text
stringlengths
0
512k
Thế kỷ 21 sau Công Nguyên là thế kỷ hiện tại tính theo lịch Gregorius. Thế kỷ này bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2001 và sẽ kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2100, tức là bằng 100 năm. Thế kỷ 21 là thế kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ III. Những sự kiện, thành tích và mốc phát triển Chính trị Thay đổi địa giới quốc gia và lãnh thổ Trong thế kỷ XXI, một số lãnh thổ đã giành được độc lập. Dưới đây là các quốc gia có chủ quyền đã giành được độc lập trong thế kỷ XXI và được Liên Hợp Quốc công nhận. Đông Timor (Timor-Leste) ngày 26 tháng 5 năm 2002 Montenegro ngày 3 tháng 6 năm 2006 Nam Sudan ngày 9 tháng 7 năm 2011 Các vùng lãnh thổ dưới đây đã tuyên bố độc lập và có quyền tự chủ tương đối về an ninh nhưng chỉ được một số quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc công nhận: Kosovo ngày 17 tháng 2 năm 2008 (công nhận hạn chế) Nam Ossetia ngày 26 tháng 8 năm 2008 (công nhận hạn chế) Abkhazia ngày 26 tháng 8 năm 2008 (công nhận hạn chế) Các vùng lãnh thổ dưới đây đã tuyên bố độc lập và có quyền tự chủ tương đối về an ninh nhưng không được quốc gia nào công nhận: Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant vào tháng 6 năm 2014. Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant đã tuyên bố chủ quyền trên nhiều vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền Iraq, Syria và Libya. Tổ chức này được xem là một tổ chức khủng bố. Các vùng lãnh thổ dưới đây được sáp nhập vào từ phần đất của một quốc gia có chủ quyền, hành động này chỉ được một số thành viên LHQ công nhận: Krym sáp nhập từ Ukraina vào Liên bang Nga ngày 18 tháng 3 năm 2014 Khoa học và công nghệ Thiết lập thành công bản đồ cấu trúc E8 của nhóm Lie, thể hiện mối liên hệ giữa lý thuyết dây với hình học. Vụ du khách Vụ du khách Việt Nam bỏ trốn tại Đài Loan 2018 Xung đột và khủng bố Ngày 11 tháng 9 năm 2001, al-Qaeda dùng máy bay tấn công vào Trung tâm thương mại thế giới và Lầu Năm Góc (Ngũ Giác Đài), làm thiệt mạng gần 3000 người. Đó là sự kiện 11 tháng 9. Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 là một trong những sự kiện quan trọng đáng chú ý nhất trong thế kỷ XXI, và là một trong những vụ khủng bố gây thiệt hại nhiều nhất về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, và quân sự của lịch sử Hoa Kỳ cũng như những nơi khác trên thế giới. Chiến tranh Afghanistan (2001–2021) Xung đột Nga - Ukraine Dịch bệnh toàn cầu SARS bùng phát từ tháng 11 năm 2002 đến tháng 7 năm 2003 khởi đầu từ Hồng Kông, lây lan ra 37 quốc gia trên thế giới. Đại dịch COVID-19 bùng phát từ tháng 12 năm 2019 khởi đầu từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, lây lan ra hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Lũ lụt Mưa và lũ miền Trung năm 2010 vào đầu tháng 10 năm 2010. Lũ lụt miền Trung năm 2020 từ ngày 6 tháng 10 đến ngày 1 tháng 12 năm 2020. Hỏa hoạn Vụ hỏa hoạn chung cư mini ở Khương Hạ năm 2023 vào tối ngày 12 tháng 9 năm 2023. Thể thao 2001: Jennifer Capriati đánh bại Martina Hingis tại chung kết giải quần vợt Australia mở rộng. John Ruiz đánh bại Evander Holyfield để giành đai vô địch hạng nặng thế giới của WBA. Liverpool đoạt cú ăn 3 với Cup Liên Đoàn, Cup FA và Cup UEFA. Goran Ivanisevic đánh bại Pat Rafter tại giải quần vợt Wimbledon. David Beckham sút phạt như sách giáo khoa giúp đội tuyển Anh giành suất tham gia Word Cup 2002. Lennox Lewis đánh bại Hasim Rahman qua đó giành lại chức vô địch quyền anh hạng nặng thế giới của WBC và IBF. 2002: Đoàn thể thao Trung Quốc giành chiến thắng tại ASIAD XIV diễn ra tại Busan, Hàn Quốc với 308 huy chương trong đó 150 HCV, 84 HCB, 74 HCĐ. Word Cup 2002 diễn ra tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Đội lên ngôi vô địch Brasil; Á quân Đức. Real Madrid lên ngôi vô địch UEFA Champions League. "Người ngoài hành tinh" Ronaldo de Lima giành lại Quả bóng vàng Châu Âu sau 3 năm vật lội với chân thương đầu gối. Đội tuyển Nga lần đầu vô địch Davis Cup trước đối thủ là đội tuyển Pháp. Thế vận hội mùa đông diễn ra tại Hoa Kỳ với chiến thắng thuộc về đoàn thể thao Na Uy với 25 huy chương trong đó 13 HCV, 5 HCB và 7 HCĐ. Micheal Schumacher phá kỉ lục trên đường đua F1 với 64 lần chiến thắng. 2003: SEA Games 22 lần đầu tiên diễn ra tại Việt Nam và đoàn thể thao chủ nhà đã về vị trí đầu tiên với 346 huy chương, trong đó 158 HCV, 97 HCB và 91 HCĐ. Micheal Schumacher lần thứ 6 vô địch thế giới môn đua xe F1 và nới rộng kỷ lục của mình với 70 lần chiến thắng. Ông trùm Abramovich mua lại Chelsea với giá 100 triệu USD. David Bechkham chuyển qua thi đấu cho Real Madrid với giá 41 triệu USD. AC Milan lên ngôi vô địch UEFA Champions League sau 9 năm chờ đợi. 2004: Đội tuyển Việt Nam thất bại thảm hại tại Tiger Cup qua đó Singapore lên ngôi vô địch khi đánh bại Indonesia ở trận chung kết. Thế vận hội mùa hè diễn ra tại Athens, Hy Lạp. Thế vận hội thứ 28 diễn ra sô đổ nhiều kỷ lục như số quốc gia, VĐV tham gia nhiều nhất từ trước tới giờ (2004) với hơn 11.000 VĐV và khoảng 5.000 quan chức của 202 quốc gia khác nhau trên thế giới. Mỹ tiếp tục khẳng định vị thế khi giành vị trí nhất bảng với 101 huy chương, trong đó 36 HCV, 39 HCB và 26 HCĐ. Tay vợt Sharapova của Nga có một năm hoàn mĩ khi vô địch 3 danh hiệu cá nhân Pháp mở rộng, Wimbledon, Mỹ mở rộng và 1 danh hiệu đồng đội Fed Cup. Micheal Schumacher lần thứ 7 vô địch thế giới môn đua xe F1 và nới rộng kỷ lục của mình với 83 lần chiến thắng. Hy Lạp bất ngờ vô địch Euro khi đánh bại chủ nhà Bồ Đào Nha trong trận chung kết. Porto với Monaco là 2 cái tên bất ngờ của C1 khi băng băng tới trận chung kết và chiến thắng thuộc về thầy trò người Bồ Đào Nha, Jose Mourinho. 2005: Cua-rơ người Mỹ Lance Amstrong giành chức vô địch Vòng đua nước pháp lần thứ 7 liên tiếp. Tay vợt người Thụy Sĩ Roger Federe khẳng định vị thế của mình khi 3 lần liên tiếp vô địch giải Wimbledon. Năm nay là một năm chói sáng của Ronaldinho khi anh đã thâu tóm nhiều danh hiệu cá nhân lớn nhất là Quả bóng vàng, cầu thủ xuất sắc nhất năm... Manchester United bất ngờ bị tỷ phú Mỹ Malcolm Glazer mua đứt với giá 790 triệu bảng. 2006: 24 năm là con số người Ý đã phải chờ đợi để nâng cao cup vàng tại Word Cup 2006 khởi tranh tại Đức. Tay vợt người Thụy Sĩ Roger Federer tiếp tục khẳng định vị thế của mình khi trong năm 2006 anh lọt vào 16 trận chung kết trong tổng số 17 giải tham gia và 12 lần giành chức vô địch. Barcelona lên ngôi vô địch C1 cùng dàn hào thủ của mình. Tháng 5/2006, bê bối rúng động Serie A được phanh phui, kết quả khiến cho Juve bị đánh tụt hạng, mất 2 scudetto, 4 CLB ở Serie A là Milan, Fiorentina, Lazio, Reggina và 2 đội khác ở Serie B là Arezzo, Triestina bị phạt trừ điểm. 2007: Siêu sao điền kinh một thời Marion Jones thừa nhận sử dụng doping khi thi đấu. Lại một năm thống trị nữa của Roger Federer khi tay vợt người Thụy Sĩ lọt vào 12 trận chung kết và 8 lần giành chiến thắng (trong đó có 3 Grand Slam). "Người đặc biệt" Jose Mourinho nói lời chia tay với Chelsea sau khi có những xích mích với chủ tịch Abramovich. Giải đua xe đạp Tour de France bị truyền thông và người hâm mộ ghẻ lạnh vì vấn nạn doping. 2008: Việt Nam đánh bại người Thái, qua đó lần đầu tiên vô địch AFF Suzuki Cup. Olympic Bắc Kinh là lần đầu Trung Quốc đứng ra tổ chức. Thế vận hội Bắc Kinh chứng kiến hai hiện tượng hiếm có của thể thao đó là: Michael Phelps (Bơi lội) và Usain Bolt (Điền kinh). Tay vợt người Tây Ban Nha Rafael Nadal bất ngờ soán ngôi Roger Federer trong một năm đuối sức của tay vợt người Thụy Sĩ. Hamilton trở thành nhà vô địch F1 trẻ tuổi nhất khi mới 23 tuổi 300 ngày. Tây Ban Nha lên ngôi vô địch Euro 2008 sau bàn thắng duy nhất của Fernando Torres. Manchester United nhuộm đỏ trời âu với 3 danh hiệu vô địch Premier League, Champions League, Club Word Cup. 2009: Sau năm 2008 để Nadal vùng lên soán ngôi số một thế giới, “Tàu tốc hành” Thụy Sĩ đã giành lại đỉnh cao cùng mùa giải có nhiều sự kiện đáng nhớ. Pep Guardiola cùng với Barcelona tạo ra một năm đáng nhớ với cú ăn 6 lịch sử. Lão tướng Jenson Button qua mặt các tài năng trẻ để đoạt chức vô địch F1 thế giới lần đầu tiên, sớm một chặng đua. Đội Brawn GP (tiền thân là Honda) của anh cũng đăng quang trước một Grand Prix. Real Madrid chi 80 triệu bảng để chiêu mộ Cristiano Ronaldo nhằm lật độ ách thống trị của Barcelona lúc bấy giờ. 2010: Lê Quang Liêm tỏa sáng ở đấu trường quốc tế. Tây Ban Nha lần đầu vô địch Word Cup 2010 trong sự tiếc nuối của các cầu thủ Hà Lan khi Iniesta đã ghi bàn duy nhất ở hiệp phụ. 2010 là năm đầu tiên Tiger Woods không giành bất cứ danh hiệu nào trong sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của mình vì Scandal tình ái. Tài năng trẻ Rafael Nadal nổi lên thăng hoa khi đoạt lại ngôi vương từ tay của đàn anh Roger Federer. Sebastian Vettel vô địch thế giới đầu tiên ở tuổi 23 lẻ 135 ngày - trẻ nhất lịch sử làng đua F1. Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2018. Giải đấu được tổ chức từ ngày 8 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12 năm 2018. Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2022. Giải đấu được tổ chức từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 26 tháng 2 năm 2022.
Hội chứng Klinefelter (đọc là Clai-phen-tơ) là tình trạng không phân li nhiễm sắc thể ở nam giới; người bị tác động có một cặp nhiễm sắc thể giới tính X thay vì chỉ có một nhiễm sắc thể X, và có liên hệ với một số nguy cơ về bệnh lý y học. Hội chứng này được đặt tên theo bác sĩ Harry Klinefelter, nhà nghiên cứu y học tại Bệnh viên Đa khoa Massachusetts, Boston, Massachusetts, do ông lần đầu tiên miêu tả lâm sàng tình trạng này vào năm 1942. Nguyên nhân Kiểu sắp xếp nhiễm sắc thể XXY là một biến thể di truyền thường gặp nhất ở kiểu nhân XY, xảy ra vào khoảng 1 cho mỗi 500 đến 1000 trẻ nam khi sinh ở Hoa Kỳ, với khoảng 3000 trẻ mới sinh ra mỗi năm. Do sự thêm vào của một nhiễm sắc thể, người bị tình trạng này thường được gọi là "Nam XXY", hay "Nam 47,XXY" hơn là "mắc hội chứng Klinefelter." Ở động vật có vú với hơn một nhiễm sắc thể X, chỉ có một nhiễm sắc thể X ở trạng thái hoạt động, còn (các) nhiễm sắc thể X kia bị bất hoạt và hầu hết các gen trên chúng không được biểu hiện. Điều này xảy ra cả ở nam XXY lẫn nữ XX. Tuy nhiên, một số ít gen vẫn được biểu lộ dù chúng trên nhiễm sắc thể X bất hoạt; đây là các gen có gen tương ứng trên nhiễm sắc thể Y (vùng giả nhiễm sắc thể thường). Các gen thể ba nhiễm này ở nam XXY có lẽ là nguyên nhân của các triệu chứng liên quan đến hội chứng Klinefelter. Báo cáo đầu tiên được công bố (Jacobs & Strong 1959) về người đàn ông có kiểu nhân 47,XXY là bởi Patricia A. Jacobs và Bác sĩ J.A. Strong tại Bệnh viện Đa khoa Miền Tây ở Edinburgh, Scotland vào năm 1959. Đó là một người đàn ông 24 tuổi có biểu hiện của hội chứng Klinefelter. Bác sĩ Jacobs miêu tả khám phá của bà về trường hợp dị bội nhiễm sắc thể ở người và động vật có vú đầu tiên được báo cáo trong bài diễn văn cho Giải thưởng tưởng niệm Wiliam Allan năm 1981 (Jacobs 1982). Trong khoảng 50-60% trường hợp, hiện tượng không phân li nhiễm sắc thể xảy ra ở mẹ (75% do lỗi phân bào giảm nhiễm I). Các trường hợp còn lại xảy ra do không phân li ở người cha. Kiểu nhân thường gặp nhất là 47,XXY (khoảng 80-90% các trường hợp); thể khảm 46,XY/47,XXY gặp trong khoảng 10% trường hợp. Các thể khác gồm 48,XXYY, 48,XXXY, 49,XXXYY, và 49,XXXXY rất hiếm. Thể khảm 46,XY/47,XXY có thể xảy ra ở hợp tử 46,XY hoặc 47,XXY, và do rối loạn phân bào sau khi thụ tinh tạo hợp tử. Sinh lý bệnh Sự thêm vào của một hoặc nhiều nhiễm sắc thể X hay Y lên kiểu nhân nam gây ra các bất thường thực thể và nhận thức khác nhau. Nói chung, mức độ bất thường kiểu hình gồm cả chậm phát triển trí tuệ, liên quan trực tiếp đến số lượng nhiễm sắc thể X thêm vào trên mức bình thường. Số nhiễm sắc thể X tăng trên mức bình thường ảnh hưởng đến phát triển thể chất và nhận thức. Bất thường về xương và tim mạch cũng nặng và nhiều hơn. Phát triển sinh dục đặc biệt nhạy cảm với mỗi nhiễm sắc thể X thêm vào, gây rối loạn tạo ống sinh tinh và vô sinh, cũng như dị dạng và thiểu sản cơ quan sinh dục ở nam đa nhiễm X. Hơn nữa, khả năng tâm thần giảm theo nhiễm sắc thể X thêm vào. Chỉ số trí tuệ (IQ) giảm khoảng 15 điểm cho mỗi nhiễm sắc thể X vượt mức bình thường. Tất cả các khu vực phát triển chính, gồm ngôn ngữ và sự phối hợp diễn đạt, tiếp thu cũng bị ảnh hưởng. Hậu quả chính của việc có thêm nhiễm sắc thể giới tính, thường mắc phải do lỗi không phân li trong quá trình tạo giao tử ở cha mẹ, gồm có suy sinh dục, vú to, và rối loạn tâm lý xã hội. Hội chứng Klinefelter là hình thức suy tinh hoàn nguyên phát, kèm theo tăng mức gonadotropin do thiếu phản hồi ngược từ tuyến yên. Thiếu hụt androgen cũng gây tỉ lệ các phần trên cơ thể giống người bị hoạn; lông ở mặt, nách, mu và thân mình thưa thớt hoặc không có; vú to; tinh hoàn và dương vật nhỏ; giảm khoái cảm tình dục; phân bố mô mỡ theo kiểu phụ nữ; giảm sức chịu đựng thực thể; loãng xương. Việc mất ống sinh tinh và tế bào Sertoli dẫn đến giảm mức inhibin B, chất điều hoà hormone FSH. Trục hạ đồi-yên-sinh dục bị thay đổi ở bệnh nhân hội chứng Klinefelter ở tuổi dậy thì. Cũng có báo cáo về nguy cơ tăng rối loạn tự miễn, như lupus ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp, và hội chứng Sjögren. Điều này có lẽ do giảm mức testosterone và tăng estrogen, vì androgen có lẽ có khả năng bảo vệ chống lại tính tự miễn, trong khi estrogen có thể thúc đẩy rối loạn này. Dấu hiệu và triệu chứng Hầu hết nam giới sinh ra với hội chứng Klinefelter sống suốt đời mà không được chẩn đoán. Khi được thực hiện, chẩn đoán thường xảy ra vào tuổi trưởng thành. Chỉ định thường gặp nhất để làm xác định kiểu nhân là thiểu năng sinh dục và vô sinh. Tỉ lệ tử vong cũng không cao hơn đáng kể so với người bình thường. Lý do bệnh nhân đi khám thường nhất là vô sinh và vú to. Các than phiền khác bao gồm mệt mỏi, yếu, rối loạn cương dương, loãng xương, rối loạn ngôn ngữ, khó khăn trong học hành, khoái cảm tình dục dưới mức bình thường, tính tự trọng kém, và các rối loạn hành vi. Về thực thể, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có chiều cao, cân nặng và vòng đầu bình thường. Khoảng 25% có biểu hiện lệch ngón (clinodactyly). Tốc độ phát triển chiều cao tăng vào lúc 5 tuổi, và chiều cao người lớn thường hơn mức trung bình. Ngoài ra, tay và chân cũng dài không theo tỉ lệ thông thường của cơ thể. Một số người với thể Klinefelter 49,XXXXY có vóc người thấp. Hầu hết nam 47,XXY có trí thông minh bình thường. Nền tảng gia đình ảnh hưởng đến IQ. Trí tuệ dưới mức bình thường hoặc chậm phát triển tâm thần có thể liên hệ với sự hiện diện của nhiều nhiễm sắc thể X hơn. Khoảng 70% bệnh nhân có giảm chút ít về năng lực phát triển tâm thần và học hành, bao gồm khó khăn trong học tập, học ngôn ngữ và nói muộn, giảm trí nhớ ngắn hạn, giảm kĩ năng phục hồi dữ liệu, đọc khó, rối loạn đọc (dyslexia), và khiếm khuyết khả năng chú ý. Bệnh nhân cũng có thể biểu hiện rối loạn hành vi và tâm lý. Điều này có thể do sự tự trọng và phát triển tâm lý xã hội kém, hoặc khả năng xử lý căng thẳng giảm. Các rối loạn tâm thần khác như lo lắng, trầm cảm, loạn thần kinh chức năng (neurosis), và rối loạn loạn thần (psychosis) cũng thường gặp hơn trong nhóm này so với dân số chung. Răng bò (taurodontism, răng hàm phình to do tuỷ nở rộng) gặp ở 40% bệnh nhân, trong khi tỉ lệ mắc ở người XY bình thường là 1%. Về các đặc điểm giới tính, bệnh nhân có thể mất các đặc điểm giới tính thứ phát do giảm sản xuất androgen, với biểu hiện lông ở mặt, thân, cơ quan sinh dục thưa, giọng nói cao, và phân bố mỡ theo kiểu phụ nữ. Vào giai đoạn trễ của tuổi dậy thì, khoảng 30-50% trẻ nam mắc hội chứng Klinefelter biểu hiện vú to thứ phát do tăng estradiol và tăng tỉ lệ estradiol/testosterone. Nguy cơ phát triển carcinoma vú cao hơn ít nhất 20 lần so với người bình thường. Loạn sản tinh hoàn (tinh hoàn nhỏ, chắc, kích thước <10ml) có thể có ở bệnh nhân sau dậy thì. Vô sinh, vô tinh trùng có thể do bất sản teo ống sinh tinh. Vô sinh gặp ở tất cả bệnh nhân 47,XXY; ở bệnh nhân thể khảm 46,XY/47,XXY có thể còn khả năng sinh sản. Bệnh nhân cũng có thể tăng tần suất u tế bào mầm ngoài sinh dục như carcinoma phôi, u quái và u tế bào mầm trung thất nguyên phát. Về các rối loạn tuần hoàn và tim, sa van hai lá gặp ở 55% bệnh nhân, dãn tĩnh mạch ở 20-40%, loét tĩnh mạch 10-20 lần cao hơn bình thường, nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi cũng tăng. Xét nghiệm di truyền tế bào cho thấy bất thường về kiểu nhân, 47,XXY hoặc các kiểu nhân của các biến thể khác. Định lượng hormone máu cho thấy nồng độ FSH, LH và estradiol tăng trong huyết tương, còn testosterone thì giảm ở bệnh nhân 12-14 tuổi. Đáp ứng tăng testosterone khi tiêm hCG ở mức dưới bình thường. Gonadotropin niệu tăng do bất thường chức năng tế bào Leydig. Nồng độ osteocalcin huyết thanh tăng và tỉ lệ hydroxyl proline/creatinine tăng, phản ánh giảm tạo xương và tăng tái hấp thu xương. Khảo sát hình ảnh cho thấy sa van hai lá trên siêu âm, giảm mật độ xương chi dưới, dính xương quay trụ, và răng bò trên X quang. Khảo sát mô học cho thấy tinh hoàn nhỏ, chắc với hiện tượng hyalin hoá, xơ hoá và teo ống sinh tinh kèm tăng sản khu trú của các tế bào Leydig hầu hết đã bị thoái hoá. Tế bào mầm giảm đáng kể hoặc không có. Hiện tượng sinh tinh trùng hiếm được bắt gặp. Ở bệnh nhân thể khảm, hyalin hoá và thoái hoá tiến triển ống sinh tinh xảy ra sau dậy thì mặc dù lúc dậy thì tinh hoàn có kích thước bình thường và có hiện tượng sinh tinh trùng. Mô học của vú to cho thấy tăng sản mô gian ống. Đột biến số lượng NST dạng thể ba ở cặp NST giới tính là hội chứng xảy ra ở trẻ trai có hai hoặc đôi khi nhiều hơn 2 nhiễm sắc thể giới tính X, mà vẫn có nhiễm sắc thể chân tay dài, thân cao không bình thường, tinh hoàn nhỏ, si đần, không có con. Chẩn đoán trước khi sinh Chẩn đoán trước khi sinh có thể được thực hiện nhờ chọc ối và phân tích di truyền tế bào dịch ối. Điều này có thể đặt cha mẹ vào vị thế khó xử, vì dự hậu tốt nhưng khả năng bất thường về kiểu hình thực sự tồn tại. Chỉ có rất ít trường hợp thể khảm 46,XY/47,XXY có khả năng sinh con, trong đó có nguy cơ sinh con 47,XXY. Tất cả 47,XXY đều vô sinh. Điều trị Xác định bệnh sớm rất có ích, mặc dù ít khi được chẩn đoán trước dậy thì. Điều trị nên hướng đến 3 mặt của bệnh; thiểu năng sinh dục, vú to, và các vấn đề tâm lý xã hội. Trị liệu androgen là khía cạnh quan trọng nhất trong điều trị. Thay thế testosterone nên bắt đầu vào lúc dậy thì để sửa chữa việc thiếu hụt androgen, mang lại nam tính thích hợp, và cải thiện tình trạng tâm lý xã hội. Tiêm testosterone đều đặn giúp tăng cường sức mạnh và mọc lông mặt, tạo dáng vẻ cơ bắp cho cơ thể, tăng ham muốn tính dục, tăng kích thước tinh hoàn, cải thiện tính khí, hình ảnh bản thân và hành vi, và bảo vệ chống lại loãng xương sớm. Tiếp cận đa ngành có ích cho rối loạn lời nói, khó khăn trong học hành và các vấn đề tâm lý xã hội và hành vi khác. Phẫu thuật có thể được chỉ định đối với vú to. Vú to gây căng thẳng tâm lý xã hội đáng kể cho bệnh nhân và làm tăng nguy cơ ung thư vú. Về tư vấn di truyền, tỉ lệ tái phát không cao hơn mức trong dân số chung. Lúc tốt nhất để thông báo bệnh cho người mắc có lẽ vào giữa đến cuối tuổi thanh niên, khi anh ấy đủ trưởng thành để hiểu về tình trạng bệnh. Biến chứng Nguy cơ ung thư vú ở nam XXY cao gấp 20 lần nam khoẻ mạnh. Các loại tân sản khác xảy ra ở 1,6% bệnh nhân, bao gồm bạch cầu cấp, lymphoma Hodgkin và không Hodgkin, bạch cầu sinh tuỷ mạn và các bệnh tăng sinh tuỷ khác. U tế bào mầm sinh dục và ngoài sinh dục (u tế bào mầm trung thất, u quái, carcinoma quái, carcinoma đệm nuôi) cũng có thể xảy ra. Các biến chứng tâm lý và tâm thần có thể xảy ra ở người có trí thông minh dưới trung bình, thiểu năng sinh dục, hoặc bất lực. Sụp cột sống có thể do loãng xương. Phát triển dãn tĩnh mạch và loét chân do ứ đọng tĩnh mạch. Các bệnh nội tiết có liên quan gồm đái tháo đường, suy giáp, hội chứng hố yên rỗng, suy cận giáp, dậy thì sớm liên hệ với u tế bào mầm tạo hCG. Tăng sinh tuyến tiền liệt lành tính có thể do cung cấp testosterone. Bệnh nhân điều trị với testosterone nên tầm soát phì đại tuyến tiền liệt bắt đầu từ tuổi 30. Ở nam đa nhiễm X, tỉ lệ tử vong do bệnh mạch máu não như bệnh van động mạch chủ và vỡ phình mạch mọng (berry) cao hơn 6 lần so với bình thường ở nam 25-84 tuổi. Tăng kết tập tiểu cầu, bệnh huyết khối và tăng đông đã được phát hiện và có lẽ liên hệ đến nồng độ estrogen tăng. Mặc dù về khoa học sự hiện diện của nhiễm sắc thể Y xác định giới tính nam, nhưng người mắc hội chứng Klinefelter có thể gặp phải rối loạn xác định giới tính, tuy nhiên quan sát này dựa trên báo cáo của các nhóm ủng hộ chuyển đổi giới tính mà chưa có nghiên cứu khoa học về điều này. Tiên lượng Các nghiên cứu ban đầu về nam hội chứng Klinefelter XXY cho thấy họ tăng nguy cơ rối loạn tâm thần, phạm tội và trì trệ trí tuệ. Tuy nhiên điều này bị nghi ngờ là không chính xác vì những người được thống kê là lấy từ những người đã nhập viện. Trẻ nhỏ XXY hầu như không khác biệt so với trẻ khác. Mặc dù trẻ trai 47,XXY có thể phải vật lộn ở tuổi thanh thiếu niên với thành công hạn chế trong học tập, nhiều thất bại, và, trong một số trường hợp, khó khăn nghiêm trọng về hành vi và cảm xúc, nhưng hầu hết đều đi được đến sự tự lập đầy đủ khỏi gia đình khi bước vào tuổi trưởng thành. Một số hoàn thành giáo dục đại học và có khả năng làm việc bình thường. Quãng đời sống được xem là bình thường. Thiểu năng sinh dục, khoái cảm tình dục thấp và các vấn đề tâm lý xã hội có thể được điều trị với testosterone. Vú to có thể được sửa chữa bằng phẫu thuật. Biến thể Hội chứng nam 48,XXYY xảy ra ở một trong số 17.000 ca sinh. Theo truyền thống nó được xem là biến thể của hội chứng Klinefelter, tuy nhiên nói chung hiện nay nó được xem là một thực thể lâm sàng và di truyền riêng biệt, mặc dù chưa được cấp mã ICD-9. Người mắc bệnh này hung hăng hơn, tổn thương trí tuệ hơn và vóc người cao hơn hội chứng Klinefelter. Hội chứng nam 48,XXXY có chậm phát triển tâm thần nhẹ đến trung bình, chậm biết nói, phát triển vận động chậm, phối hợp kém, hành vi không trưởng thành, vóc người bình thường hoặc cao, khuôn mặt không bình thường (nếp quạt ở mắt (epicanthus), hai mắt xa nhau (hypertelorism), môi trề), thiểu năng sinh dục, vú to (33-50%), dương vật thiểu sản, vô sinh, lệch ngón, dính xương quay trụ, và điều trị với testosterone cho hiệu quả. Hội chứng 49,XXXYY điển hình biểu hiện chậm phát triển tâm thần trung bình đến nặng, hành vi thụ động nhưng đôi khi hung hăng và lên cơn thịnh nộ, nét mặt biến dạng, vú to, và thiểu năng sinh dục. Hội chứng nam 49,XXXXY có tam chứng cổ điển gồm chậm phát triển tâm thần nhẹ đến trung bình, dính xương quay trụ, và thiểu năng sinh dục tăng gonadotropin. Các biểu hiện lâm sàng khác gồm tổn thương ngôn ngữ nặng, rối loạn hành vi, cân nặng lúc sinh thấp, vóc dáng thấp ở một số người, khuôn mặt không bình thường (mặt tròn lúc sơ sinh, thô ở tuổi lớn hơn, hai mắt xa nhau, nếp quạt ở mắt, hàm nhô (prognathism)), cổ ngắn hoặc bè, vú to (hiếm), khiếm khuyết tim bẩm sinh (ống thông động mạch thường gặp nhất), bất thường xương (chân vòng kiềng (genu valgus), bàn chân quặp (pes cavus), lệch ngón thứ 5), giảm trương lực cơ, khớp tăng duỗi, cơ quan sinh dục thiểu sản, và tinh hoàn ẩn. Tinh hoàn kích thước hạt đậu, dương vật nhỏ, và các đặc điểm giới tính thứ phát ấu nhi là đặc trưng ở bệnh nhân 49,XXXXY, trong khi bệnh nhân 48,XXXY biểu hiện thiểu năng sinh dục nhẹ hơn tương tự như 47,XXY. Nam mắc hội chứng Klinefelter có thể có kiểu nhân thể khảm 47,XXY/46,XY, biểu hiện suy giảm sinh tinh ở nhiều mức độ khác nhau. Thể khảm 47,XXY/46,XX có biểu hiện lâm sàng gợi ý hội chứng Klinefelter rất hiếm gặp và cho đến nay chỉ có khoảng 10 trường hợp được báo cáo trong y văn.
Triệu trong tiếng Việt có thể có nghĩa là: Triệu, số đếm, bằng một trăm vạn. Họ Triệu, một họ phổ biến ở châu Á. Bà Triệu (趙婆) (226-248) là một thủ lĩnh kháng chiến thế kỷ thứ 3 tại Việt Nam. Huyện Triệu thuộc thành phố Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc). Công quốc Triệu thời Chu sơ - Xuân Thu, thường đọc là Thiệu Họ Triệu: một trong Lục khanh của nước Tấn, tiền thân của nước Triệu đời Chiến Quốc. Nước Triệu (趙) (403-228 TCN) thời Chiến Quốc, tách ra từ nước Tấn, sau bị nước Tần tiêu diệt, thời Tần Thủy Hoàng (秦始皇) Nhà Triệu của Triệu Đà (207-111 TCN), là một triều đại gây tranh cãi nhất trong Lịch sử Việt Nam. Nước Triệu: một nước chư hầu được thành lập cuối đời nhà Tần, trải qua chính quyền Tây Sở Bá Vương rồi thành chư hầu của nhà Tây Hán Các tiểu quốc thời Ngũ Hồ thập lục quốc (五胡十六國) ở Trung Quốc Hán Triệu (漢趙) hay Tiền Triệu (前趙) (304-329), do Lưu Uyên (劉淵) thành lập năm 304 với quốc hiệu Hán (漢), sau đó Lưu Diệu (劉曜) đổi thành Triệu (趙) năm 318. Hậu Triệu (後趙) (319-350), do Thạch Lặc (石勒) thành lập. Nước Triệu: chính quyền do Tiên Vu Khất cướp ngôi Đinh Linh bộ lập ra Nhà Triệu trong lịch sử Việt Nam do Dạ Trạch Vương sáng lập, chính quyền xen kẽ Tiền Lý Nam Đế và Hậu Lý Nam Đế Nước Triệu thời Ngũ đại thập quốc, một chính quyền do Vương Dung sáng lập Nước Triệu: phiên vương nhà Minh, đất phong của Chu Cao Toại, truyền được 11 đời quân chủ.
Trong viễn thông (telecommunication), mã Hamming là một mã sửa lỗi tuyến tính (linear error-correcting code), được đặt tên theo tên của người phát minh ra nó, [./Https://en.wikipedia.org/wiki/Richard_Hamming Richard Hamming]. Mã Hamming có thể phát hiện một bit hoặc hai bit bị lỗi (single and double-bit errors). Mã Hamming còn có thể sửa các lỗi do một bit bị sai gây ra. Ngược lại với mã của ông, mã chẵn lẻ (parity code) đơn giản vừa không có khả năng phát hiện các lỗi khi 2 bit cùng một lúc bị hoán vị (0 thành 1 và ngược lại), vừa không thể giúp để sửa được các lỗi mà nó phát hiện được. Lịch sử Trong những năm của thập niên kỷ 1940, Hamming làm việc tại Bell Labs trên máy tính Bell Model V, một máy điện cơ (electromechanical) dùng rơ-le (relay-based), với tốc độ rất chậm, mấy giây đồng hồ một chu kỳ máy. Nhập liệu được cho vào máy bằng những cái thẻ đục lỗ (punch cards), và hầu như máy luôn luôn gây lỗi trong khi đọc. Trong những ngày làm việc trong tuần, những mã đặc biệt được dùng để tìm ra lỗi và mỗi khi tìm được, nó nhấp nháy đèn báo hiệu, báo cho người điều khiển biết để họ sửa, điều chỉnh máy lại. Trong thời gian ngoài giờ làm việc hoặc trong những ngày cuối tuần, khi người điều khiển máy không có mặt, mỗi khi có lỗi xảy ra, máy tính tự động bỏ qua chương trình đương chạy và chuyển sang công việc khác. Hamming thường làm việc trong những ngày cuối tuần và ông càng ngày càng trở nên bực tức mỗi khi ông phải khởi động lại các chương trình ứng dụng từ đầu, do chất lượng kém, không đáng tin cậy (unreliability) của bộ máy đọc các thẻ đục lỗ. Mấy năm tiếp theo đó, ông dồn tâm lực vào việc xây dựng hằng loạt các thuật toán có hiệu quả cao để giải quyết vấn đề sửa lỗi. Năm 1950, ông đã công bố một phương pháp mà hiện nay được biết là Mã Hamming. Một số chương trình ứng dụng hiện thời vẫn còn sử dụng mã này của ông. Các mã trước thời kỳ của Hamming Nhiều mã phát hiện lỗi đơn giản đã được sử dụng trước khi có mã Hamming, nhưng không có mã nào hiệu quả bằng mã Hamming với một tổng phí tương đương. Mã chẵn lẻ Mã chẵn lẻ thêm một bit vào trong dữ liệu, và bit cho thêm này cho biết số lượng bit có giá trị 1 của đoạn dữ liệu nằm trước là một số chẵn hay một số lẻ. Nếu một bit bị thay đổi trong quá trình truyền dữ liệu, giá trị chẵn lẻ trong thông điệp sẽ thay đổi và do đó có thể phát hiện được lỗi (Chú ý rằng bit bị thay đổi có thể lại chính là bit kiểm tra). Theo quy ước chung, bit kiểm tra có giá trị bằng 1 nếu số lượng bit có giá trị một trong dữ liệu là một số lẻ, và giá trị của bit kiểm tra bằng 0 nếu số lượng bit có giá trị một trong dữ liệu là một số chẵn. Nói cách khác, nếu đoạn dữ liệu và bit kiểm tra được gộp lại cùng với nhau, số lượng bit có giá trị bằng 1 luôn luôn là một số chẵn. Việc kiểm tra dùng mã chẵn lẻ là một việc không được chắc chắn cho lắm, vì nếu số bit bị thay đổi là một số chẵn (2, 4, 6 - cả hai, bốn hoặc sáu bit đều bị hoán vị) thì mã này không phát hiện được lỗi. Hơn nữa, mã chẵn lẻ không biết được bit nào là bit bị lỗi, kể cả khi nó phát hiện là có lỗi xảy ra. Toàn bộ dữ liệu đã nhận được phải bỏ đi, và phải truyền lại từ đầu. Trên một kênh truyền bị nhiễu, việc truyền nhận thành công có thể mất rất nhiều thời gian, nhiều khi còn không truyền được nữa. Mặc dù việc kiểm tra bằng mã chẵn lẻ không được tốt cho lắm, song vì nó chỉ dùng 1 bit để kiểm tra cho nên nó có số tổng phí (overhead) thấp nhất, đồng thời, nó cho phép phục hồi bit bị thất lạc nếu người ta biết được vị trí của bit bị thất lạc nằm ở đâu. Mã hai-trong-năm Trong những năm của thập niên kỷ 1940, Bell có sử dụng một mã hiệu phức tạp hơn một chút, gọi là mã hai-trong-năm (two-out-of-five code). Mã này đảm bảo mỗi một khối 5 bit (còn được gọi là khối-5) có chính xác hai bit có giá trị bằng 1. Máy tính có thể nhận ra là dữ liệu nhập vào có lỗi nếu trong một khối 5 bit không 2 bit có giá trị bằng 1. Tuy thế, mã hai-trong-năm cũng chỉ có thể phát hiện được một đơn vị bit mà thôi; nếu trong cùng một khối, một bit bị lộn ngược thành giá trị 1, và một bit khác bị lộn ngược thành giá trị 0, quy luật hai-trong-năm vẫn cho một giá trị đúng (remained true), và do đó nó không phát hiện là có lỗi xảy ra. Tái diễn dữ liệu Một mã nữa được dùng trong thời gian này là mã hoạt động bằng cách nhắc đi nhắc lại bit dữ liệu vài lần (tái diễn bit được truyền) để đảm bảo bit dữ liệu được truyền, truyền đến nơi nhận trọn vẹn. Chẳng hạn, nếu bit dữ liệu cần được truyền có giá trị bằng 1, một mã tái diễn n=3 sẽ cho truyền gửi giá trị "111". Nếu ba bit nhận được không giống nhau, thì hiện trạng này báo cho ta biết rằng, lỗi trong truyền thông đã xảy ra. Nếu kênh truyền không bị nhiễu, tương đối đảm bảo, thì với hầu hết các lần truyền, trong nhóm ba bit được gửi, chỉ có một bit là bị thay đổi. Do đó các nhóm 001, 010, và 100 đều tương đương cho một bit có giá trị 0, và các nhóm 110, 101, và 011 đều tương đương cho một bit có giá trị 1 - lưu ý số lượng bit có giá trị 0 trong các nhóm được coi là có giá trị 0, là đa số so với tổng số bit trong nhóm, hay 2 trong 3 bit, tương đương như vậy, các nhóm được coi là giá trị 1 có số lượng bit bằng 1 nhiều hơn là các bit có giá trị 0 trong nhóm - chẳng khác gì việc các nhóm bit được đối xử như là "các phiếu bầu" cho bit dữ liệu gốc vậy. Một mã có khả năng tái dựng lại thông điệp gốc trong một môi trường nhiễu lỗi được gọi là mã "sửa lỗi" (error-correcting code). Tuy nhiên, những mã này không thể sửa tất cả các lỗi một cách đúng đắn hoàn toàn. Chẳng hạn chúng ta có một ví dụ sau: nếu một kênh truyền đảo ngược hai bit và do đó máy nhận thu được giá trị "001", hệ thống máy sẽ phát hiện là có lỗi xảy ra, song lại kết luận rằng bit dữ liệu gốc là bit có giá trị bằng 0. Đây là một kết luận sai lầm. Nếu chúng ta tăng số lần các bit được nhắc lại lên 4 lần, chúng ta có thể phát hiện tất cả các trường hợp khi 2 bit bị lỗi, song chúng ta không thể sửa chữa chúng được (số phiếu bầu "hòa"); với số lần nhắc lại là 5 lần, chúng ta có thể sửa chữa tất cả các trường hợp 2 bit bị lỗi, song không thể phát hiện ra các trường hợp 3 bit bị lỗi. Nói chung, mã tái diễn là một mã hết sức không hiệu quả, giảm công suất xuống 3 lần so với trường hợp đầu tiên trong ví dụ trên của chúng ta, và công suất làm việc giảm xuống một cách nhanh chóng nếu chúng ta tăng số lần các bit được nhắc lại với mục đích để sửa nhiều lỗi hơn. Càng nhiều bit sửa lỗi thêm vào trong thông điệp, và các bit ấy được bố trí theo một cách là mỗi bỗ trí của nhóm các bit bị lỗi tạo nên một hình thái lỗi riêng biệt, thì chúng ta có thể xác định được những bit bị sai. Trong một thông điệp dài 7-bit, chúng ta có 7 khả năng một bit có thể bị lỗi, như vậy, chỉ cần 3 bit kiểm tra (23 = 8) là chúng ta có thể, không những chỉ xác định được là lỗi trong truyền thông có xảy ra hay không, mà còn có thể xác định được bit nào là bit bị lỗi. Hamming nghiên cứu các kế hoạch mã hóa hiện có, bao gồm cả mã hai-trong-năm, rồi tổng quát hóa khái niệm của chúng. Khởi đầu, ông xây dựng một danh mục (nomenclature) để diễn tả hệ thống máy, bao gồm cả số lượng bit dùng cho dữ liệu và các bit sửa lỗi trong một khối. Chẳng hạn, bit chẵn lẻ phải thêm 1 bit vào trong mỗi từ dữ liệu (data word). Hamming diễn tả phương pháp này là mã (8,7). Nó có nghĩa là một từ dữ liệu có tổng số bit là 8 bit, trong đó chỉ có 7 bit là các bit của dữ liệu mà thôi. Theo phương pháp suy nghĩ này, mã tái diễn (nhắc lại) ở trên phải được gọi là mã (3,1). Tỷ lệ thông tin là tỷ lệ được tính bằng việc lấy con số thứ hai chia cho con số thứ nhất. Như vậy với mã tái diễn (3,1) ở trên, tỷ lệ thông tin của nó là . Hamming còn phát hiện ra nan đề với việc đảo giá trị của hai hoặc hơn hai bit nữa, và miêu tả nó là "khoảng cách" (distance) (hiện nay nó được gọi là khoảng cách Hamming (Hamming distance) - theo cái tên của ông). Mã chẵn lẻ có khoảng cách bằng 2, vì nếu có 2 bit bị đảo ngược thì lỗi trong truyền thông trở nên vô hình, không phát hiện được. Mã tái diễn (3,1) có khoảng cách là 3, vì 3 bit, trong cùng một bộ ba, phải bị đổi ngược trước khi chúng ta được một từ mã khác. Mã tái diễn (4,1) (mỗi bit được nhắc lại 4 lần) có khoảng cách bằng 4, nên nếu 2 bit trong cùng một nhóm bị đảo ngược thì lỗi đảo ngược này sẽ đi thoát mà không bị phát hiện. Cùng một lúc, Hamming quan tâm đến hai vấn đề; tăng khoảng cách và đồng thời tăng tỷ lệ thông tin lên, càng nhiều càng tốt. Trong những năm thuộc niên kỷ 1940, ông đã xây dựng một số kế hoạch mã hóa. Những kế hoạch này đều dựa trên những mã đang tồn tại song được nâng cấp và tiến bộ một cách sâu sắc. Bí quyết chìa khóa cho tất cả các hệ thống của ông là việc cho các bit chẵn lẻ gối lên nhau (overlap), sao cho chúng có khả năng tự kiểm tra lẫn nhau trong khi cùng kiểm tra được dữ liệu nữa. Thuật toán cho việc sử dụng bit chẵn lẻ trong 'mã Hamming' thông thường cũng tương đối đơn giản: Tất cả các bit ở vị trí là các số mũ của 2 (powers of two) được dùng làm bit chẵn lẻ. (các vị trí như 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64 v.v. hay nói cách khác 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 v.v.) Tất cả các vị trí bit khác được dùng cho dữ liệu sẽ được mã hóa. (các vị trí 3, 5, 6, 7, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 17, etc.) Mỗi bit chẵn lẻ tính giá trị chẵn lẻ cho một số bit trong từ mã (code word). Vị trí của bit chẵn lẻ quyết định chuỗi các bit mà nó luân phiên kiểm tra và bỏ qua (skips). Vị trí 1 (n=1): bỏ qua 0 bit(n-1), kiểm 1 bit(n), bỏ qua 1 bit(n), kiểm 1 bit(n), bỏ qua 1 bit(n), v.v. Vị trí 2(n=2): bỏ qua 1 bit(n-1), kiểm 2 bit(n), bỏ qua 2 bit(n), kiểm 2 bit(n), bỏ qua 2 bit(n), v.v. Vị trí 4(n=4): bỏ qua 3 bit(n-1), kiểm 4 bit(n), bỏ qua 4 bit(n), kiểm 4 bit(n), bỏ qua 4 bit(n), v.v. Vị trí 8(n=8): bỏ qua 7 bit(n-1), kiểm 8 bit(n), bỏ qua 8 bit(n), kiểm 8 bit(n), bỏ qua 8 bit(n), v.v. Vị trí 16(n=16): bỏ qua 15 bit(n-1), kiểm 16 bit(n), bỏ qua 16 bit(n), kiểm 16 bit(n), bỏ qua 16 bit(n), v.v. Vị trí 32(n=32): bỏ qua 31 bit(n-1), kiểm 32 bit(n), bỏ qua 32 bit(n), kiểm 32 bit(n), bỏ qua 32 bit(n), v.v. và tiếp tục như trên. Nói cách khác, bit chẵn lẻ tại vị trí 2k kiểm các bit ở các bit ở vị trí t có giá trị logic của phép toán AND giữa k và t là khác 0 Ví dụ dùng (11,7) mã Hamming Lấy ví dụ chúng ta có một từ dữ liệu dài 7 bit với giá trị là "0110101". Để chứng minh phương pháp các mã Hamming được tính toán và được sử dụng để kiểm tra lỗi, xin xem bảng liệt kê dưới đây. Chữ d (data) được dùng để biểu thị các bit dữ liệu và chữ p (parity) để biểu thị các bit chẵn lẻ (parity bits). Đầu tiên, các bit của dữ liệu được đặt vào vị trí tương thích của chúng, sau đó các bit chẵn lẻ cho mỗi trường hợp được tính toán dùng quy luật bit chẵn lẻ số chẵn. {| class="wikitable" |+ align="bottom"|Cách tính các bit chẵn lẻ trong mã Hamming (từ trái sang phải) |- style="background-color: #999999" !Thứ tự bit !1!!2!!3!!4!!5!!6!!7!!8!!9!!10!!11 |- !Vị trí bit chẵn lẻ và các bit dữ liệu!!p1!!p2!!d1!!p4!!d2!!d3!!d4!!p8!!d5!!d6!!d7 |- style="background-color: #CCCCCC" !Nhóm dữ liệu (không có bit chẵn lẻ):!!!!!!0!!!!1!!1!!0!!!!1!!0!!1 |- !p1 |1|| ||0|| ||1|| ||0|| ||1|| ||1 |- !p2 | ||0||0|| || ||1||0|| || ||0||1 |- !p4 | || || ||0||1||1||0|| || || || |- !p8 | || || || || || || ||0||1||0||1 |- style="background-color: #CCCCCC" !Nhóm dữ liệu (với bit chẵn lẻ): |1||0||0||0||1||1||0||0||1||0||1 |} Nhóm dữ liệu mới (new data word) - bao gồm các bit chẵn lẻ - bây giờ là "10001100101". Nếu chúng ta thử cho rằng bit cuối cùng bị thoái hóa (gets corrupted) và bị lộn ngược từ 1 sang 0. Nhóm dữ liệu mới sẽ là "10001100100"; Dưới đây, chúng ta sẽ phân tích quy luật kiến tạo mã Hamming bằng cách cho bit chẵn lẻ giá trị 1 khi kết quả kiểm tra dùng quy luật số chẵn bị sai. {| class="wikitable" |+ align="bottom"|Kiểm tra các bit chẵn lẻ (bit bị đảo lộn có nền thẫm) !Thứ tự bit !1!!2!!3!!4!!5!!6!!7!!8!!9!!10!!11 |- !Vị trí bit chẵn lẻ và các bit dữ liệu !p1!!p2!!d1!!p3!!d2!!d3!!d4!!p4!!d5!!d6!!d7!!Kiểm chẵn lẻ!!Bit chẵn lẻ |- style="background-color: #CCCCCC" !Nhóm dữ liệu nhận được:!!1!!0!!0!!0!!1!!1!!0!!0!!1!!0!!0!!1!! |- !p1 |1|| ||0|| ||1|| ||0|| ||1|| || style="background-color: #DDDDDD"|0||Sai||1 |- !p2 | ||0||0|| || ||1||0|| || ||0|| style="background-color: #DDDDDD"|0||Sai||1 |- !p4 | || || ||0||1||1||0|| || || || ||Đúng||0 |- !p8 | || || || || || || ||0||1||0|| style="background-color: #DDDDDD"|0||Sai||1 |} chỉ số pk với k=2 mũ 0,1,2,3...m(p1 là lấy 1 bỏ 1, p2 là lấy 2 bỏ 2, p4 lấy 4 bỏ 4) Bước cuối cùng là định giá trị của các bit chẵn lẻ (nên nhớ bit nằm dưới cùng được viết về bên phải - viết ngược lại từ dưới lên trên). Giá trị số nguyên của các bit chẵn lẻ là 11(10), và như vậy có nghĩa là bit thứ 11 trong nhóm dữ liệu (data word) - bao gồm cả các bit chẵn lẻ - là bit có giá trị không đúng, và bit này cần phải đổi ngược lại. {| class="wikitable" |- !!!p8!!p4!!p2!!p1!! |- !Nhị phân |1||0||1||1|| |- !Thập phân !8!!!!2!!1!!Σ = 11 |} Việc đổi ngược giá trị của bit thứ 11 làm cho nhóm 10001100100 trở lại thành 10001100101. Bằng việc bỏ đi phần mã Hamming, chúng ta lấy được phần dữ liệu gốc với giá trị là 0110101. Lưu ý, các bit chẵn lẻ không kiểm tra được lẫn nhau, nếu chỉ một bit chẵn lẻ bị sai thôi, trong khi tất cả các bit khác là đúng, thì chỉ có bit chẵn lẻ nói đến là sai mà thôi và không phải là các bit nó kiểm tra (not any bit it checks). Cuối cùng, giả sử có hai bit biến đổi, tại vị trí x và y. Nếu x và y có cùng một bit tại vị trí 2k trong đại diện nhị phân của chúng, thì bit chẵn lẻ tương ứng với vị trí đấy kiểm tra cả hai bit, và do đó sẽ giữ nguyên giá trị, không thay đổi. Song một số bit chẵn lẻ nào đấy nhất định phải bị thay đổi, vì x ≠ y, và do đó hai bit tương ứng nào đó có giá trị x và y khác nhau. Do vậy, mã Hamming phát hiện tất cả các lỗi do hai bit bị thay đổi — song nó không phân biệt được chúng với các lỗi do 1 bit bị thay đổi. Mã Hamming (7,4) Hiện thời, khi nói đến mã Hamming chúng ta thực ra là muốn nói đến mã (7,4) mà Hamming công bố năm 1950. Với mỗi nhóm 4 bit dữ liệu, mã Hamming thêm 3 bit kiểm tra. Thuật toán (7,4) của Hamming có thể sửa chữa bất cứ một bit lỗi nào, và phát hiện tất cả lỗi của 1 bit, và các lỗi của 2 bit gây ra. Điều này có nghĩa là đối với tất cả các phương tiện truyền thông không có chùm lỗi đột phát (burst errors) xảy ra, mã (7,4) của Hamming rất có hiệu quả (trừ phi phương tiện truyền thông có độ nhiễu rất cao thì nó mới có thể gây cho 2 bit trong số 7 bit truyền bị đảo lộn). Ví dụ về cách dùng các ma trận thông qua GF(2) Nguyên lý của mã Hamming bắt nguồn từ việc khai triển và mở rộng quan điểm chẵn lẻ. Việc khai triển này bắt đầu bằng việc nhân các ma trận, được gọi là Ma trận Hamming (Hamming matrices), với nhau. Đối với mã Hamming (7,4), chúng ta sử dụng hai mã trận có liên quan gần gũi, và đặt tên cho chúng là: và Các cột vectơ trong là nền tảng hạch của và phần trên của (4 hàng đầu) là một ma trận đơn vị (identity matrix). Ma trận đơn vị cho phép vectơ dữ liệu đi qua trong khi làm tính nhân, và như vậy, các bit dữ liệu sẽ nằm ở 4 vị trí trên cùng (sau khi nhân). Sau khi phép nhân hoàn thành, khác với cách giải thích ở phần trước (các bit chẵn lẻ nằm ở vị trí 2k), trật tự của các bit trong từ mã (codewords) ở đây khác với cách bố trí đã nói (các bit dữ liệu nằm ở trên, các bit kiểm chẵn lẻ nằm ở dưới). Chúng ta dùng một nhóm 4 bit dữ liệu (số 4 trong cái tên của mã là vì vậy) chủ chốt, và cộng thêm vào đó 3 bit dữ liệu thừa (vì 4+3=7 nên mới có số 7 trong cái tên của mã). Để truyền gửi dữ liệu, chúng ta hãy nhóm các bit dữ liệu mà mình muốn gửi thành một vectơ. Lấy ví dụ, nếu dữ liệu là "1011" thì vectơ của nó là: Giả sử, chúng ta muốn truyền gửi dữ liệu trên. Chúng ta tìm tích của và p, với các giá trị môđulô 2 : Máy thu sẽ nhân với r, để kiểm tra xem có lỗi xảy ra hay không. Thi hành tính nhân này, máy thu được (một lần nữa, các giá trị đồng dư môđulô 2): Vì chúng ta được một vectơ toàn số không cho nên máy thu có thể kết luận là không có lỗi xảy ra Sở dĩ một vectơ toàn số không có nghĩa là không có lỗi, bởi vì khi được nhân với vectơ dữ liệu, một sự thay đổi trong nền tảng xảy ra đối với không gian bên trong vectơ (vector subspace), tức là hạch của . Nếu không có vấn đề gì xảy ra trong khi truyền thông, r sẽ nằm nguyên trong hạch của và phép nhân sẽ cho kết quả một vectơ toàn số không. Trong một trường hợp khác, nếu chúng ta giả sử là lỗi một bit đã xảy ra. Trong toán học, chúng ta có thể viết: môđulô 2, trong đó ei là vectơ đơn vị đứng thứ i (ith unit vector), có nghĩa là, một vectơ số 0 có một giá trị một trong vị trí i (tính từ 1 tính đi). Biểu thức trên nói cho chúng ta biết rằng có một bit bị lỗi tại vị trí i. Nếu bây giờ chúng ta nhân với cả hai vectơ này: Vì r là dữ liệu thu nhận được không có lỗi, cho nên tích của và r bằng 0. Do đó Vậy, tích của với vectơ nền chuẩn tại cột thứ i (the ith standard basis vector) làm lộ ra cột ở trong , vì thế mà chúng ta biết rằng lỗi đã xảy ra tại vị trí cột này trong . Vì chúng ta đã kiến tạo dưới một hình thức nhất định, cho nên chúng ta có thể hiểu giá trị của cột này như một số nhị phân - ví dụ, (1,0,1) là một cột trong , tương đồng giá trị với cột thứ 5, do đó chúng ta biết lỗi xảy ra ở đâu và có thể sửa được nó. Lấy ví dụ, giả sử chúng ta có: Nếu thi hành phép nhân: Tích của phép nhân cho chúng ta một kết quả tương đương với cột thứ 2 ("010" tương đương với giá trị 2 trong số thập phân), và do đó, chúng ta biết rằng lỗi đã xảy ra ở vị trí thứ 2 trong hàng dữ liệu, và vì vậy có thể sửa được lỗi. Chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng, việc sửa lỗi do 1 bit bị đảo lộn gây ra, dùng phương pháp trên là một việc thực hiện được. Bên cạnh đó, mã Hamming còn có thể phát hiện lỗi do 1 bit hoặc 2 bit bị đảo lộn gây ra, dùng tích của khi tích này không cho một vectơ số không. Tuy thế, song mã Hamming không thể hoàn thành cả hai việc. Mã Hamming và bit chẵn lẻ bổ sung Nếu chúng ta bổ sung thêm một bit vào mã Hamming, thì mã này có thể dùng để phát hiện những lỗi gây ra do 2 bit bị lỗi, và đồng thời nó không cản trở việc sửa các lỗi do một bit gây ra. Nếu không bổ sung một bit vào thêm, thì mã này có thể phát hiện các lỗi do một bit, hai bit, ba bit gây ra, song nó sẽ cản trở việc sửa các lỗi do một bit bị đảo lộn. Bit bổ sung là bit được áp dụng cho tất cả các bit sau khi tất cả các bit kiểm của mã Hamming đã được thêm vào. Khi sử dụng tính sửa lỗi của mã, nếu lỗi ở một bit chẵn lẻ bị phát hiện và mã Hamming báo hiệu là có lỗi xảy ra thì chúng ta có thể sửa lỗi này, song nếu chúng ta không phát hiện được lỗi trong bit chẵn lẻ, nhưng mã Hamming báo hiệu là có lỗi xảy ra, thì chúng ta có thể cho rằng lỗi này là do 2 bit bị đổi cùng một lúc. Tuy chúng ta phát hiện được nó, nhưng không thể sửa lỗi được. Ghi chú
Bài này viết về một loại vũ khí. Xem thêm các bài nghĩa khác ở cung (định hướng) Cung là một loại vũ khí tầm xa cổ xưa và hiệu quả. Con người phát minh ra cung từ thời đồ đá và sử dụng chúng trên khắp thế giới cho đến tận thế kỷ 19 khi chúng bị thay thế bởi súng. Cấu tạo cung rất đơn giản, gồm cánh cung, dây cung và đạn là mũi tên. Ban đầu, cánh cung và mũi tên được làm bằng các vật liệu như tre, gỗ...; dây cung được bện bằng da, gân thú, dây leo... Phân loại Cung ngắn: xuất hiện từ thời cổ đại, những cây cung đầu tiên xuất hiện tại thung lũng Ahrensburg, Hamburg, Đức cách ngày nay hơn 1 vạn năm.Cùng với lao và nỏ, nó là vũ khí tầm xa chính được sử dụng trong săn bắn và trên chiến trường. Tầm bắn cung ngắn chỉ đạt 30 m và dùng mũi tên ngắn. Cung trung bình: những cây cung ngắn đã giúp con người săn bắn thuận tiện hơn nhưng với tầm bắn quá ngắn chúng vẫn khiến người thợ săn gặp nguy hiểm.Hơn nữa khi thời kì đồ đá kết thúc, các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc bắt đầu xảy ra thường xuyên dẫn đến vũ khí ngày càng được cải tiến. Cải tiến đầu tiên đối với các cây cung là kéo dài cung ra(cả cánh cung và dây cung)giúp cho cung kéo được nhiều hơn, lực bắn mạnh hơn và đi xa hơn.Cung trung bình xuất hiện sớm nhất khoảng 3300 năm trước công nguyên ở vùng núi Alps sau đó được phổ biến sử dụng ở nhiều nơi như Ai Cập, đảo Crete, châu Á. Cung liên hợp (Composite bows):Được phát minh ra bởi người Ai Cập, đến thời Xuân Thu-Chiến Quốc khoảng thế kỉ 4 TCN người Trung Quốc cũng có loại cung này. Sở dĩ nó có tên gọi này vì cung được chế tạo từ vài loại vật liệu trộn lại chứ không đơn thuần dùng một thanh gỗ hay một cặp sừng để làm cánh cung như trước nữa. Thông thường,một cây cung được trộn từ gỗ, sừng, gân và có thể có thêm một số loại vật liệu khác. Do vật liệu làm cung, kĩ thuật làm cung có thể rất khác nhau nên tầm bắn của các loại cung hỗn hợp ở các địa phương và cũng bởi lý do này mà nhiều cây cung phức hợp đặc trưng cho một dân tộc xuất hiện. Nó dài hơn cung ngắn nhưng chưa dài bằng cung lớn. Chiều dài mũi tên có thể từ 48 cm (của người Túc Thận), thậm chí lên đến gần 138 cm (của người Ấn Độ). Cung dài (còn gọi là cung lớn, cung chiến hay trường cung): xuất hiện vào thời Trung cổ, có thể đưa tầm bắn của mũi tên mang đầu bọc thép đạt tới 90 m (với tầm bắn thẳng). Cung Anh bắn cầu vồng đạt trên 200 yard (183m) và thậm chí lên tới 400 yard (366m) với tên nhẹ. Ở châu Âu, nó thường làm bằng một thanh gỗ duy nhất và có bề rộng chừng một sải tay, tức là cũng bằng chiều cao của người bắn cung. Các loại cung châu Á lại thường có 3 đoạn cong. Ở Nhật Bản, cung chiến thường làm bằng tre và gỗ kết hợp lại, dài hơn người. Ở Mông Cổ, cung làm bằng gỗ, sừng, gân, da. Đầu mũi tên có nhiều hình dáng khác nhau, thường được bịt thép, có thể có ngạnh và tẩm độc. Việt Nam thời nhà Trần sử dụng gỗ tư lũy cứng, cho vào nước trăm năm không mục làm cung nỏ, là "tốt nhất thiên hạ" (Chu Khứ Phi, Lĩnh Ngoại Đại Đáp) Cung phức hợp trong lịch sử Kể từ khi cung phức hợp xuất hiện,nó đã mang lại nhiều hiệu quả trong chiến tranh.Những loại cung phức hợp mạnh như cung La Mã, cung Thổ trở thành những vũ khí công thành tốt và tiện dụng. Ngoài ra, nó còn là vũ khí phòng thủ tốt nhất trên các tường thành. Trước khi người La Mã bắt đầu sử dụng cung thủ phổ biến từ sau công nguyên,cung Scythan là cây cung mạnh nhất.Dù chỉ dài chừng 80–90 cm nhưng nó có thể bắn 1 mũi tên đi 350 m.Sau cung Scythan,cung La Mã giúp cho người La Mã bảo vệ đế chế trong một thời gian dài.Arrian - một học giả La Mã từng phục vụ cho quân đội La Mã ghi lại rằng họ dùng các cung thủ và ballista chống lại người Alan.Tuy nhiên,từ khoảng thế kỉ 13 đến cuối thời Trung Cổ,lần lượt cung Mông Cổ,cung Anh,cung Thổ xuất hiện và tạo nên những ưu thế rõ rệt trên chiến trường,người Thổ với ưu thế tuyệt đối về vũ khí tầm xa đã tiêu diệt Đế chế La Mã trong cuộc vây hãm thành Constantinople năm 1453. Ở khu vực Đông Á,cung Hàn và cung của các bộ tộc sống gần bán đảo Triều Tiên được coi là loại cung tốt nhất.Nó tạo ra ưu thế của bộ binh các nước này so với bộ binh Trung Quốc trong suốt một thời gian dài.Các học giả từ thời Hán đến thời Đường đã ca ngợi cung Hàn.Lợi thế về cung thủ của người Hàn mất dần đi và đến thời Minh,sau khi người Trung Quốc cải tiến cung của mình theo kiểu cung Mông Cổ,chúng đã mạnh hơn cả cung Hàn và nỏ cầm tay.Người Nhật cũng cải tiến cây cung của mình và đến cuối thế kỉ 16,họ chuyển sang dùng súng thì cung Hàn đã hoàn toàn mất vị thế của mình. Tầm bắn Cách tính tầm bắn: các tài liệu cổ thường được ghi chép từ rất lâu rồi nên dữ liệu thường không đầy đủ, hơn nữa rất hiếm học giả nào ghi chép tỉ mỉ đặc tính của một cây cung. Do vậy, các nhà nghiên cứu sử dụng thêm một số kết quả từ thực nghiệm để lấy được kết quả cần thiết. Tầm bắn của cung thường được chia ra thành: Tầm bắn chính xác: là tầm bắn mà một cung thủ thành thục có thể bắn chính xác một mục tiêu. Ở tầm bắn tỉ lệ bắn trúng đích từ 50 - 100%. Tầm bắn hiệu quả (hay tầm bắn sát thương): là tầm bắn mà cung thủ có khả năng bắn trúng và gây sát thương cho kẻ thù. Tỉ lệ các mũi tên bắn trúng đích ở tầm bắn này là 30 - 50%. Tuy nhiên, một cung thủ lão luyện vẫn có thể bắn chính xác ở tầm bắn này. Tầm bắn hiệu quả thường bằng một nửa tầm bắn cực đại (hay tầm bắn tối đa) đối với mũi tên nhẹ và thậm chí có thể lên đến 85% với mũi tên nặng. Khi cung thủ đứng xa hơn tầm bắn hiệu quả, khả năng trúng đích và gây sát thương được cho là không đáng kể (dưới 30%). Tỉ lệ này ở những loại súng cầm tay tốt nhất không vượt quá một phần ba với bất cứ loại đạn nào. Tầm bắn cực đại (đường bay): là tầm bay xa nhất của một mũi tên tuy nhiên khi bắn ở tầm này cung tên hầu như không còn khả năng sát thương nữa. Ở một số dân tộc như người Viking, nó còn được dùng làm đơn vị đo. Tầm bắn của những cây cung thường được các tác giả nghiên cứu về quân sự ghi lại, tuy nhiên có những thời gian thông tin này không được quan tâm ghi chép mấy. Dưới đây là một số tài liệu cổ đề cập đến tầm bắn của cung tên: Trong cuốn "De Re Militari" viết vào cuối thế kỉ 4, Vegetius viết: Trong Thông điển, Đỗ Hựu ghi lại: Cuốn sách viết về quân sự thế kỉ 9 của Hoàng Đế Byzantine Leon VI,"Taktika", chương 16 "Trong những ngày chiến đấu" viết: 150 pes Hy Lạp = 46,2 m, 1000 uncia = 24,6 m. Tổng chiều dài tầm bắn tập luyện của kị binh Byzantine là khoảng 70 m. Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo, phần ″Phép bố trận tác chiến" cũng ghi lại tầm bắn của cung nỏ: Thời Lý - Trần nước ta sử dụng hệ đo lường giống nhà Tống, trong hệ đo lường này 1 bước = 1,5 m. Trong quyển Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, phần Binh chế chí,quyển 3 chép: Tài liệu duy nhất ấn định chiều dài của 1 bước(hay ngũ) ở Bắc Bộ cuối thời Trung Đại là sắc lệnh của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ngày 2 tháng 6 năm 1897 với giá trị của 1 bước = 2 m và là tài liệu phù hợp nhất để tính tầm bắn luyện tập của các cung thủ của vua Lê - chúa Trịnh. Cung ngắn thường chỉ hiệu quả trong khoảng 30 m, cung trung bình có thể nâng tầm bắn lên 50 – 90 m nhưng cung phức hợp và trường cung- những loại cung được chế biến tinh xảo ở trình độ cao mới là những loại cung có thể bắn xa nhất.Trong tác phẩm Henry IV, đại văn hào Shakespeare mô tả một người lính bắn cung Anh chính xác tới cự li 290 yard(263 m).Cung phức hợp rất đa dạng, có những loại cung khá yếu như cung kị Byzantine, chỉ bắn một mũi tên dài khoảng 70 cm đi 70 m, nhưng cung Thổ - loại cung mạnh nhất hiện nay có thể đưa 1 mũi tên đi xa tới 1000 gez(883 m) và tầm bắn hiệu quả lên đến 400 m, ngang ngửa với súng AK. Đây là bảng tổng kết tầm bắn hiệu quả của một số loại cung (đa số là cung phức hợp): Cung thủ Trong khi tại châu Âu một hiệp sĩ coi việc sử dụng cung tên khi lâm trận là không xứng với tư cách của mình thì ở châu Á nhiều võ sĩ, tướng lĩnh lại là các cung thủ cừ khôi.
Masada ( , "pháo đài") nguyên là một pháo đài của người Do Thái nằm trong nước Israel, về phía tây nam của Biển Chết. Pháo đài này phần lớn là do vua Herod Đại đế (Herod I) xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 40 TCN đến 30 TCN trên một pháo đài nhỏ hơn đã có trước đó nhiều thập niên. Thời đấy pháo đài được xem là bất khả xâm phạm. Nằm trên một vùng đất cao có vách đá thẳng đứng, pháo đài chỉ có ba con đường mòn để đi lên. Về phía đông pháo đài nằm ở độ cao 400 mét so với Biển Chết, về phía tây dốc có độ cao là 100 mét. Chỉ nhờ vào vị trí và tầm nhìn bao quát, mảnh đất rộng 300 m × 600 m có hình thoi này đã có thể được phòng thủ rất tốt. Vua Herod I cho xây dựng hòn núi này thành một pháo đài: bao bọc lấy vùng đất cao này là một đường hầm công sự chắc chắn với đến gần 40 tháp. Bên trong bức tường thành là nhiều công trình xây dựng như nhà kho, chuồng ngựa, nhà ở và lâu đài, trong đó có Cung điện Bắc có nhiều bậc được xây bằng cách khoét vào vách núi. Ngoài ra, để có thể phòng thủ được lâu dài trong trường hợp bị vây hãm, trong pháo đài có nhiều kho dự trữ lương thực và 12 bể nước có thể chứa hằng chục ngàn mét khối nước mưa. Cuộc vây hãm Vài thập niên sau khi vua Herod chết (năm 4 TCN), pháo đài bị vây hãm lần đầu tiên trong cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại quân đội La Mã chiếm đóng vào khoảng năm 70 sau Công Nguyên. Nhà sử học người La Mã gốc Do Thái Flavius Josephus đã lưu truyền lại câu chuyện vây hãm pháo đài Masada trong tác phẩm "Cuộc chiến tranh Do Thái" của ông. Theo đó, trong thời gian từ năm 70 đến 73, sau khi đền thờ tại Jerusalem bị phá hủy, 973 người của phong trào Zelot đã chống cự lại lực lượng hùng mạnh 15.000 người lính La Mã dưới sự chỉ huy của Flavius Silva trong pháo đài Masada. Đầu tiên, vị tướng lãnh cho xây một bức tường dài hơn 4 km bao bọc chung quanh ngọn núi để chia cắt những người bị vây hãm với bên ngoài và cho dựng tổng cộng đến 8 doanh trại quân sự mà ngày nay di tích vẫn còn trông thấy được. Tiếp theo đó, người La Mã đắp một bệ đất cao đến tận tường thành về phía tây của pháo đài, là nơi thấp hơn. Qua bệ đất này họ đưa nhiều vũ khí phá thành đến gần pháo đài và cuối cùng đã phá được bức thành lũy bảo vệ. Theo tường thuật của Flavius Josephus, trong hoàn cảnh tuyệt vọng này những người bị vây hãm đã quyết định chết như những người tự do chứ không chịu để người La Mã bắt giữ. Khi quân lính Lã Mã xông vào thành họ chỉ còn tìm thấy hai người phụ nữ và năm trẻ em còn sống. Tất cả những người khác trong pháo đài đã chọn con đường tự sát. Nhờ vào truyền thuyết này Masada đã trở thành biểu tượng cho lòng mong muốn tự do của người Do Thái. Masada hiện nay Sau khi thất thủ, pháo đài Masada bị bỏ hoang, ngoại trừ thời gian một số tu sĩ của Đế quốc Byzantine đã tạm thời cư ngụ tại đấy. Pháo đài bị quên lãng mãi cho đến năm 1838 mới được tái khám phá và sau đấy chủ yếu là được khai quật trong thập niên 1960 dưới sự chỉ huy của Yigael Yadin. Mặc dù Masada đã bị quên lãng trong một thời gian dài và ngoài ra độ tin cậy từ những tường thuật của Flavius Josephus vẫn còn trong tranh cãi nhưng truyền thuyết này đã có nhiều tác động lớn. Những sự việc xảy ra chung quanh pháo đài Masada có ảnh hưởng lớn đến sự tự nhận thức của quân đội Israel. Cuộc diễn tập cuối cùng trong khóa đào tạo tân binh chấm dứt sau 2 ngày trên pháo đài. Trong lời thề của chiến sĩ, pháo đài đã trở thành biểu tượng cho ý chí tự khẳng định của người Do Thái: "Masada không bao giờ lại thất thủ." Ngày nay Masada là một điểm đến quan trọng cho khách du lịch viếng thăm Biển Chết, sa mạc Negev và ốc đảo En Gedi gần đó. Năm 2001 Masada được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Media
Worms có thể là: Một thành phố ở Đức: Worms (thành phố) Một giáo khu Công giáo: Giáo khu Worms Một trò chơi máy tính: Worms (trò chơi máy tính) và cũng có thể là tên của Bernhard Worms: Chính trị gia Đức Jules Worms: họa sĩ Pháp Viktor Worms: người điều khiển chương trình truyền hình người Đức
Nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn hay SATP (viết tắt của Standard ambient temperature and pressure trong tiếng Anh) hoặc STP là các điều kiện vật lý tiêu chuẩn để thực hiện các đo lường trong thí nghiệm, cho phép so sánh giữa các bộ kết quả thí nghiệm. Trên thế giới, STP hiện do IUPAC (Liên minh quốc tế về hóa học thuần túy và ứng dụng) định nghĩa là giá trị quy ước có trị số nhiệt độ 298K ( độ C) và áp suất là 100 kPa (1 bar). Nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn cũng thường được gọi là điều kiện tiêu chuẩn (đktc). Điều kiện tiêu chuẩn còn có thể bao hàm cả độ ẩm tương đối tiêu chuẩn. Có nhiều định nghĩa cũng đang được dùng bởi các tổ chức khác về điều kiện tiêu chuẩn (xem bảng bên dưới); trong đó đôi khi khái niệm nhiệt độ phòng (khoảng 25 độ C) được sử dụng thay cho 0 độ C. Chú thích: 101,325 kPa = 1 atmosphere (atm) = 1,01325 bar ≈ 14,696 psi 100 kPa = 1 bar ≈ 14,504 psi = 14,504 lbf/in2 14,504 psi ≈ 750 mmHg ≈ 100 kPa = 1 bar 14,696 psi ≈ 1 atm = 101,325 kPa 14,73 psi ≈ 30 inHg ≈ 1,0156 bar ≈ 101,560 kPa 59 °F = 15 °C 60 °F ≈ 15,6 °C khô = 0% độ ẩm tương đối Chú thích Nhiệt động lực học khí quyển Khí động lực học Kỹ thuật nhiệt động lực học Chất khí Đo lường Hóa lý Tiêu chuẩn Nhiệt động lực học
Mi thứ (viết tắt là Em) là một cung thứ dựa trên nốt Mi, bao gồm các nốt nhạc Mi (E), Fa thăng (F), Sol (G), La (A), Si (B), Đô (C), Rê (D) và Mi (E). Bộ khóa của nó có 1 dấu thăng. Trùng với cung Mi thứ là cung Fa giáng thứ (viết tắt là F♭m), bao gồm các nốt nhạc Fa giáng (F♭), Sol giáng (G), La giáng kép (A), Si giáng kép (B), Đô giáng (C), Rê giáng kép (D), Mi giáng kép (E) và Fa giáng (F♭). Bộ khóa của nó có 3 dấu giáng và 4 dấu giáng kép. Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Son trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Mi trưởng. Cung Mi thứ hay được sử dụng trong các tác phẩm viết cho Ghi ta. Cung Mi thứ còn được mệnh danh là "nữ chúa của nhạc buồn". Tác phẩm nổi tiếng ở cung này Giao hưởng số 5 - Tchaikovsky Giao hưởng số 4 -Johannes Brahms New World Symphony -Antonín Dvořák Giao hưởng số 2 -Sergei Rachmaninov Giao hưởng số 7 -Gustav Mahler Concerto cho Piano số 1 -Frédéric Chopin Concerto cho Violon -Felix Mendelssohn Concerto cho Cello -Edward Elgar Caprice số 5 - Nicolo Paganini Vocalise Op. 34 số 14 -Sergei Rachmaninov Étude in E minor op.25 no.5 - Frédéric Chopin Các tác phẩm viết ở cung này The "James Bond Theme" "Hey You" - Pink Floyd "Heart of Gold"- Neil Young "Seven Nation Army" - The White Stripes "Play That Funky Music"- Wild Cherry (cũng có ở Sol thứ) Shimmer - Fuel "Nothing Else Matters" - Metallica Buffy The Vampire Slayer Theme - Nerf Herder Doctor Who theme music - Ron Grainer The "Pink Panther Theme" - Henri Mancini "Working Class Hero" - John Lennon "Lắng Nghe Nước Mắt" - Mr.Si Rô "Niềm Vui Của Em" - Nguyễn Huy Hoàng
Mi giáng thứ là một cung thứ dựa trên nốt Mi giáng, bao gồm các nốt nhạc Mi giáng, Fa, Sol giáng, La giáng, Si giáng, Si, Re giáng, và Mi giáng. Bộ khóa của nó có 6 dấu giáng. Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Sol giáng trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Mi giáng trưởng. Nó trùng âm với Re thăng thứ Một trong vài bản giao hưởng viết ở cung này là Giao hưởng số 6 của Prokofiev. Một vài nhà soạn nhạc khác của Sô viết ít nổi tiếng hơn cũng sáng tác ở cung này như Eshpai, Ovchinnikov và Myaskovsky. Bản Giao hưởng số 8 của Gustav Mahler có phần viết mở rộng cho dàn nhạc và phần giới thiệu ở cung Mi giáng thứ. Cả hai quyển sách Well-Tempered Clavier của Johann Sebastian Bach, khúc dạo số 8 được viết ở cung Mi giáng thứ trong khi Fugue tiếp theo được viết ở Re thăng thứ. Các tác phẩm viết ở cung này Overture to Manfred incidental music - Robert Schumann Humoresques, Op. 101: số 1 - Antonín Dvořák Secret - Madonna Giao hưởng số 1 - Nikolai Rimsky-Korsakov (phiên bản ban đầu viết ở cung này) Digging in the Dirt - Peter Gabriel Take Five - Dave Brubeck Quartet I'm Only Sleeping - The Beatles The Winner Takes It All - ABBA (cũng có ở cung Mi trưởng) In the End - Linkin Park Raining Blood - Slayer Etude op. 25, no. 5 - Frederic Chopin
Cilastatin là một hợp chất hóa học có tác dụng ức chế enzym dehydropeptidaza ở người. Dehydropeptidaza được tìm thấy trong thận và nó chịu trách nhiệm phân hủy thuốc kháng sinh imipenem. Vì thế cilastatin được truyền theo đường tĩnh mạch cùng với imipenem nhằm bảo vệ imipenem khỏi tác động của dehydropeptidaza để giúp nó tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, bản thân cilastatin không phải là một chất kháng sinh.
46 (bốn mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 45 và ngay trước 47.
45 (bốn mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 44 và ngay trước 46.
44 (bốn mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 43 và ngay trước 45 và nó là một hợp số. 44 là số chia hết cho 1, 2, 4, 11, 22, 44.
43 (bốn mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 42 và ngay trước 44.
42 (bốn mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 41 và ngay trước 43.
41 (bốn mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 40 và ngay trước 42. gde
40 (bốn mươi) là một số tự nhiên ngay sau 39 và ngay trước 41. Trong toán học Số 40 là một hợp số, là số bát giác, và là tổng của bốn số ngũ giác đầu tiên: 1+5+12+22=40. Cho x = 40, hàm Mertens trả về giá trị 0.. Số 40 là số n nhỏ nhất sao cho có 9 nghiệm với là hàm phi Euler. Số 40 là số nghiệm của bài toán xếp n quân hậu đối với n = 7. Số 40 là số chữ số thuần trong hệ cơ số 3 (vì, 30 + 31 + 32 + 33 = 40, hay nói cách khác 40 = (34 - 1)/2) và là một số Harshad trong hệ thập phân.
Fa thăng trưởng là một cung thể trưởng dựa trên nốt Fa, bao gồm các nốt nhạc Fa#, Sol#, La#, Si, Đô#, Re#, Mi#. Bộ khóa của nó có 6 dấu thăng. Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Re thăng thứ và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Fa thăng thứ và nó trùng âm với Sol giáng trưởng. Domenico Scarlatti đã viết hai bản sonata cho đàn phím ở cung này: K. 318 và K. 319. Bản giao hưởng duy nhất viết chuẩn theo cung này có thể là bản Giao hưởng số 10 của Gustav Mahler (mặc dù có một vài phần trong các bản giao hưởng khác được viết ở cung này). Hai bản sonata viết cho piano của Alexander Scriabin là Số 4 và Số 5 được viết ở cung Fa thăng trưởng. Ngoài ra, phần cuối trong bản Concerto cho Piano số 1 của Sergei Rachmaninoff cũng được viết ở cung này. Các tác phẩm viết ở cung này Hypnotize - System Of A Down Girls Just Want To Have Fun (bài hát) - Cyndi Lauper When I Come Around - Green Day Superman (Theme from Scrubs) - Lazlo Bane All Star - Smash Mouth All These Things That I've Done - The Killers Yellow Submarine - The Beatles American Idol theme
39 (ba mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 38 và ngay trước 40.
38 (ba mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 37 và ngay trước 39.
37 (ba mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 36 và ngay trước 38. Toán học 37 là số nguyên tố thứ 12, và là số nguyên tố phi chính quy nhỏ nhất Hoá học 37 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Rubidium
36 (ba mươi sáu hay còn được đọc là băm sáu) là một số tự nhiên ngay sau 35 và ngay trước 37. Trong đời sống Theo cụ Hoàng Xuân Hãn thì " số ba mươi sáu là một phương-số mà người Á-Âu đều coi là có đặc tính huyền bí ". Một số thông tin về số 36: 36 là số kế sách (chước) trong binh pháp của người Trung Quốc. Trong đó, trong Ba mươi sáu kế, kế thứ 36 là kế rút lui đồng thời cũng là kế được đánh giá cao nhất, "Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách", tạm dịch: Ba mươi sáu chước, chuồn là hay hơn cả. Trong văn học 36 cũng là số phép thần thông biến hóa của Trư Bát Giới một nhân vật trong tác phẩm Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân Nhà văn Thạch Lam trong tập bút ký viết năm 1943 cũng có đề cập đến số 36 với những câu thơ: Rủ nhau chơi khắp Long thành, Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai Trong ca dao Việt Nam cũng có đề cập đến số 36: Hà Nội băm sáu phố phường Hàng Gạo, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh Trong truyện Bích Câu kì ngộ cũng có câu liên quan đến số 36 Vẩn vơ trong áng phồn hoa Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân? Trong truyện Kiều cũng có đoạn Thừa cơ lẻn bước ra đi Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn? Dân ca quan họ Bắc Ninh có bài " Ba mươi sáu thứ chim ": Trên rừng ba mươi sáu thứ chim Thứ chim chèo bẻo, thứ chim chích chòe Trong phim truyện Bộ phim Ngôi nhà số 36 (36 quais des orfèvres) của điện ảnh Pháp được khởi chiếu tại Việt Nam vào tháng 5 năm 2005 đã được khán giả khen ngợi. Điện ảnh Mỹ cũng luôn đề cao thành công của bộ phim này. Trong toán học Bình phương của 36 là 1296. Căn bậc hai của 36 là 6. Chú thích Số chẵn
35 (ba mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 34 và ngay trước 36.
Fa thăng thứ là một cung thứ dựa trên nốt Fa thăng (F), bao gồm các nốt Fa thăng (F), Sol thăng (G), La (A), Si, Đô thăng (C), Rê (D), Mi (E), và Fa thăng (F). Bộ khóa của nó có 3 dấu thăng. Trùng với cung Fa thăng thứ chính là cung Sol giáng thứ (viết tắt là Gm). Bao gồm các nốt nốt Sol giáng (G), La giáng (A), Si hai giáng (B), Đô giáng (C), Rê giáng (D), Mi hai giáng (E), Fa giáng (F), và Sol giáng (G). Bộ khóa của nó có 6 dấu giáng () và 2 dấu giáng kép (). Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung La trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Fa thăng trưởng. Rất ít bản giao hưởng được viết ở cung này, bản Farewell Symphony của Haydn là một ví dụ nổi tiếng. George Frederick Bristow và Dora Pejačević cũng có ít tác phẩm viết ở cung này. Những bản giao hưởng viết ở cung này thường quan trọng đối với nhà soạn nhạc vì nó được viết cho chính họ là người chơi nhạc, ví dụ như bản Concerto cho piano số 1 của Sergei Rachmaninoff, bản Concerto cho Piano số 1 của Alexander Scriabin, bản Concerto cho violon số 1 của Henryk Wieniawski và bản concerto số 1 cho violin của Henri Vieuxtemps. Tác phẩm độc nhất của Mozart viết ở cung này là bản Concerto viết cho piano số 23 sau khi đã viết cho nó bản đầu tiên ở cung La trưởng. Các tác phẩm viết ở cung này Those Were the Days - Mary Hopkin Billie Jean - Michael Jackson GoldenEye - Tina Turner Across the Stars - John Williams The Final Countdown - Europe Johnny Has Gone For A Soldier - Traditional Wait - The Beatles (cũng có ở cung La trưởng) Behind These Hazel Eyes - Kelly Clarkson This Sweet Old World - Emmy Lou Harris Crazy Train - Ozzy Osbourne Immigrant Song - Led Zeppelin Mãi vẫn là tuổi thơ tôi, Hà Nội - Nguyễn Cường Nhìn những mùa thu đi - Trịnh Công Sơn Keys To Imagination (F♯m) - Yanni.
34 (ba mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 33 và ngay trước 35.
33 (ba mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 32 và ngay trước 34.
32 (ba mươi hai), là một số tự nhiên ngay sau 31 và ngay trước 33. Trong toán học 32 là số n nhỏ nhất với đúng 7 nghiệm cho phương trình φ(x) = n. Nó cũng là tổng của hàm phi Euler cho mười số nguyên đầu tiên. 32 = 25. 32 cũng là một số Leyland vì 24 + 42 = 32. 32 là số may mắn thứ chín. 32 = (1x2)+(1x2x3)+(1x2x3x4) 32 = (1x4)+(2x5)+(3x6) 32 = 11 + 22 + 33 Trong khoa học Số nguyên tử của Germani Điểm đóng băng của nước ở áp suất khí quyển tiêu chuẩn ở độ Fahrenheit. Trong thể thao Trong cờ vua, tổng số ô màu đen, ô màu trắng trên bàn cờ và tổng số quân cờ (đen và trắng) khi bắt đầu trò chơi. Trong bóng đá: Vòng chung kết FIFA World Cup có sự góp mặt của 32 đội tuyển quốc gia nam từ năm 1998 đến năm 2022, sau đó sẽ mở rộng lên 48. Vòng chung kết FIFA World Cup nữ sẽ có sự góp mặt của 32 đội tuyển quốc gia từ năm 2023. Quả bóng đá thường được làm bằng 32 tấm da hoặc vật liệu tổng hợp. Trong các lĩnh vực khác Ba mươi hai cũng có thể là: Số răng của một bộ răng đầy đủ ở người trưởng thành, bao gồm răng khôn. Kích thước, tính bằng bit, của một số kiểu dữ liệu số nguyên nhất định, được sử dụng trong biểu diễn số trên máy tính. IPv4 sử dụng địa chỉ 32-bit (4-byte) Mã ASCII và Unicode cho khoảng trắng Mã điện thoại quốc tế đến Bỉ.
31 (ba mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 30 và ngay trước 32. Trong toán học Căn bậc hai của 31 là 5.56776436283. 31 là số nguyên tố thứ 11, sau 29. Số nguyên tố kế tiếp là 37.
La giáng thứ là một cung thứ dựa trên nốt La giáng, bao gồm các nốt nhạc La giáng, Si giáng, Si, Rê giáng, Mi giáng, Mi, Sol giáng, và La giáng. Bộ khóa của nó có 7 dấu giáng. Sự hoà âm ở cung thứ này đã được nâng lên quãng 7, khi đó Sol giáng sẽ trở thành Sol thường. Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Đô giáng trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung La giáng trưởng và nó trùng âm với Sol thăng thứ. Mặc dù La giáng thứ cũng được sử dụng trong việc biểu diễn của dàn nhạc giao hưởng, nhưng nó hiếm khi được dùng như là cung thể chủ đạo của một tác phẩm âm nhạc. Tác phẩm viết ở cung này Industrial Revolutions: Overture - Jean-Michel Jarre Funeral March from Piano Sonata số 13 Op. 26 của Beethoven "Until it sleeps" của Metallica Hit the Road Jack - Ray Charles
Đảng Dân chủ (tiếng Anh: Democratic Party), cùng với Đảng Cộng hòa, là một trong hai chính đảng lớn nhất tại Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ, truy nguyên nguồn gốc của mình đến thời Thomas Jefferson vào đầu thập niên 1790, là đảng chính trị lâu đời nhất tại Hoa Kỳ, cũng là một trong số các chính đảng lâu đời nhất thế giới. Là một trong hai chính đảng quan trọng tại Hoa Kỳ, Đảng Dân chủ, từ năm 1896, có khuynh hướng tự do hơn Đảng Cộng hòa. Bên trong Đảng Dân chủ tồn tại nhiều khuynh hướng khác nhau hơn so với những chính đảng quan trọng tại các quốc gia đã công nghiệp hóa khác, một phần là vì các chính đảng của người Mỹ thường không có đủ quyền lực để kiểm soát đảng viên của mình như các đảng chính trị tại nhiều nước khác, phần khác là vì hệ thống chính trị tại Hoa Kỳ không theo thể chế đại nghị. Triết lý kinh tế khuynh tả của Franklin D. Roosevelt, có ảnh hưởng sâu đậm trên chủ nghĩa tiến bộ Mỹ, đã định hình nghị trình kinh tế của đảng kể từ năm 1932. Liên minh New Deal của Roosevelt thường xuyên kiểm soát Chính phủ liên bang mãi cho đến thập niên 1970. Những lý tưởng của Phong trào Dân quyền trong thập niên 1960, nhận được sự ủng hộ tích cực của đảng bất kể sự chống đối từ những đảng viên miền Nam vào lúc ấy, tiếp tục soi dẫn các nguyên tắc tự do của đảng. Năm 2004, Đảng Dân chủ là chính đảng lớn nhất nước Mỹ, giành được sự ủng hộ của 72 triệu cử tri (42,6% của tổng số 169 triệu cử tri đăng ký).<ref name="Neuhart, P. (22 January, 2004). Why politics is fun from catbirds' seats. USA Today'''.">{{Chú thích web |url=http://www.usatoday.com/news/opinion/columnist/neuharth/ngày 22 tháng 1 năm 2004-neuharth_x.htm |tiêu đề=Neuhart, P. (22 January, 2004). Why politics is fun from catbirds' seats. USA Today'. |ngày truy cập=ngày 11 tháng 7 năm 2007}}</ref> Kể từ cuộc tổng tuyển cử năm 2016, các nghị sĩ Đảng Dân chủ chiếm thiểu số trong Quốc hội khóa 115: chiếm thế thiểu số ở Viện Dân biểu, và cùng hai nghị sĩ độc lập, là thành phần thiểu số tại Thượng viện. Thiểu số thống đốc tiểu bang là đảng viên Dân chủ. Nền tảng ý thức hệ Lập trường chủ đạo của Đảng Dân chủ kể từ thập niên 1930 vẫn được xem là có khuynh hướng tự do. Trên trường quốc tế, quan điểm của Đảng Dân chủ thường được xem là dân chủ xã hội vì chủ nghĩa tự do ở Mỹ có ý nghĩa khác với ở nước ngoài. Quan điểm chính trị của Đảng Dân chủ bắt nguồn từ phong trào tiến bộ ở Mỹ và từ hệ tư tưởng của những nhà trí thức như John Dewey. Đảng Dân chủ ủng hộ quyền tự do dân sự, tự do xã hội, bình đẳng, cơ hội đồng đều, và hệ thống doanh nghiệp tự do được điều tiết bởi sự can thiệp của chính quyền. Đảng Dân chủ tin rằng chính quyền nên thủ giữ một vai trò trong nỗ lực giảm nghèo và xoá bỏ những bất công xã hội, ngay cả khi điều này có nghĩa là phải dành cho chính quyền nhiều quyền lực hơn cũng như phải tăng thuế để chi trả cho các dịch vụ xã hội. Không dễ dàng gì để định nghĩa những nguyên tắc và giá trị của bất cứ đảng phái chính trị nào, và cũng không cần phải áp dụng chúng cho tất cả thành viên của đảng. Một số thành viên có thể bất đồng với một vài điều khoản hoặc nhiều hơn nữa trong cương lĩnh của đảng. Cương lĩnh đảng thường chỉ thể hiện quan điểm của đa số đại biểu đến dự đại hội cấp quốc gia và thường chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi ứng viên tổng thống được đảng đề cử vào lúc ấy. Ý thức hệ và Bầu cử Kể từ thập niên 1890, Đảng Dân chủ ủng hộ lập trường "tự do" (theo nghĩa tự do xã hội, không phải tự do cổ điển). Trong các cuộc thăm dò tại phòng phiếu, Đảng Dân chủ có sự ủng hộ rộng rãi từ các thành phần kinh tế, chủng tộc, xã hội khác nhau. Hậu thuẫn cho Đảng Dân chủ gồm có thành phần trung lưu học vấn cao chủ trương tiến bộ, cũng như tầng lớp công nhân có khuynh hướng xã hội bảo thủ. Đảng Dân chủ hiện là chính đảng lớn nhất Hoa Kỳ. Năm 2004, có gần 72 triệu (42,6%) người Mỹ đăng ký cho Đảng Dân chủ, so với 55 triệu (32,5%) cho Đảng Cộng hòa, và 42 triệu (24,8%) cho các ứng viên độc lập. Trong lịch sử, đảng từng ủng hộ thành phần nông dân, người lao động, các nghiệp đoàn, các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo; đảng chống các doanh nghiệp và các định chế tài chính ngoài quy hoạch, và ủng hộ hệ thống thuế lũy tiến. Về ngoại giao, chủ nghĩa quốc tế là chủ đề thống trị từ năm 1913 đến giữa thập niên 1960. Từ thập niên 1930 Đảng Dân chủ khởi sự vận động cho các chương trình phúc lợi hỗ trợ người nghèo. Trong đảng cũng có cánh ủng hộ doanh nghiệp, nhưng cánh này bị thu hẹp dần trong thập niên 1930, còn cánh bảo thủ miền Nam cũng mất dần ảnh hưởng sau khi Tổng thống Lyndon B. Johnson ủng hộ Đạo luật Dân quyền năm 1964. Các nghiệp đoàn có ảnh hưởng lớn trên thành phần tự do (đỉnh điểm là thời kỳ 1936-52). Trong khi đó, ảnh hưởng của cộng đồng người Mỹ gốc Phi tăng dần kể từ thập niên 1960. Từ thập niên 1970, những người chủ trương bảo vệ môi trường cấu thành một nhóm quan trọng bên trong đảng. Trong những thập niên gần đây, đảng chấp nhận một nghị trình chủ trương trung tả về kinh tế và tiến bộ về xã hội, khiến thành phần cử tri ủng hộ cũng thay đổi đáng kể. Từng được hậu thuẫn bởi đông đảo cử tri thuộc các nghiệp đoàn và giai tầng công nhân, nay đảng dựa vào thành phần tiến bộ xã hội có học thức với lợi tức trên mức trung bình, và tầng lớp lao động có chủ trương bảo thủ trong các vấn đề xã hội. Ngày nay, đảng viên Dân chủ vận động thêm quyền tự do xã hội, chương trình bảo trợ các sắc dân thiểu số (affirmative action), cân đối ngân sách, và hệ thống doanh nghiệp tự do có sự can thiệp của chính phủ khi cần thiết. Quyết sách kinh tế của đảng thực hiện bởi chính phủ Clinton được mệnh danh "Lập trường Trung dung" (Third Way). Đảng Dân chủ tin rằng chính quyền nên thủ giữ một vai trò trong nỗ lực giảm nghèo và xoá bỏ những bất công xã hội, ngay cả khi điều này có nghĩa là phải dành cho chính quyền nhiều quyền lực hơn cũng như phải tăng thuế để chi trả cho các dịch vụ xã hội. Khảo sát của hãng Gallup vào tháng 8/2018 cho thấy 57% số người theo Đảng Dân chủ thích chủ nghĩa xã hội. Các nhóm theo chủ nghĩa xã hội và dân chủ xã hội hầu như đều gia nhập Đảng Dân chủ tạo thành cánh tả của đảng này. Đảng Dân chủ, từng là lực lượng thống trị vùng Đông Nam nước Mỹ, nay hoạt động mạnh ở vùng Đông Bắc (Trung Đại Tây Dương và New England), vùng Ngũ Đại Hồ, cũng như bờ biển Thái Bình Dương, kể cả Hawaii. Đảng Dân chủ cũng có nhiều ảnh hưởng tại các thành phố lớn. Ý thức hệ Với 72 triệu thành viên đăng ký, Đảng Dân chủ là một cấu trúc đa dạng về ý thức hệ, trong đó thành phần tiến bộ (progressive) chiếm đa số, cũng là nhóm đảng viên có nhiều ảnh hưởng nhất trong đảng. Tiến bộ Những thành viên có khuynh hướng tự do xã hội, còn gọi là thành phần tiến bộ hoặc tự do hiện đại, chiếm đa số, khoảng 45,6%, trong tổng số phiếu bầu cho Đảng Đảng chủ. Theo Pew Research Center, thành phần tự do chiếm 19% tổng số phiếu bầu với 92% cử tri Mỹ có khuynh hướng tự do ủng hộ Đảng Dân chủ. Những người có nghề nghiệp chyên môn đã tốt nghiệp đại học từng ủng hộ Đảng Cộng hòa mãi cho đến thập niên 1950 nay là thành phần nòng cốt của Đảng Dân chủ. Đa số những người chủ trương tự do ủng hộ việc sử dụng các đối sách ngoại giao thay vì các biện pháp quân sự, việc nghiên cứu tế bào gốc, hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, chính quyền thế tục, kiểm soát súng chặt chẽ hơn, các luật lệ bảo vệ môi trường, cũng như bảo vệ quyền phá thai. Họ có quan điểm tích cực về tình trạng nhập cư và đa dạng văn hóa, nhưng phân hóa về các thỏa ước và tổ chức thương mại như NAFTA. Phần lớn chống đối việc gia tăng quân sự và trưng bày Mười Điều răn tại các tòa nhà công cộng. Theo Pew Research Center, có 41% những người hậu thuẫn Đảng Dân chủ sống trong những ngôi nhà dành cho giới giàu có, 49% đã tốt nghiệp đại học, tỷ lệ cao nhất trong các thành phần dân số, có tỷ lệ gia tăng nhanh nhất từ cuối thập niên 1990 đến đầu thập niên 2000. Cánh tự do chiếm phần lớn giới trí thức, và đông đảo người thuộc tầng lớp chuyên nghiệp. Tự do Dân sự Những người ủng hộ quyền tự do dân sự thường hậu thuẫn Đảng Dân chủ do lập trường của đảng về các vấn đề như dân quyền, và sự phân lập giữa giáo hội và nhà nước tương đồng với họ hơn quan điểm của Đảng Cộng hòa, mặt khác nghị trình kinh tế của Đảng Dân chủ thu hút họ hơn nghị trình của Đảng Tự do. Những người này chống việc kiểm soát súng, bảo hộ mậu dịch, ưu đãi doanh nghiệp, nợ chính phủ, và chính sách ngoại giao can thiệp. Bảo thủ Tại Viện Dân biểu, những đảng viên Dân chủ Blue Dog, một nhóm có chủ trương ôn hòa và bảo thủ về các vấn đề tài chính và xã hội, chủ yếu là người miền Nam, cấu thành cánh bảo thủ trong Đảng Dân chủ. Là một khối bầu phiếu đồng thuận, mới kết nạp thêm 40 thành viên giúp họ có khả năng làm thay đổi kết quả bầu phiếu và mở những cuộc thương thuyết với lãnh đạo Đảng Cộng hòa. Những đảng viên Dân chủ ủng hộ việc chống phá thai đôi khi tự nhận mình là bảo thủ dựa trên lập trường bảo thủ về các vấn đề xã hội. Trung dung Mặc dù còn có nhiều quan điểm khác biệt trong cánh trung dung của Đảng Dân chủ, những người này cố thúc đẩy một thái độ hòa hợp về các lý tưởng chính trị. So với các nhóm khác trong đảng, cánh trung dung có quan điểm tích cực hơn về việc sử dụng quân lực, ngay cả trong chiến tranh Iraq, muốn cắt giảm phúc lợi, như được thể hiện qua việc họ ủng hộ các kế hoạch cải cách phúc lợi và cắt giảm thuế. Là một trong những thành phần có ảnh hưởng lớn nhất trong Hội đồng Lãnh đạo Dân chủ (Democratic Leadership Council - DLC), một tổ chức phi vụ lợi cổ xúy lập trường trung dung trong đảng. DLC hoan nghênh Tổng thống Bill Clinton và xem chính phủ của ông như là một chứng cứ sinh động cho lập trường trung dung, và là một thành quả của DLC. Cựu Dân biểu Harold Ford, Jr. (Tennessee) hiện là chủ tịch DLC. Tầng lớp Chuyên môn Từ năm 2000, thành phần có nghề nghiệp chuyên môn, là những người đã tốt nghiệp đại học đang làm những công việc liên quan đến lĩnh vực tri thức, với một đa số vừa đủ, ủng hộ Đảng Dân chủ. Từ năm 1988 đến 2000, tầng lớp này hậu thuẫn cho Đảng Dân chủ với tỷ lệ cách biệt là 12%. Từng là hậu cứ vững chắc cho Đảng Cộng hòa, nay thành phần có nghề nghiệp chuyên môn phân rẽ ra để ủng hộ cả hai đảng, thuận lợi hơn cho Đảng Dân chủ. Sự hậu thuẫn ngày càng gia tăng dành cho các ứng viên Dân chủ có thể do ảnh hưởng ngày càng lớn của các giá trị xã hội theo khuynh hướng tiến bộ trong tầng lớp chuyên môn. Một cuộc khảo sát cho thấy "sinh viên y khoa Mỹ có quan điểm chính trị tiến bộ hơn nhiều so với giới trẻ Mỹ. Các thầy thuốc tương lai này tỏ ra dễ dàng chấp nhận các thông điệp tiến bộ hơn. Khuynh hướng chính trị của họ có thể có ảnh hưởng sâu sắc trên thái độ của họ đối với hệ thống y tế." Cũng có những kết quả tương tự đối với các giáo sư đại học và các kinh tế gia, là những người mạnh mẽ ủng hộ chủ nghĩa tự do và Đảng Dân chủ hơn những nhóm nghề nghiệp khác. Kinh tế gia Các nhà kinh tế học Mỹ là những người mạnh mẽ ủng hộ Đảng Dân chủ, quan điểm của họ thường phù hợp với các thông điệp đến từ diễn đàn Đảng Dân chủ. Một đa số lớn, 63%, tự nhận mình là có lập trường tiến bộ, chỉ chưa đến 20% nhận mình là bảo thủ hoặc tự do. Theo một cuộc khảo sát năm 2004, trong số 1 000 kinh tế gia người Mỹ, tỷ lệ đăng ký cho Đảng Dân chủ và Cộng hòa là 2,5 – 1. Phần lớn các nhà kinh tế học ủng hộ "các quy định về an toàn, kiểm soát súng, tái phân phối tài nguyên, trường công lập, và luật chống kỳ thị," và chống "các biện pháp kiểm soát người nhập cư nghiêm nhặt hơn, các doanh nghiệp có chủ sở hữu là nhà nước, và thuế quan." Những cuộc khảo sát khác chỉ ra rằng trong thành phần có nghề nghiệp chuyên môn, con số đảng viên Dân chủ vượt quá đảng viên Cộng hòa với tỷ lệ 2,8 – 1. Một nghiên cứu của Tạp chí Southern Economic cho thấy "71% kinh tế gia Mỹ tin rằng việc phân phối lợi tức tại Hoa Kỳ cần phải công bằng hơn, và 81% cảm thấy cần phải xem việc tái phân phối lợi tức là một chức năng hợp pháp của chính quyền."" Giới Trí thức Giới khoa bảng, trí thức, và các thành phần học thức chiếm tỷ lệ quan trọng trong số các cử tri bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Đặc biệt là giới khoa bảng bị thu hút mạnh bởi các quan điểm tiến bộ. Một cuộc khảo sát năm 2005 cho thấy gần 72% thành phần giảng dạy đại học tự nhận mình là tiến bộ, chỉ có 15% nhận mình là bảo thủ. Các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn có khuynh hướng tự do nhất, trong khi ngành kinh doanh là bảo thủ nhất. Các giáo sư nam giới và những trí thức làm việc tại các học viện danh tiếng là những người có khuynh hướng tự do nhất. Một cuộc khảo sát khác của UCLA tiến hành năm 2001-2002 cho thấy có 47,6% giáo sư nhận mình là tự do, 34,4% ôn hòa, và 18% bảo thủ. Tỷ lệ các giáo sư nhận mình có khynh hướng tự do là từ 49% trong chuyên ngành kinh doanh đến hơn 80% ngành khoa học chính trị và nhân văn. Tuy nhiên, theo một số nhà khoa học xã hội như Brett O’Bannon thuộc Đại học DePawn, quan điểm tự do của các giáo sư xem ra chẳng có mấy ảnh hưởng, nếu không nói là không có, trên lập trường chính trị của các sinh viên. Giới trẻ Theo các nghiên cứu gần đây, phần lớn giới trẻ muốn bầu phiếu cho các ứng viên Dân chủ. Trong các kỳ tuyển cử từ năm 1992, nhiều người trẻ tuổi thích tự nhận mình là tiến bộ hơn các thành phần còn lại của dân số Hoa Kỳ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2004, ứng viên Đảng Dân chủ, John Kerry, nhận 54% phiếu bầu của nhóm tuổi 18-29, trong khi tỷ lệ này dành George W. Bush là 45%. Trong cuộc bầu cử giữa kỳ, các ứng viên Dân chủ được 60% số phiếu bầu của nhóm tuổi nói trên, và các ứng viên Cộng hòa chỉ có 38%. Các cuộc thăm dò chỉ ra rằng cử tri càng nhỏ tuổi càng có quan điểm tự do, nhất là đối với các vấn đề như hôn nhân đồng tính, và chăm sóc sức khỏe phổ quát, với 58% bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ trong năm 2008. Lao động Từ thập niên 1930, các tổ chức nghiệp đoàn là thành phần thu hút nhiều sự chỉ trích thuộc liên minh Đảng Dân chủ. Các nghiệp đoàn cung cấp tài chính, các tổ chức chính trị cơ sở, và số lượng lớn cử tri bỏ phiếu cho đảng. Song, trong nửa thế kỷ qua số lượng thành viên nghiệp đoàn sút giảm mạnh, trong khi khoảng cách giữa tỷ lệ thành viên trong khu vực công và khu vực tư tăng nhanh. Ba tổ chức nghiệp đoàn có ảnh hưởng trong Đảng Dân chủ là AFL-CIO, Liên đoàn Change to Win, và National Education Association (Hiệp hội Giáo dục Quốc gia). AFL-CIO và Change to Win đều xem việc vận động thông qua Đạo luật Employee Free Choice là ưu tiên hàng đầu trong năm 2007. Những vấn đề khác mà các nghiệp đoàn quan tâm là chính sách công nghiệp (trong đó có chế độ bảo hộ mậu dịch) nhằm duy trì việc làm cho đoàn viên trong công nghiệp chế tạo, nâng cao mức lương tối thiểu, và phát triển các chương trình xã hội như an sinh xã hội, và chăm sóc sức khỏe phổ quát. Tầng lớp Lao động Dù đã mất nhiều sức mạnh chính trị từ sự suy vi của các tổ chức nghiệp đoàn, tầng lớp lao động Mỹ vẫn là thành lũy của Đảng Dân chủ, và tiếp tục là thành phần cơ bản của lực lượng cử tri ủng hộ đảng. Ngày nay, có đến một phần ba công chúng Mỹ thuộc thành phần lao động, với khoảng 52% hoặc thuộc tầng lớp lao động hoặc thuộc nhóm người có thu nhập thấp. Thường thì đặc điểm để phân biệt tầng lớp lao động là họ có việc làm ổn định và có qui củ. Do đó, thành phần chính của giai tầng này là các nhân viên văn phòng và công nhân xí nghiệp. Ngay cả khi phần lớn những người thuộc tầng lớp lao động được hưởng mức sống tương xứng, sự bất ổn kinh tế và những phúc lợi từ mạng lưới an sinh xã hội khiến những người này chấp nhận quan điểm trung tả đối với các vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, do lập trường bảo thủ về các vấn đề xã hội, tầng lớp lao động vẫn duy trì sự khác biệt về quan điểm đối với những người chủ trương tiến bộ. Những người thuộc giai tầng lao động thường mộ đạo hơn, và thường đến từ một cộng đồng sắc tộc thiểu số. Trình độ học vấn và thu nhập của những đảng viên Dân chủ lạc hậu và bảo thủ này thuộc vào hạng thấp nhất trên bản đồ phân bổ dân số theo ý thức hệ. Đến năm 2005, chỉ có 15% có bằng đại học so với 49% những người tiến bộ, và 27% mức trung bình cả nước. Tính chung, những người này chiếm 54% tổng số cử tri bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Ảnh hưởng quan trọng của cử tri thuộc tầng lớp lao động thể hiện trên các cuộc thăm dò tại phòng phiếu thực hiện bởi CNN chỉ ra rằng đa số phiếu của những người ít học và thu nhập thấp đều dồn cho các ứng viên Đảng Dân chủ. Dân tộc Thiểu số Một thành phần đông đảo thuộc tổng số cử tri bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ thuộc các sắc dân thiểu số. Lập trường của Đảng Dân chủ về chính sách ưu đãi người thiểu số (affirmative action), phúc lợi dành cho người thất nghiệp và thu nhập thấp, nghiệp đoàn, và chính sách nhập cư có sức thu hút lớn đối với nhiều sắc dân thiểu số đang sinh sống trên đất Mỹ. Người Mỹ gốc Phi Kể từ lúc chấm dứt cuộc nội chiến, người Mỹ gốc Phi ủng hộ Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, đến thập niên 1930 họ quay sang bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ khi Franklin D. Roosevelt tiến hành chương trình New Deal dành nhiều hỗ trợ kinh tế cho các cộng đồng thiểu số, trong đó có người Mỹ gốc Phi và người nói tiếng Tây Ban Nha (Hispanic). Sự ủng hộ của các tổng thống Dân chủ John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson dành cho Phong trào Dân quyền trong thập niên 1960 mang về cho Đảng Dân chủ sự hậu thuẫn rộng lớn hơn từ cộng đồng người Mỹ gốc Phi, mặc dù sự ủng hộ này, được xem như là thái độ thù nghịch đối với cư dân da trắng miền Nam, đã dẫn đến sự phân hóa bên trong các chính đảng Hoa Kỳ, những người tiến bộ nhất đến với Đảng Dân chủ, và những người bảo thủ nhất gia nhập Đảng Cộng hòa. Thêm vào đó là các di dân đến từ Caribbean và châu Phi, khi đến phòng phiếu họ đều chọn các ứng viên Dân chủ. Hispanic Các sắc dân nói tiếng Tây Ban Nha (Hispanic), nhất là người Mỹ gốc Mexico và gốc Salvador sinh sống ở miền Nam, cùng với đông đảo người Puerto Rico và Dominica ở vùng Đông Bắc, là lực lượng hậu thuẫn cho Đảng Dân chủ. Họ mạnh mẽ ủng hộ lập trường tiến bộ về chính sách nhập cư. Trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1996, Tổng thống Dân chủ Bill Clinton nhận 72% phiếu bầu của các sắc dân Hispanic. Tuy nhiên, kể từ đó Đảng Cộng hòa bắt đầu giành được sự ủng hộ ngày càng tăng của cộng đồng Hispanic, nhất là những tín hữu Kháng Cách và Ngũ Tuần trong cộng đồng này. Với quan điểm tiến bộ hơn về chính sách nhập cư, George W. Bush là tổng thống Cộng hòa đầu tiên giành được 40% phiếu bầu của người Hispanic. Dù vậy, trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2006, sự hậu thuẫn của cộng đồng Hispanic dành cho Đảng Cộng hòa đã suy giảm, từ 44% xuống còn 30%, trong khi đó tỷ lệ này dành cho các ứng viên Dân chủ từ 55% năm 2004 lên đến 69% năm 2006. Trong khi người Mỹ gốc Cuba vẫn tiếp tục kiên định lòng trung thành với Đảng Cộng hòa, thì các sắc dân México, Puerto Rico, Dominica, Trung Mỹ, và Nam Mỹ thích bỏ phiếu cho các ứng viên Dân chủ hơn. Người Mỹ gốc Á Đảng Dân chủ giành được sự ủng hộ đáng kể từ cộng đồng người Mỹ gốc Á. Cộng đồng này tương đối nhỏ nhưng ngày càng phát triển. Người Mỹ gốc Á thường dành phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa mãi cho đến cuộc bầu cử tổng thống năm 1992, George H. W. Bush nhận 55% phiếu của các sắc dân châu Á, so với 31% cho Bill Clinton, và 15% cho Ross Perot. Tuy vậy, kể từ năm 1996, Đảng Dân chủ thành công hơn với người châu Á, đến năm 2006 62% cử tri Mỹ gốc Á bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Nguyên do là từ sự thay đổi cấu trúc dân số trong cộng đồng người Mỹ gốc Á, khi số người gốc Hoa và gốc Ấn học thức ngày càng tăng, họ là những người có lập trường trung tả về kinh tế và tiến bộ về xã hội. Hầu hết công dân gốc Việt và gốc Philippines vẫn tiếp tục dồn phiếu cho các ứng viên Cộng hòa (dù với tỷ lệ giảm dần), trong khi người gốc Hoa, Nam Á, Hàn, Nhật, Đông Nam Á không tính Việt Nam (nhất là những sắc dân Hmong, Campuchia, Lào), và cư dân đến từ các đảo trên Thái Bình Dương đều bầu cho Đảng Dân chủ. Còn các cử tri trẻ tuổi (từ 18-30 tuổi) thuộc tất cả sắc dân châu Á đều có khuynh hướng ủng hộ Đảng Dân chủ trong các kỳ tuyển cử. Các sắc dân khác Đảng Dân chủ có được sự ủng hộ mạnh mẽ của người thổ dân Mỹ, nhất là ở các bang Arizona, New Mexico, Montana, North Dakota, South Dakota, Washington, Alaska, Minnesota, Wisconsin, và North Carolina. Cộng đồng Do Thái cũng là hậu cứ vững chắc của Đảng Dân chủ, với hơn 70% phiếu bầu dành cho các ứng viên Dân chủ trong các kỳ bầu cử năm 2004 và 2006. Kể từ lúc xảy ra chiến tranh Iraq, cộng đồng Ả Rập và người Hồi giáo, vẫn có truyền thống ủng hộ Đảng Cộng hòa, quay sang dồn phiếu cho Đảng Dân chủ. Lập trường Ngân sách Đảng Dân chủ tin rằng mức thâm hụt ngân sách to lớn sẽ cản trở tăng trưởng kinh tế, dẫn đến sự bất ổn thị trường và bị buộc hoặc phải cắt giảm các loại dịch vụ công hoặc tìm kiếm nguồn thu mới, thường là tăng thuế. Đảng Dân chủ chống chủ trương chi tiêu đến độ thâm hụt ngân sách. Nhìn chung, Đảng Dân chủ ủng hộ hệ thống thuế có tác dụng cung cấp nhiều dịch vụ hơn đồng thời giảm thiểu các bất công. Hiện họ đang cố đảo ngược chương trình của chính phủ Bush giảm thuế cho thành phần giàu nhất, trong khi vẫn giữ nguyên mức thuế cho giới trung lưu. Đại thể, các đảng viên Dân chủ hậu thuẫn chủ trương cho rằng chính phủ cần chi tiêu nhiều hơn cho các loại hình dịch vụ xã hội, mà cắt giảm các chi tiêu quốc phòng. Họ chống đối việc cắt giảm các dịch vụ xã hội như an sinh xã hội, Medicare, Mecicaid, và các chương trình phúc lợi khác, vì tin rằng những cắt giảm này sẽ làm gia tăng sự bất công xã hội. Chăm sóc Sức khỏe và Bảo hiểm Đảng Dân chủ vận động cho "mạng lưới chăm sóc sức khỏe chất lượng cao và đến với mọi người", nhiều người ủng hộ việc mở rộng sự can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực này. Họ kêu gọi thực hiện hệ thống bảo hiểm sức khỏe quốc gia, và mạng lưới chăm sóc sức khỏe phổ cập dưới nhiều hình hức khác nhau, nhằm đáp ứng tình trạng tăng giá các loại hình bảo hiểm sức khỏe hiện nay. Một số đảng viên Dân chủ như Dân biểu John Dingell và Thượng nghị sĩ Edward Kennedy vận động cho chương trình "Chăm sóc Sức khỏe cho Mọi người." Đạo luật USA PATRIOT Tất cả thượng nghị sĩ Dân chủ ngoại trừ Russ Feingold đều bỏ phiếu thông qua Đạo luật USA PATRIOT (Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct Terrorism – Thống nhất và Củng cố nước Mỹ bằng cách Cung ứng những Phương tiện Thích ứng Cần có để Ngăn chặn Khủng bố). Sau khi bày tỏ lo ngại về việc "xâm phạm vào đời tư" và các hạn chế tự do dân sự khác của đạo luật, Đảng Dân chủ bị phân hóa khi đạo luật này được gia hạn năm 2006. Hầu hết thượng nghị sĩ đều bỏ phiếu đồng ý gia hạn đạo luật trong khi hầu hết dân biểu bỏ phiếu chống. Hôn nhân Đồng tính Xảy ra phân hóa trong Đảng Dân chủ về vấn đề hôn nhân đồng tính. Một số đảng viên ủng hộ tình trạng kết hợp dân sự (civil union) cho các cặp đồng tính, những người khác có chủ trương hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, trong khi nhiều người khác chống đối dựa trên những luận điểm tôn giáo. Tuy nhiên, đa số đều cho rằng kỳ thị người khác vì thiên hướng tình dục của họ là sai trái. Quyền Riêng tư cá nhân Đảng Dân chủ tin rằng mỗi cá nhân có quyền riêng tư, đảng ủng hộ luật lệ nhằm áp đặt những hạn chế trên các cơ quan thi hành pháp luật và các đơn vị tình báo khi theo dõi công dân Mỹ. Một số viên chức đảng đấu tranh nhằm thiết lập luật lệ bảo vệ người tiêu dùng, hạn chế việc trao đổi dữ liệu về người tiêu dùng giữa các công ty. Quyền Sinh sản Đảng Dân chủ tin rằng tất cả phụ nữ có quyền tiếp cận với các biện pháp tránh thai, họ ủng hộ việc sử dụng ngân sách trợ giúp tránh thai cho phụ nữ nghèo. Trên diễn đàn của đảng năm 2000 và 2004, họ ủng hộ việc phá thai "an toàn, hợp pháp và hạn chế" – nghĩa là hợp pháp hóa phá thai bằng cách huỷ bỏ những luật lệ cho phép chính phủ can thiệp vào quyết định phá thai, đồng thời giảm thiểu số lượng ca phá thai bằng cách quảng bá kiến thức về sinh sản và ngừa thai, cũng như khuyến khích việc nhận con nuôi. Đảng Dân chủ chống lại những nỗ lực nhằm đảo ngược phán quyết Roe kiện Wade (Roe v. Wade) năm 1973 của Tối cao Pháp viện công nhận quyền phá thai. Xem đây là thuộc lĩnh vực của quyền tự do cá nhân và bình đẳng giới tính, nhiều thành viên Đảng Dân chủ tin rằng tất cả phụ nữ có quyền chọn lựa mà không có sự can thiêp của chính quyền. Họ tin rằng mỗi phụ nữ, với sự tra vấn lương tâm, có quyền quyết định xem phá thai là hành vi có phù hợp với đạo đức hay không. Nhiều người Dân chủ tin rằng phụ nữ nghèo nên được chính phủ trợ giúp để phá thai. Đa số thành viên Đảng Dân chủ theo đuổi lập trường trung dung. Họ tin tưởng các chương trình nỗ lực giảm thiểu số lượng ca phá thai đồng thời bảo đảm phá thai là hợp pháp. Đầu năm 2005, Thượng nghị sĩ Hillary Clinton nói rằng các phe đối nghịch nên tìm ra một "nền tảng chung" để ngăn chặn những trường hợp mang thai ngoài ý muốn hầu có thể giảm thiểu số ca phá thai mà bà gọi là "những lựa chọn đau buồn và bi thảm đối với nhiều, rất nhiều phụ nữ". Kiểm soát Tội phạm và Vũ khí Đảng Dân chủ tập chú vào các phương pháp ngăn ngừa tội phạm, tin rằng các biện pháp ngăn ngừa sẽ tiết kiệm tiền thuế do người dân đóng góp, được dùng để chi trả cho lực lượng cảnh sát và chi phí y tế, cũng như ngăn chặn được các vụ sát nhân. Họ nhấn mạnh đến biện pháp cải thiện hệ thống cảnh sát cộng đồng và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cảnh sát đang thi hành nhiệm vụ, hầu có thể đạt được mục tiêu này. Cương lĩnh của đảng cũng đề cập đến nạn bạo hành gia đình, kêu gọi ban hành luật lệ nghiêm khắc trừng phạt người vi phạm và bảo vệ nạn nhân. Trong mục tiêu giảm thiểu tội phạm và các vụ sát nhân, trong một trăm năm qua, Đảng Dân chủ đã đưa ra các biện pháp kiểm soát vũ khí, đáng kể nhất là Đạo luật Giải giáp Quốc gia năm 1934 và Đạo luật Kiểm soát Vũ khí năm 1939 (ký ban hành bởi Tổng thống Franklin D. Roosevelt), Đạo luật Kiểm soát súng năm 1968 (đệ trình bởi Thượng nghị sĩ Christopher Dodd với sự hậu thuẫn của Thượng nghị sĩ Edward Kennedy), Dự luật Brady năm 1993 và Đạo luật Kiểm soát Tội phạm năm 1994 (ký ban hành bởi Tổng thống Bill Clinton). Dù vậy, nhiều thành viên Đảng Dân chủ, nhất là ở thôn quê, miền Nam và miền Tây không mặn mà gì với các biện pháp hạn chế sở hữu vũ khí. Kỳ thị Đảng Dân chủ ủng hộ quyền Bình đẳng trong Cơ hội cho tất cả người dân Mỹ không phân biệt giới tính, tuổi tác, chủng tộc, khuynh hướng tình dục, tôn giáo, tín ngưỡng hoặc nguồn gốc chủng tộc. Chăm sóc Sức khoẻ và Bảo hiểm Đảng Dân chủ vận động cho chính sách "chăm sóc sức khoẻ cho mọi người", nhiều người ủng hộ biện pháp mở rộng sự can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực này. Nhiều thành viên Đảng Dân chủ ủng hộ hệ thống chăm sóc sức khoẻ quốc gia với nhiều loại hình khác nhau nhằm đáp ứng chi phí bảo hiểm sức khoẻ ngày càng tăng cao. Năm 1951, Tổng thống Harry S. Truman trình bày đề án bảo hiểm sức khoẻ quốc gia như là một phần trong chương trình Fair Deal của ông, dù đề án này đã bị đánh bại bởi Hiệp hội Y tế Mỹ. Gần đây, Thượng nghị sĩ Edward Kennedy vận động cho chương trình "Chăm sóc Y tế cho mọi người". Năm 2004, John Kerry khẳng định sự hậu thuẫn của ông dành cho chủ trương chính phủ liên bang cấp ngân quỹ cho các công trình nghiên cứu tế bào gốc, thực hiện theo những "hướng dẫn nghiêm nhặt nhất". Ông giải thích "Chúng ta không thể bỏ qua cơ hội cứu sống sinh mạng và giảm bớt nỗi đau của con người". Đảng Dân chủ hậu thuẫn chính sách ưu đãi dành cho thành phần thiểu số (affirmative action) như là một cách sửa chữa sự kỳ thị trong quá khứ và bảo đảm sự tuyển dụng công bằng mà không phận biệt chủng tộc hay giới tính, nhưng chống lại việc sử dụng định mức (quota) trong thuê mướn nhân công. Đảng Dân chủ mạnh mẽ ủng hộ Đạo luật Người Mỹ với người Khuyết tật nhằm cấm đoán sự kỳ thị đối với người khác dựa trên sự khiếm khuyết về thể chất hoặc trí tuệ. Môi trường Quan điểm của Đảng Dân chủ về môi trường là sức khỏe của các gia đình và sức mạnh của nền kinh tế phụ thuộc vào khả năng bảo vệ môi trường sống. Họ cam kết tranh đấu để tăng cường luật lệ bảo đảm cho người dân không khí trong lành để thở, và nước sạch để uống. Họ tin rằng chính sách năng lượng thích hợp sẽ là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế, an ninh quốc gia, và môi trường trong lành. Mối quan tâm lớn nhất của các đảng viên Dân chủ trong lĩnh vực môi trường là tình trạng hâm nóng toàn cầu, nổi bật nhất là cựu Phó Tổng thống Al Gore, người đang vận động thông qua các luật lệ hạn chế khí thải nhà kính. Ngày 15 tháng 10 năm 2007, Gore được trao Giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực xây dựng sự nhận thức về sự biến đổi khí hậu do con người gây ra, cũng như lập nền cho các biện pháp cần thiết nhằm đối phó với chúng. Ông khẳng định, "sự khủng hoảng khí hậu không phải là một vấn đề chính trị, nó là một thách thức tâm linh và đạo đức đối với toàn thể nhân loại." Tên và Biểu tượng Từ những năm 1790, đảng Liên bang (Federalist) đã sử dụng tên "Đảng Dân chủ" như một sự sỉ nhục để trêu chọc những người ủng hộ Jefferson. Điển hình như năm 1798, George Washington nói "Nếu bạn cọ rửa một người da đen để có thể trở nên trắng thì bạn cũng có thể thay đổi chính kiến của một đảng viên Dân chủ". Tuy nhiên, trong thập niên 1830, biệt danh từng được xem là một sự sỉ nhục này đã trở thành tên chính thức, và chính đảng này gọi mình là "Đảng Dân chủ của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ". Biểu tượng được biết đến nhiều nhất của đảng là chú lừa. Khởi thủy, hình ảnh của chú lừa sản sinh từ những chế diễu, bôi bác trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1828, khi xuất hiện một vở kịch được đặt theo tên Tổng thống Andrew Jackson, khi ấy là ứng viên của Đảng Dân chủ. Jackson đã bị gọi là "Andrew Jackass" (đây là một cách chơi chữ trong Tiếng Anh, 'jackass' có nghĩa là 'thằng ngu', trong đó 'ass' là con lừa), và ông đã chấp nhận biệt danh này. Ngày 19 tháng 1 năm 1870, Thomas Nast của Harper's Weekly (Tuần báo Harper) vẽ một tranh biếm họa tựa đề "Lừa sống đá sư tử chết" làm sống lại hình ảnh chú lừa như là biểu tượng của Đảng Dân chủ (biểu tượng này đã được dùng trong thập niên 1930). Những họa sĩ biếm họa khác tiếp nối Nast và sử dụng hình ảnh chú lừa cho các đảng viên Dân chủ, và chú voi cho GOP (Đảng Cộng hòa). Biểu tượng chính thức của Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủ (DNC), miêu tả cách điệu hình ảnh một chú lừa đang phóng chân tung một cú đá hậu. Cả hai đảng chính (và nhiều đảng nhỏ) sử dụng những màu truyền thống đỏ, trắng và lam trong biểu tượng và quảng cáo. Còn các phương tiện truyền thông thường dùng màu đỏ và lam để hiển thị lập trường của các tiểu bang trong bầu cử. Kể từ cuộc tuyển cử năm 2000, tiểu bang bầu cho Đảng Dân chủ được đánh dấu màu lam và màu đỏ dành cho bang bầu phiếu cho Đảng Cộng hòa. Kết cấu và tổ chức hiện tại Ủy ban Toàn quốc Đảng Dân chủ phụ trách tổ chức phối hợp thích đáng hoạt động tranh cử của Đảng Dân chủ. Mặc dù Ủy ban Toàn quốc Đảng Dân chủ cũng phụ trách trông coi đốc xúc quá trình biên soạn quan điểm chính trị, nhưng mà nó chủ yếu vẫn tập trung vào hoạt động tranh cử và sách lược tổ chức, mà không phải là chính sách công cộng chỉnh thể. Về phương diện bầu cử tổng thống nó phụ trách lãnh đạo toàn cục quá trình tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ, đã bao gồm giai đoạn bầu cử sơ bộ, quyên tiền, đo lường khảo sát ý kiến nhân dân, và hoà hợp nhất trí sách lược tranh cử. Sau khi chọn ra người đề cử, dựa vào điều luật quyên tiền tuyển cử, hoạt động quyên tiền tranh cử vượt qua kim ngạch nhất định chỉ có thể tiến hành ở bên trong kết cấu của chính đảng. Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Đảng Dân chủ là do thành viên Ủy ban chọn ra cách mỗi bốn năm. Lúc tổng thống là đảng tịch dân chủ, thành viên của Ủy ban thông thường sẽ ủng hộ ứng viên được chọn lựa làm tổng thống đảm nhiệm chủ tịch. Ông Howard Dean đánh bại rất nhiều đối thủ trúng cử làm chủ tịch vào đầu năm 2005, ông ấy chủ trương Đảng Dân chủ không nên tập trung vào bang rung lắc mà mức ủng hộ đó chênh lệch gần giống nhau với Đảng Cộng hoà, nên ông ấy đã nêu ra cái gọi là "Chiến lược Năm mươi bang". Mục tiêu của ông ấy là cần khiến cho Đảng Dân chủ giành được thắng lợi ở trong chiến dịch tuyển cử của mỗi bang và mỗi tầng lớp, mỗi vùng bầu cử của cả nước đều có tổ chức đảng bộ kiện toàn. Dựa vào Điều lệ Đảng Dân chủ, thực ra Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ mới phải là quyền uy cao nhất của Đảng Dân chủ, mà không phải là Ủy ban Toàn quốc, Ủy ban Toàn quốc chỉ là phụ trách tổ chức hoạt động chính đảng thông thường. Ủy ban Toàn quốc là do đại biểu của đảng bộ Đảng Dân chủ của mỗi bang hợp thành, thứ tự xếp đặt chỗ ngồi của tổng cộng hai trăm vị đại biểu dựa vào nhân khẩu của mỗi bang mà phân chia, nên đại biểu thông thường là do bầu cử sơ bộ của các bang hoặc đảng bộ địa phương chọn ra, những vị đại biểu được chọn ra này cũng sẽ đảm nhiệm chức vị khác, có một ít cũng là Hạ nghị sĩ ở các nơi của Đảng Dân chủ. Ủy ban Tranh cử Quốc hội Đảng Dân chủ (Democratic Congressional Campaign Committee, viết tắt DCCC) phụ trách hiệp trợ bầu cử Hạ viện các nơi, nó đã chiêu tập tiền vốn hơn 10 triệu đô la Mĩ ở trong cuộc bầu cử năm 2005 - 2006. Chủ tịch Ủy ban Tranh cử Quốc hội Đảng Dân chủ trước đây là Hạ nghị sĩ bang Illinois ông Rahm Emanuel. Ngoài ra cũng có Ủy ban Tranh cử Thượng nghị viện Đảng Dân chủ (Democratic Senatorial Campaign Committee), cùng một kiểu cũng chiêu tập tiền vốn số lượng nhiều cho ứng viên các nơi trong cuộc bầu cử Thượng nghị viện, đảm nhiệm chủ tịch chính là Thượng nghị sĩ bang New York ông Chuck Schumer. Tổ chức quyên tiền quy mô khá nhỏ khác đã bao gồm Ủy ban Tranh cử Quốc hội Đảng Dân chủ - đoàn thể phụ trách bầu cử Quốc hội cấp địa phương và bang. Dưới quyền Ủy ban Toàn quốc Đảng Dân chủ cũng có hai tổ chức người thanh niên: Ban Thanh niên Đảng Dân chủ (Young Democrats of America) và Ban Người Đảng Dân chủ Học viện (College Democrats). Mỗi bang đều có sẵn đảng bộ độc lập, do thành viên Ủy ban chọn ra hợp thành (thông thường là quan chức được chọn ra cùng với Hạ nghị sĩ của vùng bầu cử chủ yếu), và lại do họ chọn ra chủ tịch đảng bộ. Do đó Ủy ban cấp thành phố, thị trấn, quận và vùng bầu cử thông thường là do nhân viên các cấp các tầng lớp của nơi đó chọn ra mà hợp thành, Ủy ban cấp địa phương và bang thông thường dựa vào quyền xét xử của chúng nó mà hoà hợp nhất trí hoạt động tranh cử, trông coi đốc xúc Đại hội đại biểu cấp địa phương hoặc là bầu cử sơ bộ và hội nghị cán bộ, có lúc cũng sẽ dựa vào pháp luật và quy định của bang, địa phương đó mà đề cử tên ứng viên. Mặc dù họ thông thường lấy được rất ít tiền vốn do quyên tiền, vào năm 2005 chủ tịch đảng lúc đó ông Howard Dean đã mở đầu một kế hoạch mới, lấy tiền tiền vốn của Ủy ban Toàn quốc hiệp trợ đảng bộ cấp địa phương và bang, và lại mướn dùng công chức đảng bộ toàn chức. Ông Dean cảm thấy vô cùng không vừa lòng đối với việc Ủy ban Tranh cử Thượng viện và Hạ viện yêu cầu liên miên không ngớt tập trung đầu tư của cải vốn liếng để đánh cuộc vào các bang tới gần tình hình tuyển cử, do đó quyết định đem tất cả tiền vốn phân phối đồng đều cho các bang, mà bất luận tình hình tuyển cử của chúng tốt hay xấu. Lịch sử Đảng Cộng hòa-Dân chủ: 1792–1824 Đảng Dân chủ có nguồn gốc từ đảng Cộng hòa–Dân chủ (Democratic-Republican) do Thomas Jefferson thành lập năm 1792. Dù vậy, một số học giả cho rằng đảng này ra đời vào năm 1828, những người ủng hộ Andrew Jackson, dưới sự lãnh đạo của Martin Van Buren, cùng các cựu thành viên đảng Liên bang (Federalist) tiến hành thành lập Đảng Dân chủ. Sau khi đảng Liên bang tan rã vào khoảng năm 1816, đảng Cộng hòa Dân-chủ của Jefferson cũng bắt đầu giải thể. Hệ thống dành đặc quyền chọn ứng viên tổng thống cho một nhóm thiểu số tinh hoa của đảng chấm dứt sau năm 1816. Từ đó, đảng bớt xem trọng tính trung thành và báo chí cũng bớt giọng điệu đảng phái. Những thay đổi này dẫn đảng dần đến sự tan rã. Năm 1824, John Quincy Adams, Henry Clay và Andrew Jackson, những ứng cử viên tổng thống hàng đầu của Đảng Dân chủ-Cộng hòa mạnh mẽ kêu gọi giải thể đảng. Dân chủ Jackson: 1828–1854 Dưới sự hướng dẫn của nhà tổ chức tài ba Martin Van Buren, cả ba nhân vật này thành lập một chính đảng mới có địa bàn hoạt động trên toàn quốc, kết hợp với những hậu cứ vững chắc tại các tiểu bang, phối hợp với những thủ lĩnh chính trị địa phương tự xưng là "Người theo Jackson". Từ "Dân chủ" xuất hiện trong danh xưng của đảng khoảng năm 1834. Ảnh hưởng địa lý của Đảng Dân chủ cũng tương tự như Đảng Dân chủ-Cộng hòa (cả hai đều có nhiều ảnh hưởng ở Thành phố New York và tiểu bang Virginia, nhưng yếu thế tại vùng New England). Đảng cũ và đảng mới có cùng một thông điệp với nội dung chống thành phần thượng lưu, "giới cầm quyền" và đặt lòng tin vào "nhân dân". Sự chống đối chủ yếu đến từ đảng Whig mới thành lập. Đảng này hình thành từ phe đối lập chống Jackson. Henry Clay là nhà lãnh đạo quan trọng nhất, nhưng ông này lại thất bại trước Jackson năm 1832. Đảng Dân chủ trong thập niên 1830 là một liên minh phức tạp cấu thành bởi nhiều nhân tố: nông dân trên mọi miền của nước Mỹ kết hợp với các nhóm công nhân sinh sống trong các đô thị. Những vấn đề chủ chốt trong thập niên này là sự bảo trợ, thuế quan và Ngân hàng Hoa Kỳ. Các vấn đề kinh tế như Ngân hàng Hoa Kỳ và thuế quan trở nên những điểm nóng từ năm 1828 đến năm 1850, cùng một số vấn đề khác như phân phối đất đai và mở rộng biên giới quốc gia. Nhưng đến thập niên 1850, những vấn đề này bị phủ bóng bởi những tranh luận về nạn nô lệ, tinh thần dân tộc và quyền của các tiểu bang, cuối cùng dẫn đến cuộc Nội chiến. Van Buren thắng cử năm 1836 nhưng bị đánh bại khi tái tranh cử năm 1840. James Polk dành thắng lợi năm 1844 và tiến hành cuộc chiến chống México, sau đó về hưu. Năm 1848 những người Dân chủ thuộc nhóm Free Soil tách khỏi đảng khiến Zachary Taylor, một anh hùng trong chiến tranh thuộc đảng Whig, dành chiến thắng. Đến phiên đảng Whig lại chia rẽ từ sau năm 1850, cống hiến cơ hội cho Đảng Dân chủ chiếm ưu thế tại hầu hết các tiểu bang. Franklin Pierce đắc cử năm 1852. Thủ lĩnh tại Quốc hội Hoa Kỳ, Thượng nghị sĩ Stephen A. Douglas thúc đẩy thông qua đạo luật Kansas-Nebraska năm 1854 mặc dù có nhiều chống đối. Nhiều đảng viên Dân chủ (nhất là những người thuộc nhóm Free Soil từ năm 1848) gia nhập đảng Cộng hòa vừa mới thành lập. James Buchanan đắc cử năm 1856, nhưng chính sách của ông về tiểu bang Kansas đã khiến Douglas tức giận đến nỗi đã đem đảng đến bên bờ vực chia rẽ. Nội chiến và Tái thiết Trong thập niên 1850, tiếp theo sự phân rã của đảng Whig, Đảng Dân chủ dần dà cũng bị chia cắt, với cánh miền Nam kiên quyết ủng hộ việc mở rộng chủ trương nô lệ vào những lãnh thổ mới, đối nghịch với chủ trương của đảng Cộng hòa vừa mới thành lập, tìm cách ngăn chặn sự mở rộng nô lệ vào vùng đất mới. Trong kỳ đại hội năm 1860 đề cử ứng viên tổng thống, xảy ra chia rẽ trong nội bộ đảng và những người ly khai quyết định tổ chức một đại hội cạnh tranh. Đảng viên dân chủ miền Bắc đề cử Stephen A. Douglas trong khi người miền Nam đề cử John Breckenridge cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1860. Kết quả cuộc bầu cử là chiến thắng thuộc về Abraham Lincoln thuộc đảng Cộng hòa, bảy tiểu bang miền Nam rút khỏi liên bang dẫn đến cuộc Nội chiến. Trong cuộc chiến, đảng viên Dân chủ miền Bắc chia thành hai phe, Dân chủ Chiến tranh, ủng hộ các chính sách quân sự của Tổng thống Lincoln, và nhóm Copperhead, mạnh mẽ chống đối. Dù bị tan tác sau cuộc chiến, Đảng Dân chủ hưởng lợi nhờ lòng phẫn uất của người miền Nam trong Thời kỳ Tái thiết, sau đó là thái độ thù nghịch của người dân trong vùng đối với đảng Cộng hòa. Khi Thời kỳ Tái thiết chấm dứt bởi Thoả hiệp năm 1877, và trong thập niên 1890 quyền bầu cử của người da đen bị tước bỏ, miền Nam suốt trong gần một thế kỷ luôn luôn bầu cho Đảng Dân chủ. Ở hầu hết các bang miền Nam, trên thực tế hầu như chỉ có một đảng, và chiến thắng của Đảng Dân chủ trong kỳ bầu cử sơ bộ là "tương đương với việc đắc cử". Trong thập niên 1880, trên bình diện quốc gia tình thế có vẻ cân bằng hơn. Mặc dù đảng Cộng hòa tiếp tục kiểm soát Tòa Bạch Ốc kể từ năm 1885, Đảng Dân chủ vẫn duy trì được thế cạnh tranh, với hậu cứ vững chắc tại miền Nam và sức mạnh to lớn ở vùng nông thôn Tây bắc, các cộng đồng dân tộc Đức và Ireland sinh sống trong các đô thị, các thị trấn công nghiệp và những láng trại thuộc khu hầm mỏ ở vùng Đông Bắc. Trong suốt phần lớn quãng thời gian này, họ giành được quyền kiểm soát Hạ viện. Năm 1884, Grover Cleveland, thống đốc Dân chủ tiểu bang New York, người có khuynh hướng cải cách, đắc cử tổng thống và tái đắc cử năm 1892. Nhưng ông bị đánh bại trong cuộc bầu cử năm 1888. Giai đoạn 1896–1932 Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1896, đảng viên Dân chủ ủng hộ nhóm Free Silver đánh bại phe bảo thủ trong đảng giành quyền đề cử William Jennings Bryan. Bryan, trong chiến dịch vận động, mạnh mẽ tấn công những quyền lợi tài chánh miền Đông, nhưng thất bại trước William McKinley trong cuộc bầu cử mang tính quyết định: đảng Cộng hòa chiếm giữ Tòa Bạch Ốc suốt 28 năm trong giai đoạn lịch sử kéo dài 36 năm (1896 – 1932). Đảng Cộng hòa kiểm soát phần lớn miền Đông Bắc, Tây Bắc và một nửa miền Tây. Bryan, được hậu thuẫn bởi những tiểu bang miền Nam và vùng đồng bằng, chỉ đủ mạnh để được đề cử ứng viên tổng thống năm 1900 (thua McKinley) và năm 1908 (thua Taft). Phe bảo thủ chống Bryan kiểm soát kỳ đại hội tổ chức năm 1904, nhưng lại đối diện với sức mạnh áp đảo của Theodore Roosevelt. Bryan từ bỏ nhóm Free Silver và luận điệu chống đế quốc để quay sang ủng hộ trào lưu tiến bộ đang thịnh hành. Năm 1912, Bryan ủng hộ Woodrow Wilson và được thưởng công bằng chiếc ghế bộ trưởng ngoại giao, nhưng sau đó, năm 1916, ông từ chức để phản đối chính sách diều hâu (non-pacifistic) của Wilson. Tận dụng tình trạng phân hóa bên trong đảng Cộng hòa, năm 1910 những người Dân chủ giành quyền kiểm soát Hạ viện, và giúp đưa một nhà trí thức có khuynh hướng cải cách, Woodrow Wilson, nắm giữ chức tổng thống từ năm 1912 đến năm 1916. Wilson đã thành công trong nỗ lực thuyết phục Quốc hội thông qua một loạt các đạo luật tiến bộ (progressive) như cắt giảm thuế quan, nâng cao hiệu lực các đạo luật chống độc quyền (antitrust), Hệ thống Dự trữ Liên bang, chi trả phúc lợi cho công nhân đường sắt và cấm lao động trẻ em (bị đảo ngược bởi Tối cao Pháp viện). Thêm vào đó, các tu chính hiến pháp dành quyền bầu cử cho phụ nữ và cấm rượu mạnh cũng được thông qua trong nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống. Wilson đã lãnh đạo Hoa Kỳ đến chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, giúp soạn thảo Hòa ước Versailles, trong đó có việc thành lập Hội Quốc Liên. Nhưng từ năm 1919, giống tình trạng sức khoẻ của ông, kỹ năng chính trị của Wilson bắt đầu suy yếu, và mọi việc đột nhiên trở nên tồi tệ. Thượng viện bác bỏ hòa ước Versailles cũng như Hội Quốc Liên, làn sóng đình công và bạo động nổ ra trên toàn quốc gây ra tình trạng bất ổn. Năm 1924 tại Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ, một nghị quyết phản đối nhóm Ku Klux Klan (một tổ chức chủ trương kỳ thị chủng tộc) được giới thiệu như là một bản tu chính nghị quyết nhằm kết án các định kiến xã hội và các nhóm thù hận. Đây là một phép thử quyền lực mà Al Smith và Oscar W. Underwood dùng để thách thức sự đề cử dành cho William McAdoo. Sau nhiều tranh luận, nghị quyết bị đánh bại vì thiếu chỉ một phiếu, nhưng McAdoo cũng không thể giành được sự đề cử vì thiếu đa số hai phần ba theo quy định. Đảng Dân chủ bị phân hóa trầm trọng và bị đánh bại bởi đảng Cộng hòa trong những chiến thắng áp đảo vào các năm 1920, 1924 và 1928. Tuy nhiên, năm 1928 Al Smith đã kịp xây dựng một hậu cứ vững chắc trong vòng những cộng đồng Công giáo sinh sống tại các thành phố lớn, cùng lúc sự kiện Franklin D. Roosevelt đắc cử Thống đốc tiểu bang New York đã mang nhà lãnh đạo mới xuất hiện này vào tâm điểm của sân khấu chính trị Hoa Kỳ. Chính sách mới (New Deal) Cuộc Đại Suy thoái (Great Depression) dọn đường cho một chính phủ có khuynh hướng tự do, và Franklin D. Roosevelt, với chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử năm 1932, đã tiến vào Tòa Bạch Ốc, dù thông điệp tranh cử của ông không rõ ràng với những lời hứa phục hồi luật cấm rượu và những chỉ trích nhắm vào những thất bại của Herbert Hoover. Trong lễ nhậm chức ngày 4 tháng 3 năm 1933, Roosevelt đưa ra một loạt các chương trình hành động được biết dưới tên New Deal, tập chú vào hoạt động cứu trợ, phục hồi và cải cách (relief, recovery, reform). Đó là cứu trợ dành cho đạo quân thất nghiệp và vùng nông thôn đang suy kiệt, phục hồi kinh tế, và các cải cách dài hạn nhằm ngăn cản suy thoái quay trở lại. Cuộc bầu cử năm 1932 mang đến cho Đảng Dân chủ một đa số lớn tại cả hai viện của Quốc hội cũng như các ghế thống đốc tiểu bang; cuộc bầu cử năm 1934 làm gia tăng thêm khoảng cách. Những chương trình ban hành năm 1933, thường được các sử gia gọi là New Deal thứ nhất, giành được sự đồng thuận rộng rãi; Roosevelt cố gắng tiếp xúc với giới doanh nghiệp, công đoàn, nông gia và người tiêu dùng, ở thành thị lẫn nông thôn. Dù vậy, đến năm 1934, ông bắt đầu hướng đến chính sách mang nhiều tính đối đầu hơn. Roosevelt tìm cách tách rời đảng khỏi chủ nghĩa tư bản trọng thương (laissez-fair capitalism) mà hướng về một hệ tư tưởng tập chú vào quy hoạch kinh tế và vào việc bảo hiểm cho những rủi ro. Hai từ cũ mang lấy ý nghĩa mới. Nay "tự do" nghĩa là ủng hộ New Deal, còn "bảo thủ" là chống New Deal. Các đảng viên Dân chủ bảo thủ nổi giận, dưới sự lãnh đạo của Al Smith, thành lập Liên minh Tự do Mỹ năm 1934 và tổ chức phản công, nhưng nỗ lực của họ không hiệu quả. Sau khi kiểm soát Quốc hội năm 1934, Roosevelt bắt tay vào một chương trình lập pháp đầy tham vọng gọi là "New Deal thứ hai", với những mục tiêu như xây dựng các nghiệp đoàn lao động, quốc hữu hóa hệ thống phúc lợi qua Cơ quan Cải thiện Việc làm (Works Progress Administration), thiết lập an sinh xã hội, áp đặt nhiều quy định hơn trên doanh nghiệp (nhất là trong lĩnh vực giao thông và truyền thông), tăng thuế lợi tức doanh nghiệp. Ông xây dựng một liên minh mới, đa số và đa dạng, gọi là Liên minh New Deal, gồm có các nghiệp đoàn lao động, thành phần thiểu số (quan trọng nhất là người Công giáo, Do Thái, và lần đầu tiên, người da đen). Liên minh New Deal chiến thắng trong tất cả cuộc bầu cử tổng thống ngoại trừ hai lần (năm 1952 và 1956) cho đến khi bị tan rã trong năm 1968. Sau chiến thắng vang dội trong lần tái tranh cử năm 1936, Roosevelt công bố kế hoạch mở rộng Tối cao Pháp viện, lâu nay thiết chế này vẫn có khuynh hướng chống kế hoạch New Deal của ông. Bùng nổ một cơn bão lửa từ những người chống đối, do chính phó tổng thống của ông, John Nance Garner, dẫn đầu. Roosevelt bị đánh bại bởi một liên minh giữa những người Cộng hòa với cánh bảo thủ của Đảng Dân chủ. Họ thành lập một liên minh bảo thủ mới và cố phong toả những đạo luật có khuynh hướng tự do cũng như kiểm soát Quốc hội trong suốt thời gian còn lại của nhiệm kỳ tổng thống. Bị de doạ bởi cánh bảo thủ trong đảng, Roosevelt tìm cách loại bỏ họ; năm 1938, ông vận động chống lại năm thượng nghị sĩ Dân chủ có khuynh hướng bảo thủ. Họ bác bỏ chủ trương liên bang can thiệp vào các vấn đề của tiểu bang, và cả năm nghị sĩ này đều dành thắng lợi trong lần tái tranh cử. Chủ trương tự do New Deal là ủng hộ phát triển phúc lợi xã hội, nghiệp đoàn lao động, dân quyền và áp đặt thêm luật lệ cho doanh nghiệp. Những người chống đối nhấn mạnh đến sự tăng trưởng lâu dài, ủng hộ doanh nghiệp và cắt giảm thuế, nay khởi sự tự gọi mình là "bảo thủ". Từ Truman đến Kennedy: 1945–1963 Ngày 12 tháng 4 năm 1945, Roosevelt từ trần khi đương chức, Harry S. Truman kế nhiệm ông. Sự rạn nứt bên trong đảng mà Roosevelt cố che lấp bắt đầu xuất hiện. Cựu Phó Tổng thống Henry A. Wallace mô tả Truman là kẻ thủ lợi nhờ chiến tranh vì những chương trình chống Liên Xô của ông, Wallace cũng chỉ trích Chủ thuyết Truman, Kế hoạch Marshall và NATO. Tuy nhiên, phe ủng hộ Wallace bị loại khỏi đảng và tổ chức nghiệp đoàn trong những năm 1946-1948 bởi những đảng viên trẻ tuổi như Hubert H. Humphrey, Walter Reuther và Arthur Schlesinger Jr.. Mặt khác, mũi tấn công của Đảng Cộng hòa nhắm vào chính sách đối nội của Truman. "Đủ chưa?" và "Lầm lẫn là Truman" là những câu khẩu hiệu được ưa chuộng của người Cộng hòa, và họ nắm quyền kiểm soát Quốc hội vào năm 1946, lần đầu tiên kể từ năm 1928. Nhiều lãnh tụ đảng đã sẵn sàng để đánh đổ Truman, nhưng chưa có cơ hội. Truman phản công, loại trừ Strom Thurmond cùng cánh da trắng miền Nam (Dixiecrat), và tiến hành một động thái chiến lược táo bạo bằng cách triệu tập một phiên họp đặc biệt tại Quốc hội dưới quyền kiểm soát của Đảng Cộng hòa, trình những dự luật mà ông biết chắc là họ sẽ bác bỏ, để rồi khi tình thế trở nên bế tắc, ông tổ chức một chuỗi các cuộc vận động liên hoàn trên toàn quốc để cáo buộc họ là Quốc hội khoá thứ 80 "Không chịu làm gì". Trong một cuộc bầu cử có lẽ là đáng kinh ngạc nhất trong thế kỷ XX, năm 1948 Truman đánh bại Thomas Dewey để tái đắc cử, đồng thời Đảng Dân chủ giành lại quyền kiểm soát Quốc hội. Dù vậy, những đề án Fair Deal của Truman như kế hoạch chăm sóc sức khoẻ cho mọi người, bị đánh bại bởi liên minh bảo thủ ở quốc hội. Năm 1952, Dwight D. Eisenhower chiếm lại Tòa Bạch Ốc cho đảng Cộng hòa sau khi đánh bại thống đốc bang Illinois Adlai Stevenson. Bốn năm sau, Eisenhower lặp lại chiến thắng trước Stevenson. Trong quốc hội, bộ đôi gốc Texas, Chủ tịch Hạ viện Sam Rayburn và lãnh tụ phe đa số Thượng viện Lyndon B. Johnson, cùng nhau cầm giữ đảng dưới bóng của vị anh hùng thời chiến tranh, Eisenhower. Thượng nghị sĩ John F. Kennedy thành công trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1960, đánh bại phó tổng thống đương chức Richard Nixon. Dù nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy kéo dài chỉ một ngàn ngày, ông đã cố kiềm chế ảnh hưởng của những người cộng sản sau khi chịu thất bại trong cuộc xâm lăng Vịnh con Heo ở Cuba và việc xây dựng Bức tường Bá Lâm, và gởi 16.000 binh sĩ đến Việt Nam. Kennedy thách thức người dân Mỹ tiến vào cuộc Chạy đua vào Không gian để đặt một người Mỹ lên Mặt Trăng trong năm 1969. Sau vụ Khủng hoảng Hoả tiễn Cuba, ông nỗ lực làm dịu tình hình căng thẳng với Liên Xô. Kennedy thúc đẩy dân quyền và tinh thần hòa hợp chủng tộc, ra lệnh điều động vệ binh liên bang bảo vệ những người tuần hành vì tự do ở miền nam. Tổng thống Kennedy bị ám sát ngày 22 tháng 11 năm 1963 tại Dallas, tiểu bang Texas. Ngay sau đó Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ. Johnson, người kế thừa chính sách New Deal, phá vỡ ảnh hưởng của liên minh bảo thủ ở Quốc hội, thông qua con số đáng kể các đạo luật có khuynh hướng tự do, được biết dưới tên Great Society. Johnson thành công trong nỗ lực tìm kiếm sự phê chuẩn cho các đạo luật bảo vệ dân quyền và khởi sự chính sách hòa hợp chủng tộc ở miền nam. Cùng lúc, Johnson leo thang chiến tranh ở Việt Nam, dẫn đến những xung đột nội bộ trong đảng và làm đảng phân hóa trong cuộc tuyển cử năm 1968. Phong trào Dân quyền: 1963–1969 Người Mỹ gốc Phi, vẫn có truyền thống ủng hộ Đảng Cộng hòa kể từ cuộc Nội chiến, trong thập niên 1930 chuyển sang Đảng Dân chủ, phần lớn là do các chương trình cứu tế của New Deal, và nhiệt huyết đấu tranh cho dân quyền của Đệ Nhất Phu nhân Eleanor Roosevelt. Trong nhiều thành phố như Chicago, toàn bộ guồng máy Cộng hòa trong những khu dân cư da đen đổi đảng hầu như chỉ trong một đêm. Dù vậy, đến cuối thập niên 1960, liên minh New Deal bắt đầu rạn nứt khi ngày càng có nhiều lãnh tụ Đảng Dân chủ lên tiếng ủng hộ dân quyền song lại thiết lập hậu cứ truyền thống cho đảng trong vòng phe Dân chủ miền nam và những nhóm Công giáo dựa theo chủng tộc ở các thành phố phương bắc. Giai đoạn chuyển đổi: 1969–1993 Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1972, Đảng Dân chủ đề cử Thượng nghị sĩ George McGovern với câu khẩu hiệu chống chiến tranh của ông "Hỡi người Mỹ, hãy về nhà". McGovern chủ trương triệt thoái lập tức khỏi Việt Nam và bảo đảm lợi tức tối thiểu cho mọi người dân Mỹ. Trong khi McGovern cố vận động chống các chính sách của Nixon thì những tiết lộ về người đứng cùng liên danh với ông, Thomas Eagleton (từng được điều trị bằng liệu pháp shock điện), trở thành tai họa cho hình ảnh của McGovern. Sargent Shriver, một đồng minh của Daley, được chấp nhận để trở nên ứng viên phó tổng thống. Cuộc tổng tuyển cử là một chiến thắng áp đảo cho Richard Nixon khi McGovern chỉ giành được mỗi một bang Massachussetts. Nhưng Đảng Dân chủ vẫn duy trì được thế đa số ở Quốc hội và tại hầu hết viện lập pháp các tiểu bang. Vụ tai tiếng Watergate đã huỷ diệt sự nghiệp chính trị của Nixon và cho những người Dân chủ chút ít hi vọng. Khi Tổng thống Gerald Ford ân xá Nixon sau khi ông này từ chức năm 1974, Đảng Dân chủ có cơ hội làm lớn chuyện "thối nát" và giành thắng lợi trong cuộc bầu cử bất thường. Cuộc bầu cử năm 1976 chứng kiến thành công bất ngờ của Thống đốc tiểu bang Georgia, Jimmy Carter, một người bên ngoài ít tiếng tăm nhưng hứa hẹn một tính cách chân thật. Trong số những thành quả quan trọng của Tổng thống Carter có việc thiết kế chính sách năng lượng quốc gia, và củng cố các cơ quan chính quyền, dẫn đến việc thành lập hai bộ mới, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ và Bộ Giáo dục Hoa Kỳ. Carter dẫn đầu những nỗ lực lưỡng đảng nhằm điều chỉnh các ngành công nghiệp vận tải đường bộ, hàng không, hỏa xa, tài chính, truyền thông và dầu mỏ. Ông hỗ trợ hệ thống an sinh xã hội, và bổ nhiệm con số kỷ lục phụ nữ và thành phần thiểu số vào các vị trí công quyền và các chức vụ tư pháp. Carter vận động thông qua các đạo luật bảo vệ môi trường và mở rộng Dịch vụ Công viên Quốc gia ở Alaska, thêm 103 triệu mẫu Anh vào thẩm quyền quản lý của liên bang. Về ngoại giao, những thành tựu của Carter là Hiệp ước Trại David, Hiệp ước Kênh đào Panama, thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và đàm phán Hòa ước SALT II với Liên Xô. Bên cạnh đó, ông đấu tranh cho nhân quyền trên khắp thế giới và xem nhân quyền là trọng tâm của chính sách đối ngoại. Mặc dù những thành quả ấy, Carter thất bại trong nỗ lực thực thi kế hoạch y tế quốc gia và cải cách hệ thống thuế như ông đã hứa khi ra tranh cử. Lạm phát tăng cao. Bên ngoài là vụ khủng hoảng con tin ở Iran (4 tháng 11 năm 1979 – 20 tháng 1 năm 1981), 52 người Mỹ bị bắt giữ làm con tin trong 444 ngày, cùng những thất bại trong ngoại giao và quân sự nhằm giải cứu con tin. Sự kiện quân đội Liên Xô chiếm đóng Afghanistan làm suy yếu hình ảnh của Carter đối với người dân Mỹ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1980, Carter đánh bại Ted Kennedy để giành sự đề cử của đảng nhưng lại thất bại trước Ronald Reagan. Đảng Dân chủ mất 12 ghế ở Thượng viện, như thế lần đầu tiên kể từ năm 1954, Đảng Cộng hòa nắm quyền kiểm soát Thượng viện. Song Đảng Dân chủ vẫn duy trì thế đa số ở Hạ viện. Dù đã thất bại trong cuộc tuyển cử, Carter vẫn tiếp tục đàm phán tìm kiếm sự phóng thích cho các con tin cho đến phút cuối của nhiệm kỳ. Nhân tố đóng góp cho thành công của Ronald Reagan thuộc đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử năm 1980 là những người Dân chủ ủng hộ chính sách bảo thủ. Những "người Dân chủ Reagan" này là thành viên Đảng Dân chủ trước và sau nhiệm kỳ của Reagan. Hầu hết là người da trắng ở vùng Đông Bắc và Trung Tây thu hút bởi chủ trương của Reagan, bảo thủ trong nước và diều hâu ở nước ngoài. Reagan chiếm phiếu ở 49 tiểu bang, đánh bại cựu Phó Tổng thống Walter Mondale, một người ủng hộ New Deal, trong cuộc bầu cử năm 1984. Trong cuộc bầu cử năm 1988, Thống đốc tiểu bang Massachussetts, Michael Dukakis, một chuyên gia về hành chính công, thất bại trước Phó Tổng thống George H. W. Bush. Thời kỳ Clinton: 1993–2001 Năm 1992, lần đầu tiên trong 12 năm, cử tri Mỹ chọn một chính trị gia Dân chủ để đặt vào Tòa Bạch Ốc. Tổng thống Bill Clinton đã cân bằng ngân sách liên bang lần đầu tiên kể từ nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy và giúp kinh tế Mỹ phát triển mạnh cũng như gia tăng lợi tức ở nước ngoài. Năm 1994 chứng kiến mức lạm phát và thất nghiệp được kéo xuống đến mức thấp nhất trong 25 năm. Tổng thống ký ban hành luật Brady, ấn định thời gian chờ đợi năm ngày trước khi mua súng ngắn, và ban hành luật cấm nhiều loại vũ khí bán tự động (luật này đã hết hạn năm 2004). Đạo luật Nghỉ phép Y tế và Gia đình của ông có ảnh hưởng trên 40 triệu người Mỹ, cho họ quyền nghỉ phép có lương và bảo đảm việc làm trong trường hợp nghỉ hộ sản, bệnh tật cá nhân và gia đình. Clinton giúp phục hồi dân chủ ở Haiti, gây áp lực lên các vòng đàm phán hòa bình Palestine-Israel, làm trung gian cho cuộc ngừng bắn lịch sử ở Bắc Ireland, và thương thuyết Hòa ước Dayton, giúp kết thúc bốn năm khủng bố và tàn sát ở vùng đất Nam Tư cũ. Năm 1996, Clinton đắc cử nhiệm kỳ thứ hai, lần đầu tiên kể từ Franklin D. Roosevelt (năm 1944), một tổng thống Dân chủ được tín nhiệm trong hai nhiệm kỳ liên tiếp. Tuy nhiên, năm 1994, Đảng Dân chủ mất thế đa số tại cả hai viện của Quốc hội. Clinton phủ quyết những dự luật cải cách phúc lợi được Đảng Cộng hòa ủng hộ trước khi chịu ký ban hành dự luật thứ ba, Đạo luật Cơ hội Việc làm và Trách nhiệm Cá nhân trong năm 1996. Clinton thông qua Thoả ước Tự do Mậu dịch Bắc Mỹ (NAFTA) với Canada và México mặc cho những chống đối dữ dội từ các nghiệp đoàn lao động và sự thất vọng của cánh tả trong đảng. Giai đoạn 2001–2009 Bầu cử Tổng thống năm 2000 Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, Đảng Dân chủ chọn Phó Tổng thống Al Gore làm ứng viên cho chức vụ tổng thống. Gore và George W. Bush, ứng viên đảng Cộng hòa và là con trai của một cựu tổng thống, bất đồng với nhau về một số vấn đề như phá thai, chính trị vũ khí, môi trường, quyền của người đồng tính, cắt giảm thuế, chính sách ngoại giao, giáo dục công lập, tình trạng nóng ấm toàn cầu, bổ nhiệm thẩm phán và chính sách ưu đãi các nhóm thiểu số (affirmative action''). Tuy nhiên, mối quan hệ thân thiết của Gore với Clinton và DLC khiến một số người chỉ trích như ứng cử viên Đảng Xanh, Raph Nader, khẳng định rằng Bush và Gore chẳng khác gì nhau, nhất là về chủ trương tự do thương mại và cắt giảm phúc lợi xã hội. Một phụ tá của Nader giải thích lý do Nader ra tranh cử "là vì chúng tôi muốn trừng phạt Đảng Dân chủ, chúng tôi muốn họ bị tổn thương." Gore giành được 500.000 phiếu phổ thông nhiều hơn Bush, nhưng thua bốn phiếu của Cử tri đoàn. Nhiều người cho rằng sự thất bại này là do Gore mất phiếu cho đảng thứ ba của Nader. Dù vậy, Đảng Dân chủ được thêm năm ghế ở Thượng viện (kể cả thắng lợi của Hillary Rodham Clinton ở New York) để biến tỷ lệ 55-45 nghiêng về đảng Cộng hòa trở nên tỷ lệ 50-50 (không kể phiếu của phó tổng thống hầu có thể phá vỡ thế bế tắc). Thế nhưng, khi Thượng nghị sĩ Cộng hòa Jim Jeffords của Vermont quyết định trở nên thành viên độc lập và bầu phiếu cho phe Dân chủ ở Thượng viện, thế đa số ngả về Đảng Dân chủ với quyền kiểm soát Thượng viện dành cho lãnh tụ phe đa số và chủ tịch các uỷ ban. Dù vậy, đảng Cộng hòa chiếm lại thế đa số ở Thượng viện do những thắng lợi trong năm 2002 và 2004, chỉ để lại 44 ghế cho các nghị sĩ Dân chủ, số ghế ít nhất kể từ thập niên 1920. Sau vụ tấn công 11 tháng 9 năm 2001, cả nước chuyển sự quan tâm sang các vấn đề an ninh quốc gia. Tất cả nghị sĩ Dân chủ, ngoại trừ Dân biểu Barbara Lee, đồng thuận với các đồng sự Cộng hòa trao quyền cho Tổng thống Bush cho tiến quân vào Afghanistan. Lãnh tụ Hạ viện, Richard Gephardt, và lãnh tụ Thượng viện, Thomas Daschle, thúc đẩy các đảng viên Dân chủ bỏ phiếu cho đạo luật PATRIOT và cuộc xâm lăng Iraq. Có sự phân hóa trong Đảng Dân chủ khi quân đội Hoa Kỳ tiến vào Iraq năm 2003, ngày càng có nhiều người bày tỏ sự lo ngại về cả chính nghĩa lẫn sự tiến triển của Cuộc chiến chống Khủng bố cùng những ảnh hưởng trong nước, kể cả hiểm họa đối với dân quyền và quyền tự do dân sự đến từ đạo luật PATRIOT. Thượng nghị sĩ Russ Feingold là người duy nhất bỏ phiếu chống lại đạo luật; đạo luật này gặp phải sự chống đối đáng kể khi gia hạn. Bầu cử tổng thống năm 2004 Chiến dịch tranh cử năm 2004 khởi sự vào đầu tháng 12 năm 2002, khi Gore tuyên bố ra tranh cử trong cuộc bầu cử năm 2004. Howard Dean, cựu Thống đống tiểu bang Vermont, một người chủ trương chống chiến tranh và thường chỉ trích cơ chế hiện hành của Đảng Dân chủ, dẫn đầu trong các cuộc bầu cử sơ bộ. Dean có hậu thuẫn vững chắc, đặc biệt là từ cánh tả trong đảng. Thượng nghị sĩ đại diện tiểu bang Massachusetts John Kerry, một nhân vật chủ trương trung dung tìm được sự ủng hộ của Hội đồng Lãnh đạo Dân chủ, cuối cùng được đề cử bởi vì nhiều người xem ông là có nhiều triển vọng hơn Dean. Số lượng công nhân Mỹ bị sa thải trong các ngành công nghiệp ngày càng tăng cao do các hãng xưởng được chuyển ra nước ngoài khiến một số đảng viên Dân chủ (trong đó có Dean và ứng viên vào thượng viện của tiểu bang North Carolina Erskine Bowles) bắt đầu xét lại quan điểm của họ về tự do mậu dịch. Trong năm 2004, sự thất bại của chính phủ Bush trong việc tìm kiếm vũ khí huỷ diệt hàng loạt ở Iraq, số thương vong tăng cao, và không thấy điểm dừng cho cuộc chiến chống Iraq trở nên những điểm nóng tại các cuộc tranh luận trong cuộc bầu cử. Chiến lược vận động của Đảng Dân chủ nhắm vào sự phục hồi kinh tế mà không gia tăng việc làm, giải quyết cuộc khủng hoảng Iraq, và giải quyết nạn khủng bố cách hiệu quả hơn. Kết quả là Kerry thua cuộc cả trong số phiếu phổ thông lẫn phiếu của cử tri đoàn. Đảng Cộng hòa dành thêm bốn ghế trong thượng viện và thêm ba ghế ở Viện Dân biểu (Hạ viện). Tệ hại hơn, lần đầu tiên kể từ năm 1952, lãnh tụ Đảng Dân chủ tại Thượng viện bị thất cử. Tổng cộng có 3.660 đảng viên Dân chủ đắc cử vào các viện lập pháp tiểu bang trên toàn quốc, con số này của Đảng Cộng hòa là 3.557. Các đảng viên Dân chủ nắm giữ chức thống đốc tại các bang Louisiana, New Hampshire và Montana, nhưng lại mất chức thống đốc tiểu bang Missouri và thế đa số ở viện lập pháp tiểu bang Georgia - hai nơi này lâu nay vẫn là thành trì của Đảng Dân chủ. Có nhiều lý do giải thích sự thất bại này. Sau cuộc bầu cử, hầu hết các nhà phân tích cho rằng Kerry thiếu khả năng trong vận động tranh cử. Một nhóm cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam làm hỏng kế hoạch sử dụng thành tích chiến đấu của Kerry như là một thế mạnh trong vận động tranh cử, và sự mâu thuẫn trong lập trường của Kerry về cuộc chiến Iraq. Đảng Cộng hòa cho chiếu hàng ngàn quảng cáo trên truyền hình nhằm thuyết phục cử tri rằng Kerry không có lập trường nhất quán về Iraq. Những sai sót trong hệ thống kiểm phiếu có thể là một trong những nhân tố dẫn đến sự thất bại của Kerry. Thượng nghị sĩ Barbara Box đại diện bang California và một vài Dân biểu Dân chủ đưa vấn đề về những bất thường trong cuộc bầu cử ra kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá 109 nhưng bị đánh bại ở Hạ viện với số phiếu 267-31 và 74-1 tại Thượng viện. Các nhân tố khác nên được kể đến là tình trạng lành mạnh của thị trường việc làm, thị trường chứng khoán có chiều hướng tốt, số nhà bán gia tăng và tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngày nay Sau hai thất bại liên tiếp trong năm 2000 và 2004, nhiều đảng viên Dân chủ bộc lộ sự lo ngại về tương lai của đảng. Giới lãnh đạo bắt đầu xét lại hướng đi của đảng và nhiều sách lược được đưa ra. Nhiều người muốn đảng ngả về phía hữu với hi vọng dành thêm ghế ở lưỡng viện và có cơ may chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008; những người khác cho rằng đảng cần hướng về phía tả để trở thành một đảng đối lập có thực lực. Những tranh luận này được thể hiện trong chiến dịch năm 2005 tranh chức Chủ tịch Ủy ban Dân chủ Quốc gia, cuối cùng Howard Dean là người thắng thế. Dean tìm cách đem đảng tách khỏi cơ chế hiện hành và ủng hộ các đảng bộ tiểu bang và các chi bộ địa phương. Khi Quốc hội khoá 109 được triệu tập, các thượng nghị sĩ Dân chủ chọn Harry Reid (bang Nevada) làm lãnh tụ phe thiểu số và Richard Durbin làm phụ tá cho Reid. Năm 2005, Đảng Dân chủ giành lại chức thống đốc tại các bang Virginia và New Jersey nhưng lại thua trong cuộc đua tranh chức thị trưởng Thành phố New York, một thành trì của Đảng Dân chủ, trong bốn lần liên tiếp. Những cuộc thăm dò trong năm 2006 cho thấy triển vọng lại bừng sáng cho Đảng Dân chủ, chủ yếu là do những sai lầm và tai tiếng của đảng Cộng hòa. Những vụ tai tiếng liên quan đến nhà vận động hành lang Jack Abramoff, cựu lãnh tụ phe đa số Hạ viện Tom DeLay, và thống đốc tiểu bang Ohio, Bob Taft, cho Đảng Dân chủ cơ hội khai thác vấn đề tình trạng thối nát trong chính trường. Phản ứng chậm trễ của Bush khi xảy ra thảm họa Bão Katrina xem ra sẽ là một vấn đề được đưa ra trong chiến dịch vận động nhằm nhấn mạnh tính thiếu hiệu năng của chính phủ. Dư luận quần chúng về chiến sự ở Iraq ngày càng trở nên tiêu cực và cảm giác đang lan tỏa trong vòng những người bảo thủ, cho rằng chính phủ Cộng hòa không có khả năng kiểm soát chi tiêu của chính phủ đang kéo sự ủng hộ dành cho Tổng thống Bush xuống mức thấp nhất kể từ khi ông đặt chân vào Tòa Bạch Ốc. Với hàng loạt vụ bê bối trong đảng Cộng hòa được phanh ra trước cuộc tổng tuyển cử như vụ Mark Foley, quyền kiểm soát Quốc hội dường như nằm trong tầm tay của Đảng Dân chủ. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2006, Đảng Dân chủ giành lại quyền kiểm soát Quốc hội và chiếm đa số ghế thống đốc tiểu bang. Trong Viện Dân biểu, họ chiếm đủ số ghế để giành đa số, và dân biểu Nancy Pelosi là nữ chính khách đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ được chọn vào chức vụ Chủ tịch Viện Dân biểu. Trong Thượng nghị viện, họ lật đổ 6 ghế đang được giữ bởi đảng Cộng hòa để chiếm được 51 ghế. Như vậy, kể từ đầu năm 2007, Đảng Dân chủ trở thành đảng đa số, năm quyền kiểm soát tại lưỡng viện Quốc hội. Thời kỳ Obama: 2009–2017 Đảng Dân chủ chính thức đề cử Barack Obama tại Đại hội Đảng Dân chủ Toàn quốc tại Denver, Colorado vào ngày 25 đến 28 tháng 8. Đến ngày 3 tháng 6, Barack Obama đã nhận đủ phiếu ủng hộ để được Đảng Dân chủ đề cử. Đối thủ cuối cùng của ông, Hillary Clinton, rút lui sau đó vào ngày 7 tháng 6. Lúc đó, Barack Obama là Thượng nghị sĩ trong nhiệm kỳ đầu tiên từ Illinois. Ông được bầu vào chức vụ này từ năm 2004. Khi được đề cử, ông trở thành ứng cử viên người Mỹ gốc Phi đầu tiên được một trong hai đảng lớn đề cử cho chức vụ tổng thống. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, Barack Obama đối đầu với ứng cử viên Cộng hòa là John McCain. Barack Obama giành 53% phiếu phổ thông và 365 phiếu đại cử tri đoàn, trở thành tổng thống người Mỹ gốc Phi đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2012, Barack Obama đối đầu với ứng cử viên Cộng hòa là Mitt Romney. Barack Obama giành 51% phiếu phổ thông và 332 phiếu đại cử tri đoàn, tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai. Thời kỳ Biden: 2021–nay Đảng Dân chủ chính thức đề cử cựu phó tổng thống Joe Biden tại Đại hội Đảng Dân chủ Toàn quốc tại Milwaukee, Wisconsin vào ngày 17 đến 20 tháng 8. Đến ngày 6 tháng 6, Joe Biden đã nhận đủ phiếu ủng hộ để được Đảng Dân chủ đề cử. Đối thủ cuối cùng của ông, Bernie Sanders, rút lui trước đó vào ngày 8 tháng 4. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, Joe Biden đối đầu với ứng cử viên Cộng hòa là đương kim tổng thống Donald Trump. Joe Biden giành 51% phiếu phổ thông và 306 phiếu đại cử tri đoàn trở thành tổng thống lớn tuổi nhất. Đồng ứng cử viên của ông, bà thượng nghị sĩ Kamala Harris trở thành nữ phó tổng thống, người Mỹ gốc Phi và gốc Á đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Tổng thống Đảng Dân chủ Danh sách liên danh ứng cử viên tổng thống Danh sách Đảng bộ Tiểu bang và Lãnh thổ Alabama Democratic Party (Site ) Alaska Democratic Party (Site) Arizona Democratic Party (Site) Democratic Party of Arkansas (Site) California Democratic Party (Site) Colorado Democratic Party (Site ) Democratic State Central Committee of Connecticut (Site) Delaware Democratic Party (Site) Florida Democratic Party (Site) Democratic Party of Georgia (Site ) Democratic Party of Hawaii (Site) Idaho Democratic Party (Site) Democratic Party of Illinois (Site) Indiana Democratic Party (Site) Iowa Democratic Party (Site) Kansas Democratic Party (Site) Kentucky Democratic Party (Site) Louisiana Democratic Party (Site) Maine Democratic Party (Site) Maryland Democratic Party (Site) Massachusetts Democratic Party (Site) Michigan Democratic Party (Site) Minnesota Democratic-Farmer-Labor Party (Site) Democratic Party of the State of Mississippi (Site) Missouri Democratic Party (Site) Montana Democratic Party (Site) Nebraska Democratic Party (Site) Nevada Democratic Party (Site) New Hampshire Democratic Party (Site) New Jersey Democratic State Committee (Site) Democratic Party of New Mexico (Site) New York State Democratic Committee (Site) North Carolina Democratic Party (Site) North Dakota Democratic-NPL Party (Site) Ohio Democratic Party (Site) Oklahoma Democratic Party (Site) Democratic Party of Oregon (Site) Pennsylvania Democratic Party (Site) Puerto Rico Democratic Party (Site ) Rhode Island Democratic Committee (Site) South Carolina Democratic Party (Site) South Dakota Democratic Party (Site) Tennessee Democratic Party (Site) Texas Democratic Party (Site) Utah Democratic Party (Site) Vermont Democratic Party (Site) Democratic Party of Virginia (Site) Washington State Democratic Party (Site) West Virginia Democratic Party (Site) Democratic Party of Wisconsin (Site) Wyoming Democratic Party (Site) Chú thích Chú thích Cước chú
Lê Quý Quỳnh (1923–2012) là một chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên (1959–1971) rồi Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (1971–1972). Ông được xem là người đi trước Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc trong sáng kiến khoán sản phẩm tới nông dân. Thân thế và sự nghiệp chính trị Ông tên thật là Vương Văn Thành, sinh ngày 27 tháng 6 năm 1923, tại thôn Hoàng Lê, xã Yên Xá, huyện Mỹ Văn (nay là phường Phan Đình Phùng, thị xã Mỹ Hào), tỉnh Hưng Yên. Gia đình ông có 11 anh em. Từ nhỏ, ông có tiếng học giỏi và rất hòa đồng với mọi người. Năm 1939, ông ra Hà Nội học nghề y tá và được nhận vào làm việc tại Bệnh viện Phủ Doãn. Tuy nhiên, chỉ 1 năm sau, ông bị đuổi việc vì dám tranh luận và cự lại ông chủ Tây. Trong những năm sau đó, ông hành nghề tự do tại Hà Nội và có những tiếp xúc với những người Cộng sản như Nguyễn Chương, Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, Hoàng Thế Cư, Tỉnh ủy viên Hưng Yên, được bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1944, ông được tổ chức trở về quê nhà hoạt động, lập chi bộ Đảng đầu tiên của xã Phan Đình Phùng. Tháng 1 năm 1945, ông được kết nạp Đảng chính thức và được cử làm Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện Mỹ Hào, lãnh đạo dân chúng tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền trong Cách mạng tháng 8. Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông vẫn tiếp tục hoạt động trong vùng người Pháp kiểm soát. Năm 1947, ông được phân công là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách vùng tạm chiếm. Không lâu sau đó, ông được cử giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh; Chính trị viên tỉnh đội Hưng Yên. Sau khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, ông được điều về làm Trưởng ban tổ chức Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Năm 1956, ông được điều giữ cương vị Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Hưng Yên. Ngày 9 đến 15 tháng 3 năm 1959, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên. Ông Bí thư gần dân có tinh thần Đổi mới Ngày 21 đến 29 tháng 3 năm 1961, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ V vòng hai (khi đó, chỉ riêng những trường hợp rất đặc biệt, có thể gọi là hiếm hoi thì mới phải tổ chức Đại hội tới vòng hai) ông được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy. Ông tiến hành khoán sản phẩm "chui" (không theo quy định chính thức thời đó) vào khoảng thời điểm 1962 (không có số liệu chính xác, nhưng tại thời điểm năm 1963 tại Hưng Yên đã có khoán "chui" tại một vài đội sản xuất và đạt hiệu quả ngay tức thì). Một sáng kiến khác của ông xoay quanh việc cải thiện đời sống cho người dân, sáng kiến này tập trung quanh khẩu hiệu "Hưng Yên mở hội làm giàu". Nhưng cũng vì khẩu hiệu này mà ông bị Ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh gọi lên phê bình kịch liệt. Tại Trung ương, ông phải nhận lỗi và cam kết sẽ thay đổi. Chính bởi không dám kháng lệnh Trung ương nên những sáng kiến của ông chỉ được thực hiện nửa chừng.Khác với Lê Quý Quỳnh, cố Bí thư Kim Ngọc, sau khi bị phát hiện khoán "chui" và bị Trường Chinh dọa cách chức, đã không dừng lại mà tiến hành "khoán hộ" trên diện rộng hơn. Ngày 6 đến 10 tháng 9 năm 1963, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ VI, ông được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy khóa VI . Năm 1964, ông được bầu vào Quốc hội Việt Nam khóa III. Ông tái cử Đại biểu Quốc hội các khóa IV, V. Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Quyết định số 504-QĐ/TVQH về việc hợp nhất hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hải Dương. Theo sự chỉ định của Trung ương, Lê Quý Quỳnh được tiếp tục giữ chức Bí thư Tỉnh ủy . Ngày 1 tháng 4 năm 1972, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Công văn số 19 về việc sắp xếp lại Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Hưng. Bí thư là Ngô Duy Đông (về sau là Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương), Phó Bí thư Thường trực; Lê Quý Quỳnh, Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính Trần Tạo. Như vậy, Lê Quý Quỳnh là nhân vật xếp thứ hai của Tỉnh ủy Hải Hưng cho tới cuối thập kỉ 70. Từ đầu năm 1972 trở đi là kết thúc thời kì ông chịu trách nhiệm quản lý ở Hưng Yên và sau đó là Hải Hưng. Những năm cuối đời Năm 1975 ông được Trung ương điều vào thành phố Hồ Chí Minh với cương vị Thành ủy viên, phụ trách nông nghiệp, Giám đốc Sở Nông nghiệp TP Hồ Chí Minh. Tháng 4.1977, Thành ủy viên, Phó Ban nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1978, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Khai hoang. Tháng 2 năm 1979, ông giữ chức Phó chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng. Năm 1981 ông được cử làm Chủ nhiệm Công ty chuyên doanh đặc sản cho đến năm 1988 thì nghỉ hưu. Sau khi về hưu, ông được bầu là Chủ tịch Hội nuôi ong Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc phát triển phong trào nuôi ong khắp các tỉnh từ đồng bằng đến miền núi liên tục phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con nông dân. Ông cũng nhiều năm được bầu làm Chủ tịch Hội đồng hương Hưng Yên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi tuổi cao, ông được Hội đồng hương Hưng Yên tại Thành phố Hồ Chí Minh suy tôn là Chủ tịch danh dự của Hội. Ông qua đời ngày 4 tháng 7 năm 2012, và được an táng tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh. Chú thích
Imipenem là một chất kháng sinh beta-lactam truyền theo đường tĩnh mạch được phát triển từ năm 1985. Imipenem thuộc về phân nhóm các carbapenem. Nó được chiết xuất từ hợp chất gọi là thienamycin, là chất do vi khuẩn Streptomyces cattleya tiết ra. Imipenem có phổ hoạt hóa rộng chống lại các vi khuẩn gam dương kỵ khí và ưa khí cũng như các vi khuẩn gam âm. Nó có tầm quan trọng trong việc chống lại Pseudomonas aeruginosa và các vi khuẩn thuộc chi Enterococcus. Tuy nhiên, nó không có tác dụng chống lại Staphylococcus aureus kháng methicillin. Imipenem và các dược phẩm khác trong lớp carbapenem nói chung được nhắc đến như là các "viên đạn diệu kỳ". Việc sử dụng chúng nói chung bị hạn chế nhằm tránh sự nhờn thuốc của vi khuẩn. Điều trị cùng cilastatin Bài chính: Imipenem/cilastatin Imipenem bị phân hủy nhanh chóng bởi enzym dehydropeptidaza trong thận khi được chỉ định điều trị độc lập, vì thế nó luôn luôn được chỉ định cùng với cilastatin để ngăn chặn sự khử hoạt tính này. Các hiệu ứng bất lợi Các hiệu ứng bất lợi chung của imipenem là buồn nôn và nôn mửa. Những người bị dị ứng với penicillin và các kháng sinh khác thuộc nhóm beta-lactam không nên dùng imipenem. Imipenem cũng có thể gây ra tai biến động kinh.
Siêu cúp bóng đá Ý (tiếng Ý: SuperCoppa Italiana) là giải bóng đá được tổ chức giữa hai đội bóng vô địch Serie A và cúp quốc gia của Ý. Các trận tranh siêu cúp * Đội thua trong trận tranh Coppa Italia. Thành tích của các đội Các chân sút vĩ đại
Trong tin học, một cài đặt tham khảo hay cài đặt mẫu (tiếng Anh: reference implementation hay sample implementation) là một phần mềm ví dụ của một chuẩn với mục đích giúp đỡ những người khác cài đặt các phiên bản của riêng mình theo chuẩn đó. Với một ví dụ hoạt động được, một tiêu chuẩn sẽ trở nên dễ hiểu hơn. Mục đích của cài đặt tiêu chuẩn thường là để cộng đồng phát triển phần mềm biết rõ hơn và quen thuộc với đặc tả hơn. Các đặc điểm của một cài đặt tham khảo : Được phát triển song song với đặc tả và bộ test Kiểm định xem đặc tả có cài đặt được hay không Dùng để test bộ test Được dùng như là Tiêu chuẩn Vàng để đánh giá các cài đặt khác Giúp làm rõ nội dung của đặc tả nơi các test tiêu chí (conformance test) không đầy đủ Cài đặt tham khảo có thể là sản phẩm có chất lượng tốt hoặc tồi. Cài đặt tham khảo Fraunhofer cho MP3 được xem là có chất lượng mã hóa tồi hơn nhiều cài đặt khác, chẳng hạn LAME. Tuy nhiên, cài đặt tham khảo hệ thống X Window của X.org không chỉ ở mức sẵn sàng sử dụng mà nguyên trạng của nó còn ngày càng phổ biến trên các hệ điều hành tựa Unix mã nguồn mở. Chú giải Tiêu chuẩn Công nghệ phần mềm
Trong kỹ nghệ phần mềm, một dạng thức thiết kế là một giải trình lập lại được cho một dạng vấn đề thường xảy ra trong ngành thiết kế phần mềm. Một dạng thức thiết kế không phải là một thiết kế hoàn tất có thể được chuyển dạng trực tiếp thành mã; nó thực ra là một sự mô tả hay một tiêu bản nhằm chỉ ra cách giải quyết vấn đề mà có thể sử dụng được trong nhiều tình huống khác nhau. Các dạng thức thiết kế hướng đối tượng thường chỉ ra các quan hệ và các mối tương tác giữa các lớp, mà không cần đặc tả rõ các lớp ứng dụng cuối cùng hay các đối tượng có tham gia. Các thuật toán thì không được xem là các dạng thức thiết kế, vì chúng giải quyết các vấn đề tính toán hơn là vấn đề thiết kế. Lịch sử Các dạng thức nguyên thủy như là một nguyên lý thiết kế từ ý kiến của Christopher Alexander. Trong năm 1987, Kent Beck và Ward Cunningham đã bắt đầu thử nghiệm với các ý tưởng về việc ứng dụng các dạng thức vào lập trình và trình bày các kết quả của họ tại hội nghị OOPSLA năm đó. Trong những năm kế tiếp Beck, Cunningham và nhiều người khác đã kế tục công việc này. Các dạng thức thiết kế trở nên phổ biến trong khoa học máy tính sau khi cuốn Design Patterns: Elements of Reusable Object-Oriented Software được phát hành trong năm 1944 (Gamma et al). Cùng năm này, hội nghị Pattern Languages of Programs (tên này có nghĩa là "Các Ngôn ngữ Dạng thức của các Chương trình") đã được tổ chức. Năm sau đó, Portland Pattern Repository (tức là "Trung tâm Dữ liệu Dạng thức Portland") đã được hình thành nhằm hồ sơ hóa các dạng thức thiết kế. Nội hàm của thuật ngữ vẫn còn là một việc bàn cãi cho đến thập niên sau đó. Ứng dụng Dạng thức thiết kế có thể đẩy nhanh quá trình phát triển bằng cách cung ứng các kiểm nghiệm và các mẫu hình phát triển đã được chứng minh. Thiết kế phần mềm có tính hiệu quả đòi hỏi cứu xét tới các vấn đề mà nó không thể thấy trước cho đến giai đoạn lắp đặt sau này. Việc tái dụng các dạng thức thiết kế sẽ giúp tránh khỏi các vấn đề tiềm tàng mà chúng có thể gây ra các khó khăn chính và giúp nâng cao khả năng hiểu được cho người viết mã và cho họ các kiến trúc đi cùng với các dạng thức. Thông thường, người ta chỉ hiểu làm thế nào để áp dụng các kĩ thuật thiết kế phần mềm một cách tường minh cho các vấn đề cụ thể. Các kĩ thuật này thì khó để áp dụng lên các vấn đề có điện rộng hơn. Các dạng thức thiết kế cung cấp các lời giải tổng quát, được hồ sơ hóa trong một định dạng mà chúng không đòi hỏi phải dính chặt với các vấn đề riêng biệt. Các dạng thức thiết kế được hợp thành từ nhiều đề mục. Đặc biệt thú vị là các đề mục Cấu trúc, các Thành phần và Hợp tác. Các mục này mô tả một "mô típ thiết kế": một vi kiến trúc (micro architechture) nguyên mẫu mà các nhà phát triển chép lại và đáp ứng cho các thiết kế riêng của họ để giải quyết vấn đề hiện tại mà đã được mô tả bởi dạng thức thiết kế đó. (Một vi kiến trúc là một bộ các chương trình cấu thành, nghĩa là các lớp, các phương pháp,..., và các quan hệ giữa các cấu thành này). Những người phát triển dùng dạng thức thiết kế này bằng cách dẫn nhập vào các thiết kế của họ cái vi kiến trúc nguyên mẫu này; nghĩa là các vi kiến trúc đó, trong các thiết kế sẽ có cấu trúc và tổ chức tương tự như mô típ thiết kế đã chọn. Thêm vào đó, các dạng thức cho phép các nhà phát triển để liên lạc sử dụng các tên nổi tiếng, đã được hiểu tường tận về các tương tác phần mềm. Các dạng thức thiết kế thông dụng có thể dược nâng cao qua thời gian, tạo thêm các thiết kế mạnh hơn là các thiết kế đặc ứng (ad-hoc). Phân lớp Các dạng thức thiết kế có thể được phân lớp dựa trên nhiều tiêu chỉ, điểm chung nhất của chúng là vấn đề cơ sở bên trong mà chúng giải quyết. Theo tiêu chỉ này, các dạng thức thiết kế có thể được phân thành nhiều lớp, một số trong các lớp đó là: Các Dạng thức nền tảng (fundamental pattern) Các Dạng thức kiến tạo (creational pattern) Các Dạng thức cấu trúc (structural pattern) Các Dạng thức ứng xử (behavioral pattern) Các Dạng thức đồng tranh (concurrency pattern) Các Dạng thức kiến trúc (architectural pattern) Hồ sơ Hồ sơ cho một dạng thức thiết kế nên chứa đủ thông tin về vấn đề mà dạng thức đó muốn giải quyết, ngữ cảnh mà nó được sử dụng và lời giải đề nghị. Mặc dù vậy, các tác giả sử dụng cách trình bày riêng của họ để viết các dạng thức thiết kế, và các trình bày này thường rập theo những bộ phận trọng yếu. Các tác giả thường bao gồm thêm vào đó các đề mục để cung cấp thêm thông tin, và sắp xếp các bộ phận trọng yếu này vào trong các tiêu chỉ khác nhau, có thể là với các tên khác nhau. Một định dạng chung được sử dụng bởi "Gang of Four". Nó bao gồm các tiêu chỉ sau: Tên dạng thức và Phân lớp Mỗi dạng thức nên có một tên đặc trung và phân biệt để giúp xác định và tham chiếu. Thêm vào đó, dạng thức này nên được phân lớp dựa trên một sự chia như là mô tả trong phần trước. Cách phân lớp này giúp ích trong việc nhận ra và sử dụng dạng thức. Chủ ý: Tiêu chỉ này nên mô tả mục tiêu của dạng thức và lý do để sử dụng nó. Nó rập theo phần vấn đề của dạng thức. Cũng được biết tới như là: Một dạng thức có thể có nhiều tên. Các tên này nên được mô tả trong tiêu chí này. Vận hành: Tiêu chỉ này cung cấp một tình huống xảy ra của vấn dề và ngữ cảnh trong đó dạng thức này có thể được áp dụng. Bằng cách liên hệ giữa vấn đề với ngữ cảnh, tiêu chỉ này chỉ ra khi nào dùng dạng thức. Khả năng ứng dụng: Phần này bao gồm các tình huống trong đó dạng thức này có thể hữu dụng. Nó biểu thị phần ngữ cảnh của dạng thức. Cấu trúc: Một biểu đồ của dạng thức. Các Sơ đồ lớp và các sơ đồ tương tác có thể được dùng cho mục đích này. Các Thành phần: Một danh mục các lớp và đối tượng được sử dụng trong dạng thức này và vai trò của chúng trong thiết kế. Hợp tác: Mô tả làm thế nào các lớp và đối tượng được sử dụng trong dạng thức tương tác với nhau. Các hệ quả: Phần này mô tả các kết quả, các hiệu ứng phụ, và các sự lược mất do việc sử dụng dạng thức. Lắp đặt: Tiêu chỉ này mô tả sự lắp đặt của dạng thức và biểu thị phần giải đáp của dạng thức. Nó cung cấp các kĩ thuật được sử dụng trong việc lắp đặt dạng thức này và cho các cách thức để thiết lập. Mã thí dụ: Một minh họa làm thế nào dạng thức có thể được dùng trong một ngôn ngữ lập trình. Sử dụng đã biết: Phần này bao gồm các thí dụ về các cách sử dụng trong thực tế của dạng thức này. Các dạng thức liên hệ: Là phần bao gồm các dạng thức khác có vài sự liên hệ tới dạng thức này, và do đó chúng có thể được sử dụng cùng với dạng thúc này hay là được sử dụng thay vì dạng thức này. Nó cũng bao gồm các tương phản của dạng thức này với các dạng thức tương tự. Phê bình Nguyên lý của các dạng thức thiết kế đã bị phê bình bởi một số lãnh vực của khoa học máy tính. Nhắm tới sai vấn đề Điều cần thiết cho các dạng thức kết quả từ việc sử dụng các ngôn ngữ máy tính hay các kĩ thuật thiếu khả năng trườu tượng. Bằng ý tưởng "nhân tử hóa", một nguyên lý không nên được sao chép, mà tốt hơn nên là tham chiếu. Nhưng nếu vật nào đó được tham chiếu thay vì sao chép thì sẽ không có "dạng thức" để đánh nhãn và phân loại. (Paul Graham viết trong bản luận văn Revenge of the Nerds (tức là "sự trả thù của những kẻ kỹ tài"): This practice is not only common, but institutionalized. For example, in the OO world you hear a good deal about "patterns". I wonder if these patterns are not sometimes evidence of case (c), the human compiler, at work. When I see patterns in my programs, I consider it a sign of trouble. The shape of a program should reflect only the problem it needs to solve. Any other regularity in the code is a sign, to me at least, that I'm using abstractions that aren't powerful enough— often that I'm generating by hand the expansions of some macro that I need to write. dịch: Thực nghiệm này không những được thông dụng mà còn được khoa học hoá. Chẳng hạn, trong thế giới OO bạn nghe một ý tưởng về các "dạng thức". Tôi tán thán nếu các dạng thức này đôi khi không phải là bằng chứng của trường hợp (c), trình dịch bằng người, trong công việc. Khi tôi thấy các dạng thức trong các chương trình của mình tôi xem đó là dấu hiệu của sự cố. Hình dáng của mt chương trình chỉ nên phản ảnh vấn đề nó cần giải quyết. Mọi sự chính quy trong mã là dấu hiệu, mà ít nhất đối với tôi, là tôi đang sử dụng những sự trừu tượng mà chúng thường không đủ mạnh đến nỗi tôi đang tạo ra bằng tay các sự mở rộng của các macro mà tôi cần phải viết. Peter Norvig cho một bàn cãi tương tự cho rằng 16 trong 23 dạng thức trong cuốn Design Patterns ("Các Dạng thức Thiết kế") (mà chủ yếu tập trung trong C++) là đơn giản và loại bỏ được (qua việc hỗ trợ ngôn ngữ trực tiếp) trong Lisp hay trong Dylan. Các bàn cãi xa hơn được tìm thấy trong bài Portland Pattern Repository. Thiếu các nền tảng chuẩn Sự nghiên cứu về các dạng thức thiết kế đã trởo nên quá "đặc ứng" (ad hoc), và một số người cho rằng nguyên lý này cần được chuẩn hóa nhiều hơn. Tại OOPSLA 1999, Gang of Four với sự cồng tác đã đồng thanh chống lại màn xử án, trong đó, họ là những người trách nhiệm chính với các tội phạm chống lại khoa học máy tính. Họ đã bị kết án bởi 2/3 của bồi thẩm đoàn. Một số người cảm thấy rằng sự ảnh hưởng từ lý thuyết tương đối có thể giúp họ tốt hơn là xác định, nghiên cứu, hay chuẩn hoá các dạng thức. Dẫn tới các lời giải không hiệu quả Ý tưởng của một dạng thức thiết kế là một nỗ lực để chuẩn hóa cái mà đã được chấp nhận là các thực nghiệm tốt nhất. Trong nguyên tắc, điều này có thể dường như có ích, nhưng trong thực tế, nó thường dẫn tới kết quả trong sự trùng lặp mã một cách không cần thiết. Hầu như luôn luôn là có một lời giải hiệu quả để sử dụng cho sự thiết lập có tính nhân tố tốt đẹp hơn là một dạng thức thiết kế "chỉ vừa đủ tốt". Nguyên lý cũ và hiển nhiên Từ khi bắt đầu, các nguyên lý khoa học máy tính đã được đặt tên (như là truy ngược, backtrackting, hay là cây AVL) và được hồ sơ hoá. Các dạng thức như là được giới thiệu trong cuốn Design Patterns được liên hệ đến các hướng dẫn và các nguyên lý liên hệ . Trong ngành thiết kế cũng đã có các ngành dùng cho tái dụng các cấu trúc thiết kế ( ).
30 (ba mươi) là một số tự nhiên ngay sau 29 và ngay trước 31.
29 (hai mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 28 và ngay trước 30.
28 (hai mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 27 và ngay trước 29. Số 28 là số hoàn thiện thứ hai: 1+2+4+7+14=28 Số 28 được phân tích thành nhân tử: 22*7 Bình phương của 28 là 784 Căn bậc hai của 28 là 5,291502622 (2√7) Trong hóa học 28 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố nickel (Ni).
27 (hai mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 26 và ngay trước 28.
26 (hai mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 25 và ngay trước 27.
25 (hai mươi lăm) là một số tự nhiên liền sau 24 và liền trước 26. Bình phương của 25 là 625 Căn bậc hai của 25 là 5 Số 25 trong hệ nhị phân là 11001
24 (hai mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 23 và ngay trước 25.
23 (hai mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 22 và ngay trước 24. Trong toán học Số 23 là số nguyên tố thứ 9, và là số nguyên tố lẻ nhỏ nhất không phải là số nguyên tố sinh đôi. Số 23 đồng thời là số nguyên tố giai thừa thứ 5 và là số nguyên tố Woodall thứ hai. Số 23 là số nguyên tố Sophie Germain thứ 5 và là số nguyên tố an toàn thứ tư. Số 23 đứng ngay trước số cuối cùng trong chuỗi Cunningham đầu tiên ở dạng đầu tiên có năm phần tử (2, 5, 11, 23, 47). Bởi 14! + 1 là bội của 23 mà 23 không bằng bội của 14 cộng với một, số 23 là số nguyên tố Pillai. Trong danh sách các số Fortune, số 23 xuất hiện 2 lần bởi thêm 23 vào số primorial thứ 5 hoặc thứ 8 sẽ ra số nguyên tố (là số 2333 và 9699713). 23 là một trong hai số mà không thể biểu diễn thành tổng của 9 số lập phương nguyên dương nhỏ hơn (số còn lại là 239). Xem bài toán Waring. R23 là số nguyên tố repunit thứ 3 trong hệ thập phân đằng sau R2 và R19. Tổng của 23 số nguyên tố đầu tiên là 874, chia hết cho 23. Tính chất này cũng được chia sẻ với một số số nguyên tố khác. Theo nghịch lý ngày sinh, trong nhóm có 23 người hay nhiều hơn, tỉ lệ để hai người có cùng một ngày sinh nhật là lớn hơn 50%. Một trùng hợp khác là nếu ta nhân 365 với logarit tự nhiên của 2, ta được xấp xỉ 252.99, kết quả này gần với giá trị 253 là số cách chọn một cặp hai người trong nhóm 23 người. Trong khoa học và công nghệ Số 23 là số nguyên tử của nguyên tố Vanadi Tế bào mầm bình thường có 23 nhiễm sắc thể. Các tế bào khác có 46 nhiễm sắc thể, chia ra thành 23 cặp.
22 (hai mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 21 và ngay trước 23. Trong toán học Bình phương của 22 là 484. Số 22 là số thiếu hụt. Số 22 là hợp số chẵn và là một số nửa nguyên tố. Số 22 là số ngũ giác. Số 22 là số phân hoạch của 8. Số 22 là tổng giá trị của hàm phi Euler với 8 số nguyên đầu tiên. Số 22 là số Perrin, đứng trước nó là 10, 12 và 17. Trong hóa học 22 là số hiệu nguyên tố của nguyên tử Titanium (Ti).
21 (hai mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 20 và ngay trước 22. Trong toán học Bình phương của 21 là 441. Biểu diễn sang các hệ khác: Hệ thất phân: 30 Hệ cửu phân: 23 Hệ tam thất phân: L Số 21 là: Số Blum, bởi nó là số nửa nguyên tố và cả hai ước nguyên tố của nó đều là số nguyên Gauss. Số Fibonacci. Số Harshad. Số Motzkin. Số tam giác. Bởi nó là tổng của 6 số tự nhiên đầu tiên: 21 = 1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6. Số bát giác. Tổng của các ước của 5 số tự nhiên đầu tiên: 21 = 1 + (1 + 2) + (1 + 3) + (1 + 2 + 4) + (1 + 5). Trong hóa học 21 là số hiệu nguyên tố của nguyên tử Scandi (Sc).
20 (đọc là hai mươi, hai chục, đôi mươi) là một số tự nhiên ngay sau 19 và ngay trước 21. Bình phương của 20 là 400. Căn bậc hai của 20 là 2,472135955 (2) Số 20 là Số Pronic vì . Số chóp tam giác thứ tư. Là cơ sở trong hệ nhị thập phân. Là hợp số thứ ba mà sao cho là tích của bình phương một số nguyên tố với một số nguyên tố () Là số dồi dào nguyên thủy nhỏ nhất. Trong hóa học 20 là số hiệu nguyên tố của nguyên tử Calci (Ca).
19 (mười chín) là một số tự nhiên và một số nguyên tố ngay sau 18 và ngay trước 20. Toán học Số nguyên tố thứ 8. Một số với 13 tạo thành một cặp số nguyên tố có hiệu là 6. Tạo thành một cặp số nguyên tố liên tiếp với 17. Số nguyên tố p khi p+4 cũng là một số nguyên tố với 23. Số nguyên tố p thứ 7 mà 2p - 1 là số nguyên tố. Số thứ 5 trong hệ tam thức trung tâm Tổng bình phương của 19 số nguyên tố đầu tiên chia hết cho 19 Số Heegner thứ 6 Là số tam giác trung tâm thứ 3 và cũng là số lục giác trung tâm thứ 3 Số đỉnh trong hình lục giác đều với tất cả đường chéo được vẽ Khoa học 19 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Kali (K) Các thành phần quang học của Kính viễn vọng Không gian James Webb nằm trong một dãy gồm 19 hình lục giác Trong Địa lý 19 là mã tỉnh của Phú Thọ
Xin xem các mục từ cùng tên tại 113 (định hướng) 113 (một trăm mười ba) là một số tự nhiên ngay sau 112 và ngay trước 114. Sử dụng 113 là số điện thoại nóng của công an Việt Nam.
18 (mười tám) là một số tự nhiên ngay sau 17 và ngay trước 19. Trong toán học Bình phương của 18 là 324. Căn bậc hai của 18 là 4,242640687. Số 18 có tổng 3 ước của nó: 3 + 6 + 9 = 18, do đó nó là số nửa hoàn hảo. Trong hệ thập phân, số 18 là số Harshad. Số 18 là số dồi dào, bởi tổng các ước số thực sự của 18 lớn hơn chính nó (1 + 2 + 3 + 6 + 9 = 21 > 18), nó cũng được biết đến là số đơn độc, mặc dù không nguyên tố cùng nhau với tổng ước của nó. Số 18 là số duy nhất mà tổng các chữ số của nó bằng một nửa của nó (18 = (1 + 8) * 2). Trong văn hóa Việt Nam Con số 18 có ý nghĩa với người Việt xưa: Nhiều tài liệu lịch sử cho biết có 18 đời vua Hùng Trong truyện Bánh chưng bánh dày thì người con thứ 18 được vua Hùng truyền ngôi cho, người đã làm ra những chiếc bánh có nhiều ý nghĩa. Chi tiết con ngựa sắt trong truyện Thánh Gióng có chiều cao là 18 thước. Ở tỉnh Vĩnh Phúc có nơi rước 18 chiếc nõ và 18 chiếc nường trong phong tục rước ngày lễ. Vòng trong của thành Cổ Loa có 18 ụ hỏa hồi. Tá Cần trong "truyền thuyết trăm trứng" và Mo "đẻ đất đẻ nước" đã từng lấy Bà Chu,Bà Chuông làm vợ sinh ra 18 người con: 9 trai và 9 gái. Phần lớn mỗi vành trống đồng Đông Sơn đều có 18 chim. Trên mặt trống Sông Đà, người nghệ nhân do lúc đầu sơ ý đã chia nhầm thành 17 cung bằng nhau, khi khắc đến hình chim thứ 16 thì chỉ còn một đoạn, do đó đã phải cố khắc hai con chim vào vành cuối này cho đủ số lượng là 18 con. Trong hóa học 18 là số hiệu nguyên tử của argon (Ar). Tuổi 18 Trong nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam), tuổi 18 là được coi là tuổi trưởng thành.
17 (mười bảy) là một số tự nhiên ngay sau 16 và ngay trước 18. Trong toán học Căn bậc hai của 17 là 4,123105626 Bình phương của 17 là 289 17 là số nguyên tố thứ 7 sau 2, 3, 5, 7, 11, 13, 17. Số nguyên tố kế tiếp 17 là 19. Hai số này tạo cặp số nguyên tố sinh đôi. 17 là tổng của 4 số nguyên tố nhỏ nhất. 17 cũng là số nguyên tố Mersenne thứ 6. Carl Friedrich Gauss đã chứng minh được hình 17 cạnh (thập thất giác) là có thể dựng bằng thước hoặc compa vì 17 là một số Fermat. Trong hoá học 17 là số hiệu nguyên tử của Nguyên tố Clo Trong bóng đá 17 là số áo của Luis Nani tại Bồ Đào Nha. Số áo của cầu thủ Văn Thanh[17] tại Đội tuyển Việt Nam Số 17 cũng là số áo của Kevin De Bruyne tại Câu lạc bộ ManCity, cũng từng là số áo của Eden Hazard trong Câu lạc bộ Chelsea Lĩnh vực khác Đối với người Ý thì 17 là con số xui, khi viết dưới dạng số La Mã là XVII. Khi các chữ này xếp theo trật tự khác sẽ tạo thành từ VIXI, trong tiếng Latinh nó được dịch là "Tôi đã sống", ở thì hiện tại nó lại có nghĩa là "Cuộc đời tôi đã kết thúc". Vì thế trên máy bay ở Ý không bao giờ có số 17. Renault đã bán mẫu xe "R17" ở Ý với tên gọi "R177".
16 (mười sáu) là một số tự nhiên ngay sau 15 và ngay trước 17. Trong hóa học 16 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Lưu huỳnh (S) Trong toán học 16 là bình phương của 4. Nó là một số chính phương. 16 là cơ sở của hệ hexa, được sử dụng phổ biến trong khoa học máy tính. 16 là số Erdős–Woods đầu tiên.
15 (mười lăm) là một số tự nhiên ngay sau 14 và ngay trước 16. Căn bậc hai của 15 là 3,872983346 Bình phương của 15 là 225 15 là một số tam giác Trong hóa học 15 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Phosphor (P)
Dịch vị là một hỗn hợp các chất do tuyến vị trong dạ dày tiết ra. Nó bao gồm các thành phần như acid chlorhydric (HCl) và enzyme pepsin. Dịch vị giúp tiêu hóa thức ăn có bản chất protein thành các dạng polypeptide đơn giản, dễ tiêu hóa hơn nhờ sự hiện diện của enzyme pepsin. Ngoài ra, chất nhầy sẽ bao bọc thức ăn giúp cho quá trình vận chuyển thức ăn trong ống tiêu hóa dễ dàng hơn. Dịch vị là 1 dịch thể thuần khiết, trong suốt có phản ứng acid và độ pH của dịch vị thay đổi tùy thuộc vào từng loại (trung bình pH ~ 2-3). Thành phần của dịch vị Trong dịch vị có chứa 99,5% nước, 0,5% vật chất khô. Trong vật chất khô có chứa chất hữu cơ (protein, các enzyme như: acid lactic, ure, acid uric...), chất vô cơ (HCl, muối chloride, muối sunfat của các nguyên tố Ca, Na, K, Mg).Có bốn loại tế bào trong tuyến vị: - Tế bào chính: các tế bào này có nhiệm vụ tiết ra pepsinogen - là dạng tiền enzyme (enzyme chưa hoạt động). - Tế bào viền: các tế bào này có nhiệm vụ tiết ra HCl để tác động lên pepsinogen, biến chúng thành enzyme pepsin có tác dụng biến đổi protein thành các polipeptide đơn giản hơn. - Tế bào cổ phễu: đây là các tế bào tiết ra chất nhày giúp bảo vệ niêm mạc dạ dày tránh khỏi tác động ăn mòn của HCl do tế bào viền tiết ra. - Tế bào nội tiết: chúng sẽ tiết ra hormon gastrin để kích thích trở lại chính tuyến vị, điều hòa hoạt động của tuyến vị. Hoạt động Trước hết, trên thành niêm mạc của dạ dày có các lỗ nhỏ. Mỗi lỗ này chính là cửa thông để dẫn dịch vị từ các tế bào tuyến vị ẩn trong lớp niêm mạc chảy ra. Có bốn loại tế bào trong tuyến vị. Tế bào chính: các tế bào này có nhiệm vụ tiết ra pepsinogen - là dạng tiền enzyme (enzyme chưa hoạt động). Tế bào viền: các tế bào này có nhiệm vụ tiết ra HCl để tác động lên pepsinogen, biến chúng thành enzyme pepsin có tác dụng biến đổi protein thành các polipeptide đơn giản hơn. Tế bào cổ phễu: đây là các tế bào tiết ra chấy nhày giúp bảo vệ niêm mạc dạ dày tránh khỏi tác động ăn mòn của HCl do tế bào viền tiết ra. Tế bào nội tiết: chúng sẽ tiết ra hormone gastrin để kích thích trở lại chính tuyến vị, điều hòa hoạt động của tuyến vị.
14 (mười bốn) là một số tự nhiên ngay sau 13 và ngay trước 15. Bình phương của 14 là 196 Căn bậc hai của 14 là 3,741657387 Trong hóa học 14 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Silic (Si)
{{Infobox country | native_name = Nhà Thanh hay Trung Hoa Đại Thanh quốc, Đại Thanh Đế Quốc, còn được gọi là Mãn Thanh (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn gốc của người Mãn Châu là người Nữ Chân, hoàng tộc Ái Tân Giác La là một bộ tộc của Kiến Châu Nữ Chân, thuộc sự quản lý của Kiến Châu vệ của nhà Minh. Kiến Châu vệ là một vệ sở được nhà Minh thiết lập tại Đông Bắc Trung Quốc, thuộc đơn vị hành chính biên phòng triều Minh, từng thuộc sự quản lý của Nô Nhi Càn Đô ty, mà Ái Tân Giác La thị nhiều đời là Đô chỉ huy sứ của Kiến Châu tả vệ. Năm 1616, một người Nữ Chân là Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã dựng quốc xưng Hãn, thành lập nhà nước "Đại Kim" (chữ Hán: 大金; bính âm: Dà Jīn) ở vùng Đông Bắc Trung Quốc – sử sách gọi là Hậu Kim để phân biệt với nhà Kim cũng của người Nữ Chân từng tồn tại vào thế kỷ 12-13; đóng đô ở Hách Đồ A Lạp – còn gọi là "Hưng Kinh". Đến năm 1636, người thừa kế Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực xưng Đế ở Thịnh Kinh, đổi quốc hiệu thành Đại Thanh (chữ Hán: 大清; bính âm: Dà Qīng), lúc ấy, lãnh thổ chỉ dừng lại ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và khu vực Mạc Nam, nhưng cũng đã gây đe dọa lớn với nhà Minh, vốn đã rút lui về phía nam Vạn Lý Trường Thành. Năm 1644, Lý Tự Thành xuất quân đánh chiếm Bắc Kinh, nhà Minh diệt vong. Cùng năm đó, Ngô Tam Quế vốn là tướng tàn dư của nhà Minh, vì để đối kháng Lý Tự Thành mà đã đầu hàng nhà Thanh. Quân Thanh dễ dàng tiến qua Sơn Hải quan, đánh bại Lý Tự Thành, chính thức dời đô về Bắc Kinh, cũng mở động một cuộc nam hạ quy mô lớn. Trong vòng thời gian mấy chục năm sau, nhà Thanh lần lượt tiêu diệt thế lực đối địch còn sót lại như tàn dư nhà Minh ở Hoa Bắc, quân Đại Thuận của Lý Tự Thành, Đại Tây của Trương Hiến Trung, Nam Minh và nhà nước Minh Trịnh của Trịnh Thành Công; thống nhất toàn bộ Trung Quốc. Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị lãnh thổ của: Trung Quốc bản thổ (1644-1662), đảo Đài Loan (1683), Ngoại Mông (1691), Tây Tạng (1751), Tân Cương (1759); hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu. Vào giai đoạn cực thịnh cuối thế kỷ 18, nhà Thanh kiểm soát lãnh thổ rộng tới 13 triệu km2 (lãnh thổ Trung Quốc ngày nay rộng 9,6 triệu km2), là thời kỳ mà lãnh thổ Trung Quốc đạt mức rộng lớn nhất trong lịch sử. Trải qua ba đời Hoàng đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, quốc lực của nhà Thanh cùng với kinh tế, văn hóa đều được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, thống trị lãnh thổ rộng lớn và các phiên thuộc, sử gọi "Khang - Càn thịnh thế", là thời kỳ phát triển đỉnh cao của nhà Thanh, là một trong những thời kỳ huy hoàng nhất của các vương triều phong kiến trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian trị vì, nhà Thanh đã củng cố quyền quản lý hòa bình của họ đối với Trung Quốc, hoà nhập và hòa hợp văn hoá của các dân tộc thiểu số với văn hoá Trung Quốc, và xã hội Trung Quốc đã đạt tới tầm ảnh hưởng cao nhất của Đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của Thanh đã suy giảm trong thế kỷ 19 và phải đối mặt với sức ép từ bên ngoài, nhiều cuộc nổi loạn bên trong và những thất bại trong chiến tranh, khiến nhà Thanh tàn tạ từ sau nửa cuối thế kỷ 19. Việc lật đổ triều Mãn Thanh sau cuộc Cách mạng Tân Hợi khi hoàng hậu nhiếp chính khi ấy là Hiếu Định Cảnh hoàng hậu, đối mặt với phản kháng của phong trào cách mạng Tân Hợi nên bà buộc phải thoái vị nhân danh vị hoàng đế Mãn Thanh cuối cùng là Phổ Nghi ngày 12 tháng 2 năm 1912. Tàn dư của chế độ Mãn Thanh cũng đã bị tiêu diệt tại vùng Tân Cương và Tây Tạng của Trung Quốc cũng vào năm 1912. Tại đất tổ là vùng Mãn Châu, tàn dư nhà Thanh của cựu hoàng đế Phổ Nghi thiết lập Mãn Châu Quốc nhưng thực chất chỉ là chính phủ bù nhìn của Nhật Bản, tồn tại đến năm 1945 thì người Nga (Liên Xô) tiêu diệt quân Nhật ở vùng Mãn Châu tại Thế chiến 2, Mãn Châu Quốc cũng bị diệt vong và Mãn Châu quay trở về Trung Quốc. Quốc hiệu Nguồn gốc tên gọi Năm 1616, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thành lập chính quyền Hậu Kim, đến năm 1636 thì Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành "Đại Thanh". Sau khi nhập quan, Đại Thanh trở thành một trong ba hoàng triều thống nhất Trung Quốc đặt chữ "Đại" vào quốc hiệu chính thức, sau Đại Nguyên và Đại Minh. Lý do Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu không hề được sử liệu ghi chép chính xác, theo đó cũng có những giải thích cạnh tranh về ý nghĩa của Qīng (có nghĩa là "rõ ràng" hoặc "tinh khiết"). Tên có thể đã được chọn để phản ứng với tên của nhà Minh (), bao gồm các yếu tố "nhật" () và "nguyệt" (), cả hai đều gắn liền với yếu tố hỏa của hệ thống hoàng đạo Trung Quốc. Từ Thanh (, qīng) bao gồm "thủy" () và "thanh" (), cả hai nghĩa liên kết với nhau là "thủy thanh" có nghĩa là nước xanh. Cách viết này sẽ là ẩn dụ cho cuộc chinh phạt của quân Thanh tiêu diệt nhà Minh là thất bại của lửa bởi nước. Hình ảnh về "nước" của tên mới cũng có thể có những liên quan đến đạo Phật về sự sáng suốt và giác ngộ và kết nối với Bồ tát Văn-thù-sư-lợi. "Thanh" cũng là tên của một số dòng sông ở Mãn Châu, tại một trong số đó Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã giành chiến thắng quan trọng vào năm 1619. Cũng có thể xuất phát từ tên tiếng Mãn 「」(), có thể bắt nguồn từ một từ tiếng Mông Cổ có nghĩa là "người thiện chiến, chiến binh", và "Đại Thanh quốc" nghĩa là "thượng quốc" hoặc "quốc gia thiện chiến", tuy nhiên quan điểm này vẫn còn gây tranh cãi, bởi có học giả đã khảo chứng từ ngôn ngữ và tài liệu lịch sử và chỉ ra rằng, những sách được biên soạn bởi những người thống trị nhà Thanh hoàn toàn không sử dụng cách nói này. Cải tạo từ "Trung Quốc" Sau khi chinh phục Trung Quốc bản thổ, Mãn Thanh thường gọi nhà nước của họ là Trung Quốc (, ). Các hoàng đế đã đánh đồng các vùng đất của Thanh quốc (bao gồm Đông Bắc Trung Quốc, Tân Cương, Mông Cổ, Tây Tạng và các khu vực khác) là Trung Quốc trong cả hai tiếng Trung Quốc và tiếng Mãn Châu, xác định Trung Quốc là một quốc gia đa sắc tộc, và từ chối ý tưởng rằng Trung Quốc chỉ có nghĩa là khu vực người Hán. Các hoàng đế nhà Thanh tuyên bố rằng cả người Hán và không phải người Hán đều là một phần của Trung Quốc. Họ đã sử dụng cả Trung Quốc và "Thanh" để chỉ triều đại của mình trong các tài liệu chính thức. "Tiếng Trung Quốc" (Dulimbai gurun i bithe) bao gồm tiếng Trung Quốc, tiếng Mãn và tiếng Mông Cổ và "người Trung Quốc" (; tiếng Mãn: Dulimbai gurun i niyalma) đề cập đến tất cả các đối tượng của đế quốc. Năm 1689, khi Khang Hy ký kết Điều ước Nerchinsk (Ni Bố Sở) với Nga, lần đầu tiên sử dụng "Trung Quốc" như là tên quốc gia chính thức, đối ứng với "Nga", từ Trung Quốc này chính là để chỉ Đế quốc Đại Thanh bao quát cả Mông Cổ và Đông Bắc Trung Quốc. Khi nhà Thanh đã chinh phục Dzungaria vào năm 1759, họ tuyên bố rằng vùng đất mới đã bị thôn tính vào "Trung Quốc" (Dulimbai Gurun) trong đài tưởng niệm tiếng Mãn. Phiên bản tiếng Mãn của Hiệp ước Kyakhta (1768), một hiệp ước với Đế quốc Nga liên quan đến quyền lực hình sự đối với kẻ cướp, được gọi là người từ nhà Thanh là "người từ trung quốc (Dulimbai Gurun)". Đến nay, khái niệm "Trung Quốc" chính là từ khái niệm "Trung Quốc" mà nhà Thanh đắp nặn ra. Lịch sử Sự thành lập nước Hậu Kim và triều đại nhà Thanh của người Mãn Châu Nhà Thanh là một triều đại do người Mãn Châu thành lập, một dân tộc thiểu số du mục ở một số nước Đông Á hiện nay. Vốn là những người du mục bán khai, người Mãn Châu dần chiếm ưu thế tại vùng hiện ở phía đông nam Nga. Quốc gia Mãn Châu được Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) thành lập vào đầu thế kỷ 17. Ban đầu chỉ là một nước chư hầu của nhà Minh, ông tự tuyên bố mình là hoàng đế của nước Hậu Kim năm 1616. Cùng năm ấy, ông phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người của đất nước cũng như kỹ thuật bằng cách thu nhận những người Hán sống tại vùng Mãn Châu. Năm 1625, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập thủ đô tại Thẩm Dương (tiếng Mãn: Mukden), nhưng năm sau ông phải chịu một thất bại quân sự lớn đầu tiên trước một vị tướng nhà Minh là Viên Sùng Hoán. Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết năm đó. Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là việc tạo lập hệ thống Bát Kỳ, theo đó mọi người dân Mãn Châu đều thuộc một trong tám "Kỳ", đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Các Kỳ được đặt tên như vậy bởi vì mỗi nhóm được phân biệt bởi một lá cờ khác nhau. Người kế tục Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực tiếp tục tiến hành công việc dựa trên các nền móng được cha để lại, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó thông qua một hệ thống định mức phân bổ. Khi Lâm Đan Hãn, vị đại hãn cuối cùng của người Mông Cổ, chết trên đường tới Tây Tạng năm 1634, con trai ông Ngạch Triết (Ejei) đã đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ngọc tỉ truyền quốc của hoàng đế nhà Nguyên cho Hoàng Thái Cực. Năm 1636 Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành Đại Thanh, có nghĩa là thanh khiết, biểu hiện những tham vọng đối với vùng Mãn Châu. Cái tên Thanh được lựa chọn bởi vì tên của nhà Minh (明) được cấu thành từ các ký hiệu của chữ nhật (日, mặt trời) và nguyệt (月, Mặt Trăng), đều liên quan tới hỏa mệnh. Chữ Thanh (清) được cấu thành từ chữ căn bản là thủy (水, nước) và từ chỉ màu xanh (青), cả hai đều là mệnh thủy. Trong thuyết Ngũ hành, thì thủy khắc được hỏa, ám chỉ việc nhà Thanh sẽ đánh tan toàn bộ nhà Minh. Trong một loạt những chiến dịch quân sự, Hoàng Thái Cực đã khuất phục được vùng Nội Mông và Triều Tiên trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang. Chiếm Trung Nguyên cùng toàn bộ xứ sở Trung Quốc, nhà Thanh tuyên bố Thiên mệnh Trung Hoa trên khắp thiên hạ. Bắc Kinh đã bị một liên minh những lực lượng nổi loạn do Lý Tự Thành cầm đầu vào cướp phá. Nhà Minh chính thức kết thúc khi Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (Sùng Trinh Đế), vị hoàng đế cuối cùng của nhà Minh treo cổ tự tử tại Môi Sơn cạnh Tử Cấm Thành. Sau khi chiếm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành dẫn đầu một đội quân mạnh gồm 600.000 người chiến đấu với Ngô Tam Quế, vị tướng chỉ huy lực lượng đồn trú 100.000 lính bảo vệ Sơn Hải Quan (山海關) của nhà Minh. Sơn Hải Quan là cửa ải có vị trí trọng yếu ở phía đông bắc Vạn lý trường thành cách Bắc Kinh năm mươi dặm về phía đông bắc và trong nhiều năm lực lượng đồn trú tại đây luôn phải chiến đấu ngăn chặn người Mãn Châu bên ngoài thủ đô Bắc Kinh. Sau khi Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh, giết cha và cướp thiếp của Ngô Tam Quế, Ngô Tam Quế đã quyết định mở cổng thành đầu hàng nhà Thanh, liên minh với Đa Nhĩ Cổn, khi ấy đang làm nhiếp chính cho Hoàng đế Thuận Trị mới 6 tuổi nối nghiệp Hoàng Thái Cực vừa mất năm trước. Liên minh này đánh bại các lực lượng nổi loạn của Lý Tự Thành trong trận chiến ngày 27 tháng 5 năm 1644, sau đó đánh chiếm kinh đô Bắc Kinh. Quá trình tiêu diệt các lực lượng trung thành với nhà Minh (nhà Nam Minh), những kẻ nhòm ngó ngôi báu và những nhóm vũ trang cát cứ khác kéo dài thêm 17 năm nữa. Vị vua cuối cùng của nhà Minh, Vĩnh Lịch, chạy trốn tới Miến Điện, tức Myanmar hiện nay, nhưng bị bắt và giao lại cho lực lượng viễn chinh của nhà Thanh do Ngô Tam Quế cầm đầu. Vĩnh Lịch bị hành quyết tại tỉnh Vân Nam đầu năm 1662. Khang Hy và sự củng cố quyền lực Hoàng đế Khang Hy (1661 - 1722) lên ngôi khi mới 8 tuổi. Trong những năm cầm quyền đầu tiên ông được bà của mình là Hiếu Trang Thái Hoàng Thái Hậu giữ quyền nhiếp chính trợ giúp rất nhiều. Người Mãn Châu nhận ra rằng việc kiểm soát "Thiên mệnh" là một nhiệm vụ hết sức to lớn. Sự rộng lớn của lãnh thổ Mãn Châu đồng nghĩa với việc triều đình chỉ có đủ quân đội để đồn trú tại những thành phố chính và xương sống của mạng lưới phòng ngự dựa chủ yếu vào những người lính nhà Minh đã đầu hàng. Hơn nữa, các tướng lĩnh nhà Minh đã đầu hàng trước đó cũng được lựa chọn theo mức độ đóng góp vào việc thành lập nhà Thanh, được phong tước trở thành các lãnh chúa phong kiến (藩王 - phiên vương), và được quyền cai quản những vùng đất rộng lớn ở phía nam Trung Quốc. Người đứng đầu số đó là Ngô Tam Quế (吳三桂), được trao các tỉnh Vân Nam và Quý Châu, trong khi các vị tướng khác như Thượng Khả Hỷ (尚可喜) và Cảnh Trọng Minh (耿仲明) được giao cai quản các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Ba người này được người Trung Quốc gọi chung bằng cái tên Tam Phiên. Sau một thời gian, ba vị lãnh chúa này và những vùng đất đai của họ cai quản dần trở thành hình thức tự trị. Cuối cùng, vào năm 1673, Thượng Khả Hỷ thỉnh cầu Khang Hy, bày tỏ ước vọng muốn được trở về quê hương Liêu Đông (遼東) và chỉ định con trai làm người kế nhiệm. Vị hoàng đế trẻ cho phép ông ta về nghỉ nhưng từ chối trao chức vụ cho người con trai. Trước sự kiện đó, hai vị tướng kia cũng quyết định xin về hưu để thử phản ứng của Khang Hy, cho rằng ông ta sẽ không dám liều xúc phạm đến họ. Hành động này mang lại kết quả trái ngược với mong đợi của họ khi vị hoàng đế trẻ tuổi lừa phỉnh họ bằng cách chấp nhận các yêu cầu và đoạt lại ba vùng đất đó cho triều đình. Thấy mình bị tước đoạt quyền lực, Ngô Tam Quế cho rằng ông ta không còn lựa chọn nào khác ngoài cách làm loạn. Ngô Tam Quế cùng Cảnh Trọng Minh và con trai Thượng Khả Hỷ là Thượng Chi Tín (尚之信) thành lập liên minh. Cuộc nổi dậy diễn ra sau đó kéo dài tám năm. Ở thời phát triển mạnh nhất, lực lượng nổi dậy đã tìm cách mở rộng tầm kiểm soát của mình về hướng bắc tới tận sông Trường Giang (長江). Dù vậy, cuối cùng triều đình nhà Thanh tiêu diệt được cuộc nổi dậy và kiểm soát được toàn bộ miền nam Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, sự kiện này được gọi là Loạn Tam Phiên. Để củng cố đế chế, Khang Hy đích thân chỉ huy một loạt các chiến dịch quân sự tấn công Tây Tạng, người Dzungar; và sau này, ông đánh cả Đế quốc Nga, nhưng phần lớn bị Pyotr I tấn công dữ dội cho tới chân Vạn lý trường thành. Ông dàn xếp một cuộc hôn nhân giữa con gái mình với vị Khả Hãn Mông Cổ là Chuẩn Cát Nhĩ nhằm tránh một cuộc xung đột quân sự. Các chiến dịch quân sự của Gordhun chống lại nhà Thanh đã chấm dứt, giúp tăng cường sức mạnh đế chế. Đài Loan cũng bị các lực lượng nhà Thanh chinh phục năm 1683 từ tay con trai của Trịnh Kinh là Trịnh Khắc Sảng (鄭克塽,) (cháu nội Trịnh Thành Công, người đã đoạt lại quyền kiểm soát Đài Loan từ tay thực dân Hà Lan). Tới cuối thế kỷ 17, Trung Quốc đạt tới đỉnh cao quyền lực của mình kể từ thời nhà Minh. Khang Hi cũng cho phép nhiều nhà truyền giáo thuộc các Giáo hội Thiên chúa tới Trung Quốc để truyền đạo. Dù họ không đạt được mục đích cải đạo cho đa số dân Trung Quốc, Khang Hi vẫn cho họ sống yên ổn tại Bắc Kinh. Thịnh trị thời Ung Chính và Càn Long Hai giai đoạn trị vì của Hoàng đế Ung Chính (trị vì 1722 - 1735) và con trai ông Hoàng đế Càn Long (trị vì 1735 - 1796) đánh dấu đỉnh cao phát triển quyền lực nhà Thanh. Trong giai đoạn này, nhà Thanh cai quản 13 triệu km2 lãnh thổ. Sau khi Khang Hy qua đời vào mùa đông năm 1722, con trai thứ tư của ông là Ung Thân vương (雍親王) Dận Chân lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Ung Chính. Ung Chính là một nhân vật gây nhiều tranh cãi bởi vì có những lời đồn đại về việc ông cướp ngôi, và trong những năm cuối cùng thời Khang Hy, ông đã tham gia vào nhiều cuộc tranh giành quyền lực chính trị với các anh em của mình. Ung Chính là một nhà cai trị chăm chỉ và quản lý đất nước mình bằng bàn tay sắt. Bước đầu tiên của ông nhằm tăng cường sức mạnh triều đình là đưa hệ thống thi cử quốc gia trở về các tiêu chuẩn trước đó. Năm 1724 ông đàn áp thẳng tay những trao đổi tiền bất hợp pháp, vốn bị các quan chức triều đình lợi dụng để kiếm chác. Những người vi phạm vào luật mới về tài chính đều bị cách chức hay trong những trường hợp nghiêm trọng, sẽ bị hành quyết. Ung Chính rất tin tưởng vào các vị quan người Hán, và đã chỉ định nhiều người được ông che chở vào những chức vụ quan trọng. Một trong những trường hợp điển hình là Niên Canh Nghiêu đã được phong làm người chỉ huy chiến dịch quân sự tại Thanh Hải, thay cho người em trai của Ung Chính là hoàng tử Dận Trinh (胤禵). Tuy nhiên, những hành động kiêu ngạo của Niên khiến ông mất chức năm 1726. Trong thời gian cai trị của Ung Chính, sức mạnh của đế quốc được củng cố và đạt tới mức cao nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhiều vùng đất ở phía tây bắc được sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia. Một lập trường cứng rắn hơn được thực hiện nhằm mục đích loại bỏ các quan lại tham nhũng, và Ung Chính là người đã lập ra Quân Cơ Xứ (軍機處), trên thực tế là một bộ máy nhằm đảm bảo sự yên ổn của triều đình. Hoàng đế Ung Chính mất năm 1735. Con trai thứ tư ông, Bảo Thân Vương (寶親王) Hoằng Lịch lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Càn Long. Càn Long nổi tiếng là một vị tướng có tài. Nối ngôi ở tuổi 24, Càn Long đích thân chỉ huy một cuộc tấn công quân sự gần Tân Cương và Mông Cổ. Các cuộc nổi loạn và khởi nghĩa tại Tứ Xuyên và nhiều vùng ở phía nam Trung Quốc cũng được dẹp yên. Khoảng bốn mươi năm kể từ khi Càn Long lên ngôi, chính phủ nhà Thanh đối mặt với tình trạng tham nhũng nặng nề trở lại. Hòa Thân một vị quan trong triều, là kẻ tham nhũng nhất vương quốc. Ông ta đã bị con trai Càn Long, Hoàng đế Gia Khánh (1796 - 1820) buộc phải tự sát. Mở rộng đế chế Sau khi chiếm Trung Hoa của nhà Minh, các hoàng đế nhà Thanh đã từng bước mở rộng đế chế của mình thông qua các cuộc chiến tranh và sáp nhập. Họ đã chiếm thêm được Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan, một phần Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan ngày nay và cùng với Mông Cổ, Triều Tiên trước đó vào đế chế của mình. Họ đã thất bại trước nước Đại Việt và Miến Điện khi tiến xuống Đông Nam Á vào nửa sau thế kỷ 18, cho tới khi Đế quốc Nga xâm chiếm Trung Á vào thế kỉ 19. Nổi loạn, bất ổn và áp lực ngày càng tăng Một quan điểm thông thường về Trung Quốc ở thế kỷ 19 cho rằng đây là giai đoạn mà sự kiểm soát của nhà Thanh suy yếu đi và sự thịnh vượng cũng sút giảm. Quả vậy, Trung Quốc phải chịu đựng nhiều cuộc xung đột xã hội, đình đốn kinh tế và sự bùng nổ dân số đặt ra những vấn đề lớn đối với việc phân phối lương thực. Các nhà sử học đã đưa ra nhiều sự giải thích cho những sự kiện trên, nhưng ý tưởng căn bản cho rằng quyền lực nhà Thanh, sau một thế kỷ, đã phải đối mặt với những vấn đề bên trong và áp lực bên ngoài khiến cho hình mẫu chính phủ, tình trạng quan liêu và hệ thống kinh tế của Trung Quốc thời ấy không sao giải quyết nổi: Trước tiên, nhà Thanh phải đối mặt với khó khăn giống như những triều đại trước: giai cấp địa chủ không ngừng gia tăng thôn tính ruộng đất và bóc lột, khiến cho phần lớn nông dân tự canh phá sản, mất đi ruộng đất, trở thành tá điền hoặc lưu dân, bị buộc phải chấp nhận những điều kiện hà khắc, chấp nhận mức tô càng nặng nề hơn trước. Bởi thế, tình trạng bần cùng hoá giai cấp nông dân trở nên phổ biến, đẩy họ vào hoàn cảnh đói rét vô cùng bi thảm. Thời Càn Long, tình trạng địa chủ thôn tính ruộng đất đã cực kỳ nghiêm trọng, "trong 10 người thì 1-2 kẻ sở hữu đất đai, 3-4 người không có ruộng để cày, còn tá điền thì chiếm đến 4-5 người". Một số lượng lớn nông dân bị ép phải rời bỏ quê hương, trở thành lưu dân, lưu lạc tha hương. Chỉ riêng thành Bắc Kinh đã có 10 vạn ăn mày. Triều đình nhà Thanh đối với vấn đề này không một kế sách khả thi, số lượng dân đói, dân lưu lạc ngày càng tăng, mâu thuẫn giai cấp xã hội ngày càng nghiêm trọng, nguy cơ kinh tế vì thế dẫn tới đấu tranh chính trị, cung cấp điều kiện xã hội ngày càng chín muồi cho các cuộc khởi nghĩa nông dân. Tả Tông Đường đã đánh giá về tình hình kinh tế các tầng lớp ở nông thôn như sau: "Trong 10 người thì giàu có bất quá được 1, 2 kẻ, còn lại đều lao động bần khổ, hoặc làm giấy, hoặc trồng khoai thay lương, năm được mùa còn phải mua ngũ cốc tiếp hoang, năm mất mùa lấy đâu ra no đủ?" Các tổ chức phản kháng như Bạch Liên giáo, Thiên Địa hội, Niệm đảng, Bái Thượng đế giáo... đã thừa cơ mở rộng lực lượng, tổ chức khuyên răn dẫn dắt dân đói, dân lưu lạc tham gia đấu tranh phản Thanh nhằm tìm con đường sống. Sau 150 năm hòa bình, nhà Thanh gặp vấn nạn bùng nổ dân số: Thời kì đầu nhà Thanh, do chiến tranh khiến dân số sụt giảm nhiều, triều đình tiến hành chính sách khuyến khích sinh sản, từ "tư sinh nhân đinh, vĩnh bất gia phú" thời Khang Hy tới "than đinh nhân mẫu" thời Ung Chính đều xoá bỏ thuế đầu người, cổ vũ khuyến khích nhân dân sinh đẻ. Xã hội ổn định, không có chiến tranh, kinh tế từng bước phát triển, việc du nhập các loại cây lương thực mới (ngô, khoai lang) đã cung cấp điều kiện thuận lợi cho việc tăng sức sinh sản. Vậy là dân số tăng lên nhanh chóng, trong vòng 100 năm từ năm Càn Long thứ 6 (1741) tới năm Đạo Quang thứ 20 (1840), dân số từ 140 triệu tăng vọt lên tới 410 triệu, tăng gần 3 lần, hiện tượng này trước đó chưa từng xảy ra. Nhà Thanh là xã hội phong kiến nông nghiệp lấy nông nghiệp làm nền tảng quốc gia, việc sản xuất của cải vật chất cơ bản dựa vào nông nghiệp. Nhưng diện tích đất đai canh tác thì không thể tăng thêm, nên bình quân đất canh tác tính trên đầu người ngày càng giảm. Tới giữa thời Càn Long, bình quân đất canh tác còn được 4,25 mẫu/người, vẫn đủ để người nông dân nuôi sống gia đình. Đến giữa những năm Gia Khánh - Đạo Quang, bình quân đất canh tác đã giảm xuống còn 2,19 mẫu, người nông dân đã vô cùng khốn quẫn, khó duy trì nổi sinh kế của gia đình, giá lương thực cao vọt, giá mỗi thạch gạo chưa tới 1.000 quan tiền thời Khang Hy nay lên tới 3.000 quan tiền. Đến lúc Hàm Phong lên ngôi (năm 1851), bình quân đất canh tác tính trên đầu người chỉ còn 1,78 mẫu, nông dân không có đất canh tác phải lưu lạc đầy rẫy, gia nhập giang hồ cướp của. Nhà Thanh từ giữa thời Càn Long chứng kiến sự tha hóa, hủ bại của đội ngũ quan lại: Đại học sĩ Hòa Thân chuyên quyền, công khai ăn hối lộ, bẻ cong luật pháp, mua quan bán tước nhưng lại được Càn Long dung túng. Trào lưu thanh chính nghiêm minh nơi quan trường chính trị thời Khang Hy – Ung Chính đã thay đổi, sa ngã xuống vũng bùn hủ bại tham lam. Quan lại "lấy việc ăn uống mỹ sắc làm tri kỷ, liêm sỉ cốt ở danh tiếng, cướp lợi lộc là hiền tài, nghiên cứu nghĩa lý là mê hoặc". Hoàng đế Gia Khánh sửa sai bằng cách nghiêm trị Hòa Thân, vua Đạo Quang thì đề cao tiết kiệm, nhưng tệ nạn tham nhũng đã tích tụ bao năm qua đã không cách nào trừ bỏ được. Quan lại địa phương tự đặt ra luật lệ, cướp đoạt tại chỗ, việc lại trị ngày càng sa sút. Chương Học Thành chỉ ra, thời Gia Khánh – Đạo Quang, khoản tiền mà quan lại địa phương ăn hối lộ, gấp mười lần, thậm chí gấp trăm lần trước kia, "nhà cửa, đồ dùng xa hoa hơn chư hầu thời xưa rất nhiều, kẻ trên người dưới tranh nhau lợi, kẻ giàu sang làm điều ác mà chẳng bị truy cứu, người nghèo khó có oan mà không nói được". Thời Đạo Quang còn phải đối mặt với sự xâm lấn của các cường quốc thực dân phương Tây. Trước tiên là việc nhập lậu thuốc phiện lan tràn cả nước. Tiền bạc chảy ra ngoài, nguồn bạc thiếu thốn, nạn thiếu tài chính lộ rõ. Theo thống kê, trong khoảng thời gian trước chiến tranh nha phiến 10 năm, số nha phiến nhập lậu lên tới 23,8 triệu thùng, trung bình mỗi năm 2,4 triệu thùng, trung bình mỗi năm Trung Quốc tiêu tốn 16,3 triệu lạng bạc cho thuốc phiện. Sau chiến tranh nha phiến năm 1841, nhà Thanh phải bồi thường chiến phí, lại phải chấp nhận cho phương tây tự do buôn thuốc phiện, tình hình tài chính của Thanh triều càng thêm tồi tệ. Theo tấu trình của Trác Bỉnh Điềm, từ năm 1840 đến năm 1849, các khoản chi ngoại ngạch "đã hơn 70 triệu lạng". Tổng cộng trong giai đoạn 1830 – 1848, trong khoảng thời gian 19 năm, tổng số bạc chảy ra ngoài đã đạt tới hơn 120.200.000 lạng, nhiều hơn 3 lần thu nhập tài chính trong một năm của triều đình (hơn 40 triệu lạng). Quốc khố cạn kiệt, khi vua Đạo Quang qua đời, ngân khố của bộ Hộ chỉ còn 9.000.000 lạng bạc. Không chỉ vậy, thuốc phiện còn đầu độc nhân dân Trung Quốc, khiến sức khỏe người dân sa sút, đầu óc trở nên mê muội, nhiều gia đình tan cửa nát nhà vì nghiện thuốc phiện, đó là thiệt hại không thể đo đếm bằng tiền. Đối diện với suy thế, nhiều nhà trí thức có đầu óc nhạy bén như Lâm Tắc Từ, Cung Tự Trân đã sớm nhận ra nguy cơ họa loạn với đất nước. Họ thấy xã hội rối ren, ngày càng thêm loạn, các thế lực phản Thanh đang nhanh chóng tụ tập lực lượng. "Gió tích đủ thì sẽ thành bão", một cuộc chiến loạn long trời lở đất đã sắp nổ ra. Họ chủ trương "biến pháp", sau này có Ngụy Nguyên đề xuất "biến cổ", hướng đến mục tiêu chấn hưng Thanh triều, thực hiện cải cách trong lòng chế độ. Nhưng tất cả đề xuất của họ đều không được triều đình tiếp thu. Cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc vào giữa thế kỷ 19 là kết quả của hàng loạt mâu thuẫn xã hội đã tích tụ suốt 150 năm, nay tới lúc phải bùng nổ. Đây là ví dụ đầu tiên phản ánh tư tưởng chống Mãn Châu đe dọa sự ổn định của nhà Thanh, một hiện tượng còn tăng thêm trong những năm sau này. Tuy nhiên, số lượng thương vong kinh khủng của cuộc khởi nghĩa này - tới 30 triệu người - và sự tàn phá nghiêm trọng các vùng đất rộng lớn ở phía nam đất nước vẫn còn bị che mở bởi một cuộc xung đột khác. Dù không đẫm máu bằng, nhưng thế giới ảnh hưởng của thế giới bên ngoài qua những tư tưởng và kỹ thuật của nó đã có một ảnh hưởng rất lớn và cuối cùng mang lại tác động có tính cách mạng đối với một triều đình nhà Thanh đang ngày càng suy yếu và dao động. Một trong những vấn đề lớn ở thế kỷ mười chín của Trung Quốc là cách thức đối phó với các nước khác bên ngoài. Trước thế kỷ mười chín, Đế chế Trung Quốc là cường quốc bá chủ châu Á. Theo học thuyết đế quốc của họ, hoàng đế Trung Quốc có quyền cai trị toàn bộ "thiên hạ". Tùy theo từng giai đoạn và từng triều đại, họ hoặc cai trị trực tiếp các vùng lãnh thổ xung quanh hoặc buộc các nước đó phải nộp cống cho mình. Các nhà sử học thường đưa ra quan niệm cơ bản của đế chế Trung Quốc, "đế chế không biên giới", khi đề cập tới thực trạng trên. Tuy nhiên, trong thế kỷ mười tám, các đế chế châu Âu dần mở rộng ra khắp thế giới, khi các nước châu Âu phát triển các nền kinh tế hùng mạnh dựa trên thương mại hàng hải. Mặt khác, đế chế Trung Quốc rơi vào tình trạng tù hãm sau nhiều thế kỷ dẫn đầu thế giới. Tới cuối thế kỷ mười tám, các thuộc địa của châu Âu đã được lập nên ở gần Ấn Độ và trên những hòn đảo hiện là các vùng thuộc Indonesia, trong khi Đế chế Nga đã sáp nhập các vùng phía bắc Trung Quốc. Ở thời các cuộc chiến tranh Napoleon, Anh Quốc từng muốn thành lập liên minh với Trung Quốc, gửi các hạm đội tàu tới Hồng Kông mang theo quà tặng gửi tới vị Hoàng đế, gồm nhiều vật phẩm được chế tạo bởi những kỹ thuật và phong cách nghệ thuật mới nhất của châu Âu thời kỳ đó. Khi các phái đoàn Anh nhận được một lá thư từ Bắc Kinh giải thích rằng Trung Quốc không cảm thấy ấn tượng trước những thành tựu của châu Âu và cho rằng triều đình Trung Quốc sẵn lòng nhận sự kính trọng của vua George III nước Anh, chính phủ Anh cảm thấy bị xúc phạm và từ bỏ mọi kế hoạch nhằm thiết lập các quan hệ với nhà Thanh. Khi các cuộc chiến tranh Napoleon chấm dứt năm 1815, thương mại thế giới tăng trưởng nhanh chóng, và bởi vì dân số đông đảo của Trung Quốc là một thị trường vô hạn cho hàng hóa châu Âu, thương mại giữa Trung Quốc và các thương gia châu Âu phát triển trong những năm đầu của thế kỷ mười chín. Khi thương mại tăng trưởng, sự thù nghịch cũng gia tăng giữa các chính phủ châu Âu và nhà Thanh. Năm 1793, nhà Thanh chính thức cho rằng Trung Quốc không cần tới các hàng hóa châu Âu. Vì thế, các lái buôn Trung Quốc chỉ chấp nhận dùng bạc làm vật trao đổi cho hàng hóa của họ. Nhu cầu to lớn của châu Âu đối với các hàng hóa Trung Quốc như tơ, trà, và đồ sứ chỉ có thế được đáp ứng khi các công ty châu Âu rót hết số bạc họ có vào trong Trung Quốc. Tới cuối những năm 1830, các chính phủ Anh và Pháp rất lo ngại về các kho dự trữ kim loại quý của họ và tìm cách đưa ra một phương thức trao đổi mới với Trung Quốc - và cách tốt nhất là đầu độc Trung Quốc bằng thuốc phiện. Khi nhà Thanh tìm cách cấm buôn bán thuốc phiện năm 1838, Anh Quốc đã tuyên chiến với Trung Quốc. Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất cho thấy sự lạc hậu của quân đội Trung Quốc. Dù có quân số áp đảo so với người Anh, kỹ thuật và chiến thuật của họ không thể so sánh với các cường quốc kỹ thuật thời ấy. Hải quân nhà Thanh, gồm toàn các tàu gỗ không phải là đối thủ của các tàu chiến bọc thép chạy hơi nước của Hải quân Hoàng gia Anh. Binh sĩ Anh sử dụng súng có rãnh xoắn và pháo binh vượt trội dễ dàng tiêu diệt các lực lượng nhà Thanh trên chiến trường. Việc nhà Thanh đầu hàng năm 1842 đánh dấu một tai họa mang tính quyết định và nhục nhã của Trung Quốc. Hiệp ước Nam Kinh, buộc họ phải trả khoản bồi thường 21 triệu lạng bạc và nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc. Nó cũng cho thấy tình trạng bất ổn định của chính phủ nhà Thanh và khiến cho nhiều cuộc khởi nghĩa chống chế độ diễn ra. Các cường quốc phương tây, chưa hài lòng với Hiệp ước Nam Kinh, chỉ miễn cưỡng hỗ trợ nhà Thanh trong việc tiêu diệt các cuộc nổi dậy Thái bình thiên quốc và cuộc khởi nghĩa Niệm Quân. Thu nhập của Trung Quốc giảm sút rõ rệt trong thời gian chiến tranh khi nhiều vùng đất canh tác rộng lớn bị hủy hoại, hàng triệu người thiệt mạng và số lượng binh lính đông đảo cũng như trang bị vũ khí cho họ để chiến đấu. Năm 1854, Anh Quốc tìm cách đàm phán lại Hiệp ước Nam Kinh, thêm vào các điều khoản cho phép các thương gia người Anh đi lại trên sông ngòi Trung Quốc và lập một đại sứ quán thường trực của họ tại Bắc Kinh. Điều khoản cuối cùng này xúc phạm tới chính quyền nhà Thanh và họ đã từ chối ký kết, gây ra một cuộc chiến tranh khác giữa hai bên. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai chấm dứt với một thất bại nặng nề khác của Trung Quốc, khiến cho Nhà Thanh phải ký Hiệp ước Thiên Tân với Đế quốc Anh Nhà Thanh suy yếu và sự cai trị của Từ Hy Thái Hậu Cuối thể kỷ 19, một nhà lãnh tụ mới xuất hiện là Từ Hy Thái Hậu. Xuất thân chỉ là một phi tần của Hàm Phong (1850-1861), nhưng nhờ sinh ra Thái tử Tái Thuần nên sau khi Hàm Phong chết và vị hoàng tử nhỏ tuổi lên ngôi lấy hiệu là Đồng Trị, Từ Hy đã ngấm ngầm tiến hành cuộc đảo chính để tước quyền nhiếp chính của đại thần Túc Thuận theo di chiếu của tiên hoàng. Bà nắm quyền nhiếp chính và trở thành người đứng đầu không chính thức của Trung Hoa suốt 47 năm. Bà còn được biết tới bởi sự nhúng tay vào chính sự kiểu "Thùy liêm thính chính" (垂簾聽政-tức can thiệp chính trị từ sau hậu đài). Tới những năm 1860, triều đình nhà Thanh đã tiêu diệt được các cuộc nổi dậy nhờ sự hỗ trợ của lực lượng dân quân do tầng lớp quý tộc tổ chức. Sau đó, chính phủ Thanh tiếp tục giải quyết vấn đề hiện đại hoá, từng được đưa ra trước đó với Phong trào tự cường. Nhiều đội quân hiện đại được thành lập gồm cả Hạm đội Bắc Hải; tuy nhiên Hạm đội Bắc Hải đã bị tiêu diệt trong Chiến tranh Trung Nhật (1894-1895), khiến cho ngày càng xuất hiện nhiều kêu gọi cải cách sâu rộng hơn nữa. Đầu thế kỷ 20, nhà Thanh rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục theo đuổi cải cách, họ sẽ khiến giới quý tộc bảo thủ mất lòng, nếu ngăn cản việc đó họ lại khiến những người theo đường lối cách mạng tức giận. Nhà Thanh tìm cách đi theo con đường trung dung, nhưng việc này lại khiến tất cả các bên cùng bất mãn. Mười năm trong giai đoạn cai trị của Hoàng đế Quang Tự (1875 - 1908) là những năm nhà Thanh cố gắng tiến hành biến pháp và cải cách nhằm phát triển đất nước. Năm 1898 Quang Tự nỗ lực tiến hành Cuộc cải cách 100 ngày (百日維新, Bách nhật duy tân), còn được biết dưới cái tên "Mậu Tuất biến pháp" (戊戌變法), đưa ra các luật mới thay thế cho các quy định cũ đã bị bãi bỏ. Những nhà cải cách, với đầu óc tiến bộ hơn như Khang Hữu Vy được tin tường và những người có đầu óc thủ cựu như Lý Hồng Chương bị gạt bỏ khỏi các vị trí quan trọng. Nhưng các ý tưởng mới đã bị Từ Hy dập tắt, Quang Tự bị nhốt trong cung. Từ Hy chỉ tập trung vào việc củng cố quyền lực của riêng mình. Tại buổi lễ sinh nhật lần thứ 60, bà đã chi 30 triệu lạng bạc để trang trí và tổ chức, số tiền đã định dùng để cải tiến vũ khí cho Hạm đội Bắc Hải. Khủng hoảng tài chính Sau khi điều ước Nam Kinh năm 1842, nhà Thanh ngày càng chịu nhiều khủng hoảng. Thuốc phiện nhập vào ồ ạt mà không được ngăn cấm, thứ nhì là lụa sa, vải nhập khẩu khiến vải nội địa không thể cạnh tranh nổi. Từ năm 1890, số lượng sa, vải nhập khẩu mỗi năm lên đến 1 vạn vạn lượng, so với 60 năm về trước gia tăng 80%. Tiền dùng để mua hàng đều lấy từ xuất khẩu lương thực, nhưng lương thực thường không đủ nên nạn đói xảy ra, vùng Hoa Bắc nghèo khổ lại càng nặng nề. Trà, tơ vốn là nguồn xuất khẩu lớn; từ năm 1880 bị Ấn Độ và Nhật sản xuất nhiều, trà bị cạnh tranh nên trước kia chiếm đến 54% lượng xuất khẩu lúc này bị giáng xuống chỉ còn 18%; riêng tơ cũng bị giảm nhiều. Nạn đói kém do hạn hán, lụt lội xảy ra rất nhiều tại phương bắc. Năm 1877-1878 thiên tai xảy ra tại các tỉnh Sơn Tây, Hà Nam, số người chết vô số kể. Từ năm 1855, sông Hoàng Hà tại phía đông tỉnh Hà Nam bị vỡ; dòng sông trước kia chảy qua phía bắc tỉnh Giang Tô, đổi sang tỉnh Sơn Đông; sông mới hẹp nước chảy khó khăn, nên đê thường bị vỡ. Tháng 9/1887, vỡ đê tại Trịnh Châu [Hà Nam], nước chảy vào các sông Giả Lỗ, Hoài khiến vùng phía đông Hà Nam, phía bắc An Huy bị thiệt hại nặng. Tháng 1/1889, bắt đầu chặn dòng, hậu quả hơn 1 triệu người chết, tiêu tốn ngân khoản 10 triệu lượng. Cùng năm đó cho đến năm sau, tại tỉnh Sơn Đông lại có thêm hai lần vỡ đê. Từ năm 1892-1898, đê vỡ thường xuyên, nhà cửa trôi dạt, người và súc vật chết vô số; khu vực bị thiên tai riêng tỉnh Sơn Đông có đến 60 châu, huyện; tỉnh Trực Lệ đến 26 châu, huyện. Vào các năm 1888, 1890, 1892, 1893, 1896, sông Vĩnh Định liên tục bị vỡ đê, chỗ bị vỡ từ 10 trượng đến hơn 100 trượng; khu vực bị thiên tai tại tỉnh Trực Lệ lên đến 26 châu, huyện. Năm 1899, tại các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, Sơn Tây, cùng phía bắc Giang Tô bị hạn hán lâu, thực phẩm thiếu thốn, khiến người nghèo phải đem con đi bán. Chính phủ nhà Thanh vơ vét cũng là nguyên nhân khiến nhân dân chịu thống khổ. Triều đình phải vơ vét do chi tiêu gia tăng, nguồn tài chính kiệt quệ. Tài chính kiệt quệ do bởi nhiều năm chiến loạn, cung đình tiêu xài nhiều, chẩn tế cho các thiên tai, nhu cầu bởi chính sách đổi mới, và quan trọng nhất là tiền bồi thường cho nước ngoài. Từ năm 1895 trở về trước, mỗi năm phải trả nợ và tiền lời khoảng 3-4 trăm vạn lượng, còn có thể gắng sức gánh vác được. Sau chiến tranh Giáp Ngọ (1894) tiền vay về chi phí chiến tranh khoảng 1.200 vạn lượng, tiền bồi thường cho Nhật khoảng 2.600 vạn lượng, tất cả đều phải vay, mỗi năm phải trả 2.300 vạn lượng. Do vậy phải khấu trừ tiền dưỡng liêm, tăng thuế ly kim, thuế ruộng; tăng các sắc thuế về gạo, trà, muối, đường, thuốc phiện, thuốc lá, rượu và quyên thu các thương gia, nhưng cũng không đủ. Năm 1898, phát hành Chiêu tín cổ phiếu, 10.000 vạn lượng, bằng mọi cách áp lực dân phải mua, nhưng chỉ thu được không quá 1000 vạn lượng. Căn cứ báo cáo của bộ Hộ mỗi năm tiền trả nợ ngoại quốc, tiền quân vụ, dương vụ [cải cách thuyền binh], tiền tiêu của trung ương và địa phương, tổng cộng gần 100 triệu lượng, nhưng thu nhập quốc khố chỉ có 80 triệu lượng, số tiền thiếu hụt khoảng 20 triệu lượng. Lãnh thổ bị xâu xé Viễn Đông là khu vực trọng điểm để các nước tư bản chủ nghĩa giành giật. Trong quá trình các nước lớn ở phương Tây liên tục mở rộng xâm lược ra nước ngoài, vùng biên giới Trung Quốc ngày càng bị uy hiếp nghiêm trọng. Nhật, Mỹ đưa quân xâm lược Đài Loan; Nga, Anh nhòm ngó Tân Cương; nước Anh rình mò Vân Nam, Tây Tạng, Pháp đe dọa Quảng Tây - Quảng Đông, tất cả đã tạo nên những nguy cơ mới ở vùng biên giới Trung Quốc, nguy cơ ngoại xâm đến từ tứ phía. Ở vùng biên giới Tây Bắc, Điều ước Bắc Kinh năm 1860 đã khiến nhà Thanh mất hàng trăm nghìn km2 lãnh thổ phía bắc và tây bắc. Tháng 10 năm 1864, Sa hoàng Nga lại cưỡng bức chính phủ Thanh ký "Ghi nhớ vể việc thăm dò vùng biên giới Tây Bắc" giữa hai nước Trung – Nga, tổng cộng đã chiếm 910.000 km2 lãnh thổ Ngoại Mãn Châu ở phía tây bắc của Trung Quốc. Năm 1864, người Hồi ở Tân Cương do ảnh hưởng cuộc đấu tranh chống lại nhà Thanh của người Hồi vùng Thiểm Cam đã phát động cuộc đấu tranh chống lại nhà Thanh trên quy mô lớn. Năm 1865, nước Khiết Hãn Đan đã cử A Cổ Bách mang quân tiến vào Tân Cương, chiếm được Ca Thận Cát Nhĩ. Sau hai năm, A Cổ Bách tuyên bố thành lập "nước Triết Đức Nhĩ" (gồm bảy thành quốc), tự coi là Hãn. Năm 1870, A Cổ Bách đã khống chế toàn bộ vùng nam Tân Cương và một bộ phận của bắc Tân Cương. Nước Anh muốn dùng Ấn Độ làm bàn đạp xâm chiếm Tây Tạng, nhòm ngó Tân Cương. Năm 1874, nước Anh cùng A Cổ Bách chính thức ký điều ước thừa nhận chính quyền A Cổ Bách, cung cấp vũ khí đạn dược với điều kiện được những đặc quyền buôn bán, đóng quân, lập lãnh sự quán trong khu vực A Cổ Bách thống trị. Những năm 1870, nước Pháp đã dùng vũ lực chiếm Việt Nam, láng giềng của Trung Quốc. Tháng 12 năm 1883, quân Pháp bất ngờ tấn công vào Trung Quốc ở biên giới Trung – Việt. May nhờ có tướng Phùng Tử Tài anh dũng kháng cự, trải qua cuộc chiến đấu ác liệt, giành đại thắng ở trấn Nam Quan, mới có thể bảo vệ được vùng Lưỡng Quảng khỏi họa ngoại xâm bởi thực dân Pháp. Năm 1867, chính phủ Mỹ mượn cớ bảy thủy thủ trên tàu La Phật bị nạn ở Đài Loan, ngang nhiên đưa hai chiến hạm cùng 181 thủy quân lục chiến đổ bộ lên phía nam đảo Đài Loan, tấn công nhân dân tộc Cao Sơn ở đây. Từ những năm 1870 trở đi, Nhật Bản đã trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất xâm lược đảo Đài Loan. Năm 1875, Nhật Bản huy động hơn 3.000 hải lục quân do Tây Hương Tùng Đạo chỉ huy ngang nhiên tấn công Đài Loan. Tháng 5, quân Nhật đổ bộ lên đất liền ở phía nam đảo. Người dân Đài Loan kháng cự quyết liệt. Ngày 31 tháng 10, hai bên Trung – Nhật ký "Chuyên ước về Đài Loan" (còn gọi là "Chuyên ước Bắc Kinh") có ba khoản, quy định Trung Quốc "thưởng" cho Nhật Bản 500.000 lượng bạc, coi đó là điều kiện để quân Nhật rút khỏi Đài Loan. Chuyên ước còn gọi nhân dân tộc Cao Sơn ở Đài Loan đã từng "gây ra thiệt hại cho dân của Nhật Bản", Nhật Bản xâm lược Đài Loan là "nghĩa cử bảo vệ cho dân". Sau đó, Nhật Bản đã dựa vào điều này yêu cầu Trung Quốc thừa nhận Lưu Cầu là nước phụ thuộc Nhật Bản, đến năm 1879 chính thức thôn tính Lưu Cầu, lật đổ Quốc vương, đổi Lưu Cầu thành huyện Xung Thằng (nay là Okinawa). Do bị các nước xâm chiếm lãnh thổ nên diện tích của nhà Thanh từ 13,1 triệu km2 vào năm 1790 đã tụt xuống còn 11,5 triệu km2 vào năm 1870. Chiến tranh Pháp - Thanh Với việc Hồng Kông rơi vào tay người Anh từ sau Chiến tranh nha phiến, con đường giao thương mà Pháp lựa chọn là thông qua phía bắc Việt Nam đến các tỉnh phía tây nam Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc thời nhà Thanh không chịu từ bỏ quyền kiểm soát và chi phối Việt Nam. Căng thẳng Pháp-Thanh đẩy lên cao trào sau khi quân Thanh đánh úp lực lượng Pháp trong trận Bắc Lệ, cách Lạng Sơn gần 30 km vào tháng 6/1884. Sau hai thất bại trong 2 cuộc Chiến tranh nha phiến, triều đình nhà Thanh dưới thời Từ Hi Thái Hậu bắt đầu quan tâm tới việc hiện đại hóa quân sự. Nhà Thanh khi đó sở hữu hạm đội Nam Dương với quy mô khá hùng hậu nhất. Lực lượng chủ lực của hạm đội được đặt ở Thượng Hải, trong đó tàu tuần dương Kaiji được đánh giá mạnh nhất trong khu vực. Tổng cộng cả hạm đội có 20 tàu chiến, trong đó có 5 tàu vỏ sắt và 2 tàu vỏ thép lượng giãn nước 2.200 tấn. Thiết giáp hạm Jinou trong hạm đội còn được châu Âu gọi là "cơn ác mộng". Đến tháng 7/1884, hạm đội Nam Dương được bổ sung thêm hai tàu tuần dương vỏ thép do Đức đóng mới, khởi hành từ Đức vào tháng 3/1884. Tháng 8/1884, hạm đội hùng hậu của Pháp bao gồm 7 tàu chiến và 2 tàu phóng lôi nổ súng tấn công các tàu Trung Quốc cách Phúc Châu vài km. Trận đánh diễn ra chỉ vỏn vẹn 30 phút các tàu chiến Pháp đánh chìm 9 tàu chiến của nhà Thanh, bao gồm cả tàu được vũ trang hạng nặng. Ngày hôm sau, tàu chiến Pháp pháo kích và phá hủy công xưởng quân Thanh. Tới ngày 25 tháng 8, hạm đội Pháp hướng ra biển, trên đường đi họ bắn phá và dễ dàng tiêu diệt tất cả các pháo lũy của nhà Thanh bố trí dọc theo bờ sông. Trong suốt quãng thời gian diễn ra chiến dịch, hải quân Pháp chỉ để một tàu tuần dương ở ngoài khơi Thượng Hải, giám sát hoạt động của hạm đội Nam Dương. Trên thực tế, hạm đội mạnh nhất của nhà Thanh khi đó án binh bất động, thậm chí không chặn đường tàu tuần dương Pháp khi nó rút khỏi khu vực. Sau trận Phúc Châu, hải quân Pháp tiếp tục tiến lên phía bắc, phong tỏa eo biển Đài Loan. Để phá vòng vây của quân Pháp, nhà Thanh điều hạm đội Nam Dương khởi hành từ Thượng Hải. Nhưng vì mâu thuẫn nội bộ trong chính quyền Thanh Triều mà lực lượng chặn đánh hải quân Pháp chỉ có 5 tàu chiến, bao gồm 3 tàu tuần dương. Tới mãi tận giữa tháng 2 năm 1885, hạm đội quân Thanh mới đến vịnh Thạch Phổ và chạm trán hạm đội Pháp. Hạm đội Pháp với ưu thế vượt trội về hỏa lực khiến các tàu chiến quân Thanh rút lui. Hai tàu nhỏ hơn không chạy kịp bị tàu chiến Pháp đánh chìm. 3 tàu tuần dương còn lại chạy về được đến Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang thì bị hải quân Pháp phong tỏa và không có bất kỳ một đóng góp quân sự gì cho tới khi chiến tranh kết thúc. Trận đánh này cũng kết thúc xung đột Pháp-Thanh trên biển. Tuy thất bại trên biển, nhưng trên bộ, quân Thanh giành được một chiến thắng lớn ở Trận Lạng Sơn (1885). Quân Thanh dưới sự lãnh đạo của vị tướng dũng cảm, giàu kinh nghiệm là Phùng Tử Tài đã đánh thắng quân Pháp. Trong trận Lạng Sơn, Phùng Tử Tài dẫn đầu quân lính giết được nhiều quân địch, trải qua cuộc chiến đấu ác liệt, giành đại thắng ở trấn Nam Quan, thừa thắng đánh Lạng Sơn, tình thế cuộc đấu tranh chống Pháp có nhiều thuận lợi. Dọc đường chạy tháo thân, quân Pháp đã vứt cả súng đại bác, hòm đạn, quẳng cả đồ đạc, hành lý xuống sông, đốt giấy tờ sổ sách, đập vỡ cả máy điện tín. Thanh Sử Cảo quyển 527 chép: "Ngày 9 tháng 1 năm Quang Tự thứ 11 (1885), quân Pháp đánh Trấn Nam quan, bắn vỡ cửa quan rồi đi. Ngày 13 tháng 2 chiếm lại Lạng Sơn, quân Pháp đều tháo chạy. Phùng Tử Tài tiến quân đánh Lạp Mộc, đánh ép vào Lang Giáp, Vương Hiếu Kỳ tiến quân tới Quý Môn quan, lấy lại được hết vùng biên giới năm trước. Dân Việt Nam lập ra năm đại đoàn Trung nghĩa hơn hai vạn người, đều dùng cờ xí của quân Phùng. Tây Cống cũng nghe tiếng liên lạc, từ khi thông hải đến nay, Trung Quốc đánh nhau với nước ngoài chỉ có trận này là thắng lớn, là công của Tử Tài vậy" Quân Pháp đại bại khiến Chính phủ Jules Ferry ở Paris bị đổ, nhưng cuối cùng triều Thanh bạc nhược đã ký kết hiệp ước nhằm chấm dứt chiến tranh. Kể từ ngày 9 tháng 6 năm 1885 (ngày ký Hiệp ước Thiên Tân mới), nhà Thanh chính thức thừa nhận quyền đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Nhà Thanh không những bị tổn hại uy tín, tổn thất hạm đội Phúc Kiến, để cảng Phúc Châu bị phá hủy, kéo theo tổn thất về kinh tế nặng nề lên tới 100 triệu lạng bạc và phải bồi thường Pháp chiến phí 20 triệu lạng bạc. Vậy là nhà Thanh đang trên đà thắng bỗng nhiên phải chịu thua thiệt. Chiến tranh Nhật - Thanh Cuối thế kỷ 19, Trung Quốc dưới thời nhà Thanh suy yếu từng bước bị phương Tây xâu xé. Đế quốc Nhật Bản cũng bắt đầu nhòm ngó, nước này muốn đánh chiếm Triều Tiên (khi đó là một chư hầu dưới sự bảo trợ của nhà Thanh). Nhật Bản đã áp đặt Hòa ước Giang Hoa lên Triều Tiên, ép Triều Tiên phải tự mở cửa cho người Nhật và ngoại thương và tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc trong quan hệ đối ngoại. Mặc dù Quân đội Bắc Dương - Lục quân Bắc Dương và Hạm đội Bắc Dương – được trang bị tốt nhất và tượng trưng cho quân đội Thanh hiện đại, song tham nhũng là một vấn đề nghiêm trọng làm xói mòn sức mạnh quân đội. Các quan lại nhà Thanh biển thủ công quỹ một cách có hệ thống, thậm chí ngay cả trong giai đoạn chiến tranh. Kết quả là, Hạm đội Bắc Dương không có nổi một chủ lực hạm nào sau khi nó được thành lập vào năm 1868. Việc mua sắm vũ khí dừng lại vào năm 1891, khi ngân sách được Từ Hy Thái hậu chuyển sang xây dựng Di Hòa Viên ở Bắc Kinh. Hậu cần gặp khó khăn lớn do việc xây dựng tuyến đường sắt Mãn Châu đã bị đình lại. Sĩ khí của quân đội Thanh nói chung rất thấp vì thiếu lương và uy thế, việc sử dụng thuốc phiện, và lãnh đạo kém góp phần vào những cuộc thất bại nhục nhã của quân Thanh trong cuộc chiến, ví dụ như việc bỏ đồn Uy Hải Vệ được trang bị tốt và hoàn toàn có thể phòng ngự. Hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh được trang bị mạnh với 78 chiến thuyền được nhập khẩu từ phương Tây, tổng lượng giãn nước 83.900 tấn, xét về số lượng thì vượt trội so với hạm đội Nhật. Ấy thế nhưng do chỉ huy và huấn luyện kém, hạm đội này đã bị Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn. Ở trên bộ cũng vậy, quân Nhật đánh thắng quân Thanh như chẻ tre, chẳng mấy chốc đã chiếm toàn bộ Triều Tiên. Hòa ước Mã Quan ký ngày 17 tháng 4 năm 1895 theo đó nhà Thanh công nhận sự độc lập hoàn toàn của Triều Tiên, nhượng lại bán đảo Liêu Đông (ngày nay là phía Nam tỉnh Liêu Ninh) cho Nhật Bản "vĩnh viễn". Thêm vào đó, Thanh phải trả cho Nhật Bản 200 triệu lượng bạc bồi thường chiến phí. Nhà Thanh cũng ký hiệp ước thương mại cho phép tàu của Nhật tiến vào sông Trường Giang, mở các nhà máy gia công ở các cảng theo điều ước và mở thêm bốn bến cảng nữa cho ngoại thương. Tuy vậy, các nước phương Tây đã can thiệp buộc Nhật phải từ bỏ bán đảo Liêu Đông để đổi lấy 30 triệu lạng bạc (450 triệu yen). Đây là một đòn chí mạng vào nhà Thanh và truyền thống cổ truyền Trung Quốc. Trước kia nhà Thanh thua Anh, Pháp đều là các nước phương Tây ở xa tới. Còn Nhật Bản vốn là một nước láng giềng, mà Trung Quốc từ lâu luôn xem là một chư hầu nhỏ bé và kém cỏi, thì nay đã đánh bại chính Trung Quốc. Các nước phương Tây thấy sự yếu kém của nhà Thanh nên sau đó cũng tham gia xâu xé Trung Quốc. Trước tiên là Đế quốc Đức mượn cớ hai Giáo sĩ truyền đạo bị giết ở Sơn Đông, xuất binh chiếm lĩnh vịnh Giao Châu. Một tháng sau, nước Nga lại xuất binh chiếm lĩnh Đại Liên và cảng Lữ Thuận, khống chế vùng Đông Bắc Trung Quốc. Nước Pháp thì đem quân tới Vân Nam và Lưỡng Quảng; Nhật Bản lại chiếm cứ Phúc Kiến; nước Anh lại cưỡng bức phải cho thuê cảng, mở rộng phạm vi quản lý Cửu Long. Trong vài năm, đế quốc Đại Thanh liên tiếp bị mất đất. Cuộc chiến cũng đã hé lộ sự thiếu hiệu quả của triều đình, các chính sách, sự tham nhũng trong hệ thống hành chính và sự mục nát của nhà Thanh (điều đã được nhận rõ từ hàng thập kỷ trước đó). Tình cảm bài ngoại công khai tăng lên và sau này lên tới đỉnh điểm trong cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn 5 năm sau đó. Trong suốt thế kỷ 19, nhà Thanh không thể ngăn ngừa được sự xâm phạm lãnh thổ của nước ngoài — điều này cùng với lời kêu gọi cải cách và nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn sẽ là nhân tố chủ chốt dẫn đến cuộc cách mạng năm 1911 và sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912. Phong trào diệt Tây dương và Nghĩa Hòa Đoàn Thiên tai và nhân họa là hai yếu tố ảnh hưởng đến sự sống còn của người dân, nhưng nhân họa là tối quan trọng. Nhân họa, thứ nhất do quan bắt đóng thuế nặng; thứ hai do người Tây phương hà hiếp, cạnh tranh hàng hóa, cướp công ăn việc làm, rồi đến tiền bồi thường chiến tranh cho ngoại quốc gây nên thuế khoá nặng. Do mối oán kết tập bởi người Tây dương, việc các nhà truyền giáo xâm nhập Trung Quốc, càng gây giận dữ trực tiếp đến người dân. Người dân coi người Tây phương là mối họa chính, họ nghĩ quét sạch Tây phương thiên hạ sẽ thái bình; giáo sĩ và giáo dân là kẻ thù trực tiếp. Vào năm 1885, giáo dân tại Trùng Khánh gây hấn với các thí sinh, số thí sinh tử thương 30 người, dân chúng nổi giận đốt giáo đường, Trung Quốc phải bồi thường 20 vạn lượng. Năm 1890, Dư Đống Thần, tại Đại Túc [Trùng Khánh] phía đông Tứ Xuyên, lãnh đạo đánh phá giáo đồ, phần lớn thành phần tham gia thuộc Ca Lão hội, hương đoàn; hạch tội rằng 30 năm ròng Tây dương khinh rẻ Trung Quốc, giáo sĩ truyền giáo không tuân pháp luật. Từ năm 1898-1899, các nước phương Tây xâu xé Trung Quốc hết sức mãnh liệt, thì sự động loạn trong nước cũng hết sức nghiêm trọng, xảy ra suốt các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, Hà Nam, An Huy, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông; ở nhưng Tứ Xuyên, Quảng Tây, Trực Lệ và Sơn Đông là nặng nhất. Tại Tứ Xuyên vẫn do Dư Đống Thần lãnh đạo, tái khởi sự vào năm 1898, đồ đảng của Dư Đống Thần ước 1 vạn người, trực tiếp quấy nhiễu hơn 10 châu thuộc phía đông tỉnh Tứ Xuyên; gián tiếp ảnh hưởng hơn 30 châu. Họ truyền hịch văn chỉ trích Tây dương với các tội trạng như: "Thuyền bè Tây dương thông thương tại biển, Gia Tô truyền đạo, chiếm đoạt sinh kế làm ruộng, nuôi tằm; phế luân thường đạo vua tôi, dùng nha phiến độc hại trung thổ, lấy dâm xảo khuynh loát lòng người. Mê hoặc nhân dân ta, khinh mạn triều đình ta, nắm quan phủ, chiếm nơi đô hội, lừa đảo lấy tiền bạc, coi tính mệnh trẻ em rẻ như quả dưa, nợ đòi nặng như gò núi. Đốt Hoàng cung, diệt thuộc quốc của ta. Đã chiếm Thượng Hải, lại cắt Đài Loan, lập cảng tại Giao Châu [Sơn Đông], muốn cắt đất nước ta ra từng mảnh. Từ xưa đến nay, Di Địch hoành hành, chưa hề xảy ra như ngày hôm nay". Tứ Xuyên nhiều núi bao quanh, liên lạc với bên ngoài không dễ nên ảnh hưởng của Dư Đống Thần chỉ hạn chế trong một vùng. Riêng Nghĩa Hoà đoàn khởi sự tại đông bắc thì tình thế khác hẳn, cuối cùng tạo thành biến cố to lớn tại Trung Quốc. Sơn Đông là khu vực Thiên Chúa giáo hoạt động sớm nhất, giáo dân toàn tỉnh khoảng 8 vạn người, phần lớn tại phía tây Sơn Đông, ven hai bên bờ Vận Hà. Vào năm 1888, nước Đức nắm quyền bảo hộ tôn giáo tại Sơn Đông, giáo sĩ càng hoành hành, cưỡng chiếm đất đai, bao che án kiện, bênh vực bọn xấu, tự tiện thu thuế; nhân dân trong cảnh nằm trên dao thớt, các quan phủ cũng bị hiếp chế. Các giáo sĩ của Thiên Chúa giáo đã đem hết khả năng giúp nước Đức chiếm Giao Châu Loan, còn thường xuyên doạ dẫm quan phủ, áp bức nhân dân, làm quần chúng tức giận cao độ, nó trực tiếp dẫn tới sự bùng nổ của cuộc vận động Nghĩa Hoà Đoàn. Năm 1895, quân Nhật đánh Uy Hải Vệ, chiếm cứ trong 3 năm, dày xéo các vùng Đăng Châu, Lai Châu. Năm 1897, Giao Châu Loan cùng các thành trì phụ cận bị người Đức chiếm cứ. Năm 1898, người Nhật đi, người Anh lại đến; 2 cảng nam bắc Sơn Đông đều do ngoại quốc chiếm. Lúc đầu Nghĩa Hoà quyền lưu hành tại vùng ven bờ Vận Hà, là nơi giáo đồ tụ tập, nên gây ra sự tranh chấp. Lý Bỉnh Hoành nhậm chức Tuần phủ Sơn Đông [1895-1897] coi Nghĩa Hoà quyền là nghĩa dân, nên số người theo càng đông, có các tên riêng như Đại Đao hội, Hồng Đăng Chiếu, tự cho là "luyện Nghĩa Hòa quyền có thể tránh pháo súng… hưng đại Thanh, diệt Dương giáo". Mùa xuân năm 1899, khí thế Nghĩa Hoà đoàn dấy lên, đến nơi thì giết giáo dân, phá giáo đường; treo cờ màu đỏ vàng với hàng chữ "Thần lực Nghĩa Hoà đoàn, quét sạch tà giáo, diệt Tây Dương". Sau khi bị trấn áp của Viên Thế Khải năm 1899, Nghĩa Hoà đoàn chạy lên phía bắc, dọc đường phát tán yết thị "Đạo Thiên Chúa và nhà thờ Gia Tô huỷ báng thần thánh, trên thì lừa vua tôi Trung Hoa, dưới thì áp bức nhân dân, thần và dân đều giận… Bọn ta luyện tập được Nghĩa Hoà thần quyền, sẽ bảo hộ trung nguyên, xua đuổi giặc Tây dương". Bắc Kinh là nơi Công sứ ngoại quốc trú đóng, vua tôi Trung Quốc trực tiếp chịu sự khinh nhờn của ngoại quốc; Thiên Tân là chốn tập trung của người Tây dương, dân Trung Hoa thường bị đàn áp; cả hai nơi là mục tiêu chính của Nghĩa Hoà đoàn. Hành động của Nghĩa Hoà đoàn và những người dân ủng hộ tuy mang tính mê tín, nhưng động cơ thì không thể mạt sát. Đó là sự phản kháng tự phát của nhân dân trước mối họa đất nước bị xâm chiếm, bị ngoại bang giày xéo trong khi triều đình thì hủ bại và bạc nhược. Liên quân 8 nước xâm phạm Trước tháng 5/1900, Từ Hy Thái hậu chưa có quyết tâm liều thắng bại với Tây phương. Sau khi Nghĩa Hòa đoàn xuất hiện, nhiều tôn thất quý tộc, các quan trụ cột triều đình thấy vui mừng, đều cho rằng Nghĩa Hòa đoàn là nghĩa dân trung quân ái quốc, có pháp thuật đích xác, lòng người tại ngoài kinh thành đều hướng đến họ. Từ Hy bảo "Các quân Mãn, Hán đều thông đồng với chúng nó [Nghĩa Hoà đoàn], do đó không dám nói việc đánh dẹp", lời nói này xét ra đúng sự thực. Vào ngày 9/6/1900, Từ Hy mệnh Đổng Phúc Tường mang quân vào đóng trong kinh thành; Đổng Phúc Tường nói "Phụng mệnh Thái hậu tiêu diệt quân Tây dương, mệnh Nghĩa Hoà đoàn làm tiên phong, quân ta tiếp ứng". Đại đội nghĩa Hoà đoàn hùng dũng tiến vào kinh thành, nơi nơi đều thiết lập thần đàn, dăng cao biểu ngữ "Phụng chỉ Nghĩa Hoà đoàn", " Nghĩa Hoà Thần quyền" hoặc "Trợ Thanh diệt Dương, thế thiên hành đạo" Ngày 12/6, bộ hạ của Đổng bắt đầu đốt phá, quấy nhiễu các khu giáo dân, cùng các tiệm bán hàng cho người Tây dương, khiến ánh lửa cháy ngút trời, suốt đêm la giết. Đến ngày 13, số giáo dân bị giết ở Bắc Kinh là hơn 300 người. Tình hình tại Thiên Tân tương đồng, cục điện báo và hải quan đều bị phá huỷ, giáo dân phải chạy đi tỵ nạn. Năm 1901, sau khi Đại sứ Đức bị ám sát, Liên quân tám nước (八國聯軍) cùng tiến vào Trung Quốc lần thứ hai. Ngày 16/6, Từ Hy cử hành hội nghị triều đình hơn 100 người; hai phái phản đối và ủng hộ Nghĩa Hoà đoàn cùng tranh biện. Một trong những người phản đối là Tổng thự Viên Sưởng cho rằng "Nghĩa Hoà đoàn chính là dân làm loạn, không thể nào dựa được. Từ xưa tới nay chưa bao giờ có chuyện nhờ những bọn như vậy mà thành việc lớn". Từ Hy bác rằng "Pháp thuật không dựa được, nhưng lòng người lại không dựa được ư! Ngày hôm nay Trung Quốc suy nhược đến cùng cực, chỗ dựa chỉ còn nhân tâm mà thôi, nếu để nhân tâm mất đi, lấy gì mà dựng nước?" Vào 8 giờ sáng ngày 17/6, liên quân đánh chiếm pháo đài tại Đại Cô; 3 giờ chiều cùng ngày, chiếu ban hội nghị khẩn cấp tại Ngự Tiền, Từ Hy tuyên dụ: "Mới đây Tây dương đòi 4 điều: thứ nhất, chỉ rõ một địa điểm để Hoàng đế cư trú; thứ hai, thay mặt thu tiền lương tại các tỉnh; thứ ba, thay mặt nắm binh quyền trong nước… Hôm nay đánh nhau do tại họ, nước mất tại trước mắt, nếu cứ chắp tay mà nhường, ta không còn mặt mũi thấy liệt Thánh; nếu đợi mất, hãy đánh một trận rồi mất không hơn hay sao?" Từ Hy nói với các Đại thần rằng "Chuyện ngày hôm nay, các Đại thần đã nghe rồi; ta vì giang sơn xã tắc, bất đắc dĩ tuyên chiến. Sự việc không biết được như thế nào, nếu như sau cuộc chiến, giang sơn xã tắc không giữ được; các vị ngày hôm nay tại đây, biết sự khổ tâm của ta, đừng quy lỗi riêng cho ta bảo Hoàng thái hậu làm mất 300 năm thiên hạ Đại Thanh". Trong cuộc họp vào ngày 19/6, Từ Hy biểu thị tối hậu quyết tâm, hạn Công sứ các nước phải ra khỏi kinh đô trong 24 giờ, mệnh Dụ Lộc triệu tập Nghĩa Hoà đoàn trợ giúp quan quân chống cự Tây dương. Sáng ngày 20 triệu tập Quân cơ đại thần tuyên bố khai chiến. Ngày 21/6 hạ chiếu tuyên chiến, đả kích kịch liệt về việc 30 năm nay Trung Quốc bị ngoại bang áp bức: "...Khinh nhục quốc gia ta, xâm lấn đất đai ta, dày xéo dân ta, hạch sách của cải; triều đình càng nhường nhịn, bọn chúng càng hung hoành, ngày càng quá quắt, không gì không làm. Nhỏ thì áp bức nhân dân, lớn thì khinh mạn thần thánh, con dân nước ta cùng chung lửa hận, ai mà chịu cam tâm; đó là do lai tại sao nghĩa dũng đốt giáo đường, giết giáo dân. Triều đình vẫn không gây hấn, che chở như trước… Bọn chúng không biết cảm khích, lại còn buông tuồng đòi hỏi chèn ép… công nhiên đòi ta phải rút khỏi pháo đài Đại Cô. Trong sự giao thiệp với lân quốc hàng ngày, ta chưa từng thất lễ với họ; bọn chúng tự xưng là nước có giáo hoá lại vô lễ hoành hành, chuyên dựa vào binh mạnh, khí giới sắc bén… Trẫm nay khóc cáo tiên miếu, khẳng khái thề với quân dân, so với việc cẩu thả mong sống còn, lưu nhục đến vạn cổ; chi bằng ra tay đánh dẹp, nhất quyết thư hùng. Qua mấy ngày triệu kiến Đại thần, bàn mưu đồng lòng, các tỉnh gần kinh kỳ như Sơn Đông, nghĩa dũng tụ tập không dưới mấy chục vạn, cho đến các nhi đồng cũng có thể cầm qua bảo vệ xã tắc. Chúng dùng mưu xảo trá, ta dựa vào lẽ trời; chúng dựa vào sức lực hung hãn, ta dựa vào nhân tâm. Nhân dân ta lấy nhân nghĩa làm giáp trụ, lấy lễ nghĩa làm khí giới, người người liều chết với giặc; với đất đai hơn 22 tỉnh, dân cư hơn 400 triệu, không khó dẹp sự hung dữ của các ngươi, để biểu dương uy thế quốc gia." Thư tuyên chiến trình bày sự thực, lời văn bi tráng, có được phần nào sự đồng tình ủng hộ của nhân dân. Tiếc rằng việc tuyên chiến của Từ Hy không xét kỹ đến thời thế, làm liều một mất một còn, tuyên chiến cùng lúc với nhiều nước nên thế thua đã rõ. Sau khi tuyên chiến, hàng loạt địa phương diễn ra việc người dân truy sát giáo dân, giáo sĩ vì cho đó là tay sai của quân Tây dương. Thống kê cả nước số giáo sĩ bị giết khoảng 250 người, phần lớn người nước Anh, tiếp đến các nước Mỹ, Pháp, Hà Lan, số giáo dân nhà bị phá, người bị giết có đến hàng vạn. Tại Thiên Tân, ngày 17/6, pháo đài Đại Cô mất, quân Thanh và Nghĩa Hoà đoàn vây đánh tô giới Thiên Tân. Lực lượng liên quân tại Đại Cô, trước hết giải vây tô giới Thiên Tân, chiếm cục cơ khí, rồi tấn công thành Thiên Tân. Vũ Vệ quân chống cự trong 9 ngày, Niếp Sĩ Thành tử trận; Mã Ngọc Côn đánh tô giới cũng thua; Thiên Tân đến ngày 14/7 bị địch vây hãm. Ở Thiên Tân, các chiến sỹ Nghĩa Hoà Đoàn và quân xâm lược chiến đấu quyết liệt, một bộ phận quân Thanh do ảnh hưởng của Nghĩa Hoà Đoàn cũng tham gia chiến đấu bảo vệ Thiên Tân. Cuối cùng, Thiên Tân thất thủ nhưng Nghĩa Hoà Đoàn cũng đã tiêu diệt được hơn 1.000 quân địch, giáng cho chúng một đòn nặng. Liên quân càng hung tàn, tử thi chồng chất, phòng ốc bị phá huỷ 8-9 phần 10. Sau đó các nước phân chia khu vực chiếm lãnh, càn quét không dừng, số đông phụ nữ bị ô nhục. Ngày 30 tháng 7, tạm thi hành "Quản lý trong ngoài quận thành địa phương sự vụ nha môn" thì việc sống chết, cướp đoạt tự ý thi hành. Sau khi Thiên Tân thất thủ, ngày 4/8, liên quân 8 nước hành quân đánh chiếm Bắc Kinh, cánh bên trái gồm 8.000 quân Nhật, 3.000 quân Anh, 2.000 quân Mỹ; cánh bên phải 4.000 quân Nga, 800 quân Pháp; quân Áo, Ý khoảng mấy chục người, tổng cộng 18.000 người. Quân Đức không giữ được vị trí trọng yếu, tạm không tham gia. Ngày mồng 5, liên quân chiếm Bắc Thương [Thiên Tân], đánh bại quân Tống Khánh, Mã Ngọc Côn. Ngày mồng 6, chiếm Dương Thôn (Thiên Tân), Tổng đốc Dụ Lộc tự tử. Ngày 9-10 chiếm trấn Hà Tây Vụ [Thiên Tân], Vũ vệ quân Bang biện Lý Bỉnh Hoành tự vẫn. Ngày 14/8, liên quân trên đường tiến vào Bắc Kinh, giải vây cho Sứ quán, tính thời gian bị vây tổng cộng 55 ngày. Vào năm 1860, quân Tây dương vào chiếm Bắc Kinh trong 18 ngày, mối tai hại chưa quá lớn. Lần này quân số đông, thời gian đến 13 tuần, việc cướp đoạt, báo thù, giết chóc có hệ thống. Ngày 23/8 quân Đức bắt đầu đến nơi, sau đó hơn một tháng viên Tư lệnh Đức Von Waldersee (Ngoã Đức Tây) đến, cư trú trong Tử Cấm thành, hành vi rất tàn ác. Quân Đức khoảng 20.000, quân Nhật 22.000; Nga, Anh quân mỗi nước 20.000; quân Pháp 15.000, quân Mỹ 7.000, Ý 2.000, Tỷ Lợi Thì 600, quân Áo 140; tổng cộng hơn 100.000. Nghĩa Hoà đoàn và quân Thanh tan vỡ, những người dân buôn chết không biết bao nhiêu. "Trên đường thi thể khắp nơi, nhiều quân Thanh đốt lửa tự thiêu, hoặc đóng cửa tự tử; đại ước trong cấm thành, một trăm nhà thì còn lại không đến mươi nhà", đó là lời kể của người Trung Hoa. Riêng người Nhật miêu tả như sau "Phố xá huỷ hoại khoảng 2 hoặc 3/10, phụ nữ bị người ta làm nhục, liên quân đốc suất quân sĩ càn quét cướp phá. Vàng, bạc, châu ngọc thì không cần phải nói; ngoài ra sách, tranh vẽ, y phục, xe, ngựa, những vật bán ra tiền đều bị dân, hoặc quân lính lấy. Các nơi trong thành thấy thây đàn ông mặc triều phục, thi thể phụ nữ mặc quần hồng, y phục trong nội cung". Người Tây phương cũng chép tương tự; những bảo vật tại Di Hoà viên bị liên quân cướp đoạt, chuyển vận không ngừng cả tháng đến Thiên Tân. Quân Nhật thì đã lấy mất số tiền 300 vạn lượng lưu tại bộ Hộ. Chỉ một thời gian ngắn, nhà Thanh đã để mất Bắc Kinh, Từ Hy cùng với Hoàng đế Quang Tự chạy trốn tới Tây An. Bà khóc nói với viên Tri huyện Ngô Vĩnh về hoàn cảnh trải qua, viên này ghi lại một cách sinh động qua quyển sách "Canh Tý tây thú túng đàm" như sau: "Suốt ngày đi đến mấy trăm lý… không được ăn uống, đã lạnh lại đói… tối hôm qua ta và vua ngồi trên chiếc phản, dựa lưng vào nhau, chờ cho đến sáng". Liên quân bất thường hành quân tại Bắc Kinh và Thiên Tân. Tướng Von Waldersee và 2 vạn quân Đức tích cực ra tay; sau tháng 10 hợp với quân Anh, Pháp, Ý tiến công Bảo Định tại phía tây nam Bắc Kinh, giết viên Án sát Đình Ung; phía nam và trung tỉnh Trực Lệ cũng chịu cảnh dày xéo. Một cánh quân hướng tây bắc, chiếm Trương Gia Khẩu (Hà Bắc); một cánh quân theo hướng đông nam, tiến tới biên giới tỉnh Sơn Đông; lại còn đạo quân Pháp đánh Sơn Tây, uy hiếp Tây An. Từ tháng 12/1900 cho đến tháng 4/1901, liên quân xuất quân 46 lần, trong đó 35 lần do quân Đức đơn độc hành động. Giáo dân người Trung Quốc kết thành đội, cướp phá bốn phương, xưng là "Phụng mệnh phục cừu", đây là lệnh của các giáo sĩ Công giáo nhằm trợ giúp cho quân ngoại xâm. Để đòi bồi thường chiến phí, Liên quân đưa ra một danh sách những yêu cầu đối với chính phủ nhà Thanh, gồm cả một danh sách những người phải bị hành quyết khiến cho Lý Hồng Chương, thuyết khách số một của Từ Hi, buộc phải đi đàm phán và Liên quân đã có một số nhượng bộ đối với các yêu cầu của họ. Hòa ước 7 tháng 9 năm 1901 buộc nhà Thanh phải xử tử các quan lại ủng hộ Nghĩa Hòa đoàn, cung cấp cho binh lính ngoại quốc đóng tại Bắc Kinh, bồi thường chiến phí 67 triệu bảng Anh (tương đương với 450 triệu lạng bạc), tức nhiều hơn tiền thuế của triều đình trong một năm, trả trong 39 năm cho liên minh 8 nước Sự sụp đổ của triều đại Mãn Thanh Quân đội nhà Mãn Thanh vào giữa thế kỷ 19 có phẩm chất tướng lãnh ngày càng xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Trong cuộc chiến chống lại Thái Bình Thiên quốc, nhà Thanh phải chấp nhận để nhiều đội quân kiểu mới ra đời để cứu vãn như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân... Điều này dẫn tới việc vào cuối thế kỷ 19, Nhà Thanh không còn một quân đội quốc gia mà phải tận dụng dân quân và quân đội địa phương, vốn thiếu trung thành với triều đình trung ương. Các sĩ quan trung thành với cấp trên của họ và hình thành những bè phái dựa trên vị trí địa lý. Các đơn vị quân đội tuyển quân ngay tại tỉnh đó. Chính sách này là nhằm giảm sự hiểu nhầm phương ngữ nhưng lại khuyến khích khuynh hướng cát cứ, địa phương hóa. Nhà Thanh đã đi vào vết xe sụp đổ của nhà Hán và nhà Đường trong quá khứ. Tới đầu thế kỷ 20, hàng loạt các vụ náo động dân sự xảy ra và ngày càng phát triển. Từ Hi và Hoàng đế Quang Tự cùng mất năm 1908, để lại một khoảng trống quyền lực và một chính quyền trung ương bất ổn. Phổ Nghi, con trai lớn nhất của Thuần Thân Vương, được chỉ định làm người kế vị khi mới hai tuổi, và Thân Vương trở thành người nhiếp chính. Tiếp theo sự kiện này, Tướng Viên Thế Khải bị gạt khỏi chức vụ của mình. Tới giữa năm 1911 Thuần Thân Vương lập ra "Chính phủ gia đình hoàng gia", một hội đồng cai trị của Chính phủ Hoàng gia hầu như gồm toàn bộ các thành viên thuộc dòng họ Ái Tân Giác La. Việc này khiến các quan lại cao cấp như Trương Chi Động tỏ thái độ bất mãn. Cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương diễn ra vào ngày 10 tháng 10 năm 1911 dẫn đến cuộc Cách mạng Tân Hợi, và tiếp sau đó là sự tuyên bố thành lập một chính phủ trung ương riêng biệt, Trung Hoa Dân Quốc, tại Nam Kinh với Tôn Dật Tiên làm lãnh đạo lâm thời. Nhiều tỉnh bắt đầu "ly khai" khỏi quyền kiểm soát của nhà Thanh. Chứng kiến tình trạng này, Chính phủ Thanh dù không muốn cũng buộc phải đưa Viên Thế Khải trở lại nắm quân đội, kiểm soát Bắc Dương quân của ông, với mục tiêu nhằm tiêu diệt những người cách mạng. Sau khi lên giữ chức Tể tướng (內閣總理大臣 Nội các tổng lý đại thần) và lập ra chính phủ của riêng mình, Viên Thế Khải còn tiến xa nữa khi buộc triều đình phải cách chức nhiếp chính của Thuần Thân Vương. Việc cách chức này sau đó được chính thức hoá thông qua các chỉ thị của Hiếu Định Cảnh hoàng hậu. Khi Thuần Thân Vương đã buộc phải ra đi, Viên Thế Khải và các vị chỉ huy bên trong Bắc dương quân của mình hoàn toàn nắm quyền chính trị của triều đình nhà Thanh. Ông cho rằng không có lý do gì để tiến hành một cuộc chiến tranh gây nhiều tốn phí, đặc biệt khi nói rằng chính phủ nhà Thanh chỉ có một mục tiêu thành lập một nền quân chủ lập hiến. Tương tự như vậy, Chính phủ của Tôn Dật Tiên muốn thực hiện một cuộc cải cách dân chủ, vừa hướng tới lợi ích của nền kinh tế và dân chúng Trung Quốc. Với sự cho phép của Hiếu Định hoàng hậu, Viên Thế Khải bắt đầu đàm phán với Tôn Dật Tiên, người đã cho rằng mục tiêu của mình đã thành công trong việc lập ra một nhà nước cộng hòa và vì thế ông có thể cho phép Viên Thế Khải nhận chức vụ Tổng thống của nền Cộng hoà. Năm 1912, sau nhiều vòng đàm phán, Hiếu Định đưa ra một chiếu chỉ tuyên bố sự thoái vị của vị ấu vương, Phổ Nghi. Nhà Thanh đến đây kết thúc sau 12 triều vua, truyền được 295 năm (trong đó có 267 năm là triều đại chính thống của toàn Trung Hoa). Sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912 đánh dấu sự kết thúc của hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc và sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn kéo dài, không chỉ đối với quốc gia mà ở một số mặt còn đối với cuộc sống của người dân. Tình trạng lạc hậu rõ rệt về chính trị và kinh tế cộng với sự chỉ trích ngày càng tăng về văn hoá Trung Quốc dẫn tới sự ngờ vực về tương lai của họ. Lịch sử hỗn loạn của Trung Quốc từ sau thời nhà Thanh ít nhất cũng có thể được thấu suốt một phần trong nỗ lực nhằm tìm hiểu và khôi phục lại những mặt quan trọng của văn hoá lịch sử Trung Quốc và tích hợp nó với những ý tưởng mang nhiều ảnh hưởng mới đã xuất hiện trong thế kỷ đó. Nhà Thanh là khởi nguồn của nền văn hoá vĩ đại đó, nhưng những sự hổ thẹn họ phải gánh chịu cũng là một bài học cần quan tâm. Chính trị Chính quyền Bộ máy hành chính quan trọng nhất của nhà Thanh là Đại hội đồng, là một cơ quan gồm hoàng đế và các quan lại cao cấp. Nhà Thanh có đặc trưng bởi một hệ thống chỉ định kép, theo đó mỗi vị trí trong chính phủ trung ương đều có một người Hán và một người Mãn Châu cùng quản lý. Ví dụ, ở thời Hoàng đế Càn Long các thành viên của gia đình ông được phân biệt bởi một loại trang phục với biểu tượng hình tròn ở phía sau lưng, trong khi người Hán chỉ được mặc trang phục với một biểu tượng hình vuông; điều này có nghĩa là bất kỳ người lính nào trong cung đều có thể dễ dàng phân biệt các thành viên gia đình hoàng gia mà chỉ cần quan sát từ phía sau. Đối với Mông Cổ, Tây Tạng và Đông Turkestan, giống như các triều đại trước đó, nhà Thanh vẫn giữ quyền kiểm soát đế quốc với việc hoàng đế kiêm vai trò Hãn Mông Cổ, người bảo trợ của Phật giáo Tây Tạng và người bảo vệ cho Hồi giáo. Tuy nhiên, chính sách của nhà Thanh đã thay đổi với việc thành lập tỉnh Tân Cương năm 1884. Để đối phó với các hành động quân sự của Anh và Nga tại Tân Cương và Tây Tạng, nhà Thanh đã phái các đơn vị quân đội tới và họ đã đương đầu khá tốt với quân Anh. Sự từ bỏ địa vị của hoàng đế Thanh đương nhiên dẫn tới tình trạng tranh cãi về địa thế của các lãnh thổ tại Tây Tạng và Mông Cổ. Quan điểm của những người theo chủ nghĩa quốc gia Tây Tạng và Mông Cổ thời ấy cũng như hiện tại cho rằng bởi vì họ đã trung thành với nhà Thanh thì khi nhà Thanh từ bỏ vị thế của mình họ không còn bổn phận gì nữa đối với nước Trung Hoa mới. Lập trường này bị Trung Hoa Dân Quốc và sau này là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bác bỏ dựa trên các yêu sách của họ cho rằng trên thực tế các vùng này từng là các vùng đất thuộc các triều đại Trung Quốc từ trước cả nhà Thanh. Bất kỳ thuộc sắc tộc nào, người Hán, người Mãn Châu, người Mông Cổ hay những nhóm thiểu số khác, tất cả họ đều đã thành lập lên các triều đại với tính chất Hán trung tâm (Sino-centric), và cho rằng lịch sử cũng như tính chính thống của các lãnh thổ này đều là một phần của đế quốc Trung Quốc trong hơn hai ngàn năm qua. Các cường quốc phương Tây chấp nhận lý thuyết sau này, một phần với mục đích tránh tranh cãi với Trung Quốc. Quan liêu Hệ thống hành chính của nhà Thanh dựa trên hệ thống trước đó của nhà Minh. Ở tình trạng phát triển nhất, chính phủ Thanh tập trung quanh Hoàng đế với tư cách là người cầm quyền tối cao chỉ huy sáu bộ, mỗi bộ do hai Thượng thư (尚書, Shángshù) đứng đầu và được hỗ trợ bởi bốn Thị lang (侍郎, Shílāng). Tuy nhiên, không giống như hệ thống của nhà Minh, chính sách căn bản của nhà Thanh quy định rằng việc chỉ định chức vụ được phân chia giữa quý tộc Mãn Châu và quan lại Hán, những người đã vượt qua các kỳ thi tuyển ở mức độ cao nhất của nhà nước. Hầu như trong toàn bộ thời gian tồn tại của nhà Thanh, bộ máy quan lại của Hoàng đế đều có sự hiện diện của Quân Cơ Xứ (軍機處), một cơ quan chuyên trách các vấn đề quân sự và tình báo, nhưng sau này nó lại chịu trách nhiệm giám sát mọi bộ của chính phủ. Các vị quan quản lý Quân Cơ Xứ nắm luôn vai trò Tể tướng, và một vài người trong số họ từng được chỉ định làm người đứng đầu Quân Cơ Thủ Phụ (軍機首輔). Sáu bộ và các lĩnh vực quản lý của họ như sau: Lại bộ (吏部) - Quản lý nhân sự hành chính cho mọi chức vụ dân sự - gồm cả đánh giá, bổ dụng, và thải hồi. Bộ này cũng chịu trách nhiệm lập 'danh sách danh dự'. Hộ bộ (户部) - Dịch nghĩa theo từ Trung Quốc, "hộ" (户- 'hú') có nghĩa là 'gia đình'. Hầu như trong toàn bộ thời cai trị của nhà Thanh, nguồn thu chính của chính phủ có từ thuế do các chủ đất đóng và các khoản phụ khác từ độc quyền nhà nước như các vật dụng gia đình thiết yếu là muối và trà. Vì thế, với ưu thế áp đảo của trồng trọt ở thời nhà Thanh, 'gia đình' là gốc cơ bản của nguồn tài chính quốc gia. Bộ này chịu trách nhiệm thu thuế và quản lý tài chính cho chính phủ. Lễ bộ (禮部) - Bộ này chịu trách nhiệm mọi vấn đề liên quan tới nghi thức lễ tân tại triều đình, gồm cả không chỉ những lễ thờ cúng tổ tiên định kỳ và nhiều vị thánh thần khác của Hoàng đế—với tư cách "Thiên tử" (天子 - con trời), để đảm bảo sự hoạt động trơn tru của đế chế—mà còn chịu trách nhiệm cả vấn đề tiếp đãi các sứ đoàn từ các nước tới nộp cống. Quan niệm Trung Quốc về lễ (礼), theo Khổng Tử dạy, được coi là một phần của giáo dục. Từng có quan niệm rằng một học giả phải "tri thư, đạt lễ" (知書達禮) có nghĩa là phải học rộng và cư xử đúng lễ nghi. Vì thế, một chức năng khác của bộ này là giám sát các hệ thống thi cử dân sự trên toàn quốc để lựa chọn quan lại. Bởi vì dân chủ là một vấn đề chưa từng được biết tới ở thời tiền Cộng hòa tại Trung Quốc, các triết lý Khổng Tử mới coi các cuộc thi cử của nhà nước là con đường để chính thống hóa một chế độ bằng cách cho phép nhân tài tham gia vào chính quyền độc đoán và khép kín trước đó. Binh bộ (兵部) - Không giống thời nhà Minh trước đó, vốn kiểm soát toàn bộ các lĩnh vực quân sự, Binh bộ nhà Thanh có quyền lực rất hạn chế. Đầu tiên các Kỳ binh (quân chủ lực) nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Hoàng đế và các hoàng tử người Mãn Châu và Mông Cổ, khiến cho bộ này chỉ có quyền lực đối với các lộ quân địa phương. Hơn nữa, các chức năng của bộ hầu như chỉ đơn thuần là hành chính - các chiến dịch và các đợt diễn tập quân sự được chỉ huy và giám sát bởi Hoàng đế, đầu tiên thông qua hội đồng quản lý người Mãn Châu và sau này là Quân Cơ Xứ (軍機處). Hình bộ (刑部) - Hình bộ xử lý mọi vấn đề pháp luật, gồm cả giám sát các tòa án và nhà tù. Bộ luật hình sự nhà Thanh khá yếu kém so với các hệ thống luật pháp hiện đại hiện nay, bởi vì nó không có sự phân biệt giữa các nhánh hành pháp và lập pháp trong chính phủ. Hệ thống pháp luật có thể mâu thuẫn, và khá nhiều khi tỏ ra độc đoán, bởi vì Hoàng đế cai trị bằng nghị định và là người đưa ra phán quyết cuối cùng đối với mọi vấn đề luật pháp. Các hoàng đế có thể (và đã) đảo ngược các phán quyết của các tòa án cấp dưới tùy theo từng lúc. Sự công bằng trong đối xử cũng là một vấn đề dưới hệ thống phân biệt chủng tộc do chính phủ Mãn Châu áp dụng đối với cộng đồng đa số người Hán. Để giảm bớt các vấn đề không thỏa đáng đó và giữ cho dân chúng sống yên ổn, nhà Thanh áp dụng một hệ thống luật hình sự rất khắc nghiệt đối với người Hán, nhưng không tới mức nghiêm khắc quá đáng như ở các triều đại trước đó. Công bộ (工部) - Công bộ xử lý mọi dự án xây cất của triều đình gồm các cung điện, đền đài và sửa chữa các đường thủy cũng như các kênh tiêu lũ. Họ cũng chịu trách nhiệm đúc tiền. Ngoài sáu bộ kể trên, có một Lý Phiên Viện (理藩院, Lǐfànyuán) và đây là cơ quan chỉ riêng có ở nhà Thanh. Cơ quan này ban đầu chịu trách nhiệm điều hành quan hệ với các đồng minh Mông Cổ. Khi đế chế mở rộng thêm, nó nhận thêm các công việc hành chính đối với tất cả các nhóm thiểu số sống trong và ngoài đế chế, gồm cả những tiếp xúc đầu tiên với Nga - khi ấy còn được coi là một quốc gia triều công. Cơ quan này hoạt động như một bộ thực sự và vị quan đứng đầu cũng có mức hàm tương đương. Tuy nhiên, ban đầu những ứng cử viên lãnh đạo nó chỉ là người thuộc dân tộc Mãn Châu và Mông Cổ. Dù Lễ bộ và Lý Phiên Viện có một số trách nhiệm chung trong ngoại giao, chúng vẫn không được sáp nhập vào nhau. Điều này xuất phát từ quan điểm truyền thống của đế quốc coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới và mọi người nước ngoài đều là những kẻ mọi rợ chưa khai hóa không xứng đáng có tư cách ngoại giao tương đương với họ. Chỉ tới năm 1861—một năm sau khi thua trận trong "Chiến tranh nha phiến lần thứ hai" trước liên minh Anh-Pháp—chính phủ nhà Thanh mới lùi bước trước sức ép của nước ngoài và lập ra một bộ ngoại giao thực sự được gọi theo một cái tên dài lê thê là "Tổng lý các quốc sự vụ nha môn" (總理各國事務衙門), hay nói gọn là "Tổng lý nha môn" (總理衙門)). Ban đầu cơ quan này được dự định tạm thời sử dụng các viên chức thuyên chuyển từ Quân Cơ Xứ (軍機處) theo kiểu làm việc bán thời gian. Tuy nhiên, khi việc giải quyết vấn đề với những người nước ngoài ngày càng phức tạp và thường xuyên, cơ quan ngày càng mở rộng và trở nên quan trọng, và càng có ưu thế khi được sử dụng tiền thu từ thuế hải quan. Dù triều đình nghi ngờ về mọi thứ liên quan tới nước ngoài, văn phòng này đã trở thành một trong những bộ có nhiều quyền lực nhất bên trong chính phủ nhà Thanh. Quân sự Những sự khởi đầu và sự phát triển đầu tiên Sự phát triển của hệ thống quân đội nhà Thanh có thể được chia ra làm hai giai đoạn rõ rệt trước và sau cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc (1850 - 64). Ban đầu quân đội nhà Thanh dựa theo hình thức Bát Kỳ Mãn Châu do Nỗ Nhĩ Cáp Xích phát triển thành một cách thức tổ chức xã hội Mãn Châu căn cứ trên tổ chức các nhóm bộ tộc. Tổng cộng có tám nhóm bộ tộc được gọi là Kỳ (cờ), mỗi kỳ có một màu chủ đạo riêng biệt. Thứ tự ưu tiên của các kỳ như sau: Chính Hoàng (Vàng), Tương Hoàng (Vàng có viền, ví dụ Vàng viền đỏ), Chính Bạch (Trắng), Chính Hồng (Đỏ), Tương Bạch (Trắng viền), Tương Hồng (Đỏ viền), Chính Lam (Xanh) và Tương Lam (Xanh viền). Chính Hoàng kỳ, Tương Hoàng Kỳ và Chính Bạch kỳ thường được gọi là "Thượng Tam Kỳ" (上三旗) và nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng đế. Chỉ những người Mãn Châu thuộc Thượng Tam Kỳ mới được đích thân Hoàng đế lựa chọn vào đội bảo vệ riêng của mình. Những kỳ còn lại được gọi là 'Hạ Ngũ Kỳ' (下五旗) và được chỉ huy bởi các hoàng tử người Mãn Châu trực hệ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích theo chế độ cha truyền con nối, và thường được gọi theo nghi thức là 'Thiết mạo tử vương' (鐵帽子王 - Các hoàng tử mũ sắt) hay các 'Hòa Thạc' (和硕). Họ cùng nhau tạo thành một hội đồng quản lý quốc gia Mãn Châu cũng như bộ tư lệnh quân đội có tên gọi là Hòa Thạc Bội Cần. Năm 1730 Hoàng đế Ung Chính thành lập Quân Cơ Xứ (軍機處, Junjichu) ban đầu để chỉ huy trực tiếp các hoạt động hàng ngày của quân đội nhưng dần dần Quân Cơ Xứ lãnh một số trách nhiệm hành chính và quân sự khác của quân đội và chịu trách nhiệm tập trung hóa quyền lực vào triều đình. Tuy nhiên, các Hòa thạc vẫn tiếp tục đóng vai trò có ảnh hưởng to lớn trong các hoạt động chính trị và quân sự của triều đình nhà Thanh cũng như công việc cai trị của Hoàng đế Càn Long. Khi quyền lực nhà Thanh mở rộng về phía bắc Vạn lý trường thành trong những năm cuối triều nhà Minh, hệ thống các Kỳ được con trai và là người thừa kế của Nurhachi là Hoàng Thái Cực phát triển thêm các kỳ Mông Cổ và các kỳ Hán. Khi họ kiểm soát được những vùng lãnh thổ cũ của nhà Minh, các Kỳ đội có quy mô khá nhỏ đó được tăng cường bởi Lục doanh quân (綠營兵 lục doanh binh) vốn có quân số lớn gấp ba các Kỳ. Lục doanh quân là các đội quân người Hán. Các đội quân này được điều khiển bởi một Ban chỉ huy gồm cả các đô thống Lục doanh quân và Kỳ binh. Các Kỳ và Lục doanh là quân thường trực, được chính phủ trả lương. Ngoài ra, các quan lại địa phương từ mức tỉnh trở xuống tới mức xã vẫn giữ một lực lượng dân quân không chính quy làm các nhiệm vụ cảnh sát và cứu nạn. Các đội dân quân đó thường nhận được một khoản lương nhỏ hàng năm lấy từ kho bạc địa phương cho hoạt động của mình. Họ ít khi được huấn luyện quân sự và nếu có được huấn luyện thì cũng không được coi là đội quân chiến đấu. Tới cuối đời Minh, lực lượng của nhà Thanh vào khoảng 120.000 binh sĩ (278 ngưu lục), cộng thêm 24.000 (120 ngưu lục) binh sĩ Mông Cổ và 33.000 (165 ngưu lục) binh sĩ người Hán. Trước khi chiếm được trung nguyên, quân Mãn Châu đã khai thác tối đa sức mạnh kỵ binh vì họ quen thuộc với việc cưỡi ngựa bắn cung, trong khi người Hán chỉ cố gắng phát huy phương pháp giữ thành bằng tường cao hào sâu, dùng thần công có thể bắn xa để cố thủ. Thế nhưng kể từ năm 1629, khi người Mãn Châu chiếm được một số thành phố thì tình hình bắt đầu chuyển biến. Một trong bốn thị trấn họ mới chiếm được là Vĩnh Bình (永平) là nơi có một đội thợ quen với phương pháp đúc súng của người Bồ Đào Nha, chỉ hai năm sau họ đã đúc được khoảng 40 khẩu thần công theo mẫu của người Âu châu cộng thêm một số pháo thủ do họ huấn luyện. Quân Thanh đem vũ khí mới thử nghiệm tại Đại Lăng Hà (大凌河) là một địa điểm quan trọng nối liền biên cảnh với đại quân nhà Minh đóng ở phía nam trường thành. Quân Thanh do Hoàng Thái Cực (皇太極) chỉ huy đã chiếm được Đại Lăng Hà, lấy được vô số khí giới. Mười năm sau, khi chiếm được Tùng San (松山) và Cẩm Châu (錦州), quân Thanh lại thu được 2.000 khẩu pháo lớn nhỏ nhưng quan trọng hơn nữa họ đã dụ hàng được hai danh tướng nhà Minh là Hồng Thừa Trù (洪承疇) và Tổ Đại Thọ (祖大壽). Tổ Đại Thọ lại chính là cậu của tổng binh Ngô Tam Quế, người cầm đại quân trấn thủ Sơn Hải Quan, cửa ải huyết mạch giữa Trung Hoa và Mãn Châu. Hòa bình và trì trệ Các Kỳ đội được phân chia theo dòng dõi dân tộc, có nghĩa theo người Mãn Châu và người Mông Cổ. Dù vẫn có một nhánh thứ ba gồm những kỳ binh người Hán từng theo người Mãn Châu trước khi nhà Thanh được thành lập, những kỳ binh Hán không bao giờ được chính phủ đối xử bình đẳng so với hai nhánh kia vì việc họ gia nhập muộn hơn và vì dòng giống Hán Trung Quốc của họ. Chuyên môn quân sự của họ - chủ yếu trong bộ binh, pháo binh và công binh, cũng bị coi là xa lạ so với truyền thống sử dụng kị binh của những người du mục Mãn Châu. Sau khi hoàn thành công cuộc chinh phục, các vai trò quân sự của kỳ binh Hán nhanh chóng bị Lục doanh quân thâu tóm. Các Kỳ binh Hán hoàn toàn chấm dứt tồn tại sau khi Hoàng đế Ung Chính cải cách lại các Kỳ nhằm mục tiêu giảm chi phí triều đình. Các nguồn gốc quân sự-xã hội của hệ thống Kỳ binh có nghĩa là dân cư bên trong mỗi nhánh của hệ thống Kỳ binh cùng như các nhánh phụ của nó tuân theo hệ thống cha truyền con nối và cứng nhắc. Chỉ trong những hoàn cảnh đặc biệt được sự đồng ý theo nghị định triều đình việc di chuyển xã hội giữa các kỳ mới được thực hiện. Trái lại Lục doanh quân ban đầu được dự định xây dựng trở thành một lực lượng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trong những giai đoạn hòa bình lâu dài ở Trung Quốc từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, việc tuyển dụng lính từ các cộng đồng nông nghiệp đã giảm sút, một phần vì lập trường chống đối của tầng lớp trí thức Khổng giáo mới với nghề binh. Nhằm giữ vững sức mạnh, Lục quân bắt đầu biến đổi, dần trở thành một chế độ kiểu cha truyền con nối. Lực lượng Kỳ binh đông đảo tới gần 200.000 ngàn quân của người Mãn Châu được chia thành; một nửa được chỉ định vào Cấm Lữ Bát Kỳ (禁旅八旗, Jìnlǚ Bāqí) đóng quân tại Bắc Kinh. Họ vừa đóng vai trò đội quân đồn trú của chính phủ nhà Thanh vừa là lực lượng chiến đấu. Số còn lại được chia vào nhiệm vụ canh gác các thành phố quan trọng ở Trung Quốc. Họ được gọi là Trú Phòng Bát Kỳ (駐防八旗, Zhùfáng Bāqí). Tầng lớp cai trị Mãn Châu, nhận thức rõ số lượng nhỏ nhoi của mình so với người Hán, đã áp dụng một chính sách nghiêm ngặt về phân biệt nguồn gốc giữa người Mãn Châu và Mông Cổ với người Hán vì sợ rằng sẽ bị người Hán đồng hoá. Chính sách này được áp dụng trực tiếp tới các đội quân Kỳ đồn trú, đa số họ chiếm giữ một vùng có tường bao kín xung quanh bên trong các thành phố đồn trú của họ. Bên trong các thị trấn chật hẹp như Thanh Châu (青州), một thị trấn pháo đài mới được xây dựng làm nơi sinh sống cho quân Kỳ đồn trú và gia đình họ. Bắc Kinh là thủ đô của đế chế, Nhiếp chính Dorgon (Đa Nhĩ Cổn) buộc toàn bộ dân Trung Quốc phải dời đi sống tại các khu ngoại thành phía nam sau này được gọi là "Ngoại Thành" (外城, wàichéng). Thành phố có tường bao ở phía bắc được gọi là "Nội thành" (内城, nèichéng) được phân chia cho Bát Kỳ Mãn Châu còn lại, mỗi Kỳ chịu trách nhiệm canh gác khu của mình bên trong Nội Thành bao quanh khu dinh thự Tử Cấm Thành (紫禁城, Zǐjìnchéng). Chính sách bố trí quân đội các Kỳ làm quân đồn trú tại các địa phương không phải để bảo vệ mà là để ngăn chặn sự lo ngại của người Mãn Châu thông qua việc nô dịch hóa dân chúng bằng lợi thế kỵ binh của họ. Vì thế, sau một thế kỷ hòa bình và hiếm khi được huấn luyện trên chiến trường, các Kỳ binh Mãn Châu dần đánh mất khả năng chiến đấu. Thứ hai, trước cuộc chinh phục, các Kỳ binh Mãn Châu là một 'công dân' quân đội, và các thành viên của nó là các nông dân và người chăn thả gia súc Mãn Châu bị buộc phải đi lính cho đất nước trong thời gian chiến tranh. Quyết định của nhà Thanh buộc các Kỳ binh phải trở thành một lực lượng chuyên nghiệp khiến cho nhà nước phải chu cấp cho mọi nhu cầu của họ, và với sự tham nhũng xảy ra từ binh lính cho đến sĩ quan khiến họ càng nhanh chóng biến chất không còn đáp ứng được yêu cầu của một đội quân chiến đấu. Điều tương tự cũng xảy ra trong Lục doanh quân. Ở thời bình, việc đi lính chỉ đơn giản là để kiếm thêm một khoản thu nhập. Các binh sĩ và chỉ huy đều không quan tâm tới việc huấn luyện mà chỉ chăm chú vào việc kiếm tiền. Tham nhũng tăng lên khi chỉ huy các đơn vị địa phương đề xuất tài chính và trang bị dựa trên các con số đã được thổi phồng lên để bỏ túi phần chênh lệch. Khi khởi nghĩa Thái bình thiên quốc nổ ra trong thập kỷ 1850, triều đình nhà Thanh mới muộn màng nhận ra rằng Kỳ binh và Lục doanh quân không thể giúp họ dẹp tan nội loạn cũng như bảo vệ đất nước khỏi quân xâm lược. Chuyển biến và hiện đại hoá Sự thất bại của Trung Hoa trong những cuộc chiến tranh với nước ngoài đã làm cho sĩ phu thức tỉnh. Cũng như nhiều quốc gia Á Đông thời kỳ đó, nhiều nho sĩ Trung Hoa đã yêu cầu Thanh đình cải cách về quân sự, chính trị cũng như xã hội. Hai người đi đầu trong việc hoạch định một chính sách mới là Ngụy Nguyên và Phùng Quế Phương. Ngụy Nguyên đưa ra những biện pháp nhan đề Trù Hải Thiên (Kế Hoạch Phòng Thủ Duyên Hải) năm 1842 đại lược như sau: Cải cách quân đội bằng cách học hỏi cách chế tạo vũ khí, đóng tàu của người phương Tây. Ngoài ra phải đãi ngộ xứng đáng, trả lương hậu hĩ để có được những binh sĩ ưu tú Tập trung phòng thủ trên đất liền và dụ địch vào trong các thủy đạo để tiêu diệt tại một khu vực đã sắp xếp trước Liên minh với nhiều nước để họ kiềm chế lẫn nhau và mượn tay kẻ thù này tiêu diệt kẻ thù kia Mở cửa cho người ngoại quốc vào buôn bán Phùng Quế Phương là học trò của Lâm Tắc Từ. Lúc ở Thượng Hải đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa tư bản. Năm 1861 ông đã viết quyển sách "Hiệu lư bân" kháng nghị chủ trương học tập khoa học tự nhiên và kỹ thuật sản xuất của các nước tư bản như thiên văn, lịch pháp, công cụ sản xuất va các mặt tri thức khác, mong muốn thông qua biện pháp cải lương chính trị để đưa Trung Quốc tiến lên con đường tư bản. Ông đi sâu hơn vào những cải cách chính trị và xã hội trong đó ông nhấn mạnh: Học hỏi và tự chế tạo những vũ khí cần thiết, thúc đẩy người học về kỹ thuật để thoát ra khỏi những đe dọa của nước ngoài. Cải cách giáo dục để đào tạo nhân tài bao gồm nhiều lãnh vực kỹ thuật và khoa học khác đồng thời biến cải kỹ nghệ quốc phòng Cải cách cách huấn luyện binh sĩ, đào tạo những lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ hơn là duy trì một đội quân khổng lồ nhưng kém cỏi Áp dụng lý thuyết Thể Dụng, duy trì tinh thần Khổng Mạnh nhưng áp dụng kỹ thuật mới. Trịnh Quan Ứng, một thương nhân nổi tiếng: chủ trương khai thác mỏ quặng, xây dựng đường sắt, xuất bản báo chí, lập trường học, yêu cầu thành lập nghị viện và xây dựng chế độ quân chủ lập hiến. Những quan điểm mới đó sau này được phát động để trở thành một phong trào dưới cái tên Dương Vụ Vận Động. Tuy nhiên những vận động có tính chất "lửa rơm" đó không đi đến đâu vì chỉ do nhiệt huyết sĩ phu mà không phải là những chương trình được nghiên cứu chu đáo và áp dụng một cách quy củ. Những cải cách quân sự vẫn chỉ hời hợt bề ngoài nên không thành công. Về sau, để đối phó với những tổ chức nổi dậy, nhiều đơn vị quân sự địa phương được thành lập và ít nhiều mang lại những sinh khí mới như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, gia tăng lưu động tính, nhấn mạnh vào đức tính của quân sĩ, Hoài quân của Lý Hồng Chương, sử dụng vũ khí phương Tây, Sở quân của Tả Tông Đường nhấn mạnh vào vai trò hệ thống tiếp liệu. Cải cách trong quân đội Đầu cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc, các lực lượng nhà Thanh chịu một loạt các thất bại nặng nề dẫn tới việc mất thủ đô hành chính địa phương tại Nam Kinh (南京) 1853. Quân khởi nghĩa giết toàn bộ quân đồn trú Mãn Thanh và gia đình họ sống tại thành phố và biến nó làm thủ đô của họ. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, lực lượng viễn chinh của Thái bình thiên quốc xâm nhập về phía bắc tới tận các vùng ngoại ô Thiên Tân (天津), nơi được coi là vùng trung tâm của đế quốc. Trong tình trạng tuyệt vọng, triều đình lệnh cho một vị quan Trung Quốc là Tăng Quốc Phiên (曾國藩) tổ chức lại lực lượng dân quân tại các vùng và các địa phương (Đoàn Dũng, 團勇 và Hương Dũng, 鄉勇) thành một lực lượng thường trực để chống lại quân Thái Bình. Chiến lược của Tăng Quốc Phiên dựa trên giới quý tộc địa phương để xây dựng lên một tổ chức quân sự mới từ các tỉnh đang bị quân Thái Bình đe dọa trực tiếp. Lực lượng mới này được gọi là Sương quân (湘軍), được đặt tên theo vùng đất nơi họ được thành lập. Sương quân là một hỗn hợp giữa dân quân địa phương và quân đội thường trực. Họ được huấn luyện chuyên nghiệp, nhưng lĩnh lương từ ngân khố địa phương. Sương quân và lực lượng sau này là Hoài quân (淮軍) được các vị quan đồng triều với Tăng Quốc Phiên cùng người 'học trò' là Lý Hồng Chương thành lập (hai quân này thường được gọi chung là Dũng Doanh (勇營). Trước khi thành lập và chỉ huy Hoài quân, Tăng Quốc Phiên chưa từng có kinh nghiệp quân sự. Là một vị quan được giáo dục theo kiểu cổ điển, kế hoạch thành lập Hoài quân của ông được thực hiện theo kinh nghiệm lịch sử - tướng nhà Minh là Thích Kế Quang (戚繼光) vì thấy sự yếu kém của quân đội triều đình đã quyết định thành lập đội quân 'riêng' của mình nhằm chống lại quân cướp biển Nhật Bản ở giữa thế kỷ 16. Học thuyết của Thích Kế Quang dựa nhiều vào các tư tưởng Tân Khổng giáo ràng buộc tính trung thành của quân đội với cấp chỉ huy trực tiếp và vào vùng đất nơi họ được thành lập. Việc này đầu tiên tạo cho quân đội một số tinh thần đoàn kết. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra rằng quân đội của Thích Kế Quang là một giải pháp tình thế cho một vấn đề cụ thể - chiến đấu chống lại cướp biển, cũng như Tăng Quốc Phiên dự định thành lập Hoài quân để chống quân khởi nghĩa Thái Bình. Tuy nhiên theo hoàn cảnh, hệ thống Dũng binh trở thành một cơ cấu thường trực bên trong quân đội nhà Thanh và cùng với thời gian nó lại gây ra những vấn đề cho chính phủ trung ương. Đầu tiên hệ thống Dũng binh báo hiệu sự kết thúc ưu thế của người Mãn Châu bên trong thể chế quân đội nhà Thanh. Dù các Kỳ và Lục doanh quân làm lãng phí các nguồn tài nguyên cần thiết cho bộ máy hành chính của nhà Thanh, từ đó các cơ cấu Dũng binh trên thực tế đã trở thành lực lượng số một của chính phủ Thanh. Thứ hai, các đơn vị Dũng binh được tài trợ từ nguồn tài chính của các tỉnh và tuân theo sự chỉ huy của các tướng lĩnh địa phương. Sự thay đổi này khiến cho quyền lực của chính phủ trung ương có phần giảm sút. Nghiêm trọng hơn cả là khi các Cường Quốc Châu Âu bắt đầu xâm nhập vào Trung Quốc. Tuy nhiên, dù có những ảnh hưởng tiêu cực các biện pháp này tỏ ra rất cẩn thiết ở thời điểm nguồn thu từ các tỉnh đã bị quân khởi nghĩa chiếm không còn tới được ngân khố triều đình. Cuối cùng, cơ cấu chỉ huy của Dũng binh tạo thuận lợi cho các chỉ huy quân sự của nó có cơ hội phát triển quan hệ với nhau vì khi được thăng chức và dần dần triều đình nhà Thanh đã có một chút nhượng bộ họ. Tới cuối những năm 1850 Trung Quốc đã bắt đầu suy sụp. Thậm chí các nhân tố bảo thủ nhất bên trong triều đình nhà Thanh cũng không thể không nhận thấy sự yếu kém quân sự của triều đình đối lập với sự hùng mạnh của quân đội "rợ" nước ngoài đang dần áp chế họ - Năm 1860 trong cuộc Chiến tranh nha phiến lần thứ hai thủ đô Bắc Kinh bị chiếm và Cung điện mùa hè (Cũ) bị một liên minh nhỏ của Anh Pháp với số lượng chừng 25.000 quân cướp phá. Dù Trung Quốc tự kiêu hãnh rằng chính họ là người phát minh ra thuốc súng, và súng ống từng được sử dụng trong chiến tranh ở Trung Quốc từ thời nhà Tống, sự xuất hiện của các loại vũ khí hiện đại từ cuộc Cách mạng công nghiệp ở châu Âu như súng có rãnh xoắn (1855), súng máy (1885), và các tàu chiến chạy bằng hơi nước (những năm 1890) khiến quân đội, hải quân Trung Quốc được huấn luyện kiểu cổ điển và trang bị các loại vũ khí thô sơ mất ưu thế hoàn toàn. Nhiều lời kêu gọi 'Tây phương hoá' và hiện đại hóa các loại vũ khí hiện dùng trong quân đội - đa phần từ phía Hoài quân mang lại rất ít kết quả. Một phần bởi vì họ thiếu vốn, nhưng chủ yếu bởi vì thế lực chính trị trong triều đình nhà Thanh không muốn thực hiện điều đó thông qua các biện pháp cải cách. Kinh tế Quan đốc thương biện Nhờ những hoạt động đó, Trung Quốc bước đầu có những cơ sở công nghiệp hiện đại. Sau đó xuất hiện nhiều xí nghiệp do nhà nước quản lý, tư nhân điều hành, nhà nước và tư nhân cùng làm gọi là quan đốc thương biện. Những thương nhân người Quảng Đông như Đường Đình Canh, Từ Nhuận, Trịnh Quan Ứng, đều hoạt động mãi biện cho các công ty nước ngoài như Dent & Co., Jardin Matheson nên tích lũy được tiền bạc trước khi tham gia kinh doanh riêng. Tài sản của Từ Nhuận đạt đến 1800 vạn lạng bạc vào năm 1883 trong đó 65% tài sản là thuộc về bất động sản tại Thượng Hải, được mệnh danh là "vua địa ốc". Trước năm 1870 hoạt động vận tải hàng hải tại Trung Quốc bị chi phối bởi công ty Russel & Co của Mỹ. Nhận thấy vấn đề đó đạo đài Thượng Hải là Đinh Nhữ Xương (về sau là Giám đốc Giang Nam công xưởng, đô đốc hạm đội hải quân Bắc Dương) cùng với Lý Hồng Chương bàn tính giành lại quyền tự chủ trong hoạt động hàng hải. Năm 1863 Đinh Nhữ Xương dự định thành lập công ty hàng hải dùng tàu thuyền Trung Quốc và được hưởng mức thuế thấp, chủ trương khuyến khích thương nhân bỏ vốn và đóng các tàu hơi nước. Sau khi vượt qua trở ngại về tài chính năm 1872, Lý Hồng Chương và Thịnh Tuyên Hoài cùng xây dựng Cục Kinh doanh Tàu biển (Luân thuyền chiêu thương cục) tại Thượng Hải có tính chất dân dụng do thương nhân Đường Đình Thục, Từ Nhuận, Trịnh Quan Ứng góp vốn và tham gia quản lý thực hiện chở lương thực từ Giang Nam đến Thiên Tân, đặt nền móng cho ngành vận tải hàng hải của Trung Quốc. Lúc đầu Chiêu Thương cục có 3 chiếc tàu với lượng vốn 20 vạn lạng bạc, sau 4 năm hoạt động tăng lên 33 chiếc, tổng lượng hàng vận chuyển là 23.967 tấn, lợi nhuận hàng năm đạt 30 vạn lạng bạc. Do lượng vốn ban đầu hạn chế nên trong quá trình kinh doanh những người quản lý kêu gọi vốn góp thêm đạt tới 100 vạn lạng bạc, trong đó Từ Nhuận chiếm tới 50% cổ phần. Năm 1877, Chiêu Thương cục mua lại Công ty tàu thủy Thượng Hải do người Mỹ góp vốn, tiếp nhận 17 chiếc tàu. Khi Đường Đình Thục chuyển đến làm quản lý mỏ than Khai Bình năm 1884, Từ Nhuận lên thay, mua lại Công ty tàu thủy Kỳ xương (Mỹ) có quy mô lớn nhất Đông Á mở rộng phạm vi kinh doanh, độc quyền kinh doanh vận tải vùng Trường Giang. Đường Đình Thục còn quản lý Công ty Hàng hải Liên hợp thành lập năm 1868. Đường Đình Thục liên kết với Trịnh Quan Ứng mở 2 ụ tàu hơi nước ở Phật Sơn và Quảng Châu. Khai bình môi khoáng thành lập năm 1877 tại phía bắc Thiên Tân có sản lượng lên tới 70 vạn tấn/năm do thương nhân Đường Đình Thục quản lý với số vốn 150 vạn lạng bạc, Cục Điện báo Thiên Tân, Cục Điện báo Nam Bắc, Cục Đường sắt Bắc Dương Quan ở Sơn Hải Quan, Tân Du thiết lộ, Công ty Than đá và Sắt Hán Dã Bình Giang Tây thành lập năm 1889 dưới sự kết hợp của mỏ sắt Đại dã và mỏ than Bình Hương, Ngân hàng Công thương Trung Quốc được thành lập năm 1897 tại Thượng Hải, Công ty Xi măng Đường Sơn Khải Tân tại Thiên Tân thành lập năm 1892 đưa Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia đầu tiên ở châu Á sản xuất xi măng. Trước đó ngành bảo hiểm hàng hóa của Trung Quốc do các công ty nước ngoài thực hiện. Để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm, năm 1875 Từ Nhuận đã thành lập Công ty bảo hiểm đầu tiên của Trung Quốc là Công ty Bảo hiểm hàng hải Nhân Hòa với số vốn 50 vạn lạng bạc. Đến năm 1878 lại thành lập thêm Công ty bảo hiểm hàng hải và cháy Ký hòa với số vốn 50 vạn lạng bạc. Đến năm 1886, Từ Nhuận sáp nhập 2 công ty đó thành Công ty Bảo hiểm Nhân Kỳ Hòa, đặt nền móng cho ngành kinh doanh bảo hiểm Trung Quốc. Ngoài ra Từ Nhuận còn góp vốn vào hoạt động khai mỏ. Với 15 vạn lạng bạc chiếm 10% số vốn của mỏ than Khai Bình, Từ Nhuận đảm nhận chức giám đốc, khuyến khích sử dụng nhiều máy móc nhập từ Anh, thuê kỹ sư Anh, dùng công nghệ mới để khai thác than, số nhân công người Quảng Đông đã lên tới 5000 người. Sản lượng của mỏ than Khai Bình nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của thị trường Thiên Tân, cạnh tranh với than nhập khẩu. Mỏ than Khai bình cung cấp nhiên liệu cho hạm đội hải quân Bắc dương và các cơ sở địa phương. Để phục vụ cho việc vận chuyển than, đường sắt Thiên Tân được xây dựng. Các doanh nghiệp phụ trợ cho than đá và xi măng cũng được thành lập trong khu vực. Chi nhánh Quảng Châu của Mỏ than Khai Bình do Trịnh Quan Ứng (1842-1922) làm quản lý. Trịnh Quan Ứng tham gia dịch thuật bộ luật kinh doanh của Anh ban hành tại Hương Cảng năm 1865 sang tiếng Hoa. Năm 1880 Trịnh Quan Ứng mở nhà máy dệt tại Thượng Hải, nhờ Dung Hoằng lúc đó làm Phó lãnh sự tại Mỹ tuyển dụng kỹ sư người Mỹ. Năm 1881 Trịnh Quan Ứng đầu tư 65000 lạng bạc thành lập Công ty Khai hoang Đường Cô Thiên Tân làm tiền đề cho việc sản xuất giấy 10 năm sau. Trịnh Quan Ứng còn tham gia quản lý tuyến đường sắt Quảng Châu – Hán Khẩu và đến năm 1905 thành lập Phòng thương mại Quảng Châu. Về sau Trịnh Quan Ứng tái cơ cấu lại Luân thuyền chiêu thương cục cho phù hợp với luật thương mại. Từ Nhuận còn đầu tư vào mỏ đồng Bình Tuyền, mỏ vàng Hà Long ở Nghi Xương, mỏ bạc Cổ Sơn Tây, mỏ bạc Tam Sơn, mỏ bạc Thiên Hoa (Quảng Đông), mỏ bạc Đàn Châu, mỏ vàng Kiến Bình (Nhiệt Hà), mỏ than Cẩm Châu, mỏ than Quế Trì (An Huy). Bên cạnh các hoạt động doanh thương Từ Nhuận còn đóng góp vào các hoạt động xã hội, thành lập Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc, Đồng văn thư cục, gửi du học sinh sang Mỹ. Nhiều người trong số đó về sau đều có những đóng góp cho sự phát triển của đất nước như nhà chính trị Đường Thiệu Nghi, nhà ngoại giao Lương Như Hạo, nhà kỹ sư Thiên Hựu, Hiệu trưởng trường Đại học Thanh Hoa, Đường Quốc Ân. Trong việc xây dựng và phát triển nền công nghiệp cận đại của Trung Quốc, công lao của Thịnh Tuyên Hoài rất lớn, được xem như người cha của nền công nghiệp cận đại. Ngoài ra còn phải kể đến các thương nhân như Đường Đình Thục, Đường Đình Canh, Từ Nhuận "vua trà Trung Quốc" và "vua địa ốc". Lý Hồng Chương thành lập Cục Điện báo năm 1882 và giao cho trợ thủ là Thịnh Tuyên Hoài quản lý và góp phần lớn số vốn trong Điện báo cục thực hiện xây dựng đường dây điện tín giữa Thiên Tân và Thượng Hải. Tới năm 1901 Điện báo cục đã xây dựng 14000 dặm đường dây điện tín giữa các thành phố, thị trấn. Năm 1876, Bưu điện Đại Thanh được thành lập. Trong thời gian 1872 – 1885 có tới 90% dự án hiện đại hóa sản xuất được thực hiện dưới sự bảo trợ của Lý Hồng Chương. Có tới 75 cơ xưởng sản xuất và 33 mỏ than và khoáng sản được thành lập. Các lĩnh vực công nghiệp ứng dụng phương pháp kỹ thuật mới. Năm 1853 nhà thuốc Lão Đức ở Thượng Hải đã chế được thuốc tây, nhà máy xà phòng Mỹ Tra làm được xà phòng. Năm 1876, nhà máy Đạm thủy Đài Loan bắt đầu dùng máy móc đào than. Năm 1878, dùng phương pháp Tây phương đế khai thác dầu. Năm 1861, người Anh dùng máy kéo tơ. Năm 1889, Cục dệt vải Thượng Hải sử dụng kỹ thuật Tây phương để dệt vải. Năm 1892 Cục dệt vải Hồ Bắc cũng có xưởng dệt quy mô lớn. Năm 1881, kỹ thuật chế tạo giấy bằng máy được du nhập, năm 1890 nhà máy giấy Long Chương được thành lập tại Thượng Hải, năm 1882 kỹ thuật chế tạo da được nhập vào. Năm 1880 tại Thượng Hải bắt đầu sản xuất hộp quẹt, năm 1891 sản xuất thuốc lá cuốn bằng máy. Năm 1864 nhà máy khí than Thượng Hải ra đời, năm 1881 có nhà máy nước, năm 1882 có nhà máy bóng đèn điện. Trước năm 1880, điện báo đã được đưa vào Trung Quốc, năm 1872 đường dây điện tín giữa Hồng Kông và Thượng Hải được khai thông. Ngành in ấn dùng kỹ thuật in của phương Tây. Năm 1872 Nhân dân Nhật báo ở Thượng Hải đã nhập máy in bánh xe. Năm 1873, Cục in ấn được thành lập. Năm 1906 máy in cuốn chạy điện được nhập vào Trung Quốc. Phương pháp in thạch nhập vào năm 1876, kỹ thuật karô nhập vào đầu thời kỳ Quang Tự. Thông thương vụ đại thần Tam Khẩu Sùng Hậu đề nghị phát triển thủy lợi ở miền đông Trực lệ, và tuần phủ Giang Tây Thẩm Bảo Trinh đề nghị thay đổi phương pháp thu thuế đất ở Giang Tây, đều nhằm giảm gánh nặng cho dân. Mặc dầu còn có nhiều hạn chế nhưng những hoạt động của phái Dương Vụ trên thực tế đã kích thích phần nào chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc phát triển. Bên cạnh đó các nước Âu Mỹ cũng cho xây nhiều bệnh viện. Năm 1844, Anh xây dựng bệnh viện ở Thượng Hải, sau đó ở Bắc Kinh, Thẩm Dương. Mỹ cũng xây bệnh viện ở Thượng Hải, Sán Đầu. Các tổ chức giáo hội xây dựng khoảng 70 bệnh viện. Lĩnh vực dân sinh Năm 1888 Lý Hồng Chương lập Tổng y viện trực thuộc Hải quân Bắc dương, có Tây y học đường, bệnh viện thực hành, kho thuốc, bổ nhiệm một người Anh làm Y quan. Các tổ chức giáo hội mở trường y ở Trung Quốc có Quảng Châu Hạt Cát Y Học viện năm 1899, Thượng Hải Thần đán Y Học viện năm 1903, Bắc Kinh Hiệp Hòa Y Học viện năm 1906, Tứ Xuyên Thành Đô Hoa Tây Hiệp Hòa Đại học Y Học Viên năm 1910. Năm 1902, Công ty nước sạch Thiên Tân hoạt động, năm 1904 Thiên Tân có Công ty Xe điện của Bỉ hoạt động. Năm 1895, Thịnh Tuyên Hoài thành lập trường Trung Tây học đường ở Thiên Tân. Khoa học và kỹ thuật Phong trào Tây Dương vụ Những người hăng hái thực hiện những biện pháp canh tân đều là các quan lại đã trải qua cuộc nội dậy Thái bình thiên quốc cho rằng muốn chống cự với phương Tây thì phải có tàu bè như họ, súng ống như họ, quân đội phải luyện tập theo lối của họ. Vài người Mãn như Cung Thân Vương Dịch Hân, Quế Lương nghĩ đến việc tự cường, bàn với Văn Tường, Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Tả Tông Đường, Quách Sùng Đào về sau có Tăng Kỷ Trạch, Tăng Quốc Thuyên, Trương Chi Động... hình thành Dương vụ phái. Họ cùng có chung chủ trương "tân chính", kêu gọi "tự cường" bằng cách học tập phương Tây, trong đó khẩu hiệu "Trung học vi thể, Tây học vi dụng" được phái này xem là tư tưởng chỉ đạo Họ đồng ý với nhau rằng "muốn tự cường thì việc luyện binh là quan trọng nhất, mà muốn luyện binh thì trước hết phải chế tạo vũ khí giới". Ngày 13 tháng 1 năm 1861 vua Hàm Phong ra chỉ dụ thừa nhận phong trào Dương Vụ, khuyến khích tự lực tự cường, làm theo phương Tây để tăng cường quyền lực và phát triển kinh doanh. Phong trào Tây dương vụ ra đời, do Cung thân vương Dịch Hân, em vua Hàm Phong giữ chức Nghị chính vương kiêm Quân cơ xứ lĩnh bang đại thần khởi xướng. Phong trào kéo dài từ 1860 – 1895 với mốc khởi đầu là việc thành lập Tổng lý các quốc sự vụ nha môn tháng 1 năm 1861. Năm 1862, họ giao cho Lý Hồng Chương thi hành. Năm 1861, Tổng đốc Lưỡng giang Tăng Quốc Phiên thành lập An khánh quân giới cục tại tỉnh An huy. Năm 1862, Tuần phủ Giang tô Lý Hồng Chương và Tăng Quốc Phiên đồng sáng lập Cục pháo binh và Tổng cục chế tạo cơ khí Giang Nam ở Thượng Hải, Cục làm pháo Tây dương ở Tô châu, Cục cơ khí Kim lăng ở Nam kinh. Năm 1866, Tổng đốc Mân Triết Tả Tông Đường mở Cục thuyền Mã Vĩ ở Phúc Kiến, do Thuyền chính đại thần Thẩm Bảo Trinh làm Giám đốc, đặt nền móng cho hải quân Trung Quốc. Tả Tông Đường là người đã mở xưởng đóng tàu đầu tiên ở Trung Quốc tại Phúc Kiến mang tên Mã Vĩ, và cũng đã thành lập học viện hải quân đầu tiên khi ông làm tổng đốc ở đây. Khi chuyển đến vùng tây bắc giữ chức Tổng đốc Thiểm Cam, Tả Tông Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy kinh tế văn hóa vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên giới, thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng tây bắc như: Lan Châu cơ khí chức ni cục (là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung Quốc dùng máy móc của Đức, thành lập năm 1878), Tổng cục tơ tằm A Khắc Tô, Lan Châu chế tạo cục thành lập năm 1871, Tây An cơ khí cục thành lập năm 1869. Năm 1867 tại Thiên Tân Sùng Hậu Thông thương vụ đại thần Tam khẩu mở 2 cơ khí cục chuyên sản xuất cơ khí quân dụng, sau đó năm 1872 Luân thuyền chiêu thương cục mở chi nhánh tại đây, năm 1877 mỏ than Khai bình được đưa vào khai thác, năm 1888 tuyến đường sắt Thiên Tân - Đường Sơn hoàn thành, năm 1896 Bưu điện Đại Thanh hoạt động tại đây, năm 1903 thành lập Tổng cục Công nghệ Trực lệ. Tả Tông Đường là người đã mở xưởng đóng tàu đầu tiên ở Trung Quốc tại Phúc Kiến mang tên Mã Vĩ, và cũng đã thành lập học viện hải quân đầu tiên khi ông làm tổng đốc ở đây. Tổng cục chế tạo Giang Nam Năm 1865 đạo đài Thượng Hải Đinh Nhữ Xương, cựu tướng lĩnh Hoài quân được bổ nhiệm làm Giám đốc Cục chế tạo cơ khí Giang Nam (về sau được cử làm đô đốc hạm đội hải quân Bắc dương). Lúc đầu kinh phí mua sắm máy móc chỉ có 25 vạn lạng bạc (35 vạn USD) được lấy từ nguồn thu thuế quan tại Thượng Hải. Tổng cục chế tạo cơ khí Giang Nam mua các máy móc của Mỹ gồm lò nấu, máy hơi nước, động cơ, máy đục, máy vặn ốc đủ các loại máy móc để chế tạo súng trường và pháo, thủy lôi, đạn dược, máy móc đóng tàu, là xí nghiệp quân sự lớn nhất do phái Dương vụ thành lập, về quy mô là một trong những công xưởng quân sự lớn nhất châu Á lúc bấy giờ. Đến giữa năm 1867 mỗi ngày công xưởng sản xuất 14 khẩu súng trường và hàng trăm thùng đạn, cung ứng cho mặt trận Thiểm Cam của Tả Tông Đường. Đến năm 1873 mới sản xuất được 4200 khẩu súng trường Remington. Năm 1874 sản xuất được 110 đại bác theo kiểu của cơ xưởng Amstrong (Anh) với các loại cỡ nòng 120 mm, 170 và 200 mm. Về sau Lý Hồng Chương cho áp dụng kỹ thuật của Đức thay cho của Anh, dùng nhiều sản phẩm của hãng Krupp. Năm 1861, nhà khoa học Từ Thọ (1818 – 1888) người Vô Tích, Giang tô đã nghiên cứu chế tạo tàu hơi nước, đến năm 1862 chế tạo thành công tàu Hoàng cốc là chiếc tàu hơi nước đầu tiên của Trung Quốc được làm bằng gỗ. Máy móc chủ yếu là bánh chuyển động bằng hơi nước, xi lanh dài 2 thước, đường kính dài 1 thước, chiều dài của tàu là 55 thước, nặng 25 tấn, vận tốc đạt 6 hải lý/giờ. Năm 1868 Từ Thọ đến làm việc tại Quảng phiên viện quán (nhà phiên dịch của Tổng cục chế tạo Giang Nam) lần lượt dịch 13 loại thư tịch khoa học Tây phương như "Khí cơ phát nhẫn", "Doanh trận đề yếu", "Tây nghệ tri tân". Năm 1868, chiếc tàu đầu tiên của nhà máy tàu thuyền Giang Nam là Huệ Cát được hạ thủy. Đến năm 1876 Giang Nam công xưởng cho hạ thủy 7 chiếc tàu hơi nước, trong đó chiếc tàu lớn nhất có tải trọng 2800 tấn. Quy mô của Giang Nam công xưởng vượt xa xưởng đóng tàu Yokosuda của Nhật mãi đến năm 1887 mới bắt đầu sản xuất tàu cỡ lớn. Năm 1869, nhà máy chế tạo tàu thuyền Mã Vĩ (Phúc châu) bắt đầu đóng loại tàu mới, sử dụng máy móc và kỹ thuật cơ khí của Pháp do Thẩm Bảo Trinh nguyên tuần phủ Giang tây làm Giám đốc. Kinh phí ban đầu là 40 vạn lạng bạc (55 vạn đô la) được huy động từ các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang, Quảng Đông. Trong thời gian 1866 – 1874 chi phí của xưởng lên tới 540 vạn lạng bạc (750 vạn đô la). Số nhân công của xưởng Mã Vĩ lúc cao nhất đạt tới 3000 công nhân, quy mô lớn hơn Giang Nam chế tạo cơ khí chế tạo tổng cục. Năm 1890 Tổng cục chế tạo cơ khí Giang Nam bắt đầu lập xưởng luyện thép, có lò 15 tấn mỗi ngày luyện được 3 tấn, đó là lò luyện thép (lò thường) đầu tiên của Trung Quốc. Năm 1892 quy mô của Giang Nam công xưởng đạt tới diện tích 73 acre đất, 1974 nhà xưởng và 2982 công nhân. Máy móc của công xưởng có 1037 máy, sản xuất ra 47 loại sản phẩm dưới sự giám sát của kỹ thuật viên nước ngoài. Đến những năm 1890 hoạt động của 3 cục quân giới trên đã có những thành tích nổi bật; các kiểu đạn pháo do Tổng cục chế tạo Giang Nam chế tạo ra đã tiếp cận được với vũ khí nhập khẩu của phương Tây. Cục cơ khí Thiên Tân nổi tiếng với các sản phẩm cơ khí quân dụng. Kinh phí xây dựng 3 cục cơ khí Giang Nam, Thiên Tân, Kim lăng lên tới 2454 vạn lạng bạc, chiếm 50% chi phí cho công nghiệp quân sự của nhà Thanh. Ngoài ra còn có các công xưởng quân khí khác được xây dựng ở Tây An (Thiểm Tây, năm 1869), Lan Châu (Cam Túc, năm 1871), Quảng Châu (năm 1874), Hồ Nam và Sơn Đông (năm 1875), Thành Đô (Tứ Xuyên, năm 1877), Cát Lâm (năm 1881), Bắc Kinh (năm 1883), Vân Nam (năm 1884), Hàng Châu và Đài Loan (năm 1885). Các trường quân sự cũng được thành lập: năm 1867 trường hải quân được thành lập ở Phúc Châu (Phúc Kiến), Thiên Tân (Trực Lệ) năm 1880, Hoàng Phố (Quảng Đông) năm 1887, Nam Kinh (Giang Tô) năm 1890, Yên Đài (Sơn Đông) năm 1903. Kinh phí xây dựng 3 cục cơ khí Giang Nam, Thiên Tân, Kim lăng lên tới 2454 vạn lạng bạc, chiếm 50% chi phí cho công nghiệp quân sự của nhà Thanh. Đến những năm 1890 hoạt động của 3 cục quân giới trên đã có những thành tích nổi bật; các kiểu đạn pháo do Tổng cục chế tạo Giang Nam chế tạo ra đã tiếp cận được với vũ khí nhập khẩu của phương Tây. Cục cơ khí Thiên Tân nổi tiếng với các sản phẩm cơ khí quân dụng. Về sau công cuộc Tây dương vụ được Tổng đốc Hồ quảng Trương Chi Động và Bộ trưởng Giao thông Thịnh Tuyên Hoài tiếp tục thực hiện, hai người thành lập nhiều xí nghiệp, riêng Thịnh Tuyên Hoài còn bỏ vốn đầu tư trong nhiều cơ sở kinh doanh. Khi đến Quảng Đông nhậm chức tổng đốc Lưỡng quảng, Trương Chi Động cho xây dựng Quảng Đông quân giới cục, thành lập trường lục quân Quảng Đông, Cục dệt vải và Xưởng luyện thép Quảng Đông. Trong thời gian này Trương Chi Động cho thành lập Giang Nam tự cường quân là lực lượng lục quân kiểu mới sớm nhất Trung Quốc lúc bấy giờ theo biên chế quân đội phương Tây. Lúc được thuyên chuyển đến Hồ bắc Trương Chi Động cho di dời toàn bộ thiết bị của xưởng súng pháo Quảng Đông và cho xây dựng thành xưởng súng pháo Hán dương, Xưởng dệt tứ cục Hồ bắc bao gồm dệt vải, kéo sợi, ươm tơ, chế biến gai, Thư viện Lưỡng Hồ, lập kế hoạch xây dựng đường sắt Lô Hán (sau đổi tên là Kinh Hán, xây dựng từ năm 1896, hoàn thành năm 1905) nối liền hai miền nam bắc. Công binh xưởng Hán Dương Công binh xưởng Hán Dương được xây dựng năm 1894 từ nguồn kinh phí của hạm đội Nam Dương là nhà máy sản xuất vũ khí đầu tiên có quy mô lớn với hệ thống kỹ thuật lớn nhất. Công xưởng có diện tích 40 acre. Tháng 8 năm 1895 tại đây bắt đầu sản xuất súng trường M1888 của Đức, và súng trường Mauser, và đạn dược với sản lượng 13000 băng/tháng. Đến năm 1900 công binh xưởng Hán dương đã cung cấp cho lực lượng Nghĩa hòa đoàn hơn 3000 súng trường và 1 triệu băng đạn. Đến năm 1904 công binh xưởng Hán dương đã đạt sản lượng 50 súng trường T88 và 12000 băng đạn mỗi ngày, sản xuất ra súng bộ binh kiểu Hán dương gọi là Hán dương tạo. Năm 1893 ở Hồ bắc xây dựng nhà máy thép Hán dương, lò cao cận đại hóa của Trung Quốc bắt đầu sản xuất vào tháng 5 năm 1894. Nhà máy có 4 lò cao đều mua trang thiết bị nước ngoài, trình độ kỹ thuật tương đối tiên tiến so với thế giới lúc đó. Tháng 2 năm 1908 nhà máy thép Hán dương cùng mỏ sắt Đại dã hợp nhất với nhà máy luyện khoáng và mỏ Bình hương (Giang tây), trở thành một xí nghiệp liên hợp gang thép đầu tiên có quy mô lớn hiện đại nhất châu Á lúc bấy giờ, đạt tới sản lượng 113 ngàn tấn gang và 50 ngàn tấn thép năm 1910. Thua trận trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1894 - 1895 là một bước ngoặt đối với triều đình nhà Thanh. Nhật Bản, một nước từ lâu bị người Trung Quốc coi là quốc gia mới của những kẻ cướp biển, đã đánh bại một cách thuyết phục Hạm đội Bắc Hải mới được hiện đại hóa của nước láng giềng to lớn khiến triều đình nhà Thanh phải mất mặt. Khi đã đánh bại Trung Quốc, Nhật Bản trở thành nước châu Á đầu tiên gia nhập vào hàng ngũ các cường quốc trước đó chỉ gồm các nước phương Tây. Thất bại này là một sự sửng sốt đối với triều đình nhà Thanh đặc biệt khi họ chứng kiến hoàn cảnh xảy ra của nó chỉ ba thập kỷ sau khi Nhật Bản tiến hành các cuộc Minh Trị cải cách biến nước này có khả năng ganh đua với các nước phương Tây về các thành quả kinh tế và kỹ thuật của họ. Cuối cùng vào tháng 12 năm 1894 chính phủ nhà Thanh đưa ra một số bước kiên quyết nhằm cải cách thể chế quân sự và đào tạo lại một số đơn vị đã được lựa chọn nhằm tây phương hóa trình độ tác chiến, vũ khí và chiến thuật của họ. Các đơn vị đó được gọi là Tân thức lục quân (新式陸軍 Quân đội kiểu mới). Kết quả thành công nhất của việc này là Bắc Dương Quân (北洋軍) nằm dưới sự giám sát và điều khiển của cựu chỉ huy Hoài Quân, vị tướng người Hán Viên Thế Khải (袁世凱), người đã tận dụng vị trí của mình để trở thành một Tổng thống Cộng hòa độc tài và cuối cùng thành một vị hoàng đế trong thời gian ngắn của Trung Quốc. Xã hội Tư bản nước ngoài xâm nhập Điều ước Nam Kinh mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào Trung Quốc. Năm 1845 nước Anh mở tuyến đường thủy từ thủ đô Luân Đôn (Anh) đến Trung Quốc, sau đó xây dựng ụ tàu ở Quảng Châu (Quảng Đông) để sửa chữa tàu thuyền, đó là hoạt động công nghiệp đầu tiên của tư bản nước ngoài hình thành ở Trung Quốc. Ít lâu sau các thương nhân Anh, Mỹ cũng mở xưởng sửa chữa tàu và lập ụ tàu ở Thượng Hải, Hạ Môn, Phúc Châu, về sau tư bản nước ngoài lũng đoạn ngành hàng hải của Trung Quốc. Trong thời gian từ năm 1862 đến 1875 số vốn của thương nhân Anh và Mỹ đầu tư trong ngành hàng hải lên tới 256 vạn lạng bạc. Sau khi điều ước Ái huy được ký kết năm 1858 thương nhân Nga được quyền hoạt động ở Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 1863 các thương nhân Nga mở xưởng chế biến chè tại Hán Khẩu (Hồ Bắc), Cửu Giang (Giang Tây), Phúc Châu (Phúc Kiến) cạnh tranh mạnh với ngành sản xuất chè truyền thống của Trung Quốc. Hán Khẩu trở thành trung tâm chế biến và xuất khẩu chè của Trung Quốc, năm 1865 số lượng chè xuất khẩu tại Hán Khẩu là 1400 tấn, đến năm 1875 đã tăng lên 11000 tấn, tức tăng lên 8 lần. Năm 1862 các thương nhân Anh mở xưởng ươm tơ tại Thượng Hải, sau đó thương nhân Pháp và Mỹ cũng tham gia sản xuất trong ngành này. Các xưởng ươm tơ của tư bản nước ngoài đã phá hoại ngành ươm tơ thủ công nghiệp truyền thống của Trung Quốc. Bên cạnh đó tư bản nước ngoài còn mở những xí nghiệp làm đường, chế biến bột, thuộc da. Sự hình thành chủ nghĩa tư bản dân tộc Sau chiến tranh thuốc phiện do sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản ngoại quốc nên công nghiệp dân doanh của Trung Quốc bắt đầu sử dụng máy móc để sản xuất. Năm 1861, thương nhân Phúc Châu mua máy móc nước ngoài để làm chè khối. Năm 1862 hiệu buôn gạo Hồng thịnh ở Thượng Hải bắt đầu dùng máy xát gạo. Năm 1880 thương nhân Nam Hải (Quảng Đông) mở xưởng ươm tơ máy. Các cơ sở công nghiệp quy mô nhỏ đó là bước đầu của ngành công nghiệp kiểu mới do thương nhân làm. Thương nhân, địa chủ, quan liêu bỏ vốn vào công nghiệp kiểu mới trở thành tiền thân của giai cấp tư sản Trung Quốc. Thương nhân chuyển thành giai cấp tư sản đó là lớp dưới của giai cấp tư sản vì điều kiện khó khăn nên công nghiệp của họ phát triển chậm. Còn địa chủ và quan liêu biến thành giai cấp tư sản là lớp trên vì họ có đặc quyền về chính trị và kinh tế nên công nghiệp của họ phát triển tương đối nhanh. Đối với việc cải cách xã hội giai cấp tư sản lớp dưới có yêu cầu tương đối mạnh. Lúc mới ra đời, tư sản dân tộc Trung Quốc đã phải chịu hai tầng áp chế của tư sản nước ngoài và thế lực phong kiến trong nước. Một công sứ Anh đã từng nói "việc Trung Quốc sản xuất bằng máy móc sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Anh". Mặt khác nhà Thanh cũng sợ công nghiệp phát triển sẽ tập trung nhiều nhân dân lao động làm lung lay nền thống trị phong kiến của mình. Vì vậy tư sản ngoại quốc và phong kiến trong nước có thái độ thù địch với tư bản dân tộc, do đó tư bản dân tộc Trung Quốc phát triển rất khó khăn và chậm chạp. Trong thời gian 1904 – 1908 có 227 công ty được thành lập nhưng trong số đó chỉ có 72 doanh nghiệp có số vốn lớn hơn 100.000 lạng bạc. Công nghiệp dệt phát triển rất nhanh chóng, số vốn từ năm 1881 – 1895 tăng gấp 22 lần lên tới 18.047.544 đô la, các nhà máy dệt chủ yếu tại Thượng Hải và Vũ Hán (Hồ Bắc). Tại Vũ Hán có cục dệt vải Hồ Bắc. Tại Thượng Hải có cục dệt Hoa Tân, Hoa Thịnh, nhà máy sợi Dụ Nguyên. Trương Kiển (1853 – 1926) một trong những nhà doanh nghiệp tiên phong trong hoạt động công thương thời kỳ đó, mở xưởng dệt Đại Sinh ở Nam Thông (Giang Tô), các công ty khai khẩn chăn nuôi Thông Hải, công ty tàu thủy Đại Đạt, công ty bột mì Phục Tân, ngân hàng thực nghiệp Hoài Hải. Văn hóa Những nỗ lực của các nhà cai trị Mãn Châu, từ khi bắt đầu cai trị, đã bị đồng hóa vào văn hóa Trung Quốc đã tạo ra thái độ chính trị và văn hóa Nho giáo bảo thủ mạnh mẽ trong xã hội chính thức và kích thích một thời kỳ tuyệt vời của việc thu thập, biên mục và bình luận về các truyền thống của quá khứ. Văn học Cuộc chinh phạt Trung Quốc bản thổ của người Mãn, người từ vùng Đông Bắc Trung Quốc, người thiết lập triều đại nhà Thanh vào năm 1636, đã không phá vỡ sự tiếp nối của các xu hướng chính trong văn học truyền thống. Chủ nghĩa cổ xưa thống trị văn học như trước đây, và thơ văn xuôi xuất sắc và các bậc thầy thời trung cổ tiếp tục được viết, nhiều tác phẩm đối nghịch với bản gốc về vẻ đẹp cổ xưa và nhịp điệu. Mặc dù sự khéo léo trong văn chương là tuyệt vời, sự sáng tạo thực sự là rất hiếm. Thơ và văn xuôi phi hư cấu Trong lĩnh vực từ (詞) viết, nhà thơ người Mãn thế kỷ 17 Nạp Lan Tính Đức rất nổi tiếng, nhưng thậm chí ông còn lạc lõng với sự bắt chước có ý thức của các người mẫu Nam Tang trừ khi được truyền cảm hứng từ sự rộng lớn của không gian mở và vẻ đẹp của thiên nhiên. Trong văn xuôi phi hư cấu, Kim Thánh Thán tiếp tục hình thức tiểu luận quen thuộc. Văn xuôi viễn tưởng Bồ Tùng Linh tiếp tục truyền thống lãng mạn văn xuôi bằng cách viết bằng Cổ Văn (tiếng cổ điển ngôn ngữ) một loạt 431 câu chuyện quyến rũ của người lạ và siêu nhiên có tựa đề Liêu trai chí dị. Bộ sưu tập này, được hoàn thành vào năm 1679, gợi nhớ đến truyền thống truyện văn học đầu tiên, vì nó chứa một số câu chuyện Đường được kể lại với sự tô điểm và thay đổi nhỏ để phân định các nhân vật một cách thực tế hơn và để làm cho cốt truyện có thể xảy ra hơn. Những sinh vật siêu nhiên truyền thống như cửu vĩ hồ, giả sử trong những câu chuyện này hình dạng con người tạm thời trong vỏ bọc của những người phụ nữ xinh đẹp, lần đầu tiên trong tiểu thuyết Trung Quốc được nhân hóa và đáng yêu. Mặc dù có vẻ thành công của những câu chuyện này, tác giả đã sớm nhận ra những hạn chế của phong cách cổ văn đối với việc viết tiểu thuyết và tiến hành sản xuất một cuốn tiểu thuyết bản địa trong số một triệu từ, Tỉnh thế nhân duyên truyện. Câu chuyện dài về một con chuột chù và người chồng sợ vợ của cô đã được kể mà không có bất kỳ gợi ý nào về giải pháp cho những vấn đề của hôn nhân không hạnh phúc. Không chắc chắn về phản ứng của các đồng nghiệp của mình đối với việc sử dụng tiếng địa phương làm phương tiện văn học, Bố Tùng Linh đã có cuốn tiểu thuyết Trung Quốc dài nhất này của trường cũ được xuất bản dưới bút danh. Ngô Kính Tử đã châm biếm văn học thế kỷ 18 trong một kiệt tác hiện thực, Nho lâm ngoại sử (khoảng năm 1750), 55 chương lỏng lẻo xâu chuỗi lại với nhau theo kiểu lãng mạn hư cấu. Không giống như Bố Tùng Linh, người mà ông vượt xa cả về lời kể và tính cách, ông chấp nhận tiếng bản địa làm phương tiện duy nhất của mình để viết tiểu thuyết. Được biết đến nhiều hơn và được đọc rộng rãi hơn là Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, một cuốn tiểu thuyết về mối tình tay ba và sự sụp đổ của một đại gia đình, cũng được viết bằng tiếng bản địa và là tác phẩm xuất sắc đầu tiên của tiểu thuyết Trung Quốc với một kết thúc bi thảm. Bởi vì các mô tả dài về các cuộc thi thơ, làm gián đoạn câu chuyện kể, có vẻ mệt mỏi, đặc biệt đối với độc giả không phải người Trung Quốc, chúng đã bị xóa phần lớn trong các bản dịch phương Tây. Tuy nhiên, một số nhà phê bình phương Tây đã coi nó là một trong những tiểu thuyết hay nhất thế giới. Kịch Trong kịch, truyền kỳ của nhà Minh được tiếp tục một cách xứng đáng bởi một số nhà thơ hàng đầu của trường phái thông thường, mặc dù toàn bộ các tác phẩm kịch tính của họ đã thất bại trong việc thu hút quần chúng. Đến cuối thế kỷ 18, các bộ phim truyền hình dân gian của nhiều địa phương bắt đầu trở nên phổ biến, cuối cùng hội tụ tại các rạp chiếu phim Bắc Kinh và tạo ra những gì được coi là phim truyền hình Bắc Kinh, một sản phẩm tổng hợp tiếp tục làm hài lòng khán giả lớn ở Trung Quốc. Nghệ thuật thủ công Đồ thủ công trang trí từ chối các thiết kế ngày càng lặp đi lặp lại, mặc dù các kỹ thuật, đáng chú ý là chạm khắc ngọc bích, đạt đến trình độ cao. Nhiều kiến ​​trúc còn tồn tại; mặc dù nó thường được hình thành rất lớn, nhưng nó có xu hướng tạo ra khối lượng trơ ​​với sự trang trí quá mức Sứ thể hiện sự tinh thông kỹ thuật cao ngay cả với sự xóa sạch gần như toàn bộ bất kỳ dấu vết nào của bàn tay thợ gốm. Trong số những đổi mới của thời kỳ này là sự phát triển của các loại men màu như màu đỏ đồng, được gọi là thổi hồng của người Trung Quốc và màu đỏ nâu, của người Pháp và hai loại đồ sứ được sơn, được biết đến ở châu Âu với tên famille verte và famille rose, từ màu xanh lá cây và màu hồng chủ yếu của chúng. Âm nhạc Trong âm nhạc, sự phát triển đáng chú ý nhất của triều đại có lẽ là sự phát triển của kinh kịch, hay opera Bắc Kinh, trong nhiều thập kỷ vào cuối thế kỷ 18. Phong cách này là sự pha trộn của một số truyền thống nhà hát âm nhạc trong khu vực, sử dụng nhạc cụ đệm tăng lên đáng kể, thêm sáo, đàn luýt và vỗ tay, một số trống, nhạc cụ hơi, chũm chọe và chiêng, một trong số đó được thiết kế như để tăng lên nhanh chóng trong cao độ khi bị tấn công, tạo ra hiệu ứng âm điệu trượt trượt của nhóm đã trở thành một đặc điểm quen thuộc của thể loại này. Kinh kịch—có nguồn gốc thực sự ở nhiều vùng chứ không phải ở Bắc Kinh, sử dụng ít giai điệu hơn so với các hình thức khác mà lặp lại chúng với lời bài hát khác nhau. Nó được cho là đã đạt được tầm vóc vì sự bảo trợ của Từ Hi Thái hậu, nhưng từ lâu nó đã rất phổ biến với người dân. Thế phả nhà Thanh
13 (mười ba) là một số tự nhiên ngay sau 12 và ngay trước 14. Trong toán học Số 13 là số nguyên tố. Bình phương của 13 là 169 Trong hóa học 13 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Nhôm (Al).
12 (mười hai) là một số tự nhiên ngay sau 11 và ngay trước 13. 12 là số tháng trong một năm. 12 giờ trưa là thời điểm bức xạ mặt trời đến mặt đất nhiều nhất trong ngày. 12 giờ khuya là thời điểm chuyển giao giữa hai ngày. Trên đỉnh Olympus có 12 vị thần. Gaea và Uranus có 12 đứa con Titan Cơ thể người có 12 dây thần kinh sọ. Olympic vào năm 2012 đã diễn ra ở Anh. Ngày 21 Tháng Mười Hai (12) năm 2012 được người Maya cho rằng là ngày tận thế (Lịch của người Maya kết thúc). Được người phương Tây coi là con số thập toàn thập mỹ nên số tiếp theo (13) được cho là số mang nhiều xui xẻo. Mũ miện của các Hoàng Đế Á Đông có mười hai chuỗi ngọc. mỗi chuỗi 12 viên. 12 biểu thị cho cấp học tất yếu của người Việt Nam. 12 biểu thị cho 12 con giáp và 12 cung Hoàng Đạo. Trong toán học Số 12 là hợp số. Phân tích thành nhân tử: 12 = 2.2.3. Căn bậc hai của 12 là 3,464101615 Bình phương của 12 là 144. Trong hóa học 12 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Magiê (Mg) .
11 (mười một) là một số tự nhiên ngay sau 10 và ngay trước 12. Trong toán học Số mười một là số nguyên tố. Căn bậc hai của 11 là 3,31662479035539. Bình phương của 11 là 121. 1/11 = 0,090909090909... Trong hóa học 11 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Natri (Na) Về thiên văn Tàu Apollo 11 là con tàu vũ trụ đưa con người lên mặt trăng đầu tiên.
10 (mười) là một số tự nhiên ngay sau 9 và ngay trước 11. 10 là số tự nhiên nhỏ nhất có 2 chữ số. Bình phương của 10 là 100. Căn bậc hai của 10 là: 3,16227766016838. Theo mức điểm tại nhiều nước, điểm 10 là số điểm tối đa. 10 là một số tam giác lg(x)=log10(x) Trong hóa học 10 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Neon (Ne). Trong bóng đá 10 là số áo của các trụ cột, hoặc cầu thủ đá phạt tốt, hoặc nhạc trưởng của đội.
9 (chín) là một số tự nhiên ngay sau 8 và ngay trước 10. Tính chất Số 9 là số chính phương (32 =9). Số chín được viết ở dạng gần như là đảo ngược của số 6. Bình phương của 9 là 81. Căn bậc hai của 9 là 3. 1/9 = 0,(1). Tính chất đặc biệt: 9*123456789 = 1111111101 9*987654321 = 8888888889 Trong hóa học 9 là số hiệu nguyên tử của nguyên tô fluor (F)
Người Giẻ Triêng (Jeh-Tariang) là một dân tộc cư trú chủ yếu tại miền trung Việt Nam và nam Lào. Theo Joshua Project tổng dân số năm 2019 là 75 ngàn người. Tại Việt Nam người Giẻ Triêng là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam Họ có số dân là 63.322 người theo Điều tra dân số năm 2019 , sinh sống chủ yếu (trên 99,2%) tại vùng miền núi tỉnh tỉnh Kon Tum và Quảng Nam. Tại Lào có chừng 13 ngàn người Jeh theo Joshua Project. Người Giẻ Triêng nói 2 ngôn ngữ là tiếng Giẻ (Jeh) và tiếng Triêng (Tariang) cùng thuộc Ngữ chi Bahnar của ngữ hệ Nam Á. Các nhóm địa phương Người Giẻ Triêng còn biết qua các tên: Đgiéh, Ta Reh, Giảng Rây, Pin, Triêng, Treng, Ta Liêng, Ve, La-Ve, Bnoong, Ca Tang. Các tộc người tại Lào gồm Katang, Talieng, Jeng, Brao, Laven. Người Bh'noong Người Bh'noong nói tiếng Bh'noong sinh sống tại các xã thuộc huyện Phước Sơn và huyện Nam Giang tỉnh Quảng Nam. Theo thống kê, có khoảng 31,343 người (2003). Phước Sơn có hơn 14,600 người Bh'noong, chiếm 65% dân số. Người Giẻ Người Giẻ hay Jẻh sinh sống chủ yếu tại huyện Đăk Glei tỉnh Kon Tum. Người Tà Riềng Người Tà Riêng hay Triêng sống tại các xã miền Tây huyện Nam Giang như La Dêê, La Êê, Đắc Tôi và huyện Dak Chung của Lào giáp ranh biên giới thuộc tỉnh Sekong. Người Ve Người Ve hay Laven sinh sống tại các xã huyện Nam Giang và Phước Sơn như Đắc Pring, Đắc Pre. Người Laven còn sinh sống tại tỉnh Attapeu, Lào. Dân số và địa bàn cư trú Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Giẻ Triêng ở Việt Nam có dân số 50.962 người, cư trú tại 29 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Giẻ Triêng cư trú tập trung tại các tỉnh: Kon Tum (32.644 người, chiếm 62,1% tổng số người Giẻ Triêng tại Việt Nam), Quảng Nam (19.007 người, chiếm 37,3% tổng số người Giẻ Triêng tại Việt Nam), ngoài ra còn có tại Đắk Lắk (78 người) và một số ít ở các tỉnh khác. Đặc điểm kinh tế Người Giẻ Triêng sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy. Ngoài ra họ còn săn bắn, đánh cá, hái lượm các loại rau rừng, hoa quả, nấm... làm thức ăn hàng ngày. Người Giẻ Triêng còn nuôi trâu, bò, lợn, gà nhưng chủ yếu chỉ dùng vào lễ hiến sinh. Họ tên Mỗi người Giẻ Triêng (trừ nhóm Bnoong) đều có họ kèm theo tên, nhưng họ của đàn ông khác với họ của đàn bà. Mỗi họ đều có việc kiêng kỵ, một truyện cổ giải thích về tên họ và điều kiêng kỵ đó. Xưa kia, con trai theo họ Hôn nhân gia đình Theo tục lệ cũ, con trai khoảng 10 tuổi bắt đầu ngủ đêm tại nhà rông, khoảng 13-15 tuổi thì cà răng và sau đó vài ba năm sẽ lấy vợ. Con gái chủ động trong việc hôn nhân của mình và sự lựa chọn của con cái được cha mẹ tôn trọng. Trước khi lập gia đình, con trai phải biết đan lát, biết tấu chiêng cồng, các cô gái phải thạo đan chiếu, dệt vải (ở những vùng có nghề dệt). Cô gái phải chuẩn bị đủ 100 bó củi đẹp để nộp cho nhà trai trong lễ cưới. Sau đám cưới, đôi vợ chồng trẻ phải sống và luân phiên chuyển nhà từ nhà cha mẹ vợ sang nhà cha mẹ chồng, và ngược lại cứ ba đến bốn năm một lần, cho đến khi cha mẹ một bên qua đời mới định cư một chỗ. Ma chay Người Giẻ Triêng khi chết được chôn trong quan tài độc mộc, có đẽo tượng đầu trâu, huyệt đào rất nông, đưa đám tang chỉ có vài người nhà và sau một thời gian thì làm lễ bỏ mả để đoạn tang. Nhà cửa Người Giẻ Triêng ở nhà sàn dài, nhiều nơi làm mái đầu hồi uốn khum hình mu rùa. Thường thì các nhà trong làng được xếp thành hình tròn xung quanh nhà rông. Khác với nhà rông của một số dân tộc khác, nhà sàn Giẻ Triêng được hành lang chạy dọc chia đôi: một nửa dành cho nam giới, nửa kia dành cho phụ nữ. Hiện nay, người Giẻ Triêng ở Kon Tum làm nhà sàn ngắn và vài hộ gia đình cùng chung sống với nhau. Những nhà này cũng có những đặc trưng đáng quan tâm: nhà sàn mái hình mai rùa, hai đầu đốc được trang trí bằng hai sừng trâu. Trang phục Nam giới để tóc ngắn hoặc đội khăn chàm theo lối chữ nhất trên đầu. Thân ở trần hoặc mặc tấm áo, khoác ngoài chéo qua vai, màu chàm có các sọc trang trí. Họ mang khố khổ hẹp, dài không có tua, thân và các mép khố được viền và trang trí hoa văn ở hai đầu trên nền chàm. Nam cũng đeo vòng cổ, vòng ngoài khố mang chuỗi hạt vòng. Trong các dịp tết lễ, họ mang thêm tấm choàng rộng màu chàm, có các sắc màu trang trí phủ kín thân. Phụ nữ Giẻ Triêng để tóc dài, quấn sau gáy. Họ không mặc áo mà mang loại váy dài, cao sát nách. Đây là loại váy ống tương đối dài rộng. Đầu váy, giữa thân và gấu váy được trang trí các sọc hoa văn màu đỏ trên nền chàm. Lối mặc có tính chất vừa váy, vừa áo này là một đặc điểm rất khác biệt của phụ nữ Gié Triêng, ít gặp ở các dân tộc khác từ Bắc vào Nam. Đây cũng là một lý do trang phục Giẻ Triêng được chọn vào "Làng văn hóa các dân tộc". Lối mặc váy, đặc biệt là quấn mép ra trước giữa thân, đầu váy còn thừa (váy loại này thường dài - cao gấp rưỡi váy bình thường), lộn ngược ra phía trước hoặc quấn thành nhiều nếp gấp ra xung quanh trông như một chiếc áo ngắn. Phụ nữ còn mang vòng tay vòng cổ. Trang phục Giẻ Triêng là đặc điểm riêng, cùng với một số dân tộc khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên có giá trị quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử trang phục ở Việt Nam.
Về năm 8 CN, xem 8 8 (tám) là một số tự nhiên liền sau 7 và liền trước 9. Ngoài ra có những vật dụng giống hình số 8 như "còng số 8", bánh vòng số 8. Quan điểm của người Trung Quốc và Việt Nam Ngoài ra nó còn có ý nghĩa là ngồi tán gẫu, tán phét, buôn dưa lê hay nấu cháo lưỡi. Số tám có nghĩa là tốt đẹp, mọi thứ đều phát triển (vì 8 - bát đọc lái đi là phát - Theo quan điểm của người Việt Nam và Trung Quốc). Trong toán học Căn bậc ba của tám là hai. Bình phương của 8 là 64. Căn bậc hai của 8 là 2,828427125 và - 2,828427125. Trong thiên văn học 8 là số lượng các hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Trong hóa học 8 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố ôxi (O). Có 8 chu kì trong hoá học: 4 chu kì lớn và 4 chu kì nhỏ. Trong bóng đá 8 là số áo của tiền đạo và tiền vệ nhưng rất ít khi là số của hậu vệ
7 (bảy hay bẩy) là một số tự nhiên ngay sau 6 và ngay trước 8. Số bảy là số nguyên tố. Số bảy là số may mắn của người Nhật Bản. Bình phương của 7 là 49. Căn bậc hai của 7 là 2,645751311. Tất cả các số Fermat đều kết thúc bằng số 7 Toán học Tính chất đặc biệt 7 là số nguyên tố, nghĩa là nó chỉ chia hết cho 1 và chính nó. Nó cũng là số nguyên tố Mersenne. Nó là một số kì diệu mà lấy 1/7 = 0,(142857) (Tận cùng là 7 sau mỗi chu kì) Ta nhận thấy rằng: 142857 × 1 = 142857. 142857 × 2 = 285714. 142857 × 3 = 428571. 142857 × 4 = 571428. 142857 × 5 = 714285. 142857 × 6 = 857142. Đặc biệt 142857 × 7 = 999999. Các phép tính Bảng nhân 7: Bảng chia 7 (7 là số bị chia và 7 là số chia với các số tương ứng): Bảng lũy thừa (7 là cơ số hoặc số mũ với các số tương ứng): Bảy bài toán thiên niên kỉ Ngày 24/5/2000, Viện Toán học Clay công bố danh sách bảy bài toán chưa giải được với giải thưởng cho việc giải quyết mấu chốt trong việc giải mỗi bài là 1 triệu đô la Mỹ, bao gồm: Giả thuyết Poincaré Bài toán P=NP Giả thuyết Hodge Phương trình Navier-Stokes Giả thuyết Riemann Giả thuyết Birch và Swinnerton-Dyer Bài toán Yang-Mills Hóa học Lớp và phân lớp electron nguyên tử Trong nguyên tử các electron sắp xếp thành 7 lớp, các lớp được sắp xếp từ gần hạt nhân ra ngoài . Đó là: Lớp K (n=1) có 1 phân lớp, đó là phân lớp 1s và 1 obitan. Lớp L (n=2) có 2 phân lớp, đó là các phân lớp 2s và 2p và 4 obitan. Lớp M (n=3) có 3 phân lớp, đó là các phân lớp 3s, 3d và 3p và 9 obitan. Lớp N (n=4) có 4 phân lớp, đó là các phân lớp 4s, 4d, 4d và 4f và 16 obitan. Lớp O (n=5) có 5 phân lớp và 25 obitan. Lớp P (n=6) có 6 phân lớp và 36 obitan. Lớp Q (n=7) có 7 phân lớp và 49 obitan. Số obitan trong các phân lớp d, p, d, f lần lượt là các số lẻ: 1, 3, 5, 7. Số obitan của f lớn nhất: 7 obitan. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học Trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học có 7 chu kì. Chu kì 7 bao gồm các nguyên tố phóng xạ như Ranxi (số hiệu nguyên tử 87), rađi (số hiệu nguyên tử 88),...Các nguyên tử halogen (flo, clo, brom, iod, atalin) có 7 electron lớp ngoài cùng trong nguyên tử. Do đó chúng nằm ở nhóm VIIA trong bảng tuần hoàn. Nitơ 7 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Nitơ (N). Do đó nguyên tử Nitơ có 7 electron và 7 proton. Nitơ là chất khí không màu, không mùi, không vị, ít tan trong nước. Trong không khí, thể tích khí Nitơ chiếm 78%, lớn nhất trong tất cả các khí. Thang độ pH Trong thang độ pH, nước trung tính có pH= 7. Nếu pH tăng dần thì tính base tăng lên và ngược lại nếu pH giảm dần thì tính axit tăng. Do đó quỳ tím đổi màu Đỏ khi gặp môi trường axit, nó đổi màu Xanh khi gặp môi trường base. Hợp chất hữu cơ Có tới 9 ankan có 7 Cacbon trong phân tử. Heptan là một trong số đó (Hình dưới). Vật lý Bảy màu sắc trong tự nhiên Khi mặt trời chiếu qua một bầu khí quyển trong sạch, ánh sáng có vẻ trắng. Ánh sáng trắng gồm vô số màu. Khi mặt trời chiếu qua nước mưa, nó phân ra thành 7 màu vì những giọt nước mưa hành động như những lăng kính nhỏ. Khi đó, ánh sáng trắng bị khúc xạ và mỗi màu nghiêng theo một góc khác nhau để cho ta thấy những màu khác nhau trải dài thành giải dưới dạng một hình cung. Đó là cầu vồng gồm 7 màu: Đỏ Cam Vàng Lục Lam Chàm Tím Các đơn vị cơ bản Hệ đo lường quốc tế (viết tắt SI, tiếng Pháp: Système International d'unités) là hệ đo lường được sử dụng rộng rãi nhất. Trong hệ này, có bảy đơn vị cơ bản trong hệ SI bao gồm: Khối lượng: kilogam Cường độ ánh sáng: candela Thời gian: giây Cường độ dòng điện: Ampe Số hạt: mol Độ dài: mét Nhiệt độ: kelvin Nó được sử dụng trong hoạt động kinh tế, thương mại, khoa học, giáo dục và công nghệ nhiều nước trên thế giới ngoại trừ Mỹ, Liberia và Myanma. Chú thích Số nguyên tố May mắn Thần số học
Đại học Hitotsubashi (tiếng Nhật: 一橋大学, Hitotsubashi daigaku) trước đây được biết đến với tên Tokyo College of Commerce (東京商科大学, Tokyo shouka daigaku) là một đại học quốc gia tọa lạc tại Tokyo, Nhật Bản. Đại học có cơ sở tại các khu vực Kunitachi, Kodaira và Chiyoda. Là một trong mười Đại học Quốc gia Định danh hàng đầu Nhật Bản, Hitotsubashi là một cơ sở giáo dục khá nhỏ chỉ chuyên về khoa học xã hội, với khoảng 4.500 sinh viên đại học và 2.100 học viên sau đại học. Thành lập vào năm 1875 bởi Mori Arinori và phát triển từ Tokyo College of Commerce, Hitotsubashi luôn được xếp hạng cao trong các bảng xếp hạng đại học Nhật Bản và được coi là đặc biệt nhất trong lĩnh vực kinh tế và thương mại tại Nhật Bản. Đại học Hitotsubashi đứng thứ 25 trên thế giới trong năm 2011 do bảng xếp hạng của Mines ParisTech: Đánh giá Nghề nghiệp của các Đại học Thế giới. Trường đại học được xếp hạng thứ 4 trong cuộc khảo sát "Hình ảnh Đại học theo nhận thức của Nhân sự (Ngành Nhân lực)" (人事が見る大学イメージ) của Nhật Bản năm 2023. Đại học Hitotsubashi có mối quan hệ mạnh mẽ với các trường đại học nước ngoài. Hiện có khoảng 600 sinh viên quốc tế và 450 nhà nghiên cứu từ các nước khác đang theo học và làm việc tại trường dựa trên các thỏa thuận trao đổi học thuật với 83 trường đại học và tổ chức nghiên cứu khác nhau, bao gồm Đại học Chicago, Đại học Oxford và Đại học California. Biểu tượng của trường được lấy cảm hứng từ Thần Thương mại, thần thoại La Mã. Thành lập Đại học Hitotsubashi (tên tiếng Nhật là 一橋大学, tên tiếng Anh là Hitotsubashi University) là một trong những trường đại học được thành lập sớm nhất ở Nhật Bản. Khởi thủy là Trường Dạy học Thương mại (商法講習所 Shouhoukoujyuujo) được thành lập vào năm 1875 bởi Mori Arinori (1847-1889), Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nhật Bản lúc đó. Đây là một trường tư thục, đóng ở Ginza (Tokyo). Mục đích thành lập trường là để học tập cách thức làm thương nghiệp của Anh-Mỹ và giảng dạy lại cho người Nhật. Quá trình phát triển Năm 1884, trường được đổi tên là Trường Thương nghiệp Tokyo (東京商業学校), trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Thương mại. Năm 1887, trường được đổi tên là Trường Thương nghiệp Cao cấp (高等商業学校), trực thuộc Bộ Giáo dục. Lúc này cơ sở của trường đã chuyển về gần cầu Hitotsubashi (一ツ橋, tiếng Nhật nghĩa là "cầu thứ nhất") ở Kanda (神田), ngay cạnh Hoàng Cung. Năm 1902, trường lại được đổi tên thành Trường Thương nghiệp Cao cấp Tokyo (東京高等商業学校) để phân biệt với Trường Thương nghiệp Cao cấp Kobe (nay là Đại học Kobe). Năm 1920, trường đổi tên thành Đại học Thương mại Tokyo (東京商科大学). Năm 1927, do cơ sở ở Kanda bị động đất tàn phá, trường chuyển cơ sở về Kunitachi và Kodaira (Tokyo). Năm 1944, Bộ Giáo dục buộc trường phải đổi tên thành Đại học Công nghiệp Tokyo. Kể từ khi trở thành trường quốc lập trực thuộc Bộ Giáo dục từ năm 1887, trường liên tục bị Bộ Giáo dục cưỡng chế cải cách các chuyên ngành đào tạo. Tuy nhiên, học sinh của trường không ngừng phản đối sự can thiệp này. Vì vậy, kể từ khi thành lập cho đến trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, trường chỉ chuyên vào giáo dục và đào tạo thương mại. Năm 1947, trường trở lại tên cũ là Đại học Thương mại Tokyo. Đào tạo và Nghiên cứu Năm 1949, chương trình đào tạo của trường được cải cách mạnh mẽ. Trường đổi tên thành Đại học Hitotsubashi và mang tên gọi đó đến tận ngày nay. Trường có thêm hai ngành đào tạo mới là Kinh tế học và Luật học-Xã hội học, bên cạnh ngành truyền thống của trường là Thương mại. Trường có ba khoa tương ứng với ba ngành trên. Năm 1951, Khoa Luật học-Xã hội học tách thành hai khoa: Khoa Luật và Khoa Xã hội học. Những năm tiếp theo, các khoa sau đại học về Kinh tế, Thương mại, Luật, và Xã hội học đã được thành lập. Năm 1996, trường mở Khoa Ngôn ngữ học (大学院言語社会研究科) chuyên đào tạo các ngoại ngữ, nhưng ở bậc trên đại học. Năm 1998, mở thêm Khoa Chiến lược Kinh doanh Quốc tế (大学院国際企業戦略科), cải tạo lại cơ sở ở Kanda. Năm 2005, mở thêm Khoa Chính sách Công cộng (公共政策大学院). Như vậy, hiện nay trường có bốn khoa bậc đại học và bảy khoa bậc sau đại học, trong đó sáu khoa đào tạo các ngành Kinh tế học, Kinh doanh học và Thương mại. Bên cạnh các khoa nói trên, trong trường còn có Viện Nghiên cứu Kinh tế, Trung tâm Nghiên cứu Sáng tạo, Trung tâm Giao lưu Quốc tế (留学生センター) với nhiệm vụ chính là giảng dạy tiếng Nhật và hướng dẫn cho học sinh nước ngoài của trường.
Xem các nghĩa khác tại Vương. Vương (chữ Hán: 王; tiếng Anh: King hoặc Royal Prince) hay Chúa là xưng vị hay tước vị của chế độ phong kiến Đông Á, đứng đầu một Vương quốc, Thân vương quốc hay dành cho hoàng thân nam giới của Hoàng tộc. Từ Vương Công là cách gọi khác của Vương tước. Tước vị này dùng cho chế độ tước vị của nam giới tại các nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Tại Châu Âu, cả King và Prince đều tương đương với Vương ở chuyển nghĩa ngôn ngữ Đông Á, dù thực chất địa vị của hai tước hiệu này về cơ bản là khác nhau hoàn toàn. Từ nguyên Tùy giai đoạn hoặc quốc gia, tước Vương có thể có nhiều ý nghĩa, nhưng nhìn chung ở Đông Á thì thông dụng nhất là: Quốc vương (國王), dành cho các người cai trị Vương quốc độc lập hoặc chư hầu. Nhiếp chính vương (攝政王), dành cho vương tước nắm quyền nhiếp chính ở vương quốc hoặc đế quốc, có quyền lực chính trị khuynh đảo hệ thống chính trị quân chủ, thời hạn cai trị tạm thời cho đến khi nguyên thủ đủ khả năng cai trị quốc gia và không thể cho thừa kế cho con cháu. Phó quốc vương (副王,viceroy), còn gọi là phó vương,có địa vị chính trị cao hơn thân vương và dưới quốc vương, là người phụ tá nguyên thủ trong việc cai trị Vương quốc độc lập hoặc chư hầu, thường phong cho vị vương tước khống chế quyền lực chính trị của hệ thống chính trị quân chủ trong tay. Ví dụ: những vị vương tước nắm quyền nhiếp chính như chúa Trịnh giữ tước vị phó quốc vương. Tuy nhiên đôi khi ở một vài đế quốc cũng có phó vương làm phụ tá cho hoàng đế trong việc cai trị đế quốc tuy rằng đó là trường hợp không gặp nhiều như phó vương ở các vương quốc. Tước vị phó vương tuy không có uy quyền bằng tước vị nhiếp chính vương nhưng có thể cai trị lâu dài thậm chí cai trị suốt đời và có thể cho thừa kế cho con trưởng của phó vương với vợ cả của phó vương. Thân vương (親王), dành cho các Hoàng tử, có đất phong cấp phủ trong phạm vi Đế quốc. Quận vương (郡王), dành cho các Hoàng tử, có đất phong cấp quận trong phạm vi Đế quốc. Tước hiệu Vương thường được dùng chuyển ngữ tương đương cho nhiều tước hiệu khác nhau trong các ngôn ngữ châu Âu. Khi chuyển ngữ tương đương cho các tước hiệu trong tiếng Anh, thuật ngữ "Quốc vương" dùng chuyển ngữ cho tước hiệu King, "Thân vương" cho Prince, và ở mức độ hiếm hơn, "Quận vương" cho Count (tương đương Bá tước). Tuy nhiên, cách chuyển ngữ này không phản ánh chính xác hoàn toàn mối tương quan giữa các tước hiệu này. Trong hầu hết ngôn ngữ châu Âu, các tước hiệu tương đương King và Prince trong tiếng Anh đều có thể chỉ đến những vị quân chủ cai trị lãnh thổ độc lập với nhau. Ngoài ra, cũng tồn tại một ngữ cảnh khác khi thuật ngữ Prince còn có thể dùng để chỉ các hậu duệ nam trực hệ (con và cháu nội) của các vị quân chủ mang tước hiệu Hoàng đế (Emperor), Quốc vương (King) hoặc Đại công tước (Grand duke) và Công tước (Duke). Điều này có thể gây nhầm lẫn trong việc chuyển ngữ thuật ngữ Prince của một số tài liệu Việt ngữ, khi không phân biệt được ngữ cảnh sự khác biệt giữa tước hiệu (Thân vương) với danh vị (Hoàng tử, Vương tử, Công tử). Ví dụ như "Prince Dorgon" được chuyển ngữ từ "Hoàng tử Đa Nhĩ Cổn", nhưng nếu "Dorgon, Prince Rui" thì được chuyển ngữ từ "Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn". Ở một mặt ngôn ngữ ngoài tiếng Anh, Vương cũng có thể ám chỉ Basileus của nhà nước Hy Lạp cổ, Malik của ngữ tộc Semit, Pharaoh của Ai Cập cổ đại hay Padishah của Ba Tư với tư cách là quân chủ độc lập. Ngoài ra với tư cách là thành viên hoàng gia/vương thất thì có Sheikh và Emir của tiếng Ả Rập, Şehzade của Đế quốc Ottoman, Shahzadeh của Iran cùng Mirza của nhà nước Ấn Độ Hồi giáo. Trung Quốc Như một quân chủ Vương là xưng vị cao nhất của các vị Thiên tử Trung Hoa kể từ đời nhà Thương cho đến trước thời Tần Thủy Hoàng. Trước đời nhà Thương, các vị thiên tử Trung Hoa được gọi là Hoàng (皇) hoặc Đế (帝). Khi Thiên tử còn sống thì gọi là Bá (伯), sau đổi sang dùng Hậu (后), khi qua đời thì gọi là Đế (帝), từ giữa nhà Thương thì đặt tôn xưng Vương (王). Các Thiên tử nhà Chu đều xưng là Vương, kể cả khi còn sống hay đã qua đời, do đó trong thời kỳ ấy không có ["tước Vương"], vì đó ám chỉ Thiên tử rồi. Nhưng khi nhà Chu suy yếu ở thời Đông Chu, các chư hầu vốn chỉ cao nhất là Công tước, nay cũng tự thấy vị thế của mình không đáng phải thần phục nhà Chu nữa mà bắt đầu xưng Vương, sớm nhất trong số đó là Sở Vũ vương. Điều này dựa trên việc khi này nước Sở đã làm chủ phương Nam, quốc lực cường thịnh, có thể thấy mình ngang với Thiên tử mà xưng làm Vương, nhưng vị hiệu [Vương] này của các Vua Sở cũng chỉ là tự xưng chứ không phải thụ phong, và triều đình nhà Chu cùng những thế lực chống phá nước Sở không công nhận việc tự xưng này. Khi Đông Chu bắt đầu đi vào giai đoạn giữa, không chỉ Sở mà đến nước Tần cũng xưng Vương, đến thời Chiến Quốc thì cả 7 nước chư hầu lớn đều xưng Vương. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, do ông thấy tước Vương đã không còn đủ tôn quý dành cho Thiên tử, nên quyết định lập tước vị Hoàng đế, thì Vương trở thành danh hiệu cao thứ hai, dùng để phân phong cho các Hoàng tử được ban đất phong, đây là mô phỏng theo chế độ chư hầu của nhà Chu. Như một hoàng thân hoặc chư hầu Thời Tào Ngụy và Tây Tấn, triều đình Trung Hoa bắt đầu hình thành hai cấp tước Vương; lớn nhất là phong hiệu một chữ ["Nhất tự vương"; 一字王], tức lấy tiểu quốc mà cấp làm đất phong, cũng gọi Thân vương (親王). Loại thứ hai là phong hiệu hai chữ của quận, huyện làm đất phong, tức ["Nhị tự Vương"; 二字王], cũng gọi Quận vương (郡王). Tước Quận vương khi ấy dùng cho con cháu kế tự của Thân vương, hoặc cũng dùng để phong cho công thần. Mô thức này kéo dài đến hết nhà Minh. Sang thời nhà Thanh, các tên hiệu của tước Vương đa phần chỉ còn mà mỹ hiệu mà không phải địa danh, tương tự Công chúa. Các triều đại sau dùng tước Vương trong rất nhiều trường hợp, tỉ mỉ như sau: Phong cho các Hoàng tử, dù người này có thể có đất đai cụ thể với tư cách là chư hầu; hoặc chỉ là chức danh Vương trên danh nghĩa và hưởng chế độ bổng lộc chứ không có ấp phong thực địa riêng. Theo đầu thời nhà Hán, di huấn của Hán Cao Tổ Lưu Bang có nói rõ, không phải họ Lưu thì không phong Vương. Phong cho quyền thần khác họ. Nhiều trong số những người khác họ với hoàng tộc được ban tước Vương do tác động, đòi hỏi của chính họ với vai trò quyền thần và Hoàng đế phải làm theo đề nghị phong vương của họ, dù không mong muốn như vậy. Trường hợp điển hình của các quyền thần ép vua phong Vương là Tào Tháo ép Hán Hiến Đế phong mình làm "Ngụy vương", từ đó cũng tạo ra tiền đề quyền thần có tước Vương dù không phải người trong hoàng thất. Tiếp theo đó, Tư Mã Chiêu ép Ngụy Nguyên Đế phong mình làm "Tấn vương", Lưu Dụ ép Tấn An Đế phong làm "Tống vương"... Phong cho công thần khác họ. Hầu hết các trường hợp quyền thần sau khi được phong Vương đều đã cướp ngôi Hoàng đế hoặc để tránh mang tiếng đã để lại việc cướp ngôi đến đời con mới thực hiện. Một số trường hợp ít hơn là các công thần được vua ban cho ân sủng nhờ công lao lớn đối với triều đình, điển hình nhất trong lịch sử Trung Quốc là Quách Tử Nghi được Hoàng đế nhà Đường ân phong là "Phần Dương vương" vì có công dẹp loạn An Sử. Trong một số trường hợp khác, việc ban tước Vương của hoàng đế Trung Hoa nhằm đổi lấy hòa bình, hạn chế sự chống đối của các lực lượng cát cứ. Điển hình là trường hợp tướng Sử Tư Minh dưới quyền An Lộc Sơn làm phản nhà Đường, sau đó mang 10 vạn quân và 13 quận Hà Bắc rộng lớn về hàng. Nhà Đường phong cho Tư Minh làm "Quy Nghĩa vương" để vỗ về. Tước hiệu Hoàng đế Trung Quốc ban cho các quân chủ nước chư hầu xung quanh mà Trung Quốc không thể xâm chiếm để trực tiếp cai trị như với các quận, huyện tại nước mình, hay thời Trung Quốc chia thành nhiều nước trong đó có nước lớn và nước nhỏ mà nước lớn không thể xâm chiếm lãnh thổ nước nhỏ đó (như trường hợp thời Tam quốc Ngụy Đế Tào Phi phong cho Tôn Quyền làm "Ngô vương" là nước nhỏ hơn nhưng không thể xâm chiếm). Một số trường hợp khác là Hoàng đế Trung Quốc phong cho các Hoàng đế Việt Nam làm "Giao Chỉ quận vương" (交阯郡王) hay "An Nam quốc vương" (安南國王) - một cách thừa nhận độc lập trên thực tế, lệ thuộc trên danh nghĩa. Đặc biệt, trong lịch sử Trung Hoa có một tước vị cao hơn Vương nhưng thấp hơn Hoàng Đế. Tước vị này chỉ phong cho con cháu của Khổng Tử, gọi là Diễn Thánh Công (衍聖公). Vào thời Thanh, địa vị của Diễn Thánh Công lên đến tột đỉnh. Xa giá của Diễn Thánh Công có thể đi thẳng qua cổng chính Ngọ Môn, nơi chỉ dành riêng cho Hoàng Đế. Việt Nam Trong lịch sử Việt Nam, Vương là xưng hiệu của Thiên tử Việt Nam, sau đó khi thế nước mạnh lên, các Thiên tử xưng Hoàng đế để tỏ ra ngang hàng với Trung Hoa thì Vương không còn là tước cao nhất. Các quân chủ xưng Vương: Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ. Hùng Vương - theo truyền thuyết là thế tập 18 đời, cai trị quốc gia Văn Lang. An Dương Vương - theo truyền thuyết là người đã đánh bại các Hùng Vương, thành lập nhà nước Âu Lạc. Trưng Nữ Vương - đánh bại Thái thú nhà Hán là Tô Định, sau bị Phục Ba tướng quân Mã Viện càn quét. Triệu Việt Vương - được Lý Nam Đế trao quyền kế tục nhưng để tỏ ra khiêm nhường, tôn trọng Lý Đế nên chỉ xưng Vương chứ không xưng Đế. Ngô vương Quyền - tức Ngô Quyền, người đã đánh bại đội quân của Nam Hán, bắt đầu thời kỳ Giao Châu tách ra khỏi Trung Nguyên. Dương Bình Vương - xen giữa vương triều họ Ngô của Ngô Quyền. Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn - con cháu Ngô Quyền, đều xưng Vương và cùng tại vị. Trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, để tránh xung đột không cần thiết vì các triều đại Trung Quốc quan niệm thế giới chỉ có một Hoàng đế (xem bài Thiên tử và Thiên mệnh); các Hoàng đế Việt Nam thường tiếp nhận và sử dụng danh hiệu [An Nam quốc vương; 安南國王] do triều đình Trung Quốc ban phong để quan hệ ngoại giao với họ. Khi xưng là Hoàng đế, thì "Vương" là một tước hiệu cho thành viên hoàng thất. Các trường hợp phong vương áp dụng trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự như trong lịch sử Trung Quốc: Vương có thể là tước phong cho Hoàng tử, tước phong cho công thần hoàng tộc. Những người này có thể có thực ấp hoặc chỉ có danh vị không, tùy vào tình thế thời đại và quy chế lúc bấy giờ. Các vị Vương của nhà Triệu, nhà Lý và nhà Trần đều có thực ấp, đất phong và lực lượng riêng để gây dựng cơ nghiệp, lúc này Vương cũng như các chư hầu thời nhà Chu và nhà Hán, như một tiểu quân chủ. Đến khi Hậu Lê phục quốc, đều áp dụng chính sách bổng lộc, hạn chế đất phong và binh quyền, tước Vương khi ấy chỉ là danh vị cao quý mà không còn như một tiểu quân chủ nữa. Tên hiệu của tước Vương thời Lý-Trần đa phần là mỹ hiệu, rồi nhóm các đất phong lại làm thực ấp riêng. Đời nhà Trần thêm quy chế đặc biệt, theo đó, các tước Vương vào làm Tể tướng đều xưng là "Công" (公), chỉ có Thân vương thì được phục lại tước "Vương". Theo quan chế nhà Lê sơ, tước Vương chỉ phong cho Hoàng tử hoặc con cả của Hoàng tử đó. Hoàng tử được phong lấy 1 chữ trong tên phủ làm hiệu, ví như Thân vương ở phủ Kiến Hưng thì được gọi là "Kiến vương". Con cả của Thân vương, tức là "Tự Thân vương" (嗣親王) thì được phong thì lấy toàn bộ tên huyện làm hiệu; ví như Tự Thân vương ở huyện Hải Lăng thì gọi là "Hải Lăng vương". Thời nhà Nguyễn, Vương là tước vị cao nhất trong 20 bậc tôn tước phong cho hoàng tộc, và chỉ khi có công trạng mới được phong, gồm các bậc "Thân vương" và "Quận vương". Bình thường kể cả các Hoàng tử đều chỉ phong Công tước với nhiều cấp bậc, như Thân công (親公), Quốc công (國公) và Quận công (郡公). Cũng như triều Lê, tên của Vương, công triều Nguyễn cũng đều là tên địa danh, cao nhất là phủ rồi huyện. Ví dụ như Thọ Xuân Vương Miên Định, phong hiệu "Thọ Xuân" là tên huyện. Phong Vương nhằm biểu dương công thần. Như trường hợp năm Ất Mùi (1175), Lý Anh Tông dị mệnh ban Tô Hiến Thành quyền Nhiếp chính quốc sự, gia thêm tước Vương. Hay như năm Giáp Ngọ (1234), Trần Thái Tông gia phong Thái phó triều Lý là Phùng Tá Chu là "Hưng Nhân vương". Hay như cuối thời Lê sơ, Mạc Đăng Dung chủ động tạm lui về quê nhà Cổ Trai thuộc xứ Đông khi đang ở đỉnh cao quyền lực (giai đoạn 1525-1527) để quan sát tình hình và tránh những lời gièm pha chuyên quyền sau khi liên tục được vua nhà Lê gia tăng chức tước bởi công lao dẹp loạn, giữ ổn định chính sự trong nhiều năm. Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, gia thêm cửu tích. Trường hợp lấy lòng người cát cứ để tránh chiến tranh, điển hình trong lịch sử Việt Nam là việc dùng tước Vương phong cho tản quan. Như vào năm Mậu Tý (1228), Trần Thái Tông đã gia phong cho sứ quân Nguyễn Nộn làm "Hoài Đạo Hiếu Vũ vương". Trong đa số trường hợp khác, phong Vương cho người ngoài hoàng tộc là việc làm bị quyền thần bắt buộc của Hoàng đế. Đòi phong Vương để chuẩn bị cướp ngôi như Hồ Quý Ly; hoặc ngại tránh mang tiếng cướp ngôi thì làm tước thế tập nhiều đời như các chúa Trịnh. Việc xưng Vương của các chúa Nguyễn vốn không phải là được phong mà thực chất là lặp lại quá trình thăng tiến dần đến đích của một vùng lãnh thổ trở thành quốc gia độc lập tại Nam Hà, dù trên danh nghĩa người đứng đầu nó vẫn là thần tử nhà Lê. Theo giai thoại dân gian Việt Nam, vào thời Nguyễn, đã từng có một câu đối được đưa ra có liên quan đến chữ Vương, câu đối do một người Pháp đưa ra: Vương là vua, rút ruột vua phân chia ba đoạn". Giải nghĩa là: chữ Vương (viết bằng chữ Hán: 王) nếu bỏ gạch ở chính giữa sẽ thành chữ Tam (三) và có nghĩa là ba (3). Ý của người ra vế đối là có ý chê vua không có tài, để cho đất nước bị chia cắt làm ba miền. Và câu đối này đã được một nho sinh Việt Nam đối lại khá chỉnh: "Tây là tây, chặt đầu tây phanh thây bốn mảnh", trong đó Tây viết bằng chữ Hán là 西, bỏ đầu thì thành 四, tức là tứ (4). Còn có một câu đối Việt Nam khác nữa là "Dầu vương cả đế". Châu Âu Như một King Tước hiệu [Vương] ở tiếng Anh có thể dịch thành [King], tương đương "Quốc vương" lẫn [Prince], tương đương với "Thân vương", cả hai đều là tước hiệu của một vị Vua nói chung của thể chế Châu Âu, trong đó [Prince] lại thiên về những người con của Vua, tức kiểu gọi Hoàng tử, Vương tử nếu nói theo ngôn ngữ Đông Á. Danh vị [King] biểu thị quân chủ của một Vương quốc, và trái với Prince, thì King luôn luôn biểu thị một quân chủ nhất định và không bao giờ biểu thị vị thế "con của Vua" như Prince thường biểu thị. Danh xưng này bắt nguồn từ [cyning] của tiếng Anh cổ thời Anglo-Saxon, được dịch lại và chuyển ngữ để tương đương với Rex của tiếng Latinh. Sau sự tan rã của Đế chế Byzantine, Châu Âu rơi vào sự hình thành [Những chính quyền Vương quốc man di; Barbarian kingdoms], rồi hình thành nên Đế chế Carolingian của người Frank cùng Vương quốc Anh của người Anglo-Saxon. Sự tan rã của Carolingian tiếp tục dẫn đến những nền quân chủ phong kiến khi chia chác lãnh thổ cố định bởi các chư hầu hoặc thế lực địa phương, hình thành nên Vương quốc Pháp ở Trung Âu, một trong những Kingdom hùng mạnh nhất lịch sử. Và đến thời kỳ cận đại, Châu Âu đã hình thành những [Kingdom] có ảnh hưởng toàn lịch sử, ngoài Anh và Pháp còn có Bồ Đào Nha, Castilla và Aragon của bán đảo Iberia; Sicily, Sardinia và Serbia ở Nam Châu Âu, và Hungary, Ba Lan, Bohemia, Thụy Điển, Đan Mạch, ... ở phía Đông và Bắc Âu. Sự hình thành nhà nước Châu Âu thường đi theo là các chính phủ như Nghị viện, dẫn đến ở một vài trường hợp thì một vị King có thể cai quản nhiều hơn một Vương quốc. Điển hình là nhà Stuart trước khi hợp nhất năm 1707, đã quản cả 3 vương quốc là Anh, Scotland cùng Ireland. Và tuy King cũng thường xem là "một bậc thấp hơn" nếu so với [Emperor], tương tự Chư hầu Vương so với Hoàng đế ở Đông Á, song sự tự chủ và quyền hạn của một King vẫn rất lớn mạnh và đủ khả năng đối chọi với một Emperor, điển hình là việc Vương quốc Pháp luôn cạnh tranh với Thánh chế La Mã. Như một Prince thumb|phải|150px|Mũ miện của một Prince tại Anh. Còn danh xưng [Prince] là một từ được lấy từ tiếng Latinh là [princeps], có nghĩa là "bậc đứng đầu tất cả, chúa tể và người cai trị". Từ này được dùng để chỉ các lãnh đạo của Viện nguyên lão La Mã, tức Princeps senatus. Tại các nước nói tiếng Anh, sự nổi tiếng nhất về tước hiệu này chính là ám chỉ Thân vương xứ Wales, tước vị dành cho một Trữ quân theo truyền thống của nước Anh, vị Prince này cai trị Thân vương quốc Wales, một quốc gia nằm ở rìa Tây của Anh, nói tiếng Wales và nằm trong quyền sở hữu lãnh địa của Vương quốc Anh. Sau đó, Prince trở thành một loại tước hiệu thường là cao nhất trong hệ thống tước phong của một Vương quốc, hoặc là một người thủ lĩnh của một Thân vương quốc. Từ thời kỳ Đế quốc Byzantine, các Prince sở hữu những lãnh địa tự chủ riêng nhưng nằm trong một khối Đế quốc Hoàng quyền thống nhất (giống tình trạng Chư hầu Vương của các triều đại Đông Á), đến trước thế kỉ 13 thì ngay cả một lãnh chúa cũng có thể tự xưng Prince để biểu thị quyền uy chỉ dưới Hoàng đế (Emperor) và Quốc vương (King). Sau thời Trung Cổ đến trước Cách mạng công nghiệp diễn ra, khắp Châu Âu có gần 200 xứ sở mà Prince trị vì với tư cách là một vị vua, nằm rải rác chủ yếu ở Ý và Đức. Suốt thời kỳ này, Prince gần như là một từ nghe hoành tráng hơn monarch để chỉ vua chúa nói chung, mà không kể tước hiệu cụ thể của vị vua chúa ấy là gì, điều này có thể chứng minh qua cuốn [Il Principe] của Niccolò Machiavelli. Trước năm 1714, các Vương tử và Vương nữ - con trai và con gái của quân chủ Anh không có bất kỳ danh xưng cụ thể nào trừ tước hiệu mà mình được tấn phong, và Prince duy nhất vào thời điểm ấy được biết đến là Thân vương xứ Wales. Cách dùng Prince và Princess trong thời kỳ này chỉ là một cách xác định ví von biểu thị địa vị của Vương tử hoặc Vương nữ ấy, đó vẫn không phải là tước xưng chính thức. Sau khi Quốc vương George I của nhà Hanover lên ngôi, vương thất Anh bắt đầu dùng "Prince" để ám chỉ các con trai cùng cháu trai của quân chủ đang trị vì, do vậy có thể thấy từ thời kỳ này trở đi, cho dù là tước phong quý tộc Công tước hay Hầu tước, Bá tước thì các Vương tử hoặc Vương tôn đều có tước xưng Prince ngay trước tên thánh của mình. Kèm theo đó, họ có được dùng kính ngữ His Royal Highness (gọi tắt là HRH). Dưới sự ảnh hưởng của tiếng Anh cùng sự lan tỏa của Vương thất Anh dưới thời Nữ vương Victoria và Quốc vương Christian IX, cách dùng Prince ám chỉ Vương tử, Hoàng tử và Princess ám chỉ công chúa ngày càng phổ biến. Về ý nghĩa thực sự, cũng như Infante của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tước xưng Prince có sự phức tạp đáng kể, do vậy cách tốt nhất vẫn là xem xét vai vế mà dịch thuật, hoặc là giữ nguyên như tước hiệu Infante vậy. Ví dụ Prince Philip, Công tước xứ Edinburgh - chồng của Nữ vương Elizabeth II, ông được gọi là [HRH The Prince Philip, Duke of Edinburgh], nhưng không thể dịch thành "Vương tử", mà thường là "Vương phu" hoặc phổ biến là "Vương tế/ Hoàng tế". Trong khi đó, Prince George xứ Cambridge - cháu Đích tằng tôn của Nữ vương, được gọi là [HRH Prince George of Cambridge'''], cũng không thể dịch thành "Hoàng tử" hay "Vương tử" theo nghĩa thông thường do George không phải là con của quân chủ, mà là cháu cố của quân chủ (tức "Vương tằng tôn"). Vì vậy, trong các tài liệu Việt ngữ thường dùng chung danh xưng Hoàng thân cho các trường hợp tước xưng là Prince và danh xưng Thân vương cho các trường hợp tước vị là Prince. Xem thêm Vương thất Anh Vương tử Anh Phong tước Hoàng đế Công tước Hầu tước Tước hiệu quý tộc Âu châu Thân vương của Thánh chế La Mã Chú thích Tham khảo Từ điển chức quan Việt Nam'', tác giả Đỗ Văn Ninh, Nhà xuất bản Thanh niên, xuất bản năm 2006 Tước hiệu quý tộc Phong kiến
Vương (chữ Hán: 王) một họ trong tên gọi đầy đủ có nguồn gốc là người Á Đông. Họ này có mặt tại Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam. Ba họ phổ biến nhất Trung Quốc là Lý, Trương và Vương với tỉ lệ dân số mang các họ này lần lượt là 7,9%, 7,4% và 7,1%; hiển nhiên trở thành những họ phổ biến nhất thế giới. Họ Vương tại các nước Trong danh sách Bách gia tính của Trung Quốc họ này đứng thứ 1, về mức độ phổ biến họ này xếp thứ 5 ở Trung Quốc theo thống kê năm 2007. Một số nhân vật họ Vương nổi tiếng hiện nay và được đề cập trong sử sách như: Singapore Vương Đỉnh Xương là một chính trị gia, doanh nhân người Singapore và là tổng thống thứ năm của Singapore từ năm 1993 đến 1999. Việt Nam Vương Thị Tiên, tức Ngọc Quang Công chúa, nữ tướng thời Hai Bà Trưng. Được Trưng Nữ Vương phong Ngọc Quang công chúa. Bà được xem là vị nữ thần Việt Nam vì được cho là đã có công giúp dân cấy lúa vào thời Lý. Vương Giát, trạng nguyên. Vương Thế Lộc, thám hoa. Vương Hữu Phùng, thám hoa. Vương Hồng Sển, nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ. Vương Kiều Ân (Anh Thơ), nhà thơ. Vương Hữu Nhơn, Tổng Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đầu tiên, nguyên Thứ Trưởng Bộ Tài chính Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch UBND Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội. Vương Bình Thạnh, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang. Vương Chính Đức, Vua H'Mông (Vua Mèo), chủ nhân dinh thự họ Vương ở Hà Giang. Vương Anh Tuấn, Giám Đốc Điều Hành Khách sạn Continental, Phó Giám Đốc Điều Hành Tổng công ty Du lịch Sài Gòn Vương Văn Huy, cầu thủ bóng đá Việt Nam. Vương Thừa Vũ, trung tướng, chỉ huy trưởng quân đoàn 308 Triều Tiên Tại Triều Tiên, họ Vương thiết lập nên cả một triều đại là vương triều Cao Ly. Jeon Ji Hyun (tên thật: Wang Ji Hyun, Hán Việt: Vương Trí Hiền), là một diễn viên kiêm người mẫu Hàn Quốc. Trung Quốc Vương Tiễn: đại danh tướng nhà Tần cuối thời Chiến Quốc Vương An Thạch: Nhà chính trị-kinh tế-nhà văn Trung Quốc. Vương Chiêu Quân: Một cung phi nổi tiếng của Hán Nguyên Đế về sắc đẹp - đứng trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc của mọi thời đại và về nỗi đau khổ mà nàng phải gánh chịu khi đi cống Hồ. Vương Chính Quân: Hoàng hậu của Hán Nguyên Đế, là vị hoàng hậu thọ nhất trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài hơn 7 đời vua của triều Tây Hán. Vương Mãng, hoàng đế nhà Tân. Vương Thế Sung: đại thần nhà Tùy, một thế lực cát cứ cuối thời Tùy đầu đời Đường Vương Hoàng hậu, 1 hoàng hậu bị thất sủng của Đường Cao Tông, bị Võ hậu giết chết Đường]] Hiếu Cảnh Vương Hoàng hậu, hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế, sinh mẫu của Hán Vũ Đế Vương Bột: Nhà thơ Trung Quốc, tự Tử An, nằm trong tứ kiệt đời Đường (Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương) - bài thơ nổi tiếng nhất của ông có lẽ là Đằng vương các. Vương Duy: Thi nhân đời Đường, tự Ma Cật, ông còn đạt thành tựu cao trong hội họa, âm nhạc, thư pháp. Vương Xương Linh: Thi nhân, tự Thiếu Bá, với sở trường là thơ thất ngôn tuyệt cú. Vương Loan: Thi nhân đời Đường. Vương Kiến: Thi nhân, tự Trọng Sơ, nổi tiếng ngang với Trương Tịch. Vương Chi Hoán: Thi nhân đời Đường, được người đương thời tặng cho tên Thi Thiên Tử nhờ bài thơ Xuất Tái - Lương Châu Từ. Vương Giá: Thi nhân. Vương Hàn: Thi nhân đời Đường, tự Tử Vũ - một trong 2 bài "Lương Châu từ" của ông đã trở thành bất hủ (Vương Hàn có 2 bài trùng tên "Lương Châu từ"). Vương Trùng Dương, người sáng lập Toàn Chân Giáo Vương Thông: Tướng chỉ huy quân Minh thời kì khởi nghĩa Lê Lợi. Vương Chấn, hoạn quan, qua đại thần nhà Minh thời Minh Anh Tông. Vương Diệu Vũ, Tướng lĩnh quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa Vương Kỳ Sơn, Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc Vương Ninh, Tư lệnh Tổng bộ Cảnh sát vũ trang Trung Quốc Vương Kiện Lâm, tỷ phú, chủ tịch tập đoàn Vạn Đạt Vương Gia Lương , kỳ thủ cờ tướng Trung Quốc sứ Hoa Bắc, được tôn là "Quan Đông đệ nhất danh kỳ", "Bắc Vương thái đầu", là sư phụ của nhiều danh thủ nổi tiếng của làng cờ Trung Quốc Vương Thiên Nhất, kỳ thủ cờ tướng Trung Quốc, vô địch Trung Quốc năm 2012 , 2016, 2019. Vô địch thế giới năm 2013 , 2017. Là kỳ thủ có hệ số Elo cao nhất làng cờ Trung Quốc với biệt danh "Ngoại tinh lai khách" đồng nghĩa là kỳ thủ số một thế giới hiện tại. Vương Lâm Na, kỳ thủ cờ tướng Trung Quốc, vô địch Trung Quốc năm 1997, 2000, 2009, 2014 và vô địch thế giới năm 2001, 2015 Vương Tấn (diễn viên), đạo diễn Vương Phi, ca sĩ Vương Tổ Lam, diễn viên, nghệ sĩ hài, ca sĩ. Vương Tổ Hiền, diễn viên Vương Bảo Cường, diễn viên Vương Khải (diễn viên) Vương Đại Lục, diễn viên Vương Diễm, diễn viên Vương Âu, diễn viên Vương Tử Văn, diễn viên Vương Lệ Khôn, diễn viên Vương Tử Vy, diễn viên Vương Hiểu Thần, diễn viên Vương Tình, diễn viên phim Thời Gian Và Em Đều Ngọt Ngào Vương Linh Hoa, diễn viên múa Vương Tâm Lăng, ca sĩ, diễn viên Đài Loan Vương Lực Hoành ca sĩ, diễn viên Đài Loan Vương Nguyên ca sĩ nhóm nhạc TFBOYS Vương Tuấn Khải ca sĩ nhóm nhạc TFBOYS Vương Nhất Bác, ca sĩ, thành viên nhóm nhạc Uniq (ban nhạc) Jackson Wang, tên thật là Vương Gia Nhĩ, rapper người Hồng Kông, thành viên nhóm nhạc Kpop GOT7. Vương Phi Phi (Fei) nữ ca sĩ người Trung Quốc, cựu thành viên nhóm nhạc Miss A Vương Tử Dị, rapper người Trung Quốc, cựu thành viên nhóm nhạc Nine Percent Vương Lâm Khải, rapper người Trung Quốc, cựu thành viên nhóm nhạc Nine Percent Nhật Bản Ō Sadaharu (Hán Việt: Vương Trinh Trị), cầu thủ bóng chày người Nhật Bản gốc Đài Loan Khác Vàng Pao (âm Hán Việt: Vương Bảo, 1929-2011), thủ lĩnh quân sự người H'Mông ở Lào, sau di tản sang Hoa Kỳ. Nhân vật hư cấu mang họ Vương Vương Thúy Kiều, và anh em cha mẹ trong nhà trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và Truyện Kiều của Nguyễn Du Vương Hy Phượng: vợ Giả Liễn, cháu Vương Phu Nhân, chị họ của Giả Bảo Ngọc trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, nổi tiếng là một người xinh đẹp, sắc sảo nhưng cũng không kém phần chua ngoa đanh đá, là người nắm hết quyền hành của phủ Vinh Quốc, có tài cai quản nhà cửa rất khéo léo và chu toàn.
Ngày nhảy thế giới (tiếng Anh: World Jump Day) là sự kiện flash mob (đám đông đột ngột) toàn cầu đầu tiên được quy định vào ngày 20 tháng 7 2006 vào 10:39:13 hay 11:39.13 GMT, khi đó tổ chức dự kiến có 600 triệu người tại bán cầu tây sẽ nhảy cùng một lúc (hiện giờ trên trang web thông báo đã có 599.176.298 người nhảy đã đăng ký đến ngày 19 tháng 7, 2006; theo World Stats, con số đó có thể là 50% tổng cộng người sử dụng Internet). Họ cho là sự kiện này có thể chuyển Trái Đất khỏi quỹ đạo hiện giờ của nó, và đến một quy đạo khác, không gây ra sự ấm lên của Trái Đất. Trang mạng là sự cài đặt nghệ thuật, và không phải là nghiêm túc. Trang mạng của Ngày nhảy thế giới cho biết giờ nhảy là 11:39:13 GMT, nhưng giờ đếm xuống cũng trên trang đấy (theo 6 tháng 5 2006) được đếm xuống đến 10:39:13 GMT. Đó xem ra là sự nhầm lẫn giữa giờ GMT hay UTC và giờ hợp pháp UK 11:39:13.
Định nghĩa là sự xác định bằng ngôn ngữ nhất định những đặc trưng cơ bản tạo thành nội dung của khái niệm về một sự vật, hiện tượng hay quá trình, với mục đích phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Định nghĩa có vai trò quan trọng trong khoa học và là bộ phận căn bản trong mọi lý thuyết khoa học. Các nguyên tắc của định nghĩa: Nguyên tắc tương xứng, nghĩa là ngoại diên của khái niệm được định nghĩa và ngoại diên của khái niệm dùng để định nghĩa phải bằng nhau Không nói vòng quanh Không nói theo cách phủ định Phải rõ ràng, nghĩa là định nghĩa không chứa những thuộc tính có thể suy ra từ thuộc tính khác Ví dụ: Hình vuông là hình có 4 góc vuông và có 4 cạnh bằng nhau. Để định nghĩa một khái niệm nào đó, người ta thường ghép nó với một khái niệm lớn hơn (chủng), rồi chỉ ra những đặc điểm cơ bản của khái niệm cần định nghĩa (đặc điểm về loại). Ví dụ, định nghĩa về carbon: "carbon" là nguyên tố hóa học (chủng) có trọng lượng nguyên tử bằng 12 đơn vị carbon (đặc điểm về loại)". Đối với những khái niệm lớn và bao trùm, chẳng hạn như khái niệm vật chất, ý thức, người ta sử dụng cách định nghĩa ngoại lệ. Toán học Trong toán học, khi đưa ra 1 khái niệm, người ta thường liệt kê các điều kiện cần và đủ để xác định khái niệm đó. Một khái niệm trong toán học do đó có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, điển hình là số e. Thông thường có 4 cách định nghĩa trong toán học: Phương pháp cấu trúc chỉ rõ cách xây dựng khái niệm đó Phương pháp quy khái niệm đang xét về những khái niệm đã biết Phương pháp tiên đề, định nghĩa một khái niệm thông qua các tiên đề: ví dụ định nghĩa về song song Phương pháp quy nạp dựa trên 2 yếu tố: Những đối tượng xuất phát hoặc cơ bản của hệ thống Những quy tắc hay thao tác cho phép dùng những đối tượng hiện có để tạo thành đối tượng mới của hệ thống Định nghĩa mờ Định nghĩa mờ trong lô gíc mờ còn được gọi là định nghĩa thao tác, là phương pháp định nghĩa một sự vật thông qua một tập hợp nhận định gần đúng về sự vật đó nhờ một loạt thao tác có thể tạo ra bằng thực nghiệm hoặc quan trắc mà kết quả khách quan của nó có thể trực tiếp nhận biết được thông qua sự quan sát có tính chất kinh nghiệm hay bằng đo lường. Ví dụ định nghĩa về lửa như sau: "Lửa là một cái gì đó nóng". "Lửa là cái phát sáng". "Lửa là sức mạnh của thần thánh"...
Lớp Cá vây tia (danh pháp khoa học: Actinopterygii; ) là một lớp chứa các loài cá xương có vây tia. Về số lượng, chúng là nhóm chiếm đa số trong số các động vật có xương sống, với khoảng 33.200 loài đã biết được bắt gặp ở mọi môi trường nước, từ các ao, hồ, đầm nước ngọt đến các môi trường nước mặn của biển và đại dương. Phân loại Theo truyền thống, lớp Cá vây tia (Actinopterygii) đã từng được chia làm các phân lớp Chondrostei và Neopterygii. Neopterygii lại chia thành hai phân thứ lớp/cận lớp Holostei và Teleostei. Một số bằng chứng hình thái học cho thấy Neopterygii dường như là cận ngành, nhưng các phân tích phát sinh chủng loài gần đây cho thấy nó là đơn ngành. Holostei hiện nay bị giới hạn trong phạm vi chỉ là những dạng gần với Chondrostei còn tồn tại hơn là các nhóm khác. Gần như tất cả các loài cá còn tồn tại ngày nay đều là cá xương thật sự (Teleostei). Danh sách các nhóm khác nhau được đưa ra dưới đây, giảm dần theo trật tự của các bộ, được sắp xếp theo trật tự mà người ta tin là thể hiện đúng trật tự tiến hóa theo mức siêu bộ. Danh sách này lập theo FishBase với các ghi chú khi có khác biệt với Nelson và ITIS. Phân lớp Chondrostei Bộ Polypteriformes: bao gồm các loài cá nhiều vây. Bộ Acipenseriformes: bao gồm cá tầm và cá tầm thìa. Bộ Cheirolepidiformes(†) Bộ Guildayichthyiformes(†) Bộ Luganoiiformes(†) Bộ Palaeonisciformes(†) Bộ Perleidiformes(†) Bộ Phanerorhynchiformes(†) Bộ Pholidopleuriformes(†) Bộ Ptycholepiformes(†) Bộ Saurichthyiformes(†) Bộ Tarrasiiformes(†) Phân lớp Neopterygii Bộ Pachycormiformes (†) Cận lớp Holostei Bộ Lepisosteiformes: cá láng, cá nhái sông hay cá sấu hỏa tiễn Bộ Amiiformes: cá vây cung Cận lớp Teleostei Siêu bộ Elopomorpha Bộ Elopiformes: bao gồm cá cháo biển (cá măng biển) và cá cháo lớn Bộ Albuliformes: cá mòi đường Bộ Notacanthiformes: bao gồm cá thằn lằn biển và cá chình gai Bộ Anguilliformes: bao gồm cá chình thực thụ Bộ Saccopharyngiformes: Siêu bộ Osteoglossomorpha Bộ Osteoglossiformes: cá thát lát, cá rồng, cá mơn Bộ Hiodontiformes: bao gồm cá mắt trăng và cá mắt vàng Siêu bộ Clupeomorpha Bộ Clupeiformes: bao gồm cá trích và cá cơm Siêu bộ Ostariophysi Bộ Gonorynchiformes: bao gồm cá măng sữa, cá hồi mũi khoằm Bộ Cypriniformes: bao gồm cá anh vũ, cá chép, cá chày đất, cá vàng, cá tuế, cá duồng xanh v.v Bộ Characiformes: bao gồm cá chép mỡ, cá chim trắng nước ngọt, cá hổ (piranha). Bộ Gymnotiformes: bao gồm cá chình điện và cá dao Bộ Siluriformes: bao gồm cá nheo, cá trê, cá ba sa, cá tra Siêu bộ Protacanthopterygii Bộ Argentiniformes Bộ Salmoniformes: bao gồm các loài cá hồi Bộ Esociformes: cá chó (cá măng) Bộ Osmeriformes: cá ốt me Siêu bộ Stenopterygii Bộ Ateleopodiformes Bộ Stomiiformes: bao gồm cá miệng cứng, cá rồng râu và cá rìu biển Siêu bộ Cyclosquamata Bộ Aulopiformes: bao gồm cá răng kiếm, cá thằn lằn và cá lưỡi trích Siêu bộ Scopelomorpha Bộ Myctophiformes: bao gồm cá đèn (cá mũi rắn) Siêu bộ Lampridiomorpha Bộ Lampriformes: bao gồm cá cờ mặt trăng Siêu bộ Polymyxiomorpha Bộ Polymixiiformes: cá râu Siêu bộ Paracanthopterygii Bộ Percopsiformes: bao gồm cá hang động và cá hồi-pecca Bộ Batrachoidiformes: cá cóc Bộ Lophiiformes: bao gồm cá vảy chân Bộ Gadiformes: bao gồm cá tuyết Bộ Ophidiiformes: bao gồm cá chồn, cá ngọc trai Siêu bộ Acanthopterygii Bộ Mugiliformes: bao gồm cá đối Bộ Atheriniformes: bao gồm cá suốt và cá cầu vồng Bộ Beloniformes: bao gồm cá nhái, cá chuồn, cá kìm Bộ Cetomimiformes: cá dạng cá voi Bộ Cyprinodontiformes: bao gồm cá sóc Bộ Stephanoberyciformes Bộ Beryciformes Bộ Zeiformes: bao gồm các loài cá dây Bộ Gobiesociformes: Bộ Gasterosteiformes: bao gồm các loài cá gai Bộ Syngnathiformes: bao gồm cá chìa vôi và cá ngựa Bộ Synbranchiformes: bao gồm các loài lươn, chạch. Bộ Tetraodontiformes: bao gồm các loài cá nóc, cá đầu v.v Bộ Pleuronectiformes: cá bơn Bộ Scorpaeniformes: bao gồm các loài cá mù làn Bộ Perciformes: 40% tất cả các loài cá, bao gồm cá rô, cá vược, cá thu, cá pecca v.v Incertae sedis Bộ Peltopleuriformes(†) Phát sinh chủng loài Phát sinh chủng loài của cá vây tia (Actinopterygii) vẫn là khía cạnh có vấn đề. Theo truyền thống, người ta cho rằng các bộ Amiiformes và Lepisosteiformes có quan hệ họ hàng gần và gộp chúng cùng vài nhánh đã tuyệt chủng khác trong nhóm gọi là Holostei. Một số phân tích hình thái lại cho rằng Amiiformes có quan hệ họ hàng gần nhất với Teleostei còn Lepisosteiformes có quan hệ họ hàng gần nhất với nhánh chứa cả Teleostei lẫn Amiiformes. Tuy nhiên, các phân tích hình thái khác và phân tích phát sinh chủng loài phân tử lại cho thấy tính đơn ngành của Holostei. Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Broughton và ctv (2013), Betancur-R. và ctv (2013): Chú thích
Chặng đua GP Pháp (tên chính thức Grand Prix de France) là một chặng đua của giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua thi đấu ở trường đua Paul Ricard ở Pháp. Lịch sử GP Pháp là một trong những giải đua xe đầu tiên trên thế giới, nó được tổ chức lần đầu vào năm 1906. Đến năm 1950, nó được sáp nhập và trở thành một chặng đua của giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới. Người chiến thắng chặng đua F1 Pháp đầu tiên là huyền thoại Juan Manuel Fangio. Đây là chặng đua từng được rất nhiều trường đua đăng cai. Tay đua giành được nhiều chiến thắng nhất là Michael Schumacher, tất cả 8 chiến thắng của ông đều diễn ra ở trường đua Magny Cours. Nó từng có giai đoạn từ năm 2009-2017 không được tổ chức vì lý do kinh phí. Từ năm 2018, trường đua Paul Ricard là địa điểm đăng cai thường xuyên chặng đua này. Năm 2018-2019, người chiến thắng đều là Lewis Hamilton. Năm 2020, chặng đua bị hủy bỏ do đại dịch COVID-19. Năm 2021, Max Verstappen đã sử dụng chiến thuật 2 pit, đến cuối cuộc đua có pha vượt mặt trực tiếp Lewis Hamilton để giành chiến thắng. Kết quả theo năm
Giải đua ô tô Công thức 1 Đức (Großer Preis von Deutschland) là một trong nhiều giải thuộc giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu trên đường đua Nürburgring tại Nürburgring, Đức. Giải Đức chính thức trở thành một phần của giải vô địch thế giới từ năm 1951 với chiến thắng của tay đua người Ý Alberto Ascari tại đường đua Nürburgring. Michael Schumacher trở thành tay đua đầu tiên 4 lần vô địch giải Đức sau khi về nhất năm 2006. Các thông số kỹ thuật của đường đua Nürburgring Tham dự giải Công thức 1 từ: 1951 Số lần tham dự giải Công thức 1: 59 (tính đến năm 2011) Chiều dài một vòng đua: 5,148 km Số vòng đua: 60 Tốc độ tối đa: Sức chứa tối đa: Kỷ lục chạy một vòng nhanh nhất: 1 phút 29,468 giây của Michael Schumacher (Ferrari) năm 2004 Năm 2011 Thời gian: 24 tháng 7 Các cá nhân và đội đua vô địch
Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc là một trong nhiều giải thuộc giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu trên đường đua Quốc tế Thượng Hải tại Thượng Hải, Trung Quốc. Giải Trung Quốc chính thức tham gia giải vô địch thế giới Công thức 1 từ năm 2004 với chiến thắng của tay đua người Brasil Rubens Barrichello thuộc đội Farrari. Các thông số kỹ thuật của đường đua quốc tế Thượng Hải Tham dự giải Công thức 1 từ: 2004 Số lần tham dự giải Công thức 1: 8 Chiều dài một vòng đua: 4,63 km Số vòng đua: 56 Tốc độ tối đa: Sức chứa tối đa: Kỷ lục chạy một vòng nhanh nhất: 1 phút 32,238 giây của Michael Schumacher (Ferrari) năm 2004 Các cá nhân và đội đua vô địch
Quách Thị Trang (1948 - 1963), pháp danh Diệu Nghiêm, là một phật tử tham gia trong cuộc biểu tình phản đối chính sách bất bình đẳng tôn giáo của chế độ Đệ nhất Cộng hòa và bị bắn chết vào ngày 25 tháng 8 năm 1963. Cuộc đời Quách Thị Trang sinh ngày 4 tháng 1 năm 1948 tại làng Cổ Khúc, huyện Tiên Hưng (nay là xã Phong Châu huyện Đông Hưng), tỉnh Thái Bình. Chị là con ông Quách Văn Bội và bà Hà Thị Vân, và là con thứ tư trong một gia đình có sáu người con, gồm 4 trai 2 gái. Năm 1954, trong cuộc di cư vào Nam, sáu anh chị em vào ở vùng Chí Hòa – Sài Gòn, riêng cha chị bị kẹt ở lại và khoảng 3 tháng sau thì được tin ông qua đời. Gặp cảnh nhà khó khăn, nhưng người mẹ đảm đang thu xếp, các anh chị em của chị đều được tiếp tục học hành, chị là nữ sinh của trường Nguyễn Khuyến, đồng thời sinh hoạt trong gia đình phật tử Minh tâm, pháp danh là Diệu Nghiêm. Năm 1963, chị tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống chế độ và chính sách thiên vị tôn giáo của nhà cầm quyền lúc bấy giờ. Vào ngày 25 tháng 8 năm 1963, Quách Thị Trang có mặt trong số hơn 5.000 sinh viên học sinh biểu tình, trước công viên Diên Hồng ở trước cổng chính chợ Bến Thành (Sài Gòn). Cuộc biểu tình này do Ủy ban chỉ đạo Học sinh liên trường chỉ đạo, nhằm chống lại quy định "thiết quân luật" của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Được lệnh cấp trên, đông đảo những cảnh sát dã chiến đã dàn quân và dùng loa yêu cầu đoàn biểu tình giải tán. Bất chấp những lời kêu gọi, tốp nữ học sinh đi đầu vẫn xông tới. Đến lúc này, viên cảnh sát Nguyễn Văn Khánh từ bót Lê Văn Ken (ngay trước Bệnh viện Sài Gòn) nổ súng thẳng vào đoàn biểu tình làm nhiều người chết và bị thương. Trong số người chết có Quách Thị Trang, khi ấy mới 15 tuổi. Sau khi bị bắn chết, vì muốn giấu kín cái chết này nên cảnh sát đem thi hài chị về chôn trong nghĩa trang Tổng tham mưu. Tuy nhiên, danh tính của chị được xác nhận và các sinh viên học sinh và đông đảo người dân ở Sài Gòn đã tổ chức một đám tang lớn cho chị nhằm phản đối hành động này của chính quyền. Ngày 26 tháng 8 năm 1963, Hội Thanh niên Thế giới, trụ sở tại Brussel, Bỉ đã đánh điện để phản đối việc chính phủ Ngô Đình Diệm đã tước bỏ quyền tự do dân chủ của thanh niên, sinh viên học sinh Việt Nam với nội dung: Dư âm Ngay sau Cuộc đảo chính 1963 tại Nam Việt Nam lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, người dân Sài Gòn đã bắt đầu gọi nơi đây là "Bùng binh Quách Thị Trang" để tôn vinh chị thay cho tên gọi chính thức là "Công trường Diên Hồng". Đầu tháng 8 năm 1964, để tưởng nhớ Quách Thị Trang, Hội sinh viên học sinh do sinh viên Vũ Quang Hùng làm trưởng ban, tổ chức quyên góp để tạc tượng chị. Ngày 25 tháng 8, nhân cuộc biểu tình chống tướng Nguyễn Khánh, tượng được dựng ngay ở gần nơi chị mất, tức ngay tại bùng binh, kề bên tượng đài danh tướng Trần Nguyên Hãn, trước cửa chính chợ Bến Thành, Sài Gòn. Cũng trong năm này, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đặt tên chị cho một cô nhi viện lớn, nuôi hơn 7.000 trẻ em mồ côi tọa lạc ở phía sau chùa Việt Nam Quốc Tự. Năm 1965, được sự đồng ý của chính phủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, thượng tọa Thích Mãn Giác đã cho đặt một tấm biển đồng đề "Liệt nữ Quách Thị Trang" tại bệ tượng. Năm 1966, phần mộ của chị đã được gia đình và một số Phật tử cải táng đưa về chùa Phổ Quang cho đến hôm nay. Sau 1975, Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận Quách Thị Trang là liệt sĩ và nơi chị đã hy sinh cũng được chính thức mang tên quảng trường Quách Thị Trang. Vì lý do thì công tuyến đường sắt tàu điện ngầm Bến Thành - Suối Tiên, cho nên quảng trường đã bị phá bỏ.
Khúc xạ hay chiết xạ là thuật ngữ thường dùng để chỉ hiện tượng ánh sáng đổi hướng khi đi qua mặt phân cách giữa hai môi trường trong suốt có chiết suất khác nhau. Mở rộng ra, đây là hiện tượng đổi hướng đường đi của bức xạ điện từ, hay các sóng nói chung, khi lan truyền trong môi trường không đồng nhất. Hiện tượng này được giải thích bằng bảo toàn năng lượng và bảo toàn động lượng. Do sự thay đổi của môi trường, vận tốc pha của sóng thay đổi nhưng tần số của nó lại không đổi. Điều này được quan sát thấy nhiều nhất khi một sóng chuyển từ môi trường này sang môi trường khác ở bất kỳ góc nào khác 0° so với pháp tuyến. Sự khúc xạ ánh sáng là hiện tượng quan sát thường thấy nhất, nhưng bất kỳ loại sóng nào cũng có thể khúc xạ khi nó tương tác với môi trường, ví dụ khi sóng âm truyền từ môi trường này sang môi trường khác hoặc khi các sóng nước di chuyển xuống độ sâu khác nhau. Sự khúc xạ tuân theo định luật Snell, phát biểu rằng, đối với một cặp môi trường và một sóng với một tần số duy nhất, tỉ lệ sin của góc tới θ1 và góc khúc xạ θ2 tương đương với tỷ số vận tốc pha (v1 / v2) trong hai môi trường, hoặc tương đương, với chiết suất tương đối (n2 / n1) của hai môi trường. ε và μ biểu diễn hằng số điện môi và mômen lưỡng cực từ của hai môi trường khác nhau: Định luật Snell Công thức đặc trưng của hiện tượng khúc xạ, còn gọi là định luật Snell hay định luật khúc xạ ánh sáng có dạng: với: i là góc giữa tia sáng đi từ môi trường 1 tới mặt phẳng phân cách và pháp tuyến của mặt phẳng phân cách hai môi trường. r là góc giữa tia sáng đi từ mặt phân cách ra môi trường 2 và pháp tuyến của mặt phẳng phân cách hai môi trường. n1 là chiết suất môi trường 1. n2 là chiết suất môi trường 2. Tỉ số không thay đổi, phụ thuộc vào bản chất của hai môi trường được gọi là chiết suất tỉ đối của môi trường chứa tia khúc xạ (môi trường 2) đối với môi trường chứa tia tới (môi trường 1). Nếu tỉ số này lớn hơn 1 thì góc khúc xạ nhỏ hơn góc tới, ta nói môi trường 2 chiết quang hơn môi trường 1. Ngược lại nếu tỉ số này nhỏ hơn 1 thì góc khúc xạ lớn hơn góc tới, ta nói môi trường 2 chiết quang kém môi trường 1. Lưu ý: Trong trường hợp tỉ số , để xảy ra hiện tượng khúc xạ thì góc tới phải nhỏ hơn góc khúc xạ giới hạn: , nếu nó lớn hơn góc khúc xạ giới hạn, thì sẽ không có tia khúc xạ, thay vào đó sẽ xảy ra hiện tượng phản xạ toàn phần. Lịch sử Hiện tượng khúc xạ được giải thích lần đầu tiên thành công trong lịch sử thế giới bởi lý thuyết sóng ánh sáng của Christiaan Huygens vào thế kỷ 17.
Ngân hàng Phát triển châu Á (tiếng Anh: The Asian Development Bank; viết tắt: ADB) là một thể chế tài chính đa phương cung cấp các khoảng tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp các nước châu Á xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội. ADB được thành lập vào năm 1966, có trụ sở chính tại Manila, và chủ tịch là một người Nhật Bản. Lịch sử phát triển Thập niên 1960 1963: Liên Hợp Quốc quyết định thiết lập thể chế tài chính để tăng cường sự phát triển kinh tế và hợp tác 1965: Tổng thống Philippines là Diosdado Macapagal mở bước khai phá cho vùng Đông Nam Á bằng cách vận động việc đặt trụ sở chính ở Manila 1966: ADB được thành lập ở Manila vào ngày 12/12 với 31 thành viên để phục vụ trọng yếu khu vực nông thôn. Việt Nam Cộng hòa góp USD 6,6 triệu trong số vốn một tỷ nguyên thủy. 1967: ADB phê duyệt dự án hỗ trợ kỹ thuật đầu tiên để giúp đỡ sản xuất lương thực ngũ cốc Thập niên 1970 1970: Với mục đích mở rộng hoạt động, ADB thúc đẩy nguồn tài nguyên thêm nữa từ các tổ chức song phương và đa phương khác 1972: ADB chuyển đến trụ sở chính mới ở ngay bờ Vịnh Manila 1974: Quỹ phát triển châu Á được thiết lập để cung cấp các khoản vay ưu đãi cho các thành viên nghèo nhất của ADB 1978: ADB tập trung cải thiện đường sá và cung cấp điện Thập niên 1980 1980: Tiến đến hành động chú tâm đến các vấn đề xã hội như giới tính, môi trường, giáo dục và sức khoẻ 1981: Ý thức được cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần 2, ADB tiếp tục hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các dự án năng lượng 1985: Chính sách mới chú tâm đến nhu cầu liên quan đến phụ nữ tích cực hơn trong tiến trình hội nhập 1986: Thúc đẩy hỗ trợ bộ phận tư nhân, với khoản vay đầu tiên không có đảm bảo của chính phủ với Pakistan Thập niên 1990 1991: ADB chuyển đến trụ sở chính mới ở Ortigas Center; khu này ngay sau đó phát triển nhanh chóng thành khu thương mại và tài chính của Manila 1992: ADB bắt đầu xúc tiến sự hợp tác khu vực, tiến gần hơn đến sợi dây liên kết giữa các Quốc gia trong tiểu vùng Sông Mekong 1997: Một số nước thuộc Liên Xô Cũ ở Trung Á gia nhập ADB, trong khi đó, một cuộc khủng hoảng tài chính đã làm rung chuyển châu Á 1999: ADB chấp nhận giảm đói nghèo là mục tiêu hàng đầu và phê duyệt một số chính sách đột phá Thập niên 2000 2001: ADB thúc đẩy cơ cấu xã hội chiến lược dài hạn đển hướng dẫn hoạt động xuyên suốt đến 2015 2002: ADB giúp đỡ các nước hậu chiến như Afghanistan, Đông Timor 2004: ADB bổ nhiệm bà Khempheng Pholseno của Lào làm phó chủ tịch nữ đầu tiên Chức năng Chức năng của ADB là hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng, phát triển xã hội, quản lý kinh tế tốt. Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng: tăng trưởng kinh tế không tự nhiên có tính bền vững và thường làm gia tăng mất công bằng. Để tăng trưởng bền vững và công bằng, cần có sự can thiệp trong khi vẫn đảm bảo một sự phát triển thân thiện với thị trường. Phát triển xã hội: giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng để giảm thiểu những rủi ro trong quá trình phát triển kinh tế. Quản lý kinh tế tốt: thực hiện các chính sách kinh tế một cách có trách nhiệm, có sự tham gia, có khả năng dự đoán, và minh bạch, chống tham nhũng. Các mục tiêu hoạt động Để thực hiện được chức năng nói trên, ADB đề ra các mục tiêu cho hoạt động của mình, bao gồm: bảo vệ môi trường, hỗ trợ giới và phát triển, phát triển khu vực tư nhân, hỗ trợ hợp tác khu vực. Bảo vệ môi trường: người nghèo ở thường bị buộc phải sống ở những khu vực có điều kiện môi trường bất lợi. Muốn xóa nghèo thì phải bảo vệ môi trường. Hỗ trợ giới: ở nhiều nước, phần lớn người nghèo là phụ nữ. Hỗ trợ phụ nữ phát triển là một biện pháp xóa nghèo. Hỗ trợ khu vực tư nhân: khuyến khích cải cách và hoàn thiện môi trường chính sách để tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân, hỗ trợ sự hợp tác giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, cho vay và hỗ trợ kỹ thuật cho các xí nghiệp tư nhân và thể chế tài chính tư nhân Khuyến khích hợp tác và liên kết khu vực: khuyến khích sự hợp tác giữa các chính phủ để phát triển cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy thương mại và đầu tư,... Cơ cấu tổ chức Về cơ cấu tổ chức, cơ quan ra quyết định cao nhất của ADB là Ban Thống đốc do mỗi quốc gia thành viên đóng góp một đại diện. Đến lượt nó ban Thống đốc lại tự bầu ra trong số họ 12 thành viên của Ban Giám đốc và các cấp phó của họ. 8 trong số 12 thành viên này là đại diện của các quốc gia trong khu vực(các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương) và số còn lại là từ các quốc gia ngoài khu vực. Ban Thống đốc còn bầu ra chủ tịch Ngân hàng, là người đứng đầu Ban Giám đốc và điều hành ADB. Mỗi chủ tịch giữ cương vị của mình trong một nhiệm kì kéo dài 5 năm và có thể được tái đắc cử. Theo truyền thống và vì Nhật Bản là một trong những cổ đông lớn nhất của ADB, cho nên chủ tịch của ADB đã luôn là người Nhật. Chủ tịch đương nhiệm của ADB là Masatsugu Asakawa (từ 2020 đến nay) Trụ sở của ngân hàng ADB đặt tại 6 ADB Avenue, thành phố Mandaluyong, Metro Manila, Philippine, và có văn phòng đại diện trên khắp thế giới. Hiện ADB có khoảng 2400 nhân viên, đến từ 53 trên tổng số 67 quốc gia thành viên (theo web ADB.org tính đến 2/2007), và gần một nửa số nhân viên của họ là người Philippine. Chủ tịch các đời của ADB Takeshi Watanabe 1966 - 1972 Shiro Inoue 1972 - 1976 Taroichi Yoshida 1976 - 1981 Masao Fujioka 1981 - 1989 Kimimasa Tarumizu 1989 - 1993 Mitsuo Sato 1993 - 1999 Tadao Chino 1999 - 2005 Haruhiko Kuroda 2005 - 2013 Takehiko Nakao 2013 - 2020 Masatsugu Asakawa 2020 - nay Các quốc gia thành viên Dưới đây là danh sách các quốc gia thành viên của ADB. Con số sau mỗi tên nước là năm tham gia. Chú thích
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (tên giao dịch Tiếng Anh: Joint Stock Commercial Bank for Investment and Development of Vietnam ) tên gọi tắt: "BIDV", là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam tính theo quy mô tài sản năm 2019 và là doanh nghiệp đứng thứ 10 trong danh sách 1000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất năm 2018. Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có hơn 60 năm hình thành và phát triển, gắn liền với quá trình xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và sau này là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Giai đoạn 1957 - 1981 Đây là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử của BIDV, với tên gọi "Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam" gắn với thời kỳ "lập nghiệp - khởi nghiệp" (1957 - 1981) với chức năng chính là hoạt động cấp phát vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản theo nhiệm vụ của Nhà nước giao, phục vụ công cuộc xây dựng Tổ quốc ở miền Bắc và chi viện cho cuộc chiến tranh thống nhất ở miền Nam. Sự ra đời của Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam gắn với yêu cầu phục vụ công cuộc kiến thiết, xây dựng miền Bắc, trong điều kiện đất nước vừa được giải phóng, hòa bình được lập lại nhưng hai miền vẫn bị chia cắt. Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam có nhiệm vụ là cơ quan chuyên trách việc cấp phát, quản lý toàn bộ số vốn do ngân sách nhà nước cấp dành cho đầu tư kiến thiết cơ bản được thực hiện theo kế hoạch và dự toán của Nhà nước. Tuy chỉ kéo dài khoảng 1/4 thế kỷ, song hoạt động của BIDV trong giai đoạn này trải qua ba thời kỳ: thời kỳ phục vụ "kiến thiết" đất nước trong điều kiện hòa bình xây dựng; thời kỳ vừa phục vụ yêu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia, vừa đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam và thời kỳ cả nước thống nhất, hòa bình, phục vụ công cuộc khôi phục sau chiến tranh. Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam đã có những đóng góp trong việc quản lý vốn cấp phát kiến thiết cơ bản, hạ thấp giá thành công trình, thực hiện tiết kiệm, tích luỹ vốn cho Nhà nước,... Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam đã cung ứng vốn cho hàng trăm công trình, đồng thời tránh cho nguồn vốn tài chính khỏi bị ứ đọng và các nguồn lực không bị lãng phí,... góp phần vào việc cân đối thu chi, tạo thuận lợi cho việc quản lý thị trường, giữ vững ổn định giá cả... Giai đoạn 1981 - 1990 Trong giai đoạn này, BIDV được đổi tên là "Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam". Đây là một thời kỳ sôi nổi của đất nước - chuẩn bị và tiến hành công cuộc đổi mới. BIDV đã thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là phục vụ nền kinh tế, cùng với cả nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường. Giai đoạn 10 năm 1981 - 1990 là giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế; sau rất nhiều bế tắc, nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Việt Nam thực hiện đổi mới kinh tế, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong bối cảnh đó, ngày ngày 24 tháng 6 năm 1981, Ngân hàng Kiến thiết được chuyển từ vị thế trực thuộc Bộ Tài chính sang trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với tên mới là "Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam". Đây không đơn thuần chỉ là sự "chuyển vị", thay đổi cơ quan chủ quản và thay đổi tên gọi của một tổ chức. Về thực chất, sự thay đổi này bắt đầu cho sự thay đổi căn bản, là đổi mới cơ chế vận hành, phương thức hoạt động của Ngân hàng Kiến thiết: Thiết chế tài chính này không còn thuộc hệ thống tài khóa - ngân sách "cấp phát", hoạt động theo cơ chế "bao cấp" mà chuyển dần sang hệ thống tài chính - ngân hàng, thực hiện các hoạt động tín dụng để phục vụ nền kinh tế. Diễn biến này có nghĩa là chức năng chung không thay đổi, nhiệm vụ chính vẫn là cấp phát vốn ngân sách cho nền kinh tế, đáp ứng các yêu cầu về vốn cho lĩnh vực đầu tư và xây dựng, phục vụ các dự án lớn, các chương trình tầm cỡ quốc gia. Nhưng phạm vi phục vụ được mở rộng, một số quan hệ tín dụng đầu tư phát triển sơ khai như cho vay dài hạn tập trung chủ yếu lĩnh vực nông nghiệp, cho vay trung hạn cải tiến kỹ thuật mở rộng sản xuất. Với cơ chế, phương thức thực hiện chức năng được thay đổi, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, khác với tiền thân Ngân hàng Kiến thiết của mình, không chỉ phục vụ Nhà nước mà còn trực tiếp phục vụ doanh nghiệp, phục vụ thị trường, bắt đầu chuyển dần sang hoạt động tín dụng ngân hàng theo cơ chế "vay để cho vay" của thị trường. Giai đoạn 1990 - 2012 Giai đoạn này gắn với quá trình chuyển đổi của BIDV từ một ngân hàng thương mại "quốc doanh" sang hoạt động theo cơ chế của một ngân hàng thương mại, tuân thủ các nguyên tắc thị trường và định hướng mở cửa của nền kinh tế. Năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 401/CT về việc thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trên cơ sở đổi tên Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. Đây không đơn thuần là việc đổi tên lần thứ ba của Ngân hàng mà phản ánh sự thay đổi trong chức năng hoạt động thực tế của BIDV, trong vai trò đối với nền kinh tế mà BIDV đảm nhiệm: chuyển từ giai đoạn đầu tư chỉ đơn giản là "xây dựng" sang một trạng thái mới - đầu tư để "tăng trưởng, để thúc đẩy "phát triển". Trong thời kỳ này, BIDV đã chuyển sang phương thức hoạt động mới là "đi vay để cho vay" nên trọng tâm là huy động vốn trong và ngoài nước để cho vay các dự án sản xuất kinh doanh theo kế hoạch nhà nước, cứu sản xuất khỏi tình trạng thiếu vốn khi Nhà nước đã chấm dứt cấp phát không hoàn lại cho các doanh nghiệp. Đến năm 1995, BIDV chính thức hoạt động theo mô hình ngân hàng thương mại sau khi đã chuyển chức năng cấp phát vốn ngân sách nhà nước và một phần cán bộ sang Tổng cục Đầu tư - Phát triển trực thuộc Bộ Tài chính. Từ năm 1996, BIDV đã từng bước xoá thế "độc canh tín dụng" trong hoạt động ngân hàng, tập trung huy động vốn, phát triển các loại hình dịch vụ, tăng dần tỷ trọng thu từ dịch vụ và kinh doanh tiền tệ. Hoạt động ngân hàng bán lẻ mới được BIDV manh nha triển khai từ đầu những năm 1990, với nghiệp vụ đầu tiên là huy động vốn dân cư. Hoạt động ngân hàng bán lẻ sau này được phát triển và có sự thay đổi căn bản - xét theo chuẩn mực kinh tế thị trường - chỉ từ năm 2009. Cùng với việc phát triển các hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại, BIDV tiến hành các hoạt động đầu tư thông qua việc thành lập các công ty con, công ty liên doanh qua đó hình thành mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng với các trụ cột là ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư tài chính. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính cũng như suy giảm kinh tế thế giới (2007 - 2008), BIDV là lực lượng hỗ trợ các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. BIDV lựa chọn đầu tư mở rộng hoạt động trên thị trường quốc tế - mở văn phòng đại diện, lập chi nhánh ở nước ngoài, đồng thời tìm cơ hội, hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Giai đoạn 2012 đến 2022 BIDV được cổ phần hóa, trở thành ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động đầy đủ theo nguyên tắc thị trường với tên đầy đủ là "Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam" Ngày 28 tháng 12 năm 2011, BIDV đã tiến hành cổ phần hóa thông qua việc bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO). Ngày 27 tháng 4 năm 2012, BIDV chính thức chuyển đổi thành ngân hàng thương mại cổ phần. Ngày 24 tháng 1 năm 2014, BIDV giao dịch chính thức cổ phiếu với mã chứng khoán BID trên sàn chứng khoán. Sau cổ phần hóa, tỷ lệ vốn nhà nước nắm giữ giảm xuống dưới 100%, đồng nghĩa với việc thay đổi cơ cấu sở hữu của Ngân hàng - từ chỗ chỉ có duy nhất là sở hữu nhà nước sang bao gồm cả sở hữu tư nhân. Hoạt động bán lẻ của BIDV đã có những thay đổi trên các phương diện như mô hình tổ chức, sản phẩm dịch vụ tiện ích phục vụ khách hàng và đổi mới hoạt động bán lẻ theo thông lệ quốc tế. Giai đoạn 2022 đến nay Vào ngày 26/04/2022, BIDV chính thức ra mắt bộ nhận diện thương hiệu mới nhân dịp kỷ niệm 65 năm thành lập. Theo đó, logo mới của BIDV có hình ảnh cách điệu của bông hoa mai vàng 5 cánh. Ở giữa là ngôi sao 5 cánh lấy hình tượng từ ngôi sao vàng trên lá Quốc kỳ, mang ý nghĩa vừa là dẫn dắt, vừa là đích đến cho hành trình vươn tới của BIDV. Tất cả cùng mang một số 5 trong văn hóa phương Đông là con số của sự phát triển, là khát vọng vươn ra năm châu hội nhập và sánh vai cùng các định chế trong khu vực và trên thế giới. Màu sắc nhận diện thương hiệu chủ đạo là màu xanh ngọc lục bảo, một trong tứ đại ngọc quý. Màu xanh cũng tượng trưng cho sức sống, sự phát triển bền vững, một ngân hàng BIDV xanh. Màu sắc bổ trợ là màu vàng của hoa mai, màu của ánh bình minh ngày mới, cũng là màu tượng trưng cho ngành tài chính ngân hàng. Quy mô, cấu trúc Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, BIDV được xếp vào loại hình công ty cổ phần với cổ đông Nhà nước (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) chiếm cổ phần chi phối. Ngày 8/4/2021, tạp chí The Asian Banker trao cho Ngân hàng này giải thưởng "Ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam" năm 2020, đồng thời sản phẩm QuickLoan được giải "Sản phẩm cho vay tiêu dùng tốt nhất Việt Nam". BIDV là một trong bốn ngân hàng thương mại, thường được gọi là Bộ Tứ (Big 4), với các thành viên còn lại gồm có: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank). Nhóm bốn ngân hàng này đều có quy mô tài sản, nguồn vốn, doanh thu ở nhóm hàng đầu và đều có Nhà nước đóng vai trò là cổ đông kiểm soát (với BIDV, Vietinbank, Vietcombank) hoặc là chủ sở hữu (với Agribank). Tại thời điểm tháng 4 năm 2021, BIDV và các công ty con, công ty liên kết (hệ thống BIDV) hoạt động chủ yếu trong 4 lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và đầu tư tài chính. Hệ thống BIDV hiện nay có 25.000 người lao động, 190 chi nhánh, hiện diện tại 63 tỉnh thành của Việt Nam và tại 6 nước khác. Các công ty con của BIDV gồm có: Ngân hàng Liên doanh Lào Việt (LaoViet Bank), Công ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC), Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV (BIC), Công ty Bảo hiểm Lào Việt (LVI), Công ty Cho thuê tài chính TNHH BIDV (BIDV-SuMi Trust Leasing, Công ty TNHH MTV Quản lý nợ và khai thác tài sản BIDV (BAMC) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Campuchia (BIDC). Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tổ chức định hạng tín nhiệm Moody’s đã ra thông cáo về việc thay đổi triển vọng định hạng tín nhiệm của BIDV từ mức tiêu cực thành tích cực. Quy mô Đến hết 31/12/2022,Tổng tài sản đạt hơn 2,08 triệu tỷ đồng, tăng trưởng gần 21% so với năm 2021, tiếp tục là ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô tài sản lớn nhất Việt Nam. Tổng dư nợ tín dụng và đầu tư năm 2019 đạt 1.299.997 tỷ đồng; trong đó, dư nợ tín dụng đạt 1.098.912 tỷ đồng, tăng trưởng 12,4% so với năm 2018, chiếm 13,4% thị phần tín dụng toàn ngành; Riêng dư nợ tín dụng bán lẻ tăng trưởng 21,5%, quy mô đến 31/12/2019 đạt 374.526 tỷ, chiếm tỷ trọng 34,1% tổng dư nợ, tiếp tục dẫn đầu thị trường về quy mô tín dụng bán lẻ... Tổng dư nợ đối với các lĩnh vực ưu tiên theo đúng định hướng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chiếm tỷ trọng trên 60% tổng dư nợ. Nguồn vốn huy động của BIDV đa dạng, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo cân đối an toàn, hiệu quả. Tổng nguồn vốn huy động năm 2019 đạt 1.349.279 tỷ đồng, tăng trưởng 12,2% so với năm 2018; trong đó huy động vốn tổ chức, dân cư đạt 1.167.995 tỷ đồng, tăng trưởng 12,7%, thị phần tiền gửi khách hàng chiếm 11,5% toàn ngành. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất toàn ngân hàng đạt 10.768 tỷ đồng, ROA đạt 0,61%, ROE đạt 15,2%. BIDV có hệ thống chi nhánh ở hầu hết các tỉnh thành, trong đó mạng lưới giao dịch khá dày ở các địa bàn phát triển như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Phú Quốc, Nha Trang, Cần Thơ, Sa Pa... Ngân hàng được xếp hạng thứ 13 (thứ 3 trong các ngân hàng sau Vietcombank và Techcombank) trong danh sách những nơi làm việc tốt nhất Việt Nam vào năm 2018. Ngân hàng BIDV nhận 4 giải thưởng về dịch vụ dành cho khách hàng cá nhân 2022 Cấu trúc Về cơ cấu tổ chức, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam được chia thành bốn khối chính: Khối Công ty con (sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp): Ngân hàng Liên doanh Lào Việt (LaoViet Bank), Công ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC), Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV (BIC), Công ty Bảo hiểm Lào Việt (LVI), Công ty Cho thuê tài chính TNHH BIDV (BIDV-SuMi Trust Leasing, Công ty TNHH MTV Quản lý nợ và khai thác tài sản BIDV (BAMC) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Campuchia (BIDC). Khối Ngân hàng: Các Ban/ Trung tâm tại Hội sở chính, các chi nhánh trong và ngoài nước, các văn phòng đại diện (trong và ngoài nước), Trung tâm Công nghệ thông tin, Trường Đào tạo Cán bộ BIDV, Ban Xử lý Nợ Nam Đô. Khối Liên doanh: Ngân hàng liên doanh Việt Nga (VRB), Công ty liên doanh Tháp BIDV (BIDV Tower), Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ MetLife. Khối Góp vốn: Công ty Cổ phần Cho thuê máy bay Việt Nam (VALC). Vào tháng 11 năm 2018, Tổng Giám đốc Phan Đức Tú đã được bầu làm Chủ tịch Hội đồng quản trị BIDV. Ngày 12 tháng 3 năm 2021, BIDV công bố quyết định bổ nhiệm nhân sự cấp cao với ông Lê Ngọc Lâm làm Tổng Giám đốc, người đã gắn bó 23 năm với Ngân hàng này, sau hơn hai năm vị trí này bỏ trống. Sai phạm và bê bối BIDV đã liên quan tới một trong những vụ sai phạm có quy mô lớn nhất trong lịch sử ngành ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn từ 2010 - 2016. Kết luận của các cơ quan chức năng Ủy ban Kiểm tra Trung ương ra thông cáo sau kỳ họp diễn ra trong hai ngày 27 và 28/6/2018: Thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Trần Bắc Hà, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị; cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng đối với ông Đoàn Ánh Sáng, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Tổng Giám đốc; cảnh cáo đối với ông Trần Lục Lang, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Tổng Giám đốc BIDV. Yêu cầu Ban Thường vụ Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương thi hành kỷ luật đối với Ban Thường vụ Đảng ủy BIDV. Thông cáo nêu rõ, Ban Thường vụ Đảng ủy BIDV nhiệm kỳ 2010-2015, 2015-2020 đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát, để BIDV có nhiều vi phạm nghiêm trọng mang tính hệ thống trong thực hiện quy chế làm việc. Bên cạnh đó còn có những quy định về phân cấp thẩm quyền và quy trình, thủ tục cấp tín dụng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm tăng nợ xấu, nhất là các khoản nợ có khả năng mất vốn. Ngoài ra, Ban thường vụ còn để nhiều cán bộ vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật Nhà nước, bị xử lý hình sự; làm giảm nguồn thu ngân sách, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, đến thu nhập, việc làm và đời sống của người lao động BIDV. Tổng số nợ xấu của ngân hàng vào cuối năm 2016 ở mức 13.183 tỉ đồng, tăng 35,95% so với cuối năm 2015, cao nhất và tăng nhanh nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại tại Việt Nam suốt từ năm 2015 đến nay Khởi tố Ngày 20 tháng 5 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành cáo trạng vụ án "vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng", "lừa đảo chiếm đoạt tài sản", "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" xảy ra tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Công ty CP chăn nuôi Bình Hà, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Trung Dũng. Đồng thời, Viện kiểm sát truy tố các bị can Trần Lục Lang (nguyên phó tổng giám đốc BIDV); Đoàn Ánh Sáng (nguyên phó tổng giám đốc); Kiều Đình Hòa (nguyên phó tổng giám đốc BIDV, chi nhánh Hà Tĩnh); Ngô Duy Chính (nguyên giám đốc BIDV chi nhánh Hà Thành); Nguyễn Xuân Giáp (nguyên phó giám đốc BIDV chi nhánh Hà Thành) cùng 7 bị can khác. Trong số 12 bị can bị đề nghị truy tố có 8 người là lãnh đạo cấp cao, nhân viên của BIDV như Trần Lục Lang (cựu phó tổng giám đốc BIDV phụ trách quản lý rủi ro), Đoàn Ánh Sáng (cựu phó tổng giám đốc BIDV phụ trách khách hàng doanh nghiệp), Kiều Đình Hòa (cựu giám đốc BIDV chi nhánh Hà Tĩnh), Lê Thị Vân Anh (cựu trưởng phòng khách hàng doanh nghiệp BIDV chi nhánh Hà Tĩnh)... Những người này đã có nhiều sai phạm trong việc thẩm định hồ sơ, phê duyệt cấp tín dụng cho hai công ty, có vai trò đồng phạm với ông Trần Bắc Hà. Tuy nhiên, cơ quan điều tra cho rằng những người này chỉ là người làm công ăn lương, chịu sự chi phối và áp lực từ cá nhân ông Hà chứ không có quyền quyết định. Cáo trạng xác định trong vụ án này, ông Trần Bắc Hà giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu về tội "Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo khoản 4 Điều 206 Bộ luật hình sự năm 2015". Tháng 7 năm 2019, ông Trần Bắc Hà đã mất trong trại giam vì bệnh tật. Cơ quan Công an đã tiến hành đình chỉ bị can đối với Trần Bắc Hà, còn việc điều tra, truy tố, xét xử sẽ tiếp tục đối với các đồng phạm của ông. Nếu có bồi thường thiệt hại, các đồng phạm sẽ liên đới bồi thường. Các vấn đề còn tồn tại Khả năng xử lý nợ xấu Khả năng xử lý nợ xấu đang là một vấn đề nhức nhối cần sự quan tâm đúng mức của BIDV trong giai đoạn gần đây. Mức nợ xấu của ngân hàng vẫn ở mức cao, trích lập nợ xấu đã tăng cao lên mức 87,1% vào cuối tháng 9 năm 2020, là mức tăng cao nhất trong hai năm gần đây. Hoạt động phát mãi nợ xấu đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn khi nhiều tài sản bảo đảm rao bán nhưng không có đối tác mua lại, thậm chí có tài sản đã rao bán và hạ giá hơn 30 lần; nhiều tài sản có giá trị thanh khoản tốt nhưng vẫn không đến được tay người mua phù hợp. Chất lượng dịch vụ cần cải thiện Vào các dịp lễ tết, khi nhu cầu chi tiêu sử dụng tiền mặt tăng cao, hệ thống ATM của các ngân hàng Việt Nam thường xảy ra tình trạng quá tải tạm thời, khiến nhiều khách hàng không thể rút được tiền. BIDV cũng chưa khắc phục được tình trạng chung này. Năm 2022, BIDV nhận 04 giải thưởng danh giá về dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng cá nhân
Nguyễn Hữu Hạnh (26 tháng 8 năm 1924 – 29 tháng 9 năm 2019) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng, tình báo viên của quân Giải phóng miền Nam. Ông thường được biết với vai trò là Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, người đã tác động để Tổng thống Dương Văn Minh sớm ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa đầu hàng trước sức tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào cuối tháng 4 năm 1975, chấm dứt cuộc Chiến tranh Việt Nam. Sau này, người ta mới biết được rằng ông chính là một tình báo viên của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Sau năm 1975, ông sống với gia đình ở quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015. Sau đó ông trở về quê Mỹ Tho. Lúc 6h40 ngày 29 tháng 9 năm 2019, ông từ trần vì tuổi cao sức yếu tại Bệnh viện Thống Nhất, hưởng thọ 95 tuổi. Ngày 2 tháng 10 năm 2019, ông được an táng tại xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Hữu Hạnh là nhân vật chính của tiểu thuyết Viên chuẩn tướng của Nguyễn Trần Thiết. Thân thế và bước đầu binh nghiệp Ông sinh ngày 26 tháng 8 năm 1924 (theo trích lục tòa thì sinh ngày 10 tháng 7 năm 1926) tại Phú Phong, Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (bây giờ là tỉnh Tiền Giang). Năm 1945, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Mỹ Tho với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Quân đội Liên hiệp Pháp Đầu năm 1949, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 46/103072. Theo học tại trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Mãn khóa cùng năm, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy. Ra trường ông được điều đi phục vụ tại một đơn vị Bộ binh giữ chức vụ Trung đội trưởng dưới quyền Thiếu úy Đại đội trưởng Dương Văn Minh, khởi đầu của mối quan hệ thân tình của ông với tướng Dương Văn Minh về sau này. Giữa năm 1950, ông được thăng cấp Thiếu úy tại nhiệm. Cuối năm 1951, ông được thăng cấp Trung úy làm Đại đội trưởng Bộ binh. Quân đội Quốc gia Việt Nam Năm 1952, Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu, chính thức chuyển sang cơ cấu mới này, ông được thăng cấp Đại úy và được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Phân khu Sài Gòn-Chợ Lớn. Đầu năm 1954, ông học khóa liên đoàn trưởng Liên đoàn lưu động (GM) tại Hà Nội. Cuối năm 1954, với cấp bậc thiếu tá trung đoàn phó trung đoàn 11, ông nhận tiểu khu Long Xuyên do Pháp giao lại. Quân lực Việt Nam Cộng hòa Đầu năm 1955, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Ông được gọi về làm tham mưu trưởng cho ông Dương Văn Minh để nhận lãnh phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn (gồm Rừng Sác, tỉnh Chợ Lớn, Gia Định, Tây Ninh và thành phố Sài Gòn), phần đất cuối cùng mà Pháp giao lại. Tháng 10 năm 1955, khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống đổi tên Quân đội Quốc gia thành Quân lực Việt Nam Cộng hòa và mở chiến dịch tiêu diệt Lực lượng Vũ trang của các Giáo phái. Đầu năm 1956 kết thúc chiến dịch dẹp loạn Bình Xuyên, Tổng thống Diệm bắt đầu chiến dịch dẹp quân giáo phái Hòa Hảo vẫn do tướng Minh chỉ huy chiến dịch, tháng 9 cùng năm ông được giữ chức vụ Tham mưu trưởng Chiến dịch Hoàng Diệu đánh quân Giáo phái Hòa Hảo, rồi Tham mưu trưởng Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu đánh quân Giáo phái Cao Đài. Tháng 10 năm 1956 ông được thăng cấp Trung tá. Đầu năm 1957, ông được chỉ định làm tham mưu trưởng Quân khu Thủ đô (sau đổi thành Biệt khu Thủ đô) và khu 5 - Nam bộ. Tháng 8 năm 1958, ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại trường Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ với thời gian 42 tuần. Cuối tháng 7 năm 1959 mãn khóa học về nước, trở về làm trong Bộ tham mưu của ông Dương Văn Minh tại Bộ tư lệnh hành quân (Bộ tư lệnh lộ quân dã chiến). Đầu năm 1962, ông được cử đi học khóa tình báo, chiến thuật, chiến lược và phản gián tại Fort Hollabird - Maryland (Mỹ). Đầu năm 1963, ông được thắng cấp Đại tá và được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng tại Bộ tư lệnh Quân đoàn IV. Tháng 7 năm 1964, chuyển sang ngành quân huấn, ông được cử giữ chức chỉ huy phó trường Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt. Tháng 7 năm 1967, trở về đơn vị tác chiến, ông được giữ chức tư lệnh phó Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa đồn trú tại tại Bạc Liêu. Giữa năm 1968, ông được chỉ định chức vụ Tư lệnh biệt khu 44 chiến thuật (gồm các tỉnh: Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường). Giữa năm 1969, một lần nữa, ông được điều động trở lại Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV giữ chức vụ Phó Tư lệnh dưới quyền Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Trung tuần tháng 9 năm 1972, ông thuyên chuyển ra Bộ tư lệnh Quân đoàn II, giữ chức vụ Phó Tư lệnh (do Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn làm Tư lệnh) thay thế Chuẩn tướng Phan Đình Thứ. Giữa năm 1973, thuyên chuyển ra Quân đoàn I giữ chức vụ Chánh Thanh tra Quân đoàn. Ngày 15 tháng 5 năm 1974, ông nhận được quyết định về hưu do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký khi ông mới 48 tuổi. Lý do là ông đã phục vụ trong quân đội quá thời gian quy định (trên 20 năm). Ý đồ sâu xa của Tổng thống Thiệu là loại bỏ bớt những người ngả theo tướng Dương Văn Minh. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông tái ngũ trở lại quân đội trong chính phủ Dương Văn Minh với chức vụ phụ tá tổng tham mưu trưởng. Tình báo viên của quân Giải phóng miền Nam Tháng 10 năm 1963, khi đang là Đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn IV, dưới quyền tướng Huỳnh Văn Cao, cha ông là Nguyễn Hữu Điệt qua đời. Do ý nguyện của cha muốn được chôn cất tại quê nhà, nơi đang thuộc quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tỉnh Mỹ Tho, ông đã thỏa thuận ngưng bắn 3 ngày để làm lễ tang và chôn cất cho cha. Điều này khiến cho Ban binh vận của Trung ương Cục miền Nam chú ý và nảy ý đồ vận động ông làm cơ sở. Nhiệm vụ tiếp cận, vận động, bồi dưỡng ông được giao cho ông Nguyễn Tấn Thành (Tám vô tư), người bà con bên bà nội (bác, lớn hơn ông khoảng 10 tuổi). Trước đó, có 2 lần ông Thành bị phía quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt giữ, nhưng đều được ông can thiệp và trả tự do. Ông được gán mật danh là S7 hoặc Sao Mai, nhưng hầu như không được giao nhiệm vụ gì có thể ảnh hưởng đến vị trí của ông. Ông và ông Thành giữ liên lạc với nhau đến tận cuối năm 1974. Nguyễn Hữu Hạnh đã cung cấp cho cách mạng các tin tức chiến lược như: khi Phước Long thất thủ, ông nói không có quân tiếp viện. Buôn Mê Thuột bị bỏ ngỏ, quân Việt Nam cộng hòa không có chuẩn bị, khi thất thủ không có tổ chức nào ở lại hậu phương. Khi quân giải phóng tiến về miền Nam, ông đề nghị quân xung kích Giải phóng quân cần tiến nhanh, không sợ bị phản công, ở hậu phương khi cần giao lãnh thổ lại cho địa phương quân. Đối với nội bộ chế độ Sài Gòn, ông tìm cách kích động những sĩ quan chống lại chính sách của Nguyễn Văn Thiệu, chống tham nhũng. Vai trò năm 1975 Khi Quân Giải phóng tiến vào Nam, Binh vận Trung ương Cục phái bác Tám Thành gặp ông bàn về việc ông Dương Văn Minh lên nắm chính quyền. Chừng đó ông phải tìm cách nắm quân đội, tìm mọi cách thuyết phục ông Minh đầu hàng. Trường hợp không được sẽ phối hợp với Quân Giải phóng chiếm lấy phần lãnh thổ còn lại. Ông đưa ý kiến: "muốn thúc đẩy người ta giao nhanh cho ông Minh, quân cách mạng phải cắt đứt các đường lộ dẫn vào Sài Gòn cỡ cấp sư đoàn". Ngày 28 tháng 4 năm 1975, sau khi Đại tướng Dương Văn Minh lên nắm chức vụ Tổng thống, ông được phân công giữ chức Phụ tá cho tân Tổng tham mưu trưởng - Trung tướng Vĩnh Lộc. Tuy nhiên, không lâu thì tướng Vĩnh Lộc đào ngũ. Chỉ thị của ông Dương Văn Minh khi ông mới nhậm chức là không được di chuyển quân, chờ thương thuyết. Vì muốn giữ Sài Gòn được nguyên vẹn và giúp quân Giải phóng tiến nhanh nên từ chiều 29 tháng 4 ông đã ra lệnh: "Không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ tổng tham mưu". Ông còn đồng ý cho tướng Toàn rút Bộ tư lệnh quân đoàn 3 về bên kia sông Đồng Nai (vì biết tướng Toàn muốn đào ngũ), nhờ đó quân Giải phóng chiếm Biên Hoà một cách dễ dàng. Ngoài ra, ông cho Quân cảnh tung hết các lực lượng để giữ an ninh trật tự cho thành phố, thu hồi và đưa về quân vụ súng ống của các quân nhân đi lẻ tẻ ngoài phố Khi được làm phụ tá tổng tham mưu trưởng, ông đã vận động để thúc đẩy ông Dương Văn Minh đơn phương tuyên bố bàn giao quyền lại cho Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, từ đó ông mới chỉ thị quân đội buông súng được. 8h sáng 30 ngày 4, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu quyết định đơn phương tuyên bố bàn giao chính quyền lại cho Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Ông Mẫu ngồi soạn lời tuyên bố, mất khoảng một tiếng đồng hồ. Đến 9h, ông Minh đọc vào máy ghi âm. Trong lúc Dương Văn Minh thâu băng lời tuyên bố, Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện cho tướng Nguyễn Khoa Nam và yêu cầu tướng Nam cố gắng thi hành lệnh tổng thống sẽ phát trên Đài Vô tuyến Việt Nam. Nguyễn Hữu Hạnh cũng đến Đài phát thanh để ra nhật lệnh cho quân đội và các lực lượng vũ trang buông súng thi hành lệnh của tổng thống. Tuyên bố của ông Dương Văn Minh, nhật lệnh của Nguyễn Hữu Hạnh được truyền đi trên Đài Vô tuyến Việt Nam lúc 9h30. Ông cũng là một trong 2 tướng lĩnh bên cạnh Tổng thống Dương Văn Minh trong giờ phút cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa (người thứ 2 là Trung tướng Nguyễn Hữu Có, đối thủ cũ của tướng Dương Văn Minh). Sau năm 1975, do là tình báo viên ghi công trong việc tác động đến sự đầu hàng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông không phải đi cải tạo, mà còn được giữ chức vụ Tổng thư ký Hội nhân dân bảo trợ Nhà trường, sau được bầu Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là Nhân sĩ yêu nước và giữ chức vị đó cho đến khi về hưu. Ngoài ra, ông còn được Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tặng Huân chương Quân công hạng nhất Vị tư lệnh thận trọng Trong cuộc đảo chính Tổng thống Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chính ông đã ngầm ủng hộ cho tướng Dương Văn Minh làm đảo chính, hỗ trợ Đại tá Nguyễn Hữu Có chiếm quyền chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ binh, khuyên tướng Huỳnh Văn Cao án binh bất động, ngăn cản Lực lượng quân đoàn IV về chống đảo chính, giúp cuộc đảo chính thành công. Năm 1967, ông được chỉ định giữ chức vụ Phó Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh do Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh (tức Minh Đờn) làm Tư lệnh. Năm 1968, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44 (bao gồm Hà Tiên, Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường). Trong nhiều lần đối mặt với lực lượng cách mạng, ông đều lệnh cho binh sĩ đánh ở thế giằng co mà không tiến chiếm mục tiêu. Khi quân giải phóng rút quân ông cũng ra lệnh rút quân về. Các cố vấn Mỹ mỉa mai gọi ông là "Tư lệnh thận trọng", "Tư lệnh không bao giờ chiếm mục tiêu".. Ông đã từ chối không B 52 thả bom vào mật khu trên Kênh Tháp Mười, viện lẽ quá đông dân. Lúc ông làm tư lệnh phó sư đoàn 21, trong những cuộc hành quân, tôi cho lệnh trực thăng võ trang phải thận trọng, khi nào dưới đất bắn lên mới được bắn lại. Ông nói với thiếu tướng Nguyễn Văn Minh (tức Minh Đờn), tư lệnh sư đoàn: "Sư đoàn đã sử dụng hỏa lực bừa bãi. Thấy cảnh chết chóc nhiều tôi không chịu nổi, có lẽ tôi sẽ không làm việc lâu với anh". Gia đình Ông nội của ông là Nguyễn Quang Phát, bà nội là Phạm Thị Trà. Cha là Nguyễn Hữu Điệt. Mẹ là Nguyễn Thị Có (Tư Hiền). Ông có 11 người con, có người sinh sống ở Đức, hầu hết sinh sống làm ăn ổn định tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau ngày người bạn đời mất, ông buồn bã thường về dưới quê sống Trong thời gian lưu lại Châu Thành, Tiền Giang, ông đã giúp đỡ cho bà Trần Thị Hiệp (còn gọi là bà Tư bóng), một phụ nữ góa chồng, nuôi năm con rất nghèo với nghề bán vé số dạo nhỏ hơn ông 33 tuổi. Ông quay về Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh mượn 30 triệu đồng trả góp trừ lương 2 triệu/tháng để xây một căn nhà khoảng 30m² ngay nghĩa địa làm nơi sinh sống. Các con của ông kịch liệt phản đối, ông cương quyết với lập trường tình yêu tuổi già nên cuối cùng các con cháu ông phải nhượng bộ Chú thích Liên kết Tướng Nguyễn Hữu Hạnh Phỏng vấn Nguyễn Hữu Hạnh, 1981
Gia vị, theo định nghĩa của các nhà khoa học và sinh học, là những loại thực phẩm, rau thơm (thường có tinh dầu) hoặc các hợp chất hóa học cho thêm vào món ăn, có thể tạo những kích thích tích cực nhất định lên cơ quan vị giác, khứu giác và thị giác đối với người ẩm thực. Gia vị làm cho thức ăn có cảm giác ngon hơn, kích thích hệ thống tiêu hóa của người ăn khiến thực phẩm dễ tiêu hoá, đồng thời có thể chế hoá theo những nguyên lý tương sinh, âm dương phối triển đối với các loại thực phẩm đặc biệt. Có nhiều loại gia vị như: các loại mắm, muối ăn (tạo vị mặn), ớt, hạt tiêu (tạo vị cay và mùi đặc trưng), các loại rau thơm (rau húng, rau răm, hành, tỏi... được ăn kèm hoặc cho vào thực phẩm khi chế biến) v.v. và việc sử dụng gia vị thích hợp cho món ăn luôn phản ánh sự khéo léo, sự tinh tế như một nghệ thuật ẩm thực đối với người đầu bếp. Một số loại gia vị Gia vị có nguồn gốc thực vật Các loại lá: nguyệt quế, hành hoa, rau răm, hẹ, húng thơm, húng quế, cúc tần, mùi tàu, ngò, tía tô, thì là, lá chanh, lá ổi, lá đinh lăng, cần tây, tỏi tây, lá xương sông, lá lốt, lá quế, lá gấc, lá gừng, lá cúc tần, lá mơ tam thể, lá ớt, lá mác mật, lá bưởi, kinh giới, mò om, rau mùi, hương thảo, lá me, lá dứa... Các loại quả: mác mật, chanh, bưởi, ớt, thảo quả, dứa xanh, chuối xanh, khế chua, quả me, quả dọc, quả sấu... Các loại hạt: hạt tiêu, hạt mắc khén ( Hoàng mộc hôi ), hạt ngò, hạt dổi... Các loại củ: sả, riềng, gừng, tỏi, hành tây, củ niễng, hành củ, nghệ, củ kiệu, bột đao... Các loại thực vật khác: quế chi, đại hồi, dương tiểu hồi, sa nhân, đinh hương, bột dành dành, nấm hương, nấm đông cô, nước gỗ vang, nước dừa, nước cốt dừa... Các loại gia vị đã được chế biến, phối trộn hỗn hợp: tương, tương đen, tương ớt, thính, mù tạt, dầu thực vật, bơ thực vật,, chao, một số loại nước sốt như sốt mayonnaise, kem lạnh, ngũ vị hương, húng lìu, bột cà ri... Một số loại rau muối chua, một số loại thuốc bắc (táo tàu, kỷ tử, sa nhân, sâm, cam thảo v.v.), các loại rau ngọt như rau sắng v.v. Gia vị có nguồn gốc động vật Mắm các loại (làm từ cá, tôm, cua, cáy, rươi, tép v.v.) như mắm tôm, mắm tép, mắm tôm chua, mắm rươi, mắm cáy, mắm cua đồng, mắm bò hóc, mắm ba khía, mắm nêm... Các loại nước mắm làm từ cá (như cá cơm, cá thu, cá chẻm, cá đối, cá ngát v.v.) Tinh dầu cà cuống, long diên hương, phèo, túi mật của một số động vật, mỡ lợn, sữa, bơ động vật, dầu hào Một số loại thịt động vật lấy chất ngọt như sá sùng, tôm nõn Gia vị khác: mật ong Gia vị lên men vi sinh Mẻ, dấm thanh, dấm bỗng, rượu trắng, rượu vang... Gia vị có nguồn gốc vô cơ Acid citric (tạo chua, thay thế cho chanh), muối ăn, đường, mì chính, bột canh, bột ớt, đường thắng... Sử dụng Các loại gia vị rất quan trọng để nêm nếm, định vị món ăn hiệu quả và làm gia tăng hương vị, kích thích tiêu hóa, làm cho màu sắc món ăn sinh động, tươi nhuận hấp dẫn người thưởng thức. Một số loại gia vị thậm chí còn được sử dụng với mục đích chế hóa món ăn theo những nguyên lý tương sinh, tương khắc (như các món ăn dễ gây lạnh bụng đi kèm gia vị cay nóng). Việc phối trộn gia vị (liều lượng, tỷ lệ, loại gia vị) gắn với kinh nghiệm ẩm thực của người nội trợ, thường không có một công thức chung cho tất cả các món ăn tuy có một số món ăn thường không thể thiếu loại gia vị nào đó (như thịt chó đi kèm với mắm tôm, riềng; canh cá nấu thì là; thịt gà luộc chấm muối ớt vắt chanh và có chút lá chanh thái chỉ, trứng vịt lộn ăn kèm gừng thái chỉ và rau răm v.v.). Khác Đôi khi, khái niệm gia vị được sử dụng không phải trong ẩm thực mà trong một lĩnh vực khác hẳn, mặc dù nội hàm khái niệm cũng tương đương như trong ẩm thực, chẳng hạn câu nói "tăng gia vị cho tình yêu", "gia vị cho chốn phòng the" v.v. Đọc thêm Rau thơm Ngũ vị hương Húng lìu Mắc khén
6 (sáu) là một số tự nhiên lớn hơn 5 và nhỏ hơn 7. Số sáu được viết ở dạng gần như là đảo ngược của số 9. Số sáu là số hoàn hảo nhỏ nhất: 1+2+3=6. Bình phương của 6 là 36. Căn bậc hai của 6 là 2,44989743. 1/6 = 0,16666... 6 là một số tam giác Trong hóa học 6 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố carbon (C). Trong tín ngưỡng Số sáu theo quan điểm của người phương Đông đều nghĩa tốt lành vì 6 - Lục đọc lái đi là lộc, nghĩa là tiền tài, giàu có. Tuy nhiên, nhiều người phương Tây lại cho rằng số 6, nhất là 666, là 1 con số tượng trưng cho ma quỷ.
5 (năm) là một số tự nhiên ngay sau 4 và ngay trước 6. Số 5 mũ n (n là số tự nhiên khác 0) lần đều được một số có chữ số tận cùng là năm. Tích của 5 với số chẵn là một số chia hết cho mười. Tích của 5 với số lẻ là một số có tận cùng là năm. Số 5 là độ dài của cạnh huyền của tam giác Ai Cập. Số 5 là số nguyên tố. Bình phương của 5 là 25. Căn bậc hai của 5 là 2,23606797749 Số 5 là số Fermat Trong hóa học 5 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Bo (B). Trong văn hóa Ngũ Hành gồm năm nguyên tố (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ) Trong huyền thoại Trung Quốc có năm vị vua được gọi là Ngũ Đế Thời Xuân Thu ở Trung Quốc có năm vị quân chủ được gọi là Xuân Thu Ngũ Bá
4 (bốn) là một số tự nhiên ngay sau 3 và ngay trước 5. Đồng thời, con số này cũng là một con số xui xẻo cho các nước phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc và Hàn Quốc trong vùng văn hóa Đông Á. Trong tiếng Trung và tiếng Hàn (Hanja), số 4 đọc là "tứ" như từ "tử" nghĩa là chết. Trong toán học (In the Math) Số 4 là hợp số chẵn nhỏ nhất, nó chia hết cho 1 và 2. Một số chia hết cho 4 khi 2 chữ số cuối cùng của nó chia hết cho 4. Số 4 là số chính phương. Số 4 là độ dài của cạnh góc vuông của tam giác Ai Cập. 2+2 = 2×2 = 22 = 4 Bình phương của 4 là 16. Ngược lại, căn bậc hai số học của 16 là 4 hoặc căn bậc hai số học của 4 là 2. Trong khoa học tự nhiên (hóa học) 4 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Berylium (Be) và 4 cũng là khối lượng của nguyên tử Helium, kí hiệu là he Trong Tôn giáo, tín ngưỡng. Đối với người Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc, số 4 ứng với thứ tự cuối của vòng tròn cuộc sống: sinh - lão - bệnh - tử. Vì vậy số 4 là con số chết chóc.
3 (ba) là một số tự nhiên ngay sau 2 và ngay trước 4.Ba là số nguyên tố thứ hai (sau 2). Số ba được quan niệm là số tài (theo quan niệm của người Việt Nam). Số ba được quan niệm là tốt về tiền bạc (3 - tam gọi lái đi là tài: tiền - theo quan niệm của người Việt Nam và Trung Quốc) Thể tích của một hình lập phương có độ dài một cạnh là x: x3 Số ba là độ dài của cạnh góc vuông trong tam giác Ai Cập. Bình phương của 3 là 9. Căn bậc hai của 3 là 1,732050808 ⅓ = 0,333333... 3 là một số tam giác Trong hóa học 3 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Lithi (Li) Thần thoại Trong thần thoại Hy Lạp, The Big Three là từ dùng để chỉ ba vị thần cai quan bầu trời, biển cả và địa ngục gồm Zeus, Poseidon và Hades Trong thần thoại Hy Lạp, Bắc Âu và Slavic đều có ba nữ thần mệnh Thần thoại Ấn Độ có ba vị thần tối cao là Brahma, Vishnu và Shiva
2 (hai) là một số, số từ và chữ số. Đó là số tự nhiên đứng sau số 1 và trước số 3. Số 2 còn là số nguyên tố chẵn duy nhất. Bởi vì nó là cơ sở của tính hai mặt, nó có ý nghĩa tôn giáo và tâm linh trong nhiều nền văn hóa. Danh sách các tính toán cơ bản Phép nhân: Phép chia: Lũy thừa: Trong toán học Diện tích của một hình vuông có độ dài của cạnh là a: S = a2 Bình phương của một số: a2 = a × a Căn bậc hai của một số: = a12 = a0,5 Một số nhân với 2: a × 2 = a + a Căn bậc hai của 2 là 1,414213562… Tổng của hai số hai bằng tích của hai số hai bằng bình phương của hai: 2 + 2 = 2 × 2 = 22 Trong hóa học 2 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Heli (He).
1 (một) là một số tự nhiên ngay sau số 0 và ngay trước số 2. 1 là số đầu tiên trong tập hợp N* Phép chia: Lũy thừa: Trong toán học Số 1 có một số tính chất số học đặc biệt: Số 1 nhân với bất cứ số nào cũng cho kết quả bằng chính số đó: n, n × 1 = 1 × n = n Số 1 là ước của mọi số tự nhiên 0,9999999... = 1. (Chứng minh: Hoặc ) Mọi số đều viết được dưới dạng phân số với tử số là số đó còn mẫu số là 1. Một số bất kì viết được dưới dạng số đó mũ 1. với mọi . với mọi . với mọi . với mọi . với mọi . với mọi . với mọi . . (Chứng minh: Áp dụng công thức: , ta có: ) Trong hóa học 1 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Hiđrô (H). Trong phong thủy Số 1 tượng trưng cho sự riêng biệt, độc nhất và duy nhất. Nó đại diện cho một người có quyền thế, nhiều tham vọng và có khả năng chỉ đạo. Những người như thế thường là những vị vua, vị tướng giỏi, tuy nhiên, những người như thế thường sống độc thân.
114 (một trăm mười bốn) là một số tự nhiên ngay sau 113 và ngay trước 115. 114 còn là số gọi khẩn cấp cứu hỏa ở Việt Nam.
115 (một trăm mười lăm) là một số tự nhiên ngay sau 114 và ngay trước 116. 115 còn là số gọi cấp cứu khẩn cấp ở Việt Nam.
Một quả bóng quần vợt hay bóng tennis là một quả bóng có độ nẩy khi va đập, thiết kế cho môn thể thao quần vợt, nhưng cũng được dùng cho một số môn thể thao khác như squash tennis hay lotball. Những quả bóng quần vợt đầu tiên trong lịch sử được làm bằng da nhồi lông hay len. Từ thế kỷ 18 trở đi, một dải len rộng ¾ inch được quấn chặt quanh một nhân, rồi được buộc xung quanh bằng các sợi dây và bọc bên ngoài bằng vải trắng. Loại bóng này, được cải tiến với lõi gỗ bấc, vẫn được dùng trong môn real tennis ngày nay. Những năm 1870, luật quần vợt quy định dùng cao su làm bóng, và các quả bóng được xếp trong ống khi vận chuyển, thường mỗi ống chứa bốn quả. Một quả bóng quần vợt hiện đại thông thường bao giờ cũng gồm hai phần, phần ruột và vỏ. Phần ruột được làm từ cao su rỗng (lõi) và phần vỏ phủ ra bên ngoài là chất liệu len (nỉ). Hiện nay, bóng tennis có hai màu chính được phép sử dụng ở các giải đấu là trắng và vàng xanh. Bóng tennis có đường kính từ 2,5 inch (6,25 cm) đến 2,63 inch (6,57 cm) và có trọng lượng trong khoảng từ 56 gam đến 59,4 gam. Theo những quy định trong luật tennis, khi được thả từ độ cao 100 inch (254 cm) xuống nền xi măng, bóng phải có độ nảy từ 53 đến 58 inch (135 đến 147 cm).
Kerberos là một giao thức mật mã dùng để xác thực trong các mạng máy tính hoạt động trên những đường truyền không an toàn. Giao thức Kerberos có khả năng chống lại việc nghe lén hay gửi lại các gói tin cũ và đảm bảo tính toàn vẹn của dữ liệu. Mục tiêu khi thiết kế giao thức này là nhằm vào mô hình máy chủ-máy khách (client-server) và đảm bảo nhận thực cho cả hai chiều. Giao thức được xây dựng dựa trên mật mã hóa khóa đối xứng và cần đến một bên thứ ba mà cả hai phía tham gia giao dịch tin tưởng. Lịch sử phát triển Học viện kỹ thuật Massachusetts (MIT) phát triển Kerberos để bảo vệ các dịch vụ mạng cung cấp bởi dự án Athena. Tên của giao thức được đặt theo tên của con chó ba đầu Cerberus canh gác cổng địa ngục trong thần thoại Hy Lạp. Giao thức đã được phát triển dưới nhiều phiên bản, trong đó các phiên bản từ 1 đến 3 chỉ dùng trong nội bộ MIT. Các tác giả chính của phiên bản 4, Steve Miller và Clifford Neuman, đã xuất bản giao thức ra công chúng vào cuối thập niên 1980, mặc dù mục đích chính của họ là chỉ phục vụ cho dự án Athena. Phiên bản 5, do John Kohl và Clifford Neuman thiết kế, xuất hiện trong tài liệu RFC 1510 vào năm 1993 (được thay thế bởi RFC 4120 vào năm 2005) với mục đích sửa các lỗi của phiên bản 4. MIT đã cung cấp các phiên bản thực hiện Kerberos miễn phí dưới giấy phép tương tự như dùng cho các sản phẩm BSD. Chính phủ Hoa Kỳ đã cấm xuất khẩu Kerberos vì nó có sử dụng thuật toán DES 56 bit. Tuy nhiên, trước khi chính sách xuất khẩu của Hoa Kỳ thay đổi (2000), đã có phiên bản KTH-KRB viết tại Thụy Điển thực hiện Kerberos 4 được phân phối rộng rãi bên ngoài Hoa Kỳ. Phiên bản này được dựa trên một phiên bản khác có tên là eBones. eBones lại dựa trên một phiên bản được xuất khẩu của MIT thực hiện Kerberos 4 (patch-level 9) gọi là Bones (loại bỏ các hàm mật mã và các lệnh gọi chúng). Eric Young, một lập trình viên người Australia, đã phục hồi lại các lệnh gọi hàm và sử dụng các hàm mật mã trong thư viện của anh ta. Một phiên bản khác thực hiện Kerberos 5, Heimdal , cũng được thực hiện bởi nhóm đã xuất bản KTH-KRB. Các hệ điều hành Windows 2000, Windows XP và Windows Server 2003 sử dụng một phiên bản thực hiện Kerberos làm phương pháp mặc định để nhận thực. Những bổ sung của Microsoft vào bộ giao thức Kerberos được đề cập trong tài liệu RFC 3244 ("Microsoft Windows 2000 Kerberos Change Password and Set Password Protocols"). Hệ điều hành Mac OS X cũng sử dụng Kerberos trong các phiên bản máy khách và máy chủ của mình. Năm 2005, nhóm làm việc IETF về Kerberos cập nhật các đặc điểm kỹ thuật tại địa chỉ . Các cập nhật gần đây bao gồm: RFC 3961: "Các quy định về mật mã hóa và kiểm tra tổng"; RFC 3962: "Mật mã hóa AES cho Kerberos 5"; RFC 4120: Phiên bản mới về tiêu chuẩn Kerberos V5: "The Kerberos Network Authentication Service (V5)". Phiên bản này thay thế RFC 1510, làm rõ các vấn đề của giao thức và cách sử dụng; RFC 4121: Phiên bản mới của tiêu chuẩn GSS-API: "Cơ cấu GSS-API của Kerberos Version 5: Version 2." Nguyên tắc hoạt động Kerberos được thiết kế dựa trên giao thức Needham-Schroeder. Kerberos sử dụng một bên thứ ba tham gia vào quá trình nhận thực gọi là "trung tâm phân phối khóa" (tiếng Anh: key distribution center - KDC). KDC bao gồm hai chức năng: "máy chủ xác thực" (authentication server - AS) và "máy chủ cung cấp vé" (ticket granting server - TGS). "Vé" trong hệ thống Kerberos chính là các chứng thực chứng minh tính hợp lệ của người sử dụng. Mỗi người sử dụng (cả máy chủ và máy khách) trong hệ thống chia sẻ một khóa chung với máy chủ Kerberos. Việc sở hữu thông tin về khóa chính là bằng chứng để chứng minh tính hợp lệ của một người sử dụng. Trong mỗi giao dịch giữa hai người sử dụng trong hệ thống, máy chủ Kerberos sẽ tạo ra một khóa phiên dùng cho phiên giao dịch đó. Ứng dụng của Kerberos Các phần mềm sau có thể dùng Kerberos để nhận thực: OpenSSH (với Kerberos v5 hoặc cao hơn) NFS (kể từ NFSv3) PAM (với mô đun pam_krb5) SOCKS (kể từ SOCKS5) Apache (với mô đun mod_auth_kerb) Dovecot IMAP4 và POP3 Một cách gián tiếp, tất cả phần mềm sử dụng SASL để nhận thực, chẳng hạn như OpenLDAP Bộ Kerberos còn đi kèm với các bộ phần mềm máy chủ và máy khách của rsh, FTP và Telnet Hệ thống X Window Mô tả giao thức Theo hệ thống ký hiệu giao thức mật mã, Kerberos được mô tả như sau (trong đó Alice (A) sử dụng máy chủ (S) để nhận thực với Bob (B)): An ninh của giao thức phụ thuộc rất nhiều vào các trường T (đánh dấu thời điểm) và L (thời hạn) của các gói tin. Đây chính là các chỉ thị về tính chất mới của các gói tin và chống lại các tấn công gửi lại các gói tin cũ (xem thêm: Lô gic BAN). Trong các bản tin ở trên, máy chủ S bao gồm cả dịch vụ nhận thực và cung cấp vé. Trong gói tin , chính là khóa phiên giữa A và B; là vé gửi từ máy khách tới máy chủ; là phần để nhận thực A với B; và để khẳng định lại nhân dạng của B và thông qua đó chấp nhận A. Điều này cần thiết để hai bên nhận dạng lẫn nhau. Hoạt động Sau đây là mô tả một phiên giao dịch (giản lược) của Kerberos. Trong đó: AS = Máy chủ chứng thực (authentication server), TGS = Máy chủ cấp vé (ticket granting server), SS = Máy chủ dịch vụ (service server). Một cách vắn tắt: người sử dụng chứng thực mình với máy chủ chứng thực AS, sau đó chứng minh với máy chủ cấp vé TGS rằng mình đã được chứng thực để nhận vé, cuối cùng chứng minh với máy chủ dịch vụ SS rằng mình đã được chấp thuận để sử dụng dịch vụ. Người sử dụng nhập tên (ID) và mật khẩu tại máy tính của mình (máy khách). Phần mềm máy khách thực hiện hàm băm một chiều trên mật khẩu nhận được. Kết quả sẽ được dùng làm khóa bí mật của người sử dụng. Phần mềm máy khách gửi một gói tin (không mã hóa) tới máy chủ dịch vụ AS để yêu cầu dịch vụ. Nội dung của gói tin đại ý: "người dùng XYZ muốn sử dụng dịch vụ". Cần chú ý là cả khóa bí mật lẫn mật khẩu đều không được gửi tới AS. AS kiểm tra định danh của người yêu cầu có nằm trong cơ sở dữ liệu của mình không. Nếu có thì AS gửi 2 gói tin sau tới người sử dụng: Gói tin A: "Khóa phiên TGS/máy khách" được mã hóa với khóa bí mật của người sử dụng. Gói tin B: "Vé chấp thuận" (bao gồm chỉ danh người sử dụng (ID), địa chỉ mạng của người sử dụng, thời hạn của vé và "Khóa phiên TGS/máy khách") được mã hóa với khóa bí mật của TGS. Khi nhận được 2 gói tin trên, phần mềm máy khách giải mã gói tin A để có khóa phiên với TGS. (Người sử dụng không thể giải mã được gói tin B vì nó được mã hóa với khóa bí mật của TGS). Tại thời điểm này, người dùng có thể nhận thực mình với TGS. Khi yêu cầu dịch vụ, người sử dụng gửi 2 gói tin sau tới TGS: Gói tin C: Bao gồm "Vé chấp thuận" từ gói tin B và chỉ danh (ID) của yêu cầu dịch vụ. Gói tin D: Phần nhận thực (bao gồm chỉ danh người sử dụng và thời điểm yêu cầu), mã hóa với "Khóa phiên TGS/máy khách". Khi nhận được 2 gói tin C và D, TGS giải mã D rồi gửi 2 gói tin sau tới người sử dụng: Gói tin E: "Vé" (bao gồm chỉ danh người sử dụng, địa chỉ mạng người sử dụng, thời hạn sử dụng và "Khóa phiên máy chủ/máy khách") mã hóa với khóa bí mật của máy chủ cung cấp dịch vụ. Gói tin F: "Khóa phiên máy chủ/máy khách" mã hóa với "Khóa phiên TGS/máy khách". Khi nhận được 2 gói tin E và F, người sử dụng đã có đủ thông tin để nhận thực với máy chủ cung cấp dịch vụ SS. Máy khách gửi tới SS 2 gói tin: Gói tin E thu được từ bước trước (trong đó có "Khóa phiên máy chủ/máy khách" mã hóa với khóa bí mật của SS). Gói tin G: phần nhận thực mới, bao gồm chỉ danh người sử dụng, thời điểm yêu cầu và được mã hóa với "Khóa phiên máy chủ/máy khách". SS giải mã "Vé" bằng khóa bí mật của mình và gửi gói tin sau tới người sử dụng để xác nhận định danh của mình và khẳng định sự đồng ý cung cấp dịch vụ: Gói tin H: Thời điểm trong gói tin yêu cầu dịch vụ cộng thêm 1, mã hóa với "Khóa phiên máy chủ/máy khách". Máy khách giải mã gói tin xác nhận và kiểm tra thời gian có được cập nhật chính xác. Nếu đúng thì người sử dụng có thể tin tưởng vào máy chủ SS và bắt đầu gửi yêu cầu sử dụng dịch vụ. Máy chủ cung cấp dịch vụ cho người sử dụng. Nhược điểm Tồn tại một điểm yếu: Nếu máy chủ trung tâm ngừng hoạt động thì mọi hoạt động sẽ ngừng lại. Điểm yếu này có thể được hạn chế bằng cách sử dụng nhiều máy chủ Kerberos. Giao thức đòi hỏi đồng hồ của tất cả những máy tính liên quan phải được đồng bộ. Nếu không đảm bảo điều này, cơ chế nhận thực giữa trên thời hạn sử dụng sẽ không hoạt động. Thiết lập mặc định đòi hỏi các đồng hồ không được sai lệch quá 10 phút. Cơ chế thay đổi mật khẩu không được tiêu chuẩn hóa.
116 (một trăm mười sáu) là một số tự nhiên ngay sau 115 và ngay trước 117.
117 (một trăm mười bảy) là một số tự nhiên ngay sau 116 và ngay trước 118. Trong hóa học Là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Tennessine (Ts)
118 (một trăm mười tám) là một số tự nhiên ngay sau 117 và ngay trước 119. Trong hóa học Là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Oganesson (Og)
119 (một trăm mười chín) là một số tự nhiên ngay sau 118 và ngay trước 120.
120 (một trăm hai mươi) là một số tự nhiên ngay sau 119 và ngay trước 121. Đặc tính: Là tích của năm số tự nhiên đầu tiên: 120 = 1 × 2 × 3 × 4 × 5 Là tổng của bốn số nguyên tố liền nhau: 120 = 23 + 29 + 31 + 37 Là tổng của bốn lũy thừa bậc liên tiếp của cơ số 3: 120 = 31 + 32 + 33 + 34 Là tích của hai phép tính cho số 10 và tổng của hai phép tính cộng cho 5: 120 = (5 + 5) + (5 + 5) + (10 × 5) + (10 × 5)
121 (một trăm hai mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 120 và ngay trước 122. Trong toán học 121 = 30 + 31 + 32 + 33 + 34
122 (một trăm hai mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 121 và ngay trước 123.
123 (một trăm hai mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 122 và ngay trước 124.
124 (một trăm hai mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 123 và ngay trước 125.
125 (một trăm hai mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 124 và ngay trước 126.
126 (một trăm hai mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 125 và ngay trước 127.