text
stringlengths 0
512k
|
---|
Xe nâng hạ (hay còn gọi xe nâng) là một loại xe tải công nghiệp dùng để nâng và di chuyển vật liệu, hàng hóa trên một quãng đường ngắn. Xe nâng hạ được phát triển vào đầu thế kỷ 20 bởi nhiều công ty khác nhau, bao gồm Clark, công ty sản xuất hộp số, và Yale & Towne Manufacturing, công ty sản xuất cần nâng. Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, việc sử dụng và phát triển xe nâng đã được mở rộng trên toàn thế giới. Ngày nay, xe nâng hạ đã trở thành một thiết bị không thể thiếu trong sản xuất và kinh doanh kho bãi. Chiều cao nâng của xe nâng thường từ 3m đến 6m, chia thành hai loại khung nâng là loại thông thường và loại chui container.
Phân loại xe nâng bằng động cơ sử dụng, bao gồm xe nâng điện và xe nâng dầu, theo xe nâng thông thường hoặc xe nâng chui container
Cấu hình xe nâng rất đa dạng, bao gồm động cơ, chiều cao nâng, bộ công tác: bộ dịch ngang (side shifter), bộ gật gù, bộ dịch càng (fork positioner)
Phân loại
Xe nâng hạ được chia làm ba loại chính dựa trên các nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ đến nặng, từ thấp đến cao. Ba loại chính bao gồm
Xe nâng hạ bằng tay
Xe nâng hạ bằng tay là xe nâng dùng thủ công để di chuyển hàng hóa bao gồm xe nâng tay, xe đẩy tay hoặc có thể vừa di chuyển hàng hóa vừa nâng hàng hóa lên cao bao gồm các loại xe nâng tay cao. Loại xe này sử dụng hệ thống thủy lực kích bằng tay và hệ thống van xả để nâng hạ hàng hóa. Chiều cao thông thường từ mặt sàn đến càng nâng tối thiểu là 200mm. Tải trọng nâng và chiều cao nâng cho loại xe nâng bằng tay này đều rơi vào loại nhẹ và đơn giản, từ 500kg - 1000kg cho loại vừa di chuyển vừa nâng lên cao, hoặc 2500kg cho loại chỉ di chuyển chứ không nâng lên cao.
Xe nâng hạ bằng điện
Xe nâng hạ bằng điện là xe dùng ắc quy hoặc cắm điện để thay cho sức người để di chuyển hàng và nâng hàng. Nó sử dụng hai mô tơ, mô tơ di chuyển dành cho việc di chuyển, và mô tơ nâng hạ dành cho việc nâng hạ. Nếu chỉ sử dụng 1 mô tơ cho việc nâng hạ hoặc chỉ cho việc di chuyển thì người ta gọi đó là xe nâng bán tự động, vì chỉ có một nửa công năng dùng ắc quy. Nếu sử dụng cả hai mô tơ cho cả việc di chuyển và việc nâng hạ, thì người ta gọi là xe nâng tự động hoặc xe nâng điện. Tải trọng nâng và chiều cao nâng cho loại xe nâng bằng điện cao hơn xe nâng tay một chút, có thể nâng tới 2500kg với chiều cao 6m. Các loại xe này thường hay sử dụng với hệ thống giá kệ.
Xe nâng hạ bằng động cơ
Xe nâng hạ bằng động cơ đốt trong là xe dùng động cơ đốt trong để thực hiện việc di chuyển và nâng hạ. Thông thường khi sử dụng loại xe này, người ta phải sử dụng nâng dỡ và di chuyển hàng hóa với khối lượng lớn, tần suất cao mà các loại xe khác không thể đáp ứng được. Cấu tạo của xe chủ yếu bao gồm có động cơ chạy bằng nhiên liệu xăng, dầu diesel hoặc gas, khung gầm và lốp xe như cấu tạo xe ô tô, ngoài ra còn có thêm hệ thống thủy lực để nâng hàng hóa. Tải trọng của loại xe nâng bằng động cơ xuất phát có thể từ 1 tấn lên đến hàng chục tấn. Thông thường các loại xe nâng từ 5 tấn trở xuống dùng đại trà trong các nhà máy xí nghiệp, các loại xe có tải trọng từ 10 tấn trở lên dùng ở các cảng biển phục vụ cho việc nâng hạ container có trọng tải lớn. |
Tàu đệm từ hay xe điện đồng cực từ tính (tiếng Anh: Magnetic levitation transport, rút ngắn thành maglev) là một phương tiện chuyên chở được nâng lên, dẫn lái và đẩy tới bởi lực Lorentz. Phương pháp này có thể nhanh và tiện nghi hơn các loại phương tiện công cộng sử dụng bánh xe, do giảm ma sát và loại bỏ các cấu trúc cơ khí. Tàu đệm từ có thể đạt đến tốc độ ngang với máy bay sử dụng động cơ cánh quạt hay phản lực; tức là tới khoảng 500 đến 580 km/h. Tàu đệm từ đã được sử dụng trong thương mại từ 1984. Tuy nhiên, các giới hạn về khoa học và kinh tế đã cản trở sự phát triển của kỹ thuật mới này.
Kỹ thuật nâng bằng lực từ không có gì trùng lặp với kỹ thuật tàu sử dụng bánh xe và do vậy không tương thích với đường ray xe lửa truyền thống. Do không sử dụng chung các cơ sở hạ tầng đang hiện có, tàu đệm từ phải được thiết kế với một hệ thống giao thông hoàn toàn mới. Thuật ngữ "tàu đệm từ" không chỉ đơn thuần chỉ đến phương tiện chuyên chở mà còn bao gồm cả sự tương tác giữa tàu và đường ray; mỗi cái được thiết kế đặc biệt tương thích lẫn nhau để tạo ra lực nâng và điều khiển chính xác việc nâng lên và đẩy tới bằng lực điện từ.
Bởi vì không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa đường ray và tàu, nên chỉ có lực ma sát giữa con tàu và không khí. Do đó, tàu đệm từ có khả năng di chuyển với vận tốc rất cao, tiêu tốn ít năng lượng và có thể gây ra ít tiếng ồn. Các hệ thống đã được đề nghị có thể hoạt động với vận tốc lên đến 650 km/h, nhanh hơn nhiều lần so với tàu hỏa truyền thống. Tốc độ rất cao của tàu đệm từ làm chúng có thể cạnh tranh với các đường bay dưới 1.000 kilômét.
Đưa vào thương mại
Hồi tháng 1-2004, ứng dụng thương mại đầu tiên trên thế giới của tàu đệm từ cao tốc được đưa vào thương mại hóa, là tuyến thử nghiệm ở Thượng Hải (IOS, initial operating segment) vận chuyển hành khách trên quãng đường dài 30 km từ thành phố đến sân bay chỉ trong 7 phút 20 giây (tốc độ cao nhất là 431 km/h, tốc độ trung bình 250 km/h). Các dự án tàu đệm từ khác trên thế giới đang được nghiên cứu về tính khả thi. Chi phí hệ thống này khoảng 1,3 tỉ USD. Chính vì thế tàu đệm từ vẫn không phổ biến nhiều trên thế giới.
Kỷ lục về tốc độ
Đầu tháng 6 năm 2013, Công ty Đường sắt Trung phần Nhật Bản (JR Tokai) vừa thử nghiệm thành công tàu điện siêu tốc chạy trên đệm từ trường đạt tới vận tốc 500 km/h. Một cuộc thử nghiệm hồi năm 2003 cho thấy tàu điện đệm từ trường của JR Tokai có thể đạt tới vận tốc 581 km/giờ.
JR Tokai cho biết phiên bản thương mại của loại tàu L0 Series sẽ bao gồm 16 toa, có thể chở được khoảng 1.000 hành khách. L0 Series là tàu điện nhanh nhất thế giới. Nhật là quốc gia hàng đầu thế giới về lĩnh vực tàu điện cao tốc. Những chiếc tàu "viên đạn" đầu tiên của Nhật đã xuất hiện từ năm 1964.
Kỹ thuật
Xem chi tiết trong bài JR-Maglev, Transrapid, Đệm từ |
Hoàng Đình Ái (黃廷愛, 1527-1607) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có công giúp nhà Lê trung hưng. Ông sinh ngày 23 tháng 12 năm Đinh Hợi (1527), là người Biện Thượng, huyện Vĩnh Phúc, nay là thôn Bồng Thượng, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam.Ông là con nhà cậu của Lượng Quốc Công Trịnh Kiểm.
Phù Lê diệt Mạc
Danh tướng Nam triều
Hoàng Đình Ái ra đời khi nước Đại Việt bị chia cắt trong thời chiến tranh Lê-Mạc. Khi ông lớn lên, đất Thanh Hoá quê ông đã thuộc về nhà Lê. Hoàng Đình Ái đầu quân theo giúp nhà Lê trung hưng và trở thành danh tướng trong cuộc chiến tranh này.
Năm 1557, ông cùng Phạm Đốc phục binh phía Bắc sông Mã chặn đánh quân Mạc tiến từ vùng Hòa Bình vào căn cứ của quân Lê Trịnh, trận này quân Lê thắng lớn.
Năm 1561 sau khi mất vùng Sơn Nam, phụ chính nhà Mạc là Mạc Kính Điển vượt biển đánh vào vùng duyên hải Thanh Hóa. Trước sức mạnh của quân Mạc, Tây Đô có nguy cơ bị thất thủ. Thái sư Trịnh Kiểm điều ông về chặn đánh cuộc tiến công của quân Mạc, giữ vững được thành đô, đuổi quân Mạc ra khỏi đất Thanh Hóa.
Năm 1570, Trịnh Kiểm vừa mất, anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng đánh nhau tranh quyền hành, tướng sĩ không hòa thuận, nhân dân hoang mang. Nhân cơ hội đó quân Mạc do Mạc Kính Điển đem 10 vạn quân chia làm 5 đạo với 700 chiến thuyền vào đánh Thanh Hóa quyết diệt quân Lê Trịnh.
Thế quân Mạc khi đó rất mạnh. Trịnh Cối không thể đương nổi đã dẫn bộ tướng đem quân hàng Mạc. Hoàng Đình Ái liền gọi các tướng Lê Khắc Thận, Nguyễn Hữu Liêu, Phạm Văn Khoái... vào yết kiến nhà vua Anh Tông và tôn Trịnh Tùng làm đô tướng để chống quân Mạc.
Dưới thời Mạc Kính Điển cầm quân, quân Mạc rất mạnh và thường chiếm ưu thế trước quân Lê. Mạc Kính Điển cùng tướng Nguyễn Quyện nhiều lần cầm quân vào đánh Thanh Hoá, Nghệ An.
Năm 1575, Kính Điển đem quân đánh Thanh Hoá. Quân Mạc mạnh, tiến đến đâu, quân Lê đều không dám chống lại, trốn xa vào núi rừng để trốn tránh. Kính Điển tự đem đại binh tiến đánh các sông ở Yên Định và
Thuỵ Nguyên , lại chia quân cho Mạc Ngọc Liễn tiến đánh các huyện Lôi Dương và Đông Sơn.
Tháng 8 năm đó, Hoàng Đình Ái nhận lệnh của Trịnh Tùng thống suất các tướng Đỗ Diễn, Phan Văn Khoái đem quân đi cứu các huyện Lôi Dương, Nông Cống, Đông Sơn, đóng quân ở núi Tiên Mộc. Ông phối hợp với Trịnh Tùng và thái phó Vũ Sư Thước đuổi được quân Mạc rút về.
Tháng 8 năm 1576, Mạc Kính Điển lại đánh sông Đồng Cổ. Hoàng Đình Ái lại nhận lệnh cùng Nguyễn Hữu Liêu đem quân chặn phá quân địch, đánh nhau với quân Mạc ở Hà Đô. Quân Mạc lại phải rút lui.
Năm 1581, quân Mạc lại đánh vào Thanh Hóa. Hoàng Đình Ái thống lĩnh quân tướng chia làm 3 đạo, Nguyễn Hữu Liêu làm tiên phong, tự mình đốc đại binh làm chính đội, Trịnh Thái làm hữu đốc, Trịnh Đồng làm hậu đốc đánh quân Mạc suốt dọc sông Mã, trận này diệt hơn 600 quân, bắt sống 1 tướng Mạc, quân Mạc phải tháo chạy ra Bắc.
Sau khi Mạc Kính Điển chết (1580), nhà Mạc ngày một suy yếu, quân Nam triều ngày càng thắng thế. Tháng 12 năm 1591, Trịnh Tùng dẫn đại quân tổng tiến công vào Thăng Long, chia quân làm 5 đạo. Hoàng Đình Ái cùng Trịnh Đồng lĩnh đội thứ 2. Cuối tháng 12 năm đó, quân hai bên đụng nhau một trận lớn, quân Lê đại phá quân Mạc.
Sang năm 1592, Hoàng Đình Ái theo Trịnh Tùng đánh bại quân Mạc nhiều trận lớn nữa, chiếm được kinh thành Thăng Long. Vua Mạc là Mậu Hợp bỏ trốn không lâu bị bắt và bị giết. Thân tộc họ Mạc chạy lên phía bắc tiếp tục cầm cự.
Hoàng Đình Ái trở thành một trong các công thần có công lớn nhất trong việc giúp nhà Lê trung hưng, khi đó ông đã 66 tuổi.
Dẹp tàn dư họ Mạc
Tình hình Bắc bộ chưa ổn định do vây cánh họ Mạc còn nhiều. Từ năm 1593, Hoàng Đình Ái tiếp tục ra quân đánh dẹp các lực lượng họ Mạc chống đối, tiêu diệt nhiều cánh quân Mạc.
Tháng 3 năm 1598, Hoàng Đình Ái lại đem quân đánh dẹp tàn quân Mạc ở Lục Ngạn, bắt được Mạc Kính Luân, thu 35 chiến mã và nhiều khí giới. Tháng 6 năm ấy, ông lại đến thành Lạng Sơn cử đô đốc Lâm quận công Trần Phúc đem 1.000 quân đến châu Thoát Lãng bắt được con trai Mạc Kính Cung, còn Mạc Kính Cung chạy sang Long Châu (Trung Quốc) .
Tháng 3 năm 1601, con Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung lại mang quân về đánh Hải Dương. Lão tướng Hoàng Đình Ái lúc đó đã 75 tuổi, vẫn nhận lệnh cầm quân đi dẹp. Ông đánh đuổi Kính Cung chạy lên Lạng Sơn.
Hội kiến với sứ nhà Minh
Tháng 3 năm 1597, nhà Minh sai ủy quan là Vương Kiến Lập đến trấn Nam Giao đòi lễ cống và hội khám (diễu binh). Ngày 28 tháng 3 vua Lê Thế Tông thân đốc hữu tướng Hoàng Đình Ái, thái úy Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu cùng tả hữu đô đốc 7, 8 viên, voi và 5 vạn quân đến trấn Nam Giao đề phòng khi mở cửa quan, hội khám quân Minh tràn sang giúp phía Mạc lưu vong bắt vua, hiếp tướng. Hoàng Đình Ái tâu với Trịnh Tùng:
"Nhà Minh chuẩn bị chinh phục nước ta, có thể chỉ là để diễu võ dương oai, khiến nước ta phải sợ, nhưng cũng có thể muốn thực hiện mưu đồ mà xưa kia tổ tiên họ bị thất bại. Xin tiết chế cho lệnh được tùy nghi đối phó."
Trịnh Tùng liền trao cho Hoàng Đình Ái thanh gươm "An quốc" tại cửa ải Nam Quan, ủy quan Vương Kiến Lập cùng tàn quân Mạc trông thấy quân Lê đông đúc, binh tướng oai hùng, lẫm liệt khí thế phải lẳng lặng từ bỏ những ý đồ đánh chiếm. Cuộc hội khám cử hành đúng nghi lễ, nhà Minh phải công nhận nhà Lê, bỏ nhà Mạc.
Đại thần thời bình
Về vùng đất huyện Kim Thành, Hải Dương, ông đã chiêu dụ nhân dân trở lại làm ăn sinh sống, khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, xin vua cấp thóc giống, miễn thuế 3 năm, mở mang học hành cho con trẻ... Do đó miền Hải Dương dần dần trở lại bình yên.
Cuối năm 1607, ông ốm nặng. Trước khi qua đời, chúa Trịnh Tùng thăm hỏi ông:
"Hữu tướng quốc một thời công lao dồn lại to hơn núi Thái, Hữu tướng có muốn được gia ơn chức tước gì cho con cháu?"
Ông trả lời:
"Người ta sinh ra ở đời, ai có bổn phận người ấy, công lao nên tự lập, chức tước chớ lạm phong"
Ông mất ngày 15 tháng 12 năm Đinh Mùi (1607) tại nội thành Thăng Long, thọ 81 tuổi. Vua Lê Kính Tông ra chiếu chỉ cả nước để tang 5 ngày, triều đình bãi triều 5 ngày, lấy dân 10 xã làm lính giữ phần mộ.
Để nhớ công đức của ông, sau khi ông mất nhân dân Mạc Xá, huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Dương đã lập đền thờ "Chiêu cảm Đại Vương" để thờ ông.
Không chỉ có nhà Lê đánh giá cao công trạng của ông. Vào thời nhà Nguyễn, vua Gia Long (1803) liệt ông vào hàng công thần Trung hưng bậc nhất, tôn là Kim Tử Vinh lộc đại phu. Năm 1823, vua Minh Mạng cho dựng miếu "Lịch đại đế vương" trong kinh thành Huế để thờ Thái tể Hoàng Đình Ái cùng các công thần Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, Trương Hán Siêu...
Nhận định
Sách "Lịch triều hiến chương loại chí" nhà sử học Phan Huy Chú (1782 - 1841) nhận xét về ông như sau:
"Ông có học thức, thông binh pháp, cầm quân nghiêm chỉnh, trong thì giúp mưu, ngoài thì đánh dẹp, tự mình trải vài trăm trận, đánh đến đâu được đấy, làm cả tướng võ, tướng văn, không phân biệt thứ bậc, uy quyền, ưu đãi sĩ phu, giữ gìn pháp độ. Mọi người đều khen là giỏi... Với lòng quyết tâm, tài mưu lược, dũng cảm, ông đã giữ vững lòng tướng sĩ chống được giặc mạnh, cuối cùng đã chuyển thua hóa thắng, đổi nguy ra yên do sức bọn ông cả"
Chú thích |
Trà sen hay chè sen là tên gọi chỉ loại trà ướp hương sen. Trà sen được coi là một loại trà đại diện của văn hóa trà Việt Nam, đóng góp vào nền văn hóa trà thế giới.
Trà sen trở thành một tinh thần đặc trưng của văn hóa trà Việt Nam, mang trong đó nhiều triết lý, lịch sự và lòng kính trọng.
Một nơi lý tưởng để thưởng thức trà sen cổ truyền là dưới mái hiên. Người uống trà ngồi xếp bằng trên sập gỗ. Cảnh quan nếu có thì trông ra hồ sen xanh ngát mênh mang gió. Người uống trà có thể ngắm cảnh, làm thơ, hàn huyên tâm sự hay trầm ngâm tự tại.
Ướp sen
Muốn có trà ngon, chỉ hái những búp trà loại "một tôm hai lá" và phải hái nhanh, nhẹ nhàng, không để búp bị nhàu nát. Loại trà ngon là sau khi sao phải còn lại một lượng nước nhất định từ 5-7%. Trà hái xong không ướp hương ngay mà phải để trong chum đất, trên ủ lá chuối, ướp từ 20-30 ngày nhằm làm giảm độ chát và để cánh trà phồng lên hút được nhiều hương. Một cân trà ướp hương sen cần có 1000-1400 bông sen, mà phải đúng loại sen ở đầm Đồng Trị, Thủy Sứ, làng Quảng Bá, Hồ Tây (sen ở đây có trăm cánh và hương thơm đặc biệt mà sen ở những nơi khác không có).
Sen được hái khi trời vừa mới ửng sáng, lúc còn e ấp hơi sương, tinh túy của đất trời còn đọng lại trong đài nhụy sen.. Bông sen còn đẫm sương được tách lấy phần hạt gạo rồi rải đều, cứ một lớp trà một lớp gạo sen. Sau cùng phủ một lớp giấy bản. Ướp như vậy liên tục 7-9 lần, mỗi lần ướp xong lại sấy khô rồi mới ướp tiếp. Công phu là thế nên một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần trà. Nước trong rồi, hương sen còn ngan ngát.
Sen sớm
Có lẽ đây là cách ướp trà độc đáo có một không hai trên thế giới. Khi hoàng hôn dải nắng vàng lên mặt hồ sen, các thiếu nữ chèo thuyền ra chọn những bông sen đang còn hé nụ lén bỏ vào một dúm trà nhỏ. Sớm hôm sau khi ánh bình chưa chạm tới chúng thì các thiếu nữ lại chèo thuyền ra lấy lại những dúm trà đó. Trà rất thơm hương tự nhiên của đất trời trong suốt đêm dài. Cũng thế, nước pha trà được hứng từ những lá sen còn đọng sương sớm. Đây chính là thiên cổ đệ nhất trà. |
Tống Duy Tân (chữ Hán: 宋維新; 1837 - 1892) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887 - 1892) trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế & sự nghiệp
Tống Duy Tân là người làng Bồng Trung, xã Vĩnh Tân (nay thuộc xã Minh Tân), huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm Canh Ngọ (1870) ông đỗ cử nhân, đến năm Ất Hợi (1875) thì đỗ tiến sĩ. Bước đầu, ông được bổ làm Tri huyện, sau làm Đốc học Thanh Hóa rồi Thương biện tỉnh vụ.
Hưởng ứng dụ Cần Vương
Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần Vương, Tống Duy Tân được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa. Sau đó, ông tham gia xây dựng chiến khu Ba Đình.
Năm 1886, Tống Duy Tân và Cao Điển nhận lệnh của thủ lĩnh Đinh Công Tráng đến Phi Lai (nay thuộc xã Hà Lai, huyện Hà Trung, Thanh Hóa) lập căn cứ, nhằm hỗ trợ cho căn cứ chính là Ba Đình. Ngoài căn cứ Phi Lai trong sự nghiệp chung, Tống Duy Tân còn chuẩn bị lực lượng và căn cứ kháng Pháp ngay tại quê hương mình, đó là căn cứ Hùng Lĩnh, nằm ở vùng thượng nguồn sông Mã thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
Đầu năm 1887, đông đảo quân Pháp kéo đến đàn áp dữ dội phong trào Cần Vương ở tỉnh này. Căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ. Sau đó, các thủ lĩnh lần lượt hy sinh (Đinh Công Tráng, Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt), tự sát (Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại) hoặc đi tìm phương kế khác (Trần Xuân Soạn).
Trước tình thế hiểm nguy, Tống Duy Tân bèn mang quân chạy lên căn cứ Hùng Lĩnh, lập nên một trung tâm kháng chiến mới. Các cộng sự cùng theo có Cao Điển, Cầm Bá Thước, Hà Văn Nhọ,... Tuy nhiên, nghĩa quân Hùng Lĩnh chỉ mở được vài trận tập kích thì bị Thiếu tá Térillon dẫn quân đến vây đánh rất gắt gao.
Xét thấy lực lượng Hùng Lĩnh vừa gây dựng bị cô thế và yếu sức, Tống Duy Tân bèn đi ra Bắc rồi qua Trung Quốc để gặp gỡ các sĩ phu yêu nước, tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì Tống Duy Tân đã gặp Tôn Thất Thuyết tại Quảng Đông, và ông đã nghe theo lời vị tướng này trở về Thanh Hóa để tiếp tục công cuộc kháng Pháp.
Tiếp tục công cuộc kháng Pháp
Đầu năm 1889, Tống Duy Tân về đến quê nhà. Sau khi tập hợp lại lực lượng thì ông trở thành người chỉ huy chính của phong trào kháng Pháp tại Hùng Lĩnh ở thượng nguồn sông Mã (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa).
Từ nơi đó, ông cùng hai cộng sự là Cao Điển và Cầm Bá Thước cho quân mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã, đến hợp đồng chiến đấu với Đề Kiều - Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu sông Đà, và với Phan Đình Phùng ở vùng rừng núi Nghệ An - Hà Tĩnh.
Tổ chức của các ông khá quy củ. Mỗi huyện có một cơ binh, lấy tên huyện đặt tên cho đơn vị, ví dụ như Nông Thanh cơ (tức cơ Nông Cống ở Thanh Hóa), Tống Thanh cơ (tức cơ Tống Sơn ở Thanh Hóa),...
Hay tin, ngày 8 tháng 10 năm 1889, quân Pháp gồm 24 tên do Thiếu úy Morfond (đồn trưởng đồn Nông Cống) từ đồn Nông Cống đi đến dò xét thì chạm súng với nghĩa quân Hùng Lĩnh; kết cục chúng đã bỏ lại ở chiến trường 9 xác chết của Thiếu úy Morfond, 4 lính Pháp và 4 lính khố xanh. Ngày 22 tháng 10, Đại tá Barbaret dẫn 185 quân có trang bị đại bác từ Thanh Hóa kéo đến tấn công. Sau ngày kịch chiến, Tống Duy Tân cho quân rút về phía Bắc Phố Cát (Thạch Thành), rồi sang Vạn Lại (Bắc Ninh). Cuối tháng này, nhờ có những toán quân cũ của tướng Trần Xuân Soạn tìm đến tham gia nên Tống Duy Tân lại cho quân đẩy mạnh hoạt động trong các huyện Yên Định, Thọ Xuân, Nông Cống.
Thấy công cuộc thôn tính nước Việt bị cản trở, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương là J. Bichot đã đưa Trung tá Lefèvre đến thay Barbaret, điều một lực lượng lớn (có cả đại bác) đến tấn công phong trào do Tống Duy Tân làm thủ lĩnh. Trước lực lượng đối phương đông đảo, lại được trang bị vũ khí mạnh, ông phải cho quân vừa chống đỡ các cuộc tấn công của Lefèvre ở Vạn Lại (30/11/1889), cuộc tấn công của Đại úy Colleta ở Yên Lược (1/12/1889)... vừa rút lui để bảo toàn lực lượng.
Trong năm 1890, Tống Duy Tân đã tổ chức tập kích nhiều trận như trận làng Kẽm (1/1/1890) - quân Pháp của Trung tá Jorne de Lacale (thay Lefèvre) bị thiệt hại nặng, Đại úy Christophe bị tử thương; trận Vân Đồn (Nông Cống) đánh tan đạo quân do Công sứ Thanh Hóa Lebrun chỉ huy, Yên Lãng (29/3/1890) ở Xuân Yên-Thọ Xuân (bên tả ngạn sông Chu). Sáng ngày 26/4, quân Pháp tấn công tiền đồn Na Lung của Cao Điển. Không thể giữ được đồn, Cao Điển rút về và bày binh bố trận, đánh tan quân Pháp ở trận Thanh Khoái xảy ra vào ngày 29 tháng 5 năm 1890 (Thiếu úy Bonnet và 6 lính cơ tử trận, nhiều lính bị thương trong đó có viên sĩ quan tên Viola). Bị thiệt hại đáng kể, quân Pháp bèn tập trung lực lượng mở cuộc truy quét quy mô nhằm tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh.
Kể từ đây trở đi, lực lượng của Tống Duy Tân bước vào thời kỳ chiến đấy gay go và gian khổ hơn. Nhất là sau trận Thanh Khoái, nghĩa quân lâm vào tình thế bị cô lập nên bị thiếu thốn mọi mặt.
Đầu năm 1891, Tống Duy Tân cho chuyển quân từ An Lẫm (châu Thường Xuân) lên Lang Vinh (một làng Mường ở châu Thường Xuân). Hay tin, quân Pháp do Giám binh Soler chỉ huy liền tổ chức tấn công. Mặc dù chống trả quyết liệt nhưng cuối cùng ông cũng phải bỏ hết các công sự xây dở dang, dẫn tàn quân rút về Hòn Mông, rồi về vùng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân (tức quê hương và là căn cứ của Cầm Bá Thước).
Tháng 3 năm 1892, từ sông Đà, Đốc Ngữ dẫn quân vượt sông Mã vào Thanh Hóa. Sau khi bàn bạc, Tống Duy Tân và Đốc Ngữ cùng hợp quân đi tấn công quân Pháp ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa). Mặc dù thu được một số thắng lợi nhưng cũng không thể nào cứu vãn được tình thế.
Hoạt động ở đây một thời gian ngắn thì Đốc Ngữ dẫn quân trở lại mạn sông Đà; còn Tống Duy Tân thì ở lại cầm cự một thời gian nữa. Nhưng trước cuộc bao vây và càn quét ngày càng ác liệt của đối phương, khoảng tháng 9 năm 1892, ông tuyên bố giải tán lực lượng để tránh thêm thương vong.
Bị giết chết
Sau đó, ông về ẩn náu ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa), còn Cao Điển cùng một số thuộc hạ quyết chí theo thì đóng trên một ngọn đồi gần bên. Chẳng lâu sau, Án sát Hà Tĩnh Cao Ngọc Lễ (vừa là học trò cũ, vừa là cháu kêu Tống Duy Tân bằng cậu) đi mật báo cho Pháp và quân Pháp do tên Thiếu úy Hensxhell cùng 20 lính đến bủa vây và bắt được Tống Duy Tân vào ngày 4 tháng 10 năm 1892.
Trước hôm đó một ngày (ngày 3 tháng 10), một toán quân Pháp khác gồm 30 người đi vây bắt Cao Điển. Hai bên đụng độ ác liệt. Nghĩa quân bị bắt 2, chết 6 nhưng Cao Điền đã kịp chạy thoát cùng bốn năm người với hai khẩu súng...
Không chiêu hàng được, Công sứ Pháp ở Thanh Hóa Boulloche ra lệnh cho Tổng đốc Thanh Hóa là Nguyễn Thuật (vốn là bạn cũ của ông) xử tử Tống Duy Tân tại Thạnh Hỏa ngày 5 tháng 10 năm Nhâm Thìn (tức 23 tháng 11 năm 1892), lúc 55 tuổi. Đến đây, cuộc khởi nghĩa mà ông cùng đồng đội đã cố công gầy dựng coi như kết thúc.
Trước ngày mất, Tống Duy Tân có làm đôi câu đối:
Nhị kim thủy liễu tiên sinh trái
Tự cổ do truyền bất tử danh
Nghĩa:
Món nọ tiên sinh nay mới trảCái danh bất tử trước còn truyềnVinh danh
Sau khi Tống Duy Tân thọ án, nhân sĩ tỉnh Thanh Hóa có làm bài thơ và câu đối điếu đều bằng chữ Hán. Giới thiệu câu đối điếu:Tự cổ anh hùng, thiết thạch can trường nan tận tả;
Đáo đầu sự thế, xuyên hà huyết lệ hạt năng lưu.
Nghĩa là:Từ trước anh hùng, dạ sắt gan vàng không xiết tả;
Đến cùng sự thế, máu sông lệ suối chảy sao trôi!
Hiện nay, tên ông được dùng đặt tên cho nhiều trường học và đường phố ở Việt Nam. |
Cuộc khởi nghĩa Chu Đạt diễn ra từ năm 156 đến năm 160. Năm 156, Chu Đạt, người huyện Cư Phong, Cửu Chân (nay là xã Phú Hào-Thọ Phú, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa), nổi dậy chống chính quyền đô hộ nhà Đông Hán. Chu Đạt chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cư Phong (vùng đất các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia, Như Xuân, Như Thanh thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay) giết chết huyện lệnh, giải phóng toàn bộ quận Cửu Chân rồi tấn công quận trị Tư Phố giết chết thái thú Nghê Thức nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa tập hợp lực lượng có tới 5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm 156 đến năm 160. Năm 158, vua Đông Hán cử đô úy Ngụy Lãng đem quân đàn áp, buộc Chu Đạt phải lui vào Nhật Nam (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên). Tại đây thanh thế nghĩa quân mạnh lên, lực lượng lên tới hàng vạn người, hoạt động đến mùa thu 160 thì bị thứ sử Hạ Phương dập tắt. Chu Đạt mất tại đây.
Chú thích |
Khởi nghĩa Lê Ngọc là cuộc kháng chiến chống nhà Đường, diễn ra vào đầu thế kỷ VII, do Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng 4 người con lãnh đạo.
Thân thế của Lê Ngọc
Theo thần tích của đền thờ Lê Ngọc tại tổng Thạch Khê, nay thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tổ tiên của Lê Ngọc làm quan nhà Tấn, được phong tước hầu. Đến thời nhà Lương đã có 3 đời liên tiếp được phong hầu. Sang đến đời nhà Tùy, Lê Ngọc được phong Tuyên uy tướng quân Nhật Nam thái thú (quận Nhật Nam lúc này tương ứng với các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), sau đổi làm Cửu Chân thái thú.
Diễn biến khởi nghĩa
Cuối đời Tùy, hào kiệt các nơi nổi lên cát cứ, Lê Ngọc cũng cát cứ ở quận Cửu Chân. Khi nhà Đường thay thế nhà Tùy, Lê Ngọc không chịu thần phục nhà Đường, ông theo Tiêu Tiển, là người đã xưng vương ở đất Ba Lăng (Hồ Nam), cùng chống lại nhà Đường, chia các con chiếm giữ các địa phương.
Lê Ngọc đóng đô ở Đông Phố (tức Đồng Pho, nay thuộc xã Đông Hòa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa), gọi là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà Đường cho đến đầu thế kỷ VII. Tại làng Đồng Pho hiện còn dấu vết các đường phố thẳng và các giếng nước xây bằng đá, có thể là một trấn thành, được coi là căn cứ của Lê Ngọc.
Năm 622, sau khi Tiêu Tiển bị nhà Đường tiêu diệt, thái thú Giao Chỉ (Bắc Bộ ngày nay) là Khâu Hòa, trước là đồng minh của Tiêu Tiển, đã đầu hàng nhà Đường và được giữ nguyên chức Thái thú Giao Chỉ. Lê Ngọc không chịu đầu hàng mà lui về trấn thủ dân địa phương.
Sau gần 3 năm chiến đấu chống lại quân đội nhà Đường, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, cuộc khởi nghĩa Lê Ngọc đã thất bại. Gia đình Lê Ngọc bị tử nạn, chỉ còn người con trai thứ 3 là Lê Hựu bấy giờ đang đương chức Tham Xung Tá Quốc Công, thoát khỏi vòng vây nhưng bị trọng thương, chạy về căn cứ của chị gái ở Dốc Bò Lăn, nay thuộc huyện Như Xuân. Nhưng khi vừa qua Chạ Kẻ Nưa (thị trấn Nưa ngày nay) thì Lê Hựu mất. Chị gái của Lê Hựu từ Dốc Bò Lăn đem quân hỗ trợ cha và các em, đến khu vực Cầu Quan (nay thuộc xã Trung Chính, huyện Nông Cống) thì biết tin dữ, bèn nhảy sông Cầu Quan tự vẫn.
Thờ phụng
Hai đạo sắc phong thần cho Lê Ngọc, có niên đại triều Cảnh Hưng thứ 1 (1740) còn lưu giữ ở làng Trường Xuân do cụ ông Lê Viết Hổ lưu giữ trong thời kỳ chiến tranh và đã bàn giao cho sở Văn Hóa Thông Tin tỉnh Thanh Hóa và sau đó sở Văn Hóa Thông Tin Tỉnh đã bàn giao 2 bản sắc phong về làng Trường Xuân, xã Đông Ninh cho thấy triều đình phong kiến nước ta xem Lê Ngọc là người "Hộ quốc tý dân" (giúp nước, che chở cho dân) và tôn ông là "Hoàng đế".
Lê Ngọc và vợ con của ông đã được nhân dân nhiều nơi trong vùng Đông Sơn, Nông Cống lập đền thờ.
Làng Viên Khê,Làng Thanh Oai xã Đông Khê thờ thành hoàng làng là Cao Hoàng (tức Lê Ngọc) và Long thần (thần rắn cụt đuôi). Ngoài ra còn có đền thờ Chàng Cả đại vương là con Lê Ngọc. Tại nghè Đông Giáp, cùng xã, có thờ Chế Nghiệp, con nuôi Lê Ngọc
Xã Đông Hòa có đền thờ Lê Ngọc , tại làng Đồng Pho.
Xã Đông Ninh có đền thờ Lê Ngọc tại làng Trường Xuân. Đền thờ Lê Ngọc tại xã Đông Ninh đã được tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Xã Đông Phú có đền thờ Hoàng Lạp là con trai thứ hai của Lê Ngọc.
Xã Đông Tiến có nghè Tòng Tân thờ Chàng Hai là con trai của Lê Ngọc.
Làng Đông Sơn (nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa) thờ Chàng Út đại vương, Duệ hiệu là Đức Thánh Lưỡng làm Thành hoàng.
Nghè Giáp, thị trấn Nưa, huyện Triệu Sơn (trước năm 1964 thuộc huyện Nông Cống) thờ Tham Xung Tá Thánh là Lê Hựu (còn gọi là thánh Lưỡng, con trai thứ ba của Lê Ngọc) và cả gia đình Lê Ngọc (thờ Thánh Ngũ vị).
Tại xã Tế Nông, huyện Nông Cống có đền thờ Tham Xung Tá quốc tôn thần (Lê Hựu, con trai út của Lê Ngọc) và Tam giang thần mẫu tôn thần (con gái của Lê Ngọc).
Tại xã Tế Tân, huyện Nông Cống có đền thờ Trịnh Liệt Tam giang thần nữ. Tam giang thần mẫu hay Tam giang thần nữ còn được dân gian vùng Nông Cống gọi là Vua Bà.
Tại thôn Cao Minh (làng Mưng), xã Trung Thành có đền Mưng thờ Tham Xung Tá quốc tôn thần, gọi là Thánh Lưỡng ngũ vị. Ngày mùng Tám tháng ba âm lịch, ở đây có lệ "em đến thăm chị": Thánh Lưỡng được rước từ đền Mưng xuống đền Vua Bà. Lệ rước bằng thuyền, dọc sông Lãng Giang dài gần 10 km. Từ đó, ở xã Trung Thành có hội chèo thờ tháng Ba, còn gọi là trò hát thờ hay chèo thờ làng Mưng.
Ngoài ra, Lê Hựu còn được thờ phụng với tước vị Tham Xung Tá quốc tôn thần tại nhiều địa phương thuộc huyện Nông Cống như:
thôn Côn Cương, xã Tế Lợi,
thôn Thổ Vị, xã Tế Thắng,
thôn Trinh Khiết (làng Ố), xã Tân Phúc,
thôn Cao Xá, xã Minh Khôi,
thôn Cung Điền (Cung Hoàng), xã Minh Nghĩa,
làng Sa Lý và Lai Phục, xã Thăng Bình,
thôn Lộc Tùy và Phú Đa, xã Công Liêm.
Bia Trường Xuân
Bia Trường Xuân là một bia đá đá được dựng năm Đại Nghiệp thứ 14 triều nhà Tùy (618) được giáo sư Đào Duy Anh phát hiện năm 1960 tại thôn Trường Xuân, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bia khắc chữ Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn, văn bia ca tụng Phật pháp cũng như đạo học và sự nghiệp của viên Thứ sử Cửu Chân họ Lê (Lê Cốc hay Lê Ngọc), người đã lập Bảo An đạo tràng thờ Phật và cho dựng bia kỷ niệm. |
Nguyễn Chích (chữ Hán: 阮隻 1382–1448) hay Lê Chích (黎隻) là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Ông là đệ nhất mưu sĩ của Bình Định Vương Lê Lợi trong thời kỳ chống quân Minh.
Dựng căn cứ Hoàng – Nghiêu
Theo Văn bia quốc triều tả mệnh công thần, Nguyễn Chích mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ. Ông là người ít nói, ít cười, hiền lành, trung thực, có chí lớn.
Năm Nguyễn Chích 25 tuổi, nước Đại Ngu của nhà Hồ mất do cuộc xâm lược của nhà Minh. Ông nuôi chí đánh đuổi người Minh để cứu nước.
Sử sách không chép rõ thời điểm Nguyễn Chích nổi dậy chống quân Minh, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng ông khởi nghĩa khoảng sau khi nhà Hậu Trần mất (1413) cho tới trước khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (1418). Căn cứ ban đầu mà ông xây dựng là tại Vạn Lộc. Từ Vạn Lộc, Nguyễn Chích đánh ra các vùng xung quanh, cả huyện Đông Sơn quân Minh không dám đến cướp phá.
Sau đó Nguyễn Chích tiến quân đánh chiếm núi Hoàng và núi Nghiêu là vùng giáp 3 huyện Đông Sơn, Nông Cống và Triệu Sơn, xây dựng khu vực này thành căn cứ lớn. Căn cứ này có vách núi dựng đứng và sông Hoàng chảy qua là chiến hào tự nhiên, thuận lợi cho việc phòng thủ lẫn tiến công.
Từ Hoàng Nghiêu, Nguyễn Chích mở rộng phạm vi hoạt động ra vùng lân cận ở Thanh Hoá và bắc Nghệ An. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: "Hiệu lệnh của ông được thi hành ở các huyện Đông Sơn, Nông Cống và Ngọc Sơn".
Quân Minh lo lắng. Tướng người Việt theo quân Minh là Lương Nhữ Hốt tìm cách dụ hàng Nguyễn Chích nhưng thất bại.
Gia nhập quân Lam Sơn
Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hoá). Nghe tin thanh thế của Nguyễn Chích, Lê Lợi sai người mang thư đến mời ông về cùng tham gia quân Lam Sơn. Nguyễn Chích đồng ý theo Lê Lợi, nhưng thời gian đầu ông vẫn ở căn cứ Hoàng Nghiêu. Từ Hoàng Nghiêu, ông mang quân ra đánh Lương Nhữ Hốt ở đồn Cổ Vô, được Lê Lợi phong chức Vinh lộc đại phu Lân hổ vệ tướng quân. Sau đó Lê Lợi lại phong ông làm Đô đốc đạo phủ quản tổng đô đốc quân dân, tước Quan nội hầu.
Cuối năm 1420, ông mang toàn bộ lực lượng gia nhập với Lê Lợi – lúc đó đóng ở Mường Nanh. Ông được Lê Lợi phong làm Thiết đột hữu vệ Đồng tổng đốc chủ quân sự.
Từ năm 1421 đến 1423, ông tham gia nhiều trận đánh với quân Lam Sơn như trận Ba Lẫm (tháng 12 năm 1421) và trận Sách Khôi (tháng 2 năm 1422) đánh bại 10 vạn quân Minh của Trần Trí. Trong những trận đánh nêu trên, Nguyễn Chích đã thể hiện tài năng mật thám vượt trội của mình. Đội ngũ gián điệp dưới trướng của ông đã nhiều lần cung cấp những thông tin hữu ích góp phần vào những thắng lợi đó. Nhờ công lao đó, ông được Lê Lợi thăng lên chức thiếu uý.
Dâng hiến kế vào Nghệ An
Từ năm 1418 đến 1423, quân Lam Sơn chỉ hoạt động quanh quẩn ở vùng núi Thanh Hoá, bị quân Minh nhiều lần đánh bại. Trong tình thế khó khăn, Lê Lợi đã phải giảng hoà với quân Minh để củng cố thực lực. Cuối năm 1424, khi sứ giả quân Lam Sơn là Lê Trăn bị quân Minh bắt giữ, Lê Lợi bèn cắt đứt giảng hoà với địch.
Vào thời điểm đó, Nguyễn Chích đã hiến kế với Lê Lợi:
Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông thuộc đường đất. Nay hãy đánh trước lấy Trà Lân, chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Quan thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ.
Chấp thuận kế hoạch của ông, Lê Lợi quyết định tiến vào Nghệ An. Đầu tiên quân Lam Sơn tập kích đồn Đa Căng (nay thuộc xã Vạn Hòa - Nông Cống, Thanh Hoá). Tháng 11 năm 1424 quân Lam Sơn liên tiếp giành thắng lợi, hạ thành Trà Lân và tiến vào Nghệ An, sau đó đánh bại quân Minh ở Khả Lưu, Bồ Ải (tháng 5 năm 1425).
Thành Nghệ An bị bao vây cô lập, quân Lam Sơn tiến ra đánh Diễn châu và Tây Đô (tháng 6 năm 1425). Nhân đà thắng lợi, tháng 8 năm 1425, Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn mang quân vào đánh chiếm đất Tân Bình và Thuận Hoá. Hai thành này cũng bị vây.
Các nhà sử học đánh giá rất cao về kế vào Nghệ An của Nguyễn Chích. Chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm kể từ khi thực hiện kế hoạch của ông, quân Lam Sơn làm chủ 1 vùng rộng lớn từ Thanh Hoá và Thuận Hoá, bao vây các thành địch. Nếu so sánh với thời gian 6 năm 1418 – 1423 chỉ quanh quẩn ở mấy huyện ở Thanh Hoá thì thấy hiệu quả của việc thay đổi chiến thuật này rất lớn.
Tiến ra bắc
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi kéo đại quân ra bắc, quân Lam Sơn liên tiếp thắng trận, đánh tan các đạo viện binh của Vương An Lão và Vương Thông, đẩy quân Minh vào thế phòng thủ ở Đông Quan và các thành ở Bắc Bộ. Trong thời gian đó, Nguyễn Chích được giao việc vây thành Nghệ An. Sau đó ông được Lê Lợi điều ra bắc, giữ chức tổng tri Hồng Châu và Tân Hưng.
Đầu năm 1427, ông cùng tướng Bùi Quốc Hưng mang quân bao vây, hạ thành Tiêu Diêu (Gia Lâm, Hà Nội) và Thị Cầu (Bắc Ninh), quân Minh trong hai thành này phải mở cửa ra hàng.
Sau khi các tướng vây thành Đông Quan là Đinh Lễ, Lý Triện tử trận và Nguyễn Xí cùng Đỗ Bí bị bắt khi quân Minh đánh úp từ trong ra, Lê Lợi điều ông về vây mặt nam thành này.
Cuối năm 1427, viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh lại sang cứu Vương Thông. Nguyễn Chích cùng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Lê Khuyển lên trấn ải Lê Hoa để chặn Mộc Thạnh. Nghe tin đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt, Mộc Thạnh rút quân về nước. Quân Lam Sơn đuổi theo truy kích một trận nữa.
Công thần nhà Hậu Lê
Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi, lập ra nhà Hậu Lê. Năm 1429, Nguyễn Chích được phong tước Đình thượng hầu, ban cho họ Lê của vua. Từ đó ông được gọi là Lê Chích.
Thời gian đầu, Lê Chích được tham gia triều chính nhưng sau đó ông bị Lê Lợi cách chức. Các nhà nghiên cứu phỏng đoán rằng, sử không chép rõ về tội lỗi của ông, việc ông bị cách chức do sự nghi ngại công thần của Lê Lợi.
Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, con là Lê Thái Tông lên thay. Lê Chích được phục chức làm Đồng tổng quản châu Hoá, trấn thủ Thát Ải.
Quân Chiêm Thành hai lần cướp phá, ông đều chặn đánh tan, giữ yên biên giới phía nam. Sau đó, Lê Chích còn lập công trong 2 lần đi đánh Chiêm Thành, được phong tước Đình hầu.
Tháng chạp năm 1448, Nguyễn Chích mất, thọ 67 tuổi. Lê Nhân Tông truy tặng ông làm Nhập nội tư không bình chương sự, Hiến quốc công, thụy hiệu là Trinh Vũ.
Thời Nguyễn, Gia Long liệt ông vào làm bậc công thần khai quốc nhà Lê thứ nhì (năm 1802).
Đánh giá
Trong sách Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn ca ngợi ông như sau:
Bầy tôi có ông khai quốc, kể về bậc tài trí cần lao không phải là hiếm nhưng sở dĩ [vua Lê Thái Tổ] đã bình định được cả nước là do mưu chước của Lê Chích… Không cần phải đánh mà được thành Đông Đô, lấy hòa hiếu để kết thúc chiến tranh, tuy là mưu kế của Nguyễn Trãi, nhưng trước hết làm cho căn bản mạnh để thu thắng lợi hoàn toàn thực chất là bắt đầu từ Lê Chích.
Ghi công
Tại xã Đông Ninh hiện có đền thờ và văn bia Tướng quân Nguyễn Chích .
Tại phố Thống Nhất 1, phường Trường Thi có đền thờ Tướng quân Nguyễn Chích .
Hiện nay, tên của ông (Nguyễn Chích) đã được đặt cho một đường phố của thành phố Thanh Hoá (tại phường Nam Ngạn) và một trường trung học cơ sở của huyện Đông Sơn (tên cũ là trường Năng khiếu Đông Sơn).
Gia đình
Vợ là bà Nguyễn Thị Bành, một trong những nữ tướng hiếm hoi trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam.
Chú thích |
Cá đao trong tiếng Việt là một từ nhiều nghĩa. Nó có thể là:
Tên gọi chung của một bộ cá (Pristiformes) với một họ (Pristidae) duy nhất, thuộc lớp Cá sụn (Chondrichthyes), có quan hệ họ hàng gần với cá mập, cá đuối. Tên tương ứng trong tiếng Anh: sawfish. Xem bài Bộ Cá đao (cá sụn).
Tên gọi khác của cá dựa, còn gọi là cá lanh, tên khoa học Chirocentrus dorab, một loài cá thuộc họ Cá lanh.
Đôi khi là tên gọi một cách sai lầm của cá kiếm (hay cá mũi kiếm) (Xiphias gladius), loài duy nhất trong họ Cá kiếm (Xiphiidae). |
Họ Cá lanh (danh pháp khoa học: Chirocentridae) là một họ cá biển đơn chi Chirocentrus, bao gồm hai loài cá vây tia có quan hệ họ hàng với các loài cá trích.
Cả hai loài này đều có thân dài, với các hàm có các răng sắc và nhọn phù hợp với nhu cầu ăn uống ngấu nghiến của chúng, chủ yếu là các loài cá khác. Cả hai loài này đều có thể dài tới 1 m. Chúng có phần hông màu ánh bạc và phần lưng màu xanh.
Chúng là các loài cá có giá trị thương phẩm và được đưa ra thị trường dưới dạng cá tươi hay cá ướp đá.
Các loài
Chirocentrus dorab: Cá dựa, thường được gọi là cá đao, cá lanh, được tìm thấy ở các vùng nước ấm ven bờ, từ khu vực Hồng Hải tới Nhật Bản và Australia.
Chirocentrus nudus: Cá lanh hàm dài hay cá dựa hàm dài, cũng được tìm thấy trong phạm vi khu vực này, và rất khó để phân biệt nó với C. dorab (loài thứ nhất có đốm đen trên vây lưng). Loài này còn ăn cả các loài cua ngoài thức ăn thông thường là các loài cá nhỏ.
Chú thích |
Joomla! là một hệ quản trị nội dung nguồn mở, được cung cấp miễn phí theo giấy phép GNU. Joomla được phát triển từ Mambo, được viết bằng ngôn ngữ PHP và kết nối tới cơ sở dữ liệu MySQL, cho phép người sử dụng có thể dễ dàng xuất bản các nội dung của họ lên Internet hoặc Intranet.
Joomla! có các đặc tính cơ bản là: bộ đệm trang (page caching) để tăng tốc độ hiển thị, lập chỉ mục, đọc tin RSS (RSS feeds), trang dùng để in, bản tin nhanh, blog, diễn đàn, bình chọn, lịch biểu, tìm kiếm trong site và hỗ trợ đa ngôn ngữ.
Joomla! được phát âm theo tiếng Swahili như là jumla nghĩa là "đồng tâm hiệp lực".
Joomla! được sử dụng ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ những website cá nhân cho tới những hệ thống website doanh nghiệp có tính phức tạp cao, cung cấp nhiều dịch vụ và ứng dụng. Joomla! có thể dễ dàng cài đặt, dễ dàng quản lý và có độ tin cậy cao.
Trên 6,000 extensions - phần mở rộng đang có sẵn trên website Joomla , thêm nhiều phần mở rộng khác nữa có sẵn trên các nguồn khác. Đến năm 2021, Joomla được ước tính là CMS - hệ quản trị nội dung được sử dụng nhiều thứ 3 trên Internet, đứng sau WordPress và Shopify .
Ứng dụng
Các cổng thông tin điện tử hoặc các website doanh nghiệp
Thương mại điện tử trực tuyến
Báo điện tử, tạp chí điện tử
Website của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Website của các cơ quan, tổ chức phi chính phủ
Website các trường học
Website của gia đình hay cá nhân
Lịch sử
Joomla! là "sản phẩm anh em" với Mambo giữa tập đoàn Miro của Úc (hãng đang nắm giữ Mambo), với phần đông những người phát triển nòng cốt.
Ban đầu công ty Miro của Úc (tiếng Anh: Miro Software Solutions) đã phát triển Mambo theo dạng ứng dụng mã nguồn đóng. Đến tháng 4 năm 2001, công ty đã thông qua một chính sách bản quyền kép, nghĩa là phát hành Mambo theo cả giấy phép GPL.
Mọi thứ vẫn tiến triển bình thường cho đến trước khi xảy ra tranh chấp về mặt pháp lý vào năm 2003. Vụ việc dẫn tới ý tưởng Mambo cần phải được bảo vệ bởi một tổ chức phi lợi nhuận. Nhưng những nhà phát triển không hài lòng về cơ cấu của Quỹ tài trợ Mambo. Andrew Eddie, người lãnh đạo nhóm phát triển, trong một lá thư gửi cộng đồng, đã chia sẻ những lo lắng của mình về Quỹ tài trợ Mambo và mối quan hệ của nó tới cộng đồng. Ông viết:
Bởi vậy vào ngày 17 tháng 8 năm 2005, toàn bộ đội phát triển nòng cốt của Mambo đã rời khỏi dự án trong khi đang làm việc với phiên bản 4.5.3.
Nhờ sự trợ giúp của Trung tâm Luật Tự do Phần mềm (Software Freedom Law Center - SFLC), 20 thành viên nòng cốt cũ của Mambo đã thành lập một tổ chức phi lợi nhuận khác lấy tên là Open Source Matters, để hỗ trợ về mặt tổ chức, pháp lý và kinh phí cho dự án mã nguồn mở còn chưa được đặt tên của họ. Cùng lúc đó, nhóm phát triển cũng lập một website lấy tên OpenSourceMatters để phân phối thông tin tới những người sử dụng, những người phát triển, những người thiết kế và cộng đồng Joomla nói chung. Người đứng đầu dự án chính là Andrew Eddie, còn được biết đến với tên gọi "Sếp trưởng"
Ngay ngày hôm sau, 1000 người đã gia nhập diễn đàn OpenSourceMatters, hầu hết các bài viết cho diễn đàn đều khuyến khích và đồng tình với hành động của Nhóm Phát triển. Tin trên đã nhanh chóng được đăng tải trên các tạp chí newsforge.com, eweek.com và ZDnet.com.
Trong một thông báo của Eddie 2 tuần sau đó, các nhóm đã được tổ chức lại và cộng đồng Joomla! tiếp tục tăng trưởng. Tới ngày 1 tháng 9 năm 2005 tên mới của dự án đã được thông báo cho khoảng 3000 người theo dõi đội phát triển và đến ngày 16 tháng 9 thì họ cho ra đời Joomla! 1.0.
Các dòng phiên bản
Hiện Joomla! có 3 dòng phiên bản chính:
Dòng phiên bản 1.0.X
Phiên bản đầu tiên của Joomla! là phiên bản Joomla! 1.0 (hay còn gọi là Joomla! 1.0.0 được phát hành vào ngày 15 tháng 09 năm 2005) có nguồn gốc từ Mambo 4.5.2.3 (đã bao gồm thêm nhiều bản vá bảo mật và sửa lỗi). Các phiên bản tiếp theo có dạng 1.0.x
Điểm mạnh của Joomla! 1.0.x: Có một số lượng rất lớn các thành phần mở rộng (module/component); thành phần nhúng (mambot); giao diện (template).
Phiên bản cuối cùng của dòng này là: Joomla 1.0.15 (phát hành vào ngày 21 tháng 02 năm 2008)
Đến nay, Joomla đã ngừng hỗ trợ và phát triển dòng phiên bản 1.0.X này.
Dòng phiên bản 1.5.X
Phiên bản đầu tiên của dòng này (thế hệ thứ 2) là Joomla! 1.5.0 được phát hành vào ngày 21 tháng 1 năm 2008. Phiên bản này bắt đầu hỗ trợ bộ ký tự UTF8. Các phiên bản tiếp theo có dạng 1.5.X
Phiên bản Joomla! 1.5 là phiên bản cải tiến từ Joomla! 1.0.x (phần mã được viết lại hoàn toàn, tuy nhiên vẫn giữ cách hành xử như cũ) được coi như Mambo 4.6. Joomla! 1.5 tiếp tục duy trì một giao diện người sử dụng đơn giản (cái nhìn và cảm nhận - look and feel).
Cả Joomla! 1.5 và Mambo 4.6 đều hỗ trợ đa ngôn ngữ. Joomla! thì sử dụng file định dạng ".ini" để lưu các thông tin chuyển đổi ngôn ngữ, còn Mambo thì sử dụng file định dạng ".gettext". Joomla 1.5 hỗ trợ tất cả các ngôn ngữ có tập ký tự được biểu diễn bằng bảng mã UTF-8.
Joomla! 1.5 cũng bao gồm các đặc tính mới như các mô hình chứng thực (LDAP, Gmail...), hỗ trợ mô hình khách-chủ xml-rpc. Nó cũng hỗ trợ các trình điều khiển cơ sở dữ liệu dành cho MySQL 4.1+ (trên nền PHP 5) và tăng cường hỗ trợ cho MySQL 5, cũng như hỗ trợ các loại cơ sở dữ liệu khác.
Điểm mạnh của Joomla! 1.5: Phần quản trị Website có sử dụng công nghệ Web 2.0, một số tính năng được cải tiến hơn so với Joomla 1.0.x.
Phiên bản mới nhất của dòng này là: Joomla 1.5.26 (phát hành vào ngày 27 tháng 03 năm 2012) đã ngừng phát triển và chỉ đang được hỗ trợ cập nhật các bản vá bảo mật. Bản cài đặt nhanh đã tích hợp tiếng Việt: Joomla! Việt.
Dòng phiên bản 2.5.x
Phiên bản đầu tiên của dòng này lại bắt đầu từ phiên bản Joomla 1.6.0 phát hành vào ngày 10 tháng 01 năm 2011. Nhưng chỉ trong vòng 6 tháng với bốn bản cập nhật liên tục tới phiên bản 1.6.4 vào ngày 27 tháng 06 năm 2011.
Phiên bản 1.6.6 phát hành vào ngày 26 tháng 07 năm 2011 đã đánh dấu sự kết thúc của dòng 1.6 và chỉ cập nhật vì lý do bảo mật dành cho các trang web không thể cập nhật lên phiên bản 1.7 vì lý do khách quan.
Theo đó, phiên bản 1.7.0 nhanh chóng được phát hành vào ngày 19 tháng 07 năm 2011. Đến lượt phiên bản 1.7 lại kết thúc chu kỳ sống ngắn ngủi vào ngày 24 tháng 02 năm 2012 tại phiên bản 1.7.5 và nhường chỗ cho dòng phiên bản 2.5
Dòng phiên bản 2.5.0 được phát hành vào ngày 24 tháng 01 năm 2012 hứa hẹn một kỷ nguyên mới của Joomla với các tính năng cực kỳ vượt trội như: tự động cập nhật qua nút bấm trong phần quản trị, hỗ trợ seo mạnh hơn và đặc biệt phân quyền sâu hơn với từng nhóm thành viên.
Phiên bản mới nhất hiện nay của dòng này là 2.5.6 được phát hành vào ngày 19 tháng 06 năm 2012
Dòng phiên bản 3.x
Đang ở giai đoạn Joomla 3.0 Alpha - 1 được phát hành vào ngày 12 tháng 07 năm 2012
Phiên bản Joomla 3.4.1 được phát hành vào ngày 30 tháng 07 năm 2014
Phiên bản mới nhất Joomla 3.9.27
Kiến trúc
Joomla! 1.5 gồm có 3 tầng hệ thống. Tầng dưới cùng là mức nền tảng, chứa các thư viện và các plugin (còn được biết với tên gọi mambot). Tầng thứ hai là mức ứng dụng và chứa lớp JApplication. Hiện tại tầng này gồm 3 lớp con: JInstallation, JAdministrator và JSite. Tầng thứ ba là mức mở rộng. Tại tầng này có các thành phần (component), mô đun (module) và giao diện (template) được thực thi và thể hiện.
Nhóm Nòng cốt
Dự án Joomla! hiện được chèo lái bởi 19 thành viên (ban đầu là 20) của Nhóm Nòng cốt (Core Team) đến từ 11 quốc gia trên thế giới bao gồm: Ric Allinson, Brad Baker, Shayne Bartlett, Levis Bisson, Michelle Bisson, Tim Broeker, David Gal, Rey Gigataras, Wilco Jansen, Johan Janssens, Alex Kempkens, Mateusz Krzeszowiec, Louis Landry, Andy Miller, Sam Moffatt, Peter Russell, Emir Sakic, Marko Schmuck, Antonie de Wilde...
Danh sách 19 thành viên của Nhóm Nòng cốt
Giải thưởng
Tháng 10 năm 2007, Hệ quản trị nội dung mã nguồn mở PHP tốt nhất do Packt Publishing trao tặng.
Tháng 11 năm 2006, Hệ quản trị nội dung mã nguồn mở tốt nhất do Packt Publishing công bố
Tháng 10 năm 2006, Dự án mã nguồn mở/ Linux tốt nhất tại triển lãm LinuxWorld 2006 ở Anh
Tháng 10 năm 2005, Dự án mã nguồn mở/ Linux tốt nhất tại triển lãm LinuxWorld 2005 ở Anh
Đối với người sử dụng cuối
Việc cài đặt Joomla! khá dễ dàng và nhanh chóng, thậm chí cả đối với những lập trình viên nghiệp dư. Joomla! có một cộng đồng người sử dụng và phát triển rất lớn và tăng trưởng không ngừng (đến nay đã có khoảng trên 40.000 người). Các thành viên và các lập trình viên rất nhiệt tình và sẵn sàng tư vấn, giúp đỡ khi người sử dụng gặp khó khăn.
Sau khi cài đặt Joomla! và chạy thử, người sử dụng có thể thêm, chỉnh sửa, cập nhật nội dung, hình ảnh; và quản lý dữ liệu của tổ chức, công ty.
Joomla! cung cấp giao diện web trực quan do vậy khá dễ dàng để thêm một nội dung mới hay một mục mới, quản lý các phòng ban, danh mục nghề nghiệp, ảnh các sản phẩm... và tạo không giới hạn số phần, mục, chuyên mục cũng như các nội dung của Website.
Thị phần CMS - Hệ quản trị nội dung
Biểu đồ sau đây cho thấy thị phần của Joomla trên thị trường CMS - Hệ quản trị nội dung (so sánh với phần mềm dẫn đầu thị trường WordPress) .
Xu hướng tìm kiếm trên Google
Biểu đồ sau đây cho thấy xu hướng tìm kiếm về Joomla trên Google theo thời gian. |
Thanh tra Bộ Quốc phòng là cơ quan của Bộ Quốc phòng, giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Quốc phòng; quản lý, chỉ đạo các tổ chức thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ Quốc phòng.
Ngày truyền thống: 25/1/1948.
Trụ sở: Tòa nhà số 2 ngõ 34A đường Trần Phú – Ba Đình – Hà Nội
Tên gọi qua các thời kỳ
Ngày truyền thống của lực lượng thanh tra Bộ Quốc phòng Việt Nam là ngày 25 tháng 1 năm 1948. Đây là ngày thành lập Cục Tổng Thanh tra Quân đội trên cơ sở Phòng Kiểm tra Bộ Tổng Chỉ huy. Cơ quan Thanh tra Quân đội đã đổi tên nhiều lần, có lần giải thể:
Năm 1948: Cục Tổng Thanh tra Quân đội
Năm 1950: Đoàn Thanh tra Bộ Quốc phòng
Năm 1956: Ban Thanh tra Quân đội
Năm 1971: Ủy ban Thanh tra Quân đội
Năm 1982: Tổng Thanh tra Quân đội
Từ năm 1992: Thanh tra Bộ Quốc phòng
Lãnh đạo hiện nay
Chánh Thanh tra: Thiếu tướng Lê Đình Thương (Phó Tư lệnh Quân khu 3)
Phó Chánh thanh tra: Thiếu tướng Nguyễn Tiến Thành
Phó Chánh thanh tra: Thiếu tướng Vũ Thành Đức (nguyên Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bến Tre)
Phó Chánh thanh tra: Thiếu tướng Lê Văn Lương (nguyên Chánh Thanh tra Lục quân – Thanh tra Bộ Quốc phòng)
Phó Chánh thanh tra: Đại tá Vũ Hải Đăng (nguyên Chánh Thanh tra Hậu cần-Kỹ Thuật Bộ Quốc phòng)
Tổ chức Đảng
Tổ chức chính quyền
Văn phòng
Thanh tra Lục quân
Thanh tra về Quân chủng
Thanh tra Xét khiếu tố
Thanh tra Hậu cần – Kỹ thuật
Ban Thường trực Phòng chống tham nhũng
Ban Khoa học Tổng kết
Phòng Truy cập mạng
Hệ thống cơ quan Thanh tra trong Quân đội Việt Nam
Thanh tra Bộ Quốc phòng
Thanh tra thuộc các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, Tổng cục và tương đương.
Thanh tra thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tương đương
Chánh Thanh tra qua các thời kỳ
Thời kỳ Tổng thanh tra Quân đội
1948–1954, Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng (1948)
1956–1959, Trần Tử Bình, Thiếu tướng
1959–1965, Trần Mạnh Quỳ, Đại tá, Tổng Thanh tra quân đội, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ.
1971–1973: Thiếu tướng, Trung tướng (1974) Nguyễn Đôn: Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Quân đội kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
1973–1980: Trung tướng Trần Quý Hai Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó TTMT kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Quân đội
1980–1987 Thượng tướng Lê Quang Hòa Tổng Thanh tra Quân đội kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
1987–1992: Thượng tướng Hoàng Cầm Tổng Thanh tra Quân đội
Thời kỳ Thanh tra Bộ quốc phòng
1992–1999: Trung tướng Nguyễn Kiệm Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng
1999–2002: Trung tướng Nguyễn Văn Cốc Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng
2002–2007: Phạm Văn Tánh, Trung tướng (2002), Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng, nguyên Tư lệnh Quân khu Thủ đô
2008–2010: Phạm Phú Thái, Trung tướng, nguyên Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân(1993–2007)
2010–2015: Nguyễn Đình Giang, Thiếu tướng (2006) Trung tướng (2010), nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 4 (2005–2007)
2015–2018, Phạm Văn Hưng, Trung tướng (2017), nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2 (2011–2015)
2018–30/6/2021, Đặng Trọng Quân, Thiếu tướng (2014), Trung tướng (2019) nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 4
1/7/2021–nay: Lê Đình Thương, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 3.
Phó Chánh Thanh tra qua các thời kỳ
Thời kỳ Tổng thanh tra Quân đội
1947–1948, Trần Tử Bình, Thiếu tướng (1948)
1957–1958, Phan Trọng Tuệ, Thiếu tướng (1955)
1971–1978, Võ Bẩm, Thiếu tướng (1974)
1979–1989, Võ Thứ, Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1986), Bí thư Đảng ủy cơ quan Thanh tra Bộ Quốc phòng, nguyên Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng QK 5
1982–1982, Đồng Văn Cống, Trung tướng (1980)
1982–1987, Bùi Nam Hà, Thiếu tướng (1983)
1988–1990, Nguyễn Minh Châu, Thượng tướng (1986)
1990–1992, Phạm Minh Tâm, Trung tướng (1989)
Thời kỳ Thanh tra Bộ quốc phòng
1993–1998, Nguyễn Duy Khâm, Thiếu tướng
1993–1997, Lê Quang Bình, Thiếu tướng
1996–2002, Vũ Ngọc Diệp, Thiếu tướng (1994)
10–2000 đến 5–2005, Trần Ngọc Anh,Thiếu tướng
2005–, Trần Thanh Phương, Thiếu tướng (2000), nguyên Tư lệnh Binh chủng Đặc công (1996–2005)
–2007, Tô Quốc Trịnh, Thiếu tướng
2008–2012, Nguyễn Đình Bảng, Thiếu tướng (2008)
Lê Mạnh Hà, Đại tá
2012–2018, Cao Văn Minh, Thiếu tướng (2013), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 377, Quân chủng PK–KQ
2010–2014, Nguyễn Thành Định, Thiếu tướng (2012), nguyên Phó tư lệnh Binh chủng Công binh
2008–2014, Đỗ Quang Dự, Thiếu tướng (2011)
2014–2017, Ngô Cao Quân, Đại tá
2013–2017, Phạm Quang Vinh, Thiếu tướng, nguyên Chánh Văn phòng Thanh tra BQP.
2014–2019, Nguyễn Đình Được, Thiếu tướng (2014)
2017–nay, Nguyễn Tiến Thành, Thiếu tướng (2018)
2018–nay, Vũ Thành Đức, Thiếu tướng (2019), nguyên Chỉ huy trưởng BCHQS tỉnh Bến Tre (2015–2018)
2019– nay, Lê Văn Lương, Thiếu tướng (2020), nguyên Chánh Thanh tra Lục quân– Thanh tra BQP. |
Luyện kim là một lĩnh vực của khoa học và kỹ thuật vật liệu nghiên cứu hành vi vật lý và hóa học của các nguyên tố kim loại, các hợp chất liên kim loại và hỗn hợp của chúng, được gọi là hợp kim. Luyện kim bao gồm cả khoa học và công nghệ kim loại. Đó là, cách mà khoa học được áp dụng vào việc sản xuất kim loại và kỹ thuật chế tạo các thành phần kim loại được sử dụng trong các sản phẩm cho cả người tiêu dùng và nhà sản xuất. Luyện kim khác biệt với nghề thủ công kim loại. Cơ khí phụ thuộc vào luyện kim theo cách tương tự như cách y học dựa vào khoa học y tế để tiến bộ kỹ thuật. Một chuyên gia luyện kim được biết đến như là một nhà luyện kim.
Khoa học luyện kim được chia thành hai loại chính: luyện kim hóa học và luyện kim vật lý. Luyện kim hóa học chủ yếu liên quan đến việc khử và oxy hóa kim loại, và hiệu suất hóa học của kim loại. Đối tượng nghiên cứu trong luyện kim hóa học bao gồm chế biến khoáng sản, khai thác kim loại, nhiệt động lực học, điện hóa hóa học và suy thoái hóa học (ăn mòn). Ngược lại, luyện kim vật lý tập trung vào các tính chất cơ học, tính chất vật lý và hiệu suất vật lý của kim loại. Các chủ đề nghiên cứu trong luyện kim vật lý bao gồm tinh thể học, đặc tính vật liệu, luyện kim cơ học, biến đổi pha và cơ chế thất bại.
Trong lịch sử, luyện kim chủ yếu tập trung vào sản xuất kim loại. Sản xuất kim loại bắt đầu bằng việc xử lý quặng để chiết xuất kim loại, và bao gồm hỗn hợp kim loại để tạo ra hợp kim. Hợp kim kim loại thường là sự pha trộn của ít nhất hai nguyên tố kim loại khác nhau. Tuy nhiên, các yếu tố phi kim thường được thêm vào hợp kim để đạt được các tính chất phù hợp cho một ứng dụng. Nghiên cứu về sản xuất kim loại được chia thành luyện kim sắt (còn được gọi là luyện kim đen) và luyện kim không sắt (còn gọi là luyện kim màu). Luyện kim sắt bao gồm các quá trình và hợp kim dựa trên sắt trong khi luyện kim màu bao gồm các quá trình và hợp kim dựa trên các kim loại khác. Việc sản xuất kim loại sắt chiếm 95% sản lượng kim loại thế giới.
Các nhà luyện kim hiện đại làm việc trong cả hai lĩnh vực mới nổi và truyền thống như là một phần của một nhóm liên ngành cùng với các nhà khoa học vật liệu và các kỹ sư khác. Một số lĩnh vực truyền thống bao gồm chế biến khoáng sản, sản xuất kim loại, xử lý nhiệt, phân tích lỗi và nối các kim loại (bao gồm hàn, brazing và soldering). Các lĩnh vực mới nổi cho các nhà luyện kim bao gồm công nghệ nano, chất siêu dẫn, vật liệu tổng hợp, vật liệu y sinh, vật liệu điện tử (chất bán dẫn) và kỹ thuật bề mặt.
Lịch sử
Kim loại được ghi nhận sớm nhất được sử dụng bởi con người dường như là vàng, có thể được tìm thấy miễn phí hoặc "bản địa". Một lượng nhỏ vàng tự nhiên đã được tìm thấy trong các hang động Tây Ban Nha có niên đại vào cuối thời đại Cổ sinh, khoảng 40.000 năm TCN. Bạc, đồng, thiếc và sắt dạng thiên thạch cũng có thể được tìm thấy ở dạng nguyên sinh, cho phép một số lượng gia công kim loại hạn chế trong các nền văn hóa sơ khai. Vũ khí Ai Cập làm từ sắt thiên thạch vào khoảng năm 3000 TCN được đánh giá cao là "dao găm đến từ thiên đường".
Một số kim loại, đặc biệt là thiếc, chì và ở nhiệt độ cao hơn, đồng, có thể được thu hồi từ quặng của chúng bằng cách đốt nóng quặng trong lò lửa hoặc lò cao, một quá trình được gọi là nấu luyện. Bằng chứng đầu tiên của ngành luyện kim khai thác này, có niên đại từ thiên niên kỷ thứ 5 và thứ 6 TCN, đã được tìm thấy tại các địa điểm khảo cổ ở Majdanpek, Jarmovac gần Priboj và Pločnik, ở Serbia ngày nay. Đến nay, bằng chứng sớm nhất về luyện đồng được tìm thấy tại trang Belovode gần Plocnik. Di tích này này cho thấy một chiếc rìu đồng từ năm 5500 TCN, thuộc về văn hóa Vinča.
Việc sử dụng chì sớm nhất được ghi nhận từ khu định cư thời kỳ đồ đá mới tại vùng Yarim Tepe ở Iraq, "Di chỉ của chì (Pb) tìm thấy ở vùng Cận Đông cổ đại là một chiếc vòng có niên đại thiên niên kỷ thứ 6 trước Công nguyên từ Yarim Tepe ở miền bắc Iraq và một mảnh chì hình nón sau đó đến từ Halaf thời Arpachiyah, gần Mosul. Vì chì bản địa là cực kỳ hiếm, các vật phẩm như vậy làm tăng khả năng suy đoán việc luyện chì có thể đã bắt đầu ngay cả trước khi luyện đồng. " Luyện kim đồng cũng được ghi nhận tại địa điểm này trong cùng khoảng thời gian (ngay sau 6000 TCN), mặc dù việc sử dụng chì dường như trước khi có việc luyện đồng. Luyện kim thời cổ đại cũng được ghi nhận tại địa điểm Tell Maghzaliyah gần đó, dường như có niên đại sớm hơn và hoàn toàn không có đồ gốm đó.
Balkan là nơi có các nền văn hóa thời đại đồ đá mới, bao gồm Butmir, Vinča, Varna, Karanovo và Hamangia.
Di chỉ thành phố Varna, Bulgaria, là một nơi chôn cất trong khu công nghiệp phía tây của Varna (khoảng 4 km từ trung tâm thành phố), quốc tế được coi là một trong những địa điểm khảo cổ quan trọng trong thời tiền sử thế giới. Kho báu vàng lâu đời nhất trên thế giới, có niên đại từ 4.600 TCN đến 4.200 TCN, đã được phát hiện tại địa điểm này. Mảnh vàng có niên đại từ 4.500 TCN, được tìm thấy gần đây tại Durankulak, gần Varna là một ví dụ quan trọng khác.
Các dấu hiệu khác của kim loại ban đầu được tìm thấy từ thiên niên kỷ thứ ba TCN ở những nơi như Palmela (Bồ Đào Nha), Los Millares (Tây Ban Nha) và Stonehenge (Vương quốc Anh). Tuy nhiên, sự khởi đầu cuối cùng không thể được xác định rõ ràng và những khám phá mới là liên tục và duy trì đến nay.
Ở Cận Đông, khoảng 3500 năm TCN, người ta đã phát hiện ra rằng bằng cách kết hợp đồng và thiếc có thể tạo ra một hợp kim gọi là đồng điếu. Điều này đại diện cho một sự thay đổi công nghệ lớn được gọi là Thời đại đồ đồng.
Việc khai thác sắt từ quặng của nó thành kim loại nguyên chất khó khăn hơn nhiều so với đồng hoặc thiếc. Quá trình này dường như đã được người Hittites phát minh vào khoảng 1200 TCN, bắt đầu thời đại đồ sắt. Bí mật của việc khai thác và gia công sắt là một yếu tố quan trọng trong sự thành công của người Philistine.
Sự phát triển lịch sử trong luyện kim màu có thể được tìm thấy trong một loạt các nền văn hóa và nền văn minh trong quá khứ. Điều này bao gồm các vương quốc và đế chế cổ đại và trung cổ của Trung Đông và Cận Đông, Iran cổ đại, Ai Cập cổ đại, Nubia cổ đại và Anatolia (Thổ Nhĩ Kỳ), Nok cổ đại, Carthage, Hy Lạp và La Mã của Châu Âu cổ đại, Châu Âu thời trung cổ, cổ đại và Trung Quốc thời trung cổ, Ấn Độ cổ đại và trung cổ, Nhật Bản cổ đại và trung cổ, trong số những người khác. Nhiều ứng dụng, thực tiễn và các thiết bị liên quan hoặc liên quan đến luyện kim đã được thiết lập ở Trung Quốc cổ đại, chẳng hạn như đổi mới lò cao, gang, búa dùng thủy lực và ống thổi pít-tông kép.
Một cuốn sách thế kỷ 16 của Georg Agricola tên De re metallicica mô tả các quá trình phát triển và phức tạp của khai thác quặng kim loại, khai thác kim loại và luyện kim thời bấy giờ. Agricola đã được mô tả là "cha đẻ của ngành luyện kim".
Các quá trình
Luyện kim bao gồm các quá trình:
Xử lý quặng (nghiền, tuyển, đóng bánh, vê viên để chuẩn bị tách kim loại khỏi quặng); Quặng được đóng bánh nhằm tăng cường độ bền và có kích thước phù hợp cho quá trình luyện kim trong lò
Tách kim loại ra khỏi quặng và các vật liệu;
Làm sạch kim loại (tinh luyện);
Sản xuất kim loại và hợp kim;
Sản xuất bột kim loại (sạch) và những loại Cacbit để phục vụ cho các quá trình chế tạo vật liệu tổ hợp (composite) có cơ tính đặc biệt vượt trội so với các Kim loại, hợp kim thông thường.
Chế tạo các ferro (hoặc silicomangan..) và hợp kim trung gian phục vụ cho luyện kim.
Đúc là quá trình đông đặc kim loại lỏng trong các loại khuôn (khuôn cát, khuôn kim loại, khuôn đúc liên tục..) một số sản phẩm đúc có thể sử dụng được ngay hoặc tạo ra phôi cho quá trình gia công biến dạng khác (cán, rèn dập...)
Cán là quá trình biến dạng dẻo phôi kim loại giữa 2 trục tròn xoay. Sản phẩm có hình học đơn giản (tròn, vằn, vuông, thoi..) đến phức tạp (đường ray, chữ U I...)
Nhiệt luyện bao gồm Nung nóng, giữ nhiệt và làm nguội. Tùy vào cách nung nóng, cách giữ nhiệt và làm nguội ta có các công đoạn "Tôi" "Ram" Ủ" là những nguyên công chủ đạo của nhiệt luyện. Ngoài ra còn các quá trình "thấm" để đạt được cơ tính bề mặt theo nhu cầu. Hầu hết các sản phẩm gia công cơ khí không thể sử dụng ngay nếu không qua nhiệt luyện.
Gia công hoá nhiệt và cơ nhiệt đối với kim loại;
Tráng phủ bề mặt sản phẩm kim loại để bảo vệ hoặc trang trí và khuếch tán những kim loại và phi kim loại khác và bề mặt sản phẩm.
Các kiểu luyện
Có hai kiểu luyện kim: thủy luyện kim và hoả luyện kim.
Thủy luyện là quá trình hoàn nguyên kim loại trong môi trường có tác dụng của các chất hóa học hoặc trong môi trường điện phân (thường là điện phân trong môi trường nhiệt độ cao hoặc điện phân nóng chảy).
Hỏa luyện là hoàn nguyên kim loại trong môi trường có chất khử mạnh như C, H2,... Phản ứng hoàn nguyên thường tỏa nhiều nhiệt nên người ta gọi phương pháp hoàn nguyên này là hỏa luyện.
Thủy Luyện quá trình thu hồi kim loại sach bằng các phản ứng hoàn nguyện ở nhiệt độ thấp trong dung môi hóa chất nhỏ hơn 100°. Nguyên tắc: dùng các chất, hợp chất tan trong nước để đẩy kim loại sach ra khỏi chất hợp chất của nó.
Hỏa luyện là quá trình hoàn nguyên kim loại ở nhiệt độ cao (Hỏa). phản ứng hoàn nguyên chủ yếu là nhờ các chất có ái lực hóa học mạnh để tách kim loại ra khỏi hợp chất của nó trong quặng. Từ đó ta thu được kim loại.
ví dụ:
quá trình hoàn nguyên sắt trong lò cao nhờ:
- Hoàn nguyên trực tiếp bởi Cacbon rắn nằm trong lò, chủ yếu phản ứng này xảy ra ở trong nồi lò. Phản ứng này không phải là phản ứng chủ đạo trong lò do Cacbon rắng không đủ linh động để có thể hoàn nguyện lượng lớn quặng trong lò.
- Hoàn nguyên gián tiếp bởi CO. Than Cốc phản ứng khí hóa trong điều kiện thiếp oxy trong lò cao sẽ sản sinh ra CO (còn gọi là khí hoàn nguyên) khí CO di chuyển rất linh động trong lò đi sâu vào lõi của quặng để hoàn nguyên các oxide sắt.
Điện luyện quá trình luyện và tinh luyện kim loại có sử dụng điện phân.
Điện phân thường là quá trình tinh luyện kim loại sach. Đấy là cách thu hồi kim loại sach đạt đến 99,99%
mỗi kim loại có một chế độ điện khác nhau I(cường độ dòng), U(điện áp), T°(nhiệt độ)
VD điện phân nhôm sạch từ nhôm kỹ thuật
từ nhôm kỹ thuật ta đưa vào lò điện phân muối nóng chảy 3 lớp sẽ thu được nhôm sach 99.99% với chế độ điện như sau
T°=750-800 (°C)
U = 6-8 (v)
I = 150.000 (A) (một trăm năm mươi ngàn Ampe)
Nghiên cứu vĩ mô và vi mô
Các nhà luyện kim nghiên cứu các cơ chế vĩ mô và vi mô để giải thích các hành vi của kim loại và hợp kim, từ đó tìm ra các phương pháp luyện kim hiệu quả nhất:
Vĩ mô: Các nghiên cứu trên mức độ vĩ mô có thể tập trung vào các tính chất tinh thể học; như ảnh hưởng của nhiệt độ và xử lý nhiệt đến pha thành phần của hợp kim, như điểm cùng tinh và tính chất của những pha hợp kim này. Tính chất vĩ mô của kim loại được kiểm tra bằng sử dụng các máy và thiết bị đo độ bền kéo, độ bền nén và độ cứng.
Vi mô: Các cơ chế vi mô bao gồm sự thay đổi xuất hiện ở mức nguyên tử có ảnh hưởng đến tính chất vĩ mô của kim loại (hoặc hợp kim). Ví dụ về công cụ để khảo sát vi mô của kim loại là hiển vi quang học và hiển vi điện tử, và phương pháp phổ khối.
Phân loại
Luyện kim được phân ra hai loại chính: Luyện kim đen và luyện kim màu
Luyện kim đen
Luyện kim đen là sản xuất ra gang và thép (là hợp kim của sắt và các bon). Đây là một trong những ngành quan trọng nhất của công nghiệp nặng, tạo ra nguyên liệu cơ bản cho ngành chế tạo máy móc và gia công kim loại. Hầu như tất cả các ngành kinh tế đều sử dụng các sản phẩm của ngành luyên kim. Kim loại đen chiếm 90% trong tổng khối lượng sản xuất trên thế giới.
* Xem bài chi tiết bài:gang và thép
Ngành luyên kim phát triển mạnh vào thế kỉ XIX nở rộ nhất vào sau thế chiến thứ 2 do nhu cầu kiến thiết lại châu Âu cùng với việc phát minh động cơ đốt trong, xây dựng đường sắt, chế tạo xe lửa, tàu thủy và sau này là công cụ, máy nông nghiệp, ô tô,...
Ngành luyện kim đen cần một lượng lớn nguyên liệu quặng sắt, nhiên liệu than cốc và các chất trợ dung đá vôi. Quy trình sản xuất rất phức tạp.
Luyện Kim truyền thống
Luyện Gang lò cao
Nguyên liệu:
Sản xuất gang cần chuẩn bị các nguyên liệu như sau: quặng sắt gồm quặng hematit(Fe2O3) và manhetit (Fe3O4). Ở Việt Nam có nhiều quặng sắt như ở Thái Nguyên, Yên Bái, Hà Tĩnh.... Ngoài ra cần có than cốc, không khí giàu oxy và đá vôi CaCO3. Tất cả các nguyên liệu được đưa vào lò luyện kim (lò cao). Khi than cốc được đốt cháy sẽ sinh ra cacbon monoxide (CO) nó sẽ hoàn nguyên oxide sắt ở nhiệt độ cao và thu được gang.
Muốn sản xuất ra được 1 tấn gang cần phải sử dụng:
+ 1,7 ~ 1,8 tấn quặng sắt (tuỳ thuộc hàm lượng sắt trong quặng, nếu hàm lượng sắt thấp thì con số này sẽ lớn hơn).
+ 0,6 ~ 0,7 tấn đá vôi làm chất trợ dung giúp tạo xỉ để khử một phần tạp chất và tạo màng che phủ trên bề mặt gang lỏng nhằm giảm khả năng oxy hóa sắt trong lò. Trong quặng tuy đã làm giàu nhưng vẫn còn đá không quặng. Nếu đá này thuộc loại acid (như silic oxide) phải dùng đá base (đá vôi) làm chất giúp chảy; còn nếu là đá base (như oxide calci) lại phải dùng chất trợ dung là đá acid (cát thạch anh).
+ 0,6 ~ 0,8 tấn than cốc dùng để làm nhiên liệu vì khả năng sinh nhiệt cao, chịu được sức nặng của phôi liệu, kích thích sự cháy.
Quy trình sản xuất gang
Quặng sắt, than cốc, đá vôi có kích thước vừa phải được đưa qua miệng lò cao và xếp thành từng lớp. Không khí nóng thổi từ 2 bên lò từ dưới lên
C + O2(to) -> CO2 (khí)
C + CO2(to) -> 2CO (khí)
Nhờ có khí cacbon monoxide khử oxide sắt:
3CO + Fe2O3(to cao) -> 3CO2 + 2Fe
Ngoài ra trong quặng lẫn tạp chất như MnO2, SiO2 cũng đều bị khử thành đơn chất
Đá vôi phân hủy thanh CaO rồi oxide hóa một số tạp chất có lẫn trong quặng như SiO2 tạo thành xỉ. Xỉ nhẹ nên nổi lên trên và đưa ra ngoài khỏi cửa lò
CaO + SiO2(to) -> CaSiO3
Khí được tạo ra trong lò thoát ra ở phía trên gần miệng lò.
Quy trình sản xuất thép
Sản xuất thép chủ yếu được sử dụng lò Bessemer, lò Martin để luyện thép. Thổi khí oxi qua lò đựng gang nóng chảy ở nhiệt độ cao. Khí oxi oxy hóa một số kim loại trong gang như Cu, Zn, Si, S.... Sản phẩm thu là thép.
Lưu trình trên đây là lưu trình đi từ quặng sắt qua lò cao thành gang lỏng và qua lò thổi (lò chuyển, lò oxy kiềm BOF) để thành thép. Ngoài ra còn có một vài lưu trình khác mà đáng chú ý là lưu trình từ quặng sắt và thép phế liệu được hoàn nguyên trực tiếp (DRI) thành sắt xốp sau đó vào lò hồ quang điện để ra thép.
Các nước khai thác nhiều
Một số nước dẫn đầu về sản lượng thép như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đức, Nga, Hàn Quốc, Brazil... Một số nước công nghiệp phát triển chẳng hạn Nhật Bản, tuy trữ lượng không cao nhưng sản xuất thép vẫn lớn mạnh nhờ nhập quặng nguyên liệu từ các nước đang phát triển
Tình hình sản lượng thép thế kỉ XVIII và XIX
Sản lượng thép của các nước Anh Đức Mĩ 1800-1900
Sản lượng thép của các nước Anh Đức Pháp 1920-1929
Kinh tế đang dần dần khôi phục, sản xuất công nghiệp nhất là luyện kim đang có xu hướng phát triển nhanh tại các nước phát triển. Phục hồi nhanh do chiến tranh gây ra
Tình hình sản lượng thép kết thúc 2009 và bắt đầu 2010
Sản lượng thép thô thế giới tăng 25,5% trong tháng 1/2010 so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,8% so với tháng 12/2009 nhờ các nhà máy thép phục hồi sản xuất trong bối cảnh kinh tế phục hồi.
Theo số liệu của Hiệp hội Thép Thế giới (WSA), sản lượng thép toàn cầu tháng đầu năm nay đạt 108,9 triệu tấn, so với 86,8 triệu tấn cách đó một năm và 107 triệu tấn của tháng 12 năm 2009.
Sản lượng thép của Trung Quốc, quốc gia sản xuất và tiêu thụ thép lớn nhất thế giới, tăng 18,2% trong tháng qua, đạt 48,7 triệu tấn. So với tháng 12/09, sản lượng thép của Trung Quốc tăng 0,2%.
Tại Nhật Bản và Nga, quốc gia sản xuất thép lớn thứ hai và thứ ba thế giới, sản lượng tăng lần lượt 36,8% và 33% trong tháng 1 vừa qua..
Colin Hamilton, chuyên gia phân tích thuộc Macquarie cho biết, các nhà máy thép đang nỗ lực sản xuất càng nhiều càng tốt do giá nguyên liệu thô sẽ tăng trước tháng 4.
Được biết, các tập đoàn quặng BHP Billiton, Rio Tinto và Vale của Brasil đã chốt lại các cuộc đàm phán về giá quặng với các nhà sản xuất thép châu Á cho năm tới. Các công ty này muốn có giá quặng tăng thêm 40%. Kết quả là giá thép cũng tăng lên và sản lượng cũng theo xu hướng này. Tuy nhiên các nhà phân tích tin rằng sản lượng sẽ ở mức rất cao trong năm nay.
Cũng theo WSA, sản lượng thép của Mỹ, quốc gia sản xuất thép lớn thứ 4 thế giới, đã tăng 48,8% trong tháng 1, đạt 6,1 triệu tấn.
Tại châu Âu, sản lượng thép của Đức tăng 27,7% trong tháng 1, đạt 3,4 triệu tấn, sản lượng của Tây Ban Nha tăng 51,1% lên 1,4 triệu tấn.
Trong năm 2009, khu vực gặp khó khăn nhất về sản xuất thép là Bắc Mỹ khi sản lượng sụt giảm 34%, trong đó riêng Mỹ giảm 36,4%.
WSA cho biết thêm, trong tháng 1/2010, công suất sản xuất thép toàn cầu đạt 72,9%, so với 71,9% của tháng 12 năm 2009.
Sản lượng thép của Top 10 vào tháng 12/2009
Sản lượng luyện kim đen tháng 1/2009 đến 10/2009
Ngoài ra có các phương pháp luyện kim phi cốc tạo ra sắt xốp từ quặng mà không cần đến than cốc. Đây là một bước ngoặt trong công nghiệp luyện kim, từ quặng ta có thế sản xuất Gang hoặc Thép theo ý muốn trong khi Luyện kim truyền thống chỉ có tạo ra Gang bằng lò cao từ quặng và tiêu tốn rất nhiều than cốc cho một mẻ Gang. Trong khi hiện tại Việt Nam chưa tự cung cấp được nguồn nguyên liệu Than cốc, chủ yếu là nhập khẩu từ Trung Quốc.
Luyện kim màu
Sản xuất ra các kim loại như đồng, chì, thiếc, nhôm, kẽm, bạc, vàng... không có sắt. Nhiều kim loại có giá trị chiếm lược. Dùng để sản xuất máy bay, tàu cảng, dụng cụ, các công trình xây dựng, điện tử, cơ khí, hóa chất và được dùng trong cả các ngành bưu tính công nghệ thông tin, tin học... Các kim loại màu được phân thành 4 nhóm chính là kim loại màu cơ bản, kim loại màu hợp kim, kim loại màu quý và kim loại màu hiếm.
Tính chất của kim loại
* Xem chi tiết bài: Kim loại
Luyện kim nhôm
* Quy trình luyện kim nhôm:
Nguyên liệu: Al2O3 (quặng boxide)
Cách 1: Sau khi làm sạch quặng người ta dùng điện phân nóng chảy của nhôm oxide và criolit trong bể điện phân, thu được nhôm và oxi
2Al2O3 (điện phân nóng chảy + criolit) --> 4Al + 3O2
Cách 2: Đun nóng quặng đó lên để trở nên đơn chất Al
Sản lượng nhôm:
Luyện kim tại Việt Nam
Luyện kim ở Việt Nam cũng khá phát triển. Ở nơi nào có mỏ kim loại thì nơi đó có lò luyện kim.
Luyện kim tập trung nhiều Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hải Phòng, Hải Dương, Thái Nguyên, Lào Cai, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng…
Trong đó ngành luyên kim đen của nước ta có xu hướng phát triển mạnh do khai thác nhiều từ các mỏ quặng sắt và nhập nguyên liệu từ các nước đang phát triển
Lịch sử luyện kim đen của Việt Nam
Xem bài: Hiện trạng và tương lai của ngành công nghiệp thép Việt Nam
Xem bài: Tổng quan luyện thép Việt Nam
Năng lực của người luyện kim
Giỏi các môn khoa học tự nhiên, đặc biệt là hóa học, vật lý
Yêu thích ngành luyện kim
Có khả năng tư duy và phán đoán tốt
Thích tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo
Có ý thức bảo vệ môi trường
Các liên kết
Trang tin Vật liệu ứng dụng
Cổng thông tin về Vật liệu kim loại
Website tiếng Việt trao đổi về luyện kim
Nhập khẩu sắt thép của Việt Nam năm 2009 tăng về lượng nhưng giảm về trị giá(05/02/2010)
Chú thích
Khoa học vật liệu
Công nghệ
Luyện kim
Bài cơ bản dài trung bình
Kim loại
Hóa tệ học
jv:Pandhé |
Tổng cục Kỹ thuật trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng tổ chức, quản lý, nghiên cứu đảm bảo vũ khí và phương tiện, trang bị kỹ thuật chiến đấu cho các quân, binh chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Lịch sử hình thành
Ngày đầu thành lập
Ngày 10 tháng 9 năm 1974, theo Nghị quyết của Quân ủy Trung ương (số 39/QUTW ngày 5 tháng 4), Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 211/CP thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng với nhiệm vụ giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các công tác quản lý, bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang, nghiên cứu KHKT quân sự và trực tiếp quản lý các xí nghiệp quốc phòng. Trong đó, Tổng cục có biên chế gồm: Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, Cục Quản lý xe máy, Cục Quản lý vũ khí-khí tài-đạn dược, Cục Quản lý kỹ thuật-sản xuất, Cục Quản lý xí nghiệp, các phòng quản lý trang bị khí tài đặc thủng, vật tư, tài vụ và Văn phòng, Viện thiết kế, Viện kỹ thuật quân sự, các trường đào tạo cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật, các xí nghiệp sản xuất quốc phòng. Trung tướng Đinh Đức Thiện đảm nhiệm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật với các phó chủ nhiệm: Trần Sâm, Trần Đại Nghĩa, Vũ Văn Đôn, Nguyễn Văn Tiên.
Ngày 14 tháng 9 năm 1974, thực hiện kế hoạch về sản xuất bổ sung vũ khí, trang bị kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết của chiến trường miền Nam. Tổng cục Kỹ thuật tổ chức Hội nghị bàn về chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện. Đảng ủy Tổng cục tập trung bàn biện pháp sản xuất các loại súng bộ binh, đạn và súng cối, đạn pháo, pháo. Tổng cục đã tổ chức lực lượng đi thu hồi nguyên liệu, vật tư ở các tỉnh phía Bắc, ở chiến trường miền Nam, bảo đảm cho việc sản xuất, phục hồi. Bộ Chính trị ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ công tác quân sự năm 1975-1976, Bộ Quốc phòng trong đó có Tổng cục Kỹ thuật xác định nhiệm vụ bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ cho các chiến trường và các đơn vị chiến đấu, sẵn sàng chiến đầu ở miền Bắc. Chú trọng xây dựng cơ quan, cơ sở lớn mạnh về mọi mặt.
Trong Chiến dịch Tây Nguyên và Nam Trung Bộ
Ngày 10 tháng 1 năm 1975, thành lập Trung đoàn Ô tô vận tải (T255A). Tổng cục Kỹ thuật điều trang bị, vật chất cho Đoàn T255A, khoảng 1000 người. Ngày 25 tháng 1 năm 1975, Đoàn T255A lên đường vào chiến trường miền Nam gấp rút vận chuyển lực lượng, vũ khí, vật chất, hậu cần chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Nguyên. Những thời gian đầu của năm 1974, khi Tổng cục mới được thành lập, còn gặp nhiều khó khăng nhưng Tổng cục đã hoàn thành nhiệm vụ trên các mặt bảo đảm chi viện cho chiến trường miền Nam và Đoàn 559; tạo được sự chuyển biến trong việc quản lý trang bị và cơ sở vật chất kỹ thuật; tạo được hệ thống bảo đảm kỹ thuật cho phía trước, bảo đảm được yêu cầu sẵn sàng chiến đấu. Sang năm 1975, Tổng cục tiếp tục đẩy mạnh sản xuất vũ khí, khí tài, đạn dược, giữ gìn tốt trang bị, thúc đẩy mọi mặt công tác. Từ cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 1975, Tổng cục tiếp tục tổ chức các tổ, đội, trạm sửa chữa cơ động khẩn trương hành quân vào chiến trường miền Nam. Các phân đội được trang bị đầy đủ cơ động vào phục vụ Chiến dịch Tây Nguyên. Các tổ, đội, trạm sửa chữa cơ động phối hợp với cơ quan hậu cần kỹ thuật của Mặt trận Tây Nguyên, bảo dưỡng, sửa chữa và đồng bộ các vũ khi, súng, pháo.
Ngày 28 tháng 3 năm 1975, Tiền phương Tổng cục Hậu cần-Tổng cục Kỹ thuật tại Tây Nguyên được thành lập do Đại tá Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật chỉ huy. Tiền phương chỉ đạo các đơn vị kỹ thuật hậu cứ ở Tây Nguyên và Đoàn 559, chỉ đạo thu hồi và trực tiếp thu hồi trang bị chiến đấu,cơ sở vật chất kỹ thuật của ta và của địch ở Tây Nguyên, theo dõi, chỉ đạo thực hiện kế hoạch đảm bảo trang bị, kỹ thuật cho các đơn vị ở Mặt trận Trị-Thiên-huế phát triển tiến công địch trong chiến dịch giải phóng Huế và Đà Nẵng, cho các đơn vị tiến công giải phóng các tỉnh Nam Trung Bộ. Những tháng đầu năm 1975, các cơ quan của Tổng cục liên tiếp cử các đoàn cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật vào chiến trường miền Nam và Tiền phương Tổng cục ở Tây Nguyên để kiện toàn tổ chức cơ quan chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật ở Tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh.
Từ đầu tháng 3 năm 1975, quân và dân Mặt trận Trị-Thiên và Mặt trận Quân khu 5 đẩy mạnh tiến công địch, với 2 chiến dịch Bắc Hải Vân và Nam Hải Vân. Sau khi giải phong Buôn Ma Thuật, Bộ Tổng Tư lệnh phán đoán địch có thể sẽ co cụm chiến lược. Do đó đã chỉ thị cho Mặt trận Trị-Thiênnhanh chóng tổ chức lực lượng tiến công chia cắt giữa Huế với Đà Nẵng để bao vây cô lập địch. Bộ Chính trị nhận định nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng tiêu diệt Quân đoàn 1 của địch, giải phóng thành phố Huế và Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ. Thực hiện việc đó, các đơn vị ở hậu phương của Tổng cục tiếp tục tăng cường lực lượng cán bộ, nhân viên kỹ thuật để sửa chữa vũ khí, khí tài, xe máy, xe tăng, xe thiết giáp phục vụ chiến dịch. Khẩn trương huy động lực lượng để thành lập tổ, đội, trạm sửa chữa cơ động chi viện chiến trường Trị-Thiên. Ngày 26 tháng 3 năm 1975, Tổng cục chỉ đạo Đoàn 559 và lực lượng kỹ thâutj của các đơn vị trên địa bàn Quân khu 4, các nhà máy, xí nghiệp ở hậu phương bổ sung lực lượng vũ khí, trang bị cho Quân khu 5 và Quân khu Trị-Thiên. Ngày 19 tháng 3 năm 1975, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị sau đó là Huế. Ta thu toàn bộ vũ khí, trang bị cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh khác của địch. Ngày 27 tháng 3 năm 1975, Chủ nhiệm Tổng cục quyết định thành lập Đoàn tiếp quản thu hồi của Tổng cục. Đoàn gồm 20 cán bộ và nhân viên; đã nhanh chóng hành quân vào chiến trường Trị-Thiên-Huế chỉ đạo tiếp quản cơ sở vật chất, thu hồi vũ khí trang bị kỹ thuật ở 3 nơi vừa mới giải phóng.
Sau khi tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Huế ở phía bắc và tỉnh Quảng Ngãi, thị xã Tam Kỳ ở phía nam được giải phóng, Bộ Tổng Tư lệnh lệnh cho Quân đoàn 2 và Quân khu 5 nhanh chóng tiến công giải phòng Thành phố Đà Nẵng. Ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch được thành lập. Đồng chí Trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh chiến dịch, Thượng tướng Chu Huy Mân làm Chính ủy chiến dịch. Đồng chí Đinh Đức Thiện, Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần làm Chủ nhiệm Hậu cần-Kỹ thuật chiến dịch. Chiến dịch Đà Nẵng diễn biến rất nhanh chóng, Tổng cục phải khẩn trương huy động lực lượng kỹ thuật tại chỗ, kết hợp với điều động gấp cán bộ, nhân viên kỹ thuật, các đội sửa chữa cơ động trên các hướng khác để tập trung bảo đảm kỹ thuật phục vụ các đơn vị tiến công trong hành tiến. Sau 3 ngày tiến công, ngày 29 tháng 3 năm 1975, thành phố Đà Nẵng được giải phóng, khu liên hợp quân sự lớn nhất ở miền Nam của địch bị dập tan. Toàn bộ quân địch ở Đà Nẵng, trong đó Sở Chỉ huy Quân khu 1 và Quân đoàn 1 của quân đội Sài Gòn bị ta tiêu diệt và làm tan rã. Ta thu toàn bộ vũ khí trang bị và cơ sở vật chất của chúng gồm: 129 máy bay, 179 xe tăng, xe thiết gíáp, 327 khẩu pháo, 47 tàu xuồng, 1084 xe quân sự....
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Sau đó đổi tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Cơ quan bảo đảm hậu cần-kỹ thuật của chiến dịch được thành lập trên cơ sở lực lượng tiền phương hậu cần-kỹ thuật của các đơn vị và Cục hậu cần-kỹ thuật Miền. Thiếu tướng Đinh Đức Thiện được cử làm Phó Tư lệnh, Thiếu tướng Bùi Phùng là Chủ nhiệm Hậu cần-kỹ thuật chiến dịch. Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh cần gấp một số lượng lớn các loại đạn pháo, chỉ trong thời gian ngắn, Tổng cục đã huy động 300 xe ô tô của các cơ sở ở hậu phương vận chuyển gấp hàng nghìn tấn đạn pháo cớ lớn và phụ tùng, vật tư kỹ thuật vào chiến trường. Đồng thời cử 66 đoàn, gồm hơn 3.000 cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên tăng cường cho các tổ đội, trạm sửa chữa cơ động tham gia phục vụ chiến dịch.
Trong giai đoạn chuẩn bị kỹ thuật cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Tham mưu Tổng cục chỉ đạo các cục chuyên ngành và các đơn vị khẩn trương bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho các lực lượng tham gia chiến dịch với chủ trương ưu tiên cho các quân đoàn cơ động, các Quân chủng Phòng không-không quân, Hải quân, các binh chủng... bảo đảm cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương các tỉnh, thành phố xung quanh Sài Gòn-Gia Định. Quân đoàn 1, trước khi tham gia chiến dịch được Cục Quân khí bổ sung 9 cán bộ và 55 nhân viên kỹ thuật. Tổng cục chi viện lực lượng để tổ chức bảo dưỡng, kiểm tra kỹ thuật và sửa chữa 100% vũ khí, khí tài, đạn dược, xe máy, xe tăng, xe thiết giáp của quân đoàn trước khi hành quân vào chiến trường miền Nam. Quân đoàn 2 được tăng cường trạm T153 của Tổng cục, tăng cường 2 đội sửa chữa cơ động, một đội 30 người, cùng các xe công trình, dụng cụ, trực tiếp phục vụ trên hai hướng tiến công của Quân đoàn trong chiến dịch. Quân đoàn 4, được Tổng cục tăng cường Xưởng OX1 và OX2, mỗi đội từ 15 đến 20 cán bộ và nhân viên kỹ thuật. Ngoài ra, Tổng cục còn huy động thêm 570 ô tô của các nhà máy, xí nghiệp ở hậu phương tham gia vận chuyển vũ khí trang bị kỹ thuật, vật chất hậu cần cơ động theo các hướng bảo đảm trực tiếp cho các đơn vị trong chiến dịch.
Những ngày đầu và giữa tháng 4 năm 1975, Tổng cục tiếp tục tổ chức các đoàn vận chuyển vật tư trang bị, vật chất, hậu cần và lực lượng sửa chữa cơ động vào tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Cục Hậu cần tích cực chuẩn bị đầy đủ lương thực, thực phẩm, cơ số thuốc và dụng cụ y tế bảo đảm cho lực lượng của Tổng cục và các đơn vị phối thuộc. Cục Quản lý xe cử 2 đoàn vào giao 43 xe vận tải và 62 lái xe bổ sung cho chiến trường Nam Bộ.... Sau Chiến dịch Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, ta thu được số lượng lớn pháo 105mm, 155mm của địch, nhưng hầu hết bị địch phá hủy lớp trước khi rút chạy. Trước tình hình đó, Tổng cục kịp thời chỉ đạo Cục Quản lý xe, Cục Quân giới cấp bổ sung 100 bộ lốp ô tô "Giải phóng" để thay thế lốp pháo 105mm, 20 bộ lốp xe ỦRAL để thay thế lốp pháo 155mm. Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Tổng cục thành lập Tiền phương Tổng cục Kỹ thuật ở phía Nam, do Đại tá Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục phụ trách. Thời gian này, nhu cầu cán bộ rất lớn và khẩn trương nên Tổng cục đã điều động 811 cán bộ đi chiến trường, 59 cán bộ cho các cơ sở miền Bắc.
Ngày 25 tháng 4 năm 1975, năm cánh quân chủ lực, gồm 4 quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương Quân đoàn) với khối lượng binh khí kỹ thuật rất lớn gồm: 516 khẩu pháo mặt đất, 550 tên lửa phòng không, phi đội máy bay Ả37, 320 xe tăng và xe thiết giáp, 1.600 xe công trình, hơn 10.000 xe vận tải, 60.000 tấn vật chất, cùng các đơn vị chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương đã cơ động áp sát thành phố Sài Gòn-Gia Định. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi, Tổng cục đã kịp thời chỉ đạo các chuyên ngành, cơ quan, đơn vị kỹ thuật khẩn trương tiếp quản cơ sở kỹ thuật, thu hồi vũ khí trang bị của địch.
Những năm đầu thống nhất đất nước
Từ tháng 5 năm 1975, Tổng cục tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn các đơn vị tiếp quản cơ sở kỹ thuật, thu hồi vũ khí trang bị của ta và của địch ở chiến trường miền Nam. Tổng cục cử các Đoàn vào thu hồi. Sau ngày 1 tháng 5 năm 1975, Tổng cục tiếp nhận 2.600 người trở lại làm việc tại các cơ sở ở phía Nam, góp phần sửa chữa bảo dưỡng, đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật hệ 2, cấp phát, bổ sung và đưa vào dự trữ tại các kho của Tổng cục. Đầu tháng 6 năm 1975, số lượng vũ khí, đạn dược tồn kho trên truyến chi viện chiến lược đường Trường Sơn vẫn còn nhiều, Tổng cục đã khảo sát và lập phương án xây dựng các kho dự trữ vũ khí, trang bị kỹ thuật ở Tây Nguyên, Quảng Trị, Huế để từng bước hình thành hệ thống kho vũ khí trang bị kỹ thuật theo khu vực.
Ngày 23 tháng 8 năm 1975, Tổng cục thành lập Cơ quan đại diện của Tổng cục ở phía Nam, do Đại tá Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục phụ trách. Có nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo công tác quản lý vũ khí trang bị kỹ thuật của các quân khu, quân đoàn và cơ sở kỹ thuật trực thuộc Tổng cục ở phía Nam. Sau một năm, Tổng cục đã thu hồi đưa về kho chiến lược hơn 43.000 tấn vũ khí, khí tài, đạn dược, đưa đi sửa chữa hơn 3.000 xe ô tô, 5.000 cụm máy.... Trong thời gian ngắn, Tổng cục và các đơn vị phía Nam đã tiếp quản nhiều cơ sở kỹ thuật, thu hồi lượng lớn vũ khí trang bị của địch, để quản lý tốt đòi hỏi Tổng cục phải đẩy mạnh nghiên cứu khoa học. Cũng trong tháng 8 năm 1975, Tổng cục được Nhà nước giao sản xuất một số mặt hàng kinh tế như: đúc phôi bánh răng, bánh xe gòng, phụ tùng thiết bị mỏ, phụ tùng ô tô, máy nén khí,... đặc biệt là nghiên cứu, sản xuất tiền kim khí, phục vụ nhu cầu lưu hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Giữa tháng 1 năm 1976, Chủ nhiệm Tổng cục quyết định đổi tên các phân viện trực thuộc Tổng cục: Viện Thiết kế quân giới thành Phân viện Thiết kế vũ khí, khí tài; Viện Thiết kế và Công nghệ Xe-Máy thành Phân viện Thiết kế Cơ giới; Viện Công nghệ quân giới thành Phân viện Công nghệ. Tổng cục tổ chức thành 24 kho vũ khí, đạn; 9 kho xe-máy; 13 xí nghiệp sửa chữa; 07 Nhà máy. Tổng cục chỉ đạo các xí nghiệp chuyển hướng sang sản xuất phụ tùng, vật tư kỹ thuật, tạo điều kiện để chuyển mạnh sang tổ chức sửa chữa cụm, sửa chữa lớn, cung cấp các cụm máy và phụ tùng vật tư kỹ thuật cho các đơn vị.
Đầu tháng 7 năm 1976, Tổng cục xây dựng phương án tổ chức của Tổng cục trình Bộ Quốc phòng phê duyệt. Phương án chẩn chính gồm có các Cục (Quản lý Vú khí-Khí tài-Đạn dược, Xe-Máy, Tăng-Thiết giáp, Trang bị và Khí tài đặc chủng, Kế hoạch Cộng nghiệp, Kỹ thuật sản xuất, Kế hoạch Vật tư, Lao động tiền lương, Tài vụ, Đào tạo-huấn luyện, Kiến thiết cơ bản); ba vùng bảo đảm (Tây Nguyên, Nam Bộ và miền Bắc); các Viện (Thiết kế vũ khí, Thiết kế cơ giới, Thiết kế cộng nghệ, Thiết kế đo lường); các Trường (Trung học Kỹ thuật, Trung học Kinh tế, Công nhân Kỹ thuật, Bổ túc cán bộ). Ngày 17 tháng 7 năm 1976, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 255/QĐ-QP chuyển Viện Kỹ thuật quân sự và Phòng Quản lý nghiên cứu kỹ thuật thuộc Tổng cục Kỹ thuật về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Kết hợp với việc chấn chỉnh tổ chức, Tổng cục ra Chỉ thị về công tác quản lý và bảo vệ kho. Sau chiến tranh, một khối lượng lớn trang bị, vũ khí mà ta thu được của địch đó là nguồn dự trữ rất quý để bảo vệ Tổ quốc trong thời bình. Vì vậy, Tổng cục chỉ đạo toàn quân thực hiện tổ chức kiểm tra, chấn chỉnh công tác nhà kho, giữ gìn bảo quản, rà soát số lượng, chất lượng việc coi giữ bảo quản.
Chiến tranh biên giới Tây Nam
Từ đầu năm 1977, Lực lượng phản động Pôn-pốt, Iêng-xa-ri được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn đã tiến hành các hoạt động quân sự xâm lược lãnh thổ nước ta. Chúng huy động một sư đoàn chủ lực tiến công các đồn biên phòng và 13 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Để bảo vệ biên giới phía Tây Nam, Tổng cục Kỹ thuật xác định bảo đảm đầy đủ, kịp thời và đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang các tỉnh biên giới Tây Nam sẵn sàng chiến đấu.
Đến hết tháng 7 năm 1977, Tổng cục giao cho Cục Quản lý Vũ khí-Khí tài-Đạn dược tổ chức xong 2 trạm sửa chữa của Quân đoàn 4, củng cố xây dựng các trạm xưởng của quân khu và bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Nhanh chóng tạo nguồn dự trữ vũ khí, đạn tại các kho của Cục ở phía Nam, chuẩn bị đủ vật tư, phụ tùng và bộ phận thay thế vũ khí, khí tài. Do nhu cầu sử dụng vũ khí, khí tài ở biên giới Tây Nam đến hết năm 1977 đã hết 2.500 tấn, chiếm 73% khối lượng đạn của các đơn vị mang theo nên năm 1978, lượng cấp phát cho chiến đấu là rất lớn, đến hết tháng 9 năm 1978 là 10.000 tấn. Từ tháng 5 năm 1978, Tổng cục tiếp nhận khối lượng lớn vũ khí trang bị trong Kế hoạch viện trợ VT78 của Liên Xô và Tổng cục đã chi viện ngay cho chiến trường ở biên giới Tây Nam. (16.000 tấn vũ khí, đạn dược, 88 tấn phụ tùng, dự trữ ở phía bắc 7.600 tấn).
Từ tháng 12 năm 1977, Tổng cục thành lập Chỉ huy Tiền phương Tổng cục Kỹ thuật trong Bộ Tư lệnh Tiền phương Bộ Quốc phòng ở biên giới Tây Nam. Lúc đó, chỉ huy Tiền phương của Tổng cục là Đại tá Nguyễn Văn Tiên. Đến tháng 4 năm 1978, Chỉ huy Tiền phương Tổng cục được chuyển thành Sở chỉ huy Tiền phương Tổng cục Kỹ thuật ở phía Nam nhằm trực tiếp chỉ đạo bảo đảm trang bị, kỹ thuật cho các đơn vị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Tiếp đó, Tổng cục thành lập Trung đoàn Vận tải 32 phục vụ thu hồi, vận chuyển vũ khí trang bị về kho, nhà máy, trạm, xưởng để bảo quản, sửa chữa và đồng bộ, vận chuyển vũ khí đạn dược đến các đơn vị tuyến trước. Ngoài ra, Tổng cục còn tổ chức 12 đội sửa chữa cơ động để sửa chữa vũ khí trang bị. Tháng 10 năm 1978, chiến dịch tổng phản công giải phóng Cam-pu-chia diễn ra. Theo đó, Tổng cục phải chuẩn bị 1.000 xe ô tô vận tải, 500 xe tăng và xe thiết giáp, bổ sung cơ số đạn, vũ khí cho các đơn vị tham gia phản công. Tính chung ra, Tổng cục đã cấp phát bổ sung gần 52.000 súng bộ binh, 160 khẩu pháo, cối, DKZ, hơn 19.000 tấn đạn, bom mìn các loại. Ngày 26 tháng 12 năm 1978, ta phối hợp với Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia tổng tấn công và nổi dậy trong cả nước. Cho đến ngày 7 tháng 1 năm 1979, đã giải phóng được thành phố Phnom Penh theo đúng kế hoạch.
Kiện toàn tổ chức
Ngày 26 tháng 10 năm 1978, thành lập Trường Hạ sĩ quan Kỹ thuật trên cơ sở sáp nhập Trường Sĩ quan kỹ thuật với Trường Sơ cấp kỹ thuật và được đặt tên là Trường Kỹ thuật Vin-hem-Pích (nay là trường Đại học Trần Đại Nghĩa). Ngày 26 tháng 10 năm 1978, thành lập trường Trung cấp kỹ thuật, Trường Trung học Kinh tế, Trường Công nhân kỹ thuật và Trường Bổ túc Cán bộ thuộc Tổng cục. Ngày 16 tháng 12 năm 1978, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 900/QĐ-QP điều Viện Kỹ thuật quân sự trực thuộc Bộ Quốc phòng về trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 940/QP quy định tổ chức biên chế của Tổng cục Kỹ thuật gồm 13 Cục (Bộ Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Văn phòng, Quản lý Vũ khí-Khí tài-Đạn dược, Quản lý xe máy, Tăng Thiết giáp, Quản lý xí nghiệp, Quản lý kinh tế, Huấn luyện Đào tạo, Quản lý Khoa học kỹ thuật, Cung ứng Vật tư, Cơ quan đại diện ở phía Nam); 1 viện, 4 phân viện, 8 trường, 28 xí nghiệp, 2 trung đoàn vận tải, 5 phòng ban trực thuộc Tổng cục (Phòng Tài vụ Vật giá, Ban Thanh tra, Văn phòng Ủy ban Kiểm tra kỷ luật, Phòng Quân pháp, Viện kiểm sát quân sự). Quân số của Tổng cục lục này hơn 70.000 người.
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, Bộ Quốc phòng thành lập Cục Kỹ thuật ở các quân khu, quân đoàn, binh chủng; thành lập Phòng Kỹ thuật ở Sư đoàn, Lữ đoàn và tương đương; Ban Kỹ thuật ở trung đoàn và tướng đương. Ngành Kỹ thuật quân đội kiện toàn hệ thống quản lý, chỉ huy, chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật ở 3 cấp (chiến lược là Tổng cục Kỹ thuật, chiến thuật là Cục Kỹ thuật thuộc các quân khu, quân đoàn, binh chủng và chiến dịch là Ban kỹ thuật thuộc sư đoàn...). Sau khi kiện toàn, từ năm 1979, cơ quan Tổng cục gồm (Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục hậu cần, Văn phòng, Cục Quản lý Vũ khí-Khí tài-Đạn dược, Cục Trang bị kỹ thuật đặc chủng, Cục Đơn vị, Cục Kỹ thuật sản xuất, Cục Lao động tiền lương, Cục Kế hoạch Vật tư, Cục huấn luyện, Cục Kiến thiết cơ bản, Viện Kiểm sát, Ban Thanh tra, Ủy ban kiểm tra kỷ luật, Phòng Quân pháp); ở cơ sở gồm (18 xín ghiệp sản xuất, 11 xí nghiệp sửa chữa, đoàn, tổng đội, trung đoàn, kho, viện, phân viện, trường).
Ngày 14 tháng 11 năm 1979, Bộ Quốc phòng chuyển nhiệm vụ chỉ đạo, quản lý bảo đảm trang bị, kỹ thuật các loại xe tăng, thiết giáp từ Bộ Tư lệnh Tăng-Thiết giáp về Tổng cục và tiến hành đổi tên Cục Đơn vị thành Cục Tăng-Thiết giáp trực thuộc Tổng cục. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1980, Trường Đại học Kỹ thuật quân sự là đầu mối trực thuộc Tổng cục, đến tháng 1 năm 1982, lại trở thành đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Ngày 28 tháng 2 năm 1981, Bộ Quốc phòng thành lập Trường Sĩ quan Chỉ huy kỹ thuật ô tô (trên cơ sở trường Trung cấp Kỹ thuật xe máy) và Trường Sĩ quan kỹ thuật Vũ khí Đạn (trên cơ sở Trường Trung cấp Kỹ thuật quân khí).
Ngày 29 tháng 4 năm 1981, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 120/QĐ kiện toàn tổ chức biên chế theo đó, Tổng cục bao gồm: 13 Cục và tương đương, 5 Tổng kho, 18 Kho trực thuộc Cục chuyên ngành, 30 Nhà máy, 8 Viện và trung tâm, 13 Trường, Đoàn 387.
Tháng 3 năm 1984, sau khi kiện toàn tổ chức, Tổng cục có 9 cục và cơ quan tương đương, 11 phòng ban trực thuộc, 8 trường, 5 viện nghiên cứu, 2 trung tâm, 11 nhà máy sửa chữa, 18 nhà máy sản xuất, 6 đơn vị vận tải.
Từ ngày 31 tháng 10 đến 2 tháng 11 năm 1986, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng triệu tập Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, Thủ trưởng các Tổng cục và cơ quan Bộ Quốc phòng họp bàn về việc kiện toàn tổ chức của Tổng cục; chuyển cơ chế quản lý chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật theo cấp sang cơ chế quản lý chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật theo chuyên ngành; thành lập Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng để quản lý, chỉ đạo các Nhà máy sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật.
Thời kỳ đổi mới đất nước (1987-1993)
Sau tháng 3 năm 1989, khi Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng được thành lập và nhận chức năng quản lý các xí nghiệp quốc phòng từ Tổng cục Kỹ thuật, sau đó gọi là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế.
Ngày 24 tháng 4 năm 1989, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ truởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 130/QĐ-QP quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Kỹ thuật từ đây Tổng cục thực hiện theo cơ chế mới là cơ quan quản lý, chỉ huy, chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật trong toàn quân của Quân đội. Theo đó, tổ chức của Tổng cục gồm (Cục Kế hoạch bảo đảm kỹ thuật, Cục Quản lý Khoa học Kỹ thuật, Cục Tổ chức cán bộ huấn luyện, Văn phòng, Trung tâm thông tin khoa học kỹ thuật quân sự).
Ngày 8 tháng 11 năm 1989, thành lập Phòng Điều tra hình sự thuộc Tổng cục.
Xây dựng chính quy hiện đại (1993-nay)
Ngày 15 tháng 5 năm 1993, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định về tổ chức, biên chế cơ quan Tổng cục. Sau đó Chủ nhiệm Tổng cục quyết định thành lập các phòng trực thuộc Tổng cục (Phòng Quản lý khoa học và công nghệ, Phòng Hậu cần, Thanh tra) và các phòng ban trực thuộc các cơ quan của Tổng cục.
Ngày 20 tháng 8 năm 1994, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Phòng Kinh tế, Cục Hậu cần trực thuộc Tổng cục và điều chuyển nguyên trạng các đơn vị về trực thuộc Tổng cục (Trường Sĩ quan kỹ thuật Vinhempich, Xí nghiệp Liên hợp Z75
Ngày 28 tháng 9 năm 1995, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định hợp nhất Trường Đào tạo lái xe với Trường Trung cấp kỹ thuật ô tô thành Trường Trung học kỹ thuật xe máy trực thuộc Cục Quản lý Xe-Máy.
Ngày 30 tháng 5 năm 2003, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Phòng Quản lý xí nghiệp sửa chữa trực thuộc Tổng cục.
Ngày 8 tháng 6 năm 1993, Bộ Quốc phòng ban hành Điều lệ công tác kỹ thuật xe máy Quân đội nhân dân Việt Nam và Quy định về kho súng, pháo, khí tài lục quân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 22 tháng 6 năm 1994, Đảng ủy Tổng cục quyết định chọn tám chữ vàng truyền thống của Tổng cục là "Chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường".
Tháng 7 năm 1995, Tổng cục tổ chức Hội nghị chất lượng vũ khí trang bị kỹ thuật toàn quân lần thứ nhất. Tháng 10 năm 1995, lại tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học công nghệ trong 10 năm 1986-1995. Tháng 3 năm 1996, Tổng cục tổ chức Hội nghị bảo đảm vũ khí đạn dược cho quần đảo Trường Sa.
Ngày 1 tháng 3 năm 1996, Bộ Quốc phòng ban hành Điều lệ công tác kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 3 năm 1996, Tổng cục tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ Tổng cục nhiệm kỳ 1996-2000. Bầu ra Ban Chấp hành đảng bộ Tổng cục gồm 13 đồng chí.
Ngày 14 tháng 6 năm 1996, Chủ nhiệm Tổng cục quyết định điều nguyên trạng Viện kỹ thuật ô tô thuộc Cục Quản lý Xe máy về trực thuộc Tổng cục. Tháng 12 năm 1996, Tổng cục tổng kết công tác kỹ thuật quân sự 5 năm 1991-1996.
Tháng 8 năm 1998, Bộ Tổng Tham mưu quyết định đổi tên Trung tâm Thông tin khoa học kỹ thuật thành Phòng Thông tin khoa học công nghệ và môi trường trực thuộc Tổng cục. Tháng 5 năm 1999, Bộ Quốc phòng quyết định đổi tên Cục Kế hoạch thành Bộ Tham mưu trực thuộc Tổng cục.
Năm 1999, Bộ Quốc phòng thành lập Cục Kỹ thuật Binh chủng trực thuộc Tổng cục
Tháng 12 năm 2000, Đại hội Đảng bộ Tổng cục nhiệm kỳ 2001-2005 tổ chức thành công và bầu Ban chấp hành Đảng bộ Tổng cục gồm 13 đồng chí. Tháng 7 năm 2001, Chủ nhiệm Tổng cục quyết định điều nguyên trạng Trung tâm 334/Cục Quân khí về trực thuộc Bộ Tham mưu Tổng cục.
Ngày 29 tháng 10 năm 2003, Bộ Quốc phòng ban hành Tiêu chuẩn chức vụ cán bộ Tổng cục Kỹ thuật.
Tháng 10 năm 2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ Tổng cục nhiệm kỳ 2005-2010 tổ chức thành công và bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ Tổng cục gồm 15 đồng chí.
Tháng 12 năm 2005, Tổng cục tổ chức thành công Hội nghị kỹ thuật toàn quân năm 2005.
Tháng 8 năm 2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ Tổng cục nhiệm kỳ 2010-2015 tổ chức thành công và bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ Tổng cục gồm 17 đồng chí.
Ngày 10 tháng 9 năm 2014, Tổng cục tổ chức thành công lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Tổng cục (1974-2014).
Lãnh đạo hiện nay
Chủ nhiệmː Trung tướng Trần Minh Đức
Chính ủyː Trung tướng Trần Duy Hưng
Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởngː Thiếu tướng Phùng Ngọc Sơn
Phó Chủ nhiệmː Thiếu tướng Đoàn Minh Định
Phó Chủ nhiệm: Thiếu tướng Hà Tuấn Quân
Phó Chủ nhiệmː Thiếu tướng Đỗ Anh Tuấn
Phó Chính ủyː Thiếu tướng Nguyễn Văn Bình
Tổ chức
Khen thưởng
Huân chương Sao vàng (2004).
Huân chương Hồ Chí Minh (1979 và 1985)
Huân chương Quân công hạng Nhất (1984)
Huân chương Quân công hạng Nhì (2009)
Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất (2019)
Hệ thống cơ quan Kỹ thuật trong Quân đội
Bài chi tiết: Ngành Kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam
Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng.
Cục Kỹ thuật thuộc các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, Tổng cục và tương đương.
Phòng Kỹ thuật thuộc các Sư đoàn, Lữ đoàn, Vùng Cảnh sát biển, Bộ CHQS tỉnh, thành phố trực thuộc TW, Bộ CHBP tỉnh, thành phố trực thuộc TW và tương đương.
Ban Kỹ thuật thuộc các Trung đoàn, Ban chỉ huy quân sự quận, huyện, thị xã và tương đương.
Chủ nhiệm Tổng cục qua các thời kỳ
Chính ủy, Phó Chủ nhiệm Tổng cục về Chính trị qua các thời kỳ
Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
Phó Chủ nhiệm Tổng cục qua các thời kỳ
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
Cục trưởng Cục Chính trị qua các thời kỳ
Các tướng lĩnh khác |
Thế kỷ 10 là khoảng thời gian tính từ thời điểm Công nguyên năm 901 đến hết năm 1000, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory.
Sự kiện
907: Đại Đường diệt vong, mở đầu cho thời kì Ngũ Đại Thập Quốc.
938: Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
960: Triệu Khuôn Dẫn lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Đại Tống, bắt đầu công cuộc thống nhất thiên hạ sau nhiều năm chia cắt.
968: Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong 12 sứ quân, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt. |
Thế kỷ 9 là khoảng thời gian tính từ năm 801 đến hết năm 900, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory.
Sự kiện
Cuối thế kỉ thứ 9, nhà Đường suy yếu. |
Cá mập mako vây ngắn (danh pháp khoa học: Isurus oxyrinchus) ("mũi nhọn") là một loài cá mập lớn trong họ Lamnidae. Nó và họ hàng gần của nó là cá mập mako vây dài (Isurus paucus), được gọi chung là cá mập mako.
Cá mập mako vây ngắn được tìm thấy trong các vùng biển ôn đới và nhiệt đới trên khắp thế giới.
Giải phẫu và bề ngoài
Cá mập mako vây ngắn trưởng thành dài từ 2,75–4 m (9–13 ft) và có thể cân nặng tới 800 kg (1.750 pao), có phần lưng màu ánh xanh và phần bụng màu trắng. Mặc dù cả hai giới phát triển với cùng tốc độ, nhưng cá mập (mako vây ngắn) cái được cho là có tuổi thọ cao hơn và chúng cũng to và nặng hơn cá mập đực. Cá mập mako vây ngắn nổi tiếng nhờ tốc độ và khả năng nhảy lên khỏi mặt nước của chúng. Chúng có hình dáng thủy động lực học tốt hơn các loài cá mập khác và điều này, cùng với khối cơ có độ nhịp nhàng, uyển chuyển điển hình của các loài cá mập trắng, là lý do của tốc độ và sự nhanh nhẹn của cá mập mako nói chung.
Tên gọi
Tên gọi "mako" có nguồn gốc từ tiếng Māori, nhưng từ nguyên học của nó là không rõ ràng . Lời chú giải điển hình cho từ "mako" là "cá mập xanh to lớn".
Hành vi
Vận tốc của cá mập mako vây ngắn đạt tới 50 km/h (31 mph) và có một số báo cáo cho thấy có cá thể có thể đạt tới vận tốc 74 km/h (46 mph) . Chúng có thể nhảy cao khỏi mặt nước tới 6 m (20 ft).
Sinh sản
Cá mập mako vây ngắn là loài noãn thai sinh, nghĩa là con non phát triển bằng noãn hoàn chứa trong một túi nằm trong tử cung cho đến khi được sinh ra. Chu kỳ mang thai của cá mập mako là khoảng 15-18 tháng. Người ta cũng nhận thấy là các bào thai của cá mập mako trong cơ thể con mẹ tiêu thụ lẫn nhau để lấy chất dinh dưỡng. Điều này được gọi là ăn thịt đồng loại trong tử cung.
Chú thích |
Thế kỷ 8 là khoảng thời gian tính từ năm 701 đến hết năm 800, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Thế kỷ 7 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 601 đến hết năm 700, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Thế kỷ 6 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 501 đến hết năm 600, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Thế kỷ 5 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 401 đến hết năm 500, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Thế kỷ 4 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 301 đến hết năm 400, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Thế kỷ 3 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 201 đến hết năm 300, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory.
Sự kiện
Năm 220: Đại Hán diệt vong, mở đầu cho thời Tam Quốc chiến loạn liên miên.
Năm 220 - 280: Thời kì Tam Quốc ở Trung Quốc.
Năm 280: Tư Mã Viêm tiêu diệt Đông Ngô, thống nhất thiên hạ, kết thúc thời kì Tam Quốc tranh hùng suốt gần một thế kỷ. |
Thế kỷ 2 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 101 đến hết năm 200, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Thế kỷ 1 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1 đến hết năm 100, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Tổng cục Hậu cần trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập vào ngày 11 tháng 7 năm 1950 là cơ quan đầu ngành Hậu cần trong Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng tham mưu, chỉ đạo, tổ chức bảo đảm vật chất, điều kiện ăn mặc ở khám chữa bệnh, bảo đảm sức khoẻ và cơ động... cho bộ đội trong sinh hoạt và công tác. Thông qua các ngành bảo đảm cơ sở vật chất như quân nhu, quân y, doanh trại, xăng dầu và vận tải... góp phần cho Quân đội hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Lịch sử hình thành
Ngày 11 tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 121/SL quy định tổ chức của Bộ Quốc phòng–Tổng Tư lệnh gồm ba cơ quan trong đó có Tổng cục Cung cấp gồm có: Cục Quân lương, Cục Quân trang, Cục Quân y, Cục Quân giới, Cục Vận tải, Cục Quân vụ và Phòng Quân khí. Tổng cục có nhiệm vụ quản trị, trang bị, cấp dưỡng quân đội và sản xuất quốc phòng.
Ngày 13 tháng 1 năm 1955, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 221/QĐ về việc đổi tên Tổng cục Cung cấp thành Tổng cục Hậu cần. Ngoài các Cục Quân y,... có từ trước, thành lập thêm các Cục: Quân nhu, Tài vụ, Doanh trại và Cục Nông binh (ngày 23 tháng 8 năm 1955), sau được đổi tên thành Cục Nông trường.
Ngày 3 tháng 10 năm 2011, Bộ Quốc phòng đã quyết định điều chuyển Cục Quân y cùng 7 đơn vị cơ sở trực thuộc về trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Ngày 30 tháng 10 năm 2017, Bộ Quốc phòng quyết định điều chuyển lại nguyên trạng Cục Quân y trực thuộc Bộ Quốc phòng về trực thuộc Tổng cục Hậu cần.
Lãnh đạo hiện nay
Chủ nhiệm: Trung tướng Trần Duy Giang
Chính ủy: Trung tướng Đỗ Văn Thiện
Tham mưu trưởngː Thiếu tướng Nguyễn Hùng Thắng
Phó Chủ nhiệm: Thiếu tướng Hà Như Lợi
Phó Chủ nhiệm: Thiếu tướng Nguyễn Nhật Tân
Phó Chủ nhiệm: Thiếu tướng Phạm Mạnh Cường
Phó Chủ nhiệm:Thiếu tướng Trịnh Xuân Phúc
Phó Chủ nhiệm: Thiếu tướng Huỳnh Tấn Hùng
Phó Chính ủyː Thiếu tướng Nguyễn Văn Cường
Tổ chức chính quyền
Khen thưởng
Huân chương Sao Vàng
Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương Quân công hạng Nhất (2015)
Huân chương Độc lập hạng nhất
Hệ thống cơ quan Hậu cần trong Quân đội
Tổng cục Hậu cần thuộc Bộ Quốc phòng
Cục Hậu cần thuộc các Quân khu, Quân chủng, Tổng cục, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Quân đoàn, Binh chủng và tương đương.
Phòng Hậu cần thuộc các Sư đoàn, Lữ đoàn, Vùng Cảnh sát biển, Bộ CHQS tỉnh, thành phố trực thuộc TW, Bộ CHBP tỉnh, thành phố trực thuộc TW và tương đương.
Ban Hậu cần thuộc các Trung đoàn, Ban chỉ huy quân sự quận, huyện, thị xã và tương đương.
Chủ nhiệm Tổng cục qua các thời kỳ
Chính ủy qua các thời kỳ
1981–1989, Hoàng Trà, (Phó Chủ nhiệm về Chính trị– Tổng cục Hậu cần). Thiếu tướng (1974)
1998–2004, Lê Trung Thành, Phó Chủ nhiệm về chính trị Tổng cục Hậu cần. Trung tướng (2002)
2004–2007, Bùi Xuân Chủ, Trung tướng (2006)
2008–2009, Đỗ Đức Tuệ, Trung tướng (2011), Chính ủy Học viện Quốc phòng (2009–)
2009–2012, Nguyễn Công Tranh, Trung tướng(2010), Nguyên Phó Chính ủy Quân khu 3
2012–11.2019, Lê Văn Hoàng, Trung tướng (2014), nguyên Phó Chính ủy Quân khu 5
12.2019–nay, Đỗ Văn Thiện, Thiếu tướng (2016),
Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
1955 – 1957: Đinh Đức Thiện, Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1984), Thượng tướng (1986), sau trở thành Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (1965 – 1976), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
1957 – 1960: Trần Sâm, Thiếu tướng (1959), Trung tướng (1974), Thượng tướng (1986), sau trở thành Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (1963 – 1965), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
1961 – 1968: Trần Thọ
1969: Nguyễn Đường
1971 – 1976: Hoàng Điền
1976 – 1980: Đinh Thiện, Thiếu tướng, sau trở thành Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (1982 – 1985).
1980 – 1987: Vũ Thành
1983 – 1987: Trần Chí Cường, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 2
1991 – 1994, Nguyễn Hữu Tình (sinh 1935), Thiếu tướng (1990)
1994 – 2000: Nguyễn Biên Thùy, Đại tá.
2000 – 2001: Trần Phước, Trung tướng (2004), sau trở thành Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (2001 – 2007)
2001 – 2006: Ngô Huy Hồng, Thiếu tướng, sau là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (2007 – 2009)
2006 – 2007: Nguyễn Đức Lâm
2007 – 2011: Nguyễn Mạnh Đoàn, Thiếu tướng (2009), Phó Tư lệnh Quân khu 2
2011 – 2016, Phạm Quang Đối, Thiếu tướng (2011), nguyên Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần.
2016 – nay, Nguyễn Hùng Thắng, Thiếu tướng (2016), nguyên Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần.
Phó Chủ nhiệm qua các thời kỳ
Trần Đại Nghĩa, Thiếu tướng (1948)
1954–1959, Đặng Kim Giang, Thiếu tướng (1958)
1957–1960, Trần Sâm, Thiếu tướng
1961–1965, Nguyễn Văn Nam, Thiếu tướng (1974)
1964–1970, Vũ Văn Cẩn, Thiếu tướng (1974), Cục trưởng Cục Quân y đầu tiên
Tháng 1– 11/1965, Hoàng Văn Thái, Đại tá.
1968–1969, Nguyễn Duy Thái, Thiếu tướng (1985)
1970–1976, Vũ Xuân Chiêm, Thiếu tướng, Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
1972–1974, Hoàng Văn Thái, Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980)
1977–1982, Hoàng Điền (1924–1999), Thiếu tướng (1983), Giáo sư (1986)
1979–1986, Phan Khắc Hy, Thiếu tướng (1980)
1981–1989, Hoàng Trà, (Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần về Chính trị). Thiếu tướng (1974)
1982–1990, Nguyễn An, Thiếu tướng (1984), nguyên Cục trưởng Cục Vận tải (1972–1982)
1983–1990, Nguyễn Sĩ Quốc (1922–2002), Thiếu tướng (1983)
1994–1999, Nguyễn Hữu Tình (sinh 1935), Thiếu tướng (1990)
1999–2009 Nguyễn Văn Dũng, Thiếu tướng (2003)
2000–2007, Trần Bành, Thiếu tướng (2003)
2005–2014, Dương Văn Rã, Thiếu tướng, Trung tướng, sau là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần
2007–2013, Nguyễn Tân Đệ, Thiếu tướng
2009–2016, Đỗ Năng Tĩnh, Thiếu tướng (2009), nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu, Tổng cục Hậu cần
1999-2003, Lê Hữu Nhịp, Thiếu tướng (2000), nguyên Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần
2014–2019, Phan Bá Dân, Thiếu tướng (6.2015), nguyên Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần
2017–2022, Lê Hồng Dũng, Thiếu tướng (2017), nguyên Cục trưởng Cục Hậu cần Quân khu 7
2019–nay, Nguyễn Nhật Tân, Thiếu tướng (2019), nguyên Cục trưởng Cục Hậu cần,Tổng cục Hậu cần (2014–2019)
2019–nay, Phạm Mạnh Cường, Thiếu tướng (2020), nguyên Cục trưởng Cục Hậu cần Quân khu 1.
2022-nay, Hà Như Lợi, nguyên Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần
01.2023-nay, Huỳnh Tấn Hùng, nguyên Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 7
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
2007–2008, Đỗ Đức Tuệ, Trung tướng (2011), nguyên Chính ủy Quân đoàn 1,
2009–2013 Trần Thanh Hải, Thiếu tướng (2007) nguyên Chính ủy Binh đoàn 15.
2013–6.2015, Nguyễn Xuân Miện, Thiếu tướng (2009), nguyên Phó Cục trưởng Cục Cán bộ
6.2015–nay, Vũ Bá Trung, Thiếu tướng (2014), nguyên Cục trưởng Cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần
2019– nay, Nguyễn Văn Cường, Thiếu tướng (2017), nguyên Phó chính ủy Quân đoàn 3 (2018–2019), nguyên nguyên Cục trưởng Cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần (2016–2018)
Cục trưởng Cục Chính trị qua các thời kỳ
VŨ CAO BẰNG ĐẠI TÁTrần Viết Bằng, Thiếu tướng
2016–2018, Nguyễn Văn Cường, Thiếu tướng (2017), sau Phó chính ủy Quân đoàn 3 (2018–2019)
2018–nay, Lê Tất Cường, Thiếu tướng (2019)
Lãnh đạo chỉ huy các Cục chức năng có quân hàm cấp tướng
1997–2002, Nguyễn Văn Thưởng, Thiếu tướng (1997) nguyên Cục trưởng Cục Quân y.
2002–2010, Chu Tiến Cường, Trung tướng (2009) nguyên Cục trưởng Cục Quân y.
2010–2018, Vũ Quốc Bình, Thiếu tướng (2011)nguyên Cục trưởng Cục Quân y.
2018–nay, Nguyễn Xuân Kiên, Thiếu tướng (2019) Cục trưởng Cục Quân y.
2012–nay, Đặng Quốc Khánh, Thiếu tướng (2014) Chính ủy Cục Quân y.
2013–2017, Lê Trung Hải, Thiếu tướng (2014) Phó cục trưởng Cục Quân y.
2004–2013 Nguyễn Công Huân, Thiếu tướng (2009) nguyên Cục trưởng Cục Doanh trại.
2013–2017, Nguyễn Văn Tươi, Thiếu tướng (2013) nguyên Cục trưởng Cục Doanh trại.
2017–nay, Nguyễn Quốc Việt, Thiếu tướng (2017) Cục trưởng Cục Doanh trại.
2009–2014, Phạm Tiến Luật, Thiếu tướng (2010) nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu.
2014–nay, Nguyễn Xuân Hải, Thiếu tướng (2015) Cục trưởng Cục Quân nhu.
2009–2014, Nguyễn Trọng Nhưỡng, Thiếu tướng (2011) nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu.
2014–nay, Đậu Đình Đoàn, Thiếu tướng (2015) Cục trưởng Cục Xăng dầu
2019-nay, Nguyễn Đức Tùng, Thiếu tướng (2020) Cục trưởng Cục Vận tải |
Thiên niên kỷ 1 sau Công Nguyên hay còn được gọi là Kỷ nguyên chung là một thiên niên kỷ kéo dài từ năm 1 đến năm 1000 (thế kỷ 1 đến thế kỷ thứ 10; trong thiên văn học: JD – ). Dân số thế giới vào thời điểm đó tăng chậm hơn so với thiên niên kỷ trước, từ khoảng 200 triệu người từ năm 1 SCN tăng lên chỉ khoảng 300 triệu người vào năm 1000.
Ở vùng Tây Âu Á (Châu Âu và Cận Đông), thiên niên kỷ 1 là một thời kỳ vĩ đại khi chuyển tiếp từ thời Cổ đại Hy-La sang thời Trung Cổ. Thế kỷ thứ nhất chứng kiến thời kỳ đỉnh cao của Đế chế La Mã, sau đó là sự suy tàn của nó trong thời kỳ Hậu kỳ cổ đại, sự trỗi dậy của Cơ đốc giáo và những cuộc di cư vĩ đại. Nửa sau của thiên niên kỷ được coi là thời kỳ Sơ kỳ Trung cổ tại châu Âu, và được đánh dấu bằng sự bành trướng của người Viking ở phía tây, sự trỗi dậy của Đế chế Đông La Mã ở phía đông.
Tại Đông Á, thiên niên kỷ 1 cũng là thời điểm của những tiến bộ văn hóa vĩ đại, đáng chú ý nhất chính là sự truyền bá Phật giáo sang Đông Á. Tại Trung Quốc, nhà Hán bị thay thế bởi nhà Tấn và sau đó là nhà Đường, cho đến thế kỷ thứ 10 chứng kiến sự phân chia mới trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc . Tại Nhật Bản, dân số tăng mạnh kéo theo việc nông dân sử dụng các công cụ bằng sắt đã làm tăng năng suất và sản lượng mùa màng. Triều đình Yamato được thành lập. Tiểu lục địa Bắc Ấn Độ được chia thành nhiều vương quốc trong cả thiên niên kỷ 1, cho đến khi Đế chế Gupta hình thành. Hồi giáo đã bắt đầu bành trướng nhanh chóng từ Ả Rập đến Tây Á, Ấn Độ, Bắc Phi và cả bán đảo Iberia, lên đến cực điểm trong Thời kỳ hoàng kim của Hồi giáo (700–1200).
Tại Trung Mỹ, thiên niên kỷ 1 chính là thời đại phát triển vượt bậc được gọi là Kỷ nguyên Cổ điển (200–900). Teotihuacan phát triển thành một đô thị và đế chế của nó thống trị Mesoamerica. Tại Nam Mỹ, các nền văn hóa ven biển từ thời tiền Inca đã phát triển mạnh mẽ, sản xuất ra những món đồ kim loại ấn tượng và một số đồ gốm tốt nhất từng thấy trong thế giới cổ đại. Tại Bắc Mỹ, nền văn hóa Mississippi phát triển vào cuối thiên niên kỷ ở thung lũng sông Mississippi và Ohio. Nhiều thành phố đã được xây dựng; Cahokia, thành phố lớn nhất, tại Illinois ngày nay. Việc xây dựng Gò Monks tại Cahokia được bắt đầu vào khoảng từ năm 900–950.
Tại vùng Châu Phi Hạ Sahara, sự bành trướng của người Bantu đến Nam Phi vào khoảng thế kỷ thứ 5. Việc buôn bán nô lệ xuyên Sahara trải dài khắp Sahara và bờ biển Swahili vào thế kỷ thứ 9. |
Thiên niên kỷ 2 sau Công Nguyên hay Kỷ nguyên chung là một thiên niên kỷ kéo dài từ năm 1001 đến năm 2000 (thế kỷ 11 đến thế kỷ 20; trong thiên văn học: JD – ).Thời kỳ này bao gồm Thời kỳ Trung kỳ Trung Cổ và Hậu kỳ Trung cổ của Cựu Thế giới, Thời kỳ Hoàng kim của Hồi giáo và thời kỳ Phục hưng, tiếp đến là thời kỳ cận đại, được đặc trưng bởi các cuộc chiến tranh tôn giáo tại Châu Âu, Thời đại Khai sáng, Thời đại Khám phá và giai đoạn thuộc địa. Hai thế kỷ cuối cùng của thời kỳ này trùng với lịch sử hiện đại, được đặc trưng bởi các cuộc cách mạng công nghiệp hóa, sự trỗi dậy của các quốc gia dân tộc, sự phát triển nhanh chóng của khoa học, giáo dục rộng rãi, chăm sóc sức khỏe toàn cầu và tiêm chủng ở tại các nước phát triển. Thế kỷ 20 chứng kiến một quá trình toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, đáng chú ý nhất chính là hai cuộc Chiến tranh thế giới và sự hình thành sau đó của Liên hợp quốc. Thế kỷ 20 cũng mang bước tính đột phá về mặt công nghệ bao gồm công nghệ máy bay, truyền hình và chất bán dẫn, bao gồm cả mạch tích hợp. Thuật ngữ "Kỳ tích châu Âu" được đặt ra để ám chỉ sự phát triển chưa từng có về mặt văn hóa và mặt chính trị của thế giới phương Tây trong nửa sau của thiên niên kỷ, nổi lên vào thế kỷ 18 với tư cách là nền văn minh giàu có và quyền lực nhất thế giới, đã làm lu mờ đi triều đại nhà Thanh của Trung Quốc, thế giới Hồi giáo và cả Ấn Độ . Điều này cho phép các nước châu Âu tiến hành thực dân hóa phần lớn thế giới trong thiên niên kỷ này, bao gồm châu Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương, Nam và Đông Nam Á.
Dân số thế giới trong thời kỳ này đã tăng chưa từng có trong lịch sử, từ khoảng 310 triệu người vào năm 1000 lên khoảng 6 tỷ người vào năm 2000. Tốc độ gia tăng dân số tăng đột biến trong khoảng thời gian này; dân số thế giới xấp xỉ tăng gấp đôi lên 600 triệu vào năm 1700, và tăng gấp ba lần nữa vào năm 2000, cuối cùng đạt khoảng 1,8% mỗi năm trong nửa sau của thế kỷ 20.
Triều đại thành lập
Ấn Độ
Vương triều Hồi giáo Delhi (thế kỷ XII - XVI)
Vương triều Mogul (thế kỷ XVI - XIX)
Việt Nam
Nhà Lý (từ Lý Thái Tổ đến nữ hoàng Lý Chiêu Hoàng)
Nhà Trần (từ Trần Thái Tông đến Trần Thiếu Đế)
Nhà Hồ (từ Hồ Quý Ly đến Hồ Hán Thương)
Nhà Lê sơ (từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng)
Nhà Mạc (từ Mạc Thái Tổ đến Mạc Toàn)
Nhà Nguyễn (từ Gia Long đến Bảo Đại)
Trung Quốc
Nhà Tống (đến thế kỷ XIII)
Nhà Nguyên (thế kỷ XIII - nửa sau thế kỷ XIV)
Nhà Minh (nửa sau thế kỷ XIV - nửa đầu thế kỷ XVII)
Nhà Thanh (nửa đầu thế kỷ XVII - khoảng đầu những năm 10 của thế kỷ XX)
Lào
Lan Xang (thế kỷ XIV - XVIII)
Lào (từ thế kỷ XVIII)
Campuchia
Angkor (đến nửa đầu thế kỷ XIX)
Cambodia (từ cuối thế kỷ XIX)
Thái Lan
Sukhothai (từ thế kỷ XIV - cuối thế kỷ XVIII)
Xiêm (cuối thế kỷ XVIII - chưa rõ)
Thái Lan (Năm 1238- hiện tại)
Indonesia
Vương triều Mô-giô-pa-hít (giữa những năm 10 của thế kỷ XIII - cuối những năm 20 của thế kỷ XVI)
Indonesia (chưa rõ - chưa rõ)
Myanmar
Pa-gan
Chăm Pa
Chăm Pa (thế kỷ II - giữa thế kỷ XI)
Chiêm Thành (giữa thế kỷ XI - ?) |
Thiên niên kỷ 3 là khoảng thời gian tính từ năm 2001 đến hết năm 3000, nghĩa là bằng 1000 năm, trong lịch Gregory.
Các nghiên cứu về tương lai đang diễn ra nhằm tìm hiểu những gì có thể sẽ tiếp tục và những gì có thể thay đổi một cách hợp lý trong giai đoạn này và sau đó. |
Thiên niên kỷ 1 TCN hay còn gọi là thiên niên kỷ cuối cùng TCN là khoảng thời gian kéo dài từ năm 1000 TCN đến năm 1 TCN (Thế kỷ 10 đến thế kỷ 1 TCN; trong thiên văn học: JD – ). Thời kỳ này bao gồm Thời đại đồ sắt ở Cựu Thế giới và chứng kiến sự chuyển đổi từ Cận Đông cổ đại sang thời Cổ đại Hy-La.
Dân số thế giới trong thời kỳ này tăng gần gấp đôi trong suốt thiên niên kỷ, từ khoảng 100 triệu lên khoảng 200–250 triệu người. |
Sự kiện
Tháng 1
1 tháng 1:
Bulgaria và România gia nhập Liên minh châu Âu.
Slovenia dùng đồng euro thay cho đồng tular.
Ban Ki-moon nhậm chức Tổng thư ký Liên Hợp Quốc thay Kofi Annan.
8 tháng 1 - Microsoft chính thức phát hành Windows Home Server.
11 tháng 1 - Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới.
30 tháng 1 - Microsoft chính thức phát hành Windows Vista.
Tháng 2
4 tháng 2 - Singapore giành chức vô địch AFF Cup 2007.
Tháng 3
24 tháng 3 - Tổ chức Giải vô địch bóng đá trong nhà Đông Nam Á 2007 tại Băng Cốc (Thái Lan).
Tháng 4
18 tháng 4 - Thảm sát Đại học Bách khoa Virginia tại Mỹ.
29 tháng 4 - Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng chính thức kênh VTV6 - Kênh truyền hình dành riêng cho giới trẻ (dừng phát sóng 10 tháng 10 năm 2022).
Tháng 5
10 tháng 5 - Nicolas Sarkozy nhậm chức Tổng thống Pháp.
20 tháng 5 - Bầu cử quốc hội (khóa XII) tại Việt Nam.
Tháng 6
18 tháng 6 - Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết lần đầu tiên đi công du Hoa Kỳ.
29 tháng 6 - Chiếc iPhone đầu tiên của Apple phát hành tại Mỹ.
Tháng 7
20 tháng 7: Taliban bắt cóc 23 con tin người Hàn Quốc.
29 tháng 7: Iraq giành chức vô địch Asian Cup 2007.
Tháng 8
1 tháng 8: Cầu qua sông Mississippi sụp đổ.
14 tháng 8: Tai nạn đường sắt từ Moskva đi Sankt-Peterburg.
Tháng 9
26 tháng 9: Bị sập 2 nhịp dẫn Cầu Cần Thơ.
Tháng 10
3 tháng 10: Hai nhà lãnh đạo của Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên gặp nhau.
8 tháng 10: Đài Truyền hình Việt Nam chính thức phát sóng kênh VTV9 (phát sóng tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, đồng thời trên hệ thống cáp VTVCab).
14 tháng 10 đến 21 tháng 10: Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 17.
16 tháng 10: Việt Nam được bầu chọn làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
26 tháng 10: AIGs 2 được tổ chức tại Ma Cao (CHND Trung Hoa).
Tháng 11
7 tháng 11: Thảm sát tại trường trung học Kirkkoharju ở Phần Lan.
17 tháng 11: Hàng chục ngàn người từ mọi miền đất nước Slovenia đã đổ về thủ đô Ljubljana tham gia cuộc biểu tình đòi tăng lương và yêu cầu bình đẳng hơn giữa người giàu và người nghèo..
24 tháng 11: Bầu cử liên bang Úc 2007, Kevin Rudd lãnh tụ Đảng Lao động Úc thắng cử.
Tháng 12
Tháng 12: Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu khai diễn ra tại Bali, Indonesia
Tháng 12: Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phê chuẩn việc thành lập thành phố Tam Sa để quản lý 3 quần đảo trên Biển Đông trong đó có cả hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa.
2 tháng 12: Bầu cử quốc hội ở Nga.
5 tháng 12: Thảm sát tại một trung tâm mua sắm bang Nebraska.
6 tháng 12 - 16 tháng 12: Tổ chức SEA Games 2007 tại Nakhon Ratchasima (Thái Lan).
7 tháng 12: Thảm họa tràn dầu ở vùng biển Hàn Quốc.
Sinh
10 tháng 4: Công chúa Ariane
21 tháng 4: Công chúa Isabella của Đan Mạch
29 tháng 4: Sofía de Borbón, con gái thứ hai của Vua Felipe VI và Hoàng hậu Letizia
17 tháng 12: James, Tử tước Severn, con trai Bá tước và nữ Bá tước xứ Wessex
Mất
Tháng 1
1 tháng 1 - Ernie Koy, vận động viên bóng chày người Mĩ, (sinh 1909)
1 tháng 1 - Darrent Williams, cầu thủ bóng đá người Mĩ, (sinh 1982)
2 tháng 1 - Teddy Kollek, Mayor Jerusalem người Áo, (sinh 1911)
3 tháng 1 - Sergio Jiménez, diễn viên người México, (sinh 1937)
4 tháng 1 - Marais Viljoen, tổng thống Nam Phi (sinh 1915)
5 tháng 1 - Andō Momofuku, nhà phát minh người Nhật Bản, (sinh 1910)
6 tháng 1 - Mario Danelo, college cầu thủ bóng đá người Mĩ, (sinh 1985)
7 tháng 1 - Bobby Hamilton, người lái xe đua người Mĩ, (sinh 1957)
7 tháng 1 - Magnus Magnusson, người dẫn chương trình truyền hình người Iceland, (sinh 1929)
8 tháng 1 – Takamoto Iwao, nhà làm phim hoạt hình người Mĩ gốc Nhật, tác giả của chú chó Scooby-Doo (sinh 1925)
8 tháng 1 - Yvonne de Carlo, nữ diễn viên người Mĩ, (sinh 1922)
9 tháng 1 - Jean-Pierre Vernant, sử gia, nhà nhân chủng học người Pháp, (sinh 1914)
10 tháng 1 - Carlo Ponti, nhà sản xuất phim người Ý, (sinh 1912)
11 tháng 1 - Robert Anton Wilson, tác gia, conspiracy researcher người Mĩ, (sinh 1932)
12 tháng 1 - Alice Coltrane,nhạc sĩ nhạc Jazz người Mĩ, (sinh 1937)
13 tháng 1 - Michael Brecker, nhạc sĩ nhạc Jazz người Mĩ, (sinh 1949)
13 tháng 1 - Henri-Jean Martin, expert on book history người Pháp, (sinh 1924)
14 tháng 1 - Darlene Conley, nữ diễn viên người Mĩ, (sinh 1934)
14 tháng 1 - Barbara Kelly, nữ diễn viên người Canada, (sinh 1924)
15 tháng 1 - Barzan Ibrahim al-Tikriti, chính trị gia người Iraq, (sinh 1951)
15 tháng 1 - Awad Hamed al-Bandar, quan tòa người Iraq, (sinh 1945)
15 tháng 1 - Bạc Nhất Ba, chính trị gia người Trung Quốc, (sinh 1908)
16 tháng 1 - Benny Parsons, đua xe, nhân vật truyền hình người Mĩ, (sinh 1941)
17 tháng 1 - Art Buchwald, nghệ sĩ hài người Mĩ, (sinh 1925)
19 tháng 1 - Hrant Dink, nhà báo người Turkish-Armenian (sinh 1954)
19 tháng 1 - Denny Doherty, nhạc sĩ (The Mamas, the Papas) người Canada, (sinh 1940)
19 tháng 1 - Bam Bam Bigelow, đô vật Wrestling người Mĩ, (sinh 1961)
21 tháng 1 - U;Nee, ca sĩ, diễn viên K-pop (sinh 1981)
22 tháng 1 - Abbé Pierre, thầy tu, người sáng lập Emmaus người Pháp, (sinh 1912)
22 tháng 1 - Carlos Olivier, diễn viên người Venezuela, (sinh 1952)
22 tháng 1 – Ngô Quang Trưởng, trung tướng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
23 tháng 1 - Ryszard Kapuscinski, nhà báo, tác gia người Ba Lan, (sinh 1932)
24 tháng 1 – Chung Tấn Cang, cựu phó đô đốc, tư lệnh cuối cùng của Hải quân Việt Nam Cộng hòa
24 tháng 1 - La Sương Sương, nữ ca sĩ người Mỹ gốc Việt hoạt động ở hải ngoại (sinh 1972)
26 tháng 1 - Gump Worsley, vận động viên khúc côn cầu người Canada, (sinh 1929)
28 tháng 1 - Cyril Demarne, lính chữa cháy thời chiến người Anh, (sinh 1905)
28 tháng 1 - Hứa Vĩ Luân, nữ diễn viên người Đài Loan, (sinh 1978)
30 tháng 1 - Sidney Sheldon, tác gia, người viết kịch bản phim người Mĩ, (sinh 1917)
31 tháng 1 - Kirka Babitzin, ca sĩ Phần Lan (sinh 1950)
31 tháng 1 - Lee Bergere, diễn viên người Mĩ, (sinh 1924)
31 tháng 1 - Molly Ivins, nhà bình luận người Mĩ, (sinh 1944)
Tháng 2
1 tháng 2 - Gian Carlo Menotti, nhà soạn nhạc, người viết lời nhạc kịch người Ý, (sinh 1911)
3 tháng 2 - Pedro Knight, nhạc sĩ người Cuba, (sinh 1921)
3 tháng 2 - Billy Henderson, ca sĩ (The Spinners) người Mỹ, (sinh 1939)
6 tháng 2 - Frankie Laine, ca sĩ người Mỹ, (sinh 1913)
7 tháng 2 - Alan MacDiarmid, nhà hóa học, giải thưởng Nobel người New Zealand, (sinh 1927)
7 tháng 2 - Helen Duncan, chính trị gia người New Zealand, (sinh 1941)
8 tháng 2 - Anna Nicole Smith, người mẫu, nhân vật truyền hình người Mỹ, (sinh 1967)
9 tháng 2 - Benedict Kiely, tác gia, broadcaster người Ireland, (sinh 1919)
9 tháng 2 - Ian Richardson, diễn viên người Scotland, (sinh 1934)
9 tháng 2 - Alejandro Finisterre, nhà thơ, chủ bút, nhà phát minh tablefootball người Tây Ban Nha, (sinh 1919)
10 tháng 2- Jung Da Bin, nữ diễn viên Hàn Quốc (sinh 1980)
11 tháng 2 - Reginald Hugh Hickling, luật sư, colonial civil servant, law academic, tác gia người Anh, (sinh 1920)
12 tháng 2 - Peggy Gilbert, nhạc công saxophon người Mỹ, (sinh 1905)
13 tháng 2 - Elizabeth Jolley, nhà văn người Áo, (sinh 1923)
13 tháng 2 - Charles Norwood, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1941)
13 tháng 2 - Eliana Ramos, người mẫu người Uruguay, (sinh 1988)
13 tháng 2 - Johanna Sällström, nữ diễn viên người Thụy Điển, (sinh 1974)
15 tháng 2 - Robert Adler, nhà phát minh gốc Áo (sinh 1913)
17 tháng 2 - Maurice Papon, Vichy government official người Pháp, (sinh 1910)
17 tháng 2 - Dermot O'Reilly, nhạc sĩ (Ryan'sFancy) người Ireland, (sinh 1942)
17 tháng 2 - Mike Awesome, đô vật Wrestling chuyên nghiệp người Mỹ, (sinh 1965)
18 tháng 2 - Juan "Pachín" Vicéns, cầu thủ bóng rổ người Puerto Rican, (sinh 1933)
22 tháng 2 - Lothar-Günther Buchheim, tác gia, họa sĩ, người sưu tầm nghệ thuật người Đức, (sinh 1918)
22 tháng 2 - Fons Rademakers, đạo diễn phim người Đức, (sinh 1920)
22 tháng 2 - Dennis Johnson, cầu thủ bóng rổ người Mỹ, (sinh 1954)
24 tháng 2 - Damien Nash, cầu thủ bóng đá người Mỹ, (sinh 1982)
24 tháng 2 - Bruce Bennett, diễn viên người Mỹ, (sinh 1906)
27 tháng 2 - Bobby Rosengarden, nhạc công đánh trống người Mỹ, (sinh 1924)
28 tháng 2 - Arthur M. Schlesinger, Jr., sử gia, nhà bình luận chính trị người Mỹ (sinh 1917)
28 tháng 2 - Billy Thorpe, nhạc sĩ (Billy Thorpe & the Aztecs) người Áo, (sinh 1946)
28 tháng 2 - Charles Forte, chủ khách sạn người Anh, (sinh 1908)
Tháng 3
2 tháng 3 – Henri Troyat, nhà văn người Pháp, (sinh 1911)
2 tháng 3 – Madi Phala, nghệ sĩ người Nam Phi, (sinh 1955)
3 tháng 3 – Warja Honegger-Lavater, người minh họa người Thụy Sĩ, (sinh 1913)
4 tháng 3 – Natalie Bodanya (Natalie Bodanskaya), ca sĩ soprano người Mỹ, (sinh 1908)
4 tháng 3 – Thomas Eagleton, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1929)
4 tháng 3 – Bob Hattoy, nhà hoạt động người Mỹ, (sinh 1950)
4 tháng 3 – Richard Joseph, nhà soạn nhạc trò chơi người Anh, (sinh 1954)
4 tháng 3 – Sunil Kumar Mahato, parliamentarian người Ấn Độ, (sinh 1966)
4 tháng 3 – Tadeusz Nalepa, nhà soạn nhạc, nhạc sĩ guitar, người hát lời, nhà thơ trữ tình người Ba Lan, (sinh 1934)
4 tháng 3 – Ian Wooldridge, thể thao nhà báo người Anh, (sinh 1932)
6 tháng 3 – Jean Baudrillard, nhà triết học, nhà xã hội học người Pháp, (sinh 1929)
6 tháng 3 – Allen Coage, đô vật Wrestling chuyên nghiệp người Mỹ, (sinh 1943)
6 tháng 3 – Ernest Gallo, nhà sản xuất rượu nho người Mỹ, (sinh 1909)
8 tháng 3 – John Inman, diễn viên người Anh, (sinh 1935)
9 tháng 3 – Brad Delp, ca sĩ (Boston) người Mỹ, (sinh 1951)
10 tháng 3 – Richard Jeni, diễn viên hài người Mỹ, (sinh 1957)
10 tháng 3 – Ernie Ladd, cầu thủ bóng đá, đô vật Wrestling chuyên nghiệp người Mỹ, (sinh 1938)
11 tháng 3 – Betty Hutton, nữ diễn viên người Mỹ, (sinh 1921)
12 tháng 3 – Antonio Ortiz Mena, chính trị gia, nhà kinh tế học người México, (sinh 1907)
13 tháng 3 – Arnold Skaaland, đô vật Wrestling người Mỹ, (sinh 1925)
14 tháng 3 – Lucie Aubrac, World War II Resistance fighter người Pháp, (sinh 1912)
14 tháng 3 – Gareth Hunt, diễn viên người Anh, (sinh 1943)
15 tháng 3 – Bowie Kuhn, đặc ủy viên Major League Baseball (sinh 1926)
16 tháng 3 – Manjural Islam, cầu thủ cricket người Bangladesh, (sinh 1984)
16 tháng 3 – Sir Arthur Marshall, kĩ sư hàng không người Anh, (sinh 1903)
17 tháng 3 – Jim Cronin, doanh nhân người Anh, (sinh 1952)
17 tháng 3 – Roger Bennett, Southern Gospel Vocalist, nghệ sĩ dương cầm người Mỹ
18 tháng 3 – Bob Woolmer, cầu thủ cricket, huấn luyện viên người Anh, (sinh 1948)
19 tháng 3 – Calvert DeForest, diễn viên, diễn viên hài người Mỹ, (sinh 1921)
19 tháng 3 – Luther Ingram, ca sĩ người Mỹ, (sinh 1937)
20 tháng 3 – Taha Yassin Ramadan, phó tổng thống Irak (sinh 1938)
23 tháng 3:
Eric Medlen, người đua xe người Mỹ, (sinh 1973)
Mao Ngạn Thanh, Con trai của Mao Trạch Đông (s. 1923)
25 tháng 3 – Andranik Margaryan, thủ tướng thứ 14 của Armenia (sinh 1951)
26 tháng 3 – Mikhail Alexandrovich Ulyanov, diễn viên Nga, Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô (sinh 1927)
Tháng 4
1 tháng 4 - Laurie Baker, kiến trúc sư người Anh, (sinh 1917)
1 tháng 4 - Driss Chraibi, nhà văn người Maroc, (sinh 1926)
1 tháng 4 - Hans Filbinger, Jurist, chính trị gia người Đức, (sinh 1913)
2 tháng 4 - Henry Lee Giclas, nhà thiên văn người Mỹ, (sinh 1910)
3 tháng 4 - Eddie Robinson, football huấn luyện viên người Mỹ, (sinh 1919)
4 tháng 4 - Bob Clark, đạo diễn phim người Mỹ, (sinh 1939)
5 tháng 4- Nina Wang, nữ tỷ phú Hồng Kông (sinh 1938)
April 5 - Leela Majumdar, Bengali children's_author (b. 1908)
5 tháng 4 - Darryl Stingley, cầu thủ bóng đá người Mỹ, (sinh 1951)
5 tháng 4 - Poornachandra Tejaswi, nhà văn, tiểu thuyết gia người Ấn Độ, (sinh 1938)
6 tháng 4 - Luigi Comencini, đạo diễn phim người Ý, (sinh 1916)
7 tháng 4 - Johnny Hart, Cartoonist người Mỹ, (sinh 1931)
7 tháng 4 - Barry Nelson, diễn viên người Mỹ, (sinh 1920)
April 7 - Carey W. Barber, Jehovah's Witnesses leader (b. 1905)
9 tháng 4 - AJ Carothers, nhà văn người Mỹ, (sinh 1931)
11 tháng 4 - Roscoe Lee Browne, diễn viên người Mỹ, (sinh 1925)
11 tháng 4 - Kurt Vonnegut, tiểu thuyết gia, Playwright người Mỹ, (sinh 1922)
April 13 - Don Selwyn, Māori actor and film_director (b. circa 1936)
14 tháng 4 - June Callwood, nhà báo người Canada, (sinh 1924)
14 tháng 4 - Don Ho, nhạc sĩ người Mỹ, (sinh 1930)
15 tháng 4 - Brant Parker, Cartoonist người Mỹ, (sinh 1920)
16 tháng 4 – Trần Bạch Đằng, nhà báo, nhà nghiên cứu Việt Nam (sinh 1926)
16 tháng 4 - Frank Bateson, nhà thiên văn người New Zealand, (sinh 1909)
17 tháng 4 - Kitty Carlisle Hart, ca sĩ, nữ diễn viên & talk show panelist người Mỹ, (sinh 1910)
17 tháng 4 - Iccho Itoh, Nagasaki, người Nhật Bản (assassinated) Mayor, (sinh 1945)
18 tháng 4- Nagasaki Itcho Itoh thị trưởng thành phố Nagasaki, qua đời do bị bắn (sinh 1945)
20 tháng 4 - Michael Fu Tieshan, Bishop người Trung Quốc, (sinh 1931)
22 tháng 4 - Juanita Millender-McDonald, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1938)
April 23 - Boris Yeltsin, first President of the Russian Federation (b. 1931)
25 tháng 4 - Alan Ball, cầu thủ bóng đá người Anh, (sinh 1945)
25 tháng 4 - Bobby Pickett, ca sĩ người Mỹ, (sinh 1938)
26 tháng 4 - Jack Valenti, film Executive, creator MPAA film rating system người Mỹ, (sinh 1921)
26 tháng 4 - Conchita Montenegro, Model, nữ diễn viên người Tây Ban Nha, (sinh 1912)
27 tháng 4 - Mstislav Rostropovich, nghệ sĩ vĩ cầm, người chỉ huy dàn nhạc người Nga, (sinh 1927)
28 tháng 4 - Dabbs Greer, diễn viên người Mỹ, (sinh 1917)
28 tháng 4 - Carl Friedrich von Weizsäcker, nhà vật lý, nhà triết học người Đức, (sinh 1912)
April 29 - Ivica Račan, 7th Prime_Minister of Croatia (b. 1944)
29 tháng 4 - Josh Hancock, vận động viên bóng chày người Mỹ, (sinh 1978)
29 tháng 4 - Dick Motz, cricket player người New Zealand, (sinh 1940)
30 tháng 4 - Grégory Lemarchal, ca sĩ người Pháp, (sinh 1983)
30 tháng 4 - Kevin Mitchell, cầu thủ bóng đá người Mỹ, (sinh 1971)
30 tháng 4 - Tom Poston, diễn viên người Mỹ, (sinh 1921)
30 tháng 4 - Gordon Scott, diễn viên người Mỹ, (sinh 1926)
Tháng 5
2 tháng 5 - Juan Valdivieso, Peruvian footballer (sinh 1910)
2 tháng 5 - Brad McGann, đạo diễn phim, người viết kịch bản phim người New Zealand, (sinh 1964)
3 tháng 5 - Wally Schirra, nhà du hành vũ trụ người Mỹ, (sinh 1923)
5 tháng 5 - Theodore Maiman, nhà vật lý người Mỹ, (sinh 1927)
5 tháng 5 - Gusti Wolf, nữ diễn viên người Áo, (sinh 1912)
6 tháng 5 - Lesley Blanch, nhà văn, thời trang chủ bút người Anh, (sinh 1904)
7 tháng 5 - Emma Lehmer, nhà toán học người Nga, (sinh 1906)
11 tháng 5 - Bernard Gordon, người viết kịch bản phim người Mỹ, (sinh 1918)
11 tháng 5 - Malietoa Tanumafili II, head state người Samoa, (sinh 1913)
12 tháng 5 - Mullah Dadullah Akhund, Taliban military leader người Afghanistan
14 tháng 5 - Colin St John Wilson, kiến trúc sư người Anh, (sinh 1922)
15 tháng 5 - Jerry Falwell, Evangelist người Mỹ, (sinh 1933)
15 tháng 5 - Yolanda King, nữ diễn viên, nhà hoạt động, daughter Martin Luther King, Jr. người Mỹ, (sinh 1955)
17 tháng 5 - Lloyd Alexander, tác gia người Mỹ, (sinh 1924)
17 tháng 5 - Phạm Khắc, nhà quay phim, nhà nhiếp ảnh Việt Nam (sinh 1939).
18 tháng 5 - Pierre-Gilles de Gennes, nhà vật lý, Nobel Prize for Physics laureate người Pháp, (sinh 1932)
May 18 - Yoyoy Villame, Filipino singer "King of Philippine Novelty Songs." (b. 1938)
19 tháng 5 - Dean Eyre, chính trị gia người New Zealand, (sinh 1914)
20 tháng 5 - Stanley Miller, nhà hóa học, nhà sinh vật học người Mỹ, (sinh 1930)
25 tháng 5 - Charles Nelson Reilly, diễn viên người Mỹ, (sinh 1931)
27 tháng 5 - Izumi Sakai, ca sĩ (Zard) người Nhật Bản, (sinh 1967)
27 tháng 5 - Percy Sonn, luật sư, cricket Executive người Nam Phi, (sinh 1949)
27 tháng 5 - Ed Yost, nhà phát minh the modern hot air balloon người Mỹ, (sinh 1919)
28 tháng 5 - Marquise Hill, cầu thủ bóng đá người Mỹ, (sinh 1982)
28 tháng 5 - Mai Chí Thọ, Đại tướng Công an Nhân dân Việt Nam, (sinh 1922)
Tháng 6
2 tháng 6 - Huang Ju, chính trị gia người Trung Quốc, (sinh 1938)
June 4 - Bill France, Jr., American President/CEO of NASCAR (b. 1933)
4 tháng 6 - Craig L. Thomas, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1933)
5 tháng 6 - Povel Ramel, Entertainer người Thụy Điển, (sinh 1922)
June 8 - Aden Abdullah Osman Daar, first President of Somalia (b. 1908)
10 tháng 6 - Augie Auer, Meteorologist, (sinh 1940)
11 tháng 6 - Imre Friedmann, nhà khoa học người Mỹ, (sinh 1921)
11 tháng 6 - Mala Powers, film nữ diễn viên người Mỹ, (sinh 1931)
12 tháng 6 - Don Herbert, nhân vật truyền hình người Mỹ, (sinh 1917)
June 13 - David Hatch, BBC Radio producer and comedian (b. 1939)
June 14 - Ruth Bell Graham, Wife of Billy Graham (b. 1920)
14 tháng 6 - Jacques Simonet, chính trị gia người Bỉ, (sinh 1963)
14 tháng 6 - Kurt Waldheim, chính trị gia, nhà ngoại giao, Tổng Thư ký thứ tư của Liên Hợp Quốc và cựu Tổng thống Áo (sinh 1918)
15 tháng 6 - Sherri Martel, professional đô vật Wrestling người Mỹ, (sinh 1958)
15 tháng 6 - Võ Quảng, nhà văn Việt Nam
17 tháng 6 - Gianfranco Ferrè, nhà thiết kế người Ý, (sinh 1944)
18 tháng 6 - Bernard Manning, diễn viên hài người Anh, (sinh 1930)
June 18 - Vilma Espín, Wife of Raúl Castro (b. 1930)
19 tháng 6 - El Fary, ca sĩ người Tây Ban Nha, (sinh 1937)
19 tháng 6 - Terry Hoeppner, football huấn luyện viên người Mỹ, (sinh 1947)
19 tháng 6 - Antonio Aguilar, ca sĩ, diễn viên người México, (sinh 1919)
20 tháng 6 - Trevor Henry, Justice người New Zealand, (sinh 1902)
21 tháng 6 - Bob Evans, Restaurateur người Mỹ, (sinh 1918)
22 tháng 6 - Nancy Benoit, professional wrestling Manager người Mỹ, (sinh 1964)
22 tháng 6 - Rod Beck, vận động viên bóng chày người Mỹ, (sinh 1968)
22 tháng 6 - Erik Parlevliet, field vận động viên khúc côn cầu b. (1964) người Đức
24 tháng 6 - Derek Dougan, Northern Irish footballer (b. 1938)
24 tháng 6 - Chris Benoit, professional đô vật Wrestling (double-murder suicide) người Canada, (sinh 1967)
24 tháng 6 - Jack Flynt, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1914)
25 tháng 6 - J. Fred Duckett, Texan sports announcer and teacher (b. 1933)
25 tháng 6 - Khadijeh Dadehbala (Mahasti), popular ca sĩ người Iran, (sinh 1946)
26 tháng 6 - Jupp Derwall, cầu thủ bóng đá, huấn luyện viên người Đức, (sinh 1927)
26 tháng 6 - Joey Sadler, All Black rugby player (b. 1914)
27 tháng 6 - Liz Claiborne, thời trang nhà thiết kế người Bỉ, (sinh 1929)
27 tháng 6 - William Hutt, stage, film diễn viên người Canada, (sinh 1920)
28 tháng 6 - Kiichi Miyazawa, 78th Prime_Minister of Japan (b. 1919)
29 tháng 6 - Joel Siegel, nhà phê bình phim người Mỹ, (sinh 1943)
29 tháng 6 - George McCorkle, Founder of The Marshall Tucker Band (b. 1947)
30 tháng 6 - Jan Herman Linge, kĩ sư, boat nhà thiết kế người Na Uy, (sinh 1922)
Tháng 7
1 tháng 7 - Gottfried von Bismarck, aristocrat, người giao thiệp rộng người Đức, (sinh 1962)
2 tháng 7 - Brahim Déby, son of Chadian president Idriss Déby (b 1980)
2 tháng 7 - Vojislav Nikčević, giáo sư, Linguist người Montenegro, (sinh 1935)
2 tháng 7 - Beverly Sills, ca sĩ soprano người Mỹ, (sinh 1929)
2 tháng 7 - Dilip Sardesai, cầu thủ cricket người Ấn Độ, (sinh 1940)
2 tháng 7 - Jimmy Walker, cầu thủ bóng rổ người Mỹ, (sinh 1944)
2 tháng 7 - Hy Zaret, nhà thơ trữ tình, nhà soạn nhạc người Mỹ, (sinh 1907)
3 tháng 7 - Claude Pompidou, wife of President of France Georges Pompidou (b. 1912)
3 tháng 7 - Boots Randolph, saxophone player người Mỹ, (sinh 1927)
4 tháng 7 - Barış Akarsu, Turkish musician (b.1979)
4 tháng 7 - José Roberto Espinosa, nhà bình luận (b.1948) người México
4 tháng 7 - Liane Bahler, cyclist người Đức, (sinh 1982)
4 tháng 7 - Johnny Frigo, nhạc Jazz nghệ sĩ vĩ cầm, Bassist (b.1916) người Mỹ
4 tháng 7 - Bill Pinkney, ca sĩ người Mỹ, (sinh 1925)
4 tháng 7 - Osvaldo Romo, Agent the Pinochet's Dirección de Inteligencia Nacional (DINA) người Chile, (sinh 1938)
5 tháng 7 - George Melly, ca sĩ người Anh, (sinh 1926)
5 tháng 7 - Régine Crespin, ca sĩ soprano người Pháp, (sinh 1927)
6 tháng 7 - Lois Wyse, advertising Executive, tác gia,, Columnist người Mỹ, (sinh 1926)
9 tháng 7 - Charles Lane, diễn viên người Mỹ, (sinh 1905)
10 tháng 7 - Zheng Xiaoyu, hành chính viên người Trung Quốc, (sinh 1944)
10 tháng 7 - Abdul Rashid Ghazi, cleric người Pakistan, (sinh 1964)
July 10 - Corbin Harney, an elder and spiritual leader of the Newe (Western Shoshone) people (b. 1920)
July 11 - Lady Bird Johnson, former First Lady of the United States (b. 1912)
July 11 - Alfonso López Michelsen, 32nd Colombian President (b. 1913)
11 tháng 7 - Ed Mirvish, doanh nhân, người làm việc thiện người Canada, (sinh 1914)
11 tháng 7 - Shag Crawford, umpire in Major League Baseball người Mỹ, (sinh 1916)
July 11 - Jimmy Skinner, Detroit Red Wings head coach (b. 1917)
11 tháng 7 - Richard Franklin, đạo diễn phim người Úc, (sinh 1948)
12 tháng 7 - Nigel Dempster, nhà báo, tác gia, broadcaster, diarist (b.1941) người Anh
July 12 - Pat Fordice, First Lady of Mississippi from 1992 until 2000 (b. 1935)
12 tháng 7 - Jim Mitchell, in the pornographic film industry người đi đầu, (sinh 1945)
12 tháng 7 - Larry Staverman, professional cầu thủ bóng rổ, huấn luyện viên người Mỹ, (sinh 1936)
12 tháng 7 - Stan Zemanek, radio broadcaster người Úc, (sinh 1947)
12 tháng 7 - Mr. Butch, homeless man living on the streets Boston, also người Mỹ, (sinh 1951)
14 tháng 7 - John Ferguson, professional vận động viên khúc côn cầu, huấn luyện viên, Executive người Canada, (sinh 1938)
19 tháng 7 - A. K. Faezul Huq, luật sư, chính trị gia người Bangladesh, (sinh 1945)
20 tháng 7 - Tammy Faye Messner, Evangelist người Mỹ, (sinh 1942)
20 tháng 7- Kim Lân, tác giả của các truyện kinh điển Việt Nam (sinh 1920)
22 tháng 7 - Mike Coolbaugh, vận động viên bóng chày, huấn luyện viên người Mỹ, (sinh 1972)
22 tháng 7 - László Kovács, cinematographer người Hungary, (sinh 1933)
22 tháng 7 - Ulrich Mühe, diễn viên người Đức, (sinh 1953)
22 tháng 7 - Jean Stablinski, cyclist Polish origin người Pháp, (sinh 1932)
22 tháng 7 - Aleksandr Tatarskiy, animation đạo diễn phim người Nga, (sinh 1950)
22 tháng 7 - Jarrod Cunningham, bóng bầu dục player người New Zealand, (sinh 1968)
23 tháng 7 - Benjamin Libet, pioneering nhà khoa học in the field human consciousness người Mỹ, (sinh 1916)
July 23 - Mohammed Zahir Shah, last King of Afghanistan (b. 1914)
24 tháng 7 - Albert Ellis, Psychologist người Mỹ, (sinh 1913)
26 tháng 7 - Skip Prosser, basketball huấn luyện viên người Mỹ, (sinh 1950)
27 tháng 7 - James Oyebola, heavyweight võ sĩ quyền Anh người Anh, (sinh 1961)
28 tháng 7 - Nguyễn Phúc Bảo Long, hoàng thái tử triều Nguyễn (sinh 1936)
29 tháng 7 - Mike Reid, diễn viên hài, diễn viên người Anh, (sinh 1940)
29 tháng 7 - Tom Snyder, người dẫn chương trình người Mỹ, (sinh 1936)
30 tháng 7 - Michelangelo Antonioni, đạo diễn phim người Ý, (sinh 1912)
July 30 - Teoctist Arăpaşu, Ex-Romanian Orthodox Church Patriarch (b. 1915)
30 tháng 7 - Ingmar Bergman, đạo diễn phim người Thụy Điển, (sinh 1918)
30 tháng 7 - Bill Walsh, football huấn luyện viên người Mỹ, (sinh 1931)
Tháng 8
1 tháng 8 - Tommy Makem, folk nhạc sĩ người Ireland, (sinh 1932)
1 tháng 8 - Ryan Cox, professional road racing cyclist người Nam Phi, (sinh 1979)
August 1 - Veikko Karvonen, Finnish athlete (b. 1926)
2 tháng 8 - Holden Roberto, nationalist leader người Angola, (sinh 1923)
2 tháng 8 - Chauncey Bailey, Columnist, newspaper chủ bút người Mỹ, (sinh 1949)
3 tháng 8 - James T. Callahan, diễn viên người Mỹ, (sinh 1930)
3 tháng 8 - John Gardner, tác gia người Anh, (sinh 1926)
4 tháng 8 - Lee Hazlewood, country ca sĩ, người sáng tác bài hát, nhà sản xuất + người Mỹ, (sinh 1929)
4 tháng 8 - Frank Mancuso, vận động viên bóng chày, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1918)
5 tháng 8 - Oliver Hill, luật sư người Mỹ, (sinh 1907)
5 tháng 8 - Jean-Marie Cardinal Lustiger, Cardinal Archbishop Paris người Pháp, (sinh 1926)
6 tháng 8 - Heinz Barth, war criminal người Đức, (sinh 1920)
August 7 - Hal Fishman, Los Angeles–based local news anchor (b. 1931)
7 tháng 8 - Ernesto Alonso, soap operas diễn viên, người đạo diễn, nhà sản xuất +, best known as người México, (sinh 1917)
7 tháng 8 - Angus Tait, electronics innovator, doanh nhân người New Zealand, (sinh 1919)
8 tháng 8 - Joybubbles, Phone Phreak người Mỹ, (sinh 1945)
8 tháng 8 - Ma Lik, chính trị gia người Trung Quốc, (sinh 1952)
8 tháng 8 - Melville Shavelson, đạo diễn phim, nhà sản xuất +,, người viết kịch bản phim người Mỹ, (sinh 1917)
9 tháng 8 - Joe O'Donnell, documentary nhà nhiếp ảnh, photojournalist người Mỹ, (sinh 1922)
10 tháng 8 - Tony Wilson, broadcaster, nightclub Manager,, record label owner (b.1950) người Anh
August 10 - James Faust, an Apostle in the Church of Jesus Christ of Latter-day Saints (b. 1920)
12 tháng 8 - Merv Griffin, TV nhân vật người Mỹ, (sinh 1925)
13 tháng 8 - Brooke Astor, người giao thiệp rộng, người làm việc thiện người Mỹ, (sinh 1902)
13 tháng 8 - Phil Rizzuto, vận động viên bóng chày, announcer người Mỹ, (sinh 1917)
13 tháng 8 - Brian Adams, professional đô vật Wrestling người Mỹ, (sinh 1964)
14 tháng 8 - Tikhon Khrennikov, nhà soạn nhạc người Nga, (sinh 1913)
15 tháng 8 - Richard Bradshaw, opera người chỉ huy dàn nhạc người Anh, (sinh 1944)
15 tháng 8 - John Gofman, Manhattan Project nhà khoa học, luật sư người Mỹ, (sinh 1918)
15 tháng 8 - Sam Pollock, thể thao Executive người Canada, (sinh 1925)
16 tháng 8 - Max Roach, Percussionist, nhạc công đánh trống,, nhà soạn nhạc người Mỹ, (sinh 1924)
17 tháng 8 - Eddie Griffin, cầu thủ bóng rổ người Mỹ, (sinh 1982)
18 tháng 8 - Michael Deaver, political adviser người Mỹ, (sinh 1938)
20 tháng 8 - Leona Helmsley, hotel Operator, real estate investor người Mỹ, (sinh 1920)
21 tháng 8 - Elizabeth P. Hoisington, brigadier General người Mỹ, (sinh 1918)
21 tháng 8 - Qurratulain Hyder, tiểu thuyết gia người Ấn Độ, (sinh 1926)
22 tháng 8 - Rhys Jones, Murdered English schoolboy (b. 1995)
24 tháng 8 - Abdul Rahman Arif, tổng thống thứ tư của Iraq (sinh 1916)
25 tháng 8 - Raymond Barre, chính trị gia, nhà kinh tế học người Pháp, (sinh 1924)
25 tháng 8 - Ray Jones, cầu thủ bóng đá người Anh, (sinh 1988)
26 tháng 8 - Gaston Thorn, chính trị gia người Luxembourg, (sinh 1928)
28 tháng 8- Antonio Pueta, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha, cầu thủ của đội Sevilla qua đời do tim ngừng đập khi đang thi đấu (sinh 1984)
28 tháng 8 - Francisco Umbral, nhà báo, tiểu thuyết gia, Biographer, essayist người Tây Ban Nha, (sinh 1935)
28 tháng 8 - Miyoshi Umeki, nữ diễn viên người Nhật Bản, (sinh 1929)
28 tháng 8 - Nikola Nobilo, Winemaker người New Zealand, (sinh 1913)
29 tháng 8 - Richard Jewell, falsely accused bombing the Centennial Olympic Park người Mỹ, (sinh 1962)
29 tháng 8 - Pierre Messmer, chính trị gia người Pháp, (sinh 1916)
29 tháng 8 - Chaswe Nsofwa, cầu thủ bóng đá người Zambia, (sinh 1978)
29 tháng 8 - James Muir Cameron Fletcher, Industrialist người New Zealand, (sinh 1914)
30 tháng 8 - Michael Jackson, nhà văn người Anh, (sinh 1942)
30 tháng 8 - Charles Vanik, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1918)
31 tháng 8 - Gay Brewer, vận động viên golf người Mỹ, (sinh 1932)
Tháng 9
1 tháng 9 - Tomás Medina Caracas, thủ lĩnh loạn quân người Colombia, (sinh 1965)
1 tháng 9 - Roy McKenzie, người làm việc thiện người New Zealand, (sinh 1922)
2 tháng 9 - Max McNab, vận động viên khúc côn cầu, hockey Executive người Canada, (sinh 1924)
3 tháng 9 - Jane Tomlinson, charity fund raiser người Anh, (sinh 1964)
3 tháng 9 - Syd Jackson, Māori activist and trade unionist (b. 1939)
5 tháng 9 - Jennifer Dunn, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1941)
5 tháng 9 - Paul Gillmor, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1939)
5 tháng 9 - D. James Kennedy, Evangelist người Mỹ, (sinh 1930)
6 tháng 9 - Madeleine L'Engle, tác gia người Mỹ, (sinh 1918)
6 tháng 9 - Luciano Pavarotti, ca sĩ tenor người Ý, (sinh 1935)
7 tháng 9 - Mark Weil, người đạo diễn kịch người Uzbekistan, (sinh 1952)
9 tháng 9 - Helmut Senekowitsch, cầu thủ bóng đá, huấn luyện viên người Áo, (sinh 1933)
10 tháng 9 - Anita Roddick, chủ doanh nghiệp người Anh, (sinh 1942)
10 tháng 9 - Jane Wyman, nữ diễn viên, vợ đầu của Ronald Reagan người Mỹ, (sinh 1917)
11 tháng 9 - Ian Porterfield, cầu thủ bóng đá người Scotland, (sinh 1946)
11 tháng 9 - Joe Zawinul, nhạc sĩ người Áo, (sinh 1932)
13 tháng 9 - Whakahuihui Vercoe, clergyman người New Zealand, (sinh 1928)
14 tháng 9 - Benny Vansteelant, duathlete người Bỉ, (sinh 1976)
15 tháng 9 - Colin McRae, world rally champion người Scotland, (sinh 1968)
15 tháng 9 - Aldemaro Romero, nhạc sĩ người Venezuela, (sinh 1928)
15 tháng 9 - Brett Somers, nữ diễn viên người Mỹ, (sinh 1924)
16 tháng 9 - Robert Jordan, tác gia người Mỹ, (sinh 1948)
19 tháng 9 - Antoine Ghanem, chính trị gia người Liban, (sinh 1943)
21 tháng 9 - Hallgeir Brenden, vận động viên điền kinh người Na Uy, (sinh 1929)
21 tháng 9 - Alice Ghostley, nữ diễn viên người Mỹ, (sinh 1926)
21 tháng 9 - Rex Humbard, Evangelist người Mỹ, (sinh 1919)
21 tháng 9 - Petar Stambolić, chính trị gia người Serbia, (sinh 1912)
22 tháng 9 - Marcel Marceau, nghệ sĩ kịch câm người Pháp, (sinh 1923)
23 tháng 9 - Ken Danby, nghệ sĩ người Canada, (sinh 1940)
26 tháng 9 - Bill Wirtz, doanh nhân người Mỹ, (sinh 1929)
27 tháng 9 - Bill Perry, cầu thủ bóng đá, scored winning goal in the 1953 FA Cup người Nam Phi, (sinh 1930)
27 tháng 9 - Avraham Shapira, chief Rabbi người Israel, (sinh 1914)
27 tháng 9 - Kenji Nagai, nhà báo người Nhật Bản, (sinh 1957)
28 tháng 9 - Wally Parks, founder the National Hot Rod Association người Mỹ, (sinh 1913)
29 tháng 9 - Lois Maxwell, nữ diễn viên người Canada, (sinh 1927)
30 tháng 9 - Milan Jelić, chính trị gia người Bosna và Hercegovina, (sinh 1956)
Tháng 10
1 tháng 10 - Chris Mainwaring, rules cầu thủ bóng đá người Úc, (sinh 1966)
1 tháng 10 - Al Oerter, vận động viên điền kinh người Mỹ, (sinh 1936)
1 tháng 10 - Ned Sherrin, broadcaster, theatre người đạo diễn người Anh, (sinh 1931)
2 tháng 10 - Dan Keating, republican người Ireland, (sinh 1902)
4 tháng 10 - Antonie Iorgovan, Jurist, giáo sư,, chính trị gia người România, (sinh 1948)
5 tháng 10 - Justin Tuveri, cựu chiến binh thế chiến thứ nhất, người Ý, (sinh 1898)
6 tháng 10 - Jo Ann Davis, chính trị gia người Mỹ, (sinh 1950)
7 tháng 10 - Norifumi Abe, motorcycle road racer người Nhật Bản, (sinh 1975)
8 tháng 10 - Constantine Andreou, họa sĩ, nhà điêu khắc người Hy Lạp, (sinh 1917)
11 tháng 10 - Sri Chinmoy, nhà triết học người Ấn Độ, (sinh 1931)
12 tháng 10 - Soe Win, Burmese politician (b. 1948)
12 tháng 10 - Kisho Kurokawa, kiến trúc sư người Nhật Bản, (sinh 1934)
13 tháng 10 - Bob Denard, Mercenary người Pháp, (sinh 1929)
16 tháng 10 - Deborah Kerr, nữ diễn viên người Scotland, (sinh 1921)
16 tháng 10 - Cao Xuân Hạo, giáo sư người Việt Nam
16 tháng 10 - Rosalio José Castillo Lara, hồng y giáo chủ người Venezuela, (sinh 1922)
16 tháng 10 - Toše Proeski, ca sĩ người Macedonia, (sinh 1981)
17 tháng 10 - Joey Bishop, Entertainer người Mỹ, (sinh 1918)
17 tháng 10 - Teresa Brewer, ca sĩ người Mỹ, (sinh 1931)
18 tháng 10 - Alan Coren, nhà bình luận người Anh, (sinh 1939)
18 tháng 10 - William J. Crowe, người chỉ huy quân đội, đại sứ người Mỹ, (sinh 1925)
18 tháng 10 - Lucky Dube, nhạc sĩ người Nam Phi, (sinh 1964)
19 tháng 10 - Randall Forsberg, nuclear freeze luật sư người Mỹ, (sinh 1943)
19 tháng 10 - Jan Wolkers, tác gia, nhà điêu khắc, họa sĩ người Đức, (sinh 1925)
20 tháng 10 - Max McGee, cầu thủ bóng đá người Mỹ, (sinh 1932)
22 tháng 10 - Ève Curie, tác gia, daughter Pierre, Marie Curie người Pháp, (sinh 1904)
23 tháng 10 - Lim Goh Tong, Chinese doanh nhân người Malaysia, (sinh 1918)
24 tháng 10 - Petr Eben, nhà soạn nhạc người Séc, (sinh 1929)
24 tháng 10 - Ian Middleton, tiểu thuyết gia người New Zealand, (sinh 1928)
26 tháng 10 - Nicolae Dobrin, cầu thủ bóng đá người România, (sinh 1947)
26 tháng 10 - Friedman Paul Erhardt, American pioneering truyền hình Chef người Đức, (sinh 1943)
26 tháng 10 - Arthur Kornberg, nhà hóa sinh vật học người Mỹ, (sinh 1918)
26 tháng 10 - Khun Sa, trùm buôn ma túy của Miến Điện (sinh 1934)
28 tháng 10 - Porter Wagoner, ca sĩ country nhạc người Mỹ, (sinh 1927)
30 tháng 10 - Robert Goulet, Entertainer người Mỹ, (sinh 1933)
Tháng 11
1 tháng 11 - Paul Tibbets, brigadier general, phi công the Enola Gay người Mỹ, (sinh 1915)
2 tháng 11 - Charmaine Dragun, anchor tin tức người Úc, (sinh 1978)
2 tháng 11 - S. P. Thamilselvan, chính trị gia người Sri Lanka Tamil (sinh 1967)
2 tháng 11 - Igor Moiseyev, Choreographer người Nga, (sinh 1906)
2 tháng 11 - Lillian Ellison, đô vật Wrestling chuyên nghiệp người Mỹ, (sinh 1923)
3 tháng 11 - Martin Meehan, đảng viên Đảng Cộng hòa người Ireland, (sinh 1945)
3 tháng 11 - Ryan Shay, vận động viên chạy đua người Mỹ, (sinh 1979)
5 tháng 11 - Nils Liedholm, cầu thủ bóng đá, huấn luyện viên người Thụy Điển, (sinh 1922)
6 tháng 11 - Enzo Biagi, nhà báo người Ý, (sinh 1920)
7 tháng 11 - Hilda Braid, nữ diễn viên người Anh, (sinh 1929)
8 tháng 11 - Chad Varah, Anglican Priest, founder the Samaritans người Anh, (sinh 1911)
9 tháng 11 - Luis Herrera Campins, tổng thống thứ 56 của Venezuela (sinh 1925)
10 tháng 11 - Laraine Day, nữ diễn viên người Mỹ, (sinh 1920)
10 tháng 11 - Augustus F. Hawkins, chính trị gia, civil rights lawmaker người Mỹ, (sinh 1907)
10 tháng 11 - Norman Mailer, nhà văn người Mỹ, (sinh 1923)
12 tháng 11 - Ira Levin, tiểu thuyết gia người Mỹ, (sinh 1929)
13 tháng 11 - John Doherty, cầu thủ bóng đá người Anh, (sinh 1935)
13 tháng 11 - Kazuhisa Inao, vận động viên bóng chày người Nhật Bản, (sinh 1937)
13 tháng 11 - Wahab Akbar, Filipino politician (b. 1960)
15 tháng 11 - Joe Nuxhall, vận động viên bóng chày, announcer người Mỹ, (sinh 1928)
16 tháng 11 - Harold Alfond, doanh nhân người Mỹ, (sinh 1914)
16 tháng 11 - Trond Kirkvaag, diễn viên hài, tác gia người Na Uy, (sinh 1946)
19 tháng 11 - Dick Wilson, diễn viên, "Mr. Whipple" người Mỹ, (sinh 1916)
20 tháng 11 - Ian Smith, thủ tướng Rhodesia, (sinh 1919)
21 tháng 11 - Fernando Fernán Gómez, diễn viên, đạo diễn, academic, Playwright người Tây Ban Nha, (sinh 1921)
21 tháng 11 - Tom Johnson, người điều hành thể thao, former vận động viên khúc côn cầu người Canada, (sinh 1928)
22 tháng 11 - Verity Lambert, nhà sản xuất, bác sĩ Who between 1963 & 1965. người Anh
23 tháng 11 - Joe Kennedy, vận động viên bóng chày người Mỹ, (sinh 1979)
24 tháng 11 - Mally Joheen, cầu thủ bóng đá người Pháp, (sinh 1950)
27 tháng 11 - Chính Hữu, tên thật là Trần Đình Đắc, là một nhà thơ Việt Nam, nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. (s. 1926)
Tháng 12
4 tháng 12 - Phạm Tiến Duật, là một nhà thơ Việt Nam với nhiều tác phẩm thơ tiêu biểu viết trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. (s. 1941)
Giải Nobel
Hóa học -
Hòa bình - Al Gore
Kinh tế -
Văn học - Doris Lessing
Vật lý - Albert Fert và Peter Grünberg
Y học - Mario Capecchi, Oliver Smithies và Briton Martin Evans |
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 9 năm 2006.
Thứ sáu, ngày 1 tháng 9
Vì phản đối kết quả bầu cử tháng 7, những nghị sĩ đối lập trong Quốc hội Mexico chặn Tổng thống México Vicente Fox không được đọc diễn văn Tình trạng Quốc gia lần cuối.
Chủ nhật, ngày 3 tháng 9
Vệ tinh SMART-1 của Cơ quan Vũ trụ châu Âu kết thúc phi vụ thành công khi đâm vào Mặt Trăng.
Tây Ban Nha thắng Hy Lạp và đoạt Giải vô địch bóng rổ thế giới 2006.
Thứ hai, ngày 4 tháng 9
Steve Irwin, ngôi sao trong chương trình TV The Crocodile Hunter (Thợ săn Cá sấu), bị cá đuối gai độc đâm chết, ông đang quay phim tài liệu dưới nước gần bờ biển Úc.
Thứ ba, ngày 5 tháng 9
Hơn 2 tháng sau cuộc bầu cử tổng thống tại México, Tòa án Bầu cử Liên bang tuyên bố rằng Felipe Calderón thắng cử.
Thứ tư, ngày 6 tháng 9
Vương phi Kiko của Nhật Bản sinh ra con trai thừa kế đầu tiên trong Hoàng gia Nhật Bản hơn 40 năm. Hoàng tử này là người thứ 3 trong thứ tự kế vị Ngôi Hoa cúc.
Thứ sáu, ngày 8 tháng 9
Thủ tướng Anh Tony Blair tuyên bố rằng ông sẽ từ chức trước Hội nghị Đảng Lao động năm 2007.
Thứ bảy, ngày 9 tháng 9
Robocon Kuala Lumpur 2006.
Chủ nhật, ngày 10 tháng 9
Michael Schumacher, tay đua xe thành công nhất trong lịch sử Công thức 1, tuyên bố rằng hết mùa thi đấu sẽ giải nghệ.
Quốc vương Taufaahau Tupou IV của Tonga qua đời, thọ 88 tuổi. Hoàng tử George Tupou V nối ngôi.
Đảng Xã hội–Dân chủ của thủ tướng đương nhiệm Milo Đukanović thắng cuộc bầu cử nghị viện đầu tiên của Montenegro.
Thứ tư, ngày 13 tháng 9
Một người bắn chết một phụ nữ và làm 19 người khác bị thương trước khi bị cảnh sát bắn chết tại Đại học Dawson ở Montréal, Québec, Canada.
Hành tinh lùn lớn nhất của Hệ Mặt Trời, đến nay được gọi "2003 UB313", được đặt tên chính thức là "Eris", và vệ tinh của nó được tên "Dysnomia".
Hội nghị Hàng năm thứ 61 giữa Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế bắt đầu tại Singapore.
Thứ sáu, ngày 15 tháng 9
Phi hành đoàn của tàu con thoi Atlantis trong phi vụ STS-115 hoàn thành việc đi bộ trong không gian để gắn miếng giàn P3/4 và đôi tấm năng lượng mặt trời vào Trạm Vũ trụ Quốc tế.
Thứ bảy, ngày 16 tháng 9
Bài diễn văn của Giáo hoàng Benedict XVI nói đến Hồi giáo gây ra tranh luận ở Ấn Độ và thế giới Hồi giáo.
Chủ nhật, ngày 17 tháng 9
Liên hiệp đối lập trung hữu, dẫn đầu là Fredrik Reinfeldt, thắng đảng Dân chủ Xã hội của Thủ tướng Göran Persson trong cuộc tổng tuyển cử Thụy Điển.
Sau khi nhiều người Hồi giáo từ khắp thế giới phản đối, Giáo hoàng Benedict XVI xin lỗi về việc trích dẫn một đoạn văn đối thoại Trung cổ mà chỉ trích Hồi giáo.
Thứ ba, ngày 19 tháng 9
Thủ tướng Thaksin Shinawatra của Thái Lan tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại Bangkok trong khi xe tăng của Quân đội Hoàng gia Thái Lan bao vây văn phòng chính phủ.
Biểu tình tại Budapest gây ra bạo lực, sau khi Thủ tướng Ferenc Gyurcsány của Hungary thừa nhận rằng đảng của ông dối để thắng cử.
Tại Singapore, Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế chấp nhận cải cách để cho Trung Quốc và những thị trường nổi lên khác được thêm quyền bỏ phiếu.
Thứ tư, ngày 20 tháng 9
Quân đội Thái Lan kiểm soát Bangkok, kể cả các tòa nhà chính phủ và các đài truyền hình, tuyên bố tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ. VNN
Thứ năm, ngày 21 tháng 9
Tàu con thoi Atlantis đáp xuống an toàn tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy sau phi vụ 12 ngày tại Trạm Vũ trụ Quốc tế.
Thứ bảy, ngày 23 tháng 9
Tai nạn tàu điện từ trường xảy ra tại Lathen, Emsland, Đức làm 23 người thiệt mạng.
Toomas Hendrik Ilves được bầu làm Tổng thống Estonia mới.
Vi khuẩn E. coli trong những bao rau spinach từ California làm ít nhất 165 người Mỹ bị bệnh, bao gồm 27 người bị hội chứng dung huyết và suy thận (HUS).
Tổng thống Gambia Yahya Jammeh được bầu làm nhiệm kỳ thứ ba.
Ali Abdullah Saleh, Tổng thống Yemen từ năm 1978, được bầu lại có đa số 77,2%, làm liên hiệp đối lập Yemen cho là gian lận bầu cử.
Thứ ba, ngày 26 tháng 9
Abe Shinzo được bầu làm tân Thủ tướng Nhật Bản, sau khi cựu Thủ tướng Koizumi Junichiro từ chức.
Thứ tư, ngày 27 tháng 9
Tổng giám mục Emmanuel Milingo bị Giáo hội Công giáo Rôma rút phép thông công vì tấn phong giám mục bốn người đã lấy vợ trong khi không có chỉ thị của giáo hoàng.
Thứ năm, ngày 28 tháng 9
Thi hài của nữ Sa hoàng Maria Fyodorovna được về Nga từ Đan Mạch và được cải táng ở Nhà thờ Phêrô và Phaolô tại Sankt-Peterburg.
Thứ sáu, ngày 29 tháng 9
Cơn bão Xangsane (Milenyo) đổ bộ vào miền bắc Philippines, làm ít nhất 70 người bị thiệt mạng và gây nhiều thiệt hại.
Phi vụ Soyuz TMA-8, với phi đoàn Thám hiểm 13 của Trạm Vũ trụ Quốc tế và khách du lịch vũ trụ người Mỹ gốc Iran Anousheh Ansari, đáp xuống thảo nguyên tại Kazakhstan.
Sony sẽ thu hồi những pin sạc lithi nguy hiểm, sau khi Dell, Apple, Lenovo, Toshiba, và Fujitsu thu hồi hàng triệu pin của Sony trong máy tính xách tay.
Máy HiRISE trên Mars Reconnaissance Orbiter của NASA chụp những hình Sao Hỏa đầu tiên ở quỹ đạo thấp có độ phân giải cao. |
(21 tháng 9 năm 1954 – 8 tháng 7 năm 2022) là một chính trị gia người Nhật Bản đã giữ chức Thủ tướng Nhật Bản bốn nhiệm kỳ liên tiếp đồng thời là Chủ tịch của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) từ 2012 đến 2020, và trước đó từ 2006 đến 2007. Ông cũng giữ chức Chánh Văn phòng Nội các từ năm 2005 đến 2006 và là Lãnh đạo Phe đối lập năm 2012. Ông là Thủ tướng có thời gian tại nhiệm dài nhất trong lịch sử Nhật Bản. Ngày 8 tháng 7 năm 2022, ông qua đời do bị ám sát.
Abe được bầu vào Chúng Nghị viện trong cuộc tổng tuyển cử năm 1993. Ông được chọn làm Chánh Văn phòng Nội các bởi Koizumi Junichirō vào tháng 9 năm 2005, trước khi kế nhiệm Koizumi làm Chủ tịch LDP tháng 9 năm 2006. Ông được xác nhận làm Thủ tướng Nhật Bản sau một phiên họp Quốc hội Nhật Bản ở tuổi 52, khiến ông là Thủ tướng sau chiến tranh trẻ nhất, và là người đầu tiên sinh sau Thế chiến thứ hai. Năm 2007, Abe từ chức Thủ tướng với lý do bệnh viêm loét đại tràng, không lâu sau khi đảng ông thua trong cuộc bầu cử Tham Nghị viện năm đó. Ông được kế nhiệm bởi Fukuda Yasuo, người đầu tiên trong chuỗi năm Thủ tướng mà không ai tại nhiệm hơn 16 tháng.
Sau khi phục hồi, Abe bất ngờ trở lại chính trị, vượt qua cựu Bộ trưởng Quốc phòng Ishiba Shigeru để trở thành Chủ tịch LDP lần thứ hai vào tháng 9 năm 2012. Tháng 12 năm 2012, sau chiến thắng áp đảo của LDP trong cuộc tổng tuyển cử, ông trở thành Thủ tướng đầu tiên tái nhiệm kể từ Yoshida Shigeru năm 1948. Ông tiếp tục đắc cử với kết quả áp đảo năm 2014 và 2017. Tháng 8 năm 2020, Abe thông báo ý định từ chức, với lý do là bệnh viêm loét đại tràng trở lại. Ông chính thức từ chức vào ngày 16 tháng 9 năm 2020, sau khi cuộc bầu cử lãnh đạo LDP diễn ra hai ngày trước đó. đã bầu ông Suga Yoshihide làm Chủ tịch LDP. Với việc đảng LDP chiếm đa số ở Quốc hội, ông Suga được bầu làm Thủ tướng, kế nhiệm ông Abe.
Abe là một chính trị gia bảo thủ được mô tả là một người theo chủ nghĩa dân tộc cánh hữu. Ông là thành viên của Nippon Kaigi và giữ quan điểm xét lại đối với lịch sử Nhật Bản, bao gồm việc từ chối mọi vai trò của chính phủ trong việc tuyển chọn phụ nữ mua vui trong Thế chiến thứ hai, dẫn đến nhiều căng thẳng với nước láng giềng Hàn Quốc. Ông được xem là có cách tiếp cận cứng rắn đối với Bắc Triều Tiên, và kêu gọi việc sửa đổi Điều 9 của Hiến pháp Nhật Bản để cho phép một lực lượng quân sự của Nhật. Abe cũng được biết trên thế giới với các chính sách kinh tế của chính phủ ông, thường gọi là Abenomics, chủ trương nới lỏng tiền tệ, kích thích tài chính, và cải cách cơ cấu. Tên gọi Abenomics được lấy cảm hứng từ những chính sách kinh tế lớn khác trên thế giới như Reaganomics, Clintonomics, Rogernomics, và Obamanomics.
Thời niên thiếu và học vấn
Abe Shinzō sinh ngày 21 tháng 9 năm 1954 tại Shinjuku, Tokyo trong một gia đình có ảnh hưởng kinh tế và chính trị lớn ở Nhật Bản cả trước và sau chiến tranh. Gia đình ông vốn từ tỉnh Yamaguchi, và địa chỉ thường trú của Abe (honseki chi) là Nagato, Yamaguchi, nơi ông ngoại ông sinh ra. Mặc dù khi còn là một cậu bé, ông khao khát trở thành một nhà làm phim, nhưng lịch sử gia đình Abe đã đưa ông vào con đường chính trị.
Trong thời kỳ Chiến tranh Thái Bình Dương, bố ông, Abe Shintarō tình nguyện làm phi công thần phong nhưng chiến tranh kết thúc trước khi ông hoàn tất huấn luyện. Sau đó, ông phục vụ tại Chúng Nghị viện từ năm 1958 đến năm 1991, với các chức vụ như Chánh Văn phòng Nội các, Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Quốc tế, và Bộ trưởng Ngoại giao.
Ông ngoại của ông, Kishi Nobusuke, giữ chức Thủ tướng từ 1957 đến 1960, "vua kinh tế" de facto của Trung Quốc, Hàn Quốc, và Mãn Châu Quốc, chính phủ bù nhìn của Nhật tại Bắc Trung Hoa. Kết thúc chiến tranh, Kishi bị xét xử dưới dạng một tội phạm chiến tranh, nhưng chính sách của Tư lệnh Tối cao cho các Phe Đồng minh, người nắm quyền Nhật Bản sau thế chiến, thay đổi và trở nên chống cộng. Kết quả là Kishi được thả từ nhà tù Sugamo và thành lập Đảng Dân chủ Nhật Bản. Trong quyển sách Utsukushii Kuni e (Hướng đến một Quốc gia Tươi đẹp), Abe viết, "Một số người từng coi ông ngoại tôi là một 'nghi phạm tội ác chiến tranh Hạng A', và tôi căm ghét điều đó. Vì lẽ đó, có thể đã khiến tôi gần gũi hơn với 'chủ nghĩa bảo thủ'".
Năm 1955, Đảng Tự do của Yoshida Shigeru và Đảng Dân chủ của Kishi hợp nhất thành một liên minh chống cánh tả, trở thành LDP. Không chỉ họ ngoại, dòng họ nội của ông cũng quy tụ rất nhiều tên tuổi của nền chính trị Nhật Bản. Ông nội của ông là Abe Kan từng phục vụ trong Hạ viện Nhật Bản. Cha của Abe, ông Abe Shintarō từng là Bộ trưởng Ngoại giao từ năm 1982 đến năm 1986 và từng được nhắc đến như một người tiềm năng cho vị trí thủ tướng. Bên cạnh đó Abe Shinzō còn có quan hệ gần gũi với Thủ tướng, và cũng là chú của ông, Satō Eisaku là người từng giữ chức vụ này từ năm 1964 cho đến năm 1972 và sau đó được trao giải Nobel Hòa Bình vào năm 1974.
Abe tham dự Trường Tiểu học Seikei, Trường Trung học Seikei và Trường Cao trung Seikei (成蹊中学校・高等学校). Ông học hành chính công và tốt nhiệm với bằng cử nhân khoa học chính trị tại Đại học Seikei năm 1977. Ông sau đó chuyển đến Mỹ và theo học chính sách công tại Trường Chính sách Công USC Sol Price thuộc Đại học Nam California trong ba học kỳ.
Tháng 4 năm 1979, Abe bắt đầu làm việc cho Kobe Steel. Ông rời công ty năm 1982 và theo đuổi một số vị trí trong chính phủ bao gồm trợ lý điều hành của Bộ trưởng Ngoại giao, thư ký riêng cho chủ tịch Đại Hội đồng LDP, và thư ký riêng cho Tổng Thư ký LDP.
Hạ Nghị sĩ
Abe được bầu lên ở khu vực 1 của tỉnh Yamaguchi năm 1993, với số phiếu cao nhất trong số bốn nghị sĩ được bầu. Năm 2000 đến 2003, ông làm Phó Chánh Vằn phòng Nội các của nội các Mori Yoshirō và Koizumi Junichirō, sau đó ông được bổ nhiệm làm Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Tự do.
Abe là thành viên của phái Mori (trước gọi là Seiwa Seisaku Kenkyū-kai) của LDP. Bè phái này do cựu Thủ tướng Mori Yoshirō đứng đầu, sau bố ông Abe là Shintarō giữ chức vụ này từ năm 1986 đến 1991.
Năm 2000, nhà riêng và văn phòng của Abe ở Shimonoseki, tỉnh Yamaguchi, bị tấn công nhiều lần bằng chai cháy. Thủ phạm là một số thành viên Yakuza thuộc Kudo-kai, một băng nhóm tại Kitakyushu. Nguyên nhân của vụ việc được cho là vì hỗ trợ địa phương của Abe từ chối cho tiền cho một người môi giới bất động sản Shimonoseki để ủng hộ ứng viên thị trưởng Shimonoseki năm 1999.
Ông đứng đầu một dự án thuộc LDP nhằm tổ chức các cuộc khảo sát về "giáo dục giới tính quá độ và giáo dục phi giới tính". Một số điều mà dự án phản đối bao gồm búp bê giải phẫu và những tư liệu giảng dạy khác "không xét đến tuổi của trẻ em", chính sách của nhà trường cấm các lễ hội truyền thống của bé trai và bé gái, và giáo dục thể chất cả hai giới. Dự án này đối lập với Đảng Dân chủ Nhật Bản, được cho là ủng hộ những chính sách này.Ngày 23 tháng 4 năm 2006, Abe được bầu làm chủ tịch của Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền. Những đối thủ cạnh tranh chính của ông là Tanigaki Sadakazu và Asō Tarō. Fukuda Yasuo là một ứng cử viên tiềm năng ban đầu nhưng cuối cùng không tham dự tranh cử. Nguyên Thủ tướng Mori Yoshirō, người đứng đầu bè phái của cả Abe và Fukuda, nói rằng bè phái nghiêng về Abe nhiều hơn rõ ràng. Năm 2021, Abe lên làm người đứng đầu phái Abe, kế tục phái Hosoda do Hosoda Hiroyuki đứng đầu.
Thủ tướng nhiệm kỳ thứ nhất (2006–2007)
Ngày 26 tháng 9 năm 2006, Abe nhậm chức Thủ tướng Nhật Bản sau khi thủ tướng đương nhiêm là Koizumi Junichirō từ chức. Ở tuổi 52, ông là thủ tướng trẻ nhất kể từ Fumimaro Konoe năm 1941.
Chính sách đối nội
Abe thể hiện cam kết với những cải cách của người tiền nhiệm Koizumi Junichirō. Ông tiến hành cân bằng ngân sách của Nhật Bản qua một số hành động, như là bổ nhiệm Omi Kōji, một chuyên gia chính sách về thuế, làm Bộ trưởng Tài chính. Omi từng ủng hộ việc tăng thuế tiêu thụ quốc gia, tuy nhiên Abe không đồng tình với chính sách này và cố đạt mục tiêu ngân sách qua việc cắt giảm chi tiêu.
Từ 1997, Abe đã ủng hộ việc cải cách sách giáo khoa lịch sử gây nhiều tranh cãi và New History Textbook. Tháng 3 năm 2007, Abe, cùng với các chính trị gia cánh hữu, đề xuất một đạo luật nhằm khuyến khích chủ nghĩa dân tộc và "tình yêu quê hương tổ quốc" hướng tới giới trẻ Nhật Bản ().
Abe giữ quan điểm bảo thủ trong tranh cãi thừa kế Nhật Bản, và không lâu sau khi Thân vương Hisahito chào đời, ông bác bỏ một đề xuất sửa đổi lập pháp cho phép phụ nữ thừa kế Ngai vàng hoa cúc.
Chính sách đối ngoại
Bắc Triều Tiên
Abe nhìn chung có lập trường cứng rắn đối với Bắc Triều Tiên, đặc biệt trong việc nước này bắt cóc công dân Nhật Bản.
Trong các cuộc đàm phán năm 2002 giữa Nhật Bản và Bắc Triều Tiên, Thủ tướng Koizumi và Lãnh tụ tối cao Kim Jong-il đồng ý cho phép những người bị bắt cóc đến thăm Nhật Bản. Một vài tuần sau chuyến thăm, chính phủ Nhật Bản quyết định những người bị bắt cóc sẽ bị giới hạn trở về Bắc Triều Tiên nơi gia đình của họ sinh sống. Abe nhận công cho chính sách này trong quyển sách bán chạy của ông, . Bắc Triều Tiên chỉ trích quyết định của Nhật Bản là sự vi phạm lời hứa ngoại giao, và cuộc đàm phán kết thúc.
Trung Quốc và Đài Loan
Abe đã công nhận nhu cầu cải thiện quan hệ với Trung Quốc và, cùng với Bộ trưởng Ngoại giao Asō Tarō, tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh với Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào. Abe cũng khẳng định quan hệ Nhật Bản–Trung Quốc không nên dựa vào cảm xúc nữa.
Abe nhận được một số ủng hộ bởi các chính trị gia Đài Loan thuộc Liên minh Toàn Lục hướng đến Đài Loan độc lập. Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Trần Thủy Biển chúc mừng Abe lên chức thủ tướng. Một phần của sự ủng hộ này là do yếu tố lịch sử: ông ngoại ông Kishi Nobusuke ủng hộ Đài Loan, và em trai của Kishi, Satō Eisaku, là Thủ tướng cuối cùng đến thăm Đài Loan khi tại chức.
Ấn Độ
Abe thể hiện mong muốn nâng cấp quan hệ Ấn Độ–Nhật Bản chiến lược. Năm 2007, Abe khởi xướng Đối thoại An ninh Bốn bên giữa Nhật, Mỹ, Úc, và Ấn Độ. Tháng 8 năm 2007, Abe thực hiện chuyến thăm ba ngày đến Ấn Độ để thiết lập mối quan hệ song phương mới, xây dựng trên cơ sở lịch sử thân thiện giữa hai nước. Chính sách đối ngoại thiết thực đối với Ấn Độ của Abe nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế Nhật Bản qua một đối tác quan trọng tại châu Á.
Thủ tướng nhiệm kỳ thứ hai (2012–2014)
Ngày 26 tháng 12 năm 2012, Abe được bầu làm Thủ tướng bởi Quốc hội, với 328 phiếu thuận trong số 480 thành viên của Chúng Nghị viện. Ông và nội các thứ hai của mình, được ông gọi là "nội các giải quyết khủng hoảng", tuyên thệ vào cùng ngày. Chính phủ mới bao gồm nhiều thành viên tên tuổi của LDP như là nguyên Thủ tướng Asō Tarō làm Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Tài chính, Suga Yoshihide làm Chánh Văn phòng Nội các và Amari Akira làm Bộ trưởng Kinh tế. Sau chiến thắng của mình, Abe nói, "Với sức mạnh của toàn bộ nội các của tôi, tôi sẽ tiến hành chính sách tiền tệ mạnh dạn, chính sách tài chính mềm dẻo, và một chiến lược phát triển khuyến khích đầu tư tư nhân, và với ba cột trụ chính sách này, đạt được thành quả".
Tháng 2 năm 2013, Abe có một bài phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington, D.C., trong đó ông giải thích mục tiêu kinh tế và ngoại giao của mình, và rằng ông lên làm thủ tướng để ngăn không cho Nhật Bản trở thành một "nước hạng hai", tuyên bố rằng "Nhật Bản đã trở lại".
Chính sách kinh tế (Abenomics)
Nội các thứ hai của Abe tái thiết Hội đồng Chính sách Kinh tế và Tài khóa (CEFP) từng đóng vai trò cốt yếu trong việc hình thành chính sách kinh tế của thời Koizumi, nhưng bị bãi bỏ bởi chính quyền DPJ 2009–12.
Trong bài phát biểu chính sách tháng 1 năm 2013, Abe tuyên bố với Quốc hội rằng phục hồi kinh tế và thoát khỏi giảm phát là "vấn đề lớn và cấp bách nhất" mà Nhật Bản đối mặ. Chiến lược kinh tế của ông, thường được gọi là Abenomics, gồm "ba mũi tên" chính (lấy cảm hứng từ một giai thoại Nhật Bản). Mũi tên thứ nhất là mở rộng tiền tệ với mục tiêu là lạm phát đạt mức 2%, thứ hai là chính sách tài khóa mềm dẻo đóng vai trò là kích thích kinh tế ngắn hạn để đạt được thặng dư ngân sách, và thứ ba là chiến lược phát triển tập trung vào cải tổ cơ cấu và đầu tư khu vực tư để phát triển dài hạn.
"Mũi tên thứ nhất": Chính sách tiền tệ
Tại buổi họp đầu tiên của CEFP ngày 9 tháng 1 năm 2013, Abe tuyên bố rằng Ngân hàng Nhật Bản nên theo đuổi một chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm đạt mục tiêu lạm phát ở mức 2 phần trăm. Abe tạo áp lực lên Thống đốc của ngân hàng, Shirakawa Masaaki, nhằm đồng ý với kế hoạch này. Shirakawa, người vốn do dự trong việc đặt mục tiêu cụ thể, từ chức trước khi kết thúc nhiệm kỳ vào tháng 2 cùng năm. Abe sau đó bổ nhiệm Kuroda Haruhiko làm Thống đốc, người từng ủng hộ đặt mục tiêu lạm phát, và thúc đẩy chính sách nới lỏng tiền tệ của chính phủ.
Tháng 4 năm 2013, sau cuộc họp của hội đồng chính sách của ngân hàng, Kuroda thông báo một chương trình sâu rộng nhằm gấp đôi nguồn cung tiền tệ và đạt mục tiêu lạm phát trong "thời gian sớm nhất có thể". Trong sáu tháng kể từ Abe lên nắm quyền lần hai, đồng yên giảm từ 77 yên một đô la xuống còn 101,8 yên, và chỉ số Nikkei 225 tăng 70 phần trăm.
Tháng 10 năm 2014, Kuroda thông báo BOJ sẽ thúc đẩy chương trình nới lỏng và việc mua tài sản, được hội đồng thông qua với năm phiếu thuận và bốn phiếu chống. Đây được coi là phản ứng trước chỉ số kinh tế đáng thất vọng sau khi Abe tăng thuế tiêu dùng lên 8 phần trăm, lạm phát đã giảm xuống 1 phần trăm từ mức đỉnh 1,5 phần trăm vào tháng 4.
"Mũi tên thứ hai": Chính sách tài khóa
Ngân sách đầu tiên của Nội các Abe có một gói kích thích trị giá 10,3 nghìn tỷ yên, bao gồm chi tiêu công, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và khuyến khích đầu tư, hướng tới tăng trưởng ở mức 2 phần trăm. Ngân sách cũng tăng chi tiêu quốc phòng và nhân công, trong khi giảm viện trợ nước ngoài.
Mùa thu năm 2013, Abe quyết định thực hiện bước đầu tiên trong việc tăng thuế tiêu dùng, từ 5 phần trăm lên 8 phần trăm vào tháng 4 năm 2014 (bước thứ hai dự kiến tăng lên 10 phần trăm vào tháng 10 năm 2015). Dự luật được thông qua dưới thời chính phủ DPJ trước đó, nhưng quyết định cuối cùng nằm ở Thủ tướng. Abe và Bộ trưởng Tài chính Asō Tarō giải thích rằng việc tăng thuế là để cung cấp cơ sở "bền vững" cho chi tiêu xã hội và tránh phải dự vào trái phiếu chính phủ để kích thích kinh tế trong tương lai. Tuy việc này dự kiến sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế sau khi có hiệu lực, Abe cũng thông báo một gói kích thích 5 nghìn tỷ yên nhằm giảm thiểu tác động của nó. Sau khi thuế tăng vào tháng 4, kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái trong quý hai và ba của năm 2014, khiến Abe hoãn việc tăng thuế lần hai đến tháng 4 năm 2017 và kêu gọi một cuộc bầu cử nhanh. Để đối phó với suy thoái, Asō thông báo chính phủ sẽ kiến nghị Quốc hội thông qua một gói kích thích thêm trị giá 2–3 nghìn tỷ yên.
"Mũi tên thứ ba": Chiến lược phát triển và cải tổ cơ cấu
Ngày 15 tháng 3 năm 2013, Abe thông báo Nhật Bản đang tiến hành đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), được coi là biện pháp để chính phủ thực hiện những cải cách để tự do hóa một số khu vực của nền kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là nông nghiệp, và bị chỉ trích bởi những nhà vận động hành lang nông nghiệp và một số thành viên của LDP. Nhà kinh tế học Yoshizaki Tatsuhiko miêu tả TPP có tiềm năng trở thành "trục chính của chiến lược hồi phục kinh tế của Abe" bằng cách khiến Nhật Bản cạnh tranh hơn qua tự do thương mại. Tháng 2 năm 2015, chính phủ Abe đạt thỏa thuận nhằm giới hạn quyền lực của JA-Zenchu trong việc giám sát và kiểm tra các hợp tác xã nông nghiệp của Nhật, nhằm hỗ trợ đàm phán TPP, đồng thời cải thiện tính cạnh tranh của ngành nông nghiệp Nhật Bản và giảm bớt ảnh hưởng của vận động nông nghiệp.
Abe tiết lộ những biện pháp liên quan đến "mũi tên thứ ba" vào tháng 6 năm 2013, bao gồm kế hoạch thành lập các đặc khu kinh tế và cho phép buôn bán thuốc trên mạng, nhưng không có những biện pháp đáng kể nào vê thị trường lao động hay cải cách doang nghiệp. Những biện pháp này không được đánh giá tích cực như hai mũi tên đầu của Abe, với thị trường chứng khoán giảm nhẹ và những người phản đối cho rằng chúng thiếu chi tiết cụ thể; tờ The Economist đánh giá thông báo của ông Abe là một "phát bắn nhầm". Tuy nhiên, các nhà phân tích chỉ ra Abe đang đợi sau cuộc bầu cử Thượng viện vào tháng 7 để tiết lộ thêm chi tiết, nhằm tránh những phản ứng tiêu cực của người bỏ phiếu trước việc cải cách. Tại cuộc họp thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos, Thụy Sĩ năm 2014, Abe khẳng định ông sẵn sàng trở thành "mũi khoan" phá vỡ tảng đá của lợi ích cá nhân và "quan liêu" nhằm đạt được việc cải tổ cơ cấu kinh tế. Ông trích dẫn những cải cách trong nông nghiệp, năng lượng, và y tế làm minh chứng, đồng thời cam kết thúc đẩy TPP, một thỏa thuận thương mại EU–Nhật Bản, và cải cách thuế và quản trị doanh nghiệp.
Tháng 6 năm 2014, Abe thông báo một loạt các cải cách cơ cấu mà tờ The Economist miêu tả giống như "một bó 1.000 hơn là một mũi tên" và nhận xét tích cực hơn thông báo năm 2013. Những biện pháp bao gồm cải tổ quản trị doanh nghiệp, nới lỏng quy định thuê nhân công ngoại quốc trong đặc khu kinh tế, tự do hóa ngành y tế và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp địa phương và nước ngoài. Kế hoạch cũng bao gồm việc giảm thuế doanh nghiệp xuống dưới 30 phần trăm, mở rộng dịch vụ chăm sóc trẻ em nhằm khuyến khích phụ nữ tham gia làm việc, và nới lỏng quy định về làm thêm giờ. Tháng 12 năm 2015, chính phủ thông báo thuế doanh nghiệp sẽ giảm xuống 29,97 phần trăm trong năm 2016, sớm hơn một năm so với kế hoạch, và dự định sẽ tiếp tục giảm còn 29,74 phần trăm.
Tháng 9 năm 2013, Abe kêu gọi một "xã hội mà tất cả phụ nữ có thể tỏa sáng", đặt mục tiêu 30 phần trăm các vị trí lãnh đạo sẽ được nắm bởi phụ nữ trong năm 2020. Abe đề cập các ý tưởng "womenomics" của Kathy Matsui rằng gia tăng sự tham gia của phụ nữ trong lực lượng lao động, vốn tương đối thấp ở Nhật, nhất là ở các vị trí lãnh đạo, có thể cải thiện GDP và tỉ lệ sinh của Nhật. Nội các Abe đã thông báo các biện pháp mở rộng chăm sóc trẻ em và dự luật yêu cầu các tổ chức công khai dữ liệu về số lượng và chức vụ của phụ nữ.
Tháng 11 năm 2013, nội các Abe thông qua dự luật nhằm tự do hóa nền điện lực Nhật Bản bằng việc dỡ bỏ kiểm soát giá thành, chia tách những công ty độc quyền, tách biệt việc phát và truyền điện bằng việc thành lập công ty lưới điện quốc gia. Bước đi này một phần là phản hồi trước thảm họa Fukushima năm 2011, và dự luật được hầu hết Quốc hội tán thành. Đến tháng 3 năm 2015, hơn 500 công ty đã đăng ký với Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp để tham gia thị trường bán lẻ điện, dự kiến đến 2016 sẽ tự do hóa hoàn toàn ngành điện lực, đến năm 2017 là ngành dầu khí. Abe cũng nói ông ủng hộ việc tái xây dựng lò phản ứng điện hạt nhân của Nhật sau thảm họa Fukushima, mặc dù hầu hết quyền hạn tái thiết nhà máy điện hạt nhân nằm ở chính quyền địa phương.
Tháng 7 năm 2015, Quỹ Tiền tệ Quốc tế báo cáo rằng trong khi việc cải tổ cơ cấu đã cải thiện viễn cảnh kinh tế "một cách khiêm tốn", "cần có những cải tổ cơ cấu sâu rộng để tăng tốc độ tăng trưởng" và giảm phụ thuộc vào việc giảm giá trị đồng yên.
Bầu cử Thượng viện 2013
Khi Abe tái nhậm chức, mặc dù cả DPJ và LDP đều không kiểm soát Tham Nghị viện (Thượng viện của Quốc hội Nhật Bản) kể từ cuộc bầu cử năm 2007, phe đối lập DPJ là đảng chiếm số ghế lớn nhất. Đảng cầm quyền chiếm hai phần ba số ghế trong hạ viện, đủ để hủy bỏ sự phủ quyết của thượng viện, nhưng cần một khoảng thời gian là 90 ngày. Tình trạng này, còn được gọi là "Quốc hội xoắn", đã dẫn đến bế tắc chính trị và sự thay đổi Thủ tướng liên tục kể từ năm 2007. Chiến dịch của ông Abe trong cuộc bầu cử năm 2013 tập trung vào việc phục hồi kinh tế, kêu gọi người dân cho ông quyền lực vững vàng trong cả hai viện để theo đuổi cải cách, và dùng giọng điệu ôn hòa hơn trong những vấn đề quốc phòng và hiến pháp.
Sau cuộc bầu cử Thượng viện tháng 7 năm 2013, LDP chiếm nhiều ghế nhất, 115 ghế (tăng 31), và Komeito giữ 20 ghế (tăng 1), khiến Abe kiểm soát cả hai viện của Quốc hội, nhưng không đủ hai phần ba Thượng viện cần để chỉnh sửa hiến pháp. Do không có cuộc bầu cử nào khác cho đến năm 2016, đây được coi là "ba năm vàng" cho Abe với sự ổn định của Quốc hội, giúp ông có cơ hội thi hành các chính sách của mình.
Chính sách đối nội
Nhiệm kỳ thủ tướng thứ hai chứng kiến những cố gắng của Abe nhằm giảm bớt sự tàn bạo của tội ác chiến tranh của Nhật trong sách giáo khoa nước này, một trong những vấn đề khiến ông từ chức lần đầu tiên. Năm 2013, Abe ủng hộ việc thành lập chương trình Dự án Đại học Toàn cầu. Đây là một chương trình mười năm nhằm tăng số lượng sinh viên quốc tế trong các trường đại học Nhật Bản cũng như thuê thêm giảng viên nước ngoài. Đồng thời cũng có nguồn tài trợ một số trường đại học để thành lập chương trình giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh.
Năm 2014, Abe cấp hàng triệu đô la cho ngân sách hỗ trợ các chương trình giúp người độc thân ở Nhật tìm bạn đời của mình. Những chương trình với tên gọi "Chương trình hỗ trợ hôn nhân" được khởi xướng với hy vọng tăng tỷ lệ sinh của Nhật Bản, vốn rất thấp và đang giảm dần.
Chính sách đối ngoại
Ngay sau khi nhậm chức, Thủ tướng Abe đã khẳng định về một "sự chuyển mình mạnh mẽ" trong chính sách đối ngoại và hứa theo đuổi chính sách ngoại giao với toàn cầu, thay vì giới hạn tầm nhìn ở khu vực hoặc song phương, dựa trên "các giá trị cơ bản của tự do, dân chủ, nhân quyền, và pháp quyền". Việc ông chọn Kishida Fumio làm Bộ trưởng Ngoại giao được coi là dấu hiệu cho thấy ông sẽ theo đuổi đường lối ôn hòa hơn so với lập trường cứng rắn của mình trong cuộc tổng tuyển cử trước đó.
Vài tuần sau khi nắm quyền, nội các Abe đối mặt với khủng hoảng con tin In Amenas năm 2013 khiến 10 công dân Nhật Bản bị giết. Abe lên án vụ giết người là "hoàn toàn không thể tha thứ" và xác nhận đã hợp tác cùng với Vương quốc Anh. Abe tin rằng vụ việc cho thấy sự cần thiết của việc thành lập một Hội đồng An ninh Quốc gia Nhật Bản (xem ở dưới), và triệu tập một ủy ban xem xét việc thành lập tổ chức này sau cuộc khủng hoảng.
Khác với nhiều Thủ tướng Nhật khác, Abe rất tích cực trong lĩnh vực ngoại giao, ghé thăm tổng cộng 49 quốc gia từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 9 năm 2014, một con số được coi là "chưa từng có tiền lệ" (để so sánh, hai người tiền nhiệm của Abe là Kan Naoto và Noda Yoshihiko đến thăm tổng cộng 18 quốc gia từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 12 năm 2012). Đây được coi là để bù lại cho quan hệ xấu với Trung Quốc và Hàn Quốc bằng cách gia tăng ảnh hưởng của Nhật trên trường quốc tế và cải thiện quan hệ song phương với những nước khác trong khu vực. Các nước Đông Nam Á, Úc, và Ấn Độ là những điểm đến thường xuyên và quan trọng cho Abe, người thăm toàn bộ 10 nước ASEAN chỉ trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ. Các chuyến thăm ngoại giao cũng giúp quảng bá Nhật Bản trở thành một cộng đồng kinh doanh quốc tế và mở cửa cho những đầu tư thương mại, năng lượng, và quốc phòng.
Tháng 9 năm 2013, Abe giúp Tokyo trúng thầu Thế vận hội Mùa hè 2020, phát biểu bằng tiếng Anh tại phiên họp IOC ở Buenos Aires, trong đó ông ca ngợi vai trò của thể thao tại Nhật và trấn an ủy ban rằng bất kỳ sự cố nào liên quan đến nhà máy điện Fukushima đều đã được kiểm soát. Sau khi trúng thầu, Abe hy vọng sự kiện là biểu tượng cho kế hoạch tái thiết nền kinh tế của ông, nói rằng "Tôi muốn biến Thế vận hội thành ngòi nổ thổi bay đi 15 năm giảm phát và đình trệ kinh tế".
Chính sách đối ngoại của Abe không còn tập trung vào quan hệ song phương với ba cường quốc là Hoa Kỳ, Trung Quốc, và Hàn Quốc, mà chuyển sang tăng cường hiện diện quốc tế của Nhật qua việc liên kết với NATO, EU, và các tổ chức khác ngoài khu vực châu Á–Thái Bình Dương. Năm 2014, Abe và Thủ tướng Anh David Cameron nhất trí thành lập một "khuôn khổ 2 + 2" tham vấn thường niên giữa bộ quốc phòng và ngoại giao của hai nước, với Abe kêu gọi tăng cường hợp tác trong các vấn đề "từ hòa bình hàng hải đến an ninh của bầu trời, không gian và không gian mạng". Một thỏa thuận tương tự cũng đã được thành lập với Pháp trước đó.
Abe ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Nhật–Úc với Chính phủ Abbott năm 2014 và phát biểu trước Nghị viện Úc vào tháng 7. Trong thông báo thỏa thuận, ông gửi lời chia buồn với những người Úc phải trải qua những mất mát và đu thương trong Thế chiến thứ hai – đặc biệt nói về chiến dịch Đường mòn Kokoda và cuộc hành quân chết chóc Sandakan. Ông cũng là Thủ tướng Nhật đầu tiên phát biểu trước Nghị viện Úc.
Tháng 1 năm 2014, Abe trở thành lãnh đạo Nhật Bản đầu tiên tham dự cuộc diễu hành Ngày Cộng hòa ở Delhi, Ấn Độ trong một chuyến viếng thăm kéo dài ba ngày. Ông và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đồng ý tăng cường hợp tác kinh tế, quốc phòng, an ninh và ký kết các hiệp định thương mại, năng lượng, du lịch và viễn thông. Sau khi Narendra Modi trở thành Thủ tướng Ấn Độ tháng 5 năm 2014, ông thực hiện chuyến thăm ngoại giao đầu tiên đến Nhật Bản mùa thu năm đó, nơi ông và Abe thảo luận về hiệp định hợp tác hạt nhân, nguyên tố đất hiếm và diễn tập trên biển.
Quan hệ giữa Nhật và hai nước láng giềng, Trung Quốc và Hàn Quốc, vẫn không cải thiện sau khi Abe nhậm chức. Mặc dù ông khẳng định "cửa luôn mở ở bên tôi", không cuộc họp song phương nào giữa Abe và nguyên thủ Trung Quốc diễn ra trong vòng 23 tháng đầu của nhiệm kỳ của ông. Ông Abe cũng không tổ chức bất kỳ cuộc gặp mặt nào với Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye trong nhiệm kỳ thứ hai này. Cả hai nước chỉ trích việc Abe thăm Đền Yasukuni tháng 12 năm 2013, với Bộ trưởng Ngoại giao của Trung Quốc mô tả hành động đưa Nhật vào một chiều hướng "hết sức nguy hiểm". Đồng thời, Trung Quốc cũng chỉ trích chính sách cải cách quốc phòng của Abe, cảnh báo rằng Nhật không nên từ bỏ chủ nghĩa hòa bình sau chiến tranh. Bài phát biểu của Abe trước WEF năm 2014 được coi là phê phán chính sách ngoại giao và quốc phòng của Trung Quốc, khi ông nói "thành quả phát triển ở châu Á không được lãng phí cho việc mở rộng quân sự", mặc dù không nói đích danh quốc gia nào.
Tháng 11 năm 2014, Abe gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại cuộc họp APEC ở Bắc Kinh lần đầu tiên kể từ khi cả hai nhậm chức. Sau đó, ông Abe nói với phóng viên rằng trong cuộc họp, ông đã đề xuất thiết lập một đường dây nóng giữa Tokyo và Bắc Kinh nhằm giải quyết các xung đột hàng hải, và "bước đầu tiên" để cải thiện quan hệ đã được tiến hành.
Chính sách quốc phòng và an ninh
Abe đã nỗ lực tập trung chính sách an ninh trong văn phòng Thủ tướng bằng việc thành lập Hội đồng An ninh Quốc gia Nhật Bản để hoạch địch chính sách tốt hơn, và đề ra Chiến lược An ninh Quốc gia đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản. Dựa trên cơ quan Mỹ cùng tên, dự luật thành lập NSC được thông qua tháng 11 năm 2013 và bắt đầu hoạt động vào tháng sau, khi Abe chọn Yachi Shotaro làm Cố vấn An ninh Quốc gia đầu tiên của Nhật Bản.
Tháng 12 năm 2013, Abe thông báo một kế hoạch năm năm nhằm củng cố quân đội. Ông miêu tả nó là "chủ nghĩa hòa bình chủ động", với mục đích biến Nhật trở thành một nước "bình thường", có khả năng bảo vệ chính mình. Đây được coi là phản ứng trước việc gia tăng hoạt động quân sự của Trung Quốc và ảnh hưởng giảm dần của Mỹ trong khu vực.
Vào cùng tháng, Quốc hội thông qua Luật Bí mật Quốc gia, có hiệu lực từ tháng 12 năm 2014. Đạo luật mở rộng phạm vi thông tin được chính phủ coi là bí mật quốc gia, đồng thời tăng mức phạt đối với quan chức và nhà báo để lộ thông tin tới 10 năm tù giam và 10 triệu yên tiền phạt. Đạo luật gây nên nhiều tranh cãi, với hàng ngàn người biểu tình phản đối ở Tokyo và mức độ ủng hộ nội các hạ xuống 50 phần trăm lần đầu tiên trong một số khảo sát. Abe cho rằng đạo luật là cần thiết và chỉ áp dụng trong trường hợp an ninh quốc gia, ngoại giao, an toàn công cộng và chống khủng bố, nói rằng, "Nếu đạo luật ngăn không cho làm phim, hay làm suy yếu tự do báo chí, tôi sẽ từ chức". Tuy nhiên sau này ông cũng thừa nhận rằng chính phủ đáng lẽ nên giải thích chi tiết dự luật cẩn thận hơn cho người dân.
Tháng 7 năm 2014, nội các Abe quyết định diễn giải lại Hiến pháp Nhật Bản, cho quyền "Tự vệ tập thể". Điều này cho phép Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản hỗ trợ, và bảo vệ, một đồng minh bị tấn công, còn trong quá khứ lực lượng chỉ được phép bảo vệ chính Nhật Bản. Quyết định được ủng hộ bởi Mỹ, vốn kêu gọi Nhật mở rộng phạm vi hoạt động dưới tư cách một đồng minh trong khu vực, dẫn đến sự điều chỉnh của hướng dẫn hợp tác Mỹ-Nhật năm 2015. Đáp lại, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói quyết định "gây quan ngại" về cam kết hòa bình của Nhật, khẳng định người dân Nhật không đồng tính với quyết định nêu trên. Abe khẳng định Nhật Bản sẽ không dính vào những "cuộc chiến ngoại quốc" như là chiến tranh Vùng Vịnh và chiến tranh Iraq, mà sẽ đạt lấy hòa bình bằng việc phòng ngừa.
Cuộc cải tổ nội các năm 2014
Nội các thành lập ngày 26 tháng 12 năm 2012 là nội các tồn tại lâu dài và ổn định nhất trong lịch sử Nhật Bản thời hậu chiến, kéo dài 617 ngày mà không có sự thay đổi về nhân sự nào, cho đến khi Abe tiến hành cải tổ tháng 9 năm 2014, với mục đích đưa nhiều phụ nữ hơn vào các chức vụ. Nội các sau cải tổ có 5 bộ trưởng nữ, bằng với kỷ lục mà nội các Koizumi thứ nhất thiết lập trước đó. Hầu hết các nhân vật chủ chốt, như Phó Thủ tướng Asō Tarō và Chánh văn phòng Nội các Suga Yoshihide, vẫn giữ nguyên chức vụ của mình, nhưng Abe đã đưa Bộ trưởng Tư pháp Tanigaki Sadakazu ra khỏi nội các để làm Tổng thư ký của LDP. Tuy nhiên, vào ngày 20 tháng 10, hai trong số những phụ nữ được thăng chức trong cuộc cải tổ là Bộ trưởng Tư pháp Matsushima Midori và Bộ trưởng Thương mại Obuchi Yūko, đã bị buộc phải từ chức trong các vụ bê bối tài chính bầu cử riêng biệt. Abe trả lời báo chí, "Với tư cách là thủ tướng, tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc đã bổ nhiệm họ, và tôi xin lỗi sâu sắc người dân Nhật Bản".
Tổng tuyển cử 2014
Vào tháng 11 năm 2014, trong khi Abe đang tham dự cuộc họp diễn đàn APEC ở Trung Quốc và Hội nghị thượng đỉnh G20 ở Úc, thì trên báo chí bắt đầu xuất hiện tin đồn rằng ông đang có kế hoạch kêu gọi một cuộc bầu cử nhanh trong trường hợp ông quyết định trì hoãn giai đoạn thứ hai của việc tăng thuế tiêu thụ. Người ta suy đoán rằng Abe định làm điều này nhằm "tái thiết" Quốc hội sau khi nó trở nên bế tắc do ảnh hưởng của việc hai bộ trưởng từ chức vào tháng 10, hoặc vì tình hình chính trị sẽ kém thuận lợi hơn cho việc tái tranh cử năm 2015 và 2016.
Vào ngày 17 tháng 11, số liệu GDP được công bố cho thấy Nhật Bản đã rơi vào suy thoái, khi hai quý tăng trưởng âm sau đợt tăng thuế tiêu dùng đầu tiên vào tháng 4. Ngày 21 tháng 11, Abe tổ chức một cuộc họp báo và thông báo rằng ông sẽ trì hoãn việc tăng thuế tiêu thụ 18 tháng, từ tháng 10 năm 2015 sang tháng 4 năm 2017, và kêu gọi một cuộc tổng tuyển cử nhanh chóng vào ngày 14 tháng 12. Abe mô tả cuộc bầu cử là "sự giải thể Abenomics" và hy vọng cử tri đưa ra nhận xét về các chính sách kinh tế của ông. Tỉ lệ ủng hộ Abe giảm nhẹ sau thông báo và ông tuyên bố rằng ông sẽ từ chức nếu liên minh của ông không giành được đa số, tuy nhiên các nhà phân tích cho rằng điều này rất khó xảy ra do tình trạng yếu kém của phe đối lập.
Trong các cuộc bầu cử, LDP giành được 291 ghế, thua 3, nhưng Komeito giành được 4 để thắng 35. Do đó, liên minh cầm quyền duy trì đa số hai phần ba trong một Hạ viện Nhật Bản là 475.
Thủ tướng nhiệm kỳ thứ ba (2014–2017)
Ngày 24 tháng 12 năm 2014 Abe được Hạ viện bầu lại vào chức vụ Thủ tướng. Sự thay đổi duy nhất mà ông thực hiện khi giới thiệu nội các thứ ba của mình là thay thế bộ trưởng quốc phòng Eto Akinori, người cũng tham gia vào một cuộc tranh cãi tài trợ chính trị, với Nakatani Gen. Trong bài phát biểu về chính sách vào tháng Hai của mình, khi Nội các vượt qua vụ bê bối ở trường Moritomo Gakuen, Abe đã kêu gọi Chế độ ăn uống mới ban hành "những cải cách mạnh mẽ nhất kể từ khi kết thúc Thế chiến II" trong các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe và các lĩnh vực khác.
Chính sách đối ngoại
Trong chuyến công du Trung Đông vào tháng 1/2015, Abe tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ cung cấp 200 triệu đô la hỗ trợ phi quân sự cho các quốc gia chống lại Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant như một phần của gói viện trợ 2,5 tỷ đô la. Ngay sau đó, ISIL đã phát hành một đoạn video trong đó một nhân vật đeo mặt nạ (được xác định là Mohammed Emwazi hoặc " Jihadi John ") đe dọa giết hai con tin Nhật Bản, Goto Kenji và Yukawa Haruna, để trả đũa hành động này trừ khi chính phủ của Abe trả 200 hàng triệu đô la tiền chuộc. Abe đã cắt ngắn chuyến đi để đối phó với cuộc khủng hoảng, tuyên bố rằng những hành động khủng bố như vậy là "không thể tha thứ" và hứa sẽ cứu các con tin trong khi từ chối trả tiền chuộc. Nội các Abe đã làm việc với chính phủ Jordan để cố gắng đảm bảo việc thả cả hai con tin, sau khi ISIL công bố thêm các video liên quan số phận của họ với số phận của phi công Muath Al-Kasasbeh, với Thứ trưởng Ngoại giao Nakayama Yasuhide đang tiến hành các cuộc đàm phán ở Amman. Cả hai con tin đều bị giết, ISIL công bố tin tức về cái chết của Yukawa vào ngày 24 tháng 1 và của Goto vào ngày 31 tháng 1. Thủ tướng Abe lên án các vụ giết người là một "hành động tàn ác", tuyên bố Nhật Bản sẽ "không nhượng bộ chủ nghĩa khủng bố" và cam kết làm việc với cộng đồng quốc tế để đưa những kẻ giết người ra trước công lý. Có một số lời chỉ trích đối với Abe vì động thái của ông cam kết viện trợ chống lại ISIL khi họ đang bắt công dân Nhật Bản làm con tin, nhưng các cuộc thăm dò cho thấy sự ủng hộ đối với chính quyền của ông ngày càng tăng sau cuộc khủng hoảng. Sau đó, ông sử dụng ví dụ về cuộc khủng hoảng con tin để lập luận cho trường hợp của luật tự vệ tập thể mà chính phủ của ông đã đưa ra vào mùa hè năm 2015.
Giống như những người tiền nhiệm Murayama Tomiichi và Koizumi Junichiro, Abe đã đưa ra một tuyên bố kỷ niệm 70 năm kết thúc Thế chiến II vào ngày 14 tháng 8 năm 2015. Tuyên bố này đã được nhiều người dự đoán, với một số nhà bình luận mong đợi Abe sẽ sửa đổi hoặc thậm chí từ chối lặp lại lời xin lỗi của các nhà lãnh đạo tiền nhiệm về vai trò của Nhật Bản trong chiến tranh. Trong tuyên bố, Thủ tướng Abe cam kết giữ nguyên những lời xin lỗi trước đó và bày tỏ "sự đau buồn sâu sắc và lời chia buồn chân thành, vĩnh viễn" đối với "những thiệt hại và đau khổ khôn lường" mà Nhật Bản đã gây ra cho "những người dân vô tội" trong cuộc xung đột. Ông cũng lập luận rằng Nhật Bản không nên "có duyên để xin lỗi" mãi mãi, lưu ý rằng hơn 80% người Nhật còn sống ngày nay được sinh ra sau cuộc xung đột và không đóng vai trò gì trong đó. Chính phủ của cả Trung Quốc và Hàn Quốc đều phản ứng bằng những lời chỉ trích về tuyên bố này, nhưng các nhà phân tích lưu ý rằng tuyên bố này đã bị tắt tiếng và hạn chế trong giọng điệu, so với những lời lẽ gay gắt đã được sử dụng trước đây. Một đại diện của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã hoan nghênh tuyên bố này và coi Nhật Bản là "hình mẫu cho các quốc gia ở khắp mọi nơi" trong hồ sơ về "hòa bình, dân chủ và pháp quyền" kể từ khi chiến tranh kết thúc. Giáo sư Gerald Curtis của Đại học Columbia lập luận rằng tuyên bố "có lẽ không thỏa mãn đối tượng cử tri" ở Nhật Bản cũng như ở nước ngoài, nhưng bằng cách lặp lại các từ "xâm lược", "chủ nghĩa thực dân", "xin lỗi" và "hối hận" được sử dụng trong Murayama Tuyên bố năm 1995, có khả năng đủ để cải thiện quan hệ với Trung Quốc và Hàn Quốc.
Vào tháng 12 năm 2015, Abe và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã ký các thỏa thuận trong đó Ấn Độ đồng ý mua công nghệ Shinkansen từ Nhật Bản (được tài trợ một phần bởi khoản vay từ chính phủ Nhật Bản), và để Nhật Bản được nâng lên thành đối tác đầy đủ trong hải quân Malabar bài tập. Cũng nhất trí tại cuộc đàm phán là đề xuất Nhật Bản bán công nghệ hạt nhân phi quân sự cho Ấn Độ, sẽ được ký chính thức sau khi các chi tiết kỹ thuật được hoàn thiện. Chứng minh mối quan hệ thân thiết của họ, Abe mô tả các chính sách của Modi là "giống như Shinkansen—Tốc độ cao, an toàn và đáng tin cậy khi chở nhiều người đi cùng ". Đổi lại, Modi khen Abe là" nhà lãnh đạo hiện tượng ", lưu ý rằng quan hệ Ấn Độ-Nhật Bản đã có một" sự tiếp xúc tuyệt vời của con người "và mời ông tham dự buổi lễ Ganga aarti tại Dashashwamedh Ghat tại khu vực bầu cử Varanasi của mình. Các nhà phân tích mô tả thỏa thuận hạt nhân là một phần trong nỗ lực của Nhật Bản và Ấn Độ nhằm đáp trả sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Tại Seoul vào tháng 11 năm 2015, Abe đã tham dự hội nghị thượng đỉnh ba bên Trung Quốc - Nhật Bản - Hàn Quốc đầu tiên được tổ chức trong ba năm với Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường. Các hội nghị thượng đỉnh đã bị đình chỉ vào năm 2012 do căng thẳng về các vấn đề lịch sử và lãnh thổ. Các nhà lãnh đạo nhất trí khôi phục các hội nghị thượng đỉnh như sự kiện thường niên, đàm phán một hiệp định thương mại tự do ba bên và làm việc để kiểm tra chương trình vũ khí hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, đồng thời tuyên bố rằng hợp tác ba bên đã được "khôi phục hoàn toàn".
Ngay sau khi Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ, Abe đã cắt ngắn sự hiện diện của mình tại hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương ở Lima, để có một cuộc gặp không chính thức, ngẫu hứng với Tổng thống đắc cử lúc đó, tại Tháp Trump. Sau lễ nhậm chức của Trump, họ đã có một cuộc họp chính thức tại Mar-a-Lago, thảo luận về an ninh, trước mối đe dọa từ Triều Tiên, với Abe tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ cam kết hơn với quan hệ Nhật Bản - Hoa Kỳ. Họ cũng chơi golf cùng với tay golf chuyên nghiệp Nam Phi Ernie Els.
Vấn đề quốc phòng và an ninh
Trong bài phát biểu hồi tháng 4 trước Quốc hội, Abe tuyên bố rằng chính phủ của ông sẽ "ban hành tất cả các dự luật cần thiết vào mùa hè tới" để mở rộng năng lực hoạt động của Lực lượng Phòng vệ và có hiệu lực với quyết định giải thích lại hiến pháp vào tháng 7 năm 2014 của nội các. ủng hộ quyền tự vệ tập thể.Do đó, nội các Abe đã đưa ra 11 dự luật tạo thành "Đạo luật Bảo tồn Hòa bình và An ninh"vào tháng 5 năm 2015, Nghị định thư đã thúc đẩy sự mở rộng hạn chế của các quyền lực quân sự để chiến đấu trong một cuộc xung đột nước ngoài. Mục đích chính của các dự luật là cho phép Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản hỗ trợ các quốc gia đồng minh đang bị tấn công (ngay cả khi Nhật Bản không bị tấn công), mở rộng phạm vi của họ để hỗ trợ các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế và cho phép Nhật Bản thực hiện chia sẻ nhiều hơn các trách nhiệm an ninh với tư cách là một phần của Liên minh Hoa Kỳ-Nhật Bản.
Để có đủ thời gian thông qua các dự luật đối mặt với sự giám sát kéo dài của phe đối lập, nội các Abe đã kéo dài phiên họp của Hạ viện thêm 95 ngày từ tháng 6 đến tháng 9, đây là phiên họp dài nhất trong thời hậu chiến. Các dự luật được thông qua Hạ viện vào ngày 16 tháng 7 với sự ủng hộ của liên minh LDP-Komeito chiếm đa số. Các thành viên Hạ viện từ các đảng Dân chủ, Đổi mới, Cộng sản và Xã hội đối lập đã bước ra khỏi cuộc bỏ phiếu để phản đối những gì họ cho là động thái của chính phủ nhằm buộc các dự luật được thông qua mà không có đủ cuộc tranh luận và phớt lờ "các đảng đối lập có trách nhiệm". Abe phản bác bằng cách lập luận rằng các dự luật đã được tranh luận trong "khoảng 113 giờ" trước cuộc bỏ phiếu. Trong khi thực tế phổ biến ở nhiều nền dân chủ nghị viện khác, một chính phủ sử dụng đa số của mình để "đường sắt" các dự luật gây tranh cãi thông qua Hạ viện khi đối mặt với sự phản đối chính trị và công chúng là chủ đề bị chỉ trích ở Nhật Bản.
Kết quả của những động thái này, Abe đã phải đối mặt với phản ứng dữ dội của công chúng và các cuộc thăm dò dư luận cho thấy xếp hạng phê duyệt của ông lần đầu tiên rơi vào con số tiêu cực kể từ khi ông trở lại nắm quyền vào năm 2012, với 50% không đồng ý và 38% tán thành nội các theo một cuộc khảo sát của Nikkei vào đầu tháng 8. Nhiều người phản đối đạo luật bên ngoài tòa nhà Quốc hội, tố cáo những gì được những người chống đối gọi là "dự luật chiến tranh". Những người tổ chức các cuộc biểu tình ước tính có tới 100.000 người biểu tình đã tuần hành phản đối việc thông qua các dự luật của Hạ viện vào tháng Bảy. Trong các phiên điều trần của ủy ban Chế độ ăn uống về các dự luật, các học giả hiến pháp (một số người đã được các đảng cầm quyền mời) và một cựu thẩm phán của tòa án tối cao đã tranh luận rằng luật này là vi hiến. Abe đã bị người sống sót sau vụ nổ bom nguyên tử Sumiteru Taniguchi chỉ trích công khaitrong bài phát biểu của mình tại lễ tưởng niệm Nagasaki vào ngày 9 tháng 8, khi ông tuyên bố rằng cải cách quốc phòng sẽ đưa Nhật Bản "trở lại thời kỳ chiến tranh". Các thành viên trong nội các Abe nói rằng họ sẽ nỗ lực hơn nữa để giải thích nội dung và lý do của luật an ninh cho công chúng, với việc LDP phát hành một đoạn phim hoạt hình quảng cáo và Abe xuất hiện trực tiếp trên truyền hình và trò chuyện internet các luồng để đưa ra trường hợp pháp lý và nhận câu hỏi từ các thành viên của công chúng.
Các dự luật an ninh cuối cùng đã được Nghị viện Hạ viện thông qua từ 148 phiếu đến 90 và trở thành luật vào ngày 19 tháng 9, sau những nỗ lực của phe đối lập nhằm trì hoãn các chiến thuật và sự thay đổi thể chất, trong đó một số thành viên Đảng Cộng hòa đã cố gắng ngăn chủ tịch liên quan kêu gọi bỏ phiếu để dời dự luật của ủy ban và một cuộc bỏ phiếu chung. Sau cuộc bỏ phiếu, Abe đã đưa ra một tuyên bố nói rằng các luật mới "sẽ củng cố cam kết của chúng tôi là không bao giờ gây chiến nữa", và luật thay vì là "dự luật chiến tranh", thay vào đó là "nhằm mục đích răn đe chiến tranh và đóng góp cho hòa bình và an ninh ”. Ông cũng cam kết sẽ tiếp tục giải thích luật để cố gắng đạt được "sự hiểu biết nhiều hơn" từ công chúng về vấn đề này. Sau khi các dự luật được thông qua, Abe được cho là sẽ một lần nữa trở lại tập trung vào các vấn đề kinh tế.
Vào ngày 18 tháng 10 năm 2015 Abe đã chủ trì cuộc duyệt xét hạm đội ba năm một lần của Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản với vai trò là Tổng Tư lệnh Lực lượng Phòng vệ. Trong bài phát biểu trước các nhân viên trên tàu khu trục Kurama, ông tuyên bố rằng "bằng cách giương cao ngọn cờ 'chủ nghĩa hòa bình chủ động', tôi quyết tâm đóng góp hơn bao giờ hết cho hòa bình và thịnh vượng thế giới". Cuối ngày hôm đó, ông lên tàu USS Ronald Reagan, trở thành thủ tướng Nhật Bản đầu tiên đặt chân lên tàu chiến Mỹ.
Vào tháng 12 năm 2015, chính phủ Abe tuyên bố thành lập một đơn vị tình báo mới, Đơn vị Thu thập Tình báo Chống Khủng bố Quốc tế, để hỗ trợ các hoạt động chống khủng bố, đặt trụ sở tại Bộ Ngoại giao nhưng do Văn phòng Thủ tướng lãnh đạo. Đây được cho là một phần trong nỗ lực tăng cường các biện pháp an ninh để chuẩn bị cho Hội nghị thượng đỉnh G7 năm 2016 ở Shima, Mie và Thế vận hội 2020 ở Tokyo. Trong cùng tháng, nội các đã thông qua ngân sách quốc phòng lớn nhất từ trước đến nay của Nhật Bản, ở mức 5,1 nghìn tỷ yên, cho năm tài chính bắt đầu từ tháng 4 năm 2016. Gói này bao gồm tài trợ dự định mua ba máy bay không người lái "Global Hawk", sáu chiếc F- 35 máy bay chiến đấuvà một máy bay tiếp nhiên liệu trên không Boeing KC-46A.
Tái đắc cử chủ tịch LDP và "Abenomics 2.0"
Vào tháng 9 năm 2015 Abe đã được bầu lại làm chủ tịch của LDP trong một cuộc bầu cử không được kiểm tra sau khi thành viên Đảng LDP khác là Noda Seiko không thu hút được đủ sự ủng hộ để ứng cử. Sau đó, Abe tiến hành một cuộc cải tổ nội các, một lần nữa giữ các bộ trưởng chủ chốt là Bộ trưởng Tài chính, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp, Bộ trưởng Ngoại giao và Chánh Văn phòng Nội các tại vị. Ông cũng đã tạo ra một vị trí bộ trưởng mới để điều phối các chính sách liên quan đến nền kinh tế, giảm dân số và cải cách an sinh xã hội, được đảm nhiệm bởi Katō Katsunobu.
Tại cuộc họp báo sau khi chính thức tái đắc cử chức Chủ tịch LDP, Abe tuyên bố rằng giai đoạn tiếp theo trong chính quyền của ông sẽ tập trung vào cái mà ông gọi là "Abenomics 2.0", mục đích là giải quyết các vấn đề về mức sinh thấp và dân số già và tạo ra một xã hội "trong đó mỗi người trong số 100 triệu công dân của Nhật Bản có thể đảm nhận những vai trò tích cực". Chính sách mới này bao gồm các mục tiêu mà Abe gọi là "ba mũi tên mới"; tăng GDP của Nhật Bản lên 600 nghìn tỷ yên vào năm 2021, nâng tỷ lệ sinh sản quốc gia từ mức trung bình 1,4 lên 1,8 trẻ em trên một phụ nữ và ổn định dân số ở mức 100 triệu, và tạo ra một tình huống mà mọi người sẽ không phải nghỉ việc để chăm sóc người cao tuổi vào giữa năm 2020. Abe giải thích rằng chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp tăng lương, thúc đẩy tiêu dùng và mở rộng dịch vụ chăm sóc trẻ em, an sinh xã hội và chăm sóc người cao tuổi để đáp ứng các mục tiêu này.
Sự lặp lại mới này của Abenomics đã vấp phải một số chỉ trích từ các nhà bình luận, những người cho rằng vẫn chưa rõ liệu ba mũi tên đầu tiên có thành công trong việc đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng giảm phát hay không (lạm phát thấp hơn mục tiêu 2% một cách nào đó), rằng các mũi tên mới chỉ đơn thuần được trình bày dưới dạng các mục tiêu mà không có các chính sách cần thiết để đáp ứng chúng, và bản thân các mục tiêu đó là không thực tế. Tuy nhiên, các cuộc thăm dò dư luận trong những tháng cuối năm 2015 cho thấy xếp hạng phê duyệt của nội các Abe một lần nữa leo lên thành những con số tích cực sau khi thay đổi nhấn mạnh trở lại các vấn đề kinh tế.
Khi kết thúc cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương vào đầu tháng 10 năm 2015, Abe ca ngợi thỏa thuận này đã tạo ra một "khu kinh tế chưa từng có" và mở ra khả năng cho một thỏa thuận thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương và thương mại Nhật Bản với châu Âu. Ông cũng hứa sẽ giảm thiểu mọi tác động tiêu cực đến ngành nông nghiệp Nhật Bản. Số liệu GDP được công bố vào tháng 11 năm 2015 ban đầu cho thấy Nhật Bản đã bước vào cuộc suy thoái thứ hai kể từ khi thực hiện Abenomics, tuy nhiên, những số liệu này sau đó đã được điều chỉnh lại để cho thấy nền kinh tế đã tăng trưởng 1% trong quý thứ ba, do đó tránh được suy thoái.
Vào tháng 12 năm 2015, hai bên thành lập liên minh cầm quyền của Abe đã đồng ý đưa ra mức giảm thuế tiêu thụ đối với thực phẩm khi mức tăng thuế dự kiến từ 8 lên 10 phần trăm diễn ra vào tháng 4 năm 2017. Thỏa thuận này đạt được sau khi Abe được cho là từ chức. cực kỳ ủng hộ quan điểm của đối tác liên minh cấp dưới của ông, Komeito, rằng thuế suất nên được giảm, điều này đã dẫn đến một số bất đồng từ các thành viên trong đảng của ông, những người ủng hộ chính sách củng cố tài khóa hơn thông qua thuế. Abe cách chức chủ tịch hội đồng thuế của LDP Noda Takeshi (người phản đối việc cắt giảm) và bổ nhiệm Miyazawa Yoichi, người có lợi hơn với chính sách, làm người thay thế. Abe tuyên bố thỏa thuận thuế là "kết quả tốt nhất có thể" của các cuộc đàm phán.
Sửa đổi hiến pháp
Tại cuộc bầu cử vào Hạ viện năm 2016, cuộc bầu cử đầu tiên cho phép công dân Nhật Bản từ 18 tuổi trở lên bỏ phiếu, Abe đã dẫn đầu liên minh LDP-Komeito giành chiến thắng, với liên minh là lớn nhất trong Hạ viện kể từ khi nó được thiết lập ở 242 ghế. Kết quả của cuộc bầu cử đã mở ra cuộc tranh luận về cải cách hiến pháp, đặc biệt là trong việc sửa đổi Điều 9 của hiến pháp theo chủ nghĩa hòa bình của Nhật Bản, với các đảng theo chủ nghĩa xét lại giành được đa số 2/3 là cần thiết để cải cách, cùng với đa số 2/3 trong Hạ viện, điều này sẽ cuối cùng dẫn đến một cuộc trưng cầu dân ý trên toàn quốc. Abe vẫn tương đối im lặng về vấn đề này trong thời gian còn lại của năm, nhưng vào tháng 5 năm 2017, đã thông báo rằng cải cách hiến pháp sẽ có hiệu lực vào năm 2020.
Thủ tướng Nhiệm kỳ thứ tư và cuối cùng (2017–2020)
Cuộc tổng tuyển cử năm 2017 được tổ chức vào ngày 22 tháng 10. Thủ tướng Abe đã gọi cuộc bầu cử nhanh chóng vào ngày 25 tháng 9, trong khi cuộc khủng hoảng Bắc Triều Tiên đang nổi bật trên các phương tiện truyền thông. Các đối thủ chính trị của Abe nói rằng cuộc bầu cử chớp nhoáng được thiết kế để trốn tránh việc thẩm vấn tại quốc hội về các vụ bê bối bị cáo buộc. Abe dự kiến sẽ giữ lại đa số ghế trong Hạ viện. Liên minh cầm quyền của Abe chiếm gần như đa số phiếu và hai phần ba số ghế. Cuộc vận động và bỏ phiếu vào phút chót đã diễn ra khi cơn bão Lan, cơn bão lớn nhất năm 2017, đang tàn phá Nhật Bản.
Vào ngày 20 tháng 9 năm 2018, Abe đã được bầu lại làm lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền chính. Vào ngày 19 tháng 11 năm 2019, Abe trở thành thủ tướng tại vị lâu nhất của Nhật Bản, vượt qua kỷ lục 2.883 ngày của Katsura Tarō. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2020, Abe trở thành thủ tướng tại vị lâu nhất tính theo số ngày liên tiếp tại vị, vượt qua kỷ lục 2.798 ngày của Satō Eisaku.
Bê bối thiên vị
Vào tháng 3 năm 2018, có thông tin cho rằng Bộ Tài chính (với Bộ trưởng Tài chính Asō Tarō đứng đầu) đã làm giả các tài liệu trình lên quốc hội liên quan đến vụ bê bối Moritomo Gakuen, để loại bỏ 14 đoạn liên quan đến Abe. Có ý kiến cho rằng vụ bê bối có thể khiến Abe mất ghế lãnh đạo đảng Dân chủ Tự do. Cùng năm đó, có nhiều cáo buộc rằng Abe đã ưu đãi cho người bạn của mình là Kotarō Kake để mở một khoa thú y tại trường của ông, Kake Gakuen. Abe phủ nhận cáo buộc, nhưng sự ủng hộ đối với chính quyền của ông đã giảm xuống dưới 30% trong các cuộc thăm dò, mức thấp nhất kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2012. Những người kêu gọi ông từ chức bao gồm cựu thủ tướng Koizumi Junichirō. Vụ bê bối được gọi là "Abegate".
Những vụ bê bối, mặc dù không làm tổn hại vĩnh viễn vị thế chính trị của ông, nhưng lại ảnh hưởng rất ít đến hình ảnh của ông. Vào tháng 7 năm 2018, vị trí công chúng của Abe càng bị ảnh hưởng sau khi ông tổ chức một bữa tiệc uống rượu với các nhà lập pháp LDP trong đỉnh điểm của trận lũ lụt thảm khốc ở miền tây Nhật Bản. Trong một cuộc thăm dò do Reuters thực hiện vào năm 2019, phần lớn các công ty Nhật Bản muốn Thủ tướng Shinzo Abe kết thúc nhiệm kỳ của mình đến tháng 9 năm 2021 nhưng ít hơn 1/5 nói rằng ông nên vượt qua thời điểm đó dựa trên những cáo buộc rằng ông đã vi phạm luật tranh cử. hỗ trợ công cộng.
Chính sách đối ngoại
Abe ủng hộ Hội nghị thượng đỉnh Bắc Triều Tiên – Hoa Kỳ 2018. Ngay sau khi cuộc gặp thượng đỉnh được công bố, Abe nói với các phóng viên rằng ông đánh giá cao "sự thay đổi của Bắc Triều Tiên" và cho rằng sự thay đổi ngoại giao trong giai đoạn của chiến dịch trừng phạt phối hợp của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, Thủ tướng Abe đã cảnh báo Tổng thống Trump không nên thỏa hiệp với chương trình tên lửa của Bắc Triều Tiên, vốn sẽ khiến Nhật Bản phải hứng chịu các tên lửa tầm ngắn không tới đất liền Hoa Kỳ hoặc giảm áp lực lên Bắc Triều Tiên quá sớm trước khi phi hạt nhân hóa hoàn toàn. Abe cũng bày tỏ mong muốn tổ chức một cuộc họp song phương với Bắc Triều Tiên về vấn đề bắt cóc công dân Nhật Bản, thúc giục Tổng thống Trump nêu vấn đề tại hội nghị thượng đỉnh.
Năm 2018, Abe đã có chuyến thăm chính thức 2 ngày tới Trung Quốc, với hy vọng cải thiện quan hệ đối ngoại, nơi ông đã có một số cuộc gặp với Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. Vào thời điểm này, Abe hứa rằng vào năm 2019, ông sẽ giảm bớt các hạn chế về điều kiện công dân Trung Quốc được cấp thị thực Nhật Bản, đặc biệt là đối với thanh thiếu niên. Abe cũng tuyên bố rằng ông hy vọng Tập Cận Bình sẽ thăm Nhật Bản để vun đắp mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa hai nước.
Từ chức lần 2
Ông chính thức tuyên bố từ chức tại cuộc họp báo thường kỳ tại Tổng lý Đại thần Quan để, Tokyo lúc 17h chiều 28 tháng 8 năm 2020 (giờ địa phương). Nhà lãnh đạo 65 tuổi đã giải thích lý do từ chức là vì mắc chứng viêm loét đại tràng kinh niên cộng với việc ông thừa nhận bản thân không đủ sức để lãnh đạo đất nước trong tình hình khó khăn do dịch COVID-19 và già hóa dân số. Abe vẫn tại vị cho đến khi Đảng LDP chọn người kế nhiệm. Trong cuộc họp báo tuyên bố từ chức, Abe từ chối xác nhận bất kỳ người kế nhiệm cụ thể nào. Ngoài ra, ông cũng bày tỏ sự tiếc nuối khi không thể hoàn thành đầy đủ các mục tiêu chính sách của mình do ông từ chức sớm. Suga Yoshihide được bầu làm Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do (LDP), kế nhiệm Chủ tịch Abe vào ngày 14 tháng 9 năm 2020. Vì Đảng Dân chủ Tự do chiếm đa số ghế ở Quốc hội, nên ông Suga hiển nhiên trở thành Thủ tướng thứ 63 của Nhật Bản. Hai ngày sau, Quốc hội Nhật Bản sau đó đã phê chuẩn ông Suga làm thủ tướng, và nhậm chức vào ngày 16 tháng 9, sau khi ông Abe và toàn bộ nội các chính thức từ chức vào cùng ngày.
Bị ám sát và qua đời
Vụ ám sát
Vào khoảng 11 giờ 25 phút (giờ Nhật Bản) ngày 8 tháng 7 năm 2022, tại trước cửa bắc của ga Yamato-Saidaiji, thành phố Nara, khi vừa đứng ra phát biểu trong một buổi vận động bầu cử cho một ứng cử viên của đảng Dân chủ Tự do, cựu thủ tướng Abe Shinzō đã bị bắn 2 phát súng vào người (1 phát ở cổ và 1 phát ở ngực, viên đạn thứ 2 được ghi nhận là vết thương sâu và có khả năng đã găm vào tim ông). Tình trạng của ông được cho là rất nguy kịch. Sau khi bị ám sát ông đã được đưa đi cấp cứu bằng trực thăng.
Yamagami Tetsuya, nghi phạm 41 tuổi đã bị cảnh sát bắt giữ. Yamagami là cựu quân nhân Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản. Vũ khí Yamagami sử dụng dường như là một khẩu súng tự chế. Hiện chưa rõ động cơ của nghi phạm, nhưng Yamagami khai với cảnh sát rằng ông ta "không hài lòng" với cựu thủ tướng Abe và "có ý định sát hại ông".
"Một sở cứu hỏa địa phương cho biết cựu thủ tướng Abe dường như đang trong tình trạng ngừng tim", đài NHK cho hay, đề cập thuật ngữ được sử dụng ở Nhật Bản để chỉ người có nguy cơ tử vong trước khi bác sĩ xác nhận.
Đến khoảng 17 giờ 03 phút (giờ Nhật Bản) ngày 8 tháng 7 năm 2022, ông được xác nhận là đã qua đời.
Đáp lại vụ nổ súng và việc ông qua đời sau đó, nhiều nhà lãnh đạo thế giới đương nhiệm và cựu lãnh đạo thế giới đã bày tỏ sự đồng tình và ủng hộ đối với Abe. Nhiều nước cũng đã gửi lời chia buồn và treo cờ rủ, tổ chức quốc tang để tưởng nhớ đến ông.
Tang lễ
Vào ngày 11 tháng 7 năm 2022, ông được Chính phủ Nhật Bản truy tặng vòng cổ Huân chương Hoa cúc, Huân chương cao quý nhất của Nhật Bản. Ông là Thủ tướng thứ 4 được trao tặng Huân chương Hoa cúc theo Hiến pháp thời hậu chiến, sau các cựu Thủ tướng Yoshida Shigeru, Satō Eisaku và Nakasone Yasuhiro
Thi thể của ông được bà Abe Akie đưa về Tokyo một ngày sau khi ông bị ám sát. Lễ tsuya (lễ thức canh) được tổ chức vào ngày 11 tháng 7 năm 2022 và tang lễ của ông được tổ chức vào ngày 12 tháng 7 năm 2022 tại chùa Zōjō với chỉ những người thân trong gia đình và những người thân thiết đến tham dự. Thi thể của ông Abe được hỏa táng tại nhà tang lễ Kirigaya, Tokyo, sau tang lễ riêng vào ngày 12/7. Sau đó, tro cốt của ông được an táng tại quê nhà Yamaguchi trong một lễ quốc tang do Đảng Dân chủ Tự do và Nội các tiến hành.
Lễ quốc tang của ông được tổ chức vào ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại nhà thi đấu NIppon Budokan ở Tokyo, nơi được xây dựng cho Thế vận hội Tokyo năm 1964 và là nơi thường tổ chức các sự kiện thể thao, biểu diễn lớn.
Quốc tang
Ngày 27 tháng 9 năm 2022, Nhật Bản tổ chức lễ quốc tang dành cho cố Thủ tướng Abe Shinzō. Đây là lần đầu tiên sau 55 năm Nhật Bản mới tổ chức quốc tang theo nghi thức cấp nhà nước cho một nguyên thủ tướng.
Tro cốt của ông Abe được phu nhân Abe Akie đưa vào Trung tâm sự kiện Budokan ở thủ đô Tokyo. Sau đó, 19 phát đại bác vang lên để tưởng nhớ vị thủ tướng quá cố.
Đã có gần 5.000 người tham dự lễ tang, trong đó có sự hiện diện của Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, Thủ tướng Úc Anthony Albanese và nhiều vị lãnh đạo khác.
Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự lễ quốc tang.
Đánh giá
Sau khi Abe từ chức các nhà lãnh đạo trên thế giới đã thể hiện sự tiếc nuối và gửi lời chúc sức khỏe đến cho ông.
Cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, cũng luôn xem Abe như là một người bạn của mình và dành cho ông sự tôn trọng cao nhất.
Cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel nói với các phóng viên: “Tôi cảm thấy việc từ chức của ông ấy là rất đáng tiếc và chúc ông ấy mọi điều tốt lành. Chúng tôi đã làm việc rất tốt với nhau".
Thủ tướng Anh Boris Johnson đánh giá Abe đã đạt những điều tuyệt với trên cương vị Thủ tướng Nhật Bản, cho đất nước của ông ấy và thế giới. Theo Thủ tướng Johnson, mối quan hệ Anh-Nhật dưới sự quản lý của Thủ tướng Abe đã trở nên vững mạnh từ thương mại, quốc phòng cho đến hợp tác văn hóa.
Phát ngôn viên tổng thống Nga Dmitry Peskov mô tả mối quan hệ công việc giữa ông Abe và Tổng thống Vladimir Putin là “tuyệt hảo”.
Phát ngôn viên tổng thống Hàn Quốc Kang Min-seok cho biết Thủ tướng Abe đã đóng góp vai trò quan trọng trong mối quan hệ hai nước. Theo ông Kang, Hàn Quốc sẽ tiếp tục hợp tác với lãnh đạo và nội các mới của Nhật Bản để cải thiện mối quan hệ song phương.
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn tuyên bố Thủ tướng Abe luôn thân thiện với Đài Loan, bất kể về chính sách hay quyền và lợi ích của người dân hòn đảo. “Ông ấy là người cực kỳ tích cực. Chúng tôi coi trọng tình cảm hữu hảo của ông với Đài Loan và mong ông khỏe mạnh”, bà Thái nói.
Tặng thưởng và vinh danh
Top 100 Nhà tư tưởng Toàn cầu về Chính sách Đối ngoại năm 2013, 2013.
Giải thưởng Herman Kahn, tháng 9 năm 2013.
Giải thưởng Châu Á của năm, tháng 12 năm 2013.
Tập chí Time 100 vào năm 2014, tháng 4 năm 2014.
Tập chí Time 100 năm 2018, 2018.
Giải thưởng Nhà lãnh đạo Thế giới về An ninh mạng của Diễn đàn Toàn cầu Boston, tháng 12 năm 2015.
Đời tư
Abe kết hôn với Abe Akie, một người chơi trên mạng xã hội và là người từng chơi DJ, vào năm 1987. Cô là con gái của chủ tịch Morinaga, một nhà sản xuất sô cô la. Bà thường được biết đến với biệt danh "đảng đối lập trong nước" do có quan điểm thẳng thắn, thường mâu thuẫn với chồng. Sau thời gian làm thủ tướng đầu tiên của chồng, bà đã mở một izakaya hữu cơ ở quận Kanda của Tokyo, nhưng không hoạt động trong việc quản lý do sự thúc giục của mẹ chồng. Cặp đôi này không có con, đã trải qua những cuộc điều trị hiếm muộn không thành công trước đó trong cuộc hôn nhân của họ. |
là hệ thống ký âm bằng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Nhật. Rōmaji được dùng giúp người nước ngoài khi bắt đầu học tiếng Nhật, khi cần biết tên người và vật ở Nhật Bản mà không biết tiếng Nhật. Có một số hệ thống kí âm Latinh tiếng Nhật khác nhau. Ba hệ thống chính là Hepburn, Kunrei-shiki (ISO 3602) và Nihon-shiki (ISO 3602 Chặt chẽ). Hiện nay, các biến thể của hệ thống Hepburn được sử dụng rộng rãi nhất.
Sử dụng Rōmaji
Lịch sử việc Latinh hóa tiếng Nhật
Việc Latinh hóa tiếng Nhật bắt đầu từ thế kỷ 16 do các nhà truyền đạo Kitô người Bồ Đào Nha muốn học tiếng Nhật để dễ bề truyền giáo (tương tự như việc tạo chữ Quốc ngữ cho tiếng Việt trong giai đoạn chữ Hán và chữ Nôm vẫn là văn tự chủ yếu). Vì vậy Rōmaji đã hình thành căn cứ trên âm vựng tiếng Bồ chứ không phải là cách chuyển tự từ kana. Rōmaji lúc bấy giờ chỉ dùng hạn chế trong giới giáo sĩ.
Mãi đến năm 1867, nhà truyền giáo người Mỹ James Curtis Hepburn (1815 - 1911) mới có sáng kiến tạo ra hệ thống chuyển tự một-đối-một từ Kana sang chữ cái Latinh. Đó chính là chữ Rōmaji theo hệ thống Hepburn dùng ngày nay. Hepburn lúc bấy giờ đã soạn ra cuốn từ điển Wa-ei gorin shūsei lại được hội cải cách văn tự Rōmaji Kai chọn năm 1885 làm mẫu để chuyển tự nên lối Hepburn dần chiếm ưu thế. Vì Hepburn là người Mỹ nói tiếng Anh nên lối Hepburn cũng mang ít nhiều ảnh hưởng cách viết của tiếng Anh. Ví dụ như ši sau đổi viết shi và tša đổi thành cha hợp với nhãn quan người nói tiếng Anh.
Các hệ thống hiện đại
Hepburn
Hệ phiên âm Latinh Hepburn thường tuân theo âm vị tiếng Anh với các nguyên âm Roman. Đây là một phương pháp trực quan để hiện thị với người dùng tiếng Anh phát âm của một từ trong tiếng Nhật. Nó đã được chuẩn hóa ở Hoa Kỳ với tư cách là Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ cho Latinh hóa tiếng Nhật (Hepburn sửa đổi), nhưng trạng thái đó đã bị bãi bỏ vào ngày 6 tháng 10 năm 1994. Hepburn là hệ thống Latinh hóa phổ biến nhất được sử dụng, đặc biệt ở thế giới nói tiếng Anh.
Hệ thống Latinh hóa Hepburn thay đổi sử dụng một dấu trường âm để chỉ một số nguyên âm dài và một dấu phẩy trên (dấu nháy đơn) để đánh dấu sự tách riêng của các âm vị dễ nhầm lẫn (thường là âm n ん với một nguyên âm không hoặc bán nguyên âm theo sau). Ví dụ, tên じゅんいちろう được viết với chữ kana dạng ju-n-i-chi-ro-u và Latinh hòa là Jun'ichirō với Hepburn thay đổi. Không có dấu nháy đơn, sẽ không có khả năng phân biệt cách đọc đúng này với cách đọc sai ju-ni-chi-ro-u (じゅにちろう). Hệ thống này được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản và bao gồm cả các học sinh, sinh viên và học giả nước ngoài.
Nihon-shiki
Hệ phiên âm Latinh Nihon-shiki có trước hệ thống Hepburn, nó đã được phát minh như một phương pháp cho người Nhật để viết ngôn ngữ của họ bằng chữ Latinh, được ưu tiên hơn là ghi lại tiếng Nhật cho người phương Tây như Hepburn. Nó theo sát âm tiết tiếng Nhật rất chặt chẽ, với không một sự thay đổi nhỏ nào trong phát âm. Nó cũng đã được chuẩn hóa với ISO 3602 Chặt chẽ. Cũng được biết đến là Nippon-shiki, kết xuất trong kiểu Nihon-shiki của Latinh hóa với tên Nihon-shiki hoặc Nippon-shiki.
Kunrei-shiki
Hệ phiên âm Latinh Kunrei-shiki là một phiên bản được sửa đổi đôi chút của Nihon-shiki, nó loại bỏ sự khác nhau giữa âm tiết kana và phát âm hiện đại. Ví dụ, chữ づ và ず đều được phát âm gần như nhau trong tiếng Nhật hiện đại, và như thế Kunrei-shiki và Hepburn bỏ qua sự khác nhau trong kana và tái hiện bằng cùng một âm (zu). Nihon-shiki, mặt khác, sự Latinh hóa づ thành du, nhưng ず thành zu. Tương tự đối với cặp じ và ぢ, chúng đều là zi trong Kunrei-shiki và ji trong Hepburn, nhưng là zi và di tương ứng trong Nihon-shiki. Xem bảng dưới cho thông tin chi tiết.
Kunrei-shiki đã được chuẩn hóa bởi Chính phủ Nhật Bản và Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế với ISO 3602. Kurei-shiki đã được dạy cho học sinh tiểu học Nhật Bản trong năm giáo dục thứ 4.
Viết trong Kunrei-shiki, tên của hệ thống sẽ được kết xuất là Kunreisiki.
Các biến thể khác
Đó có khả năng là bổ sung thông tin cho các hệ Latinh hóa để giúp người không bản ngữ nói tiếng Nhật phát âm các từ tiếng Nhật chính xác hơn. Các bổ sung điển hình bao gồm các dấu thanh điệu để chỉ cao độ tiếng Nhật và các dấu phụ để phân biệt những sự thay đổi ngữ âm. Chẳng hạn như sự đồng hóa mora âm mũi /ɴ/.
JSL
JSL là một hệ thống Latinh hóa dựa trên âm vị tiếng Nhật, được thiết kế sử dụng các nguyên tắc ngôn ngữ học sử dụng bởi các nhà ngôn ngữ học trong thiết kế hệ các chữ viết cho các ngôn ngữ. Nó hoàn toàn là một hệ thống âm vị, sử dụng chính xác một ký tự cho mỗi âm vị và đánh dấu cao độ dùng các dấu phụ. Được tạo ra bởi hệ thống dạy tiếng Nhật của Eleanor Harz Jorden. Nguyên tắc cơ bản của nó là một hệ thống giúp các học viên có thể tiếp thu âm vị của tiếng Nhật tốt hơn. Kể từ khi nó không có các ưu điểm của các hệ thống khác cho người không phải bản ngữ và người Nhật đã có một hệ chữ viết cho ngôn ngữ của họ rồi, JSL đã không được sử dụng rộng rãi bên ngoài môi trường giáo dục.
Bảng chuyển tự giả danh sang Rōmaji hệ Hepburn cải tiến
Trong trường hợp nguyên âm kéo dài thường được tạo bởi gắn thêm âm う (u) vào sau các nguyên âm khác, khi chuyển sang Rōmaji, âm う (u) sẽ được chuyển thành một dấu gạch ngang phía trên nguyên âm chính, gọi là dấu trường âm.
Ví dụ
Chú thích |
Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng (TCCNQP), cũng được biết đến dưới tên thương mại tiếng Anh là Vietnam Defence Industry (VDI; ), là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập vào ngày 15 tháng 9 năm 1945 có chức năng phát triển, tổ chức, quản lý các cơ sở CNQP nòng cốt, bao gồm các viện nghiên cứu thiết kế, công nghệ vũ khí, các nhà máy, tổng công ty, các liên hiệp xí nghiệp sản xuất, chế tạo vũ khí, trang bị và các phương tiện kỹ thuật quân sự, đảm bảo cho Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Lãnh đạo hiện nay
Chủ nhiệm, Phó Bí thư Đảng ủy: Trung tướng Hồ Quang Tuấn
Chính ủy, Bí thư Đảng ủy ː Trung tướng Nguyễn Mạnh Hùng
Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởngː Thiếu tướng Lương Thanh Chương
Phó Chủ nhiệmː Thiếu tướng Phạm Thanh Khiết
Phó Chủ nhiệmː Thiếu tướng Dương Văn Yên
Phó Chủ nhiệmː Thiếu tướng Lê Quang Tuyến
Phó Chính ủyː Thiếu tướng Nguyễn Việt Hùng
Tổ chức Đảng bộ Tổng cục
Từ năm 2006 thực hiện chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong Quân đội. Tổ chức Đảng bộ trong Tổng cục CNQP theo phân cấp như sau:
Đảng bộ Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng là cao nhất.
Đảng bộ Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, Cục Quản lý Công nghệ, các Viện nghiên cứu, Tổng Công ty (tương đương cấp Sư đoàn)
Đảng bộ các đơn vị cơ sở trực thuộc các Cục, Tổng công ty (tương đương cấp Lữ đoàn và Trung đoàn)
Chi bộ các cơ quan đơn vị trực thuộc các đơn vị cơ sở (tương đương cấp Đại đội)
Tổ chức chính quyền
Thành tích
Huân chương Hồ Chí Minh (2010)
Lịch sử hình thành
Ngày 15 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Phòng Quân giới do ông Nguyễn Ngọc Xuân làm trưởng phòng, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nhiệm vụ thu thập, mua sắm và tổ chức cơ sở sản xuất vũ khí trang bị cho quân đội. Tổ chức gồm các bộ phận: Sưu tầm, mua sắm, phân phối vũ khí; lập các bản vẽ kỹ thuật vũ khí; văn phòng.
Thực hiện sắc lệnh số 34/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phòng Quân giới tổ chức thành Cục Chế tạo Quân giới, trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia Việt Nam. Phụ trách chung là ông Vũ Anh (Chế tạo Cục trưởng theo Sắc lệnh 35/SL ngày 25/3/1946). Đồng thời ở các khu chuẩn bị thành lập các ty, khoa hoặc phòng quân giới để trực tiếp chỉ đạo các xưởng sửa chữa sản xuất vũ khí cho các đơn vị trong khu.
Ngày 4 tháng 2 năm 1947, Chế tạo Quân giới cục đổi tên thành Cục Quân giới do kỹ sư vũ khí nổi tiếng, sau này là Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa làm Cục trưởng. Cơ quan cục kiện toàn thành 3 nha và một phòng.
Nha Nghiên cứu kỹ thuật (có một xưởng sản xuất mẫu) do ông Trần Đại Nghĩa cục trương kiêm giám đốc, ông Hoàng Đình Phu phó giám đốc. Nhiệm vụ: nghiên cứu, thiết kế, chế thử các loại vũ khí mới theo yêu cầu chiến đấu. Nghiên cứu nâng cao chất lượng, hiệu quả các vũ khí sản xuất, nghiên cứu các vật liệu thay thế.
Nha Giám đốc binh công xưởng do ông Nguyễn Duy Thái làm giám đốc. Nhiệm vụ: Chỉ đạo kế hoạch và kỹ thuật sản xuất của các binh công xưởng, các ty quân giới
Nha Mậu dịch do ông Nguyễn Ngọc Xuân phó cục trưởng kiêm giám đốc, ông Nguyễn Quang phó giám đốc. Nhiệm vụ tìm nguồn vật tư và tổ chức thu mua máy móc, nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất quân giới.
Phòng Văn thư do ông Vũ Văn Đôn phụ trách. Nhiệm vụ quản lý hành chính, kế toán tài vụ và vận tải.
Ngày 11 tháng 7 năm 1950, Cục Quân giới trực thuộc Tổng cục Cung cấp, Bộ Tổng Tư lệnh quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam.
Ngày 4 tháng 11 năm 1958, Bộ trưởng Quốc phòng ra Nghị định số 262/NĐA sáp nhập hai Cục Quân giới và Cục Quân khí, tổ chức thành Cục Quân giới trực thuộc Tổng cục Hậu cần. Ông Nguyễn Văn Nam làm Cục trưởng.
Ngày 29 tháng 1 năm 1966, Bộ Quốc phòng ra quyết định số 128/QĐQP tách Cục Quân giới thành 2 cục Quân khí và Quân giới.
Ngày 10 tháng 9 năm 1974, Thực hiện Nghị quyết của Quân ủy Trung ương (số 39/QUTW ngày 5 tháng 4), Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định (số 221/CP) thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng. Ngành Quân giới được tổ chức thành các cục: Cục Quản lý kỹ thuật - sản xuất, Cục Quản lý xí nghiệp và các nhà máy, xí nghiệp chế tạo vũ khí - khí tài - đạn dược trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng.
Ngày 5 tháng 4 năm 1976, Tổng cục Xây dựng Kinh tế được thành lập theo Nghị định 59/CP của Chính phủ. Cuối năm 1979 được thu hẹp dần và đến cuối những năm 1980 thì được giải thể.
Ngày 7 tháng 11 năm 1985 Tổng cục Kinh tế được thành lập theo Nghị định số 260/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Ngày 3 tháng 3 năm 1989, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng được thành lập với tên gọi Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế trên cơ sở Tổng cục Kinh tế và một số cơ quan, đơn vị trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng Việt Nam - cơ quan quản lý các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp quốc phòng.
Ngày 24 tháng 12 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 249/1998/QĐ-TTg thành lập và thay đổi một số tổ chức trực thuộc Bộ Quốc phòng. Trong đó có nội dung: "Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế thôi nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về kinh tế, động viên công nghiệp và đổi tên thành Tổng cục Công nghiệp quốc phòng".
Từ tháng 7 năm 2000, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam được tổ chức lại và mang tên gọi hiện nay khi Bộ Quốc phòng tách hai chức năng quản lý công nghiệp quốc phòng - giao cho Tổng cục và chức năng quản lý Quân đội làm kinh tế (quản lý các doanh nghiệp quân đội) giao cho Cục Kinh tế, Bộ Quốc phòng.
Theo Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng đã được Ủy ban Thường vụ QH khóa XII thông qua ngày 26-1 thì Cơ sở công nghiệp quốc phòng bao gồm: Cơ sở nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa lớn, cải tiến, hiện đại hoá vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, vật tư kỹ thuật được Nhà nước đầu tư phục vụ quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng (cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt) do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý. Cơ sở sản xuất công nghiệp được Nhà nước đầu tư xây dựng năng lực sản xuất phục vụ quốc phòng theo quy định của pháp luật động viên công nghiệp (cơ sở công nghiệp động viên) do Bộ Công thương quản lý.
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đại tướng Phùng Quang Thanh ngày 18/12/2007, tại phiên họp thứ 3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội "...Sau năm 2012 công nghiệp quốc phòng cần hội nhập với công nghiệp quốc gia và do Chính phủ quản lý, Bộ Quốc phòng chỉ quản lý các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt..."
Chủ nhiệm Tổng cục qua các thời kỳ
Chính ủy qua các thời kỳ
2004-2008, Nguyễn Đình Hậu, Trung tướng (2006)
2008-2014, Lê Thanh Bình, Thiếu tướng (2008), Trung tướng (2011) nguyên Phó Chính ủy Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
2014-3.2019, Khuất Việt Dũng, Trung tướng (2014) nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng (2008-2014)
3.2019-nay, Nguyễn Mạnh Hùng, Trung tướng (2018) nguyên Chính ủy Quân khu 3 (2016-2019)
Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
-3.2015, Trần Gia Thịnh, Thiếu tướng (2011)
4.2015-nay, Hồ Quang Tuấn, Thiếu tướng (2016)
Phó Chủ nhiệm qua các thời kỳ
1976-1979, 1986-1987, 1989-1992, Phan Khắc Hy, Thiếu tướng (1980)
1976-1979, Đào Hữu Liêu, Thiếu tướng (1984)
1985-1993, Phạm Như Vưu, Thiếu tướng (1983)
Nguyễn Ngọc Chương, Thiếu tướng, PSG,TS
1988-1995, Lê Văn Chiểu, Thiếu tướng (1984)
2000-2007, Lâm Văn Thàn, Thiếu tướng (2004)
2008-2014, Khuất Việt Dũng, Trung tướng (2014), Chính ủy Tổng cục CNQP
2012-2017, Nguyễn Đức Hải, Thiếu tướng (2013), nguyên Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty Ba Son
2009-2017, Đoàn Hùng Minh, Thiếu tướng (2011)
2014-10.2018, Ngô Văn Giao, Thiếu tướng (2015), nguyên Viện trưởng Viện Thuốc phóng-Thuốc nổ
2017-nay, Nguyễn Đắc Hải, Thiếu tướng (2019), nguyên Tổng Giám đốc, kiêm Chủ tịch HĐTV Tổng Công ty Kinh tế kỹ thuật CNQP
4.2019-nay, Đào Xuân Nghiệp, Thiếu tướng, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý Công nghệ
4.2019-nay, Lương Thanh Chương, Thiếu tướng (12.2019), nguyên Chủ tịch, kiêm Giám đốc Công ty TNHH Một thành viên đóng tàu Hồng Hà (Nhà máy Z173)
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
2007-2008, Lê Thanh Bình, Thiếu tướng, Trung tướng (2011), sau là Chính ủy Tổng cục CNQP
2012-2015, Lê Khương Mẽ, Thiếu tướng (2012), nguyên Phó Cục trưởng Cục Tổ chức Tổng cục Chính trị
2015-11.2019, Nguyễn Viết Xuân, Thiếu tướng (2013), nguyên Phó Cục trưởng Cục Chính trị, Quân chủng PK-KQ
12.2019-nay, Nguyễn Việt Hùng, Đại tá, nguyên Phó Cục trưởng Cục Chính trị, Quân chủng PK-KQ.
Các sĩ quan cấp cao
2008-4.2019, Đào Xuân Nghiệp, Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Quản lý Công nghệ, TCCNQP.
Lâm Trọng Đông, Thiếu tướng (2015), Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục.
Hoàng Bằng, Thiếu tướng (2009), Trung tướng (2014), Cục Trưởng Cục Chính trị. |
Sâu Morris là sâu máy tính đầu tiên được phát tán qua Internet; nó cũng là
con sâu đầu tiên thu hút được sự chú ý đáng kể của các phương tiện thông tin đại chúng. Tác giả của nó là Robert Tappan Morris, một sinh viên tại Đại học Cornell. Sâu Morris được thả lên mạng vào ngày 2 tháng 11 năm 1988 từ học viện MIT, nó được phát tán từ MIT để che giấu thực tế là con sâu đã được bắt nguồn từ Cornell. (Tình cờ, Robert Tappan Morris hiện là một giáo sư tại MIT).
Kiến trúc của sâu Morris
Theo tác giả, sâu Morris không được viết với mục đích gây thiệt hại mà chỉ để đo kích thước của Internet. Tuy nhiên, một hậu quả ngoài ý muốn đã làm cho nó trở nên gây hại: một máy tính có thể bị nhiễm nhiều lần và mỗi một tiến trình bổ sung sẽ góp phần làm chậm máy đến mức không thể sử dụng được. Sâu Morris hoạt động bằng cách lợi dụng một số điểm yếu đã biết trong các chương trình sendmail, Finger, rsh/rexec và các mật khẩu yếu trong Unix. Thân chương trình chính của sâu Morris chỉ có thể nhiễm các máy VAX của DEC đang chạy hệ điều hành BSD 4 và Sun 3. Một thành phần "móc" (grappling hook) khả chuyển viết bằng C theo cơ chế tràn bộ đệm đã được sử dụng để chở thân chương trình chính, và thành phần móc có thể chạy trên các hệ thống khác, sinh tải làm chậm hệ thống và biến hệ thống thành nạn nhân.
Sai lầm
Sai lầm nghiêm trọng đã biến con sâu từ chỗ một thí nghiệm trí thức có tiềm năng vô hại thành một tấn công từ chối dịch vụ đầy phá hoại là ở tại cơ chế lây lan. Con sâu xác định xem có xâm nhập một máy tính mới hay không bằng cách hỏi xem hiện đã có một bản sao nào đang chạy hay chưa. Nhưng nếu chỉ làm điều này thì việc xóa bỏ nó lại quá dễ dàng, bất cứ ai cũng chỉ phải chạy một tiến trình trả lời rằng "có" khi được hỏi xem đã có bản sao nào chưa, và con sâu sẽ tránh. Để tránh chuyện này, Morris thiết kế để con sâu tự nhân đôi với xác suất 40%, bất kể kết quả của việc kiểm tra lây nhiễm là gì. Thực tế cho thấy tỷ lệ nhân đôi này là quá cao và con sâu lây lan nhanh chóng, làm nhiễm một số máy tính nhiều lần.
Hậu quả
Người ta thống kê rằng có khoảng 6.000 máy tính chạy Unix đã bị nhiễm sâu Morris. Paul Graham đã nói rằng "Tôi đã chứng kiến người ta xào xáo ra con số này, công thức nấu ăn như sau: ai đó đoán rằng có khoảng 60.000 máy tính nối với Internet, và con sâu có thể đã nhiễm 10% trong số đó." Mỹ đã ước tính thiệt hại vào khoảng từ 10 đến 100 triệu đô la.
Robert Morris đã bị xử và buộc tội vi phạm Điều luật năm 1986 về lạm dụng và gian lận máy tính (Computer Fraud and Abuse Act). Sau khi chống án, anh ta bị phạt 3 năm án treo, 400 giờ lao động công ích và khoản tiền phạt 10.050 đô la Mỹ.
Sâu Morris đôi khi được gọi là "Great Worm" (Sâu khổng lồ) do hậu quả nặng nề mà nó đã gây ra trên Internet khi đó, cả về tổng thời gian hệ thống không sử dụng được, lẫn về ảnh hưởng tâm lý đối với nhận thức về an ninh và độ tin cậy của Internet. |
Cá thu chấm hay cá thu Ấn Độ (danh pháp hai phần: Scomberomorus guttatus) là một loài cá biển trong số các loài cá thu. Nó được tìm thấy trong khu vực Ấn Độ Dương và các vùng biển cận kề.
Tại Pakistan nó được gọi là surmai. Nó có thể cân nặng tới 45 kg và là một loài cá khỏe, mà thỉnh thoảng người ta thấy nó nhảy lên khỏi mặt nước khi bị mắc câu.
Nó là loài cá khá phổ biến ở các quốc gia xung quanh các vùng nước này, bao gồm Ấn Độ, Sri Lanka và Bangladesh.
Mặc dù khá phổ biến ở các vùng ven biển của Ấn Độ, nhưng nó lại có giá tương đối đắt và được gọi là "vanjaram" ở Tamil Nadu hay "nei meen" (cá dầu) ở Kerala. Nó cũng được dùng làm món cá dầm, thường được ăn như là một món gia vị cùng với cơm.
Đánh bắt cá
Hình ảnh
Chú thích |
Dark Phoenix Saga () là một tình tiết mở rộng của truyện X-Men trong loạt truyện tranh giả tưởng Marvel, lấy trọng tâm là Jean Grey và Phoenix Force, kết thúc bởi cái chết của Grey. Câu chuyện viết bởi Chris Claremont cùng tranh vẽ của Dave Cockrum và John Byrne.
Tình tiết này đôi khi được chia thành hai phần, gồm Phoenix Saga (X-Men [vol. 1] #101-108, 1976-1977) đề cập tới bản sao của Jean Grey sửa chữa khối pha lê M'Kraan, và Dark Phoenix Saga (X-Men [vol. 1] #129-138, 1980) nói về sự biến chất và hy sinh của cô. Đây là một trong những sự kiện nổi tiếng nhất và gây ấn tượng nhất của giới truyện tranh, và được đề cập tới với tính chất kinh điển.
Tóm tắt
Sau khi Phoenix sửa chữa khối pha lê M'Kraan, nó tin rằng cách duy nhất giữ cho khối pha lê an toàn là tiếp tục sử dụng Jean làm vật chủ, và đặt khối pha lê bên trong mặt trời, nơi không một sinh vật sống nào tồn tại được trừ chính bản thân Phoenix. Sau khi làm xong công việc, Phoenix Force trở lại Trái Đất vẫn dưới hình dáng của Jean. Cô ta bắt đầu cảm nhận một sự khao khát những cảm xúc và quyền năng giống như đã trải qua trong khối pha lê. Sự khao khát đó khiến cô trở thành một con mồi béo bở cho Mastermind, kẻ đang muốn chứng tỏ bản thân để được gia nhập hội Inner Circle của Hellfire Club. Với sự giúp đỡ của thiết bị giam cầm trí óc do White Queen tạo ra, Mastermind (lấy bí danh là Jason Wyngrade) truyền những ảo giác thẳng vào tâm trí Jean Grey. Tin rằng mình là người tình ở thế kỷ 18 của hắn, Lady Grey, Phoenix chấp nhận gia nhập Hellfire Club với tên gọi Black Queen. Trong suốt giai đoạn bị điều khiển, Jean luôn tuyên bố mình biết chuyện gì đang xảy ra và không bị ai khống chế cả. Dưới tác dụng của những ảo ảnh và những ảo giác tạo ra để che lấp thân phận của chính Mastermind, cô ta luôn nói "Amuse yourself," (Tự tiêu khiển đi) với tất cả mọi người bất chấp những thủ thuật và năng lực của họ, bao gồm cả nhóm X-Men.
Khi Mastermind giết hiện thân tâm linh của người yêu Jean Grey, Cyclops, hành động đó đã bẽ gãy sức khống chế tâm linh của hắn với cô ta và giải phóng năng lượng điên cuồng của Dark Phoenix. Các Dị nhân chiến đấu với Jean trong một trận chiến không cân sức, theo như cách cô ta nói "Các người chỉ làm được thế thôi ư?"
Trong trận chiến với nhóm X-Men, cô ta trải qua những cảm xúc mới, nhưng không thể hiểu được tại sao họ muốn có phần thể xác Jean Grey đến vậy, "Tình yêu" là một câu trả lời không chấp nhận được với cô. Sau khi đánh bại Cyclops, Jean bay vào không gian. Với khao khát thỏa mãn cơn đói, Dark Phoenix tạo ra một lỗ sâu (worm-hole) và di chuyển đến một thiên hà xa xôi. Không suy tính đến hậu quả, cô ta lao vào ngôi sao D'Bari và ăn ngấu nghiến năng lượng của nó, biến ngôi sao thành một hành tinh chết (nova) - hủy diệt hàng tỷ sinh mệnh vô tội. Dark Phoenix sau đó bị tấn công bởi tàu vũ trụ của người Shi'ar nhằm ngăn cô ta tàn phá những hành tinh khác. Dark Phoenix đánh bại đối thủ dễ dàng, nhưng họ đã kịp báo động đến Nữ hoàng Shi'ar Lilandra. Với sự liên hợp của các chủng tộc như Kree và Skrull, hội đồng đại diện đã kết luận rằng Dark Phoenix còn nguy hiểm hơn kẻ ăn thịt các hành tinh Galactus và phải bị tiêu diệt.
Tại Trái Đất, các Dị nhân có thêm sự gia nhập của một thành viên nhóm Avengers, và cũng là cựu thành viên của X-Men, Beast. Anh ta chế tạo ra một thiết bị có thể trung hòa năng lượng của Phoenix đủ lâu để khuất phục cô ta. Dark Phoenix trở lại Trái Đất, về lại nhà cũ của Jean, và bị tấn công lần nữa bởi các Dị nhân. Trong trận chiến tâm linh dữ dội của Jean với người thầy Charles Xavier, Beast đã cài được thiết bị ngắt (circuit-breakers) vào tâm trí cô ta, làm giảm năng lực của Phoenix xuống tới mức hợp lý và cho phép phần nhân tính của Jean Grey có thể tái kiểm soát, khống chế sự bộc phát hủy diệt của Dark Phoenix.
Người Shi'ar sau đó bắt giữ các Dị nhân, cho họ biết về tội diệt chủng của Dark Phoenix, và tuyên bố cô ta phải bị hành quyết vì điều đó. Xavier, người có quan hệ tình cảm với Nữ hoàng Shi'ar, thách thức Lilandra chấp nhận Arin'n Haelar, một kiểu chiến đấu tay đôi vì danh dự không thể từ chối. Sau khi hội ý với các đồng minh, về việc sắp xếp như thế nào để phần thắng thuộc về họ, Lilandra nhượng bộ đòi hỏi của Xavier.
Ngày kế tiếp, nhóm X-Men và các Vệ binh Shi'ar được chuyển tiếp đến Vùng Xanh của Mặt Trăng để bắt đầu cuộc chiến, kẻ thắng cuộc sẽ quyết định số phận của Jean. Các Vệ binh, đứng đầu bởi Gladiator, đã khuất phục tất cả các Dị nhân, chỉ còn lại Cyclops và Jean Grey. Khi một tia sét năng lượng lạc hướng trúng phải Cyclops, nỗi kinh hoàng của cô đã chống lại thiết bị ngắt được Xavier đặt trong tâm trí, và năng lực khủng khiếp của Phoenix một lần nữa trỗi dậy. Vào lúc này, Lilandra huỷ mọi sự tiếp cận và chuyển sang kế hoạch Omega, với ý đồ phá hủy Thái Dương hệ để tiêu diệt Dark Phoenix theo.
Những biến cố không ngờ liên tiếp xảy ra, khiến cho Xavier phải yêu cầu các Dị nhân chống lại Jean để Lilandra không ra tay. Toàn bộ nhóm bước vào cuộc chiến với Jean tới khi cô ta lấy lại được cảm xúc của mình. Phoenix chạy đến một hẻm núi trên Mặt Trăng để kích hoạt vũ khí của Kree và tự tan rã đi sau khi nói lời từ biệt với Cyclops. Anh ta về sau suy diễn ra rằng Jean đã lên kế hoạch tự sát từ lúc họ đổ bộ lên Mặt Trăng.
Tình tiết chủ chốt này chấm dứt với lời chú của Uatu the Watcher "Jean Grey có thể đã sống như một Đấng quyền năng, nhưng quan trọng nhất là cô ta đã chết như một con người."
Tình tiết liên quan
Inferno
The Adventure of Cyclops and Phoenix
The Future Adventure of Cyclops and Phoenix
Phoenix: The Endsong
Phoenix: The Warsong |
Nostradamus (ngày 14 tháng 12 năm 1503 – ngày 2 tháng 7 năm 1566) là bút danh La-tinh hóa chính thức của Michel de Nostredame, bác sĩ và nhà tiên tri người Pháp.
Ông là tác giả cuốn sách "Những lời tiên tri" (Les Propheties), một bộ sưu tập những lời tiên đoán của ông được xuất bản năm 1555. Quyển sách là một tập hợp những bài đoản thi bao gồm 4 câu (thơ tứ tuyệt), mỗi nhóm 100 câu nói về một thế kỷ; những lời lẽ trong quyển sấm ký này mơ hồ, khó hiểu, chúng miêu tả những biến cố được tiên kiến sẽ xảy đến cho thế giới từ giữa thế kỷ 16 cho đến ngày tận thế, theo dự kiến là vào năm 3797 CN. Nhiều người đã luận giải những lời sấm truyền trong đó và liên hệ với các sự kiện đã xảy ra từ thời của ông cho đến tận nay và tiên liệu về những biến động có thể sẽ xảy đến cho nhân loại.
Tiểu sử
Michel de Nostredame là con út trong số 9 người con của bà Reynière (hay Renée) de Saint-Rémy và ông Jaume (còn gọi là Jacques) de Nostredame, một nhà buôn lúa mì kiêm công chứng viên. Dòng tộc này có nguồn gốc Do Thái nhưng đến đời ông nội của Michel là Guy Gassonet, đã cải sang đạo Thiên chúa vào khoảng năm 1455, láy tên Thánh là "Pierre" và tên họ là "Nostredame" (có nguồn gốc từ ngày Lễ Các Thánh mà lễ quy đạo được cử hành). Các anh chị em của Michel được biết tới gồm có Delphine, Jean de Nostredame (Jean I) (c. 1507–77), Pierre, Hector, Louis, Bertrand, Jean II (sinh năm 1522) và Antoine (sinh năm 1523).
Thời niên thiếu
Năm 15 tuổi Nostredame vào Đại học Avignon theo học bằng tú tài. Sau hơn một năm theo học tại đây (ông dự định học Tam khoa thường thức gồm ngữ pháp, tu từ và lôgic còn hơn là học Tứ khoa có số học, hình học, âm nhạc và thiên văn/chiêm tinh), ông buộc phải rời khỏi Avignon khi ngôi trường này đóng cửa dưới tác động của trận đại dịch đen (nạn dịch hạch).
Sau khi rời khỏi Avignon, Nostredame (theo sự tính toán của chính ông) đã chu du khắp các vùng nông thôn, nghiên cứu về các phương thuốc thảo dược trong vòng 8 năm kể từ năm 1521. Năm 1529, sau nhiều năm làm công việc bào chế thuốc, ông vào Đại học Montpellier bằng tiến sĩ y khoa. Một thời gian ngắn sau thì bị trục xuất khỏi trường bởi người đại diện của trường là Guillaume Rondelet đã phát hiện ra Nostredame từng hành nghề lang y. Theo luật đại học thời đó, bào chế thuốc "thủ công" là một ngành nghề bị cấm và bị vu khống.. Tài liệu về việc trục xuất này (BIU Montpellier, Register S 2 folio 87) cho đến nay vẫn còn lưu giữ trong thư viện của khoa thuộc trường Đại học. Tuy nhiên vẫn có những nhà xuất bản và những người trao đổi thư tín với Nostredame sau này vẫn gọi ông là "bác sĩ". Sau khi bị trục xuất, Nostredame tiếp tục công việc bào chế thuốc và nổi tiếng với thành công với việc bào chế ra "viên thuốc hoa hồng" được cho là có tác dụng chống lại căn bệnh dịch hạch.
Hôn nhân
Năm 1531 ông đến Agen theo lời mời của Jules-César Scaliger, một nhân vật tên tuổi thời Phục Hưng. Tại đây ông đã gặp gỡ và kết hôn với một người phụ nữ không rõ tên, theo phỏng đoán là Henriette d'Encausse và đã sinh cho ông hai người con. Năm 1534 vợ và các con qua đời do nạn dịch hạch. Từ đó ông bắt đầu đi chu du khắp nước Pháp và có thể là Ý.
Năm 1547 ông chuyển đến Salon-de-Province, một thị trấn nằm sát biên giới Ý, định cư và tục huyền với Anne Ponsarde Gemelle, một góa phụ giàu có, sau này sinh cho ông đến sáu người con, ba trai và ba gái.
Tiên tri
Những bài đoản thi trong quyển "Les Prophesied " của ông nhận được phản ứng trái ngược nhau. Một số người gọi ông là bộ hạ của Satan, kẻ bịp bợm, tên dở điên dở khùng; nhưng giới quý tộc thượng lưu lại tấm tắc ca ngợi khả năng "thần linh ứng cảm" thể hiện trong những điều ông viết. Họ lũ lượt từ mọi miền đến nhà ông, nhờ ông lấy lá số tử vi và cho họ những lời khuyên. Hoàng hậu Catherine de Médicis, vợ vua Henri II, chính là một trong những người sùng mộ Notradamus. Sau khi đọc quyển Niên Giám cho năm 1555 của Notradamus trong có ám chỉ một tai họa sẽ giáng xuống cho Hoàng gia, bà liền triệu ông về thủ đô Paris để giảng giải tường tận, đồng thời lập lá số tử vi cho các hoàng tử, công chúa. Năm 1560, vua Charles IX phong cho Nostradamus chức "ngự y".
Công trình
Trong cuốn The Prophecies, ông đã sưu tập bộ sưu tập chính, dự đoán xa. Bản in đầu tiên vào năm 1555. Bản thứ hai với 289 lời tiên tri được in 1557. Bản thứ ba, với hàng trăm câu thơ bốn câu, được in vào 1558, nhưng bây giờ chỉ tồn tại sau khi ông chết vào 1568. Bản này chứa 1 không vần và 941 vần thơ 4 câu, nhóm lại 9 tập của 100 và một 42 gọi là "Thế Kỉ". |
Tiền giấy thực sự ra đời ở Trung Quốc, thời Bắc Tống. Tuy nhiên, những hình thức sơ khai của nó, đã có từ thời cổ đại ở nhiều nơi trên thế giới.
Các hình thức sơ khai
Ở Mesopotamia cổ đại người ta đã sử dụng draft (một loại giấy tờ bảo đảm cho thóc lúa dự trữ trong kho) trong thanh toán như tiền. Ở Hy Lạp, đơn vị tiền giấy cổ xưa được sử dụng là drachma (xuất phát từ drama = 1 kg thóc). Ở Nhật Bản thời phong kiến cổ, đồng tiền giấy lấy cơ sở là lúa gạo của 1 năm bằng 1 koku. Và Ai Cập cũng đã sử dụng tiền giấy vào thế kỷ 1 trước công nguyên.
Còn tiền giấy Trung Quốc được sử dụng từ thế kỷ VII dưới triều đại nhà Đường. Khi ấy hệ thống tiền tệ chính của Trung Quốc vẫn là tiền xu tròn lỗ vuông và tiền vàng, bạc. Xuất phát từ hoạt động của các hiệu cầm đồ, kim hoàn nhận giữ tiền hộ khách hàng, người ta nghĩ ra cách thanh toán bằng những tờ giấy chứng nhận gửi tiền để dễ vận chuyển và an toàn trong sử dụng. Tiền ngày ấy được gọi là "phi tệ" vì nó nhẹ. Đến thế kỷ X, tiền giấy Trung Quốc đã được sử dụng rất rộng rãi trên địa bàn rộng lớn và đã có một hệ thống thanh toán ngân hàng khá hoàn chỉnh.
Tiền giấy chính thức ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc vua Đường Cao Tông (650–683) phát hành tiền giấy lần đầu tiên, được công nhận là tiền tệ trong thế kỷ thứ 10. Vào khoảng năm 1300 tiền giấy cũng được ban hành ở Nhật Bản, Ba Tư và Ấn Độ.
Năm 1023, triều đình Bắc Tống đã chiếm lấy quyền phát hành tiền giấy, lập Giao Tử Vụ tại Ích Châu, đến năm 1024 phát hành "Quan Giao Tử" từ 1 đến 10 quan. Năm 1033 Giao Tử cải lại làm hai loại: 5 quan và 10 quan. Năm 1068, Giao Tử lại cải thành hai loại: 1 quan và 500 đồng. Rồi ngày càng phát triển rộng ra. Năm 1069, lập Giao Tử vụ tại Lộ Châu, phát hành Giao Tử tại lộ Hà Đông. Năm 1071, phát hành Giao tử tại Thiểm Tây. Rồi Giao tử cải thành "Tiền dẫn", thành "Hội tử", thành "Giao sao"….
Khi ấy người châu Âu hầu như không biết gì về Trung Quốc. Một sự kiện rất nổi tiếng và được coi là đem lại những hiểu biết đầu tiên của châu Âu về Trung Quốc là cuộc phiêu lưu của một người Italia tên là Marco Polo đến Trung Quốc vào thế kỷ XIII. Cuộc phiêu lưu này được chính Marco Polo kể lại bằng một cuốn hồi ký làm xôn xao dư luận châu Âu thời đó vì vô vàn những điều mới lạ. Trong đó, ông có trình bày về cách sản xuất và lưu hành tiền giấy. Khi đó, tiền giấy là một điều hoàn toàn mới lạ ở châu Âu, nhiều người tỏ ra không tin và nghi ngờ giá trị của một loại tiền được hời đóng cửa nhiều trung tâm tài chính lúc đó. Từ đó tiền giấy Trung Quốc hầu như không được nhắc đến nữa.
Tiền giấy thời nhà Hồ Việt Nam
Thời nhà Hồ ở Việt Nam đã ban hành tiền giấy năm 1396. Đó là một thời điểm rất sớm so với lịch sử tiền giấy nhưng chính sách ban hành tiền giấy đó không hề được đánh giá là tiến bộ.
Sử cũ chỉ chép lại rằng: "mùa hạ, tháng 4 năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái năm thứ 9 (1396) (khi đó Hồ Quý Ly chưa cướp ngôi nhà Trần) bắt đầu phát hành tiền giấy "Thông bảo hội sao". In xong, hạ lệnh cho người đem tiền đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy tiền giấy 1 quan 2 tiền. Thể thức tiền giấy: Giấy 10 đồng vẽ rong; 30 đồng vẽ sóng; 1 tiền vẽ mây; 2 tiền vẽ rùa; 3 tiền vẽ lân; 5 tiền vẽ phượng; 1 quan vẽ rồng. Ai làm giả phải tội chết, tịch thu điền sản vào nhà nước. Cấm hẳn tiền đồng không được chứa và tiêu riêng; đều thu lại chứa tại Ngao Trì, chứa tại kinh thành và ở trị sở các xứ. Ai phạm thì cũng phải tội như trên".
Như vậy là đồng tiền giấy này đã được đưa vào trong lưu thông một cách triệt để. Nó khác hẳn tiền giấy của Trung Quốc, chỉ lưu thông rất hạn chế. Không hiểu khi đó Hồ Quý Ly lấy ý tưởng độc đáo này ở đâu vì trước đó không có tiền lệ lịch sử ở đâu làm điều tương tự. Chỉ biết rằng chính sách này của Hồ Quý Ly là nhằm mục đích thu thập kim loại làm vũ khí cho chiến tranh. Cách phát hành tiền là đổi hoàn toàn tiền cũ lấy tiền mới, nên về lý thuyết nó không ảnh hưởng gì tới giá trị đồng tiền mà thậm chí đó là một tư tưởng tiến bộ giúp tiết kiệm kim loại và sử dụng tiền thuận tiện hơn. Tuy nhiên, cũng chỉ bằng lý luận cũng đã thấy ngay sự không hợp lý của chính sách này, đó là sự vi phạm quy luật phù hợp giữa hình thức và nội dung. Sự ra đời của tiền giấy đâu có dễ dàng, đâu phải cứ ban hành một điều luật bắt buộc mà được. Sự ra đời tiền giấy phải có những tiền đề kinh tế của nó, phải trải qua những giai đoạn thai nghén trung gian để có được lòng tin của dân chúng, có cơ chế điều hành của hệ thống tài chính - ngân hàng. Và vì vậy, thực tế chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly đã hoàn toàn thất bại.
Lịch sử đã ghi nhận: vừa mới ban hành tiền giấy, nhà nước đã ban hành một chính sách độc đoán hơn cả tính chất độc đoán sẵn có của tiền giấy: Cấm hẳn tiêu tiền kim loại. Thực tế, đến năm 1403 tức sau bảy năm ban hành, tiền giấy vẫn không được ưa dùng, và do nhà nước cấm tiền đồng, nhân dân buộc phải trao đổi theo hình thức hàng đổi hàng. Nhà nước đã phải định giá tiền giấy cho trao đổi, lập điều luật định tội không tiêu tiền giấy.
Nhà nước ngoài việc dùng pháp luật cưỡng bức còn đưa ra nhiều biện pháp khác cố làm cho đồng tiền đó được lưu hành rộng rãi trong nhân dân. Năm 1401, Hồ Hán Thương đặt kho Thường bình, phát tiền giấy cho các lộ, theo thời giá đong thóc chứa vào kho ấy. Năm 1402, định lại các thuế về tô ruộng, theo đó: Triều đình trước mỗi mẫu thu 3 thăng thóc nay thu 5 thăng nhưng nộp bằng tiền giấy thì được giảm đi. Thuế đinh cũng tương tự, thu bằng thóc thì thu nặng hơn trước nhưng thu bằng tiền giấy thì lại giảm đi. Bằng những biện pháp cưỡng bức kết hợp với khuyến khích như vậy mà tiền giấy vẫn không được lưu thông dù rất ít.
Bình luận về tiền giấy "Thông bảo hội sao", người xưa đã viết: Tiền giấy chẳng qua chỉ là một mảnh giấy vuông, phí tổn chỉ đáng năm, ba tiền mà đem đổi lấy vật đáng giá năm, sáu trăm đồng của người ta, cố nhiên không phải là cái đạo đúng mức. Vả lại, người có tiền giấy cất giữ cũng dễ rách nát, mà kẻ làm giả mạo sinh ra vô cùng, thật không phải là cách bình ổn vật giá mà lưu thông của cải của dân vậy. Quý Ly không xem kỹ đến cái gốc lợi hại, chỉ ham chuộng hư danh sáng chế, để cho tiền của, hàng hoá thường vẫn lưu thông tự nhiên ứ đọng, khiến dân nghe thấy đã sợ, thêm mối xôn xao, thế có phải là chế độ bình trị đâu.
Việc ban hành tiền giấy của nhà Hồ xem như thất bại. Cùng với sự sụp đổ của nhà Hồ, tiền giấy cũng chấm dứt lưu hành. Năm 1429, ngay năm thứ hai sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã cho đúc tiền kim loại trở lại, nhân dân lại quay trở lại dùng tiền này.
Tiền giấy "Thông bảo hội sao" nhà Hồ ban hành như một bông hoa trái mùa nên nhanh chóng lụi tàn. Tuy nhiên chính sách tiền tệ của nhà Hồ là một bài học lịch sử đắt giá của đất nước . Nhất là những chính sách ban hành đồng tiền mới ngày nay có nhiều điều phải học hỏi không thừa.
Tiền giấy hiện đại ra đời ở châu Âu
Những giấy bạc đầu tiên của châu Âu được ra đời vào năm 1483, nó được phát hành trong bối cảnh người Tây Ban Nha bị bao vây bởi những người Moors. Ngoài ra cũng có giả thuyết cho là việc xuất hiện những tờ tiền làm bằng giấy bồi gồm nhiều dạng trị giá khác nhau được sản xuất vào năm 1574 bởi những công dân bị vây hãm thuộc thành Leyden. Cả thành phố Leyden và Middelburg lúc bấy giờ đang bị người Tây Ban Nha bao vây nên thiếu bạc để đúc những đồng tiền kim loại nên họ buộc phải dùng bìa các quyển sổ của đạo Công giáo để làm vật liệu cho loại tiền giấy bồi. Tuy loại tiền giấy bồi được mô tả là loại tiền giấy lâu đời nhất của châu Âu còn giữ được, nhưng mặt khác, chúng không phải là những tờ giấy bạc thật.
Thụy Điển
300 năm sau khi Marco Polo tường trình về tiền giấy của người Trung Hoa, Ngân hàng Stockholm Banco ở Thuỵ Điển mới phát hành những tờ giấy bạc đầu tiên. Nguyên do của việc phát hành những tờ giấy bạc này là do sự phá giá của loại tiền kim loại bằng đồng đó xuất hiện vào năm 1644. Nhằm tìm ra giải pháp hợp lý cho cán cân chi phí của giai đoạn chuyển thể kinh tế, Johann Palmstruth đã đề nghị phát hành cái gọi là "Kreditivsedla" và năm 1661 những tờ giấy bạc đầu tiên được xuất hiện từ xưởng Riskdaler và Daler. Người ta cho rằng những tờ tiền này bao gồm những loại có chỉ số giá trị được viết bằng tay. Đợt phát hành lần thứ hai vào năm 1662 - 1664 các chỉ số được in một cách cẩn thận hơn, và lần thứ ba được phát hành vào năm 1666 - có xem xét gia tăng một cách đáng kể theo đơn đặt hàng. Phỏng chừng có đến 60 tờ giấy bạc có các đơn vị 10, 25, 50 và 100 Daler bạc được lưu giữ lại.
Anh
Cùng vào thời gian đó tại Anh, người ta cũng được biết đến những tờ giấy bạc Goldsmith. Ngay từ thời xa xưa đó đã có hình thức ký gửi tiền. Đối với những khoản tiền gửi có lãi - thời hạn rút tiền được ấn định (có kỳ hạn). Cùng những loại ký gửi không có lãi thì được hoàn trả lại theo yêu cầu (không kì hạn). Những nhà ngân hàng phát hành ra những chi phiếu cho số tiền gửi không cần đề tên... nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc chi trả số tiền ký gửi. Những chi phiếu này đã được phát hành bằng chỉ số giá trị nhỏ và tròn số, những tờ "giấy bạc" này được xem như là những tờ giấy bạc tiên phong của ngành ngân hàng.
Vào năm 1694, Ngân hàng Anh quốc được thành lập và những tờ giấy bạc đầu tiên được phát hành. Cùng lúc các đạo luật của Quốc hội được ban hành để củng cố vị trí đặc biệt của ngân hàng và các thương nhân cũng bắt đầu nhận thức được sự tài trợ của ngân hàng trong giai đoạn kinh tế khủng khoảng. Chính vì thế mà Ngân hàng Anh quốc đã thành công trong việc xác lập các nền tảng vững chắc cho mình lúc bấy giờ.
Scotland, Nauy và Đan Mạch
Sau Anh một năm là Scotland đã thiết lập ngân hàng trung ương. Ngân hàng kế đến là Na Uy và vùng Danish, việc phát hành các tờ giấy bạc phi lãi suất đã bắt đầu xuất hiện do sáng kiến của thương nhân Thor Mohlen. Kể cả Đan Mạch vua Federic IV đã có tờ giấy bạc được sản xuất vào 18 năm sau: vào năm 1713 trong cuộc chiến tranh Bắc Âu.
Pháp
Ở Pháp, tình trạng tài chính đang kiệt quệ, chính lý do này đã thúc đẩy vua Louis XIX áp dụng chính sách cải cách tiền kim loại đang được lưu hành. Vào năm 1703, ông ta đã chỉ thị thu hồi các đồng tiền kim khí, đóng dấu đè và tái phát hành với chỉ số giá trị cao hơn. Các biên nhận thu hồi tiền kim khí còn được gọi là coin scrip, như đã thông báo tính hợp pháp của nó. Song biện pháp này không cứu vãn được tình trạng tài chính của nước Pháp. Nợ nần chồng chất của chính phủ kéo dài dai dẳng kể cả sau khi nhà vua mất. Chính vì thế, người ta không thấy làm ngạc nhiên trước tư tưởng của John Law một người Scotland về việc phục hồi ngân sách của chính phủ, đã được hồ hởi công nhận. Law ước mong phát hành gia tăng giấy bạc và đề xướng chính sách tín dụng. Vào năm 1716, ông ta được chính phủ cho phép thiết lập Ngân hàng trung ương nhằm phát hành các đồng tiền "ECUS" dưới dạng giấy bạc.
Đến năm 1718, chính phủ tiếp quản ngân hàng. Các tờ giấy bạc được phát hành sau này nhằm trả cho các công ty "Livres Tournois" và các cổ phần hai công ty thuộc địa là "Compagnie des Indes" và "Compagnie d'Occident". Sau đó, Law đã tiến hành thực hiện một dự án tài chính và chứng khoán nguy hiểm mà hậu quả dẫn đến là một tai hoạ nghiêm trọng vào năm 1720. Ngân hàng bị đóng cửa, Law đã phải rời nước Pháp và bỏ lại các tài sản của ông ta.
Đó cũng không phải là kinh nghiệm duy nhất của nước Pháp về tiền giấy ở thế kỉ XVIII. Nền tài chính nước Pháp còn gặp phải nhiều điều bất hạnh, suy thoái kéo dài qua thời kỳ cách mạng tư sản. Việc sụt giảm các khoản lợi tức đã khiến chính phủ phải đương đầu với những yêu cầu gia tăng về các khoản chi phí phát sinh. Trong khuôn khổ dự án do Tallyran đưa ra, nhằm bảo đảm tính an toàn cho tín phiếu - mà bảo chứng của chúng là những tài sản của Giáo hội bị tịch thu. Những tờ giấy bạc của đợt phát hành đầu tiên có lãi trong khi những đợt phát hành sau đó không có. Mặt khác, nhằm làm giảm sức khan hiếm tiền lẻ, nhiều thành phố, thị trấn đã cho phát hành "loại giấy bạc tín nhiệm" (billets de confiance, tín tệ) với hàng nghìn mẫu trong lưu thông. Đối với chính phủ cũng vậy, không còn in tín phiếu với chỉ số giá trị nhỏ. Cùng một lúc phát hành tín phiếu trị giá cao đồng thời liên tục gia tăng lượng phát hành. Dưới thời Cộng hoà Pháp, các tín phiếu Hoàng gia đến lượt chúng bị thay thế. Những tín phiếu này vào năm 1795 được thay thế bằng tín phiếu đồng quan (Franc) khi hệ thống thập phân xuất hiện.
Ngày 1 tháng 1 năm 1796 đã có hơn 7 triệu Livres dưới dạng tín phiếu được đưa vào lưu thông. Trị giá của chúng chỉ đạt 0,5 của giá trị 1 xu.
Để đạt mục đích khôi phục lại lòng tin vào bản vị tiền tệ - Chính phủ Cộng hoà Pháp quyết định huỷ bỏ tín phiếu, thay vào đó phát hành một dạng tiền giấy mới "Mandats Territoriaux" phó phiếu và chuyển đổi trị giá 30 livres ăn 1 đồng. Và như vậy, "Promesses' des mandats Territoraux" được khởi đầu phát hành thay cho tín phiếu. Các Mandats thực tế được phát hành sau đó, ở một số lượng nhỏ và kể cả loại tiền giấy mới cũng không thể hãm được sự lạm phát. Dù rằng chỉ trong vài tuần đầu phát hành, giá trị của Mandats đã rớt giá xuống còn 95% trên giá trị mặt. Trước tháng 2 năm 1796, toàn bộ tiền giấy được tuyên báo là không còn giá trị.
Sau sự việc biến mất tín phiếu và Mandats, Ngân hàng Pháp quốc được thành lập năm 1800 - dưới sự ảnh hưởng của Napoleon, thoát thai từ trong những ngân hàng "Caisses des comptes courrants" (Ngân hàng tiền mặt).
Nga
Ở Nga, ngân hàng cổ phần được thiết lập vào năm 1768. Lúc này tiền giấy đã được dư luận rộng rãi chấp nhận. Tuy nhiên, khi chính phủ bắt đầu cho lưu hành với một số lượng lớn tiền giấy trong thời kỳ cuộc chiến tranh lần thứ hai chống Thổ Nhĩ kỳ (1787 - 1792) thì sự tín nhiệm của dân chúng giảm dần và tiền giấy đi đến mất giá trị. Từ lúc ấy trở đi, Nga tiếp tục phát hành không ngừng tiền giấy chính phủ.
Áo
Cuộc chiến của Áo dưới thời Maria Therisia và Federic đại đế liên tiếp xảy ra đã làm chính phủ Áo nợ nần chồng chất. Chính vào thời kỳ này buộc chính phủ phải lưu tâm việc phát hành tiền giấy. Và vì vậy, ngân hàng Banco del Giro ra đời vào năm 1703, khởi thủy được xem là nhằm phổ biến các quy định về việc lưu hành tiền giấy, song sự tín nhiệm vào ngân hàng này đã không đạt được như mong muốn, vì thế kế hoạch sớm bị huỷ bỏ. Chỉ khi việc quản lý ngân hàng được chuyển đổi - đến Vienna, tên gọi được đổi lại là "Wiener Stadt Banco", lúc bấy giờ ngân hàng mới lấy lại được sự tín nhiệm.
Đến năm 1759, đợt phát hành tiền giấy mang tính chất "tạm thời" bắt đầu xuất hiện và nó phải bị thay thế bởi giấy bạc thật của chính phủ phát hành vào năm 1762. Rập theo khuôn khổ những tờ giấy bạc này là kì phiếu "Bancozettel" được phát hành rộng rãi. Tuy nhiên, khi chính phủ lâm vào tình trạng nợ nần vì các cuộc chiến tranh phát sinh, thêm vào đó là việc phát hành hàng loạt các loại giấy bạc với một lượng lớn nhằm bù đắp cán cân tài chính đã làm cho giấy bạc này mất giá trị. Cuộc chiến với Pháp đã dẫn đến sự suy yếu vì các khoản nợ và chính phủ tự nhận thấy không thể nào kéo lại giá trị của giấy bạc, chỉ còn phương cách duy nhất là cải cách tiền tệ nhằm ngăn chặn tình trạng phá sản của quốc gia. Vì vậy, năm 1811, một loại tiền giấy mới ra đời với chỉ số giá trị thay đổi 1: 5 (một đồng mới ăn năm đồng cũ) và người ta gọi những tờ giấy bạc này là những tờ giấy bạc "dự kiến".
Chẳng bao lâu sau, những tờ giấy bạc này đã bị tụt giá và phải nhường chỗ cho một loại giấy bạc khác vào năm 1813. Đó là loại "giấy bạc dự báo trước tương lai một chính sách thuế khoá" (anticipation notes). Giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Napôlêon đã làm nảy sinh một hi vọng mới về nền kinh tế hoà bình, phát triển và ổn định tiền tệ. Vào năm 1816, ngân hàng "Austrian National script Bank" (Ngân hàng Áo quốc) được thiết lập để xác lập lại mặt ổn định giá trị cho những tờ giấy bạc mà ngân hàng phát hành.
Đức
Ở Đức vật liệu để làm tờ giấy bạc đầu tiên được phát hành trước đó là loại tiền giấy bồi (carboard coins) mà các thành phố của Đức lúc bấy giờ như: Leyden và Middelburg đã sản xuất vào năm 1574. Khi những loại giấy bạc này được phát hành với tên gọi là "giấy bạc cấp bách" thì giấy bạc của ngân hàng Banco được phát hành năm 1705 bởi Elector Johann Wilhem được xem là giấy bạc thật đầu tiên của Đức. Elector đã thiết lập ngân hàng "Banco di Gyro d'affrancatione" mà những tờ giấy bạc thật đó tuy mang tên cá nhân nhưng có thể chuyển đổi được.
ở Ansbach Bayreuth ngân hàng "Hoch Furslich Brandenburgische" đã phát hành giấy bạc có tên gọi là "Banco billets" (giấy bạc Banco) vào giữa thế kỉ 18. Dù cho chúng được làm cùng kiểu như những loại giấy bạc của ngân hàng "Hochfurslich Brandenburg - Aspach - Bayreuthische Hof - Banco" thành lập năm 1780, thì những tờ giấy bạc này đứng về mặt giá trị hợp pháp có rất ít giá trị.
Nỗi sợ hãi của việc phá giá tiền tệ qua sự xuất hiện tiền giấy đã ăn sâu vào tâm khảm người Đức. Mãi cuối thế kỉ 18 cho đến một phần vào giữa thế kỉ 19, việc phát hành giấy bạc đại loại như vậy đã được vạch ra nhưng quyết định thi hành cứ bị trì hoãn.
Vào năm 1765, ở Phổ ngân hàng Konigliche Giro und Lehnbank được thành lập và tiền giấy đầu tiên ra đời. Những tờ giấy bạc này dưới dạng "Pound Banco" không có vai trò quan trọng trong việc lưu hành. Chỉ những giấy bạc được phát hành từ năm 1820 trở đi mới có tầm quan trọng. Ngân hàng được đổi tên là "Preussische Bank" vào năm 1847 là tiền thân của ngân hàng Reichsbank ra đời vào năm 1876.
Quan trọng hơn là vào đầu thế kỷ XIX, chính phủ Phổ đã cho phát hành "giấy bạc an toàn" (bank safe notes).
Italia
Ở Italia, hệ thống tổ chức ngân hàng đã phát triển sớm hơn các nước khác ở châu Âu. Các biên nhận ký gửi và các tín phiếu do các ngân hàng làm ra được xem là đã xuất hiện ngay thời kỳ trung cổ như ngân hàng "Casa Di Giorgio" ở Genoa, ngân hàng "Bancodisant' Ambrogio" ở Milan và ngân hàng "Banco Dirialto" ở Venice. Qua đó, các dạng tín phiếu có thể chuyển nhượng theo dạng bối thự. Những tờ giấy bạc này được xem như là những tờ giấy bạc tiên phong trong các loại giấy bạc đương thời. Những tờ giấy bạc thật, dẫu sao chúng đã được phát hành đầu tiên vào giữa thế kỉ 18 thuộc lãnh địa Sardina. Tiếp sau đó là những tờ giấy bạc của ngân hàng Sacro Monte Delta Pieta Di Roma và những tờ giấy bạc của ngân hàng Banco Di Santo Spirito Di Roma.
Ba Lan
Ở Ba Lan, tiền giấy xuất hiện đầu tiên vào khoảng thế kỉ 18. Những kẻ phiến loạn dưới sự lãnh đạo của Kosciuszko đã phát hành giấy bạc vào năm 1794. Với sự đập tan cuộc nổi loạn, việc phát hành tiền giấy đã phải chấm dứt. Chỉ có ở công quốc Warsaw do Napoleon sáng lập, tiền giấy được tái lưu hành. Những tờ giấy bạc này về mặt thiết trí giống với các phiếu tiền tệ Saxon.
Bắc Mỹ
Người ta đoán rằng: tiền giấy ở châu Mĩ xuất hiện khá lâu sau châu Âu. Nhưng có điều chắc chắn giống như ở châu Âu, Bắc Mĩ bắt đầu biết đến loại tiền không có giá trị nội tại (no intrinsic value) từ những năm 1600.
Việc cung cấp tiền kim khí ở Canađa dưới thời kì thuộc địa Pháp thiếu hụt dẫn đến tình trạng kéo dài thiếu đồng tiền hợp pháp. Nhằm mục đích bảo đảm tối thiểu việc chi trả cho binh lính, những người Canađa đã tự đề ra phương sách và ứng dụng bằng cách dựng một phần tư của các lá bài đóng dấu, và có chữ ký của thống đốc cũng như của viên toàn quyền - thế là chúng được sử dụng như là tiền giấy. Vào năm 1685, loại tiền giấy có đặc tính nêu trên được đưa vào lưu thông. Điều đáng chú ý là thay vì phải thu hồi ngay các loại tiền giấy nêu trên mang tính chất lưu hành trong điều kiện cần kíp ngay sau khi việc cung cấp tiền kim khí đó được bổ sung đủ nhưng điều này đã không xảy ra. Những đợt phát hành tiếp theo bao gồm loại 1/2 lá bài hoặc là trọn tấm được tiếp tục lưu hành khắp cả thuộc địa. Loại tiền này còn được duy trì lưu hành mãi cho đến năm 1718 - 1719 và chỉ chấm dứt phát hành sau khi có quyết định thu hồi của viên thống đốc.
Ở Hoa Kỳ, tiền giấy ra đời từ khi các tiểu bang hợp nhất đòi độc lập, đó chính là đồng USD ($) được công nhận cho đến nay.
Chú thích
Đỗ Văn Ninh (1992), Tiền cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992. |
Họ Cá thu ngừ hay họ Cá bạc má (danh pháp khoa học: Scombridae) là một họ cá, bao gồm cá thu, cá ngừ và vì thế bao gồm nhiều loài cá có tầm quan trọng kinh tế-thương mại lớn cũng như là các loại cá thực phẩm thông dụng. Họ này có khoảng 55 loài trong 15 chi. Tên gọi thu ngừ là từ ghép của cá thu và cá ngừ.
Các loài cá này có hai vây lưng, mỗi vây này có thể bị suy giảm thành các đường khía trên lưng và một loạt các vây nhỏ (gai) giữa vây lưng sau và vây hậu môn với đuôi. Phần gốc đuôi mảnh dẻ và vây đuôi bị phân chia mạnh. Kích thước của các loài dao động lớn, từ khoảng 20 cm ở cá thu đảo tới 458 cm được ghi nhận ở cá ngừ vây xanh phương bắc.
Các loài cá thu, cá ngừ nói chung là các loài cá ăn thịt của đại dương, và chúng có khả năng có tốc độ di chuyển đáng kể.
Một số thành viên trong họ này, cụ thể là các loài cá ngừ, là đáng chú ý vì khả năng thu nhiệt (động vật máu nóng).
Điển hình cho họ này là chi cá bạc má (Rastrelliger) phân bố ở vùng biển nhiệt đới thuộc Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, trong đó có vùng biển Việt Nam. Ở Việt Nam, cá phân bố dọc theo vùng ven bờ biển, ở độ sâu từ 12 – 100 m, nhưng chủ yếu tập trung ở độ sâu 25 – 70 m.
Những loài thuộc chi này thường sống thành đàn lớn, vào gần bờ khi chuyển gió mùa. Loài hay gặp ở biển Việt Nam là cá bạc má (Rastrelliger kanagurta) và cá bạc má ngắn vây (R. chrysozonus). Thuộc họ cá bạc má, còn có chi cá thu (Scomber), thường được gọi là cá thu bạc má. Tất cả các loài cá bạc má đều có giá trị kinh tế lớn. Lưu ý rằng ngư dân nhiều vùng còn gọi chi cá trác (Selar), họ Cá khế (Carangidae) là cá bạc má.
Ở Việt Nam, cá bạc má còn được các ngư dân gọi là cá ba thú. Người ta gọi cá ba thú là loại cá nhỏ khoảng 3 ngón tay xếp ngang trở lại, còn loại từ ba ngón tay trở lên thì người ta gọi là cá bạc má. Chủng loại gần chúng là: cá song, cá ngân bột, cá thu ngừ, cá lem, cá thu, cá ngừ, cá ảo, cá chao cháo (mắt lồi).
Phân loại
Jordan, Evermann và Clark (1930) phân chia các loài cá này thành bốn họ là Cybiidae, Katsuwonidae, Scombridae (nghĩa hẹp) và Thunnidae, nhưng trong bài này thì chúng được phân chia theo FishBase và đặt trong một họ duy nhất là Scombridae (nghĩa rộng).
Theo truyền thống họ này nằm trong phân bộ Scombroidei của bộ Perciformes, nhưng gần đây Betancur et al. (2013, 2014) đã chuyển nó sang bộ mới tạo ra là Scombriformes, chỉ có quan hệ họ hàng xa với Perciformes nghĩa mới.
Ở đây liệt kê khoảng 54 loài trong 15 chi:
Chi Acanthocybium
Acanthocybium solandri (Cuvier, 1832): Wahoo.
Chi Allothunnus
Allothunnus fallai Serventy, 1948: Cá ngừ thân mảnh.
Chi Auxis
Auxis brachydorax Collette & Aadland, 1996
Auxis eudorax Collette & Aadland, 1996
Auxis rochei (Rafinesque, 1810): Cá ngừ ồ
Auxis thazard (Lacepède, 1800): Cá ngừ chù, cá ngừ dẹt
Chi Cybiosarda
Cybiosarda elegans (Whitley, 1935) Cá ngừ nhảy.
Chi Euthynnus
Euthynnus affinis (Cantor, 1849): Cá ngừ chấm, cá ngừ Đài Loan.
Euthynnus alletteratus (Rafinesque, 1810): Cá ngừ nhỏ.
Euthynnus lineatus Kishinouye, 1920: Cá ngừ sọc đen.
Chi Gasterochisma
Gasterochisma melampus Richardson, 1845: Cá thu bướm.
Chi Grammatorcynus
Grammatorcynus bicarinatus (Quoy & Gaimard, 1825): Cá thu mập.
Grammatorcynus bilineatus (Rüppell, 1836): Cá thu vạch kép.
Chi Gymnosarda
Gymnosarda unicolor (Rüppell, 1836): Cá ngừ răng chó.
Chi Katsuwonus
Katsuwonus pelamis (Linnaeus, 1758): Cá ngừ vằn.
Chi Orcynopsis
Orcynopsis unicolor (Geoffroy Saint-Hilaire, 1817): Cá ngừ phẳng.
Chi Rastrelliger
Rastrelliger brachysoma (Bleeker, 1851): Cá ba thú hay cá thu ngắn.
Rastrelliger faughni Matsui, 1967: Cá thu đảo.
Rastrelliger kanagurta (Cuvier, 1816), đồng nghĩa: R. chrysozonus: Cá bạc má.
Chi Sarda
Sarda australis (Macleay, 1881): Cá ngừ Australia.
Sarda chiliensis (Cuvier, 1832): Cá ngừ đông Thái Bình Dương.
Sarda lineolata (Girard, 1858): Cá ngừ Thái Bình Dương.
Sarda orientalis (Temminck & Schlegel, 1844): Cá ngừ sọc dưa.
Sarda sarda (Bloch, 1793): Cá ngừ Đại Tây Dương.
Chi Scomber
Scomber australasicus Cuvier, 1832: Cá thu lam.
Scomber colias Gmelin, 1789: Cá thu bống Đại Tây Dương.
Scomber japonicus Houttuyn, 1782: Cá thu bống, cá sa ba.
Scomber scombrus Linnaeus, 1758: Cá thu Đại Tây Dương.
Chi Scomberomorus
Scomberomorus brasiliensis Collette, Russo & Zavala-Camin, 1978: Cá thu Tây Ban Nha Serra.
Scomberomorus cavalla (Cuvier, 1829): Cá thu vua.
Scomberomorus commerson (Lacépède, 1800): Cá thu Tây Ban Nha sọc hẹp.
Scomberomorus concolor (Lockington, 1879): Cá thu Tây Ban Nha Monterey.
Scomberomorus guttatus (Bloch & Schneider, 1801): Cá thu chấm.
Scomberomorus koreanus (Kishinouye, 1915): Cá thu Triều Tiên.
Scomberomorus lineolatus (Cuvier, 1829): Cá thu sọc.
Scomberomorus maculatus (Couch, 1832): Cá thu Tây Ban Nha Đại Tây Dương.
Scomberomorus multiradiatus Munro, 1964: Cá thu Papua.
Scomberomorus munroi Collette & Russo, 1980: Cá thu đốm Australia.
Scomberomorus niphonius (Cuvier, 1832): Cá thu Nhật Bản.
Scomberomorus plurilineatus Fourmanoir, 1966: Cá thu Kanadi.
Scomberomorus queenslandicus Munro, 1943: Cá thu Queensland.
Scomberomorus regalis (Bloch, 1793): Cá thu Cero.
Scomberomorus semifasciatus (Macleay, 1883): Cá thu vua sọc rộng.
Scomberomorus sierra Jordan & Starks, 1895: Cá thu sierra Thái Bình Dương.
Scomberomorus sinensis (Lacépède, 1800): Cá thu Trung Quốc.
Scomberomorus tritor (Cuvier, 1832): Cá thu Tây Phi.
Chi Thunnus
Thunnus alalunga (Bonnaterre, 1788): Cá ngừ thịt trắng (Albacore).
Thunnus albacares (Bonnaterre, 1788): Cá ngừ vây vàng.
Thunnus atlanticus (Lesson, 1831): Cá ngừ vây đen.
Thunnus maccoyii (Castelnau, 1872): Cá ngừ vây xanh phương nam.
Thunnus obesus (Lowe, 1839): Cá ngừ mắt to.
Thunnus orientalis (Temminck & Schlegel, 1844): Cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương.
Thunnus thynnus (Linnaeus, 1758): Cá ngừ vây xanh phương bắc.
Thunnus tonggol (Bleeker, 1851): Cá ngừ đuôi dài.
Đặc điểm sinh học
Cá bạc má có thân hình thuôn dài, hơi dẹt bên. Ở Việt Nam, cá bạc má đánh bắt được có chiều dài dao động từ 72 đến 280 mm, trung bình 209 mm. Chiều dài đánh bắt ở các vùng biển khác nhau cũng khác nhau, ở vùng biển Vũng Tàu là 72 đến 295 mm, ở Côn Đảo là từ 62 đến 260 mm. Còn ở vùng biển Phan Thiết từ 135 đến 295 mm. Phương trình tương quan chiều dài - khối lượng cá bạc má có dạng: W = 0,084 x L x 2,23
Cá bạc má có vây đuôi mảnh, có 2 đến 3 gờ da nổi mỗi bên. Hai vây lưng rời nhau. Sau vây lưng thứ hai và vây hậu môn có các vây phụ. Vây ngực chúng nằm cao, cá bơi nhanh và khoẻ, thích hợp với lối sống di cư xa.
Các bạc má sống từng đàn rất đông vì chủng loại này đi từng bầy không rải rác như các loại cá biển khác. Ban đêm chúng di chuyển trông như một vầng kim quang dưới biển (ngời cá). Cá bạc má có hiện tượng di cư thảng đứng ngày đêm thể hiện khá rõ. Sản lượng cá đánh được bằng lưới kéo đáy cao nhất là vào lúc bình minh và giữa trưa, còn lưới kéo tầng cao nhất là từ 20 đến 24 giờ đêm.
Bạc má là loại cá ăn bọt nước hoặc sứa biển, chúng ăn động vật nổi (giáp xác, cá con). Cá bạc má chủ yếu ăn động vật phù du và một thực vật phù du. Trong số động vật phù du, Oncaea chiếm 39,8%, Copepoda 11,4%, Megalopa larva 9,4% vv… Trong thực vật phù du thì tảo khuê gồm 21 giống chiếm tới 89,7%, Coscinodiscus 22,9%, Nitzschia 11,2% vv… Cường độ bắt mồi của cá cái cao hơn cá đực, cá chưa chín muồi sinh dục cao hơn cá trưởng thành.
Ở Việt Nam, cá bạc má đánh bắt được thuộc 4 nhóm tuổi, trong đó cá nhóm 2 tuổi chiếm ưu thế và chiếm khoảng 64,4%. Cá nhóm 1 tuổi chiếm 19,7%. Cá nhóm 3 tuổi chiếm 12,0% và cá nhóm 4 tuổi chiếm 3,9%.
Cá bạc má sinh trưởng rất nhanh trong năm đầu và đạt trung bình 113 mm. Từ năm thứ 2, tốc độ tăng trưởng chậm dần. Mùa sinh sản của cá bạc mà kéo dài từ cuối mùa khô (tháng ba) cho đến cuối mùa mưa (tháng mười hai) với hai đỉnh đẻ rộ vào tháng 3 – 6 và tháng 9 – 10. Chiều dài khi cá đi đẻ lần đầu dao động từ 140 mm đến 200 mm. Nhiệt độ nước biển bề mặt thích hợp cho cá đi đẻ là 26–27,5 °C và độ mặn 3,0–3,4%.
Việc đánh bắt ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cá bạc má là một trong những loài luôn chiếm vị trí hàng đầu về tỷ lệ trong sản lượng cá nổi nhỏ, và là loài cá được tiêu thụ nhiều trong thị trường nội địa, không những chỉ cho cộng đồng dân cư ven biển mà còn cung cấp nguồn đạm động vật cho cộng đồng dân cư ở vùng sâu, vùng xa, miền núi.
Thành phần sản lượng của cá bạc má trong nghề lưới vây của các vùng biển có sự biến động tương đối lớn qua 3 năm đánh bắt, trong sản lượng của nghề lưới vây của tỉnh Bình Thuận (Đông Nam Bộ) và Nghệ An (vịnh Bắc Bộ) chiếm 12,4% và 9,3%.
Sản lượng và năng suất đánh bắt của cá bạc má của 3 vùng biển biến động rất lớn theo các tháng đánh bắt. ở vùng biển vịnh Bắc Bộ và Đông Nam Bộ, các tháng cho sản lượng cá bạc má cao nằm trong thời kỳ gió mùa Đông Bắc.
Tổng sản lượng khai thác cá Bạc má của nghề lưới vây là 4.842 tấn/năm ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, 4.050 tấn/năm ở Trung Bộ và cao nhất ở Đông Nam Bộ là 6.560 tấn/năm.
Phân bố, biến động sản lượng cá bạc má thể hiện rõ theo mùa gió mùa, theo chu kỳ ngày-đêm và theo dải độ sâu. Chiều dài cá đánh bắt thích hợp nhất của cá Bạc má ở 3 vùng biển nghiên cứu là nhóm cá trên 2 tuổi, dao động từ 200 – 220 mm.
Ở vùng biển Trung Bộ, để thu được sản lượng bền vững tối đa và hiệu quả kinh tế cao hơn, không nên vượt quá cường lực hiện tại và đối với vùng biển Đông Nam Bộ cần giảm cường lực khai thác đi khoảng 10% so với cường lực hiện tại. Còn ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, có thể gia tăng cường lực khai thác, nhưng sản lượng sẽ tăng không đáng kể.
Sản lượng và năng suất đánh bắt
Ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, năng suất đánh bắt của các đội tàu và sản lượng khai thác tương đối cao và biến động rất lớn qua các tháng khai thác. Cá bạc má cho sản lượng khai thác và năng suất đánh bắt cao trong các tháng 1, 2, 3, 9, 10, 11 và 12.
Ở vùng biển Trung Bộ, năng suất đánh bắt và sản lượng khai thác của cá bạc má ở vùng biển này cũng tương tự như vùng biển vịnh Bắc Bộ, biến động rất lớn qua các tháng khai thác. Mùa vụ đánh bắt ở vùng biển này rất hạn chế thay đổi theo từng năm khai thác và phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện khí hậu, nên có những tháng không có sản lượng.
Ở vùng biển Đông Nam Bộ, giống các vùng biển trên, năng suất đánh bắt và sản lượng khai thác của cá bạc má biến động rất lớn theo thời gian. Các tháng 1, 2, 3, 10, 11 và 12 đều là những tháng cho sản lượng và năng suất đánh bắt cao so với các tháng khác.
Tổng sản lượng đánh bắt
Sản lượng cá bạc má của nghề lưới vây của các vùng biển nghiên cứu trên biến động lớn qua các năm khai thác và đều có xu hướng giảm xuống.
Ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, đã ước tính được sản lượng cá bạc má là 4.190 tấn trong năm 2003, 6.633 tấn trong năm 2004 và 3.703 tấn trong năm 2005, trung bình khoảng 4.842 tấn. ở vùng biển miền Trung, đã ước tính trong năm 2003 là 2.904 tấn, năm 2004 là 5.428 tấn và năm 2005 là 3.818 tấn, trung bình là 4.050 tấn.
Ở vùng biển Đông Nam Bộ, sản lượng cá bạc má tương đối cao trong năm 2003 là 11.511 tấn đến năm 2005 chỉ còn 3.769 tấn, trung bình là 6.560 tấn.
Phân bố sản lượng
Theo dải độ sâu:
Mật độ của cá tăng dần từ độ sâu 20 m đến 50 m, năng suất đánh bắt tăng từ 0,27 kg/giờ đến 0,83 kg/giờ. Tần suất xuất hiện (%) của cá bạc má trong phạm vi này cũng cao hơn ở các độ sâu khác.
Ở những nơi có độ sâu lớn hơn 100 m hầu như không bắt được cá bạc má bằng lưới kéo đáy. Dải độ sâu mà lưới kéo đáy đánh bắt được cá bạc má có năng suất cao nhất là dải độ sâu 30 – 50 m.
Theo ngày đêm:
Qua sự biến động sản lượng cá bạc má trong các mẻ lưới kéo đáy và các tín hiệu của máy thủy âm, cá bạc má là loài cá nổi tiến hành di cư thẳng đứng theo ngày đêm. Ban ngày chúng thường nằm ở các tầng nước sâu, ban đêm chúng di chuyển dần lên các tầng nước trên.
Theo mùa gió mùa:
Trong mùa gió Đông Bắc thì khu vực khai thác có sản lượng cá bạc má cao chủ yếu tập trung ở vùng biển vịnh Bắc Bộ và Tây Nam Bộ.
Ở vịnh Bắc Bộ trong mùa này do thời tiết lạnh nên cá tập trung nhiều ở giữa vịnh, ở độ sâu trên 50 m và có xu hướng di chuyển từ phía Bắc vào phía Nam.
Còn trong mùa gió Tây Nam vào khoảng tháng 4 nhiệt độ bắt đầu tăng lên, cá phân bố rộng hơn, rải rác khắp các vùng biển và hướng di chuyển của cá ngược với hướng di chuyển trong mùa gió Đông Bắc, cá đi theo hướng từ phía Nam lên phía Bắc và vào khu vực gần bờ hơn để đẻ.
Trữ lượng và khả năng khai thác
Trữ lượng cá bạc má ở vùng biển vịnh Bắc Bộ là 6.270 tấn với khả năng khai thác bền vững tối đa MSY là 4.521 tấn, ở vùng biển Trung Bộ là 6.536 tấn với MSY là 5.378 tấn, ở vùng biển Đông Nam Bộ là 6.861 tấn với MSY là 5.475 tấn.
Vùng biển vịnh Bắc Bộ:
Cá bạc má ở vùng biển vịnh Bắc Bộ với nhóm chiều dài đánh bắt từ 185 – 295 mm được phân tích thành 22 nhóm với khoảng cách chiều dài 5 mm, trong đó các nhóm từ 220 – 270 mm chiếm ưu thế.
Trữ lượng cá bạc má ở vùng biển vịnh Bắc Bộ được xác định là 6.270 tấn, tương ứng 58 triệu con, khả năng khai thác bền vững tối đa (MSY) là 4.521 tấn.
Vùng biển Trung Bộ:
Trữ lượng được xác định là 6.536 tấn, tương ứng 132 triệu con, khả năng khai thác bền vững tối đa (MSY) là 5.378 tấn. Nhóm chiều dài từ 100 – 180 mm là nhóm cá nhỏ chưa thích hợp cho việc khai thác chiếm đáng kể trong tổng sản lượng là 1.222 tấn, chiếm tới 56,9% tổng số con đánh bắt được.
Vùng biển Đông Nam Bộ:
Trữ lượng cá bạc má là 6.860 tấn, tương ứng 96 triệu con. Khả năng khai thác bền vững tối đa MSY là 5.475 tấn. Nhóm chiều dài từ 195 – 235 mm chiếm ưu thế.
Một số địa phương tiêu biểu
Ở Nghệ An, thành phần sản lượng đánh bắt cá bạc má chiếm tỷ lệ tương đối cao (9,3%) trong tổng sản lượng, đứng thứ hai sau cá Nục sồ (5,7%). Tỷ lệ sản lượng của cá bạc má từ năm 2003 - 2005 biến động không lớn và có xu hướng giảm dần, trong đó năm 2003 chiếm 9,6%, năm 2004 chiếm 9,0% và năm 2005 chiếm 9,3% trong tổng sản lượng khai thác.
Ở Quảng Nam, thành phần sản lượng cá bạc má đứng thứ 3 chiếm 4,9% trong tổng sản lượng. Tỷ lệ sản lượng cá bạc má của tỉnh này biến động lớn và có xu hướng giảm dần từ năm 2003 đến năm 2005. Trong năm 2003 tỷ lệ sản lượng của cá bạc má là 5,6% đến năm 2005 giảm còn 4,7%.
Ở Khánh Hoà, thành phần sản lượng của cá bạc má đánh bắt được bằng nghề lưới vây rất thấp so với các tỉnh trên, chỉ chiếm 2,1% trong tổng sản lượng và biến động lớn qua các năm khai thác. Trong năm 2003, thành phần sản lượng cá bạc má chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng sản lượng khai thác, năm 2004 thành phần sản lượng cá bạc má chiếm 4,2%, năm 2005 chiếm 1,8%.
Ở Bình Thuận, thành phần sản lượng của cá bạc má đánh bắt được bằng nghề lưới vây của tỉnh Bình Thuận tương đối cao so với các tỉnh trên, chiếm 12,4% đứng thứ 3 sau cá nục sồ (34,8%) và cá nục thuôn (27,4%). Tỷ lệ sản lượng của cá bạc má từ năm 2003 - 2005 biến động lớn và có xu hướng tăng dần: năm 2003 chiếm 7,8%, năm 2004 chiếm 11,9% và năm 2005 chiếm 17,6% trong tổng sản lượng khai thác của nghề lưới vây.
Ở Bến Tre thành phần sản lượng của cá bạc má đánh bắt được bằng nghề lưới vây của tỉnh Bến Tre chỉ chiếm 4,0% trong tổng sản lượng khai thác, nhưng vẫn đứng thứ 3 sau cá nục sồ (32,8%) và cá nục thuôn (12,2%). Tỷ lệ sản lượng biến động không lớn, năm 2003 chiếm 3,6%, năm 2004 chiếm 2,9% và năm 2005 chiếm 5,5%. |
Giếng khoan là công trình dạng hình trụ trong vỏ Trái Đất có tiết diện nhỏ (thường từ 40 đến 3.000 mm) và chiều sâu lớn (thường từ vài m đến hàng nghìn m) thường là với mục đích lấy nước, dầu hay khí từ mạch nước ngầm, hay vỉa dầu, khí.
Các yếu tố chính của giếng khoan
Miệng giếng khoan: là phần bắt đầu của công trình khoan.
Thành giếng khoan: là bề mặt đất đá tiếp xúc với giếng khoan, thành giếng khoan thường là các bề mặt không nhẵn do tính chất của đất đá là không hoàn toàn đồng nhất và thành giếng còn chịu tác động phá huỷ của nhiều tác động khác nhau (ma sát, dung dịch...).
Đáy giếng khoan: là phần kết thức của công trình khoan.
Trục giếng khoan: là đường qua tâm tiết diện của công trình khoan; Trục giếng khoan có thể thẳng đứng hoặc nghiêng.Tuy nhiên trục thực của giếng khoan thường là một đường cong liên tục trong không gian (không hoàn toàn trên một mặt phẳng)
Số cấp đường kính của giếng: là một số nguyên dương lớn hơn hoặc bằng 1, thông thường giếng càng sâu thì số cấp đường kính càng lớn tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào mục đích thi công giếng. Giếng có nhiều cấp đường kính được coi là giếng có cấu trúc phức tạp. Trong thiết kế người ta phải hạn chế sự thay đổi cấp đường kính trên cơ sở cân nhắc các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật.
Mục đích của việc khoan giếng
Khoan giếng có nhiều mục đích khác nhau, cụ thể như:
Khoan thăm dò khai thác nước dưới đất: chiều sâu đến 600 m.
Khoan thăm dò khoáng sản rắn: chiều sâu đến khoảng 4000 m.
Khoan bắn mìn trong gương lò: chiều sâu đến vài m.
Khoan thăm dò khai thác dầu khí: chiều sâu đến vài nghìn m.
Khoan địa chất công trình: chiều sâu vài chục m.
Quá trình khoan tạo giếng khoan
Việc xây dựng công trình khoan thường bao gồm các quá trình cơ bản sau:
Phá hủy đất đá: quá trình tạo nên lỗ khoan tiến sâu vào lòng đất theo thiết kế bằng các phương pháp khoan như khoan xoay, khoan đập hoặc phối hợp đập - xoay.
Vận chuyển đất đá đã bị phá hủy lên bề mặt đất: làm sạch giếng khoan để tránh mùn khoan cản trở việc phá hủy đất đá tiếp theo trong khi tạo giếng khoan bằng các biện pháp cơ học, thủy lực, khí nén v..v..
Gia cố thành giếng khoan: là áp dụng các biện pháp chống sập lở thành giếng khoan trong quá trình khoan tạo lỗ và sử dụng giếng khoan bằng nước rửa giếng hoặc ống chống hay vật liệu trám xi măng giếng.
Lịch sử phát triển ngành khoan giếng
Khoan giếng đã có từ rất sớm từ những năm trước Công nguyên khi xây dựng kim tự tháp, khai thác muối ở Ai Cập, Trung Hoa. Thông thường khoan được thực hiện theo phương pháp thủ công, chủ yếu là các giếng khoan nông vài m.
Từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 khi có động cơ hơi nước và diêzen mới sử dụng khoan bằng thiết bị máy móc đã cho phép khoan với các giếng khoan có chiều sâu lớn, tốc độ cao và lấy mẫu đất đá trong các giếng khoan.
Ở Việt Nam ngành khoan giếng đã có từ thời kỳ Pháp thuộc, các kỹ sư người Pháp đã tiến hành khoan khảo sát địa chất công trình, khoan các giếng khai thác nước ngầm cấp nước sạch phục vụ cho sinh hoạt đô thị và sản xuất bia rượu. Đến năm 1955 ngành khoan phát triến, năm 1966 có chuyên ngành khoan giảng dạy tại trường Đại học Mỏ địa chất Hà Nội. |
là thủ tướng Nhật Bản các nhiệm kỳ 87, 88, và 89 của Nhật Bản từ 2001 đến 2006. Ông được coi là nhà lãnh đạo độc lập của Đảng Dân chủ Tự do (LDP), nổi tiếng về cải cách kinh tế vì quan tâm đến nợ chính phủ của Nhật và việc tư nhân hóa Bưu chính Nhật Bản. Năm 2005, Koizumi dẫn đảng LDP để đạt một trong những đa số bầu cử nghị viện lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản hiện đại.
Ông Koizumi cũng làm những quốc gia khác để ý khi ông gửi Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tới Iraq và khi thăm đền Yasukuni. Vụ thứ hai này gây ra căng thẳng ngoại giao với Trung Quốc và Hàn Quốc.
Giai đoạn đầu đời
Koizumi là một chính trị gia thế hệ thứ ba của gia đình Koizumi. Cha của ông, Jun'ya Koizumi, là tổng giám đốc của Cục Phòng vệ Nhật Bản (nay là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) và là thành viên của Hạ viện. Ông nội của ông, Koizumi Matajirō, là thủ lĩnh của Koizumi Gumi ở Kanagawa (một nhóm lớn của yakuza), và là Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông dưới thời Thủ tướng Hamaguchi và Wakatsuki.
Sinh ra ở Yokosuka, Kanagawa vào ngày 8 tháng 1 năm 1942, Koizumi được học tại trường trung học Yokosuka. Ông tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế tại Đại học Keio. Ông tiếp tục theo học Đại học College London trước khi trở về Nhật Bản vào tháng 8 năm 1969 sau cái chết của cha.
Ông ứng cử vào hạ viện vào tháng 12; tuy nhiên không kiếm đủ số phiếu bầu để thắng cử với tư cách là đại diện của Đảng Dân chủ Tự do (LDP). Năm 1970, ông được thuê làm thư ký cho Takeo Fukuda, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Tài chính và được bầu làm Thủ tướng năm 1976.
Trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 12 năm 1972, Koizumi được bầu làm hạ nghị sĩ của quận 11 Kanagawa. Ông gia nhập phe của Fukuda trong LDP. Kể từ đó, ông đã được bầu lại mười lần.
Hạ nghị viên
Koizumi có được chức vụ cấp cao đầu tiên vào năm 1979 với tư cách là Thứ trưởng Bộ Tài chính của Quốc hội, và chức vụ cấp bộ đầu tiên của ông vào năm 1988 với tư cách là Bộ trưởng Y tế và Phúc lợi dưới thời Thủ tướng Noboru Takeshita và Sōsuke Uno. Ông giữ các chức vụ trong nội các vào năm 1992 (Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông trong nội các Miyazawa) và 1996–1998 (Bộ trưởng Y tế và Phúc lợi trong nội các Hashimoto).
Năm 1994, Koizumi trở thành một phần của phe LDP mới, Shinseiki, bao gồm các nghị sĩ trẻ tuổi và năng động hơn do Taku Yamasaki, Koichi Kato và Koizumi lãnh đạo, một nhóm thường được gọi là "YKK" theo tên nhà sản xuất khóa kéo YKK .
Sau khi Thủ tướng Morihiro Hosokawa từ chức vào năm 1994 và LDP trở lại nắm quyền trong một chính phủ liên minh, Koizumi và Hosokawa đã hợp tác với Shusei Tanaka của Đảng Mới Sakigake trong một cuộc đối thoại chiến lược giữa các đảng phái liên quan đến việc Nhật Bản trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc . Mặc dù ý tưởng này không phổ biến trong LDP và không bao giờ thành hiện thực, Koizumi và Hosokawa vẫn duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa các đảng phái, với việc Hosokawa ngầm phục vụ với tư cách là đặc sứ riêng của Koizumi tại Trung Quốc trong thời gian quan hệ Trung-Nhật căng thẳng.
Koizumi đã tranh cử chức chủ tịch của LDP vào tháng 9 năm 1995 và tháng 7 năm 1998, nhưng ông nhận được rất ít ủng hộ khi để thua Ryutaro Hashimoto và sau đó là Keizō Obuchi, cả hai đều có được sự ủng hộ rộng rãi hơn trong đảng. Tuy nhiên, sau khi Yamasaki và Kato mất uy tín sau nỗ lực buộc Thủ tướng Yoshirō Mori bỏ phiếu bất tín nhiệm vào năm 2000, Koizumi trở thành thành viên đáng tin cậy cuối cùng còn lại của bộ ba YKK, điều này giúp ông có đòn bẩy đối với cánh có tư tưởng cải cách của đảng.
Ngày 24 tháng 4 năm 2001, Koizumi được bầu làm chủ tịch LDP. Ban đầu, ông được coi là một ứng cử viên bên ngoài chống lại Hashimoto, người đang tranh cử Thủ tướng nhiệm kỳ thứ hai. Tuy nhiên, trong cuộc thăm dò đầu tiên của các tổ chức đảng cấp tỉnh, Koizumi đã giành được 87% so với 11% của đối thủ; trong cuộc bỏ phiếu thứ hai của các thành viên Quốc hội, Koizumi đã giành được 51% so với đến 40% của đối thủ. Ông đã đánh bại Hashimoto với tổng số phiếu bầu cuối cùng là 298 so với 155 của đối thủ.[ Ông được bổ nhiệm làm Thủ tướng Nhật Bản vào ngày 26 tháng 4 và liên minh của ông đã giành được 78 trong số 121 ghế trong cuộc bầu cử Thượng viện vào tháng Bảy.
Chức thủ tướng
Chính sách đối nội
Tại Nhật Bản, Koizumi đã thúc đẩy những cách thức mới để hồi sinh nền kinh tế đang suy thoái, nhằm mục đích chống lại các khoản nợ xấu với các ngân hàng thương mại, tư nhân hóa hệ thống tiết kiệm bưu điện và tổ chức lại cấu trúc phe phái của LDP. Ông nói về sự cần thiết của một giai đoạn tái cơ cấu đau đớn để cải thiện tương lai. Để thiết kế các sáng kiến chính sách vào năm 2001, ông đã sử dụng Hội đồng Chính sách Kinh tế và Tài chính mới (Keizai Zaisei Seisaku Tanto Daijin) hay CEFP. CEFP đã ban hành một tài liệu kế hoạch hàng năm, "Các chính sách cơ bản để quản lý và cải cách kinh tế và tài chính". CEFP lên kế hoạch tổ chức lại chính quyền trung ương và định hình chính sách kinh tế với sự hợp tác của các thành viên nội các chủ chốt. Để đối phó với thách thức trì trệ kinh tế, CEFP đã thực hiện một cách tiếp cận tích hợp, một quan điểm kinh tế toàn cầu và thúc đẩy tính minh bạch cao hơn; triết lý của CEFP là tân tự do.
Vào mùa thu năm 2002, Koizumi đã bổ nhiệm nhà kinh tế học và bình luận viên truyền hình thường xuyên của Đại học Keio Heizō Takenaka làm Bộ trưởng Bộ Dịch vụ Tài chính và người đứng đầu Cơ quan Dịch vụ Tài chính (FSA) để khắc phục cuộc khủng hoảng ngân hàng của đất nước. Nợ xấu của các ngân hàng đã được cắt giảm đáng kể với tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng lớn chỉ bằng một nửa so với năm 2001. Nền kinh tế Nhật Bản đã phục hồi chậm nhưng ổn định và thị trường chứng khoán phục hồi mạnh mẽ. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, mức tăng trưởng GDP năm 2004 là một trong những mức cao nhất trong số các quốc gia G7. Takenaka được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Cải cách Bưu chính vào năm 2004 để tư nhân hóa Japan Post, nhà điều hành hệ thống Tiết kiệm Bưu điện của đất nước.
Koizumi đã đưa LDP rời khỏi cơ sở nông nghiệp nông thôn truyền thống của mình để hướng tới một trung tâm tân tự do, đô thị hơn, khi dân số Nhật Bản tăng lên ở các thành phố lớn và giảm ở các khu vực ít dân cư hơn, mặc dù theo cách phân chia địa hạt thuần túy hiện tại, các phiếu bầu ở nông thôn ở Nhật Bản vẫn mạnh hơn nhiều lần hơn thành thị. Ngoài việc tư nhân hóa Bưu điện Nhật Bản (mà nhiều người dân nông thôn lo ngại sẽ làm giảm khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như ngân hàng), Koizumi cũng làm chậm lại các khoản trợ cấp nặng nề của LDP cho cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp ở các vùng nông thôn. Những căng thẳng này đã khiến Koizumi trở thành một nhân vật gây tranh cãi nhưng được yêu thích trong chính đảng của ông và trong các cử tri Nhật Bản.
Chính sách đối ngoại
Mặc dù chính sách đối ngoại của Koizumi tập trung vào quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ và chính sách ngoại giao lấy Liên hợp quốc làm trung tâm, được tất cả những người tiền nhiệm của ông áp dụng, nhưng ông đã đi xa hơn, ủng hộ các chính sách của Hoa Kỳ trong Cuộc chiến chống khủng bố. Ông quyết định triển khai Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tới Iraq, đây là nhiệm vụ quân sự đầu tiên tại các vùng chiến sự nước ngoài đang hoạt động kể từ khi kết thúc Thế chiến II. Nhiều nhà bình luận Nhật Bản chỉ ra rằng mối quan hệ thuận lợi giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản dựa trên tình bạn cá nhân của Koizumi với Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush. Các quan chức Nhà Trắng mô tả cuộc gặp đầu tiên giữa Koizumi và Bush tại Trại David là "ấm áp lạ thường". Kể từ khi rời nhiệm sở, ông đã bảo vệ quyết định gửi quân Nhật tới Iraq. Trong các vấn đề bắt cóc người Nhật và phát triển hạt nhân của Triều Tiên, Koizumi có thái độ quyết đoán hơn những người tiền nhiệm của mình.
Chính sách lực lượng phòng vệ
Mặc dù Koizumi ban đầu không vận động về vấn đề cải cách quốc phòng, nhưng ông đã chấp thuận việc mở rộng Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và vào tháng 10 năm 2001, họ được trao phạm vi rộng hơn để hoạt động bên ngoài đất nước. Một số binh lính này đã được phái đến Iraq. Chính phủ của Koizumi cũng đưa ra dự luật nâng cấp Cơ quan Quốc phòng lên thành Bộ; cuối cùng, Cơ quan Phòng vệ trở thành Bộ Quốc phòng Nhật Bản vào ngày 9 tháng 1 năm 2007.
Nghỉ hưu
Koizumi tuyên bố rằng ông sẽ từ chức vào năm 2006, theo quy định của LDP, và sẽ không đích thân chọn người kế vị như nhiều thủ tướng LDP đã làm trong quá khứ. Ngày 20 tháng 9 năm 2006, Shinzo Abe được bầu để kế nhiệm Koizumi làm chủ tịch LDP. Abe kế nhiệm Koizumi làm thủ tướng vào ngày 26 tháng 9 năm 2006.
Koizumi vẫn ở trong Quốc hội thông qua chính quyền của Abe và Yasuo Fukuda, nhưng tuyên bố rút lui khỏi chính trường vào ngày 25 tháng 9 năm 2008, ngay sau cuộc bầu cử Taro Aso làm Thủ tướng. Ông vẫn giữ ghế Quốc hội cho đến cuộc tổng tuyển cử tiếp theo, khi con trai ông Shinjiro được bầu vào cùng một ghế đại diện cho quận 11 Kanagawa vào năm 2009. Koizumi ủng hộ Yuriko Koike trong cuộc bầu cử lãnh đạo LDP được tổ chức trước đó vào tháng 9 năm 2008, nhưng Koike chỉ xếp thứ ba.
Kể từ khi rời nhiệm sở thủ tướng, Koizumi đã không đưa ra một yêu cầu trả lời phỏng vấn hay xuất hiện trên truyền hình nào, mặc dù ông đã có những bài phát biểu và tiếp xúc riêng với các nhà báo.
Hình ảnh |
Gỗ nhóm 1 ở Việt Nam là những loại gỗ quý. Tiêu chuẩn chính của các loại gỗ trong nhóm này là gỗ có màu sắc, vân thớ đẹp, hương thơm và rất khan hiếm, có giá trị kinh tế cao nhất. Các loại gỗ trong nhóm này thường dùng làm đồ mỹ nghệ, gỗ lạng, hàng mộc chạm khảm, ván sàn đặc biệt,...
Danh sách
Nhóm này ở Việt Nam có 41 loài:
Chú thích |
Thực vật có nhựa mủ đỏ là những loài mà khi thân cây bị tổn thương thì sẽ tiết ra nhựa mủ màu đỏ. Đa số các loài thực vật có đặc tính này đều là thực vật bậc cao, có hạt, sống chủ yếu trong rừng. Ở Việt Nam hiện nay có những loài sau đây:
Máu chó lá nhỏ (Knema conferta Warbg.)
Sang máu Horsfieldia amygdalina Warbg.(Máu chó lá to)
Điều nhuộm (loài thực vật này trước khi được nhập nội vào Việt Nam chủ yếu mọc hoang dại ở châu Mỹ)
Xoay Dialium cochinchinense
cây Đa lá xanh gân đỏ.(đa số thường là nhựa trắng nhưng có loại nhựa đỏ) trên thị trường đang có rất nhiều người tìm mua với giá cực cao.
Cây Xanh (như trên)
Cây Gạo hoa trắng nhựa đỏ. đa số cây Gạo thường là hoa đỏ nhựa trắng nhưng loại này hoa màu trắng nhựa lại đỏ. các bạn có thể tìm hiểu thêm trên trang Dượcminhhanh. |
Gỗ là một dạng tồn tại vật chất có cấu tạo chủ yếu từ các thành phần cơ bản như: xenluloza (40-50%), hemixenluloza (15-25%), lignin (15-30%) và một số chất khác. Nó được khai thác chủ yếu từ các loài cây thân gỗ.
Trái Đất có khoảng một nghìn tỷ tấn gỗ, với tốc độ mọc khoảng 10 tỷ tấn mỗi năm. Gỗ là một nguồn tài nguyên tái tạo trung hòa cacbon và dồi dào, vật liệu gỗ được quan tâm đặc biệt là một nguồn năng lượng tái tạo. Năm 1991, có khoảng 3,5 tỷ mét khối gỗ được thu hoạch. Ứng dụng chính của gỗ là làm đồ gỗ và xây dựng các tòa nhà.
Lịch sử
Một phát hiện năm 2011 ở New Brunswick của Canada đã vén mở những thực vật được biết sớm nhất đã có gỗ vào cách nay khoảng 395 đến 400 triệu năm.
Con người đã dùng gỗ hàng ngàn năm vào nhiều mục đích khác nhau, mà chủ yếu là làm nhiên liệu hoặc vật liệu xây dựng nhà, công cụ, vũ khí, công trình nghệ thuật và làm giấy.
Công dụng của gỗ
Sơ bộ thống kê hiện nay trên thế giới có khoảng trên 100 ngành dùng gỗ làm nguyên, vật liệu với trên 22.000 công việc khác nhau và sản xuất ra hơn 50.000 loại sản phẩm.
Gỗ là nguyên, vật liệu được con người sử dụng lâu đời và rộng rãi, là một trong những vật tư chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
Trong các văn kiện chính thức từ trước tới nay, chính phủ Việt Nam vẫn xếp gỗ đứng hàng thứ ba sau điện và than .
Gỗ được sử dụng rất rộng rãi trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, kiến trúc, xây dựng, khai khoáng.
Ngoài ra gỗ còn được dùng làm văn phòng phẩm, nhạc cụ, dụng cụ thể dục thể thao, đóng toa tàu, thùng xe, thuyền, phà, cầu cống, bàn ghế và dụng cụ học sinh, đồ dùng trong gia đình, công sở và chuyên dùng như bệnh viện, thư viện...
Ưu, nhược điểm của gỗ và cách khắc phục
Ưu điểm của gỗ
Cách nhiệt, cách điện, ngăn ẩm tốt, nhiệt giãn nở bé.
Mềm nên có thể dùng các máy móc, dụng cụ để cưa, xẻ, bào, khoan, tách chẻ với vận tốc cao nhưng vẫn chịu lực tốt.
Dễ nối ghép bằng đinh, mộng, keo dán.
Có vân thớ đẹp, dễ nhuộm màu, dễ trang trí bề mặt.
Dễ phân ly bằng hóa chất dùng sản xuất giấy và tơ nhân tạo.
Là nguyên liệu tự nhiên, có thể tái tạo, chỉ cần trồng, chăm sóc và dùng máy móc đơn giản để khai thác và chế biến là có được.
Nhược điểm và biện pháp khắc phục
Sinh trưởng chậm, đường kính có hạn, có nhiều khuyết tật tự nhiên. Cần sử dụng các biện pháp kĩ thuật lâm - sinh hợp lý trong công tác trồng và chăm sóc rừng.
Dễ mục, dễ bị sinh vật (mối, mọt,...) phá hoại. Cần phun tẩm các hóa chất chống mối mọt.
Đàn hồi thấp. Cần biến tính gỗ bằng phương pháp ép hoặc ngâm hóa chất.
Trong khi phơi sấy thường dễ nứt nẻ, cong vênh, biến hình. Cần có phương án cưa xẻ, bóc lớp thích hợp.
Trong thân thường có các chất chiết xuất, thường gây khó khăn cho công việc trang sức bề mặt sản phẩm, hoặc ăn mòn các công cụ cắt gọt.
Tỷ lệ co giãn cao, sản phẩm thường chịu tác động lớn của độ ẩm, nhiệt độ môi trường. Cần loại bỏ các yếu tố gây co giãn này:
Ngâm tẩm hóa chất nhằm thay thế các gốc (-OH) trong gỗ
Sấy gỗ để loại bỏ nước tự do và nước thấm khỏi gỗ. Sấy ở nhiệt độ 103±2oC
Dễ bắt lửa, dễ cháy. Cần ngâm tẩm hoặc sơn phủ các chất chống bắt lửa
Mặt cắt gỗ
Trong nghiên cứu cấu tạo của gỗ người ta thường nghiên cứu trên 3mặt cắt điển hình:
Mặt cắt ngang: Là mặt cắt có phương vuông góc với trục dọc thân cây.
Mặt cắt xuyên tâm: Là mặt cắt nghiên cứu có phương song song với trục dọc thân cây và đi qua tâm (lõi) thân cây.
Mặt cắt tiếp tuyến: Mặt cắt gỗ có phương song song với trục dọc thân cây và vuông góc với một trong các đường thẳng xuyên tâm.
Gỗ sớm, gỗ muộn
Gỗ sớm hay gỗ xuân là phần gỗ sinh ra trong 1 chu kì sinh trưởng ở điều kiện sinh trưởng thuận lợi, cụ thể là nhiều mưa và nguồn nước dồi dào (ở Việt Nam thường là mùa xuân hạ, ở các nước ôn đới thường là mùa xuân). Gỗ sớm thường có màu sáng hơn. Các tế bào gỗ sớm thường có vách mỏng, ruột lớn để có thể tích chứa và dẫn nhiều nước. Khả năng chịu các lực cơ học là thấp hơn.
Gỗ muộn hay gỗ hạ là phần gỗ sinh ra trong một chu kì sinh trưởng của cây gỗ ở điều kiện sinh trưởng không thuận lợi (ở Việt Nam thường là mùa thu đông, ở các nước ôn đới thường là mùa hạ). Gỗ muộn thường có màu thẫm. Tế bào gỗ muộn vách dày, ruột nhỏ, khả năng chịu tác động cơ học tốt.
Sự khác biệt trong hình thái và cấu trúc các tế bào trong gỗ sớm và gỗ muộn là nguyên nhân hình thành nên các vòng gỗ của cây.
Gỗ dác, gỗ lõi
Gỗ lõi là do gỗ dác hình thành nên. Đây là một quá trình biến đổi sinh học, vật lý và hóa học rất phức tạp. Trước hết tế bào chết, thể bít hình thành, các chất hữu cơ xuất hiện: nhựa cây, chất màu, tanin, tinh dầu,... Nhìn chung, do thành phần các chất hữu cơ nói trên tích tụ rất nhiều trong gỗ lõi, các tế bào ở đây được cho là không còn đảm nhiệm chức năng dẫn nước và muối khoáng nữa mà trở thành "thùng rác" chứa các chất thải, chất bã của cây. Ở trong ruột tế bào thấm lên vách tế bào làm cho gỗ lõi có màu sẫm, nặng, cứng, khó thấm nước, đồng thời có khả năng chống sâu, nấm, mối, mọt hơn gỗ dác, do đó được sử dụng để đóng các đồ dùng như: tủ, giường, cửa, bàn ghế,.... Do gỗ lõi ít "rỗng" hơn gỗ dác, độ bền vật lý của gỗ lõi tốt hơn gỗ dác và nó đảm nhận vai trò chống đỡ cho toàn bộ cấu trúc của cây.
Trên mặt cắt ngang gỗ lõi có màu sẫm hơn so với gỗ dác. Ở một vài loài, thường xuất hiện hiện tượng gỗ lõi bị rỗng. Không có mối quan hệ nào giữa tăng trường đường kính thân cây và thể tích gỗ dác, gỗ lõi. Có loài không hình thành gỗ lõi, có loài gỗ lõi hình thành từ rất sớm, khiến bề dày của gỗ dác rất mỏng (ví dụ gỗ cây họ Dẻ, họ Dâu tằm).
Vòng năm
Là vòng gỗ do tầng phát sinh phân sinh ra thường là 1 năm (tuỳ theo vị trí địa lý, ví dụ ở Việt Nam thì vòng tăng trưởng trùng với một năm). Độ rộng của vòng năm phản ảnh tốc độ sinh trưởng của một cây. Số lượng vòng năm cho ta biết tuổi cây. Trên mặt cắt ngang, vòng năm là những đường tròn đồng tâm, trên mặt cắt xuyên tâm chúng là những đường thẳng song song với nhau và có thể song song với trục dọc thân cây. Tùy từng đặc điểm sinh học của loài, đặc điểm thời tiết, điều kiện dinh dưỡng mà vòng năm có thể là dễ nhận biết hoặc khó nhận biết.
Gỗ lá kim
.
Gỗ lá kim hay gỗ mềm là sản phẩm gỗ tự nhiên khai thác từ các loài cây lá kim. Cấu tạo gỗ lá kim rất đơn giản, thành phần cấu tạo chủ yếu gồm có quản bào vòng, quản bào dọc, tia gỗ, tế bào mô mềm xếp dọc thân cây, ống dẫn nhựa.
Thành phần hóa học của gỗ lá kim chủ yếu gồm: xenlulo chiếm 43-52%, hemixellulo chiếm 15-20%, lignhin chiếm 23-34%, ngoài ra còn một số chất phụ khác như chất màu, tinh dầu,...chiếm tỉ lệ rất ít.
Đặc điểm chung của gỗ lá kim là vòng năm rõ, gỗ sớm gỗ muộn phân biệt rõ. Tia gỗ nhỏ và ít. Thớ gỗ thẳng, ít khi nghiêng thớ. Gỗ lá kim thông thường là mềm hơn, dễ tạo tác hơn và độ bền cơ học thấp hơn các gỗ lá rộng, tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ.
80% số gỗ xẻ trên thế giới là các gỗ lá kim. Các ưu điểm như thớ gỗ rất dài và thẳng, cây mau lớn, dễ tạo tác đã khiến gỗ lá kim chiếm tỉ lệ lớn trong số lượng gỗ tiêu thụ trên thế giới.
Gỗ lá rộng
Gỗ lá rộng là các sản phẩm gỗ tự nhiên khai thác từ thực vật lá rộng. Gỗ lá rộng có cấu tạo phức tạp hơn gỗ lá kim, các thành phần cấu tạo chủ yếu: mạch gỗ, tế bào mô mềm xếp dọc thân cây, tia gỗ, sợi gỗ, quản bào dọc, ống dẫn nhựa, cấu tạo lớp.
Thành phần hóa học của gỗ lá rộng gồm: xenlulo chiếm 41-49%, hemixellulo chiếm 20-30%, lignhin chiếm 16-25%, ngoài ra còn có mặt của một số chất chiết xuất. Thành phần các nguyên tố là sắp xỉ nhau, tương tự gỗ lá kim không phụ thuộc vào loài cây: C 49-50%; O 43-44%; H ≈ 6%; N ≈1%. |
Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam (tên giao dịch quốc tế: Vietnam National University of Forestry, viết tắt VNUF) là một trường đào tạo đa ngành bậc đại học và sau đại học ở Việt Nam.
Vị trí địa lý
Từ năm 1964 - 1984, Trường đặt tại huyện xã Bình Dương (nay là xã An Sinh), thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Năm 1985, Trường chuyển về đặt tại Xuân Mai -Chương Mỹ- Hà Nội, nằm gần ngã ba giao nhau của quốc lộ 6A và 21A. Nằm trên một vùng bán sơn địa. Có tọa độ địa lý là: 20°50′ Bắc và 105°30′ Đông.
Trường gồm 3 cơ sở:
Cơ sở chính tại thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội (Bao gồm trường Đai học Lâm nghiệp và trường THPT Lâm nghiệp Xuân Mai)
Phân hiệu ĐHLN đặt tại thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (Bao gồm Phân hiệu trường Đai học Lâm nghiệp và trường THPT Lâm nghiệp Đồng Nai)
Phân hiệu ĐHLN đặt tại TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai
Lịch sử
Thành lập ngày 12/10/1956 với tên gọi Đại học Nông Lâm rồi Học viện Nông Lâm (1958), trường gồm 2 khoa chủ chốt là Nông học và Lâm học.
Theo quyết định 127/CP ngày 19/08/1964 của thủ tướng chính phủ, tách trường Học viện Nông Lâm thành 2 trường độc lập là: Đại học Nông nghiệp (nay là Học viện Nông nghiệp) và Đại học Lâm nghiệp. Trường Đại học Lâm nghiệp được thiết lập trên cơ sở khoa Lâm học và tổ cơ khí lâm nghiệp.
Sau khi thành lập, trường đào tạo gồm 3 ngành chính: Lâm nghiệp, Kinh tế, Công nghiệp rừng. Thời kỳ đầu do thành lập khi đất nước còn chiến tranh nên cơ sở ban đầu của trường đặt tại Đông triều - Quảng Ninh.
Tháng 5/1985 trường chuyển về cơ sở tại Xuân Mai - Hà Nội, xây dựng và phát triển cho tới nay.
Năm 1995 thực hiện chủ trương mở rộng đào tạo của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ NN&PTNT) trường mở rộng thêm quy mô đào tạo và các ngành nghề mới, với các khoa: Lâm học (tiền thân là khoa Lâm nghiệp), Quản lý tài nguyên rừng và môi trường (tiền thân là khoa Lâm nghiệp), Chế biến lâm sản (tiền thân là khoa công nghiệp rừng), Công nghiệp phát triển nông thôn (tiền thân là khoa công nghiệp rừng), Quản trị kinh doanh. Bộ Lâm nghiệp cũng quyết định và gọi tên trường là Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
Năm 2008 trường thành lập cơ sở 2 tại thị trấn Tràng Bom tỉnh Đồng Nai, trên cơ sở sáp nhập trường Trung cấp dạy nghề Lâm nghiệp Đồng Nai.
Ngày 1 tháng 12 năm 2015, ông Trần Văn Chứ, hiệu trưởng nhà trường ký thông báo số 2181/ĐHLN-CT&CTSV về việc sử dụng tên gọi chính trong tiếng Việt của trường là Đại học Lâm nghiệp
Ngày 05/10/2016 Bộ Giáo dục & Đào tạo ra Quyết định số 4213/QĐ-BGDĐT về việc thành lập Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp tại tỉnh Đồng Nai.
Năm 2018, Trường THPT Lâm nghiệp được thành lập (Nằm trong khuôn viên trường ĐH Lâm nghiệp)
Ngày 20/7/2020 Bộ Giáo dục & Đào tạo ra Quyết định số 2020/QĐ-BGD-ĐT về việc Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp tỉnh Gia Lai.
Ngày 17/5/2021 UBND tỉnh Đồng Nai ra quyết định số 1628/QĐ-UBND về việc thành lập Trường trung học phổ thông Lâm nghiệp Đồng Nai (Trong khuôn viên Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp cơ sở Đồng Nai) .
Cơ sở vật chất
Cơ sở chính
Trường quản lý khu vực diện tích hơn 500ha, bao gồm:
Khuôn viên trường: Có diện tích 27 ha gồm các khu chính sau:
Sáu tòa nhà giảng đường gồm 04 giảng đường cao tầng dành cho sinh viên học lý thuyết và 02 giảng đường lớn dành cho các cuộc hội thảo, chuyên đề khoa học.
Tám dãy nhà cao tầng dành cho các phòng thí nghiệm, thực hành, thực tập.
Một nhà bảo tàng mẫu vật động vật côn trùng rừng.
Hai trung tâm thông tin khoa học, thư viện (thư viện truyền thống và thư viện điện tử).
Khu phục vụ đào tạo gồm: khu nghiên cứu thực nghiệm giống cây rừng, trung tâm thực nghiệm công nghệ sinh học, trung tâm thực nghiệm công nghiệp rừng, nhà kính,...
Hội trường lớn G6 dành cho các hoạt động lớn.
Khu nhà hành chính gồm 4 dãy nhà cao tầng phục vụ các hoạt động hành chính, trong đó có 1 nhà 6 tầng.
Khu KTX sinh viên gồm 13 dãy nhà 3 và 4 tầng, và 1 dãy nhà 11 tầng (riêng KTX cho sinh viên Lào có 2 tầng), đủ chỗ ăn ở sinh hoạt cho hơn 3000 sinh viên.
Khu nhà khách và ký túc xá dành cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh ngoại quốc.
Khu vui chơi, giải trí dành cho sinh viên: 1 CLB sinh viên, Khu liên hợp thể thao gồm: 01 nhà thi đấu đa năng, 1 sân bóng đá cỏ nhân tạo, 2 sân thể dục thể thao đa năng, 2 bể bơi, 2 sân bóng chuyển, 4 phòng tập thể hình....
Khu rừng thực nghiệm: Có diện tích hơn 100 ha.
Khu rừng môi sinh: Có diện tích gần 400 ha.
Phân hiệu tại Đồng Nai
Phân hiệu của trường nằm ở Thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, Đồng Nai.
Ông Nguyễn Sỹ Hà, Phó Giám đốc Phụ trách Phân hiệu
Website: https://vnuf2.edu.vn/
Phân hiệu tại Gia Lai
Phân hiệu của trường đặt tại tổ 4, Phường Chi Lăng, Thành phố Pleiku, Tỉnh Gia Lai
PGS.TS Bùi Thế Đồi, Phó Hiệu trưởng kiêm Giám đốc Phân hiệu
Website: http://www.vnuf3.edu.vn/
Logo của Nhà trường |
Rừng đặc dụng là loại rừng được thành lập với mục đích chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, bảo vệ nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh phục vụ nghỉ ngơi du lịch kết hợp với phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.
Phân loại
Vườn quốc gia
Là vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, đáp ứng yêu cầu sau:
Vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người, các khu rừng có giá trị cao về văn hóa, du lịch.
Phải đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người.
Tỷ lệ diện tích hệ sinh thái cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.
Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi.
Khu bảo tồn thiên nhiên
Khu bảo tồn thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh, là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên và đáp ứng các yêu cầu sau:
Vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên nhiên và có giá trị đa dạng sinh học cao.
Có giá trị cao về khoa học, giáo dục, du lịch.
Có các loài động thực vật đặc hữu hoặc là nơi cư trú, ẩn náu, kiếm ăn của các loài động vật hoang dã quý hiếm.
Đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái, tỷ lệ cần bảo tồn trên 70%.
Khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường
Là khu vực gồm một hay nhiều cảnh quan có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu có giá trị văn hóa-lịch sử nhằm phục vụ các hoạt động văn hóa, du lịch hoặc để nghiên cứu, bao gồm:
Khu vực có các thắng cảnh trên đất liền, ven biển hay hải đảo.
Khu vực có di tích lịch sử-văn hóa đã được xếp hạng.
Nguyên tắc bảo vệ và phát triển
Phải đảm bảo sự phát triển tự nhiên của rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và cảnh quan của khu rừng.
Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên phải xác định số phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái và phân khu hành chính dịch vụ. Ba phân khu này gọi là vùng lõi của rừng đặc dụng, ngoài ra còn có vùng đệm.
Mọi hoạt động của rừng đặc dụng phải được phép của chủ rừng và phải tuân theo quy chế quản lý rừng.
Phân chia
Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt
Là khu vực được đảm bảo toàn nguyên vẹn và quản lý bảo vệ chặt chẽ nhằm theo dõi diễn biến tự nhiên, nghiêm cấm mọi hành vi làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng.
Cơ chế bảo vệ: nhà nước cẩm hoàn toàn các hoạt động sau:
Làm thay đổi cảnh quan tự nhiên.
Làm ảnh hưởng thay đổi đến đời sống tự nhiên của các loái động thực vật hoang dã.
Cấm thả và nuôi trồng các loài động thực vật từ nơi khác tới.
Cấm khai thác tài nguyên sinh vật.
Cấm chăn thả gia súc.
Cấm gây ô nhiễm môi trường.
Cấm mang hóa chất độc hại vào rừng, đốt lửa trong rừng, ven rừng.
Phân khu phục hồi sinh thái
Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để rừng được phục hồi, tái sinh tự nhiên, nghiêm cấm mọi hành vi làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của rừng.
Cấm hẳn các hoạt động sau:
Khai thác tài nguyên sinh vật, các tài nguyên thiên nhiên khác.
Cấm khai thác, tận thu, tận dụng.
Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học thì phải được ban quản lý rừng cho phép, phải trả tiền thuê hiện trường và dịch vụ khác, phải gửi tiêu bản, kết quả nghiệm thu, đề tài cho ban quản lý. Nếu sưu tầm mẫu vật liên quan đến động thực vật rừng quý hiếm phải được sụ cho phép của thủ tướng chính phủ.
Đối với dân cư sống trong rừng đặc dụng, tự ổn định chỗ ở và có thể chuyển đi nơi khác theo dự án mà cấm chuyển dân từ nơi khác đến.
Đối với đất ở, ruộng vườn của dân nằm xen kẽ trong rừng đặc dụng không được tính vào diện tích rừng đặc dụng nhưng phải được thể hiện trên bản đồ và cắm mốc trên thực địa do chính quyền địa phương quản lý.
Phân khu hành chính và dịch vụ
Là khu vực thành lập để xây dựng các công trình làm việc và sinh hoạt của ban quản lý, xây dựng các cơ sở thí nghiệm, khu vui chơi giải trí cho ban quản lý và khách viếng thăm.
Vùng đệm
Là diện tích vùng rừng, vùng đất, vùng đất có mặt nước nằm sát ranh giới của rừng đặc dụng, có tác dụng giảm nhẹ hoặc ngăn chặn sự xâm hại tới rừng đặc dụng. |
Rừng phòng hộ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu, bảo vệ môi trường, hạn chế xâm nhập mặn, chắn cát,chống nạn cát bay,...
Phân loại
Theo vị trí
Rừng phòng hộ đầu nguồn: Nhằm điều tiết nguồn nước cho các dòng chảy, các hồ chứa để hạn chế lũ lụt, giảm xói mòn, bảo vệ đất, ngăn sự bồi lấp lòng sông, lòng hồ. Chủ yếu là những nơi đồi núi có độ dốc cao, yêu cầu đối với rừng phòng hộ đầu nguồn phải tạo thành vùng tập trung có cấu trúc hỗn loài, nhiều tầng, có độ che phủ của tán rừng là 0,6 trở lên.
Rừng phòng hộ ven biển: Được thành lập với mục đích chống gió hạn, chắn cát bay, ngăn chặn sự xâm mặn của biển, chắn sóng lấn biển, chống sạt lở, bảo vệ các công trình ven biển.
Rừng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái: Nhằm mục đích điều hòa khí hậu, chống ô nhiễm môi trường trong các khu dân cư, khu đô thị, khu du lịch
Theo mức độ xung yếu
Rất xung yếu
Xung yếu |
Câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai, thường được gọi ngắn gọn là Hoàng Anh Gia Lai (HAGL), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam có trụ sở ở thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và hiện đang chơi ở V.League 1, hạng đấu cao nhất của bóng đá Việt Nam. Sân nhà của họ là sân vận động Pleiku.
Lịch sử phát triển
Tiền thân của câu lạc bộ là Đội bóng đá Gia Lai - Kon Tum, thành lập năm 1976. Dù là một đội bóng nghiệp dư, đội cũng từng có lần đoạt chức vô địch giải A2 (tương đương với hạng Nhất hiện nay) khu vực 5 (bao gồm các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên). Năm 1991, tỉnh Gia Lai - Kon Tum được tách về địa giới hành chính; một số cầu thủ của đội Gia Lai - Kon Tum trở về làm nòng cốt cho đội bóng mới với tên gọi Đội bóng đá Gia Lai.
Trong 10 năm, đội bóng được tổ chức với mô hình đơn vị sự nghiệp với thành tích thi đấu trung bình ở giải hạng Nhất và không mấy tiếng tăm trên bản đồ bóng đá Việt Nam. Năm 2001, đội bóng được chuyển sang mô hình bán chuyên nghiệp dưới sự tài trợ của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai. Trước mùa bóng 2002, Chủ tịch đội bóng Đoàn Nguyên Đức đã gây nên tiếng vang bằng bản hợp đồng với tiền đạo đội trưởng Đội tuyển bóng đá quốc gia Thái Lan, Kiatisuk Senamuang, danh thủ số 1 Đông Nam Á vào thời điểm đó. Trên báo chí Thái Lan chạy những dòng "tít" lớn "Hoàng Anh là ai? Gia Lai ở đâu" đầy nhạo báng, còn các phương tiện truyền thông tại Việt Nam cũng có nhiều hoài nghi về khả năng thu hút một cầu thủ đẳng cấp như Kiatisuk về tỉnh lẻ Gia Lai. Tuy nhiên, mọi lời đồn đoán đều chấm dứt vào ngày 17 tháng 2 năm 2002, khi Kiatisuk và đồng đội là tiền vệ Chukiat đến Việt Nam để chuẩn bị thi đấu cho đội bóng. Đây được coi là một trong những bản hợp đồng thành công nhất của bóng đá Việt Nam. Kiatisuk giúp đội bóng Hoàng Anh Gia Lai lên hạng ngay tại mùa giải năm đó. Kết thúc mùa bóng, đội chính thức được chuyển giao cho Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai quản lý, đổi tên thành Câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai, trở thành một trong những câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp đầu tiên tại Việt Nam.
Trong những năm sau đó, câu lạc bộ đã xây dựng được một đội bóng được người hâm mộ Việt Nam đặt biệt danh "Dream Team", sau khi các tuyển thủ Thái như Dusit Chalermsan, Chukiat Noosarung tới đầu quân tạo thành bộ xương sống Thái Lan cho đội bóng. Bầu Đức bổ sung thêm cho bộ khung này một đội hình gồm hầu như toàn tuyển thủ Việt Nam bằng các bản hợp đồng với thủ môn Võ Văn Hạnh; các hậu vệ Nguyễn Mạnh Dũng, Nguyễn Phi Hùng, Trịnh Duy Quang, Lương Trung Tuấn; các tiền vệ Lê Quốc Vượng, Nguyễn Văn Đàn, Nguyễn Hữu Đang; các tiền đạo Văn Sĩ Hùng, Nguyễn Việt Thắng, Nguyễn Minh Hải, Ngô Quang Trường. Với đội hình trên câu lạc bộ lập kỳ tích đoạt ngôi vô địch V-League 2003 sau khi vừa mới lên hạng và bảo vệ thành công danh hiệu của mình ở mùa giải năm sau. Đồng thời đội cũng giành hai Siêu cúp Quốc gia các năm đó.
Sau thành công bước đầu, vì nhiều lý do, lứa cầu thủ trên đều lần lượt rời câu lạc bộ. Các trụ cột cũ như Kiatisuk, Dusit, Trịnh Duy Quang dần qua thời kỳ đỉnh cao. Các bản hợp đồng đỉnh đám mới của câu lạc bộ với Kesley Alves, Tawan Sripan rồi tiền vệ tổ chức đội tuyển Thái Datsakorn Thonglao đều không phát huy được thương hiệu của mình. "Gỗ" trắng tay danh hiệu từ đó.
Nhưng thành công nhất trong khoảng thời gian này của câu lạc bộ chính là năm 2007, khi Hoàng Anh Gia Lai đã thành công trong việc ký thỏa thuận với câu lạc bộ bóng đá Anh Arsenal để mở học viện bóng đá ở Pleiku. Hoàng Anh Gia Lai cũng là đối tác chính của Arsenal trong việc kinh doanh ở khu vực Đông Nam Á. Sau hai năm, sự phát triển của lứa cầu thủ đầu tiên của học viện được đánh giá là rất hứa hẹn.
Đến mùa giải 2009, Hoàng Anh Gia Lai tiếp tục có sự đầu tư mạnh mẽ để tìm lại ngôi vương. Câu lạc bộ ký được hợp đồng với tuyển thủ quốc gia người Mỹ gốc Việt Lee Nguyễn; ba tuyển thủ quốc gia hay Olympic quốc gia từ Đồng Tháp là Phan Thanh Bình, Đoàn Việt Cường, Dương Văn Pho; cựu tuyển thủ quốc gia người Huế Lê Văn Trương. Với lực lượng tăng cường kể trên, trước khi mùa giải diễn ra, bầu Đức tuyên bố "có tới 98% khả năng HAGL sẽ vô địch V-League mùa 2009". Tuy nhiên. đến cuối mùa giải, Hoàng Anh Gia Lai lại không thành công khi chỉ xếp thứ 6.
Sang mùa giải 2010, câu lạc bộ Hoàng Anh Gia Lai đã có sự thay đổi trong kế hoạch phát triển đội bóng khi sử dụng nhiều cầu thủ trẻ do chính mình đào tạo, thay vì ồ ạt mua sắm như những mùa giải trước. Đồng thời, huyền thoại của câu lạc bộ, cựu tiền đạo người Thái Lan, Kiatisuk được chủ tịch câu lạc bộ Đoàn Nguyễn Đức mời về dẫn dắt đội bóng. Câu lạc bộ đã có bước chạy đà khá tốt trước thềm mùa giải mới khi giành chức vô địch giải bóng đá TP. Hồ Chí Minh mở rộng - Navibank Cup 2010. Tuy nhiên, thành tích tại giải vô địch quốc gia vẫn chưa được cải thiện nhiều khi kết thúc mùa giải V-League 2010, Hoàng Anh Gia Lai chỉ xếp thứ 7 và về Nhì tại Cúp Quốc gia.
Mùa giải 2011, Hoàng Anh Gia Lai tiếp tục thực hiện chiến lược trẻ hóa đội hình khi sử dụng nhiều cầu thủ trẻ bên cạnh những cựu binh, cùng những cầu thủ ngoại chất lượng như Allan Wanga, Benjamin, Evaldo Goncalves. Tuy nhiên, đây là mùa giải mà phong độ của toàn đội rất thất thường. Dù huấn luyện viên Dusit đã rời ghế huấn luyện sau lượt đi và thay vào đó là huấn luyện viên Huỳnh Văn Ảnh nhưng thành tích của đội không những không mấy cải thiện mà còn có dấu hiệu đi xuống. Kết thúc mùa giải 2011, Hoàng Anh Gia Lai xếp ở vị trí thứ 9, đây là thành tích kém nhất kể từ khi câu lạc bộ lên chơi V-League.
Tuy thất bại toàn diện ở V-League 2011, nhưng Hoàng Anh Gia Lai đã đón nhận những dấu hiệu tích cực từ lứa cầu thủ trẻ. Những gương mặt trụ cột của Hoàng Anh Gia Lai mùa giải 2011 như Nguyễn Tuấn Mạnh, Lê Hoàng Thiên, Nguyễn Thái Dương, Bùi Xuân Hiếu lần lượt được triệu tập lên đội tuyển U-23 Việt Nam tham dự SEA Games 26. Đây cũng chính là lứa cầu thủ được kỳ vọng đem lại diện mạo mới cho câu lạc bộ trong thời gian tới và xa hơn là đưa câu lạc bộ trở lại với ngôi vương.
Sang mùa giải 2012, Hoàng Anh Gia Lai thực hiện cuộc cách mạng trên băng ghế huấn luyện, khi Ban lãnh đạo câu lạc bộ quyết định mời huấn luyện viên người Hàn Quốc Choi Yoon Gyum về dẵn dắt đội bóng. Vị huấn luyện viên người Hàn Quốc đã cải thiện tốt vấn đề thể lực và sự chuyên nghiệp trong thi đấu của cầu thủ. Vị trí thứ 5 khi mùa giải kết thúc vẫn được coi là một thành tích không tồi của ông Choi Yoon-gyum và các cầu thủ.
Mùa giải V.League 2015 là một cuộc đại cách mạng đối với đội bóng. Sau những thành công nhất định của lứa cầu thủ trẻ Học viện Hoàng Anh Gia Lai Arsenal-JMG, bầu Đức đã thực hiện một điều chưa đội bóng nào từng làm: thay máu toàn bộ đội bóng cả trong lẫn ngoài. Sân vận động Pleiku được sửa sang lại với dàn đèn chiếu sáng được cải tiến, phòng thay đồ của các cầu thủ được xây dựng theo tiêu chuẩn của các đội bóng hàng đầu châu Âu. Các cầu thủ được sắm những thiết bị luyện tập hiện đại nhất, trị giá đến hàng tỷ đồng. Các cầu thủ cũ bị bán cho các đội bóng khác, được thay thế bởi khóa một U-19 Hoàng Anh Gia Lai, với những cầu thủ đầy triển vọng như Công Phượng, Xuân Trường, Tuấn Anh,..., cùng với một vài cầu thủ từng thi đấu cho đội một trong những mùa giải trước đó như Hoàng Thiên. Băng ghế huấn luyện cũng được thay máu toàn bộ, khi vị huấn luyện viên dẫn dắt lứa U-19, ông Guillaume Graechen được đưa lên làm huấn luyện viên trưởng cùng với chuyên gia thể lực người Pháp Anthony Deban.
Từ ngày 30 tháng 6 năm 2017, toàn bộ hợp tác giữa Arsenal và Hoàng Anh Gia Lai chấm dứt. Học viện HAGL – Arsenal JMG cũng đổi tên thành Học viện HAGL-JMG.
2021
Mùa giải 2021, Kiatisuk Senamuang đã được ban lãnh đạo đội bóng mời trở lại dẫn dắt, cùng với sự trở lại của Nguyễn Công Phượng và 2 cầu thủ ngoại mới là Kim Dong-su và Washington Brandão. CLB khởi đầu V.League 1 không mấy thuận lợi khi để thua 1-0 trước Sài Gòn với tỉ số 1-0. Trận thua này đã mở ra chuỗi 11 trận bất bại liên tiếp của đội bóng (thắng 9, hòa 2) và giúp đội bóng lọt vào nhóm 6 đội xếp trên, trước khi mùa giải 2021 phải dừng lại và sau đó bị hủy bỏ vì ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam. Tuy nhiên, với tư cách là đội đứng đầu bảng xếp hạng V.League 1 thời điểm đó, CLB đã được chọn làm đại diện duy nhất của Việt Nam tham dự AFC Champions League 2022.
Tháng 12 năm 2021, Học viện HAGL-JMG kết thúc hợp tác với JMG sau gần 15 năm do mong muốn thay đổi mô hình và cách thức đào tạo trẻ.
2022
Để chuẩn bị cho mùa giải 2022, đội bóng đã sớm chủ động chuẩn bị lực lượng với việc bổ sung trợ lý thể lực Witoon Mingkwan. Hai ngoại binh là Washington Brandão và Kim Dong-su đã được đội bóng gia hạn hợp đồng. Trung vệ người Brasil Mauricio Barbosa được đội bóng chiêu mộ để thay thế trung vệ Damir Memović. Đội bóng cũng bổ sung thêm tiền đạo Jefferson Baiano nhằm tăng cường sức mạnh cho hàng công. Bên cạnh đó, đội bóng cũng tạo điều kiện cho các cầu thủ trẻ thi đấu để có thể linh loạt thay đổi đội hình và tìm kiếm các tài năng trẻ mới.
CLB cũng đã thành lập Công ty Cổ phần Tiếp thị thể thao HAGL (HSM) nhằm đẩy mạnh hình ảnh thương hiệu trên khắp Việt Nam và hướng ra châu Á. Cũng trong mùa giải 2022, HSM sẽ đầu tư 10 tỉ đồng để hỗ trợ CLB mua sắm trang thiết bị và cải thiện sân vận động Pleiku.
Câu lạc bộ khởi động mùa giải bằng việc tham dự giải giao hữu Tiền mùa giải Cúp Hoàng đế Quang Trung 2022 tại Quy Nhơn, Bình Định và đã giành chức vô địch với 3 trận toàn thắng trước Becamex Bình Dương, SHB Đà Nẵng và đội chủ nhà Topenland Bình Định.
Sau 17 năm vắng bóng, Hoàng Anh Gia Lai đã trở lại với đấu trường AFC Champions League - giải đấu cấp câu lạc bộ số 1 châu Á (với tư cách là đội dẫn đầu V.League 1 - 2021). Đội kết thúc vòng bảng với 5 điểm và vị trí thứ ba, không thể tiếp tục vào vòng 16 đội.
Sân vận động |
Kỹ thuật quân sự là một ngành khoa học kỹ thuật nghiên cứu cơ bản và ứng dụng những thành tựu của khoa học vào thiết kế và chế tạo vũ khí và các phương tiện kỹ thuật chiến đấu và phòng thủ.
Các chuyên ngành của kỹ thuật quân sự:
Tên lửa gồm đạn tự hành và đạn phản lực.
Pháo gồm pháo nòng dài, pháo phản lực, lựu pháo và súng cối.
Ra đa.
Kỹ thuật thông tin liên lạc.
Phương tiện quân sự gồm xe bọc thép (xe tăng, xe chở quân...), xe trinh sát, xe lửa bọc thép...
Vũ khí hóa học.
Vũ khí sinh học.
Vũ khí hạt nhân.
Vũ khí phóng xạ.
Máy bay chiến đấu.
Máy bay tàng hình.
Tàu chiến.
Tàu pháo
Tàu tên lửa
Tàu ngầm.
Tàu sân bay
Vũ khí bộ binh (súng, pháo: Hỏa khí).
Đạn dược
Thuốc phóng và Thuốc nổ
Nhiêu liệu tên lửa
Khí tài quang và quang điện tử
Vũ khí laser
Vũ khí nano
Tác chiến điện tử
Tác chiến không gian mạng
Tác chiến vũ trụ
chiến tranh thông tin
Mật mã và an ninh thông tin.
Công nghệ môi trường quân sự
Công trình quân sự.
Tên lửa ngư lôi và vũ khí dưới nước.
Thủy lôi
Ngư lôi
Vũ khí hàng không (ném bom, tên lửa không quân)
Pháo tàu.
Tàu vũ trụ.
Vệ tinh quân sự.
Trắc địa và bản đồ quân sự.
Bom.
Mìn. |
Kỹ sư quân sự là chuyên gia về phân tích, tính toán, thiết kế, chế tạo hoặc sửa chữa, khai thác các trang thiết bị kỹ thuật và vũ khí. Kỹ sư quân sự thường được đào tạo tại các trường đại học kỹ thuật quân sự, ngoài kiến thức về mặt chuyên môn còn được đào tạo về chỉ huy tham mưu kỹ thuật cấp chiến thuật, chiến dịch quân sự. Ở Việt Nam và các nước XHCN, các kỹ sư quân sự còn phải học thêm các kiến thức về công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội. Nếu là người tổ chức nghiên cứu thiết kế, chế tạo các loại vũ khí hiện đại và phức tạp thì có kỹ sư trưởng, công trình sư, tổng công trình sư quân sự. |
Cơ học ứng dụng là khoa học nghiên cứu các quy luật chuyển động và cân bằng của các đối tượng kỹ thuật (máy móc và công trình) trong thực tế.
Cơ học ứng dụng là một chuyên ngành của Cơ học, là cầu nối giữa cơ học lý thuyết và các chuyên ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ. Vì vậy nó thuộc về Khoa học ứng dụng.Khác với cơ học lý thuyết là ngành khoa học nghiên cứu tính quy luật cơ học chung của các quá trình và hiện tượng vật lý, đối tượng nghiên cứu của cơ học ứng dụng là các quy luật chuyển động và cân bằng của các đối tượng kỹ thuật thực tế.
Lịch sử
Các môn khoa học cơ sở khoa học của Cơ học ứng dụng:
Cơ học lý thuyết.
Cơ học môi trường liên tục.
Lý thuyết đàn hồi.
Lý thuyết dẻo.
Lý thuyết dao động.
Lý thuyết ổn định.
Lý thuyết tấm và vỏ.
Cùng với việc giải quyết các bài toán ứng dụng phức tạp, mà nó liên quan tới các nhu cầu phát triển ngành công nghiệp chế tạo máy và xây dựng.
Việc giải quyết các bài toán này đòi hỏi phải chính xác hoá và phức tạp hóa hơn nữa các mô hình toán học của đối tượng nghiên cứu:
Các Chi tiết và Cơ cấu máy.
Các Phần tử và Hệ thống dụng cụ công nghiệp.
Các Kết cấu máy và Công trình.
Đó là những đối tượng kỹ thuật mà chúng có thể được sử dụng, nghiên cứu một cách cặn kẽ, chỉ với sự ứng dụng mạnh mẽ của kỹ thuật tính toán. Do đó, kỹ thuật tính toán, các phương pháp tính toán hiệu quả, và các thuật toán mô hình hoá bằng máy tính các hệ cơ học phức tạp đã trở thành những công cụ quan trọng trong nghiên cứu của Cơ học ứng dụng.
Các môn học
Đàn hồi ứng dụng.
Lý thuyết dẻo và từ biến.
Ổn định của máy móc và công trình.
Cơ học kết cấu máy.
Dao động kỹ thuật và Động lực học máy.
Động lực học công trình.
Động lực học thống kê và độ tin cậy của cơ hệ.
Vật lý độ bền.
Cơ học phá hủy.
Tương tác kết cấu với môi trường đàn hồi.
Cơ học kết cấu vật liệu Composite.
Các phương pháp số giải các bài toán động lực học và độ bền (phương pháp sai phân hữu hạn, phương pháp phần tử biên, phương pháp phần tử hữu hạn,…)
Các phương pháp và phương tiện thực nghiệm trong cơ học ứng dụng.
Việc nâng cao hiệu quả của kỹ thuật mới, sử dụng trong điều kiện khắc nghiệt khi chịu tải trọng tĩnh, tải trọng động lực học và tải trọng ngẫu nhiên (làm tăng xác suất tai nạn, phá hỏng) đồng thời với việc giảm khối lượng vật liệu của đối tượng thiết kế, thậm chí cả việc thiết kế các kết cấu tối ưu - Đó chính là các bài toán cơ bản mà tính cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp quốc gia phục thuộc vào lời giải của chúng. |
Binh chủng Công binh là một binh chủng chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc Quân chủng Lục quân Bộ Quốc phòng Việt Nam, có chức năng bảo đảm các công trình trong tác chiến, xây dựng các công trình quốc phòng và đảm bảo cầu đường cho bộ đội vận động tác chiến.
Lịch sử hình thành
Binh chủng Công binh hình thành tháng 9 năm 1945. Tiền thân của Binh chủng Công binh hiện nay là những tổ đánh phá đường sá, cầu cống,...nhằm ngăn chặn tối đa bước tiến của quân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam.
Ngày truyền thống của Binh chủng Công binh là ngày 25 tháng 3 năm 1946, ngày Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34-SL về việc thành lập Công chính Giao thông Cục thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Đến ngày 2 tháng 12 năm 1946, Công chính Giao thông Cục đổi tên thành Giao thông Công binh Cục và ngày 5 tháng 2 năm 1949 mang tên mới là Cục Công binh.
Ngày 1 tháng 1 năm 1951, thành lập Trung đoàn Công binh 151 trên cơ sở Cục Công binh và một số đơn vị công binh trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Ngày 17 tháng 8 năm 1951, thành lập Phòng Công binh Bộ Tổng Tham mưu, đến ngày 3 tháng 11 năm 1955 phát triển thành Cục Công binh (tái lập).
Năm 1952 được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ "Mở đường thắng lợi".
Bộ Tư lệnh Công binh được thành lập ngày 28 tháng 6 năm 1965 theo Quyết định 102/QP của Bộ Quốc phòng.
Lãnh đạo Binh chủng Công binh
Tư lệnh: Thiếu tướng Trần Trung Hoà
Chính ủy: Thiếu tướng Đinh Ngọc Tường
Phó Tư lệnh - TMT: Đại tá Nguyễn Hồng Giang
Phó Tư lệnh: Đại tá Hà Huy Khánh
Phó Chính ủy: Đại tá Khổng Mạnh Hưng
Cơ quan trực thuộc
Văn phòng
Thanh tra
Phòng Tài chính
Phòng Khoa học Quân sự
Phòng Thông tin Khoa học quân sự
Phòng Điều tra hình sự
Phòng Cứu hộ cứu nạn
Phòng Kinh tế
Bộ Tham mưu
Cục Chính trị (Thành lập 20/7/1949)
Cục Hậu cần
Cục Kỹ thuật
Cục Công trình Quốc phòng
Đơn vị trực thuộc
Trường Đại học Ngô Quyền
Viện Kỹ thuật Công binh
Ban Quản lý dự án các công trình DKI (Nhà giàn trên biển)
Ban Quản lý dự án 756
Trung tâm Tư vấn khảo sát thiết kế công trình Quốc phòng (Giám đốc: Đại tá Nguyễn Thanh Quang).
Trung tâm Công nghệ Xử lý Bom mìn (BOMICEN). Thành lập tháng 9 năm 1996. Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2005).
Trường Trung cấp kỹ thuật Công binh
Lữ đoàn Công binh Công trình 229
Lữ đoàn Công binh Vượt sông 239
Lữ đoàn Công binh Vượt sông 249
Lữ đoàn Công binh Công trình 279
Lữ đoàn Công binh Công trình 72
Lữ đoàn Công binh Công trình 293
Công ty 756
Công ty 49
Công trường 101-79
Tư lệnh qua các thời kỳ
Chính ủy qua các thời kỳ
Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
1970-1971, Đào Hữu Liêu, Thiếu tướng (1984), Phó Chủ nhiệm Tổng cục CNQP
Khen thưởng
Huân chương Sao vàng (2011)
Danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (1976, 2013)
Trang bị phương tiện
Chú thích |
Binh chủng Pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng hỏa lực chủ yếu của Quân chủng Lục quân và đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam,Bộ Quốc phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng binh chủng Pháo binh 8 chữ "Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng" ngày 13 tháng 4 năm 1967.
Lịch sử hình thành
Ngày 29 tháng 6 năm 1946 là ngày thành lập Binh chủng Pháo binh. Vào ngày này, tại sân Vệ quốc đoàn Trung ương (40 Hàng Bài, Hà Nội), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam Hoàng Văn Thái đọc Quyết định thành lập Đoàn Pháo binh Thủ đô, gồm 3 trung đội: Pháo đài Láng (4 pháo phòng không 75mm), Pháo đài Xuân Tảo (2 pháo phòng không 75mm), Pháo đài Xuân Canh (1 pháo phòng không 75mm).
Năm 1948, lực lượng pháo binh phát triển tới cấp tiểu đoàn: tiểu đoàn pháo binh 410 (Liên khu 10), tiểu đoàn pháo binh chủ lực đầu tiên, được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1948.
Năm 1950 pháo binh phát triển tới cấp trung đoàn. Ngày 20 tháng 11 năm 1950 thành lập trung đoàn 675, Trung đoàn pháo cơ giới 45 được thành lập với trang bị gồm 20 khẩu lựu pháo 105 mm và 40 ô tô các loại.
Ngày 31 tháng 7 năm 1949, Cục Pháo binh được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo, sửa chữa các loại pháo, đạn và mở lớp đào tạo cán bộ chỉ huy pháo binh và thợ pháo, do Trần Đại Nghĩa làm Cục trưởng.
Năm 1951, đại đoàn công pháo (công binh–pháo binh) 351 được thành lập, gồm 3 trung đoàn: trung đoàn pháo 675, trung đoàn pháo 45 và trung đoàn công binh 151.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, bộ đội pháo binh có 2 trung đoàn pháo, 4 tiểu đoàn pháo phản lực và súng cối, gồm: 24 khẩu 105 mm có xe kéo, 16 khẩu cối 120 mm, 30 khẩu sơn pháo 75 mm và ĐKZ, 12 dàn phản lực 102 mm, 36 khẩu cối 82 mm. Ngoài ra còn có 6 tiểu đoàn pháo trong biên chế các đại đoàn bộ binh.
Ngày 7 tháng 9 năm 1954, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Pháo binh, đến ngày 28 tháng 5 năm 1956 Binh chủng Pháo binh chính thức được thành lập với cơ quan đầu não là Bộ Tư lệnh Pháo binh.
Ngày 16 tháng 9 năm 1954, thành lập 2 đại đoàn pháo 675 và 349.
Ngày 21 tháng 9 năm 1954, thành lập đại đoàn pháo phòng không 367, đến năm 1958 tách khỏi Bộ Tư lệnh Pháo binh để đặt dưới quyền Bộ Tư lệnh Phòng không mới được thành lập.
Ngày 15 tháng 10 năm 1965, thành lập Đoàn pháo binh 69 (còn gọi là Đoàn pháo binh Biên Hòa), thuộc Bộ Tư lệnh Miền (chiến trường B2). Tháng 1 năm 1972, Đoàn pháo binh 69 chuyển thành Sư đoàn pháo binh 75 thuộc Bộ Tư lệnh Miền.
Pháo đài Láng
Trung đội pháo đài Láng thành lập ngày 29 tháng 6 năm 1946, gồm 44 người, chia làm 3 khẩu đội, do Nguyễn Ưng Gia làm trung đội trưởng, Nguyễn Văn Khoát làm chính trị viên.. Pháo đài Láng vốn do Pháp lập ra sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ để bắn máy bay Nhật. Ở đây có 4 khẩu pháo cao xạ 75 mm mua của Đức là loại súng tối tân lúc bấy giờ được gắn cố định vào bệ bê tông. Năm 1940, Nhật đã buộc Pháp phải dùng pháo đài Láng để bắn máy bay Mỹ đến ném bom Hà Nội. Bộ đội Việt Nam dùng 2 khẩu cao xạ còn lại với 400–500 viên đạn làm pháo bắn mục tiêu mặt đất.
Ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Pháo đài Láng đã nổ súng bắn vào thành Hà Nội, yểm trợ cho bộ đội Việt Nam. Ba ngày sau, pháo đài Láng bắn rơi một máy bay trinh sát của Pháp. Nửa tháng sau thì pháo đài hết đạn, nhưng được điều thêm 1 khẩu sơn pháo 75 mm có bánh xe do ô tô kéo về. Ngày 10 tháng 1 năm 1947, trung đội pháo đài Láng rút khỏi Hà Nội, kết thúc đợt chiến đấu đầu tiên của pháo binh Việt Nam.
Pháo hỏa tiễn ĐKB
Năm 1966 Liên Xô chi viện cho Quân đội nhân dân Việt Nam pháo hỏa tiễn 24 nòng đặt trên xe, sử dụng phương tiện hiện đại để phóng cùng một lúc 24 viên đạn, nhưng như thế chưa phù hợp với điều kiện tác chiến của Việt Nam. Phía Việt Nam yêu cầu Liên Xô cải tiến loại pháo hỏa tiễn đó bằng cách tháo rời giàn pháo ra từng nòng để bộ đội Việt Nam mang vác cơ động và chiến đấu được thuận lợi. Loại pháo cải tiến này được đặt tên mới là ĐKZB, và gọn hơn là ĐKB. Pháo hỏa tiễn ĐKB cỡ 122 mm, tầm bắn 11.200 m, đạn nặng gần 60 kg. Trung đoàn pháo hỏa tiễn 724 được thành lập tháng 2 năm 1966 và được đưa vào miền Đông Nam Bộ (chiến trường B2). Trung đoàn 724 trực thuộc Đoàn 69 (tương đương cấp sư đoàn) pháo binh Miền (tên gọi tắt của chiến trường B2). Trung đoàn trưởng Trần Đáo và Chính ủy Đinh Lại hy sinh trên đường vào miền Nam nên Tô Đê làm Trung đoàn trưởng và Lê Bình làm Chính ủy trung đoàn. Trung đoàn đã pháo kích sân bay Biên Hòa ngày 11 tháng 5 năm 1967, phá hủy và phá hỏng 150 máy bay các loại và nhiều phương tiện kỹ thuật, đốt cháy nhiều kho nhiên liệu, tiêu diệt và làm bị thương hơn 800 phi công và nhân viên kỹ thuật đối phương.
Nhiệm vụ
Binh chủng pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng chiến đấu, là hỏa lực chủ yếu của lục quân; có thể tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng hoặc độc lập tác chiến.
Chi viện hỏa lực trong tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Chi viện hỏa lực cho các lực lượng đánh nhỏ lẻ, phân tán, rộng khắp trong địa bàn tác chiến.
Kiềm chế, chế áp trận địa pháo binh, súng cối, tên lửa, sở chỉ huy của địch.
Chế áp, phá hoại, khống chế các mục tiêu quan trọng sâu trong đội hình địch như sở chỉ huy (vị trí chỉ huy), trung tâm thông tin, sân bay, kho, bến cảng... và hậu phương của địch.
Dùng hỏa lực pháo binh bắn tiêu diệt, gây tổn thất làm địch mất sức chiến đấu. Bắn phá các mục tiêu công sự, công trình phòng ngự của địch... gây mất tác dụng.
Bắn chế áp gây tổn thất cho các mục tiêu của địch, tạm thời mất sức chiến đấu, cơ động hạn chế, chỉ huy rối loạn.
Bắn kiềm chế gây tổn thất và tác động về tinh thần, tâm lý để hạn chế và ngăn chặn hoạt động của địch một cách tạm thời.
Lãnh đạo hiện nay
Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Hồng Phong
Chính ủy: Đại tá Bùi Ngọc Tuyên
Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng: Đại tá Nguyễn Hữu Phước
Phó Tư lệnh: Đại tá Phạm Minh Trung
Phó Chính ủy: Đại tá Trương Văn Tâm
Tổ chức chính quyền
Cơ quan
Văn phòng
Thanh tra
Phòng Tài chính
Bộ Tham mưu
Cục Chính trị
Cục Hậu cần
Cục Kỹ thuật
Phòng Khoa học quân sự
Phòng Điều tra hình sự
Đơn vị
Trường Sĩ quan Pháo binh – TX Sơn Tây, TP Hà Nội
Lữ đoàn 45 – TX Sơn Tây, TP Hà Nội
Lữ đoàn 204 – TP Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc
Lữ đoàn 490 – Chí Linh, Hải Dương
Lữ đoàn 675 – Hiệp Hòa, Bắc Giang
Lữ đoàn 96 – Long Thành, Đồng Nai
Trung tâm Huấn luyện – Đào tạo - Thạch Thất, Hà Nội
Kho 380 – Chợ Đồn, Bắc Kạn
Kho K86 - Thạch Thất, Hà Nội
Tiểu đoàn 371 - Thạch Thất, Hà Nội
Tiểu đoàn 97 - Bà Vì, Hà Nội
Tiểu đoàn 10 Vận tải, Cục Hậu cần
Khen thưởng
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1976);
Huân chương Hồ Chí Minh (1979);
Huân chương Độc lập hạng Nhất (2001);
Huân chương Sao vàng (2006)
Chỉ huy và Lãnh đạo qua các thời kỳ
Cục Pháo binh, Bộ Tổng tư lệnh
Năm 1949–1954: Trần Đại Nghĩa: Thiếu tướng, Cục trưởng.
Bộ Chỉ huy Pháo binh
1954–1956: Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng (1948), Tư lệnh Bộ Chỉ huy Pháo binh
Tư lệnh Binh chủng
1956–1963: Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng, Tư lệnh đầu tiên của Binh chủng Pháo binh.
1964–1968: Nguyễn Thế Lâm, Thiếu tướng (1974)
1968–1977: Doãn Tuế, lúc làm Tư lệnh là thiếu tướng, trung tướng (1984)
1979–1988: Nguyễn Trung Kiên, Thiếu tướng
1988–1995: Nguyễn Nam Hồng, Thiếu tướng (1989)
1995–1998: Tống Ngọc Thắng, Thiếu tướng. Từ 1998 là Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
1998– 2005: Đỗ Quốc Ân, Thiếu tướng.
2005–2009: Vũ Thanh Lâm, Thiếu tướng (2006)
2009–2015: Nguyễn Văn Côn, Thiếu tướng (2009)
2015–6.2020: Đỗ Tất Chuẩn, Thiếu tướng (9.2015), nguyên Phó Tư lệnh kiêm TMT Binh chủng Pháo binh
6.2020– nay, Nguyễn Hồng Phong, nguyên Phó Tư lệnh kiêm TMT Binh chủng Pháo binh
Chính ủy Binh chủng, Phó tư lệnh chính trị
1958–1959: Lê Hiến Mai, Chính ủy đầu tiên của Binh chủng Pháo binh, trung tướng (1974)
1959–1961: Nguyễn Xuân Hoàng, trung tướng (1986)
1961–1963: Lê Quang Hòa, thượng tướng (1986)
1963?–1965: Trương Công Cẩn
1966–1971: Tạ Xuân Thu, Thiếu tướng (1961)
1971–1973: Đặng Hòa, Trung tướng (1986)
1973–1979: Nguyễn Nam Thắng, Thiếu tướng
1979–1980: Đặng Hòa, Thiếu tướng
1980–1988: Hoàng Văn Thạ, Thiếu tướng
1988–1993: Hoàng Định, Đại tá.
1993–2005: Lê Giám đốc, Thiếu tướng.
2005–2010: Trần Hữu Định, Thiếu tướng (2006)
2010–9.2017: Nguyễn Thanh Ngụ. Thiếu tướng (2010)
9.2017– nay: Hoàng Quang Thuận, Thiếu tướng
Tham mưu trưởng
Tô Thuận, Thiếu tướng (1985)
Hoàng Văn Khoát, Đại Tá
Trang thiết bị
Pháo xe kéo- Pháo cối
Pháo phản lực
Pháo tự hành
Tên lửa mặt đất
Chú thích |
Bộ Trạch tả (danh pháp khoa học: Alismatales) là một bộ thực vật có hoa. Bộ này trong bất kỳ hệ thống phân loại nào đều bắt buộc phải có họ Trạch tả (Alismataceae).
Hệ thống APG II năm 2003 (không thay đổi từ hệ thống APG năm 1998) gắn bộ này vào nhánh monocots (thực vật một lá mầm) và sử dụng định nghĩa sau:
Bộ Alismatales
Họ Alismataceae - trạch tả (mã đề nước)
Họ Aponogetonaceae - thủy ung
Họ Araceae - ráy, khoai môn, khoai nước, thiên nam tinh
Họ Butomaceae - cỏ lận
Họ Cymodoceaceae - cỏ kiệu, cỏ năn, cỏ đốt tre, cỏ hẹ
Họ Hydrocharitaceae - lá sắn, cỏ nhật, tóc tiên nước, thủy thảo
Họ Juncaginaceae - thủy mạch đông
Họ Limnocharitaceae - nê thảo (kèo nèo, cù nèo, choóc)
Họ Maundiaceae
Họ Posidoniaceae - cỏ biển (tên gọi này chia sẻ với các họ khác như Cymodoceaceae, Hydrocharitaceae, Ruppiaceae, Zosteraceae)
Họ Potamogetonaceae - rong mái chèo
Họ Ruppiaceae - cỏ kim
Họ Scheuchzeriaceae - cỏ băng chiểu
Họ Tofieldiaceae - nham xương bồ
Họ Zosteraceae - rong lá lớn
Theo định nghĩa này thì bộ Trạch tả bao gồm 4.490 loài trong 166 chi của 14 họ, tuy nhiên hiện tại hệ thống APG III năm 2009 đã sáp nhập họ Limnocharitaceae vào trong họ Alismataceae, với sự phân bổ rộng khắp thế giới. Phần lớn các họ là các loài cây thân thảo, hay được tìm thấy trong các môi trường nước. Hoa của chúng thường được sắp xếp thành cụm hoa và các hạt chín thiếu nội nhũ. Bên cạnh đó APG III cũng tách chi Maundia ra khỏi họ Juncaginaceae để tạo thành họ mới với danh pháp Maundiaceae chỉ chứa 1 loài duy nhất (Maundia triglochinoides) nhưng vị trí của họ này là chưa rõ ràng trong cây phát sinh chủng loài.
Sự lệch hướng lớn nhất từ các hệ thống phân loại cũ (xem dưới đây) là việc đưa vào của họ Araceae. Khi thêm họ này vào thì bộ Trạch tả được tăng lên đáng kể về số lượng loài. Một mình họ Araceae chứa khoảng 106 chi với khoảng 4.025 loài trong khi các họ còn lại cùng nhau chỉ có chưa tới 500 loài.
Hệ thống Cronquist năm 1981 đặt bộ này trong phân lớp Trạch tả (Alismatidae) của lớp thực vật một lá mầm (Liliopsida) và sử dụng định nghĩa sau:
Bộ Alismatales
Họ Alismataceae
Họ Butomaceae
Họ Limnocharitaceae
Phân lớp Trạch tả của hệ thống Cronquist khá phù hợp với bộ Alismatales theo định nghĩa của APG, trừ đi họ Araceae.
Hệ thống Dahlgren đặt bộ này trong siêu bộ Alismatanae thuộc phân lớp Liliidae trong lớp Magnoliopsida; nó sử dụng định nghĩa sau:
Bộ Alismatales
Họ Alismataceae
Họ Aponogetonaceae
Họ Butomaceae
Họ Hydrocharitaceae
Họ Limnocharitaceae
Siêu bộ Alismatanae trong hệ thống Dahlgren khá phù hợp với bộ Alismatales theo định nghĩa của APG, trừ đi họ Araceae.
Hệ thống Wettstein, phiên bản cuối vào năm 1935, hay hệ thống Engler, cập nhật năm 1964, sử dụng tên gọi Helobiae cho bộ này.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài của bộ Trạch tả so với các bộ thực vật một lá mầm khác lấy theo APG III.
Cây phát sinh chủng loài trong nội bộ bộ Trạch tả về cơ bản lấy theo APG III, nhưng họ Limnocharitaceae vẫn đứng độc lập. |
Tố Tâm là tên một tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách (1896-1973), sáng tác năm 1925.
Nhiều tài liệu, có lẽ dựa trên Việt Nam Văn học Sử yếu của Dương Quảng Hàm và Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, cho Tố Tâm là tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam, nhưng trên thực tế trước Tố Tâm đã có rất nhiều tiểu thuyết sáng tác tại Nam Kỳ. Do giao thông cách trở thời Pháp thuộc (Nam Kỳ là đất thuộc địa, Bắc Kỳ là đất bảo hộ), những nhà nghiên cứu trên có thể vì thế mà không biết về các tiểu thuyết Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản, Hoàng Tố Anh hàm oan (1910) của Trần Chánh Chiếu, Phan Yên ngoại sử (1910) của Trương Duy Toản, Kim thời dị sử (1917) của Biến Ngũ Nhy, Ai làm được (1922) của Hồ Biểu Chánh, v.v.
Riêng truyện Tố Tâm thì nguồn cảm hứng là La Dame aux camélias của văn hào người Pháp Alexandre Dumas con.
Năm 2006, một bản dịch Tố Tâm ra tiếng Pháp được xuất bản, mang tựa Un coeur pur: Le roman de Tô Tâm do Michèle Sullivan và Emanuelle Lê Oc Mach dịch.
Chú thích
Tiểu thuyết Việt Nam
Tác phẩm của Hoàng Ngọc Phách
Sách năm 1925 |
Họ Rong lá lớn hay họ Cỏ lươn (danh pháp khoa học: Zosteraceae) là một họ thực vật có hoa. Nó đã được các nhà phân loại học công nhận từ lâu.
Hệ thống APG II năm 2003 cũng công nhận họ này và đặt nó trong bộ Trạch tả (Alismatales), thuộc nhánh monocots. Họ này bao gồm 2 hay 3 chi (tùy hệ thống phân loại) với khoảng trên một chục loài rong biển. Các loài này có lá giống như dải ruy băng và các thân rễ bò trườn dễ thấy.
Các chi
Theo L. Watson và M.J. Dallwitz trong Các họ thực vật có hoa (1992 trở đi) thì họ này có 3 chi với 18 loài, cụ thể là:
Heterozostera
Phyllospadix
Zostera
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG II, với họ Maundiaceae vẫn nằm trong họ Juncaginaceae còn họ Limnocharitaceae vẫn đứng độc lập. |
Nguyễn Trọng Quản (1865–1911) là một nhà giáo, nhà văn, và là tác giả cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam.
Ông theo đạo Công giáo, có tên thánh rửa tội là Jean-Baptiste, tên thánh thêm sức là Pétrus, nên thường ghi tên là P.J.B. Nguyễn Trọng Quản.
Ông sinh tại Bà Rịa (nay thuộc Bà Rịa – Vũng Tàu), là học trò và là con rể của Trương Vĩnh Ký. Thời trung học, ông du học tại Lycée d'Alger (Bắc Phi – thuộc địa của Pháp), cùng khóa với Diệp Văn Cương, Trương Minh Ký. Sau khi tốt nghiệp, về nước ông dạy học, rồi làm Giám đốc trường Sơ học Nam kỳ (tại Sài Gòn) vào những năm 1890–1902.
Ông sáng tác cuốn "Truyện thầy Lazaro Phiền", cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam . Do chính mình là người Công giáo trong một cộng đồng Công giáo còn rất ít người, ông cho tất cả các nhân vật trong truyện cũng đều là người Công giáo. Sách do nhà J. Linage, đường Catinat (nay là Đồng Khởi) Sài Gòn xuất bản năm 1887.
Ngoài sáng tác của mình, ông còn là họa sĩ vẽ hình minh họa cho tiểu thuyết "Phan Yên ngoại sử" của Trương Duy Toản.
Chú thích |
Quảng trường Ba Đình là quảng trường lớn nhất Việt Nam, nằm trên đường Hùng Vương, quận Ba Đình và là nơi Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng. Quảng trường này còn là nơi ghi nhận nhiều dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt, vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quảng trường Ba Đình ngày nay có khuôn viên với chiều dài 320 m và rộng 100 m, có 210 ô cỏ (7 hàng dọc x 30 hàng ngang) trước đây là 240 ô nhưng sau cắt 1 hàng ngang nhằm phục vụ xây dựng toà nhà Quốc hội, xen giữa là lối đi rộng 1,4 m. Giữa quảng trường là cột cờ cao 25 m. Đây là nơi diễn ra các cuộc diễu hành nhân dịp các ngày lễ lớn của Việt Nam, và cũng là một địa điểm tham quan, vui chơi, dạo mát của du khách và người dân Hà Nội.
Nguyên thủy
Trước đây, nơi đây là một khu vực nằm trong phạm vi Hoàng thành Thăng Long. Thời Gia Long, năm 1808, Hoàng Thành bị phá dỡ để xây lại một ngôi thành mới nhỏ hơn nhiều để làm trụ sở cho Bắc Thành. Khu vực Quảng trường Ba Đình ngày nay tương ứng với khu cửa Tây của ngôi thành mới, được Minh Mạng đổi tên thành thành Hà Nội vào năm 1831. Khu vực này bấy giờ có một gò đất cao được gọi là núi Khán, hay Khán Sơn.
Giữa thế kỷ XIX, do đề nghị của Bố chính Hà Nội Lê Hữu Thanh, Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Thu đã cùng một số quan lại bỏ tiền xây một ngôi nhà ngói trên núi Khán, gọi là Khán Sơn đình làm chỗ hội họp các văn nhân. Vì vậy, có thời kỳ nơi đây thường xuyên có sinh hoạt văn hóa của nhân sĩ Bắc Hà.
Sau khi kiểm soát được toàn bộ Đông Dương, năm 1894, quân Pháp cho phá dỡ toàn bộ thành, chỉ giữ lại cửa Bắc để làm chứng tích. Khu vực này được các kiến trúc sư Pháp quy hoạch để xây dựng trung tâm hành chính của Liên bang Đông Dương. Núi Khán bị san bằng. Một vườn hoa nhỏ được xây dựng tại khu vực này, tạo thành một quảng trường rộng lớn được đặt tên là Vườn hoa Puginier (Le parc Puginier). Vườn hoa được giới hạn bởi các con đường Avenue de la République, Avenue Brière de l'Isle, Rue Elie Groleau và Avenue Puginier.
Một vòng xoay nhỏ được xây dựng gần đó cũng được đặt tên là Vòng xoay Puginier (Rond-point Puginier). Do hình dáng đặc biệt của vòng xoay mà người dân Hà Nội xưa còn gọi vườn hoa Puginier là Quảng trường Tròn.
Tại khu vực gần Quảng trường Tròn, Phủ Toàn quyền được khởi công xây dựng vào năm 1901. Năm 1914, trường sở của Lycée Paul Bert được xây dựng tại vị trí núi Khán trước kia, ngay cạnh Vườn hoa Puginier.
Để độc chiếm quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Nhằm lôi kéo sự ủng hộ của người Việt, quân đội Nhật tuyên bố công nhận độc lập cho Việt Nam. Một chính phủ của người Việt do quân đội Nhật hậu thuẫn được thành lập ngày 20 tháng 7 năm 1945, do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng đại diện Đế quốc Việt Nam. Bác sĩ Trần Văn Lai được cử làm Đốc lý Hà Nội (Thị trưởng). Vốn là một trí thức có tinh thần dân tộc, ngay sau khi nhận chức, ông đã quyết định đổi một loạt tên đường phố từ tiếng Pháp sang tiếng Việt lấy theo tên của các vị anh hùng Việt Nam như: Phố Garnier thành phố Đinh Tiên Hoàng, phố Boulevard Carnot thành phố Phan Đình Phùng... Vườn hoa Pugininer trước Phủ Toàn quyền được ông đổi tên thành Vườn hoa Ba Đình để kỷ niệm vùng Ba Đình ở huyện Nga Sơn, Thanh Hoá, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 năm 1886 đến tháng 1 năm 1887.
Hình ảnh
Quảng trường Độc Lập
Khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim mất đi chỗ hâu thuẫn cũng nhanh chóng sụp đổ. Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền và ra mắt quốc dân. Một Ban Tổ chức ngày lễ Độc lập do ông Nguyễn Hữu Đang được cử làm Trưởng ban, được thành lập ngày 28 tháng 8 năm 1945. Ban Tổ chức quyết định dựng một lễ đài để Chính phủ Lâm thời ra mắt quốc dân, giao cho họa sĩ Lê Văn Đệ và kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh thiết kế và thi công. Lễ đài được xây dựng với vật liệu chủ yếu là gỗ và đinh sắt, trang trí bằng vải, huy động nhân công quần chúng thi công, nhanh chóng hoàn thành chỉ trong 48 giờ, từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 năm 1945.
Chính trên lễ đài này, sáng ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lễ đài được dỡ bỏ nhanh chóng ngay chiều ngày hôm đó.
Với sự kiện này, Vườn hoa Ba Đình được người dân Hà Nội mệnh danh là Quảng trường Ba Đình hay Quảng trường Độc Lập và đoạn phố Puginier cũng được gọi tên là đường Độc Lập.
Mặc dù người Pháp vẫn dùng các tên cũ sau khi họ tái chiếm Đông Dương, nhưng người Việt Nam vẫn dùng các tên gọi của mình như một sự tự hào về những nỗ lực của họ để giành độc lập. Những tên gọi đó, chính thức được sử dụng kể từ khi họ chính thức nắm quyền kiểm soát lại Hà Nội.
Những sự kiện liên quan
Quảng trường Ba Đình là quảng trường quan trọng nhất Việt Nam, vì vậy hầu hết các cuộc diễu binh và diễu hành nhân các ngày lễ lớn của Việt Nam đều được tổ chức tại đây, trong đó có những sự kiện quan trọng sau:
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 1 tháng 1 năm 1955, người dân Hà Nội tham gia cuộc mít tinh và cuộc duyệt binh đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam mừng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở về Thủ đô.
Ngày 9 tháng 9 năm 1969, lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được cử hành trọng thể.
Ngày 2 tháng 9 năm 1975, cuộc diễu binh và diễu hành mừng thống nhất đất nước được tổ chức vô cùng long trọng.
Ngày 10 tháng 10 năm 2010, nhân dịp kỉ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, đây là nơi diễn ra lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành có quy mô lớn.
Hằng ngày vào lúc 6h từ 1/4 - 31/10 hoặc 6h30 từ 1/11 - 31/3, lễ thượng cờ được bắt đầu và lễ hạ cờ diễn ra lúc 21h.
Ngày 2 tháng 9 năm 2015 diễn ra lễ diễu binh quy mô lớn kỉ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nghi lễ Thượng cờ và Hạ cờ
Nghi lễ Thượng cờ và Hạ cờ ở quảng trường Ba Đình là một nghi lễ cấp quốc gia của Việt Nam, ý tưởng thực hiện nghi lễ trên quảng trường do Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất và được Chính phủ Việt Nam phê duyệt vào năm 2001, đúng dịp kỷ niệm 111 năm ngày sinh Bác Hồ.
Lễ Thượng cờ và Hạ cờ do đội Tiêu binh danh dự thực hiện hàng ngày ở Lăng Bác.
Theo đó, những cán bộ, chiến sỹ Đội Tiêu binh danh dự có chiều cao từ 1m7 trở lên, quân dung đẹp và động tác điều lệnh đội ngũ chuẩn, được tập trung luyện tập.
Đội hình thực hiện lễ Thượng cờ và Hạ cờ gồm 34 người tượng trưng cho 34 chiến sĩ đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam). Khối trưởng, 2 đồng chí bảo vệ Quân kỳ và vác Quân kỳ là sỹ quan. Còn lại, 3 đồng chí trong Tổ Quốc kỳ và 27 đồng chí xếp thành 10 hàng ngang trong khối nghi lễ đều do tiêu binh đảm nhiệm.
Cứ vào đúng 6 giờ sáng vào mùa hè và 6h30 sáng vào mùa đông, đoàn thực hiện nghi lễ Thượng cờ khởi hành từ phía sau Lăng Bác. Dẫn đầu đoàn thượng cờ là quân kỳ Quyết thắng. Kế đến là đội tiêu binh. Đoàn đi một vòng ra phía trước theo tiếng nhạc của ca khúc 'Tiến bước dưới quân kỳ' để đến chân cột cờ.
3 chiến sĩ đội hồng kỳ tiến lên phía cột cờ chuẩn bị các nghi thức Thượng cờ, cũng là lúc cửa của Lăng Bác bắt đầu mở. Trước khi nghi lễ được thực hiện, hệ thống loa phát thanh tại quảng trường sẽ phát thông báo: "Sắp đến giờ cử hành lễ Chào cờ. Đề nghị đồng bào trên khu vực quảng trường dừng mọi hoạt động, đứng tại chỗ, hướng về phía cột cờ để nghi lễ được thực hiện trang trọng". Sau khi có hiệu lệnh, lá cờ được tung ra và bay lên theo tiếng Quốc ca. Lá cờ Tổ quốc được kéo lên trên đỉnh của cột cờ cao 29 mét phía trước Lăng Bác.
Cùng lúc này nghi lễ chào cờ sẽ được bắt đầu. Sau lễ Thượng cờ, đội tiêu binh diễu hành một vòng trước cửa Lăng Bác rồi trở về vị trí cũ và kết thúc nghi lễ Thượng cờ.
Tương tự, nghi lễ Hạ cờ cũng sẽ được đội tiêu binh thực hiện vào lúc 21 giờ tối hàng ngày, lễ Hạ cờ được thực hiện với nghi thức tương tự như lễ Thượng cờ.
Người dân Thủ đô Hà Nội những ai có dịp đi qua quảng trường Ba Đình, trước Lăng Bác vào sáng sớm hay buổi tối, đúng lúc nghi lễ Thượng cờ và Hạ cờ thực hiện cũng trang nghiêm thực hiện theo nghi lễ chào cờ và hát Quốc ca với cảm xúc tự hào và thiêng liêng. |
Họ Trạch tả hay họ Mã đề nước (danh pháp khoa học: Alismataceae) là một họ thực vật có hoa, bao gồm khoảng 11-15 chi và khoảng 85-95 loài (APG công nhận 15 chi và 88 loài). Họ này phân bổ rộng khắp thế giới, với lượng lớn các loài trong khu vực ôn đới của Bắc bán cầu. Phần lớn các loài là cây thân thảo sống thủy sinh trong các ao hồ và đầm lầy.
Miêu tả
Phần lớn các loài là các cây lâu năm, nhưng một số loài có thể là cây một năm hay cây lâu năm, phụ thuộc vào các điều kiện về nước - chúng là cây lâu năm khi có đủ nước thường xuyên nhưng lại là cây một năm khi các điều kiện thời tiết có tính phân mùa rõ rệt, nhưng luôn luôn có ngoại lệ. Thân của chúng giống như thân hành hoặc có thân bò. Các cây non và các lá chìm dưới mặt nước thông thường có dạng thẳng, trong khi các cây trưởng thành hay lá mọc trên mặt nước có thể có dạng thẳng hay hình trứng hoặc hình mũi tên. Phần lớn các loài có cuống lá dễ nhận thấy với phần gốc lá có màng bao (vỏ).
Cụm hoa của chúng thường là hoa phức với các vòng xoắn hay tạo nhánh, mặc dù ở một số loài là dạng hoa tán hay ở một số loài khác là dạng các bông hoa riêng biệt. Hoa của chúng cân đối và hoặc là đơn tính hoặc là lưỡng tính. Ba đài hoa thông thường còn tồn tại trên quả. Ba cánh hoa, thường là dễ thấy và có màu trắng, hồng, tía, đôi khi có màu vàng hay các đốm tía. Các cánh hoa ít khi tồn tại quá một ngày. Trong các chi Burnatia và Wiesnaria thì các cánh hoa nhỏ và đôi khi không có ở các hoa cái. Nhị hoa là bội số của 3 (3, 6, 9 hoặc nhiều hơn). Bầu nhụy to, bao gồm bội số của 3 các lá noãn tự do trong một vòng xoắn hoặc trong đầu cụm. Mỗi lá noãn chứa 1 (-2) noãn ngược.
Quả là dạng đầu quả hạch nhỏ (ngoại trừ chi Damasonium). Các hạt không có nội nhũ và có phôi dạng xếp nếp hay cong.
Các chi
Albidella
Alisma: Trạch tả, thủy đề
Astonia
Baldellia
Burnatia (bao gồm cả Rautanenia)
Butomopsis (bao gồm cả Tenagocharis): Hành thảo
Caldesia: Trạch đài thảo
Damasonium (bao gồm cả Actinocarpus, Machaerocarpus)
Echinodorus (bao gồm cả Helanthium ?)
Helanthium
Hydrocleys (bao gồm cả Ostenia)
Limnocharis: Nê thảo, kèo nèo
Limnophyton: Hồ thảo
Luronium
Ranalisma: Mũi vàng
Sagittaria (bao gồm cả Diphorea, Drepachenia, Hydrolirion, Lophiocarpus, Lophotocarpus): Từ cô
Wiesneria
Alismaticarpum †
Sagisma †
Các chi Butomopsis (bao gồm cả Tenagocharis), Limnocharis và Hydrocleys (bao gồm cả Ostenia) được APG III gộp trong họ này, nhưng một số hệ thống khác tách ra thành họ Kèo nèo (Limnocharitaceae).
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG II, với họ Limnocharitaceae vẫn đứng độc lập.
Trồng và sử dụng
Một vài loài, chủ yếu thuộc chi rau mác (Sagittaria''), có thân rễ ăn được, được trồng làm thức ăn cho cả người lẫn các loài động vật khác ở miền nam và miền đông châu Á. Chúng cũng được người da đỏ Bắc Mỹ ăn. Phần lớn có giá trị như là thực phẩm cho cuộc sống hoang dã. Một số loài khác được trồng làm cây cảnh trong ao hồ hay vườn lầy lội hoặc các bể cảnh. |
là một hình thức đấu vật tiếp xúc lẫn nhau mang tính cạnh tranh trong đó một rikishi (đô vật) cố gắng đẩy đối thủ của mình ra khỏi vòng tròn thi đấu (dohyō) hoặc ép đối thủ chạm mặt đất bằng bất kỳ bộ phận cơ thể nào ngoài lòng bàn chân (thường bằng cách ném, đẩy hoặc ép đối thủ xuống đất).
Môn thể thao này có nguồn gốc từ Nhật Bản, quốc gia duy nhất tại đó sumo được luyện tập một cách chuyên nghiệp. Nó được coi là một gendai budō, mà đề cập đến võ thuật hiện đại của Nhật Bản, nhưng môn thể thao này có một lịch sử kéo dài nhiều thế kỷ. Nhiều truyền thống cổ xưa đã được sumo bảo tồn, và thậm chí ngày nay môn thể thao này bao gồm nhiều yếu tố nghi lễ, chẳng hạn như sử dụng việc dùng muối tẩy uế bắt nguồn từ Thần đạo.
Cuộc sống của một đô vật được chuẩn hóa rất cao, với các quy tắc được quy định bởi Hiệp hội Sumo Nhật Bản. Hầu hết các đô vật sumo được yêu cầu phải sống trong các trại huấn luyện sumo chung, được biết đến trong tiếng Nhật là heya, nơi tất cả các khía cạnh của cuộc sống hàng ngày của họ, từ bữa ăn cho đến cách ăn mặc của họ đều bị quy định nghiêm ngặt theo truyền thống.
Từ năm 2008 đến 2017, một số tranh cãi và vụ bê bối cấp cao đã làm rung chuyển thế giới sumo, với ảnh hưởng liên quan đến danh tiếng và doanh thu bán vé của môn thể thao này. Những điều này cũng đã ảnh hưởng đến khả năng thu hút tân binh của nó. Mặc dù với các bê bối, sự nổi tiếng và tỷ lệ người xem của sumo đã tăng trở lại do có nhiều yokozuna (nhà vô địch lớn) lần đầu tiên sau một số năm và các đô vật nổi tiếng khác như Endō và Ichinojou thu hút sự chú ý của công chúng.
Nguồn gốc và lịch sử
Ngoài việc sử dụng như một thử nghiệm sức mạnh trong chiến đấu, sumo còn được kết hợp với nghi thức Thần đạo. Một số đền thờ thực hiện các hình thức múa nghi lễ, nơi một người được cho là vật lộn với một kami, một vị thần linh của Thần đạo. Đó là một nghi thức quan trọng tại triều đình, nơi đại diện của mỗi tỉnh được lệnh tham dự cuộc thi trước triều đình và chiến đấu. Các thí sinh được yêu cầu tự trả tiền cho chuyến đi của họ. Cuộc thi được gọi là sumai no sechie, hay "hội sumai".
Trong phần còn lại của lịch sử Nhật Bản được ghi nhận, sự phổ biến của sumo đã thay đổi theo ý thích của những người cai trị và nhu cầu sử dụng nó như một công cụ đào tạo võ thuật trong các giai đoạn xung đột dân sự. Hình thức chiến đấu vật thay đổi dần dần thành một trong đó mục đích chính trong chiến thắng là ném đối thủ. Khái niệm đẩy đối thủ ra khỏi một khu vực xác định xuất hiện một thời gian sau đó.
Một vòng tròn thi đấu, được định nghĩa không chỉ đơn giản là khu vực dành cho các đô vật, cũng được cho là đã ra đời vào thế kỷ 16 do kết quả của một giải đấu được lãnh chúa lớn lúc đó ở Nhật Bản, Oda Nobunaga tổ chức. Tại thời điểm này, các đô vật sẽ mặc những chiếc khố lỏng lẻo hơn là những chiếc đai đấu vật mawashi cứng hơn nhiều ngày nay. Trong thời Edo, các đô vật sẽ mặc một chiếc tạp dề trang trí tua rua được gọi là keshō-mawashi trong trận đấu, trong khi ngày nay những thứ này chỉ được mặc trong các nghi lễ trước trận đấu. Hầu hết phần còn lại của các hình thức hiện tại trong môn sumo được phát triển vào đầu thời Edo.
Sumo chuyên nghiệp (ōzumō?) có nguồn gốc từ thời Edo ở Nhật Bản như một hình thức giải trí thể thao. Các đô vật ban đầu có lẽ là các samurai, thường là rōnin, người cần tìm một hình thức thu nhập thay thế. Các giải đấu sumo chuyên nghiệp hiện tại đã bắt đầu trong Đền Tomioka Hachiman vào năm 1684, và sau đó được tổ chức tại Ekō-in vào thời Edo. Tây Nhật Bản cũng có các địa điểm và giải đấu sumo của riêng mình trong giai đoạn này, với trung tâm nổi bật nhất là ở Osaka. Osaka sumo tiếp tục đến cuối thời kỳ Taishō vào năm 1926, khi nó sáp nhập với Tokyo sumo để thành lập một tổ chức chung. Trong một thời gian ngắn sau đó, bốn giải đấu đã được tổ chức một năm, hai giải đấu ở các địa điểm ở phía tây Nhật Bản như Nagoya, Osaka và Fukuoka, và hai giải đấu tại Ryōgoku Kokugikan ở Tokyo. Từ năm 1933 trở đi, các giải đấu được tổ chức gần như độc quyền tại Ryōgoku Kokugikan, cho đến khi lực lượng chiếm đóng của Mỹ chiếm đoạt nó và các giải đấu chuyển đến Đền Meiji cho đến những năm 1950. Sau đó, một vị trí thay thế, Kuramae Kokugikan gần Ryōgoku, được xây dựng cho sumo. Cũng trong giai đoạn này, Hiệp hội Sumo bắt đầu mở rộng đến các địa điểm ở phía tây Nhật Bản một lần nữa, đạt tổng cộng sáu giải đấu một năm vào năm 1958, với một nửa trong số đó là Kuramae. Năm 1984, Ryōgoku Kokugikan được xây dựng lại và các giải đấu sumo ở Tokyo đã được tổ chức ở đó kể từ đó.
Giành chiến thắng trong sumo
Người chiến thắng trong một trận đấu sumo nói chung là một đô vật đầu tiên buộc đối thủ của mình bước ra khỏi võ đài, hoặc là đô vật đầu tiên buộc đối thủ chạm đất với bất kỳ phần nào của cơ thể ngoài chân anh ta.
Ngoài ra, một số quy tắc ít phổ biến khác có thể được sử dụng để xác định người chiến thắng. Ví dụ, một đô vật sử dụng một kỹ thuật bất hợp pháp (kinjite) sẽ tự động tính là thua, cũng như một người có mawashi (đai) hoàn toàn bị tháo rời. Một đô vật không xuất hiện để thi đấu trận đấu của mình (ngay cả khi bị chấn thương trước đó) cũng tự động thua (fusenpai).
Các trận đấu chỉ bao gồm một vòng duy nhất và thường chỉ kéo dài trong vài giây, vì thông thường một đô vật sẽ nhanh chóng bị hất khỏi vòng tròn hoặc ném xuống đất. Tuy nhiên, đôi khi chúng có thể kéo dài trong vài phút. Mỗi trận đấu được bắt đầu bằng một nghi thức nghi lễ phức tạp. Theo truyền thống, các đô vật sumo nổi tiếng với thân hình to lớn và khối lượng cơ thể, vốn thường là một yếu tố chiến thắng trong sumo. Không có việc phân chia trọng lượng được sử dụng trong sumo chuyên nghiệp; một đô vật đôi khi có thể đối mặt với một đối thủ gấp đôi trọng lượng của mình. Tuy nhiên, với kỹ thuật vượt trội, các đô vật nhỏ hơn có thể kiểm soát và đánh bại các đối thủ lớn hơn nhiều. Trọng lượng trung bình của các đô vật hàng đầu đã tiếp tục tăng, từ vào năm 1969 đến hơn vào năm 1991, và là một kỷ lục kể từ tháng 1 năm 2019.
Trong một số tình huống, có thể cần phải xem xét lại quyết định của gyouji. Các thẩm phán bên ngoài vòng tròn, người ngồi ngang tầm mắt (" shimpan ") có thể triệu tập một hội nghị ở giữa vòng, được gọi là " mono-ii ". Điều này được thực hiện nếu các thẩm phán quyết định rằng việc quyết định ai là người chiến thắng cần phải được xem xét lại; ví dụ, nếu cả hai sumotori dường như chạm đất hoặc bước ra khỏi vòng tròn cùng một lúc. Trong những trường hợp này, đôi khi video được xem lại để xem những gì đã xảy ra. Sau khi quyết định được đưa ra, thẩm phán trưởng sẽ công bố quyết định này cho khán giả và các đô vật. Họ có thể ra lệnh cho một trận đấu được khởi động lại, hoặc tuyên bố quyết định như gyōji đã đưa ra. Đôi khi shimpan sẽ bác bỏ các gyōji và tuyên bố thắng cuộc đô vật kia.
Sau khi người chiến thắng được tuyên bố, một gyōji (trọng tài) ngoài sân khấu sẽ xác định kimarite (kỹ thuật chiến thắng) được sử dụng trong trận đấu, sau đó được thông báo cho khán giả.
Trong những dịp hiếm hoi, trọng tài hoặc giám khảo có thể trao chiến thắng cho đô vật chạm đất trước. Điều này xảy ra nếu cả hai đô vật chạm đất gần như cùng một lúc và người ta quyết định rằng đô vật chạm đất thứ hai không có cơ hội chiến thắng, vì kỹ thuật sumo vượt trội của đối thủ đã đưa anh ta vào thế không thể phục hồi. Các đô vật thua cuộc được gọi là shini-tai ("xác sống") trong trường hợp này.
Vòng đấu vật (dohyō)
Các trận đấu Sumo diễn ra trong một dohyou (土俵): một vòng tròn đường kính và diện tích , làm từ các kiện rơm đặt trên nền tảng làm bằng đất sét trộn với cát. Một dohyou mới được xây dựng cho mỗi giải đấu bởi những người tuyên bố trận đấu (yobidashi). Ở trung tâm là hai vạch trắng, shikiri-sen, các đô vật tự đặt mình vào phía sau các vạch này lúc bắt đầu trận đấu. Một mái nhà giống như của một ngôi đền Shinto có thể được treo lơ lửng trên dohyō. Theo truyền thống, phụ nữ bị cấm vào hoặc chạm vào vòng tròn này.
Sumo chuyên nghiệp
Sumo chuyên nghiệp được tổ chức bởi Hiệp hội Sumo Nhật Bản. Các thành viên của hiệp hội, được gọi là oyakata, đều là cựu đô vật, và là những người duy nhất được quyền huấn luyện các đô vật mới. Hầu hết các đô vật luyện tập là thành viên của một huấn luyện ổn định (hoặc heya) được điều hành bởi một trong những oyakata, là trại trưởng trại huấn luyện cho các đô vật dưới quyền anh ta. Trong năm 2007, 43 trại huấn luyện đã huấn luyện 660 đô vật.
Tất cả các đô vật sumo đều lấy tên đấu vật được gọi là shikona (四 股?), tên này có thể có hoặc không liên quan đến tên thật của họ. Thông thường, các đô vật có rất ít sự lựa chọn trong tên của họ, do các huấn luyện viên của họ (hoặc người chủ trại huấn luyện), hoặc bởi một người hỗ trợ hoặc thành viên gia đình đã khuyến khích họ tham gia môn thể thao này, đặt cho. Điều này đặc biệt đúng với các đô vật sinh ra ở nước ngoài. Một đô vật có thể thay đổi tên đô vật trong sự nghiệp của mình, với một số đô vật thay đổi tên của họ nhiều lần.
Sumo là một hệ thống phân cấp nghiêm ngặt dựa trên thành tích thể thao. Các đô vật được xếp hạng theo một hệ thống có từ thời Edo. Các đô vật được thăng cấp hoặc hạ cấp theo thành tích của họ trong sáu giải đấu chính thức được tổ chức trong suốt cả năm. Một banzuke được chuẩn bị kỹ lưỡng liệt kê hệ thống phân cấp đầy đủ được xuất bản hai tuần trước mỗi giải đấu sumo.
Ngoài các giải đấu chuyên nghiệp, các cuộc thi đấu biểu diễn được tổ chức định kỳ hàng năm tại Nhật Bản và cứ khoảng hai năm một lần, các đô vật được xếp hạng hàng đầu đến thăm một quốc gia nước ngoài để thi đấu biểu diễn như vậy. Không có trận đấu nào trong số này được tính đến khi xác định thứ hạng tương lai của đô vật. Thứ hạng chỉ được xác định bằng hiệu suất trong các giải đấu sumo lớn (honbasho).
Phân hạng Sumo
Sáu hạng trong sumo là: makuuchi (tối đa 42 đô vật), jūryō (cố định ở 28 đô vật), makushita (cố định với 120 đô vật), sandanme (cố định ở 200 đô vật), jonidan (khoảng 200 đô vật), và jonokuchi (khoảng 200 đô vật). Các đô vật mới gia nhập sumo từ hạng jonokuchi thấp nhất và, với khả năng cho phép, thi đấu tăng dần lên đến hạng trên cùng. Một khác biệt rộng lớn trong thế giới sumo tồn tại giữa các đô vật ở hai hạng thi đấu hàng đầu được gọi chung là sekitori và những đô vật trong bốn hạng thấp hơn, thường được gọi là rikishi - thuật ngữ chung chung hơn. Các cấp bậc này nhận được các mức tiền lương, đặc quyền và danh tiếng khác nhau.
Hạng makuuchi cao nhất nhận được sự chú ý nhiều nhất từ người hâm mộ và có hệ thống phân cấp phức tạp nhất. Phần lớn các đô vật là maegashira và được xếp hạng từ cấp 1 cao nhất xuống khoảng 16 hoặc 17. Trong mỗi cấp bậc là hai đô vật, cấp bậc cao hơn được chỉ định là "phía đông" và thấp hơn là "phía tây", vì vậy danh sách này là #1 đông, #1 tây, #2 đông, #2 tây, v.v... Trên maegashira là ba cấp bậc vô địch, được gọi là san'yaku, không được đánh số. Theo thứ tự tăng dần, là komusubi, sekiwake và ōzeki. Ở đỉnh cao của hệ thống xếp hạng là cấp bậc yokozuna.
Yokozuna, hoặc các nhà vô địch lớn, thường được dự kiến sẽ cạnh tranh và giành được danh hiệu giải đấu hàng đầu một cách thường xuyên, do đó các tiêu chí thăng hạng cho yokozuna là rất nghiêm ngặt. Nói chung, một ōzeki phải giành chức vô địch cho hai giải đấu liên tiếp hoặc có một "hiệu suất tương đương" để được xem xét để thăng hạng thành yokozuna. Nhiều hơn một đô vật có thể giữ thứ hạng yokozuna cùng một lúc.
Thời cổ đại, sumo chỉ là một môn thể thao của Nhật Bản. Tuy nhiên, kể từ những năm 1900, số lượng đô vật sumo sinh ra ở nước ngoài đã dần tăng lên. Vào đầu giai đoạn này, một vài đô vật nước ngoài được liệt kê là người Nhật Bản, nhưng đặc biệt từ những năm 1960, một số đô vật sinh ra ở nước ngoài đã trở nên nổi tiếng, và trong những năm gần đây thậm chí còn thống trị ở mức cấp bậc cao nhất. Một nửa trong số sáu đô vật cuối cùng được thăng cấp ōzeki là người nước ngoài và không có đô vật người Nhật nào được trở thành yokozuna từ năm 1998 cho đến khi Kisenosato Yutaka tấn cấp vào năm 2017. Điều này và các vấn đề khác cuối cùng đã khiến Hiệp hội Sumo hạn chế số lượng người nước ngoài được phép đào tạo trong mỗi một trại huấn luyện.
Các giải đấu sumo chuyên nghiệp
Kể từ năm 1958, sáu giải đấu Grand Sumo (tiếng Nhật: honbasho) đã được tổ chức mỗi năm: ba giải tại Hội trường Sumo (hay Ryōgoku Kokugikan) ở Ryōgoku, Tokyo (tháng 1, tháng 5 và tháng 9), và một giải đấu ở Osaka (tháng 3), Nagoya (tháng 7) và Fukuoka (tháng 11). Mỗi giải đấu bắt đầu vào Chủ nhật và diễn ra trong 15 ngày, cũng kết thúc vào Chủ nhật. Mỗi đô vật trong hai hạng hàng đầu (sekitori) có một trận đấu mỗi ngày, trong khi các đô vật hạng thấp hơn thi đấu bảy trận, cứ hai ngày một trận.
Mỗi ngày được cấu trúc để các thí sinh được xếp hạng cao nhất thi đấu vào cuối ngày. Do đó, môn đấu vật bắt đầu vào buổi sáng với các đô vật jonokuchi và kết thúc vào khoảng sáu giờ tối với những trận đấu liên quan đến yokozuna. Các đô vật chiến thắng nhiều trận đấu nhất trong 15 ngày sẽ giành chức vô địch giải đấu (yūshō) hạng của mình. Nếu hai đô vật hòa điểm nhau, họ sẽ đấu thêm 1 trận với nhau và người chiến thắng sẽ giành danh hiệu. Ba người cũng hòa điểm cho một chức vô địch là rất hiếm, ít nhất là trong các hạng hàng đầu. Trong những trường hợp này, ba người vật với nhau theo cặp với người đầu tiên giành chiến thắng hai lần liên tiếp sẽ vô địch giải đấu. Các hệ thống phức tạp hơn cho các trận playoff vô địch liên quan đến bốn hoặc nhiều đô vật cũng tồn tại, nhưng chúng thường chỉ xuất hiện trong việc xác định người chiến thắng của một trong những hạng thấp hơn.
Các trận đấu cho mỗi ngày của giải đấu được thông báo trước một ngày. Chúng được xác định bởi những cựu đô vật sumo là thành viên của bộ phận xét xử của Hiệp hội Sumo. Vì có nhiều đô vật ở mỗi hạng so với số các trận đấu trong giải đấu, mỗi đô vật chỉ thi đấu với một lựa chọn đối thủ từ cùng một hạng, mặc dù sự chồng chéo nhỏ có thể xảy ra giữa hai hạng kề nhau. Ngoại trừ các đô vật cấp san'yaku, các trận đấu đầu tiên có xu hướng là giữa các đô vật có cấp bậc sát nhau. Sau đó, việc lựa chọn đối thủ sẽ tính đến thành tích trước đó của một đô vật. Ví dụ, ở các hạng thấp hơn, các đô vật có cùng thành tích trong một giải đấu thường được kết hợp với nhau và các trận đấu cuối cùng thường liên quan đến các đô vật bất bại cạnh tranh với nhau, ngay cả khi họ ở hai đầu đối diện của hạng đấu. Ở giải hạng nhất, trong vài ngày qua, các đô vật có thành tích đặc biệt thường có các trận đấu với các đối thủ được xếp hạng cao hơn nhiều, bao gồm các đô vật san'yaku, đặc biệt nếu họ vẫn đang tranh chức vô địch giải hạng cao nhất. Tương tự như vậy, các đô vật được xếp hạng cao hơn với kết quả rất kém có thể thấy mình chiến đấu với các đô vật ở vị trí thấp hơn nữa trong hạng. Đối với yokozuna và ōzeki, tuần đầu tiên và một nửa giải đấu có xu hướng diễn ra với các trận đấu với các đô vật maegashira, komusubi và sekiwake hàng đầu, với các trận đấu trong các cấp bậc này được tập trung trong năm ngày cuối cùng của giải đấu (tùy thuộc vào số lượng đô vật xếp hạng hàng đầu thi đấu). Theo truyền thống, vào ngày cuối cùng, ba trận đấu cuối cùng của giải đấu sẽ diễn ra giữa sáu đô vật hàng đầu, với hai người đứng đầu trong trận đấu cuối cùng, trừ khi có đô vật trong số đó bị chấn thương trong giải đấu.
Một số cặp đấu bị cấm trong giải đấu thông thường. Các đô vật đến từ cùng một trại huấn luyện không thể thi đấu với nhau, các đô vật đối đầu cũng không thể là anh em, ngay cả khi họ tham gia các trại huấn luyện khác nhau. Một ngoại lệ cho quy tắc này là các đô vật đến từ cùng một trại huấn luyện và anh em ruột có thể đối mặt với nhau trong trận đấu thêm để quyết định ngôi vô địch.
Ngày cuối cùng của giải đấu được gọi là Senshūraku, có nghĩa đen là "niềm vui của một ngàn mùa thu". Cái tên đầy màu sắc này cho ngày đỉnh cao của giải đấu lặp lại những lời của nhà viết kịch Zeami để thể hiện sự phấn khích của những trận đấu quyết định và lễ kỷ niệm của người chiến thắng. Cúp Hoàng đế được trao cho đô vật giành chức vô địch makuuchi hạng nhất. Nhiều giải thưởng khác (chủ yếu được tài trợ) cũng được trao cho nhà vô địch. Những giải thưởng này thường khá phức tạp, những món quà trang trí công phu, như chiếc cốc khổng lồ, đĩa trang trí và tượng nhỏ. Những giải thưởng khác khá mang tính thương mại, chẳng hạn như một chiếc cúp có hình dạng như một chai Coca-Cola khổng lồ.
Việc thăng hạng và xuống hạng cho giải đấu tiếp theo được xác định bởi điểm số của một đô vật trong 15 ngày. Trong phân chia hàng đầu, thuật ngữ kachikoshi có nghĩa là điểm 8 -7 hoặc cao hơn, trái ngược với makekoshi, là điểm 7-8 hoặc tệ hơn. Một đô vật đạt được kachikoshi hầu như luôn luôn được thăng cấp xa hơn, mức độ thăng tiến cao hơn nếu điểm số tốt hơn. Xem bài viết makuuchi để biết thêm chi tiết về thăng hạng và xuống hạng.
Một đô vật hạng nhất không phải là ōzeki hay yokozuna và kết thúc giải đấu với kachikoshi cũng đủ điều kiện để được xem xét cho một trong ba giải thưởng gồm giải "kỹ thuật", giải "tinh thần chiến đấu", và giải thưởng "thành tích xuất sắc" cho đô vật đánh bại nhiều yokozuna và ōzeki nhất. Để biết thêm thông tin xem sanshō.
Một trận đấu sumo chuyên nghiệp
Ở lần tiếp xúc đầu tiên, cả hai đô vật phải nhảy lên từ vị trí ban đầu đồng thời sau khi chạm vào bề mặt của vòng đấu bằng hai nắm đấm khi bắt đầu trận đấu. Trọng tài (gyōji) có thể khởi động lại trận đấu nếu cú chạm đồng thời này không xảy ra. Sau khi hoàn thành trận đấu, trọng tài phải ngay lập tức chỉ ra quyết định của mình bằng cách hướng gunbai hoặc chiếc quạt của mình về phía người chiến thắng. Quyết định của trọng tài không phải là quyết định cuối cùng và có thể bị tranh cãi bởi năm vị giám khảo ngồi quanh võ đài. Nếu điều này xảy ra, họ gặp nhau ở trung tâm của vòng tròn để tổ chức mono-ii (một cuộc nói chuyện). Sau khi đạt được sự đồng thuận, họ có thể tán thành hoặc đảo ngược quyết định của trọng tài hoặc ra lệnh tái đấu, được gọi là torinaoshi. Các đô vật sau đó quay trở lại vị trí bắt đầu của họ và cúi chào nhau trước khi xuống đài. Một đô vật chiến thắng trong hạng hàng đầu có thể nhận thêm tiền thưởng đặt trong phong bì từ trọng tài nếu trận đấu đã được tài trợ. Nếu một yokozuna bị một đô vật hạng thấp hơn đánh bại, việc các thành viên khán giả ném đệm ghế của họ vào vòng đấu (và vào các đô vật) là điều phổ biến và được mong đợi.
Trái ngược với thời gian chuẩn bị thi đấu, các trận đấu thường rất ngắn, thường là dưới một phút (hầu hết thời gian chỉ vài giây). Rất hiếm khi, một trận đấu có thể kéo dài trong vài phút. Nếu một trận đấu kéo dài tới bốn phút, trọng tài hoặc một trong những thẩm phán ngồi quanh võ đài có thể gọi một mizu-iri hoặc "thời gian nghỉ uống nước". Các đô vật được tách ra cẩn thận, nghỉ ngơi ngắn, và sau đó trở lại vị trí chính xác mà họ rời đi, mà được trọng tài xác định. Nếu sau bốn phút nữa, trận đấu vẫn bế tắc, họ có thể nghỉ lần thứ hai, sau đó họ bắt đầu lại từ đầu. Bế tắc hơn nữa mà không có kết thúc thắng bại rõ ràng có thể dẫn đến một trận hòa (hikiwake), một kết quả cực kỳ hiếm trong sumo hiện đại. Trận hòa cuối cùng trong hạng hàng đầu là vào tháng 9 năm 1974.
Cuộc sống của một đô vật sumo chuyên nghiệp
Một đô vật sumo sống một lối sống theo quy định chặt chẽ. Hiệp hội Sumo quy định hành vi của các đô vật trong một số chi tiết. Ví dụ, hiệp hội cấm các đô vật lái xe ô tô, mặc dù điều này là một phần không cần thiết vì nhiều đô vật quá to lớn để có thể ngồi sau vô lăng. Việc phá vỡ các quy tắc có thể dẫn đến tiền phạt và/hoặc đình chỉ thi đấu cho cả đô vật vi phạm và người chủ trại huấn luyện của anh ta.
Khi vào sumo, các đô vật sẽ phải để tóc dài để tạo thành một búi tóc, hay chonmage, tương tự như kiểu tóc samurai thời Edo. Hơn nữa, các đô vật sẽ phải búi tóc chonmage và trang phục truyền thống của Nhật Bản khi ở nơi công cộng, cho phép họ được nhận ra ngay lập tức.
Loại và chất lượng của trang phục phụ thuộc vào cấp bậc của đô vật. Rikishi hạng jonidan và thấp hơn chỉ được phép mặc một chiếc áo choàng bằng vải cotton mỏng gọi là yukata, ngay cả trong mùa đông. Hơn nữa, khi ở bên ngoài, họ phải mang một loại dép gỗ gọi là geta tạo ra âm thanh nhóp nhép đặc biệt. Các đô vật hạng makushita và sandanme có thể mặc một chiếc áo khoác ngắn truyền thống trên bộ yukata của họ và được phép mang dép rơm, được gọi là zōri. Các sekitori xếp hạng cao hơn có thể mặc áo choàng lụa theo lựa chọn của họ, và chất lượng của trang phục được cải thiện đáng kể. Họ cũng dự kiến sẽ mặc một loại áo choàng chi tiết hơn gọi là ōichō (lá bạch quả lớn) vào những dịp trang trọng.
Sự phân biệt tương tự được thực hiện trong cuộc sống tại trại huấn luyện. Các đô vật trẻ phải dậy sớm nhất, khoảng 5 giờ sáng, để tập luyện, trong khi các sekitori có thể bắt đầu vào khoảng 7 giờ sáng. Khi các sekitori đang tập luyện, các đô vật trẻ có thể có những việc phải làm, chẳng hạn như hỗ trợ nấu bữa trưa, dọn dẹp và chuẩn bị bồn tắm, cầm khăn sekitori hoặc lau mồ hôi cho sekitori. Hệ thống phân cấp được bảo tồn theo thứ tự ưu tiên trong việc tắm sau khi tập luyện và ai ăn trưa trước.
Các đô vật thường không được phép ăn sáng và dự kiến sẽ có một hình thức ngủ trưa sau một bữa ăn trưa lớn. Loại bữa trưa phổ biến nhất được phục vụ là bữa ăn sumo truyền thống của chankonabe, bao gồm một món hầm sôi với nhiều loại cá, thịt và rau được nấu tại bàn. Nó thường được ăn với cơm và kèm với bia. Chế độ không ăn sáng và một bữa trưa lớn sau đó là một giấc ngủ nhằm giúp các đô vật tăng cân rất nhiều để thi đấu hiệu quả hơn.
Vào buổi chiều, các đô vật thiếu niên một lần nữa thường có công việc dọn dẹp hoặc các công việc khác, trong khi các đồng nghiệp sekitori của họ có thể thư giãn, hoặc giải quyết các vấn đề công việc liên quan đến câu lạc bộ fan hâm mộ. Các đô vật trẻ hơn cũng tham dự các lớp học, mặc dù giáo dục của họ khác với chương trình giảng dạy điển hình của các đồng nghiệp không phải là sumo của họ. Vào buổi tối, sekitori có thể đi ra ngoài chơi với các nhà tài trợ của họ, trong khi các đô vật trẻ thường phải ở lại trong trại huấn luyện, trừ khi họ phải đi cùng với thủ lĩnh trại hoặc sekitori khi tsukebito (người hầu) của anh ta ra ngoài. Trở thành một tsukebito cho một thành viên cao cấp của trại huấn luyện là một nhiệm vụ điển hình. Một sekitori có một số tsukebito, tùy thuộc vào kích thước của trại hoặc trong một số trường hợp tùy thuộc vào kích thước của sekitori. Các đô vật cơ sở được giao những nhiệm vụ lặt vặt nhất như dọn dẹp trại, chạy việc vặt, và thậm chí rửa hoặc xoa bóp sekitori đặc biệt to lớn trong khi chỉ có tsukebito cao cấp được đi cùng sekitori khi anh ta ra ngoài.
Các sekitori được có phòng riêng của họ trong trại, hoặc có thể sống trong căn hộ riêng của họ, cũng như các đô vật đã kết hôn; các đô vật thiếu niên ngủ trong phòng ngủ chung của trại. Do đó, thế giới của đô vật sumo được phân chia rõ rệt giữa các đô vật thiếu niên, những người phục vụ và sekitori, những người được phục vụ. Cuộc sống đặc biệt khắc nghiệt đối với những đô vật mới được tuyển dụng, những người mà phải làm các công việc tồi tệ nhất, và tỷ lệ bỏ ngang ở giai đoạn này là cao.
Những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của lối sống sumo có thể trở nên rõ ràng sau này trong cuộc sống. Các đô vật Sumo có tuổi thọ từ 60 đến 65, ngắn hơn 10 năm so với nam giới Nhật Bản trung bình, vì chế độ ăn uống và thể thao gây tổn hại cho cơ thể của các đô vật. Nhiều người mắc bệnh tiểu đường loại 2 hoặc huyết áp cao, và họ dễ bị đau tim do khối lượng cơ thể và chất béo khổng lồ mà họ tích tụ. Uống quá nhiều rượu có thể dẫn đến các vấn đề về gan và căng thẳng trên khớp do trọng lượng dư thừa của cơ thể có thể gây ra viêm khớp. Gần đây, các tiêu chuẩn tăng cân đang trở nên ít nghiêm ngặt hơn, trong nỗ lực cải thiện sức khỏe tổng thể của các đô vật.
Yêu cầu chiều cao tối thiểu
Một số tổ chức sumo có yêu cầu chiều cao tối thiểu cho đối thủ cạnh tranh của họ. Năm 1994, Hiệp hội Sumo Nhật Bản yêu cầu tất cả các đô vật sumo phải có chiều cao tối thiểu 173 cm. Điều này đã khiến Takeji Harada, 16 tuổi của Nhật Bản (người đã thất bại trong sáu lần kiểm tra trước đó) phải thực hiện bốn ca phẫu thuật thẩm mỹ riêng biệt trong khoảng thời gian 12 tháng để bổ sung thêm 15 cm silicon vào da đầu, tạo ra một cục phình to, nhô ra trên đầu. Đáp lại điều này, Hiệp hội Sumo Nhật Bản tuyên bố rằng họ sẽ không còn chấp nhận các đô vật phẫu thuật tăng chiều cao để vượt qua kiểm tra, vì các lý do sức khỏe.
Lương và các khoản thanh toán
, tiền lương hàng tháng chomakuuchi (đơn vị yen Nhật) là:
yokozuna: 3.000.000, khoảng 26.500 đô la Mỹ
ōzeki: 2.500.000, khoảng US 22.000 đô la Mỹ
san'yaku: 1.800.000, khoảng 16.000 đô la Mỹ
maegashira: 1.400.000 hoặc khoảng 12.500 đô la Mỹ
jūryō: 1.100.000, khoảng 9.500 đô la Mỹ
Các đô vật thấp hơn hạng hai, những người được coi là thực tập sinh, chỉ nhận được một khoản trợ cấp khá nhỏ thay vì tiền lương.
Ngoài mức lương cơ bản, các đô vật sekitori còn nhận thêm thu nhập tiền thưởng, được gọi là mochikyūkin, sáu lần một năm (một lần mỗi giải đấu, hoặc basho) dựa trên hiệu suất tích lũy trong sự nghiệp của họ cho đến thời điểm diễn ra giải đấu. Phần thưởng này tăng lên mỗi khi đô vật ghi được một kachikoshi (với kachikoshi lớn hơn sẽ tăng số tiền lớn hơn). Số tiền tăng đặc biệt trong tiền thưởng này cũng được trao giải thưởng cho chiến thắng trong giải vô địch hạng cao nhất (với mức tăng lớn bằng tiền cho một lần ô địch chiến thắng "hoàn hảo" - không có trận thua), và cũng cho các trận thắng ngôi sao vàng hoặc kinboshi (khi một maegashira đánh bại một yokozuna).
Các đô vật san'yaku cũng nhận được một khoản trợ cấp giải đấu tương đối nhỏ, tùy theo cấp bậc của họ và yokozuna nhận được một khoản trợ cấp bổ sung cho mỗi giải đấu thứ hai, đi kèm với việc có một vành đai tsuna mới đeo trong lễ khai mạc sân đấu.
Cấp bậc của lực sĩ Sumo chuyên nghiệp
Yokozuna (横綱): cấp cao nhất. Ozeki đúng ra là tước hiệu. Có một hội đồng do Hiệp hội Sumo Nhật Bản chỉ định sẽ xem xét và phong các lực sĩ cấp bậc Ozeki lên cấp bậc cao nhất này.
Ozeki (大関): cấp bậc phong cho các lực sĩ bậc Sekiwake từng thắng khoảng 33 trận hay đoạt chức vô địch ba mùa đấu Sumo liên tục. Trong trường hợp hai giải đấu liên tiếp, Ozeki có số trận thắng ít hơn số trận thua sẽ bị mất cấp bậc này và trở về cấp bậc Sekiwake. Trước khi có cấp bậc yokozuna, thì Ozeki là cấp bậc cao nhất trong Sumo.
Sekiwake (関脇): là cấp bậc phong cho các lực sĩ Komusubi liên tục trong nhiều mùa giải có số trận thắng nhiều hơn số trận thua trong mỗi mùa hoặc có một mùa giải có số trận thắng rất nhiều (thường là 10 trận thắng trở lên). Nếu đang là Sekiwake mà có một mùa giải có số trận thắng ít hơn số trận thua, lực sĩ sẽ bị mất cấp bậc này và trở về cấp bậc Komusubi.
Komusubi (小結): là cấp bậc phong cho lực sĩ Maegashira nào có 10 hay 11 trận thắng hay thắng một lực sĩ có cấp bậc cao hơn mình.
Ozeki, Sekiwake và Komusubi tạo thành nhóm lực sĩ Sanyaku (三役).
Maegashira: là cấp bậc thấp nhất trong nhóm lực sĩ năm cấp Makuuchi (幕内) (bốn cấp cao hơn gồm cấp cao nhất Yokozuna và ba cấp trong Sanyaku).
Các lực sĩ trong nhóm Makuuchi thi đấu riêng trong một giải đấu 15 trận. Theo quy định từ năm 2004 của Hiệp hội Sumo Nhật Bản, nhóm Makuuchi chỉ có 42 lực sĩ.
Juryo: là cấp bậc của các võ sĩ chưa lọt được vào nhóm Makuuchi. Các lực sĩ Juryo được phép tham gia thi đấu các giải chuyên nghiệp 15 trận, nhưng đấu riêng giữa họ với nhau. Trong trường hợp một lực sĩ trong nhóm Makuuchi bị chấn thương phải từ bỏ giải đang đấu, thì Lực sĩ Juryo có thành tích tổt nhất có thể được phép lên đấu cùng nhóm Makuuchi.Thấp hơn cấp Juryo chỉ còn những người đang học Sumo. |
Văn hóa trà Việt Nam với những nét đặc trưng và tinh túy riêng, đã đóng góp vào nền văn hóa trà thế giới.
Người Việt Nam luôn tự hào với công phu tẩm ướp, pha trà và thưởng thức trà. Trà Việt Nam có thể được chia làm ba loại: trà hương, trà mạn và trà tươi.
Trà hương
Đây là loại trà đặc trưng của Việt Nam vì người Việt Nam rất thích uống trà ướp hương của các loài hoa như hoa lài, hoa sói, hoa sen, hoa ngâu, hoa cúc..., thường trà được ướp hoa trước và đóng gói sẵn để dễ dùng. Nói đến trà hương là phải nói đến ba loại trà hương rất đặc sắc: trà sen, trà ngũ hương và trà hoa sứ.
Trà sen: Trà sen được sử dụng phổ biến từ lâu tại Việt Nam. Đặc biệt người dân Hà Nội luôn tự hào với cách tẩm ướp, pha trà và thưởng trà của họ. Trà sen trở thành một tinh thần đặc trưng của văn hóa trà Việt Nam, mang trong đó nhiều triết lý, lịch sự và lòng kính trọng.
Trà ngũ hương: Là trà uống trong các dịp lễ tết, nhất là Tết Nguyên Đán. Một khay trà đặc biệt có 5 chỗ trũng, đặt vào 5 loài hoa bắt hương nhất là lài, sói, sen, ngâu và cúc. Tráng ly cho nóng và đặt úp lên các bông hoa, đợi một chút rồi lấy ly đó để thưởng thức trà.
Trà hoa sứ: Hoa sứ không thể ướp trực tiếp vào trà như các loài hoa trong ngũ hương, chỉ có thể thưởng hương bằng một ly nhỏ nóng úp lên hoa rồi dùng lý đó uống trà.
Trà mạn
Trà mạn là trà không ướp hương, chú trọng đến sự tinh tế trong cách thưởng thức trà. Trà mạn có những tiêu chuẩn phức tạp về trà, nước pha trà, ấm uống trà, cách pha trà và bạn thưởng trà. Trà mạn có hai loại chính là trà Tàu và trà Thiền.
Trà Tàu: Ảnh hưởng nhiều từ tinh thần và phong cách của trà Trung Hoa, thường dùng trà Trung Quốc, chuộng ấm đất Nghi Hưng và rất tỉ mỉ về cách để có chén trà ngon.
Trà Thiền: Là cách uống trà mang nặng tính Thiền, lấy trà làm duyên để hướng vào nội tâm. Trà Thiền nhằm giáo dục con người.
Trà tươi (chè tươi)
Trà tươi là cách uống trà cổ xưa nhất của người Việt. Dùng lá chè tươi, vò nhẹ và cho vào nồi nấu, sau đó thưởng thức bằng bát sành lớn bên bếp lửa. Tại những làng cổ, các gia đình trong làng thường luôn phiên nấu trà mỗi tối để thiết đãi cả làng. Trà tươi là cách thưởng trà hun đúc tình xóm, làm con người thân thiện và gần gũi nhau.
Dùng lá chè tươi rửa sạch, cũng giống như cách pha tra khô khác bằng cách hãm trà, tức là nước đun sôi rồi chế nước vào ấm. Sau 3-5 phút là có thể có chén trà ngon. Nếu pha bằng cách cho lá trà vào nồi đun lên thì nước trà có màu không đẹp và rất đắng. |
Mây vũ tích (tiếng Anh: Cumulonimbus cloud, từ tiếng Latin cumulus nghĩa là mây đống và nimbus nghĩa là mưa dông) là một loại mây dày đặc phát triển theo phương thẳng đứng rất cao liên quan đến giông và sự bất thường khí quyển, hình thành hơi nước mang các dòng khí mạnh từ dưới mặt đất lên.Mây vũ tích có thể tự hình thành, trong các đám mây, hoặc cùng với các dòng gió mạnh frông lạnh. Loại mây này có khả năng sản sinh tia sét và các loại thời tiết nghiêm trọng khác như gió giật, mưa đá, và thỉnh thoảng có lốc xoáy. Mây vũ tích được viết tắt là Cb và thuộc vào họ D2.
Các dạng mây vũ tích
Cumulonimbus calvus
Cumulonimbus capillatus |
Ôn đới là một khu vực khí hậu nằm tại các vĩ độ từ cận kề cận nhiệt đới tới các vòng cực của Trái Đất, nằm giữa đới nóng và đới lạnh, khoảng cách từ chí tuyến đến vòng cực ở cả hai bán cầu. Phần lớn diện tích đất nổi của đới nằm ở bán cầu Bắc, chỉ có phần nhỏ ở bán cầu Nam. Miền ôn đới thể hiện các mùa một cách rõ rệt và tồn tại ở cả Bắc bán cầu lẫn Nam bán cầu. Khí hậu trong miền này biến đổi từ khí hậu hải dương với sự biến thiên nhiệt độ tương đối nhỏ và lượng giáng thủy lớn cho tới khí hậu lục địa với sự thay đổi về nhiệt độ lớn hơn và tương đối khô hơn. Về mặt khí tượng học thì phần lớn miền nhiệt đới có gió thịnh hành là hướng tây-đông.
Khí hậu
Khí hậu ôn đới mang tính chất trung gian giữa khí hậu đới nóng & khí hậu đới lạnh.
Do vị trí trung gian nên thời tiết ôn đới thay đổi thất thường. Các đợt khí nóng ở chí tuyến và các đợt khí lạnh ở vùng cực có thể tràn tới bất thường gây ra những đợt nóng hay lạnh, có tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp & sinh hoạt của con người, đặc biệt là những vùng sâu ở trong nội địa. Ở phía đông của Hoa Kỳ, mỗi khi có đợt khí nóng hay đợt khí lạnh tràn đến, nhiệt độ có thể tăng hay giảm 10 °C - 15 °C trong vài giờ. Gió Tây ôn đới và các khối khí từ đại dương mang theo không khí ẩm & ấm vào đất liền cũng làm cho thời tiết ôn đới luôn biến động, rất khó dự báo trước.
Sự phân hóa của môi trường
Thiên nhiên ôn đới thay đổi theo bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Môi trường ôn đới cũng thay đổi từ vùng này sang vùng khác tùy thuộc vào vĩ độ, vào ảnh hưởng của dòng biển và gió Tây ôn đới.
Bờ Tây lục địa chịu ảnh hưởng của dòng biển nóng & gió Tây ôn đới nên có môi trường ôn đới hải dương: ẩm ướt quanh năm, mùa hạ mát mẻ, mùa đông không lạnh lắm. Càng vào sâu trong đất liền, tính chất lục địa càng rõ nét: lượng mưa giảm dần, mùa đông lạnh & tuyết rơi nhiều, mùa hạ nóng. Thảm thực vật thay đổi dần từ tây sang đông:rừng lá rộng chuyển sang rừng hỗn giao và cuối cùng là rừng lá kim.
Ở vĩ độ cao, mùa đông rất lạnh và kéo dài, mùa hạ ngắn, mưa nhiều. Gần chí tuyến có môi trường địa trung hải: mùa hạ nóng & khô, mùa đông ấm áp, mưa nhiều vào mùa thu - đông. Thảm thực vật cũng thay đổi từ bắc xuống nam: rừng lá kim chuyển sang rừng hỗn giao rồi tới thảo nguyên và rừng cây bụi gai. |
AMS có thể là viết tắt của
Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam.
Viết tắt của từ tiếng Anh acute mountain sickness, trong y học để chỉ chứng say núi cấp tính.
Hội Toán học Hoa Kỳ, American Mathematical Society. |
Rừng khộp hay còn gọi rừng thưa lá rộng rụng lá theo mùa là loại rừng đặc trưng của một số nước Đông Nam Á lục địa trong điều kiện có một mùa mưa úng nước và một mùa khô khắc nghiệt. Tổ thành rừng khộp với các loài cây thuộc Họ Dầu (Dipterocarpaceae) chiếm ưu thế, rụng lá trong mùa khô.
Về tên gọi" rừng khộp" thì chữ"khộp" là phiên âm từ Tiếng Lào , có nghĩa là nghèo vậy "rừng khộp"nghĩa là rừng nghèo
Ở rừng khộp, cây rừng phát triển mạnh vào mùa mưa và rụng lá vào mùa khô. Vào mùa khô cây lá rụng nhiều, ở mặt đất lại thường là các loại cỏ, le và cây con mọc dày đặc nên loại rừng này cực kỳ dễ cháy. Tuy nhiên, chính lửa rừng lại là yếu tố tích cực làm quả cây có đủ điều kiện để nảy mầm và tạo nên sức tái sinh mãnh liệt của rừng khộp. Vào mùa khô, rừng trơ trụi lá, đất đai khô cằn, các dòng suối trong rừng hầu hết đều cạn kiệt, nhìn như những khu rừng chết, nhưng chỉ cần có một cơn mưa thoáng qua là cả khu rừng lập tức bừng màu xanh trở lại.
Rừng khộp ở Việt Nam
Loại rừng thưa và thoáng này thường phân bố ở những vùng có khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt. Tại Việt Nam, rừng khộp được phân bố chủ yếu ở Tây Nguyên, vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Trong đó, Tây Nguyên là nơi có diện tích lớn nhất và đặc trưng nhất với khoảng 500.000 ha phân bố từ Nam cao nguyên Pleiku đến Tây Ninh. Nơi có diện tích rừng khộp lớn nhất nước ta là huyện Ea Súp thuộc tỉnh Đắc Lắc với 357.114 ha. Tầm quan trọng của rừng khộp cũng đã được thừa nhận thông qua việc thành lập VQG Yok Đôn tại huyện Buôn Đôn tỉnh Đắc Lắc. Đây là VQG duy nhất ở Việt Nam bảo tồn loại rừng đặc biệt này.
Rừng khộp tại Việt Nam có cấu trúc tầng tán đơn giản chỉ gồm 2 tầng tán, tầng ưu thế sinh thái gồm các cây gỗ, tầng dưới tán là các cây bụi và cây cỏ. Trong mùa khô nhiệt độ trong rừng khộp sẽ thấp hơn ngoài đất trống là 0,1oC, vào mùa mưa thì ngược lại nhiệt độ trong rừng sẽ cao hơn bên ngoài đất trống từ 0,7 - 1,7oC.
SA7 là một trong những tiểu khu sinh thái quan trọng cần bảo tồn khẩn cấp Theo như WWF (SA7,WWF 2001) nghĩa là rừng khộp ven biển. Hiện tại đang được bảo tồn tại 3 khu vực là Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu, Khu bảo tồn thiên nhiên Tà kóu, Vườn quốc gia Núi Chúa.
Thư viện ảnh |
Sông Dinh là một con sông chảy từ Tây sang Đông, thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam.
Sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, hợp lưu ở khu vực thị trấn Nông trường Việt Trung, thuộc huyện Bố Trạch. Trên sông có hồ Thác Chuối ở thị trấn Nông trường Việt Trung. Sông cắt ngang đường Hồ Chí Minh, đi qua các xã Nam Trạch, Đại Trạch, cắt Quốc lộ 1, đổ ra biển Đông ở cửa biển xã Nhân Trạch.
Sông chạy dài khoảng 15 km thì bị ngăn lại bởi đập thủy lợi Đá Mài, vị trí ở đoạn giáp ranh giữa tiểu khu Hữu Nghị và tiểu khu Quyết Thắng của nông trường Việt Trung,
dẫn nước tưới tiêu cho vùng lúa phía nam huyện Bố Trạch và phía bắc thành phố Đồng Hới . Khúc sông rộng nhất khoảng 200 m, hẹp nhất khoảng 150 m.
Về mùa lũ, nước sông đục ngầu và dữ dội. Tuy nhiên, hầu như quanh năm nước trong, hiền hòa và khá đẹp. Tốc độ dòng chảy chậm do bị ngăn đập, dòng sông lững thững uốn quanh những rừng cao su xanh ngắt. Rễ cây cao su trong vùng được cho là có thể làm ô nhiễm nguồn nước sông, tuy nhiên chưa có số liệu cụ thể về nguy cơ này. Sự xói mòn đất cát từ những cánh rừng bị khai thác quá tải đã được cho là làm giảm lưu lượng của sông.
Con sông là nơi sinh sống của rất nhiều loại cá: cá chép, cá chình, cá thát lát, cá giếc, cá lóc... |
Tôn Nữ Thị Ninh (sinh ngày 30 tháng 10 năm 1947) từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam bên cạnh Liên minh châu Âu (EU) và tại Bỉ. Bà cũng từng là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam. Bà có vai trò tích cực trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam.
Tiểu sử
Tôn Nữ Thị Ninh sinh ra tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, là hậu duệ của hoàng tộc nhà Nguyễn. Năm 1950 bà theo gia đình sang Pháp và sau đó lại cùng gia đình trở về Sài Gòn. Bà học trung học tại trường Marie Curie tại Sài Gòn. Vào năm 1964, bà sang Pháp du học ở Đại học Paris (Pháp) và Đại học Cambridge (Anh). Bà đã tham gia hoạt động với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam với vai trò là người trợ giúp vòng ngoài cho Phái đoàn đàm phán của Việt Nam tại Paris trong những năm 1968 - 1973 và một số lần là phiên dịch tiếng Anh trong các cuộc tiếp xúc không chính thức cho Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình. Bà còn dạy Anh văn và văn học Anh ở Đại học Paris 1, École Normale Supérieure, Fontenay-aux-Roses và Université des Droits.
Sự nghiệp ngoại giao
Sau đó, khi về nước năm 1972, bà làm Phó Khoa của Phân khoa Anh ngữ (Đại học Sư phạm Sài Gòn). Cho đến năm 1975, tình cờ bà gặp Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là ông Xuân Thủy - người đã từng biết bà trong thời gian hội nghị Paris (1968-1972) và theo lời khuyên của ông, bà về làm việc tại Ban Đối ngoại Trung ương.
Bà trở thành nhà ngoại giao bắt đầu bằng công việc phiên dịch và bà đã học được nhiều kinh nghiệm khi đi dịch cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Xuân Thủy, ông Nguyễn Cơ Thạch... Ông Jean-Pierre Debris, khi nghe bà dịch cho Tổng thống Pháp François Mitterrand trong chuyến thăm Việt Nam năm 1993 đã ví bà như người thợ kim hoàn lành nghề. Bà đã làm đại sứ ở Bỉ, và bên cạnh Liên minh châu Âu (EU). Bà còn giữ cương vị là người đứng đầu đại diện của phái đoàn Việt Nam ở Liên minh châu Âu tại Brussel (Bỉ) và đã từng giữ một nhiệm kỳ trong Ủy ban Trung ương của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Cương vị gần đây nhất mà bà nắm giữ là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. Trên cương vị đó bà đã có một số những phản bác tương đối mạnh mẽ trước một số cáo buộc về vấn đề nhân quyền từ phía Hoa Kỳ và Quốc hội Hoa Kỳ.
Tháng 2 năm 2013, bà được Chính phủ Cộng hòa Pháp tặng huân chương Bắc đẩu Bội tinh.
Nghỉ hưu
Tháng 8 năm 2007, bà đã thôi giữ chức tại Quốc hội và tham gia vào lĩnh vực giáo dục với tư cách Chủ tịch Hội đồng sáng lập Trường Đại học Tư thục Trí Việt. Tuy nhiên dự án này bị thất bại.
Năm 2016 bà lên tiếng chỉ trích việc Đại học Fulbright Vietnam bổ nhiệm cựu Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Bob Kerrey giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng tín thác của trường đại học này.
Câu nói nổi tiếng
Tại buổi họp báo tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2004:
Gia đình
Bà có chồng từng làm Giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội (hiện đã nghỉ hưu) và có một người con trai. |
Kiểm tra Solovay-Strassen là một trong các phương pháp kiểm tra tính nguyên tố theo xác suất do Robert M. Solovay và Volker Strassen phát triển.
Ký hiệu Legendre và tiêu chuẩn Euler
Ký hiệu Legendre
Legendre đưa ra ký hiệu mang tên ông cho số nguyên tố lẻ p và số nguyên a
là
0 nếu p chia hết a;
1 nếu a là một bình phương đúng modulo p — nghĩa là nếu tồn tại số nguyên k sao cho k2 ≡ a (mod p);
−1 nếu a không là bình phương đúng modulo p.
Tiêu chuẩn Euler
Euler chứng minh rằng với mọi số nguyên tố p và số a, ,
Ký hiệu Jacobi và số giả nguyên tố Euler
Ký hiệu Jacobi
Ký hiệu Jacobi là mở rộng của Ký hiệu Legendre cho số tự nhiên lẻ n. Giả sử
là dạng phân tích tiêu chuẩn của n và số nguyên a bất kỳ, ký hiẹu Jacobi
Số giả nguyên tố Euler
Xem tiêu chuẩn Euler là mệnh đề Q(p,a). Khi đó Q(p,a) đúng với mọi số nguyên tố p và mọi số tự nhiên a, 1 < a < p.
Thay số nguyên tố p bằng số lẻ n và ký hiệu Legendre bằng ký hiệu Jacobi, ta định nghĩa:
Đinh nghĩa: Hợp số n được gọi là số giả nguyên tố Euler cơ sở a (1 < a < n) nếu:
trong đó là ký hiệu Jacobi.
Kiểm tra Solovay-Strasen
Solovay-Strasen test
INPUTS: n: là số tự nhiên lẻ
OUTPUT: FALSE nếu n là hợp số, nếu không TRUE
Chọn a ngẫu nhiên trong khoảng[1,n-1]
Tính ký hiệu Jacobi J=
Tính x =a (n-1)/2 mod n
Nếu J ≠ x thì trả về FALSE
nếu khác trả về TRUE.
Xác suất sai
Định lý: Nếu n là hợp số lẻ thì tồn tại không quá số tự nhiên dương a nhỏ hơn n, nguyên tố cùng nhau với n sao cho n là số giả nguyên tố Euler cơ sở a.
Gọi A là biến cố "Số nguyên lẻ n là hợp số"; B là biến cố: "Thuật toán Solova-Strassen trả lời TRUE''".
Xác suất điều kiện P(B|A) .
Tương tự phép thử Miller-Rabin tính được xác suất sai của phép thử Solova-Strasen là
P(A|B)=
(Tham khảo: Douglas R. Stisnon. Cryptography Theory and Practice.)
Kiểm tra Solovar-Strasen lặp |
Quân chủng Phòng không – Không quân là một trong ba quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ không phận, mặt đất và biển đảo Việt Nam; cứu trợ, tìm kiếm cứu nạn và các nhiệm vụ khác.
Quân chủng Phòng không – Không quân đảm nhiệm cả nhiệm vụ của bộ đội phòng không quốc gia và của không quân. Đây là lực lượng nòng cốt quản lý, bảo vệ vùng trời, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia, bảo vệ nhân dân đồng thời tham gia bảo vệ các vùng biển đảo của Tổ quốc. Lực lượng Phòng không – Không quân có thể độc lập thực hiện nhiệm vụ hoặc tham gia tác chiến trong đội hình quân binh chủng hợp thành. Quân chủng làm tham mưu cho Bộ Quốc phòng chỉ đạo xây dựng lực lượng phòng không lục quân và không quân thuộc các quân chủng, binh chủng, ngành khác. Lực lượng không quân vận tải ngoài nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu còn tham gia các hoạt động cứu trợ thiên tai và phát triển kinh tế.
Lịch sử hình thành
Sự ra đời của đơn vị pháo phòng không đầu tiên
Cho đến tận năm 1950, dù phần nào có những lực lượng mạnh để thực hiện tiến công chiến lược, các đơn vị của Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn gần như bất lực trước các hoạt động trinh sát hoặc tấn công từ trên không của người Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1949, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu để nghiên cứu các phương pháp chống trả.
Chỉ đến khi sau Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu có được những viện trợ quý giá từ chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong đó có những khẩu đội súng phòng không 12,7 mm. Lực lượng Không quân Pháp sau những bất ngờ đầu tiên, vẫn duy trì được ưu thế. Tuy nhiên, không lâu sau, tháng 5 năm 1951, người Việt đã cho thành lập Đại đội 612, đơn vị phòng không đầu tiên sử dụng 4 khẩu 37 mm. Ban Nghiên cứu Không quân được giải thể và hầu hết cán bộ của Ban được chuyển thuộc vào đơn vị phòng không đang được thành lập. Đến đầu năm 1953, họ đã có 8 tiểu đoàn phòng không, với 500 súng máy phòng không 12,7mm và 4 pháo cao xạ 37 mm.
Ngày 1 tháng 4 năm 1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân danh Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã ký quyết định số 06/QĐ thành lập Trung đoàn Pháo cao xạ 367. Đây là Trung đoàn pháo Cao xạ chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ban chỉ huy Trung đoàn đầu tiên gồm Lê Văn Tri – Trung đoàn trưởng, Nguyễn Quang Bích – Trung đoàn phó, Đoàn Phụng – Chính ủy, Ngô Từ Vân – Phó chính ủy. Ngày 1 tháng 4 cũng trở thành ngày truyền thống của lực lượng Phòng không Việt Nam.
Sau 8 tháng huấn luyện tại Trung Quốc, ngày 1 tháng 12 năm 1953, toàn bộ đội hình Trung đoàn cùng khí tài đã về nước và tập kết ở tây bắc thị xã Tuyên Quang. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung đoàn 367 trong đội hình Đại đoàn Công Pháo 351 đã góp phần không nhỏ vào việc hạn chế sự tấn công từ trên không cũng như việc tiếp tế, chuyển quân của người Pháp.
Hình thành Bộ Tư lệnh phòng không và Cục Không quân
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại đoàn Công pháo 351 được giải thể. Bộ Tổng tư lệnh ra Nghị định số 34/NĐA nâng cấp Trung đoàn Phòng không 367 lên thành Đại đoàn pháo cao xạ hỗn hợp 367 trực thuộc Bộ chỉ huy Pháo binh vào ngày 21 tháng 9 năm 1954. Kiện làm Đại đoàn trưởng, Đoàn Phụng làm Chính trị ủy, Lê Văn Tri làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng. Đại đoàn được biên chế các cơ quan tham mưu, chính trị, cung cấp và ba trung đoàn 681, 685, 689, trang bị pháo 88mm và 40mm. Theo quyết định của Bộ Tổng tham mưu, để giữ bí mật lực lượng, các trung đoàn 681, 685, 689 được gọi là các tiểu đoàn 12, 13, 14. Sau khi được tổ chức và huấn luyện ở Vai Cầy, Thái Nguyên, đêm ngày 16 tháng 12 năm 1955, Đại đoàn 367 hành quân về tiếp quản Hà Nội.
Bên cạnh đó, ngày 3 tháng 3 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu Sân bay trực thuộc Tổng Tham mưu trưởng. Ông Trần Quý Hai, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 325, được cử làm Trưởng ban. Ngày này về sau được lấy làm ngày thành lập Không quân Nhân dân Việt Nam. Một năm sau đó, liên tục các đoàn cán bộ, chiến sĩ thuộc Ban nghiên cứu sân bay được cử đi nước ngoài học tập. Ngày 26 tháng 1 năm 1956, Việt Nam tiếp nhận 5 máy bay đầu tiên do Trung Quốc viện trợ gồm 2 Li-2 và 3 Aero 45. Ngày 24 tháng 2 năm 1956, 2 đoàn học viên lái máy bay gồm Đoàn học máy bay tiêm kích MiG-17, gồm 50 học viên, do Phạm Dưng làm Đoàn trưởng và Đoàn học máy bay ném bom Tu-2, gồm 30 học viên, do Đào Đình Luyện làm Đoàn trưởng, học tại Trường Không quân số 2 ở Trường Xuân, Trung Quốc. Trong Đoàn học Tu-2 có sáu học viên dẫn đường trên không (chuyên dẫn đường trên các loại máy bay và trực thăng) đầu tiên là: Đinh Huy Cận, Lê Thế Hưng, Nguyễn Văn Kính, Lê Liên, Lương Nhật Nguyễn và Nguyễn Cảnh Phiên.
Ngày 21 tháng 3 năm 1958, Trung đoàn ra đa cảnh giới đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập với tên gọi Trung đoàn đối không cần vụ 260. Cùng ngày hôm đó, Bộ Quốc phòng cũng ra Nghị định 047/NĐ thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không trên cơ sở của Sư đoàn Phòng không 367 và Trung đoàn đối không cần vụ. Trong những năm sau đó, các trung đoàn pháo phòng không được thành lập, trang bị các loại pháo 57 mm và 100 mm. Bên cạnh đó, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ được đi học sử dụng vũ khí tên lửa phòng không tại các trung tâm huấn luyện quân sự của Liên Xô ở Leningrad, Kiev, Odessa, Minsk... để chuẩn bị cho việc hình thành các đơn vị tên lửa phòng không sau này.
Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra nghị định thành lập Cục Không quân trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu trên cơ sở hợp nhất các tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu sân bay và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Đại tá Đặng Tính được bổ nhiệm làm Cục trưởng, Thượng tá Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy, Trung tá Hoàng Ngọc Diêu làm Tham mưu trưởng.
Sau một năm huấn luyện, ngày 1 tháng 3 năm 1959, Trung đoàn đối không cần vụ 260 bắt đầu phát sóng. Ngày này về sau được lấy làm ngày truyền thống của Bộ đội Ra-da.
Ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục Không quân ra quyết định thành lập Đại đội bay gồm: Ban chỉ huy đại đội, 3 Chủ nhiệm Dẫn đường, Thông tin và Máy (kỹ thuật hàng không); 1 trung đội bay Il-14, 1 trung đội bay Li-2, 1 trung đội bay An-2 và 1 trung đội máy gồm tất cả nhân viên kỹ thuật trên không (cơ giới) và mặt đất của các loại máy bay.
Ngày 1 tháng 5 năm 1959, Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên, Trung đoàn 919, được thành lập. Đến ngày 20 tháng 8, Trung đoàn Huấn luyện không quân 910 cũng được thành lập.
Ngày 1 tháng 5 năm 1960, 6 sĩ quan và một chiến sĩ Lê Thành Chơn được triệu tập về Trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn để ôn văn hóa và học tiếng Trung Quốc, chuẩn bị để đào tạo sĩ quan dẫn đường (hoa tiêu) trong lực lượng không quân. Cuối năm 1961, toàn bộ các học viên dẫn đường tốt nghiệp và về nước.
Ngày 30 tháng 5 năm 1963, Trung đoàn không quân tiêm kích 921, mật danh là Đoàn Sao Đỏ, được thành lập tại Trung Quốc, do Trung tá Đào Đình Luyện làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đỗ Long làm Chính ủy, Thiếu tá Trần Mạnh làm Trung đoàn phó, Thiếu tá Trần Văn Thọ làm Tham mưu trưởng.
Ngày 10 tháng 7 năm 1963, một đơn vị đặc biệt mang phiên hiệu Trung đoàn 228B (trùng tên với trung đoàn cao xạ 228 để giữ bí mật) được thành lập. Về thực chất đây là đơn vị các cán bộ nòng cốt để xây dựng Trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên.
Thành lập Quân chủng
Quân chủng Phòng không – Không quân Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 10 năm 1963 trên cơ sở sáp nhập Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân.
Ngày 7 tháng 1 năm 1965, Bộ Quốc phòng ra quyết định số 03/QĐ-QP thành lập Trung đoàn cao xạ 236 ("Đoàn Sông Đà"). Thực chất, đây là trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên thuộc Bộ tư lệnh Phòng không – Không quân. Các cán bộ của trung đoàn đều từ đoàn 228B chuyển sang.
Ngày 6 tháng 8 năm 1964, trung đoàn tiêm kích 921 trở về nước. sau 1 năm huấn luyện, ngày 3 tháng 4 năm 1965, trung đoàn xuất kích đánh thắng trận đầu, bắn rơi 2 máy bay F-8 của Hải quân Mỹ. Ngày hôm sau, tiếp tục bắn hạ thêm 2 máy bay F-105 của Không quân Mỹ.
Ngày 22 tháng 4 năm 1965, lập Trung đoàn tên lửa 238 ("Đoàn Hạ Long") được thành lập. Ngày 19 tháng 5 năm 1965, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Nội (từ tháng 3 năm 1967 đổi là Sư đoàn phòng không 361) và Bộ Tư lệnh Phòng không Hải Phòng (từ tháng 3 năm 1967 đổi là Sư đoàn phòng không 363).
Ngày 20 tháng 7 năm 1965, thành lập Trung đoàn thông tin 26.
Ngày 4 tháng 8 năm 1965, Trung đoàn không quân tiêm kích thứ 2 là Trung đoàn 923, mật danh Đoàn Yên Thế, được thành lập, gồm 2 đại đội 17 phi công MiG-17, do Trung tá Nguyễn Phúc Trạch làm Trung đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Ngọc Phiếu làm Chính ủy. Không quân Việt Nam được trang bị thêm một số máy bay MiG-17F có bộ phận tăng lực.
Ngày 13 tháng 11 năm 1965, thành lập Trung đoàn tên lửa 257 ("Đoàn Cờ Đỏ"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 361.
Ngày 29 tháng 4 năm 1966, thành lập Trung đoàn ra đa 293, thuộc sư đoàn phòng không 361.
Ngày 19 tháng 5 năm 1966, thành lập Trung đoàn công binh 28, do Nguyễn Phú Cầu làm Trung đoàn trưởng.
Ngày 30 tháng 5 năm 1966, thành lập 3 trung đoàn tên lửa phòng không 261 ("Đoàn Thành Loa"), 263, 267, thuộc Bộ Tư lệnh Quân chủng. Nay thuộc Sư đoàn phòng không 367.
Ngày 15 tháng 6 năm 1966, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Quân khu 4.
Ngày 21 tháng 6 năm 1966, thành lập Sư đoàn phòng không 367. Tiền thân là trung đoàn pháo cao xạ 367, thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1953, chuyển thành Đại đoàn pháo cao xạ 367 ngày 21 tháng 9 năm 1954, trước đây thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh, sau này tách ra đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Phòng không (1958).
Ngày 23 tháng 6 năm 1966, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Bắc, đến 16 tháng 3 năm 1967 đổi tên thành Sư đoàn phòng không 365.
Ngày 23 tháng 3 năm 1967, thành lập các Binh chủng Ra-đa, Tên lửa Phòng không và Không quân.
Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ tư lệnh không quân được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 1 năm 1968, thành lập Sư đoàn phòng không 375 thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 4.
Ngày 27 tháng 5 năm 1968, thành lập Sư đoàn phòng không 377.
Tháng 3 năm 1972, thành lập Trung đoàn không quân thứ 3, Trung đoàn 927 ("Đoàn Lam Sơn").
Ngày 29 tháng 3 năm 1973, thành lập Sư đoàn phòng không 673 tại Bình – Trị – Thiên.
Tách – nhập Quân chủng
Trong thời gian từ 16 tháng 5 năm 1977 đến 3 tháng 3 năm 1999, Quân chủng Phòng không – Không quân tách ra thành hai Quân chủng Phòng không và Không quân riêng biệt. Việc chia tách này do được áp dụng theo mô hình tổ chức lực lượng của Liên Xô, một quốc gia vốn có lãnh thổ rộng lớn và tiềm lực quân sự mạnh, nên bộc lộ không phù hợp với đặc thù Việt Nam, vốn có lãnh thổ nhỏ hẹp và tiềm lực quân sự còn nhỏ. Chính vì vậy, sau khi Liên Xô tan rã, mô hình 2 quân chủng cũng không còn phù hợp, cần tinh giản và gọn nhẹ trong bộ máy quản lý, điều hành. Từ tháng 3 năm 1999, hai Quân chủng lại được sáp nhập trở về Quân chủng Phòng không – Không quân như trước tháng 5 năm 1977.
Lãnh đạo hiện nay
Tổ chức Đảng
Quân chủng Phòng không – Không quân được tổ chức thành Bộ tư lệnh Quân chủng, các đơn vị chiến đấu; khối bảo đảm; khối nhà trường và các đơn vị kinh tế. Bộ Tư lệnh quân chủng có Tư lệnh và các Phó Tư lệnh; Chính uỷ và Phó Chính uỷ, các cơ quan đảm nhiệm các mặt công tác quân sự; công tác đảng, công tác chính trị; kỹ thuật; hậu cần và các đơn vị trực thuộc. Quân chủng có các sư đoàn không quân, sư đoàn phòng không và một số đơn vị không quân trực thuộc là các đơn vị chiến đấu chủ yếu.
Năm 2006, thực hiện chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong Quân đội. Theo đó Đảng bộ trong Quân chủng PK – KQ bao gồm:
Đảng bộ Quân chủng PK – KQ là cao nhất.
Đảng bộ các Cục chuyên ngành, Sư đoàn thuộc Quân chủng PK – KQ (tương đương cấp Sư đoàn)
Đảng bộ các đơn vị cơ sở trực thuộc Cục chuyên ngành, Sư đoàn (tương đương cấp Tiểu đoàn, Trung đoàn)
Chi bộ các bộ phận thuộc đơn vị cơ sở (tương đương cấp Đại đội)
Tổ chức chính quyền
Tư lệnh qua các thời kỳ
Chính ủy qua các thời kỳ
Quân chủng Phòng không (1958–1962)
Quân chủng Phòng không – Không quân (1962–1977)
Quân chủng Không quân (1977–1999)
Quân chủng Phòng không (1977–1999)
Quân chủng Phòng không – Không quân (1999– nay)
Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
Xem bài: Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không – Không quân
Phó Tư lệnh qua các thời kỳ
1975-1977, Nguyễn Quang Bích, Thiếu tướng (1922)
1985-1987, Nguyễn Ngọc Độ, Thiếu tướng (1985)
1999-2005, Mai Văn Cương, Thiếu tướng (1998)
1999-2007, Vũ Anh Thố, Thiếu tướng (1999)
2002-2007, Phạm Phú Thái, Thiếu tướng (1998), Trung tướng (2008), Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng (2008-2010)
2005-2007, Trần Việt, Thiếu tướng (1999)
2002-2008, Bùi Đăng Phiệt, Thiếu tướng (2003)
10.2005-2008, Nguyễn Mạnh Hải, Thiếu tướng (2004)
2005-2010, Phạm Ngọc Nguyên (sinh 1949), Thiếu tướng (2006)
2008-2011, Trần Văn Thi, Thiếu tướng (1.2008), nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng PK-KQ
2009-2015, Vi Văn Liên, Thiếu tướng (2009), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 367, Quân chủng PK-KQ
2009-2015, Lê Việt Hòe, Thiếu tướng (2009)
2011-6.2015, Lê Huy Vịnh Thiếu tướng (2011), Trung tướng (2015), Tư lệnh Quân chủng PK-KQ
2011-2017, Đỗ Minh Tuấn, Thiếu tướng (2011), nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng PK-KQ
2012-2017, Nguyễn Văn Đảm, Thiếu tướng (2012), nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật, Quân chủng PK-KQ
2015-6.2020, Nguyễn Hữu Chí, Thiếu tướng (2015), nguyên Phó Tham mưu trưởng QC PK-KQ, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 365
2015-4.2023, Bùi Anh Chung, Thiếu tướng (2016), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân 371
2015-6.2020, Nguyễn Quang Tuyến, Thiếu tướng (2016), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Phòng Không 361
2017-12.2019, Vũ Văn Kha, Thiếu tướng, (2017), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân 370
2018-6.2020, Nguyễn Văn Hiền, Thiếu tướng, (2018), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Phòng không 365
12.2019-8.2022, Phạm Trường Sơn, Thiếu tướng, (2019), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Phòng không 370 (2014-11.2018)
6.2020-nay, Phạm Văn Tính, Thiếu tướng (2020).nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Phòng không 363 (2016-1.2019)
12.2021-nay, Bùi Đức Hiền, Đại tá (2020), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Phòng không 363 (1.2019-12.2021)
9.2022-6.2023, Vũ Hồng Sơn, Thiếu tướng (2022), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân 372 (2020-1.2022)
07.2023-nay, Bùi Thiên Thau, Đại tá, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng PK-KQ
07/2023-nay, Phạm Tuấn Anh, Đại tá, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng PK-KQ
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
1966-1977, Nguyễn Xuân Mậu, Trung tướng (1986)
2007-2009, Đỗ Ngọc Phụ (sinh 1948), Thiếu tướng (2006)
2009-6.2015, Nguyễn Kim Cách, Thiếu tướng (2009)
6.2015-2016, Lâm Quang Đại, Thiếu tướng (2013), sau là Chính ủy Quân chủng PKKQ
2016-01.2018, Hồ Văn Đức, Thiếu tướng (2016), nguyên Chính ủy Sư đoàn Phòng Không 363
2018-nay, Bùi Tố Việt, Thiếu tướng (2018), nguyên Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng PKKQ
Các tướng lĩnh khác
Phạm Liêm, Thiếu tướng (1985), nguyên Cục phó Cục Chính trị, QCPK-KQ
Trần Nam Xuân, Thiếu tướng (2007), Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học quân sự, nguyên Giám đốc Học viện PK - KQ
Lê Văn Ngọc, Thiếu tướng, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng PK-KQ
Nguyễn Đức Côn, Thiếu tướng (2005) nguyên Phó Cục trưởng Cục Chính trị Quân chủng PK-KQ
Phạm Thanh Liêm, Thiếu tướng, nguyên Cục trưởng Cục Chính trị Quân chủng PK-KQ(2013-2017(
Nguyễn Viết Xuân, Thiếu tướng (2013), Phó Cục trưởng Cục Chính trị Quân chủng PK-KQ, hiện là Phó Chính ủy Tổng cục CNQP
Phan Thanh Giảng, Thiếu tướng, Phó Cục trưởng Cục Chính trị Quân chủng PK-KQ
Trần Ngọc Quyến, Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Chính trị Quân chủng PK-KQ (2017 - nay)
Bùi Duy Hùng, Thiếu tướng, Chính ủy Cục Kỹ thuật Quân chủng PK-KQ, hiện là Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kiểm tra QUTW
Thành tích
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ cho Đề tài Chống nhiễu của máy bay Mỹ.
Anh hùng Lực lượng Vũ trang năm 2010.
Huân chương Sao vàng (2013)
Quân hàm Phòng không không quân
Theo Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2014 quy định chức vụ Phòng không không quân như sauː
Tư lệnh và Chính ủy trần quân hàm Trung tướng.
Phó Tư lệnh và Tham mưu trưởng trần quân hàm Thiếu tướng không quá 5 người.
Phó Chính ủy và Chủ nhiệm Chính trị trần quân hàm Thiếu tướng không quá 1 người.
Phó Tham mưu trưởng là Bí thư hoặc Phó bí thư Đảng ủy Bộ Tham mưu trần quân hàm Thiếu tướng không quá 1 người.
Phó Chủ nhiệm Chính trị là Bí thư hoặc Phó bí thư Đảng ủy Cục Chính trị trần quân hàm Thiếu tướng không quá 1 người.
Các chức vụ khác trần quân hàm là Đại tá.
Quân hàm Thượng tướng PKKQ chỉ sử dụng cho quân nhân giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm tư lệnh hoặc Chính ủy Quân chủng.
Trang bị
Máy bay
Tên lửa - Pháo phòng không
Lực lượng đổ bộ đường không
Chú thích |
Trong lý thuyết số, số giả nguyên tố (tiếng Anh: pseudoprime) là một số nguyên tố xác suất (tiếng Anh: probable prime ) nhưng không phải là số nguyên tố. Một số tự nhiên thoả mãn một tính chất nào đó của các số nguyên tố có thể là số nguyên tố với một xác suất nào đó. Còn số giả nguyên tố là các hợp số thoả mãn tính chất đó. Tuỳ theo tính chất mà nó thoả mãn, ta sẽ có các loại số giả nguyên tố khác nhau. Nên phân biệt rõ số nguyên tố xác suất và số giả nguyên tố. Số nguyên tố xác suất có thể là nguyên tố cũng có thể là hợp số (với xác suất khác nhau).
Số giả nguyên tố Fermat
Định nghĩa
Định lý nhỏ Fermat khẳng định với mọi số nguyên tố p và mọi số tự nhiên a; ta có:
.
Nếu mệnh đề tương tự đúng với số tự nhiên n và với số a nào đó:
thì n được gọi là số nguyên tố xác suất Fermat cơ sở a. Nếu n là hợp số thì nó được gọi là số giả nguyên tố Fermat cơ sở a.
Ví dụ
Số n=561=3.11.17 là một hợp số. Lấy a=2. Ta có
; và . Từ đó . Do đó 561 là số giả nguyên tố Fermat cơ sở 2.
Một số kết quả
Nếu n là số giả nguyên tố cơ sở 2 thì cũng là số giả nguyên tố cơ sở 2. Từ đó suy ra có vô hạn số giả nguyên tố cơ sở 2.
Số Carmichael: Hợp sô n là số Carmichael nếu nó là số giả nguyên tố Fermat với mọi cơ sở a sao cho UCLN(a,n)=1.Ví dụ số 561 ở trên là số Carmichael.
Số giả nguyên tố (Fermat) mạnh
Định nghĩa
Trong đồng dư thức của định lý nhỏ Fermat với số nguyên tố lẻ p và số tự nhiên a không chia hết cho p
.
ta phân tích số chẵn , với m là số lẻ.
Khi đó
hoặc ; (1)
hoặc với k nào đó {0,1,..,s}. (2)
Số tự nhiên lẻ n trong đó thoả mãn hoặc tồn tại k {0,1,..,s} sao cho được gọi là số nguyên tố xác suất mạnh Fermat cơ sở a, nếu n là hợp số thì n được gọi là số giả nguyên tố Fermat cơ sở a.
Số giả nguyên tố mạnh được sử dụng để kiểm tra tính nguyên tố theo xác suất trong kiểm tra Miller-Rabin.
Một số kết quả
Mọi số giả nguyên tố mạnh Fermat đều là số giả nguyên tố Fermat.
Nếu n < 4.759.123.141 là hợp số thì n không thể là giả nguyên tố mạnh đồng thời với ba cơ sở a = 2, 7, và 61 (Jaeschke-1993).
Nếu n < 341.550.071.728.321 là hợp số thì n không đồng thời là giả nguyên tố mạnh Fermat với bảy cơ sở a = 2, 3, 5, 7, 11, 13, 17 (Jaeschke-1993).
Số nguyên tố xác suất Fermat mạnh được sử dụng trong kiểm tra Miller-Rabin để kiểm tra tính nguyên tố theo xác suất của số tự nhiên lẻ n.
Số giả nguyên tố Euler
Định lý Fermat khẳng định với mọi số nguyên tố p và mọi số a:
.
Nếu p là số nguyên tố lẻ, từ đó có
.
Định nghĩa
Số tự nhiên lẻ n thoả mãn đồng dư thức tương tự với một a nào đó:
.
được gọi là số nguyên tố xác suất Euler, nếu n là hợp số thì n dược gọi là số giả nguyên tố Euler.
Các kết quả
Mọi số giả nguyên tố Euler cơ sở a đều là số giả nguyên tố Fermat cơ sở a.
Số giả nguyên tố Euler-Jacobi
Định nghĩa
Định lý Euler (Còn gọi là tiêu chuẩn Euler) khẳng định với mọi số nguyên tố p và mọi số a:
.
trong đó là ký hiệu Legendre.
Ký hiệu Legendre chỉ được định nghĩa cho số nguyên tố p. Khi mở rộng ký hiệu Legendre cho số tự nhiên lẻ n và số tự nhiên a ta có ký hiệu Jacobi được ký hiệu giống như ký hiệu Legendre:
.
Số tự nhiên lẻ n thoả mãn đồng dư thức tương tự định lý Euler:
.
với a nào đó được gọi là số nguyên tố xác suất Euler-Jacobi cơ sở a. Nếu n là hợp số thoả mãn đồng dư thức trên nó được gọi là số giả nguyên tố Euler-Jacobi cơ sở a.
Các kết quả
Mọi số giả nguyên tố Euler-Jacobi cơ sở a đều là số giả nguyên tố Euler cơ sở a.
Mọi số giả nguyên tố Fermat mạnh cơ sở a đều là số giả nguyên tố Euler-Jacobi.
Mọi số giả nguyên tố Euler-Jacobi cơ sở a thoả mãn một trong hai điều kiện sau là số giả nguyên tố mạnh cơ sở a:
;
Ký hiệu Jacobi
Các số nguyên tố xác suất Euler-Jacobi được sử dụng trong kiểm tra Solovay-Strassen để kiểm tra tính nguyên tố theo xác suất. |
Vòng cực là các đường tưởng tượng trên bề mặt Trái Đất, mà tại các điểm từ các đường này đến hai địa cực đôi khi xảy ra hiện tượng Ngày hay đêm vùng cực (đêm trắng hay ngày không có mặt trời). Trên Trái Đất có hai vòng cực (là vòng cực Bắc và vòng cực Nam). Trong kỷ nguyên J2000 thì các vòng cực này nằm tại vĩ độ 66° 33' (bắc và nam tương ứng). Bề rộng của các vòng cực được xác định theo góc nghiêng của trục tự quay của Trái Đất so với mặt phẳng quỹ đạo của nó (khi coi Mặt Trời là cố định).
Trong ngày đông chí ở Bắc bán cầu (21-22 tháng 12) tại vòng cực Bắc thì Mặt Trời không mọc, còn trong ngày hạ chí của bán cầu này (21-22 tháng 6) thì Mặt Trời không lặn. Tính từ vòng này thì càng gần về phía cực bắc thì hiện tượng này càng kéo dài trong nhiều thời gian hơn. Điều tương ứng cũng diễn ra với các vị trí ở trên vòng cực Nam và các vị trí khác gần hơn về phía Nam cực nhưng diễn ra ngược lại với Bắc bán cầu.
Trên thực tế, do chuyển động không ổn định của Trái Đất trong khoảng không vũ trụ nên các vòng cực không phải là ổn định và thường xuyên biến đổi, vị trí địa lý của nó là không ổn định, thực tế nó dao động trong phạm vi khoảng 2 m trong một ngày và gần 100 m trong một năm. Với sự giúp đỡ của công nghệ hiện đại, vị trí của vòng cực có thể được xác định với độ chính xác cao trong bất kỳ thời điểm nào. |
Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên M. V. Lomonosov (tiếng Nga: Московский государственный университет имени М. В. Ломоносова, thường viết tắt là МГУ, MGU) là trường đại học lớn nhất và lâu đời nhất ở Nga, thành lập năm 1755. Năm 2004, trường đại học có khoảng 4.000 giảng viên và 31.000 sinh viên và 7.000 nghiên cứu sinh. Hiệu trưởng hiện nay là V. A. Sadovnichiy.
Cho đến nay, đã có 11 người thuộc đại học này được nhận giải Nobel và 5 người khác nhận được huy chương Fields.
Lịch sử
Trường đại học được thành lập theo một sắc lệnh của Nữ hoàng Nga Elizaveta ký ngày 25 tháng 1 (12 tháng 1 theo lịch cũ), năm 1755 bằng sự vận động của I. I. Shuvalov và M. V. Lomonosov. Những lớp học đầu tiên được tổ chức vào 26 tháng 4. Ngày 25 tháng 1 vẫn được kỉ niệm nhật là Ngày học sinh ở Nga.
Ban đầu nằm ở khu vực hiện nay là Bảo tàng lịch sử Nga trên Quảng trường Đỏ, trường đại học được Ekaterina Đại đế dời đến tòa nhà kiến trúc bán cổ điển hiện nay nằm bên kia đường Mokhovaya. Tòa nhà chính được xây dựng khoảng từ năm 1782 đến 1793 theo kiểu tân-Palladis theo thiết kế của Matvey Kazakov và được Domenico Giliardi xây dựng lại sau sự xâm lăng Nga của Napoléon.
Trong thế kỷ 18, trường đại học bao gồm 3 khoa — triết học, y khoa và luật. Có một trường dự bị sinh viên đã bị giải thể vào năm 1812. Vào năm 1779, M. M. Kheraskov thành lập trường nội trú cho con cái các nhà quyền quý, biến đổi thành một trường trung học (gymnasia) cho tầng lớp quý tộc vào năm 1830. Nhà in của đại học, do N. I. Novikov điều hành vào những năm thập niên 1780, đã xuất bản tờ báo nổi tiếng thời Nga Sa hoàng — Moskovskie Vedomosti.
Vào năm 1905 một tổ chức xã hội-dân chủ được thành lập tại trường đại học, kêu gọi lật đổ Sa hoàng và chuyển đổi nước Nga thành một nước cộng hòa. Nhà nước Sa hoàng nhiều lần tìm cách đóng cửa trường đại học. Vào năm 1911, để phản đối việc quân đội đóng trại trong khuôn viên của nhà trường và ngược đãi một số giáo sư, 130 nhà khoa học và giáo sư đã đồng loạt từ chức, bao gồm cả những nhân vật lỗi lạc như N. D. Zelinskiy, P. N. Lebedev và S. A. Chaplygin. Hàng ngàn học sinh cũng bị đuổi học vào năm 1911.
Sau Cách mạng tháng Mười Nga vào năm 1917, trường mở rộng cửa cho con em của giai cấp vô sản và nông dân. Vào năm 1919, học phí được bãi bỏ, và một trường dự bị được thành lập để giúp cho con em của tầng lớp công nhân vượt qua kì thi tuyển vào trường. Trường đại học được đổi tên vào năm 1940 để vinh danh người thành lập là M. V. Lomonosov.
Sau năm 1991 thêm chín khoa mới được thành lập. Vào năm 1992 trường được dành cho một địa vị duy nhất: được nhận tiền trực tiếp từ ngân sách nhà nước (không cần thông qua bộ giáo dục), làm tăng đáng kể sự độc lập của trường.
Khuôn viên đại học
Từ năm 1953, đa số các khoa đều nằm trên đồi Vorobjovy (Воробьёвы горы - tức là đồi chim sẻ), ở phía tây nam của Moskva. Tòa nhà chính được kiến trúc sư L. V. Rudnev thiết kế. Sau chiến tranh, để kỷ niệm 800 năm thành phố Moskva, Stalin ra lệnh xây Bảy tòa nhà khổng lồ kiểu bán cổ điển xung quanh thành phố. Tòa nhà chính của MGU là tòa nhà lớn nhất. Nó cũng là tòa nhà cao nhất trên thế giới bên ngoài thành phố New York vào lúc đó, và nó vẫn là tòa nhà cao nhất châu Âu cho đến năm 1988. Tòa nhà trung tâm cao 240 m với 36 tầng, được củng cố hai bên sườn là bốn chái (cánh), gồm các ký túc xá cho sinh viên và giảng viên. Nó chứa tổng cộng 33 kilômét đường hành lang và 5.000 phòng. Các trang thiết bị bên trong tòa nhà bao gồm một phòng hòa nhạc, một rạp hát, bảo tàng địa chất, các dịch vụ quản lý khác nhau, các thư viện, hệ thống bể bơi dưới tầng ngầm, trạm cảnh sát, bưu điện, hệ thống dịch vụ cho sinh viên như tiệm giặt, tiệm cắt tóc, các căng tin, các trụ sở ngân hàng, các quầy hàng, các quầy ăn tự phục vụ, một nơi tránh bom, v.v. Cùng với văn phòng quản lý đại học, là bốn khoa chính - Khoa Toán cơ, Khoa Địa chất, Khoa Địa lý và Khoa mỹ thuật và biểu diễn nghệ thuật - hiện nay vẫn ở bên trong tòa nhà chính. Ngôi sao trên đỉnh tháp lớn đủ để chứa một phòng nhỏ và một sàn quan sát; nó nặng 12 tấn. Các mặt tiền của tòa nhà được trang trí bằng các loại đồng hồ, phong vũ biểu, nhiệt kế, các bức tượng, bông lúa và lưỡi liềm lớn khắc vào tường. Một ban công phía trước có những bức tượng các nam nữ sinh viên nhìn về tương lại một cách lạc quan và tự tin.
Vào lúc xây dựng tòa nhà chính, đồi Vorobjovy nằm ở ngoại vi thành phố, ngày nay vùng này ở khoảng giữa từ Kremli đến giới hạn của thành phố. Một số các tòa nhà khác và các nơi luyện tập thể dục thể thao được thêm vào khuôn viên đại học sau này, kể cả sân vận động bóng chày đặc biệt duy nhất ở Nga. Hiện nay nhiều tòa nhà mới đang được xây dựng cho các khoa về khoa học xã hội, và một khu tiện nghi lớn mới vừa được xây cho thư viện, là thư viện lớn thứ nhì nước Nga nếu tính theo số đầu sách. Trường đại học cũng có một vài tòa nhà ký túc xá ở phía tây nam Moskva, bên ngoài khuôn viên đại học.
Tòa nhà ban đầu trên đường Mokhovaya bây giờ chủ yếu là thuộc Khoa Báo chí, Khoa Tâm lý học và Viện Nghiên cứu Á-Phi.
Các khoa
Tính đến năm 2005, trường đại học có 29 khoa và 15 trung tâm nghiên cứu.
Khoa Toán Cơ MGU
Khoa Toán học Tính toán và Điều khiển học
Khoa Vật lý MGU
Khoa Hóa học MGU
Khoa Khoa học Vật liệu MGU
Khoa Sinh MGU
Khoa Y cơ bản MGU
Khoa Khoa học đất MGU
Khoa Địa chất MGU
Khoa Địa lý MGU|Khoa Địa lý
Khoa Lịch sử MGU
Khoa Ngữ văn MGU
Khoa Ngoại ngữ MGU
Khoa Triết học MGU
Khoa Xã hội học MGU
Khoa Kinh tế MGU
Khoa Luật MGU
Khoa Báo chí MGU
Khoa Tâm lý học MGU
Viện nghiên cứu Á-Phi
Khoa Hành chính công MGU
Trường Quản lý Kinh doanh Cao cấp MGU
Khoa Mỹ thuật và Nghệ thuật biểu diễn MGU
Khoa Công nghệ sinh học và Tin sinh học MGU
Trường kinh tế Moskva MGU
Khoa Sư phạm MGU
Khoa Giáo dục Học MGU
Các viện
Viện vật lý hạt nhân mang tên Skobeltsyn
Viện Cơ học
Viện Thiên văn Sternberg
Viện Sinh học Lý-Hóa mang tên A.N. Belozersky
Trung tâm nghiên cứu Tính toán
Viện các vấn đề lý thuyết trong vật lý vi mô mang tên N.N.Bogoliubov
Viện Nghiên cứu Các Vấn đề Bảo Mật và An Ninh
Một số viện khác
Các cựu giáo sư và sinh viên nổi tiếng
Aleksei Alekseyevich Abrikosov
Pavel Sergeevich Aleksandrov
Vladimir Arnold
Pafnuty Chebyshev
Anton Chekhov
Boris Chicherin
Ekaterina Dashkova
Semyon Desnitsky
Vladimir Drinfeld
Israel Gelfand
Vitaly Ginzburg
Mikhail Gorbachev
Alexander Herzen
C A R Hoare
Ion Iliescu
Vyacheslav Vsevolodovich Ivanov
Wassily Kandinsky
Pyotr Leonidovich Kapitsa
Yuri Knorosov
Andrey Nikolaevich Kolmogorov
Maxim Kontsevich
Andrey Vitalyevich Korotaev
Igor Kurchatov
Lev Landau
Grigory Landsberg
Nikolai Luzin
Grigory Margulis
Sergei Novikov
Andrei Okounkov
Olga Oleinik
Alexander Oparin
Ivan Petrovsky
Andrei Sakharov
Yakov Sinai
Igor Tamm
Vladimir Toporov
Nikolai Trubetzkoi
Vitaly Borisovich Voloshinov |
Hoa Sơn có thể chỉ:
Địa danh
Việt Nam
Thị trấn Hoa Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
Xã Hoa Sơn, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
Xã Hoa Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An
Trung Quốc
Tên khác của Hóa Sơn, một trong Ngũ Nhạc Danh Sơn của Trung Quốc
Khu Hoa Sơn, thuộc thành phố Mã An Sơn, tỉnh An Huy
Tên người
Hoa Sơn thiên hoàng (; 968-1008), thiên hoàng thứ 65 của Nhật Bản.
Hậu Hoa Sơn thiên hoàng (), tước hiệu được truy tôn của Hằng Lương thân vương Nhật Bản.
Hoa Sơn Tướng quân, danh hiệu tại Triều Tiên của hoàng thân Lý Long Tường. |
Dưới đây là Danh sách các mảng kiến tạo trên Trái Đất. Các mảng kiến tạo là các mảng của lớp vỏ Trái Đất và phần trên nhất của lớp phủ, cùng nhau được gọi chung là thạch quyển. Các mảng này dày khoảng 100 km (60 dặm Anh) và bao gồm 2 kiểu vật liệu chính: lớp vỏ đại dương (còn gọi là quyển sima gồm silic và magiê) và lớp vỏ lục địa (quyển sial từ silic và nhôm). Thành phần của hai kiểu lớp vỏ khác nhau rõ nét, với các loại đá bazan ("mafic") chiếm ưu thế trong lớp vỏ đại dương, trong khi lớp vỏ lục địa lại bao gồm chủ yếu là các loại đá granit có tỷ trọng thấp hơn ("felsic").
Bề mặt Trái Đất bao gồm 15 mảng lớn và 38 mảng nhỏ, tổng cộng là 52 mảng kiến tạo.
Mảng chính
Mảng Thái Bình Dương
Mảng Ấn-Úc
Mảng Ấn Độ
Mảng Úc
Mảng Á-Âu
Mảng châu Phi
Mảng Bắc Mỹ
Mảng Nam Mỹ
Mảng Nam Cực
Mảng Ả Rập
Mảng Caribe
Mảng Juan de Fuca
Mảng Scotia
Mảng Cocos
Mảng Nazca
Mảng Philippin
Mảng phụ
Mảng biển Aegea
Mảng Altiplano
Mảng Amur hay mảng Trung hoa
Mảng Anatolia
Mảng đá ngầm Balmoral
Mảng biển Banda
Mảng Bird's Head
Mảng Burma
Mảng Caroline
Mảng đá ngầm Conway
Mảng Phục Sinh (mảng Easter)
Mảng Futuna
Mảng Galapagos
Mảng Hellenic
Mảng Iran
Mảng Jan Mayen
Mảng Juan Fernandez
Mảng Kermadec
Mảng Manus
Mảng Maoke
Mảng Mariana
Mảng biển Molucca
Mảng New Hebrides
Mảng Niuafo'ou
Mảng Bắc Andes
Mảng Bắc Bismarck
Mảng Okhotsk
Mảng Okinawa
Mảng Panama
Mảng Rivera
Mảng Sandwich
Mảng Shetland
Mảng biển Solomon
Mảng Somali
Mảng Nam Bismarck
Mảng Sunda
Mảng Timor
Mảng Tonga
Mảng Woodlark
Mảng Dương Tử hay mảng Hoa Nam
Mảng trong các kiến tạo Sơn
Một vài mô hình xác định thêm một số mảng phụ trong các kiến tạo sơn hiện hành.
Mảng Adriatic hay mảng Apulia
Mảng Explorer
Mảng Gorda
Mảng cổ đại
Mảng Baltic
Mảng Bellingshausen
Mảng Charcot
Mảng Cimmeria
Mảng Farallon
Mảng Insular
Mảng Intermontane
Mảng Izanagi
Mảng Kula
Mảng Lhasa
Mảng phone |
Trong kinh tế vĩ mô, tổng cung (Tiếng Anh: Aggregate Supply) hay AS, là tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các doanh nghiệp trong nước và chính phủ có thể sản xuất và phân phối trong một khoảng thời gian nhất định.
Phân tích
Có hai lý do chính giải thích cho việc vì sao tổng khối lượng hàng hóa cung ứng ra thị trường tăng khi mức giá trung bình P tăng, nói theo cách khác là lý do vì sao biểu đồ tổng cung lại tăng nhanh hơn theo thời gian:
Biểu đồ tổng cung được dùng để biểu thị các giá trị dự đoán trong một khoảng thời gian ngắn, ví dụ như tỉ số lương dự báo. Vì vậy, mức giá trung bình cao tương ứng với tỉ số lương thấp hơn và thúc đẩy việc tăng nguồn cung ứng. Ngược lại, trong nền kinh tế học tân cổ điển, trong khoảng thời gian dài, tỉ số lương dự báo sẽ có sự thay đổi do đặc điểm của thị trường kinh tế (tỉ lệ thất nghiệp cao dẫn đến tỉ số lương giảm, từ đó lại dẫn tới việc giảm tỉ lệ thất nghiệp). Vì vậy, trong quãng đường dài, biểu đồ tổng cung là một đường chạy thẳng đứng
Một mô hình khác được xây dựng dựa trên quan điểm rằng bất cứ nền kinh tế nào đều bao gồm một số lượng lớn nhân tố đầu vào không đồng nhất, bao gồm cả tiền vốn cố định cho máy móc thiết bị và lực lượng lao động. Cả hai nhân tố chủ lực này đều có thể “mất việc”. Biểu đồ tổng cung cao dần do (1) một số nhân tố đầu vào dự đoán đã được xác định trong khoảng thời gian ngắn và (2) vì lượng cung ngày càng tăng, càng nhiều dây chuyền sản xuất gặp phải hiện tượng “thắt nút chai” - lượng hàng hóa sản xuất ra vượt quá nhu cầu của thị trường, gây nên việc tồn kho hàng hóa. Trong thời kì nhu cầu tiêu dùng thấp, có rất nhiều các dây chuyền sản xuất, xí nghiệp không sử dụng hết 100% năng lực sản xuất của mình. Do vậy, sản xuất có thể tăng trưởng trong khi lợi nhuận không giảm và mức giá trung bình không tăng quá nhiều (nếu mà có tăng). Biểu đồ tổng cung sẽ phẳng. Ngược lại, khi nhu cầu cao, chỉ có một số xí nghiệp có bộ phận dây chuyền không sử dụng. Do vậy, hiện tượng “thắt nút chai” ở mức bình thường. Bất cứ việc tăng lên của nhu cầu hay sản xuất đều bao gồm việc tăng giá. Từ đó, biểu đồ tổng cung sẽ đi lên theo đường thẳng, dốc đứng.
Các phạm vi khác
Thông thường, sẽ có ba mức độ khác nhau của sự tương tác giữa giá cả và tổng cung, bao gồm:
Tổng cung ngắn hạn (SRAS) - Trong ngắn hạn, các tổ chức sở hữu một yếu tố sản xuất cố định (thông thường là tiền vốn) và một số yếu tố ảnh hưởng đến việc giữ nguyên giá cả. Tổng lượng cung ứng ra ngoài phụ thuộc rất lớn vào mức giá trung bình và có thể được mô phỏng thông qua vùng phẳng của biểu đồ ở phía trên.
Tổng cung dài hạn (LRAS) - Trong dài hạn, chỉ có tiền vốn, nhân công và công nghệ là những yếu tố ảnh hưởng đến tổng cung dài hạn trong mô hình kinh tế vĩ mô do tại thời điểm đó, tất cả các yếu tố trong nền kinh tế đều được đánh giá sử dụng tối ưu. Trong hầu hết các trường hợp, tổng cung dài hạn được đánh giá ổn định do có sự thay đổi chậm nhất trong cả ba mô hình. Tổng cung dài hạn được biểu diễn theo một đường thẳng, thể hiện quan điểm của các nhà kinh tế học rằng sự thay đổi trong tổng cầu (AD) chỉ là tạm thời trong tổng sản lượng của nền kinh tế.
Tổng cung trung hạn (MRAS) - Nằm giữa tổng cung dài hạn và tổng cung ngắn hạn, tổng cung trung hạn tạo thành một đường cong đi lên và thể hiện khi tiền vốn và nhân công thay đổi. Cụ thể hơn, tổng cung trung hạn dựa trên ba nguyên lý - nguyên lý tiền lương cứng nhắc (Sticky-Wage Theory), nguyên lý tiền hàng hóa cứng nhắc (Sticky-Price Theory) và nguyên lý về sự ngộ nhận (Misperception Theory). Vị trí của biểu đồ tổng cung trung hạn bị chi phối bởi tiền vốn, nhân công, công nghệ và mức lương.
Trong mô hình tổng cung-tổng cầu tiêu chuẩn, sản lượng thực tế (Y) được minh họa theo trục ngang và mức giá trung bình (P) theo trục dọc. Mức sản lượng và mức giá trung bình được quyết định dựa trên phần giao giữa biểu đồ tổng cung và biểu đồ tổng cầu.
Chính sách can thiệp
Tổng cung được quản lý bởi “Chính sách trọng cung” của chính phủ nhằm tăng trưởng năng suất và từ đó tăng sản lượng cung ứng quốc gia. Một số ví dụ của chính sách này bao gồm giảng dạy và tập huấn, phân tích và phát triển, giúp đỡ các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, giảm thuế doanh nghiệp, cải thiện thị trường nhân lực nhằm loại bỏ các nhân tố cản trở sản lượng và đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Ví dụ, dự báo tài chính mùa thu của chính phủ Anh năm 2011 bao hàm một loạt các thước đo trọng cung được chính phủ sử dụng nhằm tái cân bằng và củng cố nền kinh tế trong trung hạn, bao gồm mở rộng khoản đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao. Sự thay đổi trọng cung trong ngân sách năm 2015 đề cập tới cơ sở hạ tầng viễn thông của quốc gia, giao thông vận tải, năng lượng và tự nhiên. Trong một phát biểu tại hội nghị G20 vào tháng 2 năm 2016, Mark Carney, Thống đốc ngân hàng Anh đã thúc giục các thành viên của khối G20 “phát triển một cách tiếp cận nhất quán và khẩn cấp đối với các vấn đề trọng cung” . Các chính sách về thay đổi trọng cung tiếp tục được trình bởi cựu thủ tướng Anh Liz Truss và Bộ trưởng Bộ Tài chính Kwasi Kwarteng là một phần trong chương trình kinh tế năm 2022 của họ, với cụm “một gói chính sách chi tiết về thay đổi trọng cung và giảm thuế” được bao gồm trong Kế hoạch phát triển được thông báo vào ngày 23 tháng 9 năm 2022 cùng với những biện pháp đo lường sự tăng trưởng của trọng cung vào tháng 10 và đầu tháng 11, bao gồm những tính toán ảnh hưởng tới quy hoạch, quy định kinh tế, chăm sóc trẻ em, nhập cư, năng suất nông nghiệp và hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, Larry Elliott của tờ báo The Guardian đã miêu tả kế hoạch này như “một ván cược lớn”.
Trong nội bộ chính phủ Anh, hoạt động của Ngân khố Quốc chủ Bệ hạ liên quan đến “bên cung” được thực hiện bởi Cục Khởi nghiệp và Phát triển (EGU), hợp tác với các phòng ban khác của chính phủ và các cơ quan khác. Sir John Kingman, từng là một công chức được miêu tả là “ngọn cờ đầu của Ngân khố Quốc chủ Bệ hạ về hoạt động bên cung”, đã đề cập tới “bên cung cấp” là “nhiệm vụ thứ 3” của Ngân khố, nhắc tới cựu thống đốc Nigel Lawson như là một ví dụ điển hình của “những người tin vào tầm quan trọng của sự thay đổi trọng cung”.
“Chủ nghĩa bi quan trọng cung” thể hiện mối bận tâm rằng năng suất sản xuất sẽ mất đi khi không được sử dụng (ví dụ: trong thời kì suy thoái), do đó nền kinh tế mất đi khả năng phục hồi tổng cung khi nhu cầu phục hồi. Ví dụ, những nhà máy bị bỏ hoang sẽ không được duy trì trong trạng thái sẵn sàng sản xuất khi nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng trở lại, hoặc công nhân sẽ bỏ lỡ các kỹ năng mà họ thường có thể học hỏi được trong quá trình sản xuất. Spencer Dale, một nhà kinh tế học người Anh, người đã làm việc ở Ngân hàng Trung ương Anh trong giai đoạn 2008 - 2014, bày tỏ một cái nhìn bi quan trước năng lực của phía các nhà cung ứng trong giai đoạn kinh tế suy thoái 2012. Trong báo cáo về sự bi quan trước năng suất vào năm 2012, nhà kinh tế học của Cambridge Bill Martin đã ghi nhận rằng đã có một tranh luận về việc liệu đã có sự mất đi vĩnh viễn của năng suất sản xuất, việc được thể hiện thông qua sự tiếp diễn của “những hoài nghi liên quan đến năng suất lao động và nguồn cung hiệu quả” khi nền kinh tế phục hồi vào năm 2013. |
Trong kinh tế vĩ mô, tổng cầu (Tiếng Anh: Aggregate Demand), AD hay cầu cuối cùng nội địa (DFD) là lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trên lãnh thổ một nước mà các tác nhân kinh tế sẵn sàng và có khả năng mua tại mỗi mức giá. Tổng cầu thường được gọi là nhu cầu có khả năng thanh toán, dù trong một số trường hợp khác thì thuật ngữ này lại mang ý nghĩa khác. Tổng cầu là lượng cầu hàng hóa nội địa của một quốc gia. Nó xác định lượng hàng hóa và dịch vụ sẽ được mua ở các mức giá khác nhau. Chi tiêu của người tiêu dùng, doanh nghiệp, Chính phủ; các khoản đầu tư và xuất khẩu ròng tạo tên tổng cầu.
Đường cầu là một đường cong với sản lượng thực nằm trên trục hoành và mức giá nằm trên trục tung. Mặc dù theo lý thuyết, đường cầu là một đường dốc xuống, kết quả nghiên cứu Sonnenschein - Mantel - Debreu lại cho rằng theo toán học, độ dốc của đường cầu không thể xuất phát từ các giả định về hành vi trên cơ sở lý trí của cá nhân. Thay vào đó, đường cầu dốc là kết quả của ba giả định kinh tế vĩ mô về chức năng của thị trường: hiệu ứng Pigo, hiệu ứng lãi suất Keynes và hiệu ứng tỷ giá hối đoái Mundell - Fleming. Hiệu ứng Pigo chỉ ra rằng mức giá cao hơn mang lại ít hàng hóa hơn, từ đó chi tiêu của người tiêu dùng giảm dần, tạo nên lượng cầu hàng hóa ít hơn. Hiệu ứng Keynes cho rằng mức giá cao hơn khiến lượng cung tiền thực tế giảm, do đó lãi suất cao hơn do cân bằng thị trường tài chính, làm cho các khoản đầu tư vào vốn hiện vật mới giảm và tổng lượng cầu hàng hóa thấp hơn.
Hiệu ứng tỷ giá hối đoái Mundell - Fleming là một giả định mở rộng của mô hình IS - LM. Trong khi mô hình IS - LM giải quyết vấn đề của nền kinh tế đóng, mô hình Mundell - Fleming miêu tả một nền kinh tế mở ở quy mô nhỏ. Mô hình Mundell - Fleming phác họa mối quan hệ ngắn hạn giữa tỷ giá hối đoái danh nghĩa, lãi suất và sản lượng của một nền kinh tế (trái với sơ đồ IS - LM của nền kinh tế đóng chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa lãi suất và sản lượng).
Đường cầu mô tả mối quan hệ giữa hai yếu tố: sản lượng hàng hóa mà người tiêu dùng có nhu cầu cũng như khả năng thanh toán và mức giá. Tổng cầu được biểu thị dựa trên một mức cung tiền danh nghĩa cố định. Có rất nhiều yếu tố có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu. Sự dịch chuyển sang phải được gây ra bởi sự tăng lên của lượng cung tiền, chi tiêu Chính phủ, các yếu tố độc lập cấu thành đầu tư, chi tiêu người tiêu dùng hoặc sự giảm thuế.
Theo mô hình tổng cầu - tổng cung, khi tổng cầu tăng, đường cầu sẽ dịch chuyển lên trên và làm tăng giá cả.
Lịch sử
Trong cuốn “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, John Maynard Keynes đã tranh luận trong suốt cuộc đại khủng hoảng rằng sự giảm đi trong sản lượng của các khu vực tư nhân do cú sốc theo hệ thống (sự sụp đổ thị trường chứng khoán phố Wall năm 1929) nên được lấp đầy bởi chi tiêu Chính phủ. Đầu tiên, ông cho rằng với mức tổng cầu có khả năng thanh toán thấp hơn hoặc tổng lượng chi tiêu trong nền kinh tế (thấp hơn trong cuộc khủng hoảng), khu vực tư nhân có thể tồn tại dựa trên mức giảm thường xuyên các hoạt động và thất nghiệp không tự nguyện, trừ khi có sự can thiệp khách quan từ bên ngoài. Doanh nghiệp không tiếp cận được vốn sẽ phải sa thải công, nhân viên. Điều này có nghĩa là với tư cách người tiêu dùng, công nhân sẽ có ít tiền để sử dụng hơn, người tiêu dùng mua ít đồ hơn từ doanh nghiệp, và cầu hàng hóa giảm đi khiến các doanh nghiệp nhận thấy cần sa thải nhân công. Đường cầu dốc chỉ có thể được dừng lại và thay đổi bởi các hoạt động khách quan. Thứ hai, những người có thu nhập cao hơn có xu hướng tiêu dùng thu nhập trung bình thấp hơn. Người có thu nhập thấp hơn thường chi tiêu phần thu nhập của mình ngay lập tức vào việc mua nhà, thức ăn, giao thông, v.v, trong khi những người có thu nhập cao hơn lại không tiêu dùng tất cả mọi thứ. Thay vào đó, họ tiết kiệm, khiến vận tốc của tiền tệ - sự lưu thông nguồn thu nhập thông qua các hoạt động kinh tế khác nhau - giảm đi, làm giảm sự phát triển kinh tế. Do đó, người tiêu dùng nên chi tiêu vào các chương trình công cộng với quy mô đủ lớn để tăng tốc độ tăng trưởng so với mức trước đây.
Thành phần
Đường tổng cầu là tổng hợp của các đường cầu riêng lẻ của từng khu vực trong nền kinh tế. Đường tổng cầu thường được mô tả là một đường thẳng gồm bốn nguồn cầu khác nhau.
AD = C + I + G + (X - M)
Trong đó:
C: Chi tiêu (chi tiêu của người tiêu dùng), có công thức C0 + c (Y – T), với Y là lượng thu nhập của người tiêu dùng và T là thuế người tiêu dùng phải trả,
I: Tổng đầu tư,
G: Chi mua hàng hóa dịch vụ của Chính phủ,
NX = X - M: xuất khẩu ròng về hàng hóa và dịch vụ, với:
X: Tổng hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu,
M: Tổng hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu, cho bởi công thức M0 + m (Y – T).
Có bốn thành phần chính trong tổng cầu, có thể được phát biểu bằng thuật ngữ “danh nghĩa” hoặc thuật ngữ “thực tế”:
Chi tiêu cho tiêu dùng của các hộ gia đình hay cá nhân (C), nội dung được mô tả thông qua hàm tiêu dùng. Định nghĩa cơ bản là tổng chi tiêu của nền kinh tế nội địa. Hàm tiêu dùng là C = C0 + c.(Y – T), với C0 là tiêu dùng cá nhân, c là xu hướng tiêu dùng cận biên, và (Y – T) là thu nhập khả dụng.
Tổng đầu tư trong nước của các khu vực tư nhân (I), ví dụ như chi của doanh nghiệp vào xây dựng nhà máy. Nó được coi là chi tiêu của khu vực tư nhân nhằm tạo ra sản phẩm trong tương lai.
Theo lý thuyết kinh tế học của Keynes, không phải tất cả đầu tư tư nhân trong nước đều được tính là tổng cầu. Nhiều hoặc phần lớn các khoản đầu tư vào hàng tồn kho đều có thể do sự thâm hụt về cầu (sự tích lũy hàng tồn kho ngoài ý muốn, hoặc tổng hàng hóa sản xuất thừa mứa). Mô hình Keynes dự báo sẽ có sự giảm đi trong sản lượng và thu nhập quốc gia khi có một khoản đầu tư ngoài kế hoạch. (Sự tích lũy hàng tồn kho sẽ tương ứng với lượng cung hàng hóa dư thừa; theo “Tài khoản thu nhập và tổng sản lượng quốc dân”, nó được coi là một loại hàng hóa được mua bởi nhà sản xuất) Do đó, chỉ những khoản đầu tư đã được lên kế hoạch hoặc có dự định thực hiện mới được coi là một phần của tổng cầu. (Vậy nên I không bao gồm các khoản đầu tư nhằm làm giảm hàng tồn kho.)
Đầu tư bị ảnh hưởng bởi sản lượng và lãi suất (i). Bởi vậy, ta có thể viết hàm I (Y, i), với tổng thu nhập và lãi suất là tham số. Đầu tư có mối quan hệ tỷ lệ thuận với sản lượng và tỷ lệ nghịch với lãi suất. Do vậy, lãi suất tăng sẽ khiến tổng cầu giảm. Chi phí lãi vay là một phần của chi phí đi vay và khi nó tăng, cả doanh nghiệp và hộ gia đình đều phải cắt giảm chi tiêu. Điều này khiến đường tổng cầu dịch sang trái và giảm GDP cân bằng xuống dưới mức GDP tiềm năng.
Tổng chi tiêu và đầu tư của Chính phủ về hàng hóa và dịch vụ (G), còn được xác định là G - T, là khoảng chênh lệch giữa chi tiêu của Chính phủ và thuế. Chi tiêu Chính phủ tăng và thuế giảm đi sẽ dẫn tới sự tăng lên của GDP bởi chi tiêu Chính phủ là một phần của tổng cầu.
Xuất khẩu ròng (NX, đôi khi là (X - M)), là lượng cầu ròng từ nước ngoài đối với hàng hóa và dịch vụ nội địa. Xuất khẩu ròng là một phần của tài khoản vãng lai.
Nói tóm lại, đối với mỗi quốc gia tại một thời điểm nhất định, tổng cầu (D hoặc AD) được cho bởi công thức C + IP + G + (X – M).
Các biến số trong kinh tế vĩ mô này được xây dựng từ các biến số kinh tế vi mô khác nhau dựa trên giá cả của mỗi biến số, vì vậy các biến số này được đặt tên theo thuật ngữ tiền tệ (thực hoặc danh nghĩa).
Đường tổng cầu
Những lý thuyết về đường tổng cầu dựa trên việc nó được nghiên cứu dựa trên những thay đổi của cầu khi thu nhập hoặc giá cả thay đổi.
Mô hình Keynes
Mô hình Keynes
Mô hình tổng cầu - tổng cung
Mô hình tổng cầu và tổng cung
Đôi khi, đặc biệt trong giáo trình, “tổng cầu” đề cập toàn bộ đường cầu giống trong biểu đồ cung và cầu điển hình của Marshall.
Do đó, ta có thể để cập đến “tổng lượng cầu” (Yd = C + IP + G +NX) tại mọi mức giá trung bình (ví dụ như chỉ số giảm phát GDP), P.
Trong những biểu đồ này, Yd tăng khi mức giá trung bình (P) giảm xuống, như đường AD trong sơ đồ. Theo lý thuyết, nguyên nhân chính cho việc này là lượng cung tiền danh nghĩa (MS) không thay đổi, P giảm tức là lượng cung tiền thực tế (MS/P) tăng, khuyến khích tăng chi tiêu và giảm lãi suất. Trường hợp này thường được gọi là “Hiệu ứng Keynes”.
Xem xét cẩn thận lý thuyết về cung và cầu, tổng cầu có thể góp phần xác định sự tăng lên của tổng cầu ảnh hưởng như thế nào tới sự tăng lên của sản lượng thực tế hoặc giá cả (lạm phát). Theo biểu đồ, bất kỳ yếu tố nào của tổng cầu tăng lên (tại bất kỳ mức giá nào) cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải, khiến mức sản lượng thực tế (Y) và mức giá trung bình (P) tăng.
Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế khác nhau là kết quả của sự kết hợp giữa sản lượng và giá cả. Như đã đề cập, với mức tổng sản phẩm quốc nội thực tế rất thấp, dẫn đến lượng lớn lao động thất nghiệp, hầu hết các nhà kinh tế theo trường phái Keynes cho rằng phần lớn sự thay đổi sẽ diễn ra dưới hình thức tăng lên của sản lượng và tỷ lệ có việc làm. Khi nền kinh tế tiến gần hơn tới mức sản lượng tiềm năng (Y*), ta thấy được khi AD tăng, giá sẽ tăng nhiều hơn mức tăng của sản lượng.
Nằm ngoài đường Y*, tình trạng này càng diễn ra nhiều hơn nên giá cả ngày càng cao hơn so với sản lượng. Tệ hơn, mức sản lượng lớn hơn sản lượng tiềm năng Y* không thể duy trì trong thời gian dài. Đường tổng cầu có quan hệ ngắn hạn. Nếu nền kinh tế luôn vận hành trên mức sản lượng tiềm năng, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang trái, làm cho sự tăng lên của sản lượng chi mang tính tạm thời.
Tại mức sản lượng (Y) thấp, thế giới trở nên phức tạp hơn. Đầu tiên, hầu hết các nền kinh tế công nghiệp hiện đại đều sẽ phải trải qua khó khăn nếu giá cả giảm đi. Bởi vậy, đường tổng cầu sẽ khó có thể dịch chuyển sang phải hoặc dịch xuống. Thứ hai, khi chúng chịu sự cắt giảm về giá (như tại Nhật Bản), giảm phát có thể diễn ra trên quy mô lớn.
Nợ
Một lý thuyết hậu Keynes về tổng cầu nhấn mạnh vai trò của nợ, coi nợ là một yếu tố cơ bản của tổng cầu; một số người coi sự ảnh hưởng của những thay đổi về nợ tới tổng cầu là lưu lượng tín dụng. Tổng cầu là chi tiêu, tiêu dùng, đầu tư hoặc các mục khác. Mối quan hệ giữa chi tiêu và thu nhập được thể hiện qua công thức:
Thu nhập - Chi tiêu = Tiết kiệm ròng
Hay:
Chi tiêu = Thu nhập - Tiết kiệm ròng = Thu nhập + Mức tăng nợ
Lượng tiền ta dùng để chi tiêu là tiền ta kiếm được, cộng thêm lượng tiền đi mượn. Nếu ta chi 110$ và kiếm được 100$ thì 10$ là số tiền đi vay mượn. Ngược lại, nếu tiêu 90$ và kiếm được 100$ thì tiết kiệm ròng là 10$, hoặc nợ giảm đi 10$, tức tổng nợ phải trả thay đổi một khoản -10$.
Nếu nợ tăng hoặc giảm chậm theo tỷ lệ phần trăm GDP thì tác động của nó đến tổng cầu nhỏ. Ngược lại, nếu nợ nhiều thì những thay đổi trong động lực tăng trưởng nợ có thể tác động đáng kể đến tổng cầu. Sự thay đổi của nợ phụ thuộc vào mức vay nợ: nếu tổng nợ chiếm 10% GDP và 1% khoản cho vay không được trả sẽ ảnh hưởng tới 1.10% = 0.1% GDP, gây nhiễu loạn thống kê. Nếu nợ chiếm 300% GDP và 1% khoản cho vay không được trả thì 1.300% = 3% GDP bị ảnh hưởng, con số này rất lớn và sự tăng lên của nó sẽ tạo ra suy thoái trên diện rộng.
Tương tự, sự tăng giảm trong tỷ lệ trả nợ (người đi vay trả nợ theo thời gian) tác động đến tổng cầu một khoảng bằng mức thay đổi của nợ. Bởi vậy, khi mức nợ của một nền kinh tế tăng lên, nền kinh té đó sẽ trở nên nhạy cảm hơn trước động lực trả nợ, bong bóng tín dụng và các lo ngại mang tầm vĩ mô. Do tỷ lệ xóa sổ và tỷ lệ tiết kiệm đều tăng đột biến trong các cuộc suy thoái, cả hai yếu tố đều dẫn tới sự thu hẹp tín dụng, từ đó, sự giảm đi của tổng cầu có thể làm trầm trọng hơn và kéo dài tình trạng suy thoái trong một vòng luẩn quẩn.
Quan điểm này xuất phát và gắn liền với lý thuyết giảm phát nợ của Irving Fisher và khái niệm bong bóng tín dụng (tín dụng là mặt trái của nợ), và đã được xây dựng bởi trường phái Hậu Keynes. Nếu tổng mức nợ tăng lên mỗi năm thì tổng cầu vượt thu nhập một khoảng bằng lượng tăng của nợ. Tuy nhiên, nếu nợ dừng tăng và thay vào đó, bắt đầu giảm (nếu “bong bóng vỡ”) thì tổng cầu sẽ giảm so với thu nhập một khoảng bằng lượng tiết kiệm ròng (phần lớn dưới hình thức trả nợ hoặc xóa nợ, ví dụ như trong phá sản). Điều này gây ra sự sụt giảm đột ngột và liên tục của tổng cầu, và cú sốc này được cho là gần giống nguyên nhân của một loại khủng hoảng kinh tế, cụ thể là khủng hoảng tài chính. Thật vậy, việc giảm nợ là không cần thiết - thậm chí tốc độ tăng nợ chậm lại cũng gây ra sự sụt giảm tổng cầu (xấp xỉ năm có mức vay cao hơn). Những khủng hoảng về sau kết thúc khi tín dụng bắt đầu tăng trở lại, vì phần lớn hoặc tất cả nợ đã được trả hoặc xóa bỏ, hoặc vì một vài lí do như sau.
Dưới góc độ của nợ, mô hình của Keynes về thâm hụt chi tiêu của Chính phủ khi đối mặt với khủng hoảng kinh tế bao gồm khoản không tiết kiệm ròng của Chính phủ (tăng nợ) để bù đắp sự thiếu hụt nợ tư nhân: thay thế nợ tư nhân bằng nợ công. Các phương pháp khác gồm tìm kiếm cách tái xây dựng sự tăng trưởng nợ tư nhân (“phục hồi bong bóng”), làm chậm lại hoặc dừng sự sụp đổ của nó; và việc giảm nợ bằng cách hạ thấp hoặc xóa nợ sẽ ngăn chặn tín dụng khỏi sự sụt giảm (vì nó không thể giảm dưới mức 0) và cho phép nợ ổn định hoặc tăng trưởng - điều này có tác dụng phân chia lại của cải từ các chủ nợ (những người có khả năng xóa nợ) cho người đi vay (người có nợ được giảm).
Đánh giá
Nhà lý luận người Áo Henry Hazlitt cho rằng tổng cầu là một “khái niệm vô nghĩa” trong những phân tích về kinh tế. Friedrich Hayek, một nhà lý luận Áo khác, viết rằng nghiên cứu của Keynes về quan hệ của tổng cầu trong nền kinh tế là “sai lầm” và ông đã chỉ ra rằng suy thoái được gây ra bởi các yếu tố vi mô. |
Giải trí là hoạt động thẩm mỹ trong thời gian rỗi, nhằm giải tỏa căng thẳng trí não, tạo sự hứng thú cho con người và là điều kiện phát triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ.
Định nghĩa và phân loại
Hoạt động giải trí nằm trong hệ thống các loại hoạt động của con người; và là hoạt động duy nhất không gắn với nhu cầu sinh học nào.
Theo tác giả Đoàn Văn Chúc, có bốn dạng hoạt động mà con người phải thực hiện, đó là:
Hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các cá nhân và của cả xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người.
Hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như chăm sóc con cái, chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè… Đó là nghĩa vụ cá nhân của mỗi người.
Hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu nướng, ăn uống, nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân… Đó là hoạt động thỏa mãn nhu cầu vật chất của mỗi người.
Hoạt động thuộc đời sống tinh thần của mỗi cá nhân như thưởng thức nghệ thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo… Đó là hoạt động thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mỗi người.
Giải trí là dạng hoạt động cuối cùng trong số bốn dạng hoạt động trên. Nó mang tính chất tự do hơn các dạng hoạt động còn lại. Vì không gắn với nhu cầu sinh học nào, nó không hề mang tính cưỡng bức; con người có quyền lựa chọn theo sở thích, trong khuôn khổ hệ chuẩn mực của xã hội. Nó là bước chuyển từ những hoạt động nghĩa vụ, bổn phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời là những hoạt động không mang tính vụ lợi nhằm mục đích giải tỏa sự căng thẳng tinh thần để đạt tới sự thư giãn, thanh thản trong tâm hồn và cao hơn, đó là sự rung cảm về thẩm mĩ. Thời gian dành cho hoạt động này được gọi là thời gian rỗi.
Thời gian rỗi
Thời gian dành cho hoạt động giải trí, thời gian rỗi, là những khoảng thời gian mà cá nhân không bị bức bách bởi những nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi những nghĩa vụ cá nhân hoặc sự đòi hỏi bởi nhu cầu vật chất. Con người hoàn toàn tự do, thoát khỏi những băn khoăn, lo lắng thường nhật. Khi đó, với sự thanh thản về trí óc, sự bay bổng về tâm hồn, họ tìm đến những hoạt động giải trí.
Nhu cầu giải trí
Giải trí cũng là nhu cầu của con người vì nó đáp ứng những đòi hỏi bức thiết từ phía cá nhân. Nhu cầu giải trí là động cơ của hoạt động giải trí. Khi xuất hiện nhu cầu giải trí, con người bị thôi thúc hành động để thỏa mãn nhu cầu đó. Nhu cầu giải trí thuộc các bậc cao của thang nhu cầu con người do không gắn liền với sự tồn tại sinh học mà là sự vươn cao, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tự hoàn thiện và tự khẳng định mình. Nhu cầu giải trí cũng là một bộ phận quan trọng cấu thành các nhu cầu tinh thần
Lịch sử
Hoạt động kể chuyện thông qua từ, hình ảnh, âm thanh và cử chỉ là một hình thức giải trí đã ra đời từ rất sớm. |
Bệnh viện Quân y 103 là bệnh viện thực hành trực thuộc Học viện Quân y, Bộ Quốc phòng Việt Nam. Thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1950.
Trụ sở: Số 261, đường Phùng Hưng - Hà Đông - Hà Nội
Trang web chính thức: http://www.benhvien103.vn
Lịch sử hình thành
Đội điều trị 3 (tiền thân của Bệnh viện 103) thành lập ngày 20/12/1950 tại thôn Trung Giáp, xã Anh Dũng (nay là xã Trung Giáp), huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Tháng 8 năm 1958, theo Quyết định của Tổng cục Hậu cần, Đội điều trị 3 được chuyển thành Viện Quân y 103.
Tháng 12 năm 1958 Bộ quốc phòng có quyết định chuyển Viện Quân y 103 thuộc quyền quản lý của Cục Quân y (Tổng cục Hậu cần) về trực thuộc Trường sĩ quan Quân y và trở thành bệnh viện thực hành của Trường
Ngày 21 tháng 5 năm 1989 Bộ Tổng tham mưu có Quyết định số 183/QĐ-TM công nhận Viện Quân y 103 là Bệnh viện hạng I của Quân đội. Năm 1995 Viện Quân y 103 được đổi tên thành Bệnh viện 103.
Ngày 23/1/2014 Bệnh viện chính thức được đổi tên gọi thành Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y) theo Quyết định số 214/QĐ-BQP ngày 23/1/2014 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Chức năng, nhiệm vụ
Huấn luyện lâm sàng, cận lâm sàng cho các đối tượng học viên đại học, sau đại học và trên đại học ngành Y, Dược.
Nghiên cứu khoa học phục vụ cho nhu cầu phát triển cho Y học nói chung và Y học Quân sự nói riêng.
Khám, chữa bệnh theo tuyến và khu vực cho bộ đội, các đối tượng chính sách, bảo hiểm Y tế và nhân dân; phục vụ tuyến, sẵn sàng ứng cứu các vụ dịch, thảm họa, lũ lụt; đảm bảo quân y đảo Nam Yết (Trường Sa) .
Lãnh đạo hiện nay
Giám đốc
Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Viết Tiến
Phó Giám đốc
Đại tá Trần Tấn Cường, Bí thư Đảng ủy Bệnh viên
Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nhất Định
Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tạ Bá Thắng
Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nam
Thượng tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Công Thức
Các phòng ban trực thuộc
Phòng Kế hoạch - Tổng hợp
Phòng Chính trị
Phòng Tham mưu - Hành chính
Phòng Hậu cần - Kỹ thuật
Phòng Chỉ đạo tuyến
Phòng Điều dưỡng
Ban Tài chính
Ban Khoa học Quân sự
Ban Giáo vụ
Ban Quản lý chất lượng bệnh viện
Ban Điều hành, quản lý các toà nhà
Các Bộ môn, Trung tâm, Khoa
Khoa Khám bệnh (C1)
Bộ môn - Trung tâm Huyết học và Truyền máu (CM2)
Bộ môn - Khoa Sinh hóa (CM4)
Khoa dược (C5)
Bộ môn - Khoa Giải phẫu bệnh lý - Pháp y (CM6)
Bộ môn - Khoa Vi sinh vật (CM7)
Bộ môn - Khoa Chẩn đoán chức năng (CM9)
Bộ môn - Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh (CM10)
- Khoa X-Quang chẩn đoán (C10)
- Khoa X-Quang can thiệp (C11)
- Khoa Siêu âm (C12)
- Khoa Y học hạt nhân (C14)
Khoa Trang bị (C15)
Bộ môn - Khoa Dinh dưỡng (CM16)
Bộ môn Điều dưỡng (CM17)
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn (C18)
Bộ môn - Khoa Nội Tiêu hóa (AM1)
Bộ môn - Trung tâm Tim mạch (AM2)
- Khoa Tim mạch (A2)
- Khoa Can thiệp Tim mạch (A16)
- Khoa Phẫu Thuật tim mạch (B20)
Bộ môn - Trung tâm Nội Hô hấp (AM3)
- Khoa Bệnh hô hấp (A3)
- Khoa Lao (A17)
Bộ môn - Trung tâm Nội Thần kinh (AM4)
- Khoa Thần kinh (A4)
- Khoa Đột quỵ (A14)
Bộ môn - Khoa Truyền nhiễm (AM5)
Bộ môn - Khoa Tâm thần (AM6)
Bộ môn - Trung tâm Nội dã chiến (AM7)
Bộ môn - Khoa Da liễu (AM8)
Bộ môn - Khoa Y học cổ truyền (AM9)
Bộ môn - Khoa Nhi (AM10)
Bộ môn Khớp - Nội tiết (AM11)
- Khoa khớp (A11)
- Khoa nội tiết (A19)
Bộ môn - Trung tâm Ung bướu (AM20)
- Khoa Hóa trị (A20)
- Khoa Xạ trị (A21)
Bộ môn - Khoa Phục hồi chức năng (AM15)
Bộ môn - Trung tâm Chấn thương Chỉnh Hình (BM1)
- Khoa Chấn thương chung và Vi phẫu (B1)
- Khoa Phẫu thuật khớp và Y học thể thao (B17)
- Khoa Phẫu thuật chỉnh hình cột sống (B18)
Bộ môn - Trung tâm Phẫu thuật Tiêu hóa (BM2)
- Khoa Phẫu thuật ống tiêu hóa (B2)
- Khoa Phẫu thuật Gan Mật Tụy (B19)
Bộ môn - Khoa Mắt (BM4)
Bộ môn - Khoa Gây mê (BM5)
Bộ môn - Khoa Tai - Mũi - Họng (BM6)
Bộ môn - Khoa Ngoại Thận và Tiết niệu (BM7)
Bộ môn - Khoa Hàm mặt và tạo hình (BM8)
Bộ môn - Khoa Ngoại Thần kinh (BM9)
Bộ môn - Khoa Phụ sản (BM10)
Bộ môn - Trung tâm Hồi sức cấp cứu và Chống độc (BM11)
- Khoa hồi sức Nội (A27)
- Khoa hồi sức Ngoại (B11)
- Khoa Cấp cứu lưu (B16);
Bộ môn - Khoa ngoại Lồng ngực (BM12)
Bộ môn - Khoa Răng Miệng (BM14)
Bộ môn - Trung tâm Ngoại dã chiến (BM15)
Thành tựu khoa học
Ở Việt Nam, lần đầu (tháng 6-1992), Bệnh viện 103 (Học viện Quân y) thực hiện ca ghép thận đầu tiên trên người.
Học viện Quân y là nơi thực hiện thành công ca ghép gan trên người đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2004.
Ngày 1-5-2006, kíp bác sĩ của Học viện vừa thực hiện thành công ca ghép tim đồng loại đầu tiên trên heo.
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện Lâm sàng, cận lâm sàng các bậc đại học, sau đại học ngành Y, Dược Tham gia đào tạo 22.000 Bác sĩ, Dược sĩ, 650 Tiến sĩ, 1.800 Thạc sĩ, 4.200 Chuyên khoa I, chuyên khoa II, 10.000 chuyên khoa định hướng. Huấn luyện bình quân hàng năm 60 lớp, với lưu lượng gần 2000 học viên. Tích cực đầu tư vào công tác nghiên cứu khoa học và phát triển kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu gắn kết giữa Đào tạo – Điều trị, đóng góp tích vực cho sự phát triển của ngành Y học nước nhà nói chung và Y học Quân sự nói riêng.
Khen thưởng
Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (1989, 2009)
03 Huân chương Quân công
05 Huân chương Chiến công
01 Huân chương Lao động
04 đơn vị (Bộ môn – khoa Bỏng, Bộ môn Tim – Thận – Khớp - Nội tiết, Bộ môn - Khoa Ngoại bụng, Bộ môn - Khoa Truyền nhiễm) được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
01 cá nhân được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
01 cá nhân được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động
Các cán bộ tiêu biểu
Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Thầy thuốc nhân dân, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Thế Trung: nguyên Giám đốc Học viện Quân y (1986 - 1995), nguyên Viện trưởng Viện Quân y 103, Giám đốc sáng lập Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác, Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Thầy thuốc nhân dân, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Bùi Đại, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nguyên Phó Giám đốc Học viện Quân y kiêm Viện trưởng Viện Quân y 103.
Trung tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Phạm Gia Khánh: nguyên Giám đốc Học viện Quân y (1995 - 2007), Giải thưởng Hồ Chí Minh, nguyên Viện phó Ngoại khoa.
Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc nhân dân Đặng Ngọc Hùng, nguyên Phó Giám đốc Học viện Quân y kiêm Giám đốc Bệnh viện 103.
Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc nhân dân Hoàng Mạnh An, nguyên Giám đốc Bệnh viện Quân y 103.
Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ cao cấp, Nhà giáo ưu tú Lê Trung Hải, Phó Cục trưởng Cục Quân y - Bộ Quốc phòng, nguyên Phó Giám đốc Ngoại khoa.
Trung tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc ưu tú Đỗ Quyết, Giám đốc Học viện Quân y, nguyên Phó Giám đốc Nội khoa.
Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc nhân dân Đồng Khắc Hưng, Phó Giám đốc Học viện Quân y, nguyên Phó Giám đốc Y vụ.
Lãnh đạo qua các thời kỳ
Giám đốc
Thiếu tướng Lê Thế Trung, từ 1979 - 1981
Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Bùi Đại, từ 1981 - 1983
Thiếu tướng Hoàng Mạnh An
Chính ủy
Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Sử
Phó Giám đốc
Đại tá Trần Đình Ngạn
Chú thích
103
103
Học viện Quân y Việt Nam
103
Bệnh viện đại học |
Folding@home (tiếng Anh của "sự xoắn lại tại nhà") là một dự án tính toán phân bố để xây dựng các mô hình cấu trúc protein, một thuật toán tiêu tốn nhiều tài nguyên CPU. Dự án bắt đầu ngày 1 tháng 10 năm 2000 và hiện nay dưới sự quản lý của Giáo sư Vijay S. Pande của Nhóm Pande, trong khoa Hóa học ở Đại học Stanford. Cùng với SETI@home, Folding@home là một trong những dự án tính toán phân bố lớn nhất trên thế giới. Mục đích của dự án này là "Tìm hiểu sự xoắn lại, hình thành các dạng Protein và các bệnh có liên quan".
Chú thích |
Truyện thầy Lazaro Phiền, tác phẩm của Nguyễn Trọng Quản, được cho là cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.
Cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền do nhà J. Linage, Libraire-Éditeur đường Catinat Sài Gòn xuất bản năm 1887. Tác giả là người Công giáo trong thời gian giáo dân còn rất ít, và truyện có rất nhiều chi tiết và nhân vật Công giáo.
Truyện tuy ngắn (bản in chỉ trên 50 trang) nhưng có cấu trúc của một cuốn tiểu thuyết Tây phương, và có chủ đề tâm lý nội tâm, là bước đột phá ra khỏi khuôn cấu trúc của truyện xưa.
Hồ Biểu Chánh gọi Truyện thầy Lazaro Phiền là một trong ba cuốn tiểu thuyết khiến ông hướng về nghiệp viết văn. (Hai cuốn kia là Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản.)
Lược truyện
Trong đất thánh làng Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa có một nghĩa địa điêu tàn. Bên cạnh những ngôi mộ các thánh tử vì đạo, có một ngôi với chiếc thánh giá đơn sơ mang tên "Thầy Lazaro Phiền".
Thầy Lazaro Phiền quê tại Đất Đỏ. Năm Phiền ba tuổi thì mồ côi mẹ. Khi đó, giáo dân bị cấm đạo, bị bắt bớ tù đày rất nhiều. Khi Pháp đánh tới Bà Rịa thì 300 giáo dân trong nhà lao bị thảm sát, nhà ngục bị thiêu hủy, chỉ còn mười người sống sót, trong đó có Phiền.
Phiền được một quan ba người Pháp đem về Gia Định cho một linh mục nuôi ăn học. Học trường d'Adran, Phiền kết bạn với Vêrô Liễu, con một ông trùm họ ở Cầu Kho. Qua Vêrô Liễu, Phiền quen cô em họ của Liễu và đem lòng yêu cô này. Lớn lên, hai người kết vợ chồng, chung sống trong nhà Liễu.
Sáu tháng sau, Phiền đi làm thông ngôn tại Bà Rịa. Tại đây, Phiền gặp một cô vợ người Việt của một quan ba Tây. Nàng đem lòng thương yêu Phiền nhưng Phiền cự tuyệt. Nàng ấy bèn viết thư nặc danh tố cáo vợ Phiền tư tình với Vêrô Liễu. Phiền về điều tra, khám phá thư của Liễu hẹn hò với vợ mình.
Nhân dịp được lịnh dẫn lính đi phục kích một vụ cướp ghe, và cùng lúc Liễu đi ghe về Sài Gòn, Phiền sắp đặt cho lính "bắn lầm" giết Liễu.
Xong, Phiền về nhà, đánh thuốc độc cho vợ chết. Vợ bị thuốc độc hành hạ hơn mười một tháng mới chết. Trước khi tắt thở, vợ thầy bình tĩnh nói: "Tôi biết làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin Chúa tha thứ cho thầy!"
Giết được "đôi gian phu dâm phụ" nhưng lòng Phiền vẫn không an, chán đời đen bạc, Phiền bỏ việc đi tu tại nhà thờ họ Tân Định.
Phải mười một năm sau, thầy Phiền ghé qua Bà Rịa thăm chốn cũ nơi xưa, Phiền mới nhận được thư một phụ nữ. Đó là thư của vợ quan ba Tây năm xưa. Bà thú tội đã vu cáo vợ thầy, giả nét chữ của Liễu và gài thư giả mạo trong áo vợ thầy Phiền. Nhưng vẫn không toại nguyện vì thầy không đến với bà mà lại bỏ đi tu.
Đọc xong bức thư thú tội này, thầy Phiền chết đi trong nỗi ân hận không nguôi với tội ác tày trời của mình.
Chú thích |
Trường d'Adran, tên tiếng Việt của Collège d'Adran hay École d’Adran, là hai trường trung học cùng tên tại Việt Nam thời Pháp thuộc, một ở Sài Gòn và một ở Đà Lạt:
Trường d'Adran Sài Gòn
Trường d'Adran Đà Lạt |
Đình Đĩnh Lữ, một đình làng ở xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, là một di tích lịch sử thuộc thế kỷ 16 đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Đình được nhân dân quanh vùng dựng lên nhằm tưởng nhớ công ơn của vị tướng chống giặc ngoại xâm là Nguyễn Xí, và còn là nơi dân làng Đĩnh Lữ thực hành tín ngưỡng.
Những năm đầu thế kỷ 20, đình Đĩnh Lữ là nơi tập trung các danh sĩ yêu nước trong vùng để bàn cách chống Pháp như Mai Đình Hòe (tức cụ Quyền Vinh), Hoàng Khoái Lạc, Phan Gần, Mai Cát, Mai Đỉnh, Mai Thi Từ, Nguyễn Thị Duyến, Bùi Thị Tín, Nguyễn Cứ, Nguyễn Cường...
Đình Đĩnh Lữ cũng là địa điểm thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam sớm nhất của tỉnh Hà Tĩnh (thành lập ngay trong tháng 2 năm 1930). Các đảng viên đầu tiên của Chi bộ là Mai Cát, Nguyễn Cứ, Mai Đỉnh, Phan Gần, Hoàng Khoái Lạc...
Đình này đã từng là nơi trú ẩn của các chiến sĩ cách mạng, một số đã bị tra tấn đến chết như: Phan Gần, Mai Trác bị giặc tra tấn chết ở nhà lao Can Lộc...
Đình Đĩnh Lữ đã được tôn tạo lại khang trang và sạch đẹp, trở thành nhà truyền thống. Đình Đĩnh Lữ là nơi tổ chức các ngày lễ truyền thống - lịch sử của huyện Lộc Hà cũng như của tỉnh Hà Tĩnh.
Đình Đĩnh Lữ là Địa chỉ Đỏ trên quê hương cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh.
Hiện nay hình ảnh về đình Đĩnh Lữ đã được Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam trưng bày tại Bảo tàng.
Đình Đỉnh Lữ nằm ở xã Tân Lộc huyện Can Lộc (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Đình Đỉnh Lữ nằm cách trung tâm huyện Can Lộc 8 km về phía Đông. Từ thành phố Vinh đi vào theo Quốc lộ 1 đến thị trấn Nghèn, đi về phía Đông 10 km là đến di tích. Đình nằm ngoài bìa làng ở phía Tây Nam xã Tân Lộc, phía Bắc giáp làng Kim Anh, phía Tây giáp làng Thụ Lộc, phía Đông giáp xã Bình Lộc.
Chú thích |
Hội Thừa sai hay Hội Thừa sai Paris là tên tiếng Việt dùng để gọi Société des Missions étrangères de Paris (nghĩa đen Hội truyền giáo ngoại quốc Paris), là một tổ chức các tu sĩ Công giáo nhận việc truyền giáo tại châu Á. Sách báo còn dùng Dòng Sai để chỉ dòng tu này.
Tư tưởng truyền giáo tân thời khai sinh từ hồi thế kỷ 13 với thánh Phanxicô. Phong trào thập tự quân thất bại với việc loan báo Tin Mừng bằng sức mạnh, thì bây giờ Tin Mừng được loan báo bằng tình thương. Sau khi dòng Anh em hèn mọn khởi xướng, các cha dòng Đa Minh cũng gởi người qua truyền giáo bên Á châu. Đà tiến ban đầu bị ngưng lại vào cuối thời trung cổ với hai lý do chính:
Thế giới đông phương bùng đậy theo hai chiều hướng: đế quốc Hồi giáo bành trướng và Trung quốc thức tỉnh dưới triều nhà Minh năm 168 và họ trục xuất mọi người ngoại quốc về nước.
Thế giới Âu châu hỗn độn với các cuộc ly giáo và cuộc chiến Trăm năm.
Trước một tình thế mới trên thế giới, các dòng tu lại mang những phương thức phục vụ khác nhau trong các phần đất truyền giáo, đã đưa đến câu hỏi: Giáo hội Công giáo Rôma có sứ mệnh truyền giáo hay không? Tư tưởng do Giáo hoàng Piô V đề xướng và ngài đặt trọng tâm vào việc truyền giáo. Năm 1568, ngài thành lập tu hội chuyên lo đi truyền giáo. Khi Giáo hoàng Grêgôriô XIII (tên Ugo Buoncompagni, người vùng Bologna nước Ý, 1502-1572-1585) lên kế vị, ngài lập tại Roma một chủng viện dành cho chủng sinh người Hy Lạp, Armenia và Đức. Các chủng sinh sau khi học xong được gửi về hoạt động tại các bản xứ. Năm 1622, Giáo hoàng Grêgôriô XV lại lập nên một hội Hồng y lo việc truyền bá đức tin Congregatio de Propagande fidei. Bộ có trách nhiệm quản trị mọi phần đất truyền giáo. Giáo hoàng Urbanô VIII thành lập thêm một viện đại học truyền giáo đào tạo các thừa sai. Trong bối cảnh vừa ghi trên, dưới sự thúc đẩy của một linh mục dòng Tên, Alexandre de Rhodes, hai linh mục François de Pallu và Lambert de la Motte thành lập năm 1653 một tu hội giáo sĩ mang tên Hội Thừa Sai Ba Lê. Tu hội chọn mục đích gởi người đi truyền giáo tại những nước chưa biết Thiên chúa giáo và đặc biệt bên Á châu. Các cha thừa sai đi đào tạo tại Paris. Khi xong chương trình huấn luyện họ khấn hứa giữ quy chế và ở trong tu hội suốt đời. Họ chỉ dâng lời vĩnh khấn sau khi làm việc ít nhất ba năm trong một xứ truyền giáo. |
Dòng La San (hay Dòng Lasan, Dòng Sư huynh La San; hay còn gọi là Dòng Anh Em Trường Kitô, tiếng Pháp Frères des Ecoles Chretiennes, tiếng Anh Institute of the Brothers of the Christian Schools, tiếng Latin "Fratres Scholarum Christianarum"nên viết tắt là FSC, dịch sát nghĩa là "Dòng Sư huynh các trường Công giáo" nhưng thường gọi là Dòng Sư huynh trường Thiện giáo) là một dòng tu Công giáo Rôma với nhiệm vụ giáo dục là chủ yếu, đặc biệt là giáo dục cho trẻ em nghèo. Hệ thống các trường học thuộc dòng này có chất lượng giáo dục tốt nổi tiếng trên thế giới.
Tên dòng La San được viết từ tên vị sáng lập dòng là thánh Gioan La San (Jean-Baptiste de La Salle). Các tu sĩ dòng La San được gọi là sư huynh, ở Việt Nam nhiều người vẫn gọi các Sư huynh là Frère vì họ tuy khấn dòng nhưng không phải là linh mục. Dòng La San được thành lập năm 1680.
Lịch sử dòng
Dòng La San do thánh Jean-Baptiste de la Salle (tiếng Việt quen gọi là Gioan La San) thành lập.
Ông có ý tưởng lập trường nghĩa thục dạy miễn phí cho trẻ em nghèo nên bèn quy tụ một số bạn đồng ý chí để thành lập những trường như vậy, với tâm nguyện mọi người vừa điều khiển trường, vừa dạy học, vừa sống luôn trong cộng đồng của các em học sinh. Các tu sĩ của dòng La San tuy cũng có khấn dòng, nhưng họ không lãnh nhận Bí tích Truyền chức Thánh nên họ không phải là linh mục. Dòng La San là dòng tu nam đầu tiên của giáo hội Công giáo không có linh mục.
Dòng La San được cho là tổ chức đầu tiên trên thế giới áp dụng những phương pháp sư phạm hiện đại. Thí dụ, ngay từ thời sơ khai, Gioan La San đã có khái niệm đặt lợi ích học sinh lên trên hết, và cấm thầy giáo không phạt học sinh bằng cách đánh đập.
Gioan La San mất vào Thứ sáu Tuần Thánh ngày 7 tháng 4 năm 1719 tại Saint-Yon, Rouen. Sáu năm sau, vào tháng 1 năm 1725, Giáo hoàng Biển Đức XIII đã chính thức công nhận Dòng La San. Ngày 19 tháng 2 năm 1888, Gioan La San được phong chân phước, và được phong hiển thánh vào ngày 24 tháng 5, năm 1900. Năm 1950, Giáo hội Công giáo nhìn nhận Gioan La San là quan thầy các nhà giáo dục Công giáo.
Ngày nay dòng La San có mặt tại hơn 80 quốc gia trên thế giới, kể cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Tông số Sư huynh trên thế giới hiện nay khoảng 4500.
Sư huynh Tổng Quyền đương nhiệm (2014 - 2021) là Sư huynh Robert Schieler.
Một số đại học dòng La San trên thế giới
De La Salle University, Manado, Indonesia
Christian Brothers University, Memphis, Tennessee, Hoa Kỳ
Đại Học De La Salle University-Manila, Manila, Philippines
Đại Học Saint Benilde, Manila, Philippines
Manhattan College, New York, Hoa Kỳ
St. Joseph College, Hong Kong
College of Santa Fe, Santa Fe, New Mexico, Hoa Kỳ
Các Thánh dòng La San
Jean-Baptiste de la Salle (Gioan La San)
Bénilde Romançon
Mutien-Marie Wiaux
Miguel Febres Cordero
Jaime Hilario |
Sputnik là một loạt các tàu không gian không người lái do Liên bang Xô Viết phóng lên không gian vào cuối những năm 1950 để thử nghiệm khả năng hoạt động của các vệ tinh tự nhiên.
Tên gọi "Спутник" trong tiếng Nga có nghĩa là "người đồng hành," và "vệ tinh." phát âm tiếng Nga là , phát âm phổ biến theo tiếng Anh là hoặc .
Sputnik 1 là vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới được Liên bang Xô Viết phóng lên quỹ đạo vào ngày 4 tháng 10 năm 1957.
Sputnik 2 được phóng lên vào ngày 3 tháng 11 năm 1957 và mang theo một sinh vật đầu tiên là một con chó tên là Laika. |
Sputnik 1 (tiếng Nga: Спутник 1, "vệ tinh 1". hay "PS-1", Простейший Спутник-1 hay Prosteyshiy Sputnik-1) là vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới do Liên bang Xô Viết chế tạo và được phóng lên bởi tên lửa R-7 vào ngày 4 tháng 10 năm 1957, được xem là ngày mở đầu kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người.
Sputnik 1 quay quanh Trái Đất trong ba tuần trước khi pin của nó chết, sau đó im lặng thêm hai tháng nữa trước khi rơi trở lại bầu khí quyển. Vệ tinh có hình cầu kim loại đánh bóng có đường kính 58 cm, với bốn ăng-ten vô tuyến bên ngoài để phát xung vô tuyến. Tín hiệu vô tuyến của nó có thể dễ dàng phát hiện ngay cả bởi những radio nghiệp dư và độ nghiêng 65 ° và thời gian quỹ đạo của nó làm cho đường bay của nó bao phủ gần như toàn bộ Trái Đất có người ở. Sự thành công không tưởng tượng được của Sputnik 1 đã kết thúc cuộc Khủng hoảng Sputnik của Mỹ và kích hoạt cuộc đua không gian, một phần của Chiến tranh Lạnh. Sự ra mắt này là sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới của sự phát triển chính trị, quân sự, công nghệ và khoa học. Vệ tinh do Sergey Korolyov cùng Keldysh M. V., Tikhonravov M. K., v.v. chế tạo.
Ra đời vào đỉnh điểm của thời kì Chiến tranh Lạnh, việc phóng Sputnik 1 đã khiến Phương Tây bất ngờ, và buộc Hoa Kỳ phải bắt đầu thời kì chạy đua vào không gian, đồng thời tiến hành một phong trào cải cách "giáo dục khoa học".
Tên gọi
Спутник-1 (tiếng La tinh: Sputnik-Odin, phát âm là [ˈsputʲnʲɪk.ɐˈdʲin]), có nghĩa là Vệ tinh thứ nhất. Tiếng Nga có nghĩa là vệ tinh sputnik, được tạo ra vào thế kỷ 18 bằng cách kết hợp tiền tố s- ("cùng nhau") và putnik ("khách du lịch"), do đó, tên gọi của vệ tinh có thể hiểu là "bạn đồng hành", tương ứng với định nghĩa vệ tinh gốc Latinh ("lính canh, người phục vụ hoặc đồng hành"), nguồn gốc của từ "vệ tinh" trong tiếng Anh.
Hoàn cảnh ra đời
Dự án chế tạo vệ tinh
Ngày 17 tháng 12 năm 1954, trưởng nhóm khoa học tên lửa Liên Xô Sergei Korolev đã đề xuất kế hoạch phát triển vệ tinh nhân tạo cho Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Quốc phòng Dimitri Ustinov. Korolev đã chuyển tiếp một báo cáo của Mikhail Tikhonravov, với tổng quan về các dự án tương tự ở nước ngoài. Tikhonravov đã nhấn mạnh rằng việc phóng vệ tinh lên quỹ đạo là một giai đoạn tất yếu trong sự phát triển của công nghệ tên lửa.
Vào ngày 29 tháng 7 năm 1955, Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower thông qua thư ký báo chí của mình thông báo với công chúng: trong Năm Địa Vật lý Quốc tế (IGY), Hoa Kỳ sẽ phóng một vệ tinh nhân tạo. Bốn ngày sau, Leonid Sedov, một nhà vật lý hàng đầu của Liên Xô, thông báo rằng họ cũng sẽ phóng một vệ tinh nhân tạo lên quỹ đạo Trái đất. Vào ngày 8 tháng 8, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô đã phê duyệt đề xuất chế tạo một vệ tinh nhân tạo. Vào ngày 30 tháng 8, Vasily Ryabikov - người đứng đầu Ủy ban Nhà nước về thử nghiệm phóng tên lửa R-7 - đã tổ chức một cuộc họp, nơi Korolev trình bày dữ liệu tính toán cho quỹ đạo bay lên Mặt trăng. Họ quyết định phát triển một phiên bản tên lửa R-7 ba giai đoạn với mục đích phục vụ cho việc phóng vệ tinh nhân tạo.
Vào ngày 30 tháng 1 năm 1956, Hội đồng Bộ trưởng đã phê duyệt dự án chế tạo một vệ tinh nhân tạo quay quanh quỹ đạo Trái đất. Vệ tinh này, đặt tên là Vật thể D, được lên kế hoạch hoàn thành vào năm 1957–1958; nó sẽ có khối lượng từ 1.000 đến 1.400 kg (2.200 đến 3.100 lb) và có thể man theo 200 đến 300 kg (440 đến 660 lb) các thiết bị khoa học. Lần phóng thử đầu tiên của "Vật thể D" được lên kế hoạch vào năm 1957. Công việc nghiên cứu, chế tạo vệ tinh đã được phân chia cho các tổ chức sau:
Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô chịu trách nhiệm lãnh đạo khoa học chung và cung cấp các công cụ nghiên cứu.
Bộ Công nghiệp Quốc phòng và phòng thiết kế chính của nó, OKB-1, được giao nhiệm vụ chế tạo vệ tinh.
Bộ Công nghiệp kỹ thuật vô tuyến điện sẽ phát triển hệ thống điều khiển, thiết bị vô tuyến điện / kỹ thuật và hệ thống đo đạc từ xa.
Bộ Công nghiệp Đóng tàu sẽ phát triển các thiết bị con quay hồi chuyển.
Bộ Chế tạo máy sẽ phát triển các phương tiện phóng mặt đất, tiếp nhiên liệu và vận chuyển.
Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm tiến hành các vụ phóng.
Công việc thiết kế sơ bộ được hoàn thành vào tháng 7 năm 1956. Các nhiệm vụ khoa học sẽ được thực hiện bởi vệ tinh đã được lên kế hoạch, bao gồm nhiệm vụ đo mật độ của khí quyển, thành phần ion của nó, đo đạc gió mặt trời, từ trường và tia vũ trụ. Dữ liệu này sẽ rất có giá trị trong việc chế tạo ra các vệ tinh nhân tạo trong tương lai; một hệ thống các trạm mặt đất đã được phát triển để thu thập dữ liệu do vệ tinh gửi về, quan sát quỹ đạo của vệ tinh và truyền các lệnh tới vệ tinh. Do khung thời gian có hạn, các cuộc quan sát chỉ được lên kế hoạch từ 7 đến 10 ngày và các phép tính về quỹ đạo không được mong đợi sẽ hoàn toàn chính xác.
Vào cuối năm 1956, vì sự phức tạp của thiết kế đầy tham vọng, "Vật thể D" đã không thể được phóng đúng kế hoạch vì những khó khăn trong việc tạo ra các thiết bị khoa học đáp ứng và động cơ của R-7 vẫn đã hoàn thiện. Do đó, chính phủ Liên Xô đã lùi lịch ra mắt lại vào tháng 4 năm 1958. Vật thể D sau này được gọi là Sputnik 3.
Lo sợ Mỹ sẽ phóng vệ tinh trước Liên Xô, OKB-1 đề xuất việc tạo và phóng một vệ tinh mới vào tháng 4 đến tháng 5 năm 1957, trước khi IGY bắt đầu vào tháng 7 năm 1957. Vệ tinh mới sẽ đơn giản hơn, nhẹ khoảng 100 kg và dễ dàng chế tạo, loại bỏ các thiết bị khoa học nặng, phức tạp, thay vào đó là một máy phát vô tuyến đơn giản. Vào ngày 15 tháng 2 năm 1957, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã phê duyệt vệ tinh đơn giản này, được đặt tên là 'Object PS'. Phiên bản này cho phép các đài quan sát trên Trái đất theo dõi vệ tinh trực quan hơn bằng cách truyền tín hiệu tới các trạm thu trên mặt đất. Việc phóng hai vệ tinh, PS-1 và PS-2, với hai tên lửa R-7 (8K71), đã được chấp thuận, với điều kiện là R-7 phải hoàn thành ít nhất hai chuyến bay thử nghiệm thành công.
Chuẩn bị phương tiện phóng và lựa chọn địa điểm phóng
Tên lửa R-7 ban đầu được thiết kế như một tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) bởi OKB-1. Quyết định chế tạo được Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô phê duyệt vào ngày 20 tháng 5 năm 1954. Là tên lửa mạnh nhất thế giới vào thời điểm ra mắt; nó được thiết kế với lực đẩy lớn hơn mức cần thiết vì họ không chắc trọng tải bom khinh khí như thế nào. R-7 còn được biết đến với tên gọi GRAU (sau này là GURVO, tên viết tắt tiếng Nga của "Tổng cục trưởng các lực lượng tên lửa") với tên gọi 8K71. Vào thời điểm đó, R-7 được NATO gọi là T-3, M-104, hoặc Type A. Một ủy ban trinh sát đặc biệt đã chọn Tyuratam làm địa điểm xây dựng bãi thử tên lửa, dải Tyuratam thứ 5, thường được gọi là "NIIP-5", hoặc "GIK-5" vào thời hậu Xô Viết. Địa điểm đã được phê duyệt vào ngày 12 tháng 2 năm 1955 bởi Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, nhưng chưa hoàn thành cho đến năm 1958. Công việc xây dựng bắt đầu vào ngày 20/7 do các đơn vị xây dựng quân đội thực hiện. Vào ngày 14 tháng 6 năm 1956, Korolev quyết định điều chỉnh tên lửa R-7 thành 'Vật thể D' (Sputnik 3), sau này sẽ được thay thế bằng 'Vật thể PS' nhẹ hơn nhiều (Sputnik 1).
Vụ phóng đầu tiên của tên lửa R-7 (8K71 No.5L) xảy ra vào ngày 15 tháng 5 năm 1957. Một đám cháy bắt đầu ở dây đeo Blok D ngay khi cất cánh, nhưng tên lửa đẩy tiếp tục bay cho đến 98 giây sau khi phóng, dây đeo bị vỡ và tên lửa rơi cách bệ phóng khoảng 400 km (250 dặm). Ba lần thử phóng tên lửa thứ hai (8K71 số 6) đã được thực hiện vào ngày 10-11 tháng 6, nhưng một lỗi lắp ráp đã ngăn cản việc phóng. Vụ phóng tên lửa R-7 thứ ba (8K71 No.7) diễn ra vào ngày 12 tháng 7 không thành công. Một sự cố chập điện khiến các động cơ vernier đưa tên lửa vào trạng thái mất kiểm soát được, dẫn đến tất cả các dây đeo tách ra 33 giây sau khi phóng. R-7 bị rơi cách bệ phóng khoảng 7 km (4,3 mi).
Vụ phóng tên lửa thứ tư (8K71 số 8), vào ngày 21 tháng 8 lúc 15:25 Giờ Moscow, đã thành công. Phần lõi của tên lửa đẩy đầu đạn giả lên độ cao, quay trở lại bầu khí quyển và vỡ tan ở độ cao 10 km (6,2 mi) sau khi bay được 6.000 km (3.700 mi). Vào ngày 27 tháng 8, TASS đã đưa ra một tuyên bố về việc phóng thành công tên lửa đạn đạo đa tầng tầm xa. Vụ phóng tên lửa R-7 thứ năm (8K71 số 9), vào ngày 7 tháng 9, cũng thành công, nhưng vật thể thử nghiệm bị phá hủy khi tái nhập khí quyển, và do đó cần thiết kế lại để hoàn thiện mục đích quân sự của nó. Tuy nhiên, tên lửa được cho là phù hợp để phóng vệ tinh, và Korolev đã thuyết phục Ủy ban Nhà nước cho phép sử dụng R-7 tiếp theo để phóng PS-1, cho phép trì hoãn việc khai thác quân sự của tên lửa.
Vào ngày 22 tháng 9, một tên lửa R-7 đã được sửa đổi, đặt tên là Sputnik, được định danh là 8K71PS, đã đến bãi thử và bắt đầu chuẩn bị cho việc phóng PS-1. So với các phương tiện thử nghiệm R-7 quân sự, khối lượng của 8K71PS đã giảm từ 280 tấn xuống 272 tấn, chiều dài của nó với PS-1 là 29,167 mét (95 ft 8,3 in) và lực đẩy khi cất cánh là 3,90 MN (880.000 lbf).
Đài quan sát vệ tinh
PS-1 không được thiết kế để điều khiển; nó chỉ có thể được quan sát từ các đài quan sát dưới mặt đất. Dữ liệu ban đầu tại bãi phóng sẽ được thu thập tại sáu đài quan sát riêng biệt và được gửi điện tín tới NII-4. Nằm ở Moscow (tại Bolshevo), NII-4 là một cơ sở nghiên cứu khoa học của Bộ Quốc phòng được dành riêng cho việc phát triển tên lửa. Sáu đài quan sát được tập trung xung quanh bãi phóng, với đài gần nhất nằm cách bệ phóng 1 km (0,62 mi).
Một tổ hợp quan sát thứ hai trên toàn quốc được thành lập để theo dõi vệ tinh sau khi tách khỏi tên lửa. Được gọi là Tổ hợp Chỉ huy - Đo lường, bao gồm trung tâm điều phối ở NII-4 và bảy trạm ở xa nằm dọc theo đường theo dõi mặt đất của vệ tinh. Các trạm theo dõi này được đặt tại Tyuratam, Sary-Shagan, Yeniseysk, Klyuchi, Yelizovo, Makat ở Guryev Oblast, và Ishkup ở Krasnoyarsk Krai. Các trạm được trang bị radar, thiết bị quang học và hệ thống thông tin liên lạc. Dữ liệu từ các trạm được truyền bằng điện báo tới NII-4 nơi các chuyên gia đạn đạo tính toán các thông số quỹ đạo.
Các đài quan sát sử dụng một hệ thống đo quỹ đạo gọi là "Tral", được phát triển bởi OKB MEI (Viện Năng lượng Mátxcơva), tiếp nhận và giám sát dữ liệu từ các bộ phát gắn trên tầng lõi của tên lửa R-7. Dữ liệu vẫn hữu ích ngay cả sau khi vệ tinh tách khỏi giai đoạn thứ hai của tên lửa; Vị trí của Sputnik được tính toán từ dữ liệu gửi về vị trí của giai đoạn hai theo sau Sputnik ở một khoảng cách đã biết. Việc theo dõi tên lửa đẩy trong quá trình phóng phải được thực hiện thông qua các phương tiện thụ động thuần túy như vùng phủ sóng trực quan và dò tìm bằng radar. Các vụ phóng thử nghiệm R-7 đã chứng minh rằng các camera theo dõi chỉ hoạt động tốt ở độ cao 200 km (120 mi), nhưng radar có thể theo dõi nó ở phạm vi gần 500 km (310 mi).
Bên ngoài Liên Xô, vệ tinh đã được theo dõi bởi các nhà khai thác vô tuyến nghiệp dư ở nhiều quốc gia. Tên lửa đẩy được người Anh định vị và theo dõi bằng Kính viễn vọng Lovell tại Đài quan sát Ngân hàng Jodrell, kính viễn vọng duy nhất trên thế giới có thể làm như vậy bằng radar. Đài thiên văn Newbrook của Canada là cơ sở đầu tiên ở Bắc Mỹ chụp ảnh Sputnik 1.
Thiết kế
Kỹ sư thiết kế chính của Sputnik 1 tại OKB-1 là Mikhail S. Khomyakov. Vệ tinh là một hình cầu đường kính 585 mm (23,0 in), được ghép từ hai bán cầu được bịt kín bằng các vòng chữ O và được kết nối bằng 36 bu lông. Nó có khối lượng 83,6 kg (184 lb). Các bán cầu dày 2 mm, và được bao phủ bởi một tấm chắn nhiệt dày 1 mm được đánh bóng làm bằng hợp kim nhôm – magiê – titan, AMG6T. Vệ tinh mang hai cặp ăng-ten được thiết kế bởi Phòng thí nghiệm Ăng-ten OKB-1, do Mikhail V. Krayushkin đứng đầu. EMỗi ăng-ten được tạo thành từ hai phần, dài 2,4 và 2,9 mét (7,9 và 9,5 ft), có dạng bức xạ gần như hình cầu.
Nguồn điện nặng 51 kg (112 lb), có hình dạng của một đai ốc hình bát giác với bộ phát sóng vô tuyến đặt ở giữa. Nó bao gồm ba viên pin bạc-kẽm, được phát triển tại Viện Nghiên cứu Nguồn điện Liên minh (VNIIT) dưới sự lãnh đạo của Nikolai S. Lidorenko. Hai trong số các pin này cấp nguồn cho máy phát vô tuyến và một cấp nguồn cho hệ thống điều chỉnh nhiệt độ. Pin có tuổi thọ dự kiến là hai tuần và hoạt động trong 22 ngày. Nguồn điện được bật tự động tại thời điểm vệ tinh tách khỏi giai đoạn thứ hai của tên lửa.
Vệ tinh trang bị một thiết bị phát sóng vô tuyến 1 watt, nặng 3,5 kg (7,7 lb) bên trong, được phát triển bởi Vyacheslav I. Lappo từ NII-885, Viện Nghiên cứu Điện tử Moscow, hoạt động trên hai tần số , 20,005 MHz và 40,002 MHz. Các tín hiệu trên tần số đầu tiên được truyền theo xung 0,3 s (gần f = 3 Hz) (trong điều kiện nhiệt độ và áp suất bình thường trên tàu), với các khoảng trống được lấp đầy bởi các xung ở tần số thứ hai. Phân tích các tín hiệu vô tuyến được sử dụng để thu thập thông tin về mật độ electron của tầng điện ly. Nhiệt độ và áp suất được mã hóa trong khoảng thời gian của tiếng bíp vô tuyến. Hệ thống điều chỉnh nhiệt độ bao gồm một quạt, một công tắc nhiệt kép và một công tắc nhiệt điều khiển. Nếu nhiệt độ bên trong vệ tinh vượt quá 36 °C (97 °F), quạt được bật; khi nhiệt độ xuống dưới 20 °C (68 °F), quạt sẽ bị tắt bởi công tắc nhiệt kép. Nếu nhiệt độ vượt quá 50 °C (122 °F) hoặc giảm xuống dưới 0 °C (32 °F), một công tắc nhiệt điều khiển khác được kích hoạt, thay đổi thời lượng của các xung tín hiệu vô tuyến. Sputnik 1 chứa đầy nitơ khô, có áp suất đến 1,3 atm (130 kPa). Vệ tinh có một công tắc khí áp, được kích hoạt nếu áp suất bên trong vệ tinh giảm xuống dưới 130 kPa, điều này có nghĩa là khi bình áp suất bị hỏng hoặc bị thiên thạch đâm thủng, thời gian phát xung tín hiệu vô tuyến sẽ bị thay đổi.
Khi được gắn vào tên lửa, Sputnik 1 được bảo vệ bởi một bộ giảm tải hình nón, với chiều cao 80 cm (31,5 in). Hệ thống đầu tiên tách khỏi Sputnik và giai đoạn hai R-7 cùng lúc khi vệ tinh được phóng ra. Các cuộc thử nghiệm vệ tinh được tiến hành tại OKB-1 dưới sự lãnh đạo của Oleg G. Ivanovsky.
Phóng và thực hiện sứ mệnh
Hệ thống điều khiển của tên lửa Sputnik được điều chỉnh theo quỹ đạo dự định là 223 x 1.450 km (139 x 901 mi), với chu kỳ quỹ đạo là 101,5 phút. Quỹ đạo đã được Georgi Grechko tính toán trước đó, sử dụng máy tính lớn của Học viện Khoa học Liên Xô.
Tên lửa Sputnik được phóng vào ngày 4 tháng 10 năm 1957 lúc 19:28:34 UTC (ngày 5 tháng 10 tại bãi phóng ) từ bãi phóng số 1 tại NIIP-5 Phép đo từ xa chỉ ra rằng dây đeo cách nhau 116 giây trong chuyến bay và động cơ chính tắt 295,4 giây sau khi phóng. Khi ngừng hoạt động, tầng lõi nặng 7,5 tấn (có gắn PS-1) đã đạt độ cao 223 km (139 mi) so với mực nước biển, vận tốc 7.780 m / s (25.500 ft / s) và độ nghiêng vectơ vận tốc đến chân trời địa phương là 0 độ 24 phút. Điều này dẫn đến quỹ đạo ban đầu dài 223 km (139 mi) x 950 km (590 mi), với đỉnh thấp hơn khoảng 500 km (310 mi) so với dự định, và độ nghiêng 65,10 ° và khoảng thời gian 96,20 phút.
Một bộ điều chỉnh nhiên liệu trong bộ tăng áp cũng bị lỗi khoảng 16 giây khi khởi động, dẫn đến mức tiêu thụ RP-1 quá mức cung cấp 4% so với tính toán. Việc cắt giai đoạn lõi được dự định trong T + 296 giây, nhưng việc hết nhiên liệu sớm khiến việc này xảy ra sớm hơn một giây. Có 375 kg (827 lb) LOX còn lại ở mức giới hạn.
Vào lúc 19,9 giây sau khi động cơ ngắt, PS-1 tách khỏi giai đoạn thứ hai và máy phát của vệ tinh được kích hoạt. Các tín hiệu này đã được phát hiện tại trạm IP-1 bởi Kỹ sư-Trung úy V.G. Borisov, tiếp nhận âm thanh "bíp-bíp-bíp" của Sputnik 1 xác nhận việc triển khai thành công vệ tinh. Việc tiếp nhận kéo dài trong 2 phút, cho đến khi PS-1 rơi xuống dưới đường chân trời. Hệ thống đo từ xa Tral trên giai đoạn lõi R-7 tiếp tục truyền và được phát hiện trên quỹ đạo thứ hai của nó.
Các nhà thiết kế, kỹ sư và kỹ thuật viên phát triển tên lửa và vệ tinh đã theo dõi vụ phóng. Sau khi phóng, họ lái xe đến đài phát thanh di động để nghe tín hiệu từ vệ tinh. Họ đã đợi khoảng 90 phút để đảm bảo rằng vệ tinh đã thực hiện một quỹ đạo và truyền tín hiệu trước khi Korolev gọi cho Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev.
Trên quỹ đạo đầu tiên, Cơ quan Điện báo của Liên Xô (TASS) truyền đi thông điệp: "Là kết quả của quá trình làm việc tích cực và căng thẳng của các viện khoa học và phòng thiết kế, vệ tinh Trái đất nhân tạo đầu tiên đã được chế tạo". Giai đoạn chính của R-7, với khối lượng 7,5 tấn và chiều dài 26 mét, cũng đã đạt đến quỹ đạo Trái đất. Nó là vật thể đầu tiên sau vệ tinh có thể nhìn thấy vào ban đêm. Các tấm phản chiếu được triển khai đặt trên bộ tăng cường để tăng khả năng theo dõi. Vệ tinh hầu như không thể nhìn thấy ở cường độ thứ sáu và rất khó để theo dõi bằng quang học. Vệ tinh hết pin vào ngày 26 tháng 10 năm 1957, sau khi vệ tinh hoàn thành 326 quỹ đạo.
Giai đoạn lõi của R-7 vẫn ở trên quỹ đạo trong hai tháng đến ngày 2 tháng 12 năm 1957, trong khi Sputnik 1 quay quanh quỹ đạo trong ba tháng, đến ngày 4 tháng 1 năm 1958, đã hoàn thành 1.440 quỹ đạo quanh Trái đất.
Phản ứng của công chúng
Người Liên Xô đã cung cấp thông tin chi tiết về Sputnik 1 trước khi phóng, nhưng rất ít người bên ngoài Liên Xô chú ý. Sau khi xem xét thông tin công khai trước khi phóng, nhà báo khoa học Willy Ley đã viết vào năm 1958:
Được tổ chức công dân khoa học trong Chiến dịch Moonwatch thông qua, các đội quan sát tại 150 trạm ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác đã được cảnh báo trong đêm để theo dõi vệ tinh vào lúc bình minh và lúc chạng vạng tối khi nó bay qua. Liên Xô đã yêu cầu các nhà khai thác đài nghiệp dư và chuyên nghiệp ghi lại tín hiệu được truyền từ vệ tinh.
Các bản tin thời điểm đó nói rằng "bất kỳ ai sở hữu máy thu sóng ngắn đều có thể nghe thấy vệ tinh trái đất mới của Nga khi nó di chuyển trên khu vực này của địa cầu." Tín hiệu của Sputnik 1 được thực hiện bởi các kỹ sư RCA gần Riverhead, Long Island. Sau đó, họ đem đoạn băng ghi âm đến Manhattan để phát cho công chúng qua đài NBC. Tuy nhiên, khi Sputnik bay lên cao hơn Bờ Đông, tín hiệu của nó đã được W2AEE, đài phát thanh ham của Đại học Columbia thu được. Các sinh viên làm việc trong đài FM của trường đại học WKCR đã làm một đoạn băng về điều này, và là những người đầu tiên phát lại tín hiệu Sputnik cho công chúng Mỹ (hoặc bất cứ ai có thể nhận được đài FM)."
Liên Xô đồng ý truyền trên các tần số phù hợp với cơ sở hạ tầng hiện có của Hoa Kỳ, nhưng sau đó đã công bố các tần số thấp hơn. Khẳng định rằng vụ phóng "không gây bất ngờ", Nhà Trắng từ chối bình luận về bất kỳ khía cạnh quân sự nào. Vào ngày 5 tháng 10, Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân đã ghi được các đoạn ghi âm của Sputnik 1 trong bốn lần bay qua Hoa Kỳ. Trung tâm Nghiên cứu Cambridge của Hoa Kỳ đã hợp tác với Bendix-Friez, Westinghouse Broadcasting và Đài quan sát Vật lý Thiên văn Smithsonian để thu được video về thân tên lửa Sputnik băng qua bầu trời Baltimore trước bình minh, được phát sóng vào ngày 12 tháng 10 bởi WBZ-TV ở Boston.
Sự thành công của Sputnik 1 dường như đã thay đổi suy nghĩ trên toàn thế giới về sự chuyển giao quyền lực dành cho Liên Xô.
Việc Liên Xô phóng Sputnik 1 đã thúc đẩy Hoa Kỳ thành lập Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến (ARPA, sau này là DARPA) vào tháng 2 năm 1958 để giành lại vị trí dẫn đầu về công nghệ.
Ở Anh, giới truyền thông và người dân ban đầu lo sợ về tương lai, nhưng cũng ngạc nhiên về sự tiến bộ của con người. Nhiều tờ báo và tạp chí đã báo trước sự xuất hiện của Thời đại Không gian. Tuy nhiên, khi Liên Xô phóng Sputnik 2, với hình ảnh chú chó Laika, các phương tiện truyền thông tường thuật lại ý kiến của những người chống chủ nghĩa cộng sản và nhiều người đã gửi phản đối đến đại sứ quán Nga và RSPCA.
Tuyên truyền
Sputnik 1 không được sử dụng ngay cho mục đích tuyên truyền của Liên Xô. Liên Xô đã giữ im lặng về những thành tựu trước đó của họ trong lĩnh vực chế tạo tên lửa, vì sợ rằng điều đó sẽ dẫn đến việc bí mật bị tiết lộ và những thất bại sẽ bị phương Tây khai thác. Khi Liên Xô bắt đầu sử dụng Sputnik trong tuyên truyền của họ, họ nhấn mạnh niềm tự hào về thành tựu công nghệ của Liên Xô, cho rằng nó thể hiện sự vượt trội của Liên Xô so với phương Tây. Mọi người được khuyến khích lắng nghe tín hiệu của Sputnik trên đài phát thanh và quan sát Sputnik trên bầu trời đêm. Mặc dù bản thân Sputnik đã được đánh bóng cao, nhưng kích thước nhỏ của nó khiến nó khó có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Điều mà hầu hết những người theo dõi thực sự thấy là phần lõi 26 mét của R-7 có thể nhìn thấy rõ hơn nhiều. Ngay sau khi phóng PS-1, Khrushchev ép Korolev phóng một vệ tinh khác trùng với dịp kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười, vào ngày 7 tháng 11 năm 1957.
Sự ra mắt của Sputnik 1 đã gây ngạc nhiên cho công chúng Mỹ, và phá vỡ nhận thức được tạo ra bởi sự tuyên truyền của Mỹ về việc Hoa Kỳ là siêu cường công nghệ và Liên Xô là một quốc gia lạc hậu. Tuy nhiên, riêng CIA và Tổng thống Eisenhower đã biết về những tiến bộ mà Liên Xô đạt được trên Sputnik từ hình ảnh máy bay do thám bí mật. Cùng với Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL), Cơ quan Tên lửa Đạn đạo Lục quân đã chế tạo Explorer 1 và phóng nó vào ngày 31 tháng 1 năm 1958. Tuy nhiên, trước khi công việc hoàn thành, Liên Xô đã phóng vệ tinh thứ hai, Sputnik 2, vào ngày 3 tháng 11 năm 1957. Trong khi đó, sự thất bại trên truyền hình của Vanguard TV3 vào ngày 6 tháng 12 năm 1957 càng làm cho người Mỹ mất tinh thần về vị trí của đất nước trong Cuộc đua Không gian. Người Mỹ có lập trường tích cực hơn trong cuộc chạy đua không gian, dẫn đến việc chú trọng nghiên cứu khoa học công nghệ và cải cách trong nhiều lĩnh vực từ quân đội đến hệ thống giáo dục. Chính phủ liên bang bắt đầu đầu tư vào khoa học, kỹ thuật và toán học ở tất cả các cấp học. Một nhóm nghiên cứu tiên tiến đã được tập hợp cho các mục đích quân sự. Các nhóm nghiên cứu này đã phát triển vũ khí như ICBM và hệ thống phòng thủ tên lửa, cũng như vệ tinh do thám cho Hoa Kỳ.
Tầm ảnh hưởng
Ban đầu, Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower không ngạc nhiên trước Sputnik 1. Ông đã được báo trước về khả năng của R-7 nhờ thông tin thu được từ các bức ảnh chụp thiếu sáng của máy bay do thám U-2, cũng như các tín hiệu và thiết bị đánh chặn từ xa. Chính quyền Eisenhower gần như không có phản ứng gì. Eisenhower thậm chí còn hài lòng rằng Liên Xô, chứ không phải Hoa Kỳ, sẽ là người đầu tiên kiểm tra các vùng biển về tình trạng pháp lý vẫn đang tranh chấp bằng các vệ tinh quỹ đạo. Eisenhower đã phải hứng chịu sự phản đối của Liên Xô và vụ bắn hạ bóng bay của Dự án Genetrix (Moby Dick) khiến họ lo ngại về khả năng một chiếc U-2 bị bắn hạ. Để tạo tiền lệ cho "tự do không gian" trước khi phóng vệ tinh do thám bí mật WS-117L của Mỹ, Hoa Kỳ đã phóng Dự án Vanguard, vệ tinh "dân sự" cho Năm Địa vật lý Quốc tế. Eisenhower đã đánh giá rất thấp phản ứng của công chúng Mỹ, những người bị sốc trước vụ phóng Sputnik và thất bại trên truyền hình trong lần phóng thử nghiệm Vanguard 3. Cảm giác lo lắng đã tăng lên bởi các chính trị gia đảng Dân chủ, những người đã miêu tả Hoa Kỳ là kẻ đứng sau khốn khổ. Một trong nhiều cuốn sách bất ngờ xuất hiện cho khán giả bình dân đã ghi nhận bảy điểm "tác động" đến quốc gia: sự lãnh đạo của phương Tây, chiến lược và chiến thuật của phương Tây, sản xuất tên lửa, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu cơ bản, giáo dục và văn hóa dân chủ. Khi công chúng và chính phủ quan tâm đến không gian và khoa học và công nghệ liên quan, hiện tượng này đôi khi được mệnh danh là "Khủng hoảng Sputnik".
Hoa Kỳ đã sớm có một số vệ tinh thành công, Explorer 1, Project SCORE và Courier 1B. Tuy nhiên, phản ứng của công chúng đối với cuộc khủng hoảng Sputnik đã thúc đẩy Mỹ hành động trong Cuộc chạy đua Không gian, dẫn đến việc thành lập cả Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến (được đổi tên thành Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng, hay DARPA, vào năm 1972), và NASA ( thông qua Đạo luật Hàng không và Vũ trụ Quốc gia), cũng như tăng chi tiêu của chính phủ Hoa Kỳ cho nghiên cứu khoa học và giáo dục thông qua Đạo luật Giáo dục Quốc phòng.
Sputnik cũng góp phần trực tiếp vào sự chú trọng mới về khoa học và công nghệ trong các trường học ở Mỹ. Với ý thức cấp bách, Quốc hội đã ban hành Đạo luật Giáo dục Quốc phòng năm 1958, trong đó cung cấp các khoản vay lãi suất thấp để học đại học cho sinh viên chuyên ngành toán và khoa học. Sau khi Sputnik ra mắt, một cuộc thăm dò do Đại học Michigan tiến hành và công bố cho thấy 26% người Mỹ được khảo sát cho rằng khoa học và kỹ thuật của Nga vượt trội hơn của Mỹ. (Tuy nhiên, một năm sau, con số đó đã giảm xuống còn 10% khi Hoa Kỳ bắt đầu phóng các vệ tinh của riêng mình vào không gian).
Một hệ quả của cú sốc Sputnik là nhận thức về "khoảng trống tên lửa". Điều này đã trở thành một vấn đề nổi trội trong chiến dịch tranh cử Tổng thống năm 1960.
Một điều trớ trêu trong sự kiện Sputnik là phản ứng ban đầu của Liên Xô rất thấp. Tờ báo Pravda của Đảng Cộng sản chỉ in một vài đoạn về Sputnik 1 ngày 4 tháng 10.
Sputnik cũng truyền cảm hứng cho một thế hệ kỹ sư và nhà khoa học. Harrison Storms, nhà thiết kế Bắc Mỹ, người phát triển máy bay tên lửa X-15, và là người đứng đầu nỗ lực thiết kế mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo cũng như giai đoạn hai của phương tiện phóng Saturn V, đã xúc động và suy nghĩ không gian sẽ là bước tiếp theo của Hoa Kỳ. Các phi hành gia Alan Shepard (người Mỹ đầu tiên vào không gian) và Deke Slayton sau đó đã viết về cảnh tượng Sputnik 1 bay qua đã truyền cảm hứng cho họ với sự nghiệp của mình như thế nào.
Sự ra mắt của Sputnik 1 đã dẫn đến sự hồi sinh của hậu tố -nik trong ngôn ngữ tiếng Anh. Nhà văn người Mỹ Herb Caen đã được truyền cảm hứng để đặt ra thuật ngữ "beatnik" trong một bài báo về Thế hệ Beat trên tờ San Francisco Chronicle vào ngày 2 tháng 4 năm 1958.
Lá cờ của thành phố Kaluga của Nga, nơi sinh của Konstantin Tsiolkovsky, có hình vệ tinh Sputnik nhỏ ở bang.
Bản sao
Có ít nhất hai bản sao cổ điển của Sputnik 1, được chế tạo dự phòng. Một chiếc nằm ngay bên ngoài Moscow trong bảo tàng công ty Energia, hậu duệ của phòng thiết kế Korolev, nơi nó chỉ được trưng bày theo lịch hẹn. Một chiếc khác nằm trong Bảo tàng hàng không ở Seattle, Washington. Không giống như thiết bị của Energia, nó không có thành phần bên trong, nhưng nó có vỏ và phụ kiện đúc bên trong (cũng như bằng chứng về sự hao mòn của pin), điều này cho thấy nó được chế tạo không chỉ là một mô hình. Được xác thực bởi Bảo tàng Tưởng niệm Vũ trụ ở Mátxcơva, thiết bị này đã được bán đấu giá vào năm 2001 và được mua bởi một người tư nhân giấu tên, người đã tặng nó cho bảo tàng. Hai bản sao lưu khác của Sputnik được cho là nằm trong bộ sưu tập cá nhân của các doanh nhân người Mỹ Richard Garriott và Jay S. Walker.
Năm 1959, Liên Xô tặng một bản sao của Sputnik cho Liên hợp quốc. Có các bản sao Sputnik với kích thước đầy đủ khác (với các mức độ chính xác khác nhau) được trưng bày ở các địa điểm trên khắp thế giới, bao gồm Bảo tàng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia ở Hoa Kỳ, Bảo tàng Khoa học ở Vương quốc Anh, và bên ngoài đại sứ quán Nga tại Tây Ban Nha.
Ba bản sao với kích thước bằng một phần ba do sinh viên chế tạo của Sputnik 1 đã được triển khai từ trạm vũ trụ Mir từ năm 1997 đến năm 1999. Bản sao đầu tiên, được đặt tên là Sputnik 40 để kỷ niệm bốn mươi năm ngày phóng Sputnik 1, được triển khai vào tháng 11 năm 1997. Sputnik 41 được đưa ra một năm sau đó, và Sputnik 99 được triển khai vào tháng 2 năm 1999. Một bản sao thứ tư đã được đưa ra, nhưng không bao giờ được triển khai, và bị phá hủy khi Mir quay trở lại Trái đất.
Sputnik 1 EMC / EMI là một mô hình thí nghiệm đầy đủ của vệ tinh. Các mô hình, được sản xuất bởi OKB-1 và NII-885 (do Mikhail Ryazansky đứng đầu), được giới thiệu vào ngày 15 tháng 2 năm 1957. Chúng được chế tạo để kiểm tra khả năng tương thích điện từ mặt đất (EMC) và nhiễu điện từ (EMI).
Định vị vệ tinh
Việc phóng Sputnik cũng đã gieo mầm cho sự phát triển của công nghệ định vị vệ tinh hiện đại. Hai nhà vật lý người Mỹ, William Guier và George Weiffenbach, tại Phòng thí nghiệm Vật lý Ứng dụng (APL) của Đại học Johns Hopkins đã quyết định theo dõi quá trình truyền sóng vô tuyến của Sputnik và trong vòng vài giờ, họ nhận ra rằng, nhờ hiệu ứng Doppler, họ có thể xác định vị trí của vệ tinh dọc theo quỹ đạo. Giám đốc APL đã cấp cho họ quyền truy cập vào UNIVAC để thực hiện các tính toán nặng cần thiết.
Đầu năm sau, Frank McClure, phó giám đốc APL, yêu cầu Guier và Weiffenbach điều tra vấn đề: xác định chính xác vị trí của người dùng, dựa trên vệ tinh. Vào thời điểm đó, Hải quân đang phát triển tên lửa Polaris phóng từ tàu ngầm, tên lửa này yêu cầu họ phải biết vị trí của tàu ngầm. Điều này khiến họ và APL phát triển hệ thống TRANSIT, tiền thân của các Hệ thống Định vị Toàn cầu (GPS) hiện đại. |
Sán lá gan (Danh pháp khoa học: Fasciola) là một chi trematoda gồm các loài động vật ký sinh. Các thành viên chi này thuộc Họ Sán lá gan. Chúng gây ra bệnh sán lá gan. Chúng là các loài ký sinh trùng sống ký sinh ở các động vật ăn cỏ như trâu, bò, cừu, dê... Có hai loại sán lá gan khá phổ biến là sán lá gan lớn và sán lá gan nhỏ. Sán lá gan được coi là động vật gây ra bệnh sán lá gan ở các loài động vật ăn cỏ tại châu Á và châu Phi. Tại một số quốc gia, tỷ lệ nhiễm bệnh lên tới 80-100%.
Phân loài
Fasciola hepatica: Sán lá gan thường
Fasciola gigantica: Sán lá gan lớn
Fasciola jacksoni: Sán lá gan nhỏ
Các cá thể lai tạo của Fasciola gigantica × Fasciola hepatica cũng tồn tại.
Với sán lá gan nhỏ thì giai đoạn đầu ấu trùng của sán là ấu trùng lông di chuyển tự do trong nước để tìm đến vật chủ trung gian thứ nhất để cư trú là các loài ốc. Sau đó ấu trùng lông trở thành ấu trùng đuôi và rời ốc để tìm đến vật chủ trung gian thứ hai là các loài cá nước ngọt để cư trú. Còn với sán lá gan lớn thì sau khi rời ốc nó sẽ bám vào thực vật thủy sinh chờ vật chủ.
Đặc điểm cấu tạo
Cơ thể sán lá gan hình lá, dẹp, dài 2 – 5 cm, màu đỏ máu. Sán lá gan thích nghi với đời sống kí sinh nên mắt và lông bơi bị tiêu giảm.. Ngược lại, các giác bám phát triển. Với cơ dọc, cơ vòng và cơ lưng bụng phát triển, sán lá gan có thể chun, dãn, phồng, dẹp cơ thể để chui rúc, luồn lách trong môi trường ký sinh. Sán lá gan dùng 2 giác bám chắc vào nội tạng vật chủ. Hầu có cơ khỏe giúp miệng hút chất dinh dưỡng từ môi trường ký sinh đưa vào hai nhánh ruột chằng chịt để vừa tiêu hóa với tốc độ nhanh vừa dẫn chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Sán lá gan không có hậu môn.
Sinh sản
Cơ quan sinh dục
Sán là gan là sinh vật lưỡng tính. Cơ quan sinh dục gồm cơ quan sinh dục đực và cơ quan sinh dục cái với tuyến noãn hoàng. Phần lớn chúng có cấu tạo dạng ống phân nhánh và phát triển chằng chịt.
Vòng đời
Sán lá gan đẻ nhiều trứng (khoảng 4000 trứng mỗi ngày) vì qua quá trình sinh sản, sán lá gan gặp nhiều nguy cơ gây tỉ lệ tử vong cao như: trứng không gặp nước, ấu trùng nở ra không gặp cơ thể ốc phù hợp hoặc cá thể ốc mà chúng kí sinh bị cá ăn mất. Trứng gặp nước nở thành ấu trùng có lông bơi. Ấu trùng chui vào sống ký sinh trong ốc ruộng, sinh sản cho nhiều ấu trùng có đuôi. Ấu trùng có đuôi rời khỏi ốc bám vào cây cỏ, bèo và cây thủy sinh, rụng đuôi, kết vỏ cứng, trở thành kén sán. Nếu trâu bò ăn phải cây cỏ, bèo và cây thủy sinh có kén sán, sẽ bị nhiễm bệnh sán lá gan.
Sán lá gan lớn ở Việt Nam do ấu trùng Sán lá gan lớn (danh pháp khoa học: Fasciola gigantica) phát triển thành. Fasciola gigantica là một loài giun dẹp thuộc lớp Trematoda. Những con sán lá gan này thường ký sinh ở gan và đường mật của những động vật ăn cỏ.
Vòng đời của sán lá gan khá phức tạp. Đầu tiên ấu trùng trứng sán lá gan được thải ra ngoài theo đường phân trâu, bò... Khi gặp môi trường nước ấu trùng sẽ nở ra, xâm nhập vào vật chủ trung gian là ốc nước ngọt có tên khoa học là Limnea Truneatula. Sau đó ấu trùng này thoát ra ngoài chuyển thành trạng thái ấu trùng có tên khoa học là Fasciola gigantica. Chúng sẽ bám vào các cây rau (rau ngổ, rau cải xoong, rau muống, rau cần,...) Những loại rau này nếu người ăn không rửa sạch, nấu chín thì sẽ có nguy cơ bị nhiễm ấu trùng sán lá gan rất lớn.
Hình ảnh
Chú thích |
Thiếu tướng, Phó Giáo sư Đặng Quốc Bảo (sinh năm 1927) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV, nguyên Trưởng ban Khoa giáo Trung ương Đảng, nguyên Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, nguyên Hiệu trưởng kiêm Chính ủy Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự.
Tiểu sử
Thiếu tướng Đặng Quốc Bảo sinh ngày 1 tháng 5 năm 1927 tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ông có quan hệ họ hàng với Tổng bí thư Trường Chinh (tức Đặng Xuân Khu).
Ông tham gia Cách mạng tháng 5 năm 1945 và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1945.
Tháng 2 năm 1947, ông nhập ngũ và được cử phụ trách Trường Quân chính, Trưởng ban Chính trị Trung đoàn 140.
Từ năm 1947 đến năm 1949, là chính trị viên Tiểu đoàn rồi Chính ủy Trung đoàn 88.
Tháng 4 năm 1954, Chủ nhiệm Chính trị Đại đoàn Quân tiên phong (F308).
Tháng 11 năm 1955, ông được bổ nhiệm là Chánh Văn phòng Tổng cục Chính trị.
Tháng 11 năm 1957, Chính ủy Sư đoàn 308.
Tháng 12 năm 1962, Chính ủy Cục Công binh Bộ Tổng Tham mưu.
Năm 1965, ông giữ chức vụ Chính ủy Sư đoàn 330.
Năm 1966, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Tây Bắc. Sau đó làm Thư ký Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 3 năm 1968, Chính ủy kiêm Hiệu trưởng Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học viện Kỹ thuật Quân sự). Ông được thăng quân hàm thiếu tướng năm 1974.
Tháng 9 năm 1976, ông chuyển ngành sang dân sự giữ chức vụ: Thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Phó trưởng ban rồi Trưởng ban Khoa giáo Trung ương.
Tại Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 4 (năm 1976), ông được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và được bổ nhiệm chức Trưởng ban Khoa giáo Trung ương Đảng.
Ông được phong hàm Phó Giáo sư.
Hiện nay, ông nghỉ hưu tại Hà Nội, Chủ tịch Quỹ bảo trợ Tài năng trẻ Kỹ thuật quân sự Việt Nam. Gia đình ông cư trú tại 17 Phan Đình Phùng, quận Ba Đình, TP Hà nội. Vợ ông là bà Dương Thị Duyên, con gái nhà giáo Dương Quảng Hàm.
Danh hiệu
Huân chương Hồ Chí Minh.
Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Huân chương Quân công (hạng Nhất, Nhì, Ba).
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất…
Ghi chú
Thời điểm này là tháng 9 năm 2006. |
Lôgarit rời rạc là sự tiếp nối của phép tính lôgarit trên trường số thực vào các nhóm hữu hạn.
Ta nhắc lại rằng với hai số thực x, y và cơ số a>0, a≠1,nếu ax=y thì x được gọi là lôgarit cơ số a của y, ký hiệu x= logay.
Lôgarit rời rạc có ứng dụng trong hệ mật mã khóa công khai Hệ mật mã Elgamal, Mật mã dựa trên ghép cặp (Pairing-based Cryptography)...
Ví dụ
Cho p là một số nguyên tố. Xét nhóm nhân các số nguyên modulo p: với phép nhân modulo p.
Nếu ta tính luỹ thừa bậc k của một số trong nhóm rồi rút gọn theo modulo p thì ta được một số trong nhóm đó. Quá trình này được gọi là luỹ thừa rời rạc modulo p. Chẳng hạn với p=17, lấy a=3, k=4 ta có
.
Lôgarit rời rạc là phép tính ngược lại:
Biết: hãy tìm k.
Định nghĩa
Tổng quát, giả sử G là một nhóm cyclic hữu hạn có n phần tử. Chúng ta ký hiệu phép toán của G theo kiểu nhân. Giả sử b là một phần tử sinh của G; khi đó mọi phần tử g G có thể viết dưới dạng g = bk với một số nguyên k nào đó. Hơn nữa, hai số nguyên có cùng tính chất đó với g là đồng dư theo modulo n. Chúng ta định nghĩa một hàm
(trong đó Zn ký hiệu cho vành các số nguyên modulo n) theo g là lớp các số nguyên k modulo n. Hàm này là một đồng cấu nhóm, được gọi là logarit rời rạc theo cơ số b.
Sau đây là công thức đổi cơ số giống như logarith thông thường: Nếu c là một phần tử sinh khác của G, thì:
Thuật toán
Chưa có thuật toán hiệu quả nào để tính logarit rời rạc tổng quát .
Có nhiều thuật toán phức tạp, thường sinh ra từ những thuật toán tương tự cho bài toán phân tích thừa số nguyên. Chúng chạy nhanh hơn các thuật toán thô sơ, nhưng vẫn còn chậm hơn so với thời gian đa thức.
Baby-step giant-step
Thuật toán Pollard cho logarit
Thuật toán Pohlig-Hellman
Thuật toán tính chỉ số
Number field sieve
Function field sieve
Ứng dụng trong mật mã
Logarit rời rạc là bài toán khó (chưa biết một thuật toán hiệu quả nào), trong khi bài toán ngược luỹ thừa rời rạc lại không khó (có thể sử dụng thuật toán bình phương và nhân). Tình trạng này giống như tình hình giữa bài toán thừa số nguyên và phép nhân các số nguyên. Chúng đều có thể dùng để xây dựng cấu trúc cho một hệ mật mã.
Người ta thường chọn nhóm G trong mật mã logarit rời rạc là nhóm cyclic (Zp)×; chẳng hạn như mật mã ElGamal, Trao đổi khoá Diffie-Hellman, và Chữ ký số Elgamal.
Ngoài ra còn có mật mã sử dụng lôgarit rời rạc trong nhóm con cyclic của các đường elliptic trên trường hữu hạn; gọi là mật mã đường cong elliptic. |
Liên hoàn tấn là bài tập đầu tiên của môn sinh môn phái Lam Sơn Căn Bản khi môn sinh bắt đầu bước vào luyện tập. Nó có thể xem như là một bài khởi quyền, nó là sự kết hợp của 12 thế tấn cơ bản và một số thế phụ, ngọn đá khác. Với bài này, môn sinh sẽ làm quen với các thế tấn, và hoàn thiện kỹ thuật quyền, cước, bộ pháp di chuyển,...
Các thế tấn cơ bản trong bài này gồm
Trung bình tấn
Mã tấn
Đinh tấn
Hổ tấn
Hầu tấn
Trảo tấn
Phượng tấn
Kê tấn
Xà tấn
Long tấn
Hạc tấn
Quy tấn
(Xin lưu ý: Do đặc thù riêng nên nhiều thế tấn của môn phái có thể trùng tên với các thế tấn của môn phái khác nhưng vẫn có sự khác biệt)
Một số thế phụ chuyển khác
Mã thượng
Kim mô
Trung thủ
Trung tọa
Bàng thủ
Một số ngọn cước trong bài
Trong bài này có 3 ngọn cước cơ bản:
Song phi hồ điệp cước
Bàn long cước
Tạt phong cước |
Liên phân số (tiếng Anh: continued fraction) còn gọi là liên phân số là một dạng biểu diễn các số thực dương, cả hữu tỷ và vô tỷ, dưới dạng một phân số nhiều tầng.
Ví dụ:
Liên phân số đóng vai trò rất lớn trong việc nghiên cứu lý thuyết số.
Định nghĩa
Liên phân số ở dạng chính tắc là biểu thức có dạng
trong đó a0 là một số nguyên không âm và tất cả các số an là số nguyên dương.
Liên phân số có thể biểu diễn chính xác các số thực.
Dạng tổng quát hơn là:
trong đó bn là số nguyên dương.
Chúng ta thường quen với biểu diễn thập phân của số thực:
trong đó a0, là số nguyên bất kỳ, còn mỗi số ai là một phần tử của {0, 1, 2,..., 9}. Trong cách biểu diễn này, số Pi biểu diễn bởi dãy {3, 1, 4, 1, 5, 9, 2,...}.
Tuy thế, theo cách biểu này có một số giới hạn. Một trong các vấn đề đó là sự tùy ý của cơ số 10. Tại sao là 10? Phải chăng là từ các yếu tố sinh học chứ không phải toán học (mỗi người chúng ta có 10 ngón tay); thay vì cơ số 10 ta có thể dùng cơ số 8 hoặc 2. Một vấn đề khác biểu diễn của các số hữu tỷ với q lớn hơn 1, trong hệ thập phân là vô hạn, chẳng hạn số ⅓ được biểu diễn bởi dãy vô hạn {0, 3, 3, 3, 3,....}. Vấn đề thứ ba là các biểu diễn của một số là không duy nhất; chẳng hạn, số 1 có thể biểu diễn bằng cách khác 0.999...=1.
Liên phân số đưa ra một cách biểu diễn số thực giải quyết cả ba vấn đề trên. Chẳng hạn, xét số 415/93, phần nguyên của phân số này là 4, phần lẻ của nó là số xấp xỉ với , ta muốn giữ nguyên tử số 1 thay mẫu số 2 bằng một số khác, chính xác hơn là , khi đó có thể viết
.
Thay cho cách viết cồng kềnh trên ta quy ước viết
hay đơn giản là 415/93= 4+1/(2+1/(6+1/7)),
hay đơn giản hơn nữa 415/93= [4; 2, 6, 7].
Có thể chứng minh rằng:
Dạng liên phân số của một số là hữu hạn khi và chi khi số đó là hữu tỷ.
Và dạng liên phân số của một số là vô hạn khi và chỉ khi số đó là vô tỷ.
Thuật toán biểu diễn số thực bằng liên phân số chính tắc
Thuật toán sau là một cách đơn giản để biểu diễn số thực bất kì dưới dạng liên phân số chính tắc:
Cho số thực r, ký hiệu i là phần nguyên của r, f là phần thập phân của r. Biểu diễn liên phân số của r là [i; a1, a2,...], trong đó [a1; a2,...] là dạng biểu diễn liên phân số của 1/f. Nếu như f=0 thì thuật toán dừng lại, trong trường hợp f khác 0, ta lặp lại các bước trên với r thay bằng 1/f.
Ví dụ cho r= 4,345. Như vậy i= 4, f= 0,345.
Bảng sau mô tả các bước tìm biểu diễn liên phân số của r.
Số 4,345 là một số hữu tỉ, do đó biểu diễn liên phân số của nó hữu hạn.
Liên phân số hữu hạn
Liên phân số hữu hạn biểu diễn số hữu tỉ. Ngược lại, một số hữu tỉ bất kì có thể biểu diễn bằng liên phân số hữu hạn theo 2 cách:
Cách thứ nhất, bằng thuật toán nêu ở phần thuật toán biểu diễn số thực bằng liên phân số, ta được liên phân số
.
Cách thứ hai, từ biểu diễn ở cách thứ nhất, ta bớt đi 1 đơn vị ở thành phần cuối, và thêm vào sau nó một thành phần đúng bằng 1.
.
Hai cách biểu diễn trên là tương đương nhau vì:
Ví dụ:
Liên phân số vô hạn
Liên phân số vô hạn là số vô tỉ. Và mọi số vô tỉ đều được biểu diễn dưới dạng liên phân số vô hạn.
Liên phân số vô hạn tuần hoàn
Trong đó, đáng chú ý là các liên phân số vô hạn tuần hoàn, tức là các thành phần lập lại theo một cách tuần hoàn.
Ví dụ:
[1;2,2,2,2,2,2,...] với các số 2 lặp lại tuần hoàn;
[0;2,3,4,2,3,4,2,3,4,...]với 2,3,4 lặp lại tuần hoàn.
Các liên phân số tuần hoàn chính là nghiệm của 1 đa thức bậc hai nào đó với các hệ số nguyên.
Ví dụ:
là nghiệm của đa thức bậc hai .
là nghiệm của đa thức bậc hai
Dãy giản phân của số thực
Cho số thực r có dạng liên phân số là: (có thể hữu hạn hoặc vô hạn).
Từ công thức biểu diễn trên, có thể xây dựng một dãy số hữu tỉ (hữu hạn hoặc vô hạn) hội tụ đến r, dãy này gọi là dãy giản phân:
...
(*)
...
Đặt .
Ví dụ, dãy giản phân của 0,84375 (dạng liên phân số là [0;1,5,2,2]):
{| border="1" cellspacing="0" cellpadding="5"
|- align="center"
| [0;1] || [0;1,3] || [0;1,4] || [0;1,5] || [0;1,5,2] || [0;1,5,2,1] || [0;1,5,2,2]
|- align="center"
| 1 || || || || || ||
|}
Dãy giản phân {} có các tính chất sau:
Tính hội tụ của dãy
Dãy {} hội tụ, và giới hạn của nó là r.
Công thức truy hồi
Trước hết ta xét 1 tính chất khá lý thú:
Với số thực bất kì
Từ tính chất trên có thể tính theo công thức tổng quát (*), hoặc theo công thức truy hồi sau (chứng minh xem bằng quy nạp rất đơn giản):
Liên hệ giữa tử số và mẫu số
Nếu giản phân thứ n là , thì
Hệ quả: là phân số tối giản.
Khoảng cách trong dãy giản phân xây dựng bởi liên phân số của r
Nếu mà chỉ số với s < t < n thì:
.
Sự biến thiên của dãy
Các phân số ở vị trí chẵn (, ,...) luôn bé hơn r, và tăng dần:
< < <...< r.
Các phân số ở vị trí lẻ (, ,...) luôn lớn hơn r, và giảm dần:
> > >... > r.
Độ xấp xỉ của các giản phân so với số thực mà chúng xấp xỉ
Các tính chất ở trên cho phép ta đánh giá độ sai số của các giản phân trong chuỗi so với số thực ban đầu
Chứng minh vế phải của bất đẳng thức (chứng minh này được trích dẫn từ ):
(**)
Với
Σi=0→(n-1)
Σi=n→+∞ .
Từ công thức:
, suy ra
với mọi i ≥ 0. (***)
Áp dụng (***):
Σi=n→+∞
.
Suy ra (**) đúng.
Liên phân số của Nghịch đảo
Cho số thực dương r, nếu biết dạng liên phân số của nó là
yêu cầu đặt ra là tìm dạng liên phân số của nghịch đảo 1/r.
Xét 2 trường hợp:
nếu r>1, tức là thì liên phân số của 1/r là:
;
nếu 0<r<1, tức là thì liên phân số của 1/r là:
.
Ví dụ:
, ;
, .
Biểu diễn liên phân số của các số thực đặc biệt
Biểu diễn liên phân số của số
Biểu diễn liên phân số chính tắc của số :
.
Từ biểu diễn đó, ta tìm ra được các số hữu tỉ gần đúng với π là:
.
Các thành phần trong liên phân số chính tắc (với các tử số bằng 1) của số π, không hề tuân theo một quy luật nào.
Tuy vậy các cách biểu diễn liên phân số khác (không chính tắc) của π lại có quy luật:
Biểu diễn liên phân số của số e và các dạng khác của nó
Trong khi dạng liên phân số đơn giản của π không có quy luật, điều này lại không đúng với trường hợp của e:
tổng quát hơn,:
và:
với n = 1:
Các số thực khác
với n là số nguyên dương.
trường hợp riêng n = 1:
Một số định lý và bài toán ứng dụng liên phân số
Phương trình Pell
Xem phần ứng dụng dùng liên phân số để giải phương trình Pell ở bài phương trình Pell. |
Amonia (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp ammoniac /amɔnjak/), còn được viết là a-mô-ni-ắc, là một hợp chất của nitơ và hydro có công thức hóa học NH3. Là một hydride nhị phân ổn định và hydride pnictogen đơn giản nhất, amonia là một chất khí không màu, có mùi hăng đặc trưng (mùi khai). Nó là một chất thải nitơ phổ biến, đặc biệt là giữa các sinh vật sống dưới nước, và nó góp phần đáng kể vào nhu cầu dinh dưỡng của các sinh vật trên cạn bằng cách đóng vai trò là tiền chất của thực phẩm và phân bón. Thanh, trực tiếp hoặc gián tiếp, cũng là một chất xây dựng để tổng hợp nhiều sản phẩm dược phẩm và được sử dụng trong nhiều sản phẩm tẩy rửa thương mại. Nó chủ yếu được thu thập bằng cách tổng hợp hạ mức của không khí và nước.
Mặc dù khá phổ biến trong tự nhiên – cả trên cạn và ở các hành tinh bên ngoài Hệ Mặt trời - và được sử dụng rộng rãi, amonia vừa có tính ăn mòn vừa nguy hiểm ở dạng đậm đặc. Nó được phân loại là một chất cực kỳ nguy hiểm ở Hoa Kỳ và phải tuân theo các yêu cầu báo cáo nghiêm ngặt bởi các cơ sở sản xuất, lưu trữ hoặc sử dụng nó với khối lượng đáng kể.
Sản lượng amonia công nghiệp toàn cầu năm 2018 là 175 triệu tấn, không có thay đổi đáng kể so với sản lượng công nghiệp toàn cầu năm 2013 là 175 triệu tấn. Amonia công nghiệp được bán dưới dạng rượu amonia (thường là 28% amonia trong nước) hoặc amonia lỏng khan có áp suất hoặc làm lạnh được vận chuyển trong xe bồn hoặc ống trụ.
NH3 sôi ở -33,34 ℃ ở áp suất tiêu chuẩn, do đó chất lỏng phải được bảo quản dưới áp suất hoặc ở nhiệt độ thấp. Amonia gia dụng hoặc amoni hydroxide là một dung dịch NH3 trong nước. Nồng độ của các dung dịch này được đo bằng đơn vị của thang Baumé (khối lượng riêng), với 26 độ Baumé (khoảng 30% (theo trọng lượng) amonia ở ) là sản phẩm thương mại nồng độ cao điển hình của chất này.
Từ nguyên
Pliny, trong Sách XXXI về Lịch sử Tự nhiên của mình, đề cập đến một loại muối được sản xuất ở tỉnh Cyrenaica của La Mã có tên là hammoniacum, được gọi như vậy vì nó nằm gần Đền thờ Jupiter Amun (tiếng Hy Lạp là Ἄμμων Ammon). Tuy nhiên, mô tả của Pliny về muối không phù hợp với các đặc tính của amoni chloride. Theo lời bình luận của Herbert Hoover trong bản dịch tiếng Anh của ông về De re metallica của Georgius Agricola, nó có thể là muối biển thông thường. Trong mọi trường hợp, muối đó cuối cùng đã tạo ra tên cho các hợp chất amonia và amoni.
Xuất hiện trong tự nhiên
Amonia là một chất hóa học được tìm thấy ở dạng vi lượng trong tự nhiên, được sản xuất từ chất động thực vật có nitơ. Amonia và muối amoni cũng được tìm thấy với số lượng nhỏ trong nước mưa, trong khi amoni chloride (sal amonia), và amoni sulfat được tìm thấy ở các vùng có núi lửa; tinh thể Amoni bicarbonat đã được tìm thấy trong phân chim Patagonia. Thận tiết ra amonia để trung hòa acid dư thừa. Các muối amoni được tìm thấy trong các vùng đất màu mỡ và trong nước biển.
Amonia cũng được tìm thấy trên khắp các hành tinh trong hệ Mặt Trời trên sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên Vương, sao Hải Vương, và Sao Diêm Vương, và những nơi khác: trên, trên các hành tinh nhỏ hơn như Sao Diêm Vương, amonia có thể hoạt động như một chất chống đông mang tính địa chất quan trọng, do hỗn hợp của nước và amonia có thể có nhiệt độ nóng chảy thấp tới nếu nồng độ amonia đủ cao và do đó cho phép các thiên thể như vậy giữ lại các đại dương bên trong và địa chất đang hoạt động ở nhiệt độ thấp hơn nhiều so với trường hợp hành tinh chỉ có nước. Các chất có chứa amonia, hoặc những chất tương tự với nó, được gọi là amoniaal.
Tính chất vật lý
Amonia là chất khí không màu, có mùi hắc đặc trưng. Nó nhẹ hơn không khí, mật độ của nó gấp 0,589 lần không khí. Nó dễ dàng hóa lỏng do có liên kết hydro mạnh giữa các phân tử; chất lỏng sôi ở , và đóng băng thành tinh thể trắng ở .
Amonia có thể được khử mùi thuận tiện bằng cách cho nó phản ứng với natri bicacbonat hoặc axit axetic. Cả hai phản ứng này đều tạo thành muối amoni không mùi.
Chất rắn
Đối xứng tinh thể là hình khối, ký hiệu Pearson cP16, nhóm không gian P213 (№. 198), hằng số mạng 0,5125 nm.
Chất lỏng
Amonia dạng lỏng có khả năng ion hóa mạnh do có chỉ số ε cao là 22. Amonia lỏng có sự thay đổi entanpi của quá trình hóa hơi tiêu chuẩn rất cao (23,35 kJ/mol, cf. nước 40,65 kJ/mol, methan 8,19 kJ/mol, photphin 14,6 kJ/mol) và do đó có thể được sử dụng trong phòng thí nghiệm trong các bình không cách nhiệt mà không cần làm lạnh thêm. Xem amonia lỏng như một dung môi.
Thuộc tính dung môi
Amonia dễ dàng hòa tan trong nước. Trong dung dịch nước, nó có thể được loại bỏ bằng cách đun sôi. Dung dịch nước của amonia có tính base. Nồng độ tối đa của amonia trong nước (dung dịch bão hòa) có khối lượng riêng là 0,880 g/cm³ và thường được gọi là '880 amonia'.
Cháy
Amonia không cháy ngay hoặc có khả năng duy trì sự cháy, ngoại trừ trong điều kiện hỗn hợp nhiên liệu-không khí hẹp có 15–25% không khí. Khi trộn với oxy, nó cháy với ngọn lửa màu vàng lục nhạt. Sự bốc cháy xảy ra khi clo được truyền vào amonia, tạo thành nitơ và hydro chloride; nếu clo dư thì nitơ trichloride (NCl3) rất dễ nổ cũng được tạo thành.
Sự phân hủy
Ở nhiệt độ cao và có mặt chất xúc tác thích hợp, amonia bị phân hủy thành các nguyên tố cấu thành của nó. Sự phân hủy amonia là một quá trình thu nhiệt nhẹ cần 5,5 kcal/mol amonia, và tạo ra khí hydro và nitơ. Amonia cũng có thể được sử dụng như một nguồn hydro cho pin nhiên liệu axit nếu amonia chưa phản ứng có thể được loại bỏ. Các chất xúc tác ruthenium và platinum được cho là hoạt động tích cực nhất, trong khi các chất xúc tác Ni được hỗ trợ thì hoạt động kém hơn.
Cấu trúc
Phân tử amonia có dạng hình chóp tam giác theo dự đoán của thuyết đẩy cặp electron lớp vỏ hóa trị (thuyết VSEPR) với góc liên kết xác định bằng thực nghiệm là 106,7°. Nguyên tử nitơ trung tâm có năm electron lớp ngoài cùng với một electron bổ sung từ mỗi nguyên tử hydro. Điều này tạo ra tổng cộng tám điện tử, hoặc bốn cặp điện tử được sắp xếp theo hình tứ diện. Ba trong số các cặp electron này được sử dụng như các cặp liên kết, chúng để lại một cặp electron duy nhất. Cặp đơn lẻ đẩy mạnh hơn các cặp liên kết, do đó góc liên kết không phải là 109,5°, như mong đợi đối với sắp xếp tứ diện đều, mà là 106,7°. Hình dạng này tạo cho phân tử một momen lưỡng cực và làm cho nó phân cực. Tính phân cực của phân tử, và đặc biệt, khả năng hình thành liên kết hydro của nó, làm cho amonia có thể trộn lẫn với nước rất cao. Cặp đơn độc làm cho amonia trở thành một base, một chất nhận proton. Amonia có tính base vừa phải; Dung dịch nước 1,0 M có pH là 11,6, và nếu thêm axit mạnh vào dung dịch như vậy cho đến khi dung dịch trung tính (pH = 7), 99,4% số phân tử amonia được proton hóa. Nhiệt độ và độ mặn cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ NH4+. Sau này có hình dạng của một tứ diện đều và là đẳng điện tử với methan.
Phân tử amonia dễ dàng trải qua quá trình nghịch chuyển nitơ ở nhiệt độ phòng; một phép tương tự hữu ích là một chiếc ô tự quay ra ngoài trong một cơn gió mạnh. Rào cản năng lượng đối với sự nghịch đảo này là 24,7 kJ/mol và tần số cộng hưởng là 23,79 GHz, tương ứng với bức xạ vi sóng có bước sóng 1,260 cm. Sự hấp thụ ở tần số này là phổ vi sóng đầu tiên được quan sát thấy.
Tính lưỡng tính
Một trong những tính chất đặc trưng nhất của amonia là tính base. Amonia được coi là một base yếu. Nó kết hợp với axit để tạo thành muối; do đó với axit clohydric nó tạo thành amoni chloride (sal amonia); với axit nitric tạo thành amoni nitrat, v.v. Amonia khô hoàn toàn sẽ không kết hợp với hydro chloride khô hoàn toàn; độ ẩm là cần thiết để thực hiện phản ứng. Như một thí nghiệm mô tả, các chai amonia và axit clohydric đậm đặc đã mở nắp tạo ra các "đám mây" amoni chloride, dường như xuất hiện từ "không có gì" khi muối hình thành nơi hai đám mây phân tử khuếch tán gặp nhau, ở đâu đó giữa hai chai.
Các muối được tạo ra do tác dụng của amonia với axit được gọi là muối amoni và tất cả đều chứa ion amoni (NH4+). Mặc dù amonia được biết đến là một base yếu, nó cũng có thể hoạt động như một axit cực kỳ yếu. Nó là một chất proton và có khả năng hình thành amit (có chứa ion NH2−). Ví dụ, lithi hòa tan trong amonia lỏng để tạo ra dung dịch lithi amit:
Tính chất hóa học
Trong amonia, nitơ có số oxy hóa thấp nhất nên amonia có tính khử. Ví dụ như trong phản ứng hóa học:
2NH3 + 3Cl2 -> N2 + 6HCl
4NH3 + 3O2 ->[500^o C] 2N2 + 6H2O
Nguyên tử kim loại loại kiềm hoặc nhôm:
2NH3 + 2Na ->[350^o C] 2NaNH2 + H2
2NH3 + 2Al ->[800-900^o C] 2AlN + 3H2
Tác dụng với dung dịch muối:
3NH3 + AlCl3 +3H2O -> Al(OH)3 + 3NH4Cl
Tính base yếu
Tan trong nước
Theo thuyết Brønsted-Lowry, NH3 khi tan trong nước, một phần nhỏ các phân tử amonia kết hợp với ion H+ của nước tạo thành cation amoni NH4+ và giải phóng anion OH-, lúc này nước sẽ đóng vai trò là axit.
NH3 + H2O <=> NH4+ + OH-\]
Ion OH- làm cho dung dịch có tính base, tuy nhiên so với dung dịch kiềm mạnh (thí dụ xút, potat, nước vôi trong...) cùng nồng độ thì nồng độ anion OH- do amonia tạo thành nhỏ hơn nhiều. Do có tính base nên dung dịch amonia làm cho quỳ tím hóa xanh còn dung dịch phenolphtalein từ không màu chuyển thành hồng. Do đó để phát hiện amonia, người ta dùng quỳ tím ẩm để nhận ra khí này.
Tác dụng với axit
Amonia (ở dạng khí cũng như dung dịch) dễ dàng trung hòa axit tạo thành muối amoni. Thí dụ:
2NH3 + H2SO4 -> (NH4)2SO4
hay
NH3 + H+ -> NH4+
Khi đặt hai bình mở nút đựng dung dịch HCl đặc và dung dịch NH3 ở gần nhau thì thấy có "khói" màu trắng tạo nên (hình 1). Do HCl và NH3 là những hợp chất dễ bay hơi nên chúng đã hóa hợp với nhau tạo thành tinh thể muối amoni chloride, chính tinh thể này đã tạo nên hiện tượng "khói".
NH3(k) + HCl(k) -> NH4Cl(r)
Phản ứng này được dùng để nhận biết khí amonia.
Tác dụng với dung dịch muối
Dung dịch amonia có khả năng tạo kết tủa nhiều hydroxide kim loại khi tác dụng
Thí dụ trong hình 2, dung dịch amonia đã phản ứng với dung dịch đồng(II) sunfat tạo kết tủa xanh lam:
NH3 + H2O + CuSO4 -> (NH4)2SO4 + Cu(OH)2 v
Khả năng tạo phức
Dung dịch amonia có khả năng tạo phức với rất nhiều hợp chất khó tan của kim loại như Cu, Ag, Ni, Pb, Zn,…
Vì các cation này có orbital trống nên có thể tiếp nhận cặp electron chưa liên kết trong nguyên tử N của NH3.
M(OH)2 + 4NH3 -> [M(NH3)4](OH)2 (với M = Cu, Zn, Pb,…)
Ni(OH)2 + 6NH3 -> [Ni(NH3)6](OH)2
Ag+ + 2NH3 -> [Ag(NH3)2]+
Điều chế
Trong phòng thí nghiệm: 2NH4Cl + Ca(OH)2 -> 2H2O + 2NH3 ^ + CaCl2
Trong công nghiệp:
Phần lớn NH3 (90%) được sản xuất theo phương thức Haber-Bosch với từ không khí, từ khí Mêtan () và nước.
CH4 + H2O <=> CO ^ + 3H2 ^ (xúc tác Ni, nhiệt độ cao) <p>N2 + 3H2 -> 2NH3 (ΔH = –92 kJ/mol)
Phản ứng trên thuận nghịch và tỏa nhiệt, do đó phải có các điều kiện phù hợp để chuyển dịch cân bằng về bên phải theo nguyên lý Le Chatelier. Thực tế, phản ứng này thường được thực hiện ở 450–500 ℃, 200–300 atm, xúc tác là hỗn hợp Fe, Al2O3, K2O,… nhưng hiệu suất chỉ từ 20–25%.
Phương thức CaCN2 của Rothe-Frank-Caro:
CaCN2 + 3H2O -> CaCO3 + 2NH3
Phương thức Persek từ nhôm nitride AlN và nước:
2AlN + 3H2O -> Al2O3 + 2NH3
Từ NO và H2:
2NO + 5H2 -> 2NH3 + 2H2O
Khử hydro bằng nitơ (tiếng anh: hydrodenitrogenation)
3H2 + R3N -> 3R-H + NH3
Hiện nay, một số nghiên cứu từ phòng thí nghiệm cho thấy rằng ammonia được sản xuất trực tiếp từ nitơ và nước với sự có mặt của chất xúc tác titan(IV) oxide và tia cực tím:
2N2 + 6H2O 4NH3 ^ + 3O2 ^
Ứng dụng
Ứng dụng chủ yếu của amonia là điều chế phân đạm, điều chế axit nitric, là chất sinh hàn, sản xuất hiđrazin N2H4 dùng làm nhiên liệu cho tên lửa. Ngoài ra, dung dịch amonia còn được dùng làm chất tẩy rửa gia dụng.
Nguy hiểm
Nếu hít nhiều amonia sẽ bị bỏng đường hô hấp (rát cổ họng). Khí amonia gây ức chế thần kinh tạo nên cảm giác khó chịu cáu gắt. Triệu chứng: Ho, đau ngực (nặng), đau thắt ngực, khó thở, thở nhanh, thở khò khè, khó thở, ho ra máu, co giật cùng các biểu hiện:
Mắt, miệng, họng: Chảy nước mắt và đốt mắt, mù mắt, đau họng nặng, đau miệng, sứt môi .
Tim mạch: Nhanh, mạch yếu, sốc.
Thần kinh: Lẫn lộn, đi lại khó khăn, chóng mặt, thiếu sự phối hợp, bồn chồn, ngẩn ngơ.
Da: Môi xanh lợt màu, bỏng nặng nếu tiếp xúc lâu.
Dạ dày và đường tiêu hóa: Đau dạ dày nghiệm trọng, nôn. |
Luận cứ mục đích hay luận cứ thiết kế (teleological argument) là một luận cứ cho sự tồn tại của Chúa trời hoặc của một đấng sáng tạo, dựa trên các bằng chứng tri giác được về trật tự, thiết kế phức tạp có chủ đích hoặc có ý nghĩa trong tự nhiên. Mục đích luận (teleology) là thuyết cho rằng có một nguyên lý có mục đích hoặc có định hướng trong hoạt động và các quá trình của tự nhiên.
Lịch sử
Các phiên bản được ghi lại sớm nhất của luận cứ mục đích được liên kết với Socrates ở Hy Lạp cổ đại, mặc dù có ý kiến cho rằng ông đưa ra một lập luận cũ hơn. Plato, học trò của Socrates và Aristotle, học trò của Plato, đã phát triển các cách tiếp cận phức tạp đối với đề xuất rằng vũ trụ có một nguồn sáng tạo, nhưng chính dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa khắc kỷ, "đã phát triển các lập luận của nhà sáng tạo, được biết đến rộng rãi dưới tên gọi "luận cứ mục đích".
Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đã sử dụng luận cứ mục đích theo nhiều cách và luận cứ này có mối liên hệ lâu dài với họ. Vào thời Trung cổ, các nhà thần học Hồi giáo như Al-Ghazali đã sử dụng luận cứ này, mặc dù nó bị các nhà văn học Kinh Qur'an bác bỏ và không thuyết phục được nhiều nhà triết học Hồi giáo khác. Sau đó, luận cứ mục đích được Tôma Aquinô chấp nhận và được đưa vào phần năm trong tác phẩm "Quinque viæ" (tiếng Anh: Five Ways, tạm dịch: Năm cách) của ông để chứng minh sự tồn tại của Thiên Chúa. Các giáo sĩ Anh giáo đời đầu như William Turner và John Ray là những người đề xướng nổi tiếng của luận cứ. Vào đầu thế kỷ 18, William Derham đã xuất bản cuốn "Physico-Theology" (tạm dịch: Vật lý - Thần học) của mình, trong đó đưa ra "minh chứng về bản thể và thuộc tính của Thiên Chúa từ các tác phẩm sáng tạo của ngài". Sau đó, William Paley trong cuốn "Natural Theology or Evidences of the Existence and Attributes of the Deity" (tạm dịch: Thần học tự nhiên hay bằng chứng về sự tồn tại và các thuộc tính của Chúa) năm 1802, là một bài thuyết trình nổi bật về lập cứ mục đích và lần đầu tiên sử dụng cụm từ "argument from design" (tạm dịch: luận cứ của sự thiết kế).
Ngay từ đầu, đã có rất nhiều chỉ trích về các phiên bản khác nhau của luận cứ mục đích và phản ứng với thách thức của nó đối với các yêu sách chống lại khoa học tự nhiên phi-mục-đích. Phản biện đặc biệt quan trọng là những lập luận logic chung được David Hume đưa ra trong "Dialogues Concerning Natural Religion" (tạm dịch: Đối thoại liên quan đến tôn giáo tự nhiên), xuất bản năm 1779, và sự phân tích về sự phức tạp sinh học được đưa ra trong Nguồn gốc các loài của Charles Darwin, xuất bản năm 1859. Từ những năm 1960, các lập luận của Paley đã có ảnh hưởng trong sự phát triển của phong trào khoa học sáng tạo (creation science movement) bằng việc sử dụng các cụm từ như "thiết kế bởi một nhà thiết kế thông minh" (design by an intelligent designer), và sau năm 1987, nó được đổi tên thành "nhà thiết kế thông minh" (intelligent designer), được thúc đẩy bởi phong trào thiết kế thông minh (intelligent design movement). Cả hai phong trào đã sử dụng luận cứ mục đích để tranh luận chống lại và đòi hỏi sự coi trọng tương đương với khoa học hiện đại về tiến hóa trong chương trình khoa học của trường công.
Những người bảo vệ đương đại tiêu biểu của luận cứ mục đích là Richard Swinburne và John Lennox.
Luận cứ
Tuy được phát biểu dưới nhiều dạng, nhưng luận cứ cơ bản có thể được phát biểu như sau:
X quá (phức tạp, có trật tự, thích nghi, có vẻ có mục đích, và/hoặc đẹp) để có thể đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên hoặc tình cờ.
Do đó, X chắc chắn đã phải được tạo ra bởi một thực thể (có tri giác, thông minh, uyên bác, và/hoặc có mục đích).
Chúa trời là thực thể (có tri giác, thông minh, uyên bác, và/hoặc có mục đích) đó.
Do đó, Chúa trời tồn tại.
Hoặc, đối với 2, 3 và 4, nhiều hơn một thực thể (có tri giác, thông minh, uyên bác, và/hoặc có mục đích) hẳn đã tạo ra X; do đó tồn tại nhiều hơn một đấng sáng tạo (nghĩa là các nam thần và nữ thần. xem: Thuyết đa thần).
X thường đại diện cho vũ trụ; quá trình tiến hóa, loài người; một loài vật nào đó; hay một cơ quan cụ thể nào đó chẳng hạn mắt hoặc một khả năng chẳng hạn khă năng ngôn ngữ của con người. X còn có thể đại diện cho các hằng số cơ bản của vũ trụ, chẳng hạn các hằng số vật lý và các định luật vật lý. Đôi khi, luận cứ này còn được dựa trên nguyên lý vị nhân rằng các hằng số này có vẻ như đã được điều chỉnh (fine-tuned universe) một cách đặc biệt để tạo điều kiện cho sự sống có trí tuệ có thể tiến hóa.
Một số phiên bản của luận cứ này có thể thay thế Chúa trời bằng một đấng tạo hóa kém hơn, một số vị thần, hoặc thậm chí cả sinh vật hành tinh khác trong vai trò nguyên nhân cho các hiện tượng thiên nhiên, mặc dù việc tái áp dụng luận cứ này có thể vẫn hàm ý một nguyên nhân tối thượng (ultimate cause - luận cứ về nguyên nhân đầu tiên). Tuy nhiên, hầu hết các hình thức kinh điển của luận cứ này có quan hệ với thuyết độc thần. Và một số dạng luận cứ mục đích còn cố ý để mở hoàn toàn câu hỏi về các thuộc tính của "nhà thiết kế" được giả thiết. Ví dụ, năm 1908, G.K. Chesterton đã đưa ra một luận cứ mục đích rất chuẩn xác và dị thường như sau: "Một con voi có vòi là chuyện lạ, nhưng khi con voi nào cũng có vòi thì như thể mọi chuyện đã được vạch sẵn từ trước" (So one elephant having a trunk was odd; but all elephants having trunks looked like a plot). |
Tân Phú có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây:
Quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai
Huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang
Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Phường Tân Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ
Phường Tân Phú, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
Phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước
Phường Tân Phú, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
Thị trấn Tân Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước
Thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai
Xã Tân Phú, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
Xã Tân Phú, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang
Xã Tân Phú, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
Xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
Xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre
Xã Tân Phú, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau
Xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
Xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp
Xã Tân Phú, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Xã Tân Phú, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An
Xã Tân Phú, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
Xã Tân Phú, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh
Xã Tân Phú, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang
Xã Tân Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long
Xã Tân Phú, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc |
Bộ đội Biên phòng Việt Nam (BĐBP hay BP), hay Biên phòng Việt Nam (BPVN; ), là lực lượng vũ trang nhân dân, thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới, cửa khẩu.
Bộ đội Biên phòng có chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng, Nhà nước chính sách, pháp luật về biên phòng; thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
Bộ đội Biên phòng hoạt động trong khu vực biên giới, cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý, địa bàn nội địa để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Hoặc hoạt động ngoài biên giới theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và quy định của pháp luật Việt Nam trong trường hợp vì mục đích nhân đạo, hòa bình, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, kiểm soát xuất nhập cảnh, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật.
Lịch sử hình thành
Ngày 19 tháng 11 năm 1958, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến và các lực lượng vũ trang khác chuyên trách công tác bảo vệ nội địa và biên phòng, giao cho ngành công an trực tiếp chỉ đạo, lấy tên là Lực lượng Cảnh vệ. Lực lượng Cảnh vệ gồm: Cảnh vệ Biên phòng và Cảnh vệ Nội địa.
Ngày 3 tháng 3 năm 1959, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra Quyết định số 100 - TTg về việc thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân Vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an và chỉ định Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ. Ngày 3/3 hàng năm sau này được lấy làm ngày thành lập Bộ đội Biên phòng.
Lễ thành lập Công an nhân dân vũ trang được tổ chức vào 19 giờ ngày 28 tháng 3 năm 1959, tại Hà Nội.
Đến cuối năm 1979 Công an nhân dân vũ trang đổi tên là Bộ đội Biên phòng và chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Năm 1988, Bộ đội Biên phòng lại chuyển sang trực thuộc Bộ Nội vụ cho đến cuối năm 1995 thì lại chuyển về Bộ Quốc phòng.
Ngày truyền thống: Ngày 3 tháng 3 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 100-TTg về việc thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân Vũ trang. Ngày này được lấy làm ngày truyền thống của Lực lượng Bộ đội Biên phòng và còn được gọi là Ngày Biên phòng toàn dân.
Nghị quyết 33 ngày 28-9-2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia xác định Bộ đội Biên phòng là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng, là lực lượng chuyên trách, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, trong đó, một số thành phần tiến thẳng lên hiện đại.
Nhiệm vụ
Thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình để thực hiện nhiệm vụ và đề xuất với Bộ Quốc phòng, Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật về biên phòng.
Tham mưu cho Bộ Quốc phòng về công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu và xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng.
Thực hiện quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, hệ thống mốc quốc giới, vật đánh dấu, dấu hiệu đường biên giới, công trình biên giới, cửa khẩu; tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về biên phòng.
Duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với phương thức, thủ đoạn hoạt động của thế lực thù địch, phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
Kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý và kiểm soát qua lại biên giới theo quy định của pháp luật.
Thực hiện hợp tác quốc tế về biên phòng, đối ngoại biên phòng; giải quyết sự kiện biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu chống xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược ở khu vực biên giới.
Tham mưu, làm nòng cốt trong xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân ở khu vực biên giới; tham gia xây dựng khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện biên giới, phòng thủ dân sự.
Tiếp nhận, sử dụng nhân lực, phương tiện dân sự để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo ở khu vực biên giới gắn với xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh.
Tham gia phòng, chống, ứng phó, khắc phục sự cố, thiên tai, thảm họa, biến đổi khí hậu, dịch bệnh; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới.
Lãnh đạo hiện nay
Tổ chức Đảng
Danh sách Ban Thường vụ Đảng ủy nhiệm kỳ 2020-2025:
Trung tướng Nguyễn Anh Tuấn, Chính ủy - Bí thư Đảng ủy
Trung tướng Lê Đức Thái, Tư lệnh - Phó Bí thư Đảng ủy
Thiếu tướng Hoàng Hữu Chiến, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng
Thiếu tướng Phùng Quốc Tuấn, Phó Chính ủy
Thiếu tướng Trần Văn Bừng, Chủ nhiệm Chính trị
Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ, nhiệm kỳ 2020-2025:
Trung tướng Lê Đức Thái - Tư lệnh
Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn - Chính ủy
Thiếu tướng Hoàng Hữu Chiến - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng
Thiếu tướng Phùng Quốc Tuấn - Phó Chính ủy
Thiếu tướng Lê Văn Phúc - Phó Tư lệnh
Thiếu tướng Nguyễn Đức Mạnh - Phó Tư lệnh
Thiếu tướng Nguyễn Văn Thiện - Phó Tư lệnh
Thiếu tướng Nguyễn Hoài Phương - Phó Tư lệnh phụ trách phía Nam
Thiếu tướng Trần Văn Bừng, Chủ nhiệm Chính trị
Đại tá Nguyễn Văn Quyền - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Biên phòng
Đại tá Võ Tiến Nghị - Cục trưởng Cục Trinh sát
Đại tá Đỗ Ngọc Toàn - Cục trưởng Cục Cửa khẩu
Đại tá Vũ Khương - Cục trưởng Cục Kỹ thuật
Đại tá Vũ Mạnh Lượng - Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy
Thiếu tướng Đỗ Ngọc Cảnh - Cục trưởng Cục phòng chống ma tuý và tội phạm
Đại tá Khổng Phi Trường - Hải đoàn trưởng Hải đoàn 38
Tổ chức chính quyền
Tổ chức chung
Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng
Cơ quan Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng gồm: Bộ Tham mưu; Cục Chính trị; Cục Trinh sát; Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm; Cục Cửa khẩu; Cục Hậu cần; Cục Kỹ thuật;
Các đơn vị trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng gồm: Hải đoàn Biên phòng; Lữ đoàn thông tin Biên phòng; Học viện Biên phòng; Trường Cao đẳng Biên phòng; Trường Trung cấp 24 Biên phòng; Trung tâm huấn luyện - cơ động.
Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Cơ quan Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm: Phòng Tham mưu; Phòng Chính trị; Phòng Trinh sát; Phòng Phòng, chống ma túy và tội phạm; Phòng Hậu cần; Phòng Kỹ thuật.
Đồn Biên phòng; Ban chỉ huy Biên phòng cửa khẩu cảng; Hải đội Biên phòng
Đồn Biên phòng gồm: Đội Vũ trang; Đội Vận động quần chúng; Đội Trinh sát; Đội Phòng, chống ma túy và tội phạm; Đội Kiểm soát hành chính; Đội Tham mưu - Hành chính; Đội Tàu thuyền; Trạm Biên phòng. Cả nước có hơn 400 đồn Biên phòng.
Ban chỉ huy Biên phòng cửa khẩu cảng gồm: Ban Tham mưu; Ban Chính trị; Ban Trinh sát; Ban Phòng, chống ma túy và tội phạm; Ban Hậu cần - Kỹ thuật; Đội Hành chính; Đội Thủ tục; Đội Tàu thuyền; Trạm Biên phòng;
Hải đội Biên phòng gồm: Đội Tham mưu - Hành chính; Đội Tuần tra biên phòng.
Quân hàm chức vụ trong Bộ đội biên phòng
Theo Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2014 quy định chức vụ trong Bộ đội Biên phòng như sauː
Tư lệnh và Chính ủy trần quân hàm Trung tướng.
Phó Tư lệnh và Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng trần quân hàm Thiếu tướng không quá 5 người
Phó Chính ủy và Chủ nhiệm Chính trị trần quân hàm Thiếu tướng không quá 1 người.
Phó Tham mưu trưởng là Bí thư hoặc Phó bí thư Đảng ủy Bộ Tham mưu trần quân hàm Thiếu tướng không quá 1 người
Phó Chủ nhiệm Chính trị là Bí thư hoặc Phó bí thư Đảng ủy Cục Chính trị trần quân hàm Thiếu tướng không quá 1 người
Cục trưởng Cục Trinh sát, Cục trưởng Cục Phòng chống ma túy và tội phạm trần quân hàm Thiếu tướng
Các chức vụ khác trần quân hàm là Đại tá trở xuống
Cán bộ, quân nhân là Quân nhân chuyên nghiệp có trần quân hàm là Thượng tá
Cấp hiệu
Hình dáng: Hai cạnh đầu nhỏ và hai cạnh dọc;
Nền cấp hiệu màu xanh lục; nền cấp hiệu của sĩ quan cấp tướng có in chìm hoa văn mặt trống đồng, tâm mặt trống đồng ở vị trí gắn cúc cấp hiệu;
Đường viền cấp hiệu màu đỏ;
Trên nền cấp hiệu gắn: Cúc cấp hiệu, gạch, sao màu vàng.
- Cúc cấp hiệu hình tròn, dập nổi hoa văn (cấp tướng hình Quốc huy; cấp tá, cấp úy hình hai bông lúa xung quanh và ngôi sao năm cánh màu vàng ở giữa);
- Cấp hiệu của cấp tướng không có gạch ngang, cấp tá có hai gạch ngang, cấp úy có một gạch ngang;
- Cấp hiệu của Quân nhân chuyên nghiệp giống với cấp hiệu của Sĩ quan, có thêm gạch dọc màu hồng chính giữa cấp hiệu.
Tư lệnh qua các thời kỳ
Các mục in nghiêng là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng phụ trách Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam.
Chính ủy qua các thời kỳ
Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
Thành tích
Hai lần Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (vào tháng 12/1979 và 2/2009)..
Huân chương Sao vàng.
Ba Huân chương Hồ Chí Minh.
Huân chương Độc lập hạng Nhất, hạng Nhì.
Huân chương Quân công hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba.
Chú thích |
Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản, tất cả được 17 năm và 210 số. Tạp chí Nam Phong do Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm và Chủ bút; Phạm Quỳnh làm Chủ biên phần chữ quốc ngữ và Nguyễn Bá Trác làm Chủ biên phần chữ nho. Nam Phong là một trong những tạp chí Việt Nam đầu tiên đúng thể thức, bài bản và giá trị về tri thức, tư tưởng. Trụ sở tòa soạn ban đầu ở nhà số 1 phố Hàng Trống, Hà Nội - cùng nhà Phạm Quỳnh lúc bấy giờ, năm 1926 chuyển về nhà số 5 phố Hàng Da, Hà Nội.
Nam Phong thường đăng nhiều bài văn, thơ, truyện ngắn, phê bình văn học, và tài liệu lịch sử bằng chữ Quốc ngữ. Được thực dân Pháp dùng để tuyên truyền cho chế độ thực dân, cương lĩnh chính trị của tạp chí ít được chú ý. Tuy nhiên, tạp chí đã góp phần vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ tại Việt Nam và bước đầu gây dựng nền quốc học bằng chữ Quốc ngữ.
Bối cảnh ra đời
Xã hội Việt Nam trước khi Tạp chí Nam Phong ra đời là một thời kỳ có nhiều biến đổi sâu sắc về lịch sử chính trị, văn hóa, giáo dục.
Năm 1904, gần như cùng một lúc xuất hiện hai phong trào Đông Du và Duy Tân. Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo. Phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh đề xướng. Cả hai phong trào cuối cùng đều bị Pháp dẹp năm 1908 sau các cuộc biểu tình chống thuế của dân chúng miền Trung và cuộc đầu độc lính Pháp ở Hà Nội xảy ra năm 1908.
Tháng 4 năm 1913, Việt Nam Quang phục Hội đã tổ chức hai cuộc tấn công tại Hà Nội, đều bị Pháp triệt tiêu ngay.
Năm 1914, Đại chiến Thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Người Việt Nam phải chia sẻ gánh nặng chiến tranh cùng với Pháp. Thanh niên trẻ bị đôn quân bắt lính phải tham chiến với Pháp ở châu Âu.
Nam kỳ là thuộc địa nên sự hòa hợp văn hóa cũng sớm hơn. Tại Trung kỳ và Bắc kỳ, phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh đề xướng từ năm 1905, kêu gọi cải cách văn hóa, được giới trí thức cấp tiến hưởng ứng mạnh mẽ. Thời điểm này là thời điểm chữ Nho, văn tự chính thức của triều đình Huế sử dụng qua nhiều thế kỷ sắp bị thay thế bằng chữ Quốc ngữ. Thời kỳ này hàng loạt báo chí bằng chữ Quốc ngữ ra đời ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Năm 1915, kỳ thi Hương tại Nam Định được coi như kỳ thi Nho học cuối cùng ở Bắc kỳ. Riêng ở Trung kỳ, các kỳ thi Hương năm 1918 là tận số và thi Hội năm 1919 mới là lần cuối.
Ra đời
Tạp chí Nam Phong đã xuất bản bằng hai thứ chữ, chữ Quốc ngữ và chữ Nho, dung hòa người Việt trên con đường hòa nhập văn hóa Á - Âu; Phạm Quỳnh đã kính cáo bạn đọc tại số đầu tiên ra ngày 1 tháng 7 năm 1917.
Việc thành lập tạp chí Nam Phong là chủ trương của chính phủ Liên bang Đông Dương do toàn quyền Albert Sarraut đề xướng với mục tiêu đẩy mạnh vai trò văn hóa và chính trị của nhà nước Bảo hộ. Kinh phí của báo là do chính phủ trang trải. Cùng đứng tên là Giám đốc Sở Mật thám Đông Dương Louis Marty.
Đồng thời với việc cho ra báo Nam Phong ở ngoài Bắc thì ở Nam Kỳ Toàn quyền Sarraut cũng cho phát hành báo Tribune Indigène cũng một mục đích nhưng khác với tờ Nam Phong in bằng tiếng Việt, tờ Tribune Indigène chỉ dùng tiếng Pháp.
Tôn chỉ, Mục đích
Tôn chỉ
Với ý tưởng Nam Phong là ngọn gió nước Nam, ngay từ đầu, tôn chỉ của tờ nguyệt san đã nêu rõ:
Diễn đạt truyền bá tư tưởng, học thuật đông tây kim cổ;
Luyện quốc văn trở nên hoàn thiện, bồi dưỡng Việt ngữ phong phú, uyển chuyển, sáng sủa và gãy gọn;
Lấy đó làm nền tảng dân tộc rồi phát triển thành tinh thần dân tộc.
Dưới sự chỉ đạo mềm dẻo và thâm thúy của Phạm Quỳnh, các tôn chỉ đó được thể hiện sinh động trên cơ sở các chuyên mục của tạp chí, như: Lý thuyết, Văn hóa bình luận, Khoa học bình luận, Triết học bình luận, Văn uyển, Tạp văn, Thời đàm, Tiểu thuyết...
Mục đích chính
Dùng chữ quốc ngữ để diễn tả, giải thích các tư tưởng, học thuật Âu - Á để mang những kiến thức này đến cho người không biết tiếng Pháp hoặc chữ nho.
Truyền bá chữ quốc ngữ vào Việt Nam, nâng cao trình độ chữ quốc ngữ thành một nền ngôn ngữ so sánh được với tiếng Pháp và chữ nho.
Để thực hiện mục đích trên, nhóm biên tập tạp chí Nam Phong:
Khảo cứu và viết bài về triết học, khoa học, văn chương, lịch sử của Á Đông và Âu Tây
Đăng những sáng tác đương đại: truyện ngắn, du ký, tùy bút, v.v.
Dịch các tác phẩm triết học, văn học từ tiếng Pháp hoặc chữ nho
Sưu tầm và đăng tải thơ văn cổ của Việt Nam, kể cả chữ nho và chữ Nôm
In lại các sách cũ của Việt Nam, như bộ Lịch triều hiến chương loại chí
Tầm ảnh hưởng
Nam Phong mỗi tháng ra một kỳ, khổ lớn, dày 100 trang, có sức mạnh cạnh tranh với các báo khác.
Theo Dương Quảng Hàm, tạp chí Nam Phong đã có ảnh hưởng về hai phương diện:
Về đường văn tự, Nam Phong đã sáp nhập vào tiếng Việt nhiều danh từ triết học, khoa học mới, và luyện cho chữ quốc ngữ có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới.
Về đường học vấn, Nam Phong đã cho phổ biến những điều yếu lược của học thuật Âu Tây, đồng thời diễn đạt những điều đại cương trong các học thuyết cổ của Á Đông như Nho học, Phật học, v.v., và bảo tồn những điều cốt yếu trong văn hóa Việt Nam xưa (văn chương, phong tục, lễ nghi).
Một số tác giả cộng tác với báo Nam Phong:
Đông Hồ Lâm Tấn Phác
Nguyễn Bá Học
Nguyễn Bá Trác
Nguyễn Hữu Tiến
Nguyễn Trọng Thuật
Phạm Duy Tốn
Trần Trọng Kim
Tương Phố
Tản Đà
Dương Bá Trạc
Dương Quảng Hàm
Nam Trân
Đạm Phương |
Nguyễn Hữu Tiến (阮有進, 1875-1941), hiệu Đông Châu, là một nhà nghiên cứu cộng tác đắc lực với tạp chí Nam Phong.
Quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), ông xuất thân từ Nho học. Phần lớn công trình nghiên cứu của ông đều công bố trên tạp chí Nam Phong trước khi in thành sách.
Các công trình của ông là những chuyên luận về lịch sử, địa lý, phong tục, luân lý, tôn giáo và văn chương Việt Nam và Trung Quốc. Ông có công rất lớn và sớm nhất trong việc giúp người Việt Nam am hiểu các học thuyết, văn chương, triết lý, Trung Quốc học.
Nguyễn Hữu Tiến còn là một tác giả về các danh nhân, thi sĩ Việt Nam.
Ông mất năm 1941 tại Hà Nội, thọ 66 tuổi.
Sự nghiệp
Phiên dịch
Ông từng làm phiên dịch cho Nhà xuất bản Đông Kinh ấn quán.
Viết báo
Năm 1917, ở trong Ban biên tập tạp chí "Nam phong", khảo cứu, biên soạn, dịch thuật về văn hoá, văn học Việt Nam và Trung Quốc, suốt 17 năm. Nguyễn Hữu Tiến là một trong những người đầu tiên sưu tầm, chọn lọc thơ văn cổ Việt Nam, đăng báo.
Có chương giảng về luật làm thơ, đủ các thể, kèm theo 100 bài mẫu, hợp thành cuốn "Cổ xuý nguyên âm" (1917). Ông còn giữ mục "Nam âm thi văn khảo biện", "Tồn cổ lục", "Việt Nam tổ quốc tuý ngôn", bước đầu nghiên cứu các tác gia Việt Nam: Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê ("Nam Phong", 1929).
Một số tác phẩm của ông
Văn học
Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa" (1925)cùng soạn với Lê Thành Ý là tác phẩm đầu tiên về loại hợp tuyển
Giai nhân di mặc (1917): Lần đầu giới thiệu sự tích và thơ Hồ Xuân Hương (Nhà xuất bản Đông Kinh ấn quán, Hà Nội)
Cổ xúy nguyên âm: Lối văn thơ nôm (Nhà xuất bản Đông Kinh ấn quán, Hà Nội)
Bản dịch Vũ trung tùy bút đăng trên Nam Phong tạp chí (1927-1928).(Có giá trị cung cấp nhiều tư liệu về xã hội Việt Nam cuối đời Lê - Trịnh.
Bản dịch "Lĩnh Nam dật sử" ("Nam Phong", 1921).
Tuồng
Soạn vở tuồng "Đông A song phụng" (1916), đề cao Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão qua cuộc tình duyên giữa Nguyên quận chúa và vị anh hùng chống ngoại xâm xuất thân dân dã.
Nho giáo
Mạnh Tử quốc văn giải thích" (1924 - 31)
"Luận ngữ quốc văn giải thích" (1931 - 33), cùng soạn với Nguyễn Đôn Phục
Nhận xét
Đóng góp của Nguyễn Hữu Tiến cho nền "quốc văn mới" của Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ 20 là rất quan trọng. |
Mắt bão là một khu vực có điều kiện thời tiết hầu như yên bình, với vị trí nằm tại trung tâm của các xoáy thuận nhiệt đới cường độ mạnh. Mắt của một cơn bão có hình dạng gần tròn và đường kính điển hình là từ 30–65 km (20-40 dặm). Bao quanh mắt là thành mắt bão, một vòng tròn mây dông nơi chứa đựng những điều kiện thời tiết nguy hiểm nhất. Giá trị áp suất khí quyển thấp nhất của một xoáy thuận là ở trong mắt và nó có thể thấp hơn mức áp suất bên ngoài đến khoảng 15%.
Trong những xoáy thuận nhiệt đới mạnh, mắt có đặc điểm quang mây và gió nhẹ, bao khắp xung quanh là một thành mắt bão cao và đối xứng. Với những xoáy thuận nhiệt đới yếu, mắt của chúng thường kém sắc nét và có thể bị che khuất bởi khối mây trung tâm dày đặc - một vùng mây dày, cao hiển thị rõ trên ảnh vệ tinh. Những cơn bão yếu hơn nữa hoặc bất tổ chức cũng có thể thể hiện một thành mắt bão không bao bọc toàn bộ lấy mắt hoặc là một con mắt chứa đựng mưa nặng hạt. Dù vậy, đối với mọi cơn bão, mắt là nơi tìm thấy giá trị áp suất tối thiểu của chúng - nơi mà áp suất khí quyển tại mực nước biển là thấp nhất.
Cấu trúc
Mắt của một xoáy thuận nhiệt đới điển hình có bề rộng vào khoảng 30–65 km (20-40 dặm), với vị trí thường nằm tại trung tâm của cơn bão . Mắt có thể rõ nét hoặc có những đốm mây thấp (mắt sắc nét), hay có thể bị che mờ bởi những đám mây tầng thấp hoặc trung (mắt bị che mờ), hoặc là bị che khuất hoàn toàn bởi khối mây trung tâm dày đặc. Tuy nhiên trong mắt mưa và gió là rất ít, đặc biệt ở gần chính tâm. Đây là một sự tương phản trái ngược với những gì xảy ra trong thành mắt bão, nơi chứa đựng những cơn gió mạnh nhất của một cơn bão. Bởi những cơ chế của một xoáy thuận nhiệt đới, nhiệt độ của mắt và không khí trực tiếp bên trên nó là ấm hơn xung quanh.
Dù thường khá đối xứng, mắt bão cũng có thể có hình dạng thuôn dài hoặc bất thường, đặc biệt là ở những cơn bão yếu. Một con mắt rách rưới lớn là một con mắt không tròn và rời rạc, nó là dấu hiệu của một xoáy thuận nhiệt đới yếu hoặc đang suy yếu. Một con mắt "hở" là con mắt mà mặc dù có thể tròn, nhưng thành mắt bão của nó không bao bọc hoàn toàn xung quanh, và đây cũng là dấu hiệu của một xoáy thuận đang suy yếu với tính chất bị tước đi lượng ẩm. Cả hai đặc điểm quan trắc trên đều được sử dụng để ước tính cường độ của xoáy thuận nhiệt đới thông qua những phân tích Dvorak. Cũng như mắt bão, những thành mắt bão điển hình có diện mạo tròn, dù vậy đôi khi chúng cũng có thể có hình dạng là những đa giác khác nhau, từ tam giác cho đến lục giác.
Trong khi những cơn bão trưởng thành điển hình có những con mắt có đường kính vào khoảng vài chục dặm, thì những cơn bão tăng cường nhanh chóng có thể phát triển nên một con mắt cực nhỏ, tròn và sắc nét, đôi khi được gọi là mắt lỗ kim. Những cơn bão với mắt lỗ kim dễ bị biến động lớn về cường độ, dẫn đến những khó khăn và thất bại cho các nhà dự báo khí tượng.
Những mắt bão có đường kính nhỏ hơn 10 hải lý (19 km, 12 dặm) thường dễ kích hoạt nên chu trình thay thế thành mắt bão, trong đó một thành mắt bão mới dần hình thành phía ngoài thành mắt bão ban đầu. Điều này có thể xảy ra ở bất kỳ đâu trong phạm vi từ 15 cho đến vài trăm km (10 đến vài trăm dặm) phía ngoài mắt. Tiếp đó cơn bão sẽ phát triển ra hai thành mắt bão đồng tâm, hay là "mắt bên trong mắt". Trong hầu hết các trường hợp, thành mắt bão phía ngoài sẽ bắt đầu trở nên co lại không lâu sau khi hình thành, làm triệt tiêu con mắt bên trong, dẫn đến một mắt bão lớn hơn nhưng ổn định hơn. Trong khi chu trình này có xu hướng làm suy yếu cơn bão khi nó diễn ra, thành mắt bão mới có thể thu hẹp khá nhanh sau khi thành mắt bão cũ biến mất, điều này cho phép cơn bão tăng cường trở lại. Sau đó một thời gian, một chu trình thay thế thành mắt bão khác lại có thể tiếp tục.
Mắt bão có nhiều kích cỡ khác nhau, với bề rộng (đường kính) có thể lớn đến 320 km (200 dặm) (bão Carmen) hay chỉ nhỏ tầm 3 km (1,9 dặm) (bão Wilma). Thường thì những cơn bão rất mạnh không sở hữu một con mắt rộng, dù vậy điều này vẫn có thể xảy ra, đặc biệt với những cơn bão hình khuyên. Bão Isabel là cơn bão Đại Tây Dương mạnh thứ 11 từng được ghi nhận trong lịch sử, và nó đã duy trì một con mắt lớn, bề rộng từ 65–80 km (40-50 dặm) trong quãng thời gian vài ngày.
Hình thành và phát hiện
Xoáy thuận nhiệt đới thường hình thành từ một vùng thời tiết nhiễu động rộng lớn, bất tổ chức trên những vùng biển, đại dương miền nhiệt đới. Khi mây dông hình thành và tập hợp nhiều hơn, cơn bão phát triển ra những dải mây mưa và chúng bắt đầu quay xung quanh một tâm ở giữa. Khi cơn bão tăng cường, một "chiếc vòng" đối lưu mạnh hơn sẽ hình thành tại một khoảng cách nhất định tính từ tâm của cơn bão đang phát triển. Kể từ thời điểm mây dông mạnh hơn và mưa nặng hạt hơn đánh dấu những vùng không khí thăng lên mạnh hơn, áp suất khí quyển trên bề mặt bắt đầu giảm xuống, và không khí bắt đầu được định hình trên tầng cao. Điều này dẫn đến sự hình thành của một xoáy nghịch trên tầng cao, hay là một vùng áp cao phía trên khối mây trung tâm. Kết quả tạo nên những dòng khí thổi ra phía ngoài ngược chiều quay phía trên xoáy thuận nhiệt đới. Bên ngoài mắt bão đang hình thành, xoáy nghịch trên tầng cao khí quyển làm tăng cường dòng thổi hướng vào trung tâm xoáy thuận, đẩy không khí vào thành mắt bão và tạo ra một vòng phản hồi tích cực.
Tuy nhiên, một phần nhỏ khối khí trên cao thay vì thổi ra phía ngoài lại tràn vào trong tâm. Điều này làm tăng thêm áp lực không khí, đến một điểm mà sức nặng của không khí chống lại dòng khí thăng lên trong tâm bão. Không khí bắt đầu giáng xuống tại trung tâm, tạo ra một vùng hầu như không có mưa; và mắt bão được hình thành.
Nhiều khía cạnh của quá trình này vẫn còn là điều bí ẩn. Các nhà khoa học đã không thể giải thích được tại sao chiếc vòng đối lưu lại hình thành xung quanh tâm hoàn lưu thay vì trên đỉnh của nó, hay là tại sao xoáy nghịch trên tầng cao chỉ đẩy đi một phần không khí dư thừa phía trên cơn bão. Có nhiều giả thuyết tồn tại mô tả quá trình chính xác mà theo đó mắt bão hình thành: tất cả những gì biết chắc chắn được là mắt là cần thiết để xoáy thuận nhiệt đới đạt được vận tốc gió cao.
Sự hình thành của mắt hầu như luôn là yếu tố chỉ ra rằng xoáy thuận nhiệt đới đang mạnh lên. Do đó, các nhà dự báo quan sát chặt chẽ các dấu hiệu hình thành mắt trong những cơn bão đang phát triển.
Đối với những cơn bão có mắt sắc nét, việc phát hiện ra mắt là đơn giản chỉ cần nhìn vào những bức ảnh vệ tinh. Tuy nhiên, với những cơn bão có mắt bị mây che phủ, hoặc mắt bị che hoàn toàn bởi khối mây trung tâm dày đặc, cần phải có những phương pháp phát hiện khác. Những quan trắc từ các con tàu biển và máy bay săn bão có thể xác định được mắt bão một cách trực quan, nhờ việc tìm kiếm một nơi mà vận tốc gió sụt giảm mạnh hoặc là không có mưa trong vùng trung tâm cơn bão. Tại Mỹ, Hàn Quốc và một số nước khác, một mạng lưới các trạm ra đa thời tiết NEXRAD có thể phát hiện ra mắt của các cơn bão gần đất liền. Những vệ tinh thời tiết đồng thời cũng được trang bị thiết bị đo đạc lượng hơi nước trong khí quyển và nhiệt độ những đám mây, điều này có thể được sử dụng để phát hiện mắt bão đang hình thành. Thêm vào đó, các nhà khoa học gần đây đã khám phá ra lượng ozon trong mắt của một cơn bão là cao hơn nhiều so với trong thành mắt bão, do không khí giàu ozon từ tầng bình lưu chìm xuống. Những dụng cụ đo lường nhạy cảm với ozone được sử dụng để quan sát những cột không khí thăng lên và chìm xuống, cung cấp dấu hiệu hình thành của mắt bão, thậm chí trước cả khi hình ảnh vệ tinh có thể xác nhận được điều này.
Mắt bão ở xoáy thuận ngoài nhiệt đới.
Một số xoáy thuận ngoài nhiệt đới cũng có cấu trúc mắt tương tự xoáy thuận nhiệt đới. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.