text
stringlengths 0
512k
|
---|
Trần Phong có thể là một trong những nhân vật sau:
Nhân vật
Trần Phong, hay Hồ Phong , cháu họ Hồ Quý Ly tướng người Việt hợp tác với quân Minh thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư trong lịch sử Việt Nam.
Trần Phong, một chính khách thời Lê sơ, làm quan trải 5 đời vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông, sau bị xử tử.
Một tên khác của Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trần Phong (diễn viên): diễn viên người Việt Nam, được biết đến qua vai Dũng trong phim Mắt biếc.
Khác
Trần Phong, tên một bộ lạc cổ trong thần thoại Trung Quốc. |
Vũ Văn Ninh (sinh năm 1955) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, XI, Ủy viên Ban cán sự đảng Chính phủ, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Thân thế và giáo dục
Vũ Văn Ninh sinh ngày 23 tháng 2 năm 1955, quê quán tại xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Ông có bằng Cao học Tài chính ngân sách, Quản trị kinh doanh và bằng Lý luận chính trị cao cấp.
Sự nghiệp
Sau khi tốt nghiệp Đại học Tài chính và Kế toán (nay là Học viện Tài chính), từ tháng 11 năm 1977 đến tháng 8 năm 1982, ông được phân công công tác tại Bộ Tài chính, giữ vai trò cán bộ nghiệp vụ, lần lượt qua các đơn vị Vụ Ngoại tệ và Quản lý ngoại thương (nay là Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại), Vụ Cân đối tài chính (nay là Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính), Vụ quản lý ngân sách địa phương rồi Vụ Ngân sách Nhà nước.
Tháng 8 năm 1982, ông được thăng làm bậc Phó phòng, công tác tại Vụ Quản lý ngân sách địa phương, Bộ Tài chính. Từ tháng 11 năm 1986, chuyển sang Vụ Quản lý ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính. Tháng 5 năm 1987, ông là Phó phòng Thư ký tổng hợp, Văn phòng Bộ Tài chính.
Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 27 tháng 1 năm 1987, chính thức ngày 27 tháng 1 năm 1988.
Từ tháng 7 năm 1988 đến tháng 9 năm 1990, ông là Trưởng phòng Thư ký, Văn phòng Bộ Tài chính.
Từ tháng 9 năm 1990 đến tháng 11 năm 1999, ông là Phó Vụ trưởng, Quyền Vụ trưởng rồi Vụ trưởng Vụ Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính.
Từ tháng 11 năm 1999 đến tháng 3 năm 2003, ông là Thứ trưởng rồi Thứ trưởng Thường trực Bộ Tài chính. Ủy viên Ban Cán sự đảng, sau là Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng Bộ Tài chính. Vào thời điểm đó, ông là một trong những thứ trưởng trẻ tuổi nhất ở Việt Nam.
Từ tháng 3 năm 2003 đến tháng 1 năm 2006, ông được luân chuyển công tác là Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch rồi Phó Chủ tịch Thường trực ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Đại biểu HĐND Thành phố. Trong Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội khóa XIV, nhiệm kì 2005–2010 diễn ra vào cuối tháng 12 năm 2005, ông cùng Phó Bí thư Thành ủy Hoàng Văn Nghiên và các Phó Chủ tịch của ủy ban nhân dân Hà Nội là Lê Quý Đôn, Đỗ Hoàng Ân, Nguyễn Thế Quang đều không có tên trong danh sách đề cử để được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ. Tuy vậy, ông vẫn có tên trong danh sách đoàn đại biểu Đảng bộ Thành phố đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (theo đúng điều lệ Đảng, người được tham dự các đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc không nhất thiết phải là thành viên trong Ban chấp hành đơn vị hành chính đó).
Tháng 1 năm 2006, ông được điều trở lại làm Thứ trưởng Bộ Tài chính, Ủy viên Ban Cán sự đảng. Ông ít xuất hiện trong những tuyên bố công khai liên can tới việc điều chỉnh thuế nhập khẩu đối với dòng ô-tô cũ, một sự kiện gây ra nhiều chú ý của dư luận đối với ban lãnh đạo Bộ Tài chính.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tháng 4 năm 2006 được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, giữ chức Bí thư Ban Cán sự đảng.
Ngày 28 tháng 6 năm 2006, ông chính thức được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn giữ chức vụ Bộ trưởng Tài chính
Ông cũng đồng thời giữ các chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Chủ tịch Hội đồng quản trị (nay là Hội đồng thành viên) Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước; Đại biểu Quốc hội khóa XII.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại biểu Quốc hội khóa XIII.
Ngày 3 tháng 8 năm 2011, tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Khóa XIII, được Quốc hội phê chuẩn làm Phó Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 13 tháng 6 năm 2012, Thủ tướng phê chuẩn ông làm Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo bền vững (nhiệm kỳ 2011 - 2020).
Ngày 8 tháng 4 năm 2016, ông được Quốc hội khóa XIII miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 9 tháng 4 năm 2016, ông nghỉ hưu.
Khen thưởng
Huân chương Độc lập hạng nhất (2017.06.20)
Kỷ luật
Trong nhiệm kì Phó Thủ tướng (2011-2016), ngày 4 tháng 2 năm 2013, Vũ Văn Ninh kí thay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng quyết định tái cơ cấu Tổng công ty Hàng hải Việt Nam giai đoạn 2012-2015, theo đó Tổng công ty này giữ 75% vốn điều lệ của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên cảng Quy Nhơn. Ngày 8 tháng 9 năm 2014, Vũ Văn Ninh kí tiếp công văn cho phép bán hết vốn nhà nước tại Công ty cổ phần cảng Quy Nhơn. Cho đến ngày 8 tháng 9 năm 2015, 86,23% vốn điều lệ của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên cảng Quy Nhơn đã do Công ty cổ phần đầu tư và khoáng sản Hợp Thành, một công ty tư nhân ở Hà Nội nắm giữ. Thanh tra Chính phủ cho rằng quý trình cổ phần hóa cảng Quy Nhơn có sai phạm và yêu cầu thu hồi vốn nhà nước. Tại kì họp thứ 35 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội từ ngày 24 đến 26 tháng 4 năm 2019 do Trần Cẩm Tú chủ trì, Ủy ban này đã kết luận Vũ Văn Ninh "có vi phạm, khuyết điểm trong việc quyết định chủ trương thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp thuộc Bộ Giao thông vận tải".
Ngày 19/7/2019, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bộ Chính trị họp xem xét, thi hành kỷ luật đối với ông Vũ Văn Ninh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Ban cán sự đảng Chính phủ, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ. Căn cứ Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/12/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm và quá trình công tác, cống hiến, đóng góp của ông đối với Đảng, Nhà nước, Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật ông Vũ Văn Ninh bằng hình thức cảnh cáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 2019, Tại Quyết định 1506/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức Cảnh cáo đối với ông Vũ Văn Ninh, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2011 - 2016, do có vi phạm, khuyết điểm nghiêm trọng trong công tác; Bộ Chính trị đã thi hành kỷ luật về Đảng.
Chú thích |
Nikolay Vasilyevich Gogol ( / Mykola Vasylovych Gogol, / Nikolay Vasilyevich Gogol, / Nikolaj Wasiljewicz Gogol; 01 tháng 4, 1809 - 04 tháng 3, 1852) là một văn sĩ, thi sĩ, kịch tác gia và phê bình gia người Nga gốc Ukraina - Ba Lan.
Lịch sử
Theo chứng thư đương thời, Mykola Vasylovych Gogol-Yanovsky (Микола Васильович Гоголь-Яновський) sinh ngày 20 tháng 3 (lịch cũ) năm 1809 tại thị tứ Sorochyntsi ven sông Psyol, nơi giáp ranh hai huyện Poltava và Mirgorod. Chính vấn đề địa lý kì cục này đã theo ông mãi về sau trong đời sáng tác. Mẹ ông - phu nhân Marya Ivanivna - là hậu duệ thống soái Kazakh Ostap Gogol, trong khi cha ông lại thuộc một quý tộc Ba Lan. Vì thế, các sử gia hậu hiện đại thường coi Gogol là nhân vật điển hình của nhóm Tiểu Nga định cư ven Hắc Hải.
Cũng như hầu hết các tiểu quý tộc Ukraina đương thời, sinh hoạt của cậu bé Mykola duy trì trong không gian Nga ngữ. Và vì thuộc gia đình quý tộc đã sa sút, Mykola Gogol được sống chan hòa cả với địa chủ và nông dân, vốn là hai giai cấp rất ít có đối thoại hồi đầu thế kỷ XIX. Cha Mykola lớn gấp đôi tuổi mẹ nên mất từ khi ông còn rất nhỏ, tuổi thơ Mykola được nuôi dưỡng bởi những truyện vặt mẹ kể đậm tính tôn giáo và huyền bí - điều có ảnh hưởng tích cực đến thành công văn chương của ông về sau.
Thời đầu sự nghiệp
Giai đoạn 1820-8, các giảng sư ở quê nhà thấy Mykola Gogol có chút năng khiếu nên tiến cử ông tới Nizhyn học trường nghệ thuật (nay là Đại học Quốc gia Nizhyn Gogol). Mykola không hề tỏ ra có nghị lực, học bạ đánh giá rất thấp, bù lại ông có trí nhớ tuyệt vời, có thành tựu nhất định ở môn hội họa và Nga văn. Tại đây, ông bắt đầu sáng tác thơ, soạn một số đoản thiên rồi sớm nhận ra mình hợp văn xuôi hơn. Ông không thân quen lắm với bạn cùng học, thậm chí họ gọi ông là "thằng quỷ bí ẩn", dẫu vậy Gogol vẫn duy trì tình bạn bền vững với hai hoặc ba người trong số họ.
Ngay từ rất sớm Gogol đã phát triển tính khí bi quan và bí ẩn, thể hiện qua hoài bão vô hạn và tự ý thức về nỗi thống khổ. Cũng từ những ngày ấy, ông đã sớm bộc lộ tài năng bắt chước, điều này về sau giúp ông trở thành độc giả của chính những tác phẩm mình viết nên, và khiến ông ấp ủ ý tưởng trở thành diễn viên.
Thời kì Peterburg
Năm 1828, Mykola Gogol bỏ học tới Sankt-Peterburg với một khát vọng rực chát nhưng mơ hồ. Ông muốn đặt chân vào thế giới văn học sôi động nhất Đế quốc Nga bấy giờ và mang theo một tác phẩm thơ trữ tình ông viết về cuộc sống bình dị nước Đức - Hans Küchelgarten. Ông tự dùng tiền túi xuất bản tác phẩm thơ này dưới bút danh "V.Alov", nhưng các tạp chí ông gửi bài đều cười nhạo và từ chối. Gogol bèn hủy hết tất cả bản sao tập thơ và thề không bao giờ làm thơ nữa.
Gogol xây lập được mối quan hệ với "giới quý tộc am hiểu văn chương'. Một truyện ngắn ông viết được đăng trên tờ Hoa phương Bắc (Northern Flowers) của Anton Delvig đã khiến cho nhà thơ Vasily Zhukovsky và Pyotr Pletnyov chú ý, và rồi năm 1831 Pushkin cũng biết tới.
Năm 1831, Gogol cho ra đời tập truyện Ukraina đầu tiên (Buổi tối ở trang trại gần Dikanka), tác phẩm này ngay lập thực đạt được thành công. Ông tiếp tục hoàn thành tập thứ hai vào năm 1832, và đến năm 1835 ông gộp hai tập truyện này dưới chung một tiêu đề Migorod, đồng thời cho ra đời hai tập tạp văn có tên Arabesques. Lúc bấy giờ, các nhà biên tập và phê bình người Nga như Nikolai Polevoy và Nikolai Nadezhdin, coi Gogol là một nhà văn tài năng mới nổi người Ukraina, chứ không phải là người Nga, người sử dụng những tác phẩm của mình để minh họa cho sự khác nhau giữa tính cách dân tộc Nga và Ukraina. Chủ đề và phong cách những tác phẩm văn xuôi thời kỳ đầu của Gogol, cũng như các tác phẩm kịch của ông sau này, tương tự với các nhà văn và kịch tác gia Ukraina sống cùng thời và cũng là bạn của ông, gồm có Hryhory Kvitka-Osnovyanenko và Vasily Narezhny. Tuy nhiên, tài nghệ châm biếm của Gogol phức tạp và độc đáo hơn rất nhiều.
Thời điểm đó, Gogol nảy nở một niềm đam mê với lịch sử Ukraina, ông cố gắng xin vào khoa lịch sử Đại học Kiev. Mặc dầu có sự giúp đỡ của Pushkin và bộ trưởng Bộ Giáo dục Nga Sergey Uvarov, nỗ lực này bị một quan chức Kiev cản trở với lý do Gogol không đủ trình độ chuyên môn. Truyện hư cấu Taras Bulba, dựa trên lịch sử người Cossack Ukraina, cũng ra đời trong thời kỳ này. Trong thời gian đó, Gogol cũng bắt đầu một tình bạn gần gũi và bền vững với nhà tự nhiên học, nhà sử học người Ukraina, Mykhaylo Maksymovych.
Năm 1834, Gogol được bổ nhiệm làm Giáo sư Lịch sử Trung đại của Đại học Tổng hợp Sankt-Peterburg mặc dù ông không đủ điều kiện chuyên môn. Nhận thấy công việc học thuật này hoàn toàn thất bại, ông liền từ chức ngay năm 1835.
Trong giai đoạn 1832-1836, Gogol dồn hết năng lượng vào công việc. Mặc dù hầu hết tác phẩm của ông đều ít nhiều liên quan đến bốn năm liên hệ trao đổi với Pushkin này, nhưng Gogol vẫn chưa cho rằng thành công trong sự nghiệp văn học đã thỏa mãn hoài bão của ông. Trong khoảng thời gian này, hai nhà phê bình văn học người Nga, Stepan Shevyrev và Vissarion Belinsky đi ngược lại với giới phê bình trước đây khi cho rằng Gogol thực sự là một nhà văn Nga chứ không phải là Ukraina. Mãi đến sau khi vở hài kịch Quan thanh tra (Revizor) được công diễn tại Nhà hát Quốc gia Sankt-Peterburg vào ngày 19 tháng 4 năm 1836, Gogol mới tin vào sự nghiệp văn học của mình. Vở hài kịch đả kích dữ dội công chức cấp tỉnh Nga này lại ra đời chính nhờ sự can thiệp của Sa hoàng Nikolai I.
Từ năm 1836 đến năm 1848, Gogol sống ở nước ngoài, qua lại hai nước Đức và Thụy Sĩ. Ông dành mùa đông năm 1836-1837 ở Paris, sống giữa những người Nga và Ba Lan lưu vong, gặp gỡ hai nhà thơ Ba Lan Adam Mickiewicz và Bohdan Zaleski. Cuối cùng ông định cư ở Rome. Trong phần lớn 12 năm kể từ năm 1836, Gogol sống ở Italy và nảy sinh tình cảm yêu mến cho thành Rome. Ông nghiên cứu nghệ thuật, nghiền ngẫm văn học Italia và say mê opera.
Việc Pushkin qua đời tác động mạnh mẽ tới Gogol. Tác phẩm quan trọng ông viết trong những năm sau khi Pushkin qua đời là tiểu thuyết châm biếm Những linh hồn chết. Đồng thời, ông cũng dành thời gian sửa chữa lại tác phẩm Taras Bulba và Bức chân dung, hoàn thành vở hài kịch thứ hai có tên Đám cưới (Zhenitba), viết tác phẩm Rome (chưa kịp hoàn thành) và cho ra đời truyện ngắn nổi tiếng nhất - Chiếc áo khoác.
Năm 1841, sau khi hoàn thành phần đầu tiểu thuyết Những linh hồn chết, Gogol đưa tác phẩm này về Nga để duyệt in. Những linh hồn chết xuất hiện ở Nga năm 1842 dưới tựa đề của bên kiểm duyệt - Những cuộc phiêu lưu của Chichikov. Tác phẩm này ngay tập tức gây được tiếng vang và trở thành áng văn xuôi vĩ đại nhất từng được viết bằng tiếng Nga.
Cuối đời
Sau thành công vang dội của Những linh hồn chết, người sống thời đó coi Gogol là nhà văn châm biếm vĩ đại, người đả phá bộ mặt xấu xí của Đế quốc Nga. Ít người biết rằng Những linh hồn chết dự định sẽ là một tác phẩm đối trọng với Thần khúc của Dante. Phần đầu tiên khắc họa Inferno (Hỏa ngục); phần hai là Purgatory (Luyện ngục), kể về sự thanh tẩy và chuyển biến của gã đểu cáng Chichikov nhờ ảnh hưởng của những người chủ và thống đốc đức hạnh.
Tháng 4 năm 1848, Gogol trở về Nga sau cuộc hành hương tới Jerusalem, ông dành những năm cuối đời cho chuyến đi không ngừng khắp đất nước. Khi thăm thủ đô, ông ở cùng một số bạn bè, chẳng hạn như Mikhail Pogodin và Sergey Aksakov. Trong thời gian này, Gogol dành phần lớn thời gian với những người bạn Ukraina cũ, Maksymovych và Osyp Bodiansky. Ông cũng thắt chặt quan hệ với một cố vấn tinh thần hay có thể gọi là người cha tinh thần Matvey Konstantinovsky mà ông quen vài năm trước.
Konstantinovsky dường như đã thúc đẩy nỗi sợ của Gogol về "kiếp đọa đày" bằng việc khăng khăng cho rằng những tác phẩm sáng tạo của Gogol mang tội lỗi. Lối sống khổ hạnh quá mức cũng bào mòn sức khỏe của Gogol, khiến công rơi vào trạng thái suy nhược nặng nề. Vào đêm ngày 24 tháng 2 năm 1852, Gogol đốt một số bản thảo, trong đó chứa hầu hết phần hai của Những linh hồn chết. Ông giải thích rằng đây là một sai lầm, một trò đùa cợt của lũ quỷ dữ. Ngay sau đó, ông lên giường, nhất quyết không ăn uống gì và qua đời trong cơn đau 9 ngày sau đó.
Đám tang Gogol diễn ra tại nhà thờ Thánh Tatiana ở Đại học Moskva, sau đó ông được chôn cất tại Tu viện Danilov, an nghỉ gần người bạn Slavophile Aleksey Khomyakov. Ngôi mộ ông nổi bật với một khối đá lớn (Golgotha) và một cây thánh giá Chính Thống giáo Nga đặt phía trên. Năm 1931, chính quyền Moskva quyết định phá tu viện này và chuyển phần mộ Gogol sang Nghĩa trang Novodevichy.
Người ta phát hiện rằng thi hài Gogol nằm sấp, qua đó càng thúc đẩy giả thuyết cho rằng Gogol bị chôn khi vẫn còn sống. Nhà cầm quyền chuyển cả khối đá Golgotha tới khu mộ mới nhưng bỏ cây thánh giá đi. Năm 1952, chính quyền Xô viết thay khối đá này bằng tượng bán thân Gogol. Về sau khối đá được đặt tại khu mộ nhà văn Mikhail Bulgakov, một người hâm mộ Gogol. Năm 2009, nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Gogol, tượng bán thân ông được di dời tới bảo tàng Nghĩa trang Novodevichy và khối đá Golgotha nguyên bản, cùng với một bản sao cây thánh giá Chính thống giáo trước kia, được đưa trở lại khu mộ Gogol.
Tượng đài Gogol đầu tiên ở Moskva là một bức tượng theo phái Tượng trưng đặt trên Quảng trường Arbat, thể hiện trí tượng tượng về Gogol của nhà điêu khắc Nikolay Andreyev hơn là người thật. Hoàn thành năm 1909, bức tượng này nhận được lời khen ngợi từ họa sĩ lừng danh IIlya Repin và đại văn hào Lev Tolstoy vì thể hiện xuất sắc tính cách dằng xé của Gogol. Tuy nhiên, Joseph Stalin lại không thích pho tượng, vì thế nó bị thay thế bằng một pho tượng theo lối hiện thực xã hội chủ nghĩa chính thống hơn vào năm 1952. Tốn rất nhiều công sức người ta mới giữ được pho tượng nguyên bản của Andreyev khỏi bị phá hủy. Đến năm 2014, pho tượng này được đặt trước ngôi nhà nơi Gogol trút hơi thở cuối cùng.
Thi pháp
D. S. Mirsky miêu tả thế giới của Gogol là "một trong những thế giới kỳ diệu nhất, khó lường nhất và nguyên bản nhất - nói theo hướng nghiêm khắc nhất - từng được một người nghệ sĩ ngôn từ tạo ra."
Một đặc trưng chính khác trong văn chương của Gogol là cái nhìn về thực tại và con người "giống như một người theo chủ nghĩa ấn tượng". Ông thấy thế giới ngoài kia biến hóa đầy lãng mạn, đặc biệt hiện rõ ở sự biến đổi không gian kỳ lạ trong các câu chuyện kiểu Gothic như "Sự trả thù kinh khủng" và "Một nơi say đắm". Những bức tranh của ông về tự nhiên chứa đựng hàng đống chi tiết kỳ lạ này chất lên điều kỳ lạ khác, tạo nên một sự hỗn độn không sao kết nối được. Con người theo miêu tả của ông mang màu sắc châm biếm, được vẽ bằng thủ pháp "biếm họa" - nhằm phóng đại những đặc điểm dễ thấy và thu gọn họ xuống thành những mẫu thức hình học. Nhưng những hình ảnh hoạt họa như vậy vẫn có sức thuyết phục, chân thật và không thể không nhận ra được, thông qua những nét vẽ nhẹ nhàng nhưng dứt khoát của một thực tại khó lường trước. Điều này dường như làm bản thân thế giới ta đang thấy nghèo nàn đi trông thấy.
Nhà văn Gogol khi đủ trưởng thành nhìn thực tại qua một khía cạnh mà tiếng Nga gọi là poshlosts, mang nghĩa "tầm thường, sáo rỗng, thấp kém", vừa mang tính luân lý vừa mang tính tinh thần, lan rộng trong trong một số nhóm người hoặc toàn xã hội. Giống như Sterne trước đây, Gogol là một người phá hoại những điều cấm kỵ và ảo tưởng lãng mạn đầy vĩ đại. Ông làm hao mòn Chủ nghĩa lãng mạn Nga bằng việc tạo dựng nên hình ảnh chính quyền thô bỉ không còn đẹp đẽ và uy nghi như trước đây. "Đặc tính của văn học Gogol là sự dư thừa vô hạn, mà chẳng bao lâu sau ta sẽ thấy đó vốn là sự rỗng tuếch hoàn toàn, và đồng thời còn là một vở hài kịch phong phú đột nhiên biến thành nỗi sợ siêu hình." Truyện ngắn của Gogol thường đan xen yếu tố cảm xúc và chế nhạo, còn như trong "Chuyện về cuộc cãi vã giữa Ivan Ivanovich và Ivan Nikiforovich" lại bắt đầu với tình huống đầy vui vẻ rồi kết thúc bằng một câu châm ngôn nổi tiếng: "Thưa các quý vị, thế giới này thật buồn tẻ".
Gogol kinh ngạc khi giới phê bình diễn giải rằng tác phẩm kịch Quan thanh tra là bản cáo trạng nhà nước Sa hoàng mặc dù chính Sa hoàng Nikolai I là người bảo trợ cho vở kịch này. Bản thân Gogol, người ủng hộ nhiệt thành phong trào thân Slav, luôn tin vào sứ mệnh thiêng liêng của cả triều đại Romanov và Giáo hội Chính thống giáo Nga. Giống như Fyodor Dostoyevsky, Gogol phản đối gay gắt những người ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến và những người tán thành việc giải tán Giáo hội Chính thống giáo.
Sau khi bày tỏ quan điểm bảo vệ giới quý tộc, nông nô và Giáo hội Chính thống giáo trong tác phẩm Những đoạn chọn lọc từ các lá thư gửi bạn bè (1847), Gogol chịu sự chỉ trích dữ dội từ nhà phê bình danh tiếng Vissarion Belinsky, người từng rất ủng hộ ông. Là trí thức Nga đầu tiên công khai nói về học thuyết kinh tế của Karl Marx, Belinsky buộc tội Gogol đã phản bội độc giả qua việc bảo vệ hiện trạng nước Nga.
Ảnh hưởng
Trước cả khi xuất bản cuốn sách Những linh hồn chết, Belinsky đã công nhận Gogol là nhà văn hiện thực đầu tiên của ngôn ngữ Nga, và coi ông là người dẫn đầu Trường phái Tự nhiên, ảnh hưởng đến những nhà văn trẻ và ít tên tuổi hơn như Goncharov, Turgenev, Dmitry Grigorovich, Vladimir Dahl và Vladimir Sollogub. Chính bản thân Gogol vẫn nghi ngờ về sự tồn tại của phong trào văn chương này. Mặc dầu công nhận "một số nhà văn trẻ thể hiện khát khao quan sát cuộc sống thực", Gogol vẫn phê bình văn phong và kết cấu yếu kém của những tác phẩm họ viết. Tuy nhiên, thế hệ những nhà phê bình cấp tiến sau này tôn vinh Gogol (người sáng tạo kiểu thế giới mà ở đó một chiếc mũi lang thang dạo chơi khắp thủ đô Nga - ý nhắc tới truyện Cái mũi của Gogol) là nhà văn hiện thực vĩ đại, danh tiếng của ông được Bách khoa toàn thư Anh quốc mô tả là "chiến thắng vĩ đại của nghệ thuật châm biếm Gogol".
Thời kỳ văn học hiện đại chứng kiến mối quan tâm sống lại và quan điểm thay đổi về các tác phẩm của Gogol. Một trong những tác phẩm tiên phong của chủ nghĩa hình thức Nga là nhận định của Eichenbaum về truyện ngắn Chiếc áo khoác. Những năm 1920, một nhóm các nhà văn chuyên viết truyện ngắn Nga, được biết đến như Anh em Separion, coi Gogol là một trong những người chỉ lối cho họ và cố tình bắt chước văn phong của ông. Các tiểu thuyết gia hàng đầu của thời kỳ này, như nhà văn Yevgeny Zamyatin và Mikhail Bulgakov, cũng ngưỡng mộ Gogol và tiếp bước con đường của ông. Năm 1926, Vsevolod Meyerhold cho biểu diễn vở kịch Quan thanh tra theo kiểu "hài kịch về một tình huống lố bịch".
Tuy người sống cùng thời Gogol coi ông là một trong những tên tuổi nổi bật nhất của trường phái tự nhiên trong văn học hiện thực Nga, các nhà phê bình đời sau nhận thấy các tác phẩm của ông nổi bật chất trữ tình kết hợp với tính siêu thực và kỳ quái (ví dụ như các truyện Cái mũi, Viy, Chiếc áo khoác, Đại lộ Nevsky). Những tác phẩm đầu tiên của Gogol, như Buổi tối ở trang trại gần Dikanka, chịu ảnh hưởng từ cuộc nổi dậy của người Ukraina, cùng văn hóa và văn học dân gian của nước này. Các tác phẩm sau này châm biến nạn hối lộ tràn lan ở Đế quốc Nga (Quan thanh tra, Những linh hồn chết). Tiểu thuyết Taras Bulba (1835) và vở kịch Đám cưới (1842), cùng với những truyện ngắn như Nhật ký người điên, Chuyện về cuộc cãi vã giữa Ivan Ivanovich và Ivan Nikiforovich, Bức chân dung và Cỗ xe, là những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.
Tác phẩm Những linh hồn chết được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina.
Mặc dù nhiều tác phẩm của ông bị ảnh hưởng bởi di sản của Ukraina và sự nuôi dưỡng, nhưng ông vẫn viết tác phẩm bằng tiếng Nga và cách viết của ông bị cuốn theo truyền thống của văn học Nga. Nhiều người Ukraina vẫn không thể tha thứ cho ông điều này vì, theo họ, ông đã phản bội tiếng mẹ đẻ. Nhưng đồng thời, nhiều người Nga theo chủ nghĩa thuần tuý vẫn không vui vẻ với thứ tiếng Nga của ông, vì họ cho rằng ông đã "làm bẩn" tiếng Nga bằng những thái độ Ukraina trong cú pháp.
Hình ảnh Gogol nhiều lần được in trên tem bưu điện của Nga và Liên Xô, cũng như trên toàn thế giới. Một số đồng xu lưu niệm mang hình ảnh ông cũng từng được lưu hành tại Nga và Liên Xô. Năm 2009, Ngân hàng Quốc gia Ukraina phát hành một đồng xu lưu niệm tôn vinh Gogol. Nhiều đường phố được đặt tên Gogol tại nhiều thành phố như Moskva, Sofia, Lipetsk, Odessa, Myrhorod, Krasnodar, Vladimir, Vladivostok, Penza, Petrozavodsk, Riga, Bratislava, Belgrade, Harbin, v.v...
Nhà văn Gogol cũng được nhắc tên một số lần trong tiểu thuyết Gã khờ và Tội ác & hình phạt của nhà văn Nga Fyodor Dostoyevsky cũng như vở kịch Chim hải âu của Chekhov. Hơn 135 bộ phim dựa trên trước tác của Gogol, trong đó gần đây nhất là phim Cô gái mặc áo khoác trắng (The Girl in the White Coat, 2011)
Nhân vật chính trong tiểu thuyết Người trùng tên (The Namesake) của Jhumpa Lahiri ra mắt năm 2003 và bộ phim chuyển thể từ tác phẩm này năm 2006 mang tên Nikolai Gogol, bởi cha của nhân vật này đã sống sót trong một vụ tai nạn tàu hỏa trong khi đang giữ trong tay một cuốn sách của Gogol.
Bài thơ mang tên "Gogol" của nhà thơ, nhà ngoại giao Abhay Kumar có nhắc tới một số tác phẩm vĩ đại của Gogol như Cái mũi, Chiếc áo khoác, Đại lộ Nevsky, Những linh hồn chết và Quan thanh tra.
Ban nhạc punk Gogol Bordello đặt theo tên của Gogol, người được các thành viên ban nhạc coi là nguồn truyền cảm hứng tư tưởng bởi ông đã "nhập lậu" văn hóa Ukraina vào xã hội Nga. Gogol Bordello cũng hy vọng sẽ làm được điều tương tự, đưa nhạc Gypsy Đông Âu vào các nước nói tiếng Anh.
Nhà văn Lỗ Tấn của Trung Quốc cũng đã rất ưa thích các phẩm của Gogol và không ngần ngại mượn tên truyện của Gogol để đặt tên cho tác phẩm đầu tay của mình là Nhật ký người điên.
Nhà văn Akutagawa Ryūnosuke của Nhật Bản cũng lấy tên tác phẩm Cái mũi của Gogol để đặt tên cho tác phẩm cùng tên của mình.
Trứ tác
Bài viết chi tiết: Danh sách tác phẩm của Nikolai Gogol
1831 - 1832: Những buổi tối ở thôn ấp gần Dikanka (tập truyện ngắn)
1835: Mirgorod (tập truyện ngắn)
1835: Ả Rập (tập truyện ngắn)
Bức chân dung (truyện ngắn)
Một chương trong cuốn tiểu thuyết lịch sử xưa cũ (truyện ngắn)
Đại lộ Nevsky (truyện ngắn)
Người tù binh Kavkaz (truyện ngắn)
Nhật ký một người điên (truyện ngắn)
1836: Cái mũi (truyện ngắn)
1836: Quan thanh tra (hài kịch)
1842: Chiếc áo khoác (truyện ngắn)
1842: Những linh hồn chết (tiểu thuyết)
1847: Những đoạn chọn lọc từ các lá thư gửi bạn (tập thư và tiểu luận) |
Gogol có thể là một trong các tên sau:
Nikolai Vasilevich Gogol, nhà văn Nga
General Gogol, một nhân vật của KGB trong tập phim về James Bond
Gogol Bordello, một ban nhạc punk người Gypxi đến từ Thành phố New York |
Nguyễn Sinh Hùng (sinh ngày 18 tháng 1 năm 1946) là một chính khách người Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, XI, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa XIII giai đoạn (2011-2016), Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia Việt Nam, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ thời kỳ (2006-2011) trong Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Tiểu sử
Nguyễn Sinh Hùng sinh ngày 18 tháng 1 năm 1946, thuộc dòng họ Nguyễn Sinh ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong gia đình có năm người con. Ông học cấp 1 và 2 ở Nam Đàn, sau đó ra Hà Nội học cấp 3 tại trường Trường Trung học phổ thông Việt Đức. Gia đình ông một thời sống tại 54 Phố Huế Hà Nội. Ông từng là sinh viên Đại học Tài chính và Kế toán (nay là Học viện Tài chính) (1966-1970).
Ngày 1 tháng 1 năm 1972, ông được tuyển dụng làm cán bộ của Ngân hàng Kiến thiết Trung ương, Bộ Tài chính.
Sự nghiệp chính trị
Nguyễn Sinh Hùng gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 26 tháng 5 năm 1977, chính thức vào 26 tháng 5 năm 1978.
Năm 1978 đến 1982, ông đi học nghiên cứu sinh tiến sĩ về Kinh tế tại Bungari, Bí thư Chi bộ khối Kinh tế khóa nghiên cứu sinh người Việt tại Bungari.
Từ tháng 10 năm 1986 đến tháng 1 năm 1990, ông Nguyễn Sinh Hùng là Chánh văn phòng Kho bạc Nhà nước, Bộ Tài chính. Năm 1990, ông giữ chức Cục trưởng Cục Kho Bạc Nhà nước, nay là Kho Bạc Nhà nước Việt Nam. Tháng 10 năm 1992, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Tài chính.
Tháng 6 năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và giữ cương vị này liên tiếp các khoá VIII, IX, X, XI. Đồng thời ông cũng là đại biểu Quốc hội khóa X, XI, XII, XIII. Tại Đại hội Đảng lần thứ X, XI ông đều được bầu vào Bộ Chính trị.
Tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ (2006-2011)
Ngày 28 tháng 6 năm 2006, ông được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn bổ nhiệm làm Phó Bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, theo đề xuất của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đảm nhiệm các công việc chung trong hệ thống điều hành công việc của Chính phủ. Được giao trọng trách đảm nhận những công việc khi Thủ tướng đi vắng hoặc được Thủ tướng ủy quyền.
Tháng 5 năm 2007, ông làm Trưởng ban Chỉ đạo xây dựng Nhà Quốc hội do Chính phủ thành lập, ông quyết định việc tổ chức tháo dỡ Hội trường Ba Đình và các công trình kiến trúc trong khuôn viên Hội trường Ba Đình cần hoàn thành trong tháng 11 năm 2007.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng cũng làm Trưởng ban Chỉ đạo tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) sau khi vụ Vinashin bị phanh phui làm ăn sai trái nợ 5 tỷ USD không có khả năng thanh toán. Phát biểu với báo giới tháng 10 năm 2010, ông nói: chậm nhất là đầu tháng 11 này, sẽ là một "Vinashin mới".
Chủ tịch Quốc hội (2011-2016)
Ngày 23 tháng 7 năm 2011 ông được quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Quốc hội khoá XIII (2011-2016) với 91,4% phiếu bầu (tỷ lệ 457/497 đại biểu đồng ý). Phát biểu tại lễ nhận chức vụ mới, ông Hùng nói: "Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII sẽ luôn nâng cao trình độ, kiên quyết phòng chống quan liêu, chống tham nhũng, lãng phí, gắn bó và lắng nghe ý kiến của nhân dân, thực sự đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân".
Ông là Chủ tịch Quốc hội duy nhất được bầu khi Tòa nhà Quốc hội đang được thi công, trong quãng thời này Quốc hội họp bàn tại Hội trường Bộ Quốc phòng cho đến Kỳ họp thứ 7 của khóa XIII đến Kỳ họp thứ 8 của khóa XIII là kỳ họp đầu tiên tại Tòa nhà Quốc hội. Ngày 28 tháng 11 năm 2013, sau nhiều lần họp bàn và bổ sung ông Nguyễn Sinh Hùng đã ký chứng thực Hiến pháp mới. Ông khẳng định Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý đặc biệt quan trọng, là luật cơ bản, luật gốc của Nhà nước, phản ánh ý chí, lợi ích toàn dân tộc, định hướng chiến lược cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Ngày 8 tháng 12 năm 2013, Hiến pháp mới đã được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố.
Ngày 28 tháng 7 năm 2014, ông đã tiếp Đoàn ĐB Ủy ban Ngân sách Hạ viện Nhật Bản tại buổi gặp mặt ông hoan nghênh và đánh giá cao việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Nhật Bản đã sớm có những phát biểu mạnh mẽ và ra Nghị quyết phê phán hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc trong vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và mong muốn Nhật Bản tiếp tục lên tiếng, ủng hộ lập trường của Việt Nam về tuân thủ luật pháp quốc tế, bảo đảm tự do, an toàn hàng hải và thương mại, không để hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực bị đe dọa. Ngày 4 tháng 8 năm 2014, ông đã cám ơn và đánh giá cao việc Thượng viện Hoa Kỳ đã ra Nghị quyết phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; đánh giá cao tuyên bố của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry về vấn đề biển Đông.
Vào lần kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 ông đã chủ trì tiệc chiêu đãi đãi mừng Quốc khánh tại trụ sở Liên Hợp Quốc. Ngày 3 tháng 9 năm 2015 theo giờ Việt Nam sau khi dự Hội nghị Thượng đỉnh các Chủ tịch Quốc hội thế giới lần thứ 4 ông chính thức thăm Hoa Kỳ.
Ngày 30/03/2016, Quốc hội đã biểu quyết thông qua nghị quyết về việc miễn nhiệm chức danh Chủ tịch Quốc hội đối với ông, sau đó ông được nghỉ hưu theo chế độ. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân được đề cử làm Chủ tịch Quốc hội. Ngày 31 tháng 3 năm 2016, bà Nguyễn Thị Kim Ngân được bầu làm Chủ tịch Quốc hội thay ông Nguyễn Sinh Hùng. Trong nhiệm kỳ ông có phát ngôn gây tranh cãi: "Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu chứ đòi kỉ luật ai?"; "Nếu cách chức hết thì lấy ai làm việc"
Quan điểm
Về tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN VN (điều 88), Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng cho ý kiến: " Tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm, bắt cũng được đấy. Nói như vậy để thấy là không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung như vậy, muốn bắt ai thì bắt, đâu có được".
Nghỉ hưu
Sau khi nghỉ hưu ông ít xuất hiện trước công chúng. Ngày 19 tháng 7 năm 2017, tại Nhà Quốc hội Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân trao Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng cho ông.
Gia đình
Con trai ông Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Sinh Nhật Tân, được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ Công Thương ngày 10.9.2021.
Khen thưởng
Huân chương Lao động hạng Nhất (2002)
Huân chương Itsara hạng Nhất của Lào (năm 2007) |
8000 (tám nghìn, hay tám ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 7999 và ngay trước 8001. |
Một chương trình quản lý cửa sổ X (tiếng Anh: X window manager) là một phần mềm điều khiển sự bố trí và ngoại hình của các cửa sổ trong hệ thống X Window, một hệ thống cửa sổ được dùng chủ yếu trong các hệ thống giống Unix.
Không giống Apple Macintosh và Windows - các hệ nền vốn chỉ cung cấp một bộ các phương thức cố định do nhà cung cấp kiểm soát để điều khiển việc hiển thị các cửa sổ và pan-nô trên màn hình và điều khiển cách người dùng tương tác với chúng, người ta đã cố ý giữ phần quản lý cửa sổ cho hệ thống X Window tách biệt khỏi phần mềm cung cấp hiển thị đồ họa. Người dùng có thể lựa chọn giữa nhiều chương trình quản lý cửa sổ của các nhà cung cấp phần mềm bên thứ ba (third-party), các chương trình này khác nhau ở nhiều điểm, trong đó có:
Khả năng tùy biến (customizability) ngoại hình và chức năng:
Các trình đơn dưới dạng văn bản (textual menu) dùng để khởi động các trình ứng dụng và/hoặc thay đổi các tùy chọn.
Trạm nổi (docks) và các phương pháp khác để khởi động các chương trình ứng dụng từ môi trường đồ họa.
Đa mặt bàn (multiple desktops) và mặt bàn ảo (virtual desktop) (mặt bàn to hơn kích thước thực của màn hình), và ô đổi trang (pager) để người dùng có thể chuyển giữa các trang mặt bàn.
Nhu cầu về dung lượng bộ nhớ và các tài nguyên hệ thống khác
Mức độ tích hợp với môi trường mặt bàn nhằm cung cấp một giao diện đầy đủ hơn với hệ điều hành, đồng thời cung cấp một loạt các ứng dụng và tiện ích đã được tích hợp (integrated utilities).
Các trình bao thay thế cho Microsoft Windows cũng đã xuất hiện. Ví dụ LiteStep có thể thay thế giao diện người dùng trong Windows 95, 98, hay NT, với phong cách của Afterstep. OS/2 được phát hành kèm với trình bao mặc định là chương trình Presentation Manager, nhưng các nguồn thứ ba (third party sources) cũng có thể cung cấp các chương trình thay thế.
Nguyên lý hoạt động của các chương trình quản lý cửa sổ X
Khi một chương trình quản lý cửa sổ hoạt động, một số dạng tương tác giữa trình phục vụ X và các trình khách của nó được điều hướng thông qua chương trình quản lý cửa sổ. Cụ thể, khi có yêu cầu phải hiển thị một cửa sổ mới, yêu cầu này được gửi cho chương trình quản lý cửa sổ và nó sẽ quyết định tọa độ khởi đầu của cửa sổ. Thêm vào đó, hầu hết các chương trình quản lý cửa sổ hiện đại còn thay nhánh mẹ của cửa sổ (reparenting), điều này dẫn đến việc một biểu ngữ được đặt trên đỉnh cửa sổ cùng với một khung trang trí được vẽ chung quanh viền mép của nó. Hai phần tử này được điều khiển bởi chương trình quản lý cửa sổ, thay vì bởi chương trình ứng dụng. Chính vì vậy, khi người dùng bấm chuột và kéo những phần tử này trên màn hình, chính chương trình quản lý cửa sổ là phần mềm lựa chọn các hành động thích hợp (như chuyển vị trí hoặc đổi kích cỡ của cửa sổ).
Chương trình quản lý cửa sổ còn chịu trách nhiệm với các biểu tượng (icon) nữa. Thực thế, ở mức giao thức trung tâm X Window, các biểu tượng không tồn tại. Khi người dùng đòi hỏi một cửa sổ được thu nhỏ lại thành một biểu tượng (iconified), chương trình quản lý cửa sổ xóa cửa sổ này khỏi bản đồ của mình (làm cho nó trở nên không nhìn thấy được) rồi lựa chọn hành động thích hợp để hiển thị biểu tượng tại chỗ của nó. Một số chương trình quản lý cửa sổ không hỗ trợ biểu tượng.
Trong khi mục đích chính của chương trình quản lý cửa sổ là quản lý các cửa sổ, như ý nghĩa của tên gọi, nhiều chương trình quản lý cửa sổ còn có thêm những tính năng bổ sung như khả năng xử lý các sự kiện bấm chuột tại cửa sổ gốc (root window), hiển thị các ô cửa sổ, cùng nhiều những phần tử trực quan đồ họa khác. Chúng còn có thể có chức năng xử lý phím bấm từ bàn phím (chẳng hạn Alt-F4 có thể làm đóng cửa sổ), quyết định việc chương trình ứng dụng nào sẽ chạy lúc máy vừa khởi động xong v.v.
Những chương trình quản lý cửa sổ cho X được nhiều người ưa chuộng
AfterStep
Blackbox (Đơn giản và nhẹ nhất)
Enlightenment
Fluxbox (Hạng nhẹ, dựa trên nền của Blackbox)
FVWM (Một Chương trình quản lý cửa sổ ảo ( virtual window manager), phát sinh ra từ twm)
IceWM
Ion Chương trình quản lý cửa sổ đồng cỡ đa tầng (tiling tabbed window manager) được thiết kế với dụng ý dành cho người dùng quen sử dụng bàn phím.
Kwin (Nguyên được gọi là Kwm, chương trình quản lý cửa sổ mặc định của KDE)
Metacity (Chương trình quản lý cửa sổ mặc định của GNOME kể từ phiên bản 2.2)
MWM (Chương trình quản lý cửa sổ Motif)
Sawfish (Nguyên được gọi là Sawmill)
twm (Chương trình quản lý cửa sổ của Tom)
Window Maker - Chương trình tạo cửa sổ
Xfwm, Chương trình quản lý cửa sổ mặc định của Xfce
Những chương trình quản lý cửa sổ X khác
4dwm
5Dwm (Chương trình quản lý cửa sổ X phát sinh từ mwm, diện mạo và cử chỉ của các phần tử trong giao diện đồ họa hoàn toàn giống như tính cách của các giao diện đồ họa do Silicon Graphics Inc. làm ra - true SGI look&feel))
9wm: (Một bản bắt chước hệ thống cửa sổ nguyên của Plan 9)
aewm
amiwm: Một phần mềm Amiga Workbench (giao diện đồ họa người dùng của Amiga), bắt chước hệ điều hành Unix.
Compiz
CTWM
evilwm
FVWM95
HaZe
JWM (Chương trình quản lý cửa sổ của Joe)
Kahakai
larswm
Luminocity
LWM
Matchbox
OLWM (và OLVWM với các bộ mặt bàn ảo, cùng chương trình quản lý cửa sổ OPEN LOOK)
Openbox
hackedbox
Oroborus
PekWM
PWM
Qvwm (Windows 95/98 look-alike)
Ratpoison
Scwm (Chương trình quản lý cửa sổ theo quy trình của Scheme)
Orion: Một chương trình quản lý cửa sổ (đồng cỡ, trôi nổi) được viết bằng Scheme và scsh
swm
TrsWM
uwm
Waimea
WebWM
WindowLab
wm2
WMI
wmii
XPwm (Chương trình quản lý cửa sổ của XPde) |
Vermont () là một tiểu bang ở vùng New England của Hoa Kỳ. Tiểu bang này giáp với các bang Massachusetts ở phía nam, New Hampshire về phía đông, và New York về phía tây, và tỉnh Quebec của Canada về phía bắc. Vermont là tiểu bang duy nhất ở New England không giáp với Đại Tây Dương. Vermont là tiểu bang có dân số ít thứ hai của Hoa Kỳ và nhỏ thứ sáu về diện tích trong số 50 tiểu bang của Hoa Kỳ với dân số được ghi nhận là 643.503 người theo điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2020 . Thủ phủ của bang là Montpelier, thủ phủ của bang có ít dân nhất ở Hoa Kỳ. Thành phố đông dân nhất, Burlington, là thành phố ít dân nhất mà là thành phố đông dân nhất trong một tiểu bang.
Trong khoảng 12.000 năm, người dân bản địa đã sinh sống tại khu vực này. Các bộ lạc cạnh tranh trong lịch sử của người Algonquin nói tiếng Abenaki và Mohawk nói tiếng Iroquois đã sinh sống trong khu vực này vào thời điểm chạm trán với người da trắng châu Âu. Trong thế kỷ 17, thực dân Pháp tuyên bố lãnh thổ này là một phần của thuộc địa Tân Pháp của Vương quốc Pháp. Sau khi Vương quốc Anh bắt đầu thành lập các thuộc địa ở phía nam dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, hai quốc gia này cạnh tranh với nhau ở Bắc Mỹ cùng với châu Âu. Sau khi bị đánh bại vào năm 1763 trong Chiến tranh Bảy năm, Pháp đã nhượng lại lãnh thổ của mình ở phía đông sông Mississippi cho Vương quốc Anh.
Mười ba Thuộc địa của Anh gần đó, đặc biệt là các tỉnh New Hampshire và New York, tranh chấp phạm vi của khu vực được gọi là New Hampshire Grants ở phía tây của sông Connecticut, bao gồm Vermont ngày nay. Chính quyền tỉnh New York đã bán các giấy cấp đất cho những người định cư trong khu vực, điều này mâu thuẫn với các khoản tài trợ trước đó của chính phủ New Hampshire. Lực lượng dân quân Green Mountain Boys bảo vệ quyền lợi của những người định cư được cấp đất ở New Hampshire chống lại những người định cư mới đến với quyền sở hữu đất do New York cấp. Cuối cùng, một nhóm người định cư được cấp đất đai ở New Hampshire đã thành lập Cộng hòa Vermont vào năm 1777 với tư cách là một quốc gia độc lập trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ. Cộng hòa Vermont đã bãi bỏ chế độ nô lệ trước bất kỳ bang nào khác tại Hoa Kỳ.
Vermont được cho phép nhập vào Hoa Kỳ mới thành lập với tư cách là tiểu bang thứ mười bốn vào năm 1791. Trong suốt giữa thế kỷ 19, Vermont là một nguồn ủng hộ chủ nghĩa bãi nô, mặc dù nó cũng gắn liền với King Cotton thông qua sự phát triển của các nhà máy dệt trong khu vực, vốn dựa vào bông phía Nam. Nó đã cử một đội ngũ binh lính đáng kể tham gia vào cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.
Vị trí địa lý của bang này được xác định bởi Dãy núi Green, chạy theo hướng bắc - nam ở giữa bang, ngăn cách Hồ Champlain và các địa hình thung lũng khác ở phía tây với thung lũng sông Connecticut, nơi xác định phần lớn biên giới phía đông của bang. Phần lớn địa hình của nó là rừng với các loại cây gỗ cứng và cây lá kim, và phần lớn đất trống của nó được dành cho nông nghiệp. Khí hậu của bang được đặc trưng bởi mùa hè ấm áp, ẩm ướt và mùa đông lạnh giá, có tuyết.
Hoạt động kinh tế 34 tỷ đô la của Vermont vào năm 2018 xếp thứ 52 trong danh sách các tiểu bang và vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ theo GDP (GDP mọi tiểu bang, kể cả Washington, DC và Puerto Rico đều lớn hơn tiểu bang này), nhưng đứng thứ 34 về GDP bình quân đầu người. Năm 2000, cơ quan lập pháp Vermont là cơ quan tiểu bang Mỹ đầu tiên công nhận kết hợp dân sự cho các cặp đồng tính.
Đây là nơi sinh của các Tổng thống Chester A. Arthur (tại Fairfield) và Calvin Coolidge (tại Plymouth Notch).
Từ nguyên
Samuel de Champlain đã tuyên bố chủ quyền khu vực xung quanh hồ Champlain ngày nay, đặt tên là Verd Mont (Núi Xanh) cho khu vực mà ông tìm thấy trên bản đồ năm 1647. Bằng chứng cho thấy rằng tên này đã được những người định cư người Anh sử dụng, trước khi nó được chuyển thành "Vermont", vào khoảng 1760. Năm 1777, Thomas Young đã giới thiệu tên này trong văn bản gửi cư dân với nội dung "Gửi những cư dân của Vermont, một quốc gia tự do và độc lập".
Lịch sử
Người bản địa châu Mỹ
Từ năm 8500 đến năm 7000 TCN, vào thời điểm có biển Champlain, người Mỹ bản địa đã sinh sống và săn bắn ở Vermont ngày nay. Trong thời kỳ cổ đại, từ thiên niên kỷ thứ 8 TCN đến 1000 TCN, người Mỹ bản địa di cư quanh năm. Trong suốt thời kỳ Woodland, từ năm 1000 TCN đến năm 1600, họ thành lập các làng và mạng lưới thương mại, đồng thời phát triển công nghệ gốm sứ và cung tên. Dân số của họ vào năm 1500 CN được ước tính là khoảng 10.000 người.
Trong thời thuộc địa, với việc thực dân Pháp chạm trán người bản địa và định cư tại đây, lãnh thổ bang này chủ yếu thuộc về một bộ lạc Abenaki được gọi là Sokoki, hoặc Missisquois. Phần phía đông của bang cũng có thể do các dân tộc Androscoggin và Pennacook chiếm giữ.
Về phía tây, người Missisquois cạnh tranh với Iroquoian Mohawk, vốn tập trung tại thung lũng Mohawk nhưng có lãnh thổ rộng lớn, và các dân tộc Algonquin Mohican. Nhiều bộ lạc sau đó đã thành lập Liên minh Wabanaki trong Chiến tranh của Vua Philip.Thực dân Anh đã đánh bại và làm phân tán hầu hết các bộ lạc Abenaki còn sống sót.
Thời thực dân
Người châu Âu đầu tiên đến Vermont được cho là nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier vào năm 1535. Vào ngày 30 tháng 7 năm 1609, nhà thám hiểm người Pháp Samuel de Champlain đã tuyên bố lãnh thổ này là một phần của nước Tân Pháp. Năm 1666, những người Pháp định cư đã dựng lên Pháo đài Sainte Anne trên Đảo La Motte, khu định cư đầu tiên của người châu Âu ở Vermont.
Trận động đất "dữ dội" năm 1638 ở New Hampshire tập trung ở Thung lũng St. Lawrence và được báo cáo xảy ra khắp New England. Đây là sự kiện địa chấn đầu tiên được ghi nhận ở Vermont. Năm 1690, một nhóm người Anh-Hà Lan định cư ở Albany thành lập một khu định cư và chợ trao đổi tạiChimney Point, về phía tây của Addison ngày nay. Trong Chiến tranh Dummer, khu định cư lâu dài đầu tiên của người Anh được thành lập vào năm 1724 với việc xây dựng Pháo đài Dummer . Nó được thiết kế để bảo vệ các khu định cư gần đó của Dummerston và Brattleboro.
Địa lý
Vermont tọa lạc tại khu vực New England của Đông Bắc Mỹ và có diện tích 9614 dặm vuông (24.900 km²), khiến nó trở thành tiểu bang có diện tích lớn thứ 45. Đây là tiểu bang duy nhất không có bất kỳ tòa nhà nào cao hơn 124 feet (38 m). Đất đai bao gồm 9.250 dặm vuông (24.000 km²) và nước bao gồm 365 dặm vuông (950 km²), khiến nó trở thành tiểu bang thứ 43 về diện tích đất đai và thứ 47 về diện tích nước. Tổng diện tích nó lớn hơn El Salvador và nhỏ hơn Haiti . Đây là tiểu bang duy nhất không giáp biển ở New England, và nó là vùng cực đông và nhỏ nhất trong tất cả các bang không giáp biển.
Các dãy núi xanh ở Vermont tạo thành một cột sống bắc-nam chạy hầu hết chiều dài của nhà nước, hơi phía tây của trung tâm của nó. Ở phía tây nam của bang nằm trên dãy núi Taconic . Ở phía tây bắc, gần hồ Champlain , là thung lũng Champlain màu mỡ. Ở phía nam của thung lũng là hồ Bomoseen.
Bờ phía tây của sông Connecticut đánh dấu biên giới phía đông của tiểu bang với New Hampshire, mặc dù phần lớn dòng sông chảy trong lãnh thổ của New Hampshire. 41% diện tích đất của Vermont là một phần của lưu vực sông Connecticut.
Hồ Champlain , cơ quan nước ngọt lớn thứ sáu ở Hoa Kỳ, tách Vermont khỏi New York ở phía tây bắc của tiểu bang. Từ Bắc vào Nam, Vermont có độ dài 159 dặm (256 km). Chiều rộng lớn nhất của nó, từ đông sang tây, là 89 dặm (143 km) tại biên giới Canada-Mỹ; chiều rộng hẹp nhất là 37 dặm (60 km) gần biên giới tiểu bang Massachusetts. Giá trị trung bình chiều rộng 60,5 dặm (97,4 km). Trung tâm địa lý bang là khoảng ba dặm (5 km) về phía đông của Roxbury, trong Quận Washington. Có mười lăm cửa khẩu biên giới của Hoa Kỳ ở Vermont nối với Canada.
Một số ngọn núi có đường gỗ với hệ sinh thái núi cao quanh năm tinh tế, bao gồm Núi Mansfield, ngọn núi cao nhất trong tiểu bang; Killington Peak , cao thứ hai; Camel's Hump, cao thứ ba của bang; và Núi Áp-ra-ham , đỉnh cao thứ năm. Các khu vực ở Vermont do Dịch vụ Công viên Quốc gia quản lý bao gồm Công viên Lịch sử Quốc gia Marsh-Billings-Rockefeller (ở Woodstock ) và Đường mòn Danh lam thắng cảnh Quốc gia Appalachia . |
Virginia (phát âm tiếng Việt: Vơ-gin-ni-a; phát âm tiếng Anh: ), tên chính thức là Thịnh vượng chung Virginia (), là một bang nằm tại khu vực Nam Đại Tây Dương của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Virginia có tên hiệu là "Old Dominion" do từng là một lãnh thổ tự trị cũ của quân chủ Anh, và "Mother of Presidents" do bang là nơi sinh của nhiều tổng thống Hoa Kỳ nhất. Dãy núi Blue Ridge và vịnh Chesapeake định hình địa lý và khí hậu của Virginia, cung cấp môi trường sống cho phần lớn động thực vật trong bang. Thủ phủ của bang là Richmond; song Virginia Beach là thành phố đông dân nhất, còn Fairfax là quận hành chính đông dân nhất. Năm 2013, dân số Virginia được ước tính đạt trên 8,2 triệu.
Lịch sử khu vực bắt đầu cùng với một vài nhóm người bản địa, trong đó có Powhatan. Năm 1607, Công ty London thiết lập Thuộc địa Virginia, đây là thuộc địa thường trú đầu tiên của Anh tại Tân Thế giới. Lao động nô lệ và đất đai giành được từ việc chiễm chỗ các bộ lạc da đỏ đóng vai trò quan trọng trong chính trị và kinh tế đồn điền thời kỳ đầu thuộc địa. Virginia là một trong 13 thuộc địa trong Cách mạng Mỹ và gia nhập Liên minh quốc trong Nội chiến Mỹ. Trong Nội chiến, Richmond được lập làm thủ đô của Liên minh quốc và các quận nằm ở phía tây bắc của Virginia ly khai để hình thành bang Tây Virginia. Virginia do một đảng cầm quyền trong gần một thế kỷ sau Tái thiết, song ngày nay cả hai chính đảng quốc gia lớn đều cạnh tranh tại Virginia.
Đại hội Virginia là cơ cấu lập pháp liên tục lâu năm nhất tại Tân Thế giới. Chính phủ bang nhiều lần được Trung tâm Pew về các bang xếp hạng là hoạt động hữu hiệu nhất. Virginia có điểm độc đáo là đối đãi bình đẳng giữa các thành phố độc lập và các quận, quản lý các tuyến đường bộ địa phương, và cấm thống đốc của bang phục vụ các nhiệm kỳ liên tiếp. Kinh tế Virginia gồm có nhiều khu vực: nông nghiệp tại thung lũng Shenandoah; các cơ quan liên bang tại Bắc Virginia, bao gồm trụ sở chính của Bộ Quốc phòng và CIA; các cơ sở quân sự tại Hampton Roads. Kinh tế Virginia chuyển từ dựa chủ yếu vào nông nghiệp sang công nghiệp trong thập niên 1960 và 1970, và vào năm 2002 thì chip máy tính trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của bang.
Đây là nơi sinh của các Tổng thống: George Washington, Thomas Jefferson, James Madison, James Monroe, William Henry Harrison, John Tyler, Zachary Taylor và Woodrow Wilson.
Địa lý
Tổng diện tích của Virginia là , trong đó có mặt nước, và là bang rộng lớn thứ 35 tại Hoa Kỳ. Virginia giáp với Maryland và Washington, D.C. ở phía bắc và đông; giáp với Đại Tây Dương ở phía đông; giáp với Bắc Carolina và Tennessee ở phía nam; giáp với Kentucky ở phía tây; và giáp với Tây Virginia ở phía bắc và tây. Biên giới của Virginia với Maryland và Washington, D.C. kéo dài theo mực triều thấp ở bờ nam sông Potomac. Biên giới phía nam được xác định theo vĩ tuyến 36° 30′ Bắc, song sai số về trắc lượng khiến độ lệch lên đến ba phút. Vấn đề biên giới Tennessee được giải quyết vào năm 1893 khi tranh chấp giữa hai bang được đưa lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ.
Địa chất và địa hình
Vịnh Chesapeake tách biệt phần liền kề của bang với hai quận tại Eastern Shore thuộc Virginia, là một phần của bán đảo Delmarva. Vịnh hình thành sau khi các thung lũng sông Susquehanna và sông James bị ngập nước. Nhiều sông của Virginia chảy vào vịnh Chesapeake, gồm có Potomac, Rappahannock, York, và James, chúng tạo thành ba bán đảo giáp vịnh. Về mặt địa lý và địa chất, Virginia được phân thành năm khu vực, từ đông sang tây là: Tidewater (nước triều), Piedmont, dãy núi Blue Ridge, Ridge and Valley (đỉnh núi và thung lũng), và cao nguyên Cumberland.
Tidewater là một đồng bằng ven biển nằm giữa bờ biển Đại Tây Dương và tuyến thác (fall line). Khu vực này gồm có Eastern Shore và các vùng cửa sông lớn của vịnh Chesapeake. Piedmont gồm một loạt vùng chân núi có nền đá trầm tích và mácma nằm ở phía đông của các dãy núi vốn được hình thành vào Đại Trung sinh. Khu vực có lớp đất sét dày, và bao gồm cả dãy núi Southwest. Dãy núi Blue Ridge là một khu vực địa lý tự nhiên thuộc dãy Appalachian, và có các đỉnh cao nhất trong bang, cao nhất trong số đó là núi Rogers với cao độ . Vùng Ridge and Valley ở phía tây của dãy núi, và bao gồm thung lũng Đại Appalachian. Khu vực có nền đá cácbonat, và gồm có núi Massanutten. Cao nguyên Cumberland và dãy núi Cumberland nằm tại góc tây-nam của Virginia, ở bên dưới cao nguyên Allegheny. Trong khu vực này, các sông chảy theo hướng tây bắc vào lưu vực sông Ohio với một thủy hệ hình cây.
Nền đá cácbonat của bang có trên 4.000 hang động, 10 trong số đó mở cửa cho hoạt động du lịch. Đới địa chấn Virginia không có lịch sử hoạt động địa chấn thường xuyên. Các trận động đất trong bang hiếm khi có cường độ trên 4,5 độ Richter do Virginia nằm xa rìa của mảng Bắc Mỹ. Trận động đất lớn nhất từng ghi nhận được trong bang xảy ra vào năm 1897 gần Blacksburg, được ước tính có cường độ 5.9 độ richter. Một trận động đất có cường độ 5,8 độ Richter tấn công trung bộ Virginia vào ngày 23 tháng 8 năm 2011, gần Mineral. Theo tường thuật, có thể cảm nhận được trận động đất ở những nơi xa như Toronto, Atlanta và Florida. Hoạt động khai thác than đá được tiến hành trong ba khu vực núi, tại 45 thành tầng than đá riêng biệt gần các bồn địa Đại trung sinh. Trên 62 triệu tấn tài nguyên phi nhiên liệu khác, như slate, kyanit, cát, hay sỏi, được khai thác tại Virginia trong năm 2012.
Khí hậu
Càng về phía nam và đông Virginia, khí hậu càng trở nên ấm hơn và ẩm hơn. Nhiệt độ cực theo mùa dao động từ trung bình thấp trong tháng 1 đến trung bình cao trong tháng 7. Đại Tây Dương có ảnh hưởng mạnh đối với khí hậu các khu vực ven biển miền đông và miền đông nam của bang. Do chịu ảnh hưởng của hải lưu Gulf Stream, thời tiết vùng ven biển lệ thuộc vào các cơn bão, rõ rệt nhất là gần cửa vịnh Chesapeake.
Trung bình hàng năm, Virginia có 35–45 ngày có hoạt động giông bão, đặc biệt là ở miền tây của bang, và lượng giáng thủy là . Các khối khí lạnh tràn qua các dãy núi vào mùa đông có thể dẫn đến lượng tuyết rơi đáng kể. Tác động tương hỗ của các yếu tố này với địa hình của bang tạo ra các vi khí hậu riêng biệt tại thung lũng Shenandoah, dãy núi Southwest, và các đồng bằng ven biển. Mỗi năm, trung bình có 7 lốc xoáy xảy ra tại Virginia, hầu hết ở cấp F2 hoặc thấp hơn theo thang độ Fujita.
Trong những năm gần đây, việc vùng ngoại ô phía nam của Washington, D.C. mở rộng sang Bắc Virginia dẫn đến đảo nhiệt đô thị, chủ yếu là do gia tăng hấp thu bức xạ mặt trời tại các khu vực dân cư đông đúc hơn. Trong một tường trình năm 2011 của Hiệp hội Phổi Hoa Kỳ, 11 quận tại Virginia không đạt chuẩn về chất lượng không khí, trong đó quận Fairfax là tệ nhất, do ô nhiễm từ xe ô tô. Sương mù trên các dãy núi có nguyên nhân một phần là từ các nhà máy điện sử dụng than đá.
Động thực vật
Rừng bao phủ 65% diện tích bang, chủ yếu là các cây rụng lá, lá rộng. Những nơi có cao độ thấp thì càng có khả năng có nhiều độc cần và rêu ưa ẩm nhỏ song dày đặc, với các cây mại châu và sồi trên Blue Ridge. Tuy nhiên từ đầu thập niên 1990, sự tàn phá của sâu bướm Gypsy làm xói mòn sự thống trị của các khu rừng sồi. Tại khu vực Tidewater đất thấp, thông vàng có xu hướng chiếm ưu thế, với các rừng bách ngập nước trong các đầm lầy Great Dismal và Nottoway. Các loài thực vật thông thường khác gồm có dẻ, phong, hoàng dương, nguyệt quế núi, bông tai, cúc, và nhiều loài dương xỉ. Các khu vực hoang vu rộng lớn nhất nằm dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và tại các dãy núi miền tây, là nơi phát hiện ra số lượng cá thể Trillium grandiflorum lớn nhất tại Bắc Mỹ.
Các loài thú tại Virginia gồm hươu đuôi trắng, gấu đen, hải ly, linh miêu đuôi cộc, sói đồng cỏ, gấu mèo, chồn hôi, macmot, ôpôt Virginia, cáo xám, cáo đỏ, và thỏ đuôi bông miền Đông. Các loài thú khác gồm có: chuột hải ly, sóc cáo, sói xám, sóc bay, sóc chuột, dơi nâu, và chồn. Các loài chim tại Virginia gồm có giáo chủ (bang điểu), cú kẻ dọc, bạc má Carolina, ưng đuôi lửa, ó cá, bồ nông nâu, cút, mòng biển, đại bàng đầu trắng, và gà tây hoang. Virginia cũng là nơi sinh sống của cả gõ kiến đầu đỏ lớn và nhỏ, cũng như gõ kiến thông thường. Cắt lớn lại được đưa đến vườn quốc gia Shenandoah vào giữa thập niên 1990. Sander vitreus, Salvelinus fontinalis, Ambloplites cavifrons, và Ictalurus furcatus nằm trong số 210 loài cá nước ngọt được biết đến tại Virginia. Các suối chảy với phần đáy nhiều đá thường là môi trường sống của một lượng lớn các loài tôm tùm và kỳ giông. Vịnh Chesapeake là nơi sinh sống của nhiều loài thủy sinh, trong đó có cua xanh, nghêu, hàu, và Morone saxatilis (cá pecca sọc).
Virginia có 30 đơn vị thuộc Cục Công viên Quốc gia, như vườn Great Falls và đường mòn Appalachian, và một vườn quốc gia là Shenandoah. Shenandoah được thành lập vào năm 1935 và bao gồm thắng cảnh Skyline Drive. Gần 40% diện tích của vườn (79.579 acres/322 km²) được xác định là vùng hoang dã theo Hệ thống Bảo tồn Hoang dã Quốc gia. Thêm vào đó, Virginia có 34 vườn cấp bang và 17 rừng cấp bang, chúng nằm dưới quyền quản lý của Bộ Bảo hộ và Tiêu khiển và Bộ Lâm nghiệp của bang. Vịnh Chesapeake không phải là một vườn quốc gia, song được cả pháp luật bang và liên bang bảo hộ, và cùng vận hành Chương trình vịnh Chesapeake nhằm phục hồi vịnh và lưu vực của vịnh. Khu bảo tồn loài hoang dã quốc gia đầm lầy Great Dismal kéo dài sang Bắc Carolina, nó cũng như khu bảo tồn loài hoang dã quốc gia Back Bay đánh dấu sự khởi đầu của dãy đảo chắn Outer Banks.
Lịch sử
Thuộc địa
Theo ước tính, những người đầu tiên đến Virginia từ trên 12.000 năm trước. Đến 5.000 năm trước, xuất hiện các khu định cư lâu dài hơn, và nông nghiệp bắt đầu từ năm 900. Đến năm 1500, nhóm người Algonquian đã lập nên các đô thị như Werowocomoco tại khu vực Tidewater (mà họ gọi với tên Tsenacommacah). Các nhóm ngôn ngữ khác trong khu vực là Siouan ở phía tây, và Iroquois (gồm Nottoway và Meherrin) ở phía bắc và nam. Sau năm 1570, người Algonquian thống nhất dưới quyền Tù trưởng Powhatan nhằm phản ứng với các mối đe dọa từ những nhóm người khác trên mạng lưới mậu dịch của họ. Powhatan kiểm soát trên 30 bộ lạc nhỏ và trên 150 khu định cư, những người này nói cùng một ngôn ngữ Algonquian Virginia. Đến năm 1607, dân số bản địa tại khu vực Tidewater là từ 13.000 dến 14.000.
Một vài đoàn thám hiểm của người châu Âu đã thám hiểm vịnh Chesapeake trong thế kỷ 16, trong đó có một nhóm linh mục dòng Tên người Tây Ban Nha. Năm 1583, Nữ vương Elizabeth I của Anh ban cho Walter Raleigh một đặc quyền để thiết lập một thuộc địa ở phía bắc của Florida thuộc Tây Ban Nha. Năm 1584, Walter Raleigh phái một đoàn thám hiểm đến vùng bờ biển Đại Tây Dương của Bắc Mỹ. Tên gọi "Virginia" có thể được Raleigh hay Elizabeth đề xuất sau đó, có lẽ nhằm ghi nhận tình trạng của bà là "Nữ vương Đồng trinh" (Virgin Queen), và có thể cũng liên quan đến một nhóm từ bản địa "Wingandacoa," hay tên gọi "Wingina." Ban đầu, tên gọi được áp dụng cho vùng ven biển từ Nam Carolina đến Maine, trừ đảo Bermuda. Công ty London được Quốc vương Anh trao quyền sở hữu đất đai trong khu vực theo Hiến chương 1606. Công ty cung cấp tài chính cho khu định cư thường trực đầu tiên của Anh tại "Tân Thế giới" là Jamestown. Khu định cư được đặt theo tên Quốc vương James I, và do Christopher Newport thành lập vào tháng 5 năm 1607. Năm 1619, những người thực dân thu được quyền lực lớn hơn khi có một cơ quan lập pháp được bầu ra mang tên Thị dân viện (House of Burgesses). Công ty London phá sản vào năm 1624, khu định cư do vậy chuyển sang nằm dưới quyền lực vương thất với tình trạng một thuộc địa vương thất Anh.
Sinh hoạt tại thuộc địa đầy nguy hiểm, và có nhiều người tử vong trong nạn đói năm 1609 và các cuộc chiến tranh với Liên minh Powhatan của người da đỏ, trong đó có cuộc tàn sát năm 1622, thúc đẩy quan điểm tiêu cực của những người thực dân về tất cả các bộ lạc. Đến năm 1624, chỉ có 3.400 trong số 6.000 người định cư ban đầu còn sống sót. Tuy nhiên, nhu cầu về thuốc lá tại châu Âu thúc đẩy thêm nhiều người định cư và đầy tớ đến thuộc địa. Hệ thống tiền đăng (headright) được áp dụng nhằm cố gắng giải quyết tình hình thiếu lao động bằng cách cung cấp đất đai cho những người thực dân tương ứng với số lao công khế ước mà họ chở đến Virginia. Những người lao công người châu Phi được nhập khẩu lần đầu tiên đến Jamestown vào năm 1619, ban đầu là theo nguyên tắc nô lệ khế ước. Việc chuyển sang một chế độ nô lệ người châu Phi tại Virginia được thúc đẩy theo sau án kiện pháp lý của John Punch, người này bị tuyên án phải làm nô lệ suốt đời vào năm 1640 do cố gắng chạy trốn, và của John Casor, người này bị Anthony Johnson yêu cầu phải làm nô lệ suốt đời cho ông ta vào năm 1655. Vào năm 1661 và năm 1662, chế độ nô lệ xuất hiện lần đầu tiên trong các đạo luật tại Virginia, khi một luật quy định thân phận nô lệ được kế thừa theo thân phận của mẹ.
Những căng thẳng và khác biệt về địa lý giữa các tầng lớp lao động và thống trị dẫn đến cuộc nổi dậy Bacon vào năm 1676, đương thời những người đã và đang là lao công khế ước chiếm tới 80% dân số thuộc địa. Các phiến quân phần lớn đến từ vùng biên giới của thuộc địa, họ cũng phản đối chính sách hòa giải đối với các bộ lạc bản địa, và một kết quả của cuộc nổi dậy là ký kết Hiệp ước 1677 tại Middle Plantation, biến các bộ lạc ký hiệp ước thành các phiên thuộc quốc và nằm trong một mô thức chiếm đoạt đất đai bộ lạc bằng vũ lực và hiệp ước. Năm 1693, Học viện William & Mary được thành lập tại Middle Plantation, Middle Plantation được đổi thành Williamsburg khi nó trở thành thủ đô vào năm 1699. Đến năm 1747, một nhóm đầu cơ người Virginia thành lập Công ty Ohio với sự ủng hộ của vương thất Anh Quốc nhằm khởi đầu hoạt động định cư và mậu dịch của người Anh tại lãnh thổ Ohio ở phía tây của dãy Appalachian. Pháp tuyên bố rằng lãnh thổ Ohio là bộ phận của thuộc địa Tân Pháp, và nhìn nhận hành động này là một mối đe dọa. Chiến tranh giữa các thuộc địa châu Mỹ thuộc Anh với Tân Pháp kế tiếp đó là bộ phận của Chiến tranh Bảy Năm (1756–1763). Trong chiến tranh với Pháp tại Bắc Mỹ, trung đoàn Virginia là một lực lượng dân quân đến từ nhiều thuộc địa của Anh, người chỉ huy trung đoàn là Trung tá George Washington.
Trở thành bang
Sau Chiến tranh với Pháp và người da đỏ tại Bắc Mỹ, các thuộc địa hết sức không hoan nghênh các nỗ lực của Quốc hội Anh nhằm đánh các khoản thuế mới. Trong Thị dân viện, Patrick Henry và Richard Henry Lee và những người khác lãnh đạo hoạt động phản đối việc bị đánh thuế mà không có đại diện. Người Virginia bắt đầu phối hợp hành động của họ với các thuộc địa khác vào năm 1773, và cử các đại biểu đến Đại hội Lục địa vào năm sau đó. Sau khi Thị dân viện bị thống đốc vương thất giải thể vào năm 1774, các lãnh đạo cách mạng của Virginia tiếp tục cầm quyền thông qua Các hội nghị Virginia. Ngày 15 tháng 5 năm 1776, Hội nghị tuyên bố Virginia độc lập từ Đế quốc Anh và thông qua bản Tuyên ngôn Quyền lợi Virginia của George Mason, nội dung bản tuyên ngôn sau đó được đưa vào một bản hiến pháp mới. Một người Virginia khác là Thomas Jefferson dựa trên tác phẩm của George Mason trong việc soạn thảo Tuyên ngôn độc lập quốc gia.
Khi Cách mạng Mỹ bắt đầu, George Washington được chọn làm người đứng đầu lục quân thuộc địa. Trong chiến tranh, thủ phủ của Virginia được chuyển đến Richmond theo đề xuất của Thống đốc Thomas Jefferson, lý do là vì ông lo sợ thủ phủ Williamsburg nằm ở vùng ven biển nên dễ bị lực lượng Anh tấn công. Năm 1781, hành động liên hiệp của các lực lượng lục quân và hải quân Lục địa và Pháp bẫy được quân Anh trên bán đảo Virginia, tại đây quân của George Washington và Bá tước xứ Rochambeau đánh bại quân của Tướng Charles Cornwallis trong Cuộc vây hãm Yorktown. Việc Charles Cornwallis đầu hàng vào ngày 19 tháng 10 năm 1781 dẫn đến các cuộc hòa đàm tại Paris và bảo đảm nền độc lập của các thuộc địa.
Những người Virginia tham gia viết Hiến pháp Hoa Kỳ. James Madison phác thảo kế hoạch Virginia vào năm 1787 và tuyên ngôn nhân quyền vào năm 1789. Virginia phê chuẩn Hiến pháp Hợp chúng quốc vào ngày 25 tháng 6 năm 1788. Virginia có một lượng lớn nô lệ, và "Thỏa hiệp Ba phần năm" bảo đảm rằng ban đầu bang sẽ có đại diện đông nhất trong Hạ viện. Cùng với triều đại Virginia các tổng thống, những điều này giúp cho Thịnh vượng chung có tầm quan trọng quốc gia. Năm 1790, cả Virginia và Maryland đều nhượng lãnh thổ của mình để hình thành quận Columbia mới, song khu vực từng thuộc Virginia được nhượng lại cho bang vào năm 1846. Virginia được gọi là "mẹ của các bang" do các lãnh thổ của bang bị tách ra thành các bang như Kentucky (trở thành bang thứ 15 vào năm 1792), và vì đa số những "người tiên phong Hoa Kỳ" sinh tại Virginia.
Nội chiến và hậu quả
Ngoài nông nghiệp, việc sử lao động nô lệ ngày càng tăng trong khai mỏ, đóng tàu và các ngành công nghiệp khác. Việc hành hình Gabriel Prosser vào năm 1800, cuộc nổi dậy nô lệ Nat Turner vào năm 1831 và vụ tấn công phà Harpers của John Brown vào năm 1859 đánh dấu gia tăng sự bất mãn xã hội của nô lệ và vai trò của họ trong kinh tế đồn điền. Đến năm 1860, gần nửa triệu người tại Virginia bị nô dịch hóa, chiếm gần 31% tổng dân số bang.
Virginia bỏ phiếu thông qua việc ly khai Hợp chúng quốc vào ngày 17 tháng 4 năm 1861, sau trận đồn Sumter và lời kêu gọi tình nguyện tòng quân của Abraham Lincoln. Ngày 24 tháng 4, Virginia gia nhập Liên minh quốc châu Mỹ, Liên minh chọn Richmond làm thủ đô. Sau Hội nghị Wheeling 1861, 48 quận tại tây bắc bộ Virginia ly khai để hình thành bang mới Tây Virginia, bang này lựa chọn vẫn trung thành với Liên bang. Tướng người Virginia Robert E. Lee nắm quyền chỉ huy Binh đoàn Bắc Virginia vào năm 1862, và lãnh đạo các cuộc xâm nhập vào lãnh thổ của Liên bang, sau cùng ông trở thành người chỉ huy của toàn bộ các lực lượng Liên minh miền Nam. Trong Nội chiến Mỹ, Virginia là bang xảy ra nhiều trận đánh nhất, bao gồm cả Bull Run, Chuỗi trận Bảy ngày, Chancellorsville, và trận Appomattox Court House mang tính quyết định. Sau khi Richmond bị chiếm vào tháng 4 năm 1865, thủ phủ của bang được chuyển đến Lynchburg trong một thời gian ngắn, trong khi hàng ngũ lãnh đạo của Liên minh dời đến Danville. Virginia chính thức khôi phục vị thế là một bộ phận của Hợp chúng quốc vào năm 1870, nhờ công của Ủy ban Chín người.
Trong thời kỳ Tái thiết sau chiến tranh, Virginia thông qua một hiến pháp mà theo đó cung cấp giáo dục trường công miễn phí, và bảo đảm các quyền chính trị, dân sự và tuyển cử. Đảng Tái chỉnh lý (Readjuster Party) theo chủ nghĩa dân túy vận hành một liên minh cầm quyền bao dung cho đến khi Đảng Dân chủ của người Da trắng bảo thủ giành được quyền lực sau năm 1883. Chính phủ của đảng này thông qua các luật Jim Crow với nội dung phân biệt chủng tộc, và đến năm 1902 thì viết lại Hiến pháp Virginia nhằm thêm vào một thuế thân và các tiêu chuẩn đăng ký cử tri khác mà trên thực tế đã tước quyền tuyển cử của hầu hết người Mỹ gốc Phi và nhiều người Da trắng nghèo. Mặc dù các trường học và dịch vụ công của người Mỹ gốc Phi bị cô lập và thiếu kinh phí do thiếu đại diện chính trị, song họ vẫn có thể đoàn kết trong các cộng đồng và đóng vai trò lớn hơn trong xã hội Virginia.
Thời hiện đại
Các động lực kinh tế mới cũng biến đổi Thịnh vượng chung. Một người Virginia là James Albert Bonsack phát minh ra máy cán thuốc lá vào năm 1880, dẫn đầu sản xuất quy mô công nghiệp mới tập trung quanh Richmond. Năm 1886, trùm tư bản đường sắt Collis Potter Huntington thành lập hãng Đóng tàu Newport News, hãng này chịu trách nhiệm đóng sáu chiến hạm lớn trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất cho Hải quân Hoa Kỳ từ 1907–1923. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, các tàu ngầm của Đức như U-151 từng tấn công các tàu bên ngoài cảng. Năm 1926, Tiến sĩ W.A.R. Goodwin, mục sư nhà thờ giáo xứ Bruton tại Williamsburg, bắt đầu tiến hành khôi phục các tòa nhà thời kỳ thuộc địa trong khu vực mang tính lịch sử với hỗ trợ tài chính của John D. Rockefeller, Jr. Giống như các bang khác, Virginia phải đương đầu với Đại khủng hoảng và Chiến tranh thế giới thứ hai, song công việc phục hồi của các cá nhân này vẫn tiếp tục và Williamsburg thời thuộc địa trở thành một địa điểm du lịch lớn.
Barbara Rose Johns khởi đầu các cuộc biểu tình trong năm 1951 tại Farmville nhằm phản đối các trường học cách ly chủng tộc, dẫn đến một vụ tố tụng. Vụ tố tụng này do các cư dân địa phương tại Richmond là Spottswood Robinson và Oliver Hill đệ trình, và được phân xử vào năm 1954, trong đó bác bỏ thuyết cách ly chủng tộc "cách ly nhưng bình đẳng". Tuy nhiên, đến năm 1958, theo chính sách "đề kháng đại quy mô" dẫn đầu bởi Thượng nghị sĩ có thế lực theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Harry F. Byrd và Tổ chức Byrd của ông, Thịnh vượng chung cấm các trường học địa phương thực hiện phế bỏ kỳ thị được nhận kinh phí của bang.
Phong trào dân quyền thu hút nhiều người tham gia trong thập niên 1960, giành được sức mạnh đạo đức và sự ủng hộ để thông qua Đạo luật dân quyền 1964 và Đạo luật quyền đầu phiếu vào năm 1965. Năm 1964, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ phán quyết quận Prince Edward và các quận khác phải hợp nhất chủng tộc các trường học. Năm 1967, Tối cao Pháp viện cũng bác lệnh cấm của Virginia về hôn nhân dị chủng. Từ năm 1969 đến năm 1971, dưới sự lãnh đạo của Thống đốc Mills Godwin, các nhà lập pháp của bang viết lại hiến pháp sau khi đạt được các mục tiêu như hủy bỏ các luật Jim Crow. Năm 1989, Douglas Wilder trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên được bầu làm thống đốc tại Hoa Kỳ.
Chiến tranh Lạnh dẫn đến việc mở rộng các chương trình chính phủ về quốc phòng trong các văn phòng tại Bắc Virginia gần Washington, D.C., kéo theo là tăng trưởng dân số. Cơ quan Tình báo Trung ương tại Langley liên quan đến nhiều sự kiện khác nhau trong Chiến tranh Lạnh, bao gồm cả việc là mục tiêu của các hoạt động tình báo của Liên Xô. Virginia còn có Lầu Năm Góc, tòa nhà được xây dựng trong Chiến tranh thế giới thứ hai để làm trụ sở cho Bộ Quốc phòng. Lầu Năm Góc là một trong các mục tiêu của các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001; 189 người thiệt mạng khi một máy bay hành khách phản lực đâm vào tòa nhà.
Hành chính
Virginia được phân chia thành 95 quận (hạt) và 38 thành phố độc lập, cả hai hoạt động theo cùng một cách thức do các thành phố độc lập được xem như tương đương với quận. Cách đối đãi bình đẳng giữa các thành phố độc lập và các quận là điểm độc đáo của Virginia, chỉ có ba thành phố độc lập khác tại Hoa Kỳ có được tình trạng bình đẳng với các quận. Virginia giới hạn quyền lực của các thành phố và quận khiến việc hủy bỏ các luật tuyệt đối phải được Đại hội Virginia chấp thuận, dựa theo điều được gọi là quy tắc Dillon. Ngoài các thành phố độc lập, Virginia còn có các thành thị hợp nhất hoạt động dưới quyền chính quyền của họ, song là bộ phận của một quận. Virginia có hàng trăm cộng đồng chưa hợp nhất trong các quận.
Virginia có 11 vùng thống kê đô thị, trong đó Bắc Virginia, Hampton Roads, và Richmond-Petersburg là ba vùng đông dân nhất. Richmond là thủ phủ của Virginia, vùng đô thị của nó có dân số trên 1,2 triệu. , Virginia Beach là thành phố đông dân nhất trong Thịnh vượng chung, xếp thứ nhì và thứ ba lần lượt là Norfolk và Chesapeake. Norfolk tạo thành lõi đô thị của vùng đô thị Hampton Roads, vùng đô thị này có dân số trên 1,6 triệu và có căn cứ hải quân lớn nhất thế giới mang tên Căn cứ hải quân Norfolk. Suffolk là thành phố có diện tích lớn nhất Virginia với .
Với trên một triệu cư dân, quận Fairfax là đơn vị hành chính đông dân nhất tại Virginia, song số liệu này không bao gồm quận lỵ Fairfax do đây là một thành phố độc lập. Quận Fairfax có một trung tâm thương nghiệp và mua sắm lớn tại Tysons Corner, đây là thị trường chính thức lớn nhất tại Virginia. Fairfax và Loudoun láng giềng là hai quận tăng trưởng nhanh nhất tại Virginia và có thu nhập trung bình hộ gia đình cao nhất (114.204 USD) trong toàn quốc . Arlington là quận tự quản có diện tích nhỏ nhất tại Hoa Kỳ, và là một cộng đồng đô thị được tổ chức thành một quận. Khu vực Roanoke là vùng thống kê đô thị lớn nhất tại miền tây Virginia.
Nhân khẩu
Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ ước tính rằng dân số Virginia là 8.260.405 vào ngày 1 tháng 7 năm 2013, tăng 3,2% kể từ cuộc điều tra dân số toàn quốc năm 2010. Sự gia tăng là kết quả của cả con số di cư thuần 314.832 người đến Thịnh vượng chung kể từ cuộc điều tra dân số năm 2000. Nhập cư từ bên ngoài Hoa Kỳ đạt tăng thuần 159.627 người, và di cư trong nước đạt tăng thuần 155.205 người. Trung tâm dân số của Virginia nằm tại quận Louisa bên ngoài Richmond.
Dân tộc
Người da trắng phi Hispanic, tức người da trắng không có nguồn gốc Mỹ Latinh hoặc Iberia, là nhôm dân tộc đông đảo nhất tại Virginia, tỷ lệ của họ trong tổng dân số bang giảm từ 76% vào năm 1990 đến 64,0% vào năm 2012. Năm 2011, 50,9% toàn bộ ca sinh tại Virginia có cha, mẹ hoạc cả hai là người da trắng phi Hispanic. Người có nguồn gốc Anh định cư trên khắp Thịnh vượng chung từ thời thuộc địa, và những người khác có nguồn gốc Anh Quốc và Ireland nhập cư sau đó. Những người tự nhận định là "dân tộc Mỹ" chủ yếu có gốc Anh, song tổ tiên của họ sinh sống tại Bắc Mỹ quá lâu nên họ lựa chọn nhận định chỉ là người Mỹ. Trong số những người Anh nhập cư đến Virginia vào thập niên 1600, 75% đến với thân phận lao công khế ước. Trước Cách mạng Mỹ, những người nhập cư Scotland-Ireland lập ra nhiều khu định cư tại các dãy núi phía tây. Có một số lượng đáng kể người có nguồn gốc Đức tại các dãy núi phía tây bắc và thung lũng Shenandoah, và số người trả lời có nguồn gốc Đức đứng ở vị trí cao nhất trong cuộc Điều tra Xã hội năm 2010, với 11,7%. 2,9% người Virginians mô tả bản thân là người song chủng.
Nhóm thiểu số lớn nhất tại Virginia là người Mỹ gốc Phi, chiếm tỷ lệ 19,7% . Hầu hết người Mỹ gốc Phi tại Virginia là hậu duệ của những người châu Phi bị nô dịch hóa từng phải làm việc trong các đồn điền thuốc lá, bông, và gai dầu. Những người này được đưa đến từ tây-trung châu Phi, chủ yếu là Angola và vịnh Biafra. Dân tộc Igbo có nguồn gốc từ khu vực mà nay là miền nam của Nigeria là dân tộc châu Phi đơn lẻ lớn nhất trong số các nô lệ tại Virginia. Dân số da đen tại Virginia suy giảm do Đại di trú, song từ năm 1965 tình hình di trú của người da đen đảo nghịch khi họ trở về miền Nam. Theo Trung tâm nghiên cứu Pew, Virginia là nơi có tỷ lệ cao nhất các cuộc hôn nhân dị chủng giữa người da đen và người da trắng.
Cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, có nhiều người Hispanic và người châu Á nhập cư đến Virginia. , 8,4% dân cư Virginia là người Hispanic hoặc Latino (thuộc mọi chủng tộc), và 6,0% là người châu Á. Dân số Hispanic trong bang tăng 92% trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010, với hai phần ba số người Hispanic sống tại Bắc Virginia. Các công dân Hoa Kỳ là người Hispanic tại Virginia có thu nhập trung bình hộ gia đình và trình độ học vấn cao hơn mức trung bình của dân cư Virginia. Bắc Virginia cũng có một số lượng đáng kể người Mỹ gốc Việt, làn sóng nhập cư chính của cộng đồng này là sau Chiến tranh Việt Nam; còn người Mỹ gốc Hàn nhập cư gần đây hơn và bị thu hút một phần vì hệ thống trường học có chất lượng trong bang. Cộng đồng người Mỹ gốc Philippines có khoảng 45.000 người tại khu vực Hampton Roads, nhiều người trong số họ có liên hệ với Hải quân Hoa Kỳ và các lực lượng vũ trang.
Ngoài ra, 0,5% dân cư Virginia là người da đỏ hoặc người Alaska bản địa, và 0,1% là người Hawaii bản địa hoặc người các đảo Thái Bình Dương khác. Virginia mở cộng công nhận cấp bang đến tám bộ lạc da đỏ cư trú tại bang, song liên bang chưa công nhận tình trạng của họ. Hầu hết các nhóm da đỏ cư trú tại vùng Tidewater.
Ngôn ngữ
Phương ngôn của khu vực Piedmont có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tiếng Anh miền Nam Hoa Kỳ. Tiếng Anh Mỹ tại các khu vực đô thị phát âm đồng đều hơn, song các trọng âm khác nhau cũng được sử dụng, trong đó có trọng âm Tidewater, trọng âm Virginia cũ, và trọng âm Elizabeth lỗi thời trên đảo Tangier.
Năm 2010, 85,87% (6.299.127) dân cư Virginia 5 tuổi và lớn hơn nói tiếng Anh tại nhà như một ngôn ngữ chính, trong khi 6,41% (470.058) nói tiếng Tây Ban Nha, 0,77% (56.518) nói tiếng Hàn, 0,63% (45.881) nói tiếng Việt, 0,57% (42.418) nói tiếng Trung Quốc, và tiếng Tagalog là một ngôn ngữ chính của 0,56% (40.724). Tổng cộng, 14,13% (1.036.442) dân số Virginia 5 tuổi và lớn hơn có ngôn ngữ mẹ đẻ không phải là tiếng Anh. Các đạo luật vào năm 1981 và năm 1996 xác định tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Thịnh vượng chung, song Hiến pháp Virginia không quy định tình trạng này.
Tôn giáo
Virginia là bang mà Cơ Đốc giáo, cụ thể là Tin Lành, chiếm ưu thế; Báp-tít là nhóm đơn lẻ lớn nhất với 27% dân số . Các giáo đoàn Báp-tít tại Virginia có 763.655 thành viên. Các nhóm giáo phái Báp-tít tại Virginia gồm có Tổng hội Báp-tít Virginia với khoảng 1.400 nhà thờ thành viên, giáo phái này ủng hộ cả Giáo hội Báp-tít phương Nam và Giáo hội Báp-tít Hợp tác; và Giáo hội Bảo thủ Báp-tít phương Nam Virginia với hơn 500 nhà thờ thành viên, giáo phái này ủng hộ Giáo hội Báp-tít phương Nam. Công giáo La Mã là nhóm tôn giáo lớn thứ nhì với 673.853 thành viên. Giáo phận Công giáo Arlington bao gồm hầu hết các nhà thờ Công giáo tại Bắc Virginia, và Giáo phận Công giáo Richmond bao gồm các nhà thờ Công giáo còn lại trong bang.
Hội nghị Virginia là đoàn thể khu vực của Giáo hội Giám Lý Thống nhất, và Hội nghị tôn giáo Virginia chịu trách nhiệm về giáo đoàn của Giáo hội Luther. Các đức tin Trưởng Lão, Ngũ Tuần, Công Lý, và Thánh Công đều chiếm dưới 2% dân số . Tín đồ của Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô chiếm 1% dân số, với 197 giáo đoàn tại Virginia . Tại Fairfax Station có chùa Phật giáo Ekoji (Huệ Quang tự) thuộc giáo phái Tịnh độ chân tông, và đền Ấn Độ giáo thờ Durga. Số người Do Thái tại Virginia có quy mô nhỏ, song có tổ chức từ năm 1789 với Giáo đoàn Beth Ahabah. Hồi giáo là một tôn giáo đang phát triển trên khắp Thịnh vượng chung do nhập cư. Các đại giáo đoàn trong Thịnh vượng chung gồm có Nhà thờ Báp-tít Thomas Road, Nhà thờ Kinh Thánh Immanuel, và Nhà thờ Kinh Thánh McLean.
Kinh tế
Virginia là một bang quy định thuê lao động theo ý muốn (có thể sa thải người lao động vì lý do bất kỳ); và kinh tế bang có các nguồn thu nhập khác nhau, bao gồm chính phủ địa phương và liên bang, quân sự, nông nghiệp và thương nghiệp. Virginia có 4,1 triệu lao động dân sự, và một phần ba số việc làm là trong lĩnh vực dịch vụ. Tỷ lệ thất nghiệp tại Virginia nằm trong hàng thấp nhất toàn quốc, ở mức 5,2% vào tháng 4 năm 2013. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Virginia là 424 tỷ USD theo số liệu năm 2010. Theo Cục phân tích kinh tế, Virginia là bang có nhiều quận nhất trong số 100 quận giàu nhất tại Hoa Kỳ dựa theo thu nhập trung bình vào năm 2007. Bắc Virginia là khu vực có thu nhập cao nhất tại Virginia, sở hữu năm trong 10 quận có thu nhập cao nhất tại Hoa Kỳ theo số liệu năm 2014, và sở hữu hai vị trí đầu tiên. Theo một nghiên cứu năm 2013, Virginia có số triệu phú bình quân đầu người cao thứ bảy tại Hoa Kỳ, với tỷ lệ 6,64%.
Chính phủ
Virginia có chi tiêu quốc phòng trên đầu người cao nhất toàn quốc, lĩnh vực này đem đến cho bang 900.000 công việc. 12% toàn bộ tiền mua sắm liên bang được chi tiêu tại Virginia, đây là lượng lớn thứ nhì toàn quốc sau California. Nhiều người Virginia làm việc cho các cơ quan liên bang tại Bắc Virginia, trong đó có Cơ quan Tình báo Trung ương và Bộ Quốc phòng, cũng như Tổ chức Khoa học Quốc gia (NSF), Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ và Cục Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ. Nhiều người khác làm việc cho các nhà thầu chính phủ, bao gồm các hãng quốc phòng và an ninh có hàng nghìn hợp đồng với liên bang.
Virginia có là một trong những bang có tỷ lệ cựu chiến binh cao nhất toàn quốc, và đứng thứ nhì sau California về tổng số nhân viên của Bộ Quốc phòng. Khu vực Hampton Roads là vùng đô thị tập trung nhiều nhân viên và tài sản quân sự nhất trên thế giới, bao gồm cả căn cứ hải quân lớn nhất thế giới là Norfolk. Chính phủ bang Virginia sử dụng 106.143 công chức, họ có thu nhập trung bình là 44.656 USD .
Doanh nghiệp
Virginia là bang có tỷ lệ lao động kỹ thuật cao nhất, và xếp thứ tư về số lượng lao động kỹ thuật sau California, Texas, và New York. Chip máy tính trở thành mặt hàng xuất khẩu có doanh thu cao nhất của bang trong năm 2006, vượt qua tổng của hai mặt hàng xuất khẩu hàng đầu vốn có truyền thống là than đá và thuốc lá. Bắc Virginia môth thời từng được xem là thủ đô bơ sữa của bang, song nay có các công ty phần mềm, công nghệ truyền thông, nhà thầu quốc phòng, đặc biệt là tại Hành lang kỹ thuật Dulles. , Virginia nằm trong số những nơi có tốc độ Internet trung bình cao nhất trên thế giới, và các trung tâm dữ liệu tại Bắc Virginia truyền 70% lưu lượng internet toàn quốc.
Trong nửa đầu năm 2011, các công ty tại Virginia nhận được số vốn đầu tư mạo hiểm cao thứ tư toàn quốc, sau California, Massachusetts, và New York. Năm 2009, Tạp chí Forbes xác định Virginia là bang tốt nhất toàn quốc đối với doanh nghiệp trong năm thứ tư liên tiếp, còn CNBC xác định Virginia là bang tốt nhất đối với doanh nghiệp trong các năm 2007, 2009, và 2011. Virginia có 20 công ty nằm trong bảng xếp hạng Fortune 500 (2011), xếp thứ tám toàn quốc. Du lịch tại Virginia ước tính tạo ra 210.000 công việc và ước tính tạo ra 21,2 tỷ USD trong năm 2012. Quận Arlington là địa điểm du lịch đứng đầu trong bang theo chi tiêu quốc nội, tiếp đến là quận Fairfax, quận Loudoun, và Virginia Beach.
Nông nghiệp
Nông nghiệp sử dụng 32% đất tại Virginia. , có khoảng 357.000 công việc tại Virginia là trong nông nghiệp, với trên 47.000 nông trại, trung bình mỗi nông trại rộng , và tổng diện tích đất nông trại là 8,1 triệu dặm vuông (32.780 km²). Nông nghiệp hiện nay suy giảm đáng kể so với năm 1960, khi đó số nông trại trong bang nhiều gấp đôi, song đây vẫn là ngành kinh tế đơn lẻ lớn nhất tại Virginia. Cà chua vượt qua đậu tương để giành vị thế cây trồng sinh lợi nhất tại Virginia trong năm 2006, lạc và rơm là các nông sản khác. Mặc dù thuốc lá không còn là cây trồng chính trong bang, song Virginia vẫn là nơi sản xuất thuốc lá lớn thứ năm toàn quốc. Thu hoạch hàu Virginia (Crassostrea virginica) là một bộ phận quan trọng trong kinh tế vịnh Chesapeake, song số lượng hàu suy giảm do dịch bệnh, ô nhiễm, và khai thác quá mức khiến cho sản lượng khai thác giảm. Các nhà máy rượu vang và vườn nho tại Northern Neck và dọc theo dãy núi Blue Ridge cũng phát đầu sinh lợi và thu hút du khách.
Thuế
Virginia đánh thuế thu nhập cá nhân theo năm mức thu nhập khác nhau, dao động từ 3,0% đến 5,75%. Thuế tiêu thụ và thuế sử dụng ở mức 4%, trong khi mức thuế đối với thực phẩm là 1,5%. Ngoài ra, còn có thêm 1% thuế địa phương, tổng cộng phải trả thuế là 5% khi mua hầu hết hàng hóa tại Virginia và 2,5% đối với hầu hết thực phẩm. Thuế tài sản tại Virginia do chính quyền cấp địa phương định ra và thu, và ở mức khác nhau giữa các quận trong bang. Bất động sản cũng bị đánh thuế ở cấp địa phương dựa theo 100% giá thị trường. Tài sản cá nhân hữu hình cũng bị đánh thuế ở cấp địa phương và dựa theo một phần trăm hoặc vài phần trăm giá gốc.
Văn hóa
Những nhân vật như George Washington, Thomas Jefferson, và Robert E. Lee giúp văn hóa Virginia phổ cập và truyền bá khắp miền Nam và toàn Hoa Kỳ. Nhà của họ tại Virginia tượng trưng cho sinh quán của Hoa Kỳ và miền Nam. Văn hóa Virginia hiện đại có nhiều nguồn gốc, và là bộ phận của văn hóa miền Nam Hoa Kỳ. Viện Smithsonian phân chia Virginia thành chín vùng văn hóa.
Bên cạnh các đặc điểm chung của ẩm thực miền Nam Hoa Kỳ, Virginia vẫn duy trì các truyền thống đặc biệt của riêng mình. Rượu vang Virginia được sản xuất tại nhiều nơi trong bang. Giăm bông Smithfield, đôi khi được gọi là "giăm bông Virginia", là một loại giăm bông thôn dã được luật của bang bảo hộ về chỉ dẫn địa lý, và chỉ có thể được sản xuất tại thị trấn Smithfield. Đồ nội thất và kiến trúc Virginia mang đặc trưng của kiến trúc Hoa Kỳ thời thuộc địa. Thomas Jefferson và nhiều lãnh đạo thời kỳ ban đầu của bang ưa chuộng phong cách kiến trúc Tân cổ điển, dẫn đến việc các tòa nhà quan trọng của bang được xây dựng theo phong cách này. Người Đức Pennsylvania và phong cách của họ cũng xuất hiện tại một số nơi trong bang.
Văn học tại Virginia thường đối diện với quá khứ quảng đại và đôi khi hỗn loạn của bang. Các tác phẩm của tiểu thuyết gia đoạt giải Pulitzer Ellen Glasgow thường đối diện với các bất bình đẳng xã hội và vai trò của nữ giới trong văn hóa của bà. Đồng bối và bạn thân của Ellen Glasgow là James Branch Cabell viết nhiều về sự thay đổi địa vị của giới thân sĩ trong thời kỳ Tái thiết, và thách thức tiêu chuẩn đạo đức của giới này qua tác phẩm Jurgen, A Comedy of Justice. William Styron tiếp cận với lịch sử trong các tác phẩm như The Confessions of Nat Turner và Sophie's Choice. Tom Wolfe thỉnh thoảng đối diện với di sản miền Nam của mình trong các tác phẩm bán chạy như I Am Charlotte Simmons. Matt Bondurant nhận được các phê bình tán dương cho tiểu thuyết lịch sử The Wettest County in the World của ông, tác phẩm viết về những người nấu rượu lậu tại quận Franklin trong thời kỳ cấm rượu. Virginia cũng bổ nhiệm một 'quế quan thi nhân' (Poet Laureate) cấp bang.
Chính phủ bang cung cấp kinh phí cho một số thể chế, trong đó có Bảo tàng Virginia về Mỹ thuật và Bảo tàng Khoa học Virginia. Các bảo tàng khác gồm có Trung tâm Steven F. Udvar-Hazy thuộc Bảo tàng Hàng không Vũ trụ Quốc gia, và Bảo tàng Mỹ thuật Chrysler. Ngoài ra, Virginia còn có nhiều bảo tàng ngoài trời, chẳng hạn như Williamsburg Thuộc địa, Bảo tàng Văn hóa Biên giới Virginia, và các chiến trường lịch sử khác nhau. Quỹ Virginia về Nhân văn (VFH) hoạt động nhằm cải thiện sinh hoạt dân sự, văn hóa, và tri thức trong bang.
Các thành phố và vùng ngoại ô của Virginia đều có các kịch viện và nơi biểu diễn nghệ thuật khác. Nhà hát Opera Harrison tại Norfolk là nơi biểu diễn chính của Công ty Virginia Opera. Dàn nhạc giao hưởng Virginia hoạt động tại và quanh Hampton Roads. Công ty American Shakespeare Center tại Staunton có các kịch đoàn cố định và lưu dộng. Kịch viện Barter tại Abingdon được xác định là kịch viện cấp bang của Virginia, kịch viện giành giải Tony cho kịch viện khu vực mùa đầu tiên vào năm 1948, còn Kịch viện Signature tại Arlington giành được giải thưởng này vào năm 2009. Virginia cũng có một kịch viện dành cho thiếu nhi là Theatre IV, kịch đoàn của Theatre IV là kịch đoàn lưu động lớn thứ nhì toàn quốc.
Virginia có nhiều nghệ sĩ âm nhạc truyền thống được nhận giải thưởng, các nghệ sĩ âm nhạc đại chúng thành công ở tầm quốc tế, cũng như các diễn viên Hollywood. Virginia có truyền thống về thể loại âm nhạc old-time và bluegrass, với các nhóm nhạc như Carter Family và Stanley Brothers, cũng như các thể loại Phúc Âm, blues, và shout band. Âm nhạc Virginia đương đại còn được biết đến với các nghệ sĩ folk rock như Dave Matthews và Jason Mraz, các ngôi sao hip hop như Pharrell và Missy Elliott, cũng như các nhóm thrash metal như GWAR và Lamb of God. Những nơi biểu diễn nghệ thuật nổi tiếng tại Virginia gồm có The Birchmere, Kịch viện Landmark, và Jiffy Lube Live. Vườn quốc gia Wolf Trap cho nghệ thuật biểu diễn (Wolf Trap National Park for the Performing Arts) nằm tại Vienna và là vườn quốc gia duy nhất có mục đích sử dụng như một trung tâm biểu diễn nghệ thuật.
Nhiều quận và địa phương tại Virginia tổ chức các hội chợ quận và lễ hội. Hội chợ bang Virginia được tổ chức tại công viên Meadow Event vào tháng chín hàng năm. Trong tháng 9 còn có Lễ hội Neptune tại Virginia Beach. Norfolk's Harborfest được tổ chức trong tháng 9, đáng chú ý với hoạt động đua thuyền và trình diễn hàng không. Quận Fairfax cũng bảo trợ cho lễ hội Celebrate Fairfax!, lễ hội có những tiết mục trình diễn âm nhạc đại chúng và truyền thống. Lễ hội Virginia Lake được tổ chức vào cuối tuần thứ ba của tháng 7 tại Clarksville. Wolf Trap có Công ty Opera Wolf Trap, công ty tổ chức một lễ hội opera vào mùa hè hàng năm.
Trên đảo Chincoteague thuộc vùng Eastern Shore có hoạt động đua bơi và bán đấu giá ngựa Chincoteague hoang vào cuối tháng 7, đây là một truyền thống địa phương độc đáo và được khoách trương thành một hội kéo dài trong một tuần. Lễ hội hoa táo nở Shenandoah kéo dài trong sáu ngày mỗi năm tại Winchester, lễ hội gồm có hoạt động diễu hành và hòa nhạc bluegrass. Đại hội vĩ cầm cổ tại Galax bắt đầu được tổ chức vào năm 1935, và là một trong các sự kiện lâu năm nhất và lớn nhất so với các sự kiện tương tự trên thế giới. Hai liên hoan phim quan trọng là Liên hoan phim Virginia và Liên hoan phim tiếng Pháp VCU được tổ chức thường niên tương ứng tại Charlottesville và Richmond.
Truyền thông
Khu vực Hampton là thị trường truyền thông lớn thứ 45 tại Hoa Kỳ theo xếp hạng của Viện Nghiên cứu Truyền thông Nielsen], trong khi khu vực Richmond-Petersburg xếp hạng thứ 57 và khu vực Roanoke-Lynchburg xếp hạng thứ 66 . Bắc Virginia là bộ phận của thị trường truyền thông Washington, D.C. có quy mô lớn hơn nhiều.
Có 36 đài truyền hình tại Virginia đại diện cho các mạng lưới truyền thông lớn của Hoa Kỳ, nằm trong số 42 đài phục vụ khán giả Virginia. Có trên 720 đài phát thanh FM có giấy phép của FCC phát sóng tại Virginia, cùng với 300 đài AM được FCC cấp phép. Dịch vụ Truyền thông Công cộng (PBS) khả dụng trên toàn quốc và có trụ sở tại Arlington.
Các báo địa phương có lượng lưu hành lớn nhất tại Virginia là The Virginian-Pilot, Richmond Times-Dispatch, và The Roanoke Times . Một số báo địa phương của Washington, D.C. đặt trụ sở tại Virginia, như The Washington Examiner và Politico. Báo phát hành rộng rãi nhất toàn quốc là USA Today có trụ sở tại McLean. Tại Bắc Virginia, The Washington Post là báo chiếm ưu thế.
Giáo dục
Hệ thống giáo dục của Virginia luôn nằm trong mười bang đứng đầu trong Đánh giá quốc gia về tiến triển giáo dục (NAEP) của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, các học sinh Virginia đạt kết quả trên mức trung bình trong tất cả các phạm vi môn học và các niên cấp được kiểm tra. Báo cáo Quality Counts năm 2011 xếp hạng giáo dục K-12 (tiểu học cùng trung học) của Virginia tốt thứ tư toàn quốc. Toàn bộ các đơn vị trường học phải tuân thủ các tiêu chuẩn giáo dục do Bộ Giáo dục Virginia đặt ra, trong đó duy trì một chế độ đánh giá và nhận biết được gọi là Các tiêu chuẩn học tập (SOL) nhằm bảo đảm trách nhiệm. Năm 2010, 85% học sinh trung học tốt nghiệp sau đúng bốn năm. Từ năm 2000 đến năm 2008, tỷ lệ nhập học tăng 5%, số lượng giáo viên tăng 21%.
Các trường học K-12 công lập tại Virginia thường do các quận và thành phố điều hành thay vì cấp bang. , tổng số 1.267.063 học sinh nhập học tại 1.873 trường học địa phương và khu vực trong Thịnh vượng chung, trong đó có ba trường đặc hứa (charter school), và có thêm 109 trung tâm giáo dục thay thế và đặc biệt trong 132 đơn vị trường. Bên cạnh các trường công lập phổ thông, Virginia còn có các trường Thống đốc và trường nam châm, tức trường có tuyển chọn. Các trường Thống đốc là một tập hợp gồm trên 40 trường trung học khu vực và chương trình mùa hạ với mục đích dành riêng cho các học sinh có tài năng. Hội đồng Virginia về Giáo dục tư thục giám sát các quy định đối với 320 trường tư được công nhận chính thức cấp bang và 130 chưa được công nhận chính thức. Năm 2010, Virginia có 24.682 học sinh tiếp nhận giáo dục tự học tại gia.
, có 176 học viện và đại học tại Virginia. Theo U.S. News & World Report về xếp hạng các học viện công lập, Đại học Virginia xếp hạng nhì (2010) còn Học viện William & Mary xếp hạng sáu (2008). Đại học Thịnh vượng chung Virginia đứng đầu trong số các trường công cấp bằng tốt nghiệp đại học ngành mỹ thuật, còn Đại học James Madison được công nhận là có chương trình thạc sĩ công lập đứng đầu khu vực tại miền Nam Hoa Kỳ kể từ năm 1993. Học viện Quân sự Virginia là học viện quân sự cấp bang lâu năm nhất và đứng đầu trong các học viện khai phóng công lập. Đại học George là đại học lớn nhất tại Virginia với trên 32.000 sinh viên. Học viện và Đại học bang lập Bách khoa Virginia và Đại học bang lập Virginia là những đại học tặng đất (land-grant) lớn nhất trong bang. Virginia cũng điều hành 23 trường cao đẳng cộng đồng và 40 giáo khu, phục vụ trên 260.000 sinh viên. Trong bang còn có 129 trường đại học tư thục, bao gồm Đại học Washington and Lee, Học viện Randolph, Học viện Hampden–Sydney, Học viện Emory & Henry, Học viện Roanoke, cùng Đại học Richmond, Học viện Randolph-Macon.
Y tế
Virginia có tình trạng y tế hỗn hợp, và là bang có tình hình y tế tổng thể tốt thứ 20 theo Xếp hạng y tế năm 2011 của Tổ chức Y tế Liên hiệp. Năm 2008, Virginia đạt tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh thấp chưa từng thấy là 6,7‰. Tuy nhiên, có sự chênh lệch về y tế theo sắc tộc và xã hội, vào năm 2010 người Mỹ gốc Phi chết sớm hơn 28% so với người da trắng, và 13% người Virginia không có bất kỳ loại bảo hiểm y tế nào. Theo nghiên cứu năm 2009 của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh, 26% người Virginia bị béo phì và có thêm 35% khác bị thừa cân. Năm 2007, 78% cư dân trong bang tự nhận rằng họ tập thể dục ít nhất một lần trong ba tháng trở lại. Khoảng 30% thiếu niên Virginia từ 10 đến 17 tuổi bị thừa cân hoặc béo phì. Virginia cấm hút thuốc lá trong các quán bar và nhà hàng kể từ tháng 1 năm 2010. 19% người Virginia hút thuốc lá (2011). Các cư dân thuộc khu vực bầu cử quốc hội số 8 của Virginia có mức tuổi thọ dự tính trung bình lâu nhất toàn quốc, trên 83 năm.
Virginia có 89 bệnh viện được liệt kê trong danh sách của Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ. Bệnh viện Inova Fairfax là bệnh viện lớn nhất trong Vùng đô thị Washington, Trung tâm Y tế VCU nằm trong giáo khu của Đại học Thịnh vượng chung Virginia là hai trong số các bệnh viện có tiếng tại Virginia. Trung tâm Y tế Đại học Virginia là bộ phận của Hệ thống Y tế Đại học Virginia, trung tâm được tạp chí U.S. News & World Report xếp hạng cao về khoa nội tiết. Bệnh viện đa khoa Sentara Norfolk là bộ phận của Hệ thống Y tế Sentara có cơ sở tại Hampton Roads và cũng là nơi giảng dạy của Trường Y tế Đông Virginia, bệnh viện này là nơi có ca sinh thành công đầu tiên từ thụ tinh trong ống nghiệm. Virginia đạt tỷ lệ 127 bác sĩ chăm sóc sơ cấp trên 10,000 cư dân, cao thứ 16 toàn quốc (2011). Virginia là một trong năm bang nhận được số điểm hoàn hảo về tính sẵn sàng chuần bị trước tai họa theo báo cáo năm 2008 của Tổ chức Trust for America's Health, dựa trên tiêu chuẩn như phát hiện mầm bệnh và phân phối vắc-xin và các vật tư y tế.
Giao thông
Do Đạo luật Đường bộ Byrd năm 1932, chính phủ bang kiểm soát hầu hết đường bộ tại Virginia, thay vì hội đồng quận như thường thấy tại các bang khác. , Bộ Giao thông Virginia sở hữu và khai thác trong tổng số đường bộ tại bang, khiến nó trở thành hệ thống xa lộ cấp bang lớn thứ ba tại Hoa Kỳ. Vùng đô thị Washington bao gồm cả Bắc Virginia có tình trạng giao thông tệ thứ nhì trong toàn quốc, song về tổng thể thì tắc nghẽn giao thông tại Virginia thấp thứ 21 toàn quốc và thời gian đi lại trung bình giữa nơi ở và nơi làm việc là 26,9 phút.
Dịch vụ đường sắt hành khách Amtrak phục vụ dọc theo một số hành lang, và Virginia Railway Express (VRE) duy trì hai tuyến đường sắt đi làm đến Washington, D.C. từ Fredericksburg và Manassas. VRE là một trong số các dịch vụ đường sắt đi làm tăng trưởng nhanh nhất toàn quốc, vận chuyển gần 20.000 hành khách mỗi ngày (2010). Hệ thống tàu nhanh Washington Metro phục vụ Bắc Virginia xa về phía tây đến các cộng đồng dọc theo I-66 tại quận Fairfax, và có các dự án mở rộng xa hơn. Các tuyến đường sắt chở hàng chính tại Virginia gồm có Norfolk Southern và CSX Transportation. Các dịch vụ xe buýt đi làm gồm có Fairfax Connector và Shenandoah Valley Commuter Bus. Bộ Giao thông Virginia điều hành một số tuyến phà miễn phí trên khắp Virginia, nối tiếng nhất trong số đó là phà Jamestown-Scotland qua sông James tại quận Surry.
Virginia có năm không cảng lớn: Sân bay quốc tế Washington Dulles vận chuyển trên 23 triệu hành khách mỗi năm, và Sân bay quốc gia Ronald Reagan Washington phục vụ thủ đô và hầu hết Bắc Virginia, Sân bay quốc tế Norfolk phục vụ khu vực Hampton Roads, Sân bay quốc tế Richmond, và Sân bay quốc tế Newport News/Williamsburg. Một vài cảng hành không khác cung cấp dịch vụ hành khách thương mại hạn chế, và 66 cảng hàng không công lập phục vụ các nhu cầu hàng không của bang. Các hải cảng chính thuộc Cục cảng Virginia là những cảng nằm tại khu vực Hampton Roads, chúng vận chuyển lượng hàng hóa có tải trọng trong năm 2007, xếp thứ sáu trong các cụm cảng của Hoa Kỳ. Trung tâm năng lực phi hành Wallops (WFF) nằm tại Eastern Shore của Virginia là một trung tâm thử tên lửa thuộc sở hữu của NASA, tại Eastern Shore còn có một sân bay vũ trụ thương mại là Sân bay vũ trụ Khu vực Trung Đại Tây Dương (MARS). Dịch vụ du lịch vũ trụ được cung ứng thông qua công ty Space Adventures đặt tại Vienna.
Pháp luật và chính phủ
Thời thuộc địa tại Virginia, nam giới tự do bầu ra hạ nghị viện được gọi là Thị dân viện, cùng với Hội đồng Thống đốc tạo thành "Đại hội". Đại hội Virginia hình thành vào năm 1619, và nay là cơ quan lập pháp lâu năm nhất vẫn còn tồn tại ở Tây Bán cầu. Năm 2008, chính phủ Virginia được Trung tâm Pew về các bang xếp hạng A− về các điều kiện hiệu suất, hiệu ích, và cơ sở hạ tầng. Đây là lần thứ nhì Virginia được xếp hạng cao nhất toàn quốc.
Kể từ năm 1971, chính phủ Virginia hoạt động theo hiến pháp thứ bảy, trong đó quy định một cơ quan lập pháp mạnh và một hệ thống tư pháp thống nhất. Tương tự như cấu trúc của chính phủ liên bang, chính phủ Virginia được phân thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Cơ quan lập pháp là Đại hội, đây là một thể chế lưỡng viện gồm Đại biểu viện (House of Delegates) với 100 thành viên và Tham nghị viện (Senate) với 40 thành viên, soạn ra các luật của Thịnh vượng chung. Cơ quan lập pháp mạnh hơn cơ quan hành pháp, và được quyền lựa chọn các thẩm phán. Thống đốc và Phó Thống đốc được bầu mỗi bốn năm trong các cuộc bầu cử riêng biệt. Các thống đốc đương nhiệm không thể vận động tái tranh cử, song phó thống đốc và tổng chưởng lý thì có thể, và các thống đốc có thể phục vụ các nhiệm kỳ không liên tiếp. Hệ thống tư pháp của Virginia là hệ thống tư pháp lâu đời nhất tại châu Mỹ, gồm có một hệ thống cấp bậc từ Tòa án Tối cao Virginia và Tòa án Thượng tố Virginia đến các tòa án tuần tra (tức tòa án sơ thẩm), và ở cấp thấp hơn là các tòa án địa phương quần chúng và các tòa án địa phương vị thành viên và quan hệ dân sự.
Cảnh sát bang Virginia là cơ quan thực thi pháp luật lớn nhất tại Virginia. Cảnh sát tòa nhà nghị viện Virginia là cục cảnh sát lâu năm nhất tại Hoa Kỳ. Đội cảnh vệ quốc dân Virginia gồm có 7.500 binh sĩ thuộc Lục quân cảnh vệ quốc dân Virginia và 1.200 quân nhân thuộc Không quân cảnh vệ quốc dân Virginia. Kể từ khi án tử hình được khôi phục tại Virginia vào năm 1982, có tổng cộng 107 người bị hành hình (2010), đây là con số cao thứ nhì toàn quốc. "Tổng nguy cơ tội phạm" tại Virginia thấp hơn 28% so với mức trung bình toàn quốc (2009). Kể từ khi Virginia chấm dứt tạm tha (parole) tù nhân vào năm 1995, tỷ lệ tái phạm tội giảm xuống còn 28,3% (2011), thuộc hàng thấp nhất toàn quốc. Virginia là bang cho phép công khai mang vũ khí, thay vì phải che không cho người khác trông thấy như một số bang khác.
Chính trị
Trong thế kỷ 20, Virginia chuyển đổi từ một bang chủ yếu là nông thôn, tính chính trị miền Nam, và bảo thủ sang một bang đô thị hóa hơn, đa nguyên hơn, và môi trường chính trị ôn hòa hơn. Cho đến thập niên 1970, Virginia là một bang độc đảng phân chia chủng tộc do Tổ chức Byrd chiếm ưu thế. Di sản của chế độ nô lệ trong bang được thể hiện qua việc tước quyền bầu cử trên thực tế của người Mỹ gốc Phi cho đến sau khi thông qua các pháp luật về dân quyền vào giữa thập niên 1960. Việc cấp quyền bầu cử cho người Mỹ gốc Phi và sự nhập cư của các nhóm khác, đặc biệt là người Hispanic, khiến cho phiếu của cộng đồng thiểu số ngày càng quan trọng, trong khi số cử tri được xác định là "tầng lớp lao động da trắng" giảm ba phần trăm từ năm 2008 đến năm 2012. Khác biệt khu vực đóng một vai trò lớn trong chính trị Virginia. Các khu vực miền nam và miền tây thôn dã chuyển sang ủng hộ Đảng Cộng hòa trong "chiến lược phương Nam" của đảng này, trong khi các khu vực đô thị hoặc ngoại ô đang phát triển, bao gồm cả phần lớn Bắc Virginia, tạo thành căn cứ của Đảng Dân chủ. Sự ủng hộ đối với Đảng Dân chủ vẫn còn tồn tại ở những nơi chịu ảnh hưởng của công đoàn thuộc Tây Nam Virginia, các đô thị đại học như Charlottesville và Blacksburg, và khu vực Vành đai Kinh Thánh ở đông nam.
Sức mạnh chính đảng tại Virginia cũng thay đổi liên tục. Trong bầu cử cấp bang năm 2007, Đảng Dân chủ giành quyền kiểm soát Tham nghị viện, và thu hẹp khoảng cách với Đảng Cộng hòa chiếm đa số trong Đại biểu viện. Trong bầu cử năm 2009, đảng viên Cộng hòa là Bob McDonnell đắc cử Thống đốc, đảng viên của Đảng Cộng hòa cũng được bầu làm Phó Thống đốc và Tổng chưởng lý, Đảng Cộng hòa giành thêm ghế trong Đại biểu viện. Đến năm 2011, Đảng Cộng hòa chiếm trên hai phần ba số ghế trong Đại biểu viện, và chiếm đa số trong Tham nghị viện do Phó Thống đốc Bill Bolling trở thành người bỏ phiếu quyết định. Sau bầu cử năm 2013, đảng viên Dân chủ Terry McAuliffe được bầu làm Thống đốc, đảng viên Dân chủ Ralph Northam được bầu làm Phó Thống đốc. Tuy nhiên, Đảng Cộng hòa duy trì siêu đa số trong Đại biểu viện. Các mùa bầu cử trong bang có truyền thống khởi đầu với sự kiện thường niên Shad Planking tại Wakefield.
Kể từ năm 2006, cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đều có các chiến thắng tại Virginia trong các cuộc bầu cử liên bang. Năm 2006, Thượng nghị sĩ George Allen của Đảng Cộng hòa thất bại trước đảng viên Dân chủ Jim Webb, và tiếp tục thất bại vào năm 2012 trước một đảng viên Dân chủ khác là cựu Thống đốc Tim Kaine. Năm 2008, các đảng viên Dân chủ chiếm cả hai ghế của bang tại Thượng viện Hoa Kỳ khi cựu Thống đốc Mark Warner được bầu thay đảng viên Cộng hòa John Warner. Virginia có 13 phiếu đại cử tri đoàn trong bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, đảng viên Dân chủ Barack Obama chiến thắng tại Virginia trong các cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2008 và 2012, bất chấp việc các ứng viên của Đảng Cộng hòa giành chiến thắng tại Virginia trong 10 kỳ bầu cử tổng thống trước đó. Virginia được xem là một "bang dao động" trong các cuộc bầu cử tổng thống trong tương lai.
Thể thao
Virginia là bang đông dân nhất trong số các bang không có đội tuyển nào có quyền tham gia các giải thể thao chuyên nghiệp lớn tại Hoa Kỳ. Nguyên nhân là bang thiếu thành phố hay thị trường có ảnh hưởng lớn, gần các đội tại Washington, D.C. và Bắc Carolina, và miễn cưỡng công khai tài chính các sân vận động. Norfolk là chủ nhà của hai đội trong bang tham gia thi đấu trong hạng cao nhất của giải nhỏ: Norfolk Tides tại giải bóng chày hạng AAA và Norfolk Admirals tại giải vô địch khúc côn cầu Mỹ, Norfolk Admirals giành được cúp Calder năm 2012. Đội tuyển bóng chày Richmond Flying Squirrels là hội viên của San Francisco Giants, và bắt đầu chơi tại sân The Diamond vào năm 2010, thay thế đội Richmond Braves di chuyển sang bang khác sau năm 2008. Thêm vào đó, Washington Nationals, Boston Red Sox, Seattle Mariners, Chicago White Sox, và Atlanta Braves cũng có các đội tuyển trẻ hạng A và tân binh tại Virginia.
Đội tuyển bóng đá kiểu Mỹ chuyên nghiệp Washington Redskins có trụ sở tại Redskins Park thuộc địa phận Ashburn và nơi tập luyện của họ nằm tại Richmond, Đội tuyển khúc côn cầu trên băng chuyên nghiệp Washington Capitals tập luyện tại sân Kettler Capitals Iceplex thuộc địa phận Arlington. NASCAR hiện có lịch trình tiến hành các giải đua xe tranh cup Sprint trên hai đường đua tại Virginia: Martinsville Speedway và Richmond International Raceway.
Virginia không cho phép bang dành kinh phí cho các hoạt động thể thao liên đại học. Tuy vậy, cả Virginia Cavaliers và Virginia Tech Hokies đều có thể cạnh tranh trong Đại hội Duyên hải Đại Tây Dương (ACC) và duy trì cơ sở vật chất hiện đại. Một số đại học khác tham gia trong giải hạng nhất của Hiệp hội Thể thao đại học quốc gia (NCAA), đặc biệt là trong Hiệp hội Thể thao Thuộc địa (CAA). Ba trường da đen lịch sử tham gia trong giải hạng hai Hiệp hội Thể thao liên đại học Trung ương (CIAA), và hai trường khác tham gia trong giải hạng nhất Đại hội Thể thao Trung Đông (MEAC). Một vài trường nhỏ hơn tham gia trong giải hạng ba Đại hội Thể thao Old Dominion (ODAC) và Đại hội Thể thao USA South của NCAA. NCAA tổ chức cố định các giải hạng ba về bóng đá kiểu Mỹ, bóng rổ nam, bóng chuyền và bóng mềm tại Salem.
Phù hiệu cấp bang
Tên hiệu của bang là phù hiệu lâu năm nhất, song nó chưa từng được chính thức hóa theo luật. Quốc vương Charles II của Anh ban xưng hiệu "Dominion" (chính thể tự trị) cho Virginia trong thời kỳ Anh khôi phục chế độ quân chủ năm 1660, do thuộc địa vẫn trung thành với vương thất trong Nội chiến Anh (1642–1651), và biệt danh hiện nay là "Old Dominion" ám chỉ đến xưng hiệu đó. Tên hiệu khác của Virginia là "Mother of Presidents" (Mẹ của các tổng thống), nó cũng mang tính lịch sử do từng có tám người Virginia đảm nhiệm chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ, bao gồm bốn trong năm người đầu tiên.
Khẩu hiệu của Virginia là Sic Semper Tyrannis, đây là một cụm từ trong tiếng Latinh và có thể dịch là "luôn như vậy với các bạo chúa", và được sử dụng trên ấn của bang, và thông qua đó cũng xuất hiện trên bang kỳ. Ấn được thiết kế vào năm 1776, còn hiệu kỳ được sử dụng lần đầu tiên trong thập niên 1830, cả hai đều được chính thức hóa vào năm 1930. Phần lớn các phù hiệu khác được chính thức hóa trong cuối thế kỷ 20. Vũ điệu quay Virginia nằm trong số các vũ điệu khối vuông được phân loại là vũ điệu cấp bang. Virginia hiện không ca khúc cấp bang. Năm 1940, Virginia từng chọn "Carry Me Back to Old Virginny" làm ca khúc cấp bang, song việc này kết thúc vào năm 1997 và ca khúc được tái phân loại là ca khúc danh dự của bang. Các lựa chọn thay thế khác nhau, trong đó có một phiên bản của "Oh Shenandoah", gặp phải sự chống đối trong Đại biểu viện Virginia.
Các đời tổng thống Hoa Kỳ sinh ra tại bang Virginia
George Washington (tổng thống đầu tiên, 1732–1799)
Thomas Jefferson (tổng thống thứ 3, 1743–1826)
James Madison (tổng thống thứ 4, 1751–1836)
James Monroe (tổng thống thứ 5, 1758–1831)
William Henry Harrison (tổng thống thứ 9, 1773–1841)
John Tyler (tổng thống thứ 10, 1790–1862)
Zachary Taylor (tổng thống thứ 12, 1784–1850)
Woodrow Wilson (tổng thống thứ 28, 1856–1924) |
West Virginia là một tiểu bang Hoa Kỳ trong vùng Appalachia, nói chung được biết đến như là The Mountain State. West Virginia ly khai khỏi Khối thịnh vượng chung Virginia trong suốt Nội chiến Hoa Kỳ và được chấp nhận vào Liên Bang như là một bang tách biệt ngày 20 tháng 6 năm 1863 (ngày kỉ niệm West Virginia Day ở tiểu bang này). Đây là bang duy nhất được thành lập do kết quả trực tiếp của nội chiến Mỹ. |
Utah (phát âm như U-ta) là một tiểu bang miền tây của Hoa Kỳ. Đây là bang thứ 45 được gia nhập vào hiệp chúng quốc vào ngày 4 tháng 1 năm 1896. Khoảng 88% dân số của tiểu bang Utah sống trong một khu vực đô thị lớn là Wasatch Front với thành phố Salt Lake là trung tâm. Trong khi đó, một phần lớn diện tích tiểu bang không có dân cư sinh sống đã biến Utah trở thành bang có mức độ đô thị hóa cao thứ 6 tại Hoa Kỳ. Cái tên "Utah" được bắt nguồn từ ngôn ngữ của người da đỏ Ute bản địa, có nghĩa là "những con người của vùng núi".
Utah được biết đến như một tiểu bang rất đa dạng về địa hình, từ những dãy núi cao tuyết phủ cho đến những thung lũng sông và các sa mạc đá khô cằn, khắc nghiệt. Tiểu bang này còn được biết đến với tỉ lệ tương đồng về tôn giáo cao nhất liên bang. Khoảng 61% người trưởng thành ở Utah là thành viên của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (hay còn gọi là đạo Mormon), một tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến văn hóa và đời sống thường nhật của tiểu bang này.
Tiểu bang Uath là một trung tâm về giao thông vận tải, công nghệ thông tin, nghiên cứu khoa học, khai thác khoáng sản và du lịch, đặc biệt là những khu trượt tuyết. Thành phố Salt Lake, thủ phủ của tiểu bang Utah là nơi đăng cai Thế vận hội Mùa đông 2002.
Lịch sử
Sau sự kiện Joseph Smith, Jr. - người sáng lập Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (hay còn gọi là đạo Mormon) bị giết hại vào năm 1844 tại Illinois, Brigham Young - một trong những người phụ tá của Smith đã quyết định đưa người Mormon đến một vùng đất hoang vu mới ở phía tây để có thể tự do hành đạo. Brigham Young và những nhóm dân di cư người Mormon đã đến thung lũng Salt Lake thuộc tiểu bang Utah ngày nay vào ngày 24 tháng 7 năm 1847. Trong 22 năm tiếp sau đó, khoảng hơn 70.000 dân di cư Mormon đã đến vùng đất này. Họ sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, các hoạt động thủ công và công nghiệp nhẹ. Chính những di dân đầu tiên này đã tạo nền tảng cho sự phát triển của tiểu bang Utah cả về kinh tế lẫn văn hóa.
Vào năm 1847, khi những di dân đầu tiên đến Utah thì nơi đây vẫn là một vùng lãnh thổ của México. Nhưng cuộc chiến tranh Hoa Kỳ-Mexico kết thúc với việc Mexico bại trận đã dẫn tới việc ký kết Hiệp ước Guadalupe Hidalgo vào ngày 2 tháng 2 năm 1848, theo đó Utah cũng nhiều vùng đất khác của Mexico sáp nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Thời gian đầu, Vùng lãnh thổ Utah có diện tích lớn hơn bây giờ, bao gồm trong đó phần lớn bang Nevada và một số phần nhỏ của các bang xung quanh.
Mâu thuẫn chủ yếu giữa cộng đồng người Mormon với chính phủ liên bang là việc người Mormon duy trì chế độ đa thê và đòi chính phủ liên bang thành lập tiểu bang Deseret, một khu vực rộng lớn do người Mormon hoạch định. Những xung khắc này đã dẫn đến cuộc chiến tranh Utah vào năm 1857 giữa người Mormon và chính phủ liên bang. Trong khoảng thời gian năm 1865 đến 1872, một cuộc chiến tranh nữa lại nổ ra giữa người Mormon với thổ dân da đỏ.
Ngày 10 tháng 5 năm 1896, tuyến đường sắt xuyên lục địa đầu tiên được hoàn thành, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giao thông, đi lại, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Những dòng người khác nhau cũng nhập cư vào Utah.
Thập niên 1890 đánh dấu một bước ngoặt khi đạo Mormon tuyên bố cấm chỉ chế độ đa thê. Utah đăng đơn gia nhập liên bang lần nữa và đã được chấp nhận. Ngày 4 tháng 1 năm 1896, Utah chính thức trở thành tiểu bang thứ 45 của Hoa Kỳ.
Đầu thế kỉ 20, những công viên quốc gia đầu tiên bắt đầu được thành lập tại Utah và tiểu bang này dần được biết đến với vẻ đẹp thiên nhiên kỳ thú. Vùng miền nam Utah với phong cảnh sa mạc là địa điểm ưa thích cho những bộ phim cao bồi. Trong suốt thập niên 1950, 1960 và 1970, hệ thống đường cao tốc liên bang được xây dựng đã nhanh chóng đưa Utah kết nối với các vùng khác của nước Mỹ.
Năm 1939, Utah thành lập khu trượt tuyết Alta. Tiểu bang này dần trở thành một địa điểm trượt tuyết nổi tiếng thế giới. Loại tuyết khô và xốp ở dãy núi Wasatch đã làm nên những bãi trượt tuyết vào hàng tốt nhất trên thế giới. Du lịch đóng góp một phần quan trọng trong hoạt động kinh tế của tiểu bang Utah. Năm 1995, thành phố Salt Lake đã giành được quyền đăng cai Thế vận hội Mùa đông 2002.
Cuối thế kỉ 20, dân số tiểu bang Utah đã tăng lên nhanh chóng. Giao thông và đô thị hóa là những vấn đề chủ yếu của Utah, song song với việc mở rộng diện tích nông nghiệp với việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Địa lý
Địa hình
Một trong những đặc điểm chính của Utah là sự đa dạng về địa hình. Vùng trung tâm phía bắc của tiểu bang là dãy Wasatch Range chạy xuống theo chiều bắc nam, có độ cao trung bình hơn 3650 m so với mặt nước biển. Vùng này nhận được hơn 500 inch (khoảng 12,7 m) tuyết mỗi năm nên đã trở thành một địa điểm trượt tuyết được yêu thích hàng đầu thế giới với loại tuyết sáng và xốp, rất thích hợp cho môn thể thao này. Tại vùng đông bắc Utah, dãy núi Uinta chạy theo chiều đông tây có độ cao hơn 3950 m. Đỉnh núi cao nhất tại Utah, đỉnh Kings Peak nằm tại dãy núi này với độ cao 4123 m.
Ở phía tây của dãy Wasatch Range là vùng Wasatch Front, một khu vực gồm nhiều bồn địa và thung lũng và đồng thời là nơi tập trung phần lớn dân số tiểu bang. Các thành phố chính của Utah như Ogden, thành phố Salt Lake, Layton, thành phố West Valley, West Jordan, Orem và Provo đều nằm trong khu vực này. Dải đô thị Wasatch Front kéo dài từ thành phố Brigham ở phía bắc đến thành phố Nephi ở phía nam. Khoảng 75% dân số Utah sống tại đây, và các khu dân cư sẽ còn tiếp tục mở rộng đến tận chân sườn các thung lũng khi mà dân số của tiểu bang tiếp tục tăng lên.
Miền tây Utah có địa hình khô hạn và gồ ghề với các bồn địa và dãy núi nhỏ. Riêng Đồng bằng Muối Bonneville là một ngoại lệ với địa hình tương đối bằng phẳng vì trước đây từng là đáy của một hồ nước lớn. Hồ Great Salt, hồ Utah, hồ Sevier, hồ Rush và hồ Little Salt là những hồ nước mặt sót lại của một hồ nước ngọt lớn trước kia từng bao phủ hầu khắp vùng Great Basin. Phía tây hồ Great Salt là sa mạc Great Salt Lake, trải rộng tới tận biên giới Nevada.
Phần lớn quang cảnh miền nam Utah là các bãi đá sa thạch. Sông Colorado và các phụ lưu của nó khi đi qua những vùng đá sa thạch đã làm xói mòn các lớp đá, tạo ra nhiều dạng địa hình phong phú tại Utah với các vòm, đỉnh, dốc, cầu đá vô cùng đa dạng và độc đáo. Dạng địa hình sa thạch chiếm chủ yếu tại các công viên quốc gia như Arches, Bryce Canyon, Canyonlands, Capitol Reef, Zion, các khu tưởng niệm Cedar Breaks, Grand Staircase-Escalante, Hovenweep, Natural Bridges, các công viên tiểu bang như Glen Canyon National Recreation Area, Dead Horse Point, Goblin Valley và khu phim trường nổi tiếng Monument Valley.
Vùng tây nam Utah là vùng thấp nhất và nóng nhất của tiểu bang. Dòng suối theo mùa Beaver Dam Wash là điểm thấp nhất của Utah với độ cao 610 m. Điểm cực bắc của sa mạc Mojave cũng nằm tại vùng này. Vùng tây nam còn bao gồm khu trượt tuyết trên núi cao nhất tiểu bang Brian Head.
Phía đông Utah có địa hình cao gồm nhiều cao nguyên và bồn địa. Kinh tế Utah dựa một phần lớn vào vùng phía đông với các ngành khai mỏ, khai thác dầu mỏ, khí đốt, chăn nuôi và lĩnh vực giải trí. Phần lớn miền đông Utah nằm trong vùng "Uintah and Ouray Indian Reservation", trú khu của người da đỏ. Điểm đến hấp dẫn nhất của miền đông Utah là Khu công viên khủng long gần Vernal.
Khí hậu
Phần lớn diện tích Utah có khí hậu hoang mạc khô cằn. Nguyên nhân là do Utah nằm khuất bóng sườn núi Sierra Nevada ở California và khuất bóng dãy núi Wasatch ở phía đông khiến các luồng không khí ẩm khó có thể tiếp cận nội địa. Lượng mưa chính của Utah bắt nguồn từ các cơn bão Thái Bình Dương diễn ra diễn ra từ giữa tháng 10 đến tháng 4 năm sau, còn ở miền bắc Utah thì mùa mưa kéo dài hơn đôi chút. Vào mùa hè, miền đông và miền nam nằm trong tầm ảnh hưởng của gió mùa từ vịnh California thổi vào. Hầu hết các vùng đất thấp của Utah nhận được ít hơn 12 inch (300 mm) mưa mỗi năm. Khu vực đông dân cư Wasatch Front nhận được khoảng 15 inch (380 mm) còn tại vùng sa mạc Great Salt Lake, lượng mưa chỉ là 5 inch (125 mm). Tuyết rơi ở hầu khắp các vùng của tiểu bang trừ miền nam. Nếu thành phố St. George chỉ nhận được khoảng 3 inch (7,5 cm) tuyết mỗi năm thì tại thành phố Salt Lake, lượng mưa tuyết là 60 inch (150 mm) do chịu ảnh hưởng mạnh từ hồ Great Salt. Một số vùng thuộc dãy núi Wasatch Range nhận được lượng tuyết tới 500 inch (1270 mm) mỗi năm với đặc điểm tuyết khô, xốp, thích hợp với các môn thể thao mùa đông. Do đó, Utah đã phát triển mạnh các khu trượt tuyết và có câu khẩu hiệu "the Greatest Snow on Earth". Vào mùa đông, sương mù diễn ra dày đặc hàng tuần tại những vùng lòng chảo và thung lũng của Utah.
Nhiệt độ của Utah tương đối khắc nghiệt, với mùa đông rất lạnh và mùa hè rất nóng (ngoại trừ vùng núi cao). Nhiệt độ trung bình tháng 1 dao động từ 30 °F (-1 °C) ở những thung lũng phía bắc đến 30F (13C) ở St. George. Nhiều nơi ở tiểu bang nhiệt độ xuống dưới 0 °F (-18 °C) hàng năm. Vào tháng 7 nhiệt độ trung bình dao động từu 85 °F (29 °C) đến 100 °F (38 °C). Tuy nhiên độ ẩm thấp và địa hình cao của Utah đã dẫn đến sự chênh lệch nhiệt độ lớn, khiến cho ban đêm trời cũng khá lạnh. Nhiệt độ cao nhất ghi tại Utah là 118F (47C) tại St. George vào ngày 4 tháng 7 năm 2007, còn nhiệt độ thấp nhất ghi được là -69 °F (-56 °C) tại Peter’s Sink, miền bắc Utah vào ngày 1 tháng 2 năm 1985.
Utah, cũng như hầu hết các bang miền tây nước Mỹ có ít ngày trời mưa bão. Mỗi năm tại Utah có ít hơn 40 ngày trời mưa nhưng các trận mưa thường diễn ra tương đối bất ngờ, kéo dài từ giữa tháng 7 đến giữa tháng 9, chủ yếu tại miền đông và miền nam Utah. Cháy rừng xảy ra vào thời gian hè khô nóng còn các trận mưa dễ gây ra lũ quét, đặc biệt tại vùng miền nam có địa hình hiểm trở. Lốc xoáy không diễn ra thường xuyên tại Utah, trung bình khoảng 2 cơn một năm và ít khi vượt quá cấp F1. Tuy nhiên vào ngày 11 tháng 8 năm 1999, một cơn lốc xoáy cấp F2 đã tấn công thành phố Salt Lake, khiến 1 người chết và gây thiệt hại 170 triệu USD.
Nhân khẩu
Theo thống kê năm 2007, dân số của Utah là 2.645.300 người, tăng 65.000 ngưới so với năm trước. 88% dân số của tiểu bang sinh sống tại Wasatch Front, một chuỗi đô thị kéo dài theo chiều bắc nam dọc theo dãy núi Wasatch. Những vùng còn lại của tiểu bang rất thưa dân, nhiều nơi không có người ở. Utah là một trong tiểu bang có mật độ dân số thấp nhất Hoa Kỳ, chỉ khoảng 11 ngưới/km².
Người da trắng là sắc dân chủ yếu tại Utah, chiếm khoảng 95% dân số. Người da trắng tại Utah chủ yếu có gốc từ các nước Tây Âu và Bắc Âu như Anh, Đức, Ireland, Scotland, Thụy Điển, Đan Mạch... Chủ yếu họ là con cháu của những người Mormon đầu tiên di cư đến Utah dưới sự chỉ đạo của Brigham Young, số còn lại là những người nhập cư vào Utah sau này. Thời gian trở lại đây, người da trắng gốc latinh (còn gọi là người Hispanic) có nguồn gốc từ châu Mỹ latinh và các bang miền nam cũng nhập cư nhiều vào Utah, nâng tỉ lệ người latinh tại Utah lên 11%.
Chủng tộc
Phân bố chủng tộc tại Utah năm 2005:
Người da trắng: 95,01%
Người da đen: 1,32%
Người da đỏ: 1,69%
Người gốc Á: 2,40%
Người các đảo Thái Bình Dương: 0,95%
Người hispanic thuộc mọi sắc tộc trên: 11,03%
Tôn giáo
Khoảng 61% người dân Utah là thành viên của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (còn được gọi là đạo Mặc Môn). Trụ sở chính của giáo hội này được đặt tại thành phố Salt Lake. Ngay từ buổi ban đầu, các giáo dân Mặc Môn đã có những cống hiến quan trọng cho tiểu bang Utah. Vì muốn tránh khỏi sự thù địch và cưỡng bách từ những người dân thuộc tôn giáo khác, các giáo dân Mặc Môn đã đến vùng đất hẻo lánh và cằn cỗi này để sinh sống. Ngày nay, những điều giảng dạy của Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô vẫn là một ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với đời sống thường nhật của đại đa số người dân tiểu bang Utah. Các tín đồ của tôn giáo này chọn việc không uống rượu, cà phê hoặc sử dụng các chất kích thích nên đã tác động tích cực đến chất lượng cuộc sống tại tiểu bang này: tỉ lệ phạm tội ở Utah rất thấp, trong khi tuổi thọ của người dân Utah thuộc vào hàng cao nhất nước Mỹ. Đặc biệt do chính sách khuyến khích thanh niên lập gia đình sớm của đẻ nhiều con, tỉ lệ sinh sản ở Utah cao nhất nước Mỹ, với 25 đứa trẻ/1000 dân, cao hơn 25% so với trung bình của liên bang. Cử tri Utah thường có truyền thống ủng hộ Đảng Cộng hòa.
Kinh tế
Năm 2006, tổng sản phẩm quốc nội của Utah đạt 97,7 tỉ USD (Xem Danh sách tiểu bang Hoa Kỳ theo GDP), đứng hàng 33 trong liên bang. Thu nhập bình quân đầu người tại Utah là 32.357 USD, đứng hàng thứ 40/51 nước Mỹ. Những ngành kinh tế chính tại Utah là khai mỏ, chăn nuôi gia súc, sản xuất muối, công nghiệp quốc phòng và du lịch.
Ở miền đông Utah, khai thác dầu là một trong những ngành công nghiệp chính. Khai thác than ở miền trung Utah cũng đóng góp một phần quan trọng vào ngành công nghiệp này. Công nghiệp khai mỏ phát triển tại Utah từ cuối thế kỉ 19 và thu hút rất nhiều nhân công đến đây làm việc. Ngoài các nguồn khoáng sản năng lượng như dầu mỏ, khí đốt và than đá, Utah còn có một trữ lượng lớn các kim loại đồng, vàng, bạc, kẽm, chì, uranium...
Ngày nay, hoạt động du lịch đang trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của Utah. Miền nam Utah có 5 công viên quốc gia lớn là Arches, Bryce Canyon, Canyonlands, Capitol Reef và Zion với phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Tiểu bang này cũng nổi tiếng với nhiều khu trượt tuyết chất lượng cao với loại tuyết dày và xốp, rất thích hợp cho các môn thể thao mùa đông. Thành phố Salt Lake là chủ nhà của Thế vận hội Mùa đông 2002.
Những khung cảnh kỳ thú như Monument Valley ở Utah được sử dụng làm bối cảnh cho nhiều bộ phim cao bồi miền tây. Utah cũng là nơi bấm máy của nhiều bộ phim nổi tiếng như Broken Arrow, Indiana Jones and The Last Crusade, loạt phim High School Musical.
Hình ảnh về Utah |
Wisconsin (tiếng Anh phát âm: ) là một tiểu bang miền Trung Tây của Hoa Kỳ. Nền kinh tế vùng đồng quê vốn dựa vào lông thú, sau đó là khai thác gỗ, trồng trọt, chăn nuôi bò. Việc công nghiệp hóa bắt đầu vào cuối thế kỉ 19 tại vùng đông nam, với Milwaukee là một trung tâm chính. Trong những thập kỉ gần đây những kỹ nghệ dịch vụ, đặc biệt là giáo dục và y khoa, đã phát triển khá mạnh.
Từ lúc thành lập tiểu bang, Wisconsin đã là một cộng đồng đa chủng. Người Mỹ là nhóm người đầu tiên di cư đến đây từ New York và New England. Họ thống trị trong ngành công nghiệp nặng, tài chính, chính trị và giáo dục. Sau đó, nhiều người Âu Châu kéo đến, trong đó có người Đức, phần lớn đến giữa năm 1850 và 1900, những người Scandinavia (đa số là Na Uy) và một số ít người Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, Phần Lan, Ái Nhĩ Lan và các sắc dân khác. Đến thế kỷ 20, rất nhiều người Ba Lan và con cháu của những người nô lệ kéo đến, phần lớn định cư tại Milwaukee.
Thủ phủ của bang hiện nay là thành phố Madison.
Thành phố
Milwaukee
Madison
Green Bay
Eau Claire
Ladysmith
Lịch sử
Tôn giáo
Các giáo phái lớn nhất tại Wisconsin là: Công giáo, Lutheran Missouri Synod, Wisconsin Evangelical Lutheran Synod và ELCA Lutherans. Dân chúng tại Wisconsin theo các tôn giáo sau:
Cơ-đốc giáo: 85%
Tin Lành: 55%
Lutheran: 23%
Giám Lý: 7%
Baptist: 6%
Trưởng Lão:2%
United Church of Christ: 2%
Những giáo phái Tin Lành khác: 15%
Công giáo: 29%
Các giáo phái Cơ-đốc giáo khác: 1%
Những tôn giáo khác: 1%
Không tôn giáo: 14%
Giáo dục
Đại học & Cao đẳng
Wisconsin cùng với tiểu bang Michigan và Minnesota, là những tiểu bang miền Trung Tây Midwestern Hoa Kỳ dẫn đầu về việc phát triển đại học tại tiểu bang sau cuộc nội chiến Hoa Kỳ. Đến đầu thế kỷ, việc giáo dục trong tiểu bang được xem là "lý tưởng của Wisconsin," nhấn mạnh đến mục đích phục vụ người dân, thể hiện qua những phong trào phát triển tại các trường đại học và cao đẳng vào thời đó.
Hiện nay, đại học công lập tại Wisconsin gồm 26 trường thuộc hệ thống đại học Wisconsin, đặt thủ phủ tại Madison, và 16 trường thuộc hệ thống Cao đẳng Kỹ thuật Wisconsin hợp tác với viện Đại học Wisconsin - Madison. Một số trường đại học và cao đẳng tư đáng lưu ý gồm có: Marquette University, Milwaukee School of Engineering, Medical College of Wisconsin, Beloit College, và Lawrence University, cùng một số trường khác.
Chú thích
Tiểu bang Hoa Kỳ
Trung Tây Hoa Kỳ |
Wyoming () là một tiểu bang miền núi, nằm ở mạn tây Hoa Kỳ. Đây là tiểu bang rộng thứ 10, ít dân nhất, và thưa dân thứ 2 đất nước. Wyoming giáp Montana về phía bắc, South Dakota và Nebraska về phía đông, Colorado về phía nam, Utah về phía tây nam, Idaho và Montana về phía tây. Dân số bang năm 2018 ước tính là 577.737 người, tức ít người hơn 31 thành phố Hoa Kỳ, trong đó có Denver lân cận. Cheyenne là thủ phủ kiêm thành phố lớn nhất, với dân số đạt chừng 63.624 người (2017).
Hai phần ba mé tây của bang nằm trong vùng dãy Rocky, còn góc phần ba phía đông nằm trên một vùng bình nguyên gọi là High Plains. Gần nửa đất đai Wyoming do chính phủ Hoa Kỳ nắm giữ, khiến Wyoming trở thành bang có nhiều đất chính phủ thứ 6 toàn quốc. Địa phận liên bang gồm hai vườn quốc giaGrand Teton và Yellowstone hai National Recreation Area, hai tượng đài quốc gia, nhiều rừng quốc gia, địa điểm lịch sử, trại ấp cá, và khu trú ẩn cho sinh vật hoang dã.
Cư dân bản địa tại đây là người Crow, Arapaho, Lakota, và Shoshone. Tây Nam Wyoming từng là lãnh thổ đế quốc Tây Ban Nha rồi México cho tới khi nó được nhượng cho Hoa Kỳ năm 1848 vào cuối chiến tranh Hoa Kỳ-México. Từ Wyoming ban đầu được đặt cho thung lũng Wyoming ở Pennsylvania, bắt nguồn từ từ tiếng Munsee, nghĩa là "ở bãi sông lớn".
Kinh tế Wyoming dựa trên khai khoángchủ yếu là than đá, dầu mỏ, khí tự nhiên, tronavà du lịch. Sản phẩm nông nghiệp gồm thịt gia súc (thịt bò), rơm, củ cải đường, lúa mì, đại mạch, và len. Khí hậu mang tính bán hoang mạc và lục địa, khô khan và nhiều gió hơn phần còn lại Hoa Kỳ.
Về chính trị, Wyoming là một bang mang tính bảo thủ từ thập niên 1950, với việc ứng cử viên đảng Cộng hòa đứng trên trong mọi cuộc bầu cử tổng thống với ngoại lệ là năm 1964. |
CDMA (viết đầy đủ là Code Division Multiple Access) nghĩa là đa truy nhập (đa người dùng) phân chia theo mã. Khác với GSM phân phối tần số thành những kênh nhỏ, rồi chia sẻ thời gian các kênh ấy cho người sử dụng. Trong khi đó thuê bao của mạng di động CDMA chia sẻ cùng một dải tần chung. Mọi khách hàng có thể nói đồng thời và tín hiệu được phát đi trên cùng một giải tần. Các kênh thuê bao được tách biệt bằng cách sử dụng mã ngẫu nhiên. Các tín hiệu của nhiều thuê bao khác nhau sẽ được mã hoá bằng các mã ngẫu nhiên khác nhau, sau đó được trộn lẫn và phát đi trên cùng một giải tần chung và chỉ được phục hồi duy nhất ở thiết bị thuê bao (máy điện thoại di động) với mã ngẫu nhiên tương ứng. Áp dụng lý thuyết truyền thông trải phổ, CDMA đưa ra hàng loạt các ưu điểm mà nhiều công nghệ khác chưa thể đạt được.
Ứng dụng
Việt Nam đã từng có 06 nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động. Trong đó, S-Telecom (S-Fone) sử dụng công nghệ CDMA, Gmobile, MobiFone, VinaPhone, VietnamobileHT và Viettel sử dụng công nghệ GSM.
Mạng sử dụng chuẩn GSM đang chiếm gần 50% số người dùng điện thoại di động trên toàn cầu. TDMA ngoài chuẩn GSM còn có một chuẩn khác nữa, hiện được sử dụng chủ yếu ở Mỹ Latin, Canada, Đông Á, Đông Âu. Còn công nghệ CDMA đang được sử dụng nhiều ở Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản... Công nghệ đa truy nhập phân chia theo thời gian TDMA là công nghệ truyền sóng kỹ thuật số, cho phép một số người dùng truy nhập vào cùng một kênh tần số mà không bị kẹt bằng cách định vị những rãnh thời gian duy nhất cho mỗi người dùng trong mỗi kênh. Công nghệ này đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu ít tốn kém hơn CDMA. Còn công nghệ đa truy nhập phân chia theo mã CDMA là công nghệ trải phổ cho phép nhiều tần số được sử dụng đồng thời; mã hóa từng gói tín hiệu số bằng một mã khóa duy nhất và gửi đi. Bộ nhận CDMA chỉ biết nhận và giải mã. Công nghệ này có tính bảo mật tín hiệu cao hơn TDMA. Theo các chuyên gia CNTT Việt Nam, xét ở góc độ bảo mật thông tin, CDMA có tính năng ưu việt hơn.
Ưu điểm
Sử dụng bộ mã hóa ưu việt
Nhờ hệ thống kích hoạt thoại, hiệu suất tái sử dụng tần số trải phổ cao và điều khiển năng lượng, nên nó cho phép quản lý số lượng thuê bao cao gấp 5-20 lần so với công nghệ GSM. Áp dụng kỹ thuật mã hóa thoại mới, CDMA nâng chất lượng thoại lên gần bằng với hệ thống điện thoại hữu tuyến(điện thoại để bàn).
Chuyển giao mềm
Đối với điện thoại di động, để đảm bảo tính di động, các trạm phát phải được đặt rải rác khắp nơi. Mỗi trạm sẽ phủ sóng một vùng nhất định và chịu trách nhiệm với các thuê bao trong vùng đó. Với CDMA, ở vùng chuyển giao, thuê bao có thể liên lạc với 2 hoặc 3 trạm thu phát cùng một lúc, do đó cuộc gọi không bị ngắt quãng, làm giảm đáng kể xác suất rớt cuộc gọi.
Điều khiển công suất
Một ưu điểm khác nữa của CDMA là nhờ sử dụng các thuật toán điều khiển nhanh và chính xác, thuê bao chỉ phát ở mức công suất vừa đủ để đảm bảo chất lượng tín hiệu, giúp tăng tuổi thọ của pin, thời gian chờ và đàm thoại. Máy điện thoại di động CDMA cũng có thể sử dụng pin nhỏ hơn, nên trọng lượng máy nhẹ, kích thước gọn và dễ sử dụng.
Trong thông tin di động, thuê bao di động di chuyển khắp nơi với nhiều tốc độ khác nhau, vì thế tín hiệu phát ra có thể bị sụt giảm một cách ngẫu nhiên. Để bù cho sự sụt giảm này, hệ thống phải điều khiển cho thuê bao tăng mức công suất phát. Các hệ thống analog và GSM hiện nay có khả năng điều khiển chậm và đơn giản, thuê bao không thể thay đổi mức công suất đủ nhanh, do đó phải luôn luôn phát ở công suất cao hơn vài dB so với mức cần thiết. Tuy nhiên, để sử dụng mạng điện thoại di động CDMA, người dùng phải trang bị thiết bị đầu cuối phù hợp với công nghệ của mạng. Chi phí cho thiết bị đầu cuối CDMA hiện nay khoảng 200-1.000 USD tùy công năng của máy, trong tương lai giá sẽ thấp hơn. Trong vấn đề bảo mật, CDMA cung cấp chế độ bảo mật cao nhờ sử dụng tín hiệu trải băng phổ rộng. Các tín hiệu băng rộng khó bị rò ra vì nó xuất hiện ở mức nhiễu, những người có ý định nghe trộm sẽ chỉ nghe được những tín hiệu vô nghĩa. Ngoài ra, với tốc độ truyền nhanh hơn các công nghệ hiện có, nhà cung cấp dịch vụ có thể triển khai nhiều tùy chọn dịch vụ như thoại, thoại và dữ liệu, fax, Internet...
Không chỉ ứng dụng trong hệ thống thông tin di động, CDMA còn thích hợp sử dụng trong việc cung cấp dịch vụ điện thoại vô tuyến cố định với chất lượng ngang bằng với hệ thống hữu tuyến, nhờ áp dụng kỹ thuật mã hóa mới. Đặc biệt các hệ thống này có thể triển khai và mở rộng nhanh và chi phí hiện thấp hơn hầu hết các mạng hữu tuyến khác, vì đòi hỏi ít trạm thu phát.
Tuy nhiên, những máy điện thoại di động đang sử dụng chuẩn GSM hiện nay không thể sử dụng chuẩn CDMA. Nếu tiếp tục phát triển GSM, hệ thống thông tin di động này sẽ phải phát triển lên WCDMA mới đáp ứng được nhu cầu truy cập di động các loại thông tin từ mạng Internet với tốc độ cao, thay vì với tốc độ 9.600 bit/giây như hiện nay, và so với tốc độ 144.000 bit/giây của CDMA. |
Bùi Cầm Hổ (chữ Hán: 裴扲虎,1390-1483), là một vị quan triều đình nhà Lê sơ, làm việc cho vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông. Ông được cử đi sứ sang nhà Minh vào những năm 1433, 1437, 1439.
Tiểu sử
Bùi Cầm Hổ người làng Đậu Liêu huyện Thiên Lộc, nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Tục truyền rằng lúc ông đi du học ở Trường An, bấy giờ một người đàn ông đi buôn xa trở về nhà, người vợ nấu canh lươn, người này ăn xong rồi chết. Quan hữu ty bắt tội người vợ, do lươn giống rắn, con nào đầu trắng thì có thể có độc chết người, ông biện bạch minh oan cho người đàn bà ấy. Tin ấy đến tai vua, ông được làm quan to.
Sự nghiệp
Năm 1433, tức 6 năm sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh, ông cùng với các bồi thần Nguyễn Khả Chi, Trình Thuấn Du đi sứ sang nhà Minh.
Đến triều vua Lê Thái Tông, Bùi Cầm Hổ làm chức Ngự sử Trung thừa, một chức quan can gián giúp việc cho hoàng đế. Hồi vua Thái Tông còn nhỏ, Đại Tư đồ Lê Sát làm phụ chính, chuyên quyền trị nước. Các vị quan Trình Hoàng Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư trước có công về phe với Lê Sát vu cáo Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn, sau vua Thái Tổ đã có lệnh cấm những người đó tham dự triều chính và không được tố cáo nhưng Lê Sát vẫn cố tiến cử với Thái Tông. Lúc đó Bùi Cấm Hổ và Nguyễn Thiên Tích đã thẳng thắn can vua Thái Tông nên theo lời di huấn của cha. Vua Thái Tông nghe theo, cương quyết giữ phép tắc của Lê Thái Tổ, không phục chức cho mấy người đó. Vì thế ông bị tội, đổi ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn.
Năm 1437, Lê Sát bị vua Lê Thái Tông phạt tội, ông được triệu về kinh đô làm Ngự sử Trung thừa. Nhà vua muốn chém đầu Lê Sát nhưng ông khuyên nên cho Lê Sát được tự tử tại nhà, nhà vua đồng ý.
Vua Lê Thái Tông muốn Lê Đổ làm Chính sự viện đồng Tham nghị; muốn Lương Đăng làm Đô giám Trung thừa, lấy 12 người làm Cục Quan tác, Bùi Cầm Hổ đều khuyên không nên nhưng nhà vua không nghe. Vì những việc can ngăn này, Bùi Cầm Hổ bị giáng hai tư.
Mùa đông năm 1438, Bùi Cầm Hổ được sung chức Phó sứ sang nhà Minh về việc biên giới. Năm 1449, Đại Việt hạn hán, nhà vua sai Bùi Cầm Hổ đi cầu đảo ở núi Tản Viên và Tam Đảo, việc không ứng nghiệm. Đầu niên hiệu Thái Hòa, đời vua Nhân Tông, ông kiêm làm Đồng tri Tây đạo, trải làm Tham tri chính sự.
Theo tục truyền viết trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Bùi Cầm Hổ cho xẻ một cái khe ở núi Hồng Lĩnh, cấp nước cho hơn một nghìn khoảnh ruộng, Người trong làm rất cảm ơn, sau này lập đền thờ dưới chân núi Bạch Tỵ.
Cái chết
Sử sách không chép ông mất vào năm nào, sau khi mất, các triều đều phong phúc thần. Ông được thờ ở Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Đền thờ hiện nay đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Nhân định
Theo Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục:
Hồi Lê sơ, vì sau khi loạn lạc, nho sĩ thưa thớt. Người đem thân chầu chực trong triều như Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ, phần nhiều bộc lộ chí khí sáng suốt, có những lời nói quả cảm.
Những câu thơ ca tụng:
Cũng hàng quan lại, cũng triều ban
Hổ hét ra oai hồi mẹ đẻ Cháo lươn giải oán cho người oan Ngọn cờ phía bắc còn bia tạc Khe núi phía nam bởi đá hàn |
9000 (chín nghìn, hay chín ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 8999 và ngay trước 9001. |
900 (chín trăm) là một số tự nhiên ngay sau 899 và ngay trước 901. |
Die Prinzen (có nghĩa là "Những hoàng tử") là tên một nhóm nhạc Đức có phong cách hát kiểu nhạc acappella. Ban nhạc được thành lập từ những thành viên cũ của đội hợp xướng Thomanerchor của nhà thờ St. Thomas ở Leipzig.
Tổng quan
Lời bài hát của ban nhạc thường khá hài hước, châm biếm, chỉ trích về chính phủ hoặc xã hội Đức.
Những bài hát quen thuộc của ban nhạc là "Millionär", "(Du musst ein) Schwein", "Küssen verboten", "Alles nur geklaut", "Olli Kahn" (về thủ môn bóng đá Oliver Kahn) và "Deutschland".
Dựa vào tên của ban nhạc và truyện cổ tích Grimm "Hoàng tử Ếch", biểu tượng của ban nhạc có hình con ếch xanh đang đội vương miện. Biểu tượng này xuất hiện ở nhiều bìa album và đĩa đơn của ban nhạc.
Die Prinzen đã nhận dược 14 đĩa vàng và 6 đĩa bạch kim cùng nhiều giải thưởng khác.
Ban nhạc
Ban nhạc gồm 7 thành viên:
Tobias Künzel (sinh ngày 26 tháng 5 năm 1964 ở Leipzig; Hát giọng baritone)
Matthias Dietrich (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1964 ở Schönebeck; Chơi ghi-ta bass)
Sebastian Krumbiegel (sinh ngày 5 tháng 1 năm 1966 ở Leipzig; Hát giọng tê-nô)
Wolfgang Lenk (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1966 ở Leipzig; Hát giọng tê-nô)
Jens Sembdner (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1967 ở Wermsdorf; Hát giọng bass)
Henri Schmidt (sinh ngày 17 tháng 8 năm 1967 ở Leipzig; Hát giọng baritone)
Ali Zieme (sinh ngày 23 tháng 3 năm 1971 ở Döbeln; Chơi trống)
Tác phẩm
Album
Das Leben ist Grausam (1991)
Das Leben ist Grausam (a cappella)
Küssen verboten (1992)
Küssen verboten (a cappella)
Alles nur geklaut (1993)
Alles nur geklaut (a cappella)
Schweine (1995)
Alles mit'm Mund (1996)
Ganz oben (1997)
Soviel Spaß für wenig Geld (1999)
Soviel Spaß für wenig Geld (a cappella)
Festplatte (1999)
D (2001)
Monarchie in Germany (2003)
HardChor (2004)
Akustisch Live (2006)
Die Prinzen Orchestral (2007)
Die Neuen Männer (2008)
Es war nicht alles schlecht (2010)
Familienalbum (2015)
Eine Nacht in der Oper (2015)
Đĩa đơn
"Gabi und Klaus" (1991)
"Millionär" (1991)
"Mein Fahrrad" (1991)
"Mann im Mond" (1991)
"Küssen verboten" (1992)
"Bombe" (1992)
"Alles nur geklaut" (1993)
"Überall" (1993)
"Du spinnst doch" (1993)
"Schwein sein" (1995)
"Ich will ein Baby" (1995)
"Alles mit'm Mund" (1996)
"Hose runter" (1996)
"Heute ha-ha-habe ich Geburtstag" (1996)
"Ganz oben" (1997)
"So viel Spaß für wenig Geld" (1999)
"Deutschland" (2001)
"Hier sind wir" (2001)
"Popmusik" (2001)
"Olli Kahn" (2002)
"Chronisch Pleite" (2003)
"Unsicherheit macht sich breit" (2004)
Video
10 Jahre Popmusik (2001) |
Voi răng mấu là các thành viên của chi tuyệt chủng Mammut của bộ Proboscidea và tạo thành họ Mammutidae. Chúng tương tự, nhưng khác biệt với voi ma mút lông xoắn. Không giống như voi ma mút lông xoắn, chúng không thuộc họ Elephantidae. Voi răng mấu là động vật chủ yếu ăn quả thông và lá cây với cách ăn theo kiểu bứt lá giống với voi ngày nay, trong khi voi ma mút là động vật gặm cỏ.
Môi trường sống
Voi răng mấu được cho là lần đầu tiên xuất hiện khoảng 4 triệu năm trước. Chúng là các loài bản địa của cả đại lục Á-Âu và Bắc Mỹ nhưng loài Mammut borsoni ở Á-Âu đã tuyệt chủng khoảng 3 triệu năm trước - các hóa thạch được tìm thấy tại Anh, Đức, Hà Lan, România và miền bắc Hy Lạp. Mammut americanum nói chung được thông báo là biến mất tại Bắc Mỹ vào khoảng 10.000 năm trước, cùng thời với phần lớn các loài khác trong quần động vật có vú lớn thế Pleistocen. Tuy nhiên, xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ gần đây đã tìm thấy các niên đại muộn hơn, vào khoảng 5200 TCN tại Seneca Michigan, 5140 TCN tại Utah, 4150 TCN tại Washtenaw Michigan, 4080 TCN tại Lapeer Michigan,. Nó được biết đến từ các hóa thạch tìm thấy từ Alaska và New England ở phía bắc tới Florida, miền nam California, Mexico và xa về phía nam tới Honduras.
Mặc dù khu vực sinh sống của chúng mở rộng trên một lãnh thổ lớn, nhưng voi răng mấu là phổ biến nhất trong các cánh rừng vân sam thưa thời kỳ băng hà ở miền đông Hoa Kỳ, cũng như trong các môi trường đầm lầy thấp ấm hơn. Các dấu tích còn lại của chúng được tìm thấy xa tới 300 km ngoài khơi đông bắc Hoa Kỳ, trong khu vực từng là vùng đất khô trong thời gian mực nước biển thấp của thời kỳ băng hà gần đây nhất. Các hóa thạch voi răng mấu cũng được tìm thấy trên bán đảo Olympic của tiểu bang Washington, Hoa Kỳ (di chỉ voi răng mấu Manis), ở Kentucky (cụ thể đáng chú ý là các phát hiện sớm tại khu vực nay là Big Bone Lick State Park); Kimmswick Bone Bed ở Missouri; ở Stewiacke, Nova Scotia, Canada; tại một số di chỉ tại tiểu bang New York; tại quận Richland, Wisconsin; La Grange, Texas; miền nam Louisiana; bắc của Fort Wayne, Indiana và Johnstown, Ohio, Hoa Kỳ.
Miêu tả
Trong khi voi răng mấu có lông mao như voi ma mút lông xoắn và tương tự về chiều cao khoảng 3 mét tính tới vai, nhưng sự tương tự này chỉ là giả tạo. Chúng khác với voi ma mút chủ yếu ở các chỗ lồi ra hình nón và cùn, tương tự như núm vú trên các chỏm răng hàm của chúng, thể hiện sự phù hợp với việc nhai lá hơn là các răng có chỏm cao của voi ma mút thích nghi với việc gặm cỏ; tên gọi mastodon (hay mastodont) có nghĩa là "răng hình núm vú" và nó là tên gọi cũ đã lỗi thời để chỉ chi chứa voi răng mấu. Hộp sọ của chúng lớn và dẹt hơn so với của voi ma mút, trong khi bộ xương của chúng là chắc nịch và cường tráng hơn. Một số bộ xương được tìm thấy còn dính cả lông mao; kết quả kiểm tra lông gợi ý rằng voi răng mấu thiếu các đặc trưng bộ lông trong của voi ma mút.
Các ngà của voi răng mấu đôi khi dài quá 5 mét và gần như nằm ngang, ngược lại với các ngà cong hơn của voi ma mút. Các con voi răng mấu đực còn non có các ngà dưới dạng vết tích và bị mất đi khi chúng trưởng thành. Tuy nhiên, người ta đã chứng minh được rằng voi răng mấu cái có một cặp ngà dưới. Các ngà có lẽ được dùng để bẻ cành cây, mặc dù một số chứng cứ gợi ý rằng con đực có thể đã sử dụng chúng trong các cuộc tranh giành bạn tình; một ngà thường ngắn hơn ngà kia, gợi ý rằng, giống như người và voi ngày nay, voi răng mấu có thể có sự phát triển thuận một bên. KIểm tra ngà hóa thạch phát hiện ra một loạt các hốc lõm nông phân chia đều trên mặt dưới của ngà. Việc kiểm tra hiển vi chỉ ra tổn hại đối với ngà răng phía dưới các hốc lõm. Người ta giả định rằng tổn hại này là do các con đực đánh nhau để giành quyền giao phối. Hình dạng cong của ngà buộc chúng phải cúi xuống với mỗi cú đánh, gây ra tổn hại cho phần ngà mới hình thành ở phần gốc của ngà voi. Sự đồng đều của tổn hại trong các mô hình phát triển ngà voi chỉ ra rằng nó xảy ra hàng năm, có lẽ diễn ra trong mùa xuân và đầu mùa hè.
Tuyệt chủng
Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng bệnh lao có thể chịu một phần trách nhiệm trong sự tuyệt chủng của voi răng mấu khoảng 10.000 năm trước.
Một yếu tố có ảnh hưởng khác tới sự tuyệt chủng của chúng tại Bắc Mỹ vào cuối thế Pleistocen có thể là sự hiện diện của người châu Mỹ bản xứ cổ đại, những người đã tới châu Mỹ với số lượng tương đối lớn vào khoảng 13.000 năm trước. Việc săn bắn của họ gây ra sự suy giảm dần dần của các quần thể voi ma mút và voi răng mấu, đủ lớn để theo thời gian cuối cùng đã dẫn tới sự tuyệt chủng của voi răng mấu.
Tháng 9 năm 2007, Mark Holley, một nhà khảo cổ dưới mặt nước cùng với Hội đồng Bảo tồn thế giới ngầm vịnh Grand Traverse, đã nói rằng họ có thể đã phát hiện ra một tảng đá mòn kích thước 1,2 x 1,5 m (3,5-4 x5 ft) với hình chạm khắc tiền sử trong vịnh Grand Traverse của hồ Michigan. Tảng đá granit có các dấu vết tương tự như con voi răng mấu với một mũi giáo bên hông của nó. Sự xác nhận rằng các dấu vết này là hình vẽ trên đá thời cổ đại đòi hỏi phải có thêm chứng cứ.
Khai quật hiện đại
Các khai quật hiện tại đang diễn ra hàng năm tại di chỉ Hiscock ở Byron, New York để tìm kiếm voi răng mấu và các cổ vật liên quan tới người châu Mỹ cổ đại. Di chỉ này được gia đình Hiscock phát hiện năm 1959 trong khi đào ao bằng máy ủi; họ tìm thấy một chiếc ngà lớn và dừng công việc đào bới. Viện Bảo tàng Khoa học Buffalo đã tổ chức việc đào bới kể từ năm 1983. Người ta từng gọi di chỉ này là một trong những di chỉ giàu các cổ vật liên quan tới voi răng mấu. Di chỉ này nằm trên một vùng đất đầm lầy được che phủ bởi hồ Tonawanda, là một hồ chảy ra của sông băng hình thành cách đây trên 10.000 năm. Người ta đã xác nhận rằng voi răng mấu đã có thể tụ tập thành bầy tới đây để ăn đất sét giàu natri trong một trong số những thời kỳ khô hạn cuối cùng của thời đại đồ đá cũ.
Tháng 8 năm 2008, các thợ mỏ tại România đã khai quật một bộ xương voi răng mấu 2,5 triệu năm tuổi, được cho là một trong số những bộ xương voi răng mấu được bảo tồn tốt nhất tại châu Âu. Khoảng 90% các xương của bộ xương vẫn còn nguyên vẹn, với hư hại tại hộp sọ và hai ngà. |
Bài viết về một chi thực vật cũng có danh pháp khoa học như thế này, xem bài Proboscidea (chi).
Bộ Có vòi còn gọi là bộ Voi hay bộ Mũi dài (Proboscidea) là một bộ động vật có vú hiện nay chỉ còn một họ còn sinh tồn là Họ Voi (Elephantidae) với 3 loài: voi đồng cỏ châu Phi, voi rừng châu Phi và voi châu Á.
Trong thời kỳ của kỷ băng hà gần đây nhất đã từng có nhiều loài voi hơn, nhưng hiện nay đã tuyệt chủng, bao gồm một lượng lớn các loài voi ma mút và voi răng mấu. Ngược dòng thời gian, vào cuối kỷ Tân Cận, đã có nhiều loại khác nhau, bao gồm "voi có ngà dài" kỳ quái như Platybelodon và Amebelodon. Các loài có vòi được biết đến sớm nhất là Pilgrimella, và sau đó là Moeritherium.
Nguồn gốc
Các nhà cổ sinh vật học biết khoảng 170 loài hóa thạch được họ phân loại là thuộc về bộ Proboscidea (tiếng Hy Lạp: proboskis, vòi voi, từ pro: trước + boskein: để ăn). Các dữ liệu niên đại cũ cho rằng chúng xuất hiện ở đầu phân đại đệ Tam, khoảng trên 50 triệu năm trước. Phát hiện gần đây (tháng 12 năm 2003) đã cho ước tính mới về niên đại của các loài tương tự voi là khoảng 26 triệu năm. Phần lớn các loài voi nguyên thủy có 4 ngà ngắn; hai ở hàm trên và hai ở hàm dưới. Primelephas, tổ tiên của voi ma mút và voi ngày nay, đã xuất hiện vào cuối thế Miocen, khoảng 7 triệu năm trước. Sự tiến hóa của các động vật tương tự như voi chủ yếu liên quan đến tỷ lệ của hộp sọ và quai hàm cũng như hình dạng của ngà và răng hàm.
Phân loài
Bộ Có vòi Proboscidea
Họ tuyệt chủng †Deinotheriidae
Phân họ tuyệt chủng †Chilgatheriinae
Phân họ tuyệt chủng †Deinotheriinae
Họ Elephantidae
Chi Elephas
Chi †Anancus
Chi Loxodonta
Chi †Mammuthus
Chi †Morrillia
Chi †Paratetralophodon
Chi †Primelephas
Chi †Stegodibelodon
Chi †Stegoloxodon
Chi †Stegotetrabelodon
Chi †Tetralophodon
Họ tuyệt chủng †Gomphotheriidae
Chi tuyệt chủng †Amebelodon
Chi tuyệt chủng †Cuvieronius
Chi tuyệt chủng †Gomphotherium
Chi tuyệt chủng †Platybelodon
Chi tuyệt chủng †Rhynchotherium
Họ tuyệt chủng †Jozaria
Họ tuyệt chủng †Mammutidae (Voi răng mấu)
Chi tuyệt chủng †Mammut (Voi răng mấu)
Họ tuyệt chủng †Moeritheriidae
Chi tuyệt chủng †Moeritherium
Họ tuyệt chủng †Stegodontidae
Chi tuyệt chủng †Stegodon
Chi tuyệt chủng †Stegolophodon
Họ chưa rõ ràng
Chi tuyệt chủng †Arcanotherium
Chi tuyệt chủng †Eritreum
Chi tuyệt chủng †Numidotherium
Chú thích |
Họ Voi (Elephantidae) là một họ động vật có vú lớn, ăn thực vật được gọi chung là voi và voi ma mút. Chúng là những động vật có vú lớn trên cạn với mõm biến đổi thành vòi, và răng biến đổi thành ngà. Đa số các chi và loài trong họ này đã tuyệt chủng. Chỉ có hai chi, Loxodonta (voi châu Phi) và Elephas (voi châu Á), là còn tồn tại.
Họ này được mô tả lần đầu tiên bởi John Edward Gray vào năm 1821, và sau đó được đưa vào Bộ Có vòi (Proboscidea). Họ Voi cũng đã được sửa đổi bởi các tác giả khác nhau để bao gồm hoặc loại trừ các chi Có vòi khác đã tuyệt chủng.
Phân loại
Phân loại khoa học của các đơn vị họ Voi bao gồm một hồ sơ phong phú về các mẫu vật hóa thạch, trải qua hàng triệu năm, một số trong mẫu tồn tại cho đến cuối kỷ băng hà cuối cùng. Gần đây có một số loài đã bị tuyệt chủng. Việc phát hiện ra các mẫu vật mới và phương pháp miêu tả theo nhánh học (Cladistics) được đề xuất đã dẫn đến các sửa đổi có hệ thống về chúng và các Bộ Có vòi (Proboscideans) liên quan.
Voi được phân loại không chính thức là họ voi, hoặc trong bối cảnh cổ sinh vật học là voi và voi ma mút. Tên thông thường voi chủ yếu dùng để chỉ đơn vị phân loại còn tồn tại, loài voi hiện nay, nhưng cũng có thể đề cập đến nhiều loài đã tuyệt chủng, cả trong họ này và những họ khác. Các thành viên khác của họ Elephantidae, đặc biệt là các thành viên của chi Mammuthus, thường được gọi là voi ma mút.
Các Họ được phân nhánh từ một tổ tiên chung của voi răng mấu thuộc họ Mammutidae. Việc phân loại không ổn định và thường xuyên được sửa đổi.
Lịch sử tiến hóa
Mặc dù không chắc chắn về bằng chứng về hóa thạch, thông qua việc so sánh các gen, các nhà khoa học đã phát hiện ra bằng chứng cho thấy voi và các loài động vật thuộc Bộ Có vòi (Proboscideans) khác có chung tổ tiên xa với Sirenia (bò biển) và Hyracoidea (Bộ Đa man). Cùng với những loài Thú biển (Desmostylia) và bộ Embrithopoda chúng đã được cho rằng đã tuyệt chủng, thuộc bộ Đa man (Paenungulata). Trong quá khứ xa xưa, các thành viên của các họ Đa man khác nhau phát triển với kích thước lớn, và tổ tiên chung của cả ba họ hiện nay được cho là một loại Đa man lưỡng cư. Có một giả thuyết cho rằng những động vật này đã dành phần lớn thời gian ở dưới nước, sử dụng vòi như ống thở để thở. Những con voi hiện đại có khả năng này và được biết là có thể bơi theo cách đó trong khoảng thời gian lên đến sáu tiếng đồng hồ và quãng đường khoảng 50 km (31 dặm). Trong quá khứ, rất nhiều loài và chi đã được phát hiện, bao gồm cả voi ma mút và voi lùn.
Hình ảnh
Chú thích |
Đức Thọ trong tiếng Việt có thể là một trong các khái niệm thuộc các lĩnh vực sau:
Địa danh
Phủ Đức Thọ cũ thuộc tỉnh Hà Tĩnh thời nhà Nguyễn trong giai đoạn 1831 – 1919.
Huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
Thị trấn Đức Thọ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
Kiến trúc
Cung Đức Thọ hay cung Deoksu, Deoksugung (Hangul: 덕수궁) là một quần thể cung điện tại Seoul, Hàn Quốc. Deoksugung là một trong năm Đại cung điện được các vị vua Joseon xây dựng vào thời nhà Triều Tiên.
Nhân vật
Lê Đức Thọ (1911 – 1990), một chính khách người Việt. Ông từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng Henry Kissinger vào năm 1973, nhưng ông đã từ chối nhận giải.
GS Ngô Đức Thọ (sinh ngày 10 tháng 01 năm 1936), quê tại làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông là cháu đích tôn của chí sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. Ông là chuyên gia hàng đầu về Hán Nôm trong giới sử gia Việt Nam, ông từng giữ vai trò là Trưởng ban Văn bản học tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
GS Trần Đức Thọ (27/7/1936 – 8/10/2018), quê tại xã Tây Tựu, Từ Liêm, Hà Nội. Ông là nguyên Chủ tịch Hội Nội tiết & Đái tháo đường Việt Nam; nguyên Viện trưởng Viện Lão khoa Việt Nam (nay là Bệnh viện Lão khoa Trung ương); nguyên Trưởng khoa Nội tiết & Đái tháo đường, Bệnh viện Bạch Mai; nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Nội, Đại học Y Hà Nội.
Thiếu tướng Phạm Đức Thọ, ông đang là Phó Chính ủy Học viện Quân y, nguyên Chính ủy Binh chủng Hóa học giai đoạn 2014 – 2017.
Thiếu tướng Lê Đức Thọ, nguyên Tư lệnh Binh đoàn 16.
Thẩm phán Ngô Đức Thọ (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1966), quê ở làng Đại Phong, xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông hiện giữ chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông. |
Proboscidea là một danh pháp khoa học. Nó được dùng trong hai ngữ cảnh sau:
Khi nói về động vật, nó là tên gọi khoa học cho bộ có Vòi, bao gồm voi, voi ma mút, voi răng mấu v.v
Khi nói về thực vật, nó là tên gọi khoa học của một chi thuộc họ Martyniaceae, bộ Lamiales, phân bổ chủ yếu tại khu vực Tân Thế giới. Xem bài Proboscidea (chi) |
Voi châu Phi (danh pháp khoa học: Loxodonta) là một chi trong họ Elephantidae, là họ của các loài voi. Mặc dù nói chung người ta tin rằng chi này được Georges Cuvier đặt tên năm 1825, nhưng Cuvier gọi nó là Loxodonte. Một tác giả vô danh đã Latinh hóa tên gọi thành Loxodonta và ICZN công nhận tên gọi này là tên gọi chuẩn.
Các hóa thạch của chi Loxodonta đã được tìm thấy chỉ có tại châu Phi, tại đây chúng đã sinh sôi và phát triển trong thời kỳ giữa thế Pliocen.
Các loài
Loxodonta adaurora, tuyệt chủng, đã phát triển thành voi châu Phi ngày nay.
Voi đồng cỏ châu Phi (Loxodonta africana).
Voi rừng châu Phi (Loxodonta cyclotis).
Nguồn dẫn chiếu |
Các bệnh suy giảm miễn dịch (immunodeficiency diseases) là một nhóm các tình trạng khác nhau gây nên do một hay nhiều khiếm khuyết của hệ miễn dịch và biểu hiện trên lâm sàng bởi gia tăng tình trạng dễ mắc nhiều bệnh nhiễm trùng với hậu quả cấp tính, tái diễn hay mạn tính thường là nặng nề.
Suy giảm miễn dịch tiên phát
Suy giảm miễn dịch tiên phát (primary immunodeficiency) là hậu quả của một hay nhiều thành phần thiết yếu của hệ miễn dịch bị mất đi hoặc hoạt động không bình thường biểu hiện từ lúc sinh do những khiếm khuyết di truyền. Những khiếm khuyết này có thể gặp trong cơ chế miễn dịch đặc hiệu hoặc không đặc hiệu. Chúng được phân loại dựa theo vị trí tổn thương trên con đường phát triển hoặc biệt hóa của hệ miễn dịch.
Những cá thể suy giảm miễn dịch thường nhạy cảm với nhiều tác nhân nhiễm trùng khác nhau. Loại nhiễm trùng thường gặp tùy thuộc bản chất của suy giảm miễn dịch của từng cá nhân.
Hệ miễn dịch đặc hiệu
Có rất nhiều tình trạng suy giảm miễn dịch là hậu quả của những khiếm khuyết trong quá trình biệt hóa của tế bào mầm và có thể ảnh hưởng đến tế bào T, tế bào B và/hoặc các globulin miễn dịch thuộc các lớp và phân lớp khác nhau.
Các rối loạn của tế bào mầm đa chức năng dòng tủy hoặc dòng lympho
Một chứng bệnh rất hiếm gặp nhưng gây tử vong liên quan đến sự giảm nặng nề hoặc không có tế bào lympho và tế bào hạt trong khi đó hồng cầu và tiểu cầu vẫn bình thường.
Rối loạn của các tế bào mầm dòng lympho
Suy giảm miễn dịch kết hợp trầm trọng: Khoảng 50% số bệnh nhân này có suy giảm miễn dịch liên kết nhiễm sắc thể giới tính và một nửa còn lại được di truyền trên nhiễm sắc thể thường. Các chứng suy giảm miễn dịch này được đặc trưng bằng một tình trạng mất miễn dịch tế bào T và B cũng như không có (hoặc có rất ít) tế bào lympho T và B lưu hành trong máu. Trên phim X quang chụp ngực thường không thấy bóng của tuyến ức. Bệnh nhân mắc chứng suy giảm miễn dịch kết hợp trầm trọng này thường rất nhạy cảm với rất nhiều tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, virus, nấm và động vật nguyên sinh.
Chẩn đoán thường dựa vào đếm số lượng tế bào T và B cũng như định lượng globulin miễn dịch trong máu. Điều trị bằng ghép tủy xương hoặc cấy gene nhờ vector chuyển gene là một loại virus sao chép ngược.
Rối loạn tế bào T
Hội chứng DiGeorge: Đây là tình trạng suy giảm miễn dịch liên quan đến tế bào T được biết cặn kẽ nhất. Hội chứng này còn được biết dưới một số tên gọi khác như: bất sản/thiểu sản tuyến ức bẩm sinh hoặc suy giảm miễn dịch kèm thiểu năng giáp trạng. Nguyên nhân của hội chứng này là đột biến mất đoạn trên nhiễm sắc thể 22. Đoạn mất có kích thước khác nhau ở từng bệnh nhân nhưng kích thước đoạn mất không tương quan với độ nặng của bệnh. Hội chứng này đi kèm với thiểu năng cận giáp, bệnh tim bẩm sinh, tật tai ở vị trí thấp hơn bình thường và miệng như miệng cá. Những khiếm khuyết này là hậu quả của sự phát triển không bình thường của phôi từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 10 trong thai kỳ khi mà tuyến cận giáp, tuyến ức, môi, tai và cung động mạch chủ đang được hình thành.
Không phải tất cả trẻ mắc hội chứng này đều có bất sản tuyến ức. Ghép tuyến ức vào giai đoạn sớm của thai (khoảng từ tuần 13 đến tuần 14 của thai kỳ) có thể có tác dụng điều trị. Ghép tuyến ức muộn hơn sẽ gây thải ghép. Ở bệnh nhân mắc hội chứng DiGeorge nặng, ngay cả việc chủng ngừa bằng các vaccine sống giảm độc lực cũng gây nên nhiễm trùng.
Suy giảm chức năng tế bào T kèm suy giảm chức năng tế bào B
Chứng thất điều - giãn mạch (Ataxia-telangiectasia): Đây là một khiếm khuyết của tế bào T kèm với mất khả năng phối hợp điều hòa các động tác (thất điều) và giãn các mạch máu nhỏ ở mặt (giãn mạch). Số lượng tế bào T cũng như chức năng của chúng suy biến ở các mức độ khác nhau. Số lượng tế bào B và nồng độ IgM có thể bình thường hoặc thấp. Nồng độ IgG thường giảm và IgA giảm đáng kể (trong 70% trường hợp). Những bệnh nhân này có nguy cơ cao mắc bệnh ác tính nhất là bệnh bạch cầu. Nguyên nhân bệnh là do hiện tượng đứt gãy trên nhiễm sắc thể 14.
Hội chứng Wiskott-Aldrich: Hội chứng này biểu hiện bằng tình trạng suy giảm chức năng tế bào T trong khi số lượng của quần thể tế bào này vẫn ở mức bình thường. Theo thời gian, chức năng của tế bào T càng ngày càng suy giảm nặng hơn. Nồng độ IgM thường giảm trong khi IgG vẫn giữ ở mức bình thường. Cả IgA lẫn IgE đều tăng. Trẻ trai mắc chứng này thường bị bệnh chàm rất nặng và xuất huyết dạng mảng dưới da (do khiếm khuyết số lượng và chức năng tiểu cầu). Trẻ thường rất dễ mắc các nhiễm trùng sinh mủ.
Khiếm khuyết MHC (Hội chứng bạch cầu trần: Bare leukocyte syndrome): Hội chứng này biểu hiện bằng một khiếm khuyết phức hợp hòa hợp mô chính (MHC) lớp II trên tế bào trình diện kháng nguyên. Vì sự chọn lọc các tế bào CD4 tại tuyến ức phụ thuộc sự hiện diện của phân tử MHC này do đó bệnh nhân thường có số lượng CD4 giảm và dễ bị nhiễm trùng.
Rối loạn tế bào lympho B
Chứng giảm gamma – globulin máu liên kết giới tính ở nhũ nhi: còn được gọi là giảm globulin máu Bruton hoặc chứng không có globulin máu, chứng bệnh này là thể nặng nề nhất trong các chứng bệnh gây giảm globulin máu ở người. Lượng tế bào B cũng như nồng độ của tất cả các globulin miễn dịch đều rất thấp. Chẩn đoán dựa trên đếm số lượng tế bào B và định lượng nồng độ các globulin miễm dịch.
Chứng giảm gammaglobulin máu thoáng qua: Trẻ mới sinh có nồng độ IgG tương đương với nồng độ IgG ở mẹ. Thời gian bán hủy của IgG là 30 ngày do đó nồng độ của chúng sau sinh sẽ giảm đi ở trẻ tuy nhiên vào lúc 3 tháng tuổi trẻ bắt đầu tổng hợp được IgG của riêng mình. Vì một lý do nào đó mà sự tổng hợp này ở một số trẻ chỉ bắt đầu sau 2 đến 3 năm. Nguyên nhân có thể là do tế bào T kém phát huy chức năng hỗ trợ của chúng. Khoảng trống trong quá trình tổng hợp IgG này được điều trị bằng liệu pháp bổ sung gamma-globulin.
Thiếu hụt IgA: Thiếu hụt IgA là thể suy giảm miễn dịch thường gặp nhất. Khoảng 20% bệnh nhân thiếu hụt IgA cũng có nồng độ IgG thấp. Những bệnh nhân thiếu hụt IgA thường dễ mắc các bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa, mắt và tai mũi họng. Các đối tượng này cũng có nguy cơ cao mắc bệnh tự miễn, các bệnh ác tính hệ lympho. Khoảng 30 đến 40% bệnh nhân có lưu hành kháng thể kháng IgA và những bệnh nhân này không nên điều trị bằng γ-globulin.
Suy giảm miễn dịch tăng IgM: những bệnh nhân mắc chứng bệnh này có nồng độ IgG và IgA thấp nhưng IgM lại cao một cáhc bất thường. Cơ thể mắc bệnh không thể chuyển sản xuất IgM sang sản xuất các lớp globulin miễn dịch khác nguyên nhân là do khiếm khuyết trên tế bào CD4. Bệnh nhân rất dễ mắc các bệnh nhiễm trùng sinh mủ. Điều trị bằng γ-globulin tĩnh mạch.
Hội chứng tăng sinh lympho liên kết giới tính: mặc dù khoảng 10% bệnh nhân có biểu hiện chứng giảm gamma globulin bẩm sinh nhưng hầu hết bệnh nhân đều bình thường cho đến khi nhiễm virus Epstein – Barr (EBV). Nhiễm EBV dần dần đưa đến bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng (infectious mononucleosis) rất nặng nề kèm với suy gan, hội chứng tăng sinh tế bào B, thiếu máu bất sản và giảm gamma globulin máu. Khoảng 75% trẻ chết trước 10 tuổi.
Nguyên nhân là do bất thường trên chuỗi dài của một nhiễm sắc thể X ở mẹ được truyền cho con trai và trẻ trai này biểu hiện bệnh.
Hệ miễn dịch không đặc hiệu
Suy giảm miễn dịch không đặc hiệu tiên phát bao gồm các khiếm khuyết của các tế bào thực bào và tế bào diệt tự nhiên cũng như hệ thống bổ thể.
Khiếm khuyết hệ thống thực bào
Khiếm khuyết của các tế bào thực bào về số lượng và/hoặc chức năng có thể làm tăng khả năng nhạy cảm với nhiều nhiễm trùng khác nhau.
Giảm bạch cầu trung tính theo chu kỳ(cyclic neutropenia): Cứ sau thời gian khoảng 3 tuần bình thường thì số lượng bạch cầu trung tính lưu hành trong máu lại giảm thấp trong vòng 1 tuần. Trong thời gian 1 tuần này bệnh nhân dễ mắc nhiễm trùng. Khiếm khuyết này dường như là do rối loạn sự điều hòa trong quá trình tạo bạch cầu trung tính.
Bệnh tạo u hạt mãn tính (chronic granulomatous disease): được đặc trưng bằng phì đại các hạch bạch huyết và gan lách to. Khả năng tiêu diệt mầm bệnh nội bào của bạch cầu suy giảm. Ở đa số bệnh nhân, khiếm khuyết này là do bất thường ở NADPH oxidase.
Suy giảm khả năng bám dính bạch cầu: Do bất thường ở các receptor hoặc phân tử integrin nên bạch cầu kém đáp ứng với các tín hiệu hóa ứng động.
Hội chứng Chediak-Higashi:
Hội chứng này biểu hiện bằng giảm tốc độ tiêu diệt mầm bệnh nội bào, giảm các hoạt động do hóa ứng động kèm với mất khả năng hòa màng tiêu thể-thực bào. Đôi khi tế bào diệt tự nhiên cũng rối loạn chức năng cũng như bệnh có thể kèm với các bất thường về tiểu cầu và thần kinh.
Các rối loạn của hệ thống bổ thể:
Các bất thường hệ thống bổ thể cũng có thể làm tăng nhạy cảm với nhiễm trùng. Có nhiều bất thường di truyền ảnh hưởng đến nhiều thành phần của hệ thống bổ thể làm tăng khả năng mắc bệnh nhiễm trùng. Điển hình nhất và nặng nề nhất là suy giảm C3 do giảm tổng hợp C3 hoặc do suy giảm yếu tố I hoặc yếu tố H.
Suy giảm miễn dịch thứ phát
Suy giảm miễn dịch thứ phát (Secondary immunodeficiency) là sự suy giảm của hệ miễn dịch do các bệnh xảy ra ở một người trước đó khỏe mạnh bình thường. Tình trạng suy giảm này có thể được phục hồi nếu tình trạng bệnh hoặc nguyên nhân gây suy giảm miễn dịch được giải quyết. Suy giảm miễn dịch thứ phát thường gặp hơn suy giảm miễn dịch tiên phát và thường xảy ra ở bệnh nhân nằm viện. Gần như hầu hết các bệnh lý nặng và kéo dài đều có thể gây xáo trộn hệ thống miễn dịch ở một mức độ nào đó.
Suy giảm miễn dịch liên quan đến nhiễm trùng
Các nhiễm trùng do vi khuẩn, virus, động vật nguyên sinh, giun sán và nấm có thể gây nên những bất thường của tế bào T, tế bào B, bạch cầu trung tính và đại thực bào. Điển hình nhất trong nhóm bệnh này là Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Các suy giảm miễn dịch thứ phát cũng thường thấy trong những bệnh lý ác tính.
Bất thường miễn dịch trong AIDSBất thường tế bào lympho: giảm số lượng tế bào T hỗ trợ (CD4) và hậu quả của nó là đảo ngược tỉ suất CD4+/CD8+. Số lượng tế bào diệt tự nhiên (NK) bình thường nhưng chức năng suy giảm.Bất thường chức năng'': Bệnh nhân AIDS tăng cao nguy cơ mắc các nhiễm trùng cơ hội như Pneumocystis carinii, Toxoplasma gondii, Cryptococcus neoformans, herpes simplex, herpes zoster, cytomegalovirus, Mycobacterium avium-intracellular... Những bệnh nhân này cũng có nguy cơ cao mắc bệnh ác tính như sarcoma Kaposi. Đáp ứng quá mẫn muộn (delayed hypersensitivity response) đối với các kháng nguyên thông thương như uốn ván, bạch hầu, kháng nguyên liên cầu khuẩn, tuberculin, kháng nguyên Candida, trichophyton… cũng giảm sút ở bệnh nhân AIDS.Suy giảm miễn dịch liên quan đến quá trình lão hóaCác rối loạn này bao gồm suy biến dần vỏ tuyến ức, giảm số lượng tế bào và kích thước tuyến ức, giảm chức năng các tế bào ức chế do đó tăng cao nguy cơ tự hoạt hóa, giảm chức năng tế bào CD4. Ngược lại, chức năng tế bào B ở một mức độ nào đó lại tăng lên.Suy giảm miễn dịch liên quan đến các bệnh lý ác tính và các bệnh khácSuy giảm tế bào B thường gặp trong bệnh đa u tủy (multiple myeloma), chứng macroglobin máu Waldenstrom, bệnh bạch cầu kinh dòng lympho và các lymphoma biệt hóa tốt. Bệnh Hodgkin và các khối u đặc tiến triển cũng làm giảm chức năng tế bào T. Tất cả các tác nhân hóa trị liệu dùng trong điều trị ung thư đều có tác dụng phụ ức chế miễn dịch.
Một số bệnh lý khác có thể gây nên suy giảm miễn dịch có thể nêu tên như bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, đái tháo đường, suy dinh dưỡng protein năng lượng, bỏng, xơ gan do rượu, viêm khớp dạng thấp, suy giảm chức năng thận… |
Chi Elephas hiện nay chỉ còn một loài duy nhất đang tồn tại là voi châu Á (E. maximus). Các loài khác, chẳng hạn E. recki đã từng tồn tại ở châu Phi, nhưng đã bị tuyệt chủng. Chi này có quan hệ họ hàng rất gần, hoặc có thể là thành viên của chi Mammuthus tức voi Ma mút.
Các loài
E. antiquus †
E. beyeri †
E. celebensis †
E. ekorensis †
E. falconeri †
Elephas hysudricus †
Elephas hysudrindicus †
Elephas iolensis†
E. maximus: Voi châu Á
E. planifrons †
E. platycephalus †
E. recki † |
JurisPedia là một dự án bách khoa do các trường đại học khởi xướng dành cho các ngành luật trên thế giới và cho các ngành khoa học pháp lý và chính trị. Nó được phát triển theo sáng kiến của nhóm nghiên cứu Tin học và Luật (khoa luật trường Đại học Montpellier I), của khoa luật trường Đại học Cần Thơ, của nhóm Juris, trường Đại học Québec ở Montréal, của Viện füt Rechtsinformatik (Trường Đại học Sarre). |
Voi ma mút phương nam, tên khoa học Mammuthus meridionalis, là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng.
Với chiều cao khoảng 4,50 m (15 ft), M. meridionalis là một trong những loài có vòi lớn nhất đã từng sinh sống trên Trái Đất, cùng với voi ma mút thảo nguyên và sớm hơn là Deinotherium trong thế Miocen. M. meridionalis là một trong những loài voi ma mút đầu tiên và tương tự như một con voi châu Á lớn với các ngà lớn hơn. Nó cũng có thể là tổ tiên của các loài xuất hiện muộn hơn, chẳng hạn voi ma mút lông xoăn (Mammuthus primigenius).
Hình ảnh
Chú thích |
Voi ma mút lông xoăn, còn gọi là voi ma mút lãnh nguyên (danh pháp khoa học: Mammuthus primigenius) là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng. Voi ma mút lông xoăn là một trong những loài ma mút cuối cùng. M. primigenius tách ra từ voi ma mút thảo nguyên (M. trogontherii) khoảng 200,000 năm trước tại châu Á. Họ hàng gần gũi nhất còn sinh tồn của nó là voi châu Á.
Ma mút lông xoắn được nghiên cứu rất kỹ về ngoại hình và hành vi do việc khám phá các xác chết đóng băng tại Siberia và Alaska, cũng như xương, răng, chất thải, và từ các bức vẽ trong hang động. Hóa thạch ma mút được biết tới từ lâu đến khi vào thế kỷ 17, chúng được châu Âu biết đến. Nguồn gốc hóa thạch trước đây được tranh cãi nhiều, và đôi khi được cho là xương của sinh vật bí ẩn. Động vật này chỉ được nhận ra là voi tiền sử bởi Georges Cuvier năm 1796.
Voi ma mút lông xoắn voi chung có cùng kích thước với voi châu Phi. Voi đực cao tính tới vai và nặng . Loài này nhỏ hơn các loài ma mút như M. meridionalis và M. trogontherii, và tương đương M. columbi. Lý do của kích thước nhỏ này không được biết đến. Voi cái cao trung bình và nhẹ hơn voi đực, nặng . Con non mới sinh nặng . Ma mút lông rậm thích nghi với môi trường băng giá của kỷ băng hà cuối cùng. Màu lông của nó rất đa dạng từ đậm tới nhạt.
Ma mút lông xoắn cùng tồn tại với người cổ đại, họ dùng xương và vòi của chúng để làm dụng cụ, các tác phẩm nghệ thuật của họ cũng như thực phẩm. Nó biến mất khỏi khu vực đất liền vào thế Pleistocene 10,000 năm trước, có lẽ do thay đổi thời tiết, và sự săn bắt của con người. Các quần thể bị cô lập vẫn sinh tồn tại đảo Wrangel tới 4,000 năm trước ở châu Nam Cực, và đảo St. Paul tới 6,400 năm trước.
Phân loại
Di cốt của nhiều loài voi cổ đã được phát hiện tại châu Âu từ tận hàng thế kỷ trước, song người dân thuở xưa thường kiến giải chúng dựa trên các trình thuật trong Kinh Thánh chứ chưa dựa trên khoa học, vậy nên họ lầm tưởng chúng thuộc về những sinh vật huyền thoại như behemoth hoặc người khổng lồ. Những di cốt đó về sau được cho là thuộc về những con voi thời Cộng hòa La Mã, chẳng hạn như những con voi chiến được Hannibal và Pyrrhus của Epirus đem sang Bán đảo Ý, hoặc thuộc về những cá thể voi đi lạc lên bắc. Năm 1728, Hans Sloane trở thành nhà khoa học đầu tiên nghiên cứu răng và ngà voi ma-mút hóa thạch có nguồn gốc từ Siberia. Sloane cũng là người đầu tiên nhận ra rằng những di cốt đó là của voi. Tuy nhiên, ông vẫn phụ thuộc vào Kinh Thánh để giải thích sự hiện diện của voi ở Bắc Cực, theo đó cho rằng chúng đã bị nhấn chìm trong Đại Hồng Thủy, và rằng Siberia từng là một rừng nhiệt đới trước khi khí hậu chuyển biến mạnh mẽ.
Một số tác giả kiến giải kết luận của Sloane theo hướng khác, lý luận rằng cơn hồng thủy đã cuốn trôi xác voi từ vùng nhiệt đới lên Bắc Cực. Bài báo của Sloane dựa phần lớn trên các miêu tả của lãng khách và một vài mẩu xương phân mảnh thu thập từ Siberia và Anh. Trong đó, ông thảo luận về vấn đề liệu chúng có đúng thực là di cốt của voi hay không, song không đi đến kết luận nào. |
Voi ma mút Columbia (danh pháp hai phần: Mammuthus columbi) là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng, từng sinh sống trong khu vực Bắc Mỹ vào khoảng 100.000 - 9.000 năm trước. Nó là một trong những loài voi ma mút lớn nhất đã từng sinh sống, cao tới 4 m (13 ft) tính từ vai và cân nặng khoảng 7-9 tấn. Nó là một động vật ăn cỏ, với thức ăn chủ yếu là các loại thực vật khác nhau, từ cỏ tới các loài cây thuộc ngành thông. Người ta cũng cho rằng voi ma mút Columbia ăn các loại quả lớn của Bắc Mỹ như Maclura pomifera, Gymnocladus dioicus và Gleditsia triacanthos do tại Bắc Mỹ đã không tồn tại các loài động vật ăn cỏ lớn khác có thể tiêu hóa những loại quả này. Sử dụng các nghiên cứu về voi châu Phi, người ta cho rằng một con voi ma mút Columbia đực trưởng thành có thể ăn tới 200 kg (450 pao) thức ăn thực vật mỗi ngày. Ngà của loài voi này phát triển đến 3-4,5m (10–15 ft), một cặp ngà voi ma mút Columbia được phát hiện tại miền trung Texas là cặp ngà voi lớn nhất đối với bất kỳ loài voi nào: nó dài 5 m (16 ft).
Dựa trên các nghiên cứu về các họ hàng gần của nó, voi ngày nay, thì voi ma mút Columbia có lẽ có chu kỳ mang thai khoảng 22 tháng, sinh ra một con voi ma mút con. Cấu trúc xã hội của chúng có lẽ tương tự như của voi châu Phi và voi châu Á, với các con voi cái sống thành bầy do một con voi cái làm đầu đàn, trong khi voi đực sống đơn lẻ hoặc tạo nhóm lỏng lẻo sau khi đạt tới độ tuổi trưởng thành về mặt sinh lý. Các nghiên cứu DNA gần đây chỉ ra rằng các họ hàng gần của nó còn tồn tại là voi châu Á, còn voi châu Phi thì có quan hệ họ hàng xa hơn.
Voi ma mút Columbia là một trong những thành viên cuối cùng của quần động vật kích thước lớn châu Mỹ bị tuyệt chủng, với một vài mẫu di vật có niên đại khoảng 9.000 năm trước hoặc ít hơn và trong số đó có một mẫu ở gần Nashville, Tennessee, có niên đại khá tin cậy là khoảng 7.800 năm trước. |
Đình làng Đức Thắng là một ngôi đình cổ nằm tại phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Lịch sử
Đình này được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 19, khi đó chỉ là một nhà tranh vách đất để nhân dân làm nơi thờ Thành Hoàng làng và hội đồng kỳ mục hội họp. Năm Đinh Mùi (1811), khi đã chuẩn bị đầy đủ vật liệu và tiền bạc thì nhân dân khởi công xây dựng mới ngôi đình trên nền ngôi đình cũ. Nhưng vì đây là ngôi đình có quy mô lớn nhất lúc bấy giờ ở Phan Thiết nên mãi đến năm 1847 thì công việc xây dựng mới hoàn chỉnh, kể cả các công trình phụ. Có tài liệu ở đình Đức Thắng ghi: việc xây dựng đình làng Đức Thắng từ năm Tân Sửu đến Đinh Mùi.
Kiến trúc
Xét về tổng thể kiến trúc, đình làng Đức Thắng là ngôi đình có quy mô đồ sộ vào bậc nhất thời bấy giờ, là một trong những ngôi đình cổ của Việt Nam.
Đình Đức Thắng xây dựng theo lối kiến trúc dân gian Tứ trụ tức là dùng bốn cây cột đình lớn làm cột chính, từ đây toả ra và liên kết với hết thảy các kết cấu kiến trúc bằng gỗ khác. Các công trình của đình chính, nhà võ ca, nhà thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền hợp thành một tổng thể kiến trúc rộng lớn và liên kết chặt chẽ với nhau.
Nội thất: được bài trí nhiều khám thờ, hai bên treo các câu liễn, bên trên đặt những tấm hoành, dọc theo khám thờ nhiều bao lam gỗ được nghệ nhân xưa dùng kỹ thuật chạm lộng để thể hiện đề tài, tạo nên nhiều hình tượng, phong cảnh thiên nhiên sinh động. Những tác phẩm điêu khắc bằng gỗ này phần lớn có niên đại từ thời các vua nhà Nguyễn. Đình làng Đức Thắng hiện còn lưu giữ nhiều sắc phong do các vua triều Nguyễn ban tặng, đến nay còn rất tốt.
Ngoại thất được trang trí bằng nhiều tác phẩm nghệ thuật được chặm khắc bằng kỹ thuật đắp nổi và ghép mảnh sành phù hợp với tín ngưỡng dân gian ở địa phương. Các tác phẩm trang trí nghệ thuật này miêu tả cảnh thiên nhiên, muông thú và các điển tích xưa. |
Đình làng Đức Nghĩa là một ngôi đình cổ nằm ở phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Lịch sử
Đình được xây dựng vào những năm đầu thế kỷ 19, nằm ở vị trí gần đình làng Đức Thắng. Tuy nhiên, vì những lý do khách quan về phong thổ địa lý nên dân làng dời đình lên động cát làng Thành Đức (làng Thành Đức nhập với vạn Nam Nghĩa thành làng Đức Nghĩa). Đình xây dựng trên động cát cao, phía trước có ao sen lớn.
Kiến trúc
Đình làng Đức Nghĩa có dạng kiến trúc giống như Đình làng Đức thắng, ví dụ như cổ lầu là nơi tập trung phần trang trí nghệ thuật đặc sắc nhất trong tổng thể đình làng. Ở đây nghệ nhân xưa đã dùng nghệ thuật ghép mảnh sứ, sành để tạo nên hình tượng Tứ Linh, những phần dưới của mái hạ, các bờ nóc, bờ quyết cũng được trang trí nghệ thuật làm ngôi đình vừa cổ kính vừa trang nghiêm.
Nội thất: ở phần trang trí nghệ thuật chạm khắc bên trong Đình chính với hệ thống bao lam bằng gỗ, như bức rèm nhủ xuống các khám thờ bởi những dây leo, hoa lá, chim muông người thợ xưa chạm khắc. Nghệ thuật trang trí Đình làng Đức Nghĩa cả ngoại thất và nội thất phối hợp với nhau tạo nên những đường nét kiến trúc cổ hài hoà và đạt đến đỉnh cao so với một số ngôi đình trong thời kỳ này.
Đình còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa Hán-Nôm. Trong đó có đề cập đến ruộng đất của làng, đến lịch sử nguồn gốc dân cư ở làng. Quan trọng nhất trong số đó là 13 sắc phong của các đời vua Triều Nguyễn ban tặng cho Thành Hoàng làng cùng các vị thần khác, kể cả nữ Thần Thiên YAna Diễn Ngọc Phi của người Chăm. |
Nguyễn Thông (1827–1884), tự Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am; là quan nhà Nguyễn và là danh sĩ Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 19. Ngoài ra, ông chính là người Việt Nam đầu tiên thám hiểm Cao nguyên Lâm Viên.
Tiểu sử
Nguyễn Thông (阮通) sinh ngày 28 tháng 5 năm 1827 tại làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay thuộc xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An).
Cha ông là Nguyễn Hanh, người Tân Thạnh (tỉnh Gia Định), kết hôn cùng bà Trịnh Thị A Mầu nguyên quán ở Thừa Thiên, sinh hạ được hai trai là Nguyễn Thông và Nguyễn Hài.
Thuở nhỏ, hai anh em ông được cha dạy dỗ. Năm Nguyễn Thông 10 tuổi thì mẹ mất, 17 tuổi thì cha mất, hai anh em phải vất vả kiếm sống. Rất ham học nhưng không có thầy, Nguyễn Thông cùng em tự học. Đến khi Nguyễn Nhữ Hiền được bổ làm Tri phủ ở Tân An, hai anh em ông liền đến xin thọ giáo. Nhưng học chẳng được lâu, vì thầy dạy phải trở về kinh .
Năm 1844, Nguyễn Thông ra học ở Huế. Năm 1849, ông thi đậu cử nhân nhưng thi hội bị đánh hỏng vì tập bài thi bị lấm mực. Biết văn tài của Nguyễn Thông, nhiều người khuyên nên đợi để thi khoa sau. Nhưng vì nhà nghèo không thể tiếp tục học, Nguyễn Thông nhận chức huấn đạo tại Phú Phong, tỉnh An Giang.
Sáu năm sau (1855), ông được triệu ra Huế, năm sau được thăng Hàn lâm viện tu soạn, tham gia soạn sách "Nhân sự kim giám" (gương vàng soi việc người).
Năm 1859, khi thực dân Pháp xâm chiếm miền Đông Nam Kỳ, ông xin tòng quân và được cử làm tham mưu (coi việc cơ mật) cho tướng Tôn Thất Hiệp. Năm 1861, đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông được thăng từ Vệ úy lên Chưởng vệ, sung chức Phó đề đốc, để hiệp cùng Trương Định chống giặc.
Năm 1862, triều đình Huế cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, ông đến Phước Tuy (Bà Rịa). Được Phan Thanh Giản đề cử, ông trở về Vĩnh Long giữ chức Đốc học từ năm 1863 đến tháng 7 năm 1864. Thời gian này, ông đã cho xây dựng lại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long và đồng thời liên lạc chặt chẽ với các tổ chức chống Pháp. Cùng trong thời gian này, ông cùng các bạn đồng môn đã tổ chức cải táng Võ Trường Toản từ Chí Hòa về Ba Tri (Bến Tre) vì không muốn mộ phần thầy nằm trên đất của đối phương.
Năm 1867, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cũng bị Pháp xâm chiếm, ông cùng với nhiều sĩ phu Nam Kỳ không chịu hợp tác, nên đã tị địa ra tại Bình Thuận.
Năm 1867, Nguyễn Thông được cử làm Án sát Khánh Hòa rồi Quảng Ngãi. Thời gian này ông dâng sớ lên triều đình, để biện bạch cho Phan Thanh Giản, đồng thời dâng bốn bản điều trần về kế sách hưng thịnh quốc gia cho vua Tự Đức. Tuy nhiên, tất cả đều không được chấp nhận vì sự gièm pha của các đại thần khác chính kiến trong triều.
Năm 1870, ông tham gia chấm thi trường Thừa Thiên, kết thân với Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tư Giản, Đỗ Đăng Đệ...rồi làm Biện lý bộ Hình, Bố chính Quảng Ngãi. Ở đây, Nguyễn Thông đã tích cực thi hành những biện pháp để bài trừ nạn tham ô, hà hiếp dân chúng của bọn cường hào ác bá địa phương. Việc làm này của ông đã đụng chạm tới quyền lợi của một số đại thần trong triều, vì vậy không lâu sau ông bị cách chức, tống giam và bị xử trượng, sau nhờ dân chúng kêu oan tới vua, mới được giải tội.
Năm 1873, ông xin về dưỡng bệnh tại Sơn Trung (Bình Thuận), kết bạn cùng các thân hào trí thức địa phương, đồng thời thực hiện các hoạt động khai khẩn.
Năm 1874, triều đình cho phục chức, làm việc trong bộ Lễ nhưng khi đến Huế, ông lại bị bệnh nên phải cáo về.
Năm 1876, ông lại được triệu về kinh, giữ chức Tu nghiệp Quốc Tử Giám. Thời gian này ông cùng với các quan trong triều như Bùi Ước, Hoàng Duy Tân khảo duyệt bộ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, nhân đó soạn Việt sử cương giám khảo lược (tức Việt sử thông giám cương mục khảo lược).
Năm 1877, triều đình chấp thuận kế hoạch khai hoang vùng La Ngư, Ba Dầu (Bình Tuy) ngày nay nên cử ông về làm Doanh điền sứ Bình Thuận.
Năm 1878, bệnh cũ tái phát, ông xin nghỉ dài hạn. Năm 1880, được mật chỉ cùng với các quan địa phương xử vụ nổi dậy của người thiểu số, xử vụ lưu dân từ trong Nam ra. Cũng năm này, ông thành lập Đồng Châu xã và xây dựng Ngọa Du Sào để có nơi làm thơ, đọc sách.
Năm 1881, Nguyễn Thông được bổ làm Phó sứ điển nông kiêm đốc học tỉnh Bình Thuận. Năm sau thăng Hồng lô tự khanh. Năm 1883, kinh thành thất thủ, Tự Đức băng hà, ông ra Huế thọ tang vua.
Tháng 4 năm 1884, Ngọa Du Sào văn tập của ông ra đời. Tháng 6 năm đó, ông viết di chúc... Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1884 (tức ngày 27 tháng 8 năm Giáp Thân), thọ 57 tuổi.
Mộ phần của ông đặt ở đồi Ngọc Lâm, sát chân núi Ngọc Sơn, đối diện với Tháp Chăm Pôshanư, Lầu ông Hoàng và Bửu Sơn Tự thuộc phường Phú Hài, trên con đường từ Phan Thiết đi Mũi Né.
Gia đình
Ông kết hôn với bà Ngô Thị A Thúy (Ngô Thị Tý), cháu cố của Ngô Nhân Tịnh, sinh hạ được hai người con trai là Nguyễn Trọng Lội (hay Lỗi) và Nguyễn Quý Anh (cả hai đều là nhà duy tân cải cách trong phong trào Duy Tân) và ba người con gái. Ngoài ra, ông còn có một người con trai và một người con gái với người vợ kế họ Đoàn .
Các tác phẩm chính
Việt sử thông giám cương mục khảo lược
Khâm Định nhân sự kim giám
Dương chính lục
Kỳ xuyên thi sao
Kỳ xuyên vǎn sao
Ngọa du sào tập
...
Đánh giá
Thơ văn Nguyễn Thông là tấm lòng ưu ái đối với những người xấu số, sự quan tâm đến nghề làm ruộng và gắn bó với đời sống của nông dân. Ông ca ngợi và xót thương những người hy sinh trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Nổi bật và bao trùm là tấm lòng yêu mến quê hương mà ông phải lìa bỏ vì không chịu sống trên đất kẻ thù đã chiếm đóng...
Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm gần gũi với những người lao động, có vốn học thức, có năng khiếu thơ văn, lại được đi nhiều...nên hầu hết trước tác của ông đều thiên về tả thực, giàu chất trữ tình, mang tính tố cáo cao, không sa đà viễn vông hay sáo rỗng...Tuy đôi lúc trong thơ văn ông, cũng không tránh khỏi những nỗi buồn hiu hắt của một nhà nho cảm thấy bất lực trước vận mệnh tồn vong của non sông, của dân tộc mà ông yêu mến.
Chú thích |
Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh là chức vụ đứng đầu Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một trong những chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị tại Việt Nam, vì vậy Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh theo thông lệ cũng nắm giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chức vụ Bí thư Thành ủy được Bộ Chính trị chỉ định, Phó Bí thư Thành ủy được Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố bầu ra trong số các Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy. Quyền hạn và trách nhiệm của Bí thư Thành ủy theo quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lịch sử hình thành
Sau Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Nam Kỳ, một Hội nghị thống nhất các tổ chức Cộng sản ở Nam Kỳ được tổ chức ngày 24 tháng 2 năm 1930, đã bầu ra Ban lâm thời Chấp ủy của Đảng, do Ngô Gia Tự (bí danh là Bách) làm Bí thư, trụ sở đặt tại đường Kichiner - Grimaud (nay là đường Nguyễn Thái Học - Phạm Ngũ Lão), chịu trách nhiệm hợp nhất các tổ chức Cộng sản tại Nam Kỳ.
Cuối năm 1930, chính quyền thực dân phát hiện hoạt động thống nhất các tổ chức Cộng sản nên đã ra tay trấn áp. Nhiều lãnh đạo bị bắt, gồm cả Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Ngô Gia Tự và Bí thư Thành ủy Chợ Lớn Lê Quang Sung. Tháng 2 năm 1931, các đảng bộ Thành ủy Sài Gòn, Chợ Lớn đều bị giải tán, trực thuộc trực tiếp Xứ ủy Nam Kỳ.
Tháng 4 năm 1931, chính quyền Pháp hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Tháng 4 năm 1932, Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn được tái lập. Các Tỉnh ủy Gia Định, Chợ Lớn được duy trì cho đến tận năm 1954.
Lãnh đạo qua các thời kỳ
Trước năm 1976, tên gọi cũng như địa giới của các đơn vị hành chính mà hiện nay là Thành phố Hồ Chí Minh có thay đổi khá nhiều, và địa dư qua các thời kỳ cũng không trùng khít với khu vực thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Do điều kiện lịch sử, các chức vụ đứng đầu Đảng bộ cũng không được liên tục, thường xuyên bị gián đoạn. Mãi sau năm 1976, địa giới hành chính ổn định, các đơn vị hành chính cũng được hợp nhất, chức vụ Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh mới ổn định cho đến nay.
Liên Tỉnh ủy Gia Định - Chợ Lớn
Tỉnh ủy Gia Định
Tỉnh ủy Chợ Lớn
Thành ủy Sài Gòn
Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh |
Lập trình cực độ (eXtreme Programming viết tắt là XP) là một trong những nhóm các phương pháp phát triển phần mềm một cách linh hoạt.
XP sử dụng các nhóm làm việc kết hợp gồm những người lập trình, khách hàng và các nhà quản trị để phát triển phần mềm có chất lượng cao trong thời gian nhanh chóng. Một chương trình chạy được là thước đo đầu tiên của tiến trình theo XP. XP có thể phát triển và tồn tại được là do sự hiểu biết ngày một tiến bộ về các vấn đề đang giải quyết và cũng là vì các công cụ sẵn có cho phép ta thay đổi được cái giá của sự thay đổi (cost-of-change) (đang là dạng hàm mũ trước đây). XP giữ cho cái giá phải trả này ở mức thấp do vậy sẽ thúc đẩy môi trường sản xuất phần mềm.
Ưu Điểm
Như ta đã biết hầu hết các phương pháp đều xem xét việc phát triển phần mềm như là một quy trình gia công với tiến trình viết phần mềm đi theo một con đường
Nhu cầu (thị trường) – Phân tích – Thiết kế – Viết mã nguồn – Thử nghiệm – Bảo trì
Cách tiếp cận này có một sự thừa nhận quan trọng đó là ta đã biết được sản phẩm cuối cùng trước khi tiến trình bắt đầu. Nhưng hầu hết các dự án phần mềm hiện đại không thể thoả mãn cái sự thừa nhận này. Khách hàng sẽ đưa ra một cách đầy đủ những cái gì mới và người sản xuất cần những thông tin phản hồi một cách liên tục để đánh giá lại các lựa chọn của họ. Người lập trình cần phải có một phương án để luôn sẵn sàng đón nhận những thay đổi trong Nhu cầu để họ có thể đối phó được với các thông tin phản hồi. Nếu bạn làm việc trong một môi trường mà ở đó các Nhu cầu được chờ để thay đổi và các khách hàng sẽ được lợi từ việc bàn giao phần mềm sớm và thường xuyên thì chắc chắn nên xem xét XP. Các nhóm làm theo XP sẽ thường xuyên nhận ra rằng họ đang bàn giao các sản phẩm phần mềm chất lượng cao với số lượng rất lớn và nhanh hơn trước đây rất nhiều.
Phương thức tiến hành XP
XP là một phương pháp có khả năng thích nghi, thích ứng. Điều đó có nghĩa là sẽ không có hai dự án XP nào giống nhau cả. XP cung cấp một tập hợp các thực hành và được sử dụng như là điểm khởi đầu, và sau đó được làm cho thích ứng để phù hợp với các ràng buộc của từng dự án riêng. Sau đây là một tập hợp các nguyên tắc được mong đợi:
Liên lạc: một nhóm XP lớn mạnh dựa trên các kiến thức, sự hiểu biết bài toán và hiểu biết phần mềm được chia sẻ. Các phương pháp giải quyết vấn đề được trao đổi trực tiếp. Những thứ cản trở đến công việc đều được loại bỏ.
Đơn giản hoá: công việc cần giảm tối thiểu độ phức tạp để đạt được hiệu quả cao nhất.
Thông tin phản hồi thường các đội làm dự án và khách hàng của họ không nhận ra những vấn đề rắc rối cho tới khi sắp bàn giao sản phẩm.Nhưng các nhóm XP thường xuyên lấy yêu cầu trở trong quá trình làm việc, thử, bàn giao sản phẩm … Khi đó sẽ quản trị được các vấn đề phát sinh.
Thế mạnh: các đội làm phần mềm thành công cần phải kiểm soát được ngay cả khi xuất hiện các lỗi. XP đưa ra 12 phương án thực hành, và điểm mạnh của XP chính là đã kết hợp được các phương án này lại. Mỗi một phương án tuy đơn giản nhưng rất cần thiết phải nắm vững, sẽ góp phần làm giảm bớt đáng kể cái giá của sự thay đổi.
Các phương án tiến hành
Tiêu chuẩn hoá mã nguồn
Đây là một loạt các quy ước về mã hoá để các thành viên của dự án theo đó làm. Khi đó mọi người có thể xem xét lẫn nhau và có thể bàn giao được cho nhau.
Thiết kế đơn giản
Để giảm giá phải trả cho sự thay đổi đồng nghĩa với việc làm cho hệ thống càng đơn giản càng tốt. Điều đó có nghĩa là không nên bỏ quá nhiều thời gian và công sức vào những việc mà sau này có thể cần hoặc cũng có thể không. Các đề án XP thường được đơn giản một cách tối đa, đảm bảo rằng sau này nếu có cần thay đổi thì chi phí cũng rất nhỏ.
Dạng thức Thiết kế và Nguyên lý Thiết kế
Mọi thành viên trong nhóm đều phải học và sử dụng thành thạo các Nguyên lý và Dạng thức Thiết kế. Thứ nhất, nó giúp cho cả nhóm làm việc với nhau một cách ăn ý (liên lạc tốt). Sau đó là giúp cho việc viết mã của từng thành viên được tốt và nhanh do tái sử dụng được kinh nghiệm từ người đi trước, điều này rất quan trọng, vì trong XP không có thiết kế chi tiết, từng đoạn mã/từng module phải do từng thành viên của nhóm thể hiện, vì vậy nếu áp dụng được thì sẽ giảm thiểu được quá trình điều chỉnh/tái chế.
--Trinhhoa (thảo luận) 04:18, ngày 21 tháng 12 năm 2011 (UTC)===Thử nghiệm (thử thiết kế đầu tiên)===
Các lập trình viên sẽ viết các đơn vị thử nghiệm (unit test) (trường hợp thử nghiệm) trước khi viết mã (thiết kế thử nghiệm đầu tiên). Tất cả các đơn vị thử nghiệm (trường hợp thử nghiệm) đều được thực hiện thường xuyên trong quá trình phát triển sản phẩm trong từng module mã của từng lập trình viên. Các lập trình viên có thể thay đổi một cách linh hoạt vì quy trình thử nghiệm có thể mắc lỗi hay sai so với thiết kế ban đầu (điều chỉnh trường hợp thử nghiệm).
Lập trình cặp đôi
Tất cả quá trình phát triển phần mềm đều được thực hiện bởi 2 người trên cùng một máy tính. Điều này có nghĩa là 2 người cùng giải quyết 1 công việc, người này lập trình thì người kia làm giám sát và ngược lại. Khi đó việc trao đổi kinh nghiệm và giải quyết vấn đề sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng. Ngoài ra mã nguồn được xem lại liên tục và được chữa lỗi ngay trong quá trình phát triển.
Quyền sở hữu mã kết tập
Bất kỳ người nào trong đội dự án đều có quyền thay đổi mã trong quá trình làm việc với khách hàng chỉ cần tuân theo Tiêu chuẩn mã hoá và phải đảm bảo thực hiện thử nghiệm lại toàn bộ sau khi hoàn tất công việc sửa đổi. Điều này sẽ loại bỏ các vấn đề như là sai lệch về cấu trúc chương trình, … có thể xảy ra khi một cá nhân mã hoá độc lập.
Tái chế
Tái chế là kỹ thuật làm tăng hiệu quả của việc thết kế các mã có sẵn mà không làm thay đổi chức năng. Tái chế là rất khả thi vì một nhóm XP có các quy trình thử nghiệm tự động bắt lỗi, cho phép ta thay đổi mã (phản ánh khả năng hiểu bài toán ngày càng cao của các thành viên). Qua đó cũng mở rộng các thiết kế lên.
Tương tác liên tục
Các nhóm XP chia công việc ra thành các bước nhỏ và tích hợp mã của họ một vài lần trong một ngày. Do vậy, các vấn đề sẽ được xem xét ngay sau khi thực hiện và có thể dễ dàng sửa chữa khi gặp sự cố. Quá trình này đảm bảo cho mọi người luôn làm việc với phiên bản mới nhất của hệ thống.
Phát hành nhỏ gọn
Do nhóm XP làm việc trong các bước nhỏ cho nên việc phát hành cũng chia ra thành các phát hành nhỏ (khoảng vài tuần một lần). Và các thành viên sẽ phải tích hợp liên tục. Có những đề án XP thực hiện việc phát hành hàng ngày.
Khách hàng trực diện
Các lập trình viên phải luôn tiếp xúc với khách hàng để xác định rõ nhu cầu bất kể nỗ lực tốn bao nhiêu. Các nhà lập trình XP không nên suy đoán các vấn đề cụ thể của một chức năng mà phải hỏi trực tiếp khách hàng.
Trò chơi kế hoạch
Đây là một phần quan trọng và là chìa khóa quyết định tính chất và sự thành công của mô hình XP. Quá trình thực hiện Trò Chơi Kế Hoạch được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần trong một dự án và diễn ra như sau: Để xác định yêu cầu được ưu tiên nhất (user story) và thời điểm gần nhất sắp tới sẽ bàn giao sản phẩm cho khách hàng (trong mẫu XP sản phẩm được chia thành rất nhiều phần nhỏ và được bàn giao nhiều lần) khách hàng và nhóm phát triển sẽ ngồi lại cùng nhau để nói chuyện. Khách hàng nêu ra những yêu cầu của mình cho nhóm phát triển trong đó có những người có kinh nghiệm phụ trách kỹ thuật của dự án. Nhóm phát triển sẽ chèo lái cho các yêu cầu trở nên rõ ràng ngay trên bàn họp, sau đó các yêu cầu sẽ được viết xuống thể câu chuyện. Sau khi có được các yêu cầu nhóm phát triển sẽ bắt đầu đo lường thời gian cho từng yêu cầu. Sau khi biết được ước lượng thời gian cho các yêu cầu thì khách hàng phải đưa ra được mức độ ưu tiên cho từng yêu cầu. Dựa vào hoàn cảnh của khách hàng và nhóm làm dự án (tiền của khách hàng, mức độ gấp gáp của khách hàng, nguồn lực của nhóm phát triển dự án, kỹ thuật để thực hiện các yêu cầu) khách hàng sẽ đưa ra những yêu cầu nào sẽ được thực thi trong lần bàn giao gần nhất. Thời điểm bàn giao gần nhất sẽ được cả hai bên thống nhất. Đó là phần đưa ra những yêu cầu và thời điểm bàn giao sản phẩm gần nhất. Còn một phần quan trọng nữa trong trò chơi kế hoạch là việc lên kế hoạch thực hiện các yêu cầu của nhóm làm dự án. Các thành viên phân chia cặp đôi và chọn cho mình những yêu cầu để phát triển, họ phải ước lượng lại thời gian thực hiện tác vụ đó.
Tóm lại Trò Chơi Kế Hoạch có 3 thao tác cơ bản là: thăm dò (lấy yêu cầu), thống nhất (thống nhất độ ưu tiên và thời hạn phát triển các yêu cầu) điều chỉnh (Nếu có sai sót trong quá trình đo lường hoặc khách hàng muốn thay đổi thì làm trong bước này)
Tuần lễ 40 giờ
Việc phát triển phần mềm là một công việc sáng tạo, và họ sẽ không thể sáng tạo được nếu họ kiệt sức. Việc giới hạn số giờ làm việc trong tuần sẽ đảm bảo được sức khoẻ của các thành viên và tăng cường chất lượng sản phẩm.
Ẩn Dụ
Dùng một hệ thống các thuật ngữ về đối tượng doanh nghiệp trong việc discuss các vấn đề và các giải pháp cho chúng (cái hệ thống Ẩn Dụ).
Dưới đây là một số nhận xét về XP và Rational Unified Process (RUP) Quá Trình Hợp Lý Thông Nhất.
Giống nhau
RUP không đề cập tỉ mỉ đến những định lý, tuy nhiên những nguyên lý cơ bản của phương pháp luận được đề ra rõ ràng và ta có thể thấy rõ, ví dụ như phản hồi từ khách hàng, sự thay đổi tăng dần, đầu tư ban đầu ít, thử nghiệm cụ thể và tuỳ biến theo từng nơi.
Có một số điểm tương đồng trong chiến lược lập kế hoạch, cả hai phương pháp đều phát biểu là không lập kế hoạch quá cụ thể ngay từ ban đầu bởi vì bạn không thể biết công việc gì là quan trong ngay từ lúc đầu. Cả hai phương pháp sử dụng quan niệm vòng quay của dự án, và nhấn mạnh sự ưu tiên theo mức độ quan trọng của các chức năng. Câu chuyện người sử dụng và trường hợp sử dụng đều được dùng để định hướng kiến trúc phần mềm và đóng vai trò quyết định cho việc lập kế hoạch cũng như quá trình phát triển.
Phương pháp luận hướng đối tượng đều là công cụ chính của cả hai phương pháp.
User story trong XP giống hệt với Trường Hợp Sử Dụng trong RUP.
Trong các yếu tố quan trọng cấu thành dự án là phạm vi dự án, tính đúng hạn, chất lượng và tài nguyên dự án, XP khuyến cáo chúng ta cần giữ cố định mục tiêu tính đúng hạn, chất lượng và tài nguyên. Phạm vi dự án có thể được phép điều chỉnh. RUP không đặt quan điểm một cách chặt chẽ như vậy, tuy nhiên RUP cho phép chúng ta dùng phương pháp xây dựng ma trận quyết định, trong đó các yếu tố đó có thể được điều chỉnh để phù hợp theo đặc tính của từng dự án. Dẫu RUP không phát biểu cụ thể như vây về sự cho phép thay đổi phạm vi dự án, tuy nhiên quan điểm tương đồng cũng thể hiện ở phương pháp phát triển phần mềm "to dần" của RUP.
Thử nghiệm cụ thể là một nguyên lý của XP và ta cũng có thể thấy ở trong RUP. Trong giai đoạn Khởi Thảo, RUP đòi hỏi bạn phải tiến hành nghiên cứu những vấn đề quan trọng và thử nghiệm những công nghệ mới.
Việc kiểm tra chương trình một cách tự động đều được XP và RUP khuyến cáo. XP dựa trên việc này để đảm bảo chi phí thấp cho mỗi sự thay đổi, tuy nhiên RUP thì không đòi hỏi.
Khác nhau
Sự khác biệt đáng kể giữa RUP và XP là RUP hướng đến những dự án lớn hơn so với XP và vì thế, nó phức tạp hơn.
Chi phí cho thay đổi và rủi ro
RUP cho rằng chi phí thay đổi tăng theo hàm mũ và tập trung vào cho những bước đầu tiên để giảm thiểu những chi phí về sau trong quá trình phát triển phần mềm. RUP quan tâm nhiều đến việc giảm thiểu rủi ro, theo dõi để tìm kiếm rủi ro và tiếp cận mục tiêu này từng bước từ quá trình xây dựng kiến trúc đến các quá trình phát triển phần mềm sau này.
XP cho rằng chi phí thay đổi không lớn lắm. XP cũng được xây dựng với mục tiêu giảm thiểu rủi ro (rủi ro ở đây định nghĩa là "những vấn đề cơ bản") và hướng tới một thiết kế và kiến trúc tốt cũng như với mục tiêu trước tiên là cho ra lò những chức năng quan trọng nhất. Tuy nhiên, với sự giả định là giá cho sự thay đổi thấp, kiến trúc của phần mềm được phép phát triển một cách hữu cơ, như một bộ xương chỉ cần phát triển vừa đủ để nâng đỡ cơ thể tại thời điểm nhất định. Điều then chốt trong XP là sự đơn giản.
Một đôi điều về tài liệu dự án
XP khuyến nghị bạn có một "hành lý" gọn nhẹ và không phải luôn luôn cập nhật tài liệu dự án, trừ khi bạn cần dùng chúng. RUP nhìn nhận vấn đề theo một cách khác và dựa trên sự cập nhật kịp thời bản thiết kế nhằm phục vụ cho việc phát triển phần mềm tiếp theo. XP cần có mã nguồn phải được viết tốt và dựa trên đó để trao đổi cũng như thiết kế cho các bước tiếp theo.
Chia sẻ mã nguồn
XP khuyến nghị cần có một sự chia sẻ mã nguồn trong nhóm, điều này có nghĩa là bất kỳ ai vào bất kỳ lúc nào cũng có thể thay đổi bất kỳ phần nào của mã nguồn. RUP gợi ý rằng người thiết kế phần mềm có trách nhiệm cho một phân hệ hoặc một gói nào đó, tương tự như vậy đối với lập trình viên.
Vị trí và trách nhiệm của các thành viên
Khi triển khai những công việc và vai trò trong dự án, RUP đồ sộ hơn nhiều so với XP. Những vai trò trong XP chỉ đơn thuần là Lập trình viên, Khách hàng, Huấn luyện viên và Quản lý. Đối với RUP thì ta cũng thấy LTV và KH, Coach tương tự như Kiến trúc sư và Quản lý tương tự như Lãnh đạo Chương Trình. Tuy nhiên, những trách nhiệm của các vị trí này không giống nhau bởi vì có một số hành động hoặc những concept không có trong XP. Những vị trí trong XP thường có nhiều trách nhiệm hơn so với RUP, ví dụ Lập Trình Viên là Khách Hàng, Khách hàng có trách nhiệm xây dựng yêu cầu.
Các bước của dự án
RUP có 4 bước được định nghĩa rõ ràng: Khởi động, Khởi Thảo, Xây dựng, and Chuyển Đổi. XP thì nói về Thăm Khảo, Cam Kết và Lái với những đầu mục công việc khác nhau và phân chia thời gian theo những phương pháp khác nhau. RUP chia toàn bộ quá trình sản xuất phần mềm thành một số phiên bản phát hành. XP chia và thực hiện dự án theo từng bước kế tiếp. Những bước này được XP gợi ý trong khoảng thời gian ngắn hơn. |
Trong vi tính, Hệ thống X Window (thường được gọi tắt là X11 hoặc X) là một hệ thống cửa sổ xuyên dụng mạng dùng để hiển thị đồ họa bitmap. Bài viết này nhằm liệt kê chi tiết các giao thức và cấu trúc kỹ thuật trong hệ thống X11.
Mô hình khách-chủ và tính năng xuyên dụng mạng
X được xây dựng trên mô hình khách-chủ. Trình chủ X là một chương trình hoạt động trên một máy tính có bộ hiển thị đồ họa, giao thông với nhiều trình khách khác nhau. Trình chủ chấp nhận những yêu cầu về xuất dữ liệu đồ họa (graphical output) (như các cửa sổ) và hồi âm những dữ liệu nhập vào từ người dùng (như bàn phím, chuột) (sends back user input (keyboard, mouse)).
Trong hệ thống X Window, trình chủ chạy trên máy tính của người dùng, trong khi các trình khách có thể lại chạy trên các máy tính khác. Quan điểm này ngược với những cấu hình khách-chủ thông dụng trong các hệ thống thường thấy. Thông thường, trình khách chạy trên máy tính của người dùng, trong khi trình chủ lại chạy trên một máy tính ở xa. Sự đảo lộn này thường gây ra sự lúng túng cho những người mới dùng X. Thuật ngữ mà "X Window" dùng được lấy ra từ quan điểm của chương trình ứng dụng, hơn là từ góc độ của người dùng, hay từ phần cứng: trình ứng dụng ở xa kết nối với bộ hiển thị của trình chủ X đang chạy trên máy tại địa phương, và do đó nó hoạt động như những trình khách. Bộ hiển thị X tại máy địa phương chấp nhận giao thông dữ liệu hướng về mình, cho nên nó hoạt động như một trình chủ.
Giao thức giao thông giữa trình chủ và trình khách hoạt động theo tính cách xuyên dụng mạng: trình khách và trình chủ có thể được chạy trên cùng một máy, hay trên nhiều máy khác nhau. Chúng có thể không có cùng một cấu trúc máy tính hoặc có thể không có cùng một hệ điều hành. Trình khách và trình chủ có thể giao thông với nhau một cách bí mật thông qua Internet bằng cách dùng kết nối ngầm (tunneling) thông qua một kết nối đã được mã hóa (encrypted connection).
Nguyên lý thiết kế
Bob Scheifler và Jim Gettys đặt ra các nguyên lý ban sơ của X như sau (liệt kê trong Scheifler/Gettys năm 1996):
Không nên thêm tính năng mới vào, trừ phi người thực hiện không thể hoàn tất một ứng dụng nào đấy nếu không có tính năng đó.
Việc quyết định hệ thống là gì, và sẽ hoạt động như thế nào, cũng quan trọng như việc quyết định hệ thống không phải như thế này, hoặc thế kia. Chớ có tham vọng phục vụ cho toàn bộ tất cả những nhu cầu ở trên thế giới, song nên tạo cho hệ thống có khả năng khuếch trương, hầu cho những nhu cầu mới cũng có thể được thỏa mãn, thích ứng theo chiều hướng tăng trưởng.
Việc tổng quát hóa từ chỉ một ví dụ đã là rất tồi tệ rồi, nhưng tổng quá hóa trong khi không có một ví dụ nào để dựa vào còn tồi tệ hơn thế nữa.
Nếu không thể thâu tóm được vấn đề một cách trọn vẹn, thì tốt nhất đừng nên đưa ra một giải pháp nào hết."Nếu mình có một giải pháp có thể đạt được 90% kết quả mong muốn mà chỉ mất có 10% sức lực, thì mình nên dùng phương pháp đơn giản đó." (Xin xem thêm Tồi tệ hơn nhưng lại tốt hơn)
Cô lập những phức tạp rối rắm, càng nhiều càng tốt"Việc đưa ra một cơ chế giải pháp, tốt hơn là việc đưa ra một qui chế. Cụ thể, chúng ta nên đặt các qui chế về giao diện người dùng, trong tay của trình ứng dụng."
Trong thời gian thiết kế X, nguyên lý đầu tiên được điều chỉnh, và trở nên: Không nên bổ sung tính năng mới, trừ phi mình biết cụ thể một ứng dụng nào đó đòi hỏi tính năng mới này. Từ đó trở đi, X giữ vững các nguyên lý của mình, hầu như không thay đổi. Việc thực thi có tính tham khảo được phát triển với một tầm nhìn hướng tới sự mở rộng và cải thiện những thực thi đã được hoàn thành, trong khi gìn giữ nguyên vẹn tính tương thích đối với giao thức nguyên thủy từ năm 1987.
Giao thức trung tâm của X Window
Giao thông giữa trình chủ và các trình khách được thực hiện thông qua việc trao đổi những gói dữ kiện trên một kênh tuyến của mạng lưới truyền thông. Trình khách thiết lập kết nối và gửi gói dữ kiện đầu tiên sang cho trình chủ. Trình chủ hồi âm bằng một gói dữ kiện, thông báo cho trình khách biết hoặc là nó chấp nhận hay từ chối yêu cầu kết nối của trình khách, hoặc nó yêu cầu trình khách phải xác minh và chứng thực thêm. Nếu kết nối được chấp thuận, gói dữ kiện thông báo việc chấp thuận được sẽ được gắn những dữ liệu mà trình khách cần có cho những lần giao lưu tiếp theo với trình chủ.
Sau khi kết nối đã được thành lập, có bốn loại gói dữ liệu được trao đổi qua lại giữa trình khách và trình chủ, thông qua kênh truyền thông:
Yêu cầu: (Request) Trình khách yêu cầu tin tức từ trình chủ, hoặc yêu cầu trình chủ thao tác một chức năng nào đó.
Trả lời: (Reply) Trình chủ hồi âm yêu cầu của trình khách. Không phải yêu cầu nào của trình khách cũng được trình chủ hồi âm.
Sự kiện: (Event) Trình chủ gửi một "sự kiện" hay một "tác động" nào đấy đến cho trình khách, chẳng hạn như: tác động của bàn phím, của chuột, hoặc do một cửa sổ bị di chuyển, thay đổi cỡ, hoặc bị phô trương ra (không bị che lấp nữa).
Báo lỗi: (Error) Trình chủ gửi một gói dữ liệu báo lỗi. Do các gói dữ liệu yêu cầu của trình khách gửi sang phải xếp hàng, đợi trình chủ đối phó với từng yêu cầu lần lượt, các gói dữ kiện báo lỗi được tạo nên bởi một yêu cầu nào đó không phải bao giờ cũng được gửi về cho trình khách ngay tức khắc.
Trình chủ X cung ứng một số dịch vụ căn bản. Trình khách nhận biết được những tính năng phức tạp khác, mà trình chủ có thể làm, thông qua sự tương giao với trình chủ.
Cửa sổ
Khung hình được gọi là cửa sổ trong các hệ thống giao diện đồ họa người dùng (graphical user interface) khác, được gọi là cửa sổ ở "tầng cao nhất" (hay tầng trên cùng) (top-level window) trong Hệ thống X Window. Từ cửa sổ còn được dùng cho những cửa sổ nằm bên trong một cửa sổ khác, có nghĩa nó là "cửa sổ con" của một "cửa sổ mẹ". (subwindows of a parent window). Những phần tử đồ họa như các nút bấm (buttons), trình đơn (menus), hình biểu trưng (icons) v.v đều được thể hiện bằng cửa sổ.
Một cửa sổ con chỉ có thể được tạo nên do một cửa sổ mẹ nào đó. Điều này có nghĩa là tất cả các cửa sổ đều được bố trí theo dạng thức phả hệ, có nghĩa là chúng được bố trí theo một hệ thống cấp bậc. Gốc của hệ thống cấp bậc này được gọi là cửa sổ gốc (root window), và được trình chủ tự động tạo nên. Những cửa sổ ở tầng trên cùng (top-level windows) chính là những cửa sổ con trực tiếp của cửa sổ gốc. Hiển nhiên, cửa sổ gốc chiếm diện tích bằng diện tích của màn hình, và nằm ở phía sau cùng, sau các cửa sổ khác.
Định danh
Tất cả dữ liệu về các cửa sổ, phông chữ v.v. đều được lưu trữ trong trình chủ. Trình khách biết định danh (identifiers) của các đối tượng (objects) này. Những định danh đều là những số nguyên. Trình khách dùng những con số này để điểm chỉ một đối tượng cụ thể nào đấy khi trình khách tương tác với trình chủ. Chẳng hạn, khi trình khách muốn tạo một cửa sổ mới, trình khách yêu cầu trình chủ tạo cho nó một cửa sổ với định danh mà nó đưa cho. Trình chủ, sau khi tạo nên cửa sổ mới rồi, liên kết cửa sổ ấy với định danh mà nó nhận được. Trình khách dùng định danh ấy để đề bạt các yêu cầu, chẳng hạn như vẽ một chuỗi các ký tự (a string) vào cửa sổ với định danh mà nó đã gửi sang cho trình chủ.
Các định danh mà trình chủ giữ đều là những định danh độc nhất vô nhị, không có định danh nào bị lặp lại. Tính độc nhất của các định danh không chỉ dành riêng cho một trình khách nào đó mà thôi, song nó bao trùm tất cả, và không có hai cửa sổ nào có cùng một định danh giống nhau, cho dù chúng được tạo nên bởi hai trình khách khác nhau. Một trình khách có thể truy cập một đối tượng nào đó bằng định danh của đối tượng ấy, cho dù đối tượng ấy được tạo nên bởi yêu cầu của một trình khách khác.
Đặc tính và sở hữu
Cửa sổ nào cũng có một loạt những đặc tính đã được xác định trước, cùng một loạt các sở hữu. Tất cả những dữ liệu và đặc tính này đều được lưu trữ bên trình chủ. Trình khách nào cũng có thể truy cập được những dữ liệu và đặc tính của các cửa sổ bằng cách gửi những yêu cầu thích hợp sang cho nó. Đặc tính là những dữ liệu về cửa sổ, như cỡ của nó, vị trí tọa độ trên màn hình, màu nền v.v. Sở hữu dữ liệu bao gồm những mảng dữ liệu gắn kèm theo cửa sổ. Ngược lại với các đặc tính, các sở hữu không có tác động hoặc ý nghĩa gì ở tầng giao thức trung tâm của X Window (X Window core protocol). Trình khách có thể lưu trữ bất cứ dữ liệu nào trong phần sở hữu của một cửa sổ.
Đặc điểm của sở hữu là mỗi sở hữu có một cái tên, kiểu dữ liệu, và một giá trị được gán cho. Sở hữu giống như biến số (variables) trong các ngôn ngữ lập trình mệnh lệnh (imperative programming language) ở chỗ chương trình ứng dụng có thể tạo nên một sở hữu mới, cho nó một cái tên, một kiểu dữ liệu, rồi lưu trữ một giá trị ở trong đó. Sở hữu được liên kết với cửa sổ: hai sở hữu có cùng một tên, có thể tồn tại trên hai cửa sổ khác nhau, với kiểu dữ liệu và giá trị khác nhau.
Sở hữu thường được dùng trong giao thông liên trình khách (inter-client communication). Chẳng hạn, sở hữu với cái tên WM_NAME được dùng để lưu trữ tên của cửa sổ; chương trình quản lý cửa sổ thường đọc sở hữu này và hiển thị tên của cửa sổ ở trên đầu nó.
Sở hữu của sổ có thể được biểu hiện dùng trình ứng dụng xprop. Cụ thể, xprop -root sẽ hiển thị các sở hữu của cửa sổ gốc cùng với tài nguyên của X (thông số cho trình ứng dụng).
Sự kiện hoặc tác động
Những sự kiện hoặc những tác động xảy ra bên trình chủ sẽ được thông báo cho trình khách qua những gói dữ liệu, để cho trình khách biết và xử lý, đặc biệt là những sự kiện hoặc tác động mà trình khách quan tâm đến. Trình khách còn có thể yêu cầu trình chủ gửi tác động sang cho trình khách khác; đây chính là phương pháp mà các trình khách giao thông với nhau. Chẳng hạn, khi một trình khách yêu cầu lấy đoạn văn bản đang được chọn, yêu cầu này được biến thành một sự kiện, gói trong một gói dữ liệu, và gửi sang cho trình khách hiện đang xử lý cửa sổ có đoạn văn bản được chọn đó.
Dưới những điều kiện nhất định nào đó, nội dung của một cửa sổ có thể sẽ bị xóa đi (ví dụ nếu cửa sổ bị che lấp). Khi khu vực, nơi nội dung đã bị xóa đi, lại được phô ra, trình khách tạo một sự kiện Expose, thông báo cho trình khách, báo với nó rằng phần cửa sổ đó phải được vẽ ra.
Những sự kiện khác thường được dùng để thông báo cho trình khách các dữ liệu nhập vào do bàn phím và chuột gây ra, hoặc do những yêu cầu tạo cửa sổ mới v.v.
Một số những sự kiện sẽ luôn luôn được gửi cho các trình khách, còn lại hầu hết các sự kiện khác chỉ được gửi cho trình khách nếu trình khách biểu lộ ý kiến trước đó, rằng nó quan tâm đến những sự kiện đã xảy ra, bởi vì các trình khách có khi chỉ quan tâm đến một số những sự kiện nào đó mà thôi. Lấy ví dụ, một trình khách có thể chỉ quan tâm đến các tác động của bàn phím, mà không để ý gì đến các tác động của chuột.
Chế độ màu sắc
Phương pháp mà hệ thống X Window dùng để xử lý màu sắc đôi khi làm cho người dùng lúng túng. Trong quá khứ, X có hỗ trợ vài chế độ màu sắc khác nhau. Đa số các trình ứng dụng hiện đại dùng Màu thật (Truecolour) (màu 24-bit, 8 bit một màu, với ba màu cơ bản, đỏ,lục và lam (red, green and blue)), song những trình ứng dụng cũ, hoặc những trình ứng dụng chuyên môn có thể lại phải dùng một chế độ màu khác. Rất nhiều chương trình ứng dụng chuyên môn được bán trên thị trường dùng "màu nhân tạo" (PseudoColor).
Giao thức X11 dùng một số nguyên 32-bit không dấu (32-bit unsigned integer) để biểu thị giá trị của một màu trong hầu hết các thao tác đồ họa, và gọi nó là "giá trị của điểm ảnh" (pixelvalue). Khi phải chuyển đổi cường độ của các màu cơ bản, người ta dùng một đơn vị số nguyên 16 bit cho mỗi màu. Những phương thức biểu hiện màu liệt kê dưới đây là những cái hiện được hỗ trợ. Trên một thiết bị cụ thể nào đấy, không phải phương thức nào cũng dùng được:
Màu trực tiếp: (DirectColor) Một điểm ảnh được phân tách ra làm ba phần riêng biệt: đỏ, lục và xanh. Mỗi phần là một mục lục chỉ thị vào một bảng màu riêng. Các giá trị trong bảng màu không cố định và có thể thay đổi được.
Màu thật: (TrueColor) Tương tự như màu trực tiếp ở trên, ngoại trừ một điểm, các giá trị trong bảng màu được phần cứng định trước và không thể thay đổi được. Thông thường thì mỗi một bảng màu của đỏ, lục và lam chứa các giá trị tăng dần theo cường độ của màu, gần như những giá trị trên một đường tuyến tính.
Gam màu ghi: (GrayScale) Giá trị của một điểm ảnh trên màn hình (pixel) là mục lục chỉ thị của một bảng màu duy nhất, trong đó chứa các giá trị cường độ của màu ghi. Các giá trị trong bảng màu có thể thay đổi được.
Màu ghi cố định: (StaticGray) Tương tự như Gam màu ghi ở trên, ngoại trừ, các giá trị trong bảng màu được phần cứng cố định từ trước, và không thể thay đổi được.
Màu nhân tạo/màu giả (PseudoColor) (Nén ảnh điểm - tiếng Anh là Chunky): Giá trị của một điểm ảnh trên màn hình (pixel) là mục lục chỉ thị của một bảng màu, trong đó chứa các giá trị cường độ của các màu. Các giá trị trong bảng màu có thể thay đổi được.
Màu cố định: (StaticColor) Tương tự như Màu nhân tạo ở trên, ngoại trừ, các giá trị trong bảng màu được phần cứng cố định từ trước, và không thể thay đổi được.
Xlib và các thư viện khác của trình khách
Phần lớn các trình khách giao thông với trình chủ thông qua thư viện Xlib của trình khách. Cụ thể, hầu hết các trình khách dùng các thư viện như Xaw, Motif), GTK+, hay Qt, là những thư viện dùng Xlib để tương tác với trình chủ.
Sự Liên thông giữa các trình khách
Giao thức trung tâm của X Window (The X Window core protocol) cung cấp một cơ chế cho phép các trình khách giao thông với nhau bằng cách sử dụng các sở hữu của cửa sổ (window properties) và bằng các sự kiện (events), cụ thể là các sự kiện thông điệp giữa trình khách-tới-trình khách. Tuy vậy nhưng nó lại không đặc tả một giao thức cụ thể nào cho sự tương tác ấy. Các giao thức này lại do một loạt các quy ước giao thông liên trình khách riêng biệt chi phối.
Bản Hướng dẫn về quy ước giao thông liên trình khách (Inter-Client Communication Conventions Manual) đặc tả giao thức dùng để trao đổi dữ liệu thông qua sự lựa chọn và tương tác của các trình ứng dụng với chương trình quản lý cửa sổ. Bản đặc tả này đã từng được cân nhắc là một bản đặc tả khó thực hiện và rối ren. Sự nhất quán trong diện mạo và cử chỉ (look and feel) của trình ứng dụng, cũng như trong giao thông thường được giải quyết bằng cách tiến hành lập trình cho một môi trường mặt bàn cụ thể nào đấy mà thôi.
Giao thức trao đổi liên trình khách (Inter-Client Exchange protocol - viết tắt là ICE) đặc tả một cơ cấu tổ chức để xây dựng các giao thức về sự tương tác giữa các trình khách, hầu cho một giao thức cụ thể nào đấy có thể lấy nó làm nền tảng để xây dựng nên một giao thức mới. Trên thực tế, giao thức quản lý phiên giao dịch của X (X Session Management protocol - viết tắt là XSMP) là một giao thức dựa trên ICE. Giao thức này là giao thức chỉ thị sự tương tác giữa các trình ứng dụng, là những trình ứng dụng có phần quản lý phiên giao dịch (Session management), một phần mềm quản lý việc lưu trữ tình trạng làm việc của mặt bàn đồ họa ở các đầu tương tác trong phiên giao dịch, khôi phục lại mặt bàn đồ họa khi một phiên giao dịch của cùng một người dùng bắt đầu trở lại.
Những quy ước mới được ghi trong các bản đặc tả của freedesktop, bao gồm quy ước về "kéo-và-thả" (drag-and-drop) mà Xdnd (Drag-and-Drop protocol for the X window system) sử dụng để truyền tải dữ liệu. Xdnd cho phép việc truyền tải dữ liệu bằng cách lựa chọn chúng trong một cửa sổ rồi kéo chúng sang một cửa sổ khác. Bên cạnh đó chúng ta còn có quy ước nhúng chương trình ứng dụng (embedded application convention) Xembed là bản quy ước liệt kê chi tiết phương pháp cho phép một trình ứng dụng chạy trên cửa sổ con của một trình ứng dụng khác.
Bộ đệm dùng cho việc chọn, cắt, cùng với tính năng "kéo-và-thả"
Bộ đệm (buffer) dùng để lưu trữ những phần dữ liệu được lựa chọn, những phần dữ liệu được cắt ra, cùng với tính năng "kéo-và-thả" (drag-and-drop) là những cơ chế sử dụng trong Hệ thống X Window cho phép người dùng truyền tải dữ liệu từ cửa sổ này sang cửa sổ khác. Bộ đệm lưu trữ những phần chọn lựa (selections), những phần được cắt ra (cut), đại đa số được dùng khi người dùng lựa chọn một đoạn văn bản (text), hay một những dữ liệu khác, trong một cửa sổ và dán (paste) nó vào một cửa sổ khác. Tính năng "kéo-và-thả" được dùng khi người dùng lựa chọn cái gì đó trong một cửa sổ, bấm xuống phần lựa chọn và kéo nó sang một cửa sổ khác.
Trong khi hai cửa sổ có thể do hai chương trình ứng dụng khác nhau xử lý, truyền tải dữ liệu giữa chúng đòi hỏi phải có hai trình khách khác nhau thông nối với cùng một trình chủ X để chúng có thể tương tác. Giao thức trung tâm của X Window có bao gồm một số loại yêu cầu (requests) và sự kiện (events) dành riêng cho việc trao đổi những dữ liệu đã được lựa chọn (selection exchange), song phần lớn việc truyền tải dữ liệu được giải quyết bằng cách dùng phương thức gửi sự kiện trình khách-tới-trình khách chung (general client-to-client event sending) cùng với các sở hữu của cửa sổ (window properties). Những sở hữu này không chỉ được dùng nguyên cho việc truyền tải dữ liệu đã được lựa chọn không mà thôi.
Dữ liệu được truyền tải giữa các trình khách có thể có kiểu dữ liệu khác nhau: thường thì chúng chỉ là văn bản, song chúng còn có thể là đồ họa pixmap (hay đồ họa bitmap), một con số, một danh sách các đối tượng (objects) v.v.
Sự lựa chọn dữ liệu cùng với tính năng "kéo-và-thả" là những cơ chế năng động (active mechanism): sau khi một vài đoạn văn bản được lựa chọn trong một cửa sổ nào đó, trình khách xử lý cửa sổ phải năng động trong việc hỗ trợ một giao thức, cho phép việc truyền tải dữ liệu tới một trình ứng dụng đòi hỏi dữ liệu ấy, xảy ra. Ngược lại, bộ đệm (buffer) lưu trữ dữ liệu được cắt ra là một cơ chế bị động (passive mechanism): khi người dùng chọn một đoạn văn bản, nội dung của đoạn văn bản được cắt rời ra và được chuyển vào bộ đệm lưu trữ dữ liệu cắt. Dữ liệu đã cắt và lưu trữ được giữ nguyên trong bộ đệm ngay cả khi trình ứng dụng xử lý cửa sổ ấy kết thúc và cửa sổ bị xóa đi.
Chương trình quản lý cửa sổ
Chương trình quản lý cửa sổ là một trình ứng dụng điều khiển diện mạo của cửa sổ, và những phần tử đồ họa khác, trong một môi trường giao diện đồ họa người dùng. Nguyên nhân gây ra sự khác nhau về diện mạo của các hệ thống X Window trong các cài đặt khác nhau là do người ta dùng những chương trình quản lý cửa sổ khác nhau, hoặc do sự khác nhau trong cấu hình của chương trình quản lý cửa sổ được dùng mà ra.
Chương trình quản lý cửa sổ quyết định vị trí tọa độ của các cửa sổ, cho chúng một bộ viền trang trí ở quanh mép, xử lý các hình biểu trưng (icons), xử lý chuỗi bấm của chuột ở bên ngoài cửa sổ (như bấm chuột trên nền đằng sau), xử lý chuỗi bấm của bàn phím (chẳng hạn, thu nhỏ cửa sổ lại thành hình biểu trưng (iconify) khi tổ hợp phím ALT-F4 được bấm) v.v.
Đứng trên phương diện của trình chủ X, chương trình quản lý cửa sổ không khác gì các trình khách khác. Chương trình quản lý cửa sổ quản lý vị trí tọa độ khởi đầu cùng với những khung trang trí chung quanh của các cửa sổ, thông qua những yêu cầu sau đây:
Một trình ứng dụng có thể yêu cầu trình chủ dừng lại, không thi hành các yêu cầu để bài trí (hiển thị) các cửa sổ con của một cửa sổ mẹ nào đấy, song gửi một sự kiện thay thế;
Một trình ứng dụng có thể yêu cầu thay nhánh mẹ của một cửa sổ.
Chương trình quản lý cửa sổ dùng yêu cầu đầu tiên để chặn các yêu cầu bài trí các cửa sổ ở tầng trên cùng (top-level windows) (những cửa sổ con của cửa sổ gốc). Bất cứ lúc nào một chương trình ứng dụng đòi hỏi sự bài trí của một cửa sổ ở tầng trên cùng, trình khách cũng sẽ không xử lý yêu cầu, thay vào đó, nó gửi một sự kiện cho chương trình quản lý cửa sổ. Hầu hết các chương trình quản lý cửa sổ thay nhánh mẹ của cửa sổ: chúng tạo nên một cửa sổ ở tầng trên cùng to hơn (gọi là cửa sổ khung (frame window)), rồi thay nhánh mẹ của cửa sổ vốn có một thành cửa sổ con của nó. Trong phương diện đồ họa mà nói, việc làm này tương đương với việc đặt cửa sổ vốn có vào bên trong một cửa sổ khung. Khoảng không gian của cửa sổ khung không bị cửa sổ này chiếm chỗ, sẽ là chỗ để dành cho cái khung trang trí ở chung quanh cửa sổ như "đường viền" và "thanh tiêu đề" (the "border" and the "title bar").
Chương trình quản lý cửa sổ quản lý các chuỗi bấm của chuột trong cửa sổ khung. Nó xử lý những việc như dịch chuyển vị trí hay thay đổi cỡ của cửa sổ, khi người dùng bấm vào đường viền hay vào thanh tiêu đề và kéo.
Chương trình quản lý cửa sổ quản lý còn có trách nhiệm xử lý những hình biểu trưng, và những phần tử đồ họa liên quan trong giao diện đồ họa người dùng. Những hình biểu trưng không tồn tại ở tầng giao thức trung tâm của X Window (X Window core protocol). Chúng được thực hiện bởi chương trình quản lý cửa sổ. Chẳng hạn, khi một cửa sổ phải biểu trưng hóa (iconified) - cửa sổ bị thu nhỏ và chỉ được đại diện bằng một hình biểu trưng nhỏ - chương trình quản lý cửa sổ FVWM xóa cửa sổ đó đi, làm cho nó vô hình, rồi tạo nên một cửa sổ con làm tên của hình biểu trưng, và có thể một cửa sổ con nữa làm hình biểu trưng cho cửa sổ bị thu nhỏ. Vì vậy, ý nghĩa và phương pháp xử lý các hình biểu trưng hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của chương trình quản lý cửa sổ: một số chương trình quản lý cửa sổ, như wm2, hoàn toàn không hỗ trợ và thực thi hình biểu trưng một tí nào hết.
Phần mềm quản lý phiên giao dịch
Tại một thời điểm nhất định nào đó, tình trạng của một phiên giao dịch cũng hầu như tương tự với "tình trạng của mặt bàn" (state of the desktop), tức là nó bao gồm một số cửa sổ, và nội dung của những cửa sổ này. Chính xác hơn nữa, nó chính là tình trạng của những chương trình ứng dụng đang vận hành và xử lý những cửa sổ này, cùng với những thông số và dữ liệu cho phép chương trình ứng dụng khôi phục lại điều kiện hoạt động của những cửa sổ mà nó đang quản lý, nếu cần thiết. Quản lý phiên giao dịch là một chương trình ứng dụng dùng để lưu trữ và khôi phục lại tình trạng hoạt động của một phiên giao dịch.
Ảnh hưởng rõ nhất của việc dùng phần mềm quản lý phiên giao dịch là chúng ta có thể đăng xuất một phiên giao dịch tương tác, chấm dứt nó, song khi đăng nhập trở lại, tình trạng của các cửa sổ được khôi phục lại giống y nguyên như lúc trước khi chúng ta đăng xuất. Để có thể làm được như vậy, phần mềm quản lý phiên giao dịch lưu trữ tên của các chương trình ứng dụng đang chạy khi chúng ta đăng xuất, và khởi động chúng lại khi chúng ta đăng nhập. Nếu chúng ta muốn khôi phục lại tình trạng hoạt động của các trình ứng dụng (hòng khôi phục lại nội dung của các cửa sổ mà trình ứng dụng đã dùng), thì các chương trình ứng dụng phải có khả năng lưu trữ tình trạng hoạt động của nó khi phần mềm quản lý phiên giao dịch yêu cầu, và nhập các dữ liệu đã lưu trữ trở lại trong bộ nhớ, khôi phục lại điều kiện và tình trạng hoạt động của mình như trước đây, khi chương trình ứng dụng hoạt động trở lại.
Hệ thống X Window có kèm một phần mềm quản lý phiên giao dịch mặc định, gọi là xsm. Có nhiều phần mềm quản lý phiên giao dịch khác được phát triển cho một số hệ thống mặt bàn đặc thù, ví dụ ksmserver là phần mềm quản lý phiên giao dịch mặc định của KDE.
Phần mềm quản lý việc hiển thị của X
Chương trình quản lý hiển thị X (X display manager) là một trình ứng dụng hiển thị giao diện đồ họa đăng nhập trong Hệ thống X Window. Nói một cách chung chung hơn nữa, một chương trình quản lý hiển thị vận hành một hoặc nhiều trình chủ X trên máy tính địa phương, và tiếp nhận kết nối từ những trình chủ X vận hành trên những máy tính ở xa. Các trình chủ địa phương được khởi động bởi chương trình quản lý hiển thị, sau đó kết nối với chúng (những trình chủ ở xa) để biểu hiện màn hình đăng nhập người dùng. Những trình chủ ở xa khởi động một cách riêng biệt, biệt lập với chương trình quản lý hiển thị, và kết nối với nó. Trong trường hợp này, chương trình quản lý hiển thị hoạt động như một trình chủ telnet đồ họa vậy: một trình chủ X kết nối với chương trình quản lý hiển thị và nó khởi đầu một phiên giao dịch; những trình ứng dụng được dùng trong phiên giao dịch được vận hành trên cùng một máy tính với chương trình quản lý hiển thị, song có thông tin nhập (input) và thông tin xuất (output) trên máy tính nơi trình chủ X đang chạy (tức là máy tính ở trước mặt người dùng).
XDM là chương trình quản lý hiển thị cơ bản được cung cấp cùng với Hệ thống X Window. Những chương trình quản lý hiển thị khác bao gồm GDM (GNOME), KDM (KDE), WDM (sử dụng bộ khí kiện WINGs được dùng trong Window Maker) và entrance (sử dụng kiến trúc được dùng trong Enlightenment v.17).
Những phần tử trong giao diện người dùng
Những công cụ khí kiện dành cho X bao gồm Xaw (Bộ khí kiện Athena), OLIT (Công cụ Intrinsics cho OPEN LOOK), XView, Motif và Tk. OLIT và XView được sử dụng như là những công cụ cơ bản cho OPEN LOOK GUI của AT&T và Sun.
Motif là công cụ cơ bản dùng cho Môi trường mặt bàn chung (Common Desktop Environment - viết tắt là CDE), môi trường mặt bàn tiêu chuẩn được dùng trong các hệ điều hành Unix được bán trên thị trường, như Solaris và HP-UX. (GNOME được kèm trong phiên bản Solaris 9 và sẽ là tiêu chuẩn trong những phiên bản sắp tới trong tương lai.
Các công cụ hiện đại khác bao gồm Qt (được dùng trong KDE), GTK+ (được dùng trong GNOME), wxWidgets, FLTK và FOX.
Nhữmg mở rộng
Trình khách X được thiết kế với tính cách đơn giản và có thể mở rộng. Vì thế cho nên hiện nay có rất nhiều tính năng được cho thêm nằm trong các phần mở rộng của giao thức. Danh sách liệt kê sau đây là một danh sách không đầy đủ, liệt kê những phần mở rộng đã được thực hiện:
Chuyên nhánh video trong X, còn gọi là Xv (chớ nhầm với chương trình ứng dụng xv)
XRender
Shape
XTEST
Chi nhánh mở rộng bàn phím trong X
MIT-SHM
XPRINT
Hiệu lệnh quản lý điện lực dùng cho bộ hiển thị (Display Power Management Signaling - viết tắt là DPMS)
Tại tầng giao thức, mỗi phần mở rộng được định dạng bằng những yêu cầu/sự kiện/loại gói báo lỗi mới. Truy cập tới trình khách ứng dụng, tới những tính năng mà những phần mở rộng cung cấp được thực hiện thông qua các thư viện của trình khách. Nhiều người cho rằng việc thiết lập mã hóa những mở rộng vào trong phần thực thi hiện tại của trình chủ X là một việc khó làm, do thực trạng bản thiết kế trình chủ thiếu sự phân tách chức năng thành các mô-đun.
Ghi chú
Cách dịch từ tiếng Anh "Red, Green, Blue" sang "Đỏ, Vàng, Xanh" trong tiếng Việt có thể gây cảm giác là dịch sai, song vì để phân biệt 3 màu, mỗi màu một tên riêng, nên dùng "vàng" thay cho "xanh lá cây" và "xanh" thay vì "xanh lam".
Trong vi tính, 32-bit số nguyên không dấu có nghĩa là một đơn vị bộ nhớ dùng để đại diện cho một số nguyên, gồm 4 byte, mỗi byte 8 bit, (4 x 8 = 32), và dung lượng này có thể biểu đạt được số không dấu, hay số dương, từ 0 đến 4.294.967.295 (232-1), hay 4.294.967.296 giá trị tất cả (kể cả số 0). Khi dùng ở chế độ có dấu, bit đầu tiên bên phải dùng để biểu đạt dấu của con số, 0 là số dương, 1 là số âm. Vì số bit còn lại để biểu đạt giá trị chỉ còn lại là 31 bit (32 - 1), nên những giá trị nó có thể biểu đạt được là từ -2.147.483.648 đến +2.147.483.647 (để ý dấu âm và dương dùng ở đây).
tương tự như trên, 16-bit số nguyên (có dấu) là một số dùng 2 byte, 8 bit một byte, để biểu đạt những giá trị từ −32768 đến 32767. |
Lập trình đôi (tiếng Anh: Pair Programming) là kiểu lập trình đòi hỏi hai kỹ sư phần mềm cùng tham gia một nỗ lực lập trình chung trên một máy trạm, nghĩa là chỉ có một màn hình, một bàn phím. Mỗi người thực hiện việc mà người kia hiện không làm. Ví dụ, người này gõ các bộ test đơn vị (unit test), người kia nghĩ về các lớp đầu vào (input) sẽ thỏa mãn bộ test đó; hoặc người này viết mã còn người kia quan sát để hướng dẫn hoặc kiểm lỗi. Người ta khuyên rằng hai người nên luân phiên đổi vai trò, khoảng nửa giờ một lần.
Ưu điểm
Lập trình đôi được quảng cáo là đem lại các lợi ích sau (theo thứ tự từ lớn tới nhỏ):
Tăng kỷ luật làm việc. Những người làm việc theo cặp thường có xu hướng "làm đúng" hơn và ít nghỉ giải lao dài.
Mã chương trình tốt hơn. Những người làm việc theo cặp ít có xu hướng chọn giải pháp ngõ cụt mà thường cho ra các thiết kế với chất lượng cao hơn.
Duy trì tốt luồng làm việc. Người này có thể người kia xem cả hai đang làm đến đâu. Nếu bị ngắt quãng, một người giải quyết ngắt quãng trong khi người kia tiếp tục làm việc.
Nâng cao tinh thần. Với một số lập trình viên, làm việc theo cặp có thể vui vẻ hơn.
Sở hữu tập thể đối với mã chương trình. Khi mọi người trong một dự án đều làm việc theo cặp, và các cặp thường xuyên quay vòng, thi ai cũng có kiến thức về toàn bộ mã nguồn.
Cố vấn. Kể cả những lập trình viên mới vào nghề, người nào cũng biết một cái gì đó mà người khác không biết. Lập trình đôi là một cách nhẹ nhàng cho việc lan tỏa kiến thức đó.
Gắn kết nhóm. Các thành viên trong nhóm gắn bó với nhau nhanh hơn khi làm việc theo cặp. Lập trình đôi có thể khuyến khích sự gắn bó trong nhóm.
Ít ngắt quãng hơn. Người ta thường ngại làm đứt quãng một nhóm người (đôi) hơn là ngắt quãng một người đang làm việc một mình.
Đòi hỏi ít máy trạm hơn, do hai người dùng chung một máy.
Khuyết điểm
Các lập trình viên nhiều kinh nghiệm có thể cảm thấy nhàm chán khi hướng dẫn một lập trình viên ít kinh nghiệm trong một môi trường lập trình đôi.
Nhiều kỹ sư thích làm việc một mình hơn, và có thể thấy môi trường lập trình đôi rất cồng kềnh.
Khó so sánh được và mất giữa các môi trường đôi và không đôi, do các phương pháp đo năng suất lập trình viên còn đang gây nhiều tranh cãi.
Các khác biệt trong phong cách viết mã có thể gây ra xung đột.
Trong trường hợp các thành viên trong lập trình có lịch làm việc lệch nhau (điều thường thấy trong các môi trường coi trọng sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống), thời gian làm việc theo cặp ít đi, dẫn tới việc tăng thời gian hoàn tất công việc.
Khi một công ty đánh giá cao việc làm việc từ xa (làm việc tại nhà), hay khi một nhân viên phải làm việc tại nhà vì lý do nào đó, việc lập trình đôi có thể khó khăn hoặc không thể thực hiện được.
Không hiểu ý nhau giữa 2 lập trình viên |
Offshoring hiểu đơn giản là hình thức một pháp nhân sử dụng các nguồn lực từ nước khác vào việc sản xuất-kinh doanh của mình, không phụ thuộc vào việc các nguồn lực đó có thuộc về cơ cấu tổ chức của pháp nhân đó hay không. Mục đích của chuyển ra ngoài là nhằm giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ.
Trong trường hợp dịch vụ, offshoring còn được gọi là xuất khẩu dịch vụ, theo đó hoạt động thương mại của dịch vụ được cung ứng bởi một thương nhân tới người tiêu dùng ở quốc gia khác. Theo GATS, có 4 hình thức xuất khẩu dịch vụ qua biên giới.
Phương thức 1: Thương mại dịch vụ giữa các nước, tức là mua bán dịch vụ qua biên giới giữa các nước, có thể bằng viễn thông hoặc chuyển dịch vụ bằng hiện vật như bản vẽ, băng đĩa…
Phương thức 2: Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài, tức là khách hàng đi sang nước khác để tiêu dùng dịch vụ như đi du lịch, học tập; sửa chữa tàu biển, máy bay ở nước ngoài…
Phương thức 3: Hiện diện thương mại, tức là đầu tư trực tiếp để thành lập một chi nhánh, công ty con hay đại lý để cung cấp dịch vụ như cung cấp thông tin, tư vấn pháp luật, ngân hàng cho nước sở tại…
Phương thức 4: Hiện diện của thể nhân, tức là sự di chuyển tạm thời của cá nhân sang nước khác để cung cấp các dịch vụ như tư vấn, xây dựng, làm nội trợ, chăm sóc sức khỏe…
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chuyển ra ngoài thường là các hợp đồng gia công phần mềm (hay phát triển phần mềm). Việc giao tiếp thường được thực hiện thông qua đường kết nối dữ liệu tốc độ cao, cho phép các kỹ sư và nhà quản lý giao tiếp trên cơ sở thời gian thực. Khách hàng có thể giám sát từ xa quá trình và các mốc phát triển dự án trên cơ sở từng phút, đảm bảo chất lượng và quy trình. |
Outsourcing là một thỏa thuận trong đó một công ty thuê một công ty khác để đảm nhiệm một hoạt động đã lên kế hoạch hoặc hiện có mà nếu không sẽ hoặc có thể được thực hiện bên trong công ty, và đôi khi bao gồm chuyển nhượng nhân viên và tài sản từ một công ty sang một công ty khác. Thuật ngữ outsourcing, xuất phát từ cụm từ outside resourcing, ít nhất đã tồn tại từ năm 1981.
Theo The Economist, khái niệm này đã hiện diện từ Thế chiến II", thường liên quan đến việc thuê một công ty khác để chịu trách nhiệm cho một hoạt động kế hoạch hoặc hiện có mà trong trường hợp khác có thể được thực hiện bên trong công ty (ví dụ như xử lý lương, xử lý đòi nợ), chức năng vận hành hoặc không thuộc chuyên môn, chẳng hạn như sản xuất, quản lý cơ sở vật chất, trung tâm hỗ trợ cuộc gọi hoặc trung tâm hỗ trợ khách hàng.
Thực hành chuyển giao quản lý các dịch vụ công cộng cho các doanh nghiệp tư nhân (tư nhân hoá), ngay cả khi được thực hiện trên một cơ sở hạn chế và ngắn hạn, cũng có thể được mô tả là outsourcing.
Outsourcing có thể bao gồm cả hợp đồng nước ngoài và trong nước, và đôi khi bao gồm cả việc chuyển nhượng quá trình kinh doanh (relocating a business function) đến một quốc gia xa. hoặc nearshoring (chuyển nhượng một quy trình kinh doanh đến một quốc gia lân cận). Offshoring và outsourcing không phải là đồng thời nhau; một trong hai có thể tồn tại mà không có cái kia. Chúng có thể liên kết (offshore outsourcing), và có thể được thực hiện một cách riêng lẻ hoặc kết hợp, một phần hoặc hoàn toàn đảo ngược, theo các phương pháp được biết đến như reshoring, inshoring và insourcing.
Thuật ngữ
Offshoring là việc chuyển hoạt động làm việc đến một quốc gia xa. Nếu nơi làm việc xa là một chi nhánh nước ngoài/sở hữu bởi công ty, thì hoạt động ngoài khơi là một captive, đôi khi được gọi là in-house offshore.
là thực hành thuê một tổ chức bên ngoài để thực hiện một số chức năng kinh doanh ('outsourcing') ở một quốc gia khác với quốc gia nơi các sản phẩm hoặc dịch vụ được thực hiện, phát triển hoặc sản xuất ('offshore').
Insourcing là việc đưa các quy trình được xử lý bởi các công ty bên thứ ba vào trong công ty và đôi khi được thực hiện thông qua việc tích hợp dọc theo chuỗi cung ứng.
Nearshoring đề cập đến việc thuê ngoài cho một quốc gia gần đó. Thông thường nó diễn ra qua biên giới quốc gia.
đề cập đến việc thuê ngoài cho các công ty tại các vùng nông thôn trong cùng một quốc gia.
(còn được gọi là ) là một hình thức của IT-enabled "chuyển nhượng việc làm trong ngành dịch vụ từ văn phòng đến nhà với các cơ sở cần thiết về điện thoại và Internet". Những vị trí làm việc từ xa này có thể là trực tiếp liên lạc với khách hàng hoặc là back office,, và những người làm việc có thể là nhân viên hoặc là nhà thầu độc lập.
Friendshoring đề cập đến việc phát triển các mạng lưới chuỗi cung ứng với các đồng minh và các quốc gia thân thiện.
In-housing đề cập đến việc thuê nhân viên hoặc sử dụng nhân viên/tài nguyên hiện có để hủy bỏ việc outsourcing.
Một intermediary là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hợp đồng cho một tổ chức khác trong khi lại thuê dịch vụ đó từ bên ngoài.
Từ viết tắt
Các thuật ngữ sau cũng được gọi bằng từ viết tắt:
Thuê ngoài quy trình kinh doanh
Thuê ngoài quy trình kinh doanh (BPO) là một phần nhỏ của việc thuê ngoài. Nó liên quan đến việc hợp đồng các hoạt động và trách nhiệm của một quy trình kinh doanh cụ thể cho một bên thứ ba, được gọi là nhà cung cấp dịch vụ. Ban đầu, điều này được liên kết với các công ty sản xuất, chẳng hạn như Coca-Cola đã thuê ngoài các phần lớn của chuỗi cung ứng của mình.
BPO thường được phân loại thành outsourcing back office và outsourcing front office. BPO có thể giúp doanh nghiệp của bạn cạnh tranh và hiệu quả hơn bằng cách sử dụng chuyên môn của các công ty khác đối với các chức năng cụ thể.
BPO có thể là offshore outsourcing, near-shore outsourcing đến một quốc gia gần đó, hoặc onshore outsourcing trong cùng một quốc gia. Dịch vụ kỹ thuật số cho phép (ITES-BPO), outsourcing quy trình tri thức (KPO) và outsourcing quy trình pháp lý (LPO) là một số phân khúc con của BPO.
Mặc dù BPO ban đầu được xem như một công cụ giảm chi phí, nhưng với sự thay đổi (đặc biệt là chuyển sang các hợp đồng dựa trên dịch vụ chứ không phải sản phẩm), các công ty hiện nay lựa chọn outsourcing back-office của họ để tăng tính linh hoạt về thời gian và kiểm soát chất lượng trực tiếp. BPO tăng tính linh hoạt của tổ chức theo nhiều cách khác nhau:
Phí của các nhà cung cấp BPO được tính dựa trên dự án hoặc phí dịch vụ, sử dụng các mô hình kinh doanh như thuê ngoài từ xa hoặc các mô hình phát triển phần mềm và thuê ngoài tương tự. Điều này có thể giúp một công ty trở nên linh hoạt hơn bằng cách chuyển đổi chi phí cố định thành chi phí biến đổi. Cấu trúc chi phí biến đổi giúp công ty phản ứng với các thay đổi về năng lực yêu cầu và không đòi hỏi công ty đầu tư vào tài sản, do đó làm cho công ty trở nên linh hoạt hơn.
BPO cũng cho phép tập trung vào những năng lực cốt lõi của một công ty. Quản lý chuỗi cung ứng kết hợp hiệu quả với đối tác chuỗi cung ứng và BPO có thể tăng tốc độ của một số quy trình kinh doanh.
Nhược điểm của BPO
Thậm chí các chiến lược bồi thường hợp đồng khác nhau cũng có thể để lại cho công ty một "điểm thất bại duy nhất" mới (nơi mà thậm chí việc thanh toán sau khi xảy ra sự cố cũng không đủ để bù đắp cho "sự thất bại hoàn toàn của doanh nghiệp khách hàng"). Những vấn đề hợp đồng không rõ ràng không phải là rủi ro duy nhất; còn có các yêu cầu thay đổi và các khoản phí không mong đợi, không đáp ứng mức độ dịch vụ, và sự phụ thuộc vào BPO làm giảm tính linh hoạt. Sự phụ thuộc cuối cùng được gọi là khóa chọn nhà cung cấp; tính linh hoạt có thể bị mất do các điều khoản phạt và các điều khoản hợp đồng khác. Ngoài ra, tiêu chí lựa chọn có thể dường như mơ hồ và không phân biệt được.
Những rủi ro về an ninh có thể phát sinh từ cả góc độ giao tiếp vật lý và quan điểm về quyền riêng tư. Thái độ của nhân viên có thể thay đổi và công ty có nguy cơ mất độc lập.
Do đó, những rủi ro và mối đe dọa của việc outsourcing phải được quản lý để đạt được bất kỳ lợi ích nào. Để quản lý việc outsourcing một cách có cấu trúc, tối đa hóa kết quả tích cực, giảm thiểu rủi ro và tránh bất kỳ mối đe dọa nào, một mô hình quản lý liên tục kinh doanh (BCM) được thiết lập. BCM bao gồm một loạt các bước, để xác định, quản lý và kiểm soát các quy trình kinh doanh đã hoặc có thể được outsourced.
Phương pháp phân tích ưu tiên (AHP) là một khung công việc của BPO tập trung vào việc xác định các hệ thống thông tin có thể nên được outsourcing. L. Willcocks, M. Lacity và G. Fitzgerald đã xác định một số vấn đề hợp đồng mà các công ty phải đối mặt, từ định dạng hợp đồng không rõ ràng đến thiếu hiểu biết về quy trình kỹ thuật IT.
Áp lực công nghệ
Các nhà phân tích ngành đã xác định phần mềm tự động hóa quy trình robot (RPA) và đặc biệt là RPAAI được cải tiến tự hướng dẫn dựa trên trí tuệ nhân tạo là một mối đe dọa tiềm năng đối với ngành này và đưa ra suy đoán về tác động dài hạn có thể xảy ra. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn, có lẽ sẽ không có tác động gì khi các hợp đồng hiện có được thực hiện đến hạn. Chỉ có thể mong đợi nhu cầu về hiệu quả chi phí và sáng tạo sẽ dẫn đến những thay đổi đột phá khi tái ký hợp đồng. Với trung bình thời gian của một hợp đồng BPO là 5 năm trở lên - và nhiều hợp đồng lại có thời gian dài hơn - giả thuyết này sẽ mất một thời gian để thực hiện.
Tuy nhiên, một nghiên cứu của trường Đại học Kinh tế Luân Đôn đã cố gắng bác bỏ 'thuyết âm mưu' rằng RPA sẽ đưa nhiều việc làm trở lại từ nước ngoài. Một lập luận có thể cho rằng công nghệ mới cung cấp cơ hội mới cho chất lượng, độ tin cậy, khả năng mở rộng và kiểm soát chi phí tốt hơn, do đó cho phép các nhà cung cấp BPO cạnh tranh ngày càng nhiều trên mô hình dựa trên kết quả hơn là chỉ cạnh tranh về chi phí. Với cách tiếp cận lõi có thể thay đổi từ mô hình "nhấc và chuyển" dựa trên chi phí cố định sang một mô hình dựa trên chất lượng dịch vụ và kết quả, có thể có cơ hội mới để phát triển ngành BPO với một cách tiếp cận mới.
Quy mô ngành
Một ước tính về quy mô thị trường BPO toàn cầu từ BPO Services Global Industry Almanac 2017 đưa ra con số khoảng 140 tỷ USD vào năm 2016.
Ấn Độ, Trung Quốc và Philippines là các nước lớn trong ngành. Năm 2017, ngành công nghiệp BPO đã tạo ra doanh thu 30 tỷ USD tại Ấn Độ theo hiệp hội ngành quốc gia. Ngành công nghiệp BPO chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng ngành gia công dịch vụ tại Ấn Độ. Dự kiến lực lượng lao động ngành công nghiệp BPO tại Ấn Độ sẽ giảm 14% vào năm 2021.
Ngành công nghiệp BPO và ngành dịch vụ IT kết hợp có giá trị tổng cộng 154 tỷ USD doanh thu vào năm 2017. Ngành BPO tại Philippines tạo ra 26,7 tỷ USD doanh thu vào năm 2020, trong khi khoảng 700 nghìn việc làm trung bình và cao cấp sẽ được tạo ra vào năm 2022. Trong khi đó, khoảng 700 nghìn việc làm trung bình và cao cấp sẽ được tạo ra vào năm 2022.
Năm 2015, thống kê chính thức đưa ra kích thước của ngành tổng thể outsourcing tại Trung Quốc, bao gồm không chỉ ngành BPO mà còn cả dịch vụ IT outsourcing, là 130,9 tỷ USD.
Việc thuê ngoài (Outsource) trong lĩnh vực marketing
Thuật ngữ outsource marketing được sử dụng tại Anh để chỉ việc thuê ngoài chức năng tiếp thị. Động lực của việc này có thể là:
Giảm chi phí
Chuyên môn hóa kiến thức
Tốc độ thực hiện nhanh
Bổ sung nhân viên trong thời gian ngắn hạn
Trong khi rất nhiều công việc này là "cốt lõi" của các bộ phận chuyên môn trong các công ty quảng cáo, đôi khi chuyên gia được sử dụng, như khi The Guardian đã tạo ra nhiều thiết kế marketing bằng cách sử dụng dịch vụ bên ngoài vào tháng 5 năm 2010. |
Giải thưởng Sakharov, tên đầy đủ là Giải thưởng Tự do Tư tưởng Sakharov, còn được gọi là Giải thưởng Nhân quyền của Liên minh Âu châu, là một giải thưởng của Nghị viện châu Âu dành tặng cho những cá nhân hoặc tập thể có nhiều nhiệt tâm và đóng góp vào lãnh vực nhân quyền và tự do tư tưởng.
Giải này được đặt theo tên của khoa học gia, nhà bất đồng chính kiến Liên Xô Andrei Dmitrievich Sakharov. Ông được trao tặng giải Nobel Hòa bình vào năm 1975.
Khởi sự từ tháng 12 năm 1985, lễ trao giải được tổ chức hàng năm vào quãng ngày 10 tháng 12 (ngày mà bản Tuyên bố chung về Nhân quyền được tổ chức Liên hiệp quốc được ký kết).
Danh sách
Dưới đây là danh sách những cá nhân và tổ chức đã được trao tặng Giải thưởng Sakharov: |
Dharamsala, hay Dharmsāla, có nghĩa là "nhà nghỉ", còn có tên là Trống Nguyện cầu, là một thị trấn tọa lạc tại miền bắc của bang Himachal Pradesh (Ấn Độ).
Tọa trong Thung lũng Kangra, thị trấn này trở thành quận lỵ của quận Kangra từ năm 1852.
Từng là một trong những trung tâm Phật học cổ xưa, với nhiều tu viện Phật giáo đã ra đời rất lâu. Dầu vậy, sự hồi sinh của Hindu giáo vào thế kỉ thứ 8 đã khiến cho phần lớn các chùa này lụi tàn. Ngày nay, phần lớn dân Gaddi, một sắc dân bản địa tại thị trấn, theo đuổi tín ngưỡng Hindu giáo, đặc biệt là các nghi thức tôn giáo xoay quanh nữ thần Durga.
Dharamsala được thế giới biết đến nhiều nhất và phần lớn là bởi sự hiện diện và những hoạt động của Đăng-châu Gia-mục-thố, Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 của Tây Tạng, và những người ủng hộ ông, tăng từ con số 8 vạn vào năm 1959, khi Đăng-châu Gia-mục-thố vượt dãy Hy Mã Lạp Sơn vào Ấn Độ, lên đến con số 12 vạn người vào thời điểm hiện nay. Thị trấn "Trống Nguyện cầu" này được nhắc tới như một Lhasa thu nhỏ, với đầy đủ những đường nét tín ngưỡng và văn hóa Tây Tạng đặc thù.
Thư viện hình ảnh
Khí hậu |
Voi ma mút lùn (danh pháp hai phần: Mammuthus exilis) là hậu duệ bị lùn hóa của voi ma mút, có thể là của Mammuthus columbi, tức voi ma mút Columbia. M. exilis đã sinh sống trên các đảo ven biển của California như đảo Santa Cruz, đảo Santa Rosa và đảo San Miguel. Những con voi ma mút tổ tiên của chúng có lẽ đã bơi qua eo biển Santa Barbara vào khoảng 20.000 năm trước đây. Vào thời gian đó, ba đảo này cùng với đảo Anacapa đã tạo thành một khu vực đất đai duy nhất gọi là Santa Rosae do mực nước biển xuống thấp.
M. exilis cao khoảng 120–240 cm (4–8 ft).
Chú thích |
New York, New York mang một trong các nghĩa sau đây:
Thành phố New York
New York, New York, một phim của đạo diễn Martin Scorsese vào năm 1977
N.Y., N.Y., một phim của đạo diễn Francis Thompson vào năm 1957
New York-New York Hotel & Casino, một khách sạn và sòng bạc tạo Las Vegas, Nevada (Hoa Kỳ)
New York New York, một khu buôn bán tại Đài Bắc (Đài Loan)
Bài hát New York, New York, bài hát chính của phim New York, New York (1977) bên trên
Bài hát New York, New York trong nhạc kịch On The Town
Bài hát New York, New York của Ryan Adams
Bài New York, New York của nhạc sĩ nhạc rap Ja Rule |
Voi ma mút thảo nguyên, tên khoa học Mammuthus trogontherii, là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng. Hóa thạch có niên đại từ 600.000 - 370.000 năm về trước thuộc thế Pleistocen.
Cùng với Mammuthus meridionalis và Deinotherium, voi ma mút thảo nguyên là những loài có vòi lớn nhất đã từng tồn tại, nó cao khoảng 4,50 m (15 ft). Các ngà cong của nó có thể dài tới 5,20 m (18 ft) ở những con đực già.
Hóa thạch
Hóa thạch chủ yếu được phát hiện là răng, còn các xương là rất hiếm. Bộ xương hoàn chỉnh nhất được phát hiện năm 1996 ở Kikinda, Serbia. Mẫu vật là con cái, cao khoảng 3,7 m (12 ft); dài 7 m (23 ft); ngà dài 2,7 m (8,9 ft) và ước tính có khối lượng khoảng 7 tấn khi còn sống
Một voi ma mút thảo nguyên khá hoàn chỉnh khổng lồ được khai quật trong các vách đá của Tây Runton ở Norfolk, Vương quốc Anh, nó bảo tồn hàm và răng của mình nhưng thiếu phần hộp sọ của nó. Một hộp sọ hiếm được tìm thấy trong Auvergne, Pháp, trong năm 2008 sẽ được kiểm xét bởi Dick Mol và Frédéric Lacombat trong bảo tàng Crozatier.
Mô tả
M.sungri cao từ 4-4,5 m (13–15 ft) tính đến vai. Một hóa thạch cho thấy xương cánh tay dài khoảng 1,45 m. Một ước tính khối lượng cho thấy nó nặng khoảng 6.000 - 9.000 kg.
Hình ảnh
Chú thích |
Máy bay B-52 là loại máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, tầm xa, rất nổi tiếng của Không quân Hoa Kỳ, do hãng Boeing sản xuất từ năm 1954. B-52 có thể mang vũ khí hạt nhân và vũ khí thông thường và có thể tham gia trong các loại chiến tranh thế giới tổng lực và chiến tranh khu vực. Lần đầu tiên B-52 tham chiến là tại Chiến tranh Việt Nam và được nổi tiếng với uy lực ném bom rải thảm tàn phá ghê gớm của nó. Cũng tại Chiến tranh Việt Nam B-52 lần đầu tiên bị bắn hạ bằng tên lửa phòng không SAM-2 do Liên Xô cung cấp. Các thông tin chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho rằng 3 chiếc B-52 cũng đã bị máy bay tiêm kích MiG-21 của Việt Nam, do các phi công Vũ Đình Rạng, Vũ Xuân Thiều và Phạm Tuân điều khiển, bắn rơi trong cuộc chiến tranh này.
Cho đến nay máy bay ném bom B-52 vẫn là máy bay ném bom chủ lực của lực lượng không quân chiến lược Hoa Kỳ. Lực lượng không quân chiến lược là một trong ba nền tảng trụ cột của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ đó là tên lửa hạt nhân chiến lược, tàu ngầm mang đầu đạn hạt nhân và không quân chiến lược. Lực lượng này cũng được nhiều người xem là "con át chủ bài" trong các cuộc chiến tranh thông thường mà quân đội Hoa Kỳ có tham gia.
Lịch sử
Mẫu thử nghiệm đầu tiên: ngày 28 tháng 11 năm 1951
Trang bị cho không quân chiến lược Mỹ: 1955
Từ năm 1955 đến năm 1961 cải tiến 8 lần
Ném bom lần đầu tiên:
ở Nam Việt Nam ngày 18 tháng 6 năm 1965 tại Bến Cát, tây bắc Sài Gòn
ở Bắc Việt Nam ngày 12 tháng 4 năm 1966 ở đèo Mụ Giạ, Quảng Bình
Từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 8 năm 1973 đã dùng ở Đông Dương trên 120.000 lần-chiếc, ném khoảng hơn 3 triệu tấn bom. Là phương tiện chủ yếu tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược của không quân Mỹ vào Hà Nội và Hải Phòng từ 18 đến 30 tháng 12 năm 1972
Sau Chiến tranh Việt Nam, B-52 liên tục được cải tiến, sử dụng trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1990 và 1991, Chiến tranh tại Nam Tư năm 1999, Afghanistan năm 2001.
Lần thất bại cay đắng và nổi tiếng nhất là ở Việt Nam
Tính năng kỹ thuật
Sải cánh 56,39 m
Dài 40,05 m
Cao 12,4 m
8 động cơ
Khối lượng cất cánh tối đa 221,35 tấn
Tầm bay: B-52G - tới 12.000 m, B-52H - tới 16.000 m so với mặt đất
Bay ở độ cao 15 km so với mặt biển
Kíp bay 6 người
Mang tới 30 tấn bom
Trang bị
Pháo chống tiêm kích: B-52 có pháo đằng đuôi do một hạ sĩ quan phụ trách thường chỉ để duy trì tác dụng tâm lý còn B-52 luôn được các toán máy bay tiêm kích hộ tống rất cẩn thận chống lại máy bay tiêm kích của đối phương.
Bom: tải trọng bom tối đa 30 tấn. Để thích hợp cho nhiệm vụ ném bom rải thảm trong chiến tranh thông thường máy bay cần mang được rất nhiều bom các máy bay B-52 được cải tiến mở rộng phần khoang chứa bom. Một máy bay B-52 có thể mang tối đa là 108 quả bom 500 pound (227 kg) trong đó 24 quả treo tại giá ngoài và 84 quả trong khoang, hoặc nếu mang bom 750 pound thì số bom tối đa là 66 quả trong đó giá ngoài 24 quả, trong khoang 42 quả.
Tên lửa: Sau Chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ dần dần không sử dụng B-52 vào mục đích ném bom nữa mà chuyển sang trang bị tên lửa hành trình, B-52 phóng tên lửa hành trình từ xa vào các mục tiêu của đối phương như trong Chiến tranh Iraq, Chiến tranh Kosovo. Với phương án vũ trang như vậy chỉ thích hợp cho chiến tranh hạt nhân (tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân) hoặc chiến tranh thông thường với mục đích để chống các mục tiêu đơn lẻ, chính xác cao, giá trị cao (tên lửa hành trình đầu đạn thông thường) mà không còn hiệu quả hủy diệt gây tâm lý choáng váng, hoảng loạn của ném bom rải thảm nữa.
Tên lửa nhử mồi: B-52 thường được trang bị 6-8 quả tên lửa nhử mồi chống tên lửa đất đối không và không đối không của đối phương. Khi phát hiện thấy tên lửa của đối phương bắn về phía mình máy bay phóng ra loại tên lửa này để thu hút tên lửa địch.
Máy gây nhiễu điện tử: mỗi máy bay có từ 9 đến 15 máy do một sĩ quan điện tử phụ trách, trong thời gian Chiến tranh Việt Nam người sĩ quan điện tử này thường có quân hàm cao nhất trong nhóm 6 phi công và có vai trò quan trọng nhất trong việc đảm bảo an toàn của máy bay. Máy gây nhiễu có hai loại: máy gây nhiễu thụ động và máy gây nhiễu chủ động. Máy gây nhiễu thụ động là các máy rải các đám mây kim loại là các mảnh giấy kim loại mỏng nhẹ bay lơ lửng trong không gian, sóng điện từ của radar đối phương gặp đám mây nhiễu kim loại sẽ phản xạ gây ra các chấm trắng nhỏ li ti nhấp nháy trên màn hình của radar đối phương làm che lấp và lẫn tín hiệu mục tiêu thực. Việc gây nhiêu thụ động còn được cả các máy bay chiến thuật đi kèm bay rải nhiễu trước khi B-52 bay vào tạo thành một hành lang nhiễu dày đặc che chắn cho B-52. Máy gây nhiễu chủ động là các máy thu phát sóng điện từ công suất cao để phát các sóng điện từ có tần số trùng với tần số của sóng radar đối phương làm cho màn hình radar bắt mục tiêu và radar điều khiển tên lửa của đối phương bị chiếu sáng loá với hiệu ứng như bị chiếu đèn pha vào mắt. Các máy gây nhiễu chủ động sẽ tự động thu và phân tích tần số sóng radar của địch. Sĩ quan điện tử sẽ quyết định phát tần số sóng nào để trấn áp sóng radar của phòng không đối phương. Ngoài ra trong đội hình máy bay đi kèm thường có nhiều máy bay tác chiến điện tử chuyên dụng để gây nhiễu chủ động, trong thời gian Chiến tranh Việt Nam đó là các máy bay EB-66.
Các thiết bị liên lạc, dẫn đường và radar chuyên dụng.
Lần đầu tiên máy bay B-52 tham chiến là tại Chiến tranh Việt Nam, và tại đây nó đã thể hiện được sức tàn phá rất ghê gớm của nó. Trong một phi vụ oanh tạc máy bay B-52 thường đi thành nhóm ba chiếc theo đội hình mũi tên, trên độ cao 9–10 km và ném khoảng gần 100 tấn bom với mật độ dày đặc xuống một khu vực khoảng 2,5 km². Nếu một quả bom tiêu chuẩn là 500 lb (gần 250 kg) thì mật độ bom rơi là khoảng 130 quả trên 1 km², tức là khoảng cách trung bình giữa hai hố bom cạnh nhau là khoảng 80 mét. Với mật độ ném bom cao như vậy xác suất hủy diệt trong bãi bom B-52 sẽ là cực cao.
Không quân Hoa Kỳ đã dùng B-52 để ném bom rải thảm dọn đường, ném bom tạo bãi đáp đổ quân cho các cuộc hành quân của kỵ binh bay, đánh vào các khu nghi ngờ tập trung quân và vào các khu hậu cần kho tàng của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam và đã gây ra tàn phá rất lớn, gây cảm giác tâm lý rất ghê sợ trong hàng ngũ đối phương và những người đã từng trải qua các trận bom B-52.
Sức tàn phá to lớn của B-52 được thể hiện rõ nhất ở trận Khe Sanh: đầu năm 1968 khi quân đội Nhân dân Việt Nam định dùng hai sư đoàn lập trận địa bao vây để tiêu diệt căn cứ tiền tiêu của vài tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ tại miền núi phía tây tỉnh Quảng Trị để lập lại một Điện Biên Phủ mới. Nếu Khe Sanh thất thủ sẽ có một tiếng vang chính trị, quân sự rất bất lợi cho chính phủ Mỹ. Tại đây, máy bay B-52 đã liên tục ném số lượng bom cực lớn vào các trận địa bao vây của Quân đội Nhân dân Việt Nam (khoảng 100.000 tấn bom trong chưa đầy 3 tháng) và đã gây ra tỷ lệ thương vong rất lớn. Loại máy bay này là vũ khí quyết định để Khe Sanh đứng vững. Bởi các trận ném bom cày xới của B-52, Quân đội Nhân dân Việt Nam không thể đánh dứt điểm tiêu diệt Khe Sanh mà chỉ có thể bao vây tiêu hao quân Mỹ bằng pháo kích. Khi vòng vây của Quân đội Nhân dân Việt Nam được rút bỏ, quân Mỹ đếm thấy 1.600 xác đối phương trong các hầm hố, chiến hào đổ sập trên các triền núi và cánh rừng gần Khe Sanh và theo Mỹ ước tính, số người chết hoặc bị thương của quân đội Nhân dân Việt Nam trong trận bao vây này là khoảng 1 vạn người, một phần khá lớn là do bom B-52 gây ra.
Chỉ riêng chung quanh Sài Gòn - Gia Định, trong vòng chín ngày đầu tháng 6-1968, "máy bay B-52 đã thực hiện 166 phi vụ" (Hãng tin AP, ngày 21-6-1968). Để hiểu rõ hơn mức độ tàn phá của bom B-52 rải thảm, tờ Thời báo New York, ngày 26-8-1968 viết: "Mỗi chiếc B52 có đủ bom để trải xuống thành một hình chữ nhật dài 1.000 mét, ngang 100 mét. Thấy kết quả khả quan nên số phi vụ B-52 tại miền nam Việt Nam được thực hiện ngày một tăng, trong nửa cuối năm 1965, số phi vụ hàng tuần là 100; đầu năm 1967, mỗi tuần có 186 phi vụ và đến tháng 8-1968 thì mỗi tuần có 350 phi vụ". Ngay từ tháng 6-1968, tướng Mỹ C. Abram - người thay William Westmoreland làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân Mỹ tại Sài Gòn, tuyên bố: "Sẽ cho B52 ném thật nhiều bom đến mức (...) chỉ cần phái một đội tuần tra không vũ trang đi xa với những quyển sổ tay để ghi kết quả". Nhưng Tạp chí Tin Mỹ và Thế giới, ngày 1-4-1968 cho rằng, việc ném bom và pháo kích bừa bãi của Mỹ có thể sẽ làm người Việt Nam thêm căm phẫn, và "đẻ ra nhiều Việt cộng hơn là giết họ".
Phía Hoa Kỳ đã sử dụng rất rộng rãi máy bay này trên chiến trường Nam Việt Nam, Lào, Campuchia và trên đường mòn Hồ Chí Minh và cực nam Miền Bắc Việt Nam tại khu vực tỉnh Quảng Bình, Vĩnh Linh là nơi đối phương không có phương tiện phòng không để đối chọi với loại máy bay này và tên "B-52" liên tưởng đến sự chết chóc, hủy diệt ghê gớm và được coi là vũ khí hủy diệt ghê gớm nhất của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.
B-52 trong Chiến dịch Linebacker II
Cuối năm 1972, từ ngày 18 tháng 12 đến ngày 30 tháng 12, Sau khi hội nghị Paris đổ vỡ, Quân đội Hoa Kỳ đã huy động lực lượng không quân chiến lược (SAC – Strategic Air Command) vào cuộc tập kích đường không lớn vào Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên của miền Bắc Việt Nam. Đây là chiến dịch tập kích đường không lớn nhất trong Chiến tranh Việt Nam mà lực lượng nòng cốt là 200 trong tổng số 400 chiếc máy bay ném bom B-52 của Hoa Kỳ (50% lực lượng B-52 của không quân Mỹ) kết hợp với khoảng 1.000 chiếc máy bay chiến thuật của Không quân và Hải quân Mỹ triển khai tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương (30% lực lượng không quân chiến thuật của Mỹ). Cuộc tập kích được phía Mỹ gọi là cuộc tập kích Linebacker II.
Phía Mỹ đặt trọng tâm chiến dịch này vào các cuộc tập kích của máy bay B-52 vào ban đêm, còn ban ngày là các máy bay chiến thuật tập kích liên tục với cường độ cao vào các trận địa tên lửa và các sân bay của không quân tiêm kích Quân đội Nhân dân Việt Nam. Phía Mỹ cho rằng đối thủ chính của B-52 là các máy bay tiêm kích MiG-21 của Bắc Việt Nam nên tập trung đánh phá rất mạnh các sân bay trấn áp các loại radar dẫn đường và radar của máy bay tiêm kích. Việc B-52 đánh vào ban đêm cũng là để hạn chế không quân tiêm kích quan sát thấy máy bay B-52 bằng mắt. Theo quan điểm của không quân Mỹ với cường độ gây nhiễu chủ động và nhiễu thụ động đậm đặc thì lực lượng tên lửa phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam không đáng ngại vì không thể đánh trúng được các máy bay B-52.
Phía Quân đội Nhân dân Việt Nam thì xác định tên lửa phòng không là vũ khí chủ lực để chống lại máy bay B-52 của đối phương. Ngay từ những tháng trước đó đặc biệt sau sự kiện 16 tháng 4 năm 1972 khi Hoa Kỳ đưa máy bay B-52 đánh phá Hải Phòng mà lực lượng phòng không không làm gì được, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đã ra chỉ thị cho quân chủng Phòng không – không quân phải tìm ra bằng được phương thức thích hợp chống lại thủ đoạn gây nhiễu của máy bay B-52 và phải bắn hạ bằng được loại máy bay này. Các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng nhận định: với diễn biến chính trị và ngoại giao phức tạp lúc đó rất nhiều khả năng Không quân Hoa Kỳ sẽ dùng B-52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng.
Trong năm 1972, sau ngày 16 tháng 4, Hoa Kỳ ném bom hạn chế Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở vào, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chỉ thị cho Sư đoàn Phòng không 361 bảo vệ Hà Nội lần lượt đưa 1 đến 2 trung đoàn tên lửa vào đường Trường Sơn để tiếp xúc với B-52, nghiên cứu mức độ gây nhiễu điện tử của B-52. Các đơn vị tên lửa sau khi vào Trường Sơn và Bắc Quảng Trị đã tổng hợp các ghi nhận về chiến thuật chống B-52 của tên lửa phòng không SAM-2. Các ghi nhận này đã được cơ quan tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam đúc kết thành cuốn "cẩm nang bìa đỏ" rất nổi tiếng sau này của quân chủng. Cuốn cẩm nang này vào tháng 10 năm 1972 được tổng kết và phát xuống cho tất cả các tiểu đoàn tên lửa để nghiên cứu luyện tập phương án đánh B-52.
Cuốn "cẩm nang bìa đỏ" này chỉ rõ:
Tuy không quân địch gây nhiễu dày đặc nhưng trong mớ hỗn loạn các loại tín hiệu nhiễu trên màn hiện sóng, B-52 không phải là hoàn toàn vô hình nếu tinh mắt vẫn có thể phát hiện được mục tiêu B-52 một cách gián tiếp đó là các đám nhiễu tín hiệu mịn trôi dần theo tốc độ di chuyển của B-52. Tuy các đám nhiễu này kích thước to không hiển thị rõ rệt để có thể xác định mục tiêu chính xác và điều khiển tên lửa chính xác nhưng cẩm nang đã đề ra biện pháp bắn theo xác suất: bắn một loạt các quả đạn tên lửa vào đám nhiễu theo cự ly giãn cách nhất định sẽ có xác suất tiêu diệt mục tiêu khá cao, phương án bắn xác suất này được "cẩm nang" gọi là "phương án P".
Đồng thời "cẩm nang" cũng chỉ ra khi mục tiêu B-52 đi thẳng vào đài phát cường độ nhiễu sẽ tăng lên nhưng tín hiệu mục tiêu sẽ tăng mạnh hơn, mục tiêu sẽ hiển thị khá rõ nét, đây là thời cơ có thể bắn điều khiển tên lửa chính xác theo "phương án T" khi đó chỉ cần 1 đến 2 quả tên lửa B-52 sẽ phải rơi tại chỗ.
Trong "cẩm nang" đồng thời cũng đề ra các hướng dẫn cụ thể cho các cấp chỉ huy các tiểu đoàn tên lửa về công tác chỉ huy, cách chọn giải nhiễu, chọn thời cơ phát sóng, cự ly phóng đạn, phương pháp bắn, phương pháp bám sát mục tiêu trong nhiễu...
Ngay trong chiến dịch, lực lượng phòng không Việt Nam tiếp tục tổng kết, rút kinh nghiệm và nhanh chóng phổ biến kinh nghiệm tới các đơn vị:
Có thể lợi dụng những điểm yếu trong chiến thuật sử dụng B-52 của không quân chiến lược Mỹ: khi bay trong đội hình ban đêm, để giữ liên lạc với lực lượng tiêm kích yểm hộ để khỏi bị đâm nhau và bắn nhầm máy bay B-52 luôn phát tín hiệu vô tuyến và bật đèn để làm tiêu giữ cự ly giãn cách. Điều này đã bị đối phương khai thác triệt để, các đơn vị radar và tên lửa không phát sóng, chỉ mở máy thu định vị vẫn biết được tình hình di chuyển của các toán B-52. Các đơn vị tên lửa của Quân dội nhân dân Việt Nam chỉ phát sóng sục sạo tìm mục tiêu và sóng điều khiển tên lửa ở các thời điểm thuận lợi nhất.
Chiến thuật gây nhiễu chủ động của Mỹ cũng có thiếu sót và bị đối phương khai thác tối đa: các máy gây nhiễu chủ động của không quân Mỹ chỉ tập trung trấn áp các tần số sóng của radar tên lửa và không quân mà không trấn áp các radar điều khiển các cỡ pháo cao xạ phòng không khác vì cho rằng các loại súng này không thể gây nguy hại cho B-52. Điều này đã được phòng không Quân đội Nhân dân Việt Nam khai thác triệt để: tất nhiên các radar của pháo phòng không không thể tích hợp điều khiển tên lửa, nhưng các số liệu của nó cho phép cân nhắc để khẳng định mục tiêu B-52. Đặc biệt các loại radar này đã góp phần phát hiện thủ đoạn của không quân Hoa Kỳ tạo tín hiệu B-52 giả để tiêu hao đạn tên lửa của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Thêm nữa phía Quân đội nhân dân Việt Nam nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô về mặt kỹ thuật, cố vấn chiến thuật và đặc biệt là các thông tin tình báo cảnh báo sớm. Các toán máy bay B-52 cất cánh từ căn cứ tại đảo Guam trên Thái Bình Dương và các tin điện của Hải quân Mỹ trong vùng đều được Hải quân Xô Viết xác định và thông báo cho phía Việt Nam để họ có kế hoạch chuẩn bị.
Kết quả: ngay trong đêm tập kích đầu tiên 18 tháng 12 năm 1972 vào Hà Nội, lực lượng tên lửa bảo vệ Hà Nội đã bắn hạ 3 B-52 trong đó 2 chiếc rơi tại chỗ. Và càng chiến đấu lực lượng phòng không Bắc Việt Nam càng tự tin, hiệu suất chiến đấu càng nâng cao và đỉnh điểm là trận đánh nhau to đêm 26 tháng 12: Sau một ngày tạm nghỉ lễ Noel, không quân Mỹ huy động nỗ lực cao nhất thay đổi đường bay tập kích từ nhiều hướng dồn dập chủ yếu vào Hà Nội, sau hơn một giờ chiến đấu các lực lượng phòng không Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên bắn rơi 8 chiếc B-52. Trong đó tại Hà Nội Mỹ tung vào 48 chiếc bị bắn hạ 5 chiếc trong đó 4 chiếc rơi tại chỗ đạt hiệu quả chiến đấu rất cao.
Sau trận đêm 26 tháng 12, số phận của chiến dịch Linebacker II đã được định đoạt, cường độ tập kích của B-52 giảm hẳn, B-52 dạt ra ngoại vi đánh Thái Nguyên và các mục tiêu hạng hai để tránh "tọa độ lửa" Hà Nội, Hải Phòng... Tổng thống Richard Nixon ra tín hiệu đề nghị nối lại đàm phán và ngày 30 tháng 12 đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch ném bom, quay lại đàm phán tại Paris và chấp nhận phương án cũ của hiệp định Paris mà phía Mỹ trước đó đã từ chối ký kết.
Trong chiến dịch Linebacker II, phía Việt Nam công bố đã bắn hạ 34 máy bay B-52, còn phía Mỹ chỉ công nhận mất 16 chiếc là những chiếc bị bắn rơi tại chỗ và những chiếc có phi công nhảy dù bị bắt sống (tức là Mỹ chỉ công nhận các trường hợp bị bắn rơi có nhân chứng, vật chứng rõ ràng). Nếu tính cả những máy bay trúng đạn cố bay ra biển rồi bị rơi (hầu hết máy bay B-52 bị bắn trúng tại Hải Phòng đều cố thoát ra biển nhảy dù để được Hải quân Mỹ cứu) hoặc rơi tại Lào, Thái Lan, hoặc tính cả những chiếc B-52 bị hư hại nặng nhưng vẫn quay về được sân bay, thì số liệu của phía Việt Nam là đáng tin cậy và có cơ sở hơn, nó phù hợp với thống kê của hãng thông tấn AP: "Cứ theo tốc độ bị bắn rơi như thế này thì sau ba tháng B-52 sẽ tuyệt chủng".
Tổng cộng trong chiến dịch Linebacker II, đã có 729 phi vụ B-52 bay vào ném bom. Nếu tính theo số liệu của Việt Nam (34 chiếc B-52 bị mất) thì tỷ lệ B-52 bị hạ là 17%, nếu tính theo số liệu của Mỹ (16 chiếc B-52 bị rơi và 4 chiếc hỏng nặng) thì tỷ lệ B-52 bị hạ là 10%. Dù tính theo số liệu nào thì đây cũng là một tỷ lệ thiệt hại nặng cho không quân Mỹ.
Đến thập niên 1990, phía Mỹ trang bị lại cho loại máy bay này, các máy bay B-52 được trang bị tên lửa hành trình và sẽ phóng tên lửa từ xa, thậm chí không cần bay vào vùng trời mục tiêu. Phương án vũ trang này làm giảm nguy cơ bị bắn hạ của B-52, nhưng nó chỉ thích hợp với chiến tranh hạt nhân hoặc kiểu không kích đánh vào từng mục tiêu đơn lẻ. Với kiểu trang bị này, hiệu ứng tâm lý gây choáng do bom rơi dồn dập, khả năng hủy diệt hàng loạt mục tiêu khi ném bom rải thảm của B-52 sẽ không còn nữa.
Đánh giá máy bay B-52
Ngoại trừ nhược điểm nhỏ trong thiết kế khi bố trí khẩu đại liên thừa thãi và vô dụng đằng sau đuôi, B-52 được xem là loại máy bay có hiệu quả, ổn định và có độ tin cậy cao. Nó còn được sử dụng cho tới tận ngày hôm nay trong lĩnh vực quân sự và nó cũng còn được cải tiến để phục vụ cho các mục đích khác như làm bệ phóng trên không chở các tên lửa đẩy phóng các vệ tinh loại vừa và nhỏ với chi phí thấp.
B-52 một thời được xem là niềm tự hào của các nhân viên công ty Boeing cũng như các chuyên viên kỹ thuật quân sự Mỹ. Tuy nhiên đối với những người có thân nhân bị nạn trong các vụ ném bom rải thảm ở Việt Nam thì B-52 là một biểu tượng của tội ác. |
Lockheed C-130 Hercules là một máy bay vận tải đa năng hạng trung bốn động cơ tuốc bin cánh quạt không vận chiến lược của nhiều lực lượng quân sự trên toàn thế giới.Hơn 40 phiên bản và biến thể khác nhau đã và đang hoạt động ở trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ.Tháng 12 năm 2006 C-130 là chiếc máy bay thứ ba (sau chiếc English Electric Canberra hồi tháng 5 năm 2001 và Pháo đài bay B-52 tháng 1 năm 2005) kỷ niệm 50 năm hoạt động liên tục trong không quân Hoa Kỳ.
Có khả năng Cất hạ cánh đường băng ngắn (STOL) từ các đường băng dã chiến, C-130 ban đầu được thiết kế như một máy bay vận tải, cứu thương và vận chuyển quân. Thân có thể thay đổi khiến loại máy bay này đáp ứng được nhiều vai trò, gồm máy bay vũ trang hạng nặng, tấn công trên không, tìm kiếm và cứu hộ, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thời tiết, tiếp dầu trên không và máy bay cứu hoả. Các loại máy bay Hercules có thời gian chế tạo dài nhất so với bất kỳ loại máy bay quân sự nào khác trong lịch sử. Trong hơn 50 năm hoạt động, các dòng máy bay này đã tham gia vào nhiều chiến dịch quân sự, dân sự và cứu trợ nhân đạo.
Mô tả
C-130 là loại máy bay vận tải hạng trung, thân rộng với cánh nâng chính được bố trí ở phía trên thân may báy. Đồng thời cánh chính cũng là nơi thùng chứa nhiên liệu và cũng là nơi đặt 4 động cơ của máy bay. Ở khoảng giữa 2 động cơ của máy bay ở mỗi bên cánh còn có 2 móc treo các móc treo này dùng để treo 2 thùng nhiên liệu phụ hoặc thiết bị ECM, C - 130 được trang bị 1 cánh đuôi đứng lớn và cánh thăng băng đơn được bố trí ở phía trên phần đuôi của máy bay. Máy bay được trang bị 4 động cơ phản lực tuabin cánh quạt với cánh quạt 3 hoặc 4 lá tuy theo phiên bản máy bay, C - 130 được trang bị 3 bộ càng đáp với càng đáp phụ được đặt ngay dưới khoang lái của máy bay, 2 càng đáp chính được bố trí tại phía dưới của gốc cánh. C - 130 có tất cả 14 bánh đáp với 2 ở càng trước và 12 ở 2 càng sau, điểm đặc biệt là độ cao của thân máy bay so với mặt đất có thể điều chỉnh được việc này tao ra thuận lợi cho việc bốc xếp hàng hóa lên máy bay.
C - 130 được bố trí 3 cửa, 2 cửa bên thân máy bay và 1 cửa ở phía đuôi máy bay đồng thời cũng là cầu dẫn tạo thuận tiện cho các xe nâng hàng và các vũ khí tự hành có thể cơ động vào trong khoang chứa hàng của máy bay. Khoang chứa hàng của máy bay có chiều rộng 3m, phía trong được bố trí cần cẩu di động để bốc xếp hàng hóa cũng như các thiết bị điều khiển phục việc đóng mở cầu dẫn.
Ngoài thiết bị lái cơ khí, C - 130 còn được trang bị hệ thống lái điện tử (fly-by-wire). Hệ thống bay tự động (Auto pilot), cùng ra đa dẫn đường Doppler, hệ thống cảm biến cảnh báo khi bị hệ thống PK đối phương bắt bám. Máy bay được trang bị hệ thống máy tính hàng không tương tự hoặc kỹ thuật số tùy vào phiên bản của máy bay ngoài ra C - 130 còn được trang bị các hệ thống phụ trợ cho việc chỉ huy dẫn đường tác chiến điện tử và điều khiển UAV hệ thống tiếp dầu và vũ khí đối đất trên các phiên bản chuyên dùng. Máy bay cũng được trang bị hệ thống thông tin liên lạc đối đất đối không và cả thiết bị liên lạc vệ tinh, ngoài ra máy bay còn được trang bị thiết bị nhận diện địch ta. Trên phiên bản hiện đại hóa C - 130J khoang lái của máy bay các đồng hồ cơ khí và màn hình CRT đơn sắc được thay bằng các màn hình hiển thị đa chức năng LCD.
Lịch sử phát triển
Chiến tranh Triều Tiên đã cho thấy những loại máy bay vận tải thời Thế Chiến II—C-119 Flying Boxcar, C-47 Skytrain và C-46 Commando không đáp ứng được nhu cầu của chiến tranh hiện đại. Vì thế, ngày 2 tháng 2 năm 1951, Không quân Hoa Kỳ đã mở gói thầu về một loại máy bay vận tải mới cho không lực, Boeing, Douglas, Fairchild, Lockheed, Martin Company, Chase Aircraft, Airlifts Inc, North American và Northrop được mời tham gia đấu thầu. Chiếc máy bay mới phải có sức chở 92 người, hay 64 quân dù, tầm hoạt động , khả năng cất cánh từ các đường băng ngăn và dã chiến, ngoài ra phải có khả năng bay khi một động cơ ngừng hoạt động.
Fairchild, North American, Martin và Northrop từ chối tham gia. Năm công ty còn lại đưa ra tổng cộng chín bản thiết kế: Lockheed hai, Boeing một, Chase ba, Douglas ba, Airlifts Inc một. Cuộc cạnh tranh diễn ra giữa hai bản thiết kế của Lockheed (tên định danh dự án ban đầu L-206) và một mẫu thiết kế bốn động cơ cánh quạt của Douglas.
Đội thiết kế của Lockheed do Willis Hawkins lãnh đạo khởi đầu với đề xuất dày 130 trang cho loại Lockheed L-206 và hai loại động cơ cánh quạt lớn hơn khác. Hall Hibbard, phó chủ tịch và là kỹ sư trưởng của Lockheed, xem xét bản đề xuất và chuyển nó cho Kelly Johnson, người đã ghi chú sau khi xem, "Nếu ông ký bản đề xuất này, ông sẽ tiêu diệt Lockheed Company." Cả Hibbard và Johnson đều ký vào đó và công ty nhận được bản hợp đồng cho dự án với tên định danh mới Model 82 ngày 2 tháng 7 năm 1951.
Chuyến bay đầu tiên
Chuyến bay đầu tiên của nguyên mẫu YC-130 được thực hiện ngày 23 tháng 8 năm 1954 từ nhà máy của Lockheed tại Burbank, California. Chiếc máy bay, có số hiệu 53-3397, là nguyên mẫu thứ hai nhưng là chiếc đầu tiên cất cánh. Hai phi công điều khiển YC-130 là Stanley Beltz và Roy Wimmer trong chuyến bay dài 61 phút tới Căn cứ Không quân Edwards; Jack Real và Dick Stanton là kỹ sư máy. Kelly Johnson bay hộ tống trên một chiếc P2V Neptune. Các cuộc thử nghiệm tiếp theo được kéo dài cho tới 1956 thì kết thúc, C - 130 được chính thức chấp nhận đưa vào trang bị cho Không quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoa Kỳ.
Sản xuất
Sau khi hai nguyên mẫu được hoàn thành, việc sản xuất được chuyển tới Marietta, Georgia, nơi hơn 2.000 chiếc C-130 đã được chế tạo.
Model sản xuất đầu tiên, C-130A, sử dụng động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt Allison T56 với cánh quạt ba lá. Việc giao hàng bắt đầu vào tháng 12 năm 1956.
Model C-130B
Model C-130B được hãng Lockheed Martin giới thiệu vào năm 1959, về hình dáng khí động học của phiên bản này không có gì khác biệt so với phiên bản trước đó. Điểm khác biệt nằm ở cánh máy bay, C - 130B được trang bị 1 bộ cánh nâng mới nhỏ hơn phiên bản đầu tiên nhưng có sức chịu tải lớn hơn cánh của C - 130 đời đầu tiên. Đồng thời bộ cánh mới của C - 130B cũng cho lực nâng tốt hơn, bộ cánh mới này có lực nâng 3.000 so với 2.050 lbf/mm2 của cánh máy bay C - 130 đời đầu. Đồng thời C - 130B cũng được trang bị bộ cánh quạt tạo lực đẩy 4 lá thay vì 3 lá trên C - 130 đời đầu, bộ cánh quạt tạo lực đẩy 4 là cho hiệu suất lực đẩy tăng lên và cũng hoạt động ổn định hơn bộ cánh quạt 3 lá. Cũng trên phiên bản C - 130B này máy bay được trang bị thêm 2 thùng nhiên liệu phụ đặt dưới cánh nâng chính.
Model C-130D
Model C-130D về cơ bản là máy bay C - 130B, tuy nhiên C - 130D được thiết kế để hoạt động trong điều kiên băng tuyết vì nó được sử dụng trong bộ chỉ huy phòng không Bắc Mỹ phiên bản này được thay các bánh đáp bằng các ván trượt tuyết, giúp cho máy bay có thể cất và hạ cánh trên các tảng băng ở vùng cực. Đặc biệt là bay tiếp vận cho trạm radar cảnh giới tại đảo Greenland nơi gần như quanh năm đóng băng.
Model C-130E
Model C-130E với tầm hoạt động lớn hơn đi vào phục vụ năm 1962. Phiên bản này đặc biệt nhấn mạnh tới việc tăng tầm hoạt động của máy bay, C - 130E được trang bị thêm 2 thùng dầu phụ lớn hơn 2 thùng dầu phụ của C - 130B. 2 thùng dầu phụ của C - 130E có tổng sức chứa lên tới 5000l, đồng thời C - 130E cũng được trang bị 4 động cơ tuốc bin phản lực Allison T-56-A-7A cho công xuất lớn hơn so với 2 phiên bản trước đó. C - 130E cũng được cải tiến hệ thống điện tử hàng không đặc biệt là hệ thống radar dẫn đường, thiết bị cánh báo bị hệ thống phòng không đối phương bám bắt... Máy bay còn được trang bị thêm hệ thống bẫy nhiệt có tác dụng đánh lừa đầu dò của tên lửa không đối không và đất đối không tầm nhiệt.
Máy bay tiếp dầu KC-130, ban đầu được chuyển đổi từ C-130F phục vụ trong Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (USMC) từ năm 1958 (với tên định danh GV-1) được trang bị một thùng nhiên liệu 13.626 lít (3600 US gallon) có thể tháo rời bằng thép không rỉ bên trong khoang chở hàng. Vòi tiếp dầu lắp và phao phễu ở hai cánh có khả năng tiếp 19 lít nhiên liệu mỗi giây (tương đương 300 US mỗi phút) cho đồng thời hai máy bay khác, cho phép tiếp dầu nhanh cho nhiều máy bay bay trong đội hình, (một kiểu đội hình tiếp dầu đặc trưng cho bốn máy bay trong thời gian chưa tới 30 phút). Chiếc C-130G của Hải quân Mỹ là một nhánh của C - 130E được gia cố khung thân để tăng sức chở các loại hàng hóa hạng nặng, máy bay được thiết kế đặc biệt như vậy là vì nó chuyên dùng cho các không đoàn vận tải của hải quân.
Model C-130H
Model C-130H dùng động cơ phản lực cánh quạt Allison T56-A-15 cải tiến, phần ngoài cánh được thiết kế lại, hệ thống điện tử hiện đại hơn cũng như một số cải tiến nhỏ khác. Các model H sau này có vùng tâm cánh mới, với khả năng chống mỏi tốt hơn và cải tiến này cũng đã được áp dụng cho các model H trước đó. Model H vẫn được sử dụng rộng rãi trong Không lực Hoa Kỳ (USAF) và nhiều lực lượng không quân khác. Những chuyến giao hàng đầu tiên bắt đầu năm 1964 (cho Không quân Hoàng gia New Zealand), vẫn được chế tạo cho tới tận năm 1996. Một chiếc C-130H cải tiến đã được giới thiệu năm 1974.
Từ năm 1992 tới 1996 C-130H được Không quân Hoa Kỳ gọi là C-130H3. 3 có nghĩa là biến thể thứ ba của bản thiết kế cho loạt model H. Các cải tiến gồm buồng lái kính một phần (các thiết bị ADI và HSI), radar xung dupler APN-241 với màn hình hiển thị là màn hình CRT màu, đây là lần đầu tiên loại màn hình hiển thị này được áp dụng cho công nghiệp hàng không, thiết bị ngắm ban đêm và một hệ thống điện tử cải tiến sử dụng các Bus Switching Unit cung cấp năng lượng 'sạch' cho các yếu tố cải tiến nhạy cảm hơn.
Các model C-130K
Model tương đương để xuất khẩu sang Anh Quốc là C-130K, được Không quân Hoàng gia (RAF) gọi là Hercules C.1. C-130H-30 (Hercules C.3 trong Không quân Hoàng gia) là phiên bản kéo dài của loại Hercules cũ, thêm vào 100-inch (2.54 m) ở phía cuối buồng lái và 80-inch (2.03 m) phía sau thân. Một chiếc C-130K duy nhất đã được Met Office mua sử dụng cho các chuyến bay nghiên cứu khí tượng của họ. Chiếc máy bay này được chuyển đổi rất nhiều (đặc tính đáng chú ý nhất là thiết bị thăm dò khí tượng màu đỏ và trắng ở mũi) tới mức nó được đặt tên định danh W.2, nhằm phân biệt với loại C.1 nguyên bản. Chiếc máy bay này, được đặt tên là Snoopy, đã được cho ngừng hoạt động năm 2001. C-130K được RAF Falcons dùng để thả quân dù.
Các model và biến thể C-130 sau này
HC-130N & P là các biến thể tìm kiếm cứu hộ tầm xa được Air Rescue Service của Không lực Hoa Kỳ sử dụng. Được trang bị để triển khai lính cứu hộ đường không (PJs), thiết bị y tế, và tiếp dầu trên không cho các máy bay trực thăng chiến đấu cứu hộ (xem KC-130H), chúng thường là máy bay chỉ huy tại trận địa cho các phi vụ Tìm kiếm Cứu hộ. Các phiên bản ban đầu được trang bị hệ thống phục hồi đất đối không Fulton, được thiết kế để kéo người lên khỏi mặt đất sử dụng dây buộc từ một quả bóng khí helium. Bộ phim The Green Berets của John Wayne có cảnh quay về chức năng này. Hệ thống Fulton sau này được bỏ đi khi việc tiếp dầu trên không cho các máy bay trực thăng cho thấy an toàn và linh hoạt hơn. Bộ phim The Perfect Storm thể hiện một phi vụ Tìm kiếm cứu hộ thực sự có cảnh tiếp dầu trên không của một chiếc HC-130.
C-130R và C-130T là những model USMC của Hải quân Mỹ, cả hai đều được trang bị các thùng nhiên liệu ngoài. C-130T tương tự, nhưng có nhiều cải tiến điện tử hơn so với model R và tương thích hoàn toàn với hệ thống ngắm đêm. Trong cả hai model, máy bay USMC được trang bị động cơ Allison T-56-A-16. Các phiên bản USMC được đặt tên định danh KC-130R hay KC-130T khi được trang bị các mấu cứng hay thiết bị tiếp dầu dưới cánh.
RC-130 là phiên bản trinh sát. Một chiếc duy nhất được sử dụng bởi Không quân Cộng hòa Hồi giáo Iran.
Sử dụng dân sự
Lockheed L-100 (L-382) là một biến thể dân sự, tương đương model C-130E không có mấu cứng dưới cánh hay thiết bị quân sự. L-100 cũng có hai phiên bản kéo dài: L-100-20 có thân được kéo dài thêm 8.3 ft (2.5 m) và L-100-30 được kéo dài thêm 15 ft (4.6 m). L-100 không được sử dụng nhiều trên thị trường dân sự.
Thế hệ tiếp theo
Trong thập niên 1970 Lockheed đã đề xuất một biến thể C-130 với động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy chứ không phải động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt, nhưng Không quân Mỹ thích tích năng cất cánh của loại máy bay hiện tại hơn. Trong thập niên 1980 C-130 đã được dự định thay thế bằng dự án Advanced Medium STOL Transport (Vận tải hạng trung cất hạ cánh đường băng ngắn hiện đại). Tuy nhiên, dự án này đã bị hủy bỏ và C-130 vẫn tiếp tục được chế tạo.
Model C-130J
C-130J Super Hercules là phiên bản mới nhất của dòng Hercules và là model duy nhất vẫn được chế tạo. Vẻ ngoài tương tự như những chiếc Hercules trước kia, nhưng model J là loại máy bay rất khác biệt. Máy bay được trang bị máy tính số hóa, hệ thống hiển thị trung tâm HUD cùng các màn hình hiển thị thông tin bay đa chức năng LCD, cùng các hệ thống lái điện tử fly-by-wire kỹ thuật số, hệ thống thông tin liên lạc đối không và đối đất kỹ thuật số ngoài ra máy bay còn được trang bị hệ thống dẫn đường vệ tinh GPS. Hệ thống tác chiến điện tử ECM, C - 130J sử dụng động cơ tuốc bin cánh quạt Rolls-Royce Allison AE2100 và được trang bị các cánh quạt hình đao chế tạo bằng vật liệu composite. Phi hành đoàn cũng giảm xuống chỉ còn 2 phi công, không cần hoa tiêu và kỹ sư máy. Máy bay cũng được tăng độ tin cậy, và giảm chi phí hoạt động tới 27%. C-130J cũng có thể được chế tạo với chiều dài tiêu chuẩn hay kéo dài với biến thể -30. Lockheed đã nhận được đơn hàng model J từ Không quân Hoàng gia, số lượng 25 chiếc, chuyến giao hàng đầu tiên bắt đầu năm 1999 với tên gọi Hercules C. Mk 4 (C-130J-30) và Hercules C. Mk 5 (C-130J).
Bên sử dụng lớn nhất model mới này sẽ là Không quân Mỹ, họ đang đặt hàng với số lượng ngày càng tăng, dù tới năm 2005 Hạ viện đã thông báo số lượng đặt hàng C-130J sẽ bị cắt giảm nhiều. Các bên sử dụng C-130J hiện tại là Không quân Mỹ, Thủy quân lục chiến Mỹ (KC-130J tiếp dầu), Phòng không Quốc gia Mỹ, Phòng vệ bờ biển Mỹ, Không quân Hoàng gia, Không quân Hoàng gia Australia, Không quân Đan Mạch và Không quân Italia. Tổng số lượng đặt hàng C-130J đã lên tới 186 chiếc ở thời điểm tháng 12 năm 2006.
Lockheed cũng đã đề nghị cho thuê bốn chiếc C-130J cho German Luftwaffe (Không quân Đức), lực lượng này đang chờ đợi những chiếc Airbus A400M, để sử dụng vào năm 2010, nhưng đã bị từ chối.
Không quân Ấn Độ đã đưa ra yêu cầu mua sáu chiếc C-130J. Việc mua bán được dự định kết thúc khoảng giữa năm 2007.
Một Request for Proposal (Yêu cầu đề xuất) đã được trao cho Lockheed Martin ngày 9 tháng 8 năm 2007, như một phần của chương trình mua bán nhằm thay thế những chiếc CC-130E và các model H thuộc Không quân Canada bằng 17 chiếc C-130J mới. Lockheed Martin dường như là nhà cung cấp duy nhất trong số ba công ty đã đáp ứng quy trình chào hàng và đánh giá (SOIQ). Vì thế, Lockheed Martin hiện đang trong quá trình đưa ra một gói chào chính thức. Chính phủ chờ đợi một hợp đồng sẽ được ký kết vào mùa đông năm 2007, chuyến giao hàng đầu tiên sẽ diễn ra mùa đông năm 2010. C-130J sẽ được đặt tên định danh chính thức CC-130J Hercules khi hoạt động trong các lực lượng Canada.
Không quân Hoàng gia Na Uy đã quyết định mua bốn chiếc C-130J để tăng cường khả năng vận tải khi họ phát hiện thấy những chiếc C-130 đã bốn mươi năm tuổi không thể hoạt động trong một lần thay đổi cánh.
Hoạt động
Hercules giữ kỷ lục là loại máy bay lớn nhất và năng nhất từng hạ cánh trên một tàu sân bay. Trong tháng 10 và tháng 11 năm 1963, một chiếc KC-130F (BuNo 149798), của Thủy quân lục chiến đã tiến hành 21 lần cất hạ cánh trên tàu sân bay USS Forrestal với các trọng lượng khác nhau. Phi công, trung úy James Flatley III, đã được trao huy chương Distinguished Flying Cross vì thành tích này. Các cuộc thử nghiệm rất thành công, nhưng ý tưởng bị cho là quá mạo hiểm cho các chiến dịch "Chuyển hàng trên boong tàu sân bay" (COD) hàng ngày. Thay vào đó, C-2 Greyhound đã được phát triển cho riêng mục đích này. (Chiếc Hercules sử dụng trong thử nghiệm, gần đây nhất hoạt động trong VMGR-352 tới năm 2005, hiện là một phần trong bộ sưu tập của Bảo tàng Không quân Hải quân Quốc gia tại NAS Pensacola, Florida.)
Tuy C-130 tham gia vào các chiến dịch vận chuyển và tiếp tế hàng ngày, nó cũng đã được sử dụng như một phần trong các chiến dịch tấn công:
Biến thể MC-130 mang và triển khai loại bom thông thường lớn nhất thế giới hiện nay, bom BLU-82 "daisy cutter" và GBU-43/B Massive Ordnance Air Blast bomb. Daisy cutters đã được dùng trong Chiến tranh Việt Nam để khai quang bãi đỗ cho máy bay trực thăng và loại trừ các bãi mìn. Trọng lượng và kích thước của vũ khí khiến nó không thể hay không thực tế khi chất lên các loại máy bay ném bom thông thường.
Trong cuộc Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1965, Không quân Pakistan đã chuyển đổi nhiều chiếc máy bay thành các loại máy bay ném bom hạng nặng, và các cuộc tấn công đã được tiến hành vào các mục tiêu như cầu và nơi tập trung quân của đối phương, với một số thành công đáng kể. Không chiếc nào bị mất khi hoạt động, dù một chiếc bị hư hại nhẹ.
Nó cũng đã được dùng trong cuộc đột kích Entebbe năm 1976 trong đó các lực lượng commando Israel đã tung ra một cuộc tấn công bất ngờ giải cứu 103 hành khách trên một chiếc máy bay chở khách bị những tên khủng bố Palestine và Đức bắt giữ tại Sân bay Entebbe, Uganda. Lực lượng cứu hộ — 200 lính, xe jeep, một chiếc Mercedes-Benz đen (làm giống chiếc xe của nhà độc tài Ugandan Idi Amin) — đã bay 4.000 km từ Israel tới Entebbe bằng năm chiếc Hercules của Không quân Israel (IAF) mà không cần tiếp dầu trên không (trên đường về, những chiếc máy bay được tiếp dầu tại Nairobi, Kenya).
Trong cuộc Chiến tranh Falklands năm 1982, những chiếc C-130 của Không quân Argentina đã đối mặt với nguy cơ rất cao, khi tiến hành các chuyến bay tiếp tế ban ngày tới đơn vị đồn trú Argentina trên Quần đảo Falkland (Malvinas). Chỉ một chiếc thiệt hại trong cuộc chiến. Argentina cũng sử dụng hai chiếc máy bay tiếp dầu KC-130 trong cuộc chiến này, và chúng tiếp dầu cho những chiếc Skyhawk tấn công mặt đất đánh chìm tàu khu trục Anh HMS Antelope. Người Anh cũng dùng những chiếc C-130 cho các chiến dịch hậu cần của họ.
Trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, những chiếc C-130 Hercules được sử dụng bởi Không quân Mỹ, Hải quân Mỹ và Lính thủy đánh bộ Mỹ, và các lực lượng không quân Australia, New Zealand, Ả Rập Xê Út, Hàn Quốc và Anh Quốc.
Trong cuộc chiến tranh Afghanistan và để hỗ trợ cho Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế, những chiếc C-130 Hercules đã được Australia, Bỉ, Canada, Pháp, Italia, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh Quốc và Hoa Kỳ sử dụng.
Trong cuộc chiến tranh Iraq năm 2003, C-130 Hercules đã được sử dụng bởi Australia, Anh Quốc và Hoa Kỳ. Sau cuộc tấn công đầu tiên, các bên sử dụng C-130 thuộc một phần của Lực lượng đa quốc gia tại Iraq dùng những chiếc C-130 hỗ trợ cho các lực lượng tại Iraq.
Một chiếc C-130T nổi bật là Fat Albert, chiếc máy bay hỗ trợ cho đội bay biểu diễn Blue Angels của Hải quân Mỹ. Dù Fat Albert hỗ trợ cho một phi đội của hải quân, nó vẫn thuộc quyền điều hành của Thủy quân lục chiến và phi đội của nó chỉ toàn người của Thủy quân lục chiến. Tại một số triển lãm hàng không có sự tham gia của đội, Fat Albert thực hiện các chuyến bay biểu diễn và thỉnh thoảng cả khả năng cất cánh hỗ trợ phản lực (JATO) của mình.
Thiệt hại trong hoạt động
C-130 nói chung là loại máy bay có độ tin cậy cao. Không quân Hoàng gia ghi nhận tỷ lệ tai nạn khoảng một chiếc trên 250.000 giờ bay trong bốn mươi năm qua, khiến nó trở thành một trong những loại máy bay an toàn nhất từng hoạt động (cùng với Vickers VC10 và Lockheed Tristar là hai loại chưa từng gặp tai nạn nào). Hôm 20/5/2009 xảy ra vụ tai nạn kinh hoàng đối với máy bay vận tải Hercules C130 tại Madiun, phía Đông Java, Indonesia đã làm 101 người thiệt mạng.
Tuy nhiên, hơn 15% số máy bay chế tạo đã mất, bao gồm 55 chiếc C-130, 4 chiếc KC-130 và 6 chiếc AC-130 của Không lực Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ khi hoạt động chiến đấu tại Việt Nam. Ngoài ra, 32 chiếc C-130 mà Mỹ viện trợ cho Không quân VNCH cũng bị phá hủy hoặc bị thu giữ. Tổng cộng Mỹ bị mất 97 chiếc thuộc mọi phiên bản ở Việt Nam.
Biến thể
Các biến thể quân sự đáng chú ý của C-130 bao gồm:
C-130A/B/E/F/G/H/K/T
Các kiểu vận tải chiến thuật
C-130J Super Hercules
Cầu hàng không chiến thuật, với hệ thống nâng cấp, động cơ và hệ thống điện tử mới
C-130K
Tên định danh cho máy bay Hercules C1/W2/C3 của Không quân Hoàng gia (C-130J thuộc RAF có tên gọi Hercules C.4 và Hercules C.5)
AC-130A/E/H/J/U/W
Phiên bản gunship
C-130D/D-6
Phiên bản phiên bản trang bị ván trượt hoạt động trong điều kiện băng tuyết của Không quân Hoa Kỳ / Không quân Vệ binh quốc gia
CC-130E/H/J Hercules
Định danh cho máy bay Hercules của Canada
DC-130A/E/H
Máy bay không người lái có điều khiển
EC-130
EC-130E/J Commando Solo – Phiên bản dùng cho các chiến dịch tâm lý chiến của Không quân Hoa Kỳ / Không quân Vệ binh quốc gia
EC-130E – Phiên bản Trung tâm Điều khiển và Chỉ huy Chiến trường trên không (ABCCC)
EC-130E Rivet Rider – Máy bay tác chiến tâm lý trên không
EC-130H Compass Call – Máy bay tấn công điện tử và tác chiến điện tử.
EC-130V – Phiên bản chỉ huy và cảnh báo sớm trên không (AEW&C) dành cho USCG dành cho các chiến dịch chống ma túy
GC-130
Permanently Grounded "Static Display"
HC-130
HC-130B/E/H – Model đầu dành cho tìm kiếm cứu nạn trên chiến trường
HC-130P/N Combat King – Phiên bản tìm kiếm cứu nạn trên chiến trường và tiếp liệu trên không của USAF
HC-130J Combat King II – Thế hệ tiếp theo của loại tìm kiếm cứu nạn trên chiến trường
HC-130H/J – Tìm kiếm cứu nạn trên chiến trường và giám sát tầm xa của USCG
JC-130
Phiên bản hoán cải tạm thời cho các hoạt động thử nghiệm bay
KC-130F/R/T/J
Phiên bản vận tải chiến thuật và tiếp liệu trên không của thủy quân lục chiến Mỹ
LC-130F/H/R
Phiên bản trang bị ván trượt để hoạt động ở vùng cực của Không quân Hoa Kỳ / Không quân Vệ binh quốc gia
MC-130
MC-130E/H Combat Talon I/II – Biến thể dành cho các Chiến dịch đặc biệt
MC-130W Combat Spear/Dragon Spear – Phiên bản chở dầu/gunship cho các chiến dịch đặc biệt
MC-130P Combat Shadow – Phiên bản chở dầu cho các chiến dịch đặc biệt
MC-130J Commando II (trước là Combat Shadow II) – Phiên bản chở dầu cho các chiến dịch đặc biệt thuộc Bộ chỉ huy các chiến dịch đặc biệt không quân
YMC-130H – Phiên bản sửa đổi cho chiến dịch giải cứu con tin tại Iran.
NC-130
Chuyển đổi cho hoạt động thử nghiệm
PC-130/C-130-MP
Tuần tra biển
RC-130A/S
Phiên bản trinh sát
SC-130
Tìm kiếm cứu nạn
TC-130
Huấn luyện
VC-130H
Chở VIP
WC-130A/B/E/H/J
Trinh sát thời tiết ("Hurricane Hunter") cho USAF / Bộ chỉ huy không quân dự bị
Bên sử dụng
Những chiếc còn lại
AC-130A USAF 53-3129, c.n. 3001
Chiếc Hercules đầu tiên chế tạo, được chuyển đổi theo cấu hình vũ trang hạng nặng tháng 11 năm 1967, sống sót sau khi dính đạn phòng không 37 mm trên bầu trời miền Nam Việt Nam tháng 3 năm 1973, đã được sửa chữa, và cuối cùng được Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 711 cho nghỉ hưu năm 1995 để trưng bày tại Bảo tàng Vũ khí Không quân, Eglin AFB, Florida. Được đặt tên "Đệ Nhất phu nhân" từ tháng 11 năm 1970.
AC-130A USAF 54-1623, c.n. 3010
Được chuyển đổi thành AC-130A bởi Ling-Temco-Vought tháng 3 năm 1968, các chiến dịch tại Đông Nam Á, được đặt tên "Ghost Rider", sau đó hoạt động trong Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 711, 1975-1997. Được cho nghỉ tại Dobbins AFB, Georgia, tháng 4 năm 1997. Cuối cùng được chuyển tới bảo tàng của Lockheed tại Marietta, Georgia.
AC-130A USAF 54-1626, c.n. 3013
Nguyên mẫu AC-130A nâng cấp, hoạt động tại Đông Nam Á trong biên chế Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 16, 1967-1972, sau đó chuyển thành cấu hình thử nghiệm JC-130A. Chuyển tới Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ, Dayton, Ohio với tên gọi JC-130A năm 1976. Chuyển đổi lại theo cấu hình AC-130A cuối thập niên 1990.
AC-130A USAF 54-1630, c.n. 3017
Máy bay vận tải thuộc 314 TCW, sau đó chuyển tới Trung tâm Thử nghiệm Tên lửa Không quân, Căn cứ Không quân Hanscom, tháng 2 năm 1960, sau đó chuyển đổi thành JC-130A. Chuyển lại thành C-130A, tháng 11 năm 1967. Được Ling-Temco-Vought chuyển đổi thành AC-130A, tháng 1 năm 1968, hoạt động trong Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 16, được đặt tên "Mors de Coelis", sau đó "Azrael - Angel of Death". Chuyển cho 415 SOTS, Hurlburt Field, Florida, tháng 8 năm 1971, sau đó cho 711 SOS, Duke Field, Florida, tháng 11 năm 1975, vẫn giữ tên "Azrael" cho tới khi ngừng hoạt động tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ 29 tháng 9 năm 1995.
AC-130A USAF 56-0509, c.n. 3117
Máy bay vận tải thuộc 314 TCW, 315 CN, 374 TCW; chuyển cho Ling-Temco-Vought, tháng 8 năm 1970, và chuyển đổi thành AC-130A. Hoạt động trong Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 1; bị hư hại tại An Lộc, miền Nam Việt Nam ngày 23 tháng 12 năm 1972; được đặt tên "Raids Kill 'Em Dead", tháng 10 năm 1974, chuyển cho Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 711, tháng 7 năm 1975, được đặt tên "Ultimate End", tháng 4 năm, 1994; được nhượng lại cho Hurlburt Field, Florida, tháng 10 năm 1994, và nghỉ hưu tại khu trưng bày Air Commando, tháng 5 năm 1995.
C-130A USAF 57-0453, c.n. 3160
Được giao nhiều nhiệm vụ vận tải từ 1958 tới 1991, nhiệm vụ cuối cùng với 155th TAS, 164th TAG, Memphis International Airport, Tennessee, 1976-1991, được đặt tên "Nite Train to Memphis"; chuyển cho AMARC tháng 9 năm 1991, sau đó được gửi tới Texas để chuyển đổi thành bản sao của C-130A-II 56-0528, bị máy bay chiến đấu Nga bắn hạ trên không phận Yerevan, Armenia ngày 2 tháng 9 năm 1958, khi đang thực hiện nhiệm vụ ELINT, toàn bộ phi hành đoàn thiệt mạng. Hiện được trưng bày tại National Vigilance Park, vùng đất thuộc Cơ quan An ninh Quốc gia, Fort George Meade, Maryland. Cánh quạt ba lá sau này được đổi thành kiểu bốn lá.
KC-130F USMC BuNo 149798, c.n. 3680
Được sử dụng trong các cuộc thử nghiệm cất hạ cánh trên tàu sân bay USS Forrestal tháng 10-11 năm 1963 bởi Hải quân Mỹ, nó vẫn giữ kỷ lục là chiếc máy bay lớn nhất cất cánh từ boong một tàu sân bay, và được đặt tên "Look Ma, No Hook" trong các cuộc thử nghiệm. Nghỉ hưu tại Bảo tàng Hàng không Hải quân Quốc gia, NAS Pensacola, Florida tháng 5 năm 2003.
C-130G USMC BuNo 151891, c.n. 3878
Được chuyển đổi thành EC-130G, 1966, sau đó thành máy bay thử nghiệm EC-130Q năm 1981. Thành TC-130G tháng 5 năm 1990 và được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho đội Blue Angels, hoạt động trong "Fat Albert Airlines" từ 1991 tới 2002. Nghỉ hưu tại Bảo tàng Không quân Hải quân Quốc gia tại NAS Pensacola, Florida, tháng 11 năm 2002.
C-130H 460, c.n. 4566
Thuộc quyền điều hành của Phi đội 4 Không quân Hoàng gia Saudi, tháng 12 năm 1974, tháng 1 năm 1987. Bị cháy trên mặt đất tại sân bay Jeddah, Ả Rập Xê Út, tháng 12 năm 1989. Được phục hồi để huấn luyện mặt đất tháng 8 năm 1993, tháng 3 năm 2002. Tại Bảo tàng Căn cứ Không quân Riyadh, tháng 11 2002, được phục hồi để trưng bày.
C-130H USAF 74-1686, c.n. 4669
Máy bay vận tải thuộc 463 TAW; một trong ba bộ khung chiếc C-130H đã được chuyển đổi thành YMC-130H trong nỗ lực giải cứu các con tin ở Iran, Chiến dịch Credible Sport với rocket trang bị phía trong, nhưng sau này đã bị tháo ra khi chiến dịch bị hủy bỏ. Sau đó hoạt động trong 4950th Test Wing, rồi được tặng cho bảo tàng Robins AFB, Georgia, tháng 3 năm 1988.
Đặc điểm kỹ thuật (C-130H)
Đặc điểm chung
Phi hành đoàn 4-6 người: ít nhất 2 phi công, một kỹ sư máy (không có trên biến thể J, được thay thế bằng chỉ huy phi đội, 1 loadmaster; ngoài ra hoa tiêu cũng thường có mặt trong phi đội
Sức chở
92 hành khách hay
64 lính nhảy dù hay
74 bệnh nhân nằm giường với 2 nhân viên y tế
Trọng tải: 45.000 lb (20.000 kg), ngoài ra còn có thể là 2-3 xe Humvees hay một Xe bọc thép chở quân M113
Chiều dài: 97 ft 9 in (29.8 m)
Sải cánh: 132 ft 7 in (40.4 m)
Chiều cao: 38 ft 3 in (11.6 m)
Diện tích cánh: 1.745 ft² (162.1 m²)
Trọng lượng rỗng: 83.000 lb (38.000 kg)
Trọng lượng chất tải: ()
Trọng tải hữu ích: 72.000 lb (33.000 kg)
Trọng lượng cất cánh tối đa: 155.000 lb (70.300 kg)
Động cơ: 4 động cơ phản lực cánh quạt Allison T56-A-15, 4.300 shp (3.210 kW) mỗi chiếc
Đặc điểm bay
Tốc độ tối đa: 329 knots (379 mph, 610 km/h)
Tốc độ tiết kiệm nhiên liệu: 292 knots (336 mph, 540 km/h)
Tầm hoạt động: 2.050 nm (2.360 mi, 3.800 km)
Trần bay: 33.000 ft (10.000 m)
Tốc độ bay lên: ()
Áp lực lên cánh: ()
Lực đẩy/Trọng lượng: ()
Tai nạn
Những năm 1960 về trước
Ngày 19 tháng 9 năm 1958, một chiếc C-130A đã rơi tại Pháp sau khi đâm phải máy bay tiêm kích, có khoảng 6-15 người đã thiệt mạng.
Ngày 20 tháng 5 năm 1959, một chiếc C-130A đã đâm vào một doanh trại tại vùng Ashiya Nhật khiến 1 phi công chết 8 người dưới đất thiệt mạng.
Ngày 27 tháng 5 năm 1961, một chiếc C-130A đã bị rơi khi hạ cánh tại sân bay Ramstein vì một động cơ chết máy.
Tháng 10 năm 1961, cánh của một chiếc C-130AB đã bị phá hủy khi đang tiếp nhiên liệu tại Evreux, Pháp khi nhiên liệu bị nổ.
Ngày 8 tháng 3 năm 1962, một chiếc C-130A đã rơi vì thời tiết xấu khiến 15 người thiệt mạng tại Evreux, Pháp.
Ngày 17 tháng 5 năm 1962, một chiếc C-130A đã đâm vào núi vì thời tiết xấu tại Nairobi, Kenya làm 13 người thiệt mạng.
Ngày 26 tháng 11 năm 1962, một chiếc C-130A đã rơi tai căn cứ không quân Sewart Hoa Kỳ sau khi hai động cơ bị tắt trong huấn luyện làm 5 người chết.
Ngày 27 tháng 8 năm 1963, một chiếc C-130A bị thiêu rụi khi đang tiếp nhiên liệu tại Okinawa.
Ngày 02 tháng 5 năm 1964, một chiếc C-130A đã rơi do đi lố đường băng tại đảo Ie Shima, Nhật Bản.
Ngày 01 tháng 9 năm 1964, một chiếc C-130B đã rơi tại eo biển Malacca, Malaysia làm 5 người thiệt mạng trong cuộc đối đầu Indonesia-Malaysia.
Ngày 11 tháng 1 năm 1965, hai chiếc C-130B đã bị phá hủy khi đang thử động cơ và đâm vào nhau tại sân bay Forbes, Kansas.
Ngày 25 tháng 3 năm 1965, một chiếc C-130E đã va vào sườn núi và rơi gần Alençon, Pháp làm 7 người thiệt mạng.
Ngày 24 tháng 4 năm 1965, một chiếc C-130A đã rơi do thời tiết xấu làm chết hai động cơ tại sân bay hoàng gia Thái Lan khiến 6 người thiệt mạng.
Ngày 24 tháng 8 năm 1965, một chiếc KC-130F đã rơi khi cất cánh tại sân bay Kai Tak, Hồng Kông làm 59 người chết.
Ngày 16 tháng 9 năm 1965, một chiếc C-130B đã rơi khi các động cơ bị cháy khi đang làm nhiệm vụ chở lính nhảy dù đến địa điểm, có năm người thiệt mạng.
Ngày 18 tháng 9 năm 1965, một chiếc C-130A đâm xuống nước khi đang hạ cánh tại Qui Nhơn, Việt Nam khiến 4 người chết và 3 bị thương.
Ngày 08 tháng 12 năm 1965, một chiếc C-130A bị chết máy khi cất cánh và đâm xuống Chu Lai, Việt Nam làm 5 người bị thương.
Ngày 12 tháng 12 năm 1965, một chiếc C-130A đã rơi khi cất cánh quá nhanh tại Bitburg, Đức làm 6 người thiệt mạng.
Ngày 20 tháng 12 năm 1965, một chiếc C-130E đã rơi khi đang đến Tuy Hòa, Việt Nam làm 5 người thiệt mạng.
Ngày 06 tháng 1 năm 1966, một chiếc C-130B đã rơi khi đang đến Pleiku, Việt Nam làm 5 người thiệt mạng.
Ngày 09 tháng 1 năm 1966, một chiếc C-130B đã rơi tại An Khê, Việt Nam tổ lái 5 người còn sống sót.
Ngày 01 tháng 2 năm 1966, một chiếc KC-130F đã rơi xuống biển Đồng Hới, Việt Nam với tổ bay 6 người không ai sống sót.
Ngày 20 tháng 3 năm 1966, một chiếc C-130B đã đâm xuống vùng Svanfjellet, Na Uy làm 7 người thiệt mạng.
Ngày 26 tháng 3 năm 1966, một chiếc C-130A đã rơi lúc hạ cánh do động cơ trục trặc, tổ bay sống sót nhưng máy bay không thể sửa chữa.
Ngày 29 tháng 3 năm 1966, một chiếc C-130B đã rơi do hạ cánh không đúng vị trí tại Pleiku, Việt Nam làm 3 người chết 2 người bị thương.
Ngày 31 tháng 5 năm 1966, một chiếc C-130E đang trên đường ném bom cầu Thanh Hóa, Việt Nam đã biến mất sau khi ghi nhận được một vụ nổ lớn ở các vùng lận cận và không bao giờ được tìm ra cùng tổ bay 8 người.
Ngày 17 tháng 6 năm 1966, một chiếc C-130E đã nổ tung trên không và rơi xuống biển khi đang bay từ Việt Nam đến Okinawa toàn bộ 8 người trên máy bay thiệt mạng.
Ngày 06 tháng 9 năm 1966, một chiếc C-130E đã đâm vào núi tại Đài Loan, 8 người trên máy bay thiệt mạng.
Ngày 12 tháng 10 năm 1966, một chiếc C-130E đã rơi xuống đất vào ban đêm tại Texas, chỉ có một trong 6 người là sống sót.
Ngày 25 tháng 10 năm 1966, một chiếc C-130B đã rơi khi chạy lố đường băng tại Fort Campbell, Kentucky.
Ngày 17 tháng 2 năm 1967, một chiếc C-130B đã rơi khi đang cất cánh do cánh nâng bị hỏng và đâm xuống ruộng tại Tây Ninh, Việt Nam 5 người trên máy bay sống sót.
Ngày 16 tháng 4 năm 1967, một chiếc C-130B đã rơi khi hạ cánh tại Bảo Lộc, Việt Nam máy bay không giảm đủ tốc độ và đâm vào một ngọn đồi gần đó, 3/6 người trên máy bay thiệt mạng.
Ngày 18 tháng 4 năm 1967, một chiếc C-130E đã rơi sau khi bị sét đánh tại Zarand, Iran làm 23 người chết.
Ngày 27 tháng 4 năm 1967, một chiếc CC-130E đã rơi xuống cánh đồng sau khi cửa khoang chứa hàng bị bung ra khi đang bay tại North Battleford.
Ngày 27 tháng 4 năm 1967, một chiếc CC-130E đã rơi sau khi cất cánh, lý do không rõ nhưng có thể do cánh nâng bị hỏng.
Ngày 09 tháng 6 năm 1967, một chiếc C-130B đã bị bể và rơi gần Sài Gòn, Việt Nam không ai sống sót trong 10 người trên máy bay.
Ngày 17 tháng 6 năm 1967, một chiếc C-130B đã bị rơi khi trượt xuống một bờ kè và bốc cháy lúc cất cánh tại căn cứ Camp Radcliff, An Khê, Việt Nam 35/56 người trên máy bay thiệt mạng.
Ngày 22 tháng 6 năm 1967, một chiếc C-130E đã bị gãy cánh khi hạ cánh xuống Pope Field tại Fayetteville.
Ngày 08 tháng 10 năm 1967, một chiếc C-130B đã đâm vào núi cách sân bay Phú Bài, Huế, Việt Nam 25 km làm 23 người thiệt mạng.
Ngày 12 tháng 10 năm 1967, một chiếc C-130A đã rơi lúc cất cánh khi nó va vào một cái xe xúc cuối đường băng, 4 người trên máy bay sống sót nhưng người lái xe xúc thiệt mạng.
Ngày 15 tháng 10 năm 1967, một chiếc C-130E đã rơi tại căn cứ Khe Sanh, Việt Nam khi đang bay thấp để thả vật liệu xây dựng, 5/6 người trên máy bay thiệt mạng.
Ngày 29 tháng 12 năm 1967, một chiếc C-130E-I đã đâm vào núi gần Điện Biên Phủ, Việt Nam khi làm nhiệm vụ mang hàng tiếp tế, 11 người trên máy bay thiệt mạng.
Ngày 10 tháng 2 năm 1968, một chiếc KC-130F làm nhiệm vụ tiếp nhiên liệu và đạn dược đã rơi khi hạ cánh xuống Khe Sanh, Việt Nam 3/11 người trên máy bay sống sót.
Ngày 02 tháng 3 năm 1968, một chiếc C-130A đã rơi khi hạ cánh về đêm trong thời tiết xấu tại sân bay Phú Bài, Việt Nam 6/11 người thiệt mạng.
Ngày 03 tháng 3 năm 1968, một chiếc C-130E đã rơi tại Cam Ranh, Việt Nam khi hệ thống điện tử bị chập mạch, 6 người trên máy bay sống sót.
Ngày 13 tháng 4 năm 1968, một chiếc C-130B đã rơi tại Khe Sanh, Việt Nam lúc hạ cánh do trượt ra khỏi đường băng và đâm vào hàng loạt phương tiện dưới đất làm 1 người dưới đất thiệt mạng.
Ngày 16 tháng 4 năm 1968, một chiếc C-130A đã rơi do hạ cánh quá nhanh tại Biên Hòa, Việt Nam vì tầm nhìn hạn chế do bụi từ phi đội trực thăng đang hoạt động dưới đất thổi trên, không ai thiệt mạng.
Ngày 15 tháng 5 năm 1968, một chiếc C-130E đã rơi tại Sông Bé, Việt Nam vì bị chết máy, 7 người trên máy bay sống sót.
Ngày 22 tháng 5 năm 1968, một chiếc C-130A đã rơi gần Nong Muang, Thái Lan trong chuyến đi tuần từ Sài Gòn, 9 người trên máy bay thiệt mạng.
Ngày 19 tháng 10 năm 1968, một chiếc C-130E đã đâm vào núi gần Akhisar, Thổ Nhĩ Kỳ là 9 người thiệt mạng.
Ngày 28 tháng 11 năm 1968, một chiếc C-130B đã rơi khi hạ cánh do chạy lố đường băng tại căn cứ Tonle Cham, An Lộc.
Ngày 01 tháng 1 năm 1969, một chiếc C-130E đã rơi tại sân bay Paris-Le Bourget, Pháp, 6 người trên máy bay sống sót.
Ngày 04 tháng 2 năm 1969, một chiếc HC-130H đã rơi xuống biển ngoài khơi Đài Loan, 1/14 người trên máy bay sống sót.
Ngày 08 tháng 3 năm 1969, một chiếc C-130E đã rơi khi hạ cánh tại sân bay Đài Trung, Đài Loan, không ai trong 12 người trên máy bay sống sót.
Ngày 24 tháng 3 năm 1969, một chiếc Hercules C.1 đã rơi khi cất cánh tại Fairford, Gloucestershire, Anh do động cơ ngừng hoạt động, giết chết cả sáu người trên máy bay. |
Thực vật có thể được nhắc tới với một trong các nghĩa sau:
Thực vật
Thực vật học
Hệ thần kinh thực vật
Người thực vật |
Thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân (tiếng Anh: Hue massacre) là một sự kiện trong Chiến tranh Việt Nam khi nhiều ngôi mộ tập thể chôn tử thi trong chiến trận Huế được phát hiện. Việc phát hiện hố chôn xảy ra khi Quân đội Nhân dân Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và đóng ở Huế một tháng, sau đó bị triệt thoái trước sự phản công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ.
Cho đến nay, tài liệu từ cả phía Việt Nam và Mỹ vẫn quy trách nhiệm cho nhau về nguyên nhân và tính xác thực của sự kiện này. Trong khi đó, phía phản đối chiến tranh (như Gareth Porter) và nhiều học giả phương Tây khẳng định rằng số lượng và hoàn cảnh của những người bị giết đã bị phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa khuếch đại, ngụy tạo nhằm phục vụ mục đích tuyên truyền trong chiến tranh. Nguồn từ phía quân Giải phóng thì ghi nhận họ đã chôn nhiều thường dân chết do hỏa lực hạng nặng của Mỹ cùng với binh sĩ tử trận của họ. Ngoài ra cũng có nhiều nguồn tin khác cho rằng số người chết ở Huế trong chiến dịch này là do hỏa lực trong nỗ lực tái chiếm địa bàn của Mỹ cùng sự trả thù của phía Việt Nam Cộng hòa lên những người ủng hộ quân Giải phóng.
Bối cảnh
Sáng sớm ngày 31 tháng 1 năm 1968, trong dịp Tết Nguyên Đán, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng lúc tấn công bất thình lình tại nhiều thành phố và địa phương trên miền Nam Việt Nam - trong đó có Sài Gòn và Huế. Sau các thành công quân sự ban đầu, họ bị đối phương áp đảo và đẩy lui khắp nơi, trừ Huế. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân tuy được xem là một thất bại chiến thuật nhưng lại là một chiến thắng có tầm vóc lớn về chiến lược.
Với mục đích giành giật chủ quyền tại Huế, trận chiến 28 ngày giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã diễn ra và kết quả là 40% thành phố bị phá hủy, 116.000 người mất nhà ở. Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chịu khoảng 4.400 lính thương vong, trong khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng tổn thất trên 4.000 quân. Cũng trong cuộc tái chiếm này, quân đội Mỹ đã sử dụng tối đa vũ khí hạng nặng như bom napalm, đại bác, pháo xe tăng và súng không giật cỡ lớn. Trong số 17.134 ngôi nhà tại Huế, 9.776 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn, 3.169 bị hư hỏng nặng; số thường dân thiệt mạng theo ước tính đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa là 3.776 người. Tài liệu Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cho biết họ đã chôn cất khoảng 2.000 nạn nhân do bom đạn tại các khu mộ tập thể cùng với binh sĩ tử trận của chính họ.
Số liệu về các hố chôn tập thể
Trong những tháng và những năm tiếp theo sau Trận Mậu Thân tại Huế, bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 1968, và kéo dài tổng cộng 26 ngày, hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Nạn nhân bao gồm phụ nữ, nam giới, trẻ em và trẻ sơ sinh. Số liệu từ các nguồn khác nhau có sự không thống nhất.
Theo Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu VNCH khu vực Thừa Thiên, trong 22 địa điểm tìm được các mồ chôn tập thể, người ta đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, các gia đình kê khai có người chết hoặc mất tích là 4.000 gia đình. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân được họ xác định là đã bị mất tích, bắt cóc hoặc bị giết. Theo các báo cáo của Việt Nam Cộng Hòa, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buộc, bị tra tấn và đôi khi bị chôn sống<ref>Kendrick Oliver, The My Lai Massacre in American History and Memory (Manchester University Press, 2006), p. 27.</ref>Pierre Journod, "La France, les États-Unis et la guerre du Vietnam: l'année 1968", in Les relations franco-américaines au XX siècle, edited by Pierre Melandri and Serge Ricard (L'Harmattan, 2003), p. 176.. Võ Văn Bằng, quan chức VNCH, Trưởng ban Cải táng nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008: "Các hố cách nhau. Mỗi hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, người thì nằm, người thì ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…"
Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên Cục Tâm lý chiến của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970:
"Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích
Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
Nạn nhân trong những ngôi mộ tập thể:
1.173 - số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968
809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969
428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969
300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969
100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)"
Theo soạn giả Matthew White ghi lại trong cuốn sách "Tàn khốc: 100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại" thì vụ thảm sát ở Huế năm 1968 được ông trích dẫn từ các nguồn khác nhau cho rằng đã có 2.800 người chết và 3.000 người mất tích.
Mark Woodruff ghi rằng một bản báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi đã "loại khỏi vòng chiến đấu 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại uý, 1 trung uý, 20 thiếu uý và nhiều sĩ quan trừ bị…" trong trận đánh ở Huế, tuy nhiên "loại khỏi vòng chiến đấu" là một khái niệm khá rộng (từ chết, bị thương, đầu hàng cho tới bắt làm tù binh).
Hãng AFP thì đưa tin về nguyên nhân có những hố chôn tập thể tại Huế: "Trong các trận đánh hàng nghìn quân nhân đã bị giết. Quân đội Hoa Kỳ và quân chính phủ (Sài Gòn) phải chôn những binh lính chết của họ bất kỳ nơi nào và lúc nào có thể được. Còn lính dù Nam Việt Nam thì được chôn xác ngay trên trận địa"Theo Gareth Porter, một học giả Mỹ, các ước lượng ban đầu của Bộ Di dân và An sinh Xã hội Việt Nam Cộng hòa, số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776, trên tổng số dân thường bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người, chứ không phải các con số 944 và 7.600 do Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa ra. (Các con số 944 và 7.600 này đã được Pike Douglas dùng trong thống kê của mình.)
Về các con số cụ thể tại các địa điểm khai quật, Gareth Porter viết:"...tại địa điểm trường trung học Gia Hội, báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, đưa ra tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với bình quân 9 tử thi mỗi mộ. Nhưng khi Steward Harris [phóng viên Thời báo Luân Đôn] được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150. Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22), con số này còn làm giảm tổng số hơn nữa."Gareth Porter cũng dẫn lời kể của Alje Vennema, một bác sĩ làm việc cho một đội y tế Canada tại bệnh viện Quảng Ngãi và đã tình cờ có mặt tại Bệnh viện Huế trong thời gian xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân, nói tổng số tử thi tại bốn địa điểm chính được phát hiện ngay sau Tết là 68, chứ không phải con số 477 như đã được tuyên bố chính thức, và hầu hết tử thi có dấu vết quân phục.
Các quan điểm
Có nhiều quan điểm trái ngược nhau về sự thật vụ Thảm sát Huế Tết Mậu Thân.
Thành viên Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Theo phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhân vật chủ soái trong việc tuyên truyền và thổi phồng, thậm chí xuyên tạc và bịa đặt những số liệu liên quan tới thảm sát Mậu Thân là Liên Thành, trước đây là Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên - Huế.
Trương Như Tảng
Theo hồi ký của Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), thì trong khi đóng quân tại Huế, một số người đã bị tử trận vì thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân...) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia chiến trận. Ông dẫn lời "một người bạn" rằng do kỷ luật kém ở một số đơn vị, một số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ giết hại vô cớ, nhưng những vụ việc này diễn ra lẻ tẻ, tự phát chứ không phải là có chủ đích.
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người viết lời hiệu triệu kêu gọi nhân dân Huế nổi dậy, ông bị đối phương coi là 1 những người trực tiếp chỉ đạo của "vụ thảm sát". Tuy nhiên, ông khẳng định: trong thời gian diễn ra trận đánh, ông và các cán bộ khác trú tại Sở chỉ huy tiền phương tại phía tây Huế chứ không hề vào thành. Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân, cựu chiến binh quân Giải phóng, cũng khẳng định: Suốt thời gian chiến dịch diễn ra, Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn ở tại địa đạo Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà chứ không hề bước chân về chiến trường Huế, tất cả những "thông tin" nói ông Tường làm việc này việc nọ ở Huế trong những ngày tết Mậu Thân 1968 đều là bịa đặt.
Tuy nhiên, trong cuộc phỏng vấn với đài PBS năm 1982, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng mình có mặt tại Huế trong thời gian đó. Ông nói:
Năm 2008, nhân kỷ niệm 40 năm trận đánh, Hoàng Phủ Ngọc Tường cho biết thêm:
Hoàng Phủ Ngọc Phan
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan là em ruột là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông cho biết mình đã phải chịu tiếng oan bởi sự rêu rao của bộ máy tuyên truyền Việt Nam Cộng hòa. Ông bày tỏ:
Lê Minh
Theo Lê Minh, Tư lệnh chiến dịch toàn Khu Trị Thiên Huế, là Bí thư Thành ủy Huế trong Tết Mậu Thân, viết trong hồi ký xuất bản năm 1988, thì phần lớn thường dân chết là do bị trúng bom Mỹ ném ồ ạt xuống thành phố, chỉ có một số nhỏ bị giết là do thường dân nổi dậy trả thù những người mà họ căm ghétHuế - Xuân 68, trang 75-76, Thành ủy Huế, 1988:
Nguyễn Trung Chính
Theo ông Nguyễn Trung Chính, Phó bí thư thường trực tỉnh Thừa Thiên - Huế, nguyên Bí thư quận 1 - Huế năm 1968 nói:
Thành viên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu
Theo lời cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, nguyên Chính ủy Trung đoàn 9 tại Huế năm 1968, kể sau ngày về hưu:
Bùi Tín
Bùi Tín, một nhà bất đồng chính kiến với nhà nước Việt Nam, trong hồi ký về giai đoạn còn ở Việt Nam, ông kể rằng mình đã hỏi nhiều sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào trận đánh ở Huế. Ông đi đến kết luậnMây mù thế kỷ, Phần 1: Nhìn lại cuộc chiến tranh, Bùi Tín, Nhà xuất bản Đa Nguyên:
Nguồn khác của Việt Nam
Nguyễn Đắc Xuân
Theo nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân, cuộc thảm sát Mậu thân là sản phẩm tưởng tượng của một cuộc tâm lý chiến. Ông cho rằng kết cục tại Huế đã cho thấy một thất bại của Mỹ khi để quân đội chủ quan dẫn đến việc Mỹ buộc phải sử dụng không quân và hỏa lực cực mạnh để tàn phá nhiều khu phố, giết hại nhiều thường dân theo đúng mô-típ họ đã làm ở Bến Tre rằng muốn cứu lấy thành phố này, chỉ có cách phá hủy nó. Để rồi, khi kết thúc trận chiến, họ phải dựng lên cái gọi là một cuộc thảm sát để khỏa lấp thất bại đó cũng như đánh lừa dư luận.
Lê Phong Lan
Đạo diễn Lê Phong Lan đã bỏ 10 năm để tìm kiếm, gặp gỡ phỏng vấn để làm 12 tập phim tài liệu về chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Lý do quan trọng thôi thúc đạo diễn Lê Phong Lan thực hiện bộ phim là sau khi trò chuyện với thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, ông nói: "Suốt một thời gian dài, đã có những thông tin sai về sự kiện Mậu Thân 1968. Trong khi chúng ta lại không hề lên tiếng".
Bà đã gặp gỡ cả những người lính và cả những người chỉ huy ở cả hai chiến tuyến. Ở cấp chỉ huy, ở cấp lính, mỗi người đều có cái nhìn khác nhau. Và với những gì tìm được, bà cho biết: "Tôi đã gặp những nhà báo Mỹ, những người lính bên kia chiến tuyến, họ đã nói, tất cả những thông tin về vụ thảm sát năm 1968 tại Huế chỉ là sự vu cáo của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa đổ lên đầu Quân Giải phóng miền Nam. Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng nề, phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến tranh tâm lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự thật là sự thật. Chiến dịch Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản anh hùng ca vĩ đại của quân dân Việt Nam".
Trong phim Mậu Thân 1968, đoàn làm phim đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu - người chỉ huy một Trung đoàn trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, nhà sử học Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ Washington Post là Don Lux, giáo sư sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai phía. Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó, cái gọi là "cuộc thảm sát" chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế bom Mỹ đã làm nhiều thường dân chết lẫn lộn cùng với quân lính 2 bên. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa tuyên bố. Điều này đặt câu hỏi về việc tại sao Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa sau khi tái chiếm được Huế đã không cho các phóng viên tới hiện trường để điều tra viết bài về sự kiện chấn động này, trong khi nếu sự việc có thật thì lẽ ra họ phải tận dụng vì đây sẽ là cơ hội tuyên truyền rất tốt cho họ.
Quân đội Hoa Kỳ
Tướng William Westmoreland
Trong hồi ký, tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam, đại tướng William Westmoreland công nhận rằng pháo binh, máy bay Mỹ khi đánh trượt mục tiêu quân sự đã khiến nhiều nhà dân bị tàn phá và gây nhiều thương vong cho thường dân:Lúc trận đánh bắt đầu, quân Việt Nam (Sài Gòn) và lính thủy đánh bộ (Mỹ) định chiến đấu không dùng xe tăng, pháo binh và không quân yểm trợ vì muốn bảo vệ thành phố giàu di sản này, nhưng vì địch bám giữ một cách dai dẳng nên cứ theo cách đó thì mất quá nhiều sinh mạng binh lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Thiệu bèn cho phép dùng bất kỳ phương tiện nào cần thiết để lấy thành phố Huế. Sự tàn phá không tránh khỏi đã xảy ra!...".
Sĩ quan Douglas Pike
Theo sĩ quan Cục Tâm lý chiến Hoa Kỳ là Douglas Pike thì có 3 giai đoạn đưa đến những vụ xử tử.
Nhiều tác giả sử dụng báo cáo của Pike, trong khi nhiều người khác thì phủ nhận, cho rằng đây là một chiêu bài tuyên truyền của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa để tạo hỗ trợ cho sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Trong những thời gian đầu cuộc chiến, nhiều phóng viên chiến trường phải viết phóng sự tuân theo một quy định áp đặt từ chính phủ Hoa Kỳ.
Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ
Marilyn B. Young
Marilyn B. Young trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990 ghi lại:
"Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ... khi trận chiến gần kết thúc bởi những cuộc pháo kích của Mỹ, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay cố giữ lại làm tù binh - với con số người chết vào khoảng 300-400, không nhiều như chính phủ Sài gòn và Washington công bố, nhưng cũng đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế..."
Gareth Porter
Về sau có khảo cứu của Gareth Porter về vụ thảm sát Huế, trong đó, ông chỉ trích những phóng đại tuyên truyền từ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, vốn bắt nguồn từ các báo cáo của Tiểu đoàn Tâm lý chiến số 10) và Cục Tâm lý chiến Mỹ về các hố chôn tập thể.
Ông nói các thông tin về cái gọi là đàn áp tôn giáo là thiếu chính xác, cũng như việc các cơ quan Hoa Kỳ đã hiểu sai từ ngữ trong các tài liệu thu được của đối phương đã dẫn tới những kết luận vô căn cứ Porter cũng nêu là tại khu Gia Hội, nơi quân Giải phóng đã kiểm soát trong 26 ngày, một linh mục Công giáo nói với ký giả Len Ackland rằng không có một ai trong số các giáo dân của ông bị hại.
Ông đã nêu ra các nguồn gốc không xác thực của những thông tin về vụ "thảm sát" khi chính quyền Sài Gòn không cho phép bất kỳ phóng viên nào xem các địa điểm có mộ hay các tử thi; sự không rõ ràng trong việc điều tra tại thực địa các ngôi mộ tập thể; những mâu thuẫn trong các báo cáo về số lượng tử thi tìm thấy; những mâu thuẫn với kết quả tìm hiểu của một bác sĩ y khoa làm việc tại Huế lúc đó; một số chi tiết đáng chú ý xung quanh các cuộc khai quật vào năm 1969; những mâu thuẫn giữa bài viết của Douglas Pike với các nguồn thông tin khác, rằng "Bộ trưởng Y tế Trần Lưu Y, sau khi đi thăm các địa điểm chôn cất vào tháng 4 năm 1969, đã thông báo với Phó Tỉnh trưởng Thừa Thiên rằng các tử thi có thể là của những người lính Mặt trận Dân tộc Giải phóng bị chết trong các trận giao tranh"; những mâu thuẫn trong các lời khai của "người làm chứng" cho vụ thảm sát; và thêm vào đó là kết quả của những trận bom Mỹ tại Huế đã khiến rất nhiều thường dân thiệt mạng.
Gareth Porter cho biết rằng một người bác sĩ có mặt tại Huế vào thời điểm tìm thấy các mộ chôn, Alje Vennema, viết rằng "đối với các địa điểm trong khu lăng vua, hầu hết các tử thi có dấu vết của quân phục". Vennema đã hỏi chuyện các dân làng gần đó, họ nói rằng trong các ngày 21 đến 26 tháng 2 khu vực trung gian đã bị bom và pháo dữ dội. Và, trái với các tuyên bố của chính phủ rằng nhiều nạn nhân đã bị chôn sống tại đó, Vennema nói rằng tất cả các tử thi đều có các vết thương.
Trong kết luận của bài viết, Gareth Porter đồng ý rằng có những vụ giết người tại Huế trong giai đoạn chiến sự; tuy nhiên không có bằng chứng cụ thể về nguyên nhân của những cái chết."Các bằng chứng có được - không phải từ nguồn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, mà từ nguồn chính thức của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa và từ các quan sát viên độc lập - cho thấy rằng câu chuyện chính thức về một cuộc tàn sát bừa bãi đối với những người được cho là không thích hợp với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là hoàn toàn bịa đặt. Không chỉ số lượng các thi thể được tìm thấy trong và xung quanh Huế là đáng nghi vấn, mà quan trọng hơn, nguyên do của các cái chết có vẻ như là bị chuyển từ chính các trận đánh quân sự sang việc xử tử của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Và tường trình chi tiết nhất "có thẩm quyền" mà các chính phủ Mỹ hay Việt Nam Cộng hòa đưa ra về sự việc được cho là vụ thảm sát này đã không đứng vững trước các thẩm định."Noam Chomsky và Edward S. Herman
Noam Chomsky, nhà nghiên cứu chính trị và ngôn ngữ học người Mỹ, và Edward S. Herman, nhà kinh tế học người Mỹ, trong "Tài liệu về Kinh tế và Nhân quyền" tập 1, cho rằng vụ việc đã bị mô tả một cách sai lệch, bị thổi phồng, bị tô vẽ nhằm mục đích tuyên truyền. "Đó là những thường dân bị chết do những trận bom pháo Mỹ đã san bằng thành phố Huế. Rồi sau đó khi Mỹ và quân đội Sài Gòn phản kích trả thù lại thời kỳ hậu Mậu Thân cũng giết chóc rất nhiều. Thứ nữa là lực lượng quân Giải phóng đã tử trận trong lúc chiến đấu. Tất cả đều là người Việt với nhau và Mỹ tính gộp vào hết. Tất cả những điều đó được Mỹ dựng thành một vụ thảm sát tưởng tượng" Các căn cứ được nêu ra có thể tóm lược như sau:
Những tài liệu căn bản cho câu chuyện này gồm một bản báo cáo do chính phủ Sài Gòn đưa ra vào tháng 4/1968, một "tài liệu bắt được" và đã phổ biến trong công chúng của phái đoàn Hoa Kỳ vào tháng 11/1969, và một bài phân tích dài xuất bản năm 1970 của một nhân viên Phòng Thông tin "USIS" (Tâm lý chiến) là Douglas Pike. Cả hai bản báo cáo của Sài gòn và của Pike đã gây nên một sự nghi ngờ về nguồn tin, giọng điệu và vai trò của chúng trong một chiến dịch tuyên truyền mở rộng nhằm làm giảm đi ảnh hưởng của vụ thảm sát Mỹ Lai. Trong một phân tích cẩn thận về "tài liệu bắt được", Gareth Porter cho thấy bộ máy tuyên truyền của Mỹ đã cố tình nhập nhằng từ ngữ để đánh lừa. Cụm từ "loại bỏ" đã bị diễn giải thành "giết chết", mặc dù trong tiếng Việt từ này mang ý nghĩa rất rộng (giết chết, bị thương, bắt sống, đầu hàng hoặc bỏ trốn). Nhưng quan trọng hơn là những tài liệu này không được viết ngay khi sự việc diễn ra mà chỉ được viết ra nhiều tháng sau đó, và đã không có sự điều tra hay nghiên cứu tỉ mỉ để xác thực. Porter báo cáo rằng: không có tài liệu nào cho thấy rằng quân Giải phóng có ý định tàn sát dân thường hoặc ngay cả các chỉ huy của đối phương ở Huế. Chiến lược chung của quân Giải phóng chuyển tải trong các tài liệu đã bị bóp méo bởi Douglas Pike và cộng sự của mình.
Bằng chứng về các ngôi mộ tập thể cũng rất mơ hồ. Các con số này nhằm che lấp thực tế là đã có rất nhiều thường dân bị thiệt mạng khi quân Mỹ chiếm lại thành phố Huế bởi việc sử dụng hỏa lực mạnh một cách bừa bãi. Sau trận đánh 25 ngày, trong số 17.134 nhà thì 9.776 ngôi nhà đã hoàn toàn bị phá hủy và 3.169 ngôi nhà bị thiệt hại khá trầm trọng bởi bom đạn của Mỹ. David Douglas Duncan, phóng viên chiến trường, mô tả đó là "một sự nỗ lực dốc hết sức để loại bỏ bất cứ một kẻ địch nào. Tâm trí tôi bấn loạn trước cuộc tàn sát." Robert Shaplen viết về khi đó "Không có gì trong cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam khi nói về sự tàn phá, mà tôi thấy kinh hoàng bằng những điều tôi thấy được ở Huế năm ấy". Townsend Hoopes, người có quyền truy cập đặc biệt thông tin mật Bộ Quốc phòng, nói rằng các nỗ lực tái chiếm Huế đã khiến 80% các tòa nhà trở thành đống đổ nát, và rằng "trong đống đổ nát, khoảng 2.000 dân thường đã chết...". Quân Giải phóng cũng cho biết họ đã chôn cất khoảng 2.000 nạn nhân bị oanh tạc trong các ngôi mộ tập thể cùng binh sĩ tử trận của chính họ.
Một thông tin thú vị là việc các nhà báo độc lập không bao giờ được phép có mặt tại những cuộc khai quật mộ tập thể. Sự ước lượng về những nạn nhân của thảm sát tại Huế đã tăng vọt lên một cách đáng kể để đáp ứng lại với những nhu cầu chính trị bất ngờ đột xuất của chính quyền Nixon. Không có nhà báo phương Tây nào đã được dẫn đến những mồ chôn tập thể khi các hố chôn đó được khai quật cả. Ngược lại một nhà nhiếp ảnh người Pháp, Marc Riboud, đã nhiều lần bị từ chối yêu cầu muốn đi xem một trong số địa điểm nơi mà ông tỉnh trưởng tuyên bố "có 300 cán bộ chính phủ đã bị Việt cộng giết". Người của tổ chức AFSC tại Huế cũng không thể khẳng định bản báo cáo về những hố chôn tập thể, những nhà báo độc lập không hề được phép có mặt tại hiện trường và họ rất khó xác định chỗ chính xác nơi những hố chôn tập thể mặc dù đã nhiều lần yêu cầu được đến xem.
Một giả thuyết khác ít được nhắc tới, rằng những nạn nhân ở Huế là do quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trả thù khi tái chiếm thành phố. Nhiều người ủng hộ Mặt trận dân tộc đã lộ dạng trong suốt cuộc tổng tấn công, và đã hợp tác với chính quyền địa phương của những người cách mạng ở Huế, hoặc bầy tỏ sự ủng hộ của họ đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Khi quân giải phóng rút đi, nhiều cán bộ và những người ủng hộ quân Giải phóng bị kẹt lại và họ trở thành nạn nhân của những sự trả thù. Trong một bài mô tả, một nhà báo người Ý Oriana Fallaci, trích dẫn lời một linh mục Pháp ở Huế đã kết luận rằng: "Tất cả có khoảng 1.100 người bị giết (sau ngày quân Mỹ tái chiếm thành phố). Hầu hết là sinh viên, giảng viên, giáo sĩ. Những trí thức và người dân Huế đã không bao giờ che giấu cảm tình của họ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng".
Hai ông kết luận: Trong bất kỳ trường hợp nào, tình trạng rất lộn xộn về các sự kiện và bằng chứng, cộng với các "bằng chứng" không thuyết phục, ít ra cũng có thể nói rằng việc "tắm máu" tại Huế hiển nhiên đã được phóng đại. Nó có vẻ khá rõ ràng rằng bom đạn Mỹ nhằm "bảo vệ" Việt Nam đã giết nhiều thường dân hơn là do quân Giải phóng. Những ví dụ này, tất nhiên, không chỉ gợi lên một thực tế rằng các báo cáo chính thức của chính quyền Sài Gòn là dối trá và lừa bịp, và trong một số trường hợp đã được chuyển thành những câu chuyện hoang đường không có bằng chứng xác thực.
Các nguồn khác
Nhà báo Italy là Oriana Fallaci trong bút ký cho biết khoảng 1.100 người đã bị giết khi quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân Mỹ tái chiếm Huế, hầu hết người bị giết là giáo viên, giảng viên, sinh viên đại học, tu sĩ, trí thức và tín đồ tôn giáo. Nhà sử học Stanley Karnow cho rằng đã có nhiều thường dân bị xử tử bởi quân Việt Nam Cộng hòa và thi thể của họ đã bị chôn trong các hố tập thể.
Năm 1969, phóng viên Don Oberdorfer sang ở Huế 5 ngày với Paul Vogle, giáo sư dạy Anh Văn người Mỹ tại Đại học Huế, và phỏng vấn nhiều nhân chứng trong thời gian Huế bị quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đóng giữ. Năm 1971, trong cuốn sách "Tết!", Don Oberdorfer kể về trường hợp Phạm Văn Tường, một người gác cổng bán thời gian cho cvăn phòng thông tin chính phủ Huế, người đã nằm trong danh sách quân Giải phóng gọi là "phản động", đã bị bắt khi ẩn náu cùng gia đình của mình. Don Oberdorfer viết rằng ông ta với con gái 3 tuổi, con trai 5 tuổi và 2 cháu trai, tất cả họ bị bắn chết, bỏ lại xác trên đường phố để gia đình ông ta chứng kiến. Tuy không thể chứng minh câu chuyện này bằng nguồn tin nào khác, Oberdorfer báo cáo rằng hầu hết những người nam trên 15 tuổi trốn tránh trong một nhà thờ khu Phú Cam đều bị đưa đi. Khi Oberdorfer phỏng vấn Hồ Tý - một chỉ huy Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc tổng tấn công 1968 đã đào ngũ - ông này cho biết Đảng Lao động Việt Nam có lưu ý đặc biệt về khu Công giáo Phú Cam. Don Oberdorfer cũng dẫn một số nguồn tin thông báo rằng có những "đội trả thù" do Việt Nam Cộng hòa lập ra, chuyên săn lùng và xử tử những thường dân đã ủng hộ quân Giải phóng khi họ đóng ở Huế.
Nguyễn Công Minh, con gái của phó Quận trưởng quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị vào thời điểm đó, nói rằng cha cô, sắp về hưu, đã bị bắt tại nhà riêng khởi đầu cuộc tấn công. Sau khi ông nói với quân Giải phóng rằng ông là Phó Thị trưởng thành phố Huế sẽ được cho nghỉ hưu trong năm sau (1969), ông được lệnh phải trình diện ở khu cải tạo. Hai ngày đầu, ông được cho về nhà sau khi đến khai báo, đến ngày thứ 3 thì ông được yêu cầu đóng gói quần áo và thực phẩm để tới khu trại trong 10 ngày. Ông không bao giờ được nhìn thấy một lần nữa, cũng không tìm được hài cốt của ông. Cô kể lại rằng vào mùa hè năm 1969, khi tìm kiếm thi thể của cha cô (việc tìm kiếm do một người Cộng sản trình diện chiêu hồi chỉ dẫn), cô đã chứng kiến 7 thi thể trong một ngôi mộ đã được tìm thấy. Nguyễn Công Minh ước tính khoảng 250 thi thể được tìm thấy trong 1 tháng tìm kiếm trong 8 hố chôn tập thể.
Ba giáo sư, Giáo sư Horst-Günther Krainick, bác sĩ Alois Alteköster, và Tiến sĩ Raimund Discher, người giảng dạy tại Đại học Y Khoa Huế, là thành viên Đại sứ Văn hóa CHLB Đức, cùng với bà Horst-Günther Krainick, đã bị bắt giữ bởi quân Giải phóng trong cuộc tấn công Huế của họ vào tháng 2 năm 1968. Ngày 05 Tháng Tư năm 1968, các bộ phận thi thể của giáo sư cùng với nhiều người dân Việt Nam đã được phát hiện trong ngôi mộ tập thể gần Huế.Know Hue?
Một số soạn giả và phóng viên như Stephen Hosmer (Viet Cong Repression and Its Implications for the Future, 1970); Peter Braestrup (phóng viên báo Washington Post viết cuốn Big Story, 1977); Barbara Tuchman (viết cuốn The March of Folly, 1984); Loren Baritz (Backfire, 1985) và Uwe Siemon-Netto (Springer Foreign News Service) thì cho rằng quân Giải phóng thực hiện cuộc tàn sát. Siemon-Netto cho rằng những thi thể bị trói tay là chứng minh họ không chết vì bom mìn mà đã bị bắn với mục đích thủ tiêu chứ không phải vì lạc đạn.
Bà Nguyễn Thị Thanh Sung sinh năm 1949 tại An Cựu (Huế), cựu học sinh Đồng Khánh, năm 1974 theo chồng sang Mỹ định cư. Đầu thập niên 1990, bà cho xuất bản một hồi ký mang tên "Không Biên Giới". Hồi ký có 26 tiểu truyện, riêng tiểu truyện số 6 tác giả dành riêng kể chuyện trả thù của quân lực Việt Nam Cộng hòa sau Tết Mậu Thân 1968. Gia đình bà Sung từng suýt chết vì bị 1 trái bom Mỹ ném trúng nhà, sau khi tái chiếm Huế thì quân Việt Nam Cộng hòa cho lùng tìm những người có tên trong sổ quyên góp cho quân Giải phóng rồi xử bắn họ, cha bà Sung cũng bị bắt nhưng vì may mắn nên thoát được vụ xử bắn.
Một nhân chứng người Việt ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa, thì cho biết: "Bắt đầu là chúng nó (quân Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống."Scott Laderman, giáo sư lịch sử tại Đại học Minnesota, trong một bài viết cho biết: Trong tháng 5 năm 1970, Ủy ban các học giả về châu Á đã xuất bản "Mười hai câu hỏi về Việt Nam" một tài liệu nhằm mục đích đáp ứng một số câu hỏi cơ bản về cuộc chiến tranh mà các tổ chức tin rằng đã bị che khuất bởi các thông tin chính thức nhưng sai lạc của chính phủ Mỹ. Phần cuối cùng của tài liệu, các học giả tỏ ý nghi ngờ và không đồng ý với báo cáo của chính quyền Nixon về vụ thảm sát Huế.
Nhà sử học David Hunt cho rằng các tài liệu của Douglas Pike về vụ thảm sát là một trong các chính sách của chính phủ Mỹ, "về tất cả các phương diện, hoàn toàn là nhằm tuyên truyền". Năm 1988, Douglas Pike nói rằng chính ông ta trước đó "đã tham gia vào một nỗ lực có chủ đích nhằm làm mất uy tín của quân Giải phóng".
Văn hóa
Tác phẩm Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca xuất bản năm 1969 là một tác phẩm viết về thời điểm Tết Mậu Thân ở Huế, nói đến những biến cố đã xảy ra trong thành phố này vào dịp Tết 1968. Theo lời kể của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì trong một cuộc nói chuyện sau này, Nhã Ca công nhận là cuốn sách đã hư cấu nên nhiều chuyện về các nhân vật có thật, vu oan cho rất nhiều nhân sĩ, trí thức ủng hộ quân Giải phóng khiến họ phải chịu oan nhiều tiếng xấu về sau Cuốn Đêm nghe tiếng đại bác và cuốn phim Đất khổ cũng rút từ sự kiện này ở Huế, theo BBC thì phim Đất khổ'' đã bị cấm tại Việt Nam.
Tác phẩm "Huế mùa mai đỏ" của Xuân Thiều (nguyên nguyên Đại tá, Phó Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội (1977 - 1987) thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam) có đề cập đến việc một số phần tử lợi dụng hỗn loạn để trả thù cá nhân. Tác phẩm này được viết xuất bản năm 1978 dựa trên thông tin Xuân Thiều thu thập được khi vào chiến trường Trị Thiên cuối năm 1968.
Chú thích
Đọc thêm
Arnold, James R., Tet Offensive 1968: Turning Point in Vietnam, London: Osprey 1990
Bullington, James R. "And Here, See Hue," Foreign Service Journal, November 1968.
Christmas, G. R. "A Company Commander Reflects on Operation Hue City," Marine Corps Gazette, April 1971.
Davidson, Phillip B. Vietnam at War: The History, 1946-1975. Novato, CA: Presidio Press, 1988.
Hammel, Eric. Fire in the Streets: The Battle for Hue, Tet 1968. Chicago: Contemporary Books, 1991.
Harkanson, John, and Charles McMahon. "USMC & Tet ’68: There’s a Little Trouble in Hue …," Vietnam Combat, Winter 1985.
Krohn, Charles A., The Lost Battalion: Controversy and Casualties in the Battle of Hue, Praeger Publishers, 1993
Nolan, Keith William. Battle for Hue: Tet 1968. Novato, CA: Presidio Press, 1983.
Palmer, Dave Richard. Summons of the Trumpet: U.S.-Vietnam in Perspective. Novato, CA: Presidio Press, 1978.
Phan Van Son. The Viet Cong Tet Offensive (1968). Saigon: Republic of Vietnam Armed Forces, 1969.
Pike, Douglas. PAVN: People’s Army of Vietnam. Novato, CA: Presidio Press, 1986.
Secrets of the Vietnam War. Novato, CA: Presidio Press, 1990.
Smith, Captain George W., USA. "The Battle of Hue," Infantry, July-August 1968.
Stanton, Shelby L. Anatomy of a Division: 1st Cav in Vietnam. Novato, CA: Presidio Press, 1987.
Tolson, Major General John J., 3rd. Airmobility: 1961-1971. Washington, D.C.: Department of the Army, 1973.
Truong Sinh. "The Fight to Liberate the City of Hue During Mau Than Tet (1969)," Hoc Tap, December 1974.
Tucker, Spencer, Vietnam. London: UCL Press, 1999
Vietnam Order of Battle. New York: U.S. News and World Report, Inc., 1981. |
Máy bay chiến đấu là một loại máy bay quân sự của lực lượng không quân có chức năng trực tiếp tham gia chiến đấu tiêu diệt các lực lượng đối phương.
Phân loại
Theo hình thức tác chiến máy bay chiến đấu thường được chia ra làm ba loại chính là:
Máy bay tiêm kích (tiếng Anh: fighter aircraft, tiếng Nga: истребитель), một số tài liệu còn gọi là máy bay khu trục: Là loại máy bay chuyên chống lại các lực lượng không quân của đối phương thông qua hình thức không chiến. Máy bay tiêm kích lại phân nhỏ thành các lớp theo chức năng như sau:
Máy bay tiêm kích mặt trận (tiếng Anh: frontline fighter , tiếng Nga: фронтовой истребитель): Để không chiến trong các trận đánh giáp mặt với máy bay địch ở tầm quan sát của phi công, đối với loại máy bay này độ cơ động cao là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm thắng lợi. Loại này thường trang bị vũ khí là pháo, tên lửa không đối không tầm ngắn, ở thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh thế giới thứ hai vũ khí chính của loại máy bay này đầu tiên là súng máy, sau đó súng máy bị thay thế bằng pháo. Tất cả các loại tiêm kích của CTTG thứ nhất và CTTG thứ hai đều là tiêm kích mặt trận.
Máy bay tiêm kích đánh chặn (tiếng Anh- Interceptor, tiếng Nga- истребитель- перехватчик): Ra đời để đáp ứng nhu cầu bảo vệ mục tiêu mặt đất khỏi các đòn đánh của vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Là loại máy bay tiêm kích chuyên dụng trang bị ra đa tầm xa rất hiện đại mang tên lửa không đối không tầm xa để chặn đánh các máy bay và tên lửa của đối phương không cho phép vũ khí huỷ diệt hàng loạt đến được khu vực được bảo vệ. Loại máy bay này có tốc độ rất cao, tầm bay xa nhưng độ cơ động kém vì thường chiến đấu bằng cách phóng tên lửa từ xa, không chiến thường diễn ra ngoài tầm quan sát của phi công. Loại máy bay này nổi tiếng nhất là Mikoyan-Gurevich MiG-23, Mikoyan-Gurevich MiG-25 của Liên Xô và McDonnell Douglas F-4 Phantom II, Grumman F-14 Tomcat,McDonnell Douglas F-15 Eagle, General Dynamics F-16 Fighting Falcon, McDonnell Douglas F/A-18 Hornet, Lockheed Martin F-22 Raptor của Hoa Kỳ
Máy bay tiêm kích đa năng (tiếng Anh- multirole fighter, tiếng Nga- многоцелевой истребитель): Là loại phổ biến nhất hiện nay vừa có khả năng không chiến như một máy bay tiêm kích vừa có thể mang các loại vũ khí khác như bom, rốc két để tác chiến như máy bay cường kích để chống các lực lượng mặt đất của đối phương. Loại này đáp ứng được hai nhiệm vụ gần như trái ngược nhau vì vũ khí tên lửa ngày càng trở thành vũ khí không chiến chính nó cho phép máy bay tiêm kích không cần phải có các tính năng cơ động chuyên biệt như thời kỳ áp sát không chiến bằng súng máy và pháo. Hiện nay hầu hết các nước đều phát triển không quân tiêm kích theo hướng này. Hiện nay các mẫu máy bay loại này rất nổi tiếng là Lockheed Martin F-22 Raptor của Hoa Kỳ, Sukhoi của Nga, Dassault Mirage 2000 của Pháp
Trong quân đội Hoa Kỳ các máy bay tiêm kích luôn có tên bắt đầu bằng chữ F (Fighter - chiến đấu) ví dụ: F-100, F-105 (Thần sấm), F-4, F-15, F-16 trong đó nổi tiếng nhất và phục vụ được lâu nhất là các máy bay McDonnell Douglas F-4 Phantom II (Con ma) và General Dynamics F-16 Fighting Falcon. Các loại tiêm kích nổi tiếng của các nước khác như Me-109 Messerschmitt BF-109 của Đức, Yakovlev Yak-3,yakovlev Yak-9, Mikoyan-Gurevich MiG-15,mikoyan-Gurevich MiG-17,mikoyan-Gurevich MiG-19 của Liên Xô; Spitfire của Anh.
Máy bay ném bom (tiếng Anh- bomber, tiếng Nga- бомбардировщик): Là loại máy bay chiến đấu chuyên để đánh phá tiêu diệt các mục tiêu lớn trên mặt đất hoặc trên biển của đối phương bằng cách thả bom toạ độ diện rộng hoặc phóng tên lửa từ xa để tiêu diệt mục tiêu. Đây là lực lượng nòng cốt của không quân để hủy diệt tiềm lực kinh tế quân sự của đối phương. Trong quân đội Hoa Kỳ tên các máy bay ném bom bao giờ cũng có chữ B (Bomber - ném bom) ở phía trước ví dụ Consolidated B-24 Liberator, Boeing B-29 Superfortress, Boeing B-52 Stratofortress, B-1, B-2 Spirit. Liên Xô có các loại Tupolev Tu-160, Tupolev Tu-22, Tupolev Tu-16, Tupolev Tu-95. Về loại máy bay ném bom lực lượng không quân Hoa Kỳ không có đối thủ cả về số lượng lẫn chất lượng.
Máy bay cường kích (tiếng Anh- (ground attack aircraft, tiếng Nga- штурмовик): Là loại máy bay chuyên để tấn công các mục tiêu nhỏ, di động của đối phương trên mặt đất thường là để yểm trợ cho các lực lượng quân đội mình trên mặt đất hoặc để truy đuổi độc lập đánh phá các đoàn xe quân sự của địch. Loại máy bay này tốc độ không cao nhưng có thể bay rất lâu trên chiến trường, thường mang vài quả bom thông thường hoặc rất nhiều bom chùm loại nhẹ chống tăng, chống thiết giáp và chống xe cơ giới; hệ thống pháo, súng máy uy lực lớn và các ống phóng rocket không điều khiển của pháo phản lực. Trong quân đội Hoa Kỳ loại máy bay cường kích này có tên là chữ A (Attacker - tấn công) như A-4, A-6, A-10, A-37... Trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai có các loại máy bay cường kích hiệu quả của Đức là Henschel Hs-129 và đặc biệt là loại Ilyushin Il-2 của Liên Xô được mệnh danh là "Xe tăng bay". Hiện nay mẫu máy bay cường kích được coi là hiệu quả nhất thế giới đã được thực tế các cuộc chiến tranh hiện đại kiểm nghiệm là loại Fairchild Republic A-10 Thunderbolt II của Hoa Kỳ. |
Bánh mì () là thực phẩm được chế biến từ bột mì hoặc từ ngũ cốc được nghiền ra trộn với nước, thường là bằng cách nướng. Trong suốt quá trình lịch sử, bánh mì đã được phổ biến trên toàn thế giới và là một trong những loại thực phẩm nhân tạo lâu đời nhất, đóng vai trò rất quan trọng kể từ lúc ban đầu của ngành nông nghiệp.
Có nhiều cách kết hợp và tỷ lệ của các loại bột và các nguyên liệu khác, và cũng có các công thức nấu ăn truyền thống khác nhau và phương thức để tạo ra bánh mì. Kết quả là có rất nhiều chủng loại, hình dạng, kích thước và kết cấu của bánh mì khác nhau.
Bánh mì có thể được lên men bằng nhiều quá trình khác nhau, từ việc sử dụng các vi sinh vật tự nhiên (ví dụ như trong bột chua) cho tới cách dùng phương pháp thông khí nhân tạo với áp lực cao trong quá trình chuẩn bị hoặc nướng. Tuy nhiên, một số sản phẩm bánh mì lại không để lên men, hoặc vì sở thích của người ăn, hoặc vì lý do truyền thống hay tôn giáo. Nhiều thành phần không phải ngũ cốc có thể được đưa vào bánh mì: từ trái cây và các loại hạt đến các chất béo khác nhau. Bánh mì thương mại nói riêng thường chứa các chất phụ gia, một số trong số chúng không có dinh dưỡng nhằm cải thiện hương vị, kết cấu, màu sắc, thời hạn sử dụng, hoặc để sản xuất dễ dàng hơn.
Tùy thuộc vào các phong tục tập quán địa phương, bánh mì có thể được ăn với các hình thức khác nhau tại bất kỳ bữa ăn nào trong ngày. Nó cũng được ăn như một món ăn nhẹ, hoặc sử dụng như một thành phần trong chế phẩm ẩm thực khác, chẳng hạn như các món chiên được bọc trong những lớp bánh mì để không bị dính, hoặc làm thành phần chính của một bánh mì pudding, dùng làm chất độn để chèn vào răng sâu, hoặc giữ lại nước trái cây để chúng đỡ mất đi bằng cách nhỏ giọt.
Lịch sử
Bánh mì là một trong những thực phẩm được sản xuất lâu đời nhất. Bằng chứng từ 30.000 năm trước tại châu Âu cho thấy có một lượng tinh bột trên các hòn đá được sử dụng để cắt xẻ cây. Có thể là trong thời gian này, chiết xuất tinh bột từ rễ của các cây, như đuôi mèo và dương xỉ, đã được dán trên một tảng đá bằng phẳng, sau đó hòn đá được đặt trên một ngọn lửa và nấu thành một dạng bánh mì cắt lát nguyên thủy. Khoảng năm 10.000 TCN, với bình minh của Thời đại đồ đá mới và sự mở rộng của nông nghiệp, các loại ngũ cốc đã trở thành thành phần chính của bánh mì. Bào tử nấm men có mặt khắp nơi, kể cả trên bề mặt của cây lương thực, vì vậy bất kỳ bột mì nào để lâu sẽ được lên men tự nhiên.
Có nhiều nguồn sách vở cho thấy bánh mì thời gian đầu được lên men. Nấm men trong không khí có thể được dùng bằng cách để lại bột mì chưa nấu tiếp xúc với không khí một thời gian trước khi nấu. Pliny the Elder viết rằng người Gaul và Iberia sử dụng bọt từ bia để sản xuất "một loại bánh mì nhẹ hơn bánh mì của các dân tộc khác." Người thế giới cổ đại uống rượu vang thay bia đã sử dụng một hỗn hợp nước ép nho và bột mì đã được lên men, hoặc cám lúa mì để ngập trong rượu vang, như một nguồn cho nấm men. Cách lên men phổ biến nhất được dùng là giữ lại một phần bột từ ngày hôm trước để sử dụng như một sản phẩm lên men dùng làm mồi.
Năm 1961 quá trình làm bánh mì Chorleywood đã được phát triển, trong đó sử dụng các áp lực cơ khí lớn lên bột mì để làm giảm đáng kể thời gian lên men và thời gian thực hiện để tạo ra một ổ bánh mì. Quá trình này sử dụng quy trình trộn năng lượng cao cho phép sử dụng các hạt protein thấp hơn, hiện nay được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới trong các nhà máy lớn. Nhờ thế bánh mì có thể được sản xuất rất nhanh chóng và với chi phí thấp cho nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. Tuy nhiên, đã có một số chỉ trích của các hiệu ứng sản xuất này trên giá trị dinh dưỡng của bánh mì.
Gần đây, máy bánh mì trong nhà với việc tự động hóa quá trình làm bánh mì đã trở nên phổ biến.
Trong y học
Người Ai Cập cổ đại sử dụng bánh mì bị mốc để điều trị nhiễm trùng sinh ra từ bụi bẩn trong các vết bỏng.
Vai trò bánh mì trong tôn giáo
Tôn giáo khởi nguồn từ Abraham
Trong suốt lễ hội Người Do Thái chẳng hạn như Lễ Vượt Qua, bánh mì chưa lên men (unleavened bread) được sử dụng chủ yếu, nhằm tưởng niệm cuộc đào thoát của nô lệ từ Ai Cập. Người Do Thái không có thời gian để lên men bánh mì, vì vậy họ chỉ ăn bánh mì chưa lên men (Matzoh).
Chủ nghĩa ngoại giáo
Một số truyền thống của Wicca và Neo-Paganism sử dụng bánh mì như là một phần của các nghi lễ tôn giáo, kèm theo các biểu tượng khác nhau khi thực hiện.
Các phong trào chống bánh mì
Tuy có nhiều người ăn bánh mì, nhưng một số nhà phê bình đã phủ nhận bánh mì hoàn toàn hay một số loại bánh mì mà họ cho rằng là thấp kém. Các chỉ trích tùy thuộc vào thời gian và địa điểm: bánh mì nguyên hạt bị coi là chưa tinh tế, và bánh mì trắng có xử lý không tốt cho sức khỏe; một số loại bánh mì làm tại nhà có thể mất vệ sinh và các xưởng làm bánh luôn cố pha trộn các công thức khác vào bánh mì và nhiều nữa. Amylophobia, nghĩa đen là "nỗi sợ tinh bột", là một phong trào vận động ở Hoa Kỳ trong suốt thập niên 1920 và 1930.
Ở Hoa Kỳ, doanh thu bánh mì giảm 11.3% trong 5 năm kết thúc vào khoảng 2013. Thống kê có thể phản ánh sự thay đổi các dạng thực phẩm mà người Mỹ lựa chọn để ăn, nhưng có vài xu hướng không rõ ràng vì có nhiều sự khác biệt giữa các thị trường đối với các dạng bánh mì khác nhau (dạng cuộn, bánh mì trắng, bánh mì nguyên).
Thư viện hình
Các loại bánh mì
Bánh mì gạo
Bánh mì kẹp (sandwich)
Bánh mì kiểu Việt Nam (Bánh mì Sài Gòn)
Bánh mì Pháp
Bánh mì trắng
Bánh mì nâu
Bánh mì đen
Bánh mì lát |
800 (tám trăm) là một số tự nhiên ngay sau 799 và ngay trước 801. |
Âm nhạc (Tiếng Anh: music) là một bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn đạt cảm xúc của người hát hoặc người nghe. Các yếu tố chính của nó là cao độ (điều chỉnh giai điệu), nhịp điệu (và các khái niệm liên quan của nó: nhịp độ, tốc độ), âm điệu, và những phẩm chất âm thanh của âm sắc và kết cấu bản nhạc. Là âm thanh thanh nhạc hoặc công cụ âm thanh (hoặc cả hai) kết hợp theo cách như vậy để tạo ra vẻ đẹp của hình thức, sự hài hòa và biểu hiện cảm xúc. Âm nhạc là một trong những loại hình nằm trong 7 loại hình nghệ thuật cơ bản.
Sự sáng tạo, hiệu quả, ý nghĩa, và thậm chí cả định nghĩa của âm nhạc thay đổi tùy theo bối cảnh văn hóa và xã hội. Âm nhạc thay đổi từ các sáng tác thính phòng được tổ chức chặt chẽ (cả trong sáng tác lẫn trình diễn), đến hình thức âm nhạc ngẫu hứng với các hình thức aleatoric. Âm nhạc có thể được chia thành các thể loại và thể loại con, mặc dù các phân chia và các mối quan hệ phân chia giữa các thể loại âm nhạc thường rất nhỏ, đôi khi phụ thuộc vào sở thích cá nhân, và gây nhiều tranh cãi. Trong nghệ thuật, âm nhạc có thể được phân loại như một nghệ thuật biểu diễn, một nghệ thuật tinh vi, và nghệ thuật thính giác. Nó cũng có thể được phân chia thành âm nhạc nghệ thuật và âm nhạc dân gian. Giữa âm nhạc và toán học có mối liên hệ khá chặt chẽ. Âm nhạc có thể được chơi và nghe trực tiếp, có thể là một phần của một tác phẩm sân khấu hay phim ảnh, hoặc có thể được ghi lại.
Nó được chia ra hai thể loại chính: thanh nhạc và khí nhạc. Thanh nhạc là âm nhạc dựa trên lời hát thể hiện rõ ý tưởng và tình cảm. Còn khí nhạc là âm nhạc dựa trên âm thanh thuần tuý của các nhạc cụ, nên trừu tượng, gây cảm giác và sự liên tưởng.
Ký hiệu âm nhạc là toàn bộ các dấu hiệu cũng như chữ viết được dùng để ghi lại âm thanh với các đặc tính của chúng. Môn ký âm là ghi âm thanh lại bằng các ký hiệu âm nhạc trên giấy và môn xướng âm là đọc lên những ký hiệu âm nhạc (đã được ký âm) đúng cao độ và trường độ của chúng. Có các ký hiệu âm nhạc và khoá nhạc dùng để quy định cao độ, trường độ, cường độ cho bản nhạc. Có nhiều khoá nhạc khác nhau nhưng khoá sol là phổ biến nhất. Đôi khi cần thiết, người ta thường "dịch" một bản nhạc của ngôn ngữ khoá sol sang những khoá nhạc khác và ngược lại.
Đối với nhiều người ở nhiều nền văn hóa, âm nhạc là một phần quan trọng trong cách sống của họ. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ xác định âm nhạc là giai điệu theo chiều ngang và hòa âm theo chiều dọc. Câu nói phổ biến như "sự hài hòa của vũ trụ" và "đó là âm nhạc rót vào tai tôi" đều cho thấy rằng âm nhạc thường có tổ chức và dễ nghe.
Tuy nhiên, nhà soạn nhạc thế kỷ XX John Cage cho rằng bất kỳ âm thanh có thể là âm nhạc. Ông nói rằng "Không có tiếng ồn, chỉ có âm thanh." Nhà âm nhạc học Jean-Jacques Nattiez tóm tắt quan điểm hậu hiện đại về âm nhạc: "Các biên giới giữa âm nhạc và tiếng ồn luôn luôn xác định văn hóa-điều đó có nghĩa rằng, ngay cả trong một xã hội đơn giản thì khoảng cách giữa nhạc và tiếng ồn này không phải lúc nào cũng giống nhau, rất hiếm khi có một sự đồng thuận về định nghĩa âm nhạc... bởi không có khái niệm đơn giản và phổ quát về âm nhạc của bất kỳ nền văn hóa nào."
Lịch sử
Thời kỳ tiền sử
Âm nhạc thời tiền sử chỉ có thể đoán định dựa trên những phát hiện từ các khu khảo cổ thời kỳ đồ đá cũ. Các nhà khảo cổ thường phát hiện thấy sáo, được khắc từ xương, trong đó lỗ bên đã được khoét để thổi; sáo này được cho là đã được thổi một đầu như shakuhachi của Nhật Bản. Sáo Divje Babe được chạm khắc từ xương đùi của gấu, được đánh giá có tuổi thọ tối thiểu 40.000 năm tuổi. Dụng cụ như sáo bảy lỗ và các loại nhạc cụ dây, chẳng hạn như Ravanahatha, đã được khai quật từ các địa điểm khảo cổ của nền văn minh Indus Valley. Ấn Độ là một trong những nơi có truyền thống âm nhạc lâu đời nhất trong thế giới - các tài liệu tham khảo về âm nhạc cổ điển Ấn Độ (marga) được tìm thấy trong kinh Vệ Đà, kinh sách cổ truyền của truyền thống Ấn Độ giáo. Các bộ sưu tập đầu tiên và lớn nhất của nhạc cụ thời tiền sử đã được tìm thấy ở Trung Quốc, với niên đại giữa 7000 và 6600 trước Công nguyên. Bài hát Hurrian, được ghi lại trên sách bằng đất sét niên đại khoảng 1400 trước Công nguyên, là ký hiệu cổ nhất của âm nhạc loài người biết được cho đến nay.
Ai Cập cổ đại
Người Ai Cập cổ đại cho rằng một trong những vị thần của họ, Thoth đã phát minh ra âm nhạc, và Osiris sử dụng nó như một phần của nỗ lực phát triển văn minh thế giới. Các tài liệu bằng chứng sớm nhất và đại diện của các nhạc cụ Ai Cập có niên đại ở thời kỳ Predynastic, nhưng bằng chứng rõ ràng được phát hiện ở Anh là đàn hạc (harp), sáo và clarinet đôi đã được trình diễn. Nhạc cụ bộ gõ, đàn lia và đàn lute đã được thêm vào dàn nhạc trong thời kỳ Trung Cổ. Chũm chọe thường xuyên được đi kèm với âm nhạc và trong khiêu vũ, giống như ở Ai Cập ngày nay. Âm nhạc dân gian của Ai Cập, trong đó có các nghi lễ truyền thống dhikr của đạo Sufi, là thể loại âm nhạc đương đại gần gũi nhất với âm nhạc Ai Cập cổ đại. Âm nhạc hiện đại Ai Cập đã lưu giữ được nhiều tính năng, nhịp điệu và nhạc cụ của âm nhạc thời cổ.
Châu Á cổ đại
Âm nhạc cổ điển Ấn Độ là một trong những truyền thống âm nhạc lâu đời nhất trên thế giới. Nền văn minh Indus Valley (Lưu vực sông Ấn) có tác phẩm điêu khắc cho thấy khiêu vũ và các nhạc cụ cổ như sáo bảy lỗ. Các loại nhạc cụ dây và trống đã được khai quật từ Harrappa Mohenjo Daro và các khai quật được Sir Mortimer Wheeler thực hiện. Rigveda có yếu tố của âm nhạc Ấn Độ hiện tại, với một ký hiệu âm nhạc để biểu thị đồng hồ và hát bè. Âm nhạc cổ điển Ấn Độ (marga) là đơn âm, dựa trên một giai điệu đơn hoặc raga theo nhịp thông qua talas.Silappadhikaram và Ilango Adigal cung cấp nhiều thông tin về khung nhạc mới có thể được hình thành nhờ sự thay đổi phương thức của các nốt nhạc từ cao độ chuẩn. Âm nhạc Hindu bị ảnh hưởng bởi các hoạt động tại Ba Tư của triều đại Mughal Afghanistan. Âm nhạc Carnatic phổ biến ở các bang miền Nam Ấn Độ, phần lớn là các bài cầu nguyện tôn giáo; Các bài hát chủ yếu tôn vinh các vị thần Hindu. Ngoài ra có rất nhiều bài hát nói đến tình yêu và các vấn đề xã hội khác.
Âm nhạc châu Á bao gồm các nền văn hóa âm nhạc của các nước A Rập, Trung Á, Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á. Âm nhạc cổ điển Trung Quốc, âm nhạc nghệ thuật hoặc âm nhạc truyền thống của Trung Quốc có một lịch sử kéo dài trên khoảng ba ngàn năm. Nó có hệ thống ký hiệu âm nhạc độc đáo riêng biệt, cũng như hệ điều chỉnh nhạc và cao độ riêng, dụng cụ âm nhạc riêng, phong cách và thể loại âm nhạc riêng. Âm nhạc Trung Quốc là nhạc ngũ âm, có thang điểm mười hai nốt cho một quãng tám (5 + 7 = 12) giống như âm nhạc châu Âu. Âm nhạc Ba Tư là âm nhạc của Ba Tư và các quốc gia nói tiếng Ba Tư: musiqi, khoa học và nghệ thuật của âm nhạc, và muzik, âm thanh và trình diễn âm nhạc (Sakata 1983).
Hy Lạp cổ đại
Văn hóa phương Tây có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của âm nhạc. Lịch sử của âm nhạc phương Tây có thể truy gốc từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại.
Âm nhạc là một phần quan trọng của đời sống xã hội và văn hóa Hy Lạp cổ đại. Nhạc sĩ và ca sĩ đã đóng một vai trò nổi bật trong nhạc kịch Hy Lạp. Các hợp xướng có cả nam và nữ được thực hiện để giải trí trong lễ kỷ niệm và trong các nghi lễ tâm linh. Nhạc cụ bao gồm các aulos đôi và một nhạc cụ dây gảy, đàn lia, với một biến thể là đàn kithara. Âm nhạc là một phần quan trọng của giáo dục, và các bé trai được dạy âm nhạc từ năm sáu tuổi. Khả năng phổ cập tri thức âm nhạc này ở Hy Lạp đã tạo ra một sự phát triển âm nhạc rực rỡ tại đây. Lý thuyết âm nhạc Hy Lạp bao gồm các chế độ âm nhạc Hy Lạp, các luật này cuối cùng đã trở thành cơ sở cho âm nhạc tôn giáo và cổ điển phương Tây. Sau đó ảnh hưởng của đế chế La Mã, Đông Âu, và Đế chế Byzantine làm thay đổi âm nhạc Hy Lạp. Các văn bia Seikilos là ví dụ lâu đời nhất của một tác phẩm âm nhạc hoàn chỉnh, bao gồm cả ký hiệu âm nhạc, từ bất cứ nơi nào trên thế giới.
Thời kỳ Trung cổ
Thời đại Trung cổ (476-1400) bắt đầu với việc giới thiệu các bài tụng vào các tổ chức Giáo hội Công giáo La Mã. Âm nhạc phương Tây sau đó bắt đầu trở nên nghệ thuật hơn với những tiến bộ trong ký hiệu âm nhạc. Chỉ có các tác phẩm thời trung cổ châu Âu tồn tại từ trước năm 800 là các bản nhạc thánh ca đơn âm của Giáo hội Công giáo La Mã, truyền thống được gọi là Gregorian chant. Cùng với những truyền thống âm nhạc thánh ca và nhà thờ tạo ra một phong trào sôi động của âm nhạc thế tục. Ví dụ về các nhà soạn nhạc từ thời kỳ này là Léonin, Pérotin và Guillaume de Machaut.
Tác dụng của âm nhạc
Âm nhạc có ảnh hưởng đến đời sống con người. Các nghiên cứu đã chỉ ra, âm nhạc, đặc biệt là nhạc giao hưởng có tác dụng tốt, kích thích sự phát triển trí não. Do đó người ta khuyên cho trẻ nghe nhạc để phát triển trí tuệ của chúng. Trong chiến tranh, âm nhạc được biết đến như một sức mạnh tinh thần cho đồng đội: "tiếng hát át tiếng bom". Chỉ trong giây lát, âm nhạc có thể làm cho con người chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, ví dụ như vui, buồn, phấn chấn... Người ta cũng cho rằng âm nhạc làm dịu tinh thần. Một liệu pháp chữa bệnh được áp dụng kết hợp cho các bệnh nhân tâm thần là dùng âm nhạc làm giảm các cơn phấn khích, đưa người bệnh vào trạng thái buồn ngủ.
Trước đây, nhất là trong thời đại La Mã, các chiến binh trước khi ra trận thường được nghe các khúc nhạc mạnh mẽ mang tích chất cổ vũ, khích lệ để họ lấy được tinh thần chiến đấu dũng cảm. Khi giao tranh, để cổ vũ cho tinh thần binh sĩ người ta cũng thường đánh trống, khua chiêng một cách dồn dập để các chiến binh xông lên.
Các loại hình hoạt động
Việt Nam
Bài chòi
Ca Huế
Ca trù
Cải lương
Chầu văn
Chèo
Đờn ca tài tử Nam Bộ
Hò
Nhã nhạc cung đình Huế
Quan họ
Tuồng
Xẩm
Thế giới
Kinh kịch (Trung Quốc)
Nhạc kịch (Châu Âu)
Opera (Châu Âu)
Thể loại nhạc
Một thể loại nhạc hay còn gọi là thể loại âm nhạc hay dòng nhạc, là danh mục thông thường để nhận dạng một đoạn nhạc, cũng như là việc nó thuộc về một truyền thống chung hay một tập hợp các tục lệ.[1] Nó được phân biệt với hình thức âm nhạc và phong cách âm nhạc, mặc dù vậy trong thực tế các từ này thỉnh thoảng được dùng thay thế nhau.
Âm nhạc có thể phân chia thành các thể loại khác nhau theo một vài cách. Bản tính nghệ thuật của âm nhạc nghĩa là các sự phân loại này thường độc đoán và gây tranh cãi, và một số thể loại còn có thể chồng chéo lên nhau.
Nhạc cụ
Sáo, dương cầm, vĩ cầm, guitar,.... |
Graham Poll (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1963 tại Hitchin, Hertfordshire, Anh) là một trọng tài bóng đá người Anh. Tính đến năm 2006, ông đã cầm còi 26 năm và trở thành một trong những trọng tài xuất sắc nhất nước Anh. Ông đã có vinh dự bắt chính nhiều trận đấu quan trọng của giải bóng đá ngoại hạng Anh cũng như các giải bóng đá khác ở Anh, các cúp bóng đá châu Âu, và của cả giải vô địch bóng đá thế giới. Tuy nhiên, hình ảnh một trọng tài giỏi của ông đã ít nhiều sứt mẻ sau khi ông mắc sai lầm nghiêm trọng khi phạt cầu thủ Josep Šimunić của Croatia 3 thẻ vàng trong trận đấu giữa Croatia với Úc ở World Cup 2006 do đã nhận nhầm cầu thủ ở lượt rút thẻ vang thứ hai - ông đã nhầm với hậu vệ Craig Moore của Úc. (cả hai đều mặc áo số 3, hơn nữa Šimunić cũng mang cho mình giọng Anh-Úc) Sau đó, ông tuyên bố sẽ không bắt các trận đấu quốc tế nữa. Tuy nhiên, ông vẫn nhận được tín nhiệm của Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) để bắt chính các trận đấu vòng loại giải vô địch châu Âu 2008 (EURO 2008).
Các trận bóng đá quan trọng đã bắt chính
Chung kết Cúp FA, 20 tháng 5 năm 2000, Chelsea - Aston Villa (trận chung kết cuối cùng diễn ra tại sân vận động Wembley)
Chung kết Cúp Liên đoàn bóng đá Anh, 24 tháng 2 năm 2002, Blackburn Rovers v. Tottenham Hotspur
Chung kết Cúp UEFA mùa bóng 2004-05, 18 tháng 5 năm 2005, Sporting Lisbon - CSKA Moskva
Giải vô địch bóng đá thế giới 2002, 8 tháng 6, 2002, Ý - Croatia
Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, Hàn Quốc - Togo, Ả Rập Saudi - Ukraina và Croatia - Úc. |
Vũ Lăng (1921–1988) tên thật là Đỗ Đức Liêm, một tướng lĩnh cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.Ông là một trong những vị tướng lập được nhiều chiến công lớn trong những trận đánh quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam, ông là người đã có công lao to lớn trong chiến thắng của chiến dịch Tây Nguyên mà trận Buôn Ma Thuột là điển hình. Ông quê quán tại xã Ngũ Hiệp, Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
Thân thế
Vũ Lăng sinh ra trong một gia đình yêu nước và sớm giác ngộ cách mạng, khoảng năm 1937 – 1938, trong khi đang học thành chung năm thứ 2 thì ông bị đuổi học, từ đó đồng chí phải tự kiếm sống bằng cách dạy học tư, sau đó về làm y tá ở nhà thương Phủ Lý, Trong thời gian 1943-1945 đồng chí đã được đồng chí Hoàng Quý giác ngộ cách mạng và được giới thiệu tham gia vào đảng Dân Chủ. Năm 1943, khi mật thám Pháp đưa Trần Tử Bình về nhà thương để điều trị, ông đã cố tình tạo điều kiện cho ông Bình bỏ trốn, nhưng không thành công.. Ông cũng tham gia cướp kho thóc Nhật và cướp chính quyền tại Phủ Lý.
Binh nghiệp
Kháng chiến chống Pháp
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, 11/1945 ông là một trong những chiến sĩ Nam tiến đầu tiên chiến đấu ở mặt trận Nha Trang-Ninh Hòa và được cử làm Chỉ đạo viên trung đội chiến đấu, sau đó là Phó ban huấn luyện khu 6, rồi Phó ủy viên quân sự Ninh Hòa. 12/1946 ông ra bắc, vào ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Vũ Lăng là quyết tử quân của trung đoàn Thủ Đô, khu Đông Kinh Nghĩa Thục, tham gia chiến đấu bảo vệ Bắc bộ phủ và được phân công làm ủy viên tác chiến, ông cùng đồng đội và nhân dân Hà Nội chiến đấu suốt 2 tháng trời trong vòng vây của giặc Pháp tại Hà Nội. Ngày 14/1/1947, tại rạp Chuông Vàng, trong buổi lễ tuyên thệ và thành lập Trung đoàn Thủ Đô, ông với cương vị tiểu đoàn phó tiểu đoàn 103 cùng 2 chiến sĩ trung đoàn được cử lên nhận thanh kiếm quyết tử và đọc lời thề ”quyết tử cho tổ quốc quyết sinh’’ “Hôm nay chúng ta làm lễ khai sinh đội quân quyết tử. Chúng ta thề sống chết bảo vệ thủ đô. Con cháu chúng ta sẽ lấy ngày này là ngày giỗ của chúng ta. Giặc Pháp muốn chiếm thủ đô Hà Nội, nhưng chúng ta còn, thủ đô sẽ không bao giờ mất. Xin thề! Xin thề! Xin thề” . Trong trận đánh nhà Sô Va và Trường Ke ông đã tỏ rõ khả năng quân sự và tư duy sắc sảo của ủy viên tác chiến khu Đông Kinh Nghĩa Thục, sau đó ông cùng Ban chỉ huy Trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ khi dẫn hơn 2,500 đồng bào và chiến sĩ rút ra khỏi Hà Nội an toàn theo đường chui dưới gầm cầu Long Biên giữa vòng vây của giặc Pháp vào đêm 17 tháng 2 năm 1947. 1947-1953, Vũ Lăng được cử làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 54, trung đoàn Thủ đô (E102) rút gọn thời gian đấy, đại đoàn 308. Ông đã chỉ huy tiểu đoàn tham gia đánh các trận Bồng Lai, Sông Lô, Đại Bục… và các chiến dịch lớn như: Việt Bắc, Sông Thao, Biên Giới, Trung Du, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào…. Đặc biệt trong cuộc đọ sức với Binh đoàn thiện chiến tây đen Beaufré vào tháng 8/1947, Tiểu đoàn của ông đã lập kỳ tích vang dội và được các bài báo đã nhắc nhiều đến với tên Bộ đội Vũ Lăng. Đặc biệt năm 1949 ông đã chỉ huy tiểu đoàn đánh trận hạ đồn Đại Bục là một trong những đồn chủ chốt nằm trên phòng tuyến sông Thao, chắn đường quân ta tiến vào Tây Bắc, mở màn chiến dịch tấn công vào phòng tuyến sông Thao, đúng ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh năm 1949 . Từ năm 1953 ông được cử làm trung đoàn trưởng trung đoàn 98, đại đoàn 316, ông đã đã xây dựng lại trung đoàn 98 trở thành trung đoàn đánh công kiên (đánh cứ điểm) rất nhanh như ở trận Bản Mo thuộc chiến dịch Tây Bắc, chỉ trong vòng 1 giờ chiến đấu, trung đoàn đã đánh chiếm được đồn Bản Mo; Tại trận đánh đồi C1, chỉ trong vòng 30 phút bộ đội trung đoàn đã cắm được cờ lên đỉnh đồi C1. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trung đoàn 98 do Vũ Lăng chỉ huy đã đánh chiếm đồi C1 và C2. Cùng với A1, đồi C1 có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tuy thấp hơn đồi E1 & D1 nhưng C1 & A1 có vị trí quan trọng hơn bởi chúng chỉ cách sở chỉ huy của Đờ Cát vài trăm mét và trực tiếp kiểm soát 2 chiếc cầu qua sông Nậm Rốm. Nếu Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm được C1, A1 thì sẽ phá được thế phòng thủ liên hoàn của địch ở hai bên bờ sông Nậm Rốm, đồng thời khống chế được các cứ điểm trên cánh đồng Mường Thanh bằng hỏa lực bắn thẳng của Pháp. Trận chiến ác liệt trên đồi C1 đã diễn ra trong suốt 31 ngày đêm và Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiến thắng, góp phần quan trọng vào thành công của chiến dịch Điện Biên Phủ, trong trận chiến ác liệt này mặc dù là Trung đoàn trưởng nhưng ông cũng cầm tiểu liên lên tận cứ điểm cùng với các chiến sĩ.
Kháng chiến chống Mỹ
Trong chiến tranh Việt Nam, trước muôn vàn khó khăn, thử thách, trên các cương vị công tác khác nhau, lúc ở cơ quan tham mưu chiến lược, khi ở các chiến trường, ông luôn thể hiện là một cán bộ quân sự có năng lực tư duy sáng tạo, nhạy bén trong tổ chức chỉ huy và tính quyết đoán. Ông đã giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội như Tham mưu trưởng Sư đoàn 316 rồi Cục phó cục khoa học Quân sự Bộ tổng Tham mưu, phó Tư lệnh kiêm tham mưu trưởng quân khu 4, Cục phó rồi Cục trưởng Cục tác chiến 2 lần (1966-1968 & 1970-đầu 1974), Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, Phó Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên rồi tư lệnh quân đoàn 3..
Trong giai đoạn ác liệt nhất của chiến tranh Việt Nam, ông được Bộ Quốc phòng điều động vào làm Phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Quân khu 4 . Đến nơi chiến trường đang diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của Mỹ, ông đã cùng với tập thể Bộ Tư lệnh Quân khu xây dựng phương án tác chiến, đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu, đánh thắng máy bay và tàu chiến Mỹ. Bên cạnh đó, ông còn cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đào tạo được nhiều cán bộ chỉ huy bổ sung cho chiến trường miền Nam. Trong thời gian này ông được phân công trực tiếp chỉ huy Sư đoàn 325B đánh A Sầu, A Lưới ở Tây Thừa Thiên.
Cuối 1966 – đầu 1974, ông được điều về Bộ và được cử làm Cục phó rồi Cục trưởng Cục Tác chiến, một trong những Cục quan trọng nhất của Bộ Tổng tham mưu. Trên cương vị là Cục trưởng Cục tác chiến bộ tổng tham mưu (2 lần: 1966-1968 & 1970-đầu 1974), ông đã tham gia xây dựng phương án tác chiến cho các chiến dịch quan trọng của quân đội trong thời gian suốt thời gian này bao gồm chiến dịch Mậu Thân, Đường 9 Nam Lào; Quảng Trị; Điện Biên Phủ trên không ( đêm 18/12/2972 rạng sáng 19/12/1972 khi B52 đánh vào Hà Nội, ông là người trực chỉ huy của Cục Tác chiến tại hầm T1). Đặc biệt trong thời gian 4/1973 đến 3/1974 ông là 1 trong 4 thành viên đầu tiên của Tổ Trung tâm (thành lập 4/1973) do Đại Tướng Lê Trọng Tấn làm tổ trưởng, nhiệm vụ của Tổ trung tâm là giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh theo dõi toàn bộ tình hình miền Nam và quốc tế, xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 – 1976, hoạt động của Tổ trung tâm là tuyệt mật, trực thuộc thẳng Bộ Tổng tham mưu và chịu sự phụ trách trực tiếp của Tổng tham mưu trưởng. Đến cuối tháng 5-1973, toàn tổ cơ bản nhất trí và thảo luận hết năm vấn đề cơ bản của kế hoạch giải phóng miền Nam. Ngày 5/6/1973 “Đề cương báo cáo kế hoạch chiến lược lần thứ nhất” được thông qua Bộ Chính trị .
Tháng 6/1974 ông được cử vào làm Tư lệnh mặt trận Tây nguyên (B3) tại đây cùng với tập thể Đảng ủy Bộ Tư lệnh mặt trận, ông đã cùng Bộ Tư lệnh lãnh đạo mặt trận tiến hành các công tác chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên. Phương án tiến công Buôn Mê Thuột được chuẩn bị và cân nhắc vô cùng kỹ lưỡng vì đây là trận mở màn cũng như là trận then chốt quyết định thành bại của chiến dịch. Đầu 1975 sau nhiều lần quan sát thực địa và nghiên cứu hình thái bố trí lực lượng của đối phương tại Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh B3 đứng đầu là Tư lệnh Vũ Lăng đã thống nhất cách đánh chiến dịch như sau: tìm mọi cách nhử đối phương về Kon Tum và Plei Ku rồi hãm họ ở đó, tạo sơ hở Buôn Mê Thuột để đột phá thật nhanh vào đây tiêu diệt đối phương và làm chủ thị xã này trong thời gian ngắn nhất. Sau đó sẽ phát triển đánh chiếm Gia Nghĩa, Phú Bổn để mở rộng khu vực, làm bàn đạp phát triển tiến công các hướng khác. Thực hiện được ý định này, vấn đề có tính quyết định là lập thế trận chiến dịch, thế trận đó phải thể hiện chia cắt, vây hãm, vừa hãm vừa tiến công, đột phá, vừa bí mật, vừa nghi binh. Ông đã cùng với Bộ Tư lệnh và phòng Tác chiến nghiên cứu chiến thuật đề xuất phương án đánh thị xã Buôn Mê Thuột: một là đánh địch không có phòng ngự dự phòng và một phương án nữa là đánh địch có phòng ngự dự phòng. Đánh địch không có phòng ngự dự phòng là số một, làm sao phải làm mọi cách để điều địch theo ý mình, để đánh địch không có phòng ngự dự phòng. Vấn đề nghi binh, hút địch về Kon Tum và Plei Ku là then chốt quyết định. Những vấn đề khó khăn này luôn được Bộ Tư lệnh, đặc biệt là Tư lệnh Vũ Lăng, chỉ đạo thực hiện. Đầu 1975, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, ông được cử làm Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên. Trong buổi báo cáo quyết tâm với Bộ tư lệnh Tiền phương, sau khi nghe ông, đang trong cơn sốt rét, lên thuyết phục về việc bố trí các sư đoàn, phương án và kế hoạch tác chiến của trận đánh Buôn Mê Thuột của Bộ Tư lệnh chiến dịch đã được Đại tướng Văn Tiến Dũng phê chuẩn. Thời gian điều động, bố trí chuẩn bị kế hoạch nghi binh lừa địch trong suốt 3 tháng trời của Bộ Tư lệnh Chiến dịch là cuộc đọ sức âm thầm, đầy kịch tính với bộ tham mưu của quân đội VNCH, trong cuộc đọ sức này Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nắm được một điểm thắng rất quan trọng là chủ lực của quân đội VNCH vẫn bị giam chân ở Bắc Tây Nguyên cho đến ngày họ nổ súng, đây là điểm mang tính quyết định cho chiến thắng tại Ban Mê Thuột. Chỉ trong vài ngày mà bản đồ quân sự Miền Nam bị đảo lộn, Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi mà đòn điểm huyệt quyết định Buôn Mê Thuột đã khiến toàn bộ quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Tây Nguyên bị tiêu diệt và rút chạy dẫn đến làm cho từng mảng cấu trúc của chế độ VNCH sụp đổ nhanh chóng. Trong chiến dịch này ông cũng đã trực tiếp chỉ huy Sư đoàn 10 đánh chiếm Đức Lập trong thời gian ngắn, hoàn thành tốt phương án tác chiến và ý đồ tiến công của Bộ Tư lệnh, và sau đó là chỉ huy Sư đoàn 10 đánh Lữ dù 3 quân đội VNCH tại đèo Phượng Hoàng mở đường cho Quân Giải phóng tiến xuống đồng bằng, trận đánh Lữ đoàn dù 3 tại đèo Phượng Hoàng – Madrac là 1 trong 4 trận then chốt của Chiến dịch Tây Nguyên, góp phần vào tiêu diệt toàn bộ Quân đoàn 2 của địch, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, vì đã tiêu diệt được 1 lực lượng mạnh nhất của quân lực VNCH lúc bấy giờ, làm cho toàn bộ quân địch án ngữ suốt từ Lam Sơn, Dục Mỹ, Ninh Hoà tới Nha Trang hoảng loạn, không còn sức chiến đấu, chỉ lo tìm đường chạy, tạo thuận lợi cho các lực lượng của quân Giải phóng nhanh chóng tiến xuống đồng bằng ven biển miền Trung, giải phóng một địa bàn rộng lớn suốt từ Dục Mỹ , Ninh Hoà tới Nha Trang. Chia cắt quân địch giữa Quân khu 1 với Quân khu 3. Chặn đứng việc rút lui bằng đường bộ của toàn bộ lực lượng VNCH tại Quân khu 1. Thắng lợi trong trận Buôn Ma Thuột giải phóng Tây Nguyên, tạo ra bước đột phá quan trọng trong việc thống nhất Việt Nam.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 26/3 1975, Quân đoàn 3 được thành lập, ông được cử làm tư lệnh đầu tiên Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên). Ngay sau khi thành lập, dưới sự chỉ đạo của ông và Bộ tư lệnh, Quân đoàn đã thực hiện đúng chỉ đạo của bộ Tổng tư lệnh, với tinh thần ”thần tốc” quân đoàn nhanh chóng xốc tới giải phóng thành phố Nha Trang, thành phố Tuy Hòa và tiến xuống miền Đông Nam bộ, vừa đánh địch vừa mở đường đến tập kết tại khu vực Dầu Tiếng sớm 1 ngày, chiếm lĩnh bàn đạp tấn công Sài Gòn, đây được xem là 1 kỳ tích. Quân đoàn 3 đã được giao nhiệm vụ đảm nhiệm hướng Tây Bắc Sài Gòn, đây là hướng tấn công chủ yếu của Chiến dịch Hồ Chí Minh và là tuyến phòng ngự mạnh nhất của Chính quyền Sài Gòn với chiều dài 40 km . Quân đoàn 3 dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Vũ Lăng đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ đập tan tuyến phòng ngự này tiêu diệt Sư đoàn 25 của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, trong 1 ngày tiến công Quân đoàn đã lần lượt đánh chiếm và làm chủ các mục tiêu tại: Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng, Đồng Dù, Hóc Môn, Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Quân đoàn 3 là cánh quân đầu tiên trong 5 cánh quân đặt chân đến cửa ngõ Sài Gòn vào chiều 29/4/1975, sau đó vào sáng ngày 30/4 Quân đoàn đã đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH, 11h30 ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã giương cao lá cờ của quân đoàn trên nóc tòa nhà bộ tư lệnh không quân & Bộ Tổng tham mưu của quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau chiến tranh
Sau ngày Việt Nam thống nhất, năm 1977 ông được giao trọng trách Giám đốc/ Viện trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Học viện Lục quân Đà Lạt (1977-1988).- Trên cương vị mới, ông đã cùng Đảng ủy và Ban Giám hiệu Học viện lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Học viện đi vào nền nếp và ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Với kinh nghiệm về xây dựng quân đội đã tích lũy được trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông đã có nhiều đóng góp trong nghiên cứu, đào tạo, bổ túc cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn và phát triển khoa học quân sự. Ông đã chỉ đạo biên soạn hệ thống tài liệu, đáp ứng kịp thời đầy đủ cho công tác huấn luyện của tám chuyên ngành binh chủng lục quân. Những tài liệu được Hội đồng khoa học Học viện thông qua có nhiều ý kiến đóng góp và kết luận rất sâu sắc của ông, góp phần rất quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện và cả các nhà trường Quân đội sau này. Ông là người đầu tiên đề xuất vấn đề bồi dưỡng, đào tạo nghiên cứu sinh khoa học quân sự, vào năm 1985 tại Học viện Lục quân, lần đầu tiên trong quân đội đã tiến hành tổ chức bảo vệ Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Quân sự cấp Quốc gia cho 8 chuyên ngành binh chủng lục quân. Ông là 1 trong 6 tướng lĩnh đầu tiên của quân đội được phong hàm Giáo sư Khoa học Quân sự cấp II (Quyết định số 107-HĐBT ngày 11/9/1986).Ông đã chỉ đạo cán bộ Học viện, cùng với sự giúp đỡ của lực lượng công binh Quân đoàn 3 đã đào đắp nên hồ Chiến Thắng, đảm bảo nguồn cung cấp nước không những đủ cho Học viện mà còn cả cho thành phố Đà Lạt.. Ngoài nhiệm vụ giáo dục, huấn luyện, nghiên cứu khoa học, ông rất chú ý xây dựng Học viện trên tất cả mọi mặt, quan tâm đến công tác hậu cần và đời sống của học viên và cán bộ chiến sĩ Học viện. Trong thời điểm khó khăn sau chiến tranh, đời sống gặp khó khăn, ông đã chủ trương cho Học viện đẩy mạnh tăng gia sản xuất để tăng thu nhập cho học viên và cán bộ chiến sĩ, ông là người đầu tiên khởi xướng việc cấp cho cán bộ CNV mỗi năm 2 tháng lương cơ bản. Trong suốt những năm công tác tại Học viện Lục quân, ông đã đem hết khả năng, trí tuệ của mình để cùng với Ban Giám hiệu Học viện triển khai nghiên cứu thành công nhiều công trình, đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước, có giá trị cao góp phần xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Ông mất năm 1988 tại Liên Xô, hưởng thọ 67 tuổi.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Huân, huy chương
Do những công lao trong 2 cuộc kháng chiến, Thượng tướng Vũ Lăng đã được thưởng nhiều huân chương cao quý:
Huân chương Độc lập hạng nhất
Ba huân chương Quân công (2 hạng nhất, 1 hạng 3)
Huân chương Chiến thắng hạng nhất
Huân chương Kháng chiến hạng nhất
Ba huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng nhất, nhì, ba)
Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.
Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (17/10/2023). |
700 (bảy trăm) là một số tự nhiên ngay sau 699 và ngay trước 701. |
Quả sấu là loại quả của cây sấu. Khi vào mùa sấu, quả sấu được bán rất nhiều tại các chợ ở miền Bắc Việt Nam, trước đây có giá rẻ và dễ mua. Khi còn xanh, quả sấu được dùng để nấu canh chua, ngâm nước uống. Quả chín được dùng làm ô mai sấu, làm sấu dầm, tương giấm v.v. Các sản phẩm chế biến từ quả sấu được nhiều người Việt Nam ưa thích, đặc biệt là phụ nữ. Chỉ riêng món ô mai sấu cũng đã được làm thành nhiều loại như: sấu chua giòn, sấu dầm chua cay, sấu dầm chua mặn, sấu ngọt, sấu ngâm gừng v.v...
Mùa thu hoạch
Sau khi ra quả khoảng hơn hai tháng thì trái sấu đạt đến độ già nhưng chưa chín. Đây là thời điểm thu hoạch sấu vì khi ấy quả sấu đủ già để có thể giữ được sấu lâu hơn và cũng là lúc sản phẩm sấu được sử dụng vào nhiều mục đích nhất. Mùa sấu thường kéo dài khoảng 2-3 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm).
Các món ăn từ quả sấu
Các món canh
Quả sấu xanh là nguyên liệu nấu canh chua phổ biến, dễ nấu, dễ ăn và tạo sự ngon miệng. Sau khi luộc rau muống xong, nếu có điều kiện, người ta thường thêm vào một vài quả sấu là được một món canh chua ngon và mát. Để tăng thêm hương vị, người ta lấy nước thịt luộc với quả sấu, thêm chút hành, ngổ cho dậy mùi. Khác với me, tai chua v.v vị chua của sấu rất riêng, đậm, mát và có mùi thơm. Sấu thường dùng trong những món ăn đơn giản, dế nấu, không đòi hỏi nhiều nguyên liệu phụ.
Quả sấu ấy có thể dùng nấu những nồi canh chua thịt nạc, có thể làm gia giảm cho bát nước rau muống luộc hoặc có thể với những bát canh cá hay món sườn nấu chua. Vị chua của quả sấu tạo cho những bát nước canh một vị chua mát.
Sấu ngâm
Ngâm muối
Một sản phẩm chế biến từ quả sấu được ưa thích trong mùa hè là sấu ngâm. Sấu ngâm được lựa chọn rất kỹ lưỡng và các giai đoạn để chế biến cũng rất công phu. Quả sấu được chọn là loại quả vừa đủ già tới, cùi dày, vỏ hơi sần chứ không láng bóng vì quả sấu da vẫn còn láng bóng là quả sấu non, khi làm sẽ bị ủng. Chọn từng quả một đủ tiêu chuẩn chất lượng và không bầm dập. Sau khi chọn được những quả tốt nhất, người ta lấy dao bổ quả sấu tách cùi và hạt ra rồi cho vào ngâm với nước vôi trong hoặc nước pha phèn chua. Thời gian ngâm cũng phải hết sức chú ý, nếu ngâm không đủ thời gian thì quả sấu bị thâm và khi ngâm dễ bị ủng hoặc bị chát. Còn nếu ngâm quá lâu thì cùi sấu lại bị mềm. Ngâm vừa đủ tới thì cùi sấu trắng, dòn khi đem ngâm xong vẫn giữ được hương vị thơm và chua. Vớt ra rửa qua nước sạch, để khô ráo rồi đổ vào lọ. Cứ mỗi một lớp sấu lại rắc lên một lớp muối mỏng nhưng đủ che lấp các chỗ khuyết. Đổ đầy bình thì đậy kín nắp và đem cất. Sau khoảng nửa tháng là có thể đem ra dùng. Một cốc nước sấu có đủ vị ngọt của đường, vị mặn của muối, vị chua và thơm của sấu.
Ngâm đường
Chọn quả loại có chất lượng như ngâm muối, sau đó cạo vỏ, gọt dây (cắt khoanh, cắt chữ thập hoặc đập dập sơ tùy ý) rồi ngâm vào nước vôi trong (hoặc nước pha chút phèn chua) mục đích làm cho sấu giòn. Có thể bỏ qua công đoạn ngâm nước vôi hay nước phèn này mà chỉ thực hiện ngâm nước muối loãng. Vớt sấu rửa sạch lại bằng nước đun sôi để nguội hoặc chần qua nước sôi sau đó vớt ra để ráo, cho vào lọ. Đun nước đường (theo tỷ lệ 1 lít nước với 0,8 kg đường), hoặc ngâm sấu trong đường qua đêm cho sấu chiết nước và đường tan ra thì vớt sấu ra, đun nước đường cho sôi lên. Đập vài nhánh gừng vào nồi và đun 1-2 phút rồi nhấc xuống để nguội, sau đó đổ vào bình đựng sấu. Loại đường pha vào nước này nên chọn đường đỏ mới ngon, mới giữ được màu vàng khi ngâm sấu. Một vài nhánh gừng già được rửa sạch, đập giập rồi thả vào nồi nước đường để tạo vị thơm và cay của gừng.
Khác với sấu muối là vị ngọt thanh của sấu ngâm đường. Vị của nó thơm, ngọt và đặc biệt là có thêm mùi vị của những nhánh gừng xen lẫn. Một hũ sấu ngâm đường cũng tốn kém công sức và nhiều công đoạn hơn sấu muối.
Ngâm mắm
Sấu có thể làm món ngâm nước mắm rất ngon và để được lâu. Sấu cạo sạch vỏ, ngâm sơ trong nước muối khoảng 10 phút cho không bị thâm và bớt chua. Vớt sấu ra chần qua nước sôi rồi để ráo. Nước mắm đun sôi lên rồi bắc nồi xuống để nguội. Xếp sấu vào lọ và thêm tỏi, ớt cắt lát, đổ nước mắm ngập sấu (có thể dùng dụng cụ gài cho sấu ngập dưới mực nước mắm). Để khoảng 1 tuần trở lên là ăn được
Ô mai sấu
Tại Hà Nội, Việt Nam rất thịnh hành các loại ô mai làm từ quả sấu, như ô mai sấu giòn, ô mai sấu xào gừng, sấu dầm v.v.
Bảo quản sấu lâu dài
Do sấu quả chỉ có một mùa vụ ngắn trong năm, người nội trợ thường mua sấu về (nên chọn loại quả bánh tẻ, không non quá và cũng không già quá) cạo sạch vỏ, ngâm sơ nước muối chừng 10 phút để sấu không bị thâm, vớt ra để thật ráo và đóng gói cất ngăn đá tủ lạnh, cấp đông để dùng dần quanh năm.
Y học
Quả sấu được dùng chữa các chứng bệnh như nhiệt miệng khô khát, ngứa cổ, đau họng, ho, nôn do thai nghén, say rượu, nổi mẩn, sưng, lở ngứa. Liều dùng: 4-6 g cùi quả sấu, cách chế biến: sắc nước hay hãm với nước sôi hoặc dầm với muối hay đường rồi dùng.
Chữa nôn do thai nghén: Quả sấu xanh nấu với cá diếc hoặc thịt vịt rồi ăn.
Chữa ho: Cùi quả sấu 4-6 g, ngâm với ít muối, hoặc sắc nước, rồi thêm đường uống. Ngày 2-3 lần như vậy. Hoa sấu hấp với mật ong là thuốc chữa ho cho trẻ em.
Ở Vân Nam, Trung Quốc, người ta dùng quả giã nát để điều trị ngứa lở, ăn uống không tiêu; còn vỏ rễ được dùng trị sưng vú. |
Xem các công trình có tên Văn miếu tại bài Văn miếu (định hướng)
Văn miếu (chữ Hán: 文廟), tên ở dạng đầy đủ là Văn Tuyên Vương miếu (文宣王廟), còn được gọi là Khổng miếu (孔廟) hoặc Phu tử miếu (夫子廟), là miếu thờ Khổng Tử tại các nước Á Đông như Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên...
Có một bức tượng Khổng Tử cao 72 mét được làm bằng đồng thau và được gia cố bằng thép. Bức tượng khổng lồ nằm ở Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, nơi sinh của nhà giáo dục và triết học Trung Quốc cổ đại.
Lịch sử
Năm 478 TCN, sau khi Khổng Tử mất được một năm, Lò Văn Lại đã hạ lệnh thờ cúng Khổng Tử và cho tu sửa nhà ở của ông để thành miếu thờ.
Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ đã đến Khổng miếu ở nước Lỗ cúng Khổng Tử theo đại lễ, đây cũng là điểm khởi đầu cho các bậc đế vương đến cúng tế Khổng Tử.
Năm 739, Đường Huyền Tông phong Khổng tử làm Văn Tuyên Vương, nhân đó gọi Khổng miếu là Văn Tuyên Vương miếu. Từ đời Minh về sau gọi tắt Khổng miếu là Văn miếu để đối ứng với Vũ miếu (miếu thờ Quan Vũ, Nhạc Phi).
Cấu trúc
trái|nhỏ|Cổng Đền thờ Khổng Tử ở Datong, Sơn Tây
Bắt đầu từ triều đại nhà Đường (618–907), các đền thờ Nho giáo được xây dựng ở các trường học cấp tỉnh và quận trên khắp đế quốc, ở phía trước hoặc ở một bên của trường học. Cổng trước của ngôi đền được gọi là Linh Tinh Môn (Lingxing, ). Bên trong thường có ba sân, mặc dù đôi khi chỉ có hai. Tuy nhiên, khu phức hợp ở Khúc Phụ có chín sân, trong chứa rất nhiều tấm bia kỷ niệm các chuyến thăm của hoàng đế hoặc hoàng gia ban tặng các danh hiệu cao quý cho hậu duệ của Khổng Tử. Tòa nhà chính, nằm ở sân trong với lối vào bằng Đại Thành Môn (Dachengmen, ), gọi là Dachengdian (), được dịch theo cách khác nhau là "Đại sảnh thành tựu vĩ đại", "Đại sảnh hoàn thành xuất sắc", hoặc "Đại sảnh đường hoàn hảo". Ở Trung Quốc, hội trường này là nơi có các Bài vị () của Khổng Tử, cũng như của những nhà hiền triết () và thánh hiền () quan trọng khác. Phía trước Dachengdian ở Khúc Phụ là Apricot Pavilion hay Hạnh Đàn (). Một công trình quan trọng khác phía sau tòa nhà chính là Đền thờ Hiền nhân (Chongshengci ), trong đó tôn vinh tổ tiên của Khổng Tử và tổ phụ của Tứ tương và Mười hai triết gia.
nhỏ|Chính điện của Đền thờ Khổng Tử ở Ninh Ba, Chiết Giang.
Thờ phụng
Việc tôn thờ Khổng Tử tập trung vào việc cúng tế cho linh hồn của Khổng Tử trong đền thờ Khổng Tử.
Văn miếu tại các nước
Với sự phổ biến của Nho học khắp Đông Á, các đền thờ Nho giáo cũng được xây dựng ở Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Bắt đầu từ thế kỷ 18, một số thậm chí còn được xây dựng ở châu Âu và châu Mỹ. Ở thời kỳ đỉnh cao của chúng, ước tính đã có hơn 3.000 ngôi đền Nho giáo tồn tại.
Việt Nam
Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu
Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên
Năm 1484, quyết định cho xây dựng bia, ghi tên tiến sĩ
Trong lịch sử ghi nhận có 2 Văn miếu quốc gia là: Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Văn miếu Huế cùng 28 Văn miếu hàng tỉnh. Nhưng ngày nay, tại Việt Nam còn tồn tại 11 Văn miếu sau:
1- Văn Miếu - Quốc Tử Giám tại Hà Nội
2- Văn miếu Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
3- Văn miếu Vĩnh Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc.
4- Văn miếu Sơn Tây, Sơn Tây
5-Văn miếu Xích Đằng, tỉnh Hưng Yên
6- Văn miếu Mao Điền, tỉnh Hải Dương
7- Văn Miếu Nghệ An, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
8- Văn miếu Huế, Huế
9- Văn miếu Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa
10- Văn miếu Trấn Biên, Biên Hòa
11- Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long
Các Văn Miếu cấp tỉnh không còn tồn tại gồm:
1- Văn miếu Lạng Sơn
2- Văn miếu Thái Nguyên
3- Văn miếu Tuyên Quang
4- Văn miếu Hưng Hóa ( Phú Thọ)
5- Văn miếu Nam Định
6- Văn miếu Cao Bằng
7-Văn miếu Quảng Yên (Quảng Ninh)
8- Văn miếu Ninh Bình
9- Văn miếu Thanh Hóa
10- Văn miếu Hà Tĩnh
11- Văn miếu Quảng Bình
12- Văn miếu Quảng Trị
13- Văn miếu Quảng Nam
14- Văn miếu Quảng Ngãi
15- Văn miếu Bình Định
16- Văn miếu Phú Yên
17- Văn miếu Bình Thuận
18- Văn miếu Gia Định (Tp. Hồ Chí Minh)
19-Văn miếu An Giang.
Ngoài ra còn có khoảng 444 Văn miếu hàng Phủ, huyện, tổng, xã, thôn: Bắc Giang: 22, Bắc Ninh: 38, Hà Đông: 33, Hà Nam: 3, Hà Thành: 9; Hà Tĩnh: 7, Hải Dương: 44; Hưng Yên: 34, Nam Định: 30, Nghệ An: 27…. Văn Miếu cấp phủ, huyện, tổng xã, thôn có các danh xưng khác nhau: Văn Miếu, Văn thánh, Thánh từ, Văn chỉ. Hiện có Văn miếu hàng huyện còn tồn tại là Văn miếu Đông Ngàn, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Thấp hơn ở cấp làng xã có Văn miếu xã Trà Lâm (nay là thôn Trà Lâm, Trí Quả , Thuận Thành, Bắc Ninh) và các Văn chỉ thờ các bậc tiên thánh, tiên hiền.... điển hình như Văn chỉ làng Phù Lưu, Từ Sơn, Bắc Ninh.
Nhật Bản
phải|nhỏ|Cổng vào của công trình Yushima Seidō được xây dựng lại .
cũng được xây dựng rộng rãi ở Nhật Bản, thường kết hợp với các trường học Nho giáo. Nổi tiếng nhất là Yushima Seidō, được xây dựng vào năm 1630 trong thời kỳ Edo như một trường tư thục có liên hệ với học giả Tân Nho giáo Razan Hayashi. Ban đầu được xây dựng tại Shinobi-ga-oka thuộc Ueno, đền được Shogunate Tokugawa chuyển đến vào cuối thế kỷ 18 gần Ochanomizu ngày nay, và một chính trường được nhà nước tài trợ là Shoheikō cũng được xây trong khuôn viên.
Các ngôi đền Nho giáo nổi tiếng khác ở Nagasaki, Bizen, tỉnh Okayama; Taku, tỉnh Saga; và Naha, tỉnh Okinawa
Thánh đường Yushima (湯島聖堂), Bunkyō, Tokyo.
Khổng Tử miếu Nagasaki (長崎孔子廟), Nagasaki.
Triều Tiên
Thành Quân Quán (Seongkyunkwan) là trường học phủ tối cao được xây dựng thời Triều Tiên Thái Tổ năm 1398. Đây là trường đào tạo Nho học của quốc gia. Seongkyunkwan có vai trò là tổng hành dinh của Nho học trong suốt 500 năm vương triều Triều Tiên và nó đảm đương cả việc tiến hành hoạt động tế lễ ở Văn miếu. Năm 1894, bằng cuộc cải cách Giáp Ngọ ngoài Nho học các môn học khác như lịch sử, địa lý, số học,... cũng được đưa vào giảng dạy nhằm đối phó với quá trình cận đại hóa đang diễn ra. Nhưng ở vào thời kỳ Hàn Quốc là thuộc địa của Nhật, Seongkyunkwan chỉ còn đảm đương các hoạt động tế lễ ở Văn miếu cho tới năm 1930 các học giả Nho học đã thành lập học viện Myunglyun và việc giáo dục lại bắt đầu được thực hiện lại. Học viện Myunglyun năm 1942 được đổi thành trường chuyên Myunglyun sau đó trở thành trường Đại học Seongkyunkwan cho đến hiện nay.
Ngay khi nhà Triều Tiên được thiết lập Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng thống trị của đất nước, vào năm Thái Tông thứ 7 vị vua đời thứ 3 (1399) Myungmundang, Văn miếu, YangHyunKo thờ Khổng Tử và các bậc thánh hiền của Nho giáo. Văn miếu liên tục gặp tai nạn và chẳng bao lâu sau khi được xây dựng ở đây đã xảy ra hỏa hoạn, sau khi được sửa chữa thì lại bị tàn phá bởi cuộc ngoại loạn Nhâm Dần.
Văn miếu được tạo thành bởi Đại Thành Điện thờ Khổng Tử và 4 thánh, mười vị môn đệ, sáu người thời Tống, Đông Vu và Tây vu thờ bia của 111 vị thánh hiền của Trung Quốc và Hàn Quốc bắt đầu là 72 vị môn đệ của Khổng Tử. Đại Thành Điện được đổi tên thành Đại Thành Điện sau ngày đất nước Hàn Quốc được giải phóng bài vị của 18 vị hiền triết Triều Tiên đã được chuyển vào trong Đại Thành Điện.
Không chỉ ở Thành Quân Quán, Văn miếu còn có cả ở các Hương giáo (trường làng) là các trường quốc lập được dựng lên ở khắp các quận huyện, cho đến tận bây giờ cứ vào ngày Thượng Đinh tháng 2 và tháng 8 âm lịch hàng năm (ngày chữ Đinh) nghi lễ Thích Điện Đại Lễ lại được tổ chức ở Văn miếu.
Indonesia
phải|nhỏ|Một đền thờ Nho giáo ở Surabaya,Indonesia.
Các đền thờ Nho giáo cũng có mặt ở Indonesia, thường gọi là "Nhà thờ của Khổng Tử" vì Nho giáo là một tôn giáo được công nhận ở quốc gia. Trong tiếng Trung Quốc, những nơi này gọi là litang () hoặc "phòng thờ". Lớn nhất và lâu đời nhất là Boen Bio ở Surabaya, ban đầu xây dựng tại Khu phố Tàu của thành phố vào năm 1883 và chuyển đến địa điểm mới năm 1907. Theo báo cáo, có hơn 100 phòng thờ Nho giáo khắp Indonesia. |
Viktoria Samoylovna Tokareva (tiếng Nga: Виктория Самойловна Токарева) sinh ngày 20 tháng 11 năm 1937) - là một nhà văn nữ của văn học Nga đương đại. Tác phẩm của bà thường là truyện ngắn và được đông đảo bạn đọc yêu thích.
Tiểu sử và sự nghiệp
Bà bắt đầu viết văn từ khi lên 15 tuổi. Tên tuổi của bà đã được biết đến từ giữa thập niên 1960 với truyện ngắn đầu tay "Một ngày không nói dối", truyện được đăng trên tạp chí Molodaya Gvardia. Đọc tác phẩm của bà, người ta thường bắt gặp nhưng tâm hồn đẹp trong cuộc sống hiện đại. Với giọng văn nhẹ nhàng, hóm hỉnh, dễ hiểu bà đã đưa đến cho người đọc những suy nghĩ, quan niệm về cuộc đời, hạnh phúc, tình yêu và mỗi người đều tìm thấy một góc nghỉ ngơi cho tâm hồn mình trong đó. Những trăn trở của con người trên con đường kiếm tìm những khái niệm trừu tượng trên cũng là chủ đề bà hay đề cập đến trong các tác phẩm của mình.
Tác phẩm của Victoria Tokareva đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới tại Anh, Mỹ, Đức, Trung Quốc... Bà còn tham gia viết kịch bản cho phim. Bà đã coi Chekhov như một người thầy hướng dẫn cho mình.
Câu nói nổi tiếng
"...Hạnh phúc đó là khi con người ta mong muốn một điều gì đó và đạt được điều mơ ước ấy. Còn niềm hạnh phúc lớn lao là khi ta đạt được những điều mà ta luôn mong mỏi, khao khát đến cháy lòng. Song khi ước mơ đã trở thành hiện thực thì hạnh phúc cũng kết thúc ở đó bởi vì hạnh phúc là quá trình ta mơ ước chứ đâu phải là kết quả của cả quá trình ấy..."
Tác phẩm
Một ngày không nói dối - truyện ngắn
Khối vuông hy vọng
Dích dắc - truyện ngắn
Bức vách có tai
Giữa mặt đất và bầu trời
Những bông hồng đỏ
Khoảnh khắc
Tình yêu và kỳ nghỉ
Kỳ thực tập
Những người ruột thịt
Sao tình yêu chiếu mệnh
Một cái kết có hậu
Chung tình (2002) |
600
600 (sáu trăm) là một số tự nhiên ngay sau 599 và ngay trước 601.
Tính chất toán học
Sáu trăm là một hợp số, số phong phú, số phát âm, và số Harshad.
Tính chất và ô tô
Ở Hoa Kỳ, điểm tín dụng từ 600 trở xuống được coi là kém, hạn chế tín dụng khả dụng ở mức lãi suất thông thường.
NASCAR chạy 600 dặm được quảng cáo trong Coca-Cola 600, cuộc đua dài nhất của nó.
Fiat 600 là một chiếc ô tô, SEAT 600 là phiên bản tiếng Tây Ban Nha.
Các số tự nhiên từ 601 đến 699
600s
601
601 (sáu trăm linh một) là một số tự nhiên ngay sau 600 và ngay trước 603.
601 = số nguyên tố, số ngũ giác ở giữa
602 = 2 × 7 × 43, không toàn năng, số khối lập phương có chiều dài cạnh 1 cần thiết để tạo thành một khối rỗng có chiều dài cạnh 11, mã vùng cho Phoenix, AZ cùng với 480 và 623 |
Lưu đày hay lưu vong có nghĩa là phải xa nhà (ví dụ như làng, thị trấn, thành phố, tiểu bang, tỉnh, lãnh thổ hoặc thậm chí là quốc gia), trong khi bị từ chối không cho phép trở lại hoặc bị đe dọa bị cầm tù hoặc phải chết khi trở về.
Trong luật La Mã, exsilium biểu thị cả lưu vong tự nguyện và xua đuổi như một hình phạt tử hình thay thế cho cái chết. Trục xuất (deportation) là lưu vong cưỡng bức, và kéo theo sự mất mát suốt đời về quyền công dân và tài sản. Relegation là một hình thức trục xuất nhẹ hơn, trong đó bảo tồn quyền công dân và tài sản của chủ thể.
Các thuật ngữ diaspora và tị nạn mô tả lưu vong của một nhóm người, với lý do hoặc tự nguyện hoặc bị ép buộc, và "chính phủ lưu vong" mô tả một chính phủ của một quốc gia đã tái định cư và tranh luận về tính hợp pháp của nó từ bên ngoài quốc gia đó. Người lưu đày tự nguyện thường được mô tả như một hình thức phản kháng của người tuyên bố nó, để tránh bị bức hại và truy tố (như cáo buộc về thuế hoặc hình sự), một hành động xấu hổ hoặc ăn năn hoặc cô lập bản thân để có thể dành thời gian cho theo đuổi một mục đích cụ thể.
Điều 9 của Tuyên ngôn Nhân quyền quy định rằng "Không ai phải chịu sự bắt bớ, giam giữ hoặc lưu đày tùy tiện".
Cá nhân
Nguyên thủ quốc gia
Trong một số trường hợp, nguyên thủ quốc gia bị phế truất được phép lưu vong sau một cuộc đảo chính hoặc thay đổi chính phủ khác, cho phép một sự chuyển đổi hòa bình hơn diễn ra hoặc để trốn tránh công lý.
Tránh thuế hoặc các vấn đề pháp lý
Một công dân giàu có chuyển đến khu vực tài phán với mức thuế thấp hơn được gọi là lưu vong tránh thuế. Những người sáng tạo như tác giả và nhạc sĩ có được sự giàu có bất ngờ đôi khi chọn giải pháp này. Ví dụ như nhà văn người Canada gốc Anh Arthur Hailey, người đã chuyển đến Bahamas để tránh thuế sau thành công của các tiểu thuyết Khách sạn và Sân bay, và ban nhạc rock người Anh, nhóm nhạc Stones, vào mùa xuân năm 1971, nợ các khoản thuế nhiều hơn mức họ có thể trả và rời khỏi Anh trước khi chính phủ có thể thu giữ tài sản của họ. Tất cả các thành viên của ban nhạc đã chuyển đến Pháp trong một khoảng thời gian họ ghi âm nhạc cho album được gọi là Exile on Main Street, Main Street của tựa đề đề cập đến French Riviera. Vào năm 2012, Eduardo Saverin, một trong những người sáng lập Facebook, đã gây chú ý bằng cách từ bỏ quốc tịch Hoa Kỳ trước khi thực hiện IPO của công ty mình. Saverin là công dân có 2 quyền công dân kép Brazil/Hoa Kỳ. Việc ông chuyển đến Singapore và từ bỏ quyền công dân của ông đã thúc đẩy một dự luật tại Thượng viện Hoa Kỳ, Đạo luật Ex-PATRIOT, sẽ buộc những người lưu vong giàu có như vậy phải nộp thuế đặc biệt để được quay trở lại Hoa Kỳ.
Trong một số trường hợp, một người tự nguyện sống lưu vong để tránh các vấn đề pháp lý, chẳng hạn như kiện tụng hoặc truy tố hình sự. Một ví dụ về điều này là Asil Nadir, người đã trốn sang Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ Bắc Síp trong 17 năm thay vì phải đối mặt với việc bị truy tố liên quan đến công ty Polly Peck trị giá 1,7 tỷ bảng tại Vương quốc Anh.
Tránh bạo lực hoặc bắt bớ, hoặc sau khi chiến tranh diễn ra
Những ví dụ bao gồm:
Các học giả Iraq được yêu cầu trở về nhà "từ nơi lưu vong" để giúp xây dựng lại Iraq vào năm 2009
Người Do Thái chạy trốn khỏi bị Đức Quốc xã bắt bớ.
Những người đảm nhận vai trò tự do tôn giáo hoặc dân sự trong xã hội có thể bị buộc phải lưu vong do mối đe dọa đàn áp. Ví dụ, các nữ tu bị lưu đày sau cuộc đảo chính Cộng sản năm 1948 tại Tiệp Khắc.
Uyển ngữ cho những người bị kết án
Người lưu vong, người của chính phủ, người hầu được chỉ định là tất cả các uyển ngữ được sử dụng ở Úc trong thế kỷ 19 cho những người bị kết án tại Anh đã bị đưa từ Anh đến các thuộc địa. |
SDK Máy bay MiG-15 và MiG-17 không người lái.
SDK Tiếng Nga "Самолет-дублер Кометы СДК".
Máy bay nghiên cứu thử nghiệm trong quá trình thiết kế tên lửa Kometa.
(Kometa là phiên âm tiếng nga từ "Sao chổi").
Chương trình nghiên cứu tên lửa hành trình của Liên Xô cũ bắt đầu trong chiến tranh thế giới. Trong thời gian này, nước Đức đưa ra nhiều phương án bom lượn và tên lửa chống chiến hạm, điều khiển qua vô tuyến và hướng theo sóng radio. Người Anh phát hiện ra mã điều khiển radio, nên chương trình này của Đức đình lại, cho đến khi họ chế ra thiết bị có tên "củ cải", lái bom lượn và tên lửa hướng theo sóng radio phản xạ từ tàu biển (radio horming). Người Đức không kịp sử dụng các phương án này. Năm 1944, người Anh gửi cho đồng minh là Liên Xô những phần còn lại của tên lửa hành trình V-1 bị bắn rơi. Liên Xô chế tạo theo mẫu đó tên lửa KH-10, rồi sau đó là KH-16 (hai động cơ). V-1, KH-10 và KH-16 có hệ thống dẫn dường rất đơn giản, động cơ phản lực xung pulse ramjet. Những hạn chế này làm cho các bản tên lửa trên chỉ dừng ở mức thử nghiệm. Liên Xô theo đuổi phát triển những tên lửa hành trình tin cậy hơn, chương trình có tên Sao Chổi, sản phẩm sau này được sản xuất hàng loạt là tên lửa chống chiến hạm KS-1 Kometa (Tiếng Nga là "КС-1 КОМЕТА". Tên lửa hành trình trước đây còn được gọi là tên lửa có cánh). Tên lửa Kometa có thể lái theo ba cách, một là hệ thống dẫn đường quán tính, hai là hệ thống lái từ xa, ba là tự hướng đến mục tiêu bằng tín hiệu radar. Việc xây dựng kỹ thuật phi công tự động lúc đó rất khó khăn. Người ta sử dụng máy bay có người lái thường tìm liếm những kỹ thuật lái tự động. Các mẫu thử nghiệm như thế có ở các đời máy bay phản lực đầu tiên dòng MIG là MIG-9,15,17. Các máy bay thử nghiệm này do phòng thiết kế Raduga phát triển, đây là một bộ phận của viện thiết kế máy bay Mikoyan-Gurevich.
(Việc tranh giành quyền lực sau khi Stalin mất ảnh hưởng khá lớn đến các tên lửa hành trình. Nguyên do là Chelomey, người theo đuổi phát triển theo hướng tên lửa Đức V-1, tác giả của Kh-10, Kh-14 và Kh-16 mất dần công việc và vị trí cùng với kết quả tiến trình này trong thời Stalin. Việc phát triển tên lửa có cánh được chuyển giao sang nhóm Mikoyan-Gurevich, sản phẩm là Kometa. Tuy nhiên, Khruschev khi Stalin mất đã gây nhiều náo động, một trong những việc như thế là chuyển tiến trình phát triển tên lửa có cánh trở lại tay "nạn nhân của Stalin" là Chelomey. Một lý do là người thân của Beria ở trong nhóm phát triển KS-1, tuy nhiên, Chelomey sau đó tự chứng minh năng lực thấp nhiều hơn là số phận hẩm hiu. Sau này Raduga tiếp tục cho ra đời nhiều tên lửa hành trình, trở thành nhà thiết kế lớn nhất Liên Xô và Nga mặt này).
Ban đầu, các máy bay MiG-9 được sử dụng thử nghiệm. Đến năm 1949, máy bay MIG-9L-FK (tiếng Nga МиГ-9Л ФК) được đóng với mục đích làm phòng thí nghiệm bay, hoàn thiện các phương pháp lái tự động. Máy bay hoàn thành ngày 14 tháng 5 năm 1949, hai chỗ ngồi, phi công và người vận hành thiết bị. Các chuyến bay thử nghiệm bắt đầu trong năm 1949, kéo dài 4 năm.
Các máy bay thử nghiệm SDK-5 dựa trên thiết kế cơ sở MIG-15bis-P, các máy bay SDK-7 dựa trên MIG-17-P. Có 4 mẫu SDK-5 được thử nghiệm, sau đó, mẫu SDK-5C được chọn làm mẫu chế tạo tên lửa hành trình KS-1. Ngày 4 tháng giêng 1952 phi công thử nghiệm nổi tiếng Amet- khan Sultan cất cánh lần đầu. SDK-5C còn được gọi là Kometa-3. các máy bay thử nghiệm SDK có trọng lượng 2453 đến 2550 kg, mang tải 385 kg, nhiên liệu 284l. Tốc độ cao nhất ở độ cao 3 km là 1060 km/h, tốc độ hạ cánh 270–290 km/h. Động cơ RD-500 lực đẩy 1500 kg. Sau 150 chuyến bay thử có người lái, tháng 5 năm 1952 chuyến bay tự động hoàn toàn được thực hiện. Ban đầu, tên lửa có cánh lắp dưới bụng máy bay ném bom TU-4. Đầu năm 1953, một trung đoàn trang bị 50 quả đầu tiên, đã có ý kiến sử dụng tên lửa tiến công tàu sân bay Mỹ ở Triều Tiên, nhưng vì lý do hạn chế xung đột, nên không thực hiện. Lúc đó, người Mỹ không có điều kiện chống lại tên lửa này.
"Viên đạn mang hình máy bay", tên đầu tiên dùng cho tên lửa hành trình có chiều dài 8,3 mét rộng 1,2 mét, sải cánh 4,72 mét. Cánh xiên lùi 57,5 độ lúc đó rất lớn (MIG-15 35 độ, MIG-17 45 độ). Trọng lượng lúc phóng 2760 kg, trọng lượng rỗng 1651 kg. Máy bay TU-4 mang hai đạn dưới cánh, trang bị hệ thống điều khiển RLS K-1. Hệ thống này là tổ hợp radar, dẫn đường, chỉ thị mục tiêu và điều khiển từ xa, radar làm việc ở bước sóng 3 cm. Ban đầu, radar tìm kiếm RLS xác định vị trí mục tiêu là tàu biển. Tên lửa xuất phát từ máy bay mẹ ở độ cao 3–4 km, tốc độ trên 360 km/h. Hệ thống dẫn đường quán tính điều khiển tên lửa xuất phát, động cơ tên lửa khởi động trước khi rời máy bay mẹ. Quỹ đạo tên lửa võng xuống, chui vào chùm tín hiệu từ máy bay mẹ phát bởi thiết bị K-1. Tổ hợp antena và thiết bị thu ở hai đầu mút cánh và ngã ba đuôi tên lửa xác định hướng, chuyển sang thời kỳ hành trình bằng điều khiển từ xa đến mục tiêu. K-1 giữ tên lửa trong đường bay, tên lửa truyền về thông tin độ cao do được bằng áp kế. Tốc độ 1060 km/h đến 1200 km/h, độ cao trung bình 400 mét. Giai đoạn 3 bắt đầu khi cách mục tiêu 10–20 km, radar K-2 trên đầu đạn bắt chùm chỉ thị mục tiêu từ K-1, chuyển sang chế độ tự hướng mục tiêu.
Thời kỳ hành trình khó điều khiển hai tên lửa cùng lúc, nhưng giai đoạn 3 dễ dàng tiến công song song, việc điều khiển hai tên lửa cùng xuất phát chắc chắn hơn khi góc tiến công giữa hai tên lửa nhỏ hơn 90 độ. Năm 1953, việc sản xuất hàng loạt máy bay ném bom đường dài phản lực TU-16 bắt đầu, mang hai bộ K-1, máy bay này điều khiển hai tên lửa tiến công cùng lúc thuận lợi hơn. Tháng 7-1957, tên lửa trang bị cho lực lượng không quân thuộc hạm đội Biển Đen, tháng 12 năm đó, cuộc tập trận bắn đạn thật đầu tiên của hạm đội này thực hiện. Biên chế đơn vị gồm 12 máy bay mang tên lửa, 1 máy bay tác chiến điện tử, 6 máy bay tiếp dầu trên không. Ở TU-16, tên lửa rời máy bay mẹ ở độ cao 5 km, tốc độ 420 km/h. Tầm tác chiến 3000 km-5000 km. Tầm bắn của đạn 80–90 km, sau này động cơ mới tăng lên 130 km.
KS-1 là kết quả quá trình nghiên cứu lâu dài, là tên lửa hành trình tin cậy đầu tiên được sản xuất hàng loạt. Nó chứng tỏ phương án Đức của Chelomey đẳng cấp quá thấp. Sau thành công KS-1, Khruschev nhét kinh phí chế tạo tên lửa hành trình vào tay Chelomey, dẫn đến bước đi thụt lùi KS-2, động cơ dùng chất oxy hóa dạng lỏng bay trong tầng không khí đặc. Tuy nhiên, những người bạn của Beria vẫn cho ra đời những tên lửa chống chiến hạm lừng danh Nga đến ngày nay. |
Sốt xuất huyết Dengue (, tiếng Việt thường đọc là Đăng-gơ) (dengue fever, DF), Sốt xuất huyết Dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF) và biểu hiện nặng nề nhất của bệnh là Hội chứng sốc Dengue (Dengue Shock Syndrome, DSS) đều được gây nên bởi một trong bốn loại huyết thanh virus gần gũi nhưng lại khác nhau về mặt kháng nguyên là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Virus này thuộc chi Flavivirus. Nhiễm một loại virus có khả năng tạo nên miễn dịch suốt đời nhưng chỉ chống lại chính loại huyết thanh virus đó mà thôi. Chính vì vậy mà những người sống trong vùng lưu hành dịch Dengue có thể mắc bệnh nhiều hơn một lần trong đời.
Sốt Dengue và Sốt xuất huyết Dengue chủ yếu là bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhiễm virus Dengue gây nên triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy từng cá thể. Bệnh có thể chỉ biểu hiện như một hội chứng nhiễm virus không đặc hiệu hoặc bệnh lý xuất huyết trầm trọng và đưa đến tử vong (1). Trong bài này, thuật ngữ Dengue được sử dụng để chỉ chung cho ba thể bệnh nêu trên. Khi nói đến từng thể riêng biệt thì tên chính xác của thể bệnh đó sẽ được sử dụng.
Có thể nói Dengue là một bệnh truyền nhiễm lây truyền do muỗi thường gặp nhất ở người. Trong những năm gần đây bệnh đã trở thành mối quan ngại lớn đối với sức khỏe cộng đồng trên bình diện quốc tế. Trên toàn thế giới có khoảng 2,5 tỷ người hiện đang sống trong vùng có lưu hành bệnh. Sự lan tràn về mặt địa lý của cả vector truyền bệnh là muỗi và virus đã đưa đến sự tăng cao tỷ lệ bệnh trong vòng 25 năm qua cũng như khả năng xuất hiện dịch do nhiều loại huyết thanh khác nhau ở các đô thị trong vùng nhiệt đới (2).
Muỗi vằn là vật trung gian truyền bệnh, đây là loại muỗi sống ở những nơi bùn lầy nước đọng chung quanh nhà, hoặc các nơi ẩm thấp tối tăm trong nhà. Biểu hiện là xuất huyết da, niêm mạc và trụy tim mạch, dễ đưa đến tử vong nếu điều trị không kịp thời và không đúng mức.
Dịch tễ học
Lịch sử
Những vụ dịch đầu tiên được ghi nhận xảy ra vào những năm từ 1778-1780 ở châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ. Sự xuất hiện gần như đồng thời của các vụ dịch trên ba lục địa khác nhau chứng tỏ rằng virus gây bệnh cũng như vector truyền bệnh đã phân bố rộng rãi trên toàn thế giới đã từ hơn 200 năm trước. Trong thời gian này Dengue chỉ được xem là bệnh nhẹ. Một vụ đại dịch Dengue xuất hiện ở Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ II và từ đó lan rộng trên toàn cầu. Cũng ở khu vực Đông Nam Á, Dengue lần đầu tiên được phát hiện ở Philippines vào năm 1950 nhưng đến năm 1970 bệnh đã trở thành nguyên nhân nhập viện và tử vong thường gặp ở trẻ em trong vùng này (1).
Xu hướng
Tỉ lệ mắc bệnh trên toàn thế giới đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Bệnh này hiện đã trở thành dịch tại trên 100 quốc gia ở châu Phi, châu Mỹ, khu vực phía Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Trước năm 1970, chỉ có 9 quốc gia có dịch lưu hành. Con số này tăng lên gấp hơn 4 lần vào năm 1995. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính mỗi năm có khoảng 50 đến 100 triệu người mắc bệnh. Không chỉ có số trường hợp mắc bệnh gia tăng mà khả năng nhiễm nhiều loại virus khác nhau cũng ngày càng đáng báo động. Sau đây là một vài con số thống kê khác (3)(4):
Trong vụ dịch, tỉ lệ mắc bệnh ở những đối tượng nhạy cảm thường là 40-50% nhưng cũng có thể cao đến 80-90%.
Mỗi năm có khoảng 500.000 trường hợp Sốt xuất huyết Dengue cần nhập viện, phần lớn trong số đó là trẻ em. Tỉ lệ tử vong chung vào khoảng 2,5%.
Nếu không được điều trị, tỉ lệ tử vong của Sốt xuất huyết Dengue có thể vượt quá 20%. Với phương thức điều trị tích cực hiện đại, tỉ lệ tử vong có thể thấp hơn 1%.
Muỗi Aedes
Người nhiễm virus Dengue do muỗi cái thuộc giống Aedes đốt. Muỗi Aedes aegypti là vector truyền bệnh chủ yếu ở hầu hết các khu vực bệnh lưu hành. Muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày và chỉ có muỗi cái mới đốt người và truyền bệnh. Khi muỗi cái Aedes hút máu bệnh nhân nhiễm virus Dengue, virus này sẽ ủ bệnh trong cơ thể muỗi khoảng 8 đến 11 ngày. Trong khoảng thời gian sống còn lại sau đó, muỗi có nguy cơ truyền bệnh cho người. Khi virus vào cơ thể người, chúng tuần hoàn trong máu từ 2 đến 7 ngày. Trong khoảng thời gian này nếu muỗi Aedes hút máu thì virus được truyền cho muỗi. Người là ổ chứa virus chính ngoài ra người ta mới phát hiện ở Malaixia có loài khỉ sống ở các khu rừng nhiệt đới cũng mang virus Dengue.
Aedes aegypti có nguồn gốc từ châu Phi. Loài muỗi này dần dần lan tràn ra hầu hết các khu vực có khí hậu nhiệt đới đầu tiên là nhờ tàu thuyền và sau đó có thể cả máy bay nữa (5). Ngày nay có hai dưới nhóm của Aedes aegypti là Ae. aegypti queenslandensis, một dạng hoang dã ở châu Phi không phải là vector truyền bệnh chính và Ae. aegypti formosus là muỗi sống ở khu vực đô thị vùng nhiệt đới và là vector truyền bệnh chính. Trong quá khứ, muỗi Aedes aegypti phải nhờ vào các vũng nước mưa để đẻ trứng. Tuy nhiên ngày nay quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ồ ạt đang cung cấp cho muỗi những hồ nước nhân tạo để muỗi đẻ trứng dễ dàng hơn nhiều.
Aedes albopictus trước đây là vector truyền bệnh chính của Dengue và hiện nay vẫn còn là vector quan trọng ở châu Á. Loài muỗi này gần đây đã lan tràn đến khu vực Trung Mỹ, Hoa Kỳ và tại đây muỗi này là vector truyền bệnh quan trọng thứ hai. Trong khi muỗi Ae. aegypti formosus chủ yếu sống ở khu vực đô thị thì muỗi Aedes albopictus lại cư trú chủ yếu ở vùng nông thôn. Muỗi Aedes aegypti không truyền virus cho trứng trong khi muỗi Aedes albopictus thì có khả năng này (5).
Sinh lý bệnh
Nhiễm virus Dengue thường không có biểu hiện rõ ràng. Sốt Dengue cổ điển (thể nhẹ) chủ yếu xuất hiện ở người lần đầu mắc bệnh, chưa có miễn dịch. Sốt xuất huyết Dengue/Hội chứng sốc Dengue (thể nặng) thường xảy ra trong lần nhiễm trùng sau, khi bệnh nhân đã có sẵn miễn dịch chủ động (do đã bị bệnh) hoặc thụ động (do mẹ truyền sang) đối với một loại huyết thanh khác. Bệnh thường biểu hiện nặng đột ngột sau 2 đến 5 ngày (giai đoạn hạ sốt). Các phức hợp kháng nguyên-kháng thể lưu hành trong máu, sự hoạt hóa hệ thống bổ thể và giải phóng các chất hoạt mạch có thể gây nên tăng tính thấm mao mạch đối với huyết tương, xuất huyết và có thể là đông máu nội mạch lan tỏa. Trong quá trình đào thải miễn dịch của các tế bào nhiễm virus, các protease và lymphokine được phóng thích gây hoạt hóa hệ thống bổ thể cũng như các yếu tố tăng tính thấm thành mạch (7).
Miễn dịch tăng cường bệnh: Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng "thể nặng của bệnh là Sốt xuất huyết Dengue/Hội chứng sốc Dengue xảy ra khi một người đã nhiễm bệnh trong quá khứ bởi một loại huyết thanh virus nay lại nhiễm một loại huyết thanh virus khác". Giả thuyết này được củng cố bởi các ghi nhận lâm sàng rằng Sốt xuất huyết Dengue gặp chủ yếu ở những người đã ít nhất một lần mắc bệnh trước đó và Sốt xuất huyết Dengue xảy ra thường xuyên hơn ở các cư dân trong vùng dịch lưu hành hơn là các du khách mắc bệnh tại nơi này trong cùng thời điểm. Nếu giả thuyết này là đúng hoàn toàn thì việc lưu chuyển các loại huyết thanh virus khác nhau từ vùng này đến vùng khác trên thế giới sẽ ngày càng gây nên tình trạng bệnh nặng nề hơn trong tương lai (5).
Như vậy yếu tố nguy cơ gây bệnh nặng trong Sốt xuất huyết Dengue là người sẵn có kháng thể kháng lại một loại huyết thanh đã gây bệnh trước đó, chủng virus gây bệnh, trẻ nhỏ hơn 12 tuổi, phụ nữ và người Caucasian (1) (4).
Triệu chứng và chẩn đoán
Triệu chứng
Thời kỳ ủ bệnh: 3 - 6 ngày, một số trường hợp có thể kéo dài đến 15 ngày.
Sốt Dengue
Triệu chứng thường xuất hiện đột ngột với sốt cao, người mệt mỏi rũ rượi, nhức đầu, đau sau hốc mắt, đau cơ (đau thắt lưng và đôi khi đau chân), thường kèm theo đau họng, chảy nước mũi trong, buồn nôn, nôn mửa, đau vùng thượng vị và tiêu chảy cần quan sát màu sắc phân xem có lẫn máu màu đỏ tươi hay màu đen màu đen có thể xuất huyết dạ dày.
Ở trẻ em, đau họng và đau bụng thường là những triệu chứng nổi trội. Hạ sốt xuất hiện vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 8 thường kèm biểu hiện xuất huyết nhẹ nhàng (chấm xuất huyết dưới da, nốt xuất huyết và chảy máu mũi, chảy máu chân răng). Sau khi hạ sốt thường xuất hiện ban dạng dát sẩn đa hình thái, đôi khi gây ngứa, đầu tiên ở thân mình và lan rộng theo hướng ly tâm đến các chi, mặt, lòng bàn tay và lòng bàn chân. Một số trường hợp có thể bệnh có thể tiến triển đến xuất huyết tiêu hóa và sốc. Như vậy biểu hiện xuất huyết không chỉ Sốt xuất huyết Dengue mới có (6).
Sốt xuất huyết Dengue
Giai đoạn sớm của bệnh không thể phân biệt được với sốt Dengue. Tuy nhiên thường sau từ 2 đến 5 ngày, tức là vào giai đoạn hạ sốt, một số trường hợp nhiễm trùng tiên phát và đa số các nhiễm trùng thứ phát sau khi đã nhiễm một loại huyết thanh khác có biểu hiện hạ tiểu cầu (< 100.000/mm³) và cô đặc máu. Thường thì giảm tiểu cầu xảy ra trước cô đặc máu. Biểu hiện xuất huyết có thể xảy ra hoặc không. Các biểu hiện xuất huyết thường gặp trong Sốt xuất huyết Dengue gồm xuất huyết dưới da tự phát hoặc sau tiêm chích, chảy máu chân răng, chảy máu mũi và xuất huyết tiêu hóa. Lách thường không không lớn. Nếu gan lớn và đau thì đây là những dấu hiệu xấu. Các biểu hiện khác có thể gồm tràn dịch màng phổi, giảm protein máu, bệnh lý não với dịch não tủy bình thường (6).
Tính thấm mao mạch gia tăng, với hậu quả thoát huyết tương ra ngoài khoang dịch kẽ với lượng lớn, là nguyên nhân của tình trạng cô đặc máu. Khi bệnh nhân có đồng thời hai dấu hiệu giảm tiểu cầu và cô đặc máu thì được chẩn đoán là Sốt xuất huyết Dengue và được phân loại theo WHO (6):
Độ I: giảm tiểu cầu kèm cô đặc máu nhưng không có chảy máu tự phát.
Độ II: giảm tiểu cầu và cô đặc máu kèm theo chảy máu tự phát.
Độ III: giảm tiểu cầu và cô đặc máu, huyết động không ổn định: mạch nhỏ khó bắt, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tâm thu - huyết áp tâm trương < 20 mm Hg), tay chân lạnh, tinh thần lú lẫn.
Độ IV: giảm tiểu cầu và cô đặc máu, sốc biểu hiện rõ: bệnh nhân không có mạch ngoại biên, huyết áp = 0 mmHg.
Nếu được điều trị thoát sốc thì bệnh nhân lành bệnh nhanh chóng và rất hiếm có di chứng (6).
Chẩn đoán
Chẩn đoán nguyên nhân là cực kỳ quan trọng và cần thiết nếu xét trên phương diện sức khỏe cộng đồng nhưng lại tỏ ra không cần thiết cho việc thiết lập một chế độ điều trị hỗ trợ sớm cho bệnh nhân. Chẩn đoán Dengue thường dựa vào các yếu tố dịch tễ, biểu hiện lâm sàng như trình bày ở trên cũng như dựa vào các xét nghiệm đơn giản: số lượng bạch cầu, số lượng tiểu cầu và hematocrit. Nếu chưa có ban đỏ xuất huyết ta làm nghiệm pháp dây thắt để chẩn đoán xác định.
Số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi: Dengue xuất huyết thường có giảm bạch cầu. Trường hợp tăng bạch cầu và tăng bạch cầu trung tính thường là cơ sở để loại trừ Dengue xuất huyết.
Giảm tiểu cầu (< 100.000/mm³): Cần làm số lượng tiểu cầu ở bất kỳ bệnh nhân nào nghi ngờ Sốt xuất huyết Dengue. Tiểu cầu càng giảm, nguy cơ xuất huyết càng cao.
Hematocrit: Khi giá trị hematocrit tăng trên 20% so với trị số bình thường trước đó thì bệnh nhân được coi là có cô đặc máu, một tiêu chuẩn chẩn đoán Sốt xuất huyết Dengue. Nếu không biết được giá trị hematocrit bình thường của bệnh nhân thì có thể xem giá trị > 45% là mốc chẩn đoán (6).
Một số xét nghiệm khác nhằm đánh giá mức độ bệnh: điện giải đồ, khí máu, chức năng đông máu, men gan, X quang phổi nhằm phát hiện biến chứng tràn dịch màng phổi (4).
Chẩn đoán nguyên nhân: có thể thể hiện mầm bệnh trong máu và huyết thanh bằng phương pháp phân lập virus, xác định kháng nguyên virus bằng các phương pháp miễn dịch hoặc phát hiện bộ gene của virus bằng kỹ thuật khuếch đại chuỗi DNA (PCR).
Chẩn đoán huyết thanh học thông qua phương pháp xác định IgM bằng kỹ thuật hấp phụ miễn dịch gắn kết enzyme (MAC - ELISA) ở hai mẫu máu bệnh nhân lấy cách nhau 14 ngày. Mẫu máu thứ nhất lấy trước ngày thứ 7 của bệnh cũng có thể có ích trong việc phân lập virus bằng cách cấy vào tế bào của muỗi A. albopictus. Sau đó, việc định danh vi khuẩn có thể thực hiện nhờ xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang sử dụng kháng thể đơn dòng.
Ở bệnh nhân tử vong, chẩn đoán có thể thực hiện bằng phương pháp phân lập virus hoặc xác định kháng nguyên virus (phản ứng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp) từ hai mẫu bệnh phẩm (gan, lách, hạch bạch huyết, tuyến ức).
Điều trị
Nguyên tắc chung
Vấn đề mất nước trong Sốt xuất huyết Dengue
Không phải Sốt xuất huyết Dengue gây mất nước. Đây là sự nhầm lẫn quá lâu dài.
Bệnh dù nặng dù nhẹ không có mất nước trên lâm sàng. Cân nặng không giảm, da không khô, một số tế bào nội tạng đả thừa nước thấy được trên siêu âm. Thường và đa số bệnh nhân Sốt xuất huyết Dengue là đủ và thừa nước, đả đủ nước ngay lúc mới bắt đầu truyền dịch cấp cứu.
Vì sao phải truyền dịch cấp cứu sốc Dengue. Vì bệnh nhân bị giảm thể tích tuần hoàn máu.
Tại sao bị giảm thể tích tuần hoàn máu, giảm khoảng 20 đến 30% thế tích. Vì Albumin trong máu thoát quản ra khỏi lòng mạch. Nước bình thường ra vào giữa lòng mạch với các mô và tế bào, nay không trở vào lòng mạch cho đủ nhu cầu, bởi một số lớn Albumin hiện diện ngoài lòng mạch. Có thể nói bệnh siêu vi Dengue gây thoát quản huyết tương, không phải là bệnh mất nước.
Đây là điểm mấu chốt, quan trọng để sớm thay đổi tư duy điều trị.
Phân cấp điều trị bệnh nhân
Sau đây là những gợi ý về phân cấp bệnh nhân theo tuyến điều trị trong trường hợp có dịch với lượng bệnh nhân tăng cao trong cùng thời điểm. Xin lưu ý đây chỉ là những gợi ý và tuyệt đối không phải là phác đồ điều trị nên không thể áp dụng cho mọi trường hợp (6).
Tiêu chuẩn điều trị tại nhà:
Tất cả những bệnh nhân Sốt Dengue không có nhu cầu phải truyền dịch tĩnh mạch.
Bệnh nhân Độ I có khả năng bù dịch bằng đường uống.
Bệnh nhân Độ II có khả năng bù dịch bằng đường uống và không có chảy máu quan trọng.
Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian ngắn (12 - 24 giờ):
Tất cả những trường hợp bệnh cần bù dịch qua đường tĩnh mạch.
Bệnh nhân Độ I và Độ II và không thể điều trị bù dịch bằng đường uống.
Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II nhưng có đau tức gan và gan lớn.
Tất cả bệnh nhân độ III.
Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian dài (> 24 giờ):
Tất cả bệnh nhân thuộc nhóm nhập viện trong thời gian ngắn không đáp ứng điều trị bù dịch.
Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II kèm theo nhưng yếu tố cơ địa dễ chuyển thành bệnh nặng (hen phế quản, dị ứng, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính...).
Bệnh nhân Độ II hoặc Độ III và có chảy máu quan trọng.
Tất cả bệnh nhân Độ IV.
Dự phòng
Vaccine
Lý tưởng nhất là có một vaccine có thể chống lại cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh. Đáng tiếc là một loại huyết thanh như vậy hiện nay vẫn chưa có sẵn. Tuy nhiên đã có một nghiên cứu tại Đại học Mahidol (Thái Lan) với sự cộng tác của WHO, một vaccine chống cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh đã, đang được phát triển và hoàn thiện. Vaccine này tỏ ra an toàn và hiện đang được đưa vào dùng thử nghiệm trên lâm sàng (5).
Hiện nay vaccin chống SXH cả bốn typ siêu vi Dengue đang ở pha 2 thử nghiệm lâm sàng.
Kiểm soát vector truyền bệnh
Hiện tại, kiểm soát vector truyền bệnh được xem là phương pháp phòng bệnh duy nhất có hiệu quả (3). Kiểm soát các vector Aedes có thể làm giảm đáng kể tỉ lệ mắc bệnh Dengue. Trong những năm 1950 đến 1960 Tổ chức Y tế Toàn châu Mỹ (Pan American Health Organization) đã thành công trong việc diệt sạch Aedes aegypti ở nhiều vùng thuộc Trung và Nam Mỹ và trong thời gian này, các vụ dịch Dengue rất hiếm ở châu Mỹ. Tuy nhiên sau khi chương trình ngừng lại thì Aedes aegypti và sau đó là Dengue tái xuất hiện.
Phương pháp chính để kiểm soát số lượng muỗi Aedes là giảm thiểu các khu vực có nước đọng, là nơi đẻ trứng của muỗi. Đậy kín các dụng cụ chứa nước, giảm tối đa các vật dụng có thể chứa nước mưa (lốp xe cũ, chén bát cũ...), hay nước sạch như bình bông, bàn cầu trong các phòng trống không có người ở, hầm nước ở các chung cư. Có thể dùng các loại sinh vật trong nước tiêu diệt trứng của muỗi. Trong vụ dịch đôi khi phải cần đến phun thuốc diệt muỗi trên diện rộng.
Cũng giống như tất cả các bệnh lây truyền do arbovirus khác, các phương pháp bảo hộ cá nhân như mặc tất, vớ dài, dùng thuốc xua muỗi, tránh nhưng nơi có mật độ vector truyền bệnh cao. Một điểm đặc biệt là muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày nên việc phòng tránh có khác so với các loại muỗi chỉ hoạt động ban đêm như Anophele và Culex.
Giáo dục cộng đồng
Việc nâng cao ý thức cộng đồng về nguy cơ của bệnh, các phương pháp phòng bệnh cũng như khả năng nhận biết bệnh và bệnh nặng có ý nghĩa rất quan trọng. |
Sấu trong tiếng Việt có thể chỉ:
Động vật
Tên gọi chung của một bộ động vật thuộc lớp bò sát (Sauropsida hay Reptilia) là bộ Crocodilia, các họ Crocodylidae, Alligatoridae, Gavialidae cũng như trong tên gọi của các loài trong bộ này.
Thực vật
Anacardiaceae:
Dracontomelon:
Dracontomelon duperreanum: sấu (miền bắc), sấu trắng, long cóc.
Quả sấu: bộ phận làm thực phẩm từ thực phần từ cây sấu.
Meliaceae:
Sandoricum:
Sandoricum koetjape: sấu (miền Nam), sấu đỏ, sấu tía, mạy tong. |
Sấu hay còn gọi long cóc, sấu trắng (danh pháp hai phần: Dracontomelon duperreanum) là một loài cây sống lâu năm, lá thường xanh/bán rụng lá thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae).
Mô tả
Cây sấu là loài cây gỗ lớn, sống lâu năm(có trể trên 1.000 năm), có tán lá rộng và thường xanh. Cây sấu là loài cây có biên độ sinh thái rộng, phù hợp với đất đai và khí hậu ở miền Bắc, có nhiều tác dụng, đặc biệt là khả năng phòng hộ bền vững, kỹ thuật trồng đơn giản. Cây sấu mọc tốt trên đất có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt trung bình, thoát nước, các loại đất phù sa ven sông, ven suối, đất đồi núi còn có tính chất đất rừng mát, ẩm, có độ sâu >50cm, dốc khoảng 250, nơi có nhiệt độ bình quân năm từ 20 - 25oC, lượng mưa năm lớn hơn hoặc bằng 1.500mm, độ ẩm không khí từ 86% trở lên và có mùa nóng, lạnh rõ rệt.
Thân: Có thể cao tới 30m. Cành nhỏ có cạnh và có lông nhung màu xám tro.
Rễ : Sấu là cây có rễ cọc và bạnh vè.
Lá : Lá kép mọc so le, hình lông chim dài 30-45 cm, với 11-17 lá chét mọc so le. Phiến lá chét hình trái xoan, đầu nhọn gốc tròn, dài 6-10 cm, rộng 2,5-4 cm, dai, nhẵn, mặt dưới có gân nổi rõ.
Hoa: Cụm hoa thuộc loại hoa chùm, mọc ở ngọn hay gần ngọn; hoa nhỏ, màu trắng xanh, có lông mềm. Cây ra hoa vào mùa xuân - hè và có quả vào mùa hè - thu.
Quả: Quả là loại quả hạch hình cầu hơi dẹt, đường kính khoảng 2 cm, khi chín màu vàng sẫm; chứa một hạt. Quả được thu hái vào giai đoạn tháng 7 đến tháng 9. Quả dùng tươi để nấu canh hay lấy cùi thịt của quả để làm tương giấm hay mứt sấu, ô mai, sấu dầm v.v. Nó cũng có một số tác dụng trong điều trị một số chứng bệnh và được sử dụng trong y học cổ truyền phương Đông. Xem thêm bài quả sấu.
Hạt: Mỗi quả có một hạt, hạt màu trắng, thô ráp, có nhiều gai và tơ mềm kết với thịt quả. Cây tái sinh bằng hạt tốt nên việc nhân giống không khó. (Theo Rau rừng Việt Nam).
Thành phần hóa học
Quả sấu chín chứa 80% nước, 1% axít hữu cơ, 1,3% protein, 8,2% gluxit, 2,7% xenluloza, 0,8% tro, 100 mg% calci, 44 mg% phosphor, sắt và 3 mg % vitamin C.
Tại Việt Nam
Các cây mọc trong rừng thuộc loại bán rụng lá, trên đất đỏ sâu hoặc sâu trung bình, ở cao độ từ khoảng 0–600 m trong khu vực Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên tới vùng đồng bằng ven biển và cao nguyên Trung Bộ; ít gặp ở vùng Nam Bộ. Cây cũng hay được trồng ở nhiều nơi để lấy bóng mát và lấy quả, ưa trồng ở nơi đất cát pha. |
Chi Sấu (danh pháp khoa học: Dracontomelon) là một chi của khoảng 10-13 loài cây sống lâu năm, lá thường xanh/bán rụng lá thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Chúng là các loài cây thân gỗ cao từ 30–55 m. Khu vực phân bố: Đông Nam Á, miền nam Trung Quốc, các đảo trên Thái Bình Dương giáp với Philippines, Indonesia.
Các loài
Dracontomelon costatum Blume
Dracontomelon cuspidatum Blume
Dracontomelon dao Merr. & Rolfe (đồng nghĩa: Dracontomelon brachyphyllum Ridl., Dracontomelon celebicum Koord., Dracontomelon cumingianum Baill., Dracontomelon edule Skeels, Dracontomelon lamiyo Merr., Dracontomelon laxum Schum., Dracontomelon mangiferum Blume, Dracontomelon puberulum Miq., Dracontomelon sylvestre Bl., Dracontomelon sylvestre Blume, Comeurya cumingiana Baill., Paliurus dao Blanco, Paliurus edulis Blanco, Paliurus lamiyo Blanco, Pomum draconum Rumph., Pomum draconum silvestre Rumph., Poupartia mangifera Bl.)
Dracontomelon duperreanum Pierre: Sấu (đồng nghĩa: Dracontomelon sinense Stapf)
Dracontomelon laoticum Evrard & Tardieu
Dracontomelon lenticulatum Wilkinson
Dracontomelon macrocarpum Li
Dracontomelon multijugum Radlk. cũ C.DC.
Dracontomelon papuanum Lauterb.
Dracontomelon petelotii Tardieu
Dracontomelon pilosum Seem.
Dracontomelon schmidii Tardieu
Dracontomelon vitiense Engl.
Chú thích |
Adobe Photoshop (thường được gọi là Photoshop) là một phần mềm chỉnh sửa đồ họa được phát triển và phát hành bởi hãng Adobe Systems ra đời vào năm 1988 trên hệ máy Macintosh. Photoshop được đánh giá là phần mềm dẫn đầu thị trường về sửa ảnh bitmap và được coi là chuẩn cho các ngành liên quan tới chỉnh sửa ảnh. Từ phiên bản Photoshop 7.0 ra đời năm 2002, Photoshop đã làm lên một cuộc cách mạng về ảnh bitmap. Phiên bản mới nhất hiện nay là Adobe Photoshop CC.
Ngoài khả năng chính là chỉnh sửa ảnh cho các ấn phẩm, Photoshop còn được sử dụng trong các hoạt động như thiết kế trang web, vẽ các loại tranh (matte painting và nhiều thể loại khác), vẽ texture cho các chương trình 3D... gần như là mọi hoạt động liên quan đến ảnh bitmap.
Adobe Photoshop có khả năng tương thích với hầu hết các chương trình đồ họa khác của Adobe như Adobe Illustrator, Adobe Premiere, After After Effects và Adobe Encore.
Lịch sử
Từ thuở niên thiếu, hai anh em Thomas Knoll và John Knoll đã thành thạo kỹ thuật xử lý ảnh trong buồng tối, do ảnh hưởng bởi niềm đam mê nhiếp ảnh của người cha - Glenn Knoll, giáo sư Đại học Michigan. Hai cậu Thomas và John cũng yêu thích việc lập trình trên máy tính Apple II.
Xúc cảm từ nghệ thuật nhiếp ảnh tác động đến việc chọn nghề của Thomas và John. Thomas theo ngành khoa học máy tính tại Đại học Michigan, luôn quan tâm đến những giải thuật xử lý ảnh (thu nhận từ máy quét). Khác với người anh, John tìm đến Đại học Southern California, theo ngành điện ảnh.
Năm 1987, trong khi Thomas đang thực hiện luận án tiến sĩ về xử lý ảnh, John tốt nghiệp đại học và tìm được việc làm "trong mơ" tại Công ty ILM (Industrial Light and Magic), nơi chuyên thực hiện kỹ xảo hình ảnh cho các xưởng phim ở Hollywood.
Khi thực hiện luận án, Thomas thử nghiệm nhiều giải thuật xử lý ảnh trên máy tính Mac (Macintosh). Máy Mac vào lúc đó dùng màn hình đơn sắc, khiến anh phải nghiên cứu giải thuật giả lập sắc độ xám để hiển thị được ảnh "đen trắng" trên màn hình. Thomas đặt tên cho tập hợp các chương trình nhỏ của mình là Display.
Trong một lần về thăm nhà ở Michigan, John nhận thấy Display có nhiều nét giống với phần mềm xử lý ảnh mà anh thường dùng trên máy tính Pixar đắt tiền tại ILM. Không thể đứng ngoài "cuộc chơi", John tham gia vào việc phát triển phần mềm Display, tự tạo thêm hoặc đề nghị Thomas tạo thêm các chức năng mới cho Display giúp ích cho việc làm phim ở ILM.
John đề nghị Thomas đổi tên Display đơn giản thành tên khác, hấp dẫn hơn. Lúc đầu cả hai chọn tên ImagePro, sau đổi thành PhotoLab, cuối cùng nhất trí chọn tên PhotoShop, một tên chưa ai dùng. Tuy nhiên, khi John đề nghị thương mại hóa PhotoShop, Thomas lại e ngại vì không muốn nhảy vào cuộc kinh doanh trong lúc luận án còn dở dang.
Tin chắc vào triển vọng của PhotoShop, khi trở lại làm việc tại California, John tìm cách liên lạc với nhiều công ty ở vùng Silicon Valley để tìm kênh phân phối chuyên nghiệp cho sản phẩm "cây nhà lá vườn" của mình. Vừa thúc giục Thomas tiếp tục bổ sung chức năng cho PhotoShop, John vừa biên soạn tài liệu hướng dẫn sử dụng. Sau khi gửi lại tài liệu cùng đĩa mềm PhotoShop tại nhiều công ty, chờ thẩm định và nhận được nhiều lời từ chối, cuối cùng John cũng đạt được ý nguyện. Công ty Adobe chấp thuận phân phối PhotoShop với tên gọi Adobe Photoshop (Shop được sửa thành shop).
Để hoàn thiện Photoshop trước khi phát hành, hai chuyên viên của Adobe - Steve Guttman và Russell Brown - đề nghị với John nhiều sửa đổi về cấu trúc và giao diện của phần mềm. John truyền đạt lại cho Thomas ở Michigan qua điện thoại. Cứ vài ngày, Thomas lại ra bưu điện, gửi cấp tốc đĩa mềm chứa chương trình vừa chỉnh sửa cho Adobe (lúc đó chưa phải là thời đại Internet).
Lịch sử các phiên bản
Ngày 19 tháng 2 năm 1990, phần mềm Adobe Photoshop 1.0 dùng cho máy Mac, có dung lượng 728 KB, được phát hành ở dạng đóng gói, gồm một đĩa mềm và tài liệu hướng dẫn.
Từ năm 1992, khi vai trò chuyên nghiệp của Photoshop đã được xác lập, các phần mềm khác có chức năng xử lý ảnh tương tự Photoshop (Photo-Paint, Paint Shop Pro tại Mỹ, Nuances tại Pháp,...) mới xuất hiện.
Đến năm 1995, tập đoàn Adobe mua bản quyền Photoshop từ anh em Knoll.
Kể từ năm 2003, khi Adobe bắt đầu gói tất cả công cụ Web và in ấn (bao gồm Photoshop) vào một gói ứng dụng có tên là Creative Suite, hãng này thường xuyên nâng cấp bộ công cụ này dựa trên ý kiến đóng góp của cộng đồng, tập trung chủ yếu vào dịch vụ trực tuyến và phân tích web.
Ngày 7 tháng 5 năm 2013 Adobe giới thiệu phiên bản Photoshop CC, chương trình của Creative Suite do đó đổi thành Adobe Creative Cloud. Bằng cách chuyển sang giải pháp Cloud người dùng có thể sử dụng các thiết lập cá nhân của mình ở bất cứ nơi nào Photoshop CC được cài đặt. Các tính năng mới khác bao gồm bộ lọc để giảm hình bị rung, hình chữ nhật có thể chỉnh sửa tròn góc và xem trước trực tiếp. Kể từ phiên bản CC Photoshop chỉ có thể mướn, chứ không mua đứt nữa.
Trong tháng 6 năm 2014 Photoshop CC 2014 được xuất bản; một năm sau, vào ngày 15 tháng 6 năm 2015 Photoshop CC 2015 ra mắt người dùng.
Ngày 18 tháng 10 năm 2017, hãng ra mắt phần mềm CC 2018.
Ngôn ngữ có sẵn
Photoshop có sẵn hơn 20 ngôn ngữ khác nhau, bao gồm: tiếng Anh, tiếng Ba Lan, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Đức, tiếng Hàn Quốc, tiếng Hungary, tiếng Na Uy, tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng Phần Lan, tiếng Rumani, tiếng Séc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Thụy Điển, tiếng Trung giản thể, tiếng Trung phồn thể, tiếng Ukraina và tiếng Ý. Ngoài ra phiên bản CS6 còn có thêm tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái. Có thể cài thêm tiếng Việt từ bên ngoài. |
Gan là một cơ quan của các động vật có xương sống, bao gồm cả con người. Cơ quan này đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa và một số các chức năng khác trong cơ thể như dự trữ glycogen, tổng hợp protein huyết tương và thải độc. Gan cũng sản xuất dịch mật, một dịch thể quan trọng trong quá trình tiêu hóa. Gan được xem là nhà máy hóa chất của cơ thể vì nó đảm trách cũng như điều hòa rất nhiều các phản ứng hóa sinh mà các phản ứng này chỉ xảy ra ở một số tổ chức đặc biệt của cơ thể mà thôi.
Từ nguyên
Từ gan bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của một từ tiếng Hán được viết bằng chữ Hán là "肝". Chữ Hán "肝" có âm Hán Việt hiện đại là can. William H. Baxter và Laurent Sagart phục nguyên cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của từ "肝" là *s.kˤa[r].
Giải phẫu
Gan người trưởng thành thường nặng 1,4 - 1,6 kilôgam, mềm, có màu đỏ sẫm. Gan là một cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể và đồng thời là tuyến tiêu hóa lớn nhất trong cơ thể. Gan nằm ngay dưới cơ hoành (hoành cách mô) ở phần trên, bên phải của ổ bụng. Gan nằm về phía bên phải của dạ dày (bao tử) và tạo nên giường túi mật.
Gan được cung cấp máu bởi hai mạch chính ở thùy phải: động mạch gan và tĩnh mạch cửa (tĩnh mạch gánh). Động mạch gan thường bắt nguồn từ động mạch chủ. Tĩnh mạch cửa dẫn lưu máu từ lách, tụy và ruột non nhờ đó mà gan có thể tiếp cận được nguồn dinh dưỡng cũng như các sản phẩm phụ của quá trình tiêu hóa thức ăn. Các tĩnh mạch gan dẫn lưu máu từ gan và đổ trực tiếp vào tĩnh mạch chủ dưới.
Mật sản xuất trong gan được tập trung tại các tiểu quản mật. Các tiểu quản này sẽ hội lưu với nhau tạo thành ống mật. Các ống mật sẽ đổ về ống gan trái hoặc ống gan phải. Hai ống gan này cuối cùng sẽ hợp nhất thành ống gan chung. Ống cổ túi mật (nối túi mật) vào ống gan chung và hình thành ống mật chủ. Mật có thể đổ trực tiếp từ gan vào tá tràng thông qua ống mật chủ hoặc tạm thời được lưu trữ trong túi mật thông qua con đường ống cổ túi mật. Ống mật chủ và ống tụy đổ vào tá tràng ở bóng Vater.
Gan là một trong số ít nội tạng của cơ thể có khả năng tái tạo lại một lượng nhu mô bị mất. Nếu khối lượng gan mất dưới 25% thì gan có thể tái tạo hoàn toàn. Điều này là do tế bào gan có khả năng đặc biệt như là một tế bào mầm đơn thẩm quyền (nghĩa là tế bào gan có thể phân đôi thành hai tế bào gan). Cũng có một số tế bào mầm song thẩm quyền gọi là các tế bào oval có thể biệt hóa thành tế bào gan và tế bào lót mặt trong ống mật.
Giải phẫu bề mặt
Trừ nơi gan được nối vào cơ hoành thì toàn bộ bề mặt gan được bao phủ bởi lớp phúc mạng tạng, một lớp màng kép, mỏng có tác dụng làm giảm ma sát giữa các cơ quan với nhau. Phúc mạng này tạo nên các dây chằng liềm và dây chằng tam giác. Các "dây chằng" này không giống như các dây chằng thực sự ở các khớp và không có chức năng quan trọng nhưng nó lại là những mốc giải phẫu bề mặt giúp nhận biết trong quá trình phẫu thuật.
Về mặt giải phẫu đại thể, gan có thể được chia thành bốn thùy dựa trên các đặc điểm bề mặt.
Dây chằng liềm có thể nhìn thấy ở mặt trước của gan chia gan thành hai phần: thùy gan trái và thùy gan phải.
Nếu nhìn từ mặt sau (hay mặt tạng) thì gan còn có hai thùy phụ nằm giữa thùy gan phải và thùy gan trái. Đây là các thùy đuôi (nằm phía trên) và thùy vuông (nằm phía dưới).
Giải phẫu chức năng
Đối với phẫu thuật cắt gan thì việc hiểu cặn kẽ cấu trúc của gan dựa trên hệ thống cung cấp máu và dẫn lưu mật có vai trò sống còn. Vùng trung tâm, nơi ống mật chủ, tĩnh mạch cửa và động mạch gan đi vào gan được gọi là "rốn" gan. Ống mật, tĩnh mạch và động mạch chia thành các nhánh trái và phải và phần gan được cung cấp máu hay dẫn lưu mạnh bởi các nhánh này được gọi là thùy gan chức năng trái và phải. Các thùy chức năng được chia ra bởi một mặt phẳng nối từ hố túi mật đến tĩnh mạch chủ dưới. Theo trường phái Pháp thì các thùy chức năng này được chia thành 8 phân thùy khác nhau dựa trên sự phân nhánh bậc hai và bậc ba của hệ thống mạch máu. Các phân thùy tương ứng với giải phẫu bề mặt gồm:
Sinh lý
Chức năng của gan được thực hiện bởi tế bào gan.
Gan sản xuất và tiết mật cần thiết cho quá trình tiêu hóa mỡ. Một lượng mật có thể đổ thẳng từ gan vào tá tràng, một phần khác được trữ lại ở túi mật trước khi vào tá tràng.
Gan cũng đóng một số vai trò quan trọng trong chuyển hóa carbohydrate:
Tân tạo đường: tổng hợp glucose từ một số amino acid, lactate hoặc glycerol)
Phân giải glycogen: tạo glucose từ glycogen
Tạo glycogen: tổng hợp glycogen từ glucose
Giáng hóa insulin và các hormone khác
Gan cũng là nơi chuyển hóa protein.
Gan cũng là cơ quan tham gia vào quá trình chuyển hóa lipid:
Tổng hợp cholesterol
Sản xuất triglyceride.
Gan tổng hợp các yếu tố đông máu, fibrinogen (yếu tố I), thrombin (prothrombin), yếu tố V, yếu tố VII, yếu tố IX, yếu tố X và yếu tố XI cũng như protein C, protein S và antithrombin.
Gan giáng hóa hemoglobin tạo nên các sản phẩm chuyển hóa đi vào dịch mật dưới hình thức các sắc tố mật.
Gan giáng hóa các chất độc và thuốc thông qua quá trình gọi là chuyển hóa thuốc. Tuy nhiên quá trình chuyển hoá này có thể gây độc vì chất chuyển hóa lại độc hơn tiền chất của nó.
Gan chuyển amonia thành urea.
Gan dự trữ rất nhiều chất khác nhau bao gồm glucose dưới dạng glycogen, vitamin B12, sắt và đồng.
Trong ba tháng đầu tiên của thai kỳ, gan là nơi tạo hồng cầu chính cho thai nhi. Vào tuần thứ 32 của thai kỳ, tủy xương đảm nhận gần như toàn bộ chức năng này.
Gan còn tham gia vào quá trình miễn dịch: hệ thống lưới nội mô của gan chứa rất nhiều tế bào có thẩm quyền miễn dịch hoạt động như một cái rây nhằm phát hiện những kháng nguyên trong dòng máu do tĩnh mạch cửa mang đến.
Chức năng của gan và hệ vận động bên trong gan của hồng cầu và tiểu cầu
Hiện tại, không có một cơ quan nhân tạo nào có thể đảm trách được toàn bộ chức năng vô cùng phức tạp của gan. Chỉ một số chức năng có thể thực hiện được thông qua con đường nhân tạo như thẩm phân gan trong điều trị suy gan.
Bệnh lý
Rất nhiều bệnh lý của gan có biểu hiện triệu chứng vàng da do sự tăng cao nồng độ bilirubin trong máu. Bilirubin là sản phẩm của quá trình giáng hóa hemoglobin từ những tế bào hồng cầu chết. Thông thường thì gan loại bỏ bilirubin ra khỏi dòng máu và tiết vào ruột theo mật.
Viêm gan là hiện tượng viêm của gan gây nên do rất nhiều virus khác nhau và một số độc chất, các bệnh tự miễn hoặc di truyền.
Xơ gan là sự hình thành tổ chức xơ trong gan thay thế cho nhu mô gan bị chết. Nguyên nhân gây chết tế bào gan có thể kể như viêm gan virus, ngộ độc rượu hoặc một số hóa chất độc hại với gan khác.
Nhiễm huyết sắc tố là một bệnh di truyền gây nên sự tích trữ sắt trong cơ thể và cuối cùng có thể đưa đến tổn thương gan.
Ung thư gan: ung thư gan tiên phát hoặc ung thư đường mật và ung thư di căn, thường là từ ung thư của đường tiêu hóa.
Bệnh Wilson: một bệnh lý di truyền gây nên sự tích trữ quá mức đồng trong cơ thể.
Viêm đường mật xơ hóa tiên phát: một bệnh lý viêm của đường mật có bản chất tự miễn.
Xơ gan mật tiên phát: bệnh tự miễn của các đường dẫn mật nhỏ.
Hội chứng Budd-Chiari: tắc nghẽn tĩnh mạch gan.
Hội chứng Gilbert: một rối loạn di truyền của quá trình chuyển hóa bilirubin, hiện diện khoảng 5% dân số.
Cũng có nhiều bệnh lý nhi khoa liên quan đến gan như teo đường mật bẩm sinh, thiếu alpha-1 antitrypsin, hội chứng Alagille và ứ mật trong gan tuần tiến có tính chất gia đình.
Một số xét nghiệm chức năng gan nhằm đánh giá chức năng gan. Các xét nghiệm này khảo sát sự hiện diện của một số enzyme trong máu mà bình thường chúng hiện diện với mức độ lớn trong gan. |
Cải tạo lao động là tên gọi hình thức giam giữ mà pháp luật một số nước thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại kết án vì cách hành vi vi phạm pháp luật, vướng vào tệ nạn xã hội hoặc là các nhân vật hoạt động chống chính phủ hoặc là tù nhân chiến tranh. Đây là một hình thức xử phạt hay răn đe bằng giam giữ kết hợp giáo dục và lao động bắt buộc. Đối với thành phần lực lượng thù địch, mô hình cải tạo lao động này được Liên Xô phổ biến và phát triển quy mô. Mô hình này cũng được một số nước phương Tây áp dụng, như Hoa Kỳ hiện nay hoặc Pháp trong chiến tranh Algérie.
Theo nhà bảo vệ nhân quyền nổi tiếng Lev Ponomarev, người sáng lập tổ chức phi chính phủ Bảo vệ quyền của các tù nhân, các trại cải tạo này là một dạng khác của nhà tù.
Việt Nam
Học tập cải tạo lao động tại Việt Nam là tên gọi hình thức giam giữ mà chính quyền Việt Nam thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại kết án vì cách hành vi vi phạm pháp luật, vướng vào tệ nạn xã hội hoặc là các nhân vật hoạt động chống chính phủ hoặc là tù binh chiến tranh. Đây là một hình thức xử phạt và lao động bắt buộc
Liên Xô (cũ) và Nga
Bài "Các trại cải tạo Nga" trên tờ La Croix cho biết, với gần 900.000 tù nhân, Nga đứng hàng đầu về số lượng phạm nhân bị giam giữ, tuy nhiên có một điều đáng ngạc nhiên là, tại đất nước này chỉ có 7 nhà tù. Ngoài các tù nhân bị giam trong 7 nhà tù kể trên, khoảng 700.000 tù nhân của nước Nga sống và lao động trong 750 "khu trại cải tạo" nằm ở các vùng nông thôn. Dù có một số thay đổi trong các trại cải tạo sau khi Liên Xô sụp đổ, nhưng tình trạng vệ sinh ở các khu này còn tệ hơn cả thời Brezhnev, vì tham nhũng và tình trạng vô kỷ luật hiện nay đang diễn ra nghiêm trọng.
Pháp
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính quyền Pháp đã đưa hàng nghìn người Pháp từng cộng tác với Phát-xít Đức vào các trại tập trung. Cuộc thanh trừng những người Pháp cộng tác với Phát xít Đức diễn ra ngay từ năm 1944 tại các vùng quân Đồng minh chiếm lại từ quân Đức. Các hình thức trừng trị bao gồm kết tội, xỉ nhục và xử tử công khai. Ngay trong tháng 6/1944, 120.000 người Pháp bị kết án với nhiều mức độ khác nhau. Trước và sau khi chiến tranh kết thúc, khoảng 10.500 người Pháp từng cộng tác với Phát-xít Đức đã bị xử tử vì tội phản bội tổ quốc, bao gồm các sỹ quan cấp cao. Những người không bị xử tù cũng sẽ bị chính quyền mới tước các quyền lợi về chính trị, dân sự, hoặc nghề nghiệp.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
Chính quyền Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng áp dụng chính sách tù cải tạo lao động để giam giữ các tội phạm hình sự hoặc chính trị. Những người tự nhận là cựu tù nhân đào thoát ra đã mô tả lại những thiếu thốn và biện pháp tra tấn trong trại, có khi tù nhân bị hành hung, biệt giam vào xà lim, hoặc tử hình. Số tử vong theo các cơ quan thông tấn phương Tây tuyên bố lên đến 30%, nhưng các tuyên bố này chưa được các tổ chức quốc tế kiểm chứng.
Hàn Quốc
Trong thập niên 1980, tổng thống Chun Doo-hwan đã giam giữ gần 40.000 dân thường trong các "Trại Huấn luyện Samcheong" trong một nỗ lực để củng cố chế độ mới của ông ta, ngay sau vụ đảo chính và ám sát Tổng thống Park Chung-hee. Trong quá trình hoạt động từ tháng 8 năm 1980 đến tháng 1 năm sau, trung tâm quân sự đã đóng vai trò là trại tù cho những kẻ nổi loạn và chỉ trích tiềm năng, nhiều người trong số họ chỉ là thường dân mà không có tiền án. Chính quyền quân sự Hàn Quốc khi đó đã thúc đẩy dự án được gọi là 'thanh lọc xã hội' với lý do cải cách xã hội, và Trại huấn luyện Samcheong là một phần của điều này. Gần 40% những người được gửi đến Samcheong không có tiền án, bác bỏ tuyên bố của chính phủ tại thời điểm đó rằng họ là những tên xã hội đen. Những người bị giam giữ bao gồm 980 học sinh, ít nhất 17 trong số đó là học sinh cấp hai và 319 phụ nữ. Những người bị giam giữ tại Samcheong đã bị buộc phải chịu đựng lao động khắc nghiệt và huấn luyện quân sự nguy hiểm hoặc đối mặt với nguy cơ bị tấn công thể xác. Có 54 người đã chết do điều kiện khắc nghiệt trong trại
Trung Quốc
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc áp dụng học tập cải tạo (tiếng Trung: 勞動改造, âm Hán Việt: lao động cải tạo, gọi tắt là 勞改 lao cải) khá quy mô. Tổng số người bị giam dưới dạng học tập cải tạo ở Trung Quốc đại lục thời Mao Trạch Đông (1950-1976) được phương Tây ước đoán là từ 10 đến 15 triệu với số tử vong khoảng 5-10%. Thành phần bị giam rất đa dạng: địa chủ, cựu binh của Trung Hoa Dân quốc, tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội và cả các cựu quan chức, đảng viên bị kết án tù. Đặng Tiểu Bình, tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhà văn Cao Hành Kiện, người đoạt giải thưởng Nobel về văn học, cũng đã từng trải qua học tập cải tạo trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (1966-1976).
Theo một bản tin của BBC, trong chương trình học tập cải tạo được áp dụng tại Trung Quốc năm 1957, mà nhật báo tiếng Anh Beijing News gọi là một "hình phạt nhẹ", thì một người có thể bị gửi đi học tập cải tạo trong bốn năm mà không cần tòa án xét xử. Cũng theo bản tin này, năm 2005, Trung Quốc có dự định cải cách chương trình học tập cải tạo của nước này nhưng chưa rõ sẽ biến đổi thế nào.
Những người hoạt động chính trị đối lập với nhà nước Trung Quốc như trường hợp Hoa Xuân Huy (Hua Chunhui) và Ngụy Cường (Wei Qiang) năm 2011 cũng bị đưa đi cải tạo. |
Thẩm Oánh (14 tháng 8 năm 1916 – 2 tháng 1 năm 1996) là một nhạc sĩ dòng nhạc tiền chiến trước 1945.
Cuộc đời
Thẩm Oánh tên thật là Thẩm Ngọc Oánh, sinh năm 1916 trong một gia đình trung lưu ở Hà Nội. Thuở nhỏ học nhạc qua sách viết bằng tiếng Pháp.
Năm 18 tuổi, ông bắt đầu dạy nhạc tại vài trường trung học như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Trưng Vương.
Năm 1945, ông thành lập đài phát thanh Hà Nội (thay cho đài của Pháp trước đó).
Năm 1946, Thẩm Oánh nhận chức Thư ký và vợ nhận chức Thủ quỹ cho Đoàn Âm nhạc của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam là cơ quan lập ra Trung Ương Nhạc Viện Việt Nam. Trường này chỉ tồn tại một thời gian ngắn tới khi toàn quốc kháng chiến.
Là Giám đốc Đài phát thanh Hà Nội, viên chức nhà nước dưới thời Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại, Thẩm Oánh di cư vào Nam vì thấy khó sinh sống và làm việc trong nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau 1954.
Năm 1955, ông giữ chức Giám đốc trường Ca-vũ-nhạc phổ thông Sài Gòn cho đến khi trường đóng cửa năm 1958. Ông còn dạy xướng âm pháp và nhạc lý tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn và giữ chức Phó hội trưởng Việt Nam Nhạc Hội, chủ bút nguyệt san Việt Nhạc.
Thẩm Oánh cùng gia đình sang định cư tại vùng thủ đô Washington, D.C. vào năm 1991. Vợ ông, bà Tô Anh Đào cũng là một nhạc sĩ và là em họ của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Hai người quen biết nhau vào năm 1938 qua sự giới thiệu của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, và thành hôn vào năm 1948. Hai ngừoi có một ngừoi con trai tên là Thẩm Tô Nam học Chu Vản An Saigon từ 1971-1973. Vào tháng 4 năm 1993, Hội Cựu Nữ Sinh Trưng Vương vùng Washington DC đã tổ chức một đại nhạc hội với chủ đề “60 Năm Âm nhạc Thẩm Oánh”. Đồng thời đã cho phát hành tuyển tập “Nhớ Nhung” để vinh danh một nhạc sĩ đã tận tụy đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam và cũng để tri ân một vị giáo sư đã giảng dạy âm nhạc nhiều năm tại các trường Trưng Vương, Chu Văn An và Nguyễn Trãi. Vào ngày 2 tháng 1 năm 1996, nhạc sĩ Thẩm Oánh ra đi, để lại nhiều tiếc nuối cho mọi người. Ông hưởng thọ 80 tuổi.
Thông tin khác
Vợ ông là em họ của Dương Thiệu Tước.
Thẩm Thúy Hằng đã mượn họ của ông để làm nghệ danh (tên thật là Nguyễn Thị Minh Phụng).
Sáng tác
Kịch
Quán giang hồ
Bá Nha - Tử Kỳ
Đoàn kết là sức mạnh
Nhạc
A Di Đà Phật
Bình Định Vương Lê Lợi
Bọt bèo
Chu Văn An hành khúc
Cái đinh
Cô hàng hoa
Chiều hè
Chiều tưởng nhớ
Chim gió tha phương
Giấc Hoàng Lương
Gió hoan ca
Gươm thần
Hồ xuân
Hồn xuân
Đào Thắm
Hương cốm
Hưng Đạo Vương
Khúc yêu đương
Mây trôi tới đâu
Mưa khuya
Nàng Bân
Ngàn cánh chim về
Người trai Việt nhớ chăng?
Ngược dòng
Nhà nông
Nhà Việt Nam
Nhạc canh trường
Nhạc thu
Nhạc xuân
Nhớ nhung
Suối huyền
Thời chinh chiến
Thiếu phụ Nam Xương
Trưng Nữ Vương
Tiền
Tiếng khóc trong phòng the
Trên mây
Tôi bán đường tơ
Tòa miếu cổ
Việt Nam hùng tiến
Vương tơ
Vợ chồng Ngâu
Xa cách muôn trùng
Xuân về |
Nam Mỹ (hay Nam Mĩ) là phần lục địa nằm ở phía tây của Nam Bán cầu của Trái Đất thuộc châu Mỹ, bắt đầu từ phía nam kênh đào Panama trở xuống. Vùng này cũng chiếm phần lớn khu vực Latinh do người dân ở đây chủ yếu sử dụng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha.
Lịch sử
Trước thế kỷ XVI
Vùng Nam Mỹ trước thế kỷ XVI, là khu vực sinh sống của nhiều bộ tộc. Trong đó, bộ tộc Inca là hùng mạnh nhất, họ đã thành lập cho mình một đế chế hùng mạnh với mức độ tổ chức cao. Thời kỳ huy hoàng nhất, diện tích của đế chế đã chiếm phần lớn diện tích của Nam Mỹ. Họ đã xây dựng nên một nền văn hóa nông nghiệp phát triển rực rỡ trên dãy Andes.
Nhưng đến năm 1532, khi Francisco Pizarro đổ bộ vào bờ biển Peru trong tháng 4/1532, thì nền văn hóa Inca cũng như của các dân tộc khác của Nam Mỹ bắt đầu suy tàn. Dẫn đến việc, đến cuối thế kỷ XVI, phần lớn Nam Mỹ đã trở thành thuộc địa của thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Các dân tộc bị tàn sát đẫm máu vì những vũ khí hiện đại mà trước giờ họ chưa từng nhìn thấy.
Sau thế kỷ XVI
Các thuộc địa Tây Ban Nha giành được độc lập trong khoảng những năm 1804 và 1824, Simón Bolívar và José de San Martín là những người lãnh đạo phong trào. Bolívar là tướng quân dẫn đầu cuộc Nam tiến trong khi Jose de San Martín đã đưa quân bản bộ của mình tiến dọc theo dãy Andes, và hội quân với tướng Bernardo O'Higgins tại Chile. Và từ Chile, các ông lại tiếp tục Bắc tiến sau khi đã tập trung được lực lượng. 2 cánh quân cuối cùng đã liên thủ được với nhau tại Guayaquil, Ecuador khi họ đụng đầu với cánh quân của Hoàng gia Tây Ban Nha. Cánh quân Hoàng gia này bị đánh bại và buộc phải đầu hàng.
Tại Brasil, thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha, chính Dom Pedro I, con trai của vua Bồ Đào Nha Dom Jõao VI, là người tuyên bố "Brasil độc lập" vào năm 1822. Ông này trở thành hoàng đế đầu tiên của Brasil. Hành động của Dom Pedro I nhận được sự chấp thuận của Hoàng gia Bồ Đào Nha.
Dẫu cho Bolívar đã cố gắng kêu gọi và có những hành động nhằm nhất thể hóa về chính trị đối với những khu vực nói tiếng Tây Ban Nha mới giành được độc lập, nhưng sự kì khu của ông hầu như không có kết quả. Các khu vực này nhanh chóng tuyên bố độc lập, tham gia vào các cuộc cạnh tranh lẫn nhau và phần lớn đều giải quyết bằng bạo lực. Các cuộc chiến nổi tiếng trong quãng thời gian này là cuộc Chiến tranh Đồng minh Ba nước và Chiến tranh Thái Bình Dương (1879-1884).
Đây là 1 trong 2 lục địa trên thế giới (cùng với Nam Cực) không chịu ảnh hưởng từ chiến tranh thế giới thứ hai.
Một vài quốc gia mới giành được độc lập trong thế kỉ 20:
Riêng lãnh thổ Guyane thuộc Pháp vẫn duy trì trạng thái chính trị là một phần nằm trong nước Cộng hòa Pháp, và mới đây lãnh thổ này là nơi mà Cơ quan Vũ trụ châu Âu (European Space Agency) đặt một trong những trạm không gian chính yếu của họ - trạm Centre Spatial Guyanais.
Cơ quan lập pháp
Cơ quan lập pháp tại các quốc gia Nam Mỹ được tổ chức theo 2 hệ thống, đơn viện và lưỡng viện. Trong đó đơn viện gồm các quốc gia: Ecuador, Peru, Venezuela, Suriname, Guyana, Guyane thuộc Pháp và Quần đảo Falkland. Lưỡng viện gồm các quốc gia: Brasil, Argentina, Uruguay, Paraguay, Chile, Bolivia và Colombia. Trong các nghị viện tại Nam Mỹ, Quốc hội Brazil có nhiều thành viên nhất, với 616 thành viên, thượng viện có 166 nghị sĩ và hạ viện có 450 nghị sĩ. Nghị viện Quần đảo Falkland có ít thành viên nhất, chỉ với 11 đại biểu, nghị viện Guyana có 65 nghị sĩ, nghị viện Guyane thuộc Pháp có 19 thành viên.
Địa lý
Địa hình Nam Mỹ phân hóa rất rõ nét từ Tây sang Đông: Dãy Andes, trung du, và các đồng bằng phía tây. Ngày nay Nam Mỹ gồm các quốc gia:
Kinh tế
Trong suốt 2 thế kỷ, các quốc gia Nam Mỹ đã trải qua một thời kỳ phát triển kinh tế cao, điều này có thể thấy được qua các công trình xây dựng như tòa nhà Gran Costanera ở Chile hay hệ thống tàu điện ngầm Bogota Metro. Tuy nhiên, các vấn nạn truyền thống như tỉ lệ lạm phát cao ở hầu hết tất cả các quốc gia, tỉ lệ lãi suất giữ ở mức cao, đầu tư thấp đang là những cản trở chính cho nền kinh tế các quốc gia Nam Mỹ. Tỉ lệ lãi suất thường cao gấp đôi so với Hoa Kỳ. Ví dụ, tỉ lệ lãi suất ở Venezuela là 22% và ở Suriname là 23%. Trường hợp ngoại lệ duy nhất là Chile, quốc gia đang áp dụng những chính sách kinh tế tự do từ khi thiết lập chế độ độc tài quân sự năm 1973 và gia tăng chi tiêu xã hội khi mô hình dân chủ được khôi phục đầu thập niên 1990. Điều này đã giúp Chile có được sự ổn định về kinh tế và mức lãi suất ở mức một con số.
Nền kinh tế Nam Mỹ phụ thuộc lớn vào xuất khẩu hàng hóa và tài nguyên thiên nhiên. Theo tỷ giá hối đoái cơ bản, Brazil là quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu với 137.8 tỉ USD, tiếp đến là Chile với 58.12 tỉ và Argentina với 46.46 tỉ.
Khoảng cách kinh tế giữa người giàu và người nghèo ở các quốc gia Nam Mỹ được cho là cao nhất trong các châu lục. Ở Venezuela, Paraguay, Bolivia và nhiều quốc gia Nam Mỹ khác, 20% số người giàu nắm giữ 60% tài sản quốc gia, trong khi 20% số người nghèo chỉ chiếm chưa đến 5% tài sản quốc gia. Khoảng cách về thu nhập này có thể thấy ở rất nhiều thành phố lớn ở Nam Mỹ nơi có những lều trại và các khu nhà ổ chuột nằm xen kẽ giữa các tòa cao ốc và trung tâm mua sắm sang trọng.
GDP bình quân đầu người năm 2005
Ngôn ngữ
Tiếng Bồ Đào Nha (193.198.164 người sử dụng) và Tây Ban Nha (193.243.411 người sử dụng) là các ngôn ngữ được nói nhiều nhất ở Nam Mỹ. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính thức ở hầu hết các quốc gia, cùng với các ngôn ngữ bản địa khác ở một vài quốc gia. Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức của Brazil. Tiếng Hà Lan là ngôn ngữ chính thức của Suriname; tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Guyana, mặc dù có ít nhất 12 ngôn ngữ được sử dụng ở quốc gia này như Hindi và Ả Rập. Tiếng Anh cũng được sử dụng ở quần đảo Falkland. Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức của Guyane thuộc Pháp và là ngôn ngữ thứ 2 ở Amapa (Brasil).
Chú thích |
Xuân hiểu là một bài tuyệt cú làm theo lối thơ cổ, không thuộc thể luật nhưng vẫn là một tác phẩm được nhiều người biết đến, sáng tác thời Thịnh Đường của Mạnh Hạo Nhiên.
Trong chương trình cải cách sách giáo khoa gần nhất tại Việt Nam, tác phẩm này được chọn giảng dạy trong chương trình bậc phổ thông trung học.
Tác phẩm
Mùa xuân ban mai
Giấc xuân không buồn thức,
Khắp nơi chim ríu rít.
Đêm qua gió mưa về,
Hoa rụng nhiều hay ít?
(Dịch:Lâm Xương Diệu)
Lời bình |
Giáo sư (viết tắt: GS) hay Professor (viết tắt: Prof.) là một học hàm ở các trường đại học, các cơ sở giáo dục, các học viện và trung tâm nghiên cứu ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo nghĩa đen, Từ Professor (giáo sư) bắt nguồn từ tiếng Latinh "person who professes" nghĩa là một chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về nghệ thuật hoặc khoa học, hoặc một giảng viên có trình độ chuyên môn cao, nhưng đôi khi chức danh giáo sư lại được xem là một danh hiệu đánh giá tố chất của một con người.
Ở phần lớn thế giới, từ "giáo sư" không có tiêu chuẩn được sử dụng chính thức để chỉ ra cấp bậc học vấn cao nhất.
Các giáo sư thường tiến hành nghiên cứu ban đầu và giảng dạy các khóa học ở đại học, sau đại học hoặc các lĩnh vực trong chuyên môn của họ. Ở các trường đại học có chương trình cấp bằng sau đại học, giáo sư có thể cố vấn và giám sát sinh viên tốt nghiệp tiến hành nghiên cứu luận án hoặc luận văn.
Ở các nước Âu Mỹ, các giáo sư thường có bằng tiến sĩ hoặc bằng cấp cao khác. Một số giáo sư có bằng thạc sĩ hoặc bằng cấp chuyên nghiệp, chẳng hạn như Bằng M.D. (Doctor of Medicine), là trình độ cao nhất của họ. Giáo sư không phải là một học hàm hay một chức danh khoa học mà là một chức vụ giảng dạy, có trách nhiệm lớn trong trường đại học, có nhiệm vụ hướng dẫn sinh viên nghiên cứu, và thường do các trường đại học tự chọn lựa và quyết định.
Phó Giáo sư (associate professor) là một chức danh khoa học dành cho người nghiên cứu và giảng dạy bậc đại học, sau đại học nhưng ở cấp thấp hơn giáo sư (professor). Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Phó Giáo sư còn được gọi là "Giáo sư cấp I". Nhưng thực tế thường bị "mất" đi cái đuôi "cấp I" nên để tránh nhầm lẫn với Giáo sư (professor), thì từ năm 1988 đã có quy định thống nhất chỉ dùng chức danh "Phó Giáo sư", mà không dùng "Giáo sư cấp I" nữa.
Ở Việt Nam: Giáo sư trước năm 1975 được gọi, để chỉ các nhà giáo giảng dạy trong các trường đại học. Hiện nay, khác với các nước khác, Giáo sư (professor) là tên gọi một chức danh được nhà nước phong tặng nhưng lại không có quyền hạn, nhiệm vụ nào rõ ràng với chức danh đó. Ở Việt Nam sau 24 đợt xét phong từ năm 1980 đến năm 2015, tổng số lượt GS, PGS đã được công nhận là 11.619, trong đó có 1.680 GS và 9.939 PGS. Riêng năm 2016 có thêm 65 GS và 638 PGS được công nhận. Không ít vị trong số đó là quan chức, có người không liên quan gì đến giảng dạy và nghiên cứu, và chỉ có khoảng hơn 4.100 người làm trong các đại học. GS Hoàng Tuỵ cho rằng nên thay đổi cơ chế xét duyệt vả có thể đến 1/3 số GS, PGS nên bị thu hồi chức danh.
Ở các nước Đông Âu, Liên bang Nga và SNG, thì giáo sư là một chức vụ giảng dạy (tại một bộ môn nào đó do hội đồng chuyên ngành quyết định) hoặc chức danh khoa học (do hội đồng giáo dục và khoa học liên bang công nhận) tùy vào thời gian, thành tích giảng dạy đại học, sau đại học và công trình khoa học của các giảng viên có học vị tiến sĩ hoặc tiến sĩ khoa học.
Nguồn gốc
Thuật ngữ "giáo sư" trong tiếng Việt bắt nguồn từ hai chữ 教師. Từ professor trong tiếng Anh được sử dụng lần đầu tiên vào cuối thế kỷ XIV có nghĩa là "người truyền dạy một ngành kiến thức" từ tiếng La Tinh "person who professes to be an expert in some art or science".
Nhiệm vụ
Các giáo sư là những chuyên gia có trình độ cao trong lĩnh vực của họ, họ thường thực hiện một số hoặc tất cả các nhiệm vụ sau:
Quản lý giảng dạy, nghiên cứu và xuất bản sách, bài báo tại các sở của họ (ở các nước có mỗi giáo sư đứng đầu một khoa);
Thực hiện các bài giảng và hội thảo chuyên ngành (ví dụ như "tuyên xưng"), chẳng hạn như lĩnh vực toán học, khoa học, nhân văn, khoa học xã hội, giáo dục, văn học, âm nhạc hoặc các lĩnh vực ứng dụng kỹ thuật, thiết kế, y khoa, điều dưỡng, Kinh doanh;
Thực hiện, dẫn dắt và xuất bản các nghiên cứu ban đầu tiên tiến trong các tạp chí khoa học được đánh đúng với lĩnh vực của họ;
Cung cấp dịch vụ cộng đồng, bao gồm các chương trình tư vấn (như tư vấn cho các tổ chức chính phủ và phi lợi nhuận) hoặc cung cấp các bình luận chuyên gia về các chương trình truyền hình, đài phát thanh hoặc các chương trình công cộng;
Tư vấn sinh viên sau đại học về lĩnh vực đào tạo của họ;
Thực hiện các chức năng hành chính hoặc quản lý, thường ở vị trí cao (ví dụ như trưởng khoa, thư viện...).
Đánh giá học sinh trong các lĩnh vực chuyên môn (ví dụ: thông qua kiểm tra hoặc thuyết trình).
Vai trò khác của các nhiệm vụ giáo sư phụ thuộc vào thể chế của từng học viện, các trung tâm nghiên cứu, di sản, các giao thức, địa điểm (quốc gia) và thời gian. Ví dụ, các giáo sư tại các trường đại học theo định hướng nghiên cứu ở Bắc Mỹ và, nói chung, tại các trường đại học châu Âu, được thúc đẩy chủ yếu dựa trên thành tích nghiên cứu và thành công từ bên ngoài.
Tiền lương
Bảng dưới đây cung cấp thông tin tiền lương của giáo sư và phó giáo sư trên thế giới. Lưu ý rằng dữ liệu này được tổng hợp vào năm 2014 (tính bằng đồng Euro) và được coi là lỗi thời đáng kể vào năm hiện tại. |
Nguyễn Văn Tài (sinh ngày 16 tháng 12 năm 1959) thường được biết đến với nghệ danh Tuấn Vũ là một nam ca sĩ nhạc vàng nổi tiếng từ thập niên 1980 người Mỹ gốc Việt. Ông được yêu thích hơn khi song ca cùng các nữ ca sĩ gạo cội như Giao Linh, Hương Lan, Sơn Tuyền, Mỹ Huyền, Thiên Trang, Phượng Mai, Thanh Tuyền, Phương Dung, Ngọc Lan, Như Mai ...
Tiểu sử và sự nghiệp
Ông tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 16 tháng 12 năm 1959 tại huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Ông sang Hoa Kỳ năm 1979 và định cư tại San Francisco. Ông theo nghiệp ca sĩ từ đầu những năm 1980 và trở thành ca sĩ nhạc vàng nổi tiếng. Đến nay ông đã thu âm trên 1400 bài hát thuộc nhiều thể loại.
Tuấn Vũ từng kể rằng vào khoảng năm 1991, sau một thời gian dài đi hát, ông nhận thấy rằng nếu chỉ hát các bài nhạc có giai điệu trầm buồn như vậy mãi thì sẽ nhàm chán nên thử làm một cái gì đó mới hơn.
Thời điểm đó đang nổi lên các băng đĩa nhạc liên khúc rất được khán giả yêu thích, đặc biệt là Liên Khúc Tình Yêu với tiếng hát Ngọc Lan – Kiều Nga – Trung Hành do trung tâm Asia phát hành, Tuấn Vũ đã hợp tác cùng với 2 nhạc sĩ hòa âm nổi tiếng vào lúc đó là Chí Tài và Trúc Hồ để thực hiện Liên Khúc Tuấn Vũ, phần đầu tiên được ra mắt vào năm 1991 trong cuốn CD Thúy Anh thứ 56, và là cuốn Tuấn Vũ thứ 12 do trung tâm Thúy Anh phát hành (vì vậy CD này mang tên là Tuấn Vũ 12 – Liên Khúc Tuấn Vũ). Sự thử nghiệm loại nhạc mới này đã thành công mỹ mãn, Tuấn Vũ cùng trung tâm Thúy Anh đã lần lượt ra mắt thêm 4 CD liên khúc nữa và đều rất được yêu thích.
Tiếng hát của Tuấn Vũ một thời là thần tượng của thính giả trong nước Việt Nam cũng như tại hải ngoại. Đi đâu cũng nghe Tuấn Vũ, từ Sài Gòn ra Hà Nội, đâu đâu cũng nghe văng vẳng giọng ca của ông. Nào "Nỗi Buồn Sa Mạc, Người Yêu Cô Đơn, Phượng Buồn... và không biết bao nhiêu là nhạc phẩm đã được trình bày bởi Tuấn Vũ đều được mọi người ưa thích.
Thời gian sau này, Tuấn Vũ rất ít xuất hiện trước khán giả mặc dù sự đòi hỏi lên rất cao ở khắp nơi, nhưng tiếng hát của ông đã trở thành bất hủ đối với số đông người. Khán giả chờ đợi sự xuất hiện của ông, họ muốn nghe tiếng hát có một sức lôi cuốn kỳ diệu đó, nhưng Tuấn Vũ vẫn vắng bóng. Trong những năm từ 1985 cho đến 1991, tiếng hát Tuấn Vũ đã mang đến một lợi nhuận rất lớn cho những trung tâm băng nhạc như Giáng Ngọc, Đời, Phượng Hoàng... Băng nào hoặc CD nào có Tuấn Vũ là "thắng lớn."
Nhà thơ Nguyên Sa đã tặng cho Tuấn Vũ danh hiệu "Con Chim Phượng hoàng" đã một thời tung hoành trên một độ cao chót vót.
Hiện ông vẫn tiếp tục hoạt động văn nghệ, thường xuất hiện trong các chương trình của trung tâm Asia, trung tâm Thúy Nga.
Về nước biểu diễn
Tuấn Vũ trở về nước lần đầu năm 2001
Lần về nước ngày 16/7/2010, Tuấn Vũ biểu diễn 6 đêm tại Nhà hát Lớn Hà Nội, tại khách sạn Daewoo, và nhiều tỉnh thành khác tại miền Bắc.
Tháng 11 năm 2018, Tuấn Vũ trở về Việt Nam và tổ chức liveshow mang tên "Mười năm tái ngộ", diễn ra ở Trung tâm Hội nghị Quốc gia vào ngày 9/12.
Album
Băng Tuấn Vũ
Tuấn Vũ 1 - Thanh Lan 68: Gửi về em (1986) với Kim Tuyến
Tuấn Vũ 2 - Giáng Ngọc 35: Hoa biển (1987) với Như Mai, Giao Linh, Hương Lan, Ngọc Lan
Tuấn Vũ 3 - Giáng Ngọc 45: Gặp nhau (1987) với Hưong Lan, Như Mai, Ngọc Lan, Hải Lý, Giao Linh, Thanh Tuyền, Thiên Trang
Tuấn Vũ 4 - Phựong Hoàng 1: Tình không hối tiếc (1988) với Lynda Trang Đài, Thanh Tuyền, Duy Quang, Hải Lý, Ngọc Lan, Như Mai
Tuấn Vũ 5 - Đời 23: Tìm mãi thương yêu (1988)
Tuấn Vũ 6 - Làng Văn 68: Người xa thành phố (1988), với Hương Lan
Tuấn Vũ 7 - Làng Văn 95: Dạ vũ tình đầu (1989), với Hương Lan, Băng Châu, Sơn Tuyền
Tuấn Vũ 8 - Giáng Ngọc 93: Nếu em về bên anh (1990)
Tuấn Vũ 9 - Đời 50: Mimosa (1990)
Tuấn Vũ 10 - Người Đẹp Bình Dương 44: Nhạc yêu cầu 1 (1990)
Tuấn Vũ 11 - Thúy Anh 61: Rumba tuyệt vời (1991)
Tuấn Vũ 12 - Thúy Anh 63: Liên khúc Tuấn Vũ 1 (1991)
Trung tâm Thanh Lan
TL019: Tình chàng ý thiếp, với Phương Dung (TLCD58: Tiễn người đi - 1984)
TL020: Nhà anh nhà em, với Trúc Mai, Kim Tuyến (1984)
TL068: Gửi về em (Tuấn Vũ 1), với Kim Tuyến (TLCD25 - 1986)
TL096: Chuyện một tình yêu, với Thanh Phong, Hương Lan (Mai Khanh CD23 - 1987)
TL103: Cho người tình nhỏ, với V.A. (1987)
TL104: Hương ca vô tận, với Hưong Lan, Thanh Phong, Thanh Tuyền (TLCD004 - 1987)
TL108: Tình đẹp mùa chôm chôm, với V.A. (MKCD20 - 1987)
TL122: Đường vào tình sử, với Trúc Mai, Thiên Trang (MKCD26 - 1988)
TL124: 4 Nụ Hôn Đầu, với Trúc Mai, Thanh Tuyền, Giao Linh, Huy Sinh
Trung tâm Giáng Ngọc
GN026: Mộng uớc, với V.A. (1987)
GN030: Tình khúc lính 2, với V.A. (1987)
GN031: Giáng Ngọc tứ quý, với Duy Quang, Hương Lan, Ngọc Lan (1987)
GN033: Sao rơi trên biển, với V.A. (1987)
GN035: Hoa biển (Tuấn Vũ 2), với Giao Linh, Hương Lan, Ngọc Lan, Như Mai (GNCD7 - 1987)
GN042: Điệu buồn dang dở, với 12 ca sĩ tên tuổi (1987)
GN044: Chiều trên đồi thông, với V.A. (1987)
GN045: Gặp nhau (Tuấn Vũ 3), với V.A. (GNCD29 - 1987)
GN046: Xuân hợp mặt, với V.A. (1988)
GN048: Đôi song ca Phượng Mai & Tuấn Vũ (GNCD17: Hỏi anh hỏi em - 1988)
GN052: Tình ngoại ô, với Tuấn Anh, Giao Linh (GNCD27 -1988)
GN053: Đêm cuối cùng bên anh, với V.A. (1988)
GN054: Tiếng hát khói sương, với V.A. (1988)
GN055: Đôi mắt người xưa, với Giao Linh (GNCD16 - 1988)
GN061: Hận tình trong mưa, với Phượng Mai, Tuấn Anh (GNCD: Con thuyền không bến - 1988)
GN062: Ngõ ý (Giao Linh & Tuấn Vũ 2) (1988)
GN067: Nhạc tình mùa thu, với Giao Linh, Phượng Mai, Anh Vũ, Trúc Ly (1988)
GN071: Mười thương, với Hương Lan, Thanh Tuyền (GNCD6 - 1989)
GN074: Tim quên, với Chế Linh, Giao Linh, Thiên Trang, Diễm Hương (1989)
GN079: Ai cho tôi tình yêu, với Giao Linh, Thiên Trang (GNCD13 - 1989)
GN082: Thương nhớ một người, với V.A. (1989)
GN083: Nhớ nhau hoài, với Thanh Tuyền, Sơn Tuyền (GNCD37 - 1989)
GN085: Thiệp hồng anh viết tên em, với Giao Linh, Phượng Mai (GNCD85 -1989)
GN086: Nửa dêm ngoài phố, với Thanh Tuyến, Giao Linh, Thiên Trang, Phượng Mai (1989)
GN087: Xin gọi nhau là cố nhân, với Hương Lan, Thanh Tuyền (GNCD20 - 1989)
GN088: Quán nửa khuya (tân cổ giao duyên), với Hữu Phước, Hương Lan (1989)
GN090: Lối về đất mẹ, với Thanh Tuyền, Phượng Mai (GNCD36 - 1989)
GN093: Nếu em về bên anh (Tuấn Vũ 8) (GNCD22 - 1990)
GN095: Dạ vũ mừng xuân, với Hương Lan, Ngọc Lan, Quốc Anh, Kim Anh (1990)
GN097: Tình sầu biên giới, với Giao Linh, Thanh Tuyền (1990)
GN099: Hoa sứ nhà nàng (Phượng Mai 3) (GNCD48 - 1990)
GN101: Trong tầm mắt đời, với Thanh Tuyền, Giao Linh, Hương Lan, Phượng Mai (1990)
GN103: Mảnh tình thương, với Hương Lan, Thanh Tuyền, Nhật Linh (GNCD45)
GN106: Đường sang nhà em (Thiên Trang đặc biệt), với Thiên Trang, Anh Thoại (1991)
GN108: Khúc hát ân tình, với Thanh Tuyền (1991)
GN110: Dấu chân kỷ niệm (Tuấn Vũ đặc biệt), với V.A. (1991)
GN112: Tình lỡ (Phượng Mai & Tuấn Vũ 2) (GNCD52 - 1991)
GN125: Hàn Mặc Tử, với Phương Dung (1991)
GN130: Chuyện tình Lan và Điệp, với Phượng Mai (1991)
GN132: Trăm năm bến cũ (The best of Tuấn Vũ) (1991)
GN143: Vòng tay giữ trọn ân tình, với Thiên Trang (1992)
GN145: Duyên quê, với Phượng Mai (1992)
GN147: Em sắp về chưa (Giao Linh & Tuấn Vũ 3) (1992)
GN154: Mộng ước mai sau, với Hương Lan (1992)
GN163: Cô hàng xóm, với Mỹ Huyền (1992)
GN178: The best of song ca: Đêm buồn tỉnh lẻ (GNCD178 - 1993)
GN196: The best of song ca 2 (GNCD196)
GN198: Lý chim quyên, với Hương Lan, Phượng Mai, Nhật Linh (1994)
GN227: Trên bốn vùng chiến thuật, với Sơn Tuyền (GNCD227 - 1995)
GN233: Mười sáu trăng tròn, với Sơn Tuyền (GNCD233 - 1996)
GN???: Giông tố
Trung tâm Phượng Hoàng
PH01: Tình không hối tiếc (Tuấn Vũ 4), với Lynda Trang Đài, Duy Quang, Hải Lý (PHCD21 - 1988)
PH05: Dạ Vũ Phượng Hoàng, với V.A. (PHCD05 - 1988)
PH06: Người mang thương nhớ, với Giao Linh, Tuấn Anh, Lưu Hồng, Hải Lý (PHCD01 - 1989)
PH08: Điệp khúc thương đau, với Giao Linh, Thiên Trang, Hương Lan, Lưu Hồng (PHCD04 - 1989)
PH11: Mưa nửa đêm, với V.A. (PHCD06 - 1989)
PH12: Chuyện chúng mình, với V.A. (1989)
PH15: Tiếng hát Tuấn Vũ 90 - Yêu một mình, với Tuấn Anh, Sơn Ca, Hương Lan, Sơn Tuyền (PHCD8 - 1990)
PH17: Tiếng hát để đời (PHCD11 - 1990)
PH19: Thương hoài ngàn năm, với Hương Lan, Sơn Tuyền (PHCD15 - 1990)
PH29: Tuyệt Phẩm 1 (1991)
PH51: Tuyệt Phẩm 2 - Nó (1993)
PH56: Tuyệt Phẩm 3 - Hận Đồ Bàn (1994)
PH62: Ngày ấy quen nhau, với Hương Lan, Quang Bình (1995)
Đời Magazine
Đời 16: Tình khúc Trần Thiện Thanh, với V.A. (Đời CD 8)
Đời 18: Thiên đường tình ái, với Sơn Tuyền (Đời CD 6 - 1987)
Đời 23: Tìm mãi thương yêu (Tuấn Vũ 5) (Đời CD 4 - 1988)
Đời 26: Nếu đời không có anh, với Giao Linh, Sơn Tuyền (Đời CD15 - 1988)
Đới 43: Sao anh nỡ đành quên, với Thiên Trang (Đời CD 13 - 1990)
Đời 44: Dạ vũ lính, với V.A.
Đời 48: Yêu người như thế đó, với Giao Linh, Hương Lan, Khánh Dung, Hằng Nga (Đời CD 18 - 1990)
Đời 49: Biển tình, với Giao Linh, Hương Lan, Như Mai, Hằng Nga, Châu Đình An (1990)
Đời 50: Mimosa (Tuấn Vũ 9) (Đời CD 24 - 1990)
Đời 61: Nếu vắng anh (Sơn Tuyền & Tuấn Vũ 2) (1991)
Trung tâm Làng Văn
LV021: Cánh hoa thời loạn (tái bản Thúy Nga 16: Hương Lan Paris 86), với Hương Lan, Duy Quang (1986)
LV059: Hoa nở về đêm, với Thiên Trang, Chế Linh, Duy Quang, Thanh Phong (1988)
LV063: Tình yêu cách trở, với Chế Linh, Hương Lan (LVCD135 - 1988)
LV065: Lá thư đô thị, với V.A. (LVCD009 - 1988)
LV066: Thành phố buồn, với Chế Linh (LVCD101 - 1988)
LV068: Người xa thành phố (Tuấn Vũ 6), với Hương Lan (1988)
LV070: Đêm tâm giao, với Giao Linh, Hương Lan (1988)
LV071: Người tình, với Hương Lan (LVCD169 - 1988)
LV074: Con là người ngoại đạo, với V.A. (LVCD44 - 1988)
LV075: Xuân đi lễ chùa, với V.A. (LVCD157- 1988)
LV085: Đêm trao kỷ niệm, với Thiên Trang (LVCD78 - 1989)
LV089: Biệt kinh kỳ, với Chế Linh, Duy Khánh (LVCD054 -1989)
LV095: Dạ vũ tình đầu (Tuấn Vũ 7), với Hương Lan, Băng Châu, Sơn Tuyền (LVCD60 - 1989)
LV096: Giọt buồn không tên, với Duy Khánh, Phương Dung (1989)
LV102: Chuyện dêm qua, với Giáng Thu (1989)
LV105: Tình thiên thu, với Thanh Tuyền (1989)
LV107: Vùng trước mặt, với Chế Linh (LVCD52 - 1989)
LV109: Đêm thánh vô cùng, với V.A. (1989)
LV114: Tình khúc Trúc Phương & Lam Phương, với Duy Khánh, Chế Linh, Phương Dung (1989)
LVCD17: 10 tình khúc top hits (1989)
LVCD38: Ngại ngùng, với Hương Lan (1990)
LVCD76: Những đồi hoa sim (1990)
LVCD77: Phố vắng em rồi, với Giao Linh, Hương Lan (1990)
LV151: Đường tình mấy trạm (LVCD121 - 1992)
LV152: Giáng Sinh, với Hương Lan (LVCD155 - 1992)
LV239: Mùa Giáng Sinh xưa, với V.A. (1997)
LV264: Mưa trên cành hồng, với Yến Khoa (1999)
LVCD353: Nhạc yêu cầu (album tổng hợp, tái bản từ Người Đẹp Bình Dương - 2007)
LVCD429: Sầu lẻ bóng (album tổng hợp, tái bản từ Thùy Anh - 2012)
LVCD430: Hoa sứ nhà nàng (album tổng hợp, tái bản từ Thùy Anh - 2012)
Trung tâm Mimosa
Mimosa 15: Đưa em qua cánh đồng vàng, với Sơn Tuyền (LVCD115) (1992)
Mimosa 17: Mộng ước ngày xanh (Mimosa CD 28)
Mimosa 19: Hoa nắng chiều xưa (Mimosa CD 29)
Trung tâm Người Đẹp Bình Dương
NĐBD10: Gửi Về Anh, với V.A. (1988)
NĐBD13: Đêm Về Tưởng Nhớ, với Nhật Linh, Như Mai, Sơn Tuyền (1988)
NĐBD15: Mơ hoa, với Hương Lan, Giao Linh, Nhật Linh (1989)
NĐBD24: Giọt lệ đài trang (1990)
NĐBD40: Người thương kẻ nhớ (1990), với Như Mai
NĐBD44: Nhạc yêu cầu 1 (Tuấn Vũ 10) (1990)
NĐBD47: 10 tình khúc song ca (1990), với Như Mai, Elvis Phương
NĐBD48: Nhạc yêu cầu 2 (1990)
NĐBD65: Nhạc yêu cầu 3 (1992)
NĐBD68: Tuấn Vũ đặc biệt 4 (1994)
Gold 2: Khúc ca muôn đời, với V.A. (1989)
Gold 5: Ngăn cách, với Ngọc Lan (1990)
Gold 10: Hẹn hò, với Hương Lan, Thái Châu (1991)
Gold 12: Mùa đông của anh, với Thái Châu (1992)
Gold 13: Tôi bán đường tơ, với Thái Châu, Vũ Khanh, Elvis Phương (1992)
Gold 15: Không bao giờ quên anh, với Hương Lan
Lệ Hằng 35: Cuộc tình xưa, với Hương Lan, Ngọc Đan Thanh (1992)
Lệ Hằng 38 Phượng buồn, với Kiều Nga (1992)
NĐBD Gold 26: Khu phố ngày xưa (1997)
Tình ca hải ngoại 8: Lời tình buồn, với Hương Lan
Tình ca hải ngoại 9: Đò chiều, với Sơn Tuyền
Tình ca hải ngoại 11: Chuyện tình không suy tư, với Ngọc Lan
Tình ca hải ngoại 20: The best of Tuấn Vũ
Tình ca hải ngoại 21: Tuấn Vũ of the year
Trung tâm Thúy Anh
TA041: Phương trời xứ lạ (Anh Thoại 1), với Anh Thoại, Hương Lan, Thiên Trang (TACD23 - 1989)
TA043: Tình bơ vơ, với Thanh Tuyền (TACD20, tái bản Nguồn Sống 3 - 1988)
TA059: Vùng lá me bay, với Phương Dung (TACD050 - 1991)
TA060: Ngoại ô đèn vàng, với Phương Dung, Thanh Phong (TACD53 - 1991)
TA061: Rumba tuyệt vời (Tuấn Vũ 11) (TACD61 - 1991)
TA062: 7 ngày đợi mong, với Hương Lan, Thiên Trang, Phương Dung (TACD55 - 1991)
TA063: Liên khúc Tuấn Vũ 1 (Tuấn Vũ 12) (TACD56 - 1991)
TA064: Biển mặn, với Phượng Mai (1991)
TA065: Liên khúc Tuấn Vũ 2 (1991)
TA066: Tuấn Vũ Đặc biệt, với Hương Lan (1991)
TA067: Lính xa nhà, với Phương Dung (1992)
TA068: Tuấn Vũ Xuân 92 (1992)
TA069: Nếu ai có hỏi, với Hương Lan (1992)
TA070: Thành phố sau lưng, với Phượng Mai (1992)
TA072: Liên khúc Tuấn Vũ 3 (1992)
TA073: Tuổi học trò, với Lynn (1992)
TA075: Tình đời (1992)
TA077: Xin đừng yêu tôi (1993)
TA079: Tình đầu tình cuối (1993)
TA082: Nửa đêm ngoài phố (1993)
TA083: 10 tình khúc Song Ngọc (1993)
TA084: Liên khúc Tuấn Vũ 4 (1993)
TA086: Chiều Tây đô, với Mỹ Huyền (1993)
TA088: Liên khúc Tuấn Vũ 5 (1993)
TA092: Nếu anh đừng hẹn, với Phi Nhung (1993)
TA094: Ba tháng tạ từ / Những đóm mắt hỏa châu, với Mỹ Huyền, Phi Nhung, Phương Lam, Đài Trang (1994)
TA095: Lối về đất mẹ, với Mỹ Huyền (1994)
TA101: Nhật ký của hai đứa mình, với Mỹ Huyền (1994)
TA102: Duyên quê, với Hương Lan (1994)
TA105: Qua ngõ nhà em (1994)
TA107: Mùa xuân của mẹ, với Hương Lan, Phi Nhung (1994)
TA108: Tôi không cô đơn (1995)
TA113: The best of Tuấn Vũ 96: Hình bóng quê nhà (tái bản Tuấn Vũ Productions - 1995)
TA133: Lá diêu bông, với Lưu Mỹ Linh (1997)
TA134: Tuấn Vũ chọn lọc (1997)
TA144: Liên khúc quê hương, với Mỹ Huyền, Hương Lan (1997)
Doremi 6: Tuấn Vũ và những chuyện tình (1992)
Doremi 51: The best of Tuấn Vũ 99: Hình bóng quê nhà (tái bản Tuấn Vũ Productions - 1999)
Doremi 52: Nó và Tôi, với Thảo Sương
Trung tâm Mai Ngọc Khánh
MNKCD01: Ru con tình cũ (12 Giọng Ca Vàng) (1987)
MNKCD02: Sài Gòn thứ bảy, với V.A. (1988)
MNKCD28: Em vẫn còn thương, với Nhật Thiên Lan (1993)
MNKCD35: Kẻ cô đơn, với Nhật Thiên Lan
MNKCD51: Tình anh lính chiến, với Mai Ngọc Khánh
MNKCD53: Thuở ấy có em
Trung tâm Asia
Asia 039: Mưa rừng, với V.A.
Asia 042: Đam mê, với Thiên Trang (Asia CD13 - 1988)
Asia 045: Sầu tím thiệp hồng, với Chế Linh, Thiên Trang, Lưu Hồng (1989)
Asia 054: Giáng Sinh 89, với V.A. (1989)
Asia 065: Liên khúc Cho người tình, với Sơn Tuyền, Thiên Trang (Asia CD25 - 1990)
Tình ca 20 CD2: Đôi bóng, với Chế Linh, Thiên Trang (1992)
Asia CD218: Liên khúc Gõ cửa, với V.A. (2005)
Asia CD219: Liên khúc Chuyện hoa sim, với Ngọc Huyền, Băng Tâm (2006)
Asia CD239: Giọt lệ đài trang, với Kim Tiểu Long (2007)
Asia CD255: Kể chuyện trong đêm (The best of Tuấn Vũ), với Mỹ Huyền (2008)
Asia CDCS48: Duyên kiếp, với Phương Hồng Quế, Giang Tử (2013)
Asia CD359: Biết nói gì đây, với 5 nữ ca sĩ (2014)
Trung tâm Thanh Hằng
Thanh Hằng ?: Lý qua cầu, với Phượng Mai (1994)
Thanh Hằng ?: Thương quá Việt Nam, với Thanh Hằng (1994)
Thanh Hằng ?: Định mệnh trong tình yêu, với Giao Linh (1994)
Thanh Hằng ?: Tôi bán đường tơ, với Thái Châu, Sơn Ca, Thanh Hằng (1994)
Thanh Hằng 7: Người tình La Lan, với Phượng Mai (1994)
Thanh Hằng 9: Lãng du, với Thái Châu, Trung Chỉnh, Thanh Tuyền, Ngọc Bích (1994)
Thanh Hằng 11: Tơ hồng, với Sơn Ca (1994)
Thanh Hằng 12: Đập vỡ cây đàn, với Hương Lan, Thanh Tuyền (1994)
Thanh Hằng 15: Đường xưa lối cũ, với Phượng Mai, Nhật Trường (1994)
Thanh Hằng 20: Thương hoài ngàn năm (1995)
Thanh Hằng 22: Cái trâm em cài (1995)
Thanh Hằng 24: Hát hội trăng rằm, với Phạm Hữu, Sơn Ca (1995)
Thanh Hằng 25: Hoa sử nhà nàng, với Phạm Hữu, Hương Lan (1995)
Thanh Hằng 27: Ôi người tình cô đơn, với Như Quỳnh (1995)
Thanh Hằng 28: Tình đời, với Thanh Tuyền, Phi Long (1995)
Thanh Hằng 29: Về dưới mái nhà (1996)
Thanh Hằng 32: Sầu riêng (1996)
Thanh Hằng 33: Phố nhỏ tình người, với Thanh Tuyền, Phi Long (1995)
Thanh Hằng 34: Mẹ của tôi, với Phi Long (1995)
Thanh Hằng 38: Chuyện tình buồn, với Hương Lan, Phượng Mai, Thanh Tuyền (1996)
Thanh Hằng ??: Giọng ca dĩ vãng, với Thanh Hằng (2002)
Thanh Trang 2: Hữu duyên thiên lý ngộ, với Khả Tú
Thanh Trang 4: Cho xin sống lại, với Hương Lan
Thanh Trang 5: Lời tỏ tình đáng yêu, với Quốc Anh, Khả Tú
Thanh Trang ?: Xa mấy phương trời
Thanh Trang ?: Mưa buồn, với Hương Lan (1997)
Thái Lan: Siết chặt bàn tay, với Hương Lan, Nhật Trường, Anh Khoa (1995)
Top Laser
Top Laser 1: Điên, với Thái Châu, Ngọc Đan Thanh, Tuyết Nhung
Top Laser 2: Đời tôi chỉ một người , với Thái Châu, Ngọc Đan Thanh
Top Laser 3: Đêm nguyện cầu, với Thái Châu, Ngọc Đan Thanh
Top Laser 4: Về đâu mái tóc người thương, với Ngọc Đan Thanh, Tuyết Nhung
Top Laser 5: Bông Hồng Cài Áo, với nhiếu ca sĩ
Top Laser 6: Tình đến rồi đi
Trung tâm Làng tôi
Làng Tôi 1: Làng tôi (Tuấn Vũ Gold) (1995)
Làng Tôi 2: 18 trăng tròn (Thảo Sương - Tuấn Vũ 1) (1995)
Làng Tôi 3: Mùa xuân của mẹ (1995)
Làng Tôi 6: Mưa bụi cuối cùng (Thảo Sương - Tuấn Vũ 2) (1995)
Làng Tôi 7: Nhật ký (Tuấn Vũ Gold 2)
Làng Tôi 8: Thu tiền ngươi, với Như Mai
Làng Tôi 10: Tàu về quê hương, với Thảo Sương, Hoàng Vũ
Làng Tôi 11: Cơn mưa Sài Gòn, với Hương Lan, Như Mai
Làng Tôi 12: Về quê ngoại (Thảo Sương - Tuấn Vũ 3)
Làng Tôi đặc biệt: Tuyệt phẩm song ca, V.A.
Làng Tôi 14: Giấc mộng nam kha (Thảo Sương - Tuấn Vũ 4)
Trung tâm Hải Đăng
Hải Đăng 12: Tuấn Vũ tái ngộ - 10 tình khúc chọn lọc (1998)
Hải Đăng 14: Nói với người tình, với Quỳnh Dung (1998)
Hải Đăng 15: Liên khúc tình yêu, với Quỳnh Dung (1999)
Hải Đăng 16: Tuyệt phẩm tình lính (1999)
Hải Đăng 19: Gởi người tôi thương, với Thái Châu (1999)
Hải Đăng 24: Chuyến tàu hoàng hôn, với Quỳnh Dung
Hải Đăng 30: Ngàn năm tình vẫn đẹp (Tuấn Vũ - Quỳnh Dung) (2000)
Hải Đăng 32: Mưa rừng (2000)
Hải Đăng 34: Tiếng hát đêm Noel, với Quỳnh Dung, Bảo Phương, Tuấn Linh (2000)
Hải Đăng 36: Đan áo mùa xuân, với Quỳnh Dung, Tuấn Linh (2000)
Hải Đăng 41: Hoa trắng thôi cài lên áo tím, với Tuấn Linh (2001)
Trung tâm Thúy Nga
Thúy Nga CD 8: Áo Tím Ngày Xưa, V.A. (1989)
Thúy Nga CD 12: Tuyệt Phẩm Song Ca, V.A. (1990)
Bóng nhỏ giáo đường, với Tâm Phương Anh (2012)
Nhà anh nhà em, với Tâm Phương Anh (2013)
Tuấn Trinh
Đường xưa lối cũ, Viết Thanh (2010)
Đường xưa lẻ bóng, Viết Thanh (2011)
Chuyến đò không em (2011)
Một ngày như mọi ngày (2012)
Sương lạnh chiều đông (2015)
Trung tâm khác
3T : Cơn mưa phùn, với Hà Cẩm Tú (1989)
Biển Tình 14: Vì lỡ thương nhau, với Yên Vy (1999)
Ca Dao 40: Người đã như mơ (Tuấn Vũ 99 Tái Ngộ) (1999)
Ca Dao 70: Những tình khúc bất hủ (album tổng hợp, tái bản từ Giàng Ngọc)
Ca Dao 127: Tuấn Vũ bất hủ 2 (album tổng hợp, tái bản từ Giàng Ngọc)
Dạ Lan 18: Cỏ hoa (V.A.) (1985)
Dạ Lan 19: Dáng xưa (V.A.) (1985)
Dạ Lan 22: Nhạc chọn lọc phim bộ 1 (V.A.) (1986)
Dạ Lan 52: Hỏi Huế có thường không (V.A.) (1988)
Hoàn Mỹ 6: Thầm gọi tên em, với Hương Lan
KD 2: Biển tình (1993)
Love Music 11: Giã Từ (1999)
Mây Ngàn Phương: Chuyến đò không em (tái bản từ Phượng Hoàng), với Hương Lan
Mây Ngàn Phương: Cho trọn cuộc tình, tái bản từ Phượng Hoàng), với Sơn Tuyền
Nhạc Tình 5: Lá Diêu Bông, với Hoàng Lan (1995)
Nhật Hạ: Kỷ niệm, với Phi Nhung (Ca Dao CD: Có em về - 1999)
Nhật Hạ: Nụ cười chua cay, với Tuấn Đạt
Như Mai 8: Tôi vẫn nhớ, với Như Mai (1991)
Như Mai 9: Ga chiều phố nhỏ, với Như Mai, Quốc Sĩ) (1991)
Như Mai 12: Chuyện tình của tôi, với Như Mai, Quốc Sĩ, Thiên Trang (1992)
Phương Hồng Quế: Còn nhớ Sài Gòn không?, với Phương Hồng Quế
Quỳnh Dao 1: Lời kẻ dăng trình, V.A. (1984)
Quỳnh Dao 2: Đêm trao kỷ niệm, V.A. (1984)
Rạng Đông: Dổi thay, với Giao Linh (2002)
Rạng Đông: Tinh chỉ đẹp (2002)
Sơn Tuyền 3: Sơn Tuyền đặc biệt, với Sơn Tuyền, Duy Quang, Khánh Dũng, Thanh Tùng
Sơn Tuyền 12: Hai mùa mưa, với Sơn Tuyền (1992)
Tình Hoa 3: Quê nhà quê người, V.A. (1987)
Tình Nhớ 33: Tuấn Vũ, Mỹ Huyền, Randy
Tình Nhơ 37: Xin Yêu Tôi Bằng Cả Tình Người (Tuấn Vũ & Randy 1)
Tình Nhớ 39: Tuấn Vũ & Randy 2
Tú Quỳnh 9: Dạ vũ mùa xuân (V.A.) (1985)
Tú Quỳnh 42: Biển mặn (Tú Quỳnh CD 14: Nếu ai có hỏi - 1991)
Yêu 9: 10 tình khúc lính, với Phi Nhung
Yêu 15: Nỗi buồn sa mạc (1998)
Các tiết mục trình diễn
Trung tâm Trường Thanh
Trung tâm Blue Ocean
Trung tâm Thúy Nga
Chương trình Paris By Night
Chương trình Thúy Nga Music Box
Chương trình Liveshow
Trung tâm Vân Sơn
Trung tâm Mây - Dạ Lan
Trung tâm Asia
Đài SBTN
Jimmy TV |
Lôgíc mô tả (tiếng Anh: Description logics, viết tắt DL) là một họ các ngôn ngữ biểu diễn tri thức có thể sử dụng để biểu diễn tri thức thuật ngữ của một miền ứng dụng theo một cách có cấu trúc và được hiểu rõ một cách hình thức. Mặt khác, cái tên lôgíc mô tả có ý nói đến các mô tả về khái niệm được dùng để mô tả một miền và ngữ nghĩa dựa lôgic (logic-based semantics) mà có thể thu được từ việc dịch từ lôgic mệnh đề bậc nhất.
Lôgic mô tả được thiết kế như là một mở rộng của khung ngữ nghĩa (semantic frame) và lưới ngữ nghĩa (semantic network), hai loại này đã không được trang bị một ngữ nghĩa dựa lôgic hình thức.
Lôgic mô tả được đặt cái tên hiện dùng từ năm 1980. Trước đó, nó đã được gọi là các hệ thống thuật ngữ (terminological system), và tiếp đó là các ngôn ngữ khái niệm (concept language). Ngày nay, lôgic mô tả đã trở thành một nền móng của Web Ngữ nghĩa (Semantic Web) do việc sử dụng nó trong thiết kế các bản thể (ontology).
Hệ thống dựa lôgic mô tả đầu tiên là KL-ONE (do Brachman và Schmolze xây dựng năm 1985).
Một số hệ thống lôgic mô tả khác xuất hiện sau đó là LOOM (1987), BACK (1988), KRIS (1991), CLASSIC (1991), FaCT (1998) và gần đây là RACER (2001), CEL (2005), và KAON 2 (2005).
Ý tưởng cho sự phát triển của Tầng Suy luận Bản thể (Ontology Inference Layer - OIL) đã xuất phát từ lôgic mô tả.
Cú pháp
Cú pháp của lôgic mô tả bao gồm
Một tập các ký hiệu mệnh đề dùng để ký hiệu các tên khái niệm (concept name);
Một tập các ký hiệu mệnh đề đôi để ký hiệu các tên vai trò (role name);
Một định nghĩa đệ quy để định nghĩa các thuật ngữ khái niệm từ các tên khái niệm và tên vai trò bằng cách sử dụng các tạo tử (constructor)
Trong lôgic mô tả, các tên khái niệm được xem là các khái niệm nguyên tử, các tên vai trò được coi là các vai trò nguyên tử. Nhìn chung, một khái niệm đại diện cho tập các cá thể thuộc về nó, và một vai trò đại diện cho một quan hệ giữa các khái niệm.
Cú pháp của một thành viên trong gia đình lôgic mô tả được đặc trưng bởi định nghĩa đệ quy của nó, các định nghĩa đệ quy này định nghĩa các tạo tử có thể được dùng để tạo các thuật ngữ khái niệm.
Một số tạo tử thông dụng bao gồm các tạo
tử lôgic trong logic bậc nhất như phép giao (intersection) hay tuyển (conjunction) của các khái niệm, phép hợp (union) hay hội (disjunction) của các khái niệm, phép phủ định (negation) hay lấy phần bù (complement) của các khái niệm, hạn chế giá trị (hạn chế với mọi - universal restriction), hạn chế tồn tại (existential resctriction), v.v.. Các tạo tử khác có thể còn bao gồm các hạn chế đối với các vai trò thường thấy trong các quan hệ nhị phân, ví dụ, tính đảo (inverse), tính bắc cầu (transitivity), chức năng (functionality), v.v.. Đặc biệt đối với phép giao và phép hợp, lôgic mô tả sử dụng các ký hiệu và để phân biệt chúng với ∧ và ∨ trong lôgic bậc nhất.
Dưới đây là một ví dụ về định nghĩa cú pháp của lôgic mô tả AL.
một khái niệm nguyên tử là một khái niệm-AL;
khái niệm đỉnh () là một khái niệm-AL;
khái niệm đáy () là một khái niệm-AL;
phần bù của một khái niệm-AL C cũng là một khái niệm-AL (ký hiệu là ¬C);
giao của hai khái niệm-AL C và D cũng là một khái niệm-AL (ký hiệu là );
nếu C là một khái niệm-AL và R là một tên vai trò, thì ∀R.C (hạn chế giá trị) cũng là một khái niệm-AL;
nếu R là một tên vai trò, thì (hạn chế tồn tại) cũng là một khái niệm-AL.
Ví dụ, là một khái niệm-AL, nhưng không phải. Còn nữa, là một khái niệm-AL, nhưng thì không phải.
Ngữ nghĩa
Ngữ nghĩa của lôgic mô tả được định nghĩa bằng cách giải nghĩa các khái niệm như là các tập hợp gồm các cá thể, và các vai trò như là các tập gồm các cặp cá thể. Các cá thể đó thường được cho là thuộc một miền xác định cho trước. Sau đó, ngữ nghĩa của các khái niệm và vai trò không nguyên tử được định nghĩa theo các khái niệm và vai trò nguyên tử. Điều này được thực hiện bằng một định nghĩa đệ quy tương tự như trong cú pháp.
Ví dụ, cho trước miền xác định là một tập hợp. Trước hết, một cách giải nghĩa các khái niệm-AL được định nghĩa qua các khái niệm và vai trò nguyên tử như sau:
Một khái niệm nguyên tử được giải nghĩa là một tập các cá thể - một tập con của miền xác định.
Mỗi vai trò nguyên tử được giải nghĩa là một tập các cặp cá thể thuộc miền xác định, nghĩa là một quan hệ nhị phân trên miền xác định. Trong trường hợp đó, nếu một cá thể x có quan hệ với y qua một vai trò R, thì y được gọi là một R-successor của x.
Tiếp theo, cách giải nghĩa này được mở rộng tới khái niệm và vai trò không nguyên tử, bằng cách sử dụng các tạo tử. Việc này được thực hiện như sau.
Khái niệm đỉnh được giải nghĩa là toàn bộ miền xác định.
Khái niệm đáy được giải nghĩa là tập rỗng.
¬C được giải nghĩa là tập của mọi cá thể trong miền xác định mà không thuộc về giải nghĩa của C.
Giao của hai khái niệm C và D được giải nghĩa là tập hợp giao, nghĩa là tập hợp gồm tất cả các cá thể trong miền xác định mà thuộc về cả giải nghĩa của C và giải nghĩa của D.
Hạn chế giá trị ∀R.C được giải nghĩa là tập gồm mọi cá thể trong miền xác định mà tất cả các R-successor của chúng (nếu có) đều nằm trong giải nghĩa của C.
Hạn chế tồn tại được giải nghĩa là tập gồm mọi cá thể trong miền xác định mà cá thể đó có ít nhất một R-successor.
Do đó, theo cách giải nghĩa các khái niệm và vai trò như trên, nếu P được giải nghĩa là tập tất cả mọi người và F được giải nghĩa là tập tất cả phụ nữ, thì tập tất cả những người không phải phụ nữ có thể được biểu diễn bằng khái niệm
Mô hình hóa bằng lôgic mô tả
Trong các lôgic mô tả, có sự phân biệt giữa cái gọi là TBox (hộp thuật ngữ) và ABox (hộp khẳng định). Nói chung, TBox chứa các câu mô tả các cây phả hệ của các khái niệm (nghĩa là quan hệ giữa các khái niệm) trong khi ABox chứa các câu có nội dung xác định mỗi cá thể thuộc về vị trí nào trên cây phả hệ (nghĩa là quan hệ giữa các cá thể và các khái niệm). Ví dụ, khẳng định:
(1) Mỗi nhân viên là một người
thuộc về TBox, còn khẳng định:
(2) Hà là một nhân viên
thuộc về ABox. Lưu ý rằng sự phân biệt TBox/ABox trong lôgic mô tả không có ý nghĩa như vậy trong logic bậc nhất (hầu hết các lôgic mô tả đều có thể xếp vào loại lôgic này). Hai "loại" câu này được đối xử như nhau. Khi dịch sang lôgic bậc nhất, một tiên đề xếp loại như (1) chỉ là một hạn chế có điều kiện cho các mệnh đề đơn (khái niệm) mà trong đó chỉ có các biến. Rõ ràng, một câu thuộc dạng này không được ưu tiên đặc biệt so với các câu chỉ chứa các hằng như (2).
Vậy tai sao lại phân biệt như thế? Lý do chính là vì sự tách biệt đó có thể có ích khi mô tả và hệ thống hóa các quy trình-quyết định cho các lôgic mô tả khác nhau. Ví dụ, một bộ lập luận có thể xử lý TBox và ABox riêng rẽ, phần vì một số bài toán suy luận quan trọng được gắn chặt với chỉ một trong hai hộp (bài toán 'phân loại' liên quan đến TBox, bài toán 'kiểm tra thực thể' (instant checking) gắn với ABox). Một ví dụ khác là độ phức tạp của TBox có thể ảnh hưởng lớn tới hiện quả làm việc của một quy trình-quyết định cho trước của một hệ lôgic mô tả nào đó, mà không phụ thuộc vào ABox. Do đó, đây là một cách hữu dụng để có thể nói về phần cụ thể đó của cơ sở tri thức.
Lý do phụ là sự phân biệt đó là có nghĩa nếu nhìn từ góc độ người mô hình hóa cơ sở tri thức. Đối với họ, việc phân biệt giữa quan niệm của ta về các thuật ngữ/khái niệm trong thế giới (các tiên đề phân loại trong TBox) và các thể hiện cụ thể của các thuật ngữ/khái niệm đó (các khẳng định thực thể trong ABox.)
So sánh với OWL
Thuật ngữ
Một khái niệm trong lôgic mô tả tương ứng với một lớp(class) trong OWL.
Một vai trò trong lôgic mô tả là một tính chất(property) trong OWL.
Các bộ lập luận dành cho lôgic mô tả
Có một số bộ lập luận (reasoner) để làm việc với OWL và lôgic mô tả. Dưới đây là một số chương trình thông dụng nhất:
CEL - bộ lập luận viết bằng LISP, là phần mềm tự do cho sử dụng phi thương mại.
Cerebra Engine - bộ lập luận thương mại viết bằng C++.
FaCT++ - phần mềm tự do mã nguồn mở viết bằng C++.
KAON2 - phần mềm tự do cho mục đích phi thương mại, viết bằng Java.
MSPASS - phần mềm tự do mã nguồn mở viết bằng C++, dành cho nhiều hệ lôgic mô tả.
Pellet - phần mềm tự do mã nguồn mở viết bằng Java.
RacerPro bộ lập luận viết bằng LISP, phần mềm thương mại (có dùng thử miễn phí và giấy phép cho công việc nghiên cứu)
Các công cụ khác có liên quan dành cho Lôgic mô tả:
Protégé - hệ soạn thảo bản thể và khung làm việc cho cơ sở tri thức, có thể sử dụng các bộ lập luận lôgic mô tả cho phép giao diện DIG cho việc kiểm tra tính nhất quán (consistency check), phần mềm tự do mã mở.
Cài đặt DIG - một giao diện XML cho các hệ lôgic mô tả, được khuyên dùng bởi DL Implementation Group (nhóm cài đặt lôgic mô tả). |
Houston (phát âm tiếng Anh: , phiên âm: Hiu-xtơn) là thành phố đông dân nhất Texas và là thành phố đông dân thứ tư tại Hoa Kỳ. Theo ước tính nhân khẩu Hoa Kỳ năm 2012, thành phố có 2,16 triệu dân cư trong một diện tích đất . Houston là quận lỵ của quận Harris, và khu vực đại đô thị Houston đông dân thứ năm tại Hoa Kỳ, với trên 6 triệu người.
Houston được thành lập vào năm 1836 trên vùng đất gần bờ sông Buffalo Bayou và được hợp nhất tổ chức thành một thành phố vào ngày 5 tháng 6 năm 1837. Thành phố được đặt tên theo Tướng Sam Houston, là tổng thống của Cộng hòa Texas. Phát triển kinh tế cảng và đường sắt, cộng thêm khám phá dầu thô vào năm 1901 khiến dân số thành phố liên tục tăng trưởng. Đến giữa thế kỷ 20, Houston trở thành nơi đặt trụ sở của Trung tâm Y tế Texas—trung tâm chăm sóc và nghiên cứu y tế lớn nhất thế giới—và trung tâm không gian Johnson của NASA.
Kinh tế Houston có nền tảng là các ngành năng lượng, chế tạo, hàng không, và vận tải. Thành phố cũng dẫn đầu trong lĩnh vực y tế và xây dựng hạ tầng mỏ dầu; và chỉ xếp sau thành phố New York về số lượng trụ sở của các công ty trong Fortune 500. Dân cư Houston đa dạng về dân tộc và tôn giáo và là một cộng đồng mang tính chất quốc tế lớn và đang phát triển. Thành phố có nhiều thể chế và triển lãm văn hóa.
Lịch sử
Vào giữa thập niên 1800, hai anh em - John Kirby Allen và Augustus Chapman Allen - là những người kinh doanh và khuếch trương địa ốc ở New York đi tìm một địa điểm mà họ có thể bắt đầu việc xây dựng "một trung tâm lớn của nhà nước và thương mại." Vào tháng 8 năm 1836, họ mua 6.642 acre (27 km²) đất từ T. F. L. Parrot, vợ góa của John Austin, với giá 9.428 Mỹ kim. Hai anh em nhà Allen đặt tên thành phố của họ theo tên của Sam Houston.
Houston bắt đầu như là một làng nhỏ. Gail và Thomas H. Borden đo đạc và vẽ bản đồ thành phố theo kiểu bàn cờ thông thường, với những con đường rộng chạy song song và vuông góc với hệ thống những nhánh sông trong vùng. Thành phố được phép thành lập vào ngày 5 tháng 6 năm 1837 và James S. Holman trở thành thị trưởng đầu tiên. Cùng năm đó, Houston cũng trở thành khu quản lý hành chính của quận Harrisburg, sau được đặt tên lại là quận Harris vào năm 1839. Vào lúc này, Nghị viện Texas chỉ định Houston như là thủ đô tạm thời của Cộng hòa Texas vừa thành lập. Thủ đô sau đó được di chuyển về Austin, lúc đó được biết đến như là Waterloo vào 14 tháng 1 năm 1839.
Vào năm 1900, dân số Houston vào khoảng 45.000 - thành phố lớn thứ 85 ở Hoa Kỳ. Việc phát hiện ra dầu hỏa tại Spindletop ở Beaumont vào năm 1901 đã làm thúc đẩy công nghiệp dầu hỏa, dần dần biến Houston thành một thành phố lớn. Vào năm 1902, Theodore Roosevelt chấp thuận dự án 1 triệu đôla để nâng cấp kênh đào tàu thủy Houston. Vào năm 1910, dân số Houston trở nên lớn hơn của Galveston. Tổng thống Woodrow Wilson khai trương Cảng Houston vào năm 1914, 74 năm sau việc đào xới bắt đầu. Vào 1914, kênh đào Houston được nạo vét để cho Houston một cảnh nước sâu, vượt qua khỏi cảng Galveston đã bị phá hoại một phần trong cơn bão Galveston vào năm 1900.
Khi Thế chiến thứ hai bắt đầu, lượng hàng hóa giảm và năm đường lưu chuyển bằng tàu thủy đã kết thúc các chuyến đến Houston, nhưng cuộc chiến đã đem lại một số lợi ích kinh tế cho thành phố. Sân bay Ellington, được xây trong Thế chiến thứ nhất, được tái sử dụng như là một trung tâm huấn luyện cho các phi công ném bom, và máy bay và đóng tàu trở thành công nghiệp chủ lực trên cả tiểu bang. Hiệp hội M. D. Anderson thành lập Trung tâm y khoa Texas vào năm 1945. Ngân hàng cũng phát triển lên vượt bậc trong cuối thập niên 1940. Sau chiến tranh, kinh tế Houston được chuyển ngược lại một nền kinh tế dựa vào cảng. Vào năm 1948, một số khu vực trống được cho thêm vào giới hạn của thành phố, và phạm vi Houston bắt đầu trải ra khắp thảo nguyên.
Công nghiệp đóng tàu trong suốt Thế chiến thứ hai đã thúc đẩy sự phát triển, cũng như là sự thiết lập năm 1961, của "Trung tâm phi thuyền có người điều khiển" của NASA (được đặt tên lại là Trung tâm vũ trụ Lyndon B. Johnson vào năm 1973), tạo ra công nghiệp hàng không cho thành phố. Tháng 12 năm 1961 bão Carla quật vào thành phố. Astrodome (sau này gọi là Harris County Domed Stadium), là sân vận động trong nhà có mái vòm đầu tiên, mở ra vào năm 1965 và nhanh chóng được mệnh danh là "Kỳ quan thứ 8 của thế giới".
Cuối thập niên 1970 dân số bùng nổ do khủng hoảng dầu hỏa năm 1973 và do dân từ các tiểu bang vùng Rust Belt di chuyển với số lượng lớn vào Texas, đang hưởng lợi từ việc khan hiếm dầu hỏa. Nhưng sự phụ thuộc của Houston vào dầu hỏa như là nền của các ngành công nghiệp dẫn đến sự đi xuống của nó khi giá dầu suy giảm vào thập niên 1980. Từ đó, Houston đã cố gắng đa dạng hóa các ngành kinh tế của thành phố bằng cách tập trung vào công nghiệp hàng không và kỹ thuật sinh học, và làm giảm sự phụ thuộc của nó vào dầu hỏa.
Năm 1990 chứng kiến Sân bay Liên lục địa Houston xây dựng bởi hãng hàng không quốc tế Mickey Leland mở cửa. Nhà ga 12 cổng được đặt tên theo Mickey Leland. Vào cùng năm đó, Hội nghị G8 được tổ chức ở Houston. Lee P. Brown, thị trưởng người da đen đầu tiên của Houston, được bầu lên vào năm 1997.
Địa lý
Houston nằm trên vùng quần xã sinh vật thuộc đồng bằng ven vịnh biển, và thực vật được xếp vào loại đất cỏ ôn đới. Đa số thành phố được xây dựng trên đất rừng, vùng đầm lầy hay thảo nguyên - tất cả những thứ này vẫn còn được nhìn thấy ở các khu vực xung quanh.
Đa phần Houston rất bằng phẳng, làm lụt lội là vấn đề hàng năm đối với người dân ở đây. Khu trung tâm cao khoảng 50 foot trên mực nước biển - với đa phần thành phố thấp hơn 100 foot. Thành phố đã từng dựa vào mạch nước ngầm cho nhu cầu về nước, nhưng sự lún đất đã bắt buộc thành phố sử dụng các nguồn nước ở trên mặt như là hồ Houston.
Houston có bốn nhánh sông chính chảy qua thành phố: nhánh sông Buffalo, chảy qua khu trung tâm thành phố và kênh đào Houston; và ba nhánh nhỏ của nó: nhánh Brays, chảy dọc theo Trung tâm y tế Texas; nhánh White Oak, chảy qua vùng Heights và gần khu vực tây bắc; và nhánh Sims, chảy qua phí nam Houston và khu trung tâm Houston. Kênh tàu thủy đi qua Galveston và đổ vào Vịnh Mexico.
Địa chất
Phía dưới bề mặt đất Houston là đất sét không vững chắc, đất sét từ đá phiến, và cát không dính chặt vào nhau sâu đến vài dặm. Địa chất của khu vực này phát triển từ các bồi đắp phù sa xói mòn từ dãy Rocky. Những lớp trầm tích này bao gồm một loạt đất cát và đất sét được dồn lên những chất hữu cơ phân hủy mà, qua thời gian, biến đổi thành dầu hỏa và khí đốt. Phía dưới những lớp này là một lớp đá muối mỏ ngậm nước. Những lớp xốp này được nén qua thời gian và được đẩy lên phía trên. Khi nó được đẩy lên phía trên, muối kéo theo những lớp trầm tích xung quanh tạo thành những hình mái vòm, thường chứa dầu và khí đốt thấm qua từ các lớp cát xốp xung quanh. Đất dày nhiều dầu này cũng cung cấp một môi trường tốt cho việc trồng lúa trong các khu ngoại ô thành phố tiếp tục phát triển gần khu Katy. Bằng chứng về việc trồng lúa trong quá khứ vẫn còn thấy rõ trong các khu vực phát triển bởi vì nơi đó vẫn còn lớp đất đen màu mỡ ở phía trên cùng.
Vùng Houston nhìn chung là không có động đất. Trong khi thành phố chứa 86 đứt đoạn địa chất được thống kê là từng hoạt động trong quá khứ với tổng độ dài là 149 dặm (240 km), lớp đất sét bên dưới bề mặt ngăn chặn sự dồn nén độ ma sát tạo nên chấn động bề mặt khi có động đất. Những đứt đoạn này nhìn chung là di chuyển từ từ với một độ trơn và được gọi là "các đứt đoạn đang trườn đi".
Quang cảnh thành phố
Khi Houston được thiết lập vào năm 1837, các nhà thành lập thành phố - John Kirby Allen và Augustus Chapman Allen - đã chia nó ra thành nhiều quận hành chính gọi là "ward". Phân chia thành ward là các điểm khởi xướng cho các quận được chia bởi hội đồng thành phố hiện nay của Houston - tổng cộng có 9 quận.
Các địa điểm ở Houston nhìn chung được chia ra là hoặc bên trong hay bên ngoài Đường 610, được biết đến như là "Đường vòng 610" hay "Đường vòng". Bên trong đường vòng là khu vực thương mại trung tâm và nhiều khu nhà ở và các khu vực được chia ra từ trước Thế chiến thứ hai. Gần đây hơn, những phát triển đô thị dày đặc hơn đã tạo ra kết quả là một nếp sống và một nếp nghĩ đô thị hơn. Cách gọi "bên trong Houston" mang theo với nó những mong đợi của một cuộc sống kiểu đô thị.
Khu vực nằm bên ngoài Houston, các sân bay và các vùng ngoại vi và phụ cận nằm bên ngoài đường vòng. Một đường vòng khác, State Highway Beltway 8 (cũng thường được biết đến một cách đơn giản là "Beltway"), bao quanh thành phố khoảng 5 dặm (8 km) xa hơn ra phía ngoài. Đường vòng thứ ba, State Highway 99 (cũng được biết đến như là Grand Parkway), đang trong quá trình xây dựng.
Houston, là một thành phố lớn nhất Hoa Kỳ không có những luật chia vùng, đã phát triển trong một cách thức không bình thường. Thay vì là một khu "đô thị" (downtown) như là trung tâm việc làm của thành phố, thêm năm khu kinh doanh đã phát triển bên trong thành phố: Uptown, Texas Medical Center, Greenway Plaza, Westchase và Greenspoint. Nếu những khu thương mại này được gộp lại, chúng sẽ tạo thành một khu downtown lớn thứ ba trên toàn nước Mỹ. Thành phố cũng có khu nhà chọc trời lớn thứ ba toàn quốc (sau Thành phố New York và Chicago), nhưng bởi vì nó trải dài vài dặm, những bức ảnh chỉ có thể cho thấy phần lớn khu vực trung tâm chính.
Khí hậu
Khí hậu Houston được liệt kê như là cận nhiệt đới ẩm. Lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 48 inch (1.220 mm). Bão mùa xuân đôi khi đem lại lốc xoáy vào khu vực này. Gió thổi quanh năm từ miền nam và đông nam trong suốt phần lớn của năm, đem theo cái nóng từ các sa mạc của México và độ ẩm từ Vịnh Mexico.
Trong suốt các tháng mùa hè, nhiệt độ cao nhất trong ngày có thể lên đến 94 °F (34 °C) vào cuối tháng 7 vơí một trung bình khoảng 99 ngày mỗi năm có nhiệt độ trên 90 °F (32 °C). Không khí có cảm giác như là đứng yên và độ ẩm (trung bình trên 90% độ ẩm tương đối vào buổi sáng trong mùa hè và khoảng 60 phần trăm bữa chiều) tạo kết quả là một chỉ số nhiệt cao hơn nhiệt độ thật sự. Để đối phó với cái nóng, người ta sử dụng máy điều hòa không khí gần như trong mỗi xe hơi và mỗi tòa nhà trong thành phố. Mưa buổi chiều là phổ biến và trong hết các ngày mùa hè, các nhà khí tượng Houston dự định ít nhất là một vài khả năng có mưa.
Nhiệt độ nóng nhất được ghi nhận ở Houston là 109 °F (43 °C) vào ngày 4 tháng 9 năm 2000.
Mùa đông ở Houston khá lạnh bắt đầu vào tháng 11 nhiệt độ giảm dần dưới 20 độ c thường là 16 và 14 độ và thường xuất hiện nhiều mưa và tháng này vì thế nhiệt độ có khi giảm xuống từ 3-6 độ c nếu có mây khoảng từ 10-12 độ c, khí lạnh của houston thường do gió thổi mang theo nên có cảm giác buốt (2015) . Tuyết không bao giờ nghe nói đến, và thông thường là đổ dồn lại khi tuyết được nhìn thấy. Cơn bão tuyết cuối cùng đổ vào Houston 4 - đêm tuyết rơi đầu tiên được ghi nhận ở thành phố vào dịp Giáng sinh. Nhiệt độ thấp nhất từng được ghi nhận ở Houston là 5 °F (−15 °C) vào 23 tháng 1 năm 1940.
Nhân khẩu
Houston là một thành phố đa văn hóa, một phần là do thành phố có nhiều học viện hàn lâm, các ngành công nghiệp mạnh, cũng như là một thành phố cảng lớn. Cư dân thành phố dùng trên 90 ngôn ngữ. Houston cũng có lợi điểm với thành phần dân số trẻ chiếm tỷ lệ lớn nhất so với những thành phố lớn tại Hoa Kỳ, một phần là do dòng người nhập cư vào Texas.
Theo điều tra nhân khẩu năm 2010, người da trắng chiếm 51% dân số Houston; 26% là người gốc Hispania; 25% da đen/người Mỹ gốc Phi; 0,7% thổ dân da đỏ và 6% người gốc châu Á (trong số đó 1,7% là người Việt, 1,3% người Hoa, 1,3% người Ấn, 0,9% người Pakistan, 0,4% người Philippines, 0,3% người Hàn, 0,1% người Nhật). Còn lại là 0,1% người các hải đảo Thái Bình Dương. Các sắc tộc khác chiếm 15,2%. Số người lai với hai chủng tộc trở lên chiếm 3,3%. Người có nguồn gốc Hispanic, bất kể chủng tộc, chiếm 44% dân số Houston.
Theo điều tra nhân khẩu năm 2000, thành phố có 1.953.631 người với mật độ dân số là 1.301,8/km². Thành phần chủng tộc là: 49,3% người da trắng, 25,3% người Mỹ gốc Phi, 5,3% người châu Á, 0,4% người da đỏ, 0,1% người các đảo Thái Bình Dương, 16,5% đến từ một số chủng tộc khác, và 3,1% xuất thân từ hai chủng tộc trở lên. Ngoài ra, người Hispanic chiếm 37,4% dân số Houston trong khi người da trắng phi Hispanic chiếm 30,8%, giảm từ 62,4% vào năm 1970.
Kinh tế
Công nghiệp năng lượng của Houston là một khu năng lượng lớn của thế giới (đặc biệt là dầu hỏa), nhưng nghiên cứu về y khoa, hàng không và kênh cho tàu thủy cũng chiếm phần lớn của phần công nghiệp cơ sở của thành phố. Khu đô thị Houston bao gồm khu vực sản xuất hóa chất lọc dầu lớn nhất thế giới, bao gồm cho cả cao su tổng hợp, thuốc trừ sâu và phân bón. Khu vực này cũng là trung tâm lớn nhất trên thế giới trong việc đóng các trang thiết bị cho giàn khoan. Đa số sự thành công của Houston như là một khu công nghiệp hóa dầu là do sự nhộn nhịp trên kênh đào cho tàu cho qua lại, Cảng Houston. Cảng này xếp đầu toàn quốc trong thương mại quốc tế là cảng lớn thứ sáu trên thế giới. Trong các cảng khác của Mỹ, nó là nơi bận rộn nhất tình theo số lượng hàng nước ngoài và xếp thứ hai trong tổng số hàng hóa. Bởi vì những buôn bán kinh tế này, nhiều người dân đã di cư đến Houston từ các tiểu bang khác của Mỹ, cũng như là từ hàng trăm nước trên thế giới. Không giống như các nơi khác, khi giá xăng dầu lên cao được xem là có hại cho nền kinh tế, chúng nhìn chung là được xem là có lợi cho Houston bởi vì nhiều người ở đây làm việc cho công nghiệp năng lượng.
Theo lịch sử, Houston đã có một vài đột phá trong phát triển kinh tế (và một vài suy thoái kinh tế thảm hại gắn liền với công nghiệp dầu hỏa. Sự khám phá ra dầu hỏa gần Houston vào năm 1901 đã dẫn đến sự đột phá phát triển đầu tiên - cho đến thập niên 1920, Houston đã phát triển đến vào khoảng 140.000 người. Công nghiệp hàng không đang phát triển của thành phố đã kéo theo sự đột phá kinh tế lần thứ hai, được làm tăng thêm với khủng hoảng dầu hỏa 1973. Nhu cầu dầu hỏa từ Texas tăng lên, và nhiều người từ đông bắc di cư đến Houston để hưởng lợi từ những thương mại đó. Khi việc cấm vận được bãi bỏ, sự phát triển hầu như là đứng lại. Tuy vậy, Pasadena vẫn còn các nhà máy lọc dầu của nó, và Cảng Houston vẫn là một trong những nơi bận rộn nhất trên thế giới.
Houston chỉ đứng thứ hai sau Thành phố New York trong số tổng hành dinh của các công ty Fortune 500. Thành phố này đã cố gắng xây dựng công nghiệp ngân hàng, nhưng các công ty nguyên xuất phát từ Houston từ lúc đó đã hợp nhất với các công ty khác toàn quốc. Ngân hàng, tuy vậy, vẫn là thiết yếu đối với vùng này.
Tổng sản lượng khu vực (GAP) của khu đô thị Houston–Sugar Land–Baytown trong năm 2005 là $308,7 tỷ, tăng 5,4% từ 2004 trong số đô la - chỉ một ít lớn hơn tổng sản lượng quốc gia (GDP) của nước Áo. Chỉ có 28 nước khác với Hoa Kỳ có GDP vượt khỏi tổng sản lượng khu vực Houston. Khai mỏ, mà trong Houston hoàn toàn là thăm dò và sản xuất dầu hỏa và khí đốt, chiếm đến 11% của GAP của Houston - giảm từ 21% so với gần đây nhất là năm 1985. Sự suy giảm trong vai trò của dầu khí trong GAP của Houston phản ánh sự phát triển nhanh chóng của các ngành khác - chẳng hạn như là dịch vụ về công nghệ, dịch vụ sức khỏe và sản xuất.
Bốn mươi nhà nước ngoại quốc duy trì các văn phòng giao dịch quốc tế và ngoại thương ở đây và thành phố có 23 tổ chức hiệp hội thương mại nước ngoài. Hai mươi ngân hàng nước ngoài đại diện cho mười nước hoạt động ở Houston và cung cấp giúp đỡ về tài chính cho cộng đồng quốc tế.
Trong 10 khu vực đô thị đông dân nhật, Houston xếp thứ hai trong tỉ lệ tăng trưởng số việc làm và xếp thứ 4 trong phát triển việc làm. Vào năm 2006, khu vực đô thị Houston xếp thứ 1 ở Texas và thứ 3 trên toàn nước Mỹ trong thể loại "Những nơi tốt nhất cho kinh doanh và sự nghiệp" bởi Forbes.
Văn hóa
Kiến trúc
Giáo dục
Nghiên cứu về sức khỏe và khoa học
Houston là nơi tọa lạc của khu Trung tâm Y khoa Texas (Texas Medical Center) nổi tiếng thế giới, bao gồm sự tập trung đông đảo nhất của các học viện nghiên cứu và chăm sóc sức khỏe.
Có 42 viện là thành viên của Trung tâm y khoa Texas - tất cả đều là tổ chức bất vụ lợi - tận tâm đến những tiêu chuẩn cao nhất của việc chăm sóc bệnh nhân và phòng bệnh, nghiên cứu, giáo dục và sức khỏe của cộng đồng địa phương, toàn quốc và quốc tế. Những viện này bao gồm 13 bệnh viện nổi tiếng và viện đặc biệt, hai trường y khoa, bốn trường y tá và các trường nha khoa, y tế cộng đồng, dược và hầu hết các ngành khác có liên quan đến chăm sóc sức khỏe. Đây là một trong những nơi đầu tiên - và vẫn là nơi lớn nhất - dịch vụ cấp cứu hàng không được tạo ra, một chương trình transplant trao đổi giữa các bệnh viện được phát triển rất thành công. Thêm vào đó, nhiều phẫu thuật tim được tiến hành ở Trung tâm Y khoa Texas hơn bất cứ một nơi nào trên thế giới.
Một số học viện nghiên cứu về sức khỏe là Baylor College of Medicine, University of Texas Health Science Center at Houston, Bệnh viện Methodist và The University of Texas M. D. Anderson Cancer Center. M. D. Anderson Cancer Center được biết đến rộng rãi trên thế giới như là một những nơi nổi tiếng về chăm sóc bệnh nhân ung thư, nghiên cứu, giáo dục và phòng bệnh.
Các trường đại học
Houston có hệ thống Đại học Houston, là hệ thống đại học nội thành lớn nhất trong vùng Vịnh với trên 56.000 học sinh. Hệ thống này có 4 đại học - 3 nằm trong thành phố Houston - và hai khu trung tâm giảng dạy nhiều trường gộp lại. Đại học đầu đàn là Đại học Houston (UH), và là đại học lớn thứ ba của Texas với số học sinh ghi danh hơn 35.000 và là nơi của trên 40 trung tâm và viện nghiên cứu. Hai trường khác cũng nằm trong hệ thống UH phục vụ Houston là Đại học Huston tại Clear Lake và Đại học Houston tại Downtown. Một trường khác thuộc tiểu bang là Đại học Nam Texas - một đại học mà lịch sử là dành cho học sinh da đen - tọa lạc ở khu vực Phường 3 trong lịch sử.
Houston cũng là địa điểm của một số đại học tư - thuộc các tôn giáo hay không. Thành phố là nơi của Đại học Rice, một trường đại học tư với nhiều tài trợ tài chính - nó xếp thứ 17 trong các trường đại học tốt nhất của toàn nước Mỹ bởi U.S. News & World Report. Rice duy trì các cơ sở nghiên cứu và các phòng thí nghiệm khác nhau. Thành lập vào năm 1923, Trường Cao đẳng Luật Nam Texas (South Texas College of Law) cung cấp các chương trình luật vào loại tốt nhất trên toàn quốc and is Houston's oldest law school.. Đại học St. Thomas, một trường nghệ thuật Công giáo theo truyền thống Basilian, được thành lập bởi các cha xứ dòng Basilian của Canada, và tọa lạc ở khu vực Montrose. Đại học Baptist Houston, một đại học Baptist thành lập vào năm 1960, tọa lạc ở phía tây nam Houston có trên 50 ngành học và các chương trình dạy nghề.
Đa số Houston được phục vụ bởi Houston Community College System, là một trong những hệ thống cao đẳng cộng đồng lớn nhất Hoa Kỳ. HCCS phục vụ phần HISD của Houston và các khu vực khác. Các phần phía bắc của Houston được phục vụ bởi North Harris Montgomery Community College District. Một phần của đông và đông nam Houston được phục vụ bởi San Jacinto College. Rất nhiều khu ngoại vi của Houston cũng có hệ thống trường cao đẳng cộng đồng của riêng họ.
Giáo dục
Khu Học Chánh Houston
Chú thích |
Làm tình bằng miệng, còn gọi là tình dục đường miệng hay khẩu giao, là hình thức quan hệ tình dục có sử dụng miệng (bao gồm môi, răng và lưỡi) tiếp xúc với các cơ quan sinh dục trong quá trình quan hệ tình dục. Các động tác trong khẩu giao có thể là dùng miệng để tiếp xúc với cơ quan sinh dục như dương vật và âm đạo.
Tên gọi chi tiết
Liếm âm hộ (cunnilingus) là việc làm tình bằng miệng cho một người nữ và liếm dương vật (fellatio) là việc làm tình bằng miệng cho một người nam. Liếm hậu môn (analingus) là việc dùng miệng để kích thích hậu môn.
Phân biệt các hành động dùng miệng khác
Các động tác dùng miệng để tiếp xúc với các bộ phận khác của cơ thể trong lúc không nhằm mục đích quan hệ tình dục không được coi là khẩu giao. Ví dụ như dùng miệng mút, bú hay hôn hít chân tay hoặc một số bộ phận khác. Người ta có thể khẩu giao như một cách để khởi động trước khi giao hợp hoặc làm trong khi hoặc sau khi giao hợp.
Làm tình bằng miệng không làm có thai nhưng vẫn có nguy cơ lây truyền các bệnh lây truyền qua đường tình dục như AIDS, giang mai, HPV... đặc biệt là khi nhiều người thường không sử dụng các biện pháp phòng vệ (như bao cao su) đối với phương pháp quan hệ này vì lầm tưởng là nó an toàn.
Phương pháp
Cả người đồng tính và dị tính luyến ái đều có thể làm tình bằng miệng. Đối với dị tính luyến ái, nhiều cặp khẩu giao để ngừa thai hoặc để thay đổi cách làm tình. Khẩu giao không phải là phương pháp hiệu quả để ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) mặc dù đối với một số bệnh, thì cách làm tình này ít lây nhiễm hơn.
Giống như việc cùng thủ dâm và các dạng tình dục không thâm nhập, nhiều người cho rằng khẩu giao không phải là tính giao giống như giao hợp. Do đó đối với nhiều người khẩu giao là cách trải nghiệm cảm giác mà không làm rách màng trinh.
Các dạng
Khẩu giao tương hỗ (Facesitting) là một cách làm tình đường miệng khi đó người nhận sẽ ngồi trên mặt của người cho và đưa bộ phận sinh dục của mình vào miệng người cho. Hai người có thể thực hiện cùng lúc, cách này còn gọi là khẩu giao kiểu sáu chín (69).
Phun và/hoặc nuốt dâm thủy có thể đem lại cảm giác khác biệt. Nhìn nhau trong lúc này cũng có thể đem lại nhiều kích thích và cảm giác hơn bởi vì sự nhận biết được rằng một con người thật đang thực hiện hơn là máy móc hay dụng cụ hỗ trợ.
Một vài trường hợp rất hiếm với xương sống dẻo có thể tự làm tình bằng miệng được.
Gangsuck, blowbang hoặc lineup là khi một phụ nữ thực hiện khẩu giao cho nhiều người nam cùng lúc. Đây đều là những tiếng lóng được dùng trong quần giao (group sex). Khẩu giao đôi khi đi kèm với bukkake và gokkun, nhưng không phải lúc nào cũng như thế.
Thái độ
Có nhiều thái độ khác nhau đối với việc làm tình đường miệng bao gồm từ ghê tởm cho đến tôn sùng: thời La Mã cổ đại, làm tình bằng miệng cho nam được coi là bị cấm hoàn toàn. Trong khi đó theo Lão giáo ở Trung Hoa, làm tình bằng miệng cho nữ được tôn sùng như một cách về mặt tinh thần làm tăng tuổi thọ. Trong văn hóa phương Tây hiện đại, chỉ vài người tôn sùng làm tình bằng miệng tuy nhiên nó đã được thực hiện rộng rãi.
Làm tình bằng miệng từng bị cấm kỵ hoặc không tán thành trong nhiều nền văn hóa và nhiều nơi trên thế giới, ít nhiều trong đạo Cơ đốc, văn hóa Cận Sahara, La Mã cổ đại và Ấn Độ cổ đại hoặc trong nhiều tài liệu hiện nay của đạo Hồi. Lý do được đưa ra là nó không duy trì nòi giống và không sạch sẽ.
Trong các cuộc Thập tự chinh, người ta tin rằng người Mamluk đã ép buộc các tù binh đạo Cơ đốc thực hiện làm tình bằng miệng cho mình. Hành động này cũng là một dạng cưỡng hiếp và được gọi là "Cưỡng hiếp kiểu Ai Cập" (tiếng Anh: Egyptian Rape).
Nguy cơ lây nhiễm
Chủng virus Chlamydia human papillomavirus (HPV), bệnh lậu, bệnh mụn giộp (herpes), hepatitis (multiple strains) và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác (STD) - bao gồm HIV - có thể lây truyền qua làm tình bằng miệng. Nguy cơ lây nhiễm của HIV chưa được biết chính xác tuy nhiên khá thấp. Tiếp xúc trực tiếp với dịch cơ thể của người nhiễm HIV, hoặc xuất tinh trong miệng dưới bất kỳ hình thức nào đều có nguy cơ lây nhiễm. Tuy nhiên nguy cơ lây nhiễm dạng này thường thấp hơn tình dục đường âm đạo hoặc đường hậu môn rất nhiều.
Nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục bằng miệng tăng lên đáng kể khi tình trạng sức khỏe răng miệng kém (loét miệng, nẻ hoặc sứt môi, viêm nhiễm lợi, chảy máu chân răng, nha chu...), có vết loét sinh dục hay có sự hiện diện của các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khác. Ngoài ra, việc ngậm hoặc nuốt tinh dịch, dịch tiết vào miệng cũng khiến nguy cơ lây bệnh tăng cao, vì mầm bệnh có thể xâm nhập qua lưỡi, miệng và cổ họng (vốn có lớp niêm mạc rất mỏng) để vào cơ thể.
Nếu người nhận có vết thương hở ở bộ phận sinh dục hoặc nếu người cho có vết thương hở trong hoặc ngoài miệng, hoặc chảy máu đều tăng nguy cơ lây nhiễm. Đánh răng, xỉa răng, đi nha khoa hoặc ăn thức ăn giòn cứng (chẳng hạn như trái cây sấy khô) trước hoặc sau khi làm tình bằng miệng một thời gian tương đối có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm, bởi vì tất cả các thao tác này có thể gây ra những vết rách nhỏ trên niêm mạc miệng, tạo ra các vết xây xước nhỏ ở lớp niêm mạc mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Những vết thương này, mặc dù không nhìn thấy được, cũng làm tăng nguy cơ lây nhiễm, vì lúc này mầm bệnh có thể lọt qua các tổn thương này. Ngoài ra, nó cũng làm lây nhiễm các vi khuẩn và vi-rút thông thường khác nằm trong vùng bộ phận sinh dục.
HPV và ung thư vùng miệng
Một nghiên cứu của Đại học Malmö ở Thụy Điển cho thấy làm tình bằng miệng không an toàn với người nhiễm HPV có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư vùng miệng. Nghiên cứu xác định 36% bệnh nhân ung thư có HPV so với 1% bệnh nhân ung thư không có HPV.
Một nghiên cứu khác cho rằng có sự tương quan giữa làm tình bằng miệng và ung thư đầu và cổ. Người ta tin rằng đó là do sự lây nhiễm HPV, một vi-rút có liên quan đến phần lớn các ca ung thư cổ tử cung và được tìm thấy trong các mô ung thư vòm họng trong nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu của Tạp chí Y học New England kết luận rằng người nào có một đến năm bạn tình đường miệng trong đời có nguy cơ ung thư vòm họng cao xấp xỉ gấp 2 lần so với người không thực hiện làm tình bằng miệng còn người có hơn năm bạn tình đường miệng có nguy cơ tăng 250%.
Phòng ngừa
Nhiều nhà chuyên môn khuyến cáo sử dụng bao cao su hoặc tấm bảo vệ miệng (dental dam) khi cho và nhận làm tình bằng miệng lúc chưa biết tình trạng bệnh của bạn tình. Có thể dùng tấm bảo vệ miệng tạm thời với bao cao su nhưng nên sử dụng tấm bảo vệ miệng thật vì tấm bảo vệ miệng thật lớn hơn và tấm bảo vệ miệng tạm thời có thể bị thủng trong quá trình cắt khi sản xuất.
Không tình dục bằng miệng nếu bản thân hoặc đối tác có vết loét miệng (chẳng hạn như tổn thương herpes miệng), chảy máu nướu răng, vết xước, vết loét, hoặc nhiễm trùng trong miệng, nhiệt miệng. Tránh nuốt chất lỏng dịch tiết, tinh dịch, hoặc dịch âm đạo.
Tránh thai
Làm tình bằng miệng không làm có thai vì tinh trùng không thể từ dương vật đi vào tử cung và ống dẫn trứng để thụ tinh với trứng. Ở con người, không có sự liên kết giữa hệ tiêu hóa và đường sinh dục. Tinh trùng nuốt vào sẽ bị axít trong bao tử và các protêin trong ruột non giết và bẻ gãy sau đó được hấp thụ như một dạng thực phẩm không đáng kể.
Mặc dù vậy, làm tình bằng miệng cũng có nguy cơ làm có thai nếu tinh dịch có tiếp xúc trực tiếp với âm đạo. Điều này xảy ra khi tinh dịch dính trên ngón tay hoặc bộ phận khác và dính vào vùng âm đạo cho nên cẩn thận là cần thiết để tránh thai. |
Hồ Đức Việt (1947-2013) là một chính khách Việt Nam. Ông là Phó Tiến sĩ Toán lý, nguyên giảng viên - Phó Trưởng khoa Toán - Cơ, Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau đó tham gia công tác Đoàn Thanh niên, nguyên Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 13 tháng 8 năm 1947, quê tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là con trai út của nhà cách mạng, liệt sĩ Hồ Mỹ Xuyên (nguyên Phó bí thư tỉnh ủy Nghệ An), cháu nội của nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu.
Suốt thời phổ thông, học tại trường huyện, ông thường giữ vị trí số một trong cả hai môn Văn và Toán của lớp, của trường. Thành tích học tập nổi trội so với các bạn cùng trang lứa của ông đã được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nghệ An bấy giờ phát động phong trào "Học tập, đuổi kịp và vượt Hồ Đức Việt".
Năm 1965, ông được cử đi du học đại học chuyên ngành Toán - Lý tại Trường Đại học Tổng hợp Karlova ở Praha (Univerzita Karlova v Praze), Tiệp Khắc. Ông được kết nạp Đảng Lao động Việt Nam ngày 19 tháng 10 năm 1967, và trở thành đảng viên chính thức từ ngày 19 tháng 10 năm 1968 tại Tiệp Khắc. Năm 1974, ông bảo vệ thành công xuất sắc luận án Phó Tiến sĩ chuyên ngành Toán - Lý.
Năm 1975, ông về nước và trở thành giảng viên Khoa Toán - Cơ, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1976, ông được cử làm Phó Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1979, ông được bổ nhiệm làm Phó Trưởng khoa Toán - Cơ.
Công tác Đoàn Thanh niên
Đầu năm 1980, ông được cử làm Phó Bí thư Thành Đoàn Hà Nội. Cuối năm đó, ông được cử làm thực tập sinh cao cấp tại Paris (Pháp), làm Trưởng đoàn lưu học sinh vùng Paris.
Năm 1983, ông về nước, được cử làm phó Bí thư thường trực Thành đoàn Hà Nội. Năm 1984, ông trúng cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa IV. Tại Hội nghị đại biểu Hội SV toàn quốc (7/1985) đã hiệp thương thông qua danh sách BCH Trung ương Hội, Hồ Đức Việt làm Tổng thư ký; năm 1988, Hồ Đức Việt giữ trách nhiệm Chủ tịch Hội SV Việt Nam. Năm 1992, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh khóa VI, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII.
Công tác Đảng địa phương
Năm 1996, ông được tái cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được phân công giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh.
Năm 1998, ông được giao giữ chức vụ Phó trưởng Ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương Đảng.
Năm 1999, là Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên.
Từ ngày 8 tháng 8 năm 2001 đến ngày 15 tháng 1 năm 2003, ông còn kiêm nhiệm chức Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá Việt Nam.
Năm 2002, ông là Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
Tháng 4 năm 2006, ông tái đắc cử vào Ban Chấp hành Trung ương; được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 5 năm 2006 ông được phân công giữ chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Từ tháng 7 năm 2006, ông được cử làm Bí thư Trung ương Đảng thay Phạm Quang Nghị.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (12-19/01/2011), ông không tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày 1 tháng 10 năm 2011, ông nghỉ hưu, chính thức rút khỏi chính trường.
Ông mất vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 31 tháng 5 năm 2013 tại Hà Nội vì ung thư, tang lễ tổ chức theo nghi thức Lễ tang cấp Nhà nước.
Tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Nhất
Huân chương Lao động hạng Nhất
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba
Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng
... và nhiều huân, huy chương cao quý khác
Chú thích
Người Nghệ An
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh
Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên
Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII
Huân chương Độc lập hạng Nhất
Huân chương Lao động
Huân chương Kháng chiến
Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX
Sinh tại Nghệ An
Người họ Hồ tại Việt Nam
Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X
Phó tiến sĩ Việt Nam tốt nghiệp tại Tiệp Khắc
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam |
Aleksandr Grin (tiếng Nga: Александр Грин; 23 tháng 8 năm 1880 – 7 tháng 7 năm 1932) là một nhà văn Nga, được độc giả biết đến với những cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn lãng mạn. Phần lớn những tác phẩm của ông khai thác chủ đề về biển cả, các cuộc phiêu lưu và tình yêu.
Tiểu sử
Aleksandr Grin có tên lúc sinh là Aleksandr Stefanovich Grinevsky (Александр Стефанович Гриневский) ở một vùng ngoại ô của Vyatka vào năm 1880, con trai của một người Ba Lan đã bị đày ải sau cuộc Nổi loạn tháng Giêng vào năm 1863. Vào năm 1896, sau khi tốt nghiệp trường học ở Vyatka, Grinevsky đi đến Odessa và bắt đầu cuộc sống lang bạt. Ông đã làm thủy thủ, thợ đào vàng, công nhân xây dựng, nhưng ông không có việc thường xuyên và hay phải xin sự giúp đỡ từ người cha. Ai Cập là nước ngoại quốc duy nhất ông đặt chân đến, đó là nơi ông lên bờ trong vài tiếng từ một con tàu đỗ ở Alexandria, lúc đó ông đang làm thủy thủ. Grin muốn du lịch khắp năm châu bốn biển nhưng không thể được vì quá nghèo, chỉ có thể trong tưởng tượng của ông mà thôi.
Sau khi ông gia nhập quân đội Nga, ông trở thành thành viên của Đảng Cách mạng Xã hội, chống lại Sa hoàng, ông bị truy bắt và bỏ tù cho việc "tuyên truyền cách mạng". Câu truyện đầu tiên của ông được in trong một tờ báo vào năm 1906. Cùng năm đó, ông cũng bị truy nã ở Sankt-Peterburg và bị xử 4 năm sống lưu đày ở vùng Tobolsk guberniya. Tuy nhiên, ngay sau khi tới Tobolsk, Grin đã trốn thoát được và quay trở về Sankt-Peterburg sống một cách bất hợp pháp. Ông lại bị truy nã lần nữa vào năm 1910 và bị gửi tới sống ở Arkhangelsk guberniya. Grin và người vợ đầu tiên Vera Pavlovna Abramova (ông đã cưới vào năm 1910) đã sống từ năm 1910 đến năm 1912 trong một ngôi làng nhỏ có tên là Kegostrov.
Vào năm 1912, ông quay trở về Sankt-Peterburg và ly dị vợ. Vào thời gian này, Grin đã xuất bản phần lớn truyện ngắn; phần lớn tác phẩm lớn của ông được viết sau Cách mạng Tháng Mười và được đông đảo bạn đọc thưởng thức vào những năm đầu của thập kỷ 1920. Mặc dù đã nổi tiếng như vậy, nhưng ông cũng đã gần chết vì bị ốm và đói vào năm 1921, sau khi đã phục vụ trong Hồng binh (Red Army). Ông đã cưới Nina Nikolaevna Grin (1894-1970) vào cuối năm đó. Vào năm 1924, họ chuyển đến Feodosia sinh sống gần biển. Vào những ngày cuối đời, thế giới quan lãng mạn của Grin hoàn toàn mâu thuẫn với dòng văn học Sô viết; những nhà xuất bản ở Mát-xcơ-va và Leningrad từ chối xuất bản những tác phẩm lãng mạn của ông, và Grin cùng với vợ sống trong cảnh bần cùng. Grin đã uống rượu và phải chịu đựng đau đớn từ bệnh lao, nguyên nhân cái chết sau này của ông vào năm 1932 ở Stary Krym.
Tác phẩm
Phần lớn các tác phẩm của Grin không có mối quan hệ trực tiếp đến thực tế của chế độ Sa hoàng và nước Nga Sô viết mà ông đang sống. Các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông nhắc đến những mảnh đất không tên, xa châu Âu nhưng có các nhân vật có tên và diện mạo của Tây Âu. Như trong truyện "Cánh buồm đỏ thắm", có những địa điểm có tên không hề "Nga" như Caperna, Lisse và Zurbagan, còn các nhân vật thì có tên là Asole, Grey, Longren và Thomas Harvey. Ngay cả bút danh trong tác phẩm của ông (Grin) cũng là một cái tên Âu hoá từ họ Grinevsky. Ông còn có bút danh là Alexander Green, một cái tên Tây Âu. Một vài độc giả của những ấn phẩm đầu tiên (như là Paustovsky người đã rất ngưỡng mộ Grin vào những ngày cuối đời của ông) lúc đầu đã nghĩ rằng họ đang đọc một bản dịch của dịch giả ngoại quốc.
Một vài nhà bình luận đã nhận xét các tác phẩm của Grin là "tiểu thuyết của thiếu niên". Cũng giống như các tác giả của truyện giả tưởng nửa cuối thế kỷ 20, Grin đề cập đến những niềm mơ ước, khát vọng và cảm xúc của con người với suy nghĩ trong sáng nhất của họ. Thế giới của ông không phải là thế giới cổ tích; nó rất thường ngày với những thực tế xã hội thế kỷ 20, nhưng nó thường xuyên gây cảm giác lãng mạn và "trẻ con" nói chung. Những con người có thể là thuyền trưởng, thủy thủ, nhà khoa học, người du lịch, những quý tộc ngông cuồng, những cô gái, những tên tội phạm tao nhã, và những anh hùng thường xuyên có thực và thế giới của Grin (thường xuyên được những người yêu thích Grin gọi là Grinlandia) là một trong những thế giới hấp dẫn nhất và sống động nhất trong văn học. Một vài tiểu thuyết của ông cũng có thêm nhân tố "sự kỳ diệu", không phải là một phần cố định trong các tác phẩm, nhưng thường xuyên là phép mầu nhiệm có thể thay đổi cuộc sống của những người may mắn nhận được nó.
Vào những năm gần đây, số lượng các tái bản từ 100.000 đến 300.000 bản của những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đã được bán hết ngay sau khi được xuất bản. Ở Sankt-Peterburg hiện nay có câu lạc bộ những người hâm mộ được đặt tên theo tác phẩm của ông là "The Scarlet Sails" (Cánh buồm đỏ thắm).
Alexander Grin đã có một cuộc sống bần cùng và khó nhọc từ khi sinh ra cho đến những giây phút cuối của cuộc đời. Nhưng trong các tác phẩm của ông, người ta luôn nhận ra một thế giới xán lạn, giàu có, đầy ánh mặt trời, đầy sức sống và đã mang lại niềm vui cho hàng triệu người.
Cánh buồm đỏ thắm (Алые паруса, 1923), một câu truyện tình yêu giản dị, có thể là tác phẩm nổi tiếng nhất của Grin. Truyện đã được dựng thành phim vào năm 1961. Có khá nhiều chuyển thể truyện tranh dựa trên nội dung tác phẩm này.
The Shining World (Блистающий мир, 1923)
The Golden Chain (Золотая цепь, 1925)
She Who Runs on the Waves (Бегущая по волнам, 1928)
Jessie và Morgiana (Джесси и Моргиана, 1929)
The Road to Nowhere (Дорога никуда, 1930) |
Âm vật (, hoặc ), tên gọi dân gian là hột le hay mồng đốc, là một phần của cơ quan sinh dục của giống cái. Âm vật có mặt ở động vật có vú, đà điểu châu Phi và một số động vật khác. Ở người, âm vật là một khối mô cứng dài khoảng 1,5 cm, nằm ở giữa và phía trên của âm hộ, đầu âm vật được che một phần bởi nơi hai môi nhỏ hợp lại, nằm trên niệu đạo. Không giống như dương vật, âm vật không chứa phần mở ra bên ngoài của niệu đạo và do vậy không dùng để tiểu tiện. Mặc dù đa số động vật có vú không tiểu tiện qua âm vật, linh cẩu đốm cái - loài có âm vật phát triển đầy đủ - tiểu tiện, quan hệ tình dục và sinh con qua cơ quan này. Một số động vật có vú khác như vượn cáo và ateles cũng có âm vật phát triển đầy đủ.
Âm vật là cơ quan nhạy cảm nhất trong cơ thể con người (cùng hạng với dương vật ở nam và lưỡi), nơi đây tập trung nhiều (khoảng 8000) đầu dây thần kinh có chức năng mang lại khoái cảm tình dục.
Các cuộc tranh luận về xã hội học, tình dục và y học đã tập trung vào âm vật, chủ yếu liên quan đến độ chính xác về giải phẫu, các yếu tố của cực khoái và giải thích sinh lý cho điểm G, và liệu âm vật là sản phẩm mang tính di tích, tính thích ứng, hoặc chuyên phục vụ chức năng sinh sản. Các nhận thức xã hội về âm vật dao động từ tầm quan trọng của vai trò của nó đối với khoái cảm tình dục của phụ nữ, các giả định về kích thước thực sự và chiều sâu của nó, và những niềm tin khác nhau liên quan đến việc sửa đổi bộ phận sinh dục như làm âm vật lớn hơn, xỏ khuyên âm vật và phẫu thuật cắt bỏ âm vật. Sửa đổi bộ phận sinh dục có thể là vì lý do thẩm mỹ, y tế hoặc văn hóa.
Kiến thức về âm vật bị ảnh hưởng đáng kể bởi nhận thức văn hoá về nó. Các nghiên cứu cho thấy rằng kiến thức về sự tồn tại và giải phẫu của âm vật rất ít so với các cơ quan tình dục khác, và việc giáo dục nhiều hơn về âm vật có thể giúp giảm bớt những căng thẳng xã hội liên quan đến cơ thể phụ nữ và tình dục nữ giới; ví dụ như âm vật và âm hộ nói chung là không hấp dẫn về mặt trực quan, phụ nữ mà thủ dâm là điều cấm kỵ, hoặc đàn ông cần làm chủ và kiểm soát cực khoái của phụ nữ. |
Cao Biền (; 821 - 24 tháng 9, năm 887), tên tự Thiên Lý (千里), là một tướng lĩnh triều Đường, một nhân vật chính trị, người đầu tiên trở thành Tiết độ sứ của trị sở Tĩnh Hải quân trong lịch sử Việt Nam.
Thoạt đầu, ông trở thành danh tướng khi đánh bại các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu, song sau đó ông đã thất bại trong việc đẩy lui cuộc nổi dậy của Hoàng Sào, quản lý yếu kém Hoài Nam quân. Năm 887, một cuộc nổi dậy chống lại ông đã dẫn đến cảnh giao chiến khốc liệt tại Hoài Nam quân, kết quả là ông bị Tần Ngạn giam cầm rồi sát hại.
Cuộc đời - sự nghiệp
Cao Biền là người U châu (là Bắc Kinh ngày nay), ông là cháu nội của danh tướng Cao Sùng Văn, là người đã trấn áp cuộc nổi dậy của Lưu Tịch dưới triều đại của Đường Hiến Tông.<ref>Cựu Đường thư', quyển 151.</ref> Cha của Cao Biền là Cao Thừa Minh (高承明), là ngu hậu trong Thần Sách quân. Mặc dù gia tộc của Cao Biền đã vài đời làm quan trong cấm quân, song khi còn nhỏ Cao Biền là người giỏi văn, và thường thảo luận về chuyện lý đạo với các nho sĩ. Ông có địa vị cao trong lưỡng quân của Thần Sách quân, được thăng dần đến chức "Hữu Thần Sách đô ngu hậu". Khi đang phụng sự trong Thần Sách quân, Cao Biền đã kết nghĩa huynh đệ với Chu Bảo.
Đầu triều đại của Đường Ý Tông, có một cuộc nổi dậy của người Đảng Hạng. Cao Biền xuất một vạn cấm binh đến đóng quân tại Trường Vũ thành. Khi đấy, từng có một vài tướng chống lại người Đảng Hạng song không có kết quả, duy có Cao Biền biết nắm bắt cơ hội mà dụng binh và giành được thắng lợi, được Đường Ý Tông khen ngợi. Sau đó, để đối phó với các cuộc tập kích của ngoại tộc ở phía tây, ông được chuyển đến canh giữ Tần châu, giữ chức Thứ sử, Kinh lược sứ của Tần châu, tiếp tục lập công.
Chống Nam Chiếu tại An Nam
Năm Hàm Thông thứ 5 (863), quân Nam Chiếu (lúc này có quốc hiệu Đại Lễ) chiếm được An Nam từ tay quân Đường; các chiến dịch sau đó của quân Đường nhằm đẩy lui quân Đại Lễ đều thất bại. Năm 864, Đồng bình chương sự Hạ Hầu Tư tiến cử Kiêu vệ tướng quân Cao Biền tiếp quản quân lính dưới quyền Lĩnh Nam Tây đạo tiết độ sứ Trương Nhân (張茵) để tiến công An Nam. Cao Biền được giữ chức An Nam đô hộ, kinh lược chiêu thảo sứ.
Mùa thu năm 865, Cao Biền vẫn đang trị 25.000 binh tại Hải Môn và chưa tiến công thủ phủ Giao Chỉ của An Nam. Giám quân Lý Duy Chu (李維周) vốn không ưa Cao Biền và muốn ông bị trừ khử, vì thế đã nhiều lần thúc giục Cao Biền tiến quân. Cao Biền do đó chấp thuận đem 5.000 binh tiến trước về phía tây và hẹn Lý Duy Chu phát binh ứng viện, song sau khi Cao Biền dời đi, Lý Duy Chu kiểm soát các binh lính còn lại và không phát bất cứ viện trợ nào. Khi hay tin Cao Biền tiến quân đến, hoàng đế Đại Lễ là Thế Long khiển tướng Dương Tập Tư (楊緝思) đến cứu viện tướng trấn thủ An Nam là Đoàn Tù Thiên (段酋遷). Trong khi đó, Vi Trọng Tể (韋仲宰) đem 7.000 quân đến Phong châu hợp binh với Cao Biền đánh bại quân Đại Lễ. Tuy nhiên, khi sớ tấu chiến thắng đến Hải Môn, Lý Duy Chu đều ngăn lại và từ chối chuyển tiếp chúng đến Trường An. Đường Ý Tông thấy lạ vì không nhận được tin tức gì, khi hỏi Lý Duy Chu thì Duy Chu tấu rằng Cao Biền trú quân ở Phong châu, không tiến. Đường Ý Tông tức giận, và đến mùa hè năm 866, Hoàng đế cho hữu vũ vệ tướng quân Vương Yến Quyền (王晏權) thay thế Cao Biền trấn An Nam, triệu Cao Biền về Trường An để trách tội.
Khi nhận được lệnh phải giao quyền lại cho Vương Yến Quyền, Cao Biền đang bao vây thành Giao Chỉ, ông giao lại binh sĩ cho Vi Trọng Tể và trở về Hải Môn để gặp Vương Yến Quyền chuyển giao quyền hành. Tuy nhiên, Cao Biền đã phái tiểu hiệu Tăng Cổn (曾袞) còn Vi Trọng Tể phái tiểu sứ Vương Huệ Tán (王惠贊) đi trước để báo tin chiến thắng tại Giao Chỉ, họ cho rằng Lý Duy Chu sẽ lại ngăn cản nên đi đường vòng để tránh doanh trại của Lý Duy Chu và Vương Yến Quyền, sau đó tiến về Trường An. Khi Tăng Cổn và Vương Huệ Tán đến Trường An và dâng tấu, Đường Ý Tông hài lòng và ban chỉ thăng chức cho Cao Biền là Kiểm hiệu Công bộ thượng thư, phục quyền trấn thủ An Nam. Sau khi giao lại binh quyền, Cao Biền cùng 100 thủ túc lên đường, đến Hải Môn thì nhận được chiếu chỉ và trở lại chiến trường thành Giao Chỉ - nơi Lý Duy Chu và Vương Yến Quyền tiếp quản song đã chấm dứt bao vây. Cao Biền tiếp tục bao vây thành, đến tháng thứ 4 năm Hàm Thông thứ 7 (866) thì hạ được thành, giết chết Đoàn Tù Thiên và tù trưởng bản địa Chu Đạo Cổ (朱道古)- người liên minh với quân Đại Lễ. Khi hay tin Cao Biền chiếm được thành Giao Chỉ, Đường Ý Tông đổi An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải quân, bổ nhiệm Cao Biền là Tiết độ sứ. Cao Biền cho xây thành chu vi 3000 bộ, hơn 40 vạn gian phòng ốc, từ đó quân Đại Lễ không còn xâm phạm. Sau đó, ông cũng tiến hành một dự án lớn để loại bỏ những trở ngại tự nhiên trên thủy lộ giữa Tĩnh Hải quân và Lĩnh Nam Đông đạo, khó khăn về giao thông của Giao Chỉ được loại bỏ.
Thiên Bình tiết độ sứ
Năm 868, Cao Biền được triệu hồi về Trường An giữ chức Hữu kim ngô đại tướng quân.
Cao Biền thỉnh triều đình để tụng tôn Cao Tầm (高潯), người đã lập được nhiều công lao trong chiến dịch chống Đại Lễ, được kế nhiệm ông trấn giữ Giao Chỉ- giữ chức Tĩnh Hải tiết độ sứ, và được chấp thuận.Tân Đường thư, quyển 224 hạ. Thiên tử khen ngợi tài năng của Cao Biền, lần lượt đổi chức quan của ông thành kiểm hiệu công bộ thượng thư, Vận châu thứ sử, rồi Thiên Bình tiết độ sứ, ông cai trị có phép tắc khiến dân lại ngợi ca. Năm 873, khi Đường Ý Tông qua đời và Đường Hy Tông lên kế vị, Cao Biền mặc dù tại nhiệm ở Thiên Bình, song vẫn được ban chức Đồng bình chương sự.
Tây Xuyên tiết độ sứ
Năm 874, Đại Lễ tiến công vào Tây Xuyên của Đường, Tây Xuyên tiết độ sứ Ngưu Tùng (牛叢) không kháng cự nổi. Quân Đại Lễ tiến đến thủ phủ Thành Đô rồi triệt thoái, song Ngưu Tùng sợ Đại Lễ sẽ lại tiến công nên đã tập hợp người dân khu vực xung quanh vào trong thành Thành Đô. Đường Hy Tông lệnh cho các quân xung quanh: Hà Đông, Sơn Nam Tây đạo, Đông Xuyên phát binh cứu viện Tây Xuyên, trong khi lệnh cho Cao Biền tiến đến Tây Xuyên để giải quyết "man sự". Sau đó 875, Cao Biền được bổ nhiệm là Tây Xuyên tiết độ sứ, cũng như Thành Đô doãn. Cao Biền nhận thấy sẽ phát sinh đại dịch nếu người dân đều tụ tập bên trong tường thành Thành Đô, vì thế ông đã hạ lệnh mở cổng thành cho người dân ra ngoài ngay cả trước khi ông đến thành này, người dân Thục bước đầu rất hài lòng về ông. Khi đến nơi vào mùa xuân năm 875, Cao Biền tiến hành một số cuộc tiến công nhỏ nhằm trừng phạt Đại Lễ, sau đó cho xây dựng một số thành lũy trọng yếu trên biên giới với Đại Lễ. Theo mô tả, do ông tăng cường phòng thủ, Đại Lễ không tiếp tục tiến hành các cuộc tiến công vào Tây Xuyên, song thỉnh cầu tổng tiến công Đại Lễ của Cao Biền thì bị Đường Hy Tông từ chối.
Trong cuộc tiến công năm 870 của Đại Lễ vào Thành Đô, một quan lại là Dương Khánh Phục (楊慶復) mộ được một đội quân gọi là "Đột Tương" (突將) đến tăng viện trấn thủ Thành Đô. Khi Cao Biền đến, ông đã hạ lệnh hủy bỏ nhiệm vụ của Đột Tương và thậm chí còn dừng cung cấp lương thực cho họ. Cao Biền là một tín đồ Đạo giáo mộ đạo, ông càng khiến các binh sĩ tức giận khi làm phép trước các trận chiến và tuyên bố việc này là cần thiết do binh sĩ Thục hèn yếu và sợ sệt. Ông cũng tước bỏ nhiệm vụ của các quan mà ban đầu là kẻ lại cấp thấp, lệnh dân gian đều phải dùng tiền túc mạch (mỗi xâu tiền đủ 10 đồng), nếu thiếu sẽ bị hặc tội hành lộ và mất mạng. Ông thực hiện các hình phạt nghiêm khắc, người Thục đều không ưa. Vào mùa hè năm 875, Đột Tương nổi dậy, tiến công vào phủ đình của Cao Biền, Cao Biền chạy trốn và không bị quân Đột Tương bắt được. Đô tướng Trương Kiệt suất 100 lính vào phủ đánh Đột Tương, Đột Tương triệt thoái khỏi nha môn. Sau đó, Cao Biền công khai tạ lỗi và phục chức danh và lương cho Đột Tương. Tuy nhiên, vào một đêm tháng sau đó, Cao Biền đã hạ lệnh bắt giữ và giết chết các binh sĩ Đột Tương và gia quyến của họ. Một phụ nữ trước khi lâm hình được ghi chép là mắng chửi Cao Biền:
Cao Biền thậm chí còn muốn hành hình các binh sĩ Đột Tương không có mặt tại Thành Đô vào thời điểm xảy ra binh biến, và chỉ dừng lại khi thân lại Vương Ân (王殷) can gián, và nói rằng ông là người phụng Đạo thì cần hiếu sinh ác sát.
Năm 876, Đại Lễ khiển sứ giả đến chỗ Cao Biền cầu hòa, song lại tập kích qua biên giới không ngừng, Cao Biền xử trảm vị sứ giả này. Sau đó, Đại Lễ lại gửi "mộc giáp thư" cho Cao Biền, yêu cầu được mượn Cẩm Giang cho ngựa uống nước. Cao Biền cho xây dựng phủ thành Thành Đô, tăng cường công sự phòng ngự. Cao Biền cũng phái hòa thượng Cảnh Tiên (景先) đến Đại Lễ, đảm bảo hòa bình và nói rằng triều đình Đường sẽ gả một công chúa cho hoàng đế Thế Long. Do các hành động của ông, Đại Lễ sau đó không còn quấy nhiễu.
Kinh Nam tiết độ sứ
Năm 878, Cao Biền được bổ nhiệm làm Kinh Nam tiết độ sứ, kiêm Diêm-thiết chuyển vận sứ, tức quản lý độc quyền muối và sắt cũng như cung cấp thực phẩm cho Trường An và Lạc Dương.
Trấn Hải tiết độ sứ
Năm 878, sau khi Chiêu thảo phó sứ Tăng Nguyên Dụ (曾元裕) đánh bại và giết chết thủ lĩnh nổi dậy Vương Tiên Chi, các tướng sĩ của Vương Tiên Chi tan rã, một phần dư đảng cướp phá Trấn Hải. Do nhiều tướng sĩ của Vương Tiên Chi xuất thân từ Thiên Bình, còn Cao Biền lại có uy danh tại Thiên Bình, Đường Hy Tông đã chuyển Cao Biền đến Trấn Hải làm tiết độ sứ, cũng như Nhuận châu thứ sử. Ông được tiến vị là kiểm hiệu tư không, tiến phong là Yên quốc công (燕国公), mục đích là khiến dư đảng của Vương Tiên Chi quy phục ông, tuy nhiên sau đó hầu hết dư đảng của Vương Tiên Chi đã gia nhập vào đội quân nổi dậy của Hoàng Sào.
Năm 879, Cao Biền khiển bộ tướng Trương Lân (張璘) và Lương Toản (梁纘) phân đạo tiến đánh Hoàng Sào, kết quả giành được thắng lợi, một số tướng của Hoàng Sào đầu hàng, trong đó có Tần Ngạn (秦彥), Tất Sư Đạc (畢師鐸), và Lý Hãn Chi (李罕之). Sau thất bại này, Hoàng Sào phải tiến về phía nam, hướng đến Lĩnh Nam Đông đạo.
Khi Hoàng Sào tiến đến gần thủ phủ Quảng châu của Lĩnh Nam Đông đạo, Cao Biền đã thượng tấu cho Đường Hy Tông, thỉnh cầu được suất quân đánh Hoàng Sào, theo đó đô tri binh mã sứ Trương Lân đem 5.000 binh thủ Sâm châu, binh mã lưu hậu Vương Trọng Nhâm (王重任) đem 8.000 lính đến chặn tại Tuần châu và Triều châu, và Cao Biền đem một vạn lính tiến thẳng đến Quảng châu đánh Hoàng Sào. Cao Biền cho rằng Hoàng Sào nghe thấy ông tiến quân đến thì tất sẽ chạy trốn, vì thế xin Đô thống Vương Đạc đem ba vạn bộ binh đến thủ tại Ngô châu, Quế châu, Chiêu châu, và Vĩnh châu nhằm đánh chặn Hoàng Sào. Tuy nhiên, Đường Hy Tông từ chối đề xuất của Cao Biền. Hoàng Sào sau đó chiếm giữ Quảng châu một thời gian, trong khi Đường Hy Tông chuyển Cao Biền sang Hoài Nam làm tiết độ sứ; tiếp tục đảm nhiệm chức Diêm-thiết chuyển vận sứ, Chu Bảo kế nhiệm Cao Biền tại Trấn Hải.
Hoài Nam tiết độ sứ
Chiến dịch chống Hoàng Sào
Sau khi Cao Biền chuyển đến Hoài Nam, Trương Lân tiếp tục giành được thắng lợi trước Hoàng Sào. Lô Huề do từng tiến cử Cao Biền làm đô thống, nay được phục chức Đồng bình chương sự. Lô Huề tiếp tục tiến cử Cao Biền là Chư đạo hành doanh binh mã đô thống, Đường Hy Tông chấp thuận. Trong khi đó, Cao Biền truyền hịch chinh Thiên hạ, mộ thêm 7 vạn quân, uy vọng đại chấn triều đình.
Năm 880, quốc khố hao mòn do các chiến dịch trấn áp nổi dậy, có tấu trình đề xuất buộc các phú hộ và hồ thương phải cho triều đình vay một nửa tài sản của họ. Cao Biền thượng ngôn rằng nay toàn đế chế bị ảnh hưởng bởi nạn đói lan rộng và người dân lũ lượt tham gia nổi dậy, chỉ còn các phú hộ và hồ thương là còn ủng hộ triều đình, đề xuất này có thể khiến họ cũng quay sang làm phản. Đường Hy Tông do đó hủy bỏ kế hoạch.
Vào mùa hè năm 880, Hoàng Sào trong khi Bắc phạt bị sa lầy tại Tín châu, còn quân lính bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh từ khi còn ở Lĩnh Nam. Đương thời, khi Trương Lân chuẩn bị tiến công, Hoàng Sào thấy sẽ không chống nổi nên đã hối lộ cho Trương Lân, và viết thư cho Cao Biền thỉnh hàng. Cao Biền muốn tiếp nhận sự đầu hàng của Hoàng Sào nhằm lập công, đã thượng tấu thỉnh cầu triều đình phong cho Hoàng Sào làm tiết độ sứ. Hơn nữa, mặc dù quân tiếp viện từ các quân Chiêu Nghĩa, Cảm Hóa, và Nghĩa Vũ đang tiến đến Hoài Nam, do không muốn công lao bị chia sẻ nên Cao Biền đã thượng tấu nói rằng ông không còn cần trợ giúp và xin trả lại quân tiếp viện. Khi nhận thấy các đội quân tiếp viện rời khỏi Hoài Nam, Hoàng Sào đã cắt đứt quan hệ với Cao Biền, Cao Biền tức giận và hạ lệnh cho Trương Lân tiến công, song lúc này Hoàng Sào lại chiếm ưu thế trên chiến trường, Trương Lân tử trận.
Vào mùa thu năm 880, Hoàng Sào vượt Trường Giang tại Thái Thạch và tiến vào lãnh địa thuộc Hoài Nam. Mặc dù được Tất Sư Đạc thúc giục giao chiến, song Cao Biền trở nên lo sợ từ sau khi Trương Lân qua đời và từ chối tiến công quân Hoàng Sào. Thay vào đó, Cao Biền thỉnh cầu triều đình cứu viện khẩn cấp, khiến cho triều đình thất vọng vì họ từng tin tưởng rằng Cao Biền có thể tự thân tiêu diệt Hoàng Sào. Đường Hy Tông ban một chiếu chỉ khiển trách Cao Biền vì đã trả lại quân tiếp viện, Cao Biền thượng tấu có ý châm biến Đường Hy Tông vì Hoàng đế từng chấp thuận đề xuất trả lại quân tiếp viện của ông. Sau đó, Cao Biền xưng bệnh và từ chối giao chiến với Hoàng Sào, mối quan hệ giữa ông và triều đình từ đó lạnh nhạt đi đáng kể.
Khoảng tết năm 881, khi Hoàng Sào tiến gần đến Trường An, Đường Hy Tông đã quyết định từ bỏ kinh thành và chạy đến Tây Xuyên. Cho đến mùa xuân năm 881, Đường Hy Tông vẫn hy vọng rằng Cao Biền sẽ dẫn quân tái chiếm đông đô và kinh thành, do đó đã ban một chiếu chỉ cho phép Cao Biền bổ nhiệm các tướng lĩnh và quan lại mà ông nhận thấy phù hợp, song Cao Biền vẫn không suất quân.
Trong khi đó, khi hai con trĩ bay vào trong Quảng Lăng phủ, có thầy bói nói rằng đây là một điềm xấu, thành ấp sẽ trống rỗng. Do đó, Cao Biền đã cố gắng tránh điềm xấu bằng cách di hịch tứ phương hợp binh thảo Hoàng Sào. Ông dời khỏi thành với 8 vạn binh lính và đóng quân tại Đông Đường (東塘), ngay phía đông thành, song từ chối tiếp tục tiến quân. Cao Biền cũng lệnh cho các quân lân cận đến hợp binh, song Chu Bảo phát hiện ra rằng Cao Biền không thực tâm muốn tiến công Hoàng Sào, vì thế người này đã từ chối huy động binh sĩ Trấn Hải hợp binh với Cao Biền, cho rằng Cao Biền đang có ý muốn chống mình. Hai bên trao đổi thư tín với ngôn từ gay gắt, và sau đó, tình bằng hữu giữa họ hoàn toàn chấm dứt. Sau đó, Cao Biền dùng sự thù địch của Chu Bảo làm nguyên cớ để giải tán binh sĩ.
Suy sụp và qua đời
Cao Biền trên danh nghĩa là Đô thống trấn áp Hoàng Sào, song ông từ chối tiến hành các hành động chống lại Đại Tề của Hoàng Sào. Tại Tây Xuyên, thị trung Vương Đạc đề xuất được giao quyền thống lĩnh các chiến dịch chống Đại Tề, và đến mùa xuân năm 882 thì Đường Hy Tông bổ nhiệm Vương Đạc là Chư đạo hành doanh đô thống, song Cao Biền vẫn được giữ chức Hoài Nam tiết độ sứ và Diêm-thiết chuyển vận sứ. Vào thời điểm này, Cao Biền ngày càng trở nên rất tin tưởng vào phương sĩ Lã Dụng Chi (呂用之), cùng kì đảng là Trương Thủ Nhất (張守一) và Gia Cát Ân (諸葛殷), đến nỗi Lã Dụng Chi nắm quyền kiểm soát quân trên thực tế, bất cứ ai dám lên tiếng chống lại Lã Dụng Chi đều phải chết.
Vào mùa hè năm 882, Đường Hy Tông ban cho ông chức Thị trung song bãi chức Diêm-thiết chuyển vận sứ. Cao Biền thấy vừa mất quyền và vừa mất lợi thì cảm thấy tức giận, sai người thảo biểu tự tố với lời lẽ bất kính, trong đó phàn nàn rằng ông không được trao đủ quyền, rằng Vương Đạc và Thôi An Tiềm (崔安潛) bất tài, so sánh Đường Hy Tông với các vị hoàng đế vong quốc Tần Tử Anh và Hán Canh Thủy Đế. Đường Hy Tông sai Trịnh Điền thảo chiếu trách cứ Cao Biền, dùng lời lẽ gay gắt, và sau đó, Cao Biền từ chối nộp bất kỳ khoản thuế nào cho triều đình.
Năm 885, Hoàng Sào bị đánh bại và Đường Hy Tông trở về Trường An, Tả Thần Sách trung úy Điền Lệnh Tư sau đó lại xung đột với Hà Trung tiết độ sứ Vương Trọng Vinh. Trước tình hình rối loạn, Tĩnh Nan tiết độ sứ Chu Mai đã lập một thành viên trong tông thất triều Đường là Lý Uân làm nhiếp chính. Chu Mai hy vọng liên minh với Cao Biền nên đã yêu cầu Lý Uân ban một chiếu chỉ bổ nhiệm Cao Biền giữ chức Trung thư lệnh, Giang Hoài diêm thiết chuyển vận đẳng sứ, Chư đạo hành doanh binh mã đô thống. Đáp lại, Cao Biền thượng tấu thỉnh Lý Uân tức vị.
Trong khi đó, Cao Biền bắt đầu nhận ra rằng Lã Dụng Chi trên thực tế là người cai quản Hoài Nam, và bản thân ông không còn có thể độc lập thi hành quyền lực. Cao Biền cố gắng kiềm chế quyền lực của Lã Dụng Chi, Lã Dụng Chi do đó bắt đầu lên kế hoạch loại bỏ Cao Biền. Đương thời, theo ghi chép thì tại Dương châu xuất hiện nhiều điềm gở, song khi Chu Bảo buộc phải chạy trốn khỏi Nhuận châu sau một cuộc binh biến vào năm 887, Cao Biền tin rằng các điềm gở này là ám chỉ đến Chu Bảo, nghĩ rằng bản thân sẽ an toàn.
Đến mùa hè năm 887, phản tướng Tần Tông Quyền chuẩn bị tiến công vào Hoài Nam, Cao Biền chuẩn bị phòng thủ. Đương thời, Tất Sư Đạc tin rằng Lã Dụng Chi tiếp theo sẽ có hành động chống lại mình, vì thế đã tập hợp binh lính cùng với Trịnh Hán Chương (鄭漢章) và Trương Thần Kiếm (張神劍) nổi dậy, bao vây Dương châu. Cao Biền bố trí phòng thủ tại quân phủ, giao cho cháu là Cao Kiệt (高傑) chỉ huy, chống lại Lã Dụng Chi. Cao Biền khiển thuộc hạ là Thạch Ngạc (石鍔) cùng ấu tử của Tất Sư Đạc đến gặp Tất Sư Đạc. Tất Sư Đạc lệnh cho ấu tử của mình về chỗ Cao Biền truyền đạt lại: "Hễ Lệnh công trảm Lã và Trương (tức Trương Thủ Nhất) để thể hiện với Sư Đạc, Sư Đạc sẽ không dám phụ ân, nguyện cho thê tử đến làm tin." Cao Biền lo sợ rằng Lã Dụng Chi có thể ra tay đồ sát gia quyến của Tất Sư Đạc, vì thế đem gia quyến của Tất Sư Đạc đến viện để bảo vệ. Từ thời điểm này, cuộc chiến tại Dương châu diễn ra giữa ba bên: Tất Sư Đạc, Cao Biền và Lã Dụng Chi.
Do không thể nhanh chóng chiếm được Dương châu, Tất Sư Đạc cầu viện Tuyên Thiệp quan sát sứ Tần Ngạn (秦彥), Tần Ngạn khiển Tần Trù (秦稠) đến tiếp viện cho Tất Sư Đạc. Ngày 17 tháng 5, Tất Sư Đạc tiến công dữ dội vào Dương châu, song bị Lã Dụng Chi phản công đánh bại. Tuy nhiên, vào thời điểm này, Cao Kiệt phát động tiến công từ quân phủ của Cao Biền, mục đích là để bắt Lã Dụng Chi và giải đến cho Tất Sư Đạc. Lã Dụng Chi biết tin thì từ bỏ Dương châu và chạy trốn. Cao Biền buộc phải gặp Tất Sư Đạc và cho người này giữ chức tiết độ phó sứ, sau đó chuyển giao toàn bộ quyền lực của Hoài Nam cho Tất Sư Đạc. Tất Sư Đạc kiểm soát được quân phủ, rồi giao nó lại cho Tần Ngạn như hứa hẹn. Tần Ngạn và Tất Sư Đạc quản thúc Cao Biền cùng gia quyến của ông tại một đạo viện.
Trong khi đó, Lã Dụng Chi đã ban một sắc lệnh nhân danh Cao Biền để lệnh cho Lư châu thứ sử Dương Hành Mật đem binh đến tăng viện cho mình. Dương Hành Mật tập hợp binh lính Lư châu và Hòa châu và tiến về Dương châu. Liên quân Dương Hành Mật và Lã Dụng Chi sau đó hợp binh với một vài đội quân khác, bao gồm quân của Trương Thần Kiếm. Mặc dù không thể nhanh chóng chiếm được Dương châu, Dương Hành Mật đã đánh bại các cuộc tiến công của Tần Ngạn và Tất Sư Đạc, Tần Ngạn và Tất Sư Đạc bắt đầu tin rằng Cao Biền dùng ma thuật để chống lại họ. Một yêu ni là Vương Phụng Tiên (王奉仙) báo với Tần Ngạn rằng một đại nhân cần phải chết để chấm dứt cực tai của Dương châu, do đó Tần Ngạn đã quyết tâm giết chết Cao Biền. Ngày 24 tháng 9, Tần Ngạn phái tướng Lưu Khuông Thì (劉匡時) đi giết chết Cao Biền, cùng các thân thích là nam giới. Thi thể của họ đều bị ném xuống một hố duy nhất.
Sau khi Dương Hành Mật chiếm được Dương châu vào cuối năm đó, ông ta bổ nhiệm tụng tôn của Cao Biền là Cao Dũ (高愈) là Phó sứ, sai đó cải táng Cao Biền và thân tộc. Tuy nhiên, trước khi Cao Biền được cải táng, Cao Dũ đã qua đời, sau đó, thuộc hạ cũ của Cao Biền là Quảng Sư Kiền (鄺師虔) đã thu táng Cao Biền.
Đắp Đại La thành (năm 866)
La Thành, khu vực huyện Long Biên, ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (791), Triệu Xương đắp thêm. Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông (808), Trương Chu lại sửa đắp lại.
Năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (824), Lý Nguyên Hỷ dời phủ trị vào huyện Long Đỗ, Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành, nhưng không thành công. Cao Biền sau đó 42 năm đã cho đắp lại to lớn hơn.
Theo sử cũ thì do Cao Biền cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng (≈6,6 km); thành cao 2,6 trượng (≈8,67 m), chân thành rộng 2,5 trượng (≈8,33 m), nữ tường bốn mặt cao 5,5 thước (≈1,83 m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn, 3 hào nước, 34 đường đi. Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (≈7,09 km), đê cao 1,5 trượng (≈5,00 m), chân đê rộng 2 trượng (≈6,66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà. Theo truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng sông Tô Lịch, Cao Biền đã cho trấn yểm tại đây để làm cho đất vững, giúp việc xây cất thuận lợi hơn.
Ông là người sắc phong cho thần Long Đỗ làm Thành hoàng của Thành Đại La. Sau Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô, đổi tên Đại La thành Thăng Long, tiếp tục sắc phong cho Long Đỗ làm Quốc đô Định bang Thành hoàng đại vương và Cao Biền làm Cao Vương. Cao Biền được cho là người cưỡi ngựa trắng trong Đền Bạch Mã, bên cạnh thần Long Đỗ.
Người vợ
Theo thần phả ở Hà Đông, Cao Biền có một người vợ là Lã Thị Nga (Lã Đê nương), theo ông từ phương bắc sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành Đại La mà ra ở bên ngoài, khu vực ngày nay là quận Hà Đông. Bà đã truyền nghề dệt lụa cho dân ở đây và trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông.
Sau khi Cao Biền về bắc, bà ở lại Tĩnh Hải quân. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Dân lập đền thờ bà ở bờ sông.
Các truyền thuyết dân gian
Các câu chuyện lưu truyền hiện tại về Cao Biền phần lớn đều được chép và phóng tác theo Nam Hải dị nhân liệt truyện của Phan Kế Bính, 1909.
Trấn yểm và xây thành Đại La
Khi Cao Biền ở trấn nước Nam, giữ phủ xưng vương, đắp rộng thêm thành La Thành. Đắp xong, một buổi trưa, đứng ngoài cửa đông ngóng xem, bỗng nhiên mưa gió ầm ầm, rồi có một đám mây ngũ sắc, tự dưới đất bốc lên, khí sáng ánh ra tứ phía. Lại thấy có một người ăn mặc đường bệ, cưỡi con cầu long (rồng chưa có sừng) nửa vàng nửa đỏ, tay cầm hốt vàng, đứng trong đám mây, có bóng thấp thoáng lên xuống, lâu lâu thì tan mất.
Cao Biền lấy làm lạ lùng, nghi là ma quỉ, muốn thiết đàn cúng cấp, dùng phép trấn áp.
Đêm hôm ấy nằm mơ thấy thần lại bảo rằng:
- Xin ông chớ nghi tôi, tôi là thần chính khí ở đất Long Đỗ này, chớ không phải ma quái nào. Tôi thấy ông mới đắp xong cái thành, cho nên mừng mà hiện ra đấy thôi.
Cao Biền tỉnh dây, hội các quan lại bảo rằng:
- Ta không trị nổi được xứ này hay sao? Sao mà lắm ma quỉ hiện ra thế, hoặc là điềm gở gì đây chăng?
Chúng xin thiết đàn, bày hình tượng thần ấy, rồi dùng nghìn cân sắt, làm bùa trấn yểm. Cao Biền nghe lời lập đàn cúng bái, rồi chôn nghìn cân sắt để yểm. Hôm sau, trời đất tối tăm mù mịt, mưa gió ầm ầm, rồi có tiếng sét đánh vào chỗ yểm bùa, sắt tan vụn bay đi mất cả. Biền thấy vậy sợ hãi, mới lập đền ở trong phố để thờ thần ấy.
Về sau, vua Lý Thái Tổ thiên đô lên Thăng Long, mơ thấy thần lại mừng. Vua tỉnh dậy, sai các quan đem lễ đến tế, phong làm Thăng Long thành hoàng đại vương.
Sắc phong Lý Ông Trọng
Về cuối thời vua Hùng Vương, ở làng Thụy Hương (tục gọi là làng Chèm), huyện Từ Liêm, có một người họ Lý tên Thân, hiệu là Ông Trọng. Cao 2 trượng 6 thước, khỏe mạnh tuyệt trần. Thuở còn hàn vi, nhân có sự giết người, đáng phải tội chết. Vua thấy người cao lớn lực lưỡng, không nỡ giết.
Đến đời vua An Dương Vương, vua Thủy Hoàng nhà Tần đem binh sang xâm nước Nam. An Dương Vương xin hàng, rồi đem Lý Ông Trọng sang cống bên Tàu. Thủy Hoàng được Ông Trọng mừng lắm coi như của rất quí trong đời, dùng ngay làm Tư vệ hiệu úy.
Đến khi Thủy Hoàng đem binh đi đánh dẹp thiên hạ, thì sai Ông Trọng trấn thủ đất Lâm Thao, để phòng quân rợ vào quấy nhiễu. Ông Trọng hùng dũng, tiếng lừng lẫy một vùng, rợ Hung Nô không dám bén mảng đến cửa ải. Thủy Hoàng mới phong thêm cho Ông Trọng làm Phụ tín hầu.
Về sau, Ông Trọng cáo lão về nước nhà hưu dưỡng. Không được bao lâu, rợ Hung Nô thấy vắng Ông Trọng lại vào quấy nhiễu các sứ biên thùy. Thủy Hoàng nhớ đến Ông Trọng, sai người sang vời, thì bấy giờ người đã mất rồi. Sứ giả về tâu lại, Thủy Hoàng phàn nàn thương tiếc vô cùng, mới đúc tượng Ông Trọng bằng đồng, đặt ở ngoài cửa Tư mã cung Hàm Dương. Trong bụng để rỗng, có máy vặn cho chân tay động đậy được. Thường khi sai vài chục người chui vào trong tượng đồng vặn máy cho rung động, người rợ Hung Nô qua lại, tưởng là Ông Trọng còn sống, không dám vào quấy nhiễu nữa.
Đến đời nhà Đường, Triệu Xương sang làm Đô Hộ, nằm mơ thấy một người to tát cao lớn, đến chơi bàn giảng nghĩa sách Xuân Thu, Tả Truyện. Hỏi tên họ thì nói là Lý Ông Trọng ở làng Thụy Hương. Triệu Xương tỉnh dậy, ngày mai hỏi thăm đến chơi tận làng ấy, tra hỏi sự tích, rồi lập miếu ngay tại khu nhà cũ ông ấy để thờ.
Khi sau Cao Biền sang đánh nước Nam Chiếu, Ông Trọng hiển linh giúp Cao Biền, phá giặc thành công. Cao Biền mới sai sửa sang lại đình đài, tạc gỗ tô tượng, gọi là đền “Lý hiệu úy.” Từ bây giờ trở đi, thường linh ứng lắm, dân xã có việc gì cầu đảo đến cũng nghiệm. Lịch triều cũng phong tặng làm linh ứng thượng đẳng thần. Vì ở làng Chèm cho nên tục gọi là Thánh Chèm.
Sự tích Cao Vương Biền Bản khai thần tích năm 1938 của làng Phương Nhị, tổng Ninh Xá, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông.Ngài hiệu là Cao Vương, tự là Thiên Lý thần, tên húy là Cao Biền.
Ngài là Nhân thần.
Ngài là người Châu U, về đời nhà Đường bên Tầu, cháu nội ông Cao Sùng Văn. Ông Sùng Văn vốn là bực tướng tài đời nhà Đường. Đức Cao Vương, lúc còn bé đã có tài lạ. Ngài hấy 2 con chim điêu đang bay lưng chừng giời (trời). Ngài dương cung khấn rằng:
“Nếu ngày sau được vẻ vang thì xin bắn một phát tên này, tin (trúng) cả hai con”.
Quả nhiên một phát tên, tin (trúng) cả hai con chim diều rơi xuống. Người đời bấy giờ điều (đều) khen là tài giỏi.
Sau, ngài càng lưu trí đến việc mở mang, cố sức học hành, nào là Kinh, Chuyện, Từ, Sử; nào là Thiên văn địa lý, các sách binh thư và lục thao tam lược, chẳng sách nào là ngài chẳng nghiên cứu. Ngài lại hay xem xét việc đời xưa đời nay. Ngài là một bực can thành vỹ khí, mà khí độ lại nhân yêu rộng rãi, không khá siết kể.
Ngài đỗ Tiến sỹ, làm quan thị ngự. Trong chiều (triều) đều gọi là “Lạc điêu thị ngự”. Sau ngài lại đánh giặc Đẳng, giặc Hạng, làm quan Thú châu Tần, nhiều công giẹp (dẹp) giặc, các tướng sỹ ai ai cũng điều (đều) khen ngợi.
Khi bấy giờ, nước Nam ta, gọi là Châu Giao, chính trị vẫn còn nội thuộc bên Tầu; có giặc Vân Chiếu nổi lên, thường hay quấy rối. Chúng kéo đến vây phủ Đô hộ, cướp bóc mọi nơi, trước sau bắt mất mười lăm vạn người, chúng nhiễu loạn tới gần 10 năm.
Khi bấy giờ, vua Ý Tôn nhà Đường, thấy ngài là bực văn võ toàn tài, thì các chiều (triều) thần điều (đều) tâu vua:
“Ngài là bực tài rỏi (giỏi), nên sai sang trấn Châu Giao ta”.
Khi ngài mới sang làm quan Đô hộ, lại phải quan Chung Sứ đem lòng ghen ghét, ngăn trở các công việc, chỉ chia cho ngài có năm ngàn quân, ngài phải hợp với 7 ngàn quân của quan Giám trân Sứ. Ngài thật là một người thao lược, chỉ có một số quân ít ỏi, mà phá tan được giặc Vân Chiếu vừa nhiều quân, vừa thế mạnh. Ngài lại bắt sống được hơn 3 vạn người và chém được chủ súy của giặc.
Vua nhà Đường, thấy ngài có công giẹp (dẹp) giặc, phong tước: “Kiểm hiệu công bộ thượng thư Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ kiêm chư hành doanh chiêu thảo sứ”
Khi ngài đã bình song (xong) giặc Vân Chiếu, thì nhân dân trong các quận nước Nam ta, mới được yên ổn. Ngài lại đi xem xét các cửa bể, để tiện đường vận tải lương. Thấy một cửa bể, có khối đá to ngăn lấp, ngang dọc và (vài) trượng; thuyền tải lương thường nhiều khi va phải bị đắm. Ngài bèn sai quân đào phá, thì thuổng đào không chuyển, búa đập không tan, không thể làm gì được. Ngài làm lễ Thiên địa thần minh. Ngài khấn rằng:
“Đạo giời giúp người thẳng, thần minh chứng lòng ngay, xin mở rộng cửa bể, để cứu giúp sinh dân, soi xét lòng rất công, mở rộng có khó gì”.
Tự nhiên, giời (trời) sầm tối, gió mưa mờ mịt, sấm sét vang lừng, ở nơi tảng đá ấy, nổ luôn và (vài) chăm (trăm) tiếng; vút (phút) chốc giời quang mưa tạnh, thì thấy những khối đá điều (đều) vỡ tan, thuyền bè đi lại, không bị chìm đắm, vì thế mới gọi là cửa bể Thiên Uy. Ngài lại sửa sang đường bộ để tiện vận lương, đường ấy cũng lại nhiều đá sanh (xanh) nổi lên, mà xưa kia, về đời nhà Hán, có quan Phục Ba tướng quân họ Mã, cũng đã sửa sang, những không thể được. Ngài lại lấy lòng thành khấn nguyện trời đất, tự nhiên lại thấy gió mưa sấm sét như bận trước, thì những khối đá xanh ấy cũng điều vỡ tan, vì thế mà đường bộ lại được bằng phẳng rộng rãi.
Ngài có công mở mang đường xá, vua nhà Đường lại phong chức “Kiểm hiệu thượng thư hữu bộc sạ”. Ngài xem xét các địa thế núi sông, để đắp thành Đại La, bên tả có sông Nhị Hà, bên hữu có sông lầy nghìn dặm, phía Bắc có Hồ Tây, phía Nam có sông Tô Lịch. Sau này nhà Lý mới đổi là thành Thăng Long, tức là dinh quan Đô hộ đời bấy giờ.
Sự tích ngài chép ở trong quốc sử, ngài lưu trấn ở Châu Giao ta 7 năm; dảm (giảm) sưu thuế, bớt tạp dịch, yêu dân như con, cho nên người trong nước điều (đều) kính trọng, mà tôn người là Cao Vương, cũng ví như ông Sĩ Vương về đời Đông Hán, sang làm quan thú Châu Giao ta thuở xưa. Mà dân điều (đều) tôn ngài là Vương. Sau ngài lại đổi về trấn đất Thiên Bình. Ngài có người cháu là ông Cao Tầm, từng theo ngài có công giẹp (dẹp) giặc. Ngài dưng (dâng) sớ về tâu vua, để lấy ông Cao Tầm thay ngài, 10 năm.
Ngài về Tầu, trấn đất Kiếm Nam, đất Tây Suyên (Xuyên), người nhà Đường rất lấy làm trọng, lại phong ngài tước Bột Hải quận Vương. Sau ngài yếu rồi mất.
Sau này, nước Nam ta, tưởng nhớ công đức ngài, có tới 3,4 chăm (trăm) xã lập đền thờ ngài; ở hạt tỉnh Bắc Ninh có hơn chăm (trăm) xã thờ ngài, cờ (cầu) đảo việc gì điều (đều) linh nghiệm cả. Chải (Trải) các chiều (triều) vua điều (đều) có sắc phong tặng là Thượng đẳng phúc thần.
Xem như sách sử đời nhà Lý có chép rằng: đức Cao Vương ngài đóng đô ở thành Đại La, dân trong nước nêu một chữ Vương, để tỏ lòng tôn trọng, suốt đời ấy đời khác không quên.
Ngài rất tinh thông về địa đạo, có vẽ các kiểu đất nước Nam ta để lưu chuyền (truyền) về sau. Cách và (vài) chăm (trăm) năm về sau này, có quan Thượng Thư nhà Minh là ông Hoàng Phúc, thầy Tả Ao nhà Lê là Nguyễn Huyền, lần lượt giấy (dấy) lên. Địa đạo của Ngài càng ngày càng rộng, tự đấy trở về sau này, nước Nam ta mới biết địa lý mà tôn địa đạo.
Kể từ khi ngài mất về cuối đời nhà Đường đến nhà Tống cách nhau độ 50 năm, thì vua Đinh Tiên Hoàng dấy lên, mới nhất thống được. Chải (Trải) qua nhà Lý, nhà Lê đến bây giờ không phải nội thuộc nước Tầu nữa. Bờ cõi nước ta, mỗi ngày càng rộng, các quan văn võ, đời nào cũng có người rỏi (giỏi), so sánh với nước Tầu, không khác nhau mấy. Kể từ đấy đến nay có tới nghìn năm, mà muôn đời về sau, không biết thế nào là cùng.
Suy từ nguyên đến gốc, việc địa học nước Nam ta, người đời sau mới biết xem cơ trời, xét nhẽ đất, điều (đều) là nhờ ơn Ngài mở mang trước nhất, để mà gây dựng những người anh kiệt.
Xem như sách Kiến văn lục của quan Bảng Nhợn (Nhãn) đất Duyên Hà là ông Lê Quý Đôn, có chép và (vài) mười bài thơ của Ngài ở tập Đường thi, nhời nhẽ (lời lẽ) rất là Thanh tao trung hậu, có phong chí giống đời xưa. Lúc nào Ngài cũng săn sóc về việc quốc dân, để làm gương cho các biên thần đời ấy.
Những công việc của Ngài làm, trước sau điều (đều) đã chép ở Đường sử và Việt sử, công lao rất nhiều, ơn trạch rất rộng, nói ra không siết.
Nay chỉ lược chép mấy nhời (lời), trong lịch sử sự tích của Ngài mà thôi.Thừa phụng sao sự tích. Chánh hương hội Nguyễn Châu Tuệ...'' |
Trong xây dựng, tường lửa hay tường chống cháy, vách chống cháy là vật cản dùng trong kỹ thuật phòng cháy chữa cháy để ngăn cản ngọn lửa lan sang các khu vực khác khi có cháy xảy ra.
Trong các rạp chiếu phim thường sử dụng các màn ngăn cháy, khi có cháy xảy ra, màn ngăn cháy sẽ ngăn cách sân khấu với khán giả. |
500 (năm trăm) là một số tự nhiên ngay sau 499 và ngay trước 501. |
Tuyệt cú (絕句) còn gọi là tiệt cú, đoạn cú, tuyệt thi là thể thơ lưu hành từ thời nhà Đường, làm theo lối thơ luật hay thơ cổ, cứ bốn câu một giải. Thường gặp nhất có bài gồm một giải hoặc hai giải: tiền giải và hậu giải, ngoài ra thơ cổ trường thiên thì các giải này không nhất định. Nhân dựa vào lối thơ luật mà bài thơ tuyệt cú ngắt ra bốn câu có từ hai đến ba vần bằng thì gọi là tuyệt cú thể luật, vận vần trắc mà không theo niêm luật thì gọi là tuyệt cú thể cổ.
Hai thể loại chủ yếu của thể tuyệt cú là Ngũ ngôn tuyệt cú và Thất ngôn tuyệt cú (đặc biệt là Ngũ ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn tứ tuyệt).
Một bài thơ tuyệt cú thể luật có thể lấy (ngắt, tuyệt) từ một bài thơ thất luật hay ngũ luật nhưng phải theo quy tắc sau:
Lấy đề, thực làm một bài, thì phải có ba vần và hai câu thực phải đối nhau.
Lấy đề, luận làm một bài thì phải có ba vần và hai câu luận đối nhau.
Lấy đề, kết làm một bài thì phải có ba vần và không cần đối nhau.
Lấy luận, kết làm một bài thì phải có hai vần và hai câu luận phải đối nhau.
Lấy thực, luận làm một bài thì phải có hai vần và trong bốn câu đều phải có đối.
Giang thôn tức sự của Tư Không Thự là một thí dụ:
Bãi điếu quy lai bất hệ thuyềnGiang thôn nhật lạc chính kham miên
Túng thiên nhất dạ phong xuy khứ
Chỉ tại lô hoa thiển thủy biênMột bài tuyệt cú thể cổ không cần theo luật này và thường vận vần trắc, và các giải cũng ngẫu hứng không nhất định.
Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên là một ví dụ:Xuân miên bất giác hiểu
Xứ xứ văn đề điểuDạ lai phong vũ thanhHoa lạc tri đa thiểu?
Thơ tuyệt cú lấy lời nói gần, hàm súc mà tình xa, ý sâu làm trọng. Ngôn ngữ uyển chuyển, biến hoá ở câu thơ thứ ba, nếu chỗ chuyển này mềm mại sẽ giữ được huyết mạch của toàn bài và làm cho câu cuối cùng hoặc vút lên cao ngất hoặc trôi đi như thuyền thuận nước...
Trong Đường thi, tuyệt cú là một thể thơ được ưa chuộng vì thể Cổ phong đề cao phải khởi chỗ diểu nhiên, kết chỗ du nhiên; thể Luật quá khuôn phép, gò bó. Thi nhân đời Đường làm thơ theo thể tuyệt cú có thể bày biện được chỗ khoáng đạt trong lòng mà vẫn giữ được vẻ cổ kính, phiêu nhiên, cao nhã là đặc trưng của thời đại thi ca này. |
Kỹ sư (hay Kĩ sư - theo tiếng lóng; Bác vật - từ cũ ở miền Nam), là danh từ chỉ học vị của người đã qua đào tạo chuyên môn về khoa học ứng dụng; bao gồm kỹ thuật về thiết kế, nghiên cứu phân tích, hệ thống cấu trúc (kiến trúc và cấu tạo xây dựng), sáng chế, công nghệ, thử nghiệm máy móc, vật liệu cùng một số chuyên ngành khác.
Mặc dù phần nhiều kỹ sư được định nghĩa như người có nhiệm vụ cải thiện các hạn chế khi triển khai dự án; song trên thực tế, một kỹ sư nắm giữ vai trò chủ yếu ở giai đoạn thiết kế và nghiên cứu nhằm đảm bảo tiêu chuẩn, quy định , phương thức an toàn, tính phù hợp và sự tinh gọn chi phí cụ thể của dự án đó nhằm tạo liên kết chặt chẽ giữa những khám phá khoa học và các ứng dụng trực tiếp với con người (bao gồm nhu cầu sinh hoạt và nâng cao chất lượng cuộc sống thường nhật).
Một số kỹ sư được biết đến qua các lĩnh vực như: kiến trúc, xây dựng, toán học, máy móc, công nghệ thông tin máy tính, phân tích thống kê, sáng tạo, tâm lý,...
Văn bằng cơ bản của một kỹ sư thường là cử nhân kỹ thuật hoặc kỹ sư đối với người hoàn thành chương trình đào tạo ít nhất 04 năm sau trung học với lĩnh vực chuyên môn tương ứng. Tại một số quốc gia, kỹ sư còn được biết đến là một chức danh nghề nghiệp do đơn vị quản lý nhà nước phân quyền hành nghề sau các kỳ sát hạch năng lực, với điều kiện người tham gia đáp ứng điều kiện thời gian công việc thực tế tối thiểu (thường từ hai hoặc ba năm). Văn bằng thạc sĩ kỹ thuật được cấp khi kỹ sư hoàn thành chương trình đào tạo sau đại học ít nhất hai năm và kết thúc bằng kết quả kiểm tra của hội đồng đào tạo tại các báo cáo chuyên đề khoa học, luận văn hay đồ án tốt nghiệp.
Từ nguyên và Định nghĩa
Từ kỹ sư phát nguồn qua từ nguyên 技师 (bính âm: Jì shī; phiên âm: kỹ thuật viên), bao gồm 师 (bính âm: shī) là thầy giáo và 技 (bính âm: Jì) là kỹ thuật. Nhìn chung, từ nguyên 技师 ý chỉ một người có chuyên môn ở mức đủ rộng như thầy giáo về kỹ thuật. Tuy vậy, từ 工程师 (bính âm: gōngchéngshī; phiên âm: triển khai dự định viên) được phần lớn đại chúng thông dụng, còn từ 技师 được dùng để chỉ một người làm kỹ thuật ở cấp thấp hơn.
Trong tiếng Anh, từ engineer (tiếng Latin: ingeniator) phát nguồn qua sự liên kết của từ ingeniare là đề mưu hay đưa ra dự định và từ ingenium là thông minh; sau khi ghép hai từ sẽ hình thành nghĩa người đưa ra dự định thông minh.
Năm 1961, quyển sách Engineering Identities, Epistemologies and Values: Engineering Education and Practice in Context (tạm dịch: Giá trị cốt lõi và nhận thức luận về bản chất kỹ thuật: Giáo dục kỹ thuật và xử lý thực tế), Hiệp hội Kỹ sư các nước Tây Âu và Hoa Kỳ đề cập về kỹ sư chuyên nghiệp:
Vai trò và chuyên môn nghiệp vụ
Qua nhiều góc độ, từ chuyên môn nghiệp vụ đến khả năng quản lý kỹ thuật của dự án đều phản ánh rõ ràng sự cần thiết của kỹ sư.
Các kỹ sư ở những chuyên ngành khác nhau có vai trò và nhiệm vụ khác nhau. Hầu hết, điểm chung giữa các kỹ sư là nghiên cứu phân tích về sự cần thiết, tính khả thi và hiệu quả của một dự án; đồng thời thiết lập phương án kỹ thuật theo nghiệp vụ của mình.
Thiết kế, định hình và mô phỏng ý tưởng
Nhằm tạo ra góc nhìn trực quan để nghiên cứu hay triển khai dự án, phần lớn các kỹ sư thường sử dụng những giải pháp công nghệ mô phỏng.
Các kỹ sư có thiết kế dự án thường có nhiệm vụ xác định vấn đề, thu hẹp phạm vi nghiên cứu, phân tích tiêu chí, tìm kiếm giải pháp nhằm đưa ra phương án cụ thể. Một số nghiên cứu cho thấy các kỹ sư sử dụng khoảng 56% thời gian để tham gia vào các hành vi thông tin khác nhau, bao gồm 14% để truy tìm thông tin ở các nền tảng.
Phần lớn các kỹ sư tạo ra nhiều phương án thiết kế nhằm tạo cơ sở để xác định, định hình tiêu chí và kết hợp những giải pháp có tính năng vượt trội, từ đó nâng cao tỉ lệ thành công của dự án.
Nghiên cứu, phân tích, giám sát và đánh giá dự án
Các kỹ sư giữ vai trò phân tích kỹ thuật trong thử nghiệm, sản xuất, hoặc bảo trì; từ đó đánh giá được sự cần thiết, tính khả thi và hiệu quả của dự án chuyên môn cụ thể. Công tác này có vai trò góp phần giảm thiểu hạn chế khi triển khai ở thực tế, đồng thời tinh gọn các chi phí dư thừa.
Kỹ sư có chuyên môn về nghiên cứu phân tích có thể làm việc trong nhà máy sản xuất và những nơi khác, nhằm xác định nguyên nhân thất bại của một quá trình, từ đó có thể cải thiện và duy trì chất lượng. Bên cạnh đó, các kỹ sư còn có thể ước tính thời gian và dự toán chi phí cần thiết để hoàn thành dự án. Phân tích kỹ thuật bao gồm việc áp dụng nguyên tắc và quy trình nghiên cứu khoa học để tìm ra đặc tính và trạng thái của hệ thống thiết bị (hoặc cơ chế nghiên cứu). Phân tích kỹ thuật chủ yếu được tiến hành bằng cách tách rời các quá trình vận hành bằng công tác thiết kế cấu trúc mô phỏng, từ đó phân tích chính xác các hạn chế và rủi ro.
Kỹ sư có nghiệp vụ giám sát đánh giá sẽ chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của những hạng mục thành phần chủ chốt hoặc đôi lúc là toàn bộ dự án, từ đó kiểm soát tính hiệu quả.
Phân loại về chuyên môn nghiệp vụ
Hầu hết các chương trình đào tạo kỹ sư được bổ sung kiến thức chuyên môn của một hoặc nhiều chuyên ngành kỹ thuật, nhằm phát triển khả năng phân tích vận hành ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiều chuyên ngành được cấp quyền hành nghề bởi các hiệp hội chuyên nghiệp hay chính quyền sở tại, mà trong đó mỗi chuyên ngành của kỹ sư có nhiều phân ngành khác nhau. Điển hình:
Kỹ thuật phân tích và thiết kế cấu trúc bao gồm kỹ thuật liên quan đến thiết kế như kiến trúc, kết cấu, đồng thời tính toán công năng ứng dụng cùng các khả năng chống chịu áp lực của quá trình vận hành dự án.
Kỹ thuật dân dụng bao gồm kỹ thuật về thiết lập kết cấu dân dụng, giao thông vận tải.
Kỹ thuật nghiên cứu vật liệu bao gồm phân ngành kỹ thuật liên quan đến chế tác vật liệu như gốm, kim loại, chất liệu hỗn hợp, polymer vật liệu bán dẫn,...
Kỹ thuật cơ khí bao gồm vật lý ứng dụng như động cơ phương tiện vận tải, máy móc công nghiệp hay các hệ thống vận hành khác.
Kỹ thuật giám sát và quản lý bao gồm phân ngành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn chung ở nhiều lĩnh vực.
Kỹ thuật công nghệ bao hàm các chuyên môn về công nghệ thông tin, khoa học máy tính, hệ thống điện tử,...
Một số chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật thuộc lĩnh vực khác.
Những khảo sát gần đây cho thấy các kỹ sư ở lĩnh vực chuyên môn khác nhau sẽ có cách sử dụng thời gian khác nhau trong công việc. Tuy nhiên; phần lớn các kỹ sư tập trung tra cứu, nghiên cứu tính khoa học để xử lý hạn chế và áp dụng kỹ thuật vào sản phẩm (chiếm 62.92%); 40.37% kỹ sư dùng thời gian để phát triển tính liên kết giữa con người với xã hội xung quanh.
Đối với các kỹ sư có nhiệm vụ tìm hiểu hành vi con người thuộc lĩnh vực cần nhiều thông tin; có 49.66% làm việc trên máy tính (với 6.4% thời gian nghiên cứu qua nền tảng hay cơ sở dữ liệu mạng); còn lại 14.2% làm việc thực tế (với 7.8% thời gian nghiên cứu bằng số liệu khảo sát).
Phân loại kỹ sư
Có rất nhiều ngành liên quan đến kỹ thuật, mỗi lĩnh vực đều có chuyên môn riêng về công nghệ và sản phẩm cụ thể. Thông thường các kỹ sư hoàn thành đào tạo sẽ tác nghiệp ở cơ sở liên quan nhằm học hỏi kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu thực tế. Tuy nhiên, một số sản phẩm hay dự án phức tạp cần nhiều kỹ sư ở các lĩnh vực khác nhau, điều đó hình thành các ngành đội hỗn hợp để phát triển công việc; ví dụ khi xây dựng Robot, một đội ngũ kỹ thuật thông thường sẽ có ít nhất ba loại kỹ sư (bao gồm kỹ sư về thiết kế cấu tạo máy móc và động cơ truyền lực, kỹ sư lập trình hệ thống về điện, điện tử và mạch điều khiển; kỹ sư về phát triển phần mềm; đôi khi có thêm kỹ sư tinh gọn chi phí sản xuất).
Một số kỹ sư có chuyên môn sâu về quản lý sẽ tham gia vào nghiên cứu nâng cao ở lĩnh vực quản trị kinh doanh, quản lý dự án cũng như tâm lý tổ chức.
Đạo đức
Kỹ sư có nghĩa vụ đối với công chúng, khách hàng, nhà tuyển dụng và nghề nghiệp của họ. Nhiều kỹ thuật xã hội đã thiết lập mã của hành và mã số của đạo đức để hướng dẫn viên và thông báo cho công. Mỗi kỷ luật kỹ thuật và xã hội chuyên nghiệp duy trì một quy tắc đạo đức, mà các thành viên cam kết duy trì. Tùy thuộc về chuyên môn của họ, kỹ sư cũng có thể được quản lý bởi cụ thể lệ kiểm soát dịch vụ, trách nhiệm sản phẩm luật, và thường là những nguyên tắc đạo đức kinh doanh.
Một số học sinh tốt nghiệp các chương trình kỹ thuật ở Bắc Mỹ có thể được công nhận bởi những Iron Ring hay kỹ Engineer's Ringmột vòng bằng sắt thép không gỉ đó là mòn trên các ngón tay của bàn tay thống trị. Truyền thống này bắt đầu vào năm 1925 ở Canada, với The Ritual of the Calling of an Engineer, nơi chiếc nhẫn phục vụ như là một biểu tượng và nhắc nhở của các kỹ sư của các nghĩa vụ để nghề kỹ thuật. Vào năm 1972, đã thông qua một số trường đại học ở Hoa Kỳ, kể cả các thành viên của các Order of the Engineer.
Giáo dục
Hầu hết các chương trình kỹ thuật liên quan đến một tập trung nghiên cứu trong một chuyên ngành kỹ thuật, cùng với các khóa học trong cả toán học và vật lý và khoa học đời sống. Nhiều chương trình cũng bao gồm các khóa học về kỹ thuật tổng quát và kế toán áp dụng. Khóa học thiết kế, thường kèm theo máy tính hoặc phòng thí nghiệm hoặc cả hai, là một phần của chương trình giảng dạy của hầu hết các chương trình. Thông thường, các khóa học tổng quát không liên quan trực tiếp đến kỹ thuật, chẳng hạn như các khóa học về khoa học xã hội hoặc nhân văn.
Công nhận là quá trình mà các chương trình kỹ thuật là đánh giá bởi một bên ngoài, cơ thể để xác định nếu có tiêu chuẩn được đáp ứng. Các Washington Accord như là một thỏa thuận công nhận quốc tế cho các bằng cấp kỹ thuật học thuật, công nhận sự tương đương đáng kể trong các tiêu chuẩn được thiết lập bởi nhiều cơ quan kỹ thuật quốc gia lớn. Tại Hoa Kỳ, các chương trình sau đại học về kỹ thuật được công nhận bởi các công Nhận Ban cho Kỹ thuật và công Nghệ.
Quy định
Ở nhiều quốc gia, kỹ thuật nhiệm vụ, chẳng hạn là các thiết kế của cầu điện, nhà máy điện, thiết bị công nghiệp, thiết kế máy và hóa chất, nhà máy phải được phê chuẩn bởi một kỹ sư chuyên nghiệp. Thường mang tên Chuyên nghiệp, kỹ Sư là một giấy phép hành nghề và được chỉ với việc sử dụng các bài-danh nghĩa chữ; PE hoặc P. Eng. Này rất phổ biến ở Bắc Mỹ, như là phụ nữ châu Âu, kỹ Sư (EURO ING) ở châu Âu. Các thực hành các kỹ thuật trong các ANH là không phải là một quy định nghề nhưng sự kiểm soát của các tiêu đề của kỹ Sư cao cấp (CEng) và kết Hợp kỹ Sư (IEng) là quy định. Những tiêu đề này được bảo vệ bởi luật pháp và có thể nghiêm ngặt yêu cầu xác định bởi các Kỹ thuật Hội đồng ANH. Các tiêu đề CEng được sử dụng trong nhiều về các khối thịnh Vượng chung.
Nhiều kỹ năng / bán-chuyên ngành và kỹ thuật viên kỹ thuật ở ANH gọi mình là kỹ sư. Một phát triển, chuyển động trong các ANH là một cách hợp pháp để bảo vệ các tiêu đề 'kỹ Sư' vì vậy, mà chỉ chuyên nghiệp, kỹ sư, có thể sử dụng nó một kiến nghị đã bắt đầu một nguyên nhân này.
Tại Hoa Kỳ, giấy phép, nói chung là có thể đạt được thông qua sự kết hợp của giáo dục, trước khi thi (Cơ bản Kỹ thuật thi), kiểm tra (Kỹ thuật Chuyên nghiệp Thi), và kinh nghiệm kỹ thuật (thường ở khu vực 5 năm). Mỗi kiểm tra nhà nước và cấp giấy phép Chuyên nghiệp, kỹ Sư. Hiện tại, hầu hết các bang đều không cấp phép theo kỷ luật kỹ thuật cụ thể, mà là cung cấp giấy phép tổng quát và tin cậy các kỹ sư sử dụng sự đánh giá chuyên nghiệp về năng lực cá nhân của họ; đây là cách tiếp cận ưa thích của các xã hội chuyên nghiệp. Mặc dù vậy, tuy nhiên, ít nhất một trong các kỳ thi theo yêu cầu của hầu hết các bang thực sự tập trung vào một kỷ luật cụ thể; các ứng cử viên về giấy phép thường lựa chọn loại kiểm tra gần nhất với chuyên môn của mình.
Ở Canada, kỹ thuật là một nghề tự quy định. Nghề ở mỗi tỉnh do hiệp hội kỹ thuật của mình quản lý. Chẳng hạn như ở Tỉnh bang British Columbia, một bằng tốt nghiệp kỹ sư có bốn năm kinh nghiệm sau đại học về lĩnh vực kỹ thuật và vượt qua kỳ thi về đạo đức và luật pháp sẽ phải được đăng ký bởi các Hiệp hội cho Chuyên nghiệp, kỹ Sư, và địa học (APEGBC) để trở thành một Chuyên nghiệp, kỹ Sư và được cấp các chuyên nghiệp chỉ định của P. Eng cho phép một kỹ thuật để thực hành.
Ở châu Âu, nước Mỹ Latin, Thổ nhĩ kỳ, và những nơi khác các tiêu đề là giới hạn của luật pháp để người với một bằng kỹ sư và sử dụng tên của những người khác là bất hợp pháp. Ở Ý, các tiêu đề là giới hạn cho những người đều tổ chức một bằng kỹ sư và đã vượt qua một trình độ chuyên môn thi (Đấng di Stato). Ở Bồ Đào Nha, chuyên nghiệp, kỹ sư danh hiệu và công nhận kỹ thuật độ là quy định và chứng nhận bởi các Ordem dos Engenheiros. Ở cộng Hòa séc, danh hiệu "sư" (Hey.) được đưa ra cho mọi người với một (masters) bằng hóa học công nghệ hoặc kinh tế cho lịch sử và truyền thống lý do. Ở hy Lạp, các học đề của "Bằng kỹ Sư" được trao giải thưởng khi hoàn thành các năm-năm học kỹ thuật nhiên và các tiêu đề của "Chứng nhận kỹ Sư" được trao giải thưởng khi hoàn thành các bốn năm học kỹ thuật, nghiên cứu tại một công Nghệ Giáo dục Viện (ĐỊA).
Nhận thức
UK
Anh học trong những năm 1950 đã được đưa lên với khuấy động những câu chuyện của "Victoria kỹ Sư", giám đốc trong số đó đã Brunel, Stephenson, Telford, và đương thời của họ. Tại Anh, "kỹ thuật" họ đã được theo kiểu như một ngành công nghiệp bao gồm các nhà tuyển dụng và người lao động lỏng lẻo gọi là "kỹ sư" người bao gồm các ngành nghề bán lành nghề. Tuy nhiên, quan điểm của thế kỷ 21, đặc biệt là giữa các thành viên trình độ cao hơn của xã hội, là để bảo lưu Engineer hạn để mô tả một học viên trường đại học giáo dục của sự khéo léo thể hiện bằng các Chartered (hoặc Incorporated) trình độ chuyên môn Kỹ sư. Tuy nhiên, một tỷ lệ lớn của công chúng Anh vẫn nghĩ về "kỹ sư" như các ngành nghề có kỹ năng hoặc thợ thậm chí bán lành nghề với một nền giáo dục trung học. Và các ngành nghề có tay nghề và tay nghề của Anh quốc tự cho mình là "Kỹ sư". Điều này đã tạo ra sự nhầm lẫn trong con mắt của công chúng để hiểu những gì các kỹ sư chuyên nghiệp thực sự làm từ sửa chữa động cơ ô tô, ti vi, tủ lạnh để thiết kế và quản lý sự phát triển của máy bay, không gian nghề, nhà máy điện, cơ sở hạ tầng, và các hệ thống công nghệ phức tạp khác.
Pháp
Ở Pháp, thuật ngữ 'ingénieur" (kỹ sư) không phải là một tiêu đề được bảo vệ và có thể được sử dụng bởi bất cứ ai, ngay cả bởi những người không có bằng cấp học tập.
Tuy nhiên, danh hiệu "kỹ sư Diplomé" (Đại học kỹ Sư) là một chính học vấn đề đó được bảo vệ bởi chính phủ và được liên quan đến "Diplôme d'Ingénieur'", đó là một trong danh giá nhất học độ ở Pháp. Bất cứ ai lợi dụng tiêu đề này ở Pháp có thể bị phạt một số tiền lớn và bị bỏ tù vì nó là dành cho sinh viên tốt nghiệp của pháp kỹ thuật Grande école cung cấp cao huấn luyện kỹ sư khoa học. Trong tổ chức như vậy, người nổi tiếng nhất (và khó khăn nhất để đạt được nhập học) được Ecole Hát Paris (Hát), Ecole des Mỏ de Paris (Mỏ Pháp), Ecole Ngoại đạo đức d ' et Métiers, Ecole bách khoa, và Ecole của tôi Pháp. Các trường kỹ thuật được tạo ra trong cuộc cách mạng Pháp có tiếng tăm đặc biệt giữa người Pháp, vì họ đã giúp chuyển đổi từ một đất nước chủ yếu là nông nghiệp vào cuối thế kỷ 18 sang một nước Pháp phát triển công nghiệp của thế kỷ 19. Một phần của thế kỷ 19, kinh tế của Pháp giàu có và công sức mạnh được tạo ra bởi các kỹ sư đã tốt nghiệp từ Ecole Hát Paris, Ecole des Mỏ de Paris, hoặc Ecole bách khoa. Đây cũng là trường hợp sau khi thế chiến thứ hai khi Pháp đã được xây dựng lại.
Trước khi "réforme René Haby" trong những năm 70, nó đã rất khó khăn để được thừa nhận như vậy, trường học, và người pháp ingénieurs thường được coi là của quốc gia ưu tú (do đó thuật ngữ "triệt les Grandes Écoles" trong ngôn ngữ của người già). Tuy nhiên, sau khi Haby cải cách, và một chuỗi của cải cách (hiện Đại hóa kế hoạch của các trường đại học pháp), một số kỹ thuật học được tạo ra có thể được truy cập với tương đối thấp hơn cạnh tranh, và danh tiếng này như là một phần của tầng lớp tiếng pháp bây giờ áp dụng đối với những từ 'đầu' kỹ thuật trường học cho các kỹ sư, École Nationale d'Administration (ENA) cho quản lý hoặc các chính trị gia và Trường Giỏi đạo đức (EN) cho các nhà nghiên cứu khoa học và công nghệ. Các kỹ sư ít nổi bật trong hiện tại nền kinh tế pháp như ngành công nghiệp cung ít hơn một phần tư của châu âu.
Bắc Mỹ
Ở MỸ và Canada, kỹ thuật là một quy định nghề nghiệp mà thực hành và các học được cấp giấy phép và quản lý bởi luật pháp. Cấp phép chuyên nghiệp, kỹ sư ở Canada và MỸ được gọi là P. Eng (Canada) và PE (MỸ). Một năm 2002 nghiên cứu của các Ontario xã Hội của các kỹ Sư Chuyên nghiệp tiết lộ rằng kỹ sư là thứ nhất được tôn trọng các chuyên gia đằng sau bác sĩ, dược sĩ.
Trong Ontario, và tất cả các người Canada tỉnh, danh hiệu "" là kỹ Sư bảo vệ luật pháp và bây không có giấy phép cá nhân hoặc công ty sử tiêu đề là phạm vi phạm pháp lý, và có thể bị phạt. Các công ty thường không muốn sử dụng tiêu đề trừ người có giấy phép vì lý do trách nhiệm, ví dụ như nếu công ty đã đệ trình một vụ kiện và thẩm phán, điều tra viên hoặc luật sư phát hiện ra rằng công ty đang sử dụng kỹ thuật viên từ cho nhân viên không có giấy phép có thể được các đối thủ sử dụng để cản trở nỗ lực của công ty.
Châu Á và Châu Phi
Ở Ấn Độ, Nga, Trung Đông, Việt Nam, Châu Phi và Trung quốc, kỹ thuật là một trong những nhất sau khi các khóa học đại học, mời hàng ngàn của ứng viên để cho khả năng của họ ở cạnh tranh cao kỳ thi tuyển.
Ở Ai Cập, các hệ thống giáo dục làm cho kỹ thuật nhiều thứ hai-nghề được tôn trọng trong nước (thuốc); trường đại học kỹ thuật tại trường đại học Ai Cập đòi hỏi rất cao dấu vết trên Giấy chứng nhận Chung của sở Giáo dục ( al-Thānawiyyah al-`Āmmah)—vào thứ tự của 97 hay 98%—và đang như vậy coi (cùng với các trường đại học y khoa học tự nhiên, và thuốc) là một trong những "đỉnh cao đẳng" ( kullīyāt al-qimmah).
Ở Philippines và Philippines cộng đồng ở nước ngoài, kỹ sư, những người có một trong hai tiếng Philippin hay không, đặc biệt là những người cũng xưng khác việc cùng một lúc, được giải quyết, và giới thiệu như là kỹ Sư, chứ không phải là Thưa ông/Madam trong bài phát biểu hay Ông/Bà/Chị (G./Gng./B. ở Philippines) trước khi họ. Từ đó được sử dụng hoặc trong trước khi những tên hay họ.
Văn hoá doanh nghiệp
Ở công ty và các tổ chức khác, đôi khi cũng có một xu để đánh giá thấp những người có công nghệ tiên tiến và khoa học kỹ năng so với người nổi tiếng, thời trang học viên giải trí và các nhà quản lý. Trong cuốn sách của ông huyền Thoại Man-Tháng, Fred Brooks Jr nói rằng các nhà quản lý nghĩ rằng người cao tuổi là "quá quý giá" đối với các nhiệm vụ kỹ thuật và các công việc quản lý có uy tín cao hơn. Ông cho biết làm thế nào một số phòng thí nghiệm, như Bell Labs, bãi bỏ tất cả các chức danh để vượt qua vấn đề này: một nhân viên chuyên nghiệp là một "thành viên của đội ngũ kỹ thuật". IBM duy trì một bậc thang tiến bộ; các rungs quản lý và kỹ thuật tương ứng hoặc khoa học là tương đương. Brooks khuyến cáo rằng các cấu trúc cần được thay đổi; ông chủ phải chú ý rất nhiều đến việc giữ cho các nhà quản lý và những người kỹ thuật của mình có thể thay thế được như tài năng của họ cho phép. |
Tường lửa (hay firewall) là một khái niệm trong tin học mạng máy tính để chỉ một vật cản logic chặn sự giao tiếp không được phép hoặc không mong muốn giữa các phần khác nhau của mạng.
Tường lửa còn có thể chỉ:
Tường lửa (xây dựng), vật cản dùng trong phòng cháy chữa cháy để ngăn chặn ngọn lửa lan sang một khu vực xác định
Tường lửa (phim), bộ phim kinh dị năm 2006 của Joe Forte, với ngôi sao Harrison Ford
Tường lửa (tiểu thuyết), tiểu thuyết của nhà văn Thụy Điển Henning Mankell với nhân vật chính Kurt Wallander
Tường lửa (trò chơi truyền hình), một chương trình truyền hình của Đài Truyền hình Việt Nam |
Phụ tố là hình vị phụ thêm vào gốc từ, biểu thị ý nghĩa cấu tạo từ hoặc ý nghĩa ngữ pháp. Theo vị trí đối với gốc từ có thể phân chia phụ tố thành tiền tố, trung tố, hậu tố... chúng không thể tự tạo ra các từ mà phải luôn kết hợp với căn tố. |
Nhân sư là một nhân vật động vật thần thoại được thể hiện như một con sư tử nằm với một cái đầu người. Nó có nguồn gốc từ các nhân vật điêu khắc thời Cổ Vương quốc Ai Cập, được người Hy Lạp cổ đại gọi bằng cái tên riêng của họ cho một quái vật nữ, "kẻ bóp cổ", một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp. Các nhân vật tương tự xuất hiện trên khắp Nam và Đông Nam Á. Trong nghệ thuật trang trí châu Âu, hình tượng nhân sư đã được khôi phục mạnh từ thời Phục Hưng về sau.
Nhân sư Ai Cập
Trong thần thoại Ai Cập cổ đại, nhân sư là một nhân vật biến thái động vật, thường được thể hiện như một con sư tử đực hoặc cái nằm và có đầu người, nhưng thỉnh thoảng là một con sư tử với đầu chim ưng, diều hâu, hay cừu. Nhân vật này có nguồn gốc từ thời Cổ Vương Quốc và gắn liền với vị thần mặt trời Sekhmet. Việc sử dụng đầu của những loài vật khác gắn trên mình sư tử tuân theo chức vụ thần thánh của thành phố hay vùng nơi chúng được xây dựng hay của loài nào đang chiếm ưu thế trong Đền bách thần Ai Cập ở thời điểm đó.
Sau này, hình ảnh nhân sư, một thứ rất giống với ý tưởng nguyên gốc Ai Cập, đã được xuất khẩu tới nhiều nền văn hoá, dù thường được thể hiện khá khác biệt vì sự chuyển nghĩa từ các văn bản gốc và sự tiến hoá ý tưởng liên quan tới các truyền thống văn hoá khác.
Nói chung vai trò của các nhân sư là canh gác các ngôi đền, chúng được đặt liền với các kết cấu kiến trúc khác như các lăng mộ hoàng gia hay các đền tôn giáo. Có lẽ nhân sư đầu tiên là tượng thể hiện Hoàng hậu Hetepheres II, vợ của pharaon Djedefra thời Vương triều thứ tư kéo dài từ năm 2723 tới 2563 trước Công Nguyên. Tượng lớn nhất và nổi tiếng nhất là Tượng Nhân sư lớn ở Giza, tại Thung lũng Giza trên bờ tây Sông Nile và quay mặt về hướng đông, cũng thuộc một Vương triều (). Dù thời gian xây dựng nó còn chưa được biết chắc, đầu Tượng Nhân sư lớn hiện được cho là đầu của pharaon Khafra. Tuy nhiên, vào năm 2004, nhà Ai Cập học người Pháp là Vassil Dobrev tuyên bố ông đã tìm ra bằng chứng mới cho thấy Đại Nhân sư là do pharaon Djedefra - anh trai của pharaon Khafra và là con của pharaon Khufu - xây dựng, để tưởng nhớ vua cha Khufu.
Cái tên mà những người xây dựng nên các bức tượng đó đặt cho chúng hiện vẫn chưa được biết. Tại địa điểm Tượng Nhân sư lớn, chữ viết trên một tấm bia được dựng lên một ngàn năm sau, bởi pharaon Thutmose IV năm 1400 trước Công Nguyên, liệt kê những cái tên của ba ý nghĩa của vị thần mặt trời ở đó trong giai đoạn ấy, Khepera - Rê - Atum. Việc tích hợp những bức tượng đó vào trong các quần thể hầm mộ và đền đài nhanh chóng trở thành truyền thống và nhiều pharaoh đã cho khắc đầu mình lên trên những pho tượng canh gác mộ của mình nhằm thể hiện quan hệ thân thiết của chúng với vị thần sức mạnh, Sekhmet.
Các tượng nhân sư Ai Cập nổi tiếng khác gồm một bức tượng với đầu pharaon Hatshepsut, với chân dung được khắc trên đá granite, hiện ở tại Metropolitan Museum of Art ở New York, và nhân sư thạch cao tuyết hoa tại Memphis, hiện nằm trong viện bảo tàng mở ở đó. Chủ đề này đã được mở rộng tạo nên các đại lộ lớn dẫn tới các lăng mộ và đền đài với các nhân sự canh gác cũng như thành các chi tiết trên đỉnh dãy bậc thang của các quần thể rất lớn. Chín trăm nhân sư đầu cừu, thể hiện Amon, đã được xây dựng tại Thebes, nơi ông được sùng kính nhất.
Nhân sư Hy Lạp
Từ thời đồ Đồng, người Hy Lạp đã có các giao lưu văn hoá và thương mại với Ai Cập. Trước khi Alexander Đại Đế chiếm Ai Cập, cái tên Hy Lạp, sphinx, đã được dùng để gọi những bức tượng đó. Các nhà sử học và địa lý Hy Lạp đã viết nhiều về văn hoá Ai Cập. Họ thỉnh thoảng gọi các nhân sư đầu cừu là criosphinxes, và các nhân sư đầu chim là hierocosphinxes. Từ sphinx có từ từ vựng Hy Lạp Σφίγξ, từ động từ σφίγγω (sphíngō), có nghĩa "bóp cổ". Cái tên này có thể xuất phát từ thực tế rằng những kẻ đi săn trong một bầy sư tử là các con sư tử cái, và chúng giết con mồi bằng cách bóp cổ, cắn vào yết hầu con mồi và giữ tới khi nó chết. Từ sphincter (cơ vòng) cũng có chung một nguồn gốc.
trong thần thoại Hy Lạp cũng có một nhân vật nhân sư, một con quái vật của sự huỷ diệt và đen đủi. Theo Hesiod, nhân sư là con của Echidna và Orthrus; theo những người khác, nhân sư là con của Echidna và Typhon. Tất cả chúng đều là các nhân vật từ thời đầu thần thoại Hy Lạp, trước khi các thần Olympia chiếm ưu thế trong đền bách thần Hy Lạp. Cuốn The Penguin Dictionary of Classical Mythology của Pierre Grimal nói rằng tên thật của Sphinx là Phix (Φιχ), dù ông không đưa ra nguồn của thông tin này. Dù vậy, Sphinx được gọi bằng tên (Phix (Φιχ)) bởi Hesiod ở dòng 326 cuốn Theogony (Thần hệ). Trong Thần thoại Hy Lạp, một nhân sư được thể hiện như một con quỷ với đầu và bộ ngực phụ nữ, thân của sư tử, cánh của đại bàng, và chiếc đuôi rắn. Nhân sư là biểu tượng của thành bang cổ Chios, và xuất hiện trên các con dấu và trên các đồng xu từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên cho tới thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên.
Bí ẩn Nhân sư
Nhân sư được cho là kẻ gác cửa vào thành phố Thebes Hy Lạp, và đưa ra một câu đố bí hiểm cho ai muốn vào thành. Câu đố chính xác của Nhân sư không được những người thời cổ kể lại rõ trong các câu chuyện của họ, và không được tiêu chuẩn hoá như câu đố dưới đây thời kỳ cuối lịch sử Hy Lạp. Truyền thuyết sau này, nói rằng Hera hay Ares đã gửi Nhân sư từ quê hương Ethiopia (người Hy Lạp luôn nhớ về nguồn gốc nước ngoài của Nhân sư) tới Thebes tại Hy Lạp nơi nó sẽ hỏi tất cả mọi người đi qua câu đố nổi tiếng nhất trong lịch sử: "Sinh vật nào buổi sáng đi bằng bốn chân, buổi trưa đi hai chân và buổi chiều đi ba chân, và khi nó càng có nhiều chân thì nó càng yếu?" Nhân sư bóp cổ ăn thịt tất cả những người không thể trả lời.
Oedipus đã giải được với câu trả lời như sau: Con người—bò bằng hai tay hai chân khi là trẻ con, sau đó đi trên hai chân khi trưởng thành, và chống gậy đi khi đã già. Một số nguồn khác cho rằng (nhưng hiếm hơn), có một câu đố thứ hai: "Có hai chị em: một người sinh ra người kia và người kia lại sinh ra người này." (trả lời: ngày và đêm,—cả hai từ đều là giống cái trong tiếng Hy Lạp). Câu chuyện kể tiếp rằng, khi bị giải đố, Nhân sư tự lao mình xuống thềm đá và chết. Một phiên bản khác nói rằng nó tự ăn thịt mình. Vì thế Oedipus có thể được công nhận là một nhân vật "liminal" hay giới hạn, người giúp tạo ra sự chuyển tiếp giữa việc thực hành tôn giáo cũ đại diện bởi cái chết của nhân vật Nhân sư, và sự trỗi dậy của giá trị mới, các vị thần Olympia.
Nhân sư châu Á
Một hỗn hợp nhân vật thần thoại với thân sư tử và đầu người có mặt trong truyền thống, thần thoại và nghệ thuật Nam và Đông Nam Á Được gọi riêng là purushamriga (tiếng Phạn, "ngực người"), purushamirukam (tiếng Tamil, "ngực người"), naravirala (tiếng Phạn, "người-mèo") ở Ấn Độ, hay là nara-simha (tiếng Pali, "người-sư tử") ở Sri Lanka, manusiha hay manuthiha (tiếng Pali, "người-sư tử") ở Myanmar, và nora nair hay thepnorasingh ở Thái Lan.
Trái với nhân sư Ai Cập, Mesopotamia, và Hy Lạp, nơi truyền thống phần lớn đã mất đi vì sự đứt quãng của các nền văn minh, các truyền thống của "nhân sư châu Á" vẫn rất sống động ngày nay. Những thể hiện nghệ thuật sớm nhất về "nhân sư" là từ tiểu lục địa Nam Á ở một số mặt bị ảnh hưởng từ nghệ thuật và sách vở Hy Lạp. Chúng có từ thời kì nghệ thuật Phật giáo đang trải qua một giai đoạn ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp. Nhưng các "nhân sư" của Mathura, Kausambi, và Sanchi, có niên đại từ thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên tới thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, cũng thể hiện một đặc điểm bản xứ không Hy Lạp rõ rệt. Vì thế, không thể đưa ý tưởng "nhân sư" có nguồn gốc từ ảnh hưởng nước ngoài.
Phía Nam Ấn Độ, "nhân sư" được gọi là purushamriga (tiếng Phạn) hay purushamirukam (tiếng Tamil), có nghĩa "ngực-người". Nó được thể hiện trong nghệ thuật điêu khắc đền đài và cung điện để tránh điềm dữ, tương tự như các "nhân sư" ở các vùng khác của thế giới cổ đại. Theo truyền thống, "nhân sư" có nhiệm vụ hoá giải các tội lỗi của những tín đồ khi họ bước chân vào một ngôi đền và có nhiệm vụ canh giữ những con quỷ. Vì thế nó thường được đặt ở vị trí quan trọng trên gopuram hay cổng đền, hay gần lối vào của Sanctum Sanctorum.
Purushamriga đóng một vai trò quan trọng trong các nghi lễ hàng ngày cũng như nghi lễ hàng năm tại các đền Shaiva nam Ấn Độ. Trong lễ sodasa-upacara (hay mười sáu danh dự), được thực hiện giữa một hay sáu lần tại các địa điểm thiêng liêng quan trọng trong ngày, "nhân sư" được dùng để trang trí một trong những đèn của diparadhana hay lễ đèn. Và trong nhiều đền purushamriga cũng là một trong vahana hay vật cưỡi của thần trong đám rước Brahmotsava hay lễ hội tôn giáo. Tại quận Kanya Kumari, cực phía nam tiểu lục địa Ấn Độ, trong đêm Shiva Ratri, tín đồ chạy 75 kilômét khi tới thăm và cầu nguyện tại mười hai đền Shiva. Nghi lễ Shiva Ottam (hay Chạy vì Shiva) này được thực hiện để tưởng nhớ câu chuyện về cuộc chạy đua giữa Nhân sư và Bhima, một trong những anh hùng của sử thi Mahabharata.
Tại Sri Lanka, nhân sư được gọi là narasimha hay người-sư tử. Là một nhân sư, nó có thân sư tử và đầu người, và không nên nhầm lẫn với Narasimha - kiếp hoá thân thứ tư của thần Mahavishnu - vị thần tái sinh này được thể hiện dưới hình thức một thân người và đầu một con sư tử. "Nhân sư" narasimha là một phần của truyền thống Phật giáo và có vai trò là người canh gác hướng bắc và cũng được thể hiện trên các lá cờ.
Tại Myanmar, nhân sư được gọi là manusiha và manuthiha. Nó được đạt trên các góc của tháp Phật giáo, và truyền thuyết về nhân sư kể lại việc nó đã được các nhà sư Phật giáo tạo ra thế nào để bảo vệ một chú bé sơ sinh hoàng gia khỏi những con yêu tinh ăn thịt. Nora Nair và Thep Norasingh là hai cái tên gọi "nhân sư" ở Thái Lan. Chúng được thể hiện như những loài vật đi thẳng với phần thân dưới là thân sư tử hay nai, và phần trên của con người. Thông thường chúng đi thành cặp đực cái. Ở Thái Lan nhân sư cũng đảm nhiệm vai trò bảo vệ. Chúng cũng thuộc các loài vật thần thoại sống trong dãy núi thiêng Himapan.
Dạng tương đồng
Người sư tử, một bức tưởng nhỏ hình người 32,000 tuổi thời kỳ aurignacian, có thân người và đầu thú. Không phải tất cả các động vật có đầu người thời cổ đều là nhân sư. Ví dụ, tại Assyria cổ đại, các phù điêu nổi thấp thể hiện những con bò đầu đội vương miện canh giữ lối vào các ngôi đền. Trong thần thoại cổ đại Olympia của Hy Lạp, tất cả các vị thần đều có hình người, dù họ cũng có thể biến thành động vật. Tất cả các loài vật trong thần thoại Hy Lạp có hình thức nửa người nửa thú đều là các vị thần từ cổ xưa: nhân mã, Typhon, Medusa, Lamia. Narasimha ("người-sư tử") được miêu tả như một sự hiện thân (sự tái sinh) của thần Vishnu trong các văn bản Puranic của Hindu giáo lấy hình thức nửa người/nửa sư tử, có thân người, nhưng mặt và móng vuốt giống sư tử. Manticore là một nhân vật tương tự cũng có thân sư tử và mặt giống người.
Ở châu Âu
Nhân sư Mannerist ở thế kỷ mười sáu thỉnh thoảng được cho là nhân sư Pháp. Tóc trên đầu nhân sư dựng thẳng và nó có ngực một phụ nữ trẻ. Thông thường nhân sư có đeo khuyên tai và ngọc trai. Thân nhân sư được diễn tả như một sư tử cái nằm. Những nhân sư này đã được phục sinh khi phong cách trang trí grottesche hay "grotesque" của "Golden House" (Domus Aurea) thời Nero được phát hiện hồi cuối thế kỷ mười lăm tại Rome, và nó được tích hợp vào nhiều phong cách thiết kế cổ điển và arabesque lan tràn khắp châu Âu trong nghệ thuật điêu khắc hồi thế kỷ mười sáu và mười bảy. Những con nhân sư cũng xuất hiện trong trang trí loggia của Vatican Palace bởi xưởng Raphael (1515–20). Lần xuất hiện đầu tiên của Nhân sư trong nghệ thuật Pháp là tại School of Fontainebleau trong thập niên 1520 và 1530 và nhân sư tiếp tục xuất hiện trong phong cách Hậu Baroque ở Régence Pháp (1715–1723).
Từ Pháp, nhân sư tràn đi khắp châu Âu, trở thành một nhân vật thường thấy trong điêu khắc trang trí ngoài trời tại các vườn cung điện thế kỷ mười tám, như tại Upper Belvedere Palace ở Viên, La Granja ở Tây Ban Nha, Branicki Palace ở Białystok, hay những ví dụ cho phong cách Rococo sau này ở Queluz National Palace - Bồ Đào Nha (có lẽ thập niên 1760), với cổ áo xếp nếp và ngực mặc áo với một áo choàng nhỏ. Nhân sư là một đặc điểm trang trí nội thất của lối Kiến trúc tân cổ điển như của Robert Adam và những đệ tử của ông, quay trở lại gần hơn với kiểu không mặc quần áo. Nhân sư đã thu hút sự quan tâm của cả các nghệ sĩ và nhà thiết kế của chủ nghĩa lãng mạn, và sau này là của các phong trào tượng trưng ở thế kỷ mười chín. Đa số các nhân sư thời kỳ này đều được đơn giản hoá theo Nhân sư Hy Lạp, chứ không theo phong cách Ai Cập, dù chúng có thể không có cánh.
Nhân sư ở CIA
Nhân sư đã gắn liền với Cục Tình báo Quân sự Hoa Kỳ từ năm 1923, khi nó được chấp nhận trở thành phù hiệu cho Military Intelligence Officers Reserve Corps. Con vật huyền thoại này minh hoạ cho sự kết hợp sự sáng suốt với sức mạnh từ thời cổ đại tới hiện đại. Nó xuất hiện trên phù hiệu trung đoàn Tình báo quân sự và trên nhiều mũ quân phục của nhiều đơn vị. Một bức tượng nhân sư lớn được đặt tại Pháo đài Huachuca ở cuối phía bắc thao trường lịch sử Brown không xa bảo tàng Tình báo quân sự.
Phù hiệu chi nhánh nguyên bản được cấp phép ngày 30 tháng 7 năm 1923. Nó được miêu tả là một tấm khiên màu vàng có một vòng tròn nối với cạnh bởi 13 gân toả tròn, bên trong vòng tròn là một nhân sư nằm ngẩng đầu. Mười ba dải trên tấm khiên hội tụ về một điểm chung tại tâm nơi nhân sư, biểu tượng của sự khôn ngoan và sức mạnh, ngồi, vì thế cũng là biểu tượng cho sự thu thập thông tin tình báo quân sự; và đảo ngược từ tâm sau khi đánh giá, thông tin quân sự được phổ biến lại. Nhánh tình báo quân sự quân đội Mỹ đã được sáp nhập với Nhánh an ninh và tình báo quân đội mới được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1962, và phù hiệu đã bị bãi bỏ.
Hình ảnh
Ghi chú |
Mikoyan-Gurevich Ye-2 (tiếng Nga: Е-2), còn có các tên Ye-2A1, Ye-2A2 (tên ký hiệu của NATO "Tấm xoay"), là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình chế tạo máy bay chiến thuật có cánh xuôi sau. Được phát triển bởi phòng thiết kế OKB Mikoyan-Gurevich (nơi thiết kế các máy bay MiG, tiếng Nga: ОКБ Микояна, Гуревича).
Lịch sử
Phòng thiết kế máy bay OKB-155 của Liên Xô ban đầu nhận yêu cầu thiết kế hai bản sao máy bay cánh tam giác mang động cơ AM-11. Tuy nhiên, kinh nghiệm thiết kế cánh tam giác còn chưa có, mà cánh xuôi sau đã được làm nhiều trong hầm khí động cũng như trong điều kiện bay thật, nên chấp nhận giải pháp đóng hai máy bay, một cánh xuôi sau 55 độ và một cánh tam giác để đánh giá bằng bay thử nghiệm.
Thêm nữa, việc xuất hiện những khó khăn kỹ thuật trong phát triển động cơ AM-11 nên để không cản trở thử nghiệm máy bay đầu tiên, họ tạm thời lắp động cơ AM-9 để kiểm tra tính năng điều khiển và hoàn thiện đặc điểm khí động trong thời kỳ chế tạo và bay thử. Những ưu thế bay thiếu sẽ nhận được sau khi có động cơ AM-11.
Ngày 25 tháng 12 năm 1954, mẫu thử nghiệm đầu tiên mang động cơ AM-9 và cánh xuôi sau 55 độ xuất xưởng. Phi công thử nghiệm Mosolov (Г. К. Мосолов) cất cánh lần đầu ngày 14 tháng 1 năm 1955. Trong năm 1955, máy bay YE-2 được đóng mang động cơ RD-11 với một vài thay đổi, gọi là YE-2A1. Phi công thử nghiệm Sedov (Г. А. Седов) cất cánh lần đầu ngày 17 tháng 1 năm 1956. Theo yêu cầu cuối năm 1955, chiếc thứ hai YE-2A2 xuất xưởng ngày 28 tháng 7 năm 1956. Sedov bay lần đầu ngày 4 tháng 9 năm 1956. Các chuyến bay thử nghiệm lặp lại rồi dừng do trục trặc và hướng phát triển thay đổi. Máy bay được giới thiệu lại cho các quan chức cấp cao ngày 31 tháng 12 năm 1957. Vũ khí: 3 súng NR-30 30 mm; đèn chiếu ASP-5N; trọng lượng cất cánh 6250 kg, nhiên liệu trong 1890 l.
Theo chỉ thị ngày 11 tháng 7 năm 1956 của Hội đồng Bộ trưởng, mệnh lệnh của Bộ ngày 18 tháng 7 năm 1956, máy bay YE-2A chuyển đến nhà máy số 21 với tên MiG-23 kiểu 63 (đây là thứ tự đánh các máy bay thử nghiệm, không phải máy bay MiG-23), ở đây 7 chiếc được đóng năm 1957.
Kiểu máy bay chiến đấu trên không tầm ngắn chuyên nghiệp Nga khởi đầu bằng YAK-1 đầu Thế chiến thứ II. Sau chiến tranh, MiG thay thế Yak trong vai trò thiết kế máy bay không chiến chủ lực của Sô Viết. Lúc này các máy bay MiG cánh xuôi sau mang động cơ lớp Nene đang được trang bị với đại diện là MiG-15 và MiG-17. Máy bay đa năng MiG-19 gặp khó khăn vì động cơ AM-5 chậm phát triển, nhưng thời điểm này cũng đã chuyển sang sản xuất hàng loạt. AM-5 đã chứng tỏ những hạn chế của động cơ Nene, phát triển dựa theo mãu Nene-1 Liên Xô đã mua bản quyền sau chiến tranh. MiG-15, MiG-17, MiG-19, với tốc độ tối đa từ sát âm thanh đến gần 2000 km/h, là những phiên bản sản xuất lớn của các máy bay thử nghiệm I.
Sau này, MiG-21 trang bị động cơ thế hệ mới R-11, bay trên dưới hai lần tốc độ âm thanh, là động cơ kết cấu mới do phòng thiết kế Tumansky, Liên Xô thiết kế. Nhìn chung, MiG-21 là máy bay trung gian giữa ngắm bắn bằng súng và tên lửa có điều khiển. MiG-21 là máy bay đầu tiên coi tên lửa-ra-đa là vũ khí không chiến chính.
Các YE là những máy bay chiến đấu thử nghiệm thời kỳ hệ động lực phát triển nhảy vọt và máy tính chớm ra đời. Các bản YE được chế tạo hàng loạt là những máy bay không chiến chủ lực của Liên Xô: MiG-21, MiG-23, MiG-25. Trong đó, YE-155 là máy bay thử nghiệm kiểu mẫu của các máy bay không chiến mạnh nhất đến hết thế kỷ 20. Các máy bay trang bị thực tế mang hình dáng kết cấu YE-155 là MiG-25, MiG-31 (Liên Xô, Nga), F-15 (Mỹ). YE-6 là máy bay thử nghiệm góc đón gió lớn, sau được phát triển tiếp thành YE-8. Máy bay YE-8 là máy bay thử nghiệm chiến thuật cỡ nhỏ, cuối thế kỷ 20, các máy bay mang kết cấu thân YE-8 được trang bị rất rộng rãi, trừ ở các nước dùng vũ khí Nga, đây là loại máy bay chiến thuật phổ biến nhất: F-16 (Mỹ), Lavi (Israel), J-10 (Trung Quốc).
Ít người nói đến YE-1, máy bay xuất hiện trong thời gian rất ngắn, chỉ khác YE-2 ở động cơ AM-5. NATO lúc đầu tin rằng máy bay sẽ được trang bị, trở thành MiG-21 nên về sau nhiều người gọi là "MiG-21 Faceplate" để phân biệt với "MiG-21 Fishbed" và "Người Mông Cổ MiG-21" là những MiG-21 thật sự. 3 chiếc YE-50 được đóng để đánh chặn máy bay trinh sát tầm cao U-2, YE-50 là một phiên bản YE-2 mang động cơ tên lửa. YE-3 rất ít thông tin còn lại, chỉ có một ảnh năm 1956 tại sân bay thử nghiệm Tushino, Moskva. Trong ảnh là máy bay hai động cơ cánh tam giác, cửa hút gió mũi hình bầu dục. Nhiều ý kiến cho rằng đây là máy bay thử nghiệm dự định thay thế MiG-19, vốn quá chậm trễ vì gặp khó khăn trong việc hoàn thiện động cơ AM-5. Trong chương trình MiG-21, YE-2 và YE-50 có thân khá giống MiG-21, nhưng cánh của MiG-19. YE-4 là máy bay thử nghiệm cánh tam giác, phòng thí nghiệm bay để hoàn thiện thiết kế loại cánh này. |
Thế kỷ 11 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1001 đến hết năm 1100, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Thế kỷ 17 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1601 đến hết năm 1700, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory, trước thế kỷ XVIII và sau thế kỷ XVI.
Các sự kiện
Năm 1644: Sấm Vương Lý Tự Thành lật đổ Nhà Minh , đặt tên nước là Đại Thuận , nhưng chỉ 2 tháng sau, quân Mãn Châu cùng với quân của Ngô Tam Quế tiến vào Trung Nguyên rồi kéo đến Bắc Kinh tiêu diệt quân Đại Thuận , Lý Tự Thành chết một năm sau đó, mở đầu cho thời kì cai trị Trung Hoa suốt gần 300 năm của Nhà Thanh
Năm 1700: Chiến hạm Vasa được đóng |
Steven George Gerrard (sinh ngày 30 tháng 5 năm 1980) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm và hiện là huấn luyện viên của Al-Ettifaq tại giải Vô địch quốc gia Ả Rập Xê Út. Anh là một huyền thoại của câu lạc bộ Liverpool.
Gerrard dành phần lớn sự nghiệp thi đấu của mình cho câu lạc bộ Liverpool, nơi anh có trận ra mắt vào năm 1998 và bắt đầu có vị trí chính thức trong đội hình từ mùa giải 2000-01. Anh thay thế Sami Hyypiä làm đội trưởng Liverpool vào năm 2003. Các danh hiệu của anh gồm 2 chiếc cúp FA, 3 Carling Cup, một cúp UEFA cùng một UEFA Champions League vào năm 2005. Vào ngày 13 tháng 5 năm 2009, Gerrard được nhận danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất do Hội các nhà báo bình chọn.
Gerrard có trận ra mắt ở đội tuyển vào năm 2000, chơi cho Anh ở Euro 2000, Euro 2004, World Cup 2006 và World Cup 2010. Đặc biệt, tại World Cup 2010, anh là đội trưởng của đội tuyển Anh, thay thế Rio Ferdinand bị chấn thương vào phút chót. Anh đã tuyên bố giã từ sự nghiệp thi đấu ở đội tuyển quốc gia Anh sau khi World Cup 2014 kết thúc.
Gerrard đứng ở vị trí thứ hai trong danh sách 100 cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử Liverpool, một danh sách do các cổ động viên câu lạc bộ này bình chọn.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Liverpool
Sinh ở Whiston, Merseyside, Gerrard bắt đầu chơi bóng cho đội thị trấn Whiston Juniors, nơi anh được các tuyển trạch viên của Liverpool chú ý. Anh gia nhập đội trẻ Liverpool năm 9 tuổi. Gerrard sau đó có sự thù địch với một số đội bóng ở tuổi 14, nhưng thành công của anh thì vẫn chưa tới. Gerrard không bao giờ để điều đó xảy ra trong đội tuyển trẻ của Anh. Các đội bóng thù địch của Gerrard bao gồm Manchester United, đội bóng mà sau này trong cuốn tự truyện vào năm 2006 anh đã nói "tạo sức ép với Liverpool trong việc ký hợp đồng với tôi."" Anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên cùng Liverpool vào ngày 5 tháng 11 năm 1997.
1998-2003
Gerrard có trận ra mắt trong màu áo Liverpool vào ngày 29 tháng 11 năm 1998 gặp Blackburn Rovers khi vào sân ở phút cuối thay Vegard Heggem. Anh có 13 lần ra sân trong mùa giải đầu tiên, thay thế ở vị trí tiền vệ cho đội trưởng Jamie Redknapp và chơi ở cánh phải, nhưng anh chỉ mới cống hiến được trong quãng thời gian ngắn ngủi được ra sân, do tính cách nóng nảy ảnh hưởng đến lối chơi của anh. Gerrard khẳng định lại điều này vào tháng 11 năm 2008 trong cuộc phỏng vấn cùng tờ The Guardian, "Lúc đó tôi không kiểm soát được mình và đã mất bình tĩnh". Cầu thủ của Liverpool sau đó dù sao cũng cho biết anh sẽ cố gắng cải thiện. Gerrard coi mình như một cầu thủ phòng ngự, và luôn muốn thực hiện những pha xoạc bóng hơn là thực hiện những pha lên bóng cùng đồng đội.
Gerrard trở thành đối tác của Redknapp ở vị trí tiền vệ giữa vào mùa giải 1999-00. Sau khi bắt đầu trận derby cùng Everton trên ghế dự bị, anh thay Robbie Fowler trong hiệp hai nhưng nhận chiếc thẻ đỏ đầu tiên trong sự nghiệp sau pha vào bóng với Kevin Campbell. Cuối mùa giải đó, Gerrard ghi bàn đầu tiên trong sự nghiệp trong trận thắng 4-1 trước Sheffield Wednesday. Tuy nhiên, anh bắt đầu gặp sự cố với cái lưng của mình, sau đó bác sĩ Hans-Wilhelm Müller-Wohlfahrt chẩn đoán rằng đó là hậu quả của sự lớn lên quá sớm, cộng với việc thi đấu quá tải trong quãng thời gian tuổi dậy thì. Anh sau đó được chẩn đoán mắc chấn thương háng.
Vào mùa giải 2000-01, anh có 50 lần ra sân ở mọi giải đấu và ghi 10 bàn cho Liverpool giúp đội bóng vô địch League Cup, cúp FA và cúp UEFA. Gerrard thay thế Sami Hyypia làm đội trưởng vào tháng 10 năm 2003, bởi huấn luyện viên Gerard Houllier cho biết ông nhận ra tố chất thủ lĩnh ở Gerrard, xong vẫn cần thời gian để tích luỹ thêm. Anh sau đó gia hạn hợp đồng với đội bóng có thời hạn thêm 4 năm.
Mùa giải 2004-2005
Houllier ra đi sau mùa giải 2003-04 không có danh hiệu nào, và Gerrard được liên hệ để tới chơi cho Chelsea. Anh cho biết anh "không hạnh phúc với các danh hiệu đã đạt được cùng Liverpool," và "lần đầu tiên trong sự nghiệp tôi đứng trước cơ hội để có thêm nó." Cuối cùng, Gerrard đã từ chối mức giá 20 triệu bảng từ Chelsea và ở lại Liverpool dưới sự dẫn dắt của Rafael Benítez.
Liverpool phải chịu nạn chấn thương hoành hành vào đầu mùa giải 2004-05, và một chấn thương ở bàn chân đã ập tới với Gerrard vào tháng 9 trong trận gặp Manchester United và khiến anh phải ngồi ngoài tới tháng 11. Anh trở lại trong 5 phút cuối trận gặp Olympiacos ở cúp C1 để giúp Liverpool đặt chân vào vòng knockout. Anh cho biết đó là bàn thắng quan trọng nhất, chưa phải là đẹp nhất, mà anh ghi cho Liverpool tới lúc đó. Tuy nhiên, Gerrard thực hiện một pha phản lưới nhà trong trận chung kết Cúp liên đoàn vào ngày 27 tháng 2, khiến Liverpool thua 3-2 trước Chelsea.
Trong 6 phút điên rồ ở hiệp hai trận chung kết cúp C1 2005 gặp AC Milan, Liverpool đã gỡ được ba bàn để cân bằng tỉ số 0-3 rồi vào thi đấu hiệp phụ, Gerrard ghi bàn đầu tiên. Bàn thứ ba là từ pha phối hợp nhanh của tiền vệ này cùng Milan Baros khiến Gennaro Gattuso của AC phải phạm lỗi và Liverpool có được của penalty để Xabi Alonso gỡ hoà. Gerrard không tham gia vào loạt sút luân lưu, xong Liverpool vẫn có được chiến thắng 3-2 qua đó giành cúp C1 đầu tiên sau 20 năm, anh được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận, và sau đó nhận danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của UEFA.
Nhưng sau đó đã có những vấn đề về hợp đồng của anh với Liverpool, Gerrard nói với giới truyền thông sau trận đấu, "Làm sao tôi có thể rời đi sau một đêm như thế này?" Nhưng vào ngày 5 tháng 7 năm 2005, sau khi Liverpool từ chối một lời đề nghị khác từ Chelsea, Gerrard từ chối mức lương 100.000 bảng mà Liverpool đưa ra. Giám đốc điều hành Rick Parry cho biết đội bóng đã mất Gerrard, ông nói, "Giờ chúng tôi phải tiếp tục. Chúng tôi đã cố gắng hết sức, nhưng cậu ấy đã nói rõ rằng cậu ấy muốn ra đi và tôi nghĩ đó là một kết thúc hợp lý." Ngày hôm sau đó, Gerrard bất ngờ ký hợp đồng 4 năm cùng Liverpool.
Gerrard ghi 23 bàn trong 53 lần ra sân ở mùa giải 2005-06, và vào tháng 4 anh trở thành cầu thủ đầu tiên của Liverpool kể từ John Barnes vào năm 1988 được bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Premier League. Anh ghi 2 bàn trong trận chung kết cúp FA gặp West Ham United, bao gồm một pha sút xa trong thời gian bù giờ để đưa trận đấu vào hiệp phụ, và Liverpool thắng trên chấm phạt luân lưu. Bàn thắng khiến anh trở thành cầu thủ duy nhất ghi được bàn thắng trong trận chung kết của cả cúp FA, Cúp liên đoàn, Europa League và UEFA Champions League. Gerrard thực hiện thành công một quả penalty trong trận bán kết gặp đối thủ truyền kiếp Chelesa ở cúp C1 và lần thứ hai vào chung kết gặp AC Milan, song lần này họ thua 2-1.
2005-2015
Gerrard gặp một chấn thương ngón chân vào tháng 8 năm 2007 ở vòng loại cúp C1 gặp Toulouse, nhưng trở lại 4 ngày sau trong trận hoà 1-1 với Chelsea. Vào ngày 28 tháng 10 năm 2007, Gerrard chơi trận thứ 400 cho Liverpool gặp Arsenal, trận đấu mà anh ghi bàn. Anh chỉ không ghi bàn trong đúng 2 trận ở tháng 11, và ghi bàn duy nhất trong trận gặp Olympique Marseille vào ngày 11 tháng 12, qua đó anh trở thành cầu thủ Liverpool đầu tiên từ khi John Aldridge vào năm 1989 ghi được 7 bàn tại mọi giải đấu.
Anh đánh dấu lần thứ 300 ra sân ở giải Ngoại hạng Anh vào ngày 13 tháng 4 năm 2008 trong trận gặp Blackburn Rovers, trận này anh ghi bàn mở tỉ số, và kết thức mùa giải với 22 bàn thắng. Gerrard được chọn vào đội hình tiêu biểu của mùa giải và được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải, cùng đồng đội Fernando Torres.
Gerrard phải phẫu thuật vào đầu mùa giải, xong vấn đề của anh không quá nghiêm trong và anh nhanh chóng trở lại tập luyện. Anh đáng lẽ ra đã có bàn thắng thứ 100 cho Liverpool trong trận gặp Stoke City vào ngày 20 tháng 9, xong bàn thắng đã không được công nhận bởi lỗi việt vị của Dirk Kuyt. Anh đạt được cột mốc này 7 ngày sau trong chiến thắng 3-1 tại cúp C1 gặp PSV Eindhoven.
Anh có trận đấu thứ 100 ở cúp châu Âu cho Liverpool vào ngày 10 tháng 3 năm 2009 gặp Real Madrid và anh ghi 2 bàn trong chiến thắng 4-0. 4 ngày sau anh ghi một bàn từ chấm penalty trong chiến thắng 4-1 trước Manchester United ở Old Trafford. Nối tiếp những thành công này, người từng ba lần được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trong năm của FIFA Zinedine Zidane nhận xét về tiền vệ của Liverpool, anh nói "Cậu ấy có phải là xuất sắc nhất thế giới? Cậu ấy có thể không thu hút nhiều sự chú ý như Lionel Messi và Cristiano Ronaldo xong tôi nghĩ cậu ấy xuất sắc nhất thế giới." Vào ngày 22 tháng 3 năm 2009, Gerrard ghi cú hattrick đầu tiên cho Liverpool trong trận thắng 5-0 trước Aston Villa. Vào ngày 13 tháng 5 năm 2009, Gerrard được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất năm 2009 theo bình chọn của các nhà báo, trở thành cầu thủ đầu tiên của Liverpool đạt danh hiệu này sau 19 năm. Gerrard đã đánh bại hai đối thủ là Wayne Rooney và Ryan Giggs, đánh bại Giggs với chỉ 10 phiếu bầu hơn. Sau khi nhận giải thưởng, anh cho biết "Tôi rất vui nhưng cũng hơi bất ngờ," anh nhận xét. "Khi bạn nhìn vào trình độ của những cầu thủ ở giải đấu này, đó sẽ là một niềm vinh dự khi được nhận danh hiệu."
Ngày 27/4/2014, trong trận đấu với Chelsea, anh đã có pha trượt chân từ đường chuyền của Sakho. Tai họa ập đến. Demba Ba cướp bóng, đối mặt với Simon Mignolet rồi bình tĩnh dứt điểm mở tỷ số, chung cuộc LIverpool thua 0-2 và chấm dứt cơ hội vô địch, mùa đó họ về nhì sau Manchester City F.C.
Ngày 17 tháng 5 năm 2015, anh thi đấu trận cuối cùng trong màu áo Liverpool tại sân Anfield, trong trận đó Liverpool thua 3-1. Cuối trận, mọi người đã tổ chức lễ vinh danh cho anh. Anh được xem là người đội trưởng vĩ đại nhất của Liverpool. Gerrard ghi bàn thắng cuối cùng cho Liverpool khi đội thất bại 1-6 trên sân khách trước Stoke City tại vòng cuối vào ngày 24/5.
Los Angeles Galaxy
Ngày 7 tháng 1 năm 2015, câu lạc bộ Mỹ Los Angeles Galaxy thông báo đã có được sự phục vụ của Gerrard với bản hợp đồng có thời hạn 18 tháng. Anh chính thức đến Mỹ vào tháng 7 sau khi mùa bóng 2014-15 kết thúc.
Ngày 11 tháng 7, Gerrard có trận ra mắt đội bóng mới trong trận giao hữu trước mùa giải với Club América. Anh có trận đấu đầu tiên tại Giải bóng đá nhà nghề Mỹ (MLS) vào ngày 17 tháng 7 và ghi được một bàn và còn kiến tạo cho Robbie Keane trong chiến thắng 5-2 trước San Jose Earthquakes.
Ngày 24 tháng 11 năm 2016, Steven Gerrard chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau khi đáo hạn hợp đồng với Los Angeles Galaxy sau 19 năm thi đấu chuyên nghiệp.
Thi đấu quốc tế
Gerrard có trận ra mắt trong màu áo đội tuyển quốc gia ở trận gặp Ukraine vào ngày 31 tháng 5 năm 2000. Mùa hè năm đó, anh được triệu tập vào đội tuyển tham dự Euro 2000, có lần ra sân duy nhất trong chiến thắng 1-0 trước đội tuyển Đức. Gerrard ghi bàn đầu tiên cho đội tuyển trong chiến thắng 5-1 trước Đức ở vòng loại World Cup 2002 vào tháng 9 năm 2001, và khi đội tuyển Anh tham dự vòng chung kết thế giới tại Nhật Bản và Hàn Quốc, Gerrard buộc phải ngồi ở nhà xem đồng đội thi đấu bởi một chấn thương trong trận đấu cuối cùng của Liverpool trong mùa giải gặp Ipswich Town.
Anh được ra sân thường xuyên hơn ở Euro 2004, ghi một bàn trong trận gặp Thuỵ Sĩ trước khi đội tuyển Anh bị Bồ Đào Nha loại trên chấm phạt đền tại tứ kết. Anh tham gia kì World Cup đầu tiên vào năm 2006, giải này anh ghi 2 bàn trong trận gặp Trinidad và Tobago và Thuỵ Điển, nhưng anh lại đá hỏng một quả phạt đền trong loạt sút luân lưu với Bồ Đào Nha khiến Anh bị loại ở tứ kết.
Gerrard là đội phó đội tuyển Anh dưới thời huấn luyện viên Steve McClaren, và trong khi anh thay thế John Terry làm đội trưởng, đội tuyển Anh đã nhận những trận thua trước Nga và Croatia khiến họ hết hi vọng dự Euro 2008. Sau khi tân huấn luyện viên Fabio Capello tiếp quản đội tuyển, Gerrard là ứng cử viên cho chiếc băng đội trưởng nhưng Capello đã quyết định chọn Terry cho vị trí này. Gerrard sau đó được chọn là đội phó và đội trưởng là Rio Ferdinand sau vụ scandal tình ái của Terry.
Gerrard đã nâng số bàn thắng ghi được cho đội tuyển quốc gia lên con số 16 khi anh giúp đội tuyển Anh lọt vào vòng chung kết World Cup 2010 với hai bàn vào lưới Croatia trong chiến thắng 5-1 trên sân vận động Wembley.
Trước khi vòng chung kết World Cup 2010 diễn ra vài ngày, trung vệ đội trưởng Rio Ferdinand đã mắc phải chấn thương và không thể cùng đội tuyển Anh tham dự giải. Huấn luyện viên Fabio Capello do đó đã chọn Gerrard làm đội trưởng đội tuyển Anh tại World Cup 2010.
Trong trận đấu đầu tiên của đội tuyển Anh tại bảng C World Cup 2010 với Hoa Kỳ, Gerrard đã mở tỉ số trận đấu với cú xỉa bóng bằng má ngoài chân phải hạ gục thủ môn Tim Howard.
Ngày 21 tháng 7 năm 2014, Gerrard chính thức tuyên bố giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau khi đã có 114 lần khoác áo đội tuyển (vào thời điểm đó Gerrard là cầu thủ có số lần khoác đội tuyển nhiều thứ ba trong lịch sử, sau Peter Shilton và David Beckham) và có được 21 bàn thắng.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Đội trẻ Liverpool
Anh làm HLV Đội trẻ Liverpool từ tháng 2/2017, Trước đó, đội bóng đang chơi ở League One là MK Dons đã ngỏ lời mời Gerrard về làm HLV đội một nhưng anh từ chối, cho rằng công việc đó "quá sớm" cho bản thân. Liverpool kỳ vọng Gerrard sẽ mang đến "kinh nghiệm và chuyên môn" cùng với đó là "sự hiểu biết tường tận về kết cấu và đặc trưng của CLB".
Rangers
Gerrard ký hợp đồng 4 năm với Rangers và bắt đầu công việc vào tháng 6/2018. Cựu tiền vệ tuyển Anh sẽ thay thế huấn luyện viên tạm quyền Graeme Murty, người đang dẫn dắt Rangers đứng thứ ba tại giải vô địch Scotland, kém đội đầu bảng Celtic tới 13 điểm. Murty quyết định rời Rangers vào ngày thứ ba trong tuần qua, và hai trợ lý Jimmy Nicholl và Jonatan Johansson sẽ dẫn dắt Rangers trong ba trận cuối cùng mùa giải. Tại mùa 2020/21, cựu tiền vệ người Anh giúp Rangers vô địch Scotland với 102 điểm, cùng thành tích bất bại, qua đó ngắt chuỗi thống trị kéo dài 9 năm của Celtic. Họ lập kỷ lục 26 trận sạch lưới, thắng toàn bộ 19 trận sân nhà và chỉ lọt lưới 13 lần cả mùa. Cá nhân Gerrard cũng đoạt giải HLV xuất sắc năm của bóng đá Scotland.
Aston Villa
Vào ngày 11/11/2021, Aston Villa thông báo bổ nhiệm Steven Gerrard theo hợp đồng 3,5 năm, sau khi sa thải Dean Smith. "Aston Villa là một CLB có bề dày lịch sử và truyền thống của bóng đá Anh. Tôi vô cùng tự hào khi trở thành HLV trưởng mới của CLB", Gerrard nói trong lễ ký kết hợp đồng. "Sau cuộc trò chuyện với chủ sở hữu Nassef Sawiris, Wes Edens và những người còn lại trong hội đồng quản trị, tôi có thể thấy rõ tham vọng của họ, và tôi muốn giúp họ đạt được mục tiêu". Aston Villa đã trả 3,3 triệu USD tiền bồi thường hợp đồng cho Rangers, để bổ nhiệm Gerrard theo hợp đồng có thời hạn tới tháng 6/2025. Gerrard dẫn dắt câu lạc bộ giành chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Brighton & Hove Albion trong trận đầu tiên nắm quyền. Mùa giải đầu tiên ông giúp Aston Villa kết thúc ở vị trí thứ 14, kém 3 bậc so với mùa giải trước.
Sau khi chỉ thắng 2 trong số 12 trận mở màn của mùa giải 2022–23, Gerrard bị Aston Villa sa thải vào ngày 20 tháng 10 năm 2022 ngay sau trận thua Fulham 0-3 ở vòng 12.
Đời tư
Gerrard và người vợ, cây bút chuyên viết về thời trang Alex Curran, tổ chức lễ cưới ở cung điện Cliveden ở Buckinghamshire vào ngày 16 tháng 6 năm 2007. Hiện tại, Gerrard cùng vợ đã có 3 con gái. Anh có một người anh trai, Paul và em họ Anthony Gerrard chơi cho Cardiff City F.C..
Vào tháng 9 năm 2006, Gerrard cho ra mắt cuốn tự truyện của mình, Gerrard: Cuốn tự truyện của tôi, cuốn sách sau đó đạt giải cuốn sách thể thao của năm trong lễ trao giải cho các cuốn sách của Anh Quốc.
Cuốn tự truyện kết thúc với câu "Tôi thi đấu vì Jon-Paul." Người họ hàng 10 tuổi của Gerrard, Jon-Paul Gilhooley, đã chết vào năm 1989 trong thảm hoạ Hillsborough, năm đó Gerrard mới gần 9 tuổi. "Thật khủng khiếp khi biết rằng một trong những người họ hàng của bạn đã lìa đời,"Gerrard nói. "Chứng kiến nỗi bất hạnh của gia đình họ là một trong những động lực khiến tôi trở thành cầu thủ như ngày hôm nay."
Vào ngày 1 tháng 10 năm 2007, Gerrard đã tham gia vào một vụ tai nạn xe ở Southport khi chiếc xe của anh đâm vào một cậu bé 10 tuổi đang lái xe đạp, cậu bé đã bị ngã vào lề đường và vô tình chặn đường của Gerrard. Sau đó cầu thủ này đã thăm cậu bé ở bệnh viện và tặng cậu ấy một đôi giày có chữ ký của cầu thủ thần tượng của cậu bé, Wayne Rooney, sau khi anh ở lại và ký vào cuốn tự truyện cho những bệnh nhân trẻ khác.
Những người đứng đầu Knowsley đã bầu chọn Gerrard làm người được đặc quyền của Borough vào ngày 13 tháng 12 năm 2007, 2 tuần sau, anh trở thành một thành viên của hiệp hội các Hiệp sĩ đế chế Anh bởi nữ hoàng trong danh sách lễ trao giải đầu năm của Nữ hoàng, cho những đóng góp đối với thể thao. Anh nhận một bằng danh dự từ trường đại học John Moores vào ngày 26 tháng 7 năm 2008 như một sự ghi nhận đối với những đóng góp của anh cho thể thao.
Vào ngày 29 tháng 12 năm 2008, Gerrard tham gia vào một vụ xô xát bên ngoài hộp đêm Lounge Inn ở Southport. Anh cùng hai người khác sau đó đã bị bắt giữ vì tôi gây thương tích cho một DJ của quán bar khi khiến anh này gãy răng và vỡ đầu. Ba người này sau đó đã bị đưa ra tòa án vào ngày 23 tháng 1 năm 2009, ở đó cả ba người đều cho biết họ không có tội. Phiên toà không tìm ra được mức án và đã phải xử lại vào ngày 3 tháng 4 năm đó, Gerrard được phiên tòa tuyên trắng án.
Thống kê
Câu lạc bộ
Đội tuyển quốc gia
Bàn thắng quốc tế
Danh hiệu
Cầu thủ
Liverpool
Á quân Premier League (2): 2008–09, 2013–14
FA Cup (2): 2000–01, 2005–06
EFL Cup (3): 2000–01, 2002–03, 2011–12
FA Community Shield (2): 2001, 2006
UEFA Champions League (1): 2004–05
UEFA Cup (1): 2000–01
UEFA Super Cup (2): 2001, 2005
Á quân FIFA Club World Cup (1): 2005
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất năm do Hiệp hội các cây viết thể thao Anh FWA bình chọn: 2009
Cầu thủ xuất sắc nhất do cổ động viên bình chọn: 2009
Cầu thủ xuất sắc nhất năm do hiệp hội cầu thủ nhà nghề Anh bình chọn: 2006
Quả bóng đồng châu Âu: 2005
Cầu thủ xuất sắc nhất Champions League: 2004–05
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất do PFA bình chọn: 2001
Huấn luyện viên
Steven Gerrard đã bất ngờ được đội bóng của Ả Rập Xê Út, Al-Ettifaq tiếp cận cho chiếc ghế HLV trưởng của đội bóng.
Rangers
Scottish Premiership: 2020–21
Á quân Cúp Liên đoàn Scotland: 2019–20
Huân chương
Huân chương Đế quốc Anh: 2007
Chú thích |
Quốc tử giám () là cơ quan đào tạo giáo dục cấp trung ương tại các nước Á Đông thời phong kiến Nho giáo. Đứng đầu Quốc tử giám là các chức quan: Tế tửu (đứng đầu trường Quốc học-tương đương với Hiệu trưởng), Tư nghiệp (đứng thứ hai sau Tế tửu).
Tại Trung Quốc
Quốc tử giám đầu tiên xuất hiện sau thời nhà Tuỳ. Mỗi triều đại sau đó đều lập Quốc tử giám tại kinh đô của mình - Trường An, Lạc Dương, Khai Phong, Nam Kinh. Kể từ thời nhà Minh thì có tới hai Quốc tử giám: một ở Nam Kinh và một ở Bắc Kinh.
Tại Việt Nam
Quốc tử giám đầu tiên được lập vào năm 1076 tại kinh thành Thăng Long vào thời vua Lý Nhân Tông. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các hoàng tộc, quý tộc và quan lại. Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Đến đời nhà Nguyễn, Quốc tử giám được lập tại Huế.
Chức trách của Tế tửu được Phan Huy Chú cho biết trong Lịch triều Hiến chương loại chí là: “phụng mệnh trông coi nhà Văn Miếu, rèn tập sĩ tử, phải chiếu theo chỉ truyền, hằng tháng theo đúng kỳ cho (học trò trường Giám) tập làm văn, để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước”.
Chức năng của Quốc tử giám là nơi đào tạo quan lại cho nhà nước, vì thế, Tế tửu với vai trò là người đứng đầu Quốc tử giám ngoài việc tổ chức dạy và học, còn phải tổ chức khảo hạch (kiểm tra) sự chuyên cần, tiến bộ của Giám sinh, chấm bài và báo cáo sang Bộ Lại để làm căn cứ bổ tuyển nhân tài theo quy định.
Tư nghiệp là chức quan sau Tế tửu, làm phó cho Tế tửu, giúp Tế tửu trong việc rèn tập sĩ tử.
Tế tửu, Tư nghiệp đều là những bậc đại khoa, nổi tiếng về tài năng và đức độ. Những bậc hiền tài làm Tế tửu, Tư nghiệp được biết nhiều hơn cả như Trạng nguyên Nguyễn Trực, Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ, Trạng nguyên Lương Thế Vinh, Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên; Tiến sĩ Thân Nhân Trung,...Việc tuyển chọn học quan của Quốc tử giám rất được chú trọng. Các vị quan đại thần có uy tín, học vấn uyên bác như Hộ bộ Thượng thư Phùng Khắc Khoan; Tham tụng Nguyễn Công Thái, Bồi tụng Trương Công Giai, Bồi tụng Nguyễn Bá Lân, Lễ bộ Thượng thư Nguyễn Nghi, Tham tụng Nhữ Đình Toản; Tham tụng Nguyễn Nghiễm, Tham tụng Vũ Miên…được triều đình tin tưởng, bổ nhiệm giữ trọng trách Tế tửu, Tư nghiệp. Đội ngũ học quan này đã góp phần không nhỏ vào việc đào tạo nên hàng loạt danh nho, danh thần cho đất nước.
Tế tửu, Tư nghiệp Quốc tử giám không chỉ là nhà quản lý về giáo dục, mà còn là những nhà giáo mẫu mực, đức trọng tài cao, là những trụ cột quốc gia giúp triều đình trong việc “trị quốc, bình thiên hạ”, là những cây đại thụ trong nền văn hóa nước nhà.
Một số các vị Tế tửu và Tư nghiệp nổi tiếng
Tại Quốc tử giám Thăng Long
Chu Văn An, Thái học sinh, Tư nghiệp
Nguyễn Phi Khanh, Thái học sinh năm 1374, Tư nghiệp
Lý Tử Tấn, Thái học sinh năm 1400, Tế tửu
Nguyễn Trực, Trạng nguyên năm 1442, Tế tửu
Ngô Sĩ Liên, Tiến sĩ năm 1442, Tư nghiệp
Thân Nhân Trung, Tiến sĩ năm 1469, Tế tửu
Bùi Xương Trạch, Tiến sĩ năm 1478, Tế tửu
Phùng Khắc Khoan, Hoàng giáp năm 1580, Tế tửu
Nguyễn Trù, Hoàng giáp năm 1697, Tư nghiệp
Trịnh Tuệ, Trạng nguyên năm 1736, Tế tửu
Lê Quý Đôn, Bảng nhãn năm 1752, Tư nghiệp và rồi giữ Thự Tế tửu
Tại Quốc tử giám Huế
Nguyễn Công Trứ, Cử nhân năm 1819, Tư nghiệp
Phan Bá Đạt, Tiến sĩ năm 1822, Tư nghiệp
Đào Trinh, 1825, Tế tửu
Đỗ Phát, Tiến sĩ năm 1843, Tế tửu
Vũ Duy Thanh, Bảng nhãn năm 1851, Tế tửu
Nguyễn Quang Bích, Hoàng giáp năm 1869, Tế tửu
Khiếu Năng Tĩnh Cử nhân năm 1878, Tế tửu |
YE-4 (tiếng Nga: Е-4) là một loại máy bay được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan (ОКБ Микояна) và Gurevich (Гуревича). YE-4 bay lần đầu năm 1955 và có thân gần giống MiG-21.
YE-4 có sải cánh 5,75 mét; dài 13,46 mét; diện tích cánh 23 mét vuông; khối lượng rỗng 3500 kg; khối lượng cất cánh tốt đa 5100 kg; dầu trong 1400 kg; tốc độ tối đa 1900 km/h; trần bay 17500 mét. Máy bay có một chỗ ngồi.
Máy bay thử nghiệm chiến đấu chiến thuật cánh tam giác có đuôi, một động cơ phản lực một luồng khí (turbojet) RD-9 I, nó được đóng để tăng tốc độ tiến trình chuẩn bị bay thử nghiệm máy bay YE-5, vốn cùng kiểu cấu tạo vỏ thân cánh và đuôi; nói cách khác, YE-4 thu thập những số liệu khí động đầu tiên để thiết kế máy bay cánh tam giác YE-5. Máy bay được đóng theo yêu cầu phát triển kiểu cánh tam giác, gần như song song với các mấu thử YE-2. Máy bay vào vị trí sẵn sàng ngày 16 tháng 6 năm 1955. Phi công thử nghiệm G.A. Sedov (Г.А. Седов). Máy bay thực hiện 109 chuyến bay trong kế hoạch thử nghiệm kết thúc ngày 20 tháng 9 năm 1956. Các đặc điểm khí động của máy bay thử nghiệm được kiểm tra từ trên máy bay khác, đã xác định rõ tốc độ tối thiểu khi bay và các đặc tính xoáy. Các lực khí động được phát hiện và đo đạc, phân tích rõ ràng. Lực khí động hội tụ vào máy bay bằng cánh phụ nghiêng 5 độ. Các hoạt động thử nghiệm khác nhau thay đổi vị trí các bộ phận trên cánh, nhằm mục đích thay đổi đặc điểm dòng khí trên mặt cánh. Hai cánh dược bọc bởi ba lớp vỏ ngăn cách ở mặt trên (hai lớp mép trước cánh). Hai mào dọc dưới mặt cánh có tác dụng như là làm cánh rộng ra (cánh máy bay này rất hẹp). Các cải tiến rút ra từ dó được gửi đến Ly, nơi máy bay bay thử góc đón gió lớn (angle of attack - AoA).
Đây là máy bay thử nghiệm cánh tam giác đầu tiên của dòng MiG, tuy chưa đủ yêu cầu của một máy bay hoàn chỉnh, nhưng cũng có thể coi đây là chiếc MiG-21 đầu tiên. Cánh xuôi sau được sử dụng rộng rãi sau Thế chiến thứ II, các máy bay sử dụng cánh xuôi sau là những máy bay ở trong thời kỳ tốc độ máy bay chiến đấu chủ lực phát triển từ khoảng 900 km/h đến khoảng 1900–2000 km/h, đến lúc này, các động cơ đã đẩy máy bay chiến đấu đến Mach 2, cần thiết kế thân cánh khác. Một trong những nhược điểm của cánh xuôi sau càng ngày càng thể hiện rõ là dòng khí phân kỳ, giảm tác dụng của đuôi. (Cùng với cánh xuôi sau thì Đức, Liên Xô và Mỹ đã thử nghiệm cánh xiên ngược để chống hiện tượng phân kỳ này, tuy nhiên cánh ngược gây nhiều bất ổn, chỉ ngày nay mới được dùng chính thức trên máy bay đa năng thiên về không chiến mới nhất của Sukhoy, chiếc Su-47). Một yêu cầu thời YE-4 với cánh là mỏng, khỏe vì máy bay bây giờ nặng hơn và bay nhanh hơn. Để thỏa mãn yêu cầu này, cần tăng diện tích cánh gần thân hơn.
Tuy nhiên, cánh tam giác có đuôi như MiG-21 có diện tích và sải cánh nhỏ, không tốt lắm trong tốc độ chậm và bay lâu tiết kiệm nhiên liệu, chỉ được phổ biến trong thời gian rất ngắn.
Sau đó, các máy bay sử dụng ba phương án cánh phổ biến nhất. Một là cánh cụp xòe, hai là cánh tứ giác có diện tích sát thân lớn kết hợp ổn định điện tử, ba là cánh tam giác lớn không đuôi ngang thậm chí không luôn đuôi đứng. Cấu tạo thân trụ đơn giản cũng tồn tại không lâu, sau này thân máy bay chiến đấu rộng ra cùng khối lượng máy bay tăng nhanh. Tuy nhiên, nếu so sánh các YE, thấy rằng cánh tam giác làm máy bay nhẹ đi nhiều so với cánh xuôi sau, MiG-21 là máy bay không chiến có gia tốc và tốc độ leo cao xuất sắc. |
Một định nghĩa ngắn về cải tiến mã nguồn (refactoring) trong lập trình là làm hoàn thiện hơn thiết kế mã nguồn phần mềm đã có sẵn nhằm nhiều mục đích. Refactoring là cải tiến và làm tốt hơn chất lượng của mã nguồn trong một ứng dụng. Nó không làm thay đổi các chức năng chính, chức năng chung của ứng dụng, nhưng nó làm cho ứng dụng dễ bảo trì hơn, dễ phát triển hơn trong tương lai.
Làm cho mã nguồn dễ đọc hơn. Sửa đổi định danh, từ ngữ, cách đặt tên cho các thành phần trong mã nguồn. Còn được gọi là chuẩn hóa từ ngữ (coding convention).
Làm cho mã nguồn dễ hiểu hơn. Sắp xếp lại trật tự các dòng lệnh, các vòng lặp, các điều kiện, ràng buộc nhằm làm cho logic của mã nguồn tốt hơn, số lượng dòng lệnh (line of code) được cực tiểu hóa.
Tăng tính dùng: mã nguồn tốt, rõ ràng sẽ có lợi khi được sử dụng lại cho các module khác của cùng ứng dụng hoặc được dùng như một bộ thư viện sử dụng cho nhiều ứng dụng, module khác nhau.
Tăng tính tiến hóa: Một mã nguồn tốt có lợi ích và chu kỳ sống cụ thể do công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Mã nguồn tốt có thể có thời gian sử dụng lâu hơn và khả năng tự phát triển, nâng cấp, khi ứng dụng có nhu cầu phát triển thêm mà không phải bị vứt bỏ để viết lại từ đầu.
Refactoring không hẳn làm thay đổi các cư xử, hoạt động bên ngoài của phần mềm. Chủ yếu là cải thiện phần cấu trúc bên trong nhằm làm tối ưu chức năng của phần mềm để đạt đến một thiết kế tốt hơn và cố thể phù hợp với nhiều môi trường hoặc thay đổi mới cho người dùng trong quá trình sử dụng. Giảm thiểu những sai sót và tăng thời gian sống cho phần mềm. Là một bước không thể thiếu và có thể được áp dụng trong suốt các quá trình phát triển phần mềm.
Những phương pháp refactoring thường dùng |
Quy ước viết mã nguồn cho lập trình viên là quan trọng trong quá trình lập trình với nhiều lý do:
80% chu kỳ sống của phần mềm là bảo trì,
Mã nguồn khó đọc chỉ có thể được bảo trì bởi chính người viết ra nó,
Quy ước viết mã nguồn tăng khả năng dễ đọc cho phần mềm, cho phép những lập trình viên khác nhanh chóng tiếp cận mã nguốn khi nó được tính hợp trên nhiều module khác nhau.
Một số quy ước thường gặp |
YE-50, tiếng Nga Е-50. Được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay OKB Mikoyan và Gurevich (nơi thiết kế các MiG, tiếng Nga: ОКБ Микояна, Гуревича).
YE-50, YE-1, YE-2 là những máy bay mang thân MiG-21 và cánh MiG-19. YE-2 là máy bay thử nghiệm tạm thời trong chương trình chế tạo máy bay thế hệ mới MiG-21. YE-50 rất giống như YE-2 nhưng có thêm động cơ tên lửa. YE-1 cũng giống như YE-2, chỉ khác động cơ, xuất hiện trong thời gian rất ngắn.
Máy bay cất cánh lần đầu ngày 9-1-1954. Năm 1959 chương trình thử nghiệm dừng. Ba chiéc máy bay đã thử nghiệm và khoảng 10 chiếc đang chế tạo.
MiG-15, MiG-17, MiG-21 xếp vào loại máy bay diệt mục tiêu trên không tầm ngắn chuyên nghiệp. Còn gọi là máy bay tiêm kích, máy bay đánh chặn, máy bay chiến đấu trên không, máy bay không chiến chuyên nghiệp, máy bay khu trục, chiến đấu cơ, interceptor và fighter, destroyer. Ngày nay người ta thống nhất gọi là interceptor. Dịch ra tiếng Việt có thể bằng cụm từ "máy bay tiêm kích" hoặc "máy bay đánh chặn".
Phát triển liền tiếp theo của máy bay thử nghiệm YE-2 là máy bay đánh chặn tầm cao YE-50, nó được phát triển theo yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô tháng 3 năm 1954. Nhiều vấn đề với tên của nó. Trong các văn bản thường thấy nó được đánh số MiG-23, cũng như một hiện tượng YE-2 hay được gọi là MiG-21 ở phương tây. Có thể phương án động cơ của máy bay khá giống phiên bản máy bay thử nghiệm đánh chặn tầm cao sử dụng động cơ tên lửa của MiG-19 là SM-50 nên có số hiệu như vậy. Máy bay có hai động cơ, một động cơ phản lực tuốc-bin một luồng khí AM-9E (turbojet engine) và một động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng hai thành phần S-155.
Phương án động cơ hỗn hợp này được thử nghiệm khá nhiều khi tên lửa có điều khiển chưa hoàn thiện. Như các máy bay thử nghiệm SM-50, SM-51, SM-52 là các MiG-19 thêm động cơ tên lửa. Các máy bay thêm động cơ tên lửa có thể được sử dụng để thử nghiệm máy bay chiến đấu, khi mà động cơ dùng không khí sẽ áp dụng trong tương lai chưa hoàn thiện. Tuy nhiên, YE-50 được chế tạo để sử dụng đánh chặn. Trước khi phương án động cơ này được áp dụng, rất nhiều vẫn đề phức tạp đặt ra trước yêu cầu đánh chặn các mục tiêu trên không độ cao đến 25 km. Lúc bấy giờ, vũ khí hàng không thế giới phát triển chóng mặt. Tư lệnh Không Quân E. A. Savitskiy viết báo cáo cho Bộ trưởng Quốc phòng A. Bulganinu năm 1953 (Huy Phúc dịch ý):
"Để tổ chức phòng không đầy đủ cho đất nước, thiếu hụt nghiêm trọng các thiết bị đối không. Máy bay chiến đấu chiến thuật của chúng ta có thể miêu tả rõ ràng là lạc hậu, từ khí chậm ra những kế hoạch thiết kế máy bay chiến thuật hiện đại. Như vậy cần những máy bay ưu thế hơn MiG-15Bis và MiG-17. Sự lạc hậu có thể dẫn đến thảm họa trong trường hợp chiến tranh xuất hiện.
Máy bay tiêm kích sử dụng động cơ tuốc-bin có thể đạt độ cao 18000 mét-20000 mét, nhưng không thể giải quyết đầy đủ các vấn đề chiến đấu ở độ cao đó. Khi lên cao, động cơ phản lực dùng không khí giảm nhanh mức độ hoạt động. Máy bay ném bom hay trinh sát có thể thực hiện nhiệm vụ ở độ cao lớn, còn máy bay không chiến dùng súng chỉ có thể chiến đấu tốt ở độ cao rất thấp so với độ cao nó đạt được, vì các ưu thế về vận động của máy bay tiêm kích dùng súng chỉ hạn chế ở độ cao thấp.
Trên quan điểm như vậy, chỉ có thể phát triển máy bay đánh chặn của chúng ta vượt lên máy bay ném bom cùng thời của địch ở độ cao lớn chỉ có thể giải quyết bằng phương án động cơ hỗn hợp KhRĐ+TRĐ (phiên âm viết tắt tiếng Nga, động cơ phản lực tên lửa + động cơ phản lực tuốc-bin, xem chú thích cuối bài), trong dó động cơ tên lửa là động cơ chính. Tôi đã yêu cầu vũ trang cho Phòng Không và Không Quân của chúng ta từ hai năm gần đây. Nhưng đến nay yêu cầu này chưa được đáp ứng.
Quan điểm của tôi là lãnh đạo đã làm lạc hậu đội máy bay chiến thuật, lý do chính là lạc hậu trong quyết định phát triển máy bay động cơ hỗn hợp, thiếu sự thống nhất quan điểm trong các chuyên gia quân sự của chúng ta về loại máy bay này. Nó phải được trang bị để đạt yêu cầu đánh chặn thành công máy bay ném bom địch từ mặt đất đến độ cao 20km. Tính toán về việc phòng thủ tin cậy bầu trời đất nước thì cốt lõi của giải pháp là tính năng chiến thuật của máy bay chiến đấu. Cân nhắc một cách thiết thực, tránh lạc hậu, tôi thấy cần tăng tính cương quyết với yêu cầu phát triển và sản xuất máy bay chiến đấu đánh chặn sử dụng phương án động cơ tên lửa.
Một thực tế trong lúc đó là động cơ máy bay Liên Xô phát triển đình đốn.
Máy bay YE-50 được thiết kế trong bối cảnh đó. Nó mang động cơ tuốc-bin AM-11 và động cơ tên lửa S-155. Động cơ S-155 sử dụng nhiên liệu chính dạng lỏng hai thành phần, chất đốt kerosin (dẫn xuất dầu lửa), axít nitric dược sử dụng làm chất oxy hóa. S-155 có máy bơm tuốc-bin dùng chất oxy hóa riêng là nước oxy già (perôxít hiđrô), có hai mức hiệu chỉnh lực đẩy. Lực đẩy của động cơ tên lửa tăng theo độ cao, trái ngược với động cơ tuốc-bin dùng không khí. Ở mặt đất, lực đẩy hai mức là 1600 kg và 3600 kg, lên đến độ cao 10 km, lực đẩy là 2000 kg và 4000 kg. Ban đầu YE-50 lắp một động cơ RD-9B (sử dụng ở máy bay MiG-19). Đôi đuôi phụ dưới thân của YE-2 được thay bằng một, diện tích nhỏ hơn. Dự tính cất và hạ cánh, cũng như trong hành trình không cần bật động cơ tên lửa, chỉ bật khi đánh chặn. Tuy nhiên kinh nghiệm thực tế cho thấy, không loại trừ khả năng sử dụng động cơ tên lửa để cất cánh. Chính phủ yêu cầu máy bay sẵn sàng cất cánh thử nghiệm tháng 5-1955, nhưng do thiếu chuẩn bị máy móc, việc đóng máy bay lưu đến ngày 1 tháng 11 và cần phải chuyển sang năm mới. Chuyến bay đầu tiên bởi phi công V. G. Mukhin ngày 9-1 năm 1956.
Phi công mặc quần áo kín, buồng lái được điều áp và bọc kim loại. Ở tốc độ cao và độ cao lớn, thủy tinh hồi đó không chịu nổi. Kết quả cuộc thử nghiệm là máy bay đạt tốc độ cao nhất ở độ cao 18 km, 2470 km/h (M2,32). Trần bay 25580 mét. Động cơ tên lửa bật ở độ cao 9 km, thời gian bay trên 20 km không quá 4 phút. Thời gian hoạt động ché độ mạnh của động cơ tên lửa là 3,1 phút, chế độ yếu là 16,2 phút. Tốc độ hạ cánh 250–260 km/h, đường chạy hạ cánh 1100-1300 mét. Đường chạy cất cánh 2000-3000 mét.
Thiết bị gồm điện đài RSIU-2M, đo cao ARK-5, máy trả lời Bari-M, mark receiver MRP-40P và hai đại bác NR-30.
Trong tháng 6 thử nghiệm dùng lại động cơ. Động cơ hoạt động nhưng trộn không tốt.
Ngày 14-7-1956, sau 5 giờ bay, trong chuyến bay thứ 18, máy bay bị thương. Ngay sau khi cất cánh, độ cao 200mét, phi công Mukhin thấy đèn động cơ báo cháy. Anh cố quay về nhưng còn cách sân bay 700 mét thì máy bay trượt xuống đất. Thân máy bay gãy không thể sửa được, phi công không sao, sau một trận tranh luận, chương trình tiếp tục. Từ tháng 11, máy bay YE-50-2 thay thế, với ghế phóng và hệ thống tháo náp buồng lái khẩn cấp. Cũng dùng động cơ RD-9E nhưng không vũ khí.
Sau đó máy bay MiG trang bị ghế phóng có chụp, bảo vệ phi công khi nhảy dù EIZ. Tháng 4-1954 thử nghiệm trên máy bay I-3. Phát triển bởi M. Gromova tại Li. Chụp bảo vệ phi công chống lại luồng gió. Thử nghiệm trên máy bay TU-2, đến tháng 12-1955 bằng máy bay T-10. Thử nghiệm đạt yêu cầu kỹ thuật cho máy bay tương lai MiG-21. Phi công lái Amet Khan Sultan, phi công nhảy dù V. I. Golovin. Mọi việc đều tốt cho đến một lần thử nghiệm, xảy ra nổ lúc phóng, không cứu được phi công. Trên cơ sở EIZ, MiG phát triển hệ thống SK, thử trên T-10. Hệ thống nặng 240 kg, tốc độ thoát 18,5–19 m/s, gia tốc xung ngắn 20G, tự phanh khi gia tốc quá lớn. Hệ thống có chụp bảo vệ, đảm bảo sự sống cho phi công ở tốc độ 1100 km/h, tránh luồng khí mạnh. Độ cao an toàn khi thoát 110m, hơn trước đây là 250m. Hệ thống giảm bớt gia tốc xung bằng tăng độ dài hành trình pít tông, tránh xoáy ghế phóng bằng dựa vào thành (tay đặt như tay ghế bành). Hệ thống được phát triển bởi J. M. Belyaevym, S. N. Lyushinym, A.R. Fokinym, M. R. Valdenbergom, A. K. Yudichevym và K.A. Titkovym. Sau được trang bị MiG-21F, MiG-23 và MiG-21PF đến 1965, ghế trang bị trên MiG-21U.
YE-50-2 có trọng lượng rỗng 4795 kg, nhiên liệu 3450 kg, trọng lượng cất cánh 8472 kg. Đội trưởng thử nghiệm là V. P. Vasin. Phi công vẫn mặc quần áp bảo vệ. Mũ bảo vệ hình cầu với tấm kính trước, thuận tiện cử động. Buồng lái giống MiG-21. Đến tháng 7-1957, thực hiện 43 chuyến bay thử YE-50-2, 20 trong chúng bật động cơ tên lửa. Một trong những chuyến bay cuối cùng dự tính cuối tháng giêng 1958. Chuyến bay do Yu A. Garnaev lái dự định thử nghiệm bật nắp buồng lái khẩn cấp. Không may, thanh đẩy nắp đập vào dựa đầu ghế phóng, bẻ gãy giằng sườn máy bay và làm đuôi máy bay lệch, lệch lực đẩy dọc và điều khiển lên xuống, rách hở một vài điểm bên phải ngoài tấm cánh, các mảnh vỏ rách xoạc đến đuôi máy bay rồi rơi ra. Tuy nhiên, phi công vẫn lái máy bay hạ cánh được.
Máy bay YE-50-3 đóng tháng 4-1957 ở nhà máy số 21. YE-50-3 có trọng lượng rỗng 4829 kg (so với E-50-2, nặng hơn 134 kg vì có giá súng), nhiên liệu 3554 kg, trọng lượng cất cánh 8610 kg. Nó thêm 104 kg nhiên liệu trong, hơi xuôi cánh hơn bằng cách làm sắc hơn mép trước cánh. N.A. Korovin, phi công thử nghiệm của Viện Nghiên cứu Không Quân mất 8-8-1957 khi lái máy bay này trình duyệt. Theo điều tra, máy bay bị dừng cất cánh do quá tải. Trong khi đợi cất cánh, hình như một thành phàn nhiên liệu rò vào buồng đốt đọng cơ tên lửa. Nó phát nổ làm hỏng hệ thống điều khiển máy bay. Thiết bị tách phi công khỏi ghế phóng không làm việc.
Sau đó, chương trình thử nghiệm tiếp tục với loại máy bay YE-50A. Máy bay được đóng tại nhà máy số 21 theo yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng từ tháng 9-1956. Tháng 8 năm sau, chiếc đầu tiên lắp xong, chuyển cho đại diện quân đội. Khác với các máy bay trước, YE-50A trang bị động cơ Mikulin AM-11. Thùng nhiên liệu động cơ phản lực được bố trí lại trong khối tháo được dưới thân. Máy bay đạt trần bay 27200met, hệ thống dẫn đường dự định dựa vào các trạm định vị mặt đất, định hướng cho máy bay. Tuy nhiên, YE-50A thừa kế những máy bay trước tính thiếu hụt kỹ thuật. Máy bay bật động cơ tên lửa khi tốc độ M0,85 hoặc M1, nó rung như con ngựa hoang đến khi vượt qua âm thanh. Trong số các nguyên nhân có việc vượt tương âm thanh và những chấn động không đối xứng ở miệng động cơ tên lửa.
Tháng 2-1959 P.D. Dementev viết thư cho đại diện Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng D. F. Ustinovu. Thư đề nghị để MiG tập trung các nỗ lực vào máy bay MiG-21. Thoát khỏi việc chế tạo YE-50, công việc không bị đình hoãn nữa. Lúc đó, trong nhà máy 21 có 2 máy bay đang lắp và 8 chiếc chuẩn bị lắp, cũng có thể là 4 đang lắp và 6 chuẩn bị, được gọi là MiG-23. Có kế hoạch trang bị radar không chiến TSD-30 và 2 tên lửa K-5. Tuy nhiên, câu chuyện đã kết thúc. Nỗ lực dùng động cơ tên lửa cho máy bay ở Liên Xô kéo dài 10 năm, nhưng không máy bay nào được đưa vào sản xuất. Chúng có động cơ tên lửa không tin cậy và nhiên liệu động cơ này quá nguy hiểm, đặc biệt là chất oxy hóa. NHững nố lực này đã không thành công trong khi động cơ tên lửa được chế tạo số lượng lớn dùng cho kỹ thuật hàng không. Với MiG, ý kiến của P.D. Dementev hình như là đúng, vì chỉ 2-3 năm sau bức thư này, những MiG-21 thử nghiệm đã đạt tốc độ gần 3000 km/h mà không cần dùng tên lửa.
Lúc đó, bay thử một số lượng lớn các chuyến bay độ cao trên 20 km, tốc độ trên M2 đã chứng minh rằng, máy bay chiến đấu còn rất nhiều vấn đề để hoạt động tốt ở điều kiện đó. Có thể thấy, YE-50 đã thúc đẩy MiG và các nhà thiết kế khác thúc đẩy các công việc chuẩn bị cho tốc độ lớn. Ví dụ ghế phóng, máy phóng phi công, mũ chụp...rồi các hệ thống định vị, ổn định và điện tử, cũng như các vật liệu mới. Tuy nhiên, cũng có một hiện tượng, sau khi Stalin mất, MiG chuyển cho các phòng thiết kế khác nhiều chương trình dính đến tên lửa, vốn được Nikita Khrushchev ái mộ. Ví dụ như KS-1 Kometa, và cũng có thể là YE-50.
Kiểu E-50
Sải cánh, m 8,11
Dài, m 14,85
Diện tích cánh, m vuông 21,00
Khối lượng, kg
Rỗng 5920
Cất cánh tốt đa 8500
Kiểu động cơ: máy bay có hai động cơ.
1 động cơ tuốc-bin phản lực một luồng khí có đốt đít. AM-9E, lực đẩy 1300 kg
1 động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng hai thành phần. S-155, lực đẩy 3800 kg
Tốc độ tối đa, km/h 2460 (M2,3-cao gấp 2,3 lần tốc độ âm thanh)
Tầm bay xa, km 450
Trần bay, m 23000
Tổ lái 1 người
Vũ khí: hai súng 30mm kiểu NR-30
ЖРД, phiên âm KhPĐ: жидкостно-реактивного двигателя. Tiếng Nga. Nghĩa là động cơ phản lực nhiên liệu lỏng.
ТPД, phiên âm TRĐ: ТурбоРеактивные двигатель: Tiếng Nga. động cơ tuốc-bin phản lực phản lực một luồng khí. Tiếng Anh hay gọi là TurboJet. |
Dưới đây là danh sách các thuật ngữ dùng trong tin học, xếp theo thứ tự chữ cái của các từ tiếng Anh.
A
B
C
D
E
F
G
H
I
K
L
M
N
O
P
R
S
T
U
V
W
|
Hiếp dâm, hãm hiếp, cưỡng hiếp, cưỡng bức hay giở trò đồi bại, giở trò cầm thú (từ hay dùng trong báo chí) là một hình thức tấn công tình dục thường bao gồm quan hệ tình dục hoặc các hình thức xâm nhập tình dục khác được thực hiện chống lại một người mà không có sự đồng ý của người đó. Hành động có thể được thực hiện bằng vũ lực, ép buộc, lạm dụng quyền lực hoặc chống lại một người không có khả năng đưa ra sự đồng thuận một cách hợp lệ, chẳng hạn như một người bị bất tỉnh, mất khả năng vận động, bị thiểu năng trí tuệ hoặc dưới độ tuổi chấp thuận hợp pháp. Thuật ngữ hiếp dâm đôi khi được sử dụng thay thế cho thuật ngữ tấn công tình dục.
Tỷ lệ báo cáo, truy tố và kết án về tội hiếp dâm khác nhau giữa các khu vực tài phán. Trên bình diện quốc tế, tỷ lệ các vụ cưỡng hiếp được cảnh sát ghi nhận trong năm 2008 dao động trên 100.000 người, từ 0,2 ở Azerbaijan đến 92,9 ở Botswana với trung bình là 6,3 ở Litva. Trên toàn thế giới, bạo lực tình dục, bao gồm cả cưỡng hiếp, chủ yếu do nam giới thực hiện đối với nữ giới. Hiếp dâm bởi người lạ thường ít phổ biến hơn cưỡng hiếp bởi những người mà nạn nhân biết, và hiếp dâm giữa nam với nam và nữ với nữ trong tù là phổ biến và có thể là hình thức hiếp dâm ít được báo cáo nhất.
Hiếp dâm có hệ thống và phổ biến (ví dụ: cưỡng hiếp trong chiến tranh) và tình trạng nô lệ tình dục có thể xảy ra trong xung đột quốc tế. Những hành vi này là tội ác chống lại loài người và tội ác chiến tranh. Hiếp dâm cũng được coi là một yếu tố cấu thành tội ác diệt chủng khi được thực hiện với mục đích tiêu diệt toàn bộ hoặc một phần nhóm dân tộc bị nhắm làm mục tiêu.
Những người từng bị cưỡng hiếp có thể bị sang chấn và phát triển chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD). Các chấn thương nghiêm trọng có thể dẫn đến nguy cơ mang thai và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Một người có thể phải đối mặt với bạo lực hoặc đe dọa từ kẻ hiếp dâm và đôi khi từ gia đình và người thân của nạn nhân.
Từ nguyên
Thuật ngữ tiếng Anh là rape bắt nguồn từ tiếng Latin rapere (supine stem raptum) có nghĩa là "để giành giật, để giành lấy, để thực hiện".
Theo luật La Mã, hành động cưỡng bức một người phụ nữ, dù có hoặc không có giao hợp, được cấu thành "raptus" (nghĩa là hiếp dâm).
Trong luật thời Trung cổ của Anh, thuật ngữ tương tự sẽ dùng để chỉ bắt cóc hoặc cưỡng hiếp theo nghĩa hiện đại là "xâm hại tình dục". Nghĩa ban đầu của "thực hiện bằng vũ lực" (carry off by force) vẫn được tìm thấy trong một số cụm từ, chẳng hạn như "cưỡng hiếp và cướp bóc" (rape and pillage) hoặc trong các tiêu đề, chẳng hạn như truyện Rape of the Sabine Women và The Rape of Europa hoặc bài thơ The Rape of the Lock, nói về vụ trộm một lọn tóc.
Phân biệt hiếp dâm và cưỡng dâm
Khác với hành vi hiếp dâm thiên về sử dụng bạo lực hay vũ lực, cưỡng dâm là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu (với mình).
Phân loại
Có nhiều dạng hiếp dâm, được phân loại theo tình huống xảy ra, giới tính nạn nhân, giới tính tội phạm. Các dạng hiếp dâm có thể là: hiếp dâm người quen, hiếp dâm tập thể, hiếp dâm vợ chồng, hiếp dâm loạn luân, hiếp dâm trẻ em (hay ấu dâm), hiếp dâm trong tù, hiếp dâm trong chiến tranh.
Động cơ thực hiện
Không có một nguyên nhân duy nhất nào kết luận về động cơ hiếp dâm. Động cơ của người hiếp dâm có thể mang nhiều yếu tố và gây tranh cãi. Người ta đề xuất nhiều nhân tố như: giận dữ, thể hiện quyền lực, ác dâm, thỏa mãn ham muốn tình dục và áp lực tiến hóa.
Lịch sử
Năm 1998, thẩm phán của Tòa án Tội phạm Quốc tế Rwanda nói:
Hiếp dâm trong chiến tranh có từ thời cổ xưa và nó được nhắc đến trong Kinh Thánh. Quân đội Do Thái, Ba Tư, Hy Lạp và La Mã cổ đại được báo cáo là có hiếp dâm trong chiến tranh. Những người Mông Cổ từng thiết lập nên Đế quốc Mông Cổ trải dài trên liên lục địa Á-Âu đã tàn phá những nơi họ xâm lược. Những tài liệu cho thấy trong và sau thời gian trị vì của Thành Cát Tư Hãn, sau một cuộc chinh phạt, binh lính Mông Cổ cướp phá và hãm hiếp.
Binh lính Nhật Bản đã hãm hiếp 80.000 phụ nữ một cách có hệ thống trong 6 tuần của cuộc thảm sát Nam Kinh là một ví dụ cho sự tàn bạo. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ước tính có 200.000 phụ nữ Triều Tiên và Trung Quốc bị ép vào các nhà thổ quân đội làm "phụ nữ giải trí" (an ủy phụ). Một học giả người Anh cho rằng vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Liên Xô đã hiếp dâm nhiều phụ nữ Đức để trả thù cho sự giết chóc mà Đức Quốc xã gây ra cho đất nước mình. Lính Maroc gốc Pháp được gọi là Goumier đã hiếp dâm và thực hiện nhiều tội ác chiến tranh khác sau trận Monte Cassino.
Việc quân đội Pakistan hãm hiếp 200.000 phụ nữ Bangladesh trong cuộc chiến tranh giải phóng Bangladesh từng được nêu ra (nhưng nhiều người tranh cãi điều này trong đó có nhà nghiên cứu Ấn Độ Sarmila Bose). Việc lực lượng Serbia đã hãm hiếp 20.000 phụ nữ Hồi giáo Bosnia trong cuộc chiến tranh Bosnia cũng được ghi nhận.
Vài vụ hiếp dâm của binh sĩ Hoa Kỳ trong các cuộc chiếm đóng các vùng miền sau các chiến dịch quân sự hoặc đồn trú trên đất nước khác cũng đã thực hiện việc hãm hiếp dân chúng bản địa. Một báo cáo được nhà chức trách Mỹ công bố mới đây cho thấy số lượng nữ binh sĩ đang phục vụ trên hai chiến trường Iraq và Afghanistan bị đồng đội và cấp trên hiếp đã tăng 25% so với thống kê năm 2009.
Những tuyên truyền thời chiến thường phủ nhận hoặc nói quá việc kẻ thù đối xử tệ hại với dân chúng và những số liệu về hiếp dâm. Cho nên thường rất khó có cái nhìn chính xác về những gì đã xảy ra.
Quốc tế
Ở Hoa Kỳ
Hiếp dâm bởi người lạ là ít phổ biến nhất từ trước đến nay.
Nam hiếp dâm nữ, phân loại theo tội phạm
Anh
Theo thống kê của Bộ Tư pháp Anh, trong vòng 5 năm qua có tới hơn 150 tội phạm tình dục bị kết án lại gây tội ác sau khi được tự do, trong số đó có nhiều người được ra tù trước thời hạn. Điều đó làm dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ về các kế hoạch của chính phủ dự định giảm nửa thời hạn giam giữ đối với tội phạm tình dục và các phạm nhân bạo lực nào thừa nhận tội lỗi.
Ấn Độ
Việt Nam
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia trên thế giới có vấn nạn về hiếp dâm, đặc biệt là đối với trẻ em gái. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em diễn biến phức tạp, trong đó nguyên nhân cơ bản, cốt lõi nhất là do sự thiếu giáo dục của gia đình, buông lỏng quản lý, giáo dục giới tính còn nhiều hạn chế e ngại đặc biệt là vùng sâu vùng xa vùng có dân trí thấp, định hướng lối sống cho trẻ. Mạng internet công nghệ số phát triển mạnh nhưng khả năng quản lý, ngăn chặn các thông tin tiêu cực (web sex, thông tin khiêu dâm, kích dục…) trên mạng của cơ quan chức năng còn hạn chế, trong số đó, có sự tham gia hiếp dâm trẻ em của một số người có chức quyền mà điển hình là Lương Quốc Dũng, nguyên phó chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao
Vụ nghệ sĩ Hồng Đăng và Hồ Hoài Anh (cả 2 cùng quê Hà Nội) hiếp dâm tập thể thiếu nữ 17 tuổi (người Anh) khi đi du lịch ở Tây Ban Nha cũng là một vụ hiếp dâm được nhiều người trong và ngoài nước biết đến .
Ảnh hưởng đến nạn nhân
Nạn nhân hiếp dâm bị sang chấn nặng nề về tâm lý và khó trở lại trạng thái sức khỏe trước đó như bị mất tập trung, giấc ngủ và ăn uống cũng bị tác động. Họ hay bồn chồn, hốt hoảng. Nạn nhân thường bị rối loạn trầm cảm cấp bao gồm các triệu chứng tương tự như rối loạn trầm cảm sau sang chấn như căng thẳng và khó chấp nhận những điều xảy ra trong trí nhớ. Trong vài tháng sau đó, nạn nhân có thể bị rối loạn nặng nề và khó kể cho người thân nghe.
Những triệu chứng khác của rối loạn trầm cảm cấp là:
Trở nên xa cách, mê mụ cảm thấy xung quanh lạ lẫm, không thực giống như trong giấc mơ.
Khó nhớ hết những yếu tố quan trọng vụ việc.
Bị ám ảnh, hay suy nghĩ về vụ việc, gặp ác mộng.
Lảng tránh những vật dụng, vị trí hoặc cảm giác liên quan đến vụ việc.
Lo âu và bị kích thích thần kinh (khó ngủ, căng thẳng, v.v...)
Lảng tránh cuộc sống xung quanh và nơi xảy ra vụ việc.
Đối với một phần ba đến một nửa nạn nhân, những triệu chứng này xảy ra trong vài tháng sau đó và có triệu chứng giống như rối loạn trầm cảm sau sang chấn.
Biện pháp ngăn chặn
Vì bạo lực tình dục tác động đến mọi mặt của xã hội, phản ứng đối với bạo lực tình dục bao gồm nhiều yếu tố. Đó có thể là phản ứng của cá nhân hoặc cộng đồng đối với những dạng bạo lực tình dục khác nhau.
Luật Việt Nam
Theo Luật hình sự Việt Nam, tội hiếp dâm bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Hiếp dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ mười ba tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Hiếp dâm trong quan hệ vợ chồng
Theo Bộ Luật hình sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018 quy định về tội hiếp dâm theo Điều 141 như sau: "Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm."
Như vậy, chủ thể của tội hiếp dâm là người nói chung, không loại trừ quan hệ vợ chồng, tức là về lý thuyết thì vợ/chồng cũng có thể bị xử lý về tội hiếp dâm. Tuy nhiên, trong thực tế thì không thể xử án hiếp dâm trong quan hệ vợ chồng, bởi rất khó cung cấp bằng chứng xác minh việc một người có ép buộc vợ/chồng mình quan hệ tình dục hay không (theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì tòa không thể kết án nếu không có đủ bằng chứng). Trong quan hệ vợ chồng chung sống một nhà thì việc quan hệ tình dục là sự mặc nhiên được pháp luật và xã hội thừa nhận, nên chứng cứ thường dùng trong các vụ án hiếp dâm (dấu vết tinh trùng, dấu vết quan hệ tình dục trong âm đạo) sẽ không thể sử dụng được, còn các dấu vết khác (vết đánh thâm tím, vết thương...) thì chỉ có thể chứng minh việc xảy ra hành vi bạo lực gia đình chứ không thể chứng minh đó là hành vi hiếp dâm.
Vì vậy, nếu có đơn đề nghị xử lý hành vi hiếp dâm trong quan hệ vợ chồng thì tòa án và công an cũng không có cách nào để điều tra, chứng minh hành vi phạm tội. Tuy vậy, nếu có dấu vết hành hung, toà án vẫn đủ cơ sở để quy bị can vào "Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình". Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 185 Bộ luật hình sự 2015. |
Andrei Dmitrievich Sakharov (tiếng Nga: Андре́й Дми́триевич Са́харов; 21 tháng 5 năm 1921 – 14 tháng 12 năm 1989) là một nhà vật lý người Nga, nhà hoạt động xã hội, viện sĩ Viện Hàn lâm Liên Xô (1953), nhân vật bất đồng chính kiến, nhà hoạt động cho giải trừ quân bị, hòa bình và nhân quyền.
Ông trở nên nổi tiếng với tư cách là nhà thiết kế RDS-37 của Liên Xô, tên mã cho sự phát triển của Liên Xô về vũ khí nhiệt hạch. Sakharov sau đó trở thành người ủng hộ tự do dân sự và cải cách dân sự ở Liên Xô, mà ông phải đối mặt với cuộc đàn áp nhà nước; những nỗ lực này đã mang lại cho ông Giải Nobel Hòa bình năm 1975. Giải thưởng Sakharov, được trao tặng hàng năm bởi Nghị viện châu Âu cho những người và tổ chức dành riêng cho nhân quyền và tự do, được đặt tên để tôn vinh ông.
Thân thế sự nghiệp
Andrei Sakharov sinh ra trong một gia đình trí thức ở Moskva. Cha ông nguyên là giáo viên vật lý trường phổ thông, sau này tham gia giảng dạy tại trường Đại học sư phạm quốc gia Moskva. Mẹ ông có gốc gác Hy Lạp, hai bên gia đình đều là người mộ đạo nhưng cả cuộc đời mình Sakharov là một người không tôn giáo (ông vẫn tin có một "nguyên lý dẫn đường" cho cả vũ trụ và loài người).
Ông vào học khoa vật lý trường Đại học Tổng hợp Moskva năm 1938 và tốt nghiệp cử nhân năm 1942 và đạt bằng đỏ. Làm nghiên cứu sinh ở Viện vật lý Lebedeva P.N. (1947), lấy bằng tiến sĩ khoa học toán lý (1953).
Sau khi tốt nghiệp đại học ông làm kĩ sư nghiên cứu trong nhà máy đạn Ulianovsk. Năm 1943 ông cưới Klavdia Alekseyevna Vikhireva và có hai con gái, một con trai (Klavdia mất năm 1969). Năm 1972, ông cưới Yelena Bonner, một người bạn cùng đấu tranh cho nhân quyền.
Năm 1945 ông trở về Moskva và vào nghiên cứu trong khoa lý thuyết của Viện vật lý thuộc Hàn lâm khoa học Liên Xô, năm 1947 ông nhận bằng tiến sĩ. Từ giữa năm 1948 ông tham gia chương trình nghiên cứu chế tạo bom hạt nhân của Liên Xô, cùng làm việc với Igor Tamm, Igor Kurchatov.
Năm 1950, ở Sarov, ông đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển bom khinh khí hạng megaton của Liên Xô, đồng thời cùng với dự án Teller-Ulam của Hoa Kỳ, quả bom này đã nổ thử năm 1955. Cũng năm 1950 Sakharov và Igor Tamm đã đề xuất ý tưởng về lò phản ứng nhiệt hạch có kiểm soát (tokamak) phục vụ cho mục đích hòa bình.
Từ sau năm 1965, Sakharov trở lại nghiên cứu vật lý lý thuyết, bắt đầu nghiên cứu về hạt nhân và khoa học vũ trụ.
Hoạt động xã hội
Từ cuối những năm 1950, Sakharov đã nhận thấy những vấn đề về đạo đức trong việc sử dụng các nghiên cứu của mình cho mục đích chính trị. Trong những năm 1960 ông tích cực chống việc phổ biến vũ khí hạt nhân. Hiệp định hạn chế thử vũ khí hạt nhân (PTBT) ký kết năm 1963 ở Moskva có dấu ấn quan trọng của Sakharov.
Năm 1967, ông vận động chấm dứt chạy đua chương trình tên lửa chống tên lửa đạn đạo nhưng không thành công. Tháng 5 năm 1968, một luận văn cổ xúy việc chung sống hòa bình, tiến bộ và tự do trí tuệ được Sakharov cho lưu hành dạng bản thảo rồi sau đó được xuất bản ở nước ngoài vào tháng 7 cùng năm, việc này khiến ông bị cấm tham gia vào các dự án quốc phòng, chỉ còn được nghiên cứu về lý thuyết.
Năm 1970, ông nằm trong ban sáng lập Ủy ban về nhân quyền ở Liên Xô, từ đó ông chịu nhiều sức ép từ phía chính quyền. Đặc biệt trong năm 1973 và 1974, ông và Solzhenitsyn bị truyền thông Liên Xô tấn công, bôi nhọ, một số ít dám lên tiếng bảo vệ 2 ông này đều bị "trừng phạt" thẳng tay.
Năm 1973, Sakharov được đề cử và năm 1975 ông được tặng giải Nobel Hoà bình (tuy ông không được phép rời Liên Xô để lãnh giải).
Tháng 1 năm 1980 ông bị chính quyền bắt giữ sau khi công khai chỉ trích hành động can thiệp vào Afghanistan năm 1979, và bị di cư đến thành phố Gorky (Nizhny Novgorod) nhằm cách li ông với các nhân vật nước ngoài, ở đây căn hộ của ông thường bị theo dõi lục soát và trộm cắp.
Năm 1984, nhân việc vợ ông cũng bị bắt vì lý do chính trị, Sakharov tuyên bố tuyệt thực để phản đối, yêu cầu chính quyền phải để Yelena đi Mỹ mổ tim. Ông bị đưa vào bệnh viện và buộc phải truyền thức ăn vào người. Tháng 8 năm 1984, Yelena bị tuyên án 5 tháng lưu đày ở Gorky. Tháng 4 năm 1985 ông lại tuyệt thực để yêu cầu cho vợ được đi Mỹ và lại nhập viện. Cuối cùng vợ ông cũng được cho đi Mỹ mổ tim và trở về Liên Xô tháng 6 năm 1986.
Tháng 3 năm 1989 Sakharov được bầu vào quốc hội mới, và đồng lãnh đạo một phái dân chủ đối lập.
Tối 14 tháng 12 năm 1989, Sakharov mất do một cơn đau tim trong phòng làm việc trong lúc chợp mắt trước khi viết diễn văn đọc trước quốc hội vào hôm sau. Ông được mai táng ở nghĩa trang Vostryakovskoye, Moskva.
Các giải thưởng
3 lần Anh hùng lao động Liên Xô (1953, 1955 và 1962).
Giải thưởng Lenin năm 1956.
Giải thưởng Stalin năm 1953.
Nobel Hòa bình năm 1975. |
Mikhail Sergeyevich Gorbachyov (chính tả tiếng Anh: Gorbachev; phiên âm tiếng Việt: Goóc-ba-chốp; 2 tháng 3 năm 1931 – 30 tháng 8 năm 2022) là một chính khách người Nga, nhà lãnh đạo thứ tám của Liên Xô từ năm 1985 cho tới khi quốc gia này sụp đổ vào năm 1991. Ông từng lần lượt đảm nhận các cương vị: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1985, nguyên thủ quốc gia từ năm 1988, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô giai đoạn 1988-1989, Chủ tịch Xô viết Tối cao giai đoạn 1989-1990, và Tổng thống Liên Xô giai đoạn 1990-1991. Về ý thức hệ, tuy ban đầu kiên định đường lối Marx-Lenin, Gorbachyov dần ngả theo tư tưởng dân chủ xã hội vào đầu thập niên 90.
Gorbachyov chào đời tại Privolnoye, Nga Xô viết, trong một gia đình bần cố nông mang hai dòng máu Nga và Ukraina. Sinh thành dưới thời đại I. V. Stalin, ông hồi trẻ từng vận hành các máy gặt đập liên hợp ở nông trang tập thể trước khi gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô. Học tập tại Đại học Quốc gia Moskva, ông kết hôn với người bạn đồng môn Raisa Titarenko vào năm 1953 và nhận bằng luật vào năm 1955. Chuyển tới sinh sống ở Stavropol, ông làm việc cho tổ chức thanh thiếu niên Komsomol. Sau khi Stalin qua đời, Gorbachyov ủng hộ các chính sách phi Stalin hóa của nhà lãnh đạo Nikita Khrushchev. Năm 1970, ông được bổ nhiệm làm Bí thư thứ nhất Khu ủy Stavropol, chịu trách nhiệm giám sát dự án kênh đào Stavropol. Năm 1978, ông về Moskva và giữ chức bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1979, ông trở thành ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Ba năm sau khi Leonid Brezhnev qua đời – theo sau các nhiệm kỳ gian đoạn của Yuri Andropov và Konstantin Chernenko – vào năm 1985, Bộ Chính trị đề bạt Gorbachyov giữ chức Tổng Bí thư.
Tuy đã cam kết bảo tồn nhà nước Xô viết và tư tưởng Marx-Lenin, Gorbachyov tin rằng điều cấp thiết bấy giờ là một đợt cải cách triệt để. Về đối ngoại, ông cho rút quân khỏi Afghanistan, sôi nổi tham dự các hội nghị thượng đỉnh với Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan nhằm xoa dịu nguy cơ chiến tranh hạt nhân, hướng đến kết thúc Chiến tranh Lạnh. Về đối nội, chính sách glasnost của ông đã mở rộng đáng kể quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, còn chính sách perestroika đi đôi đã phi tập trung hóa ít nhiều nền kinh tế để nó có thể hoạt động trơn tru hơn. Các biện pháp dân chủ hóa của Gorbachyov và sự thành lập của Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô đã gây phương hại đến chế độ đơn đảng của nước này. Gorbachyov từ chối can thiệp quân sự vào các nước Khối Đông định từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin giai đoạn 1989–1992. Trong khi đó, ở nước nhà, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc đã đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Liên Xô. Hoàn cảnh này đã khiến phái kiên định chủ nghĩa Marx–Lenin liều lĩnh thực hiện đảo chính chống lại ông vào năm 1991 nhưng bất thành; Liên Xô rốt cuộc tan rã trái với nguyện vọng của Gorbachyov. Sau thời gian đó, ông thành lập Quỹ Gorbachyov, rồi trở thành nhân vật bất đồng chính kiến chỉ trích hai vị tổng thống Boris Yeltsin và Vladimir Putin, đồng thời vận động phong trào dân chủ xã hội Nga.
Gorbachyov được coi là một trong những nhân vật cực kỳ có sức ảnh hưởng nửa sau thế kỷ thứ 20. Ông được phương Tây khen ngợi vì vai trò mấu chốt trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh, mở ra một thời kỳ chính trị mới ở Liên Xô, cũng như vai trò của ông đối với sự sụp đổ của các chính quyền theo chủ nghĩa Marx–Lenin ở Đông và Trung Âu, dẫn đến sự thống nhất nước Đức. Trái lại, ở quê nhà, Gorbachyov thường bị chê trách vì đã khiến Liên Xô tan rã, dẫn đến sự suy yếu đáng kể tầm ảnh hưởng của Nga trên chính trường quốc tế và hối thúc sự sụp đổ của nền kinh tế nước này.
Đầu đời và giáo dục
Tuổi thơ: 1931–1950
Gorbachev chào đời ngày 2 tháng 3 năm 1931 tại làng Privolnoye, hồi ấy thuộc vùng Krai Bắc Kavkaz, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, Liên Xô. Hai sắc tộc lớn nhất ở vùng Privolnoye lúc bấy giờ là người Nga và người Ukraina. Phía nội của Gorbachev mang dòng máu Nga, di cư tới đây từ vùng Voronezh mấy thế hệ trước; phía ngoại của ông thì mang dòng máu Ukraina, di cư tới đây từ vùng Chernihiv. Gorbachev được đặt tên riêng là Viktor lúc mới sinh, song theo mong muốn của mẹ – một tín đồ Chính thống giáo ngoan đạo – ông được rửa tội bí mật và ban cho cái tên Kitô là Mikhail. Ông có quan hệ rất gần gũi với thân phụ Sergey Andreyevich Gorbachev, song lại lạnh nhạt và xa cách thân mẫu Maria Panteleyevna Gorbacheva (nhũ danh Gopkalo). Cha mẹ Gorbachev xuất thân đều là những bần nông nghèo cùng, kết hôn vào năm 1928 khi còn là thanh niên. Theo phong tục địa phương, họ ban đầu chung sống trong căn nhà tranh đắp vách gạch sống bên nội của Sergey rồi sau mới chuyển ra ở riêng.
Dưới sự lãnh đạo của Stalin, vị lãnh tụ của nhà nước Liên Xô khi Gorbachev còn trẻ, chính sách tập thể hóa nông trang diện rộng được thúc đẩy mạnh mẽ; hành động thực tiễn mà theo chủ thuyết Marx–Lenin sẽ giúp xã hội Xô viết quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ này, ông ngoại của Gorbachev gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô, góp sức xây dựng kolkhoz (nông trang tập thể) đầu tiên của làng mình vào năm 1929 và trở thành chủ tịch của nó. Năm lên ba, Gorbachev tách khỏi bố mẹ và chuyển tới sống ở kolkhoz cùng ông bà ngoại.
Liên Xô trải qua nạn đói nghiêm trọng giai đoạn 1930–1933, khiến hai cô chú bên nội của Gorbachev thiệt mạng. Ngay sau đó, Stalin khơi mào cuộc Đại thanh trừng, trong đó những người bị coi là "kẻ thù của nhân dân", bao gồm những người có cảm tình với các dòng Marxist đối lập như chủ nghĩa Trotsky, bị bắt và áp giải tới các trại lao động tập trung hoặc tệ hơn thì bị xử tử. Cả hai người ông của Gorbachev đều bị bắt giữ (ngoại vào năm 1934 và nội vào năm 1937) và bị đưa tới các trại lao động Gulag. Sau khi được thả vào tháng 12 năm 1938, ông ngoại của Gorbachev kể lại rằng mình đã bị tra tấn bởi lực lượng cảnh sát mật OGPU, câu chuyện mà ám ảnh cậu bé Gorbachev suốt đời.
Theo sau sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai, Đức Quốc xã tiến hành xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941. Quân Đức chiếm đóng Privolnoye trong vòng bốn tháng rưỡi vào năm 1942. Khi ấy, cha của Gorbachev đã gia nhập Hồng quân, vào sinh ra tử tại Trận Kursk; tuy chịu nhiều thương tích, ông sống sót trở về và đoàn tụ với gia đình. Sau khi Đức Quốc xã bị đánh bại, vào năm 1947, cha mẹ Gorbachev sinh hạ con trai thứ hai, đặt tên là Aleksandr.
Ngôi trường làng nơi Gorbachev theo học đóng cửa suốt phần lớn cuộc chiến, chỉ mở cửa lại vào mùa thu năm 1944. Gorbachev chán ngấy khi nghĩ đến ngày tựu trường, song một khi đi học thì điểm số trên lớp cực kỳ xuất sắc. Ông rất ham mê đọc sách, nào là tiểu thuyết phương Tây của Thomas Mayne Reid, nào là các tác phẩm của các văn hào Nga như Vissarion Belinsky, Alexander Pushkin, Nikolai Gogol, và Mikhail Lermontov. Năm 1946, ông gia nhập đoàn thanh niên Xô viết Komsomol, trở thành lãnh đạo của một chi bộ địa phương, sau được tiến cử lên ủy ban quận của Komsomol. Gorbachev học cấp ba ở Molotovskoye, thường trú hằng tuần ở đó và cuốc bộ 19 km (12 mi) về nhà mỗi cuối tuần. Ông sôi nổi tham gia hội kịch nghệ của trường, hăng hái tổ chức các hoạt động thể thao xã hội, và tình nguyện làm lớp trưởng lớp thể dục buổi sáng. Suốt 5 đợt hè từ năm 1946 trở đi, ông về quê để giúp bố vận hành các máy gặt đập liên hợp, có khi làm cật lực 20 tiếng mỗi ngày. Năm 1948, hai bố con đã thu hoạch tổng cộng 8.000 tạ thóc; thành tích mà đã giúp Sergey được trao Huân chương Lenin và Gorbachev được trao Huân chương Cờ đỏ Lao động.
Đại học: 1950–1955
Tháng 6 năm 1950, Gorbachev trở thành ứng cử viên Đảng Cộng sản. Ông cũng nộp đơn vào trường Luật của Đại học Quốc gia Moskva (MSU), cơ sở đại học danh giá nhất ở Liên Xô lúc bấy giờ. Ông được nhận mà không cần thi đầu vào, có lẽ vì chiếu cố cho gia cảnh nghèo khó và nhờ tấm Huân chương Cờ đỏ Lao động do ông được trao tặng. Lựa chọn học luật của ông khá bất thường, bởi lẽ ngành này không được coi trọng mấy trong xã hội Xô viết lúc bấy giờ. Năm 19 tuổi, ông đi tàu hỏa lên Moskva; đây cũng là lần đầu ông rời xa quê nhà.
Ở Moskva, Gorbachev sống chung với các sinh viên MSU trong ký túc xá tại Quận Sokolniki. Ông và các sinh viên vùng quê cảm thấy lạc lõng khi sống trên thành phố, song cũng nhanh chóng làm quen được với môi trường xung quanh. Những người đồng môn kể rằng Gorbachev rất chăm chỉ, hay thức khuya để học. Ông trở nên nổi tiếng với vai trò là người hòa giải trong các cuộc cãi vã vì tính tình bộc trực, song một số quan điểm thực sự thì giữ kín và chỉ giãi bày khi trò chuyện riêng; chẳng hạn, Gorbachev nói riêng với các bạn học rằng ông phản đối tiêu chuẩn pháp lý của Liên Xô lúc bấy giờ, theo đó thì tòa án chỉ cần một lời thú tội là đã quy kết bị cáo mà không cần quan tâm rằng lời thú ấy có bị ép buộc hay không.
Tại MSU, Gorbachev trở thành trưởng Komsomol của lớp khóa nhất, rồi thăng lên chức phó bí thư ban cổ động và tuyên giáo Komsomol của trường luật. Một trong những nhiệm vụ Komsomol đầu tiên của ông ở Moskva là đôn đốc cuộc bầu cử tại Quận Presnensky. Theo Gorbachev, nhiều người bỏ phiếu "vì sợ". Năm 1952, ông được kết nạp chính thức vào Đảng Cộng sản Liên Xô.
Bước đầu trong Đảng Cộng sản Liên Xô
Komsomol ở Stavropol: 1955–1969
Tháng 8 năm 1955, Gorbachev bắt đầu công tác tại văn phòng biện lý Stavropol, song vì chán nản công việc mà chuyển sang làm cho Komsomol nhờ mối quan hệ rộng. Ông được cho giữ chức phó giám đốc sở tuyên truyền và cổ động của Komsomol địa phương, có nhiệm vụ đi thăm làng mạc và cố gắng cải thiện đời sống sinh hoạt của bà con tại đó; ông đã cho thành lập một hội thảo luận tại làng Gorkaya Balka để nông dân địa phương tiện giao du.
Mikhail Gorbachev và người vợ Raisa ban đầu thuê một căn hộ nhỏ ở Stavropol; họ thường dạo phố vào mỗi buổi chiều và đi bộ đường trường ở vùng ngoại ô vào cuối tuần. Tháng 1 năm 1957, Raisa sinh con gái đầu lòng tên là Irina. Năm 1958, gia đình họ chuyển tới sống trong một căn chung cư hai phòng. Năm 1961, Gorbachev bắt đầu học lấy văn bằng hai về sản xuất nông nghiệp; ông theo khóa giáo dục từ xa của Viện Nông nghiệp Stavropol, và rồi được trao chứng chỉ vào năm 1967. Vợ ông cũng theo đuổi văn bằng hai, trở thành Tiến sĩ ngành xã hội học tại Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva vào năm 1967. Trong những năm tháng ở Stavropol, Raisa cũng gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô.
Sau khi Stalin mất, lãnh tụ mới của Liên Xô là Khrushchev tố cáo chế độ cũ và tục sùng bái cá nhân Stalin trong bài diễn văn bí mật vào tháng 2 năm 1956, rồi ngay lập tức thực thi chính sách phi Stalin hóa mọi mặt đời sống xã hội Liên Xô. Nhà nghiên cứu tiểu sử William Taubman cho rằng Gorbachev "là hiện thân" của "tinh thần cải lương" dưới thời đại Khrushchev. Ông thuộc trong số những người tự coi mình là "Marxist chính danh" hoặc "Leninist chính danh"; những người chống đối tư tưởng Stalinist mà họ coi là đồi bại. Gorbachev nhiệt tình tham gia tuyên truyền thông điệp bài trừ Stalin ở Stavropol; song trong quá trình công tác, ông vẫn gặp nhiều người tôn vinh Stalin như anh hùng hoặc ủng hộ các cuộc thanh trừng do Stalin khơi mào.
Gorbachev thăng tiến nhanh chóng trong nội bộ chính quyền địa phương, và giới chức cũng rất tin cậy ông về mặt chính trị. Với kĩ năng chính trị láu lỉnh của mình, một số đối thủ đồng cấp đã rất đố kị với thành công của Gorbachev. Tháng 9 năm 1956, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất của Komsomol thành phố Stavropol và chịu trách nhiệm điều hành tổ chức này; vào tháng 4 năm 1958, ông trở thành phó trưởng của Komsomol toàn khu vực. Tới lúc này thì ông đã được nhà nước bàn giao cho một căn hộ khang trang hơn: có hai phòng ngủ, một phòng bếp, một phòng vệ sinh, và một phòng tắm riêng. Ở Stavropol, ông thành lập một hội nhóm đàm luận cho thanh niên, và huy động những người trẻ tham gia vào các chiến dịch phát triển nông nghiệp của Khrushchev.
Tháng 3 năm 1961, Gorbachev trở thành Bí thư thứ nhất của Komsomol địa phương, cố gắng nới lỏng bầu cử để nhiều phụ nữ có cơ hội lên giữ chức thị trưởng hoặc quận trưởng hơn. Năm 1961, Gorbachev tiếp đón đoàn đại biểu Ý tới dự Ngày hội Thanh niên Thế giới ở Moskva; tháng 10 cùng năm, ông dự Đại hội lần thứ 22 Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng 1 năm 1963, ông giữ chức trưởng nhân sự của ủy ban nông dân địa phương. Tháng 9 năm 1966, ông trở thành Bí thư thứ nhất Tổ chức Đảng Khu ủy Stavropol ("Gorkom"). Tới năm 1968, ông bắt đầu chán nản việc công chức – phần lớn vì nhận thấy rằng các cải cách của Khrushchev đang bị đình trệ và đảo ngược – và từng cân nhắc bỏ nghiệp chính trị để theo nghiệp học thuật. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 1968, ông được bầu làm Bí thư thứ hai của Kraikom Stavropol, tức là cấp phó của Bí thư thứ nhất Leonid Yefremov và là quan chức cao cấp thứ hai ở Stavrapol. Năm 1969, ông trở thành phó chức Xô viết Tối cao Liên Xô và trở thành ủy viên Ban Thường vụ Bảo vệ môi trường.
Được tự do di chuyển giữa các nước Khối Đông, Gorbachev cùng đoàn đại biểu Liên Xô sang thăm Đông Đức vào năm 1966, rồi Bulgaria vào năm 1969 và 1974. Tháng 8 năm 1968, Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc để dập tắt cuộc biến loạn Mùa xuân Prague chống chủ nghĩa Marx–Lenin. Tuy Gorbachev công khai ủng hộ chiến dịch quân sự, thực chất thì ông giữ kín mối quan ngại về vấn đề này. Tháng 9 năm 1969, ông tham gia đoàn đại biểu Xô viết tới Tiệp Khắc, nhận thấy rằng nhân dân nơi đây không mấy thân thiện đối với ông. Cùng năm đó, chính quyền Xô viết ra lệnh cho ông kỷ luật , giáo sư triết học của học viện nông nghiệp Stavropol, vì thể hiện tư tưởng chống đối chính sách nông nghiệp của nhà nước; Gorbachev đành sa thải Sadykov, song từ chối áp dụng chế tài xử phạt nặng hơn đối với ông này. Gorbachev về sau chia sẻ rằng ông "đã bị ảnh hưởng sâu sắc" bởi biến cố này; giãi bày rằng "lương tâm dằn vặt tôi" vì đã đào thải Sadykov.
Đứng đầu Khu ủy Stavropol: 1970–1977
Tháng 4 năm 1970, Yefremov lên công tác ở thủ đô Moskva và Gorbachev nối gót làm Bí thư thứ nhất của Kraikom Stavropol. Các nhà lãnh đạo ở Kremlin đã dò xét kĩ lưỡng sơ yếu lý lịch của Gorbachev để trao cho ông vị trí này. Mới 39 tuổi, ông trẻ hơn đáng kể so với người tiền nhiệm. Với tư cách là người đứng đầu Khu ủy Stavropol, ông tự động trở thành ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (khóa 24) vào năm 1971. Theo lời nhà viết tiểu sử Zhores Medvedev, Gorbachev "bấy giờ đã gia nhập lớp siêu tinh hoa của Đảng Cộng sản". Ở địa phương, Gorbachev ban đầu quy kết các sai lầm kinh tế cho "sự không hiệu quả và trình độ kém cỏi của các cán bộ, những thiếu sót trong cấu trúc quản lý, hoặc những kẽ hở trong lập pháp", song rốt cuộc phải thú nhận rằng chúng là hậu quả của sự tập trung hóa quá mức quyết định ở Moskva. Trong thời gian này, Gorbachev bắt đầu đọc các tác phẩm Marxist Tây phương của các văn sĩ như Antonio Gramsci, Louis Aragon, Roger Garaudy, và Giuseppe Boffa, vậy nên chịu ảnh hưởng tư tưởng của họ.
Nhiệm vụ chính của Gorbachev ở địa phương, nâng cao sản lượng nông nghiệp, bị cản trở bởi hai đợt hạn hán nghiêm trọng liên tiếp vào năm 1975 và 1976.
Gorbachev giám sát công tác xây dựng Kênh đào Stavropol nhằm mở rộng hệ thống tưới tiêu ở nơi đây. Vì kỳ tích quận Ipatovsky bội thu ngũ cốc, vào tháng 3 năm 1972, ông được trao tặng Huân chương Cách mạng Tháng Mười bởi Brezhnev trong một lễ liên hoan ở Moskva. Gorbachev luôn tìm cách chiếm được lòng tin của Brezhnev; với tư cách khu ủy trưởng, Gorbachev liên tục khen ngợi Brezhnev trong các bài diễn văn, từng có lần ví ông ta như là "vị chính khách nổi bật của thời đại chúng ta". Gorbachev và vợ dành kỳ nghỉ để đi thăm thú Moskva, Leningrad, Uzbekistan và Bắc Kavkaz. Gorbachev cũng nhân dịp này để kết thân với thủ trưởng KGB, Yuri Andropov, người mà rất có thiện cảm với ông, về sau trở thành một người chống lưng đắc lực cho ông. Gorbachev cũng gây dựng mối quan hệ hòa hảo với những nhân vật quan trọng như thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin, và đảng viên kỳ cựu Mikhail Suslov.
Gorbachev được chính phủ tin tưởng cho theo các đoàn đại biểu Xô viết sang Tây Âu; giữa năm 1970 và 1977, ông đã thực hiện tổng cộng năm chuyến công du khác nhau. Tháng 9 năm 1971, ông cùng phái đoàn Xô viết sang thăm Ý và gặp mặt các đại biểu của Đảng Cộng sản Ý; Gorbachev yêu thích văn hóa Ý nhưng lại choáng ngợp trước sự nghèo đói và bất công ở đất nước này. Ông thăm Bỉ và Hà Lan vào năm 1972, và Tây Đức vào năm 1973. Năm 1976, Gorbachev cùng vợ sang Pháp lần đầu, và vào lần hai năm 1977, hai vợ chồng được đại diện Đảng Cộng sản Pháp dẫn đi thăm thú khắp đất nước. Ông đã thấy rất ngạc nhiên vì người Tây Âu rất phóng khoáng trong việc đưa ra chính kiến và chỉ trích các chính khách nước mình, điều mà bấy giờ thiếu vắng ở Liên Xô. Gorbachev về sau có nói rằng, đối với ông và vợ, những chuyến thăm này "đã làm lay chuyển niềm tin tiên nghiệm của chúng tôi về sự ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước dân chủ tư sản".
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương KPSS
Tháng 11 năm 1978, Gorbachev được bổ nhiệm làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, với sự nhất trí đồng thuận của tất cả các ủy viên. Để tiện công tác, Gorbachev và vợ chuyển tới Moskva, sống trong một dacha cũ nằm ở ngoại ô. Họ sau chuyển đến địa điểm khác, tại Sosnovka, trước khi được cấp cho một căn nhà gạch mới xây. Ngoài ra, ông cũng được cấp cho một căn hộ trong nội đô, song quyết định giao nó cho con gái và con rể; Irina bấy giờ đã kiếm được việc làm tại Viện Y khoa Thứ hai tại Moskva. Sau khi gia nhập hàng ngũ chính giới tinh hoa, Gorbachev và vợ được tiếp cận với dịch vụ phúc lợi y tế tốt hơn và các cửa hàng chuyên biệt. Họ có đầu bếp, người hầu, cận vệ và thư ký riêng; nhiều thành phần trong đó là đặc vụ KGB. Trên cương vị mới, Gorbachev thường phải làm việc từ 12 đến 16 tiếng mỗi ngày. Ông và vợ ít khi xã giao, có thú vui đi thăm các nhà hát và bảo tàng ở Moskva.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương KPSS
Ngày 10 tháng 3 năm 1985, Chernenko qua đời. Gromyko đề bạt cho Gorbachev giữ chức Tổng Bí thư; với tư cách là đảng viên cao cấp, lời gợi ý của Gromyko cực kì có trọng lượng trong Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng. Gorbachev kỳ vọng sẽ có nhiều phản đối về việc ông được bầu lên chức Tổng Bí thư, song hóa ra phần lớn Bộ Chính trị ủng hộ ông. Ít lâu sau cái chết của Chernenko, Bộ Chính trị nhất trí cho Gorbachev kế nhiệm, chính thức trở thành nhà lãnh đạo thứ 8 của Liên Xô. Ít người trong chính phủ tin rằng ông sẽ là một người cải lương triệt để như danh tiếng đã định. Dân tình Liên Xô, tuy không biết nhiều về Gorbachev, cảm thấy nhẹ nhõm khi hay tin nhà lãnh đạo mới không già nua hay bệnh tật. Lần xuất hiện đầu tiên của Gorbachev trước công chúng trên cương vị Tổng Bí thư là tại lễ quốc tang của Chernenko ở Quảng trường Đỏ, được cử hành vào ngày 14 tháng 3 năm 1985. Hai tháng sau khi được tiến cử, ông tới Leningrad và phát biểu trước nhân dân của thành phố. Ông tiếp tục đi Ukraina vào tháng 6, Belarus vào tháng 7, và Tyumen Oblast vào tháng 9, khuyến khích các đảng bộ ban ngành có trách nhiệm hơn trong công tác khắc phục vấn đề địa phương.
Những năm đầu: 1985–1986
Phong cách lãnh đạo của Gorbachev có thể coi là rất khác biệt so với những người tiền nhiệm. Ông thường dừng chân để trò chuyện với công dân trên đường phố, ngoài ra còn cấm tuyệt việc trưng bày ảnh chân dung của mình tại lễ hội 1985 trên Quảng trường Đỏ, đồng thời khuyến khích các ủy viên thảo luận cởi mở hơn tại các phiên họp của Bộ Chính trị. Phương Tây nhìn nhận Gorbachev như một nhà lãnh đạo Liên Xô nhân nhượng và hiền hòa hơn; một số nhà bình luận phương Tây cho rằng đây là mưu kế của Liên Xô nhằm đánh lừa chính phủ của họ. Vợ ông là cố vấn thân cận nhất của ông; bà được mệnh danh không chính thức là "đệ nhất phu nhân" trong các chuyến công du nước ngoài. Các cố vấn thân cận khác của ông cũng bao gồm Georgy Shakhnazarov và Anatoly Chernyaev.
Gorbachev nhận thức rõ rằng Bộ Chính trị có quyền miễn nhiệm ông, và chỉ một mình thì không thể thông qua các chính sách cải cách triệt để hơn, mà cần sự ủng hộ của đa số ủy viên trong Bộ Chính trị. Ông bèn tìm cách loại bỏ một số thành viên kì cựu trong Bộ Chính trị, cố gắng thuyết phục Grigory Romanov, Nikolai Tikhonov, và Viktor Grishin nghỉ hưu. Ông bổ nhiệm Gromyko làm thủ tướng, một chức danh biểu tượng không có mấy sức ảnh hưởng, và cho người đồng minh Eduard Shevardnadze thế chỗ Gromyko để lo công tác đối ngoại. Những đồng minh khác được ông bổ nhiệm bao gồm Yakovlev, Anatoly Lukyanov, và Vadim Medvedev. Đáng chú ý, Boris Yeltsin cũng thuộc trong số những người được Gorbachev trọng dụng, và được giao phó chức Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 26 vào tháng 7 năm 1985. Hầu hết những nhân vật này đều là quan chức có học thức, thất vọng với thời kỳ Brezhnev. Trong năm đầu tiên, 14 trên 23 trưởng ban trong Ban Bí thư bị thay thế. Bằng cách này, Gorbachev đã củng cố đáng kể quyền lực đối với Bộ Chính trị chỉ trong vòng một năm, nhanh hơn hẳn các nỗ lực trước đó của Stalin, Khrushchev, hoặc Brezhnev.
Chính sách đối nội
Gorbachev liên tục nhấn mạnh phải tiến hành perestroika, khẩu ngữ được dùng lần đầu tiên vào tháng 3 năm 1984. Ông nhìn nhận perestroika là sự bao hàm của một loạt các chính sách cải cách nhằm tái cơ cấu kinh tế xã hội. Ông cảm thấy e ngại trước tình hình tiêu cực của Liên Xô lúc bấy giờ: sản lượng tụt hậu, đạo đức làm việc khốn cùng, hàng hóa kém chất lượng tràn làn; giống nhiều nhà kinh tế học khác, ông lo sợ Liên Xô sẽ trở thành một đất nước hạng hại trên chính trường quốc tế. Theo Gorbachev, giai đoạn đầu tiên của perestroika là uskoreniye ("tăng tốc"), một châm ngôn được ông dùng thường xuyên trong hai năm đầu cầm quyền. Liên Xô bấy giờ yếu kém hơn Hoa Kỳ ở nhiều lĩnh vực sản xuất, song Gorbachev khẳng định rằng uskoreniye sẽ đẩy mạnh đáng kể đầu ra công nghiệp và giúp Liên Xô sánh ngang với Hoa Kỳ vào năm 2000. Kế hoạch Năm năm giai đoạn 1985–1990 đặt ra chỉ tiêu mở rộng công xưởng nhà máy từ 50 đến 100%. Để kích thích sản lượng nông nghiệp, ông hợp nhất năm bộ ngành và một ủy ban nhà nước thành một cơ quan duy nhất gọi là Agroprom, tuy nhiên vào năm 1986 thì ông thú nhận đây là một sai lầm lớn.
Mục đích của cải cách là hỗ trợ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung – chứ không nhằm chuyển sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tại cuộc họp với các bí thư hoạch định kinh tế trong ban chấp hành trung ương của các đảng cộng sản Đông Âu vào mùa hè năm 1985, Gorbachev đã nói: "Đa số quý vị tìm thấy lời giải cho các vấn đề của mình nhờ phương kế cơ chế thị trường thay thế hoạch định trực tiếp. Một số quý vị coi thị trường là đấng cứu tinh cho nền kinh tế của mình. Tuy nhiên, các đồng chí, các vị không nên nghĩ về đấng cứu tinh mà phải nghĩ về con thuyền, và con thuyền đó là chủ nghĩa xã hội." Chính sách perestroika của Gorbachev cũng kéo theo các nỗ lực nhằm từ bỏ sự quản lý mang tính kĩ trị đối với nền kinh tế bằng cách tăng cường lực lượng lao động tham gia vào sản xuất công nghiệp. Ông cho rằng, một khi nền kinh tế đã thoát khỏi sự kiểm soát của các nhà kế hoạch tập trung, các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu sẽ hoạt động như những tác nhân thị trường. Gorbachev và các lãnh đạo Liên Xô cho rằng chính sách perestroika sẽ không vấp phải phản đối quá gay gắt; theo diễn giải Marxist của họ, một đất nước theo chủ nghĩa xã hội như Liên Xô thì sẽ không tồn tại "mâu thuẫn đối kháng".
Chính sách đối ngoại
Tháng 5 năm 1985, trong công hàm gửi đến Ngoại trưởng Liên Xô – đây cũng là lần đầu một lãnh đạo Liên Xô trao đổi trực tiếp với đại diện ngoại giao nhà nước – Gorbachev đã đề cập đến một "sự tái cơ cấu triệt để" chính sách ngoại giao. Một vấn đề nhức nhối đối với nhiệm kỳ lãnh đạo của Gorbachev là sự sa lầy của Liên Xô trong cuộc Nội chiến Afghanistan đã kéo dài 5 năm ròng. Suốt quá trình đó, Lục quân Xô viết đã chịu nhiều tổn thất và vì vậy mà cuộc chiến đang dần mất đi sự ủng hộ của nhân dân cũng như của các tướng lĩnh quân đội. Ngay khi lên nắm quyền, Gorbachev nhận thức rõ rằng ưu tiên lúc này là rút khỏi Afghanistan. Tháng 10 năm 1985, ông gặp mặt nhà lãnh đạo Marxist người Afghanistan Babrak Karmal, khuyên can vị này tiến đến một thỏa thuận hiệp thương với các thế lực đối địch. Cùng tháng, Bộ Chính trị chuẩn y quyết định rút quân khỏi Afghanistan của Gorbachev, nhưng phải tới tận tháng 2 năm 1989 thì dư quân mới triệt thoái hết.
Gorbachev và Reagan đều sốt sắng muốn chủ trì một cuộc họp thượng đỉnh về vấn đề Chiến tranh Lạnh, song hai bên đều gặp phải cản trở từ một bộ phận phản đối trong mỗi chính phủ tương ứng. Dầu vậy, họ quyết định tổ chức một hội nghị thượng đỉnh ở Genève, Thụy Sỹ, vào tháng 11 năm 1985.
Tháng 1 năm 1986, Gorbachev công khai phản bác chương trình ba giai đoạn hướng tới việc giải trừ các kho vũ khí hạt nhân trên thế giới, được dự định là sẽ kết thúc vào cuối thế kỷ 20. Ông đồng ý gặp mặt Reagan tại Reykjavík, Iceland, vào tháng 10 năm 1986. Tại đây, vì muốn đảm bảo chương trình SDI không thành hiện thực, Gorbachev đã đưa ra điều khoản nhượng bộ, theo đó giải trừ 50% kho tên lửa hạt nhân tầm xa của Liên Xô. Cả hai nhà lãnh đạo đồng tình với quan điểm giải trừ vũ khí hạt nhân, nhưng Reagan không chịu chấm dứt chương trình SDI, vậy nên hai bên rốt cuộc không đi tới một thỏa hiệp nào. Sau hội nghị thượng đỉnh, nhiều đồng minh của Reagan trong chính phủ chỉ trích ông vì thuận theo ý định giải trừ vũ khí hạt nhân. Gorbachev báo cáo với Bộ Chính trị rằng Reagan "vô cùng thô sơ, như người ở trong hang, và yếu kém về khoản trí tuệ".
Trong mối quan hệ với các nước đang phát triển, Gorbachev cảm thấy rất khó chịu với một số thủ lĩnh tự xưng là những nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa hoặc rêu rao mình thân Liên Xô – như Muammar Gaddafi của Libya và Hafez al-Assad của Syria chẳng hạn – thay vào đó, ông lại rất có cảm tình với Rajiv Gandhi. Gorbachev cho rằng các nước Marxist–Leninist thuộc "phe xã hội chủ nghĩa" – Khối Đông, Bắc Triều, Việt Nam và Cuba – đang làm khánh kiệt nền kinh tế của Liên Xô vì họ tiếp nhận của cải từ nước ông nhưng không trả lại gì mấy. Ông kiên trì tìm cách hòa giải với Trung Quốc, đất nước mà đã cắt đứt liên lạc với Liên Xô kể từ tách rẽ Trung-Xô và từ đó thì đã tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế của riêng mình. Tháng 6 năm 1985, ông ký kết một thỏa thuận giao thương 5 năm có giá trị $14 tỷ với Trung Quốc. Tháng 7 năm sau, ông đề xuất giảm thiểu sự hiện diện của binh lính Liên Xô ở biên giới Trung-Xô, đồng thời ca ngợi Trung Quốc như là "đất nước xã hội chủ nghĩa vĩ đại". Trong khoảng thời gian này, Gorbachev cũng muốn hợp tác sâu rộng hơn với Ngân hàng Phát triển châu Á và thắt chặt mối quan hệ với các nước Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản.
Cải cách sâu rộng: 1987–1989
Trong nước
Gorbachev đã nêu lên vấn đề perestroika và dân chủ hóa, đồng thời chỉ trích nạn tham nhũng tràn lan, tại phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 1 năm 1987. Ông đã cân nhắc đến việc nêu thêm vấn đề bầu cử đa đảng nhưng cuối cùng đổi ý. Sau phiên họp, ông tập trung vào công cuộc cải cách kinh tế, hội kiến với các quan chức chính phủ và các nhà kinh tế học. Giới chuyên gia chủ trương giảm thiểu sự kiểm soát nền kinh tế của các cấp chính quyền và cho phép các tập đoàn quốc doanh tự đặt ra chỉ tiêu cho mình; song Ryzhkov và một số chính khách hoài nghi về giải pháp này. Tháng 6 cùng năm, Gorbachev hoàn thành báo cáo về cải cách kinh tế; trong đó thỏa hiệp rằng các bộ trưởng vẫn có quyền đặt ra chỉ tiêu kinh tế, song các tập đoàn quốc doanh không nhất thiết phải đạt đúng chỉ tiêu đó. Phiên họp toàn thể cùng tháng chấp nhận đề nghị của Gorbachev, theo đó Xô viết Tối cao thông qua "đạo luật tập đoàn" nhằm tiến hành cải cách. Các vấn nạn kinh tế tuy vậy vẫn còn đó: cuối những năm 1980, hàng hóa cơ bản trên thị trường vẫn thiếu hụt, lạm phát tiếp tục tăng cao, và mức sống người dân càng ngày sụt giảm. Hoàn cảnh này đã dẫn đến các cuộc đình công của thợ mỏ vào năm 1989.
Tới năm 1987, tinh thần glasnost đã lan tỏa khắp xã hội Xô viết: báo giới đăng bài viết phóng khoáng hơn, các vấn nạn kinh tế được thảo luận công khai, và các nghiên cứu xét lại lịch sử Xô viết được tuyên truyền tràn lan. Gorbachev phần lớn ủng hộ chính sách này, miêu tả glasnost như "vũ khí nòng cốt, không thể thay thế của perestroika". Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng nhân dân nên dùng các quyền tự do mới một cách có trách nhiệm, đồng thời vận động giới báo chí viết bài "hoàn toàn khách quan" và tránh "giật gân". Gần 200 bộ phim Xô viết từng bị kiểm duyệt nay lại được công khai trình chiếu; điện ảnh phương Tây cũng bắt đầu tràn vào thị trường. Năm 1989, trách nhiệm của chính quyền Stalin trong cuộc thảm sát Katyn hồi năm 1940 rốt cuộc được hé lộ.
Tháng 9 năm 1987, chính phủ ngừng phá sóng hai đài phát thanh BBC và VOA. Chính sách cải cách cũng nới lỏng các hạn chế đối với tôn giáo; theo đó, một chương trình mừng lễ Phục Sinh lên sóng lần đầu trên truyền hình Xô viết và lễ thiên niên kỷ niệm của Giáo hội Chính thống giáo Nga cũng nhận được nhiều sự quan tâm từ giới truyền thông. Các tổ chức xã hội độc lập thay nhau mọc lên, hầu hết đều ủng hộ Gorbachev; tổ chức lớn nhất trong đó, Pamyat, thậm chí theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bài Do Thái. Gorbachev cũng thông báo rằng, người Do Thái ở Liên Xô sẽ được phép di cư đến Israel theo ý nguyện, điều mà trước đó còn bị cấm cản.
Tháng 8 năm 1987, Gorbachev đi nghỉ ở Nizhnyaya Oreanda, Oreanda, Krym, và chắp bút viết cuốn Perestroika: Tư duy mới cho đất nước chúng ta và thế giới chúng ta theo đề nghị của một hãng sách Hoa Kỳ. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười, Gorbachev đã đọc diễn văn "Tháng Mười và Perestroika: Cuộc cách mạng tiếp tục", trong đó ông ca ngợi Lenin nhưng phê phán Stalin vì vi phạm nhân quyền, trước phiên họp liên tịch Đảng ủy Trung ương và Xô viết Tối cao tại Điện Kremli Quốc gia. Phái kiên định trong Đảng cảm thấy bài diễn văn đã đi quá xa, nhưng phái tự do hóa lại cho rằng nó chưa đúng như kỳ vọng của họ.
Thành lập Đại hội Đại biểu Nhân dân
Mặc dù kỳ đại hội Đảng tiếp theo vẫn chưa được lên lịch chính thức cho tới năm 1991, Gorbachev đã cho triệu tập sớm Hội nghị Đảng XIX vào tháng 6 năm 1988. Gorbachev kỳ vọng rằng, bằng cách cho phép nhiều thành phần ngoài Đảng vào tham dự, ông sẽ nhận được thêm sự ủng hộ cho các cải tổ của mình. Với dàn trí thức và quan chức hậu thuận, Gorbachev đã vạch ra đường đi nước bước để gạt bỏ quyền lực khỏi tay Bộ Chính trị và trao nó cho các xô-viết, một cơ quan hầu như chỉ mang tính biểu tượng và không có thực quyền. Ông đề xuất thành lập một cơ quan mới, Đại hội Đại biểu Nhân dân, với đại biểu được tiến cử tự do bằng đầu phiếu. Đại hội sẽ tiếp tục bầu ra Xô viết Tối cao Liên Xô nắm giữ quyền lập pháp chính.
Những đề xuất này phản ánh mong muốn của Gorbachev nhằm thực hiện dân chủ sâu rộng; tuy nhiên, theo ông thì một điều cản trợ công cuộc này là "tâm lý nô lệ" sau hàng thế kỷ sống dưới chế độ quân chủ Sa hoàng và chuyên chế Marxist–Leninist. Được tổ chức tại Điện Kremli Quốc gia, hội nghị đã thu hút sự tham gia đông đảo của 5.000 đại biểu, trong bầu không khí tranh cãi qua lại giữa phái kiên định và phái tự do hóa. Phiên họp được truyền hình trực tiếp, và lần đầu tiên kể từ năm 1920, số đầu phiếu trở ra không đồng đều. Trong những tháng ngày sau hội nghị, Gorbachev tập trung vào việc tái thiết kế và sắp xếp lại các cơ quan Đảng; đội ngũ trong Ban Chấp hành Trung ương – bấy giờ có khoảng 3.000 ủy viên – bị cắt giảm một nửa, trong khi đó thì các ban ngành trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương bị hợp nhất với nhau từ 20 ban xuống còn 9 ban.
Vào tháng 3 và tháng 4 năm 1989, cuộc bầu cử vào Đại hội được tiến hành. Trong số 2.250 đại biểu lập pháp được bầu chọn, 100 người trong đó – báo giới gọi là "100 Đỏ" – được Đảng Cộng sản Liên Xô đích thân chọn ra, song thực chất thì Gorbachev đã đảm bảo những người này đều ủng hộ chính sách cải tổ. Tuy rằng 85% đại biểu được bầu đều là đảng viên, nhiều người trong số họ – bao gồm Sakharov và Yeltsin – lại theo phái tự do hóa. Gorbachev rất hài lòng với kết quả bầu cử, miêu tả nó như "một chiến thắng chính trị lớn lao dưới các hoàn cảnh hết sức khó khăn". Đại hội sau đó tụ họp vào tháng 5 năm 1989. Gorbachev được bầu lên làm chủ tịch – nguyên thủ de facto mới – với 2.123 phiếu thuận và 87 phiếu chống. Phiên bầu cử này cũng được truyền hình trực tiếp, và các thành viên của nó được Xô viết Tối cao lựa chọn. Tại Đại hội, Sakharov liên tiếp phát biểu đả kích khiến Gorbachev rất bực tức, đồng thời kêu gọi đẩy mạnh tự do hóa và giới thiệu quyền sở hữu tài sản tư. Sau khi Sakharov mất, Yeltsin trở thành thủ lĩnh của phái tự do chống đối.
Quan hệ với Trung Quốc và phương Tây
Gorbachev rất nỗ lực trong việc cải thiện mối quan hệ bang giao với Anh, Pháp và Tây Đức; giống các lãnh đạo Liên Xô tiền nhiệm, ông muốn kéo Tây Âu ra khỏi vòng ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Kêu gọi tình hữu nghị toàn Âu Châu sâu đậm hơn, ông công khai nói về "Ngôi nhà chung Châu Âu" và một Châu Âu trải dài "từ Đại Tây Dương đến Dãy Ural". Tháng 3 năm 1987, Thatcher tới thăm Gorbachev tại Moskva; dẫu có sự khác biệt về ý thức hệ, họ rất có cảm tình với nhau. Tháng 4 năm 1989, ông sang thăm London và dùng bữa trưa với Nữ hoàng Elizabeth II. Tháng 5 năm 1987, Gorbachev một lần nữa tới Pháp, và vào tháng 11 năm 1988, vinh dự đón tiếp Mitterrand tại Moskva. Thủ tướng Tây Đức, Helmut Kohl, từng có lần xúc phạm Gorbachev khi so sánh ông với nhà tuyên truyền Joseph Goebbels của Đức Quốc xã, nhưng sau đó thì vị thủ tướng đã xin lỗi chính thức và tới thăm Moskva vào tháng 10 năm 1988. Tháng 6 năm 1989, Gorbachev đối đáp với chuyến thăm Kohl ở Tây Đức. Tháng 11 năm 1989, ông gặp gỡ Giáo hoàng John Paul II tại Ý. Quan hệ của Gorbachev với các lãnh đạo phương Tây thường nồng hậu hơn những người đồng cấp ở Khối Đông.
Gorbachev tiếp tục theo đuổi chính sách ngoại giao hòa hảo với Trung Quốc để xoa dịu Chia tách Trung-Xô. Tháng 5 năm 1989, ông sang Bắc Kinh và gặp mặt nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình; ông Đặng đồng tình với quan điểm cải cách kinh tế của Gorbachev nhưng từ chối dân chủ hóa.
Làm sụp đổ Liên bang Xô viết
Trong làn sóng cách mạng 1989, phần lớn các quốc gia Marxist–Leninist ở Đông và Trung Âu tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng, dẫn đến sự biến chuyển thể chế chính trị. Ở hầu hết các nước, chẳng hạn như Ba Lan và Hungary, việc này diễn ra trong hòa bình, song ở Rumani, cuộc cách mạng trở nên bạo lực, dẫn đến việc Ceaușescu bị lật đổ và hành quyết.
Nhiệm kỳ tổng thống Liên Xô: 1990–1991
Tháng 2 năm 1990, phái tự do hóa và phái kiên định chủ nghĩa Marx–Lenin đều gia tăng sức ép lên Gorbachev. Một cuộc diễu hành ủng hộ tự do hóa đã được tổ chức ở Moskva nhằm công khai chỉ trích Đảng Cộng sản Liên Xô. Với tình hình đó, một cuộc họp của Trung ương Đảng được triệu tập, trong đó thì nhân vật theo phái kiên định Vladimir Brovikov đã cáo buộc Gorbachev là đang đưa Liên Xô lao vào con đường "vô chính phủ" và "bài hoại", theo đuổi các giá trị Tây phương mà quên đi lợi ích của nước nhà cũng như lý tưởng Marx–Lenin. Gorbachev nhận thức rõ rằng Ban Chấp hành Trung ương Đảng vẫn có quyền loại ông khỏi chức Tổng Bí thư, vậy nên quyết định lập ra chức vụ tổng thống như là nguyên thủ quốc gia cao nhất mà Đảng không có quyền can thiệp. Theo sự tái cơ cấu này, người đảm chức tổng thống chỉ có thể được tiến cử bởi Đại hội Đại biểu Nhân dân. Quyết định bầu cử kiểu này được chọn thay cho một cuộc bầu cử công chúng vì Gorbachev lo sợ sự leo thang căng thẳng chính trị và dễ để tuột mất chức vụ; tuy nhiên thì một điều tra năm 1990 đã hé lộ rằng ông vẫn là chính khách được lòng dân nhất.
Vào tháng 3 cùng năm, Đại hội Đại biểu Nhân dân tổ chức cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên (và cũng là duy nhất) trong lịch sử Liên Xô, theo đó thì Gorbachev là ứng cử viên duy nhất. Gorbachev nhận về 1.329 phiếu thuận và 495 phiếu chống, cùng 313 phiếu vô hiệu hoặc vắng mặt, giúp ông trở thành Tổng thống Liên Xô đầu tiên. Một Hội đồng cố vấn tổng thống gồm 18 người trên danh nghĩa được lập ra để thay thế Bộ Chính trị. Tại cùng cuộc họp Đại hội đó, Gorbachev đề xuất thay thế Điều 6 Hiến pháp Liên Xô, trong đó tuyên bố Đảng Cộng sản là "đảng thống trị" duy nhất ở Liên Xô; Đại hội thông qua cải cách trên và gây phương hại de jure đến nhà nước độc đảng bấy lâu nay.
Trong cuộc bầu cử Xô viết Tối cao Nga vào năm 1990, Đảng Cộng sản Liên Xô phải đối đầu với một liên minh tự do hóa tự xưng là "Nước Nga Dân chủ". Yeltsin giành được một ghế nghị viện, điều mà khiến Gorbachev không mấy hài lòng. Cùng năm đó, các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy Yeltsin đã hạ bệ Gorbachev với tư cách là chính khách được quý mến nhất ở Liên Xô. Gorbachev không thể hiểu được tại sao Yeltsin lại có được danh vọng như vậy, bình rằng: "hắn ta uống rượu như uống nước lã ... nói năng thì ú ớ, hắn nghĩ ra toàn ý tưởng có quỷ mới biết, cứ như là bản ghi đã lỗi thời vậy". Cơ quan Xô viết Tối cao Nga giờ đây nằm ngoài tầm kiểm soát của Gorbachev. Vào tháng 6 năm 1990, Xô viết Tối cao Nga ra tuyên bố rằng luật lệ của nó được ưu tiên trước các luật lệ của chính phủ trung ương Xô viết. Vì làn sóng dân tộc chủ nghĩa Nga dâng cao lúc bấy giờ, Gorbachev đã phải bất đắc dĩ ủng hộ sự thành lập của Đảng Cộng sản Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga như một nhánh trực thuộc của Đảng Cộng sản Liên Xô. Gorbachev tới dự đại hội đầu tiên của nó vào tháng 6, song dần nhận ra rằng phần lớn những người bên trong theo phái kiên định, chống lại các cải cách của ông.
Tái thống nhất Đức và Chiến tranh Vùng Vịnh
Tháng 1 năm 1990, Gorbachev đồng thuận riêng về quyết định tái thống nhất hai miền nước Đức, song từ chối cho phép nước này giữ tư cách thành viên NATO của Tây Đức tiền thân. Ý tưởng của ông về việc cho phép Đức tiếp tục là thành viên của cả NATO lẫn Khối Warszawa không thu hút được mấy sự ủng hộ. Ngày 9 tháng 2 năm 1990, trong một cuộc điện đàm với James Baker, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ lúc bấy giờ, Gorbachev đã bày tỏ lập trường "một khu vực NATO mở rộng là điều không thể chấp nhận được" mà Baker cũng đồng tình. Tháng 5 năm 1990, ông tới thăm Hoa Kỳ để hội kiến với Tổng thống Bush. Tại đây, Gorbachev chấp thuận rằng một nhà nước Đức thống nhất sẽ có quyền tự chọn liên minh cho mình. Rốt cuộc, ông bằng lòng với việc thống nhất hai miền nước Đức với điều kiện NATO không được phép đóng quân ở phía Đông.
Tháng 8 năm 1990, chính phủ Iraq của Saddam Hussein phát động cuộc xâm lược Kuwait; Gorbachev tán thành sự lên án của Tổng thống Bush đối với hành động xâm phạm lãnh thổ của Iraq. Quyết định này đã khiến Gorbachev phải hứng chịu chỉ trích gay gắt từ các cơ quan nhà nước Liên Xô, những người coi Hussein như một đồng minh chủ chốt ở Vịnh Ba Tư và quan ngại cho sự an toàn của 9.000 công dân nước họ đang trú tại Iraq; Gorbachev bất chấp cho rằng Iraq rõ ràng là kẻ gây hấn trong xung đột này. Vào tháng 11, Liên Xô tán thành Nghị quyết 660 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, theo đó cho phép các quốc gia sử dụng vũ lực để đánh bật Quân đội Iraq khỏi Kuwait. Gorbachev về sau gọi đó là một "bước ngoặt" trong giới chính trị, "lần đầu tiên các siêu cường chung tay hành động trước một khủng hoảng khu vực". Tuy nhiên, khi Hoa Kỳ thông báo kế hoạch triển khai lục quân tại Kuwait, Gorbachev lại quay ra phản đối, khuyến khích các bên tìm ra giải pháp hòa bình. Tháng 10 năm 1990, Gorbachev được trao tặng Giải Nobel Hòa bình; tuy lấy làm hãnh diện, song ông đã phải thừa nhận "những cảm xúc trái chiều" về giải thưởng này. Các cuộc thăm dò ý kiến dư luận cho thấy 90% công dân Liên Xô không tán thành Giải Nobel của Gorbachev, thứ giải thưởng mà vốn bị coi là thân phương Tây và chống Liên Xô.
Đảo chính Tháng Tám và khủng hoảng chính phủ
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 28 vào tháng 7 năm 1990, phái kiên định ra sức đả kích phái cải cách, nhưng rốt cuộc thì Gorbachev vẫn tái đắc cử chức Tổng Bí thư với sự ủng hộ của 3/4 đại biểu và đảng viên Vladimir Ivashko do Gorbachev lựa chọn cũng được bầu lên chức phó bí thư. Nhằm thỏa hiệp với những người tự do hóa, Gorbachev đã tập hợp một nhóm cố vấn cải cách kinh tế do bản thân ông và Yeltsin tự tay lựa chọn. Giải pháp mà nhóm này đưa ra được gọi là chương trình "500 Ngày", với nội dung kêu gọi phi tập trung hóa và tư nhân hóa. Gorbachev coi gói cải cách này là "chủ nghĩa xã hội hiện đại" chứ không phải sự quay trở lại chủ nghĩa tư bản, song thực ra thì trong bụng còn nhiều ngờ vực. Vào tháng 9, Yeltsin đệ trình kế hoạch lên Xô viết Tối cao Nga và nhận được sự đồng thuận của họ. Nhiều đảng viên Đảng Cộng sản và công nhân viên chức nhà nước đã được cảnh báo trước về vấn đề này, rằng nó sẽ gây hỗn loạn thị trường, thúc đẩy lạm phát và nạn thất nghiệp. Chương trình 500 Ngày rốt cuộc bị bãi bỏ. Tại thời điểm này, Yeltsin quở trách Gorbachev trong một bài diễn văn tháng 10, khẳng định rằng Nga sẽ không bao giờ chấp nhận sự lệ thuộc vào chính quyền Xô viết.
Tới giữa tháng 11 năm 1990, báo giới kêu gọi Gorbachev từ chức và dự đoán một cuộc nội chiến sắp nổ ra. Phái kiên định ép Gorbachev giải tán hội đồng cố vấn tổng thống và bắt giữ những kẻ tự do hóa tru tréo trên truyền thông. Vào tháng 11, ông đọc cương lĩnh tám điểm của mình trước Xô viết Tối cao, đề cập đến nội dung cải cách chính phủ và bãi bỏ hội đồng cố vấn tổng thống. Tại thời điểm này, Gorbachev đã bị nhiều đồng minh cũ cô lập. Yakovlev đã thoát ly khỏi vòng ảnh hưởng của Gorbachev, còn Shevardnadze thì đã từ chức. Giới trí thức từng ủng hộ Gorbachev nay lại thoái trào, và cuối năm 1990 thì tỷ lệ nhân dân ủng hộ ông cũng tụt dốc không phanh.
Giữa làn sóng bất đồng chính kiến ở vùng Baltic, với tâm điểm là tại Litva, vào tháng 1 năm 1991, Gorbachev đã yêu cầu Hội đồng Tối cao Litva hủy bỏ các cải cách đòi độc lập tự chủ. Binh lính Xô viết đi chiếm cứ các tòa nhà ở Vilnius và tấn công người biểu tình, khiến 15 người thiệt mạng. Với tình hình đó, phái tự do hóa chỉ trích Gorbachev kịch liệt và Yeltsin cũng kêu gọi ông từ chức. Gorbachev khẳng định bản thân không dính líu gì đến cuộc đàn áp, trái ngược với lời kể của một số sĩ quan quân đội; sự thật đằng sau biến cố này đến nay vẫn chưa sáng tỏ. E ngại trước nguy cơ bất ổn dân sự lan rộng, Gorbachev bèn hạ lệnh cấm biểu tình vào tháng đó và ban bố thiết quân luật ở nhiều thành phố, động thái mà đã làm phật lòng phái tự do hóa nhưng cũng chưa đủ để thuyết phục phái kiên định. Với mong muốn bảo toàn sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên Xô, Gorbachev và lãnh đạo của chín nước cộng hòa Xô viết tuyên thệ vào tháng 4 là sẽ cố gắng tái lập liên bang dưới một hiến pháp mới, nhưng điều này không được sự tán thành của sáu nước cộng hòa còn lại – Estonia, Latvia, Litva, Moldova, Gruzia và Armenia. Cuộc trưng cầu dân ý năm 1991 cho thấy 76,4% người tham gia vẫn ủng hộ sự tiếp tục của một liên bang thống nhất, tuy chưa tính ý kiến của nhân dân sáu nước cộng hòa nổi loạn kể trên. Với tình hình này, Gorbachev và Yeltsin cùng nhiều nhân vật trong chính giới khác bắt đầu thương thảo về một bản hiến pháp mới, dự định được ký kết vào tháng 8.
Vào tháng 8, Gorbachev và gia đình đi nghỉ ở dacha "Zarya" ('Rạng Đông') tại Foros, Krym. Hai tuần sau, một nhóm các đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng sản Liên Xô đã tự ý lập ra Ủy ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp và tiến hành một cuộc chính biến. Đường dây điện thoại nối tới dacha của Gorbachev bị cắt, sau đó một nhóm những người chủ mưu bao gồm Boldin, Shenin, Baklanov và Tướng Varennikov, đã tới tận nơi để báo cho vị tổng thống về sự biến trên thủ đô. Các thủ lĩnh đảo chính yêu cầu Gorbachev ban bố tình trạng khẩn cấp chính thức trên toàn quốc nhưng bị khước từ. Gorbachev và gia đình bị giam lỏng ở dacha. Nhóm âm mưu đảo chính thông báo rằng Gorbachev bị ốm, vậy nên Phó Tổng thống Yanayev sẽ thay quyền quản lý nhà nước.
Mãn cuộc và tan rã
Sau cuộc đảo chính thất bại, Xô viết Tối cao nhanh chóng đình chỉ vô thời hạn các hoạt động của Đảng Cộng sản, chấm dứt sự cai trị của chính đảng này ở Liên Xô.
Ngày 30 tháng 10, Gorbachev tới dự Hội nghị Madrid 1991 để cố khôi phục tiến trình hòa bình giữa Israel và Palestine. Tại đây, ông một lần nữa gặp Tổng thống Bush. Trên đường về, Gorbachev tạt qua Pháp và tá túc tại nhà riêng của Mitterrand gần Bayonne.
Cuộc đời sau sự sụp đổ của Liên Xô
Những năm đầu: 1991–1999
Từ giã hoạt động công vụ, Gorbachev có nhiều thời gian dành cho gia đình hơn. Ông và Raisa vẫn sống trong căn dacha ọp ẹp tại Rublevskoe Shosse, ngoài ra còn được phép tư hữu hóa căn hộ nhỏ của họ trên Đường Kosygin. Trong những năm đầu, ông dốc sức xây dựng Quỹ Quốc tế Nghiên cứu Kinh tế – Xã hội và Chính trị, còn được biết đến với cái tên "Quỹ Gorbachev", khai trương vào tháng 3 năm 1992; Yakovlev và Revenko trở thành những phó chủ tịch đầu tiên của tổ chức này.
Đời tư
Tới năm 1955, Gorbachev đã bắt đầu rụng tóc, và vào những năm 1960 thì đầu ông trọc đi hẳn, để lộ một vết bớt rượu loang trên trán. Ông cao khi trưởng thành. Suốt những năm 1960, ông vật lộn với bệnh béo phì và phải ăn kiêng để cải thiện sức khỏe; Doder và Branson tả Gorbachev là người "khỏe chứ không béo". Ông nói tiếng Nga với giọng miền Nam, ngoài ra còn biết hát các ca khúc dân dã lẫn thịnh hành.
Suốt cuộc đời, Gorbachev luôn cố gắng ăn mặc thật sành điệu. Ghét rượu nặng, ông hiếm khi nhậu nhẹt và không hề hút thuốc. ông khá bí mật về đời tư của mình và không hay mời người lạ tới nhà. Gorbachev yêu thương vợ hết mực, người mà cũng rất quan tâm đến ông. Ông cũng là một người bố và người ông dốc hết tâm trí. Ông gửi con gái mình tới trường địa phương tại Stavropol thay vì những ngôi trường đặc biệt dành cho giới quan chức.
Tính cách
Người bạn đại học của Gorbachev, Mlynář, miêu tả ông là người "trung thành và thật thà". Gorbachev rất tự tin, lịch thiệp, và khôn khéo, có tính khí lạc quan và niềm nở. Ông thường đùa những câu tiếu lâm về bản thân, có khi chửi bậy, và thường xưng ở ngôi thứ ba. Ông là một nhà quản lý lành nghề, với trí nhớ tốt. Là người cần cù và nghiện làm việc, trên cương vị Tổng Bí thư, Gorbachev thường thức dậy lúc 7:00 hoặc 8:00 giờ sáng và phải tới 1:00 hoặc 2:00 giờ đêm mới đi ngủ. Taubman đánh giá Gorbachev là "một người rất tử tế", và cho rằng ông có "tiêu chuẩn đạo đức cao".
Zhores Medvedev cho rằng Gorbachev hùng biện rất giỏi, nhận xét vào năm 1986 rằng "Gorbachev có lẽ là nhà diễn thuyết tài nhất trong hàng ngũ chóp bu của Đảng" kể từ thời Lev Trotsky. Medvedev cũng đánh giá Gorbachev là "một nhà lãnh đạo có sức hút", điều mà thiếu vắng ở những người tiền nhiệm như Brezhnev, Andropov và Chernenko. Doder và Branson ví Gorbachev như "một kẻ bỏ bùa có khả năng quyến rũ trí tuệ những kẻ hoài nghi, luôn ra sức hấp thụ họ, hoặc ít nhất là làm mòn cái lưỡi dao chỉ trích của kẻ khác". McCauley cho rằng Gorbachev đã bộc lộ "khả năng chiến lược tài tình" qua việc thao túng phái kiên định Marxist–Leninist và phái tự do hóa trong phần lớn nhiệm kỳ cầm quyền của mình, và cũng thêm rằng, ông ấy "điêu luyện ở khoản chính sách chiến lược, ngắn hạn, hơn là ở khoản tư duy chiến thuật, dài hạn", một phần vì "không để ý mấy đến việc hoạch định chính sách".
Qua đời và di sản
Ông qua đời ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại Moskva sau 2 năm rưỡi chống chọi với tiểu đường và các vấn đề về thận, hưởng thọ 91 tuổi, theo tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin thông báo. Tang lễ của ông theo nghi thức gần giống với Quốc tang sẽ được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 2022, và an táng chung người vợ của mình.
Ở phương Tây và các nước Đông Âu ngoài Liên Xô, Gorbachev thường có thiện cảm như là người góp phần chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Ví dụ, tại Đức, ông được hoan nghênh vì đã đồng ý không can thiệp để sự thống nhất nước Đức diễn ra. Tuy nhiên, tại Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ, ông mang tiếng xấu vì bị coi là kẻ làm sụp đổ đất nước Liên Xô và chịu trách nhiệm về cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra sau đó. Đa số người Nga hiện nay đánh giá Gorbachev rất tiêu cực, có những người còn muốn truy tố ông ra tòa vì tội phản quốc.
Từ năm 1991 đến cuối thế kỷ XX, tổng giá trị sản xuất trong nước (GDP) của Nga giảm xuống 52% so năm 1990 (trong khi đó, vào thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến năm 1945 chỉ giảm 22%). Sản xuất công nghiệp giảm 64,5%, sản xuất nông nghiệp giảm 60,4%. Vật giá tăng cao hơn 5.000 lần. Sự sụp đổ của Liên Xô sau này được tổng thống Nga Putin gọi là "thảm họa địa chính trị tồi tệ nhất thế kỷ XX. Đối với nước Nga, nó đã trở thành một bi kịch thực sự. Hàng triệu công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên thấy họ đang sống bên ngoài lãnh thổ Nga.".
Sau này vào tháng 5/1993, Gorbachev thăm Pháp đã trả lời phỏng vấn báo "Le Figaro" về khả năng "hỗ trợ bên ngoài" trong việc xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô, Gorbachev lần đầu tiên công nhận rằng trong cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tại Reykjavik, ông đã "trao Liên Xô vào tay Mỹ" (trong hồi ký của mình, Reagan nói rằng ông ta đã bị sốc vì vui mừng khi biết một bộ phận trong giới chính trị cấp cao Liên Xô lại có tư tưởng chống Cộng). Sau này, năm 1999, tại trường đại học Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, Gorbachev tự thú nhận: "Mục tiêu của toàn bộ đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và trong Nhà nước... Và để đạt được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và Xô viết Tối cao cũng như Ban lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hoà. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hoá mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A. Yakovlev, Shevardnadze...".
Chiến tranh tại Afghanistan đã bắt đầu từ cuối thập niên 1970, làm tiêu mòn các nguồn tài nguyên Xô viết. Cuộc chiến này và nhiều phong trào cách mạng tại các nước vệ tinh của Xô viết (được trợ cấp nhiều từ các chiến dịch bí mật của phương Tây), ví dụ nổi bật nhất là Ba Lan và Afghanistan, khiến Liên bang Xô viết phải chi ra những khoản tiền lớn nhằm giữ ổn định trật tự và giúp các chính phủ tại đó hoạt động. Một số người cho rằng cuộc chạy đua vũ trang của phương Tây cũng tạo sức ép khiến Liên Xô phải chịu những chi phí lớn mà lẽ ra có thể dùng để phát triển kinh tế. Hạ tầng kinh tế Xô viết rơi vào tình trạng suy sụp kể từ năm 1985 (khi Gorbachev lên nắm quyền) và các sự kiện đó có ảnh hưởng to lớn tới những quyết định của Gorbachev về tự do hoá. Cuối cùng, những nỗ lực nhằm cải cách nền kinh tế Liên bang Xô viết là quá chậm chạp, các nước vệ tinh cũng phải chịu một phần trách nhiệm, dẫn tới sự chấm dứt tồn tại của một giai đoạn đối đầu dài 50 năm giữa Đông và Tây.
Nhưng cũng có nhiều người khác, đặc biệt những người lớn tuổi đã từng trải qua cuộc sống ở Liên Xô cũ, tin rằng Liên bang Xô viết không phải ở tình trạng khủng hoảng kinh tế tồi tệ như đã từng được tuyên bố, và họ coi Gorbachev là một chính trị gia kém cỏi, người đã đưa ra những cải cách sai lầm. Ông bị coi là phải chịu trách nhiệm cho sự tan rã của Liên Xô, dẫn đến sự hỗn loạn kinh tế và chính trị ở Nga và không gian hậu Xô viết trong những năm 1990.
Trong những năm cuối đời, Lazar Moiseyevich Kaganovich đã nói trong một cuộc phỏng vấn rằng thời kỳ cầm quyền của Gorbachev chính là sự phá hủy trực tiếp đất nước. Năm 2012, tổ chức Liên minh các công dân Nga còn nộp đơn kiện Gorbachev với tội danh Phản bội Tổ quốc.
Những quan điểm khác cho rằng Gorbachev không đáng bị đổ lỗi hoàn toàn cho sự sụp đổ của Liên Xô. Năm 2011, có 42% người Nga được hỏi cho rằng Gorbachev có vai trò chính trong sự tan rã Liên Xô, trong khi 37% cho rằng sự tan rã của Liên Xô chủ yếu là do nhiều yếu tố khách quan, còn Gorbachev không phải là nguyên nhân chính. Cuốn "Lịch sử hiện đại của Nga? Sách tham khảo dành cho giáo viên" do Filipov chủ biên cho rằng: "Sự nghiệp chính của Gorbachev là đạt được dân chủ hóa sâu rộng đất nước. Chính ông đã xóa bỏ hệ thống kiểm duyệt và đưa ra chế độ bầu cử giống như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, biến những quyền công dân vốn chỉ có trên giấy tờ thành hiện thực. Không ngoa khi nói rằng Gorbachev đã trao tự do cho người dân Liên Xô, nhưng cái giá phải trả quả thực là quá lớn".
Giáo sư người Trung Quốc Zuo Fenrong, chuyên gia về Nga và Liên Xô thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (Đảng Cộng sản Trung Quốc) cho rằng dù không có Gorbachev thì Liên Xô vẫn sẽ khó tồn tại nếu không có cải cách hợp lý. Quá trình trì trệ của Liên Xô đã tích tụ từ 20 năm trước đó, và đến khi Gorbachev lên nắm quyền, những cải cách mang tính mày mò không còn hữu ích nữa. Khi lựa chọn con đường cải cách chính trị, Gorbachev đã tiến hành cải cách dựa trên nguyên tắc "trao lại toàn bộ quyền lực cho Xô Viết tối cao (Quốc hội Liên Xô)". Việc bầu cử đại biểu nhân dân đã trở thành khởi đầu cho sự hỗn loạn và thảm họa của Liên Xô. Vấn đề không phải là trao cho người dân quyền lựa chọn, mà là kế hoạch "giao toàn quyền cho Xô viết Tối cao" của Gorbachev là vô cùng phản khoa học. Đến năm 1990, Gorbachev phải chuyển sang chế độ tổng thống - đa đảng - tam quyền phân lập, các nước cộng hòa thành viên cũng bầu ra tổng thống và Xô viết Tối cao cho riêng họ. Kết quả là giới lãnh đạo chính trị và lực lượng ly khai địa phương được kết hợp, tạo ra các thế lực ly khai làm tan rã Liên Xô. Gorbachev giống như một thuyền trưởng lái con thuyền nhỏ trong giông bão, nhưng lại thiếu kỹ năng điều khiển nên đã khiến con thuyền bị lật úp trước khi đến đích. Chính cuộc đấu tranh của Boris Yeltsin (Tổng thống Nga đầu tiên) với Gorbachev đã trở thành một nhân tố quan trọng dẫn đến sự tan rã của Liên Xô. Tất nhiên, Gorbachev, người đang nắm quyền, vẫn phải chịu trách nhiệm về sự tan rã của Liên Xô: Ông ấy không phải là một nhà lãnh đạo sáng suốt, ông ấy không thành lập đội ngũ lãnh đạo cải cách, và cũng ích kỷ khi không bổ nhiệm những quan chức không đúng thành tích của họ..
Có những chính trị gia Nga ngày nay vẫn có thiện cảm với Gorbachev, mặc dù Gorbachev thường chỉ trích họ, bởi dù sao thì ông cũng là lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô, một đất nước mà Nga kế thừa rất nhiều di sản. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2011, Thủ tướng Medvedev cũng ký lệnh trao tặng Huân chương Thánh Andrew, huân chương cao quý nhất của nhà nước Liên Bang Nga cho Gorbachev, và phát biểu: "Tôi nghĩ rằng đây là một đánh giá thích hợp về khối lượng công việc mà ông đã thực hiện với tư cách là nguyên thủ quốc gia, trong những thời điểm phức tạp và đặc biệt khó khăn... Đây cũng là một biểu hiện của sự tôn trọng đối với đất nước mà ông từng lãnh đạo, quê hương chung của chúng ta, Liên Xô." . |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.