text
stringlengths 0
512k
|
---|
Long Châu Tiền là tỉnh cũ ở miền Tây Nam Bộ, do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đặt.
Tỉnh Long Châu Tiền được thành lập theo chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) ngày 12 tháng 9 năm 1947, từ một phần tỉnh Châu Đốc và một phần tỉnh Long Xuyên. Tỉnh Long Châu Tiền nằm ở phía bờ trái (tả ngạn) sông Hậu, hai bên sông Tiền, thuộc khu 8 và có 5 quận: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, quận Lấp Vò được trả về tỉnh Sa Đéc. Cũng trong năm đó, quận Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền chia thành 2 quận mới Phú Châu và Tân Châu.
Tháng 6 năm 1951, tỉnh Long Châu Tiền hợp nhất với tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa.
Tỉnh Long Châu Tiền được Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tái lập tháng 5 năm 1974 gồm thị xã Tân Châu và 5 huyện: An Phú, Phú Tân A, Phú Tân B, Hồng Ngự, Tam Nông (nay là các huyện Tam Nông, Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp).
Tỉnh Long Châu Tiền tồn tại cho đến tháng 2 năm 1976. Tân Châu là thị xã tỉnh lỵ Long Châu Tiền.
Tỉnh này không được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa công nhận. Địa bàn tỉnh Long Châu Tiền tương ứng với một phần các tỉnh An Giang, Châu Đốc và Kiến Phong của Việt Nam Cộng Hòa.
Địa bàn tỉnh Long Châu Tiền nay một phần thuộc tỉnh An Giang, một phần thuộc tỉnh Đồng Tháp. |
Nguyễn Văn Hiệu (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 – mất ngày 23 tháng 1 năm 2022) là giáo sư, nhà vật lý, và chính trị gia của Việt Nam. Ông là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khoá VI, VII, và VIII; ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V; đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam các khoá IV, V, VI, VII, và VIII; nguyên viện trưởng Viện Vật lý (Việt Nam), Viện Khoa học Vật liệu Việt Nam, và nguyên chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Ông còn là hiệu trưởng sáng lập Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông là giáo sư, tiến sĩ khoa học ngành vật lý lý thuyết và vật lý toán học xuất sắc của Việt Nam; là viện sĩ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới thứ 3.
Tiểu sử và quá trình công tác
Nguyễn Văn Hiệu sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 tại Cầu Đơ, nay thuộc phường Hà Cầu, quận Hà Đông, Hà Nội trong một gia đình viên chức nhỏ.
Năm 1954: Học ngành Vật Lý tại trường Đại học Sư phạm Khoa học.
Năm 1956: Tốt nghiệp cử nhân Vật lý loại xuất sắc, sau đó được điều về giảng dạy tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nay là Đại học Quốc gia Hà Nội, vào thời điểm đó Nguyễn Văn Hiệu cùng Nguyễn Lân Dũng là hai cán bộ giảng dạy trẻ nhất của nhà trường.
Tháng 10 năm 1960: Ông được cử đi nghiên cứu sinh tại Viện nghiên cứu hạt nhân Dubna, Liên Xô.
Năm 1963: Ông bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ).
Năm 1964: Bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ngành Toán - Lý (nay là tiến sĩ khoa học).
Từ 1964 đến 1969: Ông là tổ trưởng tổ nghiên cứu tại Viện nghiên cứu hạt nhân Dubna, Liên Xô.
Năm 1968: Ông được công nhận chức danh giáo sư vật lý lý thuyết và vật lý toán của Viện Dubna và Đại học Tổng Hợp Lomonosov.
Từ năm 1969 đến 1993: Ông là Viện trưởng Viện Vật lý (Việt Nam), ủy viên Ủy ban khoa học và công nghệ nhà nước Việt Nam.
Từ 1975 đến 1983: Ông làm việc tại Viện khoa học Việt Nam khi Viện vừa mới thành lập (1975-1983) - nghiên cứu về khoa học tự nhiên nay là Viện khoa học và công nghệ Việt Nam.
Năm 1982: Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V ông được bầu là uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng trong năm này ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
Từ năm 1983 đến năm 1993: Ông là Viện trưởng Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam và là uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khoá VI và khoá VII.
Năm 1984: Ông được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học thế giới thứ 3.
Năm 1993 đến năm 1994: Ông giữ chức Giám đốc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia;
Từ 1993 đên 1998: Ông là Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu, uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII.
Năm 1999: Ông được Đại học Quốc gia Hà Nội gửi lời mời đặc biệt về giữ chức vụ Chủ nhiệm khoa Công nghệ, ông đã nhận lời và giữ chức chủ nhiệm khoa tới năm 2004.
Năm 2004: Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập từ khoa Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội, ông giữ cương vị hiệu trưởng tới năm 2005.
12/2007-5/2008. Hiệu trưởng Trường ĐH Tư Thục và Quản lý Hữu Nghị.
Ông từng đảm nhiệm chức vụ uỷ viên Hội đồng chính sách Khoa học và Công nghệ quốc gia của chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Ngoài ra ông còn được giới vật lý châu Á bầu làm chủ tịch Trung tâm Vật lý lý thuyết châu Á - Thái Bình Dương (trụ sở tại Seoul, Hàn Quốc).
Ông qua đời ngày 23 tháng 1 năm 2022 tại Hà Nội.
Những đóng góp cho Vật Lý và đất nước Việt Nam
Từ năm 1960 đến năm 1963, ông đã nghiên cứu và công bố 12 công trình nghiên cứu về vật lý neutrino. sau đó Viện nghiên cứu hạt nhân Dupna quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu mới và giao cho ông phụ trách, nhóm gồm các nhà vật lý thuộc nhiều quốc tịch: Liên Xô, Hungary, Romania và Việt Nam. Dưới sự hướng dẫn của ông, 6 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Năm 1967 ông hoàn thành tập sách gồm 20 công trình nghiên cứu có tựa đề "Thuyết đối xứng đơn của các hạt cơ bản" và được nhà xuất bản Nguyên Tử in ở Moskva năm 1967 với lời giới thiệu của nhà bác học danh tiếng Bogolubov, viện trưởng Viện Dupna.
Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu là tác giả của 130 công trình nghiên cứu khoa học, trải rộng trên nhiều lĩnh vực, từ tương tác yếu và đối xứng của các hạt cơ bản, đến lý thuyết giải tích về tương tác mạnh và lý thuyết trường, rồi phương pháp lý thuyết trường lượng tử trong vật lý chất rắn, trong đó có nhiều công trình được công bố trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế có uy tín.
Trong công tác quản lý ông đã có đóng góp to lớn trong việc thành lập Viện Vật lý, Viện Khoa học Việt Nam và trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra ông còn là đại biểu Quốc hội của nước CHXHCN Việt Nam 5 khoá liên tiếp từ khoá IV tới khoá VIII.
Nhận xét về Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu
Ngày 4 tháng 5 năm 1964, nhà báo Liên Xô Svanev viết một bài dài tường thuật buổi bảo vệ luận án của Nguyễn Văn Hiệu, trong đó có đoạn ghi lại nhận định của viện sĩ Markov khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Svanev:
Phong tặng
Năm 1986: Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu được trao tặng Giải thưởng Lênin vì đã khám phá một định luật mới trong vật lý học: Định luật bất biến kích thước của quá trình sinh hạt. Ông là người Việt Nam duy nhất từng được trao tặng giải thưởng danh giá của nhà nước Xô Viết này.
Năm 1996: ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kĩ thuật.
Ngày 10 tháng 7 năm 2009, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Thị Doan đã thay mặt Chủ tịch nước trao tặng Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu Huân chương độc lập hạng Nhất.
Nhà giáo Nhân dân của Việt Nam.
Gia đình
Ông là anh cả trong gia đình có 10 anh chị em. Tất cả 10 anh em trong gia đình đều tốt nghiệp đại học. Ngoài GS Hiệu còn có 6 người là tiến sĩ, 1 người là phó giáo sư. Trong số những người em của ông có thể kể đến phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoài Châu, công tác tại Viện Công nghệ Môi trường, và Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, thường được biết đến với biệt danh “Ông già Ô-zôn”.
Ông có hai đời vợ. Người vợ đầu là bà Nguyễn Thị Hồng, cũng là một nhà vật lý lý thuyết tài năng. Bà bảo vệ luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) năm 1973, và tiến sĩ khoa học năm 1984. Sau khi bà Hồng qua đời, ông kết hôn với người vợ thứ hai là bà Nguyễn Thị Bích Hà.
Ông có một con trai cũng là tiến sĩ vật lý. Cháu nội ông cũng theo ngành vật lý, hiện là phó giáo sư tiến sĩ giảng dạy và nghiên cứu tại Pháp.
Chú thích |
Chế độ tỷ giá hối đoái là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá hối đoái ở mỗi nước và mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song về cơ bản là chế độ tỷ giá "thả nổi" theo đó thị trường quy định những biến động của tỷ giá hối đoái, hoặc ngược lại hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái "cố định" theo đó nhà nước sẽ can thiệp để tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của nước mình với đồng tiền (các) nước khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa hai giải pháp góc đó.
Tỷ giá thả nổi hoàn toàn
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn hay còn gọi là chế độ tỷ giá linh hoạt là một chế độ trong đó giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị trường ngoại hối. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi được gọi là một đồng tiền thả nổi.
Nói chung, các nhà kinh tế đều cho rằng, trong phần lớn trường hợp, chế độ tỷ giá thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy với thị trường ngoại hối. Điều này cho phép làm dịu tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp méo các hoạt động kinh tế.
Tỷ giá cố định
Tỷ giá hối đoái cố định, đôi khi còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo, là một kiểu chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác, như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định. Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa chọn chế độ tỷ giá ngược hoàn toàn với tỷ giá hối đoái thả nổi.
Mặc dù việc thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ hạn chế khả năng của chính phủ trong vận hành một chính sách tiền tệ nội địa độc lập nhằm duy trì ổn định kinh tế trong nước, song trong thực tế, nhiều chính phủ vẫn thích chế độ tỷ giá hối đoái cố định bởi nó tạo ra sự ổn định. Trong lịch sử, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đã từng tồn tại hệ thống Bretton Woods cho phép Tây Âu và Nhật Bản có được tỷ giá cố định so với dollar Mỹ cho đến tận năm 1970. Gần đây, Trung Quốc, Hong Kong và Malaysia đã rất thành công trong việc duy trì tỷ giá hối đoái cố định để giữ ổn định kinh tế trong nước. Đồng euro hiện nay cũng có thể được xem là một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia châu Âu tham gia.
Nhiều quan điểm cho rằng tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên che mất những thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Đó là vì đồng tiền không còn thể hiện giá trị thị trường thực của chúng. Sự che đậy thông tin này tạo ra tính không chắc chắn, kích thích các kẻ đầu cơ "tấn công" các đồng tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối khi cố gắng bảo vệ đồng tiền của mình chứ không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một trường hợp như vậy.
Thả nổi có điều tiết
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là chế độ mà trong đó tỉ giá biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường và ngân hàng trung ương có tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỉ giá nhưng ngân hàng trung ương không cam kết duy trì một tỉ giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỉ giá trung tâm.
Chế độ tỉ giá thả nổi có quản lí là sự dung hòa giữa chế độ tỉ giá cố định và chế độ tỉ giá thả nổi tự do. Vì vậy, nó kết hợp được những ưu điểm của cả hai chế độ nhưng đồng thời cũng cho những hạn chế nhất định.
Chế độ này có ưu điểm là tỉ giá tương đối ổn định do đó góp phần ổn định kinh tế, thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế. Đảm bảo tính độc lập tương đối của chính sách tiền tệ, hạn chế được những ảnh hưởng do các cú sốc từ bên ngoài đến với kinh tế.
Nhưng để duy trì chế độ này, ngân hàng trung ương cũng phải có lượng ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết và phải xác định mức độ can thiệp phù hợp, nếu không sẽ trở thành chế độ tỉ giá cố định.
Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái cố định tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường. (Xem bài riêng về Chính sách can thiệp tỷ giá hối đoái) |
Ringgit Malaysia (còn được gọi là đồng Đôla Malaysia), là đơn vị tiền tệ chính thức của Malaysia. Một ringgit được chia thành 100 sen (xu) và có ký hiệu là MYR.
Lịch sử
Ngày 12 tháng 6 năm 1967, đồng Đôla Malaysia thay thế cho đồng Đôla của xứ Malaya và Borneo thuộc Anh. Đồng đô-la Malaysia là đồng tiền mới được phát hành bởi ngân hàng trung ương mới, Ngân hàng Negara Malaysia.
Cho đến năm 1973, đồng Đôla Malaysia có thể trao đổi ngang giá với Đôla Singapore và Đôla Brunei.
Tiền kim loại
Xê ri đầu tiên
Vào ngày 7 tháng 12 năm 2005, tiền kim loại RM1 đã bị hủy bỏ và rút khỏi lưu thông. Điều này một phần là do các vấn đề với việc tiêu chuẩn hóa (hai phiên bản tiền xu khác nhau đã được đúc) và giả mạo.
Ba loại tiền xu thoi vàng, "Kijang Emas" (kijang (một loại nai) là logo chính thức của Ngân hàng Negara Malaysia) cũng được phát hành với giá trị danh nghĩa RM 50, RM 100 và RM 200. Loại tiền này đã được phát hành ra 7 tháng 7 năm 2001 bởi Ngân hàng Negara Malaysia và do Royal Mint of Malaysia Sdn Bhd đúc. Giá mua và bán lại của Kijang Emas được giá thị trường vàng quốc tế đang lưu hành xác định.
Tiền giấy
Bank Negara Malaysia đã phát hành tiền giấy dollar Malaysia lần đầu vào tháng 6 năm 1967 với các mệnh giá $1, $5, $10, $50 và $100. Mệnh giá $1000 đã được phát hành lần đầu năm 1968. Tiền giấy Malaysia đã luôn luôn mang hình ảnh của Tuanku Abdul Rahman, Yang di-Pertuan Agong đầu tiên của Malaysia.
Các máy ATM thường cho ra giấy bạc RM50, hoặc hiếm hoi hơn, giấy bạc RM10 cùng với giấy bạc RM50.
Giấy bạc Malaysia đã từ lâu theo một mã màu xuất phát từ thời thuộc địa. Các mệnh giá thấp hơn thì kiểm mẫu này được Singapore và Brunei áp dụng theo và khi Bank Negara giới thiệu lần đầu giấy bạc RM2 nó sao chép màu hoa cà của tờ giấy bạc 2 dollar Singapore.
RM1 - xanh da trời
RM2 - hoa cà (không còn lưu hành nữa)
RM5 - xanh lá cây
RM10 - đỏ
RM20 - nâu/trắng (không còn lưu hành nữa)
RM50 - xanh lá cây/xám
RM100 - tím
RM500 - cam (không còn lưu hành nữa)
RM1000 - xanh dương/xanh lá cây (không còn lưu hành nữa)
Seri đầu
Seri thứ hai
Seri thứ ba
Xê ri hiện tại và lần thứ 3 đã được phát hành với các thiết kế.
Kỷ niệm thế vận hội
Để tưởng niệm Thế vận hội Khối thịnh vượng chung năm 1998 ở Kuala Lumpur, một loại tiền polymer RM50 đã được phát hành, đánh dấu việc Malaysia sử dụng tiền giấy polymer lần đầu tiên. Tiền mệnh giá này hiếm khi được thấy trong giao dịch hàng ngày mà người ta chỉ sưu tập làm kỷ niệm.
Tỉ giá hối đoái hiện thời của đồng MYR |
Sa-Phia (hay Lam ngọc, sapphire trong tiếng Anh, saphir trong tiếng Pháp) là dạng tinh thể đơn của nhôm oxide (Al2O3) (corundum). Xa-phia tồn tại ngoài tự nhiên dưới dạng đá quý hoặc được chế tạo dành cho nhiều ứng dụng.
sa-phia bao gồm tất cả các dạng đá quý thuộc nhóm khoáng chất corundum ngoại trừ hồng ngọc.
Nhóm corundum bao gồm các dạng oxide nhôm tinh khiết. Áp suất và nhiệt độ lòng đất làm cho oxide nhôm kết tinh thành những viên đá quý đẹp màu trắng. Hàm lượng các tạp chất khác nhau trong xa-phia như sắt và crôm làm cho nó các sắc xanh, đỏ, vàng, hồng, tím, da cam hoặc lục nhạt.
Hồng ngọc cũng thuộc nhóm corundum. Trong nhiều năm, các chuyên gia đã tranh luận về chuyện những loại đá gì được gọi là xa-phia cho đến khi thống nhất được rằng corundum đỏ sẽ được gọi là hồng ngọc (ruby) còn corundum với tất cả các màu khác sẽ được gọi là "sa-phia". |
Tàu Nô-ê (hay Noah) là con thuyền được nhắc đến ở chương 6 đến chương 9 của Sách Sáng thế trong Kinh Thánh. Văn bản đó mô tả việc ông Nô-ê đóng con tàu này theo ý Chúa là để cứu ông và gia đình cùng các loài động vật nhằm khỏi bị diệt vong bởi trận trừng phạt đại hồng thủy của Thiên Chúa
Câu chuyện Kinh Thánh
Đức Chúa Trời nhận ra rằng, loài người càng sinh sôi nhiều thì họ càng phạm tội đến nỗi không thể cứu chữa. Ngài hối hận vì đã tạo ra loài người nên quyết định sẽ hủy diệt tất cả thế giới bằng trận đại hồng thủy. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời thấy ông Nô-ê là người công chính nên không nỡ loại trừ cả ông. Đức Chúa Trời phán truyền cho ông Nô-ê: "Ngươi sẽ làm tàu thế này: chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước. Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu, và đặt mui cách phía trên tàu nửa thước. Cửa tàu, ngươi sẽ đặt ở bên hông; ngươi sẽ làm tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên." (Sáng Thế 6:15-16).
Ngoài ra, Đức Chúa Trời cũng hướng dẫn ông Nô-ê cách thức để sinh tồn và bảo tồn giống động thực vật trong tàu: "Trong mọi sinh vật, mọi xác phàm, ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi, để giữ cho chúng sống với ngươi; phải có một con đực và một con cái. Trong mỗi loại chim, mỗi loại gia súc, mỗi loại vật bò dưới đất, mỗi loại một đôi sẽ đến với ngươi, để ngươi giữ cho chúng sống. Phần ngươi, hãy lấy mọi thứ ăn được và tích trữ cho mình; đó sẽ là lương thực của ngươi và của chúng." (Sáng thế 6:19-21).
Sau trận lụt kinh hoàng, nước rút dần khỏi mặt đất thì ông Nô-ê thả một con quạ bay ra khỏi tàu xem tình hình bên ngoài. Lần thứ nhất, con quạ không tìm được chỗ đậu chân vì nước chưa rút, nên nó bay về lại tàu. Bảy ngày sau, ông Nô-ê lại thả con chim bồ câu , và lần này nó bay trở về, trên mỏ ngậm cành lá ô liu tươi. Ông Nô-ê biết là nước đã giảm xuống, mặt đất đã hòa bình vì Đức Chúa Trời đã thôi cơn thịnh nộ.
Ngày nay, hình ảnh chim bồ câu ngậm cành lá là biểu tượng của hòa bình (hoặc sự an bình). |
Thái cực quyền (chữ Hán phồn thể: 太極拳; chữ Hán giản thể: 太极拳; bính âm: Taijiquan; Tiếng Anh: Tai Chi), là một môn võ thuật cổ truyền của Trung Quốc với đặc trưng là các động tác trường quyền uyển chuyển, chậm rãi kết hợp với điều hoà hơi thở.
Nguồn gốc
Về nguồn gốc Thái cực quyền, người ta có những luận điểm suy đoán khác nhau. Theo nhiều tài liệu, Thái cực quyền được ra đời cách đây hơn 300 năm do sự sáng tạo của một người họ Trần ở Trần Gia Câu, huyện Ôn, tỉnh Hà Nam, tên là Trần Vương Đình. Tại Việt Nam, cùng với sự phổ biến của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trong đó có nhắc tới việc Trương Tam Phong là người đầu tiên nghĩ ra Thái cực quyền, nhiều người tin rằng ông tổ của môn võ này chính là Trương Tam Phong. Tuy nhiên, với sự phổ biến của cuốn Thái cực quyền phổ do Vương Tông Nhạc đời Càn Long viết ra, và ảnh hưởng của cuốn sách này đến các hệ phái Thái cực quyền về sau, các học giả ngày càng nghiêng về khả năng Vương Tông Nhạc mới là người khai sáng Thái cực quyền.
Các dòng phái chính
Ngũ đại danh gia
Theo tài liệu Thái cực quyền thường thức vấn đáp của tác giả Trương Văn Nguyên thì Thái cực quyền có 7 trường phái sau:
Thái cực quyền Trần Gia Lão giá bắt đầu từ Trần Trường Hưng ở Trần Gia Câu, Hà Nam.
Thái cực quyền Trần gia Tân giá bắt đầu từ Trần Hữu Bản cũng ở Trần Gia Câu, Hà Nam.
Thái cực quyền Trần Gia Tiểu giá bắt đầu từ Trần Thanh Bình ở làng Triệu Bảo (gần Trần Gia Câu), còn gọi là Triệu Bảo giá Thái cực quyền.
Thái cực quyền Dương gia bắt đầu từ Dương Lộ Thiền truyền cho hai con trai là Dương Ban Hầu và Dương Kiện Hầu, Dương Kiện Hầu lại truyền cho con là Dương Trừng Phủ. Hệ phái Dương gia Thái cực quyền hiện có bài giản hóa 24 thức thường dùng cho các lớp dưỡng sinh.
Thái cực quyền Vũ gia bắt đầu từ Vũ Vũ Tương người huyện Vĩnh Niên, phủ Quảng Bình, tỉnh Trực Lệ, đến Ôn Châu Hà Nam, theo học với Trần Thanh Bình.
Thái cực quyền Ngô gia bắt đầu từ cha con của Ngô Toàn Hựu và Ngô Giám Tuyền học từ Dương Lộ Thiền.
Thái cực quyền Tôn gia bắt đầu từ Tôn Lộc Đường (người Bắc Kinh) học từ Hác Vi Chân.
Tuy vậy, trong Thái cực quyền toàn tập, liệt kê 5 nhà lớn nhất:
Trần thức Thái cực quyền tổng hợp cả ba giá (Lão giá, Tân giá và Tiểu giá),
Dương thức Thái cực quyền,
Ngô thức Thái cực quyền,
Võ thức Thái cực quyền
Tôn thức Thái cực quyền.
Các chi phái Dương, Ngô, Võ và Tôn chỉ dạy một bài quyền và sau đó môn Thôi thủ (Tuishou). Riêng chi phái Trần có dạy thêm một bài thứ nhì bài Pháo trùy quyền, bổ túc cho bài thứ nhất.
Các hệ phái khác
Bên cạnh 5 nhà nói trên, tại Trung Hoa (và cả Việt Nam) hiện còn lưu truyền nhiều hệ phái Thái cực quyền khác nhau, trong đó có nhiều hệ phái xuất xứ từ Thái cực quyền của dòng họ Trần, bao gồm:
Hòa gia Thái cực quyền (Hijia Taiji Quan) lập bởi Hòa Triệu Nguyên (HeZhaoyuan) (1810-1890), đệ tử của Trần Thanh Bình.
Lý gia Thái cực quyền (Lijia Taiji Quan) lập bởi Lý Thụy Đông (Li Ruidong), đệ tử đời thứ hai của Dương Lộ Thiền. Vào cuối thế kỷ thứ 19, môn này còn được gọi là Ngũ Tinh Thái Cực quyền (Wuxing Taiji quan) hay Ngũ Tinh Trùy (Wuxing Chui).
Lý gia Thái cực quyền (Lijia Taiji Quan) truyền bởi Lý Anh Ngang (Li Yingang) thế kỷ 20
Nhạc gia Thái cực quyền (Yuejia Taiji Quan) thành lập vào đầu thế kỷ thứ 20.
Phó gia Thái cực quyền (Fujia Taiji Quan) lập bởi Phó Chấn Tung (Fu Zhensong) (1881-1953)
Tam Hợp Nhất Thái cực quyền (Sanheyi Taiji Quan) lập bởi Trương Kính Chi (Zhang Jingshi), đệ tử đời thứ tư của Trần Thanh Bình.
Thiếu Lâm tổng hợp Thái cực quyền (Shaolin Zonghe Taiji Quan) từ Như Tỉnh (Ru Jing) vào thế kỷ thứ 19.
Thường gia Thái cực quyền (Channgjia Taiji Quan) lập bởi Thường Đông Thăng (Chang Dongshing) (1909-1986).
Triệu Bảo gia Thái cực quyền (Zhaobaojia Taiji Quan) lập bởi Trần Thanh Bình.
Trịnh gia Thái cực quyền (Zhengjia Taiji Quan) lập bởi Trịnh Mãn Thanh (Zheng Manqing) (1901-1975)
Trương gia Thái cực quyền (Zhangjia Taiji quan) truyền bởi Vạn Lai Thanh (Wan Laisheng) (1903-1992)
Triệu gia Thái cực chưởng (Zhaojia Taiji Zhang) do Triệu Trúc Khê (Zhao Zhuxi) (1898-1991) sáng tác vào thập niên 1950. Chương trình của môn này bao gồm bài Dương gia Thái cực quyền giản hóa 24 thức; Đơn vãn thôi thủ (Danwantuishou); Thái cực chưởng (Taijizhang); Thái cực kiếm (Taijijian); Thái cực đao (Taijidao). Ngoại trừ bài Dương gia Thái cực quyền giản hóa 24 thức, kỹ thuật của bộ môn thuộc Thái cực Đường Lang quyền (Taiji Tanglang quan) không dính dáng đến các lưu phái Thái cực Trường quyền nói trên.
Thái cực quyền-trường phái Trường sinh đạo (gọi tắt là Thái cực trường sinh đạo được cụ Song Tùng truyền từ gia tộc đến các học viên tại các lớp học của Câu lạc bộ UNESCO Thái cực trường sinh đạo. Theo ý kiến của cụ Song Tùng "đây là bài Thái cực quyền kết hợp với luyện thiền từ Trung Quốc và Yoga Ấn Độ truyền bá sang Việt Nam, được cha ông chúng ta "Việt hóa"".. Bài bao gồm 108 động tác, đồ hình và thủ pháp khá giống bài Dương gia Thái cực giản hóa 24 thức tuy có khác ở điểm giữ thân trung chính không nhấp nhô đầu.
Thái cực quyền đồ biểu
Để biết chi tiết đầy đủ các nhân vật Thái Cực quyền, xin xem bảng phả hệ các nhân vật Thái Cực quyền ở dưới, đồ biểu này chỉ có tính khái quát các xu hướng phân lưu cho đến nay.
Huyền sử
Những nhân vật trong huyền sử của Thái cực quyền có thể kể đến Trương Tam Phong và Vương Tông Nhạc:
Thái cực quyền 5 nhà
Sự phân tách Ngũ đại lưu phái Thái cực quyền khởi nguồn từ Trần Vương Đình, có thể biểu kiến bằng sơ đồ sau:
Bài hiện đại
Một số bài Thái cực quyền hiện đại, được giản hóa chiêu thức trên cơ sở sắp xếp lại đồ hình, lọc lược bớt các chiêu thức trùng lắp:
Theo xu hướng tinh giản hóa các chiêu thức trùng lắp, hiện Dương thức Thái cực quyền cũng đã có một số bài còn gọn hơn, như bài Dương gia Thái cực quyền 10 thức và bài Dương gia Thái cực quyền 16 thức (cùng năm 1999), Vũ gia Thái cực quyền 46 thức (1996) v.v.
Đặc điểm
Tư tưởng
Tên gọi Thái cực quyền xuất phát từ tư tưởng Thái cực trong Chu dịch và học thuyết Âm Dương: Vô cực sinh Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng (hai chân, hai tay), Tứ tượng sinh Bát quái (tám tiết đoạn của tay chân gập duỗi được), Bát quái biến 64 quẻ... "Thái" ở đây nghĩa là to lớn, "cực" nghĩa là điểm bắt đầu. Thái Cực Đồ nói rằng: "Vô cực mà thái cực". Dùng lối thở bụng của Đạo gia, Thái cực quyền khiến người tập hô hấp thâm trường không bị rối loạn, sức mạnh gia tăng, hình thành một công phu đặc thù trong võ học. Các động tác của bài quyền uyển chuyển và mềm mại, trong nhu có cương, dung hợp với học thuyết kinh mạch âm dương. Thái cực quyền đã trở thành một phương pháp tập luyện trong ngoài tương ứng, hình thức và tâm ý kết hợp.
Tính nhân văn
Nét chính yếu của Thái cực quyền là mô phỏng các hiện tượng tự nhiên. Nhiều chiêu thức trong bài hình ít nhiều mang đặc tính lãng mạn và nhân văn, ví dụ như: vân thủ (nghĩa là chiêu thức xoay tay như mây trắng xoay cuộn giữa trời xanh), bạch hạc lượng xí (con chim hạc vui múa), ngọc nữ xuyên thoa (thiếu nữ may áo), chuyển thân bài liên (lá sen lay động trước gió), như phong tự bế (như gió thổi làm cửa đóng), hải để châm (kim châm đáy bể) v.v. Thái cực quyền cũng là bộ môn ứng dụng nội công, rất thâm thúy và sâu sắc, với những tâm pháp mà các môn sinh phải thuộc nằm lòng để thi triển và ứng dụng hữu hiệu. Tuy chỉ có một bài quyền với các chiêu thức đơn giản nhưng người tập phải trải qua một tiến trình tập rất dài mới thấu hiểu lý pháp.
Nguyên tắc tập luyện
Các nguyên tắc, yếu lĩnh tập luyện khai triển Thái cực quyền mỗi dòng phái có sự dị biệt ít nhiều, tuy nhiên thường có một vài nguyên tắc khá liên quan, thống nhất. Dưới đây là một số nguyên tắc của dòng Dương thức Thái cực quyền:
-Tư thế:
Hư linh đỉnh kình: đầu cổ ngay thẳng, thần quán ở đỉnh
Hàm hung bạt bối: ngực lõm, lưng phẳng
Trầm kiên trụy chẩu: vai lỏng, chỏ buông
-Thần thế:
Khí trầm đan điền: ý thức đặt tại đan điền (cách rốn 3 đốt ngón tay về phía dưới) tự nhiên không gò bó
-Vận động:
Tùng yêu: chân tay theo sự vận động của eo, lấy eo làm chỗ dựa
Phân hư thực: hư, thực rõ ràng
Dụng ý bất dụng lực: lấy ý điều khiển động tác
Thượng hạ tương tùy: trên dưới theo nhau
Nội ngoại tương hợp: trong ngoài hợp nhau, tâm ý khí lực là một
Tương liên bất đoạn: động tác liên tiếp không dừng, thao thao bất tuyệt, liên miên như kéo tơ
Động trung cầu tịnh: Trong động tìm cái tĩnh. Lấy tĩnh chế động.
Khúc trung cầu trực: Trong cái gập, tìm cái thẳng.
Bài hình
Từ giai đoạn đầu với 7 bài quyền và các công phu bổ trợ, nhiều bài kiếm, thương, đao do Trần Vương Đình đưa vào dòng họ, cho tới các đời sau đã hợp nhất lại thành 2 bài quyền là "Đệ nhất lộ" và "Pháo chùy quyền". Các lưu phái Thái cực quyền khác thuộc ngũ đại danh gia Thái cực (Trần, Dương, Ngô, Võ, Tôn), ngoại trừ Trần gia, về sau chỉ còn truyền lại 1 bài quyền. Từ thời điểm 1956, khi Dương gia Thái cực đã có bài 24 thức giản hóa, các dòng Trần gia, Võ gia..., bên cạnh bài gốc cũng đã đi theo xu hướng tinh giản các chiêu thức trùng lặp hoặc phức tạp, vốn không thuận tiện cho người già cả hay thể lực suy nhược, để hình thành thêm các bài rút gọn.
Các bài Thái cực kiếm, Thái cực côn, Thái cực phiến (quạt) v.v phần lớn do các võ phái đời sau nghiên cứu, xiển dương và sáng chế bổ túc cho võ phái của mình.
Chiêu thức trong bài Thái cực thường được chiết chiêu tập luyện song đối với kỹ pháp thôi thủ (đẩy tay), nhằm luyện cảm ứng lực để phản ứng với sự tấn công đối thủ trong thực chiến. Thôi thủ thường bao gồm Định bộ thôi thủ (thôi thủ với bộ pháp tĩnh tại) và Hoạt bộ thôi thủ (thôi thủ với bộ pháp linh hoạt).
Bảng phả hệ nhân vật Thái Cực quyền
Tên Latin hóa của các nhân vật từ tiếng Trung Quốc nay đã phổ biến trên khắp thế giới và là từ khóa (key words) để tra cứu phim video clip trên www.youtube.com và tài liệu văn bản trên www.google.com, nếu gõ chữ Hán trên www.youtube.com sẽ không tìm ra được phim video clip, chữ Hán và tên Latin đều chỉ có thể sử dụng tra cứu văn bản trên www.google.com mà thôi.
Zhang Sanfeng 張三豐 (phồn thể 張三丰;giản thể: 张三丰) Zhāng Sānfēng - Cháng Sán-féng: Trương Tam Phong còn gọi là Zhang Junbao 張君寶 - Trương Quân Bảo, tương truyền là người sáng tạo Thái Cực quyền trên núi Võ Đang (Wutang 武當), thuyết này không có cơ sở lịch sử rõ ràng vì Trương Tam Phong có sáng tác ra một loại quyền pháp gọi là Nội gia quyền (Neijia ch’uan 內家拳) rất giống Thái Cực quyền.
1. Trần thức Thái Cực quyền (Chen family style Tai Chi ch’uan)
Chen Pu (陈仆): Trần Bốc, tương truyền là người ở Sơn Tây (Shanxi 山西) vào thế kỷ thứ 17 (1600) (?) đi đến Thường Dương Thôn (Chang Yang Cun 常阳村) sau này là làng Trần Gia Câu (Chen Jia Gou 陈家沟) ở Hà Nam (Henan 河南) sáng lập Trần Gia Thái Cực quyền, thuyết này không có cơ sở lịch sử (thiếu tư liệu lịch sử). Tương truyền là tổ họ Trần tại Trần Gia Câu.
Chen Wangting 陈王廷 (1600-1680 / 1557-1664): Trần Vương Đình, danh tướng nhà Minh, tương truyền là tổ phụ Thái Cực quyền, tương truyền thuộc đời thứ 9 họ Trần tại làng Trần Gia Câu.
Nhánh Trần Sở Nhạc
Thủy tổ của nhánh Tân giá và Tiểu giá sau này:
Chen Suoyue 陳所嶽: Trần Sở Nhạc, có tài liệu ghi là Chen Suole 陈所乐 Trần Sở Lạc, truyền nhân đời thứ 10 Trần thức Thái Cực quyền, thuộc Tiểu giá (Xiao jia)
Chen Zhengru /陈正如: Trần Chánh Như, học trò Trần Sở Nhạc, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Xun Ru 陈恂如: Trần Tuân Như, học trò Trần Sở Nhạc, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Shenru 陈申如: Trần Thân Như, học trò Trần Sở Nhạc, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Guangyin 陈光印: Trần Quang Ấn, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Tuân Như:
Chen Jie 陈节: Trần Tiết, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
Chen JiXia 陈继夏: Trần Kế Hạ, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
Chen JingBai / Chen JingBo 陈敬伯 (1796-1821): Trần Kính Bá, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Shan Zhi 陈山枝: Trần Sơn Chi, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Jingjie 陈敬介: Trần Kính Giới, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Jingxia 陈景霞: Trần Cảnh Hà, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Kính Bá:
Chen DaXing 陈大兴: Trần Đại Hưng, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Yaozhao 陈耀兆: Trần Diệu Triệu, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Gongzhao 陈公兆: Trần Công Triệu, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền, là thầy của Trần Hữu Bản và Trần Hữu Hằng. Sau này Trần Hữu Bản và Trần Hữu Hằng khai sinh ra dòng Tân giá (Xin jia)
Nhánh Trần Nhữ Tín
Thủy tổ của nhánh Lão giá và Đại giá sau này:
Chen Ru Xin 陈汝信: Trần Nhữ Tín, truyền nhân đời thứ 10 Trần thức Thái Cực quyền
Chen DaKun 陈大鹍: Trần Đại Côn, học trò Trần Nhữ Tín, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
Chen DaPeng 陈大鹏: Trần Đại Bằng, học trò Trần Nhữ Tín, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
Chen ShanTong 陈善通: Trần Thiện Thông, học trò Trần Đại Côn, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Thiện Thông:
Chen Bingwang 陈秉旺 (1748-?): Trần Bính Vượng, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền, là thầy của Trần Trường Hưng thuộc dòng Lão giá (Laojia)
Chen Bingren 陈秉壬: Trần Bính Nhâm, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền
Chen Bingqi 陈秉奇: Trần Bính Cơ, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền
Wáng Zōng Yuè 王宗岳 - 王宗嶽 (1736-1795): Vương Tông Nhạc (Vương Tôn Nhạc), tương truyền học Thái Cực quyền từ Trương Tam Phong (?), thuyết này không có cơ sở lịch sử rõ ràng
1.a. Nhánh thứ nhất Trần Gia – Tân giá (Xin jia) truyền từ nhánh Trần Sở Nhạc =
Chen You Ben 陳有本 / 陈有本 (circa 1800s): Trần Hữu Bản, là học trò của Trần Công Triệu, truyền nhân đời thứ 14 Trần thức Thái Cực quyền khai sinh ra Tân giá (Xin jia), là thầy của Trần Thanh Bình khai sinh ra dòng Tiểu giá (Xiao jia)
Chen You Heng 陈有恒 / 陳有恆: Trần Hữu Hằng, là học trò của Trần Công Triệu, truyền nhân đời thứ 14 Trần thức Thái Cực quyền, thuộc Lão giá (Lao jia), học trò của Trần Hữu Hằng đời sau theo Tân giá của Trần Hữu Bản
Chen You Xu 陈有旭: Trần Hữu Húc, là học trò của Trần Công Triệu, truyền nhân đời thứ 14 Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Hữu Bản – nhánh của Trần Hữu Bản:
Chen Qingping or Ch'en Ch'ing-p'ing 陳清苹 (1795-1868): Trần Thanh Bình, học trò của Trần Hữu Bản, truyền nhân đời thứ 15 Trần thức Thái Cực quyền, sau này thuộc Tiểu giá (Xiao ja), là thầy của Vũ Vũ Tương sau này khai sinh ra dòng Vũ thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Thanh Bình – nhánh của Trần Hữu Bản – đây chính là nhánh Tiểu giá (Xiao jia):
Li Jing Yan 李景延 / 李景延 / 忽雷架 (1825-1898): Lý Cảnh Diên (cũng có âm đọc là Lý Cảnh Duyên), truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức TCQ
Wu Yu-hsiang / Wu Yu Xiang 武禹襄 (1813-1880): Vũ Vũ Tương, ban đầu là học trò Dương Lộ Thiền sau theo Trần Thanh Bình thuộc Tân giá, truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, sau này sáng tạo Thái Cực quyền Vũ thức
He Zhao Yuan 和兆元 (1810-1890): Hòa Triệu Nguyên, truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, sau này lập ra Hòa gia Thái Cực quyền
Chen Zi Ming 陈紫明 / 陈子明 (?-1951): Trần Tử Minh, ban đầu là học trò của Trần Diễm và Trần Hâm thuộc nhánh Tân giá Trần Hữu Hằng, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, sau này theo Trần Thanh Bình thuộc Tiểu giá (Xiao jia)
Môn đồ của Lý Cảnh Diên – nhánh của Trần Thanh Bình – đây chính là nhánh Tiểu giá (Xiao jia):
Chen Ming Piao 陳名標: Trần Danh Tiêu, có tài liệu ghi là Chen Ming Biao 陳銘標) Trần Minh Tiêu, truyền nhân đời thứ 17
Chan Ying De 陈應德 / 陳應德: Trần Ưng Đức, truyền nhân đời thứ 17
Con của Trần Hữu Hằng – nhánh của Trần Hữu Hằng:
Chen Jishen 陳季甡 //\ 陈季甡 (1809-1865): Trần Quý Sân, có tài liệu ghi là Chen Lishen 陳李甡 Trần Lý Sân, truyền nhân đời thứ 15 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Zhongshen 陳仲甡 / 陈仲甡 (1809-1871): Trần Trọng Sân, truyền nhân đời thứ 15 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Boshen 陳伯甡 (?-?): Trần Bá Sân, truyền nhân đời thứ 15 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Hữu Hằng – nhánh của Trần Hữu Hằng:
Chen Hengshan 陳衡山: Trần Hành Sơn, học trò Trần Hữu Hằng, truyền nhân đời thứ 15 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Jixing 陈吉星: Trần Cát Tinh, học trò Trần Hữu Hằng, truyền nhân đời thứ 15 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Youlun 陈有论: Trần Hữu Luận, học trò Trần Hữu Hằng, truyền nhân đời thứ 15 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Quý Sân (Trần Lý Sân) – nhánh của Trần Hữu Hằng:
Chen Sen 陳森 / 陈森: Trần Sâm, truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Yan 陳焱 / 陈焱 (1841-1926): Trần Diễm, truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Con của Trần Trọng Sân – nhánh của Trần Hữu Hằng:
Chen Yao 陳垚 / 陈垚: Trần Nghiêu, con của Trần Trọng Sân, anh của Trần Hâm truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chén Xīn 陳鑫 / 陈鑫 (Chàhn Yām/ Chen Hsin) (1849-1929): Trần Hâm, con của Trần Trọng Sân, truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, tương truyền là người đã du nhập bài Tâm Ý Lục Hợp quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn vào quyền phổ của làng Trần Gia Câu (Chén Jiā Gōu 陳家溝 Chàhn Gā Kāu), tỉnh Hà Nam.
Môn đồ của Trần Trọng Sân – nhánh của Trần Hữu Hằng:
Chen Miao 陳淼 / 陈淼 (1841-1926): Trần Diễu (cũng có âm đọc là Trần Miểu), truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, Trần Diễu học Tân giá Trần thức Thái Cực quyền với Trần Trần Quý Sân và Trần Trọng Sân
Chen Liang-Zhi 陳良志: Trần Lương Chí, có tài liệu ghi là Chen Liangzhi 陳良智 Trần Lương Trí, truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Hâm – nhánh Tân giá của Trần Trọng Sân (Trần Hữu Hằng):
Chen Ke Di 陈克弟: Trần Khắc Đệ, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Ke Zhong 陈克忠 (1908-1960): Trần Khắc Trung, truyền nhân đời thứ 18 của Trần Kỳ (Lão giá), sau theo Trần Hâm
Chen Chun Yuan 陈春元 / 陳偆元(?-1949): Trần Xuân Nguyên, con của Trần Nghiêu, cháu của Trần Hâm, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Zi Ming 陈紫明 / 陈子明 (?-1951): Trần Tử Minh, ban đầu là học trò của Trần Diễm và Trần Hâm thuộc nhánh Tân giá Trần Hữu Hằng, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, sau này theo Trần Thanh Bình thuộc Tiểu giá
Chen Song Yuan 陈松元: Trần Tùng Nguyên, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Xue Yuan 陈雪元: Trần Tuyết Nguyên, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Zhuang Yuan 陈莊元 (1877-1979): Trần Trang Nguyên, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Xing Yuan 陈杏元: Trần Hạnh Nguyên, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Deyu 陈德玉: Trần Đức Ngọc, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Guoying 陈国英: Trần Quốc Anh, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Sheng San 陳省三: Trần Tỉnh Tam, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Xuân Nguyên – nhánh Tân giá của Trần Quý Sân (Trần Hữu Hằng):
Chen Jin Ao 陈金鳌 (1899-1971): Trần Kim Ngao, truyền nhân đời thứ 18 của Tân giá TCQ, sau này theo Trần Hâm
Chen Honglie 陈鸿烈: Trần Hồng Liệt, truyền nhân đời thứ 18 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Jing Ping 陳靜萍: Trần Tĩnh Bình, truyền nhân đời thứ 18 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Môn đồ của Trần Hồng Liệt – nhánh Tân giá của Trần Quý Sân (Trần Hữu Hằng):
Chen Li Xian 陈立宪 (1922-1983): Trần Lập Hiến, truyền nhân đời thứ 19 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Li Qing 陈立清(1919-?): Trần Lập Thanh, nữ truyền nhân đời thứ 19 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền
Chen Peishan 陈佩珊: Trần Bội San là cháu của Trần Lập Thanh, truyền nhân đời thứ 20 của Trần thức Thái Cực quyền hiện nay tại Trần Gia Câu
Môn đồ của Trần Khắc Trung – nhánh Tân giá của Trần Quý Sân (Trần Hữu Hằng):
± Chen Boxiang 陈伯祥: Trần Bá Tường, truyền nhân đời thứ 19 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền.
Chen Boxian 陈伯贤: Trần Bá Hiền, truyền nhân đời thứ 19 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền.
1.b. Nhánh thứ hai Trần Gia – Lão giá (Lao jia) truyền từ nhánh Trần Nhữ Tín
Chen Changxing / Ch'en Chang-hsing 陳長興 / 陈长兴 (1771-1853): Trần Trường Hưng, học trò của Trần Bính Vượng, truyền nhân đời thứ 14 Trần thức Thái Cực quyền, thuộc nhánh Trần Nhữ Tín, tương truyền là học trò Vương Tông Nhạc (Wáng Zōng Yuè), thầy Dương Lộ Thiền, thuộc Lão giá (Lao jia).
Con của Trần Trường Hưng:
Chen Gongyun / Chen GenYun 陈耕耘 Trần Canh Vân, con của Trần Trường Hưng, truyền nhân đời thứ 15
Chen Gong Yuan / Chen Kung Yuen 陈功元: Trần Công Nguyên, truyền nhân đời thứ 15 Trần thức Lão giá, con của Trần Trường Hưng
Môn đồ của Trần Trường Hưng:
Yang Lu-ch'an or Yang Luchan 楊露禪 (1799-1872): Dương Lộ Thiền hay Yang Fu-k'ui 楊福魁: Dương Phúc Khôi, học trò của Trần Trường Hưng
Li Bo Kui 李伯魁: Lý Bá Khôi, học trò của Trần Trường Hưng
Chen Huamei 陈桦美 / 陳樺美: Trần Hoa Mỹ, truyền nhân đời thứ 15 Trần thức Lão giá, học trò của Trần Trường Hưng
Môn đồ của Trần Canh Vân:
Chen Yen Hsi / Chen Yen Xi / Chen Yanxi 陈延熙 / 陳延禧 Trần Diên Hy, cha của Trần Phát Khoa (Tân giá), truyền nhân đời thứ 16
Chen YanNian 陈延年 Trần Diên Niên, chú của Trần Phát Khoa, truyền nhân đời thứ 16
Môn đồ của Trần Diên Hy:
Chen Xingsan 陈行三: Trần Hành Tam, truyền nhân đời thứ 17
Chen Qi 陈琦: Trần Kỳ, truyền nhân đời thứ 17
Môn đồ của Trần Diên Niên:
Chen Lian Ke 陈连科: Trần Liên Khoa, truyền nhân đời thứ 17
Chen Deng Ke 陈登科: Trần Đăng Khoa, truyền nhân đời thứ 17
Môn đồ của Trần Liên Khoa:
Chen Zhao Chi 陈照池: Trần Chiếu Trì, học trò Trần Liên Khoa, truyền nhân đời thứ 18
Môn đồ của Trần Đăng Khoa:
Chen Zhao Pi / Chen Zhao Fei 陈照丕: Trần Chiếu Phi, con Trần Phát Khoa (truyền nhân đời thứ 17, thuộc Tân giá), truyền nhân đời thứ 18, thuộc Lão giá
Chen Zhao Pu 陈照普: Trần Chiếu Phổ, truyền nhân đời thứ 18, thuộc Lão giá
Chen Zhao Hai 陈照海: Trần Chiếu Hải, truyền nhân đời thứ 18, thuộc Lão giá
Chen Zhao Tang 陈照塘: Trần Chiếu Đường, có tài liệu ghi là Chen Zhao Dan 陳照擔 Trần Chiếu Đảm, truyền nhân đời thứ 18, thuộc Lão giá.
Môn đồ của Trần Chiếu Phi:
Chen Ke Sen 陈克森: Trần Khắc Sâm, truyền nhân đời thứ 19, thuộc Lão giá
Ran Guang Yao 冉广耀: Nhiễm Nghiễm Diệu, truyền nhân đời thứ 19, thuộc Lão giá
Chen Xiao Song 陈小松: Trần Tiểu Tùng, truyền nhân đời thứ 19, thuộc Lão giá
Chen Chun Lei 陈春雷: Trần Xuân Lôi, truyền nhân đời thứ 19, thuộc Lão giá
Chen Xiao Xing / Chen Xiao Sing 陳小星 / 陈小星: Trần Tiểu Tinh, có tài liệu ghi là Chen Xiao Xing 陳小興 Trần Tiểu Hưng, truyền nhân đời thứ 19, là con của Trần Chiếu Húc (Tân giá), thuộc Lão Đại giá, Trần Tiểu Tinh theo học Lão giá với bác ruột là Trần Chiếu Phi, hiện nay ông là Chủ tịch Hội Thái Cực quyền Trần thức tại Trần Gia Câu đại diện cho họ Trần.
Chen Qing Zhou 陈庆州: Trần Khánh Châu, truyền nhân đời thứ 19, thuộc Lão giá
Chen Shi Tong 陈世通: Trần Thế Thông, truyền nhân đời thứ 19, thuộc Lão giá
Chen (Joseph) Zhonghua 陈中华: Trần Trung Hoa, truyền nhân đời thứ 19 của Trần thức Thái Cực quyền hiện nay tại Canada
Chen Xiang 陈项: Trần Hạng, truyền nhân đời thứ 19 của Trần thức Thái Cực quyền hiện nay tại Trần Gia Câu
Chen Quanzhong 陈荃中 (1925-nay): Trần Thuyên Trung, con trai của Trần Thật Công đời thứ 18 dòng Lão giá (sau này Trần Thật Công theo học Tân giá Trần Phát Khoa), truyền nhân đời thứ 19 Trần Gia Lão giá TCQ hiện nay tại Sơn Tây, đã từng học Tân giá với 2 môn đồ của Trần Hâm (đời thứ 16 Tân giá) là Trần Quốc Anh (đời thứ 17) và Trần Tỉnh Tam (đời thứ 17) và môn đồ của Trần Phát Khoa (đời thứ 17 Tân giá) là Trần Thủ Lễ (đời thứ 18 Tân giá), và Trần Lương Chí (đời thứ 16 Tân giá).
Li Enjiu 李恩久: Lý Ân Cửu, truyền nhân đời thứ 19 của Trần thức Thái Cực quyền hiện nay
Zhang Xuexin 张学信: Trương Học Tín, truyền nhân đời thứ 19 của Trần thức Thái Cực quyền hiện nay
Zhang Zhijun 张志俊: Trương Chí Tuấn, truyền nhân đời thứ 19 của Trần thức Thái Cực quyền hiện nay
Wu Shi-zeng 吴石增 (?-?): Ngô Thạch Tăng, học trò của Hồng Quân Sinh (Trần gia) và Lưu Kế Thuận (Vũ gia)
Shen Xi Jing 沈西京: Thẩm Tây Kinh, học trò của Trần Tiểu Vượng (con của Trần Chiếu Khuê) và Nhiễm Nghiễm Diệu, truyền nhân đời thứ 20, thuộc Lão giá.
Con của Trần Khánh Châu:
Chen Youze 陳友泽: Trần Hữu Trạch, truyền nhân đời thứ 20, thuộc Lão giá
Chen Youqina 陳友琴: Trần Hữu Cầm, truyền nhân đời thứ 20, thuộc Lão giá
1.c. Nhánh thứ ba Trần Gia – Tiểu giá (Xiao jia) – từ nhánh Tân giá của Trần Hữu Bản (thuộc nhánh Trần Sở Nhạc)
Chen Qingping or Ch'en Ch'ing-p'ing 陳清苹 (1795-1868): Trần Thanh Bình, học trò Trần Hữu Bản, truyền nhân đời thứ 15 Trần thức Thái Cực quyền, thuộc Tiểu giá (Xiao ja), là thầy của Vũ Vũ Tương sau này khai sinh ra dòng Vũ thức Thái Cực quyền.
Môn đồ của Trần Thanh Bình:
Li Jing Yan 李景延: Lý Cảnh Diên (cũng có âm đọc là Lý Cảnh Duyên), truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức TCQ
Wu Yu-hsiang / Wu Yu Xiang 武禹襄 (1813-1880): Vũ Vũ Tương, ban đầu là học trò Dương Lộ Thiền sau theo Trần Thanh Bình thuộc Tân giá, truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, sau này sáng tạo Thái Cực quyền Vũ thức.
He Zhao Yuan 和兆元 (1810-1890): Hòa Triệu Nguyên, truyền nhân đời thứ 16 Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, sau này lập ra Hòa gia Thái Cực quyền.
Chen Zi Ming 陈紫明 / 陈子明 (?-1951): Trần Tử Minh, ban đầu là học trò của Trần Diễm và Trần Hâm thuộc nhánh Tân giá Trần Hữu Hằng, truyền nhân đời thứ 17 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền, sau này theo Trần Thanh Bình thuộc Tiểu giá.
Trần Trường Hưng, Trần Hữu Bản và Trần Thanh Bình là 3 người truyền nhân thứ 14-15 Trần Gia Thái Cực quyền đã tổng hợp tất cả bảy quyền lộ Thái Cực quyền trước kia chỉ còn lại 2 bài Trần Gia Thái Cực quyền cốt lõi truyền cho đến nay là Đệ Nhất Lộ Thái Cực Trần Gia 83 thức và Đệ Nhị Lộ Thái Cực Trần Gia Pháo Chùy 71 thức.
7 quyền lộ (bài quyền) xa xưa của Thái Cực quyền (Trần Gia) ở làng Trần Gia Câu:
1. Đầu sáo quyền (Toutaoquan)còn được gọi Thập tam thức (Shisan Shi); Nhị sáo quyền (Ertaoquan);
2. Tam sáo quyền (Santaoquan) còn được gọi là Đại tứ sáo truỳ (Dasitaochui);
3. Tứ sáo quyền (Sitaoquan) còn được gọi là Hồng quyền (Hongquan), hay Thái tổ hạ nam đường (Tauzu Xia Nantang);
4. Ngũ sáo quyền (Wutao quan);
5. Trường quyền (Chang quan) còn được gọi là Nhất bách linh bát thức (Yibailingba Shi);
6. Pháo Chùy (Paochui);
7. Đoản đả (Duanda);
Bài thực hành chiến đấu (song luyện):
1. Tán thủ (Sanshou);
2. Kiều thủ (Jishou);
3. Lược thủ (Lueshou);
4. Sử thủ (Shushou),
5. Tam thập lục cổn diệt (Sanshiliu Gunyue);
Những bài binh khí:
1. Kim cang thập bát noa pháp (Jingang Shiba Nafa);
2. Đơn đao (Dandao); Song đao (Shuangdao);
3. Song kiếm (Shuangjian); Song giản (Shangjian);
4. Bát thương (Baqiang); Bát thương đối thích pháp (Baqiang Dui Cifa);
5. Thập tam thương (Shisanqiang);
6. Hoàn hậu Trương Dực Đức tứ thương (Huan Hou Zhang Tesi qiang);
7. Nhị thập tứ thương (Ershisiqiang Lianfa);
8. Bàng là bảng (Panluobang);
9. Xuân thu đao (Chungqiuđao);
10. Bàng la bảng luyện pháp (Panluobang Lianfa);
11. Tuyền phong côn (Xuanfenggun);
12. Đại chiến phác liêm (Dazhan polian).
1.d. Nhánh thứ tư Trần Gia – Đại giá (Da jia) truyền cho đến nay – từ nhánh Lão giá của Trần Trường Hưng (thuộc nhánh Trần Nhữ Tín)
Chén Fā Kē (Chàhn Faat Fō) 陳發科 (1887-1957): Trần Phát Khoa, truyền nhân đời thứ 17 của Trần thức Thái Cực quyền, thuộc Tân giá (Xin jia), là con của Trần Diên Hy (dòng Lão giá).
Con của Trần Phát Khoa:
Chen Zhaoxu 陈照旭 / 陳照旭(1911-1960): Trần Chiếu Húc, truyền nhân đời thứ 18 của Tân giá (Xin jia) Trần thức Thái cực quyền
Chen Zhaokui 陳照奎/ 陈照奎 (1928-1981): Trần Chiếu Khuê, truyền nhân đời thứ 18 của Tân giá (Xin jia) Trần thức Thái cực quyền
Chen Zhao Fei 陈照飞 (1893-1972): Trần Chiếu Phi, truyền nhân đời thứ 18 của Lão giá (Lao jia) Trần thức
Môn đồ của Trần Phát Khoa:
Chen Baoqu 陈宝璩 / 陳寶璩: Trần Bảo Cừ
Chen Jia Zheng / Shen Jiazhen 沈家桢 / 沈家楨 (1891-1972): Thẩm Gia Trinh
Chen ShouLi 陈守礼 / 陳守禮: Trần Thủ Lễ
Gu Liuxin 顧留馨 / 顾留馨 (1908-1991): Cổ Lưu Hinh, người đã theo lệnh thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai sang Hà Nội, Việt Nam ngày 1 tháng 4 năm 1957 để hướng dẫn Thái cực quyền cho chủ tịch Hồ Chí Minh.
Feng Shi-qiang 冯志强/ 馮志強 (1926-?): Bằng Chí Cường
Hong Jun-sheng (1907 - 1996) 洪均生 / 洪钧生: Hồng Quân Sinh
Kan Gui-xiang (1940-?) 阚桂香: Hám Quế Hương
Li Jingwu 李经梧 (1912-1997): Lý Kinh Ngô
Li Jianhua 李剑华 (1900 - ?): Lý Kiếm Hoa
Lei Muni 雷慕尼 /(1911-1986): Lôi Mộ Ni
Tian Xiuchen 田秀臣 / Tian Ji-chen 田季臣 (1917-1984): Điền Tú Thần / Điền Quý Thần
Xu Yu-sheng 许禹生 / 許禹生(1879-1945): Hứa Vũ Sinh
Wang Yan 王燕: Vương Yến
Chen Shi Gong 陈实功: Trần Thật Công, truyền nhân đời thứ 18 Trần Gia Lão giá Thái Cực quyền, sau theo học Tân giá với Trần Phát Khoa, là cha của Trần Thuyên Trung, Trần Thuyên Trung đã theo học Lão giá với Trần Chiếu Phi (con của Trần Phát Khoa)
Chen Hongen 陈红恩: Trần Hồng Ân
Chen Shan Yuan 陈善元: Trần Thiện Nguyên
Liu Ruizhan 刘瑞战: Lưu Thụy Chiến
Chen Baohao 陈宝浩 (1904-1953): Trần Bảo Hạo
Pan Yong Zhou 潘詠周: Phan Vịnh Chu
Con của Trần Chiếu Húc – Trần Chiếu Húc sau này chuyển sang Tân giá:
Chen Xiao Xing / Chen Xiao Sing 陳小星 / 陈小星: Trần Tiểu Tinh, có tài liệu ghi là Chen Xiao Xing 陳小興 Trần Tiểu Hưng, truyền nhân đời thứ 19, là con của Trần Chiếu Húc (Tân giá), thuộc Lão Đại giá, Trần Tiểu Tinh theo học Lão giá với bác ruột là Trần Chiếu Phi, hiện nay ông là Chủ tịch Hội Thái Cực quyền Trần thức tại Trần Gia Câu đại diện cho họ Trần.
Chen Xiao Wang 陈小旺 (1946-nay): Trần Tiểu Vượng, truyền nhân đời thứ 19 của Trần thức TCQ hiện nay tại Trần Gia Câu.
Con của Trần Chiếu Khuê – Trần Chiếu Khuê sau này chuyển sang Tân giá:
Chen Yu 陈瑜 (23/05/1962): Trần Du, truyền nhân đời thứ 19 của Trần thức Thái Cực quyền hiện nay tại Trần Gia Câu.
Môn đồ của Trần Chiếu Khuê (sau này thuộc Tân giá):
Ma Hong 馬虹 (1927-nay): Mã Hồng, truyền nhân đời thứ 19 Trần Gia Thái Cực quyền, truyền nhân đời thứ 19 Trần Gia Thái Cực quyền hiện nay tại Trần Gia Câu.
Zhu Tian Cai 朱天才 (1945-nay): Châu Thiên Tài, truyền nhân đời thứ 19 Trần Gia Thái Cực quyền hiện nay tại Trần Gia Câu
Wang Xian 王西安 (1945-nay): Vương Tây An, truyền nhân đời thứ 19 Trần Gia Thái Cực quyền hiện nay tại Trần Gia Câu, là học trò của Trần Chiếu Khuê và Trần Chiếu Phi.
Chen Zheng Lei 陳正雷/ 陈正雷 (05/1949-nay): Trần Chính Lôi, truyền nhân đời thứ 19 của Trần thức Thái Cực quyền hiện nay tại Trần Gia Câu. Trần Chính Lôi, Trần Tiểu Vượng, Vương Tây An, Châu Thiên Tài được mệnh danh là Tứ Đại Kim Cương hiện nay.
Con của Trần Tiểu Vượng:
Chen Bing 陳秉: Trần Bình, truyền nhân đời thứ 20 hiện nay tại Trần Gia Câu, thuộc Tân giá
Môn đồ của Trần Tiểu Vượng:
Ren Guanyi 任冠仪: Nhậm Quan Nghi, truyền nhân đời thứ 20 hiện nay tại Trần Gia Câu, thuộc Tân giá
Chen Shihong 陈时红: Trần Thì Hồng, truyền nhân đời thứ 20 hiện nay tại Trần Gia Câu, thuộc Tân giá
Môn đồ của Châu Thiên Tài:
Zhai Hua 翟华: Địch Hoa, truyền nhân đời thứ 20 hiện nay tại Trần Gia Câu, thuộc Tân giá
Qin Mingtang 秦明堂: Tần Minh Đường, truyền nhân đời thứ 20, thuộc Tân giá
Môn đồ của Trần Chính Lôi:
Zhang Dong Wu 張東武: Trương Đông Võ, truyền nhân đời thứ 20 hiện nay tại Trần Gia Câu, thuộc Tân giá
Wang Hai Jun 王海军: Vương Hải Quân, truyền nhân đời thứ 20 hiện nay tại Trần Gia Câu, thuộc Tân giá
2. Dương thức Thái Cực quyền (Yang family style Tai Chi ch’uan)
Yang Lu-ch'an or Yang Luchan 楊露禪 (1799-1872): Dương Lộ Thiền hay Yang Fu-k'ui 楊福魁: Dương Phúc Khôi, học trò của Trần Trường Hưng
Yang Banhou 楊班侯 (1837-1890): Dương Ban Hầu anh Dương Kiện Hầu, con Dương Lộ Thiền
Yang Jianhou 楊健候 Yang Chien-hou (1839-1917): Dương Kiện Hầu, con Dương Lộ Thiền, cha Dương Thiếu Hầu
Yang Shaohou 楊少侯 (1862-1930): Dương Thiếu Hầu, anh của Dương Trừng Phủ, con Dương Kiện Hầu
Yang Chengfu / Yang Ch'eng-fu 楊澄甫 (1883-1936): Dương Trừng Phủ, con Dương Kiện Hầu
Yang Shou-chung 楊守中 (1910-1985): Dương Thủ Trung, con trưởng Dương Trừng Phủ, còn gọi là Yang Zhenming 楊振明 Dương Chấn Minh
Yang Zhenji 杨振基 (1921 - ?): Dương Chấn Cơ, con thứ 2 Dương Trừng Phủ
Yang Zhenduo 楊振鐸 (1926 - ?): Dương Chấn Đạt, con thứ 3 Dương Trừng Phủ
Tung Ying-chieh / Dong Yingjie 董英杰 (1898-1961): Đổng Anh Kiệt, học trò xuất sắc của Dương Trừng Phủ
Fu Zhongwen 傅鐘文 (1903-1994): Phó Trung Văn, người Quảng Đông, học trò của Dương Trừng Phủ
Chen Weiming 陳微明 Ch'en Wei-ming (1881 - 1958): Trần Vi Minh học trò xuất sắc Tôn Lộc Đường đồng thời là học trò của Dương Trừng Phủ, còn có tên khác là Chen Zengze 陳曾則 Trần Tằng Tắc
Li Yaxuan 李雅轩 (1894-1976): Lý Nhã Hiên học trò Dương Trừng Phủ
Cheng Man-ch'ing / Zhèng Mànqīng 鄭曼青 (1901-1975): Trịnh Mãn Thanh, người huyện Vĩnh Gia (永嘉县 Yǒngjiā Xiàn, Vĩnh Gia huyện) tỉnh Chiết Giang (Zhejiang 浙江, Zhèjiāng), học trò của Dương Trừng Phủ
3. Vũ thức Thái Cực quyền (Wu family style Tai Chi ch’uan) – Hác thức Thái Cực quyền (Hao family style Tai Chi ch’uan)
Wu Yu-hsiang 武禹襄 (1813-1880): Vũ Vũ Tương, ban đầu là học trò Dương Lộ Thiền sau theo Trần Thanh Bình, sáng tạo Thái Cực quyền Vũ thức
Wǔ Chéng Qīng 武澄清 (1800-1884): Võ Trừng Thanh, anh trai của Vũ Vũ Tương, đậu tiến sĩ 1852 làm quan ở Hà Nam (Henan)
Li I-yü 李亦畬 (1832-1892): Lý Diệc Dư (Lý Diệc Xa), học trò của Vũ Vũ Tương vào năm 1853
Hao Wei-chen 郝為真 (1842-1920): Hác Vi Trinh (Hác Vi Chân) theo học Ngô thức Thái cực quyền với Lý Diệc Dư, sau là thầy Tôn Lộc Đường
Hao Yüeh-ru 郝月如: Hác Nguyệt Như, con của Hác Vi Chân
Hao Shao-ju / Hao Shaoru 郝少如 (1907-1983): Hác Thiếu Như, con của Hác Nguyệt Như, đi Thượng Hải năm 1960
Liu Jishun 劉继顺 (1930-nay): Lưu Kế Thuận theo học Vũ Gia Thái Cực quyền với Hác Thiếu Như (cháu nội Hác Vi Chân) vào năm 1960 tại Thượng Hải. Lưu Kế Thuận hiện nay đang phát triển Trần thức Thái Cực quyền tại cộng đồng người Hoa ở Sanfrancisco, bang California, Hoa Kỳ.
4. Ngô thức Thái Cực quyền (Wu family style Tai Chi ch’uan)
Wu Ch'uan-yu / Wu Quanyuo 吳全佑 (1834-1902): Ngô Toàn Hựu học trò Dương Lộ Thiền, cha Ngô Giám Tuyền
Wú Jiànquán / Wu Chien-ch’uan 吳鑑泉 (1870-1942): Ngô Giám Tuyền sáng tạo Thái Cực quyền Ngô thức
Wu Kung-I / Wu Kung-yi / Wu Gongyi 吳公儀 (1900-1970): Ngô Công Nghi, con Ngô Giám Tuyền
Wu Kung-tsao / Wu Gongzao / Wu Kung Cho / Wu Kung Jo 吳公藻 (1902–1983): Ngô Công Tảo, em ruột Ngô Công Nghi
Wu Ying-hua / Wu Yinghua 吳英華 (1907-1997): Ngô Anh Hoa, em gái Ngô Công Nghi
Wu Ta-kuei / Wu Dagui 吳大揆 (1923-1972): Ngô Đại Quỹ, con Ngô Công Nghi
Wu Yan-hsia / Wu Yanxia 吳雁霞 (1930-2001): Ngô Nhạn Hà, em gái Ngô Đại Quỹ
Wu Ta-hsin / Wu Daxin 吳大新 (1933-2005): Ngô Đại Tân, con của Ngô Công Tảo
Wu Kuang-yu / Wu Guangyu (Eddie Wu) 吳光宇 (sinh năm 1946): Ngô Quang Vũ, con của Ngô Đại Quỹ
Pei Tsu-Ying
Ho Nan-Jie / Anthony Ho 何南傑 (1937-hien tai)
5. Tôn thức Thái Cực quyền (Sun family style Tai Chi ch’uan)
Sun Lu-t'ang / Sūn Lùtáng 孫祿堂 (1861-1932): Tôn Lộc Đường, ban đầu là học trò Dương Kiện Hầu sau theo Hác Vi Trinh (Hác Vi Chân), sáng tạo Thái Cực quyền Tôn thức
Sun Xingyi 孫星一 (1891-1929): Tôn Tinh Nhất, con trai trưởng của Tôn Lộc Đường
Sun Cunzhou 孫存周 (1893-1963): Tôn Tồn Châu, con trai thứ hai của Tôn Lộc Đường
Sun Huanmin 孫換民 (1897-1922): Tôn Hoàn Nhân, con trai thứ ba của Tôn Lộc Đường
Sun Jianyun 孫劍雲 (1913-2003): Tôn Kiếm Vân, con gái út của Tôn Lộc Đường
Sun Shurong 孫淑容 (1918-2005): Tôn Thục Dung, con gái của Tôn Tồn Châu
Thái cực quyền trên thế giới
Hiện tại Thái cực quyền được nghiên cứu, luyện tập, và phát triển ở nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Xingapo và nhiều nước phương Tây như Mỹ, Đức, Pháp, Canada v.v.
Tác dụng
Dưỡng sinh
Thái cực quyền giúp luyện tập thở sao cho cung cấp đủ oxy cho cơ thể, rèn luyện phổi, đặc biệt là tăng thể xốp, tăng hấp thụ oxy và luyện cơ hoành (còn gọi là hoành cách mô). Khi tập, thái cực quyền giúp tối ưu hệ thống hô hấp cung cấp đủ oxy cho cơ thể làm cân bằng dinh dưỡng. Khi phổi được cung cấp đủ lượng oxy, các chất thừa sẽ bị đốt cháy hết tránh được các bệnh do thừa chất và vì vậy, có tác dụng giảm béo.
Sự co duỗi của các động tác làm nên ứng suất cục bộ bên trong các mạch máu, giúp cọ rửa mạch máu một cách tự nhiên làm cho lưu thông máu huyết. Sự lưu thông máu huyết cũng đồng nghĩa với tăng dưỡng chất, tăng hiệu suất hoạt động các cơ quan và có nhiều bạch cầu đến hơn làm cho hệ thống miễn dịch được tăng cường khắp mọi nơi trong cơ thế nên kháng được các loại vi trùng, vi rút xâm nhập cơ thể.
Khi tập thái cực quyền, có nhiều lúc người tập phải xoay chuyển cơ thể theo nhiều góc độ khác nhau và có những lúc chỉ phải đứng trên một chân. Điều này giúp cho rèn luyện phần tiền đình não, cơ quan giữ thăng bằng của cơ thể, làm giảm nguy cơ mất thăng bằng, chóng mặt, ngã té ở người lớn tuổi và tăng phản ứng nhanh cho mọi lứa tuổi.
Tập Thái cực quyền trong trạng thái thư giãn thoãi mái về trí não và cơ thể làm cho trạng thái tinh thần của con người đạt đến điểm tối ưu, một trạng thái thư thái thật khó tả huyền bí (chỉ có tập rồi mới cảm nhận được). Làm cho giảm stress cân bằng tinh thần.
Tự vệ
Những chiêu thức của Thái cực quyền cho phép một người nhỏ con hơn yếu hơn có thể đánh ngã người to lớn, hung dữ hơn theo các nguyên lý như "tá lực đả lực" (mượn sức đánh sức), "tứ lạng bát thiên cân" (bốn lạng đẩy ngàn cân) v.v.
Dựa vào nguyên lý cơ học rất căn bản là cánh tay đòn, những vòng tròn, chuyển động xoay, cách di chuyển cơ thể và sử dụng lực một cách tối ưu, lợi dụng lực quán tính để hóa giải, phòng thủ hay tấn công nhưng mục đích chủ yếu chỉ nhằm làm đối phương té ngã, và bị phản đòn trở lại. Theo học thuyết Thái cực quyền, đòn tấn công mạnh bao nhiêu sẽ phải chịu đòn phản công nặng bấy nhiêu. |
Aragonit là một dạng khoáng vật nhóm cacbonat. Nó và khoáng vật calcit là hai dạng phổ biến nhất, có nguồn gốc tự nhiên của cacbonat calci, CaCO3. Mạng tinh thể của aragonit khác với mạng tinh thể của calcit, kết quả là hình dạng tinh thể khác hẳn, đó là một hệ thống hình thoi trực tâm với các tinh thể hình kim. Bằng cách cặp đôi tinh thể lặp lại thì nó tạo ra dạng giả lục giác. Nó có thể là hình trụ hay dạng sợi, thỉnh thoảng tạo nhánh dạng vú đá gọi là flos-ferri (hoa sắt) do sự liên kết của chúng với quặng tại mỏ sắt Carthinia. Khu vực điển hình của aragonit là Molina de Aragón (Guadalajara, Tây Ban Nha), cách Aragon khoảng 25 km. Một hang động toàn aragonit là hang Ochtiná Aragonit) tại Slovakia. Tại Hoa Kỳ, aragonit dạng vú đá có tại hang Carlsbad.
Aragonit tạo thành dạng tự nhiên ở gần như phần lớn các mai, vỏ của động vật thân mềm. Do sự tích lũy khoáng chất tại mai động vật thân mềm được kiểm soát sinh học rất mạnh nên một số dạng tinh thể là khác biệt với các dạng tinh thể aragonit nguồn gốc vô cơ. Ở một số động vật thân mềm, toàn bộ mai là aragonit; ở những loài khác, aragonit tạo thành các bộ phận rời rạc của lớp mai hai khoáng chất (aragonit và calcit). Aragonit cũng được tạo thành trong lòng đại dương và trong các hang động dưới dạng các chất vô cơ kết tủa, được gọi tương ứng là xi măng đại dương và speleothem. Lớp xà cừ các mai, vỏ hóa thạch chứa aragonit của một số dạng cúc (ngành Mollusca, phân lớp Ammonodea) đã tuyệt chủng tạo thành một loại vật liệu óng ánh gọi là ammolit. Ammolit chủ yếu là aragonit với một ít tạp chất làm cho nó óng ánh và như thế nó có giá trị như một loại đá quý.
Aragonit là không ổn định về mặt nhiệt động lực học ở điều kiện tiêu chuẩn, và có xu hướng biến đổi thành calcit trong khoảng thời gian cỡ 10 đến 100 triệu năm. |
Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam là cơ quan của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, bao gồm: hoạt động khoa học và công nghệ; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; sở hữu trí tuệ; tiêu chuẩn đo lường chất lượng; năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh vực thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật.
Lịch sử
Sắc lệnh số 016-SL ngày 4/3/1959 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước
1965, Ủy ban Khoa học Nhà nước tách thành 2 cơ quan: Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
1990, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước đổi tên lại thành Ủy ban Khoa học Nhà nước
12/10/1992 đổi tên thành Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
8/2002, chính thức thành lập Bộ Khoa học và Công nghệ
Chức năng nhiệm vụ
Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 1/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, Nghị định số 101/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2016/MĐ-CP và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.
Về hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ có nhiệm vụ chỉ đạo thực hiện phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo 05 năm và hằng năm, thúc đẩy việc phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật trọng điểm trên cơ sở ứng dụng, đổi mới và làm chủ công nghệ, phát triển công nghệ mới, công nghệ cao và thương mại hóa công nghệ, kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương xây dựng và thực hiện kế hoạch khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo 05 năm, hằng năm và chuyên môn, nghiệp vụ quản lý hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Tổ chức thực hiện việc chứng nhận các hoạt động công nghệ cao; quy định điều kiện đối với cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; quy định thẩm quyền, điều kiện, thủ tục xác nhận cơ sở đào tạo nhân lực công nghệ cao; xây dựng cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin về công nghệ cao, hạ tầng kỹ thuật công nghệ cao thuộc phạm vi thẩm quyền của bộ; xây dựng trình Chính phủ ban hành quy định về khu công nghệ cao, định hướng các ngành công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển trong từng thời kỳ, danh mục công nghệ ưu tiên nghiên cứu, phát triển và ứng dụng để chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và cơ chế, chính sách phát triển công nghệ cao, khu công nghệ cao.
Hướng dẫn, đăng ký hoạt động đối với các tổ chức khoa học và công nghệ, quỹ phát triển khoa học và công nghệ, quỹ đổi mới công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao; chứng nhận hoạt động đối với tổ chức, cá nhân hoạt động công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao theo quy định của pháp luật.
Hỗ trợ tổ chức, cá nhân đánh giá công nghệ, đổi mới công nghệ, tìm kiếm công nghệ, nhập khẩu công nghệ, khai thác sáng chế, giải mã và làm chủ công nghệ; hướng dẫn, đánh giá trình độ, năng lực công nghệ và xây dựng định hướng phát triển công nghệ, lộ trình đổi mới công nghệ quốc gia theo quy định của pháp luật…
Về sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương xây dựng, hướng dẫn và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án về sở hữu trí tuệ.
Xây dựng, hướng dẫn, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ; quy định quy trình, thủ tục đăng ký, xác lập và chuyển giao quyền sở hữu công nghệ của tổ chức, cá nhân.
Lãnh đạo hiện nay
Bộ trưởng: Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng
Thứ trưởng:
Bùi Thế Duy, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng
Lê Xuân Định, Bí thư Đảng ủy Bộ
Nguyễn Hoàng Giang
Trần Hồng Thái
Tổ chức Đảng
Xem thêmː Đảng ủy Bộ Khoa học và Công nghệ
Cơ cấu tổ chức
Các đơn vị hành chính và đơn vị sự nghiệp phục vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước
(Theo Điều 3, Nghị định 28/2023/NĐ-CP ngày 2 tháng 6 năm 2023 của Chính phủ)
Các đơn vị hành chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước
Văn phòng Bộ
Thanh tra Bộ
Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên
Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế - kỹ thuật
Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ
Vụ Công nghệ cao
Vụ Kế hoạch - Tài chính
Vụ Hợp tác quốc tế
Vụ Pháp chế
Vụ Tổ chức cán bộ
Vụ Năng lượng nguyên tử
Vụ Ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật
Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo
Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Cục Sở hữu trí tuệ
Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia
Cục An toàn bức xạ và hạt nhân
Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia
Các đơn vị sự nghiệp
Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo
Báo VnExpress
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Trung tâm Công nghệ thông tin
Các đơn vị sự nghiệp khác
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc
Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam
Viện Ứng dụng Công nghệ
Viện Đánh giá khoa học và Định giá công nghệ
Viện Khoa học sở hữu trí tuệ
Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng
Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ (NISTPASS)
Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước
Văn phòng Công nhận chất lượng (BoA)
Văn phòng Đăng ký hoạt động Khoa học và Công nghệ
Văn phòng các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật
Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia
Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển hội nhập khoa học và công nghệ quốc tế (VISTIP)
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông Khoa học và Công nghệ
Các doanh nghiệp
Công ty Công nghệ Điện tử, Cơ khí và Môi trường (EMECO)
Công ty Cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ (FPT)
Công ty Cổ phần Sở hữu Công nghiệp (INVESTIP)
Công ty Cổ phần Ứng dụng Khoa học và Công nghệ (MITEC)
Công ty Xuất nhập khẩu Công nghệ mới (NACENIMEX)
Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Kỹ thuật (TECHNIMEX)
Danh hiệu
Huân chương Sao Vàng (2009)
Huân chương Hồ Chí Minh (2004)
Huân chương Độc lập hạng nhất (1999).
Bộ trưởng qua các thời kỳ
Thứ trưởng qua các thời kỳ
Chu Hảo (1996-2005)
Hoàng Văn Huây (1998-2008)
Bê bối
Vụ nâng khống giá kit test COVID-19 xảy ra tại công ty Việt Á
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, thông tin “WHO chấp thuận kit test của Công ty Việt Á” được đăng tải trên website chính thức của Bộ vào ngày 26 tháng 4 năm 2020. Đến ngày 20 tháng 12 năm 2021, thông tin này bị gỡ bỏ. Đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết do có sự sai sót về mặt thông tin nên gỡ bài. Thực chất WHO mới chỉ "chấp thuận đưa kit test này vào quy trình đánh giá xem xét sử dụng" không phải “chấp thuận sử dụng”. Đến ngày 20/10/2020, WHO công bố báo cáo công khai về đánh giá sử dụng khẩn cấp của WHO thẩm định bộ xét nghiệm COVID-19 của Việt Á là “Không được chấp nhận”. Trước đó vụ thông đồng thổi giá kít xét nghiệm COVID-19 để nhận hoa hồng gần 30 tỷ đồng của Giám đốc CDC Hải Dương Phạm Duy Tuyến thông đồng với Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á đã bị phanh phui.
Chú thích |
Xà cừ là một hỗn hợp hữu cơ-vô cơ có nguồn gốc tự nhiên. Nó được tạo thành từ các miếng nhỏ hình lục giác chứa các tinh thể aragonit (calci cacbonat (CaCO3) có kích thước rộng 10-20 µm và dày khoảng 0,5 µm, được sắp xếp thành các phiến mỏng song song liên tục. Các lớp aragonit này được chia tách bởi các tấm chứa chất hữu cơ bao gồm các loại polymer sinh học mềm dẻo (chẳng hạn chitin, lustrin và các protein giống như lụa). Hỗn hợp của các miếng aragonit dòn và các lớp mỏng polymer sinh học mềm dẻo làm cho vật liệu cứng và đàn hồi. Độ cứng và đàn hồi còn do sự sắp xếp kiểu "gạch xây tường" của các miếng aragonit, nó ngăn chặn sự lan truyền vết nứt theo chiều ngang. Kết cấu này ở kích thước đủ lớn làm tăng độ dai của nó đủ lớn, làm cho nó gần như tương đương với độ dai của silic.
Bề ngoài óng ánh của xà cừ là do độ dày của các miếng aragonit chỉ khoảng 0,5 micromét, có thể so sánh được với bước sóng của ánh sáng. Nó tạo ra sự giao thoa với các bước sóng khác nhau của ánh sánh, kết quả là các màu sắc khác nhau của ánh sáng được phản xạ ở các góc nhìn khác nhau.
Xà cừ do các tế bào biểu mô thuộc phần áo của một số loài động vật thân mềm tiết ra. Trong các loài động vật thân mềm này thì xà cừ được tích tụ liên tục ở mặt trong của mai hay vỏ của chúng, như là một phương thức để làm trơn vỏ cũng như là cách thức để chống lại các sinh vật ký sinh và các mảnh cát sỏi vụn gây nguy hiểm cho cơ thể.
Lớp xà cừ óng ánh bên trong này được nhiều nền văn hóa đánh giá cao và thường được sử dụng trong chế tác đồ trang sức hay lớp khảm trên bề mặt các đồ gỗ.
Khi động vật thân mềm bị động vật ký sinh xâm lấn hay bị kích thích bởi các vật thể lạ mà nó không thể tống ra ngoài thì một quá trình gọi là bao nang để chôn vùi các vật thể đó trong các lớp xà cừ đồng tâm kế tiếp nhau. Quá trình này cuối cùng tạo ra cái mà người ta gọi là ngọc trai và nó tiếp diễn cho đến khi nào mà động vật thân mềm còn sống.
Các nguồn chính để sản xuất ngọc trai là hàu ngọc, tìm thấy ở các vùng biển ấm và nhiệt đới, chủ yếu tại châu Á; trai ngọc nước ngọt, sống ở nhiều con sông thuộc châu Á, châu Âu và Hoa Kỳ; cũng như bào ngư ở California, Nhật Bản và các khu vực khác của Thái Bình Dương. |
Xà cừ trong tiếng Việt có thể là:
Sản phẩm do một số loài động vật thân mềm (ngành Mollusca) tiết ra tạo thành một lớp vật liệu mỏng óng ánh ở mặt trong của lớp mai/vỏ. Xem bài Xà cừ (vật liệu).
Tên gọi của một loài cây thân gỗ có danh pháp hai phần là Khaya senegalensis thuộc họ Meliaceae. Xem bài Xà cừ.
Một trong các tên gọi của loài cây dái ngựa Tây Ấn (Swietenia mahogani) cùng họ Xoan như loài trên.
Họ Ốc xà cừ, phân lớp Vetigastropoda, Lớp Chân bụng |
Chi Xà cừ (danh pháp khoa học: Khaya) là một chi của bảy loài cây thân gỗ trong họ Xoan (Meliaceae), có nguồn gốc tại vùng nhiệt đới châu Phi và Madagascar. Tất cả các loài đều là cây thân gỗ lớn, cao tới 30–35 m, ít khi thấy tới 45 m, với đường kính thân cây trên 1 m, thông thường rất vững chắc ở phần gốc. Các lá hình lông chim, với 4-6 cặp lá chét, không có lá chét ở phần đỉnh của lá lông chim; mỗi lá chét dài 10–15 cm tròn bất ngờ về phía đỉnh nhưng thông thường có mũi lá nhọn. Chúng có thể là loài cây sớm rụng lá hoặc thường xanh, phụ thuộc vào từng loài. Các hoa mọc thành cụm không dày, mỗi hoa đơn lẻ thì nhỏ, với 4-5 cánh hoa màu vàng nhạt và 10 nhị hoa. Quả là loại quả nang hình cầu với 4 hoặc 5 mảnh đường kính 5–8 cm, chứa nhiều hạt có cánh.
Một số loài
Khaya anthotheca (đồng nghĩa K. nyasica)
Khaya grandifoliola
Khaya ivorensis
Khaya madagascariensis
Khaya senegalensis: Xà cừ
Hình ảnh
Sử dụng
Gỗ của các loài Khaya đôi khi được gọi là gụ châu Phi, là các loại gỗ duy nhất được gọi là gụ, ngoài các loài gụ thực thụ thuộc chi Swietenia.
Tại Việt Nam hiện có trồng loài xà cừ (Khaya senegalensis). Nó được người ta biết đến như một loài "gụ" của vùng khô châu Phi, được sử dụng cả những phần không chứa gỗ. Tại Tây Phi, những người chăn thả gia súc Fulani xén bớt lá của chúng trong mùa khô để nuôi gia súc. Ngoài ra, vỏ cây của K. senegalensis cũng được thu hoạch từ các cây trồng hay mọc tự nhiên để làm thuốc điều trị một số bệnh. Hạt của K. senegalensis chứa tới 52,5% dầu, bao gồm 21% axít palmitic, 10% axít stearic, 65% axít oleic và 4% các a xít khác không xác định.
Chú thích |
Nhà kèn có thể chỉ một trong số các công trình kiến trúc sau đây:
Nhà kèn (Hà Nội): công trình nằm trong vườn hoa Chí Linh
Nhà kèn (Hải Phòng): công trình nằm trong vườn hoa Nguyễn Du
Nhà kèn (Huế): công trình nằm bên bờ sông Hương |
Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn là một trường đại học thuộc Viện Đại học Sài Gòn, tồn tại từ 1954 đến 1975. Trường này là tiền thân của Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.
Lịch sử
Thời thuộc Pháp tại Đông Dương chỉ có Ban Kiến trúc thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương (École Supérieure des Beaux-Arts de l'Indochine) tại Hà Nội, lập ra năm 1926. Từ năm 1942, Ban Kiến trúc thuộc Trường Cao đẳng Mỹ thuật. Năm 1944, lập Trường Kiến trúc thuộc Cao đẳng Mỹ thuật, chuyển từ Hà Nội vào Đà Lạt, rồi chuyển từ Đà Lạt vào Sài Gòn cuối năm 1950. Từ năm 1954 đến 1975, trường có tên Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Sau năm 1975 trường trực thuộc Bộ Xây dựng.
Lịch sử của Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn bao gồm các giai đoạn sau đây:
Ban Kiến trúc thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương
Năm 1926: Một ban đặc biệt về kiến trúc được mở thêm trong phạm vi trường Mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội (N.Đ. 1-10-1926).
Năm 1942: Trường Mỹ thuật Đông Đương được chia làm 2 riêng biệt:
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Trường Mỹ nghệ Thực hành Hà Nội
Ban Kiến trúc thuộc trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (N.Đ. 22-10-1942).
Trường Kiến trúc thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương
Năm 1944: Ban Kiến trúc được nâng lên thành Trường Kiến trúc và vẫn nằm trong phạm vi Trường Cao đẳng Mỹ thuật (N.Đ. 22-2-1944).
Để tránh hiểm họa chiến tranh, Trường Kiến trúc được di chuyển vào Đà Lạt.
Năm 1945: Chính phủ Pháp công nhận văn bằng Kiến trúc sư của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương có giá trị để hành nghề tại Pháp và Đông Dương (N.Đ. 6-2-1945).
Sau khi dời vào Đà Lạt được mấy tháng, vì thời cuộc, Trường Kiến trúc phải ngưng hoạt động.
Năm 1947: Trường Kiến trúc Đông Đương, sau mấy niên học ngưng hoạt động được mở lại tại Đà Lạt kể từ ngày 1 tháng 2 năm 1949.
Trường Kiến trúc thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
Năm 1948: Được coi là một trường kiến trúc địa phương của Pháp. Trường Kiến trúc tại Đà Lạt phải chịu lệ thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris về chương trình áp dụng, hệ thống kiểm soát, thi cử, cấp văn bằng (N.Đ. 6-9-1948).
Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt
Cuối năm 1948, Trường Kiến trúc tại Đà Lạt được nhập về Viện Đại học Đông Dương và được nâng lên hàng trường cao đẳng. Kể từ đây Trường Cao đẳng Kiến trúc tách riêng ra khỏi các Trường Cao đẳng Mỹ thuật nhưng vẫn giữ một thể lệ như một trường địa phương thuộc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris.
Trường Cao đẳng Kiến trúc Sài Gòn
Năm 1950: Cuối năm 1950, Trường Cao đẳng Kiến trúc được chuyển từ Đà Lạt về Sài Gòn.
Năm 1954 và về sau: Theo Hiệp định Genève, Viện Đại học Hà Nội chuyển thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam và sau cùng lấy danh hiệu là Viện Đại học Sài Gòn.
Trường Cao đẳng Kiến trúc thuộc Viện Đại học Sài Gòn đã mở thêm:
Ban Thiết kế Đô thị (từ niên khóa 1955-1956)
Ban Cán sự Kiến trúc (từ niên khóa 1958-1959)
Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn
Năm 1967: Viện đại học Hà Nội tại miền Nam Việt Nam được đổi tên thành Viện đại học Sài Gòn và trở thành trường Đại học Kiến trúc.
Các giáo sư, giảng viên
Giáo sư Ban Cao đẳng Kiến trúc
Trần Văn Tải, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
Bùi Quang Hanh, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
Phạm Văn Thâng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
Louis Pineau, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Văn bằng Thiết kế Đô thị
Nguyễn Quang Nhạc, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
Huỳnh Kim Mãng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
Tô Công Văn, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
Võ Doãn Giáp, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Nguyễn Bá Lăng,Kiến trúc sư DPLG PARIS
Nhiệm giáo Ban Cao đẳng Kiến trúc
Trần Văn Bạch, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris
Phan Đính Tăng, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris
Lẹ Kim Đính, Cử nhân Toán, Chứng chỉ Cao học Thiên văn Thẩm cứu (Certificat d'étude supérieures d'Astronomie approfondie)
Nguyễn Đình Hải, Tốt nghiệp Viện Anh ngữ của Đại học Michigan, Hoa Kỳ (English Language Institute, University of Michigan)
Lê Văn Hợi, Kỹ sư trường Cao đẳng Công chánh Eyrolles Paris
Nguyện Văn Kiết, Cử nhân Văn khoa và Văn chương Cao học
Trịnh Hữu Định, Trang trí gia tốt nghiệp Trường Quốc gia Cao đẳng Trang trí Paris
Vọ Đức Diễn, Kỹ sư Trường Bách khoa Montréal
Ngô Khắc Trâm, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Nguyễn Hữu Thiện, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Phạm Minh Cảnh, Kỹ sư tốt nghiệp Viện Kỹ thuật Normandie
Mai Hiệp Thành, Kỹ sư Công chánh
Giảng viên
Trương đức Nguyên,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
Trần tiển Chuân,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
Nguyễn Huy,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
Võ Đình Diệp,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
Nguyễn Trọng Kha,Kiến trúc sư DPLG Paris
Trần Phong Lưu,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
Cổ Văn Hậu,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn
Lưu Vĩnh Tịch, Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn (sau 1975)
Khương văn Mười, Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn (sau 1975)
Hồ Thiệu Trị,Kiến trúc sư Viện đại học Sài Gòn (sau 1975)
Giáo sư Ban Thiết kế Đô thị
Lê Văn Lắm, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Văn bằng Thiết kế Đô thị
Huỳnh Kim Mãng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris
Trần Phi Hùng, Kiến trúc sư Viện Đại học Sài Gòn, Master of Regional Planing (Hoa Kỳ)
Giáo sư Ban Cán sự Kiến trúc
Nguyễn Hữu Thiện, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Vũ Đình Hóa, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Nguyễn Văn Đức, Kỹ sư Công chánh Đông Dương
Nguyễn Đăng Linh, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Lê Văn Hợi, Kỹ sư Trường Cao đẳng Công chánh Eyrolles Paris
Nguyễn Văn Long, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Nguyễn Văn Anh, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Đan Hoài Ngọc, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Ngô Khắc Trăm, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Đỗ Bá Vinh, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt, Chứng chỉ Kiến trúc Nhiệt đới (London)
Chương trình
Điều kiện nhập học: Tú tài Toàn phần hay một văn bằng tương đương.
Thể thức học và thi: sau mỗi niên học, trường mở hai khóa thi.
Năm 1
Kiến trúc sáng tạo học;
Cổ điển họa và nặn hình;
Toán học;
Hình học họa hình;
Lịch sử tổng quát kiến trúc;
Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo;
Pháp văn;
Anh văn;
Kiến trúc nhập môn.
Năm 2
Kiến trúc sáng tạo học;
Cổ điển họa và nặn hình;
Toán học đại cương;
Hình học họa hình;
Lý thuyết Kiến trúc;
Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo.
Năm 3
Kiến trúc sáng tạo học;
Cổ điển họa và nặn hình;
Kiến tạo đại cương: Lý thuyết;
Vật lý, Địa chất học áp dụng vào khoa Kiến trúc;
Phép phối cảnh;
Lý thuyết Kiến trúc;
Sức chịu đựng của vật liệu.
Năm 4
Kiến trúc sáng tạo học;
Kiến tạo đại cương: Lý thuyết và đồ án;
Bê tông cốt sắt;
Ước lượng vật liệu và kiểm điểm;
Lịch sử tổng quát Kiến trúc;
Lý thuyết Kiến trúc;
Luật nhà phố.
Năm 5
Kiến trúc sáng tạo học;
Kiến tạo áp dụng;
Luật nhà phố;
Tổ chức nghề nghiệp;
Lý thuyết Kiến trúc;
Địa thể học áp dụng kiến trúc;
Kiến tạo đại cương: Đồ án và kỹ thuật.
Năm 6
Kiến trúc sáng tạo học;
Bê tông cốt sắt thực hành;
Đồ án trang trí nhà cửa;
Luận án thi tốt nghiệp (3 tháng cuối niên học.)
Chú thích |
{{Infobox organization
| image =
| alt =
| name = Hội Vật lý Việt Nam
| abbreviation = VPS
| headquarters = Số 10 đường Đào Tấn, phường Cống Vị
| location = quận Ba Đình, Hà Nội
| region_served =
| type = Hội nghề nghiệp
| language = Tiếng Việt
| leader_title =
| leader_name =
| leader_title2 =
| leader_name2 =
| formation = 15/02/1966
| website = Website chính thức
| former name =
}}Hội Vật lý Việt Nam''' là tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của những công dân Việt Nam, hoạt động trên lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng và phổ biến kiến thức về vật lý, được thành lập ngày 15 tháng 2 năm 1966 tại Hà Nội bởi những người sáng lập: cố giáo sư Tạ Quang Bửu, cố GS Ngụy Như Kon Tum và GS Đinh Ngọc Lân.
Hội Vật lý Việt Nam là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kĩ thuật Việt Nam.
Lịch sử
Hội Vật lý Việt Nam là tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của những công dân Việt Nam, hoạt động trên lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng và phổ biến kiến thức về vật lí, được thành lập ngày 15 tháng 8 năm 1966 tại Hà Nội bởi cố giáo sư Tạ Quang Bửu, cố GS Ngụy Như Kon Tum và GS Đinh Ngọc Lân. Hội Vật lý Việt Nam là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kĩ thuật Việt Nam.
Ban Chấp hành Trung ương Hội khoá 1 (1966-1985) gồm 17 uỷ viên. Cố GS Ngụy Như Kon Tum làm Chủ tịch. Cố GS TS Nguyễn Đình Tứ, GS Dương Trọng Bái, GS TS Nguyễn Hoàng Phương làm Phó Chủ tịch. GS Đinh Ngọc Lân làm Tổng Thư ký.
Ban Chấp hành Trung ương Hội khoá 2 (1985-1991) gồm 27 uỷ viên. Cố GS Nguỵ Như Kon Tum làm Chủ tịch. GS VS Đào Vọng Đức làm Phó Chủ tịch. GS TSKH Vũ Xuân Quang làm Tổng Thư ký.
Ban Chấp hành Trung ương Hội khoá 3 (1991-1997) gồm 26 uỷ viên. GS VS Nguyễn Văn Hiệu làm Chủ tịch. GS VS Đào Vọng Đức, GS TS Nguyễn Châu, GS TS Nguyễn Ngọc Giao làm Phó Chủ tịch. PGS TS Nguyễn Văn Bửu làm Tổng Thư ký.
Ban Chấp hành Trung ương Hội khoá 4 (1997-2002) gồm 40 uỷ viên. GS VS Nguyễn Văn Hiệu làm Chủ tịch. GS VS Đào Vọng Đức, GS TSKH Nguyễn Châu, GS TS Nguyễn Ngọc Giao, GS TS Phạm Quý Tư làm Phó Chủ tịch. PGS TS Nguyễn Văn Bửu làm Tổng Thư ký.
Ban Chấp hành Trung ương Hội khoá 5 (2002-2007) gồm 40 uỷ viên. GS VS Nguyễn Văn Hiệu làm Chủ tịch danh dự. GS TS Phan Hồng Khôi làm Chủ tịch. GS TSKH Nguyễn Châu, GS TSKH Thân Đức Hiền, GS TS Cao Minh Thì làm Phó Chủ tịch. PGS TS Chu Đình Thuý làm Tổng Thư ký.
Ban Chấp hành Trung ương Hội khoá 6 (2008-2013) gồm 59 uỷ viên. GS VS Nguyễn Văn Hiệu làm Chủ tịch danh dự. GS TS Phan Hồng Khôi làm Chủ tịch. PGS TS Chu Đình Thuý làm Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký. GS TSKH Thân Đức Hiền, PGS TS Cao Minh Thì, GS TS Nguyễn Xuân Hãn làm Phó Chủ tịch.
Ban Chấp hành Trung ương Hội khoá 7 (2013-2018) gồm 61 uỷ viên. GS VS Nguyễn Văn Hiệu làm Chủ tịch danh dự. GS TS Nguyễn Đại Hưng làm Chủ tịch. PGS TS Chu Đình Thúy làm Phó Chủ tịch thường trực. GS TS Nguyễn Đức Chiến, GS TS Nguyễn Xuân Hãn, PGS TS Đinh Xuân Khoa, GS TS Nguyễn Quang Liêm, PGS TS Cao Minh Thì làm Phó Chủ tịch. GS TS Nguyễn Toàn Thắng làm Tổng Thư kí.
Ban Chấp hành Trung ương Hội khoá 8 (2018-2023) gồm 68 uỷ viên. GS VS Nguyễn Văn Hiệu làm Chủ tịch danh dự. GS TS Nguyễn Đại Hưng làm Chủ tịch. PGS TS Chu Đình Thúy làm Phó Chủ tịch thường trực. GS TS Nguyễn Đức Chiến, GS TS Bạch Thành Công, GS TS Đinh Xuân Khoa, GS TS Nguyễn Quang Liêm, PGS TS Cao Minh Thì làm Phó Chủ tịch. PGS TS Nguyễn Hồng Quang làm Tổng Thư kí.
Cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Hội
Văn phòng Trung ương Hội
Tạp chí Vật lý Ngày nay
Tạp chí Vật lý và Tuổi trẻ
Câu lạc bộ Vật lý
Ban Công tác Nữ
Các Chi hội
Chi Hội Vật lý Hà Nội
Chi Hội Vật lý Tp Hồ Chí Minh
Chi Hội Vật lý Thừa Thiên Huế
Chi Hội Vật lý Nam Định
Chi Hội Vật lý Hà Nam
Chi Hội Vật lý Khánh Hoà
Chi Hội Vật lý Viện Vật lí, Viện hàn lâm khoa học và KHCN Việt Nam
Chi Hội Vật lý Viện Khoa học Vật liệu
Chi Hội Vật lý Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Chi Hội Vật lý Đại học Sư phạm Hà Nội
Chi Hội Vật lý Đại học Bách khoa Hà Nội
Chi Hội Vật lý Đại học Thái Nguyên
Chi Hội Vật lý Đại học Qui Nhơn
Chi Hội Vật lý Ứng dụng Hà Nội
Chi Hội Vật lý Công nghệ
Chi Hội Vật lý Đà Lạt
Hội Vật lý Lý thuyết
Hội Quang và Quang phổ
Hội Vật lý Y tế
Hội Giảng dạy Vật lý
Hội Vật lý Hạt nhân
Hội Thiên văn Vũ trụ
Hội Khoa học Vật liệu
Hội Vật lý Ứng Dụng |
Bò là tên gọi chung để chỉ các loài động vật trong chi động vật có vú với danh pháp khoa học Bos, bao gồm các dạng bò rừng và bò nhà. Chi Bos có thể phân chia thành 4 phân chi là: Bos, Bibos, Novibos, Poephagus, nhưng sự khác biệt giữa chúng vẫn còn gây tranh cãi. Chi này hiện còn 5 loài còn sinh tồn. Tuy nhiên, một số tác giả coi chi này có tới 7 loài do các giống bò thuần hóa cũng được họ coi là những loài riêng.
Những loại bò chưa được khám phá thì giờ đã được các nhà khoa học nhanh chóng tiến hành thí nghiệm để có kết quả tốt nhất
Tiến hóa
Họ Trâu bò được biết đến trong các mẫu hóa thạch từ Tiền Miocen, khoảng 20 Ma. Các loài dạng bò sớm nhất, như Eotragus, là các động vật nhỏ, hơi tương tự như linh dương Gazelle ngày nay và có lẽ đã sống trong môi trường đồng rừng. Số lượng loài họ Trâu bò gia tăng mạnh vào Hậu Miocen, khi nhiều loài thích nghi với môi trường đồng cỏ và thoáng đãng hơn.
Số lượng lớn nhất số loài hiện đại của họ Trâu bò thuộc về châu Phi, trong khi số lượng quần thể lớn chủ yếu nhưng ít đa dạng hơn lại thuộc về châu Á và Bắc Mỹ. Người ta cho rằng nhiều loài họ này đã tiến hóa ở châu Á nhưng không thể sống sót do sự săn bắt của các loài người đến từ châu Phi vào cuối thế Pleistocen. Ngược lại, các loài châu Phi có nhiều nghìn hay vài triệu năm để thích nghi với sự phát triển dần dần trong kĩ năng săn bắn của con người. Tuy nhiên, nhiều loài trong họ này được thuần hóa lại có nguồn gốc châu Á (dê, cừu, trâu và bò Tây Tạng). Điều này có thể là do các loài này ít e ngại con người hơn và dễ sai bảo hơn.
Một lượng nhỏ các loài hiện đại trong họ Trâu bò thuộc châu Mỹ là tương đối gần đây theo đường cầu đất liền Bering, nhưng chúng vẫn đến khu vực này trước khi con người đặt chân tới đây.
Giải phẫu và hình thái
Phần lớn các loài là động vật gặm cỏ, với lưỡi dài để liếm các loại cỏ mà chúng thích cùng các răng lớn để nhai cỏ. Nhiều loài là động vật nhai lại, với dạ dày có 4 ngăn (túi) cho phép chúng có thể tiêu hóa những loại cỏ khó tiêu nhất. 4 ngăn dạ dày bò bao gồm: Dạ cỏ, Dạ tổ ong, Dạ lá sách và Dạ múi khế. Dạ cỏ không có các tuyến tiêu hoá nhưng lại có vai trò rất quan trọng, không những là nơi chứa thức ăn mà ở đây còn xảy ra rất nhiều quá trình phân giải và phản ứng hoá học giúp cho việc tiêu hoá chất xơ như quá trình lên men, phân giải các chất hữu cơ, tổng hợp và hấp thu các chất dinh dưỡng.
Dạ cỏ ở trâu bò trưởng thành chiếm tới 80-90% dung tích toàn bộ dạ dày và 70-75% dung tích cơ quan tiêu hoá. Lông nhung ở thành dạ cỏ rất phát triển đã làm tăng bề mật tiếp xúc với thức ăn lên nhiều lần. Trong dạ cỏ trâu bò có một lượng lớn vi sinh vật (chủ yếu là bacteria và protozoa). Nhờ hoạt động cùa hệ vi sinh vật này mà thức ăn (đặc biệt là xơ) được tiêu hoá tạo thành các axit béo bay hơi. NH3 và amino acid, đồng thời cũng tổng hợp nên một số vitamin và protein. Dựa trên những nghiên cứu về hệ vi sinh vật dạ cỏ người ta thấy rằng trâu bò có khả năng tiêu hoá xơ tốt và sử dụng thức ăn thô xanh cao.
Dạ tổ ong là phần tiếp theo, được nối với dạ cỏ bằng một miệng lớn, thức ăn có thể di chuyển dễ dàng. Dạ tổ ong có cấu tạo gồm rất nhiều ngăn nhỏ như tổ ong để làm tăng bề mặt tiếp xúc với thức ăn và giữ vật lạ lại. Chức năng chủ yếu của dạ tổ ong là đẩy thức ăn rắn, thức ăn chua được lên men trở lại dạ cỏ và góp phần đẩy thức ăn lên miệng để nhai lại. Sự lên men thức ăn ở đây cũng tương tự như ở dạ cỏ.
Dạ lá sách là dạ thứ ba tiếp theo dạ tổ ong, có hình cầu, vách được phủ một lớp nhu mô ngắn và có cấu trúc như một quyển sách nhờ các tấm mỏng xếp với nhau làm tăng bề mặt tiếp xúc với thức ăn. Chức năng chính là nghiền nhỏ hơn các thức ăn còn to, lọc và hấp thu các chất dinh dưỡng, hầu hết nước và một phần các chất điện giải được hấp thu ở đây.
Dạ múi khế là dạ dày tuyến, được coi là dạ dày thực, có cấu tạo gồm thân vị và hạ vị, ở đây có các tuyến và dịch tiêu hoá với qưá trình tiêu hoá và hấp thu tương tự như dạ dày đơn của các loài động vật khác. Trong dịch múi khế có các men tiêu hoá như pepxin, kimozin, lipaza. Thức ăn ở các túi trước của dạ dày liên tục đi vào dạ múi khế, các tuyến dịch cũng hoạt động liên tục, vi sinh vật và thức ăn còn lại có khả nàng tiêu hoá sẽ được phân giải bởi các men, tiếp tục tiêu hoá và hấp thụ tại ruột non.
Phân bố
Hiện nay có khoảng 1,3 tỷ bò nhà được nuôi dưỡng, làm cho chúng trở thành một trong những loài động vật có vú được thuần hóa đông đảo nhất về số lượng trên thế giới. Các thành viên của chi này hiện tại được tìm thấy ở châu Phi, châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Môi trường sinh sống của chúng không đồng nhất và phụ thuộc vào từng loài cụ thể; chúng có thể thấy trên đồng cỏ, rừng mưa, vùng đất ẩm, xavan và các khu rừng ôn đới.
ngoài ra chúng còn có một ít loài có thể sống trên môi trường đới lạnh
Sinh thái, hành vi và lịch sử sự sống
Các loài bò có tuổi thọ khoảng 18-25 năm trong tự nhiên, còn trong tình trạng nuôi nhốt đã ghi nhận có thể sống tới 36 năm. Chúng có chu kỳ mang thai kéo dài 9-11 tháng, phụ thuộc từng loài và sinh ra chủ yếu là một con non (ít khi sinh đôi) vào mùa xuân, được gọi chung là bê.
Phần lớn các loài di chuyển thành bầy từ 10 tới hàng trăm con. Trong phạm vi phần lớn các bầy có một con đực cho tất cả các con cái.
Nói chung chúng là động vật ăn ban ngày, chỉ nghỉ ngơi trong khoảng thời gian nóng bức vào buổi trưa còn tích cực hoạt động vào thời gian buổi sáng và buổi chiều. Tuy nhiên, trong những khu vực mà con người xâm lấn vào lãnh thổ của bầy đàn thì chúng có thể là những động vật ăn đêm. Một vài loài còn di cư, di chuyển theo nguồn cung cấp thức ăn và nước uống.
Lịch sử tiến hóa
Các loài bò hiện đại được cho là đã tiến hóa ra từ một tổ tiên chung là bò rừng châu Âu (B. primigenius). Loài này sống sót cho tới tận thập niên 1600 nhưng rốt cuộc thì chúng đã bị săn bắn đến tuyệt chủng.
Hệ thống và phân loại
Phân chi Bos
Bos primigenius (bò rừng châu Âu) †
Bos taurus (bò nhà và bò u, dạng thuần hóa của Bos primigenius)
Bos aegyptiacus (bò Ai Cập cổ đại; danh pháp này không được ITIS công nhận) †
Bos acutifrons (bò rừng tiền sử) †
Bos planifrons (bò trán phẳng) †
Phân chi Bibos
Bos gaurus (bò tót hay bò bison Ấn Độ)
Bos frontalis (bò tót nhà hay mithun, dạng thuần hóa của Bos gaurus)
Bos javanicus (bò banteng hay bò rừng)
Phân chi Novibos
Bos sauveli (bò xám)
Phân chi Poephagus
Bos grunniens (đồng nghĩa Bos mutus, bò Tây Tạng)
Năm 2003, Ủy ban quốc tế về danh pháp động vật (ICZN) đã giải quyết tranh cãi tồn tại đã lâu về việc đặt tên cho các loài này (hay các cặp của loài) trong chi Bos mà chứa cả hai dạng hoang dã lẫn thuần hóa. Ủy ban "bảo tồn việc sử dụng 17 tên loài dựa trên các loài hoang dã, mà chúng có trước hay đương thời với những loài dựa trên các dạng thuần hóa", xác nhận Bos primigenius cho bò rừng châu Âu và Bos gaurus cho bò tót. Nếu như bò nhà và bò tót nuôi được coi là các loài tách biệt thì chúng cần được đặt tên khoa học tương ứng là Bos taurus và Bos frontalis; tuy nhiên, nếu chúng được coi là một phần của cùng loài như các họ hàng hoang dã của mình thì tên khoa học chung cho cả loài sẽ tương ứng là Bos primigenius và Bos gaurus.
Trong văn hóa
Trong văn hóa đại chúng, hình tượng con bò được khắc họa trong nhiều nền văn minh lớn và gắn liền với tín ngưỡng thờ phượng xuất phát từ sự gần gũi và vai trò to lớn của bò trong đời sống của loài người. Nhiều dân tộc sùng kính và tôn thờ con bò, nâng hình ảnh con bò lên vị trí Thần Bò và thờ phụng nó là điển hình là ở Ấn Độ người ta thờ con Bò trắng, người Do Thái thờ con Bê Vàng, người Ai Cập thờ con bò...
Trong văn hóa phương Tây, bò được đề cập qua nhiều câu chuyện thần thoại của Hy Lạp và bò là một con vật trong 12 cung Hoàng Đạo, ứng với cung Kim Ngưu và cũng là một trong những con vật được nhắc đến trong Kinh Thánh. Trong văn hóa Á Đông, bò cũng là động vật nằm trong lục súc, tuy vậy nó bị lép vế nhiều hơn so với hình ảnh con trâu và nhiều khi là hình ảnh ví von cho sự ngờ nghệch.
Trong công nghiệp ô tô
Lamborghini là một công ty siêu xe điển hình. Sở dĩ bò là biểu tượng của hãng xe này là vì nhà sáng lập - Ferruccio Lamborghini thuộc tuổi bò và có sở thích xem các trận đấu bò. Từ đây, hầu hết các dòng xe nổi tiếng như Urus hay Gallardo, Huracan đều được lấy theo tên các con bò đã chiến đấu anh dũng trong suốt các trận đấu. |
Hoàng Xuân Sính (sinh ngày 5 tháng 9 năm 1933) là một nữ chính khách, nhà quản lý giáo dục, nhà toán học, giáo sư và nhà giáo Nhân dân người Việt Nam. Bà là nữ giáo sư toán học đầu tiên của Việt Nam.
Xuất thân và sự nghiệp
Bà là người làng Cót, Từ Liêm, Hà Nội (nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy).
Năm 1951, sau khi tốt nghiệp bằng tú tài 1 tại Trường THPT Chu Văn An (Hà Nội), ban sinh ngữ, tiếng Anh và tiếng Pháp, Hoàng Xuân Sính được cậu ruột đón sang Pháp học tiếp chương trình phổ thông, rồi lên đại học, chuyên ngành toán học. Tốt nghiệp Đại học Toulouse (Pháp), bà tiếp tục học để thi agrégation (kì thi tuyển dụng công chức giáo dục của Pháp). Sau đó bà về nước dạy tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Bà làm nghiên cứu sinh trong nước dưới sự hướng dẫn của nhà toán học nổi tiếng người Pháp Alexander Grothendieck. Luận án Tiến sĩ Toán học của bà có nhan đề "Các Gr-phạm trù" được bảo vệ tại Đại học Paris 7 vào năm 1975. Trước khi sang Paris bảo vệ luận án, bà đã trình bày kết quả nghiên cứu của mình tại Đại hội Toán học Việt Nam năm 1971 ở Hà Nội và Đại hội Toán học thế giới năm 1974 được tổ chức ở Vancouver (Canada).
Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ tại Paris, bà trở về Việt Nam, bắt đầu công việc giảng dạy toán học và biên soạn sách giáo khoa đại học cũng như phổ thông. Bà từng là chủ nhiệm bộ môn Đại số kiêm trưởng khoa Toán-Tin học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Bà là một trong những người sáng lập ra trường Đại học Thăng Long - Đại học Tư thục đầu tiên của Việt Nam, thành lập ngày 15/12/1988. Hiện nay, bà đang là Chủ tịch Hội đồng quản trị của trường. Bà là thành viên Hội đồng xét tặng Giải thưởng khoa học Kovalevskaya ở Việt Nam. Nhiều lần bà được giao trọng trách là Trưởng Đoàn học sinh Việt Nam đi dự Olympic Toán Quốc tế. Bà từng là Phó Chủ tịch Đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VI (2004), Ủy viên Hội đồng chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Ủy viên Hội đồng Giáo dục Quốc gia, Ủy viên Hồi đồng biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam.
Thành tích nổi bật
Bà được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 1996.
Bà được chính phủ Pháp (Gouvernement de la République française) trao tặng "Huân chương Cành cọ Hàn lâm" vào năm 2003 vì những đóng góp to lớn của cá nhân bà cho công cuộc phát triển và hợp tác nghiên cứu khoa học giữa hai quốc gia Pháp-Việt.
Nghiên cứu khoa học
Các nghiên cứu toán học của bà xoay quanh một lớp các Groupoid: các Gr-phạm trù ngặt.
Bà đã công bố các bài báo, nghiên cứu khoa học sau đây:
Hoàng Xuân Sính. Catégories de Picard restreintes. (French) [Restricted Picard categories] Acta Math. Vietnam. 7 (1982), no. 1, p. 117–122. (Phạm trù Picard thu hẹp).
Hoàng Xuân Sính. Gr-catégories strictes. (French) Acta Math. Vietnam. 3 (1978), no. 2, p. 47–59. (Gr-phạm trù ngặt).
Nhận xét
Trong bản ghi chú Récoltes et Semailles của mình, nhà toán học người Pháp Alexander Grothendieck viết về bà: "[...] Một trường hợp đặc biệt khác là trường hợp của Bà Sính. Tôi gặp bà ấy ở Hà Nội tháng 12 năm 1967, trong một xê-mi-na do tôi trình bày tại trường sơ tán Hà Nội. Năm sau đó tôi đề xuất một đề tài nghiên cứu tiến sỹ cho bà ấy. Bà ấy làm việc trong tình cảnh khó khăn của chiến tranh; các liên hệ của tôi với bà ấy không được liên tục. Năm 1974/75, bà ấy đã có thể tới Pháp (nhân dịp Đại hội toán học quốc tế ở Vancouver), và bảo vệ luận án ở Paris (trước hội đồng chỉ định bởi Cartan, gồm có thêm Schwartz, Deny, Zisman và tôi) [...]".
Về thành quả toán học của bà, Grothendieck viết trong một lá thư gửi R. Brown vào ngày 5 tháng 5 năm 1982: "[...] Quillen có một cách tiếp cận đầy hứa hẹn với các K-bất biến bậc cao mà, theo ông ấy, thực ra là tương đương với một trình bày theo kiểu tính toán một định nghĩa trừu tượng mà tôi đã nghĩ tới, dựa theo "các phạm trù n-Picard enveloping" của một phạm trù cộng tính C, mà, các bất biến sẽ cho các bất biến . (Trường hợp đã được xử lý bởi một sinh viên người Việt Nam của tôi tại thời điểm đó: bà Sính) [...]".
Tư tưởng giáo dục
Được ảnh hưởng bởi Grothendieck, bà cho rằng:
Một nhà giáo tốt là một nhà giáo biết làm những thứ phức tạp trở nên đơn giản.
Chúng ta nên tránh những điều hư cấu (giả tạo), sống thật với cảm xúc và trân trọng những con người đơn giản.
Chú thích
Thư mục
Hoàng Xuân Sính. Catégories de Picard restreintes. (French) Acta Math. Vietnam. 7 (1982), no. 1, p. 117–122.
Hoàng Xuân Sính. Gr-catégories strictes. (French) Acta Math. Vietnam. 3 (1978), no. 2, p. 47–59.
Hoàng Xuân Sính, Đại số đại cương (tái bản lần thứ tám), Nhà xuất bản giáo dục (1972)
Người Hà Nội
Giáo sư Việt Nam
Nữ giáo sư
Nhà giáo Nhân dân
Nhà toán học Việt Nam
Cựu giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội
Nhà toán học nữ
Tiến sĩ Khoa học Việt Nam
Nữ tiến sĩ Việt Nam
Tiến sĩ Toán học Việt Nam
Tiến sĩ Việt Nam tốt nghiệp tại Pháp
Nhà toán học thế kỷ 20
Nhà toán học thế kỷ 21
Cựu học sinh trường Trung học cơ sở Trưng Vương, Hà Nội
Trường Đại học Thăng Long |
Kính hiển vi đồng tiêu, hay kính hiển vi quét laser đồng tiêu, là một kỹ thuật hiển vi quang học mà ở đó độ phân giải và tương phản của ảnh được tăng cường bằng cách sử dụng một hệ khẩu độ (dạng lỗ tròn - pinhole) để loại bỏ các chùm tia đến từ các mặt phẳng ngoài tiêu điểm ảnh trong quá trình tạo ảnh. Kỹ thuật này sẽ ghi nhận ảnh của từng điểm ảnh trên mẫu vật và phục dựng lại ảnh (có thể ở nhiều độ sâu khác nhau) để có thể tạo ra ảnh 2 chiều hoặc 3 chiều của mẫu vật.
Đây là một kỹ thuật tạo ảnh được sử dụng phổ biến trong cả nghiên cứu khoa học và công nghiệp, bao gồm trong khoa học sự sống, khoa học vật liệu hay kiểm tra không phá hủy trong công nghiệp bán dẫn.
Lịch sử phát triển và nguyên lý thiết bị
Khái niệm về hệ quang học đồng tiêu lần đầu tiên được đề cập bởi Hans Goldmann với hệ đèn chưa các khe hẹp để kiểm tra mắt. Hệ quang học được phát triển bởi Zyun Koana vào năm 1943. Vào năm 1951, Hiroto Naora, một đồng nghiệp của Koana, lần đầu tiên đề xuất khái niệm về kính hiển vi đồng tiêu trong một công trình công bố trên tạp chí Science.
Kính hiển vi đồng tiêu lần đầu tiên được phát minh bởi Marvin Minsky vào thập niên 1950 với phát minh được cấp bằng sáng chế vào năm 1957. Thiết bị này được xây dựng nhằm vượt qua những hạn chế mà kính hiển vi huỳnh quang mắc phải: toàn thể ánh sáng huỳnh quang từ mẫu vật được ghi nhận, bao gồm cả những phần không nằm trong mặt phẳng nét của ảnh do đó ảnh tạo ra có độ sắc nét và phân giải không đủ tốt.Kính hiển vi đồng tiêu khắc phục điểm yếu này bằng cách sử dụng một chùm sáng hội tụ qua một lỗ khẩu độ nhỏ, và ghi lại các chùm sáng phát ra từ vật mẫu được hội tụ qua một lỗ khẩu độ khác nằm tại mặt phẳng ảnh của vật kính - khẩu độ đồng tiêu. Khẩu độ đồng tiêu này cho phép chỉ thu lại các chùm sáng phát ra từ đúng vị trí ảnh được lấy nét (do các chùm sáng đến từ các mặt phẳng ở ngoài vị trí này sẽ bị loại bỏ). Nhờ vật mà ảnh của từng điểm khác nhau trên vật mẫu sẽ được tạo ra một cách sắc nét và ghi nhận. Bằng cách ghi nhận từng điểm ảnh (khi chùm sáng quét trên vật mẫu), ảnh của toàn bộ mẫu vật sẽ được xây dựng.
Thiết bị hiển vi đồng tiêu đầu tiên được thương mại hóa thành công bởi Mojmír Petráň ở Đại học Charles (Cộng hòa Séc) bằng cách sử dụng hệ đĩa quay. Sáng chế của Mojmír Petráň được cấp bằng năm 1966 và bắt đầu được sản xuất và thương mại hóa ở Tiệp Khắc trước khi mở rộng sang Hoa Kỳ.
Thiết bị kính hiển vi đồng tiêu dựa trên kỹ thuật quét chùm laser lần đầu tiên được giới thiệu năm 1969 bới M. David Egger ở Đại học Yale, và tiếp tục được hoàn thiện bởi Paul Davidovits năm 1971.
Các kỹ thuật đồng tiêu
Kính hiển vi đồng tiêu có nhiều kiểu thiết kế khác nhau, chủ yếu nằm ở kỹ thuật quét chùm tia laser trên mẫu. Thiết kế nguyên bản của Minsky có hệ quang học tĩnh còn mẫu được di chuyển bên dưới chùm tia laser. Thiết kế này có ưu điểm là mọi điểm ảnh đều có cùng tính chất quang học, và ảnh tạo ra rìa sắc nét, nhưng lại có một điểm yếu cố hữu là đòi hỏi một giá mẫu với thiết kế cơ học tinh vi (nhằm di chuyển mẫu dễ dàng). Thiết kế kiểu này ngày nay đã ít được sử dụng và hầu hết các thiết kế ngày nay đều dựa trên việc quét chùm tia laser (hệ quang học động).
Kính hiển vi laser quét đồng tiêu (LSCM)
Đây là một thiết kế cải tiến phổ biến thay thế thiết kế nguyên thủy với mẫu cố định và chùm tia laser được điều khiển để quét trên mặt mẫu. Để làm được điều này, ánh sáng kích thích ban đầu sẽ được phản xạ trên gương lưỡng hướng trước khi được hội tụ để kích thích trên bề mặt mẫu. Gương lưỡng hướng là một hệ thống điện - cơ, cho phép điều khiển gương này xoay chuyển, và do đó chùm tia kích thích sẽ được điều khiển và quét trên bề mặt mẫu. Ánh sáng phản xạ lại sẽ hội tụ qua vật kích trước khi chiếu xuyên qua gương lưỡng hướng và ảnh sẽ được ghi nhận.
Đây là kỹ thuật đồng tiêu phổ biến nhất trong các thiết bị thương phẩm hiện nay, với điểm mạnh là chụp ảnh có độ phân giải cao, chụp cắt lớp, dễ dàng tạo ảnh 3 chiều (hay thậm chí 4 chiều - 3 chiều trong thời gian thực) và cho ảnh màu khá trung thực.
Kính hiển vi đồng tiêu đĩa quay
Nếu như LSCM là một kỹ thuật quét đơn điểm có chất lượng ảnh cao, thì tốc độ tạo ảnh của nó là một hạn chế. Kỹ thuật đĩa quay (Spinning disk confocal microscope) là một cải tiến khác cho phép tạo ảnh nhanh hơn. Trong kỹ thuật này, thay vì sử dụng một lỗ khẩu độ, người ta sẽ tạo ra một mảng ma trận các khẩu độ nhỏ, bố trí trên một đĩa quay và do đó tạo ra một hệ chùm tia quét trên mẫu. Kỹ thuật này cho phép tạo ảnh với tốc độ cao hơn và chỉ cần chùm sáng với cường độ yếu hơn. Tuy nhiên, điểm yếu của kỹ thuật này là ảnh tạo ra có nhiễu nền cao hơn.
Ứng dụng
Kính hiển vi đồng tiêu là kỹ thuật được đặc biệt yêu thích trong các nghiên cứu về khoa học sự sống nhờ khả năng tạo ảnh với độ phân giải cao và chất lượng hình ảnh cao. Thiết bị này có cho phép quan sát các cấu trúc tế bào hoặc tiêu bản sinh học với khả năng tạo ảnh 3 chiều với độ phân giải cao ở dạng ảnh tĩnh hoặc ảnh động trong thời gian thực (4D). Đối với các nghiên cứu về khoa học sự sống, kính hiển vi đồng tiêu thường được sử dụng dưới dạng huỳnh quang với việc nhuộm tiêu bản và ghi lại ánh sáng phát huỳnh quang, bằng cách ghi nhận ánh sáng phát huỳnh quang từ mẫu vật khi chùm tia laser quét trên bề mặt mẫu. Lúc này, kỹ thuật đồng tiêu trở nên đặc biệt ưu thế so với kính hiển vi huỳnh quang truyền thống nhờ việc ghi nhận ảnh nét theo từng điểm ảnh.
Kỹ thuật này cũng được ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về bán dẫn và khoa học vật liệu nhờ khả năng chụp ảnh không phá hủy và quan sát cấu trúc tế vi 3 chiều ở kích thước rộng. Đối với các lĩnh vực này, kính hiển vi chỉ cần ghi nhận ánh sáng phản xạ lại từ bề mặt mẫu, và cho phép tạo ảnh có độ tương phản cũng như sắc nét chính xác trên từng điểm ảnh. Lúc này, các thiết bị hiển vi đồng tiêu còn đóng vai trò như một hệ đo lường quang học với độ chính xác cao. |
Gia Định (chữ Hán: 嘉定) là một địa danh cũ ở miền Nam Việt Nam.
Lịch sử (sơ lược)
Đất Gia Định xưa thuộc nước Phù Nam (tồn tại khoảng đầu thế kỷ 1 đến khoảng nửa thế kỷ 7), sau đó thuộc vương quốc Chân Lạp (nay là Campuchia). Tuy nhiên, "thuộc" một cách lỏng lẻo: "các dân tộc vẫn sống tự trị, và người dân Khmer lẻ tẻ chưa hợp thành đơn vị hành chính thuộc triều đình La Bích (Chân Lạp). Trong khi đó triều đình ấy phải tập trung lực lượng ở phía nam Biển Hồ (sau khi bỏ Ăngco ở phía bắc) để đối đầu với Xiêm La (nay là Thái Lan) đang tiếp tục lấn đất Chân Lạp ở phía tây. Đất Gia Định vẫn là đất tự do của các dân tộc và hầu như vô chủ, là đất hoang nhàn cả về kinh tế lẫn chủ quyền từ xưa".
Theo sử liệu, lưu dân Việt đã đến đây khai hoang và làm ăn sinh sống vào đầu thế kỷ 17, nhờ có cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II vào năm 1620. Vì mưu sinh, có thể lưu dân Việt đã có mặt ở đây trước khi có cuộc hôn nhân ấy. Song, chính nhờ mối quan hệ đó, mà Đại Việt (nay là Việt Nam) và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống, tạo điều kiện cho lưu dân Việt ngày càng đông đảo hơn ở khu vực Đồng Nai, Sài Gòn....
Và căn cứ đoạn chép trong Gia Định thành thông chí, thì lúc bấy giờ lưu dân Việt "ở lẫn với người Cao Miên" (tức Chân Lạp), trích:
"Năm Mậu Tuất (1658)...vua (chúa Nguyễn Phúc Tần) sai Phó tướng Yến Vũ hầu (Nguyễn Phước Yến)...đem 2000 quân, đi tuần đến thành Mỗi Xoài nước Cao Miên, đánh phá được, bắt vua nước ấy là Nặc Ông Chân, đóng gông đem đến hành tại ở dinh Quảng Bình. Vua dụ tha tội...Khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn đất"..
Trong công cuộc Nam tiến
Năm Kỷ Mùi (1679), vì không theo nhà Thanh, các tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình đã đem hơn 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền từ Quảng Đông (Trung Quốc) vào 2 cửa biển là Tư Dung (cửa Tư Hiền) và Đà Nẵng xin qui phụ. Nghe theo lời bàn của triều thần, chúa Nguyễn Phúc Tần bèn cho họ vào ở xứ Đồng Nai (nhóm Trần Thượng Xuyên) và xứ Mỹ Tho (nhóm Dương Ngạn Địch). Từ đó, họ vỡ đất phá hoang, cày ruộng, dựng nhà và phố chợ, buôn bán giao thông với người Trung Quốc, Tây Dương, Nhật Bản, Đồ Bàn...khiến phong tục văn minh dần dần phổ biến....
Đến đầu năm Mậu Dần (1698), nhận lệnh của chúa Nguyễn Phúc Chu, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược nước Chân Lạp. Sau đó, ông "lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai (Lộc Dã) làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (vùng Biên Hòa); xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (vùng Gia Định). Các nơi đều đặt quan lưu giữ. Mở đất ngàn dặm, được trên 4 vạn hộ. Chiêu mộ dân xiêu tán từ Bố Chánh trở vào Nam cho đến ở, thành lập xã thôn, khai khẩn ruộng đồng, làm sổ đinh, sổ điền. Lại lấy những lái buôn người Hoa sống ở Trấn Biên lập nên xã Thanh Hà, những người ở Phiên Trấn lập nên xã Minh Hương"....
Vậy, kể từ năm đó (1698), dinh Phiên Trấn gồm một phủ (Gia Định) và một huyện (Tân Bình). Về mặt hành chính, chúa Nguyễn Phúc Chu đặt chức Giám quân, Cai bộ và Ký lục để cai trị.
Dần dần, đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, vùng đất phía Nam nới rộng thêm ra, theo chính sách "tàm thực" (lối xâm lấn dần dần như tằm ăn lá dâu) của tướng Nguyễn Cư Trinh. Sau khi con đường Nam tiến thành công, toàn lãnh thổ miền Nam được phân ra thành ba dinh lớn là: Trấn Biên dinh (trấn lỵ ở Biên Hòa), Phiên Trấn dinh (trấn lỵ ở Gia Định) và Long Hồ dinh (trấn lỵ ở Vĩnh Long).
Dưới thời Vua Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long)
Năm Bính Thân (1776), Gia Định bị quân Tây Sơn vào chiếm cứ . Sau khi đánh lấy lại, tháng 11 (âm lịch) năm Kỷ Hợi (1779), chúa Nguyễn Phúc Ánh duyệt xem bản đồ, chia toàn miền Nam lúc bấy giờ ra thành một trấn (Hà Tiên) và 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Trường Đồn [nâng lên từ đạo], Long Hồ) . Tất cả các dinh trấn này đều chịu sự cai quản của phủ Gia Định . Khi ấy, dinh Phiên Trấn có một huyện là Tân Bình, gồm 4 tổng là: Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc.
Năm 1790, chúa Nguyễn Phúc Ánh sai đắp thành Bát Quái, đồng thời chọn thành phố Sài Gòn (thuộc tổng Bình Dương, huyện Tân Bình) làm nơi đóng đô của mình, và gọi là Gia Định kinh. Địa vị kinh đô này chỉ tồn tại được trên 10 năm (1790 - 1801), vì sau khi lấy được Phú Xuân (1801), chúa Nguyễn liền dời đô ra đấy .
Năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long (tức chúa Nguyễn Phúc Ánh) cho đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, đồng thời cho các dinh cũng đổi thành các trấn, gồm: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Tất cả các trấn này nằm dưới sự cai quản của trấn Gia Định. Có thể coi đây là thời kỳ "Gia Định ngũ trấn".
Đến năm Mậu Thìn (1808), nhà vua này định lại bờ cõi, phân địa giới toàn lãnh thổ Việt Nam ra làm 4 dinh gồm 25 trấn, đồng thời lại chia làm hai miền Bắc Nam, gọi là Bắc Thành và Gia Định Thành để tiện việc cai quản.
Lúc bấy giờ, trấn Gia Định được đổi thành Gia Định Thành, và cho cai quản 5 trấn, là: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và An Giang.
Theo Nguyễn Đình Đầu, sở dĩ trấn Gia Định được đổi tên là "Gia Định Thành" là vì trước đây Gia Định và Phiên An cùng gọi là "trấn", rất dễ lẫn nhau, và dễ nhầm là ngang bậc nhau. Và cũng theo nhà nghiên cứu này, mặc dù danh xưng thay đổi, song Sài Gòn (thuộc trấn Phiên An) vẫn luôn là lỵ sở của các thời kỳ: phủ Gia Định, trấn Gia Định và Gia Định Thành.
Về mặt hành chính của Gia Định Thành, đứng đầu là Tổng trấn, có hai phụ tá là Hiệp Tổng trấn và Phó Tổng trấn. Các thuộc viên khác, gồm có Trấn thủ, Cai bộ và Ký lục. Đây chính là các quan chức đại diện cho triều đình để thống quản các trấn ở phía Nam .
Tổng trấn đầu tiên của Gia Định Thành là Nguyễn Văn Nhơn (hay Nhân), và vị Tổng trấn cuối cùng là Lê Văn Duyệt. Theo thống kê năm 1819, thì 5 trấn của Gia Định Thành có khoảng 700.000 dân, riêng trấn Phiên An có khoảng 180.000 dân .
Dưới thời Minh Mạng - Thiệu Trị
Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn, 1832), sau khi Lê Văn Duyệt từ trần, nhà vua bãi bỏ chức Tổng trấn, chia Gia Định Thành ra làm 6 tỉnh là: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên (gọi chung là Nam Kỳ Lục tỉnh), và không đặt một viên quan nào cai trị chung cho cả lục tỉnh nữa. Đơn vị hành chính Gia Định Thành kể như bị xóa sổ từ năm ấy (1832).
Lúc bấy giờ, tỉnh Phiên An gồm hai phủ là phủ Tân Bình (4 tổng lệ thuộc là Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc đều thăng làm huyện) và phủ Tân An (lấy hai huyện Thuận An và Phước Lộc lập thành).
Tháng 5 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định. Sau, nhà vua lại đặt thêm phủ Tây Ninh gồm hai huyện là Tân Ninh và Quang Hóa.
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), lại đặt thêm phủ Hòa Thịnh (gồm hai huyện Tân Hòa và Tân Thịnh), và phủ Tân Bình lại đặt thêm huyện Bình Long.
Dưới thời Tự Đức
Năm Tự Đức thứ 5 (1852), bỏ bớt phủ Hòa Thịnh. Cử Tri huyện Tân Hòa kiêm công việc của huyện Tân Thịnh, đồng thời lại cho thuộc vào phủ Tân An. Lại cho Tri phủ Tân Bình kiêm công việc ở huyện Bình Long .
Sau trận Đại đồn Chí Hòa (tháng 2 năm 1861), 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) mất vào tay thực dân Pháp (theo Hòa ước Nhâm Tuất, 1862). Lần hồi cả Nam Kỳ Lục tỉnh đều bị họ chiếm hết, rồi trở thành thuộc địa (theo Hòa ước Giáp Tuất, 1874).
Dưới thời Pháp thuộc
Về Nam Kỳ lục tỉnh
Tính đến năm 1944, Nam Kỳ lục tỉnh thời Nguyễn đã được thực dân Pháp chia thành 22 tỉnh như sau:
- Khu vực Sài Gòn cũ gồm các tỉnh: Gia Định, Tân Bình và Chợ Lớn.
- Khu vực miền Đông gồm các tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay), Tây Ninh, Bà Rịa và Vũng Tàu.
- Khu vực miền Tây gồm các tỉnh: Bến Tre, Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ, Trà Vinh, Long Xuyên, Châu Đốc, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Hà Tiên.
Về việc hành chính, sau khi chiếm xong Gia Định, Đề đốc Charner cho thiết lập chế độ cai trị tạm thời. Nhiều sĩ quan được lãnh trách nhiệm cai trị, gọi là "Quản đốc bổn quốc sự vụ", vì lúc ấy các quan Nam triều đã bỏ đi hết...Đến thời Đô đốc Bonard mới giao phó cho một số viên chức người Việt. Tuy nhiên, kể từ năm 1859, cấp lãnh đạo tối cao lần lượt vẫn là các sĩ quan Hải quân cao cấp của Pháp, như Rigault de Genouilly, Page, Charner, Bonard, De la Grandière...
Năm 1864, Đô đốc De la Grandière thay đổi chế độ cai trị. Ba tỉnh miền Đông bị chia làm 7 khu vực: Bà Rịa, Biên Hòa, Cần Giuộc, Mỹ Tho, Sài Gòn, Tân An, Gò Công và Tây Ninh. Đây vẫn còn là tổ chức quân sự. Để chuyển dần qua chế độ dân sự, ngày 9 tháng 11 năm đó (1864), De la Gradière lập một tòa Thượng thư cai quản các quan Tham biện, sĩ quan và nhân viên công lực, v.v...Và trong năm 1865, riêng vùng Gia Định có mấy sở Tham biện được đặt ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Giuộc, Tây Ninh và Tân An.
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau đó, họ chia Nam Kỳ ra làm 6 tỉnh là Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên, đồng thời đặt ra 24 sở Tham biện để cai quản số tỉnh ấy. Riêng ở Sài Gòn có 7 tham biện...
Tuy vậy, đến ngày 13 tháng 5 năm 1879, do lệnh của Tổng thống Pháp, bên quan văn mới được nắm quyền cai trị tối cao. Vị quan văn Pháp đầu tiên được cử làm Thống đốc Nam Kỳ là Charles Le Myre de Vilers. Từ đấy, việc quân sự và dân sự mới được phân biệt hẳn hoi.
Về tỉnh Gia Định
Sau khi thực dân Pháp chiếm lấy tỉnh Gia Định thời Nguyễn, lần lượt họ đã chia cắt ra làm 6 tỉnh là: Gia Định, Chợ Lớn (lập năm 1876), Tân An (lập năm 1854), Tây Ninh (lập năm 1900), Gò Công (lập năm 1900) và Tân Bình (lập năm 1944).
Năm 1956, tỉnh Chợ Lớn sáp nhập với tỉnh Tân An thành tỉnh Long An, tỉnh Gò Công sáp nhập với tỉnh Mỹ Tho thành tỉnh Định Tường...
Thời Việt Nam Cộng hòa
Năm 1956, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Gia Định là một trong 22 tỉnh của Nam Bộ (tức Nam Kỳ lục tỉnh), không kể Đô thành Sài Gòn. Năm 1957, tỉnh Gia Định gồm có 6 quận, 10 tổng và 61 xã:
Quận Gò Vấp có 1 tổng Bình Trị Thượng; quận lỵ: Hạnh Thông Xã.
Quận Tân Bình có 1 tổng Dương Hòa Thượng; quận lỵ: xã Phú Nhuận.
Quận Hóc Môn có 2 tổng: Bình Thạnh Trung, Long Bình; quận lỵ: Thới Tam Thôn.
Quận Thủ Đức có 2 tổng: An Bình, An Điền; quận lỵ: Linh Đông Xã.
Quận Nhà Bè có 1 tổng Bình Trị Hạ; quận lỵ: xã Phú Xuân Hội.
Quận Bình Chánh có 3 tổng: Long Hưng Thượng, Long Hưng Trung, Tân Phong Hạ; quận lỵ: xã Bình Chánh.
Năm 1970, Gia Định chia thành 8 quận, ngoài các quận trên còn có thêm:
Quận Quảng Xuyên
Quận Cần Giờ
Năm 1974, tỉnh Gia Định có 8 quận, 74 xã, 351 ấp với 1.422.653 dân.
Sau năm 1975
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, tháng 5 năm 1975, tỉnh Gia Định (ngoại trừ 2 quận: Cần Giờ và Quảng Xuyên) được sáp nhập với Đô thành Sài Gòn và một phần các tỉnh Long An, Bình Dương, Hậu Nghĩa để trở thành thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, thành phố Sài Gòn - Gia Định được chính thức đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Phân chia hành chính
Năm 1897
Toàn tỉnh Gia Định được chia thành 18 tổng:
Tổng An Bình gồm 8 làng: An Phú, Bình Lợi, Bình Thạnh, Bình Trưng, Đông Phú, Mỹ Thủy, Phú Thọ, Tân Lập
Tổng An Điền gồm 9 làng: Bình Quới Đông, Bình Thái, Bình Thọ, Linh Chiểu Đông, Linh Chiểu Tây, Linh Chiểu Trung, Trường Thọ, Xuân Trường, Xuân Vinh
Tổng An Thành gồm 9 làng: An Thạnh, Hưng Thạnh, Long Tân, Phước Khánh, Phước Trường, Tân Điền, Trường Cửu, Trường Lộc, Tuy Thạnh
Tổng An Thịt gồm 5 làng: An Thạnh, Bình Khánh, Khánh Độ, Sài Tân, Vạng Phước
Tổng An Thổ gồm 10 làng: Bình Chánh, Bình Chiểu, Bình Đức, Bình Đường, Bình Phú, Bình Phước, Bình Thủy, Bình Triệu, Đông An, Dĩ An
Tổng An Thủy gồm 14 làng: An Nhơn, Bình Thắng, Bình Thung, Đông Minh, Đông Tác, Đông Yên, Mỹ Hòa, Ngãi Thắng, Phong Phú, Tân Long, Tân Phú, Tân Nhơn, Tân Ninh, Tân Quới
Tổng Bình Thạnh Hạ gồm 16 làng: Mỹ Hòa, Tân Đông Thượng, Tân Đông Trung, Tân Hội, Tân Hưng, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Thượng, Thới An, Thới Hòa, Thuận Kiều, Trung Chánh Tây, Trung Chánh, Trung Hưng, Xuân Hòa, Xuân Thới Tây, Vĩnh Lộc
Tổng Bình Thạnh Trung gồm 17 làng: An Hòa, Bình Lý Đông, Bình Lý, Bình Nhan, Bình Xuân, Hội Thạnh, Mỹ Thạnh, Phú Lợi, Tân Đông, Tân Mỹ Đông, Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây, Thạnh Hòa, Thạnh Phú, Thạnh Yên, Thới Thạnh, Thới Thuận
Tổng Bình Trị Thượng gồm 16 làng: An Hội, An Lộc Đông, An Lộc, An Nhơn Xã, An Phước, An Thạnh Trung, An Xuân, Bình An Đông, Bình Hòa Xã, Bình Lợi Trung, Bình Quới Tây, Hanh Phú, Hanh Thông Tây, Hanh Thông Xã, Quới An, Thạnh Đa
Tổng Bình Trị Hạ gồm 9 làng: Phú Hội, Phú Mỹ Tây, Phước Hải, Phước Long Đông, Phước Thành, Phước Thới, Phú Xuân Đông, Tân Qui Đông, Tân Thuận Đông
Tổng Bình Trị Trung gồm 5 làng: An Lợi Đông, An Lợi Xã, Bình Khánh, Phú An, Phú Mỹ
Tổng Cần Giờ gồm 6 làng: Cần Thạnh, Đông Hòa, Long Thạnh, Lý Nhơn, Tân Thạnh, Thạnh Thới
Tổng Dương Hòa Hạ gồm 12 làng: Đức Hưng, Long Kiểng, Long Phước, Long Thạnh Tây, Long Thới Đông, Mỹ Đức, Nhơn Mỹ, Nhơn Ngãi, Phong Lộc, Phú Lễ, Phước Thạnh, Thới Hiệp
Tổng Dương Hòa Thượng gồm 14 làng: Bình Hưng, Bình Hưng Đông, Bình Thới, Hòa Hưng, Phú Nhuận, Phú Thạnh, Phú Thọ, Tân Hòa, Tân Hòa Tây, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Nhứt, Tân Thới, Tân Trụ, Thạnh Hòa
Tổng Long Tuy Hạ gồm 11 làng: Mỹ Khánh, Phước An, Phước Mỹ, Tân Thông, Tân Thông Đông, Tân Thông Tây, Tân Thông Trung, Thái Bình Hạ, Thái Bình Thượng, Trung Lập, Vĩnh An Tây
Tổng Long Tuy Thượng gồm 14 làng: Phước Ninh, Tân Phú Trung, Tân Thới Đông, Tân Thới Nhì, Tân Thới Tam, Tân Thới Tây, Tân Thới Trung, Tân Thới Tứ, Thái Sơn, Thới Tam Đông, Vĩnh Cư, Vĩnh Phước, Xuân Thới, Xuân Thới Đông
Tổng Long Tuy Trung gồm 6 làng: An Nhơn Tây, Mỹ Hưng, Nhuận Đức, Phú Đức, Phú Hòa Đông, Phú Thạnh
Tổng Long Vĩnh Hạ gồm 11 làng: Chí Thạnh, Ích Thạnh, Long Đại, Long Hậu, Long Sơn, Long Tuy, Mỹ Thạnh, Phước Hậu, Phước Thiện, Phước Thới, Vĩnh Thuận.
Năm 1939
Tỉnh Gia Định được chia thành 4 quận:
1. Quận Gò Vấp có 3 tổng với 37 làng:
Tổng Bình Thạnh Hạ gồm 15 làng: Mỹ Hòa, Tân Đông Thượng, Tân Đông Trung, Tân Hưng, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Thượng, Thới An, Thới Hòa, Thuận Kiều, Trung Chánh, Trung Chánh Tây, Trung Hưng, Xuân Hòa, Xuân Thới Tây, Vĩnh Lộc
Tổng Bình Trị Thượng gồm 13 làng: An Hội, An Lộc Đông, An Lộc, An Nhơn Xã, An Xuân, Bình Hòa Xã, Bình Quới Tây, Hanh Phú, Hanh Thông Tây, Hanh Thông Xã, Quới An, Thạnh Mỹ An, Thạnh Phước
Tổng Dương Hòa Thượng gồm 9 làng: Bình Hưng Đông, Bình Hưng, Chí Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Nhứt, Tân Thới Hòa, Tân Trụ.
2. Quận Hóc Môn có 4 tổng với 24 làng:
Tổng Bình Thạnh Trung gồm 10 làng: An Phú, Bình Lý, Đông Thạnh, Hòa Phú, Mỹ Bình, Nhị Bình, Paris Tân Qui, Tân Mỹ Đông, Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây
Tổng Long Tuy Hạ gồm 5 làng: Phước An, Phước Mỹ, Tân An Tây, Tân Thông Trung, Trung Lập
Tổng Long Tuy Thượng gồm 9 làng: Phước Ninh, Tân Hiệp, Tân Phú Trung, Tân Thới, Tân Thới Nhì, Tân Thới Tứ, Tân Xuân, Vĩnh Cư, Xuân Thới Sơn
Tổng Long Tuy Trung gồm 5 làng: An Nhơn Tây, Mỹ Hưng, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông, Phú Thạnh.
3. Quận Thủ Đức có 6 tổng với 43 làng:
Tổng An Bình gồm 6 làng: An Đông Xã, An Phú, Bình Khánh, Bình Trung, Đông Phú, Thạnh Mỹ Lợi
Tổng An Điền gồm 7 làng: Bình Quới Đông, Bình Thái, Bình Thọ, Linh Chiểu Trung, Linh Chiểu, Trường Thọ, Xuân Hiệp
Tổng An Thành gồm 6 làng: Long Tân, Phú Hữu, Phước Trường, Tân Điền, Trường Khánh, Trường Lộc
Tổng An Thổ gồm 8 làng: Bình Chánh, Bình Chiểu, Bình Đức, Bình Đường, Bình Phú, Bình Triệu, Đông An, Dĩ An
Tổng An Thủy gồm 10 làng: Bình Thắng, Bình Thung, Đông Tác, Đông Yên, Hòa Hiệp, Phong Phú, Tăng Phú, Tân Hóa, Tân Nhơn, Tân Ninh
Tổng Long Vĩnh Hạ gồm 6 làng: Ích Thạnh, Long Thuận, Long Hòa, Mỹ Thạnh, Phước Hòa, Thái Bình.
4. Quận Nhà Bè có 4 tổng với 19 làng:
Tổng An Thịt gồm 3 làng: An Thới Đông, Bình Khánh, Tam Thôn Hiệp
Tổng Bình Trị Hạ gồm 5 làng: Phú Mỹ Tây, Phú Xuân Hội, Phước Long Đông, Tân QuiĐông, Tân Thuận Đông
Tổng Cần Giờ gồm 5 làng: Cần Thạnh, Đồng Hòa, Long Thạnh, Lý Nhơn, Tân Thạnh
Tổng Dương Hòa Hạ gồm 6 làng: Hiệp Phước, Long Đức Đông, Long Kiển, Nhơn Đức, Phú Lễ, Phước Lộc.
Năm 1955
1. Quận Thủ Đức có 19 làng:
Tổng An Bình có 05 làng: Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi, Phú Hữu, An Phú và An Khánh Xã
Tổng An Điền có 04 làng: Linh Xuân Thôn, Phước Long Xã, Linh Đông Xã và Tăng Nhơn Phú;
Tổng An Thổ có 03 làng: An Bình Xã, Hiệp Bình Xã và Tam Bình Xã
Tổng An Thủy có 03 làng: Bình An, Đông Hòa Xã và Tân Đông Hiệp
Tổng Long Vĩnh Hạ có 04 làng: Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Long Phước Thôn và Long Bình.
2. Quận Nhà Bè có 11 làng:
Tổng Bình Trị Hạ có 05 làng: Phú Mỹ Tây, Phú Xuân Hội, Phước Long Đông, Tân Quy Đông và Tân Thuận Đông
Tổng Dương Hòa Hạ có 06 làng: Long Kiểng, Phước Lộc Thôn, Nhơn Đức, Long Đức, Hiệp Phước và Phú Lễ.
3. Quận Hóc Môn có 27 làng:
Tổng Bình Thạnh Trung có 07 làng: Đông Hưng Thuận, Tân Đông Thượng, Đông Thạnh, Nhị Bình, Tân Thới Hiệp, Thới Tam Thôn và Trung Mỹ Tây
Tổng Long Bình có 06 làng: Tân Hiệp, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Tân Thới Trung, Xuân Thới Sơn và Xuân Thới Thượng
Tổng Long Tuy Thượng có 06 làng: Phước Vĩnh Ninh, Tân Phú Trung, Bình Mỹ, Tân Hòa, Tân Thạnh Đông và Trung An
Tổng Long Tuy Trung có 04 làng: An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông và Phú Mỹ Hưng;
Tổng Long Tuy Hạ có 04 làng: Tân An Hội, Phước Hiệp, Thái Mỹ và Trung Lập.
4. Quận Gò Vấp có 15 làng:
Tổng Bình Trị Thượng có 08 làng: An Nhơn Xã, An Phú Đông, Bình Hòa Xã, Thạnh Lộc Thôn, Hanh Thông Xã, Thạnh Mỹ Tây, Thông Tây Hội và Quới Xuân
Tổng Dương Hòa Thượng có 07 làng: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa, Tân Hòa, Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì và Vĩnh Lộc.
Năm 1974
Quận Bình Chánh gồm 15 xã: An Lạc, An Phú, An Phú Tây, Bình Chánh, Bình Hưng, Bình Trị Đông, Đa Phước, Hưng Long, Phong Đước, Qui Đức, Tân Kiên, Tân Nhựt, Tân Quý Tây, Tân Tạo, Tân Túc.
Quận Cần Giờ gồm 5 xã: Cần Thạnh, Đồng Hòa, Long Thạnh, Thạnh An, Tân Thạnh.
Quận Gò Vấp gồm 7 xã: An Nhơn Xã, An Phú Đông, Bình Hòa Xã, Thạnh Lộc Thôn, Hanh Thông Xã, Thạnh Mỹ Tây, Thông Tây Hội.
Quận Hóc Môn gồm 12 xã: Đông Hưng Tân, Đông Thạnh, Nhị Bình, Tân Hiệp, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Tân Thới Trung, Thới Tam Thôn, Trung Mỹ Tây, Xuân Thới Sơn, Xuân Thới Thượng.
Quận Nhà Bè gồm 9 xã: Phú Mỹ Tây, Phú Xuân Hội, Phước Long Đông, Tân Quy Đông, Tân Thuận Đông, Long Kiểng, Phước Lộc Thôn, Nhơn Đức, Long Đức.
Quận Quảng Xuyên gồm 4 xã: An Thới Đông, Bình Khánh, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp.
Quận Tân Bình gồm 7 xã: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa, Tân Phú, Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì, Vĩnh Lộc.
Quận Thủ Đức gồm 15 xã: Tam Bình Xã, Long Bình, Long Phước Thôn, Long Thạnh Mỹ, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi, Phú Hữu, An Phú, Linh Xuân Thôn, Phước Long Xã, Linh Đông Xã, Long Trường, Tăng Nhơn Phú, Hiệp Bình Xã, Phước Bình.
Đọc thêm
TP Hồ Chí Minh
Gia Định Thành
tỉnh Gia Định
Lịch sử Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh
Lịch sử hành chính Thành phố Hồ Chí Minh |
Nhị Hà có thể là:
Một tên gọi khác của Sông Hồng
Xã Nhị Hà, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận |
Sông Cái, nghĩa chữ là "sông Mẹ", là tên của nhiều con sông ở Việt Nam như:
Sông Cái Quảng Nam, tên gọi đoạn trung lưu của sông Vu Gia, trong cùng hệ thống với sông Thu Bồn ở tỉnh Quảng Nam, bắt nguồn từ vùng biên giới Việt - Lào, nối với sông Thu Bồn ở huyện Đại Lộc.
Sông Cái Quy Nhơn ở tỉnh Bình Định, đổ ra vịnh Quy Nhơn, đoạn trung lưu là sông Hà Giao, đoạn thượng lưu là sông Đắk Cron Bung.
Sông Cái Phú Yên, tên của phần hạ nguồn của Sông Kỳ Lộ tỉnh Phú Yên.
Sông Cái Ninh Hòa hay sông Dinh Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Sông Cái Nha Trang ở tỉnh Khánh Hòa, qua thành phố Nha Trang, rồi đổ ra vịnh Nha Trang.
Sông Cái Phan Rang hay Sông Dinh (Ninh Thuận) ở tỉnh Ninh Thuận, qua thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, rồi đổ ra vịnh Phan Rang.
Sông Cái Phan Thiết hay sông Quao, bắt nguồn từ tỉnh Lâm Đồng, chảy trong huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, rồi đổ ra vịnh Phan Thiết.
Sông Cái - tên dân gian theo nghĩa "sông Mẹ" của sông Hồng.
Khác
Sông Cái Mép chảy ở Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh
Sông Cái Tàu chảy ở Đồng Tháp, Vĩnh Long.
Sông Cái Vùng chảy ở Đồng Tháp, An Giang.
Sông Cái Cối chảy ở Đồng Tháp, Tiền Giang.
Sông Cái Lớn chảy ở Bạc Liêu, Hậu Giang, Kiên Giang.
Sông Cái Tàu chảy ở Cà Mau, Kiên Giang.
Sông Cái Lớn chảy ở Kiên Giang, Hậu Giang.
Sông Cái Bé chảy ở Cần Thơ, Kiên Giang. |
Khoa học kỹ thuật là các ngành khoa học liên quan tới việc phát triển kỹ thuật và thiết kế các sản phẩm trong đó có ứng dụng các kiến thức khoa học tự nhiên. Các ngành khoa học kỹ thuật cổ điển bao gồm khoa học kỹ thuật xây dựng (bao gồm cả khoa học trắc địa), khoa học chế tạo máy và khoa học điện tử. Các ngành khoa học kỹ thuật mới bao gồm kỹ thuật an toàn, kỹ thuật công trình nhà, hóa kỹ thuật và vi kỹ thuật.
Việc tin học có được coi là một ngành khoa học kỹ thuật hay không vẫn còn được tranh cãi.
Nền tảng của các ngành khoa học kỹ thuật
Các cơ sở khoa học (kỹ thuật) nền tảng cho các khoa học kỹ thuật bao gồm đặc biệt là toán học, vật lý học, cũng có thể là hóa học (ví dụ trong lĩnh vự khoa học vật liệu và khoa học vật liệu xây dựng) hoặc là địa chất học (trong phạm vi ngành khoa học kỹ thuật xây dựng). Trong ngành này cơ học (với các phân ngành tĩnh học, động lực học và động học) đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Cho ngành chế tạo máy là động lực học và cho ngành điện tử là kỹ thuật điện tử. Ngoài các cơ sở kể trên thì các ngành cơ sở hướng-phương-pháp như lý thuyết thiết kế hoặc các cơ sở bổ sung khác như kinh tế quản trị và tin học hoàn thiện nền tảng cho các khoa học kỹ thuật.
Phân loại các ngành khoa học kỹ thuật
Khoa học kỹ thuật xây dựng
Các ngành cơ bản: cơ học, cơ học thủy, lý thuyết độ bền cơ học (sức bền vật liệu), khoa học vật liệu xây dựng
Các chuyên ngành (theo lĩnh vực làm việc):
xây dựng cao tầng
xây dựng hạ tầng
xây dựng công trình thủy
kinh tế thủy (cấp, thoát nước)
chuyên ngành giao thông vận tải
Các chuyên ngành (theo nguyên lý):
Cơ sở khoa học kỹ thuật xây dựng
Tin học xây dựng
Trắc đạc kỹ thuật
Vật lý học công trình
Hóa học công trình
Lý thuyết cấu kiện
Độ bền cấu kiện
Kinh tế xây dựng và vận hành, quản lý xây dựng
Lý thuyết kinh doanh xây dựng
Quản trị kinh doanh xây dựng
Quản lý bất động sản và cơ sở hạ tầng
Luật xây dựng dân dụng (tư nhân)
Quản lý xây dựng
Kỹ thuật phương pháp xây dựng và sử dụng máy xây dựng
Xây dựng kỹ thuật và xây dựng cao tầng
Vật liệu xây dựng
Kết cấu xây dựng cao tầng
Xây dựng khối
Xây dựng thép
Xây dựng liên kết
Xây dựng gạch
Xây dựng gỗ
Xây dựng thủy tinh
Kỹ thuật liên kết
Tác động qua lại nền móng và cấu kiện
Địa kỹ thuật
Cơ học đất và đá
Động học nền móng
Xây dựng nền móng, đào móng xây dựng, và kết cấu móng
Kỹ thuật địa môi trường
Xây dựng hầm mày với máy đào hầm
Xây dựng công trình thủy, kinh tế thủy, kỹ thuật rác thải
Cơ học thủy (thủy lực) kỹ thuật
Thủy văn và kinh tế thủy
Xây dựng thủy
Cấp nước
Kỹ thuật thoát nước
Kỹ thuật rác
Quy hoạch không gian và xây dựng đô thị, luật xây dựng nhà nước
Quy hoạch không gian, quy hoạch quốc gia và khu vực
Xây dựng đô thị
Luật xây dựng đô thị
Luật quy hoạch xây dựng
Luật thiết kế cho công trình giao thông
Hệ thống giao thông và thiết bị giao thông
Hệ thống giao thông công cộng
Giao thông cá nhân - Thiết kế đường bộ và xây dựng đường bộ
Xây dựng giao thông thủy - Đường thủy và bến cảng
Thiết kế, xây dựng và vận hành sân bay
Mạng đường dẫn (điện cao thế, thông tin tín hiệu, ga, dầu, v.v.)
Khoa học kỹ thuật cơ khí
Các ngành cơ bản: toán cao cấp, vật lý đại cương, cơ học lý thuyết; sức bền vật liệu, vật liệu học, động lực học, cơ học chất lưu, lý thuyết thiết kế, kỹ thuật điều chỉnh (bao gồm cả kỹ thuật điều khiển), kỹ thuật đo lường, tin học ứng dụng, kỹ thuật điện, điện tử công nghiệp, hình họa và vẽ kỹ thuật
Các ngành cơ sở chuyên ngành: Nguyên lý máy, Chi tiết máy, máy thủy khí, máy nhiệt, công nghệ kim loại, phát động dòng;
Các chuyên ngành:
Kỹ thuật Chế tạo máy công cụ và dụng cụ công nghiệp;
Kỹ thuật máy động lực(ô tô, xe máy, máy xây dựng, máy nâng chuyển, máy mỏ v.v.);
Kỹ thuật hàng không và vũ trụ (tên lửa, máy bay, tàu vũ trụ,...);
Công nghệ chế tạo vũ khí và trang bị quân sự;
Kỹ thuật tàu thủy và tàu biển;
Công nghệ gia công kim loại bằng áp lực: cán, kéo, rèn, dập;
Công nghệ hàn và chẩn đoán kỹ thuật;
Chế tạo thiết bị, kỹ thuật môi trường;
Chế tạo máy năng lượng, kỹ thuật khí hậu;
Kỹ thuật đóng gói;
Kỹ thuật vận chuyền;
Kỹ thuật điện – điện tử
Các ngành cơ bản: toán học, vật lý học, hóa học, phần tử chế tạo, lý thuyết mạch, lý thuyết trường và sóng, lý thuyết thiết kế, tin học
Các chuyên ngành:
Điện tử
Kỹ thuật tương tự (analog)
Kỹ thuật số (digital)
Phần tử chế tạo điện tử
Điện tử điện thế
Kỹ thuật năng lượng
Kỹ thuật điện cao thế
Điện - Điện thế
Sản sinh năng lượng
Kỹ thuật phát động
Kỹ thuật truyền tin
Tin kỹ thuật
Kỹ thuật máy tính
Lý thuyết tín hiệu và xử lý tín hiệu
Lý thuyết thông tin
Mã hóa
Kỹ thuật sóng cao tần
Kỹ thuật truyền phát
Kỹ thuật radio và tivi
Telematik
Kỹ thuật tự động hóa
Kỹ thuật điều khiển và kỹ thuật điều tiết
Điều khiển học
Sensorik
Kỹ thuật môi trường và kỹ thuật đo lường
Kỹ thuật dẫn mạng
Rôbô học
Kỹ thuật Hóa học
Kỹ thuật hóa học là một nhánh của khoa học ứng dụng khoa học cơ bản (vật lý và hóa học) và khoa học sự sống (vi sinh vật học và hóa sinh) cùng với toán học ứng dụng và kinh tế để tạo ra, chuyển hóa, vận chuyển, và sử dụng hóa chất, vật liệu và năng lượng đúng cách. Về cơ bản, các kỹ sư hóa học thiết kế các quy trình quy mô lớn để chuyến đổi các hóa chất, vật liệu thô, các tế bào sống, vi sinh vật và năng lượng thành các dạng và sản phẩm hữu ích.
Kỹ thuật hóa học là một lĩnh vực khoa học và công nghệ nghiên cứu và ứng dụng những kiến thức hóa học và kỹ thuật vào quá trình sản xuất các sản phẩm hóa học phục vụ công nghiệp và đời sống.
Những sinh viên tốt nghiệp đại học ngành Kỹ thuật hóa học có thể làm việc trong các lĩnh vực chính sau:
Giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp...
Làm việc ở các viện nghiên cứu
Làm việc trong các lĩnh vực:
Sản xuất các sản phẩm vô cơ (hoá chất vô cơ, phân bón, màu cho sơn, gốm sứ...)
Sản xuất các sản phẩm hữu cơ (polymer, phim mỏng, vải sợi, thuốc nhuộm, thuốc phóng, thuốc nổ...).
Lĩnh vực vật liệu (ăn mòn và chống ăn mòn, pin khô, pin ướt,...).
Mạ điện, luyện kim và nguyên liệu cho các quá trình công nghiệp
Ngành công nghệ thực phẩm
Ngành công nghiệp lên men sản xuất các chất kháng sinh, thực phẩm bổ sung v.v...
Công nghệ sinh học ứng dụng
Xử lý chất thải, xử lý ô nhiễm môi trường v.v...
Sản xuất sạch và công nghệ năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, năng lượng hạt nhân v.v... |
Cánh đồng hoang là một bộ phim điện ảnh Việt Nam nói về đề tài Chiến tranh Việt Nam, đạo diễn bởi Nguyễn Hồng Sến.
Không gian đề cập tới trong bộ phim chỉ vỏn vẹn trong diện tích của một cánh đồng hoang, nhưng lại khai thác cả không gian từ dưới nước (phía dưới mặt nước cánh đồng) đến tận trên không (nơi máy bay Mỹ đang quần thảo). Phim giành 6 giải thưởng trong và ngoài nước, nổi bật với Giải Bông sen vàng - Liên hoan phim Việt Nam và Huy chương vàng - Liên hoan phim Quốc tế Moskva.
Nội dung
Bối cảnh chính là vùng Đồng Tháp Mười trong những ngày diễn ra cuộc Đấu tranh Giải phóng miền Nam Việt Nam . Vợ chồng Ba Đô và đứa con nhỏ sống trong một căn chòi nhỏ giữa dòng nước. Họ được Cách mạng Việt Nam giao nhiệm vụ giữ đường dây liên lạc cho bộ đội. Tác giả tập trung khai thác nhiều vào cuộc sống thường ngày của đôi vợ chồng như việc trồng lúa, nuôi con, bắt trăn, bắt cá nhưng xen kẽ vào đó còn có những cảnh chiến đấu, cảnh ẩn nấp trực thăng Huey của quân đội Mỹ quần thảo khu vực đồng nước này nhằm phát hiện đội du kích hoạt động. Trong 1 trận càn, Ba Đô bị trực thăng Mỹ bắn trúng và hy sinh, để trả thù cho chồng, vợ Ba Đô đã đuổi theo, cùng đội du kích bắn rơi chiếc trực thăng.
Kết thúc của phim có cảnh phi công Mỹ chết trong chiếc trực thăng bị bắn rơi, tấm ảnh chụp vợ con của anh ta rơi ra từ túi áo, đã có nhiều ý kiến cắt bỏ cảnh này. Tuy nhiên, nó vẫn được giữ lại để cho người xem hiểu rõ hơn về lính Mỹ, họ cũng là người bình thường, có vợ và con như Ba Đô, nhưng do Chính phủ Mỹ mà họ phải dứt bỏ gia đình để sang Việt Nam tham chiến để rồi thiệt mạng ở một nơi xa lạ.
Diễn viên
NSND Lâm Tới trong vai Ba Đô
Thúy An trong vai Sáu Xoa, vợ Ba Đô
Nguyễn Văn Thuận trong vai con trai của Ba Đô và Sáu Xoa
Robert Hải trong vai Trung tá Mistcher. Robert Hải sinh năm 1940 tại Hải Phòng, mất năm 2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh, tên thật là Trần Hữu Hải, có bố là người Pháp, mẹ người Ý, cả hai đều mất trong đảo chính 1945.
Vinh danh
Liên hoan phim Việt Nam năm 1980
Giải Bông sen vàng: bộ phim
Giải biên kịch: Nguyễn Quang Sáng
Giải nam diễn viên: Lâm Tới
Giải quay phim: Đường Tuấn Ba
Huy chương vàng - Liên hoan phim Quốc tế Moskva, 1981
Bằng khen của Hội Điện ảnh Việt Nam: Thúy An
Giải Đặc biệt của Liên đoàn báo chí Điện ảnh Quốc tế tại LHP Quốc tế Maxcơva,1980
Bên lề
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, người nổi tiếng với Chiếc lược ngà và cũng là tác giả kịch bản bộ phim này đã tâm sự: "Tôi nghĩ kịch bản phim Cánh đồng hoang từ năm 1966 rồi, năm đó tôi đi về chiến trường Đồng Tháp Mười và ghi nhận được một số hình ảnh về chiến tranh Đồng Tháp Mười rất độc đáo... mãi cho đến ngày 18 tháng 12 năm 1978 tôi mới bắt đầu viết Cánh đồng hoang..."
Nhân vật em bé trong bộ phim tên Nguyễn Văn Thuận, con ông Nguyễn Văn Việt, cháu gọi đạo diễn Hồng Sến là bác ruột. Lúc đạo diễn Hồng Sến về chọn diễn viên, Thuận mới 4 tháng tuổi, đến khi đoàn làm phim về quay thì được 9 tháng. Giờ đây Thuận là một tỷ phú ở Đồng Tháp Mười.
Nhân vật người vợ do nghệ sĩ Thúy An thủ vai, bà cũng là vợ của đạo diễn Hồng Sến. Mùa gió chướng là phim đầu tiên bà đến với nghệ thuật thứ bảy (1978), sau đó hàng loạt phim trở thành "bom tấn" thời ấy: Ván bài lật ngửa, Biệt động Sài Gòn, Mùa nước nổi, Vùng gió xoáy… Năm 1995, sau khi đạo diễn Hồng Sến qua đời, bà học thêm nghề kim hoàn rồi bôn ba sang tận đất Lào tìm kế sinh nhai. Tình cờ, bà gặp người chồng bây giờ rồi kết hôn và chuyển sang Frankfurt (Đức) sinh sống. Bà sống với chồng và con gái riêng Thúy Hồng (con của bà và NSND Hồng Sến) |
Cây xoan hay xoan ta, xoan nhà, xoan trắng, sầu đông, thầu đâu, (tiếng Anh: Chinaberry, Bead tree, Persian lilac (đinh hương Ba Tư), White cedar (tuyết tùng trắng),...) (danh pháp hai phần: Melia azedarach; danh pháp đồng nghĩa: M. australis, M. japonica, M. sempervivens), là một loài cây thân gỗ lá sớm rụng thuộc họ Xoan (Meliaceae), có nguồn gốc ở Ấn Độ, miền Nam Trung Quốc và Australia.
Tại Nam Phi, người ta thường gọi nhầm nó là Syringa, nhưng đúng ra đó là tên gọi của các loài đinh hương. Chi Melia bao gồm 4 loài khác nữa, có mặt trong khu vực Đông Nam châu Á tới miền Bắc châu Úc. Tất cả chúng đều là cây thân gỗ nhỏ, hoa xoan nở rộ vào tháng giêng đến tháng ba và là loài thay lá hàng năm
Miêu tả
Cây trưởng thành cao từ 7 đến 12 m. Hoa xoan có năm cánh, sắc tía nhạt hoặc tím hoa cà, mọc thành chùm. Hoa có hương thơm. Trái xoan là loại quả hạch, to cỡ hòn bi, vỏ có màu vàng nhạt khi chín, không rụng ngay mà giữ trên cành suốt mùa đông. Trái dần chuyển sang màu trắng. Lá xoan dài tới 15 cm, mọc so le, cuống lá dài với 2 hoặc 3 nhánh lá kép mọc đối; các lá chét có màu lục sẫm ở mặt trên và xanh nhạt hơn ở mặt dưới. Mép lá có khía răng cưa.
Sử dụng
Lá xoan được sử dụng như là một loại thuốc trừ sâu tự nhiên để bảo quản một số loại lương thực. Vì có độc tính, lá xoan, trái xoan đều không thể ăn được. Ngày xưa, nhựa cây và tinh dầu cất từ lá và thân cây khi pha loãng được sử dụng để làm giãn tử cung. Hoa xoan không hấp dẫn đối với các loài ong bướm. Hạt xoan tròn và cứng thường được dùng làm chuỗi tràng hạt và các sản phẩm tương tự khác trước khi kỹ nghệ chất dẻo thịnh hành và thay thế vật liệu hạt xoan.
Độc tính
Tất cả các bộ phận của cây xoan đều có độc tính đối với con người nếu ăn phải. Yếu tố gây độc là các chất gây ngộ độc thần kinh chứa tetranortriterpen và các loại nhựa chưa xác định, quả là bộ phận chứa hàm lượng cao nhất các chất độc. Một số loài chim có thể ăn quả xoan, nhờ thế mà hạt của xoan được phát tán khi chúng bị đánh rơi, nhưng chỉ cần 15 gam hạt đã là liều gây chết cho một con lợn nặng 22 kg. Các triệu chứng ngộ độc đầu tiên xuất hiện chỉ vài giờ sau khi ăn phải. Các triệu chứng này bao gồm mất vị giác, nôn mửa, táo bón hoặc tiêu chảy, phân có máu, tổn thương dạ dày, sung huyết phổi, trụy tim v.v. Tử vong có thể xảy ra sau khoảng 24 giờ. Cũng vì có độc tính nên cây xoan còn được trồng để lấy gỗ vì gỗ không bị mối. Hoa và lá xoan thì được dùng rải dưới chiếu để ngừa rệp.
Các vấn đề
Dưới đây liệt kê một số vấn đề với các tên gọi khác của cây xoan ta. Trong đó có các tên gọi sầu đâu, khổ luyện, nha đảm (đởm) tử. Các tên gọi này rất dễ làm người ta lẫn lộn các loài cây khác nhau là một. Xoan là loại cây phổ biến có thể tìm thấy ở nhiều vùng địa lý của Việt Nam, ở miền bắc gọi là xoan, các tình trong nam gọi là sầu đông (hoặc đọc trại đi là sầu đâu) vì cây cao rụng lá vào mùa đông, làm cho cảnh sắc mùa đông thêm sầu nên gọi là sầu đông. Tuy nhiên, do có sự pha trộn dân số sau khi di cư 54 và 75 có nơi gọi cây neem hoặc cây xoan nhừ là sầu đông, sầu đâu trong khi vẫn gọi cây xoan là xoan.
Ngoài ra, cây xoan có hình thái rất dễ nhầm với một số loài cây khác cùng họ, hoặc bộ. cụ thể là cây neen (Azadirachta indica họ xoan, khác chi với xoan ta), cây xoan dâu da (Allospondias lakoensis, hay còn gọi là châm châu, dâm bôi, hồng bì dại,họ đào lộn hột), cây cóc hành(họ đào lộn hột),hoặc cây xoan nhừ (Choerospondias axillaris) hoặc cây xoan quả to (Melia toosendan, họ bồ hòn) .
Về cách thức nhận biết xoan ta với các loại khác là:
Xoan ta có hoa trắng tím, trong cuống lá dài sẽ có 2 3 lá phức mọc đối, cây xoan ta cao 7-12m thân mọc thẳng vỏ trơn thường màu nâu tím.
Xoan dâu da, rất giống xoan ta nhưng không có lá phức mọc đối ở lá dài, hoa hoàn toàn trắng, nhìn kỹ hoa sẽ thấy hoa gần giống hoa xoài hơn.
Xoan nhừ (Choerospondias axillaris, còn được một số nơi gọi là xoan đào, nên nhớ cái tên xoan đào được chia sẻ cho 4 loài khác nhau) cũng thuộc họ đào lộn hột có hoa màu hồng đào, lá dài không có lá phức, thân sần sùi như một số cây họ lát, nên còn được gọi là lát xoan, cũng nhờ đặc tính này mà người ta dùng cây xoan nhừ làm trụ tiêu khá phổ biến ở các tỉnh đông nam bộ.
Cây neem (Azadirachta indica) được du nhập và trồng khá nhiều ở Ninh Thuận với cái tên xoan chịu hạn ninh thuận, khá giống cây xoan ta, nhưng cũng có thể phân biệt được với xoan ta cây xoan chịu hạn không cao vươn thẳng đứng như xoan ta mà phân tán ở tầm 3–7 m, thân không trơn, hoa màu trắng không tím như xoan ta, hoa màu trắng đài hoa nhỏ như hoa xà cừ.
Cây xoan quả to Melia toosendan thuộc họ bồ hòn, quả to tròn, nhìn xa giống xoan, nhưng nhìn kỹ thì thuộc họ bồ hòn.
Ngoài ra còn có một loài như cóc rừng, nhìn như cây có nhà, trái như xà cừ cũng bị nhầm lẫn là xoan, sầu đông.
Sầu đâu
Một số tài liệu gọi cây xoan ta là sầu đâu. Tuy nhiên, một số trang coi cây nha đảm (đởm) tức cây xoan rừng (Brucea javanica) thuộc họ Simaroubaceae cùng bộ Bồ hòn là sầu đâu (tên khác: cứt chuột, sầu đâu rừng) với lưu ý "Không nhầm với cây khổ luyện tử (xuyên luyện tử) (Melia toesendan (S et Z.) họ Xoan), cây cao trên 10m. Không nhầm với cây xoan nhà (Melia azedarach (L.) họ Xoan cây cao 8 –10m" hay suckhoedoisong cũng gọi cây sầu đâu (sầu đâu rừng, sầu đâu cứt chuột, hạt khổ sâm, khổ luyện tử, nha đảm tử, chù mền, san đực (Sầm Sơn), cứt cò (Vĩnh Linh), bạt bỉnh (Nghệ An)) là Brucea javanica. Trong khi đó trang Neem lại coi Azadirachta indica cùng họ là cây sầu đâu (có lẽ theo cách gọi tại miền nam Việt Nam) với lá ăn được.
Khổ luyện
Trang Web của alternativehealing.org coi khổ luyện tử (苦楝子) hay kim linh tử (金鈴子) và xuyên luyện tử (川楝子) là một, đều là vị thuốc từ quả của Melia azedarach (L.) sub. var. toosendan Makino hay Melia toosendan (Sieb. et Zucc.). Trang Web của nhóm huediepchi cũng gọi cây xoan ta là khổ luyện (苦楝). Từ điển Hán Việt Thiều Chữu cũng diễn giải luyện (楝) là cây xoan. Quả nó gọi là khổ luyện tử (苦楝子) dùng làm thuốc lỵ, tục gọi là kim linh tử (金鈴子). Tuy nhiên trang Web của yhoccotruyen có lẽ coi Melia toesendan (S et Z.) và Melia azedarach (L.) là hai loài khác nhau khi chỉ dùng khổ luyện tử cho loài đầu còn loài thứ hai thì chỉ gọi nó là cây xoan nhà.
Nha đảm (đởm) tử
Trang Web của nhóm huediepchi cũng gọi cây xoan ta là nha đảm tử trong khi các trang của Web của suckhoedoisong không cho nha đảm tử là cây này mà coi nha đảm tử là vị thuốc từ quả của Brucea javanica.
Văn hóa & nghệ thuật
Trong tân nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Tuấn Khanh là tác giả bài "Hoa xoan bên thềm cũ".
Trong văn hóa người Việt người phụ nữ đẹp nên có gương mặt dạng thon như trái xoan. |
Kết cấu xây dựng cao tầng là một lĩnh vực thuộc kết cấu xây dựng và tập trung vào các công trình xây dựng cao tầng.
Các cấu kiện cơ bản
Nền móng
Móng đơn và mỏng băng
Móng bè
Móng khối
Móng cột
Truyền lực ngang
Lõi chịu lực
Sàn
Truyền lực dọc
Dầm
Cột
Tường
Tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn Việt Nam
Tiêu chuẩn châu Âu
Tiêu chuẩn Mỹ
Tiêu chuẩn Nhật |
Dương Tử có thể là:
Trường Giang: con sông lớn nhất ở Trung Quốc và lớn thứ ba trên thế giới.
Dương Chu: một triết gia Trung Quốc thời Xuân Thu Chiến Quốc
Dương Hùng (Tây Hán): nhà văn, nhà triết học cuối đời Tây Hán, đầu đời Tân và được Tam tự kinh xếp vào nhóm Ngũ tử
Dương Tử (diễn viên): nổi tiếng với vai Cẩm Mịch trong bộ phim Hương Mật Tựa Khói Sương |
Khoa học xây dựng là một ngành thuộc Khoa học kỹ thuật.
Các ngành cơ bản
Cơ học
Cơ học thủy
Lý thuyết độ bền cơ học (sức bền vật liệu)
Khoa học vật liệu xây dựng
Các chuyên ngành
Theo lĩnh vực làm việc
Xây dựng cao tầng
Xây dựng hạ tầng
Xây dựng công trình thủy
Kinh tế thủy (cấp, thoát nước)
Chuyên ngành giao thông vận tải
Các chuyên ngành (theo nguyên lý)
Cơ sở khoa học kỹ thuật xây dựng
Tin học xây dựng
Trắc đạc kỹ thuật
Vật lý học công trình
Hóa học công trình
Lý thuyết cấu kiện
Độ bền cấu kiện
Kinh tế xây dựng và vận hành, quản lý xây dựng
Lý thuyết kinh doanh xây dựng
Quản trị kinh doanh xây dựng
Quản lý bất động sản và cơ sở hạ tầng
Luật xây dựng dân dụng (tư nhân)
Quản lý xây dựng
Kỹ thuật phương pháp xây dựng và sử dụng máy xây dựng
Xây dựng kỹ thuật và xây dựng cao tầng
Vật liệu xây dựng
Xây dựng cao tầng
Xây dựng khối
Xây dựng thép
Xây dựng liên kết
Xây dựng gạch
Xây dựng gỗ
Xây dựng thủy tinh
Kỹ thuật liên kết
Tác động qua lại nền móng và cấu kiện
Địa kỹ thuật
Cơ học đất và đá
Động học nền móng
Xây dựng nền móng, đào móng xây dựng, và kết cấu móng
Kỹ thuật địa môi trường
Xây dựng hầm mày với máy đào hầm
Xây dựng công trình thủy, kinh tế thủy, kỹ thuật rác thải
Cơ học thủy (thủy lực) kỹ thuật
Thủy văn và kinh tế thủy
Xây dựng thủy
Cấp nước
Kỹ thuật thoát nước
Kỹ thuật rác
Quy hoạch không gian và xây dựng đô thị, luật xây dựng nhà nước
Quy hoạch không gian, quy hoạch quốc gia và khu vực
Xây dựng đô thị
Luật xây dựng đô thị
Luật quy hoạch xây dựng
Luật thiết kế cho công trình giao thông
Hệ thống giao thông và thiết bị giao thông
Hệ thống giao thông công cộng
Giao thông cá nhân - Thiết kế đường bộ và xây dựng đường bộ
Xây dựng giao thông thủy - Đường thủy và bến cảng
Thiết kế, xây dựng và vận hành sân bay
Mạng đường dẫn (điện cao thế, thông tin tín hiệu, ga, dầu, v.v.) |
Trong thống kê, một ước lượng là một giá trị được tính toán từ một mẫu thử (échantillon) và người ta hy vọng đó là giá trị tiêu biểu cho giá trị cần xác định trong tổng thể (population). Người ta luôn tìm một ước lượng sao cho đó là ước lượng "không chệch" (unbiased), hội tụ (converge), hiệu quả (efficient) và vững (robust).
Ví dụ về ước lượng
Muốn xác định độ cao trung bình của trẻ ở độ tuổi 10, ta thực hiện một điều tra trên một mẫu được lấy trên tập thể các trẻ em ở độ tuổi 10 (ví dụ mẫu điều tra là các em học sinh được lấy ngẫu nhiên từ nhiều trường ở nhiều vùng khác nhau). Chiều cao trung bình tính được từ mẫu điều tra này, thường là trung bình tích lũy, sẽ là một ước lượng cho chiều cao trung bình của trẻ em ở độ tuổi 10.
Nếu ta muốn xác định tỷ lệ bầu cử cho ứng cử viên A, ta có thể thực hiện một điều tra trên một mẫu dân số tiêu biểu. Tỷ lệ bầu cho A trong mẫu điều tra là một ước lượng của tỷ lệ bầu cho A của toàn thể dân số.
Giả sử ta muốn xác định tổng số cá có trong hồ, ta bắt đầu bằng cách bắt lên n con cá (ví dụ n=50), đánh dấu chúng, sau đó lại thả xuống hồ cho chúng lẫn với những con khác. Sau đó lấy một mẫu cá bất kỳ trong hồ, tính tỷ lệ p cá bị đánh dấu trong mẫu đó (ví dụ mẫu có 20 con trong đó có hai con có dấu, p=1/10). Khi đó giá trị n/p (=500) là một ước lượng cho tổng số cá có trong hồ. Nếu trong mẫu không có con cá nào bị đánh dấu, ta thực hiện lại trên một mẫu khác.
Thông thường ta tìm ước lượng cho một trung bình, cho tổng dân số, cho một tỷ lệ hoặc cho một phương sai.
Đánh giá ước lượng
Một ước lượng là một giá trị x (x nhỏ) được tính toán trên một mẫu được lấy một cách ngẫu nhiên, do đó giá trị của x là một biến ngẫu nhiên với kì vọng E(x) và phương sai V(x). Nghĩa là giá trị x có thể dao động tùy theo mẫu thử, nó có ít cơ hội để có thể bằng đúng chính xác giá trị X (X lớn) mà nó đang ước lượng. Mục đích ở đây là ta muốn có thể kiểm soát sự sai lệch giá trị x và giá trị X.
Một biến ngẫu nhiên luôn dao động xung quanh giá trị kì vọng của nó. Ta muốn là kì vọng của x phải bằng X. Khi đó ta nói ước lượng là không chệch (unbiased). Trung bình tích lũy trong ví dụ về chiều cao trung bình của trẻ 10 tuổi một ước lượng đúng, trong khi ước lượng về tổng số cá trong hồ được tính như trong ví dụ là một ước lượng không đúng, đó là ước lượng thừa: trung bình tổng số cá ước lượng được luôn lớn hơn tổng số cá có thực trong hồ.
Ta cũng muốn là khi mẫu thử càng rộng, thì sai lệch giữa x và X càng nhỏ. Khi đó ta nói ước lượng là hội tụ. Định nghĩa theo ngôn ngữ toán học là như sau:
hội tụ nếu với mọi số thực dương.
(xác suất để sai lệch với giá trị thực cần ước lượng lớn hơn tiến về 0 khi kích cỡ của mẫu thử càng lớn)
Biến ngẫu nhiên dao động quanh giá trị kì vọng của nó. Nếu phương sai V(x) càng bé, thì sự dao động càng yếu. Vì vậy ta muốn phương sai của ước lượng là nhỏ nhất có thể. Khi đó ta nói ước lượng là hiệu quả (eficient).
Cuối cùng, trong quá trình điều tra, có thể xuất hiện một giá trị "bất thường" (ví dụ có trẻ 10 tuổi nhưng cao 1,80 m). Ta muốn giá trị bất thường này không ảnh hưởng quá nhiều đến giá trị ước lượng. Khi đó ta nói ước lượng là vững (robust). Có thể thấy trung bình tích lũy trong ví dụ về chiều cao trung bình trẻ 10 tuổi không phải là một ước lượng vững.
Ước lượng của trung bình và phương sai
Ta chọn ngẫu nhiên n cá thể trong một dân số gồm N cá thể. Ta quan tâm đến đặc trưng định lượng Y của dân số với trung bình và phương sai V(Y). Trong mẫu đó, đặc trưng Y có trung bình và phương sai đo được lần lượt là và . Lưu ý là các giá trị và thay đổi tùy theo mẫu thử, do đó chúng là các biến ngẫu nhiên với trung bình và phương sai riêng khác nhau.
Ước lượng trung bình của Y
Thông thường trung bình của Y, tức là được ước lượng bởi: .
còn được gọi là trung bình tích lũy (hay trung bình cộng). Ta chứng minh được đây là ước lượng đúng(unbiased), nghĩa là
Ước lượng phương sai của Y
là một ước lượng của V(Y), nhưng là ước lượng không đúng, ta chứng minh được kì vọng của luôn nhỏ hơn V(Y), tức ước lượng là thiếu.
Các ước lượng đúng của V(Y) là:
trong trường hợp lấy mẫu có hoàn lại
trong trường hợp lấy mẫu không hoàn lại.
Trong trường hợp mẫu lớn, phép tính có hoàn lại và phép tính không hoàn lại là như nhau, vì xấp xỉ bằng 1. Vì vậy trong trường hợp tổng quát ước lượng đúng của V(Y) là:
được gọi là phương sai tích lũy của Y. |
Giải thuật Euclid mở rộng được sử dụng để giải một phương trình vô định nguyên (còn được gọi là phương trình Đi-ô-phăng) có dạng
Trong đó là các hệ số nguyên, là các ẩn nhận giá trị nguyên. Điều kiện cần và đủ để phương trình này có nghiệm (nguyên) là là ước của . Khẳng định này dựa trên một mệnh đề sau:
Nếu thì tồn tại các số nguyên sao cho
Cơ sở lý thuyết của giải thuật
Giải thuật Euclid mở rộng kết hợp quá trình tìm ƯCLN(a, b) trong thuật toán Euclid với việc tìm một cặp số x, y thoả mãn phương trình Đi-ô-phăng.
Giả sử cho hai số tự nhiên a, b, ngoài ra a>b>0.
Đặt , chia cho được số dư và thương số nguyên . Nếu thì dừng,
nếu khác không, chia cho được số dư ,...Vì dãy các là giảm thực sự nên sau hữu hạn bước ta được số dư .
;
;
....;
trong đó số dư cuối cùng khác 0 là .
Bài toán đặt ra là tìm x, y sao cho
Để làm điều này, ta tìm x, y theo công thức truy hồi, nghĩa là sẽ tìm
và sao cho:
với .
Ta có
và , nghĩa là
và . (1)
Tổng quát, giả sử có
với .
với .
Khi đó từ
suy ra
từ đó, có thể chọn
(2)
(3)
Khi ta có được và .
Các công thức (1), (2), (3) là công thức truy hồi để tính x, y.
Giải thuật
{Thuật toán Euclide: a, b không đồng thời bằng 0, trả về gcd(a, b)}
function gcd(a, b);
begin
while b ≠ 0 do
begin
r:= a mod b; a:= b; b:= r;
end;
Result:= a;
end;
{Thuật toán Euclide mở rộng: a, b không đồng thời bằng 0, trả về cặp (x, y) sao cho a * x + b * y = gcd(a, b)
Về tư tưởng là ghép quá trình tính cặp số (x, y) vào trong vòng lặp chính của thuật toán Euclide.}
function Extended_gcd(a, b);
begin
(xa, ya):= (1, 0);
(xb, yb):= (0, 1);
while b ≠ 0 do
begin
q:= a div b;
r:= a mod b; a:= b; b:= r; //Đoạn này giống thuật toán Euclide.
(xr, yr):= (xa, ya) - q * (xb, yb); //Hiểu là: (xr, yr):= (xa, ya) "mod" (xb, yb);
(xa, ya):= (xb, yb);
(xb, yb):= (xr, yr);
end;
Result:= (xa, ya);
end;
Giải thuật sau chỉ thực hiện với các số nguyên a>b>0, biểu diễn bằng giải mã:
Sub Euclid_Extended(a,b)
Dim x0, x, y,y1 As Single
x0=1: x1=0: y0=0: y1=1
While b>0
r= a mod b
if r=0 then Exit While
q= a / b
x= x0-x1*q
y= y0-y1*q
a=b
b=r
x0=x1
x1=x
y0=y1
y1=y
Wend
Me.Print d:=b, x, y
code
End Sub
Ví dụ
Với a=29, b=8, giải thuật trải qua các bước như sau:
Kết quả thuật toán cho đồng thời và , .
Dễ dàng kiểm tra hệ thức
Áp dụng giải thuật Euclid mở rộng tìm số nghịch đảo trong vành
Số nghịch đảo trong vành
Trong lý thuyết số, vành được định nghĩa là vành thương của với quan hệ đồng dư theo modulo m (là quan hệ tương đương) mà các phần tử của nó là các lớp đồng dư theo modulo m (m là số nguyên dương lớn hơn 1). Ta cũng có thể xét chỉ với các đại diện của nó. Khi đó
Phép cộng và nhân trong là phép toán thông thường được rút gọn theo modulo m:
Phần tử a của được gọi là khả nghịch trong hay khả nghịch theo modulo m nếu tồn tại phần tử a' trong sao cho a*a'=1 trong hay . Khi đó a' được gọi là nghịch đảo modulo m của a. Trong lý thuyết số đã chứng minh rằng, số a là khả nghịch theo modulo m khi và chỉ khi ƯCLN của a và m bằng 1.
Khi đó tồn tại các số nguyên x, y sao cho
Đẳng thức này lại chỉ ra y là nghịch đảo của a theo modulo m. Do đó có thể tìm được phần tử nghịch đảo của a theo modulo m nhờ thuật toán Euclid mở rộng khi chia m cho a.
Giải thuật
//a, m > 0. Trả về a^-1 mod m, gcd(a, m) phải bằng 1, chú ý là ta không cần quan tâm y khi giải pt diophante a * x + m * y = 1
function ModuloInverse(a, m);
begin
xa:= 1; xm:= 0;
while m ≠ 0 do
begin
q:= a div m;
xr:= xa - q * xm;
xa:= xm;
xm:= xr;
r:= a mod m;
a:= m;
m:= r;
end;
Result:= xa;
end;
Giải thuật sau chỉ thực hiện với các số nguyên m>a>0, biểu diễn bằng giã mã:
Procedure Euclid_Extended (a,m)
int, y0:=0,y1:=1;
While a>0 do {
r:= m mod a
if r=0 then Break
q:= m div a
y:= y0-y1*q
y0:=y1
y1:=y
m:=a
a:=r
}
If a>1 Then Return "A không khả nghịch theo mođun m"
else Return' " Nghịch đảo modulo m của a là y"
Ví dụ
Tìm số nghịch đảo (nếu có) của 30 theo môđun 101
Kết quả tính toán trong bảng cho ta . Lấy số đối của theo mođun được . Vậy .
Ứng dụng
Số nghịch đảo theo môđun được ứng dụng nhiều trong việc giải phương trình đồng dư, trong lý thuyết mật mã. |
Trường Giang (giản thể: 长江; phồn thể: 長江; pinyin: Cháng Jiāng; Wade-Giles: Ch'ang Chiang) ở Trung Quốc là con sông dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế giới sau sông Nin ở Châu Phi, sông Amazon ở Nam Mỹ. Trong tiếng Việt, tên gọi sông Dương Tử (扬子江 , Yángzǐ Jiāng hay Yangtze Kiang; Hán-Việt: Dương Tử Giang) chỉ sông này, dùng theo phiên âm của các ngôn ngữ phương Tây như Anh, Pháp..., là tên cũ của đoạn hạ lưu Trường Giang đổ ra biển, còn ở Trung Quốc hiện nay chỉ dùng tên gọi Trường Giang. Trường có nghĩa là quãng đường xa và dài, giang có nghĩa là dòng nước uốn lượn uyển chuyển trải dài rộng lớn, nên ghép liền mạch lại Trường Giang ngụ ý muốn nói tới dòng nước trải dài và uyển chuyển uốn lượn.
Trường Giang dài khoảng 6.385 km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc (Thanh Hải) và chảy về phía đông đổ ra Biển Hoa Đông, Trung Quốc. Thông thường sông này được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa Bắc và Hoa Nam Trung Quốc, mặc dù sông Hoài (淮河) cũng đôi khi được coi như vậy.
Cùng với Hoàng Hà, Trường Giang là sông quan trọng nhất trong lịch sử, văn hóa, và kinh tế của Trung Quốc. Đồng bằng châu thổ Trường Giang màu mỡ tạo ra 20% GDP của Trung Quốc. Trường Giang chảy qua nhiều hệ sinh thái đa dạng và bản thân nó cũng là nơi sinh sống cho nhiều loài đặc hữu và loài nguy cấp như Cá sấu Trung Quốc và Cá tầm Dương Tử. Qua hàng ngàn năm, người dân đã sử dụng con sông để lấy nước, tưới tiêu, ngọt hóa, vận tải, công nghiệp, ranh giới và chiến tranh. Đập Tam Hiệp trên Trường Giang là công trình thủy điện lớn nhất thế giới.
Trong những năm gần đây, con sông phải chịu đựng những chất ô nhiễm từ công nghiệp, nông nghiệp, và mất nhiều vùng đất ngập nước và hồ, làm gia tăng yếu tố lũ theo mùa. Một số đoạn sông hiện đang được bảo vệ làm các khu bảo tồn thiên nhiên. Một đoạn sông Trường Giang chảy qua các hẻm núi sâu, hẹp ở phía đông Vân Nam được công nhận là một phần của khu bảo tồn Sông Vân Nam, một di sản thế giới của UNESCO.
Tên gọi
Tên gọi Dương Tử nguyên thủy là tên gọi của người dân khu vực hạ lưu sông này để chỉ khúc sông chảy qua đó. Vì được phổ biến qua những nhà nhà truyền giáo châu Âu nên tên "Dương Tử" đã được dùng trong tiếng Anh để chỉ cả con sông (Yangtse, Yangtze Kiang). Bài này sẽ dùng tên Trường Giang để chỉ con sông này. Con sông này đôi khi còn được gọi là Thủy lộ Vàng (Golden Waterway).
Con sông này mang nhiều tên khác nhau tùy theo khu vực mà nó chảy qua. Ở cao nguyên Thanh Tạng, Tây Tạng, nó được gọi là Vbri-chu (འབྲི་ཆུ་ trong tiếng Tây Tạng, nghĩa là "dòng sông bò yak cái"). Ở thượng nguồn, thuộc tỉnh Thanh Hải sông được gọi là Đà Đà hà (沱沱河), Đương Khúc hà (當曲河), Thông Thiên hà (通天河). Đoạn từ Thanh Hải chảy đến Nghi Tân tỉnh Tứ Xuyên được gọi là Kim Sa giang (金沙江). Đoạn từ Nghi Tân đến Nghi Xương được gọi là Xuyên giang (川江). Đoạn từ Nghi Đô tỉnh Hồ Bắc đến Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam được gọi là Kinh giang (荊江) (xưa là đất Kinh Châu). Cuối cùng, khi chảy qua khu vực Dương Châu tỉnh Giang Tô nó từng được gọi là Dương Tử giang (揚子江). Các học giả cho rằng chữ "giang" 江 (sự kết hợp của bộ thủy và âm mà nay đọc là gōng, nhưng đọc là *kˤoŋ trong tiếng Hán Cổ) có nguồn gốc từ một ngôn ngữ nào đó trong ngữ hệ Nam Á (cùng gốc với ကြုၚ် trong tiếng Môn và sông trong tiếng Việt).
Địa lý
Con sông bắt nguồn từ một số nhánh ở thượng lưu thuộc địa phận các tỉnh Thanh Hải, Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Vân Nam, Quý Châu, tuy nhiên hai trong số đó được xem là đầu nguồn của nó là nhánh Tuotuo và Dan Qu. Chính phủ Trung Quốc thì cho rằng nguồn nhánh Tuotuo bắt đầu từ chân của băng hà nằm ở phía tây của núi Geladandong ở Dãy núi Tanggula rìa phía đông của cao nguyên Thanh Tạng. Tuy nhiên theo các nguồn địa lý (như sông dài nhất tính từ biển) thì nguồn của nó nằm ở vùng đất ngập nước ở tọa độ và độ cao 5170 m trên mực nước biển, chính là đầu nguồn của nhánh Dan Qu. Các nhánh này hợp lưu và sau đó chảy về phía đông qua Qinghai, rồi vòng về phía nam tạo thành một thung lũng sâu ở ranh giới của Tứ Xuyên và Tây Tạng rồi mới đến Vân Nam. Trong phạm vi thung lũng này, cao độ của sông giảm mạnh từ trên 5000m xuống dưới 1000m. Lưu vực trung lưu của sông thuộc các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây. Lưu vực hạ lưu thuộc các tỉnh An Huy, Chiết Giang, Thượng Hải, Giang Tô.
Sông được hình thành từ Eocene, khoảng 45 triệu năm trước nhưng một số người không chấp nhận quan điểm này.
Lịch sử
Sông Dương Tử góp phần quan trọng trong việc hình thành các nguồn gốc văn hóa miền nam Trung Quốc. Hoạt động của con người đã được phát hiện ở khu vực Tam Hiệp cách đây 27.000 năm.
Đặc trưng
Trường Giang là con sông lớn nhất của Trung Quốc về chiều dài, lượng nước chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế. Trường Giang bắt nguồn từ vùng cao nguyên tỉnh Thanh Hải, chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới cao nguyên Tây Tạng vào địa phận tỉnh Vân Nam, sau đó rẽ sang hướng đông bắc vào tỉnh Tứ Xuyên, qua các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy và Giang Tô rồi đổ ra biển ở giữa Hoàng Hải và Nam Hải.
Vào tháng 6 năm 2003 công trình đập Tam Hiệp đã nối liền hai bờ sông, làm ngập lụt thị trấn Phụng Tiết, là khu dân cư đầu tiên trong các khu vực dân cư chịu ảnh hưởng của dự án kiểm soát lụt lội và phát điện này. Dự án này là lớn nhất so với các dự án thủy lợi khác trên thế giới. Nó sẽ giải phóng người dân hai bên bờ con sông này khỏi cảnh ngập lụt là mối đe dọa thường xuyên trong quá khứ cũng như cung cấp cho họ điện năng và vận tải đường thủy - mặc dù phải chấp nhận hy sinh vĩnh viễn một số thành phố và tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ sinh thái khu vực.
Con sông này cũng là nơi sinh sống duy nhất của một số động vật trong danh sách báo động nguy hiểm như cá heo sông Trung Quốc (năm 1998 chỉ còn khoảng bảy con) hay cá kiếm Trung Quốc (cá tầm thìa).
Trường Giang là đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc. Nó nối liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Việc vận chuyển trên sông rất đa dạng từ vận chuyển than, hàng hóa tiêu dùng và hành khách. Các chuyến tàu thủy trên sông trong vài ngày sẽ đưa ta qua các khu vực có phong cảnh đẹp như khu vực Tam Hiệp ngày càng trở nên phổ thông hơn làm cho du lịch Trung Quốc phát triển.
Những trận ngập lụt dọc theo hai bờ sông đã từng là vấn đề lớn, lần gần đây nhất là năm 1998, nhưng gây thảm họa lớn hơn cả là năm 1954. Trận ngập lụt sông Dương Tử này đã giết chết khoảng 30.000 người. Những trận ngập lụt nặng nề nhất diễn ra năm 1911 giết chết khoảng 100.000 người, năm 1931 (145.000 người chết) và năm 1935 (142.000 người chết).
Các thành phố nổi tiếng dọc bờ sông
Nghi Tân
Lô Châu
Trùng Khánh
Phong Đô
Nghi Xương (Bạch Đế Thành)
Sa Thị tức Kinh Châu cũ gắn với tên tuổi Quan Vũ thời Tam Quốc
Trấn Giang
Vũ Hán do Hán Dương, Hán Khẩu và Vũ Xương hợp thành
Cửu Giang
Tô Châu
Quý Trì
Nam Kinh
Thượng Hải
Một số sông nhánh
Sông Dương Tử có hơn 700 chi lưu. Các chi lưu chính được liệt kê bên dưới theo thứ tự từ thượng nguồn xuống và nơi mà nó hợp lưu với sông chính:
Đà Giang
Tương Giang
Hán Thủy
Nhã Lung Giang
Mạnh Giang
Gia Lăng Giang
Ô Giang
Cám Giang
Tư Thủy
Dân Giang
Hồ nổi tiếng
Hồ Động Đình gắn với tên tuổi nhiều nhà thơ nổi tiếng như Thôi Hiệu, Lý Bạch
Hồ Bà Dương
Sinh vật
Sông Trường Giang là nơi sinh sống của một số loài cực kỳ nguy cấp như cá sấu Trung Quốc, cá heo không vây, cá kiếm Trung Quốc, và Cá heo sông Dương Tử. Đây là nơi duy nhất ngoài Hoa Kỳ có loài cá sấu bản địa và paddlefish. Cá heo không vây theo ước tính năm 2010 chỉ còn 1000 cá thể, sự suy giảm này do việc sử dụng tuyến sông phục vụ thương mại cùng với du lịch và ô nhiễm môi trường. |
Thủy văn học (tiếng Anh: hydrology, gốc Hy Lạp: Yδρoλoγια, Yδωρ+Λoγos, hydrologia, nghĩa là "khoa học về nước") là ngành khoa học nghiên cứu về sự vận động, phân phối, và chất lượng của nước trên toàn bộ Trái Đất, và vì thế nó đề cập đến cả vòng tuần hoàn nước và các nguồn nước. Những người nghiên cứu về thủy văn học được gọi là nhà thủy văn học, họ làm việc trong cả lĩnh vực khoa học Trái Đất hay khoa học môi trường, địa lý tự nhiên hay kỹ thuật xây dựng và kỹ thuật môi trường.
Các lĩnh vực của thủy văn học bao gồm khí tượng-thủy văn, thủy văn nước mặt, địa chất thủy văn, quản lý lưu vực sông và chất lượng nước, những nơi mà nước đóng vai trò chủ đạo. Hải dương học và khí tượng học không được xếp vào thủy văn học bởi vì nước chỉ là một trong rất nhiều đối tượng nhiên cứu quan trọng của chúng.
Các nghiên cứu thủy văn là rất hữu ích vì chúng cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới chúng ta sống và cũng như cung cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về khoa học môi trường, chính sách và hoạch định môi trường.
Lịch sử
Thủy văn học đã là đối tượng nghiên cứu và đã được ứng dụng trong hàng thiên niên kỷ. Như vào khoảng năm 4000 TCN sông Nin đã được xây đập để tăng năng suất nông nghiệp của các vùng đất cằn cỗi trước đó. Các thị trấn Lưỡng Hà đã được bảo vệ khỏi lũ lụt bằng các tường đất cao. Các ống dẫn nước được Hy Lạp và La Mã xây dựng, trong khi đó Trung Quốc cũng đã xây dựng các công trình dẫn nước và kiểm soát lũ lụt. Người Sri Lanka cổ đã sử dụng thủy văn học để xây dựng các công trình tưới tiêu của Sri Lanka cổ đại, được biết tới như là sự phát minh ra van Pit, từ đó có thể xây dựng được các hồ chứa lớn, đập nước và kênh đào mà tới ngày nay vẫn hoạt động.
Marcus Vitruvius, sống ở thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, đã mô tả một học thuyết triết học về vòng tuần hoàn nước, trong đó giáng thủy rơi trên các ngọn núi thâm nhập vào bề mặt Trái Đất và hướng tới sông, suối ở những vùng đất thấp hơn. Với một phương pháp khoa học hơn, Leonardo da Vinci và Bernard Palissy đã mô tả chính xác hơn về vòng tuần hoàn nước một cách độc lập với nhau. Cho tới tận thế kỷ 17 khi mà người ta bắt đầu xác định số lượng các biến thủy văn thì vòng tuần hoàn nước càng được trình bày chính xác hơn nữa.
Những người tiên phong trong khoa học thủy văn hiện đại, bao gồm Pierre Perrault, Edme Mariotte và Edmund Halley. Bằng cách đo lượng mưa, dòng chảy mặt, và diện tích lưu vực, Perrault đã cho thấy lượng mưa có đủ khả năng để giải thích cho dòng chảy của sông Seine. Marriotte kết hợp các phép đo về vận tốc và mặt cắt ngang sông để thu được dòng xả của sông Seine. Halley đã cho thấy lượng bốc hơi của Địa Trung Hải đủ để giải thích cho dòng chảy từ sông ra biển.
Các tiến bộ trong thế kỷ 18 gồm có áp suất kế Bernoulli và phương trình Bernoulli, do Daniel Bernoulli, ống pitot và Công thức Chezy. Thế kỷ 19 chứng kiến sự phát triển trong thủy văn nước ngầm, bao gồm định luật Darcy, công thức giếng khoan Dupuit-Thiem và phương trình dòng chảy mao dẫn của Hagen-Poiseuille.
Các phân tích khoa học đã bắt đầu thay thế chủ nghĩa kinh nghiệm trong thế kỷ 20, trong khi đó các cơ quan thuộc chính phủ bắt đầu thực hiện các chương trình nghiên cứu thủy văn của chính họ. Đặc biệt quan trọng là biểu đồ thủy văn đơn vị của Leroy Sherman, lý thuyết thấm của Robert E. Horton, và phương trình Theis mô tả thủy lực học giếng khoan.
Từ thập niên 1950, thủy văn học được tiếp cận với nhiều học thuyết cơ sở hơn so với quá khứ, nó được thừa hưởng các thành quả tiến bộ của vật lý nhờ đó hiểu được các tiến trình thủy văn với sự giúp sức của công cụ máy tính.
Vòng tuần hoàn nước
Chủ đề chính của vòng tuần hoàn nước là nước di chuyển trên Trái Đất bằng các con đường khác nhau, với các tốc độ khác nhau theo một vòng khép kín không có điểm đầu hay điểm cuối. Nước từ đại dương bốc hơi tạo nên các đám mây. Các đám mây này khi bay vào đất liền và sinh ra mưa. Nước mưa chảy vào các hồ chứa, các con sông, hoặc các tầng ngậm nước. Sau đó, nước trong các hồ chứa, các con sông và các tầng ngậm nước bốc hơi trở lại bầu khí quyển hoặc là chảy ra lại đại dương, kết thúc một vòng tuần hoàn.
Các ngành của thủy văn học
Hóa học thủy văn nghiên cứu các tính chất hóa học của nước.
Thủy văn sinh thái học nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa sinh vật và vòng tuần hoàn nước.
Địa lý thủy văn nghiên cứu sự hiện hữu và chuyển động của nước trong các tầng ngậm nước.
Tin học thủy văn là sự ứng dụng công nghệ thông tin vào thủy văn học và các ứng dụng tài nguyên nước.
Khí tượng học thủy văn nghiên cứu sự chuyển dịch nước và năng lượng giữa mặt đất và bề mặt sông suối với khí quyển thấp.
Thủy văn đồng vị nghiên cứu các dấu hiệu đồng vị của nước.
Thủy văn nước mặt nghiên cứu các tiến trình thủy văn xảy ra ở hoặc gần bề mặt Trái Đất.
Các ngành liên quan
Hóa học nước
Kỹ thuật xây dựng
Khí hậu học
Khoa học môi trường
Địa mạo học
Kĩ thuật thủy lực
Khoa học hồ
Hải dương học
Địa lý tự nhiên
Các phương pháp đo đạc trong thủy văn
Chuyển động của nước trên Trái Đất có thể được đo đạc theo một số cách. Các số liệu này rất quan trọng cho cả việc đánh giá tài nguyên nước và hiểu được các tiến trình tham gia vào vòng tuần hoàn nước. Các nhà thủy văn học thường dùng các thiết bị sau để đo đạc:
Nước dưới đất
Hướng dòng chảy
Piezometer - đo áp lực cột nước, từ đó có thể suy ra độ sâu nước ngầm (xem: thí nghiệm tầng chứa nước)
Độ dẫn nước, độ chứa nước
Các phương pháp địa vật lý
Đặc điểm của đới thông khí
Infiltrometer - đo thấm
Đo độ ẩm của đất: Time domain reflectometer - Tensiometer -Capacitance probe
Dòng chảy mặt
Stream gauge - Đo lưu lượng dòng chảy (xem: lượng dòng chảy (thủy văn học))
Kỹ thuật đánh dấu
Vận chuyển và lắng đọng trầm tích
Quan hệ thủy lực giữa dòng chảy mặt và nước ngầm
Đo mưa, tuyết
Disdrometer - Đo các đặc điểm của giáng thủy
Sling psychrometer- độ ẩm không khí
Radar - Đo các đặc tính của mây
Thùng đo mưa - đo lượng mưa và lượng tuyết rơi
Vệ tinh
Đo lượng bốc bơi
Evaporation -Symon's evaporation pan
Bốc hơi từ nước mặt
Bốc hơi từ thực vật
Chất lượng nước
Lấy mẫu
Phân tích tại hiện trường
Đo đạc các thông số vật lý (gồm cả hàm lượng trầm tích)
Lấy mẫu và phân tích hàm lượng hợp chất hữu cơ
Lấy mẫu và phân tích hàm lượng hợp chất vô cơ
Lấy mẫu và phân tích lượng vi sinh vật
Kết hợp kết quả đo đạc và mô hình
Dự báo thủy văn
Các quan trắc về các tiến trình thủy văn được sử dụng làm cơ sở cho các dự báo về xu hướng chuyển động của nước và khối lượng nước trong tương lai.
Thống kê trong thủy văn
Bằng cách phân tích các đặc điểm thống kê của chuỗi số liệu thủy văn, ví dụ như lượng mưa hoặc lưu lượng của sông, nhà thủy văn học có thể ước tính các hiện tượng thủy văn trong tương lai với giả thiết rằng các đặc điểm của các quá trình là không thay đổi.
Đối với các kỹ sư và nhà kinh tế học, những ước tính này quan trọng đến nỗi việc thực hiện phân tích rủi ro thuần túy có thể tác động đến các quyết định đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong tương lai và để xác định dòng chảy bền vững, một đặc điểm của các hệ thống cung cấp nước. Các thông tin thống kê được sử dụng để thiết lập các quy tắc điều tiết cho các hồ chứa lớn, một phần của các hệ thống mà trong đó bao gồm nhu cầu sử dụng nước nông nghiệp, công nghiệp và dân cư.
Xem: Thời khoảng trả về.
Mô hình thủy văn
Các mô hình thủy văn rất đơn giản, dựa trên các khái niệm tương ứng với một phần của vòng tuần hoàn nước. Chúng chủ yếu được sử dụng để dự báo thủy văn và để giải thích về các tiến trình thủy văn. Có thể phân chia thành hai loại mô hình thủy văn chính:
Các mô hình dựa trên số liệu. Những mô hình này là các mô hình hộp đen, sử dụng các khái niệm toán học và thống kê để liên kết một đầu vào đã biết (ví dụ như lượng mưa) với đầu ra của mô hình (ví dụ như dòng chảy mặt). Các phương pháp chúng thường sử dụng là hồi quy, các hàm biến đổi, các mạng thần kinh (neural networks) và nhận dạng hệ thống (system identification). Những mô hình này được biết đến với tên các mô hình thủy văn bất định.
Các mô hình dựa trên những mô tả tiến trình. Những mô hình này cố gắng mô phỏng các tiến trình vật lý quan sát được trong thế giới thực. Đặc biệt là, những mô hình này chứa các biến của dòng chảy mặt, dòng chảy ngầm, sự bốc-thoát hơi nước, và kênh dẫn nước (channel flow), nhưng chúng có thể phức tạp hơn thế rất nhiều. Các mô hình này được biết đến như là các mô hình thủy văn tất định. Các mô hình thủy văn tất định có thể được chia nhỏ hơn thành các mô hình đơn sự kiện (single-event model) và mô hình mô phỏng liên tục.
Vận chuyển nước
Sự chuyển động của nước có những ý nghĩa rất lớn đối với các vật chất khác, ví dụ như đất hoặc các chất gây ô nhiễm, được vận chuyển từ nơi này đến nơi khác. Nguồn cấp nước có thể đến từ nguồn ô nhiễm điểm hoặc nguồn ô nhiễm dạng đường hay nguồn ô nhiễm diện, ví dụ như dòng chảy mặt. Kể từ thập niên 1960 những mô hình toán khá phức tạp đã được phát triển, được hỗ trợ bởi ích lợi của các máy tính tốc độ cao. Các loại chất gây ô nhiễm thông dụng nhất được phân tích là các chất dinh dưỡng, các loại thuốc trừ sâu, tổng lượng chất rắn hòa tan và bùn cát.
Các ứng dụng của thủy văn học
Phòng tránh và dự báo các nguy cơ lũ lụt, lở đất và hạn hán;
Thiết kế sơ đồ tưới và quản lý năng suất trong nông nghiệp;
Cung cấp nước uống;
Thiết kế các đập nước cho nguồn nước hoặc phát điện;
Thiết kế cầu;
Thiết kế cống và hệ thống thoát nước thành phố;
Phân tích ảnh hưởng của độ ẩm kì trước đối với hệ thống cống vệ sinh;
Dự đoán những thay đổi về địa mạo như xói mòn hoặc bồi tụ;
Đánh giá ảnh hưởng của thay đổi môi trường tự nhiên và xã hội đối với tài nguyên nước;
Đánh giá rủi ro trong truyền tải chất ô nhiễm và thiết lập, hoạch định chính sách môi trường. |
Tk là bộ công cụ gồm các thành phần giao diện người dùng đồ họa (GUI widget). Sử dụng Tk với một ngôn ngữ lập trình, ta có thể viết các chương trình ứng dụng có giao diện đồ họa chạy trên nhiều hệ điều hành khác nhau: Windows, UNIX (trong đó có Linux), Mac OS,...
Tk được John Ousterhout xây dựng với mục đích ban đầu chạy cùng với ngôn ngữ lập trình Tcl do ông viết. Sau này, Tk còn được dùng cung với các ngôn ngữ khác như Perl, Python, Ruby.
Các thành phần (widget) cơ bản trong Tk bao gồm:
Button (nút bấm)
Canvas (vùng có thể dùng để vẽ hình hay hiện chữ)
Checkbutton (ô đánh dấu kiểm)
Entry (nhập dòng chữ)
Frame (khung bao gồm các widget khác)
Label (nhãn)
Listbox (danh sách)
Menu (thực đơn con, dropdown menu)
Menubutton (thanh thực đơn, menu bar)
Radiobutton (nút chọn một trong nhiều phương án)
Scale (con chạy)
Scrollbar (thanh trượt)
Text (vùng nhập văn bản (có thể nhiều dòng))
Toplevel (cửa sổ cấp cao nhất)
Trong các phiên bản ban đầu, các widget của Tk đều giống như kiểu POSIX. Từ phiên bản 8.x trở đi Tk có cố gắng mô phỏng theo các widget trên từng hệ điều hành cụ thể. |
{{Infobox organization
| name = Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
| image = Logo-vusta.jpg
| image_border =
| size = 150px
| alt =
| caption =
| map =
| msize =
| malt =
| mcaption =
| abbreviation = VUSTA
| motto =
| formation = 29/7/1983
| extinction =
| type = Tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp
| status = Hợp pháp
| purpose =
| headquarters = lô D20, Khu Đô thị mới Cầu Giấy, ngõ 19 phố Duy Tân, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy
| location = Hà Nội
| region_served = Việt Nam
| membership =
| language = Tiếng Việt
| leader_title = Chủ tịch
| leader_name = Phan Xuân Dũng
| main_organ =
| parent_organization =
| affiliations =
| num_staff =
| num_volunteers =
| budget =
| website = vusta.vn
| remarks =
}}Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (gọi tắt là Liên hiệp Hội Việt Nam) là tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho trí thức khoa học và kỹ thuật Việt Nam .
Liên hiệp là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam là thành viên quốc gia của Hội đồng Khoa học Quốc tế (ICSU). Liên hiệp có tên giao dịch bằng tiếng Anh là Vietnam Union of Science and Technology Associations, viết tắt là VUSTA'.Điều lệ hiện hành của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn tại Quyết định số 1795/QĐ-TTg ngày 21/10/2015 Điều lệ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Thuvienphapluat, 2017. Truy cập 3/3/2018..
Văn phòng Hiệp hội đặt tại địa chỉ lô D20, Khu Đô thị mới Cầu Giấy, ngõ 19 phố Duy Tân, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Lịch sử
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (gọi tắt là Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập theo Quyết định số 121/HĐBT ngày 29/7/1983 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Liên hiệp Hội Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và đoàn kết. Liên hiệp hội Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam khi thành lập có 15 hội thành viên. Hiện nay, con số đó đã lên đến 148 trong đó có 86 hội ngành toàn quốc và 63 Liên hiệp hội địa phương. Ngoài ra, trong hệ thống của Liên hiệp hội Việt Nam còn có hơn 500 đơn vị nghiên cứu khoa học và công nghệ được thành lập theo Nghị định 81 (nay là nghị định 08); trên 200 tờ báo, tạp chí, báo điện tử, bản tin, đặc san, trang tin điện tử.
Chức năng
Tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ ở trong nước, trí thức khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài; điều hoà, phối hợp hoạt động của các hội thành viên.
Làm đầu mối giữa các hội thành viên và các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung trong hoạt động Liên hiệp hội Việt Nam.
Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, hội thành viên, của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam.
Nhiệm vụ
Củng cố, phát triển tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của các hội thành viên.
Tham gia thực hiện xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển cộng đồng, xoá đói giảm nghèo:
Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ tham gia hoạt động hội; phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ trong nhân dân; tổ chức và hướng dẫn phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học và công nghệ.
Tổ chức hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chương trình, kế hoạch, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, bảo vệ môi trường, xây dựng pháp luật, tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng; tham gia giám sát độc lập đối với các đề tài, công trình quan trọng.
Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống và bảo vệ môi trường.
Tham gia tổ chức các hoạt động giáo dục, đào tạo và dạy nghề, góp phần xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Tham gia các hoạt động phát triển cộng đồng, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Thực hiện công tác vận động trí thức khoa học và công nghệ:
Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hợp tác, tính cộng đồng, tính trung thực và đạo đức nghề nghiệp.
Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Vận động trí thức khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tạo điều kiện nâng cao trình độ nghề nghiệp, góp phần cải thiện đời sống tinh thần, vật chất của những người làm công tác khoa học và công nghệ.
Thực hiện vai trò thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
Phối hợp với các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triển khai các hoạt động chung nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phản ánh nguyện vọng và ý kiến đóng góp của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ với Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tham gia đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh, vì tình hữu nghị, sự hiểu biết và hợp tác giữa các dân tộc.
Tăng cường hợp tác với các hội, các tổ chức phi chính phủ của các nước, tham gia các tổ chức khoa học và công nghệ của khu vực và quốc tế theo quy định của pháp luật.
Lãnh đạo Liên hiệp Hội Việt Nam
Chủ tịch đầu tiên: Giáo sư, Viện sĩ, Anh hùng Lao động, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa (1983-1988)
Chủ tịch Liên hiệp hội khóa II, III (1988-1999): Giáo sư, Tiến sĩ Hà Học Trạc.
Chủ tịch Liên hiệp hội từ 1999 - 2008: Giáo sư, Viện sĩ, Anh hùng Lao động Vũ Tuyên Hoàng (mất tháng 2 năm 2008).
Quyền Chủ tịch Liên hiệp hội: PGS. TS. Hồ Uy Liêm (2008-2010)
Chủ tịch Liên hiệp hội từ tháng 4 năm 2010 - 12/2020: Giáo sư, Viện sĩ Đặng Vũ Minh
Tiến sĩ Phan Xuân Dũng (từ 12/2020 - nay'')
Hội ngành Trung ương
Hội KHKT Ăn mòn và Bảo vệ Kim loại Việt Nam
Hội KHKT An toàn Thực phẩm Việt Nam
Hội KHKT An toàn và Vệ sinh Lao động Việt Nam
Hội Bảo quản Nông sản Thực phẩm Việt Nam
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
Hội Bảo vệ Thực vật Việt Nam
Hội KHKT Biển Việt Nam
Hội các ngành Sinh học Việt Nam
Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam
Hội Cảng Đường thủy Thềm lục địa Việt Nam
Hội KHKT Cầu đường Việt Nam
Hội Chăn nuôi Việt Nam
Hội KHCN Chè Việt Nam
Hội Cơ học đất và Địa kỹ thuật Công trình Việt Nam
Hội Cơ học Việt Nam
Hội Cơ điện tử Việt Nam
Hội KHKT Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
Hội Dân tộc học Việt Nam
Hội Đập lớn và Phát triển Nguồn nước Việt Nam
Hội KH Đất Việt Nam
Hội Dầu khí Việt Nam
Hội Địa lý Việt Nam
Hội Địa vật lý Việt Nam
Hội Điện lực Việt Nam
Hội Đo lường Việt Nam
Hội Đông y Việt Nam
Hội KHKT Đúc luyện kim Việt Nam
Hội Dược học Việt Nam
Hội Giống cây trồng Việt Nam
Hội KHCN Hàng không Việt Nam
Hội Hàng không Vũ trụ Việt Nam
Hội Hóa học Việt Nam
Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam
Hội Kết cấu và Công nghệ Xây dựng Việt Nam
Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam
Hội Kinh tế và Vận tải Đường sắt Việt Nam
Hội KH Kinh tế Việt Nam
Hội Kinh tế Xây dựng Việt Nam
Hội KHKT Lâm nghiệp Việt Nam
Hội Làm vườn Việt Nam
Hội Lạnh và Điều hòa Không khí Việt Nam
Hội KH Lịch sử Việt Nam
Hội Luật gia Việt Nam
Hội KHCN Lương thực và Thực phẩm Việt Nam
Hội Mã số Mã vạch Việt Nam
Hội KHCN Mỏ Việt Nam
Hội Môi trường Giao thông Vận tải Việt Nam
Hội Năng lượng Nguyên tử Việt Nam
Hội nghề cá Việt Nam
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam
Hội KHKT Nhiệt Việt Nam
Hội Nuôi ong Việt Nam
Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam
Hội KHKT Phân tích Hóa, Lý và Sinh học Việt Nam
Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam
Hội Sở hữu Trí tuệ Việt Nam
Hội KH Tâm lý Giáo dục Việt Nam
Hội Thiết bị Y tế Việt Nam
Hội Thống kê Việt Nam
Hội Thông tin KHCN Việt Nam
Hội Thử nghiệm Không phá hủy Việt Nam
Hội Thư viện Việt Nam
Hội Thú y Việt Nam
Hội Thủy lợi Việt Nam
Hội KHKT về Tiêu chuẩn và Chất lượng Việt Nam
Hội Tin học Việt Nam
Hội Toán học Việt Nam
Hội Trầm hương Việt Nam
Hội Trắc địa Bản đồ Viễn thám Việt Nam
Hội Truyền thông số Việt Nam
Hội Trí thức KHCN trẻ Việt Nam
Hội Tự động hóa Việt Nam
Hội Tưới tiêu Việt Nam
Hội Vật liệu Xây dựng Việt Nam
Hội Vật lý Việt Nam
Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam
Hội Xã hội học Việt Nam
Tổng hội Cơ khí Việt Nam
Tổng hội Địa chất Việt Nam
Tổng hội Xây dựng Việt Nam
Tổng hội Y học Việt Nam
Liên hiệp hội các tỉnh thành
Tính đến 2018 Hội có 63 Liên hiệp hội địa phương,86 hội chuyên ngành cùng hơn 500 tổ chức KH&CN trực thuộc được thành lập theo Nghị định 81 (nay là nghị định 08).
Các tổ chức khoa học và công nghệ trực thuộc
Hiện nay, Liên hiệp Hội Việt Nam có hơn 400 tổ chức khoa học, công nghệ trực thuộc.
Chú thích |
; sinh ngày 11 tháng 9 năm 1966 với tên khai sinh là phu nhân của Hoàng tự Thu Tiểu cung Thân vương Fumihito, con trai thứ của Thượng hoàng Akihito và Thượng hoàng hậu Michiko của Nhật Bản. Phu quân bà hiện nay là Hoàng tự thân vương, nên bà được xưng hiệu là Hoàng tự phi (皇嗣妃, Koshihi), đầy đủ là Thu Tiểu cung Hoàng tự phi Điện hạ (秋篠宮皇嗣妃殿下, Akishino-no-miya Koshihi Denka).
Tiểu sử
Hoàng tự phi Kiko tên thật là Kawashima Kiko (川島 紀子), sinh ngày 11 tháng 9 năm 1966 tại bệnh viện Shizuoka Saiseikai, khu Suruga, thành phố Shizuoka, Nhật Bản. Kiko là con gái đầu của ông Kawashima Tatsuhiko (川嶋 辰彥), giáo sư kinh tế học tại Đại học Gakushuin và mẹ là bà Sugimoto Kazuyo (杉本 和代). Ông nội của Hoàng tự phi là Kawashima Takahiko (川嶋 孝彦), cục trưởng cục Thống kê trong Nội các Nhật Bản và bà nội là Kawashima Itoko (川嶋紀子), con gái ông Ikegami Shirou, thị trưởng Osaka, tốt nghiệp trường trung học Shimizudani ở Osaka năm 1923. Hai ông bà kết hôn năm 1927.
Cả gia đình Kiko chuyển tới Pennsylvania, Mỹ năm 1967 khi cha cô theo học tại Đại học Pennsylvania và Kiko có 6 năm đầu đời tại đây. Kiko đã học tại nhà trẻ Jiyu Gakuen Yoji Seikatsudan thuộc hệ thống trường của Tập đoàn Jiyu Gakuen ở Nhật Bản.
Tháng 9 năm 1969, Kiko bắt đầu học mầm non tại trường Rosemont Trinity School ở Philadelphia, Mỹ. Một năm sau, cô học mẫu giáo tại trường mầm non Saint Mary cùng bang. Tháng 9 năm 1971 vào học trường tiểu học Henry C. Lea School.
Tháng 1973, năm Chiêu Hòa thứ 48, cha cô nhận chức phó giáo sư tại Đại học Gakushuin nên gia đình quay về tỉnh Shizouka, Nhật Bản. Tháng 9 năm đó, Kiko vào học trường tiểu học Shizuoka-shiritsu Nakada, phường Nakada, khu Surugaku, Shizuoka.
Tháng 9 năm 1975, cha cô đưa gia đình chuyển lên Tokyo nên Kiko vào học lớp 3 trường tiểu học Mejiro, Toshima, Tokyo gần với cơ quan của cha.
Năm 1976, Kiko được chuyển sang trường tiểu học Gakushuin (学習院初等科) với môi trường giáo dục tốt hơn. Tuy nhiên cuối học kỳ một năm đó, cha cô được mời làm nghiên cứu cấp cao tại Viện Quốc tế về Phân tích Hệ thống Ứng dụng, Laxenburg ở ngoại ô thủ đô Viên. Kiko đã dành thời gian 2 năm tại đây.
Năm 1977, Kiko ghi danh vào lớp 6 tại trường quốc tế American International School tại thủ đô Viên, Áo và từ đó có cơ hội nâng cao trình độ tiếng Anh. Do Áo sử dụng tiếng Đức làm ngôn ngữ chính nên Kiko cũng trau dồi ngôn ngữ này và dần bớt khó khăn khi sử dụng nó trong giao tiếp.
Tháng 9 năm 1979, Kiko theo gia đình trở về Nhật Bản. Kiko theo học cấp 2 và cấp 3 tại trường trung học nữ Gakushuin (学習院女子中等科).
Năm 1985, Kiko ghi danh vào khoa tâm lý của Đại học Gakushuin (学習院大学). Tại hiệu sách trong trường, cô gặp gỡ tiền bối cùng trường là hoàng tử Fumihito, con trai thứ của Nhật hoàng Akihito. Sau đó, cả hai phát triển mối quan hệ sâu sắc qua các hoạt động trong trường.
Ngày 26 tháng 6 năm 1986, Kiko nhận được lời cầu hôn từ Fumihito nhưng ngay lập tức không nhận lời.
Năm 1989, Kiko tốt nghiệp Đại học Gakushuin chuyên ngành Tâm lý học và tốt nghiệp Thạc sĩ cùng ngành tại đây năm 1995. Năm 2013, bà tốt nghiệp Tiến sĩ tại trường Đại học Ochanomizu (お茶の水女子大学).
Hôn nhân
Việc Kiko và Thân vương Fumihito đính hôn đã nhận được sự phê chuẩn của mười thành viên của Hội đồng Hoàng gia ngày 12 tháng 9 năm 1989. Đám cưới diễn ra ở Hoàng cung ngày 29 tháng 6 năm 1990. Hội đồng Hoàng gia trước đó đã cho phép Thân vương có quyền lập một chi mới của hoàng gia và được Thiên hoàng Akihito cho lập nhánh Thu Tiểu cung (秋篠宮, Akishino-no-miya) vào ngày cưới nên sau lễ cưới, Kiko trở thành Thu Tiểu cung Thân Vương phi.
Sự đính hôn và lễ cưới của hoàng tử Fumihito khi đó đã phá vỡ tiền lệ ở nhiều khía cạnh. Tại thời điểm đó, Fumihito vẫn đang là sinh viên ở Đại học Gakushuin và kết hôn trước người anh trai, Thiên hoàng Naruhito. Thứ hai, cô dâu là người phụ nữ đầu tiên xuất thân từ tầng lớp trung lưu kết hôn với dòng dõi Hoàng gia.
Sau khi anh chồng bà là Thái tử Naruhito lên ngôi Thiên Hoàng, vợ chồng bà trở thành Thu Tiểu cung Hoàng tự và Hoàng tự phi. Buổi lễ Tuyên bố Tấn phong Thu Tiểu cung Thân vương Fumihito lên làm Hoàng tự đã diễn ra vào ngày 8 tháng 11 năm 2020, từ đây Thân vương phi Kiko chính thức trở thành Hoàng tự phi.
Gia đình
Từ năm 1997, Thân vương Fumihito và Thân vương phi Kiko và các con sống chủ yếu ở Akasaka, Motoakasaka, Minato, Tokyo. Họ có hai con gái và một con trai:
Trưởng nữ: Nội Thân vương Mako (sinh ngày 23 tháng 10 năm 1991)(đã từ bỏ tước vị và rời khỏi Hoàng thất Nhật Bản sau khi kết hôn với vị hôn phu thường dân)
Thứ nữ: Nội Thân vương Kako (sinh ngày 29 tháng 12 năm 1994)
Trưởng nam: Thân vương Hisahito (sinh ngày 6 tháng 9 năm 2006)
Ngày 6 tháng 9 năm 2006, lúc 8 giờ 27 phút sáng (Giờ Nhật Bản), Thân vương phi Kiko sinh hạ một bé trai, bằng phương pháp sinh mổ. Em bé nặng 2,556 kg. Tiểu thân vương được đặt tên Hisahito vào buổi lễ bảy ngày sau khi sinh, đây là bé trai đầu tiên được sinh ra cho Hoàng gia Nhật Bản trong 41 năm qua. Hiện giờ vẫn chưa rõ luật thừa kế có thay đổi hay không để cho phép Nội thân vương Aiko - trưởng nữ của Thiên hoàng Naruhito trở thành Thiên hoàng. Nếu không thay đổi, Thân vương Hisahito sẽ trở thành Thiên hoàng sau khi người bác là Thiên hoàng Naruhito và người bố là Thân vương Fumihito thoái vị hoặc qua đời.
Bà cùng hai con gái là hai Nội thân vương Mako và Kako đều có khả năng sử dụng ngôn ngữ ký hiệu thành thạo để giao tiếp với người khiếm thính. Trong đó, Nội thân vương Mako đã tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Bảo tàng học tại Đại học Leicester và đang học Tiến sĩ tại ICU nơi cô học Đại học, đồng thời cũng đang là nghiên cứu viên tại Bảo tàng Đại học thuộc Đại học Tokyo. Nội thân vương Kako cũng tốt nghiệp Cử nhân tại ICU khoa Nghệ thuật và Khoa học và từng du học ngành nghệ thuật sân khấu tại Đại học Leeds, Vương quốc Anh dạng sinh viên trao đổi. Thân vương Hisahito hiện đang học trường Trung học cơ sở thuộc Đại học Ochanomizu. |
Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam là một chức vụ cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đứng đầu Bộ Tổng tham mưu (thuộc Bộ Quốc phòng, có chức trách tổ chức lực lượng, chỉ huy và điều hành các hoạt động quân sự quân đội. Đồng thời kiêm chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngoài ra, Tổng tham mưu trưởng còn giữ nhiệm vụ tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ trưởng Quốc phòng về mặt quản lý nhà nước và chỉ huy quân đội.
Bổ nhiệm, miễn nhiệm
Theo Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2014 tại Điều 15 thì chức vụ Tổng Tham mưu trưởng có cấp bậc quân hàm cao nhất là Đại tướng. Tại Điều 25, thẩm quyền quyết định đối với sĩ quan thì Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Tham mưu trưởng .
Tiêu chuẩn chức danh
Theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày 19 tháng 12 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tại Phụ lục 1, Mục I, Tiểu mục 3 và tại Điều 4, Điều 13 thì chức danh Tổng Tham mưu trưởng có thời hạn giữ chức vụ là 5 năm và thuộc diện thẩm quyền Bộ Chính trị quản lý, đánh giá, bố trí, giới thiệu ứng cử, chỉ định; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho thôi giữ chức, đình chỉ chức vụ; khen thưởng, kỷ luật.
Các đồng chí giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng thường kiêm nhiệm chức danh Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và giữ các chức danh trong Đảng là Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương.
Theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4 tháng 8 năm 2017 và Quy định số 90-QĐ/TW ngày 4 tháng 8 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì tiêu chuẩn chung của chức danh Tổng Tham mưu trưởng bao gồmː
Về chính trị tư tưởngː Trung thành với Tổ quốc, Nhà nước. Lập trường bản lĩnh chính trị vững vàng.
Về đạo đức, lối sốngː Mẫu mực, trung thực, khiêm tốn, chân thành, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Về trình độː Tốt nghiệp đại học trở lên (chuyên về lĩnh vực quân sự).
Về năng lực và uy tínː Có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả. Là hạt nhân quy tụ được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao.
Sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệmː Đủ sức khỏe, đã kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp ở đây; có nhiều kinh nghiệm thực tiễn.
Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 tại phần III, mục 2 có quy định cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới. Cơ cấu tổ chức của Bộ Quốc phòng gồm có Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các Quân khu, các Quân chủng, các Tổng cục, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, như vậy để được bổ nhiệm chức danh Tổng Tham mưu trưởng thì phải kinh qua cấp dưới chủ chốt trực tiếp hay từng giữ các chức vụ đó là Phó Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh Quân khu, Tư lệnh Quân chủng.
Nhiệm vụ
Tổng tham mưu trưởng là người đứng đầu Bộ Tổng tham mưu, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ hoạt động của Bộ Tổng tham mưu và có trách nhiệm:
Tổ chức thực hiện những công việc thuộc thẩm quyền quy định trong Hiến pháp
Tổ chức thực hiện những công việc được Chủ tịch nước, Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao hoặc ủy quyền
Tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước theo quy định
Tổ chức thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của Bộ Tổng tham mưu
Tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ trưởng Quốc phòng về mặt quản lý nhà nước và chỉ huy quân đội
Phụ trách chỉ đạo khối các Quân khu, Quân đoàn, Học viện, Nhà trường
Quyền hạn
Nâng bậc lương và phiên quân hàm quân nhân chuyên nghiệp cấp Thượng tá.
Điều động quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng, hạ sĩ quan chiến sĩ từ đơn vị này sang đơn vị khác thuộc Bộ Quốc phòng.
Chuyển chế độ phục vụ tại ngũ từ công nhân viên chức quốc phòng, hạ sĩ quan chiến sĩ sang quân nhân chuyên nghiệp hoặc ngược lại.
Tổng tham mưu trưởng qua các thời kỳ
Chân dung Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1945 – nay)
Tổng số Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam theo quân chủng
Lục quân: 13
Không quân: 1
Hải quân: 0
Cảnh sát biển: 0
Biên phòng: 0 |
Tỷ giá hối đoái (còn được gọi là tỷ giá trao đổi ngoại tệ, tỷ giá Forex, tỷ giá FX hoặc Agio) giữa hai tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này sẽ được trao đổi cho một đồng tiền khác. Nó cũng được coi là giá cả đồng tiền của một quốc gia được biểu hiện bởi một tiền tệ khác.
Tiền tệ thường là đơn vị tiền của mỗi quốc gia, nhưng cũng có thể là đơn vị tiền của các khu vực cấp dưới như Hồng Kông, hoặc là đơn vị tiền siêu quốc gia như euro.
Tỷ giá hối đoái còn biểu thị giá trị của tiền một nước so với tiền một nước khác. Ví dụ, tỷ giá hối đoái ngân hàng trung ương giữa 131 yên Nhật và đô la Mỹ có nghĩa là ¥131 sẽ trao đổi lấy , hoặc sẽ trao đổi lấy ¥131. Trong ví dụ này, giá trị của một đô la so với yên là ¥131, hoặc tương đương với việc giá trị của một yên so với đô la là $1/131.
Mỗi quốc gia quyết định chế độ tỷ giá hối đoái áp dụng cho đơn vị tiền của mình. Ví dụ, tiền tệ có thể có chế độ tỷ giá nổi, tỷ giá cố định hoặc tỷ giá hỗn hợp. Chính phủ có thể áp đặt giới hạn và kiểm soát tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, mỗi quốc gia có thể có đồng tiền mạnh hoặc yếu. Trong văn học kinh tế, không có sự đồng thuận về chính sách tỷ giá hối đoái quốc gia tối ưu (không giống như trong vấn đề thương mại, nơi thương mại tự do được coi là tối ưu). Thay vào đó, chế độ tỷ giá hối đoái quốc gia phản ánh yếu tố chính trị.
Trong chế độ tỷ giá nổi, tỷ giá hối đoái được xác định trên thị trường ngoại hối, nơi mua bán tiền tệ diễn ra liên tục trong 24 giờ mỗi ngày, trừ cuối tuần (từ 20:15 GMT vào Chủ Nhật đến 22:00 GMT vào Thứ Sáu). Tỷ giá hối đoái giao ngay là tỷ giá hiện tại, còn tỷ giá hối đoái chờ là tỷ giá được báo giá và giao dịch trong tương lai cụ thể.
Thị trường hối đoái bán lẻ
nhỏ|Tỷ giá hối đoái euro/đô la Mỹ (USD)
Việc mua tiền tệ để sử dụng trong các giao dịch quốc tế và thanh toán vượt biên giới thường được thực hiện thông qua các ngân hàng, các công ty môi giới hối đoái ngoại tệ và các điểm trao đổi ngoại tệ như điểm giao dịch ngoại tệ. Những cơ sở bán lẻ này lấy tiền tệ từ thị trường ngân hàng trung ương, mà theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế có giá trị lên tới 5.3 nghìn tỷ đô la Mỹ mỗi ngày. Giao dịch được thực hiện với tỷ giá hợp đồng giao ngay. Khách hàng bán lẻ sẽ phải trả phí, dưới hình thức hoa hồng hoặc khác, để bù đắp cho các chi phí của người cung cấp và tạo ra lợi nhuận. Một hình thức phí là việc sử dụng tỷ giá hối đoái thấp hơn so với tỷ giá giao ngay thị trường sỉ. Sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán tại cơ sở bán lẻ được gọi là chênh lệch giá đặt mua - giá đặt bán.
Báo giá
Trong thị trường tài chính, có quy ước về cách trình bày tiền tệ cố định và tiền tệ biến đổi trong báo giá. Ví dụ, khi chuyển đổi từ EUR sang AUD, EUR là tiền tệ cố định, AUD là tiền tệ biến đổi và tỷ giá hối đoái cho biết bao nhiêu đô la Úc sẽ được trả hoặc nhận cho 1 euro.
Ở một số khu vực tại châu Âu và trong thị trường bán lẻ ở Vương quốc Anh, EUR và GBP bị đảo ngược, có nghĩa là GBP được trích dẫn làm tiền tệ cố định đối với euro. Khi cả hai tiền tệ không nằm trong danh sách trên (nghĩa là cả hai đều là "khác"), quy ước thị trường là sử dụng tiền tệ cố định có tỷ giá hối đoái lớn hơn 1.000. Điều này giúp giảm vấn đề làm tròn số và không cần sử dụng quá nhiều chữ số thập phân. Tuy nhiên, cũng có một số ngoại lệ cho quy ước này: ví dụ, người Nhật thường trích dẫn tiền tệ của họ làm tiền tệ cơ sở đối với các loại tiền tệ khác.
Phương pháp trích dẫn bằng tiền tệ quốc gia làm đơn vị giá được gọi là trích dẫn trực tiếp hoặc trích dẫn giá (từ góc nhìn của quốc gia đó). Ví dụ, = trong Khu vực sử dụng Euro và phương pháp này được sử dụng ở hầu hết các quốc gia.
Báo giá dùng đồng tiền của một quốc gia làm đơn vị tiền tệ chính (ví dụ, = trong khu vực Euro) gọi là báo giá gián tiếp hoặc báo giá theo số lượng, thường thấy trong báo ở Anh; cũng phổ biến ở Úc, New Zealand và khu vực Euro.
Trong báo giá trực tiếp, khi đồng tiền trong nước tăng giá trị (được gọi là tăng giá) thì con số tỷ giá giảm. Ngược lại, khi đồng tiền nước ngoài mạnh lên và đồng tiền trong nước giảm giá (được gọi là giảm giá), con số tỷ giá tăng.
Thường từ những năm 1980 đến 2006, hầu hết các cặp tiền tệ trích dẫn với bốn số thập phân cho giao dịch ngay và lên đến sáu số thập phân cho giao dịch tương lai hoặc hoán đổi tiền tệ. (Số thập phân thứ tư thường được gọi là "pip"). Độc ngoại là tỷ giá hối đoái có giá trị nhỏ hơn 1.000 thường trích dẫn với năm hoặc sáu số thập phân. Mặc dù không có quy tắc cố định, tỷ giá hối đoái lớn hơn khoảng 20 thường trích dẫn với ba số thập phân và tỷ giá hối đoái lớn hơn 80 thường trích dẫn với hai số thập phân. Tiền tệ vượt quá 5000 thường trích dẫn mà không có số thập phân (ví dụ, Lira Thổ Nhĩ Kỳ cũ). Ví dụ: (GBPOMR: 0.765432 - : 1.4436 - EURJPY: 165.29). Nói cách khác, báo giá cung cấp năm chữ số. Khi tỷ giá dưới 1, báo giá thường chứa năm số thập phân.
Năm 2005, Barclays Capital đã phá vỡ quy tắc trích dẫn bằng cách sử dụng năm hoặc sáu số thập phân cho tỷ giá hối đoái ngay trên nền tảng giao dịch điện tử của họ. Sự thu hẹp chênh lệch giữa giá mua và giá bán có thể yêu cầu giá cụ thể hơn, giúp ngân hàng cố gắng giành giao dịch trên các nền tảng giao dịch đa ngân hàng, nơi tất cả các ngân hàng khác có thể đã trích dẫn cùng một giá. Sau đó, một số ngân hàng khác cũng áp dụng hệ thống này.
Biến động tỷ giá hối đoái
Một tỷ giá hối đoái dựa trên thị trường sẽ thay đổi bất cứ khi nào các giá trị của một trong hai tiền tệ thành phần thay đổi. Một đồng tiền sẽ có xu hướng trở nên có giá trị hơn bất cứ khi nào nhu cầu cho nó lớn hơn cung cấp có sẵn. Nó sẽ trở nên ít có giá trị bất cứ khi nào nhu cầu thấp hơn cung cấp có sẵn (điều này không có nghĩa là người ta không còn muốn tiền, nó chỉ có nghĩa là họ muốn nắm giữ của cải của họ trong một số hình thức khác, có thể là một đồng tiền khác).
Tăng nhu cầu về một loại tiền tệ có thể là do một trong hai giao dịch cầu tiền tăng hoặc một nhu cầu đầu cơ tăng đối với tiền. Nhu cầu giao dịch liên quan chặt chẽ đến mức độ hoạt động kinh doanh của một quốc gia, (GDP) tổng sản phẩm quốc nội, và mức độ việc làm. Càng nhiều người thất nghiệp, ít công chúng như một toàn thể sẽ chi tiêu vào hàng hóa và dịch vụ. Các ngân hàng trung ương thường có chút ít khó khăn điều chỉnh cung tiền có sẵn để cung cấp cho những thay đổi trong nhu cầu sử dụng tiền do các nghiệp vụ kinh doanh.
Nhu cầu đầu cơ là khó khăn hơn nhiều đối với các ngân hàng trung ương để thích ứng, do chúng bị ảnh hưởng bởi sự điều chỉnh lãi suất. Một nhà đầu cơ có thể mua một đồng tiền nếu trả lại (có nghĩa là lãi suất) là đủ cao. Nói chung, nếu lãi suất của một quốc gia càng cao, nhu cầu đối với đồng tiền đó sẽ càng lớn. Có lập luận cho rằng đầu cơ như vậy có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế thực sự, đặc biệt là do các nhà đầu cơ tiền tệ lớn cố tình có thể tạo ra áp lực giảm một đồng tiền bằng cách bán khống để buộc ngân hàng trung ương đó mua tiền tệ của mình để giữ cho nó ổn định. (Khi điều đó xảy ra, nhà đầu cơ này có thể mua đồng tiền trở lại sau khi nó mất giá, đóng vị trí của họ, và do đó có lợi nhuận.)
Đối với các công ty vận tải vận chuyển hàng hóa từ một quốc gia này tới một quốc gia khác, tỷ giá hối đoái thường có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới họ. Vì vậy, hầu hết các nhà vận chuyển có một hệ số điều chỉnh tiền tệ (CAF) tính vào tài khoản cho những biến động này.
Phân loại tỷ giá hối đoái
Từ góc độ giao dịch ngoại hối của ngân hàng
Giá mua vào: Còn gọi là giá mua, đây là giá mà ngân hàng ngoại hối sử dụng để mua ngoại tệ từ khách hàng. Đây là tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ sang đồng tiền trong nước với số lượng ít hơn, thể hiện mức độ cần bao nhiêu đồng tiền của quốc gia để mua một lượng ngoại tệ cụ thể.
Giá bán ra: Còn được gọi là giá bán, đây là tỷ giá mà ngân hàng sử dụng để bán ngoại tệ cho khách hàng. Đây là tỷ giá thể hiện mức độ cần thu hồi bao nhiêu đồng tiền của quốc gia nếu ngân hàng bán một lượng ngoại tệ cụ thể.
Giá trung bình: Là trung bình của giá mua (bid) và giá bán (ask). Thường được sử dụng trong báo chí, tạp chí hoặc phân tích kinh tế.
Theo thời gian giao dịch sau các giao dịch hối đoái ngoại tệ
Tỷ giá giao ngay: Đề cập đến tỷ giá cho các giao dịch hối đoái ngoại tệ ngay tại thời điểm giao dịch. Sau khi giao dịch hoàn tất, tỷ giá này áp dụng cho việc giao dịch trong hai ngày làm việc. Thường được gọi là tỷ giá giao ngay trừ khi cụ thể chỉ ra tỷ giá hối đoái chờ.
Tỷ giá hối đoái chờ: Được thỏa thuận giữa người mua và người bán để thực hiện trong tương lai, trước ngày giao dịch. Khi đến ngày giao dịch, cả hai bên sẽ thực hiện giao dịch theo tỷ giá và số lượng đã thỏa thuận trước đó. Dựa trên tỷ giá giao ngay và biểu thị bằng "phần thưởng", "chiết khấu" và "đẳng cấp" của tỷ giá giao ngay.
Theo cách đặt tỷ giá hối đoái
Tỷ giá cơ bản: Thường chọn một đồng tiền chuyển đổi chủ chốt, phổ biến trong giao dịch quốc tế và chiếm tỷ trọng lớn trong dự trữ ngoại hối. So sánh với đồng tiền của quốc gia và thiết lập tỷ giá. Đây là tỷ giá cơ bản. Loại tiền tệ chủ chốt thường là đồng tiền thế giới, dùng để định giá, thanh toán, dự trữ, có thể chuyển đổi tự do và được chấp nhận toàn cầu.
Tỷ giá chéo: Sau khi có tỷ giá cơ bản, có thể tính tỷ giá đồng tiền địa phương so với các đồng tiền nước ngoài khác qua tỷ giá cơ bản. Kết quả được gọi là tỷ giá chéo.
Phân loại khác
Theo phương thức thanh toán trong giao dịch hối đoái ngoại tệ
Tỷ giá chuyển tiếp điện
Tỷ giá chuyển tiếp qua thư
Tỷ giá séc yêu cầu
Theo mức độ kiểm soát hối đoái ngoại tệ
Tỷ giá chính thức: Tỷ giá hối đoái do cơ quan quản lý hối đoái nước này công bố. Thường áp dụng ở các quốc gia kiểm soát hối đoái nghiêm ngặt.
Tỷ giá thị trường: Tỷ giá thực tế trên thị trường tự do, biến đổi theo cung cầu hối đoái ngoại tệ.
Theo chế độ tỷ giá hối đoái quốc tế
Tỷ giá cố định: Tỷ giá giữa đồng tiền quốc gia và đồng tiền khác được cố định, biến động nhỏ.
Tỷ giá nổi: Không có tỷ giá chính thức, đồng tiền thay đổi theo cung cầu trên thị trường tự do.
Theo có bao gồm lạm phát
Tỷ giá thực tế: Tỷ giá chính thức hoặc thị trường không tính lạm phát.
Tỷ giá thực: Tỷ giá thực tế loại bỏ yếu tố lạm phát.
Các yếu tố tác động đến biến đổi tỷ giá hối đoái
Dịch vụ thanh toán: Khi một quốc gia có thâm hụt thanh toán hoặc thương mại lớn, đồng tiền của nó suy giảm do nhu cầu về ngoại tệ vượt quá cung cấp.
Lãi suất: Khi lãi suất tăng hoặc lãi suất nội địa cao hơn so với lãi suất ngoại hối, đồng tiền trong nước tăng giá trị do dòng vốn đổ vào.
Lạm phát: Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước và tăng giá trị ngoại tệ. Quốc gia có lạm phát thấp thường có đồng tiền mạnh hơn.
Chính sách tài khóa và tiền tệ: Chính sách tài khóa và tiền tệ lỏng lẻo, thâm hụt tài khóa gây suy giảm đồng tiền, còn chính sách thắt chặt làm tăng giá trị đồng tiền.
Phân tích: Dự đoán tiền tệ sẽ tăng giá trị khiến nhà đầu tư mua nhiều, ngược lại khiến giá giảm. Phân tích ảnh hưởng đến biến động ngắn hạn của tỷ giá hối đoái.
Can thiệp thị trường của chính phủ: Khi biến động tỷ giá hối đoái ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, thương mại của quốc gia hoặc chính phủ cần đạt được mục tiêu chính sách, cơ quan tiền tệ có thể tham gia giao dịch tiền tệ để thay đổi tỷ giá hối đoái.
Sức mạnh kinh tế của quốc gia: Tăng trưởng kinh tế cao không tốt cho đồng tiền trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, nó ủng hộ mạnh mẽ sức mạnh của đồng tiền quốc gia trên thị trường ngoại hối.
Thị trường mới nổi
Nghiên cứu về khu vực mục tiêu chủ yếu tập trung vào lợi ích của sự ổn định tỷ giá hối đoái đối với các nước công nghiệp, nhưng một số nghiên cứu cho rằng sự biến đổi không ổn định của tỷ giá hối đoái hai chiều giữa các nước công nghiệp một phần gây ra khủng hoảng tài chính ở các thị trường mới nổi. Theo quan điểm này, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thị trường mới nổi bị suy yếu vì nhiều đồng tiền được gắn liền với đô la Mỹ theo nhiều cách khác nhau, ngầm hoặc rõ ràng, do đó, biến đổi như việc đô la Mỹ tăng giá trị so với yen hoặc đồng Mark đã góp phần vào những sóng sốc gây mất ổn định. Hầu hết các quốc gia này là người nợ vốn ngoại, nợ của họ được định giá bằng một trong các đồng tiền G3.
Vào tháng 9 năm 2019, Argentina hạn chế khả năng mua đô la Mỹ. Mauricio Macri năm 2015 đã cam kết sẽ dỡ bỏ hạn chế do chính phủ cánh tả đặt ra, bao gồm kiểm soát vốn được sử dụng ở Argentina để ổn định kinh tế. Khi lạm phát tăng trên 20%, việc giao dịch được định giá bằng đô la Mỹ trở nên phổ biến khi người dân Argentina chuyển sang sử dụng đồng peso. Năm 2011, chính phủ Cristina Fernández de Kirchner hạn chế mua đô la, dẫn đến việc tăng mua đô la trên thị trường đen. Kiểm soát được giảm sau khi Macri nhậm chức và Argentina phát hành trái phiếu định giá bằng đô la Mỹ, nhưng khi nhiều yếu tố dẫn đến sự suy giảm giá trị của peso so với đô la, kiểm soát vốn đã được tái áp dụng để ngăn chặn sự suy giảm thêm trong bối cảnh sự bán ra đồng peso.
Biến động trong tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái dựa trên thị trường thay đổi mỗi khi giá trị của một trong hai đồng tiền thành phần thay đổi. Đồng tiền trở nên có giá trị hơn khi nhu cầu vượt quá cung cấp. Nó trở nên ít có giá trị hơn khi nhu cầu thấp hơn cung cấp (không phải là người ta không còn muốn tiền, mà họ muốn giữ tài sản bằng hình thức khác, có thể là đồng tiền khác).
Nhu cầu đồng tiền có thể tăng vì nhu cầu giao dịch nhu cầu về tiền tăng hoặc nhu cầu đầu cơ về tiền tăng. Nhu cầu giao dịch liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh doanh, GDP và việc làm của một quốc gia. Ngân hàng trung ương thường điều chỉnh nguồn tiền để thích nghi với biến đổi nhu cầu giao dịch.
Nhu cầu đầu cơ khó điều chỉnh hơn, ngân hàng trung ương can thiệp bằng cách điều chỉnh lãi suất. Người đầu cơ có thể mua đồng tiền nếu lợi suất cao. Nói chung, lãi suất càng cao, nhu cầu đồng tiền càng lớn. Được đề xuất rằng đầu cơ có thể làm suy yếu tăng trưởng kinh tế thực sự, đặc biệt khi đầu cơ có thể tạo áp lực đẩy giảm giá đồng tiền để buộc ngân hàng trung ương mua đồng tiền của họ để duy trì ổn định. (Khi điều này xảy ra, người đầu cơ có thể mua lại đồng tiền sau khi giảm giá, đóng vị trí và từ đó có lời.)
Với các công ty vận chuyển hàng hóa giữa các quốc gia, tỷ giá hối đoái thường ảnh hưởng nghiêm trọng. Do đó, hầu hết các công ty áp dụng một khoản phí CAF để bù đắp cho biến động này.
Sức mua của đồng tiền
Tỷ giá hối đoái thực (RER) là khả năng mua sắm của một đơn vị tiền tệ so với đơn vị tiền tệ khác dựa trên tỷ giá và giá hiện tại. Đây là tỷ lệ giữa số đơn vị tiền của một quốc gia cần để mua một giỏ hàng hàng hóa ở quốc gia khác, sau khi đã đổi được tiền của quốc gia đó sang tiền của quốc gia khác trên thị trường ngoại hối, chia cho số đơn vị tiền của quốc gia đó cần để mua trực tiếp giỏ hàng hàng hóa đó trong quốc gia đó. Có nhiều cách để đo RER.
Do đó, RER là tỷ giá hối đoái nhân với giá tương đối của một giỏ hàng hàng hóa ở hai quốc gia. Ví dụ, sức mua của đô la Mỹ so với euro là giá đô la Mỹ của một euro nhân với giá euro của một đơn vị của giỏ hàng hàng hóa, chia cho giá đô la Mỹ của giỏ hàng hàng hóa, và do đó không có đơn vị. Đây chính là tỷ giá hối đoái nhân với giá tương đối của hai tiền tệ liên quan đến khả năng mua đơn vị của giỏ hàng hàng hóa. Nếu tất cả hàng hóa có thể trao đổi tự do và người dân trong và ngoài nước mua cùng một giỏ hàng hàng hóa, nguyên tắc sức mua tương đương (PPP) sẽ áp dụng cho tỷ giá hối đoái và chỉ số giá tiêu dùng của cả hai quốc gia, và RER sẽ luôn bằng 1.
Tốc độ thay đổi của RER theo thời gian giữa euro và đô la bằng tốc độ đánh giá của euro cộng với tỷ lệ lạm phát của euro trừ đi tỷ lệ lạm phát của đô la.
Cân bằng và sai lệch tỷ giá hối đoái thực tế
Tỷ giá hối đoái thực tế (RER) là tỷ giá hối đoái danh nghĩa đã điều chỉnh bởi giá tương đối của hàng hóa và dịch vụ trong và ngoài nước, thể hiện sự cạnh tranh của một quốc gia so với thế giới. Khi đánh giá đồng tiền cao hoặc lạm phát trong nước tăng, RER giảm, làm giảm tính cạnh tranh quốc gia và thương mại hiện tại. Ngược lại, đồng tiền suy giảm có hiệu ứng ngược, cải thiện thương mại hiện tại của quốc gia.
Có chứng cớ cho thấy RER thường đạt đến mức ổn định trong dài hạn, nhanh hơn ở các nền kinh tế mở nhỏ có tỷ giá cố định. Sai lệch RER đáng kể và kéo dài so với cân bằng dài hạn, hay còn gọi là sai lệch RER, gây tác động tiêu cực lên thanh toán của một quốc gia. RER định giá quá cao có nghĩa là RER hiện tại vượt quá giá trị cân bằng, còn RER định giá thấp hơn thể hiện ngược lại. Đặc biệt, định giá RER quá cao kéo dài thường được coi là dấu hiệu sớm của cuộc khủng hoảng sắp tới, do quốc gia trở nên dễ bị tấn công và gặp khủng hoảng tiền tệ, như tại Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Ngược lại, định giá RER thấp kéo dài thường tạo áp lực lên giá trong nước, thay đổi động cơ tiêu dùng của người tiêu dùng và từ đó làm sai phân bố tài nguyên giữa các ngành hàng có thể thương mại và phi thương mại.
Sự mất cân đối RER, đặc biệt là sự định giá quá cao, có thể làm suy yếu chiến lược phát triển xuất khẩu của quốc gia, vì thế việc đo lường RER cân bằng là rất quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách. Tuy nhiên, không may mắn, biến số này không thể quan sát trực tiếp. Phương pháp phổ biến nhất để ước tính RER cân bằng là lý thuyết Parity Quyền Mua (PPP), theo đó mức RER cân bằng được giả định duy trì ổn định qua thời gian. Tuy nhiên, RER cân bằng không phải là giá trị cố định vì nó tuân theo xu hướng của các yếu tố kinh tế quan trọng, như chính sách tiền tệ và tài khóa khác nhau hoặc các cú sốc không đối xứng giữa quốc gia chủ nhà và nước ngoài. Vì vậy, tư tưởng PPP đã được tranh luận rộng rãi trong những năm qua, vì nó có thể chỉ ra một sự chuyển động tự nhiên của RER đến cân bằng mới của nó như một sự mất cân đối RER.
Bắt đầu từ những năm 1980, để vượt qua các hạn chế của phương pháp này, nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm các biện pháp RER cân bằng thay thế. Hai trong những phương pháp phổ biến nhất trong văn học kinh tế là Tỷ giá Cân bằng Cơ bản (FEER), do Williamson (1994) phát triển, và Tỷ giá Cân bằng Hành vi (BEER), ban đầu được ước tính bởi Clark và MacDonald (1998). FEER tập trung vào các nhân tố quyết định dài hạn của RER, chứ không phải là các lực ngắn hạn và tác động đầu cơ. Nó đại diện cho một RER nhất quán với sự cân bằng kinh tế tổng thể, được đặc trưng bởi việc đạt được sự cân bằng nội và cân bằng ngoại cùng một lúc. Sự cân bằng nội xảy ra khi mức sản xuất tương thích với cả việc sử dụng đầy đủ của tất cả các yếu tố sản xuất có sẵn, và mức lạm phát thấp và ổn định. Mặt khác, sự cân bằng ngoại xảy ra khi cân bằng hiện tại và tương lai của cán cân thanh toán tương thích với luồng vốn net bền vững trong dài hạn. Tuy nhiên, FEER được xem như một biện pháp đo lường quy phạm của RER vì nó dựa trên một số điều kiện kinh tế "lý tưởng" liên quan đến cân bằng nội và cân bằng ngoại. Đặc biệt, vì vị trí cân bằng CA bền vững được xác định là một giá trị xúc tích, phương pháp này đã được đặt ra nhiều câu hỏi trong thời gian qua. Ngược lại, BEER liên quan đến một phân tích kinh tế của hành vi RER, xem xét sự lệch lạc đáng kể của RER so với mức cân bằng PPP của nó là kết quả của các thay đổi trong các nguyên tắc kinh tế quan trọng. Do đó, sự mất cân đối RER toàn bộ được xác định bởi mức độ mà các nguyên tắc kinh tế khác nhau so với các mức bền vững trong dài hạn của chúng. Tóm lại, BEER là một phương pháp tổng quát hơn so với FEER, vì nó không giới hạn trong góc nhìn dài hạn, có khả năng giải thích các biến động chu kỳ của RER.
Tỷ giá song phương so với tỷ giá hiệu quả
nhỏ|Ví dụ về lịch sử tỷ giá trọng số GDP của một giỏ 6 đồng tiền quan trọng (Đô la Mỹ, Euro, Yên Nhật, Nhân dân tệ Trung Quốc, Franc Thụy Sĩ, Bảng Anh)
Tỷ giá song phương liên quan đến cặp đồng tiền, còn tỷ giá hiệu quả là trung bình có trọng số của một giỏ đồng tiền nước ngoài, thể hiện tổng quan về sự cạnh tranh ngoại vi của đất nước. Tỷ giá hiệu quả hiện tại (NEER) được trọng số theo nghịch đảo của trọng số giao dịch tiệm cận. Tỷ giá hiệu quả thực sự (REER) điều chỉnh NEER bằng mức độ giá nước ngoài thích hợp và được điều chỉnh theo mức độ giá nước sở tại. So với NEER, tỷ giá hiệu quả dựa trên trọng số GDP có thể thích hợp hơn khi xem xét hiện tượng đầu tư toàn cầu.
Tỷ giá song song
Trong nhiều quốc gia, có sự phân biệt giữa tỷ giá chính thức dành cho các giao dịch được phép trong nước và một tỷ giá song song (hoặc tỷ giá thị trường đen, không chính thức, v.v.) phản ánh nhu cầu vượt quá cung ngoại tệ theo tỷ giá chính thức. Mức độ tăng hơn của tỷ giá song song so với tỷ giá chính thức được gọi là áp phích song song. Các giao dịch không chính thức như vậy có thể vi phạm pháp luật.
Mô hình Kinh tế
Mô hình cân bằng lãi suất chưa được phủ định
Mô hình cân bằng lãi suất chưa được phủ định (UIRP) cho rằng sự thay đổi giá trị của một đồng tiền so với đồng tiền khác có thể bị xóa bỏ bằng sự thay đổi trong chênh lệch lãi suất. Nếu lãi suất tại Mỹ tăng trong khi lãi suất tại Nhật Bản không thay đổi, thì đồng USD có thể giảm giá so với đồng JPY một lượng nhất định để ngăn chặn việc cơ hội lời từ chênh lệch lãi suất (tuy nhiên trong thực tế, thường xảy ra tình trạng ngược lại, tức là sự tăng giá, đặc biệt trong ngắn hạn, như được giải thích bên dưới). Tỷ giá hối đoái trong tương lai được phản ánh trong tỷ giá hối đoái chứng khoán tương lai được công bố ngày hôm nay. Trong ví dụ của chúng ta, tỷ giá hối đoái tương lai của đồng USD được cho là ở mức chiết khấu vì nó mua ít hơn đồng JPY trong tỷ giá tỷ giá chốt. Đồng JPY được coi là ở mức thưởng.
Sau những năm 1990, UIRP không còn được chứng minh là hiệu quả. Ngược lại với lý thuyết, các đồng tiền có lãi suất cao thường tăng giá thay vì giảm giá do lợi ích từ việc kiểm soát lạm phát và việc sở hữu đồng tiền mang lại lợi suất cao hơn.
Mô hình cân đối thanh toán
Mô hình cân đối thanh toán cho rằng tỷ giá hối đoái ngoại tệ đạt mức cân bằng khi tạo ra sự ổn định trong Tài khoản vãng lai. Một quốc gia có thâm hụt thương mại sẽ giảm dự trữ ngoại hối, từ đó làm giảm giá trị đồng tiền. Đồng tiền rẻ hơn sẽ làm cho hàng hóa của quốc gia trở nên hấp dẫn hơn trên thị trường toàn cầu, đồng thời làm tăng chi phí nhập khẩu. Sau một thời kỳ trung gian, nhập khẩu sẽ giảm và xuất khẩu tăng, ổn định cân bằng thương mại và đưa đồng tiền về mức cân bằng.
Tương tự như sức mạnh mua sắm cân bằng, mô hình cân đối thanh toán tập trung chủ yếu vào hàng hóa và dịch vụ có thể giao dịch, bỏ qua vai trò ngày càng tăng của dòng vốn toàn cầu. Tiền không chỉ theo đuổi hàng hóa và dịch vụ, mà còn tập trung vào tài sản tài chính như cổ phiếu và trái phiếu. Dòng tiền này được tích vào mục tài khoản vốn của cân đối thanh toán, cân bằng thâm hụt trong tài khoản vãng lai. Tăng dòng vốn đã tạo ra mô hình thị trường tài sản một cách hiệu quả.
Mô hình thị trường tài sản
Sự gia tăng trong giao dịch tài sản tài chính (cổ phiếu và trái phiếu) đã đòi hỏi việc xem xét tác động của nó đối với tỷ giá hối đoái. Những biến số kinh tế như tăng trưởng kinh tế, lạm phát và năng suất không còn là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến biến động tiền tệ. Sự giao dịch ngoại hối phát sinh từ giao dịch tài sản tài chính đã lớn hơn giao dịch hàng hóa và dịch vụ.
Phương pháp thị trường tài sản coi đồng tiền như giá tài sản được giao dịch trên thị trường tài chính hiệu quả. Do đó, tiền tệ ngày càng tương quan mạnh mẽ với các thị trường khác, đặc biệt là cổ phiếu.
Giống như sàn giao dịch chứng khoán, người đầu tư và nhà đầu tư có thể kiếm được hoặc mất tiền thông qua giao dịch trên thị trường ngoại hối. Tiền tệ có thể giao dịch tại thị trường giá thực và thị trường tùy chọn ngoại hối. Thị trường giá thực đại diện cho tỷ giá hối đoái hiện tại, trong khi tùy chọn là các sản phẩm phái sinh của tỷ giá hối đoái.
Thao túng tỷ giá
Một quốc gia có thể có lợi thế trong thương mại quốc tế nếu nắm quyền kiểm soát thị trường đồng tiền của mình để duy trì giá trị thấp, thường thông qua ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối qua các hoạt động hoạt động thị trường mở, hoặc cản trở việc đổi ngoại tệ thành tiền trong nước. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã từng bị cáo buộc thường xuyên thao túng tỷ giá, đặc biệt là bởi Donald Trump trong chiến dịch tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ thành công của ông.
Các quốc gia khác như Iceland, Nhật Bản, Brazil, và các quốc gia khác cũng thường duy trì chính sách giữ giá trị đồng tiền thấp để giảm chi phí xuất khẩu và tăng cường nền kinh tế của họ. Tỷ giá thấp giúp giảm giá hàng hóa của quốc gia đối với người tiêu dùng ở các quốc gia khác, nhưng tăng giá hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu đối với người tiêu dùng trong quốc gia có đồng tiền giá trị thấp.
Nói chung, người xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thường ưa thích giá trị đồng tiền thấp hơn, trong khi người nhập khẩu thường ưa thích giá trị cao hơn.
Danh sách một số loại tiền nội tệ của các quốc gia trên thế giới theo tỷ giá hối đoái
tỷ giá hối đoái giữa các loại tiền nội tệ của các quốc gia so với đồng dollar Mỹ các năm 2009 và 2011 được cập nhật theo năm, lấy mốc ngày đầu tiên của mỗi năm (ngày 1 tháng 1).
Chú thích
Tiền tệ
Thị trường ngoại hối
Kinh tế học vĩ mô quốc tế
Tỉ suất
Sức mua |
Lance Edward Armstrong (phiên âm tiếng Việt: Len Am-xơ-trông, sinh 1971) là một cựu vận động viên đua xe đạp chuyên nghiệp nổi tiếng người Mỹ. Anh từng được biết đến như một vận động viên xe đạp đã phá kỷ lục giải Tour de France khi giành chiến thắng bảy lần liên tục sau khi vượt qua bệnh ung thư tinh hoàn, nhà sáng lập và chủ tịch của Tổ chức Lance Armstrong, một tổ chức nghiên cứu và hỗ trợ cho bệnh nhân ung thư. Tháng 10 năm 2012, Lance Armstrong bị phát hiện liên quan đến vụ bê bối doping và bị tước hết mọi danh hiệu vô địch và bị cấm thi đấu môn xe đạp suốt đời.
Tên khai sinh của anh là Lance Edward Gunderson, sinh ngày 18 tháng 9 năm 1971. Khởi nghiệp đua xe đạp vào năm 1990, Armstrong đã chuyển lên thi đấu chuyên nghiệp chỉ 1 năm sau đó. Tháng 10 năm 1996, anh được chẩn đoán là mắc ung thư tinh hoàn với một khối u đã di căn tới não và phổi và tiên lượng bệnh ban đầu xấu. Quá trình điều trị ung thư của anh bao gồm giải phẫu não và tinh hoàn, hóa trị kéo dài.
Mặc dù vậy, Armstrong vẫn tiếp tục thi đấu, và đến năm 1999, đã giành được chiếc áo vàng danh giá Tour de France lần đầu tiên và giữ được ngôi vị này trong 7 lần liên tục, được ghi nhận trong lịch sử bộ môn đua xe đạp đường trường là người duy nhất chiến thắng 7 lần liên tiếp, phá vỡ kỷ lục trước đó là giành chiến thắng 5 lần từng đạt bởi Miguel Indurain, Bernard Hinault, Eddy Merckx, và Jacques Anquetil.
Năm 1999, Armstrong được ABC Wide World of Sports gán danh hiệu là Vận động viên của năm. Năm 2000, anh giành Giải thưởng Hoàng tử xứ Asturias cho lĩnh vực thể thao. Năm 2002, tạp chí Sports Illustrated gọi anh là Nhà thể thao của năm. Anh cũng từng giành được danh hiệu Nam vận động viên của năm của Associated Press (Associated Press Male Athlete of the Year) cho các năm 2002 đến 2005. Anh nhận giải thưởng ESPY của ESPN cho Vận động viên xuất sắc nhất các năm từ 2003 đến 2006 và giành danh hiệu giải thường Nhân vật thể thao nước ngoài của BBC (BBC Sports Personality of the Year Overseas Personality) năm 2003. Armstrong tuyên bố giải nghệ ngày 24 tháng 7 năm 2005 khi Tour de France 2005 kết thúc nhưng trở lại thi đấu vào tháng 1 năm 2009 và về thứ 3 trong giải Tour de France 2009. Năm 2012, anh giúp thành lập UCI ProTeam Team RadioShack và tham gia lần cuối với lời khẳng định giải nghệ đua xe đạp ngày 16 tháng 2 năm 2011.
Tuy nhiên, sự nghiệp một đời của Armstrong bị xóa bỏ sau một bản cáo buộc của Ủy ban Phòng chống doping Hoa Kỳ (U.S. Anti-Doping Agency - USADA), kết tội Armstrong và các tay đua đội Bưu điện Mỹ đã thi đấu gian lận bằng cách sử dụng chất kích thích và tìm cách qua mặt các cuộc kiểm tra doping. Sau khi xem xét và đồng ý với các cáo buộc này, ngày 22 tháng 10 năm 2012, Liên đoàn xe đạp quốc tế đã ra phán quyết tước 7 danh hiệu vô địch Tour de France và cấm thi đấu suốt đời đối với Armstrong, đặt dấu chấm hết của cựu vận động viên đua xe đạp từng là tấm gương về nỗ lực tập luyện và thi đấu. |
Lý Đức, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1965 tại Sài Gòn, là vận động viên thể dục thể hình hạng cân 80 kg người Việt gốc Hoa nổi tiếng. Anh khởi đầu sự nghiệp năm 1984. Thành tích cao nhất của anh là xếp hạng 4 thế giới năm 1999. Anh đoạt huy chương vàng châu Á trong 5 năm liên tục (từ 1997 đến 2001), 4 huy chương vàng Đông Nam Á và huy chương vàng Đại hội Thể thao châu Á 2002 tại Busan. |
Tương phùng tương ngộ là tên một bài hát dân ca Quan họ Bắc Ninh. Bài hát không được biểu diễn nhiều ở buổi giao duyên của Quan họ nhưng làn điệu cổ này cũng được nhiều người yêu dân ca Quan họ biết đến. Bài hát nói về mối tương tư và mơ ước về tương lai của một người thanh niên (nam hoặc nữ) Quan họ. "Tương" có nghĩa là "cùng nhau, đối lẫn nhau", còn "phùng" nghĩa là "gặp". "Tương phùng" đồng nghĩa với "tương ngộ", nghĩa là gặp nhau.
Lời bài hát
Khi tương phùng là khi nay a tương ngộ
Xuôi i nên bộ văng vẳng tiếng tơ tình
Chiêm i bao lại lần chần là canh năm canh
Chiêm i bao lại lần chần là canh năm canh.
Bên i mạn oanh í ơ bên i mạn oanh,
Ngồi tựa ơ giăng thanh thương nhớ ơ sầu oanh, thương nhớ sầu oanh
Lẻ loi chim í nhạn hỡi bạn ơi tình ơi là
Em biết ơ đến bao giờ họp mặt là đôi sánh đôi
Tôi biết đến ơ bao giờ họp mặt là đôi sánh đôi.
Đôi í tình ta í ơ đôi i tình ta,
Tình đẹp i ì tình ta, nghĩa nặng í ì vào ra.
Xuôi nên hòa là duyên nay a bén lại, bén lại tính nghĩa tình
Trước í không phải sau đền nghĩa sinh ba sinh
Trước í không phải sau đền nghĩa sinh ba sinh.
Thông tin thêm
Trong dân gian Việt Nam có câu đối:
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,
Vô duyên đối diện bất tương phùng.
Nghĩa là:
Có duyên ngàn dặm xa vẫn gặp,
Không duyên thì đối mặt vẫn cách lòng. |
Trong cơ học cổ điển, nguyên lý tương đối Galileo Galilei phát biểu rằng, bằng các thí nghiệm cơ học thực hiện trên một hệ quy chiếu đang chuyển động thẳng đều với một hệ qui chiếu lấy làm mốc khác, người ta không thể phát hiện được hệ qui chiếu của mình đứng yên hay chuyển động thẳng đều so với hệ quy chiếu mốc. Ví dụ: trong một toa tàu chuyển động thẳng đều so với mặt đất, tất cả các thí nghiệm cơ học vẫn xảy ra đúng như khi chúng được thực hiện trên mặt đất.
Nói một cách khác, tất cả định luật cơ học là như nhau trong các hệ quy chiếu chuyển động thẳng đều so với nhau. Như vậy, chuyển động thẳng đều là chuyển động có tính tương đối.
Nguyên lý này lần đầu tiên được Galileo Galilei phát biểu vào năm 1632. Sau này Albert Einstein đã mở rộng nguyên lý này ra thành một tiên đề của lý thuyết tương đối.
Phép biến đổi Galileo
Phép biến đổi Galileo là cách xác định các đại lượng cơ học liên quan đến một vật thể trong một hệ quy chiếu chuyển động đều so với một hệ quy chiếu lấy mốc, khi các đại lượng này đã được biết ở trong hệ quy chiếu gốc.
Ví dụ
Xét hệ qui chiếu S' chuyển động với vận tốc v so với hệ S. Giả sử vật đứng yên đối với hệ S và có tọa độ là {x,y,z} trong Không gian Euclide 3 chiều. Ban đầu, tại thời điểm gốc tọa độ của hệ S và S' trùng nhau. Sau đó hệ S' di chuyển dọc theo trục với vận tốc . Như vậy tại thời điểm , các tọa độ của vật trong hai hệ qui chiếu liên hệ với nhau bởi hệ thức:
,
,
.
Giả sử trong hệ S' vật chịu tác dụng của lực F'. Theo định luật 2 Newton, phương trình chuyển động của hệ có dạng:
,
,
.
Sử dụng phép biến đổi Galieo ta được
,
,
.
Ta thấy các phương trình chuyển động của vật trong hệ qui chiếu S cũng giống hệt như trong hệ qui chiếu S'. Như vậy, định luật 2 Newton bất biến với phép biến đổi Galileo.
Tính chất
Phép biến đổi Galileo phù hợp với nguyên lý tương đối Galileo, các định luật của cơ học cổ điển là không thay đổi qua các biến đổi Galileo đồng thời như nhau trong các hệ quy chiếu chuyển động đều so với nhau. |
Trong khoa học máy tính, thuật toán sắp xếp theo cơ số là một thuật toán sắp xếp không so sánh. Thuật toán này được thực hiện dựa trên ý tưởng nếu một dãy số đã được sắp xếp hoàn chỉnh thì từng chữ số cũng sẽ được sắp xếp hoàn chỉnh dựa trên giá trị của các chữ số đó. Thuật toán này yêu cầu dãy cần được sắp xếp có thể so sánh thứ tự các vị trí vì thế sắp xếp theo cơ số không giới hạn ở tập số nguyên (ta có thể dễ dàng đưa dạng xâu về cơ số nhị phân).
Sắp xếp theo cơ số nhị phân
Trong bài này chỉ giới thiệu giải thuât Sắp xếp theo cơ số nhị phân.
Giả sử chúng ta cần sắp xếp danh sách , trong đó các phần tử là các số tự nhiên biểu diễn bằng 31 bit. Các bit được đánh số thứ tự từ phải sang trái bằng các số 0..30. Để đọc được bit thứ k của số tự nhiên x cần có một hàm GetBit(x,k). Hàm này có thể có sẵn trong ngôn ngữ lập trình, trong trường hợp không có sẵn nó có thể viết nhờ toán tử LShift (dịch trái) và toán tử AndBit. (Trong nhiều ngôn ngữ lập trình, từ khóa của toán tử AndBit trùng từ khóa với toán tử and theo nghĩa toán tử logic).
Function GetBit(Int: x,k)
Return LShift(x,k) AndBit 1.
Để sắp xếp (phân chia) danh sách theo bit thứ k của danh sách, ta tìm phần tử đầu tiên bên trái của danh sách có bit thứ k là 1 và phần tử đầu tiên bên phải có bit thứ k là 0 rồi đổi chỗ (Swap) cho nhau. Quá trình tiếp tục cho đến khi con trỏ hai đầu gặp nhau. Khi đó vị trí của hai con trỏ gặp nhau chia danh sách thành hai danh sách con: đanh sách đầu chứa các phần tử có bit thứ k bằng 0, danh sách sau chứa các phần tử có bit thứ k bằng 1.
Bằng lời giải đệ quy, tiếp tục phân chia các danh sách con này theo bit thứ k-1.. cho đến bit thứ 0.
Mã giả
Procedure RadixSort(list: a, int:s,e, k){
Var Int i:=s,j:=e
While i<j and k>=0 {
While GetBit(a[i],k)=0 do i:=i+1
While GetBit(a[j],k)=1 do j:=j-1
Swap(a[i],a[j])
}
If GetBit(a[i],k)=0 then i:=i+1
}
RadixSort(a,s,j,k-1)
RadixSort(a,j+1,s,k-1)
}
Lời gọi RadixSort(a,1,n,30) sẽ sắp xếp toàn bộ danh sách a[1..n].
Ví dụ
Xét ví dụ sau đây.
Các số trong danh sách đều có thể biểu diễn bằng số nhị phân 3 bit. Bảng sau đây cho biểu diễn nhị phân của từng số trong danh sách
Với k = 2 việc phân chia theo bit thứ 2 tiến hành đổi chỗ a[2]=6 cho a[7]=1, và phân chia danh sách a thành hai danh sách a[1..3] và a[4..7]
Sau đó thuật toán đưa danh sách a[4..7] vào stack và tiến hành phân chia danh sách a[1..3] theo bit thứ k = 1, bằng cách đổi chỗ a[1] = 2 cho a[2] = 1,thành a[1..1] và a[2..3]
Tiếp theo là phân chia danh sách a[2..3] theo bit thứ 0 thành a[2..2] và a[3..3]
Đến đây việc sắp xếp danh sách a[1..3] hoàn thành. Thuật toán tiếp lấy a[4..7] từ trong stack ra để sắp xếp theo cách phân chia như trên, lần lượt là quá trình phân chia như sau: |
Bán đảo Mã Lai (tiếng Mã Lai: Semenanjung Tanah Melayu) là một bán đảo lớn thuộc khu vực Đông Nam Á. Với trục chính gần như là theo hướng bắc-nam, bán đảo này cũng là điểm cực nam của châu Á đại lục. Khúc hẹp nhất của bán đảo là eo đất Kra. Dãy Titiwangsa tạo thành xương sống của bán đảo Mã Lai.
Các vùng nước ven biển (tính theo chiều kim đồng hồ từ phía đông bắc) là Vịnh Thái Lan, biển Đông (đối diện với Borneo), eo biển Johor (đối diện với Singapore), eo biển Malacca (đối diện với Sumatra) và biển Andaman.
Về mặt chính trị, bán đảo Mã Lai được chia cho ba quốc gia:
phần tây bắc bán đảo là lãnh thổ cực nam của Myanma
phần trung tâm và đông bắc thuộc miền nam Thái Lan
phần phía nam thuộc Malaysia được gọi là Malaysia bán đảo (không nên nhầm lẫn với bán đảo Mã Lai rộng hơn) hoặc Tây Malaysia.
Một thuật ngữ trong tiếng Mã Lai là Tanah Melayu được sử dụng trong một số văn bản nêu lên ước vọng hiệp nhất của tất cả các nhóm người Mã Lai trên bán đảo trong một quốc gia Mã Lai thống nhất. Giấc mộng này đã được thực hiện gần như trọn vẹn khi nước Malaysia thành lập. Tuy nhiên tại miền nam Thái Lan cư dân Mã Lai là một thiểu số đáng kể. Vùng này trước kia là Vương quốc Pattani, một vương quốc Mã Lai nhưng sau bị sáp nhập vào Thái Lan. Ngoài ra, cũng có nhiều người Mã Lai ở Singapore, một đảo quốc nay với đa số người Hoa mà Anh đã thuê lại của Vương quốc Hồi giáo Johor năm 1819 rồi sau độc lập.
Bờ biển phía tây của bán đảo đối diện với đảo Sumatra là khu vực tiếp nhận nhiều nhóm di dân như người Bugis, người Hán và người Ấn vì đây là điểm dừng chân trên chặng hải hành giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Hiện tượng này đã tạo nét văn hóa duyên hải pha trộn đặc biệt từ thế kỷ 19.
Người châu Âu thời cổ gọi bán đảo Mã Lai là Chersonesus Aurea. |
Malaysia bán đảo (tiếng Mã Lai: Semenanjung Malaysia) là phần lãnh thổ của Malaysia nằm trên bán đảo Mã Lai và chia sẻ biên giới bộ với Thái Lan ở phía bắc. Nó nối liền với đảo quốc Singapore ở phía nam thông qua đường đắp cao và cầu. Vượt qua eo biển Malacca về phía tây là đảo Sumatra thuộc Indonesia. Đông Malaysia (trên đảo Borneo) nằm ở phía đông, ngang qua biển Đông.
Trên lãnh thổ của bán đảo này có 11 bang và 2 vùng lãnh thổ liên bang của Malaysia (bắt đầu từ phía bắc tới phía nam):
Khu vực miền Bắc: Perlis, Kedah, Penang, Perak
Khu vực ven biển miền Đông: Kelantan, Terengganu, Pahang
Khu vực Trung tâm: Selangor, các vùng lãnh thổ liên bang là Kuala Lumpur và Putrajaya
Khu vực miền Nam: Negeri Sembilan, Malacca, Johor
Malaysia bán đảo còn được gọi là Tây Malaysia (Malaysia Barat) hay Malaya (Tanah Melayu). Thuật ngữ "Malaysia bán đảo" được sử dụng nhiều hơn thuật ngữ "Tây Malaysia" (để tránh ý tưởng là Tây và Đông Malaysia là hai quốc gia riêng biệt như trường hợp của Đông Đức và Tây Đức đã được sử dụng cho đến năm 1990) và cũng nhiều hơn thuật ngữ "Malaya" (hiện nay đã lỗi thời do các ý nghĩa của nó về thời kỳ thuộc địa của Anh). Tuy nhiên, cả ba thuật ngữ này đều chính xác, và thuật ngữ "Malaya" vẫn có thể tìm thấy trong nhiều tên gọi của các cơ quan, chẳng hạn Tòa án tối cao Malaya, Đại học Malaya, Đường sắt Malaya v.v. cũng như trong các ngữ cảnh pháp lý trong câu Negeri-negeri Tanah Melayu (Nhà nước Malaya). Lưu ý rằng cho tới tận năm 1946, thuật ngữ "Malaya" thông thường bao gồm cả Singapore.
Sự khác biệt giữa Tây và Đông Malaysia là đáng kể, ngoài vấn đề địa lý, chẳng hạn các khác biệt trong hệ thống pháp lý cũng như mức độ tự trị cao hơn của các bang (Sabah và Sarawak) thuộc Đông Malaysia hay việc duy trì các hạn chế đối với việc nhập cư từ các bang trên Malaysia bán đảo. |
Sắp xếp đếm phân phối là một phương pháp sắp xếp có độ phức tạp tuyến tính. Nó dựa trên giả thiết rằng, các khoá cần sắp xếp là các số tự nhiên giới hạn trong một khoảng nào đó, chẳng hạn từ 1 đến N.
Giải thuật sắp xếp đếm phân phối
Để đơn giản ta giả sử các phần tử của danh sách a[1..n] nhận các giá trị tự nhiên trong khoảng [1..M].
Sắp xếp đếm phân phối đầu tiên đếm các phần tử thuộc danh sách nhận giá trị k với 1 <= k <= M. Các giá trị đếm được ghi vào mảng Counter[1..M]. Sau đó khi duyệt theo k từ 1 đến M, ta lần lượt xếp Counter(k) phần tử của k vào danh sách a[1..n].
Cải tiến thuật toán sắp xếp đếm phân phối để có thể làm việc được với cả số âm (bằng cách xác định giá trị MIN của mảng cần sắp xếp, rồi trừ tất cả phần tử đi MIN trước khi vào "xử lý đếm vào mảng tạm", khi chép ngược từ mảng tạm vào mảng cần sắp, ta chỉ việc cộng thêm MIN vào khóa k (k=0 -> k->M, do viết trên ngôn ngữ pascal, nên chỉ số đầu của mảng là 0). Hàm viết bằng C++ như sau:// min, max lần lượt là GTLN và GTNN của mảng arr[] cần sắp xếp
void CountingSort(int arr[], int n, int mi, int mx)
{
int d = 0, cs = mx - mi;
// Mảng lưu kết quả đếm
int count[cs + 1];
// Khởi tạo giá trị của mỗi phần tử trong mảng đếm là 0
for(int i = 0; i <= cs; i++)
count[i] = 0;
// Xét số lần xuất hiện của các số trong mảng chính và gán vào mảng đếm
for(int i = 0; i < n; i++)
count[arr[i] - mi]++;
// Gán các giá trị của mảng đếm vào mảng chính, ở đây mảng chính đã được xét xong
// nên ta có thể viết đè được
for(int i = 0; i <= cs; i++)
if(count[i] > 0)
for(int j = 1; j <= count[i]; j++)
arr[d++] = i + mi;
} |
Nguyễn Cơ Thạch (1921 - 1998) (tên thật là Phạm Văn Cương) là một chính trị gia, nhà ngoại giao Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ), nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam.
Tiểu sử
Nguyễn Cơ Thạch tên khai sinh là Phạm Văn Cương, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1921 tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông tham gia Tổ chức Thanh niên Dân chủ rồi Thanh niên Phản đế tại Nam Định (1937–1939), bị thực dân Pháp bỏ tù tại Nam Định, Hòa Bình, Sơn La (1940-1945).
Năm 1943, trong nhà tù Sơn La, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ông lãnh đạo cướp chính quyền tại Nam Định (tháng 8 năm 1945).
Tháng 9 năm 1945 về công tác tại Bộ Quốc phòng, làm Bí thư cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp; sau đó giữ chức vụ Chánh Văn phòng Quân uỷ Trung ương, Bí thư đảng uỷ các cơ quan Bộ Quốc phòng và Tổng tư lệnh (1947–1949).
Sau đó ông chuyển sang công tác chính quyền và Đảng vụ, làm Phó Bí thư rồi Quyền Bí thư tỉnh uỷ kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Đông (tháng 5 năm 1949 – tháng 5 năm 1951); Ủy viên Đảng Đoàn và Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu 3, Bí thư Đảng ủy các cơ quan của Liên khu (1949–1954).
Hoạt động trong ngành Ngoại giao
Từ năm 1954, ông chuyển sang công tác trong ngành ngoại giao và lần lượt đảm nhiệm các chức vụ Chánh văn phòng Bộ Ngoại giao (1954–1956), Tổng lãnh sự nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Ấn Độ (1956–1960); Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và Ủy viên Đảng đoàn Bộ Ngoại giao (tháng 8 năm 1960 – tháng 5 năm 1979); Quyền Trưởng đoàn Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Genève về Lào (1961–1962); Thứ trưởng Bộ Ngoại giao phụ trách công tác đấu tranh chống Mỹ (từ 1964).
Ông là trợ lý cho Cố vấn Lê Đức Thọ trong đàm phán với Mỹ (1972–1973) đưa đến việc ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam; Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao các nước không liên kết tại Peru (1975); Đặc phái viên của Chính phủ thăm các nước Ả Rập, Tây Âu, Bắc Âu và ASEAN (1976–1980); Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao các nước không liên kết tại Colombo (Sri Lanka), New Delhi (Ấn Độ), Luanda (Angola) (1979–1986); Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam dự Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại New York (1979–1991).
Tháng 5 năm 1979, ông làm Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao (hàm Bộ trưởng), rồi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ tháng 1 năm 1980; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (tháng 2 năm 1987 – 1991).
Ông là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng từ tháng 12 năm 1976 đến 1991, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị từ năm 1982, Ủy viên chính thức Bộ Chính trị khoá VI (1986–1991), phụ trách Ban Đối ngoại Trung ương Đảng.
Ngày 29/9/1990, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã được cử đi thực hiện nhiệm vụ quan trọng là gặp gỡ Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ James Baker tại New York, bắt đầu việc đàm phán bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ.
Sau khi thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông tham gia nghiên cứu Tổng kết công tác ngoại giao, nghiên cứu kinh tế thế giới và chiến lược đối ngoại (tháng 10 năm 1991 – 1998).
Ông còn là đại biểu Quốc hội khoá VII (1981–1987) và khoá VIII (1987–1992).
Ông đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
Ông mất ngày 10 tháng 4 năm 1998 tại Hà Nội, hưởng thọ 77 tuổi.
Ngày 15 tháng 1 năm 2007, ông được Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Sao Vàng. Bà Phan Thị Phúc, vợ ông đại diện cho ông nhận phần thưởng này.
Gia đình
Vợ ông Phan Thị Phúc, tốt nghiệp Đại học Dược khoa (nay là Đại học Dược Hà Nội) bà từng làm trưởng khoa dược Bệnh viện hữu nghị Việt Đức sau đó chuyển sang công tác ở Bộ Ngoại giao. Bà là cháu gái ông Phan Tư Nghĩa Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. Ông bà kết hôn năm 1947. Trong các con của ông bà có con trai Phạm Bình Minh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ.
Nhận xét
Vinh danh
Từ tháng 8 năm 2008, tên của Nguyễn Cơ Thạch được đặt cho một con đường ở Hà Nội (lúc đó huyện Từ Liêm chưa tách thành 2 quận). Đường cắt ngang với đường Hồ Tùng Mậu, dẫn ra khu đô thị Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm. Đường Nguyễn Cơ Thạch nằm song song với đường Lê Đức Thọ. Từ tháng 10 năm 2016, tên của Nguyễn Cơ Thạch được đặt cho một con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đường trục Bắc Nam (R14), đoạn từ cầu Thủ Thiêm 1 đến cầu Thủ Thiêm 4, khu Đô thị mới Thủ Thiêm, thành phố Thủ Đức (Quận 2 cũ).
Chú thích |
Định lý số dư Trung Hoa (Định lý thặng dư Trung Hoa), hay bài toán Hàn Tín điểm binh, là một định lý nói về nghiệm của hệ phương trình đồng dư bậc nhất.
Lịch sử
Định lý số dư Trung Quốc là tên người phương Tây đặt cho định lý này. Người Trung Quốc gọi nó là bài toán Hàn Tín điểm binh. Hàn Tín là một danh tướng thời Hán Sở, từng được phong tước vương thời Hán Cao Tổ Lưu Bang đang dựng nghiệp. Sử ký Tư Mã Thiên viết rằng Hàn Tín là tướng trói gà không nổi, nhưng rất có tài quân sự. Tục truyền rằng khi Hàn Tín điểm quân số, ông cho quân lính xếp hàng 3, hàng 5, hàng 7 rồi báo cáo số dư. Từ đó ông tính chính xác quân số đến từng người: lấy số dư (khi chia) cho 3 nhân với 70, cộng số dư cho 5 nhân với 21, cộng số dư cho 7 nhân với 15, rồi cộng hoặc trừ một bội số của 105. Muốn cho dễ nhớ ông đặt thành thơ:
Bản dịch 1 của Hoàng Xuân Hãn:
“Ba người cùng đi ít bảy chục
Năm cỗi mai hoa hăm mốt cành
Thất tử đoàn viên chính bán nguyệt
Trừ trăm linh năm biết số thành”
Bản dịch 2 của Hoàng Xuân Hãn:
“Ba người cùng đi, ít bảy chục
Năm người cùng hàng, nhân hăm mốt
Bảy người cùng hàng, nhân mười lăm
Trừ trăm linh năm thì tính suốt”
Bản dịch khác (chưa rõ tác giả)
“Ba người cùng đội bảy mươi rành
Năm khóm hoa mai, hăm mốt cành
Bảy gã vườn đào chơi nửa tháng
Cộng hoặc trừ trăm linh năm tính nhẩm nhanh”
Gần đây, định lý số dư Trung Quốc có nhiều ứng dụng trong các bài toán về số nguyên lớn áp dụng vào Lý thuyết mật mã.
Nội dung
Bản chất của bài toán Hàn Tín điểm binh là việc giải hệ phương trình đồng dư bậc nhất
trong đó đôi một nguyên tố cùng nhau. Trong bài toán Hàn Tín và .
Định lý
Hệ phương trình đồng dư nói trên có nghiệm duy nhất theo mô-đun
là
trong đó
Trong đó
là nghịch đảo theo mô-đun của với
Ví dụ
Giải hệ phương trình đồng dư
ta có
.
;
;
.
Từ đó
.
Như vậy x có dạng , k là số nguyên (hoặc số tự nhiên thích hợp nếu tìm nghiệm tự nhiên). |
Dãy Titiwangsa (tiếng Malay: Banjaran Titiwangsa), hay còn gọi là Dãy núi Sankalakhiri (tiếng Thái Lan: ทิวเขาสันกาลาคีรี) ở Thái Lan, là một dãy núi tạo thành "xương sống" của bán đảo Mã Lai. Đầu phía Bắc của dãy núi nằm ở các tỉnh Pattani, Songkhla, Yala và Narathiwat, miền nam Thái Lan. Dãy Titiwangsa chạy gần như theo hướng đông nam và kết thúc ở phía nam gần Jelebu, Negeri Sembilan, Malaysia. Đỉnh cao nhất là Gunung Korbu với độ cao 2.183 m. Dãy núi này như là một sự phân chia tự nhiên Malaysia bán đảo thành hai khu vực bờ biển miền Đông và miền Tây.
Một số điểm đến dành cho du khách nổi tiếng của Malaysia như cao nguyên Cameron và vùng đồi Fraser nằm trên dãy núi này. |
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hà Văn Tấn (16 tháng 8 năm 1937 – 27 tháng 11 năm 2019) là một nhà sử học, khảo cổ học Việt Nam. Ông là một trong "tứ trụ" của nền sử học Việt Nam đương đại (Lâm, Lê, Tấn, Vượng).
Tiểu sử
Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1937, tại xã Tiên Điền (nay là thị trấn Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, trong một dòng họ có truyền thống khoa bảng. Dòng họ này có các danh nhân như thượng thư tiến sĩ Hà Tông Trình; nhà văn hóa tiến sĩ Hà Tôn Mục; phó bảng Hà Văn Đại là bác ruột của ông.
Những năm 1947 đến 1951, Hà Văn Tấn học ở trường huyện, luôn đứng đầu lớp, nổi tiếng thông minh, mẫn tiệp và lóe sáng sự thông thái ban đầu.
Sau khi hòa bình lập lại, Hà Văn Tấn đã ra Hà Nội để tiếp tục học lên. Do ra muộn không kịp thỉ vào Đại học Sư phạm như ý định, Hà Văn Tấn thi vào học lớp dự bị văn khoa và học luôn cả lớp PCB (lý - hóa - sinh) của đại học Y Dược. Không có học bổng, anh và một số bạn bè phải dạt ra vùng ven đô, làm nghề dạy thêm ở làng Kim Liên. Để có thể tiếp tục theo đuổi sự học, năm sau Hà Văn Tấn vào học khoa Sử Đại học Sư phạm (vì có học bổng), học gấp 2 năm qua ba lớp.
Năm 1957, Hà Văn Tấn đỗ tốt nghiệp cao và được giữ lại trường làm trợ lý giảng dạy khi vừa 20 tuổi. Chỉ trong mấy năm, bằng tự học anh đã trang bị cho mình cái vốn 7 ngoại ngữ (Hán, Pháp, Anh, Phạn...), là những cánh cửa mở ra những chân trời tri thức cổ kim đông tây và tiếp cận với nền học thuật hiện đại của thế giới.
Năm 1960, tác phẩm đầu tay cùa Hà Văn Tấn là hiệu đính và chú thích cuốn Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, do cụ Cử Phan Duy Tiếp dịch, được xuất bản khi anh mới 23 tuổi, đã bộc lộ tài năng và phong cách của nhà nghiên cứu trẻ. Bởi lẽ, để làm công việc này, một việc trước đây chưa ai làm, tác giả đã dẫn dụng, tức là phải đọc tới 30 bộ sách của tác giả Trung Quốc và 16 bộ sách Việt Nam mà tất cả lúc đó, trừ một cuốn, đều chưa có bản dịch.
Năm 1965, Hà Văn Tấn lại cho ra đời một công trình học thuật mới: công bố nội dung cột kinh Phật ở Hoa Lư ghi âm tiếng Phạn bằng chữ Hán sau khi đối chiếu, so sánh từ 16 dị bản đã có và khôi phục lại nguyên bản tiếng Phạn bản kinh “Phật đỉnh Tôn Thắng Đà la ni’’ soi sáng thêm những đặc trưng của Phật giáo Việt Nam.
Năm 1968, cuốn “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ 13’’ (viết chung với Trần Thị Tâm) được coi là một tuyệt tác về sử học và được giáo sư Hoàng Xuân Hãn hết sức khen ngợi.
Trong hành trình để trở thành một nhà thông thái, ngoài khảo cổ học và sử học, sự uyên bác của ông còn bao trùm nhiều lĩnh vực khác: lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam, Phật giáo (Viện phó Viện nghiên cứu Phật giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam), nhân chủng học, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn hóa học... khi ông còn rất trẻ và ở lĩnh vực nào Hà Văn Tấn cũng có những đóng góp đặc sắc.
Trong những năm 70, ông dành công sức cho việc nghiên cứu và công bố các nền văn hóa lớn ở Việt Nam thời tiền sử, từ thời đại đồ đá cũ đến đồ đồng và nhũng vẩn đề đặt ra cho khảo cổ học nước nhà. Đồng thời ông mở rộng sang lĩnh vực ngôn ngữ học về ngôn ngữ Tiền Việt - Mường và văn bản học liên quan đến văn bản Hán - Nôm. Trong thập kỷ 80, ngoài khảo cổ học, sử liệu học, Phật học, ông mở rộng đến các vấn đề tư tưởng, triết học, dân tộc học, văn hóa học. Trong những năm 90, ông lại dành nhiều công sức cho việc định hướng khảo cổ học, hoàn thiện những công trình lớn về Phật giáo, phương pháp luận sử học, trở thành chuyên gia hàng đầu về các lĩnh vực này.
Cuốn sách “Theo dấu các văn hóa cổ” của ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học. Qua đó tác giả đã đưa ra một bức tranh về sự tiếp nối khá liên tục của thời tiền sử Việt Nam trong bối cảnh châu Á và Đông Nạm Á, từ thời đại đồ đá đến đời nhà Đinh và đính chính những quan niệm sai lầm của các học giả phương Tây.
Tính đến năm 1997, khi ông đến 60 tuổi, có đến 230 công trình khoa học được công bố. Hà Văn Tấn còn được mời đi dự các hội nghị quốc tế về Khảo cổ học, Sử học, Phật học và được các học giả các nước nể trọng. Ông còn được mời đi giảng dạy tại Pháp, Mỹ và đầu năm 2001 được mời sang Paris để chấm bằng tiến sĩ. Cuối mùa xuân năm 2002, khi lâm bệnh nặng, ông vẫn cho ra đời cuốn sách có giá trị lớn “Chữ trên đá, chữ trên đồng - minh văn và lịch sử”, tập hợp những công trình mà anh tâm đắc và chỉ ra ý nghĩa quan trọng của chúng là “những sử liệu quan trọng, duy nhất và trực tiếp".
Cũng vào thời gian này một bộ sách 3 tập về khảo cổ học Việt Nam của Viện Khảo cổ do ông chủ biên đã ra đời trọn bộ. Đây là công trình đồ sộ, tổng quát về các thời đại đá và kim khí, thời tiền sử và sơ sử và khảo cổ học lịch sử. Tất cả gồm 1.298 trang khổ 18x24.
Là Viện trưởng Viện Khảo cổ học, ông đã đi khắp hầu hết các di tích khảo cổ học quan trọng cùa Việt Nam. Là một thành viên sáng lập ra khoa Khảo cổ học của Đại học Tổng hợp Hà Nội, năm 1982, Hà Văn Tấn đã đề xuất thành lập bộ môn Phương pháp luận sử học và trở thành chủ nhiệm bộ môn này, bắt đầu những bài giảng về phương pháp luận sử học, sử liệu học, triết học lịch sử, lịch sử sử học, văn bản học, khảo cổ học lý thuyết, các trường phái khảo cổ học, khảo cổ học Đông Nam Á...
Hơn 40 năm đứng trên bục giảng đại học, ông đã góp phần quan trọng đào tạo ra một đội ngũ hùng hậu gồm hàng ngàn nhà sử học và khảo cổ học của đất nước, trong đó đã trực tiếp hướng dẫn thành công 20 luận án phó tiến sĩ (nay là tỉến sĩ).
Ông được Nhà nước phong tặng học hàm Giáo sư (1980) và danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (1997); được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về khoa học; Huân chương Lao động hạng Nhất và hạng Ba.
Ông được các thế hệ giáo viên và sinh viên khoa lịch sử Đại học Tổng hợp Hà Nội phong là một trong tứ trụ "Lâm, Lê, Tấn, Vượng" của nền sử học Việt Nam đương đại; được người trong giới phong là Lê Quý Đôn của thế kỷ 20.
Ông qua đời ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại Hà Nội, hưởng thọ 82 tuổi.
Nói đến sự nghiệp khoa học và giảng dạy của Hà Văn Tấn, cần có một độ lùi về lịch sử. Chắc rằng sau đây nhiều thập kỷ cho đến cả thế kỷ sau, vị trí của Hà Văn Tấn càng sẽ được đánh giá xứng đáng và kỳ vĩ hơn.
Các tác phẩm
Dư địa chí: Giới thiệu, hiệu chính và chú thích. Nhà xuất bản Sử học, 1960; In lại trong "Nguyễn Trãi toàn tập". Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1969; tái bản 1976.
Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thủy ở Việt Nam (đồng tác giả với Giáo sư Trần Quốc Vượng)/ Nhà xuất bản Giáo dục,– H., 1960.
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập I (đồng tác giả với Giáo sư Trần Quốc Vượng)/Nhà xuất bản Giáo dục, 1960; tái bản 1963.
Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam (đồng tác giả với Giáo sư Trần Quốc Vượng). Nhà xuất bản Giáo dục, 1961.
Vấn đề người Indonesien và loại hình Indonesien trong thời đại nguyên thủy Việt Nam
Kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ 13 (cùng viết với Phạm Thị Tâm). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1968; tái bản: 1970, 1972, 1975.
Thuật ngữ sử học, dân tộc học, khảo cổ học Nga – Việt. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1970.
Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư
Cơ sở Khảo cổ học. Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1975.
"Óc Eo: Endogenous and Exogenous Elements", Viet Nam Social Sciences, 1 – 2 (7 – 8), 1986, pp. 91 – 101.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Hà Văn Tấn (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.
Triết học lịch sử hiện đại. Đại học Tổng hợp Hà Nội,1990.
Lịch sử Thanh Hóa (Chủ biên) Tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,–H. 1990.
History of Buddhism in Vietnam. Social Sciences Publishing House Hanoi 1992 (Viết Part Two: Buddism from the Ngo to the Tran dynaties.
Chùa Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1993.
Tư tưởng thời kỳ tiền sử và sơ sử // Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Khoa học Xã hội, 1993 (phần thứ nhất).
Buddism in Vietnam (Viết chung). The Gioi Publishers,1993.
Theo dấu các văn hoá cổ: Văn hoá Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt; Người Phùng Nguyên và đối xứng; Từ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng,...(Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1997, 851 trang)
Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1994.
Triết học ấn Độ cổ đại// Tập bài giảng Lịch sử Triết học, tập I. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1994.
Ứng dụng thống kê toán học trong khảo cổ học
Giáo trình toán xác suất thống kê trong khảo cổ học
Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam (chủ biên), tập II. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1996.
Theo dấu các văn hoá cổ. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1997.
Đình Việt Nam (viết chung). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
Văn hóa Sơn Vi, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999 (Hà Văn Tấn, Nguyễn Khắc Sử, Trình Năng Chung,)
Một số vấn đề lý luận sử học. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007 |
Thuật toán nhân lũy thừa bằng bình phương hoặc thuật toán bình phương và nhân là thuật toán tính nhanh lũy thừa tự nhiên của một số (thực hoặc nguyên), trong trường hợp cơ số là số nguyên có thể được rút gọn theo một môđun nào đó.
Phép nâng lên lũy thừa tự nhiên bậc n của số x (x được gọi là cơ số) được định nghĩa từ hệ thức
Với n lớn số phép nhân là rất lớn.
Ví dụ
Chẳng hạn với n=35 quá trình tính qua 35 bước:
Ta nhận xét rằng có thể giảm bớt số phép nhân chẳng hạn với dãy phép tính
,,
,
.
Công thức đệ quy
Quá trình tính toán trên chính là quá trình tính nhờ công thức đệ quy
Với n=0 thì
Với n>0 ta có công thức
Như vậy phép tính được quy về một số phép bình phương và phép nhân do vậy mà có tên gọi thuật toán bình phương và nhân.
Giải thuật đệ quy
Giải thuật sau tính đệ quy
Function Square_Multi (int x, n, m){
Var Int Power
If n=0 then return 1
Else {
n:=LShift(n,1)
Power:= Square_Multi (int x, n, m)
Power:=(Power^2) mod m
If n BitAnd 1 =0 then
Return Power
Else
Return (Power*x) mod m
}
}
Đoạn code viết bằng java:
public static int binhphuong (int x,int n,int m)
{
int p;
if (n==0) then return 1;
p=binhphuong(x,n/2,m);
if (n%2==0)
return (p*p)%m;
else
return (p*p*x)%m;
}
Chú ý rằng một số tự nhiên là chẵn hay lẻ chỉ phụ thuộc vào bít số 0 của nó nên trong giải thuật trên ta sử dụng toán tử AndBit để xác định tính chãn lẻ của n và sử dụng phép LShif để tính phần nguyên của n/2.
Giải thuật không đệ quy
Trong giải thuật đệ quy trên đây ta xét tính chẵn lẻ của n và liên tục chia n cho 2 lấy phần nguyên cho đến khi n=0. Thực chất quá trình này chính là tìm các bít của n. Do đó ta có thể thực hiện phép đổi ra số nhị phân trước sau đó tính lũy thừa theo quy tắc bình phương và nhân.
Giải thuật
Đổi n ra số nhị phân ghi vào mảng
Function Power_Modulo(Int x,n,m){
Var Int Power:=1
For i=1 to k do
Power:=(Power^2) mod m
If b[i]=1 then
Power:=(Power*x) mod m
Return Power
}
Ví dụ
Trong ví dụ sau ta tính .
Đổi ra số nhị phân ta được .
Bảng sau đây tính toán từng bước theo giá trị của các bít của .
Khởi tạo .
Như vậy ta có |
Trong vật lý và giải tích toán học, định luật Gauss là một ứng dụng của định lý Gauss cho các trường véctơ tuân theo luật bình phương nghịch đảo với khoảng cách.
Ví dụ, với trường vectơ cường độ điện trường hay lực hấp dẫn, định luật này đưa ra mối liên hệ giữa thông lượng của hai trường véc tơ này đi qua một mặt đóng với điện tích hay khối lượng bị bao phủ bởi mặt. Đối với trường hợp của điện trường, định luật này cũng là một trong bốn phương trình là nền tảng cho lý thuyết điện từ trường.
Định luật Gauss
Định luật Gauss về Điện trường
Dưới dạng tích phân, Mật độ Điện trường được viết như sau
Với
là thông lượng điện,
là điện trường,
là diện tích của một hình vuông vi phân trên mặt đóng S,
là điện tích được bao bởi mặt đó,
là mật độ điện tích tại một điểm trong ,
là hằng số điện của không gian tự do
là tích phân trên mặt S bao phủ thể tích V. |
Đàng Trong (塘中), hay Nam Hà (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh (Quảng Bình) trở vào Nam. Bắt đầu từ năm 1600, khi từ Bắc trở về Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã xây dựng một thế lực độc lập, điều này dẫn tới nội chiến chia cắt hai miền vào năm 1627, và các đời chúa Nguyễn tiếp sau ở thế đối đầu với thế lực chúa Trịnh (cho đến khi quân Tây Sơn đánh đổ cả 2 dòng chúa và thống nhất 2 miền). Tuy nhiên, các chúa Nguyễn vẫn công nhận Đàng Trong là 1 phần lãnh thổ của nước Đại Việt do vua Lê nắm quyền tối cao, họ tự coi mình là quan nhà Lê, thay mặt vua Lê cai trị vùng đất này mà thôi.
Chúa Nguyễn sử dụng tên "An Nam" trong các tài liệu, thư từ ngoại giao. Các tài liệu ngoại quốc đương thời gọi xứ Đàng Trong là Quảng Nam Quốc (廣南國), hay Canglan, Quinan (tiếng Hà Lan), Cochinchina (tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh) và Cocincina (tiếng Ý, Latinh).
Lịch sử
Nguồn gốc sâu xa của sự phân chia Đàng Trong-Đàng Ngoài phải kể từ sự kiện năm 1527, Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập nên nhà Mạc. Sự kiện giết vua đoạt quyền, dâng đất cầu lợi cho nhà Minh của Mạc Đăng Dung khiến lòng dân không phục.
Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, đáng chú ý nhất là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Kim, một tướng cũ của nhà Lê do không thần phục nhà Mạc đã chạy sang Lan Xang (Lào), được vua Sạ Đẩu cho lập bản doanh và tìm được Lê Ninh dòng dõi nhà Lê năm 1533, với danh nghĩa phù Lê các lực lượng khác tề tựu về Nguyễn Kim để diệt Mạc.
Năm 1543, quân của Nguyễn Kim đánh chiếm Tây Đô (Thanh Hoá). Hoạn quan nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng.
Năm 1545, Dương Chấp Nhất dâng dưa độc cho Nguyễn Kim, Kim ăn vào mà chết. Chấp Nhất bỏ trốn về nhà Mạc. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội và Trịnh Kiểm đã tìm cách loại trừ phe cánh của Nguyễn Kim.
Con trai đầu của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông bị ám hại, con trai thứ Nguyễn Hoàng lo sợ hoàn cảnh của mình đã tìm gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm để xin gợi ý. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mở lối đi mới, ảnh hưởng to lớn đến Việt Nam sau này bằng câu nói:
Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân
(sau này nhà Nguyễn sửa lại câu sấm thành:"Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" với hy vọng giữ được cơ nghiệp muôn đời)
Nguyễn Hoàng đã nhờ sự giúp đỡ của chị ruột Bảo Ngọc là vợ Trịnh Kiểm xin vào trấn thủ ở Thuận Hóa. Năm 1558, Nguyễn Hoàng đã cũng gia quyến, thân thuộc, tướng lĩnh đi vào Thuận Hóa.
Năm 1569, Nguyễn Hoàng ra Thanh Hóa yết kiến Lê Anh Tông, giúp Nam triều đánh nhà Mạc, rồi đến phủ Thái sư lạy mừng Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hài lòng, phong cho ông trấn thủ luôn đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn tướng quân kiêm quản cả xứ Quảng Nam.
Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh giành ngôi Chúa.
Năm 1593, Nguyễn Hoàng đưa quân ra Bắc Hà giúp Trịnh Tùng đánh dẹp họ Mạc trong 8 năm trời, rồi bị họ Trịnh lưu giữ lại do lo sợ sự cát cứ và thế lực lớn mạnh của ông.
Năm 1599, Nguyễn Hoàng nhân có nổi loạn chống lại với họ Trịnh ở cửa Đại An (thuộc Nam Định), ông xin Trịnh Tùng cho mình đánh dẹp, để người con thứ năm là Hải và cháu là Hắc làm con tin. Sau đó ông kéo quân theo đường hải đạo về Thuận Hoá.
Sau khi trở về, Nguyễn Hoàng đã quyết tâm xây dựng một thế lực độc lập, nhưng vẫn duy trì nộp thuế hàng năm cho chính quyền họ Trịnh vì biết rằng lực lượng quân sự chưa thể trực tiếp đối đầu. Ông lo phát triển cơ sở, mở mang bờ cõi, phòng bị quân Trịnh vào đánh phá.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời. Con là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay. Nguyễn Phúc Nguyên tiếp tục ý chí của cha, tăng cường sức mạnh kinh tế, quân sự, mở rộng lãnh thổ về phía Nam và khuyến khích di dân lập ấp.
Năm 1620, Chúa Phúc Nguyên ngừng nộp thuế cho chính quyền Lê-Trịnh đàng ngoài.
Năm 1627, Chúa Trịnh Tráng mới sai quan vào Thuận Hóa đòi tiền thuế từ ba năm về trước. Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) tiếp sứ nhưng không chịu nộp thuế. Chúa Trịnh lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ Chúa Sãi cho con ra chầu, và đòi nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa đi cống nhà Minh. Chúa Sãi không chịu.
Biết rằng họ Nguyễn ly khai, không chịu thần phục nữa, tháng 3 năm 1627, chúa Trịnh mang quân đi đánh họ Nguyễn. Sự kiện này đánh dấu sự chia tách hoàn toàn cả về lý thuyết và thực tế của xứ Thuận Quảng tức Đàng Trong của Chúa Nguyễn với Đàng Ngoài của Chúa Trịnh. Nó cũng tạo ra thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh kéo dài 45 năm, từ 1627 đến 1672, với 7 cuộc đại chiến của 2 bên. Dân tình quá khổ cực, chán nản, hai họ Trịnh, Nguyễn phải ngừng chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt lãnh thổ, miền Nam sông Gianh–Rào Nan thuộc quyền chúa Nguyễn, được gọi là Đàng Trong.
Chính trị, quân sự
Thời Nguyễn Hoàng, họ Nguyễn vẫn thần phục chính quyền Lê-Trịnh trong chính thể Đại Việt thống nhất.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng nhậm chức trấn thủ Thuận Hóa.
Năm 1569 kiêm nhận trấn thủ Quảng Nam.
Năm 1593, Nguyễn Hoàng đưa quân ra Bắc Hà giúp Trịnh Tùng đánh dẹp họ Mạc trong 8 năm trời rồi bị họ Trịnh lưu giữ lại do lo sợ sự cát cứ và thế lực lớn mạnh của ông.
Thế đối đầu Nam-Bắc triều chấm dứt khi Trịnh Tùng tiến chiếm được thành Thăng Long, và bắt giết được Mạc Mậu Hợp vào cuối năm 1592, họ Mạc chạy lên Cao Bằng.
Thời Nguyễn Phúc Nguyên bắt đầu xây dựng một vương triều độc lập ở Đàng Trong, từng bước ly khai khỏi chính quyền vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Thế đối đầu Đàng Trong- Đàng Ngoài bắt đầu hình thành.
Năm 1629, Chúa Sãi tạm nhận sắc phong từ Chúa Trịnh để dồn lực đối phó với quân Chăm Pa và lưu thủ Văn Phong làm phản. Tránh cuộc đối đầu từ cả hai phía Bắc- Nam. Năm 1630, Chúa Sãi đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại sắc cho vua Lê - chúa Trịnh.
Chúa Sãi cho xây gấp lũy Thầy để phòng bị những cuộc tấn công của quân Trịnh, lũy phòng thủ này đã ngăn chặn hiệu quả các cuộc tấn công từ Đàng Ngoài, tính hữu dụng của nó nhanh chóng được chứng minh qua cuộc tấn công tiếp theo năm 1633.
Sang các thời chúa Nguyễn sau tiếp tục củng cố chính quyền Đàng Trong và mở rộng lãnh thổ về phía nam. Sau nhiều cuộc tấn công, tới cuối thế kỷ 17, họ Nguyễn chinh phục lãnh thổ Chiêm Thành (vốn đã suy yếu từ cuộc tấn công của Lê Thánh Tông năm 1471).
Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương và Phú Xuân được gọi là Đô thành, nhưng vẫn dùng niên hiệu vua Lê và không đặt quốc hiệu riêng. Ông đúc ấn "quốc vương" thay cho các ấn "Thái phó quốc công" và "Tổng trấn tướng quân" của các đời trước.
Giai đoạn này người ngoại quốc đến giao thương với Việt Nam thường dùng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng lãnh thổ này.
Hành chính
Trị sở chính quyền đóng tại Chánh dinh. Chánh dinh di chuyển qua nhiều nơi và từ 1687 dời về Phú Xuân.
Các địa điểm đặt Chánh dinh của Chúa Nguyễn:
Ái Tử (1558 – 1570)
Trà Bát (1570-1600)
Dinh Cát (1600 – 1626)
Phước Yên (1626 – 1636)
Kim Long (1636 – 1687)
Phú Xuân lần thứ nhất (1687 – 1712)
Bác Vọng (1712 – 1738)
Phú Xuân lần hai (1738 -1775)
Từ khi ly khai Đàng Ngoài, Chúa Phước Nguyên đã tiến hành cải tổ lại bộ máy hành chính. Lãnh thổ được chia theo Thừa Tuyên hay Xứ, phân thành Chánh Dinh, Dinh ngoài. Dưới dinh là các phủ huyện.
Được chia ra 7 dinh: Chánh Dinh (Phú Xuân), Cựu Dinh (Ái Tử, Triệu Phong, Quảng Trị), Quảng Bình, Vũ Xá, Bố Chánh, Quảng Nam và Trấn Biên.
Mỗi dinh có thể coi như một tỉnh hiện nay. Hành chính có chức quan lưu thủ đứng đầu, quân sự thì có chức quan tuần thủ chỉ huy.
Khi xưng vương, Nguyễn Phước Khoát đổi ba ty thành Lục bộ gồm Lại bộ, Lễ bộ, Hộ bộ, Hình bộ, Công bộ, Binh bộ.
Ban đầu, Đàng Trong chỉ bao gồm 2 trong số 13 trấn của nước Đại Việt là Thuận Hóa và Quảng Nam (11 trấn còn lại do chúa Trịnh cai quản ở Đàng Ngoài). Đến giữa thế kỷ 18, khi Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, họ Nguyễn đã làm chủ vùng lãnh thổ từ Hoành Sơn đến Cà Mau hiện nay. Toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong được chia thành 12 dinh và 1 trấn.
Đàng Trong chia làm các dinh, trấn, năm 1744 có 12 dinh: (Bố Chính, Quảng Bình, Lưu Đồn, Cựu Dinh, Chánh Dinh, Quảng Nam, Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ) và 1 trấn (Hà Tiên). Mỗi dinh cai quản một phủ, dưới phủ có huyện, tổng, xã.
Giáo dục khoa cử
Vì Đàng Trong mới hình thành, Nho học tại đây chưa có vị trí sâu, rộng như ở Đàng Ngoài. Thời kỳ đầu, các chúa Nguyễn bổ nhiệm quan lại đều lấy con em quý tộc và theo sự tiến cử của quan lại địa phương. Nhưng do nhu cầu cần nhân tài cho bộ máy cai trị, các chúa Nguyễn đã từng bước xúc tiến việc học tập và thi cử.
Từ năm 1632, Nguyễn Phúc Nguyên thi hành chính sách duyệt tuyển: 3 năm một lần tuyển nhỏ, 6 năm một lần tuyển lớn. Năm 1646, chúa Nguyễn mở khoa thi Thu đầu tiên, gọi là Thu vi hội thí (Thi hội mùa thu). Từ đó định ra lệ thi 9 năm 1 lần, chia làm 2 khoa Chính đồ và Hoa văn.
Chúa Nguyễn Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi năm 1647, lấy 7 người trúng chính đồ, 24 người trúng hoa văn, đều được bổ dụng.
Định phép thi 9 năm một kỳ. Ra lệnh cho các học trò về khoa chính đồ và khoa hoa văn đều đến công phủ để ứng thi.
Chính đồ thi 3 ngày: Ngày thứ nhất thi tứ lục. Ngày thứ hai thi thơ phú. Ngày thứ 3 thi văn sách
Lấy văn chức, tri phủ, tri huyện làm sơ khảo; cai bạ, ký lục, nha úy làm giám khảo; nội tả, nội hữu, ngoại tả, ngoại hữu làm giám thí.
Người thi trúng thì làm danh sách đẻ tiến lên, định làm 3 hạng giáp, ất, bính.
Hạng giáp là giám sinh, bổ tri phủ tri huyện; hạng ất làm sinh đồ, bổ huấn đạo; hạng bính cũng làm sinh đồ, bổ lễ sinh hoặc cho làm nhiêu học mãn đại.
Hoa văn thi 3 ngày, mỗi ngày đều viết một bài thơ. Người trúng cũng chia làm 3 hạng, bổ làm việc ở ba ty Xá sai, Lệnh sử và Tướng thần lại và cho làm nhiêu học.
Năm 1660, Nguyễn Phúc Tần cho mở kỳ thi Hội, lấy đỗ 5 người thi Chính đồ và 15 người thi Hoa văn. Những người thi đỗ được vào Chánh dinh (Phú Xuân) thi Đình.
Thời Nguyễn Phúc Tần, thể lệ liên tục thay đổi, có sự hạn chế người đi thi. Sang thời Nguyễn Phúc Trăn, chính quyền phục hồi lại thể lệ hạn chế thi cử thời trước. Từ đó thi Nhiêu học mới được tiến hành đều đặn.
Năm 1740, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho định lại phép thi mùa Thu và quyền lợi của người đỗ. Năm 1768, Nguyễn Phúc Thuần cho mở kỳ thi Hương đầu tiên và cũng là khoa thi cuối cùng trong việc khoa cử ở Đàng Trong.
Kinh tế
Giai đoạn đầu Đàng Trong lãnh thổ là vùng Thuận Quảng chủ yếu là đồi núi đan xen với những đồng bằng nhỏ hẹp, cộng với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên dân cư thưa thớt. Chính quyền trung ương không quan tâm nhiều đến việc phát triển vùng biên giới, nó chỉ coi là vùng đệm với quốc gia phía Nam.
Kể từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Quảng, và có ý định gây dựng cơ đồ tại đây thì cuộc sống lưu dân mới bắt đầu có những thay đổi đáng kể, nó khuyến khích làn sóng dân di cư, khai phá mở rộng những vùng đất hoang, đặc biệt là mở rộng ngoại thương ở mức chưa từng có trong lịch sử.
Những chính sách ban đầu của Nguyễn Hoàng tạo điều kiện thuận lợi như năm 1597 cho lưu dân khai khẩn tại Phú Yên, năm 1608 xứ Thuận Quảng được mùa tạo ra làn sóng dân di cư, binh lính đầu hàng trong những trận chiến đều được vỗ về cho đi khai phá vùng đất mới.
Nguyễn Hoàng tạo sự bứt phá về ngoại thương khi cho hoạt động cảng thị Hội An, ông còn viết nhiều thư trao đổi, bàn bạc chuyện buôn bán với chính quyền Tokugawa (chính quyền quân sự ở Nhật Bản), cho phép người nước ngoài mở phố riêng.
Từ khi khai phá vùng Nam Bộ, các chúa Nguyễn có chính sách quan tâm đến nông nghiệp. Hàng loạt con sông và kênh được đào vét ở Thuận Quảng, điển hình như kênh Trung Đan và Mai Xá. Sang thế kỷ 18, những vùng đất hoang vu ở Nam Bộ đã trở thành ruộng phì nhiêu, ruộng tốt bậc nhất Đại Việt. Nghề nông Đàng Trong đã tạo ra 26 giống lúa nếp và 23 giống lúa tẻ.
Về cơ bản, Đàng Trong có những nét tương đồng trong phát triển thủ công nghiệp so với Đàng Ngoài. Do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây, thủ công nghiệp Đàng Trong không chỉ phát triển về quy mô mà còn xuất hiện nhiều ngành nghề mới như đóng tàu, thuyền, đúc súng, khai thác mỏ. Trong ngành khai thác mỏ, Đàng Trong không có nhiều tài nguyên khoáng sản như Đàng Ngoài, chỉ có một số mỏ sắt và mỏ vàng.
Nhiều đô thị ven biển, ven sông phát đạt, có quan hệ mậu dịch với các nước Đông Á, Đông Nam Á và một số nước phương Tây. Hội An, Thanh Hà (gần Huế), Gia Định và những đô thị và hải cảng nổi tiếng.
Cùng sự mở mang đất đai vào phía nam, các chợ cũng hình hành ngày càng nhiều vì nhu cầu trao đổi hàng hóa. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã dẫn đến sự hình thành các luồng buôn bán lưu thông hàng hóa giữa các vùng trong nước.
Dù bị các chúa Trịnh và chúa Nguyễn ngăn cấm, giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài vẫn có luồng buôn bán trao đổi không chính thức.
Đàng Trong sụp đổ
Từ giữa thế kỉ 18, chế độ chúa Nguyễn suy đồi, khởi nghĩa nông dân bùng nổ và cuối cùng phong trào Tây Sơn đã lật đổ chế độ chúa Nguyễn. Năm 1786, chấm dứt sự phân chia Đàng Trong-Đàng Ngoài.
Sau khi Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát chết, chính quyền họ Nguyễn rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Loan thao túng triều chính, tự xưng là "Quốc phó", giết Nguyễn Phúc Luân (cha Nguyễn Phúc Ánh) và lập Nguyễn Phúc Thuần, lúc đó mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định vương.
Năm 1769, vị vua mới của nước Xiêm là Taksin tức Trịnh Quốc Anh tung ra một cuộc chiến nhằm tìm cách lấy lại quyền kiểm soát nước Chân Lạp vốn chịu nhiều ảnh hưởng của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn buộc phải lùi bước khỏi những vùng đất mới chiếm.
Năm 1771, anh em Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu nổi dậy chống chúa Nguyễn. Năm 1773, Tây Sơn chiếm được Quy Nhơn. Do sự can thiệp của Đàng Ngoài, năm 1774 chúa Trịnh điều binh đánh chiếm Phú Xuân, chính quyền họ Nguyễn phải rút vào Nam Bộ.
Tây Sơn thần phục họ Trịnh và dồn sức tấn công họ Nguyễn. Năm 1777, hai chúa Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương bị Tây Sơn bắt giết. Nguyễn Ánh được dựng làm chúa để kế tục. Sau nhiều nỗ lực gây dựng lại cơ nghiệp không thành, kể cả việc cầu ngoại binh của Xiêm La (1784), Nguyễn Ánh bại trận phải chạy sang Xiêm lưu vong. Không lâu sau chính quyền họ Trịnh ở Đàng Ngoài cũng bị Tây Sơn tiêu diệt (1786), chính thể Đàng Ngoài và Đàng Trong chấm dứt.
Nguyên nhân
Chính sự họ Nguyễn ngay từ thời Nguyễn Phước Khoát đã gây những ảnh hưởng tiêu cực cho dân chúng. Hệ thống thuế khóa phức tạp, cồng kềnh, nặng nề, quan dưới lạm thu khiến dân phải nộp nhiều hơn quy định. Thuế thổ sản có tới hàng ngàn thứ, tính cả những sản vật nhỏ nhặt. Năm 1741, Phúc Khoát ra lệnh truy thu thuế của cả những người bỏ trốn. Tới năm 1765 lại có lệnh truy thu thuế còn thiếu của 10 năm trước
Sang thời Trương Phúc Loan nắm quyền, dân Đàng Trong càng bị bóc lột nặng nền hơn. Loan nổi tiếng là tham lam, vơ vét của công, mua quỵt của các thương nhân nước ngoài. Có đợt sau trận lụt, nhà Loan bày vàng ra phơi "sáng chóe" cả sân.
Thất bại trước những cuộc đụng độ với Xiêm La cộng với sưu thuế nặng nề cùng tình trạng tham nhũng tại địa phương khiến cho chính quyền họ Nguyễn đã yếu càng yếu thêm. Đó chính là thời cơ để ba anh em Tây Sơn bắt đầu khởi nghĩa chống lại chúa Nguyễn.
Ảnh hưởng lịch sử
Hai triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam là nhà Tây Sơn (1778–1802) và nhà Nguyễn (1802–1945) đều có điểm chung là các triều đại được thiết lập bởi những người sinh trưởng trên đất Đàng Trong ở thế kỷ 18. Nhà Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sáng lập. Còn nhà Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh, một hậu duệ trực hệ của các chúa Nguyễn (1558–1777), sáng lập sau khi đánh bại nhà Tây Sơn. Đây là 2 triều đại có nhiều điểm khác biệt so với các triều đại trước đó của người Việt. Họ về cơ bản lấy đất Đàng Trong làm thủ phủ cai trị mà không phải là Thăng Long như truyền thống. Họ cũng kiểm soát một lãnh thổ rộng lớn với biên độ phát triển của các vùng miền (về kinh tế, văn hóa, sắc tộc...) lớn hơn bất cứ triều đại nào từng đóng đô ở đất Bắc Hà. Một trong những đóng góp lớn nhất của 2 triều đại này với lịch sử dân tộc Việt Nam là đã nối tiếp nhau hoàn thành công cuộc thống nhất và đồng thời mở rộng lãnh thổ đất nước sau hàng trăm năm bị chia cắt bởi các cuộc tranh giành quyền lực giữa các thế lực lớn Mạc-Trịnh-Nguyễn kể từ khi nhà Lê sơ (1428–1527) sụp đổ.
Lịch sử hình thành và phát triển của nhiều đô thị trên dải đất miền Nam như Thanh Hà – Bao Vinh, Phú Xuân – Huế, Hội An, Mỹ Tho, Cù lao Phố (Nông Nại đại phố), Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định, Hà Tiên... đều cơ bản bắt nguồn từ thế kỷ 17 trở đi với những cuộc di dân lớn chủ yếu từ các vùng đất thuộc xứ Thanh, xứ Nghệ, Quảng Bình và cả miền Nam Trung Quốc sau khi nhà Thanh diệt nhà Minh (xem cụ thể ở bài viết về người Minh Hương). Với một khoảng thời gian trên dưới 200 năm (1600–1800), dải đất Đàng Trong cơ bản có một nhịp độ phát triển kinh tế-xã hội năng động hơn hẳn Đàng Ngoài. Cần nhớ rằng, bên cạnh đô thị truyền thống là kinh đô Thăng Long thì Đàng Ngoài chỉ phát triển được thêm một đô thị Phố Hiến mang vai trò là đô thị vệ tinh của Thăng Long. Trong khi đó ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn nhận biết rõ những ưu và nhược điểm của xứ mình nên dần hình thành tầm nhìn kinh tế năng động hơn hẳn các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và cả các vua nhà Nguyễn sau này. Bởi vậy với tư cách là những nhà cai trị thực quyền trên đất phương Nam (thay vì vua nhà Lê trung hưng), các chúa Nguyễn đã khôn ngoan đón nhận và tận dụng cộng đồng di dân vùng Hoa Nam (chủ yếu là những người Khách Gia, Phúc Kiến và Quảng Đông vốn đặc biệt năng động và thạo nghề kinh doanh) sau biến loạn cuối thời Minh để điều động họ khai phá và phát triển một loạt các đô thị năng động thương mại nối dài từ Hội An cho đến tận Hà Tiên ngày nay.
Sự hình thành của xứ Đàng Trong lúc đầu là một giải pháp tình thế, bất đắc dĩ, mang tính chất đối phó của hai đời chúa Nguyễn đầu tiên (Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên). Giải pháp mang tính "phản loạn, li khai" này nhằm mục đích trước tiên là bảo tồn lợi ích sống còn của dòng họ Nguyễn, khi họ Trịnh về thực quyền đã thay thế hoàn toàn họ Lê để cai trị cả miền Bắc Hà sau khi đánh bại nhà Mạc (1592). Tuy nhiên trải qua hàng trăm năm hình thành và phát triển, thì dải đất phương Nam thuộc xứ Đàng Trong cũ đã có ảnh hưởng không thể lường tính hết về mọi mặt với lịch sử Việt Nam từ thời trung-cận đại cho đến nay. Không phải đến thời Nguyễn Hoàng thì kế hoạch Nam tiến của người Việt (mà chủ yếu là của tầng lớp cai trị) mới trỗi dậy. Nhưng trước thời Nguyễn Hoàng, người Việt vẫn coi miền đất phương Nam, đặc biệt từ Quảng Trị trở vào, là một chốn "ác địa", nhiều bất trắc, phong thổ lạ lẫm và nhất là một quan hệ phức tạp trong lịch sử giữa 2 tộc người là người Việt và người Chăm. Việc họ Nguyễn đặt chế độ cai trị thực quyền trên dải đất này (mặc dù về danh nghĩa vẫn thần phục nhà Lê Trung Hưng) đã khích lệ những cuộc di dân lớn, không chỉ của người Việt từ Bắc bộ mà còn của một bộ phận không nhỏ người vùng Nam Trung Quốc sau cuộc chuyển giao quyền lực từ Hán tộc sang Mãn tộc vào năm 1644. Xứ Đàng Trong hình thành và phát triển cũng xóa bỏ thế phát triển mang tính thống trị của trung tâm truyền thống là vùng Đồng bằng Bắc bộ với vai trò độc tôn về mọi mặt của Thăng Long. Lịch sử phát triển của một số vùng kinh tế đồng bằng trù phú như Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long) dưới thời các chúa Nguyễn cũng cho thấy xu hướng chuyển dịch dần về phương Nam của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. Thậm chí cho tới ngày nay, ở những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 thì xu hướng "Nam tiến" của nguồn lực lao động từ các vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ vẫn đang diễn ra mạnh mẽ và áp đảo. Theo số liệu năm 2011, tổng dân số của vùng Đông Nam Bộ là 14.890.800 người (chiếm khoảng 17% dân số cả nước) trên một diện tích tự nhiên 23.597,9 km² (chiếm khoảng 7,5% diện tích cả nước), mật độ dân số là 631 người/km². Theo số liệu điều tra di cư nội địa quốc gia được Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) công bố tại Hà Nội ngày 16/12/2016 thì vùng Đông Nam Bộ là nơi có tỷ lệ dân di cư đến cao nhất cả nước. Diễn đàn Kinh tế Đông Nam Bộ thường niên trong năm 2017 tại Thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận rằng "vùng Đông Nam bộ chiếm khoảng 40% GDP, đóng góp gần 60% thu ngân sách quốc gia, GDP tính theo đầu người cao gần gấp 2,5 lần mức bình quân cả nước; có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất nước; tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng luôn cao hơn khoảng 1,4 lần đến 1,6 lần tốc độ tăng trưởng bình quân chung cả nước." |
Cây bao trùm (tiếng Anh: spanning tree), còn được gọi là cây khung, của đồ thị G là cây con của đồ thị G, chứa tất cả các đỉnh của G. Nói cách khác, cây bao trùm của một đồ thị G là một đồ thị con của G, chứa tất cả các đỉnh của G, liên thông và không có chu trình.
Cây bao trùm của đồ thị liên thông G cũng có thể định nghĩa như một đồ thị con không chu trình lớn nhất, hay một đồ thị con liên thông nhỏ nhất của G.
Mọi đồ thị liên thông đều có cây bao trùm.
Định lý (sự tồn tại của cây khung)
Mọi đồ thị liên thông đều có chứa ít nhất 1 cây khung (cây tối đại)
Số các cây bao trùm của một đồ thị liên thông
Gọi t(G) là số các cây bao trùm của đồ thị liên thông G. Trong một số trường hợp, số t(G) có thể tính trực tiếp.
Chẳng hạn nếu G là một cây, khi đó t(G)=1, còn khi G là một đồ thị vòng với n đỉnh thì t(G)=n.
Với đồ thị G bất kỳ, số t(G) có tính nhờ Định lý Kirchhoff.
Công thức Cayley là công thức cho số các cây bao trùm của đồ thị đầy đủ
với n đỉnh: .
Nếu G là đồ thị hai phía đầy đủ , thì , còn nếuG là đồ thị khối n-chiều
, thì .
Các công thức này rút ra từ lý thuyết các ma trận.
Nếu G là một đa đồ thị và e là một cạnh của G, thì số t(G) các cây bao trùm của G thỏa mãn quan hệ t(G)=t(G-e)+t(G/e) (deletion-contraction recurrence), trong đó G-e là đa đồ thị suy ra từ G bằng cách xóa đi cạnh e và G/e là đồ thị rút gọn cạnhe của G, trong đó các cạnh bội xuất hiện từ phép rút gọn này không bị xóa.
Thuật toán tìm cây bao trùm
Có thể tìm cây bao trùm bằng thuật toán tìm kiếm theo chiều rộng, hoặc thuật toán tìm kiếm theo chiều sâu.
Cây bao trùm nhỏ nhất
Nếu trên tập các cạnh của G có một hàm, được gọi là hàm trọng số, nhận giá trị thực (u,v), thì cây bao trùm có tổng trọng số trên các cạnh nhỏ nhất được gọi là cây bao trùm nhỏ nhất. Có nhiều thuật toán tìm cây bao trùm nhỏ nhất, chẳng hạn như thuật toán Prim, thuật toán Kruskal, thuật toán Borůvka. |
Đàng Ngoài (chữ Hán: 唐外) hay Bắc Hà (北河) các tài liệu phương Tây đương thời gọi xứ Đàng Ngoài là Tonkin (hay Tunquin, Tonqueen, Tonquin, Ton Kin...) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt kiểm soát bởi Chúa Trịnh, xác định từ sông Gianh (tỉnh Quảng Bình) trở ra Bắc. Kinh đô Đàng Ngoài là Đông Kinh (còn gọi là Kinh Kỳ hay Kẻ Chợ).
Lịch sử
Năm 1527, Mạc Đăng Dung phế bỏ triều Lê lập ra triều Mạc (1527 - 1592). Một tướng của nhà Lê là Nguyễn Kim tập hợp lực lượng chống Mạc ở Thanh Hoá nhằm khôi phục triều Lê; năm 1533, lập Lê Trang Tông lên làm vua. Năm 1545, Nguyễn Kim chết, binh quyền giao cho con rể là Trịnh Kiểm. Năm 1592, con Trịnh Kiểm là Trịnh Tùng đánh bại triều Mạc, chiếm lại kinh thành Thăng Long, cùng con cháu họ Trịnh kế tục xưng vương, nhân dân thường gọi là chúa Trịnh. Thực quyền nằm trong tay chúa Trịnh, còn vua Lê chỉ là danh nghĩa. Phạm vi thống trị của vua Lê - chúa Trịnh chỉ còn từ sông Gianh trở ra Bắc vì phía nam do Nguyễn Hoàng, con trai của Nguyễn Kim, và con cháu họ Nguyễn chiếm giữ, nhân dân cũng gọi là chúa Nguyễn.
Hai bên Trịnh-Nguyễn thường xuyên giao chiến, trong gần nửa thế kỷ từ 1627 đến 1672, hai bên đánh nhau 7 lần mà không có kết quả. Hai họ Trịnh, Nguyễn phải ngừng chiến tranh, lấy sông Gianh giới tuyến hai miền, phía bắc sông Gianh thuộc quyền vua Lê - chúa Trịnh gọi là Đàng Ngoài hay Bắc Hà (có kinh đô là Đông Kinh nên người phương Tây gọi là Tonquin hay Tonkin), phía nam sông Gianh thuộc chúa Nguyễn gọi là Đàng Trong hay Nam Hà.
Chính trị, quân sự
Năm 1600, Trịnh Tùng được phong vương, chính thức trở thành chúa. Họ Trịnh được hưởng quyền thế tập (cha truyền con nối). Từ đây họ Trịnh lập ra hệ thống tổ chức chính quyền ở phủ chúa tương ứng với chính quyền có sẵn bên cung vua.
Nắm thực quyền điều hành triều đình, các chúa Trịnh đồng thời định đoạt các chính sách đời sống xã hội, khống chế triều đình nhà Lê. Một số vị vua Lê hoặc tông thất nhà Lê có ý định chống lại họ Trịnh để giành lại quyền bính như Lê Kính Tông, Lê Duy Mật, Lê Duy Vĩ đều thất bại và bị giết.
Chính quyền Lê-Trịnh không có cơ sở vững chắc trong dân lại phải thường xuyên đương đầu với sự uy hiếp từ nhiều phía nên các chúa Trịnh đã sớm có ý thức hình thành một lực lượng quân đội thường trực đủ mạnh để tự vệ. Từ năm 1600, Trịnh Tùng chia quân đội làm hai loại: quân thường trực và ngoại binh.
Bên cạnh cuộc chiến chống họ Nguyễn phía nam từ năm 1627 đến 1672, họ Trịnh phải đối phó với tàn dư họ Mạc ở Cao Bằng tới năm 1677 và các chúa Bầu ở Tuyên Quang tới năm 1689.
Kể từ giữa thế kỷ 18, do phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài, chúa Trịnh còn huy động thêm nhiều dân đinh các làng xã, phiên chế thành đội ngũ gọi là hương binh, phủ binh. Trong số các cuộc khởi nghĩa nông dân, mạnh nhất là các cuộc nổi dậy của quận He, quận Hẻo, Lê Duy Mật, Hoàng Công Chất. Các cuộc khởi nghĩa này cuối cùng bị dẹp năm 1770.
Sau khi dẹp yên các cuộc khởi nghĩa nông dân, nhân Đàng Trong có phong trào nổi dậy của anh em Tây Sơn, Trịnh Sâm điều quân vượt sông Gianh đánh Thuận Hóa. Đầu năm 1775 quân Trịnh chiếm được Phú Xuân, mở rộng bờ cõi Bắc Hà lần đầu tiên tới vùng đất Thuận Hóa mà trong 7 lần tranh chiến trong thế kỷ 17 chưa bao giờ họ Trịnh tiến đến được.
Hành chính
Trịnh Tùng bãi bỏ chức Tả, Hữu thừa tướng và Bình chương của thời trước, đặt ra chức Tham tụng làm việc Tể tướng và chức Bồi tụng đảm đương trọng trách trong phủ Chúa. Dưới Tham tụng và Bồi tụng, chúa Trịnh đặt thêm các Phiên, tương đương với các Bộ bên cung vua. Tuy nhiên thời Trịnh Tùng chỉ có 3 Phiên, phải tới năm 1718 Trịnh Cương mới đặt thêm 3 Phiên nữa, từ đó mới đầy đủ 6 Phiên tương đương 6 Bộ của triều đình vua Lê là Binh phiên, Hộ phiên, Lại phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên.
Tại các địa phương, Đàng Ngoài chia làm 11 trấn, sau chia lập thêm 2 trấn thành 12 trấn (Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa, An Quảng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An), và 1 phủ là phủ Phụng Thiên là vùng kinh thành.
Đứng đầu các trấn là các cơ quan Trấn ty, Thừa ty và Hiến ty. Đứng đầu cơ quan Trấn ty là quan Trấn thủ, Đốc trấn và Lưu thủ. Các trấn gần thì đặt chức Trấn thủ nhưng các trấn xa thì đặt chức Đốc trấn.
Giáo dục khoa cử
Các chúa Trịnh cho duy trì hệ thống trường học từ trung ương đến địa phương vốn có từ thời Lê Sơ. Sang đầu thế kỷ 18, triều đình chú trọng hơn đến việc hỗ trợ vật chất cho trường học các địa phương. Năm 1723, triều đình ban hành quy định cấp ruộng cho các trường học, gọi là học điền theo các mức: trường Quốc học 60 mẫu, trường Hương học 16 - 20 mẫu tùy vào quy mô từ nhỏ đến lớn. Hoa lợi từ ruộng được mang chi dùng vào việc đèn dầu trong học tập.
Năm 1595 khi mới trở về Thăng Long, nhà Lê trung hưng tổ chức kỳ thi Hội cho các cống sĩ ở bờ sông Nhị Hà và sau đó thi Đình, lấy đỗ Tiến sĩ xuất thân và Đồng tiến sĩ xuất thân.
Sang thế kỷ 17, thể lệ thi cử được chỉnh đốn quy củ hơn. Tuy nhiên, theo đánh giá của Lịch triều hiến chương loại chí, việc thi cử thời Lê trung hưng không còn giữ được sự nghiêm túc như thời Lê Thánh Tông.
Từ sau năm 1750, do loạn lạc, tư tưởng Nho giáo cũng suy, việc học hành và thi cử suy kém đi. Quy chế thi cử càng suy đồi, mất kỷ cương. Trong trường thi, việc trông coi cũng thả lỏng nên xảy ra hiện tượng quay cóp bài và mượn người khác vào thi hộ. Những tệ nạn đó diễn ra công khai làm trường thi rất lộn xộn.
Kinh tế
Nông nghiệp
Kể từ khi đánh bại nhà Mạc, làm chủ vùng Bắc bộ, chính quyền Lê-Trịnh đã có nhiều cố gắng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất nông nghiệp. Đối với việc thủy lợi, triều đình Lê-Trịnh cũng quan tâm. Khi thời tiết hạn hán nặng, triều đình cử quan xuống các đạo xem xét và sai làm xe tát nước để chống hạn. Việc tuần tra, sửa chữa đê điều cũng thực hiện thường xuyên.
Vì thiếu đất nên mỗi người chỉ được một miếng đất nhỏ, người nông dân phải xen canh tăng vụ, tận dụng tối đa mảnh đất, mỗi năm thường thu hoạch 2-3 vụ. Kỹ thuật sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng đạt trình độ khá cao. Phương pháp cày cấy chủ yếu dựa vào sức người, nông cụ giản đơn như liềm, cuốc, cày, bừa, hái.
Do chính sách khuyến nông và sức lao động chăm chỉ của người dân, đến đầu thế kỷ 18, nông nghiệp Đàng Ngoài có những tiến bộ đáng kể. Những năm không gặp phải thiên tai, lụt lội, nhiều năm được mùa.
Thủ công nghiệp
Ngoài những nghề truyền thống nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt như thợ đá, thợ sơn, thợ mộc, thợ rèn, thợ nề... như trước, còn có những ngành nghề phục vụ mục đích quân sự, chính trị mới như đóng tàu, đúc súng đạn. Đàng Ngoài có tài nguyên phong phú, tập trung chủ yếu ở vùng trung du phía bắc, gần biên giới với nhà Thanh.
Do ảnh hưởng của nội chiến kéo dài, sang thế kỷ 18 việc khai thác mỏ mới được xúc tiến mạnh và quản lý chặt chẽ. Đồng thời, triều đình kiểm soát nghiêm việc mua bán các loại khoáng sản, nhất là đồng, chì và thiếc, những kim loại cần cho việc chế tạo vũ khí. Phương thức khai thác mỏ thời kỳ này vẫn mang tính thủ công: quặng đào lên bằng công cụ thô sơ rồi đãi và nấu trong lò nổi thô sơ.
Thương mại
Kinh tế hàng hoá phát triển khá mạnh trong thế kỉ 17, nhiều đô thị phồn thịnh, tiêu biểu là Thăng Long (Hà Nội) và Phố Hiến (Hưng Yên), quan hệ buôn bán với nước ngoài được mở rộng. Chợ là trung tâm kinh tế của nông thôn, là nơi trao đổi hàng hóa của một xã hay một làng. Tại đây người nông dân và thợ thủ công mang sản phẩm mình sản xuất được như lương thực, thực phẩm, công cụ lao động, đồ dùng gia đình… ra chợ để mua bán, trao đổi. Dù bị các chúa Trịnh và chúa Nguyễn ngăn cấm, giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài vẫn có luồng buôn bán trao đổi không chính thức.
Khác với thời Lê Sơ thực hiện chính sách đóng cửa đối với ngoại thương, các chúa Trịnh thực thi chính sách mở cửa với nước ngoài. Ngoài những đối tác truyền thống từ phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, thời kỳ này đã có thêm các đối tác từ phương Tây như Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan.
Chấm dứt
Tận dụng biến cố từ phong trào Nhà Tây Sơn ở Đàng Trong, họ Trịnh mở bờ cõi Bắc Hà tới Thuận Hóa năm 1775. Sau khi đánh bại được quân Tây Sơn tại trận Cẩm Sa (Quảng Nam) rồi thu hàng Tây Sơn, nhận Tây Sơn làm tiên phong đi đánh chúa Nguyễn, chúa Trịnh lo hưởng lạc không chú trọng việc phòng bị. Ngay cả khi Nguyễn Nhạc giết được hai chúa Nguyễn rồi tự xưng làm vua Thái Đức (1778), họ Trịnh vì Quảng Nam xa xôi hiểm trở và ngại dùng binh nên không hỏi đến.
Sau khi Trịnh Sâm qua đời (1782), hai con là Trịnh Tông và Trịnh Cán tranh giành quyền lực. Cuối cùng Trịnh Tông giết phụ chính Hoàng Đình Bảo, lật đổ Trịnh Cán giành ngôi. Thủ hạ của Đình Bảo là Nguyễn Hữu Chỉnh vào nam đầu hàng quân đội nhà Tây Sơn. Chính quyền Trịnh Tông không ổn định được Bắc Hà, ngày càng suy yếu.
Năm 1786, sau khi đánh bật Chúa Nguyễn Nguyễn Ánh ra khỏi Đại Việt, quân đội nhà Tây Sơn tiến ra Miền Bắc Việt Nam đánh quân đội nhà Chúa Trịnh với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh" theo đề nghị của Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân đội nhà Chúa Trịnh lâu ngày không chiến đấu, chủ tướng trấn thủ Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu không chú trọng việc binh nên thành Phú Xuân nhanh chóng thất thủ.
Sang tháng 7 năm 1786, quân đội nhà Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến ra Miền Bắc Việt Nam ngày ấy. Quân Trịnh rệu rã liên tiếp thất bại. Trịnh Tông chạy trốn khỏi kinh thành, bị bắt đã tự sát trên đường bị áp giải.
Dòng họ Chúa Trịnh bị tiêu diệt, chính thể Đàng Ngoài chấm dứt tồn tại. Khi Quân đội nhà Tây Sơn rút về Miền Nam Việt Nam trả lại chính thể cho vua Lê, lực lượng dòng họ nhà Chúa Trịnh còn cố gắng tái lập nhưng không thành công. Chính thể của vua Lê sau đó mâu thuẫn với quân đội nhà Tây Sơn, vua Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh sang giúp nhưng trận Ngọc Hồi-Đống Đa nhưng quân đội nhà Thanh thất bại nặng nè và nhà Hậu Lê chấm dứt tồn tại năm 1789.
Tài liệu đương thời về xứ Đàng Ngoài
Người bản địa
Lê Hữu Trác/Hải Thượng Lãn Ông (1720–1791)
Lê Quý Đôn (1726–1784)
Ngô Thì Sĩ (1726–1780)
Phạm Đình Hổ (1768–1839)
Người ngoại quốc
Alexandre de Rhodes/A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ (1591–1660), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài. (Bản Việt ngữ của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên được Công ty Sách Dân Trí xuất bản năm 2016) |
Bắc Hà có thể là:
Địa danh
Đàng Ngoài: vùng lãnh thổ phía bắc sông Gianh vào thế kỷ 17 và thế kỷ 18 do chúa Trịnh kiểm soát; cách gọi "sĩ phu Bắc Hà" còn được dùng cho tới đầu thế kỷ 19
Huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai
Phường Bắc Hà, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
Thị trấn Bắc Hà, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai
Cao nguyên Bắc Hà: một cao nguyên nằm trên địa bàn hai tỉnh Lào Cai và Hà Giang
Tên gọi một phủ thuộc trấn Kinh Bắc xưa.
Khác
Trường Đại học Quốc tế Bắc Hà |
Bắc Thành () là một danh xưng dùng để chỉ một đơn vị hành chính cấp cao đầu đời nhà Nguyễn, quản lý 11 trấn (tương đương cấp tỉnh ngày nay) ở phía bắc Việt Nam. Đơn vị này được vua Gia Long đặt ra từ năm 1802, được sử dụng cho đến năm 1831, dưới triều vua Minh Mạng thì bị bãi bỏ.
Lãnh thổ
Vùng lãnh thổ của Bắc Thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn), tính từ khu vực Ninh Bình trở lên phía bắc. Các trấn của Bắc Thành bao gồm:
Nội trấn:
Gồm các trấn đồng bằng và nằm trong nội địa.
Sơn Nam Thượng
Sơn Nam Hạ
Sơn Tây
Kinh Bắc
Hải Dương
Ngoại trấn:
Gồm các trấn miền núi và giáp với Trung Quốc.
Tuyên Quang
Hưng Hóa
Cao Bằng
Lạng Sơn
Thái Nguyên
Quảng Yên
Chức quan cai trị
Lỵ sở của Bắc Thành ban đầu được đặt trong khu vực thành Thăng Long cũ, vốn gần như bị phá hủy bởi chiến tranh và nội loạn, năm 1803 thì chuyển về thành sở mới.
Tổng trấn
Nguyễn Văn Thành (1802-1806)
Trương Tấn Bửu (1806-1810)
Nguyễn Huỳnh Đức (1810-1816)
Lê Chất (1819-1826)
Hiệp Tổng trấn
Lê Chất (1810-1819)
Nguyễn Hữu Thận (1826-?)
Phó Tổng trấn
Phạm Như Đăng (1810?-?)
Trương Phúc Đăng |
Lì xì (tiếng Hán: 利事 / 利市 / 利是) hay Hồng bao (tiếng Hán: 紅包) là một tên gọi của tục lệ người lớn hơn mừng tuổi trẻ em trong dịp Tết Nguyên Đán ở các nước Á Đông, đó là lệ đặt tiền vào chiếc phong bì nhỏ có trang trí màu đỏ hoặc vàng son rực rỡ để mừng tuổi trẻ em. Trong phương ngữ miền Nam của tiếng Việt, tiền ấy được gọi là tiền lì xì. Ngày nay người ta thường chuyển khoản bên cạnh việc sử dụng Hồng bao như trước đây.
Từ nguyên
Theo tác giả Hạo-nhiên Nghiêm Toản <ref>Hạo-nhiên NGHIÊM TOẢN, PHIẾM LUẬN NHÂN TÌM NGHĨA HAI CHỮ "LÌ XÌ", Đặc san Xuân Danh-từ chuyên-môn số 9 tháng 1 năm 1975.</ref>, "lì xì" có gốc là từ 利市 (lợi thị) trong tiếng Trung. Từ này phiên âm kiểu pinyin là lì shì, có ba nghĩa như sau:
Số lời thu được do mua bán mà ra;
Tốt lành, có lợi. Tháng Chạp ngày 24, khắp thị tỉnh (nhà quê, kẻ chợ) đều làm lễ rước Na (để khu trừ quỷ dữ), trống (rước) Na đến khắp mọi nhà cầu xin Lợi-thị (Theo Đông-kinh mộng-hoa-lục). - Khi người phụ nữ lấy chồng về đến cửa, mọi người đi theo cũng như người nhà đều xin Lợi-thị (hoặc đồ vật, hoặc là tiền);
Vận tốt, vận may. Sách "Bắc-mộng-tỏa-ngôn" rằng: "Khi Hạ-hầu Tư chưa gặp thời, còn luân lạc linh đinh, người ta gọi Tư là viên Tú-tài chẳng Lợi-thị";
Trong cả ba trường hợp, "lợi-thị" hay "lì-xì', đều có nghĩa là được lợi, được tiền, được may mắn. Tác giả Hạo-nhiên khẳng định rằng tiền Lì-xì, mừng tuổi, chính là thứ tiền đem lại cái hên, điều lành, điều tốt, cho trẻ em dịp đầu xuân.
Tuy nhiên, giả thuyết rằng chữ Lì-xì là hai chữ Hán-Việt "lợi thị"(利是) đọc theo âm Quảng Đông được chấp nhận rộng rãi. Phong tục tặng phong bao bằng giấy điều trong đựng tiền cũng có ở Trung Quốc. Trong tiếng Quan Thoại, tục này được gọi là 紅包 ("hồng bao"), trong tiếng Quảng Đông là 利是 (lợi thị), 利市 (lợi thị) hoặc 利事 (lợi sự'').
Ở Trung Quốc và các cộng đồng người Hoa, tục lệ lì xì không chỉ có trong Tết Nguyên Đán mà còn trong nhiều dịp khác, và cũng không chỉ dành cho trẻ em. Chẳng hạn trong phong tục cưới hỏi, gia chủ thường tặng lì xì cho đội bưng quả (bê tráp), hoặc trong ngày khai trương, sinh nhật..., chủ nhân cũng tặng lì xì cho khách. |
Lưu vực là phần diện tích bề mặt đất trong tự nhiên mà mọi lượng nước mưa khi rơi xuống sẽ tập trung lại và thoát vào một lối thoát thông thường, chẳng hạn như vào sông, vịnh hoặc các phần nước khác. Các lưu vực thoát nước bao gồm tất cả các nước bề mặt từ dòng chảy mưa, tuyết, và các dòng suối gần đó chạy theo hướng dốc về phía lối thoát chung, cũng như nước ngầm dưới bề mặt Trái Đất. Các lưu vực thoát nước kết nối với các lưu vực thoát nước khác ở độ cao thấp theo mô hình phân cấp, với các bể chứa nhỏ hơn, và lần lượt đổ vào một khe thông thường khác.
Các thuật ngữ khác dùng để mô tả các lưu vực tiêu là lưu vực, lưu vực lưu vực, khu vực thoát nước, lưu vực sông và lưu vực sông. Ở Bắc Mỹ, thuật ngữ "đầu nguồn" thường được sử dụng để chỉ một lưu vực thoát nước, mặc dù ở các nước nói tiếng Anh khác, nó chỉ được sử dụng theo ý nghĩa ban đầu của nó, có nghĩa là sự phân chia nước, một sườn núi ngăn cách các lưu vực thoát nước liền kề.
Trong các lưu vực thoát nước khép kín ("endorheic"), nước hội tụ đến một điểm duy nhất bên trong lưu vực, được biết đến như một bồn rửa chén, có thể là một hồ nước lâu dài, một hồ khô hoặc một điểm mà nước ngầm bị mất dưới lòng đất.
Lưu vực thoát nước hoạt động như một kênh bằng cách thu thập tất cả các nước trong khu vực bao phủ bởi lưu vực và chuyển nó đến một điểm duy nhất. Mỗi lưu vực thoát nước được tách riêng topograph từ các lưu vực lân cận bằng chu vi, phân chia nước thải, tạo thành một loạt các đặc điểm địa lý cao hơn (như núi, đồi hoặc núi) tạo thành hàng rào.
Các lưu vực thoát nước tương tự nhau nhưng không giống với các đơn vị thủy văn, là những khu vực thoát nước được khoanh để làm tổ trong một hệ thống thoát nước theo cấp bậc đa cấp. Các đơn vị thủy văn được xác định để cho phép nhiều cửa hút, lối thoát, hoặc bồn rửa. Theo một nghĩa hợp lý, tất cả các lưu vực tiêu là các đơn vị thủy văn nhưng không phải tất cả các đơn vị thủy văn đều là các lưu vực thoát nước.
Các lưu vực khác nhau được phân tách bởi đường phân thủy (đường chia nước), thường là các dãy núi.
Một số lưu vực sông lớn trên thế giới (số liệu thống kê này không kể đầy đủ các lưu vực lớn):
Lưu vực sông Amazon (phần lớn ở Brasil) 6.144.727 km²
Lưu vực sông Congo (Trung Phi) 3.680.000 km²
Lưu vực sông Mississippi (Hoa Kỳ) 2.980.000 km²
Lưu vực sông Ob (Nga) 2.972.497 km²
Lưu vực các sông lớn chạy qua lãnh thổ Việt Nam:
Lưu vực sông Hồng
Lưu vực sông Mekong (Cửu Long): 795.000 km²
Lưu vực các sông lớn chạy qua nước Đức:
Lưu vực sông Danube: 817.000 km²
Lưu vực sông Rhine: 185.000 km²
Trong lĩnh vực tính toán thủy văn thường đề cập đến lưu vực sông đến một trạm đo nhất định để chỉ phần diện tích lưu vực đóng góp lượng dòng chảy qua một mặt cắt tại trạm đo đó.
Các lưu vực chính trên thế giới
Bản đồ
Lưu vực của các biển và đại dương lớn trên thế giới. Màu xám là lưu vực đóng không thông ra đại dương.
Các lưu vực biển
Dưới đây là danh sách các lưu vực biển lớn:
Khoảng 48,7% lượng đất trên thế giới đổ vào Đại Tây Dương Tại Bắc Mỹ, nước mặt chảy ra Đại Tây Dương qua sông Saint Lawrence và các lưu vực Ngũ Đại Hồ, vùng Đông Duyên hải Hoa Kỳ, Maritimes của Canada và Hầu hết Newfoundland và Labrador. Gần như tất cả Nam Mỹ ở phía đông của dãy Andes cũng chảy dọc theo Đại Tây Dương, cũng như phần lớn ở Tây Âu và Trung Âu và phần lớn phía Tây nhất tiểu vùng Châu Phi hạ Sahara, cũng như Tây Sahara và một phần của Ma-rốc. Hai vùng biển Địa Trung Hải lớn trên thế giới cũng chảy ra Đại Tây Dương:
Vùng biển Caribe và Vịnh Mexico bao gồm phần lớn nội địa Hoa Kỳ giữa dãy Appalachian và dãy Rocky, một phần nhỏ các tỉnh Alberta và Saskatchewan của Canada, vùng phía đông Trung Mỹ, các hòn đảo của vùng Caribe và Vịnh, và một phần nhỏ của miền Bắc Nam Mỹ.
Vùng biển Địa Trung Hải bao gồm nhiều vùng Bắc Phi, Đông-Trung Phi (qua sông Nile), Nam Âu, Trung và Đông Âu, Thổ Nhĩ Kỳ, và các vùng ven biển của Israel, Li Băng và Syria.
Bắc Cực hầu hết chảy vào phía Tây và Bắc Canada ở phía đông của dải phân cách Continental, phía bắc Alaska và các bộ phận của Bắc Dakota, Nam Dakota, Minnesota và Montana ở Hoa Kỳ, bờ phía Bắc bán đảo Scandinavia ở Châu Âu và nhiều vùng trung tâm và phía bắc của Nga, và một phần của Kazakhstan và Mông Cổ ở châu Á, tổng cộng khoảng 17% đất của thế giới.
Chỉ hơn 13% diện tích đất trên thế giới chảy ra Thái Bình Dương. Lưu vực của nó bao gồm nhiều phần của Trung Quốc, Đông và Đông Nam nước Nga, Nhật Bản, Bán đảo Triều Tiên, Đông Dương, Indonesia và Malaysia, Phi-lip-pin, Quần đảo Thái Bình Dương, bờ biển phía đông bắc Úc, Canada và Hoa Kỳ phía tây của Continental Divide (bao gồm hầu hết Alaska), cũng như miền Tây Trung Mỹ và Nam Mỹ ở phía tây Andes.
Lưu vực thoát nước ở Ấn Độ Dương cũng bao gồm khoảng 13% diện tích đất của Trái Đất. Nó chảy ra bờ biển phía đông của châu Phi, bờ biển của Biển Đỏ và Vịnh Ba Tư, tiểu lục địa Ấn Độ, Miến Điện và phần lớn nước Úc.
Nam Băng Dương cống Nam Cực. Nam Cực có khoảng 8 phần trăm đất đai của Trái Đất.
Những lưu vực sông lớn nhất
Xem thêm: Danh sách lưu vực sông theo khu vực
Năm lưu vực sông lớn nhất (theo khu vực), từ lớn nhất đến nhỏ nhất là các lưu vực sông Amazon, Río de la Plata, sông Congo, sông Nile và sông Mississippi. Ba con sông chảy nhiều nước nhất là sông Amazon, sông Hằng và sông Congo.
Lòng chảo nội lục
Bài viết chi tiết: Lòng chảo nội lục
Lòng chảo nội lục là lưu vực không thông ra đại dương. Khoảng 18% sông ngòi trên thế giới thuộc loại này. Thay vì chảy ra biển thì sông nội lục đổ vào các hồ hoặc bồn trũng sâu trong nội địa. Lòng chảo nội lục lớn nhất chiếm phần lớn nội lục châu Á chủ yếu đổ vào biển Caspi, biển Aral cùng nhiều hồ nhỏ hơn. Các vùng ngoại vi khác bao gồm Đại Bồn Địa ở Hoa Kỳ, nhiều vùng sa mạc Sahara, lưu vực thoát nước của sông Okavango (lưu vực Kalahari), vùng cao gần Hồ Lớn châu Phi, nội lục của Úc và Bán đảo Ả Rập, và một vài khu vực ở México Và Andes. Một số không phải là một bồn trũng mà là tập hợp của các lưu vực kín liền kề nhau.
Nước trong lòng chảo nội lục khi đã chảy đến chỗ trũng nhất thì chỉ có hai cách thoát: thấm vào lòng đất hoặc bốc hơi. Phương cách thứ nhì làm tăng nồng độ của phần nước còn lại nên biển hồ trong lòng chảo nội lục thường có nhiều muối hơn các đại dương. Một ví dụ tột cực là Biển Chết ở Trung Đông.
Tầm quan trọng của các lưu vực thoát nước
Ranh giới địa chính trị
Các lưu vực thoát nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong việc xác định ranh giới lãnh thổ, đặc biệt là ở các khu vực mà thương mại bằng đường thủy rất quan trọng. Ví dụ, nước Anh đã cho Công ty Vịnh Hudson một sự độc quyền về buôn bán lông thú trong lưu vực toàn bộ vịnh Hudson, khu vực được gọi là Rupert's Land. Tổ chức chính trị sinh học ngày nay bao gồm các thỏa thuận của các quốc gia (ví dụ, các hiệp ước quốc tế và, nội bộ Hoa Kỳ, các tiểu bang liên kết) hoặc các thực thể chính trị khác trong lưu vực thoát nước cụ thể để quản lý cơ thể hoặc các nguồn nước mà nó cống. Ví dụ về các tiểu bang liên kết như vậy là Great Lakes Commission và Tahoe Regional Planning Agency.
Thủy văn
Trong thủy văn, lưu vực thoát nước là một đơn vị hợp lý để nghiên cứu sự di chuyển của nước trong chu trình thủy văn, bởi vì phần lớn lượng nước thải ra từ lưu vực của lưu vực bắt nguồn từ lượng mưa rơi xuống lưu vực. Một phần nước đi vào hệ thống nước ngầm bên dưới lưu vực thoát nước có thể chảy về phía lối thoát của một lưu vực thoát nước khác vì hướng dòng chảy nước ngầm không phải lúc nào cũng phù hợp với hệ thống thoát nước nằm trên. Đo lượng nước xả ra từ lưu vực có thể được thực hiện bằng một máy đo dòng suối nằm ở lối thoát của lưu vực.
Dữ liệu đo mưa được sử dụng để đo tổng lượng mưa trên một lưu vực thoát nước, và có những cách khác nhau để giải thích dữ liệu đó. Nếu các đồng hồ đo được phân bố đều và phân bố đều trên một vùng có lượng mưa đồng đều, sử dụng phương pháp trung bình số học sẽ cho kết quả tốt. Trong phương pháp đa thức Thiessen, lưu vực thoát nước được chia thành đa giác với thước đo mưa ở giữa mỗi đa giác giả định là đại diện cho lượng mưa trên diện tích đất bao gồm trong đa giác của nó. Những đa giác này được tạo ra bằng cách vẽ các đường giữa các đồng hồ đo, sau đó tạo ra các đường phân giác vuông góc của những đường này tạo thành đa giác. Phương pháp isohyetal liên quan đến các đường viền của lượng mưa tương đương được vẽ trên các đồng hồ trên bản đồ. Tính diện tích giữa các đường cong này và tăng lượng nước tiêu tốn nhiều thời gian.
Các bản đồ Isochrone có thể được sử dụng để hiển thị thời gian cho nước tràn trong lòng đất để đến hồ, hồ chứa hoặc lối thoát, giả sử lượng mưa có hiệu quả liên tục và thống nhất.Subramanya, K (2008). Engineering Hydrology. Tata McGraw-Hill. p. 298. ISBN 0-07-064855-7."Isochrone map". Webster's Online Dictionary. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
Địa mạo
Các lưu vực thoát nước là đơn vị thủy văn chính được xem xét trong địa hình địa lý. Lưu vực thoát nước là nguồn nước và trầm tích di chuyển từ cao độ cao qua hệ thống sông đến độ cao thấp hơn khi chúng thay đổi hình dạng kênh.
Sinh thái học
Các lưu vực thoát nước rất quan trọng trong sinh thái. Khi dòng nước chảy qua mặt đất và dọc theo các con sông, nó có thể lấy chất dinh dưỡng, trầm tích và các chất ô nhiễm. Với nước, chúng được vận chuyển về phía lối thoát của lưu vực, và có thể ảnh hưởng đến các quá trình sinh thái dọc theo đường cũng như trong nguồn nước tiếp nhận.
Việc sử dụng phân bón nhân tạo hiện nay, chứa nitơ, phosphor và kali đã ảnh hưởng đến miệng miệng của các lưu vực thoát nước. Khoáng chất được lấy từ lưu vực thoát nước tới miệng, và có thể tích tụ ở đó, gây rối loạn cân bằng khoáng chất tự nhiên. Điều này có thể gây ra hiện tượng eutrophication, nơi tăng trưởng thực vật được gia tốc bằng vật liệu bổ sung.
Quản lý tài nguyên Thông tin thêm: Quản lý rừng đầu nguồn''
Do các lưu vực thoát nước là các thực thể chặt chẽ theo nghĩa hợp lý về hydro, nên việc quản lý tài nguyên nước trên cơ sở các lưu vực riêng biệt trở nên phổ biến. Ở tiểu bang Minnesota của Hoa Kỳ, các thực thể chính phủ thực hiện chức năng này được gọi là "các huyện đầu nguồn". Tại New Zealand, chúng được gọi là các ban quản lý. Các nhóm cộng đồng có trụ sở tại Ontario, Canada, được gọi là các cơ quan bảo tồn. Ở Bắc Mỹ, chức năng này được gọi là "quản lý rừng đầu nguồn". Tại Braxin, Chính sách Quốc gia về Tài nguyên Nước được điều chỉnh bởi Đạo luật số 9.433 năm 1997, thiết lập lưu vực thoát nước là bộ phận lãnh thổ của quản lý nước của Braxin.
Khi lưu vực sông vượt qua ít nhất một biên giới chính trị, hoặc là biên giới trong một quốc gia hoặc ranh giới quốc tế, nó được xác định là một con sông xuyên biên giới. Việc quản lý các lưu vực này trở thành trách nhiệm của các quốc gia chia sẻ nó. Sáng kiến lưu vực sông Nile, OMVS cho sông Senegal, Ủy ban Sông Mekong là một số ví dụ về các dàn xếp liên quan đến quản lý các lưu vực sông chia sẻ.
Quản lý các lưu vực thoát nước chung cũng được xem như là một cách để xây dựng mối quan hệ hòa bình bền vững giữa các quốc gia .
Các yếu tố
Lưu vực là yếu tố quan trọng nhất quyết định số lượng hoặc khả năng lũ lụt.
Các yếu tố lưu vực là: địa hình, hình dạng, kích thước, loại đất và sử dụng đất (các khu vực lát đá hoặc lợp mái). Địa hình và hình dạng lưu vực xác định thời gian mưa cho dòng sông, trong khi kích thước lưu vực, loại đất và sự phát triển xác định lượng nước tiếp cận sông.
Địa hình
Nói chung, địa hình đóng vai trò quan trọng trong việc dòng chảy nhanh đến sông. Mưa rơi xuống vùng núi cao sẽ chảy đến sông chính trong lưu vực thoát nước nhanh hơn vùng phẳng hoặc dốc nhẹ (ví dụ:> 1% độ dốc).
Hình dạng
Hình dạng có ảnh hưởng đến tốc độ mà các dòng chảy chảy đến một con sông. Một lưu vực hẹp và dài sẽ mất nhiều thời gian để thoát hơn một lưu vực tròn.
Kích cỡ
Kích thước cũng quyết định lượng nước chảy vào sông, kích cỡ càng lớn tiềm năng lũ lụt càng lớn. Nó cũng được xác định trên cơ sở chiều dài và chiều rộng của lưu vực thoát nước.
Loại đất
Loại đất sẽ giúp xác định lượng nước đến sông. Một số loại đất nhất định như đất cát thì dễ thoát nước, và lượng mưa trên đất cát có thể bị hấp thụ bởi đất. Tuy nhiên, đất có chứa đất sét có thể hầu như không thấm nước và do đó lượng mưa trên đất sét sẽ giảm đi và góp phần làm cho lũ lụt. Sau khi mưa kéo dài, kể cả đất thoát nước tự do có thể trở nên bão hòa, có nghĩa là bất kỳ lượng mưa nào sẽ tiếp cận với dòng sông hơn là bị hấp thụ bởi đất. Nếu bề mặt không thấm thì lượng mưa sẽ tạo ra sự thoát nước bề mặt dẫn tới nguy cơ lũ lụt cao hơn; nếu mặt đất bị thấm nước, lượng mưa sẽ xâm nhập vào đất.
Sử dụng đất
Việc sử dụng đất có thể góp phần vào lượng nước tiếp cận sông, tương tự như đất sét. Ví dụ, lượng mưa trên mái, vỉa hè và trên đường sẽ được thu thập bởi các con sông với hầu như không có sự hấp thụ vào nước ngầm. |
Họ Thanh thất (danh pháp khoa học: Simaroubaceae) là một họ nhỏ, chủ yếu là các loài cây nhiệt đới thuộc bộ Bồ hòn (Sapindales). Trong các thập kỷ gần đây nó là chủ đề của nhiều tranh luận trong phân loại học, với một vài họ nhỏ khác được tách ra hay nhập vào nó.
Loài được biết đến nhiều nhất là cây xú xuân (Ailanthus altissima), có nguồn gốc ở vùng ôn đới thuộc Trung Quốc, nhưng hiện nay đã phân bổ rộng khắp thế giới như một loài cây dại trong các khu đô thị.
Tại Việt Nam không có loài nào thuộc chi điển hình Simarouba (phân bố tại Bắc Mỹ và Nam Mỹ) nên họ này lấy tên gọi trong tiếng Việt theo cây thanh thất (Ailanthus triphysa). Một loài cây khác tại Việt Nam gọi là xoan rừng (các tên khác: sầu đâu, sầu đâu rừng, nha đảm v.v, Brucea javanica) là một vị thuốc trong Đông y. Tên gọi sầu đâu hay nha đảm dễ gây nhầm lẫn. Chi tiết cụ thể xem bài Xoan.
Theo L. Watson và M. J. Dallwitz trong The Families of Flowering Plants (Các họ thực vật có hoa) từ năm 1992 trở đi thì được sáp nhập vào họ này là các họ nhỏ như: Ailanthaceae (J.G. Agardh), Castelaceae (J.G. Agardh), Holacanthaceae (Jadin), Simabaceae (Horan.), Soulameae (hay Soulameaceae Endl.) còn các họ bị loại ra là Irvingiaceae, Ixonanthaceae, Kirkiaceae, Leitneriaceae, Picramniaceae, Surianaceae v.v...
Đặc điểm
Là cây gỗ to hay nhỏ. Lá mọc cách, đơn hay kép hình lông chim một lần, không có lá kèm. Phiến lá không có chấm trong mờ, khi rụng có màu đỏ; cuống chung đôi khi có cánh. Cụm hoa tán, xim, chùm ở nách lá hay ở ngọn. Hoa nhỏ, đều, thường đơn tính, mẫu 3 hay mẫu 5. Bao hoa có lá đài tồn tại dưới quả. Bộ nhị có số nhị bằng hay gấp đôi số cánh hoa, luôn luôn rời, đính ở dưới đĩa mật. Bộ nhụy từ 2–5 lá noãn rời hay dính nhau thành bầu trên; mỗi lá noãn có 1 noãn. Quả hạch, quả cánh, đôi khi quả mập. Có ống tiết quanh tủy, đôi khi có tế bào tiết. Bộ máy dinh dưỡng có vị đắng.
Một số loài trong họ
Thanh thất (tên khác: bút) (Ailanthus triphysa (Dennst.) Alston, đồng nghĩa: A. malabarica DC.): Vỏ cây dùng trị lỵ, bạch đới; còn có tác dụng bổ và hạ nhiệt. Quả dùng làm thuốc chữa ho và điều kinh.
Khổ sâm nam (tên khác: sầu đâu rừng, sầu đâu cứt chuột) (Brucea javanica (L.) Merr.). Các bộ phận của cây đều có chất đắng. Hạt dùng làm thuốc trị bệnh kiết lỵ rất công hiệu nhất là lỵ amib; còn dùng trị sốt rét, trĩ, sán, lãi.
Thằn lằn (Quassia amara L.). Du nhập từ Trung/Nam Mỹ. Gỗ và rễ có vị đắng, được dùng làm thuốc bổ đắng, giúp tiêu hoá và chống sốt.
Các chi
Theo website của APG, tra cứu ngày 17-10-2017 thì họ này có khoảng 110 loài trong khoảng 19-22 chi, chia thành 7 nhóm như sau:
Casteleae Bartling: 2 chi, 14 loài.
Castela (đồng nghĩa: Neocastela)
Holacantha (có quan hệ họ hàng gần với Castela).
Picrasmateae Engler: 1 chi, 8 loài.
Picrasma (đồng nghĩa: Aeschrion, Picraena): Khổ diệp, khổ mộc.
Ailantheae Meisner: 1 chi, 5 loài.
Ailanthus (đồng nghĩa: Hebonga): xú xuân, thanh thất.
Leitnerieae Baillon: 5 chi, 22 loài.
Amaroria (có quan hệ họ hàng gần và có thể gộp trong Soulamea).
Brucea (đồng nghĩa: Gonus): Xoan rừng, nha đảm tử, sầu đâu, khổ sâm.
Laumoniera (có quan hệ họ hàng gần với Brucea).
Leitneria
Soulamea (đồng nghĩa: Picrocardia)
Simaroubeae Dumortier: 11 chi, 52 loài.
Eurycoma: Bá bệnh, mật nhân.
Gymnostemon (có quan hệ họ hàng gần với Perriera).
Hannoa
Homalolepis
Iridosma
Odyendea
Perriera
Pierreodendron (đồng nghĩa: Mannia)
Quassia (đồng nghĩa: Hyptiandra): Bạch mộc, sâm đề, thằn lằn.
Samadera (đồng nghĩa: Manungala). Có quan hệ họ hàng gần với Quassia.
Simaba
Simarouba
Không đặt
Nothospondias
Picrolemma (đồng nghĩa: Cedronia)
IPNI
IPNI còn công nhận các chi sau:
Cedronia (APG xếp là từ đồng nghĩa của Picrolemma)
IPNI chuyển chi Valenzuelia (được PlantSystematics.org công nhận thuộc họ này) sang họ Bồ hòn (Sapindaceae).
APG 1998
APG 1998 tách các họ, chi sau:
Irvingiaceae sang bộ Sơ ri (Malpighiales) chứa 3 chi: Desbordesia, Irvingia, Klainedoxa, khoảng 20 loài.
Ixonanthaceae sang bộ Sơ ri chứa 4- 5 chi (khoảng 30 loài) là: Allantospermum ?, Cyrillopsis, Ixonanthes, Ochthocosmus, Phyllocosmus.
Kirkiaceae cùng bộ chứa chi Kirkia khoảng 8 loài.
Leitneriaceae cùng bộ chứa 1 chi duy nhất Leitneria với 1 loài.
Picramniaceae cùng bộ chứa 2 chi và khoảng 50 loài là: Alvaradoa, Picramnia. Hiện tại APG III 2009 xếp họ này vào bộ độc lập gọi là Picramniales.
Stylobasiaceae sang bộ Đậu (Fabales) (đồng nghĩa của Surianaceae?) chứa 1 chi với 2 loài là Stylobasium.
Surianaceae sang bộ Đậu (Fabales) chứa 4 chi là: Suriana, Cadellia, Guilfoylia và Recchia với chỉ khoảng 5 loài.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây vẽ theo Muellner và ctv. (2016), có tham khảo thêm Sun và ctv (2016), Clayton và ctv (2007) và (2009) .
Ghi chú |
Gia Cát Chiêm (Chữ Hán: 諸葛瞻 - 217–263), tự Tử Viễn, là một mưu lược gia và tướng lĩnh nhà Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng vì là con trai của Thừa tướng Thục Hán Gia Cát Lượng. Bản thân ông kế thừa tấm lòng "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi" của cha mình và đã anh dũng tử trận khi nhà Thục Hán sắp sụp đổ, tạo nên tấm gương "Ba đời trung liệt" nổi tiếng lịch sử của nhà Gia Cát.
Tham dự triều chính
Gia Cát Chiêm là người quận Lang Gia, Thanh Châu (nay thuộc huyện Nghi Nam, Sơn Đông, Trung Quốc). Ông là con thứ của Gia Cát Lượng, do trước khi sinh Chiêm, Gia Cát Lượng đã nhận con thứ của anh trai Gia Cát Cẩn là Kiều làm con nuôi. Mẹ ông là Hoàng Nguyệt Anh, con gái của danh sĩ nhà Đông Hán Hoàng Thừa Ngạn.
Khoảng năm 225, Gia Cát Lượng khi ở huyện Vũ Công đã viết thư cho anh trai là Gia Cát Cẩn, có nhận xét về Tử Viễn:
Năm 234, Gia Cát Lượng mất tại Ngũ Trượng trong khi đang chỉ huy cuộc chiến chống Ngụy. Hậu Chủ xét công lao của Gia Cát Lượng, gả công chúa cho Chiêm và phong ông làm Kỵ đô uý. Năm sau thăng làm Vũ lâm Trung lang tướng, liền đó chuyển qua làm Thanh Xạ Hiệu uý, Thị Trung, Thượng thư Bộc xạ, gia thêm chức Quân sư tướng quân, tập tước Vũ Hương Hầu.
Gia Cát Chiêm còn nổi tiếng về thư hoạ, hiểu rộng nhớ dai. Người nước Thục đều nhận định Tử Viễn sẽ bắt kịp Khổng Minh nên hết sức quý trọng tài ấy. Mỗi khi triều đình có hỷ sự, dù ông không ở đó khởi xướng, mọi người đều bảo nhau rằng: Gia Cát hầu ở đây vậy. Thế rồi lời vui tràn đầy, có khi hơn cả khi ông có mặt ở đó.
Năm 261, Gia Cát Chiêm được phong Hành đô hộ Vệ tướng quân, cùng với Đổng Quyết coi chính sự. Tuy nhiên triều đình khi đó bị lũng đoạn bởi thế lực của hoạn quan Hoàng Hạo. Di động tạp ký của Tôn Thịnh ghi rằng Gia Cát Chiêm và Đổng Quyết thấy Khương Duy chinh chiến nhiều khiến quốc lực suy kiệt, triệu về làm Thứ sử Ích Châu, bổ Dương Vũ ra thay. Về sau Thường Cừ mới thuyết lại rằng:
Chống quân Đặng Ngải
Năm 263, quân Ngụy do tướng Chung Hội và Đặng Ngải chỉ huy dẫn 18 vạn quân chinh phạt nước Thục. Cánh quân của Chung Hội bị Khương Duy, Đổng Quyết, Liêu Hóa, Trương Dực chặn lại. Trong khi đó, Đặng Ngải dẫn quân lẻn qua đường núi Âm Bình, vượt qua Cảnh Cốc, mưu đánh úp Thành Đô. Khi đó hầu hết các tướng lĩnh đều theo Khương Duy giữ phòng tuyến Kiếm Các, Hậu Chủ bèn lệnh cho Gia Cát Chiêm ra chống lại Đặng Ngải.
Gia Cát Chiêm lĩnh quân, đem các tướng Gia Cát Thượng, Trương Tuần, Hoàng Sùng, Lý Cầu ra chống giữ. Đáng lưu ý rằng các tướng trong quân của Gia Cát Chiêm hầu hết đều là con cháu của các khai quốc công thần nhà Thục Hán: Gia Cát Thượng là con trưởng của Chiêm, cháu đích tôn của Gia Cát Lượng; Trương Tuân là con trai của Trương Bào, cháu Trương Phi; Hoàng Sùng là con trai của Hoàng Quyền; Lý Cầu là cháu gọi Lý Khôi bằng bác.
Chiêm dẫn quân đóng giữ Bồi Thành, quân tiên phong bị phá. Gia Cát Chiêm định quay về, Hoàng Sùng luôn miệng khuyên Chiêm cấp tốc chiếm giữ nơi hiểm yếu, không cho địch vào được đất bằng. Gia Cát Chiêm không đồng ý, bỏ mặc Mã Mạc ở Giang Du, khiến Mạc đầu hàng. Sau đó Chiêm lui về giữ ải Miên Trúc. Đặng Ngải thừa thế kéo đến Miên Trúc, đưa thư dụ Gia Cát Chiêm:
Chiêm nổi giận, chém sứ giả, dẫn quân ra đánh, bị Đặng Ngải đánh bại, chết trong trận. Gia Cát Thượng than:
Sau đó Gia Cát Thượng xông thẳng vào quân Ngụy rồi tử trận. Hoàng Sùng thấy vậy, bèn khích lệ quân sĩ tử chiến. Cuối cùng quân sĩ lý tán, Hoàng Sùng, Lý Cầu, Trương Tuân chống không nổi quân Ngụy, chết trong loạn quân. Ải Miên Trúc bị mất, lá chắn cuối cùng của Thành Đô bị vỡ, lực lượng quân sự cuối cùng là quân của Lai Hàng đô đốc Hoắc Dặc ở xa không kịp tới. Hậu chủ đầu hàng, Thục Hán mất nước.
Trong văn hóa
Trong Tam quốc diễn nghĩa, cha con Gia Cát Chiêm xuất hiện trong hồi 117: Đặng Sĩ Tái lẻn qua núi Âm Bình - Gia Cát Chiêm chết tại thành Miên Trúc. Theo đó, Gia Cát Chiêm được tập tước Vũ Hương Hầu của Gia Cát Lượng, nhưng do Hoàng Hạo cần quyền nên thác bệnh ở nhà. Đặng Ngải lẻn qua núi Âm Bình chiếm Bồi Thành, Khước Chính tâu với Hậu Chủ rằng:
Hậu Chủ nghe lời Chính, phát ba đạo chiếu vời Chiêm vào triều. Gia Cát Chiêm xin hết quân trong Thành Đô gồm 7 vạn ra giữ Miên Trúc, sai Gia Cát Thượng làm tiên phong. Gia Cát Chiêm dùng kế làm bộ tượng gỗ hình Gia Cát Lượng, khiến cho tướng Ngụy là Sư Toản, Đặng Trung hoảng loạn rút quân về. Nhân đó quân Thục truy kích hơn hai mươi dặm. Sau Gia Cát Chiêm lại sai Gia Cát Thượng xung trận, đánh dạt quân Ngụy, rồi thúc hai cánh quân đánh vào trại. Thắng liên tiếp hai trận, chém hơn 1 vạn quân.
Sau Đặng Ngải nghe lời Khâu Bản, viết thư dụ Chiêm, hứa sẽ phong làm Lang Nha Vương. Chiêm nổi giận, xé thư chém sứ. Đặng Ngải bèn cho Vương Kỳ và Khiên Hoằng phục kỳ binh. Đặng Ngải và Gia Cát Chiêm giao chiến, Ngải vờ thua. Chiêm cho quân đuổi theo, hai cánh quân Vương Kỳ, Khiên Hoằng đổ ra. Quân Thục thua lớn, rút vào thành Miên Trúc. Quân Ngụy vây kín cả bốn mặt. Gia Cát Chiêm thấy thế nguy cấp, bèn sai Bành Hòa sang Ngô cầu viện.
Gia Cát Chiêm chờ quân cứu mãi không đến, bèn sai Gia Cát Thượng và Trương Tuân giữ thành, còn bản thân ra giao chiến. Đặng Ngải thấy quân Thục ra đánh, bèn rút chạy. Gia Cát Chiêm đuổi theo, bị quân Ngụy vậy bốn mặt. Chiêm cố đánh, giết quân Ngụy vài trăm. Đặng Ngải sai quân bắn tên vào, quân Thục tan vỡ. Chiêm bị trúng tên, ngã ngựa, bèn than rằng:
Rồi rút gươm tự vẫn. Gia Cát Thượng thấy cha vậy, nổi giận rồi đem quân ra tử chiến. Trương Tuân, Hoàng Sùng, Lý Cầu cũng đem quân ra. Quân Thục ít, cả ba đều chết trận. Đặng Ngải hạ được Miên Trúc, lại dẫn quân đến Thành Đô.
Gia đình
Cha: Gia Cát Lượng, Thừa tướng nhà Thục Hán.
Bác: Gia Cát Cẩn, đại thần Đông Ngô.
Chú: Gia Cát Quân.Đại thần nhà Thục Hán
Mẹ: Hoàng Nguyệt Anh.
Anh: Gia Cát Kiều, con thứ của Gia Cát Cẩn, được Gia Cát Lượng nhận nuôi. Sau Kiều chết, con Kiều là Gia Cát Phàn về Đông Ngô.
Con:
Gia Cát Thượng, tử trận tại Miên Trúc.
Gia Cát Kinh, sau làm Thứ sử Giang Châu nhà Tấn.
Cháu:
Gia Cát Phàn, con Gia Cát Kinh.
Nhận định
Kiều Bảo nhận xét về Gia Cát Chiêm:
Mao Tôn Cương trong Thánh Thán ngoại thư có bình luận:
Vũ hầu có con trung dũng, lại thêm có cháu trung liệt. Đời cho như vậy là Vũ Hầu không chết... Xem trận đánh Miên Trúc, vì chữ trung mà Chiêm, Thượng liều chết tại trận tiền, ta mới rõ cái hay trong gia giáo nhà Vũ hầu... Ôi! Nhà Thục Hán mất rồi, nhưng ta vẫn thấy rờ rờ có sinh khí hơn các triều đại khác.
La Quán Trung có thơ rằng:
Người đời sau có thơ khen gia đình Gia Cát như sau: |
Một tập trong không gian tôpô gọi là compact tương đối nếu bao đóng của , ký hiệu là hoặc \overline A, là tập compact.
Ví dụ:
Trong không gian , một tập là tập compact tương đối khi và chỉ khi nó bị chặn.
Trong không gian metric đầy đủ, một tập là tập compact tương đối khi và chỉ khi nó hoàn toàn bị chặn (tức là có thể phủ nó bằng một số hữu hạn các hình cầu có cùng bán kính nhỏ tùy ý cho trước. Điều này cũng tương đương với mọi dãy trong tập đó đều có thể rút ra được một dãy con là dãy Cauchy). |
Trong giải tích toán học, bất đẳng thức Hölder, đặt theo tên nhà toán học Đức Otto Hölder, là một bất đẳng thức cơ bản liên quan đến các không gian Lp: giả sử S là một không gian đo, với 1 ≤ p, q ≤ ∞ thỏa 1/p + 1/q = 1, đồng thời f thuộc Lp(S) và g thuộc Lq(S). Khi đó fg thuộc L1(S) và
Các số p và q nói trên được gọi là liên hợp Holder của lẫn nhau.
Bất đẳng thức Holder được dùng để chứng minh bất đẳng thức tam giác tổng quát trong không gian Lp, bất đẳng thức Minkowski và cũng dùng để chứng minh Lp là đối ngẫu với Lq.
Các trường hợp đặc biệt đáng chú ý
Với p = q = 2 bất đẳng thức Holder trở thành bất đẳng thức Cauchy-Schwarz.
Trong trường hợp không gian Euclide, khi tập S là {1,...,n} với một độ đo kiểu đếm, chúng ta có kết quả là với mọi x, y trong Rn (Cn)
Nếu S=N với một độ đo kiểu đếm, khi đó chúng ta có được bất đẳng thức Holder cho các dãy từ không gian lp
.
Trong trường hợp không gian của các hàm giá trị phức khả tích, chúng ta có
Dạng đại số thường gặp trong chứng minh bất đẳng thức của bất đẳng thức Holder
Trong trường hợp không gian xác suất , là các ký hiệu để chỉ không gian của các biến ngẫu nhiên với moment p hữu hạn,
, trong đó là ký hiệu chỉ giá trị kỳ vọng. Bất đẳng thức Holder trở thành
.
Trường hợp tổng quát
Có thể chứng minh trường hợp tổng quát sau bằng phương pháp quy nạp
Giả sử sao cho
Giả sử . Khi đó ta có và |
Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là cơ quan đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương Việt Nam. Các Ban Tổ chức, Tuyên giáo, Ủy ban Kiểm tra Trung ương giúp Trung ương hướng dẫn và kiểm tra công tác chính trị và công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong quân đội.
Lịch sử
Cơ quan tiền thân của Tổng cục chính trị là Cục Chính trị, được thành lập tháng 9 năm 1945 theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương nhằm quản lý công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang do Việt Minh lãnh đạo, mà nòng cốt là Việt Nam Giải phóng quân. Lãnh đạo đầu tiên của Cục là Văn Tiến Dũng.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Kháng chiến Ủy viên Hội được thành lập với Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch. Đến ngày 25 tháng 3 năm 1946, với Sắc lệnh số 34-NV của Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến ký, đã đặt Chính trị Cục trở thành một trong 10 cơ quan chuyên môn của Bộ Quốc phòng. Lãnh đạo Cục Chính trị là Hoàng Đạo Thúy với chức vụ Cục trưởng Chính trị Cục. Từ ngày 24 tháng 4 năm 1946, Hoàng Văn Hoan thay thế giữ chức Cục trưởng.
Bên cạnh đó, ngày 6 tháng 5 năm 1946, Kháng chiến Ủy viên Hội đổi tên thành Quân sự Ủy viên Hội theo Sắc lệnh 60-SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gọi tắt là Quân ủy hội. Một Cục Chính trị khác được thành lập trực thuộc Quân ủy hội, do Trần Huy Liệu giữ chức Chính trị Cục trưởng, với Trần Độ làm phụ tá.
Mãi đến cuối tháng 11 năm 1946, Bộ Quốc phòng được sáp nhập với Quân sự Ủy viên Hội thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, do Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy Quân đội toàn quốc theo Sắc lệnh 230-SL ngày 30 tháng 11 năm 1946 của Chủ tịch nước. Cục Chính trị của Bộ Quốc phòng và Cục Chính trị của Quân ủy hội sáp nhập lại thành Cục Chính trị, trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam. Lãnh đạo Cục Chính trị một lần nữa giao cho Văn Tiến Dũng (quyền Cục trưởng từ tháng 12 năm 1946, chính thức từ ngày 12 tháng 2 năm 1947). Từ ngày 18 tháng 10 năm 1949, Cục trưởng Cục Dân quân Lê Liêm kiêm chức Cục trưởng Cục Chính trị.
Tháng 7 năm 1950, Cục Chính trị được nâng lên thành Tổng cục chính trị, trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam theo tinh thần Sắc lệnh 121-SL ngày 11 tháng 7 năm 1950. Mãi đến sau năm 1975, khi Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chấm dứt hoạt động, Tổng cục chính trị chuyển về thành một cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Ngày 20 tháng 7 năm 2005, Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết ố 51-NQ/TW về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo đó, ngoài cấp trưởng đứng đầu một đơn vị thì còn có Chính ủy, Chính trị viên (trước là cấp phó về chính trị).
Theo đó ngày 21 tháng 11 năm 2011, Ban Bí thư ra Quy định số 50-QĐ/TW về Tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm xác định đúng vai trò, chức năng và hoàn thiện cơ chế thực hiện theo Nghị quyết 51/2005/Bộ Chính trị.
Lãnh đạo hiện nay
Tổ chức
Nhà Hát Chèo Quân Đội
Hệ thống cơ quan chính trị trong quân đội
Tổng cục Chính trị thuộc Bộ Quốc phòng.
Cục Chính trị thuộc Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Quân khu, Quân chủng, Bộ đội Biên phòng, Tổng cục, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Quân đoàn, Binh chủng, Học viện Quốc phòng và tương đương.
Phòng Chính trị thuộc các Sư đoàn, Lữ đoàn, Vùng Hải quân, Vùng Cảnh sát biển, Bộ Chỉ huy Quân sự cấp tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh và tương đương.
Ban Chính trị thuộc các Trung đoàn, Ban Chỉ huy Quân sự cấp huyện và tương đương.
Khen thưởng
Huân chương Sao vàng (năm 2000)
Huân chương Hồ Chí Minh (năm 1984, 2014)
Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất (năm 2019)
Huân chương Tự do hạng Nhất của Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (năm 2017)
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị qua các thời kỳ
Bài chi tiết: Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị qua các thời kỳ
Bài chi tiết: Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
Chú thích
Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
Bộ Quốc phòng Việt Nam
Chính_trị_Quân_đội_nhân_dân_Việt_Nam |
Ngô Minh Chiêu (1878-1932) được các tín đồ đạo Cao Đài công nhận là môn đệ đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông. Được tín đồ Cao Đài phái Chiếu Minh tôn phong là Ngôi Hai Giáo chủ, chỉ đứng sau Cao Đài Thượng đế.
Thân thế và khởi đầu quan nghiệp
Tên thật của ông là Ngô Văn Chiêu, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1878 tại làng Bình Tây, tổng Tân Phong Hạ, hạt Chợ Lớn trong một ngôi nhà nhỏ ở phía sau chùa Quan Đế.
Được xem là có dòng dõi quan lại ở Huế, đến đời cha ông là Ngô Văn Xuân thì đã suy, di về cư ngụ tại khu Hòa Hưng, sau đó kết hôn với bà Lâm Thị Quý, gọi Lâm Thị Tiền. Ngô Văn Chiêu là con trai duy nhất của ông bà.
Gia cảnh nghèo khó, song thân ông đều làm công cho một nhà máy xay lúa ở Bình Tây. Sau khi sinh ông một thời gian, hai ông bà có việc làm ăn phải đi xa, nên gởi ông lại cho người cô ruột là Ngô Thị Đây, ở làng Điều Hòa, tổng Thuận Trị, hạt Mỹ Tho (nay thuộc thành phố Mỹ Tho). Ông Phu, chồng bà Đây là một người Hoa kiều, có tiệm bán thuốc Bắc tại chợ Mỹ Tho. Hai ông bà vốn không có con, vì vậy hết lòng nuôi cháu ăn học.
Năm 12 tuổi, nhờ sự hướng dẫn của Đốc phủ sứ Lê Công Sủng, bấy giờ đang làm tùng sự tại Tòa Bố Mỹ Tho, Ngô Văn Chiêu làm đơn xin học nội trú trường Collège de My Tho, bấy giờ còn gọi là trường Collège le Myre de Vilers.
Sau khi học ở Collège de My Tho một thời gian, Ngô Văn Chiêu thi đậu vào trường Collège Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Năm 21 tuổi, ông thi đậu bằng Thành Chung. Ngày 23 tháng 3 năm 1899, ông được chính quyền thực dân thu dụng làm Thư ký Sở Tân Đáo ở Sài Gòn.. Cũng năm này, ông lập gia đình và rước cha mẹ ruột từ Hà Nội về Sài Gòn phụng dưỡng.
Khai tâm ngộ đạo
Chịu ảnh hưởng của người dượng rể vốn là một tín đồ Minh Sư đạo, từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với văn hóa Đạo giáo, nên rất tôn sùng các vị thần tiên, đặc biệt rất hâm mộ hình thức cơ bút để giao tiếp với giới thần tiên, vốn khá thịnh hành bấy giờ.
Theo các tài liệu của Cao Đài, năm 1902, trong một lần đến đàn cầu cơ tại Thủ Dầu Một để cầu thọ cho mẹ và hỏi về tương lai, ông được cơ bút giáng một bài kệ khuyên ông lo tu hành ngày sau sẽ đắc đạo. Từ đó ông sống cuộc đời khắc kỷ như một tín đồ Đạo giáo, thường xuyên tổ chức hoặc tham gia các đàn cơ bút để hình thành đường lối tu luyện.
Ngày 1 tháng 1 năm 1903, Ngô Văn Chiêu được chuyển sang làm việc ở Dinh Thống đốc Nam Kỳ. Ngày 1 tháng 5 năm 1909, ông được chuyển làm Thư ký Tòa Bố tỉnh Tân An. Thời gian làm việc ở đây, ông đã mua một căn nhà tại Tân An và rước mẹ về ở chung. Riêng cha ông vẫn ở lại Sài Gòn với người vợ kế.
Năm 1917, Ngô Văn Chiêu thi đậu vào ngạch Tri huyện. Do vậy, thời gian này ông còn được gọi là quan huyện Chiêu.
Ngày 15 tháng 11 năm 1919, mẹ ông qua đời. Thời gian sau đó, ông thường lập đàn cầu cơ cùng các ông Đoàn Văn Kim, hương bộ Lê Kiển Thọ, thầy giáo Nguyễn Văn Vân, nhà giáo kiêm soạn giả Trần Phong Sắc. Tương truyền, trong một lần cầu cơ tại nhà ông, cơ bút lần đầu tiên đã giáng xưng danh hiệu "Cao Đài Tiên Ông". Ngày 1 tháng 3 năm 1920, ông được bổ đến làm việc tại Tòa Bố Hà Tiên. Đêm trung thu năm Canh Thân (tức Chủ nhật ngày 26 tháng 9 năm 1920), ông cùng các ông Cao Văn Sự, Nguyễn Thành Diêu lập đàn tại nhà ông Lâm Tấn Đức. Lần thứ hai cơ bút lại giáng xưng Cao Đài.
Ngày 26 tháng 10 năm đó, Ngô Văn Chiêu được bổ ra Phú Quốc trấn nhậm. Nơi đây "... phần nhiều là còn giữ được cái phong tục, cái đức tính cổ thời, rõ là xã hội ‘gia vô bế hộ’. Nhà ở không bao giờ có làm cửa. Những nhà hào phú muốn làm cửa là cho tốt coi chớ ban đêm cũng vẫn không khóa. Cửa bỏ ngỏ mà không bao giờ có kẻ trộm.". Việc quan nhàn rỗi, ông thường lên núi Dương Đông, lập đàn cầu cơ tại một Phật đường của đạo Minh Sư, thuộc tông Hoằng Tế, tục gọi là chùa Quan Âm, cách dinh quận chừng 500 mét. "Chùa cất trên tuyệt đỉnh, trước mặt thì có núi cao bình án, sau lưng thì có biển rộng hoành triều, rất được thế non nước. Tường đá rào tre quanh co, các thứ nhàn hoa cổ thụ, u ảo thanh tịnh vô cùng.". Cũng chính tại đây, mùng Một Tết Tân Dậu (tức thứ Ba ngày 8 tháng 2 năm 1921), ông chính thức đi vào đường tu tập với đạo hiệu Minh Chiêu.
Môn đệ đầu tiên
Vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Minh Sư, thời gian đầu tu tập của ông được sự hướng dẫn tu sĩ Minh Sư, vốn sở trường về Thiền pháp. Bên cạnh đó, ông cũng hình thành những nền tảng đầu tiên của đạo Cao Đài như:
Giáo chủ (vô vi): Ngọc Hoàng Thượng đế, xưng danh hiệu Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát.
Giáo đồ đầu tiên: Ngô Văn Chiêu.
Giáo tượng (thánh tượng): Thiên nhãn.
Giáo thuyết: Đường lối dung hợp Tam giáo (Phật giáo, Khổng Giáo, Đạo Giáo).
Giáo điển: Một số bài kinh cúng như bài "Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo" và ba bài dâng tam bửu (hoa, rượu trắng, trà).
Sau một thời gian tu tập, vì lý do cá nhân, ông dời điểm tu từ chùa Quan Âm (Minh Sư đạo) sang chùa Sùng Hưng (Phật giáo). Tại đây ông tranh thủ đến tu tập sau giờ làm việc, tiếp tục hoàn thiện lối tu Nội giáo tâm truyền dưới sự hướng dẫn của Đức Cao Đài về Tân Pháp Cao Đài.
Ngày 1 tháng 1 năm 1924, chính quyền thực dân thăng Ngô Văn Chiêu lên ngạch Tri phủ, 6 tháng sau, ngày 29 tháng 7, đổi ông về Sài Gòn làm việc ở Dinh Thống đốc và công tác ở Phòng Nhì (2e bureau). Đây là một cơ quan dân sự, có nhiệm vụ: "Chuyên về công việc cầu đường, nhà cửa, cùng các sở coi việc. Chịu giấy làm giá cả. Giấy hiệp đồng, lãnh biện vật hạng cùng công việc làm. Suy tính, làm giấy lãnh tiền về đồ dùng cùng công việc làm. Các kho dự trữ, cấp phát vật hạng. Đồ dùng xưa cùng đồ công nhu cho các phòng. Việc đường sá. Phân đường lộ, lấy mực cất nhà, mực đường. Xét dọn bộ sổ vật hạng, cùng bộ sổ công việc làm.". Hai năm sau, ông được thăng lên ngạch Đốc phủ sứ. Chính vì thế mà nhiều tài liệu ngày nay ghi ông là quan Phủ Ngô Văn Chiêu.
Sau khi về Sài Gòn, Ngô Văn Chiêu vẫn tiếp tục tu luyện theo pháp môn riêng. Vốn có mối giao hảo với đạo Minh Sư, vì vậy ông thường ghé chùa Ngọc Hoàng để tu tập. Thời gian này, ông bắt đầu khai đạo cho nhóm bạn hữu Vương Quang Kỳ (tùng sự Soái phủ Nam Kỳ, ngạch Tri phủ), Nguyễn Văn Hoài (ngạch thông phán), Võ Văn Sang (ngạch thông phán), Đoàn Văn Bản (đốc học Đa Kao). Sau đó các ông này cũng có độ thêm một số đệ tử nữa cùng tu luyện với Ngô Văn Chiêu, nhưng những hoạt động giai đoạn nầy còn trong phạm vi một nhóm tu đơn tịnh luyện, chứ chưa phát triển thành một Tôn giáo.
Khai đạo phổ độ
Song song với phong trào cầu cơ ảnh hưởng của Đạo giáo, một phong trào cầu cơ chịu ảnh hưởng của phong trào Thông linh học (Spiritisme) của Pháp trong một nhóm công chức người Tây Ninh đang làm việc ở Sài Gòn cũng phát triển, lan tràn khắp cả Nam Kỳ. Trong đó, quan trọng nhất có nhóm cầu cơ ở đường Arras, ban đầu gồm 4 người:
Cao Quỳnh Cư, Thư ký Sở Hỏa xa Sài Gòn, ngạch Tham tá (commis)
Nguyễn Thị Hiếu, tức Hương Hiếu, vợ Cao Quỳnh Cư
Cao Hoài Sang, Tham tá Sở Thương chánh Sài Gòn
Phạm Công Tắc, Thư ký Sở Thương chánh Sài Gòn.
Do nhóm có 3 thành viên chính (nam giới) mang họ Cao và họ Phạm, nên còn được gọi là nhóm Cao - Phạm.
Ban đầu nhóm dùng phương pháp xây bàn và được cho là tiếp xúc với Thượng đế qua danh hiệu AĂÂ vào khoảng tháng 7 năm 1925.
Khoảng trung tuần tháng 9 năm 1925, nhóm chuyển sang dùng đại ngọc cơ để cầu cơ theo phương pháp cổ truyền của Đạo giáo. Theo các tài liệu đạo Cao Đài, thì giữa tháng 12 năm đó, nhóm được Thượng đế xưng danh Cao Đài lần đầu tiên.
Nhóm về sau phát triển thêm nhiều người, quan trọng nhất là việc thu nhận thêm Lê Văn Trung, cựu Nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, người về sau giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển đạo Cao Đài.
Với sự liên hệ của ông Vương Quang Kỳ, giữa các nhóm hầu cơ bắt đầu có sự liên hệ qua lại. Ngày 21 tháng 2 năm 1926, trong một buổi cầu cơ tại nhà ông Vương Quang Kỳ, có mời các nhân vật có danh tiếng của các nhóm cầu cơ cùng đến dự, một bài thờ được lưu truyền là cơ giáng của Thượng đế, trong đó có tên của 13 người, về sau được tín đồ Cao Đài xưng tụng là những tín đồ đầu tiên của đạo, với ông Ngô Văn Chiêu được tôn xưng Anh Cả:
"CHIÊU, KỲ, TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG, QUÝ, GIẢNG thành,
HẬU, ĐỨC, TẮC, CƯ Thiên Địa cảnh,
Hườn, Minh, Mẫn đáo thủ đài danh."
Trong đó có tên:
CHIÊU: Ngô Văn Chiêu
KỲ: Vương Quang Kỳ
TRUNG: Lê Văn Trung
HOÀI: Nguyễn Văn Hoài
BẢN: Võ Văn Bản
SANG: gồm Võ Văn Sang và Cao Hoài Sang
QUÝ: Lý Trọng Quý
GIẢNG: Lê Văn Giảng
HẬU: Nguyễn Trung Hậu
ĐỨC: Trương Hữu Đức
TẮC: Phạm Công Tắc
CƯ: Cao Quỳnh Cư
Trong bài thơ còn nêu tên Hườn, Minh, Mẫn là ba nhân sĩ trí thức tham dự buổi cầu cơ.
Kể từ đó, những nền tảng giáo lý của Cao Đài được hoàn chỉnh dần và thống nhất giữa các tín đồ đầu tiên, đồng thời cũng hình thành dần pháp môn Ngoại giáo công truyền (hay hình nhi hạ học) theo cách gọi của phái Chiếu Minh, hay Cơ Phổ độ theo cách gọi của Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo.
Thành lập Cao Đài Chiếu Minh
Với pháp môn mới này, các thành viên tích cực đã đi phổ độ và thu nạp thêm nhiều người. Đàn cơ ở nhà ông Kỳ không còn đủ sức chứa hàng trăm tín đồ đến tu tập, phải dời đến nhà ông Bản, về sau hình thành nên Thánh thất Cầu Kho, được xem là thánh thất đầu tiên của đạo Cao Đài. Không lâu sau, 5 đàn cơ nữa được thành lập, phát triển số tín đồ nhanh chóng lên số hàng chục ngàn người.
Việc phát triển số lượng tín đồ nhanh chóng đòi hỏi phải có người lãnh đạo với quyền vị chính thức. Vì vậy, giữa tháng 4 năm 1926, thông qua việc giáng cơ, các tín đồ đầu tiên đã tôn xưng ông Chiêu là Giáo tông và may sẵn bộ đạo phục riêng cho ông.
Tuy nhiên, sự mâu thuẫn bắt đầu xuất hiện giữa hai nhánh tu tập. Ông Chiêu với cách tu tập Nội giáo tâm truyền, rất chọn lọc tín đồ gia nhập, chủ thuyết bình đẳng ngôi vị giữa các tín đồ, có phần không hài lòng hoạt động phổ độ rộng rãi và sự gia tăng tín đồ nhanh chóng của nhánh Ngoại giáo công truyền. Vì vậy, ông từ chối ngôi vị Giáo tông, xuất tiền hoàn trả chi phí may đạo phục lại cho nhóm Cơ Phổ độ. Từ đó, ông không tham gia vào hoạt động phổ độ nào nữa, mà chỉ tuyển chọn một số ít tín đồ riêng để tu tập theo lối Nội giáo tâm truyền. Nhóm tu của ông từ đó có tên gọi là Cơ Tuyển độ, không có liên quan gì đến các hoạt động phát triển của nhóm Cao Đài Phổ độ. Tuy vậy, các tín đồ Cao Đài ngày nay vẫn kính ngưỡng ông là Trưởng huynh của tất cả các tín đồ Cao Đài.
Nhóm tín đồ theo pháp môn của ông được ông đặt tên là Chiếu Minh, một cách gọi láy trệch đi tên của ông. Các môn đồ của Chiếu Minh đều ghép chữ Minh vào tên gọi để làm đạo hiệu. Chiếu Minh phát triển dần dần trở thành một nhánh tu kín khổ hạnh của đạo Cao Đài. Một nhóm môn đệ Chiếu Minh ở Cần Thơ đã hình thành Chiếu Minh đàn và nghĩa trang Chiếu Minh.
Qua đời
Tuy vẫn tiếp tục làm việc ở Sài Gòn, ông vẫn thường xuyên và theo dõi các nhóm tu tập Chiếu Minh ở miền Tây Nam Kỳ. Tháng 12 năm 1931, do sức khỏe kém, ông xin nghỉ việc ở Soái phủ Nam Kỳ, về Cần Thơ dưỡng bệnh. Các đệ tử Chiếu Minh dựng cho ông một căn nhà nhỏ cạnh nghĩa trang Chiếu Minh để ông tĩnh dưỡng và tu tập.
Tuy nhiên, sức khỏe ông càng lúc càng yếu. Ngày 30 tháng 3 năm 1932, ông đi thăm núi Tà Lơn lần thứ hai và tỏ ý sẽ thoát xác nơi đây. Các môn đệ đi theo hết sức khẩn khoản, ông mới bằng lòng trở về Cần Thơ. Ngày 18 tháng 4 năm 1932, ông cùng người con gái thứ 5 là bà Ngô Thị Nguyệt và một số môn đệ tháp tùng đi xe về nhà ở tỉnh Tân An. Khi xe qua phà Mỹ Thuận thì ông qua đời vào khoảng 3 giờ chiều.
Khi biết ông đã qua đời, các môn đệ tháp tùng đã đưa di thể của ông trở về Cần Thơ. Theo ý nguyện lúc sinh thời, các môn đệ Chiếu Minh đã liệm di thể ông trong tư thế ngồi thiền, dùng một áo quan hình lục giác (hình khối sáu mặt, tương ứng sáu chữ Nam mô Cao Đài Tiên ông), đường kính 0,8m, cao 1,20m, sau đó dùng xe đẩy ra nghĩa trang Chiếu Minh chỉ cách đó khoảng 200m. Lục giác được đặt trên một nền đã xây sẵn, sau đó xây gạch bao kín chung quanh. Bên ngoài xây thành một cái tháp.
Tín đồ đưa tang từ các nơi đổ về Cần Thơ rất đông, lên tới hàng ngàn người. Tang lễ trở thành sự kiện đăng trên các báo.
Gia đình
Cuối năm 1899, ông lập lập gia đình với bà Bùi Thị Thân, người làng Thạnh Trị, tổng Thuận Trị, hạt Mỹ Tho (nay thuộc thành phố Mỹ Tho) lúc bấy giờ đang buôn bán tại chợ Mỹ Tho. Ông bà có với nhau 9 người con, gồm:
Ngô Thị Ngữ, sinh tại Mỹ Tho, chết 5 ngày sau khi sanh
Ngô Thị Hồng, sinh tại Sài Gòn, chết năm 3 tuổi
Ngô Thị Yến Ngọc, tức Lợi, sinh năm 1904 tại Tân An
Ngô Thị Nguyệt, sinh ngày 27 tháng 5 năm 1906 tại Tân An
Ngô Văn Nhựt, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1908 tại Tân An
Ngô Văn Tinh, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1910 tại Tân An
Ngô Tường Vân, sinh ngày 1 tháng 9 năm 1913 tại Tân An
Ngô Thanh Phong, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1915 tại Tân An
Ngô Khai Minh, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1920 tại Tân An.
Thời gian ông làm việc tại Tân An, ông đã mua một căn nhà tại số 31 đường Lagrange, xã Bình Lập (nay là nhà số 27 đường Phan Đình Phùng, Tân An, Long An) và rước mẹ về ở chung. Riêng cha ông vẫn ở lại Sài Gòn với người vợ kế. Ngôi nhà tại Tân An vẫn còn hầu như nguyên trạng cho đến ngày nay.
Mẹ ông qua đời tại Tân An ngày 15 tháng 11 năm 1919. Cha ông mất khi nào không rõ nhưng ngày 4 tháng 9 năm 1946 hương chức làng Lợi Bình Nhơn, tổng Hưng Long, tỉnh Tân An có chứng thực ông Ngô Văn Xuân chết tại làng này, nhưng không có sổ khai tử tại làng
Bà Thân qua đời ngày 30 tháng 12 năm 1955 tại Tân An.
Chú thích |
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam là một chức vụ cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam và trong Đảng cộng sản Việt Nam, đứng đầu Tổng cục Chính trị của Quân đội, có chức trách trực tiếp quản lý điều hành mọi hoạt động của Tổng cục, chỉ đạo cơ quan chính trị cấp dưới, đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong toàn quân.
Trên thực tế, trong tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam, chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị là chức vụ cao cấp trên cả Thứ trưởng và Tổng tham mưu trưởng. Toàn bộ các đời Chủ nhiệm Tổng cục chính trị đều là các thành viên của Bộ Chính trị, hoặc Ban Bí thư Trung ương, phản ánh chính sách lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, quân hàm
Tại Điều 25 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2014 Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị;
Cũng theo luật này tại Điều 15 thì chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị có cấp bậc quân hàm cao nhất là Đại tướng.
Tiêu chuẩn chức vụ
Nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam
Theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày 19 tháng 12 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tại Phụ lục 1, Mục I, Tiểu mục 3 và tại Điều 4, Điều 13 thì chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị có thời hạn giữ chức vụ là 5 năm và thuộc diện thẩm quyền Bộ Chính trị quản lý, đánh giá, bố trí, giới thiệu ứng cử, chỉ định; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho thôi giữ chức, đình chỉ chức vụ; khen thưởng, kỷ luật.
Người giữ chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thường giữ các chức vụ trong Đảng là Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương.
Theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4 tháng 8 năm 2017 và Quy định số 90-QĐ/TW ngày 4 tháng 8 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì tiêu chuẩn chung của chức danh Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị bao gồmː
Về chính trị tư tưởngː Trung thành với Tổ quốc, Đảng, Nhà nước. Lập trường bản lĩnh chính trị vững vàng.
Về đạo đức, lối sốngː Mẫu mực, trung thực, khiêm tốn, chân thành, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Về trình độː Tốt nghiệp đại học trở lên.
Về năng lực và uy tínː Có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả. Là hạt nhân quy tụ được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao.
Sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệmː Đủ sức khỏe, đã kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp ở đây; có nhiều kinh nghiệm thực tiễn.
Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 tại phần III, mục 2 có quy định cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới, trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Nhiệm vụ
Theo Quy định 61-QĐ/TW ngày 29 tháng 12 năm 2016 về tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam thì nhiệm vụ của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị như sauː
Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác tuyên huấn trong Quân đội, Dân quân tự vệ và Ban Cơ yếu Chính phủ
Chỉ đạo, hướng dẫn công tác tổ chức xây dựng Đảng trong Đảng bộ Quân đội; đồng thời chỉ đạo cấp ủy, cơ quan chính trị các quân khu và Bộ đội Biên phòng phối hợp với cấp ủy địa phương để chỉ đạo, hướng dẫn công tác tổ chức xây dựng Đảng trong đảng bộ quân sự địa phương và trong đảng bộ bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội
Quán triệt đường lối, quan điểm, nguyên tắc, chính sách của Đảng về công tác cán bộ. Đề xuất với Quân ủy Trung ương về chủ trương, quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý và thực hiện chính sách cán bộ theo phân cấp
Chỉ đạo, hướng dẫn công tác Bảo vệ - An ninh, giáo dục cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng
Chỉ đạo, hướng dẫn công tác Dân vận
Phối hợp với các cơ quan chức năng trong và ngoài Quân đội nghiên cứu, đề xuất với Đảng và Nhà nước ban hành các chính sách đối với Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, lực lượng cơ yếu, hậu phương quân đội; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc quán triệt thực hiện các chính sách đó trong toàn quân
Chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn, Hội phụ nữ và Hội đồng quân nhân ở cơ sở
Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ, trọng tâm là: sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, huấn luyện, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, quản lý, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật, phòng, chống thiên tai, thảm họa, cứu hộ, cứu nạn, công tác quân sự, quốc phòng địa phương
Chỉ đạo và tham gia nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Ban Cơ yếu Chính phủ. Nghiên cứu phát triển khoa học xã hội nhân văn quân sự, tham gia nghiên cứu khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam; biên soạn các điều lệ, quy định về công tác đảng, công tác chính trị
Chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng cơ quan chính trị các cấp vững mạnh toàn diện.
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị qua các thời kỳ |
Với một đồ thị liên thông, vô hướng cho trước, cây bao trùm của nó là một đồ thị con có dạng cây và có tất cả các đỉnh liên thông với nhau. Một đồ thị có thể có nhiều cây bao phủ khác nhau. Chúng ta cũng có thể gán một trọng số cho mỗi cạnh, là con số biểu thị sự "không ưa thích" và dùng nó để tính toán trọng số của một cây bao trùm bằng cách cộng tất cả trọng số của cạnh trong cây bao trùm đó. Khi đó, một cây bao trùm nhỏ nhất là một cây bao trùm có trọng số bé hơn bằng trọng số của tất cả các cây bao trùm khác. Tổng quát hơn, bất kỳ một đồ thị vô hướng (không nhất thiết liên thông) đều có một rừng bao phủ nhỏ nhất, là hội của các cây bao trùm nhỏ nhất của các thành phần liên thông của nó.
Ví dụ như một hãng TV truyền hình cáp muốn nối cáp đến một khu dân cư mới. Nếu bị ràng buộc chỉ được chôn cáp ở một số tuyến đường nhất định, ta sẽ có thể hình thành được một đồ thị biểu diễn các điểm kết nối với nhau theo các tuyến đường đó. Một số tuyến có chi phí cao hơn, vì chúng dài hơn, hoặc cáp phải được chôn sâu hơn; những con đường này sẽ được thể hiện bằng những cạnh có trọng số lớn hơn. Một cây bao trùm của đồ thị sẽ là một tập con các con đường như vậy sao cho nó không được tạo thành vòng (chu trình) mà vẫn phải nối được đến tất cả các nhà. Sẽ có thể có vài cây bao trùm như vậy. Một cây bao trùm nhỏ nhất sẽ là cây bao trùm có tổng chi phí thấp nhất.
Tính chất
Có thể có vô số
Có thể có một vài cây bao trùm nhỏ nhất có cùng trọng số và có số cạnh nhỏ nhất; cụ thể hơn, nếu tất cả các cạnh của một đồ thị đều có trọng số bằng nhau, thì tất cả các cây bao trùm của đồ thị đó đều là nhỏ nhất.
Tính duy nhất
Nếu mỗi cạnh có trọng số riêng biệt thì sẽ chỉ có một, và chỉ một cây bao trùm nhỏ nhất. Có thể chứng minh phát biểu này bằng quy nạp hoặc phản chứng. Điều này đúng trong nhiều trường hợp thực tế, như ví dụ về công ty truyền hình cáp ở trên chẳng hạn, khi đó rất hiếm khi hai con đường lại có chính xác cùng một chi phí. Phát biểu này cũng được tổng quát hóa cho rừng bao trùm.
Đồ thị có chi phí nhỏ nhất
Nếu trọng số là số dương, thì một cây bao trùm nhỏ nhất cũng chính là đồ thị con có chi phí nhỏ nhất kết nối tất cả đỉnh, vì các đồ thị con có chứa chu trình bao giờ cũng có tổng trọng số lớn hơn.
Tính chất vòng
Với một chu trình C bất kỳ trong đồ thị, nếu trọng số của cạnh e nào đó của C lớn hơn trọng số của các cạnh còn lại của C, thì cạnh đó không thể thuộc về cây bao trùm nhỏ nhất. Giả sử điều ngược lại, nếu e thuộc về cây bao trùm nhỏ nhất T1, khi chúng ta xóa e, nó sẽ phân T1 ra làm hai cây con mà hai đầu của e thuộc về hai cây con khác nhau. Các cạnh còn lại của C sẽ gắn hai cây con này lại với nhau, do đó sẽ tồn tại một cạnh f thuộc C có hai đầu nằm trên hai cây con này, tức là nó sẽ kết nối hai cây con này lại một cây T2 có trọng số nhỏ hơn T1, vì trọng số của f nhỏ hơn trọng số của e.
Tính chất cắt
Với nhát cắt C bất kỳ trong đồ thị, nếu trọng số của một cạnh e của C nhỏ hơn trọng số của các cạnh còn lại của C, thì cạnh này thuộc về tất cả các cây bao trùm nhỏ nhất của đồ thị. Thực vậy, giả sử điều ngược lại, cạnh BC (có trọng số là 6) thuộc về cây bao trùm nhỏ nhất T thay vì cạnh e (trọng số 4) trong hình bên trái. Khi đó thêm e vào T sẽ tạo thành một chu trình, còn thay BC bằng e sẽ tạo ra một cây bao trùm nhỏ nhất có trọng số nhỏ hơn.
Cạnh có chi phí nhỏ nhất
Nếu một cạnh của đồ thị với chi phí nhỏ nhất e là duy nhất, thì cạnh này sẽ thuộc về bất kỳ một cây bao trùm nhỏ nhất nào. Thật vậy, nếu e không nằm trong cây bao trùm nhỏ nhất, xóa một cạnh (có chi phí lớn hơn) trong chu trình tạo ra sau khi thêm e vào cây, sẽ tạo ra cây bao trùm có trọng số nhỏ hơn.
Giải thuật
Giải thuật đầu tiên để tìm cây bao trùm nhỏ nhất do nhà khoa học người Séc Otakar Borůvka nghĩ ra vào năm 1926 (xem Giải thuật của Borůvka). Mục đích của ông là nghĩ ra cách phủ mạng điện hiệu quả tại Moravia. Hiện nay có hai giải thuật thường được sử dụng: Giải thuật của Prim và Giải thuật của Kruskal. Cả ba giải thuật này đều thuộc dạng giải thuật tham lam chạy với thời gian đa thức, vì vậy bài toán tìm cây bao trùm nhỏ nhất là dạng FP, và các bài toán ra quyết định liên quan như xác định xem một cạnh cụ thể có thuộc MST hay không hoặc xác định xem tổng trọng số tối thiểu có vượt quá một giá trị nào đó hay không, là thuộc dạng P. Một giải thuật tham lam khác không được phổ biến bằng đó là giải thuật ngược-xóa, là dạng đảo ngược của giải thuật của Kruskal.
Nếu trọng số của cạnh là số nguyên, thì giải thuật các đơn định giải được bài toán với O(m + n) phép tính nguyên. Một mô hình khác, trong đó chỉ cho phép các phép tính trên trọng số của cạnh là so sánh đôi một, đã tìm ra một giải thuật ngẫu nhiên hóa có thời gian tuyến tính dựa trên sự phối hợp giải thuật Borůvka và giải thuật ngược-xóa. Tuy vậy, việc bài toán có thể được giải một cách đơn định trong thời gian tuyến tính bằng một giải thuật so sánh hay không vẫn còn là một câu hỏi mở. Giải thuật so sánh không ngẫu nhiên nhanh nhất, do Bernard Chazelle nghĩ ra, dựa trên đống mềm (soft heap),
một dạng hàng đợi có ưu tiên xấp xỉ.
Thời gian chạy của nó là O(m α(m,n)), trong đó m là số cạnh, n là số đỉnh và α là hàm đảo cổ điển của Hàm số Ackermann. Hàm α tăng cực chậm, vì vậy khi áp dụng vào thực tế người ta thường cho nó là một hằng số không lớn hơn 4; vì thế giải thuật của Chazelle đạt rất gần đến thời gian tuyến tính. Seth Pettie và Vijaya Ramachandran đã tìm thấy giải thuật tìm cây bao trùm nhỏ nhất dựa trên phép so sánh đơn định có thể chứng minh được là tối ưu, tuy vậy độ phức tạp tính toán của nó hiện vẫn chưa biết.
Những nhà nghiên cứu cũng xem xét các giải thuật song song cho bài toán cây bao trùm nhỏ nhất.
Với một số bộ xử lý tuyến tính, ta có thể giải bài toán trong thời gian .
mô tả một giải thuật có thể tính MST trên 8 bộ xử lý nhanh gấp 5 lần so với giải thuật tuần tự đã tối ưu hóa. Thông thường, giải thuật tuần tự được dựa trên giải thuật Borůvka—Prim và đặc biệt, giải thuật của Kruskal không tốt hơn được như vậy khi có thêm bộ xử lý.
Các giải thuật chuyên biệt khác đã được thiết kế để tính cây bao trùm nhỏ nhất của một đồ thị lớn đến phải luôn lưu trữ nó trong đĩa. Các giải thuật bộ lưu trữ gắn ngoài này, như một ví dụ mô tả trong "Engineering an External Memory Minimum Spanning Tree Algorithm" của Roman Dementiev và đồng nghiệp, có thể chạy chỉ chậm hơn có 2 đến 5 lần so với giải thuật với bộ nhớ cổ điển; họ cho rằng "các bài toán cây bao trùm nhỏ nhất cực kỳ lớn chứa trong vài đĩa cứng có thể được giải trên một máy PC chỉ trong một đêm". Họ dựa trên giải thuật sắp xếp hiệu quả trên bộ lưu trữ gắn ngoài và các kỹ thuật thu nhỏ đồ thị để giảm kích thước đồ thị một cách hiệu quả.
Bài toán này còn được tiếp cận theo cách phân bố. Nếu mỗi nút được xem là một máy tính và các nút không biết gì hết ngoài các liên kết mà nó liên kết, người ta vẫn có thể tính được cây bao trùm tối tiểu phân bố.
Cây bao trùm nhỏ nhất trên đồ thị đầy đủ ngẫu nhiên
Alan M. Frieze đã chứng minh rằng với một đồ thị đầy đủ có n đỉnh, với trọng số của các cạnh là biến độc lập, phân bố ngẫu nhiên đồng nhất với hàm phân bố thỏa mãn , thì khi n tiến tới +∞ trọng số kỳ vọng của MST tiến tới , trong đó là Hàm số zeta Riemann.
Với giả thuyết bổ sung là phương sai hữu hạn, Alan M. Frieze cũng chứng minh tính hội tụ trong xác suất. Về sau, J. Michael Steele đã chứng minh rằng giả thuyết về phương sai có thể được bỏ đi.
Trong một công trình sau đó, Svante Janson đã chứng minh định lý giới hạn trung tâm đối với trọng số của MST.
Với trọng số ngẫu nhiên đồng nhất trong khoảng , kích thước kỳ vọng chính xác của cây bao trùm nhỏ nhất đã được tính cho các đồ thị đầy đủ nhỏ.
Các bài toán liên quan
Một bài toán liên quan là cây bao trùm nhỏ nhất k (k-MST), là cây bao trùm một tập con gồm k đỉnh trong đồ thị với trọng số nhỏ nhất.
Tập hợp k cây bao trùm nhỏ nhất là một tập hợp gồm k cây bao trùm sao cho không có cây bao trùm nào bên ngoài tập có trọng số nhỏ hơn. (Chú ý là bài toán này không liên quan đến bài toán cây bao trùm nhỏ nhất k).
Cây bao trùm nhỏ nhất trong không gian Euclide là cây bao trùm nhỏ nhất của đồ thị mà trọng số là khoảng cách giữa các điểm trong không gian Euclide.
Cây bao trùm nhỏ nhất trong tọa độ thẳng là cây bao trùm nhỏ nhất của đồ thị mà trọng số là khoảng cách thẳng (khoảng cách ) giữa các điểm trong không gian.
Trong tính toán phân tán, khi mà mỗi đỉnh tương ứng với một máy tính chỉ biết đến những liên kết của chính nó, ta có thể xem xét bài toán tìm cây bao trùm nhỏ nhất một cách phân tán. Định nghĩa về mặt toán học của bài toán không thay đổi nhưng lời giải phải thay đổi cho phù hợp với mô hình tính toán phân tán.
Cây bao trùm nhỏ nhất với khả năng thông qua là cây với một đỉnh được đánh dấu nguồn và mỗi cây con nối với đỉnh nguồn có không quá c nút. c được gọi là khả năng thông qua của cây.
Cây bao trùm với giới hạn bậc là cây bao trùm nhỏ nhất thỏa mãn điều kiện mỗi đỉnh được nối với không quá d đỉnh khác, với một số d cho trước. Trường hợp d=2 là một biến thể của bài toán người bán hàng và nó cũng là NP-khó. Vì vậy trong trường hợp tổng quát, cây bao trùm nhỏ nhất với giới hạn bậc là NP-khó.
Trong đồ thị có hướng, bài toán cây bao trùm nhỏ nhất có gốc có thể giải trong thời gian bậc hai bằng thuật toán Chu-Liu/Edmonds.
Cây bao trùm lớn nhất là cây bao trùm có tổng trọng số lớn hơn hoặc bằng tổng trọng số bất kì cây bao trùm nào. Bài toán này có thể được giải bằng cách nhân các trọng số với -1 và giải bài toán cây bao trùm nhỏ nhất trên đồ thị mới. Đường đi trên cây bao trùm lớn nhất chính là đường đi rộng nhất giữa hai đầu đường đi: trong tất cả các đường đi giữa hai đỉnh này, nó là đường đi có trọng số nhỏ nhất trên đường là lớn nhất.
Bài toán MST động yêu cầu xử lý các thao tác thay đổi cạnh hoặc đỉnh của đồ thị và có thể nhanh chóng tính cây bao trùm nhỏ nhất tại mọi thời điểm. |
Cốt lõi của Xây dựng cao tầng là sự phức hợp. Vấn đề và giải pháp nằm trong quan hệ biện chứng. Các giải pháp chuẩn đơn giản và các nguyên tắc thiết kế cơ bản sẽ bổ sung lẫn nhau. Cả hai đều quan trọng trong việc phát triển giải pháp riêng biệt.
Xây dựng cao tầng bao gồm các chi tiết - các kẽ hở, các liên kết giữa các cấu kiện phụ thuộc vào vật liệu xây dựng và các yêu cầu đặc thù. Nó bao gồm các nguyên lý bao trùm - kiến trúc khởi nguồn từ và bởi xây dựng. Quan hệ qua lại giữa thiết kế xây dựng và tạo hình, quan hệ và mâu thuẫn giữa cấu kiện và khoảng cách, giữa vật liệu và hình liệu, giữa xây dựng và thể hiện là rõ ràng. Xây dựng cao tầng bao gồm sự tự do - sự đa dạng giữa các giải pháp kỹ thuật và tạo hình. Ngoài ra, xây dựng cao tầng bao gồm các quy tắc - các quy luật quyết định bởi đặc trưng giá trị vật liệu, dữ liệu khớp nối, cơ sở tĩnh học, tầm nhìn vật lý học công trình, khả năng cảm giác.
Công trình xây dựng cao tầng
Công trình xây dựng cao tầng có thể được phân loại theo công năng như sau:
Ở: nhà ở đơn, nhà ở dãy, nhà ở liền khối, chung cư cao tầng, v.v.
Làm việc: văn phòng, nhà máy, công xưởng, v.v.
Kinh doanh: kho lưu, trung tâm thương mại, cửa hàng, v.v.
Xã hội: nhà hành chính, thị sở, v.v.
Sức khỏe: bệnh viện, dưỡng lão viện, trại giam, v.v.
Văn hóa: thư viện, rạp hát, v.v.
Tôn giáo: đình, đền thờ, chùa, miếu, mạo, nhà thờ, v.v.
Giải trí: sân vận động, trung tâm thể thao, bể bơi, v.v.
Giao thông: nhà để xe, nhà ga, bến xe buýt, sảnh khách sân bay, v.v.
Nội dung
Mặc dù công năng của các công trình xây dựng cao tầng có khác nhau nhưng Xây dựng cao tầng luôn là sự kết hợp của ba yếu tố: Vật lý học công trình, Hệ kết cấu chịu lực và Hoàn thiện và vỏ công trình.
Vật lý học công trình
Các yêu cầu của vật lý học công trình
Nhiệt
Truyền năng lượng nhiệt
Dẫn nhiệt
Đối lưu
Bức xạ nhiệt
Truyền nhiệt qua cấu kiện
Truyền nhiệt qua tường và trần
Truyền nhiệt qua cửa sổ
Cấu kiện được thông khí
Yêu cầu về hệ số truyền nhiệt
Cầu nhiệt
Thoát nhiệt vào lòng đất
Truyền nhiệt qua vỏ công trình
Ẩm
Nước và hơi nước
Ngưng tụ và hiểm họa nấm mốc bề mặt
Ngưng tụ trong lòng cấu kiện, chặn hơi nước
Ồn
Âm và truyền âm
Cách âm khí
Cách âm gõ
Cách âm máy kỹ thuật nhà
Chống cháy
Hậu quả cháy và mục tiêu bảo vệ
Phân loại vật liệu, cấu kiện và hệ lực theo yêu cầu chống cháy
Các biện pháp thiết kế
Chiếu sáng
Hệ kết cấu chịu lực (Kết cấu xây dựng)
Các cấu kiện cơ bản
Nền móng
Móng đơn và mỏng dải
Móng tấm mảng
Móng khối hộp
Móng cột
Khe lún
Tường gạch chịu lực
Đặc tính vật liệu
Viên gạch
Vữa gạch
Khả năng chịu lực nén thẳng tâm và lệch tâm
Khả năng chịu cắt và lực nén xuyên tâm
Khả năng chịu cắt và lực nén lệch tâm
Khả năng chịu cắt
Hệ kết cấu khung xương
Truyền dẫn ngoại lực và nội lực
Hệ tường chịu lực
Hệ khung
Hệ hỗn hợp
Các phần tử kết cấu
Trần
Đỡ trần và dầm
Cột
Nút
Cấu kiện chịu lực xuyên qua vỏ công trình
Hoàn thiện và vỏ công trình
Tường ngoài
Tường gạch
Tường gạch đồng chất
Tường gạch hai lớp
Tường gạch trát ngoài
Tường gạch với lớp cách ngoài và khe khí
Tường bê tông
Tường bê tông với lớp cách trong
Tường bê tông với kết cấu xen kẽ
Mặt tiền kim loại nhẹ
Mặt tiền tụ năng lượng
Tường trong
Tường gạch
Tường gạch không chịu lực
Tường gạch chịu lực
Tường gạch cách âm
Tường bê tông
Tường tấm bả
Mái
Mái nghiêng
Mái nghiêng cách nhiệt
Mái nghiêng không cách nhiệt
Mái bằng
Mái bằng giữ nhiệt
Mái bằng thông khí
Mái bằng đổi chiều
Mái bằng liên kết
Mái bằng không lớp bảo vệ và không lớp công năng
Cửa sổ
Kính và chế tạo kính
Kết cấu cửa sổ
Lắp cửa sổ
Hoàn thiện trần
Sàn nhà đệm dưới nổi
Sàn nhà đôi
Trần treo
Khu mạch thoát
Tầng hầm thấp hơn nước thấm và nước tràn
Tầng hầm dưới mạch nước ngầm
Cầu thang
Thiết bị kỹ thuật nhà
Cấp, thoát nước
Thiết bị sưởi
Thiết bị thông gió và điều hòa
Thiết bị lạnh và làm mát
Thiết bị chiếu sáng
Thiết bị điện nặng
Thiết bị điện nhẹ
Thiết bị truyền vận |
Quản lý dự án xây dựng (QLDAXD) là một dịch vụ chuyên nghiệp sử dụng các kĩ thuật chuyên môn, quản lý dự án để giám sát việc lập kế hoạch, thiết kế và xây dựng một dự án, từ đầu công trình đến khi hoàn tất. Mục đích của QLDAXD là để kiểm soát thời gian của một dự án, chi phí và chất lượng. QLDAXD tương thích với tất cả các hệ thống phân phối dự án, bao gồm thiết kế - nhà thầu xây dựng, thiết kế xây dựng, quản lý độ an toàn và rủi ro và đối với các quan hệ đối tác. Mỗi dự án xây dựng cần một số lượng CM. Tuy nhiên, chuyên nghiệp quản lý xây dựng, hoặc QLDAXD, thường dành cho dài, quy mô lớn, chủ trương, ngân sách cao (bất động sản thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, các cơ sở công nghiệp, cơ sở hạ tầng quân sự,...), gọi là dự án vốn. Không có vấn đề thiết lập, trách nhiệm của QLDAXD là một chủ sở hữu, và làm cho một dự án nào đó thành công
Các bước quản lý
Công nghệ xây dựng
Phương pháp thi công
Lập kế hoạch tiến trình thi công
Lập kế hoạch công trường
An toàn lao động
Tin học trong vận hành xây dựng
Kỹ thuật máy xây dựng
Kinh tế quản trị xây dựng
Dự toán chi phí xây dựng công trình
Hợp đồng xây dựng
Chào thầu
Đấu thầu, lựa chọn nhà thầu
Các mô hình mời thầu và hợp đồng
Cấu trúc và công cụ của thị trường xây dựng
Cơ sở Quản lý xây dựng
Quản lý tổng thể
Quản lý dự án
Quản lý chi phí (chi phí là khởi nguồn cho mọi hoạt động khác, quản lý chi phí là phức tạp nhất trong mọi lĩnh vực quản lý)
Quản lý đấu thầu, lựa chọn nhà thầu
Quản lý hợp đồng
Quản lý thi công xây dựng công trình
Quản lý chất lượng
Quản lý rủi ro
Các quản lý khác
Quản lý đầu tư xây dựng
Lập tiến độ phát triển dự án
Kế hoạch đầu tư và tài chính
Luật quy hoạch và luật xây dựng
Kiến thức bổ sung
Quản trị doanh nghiệp
Kế toán
Lý thuyết kinh tế
Công tác thị trường
Lý thuyết thuế và
Nghiên cứu vận hành (Operations Research)
Phạm vi mở rộng
Xây dựng chìa khóa trao tay
Xây dựng trên nền cũ
Xây dựng tại nước ngoài
Xây dựng công nghiệp
Quản lý trang thiết bị (Facility Management)
Các dự án hợp tác công tư (Public Private Partenership - PPP);
Các kỹ năng bổ trợ
Thuyết trình
Thương thảo
Ngôn ngữ
Tin học, công nghệ thông tin
Pháp luật (luật xây dựng, luật đấu thầu, luật đất đai, luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật lao động...)
Kỹ năng làm việc nhóm |
Tin học lý thuyết là tập hợp các chủ đề của khoa học máy tính tập trung vào các khía cạnh toán học trừu tượng của tính toán, chẳng hạn như lý thuyết tính toán (theory of computation), phân tích thuật toán (analysis of algorithms) và ngữ nghĩa của ngôn ngữ lập trình. Tuy bản thân tin học lý thuyết không phải là một chủ đề đơn nhưng các nhà nghiên cứu ngành này lập thành một nhóm con giữa các nhà nghiên cứu khoa học máy tính.
Phạm vi
Khó có thể khoanh vùng các lĩnh vực lý thuyết một cách chính xác; Nhóm nghiên cứu đặc biệt về thuật toán và lý thuyết tính toán của tổ chức ACM nói rằng:
"Lĩnh vực tin học lý thuyết được hiểu theo nghĩa rộng để bao hàm các thuật toán, cấu trúc dữ liệu, lý thuyết độ phức tạp tính toán, tính toán phân tán, tính toán song song, VLSI, học máy, sinh học tính toán (computational biology), địa lý tính toán (computational geometry, lý thuyết thông tin (information theory), mật mã học, tính toán lượng tử (quantum computation), đại số và lý thuyết số tính toán, kiểm định và ngữ nghĩa chương trình, lý thuyết ô-tô-mát (automata theory), và nghiên cứu về tính ngẫu nhiên (study of randomness). Các công trình trong lĩnh vực này thường được phân biệt với các lĩnh vực khác bởi nhấn mạnh vào kỹ thuật và tính chặt chẽ toán học."
Các tổ chức
EATCS, the European Association for Theoretical Computer Science - Hội Tin học Lý thuyết châu Âu
SIGACT
Dutch Association for Theoretical Computer Science - Hội Tin học Lý thuyết Hà Lan
Tạp chí
Information and Computation
Theory of Computing (open access journal)
Formal Aspects of Computing
Journal of the ACM
SIAM Journal on Computing
SIGACT News
Theoretical Computer Science
Theory of Computings Sytems
Chicago Journal of Theoretical Computer Science
Hội thảo
Annual ACM Symposium on the Theory of Computing (STOC)
IEEE Symposium on Foundations of Computer Science (FOCS)
Symposium on Discrete Algorithms (SODA)
International Colloquium on Automata, Languages and Programming (ICALP)
Symposium on Theoretical Aspects of Computer Science (STACS)
European Symposium on Algorithms (ESA)
Algebraic Methodology And Software Technology (AMAST)
IEEE Symposium on Logic in Computer Science (LICS)
International Symposium on Algorithms and Computation(ISAAC)
(APPROX/RANDOM)
Computational Complexity Conference (CCC)
Symposium on Parallelism in Algorithms and Architectures (SPAA)
Computability in Europe (CiE) |
Tân Yên là một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Tân Yên nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang khoảng 15 km về phía tây, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 60 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Lạng Giang
Phía tây giáp huyện Hiệp Hòa và huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
Phía nam giáp thành phố Bắc Giang và huyện Việt Yên
Phía bắc giáp huyện Yên Thế.
Tân Yên là huyện chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du, có tổng diện tích tự nhiên là 204 km², trải dài từ 106°0'20"Đ - 106°11'40"Đ và 21°18'30"B - 21°23'0"B, cách thành phố Bắc Giang 15 km theo tỉnh lộ 398 (đường 284 cũ), huyện Sóc Sơn – Hà Nội (cách 30 km theo tỉnh lộ 295), thành phố Thái Nguyên cách 40 km theo tỉnh lộ 294 (đường 287 cũ)...
Lịch sử
Ngày 6 tháng 11 năm 1957, Chính phủ ra Nghị định số 532/TTg chia huyện Yên Thế thành 2 huyện Tân Yên và Yên Thế. Trước thời điểm ấy Tân Yên là phần đất phía nam của huyện Yên Thế mà sử sách dân gian vẫn quen gọi là miền Yên Thế Hạ. Theo sử sách cho thấy, vào thời Nguyễn, đầu thế kỷ XIX, huyện Yên Thế thuộc phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc (năm Minh Mạng đổi làm phủ Thiên Phúc).
Theo sách "Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX", huyện Yên Thế gồm 8 tổng, 42 xã:
Tổng Yên Thế có 6 xã thôn: Thôn Định Xuyên thuộc xã Yên Thế, Thọ Xương, Bảo Tháp, Nhạn Tháp, Quỳnh Đồng (nguyên chú: Quỳnh Đồng năm Đinh Mão (1807) phiêu bạt; năm Kỷ Tỵ (1809) phục hồi).
Tổng Vân Cầu có 7 xã Vân Cầu, Trị Cụ, Ngọc Cục, Sơn Quả, Thuý Cầu, Ngọc Cụ, Lam Khuất.
Tổng Lan Giới có 4 xã Lan Giới, Đại Hóa, Lãn Quật, Giản Ngoại.
Tổng Nhã Nam có 5 xã thôn: Thôn Thượng thuộc xã Lục Giới - hai thôn Trung và Hạ), Nhã Nam, Dương Lâm. thôn Hùng Lĩnh thuộc xã Lục Giới.
Tổng Mục Sơn có 8 xã Mục Sơn, Hòa Mục, Quất Du, Hữu Mục, Dương Sơn. Cao Thượng, Du Phong, Lục Liễu.
Tổng Quế Nham có 5 xã: Quế Nham, Phú Khê, Lãn Tranh, Liên Bộ, Vọng Hà.
Tổng An Lễ có 6 xã: An Lễ, Ngô Xá, Lăng Cao, Khánh Giàng, Bảo Lộc, Ước Lễ.
Tổng Bảo Lộc Sơn có 4 xã: Bảo Lộc Sơn, Chung Sơn, Tưởng Sơn, Kim Tràng (Chép riêng 3 xã phiêu bạt, hai xã thành án Sinh Tháp, Lý Khuất, Vạn Tân.
Năm Minh Mạng thứ ba (1822) xứ Kinh Bắc đổi là trấn Bắc Ninh, đến năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) gọi là tỉnh Bắc Ninh, gồm 4 phủ, hai phân phủ và 20 huyện. Huyện Yên Thế thuộc phân phủ Lạng Giang.
Sách "Đại Nam nhất thống chí" của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi về phân phủ Lạng Giang và huyện Yên Thế như sau: Phân phủ Lạng Giang ở cách phủ 39 dặm về phía bắc, lệch về phía đông; đông - tây cách nhau 32 dặm; nam - bắc cách nhau 84 dặm, phía đông đến giang phận huyện Bảo Lộc phủ Lạng Giang 8 dặm, phía tây đến địa giới huyện Hiệp Hòa phủ Thiên Phúc 24 dặm, phía nam đến giang phận huyện Võ Giàng phủ Từ Sơn 34 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Tư Nông tỉnh Thái Nguyên 50 dặm. Phân phủ đặt năm Minh Mệnh thứ 13, lãnh 3 huyện; năm Tự Đức thứ 6 trích lấy huyện Việt Yên, phủ Thiên Phúc cho lệ vào phân phủ này, nay lãnh 4 huyện.
Huyện Yên Thế: đông - tây cách nhau 32 dặm, nam - bắc cách nhau 42 dặm; phía đông đến giang phận huyện Bảo Lộc 8 dặm, phía tây đến địa phận huyện Hiệp Hòa, phủ Thiên Phúc 24 dặm; phía nam đến địa giới huyện Yên Dũng 9 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Hữu Lũng 33 dặm.
Tên huyện có từ thời Trần về trước, thời thuộc Minh đổi là Thanh Yên, do châu Lạng Giang lãnh, lệ vào phủ Lạng Giang; đời Lê Quang Thuận trở lại tên cũ, bỏ châu Lạng Giang cho lệ vào phủ, bản triều đời Gia Long vẫn theo như thế; năm Minh Mệnh thứ 13, đổi do phân phủ kiếm lý. Lãnh 8 tổng 44 xã thôn.
Cuối thế kỷ XIX, huyện Yên Thế có 8 tổng:
Tổng Yên Thế có xã Yên Thế (Định Xuyên) gồm 7 xóm Cầu Khoai, Trại Cọ, Trại Chiềng, Trại Hom, Trại Lốt, Thống Thượng, Yên Thế; xã Thọ Xương (Phồn Xương) có 4 xóm: Đồng Bài (trại Tổ Cú), Đồng Nhân, Thống Hạ, Thống Trung; xã Bảo Tháp (sau nhập vào xã Dĩnh thép); xã Nhạn Tháp; xã Quỳnh Động; xã Dinh Thép có 4 xóm: Am, Bờ, Đìa, Ngòi.
Tổng Vân Cầu gồm các xã Vân Cầu có 6 xóm: Bùi, Chiềng, Đầu, Ngò. Tè, Mậu; xã Ngọc Cục (Ngọc Thành, sau sáp nhập vào tổng Ngọc Thành, Hiệp Hòa); có 5 xóm Trại Phú, Trại Tú, Đông, Hòe, Ngói xã Sơn Quả (sau nhập vào tổng Ngọc Thành) có 4 xóm Đồng Bài, Giữa, Hậu, Thương; xã Thúy Cầu có các xóm Bài, Đồng Bông, Đồng Cấy, Đồng Hội, Đồng Khanh, Đồng Nội, Làng Sanh, Làng Ngoài, Làng Sai, làng Trong, làng Thị; xã Ngọc Cục có 7 xóm: Ngọc Cục, Đông, Hội, Nành, Ngòi, Thù, Trịnh; xã Lam Khuất (Lam Cốt, sau về tổng Lan Giới) có các xóm: Đồng, Kép, Ngo, Miên, Trung, Vàng....
Tổng Lan Giới: gồm các xã Lan Giới có 2 xóm Thắng, Vọng; xã Đại Hóa có 4 xóm Hòa Lâm, Trúc, Đọ, Hóa; xã Lam Khuất (được chuyến từ tổng Vân Cầu sang), xã Giản Ngoại có các xóm Đá Ong, Lan Giản, Lan Thị; xã Lý Cốt có 3 xóm An Lý, Cầm, Mạc.
Tổng Nhã Nam: có các xã Lục Giới (thôn Thượng); xã Lục Giới (thôn Trung); xã Lục Giới (Hùng Lĩnh); xã Nhã Nam có 5 xóm: Chuông, Nguộn, Thượng, Nhã Nam, Tinh Đạo; xã Dương Lâm có 4 xóm: Dương Lâm, Hạ, Nguộn, Non; xã Na Nương có 4 xóm: Trên, Mỏ Sắt, Móng Lợn, Quỳnh Lậu.
Tổng Mục Sơn có các xã Mục Sơn gồm 4 xóm: Hòa Làng, Cốt, Đình, Lễ; xã Quất Du có 4 xóm: Chùa, Độ, Ngoài, Trong; xã Hữu Mục có 5 xóm: Giữa, Mạc, Lý, Nội, Trong; xã Dương Lâm (Dương Sơn) có 3 xóm: Chiềng, Lương, Sặt; xã Cao Thượng có 2 xóm: Đầu Cầu, Thượng; xã Đạm Phong có 2 xóm: Cổ Liều, Vàng Bến; xã Lục Liễu.
Tổng Quế Nham có các xã Quế Nham gồm 12 xóm: Đồi, Nhơm, Hiệp Nội, Hiệp Tiến, Khê Hạ, Khê Thượng, Làng Bến, Làng Đông, Núi, Ngọc Diệc, Sau Chùa, Trại Bến; xã Phú Khê; xã Lãn Tranh; (Lại Tranh sau nhập vào Tuy Lộc Sơn) gồm 3 xóm Giữa, Dưới, Trên; (xã Hoàng Hà đã chuyến sang Đào Quán) vá xã Chuế Dương chuyển từ tổng Thiết Sơn sang.
Tổng Yên Lễ có các xã Yên Lễ gồm 8 xóm: Đông Đào, Am, Bùng, Cầm, Đụn, Dinh, Tiêu, Yên; xã Ngô Xá có 8 xóm: Bãi Gốc. Đồi Đàn, Châu, Hậu, Ngoài, Nguộn, Tiền Vàng; xã Lăng Cao gồm 6 xóm: Đồi Mụ, Hạ Thượng, Thị, Trại, Trung; xã Khánh Giàng gồm 4 xóm: Dĩnh, Kép, Trại Giữa, Trại Thượng; xã Bảo Lộc (Thế Lộc) gồm 9 xóm: Cả, Đanh, Cùa; Gia, Quyên, Thị, Chấu; Luộc Hạ, Trại Thị; xã Ước Lễ gồm 3 xóm: Đồng Điều, Giữa, Mục.
Tổng Bảo Lộc Sơn (Tuy Lộc Sơn) có các xã Bảo Lộc Sơn gồm 21 xóm: Bãi Gia, Bờ Gian, Can Cát, Cầu Cần, Con Quy, Đồng Cựu, Đồng Lãi, Đồng Lâm, Đồng Lãm, Đồng Ve, Giốc Gia, Làng Am, Làng Đông, Làng Khoát, Làng Nguyễn, Nguộn, Ngò, Bãi, Mả Đình, Mả Ngòi, Núi Hương; xã Tưởng Sơn gồm 2 xóm: Trại Đông, Trại Tây; xã Kim Tràng gồm 6 xóm: Chu Vàng, Cầu Quận, Kim Tràng, Lò Nội, Mã Bài, Ngọc Trai.
Hai xã mới là Lãn Tranh và Liên Bộ chuyển từ tổng Quế Nham sang.
Thời đầu Pháp thuộc, năm 1886, nghĩa là ngay sau khi Pháp chiếm được tỉnh Bắc Ninh, phủ Lạng Thương và thành Tỉnh Đạo, liền lập ngay đạo Yên Thế, lỵ sở đóng ở thành Tỉnh Đạo (Nhã Nam), để trực tiếp cai trị và đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân Yên Thế.
Ngày 10 tháng 10 năm 1895 Pháp chia tỉnh Bắc Ninh thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Tỉnh Bắc Giang khi đó gồm phủ Lạng Giang và các huyện Yên Thế, Hiệp Hòa, Lục Ngạn, Phượng Nhỡn, Phất Lộc, Yên Dũng và Hữu Lũng. Nhưng ngay sau đó, ngày 24 tháng 12 năm 1895, Pháp lập đạo quan binh Yên Thế, giải thể tổng Yên Thế, nhập thêm các tổng Hương Vĩ, Hữu Thượng và Ngọc Cục.
Theo sách "Bắc Giang địa chí" của Trịnh Như Tấu, Đạo quan binh Yên Thế gồm có:
Vùng Chợ Phổng
Vùng Bảo Đài
Địa hạt ở trung tâm hai vùng ấy.
Dãy núi trước mặt núi Cai Kinh.
Các tổng: Bố Hạ, Hữu Thượng, Nhã Nam, Lan Giới, Yên Lễ (trừ các xã Ngô Xá, Lăng Cao và Khánh Giàng), Mục Sơn (trừ các xã Cao Thượng, Mục Sơn và Hòa Mục), Vân Cầu (trừ các xã Ngọc Cụ, Sơn Quả và Ngọc Thành), Ngọc Cục (trừ các xã Ngọc Lý, trên con đường từ Bố Hạ đến Hà Châu).
Đến cuối năm 1899, đạo quan binh Yên Thế bị bãi bỏ, thay thế bằng đại lý Nhã Nam, bao gồm 11 tổng:
Tổng Hương Vỹ gồm các xã Hương Vỹ, Bố Hạ, Đồng Kỳ, Đồng Hưu, Đồng Vương, Đông Sơn và thị trấn Bố Hạ.
Tổng Hữu Thượng gồm các xã Đồng Lạc, Canh Nậu, Tam Tiến, Tân Sỏi và một phần Phồn Xương, Phúc Hòa.
Tổng Nhã Nam gồm các xã An Thượng, Xuân Lương, Nhã Nam, Quang Tiến, An Dương.
Tổng Lan Giới gồm các xã Tiến Thắng, Lan Giới, Đại Hóa, Phúc Sơn.
Tổng Mục Sơn gồm các xã Cao Thượng, Liên Sơn, một phần xã Việt Lập, Hợp Đức.
Tổng Tuy lộc Sơn gồm các xã: Liên Chung, một phần xã Việt Lập, Hợp Đức.
Tổng Yên Lễ gồm các xã Cao Xá, Tân Trung, một phần xã An Dương, Ngọc Châu.
Tổng Vân Cầu gồm các xã Song Vân, Ngọc Vân, Lam Cốt, Việt ngọc và một phần xã Hoàng Thanh, Hoàng Lương huyện Hiệp Hòa.
Tổng Quế Nham gồm các xã Quế Nham, một phần xã Liên Chung và xóm Vọng Hà, (còn gọi là Hoàng Hà sau chuyến sang huyện Lạng Giang.)
Tổng Ngọc Cục gồm các xã: Ngọc Châu, Ngọc Thiện, Ngọc Lý và một phần Ngọc Nham, Minh Đức huyện Việt Yên.
Tổng Yên Thế gồm các xã Tam Hiệp và phần lớn xã Phồn Xương (sau năm 1895 thuộc tổng Hữu Thượng) một phần xã Canh Nậu, Tam Tiến, Tân Hiệp (sau năm 1895 thuộc tổng Nhã Nam). Cho đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Yên Thế là một phủ thuộc tỉnh Bắc Giang. Tỉnh Bắc Giang khi đó gồm 3 phủ, 1 châu, 3 huyện, 63 tổng 453 xã.
Theo sách "Bắc Giang địa chí" của Trịnh Như Tấn viết năm 1937, phủ Yên Thế khi đó gồm 10 tổng:
Tổng Hương Vỹ gồm các xã: Bố Hạ, Đồng Hưu, Đồng Kỳ, Đồng Vương, Hương Vỹ, Hữu Hạ.
Tổng Hữu Thượng gồm các xã: Canh Nậu, Đồng Diễn, Hữu Thượng, Hữu Trung, Phồn Xương, Phúc Đình, Phúc Lồ, Tân sỏi, Yên Lạc, Yên Thế,
Tổng Lan Giới gồm các xã: Đại Hóa, Giản Ngoại, Lam Cốt, Lan Giới, Lan Quật, Lan Hương, Lý Cốt.
Tổng Mục Sơn gồm các xã: Cao Thượng, Dương Sơn, Đạm Phong, Hòa Mục, Hữu Mục, Lục Liễu, Mạc Sơn, Quất Du.
Tổng Ngọc Cục gồm các xã: Bằng Cục, Ngọc Châu, Ngọc Lý, Ngọc Nham, Ngọc Sơn.
Tổng Nhã Nam gồm các xã: Dĩnh Thép, Dương Lâm, Lục Giới, Na Lương, Nhã Nam, Tân An.
Tổng Quế Nham gồm các xã: Chuế Dương, Phú Khê, Quế Nham.
Tổng Tuy Lộc Sơn gồm các xã: Chung Sơn, Kim Tràng, Lân Tranh, Liên Bộ, Tuy Lộc Sơn, Tưởng Sơn.
Tổng Vân Cầu gồm các xã: Ngọc Cụ, Thuý Cầu, Vân Cầu.
Tổng Yên Lễ gồm các xã: Khánh Giàng, Lăng Cao, Ngô Xá, Thế Lộc, Ước Lễ, Yên Lễ.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Yên Thế trở lại là huyện của tỉnh Bắc Giang, nhưng các đơn vị hành chính dưới huyện không giữ như cũ, mà thay đổi như: bỏ cấp tổng, cấp xã được mở rộng hơn, nhỏ hơn tổng nhưng lớn hơn làng, bao gồm một số thôn xóm, các đơn vị châu, phủ bị bãi bỏ.
Năm 1957, phần phía nam của huyện Yên Thế (tức miền Yên Thế hạ) tách ra thành lập huyện mới mang tên Tân Yên, phần còn lại vẫn giữ tên cũ là Yên Thế.
Huyện Tân Yên là địa vực chủ yếu của huyện Yên Thế thời Lý - Trần, Lê - Nguyễn và thời thuộc Pháp. Lỵ sở của huyện cũng từng đặt ở Lăng Cao, Hữu Mục, rồi Tỉnh Đạo, Nhã Nam, Cao Thượng.
Sau năm 1975, huyện Tân Yên thuộc tỉnh Hà Bắc, bao gồm thị trấn Nhã Nam và 24 xã: Cao Thượng, Cao Xá, Đại Hóa, Dương Lâm, Hợp Đức, Lam Cốt, Lan Giới, Liên Chung, Liên Sơn, Ngọc Châu, Ngọc Lý, Ngọc Thiện, Ngọc Vân, Nhã Nam, Phúc Hòa, Phúc Sơn, Quang Tiến, Quế Nham, Song Vân, Tân Cầu, Tân Trung, Việt Lập, Việt Ngọc, Yên Lễ.
Ngày 5 tháng 8 năm 1978, sáp nhập xã Tân Trung và xã Tân Cầu thành xã Tân Trung; hợp nhất xã Dương Lâm và xã Yên Lễ thành xã An Dương; hợp nhất xã Nhã Nam và thị trấn Nhã Nam thành xã Nhã Nam; sáp nhập xóm Thương của xã Ngọc Lý vào xã Ngọc Thiện.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Tân Yên thuộc tỉnh Bắc Giang vừa được tái lập.
Ngày 18 tháng 2 năm 1997, thành lập thị trấn Cao Thượng, thị trấn huyện lỵ của huyện Tân Yên trên cơ sở 238,96 ha diện tích tự nhiên và 3.810 nhân khẩu của xã Cao Thượng; 28,3 ha diện tích tự nhiên và 781 nhân khẩu của xã Cao Xá; 1,88 ha diện tích tự nhiên và 72 nhân khẩu của xã Liên Sơn.
Ngày 20 tháng 2 năm 2003, thành lập thị trấn Nhã Nam thuộc huyện Tân Yên trên cơ sở 63,96 ha diện tích tự nhiên và 3.363 nhân khẩu của xã Nhã Nam; 63,20 ha diện tích tự nhiên và 620 nhân khẩu của xã An Dương.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Nhã Nam vào thị trấn Nhã Nam và sáp nhập xã Cao Thượng vào thị trấn Cao Thượng.
Huyện Tân Yên có 2 thị trấn và 20 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Tân Yên có 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Cao Thượng (huyện lỵ), Nhã Nam và 20 xã: An Dương, Cao Xá, Đại Hóa, Hợp Đức, Lam Cốt, Lan Giới, Liên Chung, Liên Sơn, Ngọc Châu, Ngọc Lý, Ngọc Thiện, Ngọc Vân, Phúc Hòa, Phúc Sơn, Quang Tiến, Quế Nham, Song Vân, Tân Trung, Việt Lập, Việt Ngọc.
Di tích
Tân Yên là huyện có nhiều xã nhất thuộc Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế. Theo Quyết định số 1537/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế tại tỉnh Bắc Giang thì Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế có diện tích nghiên cứu 23.099,7 ha, bao gồm địa bàn 26 xã, thị trấn của 4 huyện: Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng. Trong đó huyện Tân Yên chiếm nhiều nhất, hiện nay gồm thị trấn Cao Thượng, thị trấn Nhã Nam và 9 xã: Tân Trung, Việt Lập, An Dương, Song Vân, Ngọc Châu, Liên Sơn, Phúc Hòa, Phúc Sơn, Quang Tiến.
Điều đặc biệt, Đình Hả, xã Tân Trung, huyện Tân Yên là nơi Lương Văn Nắm, tức Đề Nắm - Thủ lĩnh đầu tiên của Nghĩa quân Yên Thế làm lễ tế cờ, chính thức phát động Khởi nghĩa Nông dân Yên Thế 1884 - 1913. Sau khi ông mất, Hoàng Hoa Thám lên thay.
Các điểm di tích Quốc gia đặc biệt trên địa bàn huyện Tân Yên:
Khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám ở làng Trũng, xã Ngọc Châu. Nơi sinh sống thời thơ ấu của Hoàng Hoa Thám. Cụm di tích đình, chùa Hả, xã Tân Trung: Quê hương của Đề Nắm, vị thủ lĩnh đầu tiên của phong trào và là nơi Đề Nắm tế cờ khởi nghĩa ngày 16/3/1884. Đình Dương Lâm, xã An Dương: Nơi chứng kiến nhiều cuộc họp quan trọng giữa thủ lĩnh nghĩa quân với các tướng lĩnh tâm phúc của ông trong thời kỳ (1885-1895). Cụm di tích Cầu Vồng, xã Song Vân: Nơi Đề Thám cùng nghĩa quân thường làm lễ tế cờ trong mỗi lần xuất quân đánh trận. Đình Cao Thượng, xã Cao Thượng: Nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa Nghĩa quân Yên Thế với thực dân Pháp xâm lược. Đình Nội, xã Việt Lập: Là địa điểm có mối liên hệ mật thiết với cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Đình Làng Chuông, thị trấn Nhã Nam: Nơi Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, bàn việc tổ chức những trận đánh lớn chống thực dân Pháp xâm lược và tay sai. Chùa Phố, thị trấn Nhã Nam: Nơi chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng liên quan mật thiết đến cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Đền Gốc Khế, xã Nhã Nam): Nơi hoạt động của một số tướng lĩnh chủ chốt trong phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế. Đền thờ Cả Trọng (đền Gốc Dẻ), xã Nhã Nam: Đền thờ Cả Trọng (tức Hoàng Đức Trọng - con trai cả của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám. Đồi Phủ, xã Nhã Nam: Nơi đặt đại bản doanh của thực dân Pháp và của chính quyền phong kiến nhằm tiến đánh nghĩa quân. Nghĩa địa Pháp, xã Nhã Nam: Nơi chôn cất các sĩ quân, binh lính Pháp, Việt chết trong các trận đánh với nghĩa quân Yên Thế… Ao Chấn Ký, thị trấn Nhã Nam: Nơi thực dân Pháp thả cho cốt đầu Hoàng Hoa Thám và hai thủ hạ thân tín của ông sau khi hỏa thiêu.
Các di tích LS-VH đã được xếp hạng:
Làng nghề
Là một huyện có địa hình mấp mô phía Tây tỉnh Bắc Giang mật độ dân cư không cao bằng các huyện thuộc các tỉnh đồng bằng nên việc phát triển làng nghề có phần khó khăn. Tuy nhiên huyện vẫn có rất nhiều làng nghề truyền thống, làng nghề, làng có nghề:
Làm mỳ gạo thôn Châu Sơn (Ngọc Châu)
Mây tre đan, nhựa giả Cầu Trấn (Quang Tiến)
Nghề làm nón ở (Liên Sơn)
Nghề chẻ bện chổi tre Đông Am Vàng (Việt Lập)
Một số ít có nghề làm nem thính thôn Hậu (Liên Chung)
Nghề làm hương thôn Cả Am (Phúc Hòa)
Làm chổi chít thôn Nội Hạc (Việt Lập)
Làm hương đen An Lập (Ngọc Lý)
Nghề làm diều sáo (Song Vân).
Chú thích |
Martin Cooper là người phát minh ra điện thoại di động. Tiến sĩ Cooper là giám đốc điều hành (CEO) và người sáng lập ra ArrayComm, một công ty hoạt động trong công nghệ anten thông minh và cải tiến mạng không dây.
Tiến sĩ Martin Cooper, nguyên là một giám đốc bộ phận các hệ thống ở Motorola, được cho là người phát minh ra chiếc máy thu phát cầm tay đầu tiên và là người đầu tiên thực hiện một cuộc gọi một chiếc điện thoại di động vào tháng 4 năm 1973. Cuộc gọi đầu tiên ông thực hiện là với kỳ phùng địch thủ của mình, Joel Engel, Giám đốc nghiên cứu của Bell Labs. |
Bộ Đàn hương (danh pháp khoa học: Santalales) là một bộ thực vật có hoa, với sự phân bổ rộng khắp thế giới, nhưng chủ yếu tập trung tại các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Phần lớn có các hạt không có vỏ ngoài, và đây là điểm bất thường đối với thực vật có hoa. Nhiều loài trong bộ này là các loài thực vật ký sinh hay bán ký sinh, có khả năng sản xuất ra chất bột nhờ quang hợp nhưng lại chích hút thân hay rễ của các loài thực vật khác để hấp thụ nước và các chất khoáng; một số (chẳng hạn chi Arceuthobium) là ký sinh hoàn toàn, chúng thiếu chất diệp lục (chlorophyll) và sống dựa hoàn toàn vào cây chủ để có các chất dinh dưỡng.
Tiến hóa
Anderson và ctv. (2005) ước tính niên đại cho nhóm thân cây của bộ Santalales là khoảng 115-113 triệu năm trước (Ma), còn nhóm chỏm cây là khoảng 108-101 Ma. Magallón và Castillo (2009) đề xuất các con số tương ứng là 113,8 và 114,5 Ma cho sự phân kỳ của nhóm thân cây trong bộ Santalales - nhưng lưu ý rằng các vị trí của Berberidopsidales và Santalales là đảo ngược trên cây phát sinh của họ - và niên đại khoảng 90,2 và 90,7 Ma cho sự phân kỳ nhóm chỏm cây.
Phân loại
Hệ thống APG
Hệ thống APG II năm 2003 (không thay đổi từ hệ thống APG năm 1998) đưa vào bộ này các họ sau:
Bộ Đàn hương (Santalales)
Họ Loranthaceae: Tầm gửi, chùm gửi
Họ Misodendraceae
Họ Olacaceae: Rau nghiến, dương đào, dương đầu.
Họ Opiliaceae: Sơn dữu, rau sắng
Họ Santalaceae: Đàn hương
AP-Website chỉ ra rằng họ Balanophoraceae nên được đưa vào trong bộ này (sau khi đã có APG II). Nó cũng chỉ ra rằng họ Olacaceae (theo nghĩa của APG II) không phải là một họ tốt và nên được chia nhỏ ra. Ngoài ra, nó cũng đưa ra nghi vấn về họ Santalaceae. Website của APG II (truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2007) cho thấy APG đã đưa thêm hai họ nữa vào trong bộ này là:
Họ Erythropalaceae
Họ Schoepfiaceae
Như vậy tính đến thời điểm năm 2009, bộ Đàn hương có 7-8 họ với khoảng 155-172 chi và khoảng 2.254-2.304 loài (số liệu lớn hơn khi coi họ Balanophoraceae cũng thuộc bộ này).
Hệ thống APG III năm 2009 đưa vào các họ sau:
Bộ Đàn hương (Santalales)
Balanophoraceae Rich.
Loranthaceae Juss.
Misodendraceae J.Agardh
Santalaceae R.Br.
Olacaceae R.Br.
Opiliaceae Valeton
Schoepfiaceae Blume
Tuy nhiên, website của APG với số liệu cập nhật ngày 6/11/2010 đưa vào bộ này 13 họ với 151 chi và 1.985 loài như sau:
Bộ Đàn hương (Santalales)
Họ Aptandraceae: 8 chi và 34 loài.
Họ Balanophoraceae: 17 chi và 50 loài. Các tên gọi thường gặp: Cu chó; liệt đương, dó đất, dương đài, củ đo, xà cô.
Họ Coulaceae: 3 chi và 3 loài.
Họ Erythropalaceae: 4 chi và 40 loài. Các tên gọi hay gặp: Rau bù khai; dây hương, hạ hòa.
Họ Loranthaceae: Tầm gửi, chùm gửi. 68 chi và 950 loài.
Họ Misodendraceae: 1 chi và 8 loài.
Họ Octoknemaceae: 1 chi và 7 loài.
Họ Olacaceae: Rau nghiến, dương đào, dương đầu, mao trật, thiết thanh. 3 chi và 57 loài.
Họ Opiliaceae: Sơn dữu, rau sắng, sơn cam, lân vĩ. 11 chi và 36 loài
Họ Santalaceae: Đàn hương, huỳnh đàng, bạch đàn. 44 chi và 990 loài.
Họ Schoepfiaceae: Sô phi, 3 chi và 55 loài.
Họ Strombosiaceae: 6 chi và 18 loài.
Họ Ximeniaceae: 4 chi và 13 loài.
Hệ thống Cronquist
Hệ thống Cronquist (1981) đưa các họ sau vào bộ này:
Bộ Đàn hương (Santalales)
Họ Balanophoraceae: Hệ thống APG II năm 2003 công nhận họ này nhưng lại không xếp nó vào bộ nào. AP-Website và APG III đặt họ này trong bộ Santalales (sau khi đã có APG II).
Họ Dipentodontaceae với 1 chi duy nhất là Dipentodon. APG không đặt nó vào họ hay bộ nào. Tuy nhiên, AP-Website chỉ ra rằng họ này tốt nhất cùng với họ Tapisciaceae và chi Perrottetia nên đặt trong bộ Huerteales trong phân nhóm Hoa hồng thực thụ II (eurosids II).
Họ Eremolepidaceae: APG gộp họ Eremolepidaceae trong họ Santalaceae.
Họ Loranthaceae
Họ Medusandraceae với 1 chi duy nhất là Medusandra. APG không đặt nó vào họ hay bộ nào.
Họ Misodendraceae
Họ Olacaceae
Họ Opiliaceae
Họ Santalaceae
Họ Viscaceae: Hệ thống APG II năm 2003 không công nhận họ này, coi nó như là từ đồng nghĩa của Santalaceae. Tuy nhiên, như AP-Website đã chỉ ra là họ Santalaceae trong nghĩa mới lại gộp tới 7 phân nhánh khác nhau rõ rệt, cho nên hoàn toàn có thể là họ Santalaceae sẽ bị tách ra và họ Viscaceae hiện tại là nhánh Visceae của họ Santalaceae trong APG III.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Daniel L. Nickrent và ctv., ngoại trừ họ Balanophoraceae chưa rõ vị trí. Lưu ý rằng ở đây các tác giả tách họ Santalaceae ra làm 7 họ nhỏ hơn, bao gồm Comandraceae, Thesiaceae, Cervantesiaceae, Nanodeaceae, Amphorogynaceae, Viscaceae và Santalaceae nghĩa hẹp. Bên cạnh đó, họ Olacaceae cũng được hạn chế trong định nghĩa theo nghĩa hẹp như trên website của APG chứ không giống như định nghĩa trong APG III. |
Thư pháp Trung Hoa là phép viết chữ của người Trung Hoa được nâng lên thành một nghệ thuật và có ảnh hưởng sâu sắc đến các nước lân cận như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam (xem bài Thư pháp Đông Á).
Theo truyền thuyết, vua Phục Hi nhân việc nghĩ ra bát quái mà sáng tạo "long thư", vua Thần Nông xem lúa mà chế ra "tuệ thư", Hoàng Đế nhìn mây mà đặt ra "vân thư", vua Nghiêu được rùa thần mà làm ra "qui thư", Đại Vũ đúc chín đỉnh mà tạo ra "chung đỉnh văn". Thế nhưng đó chỉ là huyền thoại và không còn dấu tích gì để lại
Hệ văn tự sớm nhất được phát hiện cho đến nay là chữ giáp cốt (giáp cốt văn 甲骨文)[1] mà niên đại được xác định khoảng 1200 tcn. Giáp cốt 甲骨 là nói gọn của quy giáp 龜甲 (mai rùa và yếm rùa) và thú cốt 獸骨 (xương thú). Chữ này do người đời nhà Ân (1766 - 1123 TCN) khắc để dùng vào việc bói toán.
Kim văn 金文, tức là kiểu chữ được khắc trên đỉnh vạc và các tế khí 祭器 (dụng cụ cúng tế) bằng đồng, là hệ văn tự được tìm thấy với niên đại trước đời Tần. Sau đời Tần, chữ viết được tìm thấy là chữ khắc trên bia đá, nên gọi là "bi văn".
Khi đã chế ra bút lông, giấy và mực, chữ Hán bắt đầu được viết thành nét to nét nhỏ. Từ đời Hán, chữ Hán đã ổn định về kiểu chữ và loại nét. Cùng một chữ nhưng chữ Hán có 5 kiểu viết (gọi là thư thể 書体) chính: Triện thư 篆書 (gồm đại triện 大篆 và tiểu triện 小篆), lệ thư 隸書, khải thư 楷書, hành thư 行書, và thảo thư 草書.
Chữ triện 篆書 (Triện thư). Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, ông đã sai thừa tướng Lý Tư thống nhất văn tự, tức là thống nhất các chữ viết giữa các nước trước đó từ đại triện thành chữ tiểu triện.
Chữ lệ 隸書 (lệ thư). Là thư thể thông dụng trong công văn, kiểu chữ này rất phổ biến giữa thế kỷ 3 và 2 TCN.
Chữ khải 楷書 (khải thư hay chính thư 正書). Là cải biên từ chữ lệ và bắt đầu phổ biến vào thế kỷ III cn. Đây là kiểu chữ chính thức, chuẩn mực, dễ nhận biết, dễ đọc nhất và vẫn là phổ thông nhất trong các kiểu viết chữ Hán hiện nay.
Chữ hành 行書 (hành thư). Là dạng viết nhanh của chữ khải, được dùng trong các giấy tờ thân mật (như thư từ) và đề tranh. Chữ hành bắt đầu phổ biến vào thế kỷ 2. Khi được viết nhanh, chữ khải có thể được giản lược đi một hai nét để tạo thành một thư thể gọi là hành khải (行楷). Cũng tương tự như vậy, chữ hành sẽ biến thành hành thảo (行草). Tác phẩm thư pháp rất nổi tiếng Lan Đình Tập Tự (蘭亭集序) của Vương Hi Chi (王羲之) đời Tấn được viết với chữ hành.
Chữ thảo 草書 (thảo thư). Là thư thể được viết nhanh nhất, bút pháp phóng khoáng. Có chữ Hán khi viết bình thường theo lối chữ khải thì phải viết rất nhiều nét nhưng với thảo thư thì có thể viết bằng một nét. Nhiều chữ có thể viết liên miên nối tiếp nhau chỉ bằng một nét, thí dụ như cuồng thảo (狂草) (chữ thảo viết điên cuồng) của Hoài Tố (懷素, khoảng 730-780)
Vào khoảng giữa thế kỷ 2 và 4, nghệ thuật viết chữ được mệnh danh là thư pháp đã trở thành một bộ môn nghệ thuật tao nhã cao siêu của tao nhân mặc khách; một người điêu luyện về thư pháp thường được đánh giá là người trí thức có học vấn cao. Trong thời này, Vương Hi Chi (303-361), một đại quan và một đại thư gia, đã được người đời tôn là «Thảo thánh» (草聖).
Các nhà thư pháp Trung Hoa
Vương Hi Chi
Nhan Chân Khanh
Âu Dương Tuân
Tô Thức
Âu Dương Thông
Liễu Công Quyền
Tống Huy Tông
Chử Toại Lương
Nhan Chi Suy
Triệu Mạnh Phủ
Ngu Thế Nam
Trí Vĩnh
Điền Anh Chương
Điền Ẩn Chương
Mao Trạch Đông
Tưởng Giới Thạch
Hình ảnh |
Nguyễn Biểu (chữ Hán: 阮表), ( - 1413), là tướng nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam, quê ở quê làng Bình Hồ, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh).
Cuộc đời sự nghiệp
Ông đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) cuối thời Trần, làm quan đến chức Điện Tiền Thái sử (Ngự Sử) . Khi quân nhà Minh xâm lược Đại Ngu, ông đã phò vua Trùng Quang Đế tổ chức cuộc kháng chiến.
Năm 1413, quân Minh đánh vào Nghệ An, Trùng Quang Đế chạy vào Hóa Châu, sai ông đi sứ giảng hoà, gặp Trương Phụ xin cầu phong, thực hiện kế hoãn binh, kéo dài thời gian để cho Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị xây dựng binh lực. Trương Phụ tiếp sứ thần rất khinh bạc, ngạo mạn, sai quân dọn ra một mâm cỗ chỉ có một cái đầu người luộc chín, ép Nguyễn Biểu ăn để thị oai .
Nguyễn Biểu ung dung ngồi vào mâm, nói rằng: "Mấy thuở được ăn thịt người phương Bắc (người Tàu)!", lấy đũa khoét đôi mắt, chấm muối ăn. Vừa ăn, vừa ngâm bài thơ Cỗ đầu người :
Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi
Gia hào thêm có cỗ đầu người
Nem cuông chả phượng còn thua béo
Thịt gụ gan lân cũng kém tươi
Ca lối lộc minh so cũng một
Đọ bề vàng sắt bội hơn mười
Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn
Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời
Trương Phụ cũng phải kính phục, toan tha cho ông về. Hàng tướng là Phan Liêu lúc ấy tâu với Trương Phụ rằng Nguyễn Biểu nói: "Năng sảm nhân đầu, năng sảm Phụ" (Có khả năng nuốt được cỗ đầu người, tất cũng có khả năng nuốt tươi được Trương Phụ). Trương Phụ giận lắm, đưa câu ấy ra bắt ông phải đối lại. Đối được mới cho về, không đối được thì chém. Nguyễn Biểu đối lại rằng: "Hựu tồn ngô thiệt, hựu tồn Trần" (Còn ba tấc lưỡi của ta, nhà Trần vẫn còn). Trương Phụ giận lắm, đổi ý không tha nữa, lại sai cắt lưỡi của ông. Kế đó, Trương Phụ sai trói ông vào chân cầu, để cho nước thủy triều lên cao dìm chết. Tương truyền ở dưới chân cầu ông dùng móng tay vạch vào thân cầu tám chữ: "Thất nguyệt, thập nhất nhật Nguyễn Biểu tử" (Nguyễn Biểu tử tiết ngày 11 tháng 7).
Tưởng nhớ
Từ năm 1941, tác giả Hoàng Xuân Hãn đã công bố trong Khai trí tiến đức, tập san số 2 và 3, mấy bài thơ Nôm đời Hậu-Trần được gom trong Nghĩa sĩ truyện: một bài của vua Trùng Quang (1409-1413) tặng Nguyễn Biểu khi lĩnh mạng đi sứ, bài họa lại và sau đó là bài thơ bữa tiệc "đầu người" của Nguyễn Biểu khi bị giặc làm áp lực, bài tế Nguyễn Biểu của vua Trùng Quang và bài tụng chí khí của Nguyễn Biểu do sư chùa Yên Quốc.
Nhân dân miền Nghệ An - Hà Tĩnh lập miếu thờ, suy tôn ông là Nghĩa vương. Các triều đại sau cũng đều truy phong ông làm Phúc thần.
Nguyễn Biểu mãi mãi được các thế hệ mai sau ngợi ca cùng câu đối ghi ở đền Nghĩa Liệt:
"Tồn Trần kính tiết Thành sơn thạch. Mạ tặc dư thanh Lam thủy ba".
(Tiết cứng phò Trần đá Nghĩa Liệt. Tiếng vang mắng giặc sóng Lam Giang).
Đền thờ Nguyễn Biểu
Vua Lê Thái Tổ sau khi chiến thắng quân Minh đã cho lập đền thờ ông ở Nội Diên (hiện nay tại xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ) phong là Nghĩa Liệt Hiển ứng Uy Linh Trợ Thuận đại vương - tức Nghĩa sỹ Đại Vương. Đến đời vua Lê Thánh Tông sai lập miếu thờ Nghĩa sĩ ở Bình Hồ. Đến cuối thế kỷ 18 đền bị cháy, sau cơn binh lửa vua Gia Long lại có sắc phong.
Năm 1869, nhân dân trùng tu lại đền.
Năm 1968, đền bị bom Mỹ phá hủy khu Hạ điện, Trung điện bị bay hết ngói. Kẻ gian một vài lần đã lấy trộm một số đồ thờ, đặc biệt trong đó có hai bức tượng gỗ.
Đền Nguyễn Biểu đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Đền được tu sửa nhỏ nhiều lần. Năm 2007 được nhà nước cho trùng tu nhà Trung điện. |
Nightwish là một ban nhạc symphonic metal đến từ Kitee, Phần Lan, được thành lập năm 1996 bởi nhạc sĩ kiêm keyboard Tuomas Holopainen, tay guitar Emppu Vuorinen, và cựu ca sĩ chính Tarja Turunen. Đội hình hiện tại của Nightwish gồm 5 thành viên, dù Tarja đã bị thay thế bởi Anette Olzon và tay tay bass ban đầu, Sami Vänskä, thay thế bởi Marco Hietala, người sau này kiêm luôn phần giọng nam chính (trước đó được giao cho Tuomas hoặc khách mời).
Mặc dù Nightwish là một trong những ban nhạc lớn của Phần Lan ngay từ khi ra mắt single đầu tiên, "The Carpenter" (1997) và album đầu tay Angels Fall First, tuy nhiên danh tiếng toàn cầu chỉ đến với ban nhạc khi phát hành album Oceanborn, Wishmaster và Century Child, lần lượt vào các năm 1998, 2000 và 2002. Album năm 2004, Once, bán được hơn 1 triệu bản đã mang Nightwish đến toàn nước Mỹ. Hit lớn nhất của họ tại Mỹ, "Wish I Had an Angel" (2004), được chọn làm soundtrack cho ba phim Mỹ để quảng bá cho tour diễn toàn Bắc Mỹ. Ban nhạc tung ra thêm ba đĩa đơn và hai video cho Once, cùng với một bản thu âm lại của "Sleeping Sun" cho album tổng hợp "best of", Highest Hopes (2005), trước khi Turunen chia tay ban nhạc vào tháng 10 năm 2005.
Tháng Năm 2007, cựu ca sĩ chính Alyson Avenue, Anette Olzon, được tiết lộ là sẽ thay thế vị trí của Tarja Turunen và vào mùa thu cùng năm, ban nhạc trình làng album thứ sáu, Dark Passion Play, và bán được hơn 2 triệu bản. Đĩa đơn chủ lực của album, "Amaranth", trở thành một trong những đĩa đơn thành công nhất của Nightwish tại châu Âu. Chuyến lưu diễn quảng bá cho album - một trong những chuyến lưu diễn lớn nhất của ban nhạc - được khởi động từ tháng 10 năm 2007 và kết thúc vào tháng 9 năm 2009. Một E.P/live album mang tên, Made in Hong Kong (And in Various Other Places), phát hành tháng 3 năm 2009 dưới dạng Mini CD/DVD, và album phòng thu thứ bảy của họ, Imaginaerum, được phát hành trên toàn thế giới vào những ngày khác nhau vào cuối năm 2011/đầu năm 2012.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 2012, Nightwish thông báo rằng họ đã chia tay với Olzon và sẽ hoàn thành tour diễn hiện tại với ca sĩ Floor Jansen, thành viên của ReVamp và là cựu thành viên của After Forever. Tháng 10 năm 2013, Nightwish thông báo Floor Jansen và Troy Donockley chính thức là thành viên lâu dài của ban nhạc.
Nightwish là ban nhạc và tổ chức âm nhạc có sản phẩm bán chạy thứ ba (third-best-selling) tại Phần Lan với doanh số hơn 900,000 bản được bán ra. Nhóm cũng là ban nhạc nổi tiếng nhất của Phần Lan trên toàn thế giới, bán được hơn 8 triệu bản và giành được hơn 60 đĩa vàng và bạch kim.
Lịch sử hoạt động
Thành lập (1996)
Sau khi chơi keyboard ở nhiều ban nhạc metal vào đầu những năm 1990, bao gồm Nattvindens Gråt, Perkele Börk và Darkwoods My Betrothed, Tuomas Holopainen quyết định thành lập một ban nhạc của riêng mình trong một buổi căm trại ngoài trời với bạn bè vào mùa thu 1996. Lúc bấy giờ anh đã hình thành một ý tưởng rõ ràng về thể loại nhạc: acoustic thể nghiệm do chính tay anh viết, tương tự như nhạc hay chơi lúc cắm trại, nhưng kết hợp với âm thanh và không khí riêng biệt, tạo ra bởi tiếng keyboard.
Sau đó Tuomas mời một bạn học Erno "Emppu" Vuorinen chơi đàn acoustic guitar, và ca sĩ hát nhạc cổ điển Tarja Turunen tham gia ban nhạc. Ba người thu bản demo đầu tiên vào mùa đông 1996. Cái tên "Nightwish" bắt nguồn từ tên bản nhạc đầu tiên trong bản demo ấy. Bản demo còn bao gồm cả "The Forever Moments", và một bản thu ban đầu của "Etiäinen"..
Sau khi thu âm bản Nightwish demo, Holopainen nhận ra rằng giọng opera của Turunen quá mạnh mẽ đối với một ban nhạc acoustic, và anh quyết định thêm vào yếu tố heavy metal, nghĩa là thêm cả guitar điện và trống.
Album ra mắt và tour diễn đầu tiên (1997-1998)
Vào đầu năm 1997, sau khi phát hành bản Nightwish demo, Jukka "Julius" Nevalainen gia nhập ban nhạc, và guitar acoustic đã được thay thế bằng guitar điện. Việc thêm các yếu tố heavy metal vào phong cách thể nghiệm hiện tại của ban nhạc đã tạo ra một loạt những giai điệu mới mẻ, khác lạ, sau này trở thành cốt lõi trong âm nhạc của Nightwish.
Ban nhạc bước vào phòng thu vào mùa thu 1997 để ghi âm 7 bài hát cho album demo thứ hai của họ, Angels Fall First. Như một sự chuẩn bị cho album phòng thu cùng tên sau đó, bản demo này được gửi đến hãng thu âm Phần Lan Spinefarm Records vào tháng 5 năm 1997. Hãng này đồng ý phát hành hai album cho Nightwish, và ban nhạc tiến hành thu âm lại một số bản nhạc trong bản demo. Album đầu tay của họ Angels Fall First phát hành trên toàn thế giới vào tháng 10 năm 1997 và xếp hạng 31 ở Phần Lan, với đĩa đơn "The Carpenter" lọt vào top 3 của bảng xếp hạng âm nhạc Phần Lan. "The Carpenter" được phát hành như một đĩa đơn chung gồm các bài hát riêng lẻ của Nightwish, Children of Bodom và Thy Serpent; album này cũng là một trong hai bản có sự góp giọng của Holopainen, trong bốn trên mười một ca khúc của album bên cạnh phần của Turunen.
Mặc dù đón nhận nhiều ý kiến phê bình trái chiều, tháng 12 năm 1997 Nightwish đã tổ chức tour diễn đầu tiên vòng quanh Kitee. Lúc đầu, khi họ thiếu một tay chơi bass, Samppa Hirvonen – đóng vai trò thành viên dự án – đã chơi ở vị trí này trong các liveshow, trong khi Marianna Pellinen – cũng là một thành viên dự án – chơi keyboard và hát lót cho Turunen. Nightwish có dự định đưa Hirvonen lên là thành viên chính thức, nhưng anh này tham gia quân đội Phần Lan như một phần của nghĩa vụ quân sự trong quá trình ban nhạc thu âm album Oceanborn, nên sau đó họ đã mời Sami Vänskä tham gia vào vị trí bassist, vì Tuomas đã biết anh trước trong ban nhạc Nattvindens Gråt. Trong mùa đông năm 1997 và 1998, ban nhạc chỉ biểu diễn bảy lần, vì Turunen bận hoàn thiện nốt chương trình học của mình, trong khi Nevalainen và Holopainen hoàn thành nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Nightwish trở lại phòng thu vào tháng 8 năm 1998 với đội hình năm người để thu âm album tiếp theo cho hãng thu âm FireStorm Records.
Nổi tiếng thế giới (1998-2000)
Ngày 7 tháng 10 năm 1998, Nightwish ra mắt album phòng thu thứ hai, Oceanborn, phạm vi trong Phần Lan. Vận dụng nhiều kỹ thuật và tiến bộ hơn Angels Fall First, trong Oceanborn, Nightwish đã bỏ đi ít nhiều các yếu tố không gian và dân gian trong album đầu tay, ngoại trừ "Moondance". Bên cạnh giọng nữ của Turunen, album còn có sự xuất hiện giọng growl (gầm gừ) do Tapio Wilska (ex-Finntroll) đảm nhận, kể từ khi Tuomas không muốn hát nữa. Wilska cũng từng là thành viên của Nattvindens Gråt.
Oceanborn được đón nhận khả quan hơn so với CD trước. AllMusic nhận xét rằng album "như biểu thị một nỗ lực tuyệt vời", với các bài hát "vô cùng mạnh mẽ". Oceanborn nhanh chóng leo lên hạng 5 trên bảng xếp hạng Phần Lan. Đĩa đơn đầu tiên trong album này, "Sacrament of Wilderness", nhảy vọt lên vị trí số 1 và tại vị nhiều tuần liền. Album ban đầu chỉ phát hành giới hạn ở Phần Lan, nhưng vì sự thành công ngoài dự kiến của "Sacrament of Wilderness", hãng đĩa Spinefarm quyết định phát hành Oceanborn toàn cầu vào mùa xuân 1999. Tháng 5 năm 1999, Nightwish thu âm single "Sleeping Sun (Four Ballads of the Eclipse)", bán được 15,000 trong vòng 1 tháng chỉ riêng ở Đức. Theo sau thành công toàn thế giới đầu tiên, Nightwish được chọn là ban nhạc mở màn cho tour lưu diễn châu Âu của Rage. Cả Oceanborn và hai đĩa đơn "Sacrament of Wilderness" cùng "Walking in the Air" đều giành được đĩa vàng ở Phần Lan vào tháng 8 năm 1999.
Vào đầu năm 2000, trong quá trình sản xuất album thứ ba, Nightwish được chấp nhận tham gia cuộc thi Eurovision Song Contest vòng loại Phần Lan với bài hát "Sleepwalker". Mặc dù chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu công khai, Nightwish cuối cùng đứng ở vị trí thứ hai, khi ban giám khảo lựa chọn ca sĩ dòng nhạc phúc âm địa phương Nina Åström để đại diện cho Phần Lan tham dự cuộc thi.
Ngày 19 tháng 5 năm 2000, Nightwish phát hành album thứ ba Wishmaster và lập tức nhảy vọt lên vị trí thứ 1, kéo dài suốt ba tuần liền. Ý kiến phê bình cho album khá trái chiều, khi AllMusic trích dẫn album như một sự lặp lại, và "như một album đầy đủ, nó có thể là một chút khó chịu, thậm chí bực bội". Tuy nhiên, tạp chí Đức Rock Hard nhận xét Wishmaster là "Album của tháng", dù phải cạnh tranh với album được chờ đợi từ lâu của Iron Maiden và Bon Jovi. Sau Wishmaster, Nightwish khởi động tour diễn vòng quanh thế giới đầu tiên của mình, với các buổi diễn ở Nam Mỹ, México, Canada, và tour diễn rầm rộ đầu tiên ở châu Âu cùng với Sinergy và Eternal Tears of Sorrow. Mùa hè cùng năm Nightwish trở về châu Âu và xuất hiện trong hai lễ hội âm nhạc Wacken Open Air và Biebop Metal Fest.
Tay bass mới và sự thay đổi phong cách (2001-2003)
Năm 2001, Nightwish thu âm bản cover "Over the Hills and Far Away" của Gary Moore cùng với 2 ca khúc mới ("10th Man Down", một bản thu chưa phát hành từ Oceanborn, và "Away", một bản thu chưa phát hành từ Wishmaster) và bản thu âm lại "Astral Romance" (từ album Angels Fall First) với Tony Kakko (Sonata Arctica) hát phần nam chính của Tuomas. Album này được phát hành như một EP (đầu tiên và duy nhất cho đến năm 2009) vào mùa hè năm đó, đặt tên là "Over the Hills and Far Away".
Bản thu này cũng có sự góp giọng một lần nữa của khách mời Tapio Wilska trong "10th Man Down". Họ cũng phát hành (dưới dạng VHS, DVD và CD) live album From Wishes to Eternity, thu lại buổi biểu diễn ở Tampere, Phần Lan, vào 29 tháng 12 năm 2000.
Bản cover "Over the Hills and Far Away" của Nightwish thu được phản hồi tốt từ người hâm mộ, trở thành một phần thường xuyên trong những buổi biểu diễn của ban nhạc, nhưng những bài hát này không có sự đột phá lớn và không được phát hành lại, với chỉ một ngoại lệ trong một buổi biểu diễn của "10th Man Down" trong DVD "End of Innocence" với Marco Hietala (là bassist và ca sĩ nam hiện tại).
Sau khi phát hành bản này, Nightwish phải đối mặt với một trong những thời điểm khó khăn nhất của nhóm. Vấn đề tập trung ở việc tay bassist, Sami Vänskä, người bắt đầu cư xử thiếu trách nhiệm, theo Holopainen, với việc không xuất hiện trong các cuộc hẹn và không có hợp đồng biểu diễn một cách nghiêm túc như các thành viên khác. Sau khi ban nhạc đã cùng nhau thảo luận về các hành vi đó với Vänskä nhiều lần, và không nhận được bất kỳ sự thay đổi nào, tất cả các thành viên còn lại bắt đầu không quan tâm đến Vänskä nữa và căng thẳng ngày một lớn. Cùng lúc, tay guitar Emppu Vuorinen bắt đầu ca cẩm về vai trò của mình trong nhóm, giống như "một tay lính đánh thuê chỉ được làm những gì anh ta bị bắt phải làm". Theo giáo viên thanh nhạc của họ, Plamen Dimov, Vuorinen và Holopainen có những quan điểm hoàn toàn khác nhau, và những khó khăn chắc chắn sẽ phát sinh, như dự tính ban đầu. Nhưng Vuorinen, được mô tả là đã tỏ ra bình tĩnh và "chấp nhận sự khác biệt" ("bite the bullet"), và vấn đề không bao giờ còn lặp lại nữa.
Sau đó, Holopainen thú nhận rằng, tại thời điểm đó, ông bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về việc rời khỏi Nightwish. Sau một buổi biểu diễn ở Nga, ông đã gửi một tin nhắn văn bản tới người bạn nhạc sĩ Tony Kakko của ban nhạc Sonata Arctica, nói rằng ông không nghĩ ông sẽ ở lại ban nhạc lâu nữa, và hỏi Tony về kế hoạch năm tới của anh. Sau buổi biểu diễn cuối cùng của Nightwish trong tour Over the Hills and Far Away vào năm 2001, Holopainen đã gọi tới Drakkar và Spinefarm, tuyên bố không chính thức rằng Nightwish đã kết thúc. Ông nói với họ rằng, ông có thể sản xuất một album khác, nhưng ông sẽ không bao giờ biểu diễn thêm một buổi nào nữa với ban nhạc. Thông điệp tương tự cũng được viết trên bảng tin của ban nhạc.
Ngay sau buổi biểu diễn cuối cùng, Holopainen đã thực hiện một chuyến đi bộ đường dài thẳng tới Lapland với Tony Kakko. Trong chuyến đi, họ nói chuyện về ban nhạc và Holopainen quyết định ông không thể chia tay Nightwish một cách dễ dàng. Khi Holopainen trở về từ Lapland, ông ngay lập tức nhận được một cú điện thoại từ Ewo Pohjola về việc đề nghị trở thành quản lý của Nightwish và giúp ông giải quyết ổn thỏa mọi chuyện, và Holopainen đồng ý.
Để tiếp tục Nightwish, Holopainen quyết định thay đổi. Ngoài việc chọn Ewo là quản lý mới, ông cũng yêu cầu Sami Vänskä rời nhóm, và Marco Hietala (Tarot) được mời tham gia vào ban nhạc. Bên cạnh giữ vai trò chơi bass, Hietala đồng thời đảm nhiệm giọng nam chính.
Năm 2002, Nightwish ra mắt album Century Child, đồng thời với 2 single "Ever Dream" và "Bless the Child". Điểm khác biệt quan trọng nhất là album này ban nhạc đã mời dàn nhạc giao hưởng Phần Lan chơi nền trong các bản "Bless the Child", "Ever Dream", "Feel For You" và "The Beauty of the Beast". Một trong những bản nhạc được công chúng đón nhận nhiều nhất và đánh giá cao là "The Phantom of the Opera", trích từ vở nhạc kịch cùng tên của soạn giả Andrew Lloyd Webber. Bài này liên tục được chơi trong các buổi diễn của Nightwish cho tới khi Tarja Turunen bị thay thế bởi Anette Olzon, lúc bấy giờ ban nhạc tuyên bố sẽ không bao giờ biểu diễn bài này nữa.
Century Child giành được đĩa vàng chỉ 2 giờ sau khi phát hành, và đĩa bạch kim 2 tuần sau đó. Album này thiết lập một kỉ lục trên bảng xếp hạng âm nhạc Phần Lan; chưa bao giờ có một khoảng cách xa đến vậy giữa vị trí đầu bảng và thứ hai. Sau video "Bless the Child", một video khác được ghi hình mà không dùng để quảng bá cho bất kỳ single nào. Bài hát được chọn là "End of All Hope". Videoclip chứa nhiều cảnh trong một bộ phim Phần Lan, Kohtalon kirja (Quyển sách tiên tri, tiếng Anh: The Book of Fate).
Vào năm 2003, Nightwish phát hành DVD thứ 2, End of Innocence. DVD này kể lại câu chuyện về ban nhạc theo lời kể của Holopainen, Nevalainen và Tapio Wilska trong hai giờ. Bộ phim tài liệu cũng sử dụng một số cảnh quay các buổi biểu diễn, một số cảnh độc quyền và nhiều cảnh khác. Tarja Turunen cũng đã kết hôn vào mùa hè năm 2003, và có tin đồn rằng ban nhạc sắp tan rã. Những tin đồn này, vào thời điểm đó được chứng minh là sai, khi ban nhạc tiếp tục biểu diễn trong những năm sau và phát hành album. Hôn nhân của Tarja sau này là một phần dẫn đến quyết định chia tay ban nhạc vào mùa thu năm 2005.
Thành công trên bảng xếp hạng với Once và biến cố Tarja (2004)
Album mới, Once được phát hành ngày 7 tháng 7 năm 2004, cùng với single quảng bá, "Nemo" (tiếng Latin: "Không một ai"). Single đứng đầu bảng xếp hạng Phần Lan và Hungary, và lọt vào bảng xếp hạng của sáu nước khác. "Nemo", vì thế, được xem là single thành công nhất của nhóm từ trước đến nay. Với Once, Nightwish bắt đầu soạn phiên bản giao hưởng của một số bài hát trong album. Các bài hát gồm có "Nemo", "Ghost Love Score", "Kuolema Tekee Taiteilijan" và "Creek Mary's Blood".
Once sử dụng một dàn nhạc giao hưởng trọn vẹn trong chín trên tổng số mười một bài hát. Không như Century Child, Nightwish quyết định lựa chọn một dàn nhạc giao hưởng ngoài Phần Lan, và dàn nhạc giao hưởng London Philharmonic Orchestra được chọn. Đây cũng là album thứ hai có một bài hát toàn bộ là tiếng Phần Lan, "Kuolema Tekee Taiteilijan" ("Tử thần tạo nên một nghệ sĩ", tiếng Anh: "Death Makes an Artist"). Once giành được ba đĩa bạch kim ở Phần Lan, một đĩa bạch kim khác ở Đức, và đĩa vàng ở sáu nước khác, album này cũng đạt vị trí số một tại bảng xếp hạng âm nhạc Hy Lạp, Na Uy và bảng xếp hạng album của Đức, nằm trong top 10 của bảng xếp hạng Pháp, Hungary và Thụy Điển. Các đĩa đơn sau đó là: "Wish I Had an Angel" (là soundtrack của phim Alone in the Dark), "Kuolema Tekee Taiteilijan" (chỉ phát hành tại Phần Lan và Nhật Bản) và "The Siren". Bên cạnh thành công về mặt thương mại, Once cũng được đón nhận bởi nhiều nhà phê bình, với nhiều nhận xét tích cực và so sánh với Oceanborn.
Thành công của album đưa ban nhạc lưu diễn trong tour Once World Tour đến nhiều nước trên thế giới mà họ chưa bao giờ đến. Nightwish được vinh dự biểu diễn mở màn Giải Vô địch điền kinh thế giới lần thứ 10 năm 2005, tổ chức tại Helsinki. Một album "best of", Highest Hopes, cũng được phát hành vào tháng 9 năm 2005. Album tổng hợp này bao gồm một bản live cover "High Hopes" (từ album The Division Bell của Pink Floyd) (). Bên cạnh High Hopes, một bản làm lại của "Sleeping Sun" (từ Oceanborn) cũng nằm trong album, và được phát hành như một đĩa đơn. Một đoạn video mới cho "Sleeping Sun" đã được tiết lộ, với một trận chiến thời Trung cổ, và có thể tìm thấy trên đĩa đơn phiên bản tiếng Đức và một DVD riêng biệt phát hành bởi Spinefarm.
Sau khi thu âm live ở Hartwall Arena (Helsinki) vào ngày 21 tháng 10 năm 2005, cho DVD End of an Era (phát hành tháng 6 năm 2006), bốn thành viên còn lại quyết định rằng sẽ là tốt nhất cho Nightwish nếu tiếp tục mà không có Tarja Turunen, một cảm nhận mà họ thể hiện qua một bức thư ngỏ được gửi tới Turunen từ Holopainen sau buổi biểu diễn, và sau đó được đăng trên website của ban nhạc. Bức thư do Holopainen viết nhưng được ký tên bởi ba thành viên còn lại. Trong bức thư, lý do chính được đưa ra cho việc Tarja bị khai trừ khỏi là vì ban nhạc cảm thấy rằng cả người chồng Marcelo Cabuli (một doanh nhân người Argentina) và niềm yêu thích thương mại đã thay đổi thái độ của cô đối với toàn bộ ban nhạc.
Turunen phản ứng lại động thái này hai lần, trong hai buổi họp báo ở Phần Lan và Đức, nói rằng việc bị khai trừ là một cú sốc lớn với mình, thêm nữa, cô hoàn toàn không biết gì cho tới khi nhận được lá thư. Cô cảm thấy rằng những lời lẽ nhắm vào chồng mình là không có cơ sở, và việc tuyên bố công khai là "vô cùng điên rồ và tàn nhẫn". Cô cũng bày tỏ quan điểm của mình trong một bức thư ngỏ khác đăng tải trên website của riêng mình, và thông qua nhiều bài phỏng vấn trên báo, tạp chí và truyền hình.
Thời kỳ gián đoạn và nữ ca sĩ chính mới (2006-2009)
Tháng 9 năm 2006, ban nhạc khởi động ghi âm album phòng thu thứ 6 "Dark Passion Play". Với mục đích tìm một giọng nữ mới thay thế cho Turunen, ban nhạc đề xuất những ca sĩ có hứng thú hãy ghi âm và gửi giọng hát của mình đến cho họ. Trong thời gian này, những đồn đoán về người cuối cùng được chọn bắt đầu xuất hiện. Sau đó, ban nhạc tuyên bố trên trang web của họ rằng người hâm mộ không nên tin bất cứ nguồn nào khác hơn thông tin từ ban nhạc về các ca sĩ mới; và vào ngày 24 tháng 5, cựu nữ ca sĩ chính 35 tuổi của Alyson Avenue, Anette Olzon, từ Thụy Điển, được thông báo sẽ chính thức thay thế vị trí của Turunen. Holopainen phát biểu trong cuộc phỏng vấn rằng ông không muốn tiết lộ danh tính của Olzon quá sớm trước sự xuất hiện chính thức của cô với ban nhạc, vì ông không muốn người hâm mộ đánh giá Olzon chỉ từ những thông tin ít ỏi về hình ảnh hoặc công việc trước kia của cô.
Một ngày sau khi tuyên bố, ngày 25 tháng 5 năm 2007, đĩa đơn từ thiện "Eva" được phát hành dưới dạng chỉ cho download như một hình thức đặt trước album mới. Ban đầu nó được dự kiến phát hành vào ngày 30 tháng 5, nhưng ngày phát hành đã bị thay đổi do một bản leak trên một trang web cho download nhạc của Anh. Đây là bản thu đầu tiên có sự góp mặt của Olzon. Vào ngày 13 tháng 6, Nightwish tiết lộ tiêu đề album, Dark Passion Play, và artwork cho album mới trên trang web chính thức, cũng như tên và bìa đĩa đơn thứ hai (CD vào thời gian này), "Amaranth"; được phát hành tại Phần Lan vào ngày 22 tháng 8 và bao gồm một bonus track mang tên "While Your Lips Are Still Red" viết bởi Tuomas như ca khúc chủ đề cho bộ phim Phần Lan "Lieksa!". Đĩa đơn này giành được đĩa vàng sau chưa đầy hai ngày lên kệ.
Album mang tên Dark Passion Play được phát hành ở châu Âu vào cuối tháng 9 năm 2007, ở Anh vào ngày 1 tháng 10, và ở Mỹ vào ngày 2 tháng 10. Album giành được đĩa bạch kim chỉ 2 ngày sau khi phát hành, chiếm giữ vị trí số 1 tại Đức, Phần Lan, Thụy Sĩ, Hungary và Croatia, nằm trong top 100 ở 16 quốc gia kể cả Mỹ.
Trong album này, giọng nam chính Marco Hietala có nhiều đất diễn hơn hẳn: anh hát phần bè trong "Cadence of Her Last Breath" và "Sahara", hát chính trong "The Islander", "Master Passion Greed" và "While Your Lips Are Still Red", hát phần hợp âm trong "Bye Bye Beautiful" và "7 Days to the Wolves". Anh cũng hát một phần trong bản nhạc "The Poet and the Pendulum", bên cạnh việc hát bè trong phần điệp khúc. Trước khi hoàn thành việc tìm được ca sĩ mới và thu âm album mới, Marco hát trong tất cả các bản demo. Holopainen cũng hát trong bản demo của "Bye Bye Beautiful" và "Master Passion Greed" nhưng những bản demo này không bao giờ được xuất bản.
Vào ngày 22 tháng 9 năm 2007, ban nhạc tổ chức một buổi hòa nhạc bí mật tại Rock Café ở Tallinn, Estonia, tự nhận là một ban nhạc cover các tác phẩm của Nightwish có tên goi "Nachtwasser". Buổi biểu diễn chính thức đầu tiên với Annette Olzon là ở Tel Aviv, Israel, vào ngày 6 tháng 10 năm 2007. Tour diễn Dark Passion Play, vì thế, bắt đầu tại Hoa Kỳ, Canada, nhiều nơi tại châu Âu, châu Á, và Australia.
Đĩa đơn thứ ba của album là "Erämaan viimeinen", một phiên bản có lời chưa từng phát hành của bản nhạc không lời "Last of the Wilds"". Đĩa đơn này được phát hành ngày 5 tháng 12 năm 2007. Trong bài này, Jonsu của ban nhạc pop và rock Phần Lan Indica biểu diễn những phần lời tiếng Phần Lan. "Bye Bye Beautiful", đĩa đơn thứ tư, được phát hành ngày 15 tháng 2 năm 2008, và liên quan đến sự chia tay năm 2005 của Turunen, cũng như một bài khác trong album (Master Passion Greed). Đĩa đơn bao gồm thêm một bonus track, "Escapist", cũng có trong phiên bản tiếng Nhật của Dark Passion Play. Trong vòng một tuần sau khi phát hành, đĩa đơn thứ năm đã được công bố là "The Islander". Đĩa đơn "The Islander" bao gồm một phiên bản giao hưởng của bản ballad bất hủ "Meadows of Heaven", cũng bao gồm một phiên bản không lời của "Escapist" và một bản làm lại của chính "The Islander". Nó được phát hành hơn một tháng sau khi phát hành video ca nhạc cùng tên, công chiếu vào cuối năm 2007 tại Rovaniemi, Lapland, Phần Lan.
Tour lưu diễn The Dark Passion Play trở thành tour dài nhất của Nightwish từ trước đến nay kéo dài từ mùa thu 2007 đến tháng 9 năm 2009 với buổi biểu diễn cuối cùng ở Hartwall Arena, Helsinki với ban nhạc Apocalyptica. Nightwish chỉ có duy nhất một buổi biểu diễn khác ở Hartwall Arena vào năm 2005 khi họ kết thúc tour diễn thế giới quảng bá cho album Once. Buổi biểu diễn này đã được đưa vào DVD End of an Era, và đó là show cuối cùng của Tarja Turunen cùng ban nhạc.
Ngày 6 tháng 3 năm 2009, Nightwish xuất xưởng Mini CD/DVD live album nhan đề Made in Hong Kong (And in Various Other Places). Tám bài hát được ghi âm trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới "Dark Passion Play" năm 2007–2008, và một số bản demo của các bài trong album vừa phát hành trước đó.Tám bài hát được ghi âm trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới "Dark Passion Play World Tour" năm 2007–2008, và album cũng bao gồm một bản b-side của đĩa đơn "Bye Bye Beautiful", một bản b-side của đĩa đơn "Amaranth", một bản demo chưa từng công bố của "Cadence of Her Last Breath", và một bonus-DVD với ba video ca nhạc trong một bộ phim tài liệu dài 37 phút với tên gọi "Back in the Day is Now".
Imaginaerum, phim theo album và sự ra đi của Olzon (2009-2013)
Trong ấn bản tháng 6 năm 2009 của tạp chí Phần Lan Soundi, Holopainen tiết lộ rằng ông đã bắt đầu thực hiện album mới của Nightwish. Vào tháng 10 năm 2009, bắt đầu xuất hiện những tin đồn về tên album mới chủ yếu xoay quanh tiêu đề Wind Embraced, nhưng ca sĩ chính Anette Olzon liệt kê những tin đồn trên như một điều "sai sự thật" và nói rằng các bài hát cho album mới vẫn chưa được hoàn thành ngoài 3 bài hát đã được viết vào khoảng thời gian trước tháng 5 năm 2009. Holopainen trong một cuộc phỏng vấn năm 2010 cho biết rằng "[...] Tôi không thể tiết lộ thêm được nữa nhưng, để nói về album tiếp theo, sẽ có một sự thay đổi lớn." Trong một cuộc phỏng vấn với Uilleann pipist Troy Donockley (người đã ghi âm cùng với ban nhạc album Dark Passion Play), khi được hỏi về sự tham gia của mình trong album mới, ông nói "Ồ vâng, tôi sẽ chơi trong album tiếp theo và từ những gì Tuomas nói với tôi, nó sẽ trở thành một thứ gì đó thực sự phi thường..."
Vào ngày 1 tháng 2 năm 2010, Olzon tuyên bố trên blog của mình rằng Holopainen đã có chín bài hát sẵn sàng cho album mới. Cô cũng nói rằng ban nhạc sẽ gặp nhau trong mùa hè để thu bản demo, và người hâm mộ không nên mong đợi bất cứ điều gì sớm hơn mùa thu năm 2011. Trên tờ Nightmail vào tháng 4 năm 2010, Holopainen tiết lộ rằng ông đã viết xong các bài hát cho album, và vào ngày 2 tháng 6, có thông báo rằng ông đã hoàn thành phần tiền sản xuất cho bản demo.
Ban nhạc công bố vào cuối năm 2010 rằng nhiều thông tin về nội dung thực tế của album sẽ được phát hành vào cuối tháng Giêng, nhưng vào ngày 1 tháng 2, trang web chính thức của ban nhạc đăng tải một tuyên bố bằng văn bản của Holopainen rằng vì sự thay đổi lịch trình, ông chưa thể cung cấp nhiều thông tin chi tiết hơn như ông muốn, nhưng nhiều thông tin sẽ được công bố sau khi một vài tháng tới. Tuy nhiên, ông cho biết thêm, "nó vẫn sẽ là Burton - Gaiman - Dalí - nơi hoan lạc mà chúng tôi phải bước vào"; Trong tuyên bố cũng bật mí album sẽ là một album nhạc chủ đề và "sự thay đổi tâm trang hiện diện nhiều hơn bao giờ hết" ("mood changes seem to be more present than ever before"), và những bản nhạc giao hưởng demo ông nhận từ Pip Williams được mô tả là "những thứ tuyệt đẹp, phi thường, tồn tại một cảm giác mông muội và đầy chất điện ảnh". Trong phiên bản tiếng Phần Lan của tuyên bố, nó cũng tiết lộ rằng một vài bài hát sẽ không hoàn toàn mang âm hưởng giao hưởng, khác với album trước đó với toàn bộ các bài hát được biểu diễn cùng một dàn nhạc giao hưởng.
Các tuyên bố tiếp tục xuất hiện trong suốt năm 2011. Ngày 10 tháng 2, Nightwish công bố trên trang web của ban nhạc tiêu đề album mới sẽ là Imaginaerum. Họ cũng tuyên bố rằng ban nhạc đã sản xuất một bộ phim dựa trên album với tựa đề Imaginarium, sẽ được phát hành vào năm 2012 và được đạo diễn bởi Stobe Harju, người trước đó đã đạo diễn video âm nhạc cho "The Islander". Vào ngày 22 tháng 8 năm 2011, họ công bố trên trang web chính thức rằng album nhạc Imaginaerum sẽ được phát hành vào cuối năm. Vào ngày 31 tháng 8, Nightwish thông báo trên website về việc đổi tên tựa đề Imaginarium thành Imaginaerum "để tránh trùng tên với bản mix-up cùng nhiều nhạc cụ có tên là 'IMAGINARIUM' ". Sau đó, vào ngày 2 tháng 9, Nightwish công bố trên trang web của họ rằng đĩa đơn mới Storytime sẽ được phát hành vào thứ Sáu, ngày 11 tháng 11 và vào ngày 9 tháng 9, Nightwish công bố bìa album, tracklist và bình luận được viết bởi Tuomas.
Ngày 11 tháng 1 năm 2012, Nightwish công bố trên trang web của họ, đĩa đơn thứ hai "The Crow, the Owl and the Dove" thông báo rằng Nightwish sẽ phát hành một bản 10 "LP mang tên Trials of Imaginaerum kết hợp với Record Store Day (ngày 21 tháng 4 năm 2012). Bản 10" LP là một đĩa hai mặt có hình ảnh, bao gồm bốn bản demo đầu tiên của "Storytime", "The Crow, The Owl and The Dove", "I Want My Tears Back" và "Slow, Love, Slow".
Ngày 1 tháng 10, Nightwish công bố thông qua trang Facebook của ban nhạc rằng họ đã chia tay với Olzon "trong sự hiểu biết lẫn nhau". Theo bản thông cáo báo chí này, "hướng phát triển và nhu cầu của các thành viên trong ban nhạc ngày càng xung đột với nhau một cách rõ ràng, và điều này đã dẫn đến một vị trí mà chúng tôi không thể phục hồi". Thông báo này đến ngày sau khi Olzon bị ốm và không thể biểu diễn; Nightwish sử dụng ca sĩ thay thế từ ban nhạc mở màn, Kamelot, và Olzon sau đó bày tỏ sự thất vọng của mình, "Tôi không hề được hỏi ý kiến về việc có ổn không nếu họ thay thế Elize và Alissa vào vị trí của tôi trong show tối hôm đó [thứ 6] [...] Tôi không nghĩ rằng đó là một quyết định đúng đắn của họ và tôi muốn gửi lời xin lỗi tới những người đến để được nhìn thấy ban nhạc, nhưng lại thấy một điều gì khác. Nhưng tôi đang ốm nặng và quyết định này không bắt nguồn từ bản thân tôi." Cũng theo bản thông cáo, Floor Jansen (ex-After Forever, ReVamp) sẽ hát trong phần còn lại của Imaginaerum World Tour.
Vào ngày 11 tháng 1 năm 2013, Anette công bố trên blog chính thức của mình rằng cô đã mang thai đứa con thứ ba, trong mùa xuân năm 2013. Nhiều người suy đoán rằng đây là một yếu tố góp phần trong quyết định rời khỏi Nightwish của cô.
Các kế hoạch cho album tiếp theo và sự gia nhập của Floor Jansen và Troy Donockley (2013-)
Trong một cuộc phỏng vấn với Metal Hammer trong tháng 11 năm 2012, Tuomas Holopainen nói rằng, họ đã có một địa điểm để tập luyện từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2014, nhưng trước khi bắt đầu tập luyện các thành viên ban nhạc sẽ nghỉ ngơi một thời gian.
Vào ngày 9 tháng 10 năm 2013, ca sĩ người Hà Lan Floor Jansen (After Forever, ReVamp) được thông báo sẽ trở thành sự thay thế lâu dài cho Anette Olzon. Troy Donockley cũng được thông báo sẽ là một thành viên chính thức lâu dài. Chuyển động này mang lại lần đầu tiên Nightwish có đội hình sáu thành viên chính thức.
Vào cuối tháng 11, ban nhạc cho phát hành live album Showtime, Storytime. Mặc dù quá trình thu âm được tiến hành khi vẫn còn là những thành viên cho chuyến lưu diễn, đây là sản phẩm đầu tiên Nightwish hợp tác với Jansen, và có cô cùng Donockley dưới danh nghĩa thành viên chính thức của ban nhạc. Album cũng bao gồm một bộ phim tài liệu ghi lại những cảnh phía sau hậu trường của những ngày đầu Floor Jansen gia nhập và quá trình thay thế Olzon.
Âm nhạc
Chủ đề sáng tác
Ban đầu, Holopainen chủ yếu viết về những chủ đề thần thoại và viễn tưởng, và thường sử dụng các tư liệu liên quan tới "siêu hình và thiên nhiên". Ví dụ, bài "Elvenpath" chủ yếu nói về những hình ảnh tưởng tượng với các tài liệu tham khảo từ những câu chuyện cổ như của Tolkien. Qua nhiều năm, lời bài hát bắt đầu mang tính cá nhân nhiều hơn. Trong Wishmaster, ca khúc chủ đề vẫn còn là một "sự tưởng nhớ tới Tolkien và tất cả các nhà văn viễn tưởng khác", và "FantasMic" là một sự tưởng nhớ trực tiếp tới Walt Disney và những bộ phim hoạt hình của họ, mà Holopainen đã từng phát biểu là một trong những ảnh hưởng của mình. Tuy nhiên, với "Dead Boy's Poem", album cũng bao gồm một phần rất cảm động, mà Holopainen gọi là "di chúc và [...] di sản của tôi dành cho cả thế giới. [...] Tôi muốn viết bài hát này trước khi chết, bởi tôi muốn nói với cả thế giới những gì tôi nghĩ và cảm nhận. Nó thể hiện rất nhiều điều về bản thân tôi." Một số bài mang xu hướng tương tự trong album là "Come Cover Me", một bài hát về tình yêu, và "She is My Sin", nói về những ham muốn, thèm khát về dục vọng. "The Kinslayer", cũng nằm trong album Wishmaster, viết về vụ Thảm sát Trường Trung học Columbine xảy ra vào ngày 20 tháng 4 năm 1999, và câu "In memory of the Redeemers" ("Trong ký ức của những Đấng Cứu thế").
Ca khúc "10th Man Down" từ album Over the Hills and Far Away nói về cuộc nội chiến và lời bài hát được viết từ góc nhìn của một người lính. Sự phát triển mang tính cá nhân này trở nên rõ ràng hơn trong Wishmaster- và được kế thừa ở Century Child. Turunen nghĩ rằng lời các bài hát không chỉ đề cập tới "vùng đất mộng mơ quen thuộc của chúng tôi, mà còn cả thực tế tàn bạo của cuộc sống." "Kuolema Tekee Taiteilijan" (tiếng Anh: "Death Makes an Artist" - "Cái chết tạo nên một nghệ sĩ") từ album Once mô tả trải nghiệm về sự mất mát và tác động của nó về nghệ thuật, "Nemo" truyền tải nỗi đau về sự mất mát, trong khi "Dead Gardens" nói về cuộc đấu tranh với những điều cản bước người nghệ sĩ mà Holopainen đã từng phải chịu đựng.
Theo chiều ngược lại, "Creek Mary's Blood" lại được viết dựa trên câu chuyện cùng tên của Dee Brown, kể về cảnh ngộ của những người Mỹ bản địa vào cuối thế kỷ 19. Album năm 2007, Dark Passion Play bao gồm một số lượng bất thường các bài hát mang tính cá nhân, trong đó "The Poet and the Pendulum" được mô tả là câu chuyện về cuộc đời Holopainen và việc trở thành một nhà soạn nhạc và nhạc sĩ của anh. Trong khi đó, "Meadows of Heaven" lại mô tả tuổi thơ của Holopainen và cảm thức rằng nó sẽ không bao giờ trở lại nữa. Hai bài "Bye Bye Beautiful" và "Master Passion Greed" nói về cựu thành viên Tarja Turunen và người chồng Marcelo Cabuli của cô. Một ca khúc trong album, "Cadence of Her Last Breath", là một "bài hát mang nặng cảm quan cá nhân" về sự chạy trốn. Một vài bài hát khác trong album cũng có những liên hệ tới các tác giả như Edgar Allan Poe, Walt Whitman và Stephen King, nhưng album cũng chứa đựng sự trở về với chủ đề viễn tưởng cùng "Sahara", "Whoever Brings the Night" và "7 Days to the Wolves".
"7 Days to the Wolves" từ album Dark Passion Play được viết dựa trên cuốn tiểu thuyết của Stephen King, The Dark Tower V: Wolves of the Calla, tập thứ 5 trong bộ tiểu thuyết The Dark Tower. Tên gọi đầu tiên của "The Poet and the Pendulum" là The White Lands of Empathica, là tên của chương bốn trong tập thứ 7 của bộ tiểu thuyết The Dark Tower, The Dark Tower VII: The Dark Tower.
Mặc dù lời bài hát của Nightwish thường chứa đựng những ý nghĩa đen tối mang tính nặng nề, họ cũng có một số ca khúc ít u ám hơn, bao gồm bonus track Nightquest, nói về sự kết nối các thành viên ban nhạc như những nghệ sĩ (ba thành viên ban đầu bao gồm cả Nevalainen), và "sứ mệnh" của Nightwish.
Ngôn ngữ
Trong album ra mắt Angels Fall First, bài hát được viết bằng hai thứ tiếng Anh và Phần Lan, nhưng từ sau đó ban nhạc chỉ viết bài hát bằng tiếng Anh, với trường hợp ngoại lệ duy nhất là "Kuolema Tekee Taiteilijan" từ album Once (2004), đĩa đơn "Erämaan viimeinen" (2007), là phiên bản phổ lời (với sự góp giọng của Jonsu (từ ban nhạc Indica)) của bản nhạc không lời "Last of the Wilds", và "Taikatalvi" từ album Imaginaerum (2011). Holopainen nghĩ rằng anh không chắc chắn về lời của bài "Erämaan viimeinen", bởi anh cho rằng việc viết nhạc bằng tiếng Phần Lan là khá khó khăn, và "tiếng Phần Lan khi hát [có thể] nghe sẽ rất tệ." Ca khúc Creek Mary's Blood cũng dựa trên một bài thơ viết bằng tiếng Lakota, ban đầu được viết bằng tiếng Anh và sau đó được dịch bởi ca sĩ khách mời John Two-Hawks.
Ảnh hưởng
Tuomas Holopainen, người viết hầu hết lời và nhạc cho các bài hát của Nightwish, nói rằng các nguồn cảm hứng cho bài hát của Nightwish hầu hết được bắt nguồn từ những bản nhạc phim. Những ca khúc như "Beauty of the Beast" (trong Century Child), "Ghost Love Score" (trong Once) và "The Poet and the Pendulum" (trong Dark Passion Play) là những ví dụ của ảnh hưởng này. Những bài hát khác, chẳng hạn như "Bye Bye Beautiful" (trong Dark Passion Play), và "Wish I Had an Angel" (trong Once) mang những yếu tố của industrial metal, và một vài bài khác, như "The Islander" và "Last of the Wilds" (trong Dark Passion Play), "Creek Mary's Blood" (trong Once), và album Angels Fall First mang những yếu tố của folk metal. Holopainen cũng phát biểu rằng nhạc phim là thể loại nhạc anh thường nghe để giải trí. Anh thích những bản nhạc phim như nhạc của The Village, Van Helsing, The Chronicles of Narnia: The Lion, the Witch and the Wardrobe và Crimson Tide, và đặc biệt thích tất cả các bản nhạc sáng tác bởi Hans Zimmer. Ban nhạc cũng cho biết âm nhạc của họ chịu ảnh hưởng từ Children of Bodom, My Dying Bride, Tiamat và The 3rd and the Mortal.
Tiểu thuyết giả tưởng cũng là một nguồn ảnh hưởng lớn tới âm nhạc của Nightwish. Nhiều lời bài hát là minh chứng khá rõ ràng mối liên hệ tới những tiểu thuyết giả tưởng, đặc biệt là bộ Dragonlance và Chúa tể của những chiếc nhẫn của J. R. R. Tolkien. Những bài như "Wishmaster," "Elvenpath," và "Wanderlust" dường như bị ảnh hưởng nặng nề bởi các tiểu thuyết này. Những liên hệ tới Dãy Kharolis, 'Shalafi' và Krynn, cũng như 'Elbereth,' 'Rings of Power' và 'Gray Havens', có thể được tìm thấy trong các bài hát này. Âm nhạc của "7 Days to the Wolves" được lấy cảm hứng từ bộ tiểu thuyết nổi tiếng của Stephen King, The Dark Tower.
Nightwish cũng được ghi nhận như là nguồn cảm hứng cho các ban nhạc khác. Simone Simons, ca sĩ chính của ban nhạc symphonic/gothic metal Hà Lan Epica, nói rằng cô bắt đầu hát từ khi nghe album năm 1998 của Nightwish, Oceanborn. Cựu ca sĩ của ban nhạc symphonic metal Visions of Atlantis, Nicole Bogner, cũng thừa nhận rằng Nightwish đã truyền rất nhiều cảm hứng cho album đầu tay của họ. Sander Gommans của After Forever nói rằng Nightwish "chắc chắn sẽ luôn ảnh hưởng đến chúng tôi trong việc tạo ra những bài hát mới". Ca sĩ chính của ban nhạc power metal Sonata Arctica, Tony Kakko thì giải thích rằng Nightwish có ảnh hưởng rất lớn tới anh.
Phong cách âm nhạc
Nightwish biểu diễn thể loại symphonic metal với một giọng opera nữ cao vút. Âm nhạc của ban nhạc được mô tả là "nặng nề một cách khoa trương, đậm chất giao hưởng và điện ảnh, với keyboard và đàn tạo ra một bầu không khí gothic".
Âm nhạc của ban nhạc còn được biết tới với sự phức tạp và mang nhiều tầng ý nghĩa. Nó cũng mang nặng tính sử thi, tính kịch và chất opera. Nhà phê bình Chad Bowar ghi lại rằng âm nhạc của họ "luôn luôn rất du dương với những dàn hợp xướng đáng nhớ và nhiều cạm bẫy ẩn chứa." Một số tài liệu cũng liệt kê Nightwish như một ban nhạc heavy metal.
Việc sử dụng ca sĩ nữ đã trở thành một đặc điểm riêng của nhóm, dù điều này có vẻ kém nổi bật hơn kể từ sự bùng nổ của những ban nhạc metal có ca sĩ nữ chính vào giữa những năm 2000, với sự phổ biến của các ban nhạc như Evanescence, Within Temptation, Leaves' Eyes, và một số ban nhạc gothic metal pha trộn giọng nữ và giọng nam, như Lacuna Coil, Tristania, Epica và phong cách ban đầu của Within Temptation.
Bassist và ca sĩ Marco Hietala mô tả phong cách âm nhạc của ban nhạc như "melodic symphonic metal"; mặc dù điều này không phải là một ý kiến chung của tất cả các thành viên trong nhóm, bao gồm người sáng tác của nhóm, Tuomas Holopainen, người mô tả âm nhạc của ban nhạc chỉ đơn giản như là symphonic metal. Nightwish được nhìn nhận rằng đã chuyển đổi từ phong cách power metal đặc trưng sang âm nhạc mang hơi hướm gothic "thị trường" hơn kể từ Century Child và Once. Âm nhạc của Nightwish được "nhận diện" bởi giọng soprano đặc trưng của Tarja Turunen, một "ca sĩ nữ chính vô cùng lôi cuốn với giọng hát đầy nội lực". Các nhà phê bình nhận xét rằng giọng hát của cô trở nên ít tính opera hơn từ việc phát hành Once. Sau sự ra đi của Tarja Turunen, Nightwish bỏ lại phía sau "giọng hát opera đặc trưng" trong album trước đó của họ.
Trong khi âm nhạc của Nightwish tập trung vào giọng nữ chính, ban nhạc cũng có những giọng nam đặc trưng trong các album của mình kể từ album đầu tay Angels Fall First. Album này cũng bao gồm "các yếu tố của âm nhạc dân gian và môi trường", yếu tố mà họ không còn theo đuổi trong album tiếp theo Oceanborn. Tuy nhiên, ca khúc "Creek Mary's Blood" trong album "Once" lại mang một số giai điệu trong các bài hát dân gian của người Mỹ bản địa, và album năm 2007, Dark Passion Play đánh dấu sự trở về với folk metal cùng "The Islander" và "Last of the Wilds".
Thành viên
Thành viên hiện tại
Kai Hahto – trống (2019–nay; khách mời: 2014–2019)
Tuomas Holopainen - keyboard, synthesizer (1996–nay)
Emppu Vuorinen - guitar (1996–nay), bass (1996–1998)
Troy Donockley - kèn túi uillean (uillean pipes), sáo kim loại (tin whistle), hát đệm (2007–nay)
Floor Jansen - hát chính (2012-nay)
Thành viên cũ
Marko Hietala – bass, giọng nam (2001–2021), acoustic guitar (2006–2021)
Jukka Nevalainen - trống (1997–2019; 2014–2019)
Anette Olzon - hát chính (2007–2012)
Tarja Turunen - hát chính (1996–2005)
Sami Vänskä - bass (1998–2001)
Dòng thời gian
Danh sách đĩa hát
Angels Fall First (1997)
Oceanborn (1998)
Wishmaster (2000)
Century Child (2002)
Once (2004)
Dark Passion Play (2007)
Imaginaerum (2011)
Endless Forms Most Beautiful (2015)
Human.:II: Nature (2020)
Video
(1998) The Carpenter (Edit)
(1998) Sacrament of Wilderness
(1999) Walking in the Air (Live)
(1999) Sleeping Sun
(2000) The Kinslayer (Live)
(2001) Over the Hills and Far Away
(2002) Bless the Child (Edit)
(2002) End of All Hope
(2004) Nemo (Edit)
(2004) Wish I Had an Angel
(2005) Sleeping Sun (Remake)
(2007) While Your Lips Are Still Red
(2007) Amaranth
(2008) Bye Bye Beautiful
(2008) The Islander
(2011) Storytime (Edit)
(2012) Planet Hell (Live)
(2012) I Want My Tears Back (Live)
(2013) Ghost Love Score (Live)
Đọc thêm
Once Upon a Nightwish (Mape Ollila, 2007)
Dark Passion Gallery (Ville Akseli Juurikkala, 2008)
Once Partitures Book (Spinefarm, 2005)
Thư mục tham khảo
Ollila, Marko. Nightwish, Like Kustannus Oy, 2006. ISBN 952-471-692-5
English translation: "Once Upon a Nightwish", Deggael Communications, 2007. ISBN 978-952-99749-2-4
"Once Upon a Nightwish: The Official Biography 1996–2006" (Mape Ollila, 2007)
Chú thích |
Tháp nghiêng Pisa (tiếng Ý: Torre pendente di Pisa) là một tòa tháp chuông tại thành phố Pisa (Ý) được khởi xây năm 1173. Toà tháp cao 55,86 m tính từ mặt đất lên đến nóc bên thấp và 56,70 m đến nóc bên cao. Từ dưới lên có 294 bậc thang. Tường tháp dày 4,09 m ở phía chân tháp, rồi rút dần, chỉ còn 2,48 m trên đỉnh. Trọng lượng toàn tháp là khoảng 14.500 tấn.
Ngay trong khi đang xây, tòa tháp đã bắt đầu nghiêng vì lún. Để ổn định cấu trúc tháp không tiếp tục chao nghiêng, một số biện pháp địa kỹ thuật đã được xúc tiến, giữ cho tháp ở nguyên hiện trạng. Tháp Pisa riêng nó đã là tòa nhà mỹ thuật nhưng càng hấp dẫn thêm vì dáng nghiêng nghiêng, thu hút du khách hàng năm tới Pisa.
Tháp đứng 3,97 độ nghiêng, có nghĩa là nếu tháp đứng thẳng, trần tháp sẽ cao hơn 3,9 m. Sách Kỷ lục Guinness tới Pisa và đo độ nghiêng của tháp Pisa là 3,97 độ.
Tuy nhiên, đây không phải là công trình nhân tạo nghiêng nhất thế giới. Tháng 6 năm 2010, Sách kỷ lục Guinness đã chứng nhận Capital Gate là "Tòa tháp nhân tạo nghiêng nhiều nhất thế giới". Tòa nhà tạo một góc 18 độ so với phương thẳng đứng, gấp 5 lần độ nghiêng của tháp Pisa."
Xây dựng
Tháp nghiêng Pisa là một công trình nghệ thuật được xây dựng vào ngày 9 tháng 8 năm 1173 và được thiết kế bởi hai nhà kiến trúc sư là Mugahe và Borna Nasi. Vào năm 1350, tháp đã được xây dựng hoàn thiện. Việc xây dựng lầu chuông tầng thứ nhất bằng đá cẩm thạch bắt đầu ngày 9 tháng 8, 1173, một giai đoạn của sự thịnh vượng và những thắng lợi quân sự. Tầng này được bao quanh bởi những cột có đầu cột kiểu cổ điển đỡ các vòm rèm. Ngày nay sau thời gian hàng nhiều thế kỷ cùng những ảnh hưởng thời tiết, chúng vẫn còn nguyên vẹn.
Lịch sử
Galileo Galilei được cho là đã thả hai quả đạn ca nông có khối lượng khác nhau từ trên tháp để chứng minh tốc độ rơi của chúng độc lập với khối lượng. Dù nhiều phần của câu chuyện này được chính các học trò của Galileo kể lại, chúng vẫn chỉ bị coi là một huyền thoại đơn thuần. Tuy Galileo thực sự đã trèo lên đỉnh tháp và thả hai vật xuống nhằm chứng minh thêm cho lý thuyết đã được chứng minh của mình, nhưng có lẽ chúng không phải là những viên đạn đại bác.
Benito Mussolini đã ra lệnh dựng thẳng tháp lên, và bê tông đã được rót vào móng của nó. Tuy nhiên, kết quả thực tế chỉ làm tháp lún sâu hơn vào trong đất.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đồng Minh khám phá ra rằng quân Phát xít đang sử dụng tháp làm một vị trí quan sát. Một trung sĩ bình thường của Quân đội Hoa Kỳ đã được ra lệnh quyết định số phận tháp. Ông ta đã không lựa chọn sử dụng cách tấn công pháo binh để bảo vệ công trình.
Ngày 27 tháng 2 năm 1964, chính phủ Ý yêu cầu hỗ trợ ngăn tháp không bị đổ. Tuy nhiên, việc giữ độ nghiêng hiện thời cũng là một yêu cầu quan trọng, vì vai trò rõ rệt của yếu tố này trong việc thu hút khách du lịch cho ngành công nghiệp này của Pisa. Một đội gồm các kỹ sư, nhà toán học, sử học đa quốc gia đã tham gia cuộc hội thảo trên đảo Açores nhằm thảo luận về các biện pháp ổn định tháp. Sau hơn hai thập kỷ hoạt động của dự án, tháp đã bị đóng cửa với công chúng vào tháng 1 năm 1990. Khi tháp bị đóng cửa, những quả chuông đã được chuyển đi nhằm làm giảm trọng lượng và các dây cáp được nịt quanh tầng ba níu giữ tháp. Những chung cư và ngôi nhà dọc theo hướng tháp được di tản để đảm bảo an toàn. Sau một thập kỷ sửa chữa và ổn định, tháp được mở cửa trở lại cho công chúng ngày 15 tháng 12 năm 2001. Mọi người khám phá ra rằng độ nghiêng tăng lên bởi các tảng đá xây nở ra và chèn ép lên nhau vì sức nóng của ánh sáng mặt trời. Đồng thời nền móng phía thấp cũng mềm hơn. Nhiều phương án đã được đề xuất để ổn định tháp, gồm cả việc đưa thêm 800 tấn chì vào nhằm làm đối trọng với phần đáy tháp đang nâng lên. Phương án cuối cùng ngăn chặn sự sụp đổ của tháp là hơi nâng thẳng tháp lên tới một góc an toàn hơn, bằng cách rút đi 38 m³ đất phía dưới đáy đang bị nâng lên. Tháp được tuyên bố đã ở tình trạng an toàn trong ít nhất 300 năm nữa.
Năm 1987, tháp được tuyên bố là một phần của Campo dei Miracoli - Di sản Thế giới cùng với thánh đường, nhà thờ và nghĩa trang bên cạnh.
Tháng 5 năm 2008, sau khi dời 64 tấn đất, các kỹ sư tuyên bố rằng tháp được ổn định hóa đến độ mà nó ngừng nghiêng lần đầu tiên. Họ ước lượng rằng nó sẽ đứng vững cho ít nhất 200 năm nữa.
Thông tin kỹ thuật
Tọa độ địa lý:
Độ cao của Piazza dei Miracoli: khoảng 2 mét (6 feet, DMS)
Chiều cao: 55.863 mét, 8 tầng
Đường kính ngoài đế: 15.484 m
Đường kính trong đế: 7.368 m
Góc nghiêng: 3.99 độ về hướng nam, hay 3.9 m theo chiều thẳng đứng
Trọng lượng: 14.700 tấn
Chiều dày tường ở đế: 2.4 m
Tổng số chuông: 7, sắp xếp theo thang âm, theo chiều kim đồng hồ
Chuông thứ nhất: L'assunta, đúc năm 1654 bởi Giovanni Pietro Orlandi, trọng lượng 3.620 kg
Chuông thứ hai: il Crocifisso, đúc năm 1572 bởi Vincenzo Possenti, trọng lượng 2.462 kg
Chuông thứ ba: San Ranieri, đúc năm 1719-1721 bởi Giovanni Andrea Moreni, trọng lượng 1.448 kg
Chuông thứ tư: La Terza (chiếc nhỏ nhất), đúc năm 1473, trọng lượng 300 kg
Chuông thứ năm: La Pasquereccia, đúc năm 1262 bởi Lotteringo, trọng lượng 1.014 kg
Chuông thứ sáu: il Vespruccio (nhỏ thứ hai), đúc thế kỷ 14 và đúc lại lần nữa năm 1501 bởi Nicola di Jacopo, trọng lượng 1.000 kg
Chiếc thứ bảy: Del Pozzetto, đúc năm 1606, trọng lượng 652 kg
Số bậc lên tháp chuông: 294
Du lịch
Mỗi lần tham quan tháp khách du lịch phải chia thành từng nhóm 30 người. Chuyến tham quan kéo dài 30 phút và không có thời gian nghỉ. Các hướng dẫn viên đưa ra các bài tập thể dục khởi động nhằm chuẩn bị cho các du khách để có thể leo liên tục được 294 bậc thang nghiêng mà không bị chóng mặt. Trẻ em dưới 8 tuổi thì không được vào tham quan tháp, còn trẻ dưới 18 tuổi thì cần đi kèm với một người lớn. Các túi xách phải để lại dưới đất nhưng máy ảnh và máy quay thì có thể mang theo. Vào năm 2007, vé cho một chuyến tham quan 30 phút là 15€/ người.
Trong văn hoá đại chúng
Bộ phim Superman III có một nhân vật Siêu nhân thực hiện nhiều "hành vi xấu xa" khắp thế giới - một hành động trong số đó là dựng thẳng Tháp nghiêng Pisa. Cảnh nổi tiếng cuối cùng của bộ phim nhân vật siêu nhân đẩy tháp về vị trí nghiêng như cũ.
Trong phần Histeria! của "The Wheel of History", Froggo được thể hiện đang gắng sức đẩy tháp vào vị trí nghiêng của nó nhưng không thành công. Sau đó anh ta tìm cách thực hiện điều này với sự trợ giúp của Archimedes (Chit Chatterson đóng) và chiếc đòn bẩy của ông.
Trong loạt phim hoạt hình Futurama, tháp nghiêng đã được Fry and Bender dựng thẳng và sau đó lại đưa về chỗ cũ trong niềm vui của Planet Express Ship.
Trong bộ phim Sky High của Disney, những cảnh đầu tiên mẹ của siêu anh hùng Will Stronghold tới mua pizza từ Ý. Trong một cảnh về chiếc tàu vũ trụ, bà cầm một hộp pizza, bay ngang qua Tháp nghiêng Pisa.
Trong Bartimaeus Trilogy, thần Đạo Hồi Bartimaeus tuyên bố rằng mình đã giúp xây dựng Tháp Pisa, nhưng những lời khuyên của ông đã bị các nhà xây dựng bỏ qua và đó là lý do tại sao nó bị nghiêng.
Trong một đoạn Tool Time ở Home Improvement, Tim Taylor đã đưa ra một bức tranh về ngọn tháp như ví dụ giải thích tại sao con người có thể tạo dựng những kiệt tác với các công cụ. Trợ tá Al Borland của ông tiếp tục nói rằng tháp trên thực tế là một ví dụ về sai lầm của con người.
Trong một cảnh dẫn ở hồi Rocko's Modern Life, có hình một cụ tổ của Heffer đứng bên cạnh tháp, khiến nó bị nghiêng.
Trong phim A Goofy Movie của Disney, bạn Bobby (Pauly Shore) của Max đã so sánh tháp với Eazy Cheeze mà hắn tự tay dựng lên và nói "nhìn kìa, đó là tháp nghiêng cheesa."
Trong chương trình Viva La Bam của MTV, Bam tới thăm tháp cùng người cậu, Don Vito, người gọi nó là"Tháp nghiêng Pizza"và nói có một tiệm bánh pizza ở đáy tháp. Sau đó ông nói với một giọng rất kích động rằng cả thị trấn đều được đặt theo tên pizza. |
(sinh ngày 14 tháng 2 năm 1867 - mất ngày 30 tháng 10 năm 1930) là một nhà phát minh và nhà tư bản công nghiệp người Nhật. Là con trai của một thợ mộc nghèo, Toyoda được gọi là "Vua của các nhà phát minh Nhật Bản".
Cuộc đời
Toyoda Sakichi thường được nhắc đến như là cha đẻ của cuộc cách mạng công nghiệp của Nhật Bản. Ông cũng là người sáng lập của Tập đoàn Công nghiệp Toyota.
Ông sinh tại một làng quê nhỏ tại tỉnh Shizuoka trong một gia đình thợ thủ công nghèo. Bố ông làm thợ mộc, còn mẹ ông ở nhà dệt vải. Làng quê của Toyoda Sakichi là một làng nghề dệt vải có truyền thống của Nhật Bản. Đến cổng làng là có thể nghe rõ tiếng máy dệt chạy khắp làng. Cha của Toyoda Sakichi là một người thợ mộc khéo tay và khá nổi tiếng trong làng.
Ông đã phát minh ra nhiều thiết bị trong ngành dệt. Phát minh nổi tiếng nhất của ông là khung cửi tự động chạy bằng điện (automatic power loom), trong đó ông thực hiện theo nguyên tắc Jidoka (tự động hóa tự trị - autonomous automation). Nguyên tắc Jidoka - Tự động hoá, mang ý nghĩa theo đó máy móc sẽ tự ngưng hoạt động nếu có vấn đề xảy ra, sau này trở thành một phần của hệ thống sản xuất Toyota Production System.
Toyoda đã phát triển nên khái niệm 5 Whys: Khi có vấn đề xảy ra, hãy hỏi "Tại sao" năm lần để cố gắng tìm ra nguồn gốc của vấn đề, sau đó đặt thứ gì đó vào vị trí để ngăn chặn các vấn đề xảy ra. Khái niệm này được sử dụng ngày nay như một phần của việc áp dụng các phương pháp sản xuất tinh gọn nhằm giải quyết vấn đề, nâng cao chất lượng và giảm chi phí.
Năm 1934 công ty Toyota đã công bố chiếc xe ôtô đầu tiên, mở đường cho kỷ nguyên huy hoàng của tập đoàn Toyota sau này.
Năm 2005, với doanh thu gần 180 tỉ USD, Toyota là tập đoàn duy nhất của Nhật Bản và cũng là duy nhất của châu Á nằm trong "Top ten" của những tập đoàn có quy mô lớn nhất. Hiệu quả kinh doanh của Toyota được thấy rõ nhất ở con số lợi nhuận khổng lồ lên tới 11 tỉ USD trong năm 2005.
Cây phả hệ
Các con cháu của Toyoda Sakichi, người thành lập Toyoda Automatic Loom Works, từ lâu đã nắm giữ các vị trí quản trị cấp cao của Toyota Motors, được thành lập vào năm 1937. Toyoda Shoichiro được sinh ra tại Nagoya ngày 17 tháng 2 năm 1925, là con trai của Toyoda Kiichiro, người sẽ trở thành chủ tịch của Toyota từ năm 1941 đến năm 1950; và theo đúng trình tự, Toyoda Shoichiro trở thành chủ tịch của công ty từ năm 1982 đến năm 1992. Người con trai 52 tuổi của Shoichiro, Toyoda Akio, là ứng cử viên trưởng cho chiếc ghế chủ tịch khi Watanabe Katsuaki từ nhiệm vị trí này để trở thành Chủ tịch hội đồng quản trị; và kỳ vọng này đã được khẳng định vào năm 2009. |
Viện Ứng dụng Công nghệ là một viện nghiên cứu ứng dụng trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, được thành lập năm 1984.
Viện Ứng dụng Công nghệ, thành lập theo Nghị định 135/HĐBT ngày 16 tháng 10 năm 1984 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) với tên ban đầu là "Viện Nghiên cứu Công nghệ Quốc gia".
Viện đã trải qua 2 giai đoạn phát triển, từ 1984 đến 1994 trực thuộc Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng; từ 1994 đến 2004 trực thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường nay là Bộ Khoa học và Công nghệ. Viện có nhiệm vụ nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ mới, cao (công nghệ laser, hồng ngoại, điện tử - tin học, vật liệu, sinh học và môi trường) bằng cách tiếp thu các công nghệ hiện đại, cải tiến và làm chủ các công nghệ, tiến tới sáng tạo công nghệ, tổ chức chuyển giao công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đảm bảo an ninh quốc phòng. Viện có 10 đơn vị trực thuộc gồm Văn phòng Viện, Ban Phát triển thị trường và Cơ sở hạ tầng; Ban Kế hoạch – Tài chính, Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh và 06 trung tâm R&D.
Viện có một đội ngũ gần 300 cán bộ, công nhân viên, trong đó có 19 Tiến sĩ và Tiến sĩ khoa học, được đào tạo cơ bản có trình độ chuyên môn giỏi và phù hợp, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của mình để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu - triển khai và dịch vụ khoa học công nghệ một cách có hiệu quả.
Các công trình nghiên cứu ứng dụng Laser có công suất lớn ở Việt Nam, phần mềm biên dịch tự động Anh - Việt, thiết kế mạch vi điện tử chuyên dụng, thiết bị tán sỏi thận ngoài cơ thể, máy đo ảnh nhiệt, áo giáp chống đạn, chế phẩm từ nguồn vi tảo... đã tạo ra cho Viện nét đặc thù riêng trong nghiên cứu.
Viện đã duy trì và phát triển hợp tác với các nước có quan hệ truyền thống như Nga, Trung Quốc, Đức, Hàn Quốc, Đài Loan... mở rộng mối quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới, các nước phát triển như Pháp, Mỹ, Nhật Bản,... và các nước trong khu vực... Bước vào giai đoạn phát triển mới, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực về khoa học và công nghệ cùng với nhiều cơ hội và thách thức, Viện cố gắng vươn tới trở thành một Viện triển khai mạnh trong các lĩnh vực công nghệ cao đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước và xã hội với tư tưởng chỉ đạo là hiệu quả, gắn nghiên cứu với thực tiễn sản xuất và cuộc sống.
Chức năng, nhiệm vụ
Viện Ứng dụng Công nghệ có tư cách pháp nhân, được sử dụng con dấu riêng và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng. Viện có các nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau đây:
Nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ mới thuộc các lĩnh vực Laser, Hồng ngoại, Vi điện tử, Tin học, Vật liệu mới, Quang điện tử, Sinh học. vào sản xuất và đời sống.
Tham gia các hoạt động online casino thẩm định, tư vấn kỹ thuật, đánh giá công nghệ.
Tham gia nghiên cứu xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển ứng dụng công nghệ cao, công nghệ mới vào sản xuất và đời sống.
Tham gia nghiên cứu xây dựng các quy định về đánh giá, nghiệm thu, ứng dụng và công bố kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thuộc các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới có liên quan đến nhiệm vụ của Viện và của Bộ theo quy định của pháp luật.
Phối hợp thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ thuộc các hướng công tác của Viện theo phân công của Bộ và quy định của Nhà nước.
Tham gia hoạt động tư vấn lập quy hoạch phát triển một số công nghệ cao.
Quản lý tổ chức và cán bộ, tài chính, tài sản và các hoạt động khác của Viện theo phân cấp của Bộ và theo quy định của Nhà nước.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng giao.
Tổ chức của Viện
Văn phòng Viện
Trung tâm Công nghệ Laser NACENLAS
Trung tâm Công nghệ Vi điện tử và Tin học IMET
Trung tâm Công nghệ Quang điện tử CFOC
Trung tâm Sinh học thực nghiệm
Trung tâm Công nghệ Vật liệu
Trung tâm Ươm tạo Công nghệ và Doanh nghiệp KHCN (thành lập năm 2014) NTBIC
Ban Phát triển thị trường và Cơ sở hạ tầng
Ban Kế hoạch Tài chính
Chi nhánh Viện tại Tp Hồ Chí Minh
Nghiên cứu và phát triển công nghệ
Viện trưởng
GS TSKH Vũ Đình Cự, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghệ Quốc gia (từ 1985), nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội
TS Trần Đình Anh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ứng dụng Công nghệ (từ 1994)
TSKH Phan Xuân Dũng, Viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ (từ 2001), Bí thư Đảng ủy Viện, Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 10, Đại biểu Quốc hội khóa 12, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11.
TS Trần Xuân Hồng, Viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ (từ 2008), Bí thư Đảng ủy Viện
GS TS Lê Hùng Lân, Viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ (từ 2015)
PGS TS Nguyễn Phú Hùng, Viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ (từ 2020) |
Quảng Đức là một tỉnh cũ thời Việt Nam Cộng hòa nằm trên cao nguyên Mơ Nông thuộc Tây Nguyên (miền Trung Việt Nam).
Địa lý
Tỉnh Quảng Đức nằm ở phía tây nam vùng Tây Nguyên, có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Đắk Lắk
Phía đông giáp tỉnh Tuyên Đức
Phía nam giáp tỉnh Lâm Đồng và Phước Long
Phía tây giáp Campuchia.
Tỉnh lỵ là thị xã Gia Nghĩa. Tỉnh Quảng Đức với diện tích 5.958 km².
Tính đến năm 1971, dân số tỉnh Quảng Đức là 38.305 người, đa số là người Thượng: bao gồm Ê-đê, Xtiêng, Cơ ho và M'Nông.
Vị dân biểu đại diện cho Tỉnh Quảng Đức của Hạ Nghị Viện chế độ Việt Nam Cộng Hòa nhiệm kỳ cuối cùng trước 30-04-1975 là ông Vương Sơn Thông.
Lịch sử
Tỉnh Quảng Đức được thành lập theo Sắc lệnh số 24-NV ngày 23 tháng 1 năm 1959 của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, trên cơ sở tách gần như toàn bộ quận Đăk Song (trừ tổng Đăk Lao ở phía bắc) và một phần quận Lăk từ tỉnh Darlac (Đắk Lắk), cùng với một phần nhỏ tỉnh Phước Long và tỉnh Lâm Đồng.
Năm 1962, lại tách thêm một phần tỉnh Đắk Lắk nhập vào tỉnh Quảng Đức.
Theo quan điểm của các sắc tộc người Thượng thì việc chính phủ thành lập tỉnh Quảng Đức năm 1959 có dụng ý tạo điều kiện đưa người Kinh, nhất là người Bắc di cư lên định cư miền núi.
Tỉnh Quảng Đức có 3 quận, 4 tổng, 14 xã (năm 1960):
Quận Đức Lập có 6 xã với 1 tổng:
Tổng Đức Minh: 2 xã và 4 xã lẻ
Quận lỵ: Đức Minh (Đắk Mil) sau đổi là Tư Minh
Quận Kiến Đức có 4 xã với 2 tổng:
Tổng Kiến Minh: 2 xã
Tổng Kiến Đạo: 2 xã
Quận lỵ: Sùng Đức (B'Pré)
Quận Khiêm Đức có 4 xã với 1 tổng:
Tổng Sơn Khê: 2 xã và 2 xã lẻ.
Quận lỵ: Tamoung.
Sau lập thêm cơ sở phái viên hành chính Đức Xuyên (3 xã).
Tháng 2 năm 1976, tỉnh Quảng Đức lại nhập vào tỉnh Đắk Lắk.
Năm 2003, tỉnh Đắk Lắk lại được chia thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Địa bàn tỉnh Quảng Đức cũ gần như là địa bàn tỉnh Đắk Nông ngày nay; ngoại trừ huyện Cư Jút vốn trước năm 1975 thuộc quận Ban Mê Thuột của tỉnh Darlac. |
Phạm Gia Khiêm (sinh ngày 6 tháng 8 năm 1944) là một chính khách người Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 6 tháng 8 năm 1944 tại tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, nguyên quán của ông là ở phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Thưở nhỏ, ông theo học tại trường Tiểu học rồi Trung học cơ sở Trưng Vương, Hà Nội.
Từ năm 1963, ông theo học tại trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Năm 1967, ông tốt nghiệp và được phân công làm giảng viên Đại học Cơ điện Việt Bắc, Khoa Cơ điện Công trình (nay là trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên).
Năm 1971, ông được cử làm nghiên cứu sinh chuyên ngành luyện kim tại Tiệp Khắc. Năm 1975, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ ngành này.
Sự nghiệp chính trị
Từ năm 1976 đến tháng 10 năm 1996, ông chuyển công tác về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lần lượt giữ các chức vụ Trưởng phòng Công nghiệp, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục và Môi trường, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 11 tháng 9 năm 1978, chính thức ngày 11 tháng 9 năm 1979.
Tháng 7 năm 1996, ông trúng cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, ông được Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng, giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Tuy nhiên, chưa đến 1 năm sau, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa X và được Quốc hội miễn nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, phê chuẩn giữ chức vụ Phó Thủ tướng.
Năm 2001, ông tái đắc cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX. Năm sau, ông tái đắc cử Đại biểu Quốc hội khóa XI. Tháng 4 năm 2006, ông lần thứ 3 trúng cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, được bầu vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 28 tháng 6 năm 2006, ông được Quốc hội phê chuẩn kiêm nhiệm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao sau khi người tiền nhiệm là Nguyễn Dy Niên quyết định hưu trí. Năm 2007, một lần nữa ông tái đắc cử Đại biểu Quốc hội khóa XII.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI tháng 1 năm 2011, mặc dù được đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI nhưng ông không trúng cử, và đương nhiên, bị loại tên ra khỏi Bộ Chính trị.
Gia đình
Anh cả là Trung tướng, GS.TS Nhà giáo Nhân dân Phạm Gia Khánh, nguyên Giám đốc Học viện Quân y Việt Nam.
Em gái là Phạm Thúy Hằng nguyên Cục phó trong Quân đội với hàm Đại tá.
Huân chương
Huân chương Mặt trời mọc hạng Nhất
Huy chương vì sự tiến bộ phụ nữ, thanh niên, công đoàn, kế hoạch |
Từ điển bách khoa Việt Nam là một bộ từ điển bách khoa do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa xuất bản rải rác từ năm 1995 đến năm 2005. Bộ từ điển gồm 4 tập và mỗi tập dày trên dưới 1.000 trang, khổ 19×27, gồm khoảng 40 ngàn mục từ thuộc 40 ngành khoa học khác nhau. Tập 1 được in lần đầu tiên năm 1995 và tái bản năm 2005, tập 2 năm 2002, tập 3 năm 2003, tập 4 năm 2005, và được tái bản toàn bộ năm 2011. Đây là bộ từ điển bách khoa của Việt Nam đầu tiên được biên soạn với sự tổ chức và chỉ đạo của Nhà nước Việt Nam, với kinh phí 32 tỷ đồng và 1.200 nhà khoa học hàng đầu biên soạn trong 6 năm.
Lịch sử
Từ năm 1978, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chủ trương giao cho Ban Tuyên huấn Trung ương và Bộ Văn hóa – Thông tin chỉ đạo việc nghiên cứu, chuẩn bị biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam. Sau đó, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 20/4/1981 về "Xúc tiến việc biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam".
Trên cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1981, Ban Từ điển bách khoa được thành lập trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Ngày 10 tháng 10 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) ban hành Nghị định số 167/HĐBT thành lập Viện Từ điển bách khoa trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam.
Năm 1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng ký Quyết định số 163a/CT ngày 15 tháng 5 năm 1987 "Quyết định thành lập Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam".
Ngày 28 tháng 12 năm 1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ) ra Quyết định số 321-CT giải thể Viện Từ điển bách khoa, thành lập Trung tâm Quốc gia biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam. Ngày 24 tháng 12 năm 1997, Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam cho ý kiến đồng ý chuyển Trung tâm Quốc gia biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam thành Nhà xuất bản Từ điển bách khoa.
Ngày 30 tháng 6 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 112/1998/QĐ-TTG "Thành lập Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện kế hoạch, nội dung biên soạn và xuất bản các loại bách khoa thư và từ điển bách khoa, thay cho Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam thành lập theo Quyết định số 163a/CT ngày 15 tháng 5 năm 1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng" do giáo sư Hà Học Trạc làm Chủ tịch Hội đồng.
Ngày 30 tháng 6 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 112/1998/QĐ-TTg xác định cơ quan chủ quản của Nhà xuất bản là Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam. Ngày 8/12/1998 Nhà xuất bản Từ điển bách khoa được thành lập.
"Tập 1 của Bộ Từ điển đã được in thử (tháng 12 năm 1994), gửi đi trưng cầu ý kiến trước khi in chính thức và đã nhận được 160 bản nhận xét của các uỷ viên Bộ chính trị, các bộ trưởng, các chuyên gia khoa học đầu ngành". Sau 6 năm biên soạn, bộ Từ điển bách khoa Việt Nam được hoàn thành vào ngày 12 tháng 9 năm 1995 và được Trung tâm Biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam in và nộp lưu chiểu tại Công ty In Tiến Bộ tháng 12 năm 1995.
Kế hoạch biên soạn một bộ Bách khoa toàn thư Việt Nam đầu tiên cũng được dự định tiến hành. Dự kiến bộ sách này gồm 23 quyển và một quyển sách dẫn với số lượng trên dưới 30.000 mục từ và chi phí dự kiến cho toàn bộ công trình khoảng 50 tỷ đồng, thực hiện trong vòng 6-7 năm.
Tiếp đó, Từ điển Bách khoa tiếp tục được hoàn thiện và tái bản năm 2005. Cuối tháng 9 năm 2006, Từ điển bách khoa Việt Nam bị tố cáo là có tham nhũng và tiêu cực. Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm yêu cầu Bộ công an điều tra về việc tham ô, làm thất thoát hơn 1,5 tỷ đồng và mất trộm 50 triệu đồng tiền công quỹ tại hội đồng chỉ đạo biên soạn. Một kết quả điều tra vào cuối tháng 11 năm 2006, cho thấy chủ tịch hội đồng đã cố ý làm trái quy định của nhà nước và hội đồng biên soạn đã tham ô hơn 471 triệu đồng.
Ngày 27 tháng 7 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 921/QĐ về việc kết thúc hoạt động của Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam và chuyển Nhà xuất bản Từ điển bách khoa về Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
Ngày 4 tháng 8 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1055/QĐ-TTg quy định Nhà xuất bản Từ điển bách khoa là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Ngày 17 tháng 9 năm 2008, Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam có Quyết định số 1038/QĐ-KHXH thành lập Nhà xuất bản Từ điển bách khoa thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Quyết định số 1040/QĐ-KHXH quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Nhà xuất bản. Ngày 20 tháng 10 năm 2008, Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam ký Quyết định số 1173/QĐ-KHXH ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Nhà xuất bản.
Nét chính của từ điển
Từ điển có mục đích cung cấp những kiến thức cơ bản nhất về đất nước, con người, lịch sử xã hội, văn hóa, khoa học, công nghệ Việt Nam xưa và nay và những tri thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật của thế giới.
Từ điển do 1.200 nhà khoa học hàng đầu biên soạn trong 15 năm, với sự tổ chức và chỉ đạo của Nhà nước Việt Nam, với kinh phí 32 tỷ đồng.
Bộ sách được xuất bản lần đầu tiên năm 2005 và tái bản năm 2011, gồm bốn tập và mỗi tập dày trên dưới 1.000 trang, khổ 19×27, gồm khoảng 40 ngàn mục từ thuộc 40 ngành khoa học khác nhau.
Các hạn chế
Theo ý kiến một số độc giả, nhiều mục từ còn sơ lược, sắp xếp thiếu hệ thống, thiếu nhiều mục từ quan trọng, thông tin bị hạn chế, nhiều từ giải thích sai về sự kiện hoặc nội dung, những mục từ về danh nhân viết khá tuỳ tiện, phiên âm tiếng nước ngoài không thống nhất... nên chưa thỏa mãn người tra cứu. Nội dung trên web không được cập nhật thường xuyên, ít có hình minh họa.
Giáo sư Hà Học Trạc, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam cho rằng "những sai sót ấy là nhỏ và khó tránh khỏi do khối lượng công việc quá lớn". Giáo sư Hà Học Trạc giải thích việc từ điển có lỗi vì không đủ nhân lực và thời gian để viết từ điển nên quy trình biên soạn không được tuân thủ nghiêm túc. Các cuộc họp thường xuyên để thảo luận các mục từ không có nội dung gì đặc biệt, lần họp nào cũng khuyết vài thành viên, vì thế quy trình giơ tay biểu quyết từng mục từ được rút ngắn lại.
Tuy nhiên, Giáo sư Phạm Như Cương, Ủy viên Thường trực Hội đồng biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam phản đối ý kiến của Hà Học Trạc: "Chúng tôi luôn sẵn sàng tham gia mỗi khi triệu tập cuộc họp. Các ủy viên Ban Thường trực, ủy viên Hội đồng Quốc gia, và trưởng, phó các ban biên soạn chuyên ngành yêu cầu họp. Còn Giáo sư Trạc lại nhất nhất bác bỏ, đặc biệt là hai năm trở lại đây". Quan điểm của ông Trần Thọ Kim, nguyên Phó Ban Biên tập sách, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia là: "Giáo sư Hà Học Trạc có tổ chức họp đâu mà các ủy viên Hội đồng Quốc gia đến họp". Ông Kim cho rằng nguyên nhân khiến chất lượng Từ điển bách khoa Việt Nam không tốt là do "Việc biên soạn chẳng có ai đôn đốc, mạnh ai nấy làm, làm xong gần như chẳng có người đọc lại".
Chú thích |
Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945 là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941 khi Quân đội Đức Quốc xã (Wehrmacht) theo lệnh Adolf Hitler xoá bỏ hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Liên Xô- Đức và bất ngờ tấn công Liên bang Xô Viết tới ngày 9 tháng 5 năm 1945 khi đại diện Đức Quốc xã ký kết biên bản đầu hàng không điều kiện Quân đội Xô Viết và các lực lượng của Liên minh chống Phát xít sau khi Quân đội Xô Viết đánh chiếm thủ đô Đức Berlin. Nó đã được biết đến bởi rất nhiều cái tên khác nhau tùy thuộc vào các quốc gia, phía Liên Xô gọi nó là Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại () lấy theo tên trong lời hiệu triệu của Stalin trên radio gửi đến nhân dân Xô Viết vào ngày 3 tháng 7 năm 1941, hoặc cuộc Chiến tranh thần thánh (); trong khi người Đức (và các nước phương Tây) thường gọi nó đơn giản là Mặt trận phía đông (), Chiến dịch phía đông () hoặc Chiến dịch nước Nga () vì thực chất đây là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc chiến ở mặt trận phía đông châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Tuy có tên là Chiến tranh Xô–Đức nhưng thực ra Đức không tấn công Liên Xô một mình mà còn có sự giúp sức của 8 nước đồng minh phe Trục ở châu Âu là Romania, Hungary, Bulgaria, Phát xít Ý, Slovakia, Croatia, Phần Lan, Vichy Pháp. Về phía Liên Xô, trên đà chiến thắng kể từ năm 1943, họ đã cho thành lập quân đội các nước Ba Lan, Tiệp Khắc bên phía mình để chiến đấu trên lãnh thổ các quốc gia này và làm nòng cốt xây dựng quân đội các quốc gia này sau chiến thắng. Vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945, khi quân đội Xô Viết tiến vào Romania, Hungary, các nước này đã quay sang chống lại Đức Quốc xã và gia nhập Liên minh chống Phát xít. Cuộc chiến tranh tiếp diễn giữa Liên Xô và Phần Lan có thể coi là sườn phía bắc của mặt trận này. Ngoài ra, các hoạt động phối hợp của Đức-Phần Lan qua biên giới phía bắc Phần Lan-Liên Xô và tại khu vực Murmansk cũng được coi là một phần của Chiến tranh Xô–Đức.
Mặt trận này đã được đặc trưng bởi quy mô và sự ác liệt chưa từng thấy, sự hủy diệt quy mô lớn, và những tổn thất nhân mạng to lớn do chiến tranh, nạn đói, bệnh tật và cả những cuộc thảm sát. Đây cũng là nơi tập trung phần lớn các trại tập trung, các cuộc hành quân chết, các khu Do Thái, và những cuộc tàn sát, là trung tâm của cuộc Đại đồ sát người Do Thái. Trong tổng số người chết ước tính khoảng 70 triệu của Chiến tranh thế giới thứ hai thì trên 30 triệu người đã chết tại mặt trận này, trong đó có nhiều dân thường. Cuộc chiến này có ý nghĩa quyết định đối với kết quả của Chiến tranh thế giới thứ hai và là nguyên nhân chính cho sự thất bại của Đức và việc tiêu diệt nước Đức quốc xã. Sau chiến tranh, Liên bang Xô viết trỗi dậy trở thành một siêu cường quân sự và công nghiệp, các Đảng Cộng sản thiết lập chính phủ trên phần lớn các nước Đông Âu, còn nước Đức bị khối Đồng Minh phân đôi thành Cộng hoà Dân chủ Đức và Cộng hoà Liên bang Đức.
Hai cường quốc tham chiến chủ yếu là phát xít Đức và Liên Xô. Mặc dù không tham chiến tại đây, nhưng Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã viện trợ về tài chính và vật chất hỗ trợ cho Liên Xô trong các giai đoạn sau của cuộc chiến (khoảng 4% lượng vũ khí mà Liên Xô sử dụng là do Mỹ - Anh viện trợ). Trong khi đó, phía Đức Quốc xã thì nhận được sự hỗ trợ từ 9 nước đồng minh (phát xít Ý, Romania, Bulgaria, Hungary, Phần Lan, Slovakia, Croatia, Vichy Pháp và Tây Ban Nha), 9 nước này đã cung cấp cho Đức khoảng 20% quân số, 1/3 số lao động và hơn một nửa lượng nguyên vật liệu để sản xuất vũ khí. Đức Quốc xã đã huy động nguồn nhân lực, toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ nền công nghiệp quân sự của toàn Tây Âu và Trung Âu vào cuộc chiến chống Liên Xô, ngoài ra Đức còn tuyển mộ hàng trăm ngàn lính đánh thuê từ các nước vùng Baltic, Nam Tư, Đan Mạch, người Cozak. Trên thực tế, quân đội Liên Xô phải cùng lúc đương đầu với quân đội của 9 nước châu Âu chứ không chỉ riêng Đức Quốc xã. Nếu không có sự trợ giúp của 9 nước này, Đức Quốc xã sẽ không thể có đủ nhân lực và tài nguyên để tiến hành chiến tranh tổng lực lâu dài với Liên Xô (ví dụ, sau khi Romania bị Liên Xô đánh bại vào tháng 8/1944 thì Đức cũng bị mất một nửa nguồn cung dầu mỏ, điều này khiến sản lượng vũ khí của Đức sụt giảm nhanh chóng kể từ cuối năm 1944 và quân đội Đức cũng thua chung cuộc chỉ nửa năm sau đó).
Tư tưởng
Tư tưởng của Đức
Adolf Hitler đã lập luận trong cuốn tự truyện Mein Kampf cho sự cần thiết của "không gian sinh tồn", theo đó Đức cần phải đánh chiếm các nước ở Đông Âu để mở rộng lãnh thổ cho "chủng tộc Arian thượng đẳng", tức là người Đức. Ông dự kiến giải quyết việc đó như là một cuộc chạy đua tổng thể, bằng cách tiêu diệt hoặc trục xuất hầu hết các cư dân Liên Xô tới Siberia và sử dụng phần còn lại như là lao động nô lệ. Đối với một số nhà lãnh đạo Đức Quốc xã khác (như Himmler) thì cuộc chiến với Liên Xô là một cuộc đấu tranh của xã hội quốc gia chống chủ nghĩa cộng sản và của chủng tộc Aryan chống lại tộc Slav hạ đẳng.
Hitler gọi nó trong một điều kiện duy nhất, gọi đó là một "cuộc chiến tranh hủy diệt". Trong Kế hoạch tổng thể phương Đông (Generalplan Ost) được Hitler phê duyệt ngày 25 tháng 5 năm 1940, dân số của Đông Âu và Liên Xô bị chiếm đóng sẽ một phần bị trục xuất sang Tây Siberia, một phần làm nô lệ và cuối cùng là bị tiêu diệt; vùng lãnh thổ chinh phục được sẽ là thuộc địa của Đức hoặc khu định cư của người Đức. Ngoài ra, Đức quốc xã cũng tìm cách để quét sạch lượng lớn dân số người Do Thái của Đông Âu như là một phần của chương trình phát xít nhằm tiêu diệt tất cả người Do Thái ở châu Âu.
Sau thành công ban đầu của Đức ở trận Kiev, Adolf Hitler đã nhìn thấy Liên Xô có nền quân sự yếu kém và chín muồi cho cuộc chinh phục ngay lập tức. Ngày 3 tháng 10 năm 1941, ông tuyên bố: "Chúng ta chỉ cần đá vào cửa và toàn bộ cái cấu trúc mục nát đó sẽ sụp đổ".<ref>Powell, Elwin Humphreys. The Design Of Discord' p. 192</ref> Như vậy, Đức đã mong đợi một cuộc tấn công kiểu Blitzkrieg sẽ sớm kết liễu Liên Xô và đã không chuẩn bị nghiêm túc cho cuộc chiến tranh kéo dài. Tuy nhiên, sau chiến thắng quyết định của Liên Xô tại trận Moscow, trận Stalingrad và kết quả tình hình quân sự thảm khốc của Đức, Hitler và bộ máy tuyên truyền của Đức Quốc xã đã tuyên bố cuộc chiến tranh là cuộc phòng thủ nước Đức thuộc văn minh phương Tây chống lại "sự phá hoại của đám người Bolshevik" đông đảo đang tiến vào châu Âu.
Ý thức hệ Xô Viết
Nhà nước Xô viết, đứng đầu là Iosif Stalin, lập kế hoạch mở rộng hệ tư tưởng của họ (chủ nghĩa Mác-Lênin) và thúc đẩy sự tiến bộ của cách mạng Cộng sản trên thế giới. Trong thực tế, Stalin không tôn trọng toàn bộ giáo lý chủ nghĩa xã hội của Lenin khi ông xóa bỏ chính sách kinh tế mới của Lenin, đưa nền kinh tế chuyển sang chính sách kế hoạch hóa tập trung và sử dụng nó để biện minh cho sự lớn mạnh về công nghiệp của Liên Xô trong thập niên 1930. Phát xít Đức thì định vị mình như là một hệ thống chống Cộng sản thống nhất, và chính thức hóa vị trí này bằng cách ký vào Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản với Đế quốc Nhật Bản và Italy Robert Melvin Spector. World Without Civilization: Mass Murder and the Holocaust, History, and Analysis, pg. 257 là một tư tưởng tương phản tuyệt đối trực tiếp với học thuyết Xô Viết. Những căng thẳng về ý thức hệ này đã chuyển đổi thành cuộc chiến ủy quyền giữa Đức Quốc xã và Liên Xô , khi vào năm 1936, Đức và Phát xít Ý can thiệp vào cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, hỗ trợ phe Quốc gia Tây Ban Nha của Franco, trong khi Liên Xô hỗ trợ những người cộng sản và xã hội chủ nghĩa, được dẫn đầu bởi Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha .
Việc Anh - Pháp làm ngơ cho Đức sáp nhập Áo và thôn tính Tiệp Khắc đã chứng minh không thể nào để thiết lập hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu theo chủ trương của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô Maxim Litvinov Teddy J. Uldricks. Stalin and Nazi Germany, Slavic Review, Vol. 36, No. 4 (Dec., 1977), pp. 599-603. Điều này, cũng như sự thất bại của Xô viết trong việc thuyết phục Anh - Pháp ký một liên minh chính trị và quân sự chống Đức đã dẫn đến ký kết Hiệp ước Xô-Đức vào cuối tháng 8, năm 1939 . Hiệp ước này dẫn đến một sự biến đổi mạnh mẽ về tuyên truyền của Liên Xô. Đức Quốc xã không được mô tả như là kẻ thù không đội trời chung nữa, và các phương tiện truyền thông của Liên bang Xô viết đổ lỗi cho Ba Lan, Anh và Pháp cho sự bắt đầu của cuộc chiến. Tuy nhiên đó là về mặt tuyên truyền công chúng, còn trong giới lãnh đạo Liên Xô, họ biết rằng chiến tranh với Đức sẽ sớm xảy ra và cần phải nhanh chóng tăng cường vũ trang cho Liên Xô. Sau khi Đức tấn công thì chính phủ Xô viết đã chuyển hoàn toàn sang khuyến khích việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.
Hiệp ước Molotov – Ribbentrop
Năm 1938, trước nguy cơ Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Liên Xô đã đề nghị lập liên minh chống phát xít với Anh-Pháp và sẵn sàng chuyển 120 sư đoàn bộ binh (mỗi sư đoàn có 10.000 quân), 16 sư đoàn pháo binh, 5.000 pháo hạng nặng, 9.500 xe tăng và khoảng 5.500 máy bay đến biên giới Đức để kiềm chế Hitler; nhưng phái đoàn Anh và Pháp đã không đáp lại đề nghị này.
Ngược lại, Anh - Pháp lại nhận lời mời của Ngoại trưởng Đức Ribbentrop và tham gia ký Hiệp ước Munich trong ngày 29, 30 tháng 9 năm 1938 giữa tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý. Kết quả của hội nghị này là một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được ký giữa bốn nước này ngày 30 tháng 9, trong đó Anh-Pháp buộc Tiệp Khắc phải cắt cho Đức một phần lãnh thổ để thỏa mãn yêu cầu của Đức mà không hề đếm xỉa đến Hiệp ước tương trợ mà chính Anh-Pháp đã ký với chính phủ Tiệp Khắc. Ngày 6 tháng 12 năm 1938, Pháp tuyên bố từ bỏ Hiệp ước tương trợ Pháp-Liên Xô để ký với Đức bản tuyên bố thừa nhận hiệu lực hoàn toàn của Hiệp định Munich 1938. Bằng Hiệp ước Munich, Anh và Pháp đã thừa nhận việc Đức Quốc xã thôn tính nước Áo là việc đã rồi, cho phép Hitler đánh chiếm xứ Bohemia và Moravia, chia cắt Tiệp Khắc; đặt Ba Lan và cả Liên Xô trước nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã
Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp nhằm tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ này hiệp định tương trợ mà Liên Xô muốn xây dựng với các nước Tây Âu để ngăn chặn Đức Quốc xã đã không thể được thực hiện.
Ngày 7 tháng 6 năm 1939, hiệp ước không xâm lược lẫn nhau cũng được Đức Quốc xã tiếp tục ký với ba nước Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania) và Đan Mạch, những nước có biên giới nằm khá gần Liên Xô. Điều này càng khiến Liên Xô trở nên lo ngại hơn.
Việc Anh, Pháp từ chối lập liên minh với Liên Xô và còn ký với Đức "Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau", đồng thời bỏ mặc đồng minh Tiệp Khắc cho Đức tiêu diệt, tất cả khiến Liên Xô thấy rằng phương Tây không hề thực tâm trong việc ngăn chặn Hitler, mà thực ra họ đang tìm cách lợi dụng cỗ máy chiến tranh Đức để tiêu diệt Liên Xô. Lập trường của các cường quốc phương Tây đưa Liên Xô đứng trước 2 sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập và phải một mình chống đỡ với các cuộc tấn công của phát xít Đức; hoặc phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược nhằm tranh thủ thời gian củng cố quân đội. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không thể tránh khỏi, và Liên Xô phải tìm cách hòa hoãn với Đức.
Trong vòng 1 năm, tới tháng 8 năm 1939, mối quan hệ Liên Xô – Đức đã có sự thay đổi lớn: từ quan hệ thù địch về tư tưởng và quyền lợi, hai nước liên tiếp ký kết các hiệp ước thương mại, hiệp ước hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau. Trong mối quan hệ an ninh quốc phòng hai nước ký hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau và biên bản bí mật phân chia khu vực ảnh hưởng giữa Đức và Liên Xô trên lãnh thổ các quốc gia khác. Xa hơn nữa, hai bên đang tiến hành tham khảo để Liên Xô gia nhập khối liên minh Đức – Ý – Nhật
Mối quan hệ hữu hảo toàn diện Liên Xô – Đức không phải là mối quan hệ của các quốc gia đồng minh có chung quyền lợi chiến lược lâu dài mà chỉ là sự lợi dụng lẫn nhau nhất thời giữa các kẻ thù. Đức muốn rảnh tay ở phía đông để dồn quân tấn công Pháp-Anh, tránh phải chiến đấu trên hai mặt trận. Còn Liên Xô muốn tranh thủ hòa hoãn để có thêm thời gian củng cố quân đội và công nghiệp quốc phòng.
Hiệp ước hòa bình giữa Đức – Liên Xô đảm bảo cho Đức không phải chiến đấu trên hai mặt trận trong chiến tranh thế giới mà Hitler đang trù tính và sẽ sắp xảy ra, đồng thời phía Đức sẽ có nguồn nhập khẩu các nguyên liệu chiến lược từ phía Liên Xô mà không sợ vòng vây trên biển của khối Anh – Pháp phong toả, ngoài ra hạm đội tàu ngầm Đức còn được phép đi ngang qua các căn cứ hải quân Xô viết gần Biển Bắc trong chiến tranh Đại Tây Dương phong toả nước Anh. Các cơ quan mật vụ an ninh của hai nước cũng hợp tác trong việc cung cấp thông tin, dẫn độ các những người Đức chống phát xít và các phần tử kháng chiến Ba Lan giao cho mật vụ Sicherheitsdienst (SD) của Đức: đến tháng 6 năm 1941 phía Liên Xô đã giao cho Đức khoảng 4.000 người trong đó có cả những đảng viên Đảng Cộng sản Đức cùng thân nhân của họ, về phía mình mật vụ SD cũng giao cho phía Liên Xô những người mà NKVD tìm kiếm...
Phía Liên Xô bằng cách ký kết hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau và biên bản bí mật đã không gặp trở ngại nào trong việc thu hồi các vùng lãnh thổ cũ của đế chế Nga đang bị Ba Lan chiếm đóng, các quốc gia Baltic, Phần Lan, Bessarabia. Nước này đồng thời muốn tránh mũi nhọn chiến tranh của Đức, hướng nó sang chống khối liên minh Anh – Pháp. Liên Xô cũng đặt hàng và được phía Đức cung cấp cả các hệ vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại để hiện đại hoá hải, lục, không quân của mình.
Theo đúng tinh thần của biên bản bí mật, ngay sau khi Đức tấn công Ba Lan gây chiến tranh thế giới (1 tháng 9 năm 1939), Quân đội Xô Viết tiến quân chiếm lại Tây Belarus, Tây Ukraina từ tay Ba Lan (vùng lãnh thổ mà Ba Lan đã chiếm của họ sau cuộc chiến năm 1921), đòi lại vùng Bessarabia (vùng lãnh thổ mà Romania chiếm của Nga từ năm 1922) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Moldavia (ngày nay là Moldova). Năm 1940, Liên Xô sát nhập ba quốc gia vùng Biển Baltic: Estonia, Latvia, Litva lập nên ba nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa vùng Baltic và gây chiến tranh chống Phần Lan để đòi lại dải đất Karelia (vùng lãnh thổ mà Phần Lan chiếm của Nga từ năm 1922) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Karelia... Bằng việc thu hồi các lãnh thổ của đế chế Nga cũ, Liên Xô đã đẩy biên giới của mình về phía tây được hàng trăm km, Hitler đã bị tước đi các bàn đạp chiến lược rất thuận lợi để tấn công Liên Xô
Thực chất của cuộc chơi chính trị – ngoại giao này được thể hiện rõ qua Adolf Hitler: Hitler không bao giờ từ bỏ lập trường nguyên tắc của mình và luôn coi việc "giải quyết vấn đề người Slav" là mục đích số một của đời mình (sách Mein Kampf). Khi ký kết hiệp ước với Stalin, Hitler đã đạt được hai mục đích: một mặt đã phân hoá được các địch thủ Anh, Pháp, Liên Xô để tránh được việc phải chiến đấu trên hai mặt trận và đã đảm bảo thắng lợi trên chiến trường Ba Lan và châu Âu trong hai năm 1939 và 1940. Mặt khác những hiệp định này đã giúp cho Stalin rằng sẽ tránh được nguy cơ chiến tranh nổ ra sớm với Đức, và sau này yếu tố bất ngờ đã có vai trò rất lớn trong giai đoạn đầu thắng lợi của quân đội Đức trong chiến tranh Xô – Đức. Tất cả những nhượng bộ và giúp đỡ của phía Đức cho Liên Xô theo tính toán của Hitler chỉ là tạm thời và sẽ bị vô hiệu hoá khi chiến tranh chống Liên Xô bắt đầu và các toan tính này của Hitler đã thành công.
Về phía Stalin và ban lãnh đạo Liên Xô, họ không bao giờ tin tưởng vào sự thành thật của Hitler nhưng đã bị đánh lạc hướng về thời điểm cuộc chiến sẽ nổ ra. Họ biết chiến tranh với Đức sẽ nổ ra nhưng cho rằng không thể sớm hơn năm 1942. Thủ tướng Anh Winston Churchill từng cảnh báo trước cho Stalin biết về việc Đức sẽ tấn công Liên Xô, Stalin chỉ nói ngắn gọn: "Tôi không cần lời cảnh báo nào cả. Tôi biết chiến tranh sẽ nổ ra, nhưng tôi tin sẽ có thể làm nó chậm lại nửa năm nữa" Tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 18/11/1940, Stalin đã nói: "Cần phải hiểu tính hai mặt và trò chơi chính trị của Hitler. Hitler là một kẻ tráo trở. Ông ta đã ký hiệp ước hòa bình với Ba Lan, Áo, Tiệp, Bỉ và Hà Lan nhưng đã ngay lập tức xé bỏ chúng. Chắc chắn chúng ta không thể coi hiệp ước này là cơ sở an ninh của chúng ta…".
Sau những yếu kém rất rõ rệt của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan và sự thể hiện sức mạnh ghê gớm của quân đội Đức trong các chiến thắng tại chiến trường châu Âu, Stalin không muốn Liên Xô phải đương đầu với cuộc tấn công của Đức khi chưa có đủ thời gian chuẩn bị. Stalin coi những thông tin tình báo về khả năng Đức tấn công chỉ là những đòn hỏa mù để khiêu khích Liên Xô gây chiến trước, ông tránh mọi hành động để có thể bị coi là khiêu khích Đức, không cho phép quân đội áp dụng các biện pháp dự phòng và sẵn sàng chiến đấu... Ban lãnh đạo Liên Xô cho rằng sau khi đánh bại nước Anh thì Đức mới có thể tấn công Liên Xô, đó là tính toán hợp lý nhất đối với Đức để tránh phải giao chiến trên cả hai mặt trận, nhưng tính cách bốc đồng, ưa phiêu lưu của Hitler đã làm đảo lộn tính toán này (Đức đã tấn công sang phía đông dù Anh chưa bị đánh bại). Sự thất bại và thiệt hại to lớn, nguy cơ thất bại của Liên Xô trong giai đoạn thất trận năm 1941 có nguyên nhân rất lớn từ việc Liên Xô đã bị bất ngờ, quân đội đã không chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu do không nhận được bất kỳ mệnh lệnh báo động chiến đấu nào.
Nhưng ở một khía cạnh khác, việc dự đoán thời điểm Đức tấn công là không dễ, nếu đổ lỗi cho Stalin và ban lãnh đạo của ông cũng là không công bằng. Trong cuộc đấu này, Đức là bên chủ động, còn Liên Xô là bên bị động. Trước chiến tranh, Đức liên tiếp tung ra những tin tình báo giả, vô số những thời hạn tấn công đã được "hoạch định" rồi cố tình để lộ ra, làm nhiễu loạn tình báo Liên Xô. Mặt khác, tình báo Anh cũng tung ra những tin tức tương tự nhằm mong Liên Xô sẽ khai chiến với Đức. Nếu Stalin tin theo những dự đoán đó mà manh động thì không chỉ lãng phí thời gian chuẩn bị chiến tranh và huấn luyện quân đội, mà còn có thể khiến chiến tranh nổ ra sớm hơn. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Nga hoàng ra lệnh tổng động viên, Đức đã ngay lập tức tuyên chiến với Nga, và Stalin không muốn điều đó lặp lại.
Quan trọng hơn, trong giai đoạn 2 năm hòa hoãn có được, Stalin và ban lãnh đạo Liên Xô cũng đã làm được nhiều việc, gây dựng nền móng to lớn cho quân đội Xô viết. Công nghiệp quốc phòng của Liên Xô có bước phát triển lớn. Kể từ 1-1-1939 tới 22-6-1941, Hồng quân đã được trang bị hơn 7.000 xe tăng và nếu chỉ tính riêng năm 1941 thì đã được cung cấp gần 5.500 xe, 29.637 pháo dã chiến, 52.407 súng cối. Cuối năm 1940, sản xuất máy bay Liên Xô đã tăng 70%.. Quân số Hồng quân tăng 2,3 lần; pháo và súng cối tăng 2,1 lần; máy bay chiến đấu tăng 2,4 lần. Nhờ những bước tiến to lớn này, Hồng quân đã trụ vững được trước đòn tấn công mạnh mẽ nhất của Đức, thay vì sụp đổ hoàn toàn như Ba Lan hay Pháp trước đó.
Diễn biến
Các giai đoạn chính
Trong khi các nhà sử học Đức không áp dụng bất kỳ sự chỉ định cụ thể cho các diễn biến tại Mặt trận phía đông, tất cả các sử gia Liên Xô (trước đây) và Nga (hiện tại) chia cuộc chiến tranh chống Đức của họ thành ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai (): Giai đoạn phòng ngự (từ ngày 22 tháng 6 năm 1941 đến ngày 18 tháng 11 năm 1942), bao gồm:
Chiến dịch Hè-Thu 1941 (): 22 tháng 6 - 4 tháng 12 năm 1941.
Chiến dịch Mùa đông 1941-1942 (): 5 tháng 12 năm 1941 - 30 tháng 4 năm 1942.
Chiến dịch Hè-Thu 1942 (): 1 tháng 5 - 18 tháng 11 năm 1942.
Giai đoạn hai của Chiến tranh thế giới thứ hai (): Giai đoạn hai bên cầm cự (từ ngày 19 tháng 11 năm 1942 đến ngày 31 tháng 12 năm 1943, bắt đầu từ cuộc phản công ở Stalingrad), bao gồm:
Chiến dịch Mùa đông 1942-1943 (): 19 tháng 11 năm 1942 - 3 tháng 3 năm 1943.
Chiến dịch Hè-Thu 1943 (): 1 tháng 7 - 31 tháng 12 năm 1943.
Giai đoạn ba của Chiến tranh thế giới thứ hai: (): Giai đoạn tấn công (từ ngày 1 tháng 1 năm 1944 đến ngày 9 tháng 5 năm 1945), bao gồm:
Chiến dịch Đông-Xuân 1944 (): 1 tháng 1 - 31 tháng 5 năm 1944.
Chiến dịch Hè-Thu 1944 (): 1 tháng 6 - 31 tháng 12 năm 1944.
Chiến dịch tại châu Âu năm 1945 (): 1 tháng 1 - 9 tháng 5 năm 1945.
Kế hoạch Barbarossa của Đức Quốc xã
Trong tháng 5 năm 1941 quân đội Đức đã triển khai xong đội hình tấn công với 2/3 trên tổng số 7,2 triệu quân nhân đang tại ngũ theo đúng kế hoạch Barbarossa do Adolf Hitler phê duyệt từ 18 tháng 12 năm 1940. Để thực hiện kế hoạch Barbarossa, nước Đức đã huy động 3/4 quân đội Đức cùng với quân đội nhiều nước đồng minh với Đức tại châu Âu, chỉ để lại 1/4 quân số và phương tiện tại Tây Âu và Bắc Phi
Tính đến ngày 21 tháng 6 năm 1941, Quân đội phát xít Đức và đồng minh phe Trục (gồm Phần Lan, Ý, Hungary, România, Croatia, Slovakia và quân Tây Ban Nha của Franco) bao gồm 190 sư đoàn trong đó có 152 sư đoàn Đức, 38 sư đoàn các nước đồng minh với tổng quân số 5,3 triệu người, tập trung dọc theo hơn 2.900 km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía bắc đến bờ biển Đen phía nam. Lực lượng Đức và đồng minh bố trí từ phía bắc xuống phía nam theo 4 cụm lực lượng như sau:
Cụm tập đoàn quân Phần Lan – Na Uy: bố trí tại Phần Lan bao gồm Tập đoàn quân Na Uy của Đức, phối thuộc thêm 7 quân đoàn của Phần Lan (sau lập thành Tập đoàn quân Karelia của Phần Lan). Tổng cộng cánh quân này có 21 sư đoàn và 3 lữ đoàn Đức và Phần Lan được yểm trợ bằng Không hạm đội số 5 của Đức (Luftflotte 5) và không quân Phần Lan. Đối đầu với cụm Phần Lan – Na Uy là Quân khu Leningrad của Liên Xô, sau đổi thành Phương diện quân Bắc (về sau tách thành Phương diện quân Karelia và Phương diện quân Leningrad). Nhiệm vụ của cụm quân Phần Lan – Na Uy này là phòng thủ Phần Lan và Na Uy, phối hợp cùng Cụm tập đoàn quân Bắc tấn công thành phố Leningrad từ hướng bắc, tấn công vào vùng cực chiếm Murmansk căn cứ chính của Hạm đội Biển Bắc của Liên Xô và sau đó chiếm thành phố lớn nhất vùng cực là Arkhangelsk.
Cụm tập đoàn quân Bắc: Tư lệnh là Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb bố trí tại Đông Phổ gồm 2 tập đoàn quân là tập đoàn quân số 16, số 18 và Binh đoàn thiết giáp số 4, tổng cộng 29 sư đoàn, với sự yểm trợ của Không hạm đội số 1 (Luftflotte 1), có nhiệm vụ tấn công chiếm các nước cộng hoà Xô Viết vùng Baltic, chiếm các cảng tại vùng biển Baltic tiêu diệt các căn cứ của hạm đội Baltic của Liên Xô, chiếm các thành phố Pskov, Novgorod và cuối cùng mục tiêu quan trọng nhất là chiếm Leningrad, Kronstadt. Sau khi chiếm xong Leningrad, sẽ hợp quân cùng quân Phần Lan đánh xuống phía nam phối hợp cùng Cụm tập đoàn quân Trung tâm chiếm thủ đô Moskva. Đối chọi với cụm quân Bắc là Quân khu đặc biệt Pribaltic của Liên Xô, sau đổi thành Phương diện quân Tây Bắc với lực lượng là 25 sư đoàn Xô viết trong đó có 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn bộ binh cơ giới dưới sự chỉ huy của tư lệnh Thượng tướng Fedor Isidorovich Kuznetsov.
Cụm tập đoàn quân Trung tâm: Là cụm quân mạnh nhất của Đức, tư lệnh là Thống chế Fedor von Bock: bố trí tại miền trung Ba Lan bao gồm các tập đoàn quân số 4, số 9, 2 binh đoàn thiết giáp số 2 và số 3, tổng cộng 50 sư đoàn (trong đó có 15 sư đoàn xe tăng) và 2 lữ đoàn với sự yểm trợ của Không hạm đội số 2 (Luftflotte 2). Cụm quân này có vai trò quan trọng nhất trong chiến tranh chớp nhoáng theo kế hoạch Barbarossa: đánh chia cắt bao vây khối quân Xô Viết tại Belarus, chiếm Belarus, phát triển tấn công theo hướng Moskva, chiếm thủ đô Xô Viết. Đối đầu với cụm này là Quân khu đặc biệt Miền Tây, sau đổi thành Phương diện quân Tây của Liên Xô, tư lệnh: đại tướng Dmitri Grigorievich Pavlov gồm 24 sư đoàn bộ binh, 12 sư đoàn xe tăng, 6 sư đoàn cơ giới và 2 sư đoàn kỵ binh.
Cụm tập đoàn quân Nam: tư lệnh Thống chế Gerd von Rundstedt bố trí tại nam Ba Lan và România phát triển tấn công theo hướng Kiev chiếm Ukraina tiêu diệt khối chủ lực Xô viết tại bờ phải sông Dnepr và phối hợp với quân Romania phát triển tấn công theo bờ Biển Đen chiếm thành phố cảng lớn Odessa, chiếm bán đảo Crimea và Sevastopol căn cứ chính của Hạm đội Biển Đen Xô Viết. Cụm Nam gồm 3 tập đoàn quân là tập đoàn quân số 6 (phối thuộc thêm 2 tập đoàn quân Romania số 3 và số 4), số 11 (phối thuộc thêm Quân đoàn viễn chinh Ý) và số 17 (phối thuộc thêm Binh đoàn viễn chinh Slovak, một phần Cụm quân Kárpát của Hungary), Binh đoàn thiết giáp số 1, tổng cộng 41 sư đoàn và 13 lữ đoàn (trong đó có 9 sư đoàn xe tăng)với sự yểm trợ của Không hạm đội số 4 của Đức (Luftflotte 4) và không quân Romania. Đối chọi với cụm quân Nam là Quân khu đặc biệt Kiev của Liên Xô, sau đổi thành Phương diện quân Tây Nam (tư lệnh thượng tướng Mikhail Petrovich Kirponos) với 32 sư đoàn bộ binh, 16 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn cơ giới, 2 sư đoàn kỵ binh, và Quân khu đặc biệt Odessa sau đổi thành Binh đoàn Duyên hải (tư lệnh Trung tướng Yakovlev Timofeevich cherevichenko) với 13 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới và 3 sư đoàn kỵ binh.
Nhiệm vụ đặt ra của quân Đức trong chiến tranh chớp nhoáng là trong năm 1941 bằng các đòn đánh mãnh liệt phải bao vây và tiêu diệt các khối quân chủ lực Xô Viết đang bố trí ở biên giới, không cho rút sâu vào nước Nga. Đến trước mùa đông năm 1941 quân đội Đức phải tiến đến được tuyến Arkhangensk – Volga – Astrakhan, và hoàn tất việc đánh bại Liên Xô sau 4 tháng.
Tổng cộng phía Đức và đồng minh có khoảng 5 triệu lính và sĩ quan, tính cả thê đội tấn công và dự bị có khoảng 190 sư đoàn, 5.000 xe tăng và pháo tự hành (trong đó có gần 3.000 chiếc xe hạng trung gồm 976 xe Panzer III, 439 xe Panzer T-IV, khoảng 400 xe StuG-3 và vài trăm xe tăng chiến lợi phẩm tịch thu của Ba Lan, Anh, Pháp, Tiệp Khắc...), 4.950 máy bay. Lực lượng này tập trung dọc theo hơn 2.900 km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía bắc đến bờ biển Đen phía nam.
Khối tấn công mạnh nhất của Đức là cụm tập đoàn quân "Trung tâm" là cụm gần Moskva nhất (lúc gần nhất chỉ còn cách Moscow khoảng 25– 30 km), điều này thể hiện quan điểm "đánh nhanh thắng nhanh" của phía Đức. Bằng việc đánh phủ đầu bất ngờ với binh lực vượt trội, Đức dự tính sẽ nhanh chóng đánh bại Liên Xô chỉ trong khoảng 3-4 tháng.
Binh lực của Liên Xô lúc khai chiến
Vào thời điểm này, Hồng quân có 230 sư đoàn, tổng cộng Hồng quân có 5.774.000 binh sĩ, 117.600 pháo và súng cối, 25.700 xe tăng, pháo tự hành và xe thiết giáp (95% là xe tăng, xe thiết giáp hạng nhẹ) và 18.700 máy bay các loại. Tuy nhiên, lực lượng này phải đóng quân rải khắp lãnh thổ bao la của Liên Xô, khoảng 2,5 triệu quân đóng ở những nơi rất xa xôi như Trung Á, Siberia, Viễn Đông, hải đảo... để canh gác biên giới và đề phòng Nhật Bản, không thể rút về để tham chiến. Do vậy, Liên Xô chỉ có khoảng một nửa quân đội đóng quân ở phía Tây để đối chọi với Đức. Khối các quân khu Xô Viết dọc biên giới phía tây có tất cả 170 sư đoàn (tại phần lãnh thổ châu Âu có 149 sư đoàn) và 2 lữ đoàn, với khoảng 3 triệu quân và 12.000 xe tăng, xe thiết giáp các loại.
Các sư đoàn bộ binh Liên Xô chưa được bổ sung đầy đủ về quân số và trang bị, công tác huấn luyện đang tiến hành dang dở. Các đơn vị thiết giáp có số lượng xe rất lớn (gấp 2,5 lần Đức), nhưng phần lớn đang trong giai đoạn xây dựng nên rất thiếu phụ tùng, đạn dược và tổ lái. Một tỷ lệ lớn lính tăng mới chỉ được huấn luyện chút ít, trình độ không thể sánh được với lính tăng Đức có dày dạn kinh nghiệm chiến đấu. Về chất lượng, chỉ có 1.861 xe tăng hạng nặng và hạng trung (trong đó có 967 xe tăng kiểu mới T-34 và 508 chiếc KV) là có thể đối chọi với các xe tăng hạng trung của Đức, số còn lại đều là xe tăng hạng nhẹ kiểu cũ có giáp mỏng và hỏa lực yếu như T-26, BT-2, BT-7... Các đơn vị xe tăng Liên Xô cũng bị thiếu phụ tùng sửa chữa, khiến cho hàng ngàn chiếc xe tăng đã không thể tác chiến khi chiến sự nổ ra (ví dụ như sư đoàn xe tăng hạng nặng số 10 bị mất 56 chiếc xe tăng KV thì có tới 34 chiếc bị mất không phải do quân Đức mà do trục trặc kỹ thuật).
Lực lượng pháo binh của các quân khu phía tây có 34.695 pháo và súng cối (không kể cối 50 mm), nhưng rất thiếu xe kéo pháo và xe chở đạn. Lực lượng không quân của các quân khu phía tây lúc này chỉ có 1.540 máy bay kiểu mới, còn lại đa số máy bay là những loại kiểu cũ chỉ còn lại số giờ bay rất ít. Kế hoạch xây dựng lại lực lượng không quân: trang bị máy bay mới, hoàn thiện mạng sân bay, cải tiến hệ thống hậu cần, đào tạo phi công,... vẫn đang trong quá trình tiến hành.
Bộ phận mạnh nhất của lực lượng Xô Viết ở khu vực biên giới phía tây là Quân khu đặc biệt Kiev đóng tại Ukraina, điều này thể hiện quan điểm của Liên Xô cho rằng nếu chiến tranh nổ ra đối phương trước tiên sẽ phải đánh chiếm những vùng quan trọng sống còn về kinh tế. Và kết quả là Phương diện quân Tây tương đối yếu của Xô Viết tại Belarus đã gặp phải lực lượng chủ lực tấn công mạnh nhất của Đức và đã thất bại nhanh chóng vì đã bị các mũi xe tăng Đức áp đảo, chia cắt, bao vây, tiêu diệt lớn, mở toang cửa ngõ cho quân Đức đi vào trung tâm nước Nga thẳng tiến đến thủ đô Moskva.
Trong hai năm đầu của cuộc chiến 1941-1942, do thiếu pháo chống tăng, Hồng quân còn huy động khoảng 60.000 con chó chống tăng phục vụ trong các đơn vị Hồng Quân để chống lại xe tăng Đức.
Về phía quân đội Đức Quốc xã, sau 5 năm chinh phạt khắp châu Âu, quân đội này được coi là có trình độ và kinh nghiệm chiến đấu dày dạn nhất thế giới ở thời điểm đó. Cộng thêm ưu thế về quân số, Chiến dịch Barbarossa được dự định sẽ đánh bại triệt để Liên Xô chỉ trong 3-4 tháng. Trong những ngày đầu của cuộc xâm lược, với ưu thế áp đảo của quân Đức, nhiều người cho rằng Liên Xô sẽ thất bại còn sớm hơn thế. Khi xe tăng và quân Đức tiến sâu lãnh thổ của Liên Xô trong một cuộc tấn công gồm ba mũi đột kích, hầu hết các nhà phân tích nước ngoài bắt đầu dự đoán rằng Liên Xô sẽ thất bại chỉ sau vài tuần hoặc thậm chí vài ngày
Chiến sự năm 1941
Lúc 3 giờ 30 phút sáng ngày 22 tháng 6 năm 1941 không quân Đức đồng loạt tấn công các thành phố, doanh trại, căn cứ quân sự trong tầm từ biên giới Liên Xô đến sâu 300 km trong nội địa. Chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức bắt đầu. Ngay trong các giờ đầu tiên của các đợt tấn công bất ngờ hơn 1.200 máy bay chiến đấu Xô Viết đã bị phá huỷ ngay trên sân bay mà chưa kịp cất cánh, không quân Xô Viết gần như tê liệt, phía Đức đã làm chủ tuyệt đối bầu trời. Sau các đợt tấn công bằng không quân và pháo binh, các mũi xe tăng Đức tấn công mãnh liệt chia cắt các đơn vị Xô Viết. Chiến sự diễn ra trên mặt trận rộng lớn từ Biển Bắc đến Biển Đen.
Tại cánh bắc chiến trường Xô – Đức: khu vực biển Baltic cụm tập đoàn quân Bắc của Đức tấn công ồ ạt. Tại đây phương diện quân tây bắc của Liên Xô rối loạn, phương diện quân này bao gồm 3 tập đoàn quân số 8, 11 và 27. Do cụm tập đoàn quân Bắc chỉ có 1 tập đoàn quân xe tăng số 4 cùng với 2 tập đoàn quân bộ binh 16 và 18, nên quân Đức không thể tổ chức bao vây tiêu diệt gọn các tập đoàn quân số 8 và 11 của Liên Xô. Tập đoàn quân số 8 Xô Viết dùng quân đoàn xe tăng số 12 phản kích nhưng bị đánh tách khỏi khối lực lượng Xô Viết còn lại, bị dồn ép rút lui qua Litva, Latvia về phía biên giới Estonia và cuối cùng bị ép ra biển gần Tallinn thủ đô của Estonia. Thành phố Tallinn khi đó là căn cứ chính của hạm đội Baltic sắp mất. Hạm đội Baltic của Liên Xô phải vội vã di tản về Kronstadt thuộc Leningrad mang theo cả tập đoàn quân 8 về phòng thủ thành phố này. Toàn bộ các nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Baltic đã rơi vào tay quân Đức. Phương diện quân tây bắc bị giải thể, tập đoàn quân 11 Xô Viết may mắn không bị bao vây, bị đánh lui về phía Staraia Russa và cùng với tập đoàn quân 27 đã rút lui từ trước cầm cự tại đây đồng thời kết hợp cùng phương diện quân Tây phản kích để kìm hãm đà tiến công của địch và lùi dần về phía Leningrad. Và cuối cùng cụm tập đoàn quân Bắc của Đức chiếm đầu mối đường sắt Tikhvin, quân Đức tiến đến bờ nam hồ Ladoga cắt rời Leningrad khỏi miền đất còn lại. Hồng quân bị ép chặt về vành đai tử thủ cuối cùng sát thành phố.
Leningrad, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, công nghiệp, thành phố lớn thứ hai của Liên Xô đã bị cô lập hoàn toàn và tưởng như không thể giữ nổi: phía bắc là quân Phần Lan, phía nam là quân Đức, phía tây là biển Baltic, phía đông là hồ lớn Ladoga, nhưng với sự kháng cự kiên cường, anh dũng quyết tâm bảo vệ Leningrad của quân đội Xô Viết cùng Hạm đội Baltic, liên quân Đức – Phần Lan cuối cùng đã phải dừng bước tại đây, không đánh chiếm được Leningrad quân Đức và Phần Lan buộc phải bao vây phong toả thành phố. Đến cuối năm 1944 sau 871 ngày bị vây hãm, Leningrad mới được giải toả với 62 vạn dân thành phố đã bị chết đói, thành phố này sau đó được mang tên Thành phố Anh hùng.
Tại cánh nam của mặt trận Xô – Đức: cụm tập đoàn quân Nam của Đức tấn công Phương diện quân tây nam của Xô Viết tại Ukraina. Cũng giống như cụm tập đoàn quân Bắc, quân Đức chỉ có một tập đoàn quân xe tăng số 1 và hai tập đoàn quân bộ binh số 6 và số 17 đã không thể tổ chức thành hai gọng kìm để bao vây và tiêu diệt các tập đoàn quân Xô Viết. Tại đây Hồng quân có lực lượng mạnh và có đội ngũ chỉ huy tốt gồm các tập đoàn quân 5, 6, 12 và 26. Trong những ngày đầu chiến tranh dưới áp lực quá lớn của quân Đức phương diện quân tây nam tuy đã bị tổn thất rất nặng nề nhưng đã không hoảng loạn, kháng cự có tổ chức, không cho đối phương đánh thọc sâu bọc sườn bắt buộc quân Đức tấn công chính diện một cách khó khăn, phương diện quân này vừa chống đỡ vừa liên tục dùng các quân đoàn xe tăng số 8, 15, 22, 9, 19 phản kích và lùi dần về phía Kiev một cách có tổ chức, bảo vệ được lực lượng. Một bộ phận khác là tập đoàn quân số 9 hay tập đoàn quân Duyên hải bị đẩy về phía Biển Đen đã cùng Hạm đội Biển Đen cố thủ vững chắc thành phố cảng Odessa từ 5 tháng 8 đến 16 tháng 10 năm 1941. Vào tháng 10 năm 1941 khi quân Đức tràn vào bán đảo Crimea đe dọa thành phố Sevastopol, lãnh đạo Xô viết cho rút bỏ Odessa và rút lực lượng ở đây về bảo vệ Sevastopol căn cứ chính của Hạm đội Biển Đen Xô Viết. Trận đánh phòng thủ Sevastopol là một trận đánh phòng thủ rất nổi tiếng trong cuộc chiến tranh này: với lực lượng thua kém rất nhiều quân địch lực lượng Xô Viết của tập đoàn quân Duyên Hải dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Ivan Efimovich Petrov – người hùng phòng thủ Odessa và Sevastopol, kết hợp cùng hoả lực của Hạm đội Biển Đen đã phòng thủ kiên cường thành phố. Và mãi đến tận 4 tháng 7 năm 1942, trong cuộc tổng tấn công mùa hè của quân Đức tại cánh nam chiến trường Xô – Đức 1942 Sevastopol mới thất thủ. Sự chống trả kiên cường của phương diện quân tây nam và các cuộc phòng thủ Odessa, Sevastopol và Kiev đã kìm hãm sức mạnh công phá ban đầu của quân Đức tạo thời gian cho Liên Xô huy động lực lượng dự bị để chiến đấu lâu dài và đã ngăn cản được quân Đức tràn vào vùng công nghiệp nặng Donbass và vùng Kavkaz trung tâm dầu mỏ của Liên Xô.
Nhưng những sự kiện quyết định nhất diễn ra chủ yếu tại mặt trận Belarus nơi đối đầu giữa cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức chống lại Phương diện quân Tây của Hồng quân.
Thất bại của Hồng quân tại Belarus
Tình hình tại phương diện quân Tây của Liên Xô thực sự là một thảm họa. Tại đây Hồng quân có 4 tập đoàn quân 3, 4, 10, 13 được bố trí bất hợp lý, lại phải chống chọi với hai tập đoàn quân xe tăng số 2, số 3 và hai tập đoàn quân bộ binh số 4 và số 9 của Đức. Chỉ trong vòng một tuần lễ cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức trong chiến dịch Belostok-Minsk đã bao vây và tiêu diệt gần hết lực lượng của phương diện quân Tây của Hồng quân. Ngay trong đêm 22 tháng 6 năm 1941 hai tập đoàn quân xe tăng Đức số 2 và số 3 từ hai phía nhắm vào Brest và Grodno đánh vào sườn của phương diện quân Tây. Các mũi tấn công của xe tăng Đức có cường độ cực mạnh và tốc độ tiến công cực cao lên tới 80 km/ngày-đêm. Tập đoàn quân xe tăng số 2 Đức của đại tướng Heinz Guderian đánh tan các quân đoàn xe tăng Xô Viết số 14, 17 và các đơn vị bộ binh của tập đoàn quân Xô Viết số 4. Tập đoàn quân xe tăng Guderian cùng với tập đoàn quân xe tăng Đức số 3 của đại tướng Hermann Hoth đe dọa bao vây các tập đoàn quân số 3, số 10 của Liên Xô. Hồng quân tại Belarus rối loạn và hỗn loạn rút lui, nhưng tốc độ rút lui thậm chí không nhanh bằng đà tiến quân của địch.
Trong ngày 24 tháng 6 phương diện quân Tây gắng gượng tổ chức phản kích bằng hai quân đoàn cơ giới số 6 và 11 và quân đoàn kỵ binh số 6 nhằm vào tập đoàn quân bộ binh số 9 của Đức. Cuộc phản công được tổ chức kém và sai hướng nên bị tiêu diệt mà không có kết quả. Ngày 27 tháng 6 hai tập đoàn quân xe tăng Đức của Heinz Guderian và Hermann Hoth đã đánh tan sự kháng cự của tập đoàn quân số 13 của Xô Viết và hợp vây hai tập đoàn quân số 3, số 10 Xô Viết tại phía tây thành phố Minsk. Ngày hôm sau hai tập đoàn quân Đức số 4 và 9 đã hợp vây được tại phía đông Belostok.
Tới lúc này, chỉ huy Phương diện quân vội vã ra lệnh cho các đơn vị rút lui song phần lớn đã không thoát kịp khỏi vòng vây. Phương diện quân Tây đã rơi vào hai vòng vây lớn và mau chóng bị tiêu diệt. Ngày 29 tháng 6 thủ đô Minsk của Belarus thất thủ, ngày 30 tháng 6 phần lớn lực lượng quân đội Xô Viết bị bao vây đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh. Trong tổng số 62,5 vạn binh lính và sĩ quan của phương diện quân Tây của Hồng quân, chỉ trong một tuần chiến tranh đầu tiên đã bị mất 42 vạn tại Belarus, chỉ còn hơn 20 vạn kịp thoát khỏi vòng vây để lập tuyến phòng thủ mới.
Tuy nhiên các đơn vị xe tăng của Đức không thể tiến nhanh về phía Smolensk như dự kiến bởi phía sau phương diện quân Tây là phương diện quân Dự bị của Liên Xô vừa thành lập khá mạnh với các tập đoàn quân 19, 20, 21, 22 cùng với các tập đoàn quân vừa rút lui số 11 và 13. Sự chống cự của các đơn vị này đã kìm hãm sức tiến công của các tập đoàn quân xe tăng Đức trong nhiều ngày. Phương diện quân Dự bị bắt đầu dùng các đơn vị xe tăng phản công có tổ chức kiềm chế bước tiến của các đơn vị xe tăng Đức. Khoảng ngày 6-9 tháng 7, các quân đoàn xe tăng số 5 và số 7 cùng các quân đoàn bộ binh của Xô Viết đã mở cuộc phản kích rất mạnh tại Vitebsk và Orsha, chặn đứng tạm thời bước tiến các đơn vị xe tăng số 2, số 3 của Đức, bảo vệ thành công hai thành phố này. Các đơn vị Đức buộc phải dừng lại đợi tăng viện để tiếp tục tiến đánh Smolensk.
Thảm bại của Quân đội Xô Viết tại Belarus trước hết là tại đây bộ chỉ huy Đức xác định là điểm đánh chính nên đã tập trung binh lực vào đây. Trên mặt trận này ưu thế về quân số và vũ khí của Đức đều hơn hẳn. Hai tập đoàn quân xe tăng Đức như hai gọng kìm thép đã tiến hành tiến công thọc sâu vũ bão, chia cắt và bao vây gây cho Liên Xô những tổn thất cực kỳ to lớn. Yếu tố bất ngờ của quân Đức cũng đóng vai trò lớn, ngoài các yếu tố trên Hồng quân còn bộc lộ các điểm yếu to lớn của trước kiểu chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh hiện đại của đối phương:
Trang bị và trình độ của Hồng quân quá ít và lạc hậu so với quân Đức: mức độ cơ giới hóa thấp hơn quân Đức dẫn đến tốc độ di chuyển, tập hợp, công kích và rút lui chậm chạp, không thể kịp với tốc độ tấn công bằng thiết giáp cơ giới của địch. Mạng thông tin lạc hậu, chậm trễ kém hiệu quả. Trong các đơn vị có rất ít các phương tiện thông tin vô tuyến. Vào thời điểm bắt đầu tấn công quân báo Đức tung các toán biệt kích giả dạng lính biên phòng và lính của Bộ nội vụ NKVD đi đánh phá các tuyến dây thông tin hữu tuyến tấn công các cơ cấu chỉ huy, liên lạc làm rối loạn rất trầm trọng công tác chỉ huy từ trên xuống và hiệp đồng thống nhất của các đơn vị. Các phương tiện xe tăng, thiết giáp của Liên Xô quá lạc hậu (chỉ trừ hai loại xe tăng KV-1 và T-34 được xem là tốt nhất thế giới thời bấy giờ nhưng lại quá ít so với xe tăng Đức) và Hồng quân rất thiếu các phương tiện chống tăng. Vũ khí cá nhân của binh sĩ có số lượng áp đảo là súng trường Mosin bắn phát một, mẫu của năm 1891, trong khi lính Đức đã trang bị khá nhiều súng máy đa năng và súng tiểu liên...
Phần lớn chỉ huy của Xô Viết từ sĩ quan cấp thấp đến Tổng tham mưu trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, đến Tổng tư lệnh tối cao có tư duy chiến tranh lạc hậu hơn tầng lớp sĩ quan tướng lĩnh Đức, không thể dự đoán nổi tính chất, cường độ, mật độ tấn công cơ động phủ đầu mãnh liệt ngay từ giờ phút đầu của đối phương. Cũng như chỉ huy các nước Anh, Pháp, Ba Lan... họ vẫn tư duy chiến tranh theo kiểu cũ, nặng về chiến tranh trận địa. Quân đội Xô Viết cho rằng quân Đức sẽ mở đầu chiến tranh bằng các trận đánh trận địa thăm dò, vì vậy đã hoàn toàn bất ngờ, choáng váng, mất sự chỉ huy, không theo kịp diễn biến chiến sự.
Quan điểm sai lầm trong việc xây dựng các khu vực phòng thủ: trong năm 1939-1940, Liên Xô đã di rời các khu vực phòng thủ chiều sâu từ biên giới cũ đến biên giới mới khi quân đội Xô Viết tiến vào miền tây Ucraina và tây Belarus. Các khu phòng thủ quá sát biên giới có hình dạng kéo dài hàng ngang không có chiều sâu phòng ngự đã làm giảm ý nghĩa phòng thủ: rất dễ dàng bị đối phương đánh thọc sâu bọc sườn và bao vây ngay từ ban đầu. Hình thế chiến dịch bất lợi này đã được Bộ tổng tham mưu Xô Viết nhiều lần khuyến cáo nhưng vì các lý do chủ quan và khách quan đã không kịp bố trí lại.
Trình độ sĩ quan chỉ huy thấp: tầng lớp sĩ quan chỉ huy Hồng quân sau đợt thanh lọc chính trị chưa tích lũy đủ kinh nghiệm, kiến thức và bản lĩnh chỉ huy. Đặc biệt bị ám ảnh bởi nỗi sợ bị thanh lọc nên tính chủ động, quyết đoán của cán bộ chỉ huy bị bó buộc: các cấp chỉ huy không dám ra quyết định, phần nhiều trông chờ vào mệnh lệnh của cấp trên... Các cấp chỉ huy Xô Viết nhất là tại phương diện quân Tây và Tây bắc trong những ngày đầu đã bị rối trí, chỉ huy mò mẫm, thiếu phối hợp, kém hơn nhiều so với đối phương.
Học thuyết quân sự giáo điều: theo học thuyết quân sự của Stalin, quân đội của giai cấp vô sản là vô địch, bách chiến bách thắng, chỉ có tấn công tích cực, xem nhẹ phòng ngự, đề cao quá mức yếu tố tinh thần – chính trị. Trước chiến tranh đã có nhiều sĩ quan tướng lĩnh Xô Viết tìm cách học tập nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức, huấn luyện, trang bị, cơ cấu lực lượng vũ trang, chiến thuật, chiến lược tiên tiến của Đức, nhưng các cố gắng đó bị coi là "thân phát xít". Điều lệnh chiến đấu của Hồng quân khi đó quy định rằng khi chiến tranh nổ ra, toàn bộ lực lượng quân sự Xô viết ngay lập tức sẽ phải tổng tấn công giáng trả vào đất địch và chiến tranh sẽ diễn ra trên đất kẻ thù. Học thuyết này không đúng với thực tế so sánh lực lượng của các bên đối kháng khi đó. Cụ thể tại Belarus, trong những giờ phút chiến tranh ban đầu, thay vì phải nhanh chóng rút lực lượng ra khỏi các khu phòng thủ đã mất tác dụng tránh để bị quân Đức đánh thọc sâu và bao vây, các đơn vị tiếp giáp phải tìm cách phản kích kìm chân địch để thiết lập tuyến phòng ngự chiều sâu, Hồng quân lại tập hợp chuẩn bị tổng phản công đánh sang đất địch.
Kết quả: thảm họa của phương diện quân Tây đã mở thông đường cho quân Đức thẳng tiến vào trung tâm nước Nga. Phía trước cụm tập đoàn quân Trung tâm giờ đây là hướng Moskva. Với trách nhiệm vì đã để xảy ra sự bại trận lớn tại Belarus, đại tướng tư lệnh Dmitry Grigorievich Pavlov (từng là Anh hùng Liên Xô), cùng tham mưu trưởng phương diện quân Klimovskik, và nhiều tướng lĩnh bộ chỉ huy phương diện quân đã bị cách chức và bị tòa án quân sự tuyên án tử hình vì những yếu kém của họ và không phải của họ.
Trận Smolensk, Hồng quân tạm thời chặn đứng được quân Đức
Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 9 năm 1941 đã xảy ra một chuỗi trận đánh liên hoàn mà trận Smolensk và việc tiêu diệt phương diện quân tây nam của Xô Viết tại khu vực Kiev là những sự kiện lớn trong chuỗi trận đánh lớn này.
Sau các thắng lợi rất lớn ban đầu, quân đội Đức đã chiếm được các Nước cộng hoà Baltic, Belarus, Moldavia, phần đất của Nga và Ukraina trên bờ tây sông Tây Dvina và sông Dnepr. Chiến tuyến lúc đó dựa theo hai con sông này. Đến lúc này mặt trận đã quá dài, quân Đức không thể đảm bảo đủ mật độ quân lực trên một mặt trận quá lớn nên đã "không thể đồng thời tấn công tổng lực trên tất cả các hướng" mà phải lựa chọn tấn công trọng điểm theo thời gian. Điều đó cho thấy: dù có đạt được thắng lợi cực lớn ban đầu nhưng việc đánh thắng Liên Xô trong chiến tranh chớp nhoáng là quá sức đối với nước Đức Quốc xã. Trong khi đó tiềm lực Xô Viết thật khó đánh giá, mặc dù đã tổn thất rất nặng nề, mất hơn 1 triệu quân trong tháng đầu tiên, nhưng quân số Hồng quân không ngừng tăng lên. Trên hướng Smolensk là hướng chiến lược phía tây, Bộ tổng tư lệnh tối cao Xô Viết điều động thê đội 2 của lực lượng dự bị chiến lược lập phương diện quân Dự bị phía sau phương diện quân Tây đang phòng thủ. Liên Xô định xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc nhiều tầng lớp theo tuyến Velikie Luki – Nevel – Vitebsk – Orsha – Moghilev – Gomel dựa trên hai con sông lớn Tây Dvina và Dnepr.
Trận Smolensk: Ngày 8 tháng 7 năm 1941 sau khi tập trung đủ quân Bộ chỉ huy tối cao Đức ra lệnh cho cụm tập đoàn quân Trung tâm dùng hai tập đoàn quân xe tăng số 2 và số 3 và một bộ phận tập đoàn quân xe tăng số 4 của tập đoàn quân Bắc cùng hai tập đoàn quân bộ binh số 2 và số 9 tấn công đánh tiêu diệt khối quân Xô Viết phòng thủ hướng Smolensk để mở ra đường ngắn nhất tiến chiếm thủ đô Moskva trong hành tiến. Trong 10 ngày từ 10 đến 20 tháng 7 Quân Đức tấn công mãnh liệt cánh phải và chính diện phương diện quân Tây Xô Viết và chọc thủng phòng tuyến sông Tây Dvina tiến sâu được 200 km chiếm các thành phố Moghilev, Smolensk, Orsha, Yelnya, Kritchev, bao vây các tập đoàn quân 13, 16, 20 Xô Viết tại khu vực Smolensk. Dù chỉ mới sau thảm bại thất thủ Belarus vài ngày nhưng sức kháng cự của Hồng quân đã khác: quân Đức gặp sự phản kháng mãnh liệt tăng lên từng ngày, các đơn vị Liên Xô bị lọt vào vòng vây liên tục kháng cự và phản kích.
Từ 23 tháng 7 đến 7 tháng 8, Quân đội Xô Viết lấy lực lượng từ phương diện quân Dự bị tổ chức phản công mạnh mẽ với ý đồ hợp vây khối quân Đức tiên phong tại khu vực Smolensk. Cuộc phản công không tiêu diệt được khối quân đối phương nhưng đã giải cứu được các tập đoàn quân 16 và 20 và chặn đứng được sự phát triển tấn công của cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức về phía Moskva. Các trận đánh vẫn tiếp diễn tại vòng cung Yelnya: Từ ngày 20 tháng 8 đến 9 tháng 9, tập đoàn quân 24 của Xô viết phản công tại Yelnya: cuộc chiến diễn ra đẫm máu, cuối cùng quân Đức phải rút khỏi Yelnya và quay sang tập trung tấn công xuống phía nam để bao vây Kiev. Phương diện quân Tây của Hồng quân chịu thương vong rất lớn nhưng đã lập được phòng tuyến ổn định tại phía tây dẫn đến Moskva. Quân Đức đã không thể chiếm Moskva trong hành tiến.
Trận Smolensk kéo dài hai tháng đã làm rối kế hoạch chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức. Với sức kháng cự ngày càng tăng của phía Liên Xô thì giờ đây mục tiêu chiếm Moskva và tiến đến tuyến Arkhangelsk – Astrakhan trước mùa đông là khó hoàn thành. Tại trận Smolensk, lần đầu tiên vũ khí mới của Liên Xô là dàn hoả tiễn Cachiusa đã xuất trận. Quân đội Liên Xô đã qua cơn choáng ban đầu và bắt đầu chiến đấu ngày càng có tổ chức. Đối với Đức mặt trận phía đông không còn là chiến thắng dễ dàng nữa.
Trận Smolensk vẫn tiếp diễn và chiến sự dần chuyển xuống phía nam. Các diễn biến tiếp sau của trận đánh này dẫn đến đột biến tại mặt trận của phương diện quân tây nam của Hồng Quân.
Trận Kiev (1941) – phương diện quân tây nam của Xô Viết bị tiêu diệt
Trong trận Smolensk, khi không thể đột phá trực tiếp về phía đông qua hướng Smolensk – Moskva, quân Đức tấn công dò tìm điểm yếu trong tuyến phòng thủ của Hồng quân, điểm yếu đó là phương diện quân Trung tâm của Xô Viết trên hướng Gomel 300 km phía nam Smolensk. Cuối tháng 7 cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức chọc thủng phòng tuyến của phương diện quân Trung tâm của Xô Viết ào ạt tấn công theo hướng Bắc – Nam về phía Gomel và chiếm thành phố này ngày 20 tháng 8 năm 1941. Quân Đức đe doạ nghiêm trọng sườn phải và lưng của phương diện quân tây nam Xô Viết đang phòng thủ hướng Kiev. Với triển vọng đánh vào lưng và bao vây tiêu diệt cụm quân Xô Viết tại Kiev, Hitler ra lệnh cho cụm quân Trung tâm tạm dừng tấn công trên hướng Moskva điều một nửa lực lượng của cụm quân này là tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian và tập đoàn quân bộ binh số 2 đánh xuống phía nam bên bờ Đông sông Dnepr kết hợp cùng cụm tập đoàn quân Nam của Đức bao vây tiêu diệt phương diện quân tây nam đang phòng thủ khu vực Kiev. (xem trận Kiev, 1941)
Ngay từ cuối tháng 7 năm 1941 trước hiểm hoạ đột phá tại phía nam mặt trận, Bộ tổng tham mưu Xô Viết kiên quyết đề nghị bỏ Kiev đưa toàn bộ lực lượng sang bờ Đông sông Dnepr lập tuyến phòng thủ mới, nhưng Stalin là lãnh đạo tối cao không chấp nhận. Kiev có giá trị rất lớn cả về kinh tế lẫn tâm lý: đây là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp và nông nghiệp trù phú của Liên Xô, lại là vùng "đất tổ" nơi phát tích ra nước Nga. Do vậy, nếu còn hy vọng thì Stalin muốn cố gắng hết sức để giữ vùng này, ông lập tức bãi chức Tổng tham mưu trưởng của đại tướng Georgy Konstantinovich Zhukov, điều chuyển Zhukov sang làm chỉ huy mặt trận phòng ngự Leningrad và ra lệnh tử thủ và phản công giữ vững Kiev..
Trong tháng 8 các nỗ lực phản công của phương diện quân Briansk của Liên Xô đánh vào sườn trái tập đoàn quân xe tăng số 2 và tập đoàn quân số 2 của Đức đều thất bại. Phương diện quân này tổn thất rất lớn và còn tạo ra lỗ hổng lớn trong phòng ngự. Đến ngày 10 tháng 9 tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian từ phía bắc đánh xuống bên bờ Đông sông Dnepr đã chiếm được Chernigov và Konotop. Sau đó đánh đòn quyết định nhắm về phía về Lokhvitsa.
Trong thời gian đó từ 12 tháng 7 tới 10 tháng 8 tại mặt trận Kiev chiến sự giữa cụm tập đoàn quân Nam của Đức và phương diện quân tây nam Xô Viết đang xấu đột biến cho Hồng quân: các tập đoàn quân xe tăng số 1 và tập đoàn quân bộ binh số 6 Đức không thể tiến vào được Kiev từ phía tây và tây bắc đã thọc xuống phía nam Kiev kết hợp cùng tập đoàn quân 17 đánh thọc sườn vào hậu phương các tập đoàn quân 6, 12, 18 của Xô Viết. Các mũi tiến quân này phối hợp với quân Romania đã hoàn toàn bao vây và tiêu diệt các tập đoàn quân 6, 12 Xô Viết tại Pervomaisk- Uman. Thừa thắng từ ngày 11 tháng 8 đến 10 tháng 9 cụm tập đoàn quân Nam tấn công vũ bão đã chiếm một vùng rộng lớn tại phía nam Kiev: Krivoi Rog rồi Nikolaiev sau đó vượt sông Dnepr sang bờ đông chiếm Dnepropetrovsk, Zaporozhie và Kremenchuk.
Sau khi đột phá tại phía nam Kiev tập đoàn quân xe tăng số 1 của Paul Ludwig Ewald von Kleist thuộc cụm tập đoàn quân Nam của Đức từ bàn đạp Kremenchuk phía bờ Đông sông Dnepr đã tiến lên phía bắc. Ngày 15 tháng 9 tại Lokhvitsa tập đoàn quân xe tăng này đã gặp tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian từ phía bắc đánh xuống, hợp vây hoàn toàn phương diện quân tây nam của Liên Xô.
Phương diện quân tây nam Xô Viết dù đã kháng cự rất quyết liệt từ ngày đầu chiến tranh và đã cầm cự có tổ chức được lâu dài giờ đây đã bỏ lỡ cơ hội rút lui, các tập đoàn quân Xô Viết của phương diện quân này đã rơi vào vòng vây siết chặt của quân Đức, lại bị ngăn cách bởi sông lớn Dnepr và đã bị tiêu diệt gọn. Khoảng 65 vạn quân Xô Viết đã tử trận hoặc bị bắt làm tù binh, trong đó có hầu hết các tư lệnh và chỉ huy các tập đoàn quân của phương diện quân này. Thượng tướng Mikhail Petrovich Kirponos, tư lệnh phương diện quân bị tử thương khi một viên đạn cối của quân Đức nổ ngay cạnh ông. Trung tướng V. I. Tupikov tham mưu trưởng Phương diện quân tử trận tại làng Ovdievsk. Ủy viên hội dồng quân sự phương diện quân, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina đã tử trận tại khu rừng Sumeykovo. Chính ủy phương diện quân tây nam Yevgheni Pavpovich Rykov bị quân Đức bắt và hành quyết tại Lokhvitsa.. Trong khi đó, quân Đức chịu thương vong khoảng 128.000 quân. Đây là một trong những chiến dịch thắng lợi to lớn nhất của quân Đức trong thế chiến II. Ngày 19 tháng 9 năm 1941, Kiev thất thủ. Chỉ có khoảng 100 ngàn quân của Phương diện quân tây nam Xô Viết thoát khỏi vòng vây, họ cố gắng thiết lập tuyến phòng thủ mới ở bờ đông sông Dnepr.
Sau này có nhiều ý kiến cho rằng quyết định của Adolf Hitler phái một nửa lực lượng của cụm tập đoàn quân Trung tâm xuống phía nam tiêu diệt Kiev đã bỏ lỡ cơ hội đánh chiếm Moskva trước mùa đông. Tuy nhiên theo nguyên soái G.K Zhukov của Liên Xô thì quyết định này là đúng đắn cho quân Đức và sẽ phải xảy ra theo đúng quy luật quân sự và tình thế chiến trường khi đó, vì nếu quân Đức không tiêu diệt được Phương diện quân tây nam thì mũi tấn công của cụm tập đoàn quân Trung tâm vào Matxcova sẽ bị hở sườn phải và rất dễ bị Phương diện quân tây nam tấn công từ phía sau. Và vì nhận thức được khả năng này Bộ tổng tham mưu Xô Viết đã đề nghị Stalin sớm bỏ Kiev rút sang bờ đông sông Dnepr phòng ngự, nhưng đề nghị này G.K Zhukov đã không được Stalin chấp nhận vì những lý do đã nêu ở trên.
Nhưng thất bại to lớn của quân đội Xô Viết tại Kiev còn có một khía cạnh khác, nó tác động lên tâm lý của lãnh tụ hai bên làm ảnh hưởng đến kết cục chiến tranh sau này: Tổng chỉ huy tối cao của Liên Xô Stalin sau các thất bại tại Belarus và Kiev đã nhận thức được hạn chế về kiến thức quân sự của cá nhân mình và đã biết chú ý lắng nghe ý kiến của Bộ tổng tham mưu và các tướng lĩnh Xô Viết. Trong khi đó Hitler đã quá tự tin vào thiên tài quân sự và khả năng không thể sai lầm của mình nên càng ngày càng bỏ qua các ý kiến của các tướng lĩnh Đức, điều này đã ảnh hưởng đến quá trình điều hành chiến tranh sau này của hai bên.
Trận Moskva: Chiến tranh chớp nhoáng của Đức bị thất bại
Từ ngày 30 tháng 9 năm 1941 đến đầu tháng 1 năm 1942 đã diễn ra Trận Moskva, là trận đánh lớn trong chiến tranh Xô – Đức và Chiến tranh thế giới thứ hai có tầm quan trọng bậc nhất cả về quân sự, chính trị cũng như tâm lý. Trận chiến này đã chứng tỏ chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức đã thất bại, nước Đức Quốc xã buộc phải chấp nhận tiến hành chiến tranh tiêu hao kéo dài với đối thủ là cường quốc rộng lớn nhất thế giới, đông dân với tiềm lực ngày càng được huy động. Đây là điềm báo trước thất bại của Đức trong toàn bộ cuộc chiến tranh.
Sau thất bại to lớn của quân đội Xô Viết tại Ukraina, mối đe doạ bị Hồng quân tấn công vào sườn phải cụm tập đoàn quân Trung tâm không còn. Phía Đức trong tháng 9 năm 1941 đã dừng tấn công trên hướng Moskva để chuẩn bị kỹ cho chiến dịch cơn bão (Typhoon) nhằm đánh chiếm thủ đô Xô Viết. Quân đội Đức đã tăng cường bổ sung cho cụm tập đoàn quân Trung tâm trong trận đánh này một lực lượng rất lớn: điều tập đoàn quân xe tăng số 2 của Heinz Guderian và tập đoàn quân bộ binh dã chiến số 2 vừa đánh thắng trận Kiev về, điều tập đoàn quân xe tăng số 4 của đại tướng Erich Hopner duy nhất của cụm Bắc xuống cho cụm Trung tâm. Lúc này cụm tập đoàn quân Trung tâm có ba tập đoàn quân bộ binh số 2, 4, 9 và ba tập đoàn quân xe tăng số 2, 3, 4 tổng cộng khoảng 75 sư đoàn và 1,8 triệu binh sĩ với 1.700 xe tăng, 14.000 pháo và súng cối, 1.400 máy bay tức là khoảng 34% quân số và 68% số xe tăng của Đức trên chiến trường khi đó. Bộ chỉ huy tối cao Đức dành cho chiến dịch này tầm quan trọng đặc biệt như bước quyết định để chấm dứt chiến tranh để giành thắng lợi.
Đối với Liên Xô đây là thời kỳ nguy ngập nhất trong toàn bộ lịch sử từ ngày thành lập. Nguy cơ thất trận của Liên Xô đến lúc này là quá to lớn: tuy đất nước rộng lớn, dân số nhiều nhưng quân số không động viên kịp cho số bị thương vong và bị bắt. Các cơ sở kinh tế lớn trên các vùng lãnh thổ phía tây đất nước trước đây chiếm đa phần tỷ trọng trong kinh tế đất nước nay đã bị Đức chiếm hoặc đang được tháo dỡ di chuyển sang phía đông và chưa thể cho ra sản phẩm. Quân số thiếu mà vật chất tiền của để tiếp tục chiến tranh cũng ở mức độ nguy kịch. Sự giúp đỡ về kinh tế, vũ khí của khối đồng minh Anh – Mỹ cho Liên Xô (chương trình Lend-lease của Chính phủ Hoa Kỳ) thì lại chưa đến (những chuyến hàng đầu tiên của Mỹ chỉ kịp đến Liên Xô vào tháng 12/1941). Liên Xô huy động tối đa mọi nguồn lực có thể cho việc bảo vệ thủ đô, bao gồm cả việc động viên nhân dân Moscow tham gia hỗ trợ quân đội (đào hào, vận tải, cứu thương...)
Hitler đã chuẩn bị một kế hoạch chiến tranh hủy diệt đối với Moskva. Trong một cuộc họp tại Bộ tham mưu cụm tập đoàn quân Trung tâm, Hitler đã tuyên bố: "Thành phố sẽ bị vây chặt, không một lính Nga, không một dân thường - đàn ông, đàn bà, trẻ em có thể trốn thoát. Mọi ý đồ rời khỏi thành phố sẽ bị đè bẹp bằng sức mạnh. Mọi sự chuẩn bị đã sẵn sàng để làm chìm ngập Moskva và vùng phụ cận. Nơi hôm nay là Moskva sẽ là một cái hồ lớn mãi mãi nhấn chìm thủ đô của bọn Nga!".
Để bảo vệ Moskva quân đội Xô Viết cho thiết lập ba tuyến phòng thủ: tuyến Rzhev – Viazma – Briansk cách thủ đô khoảng 200–500 km, tuyến Volokolamsk – Mozhaisk – Kaluga cách Moskva thoảng 100–150 km và tuyến cuối cùng là vành đai xung quanh thành phố. Quân đội Xô Viết bố trí ba phương diện quân Tây, Dự bị và Briansk để phòng thủ Moskva: tổng cộng gần 1,25 triệu quân, 1.000 xe tăng, gần 700 máy bay, 7.600 pháo và súng cối. Cho đến thời điểm tấn công quân Đức có lực lượng vượt trội cả về quân số, trình độ huấn luyện tác chiến, số lượng và chất lượng vũ khí.
Kế hoạch của quân Đức trước tiên hợp vây tiêu diệt các đơn vị Xô Viết tại tuyến Rzhev – Viazma – Briansk mở đường cho 2 mũi lao nhọn từ Bắc và Nam tiến đến bao vây Moskva tại Orekhovo-Zuevo khoảng 60 km về phía đông Moskva. Sau khi vây hãm Moskva, sẽ dùng không quân, xe tăng và bộ binh đánh chiếm thành phố.
Trận đánh bắt đầu vào ngày 30 tháng 9 năm 1941 và chia làm nhiều giai đoạn khốc liệt. Trong 10 ngày đầu tháng 10 năm 1941, quân Đức đập tan tuyến phòng thủ Rzhev – Viazma – Briansk của Hồng quân, bao vây tiêu diệt khoảng nửa triệu quân của ba phương diện quân Xô Viết. Tuyến phòng thủ vòng ngoài của Moskva đã bị đánh tan.
Ngày 15/10/1941, quân Đức chỉ cách Moskva 27 km. Tình hình đã trở nên nguy cấp, Stalin hỏi Đại tướng Zhukov: "Anh có tin là chúng ta giữ được Moskva không? Tôi hỏi anh điều này với nỗi đau lớn. Anh hãy nói một cách chân thành với tư cách người đảng viên". Zhukov trả lời: "Nhất định chúng ta giữ được, nhưng chúng ta cần tăng cường ít nhất 2 quân đoàn và 200 xe tăng!". Stalin đồng ý và lập tức triệu tập cuộc họp Hội đồng Quốc phòng. Ông đã yêu cầu từng người trả lời câu hỏi: "Tử thủ hay rút chạy?". Tất cả đều thể hiện sẵn sàng chiến đấu.
Stalin đã ra lệnh cho Malenkov và Serbakov viết "Bản nghị quyết của Hội đồng Quốc phòng về kế hoạch bảo vệ Moskva". Stalin ra lệnh điều quân dự bị từ Siberi về giải nguy cho Moskva, đồng thời chuẩn bị sơ tán các cơ quan chính phủ và đoàn ngoại giao ra khỏi Moskva. Thi hài Lênin đã được bí mật di chuyển đến Kubisev. Toàn bộ nhân dân Moskva được lệnh tổng động viên, sẵn sàng tham gia chiến đấu cùng Hồng quân.
Tình thế Moskva nguy ngập, quân đội Xô Viết vội vã điều nốt các lực lượng dự bị cuối cùng củng cố tuyến phòng thủ thứ hai và áp dụng các biện pháp kiên quyết nhất để bảo vệ thủ đô... Buổi tối ngày 6 tháng 11, tại nhà ga xe điện ngầm Mayakovsskaia đã diễn ra cuộc mít tinh kỷ niệm 24 năm Cách mạng tháng 10 Nga. Sáng ngày 7 tháng 11 năm 1941 để nâng cao tinh thần cho chiến sĩ và toàn dân Liên Xô trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù nguy hiểm, Hội đồng Quốc phòng Nhà nước và Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô vẫn tổ chức cuộc duyệt binh hàng năm theo truyền thống tại Quảng trường đỏ. Tại cuộc duyệt binh này, chính I. V. Stalin thay mặt Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô Viết kêu gọi quân và dân Liên Xô tiếp tục anh dũng chiến đấu, tiêu diệt quân thù, bảo vệ Tổ quốc Liên Xô, giải phóng cho các dân tộc bị phát xít nô dịch.
Trong tháng 10 các nỗ lực phòng thủ đã cho kết quả: quân đội Xô Viết trong chiến đấu đã tạo được tuyến phòng thủ chiều sâu dày đặc, cộng với việc quân Đức không thể bổ sung kịp thời cho các tổn thất rất to lớn trong quá trình chiến đấu, các điều kiện thời tiết cũng đã giúp cho phía Liên Xô làm chậm tốc độ và sức công phá của các cuộc tấn công của Đức. Và cuối cùng qua ba đợt tấn công càng ngày càng khó khăn đến đầu tháng 12 năm 1941, cuộc tấn công của Đức đã hụt hơi và bị chặn đứng tại ngay cửa ngõ Moskva. Vào ngày 2/12/1941, Sư đoàn Thiết giáp số 5 của Đức đã dừng lại ở ngôi làng Dmitrov và Jokroma, áp sát và cách Moscow 14 km, cách Kremlin đúng 24 km, đây là điểm xa nhất mà quân Đức tiến được trong cuộc chiến.
Trước đó, bộ chỉ huy Đức đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng: chủ quan với những thắng lợi lớn ở mặt trận, ngày 16 tháng 8 năm 1941, Thống chế lục quân Đức Wilhelm Keitel đề nghị cắt giảm nỗ lực sản xuất quân sự vào mùa thu năm 1941 vì chắc chắn rằng Đức sẽ đánh bại Liên Xô trước mùa đông, và Hitler đồng ý. Hậu quả là Đức đã không chuẩn bị đầy đủ trang bị cho một chiến dịch trong mùa đông. Cùng với số chết trận, binh lính Đức còn bị bị tê cóng và bệnh dịch do thời tiết lạnh.
Một số sư đoàn Đức rơi rụng chỉ còn 50% thực lực. Sư đoàn Thiết giáp số 6 của tướng Raus báo cáo mỗi ngày có khoảng 800 ca cóng lạnh. Nhiệt độ thấp nhất đo được trong toàn bộ kế hoạch này là -53 độ C (khu vực tây bắc Moscow vào ngày 26 tháng 1 năm 1942) trong khi trang thiết bị của Đức bắt đầu hỏng hóc khi nhiệt độ xuống -20 độ C. Bình luận cả về sình lầy (mùa Thu) và tuyết lạnh (mùa Đông), Tướng Zhukov của Nga nói rất đơn giản rằng: quân Đức đáng ra phải hiểu rõ về thời tiết, nhưng họ đã không lo ứng phó với nó. Trong trường hợp này, thời tiết đóng một vai trò quan trọng (nhưng không phải là quan trọng nhất) giải thích tại sao Hồng quân Liên Xô – với hơn 1 triệu binh sĩ hy sinh trong giai đoạn đầu của kế hoạch Barbarossa kéo dài 2 tháng – không chỉ có thể giữ vững Moscow, mà còn tiến hành các đợt phản công mạnh mẽ. Quân Đức vì chủ quan khinh địch, tin rằng sẽ sớm chiến thắng nên đã không chuẩn bị kỹ cho cuộc chiến trong mùa đông, đây là sai lầm chiến lược của họ (và "chủ quan khinh địch" cũng là một dạng sai lầm nghiêm trọng nhất trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào).
Rõ ràng phía Đức đã không đánh giá hết được đối phương Xô Viết: lòng yêu nước, sự tin tưởng, trung thành của con người Xô Viết; tính kỷ luật kiên cường của Hồng quân; tiềm năng tổng động viên của nhà nước Xô Viết; tiềm năng kinh tế của Liên Xô; sự giúp đỡ của đồng minh; điều kiện tự nhiên rất đặc trưng của nước Nga. Kết quả: Đến đầu tháng 12 năm 1941 các nỗ lực tấn công cuối cùng của Đức đã hụt hơi trong khi đó các lực lượng dự bị hùng hậu của Hồng quân đã được huy động để phản công. Lúc này phía Xô viết vẫn còn tới 3 tập đoàn quân dự trữ để phản công còn phía Đức thì không còn lấy lực lượng dự trữ nào.
Thời điểm đầu tháng 12 năm 1941 là thời điểm kịch tính bản lề của trận đánh khi quân Đức đã suy kiệt không thể tấn công thêm. Sự không tham chiến của Nhật đã cho phép Liên Xô điều động các sư đoàn dự bị đầy sức sống, trang bị tốt từ các quân khu Viễn Đông và Siberia. Các lực lượng này đã kịp đến và tập hợp tại chiến trường đã sẵn sàng tham chiến, binh khí kỹ thuật của Liên Xô cũng được bảo đảm giành ưu thế đối với quân Đức nhất là ưu thế về không quân ném bom. Và đặc biệt, một lợi thế cực kỳ to lớn là quân đội Xô Viết đã được trang bị và huấn luyện kỹ chiến thuật tác chiến trong mùa đông (bao gồm trượt tuyết, giày đi tuyết, áo ngụy trang, cách giữ ấm cơ thể), đây là điều mà quân Đức chưa được chuẩn bị. Ngày 5 tháng 12 năm 1941 ngay sau khi cuộc tấn công của Đức đã hết hơi, cuộc tổng phản công tại Moskva của Hồng quân bắt đầu.
Quân đội Xô Viết ào ạt tấn công, cuộc phản công đã diễn ra thắng lợi. Tuy nhiên quân đội Xô Viết khi đó còn chưa hội đủ các điều kiện để tiến hành tấn công theo chiều sâu để bao vây tiêu diệt khối chủ lực của địch, cuộc tấn công của Hồng quân mang tính chất tấn công chính diện đẩy lùi quân địch ra xa khỏi Moskva. Lực lượng Đức đã suy kiệt sau các nỗ lực tấn công Moskva bất thành lại đang trong đội hình tấn công không có hệ thống phòng ngự chiều sâu, ở hình thế lõm sâu vào vị trí đối phương, lại không quen chiến đấu trong mùa đông khắc nghiệt và hoàn toàn không hề dự đoán khả năng quân địch tấn công.
Mặc dù đã có lệnh của Hitler không lùi một bước, quân Đức đã bị hất ra xa ra khỏi Moskva từ 150 đến 300 km. Hơn 500.000 quân Đức bị tiêu diệt, hàng chục sư đoàn bị tiêu diệt và tiêu hao.
Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh (hay còn gọi là chiến tranh chớp nhoáng) của Đức đã thất bại hoàn toàn. Sau trận đánh này, cho dù Liên Xô chỉ tạm thời giành thế thượng phong, nước Đức Quốc xã đã buộc phải chấp nhận tiến hành chiến tranh tiêu hao kéo dài với đối thủ là cường quốc rộng lớn nhất thế giới, đông dân với tiềm lực chiến tranh ngày càng được huy động mạnh hơn. Đây là một chiến thắng bước ngoặt của quân đội Liên Xô trong suốt cuộc chiến.
Sự chiếm đóng và diệt chủng
Ngay từ trước khi chiếm được lãnh thổ đối phương, Tổng kế hoạch Đông của Đức đã vạch kế hoạch phân chia và Đức hoá các vùng lãnh thổ phía đông: các lãnh thổ được ưu tiên số một để Đức hoá là các khu vực phì nhiêu giàu có của Liên Xô như tỉnh Leningrad, bán đảo Crimea, tỉnh Kherson (cửa sông Dnepr), khu vực Biển Đen, khu vực Memel – Narv (Bắc Belarus và vùng Baltic)... Kế hoạch Đức hoá bao gồm việc đưa những người Đức đến định cư và tiêu diệt, xua đuổi dân bản địa Slav một cách có hệ thống: Cục các lãnh thổ phía đông của SS trực thuộc Heinrich Himmler đã lập kế hoạch xua đuổi và tiêu diệt khoảng 50 triệu dân địa phương trong vòng 30 năm, số còn lại để làm nhân công nô lệ cho 10 triệu người Đức sẽ di cư đến.
Tại Belarus cũng như tại Ba Lan dưới nhiều nguyên nhân, dân số bị chết lên đến tỷ lệ 1/6 đến 1/5 dân số trước chiến tranh là hệ quả trực tiếp của chính sách này.
Các vùng lãnh thổ Liên Xô bị chiếm đóng bị đặt dưới sự điều hành của quân đội và lực lượng SS Đức. Chính quyền dân sự các cấp được lấy tên và hình thức như của Đức nhưng có quyền hạn rất hạn chế và chịu sự quản lý của quân đội Đức và SS, toà án dân sự chỉ xử các vụ án dân sự và án hình sự vặt vãnh không liên quan đến an ninh, quân đội như trộm cắp vặt, bất hoà trong cộng đồng... Mọi việc lớn đều do quân quản và SS quyết định: mọi sự phản kháng, bất tuân, trốn tránh mệnh lệnh hoặc thi hành không tích cực của dân địa phương đều sẽ bị bắn bỏ không cần xét xử hoặc treo cổ để làm gương. Chính quyền quân quản Đức đặt ngoài vòng pháp luật các đảng viên cộng sản, đoàn viên Komsomol và các thành viên các tổ chức chính trị của chính quyền Xô Viết trước đây: các phần tử này phải ra trình diện và là đối tượng bị tiêu diệt trước tiên. Trên chiến trường khi bắt được tù binh, các đảng viên cộng sản, cán bộ chính trị, đoàn viên Komsomol sẽ được lọc ra và hành quyết tại chỗ.
Nông dân Nga phải giao nộp sản phẩm nông nghiệp cho quân đội Đức tới mức độ họ chẳng còn được gì, mùa vụ của họ không được thu hoạch nếu không có sự cho phép của quân Đức. Để phục vụ nhu cầu của mình Quân đội Đức tịch thu lương thực, đàn gia súc, ngựa kéo, quần áo ấm và nhà của dân địa phương để làm chỗ trú chân. Trong các năm 1943, 1944 khi rút lui quân Đức đốt sạch nhà cửa phá hoại các công trình công cộng của các thành phố xóm làng...Các cuộc cướp bóc tận gốc này gây nên chết đói và chết rét cho hàng triệu người nhất là nông dân ở các vùng bị chiếm. Theo các đánh giá khác nhau số dân thường Xô Viết bị chết vì nguyên nhân này ở mức 7 triệu người.
Dân địa phương phải đi làm lao động cưỡng bức những công việc phục vụ quân đội và chính quyền chiếm đóng có khi với 14-16 giờ một ngày trong thời gian rất dài. Ngoài ra để đảm bảo nhân công lao động duy trì chiến tranh Đức bắt hơn 5,2 triệu những người đang độ tuổi lao động chủ yếu là đàn bà, con gái cưỡng bức họ sang Đức và các nước khác để làm nhân công họ được gọi là đội quân lao động phương đông. Sau chiến tranh trong số này hồi hương 2,6 triệu, ở lại Phương Tây 45 vạn còn số còn lại hơn 2 triệu người đều đã chết.
Đặc biệt hơn cả là chính sách tàn sát và diệt chủng của Đức Quốc xã đối với dân thường nhất là đối với một số sắc tộc đầu bảng là người Di Gan và người Do Thái quân đội Đức và SS tiến hành lùng bắt và sát hại hàng loạt các nhóm dân này bằng các cuộc tàn sát tại chỗ hoặc đưa họ vào các trại tập trung để tiêu diệt dần. Trong việc tận diệt người Do Thái, người Di Gan ở một số nơi quân Đức nhận được sự giúp đỡ của dân bản xứ địa phương vì lòng căm thù sắc tộc và tôn giáo. Dân thường của các dân tộc khác trong vùng chiếm đóng cũng là đối tượng liên tục bị tàn sát. Việc tiêu diệt con người của phát xít Đức đã đạt đến "quy mô vận hành công nghiệp" với "vận trù học" và hợp lý hoá quá trình giết người để có thể tiêu diệt được nhiều nhất, ít phí tổn và được lợi nhất.
Quân đội Đức thi hành chính sách con tin và "lá chắn" đối với dân thường: trong những vùng bị chiếm đóng một binh sĩ Đức bị dân hoặc những người kháng chiến bí mật giết thì sẽ có 10 – 20 dân thường bị hành quyết để trả thù. Một chiến thuật rất thường gặp của Quân Đức để tránh sự tấn công của du kích và Hồng quân là lấy thường dân phụ nữ, trẻ em và tù binh làm lá chắn: các chuyến tàu hoả chở quân Đức thường kéo theo vài toa tù binh hoặc dân thường để làm lá chắn.
Khi Đức tấn công, đã có những dân tộc bất mãn với chính quyền Xô Viết như người Chechen và người Thổ tại Kavkaz, người Tartar ở Crimea, các dân tộc tại Baltic bị Liên Xô xâm lược năm 1940, người Kozak tại Ukraina và vùng sông Đông và các dân tộc chống Xô Viết khác đã vui mừng chào đón quân Đức như những người giải phóng. Người thuộc các nước vùng Baltic đáng tin cậy nhất thì được tham gia các lực lượng Waffen-SS Đức, các dân tộc thiểu số như người Kozak thì tham gia lực lượng Don Cossack (Kozak sông Đông), còn các tù binh người Ukraina và Nga có tinh thần chống Xô Viết thì được biên chế trong Quân đội Giải phóng nước Nga-RNNA do tướng Andrei Vlasov chỉ huy. Sau khi chiến tranh kết thúc, chính quyền Xô Viết đã trục xuất các dân tộc này khỏi lãnh thổ châu Âu của Liên Xô và buộc họ di cư đến vùng Trung Á.
Đối với tù binh Xô Viết cách đối xử cũng là tiêu diệt dần dần một cách có hệ thống, chỉ một bộ phận rất nhỏ tù binh Xô Viết để tìm cách tồn tại đã gia nhập Quân đội giải phóng Nga của trung tướng Xô Viết đã đầu hàng Andrey Andreyevich Vlasov còn những tù binh còn lại bị lao động khổ sai với cường độ huỷ diệt trong các trại tập trung và bị hành quyết thường kỳ. Trong số 5,5 triệu binh sỹ hoặc thường dân Xô Viết bị quân Đức bắt, đã có 3,5 triệu người chết trong các trại tập trung của Đức Quốc xã.
Sự tàn bạo của Đức Quốc xã đối với lãnh thổ bị chiếm đóng đã đẩy người Nga đến chỗ chết nên đó là nguyên nhân để gắn kết họ chống lại chính quyền chiếm đóng. Một số lực lượng trước đây căm thù Xô Viết cũng tạm gác lại mâu thuẫn để đấu tranh chống lại quân Đức. Sự tàn ác của quân Đức đã làm gia tăng phong trào du kích, kháng chiến trong các vùng bị chiếm và là một nguyên nhân tạo tâm lý cho nhiều binh sĩ Hồng quân thà chiến đấu đến cùng chứ quyết không chịu bị bắt làm tù binh.
Chiến cuộc năm 1942
Từ trận phản công tại Moskva đến tháng 4 năm 1942 quân Đội Xô Viết tạm thời giành được quyền chủ động và đã tấn công trên khắp các mặt trận. Quân Đức cần phải phòng ngự chiến lược để chuẩn bị lại một cách kỹ lưỡng cho chiến tranh dài lâu và quân Đức đã phòng ngự thành công để chờ đến mùa hè năm 1942. Các cuộc tấn công của Xô Viết trong thời gian này có đẩy lùi quân Đức nhưng với tổn thất rất lớn và kết quả rất hạn chế: gần như không tạo được đột biến trên mặt trận, Hồng quân chỉ tiến xa một cách tương đối tại hướng Kharkov của phương diện quân tây nam và hướng Rostov tại phương diện quân Nam và Hồng quân cũng không đạt được một trận thắng lớn nào đánh tiêu diệt đối với quân Đức phòng ngự.
Đến tháng 4 năm 1942 chiến tuyến cơ bản ổn định tại tuyến Leningrad – Rzhev – Viazma – Oryol – Kursk – Kharkov – Rostov – Crimea trong đó khúc lồi Rzhev – Viazma chỉ cách Moskva khoảng 150 km vẫn luôn là hiểm hoạ tạo bàn đạp cho quân Đức tấn công Moskva lần nữa.
Mùa hạ 1942 là thời điểm để tác chiến thuận lợi, hai bên chuẩn bị cho các trận đánh nhau to sắp tới và Đức Quốc xã cũng đã huy động xong lực lượng để giành lại quyền chủ động tấn công chiến lược.
Kế hoạch tấn công 1942 của Đức
Tuy Kế hoạch Barbarossa bị đổ vỡ hoàn toàn nhưng giới cầm quyền Đức Quốc xã vẫn còn nhiều tiềm năng lớn. Việc các nước đồng minh Anh, Mỹ không mở mặt trận thứ hai theo như thỏa thuận ngày 1 tháng 1 năm 1942 tại Washington đã làm cho quân đội Đức Quốc xã tự do điều động hơn 50 sư đoàn từ nước Đức, từ Pháp, Bỉ, Hà Lan và Đông Âu sang chiến trường Xô-Đức; chỉ để lại ở Tây Âu, Nam Âu, Bắc Phi và nước Đức không quá 20% quân số. Đến tháng 5 năm 1942, trên mặt trận Xô-Đức kéo dài từ biển Barents đến biển Đen, quân đội Đức Quốc xã đã khôi phục lại được ưu thế về quân số và phương tiện gồm 217 sư đoàn, 20 lữ đoàn với 6,2 triệu quân. Trong đó có 178 sư đoàn, 8 lữ đoàn và 4 tập đoàn quân không quân người Đức; 81 vạn quân thuộc các nước đồng minh của Đức. Đạo quân khổng lồ này vẫn có 3.230 xe tăng, gần 57.000 khẩu pháo và súng cối, hơn 3.400 máy bay chiến đấu.
Adolf Hitler và bộ chỉ huy tối cao Đức quyết định trước hết cần phải làm Liên Xô suy yếu bằng cách chiếm các vùng quan trọng sống còn về kinh tế và nhân lực. Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã vạch kế hoạch mới để tiếp tục tấn công Liên Xô với mật danh Kế hoạch Xanh, sử dụng 102 sư đoàn tấn công trên vùng thảo nguyên miền Nam Liên Xô, bổ đôi mặt trận Xô Đức, cắt đứt và đánh chiếm các mỏ dầu ở Baku, đánh chiếm vựa lúa mỳ ở hạ lưu sông Volga và vùng Kuban. Đây là nỗ lực chiến lược quân sự của nước Đức Quốc xã với mục tiêu làm cho Nhà nước Xô Viết vừa thất bại về quân sự, vừa suy yếu nghiêm trọng về tiềm lực kinh tế, tiến tới tiêu diệt Liên Xô.
Tháng 4 năm 1942, Đại bản doanh của Hitler đã ra bản huấn thị số 41 quy định đòn tấn công chính của quân Đức mùa hè 1942 là nhằm vào mặt trận tây nam Liên Xô. Mục tiêu là vùng sông Đông và Kavkaz - những trung tâm sản xuất lương thực và dầu mỏ quan trọng của Liên Xô. Nếu mục tiêu trên thành công, quân Đức sẽ triển khai lực lượng lên phía bắc đánh vu hồi Moskva, triển khai lực lượng xuống phía nam chiếm toàn vùng Krym. Theo kế hoạch của Đức Quốc xã đòn tấn công sẽ diễn ra tại cánh nam mặt trận Xô – Đức đánh vào hai phương diện quân tây nam và phương diện quân Nam của Xô Viết để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:
Một mũi đột phá thẳng đến Kavkaz chiếm các đèo ngang và xông đến thành phố Baku trên bờ biển Kaspi chiếm trung tâm dầu mỏ Kavkaz cắt nguồn năng lượng phục vụ chiến tranh của Liên Xô.
Một mũi khác tấn công trận tuyến sông Đông Để tiến đến Stalingrad trên sông Volga chiếm vùng đồng bằng sông Đông và vùng phía nam nước nga là nguồn lúa mì chính của đất nước chiếm các nguồn điện và than tại miền nam nước Nga. Tiến đến sông Volga cắt mạch vận tải bắc – nam của Liên Xô theo dòng sông này đây là tuyến vận tải quan trọng để chuyển dầu mỏ từ phía nam và viện trợ của đồng minh cho Liên Xô qua Iran. Sau đó phát triển tiếp theo là chiếm toàn bộ hạ lưu sông Volga. Về mặt quân sự cánh quân này đồng thời còn làm nhiệm vụ bảo vệ sườn trái cho cánh quân Đức đánh Kavkaz.Trong quá trình thực hiện kế hoạch chiến cuộc 1942, Bộ chỉ huy Đức có sự chuyển hướng chiến lược lấy Stalingrad làm hướng tấn công chính và điều bớt lực lượng từ hướng Kavkaz về tăng cường, dần dần Stalingrad trở thành trọng tâm chiến sự của chiến tranh trong năm 1942.
Để thực hiện các kế hoạch chiến lược này phía Đức ra lệnh phòng ngự chiến lược tích cực tại tất cả các mặt trận khác tại cánh bắc và trung tâm mặt trận Xô – Đức, dồn lực lượng chủ lực xuống phía nam. Tại cánh nam mặt trận Bộ tư lệnh tối cao Đức cải tổ chỉ huy: bãi bỏ cụm tập đoàn quân Nam từ hồi đầu chiến tranh và thành lập hai cụm tập đoàn quân mới là "cụm tập đoàn quân A" để tấn công chiến dịch Kavkaz bao gồm tập đoàn quân xe tăng số 1, số 4 và hai tập đoàn quân dã chiến của Đức số 11 và 17, tập đoàn quân số 8 của Ý, cụm này do thống chế Wilhelm List chỉ huy. Để thực hiện nhiệm vụ tiến công về phía sông Đông và sông Volga Đức cho thành lập "cụm tập đoàn quân B" gồm tập đoàn quân xe tăng số 4 (cuối tháng 7 được điều từ cụm A sang), hai tập đoàn quân dã chiến số 2 và số 6 của Đức, tập đoàn quân số 2 của Hungary sau này có thêm tập đoàn quân số 3 và 4 của Romania, cụm này do thống chế Fedor Von Bock được điều chuyển từ cụm tập đoàn quân Trung tâm về chỉ huy.
Đến đầu tháng 6 năm 1942 các việc triển khai lực lượng về phía nam của Đức đã cơ bản hoàn thành.
Kế hoạch tấn công miền nam Liên Xô của Bộ tư lệnh tối cao Đức Quốc xã chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan và quân Đức đã hành động trái với nguyên tắc tập trung binh lực của nghệ thuật quân sự: quân Đức thực hành tấn công theo hai hướng tách rời nhau rất xa là điều kiện để bị đối phương bao vây tiêu diệt sau này. Các tướng lĩnh Đức đã cảnh báo Hitler nhưng ý kiến này đã không được Führer chấp nhận.
Kế hoạch 1942 của Hồng quân
Đầu tháng 3 sau các thắng lợi tạm thời trong giai đoạn tấn công đầu năm 1942, tại Bộ tổng tư lệnh tối cao Xô Viết đã có sự chủ quan và đánh giá thấp, quá đơn giản về quân đội Đức một đối thủ đầy bản lĩnh, kỷ luật, nguy hiểm cho đến ngày cuối cùng và luôn chứa đựng sự bùng phát không thể ngờ. Trong khi Bộ tổng tham mưu đứng đầu là Tổng tham mưu trưởng Boris Mikhailovich Shaposhnikov cùng phó tổng tư lệnh tối cao G.K Zhukov có quan điểm thận trọng, đề nghị trong mùa hè 1942 chỉ tấn công tại khúc lồi Rzhev – Viazma còn trên toàn mặt trận sẽ phòng ngự chiến lược để tích luỹ lực lượng dự bị còn đang rất thiếu của quân đội Xô Viết. Nhưng Tổng tư lệnh tối cao Stalin muốn tấn công trên toàn mặt trận để đánh bại quân đội Đức ngay trong năm 1942 và ý kiến cuối cùng của Tổng tư lệnh tối cao đã hình thành kế hoạch chiến lược của Hồng quân trong năm này. Đó là tổng tấn công trên toàn tuyến mặt trận tại Crimea, Leningrad, Rzhev, Demiansk, Smolensk, Lgov – Kursk. Đồng thời Bộ tư lệnh tối cao và Bộ Tổng tham mưu đều nhất trí rằng hướng hoạt động chủ đạo của quân Đức trong năm 1942 sẽ vẫn là tại khu vực trung tâm mặt trận trên hướng Moskva. Lãnh đạo quân sự Xô Viết cũng không nhận được tin tức tình báo gì cảnh báo sự tập trung binh lực lớn của Quân đội Đức tại cánh nam chiến trường.
Do đó kế hoạch chiến lược 1942 của Xô Viết được hiện thực hoá bằng hàng loạt các trận tấn công của quân đội Xô Viết cho đến tháng 6 năm 1942 như các chiến dịch Demiansk, chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942) và chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya... Do thiếu sự hiểu biết cần thiết và chủ quan về đối thủ, lại không có lực lượng dự bị cho tham vọng quá lớn, các chiến dịch tấn công đầu hè 1942 của quân đội Xô Viết đều đã thất bại: hoặc thương vong quá lớn mà không đạt được kết quả như tại khúc lồi Rzhev-Viazma và tại Demiansk, hoặc bị quân Đức phản công đánh tan như chiến dịch Crimea và Kharkov. Và do dự đoán sai hướng hoạt động của quân địch nên khi quân Đức tấn công quy mô lớn tại cánh nam chiến trường mùa hè 1942 thì tại đó Hồng quân lại không có lực lượng dự bị để đối phó, kết quả là quân Đức tiến công được rất xa chiếm được vùng lãnh thổ rất rộng lớn.
Đức tấn công tại cánh nam chiến trường Xem chi tiết Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya, Chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942), Chiến dịch Voronezh (1942), Chiến dịch Kavkaz, chiến dịch Blau.
Cuộc tấn công mùa hè của Đức được mào đầu bằng hai chiến thắng lớn trước quân đội Xô Viết Chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942) và chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya.
Chiến dịch Krym-Sevastopol (1941-1942): ngay từ tháng giêng 1942 Quân đội Xô Viết tại Bán đảo Taman từ phía Kavkaz đổ bộ sang bán đảo Kerch của Crimea ba tập đoàn quân và thành lập phương diện quân Crimea tư lệnh trung tướng D.T. Kozlov để giải cứu thành phố Sevastopol đang bị Đức bao vây. Trong 3 tháng phương diện quân này ba lần tấn công về phía Sevastopol nhưng đều bị chặn lại và phải chuyển sang phòng ngự. Ngày 8 tháng 5 tập đoàn quân 11 Đức tại Crimea của đại tướng Erich von Manstein với lực lượng ít hơn, phát hiện điểm yếu trong phòng ngự của đối phương tại cánh nam giáp biển đã kiên quyết chủ động tấn công và sau 12 ngày đã đánh tan phương diện quân Crimea, buộc Hồng quân phải bỏ Kerch, rút chạy vội vã sang bán đảo Taman. Quân Đức bắt 11 vạn tù binh và toàn bộ vũ khí khí tài của Hồng quân. Trận đánh này đã thể hiện rõ nét tài năng cầm quân của Manstein, một trong những vị chỉ huy giỏi nhất của Đức Quốc xã. Vì thất bại của phương diện quân Crimea, đến 4 tháng 7 năm 1942, Sevastopol đã thất thủ sau gần 1 năm cố thủ.
Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya: là chiến thắng lớn của tập đoàn quân số 6 tư lệnh đại tướng Friedrich Paulus kết hợp cùng tập đoàn quân xe tăng số 1 của Paul Ludwig Ewald von Kleist chống lại phương diện quân tây nam do nguyên soái Liên Xô Semyon Konstantinovich Timoshenko chỉ huy. Ngày 12 tháng 5 năm 1942, không hề biết gì về lực lượng lớn của Đức tập trung tại cánh nam chiến trường, Hồng quân tổ chức chiến dịch lớn Kharkov, phương diện quân tây nam tấn công hai mũi về hướng thành phố Kharkov. Sau 4 đến 5 ngày tấn công Hồng quân đã tiến sâu được 50 – 60 km tại mũi tấn công chính. Ngày 17 tháng 5 tập đoàn quân số 6 Đức tấn công mãnh liệt vào sườn phải và cánh quân Kleist đánh vào sườn trái mũi tấn công chính của Hồng quân. Ngày 23 tập đoàn quân số 6 và cánh quân Kleist đã gặp nhau tại khu vực bàn đạp Barvenkovo đã bao vây chặt mũi tấn công chính của Hồng quân, đồng thời tập đoàn quân số 6 Đức cũng bao vây được mũi tấn công thứ hai của đối phương. Ngày 29 tháng 5 toàn bộ lực lượng tấn công của phương diện quân tây nam đã bị tiêu diệt gọn với tổn thất khoảng 20 vạn binh sĩ và vũ khí, khí tài.
Các trận Crimea và Kharkov là các thắng lợi rất lớn đầu tiên của Đức trong năm 1942 mở đầu cho đợt tấn công mùa hè của quân đội Đức.
Chiến dịch Kavkaz
Sau các chiến thắng tại Crimea và Kharkov, quân đội Đức tổ chức tổng tấn công quy mô rất lớn tại phía nam chiến trường. Đầu tiên là chiến dịch Voronezh đầu tháng 7 phá tung trận tuyến sông Đông của Hồng quân sau đó cụm tập đoàn quân B của Đức triển khai tấn công tại trung lưu sông Đông theo hướng đông về phía sông Volga để chiếm Stalingrad và sau đó là trận Stalingrad nổi tiếng.
Còn cụm tập đoàn quân A từ 25 tháng 7 lấy bàn đạp là hạ lưu sông Đông từ khu vực Rostov tấn công phương diện quân Nam Xô Viết theo hướng đông – nam và sau đó theo hướng nam tràn vào Bắc Kavkaz và tiến đến dãy núi Kavkaz theo kế hoạch phải chiếm được các đèo ngang để đột phá tới biển Kaspi chiếm Baku và để đánh thông ra bờ biển đen.
Chiến dịch này mang mật danh của Đức là chiến dịch Edelweiss theo ý đồ của Bộ tổng tư lệnh tối cao Đức đây phải là hành động quân sự có tầm quan trọng chiến lược số 1 của chiến cuộc mùa hè năm 1942. Nhưng do sự chỉ đạo chiến lược thiếu nhất quán của Hitler và quan trọng hơn cả quân Đức đã đánh giá sai lực lượng của mình và đối phương nên chiến dịch này trong quá trình thực hiện đã không còn được coi là ưu tiên số 1 của Bộ tổng tư lệnh tối cao Đức, lực lượng của nó được đưa sang hướng chiến trường Stalingrad là hướng phụ trợ nay thành hướng chủ lực. Chiến dịch bế tắc trong tấn công vào các mục tiêu chính và cuối cùng trong năm 1943 khi quân đội Xô Viết phản công quân Đức phải rút lui khỏi Kavkaz mà không đe dọa được gì cho nguồn dầu lửa Kavkaz của Liên Xô và các mục tiêu chính trị của chiến dịch cũng không hoàn thành.
Cuộc tấn công ban đầu của chiến dịch kavkaz của Đức rất thuận lợi. Tại phía nam chiến trường Xô – Đức hoá ra không hề có lực lượng dự bị nào đáng kể của quân đội Xô Viết, và điều đặc biệt địa hình ở đây là các thảo nguyên rộng lớn rất thưa dân của các tỉnh Stavropol và Krasnodar và Kuban rất thuận lợi cho các tập đoàn quân xe tăng số 1 và số 4 của Đức tấn công cơ động. Vào cuối tháng 7 Hitler ra lệnh điều tập đoàn quân xe tăng số 4 sang cụm B để tăng cường tấn công Stalingrad, tuy mất một nửa số xe tăng nhưng tốc độ tấn công của Đức cũng vẫn rất cao: trong vòng một tháng đến cuối tháng 8 quân Đức chiếm một vùng rất rộng lớn dài rộng hàng 500 – 600 km. Quân đội Xô Viết tại chiến trường này hoàn toàn không có tuyến phòng thủ nào và Hồng quân cũng không định lập tuyến cố thủ đánh nhau với xe tăng Đức trên thảo nguyên: quân Đức như đi vào chỗ không người, Hồng quân chỉ cố gắng dùng các đơn vị kỵ binh cơ động nhẹ tập kích các cơ cấu hậu cần của Đức để cản tốc độ tấn công của quân Đức và cũng không có đơn vị lớn nào của Xô Viết bị tiêu diệt.
Bộ tổng tư lệnh tối cao Hồng quân đã chọn tuyến cố thủ rất xa về phía nam tại tuyến sông Terech đi qua Chesnia ngày nay, tựa lưng vào dãy núi lớn Kavkaz với các căn cứ điểm tựa chính là Makhachkala, Groznyi và Orzhonikidze. Các đơn vị Xô Viết trật tự kéo về tuyến sông Terech, Hồng quân chốt chặn tất cả các đèo ngang qua dãy núi lớn Kavkaz đón đợi quân Đức. Khi đã chiếm hết vùng thảo nguyên và đồng bằng Bắc Kavkaz, đụng phải tuyến Terech quân Đức đã chững lại và không có cách gì xuyên phá được tuyến phòng thủ của phương diện quân Ngoại Kavkaz Xô Viết của tư lệnh đại tướng Ivan Vladimirovich Tiulenev. Mọi cố gắng của Đức nhằm xuyên phá tới biển Kaspi hoặc đánh thông ra bờ Biển Đen đều thất bại: ở đây xe tăng - thiết giáp vô dụng vì bị kẹt giữa các ngọn núi, quân số đông cũng không có đủ diện tích để triển khai, trong khi kỹ năng của bộ binh sơn cước người bản địa của Xô Viết vượt xa đối phương. Chiến dịch Kavkaz của Đức đã bế tắc, chiến tuyến bình ổn tại tuyến Novorossisk – đông bắc Tuapse – đèo Marukh – Elbrus – Nalchik – Mozdok...
Tháng 1 năm 1943, khi có nguy cơ bị vây chặt tại Kavkaz, quân Đức tại đây đã bắt đầu rút bỏ hầu hết lãnh thổ Kavkaz rút lui về cố thủ bán đảo Taman lập "phòng tuyến xanh" tại đây. Giữa tháng 9 năm 1943 Hồng quân chọc thủng "phòng tuyến xanh" chiếm Novorossisk, quân Đức rút hết về bán đảo Crimea.
Sau này có nhiều ý kiến cho rằng tại Kavkaz quân Đức thất bại vì phải chia bớt lực lượng cho hướng Stalingrad của cụm tập đoàn quân B. Nhưng trên thực tế xe tăng, thiết giáp Đức và quân số chỉ có ý nghĩa khi tấn công trên đồng bằng bắc Kavkaz. Khi tiếp cận dãy núi Kavkaz, những lực lượng này không còn hiệu quả nữa, quân Đức chỉ có thể tấn công bằng bộ binh leo chậm chạp trên những sườn núi hẹp và dốc. Với lợi thế địa hình, quân phòng thủ Xô Viết rất bình tĩnh, tự tin bẻ gãy mọi nỗ lực đột phá của quân Đức. Về thực chất, đánh chiếm Kavkaz là nhiệm vụ quá cao đối với Bộ tổng tư lệnh tối cao của Hitler, kể cả khi Đức tập trung mọi lực lượng vào đây.
Ngay trước và sau khi Đức tấn công Kavkaz, Stalin để đề phòng sự nổi dậy theo quân Đức tại hậu tuyến Xô Viết của một số tộc người thiểu số chống Xô Viết như người Thổ và người Chechens Kavkaz, người Tartar Crimea, nên đã ra lệnh di cư cưỡng bức các tộc người này sang Trung Á, chỉ sau khi Stalin chết họ mới quay về quê hương bản quán. Các vấn đề sắc tộc này luôn gay gắt cho Liên Xô và Nga sau này và cũng là một nguyên nhân gây mâu thuẫn sắc tộc sâu sắc, tạo nên cuộc chiến tranh Nga - Chesnia vào cuối thế kỷ XX.
Trận Stalingrad
Từ 22 tháng 6 đến 6 tháng 7 năm 1942 quân Đức mở đầu tấn công lớn tại phía nam chiến trường bằng trận Voronezh: tập đoàn quân xe tăng số 4 của Hermann Hoth đánh tan và đẩy lùi lực lượng của phương diện quân tây nam và phương diện quân Voronezh, chiếm Voronezh. Quân Đức đã đánh thủng được phòng tuyến Sông Đông của quân đội Xô Viết tiến đến bờ sông Đông loại bỏ được mối nguy hiểm bị Hồng quân đánh vào sườn trái từ bàn đạp này.
Bắt đầu từ đầu tháng 7 năm 1942 cụm tập đoàn quân B của Đức với lực lượng chủ lực là tập đoàn quân dã chiến số 6 của đại tướng Paulus phát triển tấn công ào ạt tại vùng trung lưu Sông Đông về phía đông hàng trăm km hướng đến phía sông Volga. Ngày 17 tháng 7 năm 1942 các đơn vị tiên phong của Tập đoàn quân số 6 Đức đã giao chiến với các đơn vị phòng thủ Stalingrad tại tuyến phòng thủ sông Chir và sông Shimla trận đánh lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến bắt đầu. Ban đầu phía Đức chỉ có 13 sư đoàn với 27 vạn quân, đến đỉnh điểm trận đánh Đức đã huy động vào đây 80 sư đoàn với hơn 1 triệu quân, phía Liên Xô cũng điều quân dự bị đến, chiến trường Stalingrad trở thành trọng tâm của mặt trận: có trên 2,3 triệu quân cả hai bên tham chiến vào lúc cao điểm, quy mô vượt cả trận Moskva.
Lại một lần nữa người Nga kêu gọi "Tổ quốc lâm nguy". Một mặt Bộ tổng chỉ huy Xô Viết liên tiếp ném thêm các đơn vị mới thành lập vào chiến đấu để hãm đà tiến công của địch, mặt khác áp dụng mệnh lệnh "Không lùi một bước". Các công tác Đảng và chính trị được thi hành tại chiến hào để nâng cao tinh thần cho binh sĩ và kỷ luật được siết chặt: bất cứ một chiến sĩ, sĩ quan nào tự ý rút lui mà không có mệnh lệnh hoặc văn bản công vụ đều bị bắt giữ hoặc xử bắn ngay tại trận.
Để ngăn chặn tập đoàn quân số 6 của địch đang tiến đến Stalingrad từ phía tây và tây bắc, phía Xô Viết cho thành lập Phương diện quân Stalingrad từ (28 tháng 9 đổi tên thành phương diện quân Sông Đông) gồm 3 tập đoàn quân 21, 62, 63. Để chống lại tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức tấn công từ phía nam và tây nam Hồng quân cho thành lập phương diện quân Đông Nam (từ 28 tháng 9 đổi tên thành phương diện quân Stalingrad) gồm các tập đoàn quân 51, 57, 64. Hai phương diện quân Xô Viết này vừa chống đỡ và lùi dần về phía thành phố ngăn không cho quân Đức ào tới bờ sông Volga.
Trong thời gian từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 9, chiến sự đặc biệt ác liệt và đẫm máu cả trên mặt đất và trên không: cả hai bên đã chiến đấu hết sức dũng cảm và quên mình. Quân Đức một mặt theo lệnh của Führer (Lãnh tụ, tức Hitler) phải chiếm bằng được thành phố mang tên Stalin biểu tượng của quân thù, mặt khác họ hiểu được tầm quan trọng phải chiếm thành phố làm chỗ trú chân cho mùa đông đang đến gần. Quân Đức tiến công rất mãnh liệt và dũng cảm. Quân đội Xô Viết cũng tử thủ rất anh hùng và kiên cường vì họ đã được lệnh giữ thành phố bằng mọi giá, bởi mất Stalingrad thì coi như mất toàn bộ miền Nam nước Nga. Cuộc chiến ở đây là đỉnh cao không khoan nhượng, cả hai bên đều không chấp nhận bắt tù binh.
Ngày 23 tháng 8 sau khi tập đoàn quân 6 Đức đột phá được tới bờ sông Volga ở phía bắc thành phố, tình thế của quân phòng thủ tưởng như hết hy vọng. Họ đã bị bao vây tất cả các phía, mà sau lưng là sông lớn Volga nhưng tập đoàn quân 62 và 64 Hồng quân vẫn đứng vững, hơn nữa bắt đầu từ giữa tháng 9 quân Đức đã đi được vào thành phố, quân đội Xô Viết tiếp tục phòng thủ quên mình trong thành phố. Từng ngôi nhà, từng tầng hầm để chiếm được đều phải đánh nhau đẫm máu giành đi giật lại nhiều lần, các bên giành giật từng tấc đất. Đồng thời Liên Xô liên tục tiếp viện cho quân phòng thủ từ phía Volga: các đơn vị liên tiếp được đưa vào chiến đấu, cho dù vượt sông vào thành phố đi liền với thương vong rất lớn. Trong trận đánh phòng thủ Stalingrad, nổi bật nhất là tập đoàn quân 62 – Tư lệnh: Trung tướng Vasily Ivanovich Chuikov của phương diện quân Stalingrad. Đơn vị này đã đứng vững trong thành phố xen kẽ với quân Đức, bảo vệ từng căn phòng, từng góc phố đã bị hoàn toàn phá huỷ. Ngày 15 tháng 10 quân Đức ngay trong thành phố đột phá tới sông Volga tại phía nam nhà máy Baricada, nhưng cũng chính vào lúc này sức mạnh tiến công của tập đoàn quân 6 đã cạn kiệt. Chiến sự đi vào ổn định - quân Đức đã đi quá xa nguồn tiếp tế của mình và việc đánh nhau trong thành phố đã làm quân Đức đã mất hết lợi thế tấn công cơ động và hoả lực.
Việc đánh chiếm thành phố vẫn tiếp tục cho đến 18 tháng 11 năm 1942 nhưng không thành công. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã đến, quân Đức đã bị sa lầy - họ không thể chiếm thành phố mà mùa đông đã tới, với lại họ ở quá xa các lực lượng tiếp ứng của mình. Tình hình quân Đức thực sự đã nguy ngập chí ít thì cũng báo hiệu cái gì đó như mùa đông năm 1941.
Trong khi phía Đức đang sa lầy trong việc chiếm thành phố thì Hồng quân đã tập trung một lực lượng lớn sẵn sàng phản công. Kế hoạch tấn công đã được Bộ tổng tư lệnh quân đội Xô Viết soạn thảo kỹ lưỡng có tính đến những kinh nghiệm xương máu trong hơn một năm thất thế của quân đội Xô Viết. Trong việc soạn thảo kế hoạch này có dấu ấn cá nhân rất lớn của Đại tướng Georgi Konstantinovich Zhukov và thượng tướng Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky. Và lần này, cũng như mùa đông 1941 trong trận phản công tại Moskva, các lực lượng nòng cốt để phản công lại là các sư đoàn mới tinh, giàu sức sống của các quân khu Siberia và Viễn Đông được điều tới. Ngày 19 tháng 11 năm 1942, quân đội Xô viết tổng phản công bằng hai mũi thọc sâu bằng xe tăng kết hợp cùng bộ binh cơ giới đánh vào hai sườn của tập đoàn quân số 6 của Paulus. Việc lựa chọn điểm đột kích cũng rất hợp lý: đánh vào các vị trí bố phòng của các đơn vị Hungary, Ý và Romania là các đơn vị có sức chiến đấu và tinh thần kém xa so với quân Đức. Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng Xô Viết đã gặp nhau tại khu vực Kalach và đã hợp vây hoàn toàn tập đoàn quân này. Có khoảng 330.000 quân Đức của 22 sư đoàn thuộc tập đoàn quân số 6 và một phần tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức đã rơi vào vòng vây siết chặt.
Đồng thời với vòng vây phía trong, quân đội Xô Viết cũng tiến nhanh về phía tây và tây nam để thành lập luôn vòng vây phía ngoài sẵn sàng đánh quân giải cứu. Adolf Hitler ra lệnh cho tư lệnh cụm tập đoàn quân "Sông Đông" mới thành lập của Thống chế Erich von Manstein, bằng mọi cách giải vây cho tập đoàn quân số 6. Mọi nỗ lực giải vây của Bộ chỉ huy Đức đều thất bại. Các mũi xe tăng Đức gặp phải vòng vây bên ngoài rất rắn chắc và linh hoạt của đối phương và đã không thể gặp được quân bị vây dù chỉ còn cách 40–45 km, đồng thời Liên Xô phát động các chiến dịch tấn công tại các mặt trận khác để thu hút lực lượng dự bị của Đức. Phía bên trong vòng vây, tập đoàn quân số 6 của quân Đức đã từ chối tối hậu thư đầu hàng, tuy kháng cự dũng cảm nhưng thiếu tiếp tế, bị cô lập, lại bị đối phương chia cắt thành hai phần không liên lạc được với nhau nên sức yếu dần bị tiêu diệt gần hết. Đến 2 tháng 2 năm 1943 bộ phận còn lại đã đầu hàng. Hơn 20 vạn lính Đức tử trận chỉ trong 1 tháng cuối cùng của trận đánh, Thống chế Paulus và gần 10 vạn lính Đức còn lại bị bắt làm tù binh.
Đây đã là bước ngoặt của chiến tranh: khoảng một triệu quân Đức đã bị mất trong một trận đánh tiêu diệt lớn, các bộ phận còn lại của quân Đức vội vã tháo lui khỏi miền Kavkaz để tránh bị bao vây. Không còn ai còn nghi ngờ vào chiến thắng cuối cùng của Liên Xô nữa.
Sau khi bao vây và tiêu diệt được khối quân Đức tại Stalingrad cuộc tấn công của Hồng quân phát triển thành tổng tấn công trên toàn mặt trận Xô – Đức trong các tháng đông – xuân 1942 – 1943. Lại một lần nữa quyền chủ động tấn công chiến lược lại về tay quân đội Xô Viết.
Năm 1943: Bước ngoặt của chiến tranh
Sau thất bại ở trận Stalingrad và phải rút quân khỏi Chiến dịch Kavkaz, mục tiêu đánh bại Liên Xô của kế hoạch Blau hoàn toàn phá sản. Mặc dù vẫn duy trì ở mặt trận Xô-Đức 204 trong tổng số 298 sư đoàn nhưng chất lượng quân đội Đức Quốc xã không còn như những năm 1941-1942. Thương vong đến hơn 3 triệu quân chỉ trong vòng 1 năm rưỡi đã lấy đi của quân đội này những đơn vị thiện chiến cùng với một số tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm trận mạc như Walther von Reichenau, Carl-Heinrich von Stülpnagel, Eugen Ritter von Schobert, Friedrich Paulus. Chỉ tính riêng từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1943, thương vong của phe Đức ở Mặt trận phía đông lên tới 689.260 người, trong khi chỉ bổ sung được 370.700 người. Trước hoàn cảnh đó, quân đội Đức Quốc xã đã phải điều động sang chiến trường Xô- Đức 68 sư đoàn không thuộc thành phần lục quân như không quân dã chiến, quân bảo vệ, quân dự bị và cả quân của các nước đồng minh của Đức như Ý, Tây Ban Nha, Phần Lan, Rumania, Hungary. Trong bản báo cáo ngày 9 tháng 3 năm 1943, Thượng tướng Heintz Guderian, Tổng thanh tra các lực lượng xe tăng Đức đã viết: "Tiếc rằng hiện giờ, chúng ta không còn một sư đoàn nào có đầy đủ sức chiến đấu"..
Bước sang năm 1943, tổng động viên được Đức đẩy mạnh, thậm chí cả những người trên 50 tuổi cũng bị gọi vào quân đội. Vào mùa hè năm 1943, quân số quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông đã là 4,8 triệu quân, chiếm 71% tổng quân số của quân đội Đức Quốc xã. Ngoài ra, quân đội các nước chư hầu của nước Đức Quốc xã cũng có 525.000 quân. Tổng số đơn vị phía Đức trên mặt trận Xô - Đức tháng 6 năm 1943 có 232 sư đoàn, trên 54.000 pháo và súng cối, trên 5.800 xe tăng và pháo tấn công, gần 3.000 máy bay và 277 tàu chiến. Mặc dù đã rút nhiều binh đoàn lớn từ Tây Âu, Đông Âu và ngay trong nước Đức để điều sang mặt trận phía đông nhưng quân đội Đức Quốc xã vẫn không thể nào đạt đến quân số như mùa thu năm 1942 trước thời điểm diễn ra trận Stalingrad.
Đến thời điểm này, so sánh lực lượng đã nghiêng về phía Hồng Quân cả về số lượng lẫn chất lượng:
Quân số Hồng Quân không ngừng được tăng cường. Nhờ dân số đông, lãnh thổ lớn, Liên Xô không gặp khó khăn trong việc huy động thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự. Trong khi đó để duy trì quân số hàng triệu người cho cuộc chiến có tốc độ sát thương quá cao, Đức Quốc xã trong những năm cuối chiến tranh đã phải mở rộng độ tuổi nghĩa vụ quân sự đến 45 tuổi. Và vào cuối chiến tranh, Đức đã không còn đủ nhân lực phải huy động cả thiếu niên đi chiến đấu. Điều này làm cho không những số lượng mà chất lượng binh sĩ của quân Đức trong những năm cuối chiến tranh giảm sút rất trầm trọng.
Nền công nghiệp chiến tranh của Xô Viết từ giữa năm 1942 đã ổn định và phát triển rất nhanh và mạnh tại miền đất nước bên kia dãy Ural. Năm 1943, sản lượng vũ khí của Liên Xô đã ngang bằng với Đức và vẫn tiếp tục tăng tốc mạnh mẽ cho tới hết chiến tranh, đã cung cấp cho quân đội số lượng vũ khí ngày càng nhiều với số lượng vượt xa mức vũ trang của quân Đức. Nhiều loại vũ khí mới của Liên Xô so với Đức cũng vượt trội về tính năng chiến đấu như các loại xe tăng hạng trung, hạng nặng T-34, KV (Kirovets), IS-2 (Iosif Stalin), các loại máy bay tiêm kích, cường kích như Yak, La, Il, và các loại pháo binh... Khi đã có số lượng lớn vũ khí để đáp ứng các nhu cầu tác chiến hiện đại quân đội Xô Viết cũng tổ chức thành các tập đoàn quân không quân, tập đoàn quân xe tăng và cơ giới lớn và các tập đoàn quân binh chủng hợp thành.
Trình độ tác chiến của sĩ quan, binh lính của Xô Viết đã trưởng thành trên cơ sở kinh nghiệm xương máu của những thất bại và thành công, kết hợp cùng với các tinh hoa quân sự học được của đối phương. Các sĩ quan, tướng lĩnh Hồng quân đã nắm vững các vấn đề cơ bản của chiến tranh hiện đại như chiến dịch không quân tranh đoạt và duy trì quyền làm chủ trên không; tác chiến phối hợp quân, binh chủng không quân – pháo binh – bộ binh – thiết giáp; chiến dịch tấn công chiều sâu; chiến dịch phòng ngự chiều sâu; hậu cần trong các chiến dịch tấn công và phòng ngự...
Binh lính Hồng quân đã từng trải qua các giai đoạn khó khăn nhất của thất bại nay chiến đấu ở thế mạnh lại càng tự tin tinh thần chiến đấu, kỷ luật rất cao.
Từ năm 1943 và về sau quân đội Xô Viết đã khác xa về chất so với những năm đầu chiến tranh: Hồng quân có số lượng đông đảo, trang bị hiện đại, trình độ tổ chức hoàn hảo, kỷ luật và tinh thần chiến đấu rất cao. Những thay đổi về chất này đã đảm bảo bước ngoặt cho chiến tranh giành quyền làm chủ chiến trường về phía Hồng quân. Từ năm 1943 đến cuối chiến tranh, quân đội Xô Viết luôn chiến đấu trong thế mạnh áp đảo đối với quân Đức và tiến tới thắng lợi cuối cùng.
Trận Kursk
Sau trận Stalingrad và đợt tổng tấn công đông-xuân năm 1942 – 1943 của Xô Viết. Bộ chỉ huy tối cao Đức quyết định mùa hè năm 1943 sẽ tổ chức trận đánh tiêu diệt khối chủ lực lớn của Hồng quân để xoay chuyển tình thế giành lại thế chủ động tấn công chiến lược từ tay quân đội Xô Viết, chiến dịch được mang mật danh "Citadel" (Pháo đài). Phía Đức hi vọng chiến dịch sẽ thắng lợi nhờ vào thời tiết mùa hè và các loại vũ khí tiên tiến lần đầu tiên ra trận: xe tăng "Con Báo", "Con Cọp" và pháo tự hành diệt tăng "Ferdinand" (Con Voi) với hỏa lực và vỏ giáp vượt trội hơn hẳn các loại xe đời cũ. Điểm quyết chiến là khu vực trung tâm mặt trận tại vòng cung Kursk vì ở đây hình dạng chiến tuyến mặt trận rất thuận lợi cho một chiến dịch tấn công bao vây: phòng tuyến của quân đội Xô Viết tạo thành một vòng cung lồi ăn sâu về phía quân Đức: có đáy vòng cung là đường nối 3 thành phố Oryol – Kursk – Belgorod. Thành phố Oryol (Орёл) ở phía bắc và Belgorod (Белгород) ở phía nam vòng cung và nằm trong tay quân Đức, còn Kursk (Kypck) là thành phố trung tâm nằm trong lòng hậu phương quân phòng thủ Xô Viết. Quân Đức dự định bằng hai mũi tiến công từ Belgorod và Oryol đánh thẳng đến Kursk cắt khúc lồi vòng cung Kursk, bao vây và tiêu diệt số quân Xô Viết bố trí tại đây.
Cánh quân phía bắc là của cụm tập đoàn quân Trung tâm do thống chế Đức Günther von Kluge chỉ huy theo kế hoạch sẽ từ Oryol đánh thẳng xuống phía nam theo phương Oryol – Kursk, chiều sâu đột phá khoảng 100 km.
Cánh nam từ Belgorod là lực lượng của cụm tập đoàn quân Nam do thống chế Erich von Manstein sẽ đánh lên phía bắc theo phương Belgorod – Kursk chiều sâu đột phá khoảng gần 200 km.
Các lực lượng quân Đức tại toàn mặt trận là 50 sư đoàn trong đó có 15 sư đoàn xe tăng, tổng cộng khoảng 95 vạn quân, 2.700 xe tăng, 10.000 pháo và súng cối, 2.050 máy bay. Đây là các đơn vị xung kích mạnh nhất của Đức lúc đó tập trung lại. Cánh nam mạnh hơn là mũi tấn công chính có 9 sư đoàn xe tăng thiện chiến và sung sức nhất của Đức trong đó có 3 sư đoàn xe tăng SS – "Đầu lâu chết", "Adolf Hitler" và "Đế chế". Do các khúc mắc trong khâu chuẩn bị nên kế hoạch tiến công đã bị lùi lại khoảng 2 tháng và yếu tố bất ngờ đã không còn. Tình báo Xô Viết đã biết trước về ý định và thời điểm tiến công và quân đội Xô Viết đã tích cực phòng bị.
Phía quân đội Xô Viết đối mặt với khối quân cánh bắc của Đức là phương diện quân Trung tâm – tư lệnh: đại tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky, đại diện đại bản doanh: nguyên soái Georgi Konstantinovich Zhukov).
Đối mặt với cánh nam của Đức là phương diện quân Voronezh – tư lệnh: đại tướng Nikolai Fyodorovich Vatutin, đại diện đại bản doanh: nguyên soái Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky.
trong hậu tuyến phòng ngự có phương diện quân Thảo nguyên của tư lệnh: Thượng tướng Ivan Stepanovich Koniev làm dự bị chiến dịch và để phản công sau này.
Số lượng quân đội Xô Viết phòng ngự tại khu vực vòng cung Kursk lên đến khoảng 1,2 triệu binh sĩ, 20.000 pháo và cối, 3.600 xe tăng và pháo tự hành, 2.370 máy bay. Ngoài ra còn có 700.000 binh sĩ và 2.000 xe tăng làm lực lượng dự bị. Các lực lượng bộ binh, pháo binh và không quân về phía Liên Xô đều vượt trội hơn về số lượng so với phía Đức, tuy nhiên về xe tăng thì quân Đức có nhiều xe tăng hạng nặng hơn.
Quân đội Xô Viết chủ trương chủ động chuyển sang phòng ngự dựa vào trận tuyến phòng thủ chống tăng có chiều sâu nhiều tầng nhiều lớp bẻ gãy và tiêu hao mũi nhọn xe tăng thiết giáp của đối phương sau đó chuyển sang phản công. Để chống lại lực lượng tiến công của Đức phía Liên Xô đã biến vòng cung Kursk thành một trận địa phòng ngự chống tăng vô cùng kiên cố có nhiều tầng lớp có chiều sâu hơn 100 km dày đặc các vật cản, mìn chống tăng, hàng rào, mìn chống bộ binh và hệ thống liên hoàn các vị trí pháo chống tăng, bộ binh phòng ngự bố trí theo chiều sâu với nhiều tuyến chiến hào. Ngay phía sau là các tập đoàn quân xe tăng và bộ binh cơ giới làm nhiệm vụ dự bị sẵn sàng cơ động trám lỗ bị quân địch chọc thủng.
Ngày 5 tháng 7 năm 1943 trận đánh bắt đầu: Ngay khi quân Đức còn đang chuẩn bị tấn công, Hồng quân dùng pháo binh cấp tập phủ đầu vào các vị trí bàn đạp tấn công của Đức. Đòn pháo binh phản chuẩn bị này đã rất hiệu quả: quân Đức đã chịu tổn thất rất lớn và phải hoãn tiến công lại nhiều giờ và khi tiến công không còn độ sắc bén vốn có nữa.
Cuộc tiến công của Đức sau đó đã diễn ra rất vất vả không còn sắc nhọn xuyên phá như vốn có của quân đội Đức trước đây nữa. Trong 1 tuần ở cánh bắc của thống chế Kluge chỉ thâm nhập được vào trận địa địch 15–20 km và có chỗ còn bị đối phương phản công đánh bật trở lại. Tại cánh nam quân Đức sắc bén hơn nhưng cũng không tạo nên được đột phá. Sau 1 tuần cũng chỉ tiến sâu được 40–50 km. Cuộc chiến diễn ra rất căng thẳng trên mặt đất và trên không.
Ngày 11 tháng 7 hai phương diện quân Tây và Bryansk của quân đội Xô Viết bắt đầu phản công. Đây là các lực lượng phía bắc tiếp giáp với vòng cung Kursk đe doạ đánh vào sườn trái cánh quân Kluge, cánh Bắc của thống chế Kluge đã ngừng tấn công và chuyển sang phòng ngự. Để tạo đột phá cho chiến dịch và giải gánh nặng cho cánh bắc của thống chế Kluge, ngày 12 tháng 7 quân Đức tung toàn lực xe tăng thiết giáp còn lại vào trận tại cánh nam của thống chế Manstein. Xe tăng Đức đã chọc thủng được phòng thủ của phương diện quân của Vatutin và tiến lên phía bắc hướng đến Kursk. Đứng trước tình hình quân Đức chọc thủng phòng tuyến, cùng ngày Bộ chỉ huy Xô Viết quyết định tung quân dự bị là tập đoàn quân xe tăng số 5 của tư lệnh: trung tướng Pavel Alekseyevich Rotmistrov và tập đoàn quân cận vệ số 5 của trung tướng Aleksey Semenovich Dzadov của phương diện quân Thảo nguyên vào chiến đấu để vô hiệu hoá mũi xe tăng đang định thọc sâu của quân Đức.
Các đơn vị xe tăng hai bên lăn xả vào nhau tại làng Trận Prokhorovka, trở thành trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại, trận đấu tăng này có khoảng 1.200 xe tăng và pháo tự hành diệt tăng của hai phía tham gia đánh nhau hỗn loạn. Đến cuối ngày phía Đức thiệt hại hơn 300 xe tăng và phía Liên Xô khoảng 500 xe nhưng quân Đức đã kiệt sức không còn lực lượng dự bị để có thể phát triển tiến công được nữa. Hơn nữa vào lúc này quân Đồng minh Anh – Mỹ đã đổ bộ vào Ý, Hitler buộc phải rút bớt các lực lượng xe tăng sang mặt trận Ý và ra lệnh chấm dứt tấn công tại vòng cung Kursk.
Đến lúc này trận Kursk tuy chưa chấm dứt nhưng phía Đức về cơ bản đã thất bại phải lui về phòng thủ từ bỏ tham vọng giành quyền chủ động tiến công và bao vây tiêu diệt cụm quân Kursk của đối phương. Đến đây bắt đầu giai đoạn phản công của quân đội Xô Viết.
Liên tiếp trong hơn 1 tháng tiếp theo quân đội Đức phải giật gấu vá vai các lực lượng vất vả chống đỡ trước sức tiến công của Hồng quân. Tuy đã bỏ tiến công chuyển sang phòng ngự nhưng quân Đức cũng không đủ lực lượng để chống lại các phương diện quân Xô Viết phản công theo một kế hoạch đã được định trước. Đó là các chiến dịch tấn công mang tên Kutuzov và Rumyantsev với sức mạnh áp đảo đối phương. Lần lượt Belgorod (5 tháng 8), Oryol (5 tháng 8) và cuối cùng 23 tháng 8 quân đội Xô Viết chiếm Kharkov, thành phố lớn thứ 2, cố đô của Ukraina thì chiến dịch tiến công của họ mới dừng lại. Chấm dứt giai đoạn phản công và cả trận chiến vòng cung Kursk.
Từ nay trở đi quyền chủ động chiến lược đã nằm chắc trong tay quân đội Xô Viết, cho đến cuối chiến tranh chỉ có phía Xô Viết tấn công chiến lược còn Đức quốc Xã bị động chống đỡ cho tới ngày bị đánh bại hoàn toàn.
Trận đánh sông Dnepr
Xem chi tiết: Trận đánh sông Dnepr, chiến tranh đường ray
Cuối tháng 8 năm 1943, ngay sau trận Kursk, Hồng quân triển khai chiến dịch tấn công chiến lược tại cánh nam chiến trường Xô – Đức nhằm giải phóng Ukraina đó là trận đánh sông Dnepr.
Về phía Đức, sau thất bại tại Kursk quân đội Đức suy yếu toàn diện, để tránh cho khối liên minh phát xít khỏi tan rã, Hitler ra lệnh bằng mọi giá giữ vững những vùng đất còn lại, trong đó Ukraina là ưu tiên số một. Tại đây quân Đức củng cố tuyến phòng thủ được gọi là "bức tường phía đông" dựa vào đoạn trung lưu và hạ lưu sông Dnepr. Tuyến phòng thủ Dnepr của quân Đức có chiều dài trên 1.400 km từ Navlia ở phía bắc đến Taganrog ở phía nam. Bảo vệ "bức tường phía đông" là lực lượng Đức gồm tập đoàn quân số 2 thuộc cụm tập đoàn quân Trung tâm của thống chế Kluge; và các tập đoàn quân xe tăng số 1, số 4, các tập đoàn quân bộ binh số 6 và số 8 của cụm tập đoàn quân Nam của thống chế Manstein. Tổng cộng quân Đức trong trận sông Dnepr có 62 sư đoàn trong đó 14 sư đoàn xe tăng và cơ giới: khoảng hơn 1,2 triệu quân, 13.000 pháo và súng cối, 2.100 xe tăng và pháo tự hành, 2.100 máy bay.
Để chọc thủng tuyến phòng thủ sông Dnepr của Đức, phía Liên Xô huy động lực lượng tới 2,6 triệu quân, hơn 51.200 pháo và súng cối, 2.500 xe tăng và gần 3.000 máy bay của 5 phương diện quân:
Phương diện quân Trung tâm của đại tướng Rokossovsky tấn công theo hướng Chernigov – Gomel – Narovlia.
Phương diện quân Voronezh của đại tướng Vatutin tấn công theo hướng Kiev.
Phương diện quân Thảo nguyên của đại tướng Koniev tấn công theo hướng Poltava – Kremenchug
Phương diện quân tây nam của đại tướng Malinovsky theo hướng Dnepropetrovsk.
Phương diện quân Nam của thượng tướng Tolbukhin theo hướng Melitopol – Crimea.
Với ưu thế áp đảo về mọi mặt, cuối tháng 8 năm 1943, cả năm phương diện quân Xô Viết tấn công đồng loạt trên diện rộng từ Navlia đến Taganrog trên một mặt trận dài 1.400 km. Tuy quân Đức chống cự rất ác liệt nhưng không đủ lực lượng để có thể cản nổi cuộc tấn công. Bộ tổng chỉ huy Đức ngày 15 tháng 9 năm 1943 phải ra lệnh rút toàn bộ lực lượng sang bờ phải sông Dnepr dựa vào "bức tường phía đông" để cố giữ phần đất Ukraina bên bờ phải con sông cùng phần đất sát Biển Đen và bán đảo Crimea, lấy con sông lớn Dnepr làm tuyến phòng thủ.
Trận đánh sông Dnepr bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Để không cho đối phương có thời gian kịp củng cố, Hồng quân ào ạt vượt sông trong hành tiến trên toàn mặt trận dài hơn 700 km: các đơn vị phát huy tất cả các phương tiện vượt sông có thể. Đến cuối tháng 9 Hồng quân đã chiếm hàng chục điểm bàn đạp trên bờ phải sông Dnepr. Trong tháng 9, tháng 10 năm 1943 là các trận đánh đẫm máu nhằm thủ tiêu và mở rộng bàn đạp trên sông Dnepr: quân Đức tập trung mọi lực lượng cố gắng đẩy quân đội Xô Viết xuống sông. Các trận đánh giành giật các bàn đạp rất ác liệt, phía Hồng quân tuy với thương vong rất nặng nề vẫn giữ và bành trướng được bàn đạp bên phía bờ phải con sông.
Đến đầu tháng 11, khi đã tích luỹ đủ lực lượng trên các bàn đạp tấn công bên bờ phải, phương diện quân Ukraina 1 (trước đây là phương diện quân Voronezh) của đại tướng Vatutin bắt đầu tấn công đánh chiếm Kiev, thủ đô Ukraina (xem chiến dịch tấn công Kiev, 1943). Ngày 6 tháng 11 năm 1943, Hồng quân chiếm Kiev và phát triển tấn công về phía Zhitomir. Nhưng ngay sau đó, từ 8 tháng 11 và đến tận cuối tháng 12 năm 1943, quân Đức tăng cường các đơn vị xe tăng từ các mặt trận khác cho tập đoàn quân xe tăng số 4 và phản công mạnh mẽ vào sườn phía nam của phương diện quân Vatutin và định tấn công chiếm lại Kiev. Phương diện quân Vatutin phải chuyển sang phòng ngự và lui về phòng thủ Kiev, phía Liên Xô tăng cường quân dự bị và cuối cùng đã chặn đứng cuộc phản công của tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức.
Đến cuối tháng 12 năm 1943, trận đánh sông Dnepr đã kết thúc. Hồng quân đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ phía bờ trái, đã đứng vững chân chiếm một vùng rộng vài trăm km, sâu hơn 100 km bên bờ phải sông Dnepr trong đó có Kiev thủ đô Ukraina, đã cắt rời và cô lập lực lượng Đức tại Crimea. Đây là lần đầu tiên một chiến dịch tổng tấn công chiến lược rất lớn vào mùa hè của Xô Viết đã thắng lợi. Với thắng lợi của trận sông Dnepr thì việc quân Đức mất toàn bộ Ukraina và Crimea vào tay Xô Viết chỉ còn là vấn đề thời gian ngắn.
Năm 1944: mặt trận phía đông của Đức sụp đổ
Cho đến đầu tháng 1 năm 1944, quân Đức vẫn còn chiếm đóng các vùng lãnh thổ Liên Xô là ba nước cộng hoà Baltic, phần lớn lãnh thổ Belarus, Ukraina, Moldavia, Crimea, Karelia, và các tỉnh Kalinin, Leningrad. Quân số của phía Đức trên chiến trường phía đông còn khoảng hơn 5 triệu quân gồm 198 sư đoàn Đức và các lực lượng của đồng minh Ý, Hungary, Romania, Phần Lan, trang bị gần 55.000 đại bác và súng cối, 5.400 xe tăng và pháo tự hành, hơn 3.000 máy bay. Mặc dù đây vẫn là một lực lượng rất hùng hậu nhưng so sánh lực lượng trên chiến trường đã xấu đi nghiêm trọng cho phía Đức. Các thất bại của Đức trên chiến trường làm trầm trọng thêm tình hình chính trị tại bản thân nước Đức Quốc xã cũng như tại các nước đồng minh của Đức. Mặc dù với những nỗ lực rất to lớn, sản xuất quốc phòng của Đức tiếp tục tăng trưởng cho đến tận tháng 7 năm 1944, nhưng toàn bộ nền kinh tế đã sa vào những khó khăn không thể giải quyết nổi. Đặc biệt Đức gặp khó khăn rất lớn với vấn đề nhân lực: chỉ riêng trong thời gian từ tháng 6 năm 1943 đến tháng 1 năm 1944, phía Đức đã mất hơn 1,2 triệu binh lính và sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu, đến đầu tháng 1 năm 1944, tổng động viên của Đức chỉ thay thế được cho dưới 3/4 con số này nhưng với chất lượng chiến đấu kém xa.
Phía quân đội Xô Viết, cho đến tháng 1 năm 1944, có quân số lên tới 6.425.000 người, 83.600 đại bác và súng cối, 10.200 máy bay chiến đấu, 5.300 xe tăng và pháo tự hành. Chưa kể đến các đơn vị Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani, Nam Tư, Pháp có khoảng 100.000 người tham gia chiến đấu trên lãnh thổ Liên Xô. Ưu thế của Hồng quân càng ngày càng áp đảo và Liên Xô hoàn toàn có thể một mình đánh thắng được liên minh phát xít của Đức Quốc xã trên chiến trường châu Âu.
Từ tháng 12 năm 1943 đến tháng 6 năm 1944, chiến trường chính vẫn là cánh Nam mặt trận. Nối tiếp trận đánh sông Dnepr, quân đội Xô Viết phát động một loạt chiến dịch tấn công bên bờ phải sông Dnepr đó là các chiến dịch Zhitomir-Berdichev, chiến dịch Kirovograd, Korsun-shevchenkovsky, Rovno-Lutsk, Nikopolsko-Krivoi rog, Proskurov-Chernovsi, Uman-Botoshani, Bereznegovatoe-Snigirevka, Polesie và chiến dịch tấn công Odessa. Các chiến dịch tấn công này diễn ra trên mặt trận rộng 1.300 đến 1.400 km và đều thắng lợi ở các mức độ khác nhau, đã đánh tan các lực lượng đối kháng của Đức và đồng minh tại cánh Nam chiến trường. Tiềm lực quân sự của nước Đức Quốc xã đã bị tiêu hao rất lớn trong các chiến dịch này, không chỉ ở số lượng tài sản quân sự bị phá hủy mà một loạt các nhà máy công nghiệp ở Ukraina còn lại trong tay quân Đức cũng bị Quân đội Liên Xô chiếm lại, đặc biệt là khu công nghiệp Krivoy Rog - Nikolayev. Hồng quân đã giải phóng hầu hết Ukraina, đã đến được chân dãy núi Karpat và thâm nhập vào România, đe dọa đánh chiếm nguồn cung ứng dầu mỏ cực kỳ quan trọng của Đức Quốc xã tại România.
Tại các khu vực khác của chiến trường Xô – Đức chiến dịch Leningrad-Novgorod đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Leningrad và một phần tỉnh Kalinin, trong mùa xuân năm 1944, toàn bộ bán đảo Crimea đã về tay quân đội Xô Viết.
Tính chung từ ngày 1 tháng 6 năm 1943 đến ngày 1 tháng 6 năm 1944, tổn thất của lực lượng vũ trang của Đức ở mặt trận Liên Xô lên tới 3.705.500 quân Đến giữa năm 1944, tổng quân số chính quy của Đức ở mặt trận Liên Xô đã sụt xuống dưới mức 4 triệu. Chất lượng của quân Đức cũng sụt giảm nghiêm trọng: số binh lính và sỹ quan có nhiều kinh nghiệm chiến đấu đã tổn thất gần hết, quân Đức lúc này chủ yếu là tân binh chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu.
Ngày 6 tháng 6 năm 1944, liên quân đồng minh chống phát xít Hoa Kỳ – Anh – Pháp tự do – Canada đã tiến hành chiến dịch đổ bộ lớn nhất trong lịch sử nhân loại vào Normandie miền Bắc nước Pháp để mở mặt trận thứ hai. Tình hình của nước Đức Quốc xã đã xấu lại càng xấu hơn: từ nay quân đội Đức bị kẹp giữa hai mặt trận, không còn có thể tự do điều lực lượng dự bị từ phía tây sang phía đông như trong các năm trước đây nữa và quân số Đức không thể đủ để căng ra trên hai mặt trận. Nước Đức đứng trước triển vọng bại trận mau chóng.
Chiến dịch Bagration
Ngày 22 tháng 6 năm 1944 Quân đội Xô Viết mở đầu đợt tấn công mùa hè bằng chiến dịch Bagration đây là chiến dịch đã giải phóng hoàn toàn Belarus, một phần lớn đất đai ba nước cộng hoà Baltic, đông bắc Ba Lan và tiến đến tận Đông Phổ. Chiến dịch này được coi là chiến thắng lớn nhất của Hồng quân trong chiến tranh đã tiêu diệt gần hết khối quân mạnh nhất của Đức là cụm tập đoàn quân Trung tâm.
Cụm Tập đoàn quân Trung tâm dưới quyền thống chế Ernst Busch từ 28 tháng 6, 1944 là thống chế Walther Model gồm tập đoàn quân xe tăng số 3, các tập đoàn quân dã chiến số 2, số 4 và số 9, tổng cộng 34 sư đoàn, gồm hơn 1 triệu quân (tính cả tăng viện), tuy rất mạnh và phòng thủ trên khu vực phòng ngự kiên cố được chuẩn bị từ lâu năm với các lợi thế phòng thủ đáng kể, nhưng từ khi cụm tập đoàn quân Nam của Đức thua trận lùi sâu về phía tây sau các chiến dịch tấn công của Liên Xô kể từ trận đánh sông Dnepr sườn phía nam của cụm Trung tâm đã không còn được che chắn và hình thế chiếm đóng của cụm quân này trở nên bất lợi.
Để chống lại hệ thống phòng ngự của cụm tập đoàn quân Trung tâm, phía Liên Xô huy động 4 phương diện quân bố trí từ Bắc xuống Nam là:
Phương diện quân Pribaltic 1 của đại tướng I.K. Bagramian
Phương diện quân Byelorussia 3 của đại tướng I.V. Chernyakhovsky
Phương diện quân Byelorussia 2 của thượng tướng G.F. Zakharov
Phương diện quân Byelorussia 1 của đại tướng K.K. Rokossovsky
Tổng cộng lực lượng Xô Viết là 1 tập đoàn quân xe tăng, 6 quân đoàn xe tăng độc lập, 3 quân đoàn cơ giới, 20 tập đoàn quân, tổng cộng 166 sư đoàn với 2,4 triệu quân và các lực lượng xe tăng, pháo binh và không quân đều áp đảo quân Đức. Trái với dự tính của Bộ chỉ huy tối cao Đức sẽ chờ cuộc tấn công lớn của Xô Viết tại phía nam chiến trường tại Ukraina hoặc Moldavia, cuộc tấn công chiến lược của Liên Xô đã diễn ra tại trung tâm mặt trận là Belarus.
Trong 12 ngày từ 22 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1944, các phương diện quân Xô Viết chia thành 6 mũi đồng loạt tấn công bao vây các khối quân Đức tại ngoại vi tuyến phòng thủ tại Moghilev, Vitebsk và đặc biệt tại "cái túi" Bobruisk. Quân Đức liên tiếp rơi vào các vòng vây và mau chóng bị tiêu diệt. Sau đó Hồng quân phát triển tấn công cơ động bằng hai mũi xe tăng thiết giáp mạnh từ phương diện quân Belorussia 1 của Rokossovsky và phương diện quân Belorussia 3 của Chernyakhovsky, các tập đoàn quân xe tăng Xô Viết đã hợp vây tại Minsk. Ngày 3 tháng 7 thủ đô Minsk của Belarus thất thủ, các lực lượng của cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức rơi vào vòng vây rất lớn tại phía đông thành phố Minsk. Đến 11 tháng 7 năm 1944 khối quân Đức bị bao vây tại đây đã bị tiêu diệt, hơn 10 vạn quân Đức bị bắt.
Trong tháng 7 và tháng 8, Hồng quân phát triển tấn công trên diện rộng truy đuổi các đơn vị Đức đã bị đánh tan và đang rút chạy, các nỗ lực của Bộ chỉ huy Đức đem quân trám lỗ hổng phòng ngự rộng đến 400 km đều bị đánh bại. Hồng quân giải phóng phần lớn lãnh thổ các nước cộng hoà Baltic, toàn bộ lãnh thổ Belarus và tiến sâu vào Ba Lan cho đến tuyến sông Wisla và tiếp cận với lãnh thổ Đức tại Đông Phổ. Quân đội Xô Viết đã vào cửa ngõ đất Đức.
Khi Hồng quân chỉ còn cách thủ đô Warszawa của Ba Lan một con sông Wisla, ngày 1 tháng 8 năm 1944, chính phủ kháng chiến Ba Lan đang lưu vong tại Luân Đôn vốn mâu thuẫn sâu sắc với Liên Xô, đã tổ chức khởi nghĩa tại thủ đô Warszawa sau lưng quân Đức. Chính phủ này dự tính rằng khi Hồng quân tiến vào thủ đô Ba Lan thì tại đó đã có chủ, đặt Liên Xô trước thực tế phải công nhận chính phủ này; còn nếu khởi nghĩa có nguy cơ thất bại, họ sẽ kêu goi Liên Xô giúp đỡ và như vậy cũng được khối Đồng Minh coi như là góp công chống Đức.
Quả nhiên, quân khởi nghĩa tại thủ đô Warszawa nhanh chóng bị quân Đức đè bẹp. Nhưng trái với dự tính của những người khởi nghĩa, quân đội Xô Viết dừng tấn công tại hướng Warszawa và không vượt sông Wisla để tiếp ứng quân Liên Xô đã tiến quá xa lực lượng hậu cần, không còn đủ sức đánh vượt sông. Cuộc khởi nghĩa đã bị quân Đức đàn áp cực kỳ khốc liệt, ngoài hàng vạn số quân khởi nghĩa bị chết, bị thương, bị bắt, quân SS thẳng tay tàn sát người Ba Lan giết hại 25 vạn dân và san bằng thủ đô Warszawa.
Cuộc tấn công của Hồng quân phát triển đến 29 tháng 8 năm 1944 và chỉ dừng lại để chờ lực lượng hậu cần tiến theo kịp. Quân đội Xô Viết đã tiến sâu được 500 – 600 km với diện rộng 1.100 km, đã tiêu diệt hoàn toàn 17 sư đoàn và 3 lữ đoàn Đức, gây tổn thất trên 50% quân số cho 50 sư đoàn Đức khác. Cuộc tấn công này của Hồng quân đã tạo điều kiện để triển khai tiếp các đòn tấn công liên hoàn tại phía nam và phía bắc chiến trường Xô – Đức và đến cuối năm 1944 đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Xô Viết và bắt đầu quá trình giải phóng Đông Âu.
Liên Xô giải phóng toàn bộ lãnh thổ Đông Âu
Với thất bại rất to lớn ngay từ những ngày đầu tiên của chiến dịch Bagration, mặt trận của Đức tại lãnh thổ Xô Viết đã hoàn toàn mất độ vững chắc ổn định. Nhân đà thắng lợi tại Belarus khi các lực lượng Đức bị hút về chiến trường này, ngay trong khi trận Belarus đang diễn ra, phía Xô Viết phát động liên tiếp các đòn tấn công chiến lược nữa tại cánh nam và cánh bắc chiến trường Xô – Đức, đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Xô Viết, loại các đồng minh của Đức ra khỏi chiến tranh, và mở rộng đường tiến vào Đông Âu đó là các chiến dịch Lvov-Sandomierz, Iaşi-Chişinău tại phía nam chiến trường, chiến dịch Baltic tại vùng ba nước cộng hoà Baltic, chiến dịch Viborg-Petrozavodsk và Petsamo-kirken tại dải đất Karelia.
Chiến dịch Lvov–Sandomierz từ 13 tháng 7 đến 29 tháng 8 năm 1944, phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái Xô Viết I.V. Konev với lực lượng 2 tập đoàn quân xe tăng, 7 tập đoàn quân bộ binh (tổng cộng: 1.200.000 lính, 1.979 xe tăng, 11.265 khẩu pháo) đã đánh tan cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina của đại tướng Đức Josef Harpe với 900.000 quân, 800 xe tăng, 6.300 đại bác và súng cối. Sau các trận đánh rất ác liệt, Hồng quân chọc thủng tuyến phòng thủ Đức tại Ternopol và phát triển tấn công bao vây, tiêu diệt 8 sư đoàn Đức tại Broda. Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina của Đức bị đánh tan, bị tách thành hai mảnh và bị giải tán: một bộ phận rút lui về phía Ba Lan vượt sông Wisla và phần thứ hai chạy sâu về phía Karpat vào lãnh thổ România. Phương diện quân Konev tách một bộ phận thành phương diện quân Ukraina 4 giao cho đại tướng I.E. Petrov truy kích theo hướng Karpat, còn phương diện quân Ukraina 1 tiếp tục tấn công vào Ba Lan về phía sông Wisla và đã vượt sông tạo bàn đạp trên bờ tây tại hướng Sandomierz. Quân Đức tại mặt trận Wisla tăng cường quân dự bị, phản công mãnh liệt để thủ tiêu bàn đạp quyết hất Hồng quân xuống sông. Sau các trận đánh rất dữ dội phương diện quân của Konev vẫn giữ và mở rộng được bàn đạp Sandomierz. Cuối tháng 8, chiến sự đi đến lắng dịu và ngày 29 tháng 8, 1944 thì chiến dịch chấm dứt.
Chiến dịch Lvov – Sandomierz đã giải phóng hoàn toàn phần đất Ukraina còn lại trong tay Đức Quốc xã đuổi xa đối phương vào Romania và Ba Lan, đã chiếm đông nam Ba Lan và Hồng quân đã đứng vững chân trên bờ Tây con sông Wisla.
Chiến dịch Iaşi-Chişinău từ 20 đến 29 tháng 8 năm 1944: là chiến dịch thắng lợi rất to lớn của Hồng quân với hiệu suất chiến đấu rất cao chỉ trong 9 ngày hai phương diện quân Ukraina 2 của đại tướng Malinovsky và Ukraina 3 của đại tướng Tolbukhin tổng cộng 1.341.200 lính, 1.874 xe tăng và pháo đã tiêu diệt cụm tập đoàn quân Nam Ukraina của liên quân Đức – Romania dưới quyền chỉ huy của đại tướng Johannes Friesner có 47 sư đoàn, 5 lữ đoàn với tổng cộng 500.000 lính Đức, 405.000 quân Romania, 170 xe tăng. Trong 9 ngày, Hồng quân đã tiêu diệt 25 vạn quân địch và bắt gần 30 vạn tù binh, giải phóng hoàn toàn Moldavia, quân đội Xô Viết ào ạt kéo vào Romania làm tan rã 35 vạn quân còn lại của nước này, phát động cách mạng thân Xô Viết, đã loại Romania ra khỏi khối Trục và quay lại tuyên chiến chống Đức. Chiến dịch này đã giải phóng toàn bộ lãnh thổ Liên Xô tại cánh nam chiến trường Xô – Đức và mở rộng đường cho quân đội Xô viết tiến vào Balkan và Hungary. Để giành được thắng lợi lớn này, Hồng quân chỉ tổn thất 67.000 người. Đây là một trong những trận đánh mà số thương vong của quân Đức cao gấp nhiều lần của đối phương.
Ngoài tổn thất về người và vũ khí, nước Đức Quốc xã bị giáng một đòn nặng về chiến lược bởi chiến dịch này. Ngày 12 tháng 9 năm 1944, đại diện cho các nước Đồng Minh, chính phủ Liên Xô đã ký hiệp định đình chiến với Romania, theo đó Romania phải cắt đứt quan hệ đồng minh với Đức và chấm dứt cung cấp dầu mỏ cho Đức. Việc này khiến nguồn dầu mỏ cung cấp cho nước Đức Quốc xã bị sụt giảm 1/2, kéo theo đó là sản xuất vũ khí của Đức cũng sụt theo. Giờ đây, quân đội Đức Quốc xã chỉ còn có thể trong cậy vào nguồn dầu mỏ trên khu vực biên giới Áo - Hungary với sản lượng xấp xỉ khu vực Ploieşti, trong khi các nguồn cung khác đều bị đồng minh phong tỏa.
Chiến dịch Baltic từ 14 tháng 9 đến 24 tháng 11, 1944: Là chiến dịch giải phóng phần đất cuối cùng của Liên Xô. Trong chiến dịch này các phương diện quân Baltic 1 của đại tướng I.K. Bagramyan, Baltic 2 của đại tướng A.I. Yeryomenko, Baltic 3 của đại tướng I.I. Maslennikov cùng phương diện quân Leningrad của nguyên soái L.A. Govorov với lực lượng 90 vạn quân, 17.500 khẩu pháo, 3.080 xe tăng, 2.640 máy bay với sức mạnh áp đảo tổng tấn công cụm tập đoàn quân Bắc của Đức vốn đã bị nén chặt về phía biển Baltic sau chiến dịch Belarus. Lực lượng Đức của cụm tập đoàn quân Bắc tại chiến dịch này gồm 73 vạn quân, 7000 đại bác và súng cối, 1.200 xe tăng và pháo tự hành phòng thủ trên địa bàn thuận lợi đã được chuẩn bị từ lâu.Quân đội Xô Viết tấn công trên diện rộng theo hướng Bắc Nam định hất cụm tập đoàn quân Bắc của Đức xuống biển. Hồng quân đã cắt rời cụm tập đoàn quân Bắc khỏi Đông Phổ. Dưới áp lực tấn công quá lớn của Hồng quân lại không còn đất để lùi, cụm quân Đức phải bỏ hết đất đai lui về cố thủ mũi đất Courland tại phía bắc Latvia. Tại đây mật độ phòng thủ của Đức đã trở nên đậm đặc và cụm này đã bị cô lập hoàn toàn không còn ý nghĩa chiến lược gì nữa nên quân đội Xô Viết để tiết kiệm binh lực đã dừng tấn công và giam chặt khối quân này tại Courland cho đến hết chiến tranh.
Các chiến dịch Belarus, Lvov – Sandomierz, Iaşi – Chişinău và Baltic diễn ra trong nửa cuối năm 1944 cùng với các tấn công tại dải đất Karelia đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Liên Xô (chỉ còn lại mũi đất Courland tại bắc Latvia). Hồng quân đã mở đường vào bắc Na Uy, Hungary, Áo và Tiệp Khắc và loại khỏi vòng chiến các đồng minh của Đức Quốc xã là Phần Lan và România và Bulgaria. Khối đồng minh phát xít sụp đổ.
Năm 1945: Đức Quốc xã thua trận
Năm 1945, Đế chế thứ ba bước vào cơn hấp hối thật sự. Tại phía Tây, quân Anh-Mỹ đã đổ bộ lên châu Âu và đẩy lùi quân Đức ra khỏi Pháp. Tại phía Đông, tình hình còn xấu hơn nhiều. Riêng trong năm 1944, gần 3 triệu quân Đức đã tử trận hoặc bị Liên Xô bắt làm tù binh, chưa kể tổn thất của các lực lượng đồng minh của Đức như Phần Lan, Romania, Hungary... Các đồng minh của Đức như Phần Lan, Hungary, Romania đã bị đánh bại và phải ký hòa ước với Liên Xô, thậm chí quay sang chống lại Đức. Quân Đức bị đánh bật khỏi mọi vùng lãnh thổ ở Đông Âu và Hồng quân đã áp sát biên giới Đức.
Đến đầu năm 1945, quân đội Đức vẫn còn hơn 4 triệu người, song tỷ lệ khá lớn là tân binh thiếu kinh nghiệm chiến đấu, vũ khí hạng nặng (xe tăng, máy bay) ngày càng thiếu hụt. Nền kinh tế và công nghiệp chiến tranh Đức sụp đổ: nhân dân thiếu lương thực trầm trọng, các mục tiêu kinh tế, quốc phòng của Đức bị không quân Đồng minh Anh – Mỹ – Liên Xô tàn phá rất nặng nề không còn cơ hội khôi phục, các nhà máy xí nghiệp Đức do kết quả của tổng động viên đã thiếu trầm trọng các nguồn nhân công có trình độ. Các nỗ lực chiến tranh quá tải trong nhiều năm bây giờ đã phát tác không còn có thể khắc phục nổi nữa. Khi các đồng minh của Đức tan rã và đất đai rơi vào tay đối phương thì các nguồn nguyên liệu cũng không còn, kinh tế và sản xuất quốc phòng của Đức thụt giảm thê thảm. Đặc biệt sau khi Romania ký hòa ước với Liên Xô thì nguồn dầu mỏ duy nhất nuôi sống quân đội và kinh tế Đức đã bị cắt hoàn toàn. Thiếu vũ khí, thiếu nhiên liệu thì dù quân đội Đức nổi tiếng có kỷ luật, kiên cường cũng không thể kháng cự có hiệu quả.
Sau vụ mưu sát Hitler 20 tháng 7 năm 1944 hàng ngũ sĩ quan tướng lĩnh cao cấp Đức bị xáo trộn lớn, một bộ phận rất lớn tướng lĩnh Đức tuy không bị truy tố nhưng bị nghi kỵ không được tin dùng. Hitler nghi ngờ quân đội và chỉ tin tưởng lực lượng SS, thậm chí Hitler bổ nhiệm thủ lĩnh SS Reichsführer-SS Heinrich Himmler làm tư lệnh cụm tập đoàn quân Wisla – giờ đây là lực lượng chủ chốt phòng thủ đế chế – mặc dù nhân vật này chưa từng có chút ít kiến thức hay kinh nghiệm gì để đánh trận. Mâu thuẫn giữa SS và quân đội Đức ngày càng trầm trọng. Quân đội Đức trong năm cuối chiến tranh có chất lượng suy sụp trầm trọng, quân số phần nhiều là các lực lượng mới động viên, bao gồm cả người già và thiếu niên từ các tổ chức bán quân sự, huấn luyện sơ sài lại thêm tinh thần chiến đấu xuống thấp, tâm lý chán chường, trong quân đội ai cũng hiểu đế chế đã thua trận. Tuy với những khó khăn khổng lồ như vậy với sự vô vọng của chiến tranh, sự kháng cự dữ dội trên chiến trường phía đông đến giờ phút cuối cùng của chiến tranh cho thấy tính chuyên nghiệp, lòng trung thành và kỷ luật rất cao của quân đội và người dân Đức.
Ngay bản thân lãnh tụ Hitler trong tình hình khốn quẫn đã mất hết sự sáng suốt của nhà lãnh đạo quốc gia và người cầm quân. Führer cành ngày càng sa vào các cơn kích động thần kinh và các mệnh lệnh chiến đấu càng ngày càng giống với cơn mê sảng: cho đến ngày cuối cùng của Đế chế, các mệnh lệnh tấn công, phản công mang tính "không tưởng" của Führer vẫn liên tiếp được đưa ra mà không cần biết có khả thi hay không.
Tại mặt trận phía tây, mất Ý, Pháp, Bỉ và với sự thất bại trong các nỗ lực tấn công tuyệt vọng như tại chiến dịch Ardennes quân Đức đã bị nén chặt giữa hai gọng kìm. Mặc dù có mệnh lệnh của Hitler đứng vững tại mọi mảnh đất chống lại mọi kẻ thù, nhưng các tướng lĩnh Đức thấy rõ kết cục đầu hàng không thể tránh khỏi nên có xu hướng kiên quyết tử thủ tại mặt trận phía đông kìm hãm đến mức tối đa tốc độ tiến quân của quân đội Xô Viết, trong khi đó thả lỏng mặt trận phía tây (vào tháng 2 năm 1945, 8 sư đoàn Panzer với tổng cộng 271 chiếc Panther được chuyển từ mặt trận phía Tây về mặt trận phía Đông, Đức chỉ còn để lại 5 tiểu đoàn Panther độc lập để chặn quân Anh-Mỹ.) Đến các tháng 3 tháng 4 năm 1945 thì không còn là xu hướng nữa: quân Đức mở cửa mặt trận phía tây muốn liên quân Anh – Mỹ – Pháp tiến vào đất Đức càng nhanh càng tốt, trong khi đó chiến sự tại mặt trận phía đông diễn ra cực kỳ ác liệt đến ngày cuối cùng. Thậm chí sau khi đã chính thức đầu hàng, quân Đức tại mặt trận phía đông tiếp tục chiến đấu dữ dội, cố gắng chọc thủng vòng vây Xô Viết để chạy sang đầu hàng phía đồng minh Anh – Mỹ – Pháp.
Chiến dịch Wisla – Oder
Sau Chiến dịch Bagration mặt trận phía đông hướng Warszawa – Berlin im ắng đến hơn 4 tháng, từ đầu tháng 9 đến hết tháng 12 năm 1944 cả hai bên không có hành động quân sự tích cực nào. Thời gian tạm nghỉ đã cho phép quân Đức củng cố lại những lỗ thủng phòng ngự và điều quân dự bị tấn công tại mặt trận phía tây (xem chiến dịch Ardennes) và điều quân phản công tại các trận đánh tại Hungary (xem chiến dịch Budapest). Trong thời gian này quân đội Xô Viết đã thi hành một khối lượng công việc khổng lồ để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch tấn công to lớn và liên tục sắp tới để mau chóng đánh bại Đức Quốc xã. Các phương diện quân Xô Viết được cung cấp đạn dược đủ để tiến hành 4 đến 5 chiến dịch thông thường cho phép Hồng quân tấn công liên tục trên diện rộng cho đến hết chiến tranh.
Từ ngày 12 tháng 1 đến 3 tháng 2 năm 1945 Hồng quân tổ chức chiến dịch Wisla-Oder đây là chiến dịch đánh tan các lực lượng Đức trên hướng phòng thủ Warszawa – Berlin, giải phóng gần hết Ba Lan và đặt sự tồn tại của đế chế III chỉ còn tính từng tuần.
Tấn công chiến dịch Wisla – Oder là hai phương diện quân chủ đạo của Liên Xô:
Tại cánh bắc, Phương diện quân Belorussia 1 tư lệnh nguyên soái G.K. Zhukov gồm: tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 và số 2; các quân đoàn xe tăng độc lập số 9 và 11; tập đoàn quân không quân số 16; các tập đoàn quân xung kích số 47, 61, 3 và số 5; tập đoàn quân cận vệ số 8; các tập đoàn quân số 69 và 33; tập đoàn quân Ba Lan số 1 và 2; 2 quân đoàn kỵ binh cận vệ số 2 và 7;
Cánh nam Phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái I.S. Konev: tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 3; tập đoàn quân xe tăng số 4; quân đoàn xe tăng độc lập số 31; tập đoàn quân không quân số 2; tập đoàn quân cận vệ số 3 và 5; các tập đoàn quân số 6, 13, 52, 60, 21, 59; quân đoàn cơ giới cận vệ số 7; quân đoàn kỵ binh số 1.
Tổng cộng hai phương diện quân Zhukov và Konev có 2,2 triệu quân; 33,5 nghìn đại bác và súng cối; 7.000 xe tăng và pháo tự hành; 5.000 máy bay với ưu thế về quân số và vũ khí gấp 4 đến 5 lần đối phương.
Lực lượng Đức phòng thủ tại hướng này là cụm tập đoàn quân A của Đức – tư lệnh đại tướng Josef Harpe (từ 17 tháng 1, 1945 là đại tướng Ferdinand Schörner) đó là các đơn vị: tập đoàn quân xe tăng số 4, tập đoàn quân dã chiến số 9 và 17. Tổng cộng lực lượng Đức có 450.000 quân, 5.000 đại bác và súng cối, 1.220 xe tăng và pháo tự hành, 630 máy bay. Khu vực phòng thủ của Đức được gia cố có 7 giải phòng ngự với chiều sâu từ 300 đến 500 km, ngoài ra các thành phố trong khu vực này đều đã được biến thành pháo đài trung tâm phòng ngự rất chắc chắn. Các sông trên hướng Warszawa – Berlin hầu hết chạy theo hướng nam – bắc và đã được quân Đức tận dụng biến thành các tuyến phòng thủ liên hoàn.
Ngày 12 tháng 1 năm 1945, phương diện quân Ukraina 1 của I.S. Konev từ bàn đạp Sandomir trên sông Wisla kết hợp với cánh phải của phương diện quân Belorussia 4 phát triển tấn công về phía tây và đây là chiến dịch Sandomir-Silesia phát triển tấn công theo hướng chung nhắm đến Breslau.
Ngày 14 tháng 1 Phương diện quân Belorussia 1 kết hợp với cánh trái của phương diện quân Belorussia 2 tấn công từ 2 bàn đạp Pulava và Magnushev đây là chiến dịch Warszawa-Poznan hướng tấn công nhắm vào phía Poznan.
Cho đến ngày 17 tháng 1 hai phương diện quân Xô Viết của Konev và Zhukov đã đè bẹp phòng thủ của các lực lượng chính của cụm tập đoàn quân A của Đức trên diện rộng gần 500 km và đột phá sâu 100–160 km. Quân đội Xô Viết đã giải phóng Warszawa, Radom, Chenstokhov, Radomsko, và hơn 2.400 thành phố và điểm dân cư của Ba Lan. Các lực lượng Đức được huy động từ Đức sang đã không thể vá lại lỗ thủng phòng ngự. Quân đội Xô Viết tấn công ào ạt với tốc độ trung bình 30–40 km một ngày đêm. Ngày 19 tháng 1, các đơn vị tiên phong của phương diện quân Konev là tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 3, tập đoàn quân cận vệ số 5 và tập đoàn quân 52 trong khi truy đuổi quân Đức đã tiến sâu vào đất Đức và cánh trái Konev đã giải phóng thành phố Kraków. Từ Ngày 20 đến 25 tháng 1, phương diện quân Zhukov đã đập tan tuyến phòng thủ sông Varta và tuyến Poznan, bao vây và tiêu diệt khối quân Poznan gồm 6 vạn quân Đức.
Từ ngày 22 tháng 1 đến 3 tháng 2 quân đội Xô Viết đã hoàn thành các mục tiêu của chiến dịch đã tiến đến sông Oder vượt sông và lập các bàn đạp trên bờ tây tại các khu vực Shteinau, Breslau, Oppelna và Kiustrin. Cùng thời gian này phương diện quân Ukraina 4 giải phóng toàn bộ miền nam Ba Lan và miền Bắc Tiệp Khắc đến thượng nguồn con sông Wisla.
Vì hình thế của mặt trận đến lúc này tại hướng Berlin đã tạo thành một mũi nhọn ăn sâu về phía lãnh thổ Đức và tại hai sườn bắc và nam của Hồng quân là các khối quân Đức còn rất mạnh tại Pomerania, Đông Phổ và Silesia rất có thể sẽ phản công mạnh vào sườn hai phương diện quân Zhukov và Konev nên Bộ chỉ huy tối cao Xô Viết vào ngày 3 tháng 2, 1945 đã chủ động chấm dứt chiến dịch và chuyển trọng tâm tấn công tiếp theo sang nhiệm vụ đánh tiêu diệt các khối quân Đức tại Pomerania, Đông Phổ và Silesia, đó là các chiến dịch Đông Pomerania, chiến dịch Đông Phổ, chiến dịch hạ Silesia và chiến dịch thượng Silesia diến ra từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1945, sau các chiến dịch này quân đội Đức về cơ bản đã trắng tay.
Chiến dịch Wisla – Oder cũng là một thắng lợi rất to lớn của quân đội Xô Viết vào giai đoạn cuối của chiến tranh, đã tiêu diệt 77.000 quân Đức; làm bị thương 334.000 và 192.000 quân mất tích. Phía Nga có hơn 43.000 quân chết và 150.000 bị thương. Hồng quân đã chiếm được đại bộ phận lãnh thổ Ba Lan, đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho quân đội đồng minh trên mặt trận phía tây và là tiền đề để tiến hành các chiến dịch Pomerania và Silesia tiếp theo. Đặc biệt chiến dịch này đã đưa Hồng quân vào trung tâm nước Đức chỉ còn cách thủ đô Berlin của Hitler chỉ khoảng 60 km đường chim bay từ các bàn đạp này Hồng quân sẽ tiến hành chiến dịch Berlin chiếm thủ đô Đức bắt Đức Quốc xã đầu hàng.
Chiến dịch Berlin, nước Đức đầu hàng
Sau các chiến dịch Đông Pomerania của hai phương diện quân Xô Viết Belorussia 1 và Belorussia 2 và chiến dịch Silesia của hai phương diện quân Ukraina 1 và Ukraina 4 các khối quân lực Đức tại hai sườn bắc và nam của hai phương diện quân Zhukov và Konev đã bị đánh tan không còn khả năng phản công vào sườn quân đội Xô Viết trên hướng Berlin nữa. Hồng quân đã hội đủ điều kiện cho trận đánh cuối cùng dứt điểm Đế chế Đức thứ ba của Hitler.
Đây là thời điểm rất nhiều tế nhị chính trị: càng gần thắng lợi cuối cùng thì sự nghi kỵ giữa Liên Xô và các đồng minh tư bản chủ nghĩa Anh, Mỹ càng tăng lên. Mặc dù đã có sự thỏa thuận giữa lãnh đạo ba cường quốc đồng minh về khu vực chiếm đóng của từng bên sau chiến tranh nhưng quân đội Anh – Mỹ cũng không từ bỏ cám dỗ chiếm Berlin nếu có thể vì đánh chiếm thủ đô Đức gắn liền với uy tín và vai trò của quốc gia trong việc đánh thắng chủ nghĩa phát xít. Stalin ra lệnh cho các nguyên soái G.K. Zhukov và I.S. Konev phải chạy đua với đồng minh, nhanh chóng chiếm Berlin và chiếm lĩnh lãnh thổ Đức càng nhiều càng tốt để phục vụ cho các mục tiêu chính trị hậu chiến.
Đối mặt với quân Liên Xô lúc này có 133 sư đoàn Đức trong khi lực lượng Đồng Minh phải chiến đấu với 114 sư đoàn Đức ở mặt trận phía Tây và mặt trận Ý. Luftwaffe (Không quân Đức Quốc xã) có trên 5.500 chiến đấu cơ trong đó 1.700 chiếc đang chiến đấu ở phía đông chống Liên Xô.
Tại hướng Berlin lực lượng Đức là hai cụm tập đoàn quân:
Tại phía bắc: cụm tập đoàn quân Wisla của tư lệnh đại tướng Gotthard Heinrici đây là lực lượng chính bảo vệ Berlin. Khu vực bố phòng của cụm quân này kéo dài từ bờ biển Baltic bao phủ toàn bộ lãnh thổ Berlin trên khu vực hướng sông Oder đối diện với phương diện quân Belorussia 1 và Belorussia 2 của Zhukov và Rokosovsky. Lực lượng của cụm Wisla gồm tập đoàn quân xe tăng số 3 ở phía bắc Berlin đối diện với bàn đạp Stettin của phương diện quân Rokosovsky và tập đoàn quân dã chiến số 9 đối diện với bàn đạp Küstrin của Zhukov.
Tại cánh nam là cụm tập đoàn quân Trung tâm của tư lệnh thống chế Ferdinand Schörner trên hướng sông Neisse đối chọi lại phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái Konev. Cụm Trung tâm gồm tập đoàn quân xe tăng số 4, tập đoàn quân dã chiến số 17.
Tổng cộng quân Đức của hai cụm quân Heinrici và Schörner có 48 sư đoàn bộ binh, 6 sư đoàn xe tăng và 9 sư đoàn cơ giới cùng rất nhiều các đơn vị độc lập khác, tổng cộng có gần 900.000 quân; 10.400 đại bác và súng cối; 1.500 xe tăng và pháo tự hành; 3.300 máy bay chiến đấu. Tại phía sau hai cụm quân này Đức chỉ còn 8 sư đoàn làm lực lượng dự bị chiến đấu cuối cùng.
Hệ thống phòng thủ của Đức gồm tuyến Oder – Neisse có chiều sâu từ 20 đến 40 km gồm 3 tuyến chiến hào. Tiếp đến là khu vực phòng thủ thủ đô gồm 3 tuyến phòng thủ vòng ngoài, vòng trong và vành đai bao của thành phố. Trong nội đô chia thành 9 khu phòng thủ trong đó khu trung tâm có các cơ quan chính phủ được biến thành pháo đài cực mạnh do những lực lượng SS trung thành nhất bảo vệ. Vũ khí được phát cho người dân Đức và các lực lượng thanh niên Hitler và dân quân tự vệ bán vũ trang Volkssturm. Chỉ tính riêng trong nội đô Berlin đã có hơn 200 tiểu đoàn quân đội, SS và lực lượng bán vũ trang Đức với số quân trên 20 vạn người. Hệ thống tàu điện ngầm được sử dụng cho việc cơ động bí mật các lực lượng và biến thành các cứ điểm kháng cự.
Bao vây các khối quân phòng thủ Berlin
Phía Xô Viết để tấn công dứt điểm Berlin huy động 2,5 triệu quân; 41.600 súng cối và đại bác; 3.255 dàn pháo binh phản lực Kachiusa; 6.250 xe tăng và pháo tự hành; 7.500 máy bay. Từ phía bắc xuống phía nam quân đội Xô Viết bố trí 3 phương diện quân để tham gia chiến dịch:
Phương diện quân Byelorussia 2 của nguyên soái K.K. Rokossovsky gồm: tập đoàn quân xung kích số 2, các tập đoàn quân số 19, 49, 65, 70; tập đoàn quân không quân số 4; ba quân đoàn xe tăng cận vệ số 1, 3, 8; quân đoàn cơ giới cận vệ số 8. Phương diện quân này có nhiệm vụ tấn công từ bàn đạp Stettin 150 km đông bắc Berlin trên sông Oder dùng cánh trái của mình bảo vệ sườn và phối hợp với phương diện quân Zhukov tấn công trên hướng Oder. Nhưng nhiệm vụ chính là đè bẹp tập đoàn quân xe tăng số 3 của Đức không cho ứng cứu Berlin từ phía bắc, phát triển thật nhanh về phía tây và tây bắc tại cánh bắc Berlin chạy đua với tập đoàn quân số 2 của Anh và tập đoàn quân số 9 của Mỹ đang từ phía tây tiến lại, chiếm càng nhiều lãnh thổ Đức về phía tây càng tốt.
Phương diện quân Byelorussia 1 của nguyên soái G.K. Zhukov là lực lượng chủ công đánh chiếm Berlin lực lượng gồm: các tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1, 2; các tập đoàn quân không quân số 16, 18; tập đoàn quân cận vệ số 8; các tập đoàn quân xung kích số 3, 5; các tập đoàn quân số 3, 33, 47, 61, 69; tập đoàn quân Ba Lan số 1; các quân đoàn xe tăng số 9, 11; các quân đoàn kỵ binh cận vệ số 2, 7. Nhiệm vụ của Phương diện quân này là từ bàn đạp Küstrin 100 km phía chính đông Berlin tấn công bao vây, tiêu diệt tập đoàn quân số 9 và tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức, bao vây Berlin và đánh chiếm thành phố.
Phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái I.S. Konev gồm tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 3, 4; tập đoàn quân không quân số 2; các tập đoàn quân cận vệ số 3, 5; các tập đoàn quân số 13, 28, 52; tập đoàn quân Ba Lan số 2; quân đoàn xe tăng cận vệ số 4 và 25; quân đoàn cơ giới cận vệ số 7; quân đoàn kỵ binh cận vệ số 1. Nhiệm vụ của phương diện quân này là bảo vệ sườn nam cho phương diện quân Zhukov, đè bẹp phòng ngự của cụm tập đoàn quân Trung tâm đưa lực lượng cơ động tiến nhanh mạnh về phía tây tại cánh nam Berlin chạy đua với tập đoàn quân số 1 và số 3 của Mỹ chiếm càng nhiều đất Đức càng tốt.
Trong đêm rạng ngày 16 tháng 4 năm 1945 Hồng quân tổng tấn công chiến dịch Berlin:
Tại hướng chính diện từ bàn đạp Kiustrin phương diện quân Belorussia 1 của nguyên soái Zhukov tấn công dãy cứ điểm của tập đoàn quân số 9 Đức tại điểm cao Seelow án ngữ bờ tây sông Oder. Quân Đức từ trước đã tháo cống trên sông Oder gây ngập lụt các vùng đất thấp bắt buộc phương diện quân Zhukov phải tấn công chính diện cao điểm Seelow đã được gia cố rất vững chắc. Để tăng hiệu quả tác động tâm lý trong tấn công đêm Hồng quân bố trí 150 dàn đèn pha phòng không chiếu thẳng vào mắt quân phòng thủ Đức nhưng xem ra đạt hiệu quả không đáng kể. Quân Đức phòng thủ điểm cao Seelow rất rắn chắc dưới sự chỉ huy rất kinh nghiệm và bản lĩnh của tư lệnh Heinrici, Hồng quân thương vong rất lớn nhưng không thể xuyên phá tuyến phòng thủ Đức theo đúng kế hoạch và có nguy cơ bế tắc. Để hâm nóng sự cạnh tranh giữa hai nguyên soái Xô Viết đầu bảng Zhukov và Konev, Stalin nói với Zhukov rằng sẽ điều quân của Konev ngược lên phía bắc chiếm Berlin nếu phương diện quân Belorussia 1 không thể vượt qua được Seelow. Zhukov dốc hết toàn lực kể cả các lực lượng xe tăng để tấn công thọc sâu dự định dùng sau này... Và kết quả với sức mạnh rất to lớn đã dần đánh chiếm các tuyến chiến hào Seelow. Sau 3 ngày cận chiến rất quyết liệt, rất đẫm máu, đến 19 tháng 4 tuyến phòng thủ cuối cùng tại Seelow đã bị đè bẹp, từ đó đến Berlin là khoảng rộng chiến dịch, quân Đức không còn dự bị, không còn lực lượng nào có thể cản nổi phương diện quân của Zhukov.
Tại cánh nam, cuộc tấn công của phương diện quân Konev đã diến ra thuận lợi theo đúng kế hoạch. Cụm tập đoàn quân Trung tâm Đức của thống chế Ferdinand Schörner đã phối hợp không tốt: tập đoàn quân xe tăng số 4 của cụm quân này đã không hoàn thành nhiệm vụ che sườn phía nam cho tập đoàn quân số 9 (Đức) của cụm Wisla đang phòng thủ hiệu quả tại Seelow. Phương diện quân Konev nhanh chóng đè bẹp phòng ngự Đức trên sông Neisse và xuyên phá vào tuyến ngăn cách giữa tập đoàn quân xe tăng số 4 và tập đoàn quân 9 của Đức, ào ạt tiến về phía tây. Chính sự đột phá mãnh liệt của phương diện quân Ukraina 1 đã làm rối loạn tuyến phòng thủ Đức và tạo điều kiện cho phương diện quân Zhukov đè bẹp nốt sự kháng cự của Đức tại Seelow.Nguyên soái Konev theo chỉ đạo của Stalin quay mũi đoàn xe tăng lên phía bắc đánh tập hậu để bao vây Berlin và mũi xe tăng này đã tiến vào Potsdam tây nam Berlin 45 km vào ngày 21 tháng 4. Để chống lại phương diện quân Konev đang tập hậu Berlin từ phía nam, Hitler ra lệnh cho tập đoàn quân 12 Đức đang đối mặt quân Mỹ ở phía tây trên tuyến sông Elbe quay về phía đông kết hợp với tập đoàn quân 9 định đánh vào 2 sườn cánh quân xe tăng của Konev, nhưng những lực lượng đã rệu rã này chỉ như muối bỏ biển, không thể làm nên chuyện gì lớn trước đối phương quá mạnh.
Tại cánh bắc, phương diện quân Xô Viết Belorussia 2 của nguyên soái Rokossovsky liên tiếp vượt sông đông Oder và tây Oder triển khai tấn công mãnh liệt, các trận đánh của phương diện quân này đã hoàn toàn trói chân và đánh tan tập đoàn quân xe tăng số 3 Đức của cụm Wisla định tấn công giải cứu Berlin từ phía bắc. Phương diện quân này đồng thời ào ạt tiến về phía tây và tây bắc để gặp quân Anh – Mỹ.
Sau khi vượt qua Seelow, tận dụng các thắng lợi của phương diện quân Ukraina 1 tại cánh nam, phương diện quân Belorussia 1 của Zhukov ào ạt tiến sâu về phía Berlin trên hướng chính diện phía đông. Ngày 24 tháng 4 năm 1945 mũi tấn công của tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 và tập đoàn quân cận vệ số 8 của Zhukov đã gặp tập đoàn quân xe tăng số 3 và tập đoàn quân số 28 của Konev tại phía đông Berlin và đã hoàn thành việc bao vây khối quân Đức của tập đoàn quân 9 và tập đàn quân xe tăng số 4 phòng thủ phía đông và đông nam Berlin. Ngày hôm sau hai phương diện quân Xô Viết của Zhukov và Konev lại hợp vây tại phía tây Berlin và hoàn thành việc bao vây toàn bộ khối quân Đức tại Berlin, số phận đế chế thứ ba chỉ còn tính từng ngày.Đồng thời Hồng quân chạy đua với thời gian phát triển mạnh về phía tây chiếm tối đa đất Đức. Ngày 26 tháng 4 năm 1945 các đơn vị tiên phong của tập đoàn quân cận vệ số 5 của phương diện quân Konev đã gặp tập đoàn quân số 1 của Mỹ tại Torgau trên sông Elbe.
Berlin đã trong vòng vây dày đặc. Quân đội Xô Viết bắt đầu giai đoạn cuối cùng là đè bẹp các ổ kháng cự cuối cùng của Đức trong các trận đánh đường phố trong thủ đô Đức.
Berlin thất thủ
Hơn 10 ngày cuối cùng từ 26 tháng 4 đến 9 tháng 5, Hồng quân tấn công các ổ kháng cự tại nội đô Berlin. Với việc thành phố đã bị vây bọc hoàn toàn không nguồn tiếp tế thì Berlin không thể cầm cự được lâu dài. Việc đánh chiếm Berlin được phương diện quân Belorussia 1 tiến hành đồng thời với việc tiêu diệt khối quân Đức bị vây bên ngoài tại phía đông và đông nam thành phố, đến ngày 1 tháng 5 năm 1945 khối quân này gồm tập đoàn quân số 9, tập đoàn quân xe tăng số 4 về cơ bản đã bị tiêu diệt.
Việc đánh chiếm nội đô Berlin diễn ra phức tạp hơn nhiều, quân Đức chống cự một cách tuyệt vọng đến cùng. Hai bên đánh nhau giành giật từng khu phố từng ngôi nhà. Loại súng chống tăng không giật vác vai Panzerfaust của Đức được phát rộng rãi xuống cho dân quân và các lực lượng bán vũ trang đã phát huy tác dụng rất tốt: trong các trận đánh đường phố, hơn 2.000 xe tăng và cơ giới các loại của Liên Xô đã bị phá hủy chỉ tính riêng trong nội đô Berlin.
Để trục xuất các nhóm lính Đức cố thủ trong các ngôi nhà, Hồng quân tách nhỏ các đơn vị xe tăng và pháo binh, đưa xuống cho các đơn vị bộ binh xung kích để hỗ trợ hỏa lực đánh nhau trong phố: đại bác, xe tăng Xô Viết nã thẳng trái phá vào các tòa nhà, các căn phòng để trục quân Đức ra khỏi các chỗ ẩn náu. Quân đội Xô Viết đã có kinh nghiệm đánh nhau trong phố: Hồng quân trước tiên đánh tiêu diệt các kho tàng đạn dược của đối phương, sau đó đánh chia nhỏ các khu vực kháng cự, cô lập và tiêu diệt dứt điểm từng khu. Quân Đức dù chống cự rất quyết liệt đến cùng, nhưng khi hết đạn thì hoặc phải tự sát hoặc đầu hàng. Hơn nữa lính Đức cố thủ trong thành phố đã không còn vũ khí nặng, không thể đấu lại được với xe tăng, máy bay và đại bác bắn thẳng của Hồng quân. Lính Đức, SS và Volkssturm dần dần bị đẩy khỏi các khối nhà và đến ngày 29 tháng 4 toàn bộ lực lượng Đức còn lại chủ yếu là các đơn vị SS trung thành nhất tập trung dày đặc tại khu vực Nhà quốc hội Đức (Reichstag) và văn phòng đế chế (Reichschancellery).
Ngày 29 tháng 4 đã diễn ra trận đánh cuối cùng chiếm khu nhà quốc hội Đức: sau các đợt bắn phá dữ dội bằng pháo binh và không quân các đơn vị Xô Viết xung phong cận chiến đánh chiếm Reichstag, chiến sự cực kỳ ác liệt và không khoan nhượng, hai bên giành giật từng căn phòng, từng đoạn cầu thang, từng tầng lầu. Đến ngày 30 tháng 4, hầu hết lính Đức và SS tại đây đều đã chết. Hai người lính trinh sát Xô Viết của trung đoàn 756, sư đoàn bộ binh 150 thuộc tập đoàn quân xung kích số 3, phương diện quân Belorussia 1: trung sĩ Mikhail Alekseyvich Egorov người Nga và hạ sĩ Meliton Varlamovich Kantarya người Gruzia đại diện cho các dân tộc Xô Viết chiến thắng đã cắm quốc kỳ Liên Xô lên mái vòm Reichchtag.
Cùng ngày để không rơi vào tay quân đội Liên Xô, Führer Adolf Hitler cưới Eva Braun và sau đó cả hai đã tự sát. Trong di chúc Hitler trao quyền tổng thống đế chế (Reichspräsident) cho đô đốc Karl Dönitz và thủ tướng đế chế (Reichskanzler) cho Bộ trưởng tuyên truyền tiến sĩ Joseph Goebbels. Reichskanzler mới Joseph Goebbels liền cử ngay đại tướng Hans Krebs Tổng tham mưu trưởng – có thời từng là tùy viên quân sự Đức tại Moskva đi gặp đối phương đề nghị đàm phán. Tư lệnh Xô Viết G.K. Zhukov cho phía Đức hơn 1 giờ để quyết định đầu hàng không điều kiện. Sau khi hết thời hạn, chiến sự lại tiếp tục bùng phát ác liệt như cũ. Ngày 1 tháng 5 năm 1945, ngay trước khi lính Hồng quân tràn vào văn phòng đế chế, vợ chồng tiến sĩ Goebbels tự tay tiêm thuốc độc cho 6 đứa con nhỏ của mình và tự sát.
Ngày 2 tháng 5 năm 1945 không còn gì để tiếp tục chiến đấu tư lệnh phòng thủ thành phố Berlin trung tướng pháo binh Đức Helmuth Weidling đã ra lệnh đầu hàng, tuy rằng trong thành phố vẫn còn nhiều trung tâm kháng cự của SS tiếp tục chiến đấu nhưng về cơ bản Berlin đã thất thủ. Hầu hết 800.000 quân Đức phòng thủ Berlin đã chết, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh. Phía Liên Xô cũng có 81.000 người tử trận và trên 200.000 bị thương.
Ngày 7 tháng 5 năm 1945 tại Rheims (Pháp) đại tướng Alfred Jold tổng tham mưu trưởng bộ tư lệnh hành quân Đức thay mặt chính phủ Đế chế của đô đốc Karl Dönitz đã ký biên bản đầu hàng quân đội đồng minh cùng Hồng quân Xô Viết trước các đại diện quân đội Anh, Pháp, Mỹ. Tổng tư lệnh tối cao Xô Viết Stalin bất bình và phản đối thể thức đầu hàng như vậy và yêu cầu nghi thức đầu hàng chính thức phải được diễn ra tại Berlin với đại diện cao nhất của lực lượng vũ trang Đức và dưới sự chủ tọa của đại diện của quân đội Xô Viết. Lãnh đạo các nước đồng minh nhất trí coi việc ký đầu hàng ngày 7 tháng 5 là đầu hàng sơ bộ và sẽ tổ chức nghi thức ký chính thức đầu hàng của Đức tại Berlin. Hôm sau thống chế Tổng tư lệnh quân đội Đức Wilhelm Keitel cùng các đại diện Hải, lục, không quân, các lực lượng vũ trang Đức đã đến Berlin. Trước các đại diện quân đội Đồng minh, Nguyên soái Liên Xô Georgy Konstantinovich Zhukov thay mặt Tổng tư lệnh tối cao Xô Viết chủ trì và tiếp nhận sự đầu hàng của Đức Quốc xã. Chiến tranh Xô – Đức đã chấm dứt.
Mặt trận hậu phương - Sản xuất quân sự của Đức và Liên Xô
Chiến lược sản xuất
Xét về nguồn lao động, có vẻ Liên Xô chiếm ưu thế hơn so với Đức (năm 1940, dân số Liên Xô là khoảng 170 triệu, còn Đức là gần 80 triệu). Nhưng vào năm 1941 và đầu 1942, Đức đã đánh chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn của Liên Xô, hàng chục triệu người Liên Xô đã chết hoặc chịu sự chiếm đóng của Đức. Đức cũng huy động rất nhiều lao động cưỡng bức từ các nước bị chiếm đóng (Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc...). Sau khi tính toán các yếu tố này, Đức mới là bên chiếm ưu thế về lực lượng lao động (năm 1942, Liên Xô có 7,2 triệu công nhân, trong khi Đức có 16,2 triệu công nhân), và ưu thế này duy trì cho tới cuối năm 1944. Đức cũng không bị thiếu tài nguyên như hồi thế chiến 1, vì họ có thể lấy từ các nước bị chiếm đóng. Tuy nhiên, cuối cùng Liên Xô lại sản xuất được nhiều vũ khí hơn so với Đức, sự khác biệt đó là do chiến lược sản xuất của mỗi bên quyết định.
Chiến thắng của Liên Xô dựa rất nhiều vào khả năng của ngành công nghiệp chiến tranh hoạt động hiệu quả hơn nền công nghiệp Đức, mặc dù Liên Xô phải chịu sự mất mát to lớn về dân số và đất đai trong năm 1941. Các Kế hoạch 5 năm của lãnh tụ Iosif Stalin trong những năm 1930 đã dẫn đến nền đại công nghiệp to lớn ở Urals và Trung Á, và đưa Liên Xô trở thành cường quốc công nghiệp thứ 2 thế giới. Năm 1941, các chuyến tàu vận chuyển quân sự đã được sử dụng để sơ tán hàng nghìn nhà máy từ Belarus và Ukraine cùng 8 triệu dân đến nơi an toàn cách xa quân Đức. Một khi các cơ sở này đã được tập hợp lại ở phía đông của dãy Urals, các công nhân Liên Xô bắt tay ngay vào sản xuất với cường độ 24/24 giờ.
Bởi quy mô cực kỳ lớn của chiến tranh tổng lực, cả Liên Xô và Đức đều phải huy động hàng chục triệu nam giới nhập ngũ, do vậy lực lượng lao động của mỗi quốc gia đều sụt giảm, trong khi việc cung cấp vũ khí cho mặt trận cần phải tiến hành liên tục. Để giải quyết tình trạng thiếu lao động, cả hai bên đi theo 2 hướng khác nhau:
Sự gia tăng sản xuất các trang thiết bị của Liên Xô nhờ vào việc áp dụng triệt để nhất các nguyên tắc của chiến tranh toàn diện: Phụ nữ, người già được huy động để thay thế vị trí của các nam công nhân đã lên đường nhập ngũ. Chính phủ Liên Xô sử dụng các biện pháp động viên lòng ái quốc để mỗi người dân Xô Viết, từ thanh niên, phụ nữ cho tới người già đều sắn sàng lao động với nỗ lực cao nhất mà họ có thể đạt được theo phương châm "Tất cả cho tiền tuyến, Tất cả cho chiến thắng".
Người Đức đi theo một hướng khác, họ dựa vào một lực lượng lao động nô lệ rất lớn bị cưỡng bức từ các nước bị chinh phục (công nhân từ Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc...) và cả tù binh Liên Xô. Khoảng 50% số lao động công nghiệp của Đức trong chiến tranh là từ lao động cưỡng bức, nhờ số lao động cưỡng bức này mà Đức có thể tăng cường sản xuất vũ khí bất chấp việc thiếu hụt lao động trong nước. Đức cũng trưng dụng luôn cả những nhà máy ở những nước bị chiếm đóng như Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc... để sản xuất cho mình (ví dụ, rất nhiều xe cơ giới của Đức được sản xuất tại các nhà máy chiếm được của Pháp).
Trong việc tổ chức sản xuất, người Đức đã mắc phải một số sai lầm lớn:
Trong giai đoạn đầu chiến tranh, các chỉ huy Đức không xem trọng việc tổ chức sản xuất quốc phòng do các chiến thắng quá nhanh chóng. Nền kinh tế Đức trong năm 1940 vẫn tiếp tục phục vụ cả dân sự và quân sự, Đức không đặt ra các hạn chế về tiêu thụ sản phẩm tiêu dùng của người dân để tiết kiệm tài nguyên dành cho quân sự. Năm 1940, khoảng 41% lượng thép của Đức vẫn được dành cho các ngành dân sự. Phải tới đầu năm 1942, khi chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" bị Liên Xô bẻ gãy, Đức mới thực sự chuyển nền kinh tế sang thời chiến.
Vào nửa cuối năm 1941, chủ quan với những thắng lợi lớn ở mặt trận Liên Xô, ngày 16 tháng 8 năm 1941, chỉ huy quân đội Đức đề nghị cắt giảm nỗ lực sản xuất quân sự vào mùa thu năm 1941 vì họ chắc chắn rằng Đức sẽ đánh bại Liên Xô, và Hitler đồng tình. Tóm lại, Đức đã không chuẩn bị đầy đủ cho một chiến dịch trong mùa đông, hậu quả là đến tháng 12 năm 1941, quân Đức lâm vào tình trạng thiếu đồ dùng, trang bị cho mùa đông, làm sụt giảm khả năng chiến đấu.
Đức không động viên phụ nữ cho sản xuất công nghiệp (năm 1939, công nghiệp Đức sử dụng 2,62 triệu phụ nữ, vào tháng 7 năm 1944, công nghiệp Đức vẫn chỉ sử dụng 2,67 triệu phụ nữ) do học thuyết Quốc xã không chấp nhận cho phụ nữ làm việc nặng. Việc này làm lãng phí một nguồn lao động khá lớn.
Trong các thiết kế vũ khí, người Đức đã vướng phải một số tính toán sai lầm. Khi Đức sản xuất một loại vũ khí, họ liên tục sửa đổi các mô hình sản xuất cơ bản trong một thời gian rất ngắn (ví dụ như xe tăng Panzer IV có tới gần 10 biến thể trong 4 năm sản xuất). Các "nâng cấp" này đem lại chút ít hiệu quả tác chiến, nhưng sẽ làm gián đoạn dây chuyền sản xuất và kéo tụt rất nhiều số lượng vũ khí được chế tạo (ngược lại, Liên Xô hạn chế sửa đổi thiết kế vũ khí nếu không thực sự cần thiết, ví dụ như xe tăng T-34 chỉ có 2 biến thể chính trong 5 năm sản xuất). Xe tăng Đức sử dụng động cơ phức tạp chạy xăng (bảo dưỡng phức tạp hơn và chi phí đắt hơn); trong khi xe tăng Liên Xô chạy động cơ diesel rất cơ bản (và cũng ít bị bốc cháy hơn). Người Đức đã nhận ra sai lầm trong năm 1941, nhưng đã quá muộn để chuyển đổi nền kinh tế Đức sang sản xuất động cơ diesel.
Đức liên tục đưa ra các thiết kế vũ khí mới, ngày càng mạnh mẽ nhưng cũng ngày càng đắt tiền như xe tăng Panther, Tiger I hay Elefant. Chi phí sản xuất mỗi đơn vị ngày càng cao, trong khi hiệu quả chiến đấu tăng lên không tương xứng (ví dụ như xe tăng Tiger I đắt gấp 3 lần so với Panzer IV, nhưng 1 chiếc Tiger sẽ không hữu dụng bằng 3 chiếc Panzer IV, lại dễ hỏng hóc hơn).
Ngược lại với Đức, việc hoạch định sản xuất của Liên Xô đạt hiệu quả rất lớn:
Với sự lãnh đạo tài ba của Iosif Stalin, Liên Xô đã hoàn thành công nghiệp hóa, đạt những bước tiến công nghệ tương đương 50 năm chỉ trong một khoảng thời gian là 10 năm. Các tổ hợp công nghiệp Liên Xô có thể sản xuất hàng loạt theo dây chuyền với một tiến độ rất nhanh, các nhà máy cũng bố trí liên kết với nhau chứ không phân tán như các nhà máy Đức, nên càng giúp tiết kiệm thời gian sản xuất.
Các quân đội phương Tây trong Thế chiến thứ hai vẫn mô phỏng theo cách của thời Napoleon - cung cấp cho mỗi sư đoàn chiến đấu một đơn vị hậu cần và đơn vị này sẽ rút ra khu vực phía sau khi cần thiết. Liên Xô đảo ngược thứ tự - các đơn vị hậu cần được tổ chức chuyên biệt (hiệu quả hơn), cho phép có thêm quân chiến đấu ở tiền tuyến.
Trái ngược với Đức, các nhà máy vũ khí Liên Xô tập trung vào việc cải tiến các thiết kế vũ khí sẵn có, hạn chế việc đưa ra các thiết kế mới hoàn toàn (để tránh việc làm sụt giảm sản lượng và tăng chi phí). Ví dụ điển hình nhất là xe tăng hạng nặng, suốt chiến tranh Liên Xô chỉ sản xuất một loại xe tăng mới (xe tăng Iosif Stalin) trong khi Đức sản xuất tới ba loại (Panther, Tiger I và Tiger II).
Vũ khí Liên Xô thường có vẻ ngoài thô kệch, nhưng đơn giản trong thiết kế và sản xuất, và ít khi hỏng hóc. Hệ thống vũ khí của Đức thì ngày càng trở nên phức tạp hơn khi chiến tranh tiến triển và chúng thường xuyên bị hỏng hóc (chẳng hạn như xe tăng Panther và Tiger II). Các đơn vị kỹ thuật Đức không bao giờ có thể giữ cho tất cả các thiết bị quân sự Đức hoạt động ở cường độ cao, và các hỏng hóc là không thể tránh khỏi.
Vì những lý do trên, mặc dù Đức huy động lực lượng lao động lớn gấp đôi và sản xuất ra nhiều nguyên vật liệu hơn (than đá, quặng sắt...), song nhờ chiến lược tổ chức sản xuất hiệu quả hơn, kể từ năm 1943, Liên Xô đã vượt qua Đức trong số lượng sản xuất quân sự (năm 1943, Liên Xô sản xuất 24.089 xe tăng và pháo tự hành, trong khi Đức là 19.800). Để đảm bảo tốc độ sản xuất, Liên Xô từng bước nâng cấp các thiết kế hiện có, và áp dụng quy trình sản xuất đơn giản và tinh tế để gia tăng sản xuất (tiêu biểu như xe tăng T-34, 53.000 xe đã được sản xuất liên tục suốt chiến tranh, nhờ cải tiến liên tục mà xe ngày càng rẻ trong khi sức mạnh ngày càng tăng). Trong khi đó, ngành công nghiệp Đức đi theo hướng khác, họ liên tục tạo ra các thiết kế mới, ngày càng mạnh mẽ nhưng cũng ngày càng đắt tiền như xe tăng Panther, Tiger I hay Elefant. Người Đức có xu hướng "ưu tiên chất lượng hơn số lượng", kết quả của chiến lược này là Đức có những vũ khí mạnh mẽ, tính năng cao nhưng cũng rất tốn kém, khó có thể sản xuất nhiều để bù đắp cho tổn thất (ví dụ như xe tăng Tiger II có vỏ giáp và hỏa lực rất mạnh, nhưng xe rất đắt nên chỉ sản xuất được gần 500 chiếc).
Số liệu sản xuất chi tiết
Về trợ giúp từ bên ngoài, phía Liên Xô nhận được viện trợ (khoảng 9,8 tỷ USD) từ Anh, Mỹ, lượng viện trợ này chiếm 4% tổng lượng sản xuất của Liên Xô. Trong khi đó, phía Đức cũng nhận được sự hỗ trợ rất lớn về nhân công và nguyên liệu từ các nước phe Trục (Hungary, Bulgari, Romania, Pháp Vichy...). Ví dụ, khoảng một nửa lượng dầu mỏ mà Đức sử dụng là do Romania cung cấp.
Lãnh tụ Liên Xô là Iosif Stalin đã tổng kết rằng thắng lợi của Liên Xô có nguyên nhân rất quan trọng là nhờ sự thắng lợi trong việc tổ chức sản xuất. "Mặt trận hậu phương" được ông đánh giá có vai trò quan trọng ngang với những chiến dịch lớn nhất trong chiến tranh:Kinh nghiệm lịch sử, các quy luật chung tiến hành chiến tranh dạy rằng không một quốc gia nào có thể chịu đựng nổi sự căng thẳng to lớn ấy, vì sẽ không còn người để làm việc trong các xí nghiệp, nhà máy, không còn người trồng trọt lúa mì để bảo đảm cho nhân dân và cung cấp cho quân đội mọi thứ cần thiết. Các tướng lĩnh của Hít-le được nuôi dưỡng bởi các giáo điều của Clausewitz và Moltke nên không thể hoặc không muốn hiểu đến tình hình đó. Kết quả là bọn Hít-le đã tự phá hoại đất nước của chúng, mặc dù bọn chúng đã bóc lột tới hàng trăm nghìn người lấy ở các nước bị chiếm đóng...
Thế còn ở hậu phương? Lẽ nào lãnh đạo những nước khác có thể làm trọn những điều mà những người Bôn-se-vích đã làm? Họ đã chuyển nguyên cả xí nghiệp, nhà máy ngay trước mũi súng quân thù tới các vùng hoang vu ở Pô-vôn-giê, ở ngoại Uran, ở Siberia. Trong những điều kiện hết sức khó khăn như thế mà chỉ trong vòng một thời gian ngắn, họ đã ổn định được sản xuất và cung cấp mọi thứ cần thiết cho tiền tuyến! Đất nước chúng ta lại đào tạo nên các tướng lĩnh và nguyên soái về dầu hỏa, luyện kim và vận tải, chế tạo máy móc và về nông nghiệp. Cuối cùng, chúng ta còn có cả những thống soái về khoa học... Hàng trăm ngàn người đã bị chở sang nước Đức, thực ra đã biến thành nô lệ làm việc cho Hít-le. Song, Hít-le vẫn không thể bảo đảm cung cấp đủ cho quân đội của chúng. Còn nhân dân của chúng ta thì đã làm nên những công việc tưởng chừng như không thể làm nổi, đã lập nên chiến công vĩ đại. Đó là kết quả hoạt động của những người cộng sản trong công cuộc xây dựng Nhà nước Xô-viết và giáo dục con người mới... Đấy, lại thêm một nguyên nhân thắng lợi nữa của chúng ta, các đồng chí thấy không!
Sự hỗ trợ của các nước khác
Hỗ trợ cho Đức
Phía Đức Quốc xã nhận được sự hỗ trợ từ 9 nước đồng minh (phát xít Ý, Romania, Bulgaria, Hungary, Phần Lan, Slovakia, Croatia, Vichy Pháp và Tây Ban Nha), 9 nước này đã cung cấp cho Đức khoảng 20% quân số, 1/3 số lao động và hơn một nửa lượng nguyên vật liệu để sản xuất vũ khí. Đức Quốc xã đã huy động nguồn nhân lực, toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ nền công nghiệp quân sự của toàn Tây Âu và Trung Âu vào cuộc chiến chống Liên Xô, ngoài ra Đức còn tuyển mộ hàng trăm ngàn lính đánh thuê từ các nước vùng Baltic, Nam Tư, Đan Mạch, người Cozak. Về số lượng nhân công lao động, khoảng 40% nhân công của Đức là người nước ngoài, từ những nước chư hầu hoặc vùng bị chiếm đóng Trên thực tế, quân đội Liên Xô phải cùng lúc đương đầu với tiềm lực và quân đội của 9 nước châu Âu chứ không chỉ riêng Đức Quốc xã. Nếu không có sự trợ giúp của 9 nước này, Đức Quốc xã sẽ không thể có đủ nhân lực và tài nguyên để tiến hành chiến tranh tổng lực lâu dài với Liên Xô (ví dụ, sau khi Romania bị Liên Xô đánh bại vào tháng 8/1944 thì Đức cũng bị mất một nửa nguồn cung dầu mỏ, điều này khiến sản lượng vũ khí của Đức sụt giảm nhanh chóng kể từ cuối năm 1944 và quân đội Đức cũng thua chung cuộc chỉ nửa năm sau đó).
Không chỉ huy động trong nước, Đức còn huy động nhân lực, tài nguyên của các vùng đã bị chiếm đóng để có thêm nguồn lực cho chiến tranh. Khi Đức chiếm được lãnh thổ mới (bằng cách đánh chiếm trực tiếp hoặc bằng cách thiết lập chính phủ bù nhìn ở các nước bị đánh bại), những lãnh thổ mới này buộc phải bán tài nguyên và nông sản cho Đức với giá cực thấp. Một lượng lớn hàng hóa chảy vào Đức từ những vùng bị chinh phục ở phía Tây. Ví dụ, 2/3 trong tất cả các chuyến tàu hỏa ở Pháp vào năm 1941 đã được sử dụng để vận chuyển hàng hóa sang Đức. Na Uy mất 20% thu nhập quốc dân vào năm 1940 và 40% vào năm 1943 để cung cấp cho Đức Vào các năm 1943–44, 55% GDP của nước Pháp được dùng để chuyển cho Đức.
Ngay từ khi bắt đầu Thế chiến (năm 1939), 20% nguồn cung lương thực và 33% nguồn cung tài nguyên khoáng sản của Đức là được lấy từ các nước bị chiếm đóng hoặc các nước đồng minh của Đức (Romania, Thụy Điển, Vichy Pháp, Hungary, Tiệp Khắc, Nam Tư...) Tỷ lệ này còn tăng cao hơn trong những năm sau đó, khi quy mô chiến tranh ngày càng lớn khiến tốc độ hao tổn tài nguyên của Đức ngày càng tăng.
Do bị thiếu lương thực bởi nhiều nông dân nam đã nhập ngũ, Đức bù đắp sự thiếu hụt đó bằng cách lấy hàng triệu tấn ngũ cốc từ Nam Tư, Hungary và Romania. Nguồn cung cấp dầu của Đức, vốn rất quan trọng cho nỗ lực chiến tranh, phụ thuộc phần lớn vào việc nhập khẩu 1,5 triệu tấn dầu hàng năm, chủ yếu từ Romania. Đức cũng chiếm giữ luôn nguồn cung cấp dầu của các nước bị chinh phục - ví dụ như Pháp Ngày 27/5/1940, Đức đã ký thỏa thuận với Romania, theo đó Romania đã cung cấp cho Đức 6.000.000 tấn dầu mỗi năm, chiếm 35% nguồn cung xăng dầu tinh chế và 70% dầu thô cho Đức
Về quặng sắt, 41,7% nguồn cung của Đức trong giai đoạn 1938-1941 là do Thụy Điển cung cấp. Cứ 4 trong số 10 vũ khí của Đức (súng ống, xe tăng, pháo...) là được chế tạo bằng quặng kim loại do Thụy Điển cung cấp
Về mặt sản xuất, Đức trưng dụng mọi nhà máy tại các lãnh thổ chiếm đóng, các nhà máy này đã cung cấp rất nhiều vũ khí cho Đức. Ví dụ như loại xe tăng Panzer 38(t) và các biến thể của nó đã được sản xuất tại các nhà máy ở Tiệp Khắc với số lượng lên tới trên 6.600 chiếc
Do phần lớn nam giới Đức đã nhập ngũ nên Đức bị thiếu lao động sản xuất, nhất là sản xuất vũ khí. Để bù đắp thiếu hụt, trong tháng 1 năm 1944, gần 6,5 triệu lao động của Đức là người nước ngoài (chiếm 40% tổng số lao động), tuyển dụng từ các vùng mà Đức chiếm đóng, bao gồm: 2,165 triệu người Liên Xô, 1,4 triệu người Ba Lan, 1,1 triệu người Pháp, 180.000 người Italy, 350.000 người Hà Lan, 348.000 người Tiệp Khắc, 500.000 người Bỉ và khoảng 300.000 người nước khác
Hỗ trợ cho Liên Xô
Trong quá trình chiến tranh, Liên Xô đã nhận được 17.499.861 tấn hàng hóa viện trợ của Mỹ-Anh theo chương trình Lend-Lease (cho vay - cho thuê), tương đương 9,8 tỷ USD (thời giá 1945). Riêng khoản viện trợ của Hoa Kỳ dành cho Liên Xô từ ngày 1 tháng 10 năm 1941 đến 31 tháng 5 năm 1945 bao gồm: 427.284 xe vận tải, 13.303 phương tiện chiến đấu, 35.170 xe mô tô, 2.328 xe tiếp tế quân nhu, 2.670.371 tấn các loại sản phẩm từ dầu mỏ (gồm xăng và dầu) , 4.478.116 tấn thực phẩm (thịt hộp, đường, bột, muối, vv), 1.911 đầu máy hơi nước, 66 đầu máy xe lửa Diesel, 1.000 xe ô tô, 120 xe thùng và 35 xe máy hạng nặng, 12.000 xe tăng - thiết giáp (bao gồm 7.000 xe tăng, khoảng 1.386 trong số đó là M3 Lee và 4.102 là M4 Sherman) ; 11.400 máy bay (4.719 trong số đó là Bell P-39 Airacobras) .
Động lực chính của Mỹ-Anh khi viện trợ cho Liên Xô là vì lợi ích của chính họ, chứ không phải là sự hào phóng. Tổng thống Mỹ là Roosevelt tin rằng Hoa Kỳ sẽ thua cuộc nếu Đức chiến thắng ở Mặt trận phía Đông. Khi đó Đức sẽ kiểm soát toàn bộ lục địa châu Âu, từ eo biển Anh đến miền trung nước Nga, quy mô nhân lực và tài nguyên của Đức khi đó sẽ tăng thêm rất nhiều. Giúp Hồng quân chống lại Đức cũng chính là để bảo vệ lợi thế của các nước Đồng minh phương Tây. Phía Liên Xô cũng không xem Lend-Lease là hàng từ thiện. Họ là nước mang gánh nặng chiến tranh lớn nhất trong giai đoạn quan trọng nhất. Cuối năm 1942, Hồng quân phải đối mặt với 193 sư đoàn Đức, trong khi các lực lượng Anh-Mỹ ở Châu Phi chỉ phải đối mặt với 4 sư đoàn Đức. Đối với Liên Xô, việc các đồng minh phương Tây không mở được mặt trận thứ hai ở châu Âu cho đến giữa năm 1944 đã khiến Liên Xô phải gánh chịu thêm gánh nặng và thương vong của cuộc chiến.
Bản thân Lend-Lease cũng được thực hiện chậm. Chỉ sau Trận Stalingrad (19/8/1942 đến 2/2/1943), viện trợ của Mỹ-Anh mới bắt đầu được chuyển đến với quy mô đáng kể - 85% lượng hàng Lend-Lease được chuyển đến sau tháng 1 năm 1943, khi đó chiến thắng chung cuộc của Liên Xô đã gần như chắc chắn. Rõ ràng là chương trình Lend-Lease đã đến quá muộn để trở thành nhân tố quyết định trong chiến thắng của Liên Xô, nhưng dù sao nó cũng tăng tốc quá trình đánh bại Đức, giúp Liên Xô giảm bớt thiệt hại trong chiến tranh.
Một số quan điểm cho rằng Phương Tây đã thổi phồng quá mức vai trò của khoản viện trợ cho Liên Xô. Tổng giá trị viện trợ chỉ bằng 4% tổng lượng sản xuất của Liên Xô trong những năm chiến tranh (trong khi Liên Xô phải chống đỡ 70% binh lực của Đức và chư hầu). Do vậy, những quan điểm này đã cho rằng viện trợ lend-lease đóng góp không đáng kể vào chiến thắng của các lực lượng vũ trang Xô viết. Ngoài ra, viện trợ trong năm 1941 (khi Liên Xô đang cần nhất) lại khá nhỏ giọt, trong khi tới 56,5% giá trị viện trợ lend-lease chỉ đến Liên Xô vào năm cuối cùng của cuộc chiến tranh (từ tháng 1/1944 tới tháng 5/1945), khi đó mức sản xuất của Liên Xô đã vượt xa Đức nhiều lần. Chưa kể nhiều học giả Xô viết cho biết rằng những loại vũ khí mà Mỹ viện trợ cho Liên Xô trong giai đoạn này bị binh sĩ Hồng quân chê bai khá nhiều và ít khi sử dụng (ví dụ như xe tăng M3 Stuart hay tiểu liên Thompson bị đánh giá là thiếu sức mạnh và dễ hỏng hóc so với vũ khí tương ứng do Liên Xô chế tạo như T-34 và PPSh-41). Nhiều loại xe tăng của Mỹ và Anh viện trợ cho Liên Xô không hoàn chỉnh và bị thiếu kính ngắm, phụ tùng, bộ dụng cụ bảo trì và sửa chữa... Những quả đạn nổ cho pháo 75mm trên xe tăng Mỹ có xu hướng phát nổ bất ngờ. Stalin đã phàn nàn với Roosevelt trong một lá thư vào năm 1942: "Theo các chuyên gia của chúng tôi ở mặt trận, xe tăng Mỹ dễ dàng bị đốt cháy bởi những khẩu pháo chống tăng bắn vào phía sau hoặc hai bên. Đó là do nhiên liệu xăng của các xe tăng Mỹ khi bị đốt nóng đã tạo ra một lớp khói xăng dày bên trong các xe tăng, tạo điều kiện cho quá trình bốc cháy" Xe tăng M3 Lee của Mỹ bị lính Liên Xô gán cho biệt danh là "БМ-6 - братская могила vào шестерых", nghĩa là "ngôi mộ tập thể cho sáu người", như một cách để mỉa mai hỏa lực và vỏ giáp yếu của loại xe này.
Nhà ngoại giao Vyacheslav Molotov tuyên bố năm 1945 rằng "đất nước ta đã cung cấp tất cả các yếu tố cần thiết cho quân đội anh hùng của chúng ta". Các nhà sử học khác như Roger Munting đã lập luận rằng sự viện trợ của Đồng minh (Lend-Lease) không bao giờ chiếm hơn 4% sản lượng công nghiệp thời chiến của Liên Xô Các số liệu cho thấy vũ khí Lend-Lease chỉ cung cấp một đóng góp nhỏ cho nỗ lực chiến tranh của Liên Xô (chiếm chưa đầy 2% pháo binh, 12% số máy bay, 10% số xe tăng mà Liên Xô sử dụng)
Harry Lloyd Hopkins, cố vấn của Tổng thống Roosevelt, nhận định: “Chúng tôi chưa bao giờ cho rằng sự giúp đỡ của chúng ta dưới hình thức Lend-lease là yếu tố chính trong thắng lợi của Liên Xô trước Hitler ở mặt trận phía đông. Chiến thắng đó đạt được bằng sự dũng cảm và máu của quân đội Nga”. Nhà sử học Mỹ George C. Herring thẳng thắn hơn: “Lend-lease không phải là hành động vô tư. Đây là một hành động có tính toán, vị kỷ và người Mỹ luôn hình dung rõ ràng những món lợi mà họ có thể thu được từ hành động đó”. Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã khẳng định rằng việc giúp đỡ Liên Xô cũng chính là vì lợi ích của Mỹ, bởi nếu Liên Xô thất bại thì chính Mỹ sẽ là mục tiêu kế tiếp, Roosevelt so sánh rằng "một vòi cứu hỏa nên được trao cho một người hàng xóm để ngăn chặn lửa cháy lan đến nhà riêng của chính mình". Thực tế viện trợ của Mỹ không phải là sự ban tặng, bản thân tên gọi của nó ("Lend-lease", nghĩa là "cho vay - cho thuê") đã cho thấy nó vẫn là một dạng hợp đồng "bán vũ khí - trả tiền sau" chứ không phải là cho không. Trong và sau chiến tranh, Liên Xô đã phải trả nợ (tính kèm lãi suất) cho những hàng hóa, vũ khí mà Mỹ đã viện trợ cho họ, hình thức trả nợ gồm nhiều tàu chở kim loại quý như bạch kim trị giá hàng tỷ USD Mỹ là nước duy nhất trong khối Đồng minh hầu như không bị tàn phá mà còn thu được những nguồn lợi kinh tế khổng lồ từ cuộc chiến tranh.
Một số ý kiến khác lại khẳng định rằng Lend-Lease thực sự có ý nghĩa lớn trong chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã. Vào thời đó việc vận chuyển vũ khí và nhu yếu phẩm của Liên Xô phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động vận tải đường sắt, nhưng Liên Xô đã chấm dứt sản xuất các thiết bị đường sắt kể từ năm 1941 để chuyển sang sản xuất xe tăng. Lend-Lease đã cung cấp 92% tổng số các thiết bị đường sắt cho Liên Xô bao gồm 1,911 đầu máy xe lửa và 11,225 toa tàu lửa. Khoảng 400.000 xe vận tải do Mỹ sản xuất và cung cấp cho Liên Xô giai đoạn này, bao gồm cả những dòng xe như Dodge hay Studebaker, đã hỗ trợ lớn về hậu cần cho binh lính Hồng quân. Vào năm 1945, gần 1/3 số xe tải vận tải của quân Liên Xô trên chiến trường được sản xuất ở Mỹ. Trong cuộc chiến tranh, chính phủ Liên Xô đã cố gắng giảm bớt vai trò của các khoản viện trợ nước ngoài, điều này khiến Đại sứ Mỹ tại Liên Xô lúc đó là William Standley tức giận: "Có vẻ như chính phủ Nga muốn che giấu đi sự thật rằng họ đang nhận được sự giúp đỡ từ bên ngoài. Rõ ràng là họ muốn người dân tin rằng Hồng quân đang chiến đấu một mình trong cuộc chiến này". Cơ quan kiểm duyệt của Nga sau đó đã cho phép phát biểu này của Standley được đăng lên các tờ báo trong cả nước.
Một số quan điểm khác thì lại cho rằng "Lend - lease" không phải là quan trọng sống còn với Liên Xô, nhưng cũng không phải là vô ích. Một số sử gia như M. Harison tin rằng nếu không có "lend - lease", Liên Xô vẫn sẽ chiến thắng, nhưng chiến thắng đó sẽ đến chậm hơn vài tháng. Ngược lại, nếu không có sự tham gia của Liên Xô (chống đỡ 70% lực lượng Đức và chư hầu) thì các nước Đồng Minh còn lại cũng sẽ khó có thể đánh bại được khối Phát xít ở châu Âu. Chuyên gia quân sự Nga Andrey Chaplygin tin rằng Liên Xô vẫn sẽ chiến thắng trong cuộc thế chiến dù không có lend - lease, nhưng chương trình này cũng giúp Liên Xô giảm thiểu tổn thất trên con đường đi đến Chiến thắng. Còn đối với Mỹ thì lend - lease trước hết, như chính Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã từng nói: “Đó là một khoản đầu tư sinh lời”.
Một người Nga đã nói: "Chúng ta đã hy sinh hàng triệu người (để góp phần cho chiến thắng của Đồng Minh), và họ (Mỹ) muốn chúng ta phải cúi rạp trước mặt họ chỉ vì họ gửi thịt đóng hộp cho chúng ta sao. Một kẻ thực dụng có bao giờ làm bất cứ điều gì mà không đem lại lợi ích cho ông ta? Đừng nói với tôi rằng Lend - lease là một khoản tiền từ thiện".
Sau chiến tranh, Mỹ đã yêu cầu Liên Xô trả 1,3 tỷ USD cho khoản nợ còn lại từ chương trình Lend-Lease, nhưng chính phủ Liên Xô cho biết họ chỉ có thể trả 170 triệu USD. Chính phủ Hoa Kỳ không chấp nhận điều kiện này, dẫn đến các cuộc đàm phán vào năm 1972 và kết quả đã đi tới một thỏa thuận giữa 2 nước, theo đó Liên Xô có nghĩa vụ phải trả đủ 722 triệu USD cho Mỹ cho đến năm 2001. Năm 1990, Mỹ và Liên Xô trở lại đàm phán. Hai bên đã đi đến quyết định rằng đến năm 2030, Liên Xô sẽ trả đủ cho Mỹ khoản tiền còn lại là 674 triệu USD. Tuy vậy chỉ 1 năm sau, Liên Xô sụp đổ. Vào năm 1993, chính phủ Nga đã tuyên bố họ sẽ kế thừa các khoản nợ của Liên Xô và sẽ sớm thanh toán cho tất cả số hàng hóa mà Liên Xô đã nhận được theo dự luật Lend-Lease.
Cùng với việc nhận hàng lend-lease từ các nước đồng minh, Liên Xô cũng viện trợ ngược cho các nước này. Trong các năm chiến tranh, các nước đồng minh cũng đã nhận từ Liên Xô 300.000 tấn quặng crom và mangan, gỗ, vàng và bạch kim. Liên Xô đã cung cấp một số lượng không rõ các lô hàng khoáng sản quý hiếm cho Hoa Kỳ như một hình thức chi trả cho hàng lend-lease do Mỹ cung cấp, điều này đã được thỏa thuận trước khi ký kết nghị định thư đầu tiên vào ngày 1 tháng 10 năm 1941. Một số trong những lô hàng này đã bị phát hiện bởi người Đức. Vào tháng 5 năm 1942, HMS Edinburgh bị chìm trong khi mang theo 4,5 tấn vàng của Liên Xô chở đến cho Hoa Kỳ. Vào tháng 6 năm 1942, SS Port Nicholson bị chìm trên đường từ Halifax, Nova Scotia đến New York, trên tàu chở rất nhiều bạch kim, vàng và kim cương công nghiệp của Liên Xô, xác tàu được phát hiện năm 2008.
Tổn thất của dân thường và tù binh
Đức
Trong quá trình chiến tranh, Đức quốc xã thi hành chính sách diệt chủng người Do Thái và người Slav tại những vùng chiếm đóng. Mặt khác, tù binh Liên Xô bị cưỡng bức lao động với cường độ cao trong khi chế độ ăn uống tồi tệ, khiến nhiều người đã chết vì kiệt sức và đói khát. Những tù binh là Đảng viên hoặc chính trị viên có thể bị xử bắn ngay khi bị bắt bởi một mệnh lệnh được ban hành trước đó bởi Hitler nhằm tiêu diệt các đầu não chỉ huy và nguồn khích lệ chính trị của Hồng quân.
Hàng chục triệu Người Nga và các người Slav cũng bị giam cầm tại hơn 100 trại tập trung của Đức trên khắp các vùnh lãnh thổ châu Âu bị nước Đức Quốc xã chiếm đóng. Các trại lớn nhất là Dachau, Buchenwald, Ravensbrück, Auschwitz, Majdanek, Bergen Belsen, Gusen... Số người được giải phóng khỏi các trại này sau chiến tranh chỉ còn vài trăm nghìn. Ước tính khoảng 13,6 triệu thường dân Liên Xô đã chết trong cuộc chiến, cùng với đó là khoảng 3,3 triệu tù binh Liên Xô đã chết trong các trại tù binh của Đức).
Không phải tất cả những người chết trong thời kỳ chiến tranh của Liên Xô đều bị Đức quốc xã giết chết; có những người Liên Xô đã chết khi tham chiến cho phía Đức, hoặc chịu sự trừng phạt của Liên Xô với những người đã cộng tác với quân Đức. Tới năm 1987, các hồ sơ của Liên Xô vẫn chưa được công khai trước công chúng. Ít nhất 1 triệu người đã thiệt mạng trong các trại giam của Liên Xô trong thời chiến hoặc bị chính quyền Liên Xô trục xuất. Những cái chết khác xảy ra trong các cuộc di tản thời chiến và do suy dinh dưỡng liên quan đến chiến tranh và bệnh tật trong nội địa. Vài trăm nghìn người Liên Xô đã cộng tác với Đức Quốc xã, và khoảng 215.000 người trong số đó đã tử trận khi tham chiến trong hàng ngũ quân đội Đức Quốc xã
Liên Xô
Theo một số tài liệu phương Tây, kể từ khi tiến vào nước Đức (1944-1945), ngoài việc cướp nhà dân và cửa hiệu Hồng quân Liên Xô đã cưỡng hiếp hàng chục ngàn phụ nữ và trẻ em người Đức, từ 8 đến 80 tuổi. Theo Franz Wilhelm Seidler, riêng ở Berlin là 20 tới 100 ngàn, các tỉnh còn lại từ 100 ngàn tới nửa triệu. Rất nhiều nạn nhân trong số này bị từ 10 đến 12 lính hãm hiếp tập thể, và đa số bị hãm hiếp nhiều lần.
Một số nhà sử học vẫn tranh cãi về tính xác thực và quy mô của những vụ hiếp dâm. Các nhà sử học Nga phủ nhận những cáo buộc về hiếp dâm hàng loạt, họ đưa ra bằng chứng là một lệnh ban hành ngày 19 tháng 1 năm 1945, yêu cầu việc ngăn ngừa ngược đãi thường dân. Một lệnh của Hội đồng quân sự của Phương diện quân Byelorussia số một, có chữ ký của Nguyên soái Rokossovsky, đã ra lệnh xử bắn những binh lính phạm tội trộm cướp và hiếp dâm ngay tại hiện trường của vụ án. Ba binh sĩ đã bị treo cổ công khai trước người dân Đức vì tội hãm hiếp, và các vi phạm đã gần như chấm dứt. Một lệnh ban hành bởi Stavka (Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Hồng quân) vào ngày 20 tháng 4 năm 1945 đã phổ biến tới binh sĩ rằng cần phải duy trì quan hệ tốt với người dân Đức để giảm kháng cự và để chiến sự kết thúc nhanh hơn. Thiếu tướng Vasili Satilov, sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 150, thuộc Quân đoàn bộ binh 79, Tập đoàn quân xung kích 3, Phương diện quân Byelorussia 1, đơn vị đã cắm cờ chiến thắng lên nóc nhà Quốc hội Đức ở Berlin tuyên bố:
Trong khu vực chiếm đóng của Liên Xô, các thành viên của SED đã báo cáo cho Stalin cướp bóc và hãm hiếp bởi binh lính Liên Xô có thể dẫn đến một phản ứng tiêu cực của dân Đức đối với Liên Xô và hướng tới tương lai của chủ nghĩa xã hội ở Đông Đức. Stalin đã phản ứng một cách giận dữ: "Tôi sẽ không tha thứ bất cứ ai kéo danh dự của Hồng quân qua vũng bùn."
Các nhà lãnh đạo Liên Xô bất bình với các cơ quan truyền thông của các nước mà vừa mới đây còn là đồng minh của họ trên mặt trận chống phát xít đã làm rùm beng chuyện này. Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô V. M. Molotov chỉ ra rằng "chiến dịch hèn hạ" này nhằm phá hoại uy tín của Hồng quân và trút lên đầu những người lính Hồng quân tất cả những gì xảy ra do sự hỗn loạn trước đó tại những vùng do Liên Xô chiếm đóng. Ông nói: "Liên Xô và những bạn bè của chúng tôi trên thế giới đã có những thông tin cần thiết để chống lại chiến dịch tuyên truyền này".
Tướng Gareyev, chủ tịch của Học viện Khoa học Quân sự Nga, nhận xét:
Tất nhiên, sự trả thù, bao gồm cả bạo lực tình dục, đã xảy ra. Một số binh sĩ chỉ đơn giản là không thể kiềm chế tức giận sau những gì Đức quốc xã đã làm trên đất nước chúng tôi. Nhưng các trường hợp này đã bị trừng phạt nghiêm khắc. Và việc trả thù đã không trở nên phổ biến. Bởi vì ngay khi chúng tôi chiếm đóng các thành phố, kỷ luật đã được thắt chặt. Chúng tôi cung cấp cho người dân Đức thực phẩm, chăm sóc y tế, tuần tra an ninh. Cá nhân tôi đã tham gia giải phóng Đông Đức. Tôi cam đoan, việc lạm dụng tình dục thậm chí không hề được nghe thấy.
Theo nguồn tin của Nga thì một phụ nữ Berlin, Elizabeth Shmeer, cho biết:
Đức quốc xã nói rằng nếu người Nga đến đây, họ sẽ tàn phá và hãm hiếp khủng khiếp. Nhưng thực tế sau đó rất khác: dù là những người bại trận, quân đội Đức đã gây ra rất nhiều đau khổ cho nước Nga, nhưng những người chiến thắng đã cho chúng tôi thực phẩm còn nhiều hơn những gì chính quyền cũ phân phát. Đối với chúng tôi điều đó là khó hiểu. Một cách cư xử nhân đạo như vậy dường như chỉ người Nga làm được.
Lãnh tụ và sự lãnh đạo chiến tranh
Tại Liên Xô và Đức Quốc xã ngay trong thời bình sự lãnh đạo của lãnh tụ là tập trung và cực quyền ở mức độ rất cao, trong chiến tranh mức độ cực quyền tập trung lại càng cao hơn nữa. Trong chiến tranh các tình cảm như yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, danh dự được gắn liền với sự trung thành vô điều kiện với mệnh lệnh của lãnh tụ.
Cả Iosif Vissarionovich Stalin và Adolf Hitler trên cương vị là Tổng tư lệnh tối cao là những cá nhân có tài tổ chức phi thường, có sức lôi cuốn và gây ảnh hưởng to lớn đến quần chúng, có các tính cách và ý chí cực mạnh đã có ảnh hưởng rất to lớn đến sự điều hành chiến tranh.
Adolf Hitler là nhà tư tưởng quân sự và nhà tổ chức xây dựng quân đội lớn: trước đại chiến, tư duy của Führer (lãnh tụ - tức Hitler) về hình thức và bản chất chiến tranh trong tương lai đã trùng hợp với các trí tuệ quân sự Đức. Các quyết sách cương quyết của Führer về chính trị và xây dựng lực lượng vũ trang đã góp phần đưa quân đội Đức từ một quân đội thua trận, yếu đuối, chỉ trong 6 – 7 năm đã trở thành quân đội mạnh nhất thế giới với các thắng lợi vũ bão trong thời kỳ đầu chiến tranh tại châu Âu, đánh bại quân đội các cường quốc địch thủ với hiệu suất chiến đấu rất cao, đó thực sự là cuộc cách mạng trong quân sự. Và ngay trong việc chỉ đạo trực tiếp các chiến dịch trong thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới thứ hai cũng có dấu ấn rất tích cực của Hitler và uy tín của Führer đã được giới tướng lĩnh quân sự Đức công nhận như một thiên tài quân sự.
Tuy nhiên với cá tính bùng nổ, bản chất liều lĩnh, phiêu lưu có một không hai trong lịch sử, Hitler đã trở nên quá tự tin rằng với thiên tài của mình thì cái gì cũng có thể làm được. Sự liều lĩnh phiêu lưu có thể cho một kết quả tốt ở thời điểm nào đó, nhưng ở mức độ chính sách quốc gia và của người lãnh đạo Đế chế thì điều đó nhất định sẽ đem đến thảm hoạ. Führer coi thường cả những quy tắc lớn nhất trong chiến lược chính trị và quân sự dấn thân đồng thời chống lại tất cả các cường quốc mạnh nhất thế giới, chấp nhận chiến tranh trên nhiều mặt trận.
Führer thực sự tin tưởng hoặc trở thành nạn nhân của sự tung hô sùng bái cá nhân mình và đã cho rằng mình là thiên tài quân sự số một của thế giới, các thắng lợi to lớn, dễ dàng ban đầu lại càng củng cố niềm tin của Hitler. Với bản chất độc đoán Hitler nắm lấy toàn bộ sự điều hành chiến tranh và càng ngày càng không muốn lắng nghe các ý kiến của các tướng lĩnh Đức và càng xa rời thực tế chiến trường, sa vào chủ quan duy ý chí cao độ đến mức bệnh hoạn. Kết quả là trong quá trình chiến tranh, các tướng lĩnh giỏi nhất của quân đội Đức nếu kiên quyết tỏ ý kiến đối lập với Führer thì sẽ bị sa thải hoặc không được trọng dụng. Đến giai đoạn cuối chiến tranh Hitler, đã tập hợp xung quanh mình chủ yếu là những tướng lĩnh có phẩm chất quan trọng nhất là trung thành vâng lời Führer không hạn chế.
Führer cho đến ngày cuối cùng của đế chế vì sự duy ý chí một cách bệnh hoạn nên vẫn không thể thích nghi được với thực tế là quân đội Đức đang phải chiến đấu trên thế thua, thế yếu và sắp thất bại. Bị ám ảnh bởi khả năng thay đổi thần kỳ bước ngoặt chiến tranh, Hitler ngoan cố trước sau như một chỉ có một mệnh lệnh "không lùi một bước", không muốn bỏ một tấc đất đã chiếm được, bất chấp các nguy cơ bị bao vây tiêu diệt lớn, vì vậy khi quân Đức buộc phải rút lui thì thường là quá muộn. Thậm chí gần đến ngày bại trận hoàn toàn mà Hitler vẫn trông mong vào các cuộc phản công không tưởng và không cho phép rút bỏ đất đai (một ví dụ rất điển hình là cụm tập đoàn quân Courland với vài chục vạn quân đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa chiến đấu, bị giam chân ở mẩu đất nhỏ bắc Latvia đến hết chiến tranh trong khi đó Đức đang rất cần binh lực để phòng thủ Đế chế nhưng Hitler cương quyết từ chối di tản, đây vẫn là một điều khó hiểu của chiến tranh). Càng ngày Führer càng mất đi sự lãnh đạo sáng suốt. Nói chung từ năm 1942, sự lãnh đạo quân sự của Hitler đã mang tính tiêu cực và càng ngày càng ảnh hưởng xấu đến kết quả chiến đấu trên chiến trường của quân đội Đức.
Lãnh tụ Stalin của Liên Xô thì lại chủ quan duy ý chí ở một khía cạnh khác. Trước và trong chiến tranh, mặc dù các kiến thức về quân sự của ông đã lạc hậu so với sự phát triển của các học thuyết chiến tranh hiện đại cũng như sự phát triển của vũ khí nhưng bằng ý chí độc đoán cố hữu, việc chỉ đạo tác chiến của ông đối với lực lượng vũ trang Liên Xô trong hai năm đầu của cuộc chiến tranh Xô-Đức đã đem lại những kết quả tiêu cực.
Trong những tháng đầu của chiến tranh, để trừng trị trách nhiệm của cá nhân trong các thất bại, và cũng để trấn áp tư tưởng chủ bại trong quân đội, Stalin dùng tòa án quân sự để trừng phạt các tướng lĩnh dưới quyền: nhiều tướng lĩnh Xô Viết đã bị xử bắn vì trách nhiệm đã để thua trận, nhất là khi tòa án quân sự được trao cho các cá nhân là cán bộ chính trị có xu hướng coi trừng phạt là một biện pháp để ổn định tình hình như Vyacheslav Mikhailovich Molotov, Lev Zakharovich Mekhlis, Georgy Maximilianovich Malenkov, Nikolai Alexandrovich Bulganin... Điều này đặc biệt gây hại vì nó làm mất máu đội ngũ sĩ quan hồng quân đang rất thiếu, không cho phép đội ngũ sĩ quan tích lũy kinh nghiệm qua thất bại, làm cho các cấp chỉ huy Hồng quân không dám chủ động sáng tạo, chỉ trông chờ mệnh lệnh từ trên và làm phát sinh tâm lý "nướng quân" hoàn thành nhiệm vụ bằng được với bất kỳ mức độ thương vong nào... Điển hình là đại tướng D. G. Pavlov, Tư lệnh phương diện quân Tây đã bị xử bắn về tội để mất cả Quân khu Byelorussia chỉ trong một tuần... Bắt đầu từ tháng 10 năm 1941, Stalin đã nhận thức được sự nguy hại của chính sách này nên đã từ bỏ phương pháp lãnh đạo chiến tranh kiểu "xử tướng để răn đe".
Khác xa với Hitler, Stalin sau những thất bại to lớn đã nhận thức được hạn chế của mình và đã biết dựa vào Bộ tổng tham mưu và các tướng lĩnh để điều hành chiến tranh, càng về sau sự tranh luận và bàn bạc các kế hoạch chiến đấu trong Tổng hành dinh Xô Viết về cơ bản diễn ra lành mạnh. Và với sự sắc sảo của mình Stalin đã biết tìm ra những tài năng quân sự, tin tưởng đưa họ vào các vị trí lãnh đạo quân đội thay chỗ các tướng lĩnh quân hàm cao nhưng thiếu năng lực trong thực tế chiến đấu: rất nhiều sĩ quan trẻ tài năng đã được đề bạt rất nhanh, được giao chỉ huy tập đoàn quân, phương diện quân và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ như Hovhannes Khachaturi Bagramyan, Ivan Danilovich Chernyakhovsky, Rodion Yakovlevich Malinovsky, Fyodor Ivanovich Tolbukhin... Tuy nhiên, để tỏ rõ tiếng nói cuối cùng của Tổng Tư lệnh tối cao, Stalin thường hay can thiệp vào quá trình chỉ huy chiến đấu và nhất là hay cắt giảm thời hạn chuẩn bị chiến dịch và thời hạn hoàn thành nhiệm vụ của các phương diện quân, nhiều khi không vì các lý do quân sự mà chỉ để tạo sự kiện tuyên truyền tâm lý hứng khởi cho nhân dân (làm tròn ngày, đẹp số các chiến thắng vào dịp kỷ niệm cách mạng tháng 10, Ngày Lao động Quốc tế 1 tháng 5 hay ngày thành lập quân đội Xô Viết...) Những sự can thiệp đột xuất như vậy thường gây thêm sự mệt mỏi cho các đơn vị quân đội và tạo thêm căng thẳng không cần thiết cho các chiến trường.
Là một nhà chính trị giàu kinh nghiệm, Stalin đã có cách lãnh đạo đảng và lãnh đạo chính trị trong lực lượng vũ trang một cách hợp lý, bằng việc bỏ hệ thống hai chỉ huy của các chính uỷ và thay bằng cơ cấu các ủy viên hội đồng quân sự. Cách bố trí cán bộ chính trị như vậy đã thể hiện mặt rất tốt trong chiến tranh: cán bộ chính trị như một thành viên hội đồng quân sự cùng mang trách nhiệm và vinh quang như cán bộ chỉ huy, điều này đã gắn kết được cán bộ chính trị với tư lệnh Hồng quân trong việc nâng cao tinh thần chiến đấu và kỷ luật đảng, kỷ luật chính trị của quân đội mà không can thiệp một cách vô tổ chức vào việc chỉ huy quân đội.
Một vai trò tích cực rất to lớn của Stalin là, với kỷ luật sắt và tài tổ chức của mình, Stalin đã lãnh đạo thành công trong một thời gian rất ngắn việc di chuyển nền kinh tế từ phía tây đất nước sang vùng bên kia dãy núi Ural và nhanh chóng tổ chức lại nền công nghiệp quốc phòng. Ngay từ giữa năm 1942, nền công nghiệp này đã khôi phục và tiếp tục tăng sản lượng với tốc độ rất nhanh, cung cấp dồi dào vũ khí hiện đại cho quân đội.
Dù vào giai đoạn cuối và sau chiến tranh, bộ máy tuyên truyền Liên Xô đã phóng đại những phẩm chất quân sự của Stalin và gán cho lãnh tụ những danh hiệu lớn lao như thống soái vĩ đại nhất... Nhưng nói chung, việc tuyên truyền phẩm chất của lãnh đạo là yêu cầu bắt buộc trong chiến tranh, và càng ngày sự lãnh đạo chiến tranh của lãnh tụ Stalin càng hợp lý, đáp ứng được các đòi hỏi khắc nghiệt của chiến tranh; và sự lãnh đạo hiệu quả của Stalin cũng được xem như một trong những nhân tố góp phần vào thắng lợi của Liên Xô đối với Đức Quốc xã. |
Định nghĩa
Một họ F các ánh xạ từ 1 không gian topo X vào 1 không gian metric (Y,d) gọi là đồng bậc liên tục tại p thuộc X nếu với cho trước, tồn tại 1 lân cận U của p sao cho
với mọi f thuộc F và với mọi x thuộc U.
Họ F gọi là liên tục đồng bậc nếu nó liên tục đồng bậc tại mọi điểm thuộc X.
Ví dụ
Nếu F là một họ hữu hạn các ánh xạ liên tục thì F là một họ liên tục đồng bậc.
Tính chất
Từ định nghĩa ta thấy nếu F là họ ánh xạ liên tục đồng bậc thì mọi ánh xạ f thuộc F là liên tục. Điều ngược lại không đúng.
Ví dụ:
F gồm các hàm liên tục nhưng F không liên tục đồng bậc. |
Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới (tiếng Anh: new classical macroeconomics) là bộ phận kinh tế học vĩ mô dựa trên kinh tế học tân cổ điển, hình thành từ thập niên 1970. Phái này xây dựng hệ thống học thuyết kinh tế học vĩ mô của mình từ nền tảng của kinh tế học vi mô, giả định là thị trường hoàn hảo dù là trong ngắn hạn hay dài hạn và cá nhân (khu vực tư nhân) có đầy đủ thông tin khi ra quyết định. Phái này chủ trương việc thiết kế các chính sách kinh tế vĩ mô phải nhằm mục đích tối đa hóa thỏa dụng của cá nhân. Những đóng góp quan trọng nhất của phái này vào kinh tế học vĩ mô gồm giả thuyết dự tính duy lý, tính không nhất quán theo thời gian, hàm cung Lucas, lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực.
Bối cảnh hình thành
Giữa thập niên 1930, kinh tế học vĩ mô được hình thành với những đóng góp cách mạng của Keynes. Kinh tế học vĩ mô Keynes và tiếp theo là kinh tế học vĩ mô tổng hợp nhấn mạnh những điểm không hoàn hảo của thị trường (tiền công cứng nhắc, bẫy thanh khoản, v.v...), coi đó là lý do để nhà nước tích cực sử dụng các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Có thể nói, trong thời kỳ từ thập niên 1930 đến thập niên 1960, kinh tế học vĩ mô về cơ bản là các lý luận của hai phái nói trên. Tuy nhiên, từ thập niên 1970, nhiều hiện tượng kinh tế như đình lạm, thâm hụt kép, v.v... đã không được hai phái giải đáp ổn thỏa. Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới xuất hiện và phản đối kinh tế học Keynes cũng như kinh tế học vĩ mô tổng hợp, phê phán lý luận của hai phái này là không có nền tảng kinh tế học vi mô và sử dụng giả thuyết dự tính hợp lý để bác bỏ các lý luận của hai phái này.
Cơ sở lý thuyết
Kinh tế học tân cổ điển dựa trên các Giả thuyết Walrase. Các bên tham gia được giả sử là cố gắng tối đa hóa ích lợi (utility) dựa trên cơ sở kỳ vọng hợp lý. Bất cứ lúc nào, nền kinh tế được giả sử có một cân bằng (duy nhất), tại đó mọi người đều có việc (full employment) hoặc tại đó GDP đạt mức tiềm năng (sử dụng hết khả năng) thông qua các điều chỉnh về giá và lương (giá và lương sẽ lên xuống sao cho sản phẩm tiêu thụ hết và người lao động có việc hết). Tóm lại, thị trường là cân bằng (cung bằng cầu).
Tiên phong sử dụng các mô hình kinh tế đại diện (mô hình sử dụng một cá nhân hoặc một công ty làm đại điện cho toàn thể, các cá nhân hoặc công ty khác giống hệt). Các mô hình này gần đây bị phê phán nặng nề, bị chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa ứng xử trong kinh tế vi mô và trong kinh tế vĩ mô (Theo Kirman (1992)), và nền kinh tế vĩ mô không thể là phép cộng đơn giản của các cá nhân hay công ty giống hệt nhau. Theo cách nào đó, các phê phán này thuộc về Tranh cãi vốn Cambridge.
Kỳ vọng hợp lý lúc đầu được đưa ra bởi John Muth, sau đó được phổ biến bởi Robert Emerson Lucas. Một trong các mô hình nổi tiếng của Kinh tế học tân cổ điển là Mô hình chu kỳ kinh doanh thực, phát triển bởi Edward C. Prescott and Finn E. Kydland.
Các đại biểu
Các nhà kinh tế tiêu biểu của trường phái này gồm Robert Emerson Lucas, John F. Muth, Finn E. Kydland, Edward C. Prescott, Neil Wallace, Thomas J. Sargent.
Giả thuyết Dự tính duy lý
Xem bài chính về Kỳ vọng hợp lý
Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới giả định rằng: những cá nhân kinh tế điển hình sẽ không ngây thơ dựa vào kinh nghiệm quá khứ để dự tính (dự tính mang tính chấp nhận); họ có đầy đủ thông tin về mô hình kinh tế xung quanh mình, và sử dụng tất cả những thông tin có được đó để dự tính (dự tính có suy nghĩ --> dự tính duy lý). Khi đó, các nhà sản xuất, nói chung, sẽ đặt ra mức giá và mức tiền công đảm bảo được cân bằng trên thị trường hàng hóa và thị trường lao động. Nhờ thế, nói chung, sẽ không có thất nghiệp. Giả dụ có mất cân bằng đi nữa, thì đó cũng chỉ là hiện tượng nhất thời và là hậu quả của những cú sốc kinh tế ngẫu nhiên và không dự đoán được. Nhà nước không cần thiết phải thực hiện các biện pháp ổn định kinh tế.
Hàm cung Lucas
Xem bài chính về Hàm cung Lucas
Hàm cung Lucas, mang tên Lucas- một trong những trụ cột của kinh tế học tân cổ điển mới, thể hiện sản lượng là hàm số của những cú sốc giá cả. Vật giá gia tăng ngoài dự kiến có thể khiến người lao động và nhà sản xuất tưởng lầm là giá cả tương đối tăng nên quyết định điều chỉnh lượng cung lao động và lượng cung hàng hóa. Kết cục là sản lượng thay đổi. Như vậy, sản lượng biến động là do những cú sốc giá cả; nhà nước chẳng thể làm được gì để ổn định sản lượng và phải thận trọng khi sử dụng chính sách tiền tệ.
Lý thuyết Chu kỳ kinh doanh thực
Xem bài chính về Chu kỳ kinh doanh thực
Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới giải thích rằng trong điều kiện giá cả và tiền công hoàn toàn linh hoạt, đồng thời dự tính của mọi người là duy lý một cách hoàn hảo, thì vẫn có những biến động chu kỳ kinh doanh mà nguyên nhân là những cú sốc công nghệ và những cú sốc khác. Nếu không có những cú sốc này, thì dù tổng cầu biến động thế nào đi nữa, sản lượng cũng không thay đổi.
Tính không nhất quán theo thời gian
Xem bài chính về Tính không nhất quán theo thời gian
Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới còn giả định rằng sở thích của con người thường xuyên thay đổi chứ không nhất quán theo thời gian. Nhà nước cũng vậy, và do đó chính sách kinh tế dài hạn tối ưu của nhà nước cũng thay đổi theo thời gian. Khi đó, dự tính duy lý của nhân dân trở nên nhất thời thiếu chính xác, gây ra những biến động kinh tế. Vì thế, thay vì áp dụng các chính sách tùy biến, nhà nước hãy áp dụng các chính sách theo quy luật.
Định lý Đẳng giá Baro-Ricardo
Xem bài chính về Cân bằng Ricardo
Nhà nước thực hiện các chương trình kích cầu bằng cách tăng chi tiêu chính phủ. Nhưng để có nguồn tài chính cho các khoản chi tiêu đó, nhà nước lại phát hành công trái và trái phiếu. Tuy nhiên kinh tế học vĩ mô cổ điển mới khẳng định: người ta, với dự tính duy lý, sẽ hiểu rằng hôm nay nhà nước đi vay thì tương lai nhà nước sẽ tăng thuế để có tiền trả nợ, nên sẽ giảm tiêu dùng và tăng tiết kiệm hôm nay để tương lai có tiền nộp thuế. Như thế, tuy nhà nước tăng tiêu dùng của mình, nhưng lại làm giảm tiêu dùng cá nhân, nên hiệu quả của chính sách kích cầu sẽ không cao như nhà nước mong đợi. |
Trong giải tích toán học, bất đẳng thức Minkowski dẫn đến kết luận rằng các không gian Lp là các không gian vector định chuẩn. Giả sử S là một không gian đo, giả sử 1 ≤ p ≤ ∞, đồng thời f và g là các phần tử của Lp(S) Khi đó f + g cũng thuộc Lp(S), và chúng ta có
dấu đẳng thức xảy ra chỉ khi f và g phụ thuộc tuyến tính.
Bất đẳng thức Minkowski chính là bất đẳng thức tam giác trong Lp(S). Có thể chứng minh nó bằng cách dùng bất đẳng thức Holder.
Cũng như bất đẳng thức Holder, có thể đưa bất đẳng thức Minkowski về các trường hợp đặc biệt cho các dãy và các vector bẳng cách dùng khái niệm độ đo kiểu đếm được:
với mọi số thực (hay số phức) x1,..., xn, y1,..., yn và n là số chiều của S. |
Marius Sophus Lie (17 tháng 12 năm 1842 - 18 tháng 2 năm 1899) là một nhà toán học người Na Uy. Ông là người tạo ra lý thuyết của các đối xứng liên tục, và ứng dụng nó và việc nghiên cứuhình học và phương trình đạo hàm riêng.
Công cụ chính của Lie, và là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của ông, là sự khám phá ra các nhóm biến đổi liên tục (bây giờ được gọi theo tên ông là nhóm Lie) có thể được hiểu tốt hơn bằng cách "tuyến tính hóa" chúng, và nghiên cứu các trường vectơ được tạo ra từ chúng (những khái niệm gọi là các phần tử phát sinh cực nhỏ). Các phần tử phát sinh là đối tượng cho một dạng tuyến tính hóa của luật nhóm, bây giờ gọi là toán tử giao hoán (commutator bracket), và có cấu trúc ngày nay gọi là một đại số Lie. |
Trong khoa học máy tính, thuật toán Prim là một thuật toán tham lam để tìm cây bao trùm nhỏ nhất của một đồ thị vô hướng có trọng số liên thông. Nghĩa là nó tìm một tập hợp các cạnh của đồ thị tạo thành một cây chứa tất cả các đỉnh, sao cho tổng trọng số các cạnh của cây là nhỏ nhất. Thuật toán được tìm ra năm 1930 bởi nhà toán học người Séc Vojtěch Jarník và sau đó bởi nhà nghiên cứu khoa học máy tính Robert C. Prim năm 1957 và một lần nữa độc lập bởi Edsger Dijkstra năm 1959. Do đó nó còn được gọi là thuật toán DJP, thuật toán Jarník, hay thuật toán Prim–Jarník.
Một vài thuật toán đơn giản khác cho bài toán này bao gồm thuật toán Kruskal và thuật toán Borůvka.
Mô tả
Thuật toán xuất phát từ một cây chỉ chứa đúng một đỉnh và mở rộng từng bước một, mỗi bước thêm một cạnh mới vào cây, cho tới khi bao trùm được tất cả các đỉnh của đồ thị.
Dữ liệu vào: Một đồ thị có trọng số liên thông với tập hợp đỉnh V và tập hợp cạnh E (trọng số có thể âm). Đồng thời cũng dùng V và E để ký hiệu số đỉnh và số cạnh của đồ thị.
Khởi tạo: Vmới = {x}, trong đó x là một đỉnh bất kì (đỉnh bắt đầu) trong V, Emới = {}
Lặp lại cho tới khi Vmới = V:
Chọn cạnh (u, v) có trọng số nhỏ nhất thỏa mãn u thuộc Vmới và v không thuộc Vmới (nếu có nhiều cạnh như vậy thì chọn một cạnh bất kì trong chúng)
Thêm v vào Vmới, và thêm cạnh (u, v) vào Emới
Dữ liệu ra: Vmới và Emới là tập hợp đỉnh và tập hợp cạnh của một cây bao trùm nhỏ nhất
Độ phức tạp tính toán
Một cách lập trình đơn giản sử dụng ma trận kề và tìm kiếm toàn bộ mảng để tìm cạnh có trọng số nhỏ nhất có thời gian chạy O(V2). Bằng cách sử dụng cấu trúc dữ liệu đống nhị phân và danh sách kề, có thể giảm thời gian chạy xuống O(E log V). Bằng cách sử dụng cấu trúc dữ liệu đống Fibonacci phức tạp hơn, có thể giảm thời gian chạy xuống O(E + V log V), nhanh hơn thuật toán trước khi đồ thị có số cạnh E=ω(V).
Ví dụ
Chứng minh
Đặt G là một đồ thị có trọng số liên thông. Trong mỗi bước, thuật toán Prim chọn một cạnh nối một đồ thị con với một đỉnh không thuộc đồ thị con đó. Vì G liên thông nên luôn tồn tại đường đi từ mỗi đồ thị con tới tất cả các đỉnh còn lại. Kết quả T của thuật toán Prim là một cây, vì các cạnh và đỉnh được thêm vào T là liên thông và cạnh mới thêm không bao giờ tạo thành chu trình với các cạnh cũ. Đặt T1 là một cây bao trùm nhỏ nhất của G. Nếu T1=T thì T là cây bao trùm nhỏ nhất. Nếu không, đặt e là cạnh đầu tiên được thêm vào T mà không thuộc T1, và V là tập hợp các đỉnh thuộc T trước khi thêm e. Một đầu của e thuộc V và đầu kia không thuộc V. Vì T1 là một cây bao trùm của G, nên tồn tại đường đi trong T1 nối hai đầu của e. Trên đường đi đó, nhất định tồn tại cạnh f nối một đỉnh trong V với một đỉnh ngoài V. Trong bước lặp khi e được thêm vào Y, thuật toán cũng có thể chọn f thay vì e nếu như trọng số của nó nhỏ hơn e. Vì f không được chọn nên
Đặt T2 là đồ thị thu được bằng cách xóa f và thêm e vào T1. Dễ thấyT2 liên thông, có cùng số cạnh như T1, và tổng trọng số các cạnh không quá trọng số của T1, nên nó cũng là một cây bao trùm nhỏ nhất của G và nó chứa e cũng như tất cả các cạnh được thuật toán chọn trước nó. Lặp lại lập luận trên nhiều lần, cuối cùng ta thu được một cây bao trùm nhỏ nhất của G giống hệt như T. Vì vậy T là một cây bao trùm nhỏ nhất. |
Thuật toán Kruskal là một thuật toán trong lý thuyết đồ thị để tìm cây bao trùm nhỏ nhất của một đồ thị liên thông vô hướng có trọng số. Nói cách khác, nó tìm một tập hợp các cạnh tạo thành một cây chứa tất cả các đỉnh của đồ thị và có tổng trọng số các cạnh là nhỏ nhất.Thuật toán Kruskal là một ví dụ của thuật toán tham lam.
Thuật toán này xuất bản lần đầu tiên năm 1956, bởi Joseph Kruskal.
Một vài thuật toán khác cho bài toán này bao gồm thuật toán Prim, thuật toán xóa ngược, và thuật toán Borůvka.
Bài toán dẫn nhập
Cho một đồ thị có trọng số với n đỉnh. Yêu cầu tìm ra cây khung nhỏ nhất.
Tư tưởng thuật toán
Thuật toán Kruskal dựa trên mô hình xây dựng cây khung nhỏ nhất bằng thuật toán hợp nhất.
Thuật toán không xét các cạnh với thứ tự tuỳ ý.
Thuật toán xét các cạnh theo thứ tự đã sắp xếp theo trọng số.
Để xây dựng tập n-1 cạnh của cây khung nhỏ nhất - tạm gọi là tập K, Kruskal đề nghị cách kết nạp lần lượt các cạnh vào tập đó theo nguyên tắc như sau:
Ưu tiên các cạnh có trọng số nhỏ hơn.
Kết nạp cạnh khi nó không tạo chu trình với tập cạnh đã kết nạp trước đó.
Đó là một nguyên tắc chính xác và đúng đắn, đảm bảo tập K nếu thu đủ n - 1 cạnh sẽ là cây khung nhỏ nhất.
Mô tả thuật toán
Giả sử ta cần tìm cây bao trùm nhỏ nhất của đồ thị G. Thuật toán bao gồm các bước sau.
Khởi tạo rừng F (tập hợp các cây), trong đó mỗi đỉnh của G tạo thành một cây riêng biệt
Khởi tạo tập S chứa tất cả các cạnh của G
Chừng nào S còn khác rỗng và F gồm hơn một cây
Xóa cạnh nhỏ nhất trong S
Nếu cạnh đó nối hai cây khác nhau trong F, thì thêm nó vào F và hợp hai cây kề với nó làm một
Nếu không thì loại bỏ cạnh đó.
Khi thuật toán kết thúc, rừng chỉ gồm đúng một cây và đó là một cây bao trùm nhỏ nhất của đồ thị G.
Mã giả
Cho đồ thị G=(X, E).
Bước 1: Sắp xếp các cạnh của đồ thị theo thứ tự trọng số tăng dần.
Bước 2: Khởi tạo T:= Ø
Bước 3: Lần lượt lấy từng cạnh thuộc danh sách đã sắp xếp. Nếu T+{e} không chứa chu trình thì gán T:=T+{e}.
Bước 4: Nếu T đủ n-1 phần tử thì dừng, ngược lại làm tiếp bước 3.
Kỹ thuật đánh nhãn đỉnh
Kỹ thuật đánh nhãn đỉnh
Trong thuật toán Kruskal, để kiểm tra xem T + {e} có chứa chu trình hay không ta có thể dùng kỹ thuật gắn nhãn đỉnh, kỹ thuật này khá đơn giản và hiệu quả.
Ngay sau bước 1 của thuật toán, ta gắn đỉnh i của đồ thị một nhãn là i
Trong bước 2:
Nếu hai đầu cạnh e có cùng nhãn (tức là nhãn của e.v1 và nhãn của e.v2 bằng nhau) thì T+{e} tạo chu trình, ta không đưa e vào T.
Ngược lại [nếu Label(e.v1)!= Label(e.v2) ] thì ta đưa e vào T và thực hiện công việc ghép nhãn bằng cách:
lab1 = Min(Label(e.v1), Label (e.v2))
lab2 = Max(Label(e.v1), Label (e.v2))
Sửa nhãn của tất cả các đỉnh nào có nhãn là lab2 thành nhãn lab1
Ghi chú
Trong quá trình xây dựng T thì các cạnh có thể không liên thông nhau lúc đó T chỉ là rừng chứ chưa trở thành cây.
Khi thuật toán dừng:
Nếu T chưa đủ n - 1 cạnh thì đồ thị G không liên thông(không có cây khung)
Ngược lại thì T là cây khung cần tìm.
Thời gian thực hiện
Nếu E là số cạnh và V là số đỉnh của đồ thị thì thuật toán Kruskal chạy trong thời gian O(E log V).
Có thể đạt được thời gian này bằng phương pháp sau: sắp xếp tất cả các cạnh theo trọng số trong thời gian O(E log E). Điều này cho phép thực hiện bước "xóa cạnh nhỏ nhất trong S" trong thời gian hằng số. Sau đó sử dụng cấu trúc dữ liệu cho các tập hợp không giao nhau để lưu trữ thông tin đỉnh nào nằm ở cây nào trong F. Ta cần thực hiện O(E) thao tác, hai thao tác 'tìm' và không quá một thao tác 'hợp' cho mỗi cạnh. Ngay cả những thuật toán đơn giản cho bài toán này, chẳng hạn hợp bằng trọng số cũng có thể thực hiện O(E) thao tác trong thời gian O(E log V). Vì vậy tổng thời gian là O(E log E) = O(E log V).
Chứng minh tính đúng đắn
Chứng minh gồm hai phần: chứng minh kết quả thuật toán là một cây bao trùm và cây bao trùm đó là nhỏ nhất.
Cây bao trùm
F luôn là một rừng do việc nối hai cây bằng một cạnh luôn tạo ra một cây mới. Giả thiết phản chứng F gồm ít nhất hai cây A và B. Khi cạnh đầu tiên nối các đỉnh trong A của F với phần còn lại của đồ thị được xem xét (cạnh này tồn tại do G liên thông) thì rõ ràng thuật toán sẽ chọn nó. Vì vậy A không thể là một cây trong F khi thuật toán kết thúc. Do đó, F liên thông và là một cây bao trùm.
Nhỏ nhất
Ta chứng minh mệnh đề P sau đây bằng quy nạp: Nếu F là tập hợp các cạnh đã chọn tại bất kì thời điểm nào trong quá trình thực thi thuật toán thì tồn tại cây bao trùm nhỏ nhất chứa F.
Rõ ràng P đúng khi thuật toán bắt đầu vì F là rỗng.
Giả sử P là đúng cho một tập hợp F và giả sử T là một cây bao trùm nhỏ nhất chứa F. Nếu cạnh được thêm vào tiếp theo là e cũng nằm trong T, thì P đúng cho F + e. Nếu không, thì T + e chứa chu trình C và tồn tại cạnh f nằm trên C nhưng không trong F. (Nếu không có cạnh f, thì không thể thêm e vào F, do sẽ tạo ra chu trình C trong F.) Do đó T − f + e là một cây, và nó có cùng trọng số với T, do T có trọng số nhỏ nhất và f không thể nhỏ hơn e, vì nếu không thuật toán đã xem xét f trước e và chọn f. Vì vậy T − f + e là một cây bao trùm nhỏ nhất chứa F + e và P là đúng.
Như vậy, P đúng khi thuật toán kết thúc và F là một cây bao trùm. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu F là một cây bao trùm nhỏ nhất.
Ví dụ
Cho đồ thị G như hình vẽ:. Yêu cầu tìm ra cây khung nhỏ nhất của đồ thị G.
G gồm có 7 đỉnh
Đồ thị G có n phần tử. Thuật toán Kruskal sẽ dừng khi có n-1 trong tập hợp T
n = 7
Vậy số cạnh trong tập hợp T: n - 1 = 7 - 1 = 6(*)
Bước 1: Liệt kê tất cả cạnh với trọng số của cạnh đó:
Dựa vào đồ thị ta liệt kê ra các cạnh gồm đỉnh đầu, đỉnh cuối và trọng số:
Bước 2: Sắp xếp các cạnh theo trọng số tăng dần:
Bước 3: Dựa vào kết quả ở bước 2. Ta tiến hành tìm cây khung bằng thuật toán Kruskal
Đến đây, ta đã tìm được 6 cạnh. Vậy kết thúc thuật toán. (Thỏa (*))
Kết quả: Ta được đồ thị sau
Với tổng chi phí là: Ta cộng tất cả các trọng số giữa các đỉnh lại với nhau
Vậy tổng chi phí: 3 + 1 + 3 + 2 + 5 + 1 = 15 |
Ngành Thông (danh pháp khoa học: Pinophyta) nhiều tài liệu tiếng Việt cũ còn gọi là ngành Hạt trần (Gymnospermae), gồm các loài cây thân gỗ lớn hoặc nhỡ, ít khi là cây bụi hoặc dây leo thân gỗ. Lá hình vảy, hình kim, hình dải, ít khi hình quạt, hình trái xoan hoặc hình lông chim.
Cơ quan sinh sản thường đơn tính, có cấu tạo nón khác với cấu tạo hoa, gồm các lá bào tử xếp xoắn ốc hoặc xếp vòng trên một trục ngắn có dạng nón. Thụ phấn nhờ gió, ít khi nhờ côn trùng. Lá noãn mở không bao hạt, mang một đến nhiều lá noãn ở nách hoặc mép. Hạt có phôi thẳng, mang một đến nhiều lá mầm.
Gỗ tương đối mềm, chỉ có quản bào chưa có mạch gỗ và sợi gỗ.
Nguồn gốc tiến hóa
Thực vật ngành Thông phát sinh từ kỷ Devon trong đại Cổ Sinh, phát triển mạnh ở kỷ Than đá, kỷ Permi và giảm dần từ kỷ Tam điệp trong đại Trung Sinh. Nhiều loài hiện đã tuyệt diệt hoặc thu hẹp phạm vi phân bố. Người ta tìm thấy nhiều mẫu hóa thạch của thực vật ngành thông có niên đại cacbon từ khoảng 300 triệu năm trở lại đây. Những loài còn xuất hiện ngày này cũng có hóa thạch tìm được có niên đại tới 60-120 triệu năm và người ta gọi chúng là những loài thực vật cổ.
Hệ thống phân loại
Ngày nay, theo nhiều quan điểm phân loại khác nhau thì ngành thông có khoảng 6-8 họ với khoảng 65-70 chi và 600-650 loài. Bảy họ thường được công nhận như trong biểu đồ ở bên phải. Tuy nhiên, trong một vài diễn giải thì họ Cephalotaxaceae có thể được gộp trong họ Taxaceae, còn một số tác giả thì lại công nhận thêm cả Phyllocladaceae như là một họ độc lập với Podocarpaceae (trong biểu đồ này nó được gộp trong Podocarpaceae). Họ Taxodiaceae tại đây được coi là một phần của họ Cupressaceae, nhưng nó đã từng được công nhận rộng rãi trong quá khứ và có thể vẫn còn được ghi nhận trong nhiều sách hướng dẫn thực địa. Một hệ thống phân loại mới và trình tự tuyến tính dựa trên các dữ liệu phân tử có thể tìm thấy trong bài báo của Christenhusz và ctv (2011).
Trong ngành Thông trước đây người ta phân thành 7 bộ, nhưng qua kiểm tra gen thì các bộ Taxales, Araucariales, và Cupressales được xếp vào bộ Thông (Pinales). Bộ Thông cùng với 3 bộ khác là Cordaitales, Vojnovskyales và Voltziales tạo thành ngành Thông. |
Họ Thông (danh pháp khoa học: Pinaceae), là một họ thực vật trong bộ Thông (Pinales), bao gồm nhiều loài thực vật có quả nón với giá trị thương mại quan trọng như tuyết tùng, lãnh sam, thiết sam, thông rụng lá, thông và vân sam. Họ này bao gồm những cây thân gỗ, thân có nhựa thơm, tán thường hình tháp. Nó là họ lớn nhất trong bộ này nếu tính theo sự đa dạng về loài, với khoảng 220-250 loài (phụ thuộc vào quan điểm phân loại học) trong 11 chi, và là lớn thứ hai sau họ Hoàng đàn (Cupressaceae) về khu vực phân bố địa lý.
Đặc điểm
Chúng là các loại cây thân gỗ (hiếm khi thấy dạng cây bụi) cao từ 2 đến 100 m, chủ yếu là thường xanh (ngoại trừ hai chi Larix và Pseudolarix là cây sớm rụng lá), có chứa nhựa thơm, các nón đơn tính cùng gốc, với các cành mọc đối hay theo vòng xoắn và các lá hình kim hay hình dải hoặc hình vẩy sắp xếp theo đường xoắn ốc hay mọc cụm trên đầu cành ngắn.
Các nón cái thường lớn và có dạng gỗ, dài 2–60 cm, với nhiều vảy (lá) bắc sắp xếp xoắn ốc và trên mỗi vảy bắc có hai hạt có cánh mỏng. Nón cái gồm nhiều lá noãn xếp xoắn ốc, mỗi lá noãn mang 2 noãn đảo, lá noãn không dính liền với lá bắc.
Các nón đực thường có dạng hình trụ tròn và nhỏ, dài 0,5–6 cm và rụng sớm sau khi thụ phấn. Nhị nhiều xếp xoắn ốc, mỗi nhị mang 2 bao phấn. Các phấn hoa được phân tán nhờ gió. Các hạt được phân tán chủ yếu nhờ gió, tuy nhiên ở một số loài thì các hạt lớn với cánh suy giảm được chim chóc phân tán.
Các phôi là dạng đa lá mầm, với 3-24 lá mầm.
Quả nón phát triển trong 1-2 năm, rồi hóa gỗ.
Phân loại
Họ thông gồm 11 chi được chia ra thành 4 phân họ, dựa trên hình thái của nón (quả), hạt và lá:
Phân họ Pinoideae: gồm chi Thông (Pinus), với khoảng 115 loài. Các nón (quả) mọc hai năm một lần, ít khi ba năm, với mỗi vảy bắc của năm phát triển riêng biệt, tạo thành một u bướu trên mỗi vảy bắc. Gốc của vảy bắc rộng bản, che phủ hoàn toàn các hạt khi nhìn xa trục. Các hạt không có các túi nhựa. Các cánh giữ hạt trong một cặp vấu. Các lá với các dải lỗ khí chính dọc theo trục (phía trên xylem) hoặc tương đương trên cả hai bề mặt.
Phân họ Piceoideae: gồm chi Vân sam (Picea), khoảng 35 loài. Các nón (quả) một năm, không có các u bướu rõ rệt. Gốc vảy bắc rộng bản, che phủ hoàn toàn các hạt khi nhìn xa trục. Các hạt không có các túi nhựa, màu hơi đen. Các cánh giữ hạt lỏng lẻo trong đài hoa. Các lá với các dải lỗ khí chính dọc theo trục (phía trên xylem) hoặc tương đương trên cả hai bề mặt.
Phân họ Laricoideae: gồm các chi Larix (Chi Thông rụng lá), Cathaya (Chi Ngân sam), Pseudotsuga (Chi Hoàng sam), với khoảng 20 loài. Các nón (quả) một năm, không có các u bướu rõ rệt. Gốc vảy bắc rộng bản, che phủ hoàn toàn các hạt khi nhìn xa trục. Các hạt không có các túi nhựa, màu hơi trắng. Các cánh giữ hạt chặt chẽ trong đài hoa. Các lá chỉ có các dải lỗ khí chính dọc theo trục (phía dưới libe).
Phân họ Abietoideae: gồm các chi Abies (Chi Lãnh sam), Cedrus (Chi Tuyết tùng), Pseudolarix (Chi Thông rụng lá vàng), Keteleeria (Chi Du sam), Nothotsuga (Chi Thiết sam lá bắc dài), Tsuga (Chi Thiết sam), với khoảng 70 loài. Các nón (quả) một năm, không có các u bướu rõ rệt. Gốc vảy bắc hẹp bản, che phủ không hoàn toàn các hạt khi nhìn xa trục. Các hạt có các túi nhựa. Các cánh giữ hạt chặt chẽ trong đài hoa. Các lá chỉ có các dải lỗ khí chính dọc theo trục (phía dưới libe).
Phân bố
Được tìm thấy phần lớn ở Bắc bán cầu với phần lớn các loài trong khu vực ôn đới nhưng cũng tìm thấy ở khu vực nhiệt đới và hàn đới. Chỉ có một loài có khu vực sinh trưởng vượt qua đường xích đạo ở khu vực Đông Nam Á. Các trung tâm đa dạng chủ yếu được tìm thấy ở các dãy núi thuộc tây nam Trung Quốc, miền trung Nhật Bản, California (Hoa Kỳ) và Mexico.
Việt Nam
Ở Việt Nam có 4 chi, 12 loài.
Vân sam Phan Xi Păng: Abies delavayi phân loài fansipanensis.
Sam lạnh: Abies nukiangensis
Hinh đá vôi: Keteleeria calcarea
Du sam đá vôi (thông dầu, mạy kinh, tô hạp đá vôi): Keteleeria davidiana.
Thông Caribe: Pinus caribaea
Thông Đà Lạt (thông năm lá): Pinus dalatensis
Thông ba lá: Pinus kesiya
Thông lá dẹt: Pinus krempfii
Thông Pà Cò: Pinus kwangtungensis
Thông đuôi ngựa: Pinus massoniana
Thông nhựa (thông ta, thông hai lá): Pinus merkusii
Thiết sam: Tsuga dumosa
Thông xuân nha (thông 5 lá rủ): Pinus cernua
Một số tài liệu còn cho thấy có sự tồn tại của Pinus pinaster với tên gọi thông biển sao như là một loài thực vật ngoại lai xâm hại.
Chú thích |
Thông đuôi ngựa hay thông mã vĩ (danh pháp hai phần: Pinus massoniana Lamb, 1803, thuộc họ Thông (Pinaceae), ngành Thông (Pinophyta). Là loài cây nhập nội từ Trung Quốc.
Phân loài
Theo một số học giả, loài thông này có ba thứ là:
Pinus massoniana (Lamb.) thứ massoniana. Các từ đồng nghĩa: P. sinensis (D. Don trong Lambert 1828, P. nepalensis J. Forbes 1839, P. canaliculata Miq. 1861, P. calavierei Lemée & Lév. 1910, P. argyi Lemée & Lév. 1910, P. argyi thứ longe-vaginans Lév.; P. crassicorticea Y.C. Zhong & K.X. Huang 1990 (Wu và Raven, 1999).
Pinus massoniana Lamb. thứ hainanensis Cheng & Fu 1975. (Không có đồng nghĩa). Thứ này chỉ có ở Hải Nam, Trung Quốc.
Pinus massoniana Lamb. thứ shaxianensis D.X. Zhou 1991 (Theo Farjon (1998) thì nó là từ đồng nghĩa với thứ massoniana nhưng Wu và Raven (1999) vẫn duy trì tên gọi này).
Đặc điểm nhận biết
Thân cây
Cây gỗ lớn, có thể cao tới 40 m đường kính có thể trên 90 cm. Thân tròn, thẳng hình trụ. Vỏ màu sám hồng, nứt dọc, khi già bong mảng. Thân ít nhựa, nhựa thơm nhẹ. Phân cành cao.
Lá cây
Lá hình kim, mọc cụm 2 lá ở đầu cành nhỏ, cành nhỏ mọc vòng xoắn ốc. Lá kim dài 15–20 cm, bẹ cành nhỏ dài 0,8 cm. Lá kim thường mềm, màu xanh vàng, cành non đầu lá thường có màu đỏ.
Nón sinh sản
Nón đơn tính cùng gốc, nón đực hình bông đuôi sóc xếp sít nhau ở gần gốc chồi ngọn. Nón cái 3-5 cái thường mọc vòng trên đỉnh chồi ngọn. Phát triển trong 2 năm: năm đầu hình tráu xoan, màu tím chuyển dần sang xanh, năm thứ hai hình trứng rộng. Có kích thước: cao 4–5 cm, rộng 2–3 cm. Khi chín hóa gỗ. Cuống nón thường cong, dài 1 cm. Lá bắc không phát triển. Lá noãn phát triển thành các vẩy hóa gỗ, mặt vẩy hình quạt, trên mặt vẩy có gờ ngang nổi rõ, rốn vẩy hơi lõm và có gai. Hạt có cánh, phát tán nhờ gió.
Sử dụng
Gỗ xấu, gỗ giác gỗ lõi phân biệt rõ, gỗ lõi màu nâu vàng, thớ gỗ thô phẳng, gỗ nhẹ (tỷ trọng 0,39-0,49). Gỗ dùng chủ yếu cho xây dựng, trụ mỏ, đóng đồ gia dụng, làm diêm, các công trình dưới nước. Gỗ chứa khoảng 62% là xenluloza và có thể dùng để sản xuất giấy và sợi nhân tạo. Nhựa là nguồn nguyên liệu cho một số mặt hàng trong công nghiệp và y tế.
Phân bố
Cây ưa đất sâu, hơi chua, lạnh, nhiều nắng và độ ẩm cao, phân bổ từ đồng bằng tới cao độ 2.000 m, nhưng chủ yếu ở độ cao dưới 1.200 m.
Tại Việt Nam chủ yếu được trồng ở các tỉnh phía bắc từ Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai tới Thanh Hóa, Nghệ An.
Tại Trung Quốc: các tỉnh An Huy, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam, phía tây Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, phía nam Giang Tô, Giang Tây, đông nam Thiểm Tây, Tứ Xuyên, nam Vân Nam, Chiết Giang và tại Đài Loan.
Cây chủ yếu tái sinh hạt, không có khả năng tái sinh chồi.
Chú thích |
Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc (Anh ngữ Young Men’s Christian Association – YMCA) là một tổ chức có hơn 58 triệu người đóng góp tại 125 chi hội cấp quốc gia. Tổ chức từ thiện này được thành lập vào ngày 6 tháng 6 năm 1844 tại Luân Đôn với mục tiêu ứng dụng các giá trị Cơ Đốc vào nếp sống hằng ngày: tâm linh thanh khiết, trí tuệ mẫn tiệp, và thân thể cường tráng. Ba yếu tố này được thể hiện bằng ba cạnh của tam giác màu đỏ - như là một phần trong logo của YMCA.
Các chi hội cấp quốc gia là thành viên của Liên minh YMCA Thế giới (World Alliance of YMCAs). Câu khẩu hiệu của Liên minh là:"Trao quyền cho giới trẻ"; trụ sở của Liên minh tọa lạc tại Geneva, Thụy Sĩ. Chủ tịch đương nhiệm của YMCA Thế giới là Peter Posner đến từ Anh; Mục sư Johan Vilhelm Eltvik đến từ Na Uy đảm nhiệm chức trách Tổng Thư ký.
Lịch sử
Ngày 6 tháng 6 năm 1844 tại Luân Đôn, George Williams và một nhóm bạn hữu cùng chí hướng, tất cả đều là tín hữu Cơ Đốc thuộc trào lưu Tin Lành, khởi xướng Phong trào YMCA. Williams là nhân viên bán hàng tại một cửa hiệu vải, mẫu thanh niên điển hình bị bứng nhổ khỏi gốc gác nông thôn tìm đến các thành phố lớn để kiếm việc làm trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp.
Williams cùng những người bạn đồng cảnh ngộ nhận ra sự thiếu thốn các chương trình hoạt động lành mạnh cho giới trẻ tại các đô thị như Luân Đôn. Vì vậy, giới trẻ thường tìm đến quán rượu, nhà thổ và những chỗ khác là nơi chốn dẫn dụ họ vào nếp sống tội lỗi. Khởi đầu chỉ là một địa điểm các bạn trẻ tìm đến để cùng học Kinh Thánh và cầu nguyện, YMCA phát triển mạnh và đến năm 1850 có mặt tại Úc. Chi hội YMCA đầu tiên tại Bắc Mỹ được thành lập ngày 25 tháng 12 năm 1851 bởi giáo đoàn Giám Lý Thánh James ở Montréal, Québec, Canada, và ở Hoa Kỳ ngày 29 tháng 12 trong năm ấy tại Boston, tiểu bang Massachusetts.
Sơ khai
Trong giai đoạn đầu, YMCA tập trung vào nỗ lực cung ứng nhà ở giá rẻ trong môi trường Cơ Đốc an toàn cho thanh niên thiếu nữ rời bỏ nông thôn đi kiếm việc làm ở đô thị. Phương pháp hoạt động của YMCA là kết hợp việc truyền bá phúc âm trên đường phố với công tác xã hội. Nhiều người xem YMCA là biện pháp hữu hiệu giúp các bạn trẻ quân bình giữa công việc (đa phần là nặng nhọc) với thư giãn và giải trí, hầu có thể tránh những tệ nạn xã hội tràn lan bên ngoài như chè chén, cờ bạc, và mãi dâm.
Cương lĩnh Paris 1855
Năm 1855, chín mươi chín đại biểu YMCA qui tụ về Paris, Pháp, ở đây họ thông qua bản cương lĩnh chung cho YMCA tại các quốc gia. Điểm chính của bản "Cương lĩnh Paris" là sự đồng thuận không để cho bất cứ sự bất đồng nào tách rời phong trào khỏi các giá trị Cơ Đốc nguyên thủy. Để nhấn mạnh quan điểm này, Phúc âm John 17. 21 (Gioan hoặc Giăng) được chấp nhận là câu khẩu hiệu của tổ chức: "... để cho ai nấy hiệp làm một". Hội nghị Paris tập chú vào chủ đề xây dựng nhân cách cho mỗi cá nhân – giúp giới trẻ xây dựng cho mình và cho mọi người "tâm linh thanh khiết, trí tuệ mẫn tiệp, và thân thể cường tráng". Trong thế kỷ XX, YMCA tại các quốc gia thành viên điều chỉnh cấu trúc nhằm phục vụ cho cả hai giới, song tên gọi YMCA đã trở nên quá quen thuộc và gần gũi nên vẫn tiếp tục tồn tại. Tại một số quốc gia, như YMCA Na Uy năm 1880 đã chấp nhận một chính sách nghiêm nhặt nhằm bảo đảm sự bình đẳng giới tính trong các uỷ ban và ban quản trị cấp quốc gia.
Thập niên 1870 – thập niên 1930
Đây là giai đoạn YMCA gặt hái nhiều thành công trong nỗ lực quảng bá Cơ Đốc giáo Tin Lành những ngày trong tuần và trong những lễ thờ phượng Chủ nhật, đồng thời phát triển các loại hình thể thao và những kỳ thi đấu cho các môn như bóng rổ, bóng chuyền và bơi lội. Sau giai đoạn này, khi sang thế kỷ XX, YMCA trở thành một tổ chức liên hệ phái, bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao đạo đức, và xây dựng nếp sống công dân gương mẫu. Ngày nay, YMCA tập chú vào việc khuyến khích giới trẻ và gia đình của họ sống lành mạnh.
Từ thập niên 1940
Năm 1973, "Nguyên tắc Kampala" được thông qua củng cố các chính sách của YMCA, biểu thị lập trường ngày càng phổ biến hơn của YMCA tại các quốc gia, tuyên cáo rằng nên thiết lập một quan điểm toàn cầu. Do đó, YMCA cần có một lập trường chính trị hầu có thể đáp ứng các thách thức trên quy mô quốc tế. Tuyên bố "Thách thức 21" được thông qua tại Hội nghị Toàn cầu tổ chức năm 1998 ở Đức, dành nhiều quan tâm hơn cho các vấn nạn toàn cầu như bình đẳng giới, phát triển bền vững, chiến tranh và hoà bình, phân phối tài nguyên công bằng cùng những thách thức của toàn cầu hoá, kỳ thị chủng tộc và HIV/AIDS. YMCA đã kiên trì theo đuổi cuộc đấu tranh toàn cầu chống nạn phân biệt chủng tộc (apartheid).
YMCA tại các quốc gia, đặc biệt ở Tây Âu và Bắc Mỹ, rất thành công trong kế hoạch sử dụng nguồn lực phong phú của mình giúp xây dựng các chi hội YMCA tại các nước Đông Âu. Năm 2003, một đại hội thanh niên được tổ chức tại Praha thu hút đại biểu từ hầu hết các nước Âu châu đến mừng những thành quả đạt được trong nỗ lực hàn gắn những vết thương gây ra bởi sự chia cắt trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Phong trào Hướng đạo ngay từ thời kỳ sơ lập đã chịu ảnh hưởng từ YMCA, một nhà quản trị của YMCA khu vực Chicago, Edgar Robinson, đã tạm rời khỏi YMCA để đảm nhiệm chức vụ giám đốc đầu tiên của Hướng đạo Mỹ.
Tại Việt Nam thời Đệ Nhất Cộng hòa, YMCA được lập vào Tháng Bảy năm 1959 dưới tên Hội Cơ Đốc Thanh niên Việt Nam với mục sư Phạm Văn Thâu làm hội trưởng. Hoạt động của Hội gồm lớp dạy Anh văn miễn phí, lớp dạy tiếng Việt cho Hoa kiều để nhập quốc tịch Việt Nam, một số phòng đọc sách và thư viện. Hội cũng tổ chức những buổi diễn thuyết cho công chúng.
Mục tiêu
Các chương trình hoạt động của YMCA tập chú vào việc xây dựng tâm linh thanh khiết, trí tuệ mẫn tiệp và thân thể cường tráng cho mọi người. Câu khẩu hiệu YMCA thường dùng là nỗ lực xây dựng những đứa trẻ khoẻ mạnh, những gia đình bền vững và những cộng đồng tích cực. Có nhiều hoạt động được xúc tiến nhằm đạt được mục tiêu này.
Tâm linh thanh khiết
YMCA ban đầu đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu Kinh Thánh, mặc dù tổ chức này dần dà hướng về phương pháp tiếp cận toàn diện với giới trẻ. Trong vòng sáu năm kể từ ngày thành lập, một hội nghị quốc tế của YMCA tổ chức tại Paris đã xác định mục tiêu của tổ chức là "nỗ lực tu dưỡng tâm linh Cơ Đốc, được phát triển thông qua các hoạt động tôn giáo, xã hội và thể chất".
Trẻ em khoẻ mạnh và Gia đình bền vững
Tại Hoa Kỳ, chương trình "Cha mẹ và Con cái" của YMCA (lúc đầu gọi là YMCA Indian Guides, Princess, Braves and Maidens) cung cấp cơ hội để xây dựng những mối quan hệ, tổ chức cắm trại cùng các hoạt động xây dựng cộng đồng cho các thế hệ cha mẹ và con cái của họ từ nhà trẻ lên đến lớp ba.
Khởi đầu từ năm 1926 với chương trình Indian Guides (Hướng đạo Da đỏ), từ sáng kiến của Harold Keltner, giám đốc YMCA ở St. Louis, và Joe Friday, hướng dẫn viên săn bắn thuộc bộ tộc da đỏ Ojibwa. Hai người gặp nhau vào đầu thập niên 1920 khi Joe Friday đến nói chuyện tại một tiệc chiêu đãi do Harold Keltner tổ chức tại một chi hội YMCA về mối quan hệ giữa cha và con trai.
Những người tham gia chương trình Indian Guides của YMCA luôn tự hào về những nỗ lực nhằm xây dựng và vun đắp sự tôn trọng dành cho nền văn hoá của người Mỹ bản địa (người da đỏ). Để đáp ứng những nhu cầu đa dạng cũng như giúp kiến tạo những nét đặc thù văn hoá và thu hút nhiều người tham gia, năm 2003 chương trình này được cải tiến để trở thành phong trào "Hướng đạo Thám du YMCA" nổi tiếng toàn quốc (thiết kế các chương trình sinh hoạt sinh động và vui thú giúp cha mẹ và con cái giao lưu với nhau cũng như cùng nhau tham gia các hoạt động dã ngoại như cắm trại, thám du, các hoạt động thể thao, và trang bị các kỹ năng). Trong khi đó, "Người Tiên phong" là chương trình cha mẹ và con cái dành riêng cho trẻ lớn tuổi hơn.
Thân thể cường tráng
Bóng rổ, bóng chuyền, hồ bơi và quần vợt sân tường (racquetball) được phát triển tại các cơ sở của YMCA với sự hướng dẫn của các huấn luyện viên. Cũng rất phổ biến trong cộng đồng YMCA là các phòng tập thể hình và những tiện nghi dành cho các môn thể thao khác nhau.
Năm 2006, YMCA kỷ niệm 100 thiết kế chương trình huấn luyện bơi theo nhóm.
Quan tâm đến sự gia tăng của nạn béo phì trong trẻ em và người lớn ở Hoa Kỳ, YMCA trên toàn quốc gia nhập chương trình phi lợi nhuận "Nước Mỹ chuyển động" nhằm giúp người Mỹ tránh béo phì bằng cách gia tăng các hoạt động thể dục như đi bộ.
Trí tuệ mẫn tiệp và Cộng đồng năng động
Nhiều trường đại học khởi nguồn từ YMCA. Đại học Springfield ở Springfield, Massachussets, thành lập năm 1885, là một học viện quốc tế đào tạo chuyên gia cho YMCA, trong khi Đại học Sir George Williams ở Montréal, Québec - sau này đã sáp nhập với Đại học Loyola (được thành lập bởi Dòng Tên) để trở thành Đại học Concordia – đã bắt đầu với các lớp học buổi tối cho YMCA tại Montréal.
Đại học Northeastern tại Boston khởi đầu vào năm 1989 là một học viện của YMCA, cung cấp những lớp học buổi tối cho giới trẻ thuộc thành phần di dân, còn tiền thân của Đại học Franklin tại Columbus, Ohio, là Trường Thương mại được thành lập năm 1902 bởi YMCA.
YMCA đi đầu trong việc xây dựng và quảng bá khái niệm về các lớp học buổi tối, cung cấp các cơ hội giáo dục cho những người phải đi làm ban ngày. Nhiều chi hội YMCA có các chương trình ESL (Anh văn như ngôn ngữ thứ hai), trường trung học đặc biệt (alternative high school), nhà trẻ và các hoạt động trại hè.
Tuổi trẻ và Chính quyền
Học sinh trung học Mỹ được cống hiến cơ hội tham gia chương trình "Tuổi trẻ và Chính quyền" của YMCA. Bắt đầu từ năm 1936 tại Thành phố New York bởi YMCA chi hội Albany, ngày nay "Tuổi trẻ và Chính quyền" được áp dụng trên 40 tiểu bang và Washington, D.C., thiết lập một mô hình thực tập nhằm cung cấp cơ hội cho học sinh trung học làm luật cũng như tham dự các kỳ họp kéo dài một tuần để thảo luận về các dự luật ngay tại trụ sở viện lập pháp của các tiểu bang. Các cuộc khảo sát toàn quốc chỉ ra rằng những học sinh từng tham gia chương trình này không chỉ có nhiều cơ may trở thành chính trị gia khi đến tuổi trưởng thành, mà còn là những người hoạt động tích cực trong các vấn đề của địa phương cũng như cho quyền lợi công dân.
Mỗi năm đến tháng 7, đại biểu của "Tuổi trẻ với Chính quyền" đến từ 40 tiểu bang tham dự Hội nghị YMCA về Chính sự Quốc gia. Hội nghị được YMCA tổ chức ở Black Mountain, tiểu bang North Carolina, tại Trung tâm Hội nghị Blue Ridge của YMCA. Họ có cơ hội gặp gỡ đại biểu đến từ các bang khác nhau để thảo luận về tính tương thích của hệ thống luật pháp quốc gia và quốc tế, cũng như thiết lập tình bằng hữu với nhau, tình bằng hữu này thường kéo dài suốt cuộc đời.
Nhiều tiểu bang cũng tạo lập các chương trình tư pháp, cung cấp cơ hội cho những luật sư nhí từ khắp tiểu bang đến tham gia các buổi xử án trước khi đi đến trụ sở tối cao pháp viện và viện lập pháp tiểu bang để nghe các vụ kháng án. Các thẩm phán nhí sẽ đưa ra phán quyết cho các vụ án này.
Cấu trúc
Trên bình diện quốc tế, YMCA được tổ chức theo mô hình liên hiệp nối kết những chi hội địa phương và các phong trào YMCA cấp quốc gia. Tại hầu hết các quốc gia, những chi hội YMCA địa phương chỉ ràng buộc với nhau trong sách lược và phương hướng chung.
Cấu trúc điều hành của YMCA quốc tế tạo nên sự linh hoạt cho các chương trình hoạt động của các hiệp hội có mặt tại nhiều quốc gia, mỗi nơi có thể đề ra các chương trình khác nhau hầu có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của các cộng đồng tại địa phương.
Mặc dù nguồn gốc lịch sử của tổ chức gắn liền với các giá trị Cơ Đốc, hầu hết các chi hội YMCA địa phương khuyến khích sự tham gia, ngay cả vào vị trí lãnh đạo, của mọi người không phân biệt tôn giáo. Thiện nguyện viên và nhân viên địa phương chịu trách nhiệm điều hành các chi hội YMCA tại địa phương của họ.
Chú thích |
Vũ Duệ (chữ Hán: 武睿, 1468-1522), vốn tên là Vũ Nghĩa Chi, sau vua Lê Thánh Tông cho đổi tên là Vũ Duệ; là danh thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Ông là người làng Trình Xá (Kẻ Chịnh), huyện Sơn Vi, trấn Sơn Tây (nay thuộc làng Trình Xá, xã Vĩnh Lại, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).
Thủa nhỏ ông nổi tiếng thông minh, đối đáp lưu loát, 7 tuổi đã đọc thông, viết thạo và đã biết làm thơ, người đương thời thường gọi ông là" Thất Tuế Thần Đồng". Khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) dưới thời vua Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Trạng nguyên lúc 22 tuổi, cùng khoa với Ngô Hoán (đỗ Bảng nhãn) và Lưu Thư Ngạn (đỗ Thám hoa).
Đời vua Lê Hiến Tông, ông giữ chức Tản trị thừa tuyên sứ ty, tham chính xứ Hải Dương.
Năm 1520 đời vua Lê Chiêu Tông, ông giữ chức Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ nhập thị Kinh diên, hàm Thiếu bảo, tước Trình Khê hầụ, và được ban phong là Trinh ý công thần.
Tháng 4 năm 1521, ông nhận lệnh soạn bi ký khoa thi năm Giáp Tuất, Hồng Thuận thứ 6 (1514) .
Tháng 8 năm Quang Thiệu thứ 7 (1522), Mạc Đăng Dung lập hoàng đệ Lê Xuân lên làm vua, tức là Lê Cung Hoàng. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, khảo cứu thêm trong Trung Hưng tiết nghĩa lục và Đăng khoa lục, thì tháng 10 năm đó, Vũ Duệ cùng với Lại bộ thượng thư Ngô Hoán và môn đồ là Nguyễn Mẫn Đốc thống suất hương binh đi theo vua Lê Chiêu Tông, nhưng đến Thanh Hóa thì đứt liên lạc, không biết vua ở đâu. Sau đó, họ hướng về lăng tẩm nhà Hậu Lê ở Lam Sơn (Thanh Hóa) bái vọng, rồi tự vẫn cả .
Sách Văn học thế kỷ XV-XVII ghi Vũ Duệ uống thuốc độc tự tử . Song theo thông tin trên báo điện tử Phú Thọ thì ông và ông Nguyễn Mẫn Đốc đều lao đầu vào đá tự vẫn.
Tưởng nhớ
Sau khi dẹp xong nhà Mạc, năm Bính Ngọ (1666) đời vua Lê Huyền Tông, triều đình bàn luận công lao, xếp ông Vũ Duệ đứng đầu trong số 13 người công thần tử tiết. Sau đó, di cốt ông được đem từ Thanh Hóa về quê hương Trình Xá mai táng.
Đền thờ Trạng nguyên Vũ Duệ đầu tiên làm ngay trên mộ của ông phía ngoài đê bên dòng sông Hồng nằm ở đầu làng Trình Xá. Ở cổng đền có ghi 3 chữ "Tiết nghĩa từ", và ở hậu cung có bức hoành phí đề 4 chữ "Vương thất huân lao", đều do vua Lê Huyền Tông ban. Đồng thời, ông cũng được sắc phong là "Thượng đẳng phúc thần".Được dân làng Trình Xá tôn làm thành hoàng làng. Lễ tế chính được tổ chức vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch) hàng năm, ngày mất của ông.
Hiện nay có một con phố nằm ở phường Nông Trang, TP Việt Trì, Phú Thọ được đặt theo tên của ông. Con phố này kéo dài từ đường Nguyễn Du đến đường Tản Viên.
Bên cạnh đó thị trấn Lâm Thao cũng có một con phố mang tên Vũ Duệ.
Tác phẩm
Vũ Duệ còn là nhà Lý học hàng đầu của An Nam thời bấy giờ, cụ được Sứ giả nhà Thanh đầu niên hiệu Khang Hy, năm Chính Hòa thứ tư (1683) là Chu Sán, dâng biểu lên triều đình nhà Thanh tự chua rằng: Nhân vật nước này, về phần lý học có Trình Tuyền, Vũ Duệ, Nguyễn Đăng Cảo và Hồ Sĩ Dương; về phần kinh tế (kinh bang tế thế - Giúp nước cứu đời) có Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh; còn về phần văn học có khá nhiều”. Như vậy tên tuổi của cụ vượt ra ngoài của nước Việt và được nhà Thanh rất coi trọng.
Tác phẩm của cụ Vũ Duệ hiện còn bài văn bia soạn năm 1521 cho kỳ thi năm 1514 tại Văn miếu Quốc tử giám (Bia số 6), hai bài thơ chép trên bia đá tại Lam Kinh khu lăng mộ Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao và bảy bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục. Dưới đây là bài thơ "tiêu biểu nhất cho tâm sự của tác giả mang đậm dấu ấn thời đại" .
Ghi chú
Sách tham khảo
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Thực Lục (bản điện tử).
Nguyễn Q. Thắng- Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
Trần Thị Băng Thanh (chủ biên), Văn học thế kỷ XV-XVII. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2004.
Năm sinh thiếu
Mất năm 1522
Người Phú Thọ
Quan lại nhà Lê sơ
Trạng nguyên Việt Nam
Tiến sĩ nhà Hậu Lê
Người Sơn Tây |
Sir George Williams (11 tháng 10 năm 1821 - 6 tháng 11 năm 1905) là nhà sáng lập Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc (tiếng Anh Young Men's Christian Association – YMCA).
Thiếu thời
Williams sinh ngày 11 tháng 10 năm 1821, là con út của một gia đình có tám người con, tại một nông trang nhỏ ở Dulverton, Somerset, Anh Quốc. Theo sự miêu tả của ông, khi còn trẻ là một "gã vô tâm, cẩu thả, bất kính và hay chửi thề", nhưng trong thời gian lưu trú tại thị trấn Bridgwater để học nghề bán hàng, Williams trở nên một tín hữu Cơ Đốc sùng kính.
Khi đến Luân Đôn làm việc tại một cửa hiệu vải; Williams bắt đầu quan tâm đến môi trường sống của giới thanh niên lao động ở Luân Đôn (giống như Williams, đa phần đều đến từ những vùng nông thôn để tìm việc làm tại đây), và nhận ra rằng tại thành phố này, các cơ hội giải trí lành mạnh cung ứng cho giới trẻ ít hơn nhiều so với vô số quán rượu và nhà thổ. Trong khi đó, những người này thường phải sống xa gia đình và không có nhà, chỗ ở của họ là nơi làm việc. Họ chen chúc nhau tìm chỗ ngủ trong những căn phòng chật hẹp tại cửa hàng, dù vậy những nơi này được xem là an toàn hơn những khu nhà trọ và đường phố Luân Đôn. Bên ngoài chỗ làm đầy rẫy sự nguy hiểm - cống rãnh lộ thiên, trộm cướp, du đãng, hành khất, kẻ say xỉn, gái bán hoa và trẻ em vô gia cư.
Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc (YMCA)
Williams qui tụ một nhóm bạn hữu cũng là nhân viên các cửa hàng vải bắt tay tạo lập một địa điểm dành cho giới trẻ lui tới mà không bị dẫn dụ vào con đường tội lỗi, cố gắng cung ứng cho họ thói quen nghiên cứu Kinh Thánh và cầu nguyện thay cho những loại hình sinh hoạt tiêu cực trên đường phố. Đó là tiền thân của YMCA.
Ngày 6 tháng 6 năm 1844 chứng kiến sự ra đời của Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc (YMCA) nhằm đáp ứng những điều kiện xã hội tiêu cực sản sinh từ cuộc Cách mạng Công nghiệp. Đến năm 1851, YMCA đã có 24 chi hội hoạt động trên khắp nước Anh với con số thành viên là 2.700 người. Cũng trong năm ấy, YMCA đến Bắc Mỹ: YMCA có mặt ở Montréal, Canada ngày 25 tháng 12 và tại Boston, Hoa Kỳ ngày 29 tháng 12. Năm 1853, YMCA cho người Mỹ gốc Phi được thành lập tại Washington, D.C., bởi Anthony Bowen, một người nô lệ được tự do. Năm sau, hội nghị quốc tế đầu tiên của YMCA được triệu tập tại Paris, Pháp. Lúc ấy, đã có 397 chi hội YMCA hoạt động tại bảy quốc gia với số thành viên lên đến 30.369 người.
Những ý tưởng của YMCA, mặc dù được hình thành từ các giá trị được biểu dương bởi Phong trào Tin Lành, đã vượt qua khỏi ranh giới giáo phái và giai tầng xã hội của nước Anh ngày ấy để được chấp nhận rộng rãi như là một tổ chức từ thiện không phân biệt giới tính, tuổi tác, chủng tộc, tôn giáo và quốc tịch.
Williams tham gia tích cực chiến dịch vận động cắt giảm số giờ làm việc trong ngày cho giới công nhân, ông cũng là một doanh nhân thành đạt, và dành hai phần ba lợi tức kiếm được cho các chương trình từ thiện.
Từ trần
Năm 1894, Nữ hoàng Victoria I của Anh phong tước hiệp sĩ (Knight) cho Williams. Sau khi từ trần, ngày 6 tháng 11 năm 1905, hình ảnh của ông được lưu giữ trên kính cửa sổ trong Điện Westminster. Sir George Williams được an táng trong Đại Giáo đường Thánh Phao-lô, nơi an nghỉ của các chính khách và anh hùng dân tộc nước Anh. |
Boston (phát âm tiếng Anh: ) là thủ phủ và thành phố lớn nhất của khu vực Thịnh vượng chung Massachusetts tại Hoa Kỳ. Boston cũng đóng vai trò là quận lỵ của quận Suffolk. Boston là thành phố lớn nhất tại khu vực New England, thị khu có diện tích , và dân số theo ước tính năm 2014 là 645.966, là thành phố đông dân thứ 24 tại Hoa Kỳ. Thành phố là trung tâm của một khu vực đại đô thị lớn hơn đáng kể mang tên Đại Boston - nơi sinh sống của 4,5 triệu người và là khu vực đại đô thị lớn thứ mười toàn quốc.
Boston nằm trong số những thành phố cổ nhất tại Hoa Kỳ, những người thực dân Thanh giáo từ Anh thành lập Boston trên bán đảo Shawmut vào năm 1630. Thành phố là nơi diễn ra một số sự kiện trọng đại trong Cách mạng Mỹ. Sau khi Hoa Kỳ giành độc lập từ Đế quốc Anh, thành phố tiếp tục là một bến cảng quan trọng và trung tâm sản xuất, cũng như là một trung tâm giáo dục và văn hóa. Thông qua cải tạo đất và hợp nhất, Boston được mở rộng ra ngoài phạm vi bán đảo ban đầu. Lịch sử phong phú giúp Boston thu hút nhiều du khách, chỉ riêng Faneuil Hall đã thu hút trên 20 triệu du khách.
Việc có nhiều học viện và đại học trong khu vực giúp Boston trở thành một trung tâm quốc tế về giáo dục bậc đại học và y tế, thành phố được mệnh danh là một nơi lãnh đạo thế giới về sáng kiến. Nền tảng kinh tế của Boston cũng bao gồm cả tài chính, các dịch vụ chuyên viên và kinh doanh, và các hoạt động chính phủ.
Lịch sử
Những người định cư gốc Âu ban đầu tại Boston trước tiên gọi khu vực là Trimountaine (theo "ba núi" trong khu vực khi đó) song sau đó đổi tên thành Boston theo đô thị Boston tại Anh, vốn là nơi xuất thân của một số người thực dân xuất chúng. Những người thực dân Thanh giáo từ Anh đổi tên khu định cư vào ngày 7 tháng 9 năm 1630 (lịch Julius), họ chuyển đến từ Charlestown nhằm tìm nước ngọt. Khu định cư của họ ban đầu giới hạn trong bán đảo Shawmut, đương thời được vịnh Massachusetts và sông Charles bao quanh và kết nối với đại lục qua một eo đất hẹp. Theo nghiên cứu, bán đảo có người định cư sớm nhất là từ 5000 TCN.
Năm 1629, thống đốc đầu tiên của Thuộc địa vịnh Massachusetts là John Winthrop lãnh đạo việc ký kết Hiệp định Cambridge, một văn kiện thành lập quan trọng của thành phố. Những luân lý Thanh giáo và sự tập trung của họ cho giáo dục ảnh hưởng đến lịch sử ban đầu của thành phố; trường học công lập đầu tiên tại Hoa Kỳ được thành lập tại Boston vào năm 1635. Trong 130 năm sau đó, thành phố tham dự vào các cuộc chiến với người Pháp và người da đỏ, cho đến khi Anh Quốc đánh bại người Pháp và các đồng minh bản địa của họ tại Bắc Mỹ. Boston là đô thị lớn nhất tại các thuộc địa của Anh tại Bắc Mỹ cho đến khi bị Philadelphia vượt qua vào giữa thế kỷ 18.
Nhiều sự kiện mang tính quyết định trong Cách mạng Mỹ; như Tàn sát Boston, Trà hội Boston, "đi đêm" của Paul Revere, các trận chiến Lexington và Concord và Bunker Hill, bao vây Boston, xảy ra tại hoặc gần Boston. Sau Cách mạng, truyền thống hàng hải lâu dài của Boston giúp thành phố trở thành một trong những bến cảng quốc tế thịnh vượng nhất trên thế giới, các mặt hàng đặc biệt quan trọng là rum, cá, muối, và thuốc lá.
Đạo luật Cấm vận 1807 được thông qua trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon, và Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc năm 1812 khiến hoạt động cảng của Boston suy giảm đáng kể. Mặc dù ngoại thương hồi phục sau chiến sự, song trong thời gian quá độ này các thương nhân của Boston tìm được giải pháp thay thế cho đầu tư tư bản của họ. Sản xuất trở thành một thành phần quan trọng trong kinh tế thành phố, và đến giữa thế kỷ 19, tầm quan trọng kinh tế của khu vực sản xuất công nghiệp vượt qua mậu dịch quốc tế. Cho đến đầu thế kỷ 20, Boston duy trì vị thế là một trong những trung tâm sản xuất lớn nhất toàn quốc và trở nên nổi tiếng với ngành sản xuất hàng may mặc và công nghiệp hàng da thuộc. Một mạng lưới các sông nhỏ tiếp giáp với thành phố và liên kết nó với các khu vực xung quanh, việc vận chuyển bằng đường thủy trở nên thuận tiện và dẫn đến số nhà máy tăng nhanh. Sau đó, một mạng lưới đường sắt dày đặc xúc tiến công nghiệp và thương nghiệp của khu vực.
Trong giai đoạn này, Boston cũng phát triển mạnh về văn hóa, được ca tụng vì sinh hoạt văn học thăng hoa và bảo trợ hào phóng cho nghệ thuật, với việc những thành viên của các gia tộc Boston cổ—cuối cùng được gán danh hiệu Boston Brahmin—tiến đến việc được xem là tầng lớp tinh hoa về xã hội và văn hóa của quốc gia. Boston cũng trở thành một trung tâm của phong trào bãi nô.
Năm 1822, các thị dân Boston bỏ phiếu ủng hộ đổi tên chính thức từ "the Town of Boston" sang "the City of Boston", và đến ngày 4 tháng 3 năm 1822, nhân dân Boston chấp thuận đặc quyền hợp thành tổ chức thành phố. Vào thời điểm Boston được trao tình trạng thành phố, dân số thành phố là 46.226, còn diện tích thành phố chỉ có .
Trong thập niên 1820, dân số Boston tăng trưởng nhanh chóng, và thành phần dân tộc của thành phố biến đổi đột ngột khi có các làn sóng người châu Âu nhập cư đầu tiên (sau khi độc lập). Những người Ireland nhập cư chiếm ưu thế trong làn sóng di dân vào giai đoạn này, đặc biệt là sau nạn đói khoai tây Ireland; đến năm 1850, có khoảng 35.000 người Ireland sống tại Boston. Trong nửa cuối của thế kỷ 19, số người Ireland, Đức, Liban, Syria và các sắc dân khác định cư tại Boston ngày càng tăng. Đến cuối thế kỷ 19, các khu phố lõi của Bostan trở thành những khu biệt lập của những người nhập cư khác biệt về dân tộc—những người Ý sống tại North End, người Ireland chiếm ưu thế tại South Boston và Charlestown, và người Do Thái từ Nga sống tại West End. Những người nhập cư Ireland và Ý đem theo Công giáo La Mã, và hiện nay giáo hội này là cộng đồng tôn giáo lớn nhất của Boston, và từ đầu thế kỷ 20, người Ireland đóng một vai trò lớn trong chính trị Boston- các nhân vật xuất chúng gồm có Gia tộc Kennedy, Tip O'Neill, và John F. Fitzgerald.
Từ năm 1631 đến năm 1890, diện tích của Boston tăng gấp ba lần thông qua cải tạo đất bằng cách lấp các đầm lầy, bãi bùn, và khoảng trống giữa các khu bến cảng dọc theo bờ biển. Nỗ lực cải tạo lớn nhất diễn ra vào thế kỷ 19; bắt đầu vào năm 1807, phần đỉnh của Beacon Hill được sử dụng để lấp một hồ chứa 50-acre (20 ha) mà sau này trở thành khu vực Haymarket. Các dự án cải tạo vào giữa thế kỷ tạo nên các bộ phận quan trọng của những khu vực South End, West End, Financial District, và phố Trung Hoa. Sau Đại hỏa hoạn Boston năm 1872, các công nhân sử dụng gạch vụn từ những công trình kiến trúc để đổ dọc theo bờ biển/sông của khu trung tâm. Từ giữa đến cuối thế kỷ 19, các công nhân lấp được gần 600 acres (2,4 km²) vùng đầm lầy nhiễm mặn của sông Charles ở phía tây của Boston Common bằng sỏi đưa đến bằng tàu hỏa từ các đồi của Needham Heights. Thành phố sáp nhập các đô thị lân cận: South Boston (1804), East Boston (1836), Roxbury (1868), Dorchester (1870), Brighton (1874), West Roxbury (1874), Charlestown (1874), và Hyde Park (1912). Các đề xuất khác về việc sáp nhập Brookline, Cambridge, và Chelsea, không thành công.
Đến đầu và giữa thế kỷ 20, thành phố trải qua suy tàn do các nhà máy trở nên cũ nát và lạc hậu, và các doanh nghiệp chuyển ra khỏi khu vực vì giá lao động ở những nơi khác rẻ hơn. Boston đối phó bằng các dự án hồi phục đô thị khác nhau theo chỉ đạo của Cục Tái thiết Boston (BRA), thể chế được thành lập vào năm 1957. Năm 1958, BRA bắt đầu dự án nhằm cải tạo khu phố West End có tính lịch sử. Hành động phá hủy trên quy mô lớn gặp phải phản đối dữ dội của công chúng. BRA sau đó tái thẩm định cách tiếp cận của họ đối với cải tạo đô thị trong những dự án tương lai, kể cả việc xây dựng Trung tâm Chính phủ. Năm 1965, Trung tâm Y tế Columbia Point tại khu phố Dorchester trở thành trung tâm y tế cộng đồng đầu tiên tại Hoa Kỳ được mở cửa. Trung tâm y tế này vẫn hoạt động và đến năm 1990 thì trở thành Trung tâm y tế cộng đồng Geiger-Gibson. Khu liên hiệp Columbia Point được tái thiết và phục hưng thành một cộng đồng thu nhập hỗn hợp mang tên Harbor Point Apartments từ năm 1984 đến năm 1990.
Đến thập niên 1970, kinh tế thành phố bùng nổ sau 30 suy sụp. Một lượng lớn nhà cao tầng được xât dựng tại Financial District và tại Back Bay của Boston trong giai đoạn này. Sự bùng nổ này tiếp tục cho đến giữa thập niên 1980. Thành phố trải qua xung đột khởi đầu từ năm 1974 do các "xe buýt phế trừ cách ly chủng tộc", dẫn đến náo động và bạo lực quanh các trường công trong suốt thập niên 1970.
Boston là một trung tâm tri thức, công nghệ, và chính trị song để mất một số thể chế khu vực quan trọng,
trong đó có việc The New York Times mua lại The Boston Globe by, và để mất các thể chế tài chính địa phương thông qua sáp nhập và mua lại, như FleetBoston Financial bị Bank of America có trụ sở tại Charlotte mua lại vào năm 2004. Các chuỗi cửa hàng bách hóa đặt cơ sở tại Boston là Jordan Marsh và Filene's đều hợp nhất với Macy's có trụ sở tại Cincinnati. Boston trải qua thượng lưu hóa vào nửa cuối thế kỷ 20, với giá nhà ở tăng mạnh từ thập niên 1990. Chi phí sinh hoạt gia tăng, và Boston trở thành một trong những nơi có giá cả sinh hoạt cao nhất tại Hoa Kỳ, Bất chấp vấn đề chi phí sinh hoạt, Boston vẫn xếp ở thứ hạng cao trong các bảng xếp hạng dễ sống, xếp thứ 36 toàn cầu về chất lượng sinh hoạt 2011 trong một khảo sát đối với 221 thành phố lớn. Tháng 4 năm 2013, hai quả bom phát nổ trong khuôn khổ Marathon Boston, khiến ba người thiệt mạng và 264 người bị thương.
Địa lý
Boston có diện tích — (54,0%) đất liền và (46,0%) mặt nước—và là thành phố lớn có mật độ dân số cao thứ ba toàn quốc. Độ cao chính thức của thành phố, đo tại sân bay quốc tế Logan, là 19 ft (5,8 m) trên mực nước biển. Đỉnh cao nhất của Boston là Bellevue Hill với cao độ trên mực nước biển, và điểm thấp nhất là mực nước biển. Boston nằm sát Đại Tây Dương, và là thủ phủ bang duy nhất tại Hoa Kỳ liền kề có đường bờ biển.
Bao quanh Boston là khu vực "Đại Boston", liền kề Boston là các thành thị Winthrop, Revere, Chelsea, Everett, Somerville, Cambridge, Newton, Brookline, Needham, Dedham, Canton, Milton, và Quincy. Sông Charles tách Boston khỏi Watertown và phần lớn Cambridge, và phần lớn Boston với khu phố Charlestown của thành phố. Ở phía đông là cảng Boston và khu bảo tồn quốc gia các đảo cảng Boston. Sông Neponset tạo thành ranh giới giữa các khu phố phía nam của Boston với thành phố Quincy và thị trấn Milton. Sông Mystic tách biệt Charlestown với Chelsea và Everett, và suối Chelsea cùng cảng Boston tách biệt East Boston khỏi Boston bản thổ.
Nguồn cung cấp nước của thành phố là các hồ chứa Quabbin và Wachusett ở phía tây, là một trong số rất ít các nguồn nước trong đến mức đạt tiêu chuẩn chất lượng liên bang mà không cần phải lọc.
Khí hậu
Boston có khí hậu lục địa với một số ảnh hưởng từ hải dương, thành phố nằm trong đới chuyển tiếp giữa khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa) sang khí hậu lục địa ẩm (Köppen Dfa), Mùa hè có đặc trưng là ấm đến nóng, và ẩm, trong khi vào mùa đông dao động giữa các giai đoạn mưa lạnh và tuyết, với nhiệt độ lạnh. Mùa xuân và mùa thu thường ôn hòa, các điều kiện khác nhau phụ thuộc vào hướng gió và vị trí luồng khí cao tốc. Mô hình gió phổ biến là thổi từ đất liền làm giảm đến mức tối thiểu ảnh hưởng từ Đại Tây Dương.
Do có vị trí nằm ven biển, nhiệt độ tại Boston được điều hòa, song khiến cho thành phố rất dễ chịu ảnh hưởng của các hệ thống thời tiết Nor'easter vốn có thể sinh ra lượng tuyết và mưa lớn. Thành phố có lượng giáng thủy hàng năm là , với tuyết rơi mỗi mùa. Tuyết rơi nhiều hơn đột ngột khi đi vào vùng nội lục xa thành phố (đặc biệt là ở phía bắc và phía tây thành phố)- xa khỏi ảnh hưởng điều hòa của đại dương. Hầu hết tuyết xuất hiện từ tháng 12 sang tháng 3, do hầu hết các năm không đo được tuyết trong tháng 4 và tháng 11, và tuyết hiếm khi rơi vào tháng 5 và tháng 10.
Sương mù là hiện tượng khá phổ biển, đặc biệt là trong mùa xuân và đầu mùa hè, và các cơn bão nhiệt đới có thể đe dọa đến khu vực, đặc biệt là vào cuối mùa hè và đầu mùa thu. Do nằm ven Bắc Đại Tây Dương, thành phố thường nhận gió biển, đặc biệt là vào cuối mùa xuân, khi nhiệt độ nước biển khá lạnh và nhiệt độ vùng bờ biển có thể lạnh hơn so với một vùng nội lục cách đó vài dặm, đôi khi duy trì cách biệt đó đến gần trưa.
Dông xảy ra từ tháng 5 đến tháng 9, thỉnh thoảng có tác động nghiêm trọng với mưa đá lớn, gió gây thiệt hại và mưa như trút. Mặc dù khu trung tâm Boston chưa từng chịu ảnh hưởng từ một lốc xoáy dữ dội, song thành phố từng nhận nhiều cảnh báo lốc xoáy. Các cơn bão gây thiệt hại phổ biến hơn ở các khu vực phía bắc, tây và tây bắc của thành phố.
Nhân khẩu
Năm 2010, theo ước tính Boston có 617.594 dân cư sống trong 272.481 đơn vị nhà ở— dân số tăng trưởng 5% so với năm 2000. Có khoảng 1,2 triệu người có thể ở bên trong giới hạn hành chính của Boston trong những giờ làm việc, và có đến 2 triệu người trong những sự kiện đặc biệt. Sự dao động nhân dân này là do có hàng trăm nghìn dân cư ngoại ô đến thành phố để làm việc, giáo dục, chăm sóc y tế và trong các sự kiện đặc biệt.
Trong thành phố, 21,9% dân số từ 19 trở xuống, 14,3% từ 20 đến 24, 33,2% từ 25 đến 44, 20,4% từ 45 đến 64, và 10,1% từ 65 tuổi trở lên. Tuổi trung bình của dân cư Boston là 30,8 tuổi. Tỷ suất giới tính là 92 nam/100 nữ; tỷ suất trong nhóm tuổi từ 18 trở lên là 89,9 nam/100 nữ. Boston có 252.699 hộ, trong đó 20,4% có thiếu nhi dưới 18 sống cùng, 25,5% là cặp đôi đã kết hôn chung sống, 16,3% có một chủ hộ là nữ giới không có chồng, và 54,0% không phải là gia đình. 37,1% tổng số hộ được tạo thành từ các cá nhân và 9,0% có người từ 65 tuổi trở lên sống một mình. Quy mô thành viên trung bình trong một hộ là 2,26 và quy mô thành viên trung bình trong gia đình là 3,08.
Năm 1950, người da trắng chiếm 94,7% dân số Boston. Từ thập niên 1950 đến cuối thế kỷ 20, tỷ lệ người da trắng phi Hispanic, tức không có nguồn gốc Mỹ Latinh hoặc Iberia, trong thành phố suy giảm; năm 2000, người da trắng phi Hispanic chiếm 49,5% dân số thành phố, khiến Boston lần đầu tiên trở thành đô thị mà các nhóm người thiểu số chiếm đa số. Tuy nhiên, trong những năm gần đây thành phố trải qua thượng lưu hóa đáng kể, trong đó những người da trắng giàu có chuyển đến các khu vực trước đây không phải là khu người da trắng. Năm 2006, Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ ước tính rằng số người da trắng phi Hispanic lại tạo thành một đa số nhỏ. Tuy nhiên, vào năm 2010, một phần là do phá sản nhà ở, cũng như gia tăng các nỗ lực nhằm thúc đẩy có nhiều nhà ở giá rẻ hơn, dân số thiểu số phục hồi.
Người gốc Ireland tạo thành dân tộc đơn lẻ lớn nhất trong thành phố, chiếm 15,8% dân số, tiếp theo là người Ý với 8,3%. Người có tổ tiên Tây Ấn là một nhóm lớn khác, chiếm 6,0%, khoảng một nửa trong số họ có tổ tiên Haiti. Một số khu phố, như Dorchester, tiếp nhận một dòng người gốc Việt nhập cư trong những thập niên gần đây. Các khu phố như Jamaica Plain và Roslindale chứng kiến hiện tượng số lượng người Dominica tăng lên.
Thành phố có số lượng người Do Thái đáng kể, theo ước tính có 25.000 người Do Thái trong thành phố và 227.000 trong khu vực đại đô thị Boston; số lượng giáo đoàn Do Thái tại Boston được ước tính là 22. Các cộng đồng lân cận Boston là Brookline và Newton đều có xấp cỉ một phân dân số là người Do Thái.
Boston, đặc biệt là khu phố East Boston, có một cộng đồng Hispanic đáng kể. Người Hispanic tại Boston hầu hết là người Puerto Rico (30.506 hay 4,9% tổng dân số thành phố), Dominica (25.648 hay 4,2%), El Salvador (10.850 hay 1,8%), Colombia (6.649 hay 1,1%) và Guatemala (4.451 hay 0,7%). Trong Đại Boston, số lượng người Hispanic tăng trưởng đáng kể với số người Puerto Rico là trên 175.000, người Dominica trên 95.000, người El Salvador trên 40.000, người Guatemala trên 31.000 và người Colombia trên 22.000.
Giống như nhiều thành phố lớn khác tại Mỹ, tội phạm bạo lực tại Boston giảm mạnh kể từ đầu thập niên 1990. Tỷ lệ tội phạm thấp của Boston kể từ thập niên 1990 được cho là nhờ sự cộng tác của cục Cảnh sát Boston với các tổ chức khu phố và giáo khu nhằm ngăn ngừa thanh niên tham gia các băng nhóm, cũng như đóng góp của các văn phòng công tố viên Hoa Kỳ và công tố viên quận. Điều này góp phần dẫn đến điều được gọi là "kì tích Boston", số vụ giết người trong thành phố giảm từ 152 trong năm 1990 xuống còn 31 vào năm 1999.
Kinh tế
Boston là một thành phố toàn cầu, nằm trong số 30 thành phố hùng mạnh nhất về kinh tế trên thế giới (2012). Kinh tế khu vực đô thị Đại Boston có giá trị 363 tỷ USD, xếp hạng sáu toàn quốc và xếp hạng 12 toàn cầu.
Các học viện và đại học tại Boston có tác động đáng kể đến kinh tế khu vực. Boston thu hút trên 350.000 sinh viên bậc đại học từ khắp thế giới, đóng góp trên 4,8 tỷ USD mỗi năm cho kinh tế thành phố. Các trường học trong khu vực là những chủ sử dụng lao động lớn và thu hút các ngành kinh doanh đến thành phố và khu vực xung quanh. Thành phố là nơi đặt trụ sở của một số công ty công nghệ và là một trung tâm về công nghệ sinh học, viện Milken xếp Boston trung tâm khoa học sinh mệnh hàng đầu toàn quốc. Trong các thành phố tại Hoa Kỳ, Boston nhận được kinh phí tuyệt đối cao nhất trong khoản tài trợ hàng năm từ Viện quốc gia về Y tế (2007). Thành phố cũng được cho là có sáng kiến cao độ vì một loạt nguyên nhân như sự hiện diện của giới học viện, tiếp cận tư bản mạo hiểm, và sự hiện diện của nhiều công ty công nghệ cao.
Du lịch tạo thành một bộ phận lớn của kinh tế Boston, với 21,2 triệu du khách quốc nội và quốc tế chi tiêu 8,3 tỷ USD trong năm 2011. Do là thủ phủ bang và là nơi đặt trụ sở khu vực của các cơ quan liên bang, pháp luật và chính phủ là thành phần lớn khác trong kinh tế thành phố. Thành phố là một hải cảng lớn dọc theo bờ đông của Hoa Kỳ và là cảng công nghiệp và cảng cá hoạt động liên tục lâu dài nhất tại Tây bán cầu.
Các ngành kinh tế quan trọng khác là dịch vụ tài chính, đặc biệt là những quỹ tương hỗ và bảo hiểm. Fidelity Investments có trụ sở tại Boston giúp phổ biến quỹ tương hỗ trong thập niên 1980 và biến Boston thành một trong các thành phố tài chính hàng đầu tại Hoa Kỳ. Thành phố là nơi đặt trụ sở của Santander Bank, và Boston là một trung tâm của các hãng tư bản mạo hiểm. State Street Corporation, chuyên về các dịch vụ quản lý và bảo quản tài sản, đặt trụ sở tại thành phố. Boston là một trung tâm in ấn và xuất bản — Houghton Mifflin đặc trụ sở tại thành phố, cùng với Bedford-St. Martin's Press và Beacon Press. Thành phố có ba trung tâm hội nghị lớn là trung tâm hội nghị Hynes tại Back Bay, và trung tâm thương mại thế giới Seaport và trung tâm hội nghị và triểm lãm Boston tại South Boston Waterfront.
Một số công ty lớn đặt trụ sở bên trong Boston hoặc ở lân cận, đặc biệt là dọc đường 128, trung tâm của công nghiệp công nghệ cao trong khu vực. Năm 2006, Boston và khu vực đô thị của mình được xếp hạng là cybercity lớn thứ tư tại Hoa Kỳ với 191.700 công việc công nghệ cao.
Văn hóa
Boston chia sẻ nhiều căn nguyên văn hóa với khu vực New England lớn hơn, trong đó có một phương ngôn trọng âm Đông New England không có âm "r" được gọi là tiếng Anh Boston, và một ẩm thực khu vực với trọng điểm mạnh về hải sản, muối, và các sản phẩm từ sữa. Người Mỹ gốc Ireland có ảnh hưởng lớn trong các thể chế chính trị và tôn giáo của Boston. Boston cũng có tập hợp tân từ riêng của mình, được gọi là tiếng lóng Boston.
Một số kịch viện nằm trong hoặc nằm gần Theater District ở phía nam của Boston Common, trong đó có kịch viện Cutler Majestic, Trung tâm nghệ thuật biểu diễn Citi, Kịch viện Colonial, và Kịch viện Orpheum. Symphony Hall là trụ sở của Dàn nhạc giao hưởng Boston, và Dàn nhạc đại chúng Boston, trong khi Boston Ballet biểu diễn tại Nhà hát Opera Boston. Các tổ chức nghệ thuật biểu diễn khác nằm tại thành phố gồm có Boston Lyric Opera, Opera Boston, Boston Baroque (dàn nhạc Baroque thường trực đầu tiên tại Hoa Kỳ), và Handel and Haydn Society (một trong những công ty hợp xướng lâu năm nhất tại Hoa Kỳ). Thành phố là một trung tâm của âm nhạc cổ điển đương đại với một số tổ chức biểu diễn, một vài trong số đó có liên kết với các nhạc viện và đại học của thành phố.
Có một số sự kiện lớn được tổ chức thường niên như First Night diễn ra vào đêm đón năm mới, Nhạc hội sơ khởi Boston, Ngày hội nghệ thuật Boston, và các ngày lễ mùa hè của người gốc Ý tại North End nhằm tôn vinh các thánh của Công giáo La Mã. Thành phố là nơi diễn ra một số sự kiện trong giai đoạn ngày Độc lập Hoa Kỳ, trong đó có lễ hội Harborfest kéo dài suốt một tuần và một nhạc hội Pop Boston kém theo pháo hoa bên bờ sông Charles.
Boston là một trong những sinh quán của thể loại âm nhạc hardcore punk. Các nhạc sĩ trong khu vực có đóng góp đáng kể cho sân khấu âm nhạc này trong nhiều năm. Các khu phố của thành phố là quê hương của một trong những sân khấu ska làn sóng thứ ba và ska punk trong thập niên 1990, dẫn đầu là các ban nhạc như The Mighty Mighty Bosstones và The Allstonians. Một số câu lạc bộ đêm, như The Channel, Bunnratty's tại Allston, và The Rathskeller, nổi tiếng về biểu diễn của các ban nhạc punk-rock địa phương và các ban nhạc ở xa đến, song các câu lạc bộ này hiện đều đã đóng cửa. Nhiều câu lạc bộ bị san bằng hoặc chuyển đổi trong quá trình thượng lưu hóa gần đây.
Do Boston có vai trò nổi bật trong Cách mạng Mỹ, một số địa điểm lịch sử có liên hệ đến giai đoạn này được bảo tồn, chúng là bộ phận của Công viên lịch sử quốc gia Boston. Nhiều địa điểm nằm dọc Freedom Trail, tuyến đường được đánh dấu bằng một tuyến gạch đỏ trên mặt đất. Thành phố cũng có một số bảo tàng nghệ thuật, trong đó có Bảo tàng Mỹ thuật và Bảo tàng Isabella Stewart Gardner. Học viện Nghệ thuật đương đại có trụ sở tại một tòa nhà đương đại do Diller Scofidio + Renfro thiết kế nằm tại Seaport District. Khu trường sở của Đại học Massachusetts Boston tại Columbia Point, sát Bảo tàng John F. Kennedy. Thư viện Boston (một trong những thư viện độc lập lâu năm nhất tại Hoa Kỳ), Bảo tàng Thiếu nhi Boston, Quán Bull & Finch Pub, Bảo tàng Khoa học, và Bể thủy sinh New England nằm trong thành phố.
Trong thời kỳ ban đầu, Boston là một trung tâm tôn giáo nổi tiếng. Giáo phận Công giáo La Mã Boston phục vụ gần 300 giáo xứ và có trụ sở tại Nhà thờ lớn Thánh Thập tự (1875) tại South End. Giáo phận Thánh công hội Massachusetts có trụ sở tại Nhà thờ lớn Thánh Phaolô (1819), phục vụ gần 200 giáo đoàn. Hiệp hội Phổ độ nhất thể có trụ sở tại Beacon Hill. Giáo hội Cơ Đốc Khoa học có trụ sở tại Nhà thờ Đức Mẹ (1894) tại Back Bay. Nhà thờ cổ nhất tại Boston là Đệ nhất giáo đường Boston, hình thành vào năm 1630. King's Chapel là nhà thờ Anh giáo đầu tiên tại thành phố, được hình thành vào năm 1686 và được chuyển đổi thành một nhà thờ Nhất thể vào năm 1785. Các nhà thờ khác gồm có Nhà thờ Cơ Đốc (1723), Nhà thờ Ba ngôi (1733), Nhà thờ phố Park (1809), Nhà thờ Cổ Nam (1874), Nhà thờ Cơ Đốc Jubilee và Vương cung thánh đường Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Mission Hill (1878).
Giáo dục
Các trường Công lập Boston tuyển 57.000 học sinh theo học tại 145 trường, bao gồm cả các trường "khảo nghiệm" có uy tín: Học viện Latin Boston, Trường toàn học & khoa học John D. O'Bryant, và trường Latinh Boston. Trường Latin Boston được thành lập vào năm 1635, là trường trung học công lâu năm nhất tại Hoa Kỳ; trường trung học công lâu năm thứ nhì, và trưởng tiểu học công lâu năm nhất tại Hoa Kỳ cũng nằm tại Boston. Các học sinh trong hệ thống có xuất thân chủng tộc: 35% người da đen hoặc Mỹ gốc Phi, 42% người Hispanic hoặc Latino, 13% người da trắng, và 8% người gốc Á. Thành phố cũng có các trường tư thục, trường dòng, và trường đặc quyền, và có xấp xỉ 3.300 học sinh là người thiểu số theo học tại các trường ngoại ô thông qua tổ chức METCO.
Một số đại học nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ nằm trong khu vực đại đô thị Boston. Bốn thành viên của Hiệp hội đại học Hoa Kỳ nằm tại Đại Boston (đứng đầu trong số các khu vực đại đô thị): Đại học Harvard, Học viện Công nghệ Massachusetts, Đại học Boston, và Đại học Brandeis. Do các hoạt động nghiên cứu được tiến hành trong các đại học này, các bệnh viện, đại học, và viện nghiên cứu tại khu vực Boston nhận được hơn 1,77 tỷ USD trợ cấp của Viện Y tế quốc gia vào năm 2013, cao nhất trong số các khu vực đại đô thị tại Hoa Kỳ. Đại Boston có trên 100 học viện và đại học, với 250.000 sinh viên theo học chỉ tính riêng tại Boston và Cambridge. Các đại học tư thục lớn nhất của Boston gồm có Đại học Boston (cơ quan sử dụng lao động lớn thứ tư của thành phố) với khu trường sở chính đặt tại Đại lộ Commonwealth và một khu trường sở y tế tại South End; Đại học Northeastern tại khu vực Fenway|; Đại học Suffolk gần Beacon Hill, với trường luật và trường kinh doanh; và Học viện Boston nằm vắt qua ranh giới Boston (Brighton)–Newton. Đại học công duy nhất của Boston là Đại học Massachusetts Boston tại Dorchester. Cao đẳng Cộng đồng Roxbury và Cao đẳng Cộng đồng Bunker Hill là hai trường Cao đẳng Cộng đồng công lập của thành phố. Các học viện và đại học của Boston sử dụng trên 42.600 người lao động, chiếm gầm 7% lực lượng lao động của thành phố.
Boston có một số học viện âm nhạc và nghệ thuật, trong đó có Học viện Nghệ thuật và Thiết kế Đại học Lesley, Học viện Nghệ thuật Massachusetts, Học viện Nghệ thuật New England, Học viện Nghệ thuật và Thiết kế New England (Đại học Suffolk), và Nhạc viện New England (nhạc viện độc lập lâu năm nhất tại Hoa Kỳ). Các học viện âm nhạc khác gồm có Nhạc viện Boston, Học viện Bảo tàng Mỹ thuật, và Học viện Âm nhạc Berklee- khiến Boston trở thành một thành phố ban trọng đối với nhạc jazz.
Một số đại học nằm ngoài ranh giới Boston song có sự hiện diện lớn trong thành phố. Đại học Harvard là đại học lâu năm nhất tại Hoa Kỳ, nằm ven sông Charles thuộc thành phố Cambridge. Các học viện kinh doanh và y tế của Đại học Harvard nằm tại Boston, và có các kế hoạch mở rộng thêm đến khu phố Allston của Boston. Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) nguyên nằm tại Boston song chuyển sang bên kia sông thuộc Cambridge vào năm 1916. Đại học Tufts có khu trường sở chính tại phía bắc của thành phố, quản lý các học viện y tế và nha khoa của mình.
Thành phố kết nghĩa
Boston hiện có 11 thành phố kết nghĩa chính thức.
Boston có quan hệ hữu nghị chính thức hoặc hợp tác với thêm ba thành phố.
Thành phố Boston có các mối quan hệ đối tác chính thức thông qua Biên bản ghi nhớ (MOU) với các thành phố hoặc khu vực khác:
Ghi chú |
Trong toán học, tam giác Pascal là một mảng tam giác của các hệ số nhị thức. Trong phần lớn thế giới phương Tây, nó được đặt theo tên nhà toán học người Pháp Blaise Pascal, mặc dù các nhà toán học khác đã nghiên cứu nó hàng thế kỷ trước Pascal ở Ấn Độ, Ba Tư (Iran), Trung Quốc, Đức và Ý.
Các hàng của tam giác Pascal được liệt kê theo quy ước bắt đầu bằng hàng n = 0 ở trên cùng (hàng 0). Các mục trong mỗi hàng được đánh số từ đầu bên trái với k = 0 và thường được đặt so le so với các số trong các hàng liền kề. Tam giác có thể được xây dựng theo cách sau: Trong hàng 0 (hàng trên cùng), có một số 1 duy nhất. Mỗi số của mỗi hàng tiếp theo được xây dựng bằng cách thêm số ở trên và bên trái với số ở trên và sang bên phải, coi các mục trống là 0. Ví dụ: số ban đầu trong hàng đầu tiên (hoặc bất kỳ số nào khác) là 1 (tổng của 0 và 1), trong khi các số 1 và 3 trong hàng thứ ba được thêm vào để tạo ra số 4 ở hàng thứ tư.
Công thức
Mục nhập trong hàng thứ n và cột thứ k của tam giác Pascal được ký hiệu . Ví dụ: mục nhập khác duy nhất ở hàng trên cùng là. Với ký hiệu này, việc xây dựng đoạn trước có thể được viết như sau:
,
đối với mọi số nguyên n không âm và mọi số nguyên k nằm trong khoảng từ 0 đến n, đã bao gồm. Sự lặp lại này cho các hệ số nhị thức được gọi là hằng đẳng thức Pascal.
Tam giác của Pascal có các khái quát hóa với chiều cao hơn. Phiên bản ba chiều được gọi là kim tự tháp Pascal hoặc tứ diện của Pascal, trong khi các phiên bản chung được gọi là simplice Pascal.
Liên quan đến phân phối nhị thức và kết quả
Khi được chia cho 2n, hàng 'tam giác' của tam giác Pascal trở thành phân phối nhị thức trong trường hợp đối xứng mà trong đó p = 1/2. Theo định lý giới hạn trung tâm, phân phối này tiếp cận phân phối chuẩn khi tăng n. Điều này cũng có thể được nhìn thấy bằng cách áp dụng Công thức Stirling cho các yếu tố liên quan đến công thức kết hợp.
Điều này có liên quan đến hoạt động của tích chập rời rạc theo hai cách. Đầu tiên, phép nhân đa thức chính xác tương ứng với tích chập rời rạc, do đó, liên tục tạo ra chuỗi {..., 0, 0, 1, 1, 0, 0, ...} với chính nó tương ứng với việc lấy lũy thừa 1 + x và do đó tạo ra các hàng của tam giác. Thứ hai, liên tục kết hợp hàm phân phối cho một biến ngẫu nhiên tương ứng với việc tính toán hàm phân phối cho một tổng số bản sao độc lập n của biến đó; đây chính xác là tình huống mà định lý giới hạn trung tâm áp dụng, và do đó dẫn đến phân phối chuẩn trong giới hạn. |
Jaime Ramón Mercader del Río Hernández (7 tháng 2 năm 1913 tại Barcelona, Tây Ban Nha – 18 tháng 10 năm 1978 tại La Habana, Cuba) là một nhà tình báo. Ramón Mercader đã ám sát Lev Trotsky, một đối thủ của Iosif Vissarionovich Stalin. |
Colin Luther Powell (5 tháng 4 năm 1937 – 18 tháng 10 năm 2021) là ngoại trưởng thứ 65 của Hoa Kỳ. Ông từng đảm nhận chức vụ này dưới thời Tổng thống George W. Bush từ ngày 20 tháng 1 năm 2001 đến ngày 26 tháng 1 năm 2005. Powell là người Mỹ gốc Phi đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ đảm nhận chức vụ ngoại trưởng nước này.
Trong một báo cáo phân tích, Powell viết: "Những gì miêu tả trong bức thư này là một sự thật rằng quan hệ giữa các binh sĩ Hoa Kỳ và người dân Việt Nam đang dần tốt đẹp!", một vài nhà quan sát cho rằng cách thức Powell xử lý lá thư đồng nghĩa với việc rửa sạch sự tàn bạo của quân đội Hoa Kỳ ở Mỹ Lai. Tháng 5 năm 2004, Powell, khi này đã là Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đã trả lời trong chương trình của Larry King trên đài CNN: "Ý tôi là, tôi đã ở trong đơn vị chịu trách nhiệm về vấn đề Mỹ Lai. Tôi ở đó sau khi sự kiện xảy ra. Mà trong chiến tranh thì những vụ việc kinh khủng như vậy vẫn xảy ra, và chúng ta vẫn phải ân hận về chúng".
Collin Powell được trao tặng huân chương từ hơn 12 quốc gia khác nhau, bao gồm cả huân chương Bắc Đẩu Bội tinh của chính phủ Pháp và tước hiệu hiệp sĩ danh dự bởi Nữ hoàng Elizabeth II của Anh. |
{{Dablink|Bài này nói về một trạng thái vật chất. Xem các nghĩa khác tại Plasma (định hướng)}}
Plasma () hay còn được gọi là Ly tử thể là một trong bốn trạng thái cơ bản của vật chất, và được nhà hóa học Irving Langmuir mô tả lần đầu tiên trong những năm 1920. Nó bao gồm một chất khí gồm các ion – các nguyên tử mất một số electron trên quỹ đạo – và các electron tự do. Plasma có thể được tạo ra một cách nhân tạo bằng cách đốt nóng một chất khí trơ hoặc đặt nó vào một trường điện từ mạnh đến mức mà một chất khí bị ion hóa ngày càng trở nên dẫn điện. Các ion và điện tử mang điện tích bị ảnh hưởng bởi các trường điện từ tầm xa, làm cho động lực học plasma nhạy cảm hơn với các trường này so với khí trơ.
Plasma và khí ion hóa có các đặc tính và hành vi không giống như các trạng thái khác của vật chất, và sự chuyển đổi giữa chúng chủ yếu là vấn đề về danh pháp và tùy thuộc vào việc giải thích như thế nào. Dựa trên nhiệt độ và mật độ của môi trường chứa plasma, các dạng plasma ion hóa một phần hoặc ion hóa hoàn toàn có thể được tạo ra. Quảng cáo đèn neon và tia chớp là những ví dụ về các plasmas bị ion hóa một phần. Tầng điện ly của Trái Đất là một plasma và từ quyển chứa plasma trong môi trường không gian xung quanh Trái Đất. Phần bên trong của Mặt Trời là một ví dụ về plasma ion hóa hoàn toàn, cùng với vầng hào quang Mặt Trời và các ngôi sao.
Tích điện dương trong ion đạt được bằng cách loại bỏ các electron quay xung quanh hạt nhân nguyên tử. Tại đó tổng số electron bị loại bỏ có liên quan đến một trong hai yếu tố: nhiệt độ tăng hoặc mật độ địa phương của vật chất bị ion hóa khác. Điều này cũng có thể đi kèm với sự phân ly của các liên kết phân tử, mặc dù quá trình này khác hẳn với các quá trình hóa học của tương tác ion trong chất lỏng hoặc hành vi của các ion chia sẻ chung trong kim loại. Phản ứng của plasma đối với trường điện từ được sử dụng trong nhiều thiết bị công nghệ hiện đại, chẳng hạn như tivi plasma hay máy khắc plasma.
Plasma có thể là dạng vật chất thông thường phong phú nhất trong vũ trụ, mặc dù giả thuyết này hiện chỉ là dự kiến dựa trên sự tồn tại và các đặc tính chưa biết của vật chất tối. Plasma chủ yếu được cho là tồn tại ở các ngôi sao, mở rộng đến môi trường nội bộ hiếm gặp và có thể là các vùng giữa các thiên hà.
Lịch sử
Từ plasma bắt nguồn hoặc "thạch", và mô tả hành vi của các hạt nhân nguyên tử khi bị ion hóa và các electron trong khu vực xung quanh của plasma. Giải thích một cách đơn giản là mỗi hạt nhân này trôi lơ lửng trong một biển electron chuyển động được. Plasma lần đầu tiên được xác định trong ống Crookes, và được Sir William Crookes mô tả vào năm 1879 (ông gọi nó là "vật chất bức xạ"). Bản chất của vật chất " tia âm cực " này sau đó đã được nhà vật lý người Anh Sir JJ Thomson xác định vào năm 1897.
Thuật ngữ "plasma" được Irving Langmuir đưa ra như một mô tả về khí ion hóa vào năm 1928. Lewi Tonks và Harold Mott-Smith, cả hai đều đã làm việc với Irving Langmuir trong những năm 1920, nhớ lại rằng Langmuir lần đầu tiên sử dụng từ "plasma", tương tự với máu. Đặc biệt, Mott-Smith nhắc lại rằng việc vận chuyển các điện tử từ các sợi nhiệt điện đã khiến Langmuir liên kết với hình ảnh "cách huyết tương mang các tiểu thể máu hồng cầu và bạch cầu."
Langmuir mô tả plasma mà ông quan sát được như sau:
"Ngoại trừ gần các điện cực, nơi có vỏ bọc chứa rất ít điện tử, khí bị ion hóa chứa các ion và điện tử với số lượng bằng nhau nên điện tích không gian thu được là rất nhỏ. Chúng ta sẽ sử dụng tên plasma để mô tả vùng này, vốn chứa các điện tích cân bằng của các ion và electron."
Thuộc tính và thông số
Định nghĩa
Plasma là một trạng thái vật chất trong đó một chất khí bị ion hóa trở nên dẫn điện cao đến mức điện trường và từ trường tầm xa chi phối hoạt động của vật chất. Trạng thái plasma có thể tương phản với các trạng thái khác: rắn, lỏng và khí.
Plasma là một môi trường trung hòa về điện của các hạt âm và dương không liên kết (tức là tổng điện tích của plasma gần như bằng không). Mặc dù các hạt này không bị ràng buộc, nhưng chúng không "tự do" theo nghĩa không trải qua các lực. Các hạt mang điện chuyển động tạo ra dòng điện trong từ trường, và bất kỳ chuyển động nào của hạt plasma mang điện đều ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi trường tạo bởi các điện tích khác. Đổi lại, điều này chi phối hành vi tập thể với nhiều mức độ khác nhau. Ba yếu tố xác định plasma là:
Tiệm cận plasma: Tiệm cận plasma đạt tới khi thông số plasma, Λ, đại diện cho số hạt mang điện trong một quả cầu (được gọi là quả cầu Debye có bán kính là chiều dài sàng lọc Debye) xung quanh một hạt tích điện nhất định, đủ cao bằng để che chắn ảnh hưởng tĩnh điện của hạt bên ngoài quả cầu.
Tương tác hàng loạt: Chiều dài sàng lọc Debye (được xác định ở trên) là ngắn so với kích thước vật lý của huyết tương. Tiêu chí này có nghĩa là các tương tác trong phần lớn plasma quan trọng hơn các tương tác ở các cạnh của nó, nơi các hiệu ứng ranh giới có thể xảy ra. Khi tiêu chí này được thỏa mãn, huyết tương là chuẩn.
Tần số plasma: Tần số plasma điện tử (đo dao động plasma của các điện tử) lớn so với tần số va chạm trung hòa điện tử (đo tần số va chạm giữa các điện tử và các hạt trung hòa). Khi điều kiện này được thỏa mãn, tương tác tĩnh điện chiếm ưu thế hơn các quá trình động học khí thông thường.
Nhiệt độ
Nhiệt độ plasma thường được đo bằng kelvin hoặc electronvolt và, một cách không chính thức, là thước đo động năng nhiệt trên mỗi hạt. Nhiệt độ cao thường cần thiết để duy trì quá trình ion hóa, đây là đặc điểm xác định của plasma. Mức độ ion hóa plasma được xác định bởi nhiệt độ electron so với năng lượng ion hóa (và yếu hơn bởi mật độ), trong một mối quan hệ được gọi là phương trình Saha. Ở nhiệt độ thấp, các ion và electron có xu hướng tái kết hợp thành các trạng thái liên kết – nguyên tử – và plasma cuối cùng sẽ trở thành khí.
Trong hầu hết các trường hợp, các electron đủ gần với trạng thái cân bằng nhiệt mà nhiệt độ của chúng được xác định tương đối rõ ràng; điều này đúng ngay cả khi có sự sai lệch đáng kể so với hàm phân phối năng lượng Maxwellian, ví dụ, do bức xạ UV, các hạt năng lượng hoặc điện trường mạnh. Do có sự khác biệt lớn về khối lượng, các electron tự đạt đến trạng thái cân bằng nhiệt động lực học nhanh hơn nhiều so với trạng thái cân bằng với các ion hoặc nguyên tử trung hòa. Vì lý do này, nhiệt độ ion có thể rất khác với (thường thấp hơn) nhiệt độ electron. Điều này đặc biệt phổ biến ở các plasmas công nghệ được ion hóa yếu, nơi các ion thường ở gần nhiệt độ môi trường.
Khí bị ion hóa hoàn toàn so với khí bị ion hóa một phần (yếu)
Để plasma tồn tại, quá trình ion hóa là cần thiết. Bản thân thuật ngữ "mật độ plasma" thường dùng để chỉ "mật độ điện tử", tức là số lượng điện tử tự do trên một đơn vị thể tích. Mức độ ion hóa của plasma là tỷ lệ các nguyên tử bị mất hoặc nhận được electron, và được điều khiển bởi nhiệt độ electron và ion và tần số va chạm electron-ion so với electron-trung hòa. Mức độ ion hóa, , được định nghĩa là , với là mật độ số lượng các ion và là mật độ số nguyên tử trung hòa. Mật độ electron liên quan đến điều này bởi trạng thái điện tích trung bình của các ion thông qua , với là mật độ số electron.
Trong plasma, tần số va chạm electron-ion lớn hơn nhiều so với tần số va chạm electron-trung hòa . Do đó, với mức độ ion hóa yếu , tần số va chạm electron-ion có thể bằng tần số va chạm electron-trung hòa: là giới hạn ngăn cách plasma khỏi bị ion hóa một phần hoặc toàn bộ.
Thuật ngữ khí được ion hóa hoàn toàn do Lyman Spitzer đưa ra không có nghĩa là mức độ ion hóa là thống nhất, mà chỉ là plasma đang ở trong chế độ chi phối do va chạm Coulomb, tức là khi , có thể tương ứng với mức độ ion hóa thấp tới 0,01%.
Khí bị ion hóa một phần hoặc yếu có nghĩa là plasma không bị chi phối bởi va chạm Coulomb, tức là khi .
Hầu hết các plasma "công nghệ" (được thiết kế) là khí ion hóa yếu.
Plasmas nhiệt và plasma lạnh
Dựa trên nhiệt độ tương đối của các electron, ion và chất trung hòa, các plasmas được phân loại là "nhiệt" hoặc "không nhiệt" (còn được gọi là "plasmas lạnh").
Plasmas nhiệt có các electron và các hạt nặng ở cùng nhiệt độ, tức là chúng ở trạng thái cân bằng nhiệt với nhau.
Mặt khác, plasma không nhiệt là các khí ion hóa không cân bằng, với hai nhiệt độ: ion và trung hòa ở nhiệt độ thấp (đôi khi nhiệt độ phòng), trong khi các electron nóng hơn nhiều. (). Một loại plasma không nhiệt phổ biến là khí hơi thủy ngân trong bóng đèn huỳnh quang, nơi "khí electron" đạt đến nhiệt độ 10.000 kelvins trong khi phần còn lại của khí chỉ cao hơn nhiệt độ phòng, vì vậy thậm chí có thể sờ tay vào bóng đèn khi nó đang hoạt động.
Một trường hợp đặc biệt và bất thường của plasma không nhiệt "nghịch đảo" là plasma nhiệt độ rất cao do máy Z tạo ra, nơi các ion nóng hơn nhiều so với các electron.
Điện thế plasma
Vì plasmas là chất dẫn điện rất tốt nên điện thế đóng một vai trò quan trọng. Điện thế trung bình trong không gian giữa các hạt mang điện, không phụ thuộc vào cách nó có thể được đo, được gọi là "thế plasma", hay "thế không gian". Nếu một điện cực được đưa vào trong plasma, điện thế của nó nói chung sẽ nằm dưới điện thế plasma đáng kể do cái được gọi là vỏ bọc Debye. Tính dẫn điện tốt của plasmas làm cho điện trường của chúng rất nhỏ. Điều này dẫn đến khái niệm quan trọng về "độ chuẩn", nói rằng mật độ của điện tích âm xấp xỉ bằng mật độ của điện tích dương trên một thể tích lớn của plasma (), nhưng trên quy mô của độ dài Debye có thể có sự mất cân bằng điện tích. Trong trường hợp đặc biệt mà các lớp kép được hình thành, sự phân tách điện tích có thể kéo dài vài chục độ dài Debye.
Độ lớn của điện thế và điện trường phải được xác định bằng các phương pháp khác ngoài việc tìm mật độ điện tích thuần. Một ví dụ phổ biến là giả sử rằng các electron thỏa mãn quan hệ Boltzmann:
Vi phân mối quan hệ này cung cấp một phương tiện để tính toán điện trường từ mật độ:
Hoàn toàn có thể tạo ra một plasma không phải là chất trung tính. Ví dụ, một chùm điện tử chỉ có các điện tích âm. Mật độ của plasma không trung tính nói chung phải rất thấp, hoặc nó phải rất nhỏ, nếu không, nó sẽ bị tiêu tán bởi lực đẩy tĩnh điện.
Trong các plasmas vật lý thiên văn, sàng lọc Debye ngăn không cho điện trường ảnh hưởng trực tiếp đến plasma trong khoảng cách lớn, tức là lớn hơn chiều dài Debye. Tuy nhiên, sự tồn tại của các hạt tích điện khiến plasma tạo ra và bị ảnh hưởng bởi từ trường. Điều này có thể và thực sự gây ra các hành vi cực kỳ phức tạp, chẳng hạn như tạo ra các lớp kép plasma, một vật thể phân tách điện tích trên vài chục độ dài Debye. Tính năng động của plasma tương tác với bên ngoài và tự tạo ra từ trường được nghiên cứu trong các ngành học của từ thủy động lực học.
Từ hóa
Plasma có từ trường đủ mạnh để ảnh hưởng đến chuyển động của các hạt mang điện được cho là bị nhiễm từ. Một tiêu chí định lượng phổ biến là trung bình một hạt hoàn thành ít nhất một chuyển động quay quanh từ trường trước khi tạo ra va chạm, tức là , với là "tần số quay vòng điện tử" và là "tốc độ va chạm của electron". Thường xảy ra trường hợp các electron bị nhiễm từ trong khi các ion thì không. Các plasmas bị nhiễm từ là dị hướng, có nghĩa là các đặc tính của chúng theo phương song song với từ trường khác với phương vuông góc với nó. Trong khi điện trường trong plasmas thường nhỏ do độ dẫn điện cao, thì điện trường liên kết với plasma chuyển động trong từ trường được cho bởi (Ở đâu là điện trường, là vận tốc, và là từ trường), và không bị ảnh hưởng bởi tấm chắn Debye.
So sánh pha plasma và pha khí
Plasma thường được gọi là trạng thái thứ tư của vật chất sau rắn, lỏng và khí, mặc dù plasma thường là một chất khí bị ion hóa.Yaffa Eliezer, Shalom Eliezer, The Fourth State of Matter: An Introduction to the Physics of Plasma, Publisher: Adam Hilger, 1989, , 226 pages, page 5 Nó khác biệt với những trạng thái này và những trạng thái năng lượng thấp hơn khác của vật chất. Mặc dù nó có liên quan chặt chẽ với pha khí ở chỗ nó cũng không có dạng hoặc thể tích xác định, nhưng nó khác nhau theo một số cách.
Plasma trong khoa học vũ trụ và thiên văn học
Plasma cho đến nay là pha phổ biến nhất của vật chất thông thường trong vũ trụ, theo cả khối lượng và thể tích.
Bên trên bề mặt Trái Đất, tầng điện ly là plasma, và từ quyển chứa plasma. Bên trong Hệ Mặt trời của chúng ta, không gian liên hành tinh chứa đầy plasma được đẩy ra ngoài nhờ gió Mặt trời, kéo dài từ bề mặt Mặt trời ra ngoài nhật quyển. Hơn nữa, tất cả các ngôi sao ở xa, và phần lớn không gian giữa các vì sao hoặc không gian giữa các thiên hà cũng có khả năng chứa đầy plasma, mặc dù ở mật độ rất thấp. Các plasma vật lý thiên văn cũng được quan sát thấy trong đĩa bồi tụ xung quanh các ngôi sao hoặc các vật thể nhỏ gọn như sao lùn trắng, sao neutron, hoặc lỗ đen trong các hệ sao đôi gần. Plasma có liên quan đến sự phóng vật chất trong các máy bay phản lực vật lý thiên văn, chúng đã được quan sát thấy với các lỗ đen tích tụ hoặc trong các thiên hà đang hoạt động như thiên hà Messier M87, với độ dài có thể kéo dài tới 5.000 năm ánh sáng.
Hiện tượng plasma phức tạp
Mặc dù các phương trình cơ bản của các plasma tương đối đơn giản, hành vi của plasma cực kỳ đa dạng và tinh tế: sự xuất hiện của hành vi bất ngờ từ một mô hình đơn giản là đặc điểm điển hình của một hệ thống phức tạp. Các hệ thống như vậy theo một nghĩa nào đó nằm trên ranh giới giữa hành vi có trật tự và không có trật tự và thường không thể được mô tả bằng các hàm toán học đơn giản, trơn tru, hoặc bằng sự ngẫu nhiên thuần túy. Sự hình thành tự phát của các đặc điểm không gian thú vị trên một loạt các quy mô chiều dài là một biểu hiện của sự phức tạp plasma. Ví dụ: các đối tượng địa lý rất thú vị vì chúng rất sắc nét, không liên tục về mặt không gian (khoảng cách giữa các đối tượng địa lý lớn hơn nhiều so với bản thân các đối tượng địa lý) hoặc có dạng fractal. Nhiều đặc điểm này lần đầu tiên được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, và sau đó đã được công nhận trên khắp vũ trụ. Ví dụ về độ phức tạp và cấu trúc phức tạp trong plasmas bao gồm:
Dải hay sợi hóa
Các dải hoặc cấu trúc dạng chuỗi, còn được gọi là dòng Birkeland, được nhìn thấy trong nhiều plasmas, như quả cầu plasma, cực quang, tia chớp, vòng cung điện, pháo sáng mặt trời, và tàn tích của siêu tân tinh. Đôi khi chúng được kết hợp với mật độ dòng điện lớn hơn, và sự tương tác với từ trường có thể tạo thành cấu trúc dây từ tính. Sự cố vi sóng công suất cao ở áp suất khí quyển cũng dẫn đến sự hình thành các cấu trúc dạng sợi.
Việc sợi hóa cũng đề cập đến sự tự tập trung của một xung laser công suất cao. Ở công suất cao, phần phi tuyến của chỉ số khúc xạ trở nên quan trọng và gây ra chỉ số khúc xạ cao hơn ở trung tâm của chùm tia laser, nơi tia laser sáng hơn ở các cạnh, gây ra phản hồi làm tia laser tập trung hơn. Tia laser hội tụ chặt chẽ hơn có độ sáng đỉnh cao hơn (bức xạ) tạo thành plasma. Plasma có chỉ số khúc xạ thấp hơn một, và gây ra hiện tượng làm mờ chùm tia laze. Sự tác động lẫn nhau của chỉ số khúc xạ hội tụ và plasma làm giảm tập trung làm cho hình thành một sợi plasma dài có thể dài từ micromet đến kilômét. Một khía cạnh thú vị của plasma tạo ra sắc tố là mật độ ion tương đối thấp do hiệu ứng làm giảm tập trung của các điện tử ion hóa.
Plasma không trung tính
Cường độ và phạm vi của lực điện và độ dẫn điện tốt của các plasmas thường đảm bảo rằng mật độ điện tích dương và điện tích âm trong bất kỳ vùng lớn nào đều bằng nhau ("quasineutrality"). Một plasma có mật độ điện tích vượt quá đáng kể, hoặc, trong trường hợp cực đoan, bao gồm một loài duy nhất, được gọi là plasma không trung tính. Trong plasma như vậy, điện trường đóng một vai trò chi phối. Ví dụ như chùm hạt tích điện, đám mây điện tử trong bẫy Penning và plasmas positron.
Plasma bụi / plasma hạt
Plasma bụi chứa các hạt bụi tích điện cực nhỏ (thường được tìm thấy trong không gian). Các hạt bụi thu được điện tích cao và tương tác với nhau. Plasma có chứa các hạt lớn hơn được gọi là plasma hạt. Trong điều kiện phòng thí nghiệm, plasmas dạng bụi còn được gọi là plasmas phức tạp''.
Plasma không thấm
Plasma không thấm là một loại plasma nhiệt hoạt động giống như một chất rắn không thấm so với khí hoặc plasma lạnh và có thể được đẩy về mặt vật lý. Sự tương tác của khí lạnh và plasma nhiệt đã được một nhóm do Hannes Alfvén đứng đầu nghiên cứu ngắn gọn vào những năm 1960 và 1970 vì những ứng dụng khả thi của nó trong việc cách nhiệt plasma nhiệt hạch khỏi thành lò phản ứng. Tuy nhiên, sau đó người ta phát hiện ra rằng từ trường bên ngoài trong cấu hình này có thể tạo ra sự bất ổn định trong plasma và sau đó dẫn đến sự mất nhiệt cao bất ngờ cho các bức tường. Vào năm 2013, một nhóm các nhà khoa học vật liệu đã báo cáo rằng họ đã tạo ra thành công plasma không thấm ổn định không bị giam giữ từ tính chỉ sử dụng một lớp bọc bằng khí lạnh siêu cao áp. Trong khi dữ liệu quang phổ về các đặc tính của plasma được cho là khó thu được do áp suất cao, thì tác động thụ động của plasma đối với việc tổng hợp các cấu trúc nano khác nhau đã gợi ý rõ ràng về sự hạn chế hiệu quả. Chúng cũng chỉ ra rằng khi duy trì tính không thấm trong vài chục giây, việc sàng lọc các ion tại mặt phân cách plasma-khí có thể làm phát sinh chế độ gia nhiệt thứ cấp mạnh (được gọi là đun nóng nhớt) dẫn đến động học khác nhau của các phản ứng và hình thành phức vật liệu nano.
Các loại
Plasma nguội
Nếu sự ion hóa được xảy ra bởi việc nhận năng lượng từ các dòng vật chất bên ngoài, như từ các bức xạ điện từ thì plasma còn gọi là plasma nguội. Ví dụ như đối với hiện tượng phóng điện trong chất khí, các electron bắn từ cation ra làm ion hóa một số phân tử trung hòa. Các electron mới bị tách ra chuyển động nhanh trong điện trường và tiếp tục làm ion hóa các phân tử khác. Do hiện tượng ion hóa mang tính dây chuyền này, số đông các phân tử trong chất khí bị ion hóa, và chất khí chuyển sang trạng thái plasma. Trong thành phần cấu tạo loại plasma này có các ion dương, ion âm, electron và các phân tử trung hòa.
Plasma nóng
Nếu sự ion hóa xảy ra do va chạm nhiệt giữa các phân tử hay nguyên tử ở nhiệt độ cao thì plasma còn gọi là plasma nóng. Khi nhiệt độ tăng dần, các electron bị tách ra khỏi nguyên tử, và nếu nhiệt độ khá lớn, toàn bộ các nguyên tử bị ion hóa. Ở nhiệt độ rất cao, các nguyên tử bị ion hóa tột độ, chỉ còn các hạt nhân và các electron đã tách rời khỏi các hạt nhân. |
Hoàng Văn Thái (1920 - 2000) là một tướng lĩnh, hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức Quyền Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Phó chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Phó Chính uỷ Quân khu 4, Tư lệnh đầu tiên Quân đoàn 2, Tư lệnh Đoàn 559. Huân chương Độc lập hạng Nhất
Tiểu sử
Ông tên thật là Huỳnh Đức Tui; quê xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1945, nhập ngũ năm 1947; được phong quân hàm Thiếu tướng năm 1974, thăng quân hàm Trung tướng năm 1982.
Tháng 5 năm 1945, ông hoạt động trong nhà máy hỏa xa Thuận Lý (Quảng Bình), Ủy viên Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, lãnh đạo công nhân giành chính quyền ở Quảng Bình.
Từ năm 1947 đến năm 1954, ông là cán bộ hậu cần và văn phòng trung đoàn, Chính ủy Trung đoàn 101 tham gia chiến dịch Hạ Lào; Chủ nhiệm Chính trị rồi Chính ủy Đại đoàn 325.
Năm 1954, ông là Chính ủy Trung đoàn 101, tham gia chiến dịch Hạ Lào.
Năm 1959, ông giữ chức Phó Chủ nhiệm chính trị Tổng cục Hậu cần, hàm Đại tá
Năm 1960, ông làm Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tư lệnh Pháo binh.
Tháng 12 năm 1962, ông làm Phó Chính ủy Quân khu 4.
Tháng 1 năm 1965, ông làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần.
Từ cuối năm 1965 đến năm 1967, ông được điều động giao nhiệm vụ làm Tư lệnh Đoàn 559, phụ trách tuyến hậu cần chiến lược Trường Sơn. Năm 1969, ông làm Phó Tư lệnh, Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu Trị - Thiên kiêm Phó Tư lệnh Đoàn 559.
Từ năm 1972 đến năm 1974, ông làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên.
Trong khoảng 1974-1975, ông là Tư lệnh đầu tiên Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang), hàm Thiếu tướng.
Năm 1975, ông là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, được thăng hàm Trung tướng năm (1982).
Từ năm 1986 đến năm 1989, ông làm Quyền Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật.
Ông nghỉ hưu theo chế độ từ năm 1989 cho đến khi qua đời.
Phần thưởng cao quý
Huân chương Quân công (hạng nhất, hạng ba)
Huân chương Chiến công hạng nhất
Huân chương Chiến thắng hạng nhì
Huân chương Kháng chiến hạng nhất
và nhiều huân, huy chương khác.
Chú thích
Người Quảng Nam
Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng Việt Nam
Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng Việt Nam
Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
Huân chương Chiến công hạng Nhất
Huân chương Quân công hạng Nhất
Huân chương Kháng chiến
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam người Quảng Nam
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 1980 |
Ferrari S.p.A là một công ty chuyên về sản xuất siêu xe thể thao của Ý do Enzo Ferrari sáng lập vào năm 1939 với tên gọi ban đầu là Scuderia Ferrari, đến năm 1946, hãng đổi tên thành Ferrari S.p.A như hiện nay. Ngoài xe hơi, Ferrari còn là nhà tài trợ chính cho những giải đua xe lớn cùng các đội đua và vận động viên đua xe trên toàn thế giới.
Ngành nghề kinh doanh
Công nghiệp ô tô
Năm 1929, Enzo Ferrari, một vận động viên đua ô tô đang khoác áo đội đua Alfa Romeo, sáng lập ra Scuderia Ferrari như một công ty bảo trợ và tổ chức giải đua cho những tay lái nghiệp dư, trụ sở chính đặt tại Modena, Ý. Trong khoảng thời gian 10 năm, cũng như nhà sáng lập của nó, công ty này có mối quan hệ mật thiết với Alfa Romeo. Năm 1938, Ferrari hoàn toàn tách khỏi Alfa Romeo, thành lập công ty Auto Avio Costruzioni Ferrari, chuyên sản xuất phụ tùng siêu xe. Năm 1943, dây chuyền sản xuất chính được chuyển từ Modena tới Maranello.
Tên tuổi của hãng gắn liền với các cuộc đua, đặc biệt là cuộc đua xe Công thức 1. Ngày nay, cái tên cũ Scuderia Ferrari của hãng được dùng để đặt cho tên đội đua Scuderia Ferrari nổi tiếng trong các cuộc đua Công thức 1. Ferrari hiện đang là hãng sản xuất siêu xe nổi tiếng nhất thế giới và luôn là "số 1" khi nhắc đến những mẫu xe hiệu suất cao.
Thời trang và Ẩm thực
Trong nỗ lực đa dạng hóa hình ảnh, Ferrari đã hợp tác với Rocco Iannone, nhà thiết kế cũ cho Georgio Armani và Giám đốc sáng tạo của Pal Zileri. Với hai màu sắc đỏ - vàng chủ đạo đã làm nên thương hiệu của hãng, buổi trình diễn thời trang của Ferrari đã diễn ra vào ngày 13 tháng 6 năm 2021 tại cơ sở sản xuất Maranello của hãng ở miền Bắc Italy. Điểm nhấn của bộ sưu tập này là những chiếc áo khoác bomber và parka quá khổ, pha trộn giữa ni lông, lụa và vải tải chế, kết hợp với váy, quần short và quần dài bó sát. Việc ra mắt bộ sưu tập thời trang đầu tiên này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong chiến lược thương hiệu mới của Ferrari, một trong những khoản đầu tư lớn nhất của họ bên ngoài lĩnh vực kinh doanh xe hơi, mà công ty muốn sẽ chiếm khoảng 10% lợi nhuận trong vòng 7 - 10 năm tới.
Ngày 15 tháng 6 năm 2021, Ferrari cũng sẽ mở cửa trở lại nhà hàng Cavallino tại Maranello, dưới sự chỉ đạo của đầu bếp người Italy Massimo Bottura, người đã sở hữu ba ngôi sao Michelin. Nhà hàng này từng là một căng tin và trở thành địa điểm yêu thích của nhà sáng lập Enzo Ferrari để tiếp đón nhân viên, khách hàng và bạn bè. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.