngày mùng 5 tháng Năm âm lịch còn gọi là ngày "nước quay", vì cứ theo lệ hàng năm, nước sông Mê Kông từ thượng nguồn đổ về đến nước ta thì trở thành màu đỏ đục và có nhiều xoáy nước. Và năm nào cũng vậy, ngày này được coi là ngày bắt đầu của những mùa lũ hàng năm.
Tại Việt Nam còn coi mùng 5 tháng Năm là "Tết giết sâu bọ", vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Vào ngày này có tục "giết sâu bọ" bằng cách sáng sớm chưa ăn uống gì đã được lót dạ bằng hoa quả đương mùa và rượu nếp. Trẻ con được treo cho những túi bùa bằng vụn lúa các màu khâu thành hình trái đào, quả khế, quả quất... buộc chỉ ngũ sắc kết tua (gọi là bùa tua bùa túi), móng tay móng chân được nhuộm đỏ bằng lá móng (trừ ngón tay trỏ và ngón chân kề ngón cái), bôi hồng hoàng (một vị thuốc có màu đỏ pha vàng) vào thóp, vào ngực, vào rốn… để trừ tà ma bệnh tật. Có nơi phụ huynh bôi vôi vào cổ cho con cái lúc đi ngủ để trừ bệnh tật.
Trong tết này, các gia đình có làm lễ cúng gia tiên, cỗ cúng có cả chay lẫn mặn. Các chàng rể phải sắm quà biếu bố mẹ vợ nhân tết mồng năm, trong đó thường có mấy thứ: ngỗng, dưa hấu, hoặc đậu xanh đường cát. Học trò cũng đến tết thầy, lễ vật tuỳ tâm, đại thể cũng như trên. Ở một số vùng quê, vào giờ Ngọ (12 giờ trưa) ngày mồng 5 tháng 5, nhiều người còn đi hái lá làm thuốc, vì tin rằng lá hái trong giờ phút này dù chỉ là các lá thông thường như lá chanh, lá bưởi, kinh giới, tía tô, ngải cứu, sen vồng..., đều trở nên công hiệu hơn rất nhiều. Ở một số vùng, người dân còn có tục lệ khảo mít: một người ở dưới đất gõ vào gốc mít tra khảo, một người trèo lên cây thay mặt cây mít trả lời, với hy vọng sang năm cây cối sai quả. Tuy nhiên gần đây, những sắc thái phong tục truyền thống Việt trong lễ này không còn được xem trọng.
Tết Đoan Ngọ là Tết thu hút sự chú ý của khá nhiều người Việt Nam xưa và nay, nó chỉ đứng thứ hai sau Tết Nguyên Đán. Tục này có người cho là từ đời Xuân Thu. Khuất Nguyên (nước Sở), vì can ngăn vua Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La mà tự vẫn. Hôm ấy đúng là mùng 5 tháng 5. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm, cứ đến ngày đó, nhân dân Trung Quốc lại làm bánh ngọt, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên.
Ở Việt Nam, ít người biết chuyện Khuất Nguyên, mà chỉ coi mùng 5 tháng Năm là "Tết giết sâu bọ" - vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Người ta quan niệm, trong ngày này, các loài sâu bọ đều hoảng hốt, trốn chạy vì nhà ai cũng có bữa cỗ "giết sâu bọ" vào sáng sớm, với hoa quả đầu mùa. Đào mịn lông tơ, mận đủ mùi chua ngọt, chuối ta mập mạp, dưa hấu bổ dọc thành những chiếc thuyền rồng sơn son mịn cát lóng lánh như lân tinh, dứa còn nguyên cái mũ miện xanh rờn óng bạc, nhưng cái lòng nó vàng tươi khêu gợi. Và đương nhiên không thể thiếu món rượu nếp.
Thành lệ, cứ đến sáng sớm ngày mồng 5, người ta cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, chè hạt sen, chè đỗ đen, trứng luộc, kê, bánh đa, mận, muỗm, dưa hấu, uống nước dừa... bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì uống rượu hòa ít tam thần đơn hoặc bôi phẩm hồng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để trừ trùng.
Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu.
Nhiều người mua bùa chỉ đeo cho trẻ con. Bùa kết bằng chỉ ngũ sắc, kết theo hình hoa sen, quả đào, quả ớt... Lại may áo lụa mang đến các cửa chùa, cửa tĩnh in dấu vẽ bùa rồi mặc cho trẻ, có ý trừ ma tà cho khỏi quấy.
Giữa trưa hôm ấy thì làm cỗ cúng gia tiên, rồi đi hái lá mồng năm. Tục hái thuốc mồng 5 cũng bắt đầu từ giờ Ngọ, đó là giờ có Dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể, nhất là lá ích mẫu, lá cối xay, lá vối, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... đem về ủ rồi phơi khô, để sau đem nấu uống cho rằng uống thế thì lành.
Lại có nhiều người đi lấy lá ngải cứu, năm nào thì kết hình con thú nǎm ấy như năm Tý thì kết con chuột, năm Sửu kết con trâu, năm Dần kết con hổ... treo ở giữa cửa, để trừ ma quỷ và về sau ai có bệnh đau bụng thì dùng làm thuốc sắc uống.
Trong những tục lễ của ngày Tết Đoan Ngọ, có lẽ tục người ta chú ý nhất là tục lễ sêu - một tục lệ mang đầy tính nhân văn giữa người với người, con cháu với ông bà, cha mẹ, người bệnh với thầy thuốc, học trò với thầy giáo. Những chàng trai đã dạm vợ hoặc hỏi vợ nhưng chưa cưới thường đi sêu bố mẹ vợ nhân ngày Tết Đoan Ngọ.
Lễ sêu trong dịp này bao giờ cũng có đậu xanh mới hái vào tháng Tư, gạo nếp của vụ chiêm. Ngoài ra tháng Năm cũng là mùa ngỗng và mùa chim ngói, cùng với gạo nếp, đậu xanh, bao giờ cũng có một đôi ngỗng và một, hai chục chim ngói. Kèm thêm là cân đường cát, trái dưa hấu, nghĩa là toàn những sản phẩm trong mùa.
Chỉ những chàng rể chưa cưới vợ mới đi lễ sêu, còn những chàng rể đã cưới vợ rồi thì hết lễ sêu, nhưng trong dịp tết Đoan Ngọ, các chàng rể dù nghèo vẫn cố chạy món quà nhỏ để biếu bố, mẹ vợ. Lễ biếu này nhiều, ít tuỳ tâm và không quan trọng bằng lễ sêu.
Các ông đồ xưa dạy học thường không lấy học phí. Hàng năm vào dịp mồng 5 tháng 5, các học trò đều có đồ lễ tết thầy. Thúng gạo, đôi ngỗng, phong chè, gói bánh hoặc túi hoa quả, tùy tâm bố mẹ học trò. Những gia đình giàu có thường phong bao một số tiền. Học trò cũ đã làm nên danh vọng cũng không quên thǎm thầy vào dịp này.
Các con bệnh được các ông lang chữa khỏi bệnh, mặc dù đã trả tiền thuốc, nhưng cũng không quên ơn cứu mệnh cho mình, nên trong dịp Tết Đoan Ngọ(còn gọi là tết hái thuốc) cũng mang quà tết thầy lang. Đồ lễ cũng gồm: đậu xanh, gạo nếp, ngỗng, chim ngói... như đồ lễ học trò tết thầy học.
Dẫu qua bao biến đổi về thời cuộc, song Tết Đoan Ngọ vẫn tồn tại trong lòng người dân đất Việt như một phong tục đẹp, với ý nghĩa thiêng liêng về đạo lý làm người.
Mùng 5/5 cũng là ngày phô trương tình dân tộc bà con láng giềng không phân biệt tuổi tác, phẩm trật, vua tôi (ở Làng Phú lương chợ cầu, Quảng Điền, Thừa Thiên, Huế thời vua Quang Trung, lễ hội, 5/5 có cho tài năng thanh niên, đấu võ, nấu cơm tre, nhảy sào, đua ghe. Và có Công nương làng đôi ném chiếc bông tai, nhẫn hay 1 trang sức xuống sông cho các chàng trai tìm, ai tìm được sẽ được thưởng hay lấy công nương đó làm vợ !
Tết này rất trân trọng dưới thời Tây Sơn vì "Thiên hạ đại tín" và "Huynh đệ chi Binh" bắt đầu từ đó!
Tết Đoan Dương là của Tàu? Khác nghĩa nhưng trùng ngày vậy thôi...
Chuẩn Bị
Trước ngày Tết, người ta mua rất nhiều trái cây để cúng và ăn. Hầu hết mọi gia đình cũng mua hoặc làm rượu nếp, bánh tro.
Các hoạt động chính
Tết Đoan Ngọ là dịp người ta thường ăn tết ở nhà với gia đình. Buổi sáng sớm ngày Tết Đoan Ngọ mọi người ăn bánh tro, chè hạt sen, trái cây, và rượu nếp để giết sâu bọ, bệnh tật trong người. Thường lệ người ta ăn rượu nếp ngay sau khi ngủ dậy.
Người ta cúng lễ cho một tiết mới, mừng sự trong sáng và quang đãng.
Nhiều người tắm nước lá mùi để phòng bệnh và tẩy trừ "sâu bọ". Nhiều địa phương ở ven biển đúng giờ ngọ đi tắm biển. Tại vì ngày này, theo quan niệm dân gian, khí dương mạnh nhất trong năm, người ta cúng lễ để cầu an. Cũng theo quan niệm đó, các loại cây lá hái trong thời gian này có tác dụng chữa bệnh tốt nhất nên các thầy thuốc thường lên núi hái thuốc.
Vào dịp Tết Đoan ngọ, ai bị cảm cúm nên dùng năm loại lá là bạch đàn, xương rồng, ngũ trảo, dâu tằm ăn và sả nấu nước xông để bớt bệnh. Người ta cũng tìm mua cành xương rồng bỏ trong nhà để đuổi tà ma.
Nét ẩm thực đặc biệt
Bánh tro đã trở thành món ăn truyền thống trong dịp Tết Đoan Ngọ ở Nam Trung Bộ và Miền Nam Việt Nam. Bánh tro có nhiều tên khác nhau như bánh ú, bánh gio và bánh âm, và có vài biến thể khác nhau theo địa phương. Người ta làm bánh bằng gạo đã ngâm từ nước tro được đốt bằng củi các loại cây khô hay rơm, gói trong lá chuối. Bánh tro dễ ăn, dễ tiêu làm mát ruột, thường ăn với đường hoặc mật.
Ở miền Bắc, ngày này các gia đình thường làm các món từ vịt, đặc biệt là tiết canh vịt (nhưng những năm gần đây, sau khi có dịch cúm gia cầm thì người ta hạn chế ăn). Nhưng dường như các chợ ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ những ngày trước và trong Tết Đoan Ngọ thường rất rộn rã việc mua bán vịt sống.
Bánh tro cũng được coi là thành phần không thể thiếu trong ngày Tết này, mà hình dạng truyền thống là bánh tro hình tứ giác (tiêu biểu ở người Tày, Nùng...). Bánh thường được làm trước 1-2 ngày và cúng tổ tiên vào ngày 5 tháng 5.
Cơm rượu hay cái rượu cũng là món ăn được nhiều người ưa thích trong tết Đoan ngọ; uống rượu hoặc ăn rượu nếp để giết sâu bọ.
Chè hạt sen nấu cùng bột sắn dây và chè đậu đen có tác dụng giải nhiệt. Tiết trời đầu tháng Năm nắng nóng, dễ sinh các bệnh nhiệt trong người, chè hạt sen, chè đậu đen được nhiều gia đình lựa chọn làm món tráng miệng. |
William Carey (17 tháng 8 năm 1761 – 9 tháng 6 năm 1834) là nhà truyền giáo người Anh và là mục sư giáo phái Baptist. Ông được xem là "Cha đẻ của phong trào truyền giáo đương đại". Carey là một trong những nhà sáng lập Hội Truyền giáo Baptist. Đích thân ông đến sống tại Serampore, Ấn Độ, với sứ mạng của một nhà truyền giáo. Carey dịch Kinh Thánh sang tiếng Bengali, Sanskrit và nhiều ngôn ngữ và phương ngữ khác.
Tuổi trẻ
Là con đầu lòng trong một gia đình có năm người con của Edmund và Elizabeth Carey, cả hai đều là thợ dệt trong làng Paulespury ở Northamptonshire. William được nuôi dưỡng trong đức tin Anh giáo; khi lên sáu, cha cậu được chọn làm thư ký giáo xứ và hiệu trưởng trường làng. Từ khi còn bé, William đã ham thích học hỏi và đặc biệt quan tâm đến các môn khoa học tự nhiên, nhất là môn thực vật học, ngoài ra cậu còn có năng khiếu ngoại ngữ và có thể tự học tiếng Latin.
Khi 14 tuổi, cha của Carey gởi cậu đến học việc với một người thợ giày ở làng Hackleton kế cận. Thầy của cậu, Clarke Nichols, cũng là một thành viên tích cực trong nhà thờ, nhưng một người học việc khác, John Warr, lại là một tín hữu không thuộc quốc giáo (Anh giáo). Qua ảnh hưởng của Warr, Carey dần dần rời bỏ Giáo hội Anh để gia nhập một nhà thờ nhỏ thuộc giáo phái Tự trị giáo đoàn ở Hackleton. Trong khi học nghề thợ giày, Carey tự học tiếng Hi Lạp với sự giúp đỡ của một người cùng làng đã từng thụ hưởng nền giáo dục đại học.
Khi Nichols qua đời năm 1779, Carey đến làm việc cho một người thợ giày khác ở gần đó tên Thomas Old. Năm 1781, Carey kết hôn với cô em vợ của Old, Dorothy Plackett. Không giống chồng, Dorothy không biết chữ, cô ký tên trên giấy kết hôn bằng một dấu thập. William và Dorothy Carey có sáu người con, bốn trai hai gái; cả hai cô con gái đều chết khi còn bé. Ông bà Old qua đời sau đó không lâu, và Carey đảm nhận công việc ở hiệu đóng giày, suốt trong thời gian này Carey tự học tiếng Hebrew, Ý, Hà Lan và tiếng Pháp, chăm chỉ đọc sách trong khi vẫn tiếp tục nghề đóng giày. Bằng mọi cách có thể, Carey luôn tìm cách tích luỹ kiến thức trong khi làm việc.
Thành lập Hội Truyền giáo Baptist
Carey gia nhập hội đoàn địa phương mới được thành lập của giáo phái Baptist, tại đây ông quen biết với John Ryland, John Sutcliff và Andrew Fuller, sau này họ trở thành bạn thân của nhau. Carey được mời đến thuyết giảng tại nhà thờ của họ ở làng Barton lân cận mỗi hai tuần vào chủ nhật. Ngày 5 tháng 10 năm 1783, William Carey chịu lễ báp têm bởi Ryland và trở nên thuộc viên chính thức của giáo phái Baptist.
Năm 1785, Carey được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường làng Moulton. Ông cũng được mời làm quản nhiệm một nhà thờ Baptist ở địa phương. Trong lúc này, Carey bắt đầu đọc Cuộc đời David Brainerd của Jonathan Edwards và nhật ký của nhà thám hiểm James Cook, và khởi sự chú tâm đến nhu cầu truyền bá Phúc âm đến mọi nơi trên thế giới. Trước đó, trong năm 1781 một người bạn của ông, Andrew Fuller, đã viết một tiểu luận gây tiếng vang với tựa đề Phúc âm cho mọi người, phản bác lập trường Calvin cực đoan đang được ưa thích trong các giáo đoàn Baptist, quan điểm này cho rằng mọi người không muốn đáp ứng với lời gọi của Phúc âm. Tại một buổi họp dành cho các mục sư trong năm 1786, khi Carey nêu lên câu hỏi có phải công tác rao truyền Phúc âm trên khắp thế giới là bổn phận của mỗi tín hữu Cơ Đốc, J. R. Ryland (cha của John Ryland) bắt bẻ: "Này cậu thanh niên, hãy ngồi xuống; khi nào Thiên Chúa vui lòng khiến người ngoại qui đạo, ngài sẽ tự làm mà không cần đến sự trợ giúp của cậu và tôi".
Năm 1789, Carey nhận nhiệm vụ quản nhiệm trọn thời gian cho một nhà thờ nhỏ thuộc giáo phái Baptist ở Leicester. Ba năm sau, năm 1792, ông cho ấn hành bản tuyên ngôn khởi phát công cuộc truyền giáo, Tra vấn về Bổn phận của Cơ Đốc nhân sử dụng mọi phương tiện để đem người khác đến với Đức tin Cơ Đốc (An Enquiry into the Obligations of Christians to use Means for the Conversion of the Heathens). Có năm phần trong quyển sách nhỏ này. Phần đầu luận về tính chính đáng về thần học của các hoạt động truyền giáo, cho rằng mạng lịnh của Chúa Giê-xu là khiến mọi người trên đất trở nên môn đồ của ngài ("Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Linh mà làm lễ báp têm cho họ, và dạy họ giữ hết mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và này, ta thường ở cùng các ngươi cho đến tận thế" - Matthew 28. 18-20) vẫn còn ràng buộc các tín hữu. Phần hai khảo lược lịch sử truyền giáo, chương này bắt đầu với thời kỳ Hội thánh sơ khai và chấm dứt với David Brainerd và John Wesley. Phần ba có 26 trang với những bảng kê số liệu về diện tích và dân số của mỗi quốc gia trên thế giới. Chương bốn dành để trả lời những quan điểm chống đối việc sai phái giáo sĩ, ví dụ như những trở ngai trong việc học ngoại ngữ hoặc những nguy hiểm gặp phải trong đời truyền giáo. Cuối cùng là phần năm với lời kêu gọi thành lập một hội truyền giáo cho giáo phái Baptist và mô tả những phương tiện cụ thể cần có để hỗ trợ hiệp hội này. Tiểu luận của Carey khái lược những ý tưởng nền tảng của ông cho công cuộc truyền giáo: Nghĩa vụ Cơ Đốc, sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có và thông tin chính xác.
Sau này, một bài giảng của Carey quảng bá tinh thần truyền giáo (được gọi là Bài giảng Bất tử) lập nền trên lời của nhà tiên tri Isaiah trong Kinh Thánh, "Hãy mở nơi trại ngươi, giương màn chỗ ngươi ở. Chớ để chật hẹp; hãy giăng dây cho dài, đóng cọc cho chắc! Vì ngươi sẽ lan rộng ra bên hữu và bên tả; dòng dõi ngươi sẽ được các nước làm cơ nghiệp, và sẽ làm cho các thành hoang vu đông dân cư" (Isaiah 54. 2-3), trong bài giảng này, Carey lặp lại nhiều lần câu nói đã trở nên nổi tiếng và được trích dẫn nhiều nhất: "Hãy cố làm việc lớn cho Thiên Chúa; hãy trông đợi việc lớn từ Ngài". Cuối cùng, Carey cũng vượt qua mọi chống đối, tháng 10 năm 1792, Hội Truyền giáo Baptist được thành lập, trong số các thành viên sáng lập có William Carey, Andrew Fuller, John Ryland, và John Sutcliff. Lúc này họ bận rộn với những vấn đề cụ thể như gây quỹ và định hướng hoạt động của hội. Có một nhà truyền giáo đã đến Calcutta hiện đang có mặt tại Anh Quốc để vận động gây quỹ, Bác sĩ John Thomas, và họ quyết định ủng hộ ông, cũng như cử Carey đi cùng ông đến Ấn Độ.
Thời gian đầu ở Ấn Độ
Carey cùng con trai đầu Felix, và Thomas cùng vợ và con gái khởi hành từ Luân Đôn trên một tàu thủy của Anh vào tháng 4 năm 1793. Dorothy Carey không đi cùng chồng vì bà đang mang thai và vì bà chưa bao giờ đi xa nhà hơn năm dặm. Chuyến đi bị trì hoãn một thời gian tại Đảo Wight khi thuyền trưởng được tin cho biết ông có thể gặp rắc rối nếu chở trên tàu các nhà truyền giáo, vì vi phạm quy chế độc quyền dành cho Công ty Đông Ấn. Cho đến tháng Sáu, Thomas mới tìm được một thuyền trưởng người Đan Mạch đồng ý nhận họ làm hành khách. Cùng lúc Dorothy, sau khi sinh con, muốn đến Ấn Độ với chồng, có cô em gái đi cùng. Tháng 11 năm ấy họ đến Calcutta.
Năm đầu tiên ở Calcutta, những nhà truyền giáo này phải tự kiếm kế sinh nhai cũng như tìm một địa điểm để lập trụ sở truyền giáo. Họ khởi sự học ngôn ngữ Bengali để có thể giao tiếp với người dân địa phương. Một người bạn của Thomas là chủ các xưởng nhuộm vải đang cần người quản lý, do đó Carey cùng với gia đình dọn lên phương bắc đến Mudnabatty. Suốt sáu năm ở đây, Carey vừa trông nom xưởng nhuộm vừa kịp hoàn tất bản nhuận chánh đầu tiên Kinh Thánh Tân Ước tiếng Bengali và bắt đầu soạn thảo những nguyên tắc giúp hình thành cộng đồng truyền giáo của ông, bao gồm nếp sống cộng đồng, tự túc về tài chính, và đào tạo mục vụ cho người dân địa phương. Nhưng con trai của Carey, Peter, chết vì bịnh lỵ, từ đó Dorothy mắc bệnh suy nhược thần kinh và không bao giờ hồi phục.
Vào lúc này, hội truyền giáo bắt đầu cử thêm giáo sĩ đến Ấn Độ. Trong số này, John Fountain là người đầu tiên đến Mudnabatty và đảm nhận công việc dạy học. Kế đó là William Ward, một thợ in; rồi Joshua Marshman, giáo viên; Davdid Brunsdon, một trong những học sinh của Marshman; William Grant, qua đời chỉ ba tuần sau khi đến Ấn Độ. Do thái độ thù nghịch của Công ty Đông Ấn đối với các nhà truyền giáo, những người này phải đến sống ở khu thuộc địa của người Đan Mạch tại Serampore. Về sau, ngày 10 tháng 1 năm 1800, Carey cũng đến sống với họ.
Thời kỳ sau ở Ấn Độ
Khi đến định cư ở Serampore, các nhà truyền giáo mua một ngôi nhà lớn đủ để chứa tất cả các gia đình giáo sĩ và cả một trường học, cũng là phương tiện hỗ trợ tài chính cho họ. Ward thành lập một cửa hiệu in ấn với những tờ báo đã qua sử dụng mà Carey kiếm được, và khởi sự in Kinh Thánh tiếng Bengali. Tháng 8 năm 1800, Fountain chết vì bị lỵ. Cuối năm ấy có người qui đạo đầu tiên, một tín đồ Hindu tên Krishna Pal. Những nhà truyền giáo cũng giành được thiện cảm của chính quyền Đan Mạch và của Richard Wellesley, khi ấy là Toàn Quyền Ấn Độ.
Những người Hindu đến với đức tin Cơ Đốc đặt ra một vấn đề mới cho các nhà truyền giáo về việc những tân tín hữu có nên duy trì giai cấp của mình hay không. Năm 1802, con gái của Krishna Pal thuộc giai cấp Sudra (thấp nhất trong bốn giai cấp của xã hội Ấn) kết hôn với một người thuộc giai cấp Brahmin (giai cấp cao nhất). Hôn lễ của họ là tuyên cáo chính thức về lập trường của hội thánh là không công nhận sự phân biệt giai cấp.
Brundson và Thomas qua đời năm 1801. Trong năm ấy, Toàn quyền Ấn Độ cho thành lập trường đại học Fort William để đào tạo công chức. Ông dành cho Carey vị trí giáo sư tiếng Bengali. Trong số các đồng sự của Carey tại trường đại học nhiều người là học giả, họ giúp ông chỉnh sửa bản Kinh Thánh tiếng Bengali. Ông soạn các sách văn phạm tiếng Bengali và Sanskrit, và bắt tay dịch Kinh Thánh sang tiếng Sanskrit. Carey sử dụng ảnh hưởng của mình với Toàn quyền Ấn Độ giúp chấm dứt tập tục hiến tế trẻ em cũng như tập tục suttee (khi chồng chết, người vợ - thường thì bị ép buộc - chịu thiêu sống để chết theo chồng), sau khi ông thảo luận với các học giả để xác định rõ ràng rằng những tập tục này không hề lập nền trên kinh sách Hindu (dù vậy, chúng vẫn tiếp tục duy trì cho đến năm 1829).
Dorothy Carey qua đời năm 1807. Một năm sau, Carey kết hôn với Charlotte Rhumohr, một phụ nữ Đan Mạch là thuộc viên trong nhà thờ của ông; không giống Dorothy, Charlotte có trình độ trí thức ngang tầm với chồng. Họ sống với nhau 13 năm, cho đến khi bà qua đời.
Từ in báo tại trụ sở truyền giáo đến các bản dịch Kinh Thánh tiếng Bengali, Sanskrit, cùng các ngôn ngữ và phương ngữ quan trọng khác. Carey bắt đầu dịch các tác phẩm văn chương và kinh sách từ nguyên ngữ Sanskrit sang Anh ngữ, giúp đem chúng đến với đồng bào của ông. Ngày 11 tháng 3 năm 1812, một vụ hoả hoạn xảy ra tại cửa hiệu in gây thiệt hại 10.000 bảng Anh, và tiêu huỷ nhiều nhiều bản dịch không thể thay thế được, trong đó có bản dịch của Carey về văn chương tiếng Sanskrit và một từ điển tiếng Sanskrit với các ngôn ngữ liên quan. Dù vậy, họ đã cứu được máy in và máy dập chữ, chỉ trong sáu tháng nhà in đã hoạt động lại. Trong suốt cuộc đời của Carey, trụ sở truyền giáo này đã in và phân phối các ấn bản Kinh Thánh toàn bộ hoặc từng phần trong 44 ngôn ngữ và phương ngữ.
Năm 1818, Đại học Serampore được thành lập nhằm đào tạo mục sư người địa phương hầu đáp ứng nhu cầu hội thánh đang tăng trưởng và cung cấp các chương trình giáo dục về nghệ thuật và khoa học cho mọi người, không phân biệt giai cấp hoặc xứ sở. Năm 1827, Quốc vương Đan Mạch ban quy chế cho trường trở thành học viện có quyền cấp học vị, lần đầu tiên ở Á châu.
Người vợ thứ hai của Carey, Charlotte, qua đời năm 1821, mười ba năm sau khi họ kết hôn, rồi Felix con trai của ông cũng chết. Năm 1823, Carey kết hôn với người vợ thứ ba, một goá phụ tên Grace Hughes.
Khi số thành viên của Hội Truyền giáo gia tăng thì những bất đồng nội bộ và những bất bình cũng gia tăng, các nhà truyền giáo lớn tuổi đã qua đời, được thay thế bởi những người mới thường thiếu kinh nghiệm. Một số giáo sĩ mới đến không muốn chấp nhận cuộc sống cộng đồng kham khổ, có người đi xa đến nỗi đòi hỏi "một ngôi nhà riêng, một chuồng ngựa và người giúp việc". Xa lạ với cung cách làm việc cật lực của Carey, Ward và Marshman, những giáo sĩ mới cho rằng các nhà truyền giáo trưởng thượng này - nhất là Marshman – là độc đoán, giao cho họ những công việc mà họ không ưa thích.
Khi Andrew Fuller, từng là Thư ký Hội Truyền giáo tại Anh, qua đời năm 1815, người kế nhiệm ông, John Dyer, là một người quan liêu tìm cách cải tổ Hội và kiểm soát các hoạt động ở Serampore. Những bất đồng trở nên không thể hoà giải được và Carey quyết định rút lui khỏi hội truyền giáo mà ông đã thành lập, để lại tài sản của trụ sở truyền giáo và đến sống ở trường đại học. Ông sống cách tĩnh lặng trong khi tiếp tục nhuận chánh Kinh Thánh tiếng Bengali, thuyết giảng, và giảng dạy tại trường đại học cho đến khi từ trần năm 1834.
Bỏ bê con cái
Ngay từ lần gặp mặt đầu tiên năm 1800, Joshua Marshman đã bất đồng với Carey về cách ông chăm sóc bốn cậu con trai. 4, 7, 12 và 15 tuổi, chúng vô lễ, không kỷ cương và thiếu giáo dục. Carey hầu như bỏ bê chúng.
Hannah Marshman viết, "Người đàn ông tốt bụng này nhìn thấy chúng hư hỏng và than khóc về điều đó, nhưng lại quá mềm yếu để sửa trị chúng". Hannah cùng chồng và người bạn, William Ward, đem các cậu bé trở lại cuộc sống nề nếp. Họ cùng nhau uốn nắn chúng trong khi Carey chăm sóc các giống thực vật, hoạt động truyền giáo và tới lui Calcutta để giảng dạy tại Đại học Fort William. Những người bạn này đã đem đến cho các con của Carey tinh thần kỷ luật, giáo huấn và sự cảm thông. Chính nhờ họ - và rất ít từ Carey – mà các con của ông trở nên người hữu ích.
Dòng thời gian
1761 Sinh tại Paulerspury, Northampton. Anh quốc. Ngày 17 tháng 8.
1777 Học nghề thợ giày.
1779 Dự một buổi nhóm cầu nguyện đã thay đổi cuộc đời ông, ngày 10 tháng 1.
1783 Chịu báp têm bởi Ryland, ngày 5 tháng 10.
1786 Chịu ơn gọi đến với chức vụ mục sư tại Olney, ngày 10 tháng 8.
1792 Xuất bản Tiểu luận "Tra vấn về Bổn phận của Cơ Đốc nhân";
Thành lập Hội Truyền giáo Baptist, ngày 2 tháng 10.
1793 Chịu bổ nhiệm làm giáo sĩ đến Ấn Độ, ngày 10 tháng 1;
Đặt chân đến Calcutta, ngày 11 tháng 11.
1796 Cử hành lễ báp têm cho một người Bồ Đào Nha, tân tín hữu đầu tiên của Carey.
1800 Dọn đến sống ở Serampore, ngày 10 tháng 1;
Cử hành lễ báp têm cho Krishna Pal, người Bengali đầu tiên qui đạo, ngày 18 tháng 12;
Giáo sư ngôn ngữ Sanskrit và Bengali tại Đại học Fort Williams.
1801 Hoàn tất bản Kinh Thánh Tân Ước tiếng Bengali, ngày 7 tháng 1.
1803 Thành lập tổ chức truyền giáo tự dưỡng.
1807 Được Viện đại học Brown, Hoa Kỳ, trao bằng Tiến sĩ Danh dự;
Thành viên Hội Á châu Bengali.
1808 Xuất bản Tân Ước tiếng Sanskrit.
1809 Hoàn tất bản dịch Kinh Thánh (Cựu Ước và Tân Ước) tiếng Bengali, ngày 24 tháng 6.
1811 Xuất bản Tân Ước tiếng Marathi.
1815 Xuất bản Tân Ước tiếng Punjabi.
1818 Cha ông qua đời, ngày 15 tháng 6.
1818 Xuất bản Cựu Ước tiếng Sanskrit.
1820 Thành lập Hội Nông nghiệp và Làm vườn, ngày 4 tháng 9;
Quốc vương Đan Mạch ban quy chế cho trường đại học tại Serampore;
Xuất bản Cựu Ước tiếng Marathi.
1821 Khai giảng trường đại học Serampore.
1825 Hoàn tất Từ điển Bengali - Anh.
1826 Chính quyền dành cho Carey "Quy chế Hỗ trợ" (Grant in Aid) cho giáo dục.
1829 Tập tục Suttee bị cấm nhờ những nỗ lực của Carey, ngày 4 tháng 12.
1834 Từ trần tại Serampore, ngày 9 tháng 6. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.