text
stringlengths 0
512k
|
---|
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức cộng sản và được trình bày trong điều lệ chính thức của các Đảng Cộng sản. Lenin, người đầu tiên nhắc tới khái niệm "Tập trung dân chủ", giải thích rằng tập trung dân chủ là tự do trong thảo luận nhưng thống nhất trong hành động. Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là nguyên tắc mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kêu gọi thực thi mặc dù có thể có cách định nghĩa khác.
Theo điều lệ chính thức của các đảng cộng sản, tất cả các cơ quan lãnh đạo và các bí thư các cấp được bầu bởi các đảng viên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đại hội toàn thể đảng viên hay đại hội đại biểu đảng viên. Theo quy định chính thức, tổ chức được xây dựng từ dưới lên nghĩa là các đại biểu cấp dưới sẽ quyết định trong việc bầu chọn lãnh đạo cấp trên. Ý nghĩa dân chủ của nguyên tắc này là các cơ quan và chức vụ lãnh đạo được hình thành thông qua bầu cử, các nghị quyết của Đảng chỉ có thể thông qua bởi cơ quan được bầu. Ý nghĩa của tập trung là quyết định của tổ chức Đảng cấp trên là bắt buộc với các tổ chức Đảng cấp dưới và cuối cùng là bắt buộc mỗi đảng viên phải chấp hành. Mỗi vấn đề của Đảng sẽ được thảo luận cho đến khi ra nghị quyết. Sau khi có nghị quyết, mỗi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết. Đảng viên dù có ý kiến khác khi phát biểu công khai vẫn phải nói theo nghị quyết chứ không được theo ý mình. Trên thực tế, ý nghĩa tập trung thể hiện rất mạnh mẽ vì nó tạo ra sự lãnh đạo thống nhất, có thể tập trung sức mạnh của tập thể vào một mục tiêu cụ thể và che giấu những bất đồng trong nội bộ.
Việc thực hiện nguyên tắc này được một số nhà nghiên cứu về chính trị cho rằng đã làm cho chủ nghĩa xã hội mà các đảng cộng sản theo đuổi biến thành chủ nghĩa toàn trị . Một số nhà nghiên cứu khác phủ nhận giả thuyết này. Karl Popper, nhà triết học người Áo cho rằng đây chính là nguyên nhân làm cho xã hội do các Đảng Cộng sản nắm quyền trở thành một "xã hội đóng" đối lập với "xã hội mở" (xã hội cho phép người dân bày tỏ sự bất đồng chính kiến) mà ông đề xướng. Tuy nhiên các học giả cánh tả lại cho rằng quy tắc Tập trung dân chủ là một phương pháp phù hợp để duy trì sự dân chủ nhưng vẫn đảm bảo sự thống nhất cao trong Đảng, tránh những tình trạng chia rẽ gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Có thể hiểu quy tắc Tập trung dân chủ là một mô hình thu nhỏ của hình thức bầu cử nghị viện khi người dân bầu ra quốc hội và quốc hội ra luật để khống chế hành vi của nhân dân, ở đây, Nhân dân là Đảng viên.
Hồ Chí Minh thì viết "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, thế là vừa dân chủ, vừa tập trung."
Nguồn gốc
Nguyên tắc tập trung dân chủ được Lenin phát triển trong tác phẩm "Làm gì?" (1901/1902), mà dựa vào đảng SPD ở Đế chế Đức. Lenin đòi hỏi trong cuốn sách này:
Một mặt tập trung hóa bộ máy đảng, có nghĩa là, cấp dưới phải tuân theo cấp trên (cấp trên có quyền ra lệnh cho cấp dưới),
Mặt khác những người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước cử tri, và cử tri phải có quyền hạ bệ giới lãnh đạo.
Một kỷ luật đảng nghiêm túc, tại mọi cấp theo đó thiểu số phải tuân theo đa số.
Cấu trúc của đảng theo Lenin được viết chính xác hơn trong tác phẩm "Ein Schritt vorwärts, zwei Schritte zurück" (Một bước tiến, hai bước lùi) (1904). Trong đó Lenin viết, cấu trúc đảng thì có một phần nào quan liêu, bởi vì nó được tổ chức từ trên xuống dưới.
Đường lối chính trị tập trung này được gọi là dân chủ, vì các cấp cao hơn được bầu từ các cấp dưới, và phải chịu trách nhiệm trước cấp dưới và như vậy đại diện cho quyết định của đa số đảng viên, trong khi cấp dưới chỉ đại diện cho một số đảng viên mà thôi. Do sự bầu cử và hạ bệ do bầu cử mà có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào, nó tránh được tình trạng lợi dụng quyền lực.
Việc kiểm soát này tuy nhiên bị các nguyên tắc khác cản trở: mặc dù Lenin cho mỗi người có quyền chỉ trích, nhưng lại cấm hình thành các nhóm. Điều này gây lợi thế cho người đang có quyền lãnh đạo đối với người đối lập và cuối cùng đưa tới việc lựa chọn những người ứng cử theo ý người lãnh đạo đảng.
Ý tưởng của đường lối tập trung dân chủ, mà được bàn thảo tại đại hội thứ 2 đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga vào 30 tháng 7 năm 1903 tại Luân Đôn, có lẽ đã góp phần đưa tới việc phân chia ra thành nhóm Bolshevik (Đa số), mà ủng hộ, và Menshevik (thiểu số), chống lại học thuyết Lenin. Theo thời gian học thuyết không thỏa hiệp và quá khích này đã lôi cuốn rất nhiều người theo nhóm Bolshevik. Đặc biệt Rosa Luxemburg 1918 (và sau này cả Lev Davidovich Trotsky) đã chỉ trích việc lợi dụng từ tập trung dân chủ. Theo bà Lenin và Trotsky đã loại trừ dân chủ, làm cho chế độ trở thành chế độ độc tài của một vài chính trị gia.
Tại Cộng hòa Weimar 1919 những cuộc thảo luận về tập trung dân chủ cũng góp phần đưa tới việc tách rời khỏi Đảng Cộng sản Đức và thành lập Đảng Công nhân Cộng sản Đức, phát triển thành chủ nghĩa Cộng sản Hội đồng Công nhân.
Dưới sự tham dự của Lenin tại hội nghị thứ hai của Đệ Tam Quốc tế 1920, đường lối tập trung dân chủ được chấp thuận là nguyên tắc tổ chức đảng và có hiệu lực cho tất cả các đảng cộng sản.
Tập trung dân chủ tại Liên Xô
Theo như Marx, một cuộc thay đổi trật tự xã hội và nhà nước chỉ thực sự xảy ra với một cuộc cách mạng của nhân dân, một cuộc cách mạng từ dưới lên trên. Dưới thời Stalin vì nguyên tắc tập trung dân chủ càng được thi hành chặt chẽ hơn, nó trở thành một cuộc cách mạng từ trên xuống dưới, vì chỉ có nhóm nhỏ với quyền lực nhà nước trong tay cải tạo xã hội theo ý riêng của họ. Và sau cuộc đại thanh trừng quyền lực đó chỉ nằm trong tay mỗi Stalin.
Tập trung dân chủ tại Đông Đức
Dưới chế độ Đông Đức tập trung dân chủ được hiểu như là một hình thức tổ chức các tổ chức quần chúng và chính quyền khác hẳn với Nguyên tắc lãnh tụ (Führerprinzip) và dân chủ tư sản. Nó gồm có các nguyên tắc dưới đây:
Các nhà lãnh đạo được lựa chọn từ dưới lên trên
Các ứng cử viên được nhóm lãnh đạo chọn ra trước
Tất cả các cơ quan lãnh đạo phải chịu trách nhiệm và có thể bị hạ bệ
Các cơ quan lãnh đạo phải luôn được kiểm soát bởi người dân bầu
Quyền ra lệnh từ cấp trên xuống cấp dưới
Quyền tham dự của mọi người để giải quyết những vấn đề chủ yếu
Trên thực tế thì quyền ra lệnh của cấp trên là điểm chủ yếu. Những quyết định về nội dung và nhân viên của cấp trên phải được tuân theo. Việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chỉ có trên mặt giấy tờ. Được chọn qua cuộc bầu cử mở là những ứng cử viên mà cấp trên đưa ra. Được thực hiện không phải yếu tố dân chủ mà là nguyên tắc tập trung..
Các cấp gồm có tổ chức căn bản (hãng xưởng, trường học, các lãnh thổ), huyện, tỉnh và trung ương. Các người lãnh đạo được bầu được hỗ trợ bởi các nhân viên chính thức. Nhóm lãnh đạo tự chọn lấy người từ dưới vào nhóm, cho nên các hình thức dân chủ chỉ là rỗng tếch vô nghĩa.
Tập trung dân chủ tại Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Chú thích
Đảng cộng sản
Thuật ngữ cộng sản
Thuật ngữ chính trị
Học thuyết chính trị
Chủ nghĩa toàn trị
Dân chủ |
Ngũ Đăng Hội Nguyên thuộc loại Đăng lục, 20 quyển, do Phổ Tế (zh. 普濟) soạn vào đời nhà Tống, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 138. Ngũ đăng là:
Cảnh Đức Truyền đăng lục (景德傳燈錄)
Thiên Thánh Quảng Đăng lục (zh. 天聖廣燈錄)
Kiến Trung Tịnh Quốc Kế Đăng lục (zh. 建中靖國續燈錄)
Liên Đăng Hội Yếu (zh. 聯燈會要)
Gia Thái Phổ Đăng lục (zh. 嘉泰普燈錄)
Mỗi bộ gồm 30 quyển, số lượng bề bộn, nhiều chỗ trùng lặp. Phổ Tế bỏ rườm rà lấy tinh giản, gom năm bộ lại thành một nên gọi là Ngũ Đăng Hội Nguyên. Nguyên 5 bộ (Ngũ Đăng) gồm 150 quyển, trong khi Ngũ Đăng Hội Nguyên chỉ có 20 quyển, số quyển phần lớn được rút ngắn, nội dung thực tế chỉ giảm đi khoảng phân nửa. Ngũ Đăng vốn chỉ phân biệt hai hệ phái lớn là Nam Nhạc và Thanh Nguyên, từ đó trở xuống không chia tông lập phái nữa. Nhưng thế hệ càng lâu xa thì chi phái càng nhiều thêm, pháp tự rải rác, rất khó nắm được tất cả, nên tác giả cùng với việc rút gọn đã chỉnh lại đầu mối, dưới hệ chia tông, dưới tông chia phái, tương đối tập trung, sắp xếp có thứ tự, mạch lạc lớp lang rất tiện cho người đọc. Hơn nữa sách được trình bày sáng sủa dễ tra cứu. Về chiều rộng thời gian của nội dung sách này gồm thời kì phát triển Thiền tông Trung Quốc từ sơ kì đến lúc cực thịnh và cũng phản ánh chỗ dần dần tiến đến suy vi. Lấy việc ghi chép pháp ngữ của thiền sư làm chính, tinh hoa thiền ngữ phần lớn được thu vào sách này. Ngôn ngữ trong sách thông suốt tự nhiên, tươi tắn hoạt bát, đơn giản cô đọng. Công án, ngữ lục tràn đầy thú vị khiến cho kẻ tăng người tục đều thích đọc. Thế nên từ đời nhà Nguyên, nhà Minh cho đến nay giới trí thức yêu thích thiền học không ai không có sách này, và nó cũng là phương tiện thẳng tắt giúp cho tăng chúng tham thiền được ngộ. Vì bị lược bỏ khá nhiều nên tài liệu được trích dẫn chẳng đầy đủ như sách Cảnh Đức Truyền đăng lục, đó là khuyết điểm của sách này. Sách được Tô Uyên Lôi hiệu đính, Trung Hoa Thư Cục xuất bản vào năm 1984. |
Đông trùng hạ thảo là một loại đông dược quý có bản chất là dạng ký sinh của loài nấm Ophiocordyceps sinensis thuộc nhóm nấm Ascomycetes trên cơ thể ấu trùng của một vài loài bướm trong chi Thitarodes Viette, 1968 (trước đây phân loại trong chi Hepialus Fabricius, 1775). Phần dược tính của thuốc đã được chứng minh là do các chất chiết xuất từ nấm Ophiocordyceps sinensis. Nó được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Hoa và y học cổ truyền Tây Tạng.
Tên gọi "đông trùng hạ thảo" (tiếng Tạng: yartsa gunbu hay yatsa gunbu, tiếng Trung: 冬虫夏草, dōng chóng xià cǎo) là xuất phát từ quan sát thực tế khi thấy vào mùa hè nấm Ophiocordyceps sinensis mọc chồi từ đầu con sâu nhô lên khỏi mặt đất. Vào mùa đông thì nhìn cặp cá thể này giống con sâu (côn trùng), còn đến mùa hè thì chúng trông giống một loài thực vật (thảo mộc) hơn.
Hiện nay, do sự săn lùng và hoạt động khai thác quá mức Đông trùng hạ thảo tại Nepal, loại nấm này đang có nguy cơ tuyệt diệt .
Phân loại và tên gọi
Loài này được Miles Berkeley miêu tả khoa học lần đầu tiên năm 1843 như là Sphaeria sinensis. Pier Andrea Saccardo chuyển loài này sang chi Cordyceps vào năm 1878. Từ nguyên của tên khoa học xuất phát từ tiếng Latinh cord "dùi cui, gậy tày", ceps "đầu" và sinensis "từ Trung Quốc". Loài này được biết đến như là Cordyceps sinensis cho tới năm 2007, khi phân tích phát sinh chủng loài phân tử được sử dụng để sửa đổi phân loại của 2 họ Cordycipitaceae và Clavicipitaceae, với kết quả là tạo ra tên gọi cho một họ mới là Ophiocordycipitaceae và việc chuyển một số loài Cordyceps sang chi Ophiocordyceps.
Trong tiếng Tạng nó được biết đến như là (, , "hạ thảo(cỏ), đông trùng (sâu bọ)"), và đây là nguồn gốc của các tên gọi trong tiếng Nepal यार्शागुम्बा, yarshagumba, yarchagumba hay yarsagumba. Chuyển tự sang tiếng Bhutan là Yartsa Guenboob. Nó còn được biết đến như là keera jhar, keeda jadi, keeda ghas hay 'ghaas fafoond trong tiếng Hindi. Tên gọi tiếng Trung Dōng chóng xià cǎo (冬蟲夏草) nghĩa là "đông trùng, hạ thảo" (nghĩa là "sâu mùa đông, [trở thành] cỏ mùa hè"). Tên gọi tiếng Trung là dịch theo nghĩa đen của tên gọi gốc tiếng Tạng, được thầy lang người Tạng là Zurkhar Namnyi Dorje ghi chép lại lần đầu tiên trong thế kỷ XV. Trong ngôn ngữ thông tục tiếng Tạng thì Yartsa gunbu thường được gọi tắt là "bu" hay "yartsa".
Trong y học cổ truyền Trung Hoa, tên gọi của nó thường được viết tắt là chong cao (蟲草 "trùng thảo"), một tên gọi cũng áp dụng cho các loài Cordyceps khác, như C. militaris. Trong tiếng Nhật, nó được gọi là tōchūkasō (冬虫夏草).
Điều ngạc nhiên là đôi khi trong các tài liệu Trung Hoa tiếng Anh thì Cordyceps sinensis được nhắc tới như là aweto [Hill H. Art. XXXVI: The Vegetable Caterpillar (Cordiceps robertsii). Transactions and Proceedings of the Royal Society of New Zealand 1868-1961. Quyển 34, 1901;396-401], và đó là tên gọi trong tiếng Māori để chỉ Cordyceps robertsii, một loài nấm chỉ có ở New Zealand.
Nguồn gốc
Vị thuốc này thực chất là hiện tượng ấu trùng các loài bướm thuộc chi Thitarodes bị nấm thuộc chi Ophiocordyceps và/hoặc Cordyceps ký sinh. Đó là một dạng ký sinh giữa một loài nấm túi có tên khoa học là Ophiocordyceps sinensis(Berk.) G.H.Sung, J.M.Sung, Hywel-Jones & Spatafora (2007), 1878 với sâu non (ấu trùng) của một loài côn trùng thuộc chi Thitarodes. Thường gặp nhất là sâu non của loài Thitarodes baimaensis hoặc Thitarodes armoricanus. Ngoài ra còn 46 loài khác thuộc chi Thitarodes cũng có thể bị Ophiocordyceps sinensis ký sinh. Các loài nấm này phân bố rộng ở châu Á và châu Úc với trung tâm đa dạng là vùng Đông Á, đó là các cao nguyên cao hơn mặt biển từ 4.000 đến 5.000 m như: Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hải, Cam Túc, Vân Nam.
Cơ chế xâm nhiễm của loài nấm này vào cơ thể sâu hiện giờ vẫn chưa rõ. Vào mùa đông, nấm bắt đầu ký sinh vào sâu non và làm chết sâu non vì ăn hết chất dinh dưỡng của chúng. Những con sâu này có thể đã ăn phải bào tử nấm hoặc chúng mắc bệnh nấm ký sinh từ các lỗ thở. Đến khi sợi nấm phát triển mạnh, chúng xâm nhiễm vào các mô vật chủ, sử dụng hoàn toàn các chất dinh dưỡng trong cơ thể sâu. Đến một giai đoạn nhất định thường là vào mùa hè ấm áp, nấm bắt đầu mọc ra khỏi sâu như một ngọn cỏ và vươn lên khỏi mặt đất phát triển thành dạng cây (hình dạng giống thực vật) và phát tán bào tử.
Đông trùng hạ thảo chủ yếu tìm thấy vào mùa hè vùng núi cao trên 4.000m ở cao nguyên Thanh Tạng (Thanh Hải-Tây Tạng) và Tứ Xuyên (Trung Quốc). Tuy nhiên, hiện nay nhiều loài nấm thuộc chi Ophiocordyceps và Cordyceps được nuôi trồng trên quy mô công nghiệp để tinh chế các cơ chất có dược tính.
Mô tả
Hai chi nấm Ophiocordyceps và Cordyceps tương ứng có khoảng 170/570 loài khác nhau, và chỉ riêng ở Trung Quốc đã tìm thấy khoảng 60 loài. Tuy nhiên cho đến nay người ta mới chỉ nghiên cứu nhiều nhất được về hai loài Ophiocordyceps sinensis (Berk.) Sacc. và Cordyceps militaris (L. ex Fr.) Link.. Loài thứ hai được gọi là Nhộng trùng thảo.
Đông trùng hạ thảo khi còn sống, người ta có thể trông rõ hình con sâu, với đuôi là một cành nhỏ, mọc lá. Khi sấy khô, nó có mùi tanh như cá, đốt lên có mùi thơm. Phần "lá" hình dạng giống ngón tay, dài khoảng 4 – 11 cm do sợi nấm mọc dính liền vào đầu sâu non mà thành. Đầu sâu non giống như con tằm, dài chừng 3–5 cm, đường kính khoảng 0,3 - 0,8 cm. Bên ngoài có màu vàng sẫm hoặc nâu vàng với khoảng 20-30 vằn khía, vằn khía ở gần đầu nhỏ hơn. Phần đầu có màu nâu đỏ, đuôi giống như đuôi con tằm, có tất cả tám cặp chân, nhưng 4 đôi ở giữa là rõ nhất. Chất đệm nấm hình que cong mọc ra từ mình sâu non, dài hơn sâu non một chút. Sâu non dễ bẻ gãy, ruột bên trong căng đầy, màu trắng hơi vàng; chất đệm nấm khá dai và bên trong ruột hơi rỗng, có màu trắng ngà.
Thành phần
Các phân tích hoá học cho thấy trong sinh khối của đông trùng hạ thảo có 17 amino acid khác nhau, D-mannitol, lipid, nhiều nguyên tố vi lượng (Al, Si, K, Na v.v..). Quan trọng hơn là trong sinh khối đông trùng hạ thảo có nhiều chất có hoạt tính sinh học mà các nhà khoa học đang phát hiện dần dần ra nhờ các tiến bộ của ngành hoá học các hợp chất tự nhiên. Nhiều hoạt chất này có giá trị dược liệu cao. Trong đó phải kể đến axít cordiceptic, cordycepin, adenosin, hydroxyethyl-adenosin. Đáng chú ý hơn cả là nhóm hoạt chất HEAA (Hydroxy-Etyl-Adenosin- Analogs). Đông trùng hạ thảo còn chứa nhiều loại vitamin (trong 100 g đông trùng hạ thảo có 0,12 g vitamin B12; 29,19 mg vitamin A; 116,03 mg vitamin C, ngoài ra còn có vitamin B2 (riboflavin), vitamin E, vitamin K...)
Công dụng
Theo các ghi chép về đông dược cổ, đông trùng hạ thảo là một vị thuốc bồi bổ hết sức quý giá, có tác dụng tích cực với các bệnh như thận hư, liệt dương, di tinh, đau lưng mỏi gối, ho hen do phế hư hoặc cả phế, thận đều hư, và có tác dụng tốt đối với trẻ em chậm lớn.
Đông trùng hạ thảo là một trong những vị thuốc quý của đông y, được khai thác khó khăn, có khả năng bồi bổ và tăng cường sức khỏe, cải thiện đời sống tình dục, tăng cường khả năng miễn dịch. Mặt khác các nghiên cứu cổ truyền cũng như các thực nghiệm hiện đại đều xác định đông trùng hạ thảo hầu như không có tác dụng phụ đối với cơ thể người và động vật. Liều uống Đông trùng hạ thảo an toàn đối với chuột thí nghiệm là trên 45 g/1 kg thể trọng.
Sử dụng
Tuỳ theo từng bài thuốc mà đông trùng hạ thảo tham gia, người ta có các chế biến nó khác nhau. Phổ biển nhất là hầm lên hoặc ngâm rượu. Cần phải phân biệt loại đông trùng hạ thảo dùng trong đông y và các chất có dược tính được tinh chế từ các chi nấm Cordyceps được nuôi trồng trên quy mô công nghiệp.
Chú thích |
Bệnh phong, lại gọi thêm bệnh ma phong, bệnh hủi, phong cùi, bệnh Hansen, là một thứ bệnh truyền nhiễm mạn tính do vi khuẩn Mycobacterium leprae gây ra, chủ yếu biến hoá bệnh lí ở da thịt và hệ thống thần kinh ngoại biên. Biểu hiện lâm sàng là tổn thương da thịt tính tê liệt, thần kinh sơ sài và to lên, người nghiêm trọng thậm chí tàn phế các đầu thượng chi và hạ chi.
Nguyên nhân phát sinh bệnh tật
Vi khuẩn gây phát bệnh là loài vi khuẩn Mycobacterium leprae (giảng nghĩa: tế khuẩn hình dạng que phân nhánh bệnh ma phong). Khuẩn Mycobacterium leprae sau khi trích xuất và phân li (in vitro), ngay lập tức mất đi lực sinh sôi nẩy nở của nó vào thời điểm mùa hạ ánh sáng Mặt Trời chiếu xạ từ 2 đến 3 giờ đồng hồ, hoặc xử lí một giờ đồng hồ ở nhiệt độ hoặc dùng tia tử ngoại chiếu xạ 2 giờ đồng hồ, có thể mất đi hoạt lực của nó. Thông thường ứng dụng các cách xử lí như nấu sôi, bốc hơi áp suất cao, tia tử ngoại chiếu xạ, v.v liền giết chết chúng ngay.
Bệnh nhân ma phong là túc chủ thiên nhiên của loài vi khuẩn Mycobacterium leprae. Tế khuẩn Mycobacterium leprae phân bố tương đối rộng khắp ở bên trong thân thể bệnh nhân, thấy chủ yếu ở bên trong một ít tế bào nào đó có hệ thống nội bì hình dạng lưới như da thịt (da mặt ngoài và da dính thịt ở mặt trong), màng nhầy, hệ thống thần kinh ngoại biên, hạch bạch huyết, lá lách và gan, v.v Ở da thịt chủ yếu phân bố ở các nơi như đuôi mút thần kinh, đại thực bào, cơ trơn phẳng, khu vực tóc lông, vách mạch máu, v.v Ở màng nhầy là thường hay thấy nhất. Ngoài ra các nơi như tuỷ xương, cao hoàn, tuyến thượng thận, phần não trước mắt, v.v cũng là một phần vị trí mà khuẩn Mycobacterium leprae dễ dàng xâm lấn và tồn tại, trong dịch máu chung quanh và cơ vân ngang cũng có thể phát hiện số lượng ít vi khuẩn Mycobacterium leprae. Vi khuẩn Mycobacterium leprae chủ yếu thông qua da thịt lở loét và màng nhầy mà bài tiết ra ngoài cơ thể, mặt khác ở trong sữa, nước mắt, tinh dịch và chất rỉ ở âm đạo, cũng có vi khuẩn Mycobacterium leprae, nhưng mà lượng vi khuẩn rất ít.
Nguồn gốc truyền nhiễm của bệnh ma phong là bệnh nhân bệnh ma phong chưa trải qua chữa trị, trong đó da thịt và màng nhầy của nhiều người bệnh tật kiểu vi khuẩn có chứa số lượng nhiều vi khuẩn Mycobacterium leprae, là nguồn truyền nhiễm trọng yếu nhất. Phương thức truyền nhiễm chủ yếu là truyền nhiễm do tiếp xúc trực tiếp, sau nó là truyền nhiễm do tiếp xúc gián tiếp.
Truyền nhiễm do tiếp xúc trực tiếp
Thông qua sự tiếp xúc thương tổn da thịt và màng nhầy có chứa vi khuẩn Mycobacterium leprae và da thịt hoặc màng nhầy của người khoẻ mạnh có thương tổn mà gây ra, mức độ mật thiết của tiếp xúc có quan hệ với phát bệnh truyền nhiễm, đây là phương thức chủ yếu mà truyền thống cho biết là bệnh ma phong lan truyền rộng khắp. Trước mắt là bọt bay trong không khí và giọt treo lơ lửng mà người mang vi khuẩn ho và hắt hơi thông qua màng nhầy ở đường hô hấp trên của người khoẻ mạnh mà tiến vào thân thể người, là đường lối chủ yếu mà tế khuẩn Mycobacterium leprae lan truyền rộng khắp.
Truyền nhiễm do tiếp xúc gián tiếp
Loại phương thức này là người khoẻ mạnh và người bệnh ma phong tính truyền nhiễm trải qua môi giới lây truyền nhất định cho nên bị truyền nhiễm. Thí dụ tiếp xúc áo quần, đệm chăn, khăn tay, đồ ăn, v.v mà người bệnh truyền nhiễm dùng qua. Tính khả năng của truyền nhiễm do tiếp xúc gián tiếp là rất ít.
Cần phải chỉ ra rằng, sức đề kháng của cơ thể tin chắc là nhân tố phát sinh tác dụng chủ đạo trong quá trình truyền nhiễm. Sau khi tế khuẩn Mycobacterium leprae tiến vào cơ thể có phải là quá trình và biểu hiện phát bệnh và sau phát bệnh hay không, chủ yếu lấy quyết định ở sức đề kháng của người bị truyền nhiễm, cũng chính là trạng thái miễn dịch của cơ thể. Mấy năm gần đây không ít người cho biết là, bệnh ma phong cũng đồng dạng với rất nhiều bệnh truyền nhiễm khác, có tồn tại truyền nhiễm á lâm sàng, tuyệt đại đa số người tiếp xúc sau khi bị nhiễm đã thiết lập khả năng miễn dịch đặc tính đối với tế khuẩn Mycobacterium leprae, chấm dứt lây nhiễm bằng phương thức truyền nhiễm á lâm sàng.
Trị liệu
Cần chữa bệnh vào thời kì đầu, đúng lúc, đủ lượng, đủ hạn và có quy tắc, có thể khiến cho sự khoẻ mạnh phục hồi khá nhanh, giảm bớt tàn phế dị hình và tái phát xuất hiện. Để cho giảm bớt sản sinh tính kháng thuốc, bây giờ chủ trương liệu pháp hợp nhất nhiều tầng thuốc (MDT), tức là dược phẩm hoá học kháng bệnh ma phong kết hợp trị liệu.
1) Dược phẩm hoá học
Dapsone (DDS) là dược phẩm hoá học chọn lựa đầu tiên. Tác dụng phụ có thiếu máu, viêm da do thuốc, giảm thiểu tế bào hạt và làm cản trở chức năng gan và thận, v.v Mấy năm gần đây, bởi vì xuất hiện biến gốc vi khuẩn Mycobacterium leprae chịu đựng thuốc dapsone, phần nhiều chủ trương chọn dùng liệu pháp kết hợp.
Clofazimine (B633) không những khống chế được vi khuẩn Mycobacterium leprae lại còn chống lại bệnh ma phong loại II. Uống lâu dài có thể xuất hiện hoá đỏ da thịt và sạm dần sắc tố.
Rifampicin (RFP) có tác dụng sát diệt mau lẹ đối với vi khuẩn Mycobacterium leprae.
2) Liệu pháp miễn dịch
Liệu pháp miễn dịch đặc biệt đang nghiên cứu vắc-xin sống BCG làm chết thêm vi khuẩn Mycobacterium leprae tiến hành đồng thời với hoá học trị liệu kết hợp. Mặt khác, như nhân tố chuyển di, levamisole, v.v có thể được coi là trị liệu phụ trợ.
3) Trị liệu phản ứng phong
Xem xét chọn dùng các loại thuốc như thalidomide, kích tố corticosteroid, clofazimine, lôi công đằng, đóng kín tĩnh mạch và thuốc kháng histamin.
4) Xứ lí bệnh biến chứng
Người lở loét ung nhọt đáy bàn chân, chú ý tẩy sạch cục bộ, phòng ngừa và ngăn cấm bị nhiễm khuẩn, nghỉ ngơi thích hợp, lúc tuyệt đối phải cần thì phải mở tách nhọt hoặc cấy da. Người dị hình, tăng cường tập luyện, vật lí trị liệu, châm cứu, lúc tuyệt đối phải cần thì làm phẫu thuật chỉnh hình.
Mô tả
Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn vết thương lõm vào da thịt. Lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói khàn. Người bệnh cũng không còn cảm giác nóng, lạnh và đau.
Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng móng tay móng chân rụng dần.
Góc độ xã hội và sự lây nhiễm
Trước kia, bệnh phong là bệnh nan y, không thể chữa được nên người ta rất khiếp sợ nó. Trong xã hội, người bị nhiễm bệnh thường chịu thành kiến, chịu sự hắt hủi, xa lánh thậm chí bị ngược đãi (trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt).
Thực ra bệnh chỉ lây khi tiếp xúc lâu dài với các thể phong nặng (phong hở) như phong ác tính, phong đang tiến triển, chảy nước mũi nhiều và có tổn thương lở loét ở da, ở bàn tay, bàn chân. Các thể phong nhẹ khác như phong bất định, phong củ ít có khả nǎng lây hơn nhiều.
Cơ chế lây nhiễm của bệnh phong vẫn chưa được hiểu biết thấu đáo, nhưng người ta cho rằng bệnh lây qua các dịch nhầy (nước mũi...) của người bệnh, nhưng đòi hỏi phải có tiếp xúc gần và kéo dài. Tuy nhiên, nếu người bệnh đã bắt đầu điều trị thì khả năng truyền bệnh của họ giảm tới 99%. Đồng thời, khoảng 95% dân số có miễn nhiễm tự nhiên với bệnh này. Theo thông tin mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện nay ngày càng có sự ủng hộ quan điểm cho rằng bệnh phong có thể lây qua đường hô hấp, đồng thời cũng không thể loại trừ hoàn toàn khả năng lây truyền qua côn trùng.
Tỷ lệ lây giữa vợ chồng chỉ là 2-3%. Bệnh không di truyền và có thể chữa khỏi.
Hiện có nhiều loại thuốc điều trị rất có hiệu quả. Trong đó khi dùng thuốc Rifampicine sau 5 ngày sẽ hạn chế khả năng lây lan của vi khuẩn tới 99,9%.
Tại Việt Nam
Trong quá khứ, rất nhiều người Việt Nam đã bị cướp đi sinh mạng từ căn bệnh này. Trong số đó, có nhà thơ nổi tiếng Hàn Mặc Tử.
Việt Nam có các trại phong ở Quỳnh Lập (Nghệ An), Vǎn Môn, Sóc Sơn (Hà Nội), Phú Bình, Sơn La, Quy Hòa, Bến Sắn, Đắc Nông, Chư Prông, Đức Cơ - thuộc tỉnh Gia Lai (chỗ này thực chất không phải là một trại phong chính thức (được tổ chức qui củ, cụ thể và có kèm theo bệnh viện, trạm xá, nhân viên y tế). Đây là một làng, nằm ở trong rừng, có cư dân là những bệnh nhân phong sống với nhau. Hiện nay có vài tu sĩ Công giáo đang cùng họ chiến đấu với bệnh phong ở đây).
Hiện nay ở Việt Nam, con số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có từ 120.000 đến 150.000, 23.371
đã được chữa lành, 18.000 còn biểu hiện di chứng, tỷ lệ mắc phải 0,1/10.000 (1/100.000 dân), tổng
số làng phong đếm được là 13.
(1): lâu đời nhất cả nước và đông nhất miền bắc Việt Nam.
(2): do linh mục Paul Maheu sáng lập (Ngày 3 tháng 3 năm 1930, một buổi diễn thuyết
được BS Lemoine và cha Maheu tổ chức ở Sài Gòn, do các Giám mục địa phận Saigon
(Dumortier), Quy Nhơn (Tardieu), Gouin (Lào) và Blois (Thẩm Dương) bảo trợ ngõ hầu vận động đóng góp tài chánh cho công trình xây dựng trại phong Quy Hòa cho
hơn 1500 bệnh nhân.
(3): do linh mục (sau là giám mục) Jean Cassaigne (1895-1973), Hội Thừa Sai sáng lập.
(4): do Giáo hội Tin Lành và mạnh thường quân Na Uy sáng lập.
Chú thích |
Vĩnh Long là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Ý nghĩa tên gọi
Vĩnh Long viết theo chữ Hán là (永隆). (Vĩnh trong vĩnh viễn, vĩnh hằng, nghĩa là "mãi mãi"; Long trong long trọng, nghĩa là "thịnh vượng, giàu có"). Tên Vĩnh Long thể hiện mong muốn nơi đây luôn được thịnh vượng muôn đời. Tuy nhiên do không hiểu nghĩa, tên Vĩnh Long bị một bộ phận giới trẻ gọi là "Vĩnh Dragon" (không biết nghĩa của chữ Vĩnh và nhầm với chữ Long 龍 mang nghĩa là "rồng").
Địa lý
Tỉnh Vĩnh Long nằm giữa hai nhánh sông chính của sông Cửu Long là sông Tiền và sông Hậu. Tỉnh lỵ Vĩnh Long cách Thành phố Hồ Chí Minh 100 km về phía Nam theo Quốc lộ 1, cách Cần Thơ 33 km về phía Bắc theo Quốc lộ 1. Tỉnh Vĩnh Long nằm trong tọa độ từ 9°52’40’’ đến 10°19’48’’ độ vĩ bắc và 105041’18’’ đến 106017’03’’ độ kinh đông. Nhìn bao quát, tỉnh Vĩnh Long như một hình thoi nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng châu thổ hạ lưu sông Cửu Long:
Phía đông giáp Bến Tre
Phía đông nam giáp Trà Vinh
Phía Tây giáp Cần Thơ
Phía tây bắc giáp Đồng Tháp
Phía đông bắc giáp Tiền Giang
Phía tây nam giáp Hậu Giang và Sóc Trăng.
Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Vĩnh Long có dạng địa hình khá bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 2°, có cao trình khá thấp so với mực nước biển, Với dạng địa hình đồng bằng ngập lụt cửa sông, tiểu địa hình của tỉnh có dạng lòng chảo ở giữa trung tâm tỉnh và cao dần về 2 hướng bờ sông Tiền, sông Hậu, sông Mang Thít và ven các sông rạch lớn. Tỉnh Vĩnh Long nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Lượng mưa bình quân hàng năm từ 1.400 - 1.450 mm kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11, chiếm 85% lượng mưa cả năm, nhiệt độ tương đối cao, ổn định, nhiệt độ trung bình là 27 °C, biên độ nhiệt trung bình năm nhỏ, độ ẩm trung bình 79,8%, số giờ nắng trung bình năm lên tới 2.400 giờ.
Vĩnh Long có cấu trúc địa chất tương đồng với khu vực, chủ yếu là trầm tích biển của kỉ Đệ Tứ trong Đại Tân sinh. Vĩnh Long tuy có diện tích đất phèn lớn, tầng sinh phèn ở rất sâu, tỉ lệ phèn ít, song đất có chất lượng cao, màu mỡ vào bậc nhất so với các tỉnh trong vùng. Đặc biệt tỉnh có hàng vạn ha đất phù sa ngọt ven sông Tiền và sông Hậu (lượng phù sa trung bình là 374 g/m³ nước sông vào mùa lũ), đất tốt, độ phì nhiêu cao, trồng được hai vụ lúa trở lên, cho năng suất cao, sinh khối lớn lại thuận lợi về giao thông kể cả thủy và bộ. Vĩnh Long còn có lượng cát sông và đất sét làm vật liệu xây dựng khá dồi dào. Cát sông với trữ lượng khoảng 100 - 150 triệu m³, được sử dụng chủ yếu cho san lấp và đất sét với trữ lượng khoảng 200 triệu m³, là nguyên liệu sản xuất gạch và làm gốm.
Vĩnh Long là tỉnh đặc biệt nghèo về tài nguyên khoáng sản, cả về số lượng lẫn chất lượng. Tỉnh chỉ có nguồn cát và đất sét làm vật liệu xây dựng, đây là nguồn thu có ưu thế lớn nhất của tỉnh Vĩnh Long so với các tỉnh trong vùng về giao lưu kinh tế và phát triển thương mại - du lịch. Tỉnh Vĩnh Long nằm giữa hai con sông lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long, nên có nguồn nước ngọt quanh năm, đó là tài nguyên vô giá mà thiên nhiên ban tặng. Vĩnh Long có mạng lưới sông ngòi chằng chịt, hình thành hệ thống phân phối nước tự nhiên khá hoàn chỉnh, cùng với lượng mưa trung bình năm lớn đã tạo điều kiện cho sản xuất và sinh hoạt của người dân..
Lịch sử
Năm 1732, vùng đất Vĩnh Long thời ấy được Nguyễn Phúc Chú thành lập, với tên gọi đầu tiên của tỉnh là Châu Định Viễn, thuộc dinh Long Hồ. Năm 1779, đổi tên thành Hoằng Trấn dinh. Giai đoạn từ năm 1780 đến năm 1805, đổi thành Vĩnh Trấn, từ năm 1806 đến năm 1832, Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Từ năm 1832 đến năm 1950, tên gọi Vĩnh Long được hình thành với vai trò là một tỉnh. Giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1954, Vĩnh Long được đổi thành tỉnh Vĩnh Trà. Từ năm 1954 đến 1975, tỉnh Vĩnh Long được tái lập lần thứ 2. Từ năm năm 1976 đến tháng 5 năm 1992, mang tên là tỉnh Cửu Long, Cuối cùng là từ ngày 5 tháng 5 năm 1992 tỉnh Vĩnh Long được sử dụng đến ngày hôm nay.
Năm 1698, khi Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, toàn bộ vùng đất mới phương Nam chính thức trở thành một đơn vị hành chính mang tên phủ Gia Định.
Năm 1714, đời chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu), lúc này Vĩnh Long là trung tâm của châu Định Viễn, bao gồm một phần của Bến Tre ở mạn trên và Trà Vinh ở mạn dưới thuộc Long Hồ Dinh.
Năm 1732, dưới thời Nguyễn Phúc Chú đã lập ở phía nam dinh Phiên Trấn đơn vị hành chính mới là Dinh Long Hồ, Châu Định Viễn, đất Vĩnh Long thuộc Dinh Long Hồ.
Đến năm Đinh Sửu (1757) thì chuyển đến xứ Tầm Bào (thuộc địa phận thôn Long Hồ, nay là Thành phố Vĩnh Long). Thành Long Hồ được xây dựng tại xứ Tầm Bào là thủ phủ của một vùng rộng lớn. Nhờ đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc, việc buôn bán thông thương phát đạt, địa thế trung tâm…, dinh Long Hồ trở thành một trung tâm quan trọng thời bấy giờ. Để bảo đảm an ninh quốc gia, Chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây nhiều đồn binh như: Vũng Liêm, Trà Ôn,...
Đến giữa thế kỷ XVIII, dinh Long Hồ là thủ phủ của vùng đất phía nam và là đại bản doanh của quân đội chúa Nguyễn có nhiệm vụ phòng thủ, ổn định và bảo vệ đất nước. Sử cũ còn ghi:
Nơi đây, trong khoảng 10 năm (1776–1787), cũng từng là chiến trường diễn ra nhiều cuộc giao chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân (chúa Nguyễn và Nguyễn Ánh), từ trận đầu tiên là trận tập kích Long Hồ của Nguyễn Lữ. Năm 1784, tại sông Mang Thít (Vĩnh Long) nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh thắng trận Rạch Gầm – Xoài Mút (Tiền Giang), làm liên quân Xiêm La do Nguyễn Ánh cầu viện đại bại.
Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Ánh đổi dinh Long Hồ, châu Định Viễn thành dinh Vĩnh Trấn. Năm Mậu Thân (1788), sau khi lấy lại đất Nam Bộ từ tay nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lập 2 đạo Long Xuyên và Kiên Giang của trấn Hà Tiên nhập vào dinh Vĩnh Trấn.
Thời nhà Nguyễn, năm Quý Hợi (1803), Gia Long (Nguyễn Ánh) cắt đất dinh Long Hồ xưa lập thành dinh Hoằng Trấn.
Năm Gia Long thứ 7 (1808), Vĩnh Trấn, Hoằng Trấn được đổi làm trấn Vĩnh Thanh thuộc tổng trấn Gia Định, đồng thời thăng châu Định Viễn làm phủ với 3 huyện: Vĩnh Bình, Vĩnh An và Tân An.
Năm 1810, lại cắt 2 đạo Kiên Giang với Long Xuyên về trấn Hà Tiên như cũ.
Năm 1813, Gia Long lập thêm huyện Vĩnh Định thuộc trấn Vĩnh Thanh. Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là quan Hiệp trấn Vĩnh Thanh, với chức phó là quan Tham Hiệp. Các quan Trấn thủ Vĩnh Thanh gồm: Nguyễn Văn Thoại.
Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Minh Mạng chia huyện Tân An thành 2 huyện Tân An và Bảo An thuộc phủ mới lập tên là Hoằng An.
Năm 1832, Minh Mạng đổi tên trấn Vĩnh Thanh thành Vĩnh Long, lấy thêm 2 huyện Tuân Nghĩa, Trà Vinh của phủ Lạc Hóa thành Gia Định nhập vào Vĩnh Long và đổi trấn thành tỉnh Vĩnh Long (chữ Hán:永隆). Nhưng đồng thời, lại cắt các huyện Vĩnh Định, An Định và đạo Châu Đốc sang tỉnh An Giang. Cùng năm 1832, Minh Mạng cho lập thêm huyện Vĩnh Trị thuộc phủ Định Viễn tỉnh Vĩnh Long. Đặt chức tổng đốc Long-Tường để thống lĩnh 2 tỉnh Vĩnh Long và Định Tường, cùng với các chức Án sát và Bố chính lo các công việc thuộc chức năng của Bộ Hình và Bộ Hộ ở cấp tỉnh, giúp cho Tổng đốc. Quần đảo Côn Lôn (tức Côn Đảo) thuộc tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn.
Năm 1833, tỉnh Vĩnh Long bị quân Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đóng, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp, cuối cùng án sát Vĩnh Long là Doãn Uẩn lấy lại được tỉnh thành (thành Long Hồ) từ tay quân của Khôi.
Năm 1837, Minh Mạng lập thêm ở Vĩnh Long 1 phủ Hoằng Trị và 2 huyện (Bảo Hựu, Duy Minh).
Năm Tự Đức thứ 4 (1851), nhà Nguyễn bỏ phủ Hoằng An, gộp các huyện của phủ này vào phủ Hoằng Trị. Thời vua Tự Đức cho đến khi Pháp chiếm Vĩnh Long (1851-1862), tỉnh Vĩnh Long gồm 3 phủ là Hoằng An, Định Viễn, Lạc Hóa, Cùng với 8 huyện là huyện Vĩnh Bình, huyện Vĩnh Trị, huyện Bảo Hựu, huyện Tân Minh, huyện Bảo An, huyện Duy Minh, huyện Tuân Nghĩa, huyện Trà Vinh, đồng thời Quần Đảo Côn Lôn (Côn Đảo) cũng thuộc sự quản hạt của tỉnh Vĩnh Long.
Ngày 6 tháng 8 năm 1867, hạt thanh tra Định Viễn đổi thành hạt thanh tra Vĩnh Long.
Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, hạt thanh tra Vĩnh Long được đổi thành hạt tham biện Vĩnh Long, có 14 tổng.
Ngày 12 tháng 5 năm 1879, giải thể tổng Vĩnh Trung, nhập các làng vào tổng Bình Long. Chánh tham biện lúc này là Luro.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, hạt tham biện Vĩnh Long được đổi thành tỉnh Vĩnh Long, do G. Bertin làm chủ tỉnh đầu tiên.
Ngày 25 tháng 1 năm 1908, địa bàn tỉnh Vĩnh Long được chia thành 5 quận là Long Châu, Chợ Lách, Cái Nhum, Vũng Liêm, Ba Kè. Chủ tinh Vĩnh Long lúc này là G. Caillard (1908 - 1909)
Ngày 9 tháng 2 năm 1913, tỉnh Vĩnh Long nhận thêm địa bàn tỉnh Sa Đéc giải thể.
Ngày 1 tháng 12 năm 1913, lập thêm 2 quận Cao Lãnh, Sa Đéc.
Ngày 1 tháng 4 năm 1916, lập quận Lai Vung.
Ngày 29 tháng 6 năm 1916, đổi tên quận Ba Kè thành quận Chợ Mới.
Ngày 9 tháng 2 năm 1917, địa bàn tỉnh Vĩnh Long được sắp xếp lại, gồm 7 quận gồm có Châu Thành, Chợ Lách, Vũng Liêm, Chợ Mới, Sa Đéc, Cao Lãnh, Lai Vung.
Ngày 7 tháng 11 năm 1917, quận Chợ Mới được đổi thành quận Tam Bình.
Ngày 29 tháng 2 năm 1924, tách 3 quận Sa Đéc, Lai Vung, Cao Lãnh ra khỏi tỉnh Vĩnh Long để lập lại tỉnh Sa Đéc, tỉnh Vĩnh Long lúc này còn 4 quận.
Ngày 11 tháng 8 năm 1942, tỉnh Vĩnh Long còn 3 quận là Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm.
Trước năm 1948, hai huyện Cầu Kè, Trà Ôn thuộc tỉnh Cần Thơ, từ năm 1948 đến năm 1950, hai huyện này thuộc tỉnh Vĩnh Long. Từ năm 1951 đến năm 1954, thuộc tỉnh Vĩnh Trà (Chính quyền Cách Mạng).
Từ năm 1954 đến năm 1971, Trà Ôn thuộc huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh.
Thời kỳ 1971 đến năm 1975 huyện Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Sang thời Việt Nam Cộng hòa, chính quyền Đệ Nhất Cộng hòa chia tỉnh Vĩnh Long làm 6 quận, 22 tổng, 81 xã (Nghị định số 308-BNV/NC/NĐ của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 8 tháng 10 năm 1957): Các quận là Châu Thành, Chợ Lách, Tam Bình, Bình Minh, Sa Đéc.
Ngày 10 tháng 3 năm 1961, quận Cái Nhum được tái lập và đến ngày 31 tháng 5 năm 1961 thì đổi tên thành quận Minh Đức.
Ngày 11 tháng 7 năm 1962, 2 quận là Đức Tôn, Đức Thành được thành lập.
Ngày 24 tháng 9 năm 1966, 4 quận gồm Lấp Vò, Sa Đéc, Đức Tôn, Đức Thành được tách ra để tái lập tỉnh Sa Đéc.
Ngày 14 tháng 1 năm 1967, tỉnh Vĩnh Long nhận thêm quận Trà Ôn, Vũng Liêm từ tỉnh Vĩnh Bình.
Đến ngày 2 tháng 8 năm 1969, Theo Nghị định số 856-NĐ/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, thì Vĩnh Long có 7 quận, 18 tổng, 65 xã. Các quận là Châu Thành - Vĩnh Long, Chợ Lách, Tam Bình, Bình Minh, Minh Đức, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Đầu năm 1976, Vĩnh Long đã sáp nhập với Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long.
Nhưng đến ngày 26 tháng 12 năm 1991 lại tách ra thành hai tỉnh riêng như cũ. Khi tách ra, tỉnh Vĩnh Long, gồm thị xã Vĩnh Long và 5 huyện: Bình Minh, Long Hồ, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Ngày 13 tháng 2 năm 1992, tái lập huyện Mang Thít trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của huyện Long Hồ.
Ngày 31 tháng 7 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 125/2007/NĐ-CP, thành lập huyện Bình Tân trên cơ sở tách 11 xã phía bắc của huyện Bình Minh, huyện lị đặt tại xã Tân Quới.
Ngày 10 tháng 4 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP, về việc thành lập thành phố Vĩnh Long trực thuộc tỉnh Vĩnh Long, trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Vĩnh Long.
Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết 89/NQ-CP thành lập thị xã Bình Minh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Bình Minh.
Tỉnh Vĩnh Long có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh và các huyện: Bình Tân, Long Hồ, Mang Thít, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Hành chính
Tỉnh Vĩnh Long có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện với 107 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 thị trấn, 14 phường và 87 xã.
Kinh tế
Năm 2018, Vĩnh Long là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 41 về số dân, xếp thứ 42 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 35 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 62 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.051.800 người dân, GRDP đạt 47.121 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0465 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 44,8 triệu đồng (tương ứng với 1.946 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,17%.
Năm 2011, GRDP tỉnh Vĩnh Long tăng trưởng hơn 10% và cao hơn bình quân cả nước, GDP bình quân đầu người của tỉnh đạt gần 24 triệu đồng. Lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt mức cao nhất từ trước đến nay với gần 390 triệu USD, tăng 50% so kế hoạch năm. Các ngành hàng nông sản tiếp tục khẳng định là thế mạnh chủ lực của tỉnh như: nấm rơm, trứng vịt muối, thủy sản đông lạnh, v.v … Trong đó lúa gạo là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu. Lần đầu tiên sau nhiều năm Vĩnh Long có sản lúa vượt trên 1 triệu tấn. Năng suất lúa bình quân 5,6 tấn/ha, theo định hướng của chính phủ và đưa Vĩnh Long trở thành một trong những tỉnh xuất khẩu gạo lớn của cả nước với sản lượng xuất khẩu đạt gần 438.000 tấn.
Trong năm 2011, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu tiêu dùng xã hội ước thực hiện đạt 21.000 tỷ đồng. Vĩnh Long đã đón 750.000 lượt khách đến tham quan. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt gần 6.500 tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay năm 2011 là 13.350 tỷ đồng, nguồn vốn huy động ước đạt 12.000 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh đạt hơn 1.500 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách ước đạt hơn 2.200 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách ước thực hiện được trên 3.600 tỷ đồng.
Năm 2012, mặc dù gặp nhiều khó khăn như lạm phát tăng cao, thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh xuất hiện nhiều, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 vẫn đạt khá, ước đạt 10,2%. Tỉnh Vĩnh Long thực hiện đạt và vượt 17/23 chỉ tiêu đề ra. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh ước đạt 9.255 tỷ đồng, tăng gần 8% so với năm 2011, GDP bình quân đầu người đạt gần 32 triệu đồng trên năm. Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn khá lạc quan, với mức tăng trên 15%. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện gần 400 triệu USD. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cơ cấu nội bộ ngành tiếp tục chuyển dịch đúng hướng và hiệu quả. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản ước đạt 6.552 tỷ đồng, tăng hơn 3% so với năm 2011. Diện tích vườn cây ăn trái của tỉnh hiện có trên 47.000 ha,trong đó hơn 40.000 ha đang cho sản phẩm. Sản lượng thu hoạch cả năm đạt trên 493 ngàn tấn.
Năm 2019, nền kinh tế của tỉnh Vĩnh Long duy trì đà tăng trưởng, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng 6,22%.
Các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 của tỉnh Vĩnh Long cơ bản được hoàn thành, ước có 20/22 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch đề ra, trong đó có 7 chỉ tiêu vượt kế hoạch. Cụ thể, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm ước đạt 6.794 tỷ đồng, đạt 110,1% dự toán và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 14.117 tỷ đồng, đạt 102,29% kế hoạch và tăng 8,46% so với năm 2018.
Cùng với đó, tạo thêm việc làm mới cho 25.242 lao động, đạt 126,21% kế hoạch và tăng 8,82% so với năm 2018; thu nhập bình quân đầu người (theo giá thực tế) đạt 50,65 triệu đồng, tăng 2,55 triệu đồng so với năm 2018 (năm 2018 là 48,1 triệu đồng)...
Xã hội
Y tế
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008, tỉnh Vĩnh Long có 116 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 17 bệnh viện, 101 trạm y tế phường xã và 6 phòng khám đa khoa khu vực. Năm 2008, tỉnh có 471 bác sĩ, 500 y tá, 623 y sĩ, 51 dược sĩ cao cấp, 192 dược sĩ trung cấp và 80 dược tá. Các địa phương có trạm y tế đạt chuẩn đặc biệt là tại thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh, Vĩnh Long, các huyện Mang Thít và Trà Ôn.
Danh sách các bệnh viện thuộc tỉnh Vĩnh Long:
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Long
Bệnh viện Y Dược Cổ truyền Vĩnh Long
Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Vĩnh Long
Bệnh viện Tâm thần Vĩnh Long
Bệnh viện Đa khoa khu vực kết hợp Quân dân y Tân Thành
Bệnh viện Đa khoa khu vực Hoà Phú
Bệnh viện Triều An - Loan Trâm
Bệnh viện Xuyên Á Vĩnh Long
Bệnh viện Đa khoa Nguyễn Văn Thủ (TTYT huyện Vũng Liêm)
Trung tâm Y tế TP. Vĩnh Long, TX. Bình Minh và các huyện: Bình Tân, Trà Ôn, Mang Thít, Tam Bình, Long Hồ.
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Vĩnh Long có 371 trường học ở cấp phổ thông trong đó có Trung học phổ thông có 31 trường, Trung học cơ sở có 92 trường, Tiểu học có 239 trường, trung học có 9 trường, bến cạnh đó còn có 124 trường mẫu giáo và 3 trường Đại học, 5 trường Cao đẳng và 1 trường văn hóa nghệ thuật. Dưới đây là danh sách các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long:
Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long
Trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long
Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long
Trường Đại học Cửu Long
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
Trường Đại học Xây dựng Miền Tây
Trường Cao đẳng Nghề Vĩnh Long
Trường Trung cấp Y tế Vĩnh Long
Trường Chính trị Phạm Hùng
Trường Văn hóa Nghệ thuật Vĩnh Long
Tỷ lệ người lớn biết chữ là 94,6%, cao hơn mức trung bình của khu vực và cả nước. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh Vĩnh Long tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Dân cư
Theo thống kê năm 2020, tỉnh Vĩnh Long có diện tích 1.525,73 km², dân số năm 2019 là 1.022.619 người, mật độ dân số đạt 670 người/km².
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Vĩnh Long đạt 1.023.069 người (xếp thứ 10 trong tổng số 13 tỉnh thành Đồng bằng sông Cửu Long), mật độ dân số đạt 687 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 169.862 người, chiếm 16,6% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 852.929 người, chiếm 83,4% dân số. Dân số nam đạt 503.878 người, trong khi đó nữ đạt 518.913 người. Nhóm tuổi từ 15 đến 59 tuổi chiếm 69,83% dân số Vĩnh Long, hai nhóm tuổi còn lại là từ 0 đến 14 tuổi và trên 60 tuổi lần lượt chiếm 9,09% và 21,08% dân số toàn tỉnh. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,02‰, tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên là 0,87%. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 là 23,26%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Vĩnh Long có 20 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh có 997.792 người, người Khmer có 21.820 người, người Hoa có 4.987 người, còn lại là những dân tộc khác như Tày, Thái, Chăm, Mường...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Vĩnh Long có 11 tôn giáo khác nhau chiếm 262.280 người, nhiều nhất là Phật giáo có 77.660 người, Phật giáo Hòa Hảo có 66.269 người, Công giáo có 66.220 người, đạo Cao Đài có 46.226 người, các tôn giáo khác như Tin Lành có 3.641 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 1.842 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 327 người, Hồi giáo 56 người, Minh Sư Đạo có 22 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 16 người, còn lại là đạo Bà-la-môn chỉ có một người.
Văn hóa
Do địa thế và lịch sử hình thành, từ ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa cùng sinh sống lâu đời ở đây đã hòa quyện và tạo nên một nền văn hóa đặc trưng cho vùng đất này. Vĩnh Long có khá nhiều loại hình văn học dân gian như: nói thơ Vân Tiên, nói tuồng, nói vè, hát Huê Tình, cải lương... Vĩnh Long cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa như: thành Long Hồ, Công Thần Miếu Vĩnh Long, đình Tân Giai, đình Tân Hoa, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, Khu tưởng niệm cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng.
Truyền thông
Là đài phát thanh và truyền hình trực thuộc Tỉnh ủy, Sở thông tin truyền thông & Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Tên viết tắt của đài là THVL và có trong biểu trưng của đài. Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long được rất nhiều khán giả tại Nam Bộ yêu thích với các chương trình giải trí và phim truyện hấp dẫn. Nhạc hiệu của đài là bài hát "Nam Bộ kháng chiến", được sử dụng tới năm 2012.
Giao thông
Vĩnh Long có Quốc lộ 1, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông đi ngang qua, cùng với các quốc lộ khác như Quốc lộ 53, Quốc lộ 54, Quốc lộ 57, Quốc lộ 80 và đường cao tốc Hồng Ngự – Trà Vinh. Các tuyến đường tỉnh: 901, 902,903, 904, 905, 906, 907, 908, 909 và 910.
Các tuyến giao thông đường thủy của tỉnh cũng khá thuận lợi, các tuyến giao thông này nối liền tỉnh Vĩnh Long với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, tạo cho Vĩnh Long một vị thế rất quan trọng trong chiến lược phát triển và hợp tác kinh tế với cả vùng.
Danh nhân
Vùng đất Vĩnh Long đã sản sinh ra nhiều chính khách và lãnh đạo của nhiều chế độ khác nhau trong lịch sử, ví dụ như:
Võ Văn Kiệt (1922-2008): quê ở huyện Vũng Liêm, Nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 1991 đến 1997, ông được đánh giá là người đẩy mạnh công cuộc Đổi mới ở Việt Nam
Võ Văn Thưởng (1970): Quê ở huyện Mang Thít, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Phạm Hùng (1912-1988): quê ở huyện Long Hồ, Nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 1987 đến 1988, và là nguyên Bí thứ Trung ương Cục miền Nam từ 1967 đến 1975
Phan Văn Đáng (1918-1997): quê ở huyện Tam Bình, là cựu Phó Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ 1976 đến 1981
Cao Văn Bổn (?-1971): quê ở huyện Tam Bình, nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế - Tài chính của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam từ 1969 đến 1971
Phùng Văn Cung (1909-1987): quê ở thành phố Vĩnh Long, nguyên Phó Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (tương đương Phó Thủ tướng) kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam từ 1969 đến 1976
Trần Đại Nghĩa (1913-1997): quê ở huyện Tam Bình, là giáo sư, kỹ sư quân sự và Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam
Nguyễn Văn Lộc (1922-1992): quê ở thành phố Vĩnh Long, là cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa từ 1967 đến 1968
Trần Văn Hương (1903-1982): quê ở thành phố Vĩnh Long, là cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa từ 1964 đến 1965 và từ 1968 đến 1969, đồng thời cũng là cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa từ 1971 đến 1975, rồi là cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa trong 7 ngày vào năm 1975
Trần Văn Hữu (1895-1985): quê ở huyện Long Hồ, là cựu Thủ tướng Quốc gia Việt Nam kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Quốc gia Việt Nam từ 1950 đến 1952
Phan Khắc Sửu (1905-1970): quê ở thị xã Bình Minh, là cựu Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa từ 1964 đến 1965
Hình ảnh
Chú thích |
ISO 3166-2 là phần thứ hai của tiêu chuẩn ISO 3166. Nó là hệ thống mã địa lý được tạo ra để mã hóa các tên gọi của các đơn vị hành chính thuộc các quốc gia (Đơn vị hành chính quốc gia) và các vùng lãnh thổ độc lập. Mục đích chính của tiêu chuẩn này là thiết lập cách viết tắt có phạm vi toàn thế giới cho các địa điểm để sử dụng trên các tem mác đóng gói, công ten nơ, và ở những chỗ mà cách viết tắt có thể chỉ ra rõ ràng hơn vị trí của khu vực một cách thuận tiện hơn và ít nhầm lẫn hơn so với khi viết tên gọi đầy đủ của khu vực đó. Có khoảng 3.700 mã khác nhau.
Định dạng
Các mã của ISO 3166-2 bao gồm hai phần, cách nhau bằng dấu gạnh nối. Phần đầu của nó là thành phần mã của ISO 3166-1 alpha-2, phần thứ hai là số hay chữ cái và có một, hai hoặc ba ký tự. Phần thứ hai thông thường dựa trên các tiêu chuẩn quốc gia.
Thay đổi/Ấn hành
Các thay đổi đã được thông báo trong sáu bản tin
ISO 3166-2:2000-06-21
ISO 3166-2:2002-05-21
ISO 3166-2:2002-08-20
ISO 3166-2:2002-12-10
ISO 3166-2:2003-09-05
ISO 3166-2:2004-03-08
Các danh sách mã hóa/giải mã
Để tìm mã ISO 3166-2 cho mỗi quốc gia, xem ISO 3166-1, là danh sách các quốc gia. Nếu đã biết mã quốc gia bao gồm hai chữ cái (tương tự như mã vùng internet của quốc gia) thì có thể sử dụng bảng ma trận định dạng dưới đây.
Cả hai cách đều dẫn tới các mục tương tự như ISO 3166-2:XX, trong đó XX là mã ISO 3166-1, ví dụ ISO 3166-2:AU dẫn tới danh sách mã cho Úc (Australia).
Ma trận định dạng với liên kết tới các mã
Một số mã được phát triển bởi ISO 3166/MA, chúng là thuộc bản quyền. Một số khác đã được một số quốc gia sử dụng.
Các chủ đề liên quan
Đơn vị hành chính quốc gia
Danh sách các đơn vị hành chính quốc gia
Danh sách các thủ phủ các đơn vị hành chính quốc gia |
ISO 3166-2:VN là tiêu chuẩn ISO để xác định mã địa lý: nó là một tập hợp con của ISO 3166-2 được áp dụng cho Việt Nam.
Bản tin
ISO 3166-2:2000-06-21
ISO 3166-2:2002-05-21
ISO 3166-2:2005-09-13
Mã
Các mã còn được tiếp tục bổ sung |
Thừa Thiên Huế (còn được viết là Thừa Thiên – Huế) là một tỉnh ven biển nằm ở cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam.
Năm 2018, Thừa Thiên Huế là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 36 về số dân, xếp thứ 39 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 42 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 52 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.163.500 người dân, GRDP đạt 47.428 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0600 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 40,76 triệu đồng (tương ứng với 1.770 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,08%.
Diện tích của tỉnh là 4.902,4 km², dân số tính đến năm 2020 là 1.133.700 người. Thành phố Huế từng là kinh đô Phú Xuân thời kỳ cận đại của Việt Nam từ năm 1802 đến năm 1945 dưới triều Nguyễn.
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở dải đất ven biển miền Trung Việt Nam, thuộc Bắc Trung Bộ, bao gồm phần đất liền và phần lãnh hải thuộc thềm lục địa biển Đông, có tọa độ địa lý ở 16° – 16,8° vĩ độ Bắc và 107,8° – 108,2° kinh độ Đông. Thừa Thiên Huế cách thủ đô Hà Nội 675 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 94 km về phía Nam với ranh giới tự nhiên là dãy núi Bạch Mã. Có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Quảng Trị
Phía đông giáp biển Đông
Phía tây giáp tỉnh Saravane của CHDCND Lào.
Phía nam giáp tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Các điểm cực của tỉnh Thừa Thiên Huế:
Điểm cực Bắc: 16044'30 vĩ Bắc và 107023'48 kinh Đông tại thôn Giáp Tây, xã Điền Hương, huyện Phong Điền.
Điểm cực Nam: 15059'30 vĩ Bắc và 107041'52 kinh Đông tại vùng núi thượng nguồn khe Cha Moong, xã Thượng Nhật, huyện Nam Đông.
Điểm cực Tây: 16022'45 vĩ Bắc và 107000'56 kinh Đông tại bản Paré, xã Hồng Thủy, huyện A Lưới.
Điểm cực Đông: 16013'18 vĩ Bắc và 108012'57 kinh Đông tại bờ phía Đông đảo Sơn Chà, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc.
Giới hạn, diện tích
Phía Bắc, từ Đông sang Tây, Thừa Thiên Huế có đường ranh giới dài 111,671 km tiếp giáp với các huyện Hải Lăng, Đakrông, tỉnh Quảng Trị.
Từ mặt Nam, tỉnh có ranh giới chung với huyện các huyện Đông Giang và Tây Giang, tỉnh Quảng Nam dài 56,66 km, với huyện Hòa Vang và Quận Liên Chiểu của thành phố Đà Nẵng dài 55,82 km.
Ở phía Tây, ranh giới tỉnh (cũng là biên giới quốc gia) kéo dài từ điểm phía Bắc (ranh giới tỉnh Thừa Thiên Huế với tỉnh Quảng Trị và tỉnh Saravane của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) đến điểm phía Nam (ranh giới tỉnh Thừa Thiên Huế với tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sekong của nước CHDCND Lào) dài 87,97 km.
Phía Đông, tiếp giáp với biển Đông với đường bờ biển dài 120 km (có 21 xã, phường, thị trấn thuộc 4 huyện (Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc) và thành phố Huế giáp biển, bắt đầu từ xã Điền Hương, huyện Phong Điền ở phía Bắc đến thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc ở phía Nam).
Phần đất liền, Thừa Thiên Huế có diện tích 503.320,52 ha (theo niên giám thống kê năm 2010), kéo dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, nơi dài nhất 120 km (dọc bờ biển), nơi ngắn nhất 44 km (phần phía Tây); mở rộng chiều ngang theo hướng Đông Bắc – Tây Nam với nơi rộng nhất dọc tuyến cắt từ xã Quảng Công (Quảng Điền), thị trấn Tứ Hạ (Hương Trà) đến xã Sơn Thủy – Ba Lé (A Lưới) 65 km và nơi hẹp nhất là khối đất cực Nam chỉ khoảng 2–3 km.
Vùng nội thủy: rộng 12 hải lý
Vùng đặc quyền kinh tế mở rộng đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trên thềm lục địa biển Đông ở về phía Đông Bắc cách mũi cửa Khém nơi gần nhất khoảng 600 m có đảo Sơn Ca. Tuy diện tích đảo không lớn (khoảng 160 ha), nhưng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng đối với nước ta nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng.
Thừa Thiên Huế nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc – Nam, trục hành lang Đông – Tây nối Thái Lan – Lào – Việt Nam theo đường 9. Thừa Thiên Huế ở vào vị trí trung độ của cả nước, nằm giữa thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm lớn của hai vùng kinh tế phát triển nhất nước ta. Thừa Thiên Huế cách Hà Nội 660 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.080 km.
Bờ biển của tỉnh dài 120 km, có cảng Thuận An và cảng nước sâu Chân Mây với độ sâu 18 – 20 m đủ điều kiện để đón các tàu trọng tải lớn, có Sân bay quốc tế Phú Bài nằm trên đường Quốc lộ 1 và đường sắt xuyên Việt chạy dọc theo tỉnh.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Khu vực phía tây của tỉnh nằm trên dãy núi Trường Sơn. Những ngọn núi đáng kể là: núi Động Ngai cao 1.774 m, Động Truồi cao 1.154 m, Co A Nong cao 1.228 m, Bol Droui cao 1.438 m, Tro Linh cao 1.207 m, Hói cao 1.166 m (nằm giữa ranh giới tỉnh Quảng Nam), Cóc Bai cao 787 m, Bạch Mã cao 1.444 m, Mang cao 1.708 m, Động Chúc Mao 514 m, Động A Tây 919 m.
Sông ngòi thường ngắn nhưng lại lớn về phía hạ lưu. Những sông chính là Ô Lâu, Rào Trăng, Rào Lau, Rào Mai, Tả Trạch, Hữu Trạch, An Cựu, An Nong, Nước Ngọt, Lăng Cô, Bồ, Rau Bình Điền, Đá Bạc, Vân Xá, Sông Truồi,... Đặc biệt có Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng lớn nhất Đông Nam Á. Và hai cửa biển quan trọng là cửa Thuận An và cửa Tư Hiền.
Khí hậu
Khí hậu Thừa Thiên Huế gần giống như Quảng Trị với kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Những tháng đầu năm có nắng ấm. Thỉnh thoảng lụt vào tháng 5. Các tháng 6, 7 và 8 có gió mạnh. Mưa lũ và có gió đông vào tháng 9 và 10. Tháng 11 thường có lụt. Cuối năm mưa kéo dài. Nhưng hiện nay do chịu tác động của biến đổi khí hậu nên từ tháng 3 đến tháng 8 nắng nóng lên đến đỉnh điểm. Các tháng 9, 10, 11 thường xuyên có bão. Từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau là giai đoạn gió mùa đông bắc kéo về gây mưa to kèm theo đó lũ trên các sông tăng nhanh. Khí hậu có 2 mùa chính:
Mùa nóng: từ tháng 5 đến tháng 9, nắng nóng lên đến đỉnh điểm với nhiệt độ khá cao từ 35 đến 40 °C (95 đến 104 °F), chịu ảnh hưởng gió phơn tây nam
Mùa lạnh: kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng gió mùa đông bắc nên mưa nhiều, trong khoảng thời gian này sẽ xuất hiện lũ lụt vào khoảng tháng 10 trở đi. Nhiệt độ trung bình về mùa lạnh ở vùng đồng bằng là 20 °C - 22 °C
Chế độ mưa ở Thừa Thiên Huế lớn, trung bình trên 2700 mm, tập trung từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, có nơi trên 4000 mm, chiếm 70% tổng lượng mưa trong năm, riêng tháng 11 chiếm 30% lượng mưa cả năm. Mùa mưa ở Huế lệch với hai miền Nam – bắc, khi 2 miền này mưa thì Huế nắng nóng và ngược lại. Đặc điểm mưa ở Huế là mưa không đều, lượng mưa tăng dần từ Đông sang Tây, từ Bắc vào Nam và tập trung vào một số tháng với cường độ mưa lớn do đó dễ gây lũ lụt, xói lở. Độ ẩm trung bình 85%-86%.
Hành chính
Tỉnh Thừa Thiên Huế có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã, 6 huyện với 141 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 95 xã, 39 phường, 7 thị trấn.
Lịch sử
Vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân
Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế là vùng đất có lịch sử lâu đời. Những phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy rõ dấu vết của người xưa trên mảnh đất này. Những di vật như rìu đá, đồ gốm được tìm thấy ở Phụ Ổ, Bàu Đưng (Hương Chữ, Hương Trà) cho phép khẳng định đây là các di tích có niên đại cách đây trên dưới 4.000 năm. Những chiếc rìu đá được phát hiện trên nhiều địa bàn khác nhau, đặc biệt tại các xã Hồng Bắc, Hồng Vân, Hồng Hạ, Hồng Thủy, Bắc Sơn (A Lưới); Phong Thu (Phong Điền) đã chứng minh sự có mặt của con người ở vùng đất này trên dưới 5.000 năm. Di tích khảo cổ quan trọng gắn liền với nền văn hóa Sa Huỳnh được tìm thấy lần đầu tiên tại Thừa Thiên Huế năm 1987 là di tích Cồn Ràng (Phụ Ổ, Hương Chữ, Hương Trà) nói lên rằng chủ nhân của nền văn hóa này đã đạt đến trình độ cao trong đời sống vật chất lẫn tinh thần cách đây trên dưới 2.500 năm. Dấu ấn này còn được tìm thấy ở Cửa Thiềng năm 1988 (Phú Ốc, Tứ Hạ, Hương Trà). Cùng với văn hóa Sa Huỳnh, tại Thừa Thiên Huế còn có sự hiện diện của văn hóa Đông Sơn. Năm 1994, trống đồng loại một đã được phát hiện ở Phong Mỹ, Phong Điền. Đây là một trong những di vật độc đáo của nền văn hóa Việt cổ.
Các cứ liệu xưa cho biết, từ xa xưa, Thừa Thiên Huế từng là địa bàn giao tiếp của những cộng đồng cư dân mang nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, cùng cư trú và cùng phát triển... Trong thời kỳ phát triển của Văn Lang – Âu Lạc, tương truyền Thừa Thiên Huế vốn là một vùng đất của bộ Việt Thường. Trong thời kỳ nước Nam Việt lại thuộc về Tượng Quận. Năm 116 TCN, quận Nhật Nam ra đời thay thế cho Tượng Quận. Thời kỳ Bắc thuộc, trong suốt thời gian dài gần 12 thế kỷ, vùng đất này là địa đầu phía Bắc của Vương quốc Chămpa độc lập. Sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử của Ngô Quyền (năm 938), Đại Việt trở thành quốc gia độc lập và qua nhiều thế kỷ phát triển, biên giới Đại Việt đã mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, công chúa Huyền Trân, em gái vua Trần Anh Tông, "nước non ngàn dặm ra đi" làm dâu vương quốc Chămpa, vua Chế Mân dâng hai châu Ô, Rí (Lý) để làm sính lễ. Năm sau, vua Trần đổi hai châu này thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thừa Thiên Huế trở thành địa bàn giao thoa giữa hai nền văn hóa lớn của phương Đông với nền văn hóa của các cư dân bản địa.
Từ khi trở thành một phần của Đại Việt, Châu Hóa và vùng đất Thuận Hóa đã từng là nơi ghi dấu những công cuộc khai phá mở làng, lập ấp, nơi Đặng Tất xây dựng đồn lũy chống quân Minh, nơi cung cấp "kho tinh binh" cho Lê Thái Tổ bình định giang sơn. Với lời sấm truyền "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải Hoành sơn, có thể yên thân muôn đời); năm 1558, Nguyễn Hoàng xin vào trấn giữ xứ Thuận Hoá mở đầu cho cơ nghiệp của các chúa Nguyễn. Sự nghiệp mở mang của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã gắn liền với quá trình phát triển của vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân. Hơn 3 thế kỷ từ khi trở về với Đại Việt, Thuận Hóa là vùng đất của trận mạc, ít có thời gian hòa bình nên chưa có điều kiện hình thành được những trung tâm sinh hoạt sầm uất theo kiểu đô thị. Sự ra đời của thành Hóa Châu (khoảng cuối TK XV, đầu TK XVI) có lẽ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn với tư cách là một tòa thành phòng thủ chứ chưa phải là nơi sinh hoạt đô thị của xứ Thuận Hóa thời ấy. Mãi cho đến năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Huế sau này.
Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là Phú Xuân, ở vị trí Tây Nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712–1738) phủ chúa dời ra Bác Vọng, song khi Võ Vương lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân nhưng dựng ở "bên tả phủ cũ", tức góc Đông Nam của Kinh thành Huế hiện nay. Sự nguy nga bề thế của Đô thành Phú Xuân dưới thời Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Đôn mô tả trong Phủ biên tạp lục năm 1776 và trong Đại Nam nhất thống chí, với tư cách là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ Sông Hương, từ Kim Long – Dương Xuân đến Bao Vinh – Thanh Hà. Phú Xuân là thủ phủ của xứ Đàng Trong (1687–1774); rồi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều đại Quang Trung (1788–1801) và cuối cùng là Kinh đô của nước Việt Nam gần hai thế kỷ dưới triều đại nhà Nguyễn (1802–1945). Phú Xuân đã trở thành trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa quan trọng của đất nước từ những thời kỳ đó.
Lịch sử hành chính
Năm Tân Dậu 1801, Nguyễn Ánh lấy lại được Phú Xuân từ nhà Tây Sơn, ông cho tách ba huyện Hương Trà, Quảng Điền và Phú Vang thuộc phủ Triệu Phong đặt làm dinh Quảng Đức. Năm Gia Long thứ năm (1806), Quảng Đức và Quảng Trị được đặt làm dinh trực lệ. Đến năm 1822, vua Minh Mạng đổi dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên, địa danh Thừa Thiên có từ đây. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), tách một số tổng của ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền để lập thêm ba huyện Hương Thủy, Phú Lộc và Phong Điền.
Năm Tự Đức thứ 6 (1853), tỉnh Quảng Trị hạ xuống thành đạo Quảng Trị thuộc phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên đến năm 1876, tỉnh Quảng Trị lại được tái lập.
Ngày 20 tháng 10 năm 1898, vua Thành Thái ban hành dụ thành lập thị xã Huế. Ngày 30 tháng 8 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ này.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ Thừa Thiên đổi thành tỉnh Thừa Thiên (còn có bí danh là tỉnh Nguyễn Tri Phương), gồm thị xã Thuận Hóa (Huế) và 6 huyện: Hương Thủy, Hương Trà, Phong Điền, Phú Lộc, Phú Vang, Quảng Điền. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Thừa Thiên ban đầu gồm 9 quận: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc, Vinh Lộc, Nam Hòa và 3 tổng: Nguồn Hữu, Nguồn Tả, Nguồn Bồ. Đến năm 1965 thành lập thêm quận Phú Thứ trên cơ sở 7 xã phía nam của quận Phú Vang. Thị xã Huế lúc này là đơn vị hành chính độc lập và ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên, tuy nhiên tỉnh lỵ Thừa Thiên vẫn đặt tại Huế.
Sau năm 1975, tỉnh Thừa Thiên hợp nhất với hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và khu vực Vĩnh Linh thành tỉnh Bình Trị Thiên, với tỉnh lỵ là thành phố Huế.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ban hành nghị quyết chia tách tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có 5 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thành phố Huế (tỉnh lỵ) và 4 huyện: A Lưới, Hương Điền, Hương Phú, Phú Lộc.
Ngày 29 tháng 9 năm 1990, điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Huế; chia huyện Hương Phú thành hai huyện Hương Thủy và Phú Vang; chia huyện Hương Điền thành ba huyện Hương Trà, Phong Điền và Quảng Điền; chia huyện Phú Lộc thành hai huyện Phú Lộc và Nam Đông.
Ngày 24 tháng 9 năm 1992, thành phố Huế được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng công nhận là đô thị loại II và đến ngày 24 tháng 8 năm 2005 được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày 9 tháng 2 năm 2010, thành lập thị xã Hương Thủy trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Thủy. Ngày 15 tháng 11 năm 2011, thành lập thị xã Hương Trà trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Trà.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay.
Dân cư
Theo kết quả điều tra dân số toàn quốc, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019 toàn tỉnh có 1.128.620 người. Trên địa bàn tỉnh có 10 tôn giáo khác nhau đạt 746.935 người, nhiều nhất là Phật giáo có 680.290 người, tiếp theo là Công Giáo có 65.997 người, đạo Tin Lành có 392 người, đạo Cao Đài có 220 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 18 người, Hồi giáo, Minh Sư đạo mỗi tôn giáo có sáu người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam, Baha'i giáo và Bà La Môn mỗi tôn giáo có hai người. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 56%.
Văn hoá
Thừa Thiên Huế là trung tâm văn hoá lớn và đặc sắc của Việt Nam. Thừa Thiên Huế có 5 danh hiệu UNESCO (1 di sản văn hoá thế giới, 1 di sản văn hóa phi vật thể, 3 di sản tư liệu thế giới) là:
Quần thể di tích Cố đô Huế.
Nhã nhạc cung đình Huế.
Mộc bản triều Nguyễn.
Châu bản triều Nguyễn.
Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế.
Hiện nay, tỉnh đang xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc và bản sắc văn hoá Huế gắn với bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, là khâu đột phá để phát triển du lịch. Nghiên cứu, từng bước hoàn thiện bản sắc văn hoá Huế, đặc trưng văn hoá Huế để xây dựng Huế trở thành trung tâm văn hoá đặc sắc của Việt Nam; xem đây là lợi thế so sánh lâu dài để phát triển Huế, làm cho Huế ngày càng đặc sắc, thúc đẩy các ngành du lịch, dịch vụ phát triển. Trong đó quy hoạch, xây dựng hệ thống công viên, tượng, các công trình văn hoá, trọng tâm là: Trung tâm hội nghị, Bảo tàng Lịch sử Cách mạng, Bảo tàng thiên nhiên các tỉnh Duyên hải miền Trung, Trung tâm Điện ảnh, Địa đạo Khu ủy Trị Thiên. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tập trung đầu tư hoàn thành cơ bản trùng tu Đại Nội và một số di tích quan trọng để xứng đáng là trung tâm du lịch đặc sắc của Việt Nam. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của các kỳ Festival Huế, các hoạt động đối ngoại để tăng cường quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam, văn hoá Huế, nhất là Nhã nhạc cung đình Huế, quần thể di tích Cố đô Huế, Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, vịnh đẹp Lăng Cô.
Giao thông
Đường bộ
Toàn tỉnh có hơn 2.500 km đường bộ, Quốc lộ 1 và đường cao tốc Bắc - Nam chạy xuyên qua tỉnh từ Bắc xuống Nam cùng với các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ chạy song song và cắt ngang như quốc lộ 49 (tuyến đường huyết mạch nối từ cảng Thuận An qua thành phố Huế lên huyện miền núi A Lưới, quốc lộ 49B (kết nối các xã, phường ven biển), tỉnh lộ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8A, 8B, 10A, 10B, 10C, 11A, 11B, 15, 18 và các tỉnh lộ khác.
Đường biển và đường thủy
Tổng chiều dài 563 km sông, đầm phá. Tỉnh có cảng biển là cảng nước sâu Chân Mây và cảng Thuận An. Cảng Thuận An nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 13 km về phía đông bắc. Trong nhiều năm tỉnh đã tập trung đầu tư cho cảng Thuận An 5 cầu tầu dài 150m, có khả năng tiếp nhận tầu 1.000 tấn, được nhà nước công nhận là cảng biển quốc gia. Cảng nước sâu Chân Mây cách thành phố Huế 49 km về phía Nam đang được triển khai xây dựng một số hạng mục hạ tầng kỹ thuật đầu tiên nhằm khai thác lợi thế trục giao thông Bắc – Nam và tuyến hành lang Đông – Tây, tạo động lực phát triển kinh tế những năm sau.
Đường hàng không
Thừa Thiên Huế có Sân bay Quốc tế Phú Bài nằm trên Quốc lộ 1, cách phía Nam thành phố Huế khoảng 15 km. Những năm qua, bộ mặt và cơ sở hạ tầng của sân bay Phú Bài đã có những thay đổi đáng kể; đảm bảo cho máy bay Airbus A320, Boeing 747 cất hạ cánh an toàn.
Đường sắt
Tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua tỉnh Thừa Thiên Huế dài 101,2 km đóng một vai trò quan trọng trong giao thông của tỉnh.
Kinh tế
Thừa Thiên Huế là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp (năm 2008, tỷ trọng ngành Công nghiệp – Xây dựng chiếm 36,5%, ngành dịch vụ 45,3%, ngành nông nghiệp giảm còn 18,2%). Thu ngân sách tăng bình quân đạt 18,3%/năm. Tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt trên 12%, xếp thứ 20/63 tỉnh, thành cả Việt Nam. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành dẫn đầu toàn quốc. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh từ vị thứ 15 (năm 2007) đã vươn lên đứng thứ 10 toàn quốc trong năm 2008. Quy mô doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhỏ, và siêu nhỏ. Ngân sách đạt thấp, thu ngân sách chưa bền vững, đến nay chưa cân đối được ngân sách, hằng năm ngân sách nhà nước phải bù vào ngân sách địa phương khoảng 1.500 (tỷ đồng).
Thừa Thiên Huế quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá. Thành phố Huế vừa mang dáng dấp hiện đại, vừa mang nét đẹp cổ kính với di sản văn hoá thế giới, đóng vai trò hạt nhân đô thị hoá lan toả và kết nối với các đô thị vệ tinh. Môi trường thu hút đầu tư lành mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có năng lực. Hạ tầng giao thông ngày càng hiện đại, chống được chia cắt vùng miền, tạo ra động lực phát triển giữa nông thôn và thành thị. Năng lực sản xuất mới hình thành và mở ra tương lai gần sẽ có bước tăng trưởng đột phá: phía Bắc có các khu công nghiệp Phong Điền, Tứ Hạ, xi măng Đồng Lâm; phía Nam có khu công nghiệp Phú Bài, Khu Kinh tế – Đô thị Chân Mây – Lăng Cô sôi động; phía Tây đã hình thành mạng lưới công nghiệp thủy điện Tả Trạch, Hương Điền, Bình Điền, A Lưới, xi măng Nam Đông; phía Đông phát triển mạnh khai thác và nuôi trồng thủy sản và Khu kinh tế tổng hợp Tam Giang – Cầu Hai.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2019 ước đạt 7,18% với giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh – GRDP ước đạt gần 31.330,53 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010), chưa đạt kế hoạch đề ra. Đây là mức tăng khá so với các tỉnh trong khu vực miền Trung nói chung, cao hơn mức tăng trưởng bình quân của 5 tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước 6,8%/năm.
Khu vực dịch vụ duy trì đà tăng trưởng ổn định, ước đạt 7,39%, đóng góp lớn nhất là khu vực dịch vụ du lịch khoảng 30–40% tổng giá trị tăng thêm của ngành.
Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng khá, đạt khoảng 11,32%, nhờ đóng góp của các dự án mới và mở rộng công suất của một số nhà máy.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng tình hình thời tiết hạn hán và dịch tả lợn Châu Phi lây lan trên diện rộng, tăng trưởng âm ước đạt – 4,13%. Trong đó, thủy sản ước tăng 4%; ngành lâm nghiệp tăng khoảng 3%; nông nghiệp giảm 10%, trong đó chăn nuôi giảm 42%.
Cơ cấu các khu vực kinh tế: dịch vụ chiếm ưu thế với tỷ trọng 48,40%; công nghiệp – xây dựng 31,81%; nông, lâm, thủy sản 11,38%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,41%.
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) bình quân đầu người đến năm 2019 ước đạt 46,7 triệu đồng, tương đương 2.007 USD, vượt kế hoạch (1.915 USD/người).
Thu ngân sách ước đạt 7.787 tỷ đồng, bằng 108% dự toán, bằng cùng kỳ, trong đó thu nội địa 7.300 tỷ đồng (chiếm 94% tổng thu NS), bằng 110,1% so với dự toán, tăng 7,3%[3]; thu thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 455 tỷ đồng, bằng 82% dự toán, giảm 17%. Chi ngân sách ước đạt 10.044,11 tỷ đồng, bằng 99,2% dự toán, trong đó chi đầu tư phát triển 2.779,6 tỷ đồng, bằng 93% dự toán; Chi sự nghiệp 6.809 tỷ đồng, bằng 105,1% dự toán.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 22.700 tỷ đồng, tăng 15%, đạt kế hoạch. Trong đó, Vốn ngân sách Nhà nước (chiếm 20% tổng vốn), bằng kế hoạch, tăng 29%; Vốn tín dụng (chiếm 44%), đạt 99% kế hoạch, tăng 14%; Vốn đầu tư của doanh nghiệp (chiếm 14%), đạt 103% KH, tăng 11%; Vốn viện trợ (chiếm 5%), bằng 76% kế hoạch, giảm 13%; Vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 5%), đạt 60% kế hoạch, tăng 48%.
Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 950 triệu USD, đạt 90% kế hoạch, tăng 10%.
Y tế
Thừa Thiên Huế là trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung – Tây Nguyên và cả nước với 3 đơn vị đang được nhà nước đầu tư triển khai thực hiện dự án Trung tâm Y tế chuyên sâu khu vực miền Trung – Tây Nguyên và cả nước là: Bệnh viện Trung ương Huế, Trường Đại học Y Dược Huế và Trung tâm Kiểm nghiệm dược phẩm, hóa mỹ phẩm Trung ương.
Các bệnh viện trên địa bàn tỉnh
Bệnh viện Trung ương Huế: Bệnh viện tuyến Trung ương, trực thuộc Bộ Y Tế (hơn 3000 giường): Là bệnh viện hạng đặc biệt duy nhất của khu vực miền Trung và Tây Nguyên
Bệnh viện Quốc tế Huế (200 giường)
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế Bệnh viện hạng I tuyến trung ương (gần 700 giường)
Bệnh viện Trung ương Huế cơ sở 2 (huyện Phong Điền) (500 giường)
Bệnh viện Đa Khoa Hoàng Viết Thắng (90 giường).
Bệnh viện Ngoại khoa Nguyễn Văn Thái (30 giường).
Bệnh viện Giao thông Vận tải Huế
Bệnh viện Y học cổ truyền
Bệnh viện Điều Dưỡng và Phục hồi chức năng
Bệnh viện Răng Hàm Mặt Huế
Bệnh viện Mắt Huế
Bệnh viện Tâm thần
Bệnh viện Đa Khoa Chân Mây
Bệnh viện Bình Điền
Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình – Phẫu thuật tạo hình
Bệnh viện Quân y 268
Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thừa Thiên Huế
Bệnh viện Phong và Da liễu Huế
Giáo dục và đào tạo
Thừa Thiên Huế từ lâu đã được biết đến là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn của khu vực miền trung và cả nước.
Đại học Huế có bề dày lịch sử trên 63 năm, là một trung tâm đào tạo đại học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, có quy mô đào tạo khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Đại học Huế đang chuẩn bị nâng cấp thành Đại học Quốc gia Huế theo Nghị quyết 54 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam
Phân viện Học viện hành chính quốc gia tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Học viện Âm nhạc Huế, Trường Đại học Phú Xuân và hệ thống các trường Đại học tư thục, quốc tế, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên và cả nước. Đây là một lợi thế rất lớn của Thừa Thiên Huế trong việc cung cấp nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao.
Mạng lưới trường học từ mầm non đến trung học phổ thông ở Thừa Thiên Huế rộng khắp trên địa bàn với các loại hình công lập, dân lập, tư thục, quốc tế được phân bố theo điều kiện phù hợp với thành thị, nông thôn, miền núi và gắn với địa bàn dân cư. Trong đó, Trường THPT chuyên Quốc Học đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xây dựng thành một trong ba trường trung học phổ thông trọng điểm chất lượng cao của cả nước.
Mạng lưới giáo dục thường xuyên với các Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm kỹ thuật thực hành hướng nghiệp và Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) đang hoạt động ở các xã/phường, thị trấn có hiệu quả, góp phần vào thực hiện mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, bồi dưỡng kiến thức, chuyển giao công nghệ và đào tạo nghề cho người lao động, đào tạo tại chức...
Các trường đại học – cao đẳng – trung cấp trên địa bàn:
Các trường, khoa, viện thành viên trực thuộc Đại học Huế
Trường Đại học Sư phạm
Trường Đại học Khoa học
Trường Đại học Y Dược
Trường Đại học Nông Lâm
Trường Đại học Nghệ thuật
Trường Đại học Kinh tế
Trường Đại học Ngoại ngữ
Trường Đại học Luật
Trường Du lịch
Khoa Kỹ thuật và Công nghệ
Khoa Quốc tế
Khoa Giáo dục thể chất
Các trường đại học, cao đẳng, phân hiệu đại học/trường đại học, phân viện độc lập
Học viện Âm nhạc Huế
Trường Đại học Phú Xuân
Phân viện Học viện Hành chính (Việt Nam)
Phân hiệu Trường Đại học Tài chính – Kế toán
Phân hiệu Trường Đại học Văn Hiến
Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế.
Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế (định hướng lên Đại học Công nghiệp thời gian sắp tới)
Trường Cao đẳng Y tế Huế
Trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế
Trường Cao đẳng Giao thông Huế
Trường Cao đẳng Du lịch Huế (thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch)
Trường Cao đẳng Âu Lạc Huế.
Trường Cao đẳng Thực hành FPT Huế
Trường Cao đẳng Nghề Thừa Thiên Huế
Trường Cao đẳng nghề số 23 Bộ Quốc phòng Việt Nam
Trường Cao đẳng nghề Nguyễn Tri Phương Huế
Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật.
Trường Trung cấp Công nghệ số 10 (Tổng Liên đoàn Lao động).
Trường Trung cấp Thể dục thể thao Huế.
Các trường THPT
Tính đến ngày 10/8/2022, toàn tỉnh có 35 trường THPT công lập:
Thành phố Huế có 13 trường:
Trường THPT chuyên Quốc Học
Trường THPT chuyên Khoa học (thuộc Đại học Khoa học - Đại học Huế)
Trường THPT Hai Bà Trưng (trường Nữ sinh Đồng Khánh cũ)
Trường THPT Nguyễn Huệ (trường Nữ sinh Thành Nội cũ)
Trường THPT Phan Đăng Lưu (trường cấp 3 Phú Vang cũ)
Trường THPT Nguyễn Trường Tộ
Trường THPT Cao Thắng
Trường THPT Gia Hội
Trường THPT Bùi Thị Xuân
Trường THPT Đặng Trần Côn
Trường THPT Hương Vinh
Trường THPT Thuận An
Trường PT Dân tộc Nội trú tỉnh
Thị xã Hương Trà có 3 trường:
Trường THPT Hương Trà
Trường THPT Đặng Huy Trứ
Trường THPT Bình Điền
Thị xã Hương Thủy có 2 trường:
Trường THPT Hương Thủy
Trường THPT Phú Bài
Huyện Phú Vang có 3 trường:
Trường THPT Nguyễn Sinh Cung
Trường THPT Hà Trung
Trường THPT Vinh Xuân
Huyện Phú Lộc có 4 trường:
Trường THPT Phú Lộc
Trường THPT An Lương Đông
Trường THPT Thừa Lưu
Trường THPT Vinh Lộc
Huyện Nam Đông có 1 trường:
Trường THPT Nam Đông
Huyện A Lưới có 3 trường:
Trường THPT A Lưới
Trường THCS & THPT Trường Sơn
Trường THCS & THPT Hồng Vân
Huyện Phong Điền có 4 trường:
Trường THPT Phong Điền
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Trường THPT Trần Văn Kỷ
Trường THPT Tam Giang
Huyện Quảng Điền có 3 trường:
Trường THPT Nguyễn Chí Thanh
Trường THPT Hóa Châu
Trường THPT Tố Hữu
Ngoài ra, còn có:
Trường THPT Thuận Hóa (thuộc Đại học Sư phạm - Đại học Huế)
Trường THPT Tư thục Chi Lăng
Hệ THPT trong các Trung tâm GDNN-GDTX của thành phố Huế, 6 huyện và 2 thị xã.
Thành phố kết nghĩa
Qua các kì festival và nhiều hoạt động hợp tác,ngày càng nhiều thành phố, tỉnh, vùng kết nghĩa với Thừa Thiên Huế như:
Thành phố Québec, Canada
Gyeongju, Hàn Quốc
Nord Pas de Calais, Pháp
Poitou Charentes, Pháp
Chiết Giang, Trung Quốc
Shizuoka, Nhật Bản
Quảng Châu, Trung Quốc
Rennes, Pháp
Blois, Pháp
Moskva,Nga
Người nổi tiếng
Thời Quân chủ
Phần lớn các vua, chúa nhà Nguyễn
Thời hiện đại
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh
Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh
Nhà báo Hải Triều
Nhà thơ Tố Hữu
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Nhà thơ Thanh Hải
Nhà thơ Tôn Nữ Thu Hồng
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Nhạc sĩ Nguyễn Hải Phong
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Nhạc sĩ Bảo Chấn – Bảo Phúc
Diễn viên Cát Tường
Ca sĩ Hồ Ngọc Hà
Ca sĩ Long Nhật
Ca sĩ Quang Linh
Ca sĩ Quang Lê
Ca sĩ Bảo Yến
Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng
Giáo sư, bác sĩ Hồ Đắc Di
Giáo sư, bác sĩ Đặng Văn Ngữ
Phó giáo sư Tôn Thất Bách
Hình ảnh |
Chân Giê-xu Giáo hội hay Hội thánh Chúa Giêsu thật là một giáo hội tự trị Trung Hoa và là một nhánh của Hội thánh Tin Lành Ngũ Tuần của Kitô giáo. Ngụy Bảo La, Trương Linh Sanh và Trương Ba-na-ba thành lập hội thánh này vào năm 1917 tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Đến năm 1996, các tín điều đã lan truyền sang Việt Nam. Hiện nay hội thánh này có khoảng 1,5 triệu tín đồ ở 5 châu lục.
Mười tín điều chính
Chúa Thánh Linh
"Đón nhận Chúa Thánh Linh, biểu hiện bằng cách nói tiếng lạ, là sự bảo đảm cho chúng ta thừa hưởng Nước Trời."
Rửa tội
"Nước rửa tội là bí tích giải trừ tội lỗi để tái sinh. Lễ rửa tội phải được thi hành bằng nước thiên nhiên, như nước sông, nước biển, hoặc mạch nước ngầm.Người làm phép rửa, là người đã lãnh nhận phép rửa trong nước và Thánh Thần, tiến hành phép rửa trong danh của Chúa Giêsu Kitô. Và người nhận lãnh phép rửa phải được dìm ngập trong nước với tư thế cúi đầu úp mặt."
Rửa chân
"Bí tích rửa chân giúp cho một người có được tác vụ của Chúa Giêsu. Đây cũng đóng vai trò như là một lời nhắc nhở liên lỉ rằng người ta nên có lòng yêu thương, sự thánh thiện, tính khiêm tốn, lòng tha thứ, và đức phục vụ.Người nào đã lãnh phép rửa bằng nước đều phải rửa chân của họ trong thánh danh Giêsu Kitô. Rửa chân cho nhau phải được thi hành bất cứ khi nào thích hợp."
Lãnh nhận thánh thể
"Lãnh nhận thánh thể là bí tích để tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu Kitô.Việc này cho chúng ta kết hiệp với mình và máu của Chúa chúng ta và được hiệp thông với Người để chúng ta có được cuộc sống vĩnh cửu và được sống lại vào Ngày sau hết. Bí tích này nên được cử hành thường xuyên nếu có thể. Chỉ sử dụng bánh mì không men và rượu nho tinh khiết."
Ngày Sabbath
Ngày Sabbath, ngày thứ bảy trong tuần, là Ngày Thánh, được chúc phúc và thánh hoá bởi Thiên Chúa. Ngày này được tuân giữ trong ân điển của Thiên Chúa để tưởng nhớ sự sáng tạo và cứu rỗi của Thiên Chúa và với niềm hy vọng cuộc sống vĩnh cửu sẽ đến.
"Giêsu Kitô, Ngôi Lời trở nên xác phàm, chết trên thập giá để cứu chuộc tội nhân, phục sinh vào ngày thứ ba và lên trời. Người là vị cứu tinh của loài người, Đấng Sáng tạo nên trời và đất, và là Thiên Chúa thật".
"Bộ Kinh Thánh, bao gồm Tân Ước và Cựu Ước, được thần hứng bởi Thiên Chúa, chân lý được ghi lại duy nhất, và là tiêu chuẩn cho đời sống Kitô hữu."
"Sự cứu rỗi được trao ban bởi ân điển của Thiên Chúa thông qua niềm tin. Người tin phải trông cậy vào Chúa Thánh Linh để được thánh hóa, để tôn vinh Thượng đế, và yêu mến tha nhân."
"Hội thánh Chúa Giêsu thật, được thành lập bởi Chúa Giêsu Kitô, thông qua Chúa Thánh Linh trong thời gian 'latter rain', là Hội thánh thật vào thời các tông đồ được khôi phục lại."
"Ngày Tái lâm của Thượng đế sẽ xảy ra vào Ngày sau hết khi Người từ trời xuống phán xét thế gian: người công chính sẽ nhận cuộc sống vĩnh cửu, trong khi kẻ dữ sẽ bị xử phạt đời đời." |
Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Trà Vinh là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long; vị trí địa lý giới hạn từ 9°31'46" đến 10°4'5" vĩ độ Bắc và từ 105°57'16" đến 106°36'04" kinh độ Đông. Trà Vinh cách Thành phố Hồ Chí Minh 200 km đi bằng quốc lộ 53 qua tỉnh Vĩnh Long, khoảng cách rút ngắn thời gian chỉ còn 130 km nếu đi bằng quốc lộ 60 qua tỉnh Bến Tre, cách thành phố Cần Thơ 50 km. Được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cung Hầu và Định An nên giao thông đường thủy có điều kiện phát triển.
Trà Vinh là tỉnh duyên hải Đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí địa lý:
Phía Đông giáp Biển Đông với 65 km bờ biển.
Phía Tây giáp Vĩnh Long.
Phía Nam giáp Sóc Trăng với ranh giới là sông Hậu.
Phía Bắc giáp Bến Tre với ranh giới là sông Cổ Chiên.
Địa hình
Trà Vinh nằm ở cuối cù lao, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là đất bằng phẳng với độ cao dưới 1m so với mực nước biển. Vì nằm ở vùng đồng bằng ven biển, có nhiều giồng cát chạy dọc theo bờ biển, tạo thành các đường cong song song. Các giồng càng gần biển càng cao và rộng hơn.
Với sự chia cắt bởi các giồng và mạng lưới đường lộ, kinh rạch, địa hình Trà Vinh khá phức tạp. Có các vùng trũng xen kẹp giữa các giồng cao, và độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng. Đặc biệt, phần nam tỉnh có đất thấp, bị chia cắt bởi các giồng cát hình cánh cung thành nhiều vùng trũng nhỏ, với độ cao chỉ từ 0,5-0,8m. Do đó, hàng năm, vùng này thường bị ngập mặn trong khoảng thời gian từ 3-5 tháng.
Sông ngòi
Trên địa bàn Trà Vinh có hệ thống sông chính với tổng chiều dài 578 km, trong đó có các sông lớn là sông Hậu và sông Cổ Chiên. Các sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn Trà Vinh hợp lưu đổ ra biển chủ yếu qua hai cửa sông chính là cửa Cổ Chiên hay còn gọi là cửa Cung Hầu và cửa Định An.
Khí hậu
Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển, tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít.
Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình từ 20 - 27 °C, độ ẩm trung bình 80 - 8000%/năm, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ. Mùa mưa từ tháng 5 - tháng 11, mùa khô từ tháng 12 - tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình từ 1.400 - 1.600mm, có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư sản xuất, kinh doanh và du lịch.
Hàng năm, hạn hán thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục từ 10 đến 18 ngày, trong đó các huyện như Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu vụ khoảng tháng 6 và tháng 7 là quan trọng, trong khi các huyện còn lại như Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải hạn giữa vụ nhưng tháng 7 và 8 thường nghiêm trọng hơn.
Trà Vinh cũng gặp một khó khăn hiện nay đó chính là bị ngập mặn vào một số mùa khô trong năm.
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên rừng
Tỉnh Trà Vinh có khoảng 9.539ha diện tích có rừng, trong đó rừng tự nhiên là 2.955 ha rừng tự nhiên và 6.584 rừng trồng. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 4,1%.
Năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung toàn tỉnh đạt 80 ha, so cùng kỳ năm 2021 tăng 27,28%, tương ứng tăng 17 ha, (trong đó: rừng sản xuất đạt 1,2 ha, giảm 89,81%; rừng phòng hộ đạt 79 ha, tăng 54,29% so cùng kỳ). Sản lượng gỗ khai thác đạt 72.935 m3 .
Tài nguyên đất
Tỉnh có 5 nhóm đất (đất cát, đất mặn, đất phèn, đất phù sa và đất lập líp) và 18 loại đất. Trong đó, nhóm đất mặn có diện tích lớn nhất, 47.362 ha chiếm 19,81%, gồm 4 loại đất; Nhóm đất Líp với diện tích 35.838 ha; Nhóm đất phù sa có 3 loại với 34.180 ha (14,30%); Nhóm đất phèn 32.910 ha tương đương 13,77% diện tích; (v) Nhóm đất cát với 8.250 ha tương đương 3,45% diện tích tự nhiên và nhóm này cũng chỉ có một loại duy nhất là đất cát giồng.
Tài nguyên nước
Tỉnh Trà Vinh có tài nguyên nước mặt khá dồi dào.Bao gồm nước mặt và nước dưới đất.
Tài nguyên khoáng sản: chủ yếu là titan sa khoáng ven biển, nước khoáng và khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường: cát lòng sông, cát ven biển, cát giồng, đất sét,…
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có Mỏ nước khoáng đạt tiêu chuẩn khoáng cấp quốc gia, nhiệt độ 38,5oC, khả năng khai thác cấp trữ lượng 211 đạt sản lượng 240m3/ngày, cấp tài nguyên 333 đạt 19.119m3/ngày phân bổ tại thị xã Duyên Hải.
Tài nguyên thủy hải sản:
Tỉnh Trà Vinh có chiều dài bờ biển 65 km với 03 cửa sông lớn là Cung Hầu và Định An đủ điều kiện cho các loại tàu có công suất lớn neo đậu, ra vào thuận tiện; cho phép hoạt động khai thác hải sản diễn ra quanh năm với sản lượng ổn định. Tỉnh có diện tích ngư trường khai thác lên tới 45.536 hải lý vuông với nhiều bãi cá, tôm, mực tự nhiên; trữ lượng thủy hải sản có khả năng khai thác từ 65.000 - 70.000 tấn/năm, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao như cá ngừ, cá hồng, cá thu, cá chim, mực, tôm tạo tiềm năng lớn cho việc phát triển ngành khai thác, chế biến hải sản của địa phương.
Sản lượng thủy sản năm 2022 đạt 221,541 nghìn tấn, tăng 0,08% so với năm 2021. Chia ra, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 165,837 nghìn tấn, tăng 8,75%; sản lượng khai thác đạt 55,704 nghìn tấn, giảm 19,13% so cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng chủ yếu ở tôm thẻ chân trắng do giá tôm thẻ chân trắng trong thời gian qua vẫn ở mức cao nên người nuôi đã mở rộng diện tích thả nuôi, năng suất đạt khá cao. Ngoài ra, những tháng đầu năm mô hình nuôi tôm siêu thâm canh mật độ cao trên địa bàn tỉnh đang phát triển, hình thức nuôi này đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, tuy nguồn vốn đầu tư nhiều nhưng tình hình thiệt hại giảm, lợi nhuận đem lại khá nên nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi.
Lịch sử
Nguồn gốc tên gọi
Trước đây, vùng đất Trà Vinh còn được gọi là xứ Trà Vang. Tên Trà Vang vốn có nguồn gốc từ ngôn ngữ Môn-Khmer cổ mà dân gian thường gọi là Trah Păng. Tên gọi ấy phản ánh đặc điểm cảnh quan thuở xa xưa của một vùng đất mới được bồi đắp ở ven sông, ven biển, có nhiều vùng trũng, đầm lầy,... Vì vậy, Trà Vinh là tỉnh còn tương đối non trẻ.
Thời nhà Nguyễn độc lập
Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là tên 1 huyện (trước đó là phủ) thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long được lập ra năm 1832.
Vùng đất và tên gọi "Trà Vang", tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn.
Năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó, Gia Định phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Vĩnh Trấn.
Năm 1803, vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Hoằng Trấn.
Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh thuộc Trấn Vĩnh Thanh.
Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ.
Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh Long. Sau đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, gọi là "Nam Kỳ lục tỉnh" gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện thuộc Phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long.
Thời Pháp thuộc
Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này.
Trà Vinh được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) thành tỉnh (province) kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Tỉnh Trà Vinh là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Năm 1917, tỉnh Trà Vinh có năm quận là Châu Thành, Bắc Trang, Bàng Đa, Càn Long (ban đầu chữ Càn Long được viết như vậy) và Ô Lắc.
Tháng 8 năm 1928, Thống đốc Nam kỳ ra Nghị định phân chia lại địa giới hành chính. Theo đó, tỉnh Trà Vinh bãi bỏ quận Bàng Đa (nhập vào quận Châu Thành) - lỵ sở đặt tại làng Minh Đức, đổi thành Long Đức); đổi tên quận Ô Lắc thành quận Cầu Ngan (ban đầu chữ Cầu Ngan viết như vậy) - lỵ sở dời từ Ô Lắc về làng Minh Thuận; lập quận Tiểu Cần, lỵ sở đặt tại làng Tiểu Cần; dời lỵ sở quận Bắc Trang từ Bắc Trang về Thanh Xuyên; lỵ sở của quận Càng Long đặt tại An Trường (phần đất này nay thuộc thị trấn Càng Long).
Tháng 11 năm 1940, Thống đốc Nam kỳ lại có Nghị định đổi tên quận Bắc Trang thành quận Trà Cú.
Ngày 27 tháng 6 năm 1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định nhập 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành một tỉnh có tên là tỉnh Vĩnh Trà. Huyện Tiểu Cần được nhập vào huyện Càng Long. Tuy nhiên, tên gọi tỉnh Vĩnh Trà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Tỉnh Vĩnh Trà tồn tại đến năm 1954, sau đó lại trả về tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh như cũ.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Sau năm 1954, theo phân cấp hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Trà Vinh vẫn gồm 5 huyện là: Càng Long, Châu Thành, Cầu Ngang, Tiểu Cần và Trà Cú. Trong khi đó, theo sự phân chia hành chính của chính quyền kháng chiến ngoài 5 huyện này, tỉnh Trà Vinh lại có thêm thị xã Trà Vinh.
Ngày 9 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 16-NV thành lập tỉnh Tam Cần trên cơ sở các quận Vũng Liêm, Trà Ôn, Cầu Kè của tỉnh Vĩnh Long (Trà Ôn, Cầu Kè được tách ra từ tỉnh Cần Thơ và nhập về tỉnh Vĩnh Long từ năm 1948) và quận Tiểu Cần của tỉnh Trà Vinh.
Ngày 21 tháng 7 năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập quận Long Toàn thuộc tỉnh Trà Vinh, quận lỵ đặt tại xã Long Toàn.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh 143-NV về việc giải thể và sáp nhập tỉnh Tam Cần vào tỉnh Trà Vinh, đồng thời đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình; đổi tên xã Long Đức thành xã Phú Vinh và chọn làm lỵ sở của quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Bình. Theo đó, Vĩnh Bình là một trong 43 tỉnh của "lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa" và là một trong 22 tỉnh của Nam phần Việt Nam Cộng hòa. Lúc này, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình cũng bị đổi tên tên là "Phú Vinh", do lấy theo tên xã Phú Vinh thuộc quận Châu Thành là nơi đặt tỉnh lỵ.
Năm 1957, tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh) có 9 quận là Trà Ôn, Vũng Liêm, Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đến ngày 14 tháng 1 năm 1967 theo sắc lệnh số 06/SL/ĐUHC chính quyền Đệ Nhị Cộng hoà, tách hai quận Vũng Liêm và Trà Ôn ra khỏi tỉnh Vĩnh Bình để nhập vào tỉnh Vĩnh Long, do đó tỉnh Vĩnh Bình cho đến năm 1975 chỉ còn lại bảy quận: Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đồng thời, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình vẫn giữ nguyên tên là "Phú Vinh" cho đến năm 1975.
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Vĩnh Bình mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Trà Vinh.
Tháng 4 năm 1957, xuất phát từ yêu cầu củng cố lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định sáp nhập huyện Tiểu Cần vào huyện Cầu Kè. Tháng 2 năm 1961, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định tách xã Long Đức (chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gọi là xã Phú Vinh) ra khỏi huyện Châu Thành để nhập vào thị xã Trà Vinh. Tháng 2 năm 1962, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định thành lập huyện Duyên Hải có địa giới trùng với quận Long Toàn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1967, Liên Tỉnh ủy Miền Tây cũng quyết định tách hai huyện Vũng Liêm và Trà Ôn từ tỉnh Trà Vinh để nhập về tỉnh Vĩnh Long. Từ giai đoạn này, tỉnh Trà Vinh cơ bản có địa giới hành chính trùng với hiện nay, bao gồm 8 đơn vị hành chính cấp huyện là thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Cầu Kè, Càng Long, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Duyên Hải.
Thời Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn duy trì tỉnh Trà Vinh cho đến đầu năm 1976.
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Cửu Long, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Vĩnh Long. Năm 1986, sau nhiều lần sáp nhập và chia tách, tỉnh Cửu Long bao gồm thị xã Vĩnh Long (tỉnh lỵ tỉnh Cửu Long), thị xã Trà Vinh và 12 huyện: Bình Minh, Cầu Kè, Cầu Ngang, Càng Long, Châu Thành, Duyên Hải, Long Hồ, Tam Bình, Tiểu Cần, Trà Cú, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Ngày 05 tháng 5 năm 1992, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết giải thể tỉnh Cửu Long để tái lập tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh như cũ. Khi tách ra, tỉnh Trà Vinh có diện tích 2363,03 km², dân số 961.638 người, bao gồm thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú..
Ngày 4 tháng 3 năm 2010, chuyển thị xã Trà Vinh thành thành phố Trà Vinh trực thuộc tỉnh Trà Vinh.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thị xã Duyên Hải trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Duyên Hải.
Ngày 15 tháng 2 năm 2016, thành phố Trà Vinh được công nhận là đô thị loại II.
Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Trà Vinh, thị xã Duyên Hải và các huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú.
Hành chính
Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện với 106 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 11 phường, 10 thị trấn và 85 xã.
Ngày 20 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 859/QĐ-TTg về việc công nhận xã An toàn khu tại tỉnh Trà Vinh
Ngày 27 tháng 7 năm 2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định 1372/QĐ-UBND về việc công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành hết hiệu lực toàn bộ
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Với 1.019.258 người dân, năm 2022, GRDP đạt 72.440,944 tỉ đồng (tăng trưởng 3,45% so với năm 2021), GRDP bình quân đầu người đạt 70,72 triệu đồng.
Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành ước đạt 72.440 tỷ đồng, tăng 8.440 tỷ đồng so với năm 2021. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 chiếm tỷ trọng 32,78% giảm còn 30,29% năm 2022; khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ từ 67,22% tăng lên 69,71% ; GRDP bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 71,072 triệu đồng/người. (tăng 8,242 triệu đồng so với năm 2021).
Năm 2023, tỉnh đặt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 7,5% trở lên (có tính giá trị nhiệt điện) hoặc 7,75% nếu không tin giá trị nhiệt điện. GRDP bình quân đầu người đạt 75,96 triệu đồng/người/năm (có nhiệt điện) và 62,04 triệu đồng/người/năm (không nhiệt điện); tỉ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GRDP đạt 70,58% (có nhiệt điện), 63,98% (không nhiệt điện).
Ngoài ra, tỉnh đặt mục tiêu một số chỉ tiêu xã hội như tạo việc làm mới cho 23.000 lao động, trong đó có 900 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ lao động qua đào tạo, bồi dưỡng chiếm 69,3%. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo 1,47%..
Giáo dục
Đầu năm học 2022-2023, cả tỉnh có 120 trường mầm non; 297 trường phổ thông, giảm, bao gồm: 160 trường tiểu học, 96 trường trung học cơ sở, 29 trường trung học phổ thông, 05 trường phổ thông cơ sở và 07 trường trung học. Đầu năm học 2022-2023, cả tỉnh có 179.274 học sinh phổ thông, tăng 0,93% so với đầu năm học trước.
Năm 2022, trên địa bàn tỉnh có 02 trường cao đẳng và 01 trường đại học. Số giảng viên là 1.104 người, bao gồm 102 giảng viên cao đẳng và 1.002 giảng viên đại học. Số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 281 người.
Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trên địa bàn tỉnh Trà Vinh cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần làm giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Dưới đây là danh sách các trường Đại học, Cao đẳng và một số trường nổi tiếng tại Trà Vinh:
Trường Đại học Trà Vinh
Trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh (07 Nguyễn Thiện Thành, Phường 5, Tp. Trà Vinh)
Trường Cao đẳng Nghề Trà Vinh (01 Vũ Đình Liệu, xã Long Đức, Tp. Trà Vinh)
Trường THPT Phạm Thái Bường (358 Phạm Ngũ Lão, Phường 1, Tp. Trà Vinh)
Trường THPT chuyên Nguyễn Thiện Thành (ấp Long Bình, Phường 4, Tp. Trà Vinh)
Trường Thực hành Sư phạm Trà Vinh (287 Phạm Ngũ Lão, Phường 1, Tp. Trà Vinh)
Trường THCS Lý Tự Trọng (01 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 1, Tp. Trà Vinh)
Trường Tiểu học Lê Văn Tám (41 Tô Thị Huỳnh, Phường 1, Tp. Trà Vinh)
Trường THPT Dương Quang Đông (khóm Minh Thuận B, thị trấn Cầu Ngang, huyện Cầu Ngang)
Trường THPT Nguyễn Đáng (Khóm 6, thị trấn Càng Long, huyện Càng Long)
Trường THPT Duyên Hải (02 Đường 3/2, Phường 1, Tx. Duyên Hải)
Trường THPT Đại An (DT. 914, xã Đại An, huyện Trà Cú)
Trường THPT Trần Văn Long (Đường 30/4, thị trấn Trà Cú, huyện Trà Cú).
Dân cư
Cộng đồng dân cư tỉnh Trà Vinh gồm các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa và một số dân tộc thiểu số khác. Trong đó, người Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất (trên 67%), người Khmer chiếm 32%, là tỉnh có người Khmer sinh sống đông thứ 2 ở vùng ĐBSCL cũng như cả nước (sau tỉnh Sóc Trăng), người Hoa và dân tộc thiểu số khác chiếm tổng số gần 1%.
Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc trưng tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù.
Quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc gắn liền với các đặc điểm sinh sống, lao động, văn hóa và tôn giáo. Mỗi dân tộc ở Trà Vinh có phong tục tập quán, tiếng nói, chữ viết và món ăn đặc thù riêng, tạo nên những phong tục tập quán rất phong phú và đa dạng.
Trà Vinh là một tỉnh có dân số thấp trong vùng ĐBSCL, đứng thứ 11/13 tỉnh thành trong khu vực, quy mô dân số khoảng 1.019.258 người, mật độ dân số bình quân đạt 426 người/km2 (thấp hơn mật độ dân số trung bình của vùng ĐBSCL).
Tỉnh có nguồn lao động dồi dào, dân số trong tuổi lao động chiếm khoảng 55% tổng dân số toàn tỉnh, trong đó, đa phần vẫn là lao động nông thôn, chiếm trên 80% và lao động trong khu vực nông nghiệp cao trên 40%; tỷ lệ lao động trong công nghiệp - xây dựng và dịch vụ còn thấp.
*Ngôn ngữ phổ biến ở Trà Vinh là tiếng Việt, mặc dù có các dân tộc khác nhưng tiếng nói chung vẫn là tiếng Việt.
Toàn tỉnh có 465 cơ sở tín ngưỡng với các loại hình như: Thờ thành hoàng, thờ anh hùng dân tộc, thờ tổ tiên, thờ mẫu...; về tôn giáo có 09 tôn giáo như: Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin Lành, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Hồi giáo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo Hòa Hảo, với 4.373 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và 596.925 tín đồ, chiếm 59,15% so với dân số chung của tỉnh. Ngoài ra, còn có 11 hiện tượng tôn giáo mới chưa được Nhà nước công nhận.
Văn hóa
Tuy là vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hóa đa dạng, đặc biệt là văn hóa vật thể và phi vật thể của người Khmer. Người Khmer có chữ viết riêng, các lễ hội truyền thống như Chol chnam thmay (mừng năm mới), Dolta (lễ cúng ông bà), Ok Om Bok (lễ cúng trăng), Dâng bông, Dâng phước và các phong tục tập quán có giá trị văn hóa khác của người Kinh, người Hoa như Lễ hội nghinh Ông tại Mỹ Long (lễ hội nghinh ông diễn ra vào ngày 10 đến 12 tháng 5 hằng năm), Vu lan thắng hội, Tiết Trùng Cửu,...
Người Khmer còn xây dựng trên địa bàn Trà Vinh nhiều chùa có kiến trúc độc đáo và hòa quyện thiên nhiên, tiêu biểu là chùa Âng, toạ lạc trên khu đất rộng 4ha, trong thắng cảnh Ao Bà Om. Theo thống kê, trên địa bàn Trà Vinh có tới 142 chùa Khmer, vượt xa số lượng của người Kinh, người Hoa và của các dân tộc khác hiện có trên địa bàn Trà Vinh cộng lại. Đặc điểm chung của văn hóa người Khmer Trà Vinh thường gắn bó với các ngôi chùa Nam tông Khmer và sống rất gần gũi với cây xanh.
Riêng tại Thành phố Trà Vinh, có tới trên dưới 15.000 cây, với nhiều chủng loại và trong số đó có rất nhiều cây cổ thụ, với khoảng gần 1.000 cây trên trăm tuổi, được trồng từ thời Pháp. Nhờ cây cối bao bọc, khí hậu ở đây rất mát mẻ, dễ chịu. Vì vậy, với nền văn hóa gắn liền với cây xanh, Trà Vinh được mệnh danh là “thành phố trong rừng xanh”, “thành phố công viên” hay “thành phố cây cổ thụ”.Ngoài ra có chùa Hang, ở khu đất 10ha với những cây cổ thụ xum xuê rộn tiếng chim gọi bầy; chùa Nôdol còn gọi là chùa Cò vì trên khuôn viên chùa rộng 3ha đã hơn 100 năm nay trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con cò và nhiều loại con chim quý khác; chùa Samrônge, tương truyền được xây dựng lần đầu vào năm 642 và xây dựng lại năm 1850 với nhiều biểu tượng bằng đá quý và những tấm bia cổ khắc chữ Khmer.
Lễ hội cúng ông (Phúc Đức Chính Thần, địa phương gọi là "ông Bổn", tiếng Hoa là Bửng Thào Côn) của người Hoa gốc Triều Châu vào rằm tháng 7 hàng năm tại huyện Cầu Kè.
Vài nơi tập trung khu xóm theo Thiên Chúa Giáo như Bãi San, Đức Mỹ... Nhà thờ tại thành phố Trà vinh có kiến trúc đẹp và cổ điển. Giáo xứ Nhị Long huyện Càng Long.
Đặc sản ẩm thực
Trà Vinh có nhiều món ăn và thức uống đã trở thành đặc sản địa phương như Rượu Xuân Thạnh; Bánh tét Trà Cuôn; Dừa sáp Cầu Kè; Bún nước lèo; Tôm khô Vinh Kim; Bánh canh Bến Có; Bánh ống lá dứa; Nước mắm rươi; Bánh xèo; Cốm dẹp trộn dừa kiểu Khmer; Các món đuông như đuông chà là, đuông đất và đuông dừa; Bánh tráng Ba Se; Mắm kho; Lươn um lá cách; Cá cháy Cầu Quan; Tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ; Chuột đồng khìa nước dừa; Vọp chong nướng lụi; Bánh tráng nướng Giáo Loan (Bánh tráng béo nước cốt dừa); v.v.
Giao thông
Giao thông đường bộ
Trà Vinh có 04 tuyến Quốc lộ chính là 53, 53B, 54 và 60, kết nối tỉnh Trà Vinh thông suốt với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long (cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 130 km theo hướng Quốc lộ 60 và cách thành phố Cần Thơ khoảng 90 km theo hướng Quốc lộ 53). Quốc lộ 53 nối liền các thị trấn trong tỉnh với Thành phố Trà Vinh và thành phố Vĩnh Long. Đây là một trong những tuyến đường bộ nối Trà Vinh với các tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Hai tuyến cầu nối tỉnh Sóc Trăng - Trà Vinh - Bến Tre bao gồm Cầu Đại Ngãi ( chưa hoàn thành) nối 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, Cầu Cổ Chiên ( đã hoàn thành) nối 2 tỉnh Trà Vinh và Bến Tre. Đồng thời cũng là 2 trong 4 cầu quan trọng trên tuyến quốc lộ 60, các cầu khác là cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông.
Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tỉnh Trà Vinh được đầu tư 02 dự án cao tốc và tuyến đường hành lang ven biển:
Tuyến cao tốc: Hồng Ngự (Đồng Tháp) - Trà Vinh (đến Khu kinh tế Định An).
Tuyến cao tốc: Thành phố Hồ Chí Minh - Tiền Giang - Bến Tre - Trà Vinh - Sóc Trăng và Tuyến đường hành lang ven biển kết nối với các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre, Tiền Giang và Thành phố Hồ Chí Minh quy mô cấp 3 đồng bằng, đảm bảo lưu thông đường bộ.
Giao thông đường thủy
Trà Vinh có bờ biển dài trên 65 km, được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cổ Chiên (Cung Hầu) và Định An rất thuận lợi để phát triển giao thông đường thủy. Từ Trà Vinh đi Bến Tre, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh theo tuyến sông Tiền rất thuận lợi, từ biển Đông đi qua kênh đào Trà Vinh đến cảng Cần Thơ là tuyến vận tải đường thủy chính của cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long để thông thương với quốc tế.
Nhờ lợi thế địa lý, Trà Vinh còn là cửa ngõ thông quan của khu vực đồng bằng sông Cửu Long với hệ thống cảng sông, cảng biển và đường luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu. Tuyến luồng này đóng vai trò là huyết mạch ổn định lâu dài, nâng cao thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế và trở thành cửa ngõ giao thương quan trọng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến các khu vực khác trong nước và trên thế giới bằng đường thủy, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế địa phương.
Theo quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 thì hệ thống cảng biển Trà Vinh là cảng biển loại I, bao gồm: Khu bến Duyên Hải - Định An (tiếp nhận tàu trọng tải đến 50.000 tấn), Khu bến cảng Trà Cú - Kim Sơn (tiếp nhận tàu trọng tải đến 20.000 tấn) và các bến phao, khu neo đậu chuyển tải, tránh, trú bão. Trong đó, Khu bến Duyên Hải - Định An là bến tổng hợp, container, hàng lỏng/khí với chức năng phục vụ vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Biển số xe cơ giới trong tỉnh
Biển kiểm soát xe môtô
Thành phố Trà Vinh: 84-B1 XXX.XX; 84-B2 XXX.XX; 84-C1 XXX.XX
Huyện Châu Thành: 84-D1 XXX.XX
Huyện Cầu Ngang: 84-E1 XXX.XX
Thị xã Duyên Hải: 84-F1 XXX.XX
Huyện Trà Cú: 84-G1 XXX.XX
Huyện Tiểu Cần: 84-H1 XXX.XXX
Huyện Cầu Kè: 84-K1 XXX.XX
Huyện Càng Long: 84-L1 XXX.XX
Huyện Duyên Hải: 84-M1 XXX.XX.
Tỉnh kết nghĩa
Tỉnh Thái Bình, Việt Nam
Phong trào kết nghĩa Bắc - Nam là động viên dân và quân miền Bắc thi đua sản xuất và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam. Tỉnh Trà Vinh( lúc bấy giờ là tỉnh Vĩnh Trà bao gồm tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long ngày nay) trở thành tỉnh kết nghĩa của tỉnh Thái Bình vào ngày 20 tháng 3 năm 1960.
Hình ảnh
Danh nhân
Chính trị, quân sự
Nguyễn Thiện Thành (1919 - 2013), quê ở huyện Càng Long, một cựu sỹ quan cao cấp Quân đội, hàm đại tá, nguyên Phó Chủ nhiệm quân y, cục Hậu cần Quân giải phóng miền Nam, Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân, Giáo sư - Bác sĩ trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, giám đốc đầu tiên của Bệnh viện Thống Nhất (Tân Bình, TP. HCM). Ông là người đầu tiên nghiên cứu và ứng dụng thành công phương pháp Filatov (bào chế nhau thai thành thuốc) trị sốt rét cho bệnh binh (1951), ông cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển chuyên ngành Lão khoa.
Phạm Thái Bường (1915 - 1974), bí danh Lê Thành Nhân, quê ở huyện Càng Long, là một nhà cách mạng Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, Ủy viên thường vụ Trung ương Cục miền Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Út Tịch (1931 - 1968), tên thật là Nguyễn Thị Út, quê ở huyện Cầu Kè, là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, được nhà văn Nguyễn Thi xây dựng thành nhân vật chính trong tác phẩm Người mẹ cầm súng. Bà là tác giả của câu nói nổi tiếng: "Còn cái lai quần cũng đánh".
Nguyễn Đáng (1925 - 1984), quê ở huyện Càng Long, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Phân ban chỉ đạo Binh vận hai tỉnh Vĩnh Long – Trà Vinh, Phó Tư lệnh Mặt trận miền Tây, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V và liên tục trong ba nhiệm kỳ Đại hội Tỉnh Đảng bộ (I, II, III), Bí thư Tỉnh ủy Cửu Long. Ông được Nhà nước Liên Xô trao tặng Huân chương "Lao động quên mình".
Dương Quang Đông (1902 - 2003), tên thường gọi Năm Đông, quê ở huyện Cầu Ngang, là một nhà cách mạng người Việt Nam, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kì. Ông là người đầu tiên tham gia Công hội đỏ do Tôn Đức Thắng thành lập, ông cũng là vị thuyền trưởng đầu tiên lái "Con tàu không số" mở đường biển sang Thái Lan (con đường xuyên Tây huyền thoại - tiền thân của Đường Hồ Chí Minh trên biển) để thu mua vũ khí chuyển về Nam Bộ.
Thạch Thị Thanh (1901 - 1972), quê ở huyện Cầu Kè, tên thường gọi Ba Thanh, là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, bà hy sinh trong lúc đưa du kích sang sông do địch ném bom.
Huỳnh Văn Sao (1912 - ?), quê ở thành phố Trà Vinh, là Máy trưởng của các "Con tàu không số" Đoàn 759, ông được truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2011.
Lê Văn Lòng (1921 - ?), bí danh Hai Tranh, quê ở huyện Duyên Hải, là người lãnh đạo đơn vị B22 - Bến Trà Vinh (Đoàn Tàu Không Số) tiếp nhận, đảm bảo an toàn cho vũ khí và thiết bị phục vụ chiến trường miền Nam (số vũ khí này được chuyển đến chiến trường Vĩnh Trà và Bến Tre). Ông được truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2011.
Hồ Đức Thắng (? - 2005), bí danh Hồ Thọ (Hồ Lộc), quê ở thị xã Duyên Hải, nguyên Phó chính ủy công tác ở Công xưởng Nhà Bè thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân đóng tại TP. HCM, ông là một trong ba người đầu tiên của Đoàn Tàu Không Số được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1967.
Hồ Thị Nhâm (1947 - 1972), quê ở huyện Càng Long, tên thường dùng Tám Nhâm, là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. "Ai về Trà Vinh, có nghe tiếng mìn của Hồ Thị Nhâm" là lời của nhạc sĩ Huỳnh Thanh Hải ngợi ca những chiến công bất tử của người chiến sĩ 25 tuổi đời, 6 tuổi quân Hồ Thị Nhâm.
Thạch Ngọc Biên (1917 - 1953), quê ở huyện Trà Cú, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2008.
Sơn Ton (1930), quê ở huyện Trà Cú, được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân khi mới 25 tuổi.
Lâm Sắc (1919 - 2008), quê ở huyện Trà Cú, bí danh Hai Dựng, ông từng là đại biểu HĐND khóa II, đại biểu Quốc hội khóa IX. Năm 1976, ông được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Kiên Thị Nhẫn (1950 - 1971), quê ở huyện Châu Thành, là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, bà bị trúng đạn pháo kích của địch bắn chặn và hy sinh trên đường dự Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn Miền.
Thạch Thị Phinh (1932 - 1962), quê ở huyện Duyên Hải, nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trung kiên, bất khuất đã dũng cảm hy sinh ở độ tuổi 30.
Trung tướng Sơn Cang (1948 - 2022), quê ở huyện Duyên Hải, ông từng giữ chức Phó tổ trưởng tổ chuyên gia Công an thuộc Đoàn chuyên gia Việt Nam giúp chính quyền tỉnh Kom-pong-speu (Cam-pu-chia), ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2014.
Nguyễn Thiện Nhân (1953), quê ở huyện Càng Long, là một chính trị gia, Giáo sư Kinh tế và Tiến sĩ chuyên ngành Tự động hóa, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông cũng từng giữ chức Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013 - 2017), Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006 - 2010), Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Giám đốc Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh. Ông là con trai của Đại tá, Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thiện Thành.
Văn học, nghệ thuật
NSND - Soạn giả Viễn Châu (1924 - 2016), hay Danh cầm Bảy Bá, tên thật là Huỳnh Trí Bá, quê ở xã Đôn Châu, huyện Trà Cú (nay thuộc huyện Duyên Hải). Ông được mệnh danh là ông "Vua Vọng cổ", là người khai sinh ra thể loại Tân cổ giao duyên. Sáng tác của ông lên đến 2000 bài vọng cổ, 50 vở cải lương cùng nhiều bài vọng cổ hài, trong đó tiêu biểu có thể kể đến các bài vọng cổ như Tình anh bán chiếu, Cô gái bán sầu riêng, Lá trầu xanh, Anh đi xa cách quê nghèo, Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà, Tư Ếch đại chiến Văn Hường... cùng các vở cải lương như Chuyện tình Lan và Điệp, Chuyện tình Hàn Mạc Tử, Tình mẫu tử, Nát cánh hoa rừng... Nhờ sự sáng tác "đo ni đóng giày" của Viễn Châu mà nghệ sĩ được nhiều khán giả chú ý hơn như NSND Út Trà Ôn, NSND Ngọc Giàu, NSND Lệ Thủy, NSUT Mỹ Châu, Vua vọng cổ hài Văn Hường, Hề Sa...
NSƯT Thanh Thúy, chị quê ở xã Nhị Long, huyện Càng Long. Chị là một ca sĩ, diễn viên, chính khách và cũng là sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam... tên tuổi của chị gắn liền với vai diễn nữ anh hùng Võ Thị Sáu và các bài ca cách mạng, đặc biệt là các bài hát về Bác Hồ kính yêu... Chị là Trung tá, Phó Trưởng đoàn Đoàn văn công Quân khu 7, hiện nay chị là Phó giám đốc Sở văn hóa và thể thao TPHCM...
Ngọc Trinh, là một hoa hậu, người mẫu, diễn viên và doanh nhân thành đạt người Việt Nam. Cô từng đăng quang Hoa hậu Việt Nam Hoàn cầu 2011.
Ngô Thanh Vân (hay còn gọi là NTV, NTV Virus, Chị Ba) (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979 tại xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh), còn được biết đến với nghệ danh tiếng Anh là Veronica Ngo, là một nữ đạo diễn, nhà sản xuất phim, diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu ảnh và giám đốc sáng tạo người Việt Nam.
Thanh Thức (tên đầy đủ là Phạm Thanh Thức, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1984) là một nam người mẫu và diễn viên người Việt Nam.
Huỳnh Như (sinh ngày 28 tháng 11 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá nữ đá cho Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam.
Phi Phụng (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1964) là một nữ diễn viên điện ảnh, diễn viên truyền hình, diễn viên kịch nói và nghệ sĩ hài nổi tiếng người Việt Nam. Bà được giới trẻ biết đến nhiều hơn qua loạt phim truyền hình, phim Điện ảnh Việt Nam và sitcom hài như Cái bóng bên chồng, Tiệm bánh Hoàng tử bé, Gia đình là số 1.
Chú thích |
Sóc Trăng là một tỉnh ven biển, nằm trong vùng hạ lưu Nam sông Hậu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Năm 2018, Sóc Trăng là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 22 về số dân, xếp thứ 38 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 51 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 47 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.315.900 người dân, GRDP đạt 49.346 tỉ Đồng (tương ứng với 2,1432 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 37,5 triệu đồng (tương ứng với 1.628 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,20%.
Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh'leang của tiếng Khmer mà ra. Srok (ស្រុក) tức là "xứ", "cõi", Kh'leang (ឃ្លាំង) là "kho", "vựa", "chỗ chứa bạc". Srok Kh'leang (ស្រុកឃ្លាំង) mang ý nghĩa là xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm ra là "Sóc-Kha-Leng" rồi sau đó thành Sóc Trăng. Dưới triều Minh Mạng, Sóc Trăng đổi thành Sông Trăng, dịch theo Hán tự là Nguyệt Giang (月江), nên Sóc Trăng gọi là Nguyệt Giang tỉnh.
Đại Nam nhất thống chí viết về sông Ba Xuyên thuộc địa bàn tỉnh An Giang nhà Nguyễn như sau:
Theo vài ý kiến khác:
- Theo Lê Hương tên gọi Sóc Trăng đọc trại từ Srok Tréang trong tiếng Khmer, có nghĩa là "vùng đất lau sậy" hay "Bãi Sậy". Lí do là vì xưa kia lau sậy hoang mọc nhiều ở vùng này..
- Theo Triều Dương (một học giả ở địa phương) thì đó là cách gọi dựa trên sự kết hợp tự nguyện và đồng thuận giữa người khmer và người kinh, giữa cái cũ và cái mới. Bởi nơi đây tên cũ là Sóc-Kh-Leng từ lúc Minh Mạng tiếp quản vùng này có thêm tên mới là Sông Trăng. Người ta gọi tên cũ lẫn tên mới thành Sóc-kh-leng_Sông-Trăng... sau đó vì thấy dài, người ta gọi ngắn gọn lại thành Sóc Trăng.
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 231 km, cách Cần Thơ 62 km, nằm trên tuyến Quốc lộ 1 nối liền các tỉnh Hậu Giang, Thành phố Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau. Tỉnh Sóc Trăng có vị trí tọa độ 9012’ - 9056’ vĩ Bắc và 105033’ - 106023’ kinh Đông. Đường bờ biển dài 72 km và 3 cửa sông lớn là Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông. Tỉnh Sóc Trăng có vị trí địa lý:
Phía đông và đông nam giáp Biển Đông
Phía đông bắc giáp tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long
Phía tây nam giáp tỉnh Bạc Liêu
Phía bắc và tây bắc giáp tỉnh Hậu Giang.
Các điểm cực của tỉnh Sóc Trăng:
Điểm cực Bắc tại: xã Xuân Hòa, huyện Kế Sách
Điểm cực Nam tại: xã Lai Hòa, thị xã Vĩnh Châu
Điểm cực Tây tại: xã Vĩnh Quới, thị xã Ngã Năm
Điểm cực Đông tại: xã An Thạnh 3, huyện Cù Lao Dung.
Địa hình
Địa hình trong tỉnh Sóc Trăng thấp và tương đối bằng phẳng, có dạng lòng chảo, cao ở phía sông Hậu và biển Đông thấp dần vào trong, vùng thấp nhất là phía Tây và Tây Bắc, với Độ cao cốt đất tuyệt đối từ 0,4 - 1,5m, độ dốc thay đổi khoảng 45 cm/km chiều dài. Tiểu địa hình có dạng gợn sóng không đều, xen kẽ là những giồng cát địa hình tương đối cao và những vùng thấp trũng nhiễm mặn, phèn. Sóc Trăng có hệ thống kinh rạch chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Thủy triều vùng biển gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư dân địa phương, đồng thời còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Khí hậu
Sóc Trăng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng gió mùa, chia thành mùa là mùa khô và mùa mưa, trong đó:
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10
Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 26,8 °C, ít khi bị bão lũ
Lượng mưa trung bình trong năm là 1.864 mm, tập trung chủ yếu vào các tháng 8, 9, 10
Độ ẩm trung bình là 83%.
Các điều kiện khí hậu như trên thuận lợi phát triển trồng cây lúa và các loại hoa màu khác.
Sông ngòi
Sóc Trăng có hệ thống kênh rạch chịu ảnh hường của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Thủy triều vùng biển không những gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư dân địa phương, mà còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Nhờ vào địa thế đặc biệt, nơi dòng sông Hậu đổ ra biển Đông, vùng có nhiều trữ lượng tôm cá, Sóc Trăng có đủ điều kiện thuận lợi để cũng như phát triển kinh tế biển tổng hợp.
Tài nguyên đất
Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa nước, cây công nghiệp ngắn ngày như: mía, đậu nành, bắp,... các loại rau màu như: hành, tỏi,... các loại cây ăn trái như: bưởi, xoài, sầu riêng,...
Hiện đất nông nghiệp chiếm 82,89%, trong đó:
Đất sản xuất nông nghiệp chiếm 62,13%
Đất lâm nghiệp có rừng 11.356 ha chiếm 3,43%
Đất nuôi trồng thủy sản 54.373 ha chiếm 16,42%
Đất làm muối và đất nông nghiệp khác chiếm 0,97%.
Đất nông nghiệp trong địa bàn tỉnh chủ yếu sử dụng cho canh tác lúa, cây hàng năm khác và diện tích đất còn lại dùng trồng cây lâu năm và cây ăn trái, ngoài ra cũng có nhiều diện tích đất tự nhiên chưa được sử dụng. Đất đai tại Sóc Trăng có thể chia thành 4 nhóm chính: nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất mặn, nhóm đất nhân tác.
Điều kiện tự nhiên trong địa bàn tỉnh nhìn chung cũng đang gặp phải khó khăn như thiếu nước ngọt và bị xâm nhập mặn trong Mùa khô, một số khu vực bị nhiễm phèn, nhưng việc sử dụng đất ở Sóc Trăng lại có nhiều thuận lợi cơ bản để phát triển nông, ngư nghiệp đa dạng và trên cơ sở đó hình thành những khu du lịch sinh thái phong phú. Đặc biệt, Sóc Trăng còn có dải cù lao thuộc huyện Kế Sách, Long Phú và Cù Lao Dung chạy dài ra tận cửa biển với nhiều cây trái nhiệt đới, không khí trong lành như cồn Mỹ Phước, Khu du lịch Song Phụng, Cù Lao Dung,... là địa điểm lý tưởng để phát triển loại hình du lịch sinh thái.
Tài nguyên rừng
Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng với các loại cây chính như Tràm, bần, giá, vẹt, đước, dừa nước. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn.
Tài nguyên biển
Sóc Trăng còn có 72 km bờ biển với 2 cửa sông lớn là sông Hậu và sông Mỹ Thanh, có nguồn hải sản đáng kể bao gồm cá đáy, cá nổi và tôm. Sóc Trăng có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế biển tổng hợp, thủy hải sản, nông - lâm nghiệp biển, công nghiệp hướng biển, thương cảng, cảng cá, dịch vụ cảng biển, xuất nhập khẩu, du lịch và vận tải biển.
Hành chính
Tỉnh Sóc Trăng có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện với 109 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 12 thị trấn và 80 xã.
{| class="wikitable sortable" align="center" width="100%" cellspacing="6" cellpadding="0" style="background: #f9f9f9; border: 1px #aaa solid; margin-top: 16px"
! style="background: #E6E6FA; font-size: 95%;" | Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Sóc Trăng
|-
| valign="top" style="background: #f9f9f9;" |
|-
| colspan="8" |{{center|<small>Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2022</small>}}
|}
Lịch sử
Thời phong kiến
Vùng Sóc Trăng tiền thân vốn là đất Ba Thắc, nửa cuối thế kỷ 18 đã bắt đầu được sáp nhập vào lãnh thổ xứ Đàng Trong của Việt Nam. Ban đầu vùng Sóc Trăng (Ba Thắc) thuộc dinh Vĩnh Trấn, (sau đổi thành trấn Vĩnh Thanh), phủ Gia Định của Đàng Trong.
Đại Nam nhất thống chí viết rằng: Đất Ba Thắc (sau là phủ Ba Xuyên tỉnh An Giang) nguyên là đất Cao Miên, đến đầu thời trung hưng cơ nghiệp chúa Nguyễn của Nguyễn Ánh (tức là khoảng sau năm 1788, sau khi lấy được vùng đất Nam Hà do họ Mạc dâng tặng, cùng việc quản lí các vùng đất còn lại của các thế lực người Man ở phía Nam. Nguyễn Ánh lập đất đó thành phủ An Biên và cho người Man (người Cao Miên) lập đồn điền ở đây. Đến năm Nhâm Tý (1792) Nặc Ấn (Ang Eng tức Narayanaraja III (1779-1796)) từ Xiêm La trở về Cao Miên. Nguyễn Ánh cắt đất Ba Thắc trả về cho Nặc Ấn. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), quan phiên (người Cao Miên) là Trà Long xin đặt quan cai trị [đất ấy], Minh Mạng liền đổi tên phủ là Ba Xuyên và cho đặt chức an phủ sứ để quản phủ này.Đại Nam nhất thống chí, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, trang 41. (Phủ An Biên (thuộc dinh Vĩnh Trấn (Long Hồ)) này là khác với phủ An Biên của tỉnh Hà Tiên nhà Nguyễn chỉ mới đặt ra vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826))
Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu viết:
Như vậy, đất Ba Thắc của Cao Miên, bắt đầu thuộc chúa Nguyễn (do Nặc Ong Nhuận (Ang Tong tức vua Ramathipadi II), (khoảng năm 1756-1757) dâng cho chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng với đất Trà Vinh) giai đoạn 1757-1792; rồi lại về Cao Miên giai đoạn 1792-1835 (cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19); từ sau năm 1835 vùng đất Ba Thắc (Trung tâm là Bãi xàu cũ nay thuộc huyện Mỹ Xuyên hiện còn Đình thờ) tức tỉnh Sóc Trăng mới hoàn toàn thuộc vào lãnh thổ Đại Nam (tức Việt Nam) (giai đoạn 1835-1867 đất Ba Thắc trở thành phủ Ba Xuyên thuộc tỉnh An Giang nhà Nguyễn). Năm 1840, vua Minh Mạng đổi chức An phủ sứ thành Tri phủ, cử người Kinh đảm trách. Phủ Ba Xuyên lúc này tục gọi là Sóc Trăng, có 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định.
Trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam viết:
Thời Pháp thuộc
Đầu thời Pháp thuộc, phủ Ba Xuyên đổi thành hạt thanh tra Ba Xuyên. Ngày 15 tháng 7 năm 1867, Pháp đổi hạt thanh tra Ba Xuyên thành hạt thanh tra Sóc Trăng, gồm 11 tổng; do Bertaux Levillain làm Chủ hạt đầu tiên (1867 - 1868). Ngày 05 tháng 6 năm 1871, Chủ hạt Sóc Trăng là Lahagre đồng ý nhận thêm hạt Long Xuyên tách ra từ hạt Rạch Giá. Ngày 18 tháng 12 năm 1871, hạt Long Xuyên được trả về cho hạt Rạch Giá. Từ ngày 05 tháng 1 năm 1876, các hạt thanh tra được đổi thành hạt tham biện, các thôn được gọi là làng. Chủ tỉnh lúc đó là Rossigneux.
Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Sóc Trăng trở thành tỉnh Sóc Trăng.. Tỉnh lỵ Sóc Trăng đặt tại làng Khánh Hưng thuộc tổng Nhiêu Khánh, quận Châu Thành. Viên chủ tỉnh đầu tiên là Gustave H. Delanoue (1900 - 1901).
Ngày 10 tháng 9 năm 1906, tỉnh Sóc Trăng có 3 quận là Phú Lộc, Kế Sách, Bàng Long; chủ tỉnh là Laffont. Ngày 30 tháng 8 năm 1916, quận Châu Thành thuộc tỉnh Sóc Trăng được thành lập. Ngày 01 tháng 3 năm 1926, quận Bàng Long được đổi tên thành quận Long Phú. Ngày 10 tháng 12 năm 1926, Chủ tỉnh Sóc Trăng là Maurice Esquivillon đổi tên quận Phú Lộc thành quận Thạnh Trị.
Ngày 19 tháng 11 năm 1929, Pháp hủy bỏ tất cả các Nghị định thành lập quận trước đó, giao cho một ban nghiên cứu chia lại các quận. Ngày 1 tháng 1 năm 1930, tỉnh Sóc Trăng được chia thành 3 quận là Châu Thành, Kế Sách và Long Phú. Năm 1941, Thống đốc Nam Kỳ quyết định thành lập lại quận Thạnh Trị thuộc tỉnh Sóc Trăng.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Năm 1948, tỉnh Sóc Trăng nhận thêm huyện Vĩnh Châu do tỉnh Bạc Liêu giao cho. Chính quyền Việt Minh nhập huyện Vĩnh Châu vào địa bàn huyện Thạnh Trị.
Trong kháng chiến chống Pháp, tỉnh Sóc Trăng còn nhận thêm một số xã của tỉnh Rạch Giá và tỉnh Cần Thơ giao qua như: Mỹ Qưới, Hương Qưới, Vĩnh Qưới, Lộc Hòa, Long Trị, Long Tân, Tân Long, Long Phú, Phương Bình, Phương Phú (của tỉnh Rạch Giá) và Tân Phước Hưng (của tỉnh Cần Thơ). Năm 1954, tỉnh Sóc Trăng lại trao trả huyện Vĩnh Châu về cho tỉnh Bạc Liêu quản lý trở lại như trước.
Giai đoạn 1954-1975
Việt Nam Cộng hòa
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Sóc Trăng và tỉnh lỵ Sóc Trăng như thời Pháp thuộc. Năm 1955, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia tỉnh Sóc Trăng thành 8 quận: Châu Thành, Kế Sách, Long Phú, Thạnh Trị, Long Mỹ, Bãi Xàu, Bố Thảo và Lịch Hội Thượng. Trong đó, quận Long Mỹ được tỉnh Sóc Trăng nhận từ tỉnh Rạch Giá. Tuy nhiên, không lâu sau quận Long Mỹ lại được giao cho tỉnh Cần Thơ quản lý.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Ba Xuyên được thành lập bao gồm phần đất tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Bạc Liêu trước đó, tỉnh lỵ đặt tại Sóc Trăng nhưng lúc này lại đổi tên là Khánh Hưng. Tỉnh lỵ Khánh Hưng lấy theo tên xã Khánh Hưng thuộc quận Châu Thành (sau năm 1958 là quận Mỹ Xuyên) vốn là nơi đặt tỉnh lỵ tỉnh Ba Xuyên.
Năm 1957, tỉnh Ba Xuyên gồm 8 quận: Châu Thành, Thạnh Trị, Long Phú, Lịch Hội Thượng, Bố Thảo (cùng thuộc tỉnh Sóc Trăng cũ), Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long (cùng thuộc tỉnh Bạc Liêu cũ). Ngày 23 tháng 2 năm 1957, tỉnh trưởng Ba Xuyên là Huỳnh Văn Tư giao quận Kế Sách cho tỉnh Phong Dinh (tức tỉnh Cần Thơ trước đó) quản lý.
Ngày 13 tháng 1 năm 1958, theo Nghị định số 9-BNV/NC/NP của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, địa giới hành chính tỉnh Ba Xuyên có sự điều chỉnh. Theo đó, quận Châu Thành đổi tên thành quận Mỹ Xuyên, quận Bố Thảo đổi tên thành quận Thuận Hoà, giải thể quận Lịch Hội Thượng và quận Vĩnh Châu. Các tổng và xã của các quận cũng có sự điều chỉnh quận Thạnh Trị còn 2 tổng Thạnh An, Thạnh Lộc, quận Long Phú có thêm tổng Định Phước.
Ngày 16 tháng 9 năm 1958, tỉnh trưởng Ba Xuyên là Trần Thanh Bền nhận lại quận Kế Sách từ tỉnh Phong Dinh. Ngày 5 tháng 12 năm 1960, tái lập quận Vĩnh Châu.
Ngày 21 tháng 12 năm 1961, quận Phước Long được chính quyền Việt Nam Cộng hòa giao cho tỉnh Chương Thiện. Lúc này, quận Phước Long cũng bị chia ra thành hai quận có tên là quận Phước Long và quận Kiến Thiện cùng thuộc tỉnh Chương Thiện.
Sắc lệnh số 245-NV ngày 8 tháng 9 năm 1964 của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa quy định kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu, trên cơ sở tách các quận Vĩnh Lợi, Giá Rai, Vĩnh Châu của tỉnh Ba Xuyên và quận Phước Long của tỉnh Chương Thiện. Phần đất còn lại tương ứng với tỉnh Sóc Trăng trước năm 1956, tuy nhiên Việt Nam Cộng hòa vẫn giữ tên tỉnh Ba Xuyên cho vùng đất này đến năm 1975.
Ngày 11 tháng 12 năm 1965, tái lập quận Lịch Hội Thượng. Ngày 11 tháng 7 năm 1968, lập quận Hòa Tú. Ngày 16 tháng 6 năm 1969, lập quận Ngã Năm. Năm 1973, tỉnh Ba Xuyên gồm 8 quận: Mỹ Xuyên, Thuận Hòa, Long Phú, Thạnh Trị, Kế Sách, Ngã Năm, Lịch Hội Thượng, Hòa Tú. Tỉnh lỵ tỉnh Ba Xuyên vẫn giữ nguyên tên là "Khánh Hưng" cho đến năm 1975.
Các viên Chủ tỉnh Ba Xuyên (1950 - 1975):
Lê Văn Thọ: Đốc Phủ Sứ Đặc hạng được bổ nhiệm từ ngày 23.02.1950 đến ngày 04.03.1953.
Lương Khắc Nhạc: Đốc Phủ Sứ Đặc hạng, từ ngày 04.03.1953 đến 18.05.1954.
Nguyễn Văn Ngân: Đốc Phủ Sứ Đặc hạng, từ ngày 18.05.1954 đến 12.04.1955.
Dương văn Đức: Đại tá, từ 122.04.1955 đến ngày 12.03.1956.
Huỳnh Văn Tư: Trung tá, từ ngày 12.03.1956 đến 05.03.1957.
Lê Quang Hiền: Trung tá, từ 05.03.1957 đến 24.03.1958.
Trần Thanh Bền: Thiếu tá, từ 24.03.1958 đến 20.01.1959.
Hoàng Mạnh Thường: Thiếu tá, từ 20.01.1959 đến 12.10.1961.
Nguyễn Ngọc Tháng: Thiếu tá, từ ngày 12.10.1961 đến 17.07.1962.
Nguyễn Linh Chiêu: Trung tá, từ ngày 17.07.1962 đến 27.11.1963.
Nguyễn Thanh Hoàng: Trung tá,từ 27.01.1963 đến 14.04.1964.
Đào Ngọc Diệp: Thiếu tá, từ ngày 14.04.1964 đến 29.10.1964.
Phạm Văn Út: Đại tá, từ 29.10.1964 đến 08.07.1965.
Nguyễn Ngọc Điệp: Trung tá, từ 08.07.1965 đến 11.11.1965.
Huỳnh Thao Lược: Trung tá, từ 11.11.1965 đến 11.03.1968.
Quách Huỳnh Hà: Trung tá, từ 11.03.1968 đến 1972.
Liêu Quang Nghĩa: Đại tá, từ 1972 đến 30.04.1975.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Ba Xuyên mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Sóc Trăng.
Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu về tỉnh Sóc Trăng quản lý. Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, lấy tên là huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu. Năm 1958, huyện Kế Sách của tỉnh Sóc Trăng được giao về cho tỉnh Cần Thơ quản lý đến năm 1976.
Đầu năm 1961, chính quyền Cách mạng thành lập thêm huyện Mỹ Xuyên trên cơ sở tách một số xã của huyện Thạnh Trị và huyện Châu Thành. Năm 1962, huyện Giá Rai được giao cho tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định giải thể huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu, tái lập huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi. Tháng 8 năm 1966, huyện Long Phú được chia thành 2 huyện: Long Phú và Lịch Hội Thượng.
Trong giai đoạn 1964-1973, địa bàn tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Sóc Trăng của chính quyền cách mạng quản lý. Tháng 11 năm 1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu. Tuy nhiên, chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng cho đến năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Sóc Trăng cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.
Từ năm 1976 đến nay
Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Hậu Giang. Lúc này, huyện Châu Thành (thuộc tỉnh Sóc Trăng cũ) được đổi tên thành huyện Mỹ Tú, do tỉnh Hậu Giang lúc này đã có huyện Châu Thành vốn trước đó thuộc tỉnh Cần Thơ.
Tỉnh Hậu Giang lúc này gồm có thành phố Cần Thơ (tỉnh lỵ), thị xã Sóc Trăng và 12 huyện: Châu Thành, Kế Sách, Long Mỹ, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Ô Môn, Phụng Hiệp, Thạnh Trị, Thốt Nốt, Vị Thanh, Vĩnh Châu. Tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang lúc đó là thành phố Cần Thơ.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội ban hành nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Sóc Trăng có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Sóc Trăng (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Kế Sách, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Vĩnh Châu.
Ngày 11 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2002/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Phú để thành lập huyện Cù Lao Dung.
Ngày 31 tháng 10 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 127/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện Ngã Năm trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Thạnh Trị.
Ngày 8 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2007/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sóc Trăng.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/NĐ-CP về việc thành lập huyện Châu Thành trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mỹ Tú.
Ngày 23 tháng 12 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 64/NQ-CP về việc thành lập huyện Trần Đề trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của hai huyện Long Phú và Mỹ Xuyên.
Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP về việc thành lập thị xã Vĩnh Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Châu.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 133/NQ-CP về việc thành lập thị xã Ngã Năm trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Ngã Năm.
Tỉnh Sóc Trăng có 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện như hiện nay.
Kinh tế
Năm 2018, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh chuyển biến tích cực; tăng trưởng kinh tế đạt 7,2%; có 16/20 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt và vượt chỉ tiêu nghị quyết và 3/20 chỉ tiêu đạt 99% chỉ tiêu nghị quyết năm. Sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định, trong đó diện tích lúa đặc sản chiếm 50% tổng diện tích, tổng sản lượng lúa cả năm là 2,13 triệu tấn; chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng tập trung, ứng dụng công nghệ cao, quy mô đàn giảm nhưng tập trung phát triển và chất lượng; sản lượng thủy, hải sản đều tăng so với cùng kỳ.
Giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đều tăng so cùng kỳ; hoạt động thu hút đầu tư có nhiều khởi sắc, năm 2018 tỉnh đã tiếp xúc và làm việc với 141 lượt nhà đầu tư đến tìm hiểu, đăng ký thực hiện 141 dự án; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh vượt dự toán.
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; các hoạt động văn hóa được tổ chức sôi nổi, thiết thực chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm và sự kiện chính trị quan trọng của tỉnh và cả nước; chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên; giáo dục mầm non, giáo dục dân tộc tiếp tục được quan tâm đầu tư và đẩy mạnh; công tác phòng, chống dịch, khám chữa bệnh được chủ động triển khai thực hiện, tình hình dịch bệnh ở người cơ bản được kiểm soát.
Các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công, người nghèo, người dân tộc thiểu số được quan tâm thực hiện; giải quyết việc làm, giảm nghèo vượt chỉ tiêu kế hoạch; trong năm 2018 toàn tỉnh có 11.281 hộ thoát nghèo, hiện nay còn 27.267 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 8,43%. An ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững; công tác thanh tra, tư pháp, cải cách hành chính được các ngành, các cấp quan tâm thực hiện.
Năm 2019, tỉnh đạt và vượt 20 chỉ tiêu kinh tế - xã hội, trong đó có 12 chỉ tiêu vượt Nghị Quyết, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,3%. Cơ cấu kinh tế khu vực I - II - III tương ứng là 37,77% - 17,82% - 44,41%; trong đó, khu vực I tăng 4,8%, khu vực II tăng 10,82%, khu vực III tăng 8,14%. Các địa phương gieo trồng 61.004 ha hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày, tăng 2,62% so cùng kỳ; diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP tăng 11,6 ha. Diện tích cây ăn trái 31.370 ha, tăng 6,37%; trong đó có 265,8 ha áp dụng mô hình sản xuất VietGAP, với 5 ha vú sữa và 10 ha bưởi áp dụng mô hình liên kết tiêu thụ. Trên địa bàn tỉnh có 302 trang trại chăn nuôi; trong đó có 2 trang trại nuôi gà và 1 trang trại nuôi heo ứng dụng công nghệ cao. Toàn tỉnh có trên 687 ha diện tích nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao với mật độ khoảng 200-500 con/m2. Tổng sản lượng thủy sản 281.352 tấn, tăng 7,81%, trong đó sản lượng tôm nước lợ là 150.350 tấn, tăng 12,4%. Trong năm, tỉnh tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; tính đến nay, toàn tỉnh có 42 xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới, có 26 xã đạt từ 15 tiêu chí trở lên; 12 xã còn lại đạt từ 12 đến 14 tiêu chí. Tính bình quân trên toàn tỉnh, mỗi xã đạt 16,85 tiêu chí.
Xã hội
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Sóc Trăng đạt 1.199.555 người, mật độ dân số đạt 300 người/km².Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 388.550 người, chiếm 32,4% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 811.103 người, chiếm 67,6% dân số. Dân số nam đạt 597.922 người, trong khi đó nữ đạt 601.731 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,75 ‰
Sóc Trăng là địa bàn cư trú của ba dân tộc chính là dân tộc Kinh (774.807 người), Hoa, Khmer cùng với nhiều dân tộc khác
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 10 tôn giáo khác nhau đạt 688.461 người, nhiều nhất là Phật giáo có 662.990 người, tiếp theo là Công giáo đạt 13.607 người, đạo Cao Đài có 7.260 người, đạo Tin Lành có 3.770 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam chiếm 468 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 255 người. Còn lại là các tôn giáo khác như Hồi giáo có 99 người, Minh Lý Đạo có tám người, Minh Sư Đạo và Bửu Sơn Kỳ Hương mỗi đạo chỉ có hai người.
Y tế
Ngành y tế tại tỉnh Sóc Trăng tương đối đồng nhất. Ở các đơn vị hành chính cấp huyện đều có các trung tâm y tế, trạm y tế. Các bệnh viện lớn và Trung tâm y tế huyện như:
Các bệnh viện Đa khoa Sóc Trăng, Chuyên khoa Sản - Nhi Sóc Trăng, Bệnh viện Chuyên Khoa 27 tháng 2, bệnh viện 30 tháng 4 Sóc Trăng, Quân Dân Y Sóc Trăng.
Các Trung tâm y tế các huyện, thị xã, thành phố: Kế Sách, Châu Thành, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Trần Đề, Long Phú, Cù Lao Dung, thị xã Vĩnh Châu, thị xã Ngã Năm và thành phố Sóc Trăng.
Trên địa bàn toàn tỉnh có 125 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 05 bệnh viện, 11 trung tâm y tế và 109 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 2.231 giường, trong đó các bệnh viện có 1.460 giường, phòng khám phòng khám đa khoa khu vực có 190 giường, trạm y tế có 581 giường .
Giáo dục - đào tạo
Hệ thống giáo dục - đào tạo tại Sóc Trăng có cơ sở hạ tầng khá đầy đủ, đáp ứng giảng dạy cho nhiều đối tượng khác nhau.
Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008, toàn tỉnh Sóc Trăng có 422 trường học ở các cấp phổ thông, đứng thứ 4 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2008:
Tổng số học sinh phổ thông đạt 206.550 học sinh, trong đó:
Cấp TH là 114.639 học sinh
Cấp THCS là 64.216 học sinh
Cấp THPT là 27.695 học sinh
Tổng số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy đạt 12.286 người, trong đó:
Giáo viên TH là 6.373 người
Giáo viên THCS là 4.091 người
Giáo viên THPT là 1.822 người.
Các trường Cao đẳng ở Sóc Trăng gồm:
Trường Cao đẳng Nghề Sóc Trăng.
Trường Cao đẳng Cộng đồng Sóc Trăng.
Văn hóa
Với một nền văn hóa đặc sắc và khá riêng biệt mà có thể gọi là: "văn hoá xứ giồng"'', thể hiện qua các mặt trong đời sống hằng ngày của người Sóc Trăng, từ ngôn ngữ, mối quan hệ xã hội, tên đất, tên làng đến tín ngưỡng tôn giáo, ẩm thực và lễ hội của người Kinh, Hoa, Khmer và số ít người Chăm.
Lễ hội
Năm 2013, tỉnh Sóc Trăng tổ chức Festival Đua Ghe Ngo Đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức 2 năm một lần.
Lễ hội Ooc Om Boc - Đua Ghe Ngo (Cúng trăng), được tổ chức đua ghe vào Rằm tháng 10 Âm lịch hàng năm, cùng với lễ hội Loi -Pro tip - lễ hội thả đèn nước trên sông Maspero tại trung tâm thành phố Sóc Trăng
Lễ Sen Đôlta (thờ cúng tổ tiên của người Khmer)
Lễ Chol Chnăm Thmây (Vào năm mới),...
Lễ Nghinh Ong (ở Trần Đề)
Thanh minh (của người Kinh và Hoa).
Lễ hội thí vàng (tháng 7), chủ yếu là tại các khu vực có nhiều người Hoa sinh sống.
Lễ kỳ yên ở các đình chùa. Mỗi làng xã người Việt, người Hoa thường có đình chùa và được tổ chức vào khoảng 3 ngày liên tiếp trong năm tùy đình chùa đó. Lễ hội chính là cúng thần và trình diễn cải lương.
Di tích
Sóc Trăng là tỉnh có hơn 200 ngôi chùa của cả ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer. Nổi tiếng thì phải kể đến Chùa Dơi (chùa Mã Tộc, Mahatup), Chùa Đất Sét (Bửu Sơn tự), Chùa Khléang, chùa Chén Kiểu (chùa Salon), chùa La Hán, chùa Bốn Mặt (chùa Barai), chùa Quan Âm linh ứng, Chùa Khánh Sơn, chùa Hương Sơn, chùa Đại Giác... Ngoài ra còn còn có đền thờ, đình, miếu, nhà thờ, thánh thất...
Bửu Sơn tự (hay chùa Đất Sét): Đây là một am thờ đã qua nhiều đời của dòng tộc họ Ngô, có tất cả tượng Phật đến linh thú, bảo tháp, đỉnh trầm đều được làm từ đất sét. Phần lớn do ông Ngô Kim Tòng sáng tạo trong suốt 42 năm (1928-1970).
Ngoài ra, trong chùa còn có 6 cây nến lớn hai cây nặng 200 kg hai cây nến nhỏ nặng 100 kg và ba cái đỉnh bằng đất mỗi cái cao 2m. Hai cây nến nhỏ đã đốt liên tục trong 40 năm kể từ năm 1970 khi ông Ngô Kim Tòng qua đời. Sáu cây nến lớn chưa đốt, mỗi cây sẽ có thời gian cháy liên tục khoảng 70 năm.
Chùa Mã Tộc (hay chùa Dơi): Chùa được xây dựng cách đây hơn 400 năm . Chùa còn có tên là chùa Dơi vì ngôi chùa này từ lâu đã là nơi trú ẩn của khoảng 1 triệu con dơi, phần lớn có sải cánh 1-1h,2 m, những con lớn nhất có sải cánh lên tới 1,5 m. chúng treo mình trên những cành cây chung quanh chùa để ngủ suốt ngày,đến chiều tối mới bắt đầu lần lượt bay đi kiếm ăn ở những nơi có nhiều vườn trái cây cách xa
Hòa An Hội Quán (chùa Ông Bổn): Chùa được xây dựng vào năm 1875, chùa thờ ông bổn (Bổn Đầu Công).Chùa được xây dựng với kiến trúc độc đáo của người Hoa chất liệu toàn bằng đá, gỗ quý từ Trung Quốc chở qua. Di tích này được trải qua 7 đợt trùng tu nhưng vẫn giữ được những giá trị nghệ thuật kiến trúc.Rằm tháng giêng hàng năm nhân tết nguyên tiêu chùa đều có tổ chức lễ hội đấu đèn lồng.
Khu căn cứ tỉnh ủy Sóc Trăng, xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú.
Đền thờ Bác Hồ, xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung
Đặc sản
Sóc Trăng có nền văn hóa ẩm thực hết sức phong phú và đa dạng, trong đó có thể kể đến như:
Các loại quà - bánh: Bánh pía Vũng Thơm, bánh phồng tôm, bánh ống, bánh dứa, cốm dẹp, mè láo, bánh in Cổ Cò, bánh cống Đại Tâm, bánh gừng, xá bấu (củ cải muối Vĩnh Châu, có ba loại là xá bấu mặn, xá bấu ngọt, xá bấu chua ngọt), lạp xưởng
Bún: Bún nước lèo, bún xào, bún gỏi dà (bún gỏi già), bò nướng ngói Mỹ Xuyên.
Khô: Khô trâu Thạnh Trị, khô heo Lịch Hội Thượng, khô cá Trần Đề
Mắm: Mắm chiên Ngã Năm, mắm cá rô không xương
Nông thủy sản: hành tím Vĩnh Châu, nhãn tím Kế Sách, cá bống sao Cù Lao Dung
Âm nhạc
Bài hát "Sóc sờ bai Sóc Trăng" (Chào buổi sáng Sóc Trăng) được sáng tác bởi nhạc sĩ Thanh Sơn.
Du lịch
Ngoài chùa chiền và các lễ hội đặc sắc. Sóc Trăng còn có những địa điểm tham quan như:
Hồ Nước Ngọt: khu công viên văn hóa này rộng khoảng 20ha, tọa lạc trên đường Hùng Vương, thành phố Sóc Trăng.
Chợ nổi Ngã Năm: nằm tại trung tâm thị xã Ngã Năm.
Vườn cò Tân Long: nằm tại xã Long Bình, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, vườn cò này do gia đình ông Huỳnh Văn Mười quản lý. Với diện tích rộng khoảng 1,5ha, được che phủ bởi những bụi tre, hàng dừa đã tạo nên một môi trường tự nhiên lí tưởng cho loài cò. Cùng với sự chăm nom của ông Mười, nơi này hình thành một sân chim với hàng vạn con cò, vạc sinh sống hòa thuận. Đại gia đình chim gồm: cò gà, cò trắng tinh, cò đầu đỏ, cò trâu, cồng cộc, vạc,...
Cồn Mỹ Phước: nằm gần cuối hạ lưu sông Hậu, thuộc địa phận xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách. Với khí hậu, thổ nhưỡng, sông nước đặc thù khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên cồn Mỹ Phước là môi trường thích hợp để các loại cây ăn trái phát triển. Thời điểm cồn Mỹ Phước đón nhiều du khách nhất là dịp diễn ra Lễ hội Sông nước Miệt vườn (trong 2 ngày mồng 4 và mồng 5 tháng 5 (âm lịch) hàng năm), với các hoạt động như: nghi thức, nghi lễ cúng Tết Đoan Ngọ, hội thi làm bánh xèo, hội chợ đưa hàng Việt về nông thôn, hội thảo về cây ăn trái, hội thảo sông nước miệt vườn, đua thuyền rồng, đua ca nô, đua vỏ lãi, nhảy bao, đập nồi...
Hồ Bể: Thuộc xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, Hồ Bể là một bãi biển vừa được khai phá giữa vùng trồng rừng phòng hộ ven biển. Bãi biển dài 5 cây số, vẫn còn mộc mạc, hoang sơ, thích hợp cho những chuyến thư giãn cuối tuần. Khu vực Hồ Bể còn là nơi trú ngụ và sinh sản của nhiều giống loài thủy sản có giá trị. Từ lâu, khu vực này đã hình thành nên những bãi cua biển, nghêu, sò huyết giống... đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân địa phương. Sự phong phú về nguồn lợi thủy sản nơi đây luôn được gắn liền với công tác trồng và bảo vệ rừng phòng hộ ven biển.
Điểm du lịch sinh thái Mỏ Ó cách trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng khoảng 30km về phía Đông Nam, nằm gần cửa sông Mỹ Thanh và Trần Đề thuộc khu vực biển Đông, thuộc xã Trung Bình, huyện Trần Đề, nơi đây có diện tích rừng tự nhiên trên 260 ha, là nơi trú ngụ của nhiều loài chim chóc, bò sát và hải sản quý hiếm (rắn, rùa, cua, cò, cá...).
Giao thông
Sóc Trăng là tỉnh có vị trị địa lý khá thuận lợi cho việc giao thương và phát triển kinh tế, xã hội.
Trên địa bàn có 7 tuyến Quốc lộ: Quốc lộ 1, Quốc lộ 60, Đường Nam Sông Hậu, Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp, Quốc lộ 61B, đường cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng và 14 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài hơn 600 km, hệ thống đường huyện, đường giao thông nông thôn có hơn 3.700 km. Mạng lưới đường ô tô khá dài chiếm khoảng 129 km.
Toàn tỉnh hiện có 8 tuyến xe buýt, trong đó các tuyến gồm:
Tuyến 1: TP. Sóc Trăng - Thạnh Trị - TX. Ngã Năm
Tuyến 2: TP. Sóc Trăng - Châu Thành - TP. Ngã Bảy (Hậu Giang)
Tuyến 3: TP. Sóc Trăng - Long Phú - Đại Ngãi
Tuyến 4: TP. Sóc Trăng - Mỹ Xuyên - Kinh Ba (Trần Đề)
Tuyến 5: TP. Sóc Trăng - Kế Sách
Tuyến 6: TP. Sóc Trăng - Mỹ Tú
Tuyến 7: TP. Sóc Trăng - TX. Vĩnh Châu
Tuyến 8: TP. Sóc Trăng - Đại Ngãi - Nhơn Mỹ (Kế Sách) - An Lạc Thôn - TP. Cần Thơ.
Toàn tỉnh có 72 km bờ biển, có 3 cửa sông lớn là Định An, Trần Đề của Sông Hậu và Mỹ Thanh của Sông Mỹ Thanh đổ ra biển Đông rất thuận lợi cho giao thông đường thủy, đường bộ và phát triển kinh tế du lịch.
Hình ảnh
Chú thích |
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Tỉnh lỵ là Thành phố Quảng Ngãi, cách thành phố Hồ Chí Minh 820 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 146 km về phía Nam và cách Hà Nội 908 km về phía Nam tính theo đường Quốc lộ 1.
Năm 2018, Quảng Ngãi là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 19 về số dân, xếp thứ 27 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 20 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 13 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.272.800 người dân, GRDP đạt 73.568 tỉ đồng (tương ứng với 3,1951 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 57,8 triệu đồng (tương ứng với 2.510 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,60%
Đường bờ biển Quảng Ngãi có chiều dài khoảng 129 km với vùng lãnh hải rộng lớn 11.000 km2 và 6 cửa biển vốn giàu nguồn lực hải sản với nhiều bãi biển đẹp. Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Nam Trung Bộ được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất (Bình Sơn - Quảng Ngãi) để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam. Tỉnh được tái lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1989 trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
Tỉnh Quảng Ngãi bao gồm 1 thành phố trực thuộc (Quảng Ngãi), 1 thị xã (Đức Phổ) và 11 huyện trong đó có 1 huyện đảo (Lý Sơn), 5 huyện đồng bằng, 5 huyện miền núi. Các huyện của Quảng Ngãi gồm huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tây, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa.
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Quảng Ngãi trải dài từ 14°32′B đến 15°25′B, từ 108°06′Đ đến 109°04′Đ, tựa vào dãy núi Trường Sơn và có vị trí địa lý:
Phía đông giáp Biển Đông với chiều dài đường bờ biển là 144 km
Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam với chiều dài đường địa giới 98 km
Phía nam giáp tỉnh Bình Định với chiều dài đường địa giới 83 km
Phía tây giáp tỉnh Kon Tum với chiều dài đường địa giới 79 km
Phía tây nam giáp tỉnh Gia Lai với chiều dài đường địa giới khoảng 10 km .
Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, Quảng Ngãi cách thủ đô Hà Nội 884 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 836 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1.
Điều kiện tự nhiên
Quảng Ngãi có địa hình tương đối phức tạp, có xu hướng thấp dần từ tây sang đông với các dạng địa hình đồi núi, đồng bằng ven biển, phía tây của tỉnh là sườn Đông của dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có nơi núi chạy sát biển. Khí hậu ở Quảng Ngãi là khí hậu nhiệt đới và gió mùa, nên nhiệt độ cao và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú, nhiệt độ trung bình 25-26,9 °C. Khí hậu nơi đây phân hóa thành 2 mùa rõ rệt, gồm có mùa mưa và mùa nắng. Đất đai trong địa bàn tỉnh được chia làm 9 nhóm đất chính với 25 đơn vị đất và 68 đơn vị đất phụ. Các nhóm đất chính là cồn cát, đất cát ven biển, đất mặn, đất phù sa, đất giây, đất xám, đất đỏ vàng, đất đen, đất nứt nẻ, đất xói mòn trơ trọi đá. Trong đó, nhóm đất xám có vị trí quan trọng với hơn 74,65% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc và nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông chiếm 19,3% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu… Đất Quảng Ngãi có thành phần cơ giới nhẹ, hơi chặt, thích hợp với trồng mía và các cây công nghiệp ngắn theo ngày.
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số tỉnh Quảng Ngãi là 1.231.697 người, mật độ dân số đạt 237 người/km² trong đó dân sống tại thành thị là 201.019 người, chiếm 16,3% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn là 1.030.678 người, chiếm 83,7%. Dân số nam là 611.914 người, trong khi đó nữ là 619.783 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,12 ‰ Tỷ lệ đô thị hóa ở Quảng Ngãi tính đến năm 2023 là 37%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống, trong đó dân tộc Việt chiếm đông nhất với 1.055.154 người, thứ hai là người Hrê với 115.268 người, thứ ba là người Co với 28.110 người, người Xơ Đăng có 17.713 người, cùng với các dân tộc ít người khác như Hoa, Mường, Tày, Thái...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 10 tôn giáo khác nhau chiếm 70.454 người, trong đó nhiều nhất là Đạo Tin Lành có 31.996 người, Phật giáo với 23.220 người, Công giáo có 9.226 người, Đạo Cao Đài có 6.000 người, còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo mỗi đạo có ba người, Bà la môn và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo có hai người, ít nhất là Bửu sơn kỳ hương và Bahá'í mỗi đạo có một người..
Lịch sử
Thời nhà Lê
Năm 1471, quân Đại Việt lấy lại Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chiếm kinh đô Chà Bàn (nay thuộc tỉnh Bình Định) của Vương quốc Chămpa. Tháng 6 âm lịch, thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng), gồm 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhân. Tỉnh Quảng Ngãi thuộc Phủ Tư Nghĩa.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê, lập nên nhà Mạc.
Năm 1533, Nguyễn Kim nổi lên chống nhà Mạc, tôn Lê Ninh lên làm vua, lấy hiệu là vua Lê Trang Tông, hình thành cục diện Nam- Bắc triều.
Năm 1545, Tướng của Nguyễn Kim là Bùi Tá Hán được giao nhiệm vụ trấn thủ Quảng Nam (nay là vùng đất thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng).
Năm 1558, Nguyễn Hoàng nhận nhiệm vụ trấn thủ Thuận Hóa.
Năm 1602, Trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng Nghĩa (Ngãi) (danh xưng Quảng Nghĩa (Ngãi) lần đầu tiên xuất hiện, phủ Quảng Nghĩa nay là tỉnh Quảng Ngãi).
Năm 1771, Khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1776, Nhà Tây Sơn đổi tên phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hòa Nghĩa.
Năm 1803, Nhà Nguyễn đổi phủ Hòa Nghĩa trở lại tên cũ là phủ Quảng Nghĩa.
Năm 1807, Xã Cù Mông (sau đổi là xã Chánh Mông rồi Chánh Lộ) được chọn làm nơi xây dựng tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1832, Tỉnh Quảng Ngãi được thành lập. Cả nước lúc này có 30 tỉnh và 1 phủ (kinh đô Thừa Thiên).
Năm 1834, Lấy kinh sư (Thừa Thiên) làm trung tâm, triều đình nhà Nguyễn chia cả nước thành các trực kỳ trong đó tả trực gồm 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Năm 1884, với 2 hiệp ước Quý Mùi và Giáp Thân, nước Việt Nam, trong đó có tỉnh Quảng Ngãi, đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Từ thời các chúa Nguyễn (lúc còn là cấp phủ) đến thời nhà Nguyễn độc lập (thời đã là tỉnh Quảng Ngãi), thì Quảng Ngãi luôn là địa phương quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (thời đó còn chưa được phân biệt rõ ràng và trực thuộc huyện Bình Sơn Quảng Ngãi), bằng các đội Hoàng Sa và Bắc Hải.
Thế kỷ 20
Từ năm 1909 (thời M. Dodey làm công sứ Quảng Ngãi từ 1907 - 1912) đến cuối của triều Nguyễn (1945) miền Trung châu Quảng Ngãi được chia thành 4 phủ là Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa và Mộ Đức, 2 huyện Nghĩa Hành, Đức Phổ gồm 21 tổng, 403 làng. Miền thượng được chia thành 4 nha gồm Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long và Ba Tơ với 27 tổng, 199 "nóc". Từ ngày 9 tháng 3 năm 1945 đến 19 tháng 8 năm 1945, tổ chức hành chánh ít thay đổi, nhưng thay đổi trên danh từ Tuần vũ gọi là tỉnh trưởng (lúc này gồm Bửu Trưng, Lê Văn Định), ở huyện gọi là huyện trưởng, chức Chánh, Phó sứ thời Pháp do một cơ quan hiến binh Nhật đảm trách.
Thời kỳ đầu của cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân năm 1945, tỉnh Quảng Ngãi được đổi tên là tỉnh Lê Trung Đình, phủ Tư Nghĩa đổi thành phủ Nguyễn Thụy(Sụy), xã Chánh Lộ lấy tên xã Nguyễn Viện v.v... Về tổ chức, lập liên xã, bỏ các làng cũ. Nhưng, sau một thời gian thay danh hiệu tỉnh, huyện, tổng, xã đều lấy lại tên cũ. Các phủ, huyện, nha trong tỉnh đều gọi tên thống nhất là huyện, gồm tất cả 10 huyện, tổng, 124 liên xã. Đảo Lý Sơn nhập vào huyện Bình Sơn nhưng năm 1952 bị quân Pháp chiếm đóng sáp nhập hải đảo vào thị xã Đà Nẵng.
Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa
Từ 1 tháng 11 năm 1954 đến năm 1971, tỉnh Quảng Ngãi được chia thành 10 quận gồm Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. Số xã trong toàn tỉnh có thay đổi, năm 1968 có 158 xã, năm 1970 theo sự sáp nhập của Bộ Nội vụ 122 xã, 319 ấp.
Sau Thống nhất đất nước năm 1975
Ngày 24 tháng 3 năm 1975, tỉnh lỵ Quảng Ngãi và các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ được giải phóng. Ngày 25 tháng 3 năm 1975, tiếp tục giải phóng các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh. Ngày 31 tháng 3 năm 1975, đảo Lý Sơn nay là huyện Lý Sơn cũng giải phóng.
Tỉnh Nghĩa Bình
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, theo Nghị quyết số 245/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc bãi bỏ cấp khu, hợp nhất các tỉnh, hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình. Tháng 12 năm 1975, Quốc hội khoá V thông qua Nghị quyết thành lập các tỉnh hợp nhất, trong đó có tỉnh Nghĩa Bình. Đồng thời, thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa, hai huyện Nghĩa Hành và Minh Long hợp nhất thành huyện Nghĩa Minh.
Lúc này, địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũ có thị xã Quảng Nghĩa và 8 huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức, Nghĩa Minh, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng.
Ngày 24 tháng 8 năm 1981, chia thị xã Quảng Nghĩa thành thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa, chia lại huyện Nghĩa Minh thành hai huyện Nghĩa Hành và Minh Long.
Tái lập tỉnh Quảng Ngãi
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi.
Khi tách ra, tỉnh Quảng Ngãi có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Quảng Ngãi và 10 huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa.
Ngày 1 tháng 1 năm 1993, thành lập huyện đảo Lý Sơn trên cơ sở tách 2 xã thuộc huyện Bình Sơn.
Ngày 6 tháng 8 năm 1994, chia huyện Sơn Hà thành hai huyện Sơn Hà và Sơn Tây.
Ngày 1 tháng 12 năm 2003, chia huyện Trà Bồng thành hai huyện Trà Bồng và Tây Trà.
Ngày 26 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 112/2005/NĐ-CP chuyển thị xã Quảng Ngãi thành thành phố Quảng Ngãi.
Ngày 24 tháng 9 năm 2015, thành phố Quảng Ngãi được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 1 tháng 2 năm 2020, chuyển huyện Đức Phổ thành thị xã Đức Phổ; sáp nhập huyện Tây Trà vào huyện Trà Bồng.
Tỉnh Quảng Ngãi có 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Quảng Ngãi có 13 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện (gồm 1 huyện đảo, 5 huyện đồng bằng, 5 huyện miền núi) với 173 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 8 thị trấn và 148 xã.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của cả nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 ước đạt 51.224,84 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 9,6% so với năm 2017 và đạt 103,47% kế hoạch năm. Mức tăng trưởng GRDP năm 2018 khá cao nguyên nhân chính là do trong năm 2018 Nhà máy lọc dầu Dung Quất đảm bảo thời gian hoạt động 24/24, không tạm dừng để bảo trì, bảo dưỡng tổng thể như năm 2017 (làm cho sản lượng sản phẩm lọc hoá dầu năm 2017 đạt thấp, kéo theo GRDP năm 2017 đạt thấp). Ngoài ra, các ngành còn lại cũng đạt được những kết quả tích cực, đóng góp đáng kể vào mức tăng chung GRDP năm 2018 của tỉnh. Trong mức tăng chung 9,6% của toàn nền kinh tế năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 8.629,25 tỷ đồng, tăng 4,5%, đóng góp 0,80 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 26.868,27 tỷ đồng, tăng 12,07%, đóng góp 6,19 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ ước đạt 15.727,3 tỷ đồng, tăng 8,4%, đóng góp 2,61 điểm phần trăm. 1 Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 34.157,2 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 8,51% so với năm 2017 và đạt kế hoạch năm (KH: 8,5-9%).
Quy mô GRDP theo giá hiện hành năm 2018 ước đạt 73.618,48 tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 57,81 triệu đồng/năm (tương đương 2.514 USD). Cơ cấu kinh tế năm 2018 có sự chuyển dịch nhưng chậm, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 17,82% trong GRDP, giảm 1,15 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 52,01%, tăng 1,65 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 30,17%, giảm 0,50 điểm phần trăm
Về ngành đánh cá, tỉnh có gần 5.500 tàu cá với 7 nghiệp đoàn nghề cá gồm 2.350 đoàn viên (2014). Trong đó 405 tàu đánh bắt tại Hoàng Sa, Trường Sa.
Giai đoạn 6 tháng đầu năm 2012, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt 4.880 tỷ đồng, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2011 và bằng 47,3% so với kế hoạch năm 2012. Trong đó, sản xuất nông lâm thủy sản đạt 806,4 tỷ đồng, công nghiệp - xây dựng đạt 2.721,0 tỷ đồng, khu vực dịch vụ đạt 1.352,6 tỷ đồng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 12.780,25 tỷ đồng, Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 196,07 triệu USD, Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6 tháng ước đạt 9.070 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 3.342,34 tỷ đồng. Ước đến ngày 30 tháng 6 năm 2012, trên địa bàn tỉnh có 3.638 doanh nghiệp, trong đó có 3.529 doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Về lĩnh vực chăn nuôi, tại thời điểm ngày 01 tháng 4 tháng 2012, đàn lợn của Quảng Ngãi ước đạt 481 ngàn con, đàn trâu có 60.889 con, đàn bò có 270.395 con, đàn gia cầm có 3,37 triệu con. So với thời điểm 01 tháng 4 năm 2011, đàn lợn giảm 3,9%, đàn trâu tăng 6,8%, đàn bò giảm 3,2%. Bò lai chiếm 48,3% tổng đàn.
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) theo giá so sánh 2010 ước đạt 55.102 tỷ đồng tăng 6,7% so với năm 2018, đạt kế hoạch năm. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 29.162,9 tỷ đồng, tăng 7,3%; khu vực dịch vụ ước đạt 16.948,8 tỷ đồng, tăng 7,3%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 8.990,3 tỷ đồng, tăng 3,5% so với năm 2018. GRDP không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 37.710,5 tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 2018.
GRDP bình quân đầu người đạt 67,4 triệu đồng/người, tương đương 2.868 USD/người, vượt kế hoạch (kế hoạch: 2.682 USD). Về cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 53,64%; dịch vụ 29,17%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 17,19%.
Thu ngân sách nhà nước ước đạt 20.496 tỷ đồng, vượt 2,5% so với dự toán HĐND tỉnh giao. Công tác xúc tiến đầu tư, huy động vốn cho đầu tư phát triển đạt kết quả khá. Công tác phát triển doanh nghiệp đạt kết quả tích cực, đã thành lập mới 756 doanh nghiệp.
Giáo dục
Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2012, số trường trên địa bàn tỉnh được công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia gồm có Mầm non 23/206 trường, tiểu học 121/224 trường, Trung học cơ sở là 63/165 trường, Trung học phổ thông là 13/39 trường. Thực hiện phổ cập mầm non cho trẻ em 05 tuổi đạt 97% kế hoạch.
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Ngãi có 437 trường học ở cấp phổ, trong đó có Trung học phổ thông có 35 trường, Trung học cơ sở có 166 trường, Tiểu học có 222 trường, trung học có 4 trường và 10 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 210 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Quảng Ngãi cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Hệ thống giáo dục Đại học của tỉnh Quảng Ngãi bao gồm:
Trường Đại học Phạm Văn Đồng (thuộc UBND tỉnh Quảng Ngãi);
Trường Đại học Tài chính Kế toán (thuộc Bộ Tài chính);
Trường Đại học Công nghiệp TP HCM chi nhánh Quảng Ngãi (thuộc Bộ Công Thương).
Ngoài ra còn có các Trường Cao đẳng bao gồm:
Trường Cao đẳng Y tế Đặng Thùy Trâm;
Trường Cao đẳng Công nghệ Dung Quất;
Trường Cao đẳng Việt - Hàn;
Trường Cao đẳng Quảng Ngãi;
Trường Cao đẳng nghề Cơ giới;
Trường Cao đẳng Công thương TP. HCM Chi nhánh Quảng Ngãi.
Đặc biệt, tỉnh Quảng Ngãi có Trường IEC (thành phố giáo dục quốc tế) với cơ sở hạ tầng hiện đại với triết lý giáo dục lãng mạn, hiện đại và có tính quốc tế hóa cao.
Ngoài ra còn có một số trường Trung cấp nghề khác...
Giao thông
Quảng Ngãi là đầu mối giao thông quan trọng xuyên suốt trên địa bàn tỉnh, có Quốc lộ 1, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông, tuyến đường sắt Bắc - Nam (gồm 10 ga trên địa bàn tỉnh) và đường cao tốc Quảng Ngãi - Đà Nẵng chạy qua tỉnh. Trong đó chiều dài Quốc lộ 1 qua tỉnh dài 98 km. Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông qua tỉnh dài 125 km. Quốc lộ 24 nối liền Quốc lộ 1 đoạn qua nút giao tại thôn Thạch Trụ, xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, qua thị xã Đức Phổ, huyện Ba Tơ nối với tỉnh Kon Tum dài 69 km và Quốc lộ 24B dài 18 km, đây là tuyến giao thông quan trọng đối với Kon Tum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa duyên hải và Tây Nguyên, giao lưu trao đổi hàng hoá, phát triển kinh tế miền núi gắn với an ninh quốc phòng. Phía Bắc tỉnh, giáp sân bay Chu Lai thuộc huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam). Tỉnh Quảng Ngãi có cảng Dung Quất (Bình Sơn). Đây là cảng biển tổng hợp Quốc gia có độ sâu và kín gió lý tưởng, có tổng sản lượng hàng hóa xếp dỡ lớn thứ 5 toàn quốc (năm 2019), có khả năng xếp dỡ hàng lỏng (lọc hóa dầu) và hàng rời. Cụm cảng này có khả năng cho phép đón các loại tàu với các kích cỡ khác nhau tùy theo bến. Đặc biệt, Cảng Hòa Phát Dung Quất đã cho phép cập cảng với tàu có kích thước lên đến đến 200000 DWT nhờ độ sâu và luồng tàu lý tưởng. Ngoài ra, với bờ biển dài 144 km, Quảng Ngãi có nhiều cửa biển, cảng quy mô nhỏ như Sa Kỳ, Sa Cần, Cửa Đại, Mỹ Á, Sa Huỳnh, Bến Đình (Lý Sơn)… có tiềm năng về giao thông đường thủy, thương mại và du lịch.
Văn hóa
Quảng Ngãi là mảnh đất có bề dày lịch sử về Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Chăm Pa, đặc biệt là hệ thống thành lũy Chàm. Bên cạnh đó là hai danh thắng nổi tiếng là "núi Ấn sông Trà". Quảng Ngãi là quê hương của Tả Tướng Lê Văn Duyệt, người đã 2 lần làm Tổng Trấn Thành - Gia Định; Anh hùng Dân tộc Trương Định, Trương Đăng Quế, Bạch Văn Vĩnh, Lê Trung Đình; nhiều nhà trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ tên tuổi: Nguyễn Vĩ, Bích Khê,Thanh Thảo, Tế Hanh, Trà Giang, Trương Quang Lục, Thế Bảo, Nhất Sinh; Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng; các vị tướng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam như: Trung tướng Phạm Kiệt, Thượng tướng Trần Văn Trà, Nguyễn Chánh, Thiếu tướng Võ Bẩm ...
Các Lễ hội gồm Lễ hội nghinh cá Ông, Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa (Lý Sơn), Lễ hội đâm trâu, Lễ hội cầu ngư, Lễ hội đua thuyền truyền thống...
Du lịch
Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá lâu đời như khu du lịch văn hoá Sa Huỳnh, dấu vết văn hoá cổ xưa như thành cổ Châu Sa, Gò Vàng…, có di tích lịch sử Ba Tơ, Sơn Mỹ, Ba Gia, Trà Bồng, Vạn Tường, nhiều cảnh đẹp như Thiên Ấn Niêm Hà, Thiên Bút Phê Vân, Thạch Bích Tà Dương, Cổ Luỹ Cô Thôn, Nước Trong – Cà Đam…, nhiều bãi biển như Mỹ Khê, Sa Huỳnh,… những tiềm năng trên là điều kiện để phát triển du lịch nghỉ dưỡng với nhiều loại hình, sản phẩm du lịch đa dạng.
Năm 2015 nhà đầu tư Vingroup đầu tư Trung tâm Thương mại Vincom tại Thành phố Quảng Ngãi nay đã hoàn thành. Năm 2019, nhà đầu tư FLC đã khởi công xây Khu nghỉ dưỡng vùng đất ven biển xã Bình Phú, Bình Châu, huyện Bình Sơn. Dự án này của FLC hiện nay đang bị UBND Tỉnh Quảng Ngãi tiến hành thu hồi.
Ngày 23/06/2022, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức lễ công bố biểu trưng (logo) du lịch Quảng Ngãi. Bộ nhận diện thương hiệu du lịch Quảng Ngãi với khẩu hiệu thương hiệu (Tagline) “KHÁM PHÁ QUẢNG NGÃI” - “EXPLORE QUANG NGAI” cùng với hình ảnh đặc trưng du lịch Quảng Ngãi là đảo Lý Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh được xây dựng nhằm tạo ra nhận biết về thương hiệu du lịch Quảng Ngãi; tạo ra tương tác, trải nghiệm của du lịch Quảng Ngãi với các nhóm khách hàng mục tiêu trên nhiều nền tảng, nhiều hoạt động, sự kiện thu hút truyền thông; tăng cường liên kết, quảng bá thương hiệu du lịch; lan tỏa hình ảnh du lịch Quảng Ngãi và duy trì hiệu ứng truyền thông dài hạn.
Ghi chú |
Quảng Bình là một tỉnh ven biển nằm ở phía nam khu vực Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Nơi đây cũng là nơi có con sông Gianh - chia tách Đàng Trong, Đàng Ngoài và Luỹ Thầy do chúa Nguyễn xây dựng trong thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh.
Tỉnh Quảng Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện (6 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã), 159 đơn vị hành chính cấp xã (136 xã, 16 phường và 7 thị trấn).
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Quảng Bình nằm trải dài từ 16°55’ đến 18°05’ vĩ Bắc và từ 105°37’ đến 107°00’ kinh Đông, cách thủ đô Hà Nội 500 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng 267 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1. Có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh
Phía nam giáp tỉnh Quảng Trị
Phía tây giáp tỉnh Khammuane, tỉnh Savannakhet, Lào với đường biên giới 201,87 km
Phía đông giáp Biển Đông.
Các điểm cực của tỉnh Quảng Bình:
Điểm cực bắc tại: khu vực rừng phòng hộ Hương Hóa, xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa.
Điểm cực đông tại: thôn Tây Thôn, xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy.
Điểm cực tây tại: xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa.
Điểm cực nam tại: xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy.
Tỉnh Quảng Bình có diện tích 8.065,3 km², dân số là 936.607 (2018), mật độ dân số đạt 110 người/km².
Tỉnh lị của Quảng Bình là thành phố Đồng Hới. Tỉnh nằm ở nơi hẹp nhất theo chiều đông - tây của Việt Nam (50 km theo đường ngắn nhất tính từ biên giới Lào ra biển Đông). Tỉnh Quảng Bình giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành Sơn là ranh giới tự nhiên; giáp Quảng Trị về phía nam; giáp Biển Đông về phía đông; phía tây là tỉnh Khăm Muộn và tây nam là tỉnh Savannakhet của Lào với dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên.
Địa hình
Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% Tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển.
Địa hình có đặc trưng chủ yếu là hẹp và dốc, nghiêng từ tây sang đông, đồi núi chiếm 85% diện tích toàn tỉnh và bị chia cắt mạnh. Hầu như toàn bộ vùng phía tây tỉnh là núi cao 1.000-1.500 m, trong đó cao nhất là đỉnh Phi Co Phi 2017 m, kế tiếp là vùng đồi thấp, phân bố theo kiểu bát úp. Gần bờ biển có dải đồng bằng nhỏ và hẹp. Sau cùng là những tràng cát ven biển có dạng lưỡi liềm hoặc dẻ quạt.
Khí hậu
Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11.
Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24 °C - 25 °C. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8.
Nhiệt độ bình quân các tháng trong năm của thành phố Đồng Hới, tỉnh lỵ tỉnh Quảng Bình.
Sông ngòi
Trên địa bàn tỉnh có 5 sông lớn là sông Gianh, sông Roòn, sông Nhật Lệ (là hợp lưu của sông Kiến Giang và sông Long Đại), sông Lý Hòa và sông Dinh với tổng lưu lượng 4 tỷ m³/năm. Các sông này do nhiều lưu vực hợp thành và đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ ra biển.
Đất đai
Diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Bình năm 2007 là 8.065,27 km² (tổng diện tích: 806.527 ha), chia ra như sau:
Đất ở: 4.946 ha
Đất nông nghiệp: 71.381 ha
Đất lâm nghiệp: 601.388 ha
Đất chuyên dùng: 23.936 ha
Đất phi nông nghiệp khác: 20.670 ha
Đất chưa sử dụng: 72.619 ha.
Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở vùng đồng bằng và hệ pheralit ( nhóm đất đỏ vàng ) ở vùng đồi và núi với 15 loại và các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm 2,8% diện tích.
Hệ động, thực vật
Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng.
Về động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá... có nhiều loài quý hiếm như voọc Hà Tĩnh, gấu, hổ, sao la, mang lớn, gà lôi lam đuôi trắng, gà lôi lam mào đen, trĩ,...
Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng 486.688 ha, trong đó rừng tự nhiên 588.582,92 ha, rừng 543.048,92 ha, rừng trồng chưa thành rừng 45.534,07 ha. Thực vật ở Quảng Bình đa dạng về giống loài: có 138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản quý khác. Quảng Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc. Hiện nay trữ lượng gỗ là 31 triệu m3.
Biển, đảo
Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km (dài thứ 3 cả nước) ở phía Đông với 5 cửa sông, trong đó có hai cửa sông lớn, có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh, cảng Hòn La, Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4 km², có độ sâu trên 15 mét và xung quanh có các đảo che chắn: Hòn La, Hòn Cọ, Hòn Chùa có thể cho phép tàu 3-5 vạn tấn vào cảng mà không cần nạo vét. Trên đất liền có diện tích khá rộng (trên 400 ha) thuận lợi cho việc xây dựng khu công nghiệp gắn với cảng biển nước sâu
Quảng Bình có vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 2 vạn km². Ngoài khơi lại có các đảo Hòn La, Hòn Gió, Hòn Nồm, Hòn Cỏ, Hòn Chùa nên đã hình thành các ngư trường với trữ lượng 10 vạn tấn hải sản các loại.
Bờ biển có nhiều thắng cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất liền tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với trữ lượng khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650 loài), trong đó có những loại quý hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, san hô. Phía Bắc Quảng Bình có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha, đó là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất hàng mỹ nghệ và tạo ra vùng sinh thái của hệ san hô. Điều đó cho phép phát triển nền kinh tế tổng hợp vùng ven biển.
Mặt nước nuôi trồng thủy sản: Với 5 cửa sông, Quảng Bình có vùng mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản khá lớn. Tổng diện tích 15.000 ha. Độ mặn ở vùng mặt nước từ cửa sông vào sâu khoảng 10–15 km dao động từ 8-30%o và độ pH từ 6,5- 8 rất thuận lợi cho nuôi tôm cua xuất khẩu. Chế độ bán nhật triều vùng ven biển thuận lợi cho việc cấp thoát nước cho các ao nuôi tôm cua.
Thủy văn
Quảng Bình có hệ thống sông suối khá lớn với mật độ 0,8 - 1,1 km/km². Có năm sông chính là sông Roòn, sông Gianh, sông Lý Hòa, sông Dinh và sông Nhật Lệ. Có khoảng 160 hồ tự nhiên và nhân tạo với dung tích ước tính 243,3 triệu m3.
Khoáng sản
Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit, chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát thạch anh, đá vôi, đá mable, đá granit... Trong đó, đá vôi và cao lanh có trữ lượng lớn, đủ điều kiện để phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng với quy mô lớn. Có suối nước khoáng nóng 105 °C. Trữ lượng vàng tại Quảng Bình có khả năng để phát triển công nghiệp khai thác và chế tác vàng.
Hành chính
Tỉnh Quảng Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã, 6 huyện với 151 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 8 thị trấn, 15 phường và 128 xã.
{|cellpadding= "0" cellspacing= "6" width= "100%" align= "center" style= "background: #f9f9f9; border: 1px #aaa solid; margin-top: 16px"
!colspan= "4" style= "background: #E6E6FA; font-size: 95%;" |Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Bình
|-
|width= "50%" valign= "top" style= "background: #f9f9f9;"|
{|cellpadding= "1" cellspacing= "1" style= "background: #f9f9f9; font-size: 90%; text-align: right;" width="100%"
|-
!align= "left" style= "border-bottom: 2px solid #CCCCFF; padding-left: 10px; white-space:nowrap"|Tên!! style= "border-bottom: 2px solid #CCCCFF;"|Dân số (người)!!style= "border-bottom: 2px solid #CCCCFF;" |Hành chính
|-
|colspan= "3" align= "left" style= "background: #F5F5DC; padding-left: 30px;"|Thành phố (1)
|-bgcolor= "#f5f5f5"
|align= "left" style= "padding-left: 6px; white-space:nowrap" | Đồng Hới || 133.672 ||9 phường, 6 xã
|-
|colspan= "3" align="left" style= "background: #F5F5DC; padding-left: 30px;"|Thị xã (1)
|-bgcolor= "#f5f5f5"
|align= "left" style= "padding-left: 6px; white-space:nowrap" | Ba Đồn || 106.413 ||6 phường, 10 xã
|-
|colspan= "3" align= "left" style= "background: #F5F5DC; padding-left: 30px;" |Huyện (6)
|-
|align= "left" style= "padding-left: 6px; white-space:nowrap" | Bố Trạch|| 188.375 ||3 thị trấn, 25 xã
|}
|width= "50%" valign="top" style= "background: #f9f9f9;"|
|valign= "top" style= "background: #f9f9f9; font-size: 90%" |
|-
|colspan="14" style="text-align: center; font-size:90%;"|Nguồn: Dân số tỉnh Quảng Bình năm 2019
|}
Lịch sử
Trong thời kỳ Bắc thuộc, khu vực ngày nay là Quảng Bình có giai đoạn thuộc quận Tượng Lâm, có giai đoạn thuộc quận Nhật Nam. Năm 192, Quảng Bình nằm trong lãnh thổ Lâm Ấp. Đến năm 758 Lâm Ấp đổi tên là Chiêm Thành, Quảng Bình nằm trong 2 châu: Châu Bố Chính và Châu Địa Lý. Khu vực này đã thuộc về Đại Việt sau cuộc chiến tranh Việt Chiêm 1069. Lý Thường Kiệt là người đã xác định và đặt nền móng đầu tiên của vùng đất Quảng Bình trọn vẹn trong cương vực lãnh thổ Đại Việt.
Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia cắt tại sông Gianh phía bắc tỉnh Quảng Bình. Đồng Hới đã trở thành tiền đồn quan trọng của chúa Nguyễn với Lũy Thầy và thành Đồng Hới. Từ ngày 20 tháng 9 năm 1975 đến ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Bình được sáp nhập vào tỉnh Bình Trị Thiên (xứ Thuận Hóa cũ). Ngày 30 tháng 6 năm 1989, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Bình Trị Thiên để tái lập tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên Huế. Tỉnh Quảng Bình mang tên từ đó đến nay.
Các khai quật khảo cổ ở khu vực đã chứng tỏ rằng đã có loài người sinh sống ở khu vực này từ thời kỳ đồ đá. Nhiều hiện vật như bình sử, sành, công cụ lao động đã được phát hiện ở đây.
Năm 1926, một vị nữ khảo cổ người Pháp Madeleine Colani đã phát hiện nhiều di vật ở các hang động phía tây Quảng Bình. Bà đã kết luận rằng đã có sự hiện diện của văn hóa Hòa Bình ở khu vực này.
Thời nhà nước Văn Lang, Quảng Bình nói riêng và vùng Bình Trị Thiên nói chung thuộc bộ Việt Thường, là địa điểm cực nam của nước Văn Lang. Thời Hán, Quảng Bình thuộc quận Nhật Nam. Sau khi nhà nước Lâm Ấp (tiền thân của nhà nước Chăm Pa) giành được độc lập năm 192 (thuộc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), các triều vua Champa thường vượt đèo Hải Vân tiến ra cướp phá đất Nhật Nam và Cửu Chân và họ đã làm chủ vùng đất từ đèo Ngang trở vào khi nhà Tấn (Trung Quốc) suy yếu. Từ đó Quảng Bình là vùng đất địa đầu của Champa đối với các triều đại Trung Hoa cũng như các triều đại Việt khi người Việt đã giành được độc lập.
Năm 1069, Lý Thánh Tông - vua của Đại Việt đánh Champa bắt được vua Champa đưa về Thăng Long, để được tha vua Champa đã dâng đất (Địa Ly, Bố Chính, Ma Linh) tương ứng với tỉnh Quảng Bình và các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, bắc Hướng Hóa của Quảng Trị ngày nay cho Đại Việt và Quảng Bình chính thức thuộc về Đại Việt từ năm 1069.
Đời Lê Trung Hưng có tên là Tiên Bình. Năm 1604, đổi tên là Quảng Bình.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát chia Quảng Bình thành 3 dinh: dinh Bố Chính (trước là dinh Ngói), dinh Mười (hay dinh Lưu Đồn), dinh Quảng Bình (hay dinh Trạm).
Tỉnh được thành lập năm 1831, đặt phủ Quảng Ninh, sau đặt thêm phủ Quảng Trạch.
Năm 1976 ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên, đến năm 1989 lại tách ra như cũ.
Khi tách ra, tỉnh Quảng Bình có 5 đơn vị hành chính gồm thị xã Đồng Hới và 4 huyện Bố Trạch, Lệ Ninh, Quảng Trạch, Tuyên Hóa.
Ngày 1 tháng 6 năm 1990, chia huyện Lệ Ninh thành 2 huyện: Lệ Thủy và Quảng Ninh; tái lập huyện Minh Hóa từ huyện Tuyên Hóa.
Ngày 16 tháng 8 năm 2004, chuyển thị xã Đồng Hới thành thành phố Đồng Hới.
Ngày 20 tháng 12 năm 2013, thành lập thị xã Ba Đồn trên cơ sở tách một số diện tích và dân số của huyện Quảng Trạch. Tỉnh Quảng Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện như hiện nay.
Ngày 30 tháng 7 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1270/QĐ-TTg công nhận thành phố Đồng Hới là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Bình.
Kinh tế - xã hội
Năm 2018, Quảng Bình là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 47 về số dân, xếp thứ 50 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 51 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 55 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 887,6 nghìn dân, GRDP đạt 33.282 tỉ Đồng (tương ứng với 1,444 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 37,5 triệu đồng (tương ứng với 1.628 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,03%.
Cơ cấu kinh tế: năm 2016: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 22,9%, công nghiệp - xây dựng: 25,7%, dịch vụ: 51,4%. Tổng mức đầu tư toàn tỉnh năm 2016 là 10.824 tỷ đồng.
Tỉnh Quảng Bình có dự án cảng Hòn La và khu công nghiệp Hòn La đang xây dựng, khi hoàn thành sẽ là động lực phát triển kinh tế cho tỉnh này. Cảng Hòn Là được xây dựng trên diện tích 32,3 ha với công suất thiết kế 10-12 triệu tấn/năm. Ngoài ra, ở đây còn có khu công nghiệp Hòn La, Nhà máy đóng tàu với tổng mức đầu tư 4.500 tỷ đồng; Nhà máy Nhiệt điện có tổng mức đầu tư hơn 1 tỷ USD có công suất 1.200 MW.
Tỉnh Quảng Bình có hai khu kinh tế đặc biệt, Khu kinh tế Hòn La và Khu Kinh tế cửa khẩu Cha Lo và 6 khu công nghiệp khác.
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,01%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 45.976 tỉ đồng, trong đó thu nội địa đạt 34.323 tỉ đồng, thu xuất nhập khẩu đạt 11.600 tỉ đồng (không bao gồm 365 tỉ đồng ghi thu ghi chi và 53 tỉ đồng thu huy động đóng góp).
Giáo dục
Quảng Bình xếp thứ 22 về tỉ lệ hộ nghèo của cả nước, dân số không đông, nhưng lại là nơi mà con người luôn chịu khó, cần cù học tập từ đời này sang đời khác, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau để tạo nên truyền thống hiếu học, học có hiệu quả để mong thoát cảnh nghèo khổ, phục vụ cho quê hương, phụng sự quốc gia.
Năm học 2017 - 2018 toàn tỉnh có 590 trường. Trong đó có 182 trường và cơ sở giáo dục mầm non; 209 trường tiểu học; 147 trường trung học cơ sở; 19 trường phổ thông cơ sở; 6 trường phổ thông trung học và 27 trường trung học phổ thông. Tổng số phòng học các cấp học mầm non và phổ thông 7.205 (trong đó, có 5.146 phòng kiên cố, tỷ lệ 71,4%; 1.940 phòng bán kiên cố, tỷ lệ 26,9%). Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên cấp học mầm non và phổ thông có: 19.435 người (cán bộ quản lý: 1.472 người, giáo viên 14.055 người và nhân viên 3.908 người). Quy mô học sinh đầu năm học các cấp học mầm non và phổ thông, toàn tỉnh có 219.791 học sinh; trong đó, giáo dục mầm non 61.620 cháu; tiểu học 73.754 học sinh; trung học cơ sở 54.647 học sinh; trung học phổ thông 29.770 học sinh.
Về phổ cập giáo dục trung học cơ sở: Kết thúc năm học 2016 - 2017, đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên, trong đó, có 154/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 96,9%); có 90/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 3 (tỷ lệ 56,6 %); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên; trong đó, có 5/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 62,50%) và thành phố Đồng Hới đạt chuẩn mức độ 3. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1.
Về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi: Kết thúc năm học 2016 - 2017, đã có 158/159 xã, phường, thị trấn (đạt tỷ lệ 99,4%) và 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.
Về công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia: Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm chỉ đạo, thực hiện lồng ghép xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia gắn với tiêu chí nông thôn mới và xây dựng trường học thân thiện; tổng số trường mầm non, phổ thông được công nhận đạt chuẩn Quốc gia lên 325/589 trường, đạt tỷ lệ 55,2% (trong đó, có 67/180 trường mầm non, đạt tỷ lệ 37,2%; 168/211 trường tiểu học, đạt tỉ lệ 79,6%; 77/165 trường trung học cơ sở, đạt tỉ lệ 46,67% và 13/33 trường trung học phổ thông và trường phổ thông trung học, đạt tỉ lệ 39,39%).
Về kết quả thi học sinh giỏi cấp Quốc gia năm học 2016 - 2017: có 36/58 học sinh dự thi đạt giải. Trong đó, Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp đã giành được 2 giải Nhất, 8 giải Nhì, 18 giải Ba và 8 giải Khuyến khích, nổi lên có ba học sinh là em Hầu Hải Phong đạt giải Nhất môn Sinh học, em Hoàng Thị Như Quỳnh đạt giải Nhất môn Địa lý và em Nguyễn Thế Quỳnh đạt giải Nhì môn Vật lý.
Về kết quả thi học sinh giỏi Quốc tế: Kỳ thi Olympic Vật Lý châu Á lần thứ 18 năm 2017 được tổ chức tại Yakutsk, Cộng hòa Sakha, Liên bang Nga, em Nguyễn Thế Quỳnh học sinh Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp đã xuất sắc giành Huy chương Bạc với số điểm cao nhất trong số Huy chương Bạc của đoàn Việt Nam và được chọn là 1 trong 5 đại diện tiêu biểu Việt Nam tham gia kỳ thi Olympic Vật Lý thế giới được tổ chức từ ngày 17-24/7 tại Indonesia. Kết quả, cả năm em đều đoạt giải, với 4 huy chương vàng, 1 huy chương bạc; trong đó em Nguyễn Thế Quỳnh đã xuất sắc giành huy chương vàng. Nguyễn Thế Quỳnh là học sinh đầu tiên giành 2 huy chương vàng thế giới trong lịch sử Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình.
- Đào tạo: Quảng Bình có 1 trường Đại học, 4 trường Cao đẳng, 2 trường Trung cấp:
Năm học 2017 - 2018 Trường Đại học Quảng Bình, trường Đại học duy nhất có trụ sở ở tỉnh này có chỉ tiêu tuyển sinh là 2.090 chỉ tiêu, bao gồm 1.330 chỉ tiêu đại học và 300 cao đẳng sư phạm và 460 chỉ tiêu cao đẳng ngoài sư phạm; thời gian xét tuyển được trình tự theo kế hoạch hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo. Qua các đợt xét tuyển từ kết quả của kỳ thi Quốc gia, Trường Đại học Quảng Bình đã tuyển mới và nhập học tại trường là 833 sinh viên; trong đó: hệ đại học 412 sinh viên, hệ cao đẳng 110 sinh viên, hệ liên thông 291 sinh viên và học văn bằng hai hệ đại học là 20 sinh viên. Sinh viên Đại học, Cao đẳng chính quy chỉ tuyển được khoảng 1/3 so với chỉ tiêu được giao.
Trường Cao đẳng Luật miền Trung
Trường Cao đẳng Y tế Quảng Bình
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình
Trường Cao đẳng Nghề Quảng Bình
Trường Trung cấp nghề Bình Minh - Quảng Bình
Trường Trung cấp Du lịch - Công nghệ số 9
Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp
Dân cư
Theo tổng điều tra dân số tính đến ngay 1 tháng 4 năm 2019, dân số Quảng Bình đạt 895.430 người. Trên địa bàn tỉnh có 24 dân tộc anh em cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người Kinh, khoảng 97%. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hóa và Minh Hóa và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy. Dân cư phân bố không đều do địa hình dốc hẹp, 60% sống ở vùng nông thôn và 30% sống ở thành thị.
Quảng Bình có nguồn lao động dồi dào với 530.064 người, chiếm khoảng 60,72% dân số. Trong đó tỷ lệ lao động nam/ nữ lần lượt là 265.206/ 264.858 người. Về chất lượng nguồn nhân lực cho đến cuối năm 2016: có 4 Phó giáo sư, 63 Tiến sĩ, 69 Bác sĩ Chuyên khoa II, 168 Bác sĩ Chuyên khoa I, 2015 Thạc sĩ, 30653 người có trình độ Đại học, 20664 có trình độ Cao đẳng-Trung cấp. Lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 63,1 % tổng số lao động.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 6 tôn giáo khác nhau đạt 101.946 người, nhiều nhất là Công giáo có 101.246 người, tiếp theo là Phật giáo có 680 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 16 người, Hồi giáo có hai người, Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài mỗi tôn giáo chỉ có một người.
Văn hóa
Quảng Bình là vùng đất văn vật, nổi tiếng với di chỉ văn hóa Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình,Đông Sơn và Sa Huỳnh, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, Thành Khu Túc-Chămpa, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ Chí Minh v.v... Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hóa nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như "Bát danh hương": "Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim". Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã hội như Dương Văn An, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Tuy Lộc hầu Đặng Đại Lược, Lãnh Đức hầu Đặng Đại Độ, Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp, Ngô Đình Diệm,
Quảng Bình là vùng giao thoa của hai nền văn hóa cổ Việt - Chămpa, thể hiện ở những di chỉ có niên đại 5 nghìn năm đã khai quật được ở Bàu Tró, phía bắc Đồng Hới.
Ẩm thực
Các đặc sản Quảng Bình đậm nét ẩm thực vùng miền như: hải sản Quảng Bình, khoai deo, nhút tép Lệ Thủy, bánh mè xát Tân An, cam mật Hiền Ninh, ốc đực, sò huyết sông Ròn, muối cheo, rượu sim Lệ Thủy, bánh xoài, rượu cần Ma Coong Thượng Trạch, bánh gai Lệ Thủy, cơm gà thúng Lạc Sơn, măng, nước mắm Bảo Ninh, bánh khoái, rượu Võ Xá, gỏi cá nghéo, nếp than Ngân Thủy, bánh bột lọc, nhộng tằm lá sắn Xuân Hóa, thịt lợn khùa, bánh xèo Quảng Hòa, đẻn biển, mật mía làng Khiên, bánh cuốn ruốc tôm, dưa hấu Hàm Ninh, mật ong rừng, chắt chắt sông Gianh, rượu đoác, trứng kiến nấu lá bún Minh Hóa, sim rừng, nước mắm Cảnh Dương, cá mát, cháo hàu Quán Hàu, rau dớn, sâm Bố Chính, thịt trâu lá trơng, cháo canh Quảng Bình, bánh bèo, cơm bồi Minh Hóa, hạt tiêu, cháo măng rừng Lâm Hóa, tỏi tía Quảng Minh, cá trắm sông Son, nấm tràm, bánh bèo tôm chấy.
Danh lam thắng cảnh
Quảng Bình nổi tiếng với di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và Hang Sơn Đoòng - Hang động tự nhiên lớn nhất thế giới
Hang Sơn Đoòng cách Đồng Hới 70 km và là một dải kỳ quan nằm sâu trong lòng núi, cách đỉnh núi 800 – 900 m. Dài 7729 m, động có 14 hang do dòng sông ngầm dài 13.969 m hòa tan đá vôi tạo thành.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đã UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới năm 2003. Động Phong Nha là một động đẹp có sông ngầm và có bảy cái nhất: (1) Hang nước dài nhất; (2) Cửa hang cao và rộng nhất; (3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất; (4) Hồ ngầm đẹp nhất; (5) Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất; (6) Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam; (7) Hang khô rộng và đẹp nhất.
Di tích lịch sử
Hiện vật Bàu Tró
Thành Đồng Hới
Lũy Thầy
Thành Nhà Ngo
Thành Khu Túc
Các di tích lịch sử - văn hóa và thắng cảnh nổi tiếng:
Quảng Bình có nhiều di tích danh thắng cấp Quốc gia được Nhà nước công nhận, nhiều di tích được UBND tỉnh ra quyết định bảo vệ, và nhiều di tích ở địa phương cơ sở chưa được xếp hạng.
Có thể phân theo các loại hình sau đây:
Di tích khảo cổ học gồm có:
- Di tích cấp Quốc gia: Di chỉ Bàu Tró (Đồng Hới),
- Di tích UBND tỉnh ra QD bảo vệ: Hang Minh Cầm
- Các di tích đưa vào danh mục kiểm kê: - Di chỉ Thóc Lóc (Bố Trạch), Di chỉ Hang Trăn (Minh Hóa), Di chỉ Hóa Tiến - Hóa Hợp (Minh Hóa), Di chỉ Minh Cầm (Tuyên Hóa), Di chỉ Ba Đồn I, II (Ba Đồn), Di chỉ Bàu Khê (Bố Trạch), Di chỉ Cồn Nền (Ba Đồn), Di chỉ Gốm sành Mỹ Cương (Đồng Hới)...Di tích kiến trúc (Thành lũy đền, chùa, đình, miếu) gồm có:
- Di tích cấp Quốc gia: Thành Đồng Hới, Lũy Thầy (Lũy Đào Duy Từ- Quảng Ninh, Đồng Hới), Đình Hòa Ninh (Ba Đồn), Đình Minh Lệ (Ba Đồn), Đình Đồng Dương (Quảng Trạch), Đình Lý Hòa (Bố Trạch), Chùa An Xá (Lệ Thủy), Quảng Bình quan (Đồng Hới), Đình Lũ Phong (Ba Đồn), Đình Phù Trịch (Ba Đồn), Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc (Ba Đồn). Đình Tượng Sơn và lăng mộ danh tướng Nguyễn Dụng (Ba Đồn)...
- Di tích UBND ra QĐ bảo vệ: Hoành Sơn Quan (Quảng Trạch), Đền Công chúa Liễu Hạnh (Quảng Trạch), Đình Thọ Linh (Ba Đồn), Đình La Hà (Ba Đồn), Đình Lộc Điền (Quảng Trạch), Chùa Quan Âm tự (Bố Trạch), Đền Truy Viễn Đường (Ba Đồn), Đình Thuận Bài (Ba Đồn)...
- Di tích ở các địa phương chưa xếp hạng được đưa vào danh mục kiểm kê: Thành Nhà Ngo (Lệ Thủy), Thành Kẻ Hạ (Bố Trạch), Lũy Hoàn Vương (Quảng Trạch).Di tích lưu niệm danh nhân gồm có:
- Các di tích cấp Quốc gia: - Lăng mộ và miếu thờ Hoàng Hối Khanh (Lệ Thủy), Lăng mộ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Lệ Thủy), Lăng mộ Hồ Hồng (Hồ Cưỡng - Bố Trạch), Nhà thờ và mộ Đề đốc Lãnh binh Hà Nội Lê Trực (Tuyên Hóa), Lăng mộ và nhà bia tưởng niệm Mai Lượng (Ba Đồn).
- Các di tích UBND tỉnh ra QĐ bảo vệ và di tích đưa vào danh mục kiểm kê: Lăng mộ Hoàng Kế Viêm (Quảng Ninh), Song Trung miếu bia (Quảng Trạch), Lăng mộ Nguyễn Hàm Ninh (Quảng Trạch), Lăng mộ danh tướng Lê Sỹ (Quảng Ninh), Lăng mộ Võ Xuân Cẩn (Lệ Thủy), Đền thờ và lăng mộ Lê Mộ Khởi (Bố Trạch), Nhà thờ Vĩnh An hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Quảng Ninh).Các di tích lịch sử gồm có:
- Các di tích cấp Quốc gia: Các điểm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Quảng Bình (Đồng Hới), Di tích làng chiến đấu Cảnh Dương (Quảng Trạch), Di tích Chiến khu Trung Thuần (Quảng Trạch), Di tích làng chiến đấu Cự Nẫm (Bố Trạch), Di tích chiến thắng Xuân Bồ (Lệ Thủy), Di tích Bến đò Mẹ Suốt (Đồng Hới), Di tích Trận địa đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy (Lệ Thủy), Di tích miếu Mỹ Thổ -Trung Lực (Lệ Thủy), Di tích Bến phà Gianh (Ba Đồn - Bố Trạch), Di tích Nhà nhóm thôn Trung (Quảng Ninh), Di tích Bến phà Long Đại (Quảng Ninh), Di tích Ga Kẻ Rấy (Bố Trạch), Di tích Khu Giao tế (Đồng Hới), Di tích Trận địa pháo lão dân quân Đức Ninh (Đồng Hới), Hang Lèn Hà (Thanh Hóa-Tuyên Hóa).Các di tích Đường Hồ Chí Minh cấp Quốc gia: Di tích A 72 (Lệ Thủy), Các hang động Hóa Thanh, Hóa Tiến (Minh Hóa), Di tích cụm chỉ huy Đoàn 559 ở Hiền Ninh (Quảng Ninh), Các di tích trọng điểm trên đường 12 A (Minh Hóa): La Trọng, Bãi Dinh, Khe Tang, Đồi 37, Cha Lo, Cổng Trời, Hang Dơi, Hang Tiên; Các trọng điểm trên Đường 20 Quyết Thắng, Khu di tích Xuân Sơn Phong Nha. -Các di tích Đường Hồ Chí Minh UBND tỉnh ra QĐ bảo vệ: Ngã tư Thạch Bàn, Bang- Ho (Lệ Thủy), Bến phà Quán Hàu, Km0 Đường 10 Quảng Ninh), Cảng cá Thanh Khê, Sân bay Khe Gát (Bố Trạch)
- Các di tích UBND tỉnh ra QĐ bảo vệ và di tích đưa vào danh sách kiểm kê: Di tích nhà lao Đồng Hới (Đồng Hới), Di tích Trụ sở Tỉnh ủy (Đồng Hới), Di tích Xưởng chế tạo vũ khí Quy Hậu (Lệ Thủy), Di tích Ngôi nhà ông Lê Bá Tiệp (Đồng Hới), Di tích Bãi Đức (UBND- Tuyên Hóa), Di tích Điểm chiến thắng Giếng Hóc (Bố Trạch), Địa điểm Đại hội Đảng bộ Đồng Hới- Lầu Thuận Long (Đồng Hới), Di tích Địa điểm Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II Đình Kim Bảng và Lèn Cây Quýt (Minh Hóa), Di tích Trung tâm xã chiến đấu Hưng Đạo (Lệ Thủy), Di tích Tiếng bom Lộc Long (Quảng Ninh), Di tích làng chiến đấu Quảng Xá (Quảng Ninh), Di tích Ga Thuận Lý (Đồng Hới), Di tích Sở Chỉ huy BCH Quân sự tỉnh 1965-1973 (Đồng Hới), Di tích Hang lèn Đại Hòa (Tuyên Hóa), Di tích làng chiến đấu Hiển Lộc (Quảng Ninh), Di tích địa điểm thành lập Trung đoàn 18 (Tuyên Hóa), Di tích chi bộ Ngọa Cương- Thanh Thủy (Quảng Trạch), Di tích Trận chiến thắng Phù Trịch (Ba Đồn), Di tích trận địa pháo Quang Phú (Đồng Hới), Di tích Nhà lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Lệ Thủy), Di tích Địa đạo Văn La (Quảng Ninh), Di tích Chiến khu Thuận Đức (Đồng Hới), Chứng tích tội ác địch trong chiến tranh: Đồn Hòa Luật Nam (Lệ Thủy), Tháp nước, Cây đa Chùa Ông, Tháp chuông Nhà thờ Tam Tòa (Đồng Hới)Các di tích gắn với thắng cảnh nổi tiếng:
- Cấp quốc gia: Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Khu Danh thắng Đá Nhảy - Lý Hòa (Bố Trạch), Khu thắng cảnh Cửa biển Nhật Lệ' (Đồng Hới)
- Khu danh thắng UBND tỉnh ra Quyết định: Chùa Non núi Thần Đinh (Quảng Ninh)
- Các khu danh thắng khác: Suối Moọc, Vịnh Hòn La Quảng Trạch, Khu nước khoáng nóng Bang Lệ Thủy.
Du lịch
Dải đất Quảng Bình như một bức tranh tuyệt đẹp, có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Khe Nét, cửa bãi biển Nhật Lệ, Bãi biển Đá nhảy, phá Hạc Hải, Cổng Trời… và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới đây cũng được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. Hang Sơn Đoòng được công nhận là hang động lớn nhất thế giới. Với hệ thống hang động phong phú tìm thấy cho đến nay, Quảng Bình đã được mọi người gọi là Vương quốc hang động. Ngày 13/5/2015, Hang Sơn Đoòng của Quảng Bình xuất hiện trên chương trình Good Morning American trên kênh ABC của nước Mỹ đã đưa Quảng Bình và du lịch Quảng Bình đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Gần đây đoàn làm phim bom tấn nổi tiếng thế giới Kong: Skull Island đến từ Hollywood Mỹ đã thực hiện nhiều cảnh quay tại hệ thống hang động Quảng Bình ra mắt những thước phim mãn nhãn vào ngày 10/3/2017.
Quảng Bình có một dải dài bãi biển tuyệt đẹp với cát trắng, nước biển xanh, song do quy hoạch chưa rõ ràng và giao thông chưa tốt nên chưa phát huy được tiềm năng.
Tháng 1 năm 2009, báo Los Angeles Times của Mỹ đã chọn Đồng Hới và vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng vào danh sách 29 điểm đến trong năm 2009 Năm 2014 cùng với Động Sơn Đoòng, Quảng Bình đã được The New York Times bầu chọn là điểm đến hấp dẫn nhất châu Á. Quảng Bình cũng được nhiều tờ báo nổi tiếng bầu chọn là một trong những điểm đến hấp dẫn và giá rẻ. Năm 2015, Quảng Bình đón trên 3 triệu tăng 8,9% và doanh thu đạt 3.300 tỷ đồng tăng 8% so với cùng kỳ 2014.
Hang Sơn Đoòng là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới, là kỳ quan thiên nhiên và địa chất của nhân loại,thuộc quần thể hang động Phong Nha - Kẻ Bàng, tọa lạc tại xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình nước ta. Cho tới nay, đây luôn được coi là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới từng được phát hiện. Kích thước của hang Sơn Đoòng rất lớn với chiều dài ít nhất là 5 km, tương đương sức chứa khoảng 68 chiếc máy bay Boeing 777.
Thậm chí, con số này có thể lớn hơn bởi theo các nhà khoa học, những phương tiện hiện đại nhất ngày nay cũng chưa khám phá được hết chiều dài thực sự của hang động này.Trong hang Sơn Đoòng, các chuyên gia phát hiện những vị trí có kích thước rất lớn. Một bức ảnh do nhiếp ảnh gia Carten Peter chụp tháng 5/2010 ghi nhận đoạn hang có bề rộng 91,44m và vòm cao gần 243,84m - hoàn toàn “nhét” vừa một tòa nhà cao 40 tầng ở New York.Trang National Geographic thậm chí còn so sánh rằng, hang cao tới mức xếp chồng 25 chiếc xe bus hai tầng vào vẫn thoải mái.Sự hùng vĩ và đồ sộ về cảnh quan của hang Sơn Đoòng khiến nó được thế giới vinh danh là “The Great Wall of Viet Nam” (hiểu là "Vạn Lý Trường Thành" của Việt Nam, giống như “The Great Wall of China” là Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc).
Đồng Hới là thành phố trẻ được ví như là Nha Trang ở phía bắc Đèo Hải Vân, có đường bờ biển dài 14 km với hàng loại Khách sạn Và Resort Cao cấp ven biển.Trong tương lai gần đây sẽ là Thành phố du lịch Mới của Việt Nam.Cùng với Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đây sẽ là một tổ hợp du lịch hấp dẫn hàng đầu Châu Á.
Giao thông
Giao thông Quảng Bình gần như hội tụ đầy đủ tất cả các loại hình giao thông quan trọng, bao gồm:
Đường bộ:
Huyết mạch: Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông đang xây dựng, Quốc lộ 1, Đường Hồ Chí Minh, Đường ven biển
Trong tỉnh: Quốc lộ 12C, Quốc lộ 12A, Quốc lộ 9B, Quốc lộ 9C, Quốc lộ 9E, Quốc lộ 15
Đường sắt: Đường sắt Bắc Nam
Đường biển: Cảng Hòn La, Cảng Gianh, Cảng Nhật Lệ
Đường hàng không: sân bay Đồng Hới
Quảng Bình là đầu mối giao thông, nằm ở trung điểm và nơi hẹp nhất của Việt Nam với khoảng cách chưa đến 50 km từ mép biển Đông đến biên giới Việt - Lào. Giao thông đường thủy có Cảng Hòn La (12 triệu tấn/năm) do Tổng công ty Dịch vụ kỹ thuật Dầu khí (PTSC) thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam quản lý vận hành và phát triển. Ngoài ra còn có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh.. Giao thông đường bộ có Quốc lộ 1 dài 122 km (dài thứ 5 cả nước), Đường Hồ Chí Minh (dài nhất nước) với nhánh Đông dài 200 km và nhánh Tây dài 197 km, Quốc lộ 12A, Quốc lộ 12C, Quốc lộ 9B, Quốc lộ 15A. Giao thông đường sắt có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua tỉnh tổng cộng 174,5 km (một trong hai tỉnh dài nhất nước) với 21 ga trong đó có ga Đồng Hới là một trong 8 ga chính của cả nước và 3 ga:Đồng Lê, Minh Lệ và Mỹ Đức có tàu Thống Nhất dừng đổ đón trả khách. Giao thông đường hàng không có Sân bay Đồng Hới, cùng với Sân bay quốc tế Phú Bài, Sân bay Vinh và Sân bay Thọ Xuân là một trong bốn sân bay chính của Vùng Bắc Trung Bộ, với tuyến bay nối Sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội), và Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh, sân bay Cát Bi (Hải Phòng), sân bay quốc tế Chiang Mai (Chiang Mai) của các hãng hàng không: Vietnam Airlines, VietJet Air, Jetstar Pacific Airlines, Bamboo Airways. Năm 2016, Sân bay Đồng Hới đón 365.820 lượt khách (tăng 39,96% so với 261.372 lượt khách năm 2015), năm 2017 đạt 468.000 lượt khách.
Năm 2018, Tập đoàn FLC đã đề xuất thực hiện dự án đầu tư nâng cấp mở rộng sân bay Đồng Hới. Dự án đầu tư nâng cấp sân bay này sẽ được tiến hành từ quý 4/2018 và hoàn thành công tác nâng cấp vào năm 2020, lúc đó đường băng sân bay này sẽ đạt cấp 4E với chiều dài 3.600m và chiều rộng 45 m, có thể phục vụ các loại tàu bay dân dụng lớn nhất như A350, Boeing 787 Dreamliner, với hai nhà ga (quốc tế và nội địa), tổng công suất thiết kế 10 triệu lượt khách/năm. Sau khi hoàn thành nâng cấp, sẽ có nhiều tuyến bay nội địa và quốc tế sẽ được mở tại sân bay này.
Quốc lộ 12A, Quốc lộ 12C, Quốc lộ 9B là những tuyến đường chính nối với Lào - Thái Lan qua cửa khẩu quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác đến các cảng biển Vũng Áng, Gianh, Hòn La...
Danh nhân
Một số người Quảng Bình nổi tiếng: Dương Văn An, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh, Trung tướng Phạm Hồng Thanh, Trung tướng Nguyễn Hoa Thịnh, Trung tướng Võ Minh Lương, Trung tướng Cao Ngọc Oánh, Đại tá Trần Đình Xu, Giáo sư Trần Thanh Vân, Giáo sư Hoàng Tuệ, Giáo sư Phan Ngọc Minh, Nhà thơ Hàn Mặc Tử, Nhà văn Nguyễn Quang Lập, Kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa, Nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ... Bài chi tiết về các chính trị gia, tướng lĩnh, nhà khoa học, tác gia, nghệ sĩ,... sinh ra ở Quảng Bình xin xem ở Danh nhân Quảng Bình.
Hình ảnh
Chú thích |
Tây Ninh là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam.
Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và là một trong những tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh có thành phố Tây Ninh nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 99 km theo đường Quốc lộ 22, cách biên giới Campuchia 40 km về phía Tây Bắc. Tỉnh lỵ của Tây Ninh nằm ở thành phố Tây Ninh.
Vùng đất Tây Ninh từ thời xưa vốn là một vùng đất thuộc Thủy Chân Lạp, với tên gọi là Romdum Ray, có nghĩa là "Chuồng Voi" vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú dữ như cọp, voi, beo, rắn,... cư ngụ. Những người thổ dân ở đây sống rất thiếu thốn, cơ cực cho đến khi người Việt đến khai hoang thì vùng đất này mới trở nên phát triển.
Địa lý
Tây Ninh nối cao nguyên Nam Trung Bộ với đồng bằng sông Cửu Long, vừa mang đặc điểm của một cao nguyên, vừa có dáng dấp, sắc thái của vùng đồng bằng, tọa độ của tỉnh từ 10°57’08’’ đến 11°46’36’’ vĩ độ Bắc và từ 105°48’43" đến 106°22’48’’ kinh độ Đông, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp tỉnh Bình Phước, tỉnh Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh
Phía tây và phía bắc giáp Vương quốc Campuchia
Phía nam giáp tỉnh Long An.
Tỉnh Tây Ninh có đường biên giới dài 240 km với 3 cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, Xa Mát và Tân Nam, các cửa khẩu quốc gia: Chàng Riệc, Kà Tum, Phước Tân và nhiều cửa khẩu tiểu ngạch.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Như các tỉnh thành Đông Nam Bộ khác, Tỉnh Tây Ninh cũng là vùng có địa hình chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ xuống đồng bằng sông Cửu Long, đất đai tương đối bằng phẳng. Địa hình vừa mang đặc điểm của một cao nguyên, vừa có dáng dấp, sắc thái của vùng đồng bằng, Tây Ninh có nhiều vùng địa hình khác nhau như:
Vùng địa hình núi (núi Bà Đen cao 986 m, cao nhất Nam Bộ Việt Nam; núi Phụng: 435 m; núi Heo: 289 m và đồi 82: 82 m)
Vùng bán bình nguyên < 50 m lượn sóng yếu xen lẫn bưng bàu trũng ở các huyện phía Nam như Gò Dầu, thị xã Trảng Bàng.
Vùng gò đồi dưới 150m có đỉnh rộng dốc thoải nối tiếp nhau phân bố tại thượng nguồn Hồ Dầu Tiếng, Tân Châu, Tân Biên và phía bắc thành phố Tây Ninh.
Vùng địa hình thung lũng bãi bồi dưới 2 m tập trung dọc sông Vàm Cỏ Đông và phía tây huyện Bến Cầu.
Nhìn chung địa hình của Tây Ninh bằng phẳng hơn so với các tỉnh thuộc Đông Nam Bộ khác (trừ thành phố Hồ Chí Minh), cao độ trung bình toàn tỉnh khoảng 35m so với mực nước biển.
Khí hậu
Khí hậu Tây Ninh tương đối ôn hoà thuộc dạng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô thường kéo dài từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11. Nhiệt độ tương đối ổn định, đầu mùa khô đến giữa mùa thời tiết thường se lạnh và khô hanh ở phía bắc và trung tâm ở mức ban đêm thường dưới 20 °C ở tỉnh cuối mùa thời tiết nóng khô có thể lên trên 38 °C biên độ nhiệt ngày và đêm cao khoảng 10~14 °C vào mùa mưa độ ẩm cao mưa nhiều nhiệt độ ban ngày thường ở mức 30~34 °C và ban đêm ở mức 23~ 26 °C biên độ nhiệt thấp, với nhiệt độ trung bình năm là 25,5– 27 °C, thấp kỷ lục là 11,3 °C và cao kỷ lục là 40 °C và thấp nhất là 17,6 °C vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau cao nhất là 38 °C kéo dài từ tháng 4 đến tháng 5 ít thay đổi,nhiệt độ thấp gần đây 11,3 độ C năm 1999 và gần đây nhất là 2021 với nhiệt độ đo được là 16 độ C Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1800 – 2200 mm. Mặt khác, Tây Ninh nằm sâu trong lục địa, có địa hình cao núp sau Dãy Trường Sơn chính vì vậy ít chịu ảnh hưởng của bão vào tháng 6 -> 8 gió tây nam hoạt động mạnh kéo theo nhưng cơn bão, gió rất mạnh kèm theo mưa đá ở những vùng cao phía bắc và trung tâm và những yếu tố thuận lợi khác. Với lợi thế đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp đa dạng, đặc biệt là các loại cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu và chăn nuôi gia súc.
Thổ nhưỡng
Tây Ninh có tiềm năng dồi dào về đất, trên 96% quỹ đất thuận lợi cho phát triển cây trồng các loại, từ cây trồng nước đến cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây ăn quả các loại. Đất đai Tây Ninh có thể chia làm 5 nhóm đất chính với 15 loại đất khác nhau. Trong đó, nhóm đất xám chiếm trên 84%, đồng thời là tài nguyên quan trọng nhất để phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, còn có nhóm đất phèn chiếm 6,3%, nhóm đất cỏ vàng chiếm 1,7%, nhóm đất phù sa chiếm 0,44%, nhóm đất than bùn chiếm 0,26% tổng diện tích. Đất lâm nghiệp chiếm hơn 10% diện tích tự nhiên.
Sông ngòi
Tây Ninh có hồ Dầu Tiếng giúp cân bằng sinh thái, phục vụ tưới tiêu trong nông nghiệp, cung cấp nước cho nuôi trồng thủy sản, sinh hoạt tiêu dùng và cho sản xuất công nghiệp. Nguồn nước ngầm ở Tây Ninh phân bố rộng khắp trên địa bàn, bảo đảm chất lượng cho sản xuất và đời sống của người dân. Cách thành phố Tây Ninh 20 km là điểm du lịch nằm tuyến liên hoàn giữa thành phố Tây Ninh - Toà Thánh Tây Ninh - núi Bà Đen. Hồ có diện tích 27.000 ha, có sức chứa 1,5 tỷ m³ nước tưới cho đồng ruộng tỉnh và các tỉnh lân cận.
Lịch sử
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, đồng thời đổi tên phủ Gia Định thành trấn Gia Định.
Năm 1808, trấn Gia Định đổi lại đổi là thành Gia Định, gồm có 5 trấn là Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên.
Năm 1832, vua Minh Mạng định tiếp tục tổ chức hành chánh ở Gia Định, từ 5 trấn chia thành 6 tỉnh gồm có Phiên An tỉnh thành (tức trấn Phiên An cũ), Tỉnh Biên Hòa (trấn Biên Hòa cũ), Tỉnh Định Tường (trấn Định Tường cũ), Tỉnh Vĩnh Long (trấn Vĩnh Thanh cũ), Tỉnh An Giang, Tỉnh Hà Tiên. Lúc bấy giờ, vùng đất Tây Ninh thuộc Phiên An tỉnh thành.
Năm 1836, chuẩn tấu lời tâu của đình thần Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định gồm có 3 phủ, 7 huyện. Các phủ là Phủ Tân Bình có 3 huyện, Phủ Tân An có 2 huyện, Phủ Tây Ninh có 2 huyện là: huyện Tân Ninh và huyện Quang Hóa.
Phủ Tây Ninh: phía Bắc giáp Cao Miên (qua núi Chiêng, tức núi Bà Đen), phía Đông giáp huyện Bình Long phủ Tân Bình, phía Nam giáp huyện Bình Dương phủ Tân Bình và huyện Cửu An phủ Tân An, nguyên là đạo Quang Phong. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), bỏ đạo lập phủ với tên gọi phủ Tây Ninh, quản lý 2 huyện (với 7 tổng có 56 làng xã):
Huyện Tân Ninh, lỵ sở kiêm phủ thành nằm ở thôn Khang Ninh (nay thuộc thị xã Tây Ninh), phía Bắc giáp Cao Miên (qua núi Chiêng), phía Đông giáp huyện Bình Long phủ Tân Bình, phía Nam giáp huyện Bình Long phủ Tân Bình và huyện Quang Hóa cùng phủ Tây Ninh, phía Tây giáp huyện huyện Kiến Hưng tỉnh Định Tường và giáp nước Cao Miên. Huyện Tân Ninh, được đặt ra năm Minh Mạng thứ 17 (1836), theo Đại Nam nhất là quản lý 2 tổng (nhưng có lẽ là 3 tổng), là tổng Hàm Ninh Thượng và tổng Kiếm Hoa với 24 làng xã. Phần đất huyện Tân Ninh phủ Tây Ninh nhà Nguyễn nay có thể là địa phận phía Bắc của tỉnh Tây Ninh ngày nay (tức năm 2011) (thành phố Tây Ninh, huyện Tân Biên, huyện Châu Thành,...) và có thể bao gồm cả một phần đất phía Bắc của tỉnh Svay Rieng (khúc giữa tỉnh Svay Rieng) Campuchia, vì mô tả trên theo Đại Nam nhất thống chí: Tân Ninh còn tiếp giáp với cả huyện Kiến Hưng phủ Kiến An tỉnh Định Tường nhà Nguyễn, vốn chỉ nằm bên bờ Tây sông Vàm Cỏ Tây, cách địa bàn tỉnh Tây Ninh ngày nay (phần từng là đất huyện Tân Ninh) qua địa bàn tỉnh Svay Rieng.
Năm 1890, sau khi lập Liên bang Đông Dương, người Pháp trích một phần đất hạt Tây Ninh (hạt Tây Ninh nguyên là toàn bộ phủ Tây Ninh) là phần đất dọc theo rạch Ngã Bát cho Campuchia thuộc Pháp, trong đó có lẽ gồm cả phần đất tỉnh Svay Rieng (tức tỉnh Soài Riêng) đề cập đến ở trên. Các bản đồ của người Pháp thể hiện xứ Nam Kỳ thuộc Pháp, vẽ với kỹ thuật Tây phương khá chính xác, vào các năm 1872 và 1886 (trước khi thành lập Liên bang Đông Dương năm 1887) đều thể hiện vùng lồi Svay Rieng thuộc đất Nam Kỳ (Cochinchine).
Huyện Quang Hóa, phía Bắc giáp huyện Tân Ninh cùng phủ Tây Ninh, phía Đông giáp huyện Tân Ninh, phía Nam giáp huyên Tân Ninh và huyện Cửu An phủ Tân An, phía Tây giáp huyện Kiến Hưng phủ Kiến An tỉnh Định Tường nhà Nguyễn. Lỵ sở trước đặt ở thôn Cẩm Giang sau chuyển sang thôn Long Giang, quản lý 4 tổng (Hàm Ninh Hạ (Ham Ninh Ha tong), Mộc Hóa (Moc Hoa tong), Giải Hóa (Giải Hoa tong), Mỹ Ninh (Mi Nin tong)) với 32 làng xã. Đất huyện Quang Hóa phủ Tây Ninh nhà Nguyễn nay có thể là địa phân các huyện phía Nam tỉnh Tây Ninh (như Bến Cầu, Gò Dầu, Trảng Bàng,...), các huyện Đông Bắc tỉnh Long An (như Đức Huệ, Hậu Nghĩa, Mộc Hóa,...) và phần phía Nam của tỉnh Svay Rieng Campuchia.
Theo Đại Nam thực lục thì vào khoảng tháng 3 âm lịch năm 1845, Cao Hữu Dực (quyền Tuyên phủ sứ Tây Ninh) cho chiêu mộ dân trong phủ Tây Ninh lập ra 26 thôn làng: Tiên Thuận, Phúc Hưng, Phúc Bình, Vĩnh Tuy, Phúc Mỹ, Long Thịnh, Long Khánh, Long Giang, Long Thái, An Thịnh, Khang Ninh, Vĩnh An, An Hòa, Gia Bình, Long Bình, Hòa Bình, Long Định, Phú Thịnh, Thái Định, Hòa Thuận, An Thường, Thuận Lý, Thiên Thiện, Hướng Hóa, Định Thái, Định Bình, đều thuộc phủ Tây Ninh. Vua Thiệu Trị phê chuẩn quyết định này.
Năm 1861, Sau khi thực dân Pháp chiếm Tây Ninh, việc cai quản ở 2 huyện được thay thế bằng 2 Đoàn Quân sự đặt tại Trảng Bàng và Tây Ninh.
Năm 1868, hai đoàn Quân sự được thay thế bằng hai Ty Hành chánh. Sau nhiều lần thay đổi, năm 1897 Tây Ninh gồm có 2 quận là Thái Bình, Trảng Bàng, trong đó có 10 tổng, 50 làng. Đứng đầu tỉnh Tây Ninh lúc này (1897) là chánh tham biện Seville.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer cho áp dụng nghị định ký ngày 20 tháng 12 năm 1899 đổi các khu tham biện (inspections) là tỉnh (province). Thời Pháp thuộc, Nam Kỳ được chia làm 20 tỉnh để cai trị và sau đó Cap St. Jacques (Vũng Tàu) tách ra thành tỉnh thứ 21. Tây Ninh lúc đó là tỉnh thứ 12. Chủ tỉnh đầu tiên là O. de Lalande-Calan.
Ngày 9 tháng 12 năm 1942, Thống đốc Nam kỳ ban hành Nghị định số 8345 ấn định ranh giới Tây Ninh.
Sau Cách mạng Tháng Tám tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên ranh giới cũ.
Năm 1950, cắt một phần đất của xã Thái Hiệp Thạnh cũ thành lập thị xã Tây Ninh, nhưng do chưa đủ điều kiện hoạt động nên sau đó giải thể.
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, thành lập lại Thị xã Tây Ninh trên địa bàn cũ, do Võ Văn Truyện làm Bí thư Đảng kiêm Chủ tịch Uỷ ban hành chính.
Năm 1957, tỉnh Tây Ninh chia thành 3 quận gồm có Châu Thành, Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng.
Năm 1959, quận Châu Thành chia thành 2 quận Phước Ninh và Phú Khương; quận Gò Dầu Hạ chia thành 2 quận Hiếu Thiện và Khiêm Hanh.
Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam được thành lập tại làng Tân Lập, Tây Ninh. Đây cũng là trụ sở của Mặt trận từ năm 1960 đến 1966
Năm 1961, quận Trảng Bàng đổi tên thành quận Phú Đức.
Năm 1963, quận Phú Đức được giao cho tỉnh Hậu Nghĩa và đổi lại tên cũ là Trảng Bàng. Từ đó đến năm 1975, tỉnh Tây Ninh có 4 quận:
Quận Phước Ninh có 15 xã; quận lỵ đặt tại Bến Sỏi, sau dời đến ngã ba Tầm Long
Quận Phú Khương có 11 xã; quận lỵ đặt tại Suối Đá, sau dời đến chợ Long Hoa
Quận Hiếu Thiện có 15 xã; quận lỵ đặt tại Gò Dầu Hạ
Quận Khiêm Hanh có 5 xã; quận lỵ đặt tại Bàu Đồn.
Năm 1968, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam cũng được thành lập tại Tây Ninh
Năm 1969, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra đời tại Tây Ninh và được xem là thủ đô đầu tiên.
Sau năm 1975, tỉnh Tây Ninh có thị xã Tây Ninh và 7 huyện: Bến Cầu, Châu Thành, Dương Minh Châu, Gò Dầu, Phú Khương, Tân Biên, Trảng Bàng.
Ngày 14 tháng 3 năm 1979, đổi tên huyện Phú Khương thành huyện Hòa Thành.
Ngày 13 tháng 5 năm 1989, tách một phần các huyện Tân Biên và Dương Minh Châu để thành lập huyện Tân Châu.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 135/NQ-CP thành lập thành phố Tây Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tây Ninh.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 865/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, thành lập hai thị xã Hòa Thành và Trảng Bàng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của hai huyện có tên tương ứng. Kể từ ngày hôm đó, tỉnh Tây Ninh có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Tây Ninh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện với 94 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 6 thị trấn và 71 xã.
Theo quyết định Quy hoạch số 241/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trong giai đoạn 2021 – 2025: thành phố Tây Ninh sẽ từ đô thị loại III lên đô thị loại II; thị xã Hòa Thành và thị xã Trảng Bàng từ đô thị loại IV lên đô thị loại III; thị trấn Gò Dầu huyện Gò Dầu và thị trấn Bến Cầu huyện Bến Cầu sẽ đô thị loại IV. Trong đó, huyện Bến Cầu sẽ thành lập thị xã Bến Cầu. Đến giai đoạn 2026 – 2030, thị trấn Gò Dầu huyện Gò Dầu tiếp tục tiến lên đô thị loại III và huyện Dương Minh Châu thành lập thị xã Dương Minh Châu.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Năm 2018, Tây Ninh là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 37 về số dân, xếp thứ 28 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 14 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 32 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.133.400 người dân, GRDP đạt 71.166 tỉ Đồng (tương ứng với 3,0908 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 62,79 triệu đồng (tương ứng với 2.727 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,01%.
Trong kỳ họp đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2022, tổng sản phẩm trong tỉnh ước tính đạt 55.914 tỷ đồng, tăng 8,84% so với cùng kỳ. GRDP bình quân đầu người đạt 3.700 USD. Định hướng phát triển thời gian tới, tỉnh Tây Ninh xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng và đến năm 2030 phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Tỉnh Tây Ninh được xem là một trong những cửa ngõ giao lưu về quốc tế quan trọng giữa Việt Nam với Campuchia, Thái Lan,… Đồng thời tỉnh có vị trí quan trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong năm 2022, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của Tây Ninh đạt 9,56%, xếp thứ 16 cả nước và đứng thứ nhất trong các vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ. Trong đó, tổng doanh thu du lịch tăng 130%, đạt 1.400 tỷ đồng và lượng khách du lịch tăng 200%, đạt 4,5 triệu lượt. Khu du lịch quốc gia núi Bà Đen cũng trở thành 1 trong 5 điểm đến thu hút nhiều khách du lịch nhất cả nước.
Nông nghiệp
Trong 3 tháng đầu năm 2012, phát triển ở mức tương đối, lĩnh vực nông nghiệp vẫn tiếp tục là thế mạnh, một số lĩnh vực đạt kết quả khả quan như thu ngân sách đạt dự toán, đảm bảo tiến độ thực hiện và đáp ứng các nhiệm vụ chi theo dự toán được giao, chỉ số giá tiêu dùng được kéo giảm, đầu tư phát triển trên địa bàn do được tập trung chỉ đạo nên thực hiện có hiệu quả, các dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai. Thu ngân sách nhà nước đạt trên 1.133 tỷ đồng, Tổng nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng ước trên 21.880 tỷ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ, Tổng kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện 287 triệu USD, tăng trên 22% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Tây Ninh hàng năm đạt 14%, GDP bình quân đầu người đạt năm 2010 đạt 1.390 USD.
Công nghiệp
Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Tây Ninh ngày càng phát triển vững chắc đồng thời đã xây dựng được hệ thống các nhà máy chế biến nông sản tại các vùng chuyên canh như các nhà máy mía đường, các nhà máy chế biến bột củ mì, các nhà máy chế biến mủ cao su, từng bước xây dựng các khu công nghiệp trong tỉnh.
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Tây Ninh có 410 trường học ở cấp phổ trong đó có Trung học phổ thông có 31 trường, Trung học cơ sở có 106 trường, Tiểu học có 271 trường, chuyên 1 trường, bên cạnh đó còn có 116 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Tây Ninh cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Có một trường chuyên là THPT chuyên Hoàng Lê Kha tại số 368 Trường Chinh, phường 3, thành phố Tây Ninh (địa chỉ cũ là 23 Võ Thị Sáu, phường 3, thành phố Tây Ninh).
Trường THPT loại 2 có chất lượng tốt nhất là THPT Lý Thường Kiệt tại 354, Đường Lý Thường Kiệt, Khu phố 4, Phường Long Hoa, Thị xã Hòa Thành, Tỉnh Tây Ninh.Trường là một trong những cơ sở giáo dục lâu đời đã và đang đào tạo ra nhiều thành phần trí thức cho tỉnh.
Một số trường đứng top đầu của tỉnh:
Trường THPT chuyên Hoàng Lê Kha
Trường THPT Lý Thường Kiệt
Trường THPT Tây Ninh
Trường THPT Nguyễn Trãi
Trường THPT Nguyễn Chí Thanh
Văn hóa
Kiến trúc Chàm, nền văn minh Chàm và dân tộc Khmer được đánh giá cao như là một xã hội văn minh sớm xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Tây Ninh hiện còn 2 trong 3 tháp cổ ở vùng đất nam bộ của nền văn hóa Óc Eo (Vương quốc Phù Nam tồn tại từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII) hầu như còn nguyên vẹn là tháp Chót Mạt ở xã Tân Phong huyện Tân Biên và tháp Bình Thạnh ở xã Phước Bình thị xã Trảng Bàng. Theo thống kê của ban Dân tộc tỉnh Tây Ninh hiện Tây Ninh có 21 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc Tà Mun (được cho là hậu duệ của Vương quốc Phù Nam) ở Tây Ninh đang làm thủ tục để công nhận là dân tộc thứ 55 của Việt Nam.
Tây Ninh còn nổi tiếng với các lễ hội:
Hội Xuân núi Bà Đen (mùng 4 tháng Giêng âm lịch đến hết tháng Giêng).
Hội Yến Diêu Trì Cung (tổ chức hàng năm tại Tòa Thánh Tây Ninh vào ngày 15 tháng 8 âm lịch).
Đại lễ vía Đức Chí Tôn (tổ chức hàng năm tại Tòa Thánh Tây Ninh vào ngày 9 tháng 1 âm lịch).
Du lịch
Định hướng phát triển thời gian tới, đến năm 2030, Tây Ninh sẽ phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Thậm chí, trong dịp Tết Nguyên đán 2022, ngành du lịch Tây Ninh đứng đầu cả nước. Theo báo cáo từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tây Ninh, du lịch Tây Ninh có đến gần 90% du khách đến Tây Ninh để thăm quan Khu du lịch Núi Bà Đen và Tòa Thánh Tây Ninh. Tây Ninh nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và những công trình nhân tạo hoành tráng:
Núi Bà Đen cao 986 m, là ngọn núi cao nhất miền Nam Việt Nam
Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát
Hồ Dầu Tiếng
Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh
Trung ương Cục Miền Nam
Khu địa đạo An Thới Trảng Bàng
Ngoài ra còn nhiều địa điểm du lịch khác như: thung lũng Ma Thiên Lãnh, chùa Cao Sơn Tự ở huyện Gò Dầu...
Ẩm thực
Tây Ninh nổi tiếng với các loại đặc sản sau đây:
Bánh Tráng phơi sương: Loại đặc sản này ngày nay đã được sản xuất ở nhiều địa phương trong tỉnh và được sản xuất công nghiệp, nhưng nó vẫn gắn liền với địa danh Trảng Bàng. Trước năm 1980, Bánh Tráng Trảng Bàng được sản xuất từ củ sắn (khoai mì). Nhưng ngày nay thì chỉ được sản xuất từ lúa gạo. Để làm ra Bánh Tráng phơi sương phải qua nhiều công đoạn khá công phu và cầu kỳ.
Bánh Canh thịt heo Trảng Bàng: Bánh Canh Trảng Bàng là một loại thức ăn nổi tiếng của Tây Ninh có từ rất lâu đời. Nó đã trở thành một sản phẩm du lịch, một điểm dừng chân thân thuộc đối với khách du lịch.
Muối tôm: là một đặc sản rất nổi tiếng của Tây Ninh.Ban đầu chỉ có vài hộ gia đình sản xuất nhỏ lẻ, đến nay đã có hơn 100 cơ sở làm các loại sản phẩm muối Tây Ninh, tập trung chủ yếu trên địa bàn huyện Gò Dầu, thị xã Trảng Bàng và thành phố Tây Ninh. Mảnh đất Tây Ninh khắc nghiệt khô cằn chỉ có núi mà không có biển, thiếu cả muối lẫn tôm mà lại sản sinh ra thứ đặc sản nức tiếng này, thật vô cùng kì lạ, đó là một bí quyết, một niềm tự hào của người dân Tây Ninh. Muối tôm, giống như tên gọi có thành phần chính là sự kết hợp giữa tôm và muối. Người dân Tây Ninh nhập nguồn nguyên liệu này về từ các tỉnh ven biển, được chế biến theo một công thức riêng để cho ra đời những hạt muối đậm màu gạch, thơm ngon nổi tiếng trong và ngoài nước.
Mãng cầu Bà Đen (trái na): được trồng tại khu vực gần núi Bà Đen của Tây Ninh. Cùng với việc chọn thời vụ canh tác, xử lý ra hoa vào các tháng khác nhau mà trái mãng cầu có quanh năm. Ngay cả các tháng 3-4-5, sản lượng cũng đạt gần 1.000 tấn/tháng. Tỉnh Tây Ninh đã tiến hành đăng ký với Cục Sở hữu Trí tuệ về bảo hộ địa danh dưới hình thức chỉ dẫn địa lý "Bà Đen" cho sản phẩm mãng cầu được trồng ở khu vực núi Bà Đen và vùng phụ cận núi Bà.
Thằn lằn núi và ốc núi cũng là đặc sản nỗi tiếng của Tây Ninh
Cá Cầy trên sông Vàm cỏ Đông hay cá Lăng trong lòng hồ Dầu Tiếng cũng là những món ăn đặc sản khi đến Tây Ninh.
Bánh xèo Lò Gò- Xa Mát: đặc biệt bánh xèo ở đây khác ở các nơi khác là bột làm bằng gạo từ giống lúa xưa của dân tộc Khơ me, nhân bánh là hổn hợp của măng rừng và gà rừng lai, kết hợp với hơn 18 loại rau rừng đặc sản của Vườn Quốc gia.
Bò tơ 5 Sánh: Hiện có hơn 25 chi nhánh từ Miền Đông đến Miền tây, bạn sẽ được thưởng thức món thăn tái chanh và bò nướng y không nơi nào sánh bằng. Thịt bò ở đây rất tươi, bò được chọn kỷ lưỡng được vỗ béo theo công thức riêng nên miếng thịt có vị thơm ngon đặc biệt.
Bánh tráng trộn: Có lẽ ít ai ngờ tới, món Bánh tráng trộn đang được bày bán ở hầu khắp các nẻo đường trong Nam và ngoài Bắc là một món ăn được chế biến một cách đầy ngẫu nhiên và tình cờ của người dân ở Trảng Bàng.
Mãng cầu Bác Ba Sơn (trái na): được trồng tại ngã tư núi quẹo bên tay trái (đường lên Long Điền Sơn), mãng cầu bác ba sơn khác mãng cầu các vườn khác là ngon, ngọt, dai, chắc thịt hơn, được người dân tỉnh Tây Ninh và ngoài tỉnh rất ưa, nếu có dịp đến Tây Ninh đừng quên ghé sang rẫy bác ba sơn để tìm mua mãng cầu tốt, dai, ngon nhất Tây Ninh.
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Tây Ninh đạt 1.169.165 người, mật độ dân số đạt 268 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 207.569 người, chiếm 17,8% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 961.596 người, chiếm 82,2% dân số. Dân số nam đạt 584.180 người, nữ đạt 584.985 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,92 % Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2021 đạt 42%.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Tây Ninh có 9 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Đạo Cao Đài có 415.920 người, Công giáo có 45.992 người, Phật giáo có 38.336 người, các tôn giáo khác như Hồi giáo 3.337 người, Tin Lành có 684 người, Phật giáo hòa hảo có 236 người, Minh Sư Đạo có bốn người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có hai người, Bà-la-môn có một người.
Theo thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Tây Ninh có đủ 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh có 1.050.376 người, người Khmer có 7.578 người, người Chăm có 3.250 người, người Xtiêng có 1.654 người, người Hoa có 2.495 người, còn lại là những dân tộc khác như Mường, Thái, Tày......
Giao thông
Tây Ninh có đường Xuyên Á đi qua với chiều dài gần 28 km, nối Thành phố Hồ Chí Minh với Campuchia thông qua cửa khẩu Mộc Bài. Tây Ninh có 2 tuyến sông chính là tuyến sông Sài Gòn và tuyến sông Vàm Cỏ Đông. Ngoài ra địa bàn tỉnh Tây Ninh còn có cảng sông Bến Kéo nằm trên sông Vàm Cỏ Đông.
Hiện nay, Tây Ninh còn có hai tuyến cao tốc đã được Thủ tướng phê duyệt và đang chờ xây dựng bao gồm: Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Mộc Bài và Đường cao tốc Gò Dầu – Xa Mát.
Năm 2022, UBND tỉnh Tây Ninh đã trình Thủ tướng và Bộ Giao thông vận tải đề xuất bổ sung quy hoạch sân bay Tây Ninh vào quy hoạch sân bay toàn quốc thời kỳ 2030, tầm nhìn 2050.
Danh nhân
➢ Văn hóa - nghệ thuật :
Ca sĩ nguyễn kha (Sinh năm 1981)
Chú thích |
Phú Yên là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam.
Năm 2018, Phú Yên là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 45 về số dân, xếp thứ 43 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 30 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 25 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 961,1 nghìn dân, GRDP đạt 36.352 tỉ Đồng (tương ứng với 1,5790 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 39,97 triệu đồng (tương ứng với 1.736 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,3%.
Địa lý
Phú Yên trải dài từ 12°42'36" đến 13°41'28" vĩ Bắc và từ 108°40'40" đến 109°27'47" kinh Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp Khánh Hòa, phía Tây giáp Đắk Lắk và Gia Lai, phía Đông giáp Biển Đông. Phú Yên có vị trí địa lý và giao thông tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Phú Yên nằm ở miền Trung Việt Nam, tỉnh lỵ Phú Yên là thành phố Tuy Hòa, cách thủ đô Hà Nội 1.160 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 560 km về phía Nam và cách Đà Nẵng 438 km về phía Bắc theo đường Quốc lộ 1.
Diện tích tự nhiên: 5.045 km², chiều dài bờ biển: 189 km.
Địa hình
Phú Yên có 3 mặt là núi, phía Bắc có dãy Đèo Cù Mông, phía Nam là dãy Đèo Cả, phía Tây là mạn sườn đông của dãy Trường Sơn, và phía Đông là biển Đông.
Phú Yên được biết đến nơi có đồng bằng Tuy Hòa, được xem là vựa lúa của miền Trung.
Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm và chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa nắng từ tháng 1 đến tháng 8. Nhiệt độ trung bình hằng năm 26,5 °C, lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.600 - 1.700mm.
Sông, suối
Có hệ thống Sông Đà Rằng, sông Bàn Thạch, sông Kỳ Lộ với tổng diện tích lưu vực là 16.400 km², tổng lượng dòng chảy 11.8 tỷ m3, đảm bảo đủ nước tưới cho nông nghiệp, thủy điện và sinh hoạt.
Phú Yên có nhiều suối nước khoáng nóng như: Phú Sen, Triêm Đức, Trà Ô, Lạc Sanh. Ngoài ra còn có nhiều tài nguyên trong lòng đất như Diatomite (90 triệu m3), đá hoa cương nhiều màu (54 triệu m3), vàng sa khoáng (300 nghìn tấn) (số liệu năm 2006 theo Cẩm nang xúc tiến thương mại du lịch Phú Yên)
Hành chính
Tỉnh Phú Yên có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện với 110 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 21 phường, 6 thị trấn và 83 xã.
Lịch sử
Phú Yên là nơi có các di tích từ thời Văn hóa Hòa Bình , Sa Huỳnh.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân đánh Chăm Pa đến tận đèo Cả. Tuy nhiên sau đó Lê Thánh Tông chỉ sáp nhập vùng đất từ đèo Hải Vân tới đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên) vào lãnh thổ Đại Việt. Vùng đất Phú Yên vẫn thuộc quyền quản lý của Chăm Pa với tên gọi Ayaru (Êa Ryu).
Từ năm 1570, Nguyễn Hoàng là trấn thủ vùng Thuận Hóa và Quảng Nam của Đại Việt. Năm 1578 ông sai tướng dưới quyền Lương Văn Chánh tấn công vào thành Hồ, là thủ phủ của Chăm Pa tại vùng Ayaru "Êa Ryu" (Phú Yên), thành Hồ bị thất thủ, từ đó vùng đất Ayaru là nơi tranh chấp thường xuyên giữa người Việt và người Chăm. Theo chính sách của chúa Nguyễn ông đã chiêu tập và đưa lưu dân từ các vùng Thanh - Nghệ, Thuận - Quảng vào đây để khẩn hoang lập ấp, tạo dựng cơ nghiệp.
Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai viên tướng dưới quyền là Văn Phong tấn công vào Aryaru, Chăm Pa thất bại. Nguyễn Hoàng sáp nhập Ayaru vào lãnh thổ Đàng Trong với tên gọi Phú Yên và giao cho Văn Phong cai quản đất Phú Yên. Tên gọi nầy do chúa Nguyền Hoàng đặt với ước nguyện về một miến đất trù phú, thanh bình trong tương lai.
Tới năm 1629, Văn Phong chống lại chính quyền Đàng Trong, lúc này Nguyễn Hoàng đã chết, người nối nghiệp là Nguyễn Phúc Nguyên đã sai tướng Nguyễn Phúc Vinh vào đánh dẹp. Sau khi đánh bại được Văn Phong, Phúc Vinh được giao cai quản đất Phú Yên
Với một vị trí chiến lược quan trọng, vào thế kỷ 18 Phú Yên là nơi đối đầu quyết liệt giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn; nơi Nguyễn Huệ, vào tháng 7 năm 1775, đã đánh bại 2 vạn quân ngũ dinh (Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ) của Tống Phước Hiệp.
Năm Minh Mạng thứ 13, tại Gia Định Thành 1832, vua đã lập 12 tỉnh phía Nam đèo Hải Vân, trong đó có Phú Yên.
Năm 1954, Phú Yên chịu sự quản lý của Chính thể Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1976, sau khi thống nhất đất nước, Phú Yên nằm trong địa phận tỉnh Phú Khánh.
Ngày 1 tháng 7 năm 1989, tỉnh Phú Yên được tái lập và tồn tại cho đến ngày nay. Khi tách ra, tỉnh Phú Yên có 7 đơn vị hành chính gồm thị xã Tuy Hòa và 6 huyện: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Cầu, Sông Hinh, Tuy An, Tuy Hòa.
Ngày 4 tháng 3 năm 2002, chia thị xã Tuy Hòa thành thị xã Tuy Hòa và huyện Phú Hòa.
Ngày 5 tháng 1 năm 2005, chuyển thị xã Tuy Hòa thành thành phố Tuy Hòa.
Ngày 16 tháng 5 năm 2005, chia huyện Tuy Hòa thành 2 huyện: Đông Hòa và Tây Hòa.
Ngày 27 tháng 8 năm 2009, chuyển huyện Sông Cầu thành thị xã Sông Cầu.
Ngày 11 tháng 3 năm 2013, thành phố Tuy Hòa được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Phú Yên.
Ngày 4 tháng 3 năm 2019, Bộ Xây dựng quyết định công nhận thị xã Sông Cầu là đô thị loại III.
Ngày 1 tháng 6 năm 2020, chuyển huyện Đông Hòa thành thị xã Đông Hòa.
Tỉnh Phú Yên có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay.
Dân số
Dân số Phú Yên là 874.071 người (2020) trong đó thành thị 28,7%, nông thôn 71,3%, lực lượng lao động chiếm 71,5% dân số. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 38,5% (tính đến năm 2020).
Phú Yên có gần 30 dân tộc sống chung với nhau. Chăm, Êđê, Ba Na, Hrê, Hoa, Raglai là những tộc người đã sống lâu đời trên đất Phú Yên.
Sau ngày miền Nam được giải phóng, sau khi thành lập huyện Sông Hinh (1986) có những dân tộc từ miền núi phía Bắc di cư vào vùng đất Sông Hinh như Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu,...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 67.594 người, nhiều nhất là Công giáo có 35.206 người, tiếp theo là Phật giáo có 27.290 người, tiếp theo là đạo Tin Lành có 2.928 người, đạo Cao Đài có 2.006 người, Phật giáo Hòa Hảo có 113 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 20 người, Bà La Môn có 13 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 10 người và Baha'i
Kinh Tế
Diện tích đất nông nghiệp 72.390 ha, đất lâm nghiệp khoảng 209.377 ha, đất chuyên dùng 12.297 ha, đất dân cư 5.720 ha, đất chưa sử dụng 203.728 ha; có nhiều loại gỗ và lâm sản quý hiếm. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Phú Yên xếp ở vị trí thứ 50/63 tỉnh thành.
Phú Yên nằm ở sườn Đông dãy Trường Sơn, đồi núi chiếm 70% diện tích đất tự nhiên. Địa hình dốc mạnh từ Tây sang Đông, dải đồng bằng hẹp và bị chia cắt mạnh, có hai đường cắt lớn từ dãy Trường Sơn là cánh đèo Cù Mông và cánh đèo Cả. Bờ biển dài gần 200 km có nhiều dãy núi nhô ra biển hình thành các eo vịnh, đầm phá có lợi thế phát triển du lịch, vận tải đường thủy, đánh bắt và nuôi trồng hải sản xuất khẩu.
Ngoài ra còn có Khu bảo tồn thiên nhiên Quốc gia Krông-Trai rộng 20.190 ha với hệ động vật và thực vật phong phú đa dạng.
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,94%, trong đó: khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,26%; Công nghiệp và xây dựng tăng 18,73%; dịch vụ tăng 5,72%. Tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trên địa bàn tỉnh năm 2019 là 6.993 tỷ đồng, vượt 27,1% dự toán tỉnh giao, tăng gấp 1,5 lần so năm 2018. Trong đó: Thu nội địa 6.414 tỷ đồng, vượt 18,2% dự toán, tăng 42% so năm trước; thu thuế xuất nhập khẩu 578,8 tỷ đồng, gấp 8 lần dự toán (do nhập khẩu thiết bị để triển khai các dự án điện mặt trời). Trong đó, khối tỉnh thực hiện thu 4.821 tỷ đồng (vượt 26,1% dự toán tỉnh và tăng 68% so với năm 2018), khối huyện thực hiện thu 2.171 tỷ đồng (vượt 29,4% dự toán, tăng 27,4% so với cùng kỳ); có 9/9 huyện, thị xã, thành phố thu đạt và vượt dự toán giao, đặc biệt huyện Phú Hòa thu vượt 92,7%, thị xã Sông Cầu thu vượt 136,1%. Tổng chi ngân sách địa phương năm 2019 là 9.231 tỷ đồng, bằng 85,1% dự toán chi điều hành, tăng 14,4% so với năm 2018. Nhìn chung, các lĩnh vực chi đều đảm bảo theo dự toán giao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi, đảm bảo đúng mục đích, đúng nội dung, có hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của tỉnh.
Giao thông
Hệ thống giao thông đường bộ trọng yếu gồm có:
Quốc lộ 1 nối với Bình Định và Khánh Hòa.
Quốc lộ 25 nối với Gia Lai.
Quốc lộ 1D nối Thị xã Sông Cầu với thành phố Quy Nhơn.
Quốc lộ 29 nối thị xã Đông Hòa (từ Vũng Rô) với thị xã Buôn Hồ Đăk Lăk.
Quốc lộ 19C khởi đầu từ nút giao với Quốc lộ 1 ở thị trấn Diêu Trì của huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định chạy dọc theo đường sắt Bắc - Nam qua thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân rồi rẽ lên huyện Sơn Hòa tới thị trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh, kết thúc tại nút giao với Quốc lộ 26 ở thị trấn M'Drắk của huyện M'Drắk tỉnh Đắk Lắk.
Đường Phước Tân-Bãi Ngà chạy từ khu công nghiệp Hòa Hiệp đến cảng Vũng Rô.
Phú yên cũng có đường sắt Bắc-Nam đi qua với ga chính là Ga Tuy Hòa.
Về hàng không, Phú Yên hiện đang vận hành Sân bay Đông Tác (Hoạt động từ tháng 4/2003) với 2 đường bay chính: Tuy Hòa - Hà Nội và Tuy Hòa - Thành phố Hồ Chí Minh.
Cơ sở hạ tầng
Hệ thống điện:
Nhà máy Thủy điện Sông Hinh với công suất 72 MW và hệ thống đường dây 500 KVA Bắc - Nam đi qua tỉnh đảm bảo cung cấp nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất, sinh hoạt.
Nhà máy Thủy điện Sông Ba Hạ có công suất 220 MW với hai tổ máy nối với hệ thống điện Quốc gia hoàn thành vào tháng 11 năm 2009.
Nhà máy Điện Mặt trời Hòa Hội có công suất 257 MWp (tương đương công suất phát 214MW) đưa vào vận hành tháng 6 năm 2019.
Hệ thống cấp nước: Nhà máy cấp thoát nước Phú Yên với công suất 28.500 m3/ngđ, phục vụ cho khu vực Thanh Pho Tuy Hòa, các vùng lân cận và khu công nghiệp Hòa Hiệp. Đồng thời xây dựng mới một số nhà máy cấp nước cho các thị trấn huyện lỵ với công suất khoảng 13.000 m³/ngđ.
Hệ thống thông tin liên lạc: Phú Yên có mạng lưới viễn thông khá tốt. Bưu điện trung tâm Tỉnh, huyện, xã được trang bị: Vi ba, cáp quang... đảm bảo liên lạc thông suốt.
Hệ thống Internet qua đường truyền ADSL cũng là một kênh liên lạc quan trọng hiện nay đối với sự phát triển của toàn tỉnh.
Tổng số bưu cục, đại lý, kiốt trên toàn Tỉnh là 133 đơn vị, tổng số máy điện thoại 14.716 máy; dịch vụ bưu chính cũng phát triển mạnh.
Phú Yên nằm trong vùng ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung, trong các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, Phú Yên là nơi có điều kiện thuận lợi nhất trong việc xây dựng tuyến đường sắt lên Tây Nguyên. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi đưa Phú Yên trở thành đầu mối giao lưu kinh tế Bắc Nam và Đông Tây; cụ thể: Giao thông đường bộ, có mạng lưới giao thông rộng khắp, gồm Quốc lộ 1, Quốc lộ 1D, Quốc lộ 25, Quốc lộ 29 và các tuyển tỉnh lộ nối vùng đồng bằng với vùng miền núi. Có trục giao thông phía Tây nối 03 huyện miền núi Phú Yên với huyện Vân Canh (tỉnh Bình Định) và huyện Ma D'răk (tỉnh Đắk Lắk); có trục giao thông ven biển nằm trong tuyến đường bộ ven biển Việt Nam nối các huyện vùng biển và ven biển; Giao thông đường sắt, có tuyến đường sắt Bắc - Nam đi qua với chiều dài đoạn tuyến là 117 km, có 2 ga chính là Tuy Hòa và Đông Tác, trong tương lai khi tuyến đường sắt lên Tây Nguyên được hình thành mở ra triển vọng hợp tác, giao thương hàng hóa giữa Phú Yên và các tỉnh Tây Nguyên; Hàng không, Phú Yên có sân bay Tuy Hòa cách thành phố Tuy Hòa 5 km về phía Đông Nam, diện tích sân bay: 700ha, hiện đang nâng cấp cảng hàng không Tuy Hòa theo tiêu chuẩn 4C; Cảng Vũng Rô, Vũng Rô là cảng biển nước sâu có thể đón nhận tàu trọng tải 30 nghìn DWT.
Du lịch
Du lịch là một trong những ngành ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong quá trình đi lên của Phú Yên. Mặc dầu có xuất phát điểm thấp, nhưng đến nay du lịch Phú Yên đã vươn lên trở thành một trong những mũi nhọn kinh tế của tỉnh. Với thương hiệu "Xứ sở hoa vàng trên cỏ xanh".
Phú Yên được ban tặng cho một hệ thống cảnh quan thiên nhiên khá đa dạng, đầy đủ với núi, cao nguyên, đồng bằng châu thổ, sông, hồ, đầm, vịnh, hải đảo... Một số danh thắng tiêu biểu là Gành Đá Đĩa, đầm Ô Loan, núi Đá Bia, vịnh Xuân Đài, bãi Môn- mũi Điện, di tích lịch sử cấp quốc gia như vũng Rô, núi Nhạn- sông Đà Rằng,..v.v...
Cơ sở hạ tầng du lịch của Phú yên được đầu tư mạnh.
Phú Yên hiện có 1 khách sạn 5 sao (Cendeluxe), 3 khách sạn 4 sao (Kaya, Sài Gòn- Phú Yên, Long Beach), và nhiều khách sạn khác như Hương Sen, khách sạn Công Đoàn... Cơ sở vui chơi, nghỉ dưỡng thì có khu giải trí - sinh thái Thuận Thảo, Vincom Plaza Tuy Hòa, khu resort Sao Việt, bãi Tràm hideaway...
Năm 2018, tổng lượt khách du lịch đến Phú Yên hơn 1,6 triệu lượt khách, đạt 111% kế hoạch, tăng 14,6% so với năm 2017, trong đó có 41.005 lượt khách quốc tế, tăng 15,5% so với năm 2017.
Nông nghiệp
Chủ yếu là lúa, mía,cây hoa màu với trình độ thâm canh khá.
Với cánh đồng Tuy Hòa, cánh đồng lúa rộng nhất miền Trung, lương thực, đặc biệt là lúa, nhân dân đã tự túc và có phần sản xuất ra các tỉnh lân cận. Sản lượng lúa bình quân hàng năm ước trên 320000 tấn, đáp ứng nhu cầu địa phương và bán ra tỉnh ngoài. Mặc dù không phải là trọng tâm nhưng đây là ngành kinh tế thu hút nhiều lao động của tỉnh, giải quyết công ăn việc làm cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Do khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương và chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa nắng từ tháng 1 đến tháng 8, thích hợp nhiều loại cây lương thực và hoa màu như: lúa, bắp, đậu, rau, dưa, bầu, bí, khoai, sắn, mía,...; phát triển tốt ở Tây Hòa, Tuy An, Phú Hòa. Cây mía trồng nhiều ở Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân, Tuy An, và Tây Hòa. Dừa là loại cây công nghiệp trồng nhiều ở Sông Cầu.
Thủy - hải sản
Phú Yên có diện tích vùng biển trên 6.900 km² với trữ lượng hải sản lớn: trên 500 loài cá, 38 loài tôm, 15 loài mực và nhiều hải sản quý.
Sản lượng khai thác hải sản của Phú Yên năm 2005 đạt 35.432 tấn, tăng bình quân 5%/năm. Trong đó sản lượng cá ngừ đạt 5.040 tấn (thông tin từ Cẩm nang xúc tiến thương mại - du lịch Phú Yên).
Nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành kinh tế mạnh của tỉnh, với tổng diện tích thả nuôi là 2.950ha, sản lượng thu hoạch 3.570 tấn, bên cạnh đó có nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao như sò huyết, cá ngừ đại dương, tôm sú, tôm hùm.
Các địa phương nuôi trồng hải sản tập trung ở khu vực đầm Cù Mông, Vịnh Xuân Đài (Thị xã Sông Cầu), Đầm Ô Loan (Huyện Tuy An),... Đây là những địa phương nuôi trồng có tình chiến lược của tỉnh, thu hút nhiều lao động. Đặc biệt, ngay tại Đầm Cù Mông, việc nuôi trồng và chế biến được thực hiện khá đầy đủ các công đoạn nhờ Khu công nghiệp Đông bắc Sông Cầu nằm ngay tại đó.
Môi trường - Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất
Tài nguyên đất Phú Yên khá đa dạng về nhóm, các loại đất phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau tạo ra những tiểu vùng sinh thái nông – lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây trồng lâu năm vùng đồi núi. Có 8 nhóm đất chính: Nhóm đất đỏ vàng: Là nhóm đất có diện tích lớn nhất. 336.579 ha, chiếm tỷ lệ 66,71%; Nhóm đất cát biển: 15.009 ha chiếm 2,97%. Nhóm đất mặn, phèn: 7.899 ha, chiếm 1,57%. Nhóm đất Phù sa: 55.752 ha, chiếm 11.05%. Nhóm đất xám: 39.552 ha, chiếm 7,84%, Nhóm đất đen: 18.831 ha, chiếm 3,73%.. Nhóm đất vàng đỏ trên núi: 11.300 ha, chiếm 2,5%. Nhóm đất thung lũng dốc tụ: 1.246 ha; Các loại đất khác: 21.192 ha, chiếm tỷ lệ 4,21%.
Sông ngòi - Biển
Sông
Phú Yên có hệ thống sông ngòi phân bổ tương đối đều trên toàn tỉnh, các sông đều bắt nguồn từ phía Đông của dãy Trường Sơn, chảy trên địa hình đồi, núi ở trung và thượng lưu, đồng bằng nhỏ hẹp ở hạ lưu rồi đổ ra biển. Phú Yên có trên 50 con sông lớn nhỏ, đáng chú ý là 3 con sông chính: sông Kỳ Lộ, Sông Ba, Sông Bàn Thạch với với tổng diện tích lưu vực là 16.400 km², tổng lượng dòng chảy 11.8 tỷ m³, phục vụ nước tưới cho nông nghiệp, thủy điện và sinh hoạt của người dân Phú Yên.
Nguồn nước mặt: Mạng lưới sông suối ở Phú Yên phần lớn bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, dãy Cù Mông ở phía Bắc và dãy đèo Cả ở phía Nam. Sông suối của tỉnh thường ngắn, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn. Nguồn nước sông Ba có trữ lượng lớn nhất tỉnh, lượng nước đổ ra biển hàng năm là 9,7 tỷ m³. Nguồn nước sông Bàn Thạch với tổng lượng dòng chảy của sông 0,8 tỷ m3/năm. Sông Kỳ Lộ là con sông lớn thứ 2 trong tỉnh, diện tích lưu vực sông Kỳ Lộ là 1.950 km², trong đó phần trong tỉnh là 1.560 km².
Nguồn nước ngầm: Trữ lượng động tự nhiên khai thác tiềm năng nguồn nước ngầm của tỉnh khoảng 1,2027 x 106m³/ngày.
Nước khoáng: Nguồn tài nguyên nước khoáng ở Phú Yên khá phong phú, trên địa bàn tỉnh có 4 điểm nước khoáng nóng ở Sơn Thành (huyện Tây Hòa), Phước Long ở xã Xuân Long, Triêm Đức (huyện Đồng Xuân) và Phú Sen (huyện Phú Hòa).
Biển
Với bờ biển dài 189 km, có nhiều vịnh, bãi, vũng, đầm phá, gành còn mang vẻ đẹp hoang sơ tạo nên những cảnh quan sinh thái phong phú, đa dạng là tiềm năng rất lớn cho du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, Phú Yên có nhiều vùng bãi triều nước lợ, cửa sông, đầm phá, vịnh rất thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản xuất khẩu. Đây là tiềm năng, lợi thế để Phú Yên phát triển kinh tế biển.
Tài nguyên rừng
Huyện Sơn Hòa có hàng vạn hecta rừng với nhiều gỗ quí như: Bằng Lăng, Chang gà, Côn, Ba thưa, Chò, Gõ, Sơn, Kiền kiền, Lim, Trắc,... cùng nhiều loại thú như: gấu, nai, mang, hươu, cheo, chồn, thỏ, nhím,...; đang là nơi phát triển các giống cây công nghiệp như: cà phê, điều, thuốc lá cùng nhiều loại cây ăn trái (thơm, mít, chuối, cam, bưởi,...).
Toàn tỉnh có 3 kiểu rừng chính là rừng kín lá rộng thường xanh, đây là kiểu rừng phổ biến ở Phú Yên chiếm 96,5% diện tích rừng tự nhiên; rừng rụng lá (khộp), kiểu rừng này chiếm tỷ lệ 3,5% diện tích rừng tự nhiên toàn tỉnh; rừng trồng, hiện có 20.963,0 ha rừng trồng và khoảng 8,4 triệu cây phân tán (tương đương 4.200 ha), gồm các loại cây chủ yếu như keo tai tượng, xà cừ, phi lao, điều, dầu rái, sao đen, gõ đỏ, muồng đen, giáng hương và một số loại khác. Hệ động thực vật rừng Phú Yên khá phong phú có 43 họ chim với 114 loài (trong đó có 7 loài quý hiếm). Thú có 20 họ với 51 loài (trong đó có 21 loài quý hiếm), Bò sát có 3 họ với 22 loài (trong đó có 2 loài quý hiếm).
Phú Yên có nguồn khoáng sản dồi dào, trữ lượng lớn như đá Granite màu, Diatomite, Bauxit, Fluorit, nước khoáng, than bùn vàng sa khoáng.
Thực trạng
Ngày 26-4, thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho biết Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa chỉ đạo Thanh tra Chính phủ kiểm tra, làm rõ các vấn đề báo Tuổi trẻ phản ánh về vấn đề phá rừng phòng hộ ở Phú Yên. Theo đó, hơn 100ha rừng phòng hộ ở Phú Yên đang bị phá để làm sân golf, khách sạn, resort nhưng đến nay vẫn chưa có hồ sơ xin phép Thủ tướng Chính phủ cho chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định. Ngoài ra, Phú Yên còn dành hơn 1.000ha rừng cho 20 dự án đầu tư khác. Phá rừng nhiều nhất là các dự án nuôi bò, thủy điện, trường đua ngựa và nhà máy lọc dầu.
Giáo dục
Phú Yên có hệ thống các trường đại học (Phú Yên, xây dựng số 3) đào tạo 300 SV, Cao đẳng (Công nghiệp) mỗi năm đào tạo khoảng 1200 học viên, 1 chi nhánh học viện ngành tài chính ngân hàng đào tạo trên 300 học viên và các trường và trung tâm đào tạo nghề (mỗi năm đào tạo khoảng 1.400 kỹ thuật viên và trên 800 công nhân có tay nghề cao - từ bậc 3/7 trở lên). Trường Đại học Xây dựng Miền Trung đào tạo Kỹ sư xây dựng và Kiến trúc (mỗi năm đào tạo 1500 học viên).
Các trường
Hệ Đại học:
Đại học Phú Yên
Đại học Xây dựng Miền Trung
Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên
Hệ Cao đẳng:
Trường Cao đẳng Nghề Phú Yên
Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hoà
Trường Cao đẳng Y tế Phú Yên
Giao thông
Biển số xe
Thành phố Tuy Hòa: 78-C1 XXX.XX
Thị xã Sông Cầu: 78-D1 XXX.XX
Thị xã Đông Hòa: 78-G1 XXX.XX
Huyện Tây Hòa: 78-F1 XXX.XX
Huyện Tuy An: 78-H1 XXX.XX
Huyện Phú Hòa: 78-E1 XXX.XX
Huyện Sơn Hòa: 78-L1 XXX.XX
Huyện Đồng Xuân: 78-K1 XXX.XX
Huyện Sông Hinh: 78-M1 XXX.XX
Văn hóa
Dân Phú Yên thường được gọi là dân xứ "nẫu", đó là tiếng nói đặc trưng của họ, tiếng nẫu (nẫu = người ta).
Dân Phú Yên còn có thể loại hát chòi, đó là một thể loại hát dân gian từng rất phổ biến ở Phú Yên.
Phú Yên cũng chính là nơi đã phát hiện ra nhiều di sản văn hoá, như bộ trường ca quý giá của các dân tộc thiểu số, bộ đàn đá Tuy An có độ chuẩn về cung bậc thuộc loại chính xác nhất và những chiếc kèn đá có một không hai.
Lễ hội
Ngoài các lễ hội chung của cả nước, còn có nhiều lễ hội riêng biệt, đặc trưng của vùng, được nhà nước công nhận như là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam:
Lễ hội đánh bài chòi, với các bài hát chòi dân gian, đậm bản sắc văn hóa của Phú Yên.
Lễ hội đầm Ô Loan được tổ chức tại đầm Ô Loan thuộc huyện Tuy An
Lễ đâm trâu của người Ba Na
Lễ bỏ mả của người Êđê
Lễ cúng đất của người Kinh
Lễ hội cầu ngư của người Kinh
Lịch một số lễ hội ở Phú Yên (cấu trúc: Tên lễ hội: thời gian (âm lịch), địa điểm.)
Hội đua thuyền đầm Ô Loan: 07/01, xã An Cư, huyện Tuy An.
Hội Sông nước Đà Nông: 08/01 (âm lịch), phường Hòa Hiệp Nam, Thị xã Đông Hòa.
Hội đua thuyền sông Đà Rằng: 07/01, phường 6, Thành phố Tuy Hòa.
Lễ hội Đồng Cam: 08/01, xã Hòa Hội, huyện Phú Hòa.
Hội đua ngựa: 09/01, xã An Xuân, huyện Tuy An.
Lễ hội chùa Từ Quang: 11/01, xã An Dân, huyện Tuy An.
Hội chùa Ông (của người Hoa): 13/01, phường 1, Thành phố Tuy Hòa.
Hội bài chòi: tết nguyên đán, vùng nông thôn Phú Yên.
Lễ hội Sông nước Tam Giang: tết nguyên đán, thị xã Sông Cầu.
Lễ hội cầu ngư: từ tháng 1 đến tháng 6, khắp các vùng ven biển.
Hội thơ đêm nguyên tiêu: rằm tháng giêng hàng năm, Sân tháp Nhạn, phường 1, tp Tuy Hòa.
Lễ hội đền Lê Thành Phương:28/01, xã An Hiệp, huyện Tuy An.
Lễ hội đền Lương văn Chánh: 19/09, xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa.
Lễ hội cầu an: Tháng 3 và tháng 8, ở khắp các chùa.
Lễ hội bỏ mả: tháng 3 đến tháng 5, huyện: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh.
Lễ hội mừng sức khỏe: tháng 3 đến tháng 5, các huyện Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh.
Lễ hội đâm trâu: từ tháng 2 đến tháng 6: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh.
Lễ hội mừng nhà mới: từ tháng 3 đến tháng 5, các huyện: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh
Lễ hội mừng lúa mới: từ tháng 3 đến tháng 5: các huyện Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh
Ẩm thực ở Phú Yên
Bánh xèo: Cùng với bánh tráng, bánh xèo món ăn truyền thống của người dân ở Phú Yên. Bánh xèo ở Phú Yên được làm từ bột gạo, giá đỗ, thịt băm và tôm hoặc mực; nếu thực khách có yêu cầu thì chủ quán có thể cho trứng vào để tăng thêm hương vị. Khi khuôn đúc nóng, người ta cho mỡ, sau đó là thịt, tôm, giá đỗ và nước bột gạo xay vào, đậy nắp chờ khoảng 1 phút là bánh chín. Bánh đổ xong vừa mềm, vừa nóng, có hương vị của hải sản biển. Người ta ăn bánh xèo với rau sống bao gồm xà lách, giá đỗ và nhiều loại rau thơm khác. Nước chấm gồm có hai loại, người địa phương gọi là mắm đục và mắm trong. Mắm đục gần giống như mắm niêm, cho thêm gia vị và ớt. Mắm trong là nước mắm bình thường có thêm ớt tỏi,... Công thức pha nước mắm cũng là một bí quyết của các quán ăn ở đây vì nó ảnh hưởng rất nhiều đến hương vị của món ăn. Bánh xèo có thể ăn bằng đĩa hoặc dùng bánh tráng cuốn lại chấm với nước mắm sẽ rất ngon. Ở Phú Yên đặc biệt là tại Thành phố Tuy Hòa, du khách có thể thưởng thức bánh xèo ở nhiều nơi, từ gánh hàng rong của các chị cho đến những địa điểm có danh tiếng bánh xèo ngon lâu năm tại khu Đại nam cũ trên đường Nguyễn Công Trứ.
Bánh canh: Bánh canh là một món ăn bình dân ở Phú Yên, tuy vậy chủng loại bánh canh ở Phú Yên rất phong phú như: bánh canh bột gạo, bánh canh bột lọc, bánh canh chả cá, bánh canh hẹ,... chỉ cần đi lòng vòng 10 phút cũng có thể đếm được tới 4-5 quán bán bánh canh bên vỉa hè, nhiều nhất là xung quanh bưu điện thành phố Tuy Hòa. Mỗi món bánh canh là một loại hương vị khác nhau, không quán nào giống quán nào. Bánh canh có thể được nấu với các vị cá dằm, chả cá là phổ biến, đặc biệt người ta dùng lá hẹ như một loại phụ gia đặc biệt thêm vào bánh canh để tăng thêm mùi vị.
Bánh hỏi, bánh ướt: Đây là hai món bánh khá quen thuộc của người dân Việt Nam, cách chế miến hai món ăn này ở Phú Yên không khác lắm so với nhiều vùng khác trên cả nước.
Bánh bèo nóng: Bánh được làm chín xông để nóng trong nồi hơi nước nóng. Nếu thực thách đến ăn thì bánh sẽ dùng với chà bông, bánh mì vụn chung rồi sau đó chan nước mắm có ớt, tỏi.
Bánh ướt ở Phú Yên có cách tráng mỏng tương tự như cách tráng bánh cuốn nóng ở miền Bắc. Bánh ướt thường được phục vụ nóng ngay tại chỗ. Ngoài ra còn có bánh bèo nóng, ăn khi bánh vừa xuống lò. Bánh được hấp cách thủy trong chén nhỏ và được phục vụ tại chỗ. Các loại bánh trên thường được rải chà bông tôm (hay ruốc tôm theo cách gọi người miền Bắc), phục vụ cùng nước mắm ớt pha ngọt và nếu có yêu cầu có thêm lòng lợn đi kèm và cháo lòng.
Bánh ít lá gai: Cũng là một nét văn hóa ẩm thực độc đáo ở Phú Yên vào những ngày giỗ tổ tiên. nhân bánh được làm từ nhiều thứ như: đậu phộng và dừa; đậu xanh; đậu đen...Bánh này được bọc bằng lá gai và khi cho ra lò có màu xanh thẫm và tương tự như bánh gai của miền Bắc. Nhưng người Phú Yên không cho một miếng mỡ vào nhân bánh như bánh gai và bánh ít còn được làm với nhiều loại nhân chứ không chỉ là nhân đậu xanh.
Chả dông: là món chả ram (chả giò) nhưng nguyên liệu làm từ thịt của con dông nên gọi là chả dông. Thịt dông được băm nhuyễn trộn với xã và ớt dùng làm nguyên liệu. Dùng chả dông được ăn với rau sống nước mắm tỏi ớt trộn đâu phụng đăm nhuyễn rất ngon. Món chả dông làm nên dánh tiếng của các cửa hàng ăn trên đường Nguyễn Công Trứ khu Đại Nam cũ ở Thành phố Tuy Hòa. Ở đây thực khách có thể gọi một phần chả dông có thêm nem nướng được phục vụ cùng rau sống và bánh tránh để cuốn ăn kèm.
Các món ăn từ Cá ngừ đại dương(Cá bò gù): Phú Yên là nơi khởi phát nghề câu cá ngừ đại dương từ những đầu của thập kỷ 90 vì vậy các món đặc sản từ cá ngừ ở đây mang những nét rất riêng đặc trưng cho con người miền biển.
- Trong đó có thể kể đến các món:
+ Cá ngừ cắt lát ăn với mù tạt. Món ngày được chế biến từ các lát cá ngừ sống cắt nhở đường kính 4, 5 cm sau khi được đông lạnh để sắc cá chuyển từ đỏ sang hồng sẽ được dọn ra ăn kèm với các loại rau thường thấy là: cải xanh, ngò tàu, ngổ, é quế, é ta, húng dũi, húng đứng...và cùng món nước chấm đặc biệt được pha bởi xì dầu, mù tạt và tương ớt. Thực khách có thể ăn lát cá với nước chấm kể trên hoặc cuộn lát cá với cải ăn cùng nước chấm.
+ Mắt cá ngừ chưng cách thủy:(món "đèn biển") Cách chế biến: Mắt cá mua về rửa sạch. Chú ý cát lẫn vào mắt. Ướp các loại gia vị như hành, tiêu, ớt, tỏi, muối, bột ngọt... để cho thấm đều khoảng 15 - 20 phút thì cho vào nồi đất chưng cách thủy độ nửa giờ thì ăn được. Khi chưng cho thêm mấy vị thuốc bắc để khử mùi tanh và tăng chất bổ dưỡng. Ăn món này thường kèm với các loại rau thơm và kèm một vài ly rượu mạnh thì càng hợp khẩu...
+ Gỏi bao tử cá ngừ: Đây là món hiếm, ít được bày bán ở hàng quán, bởi ngư dân đánh bắt cá ngừ thường dùng món này trong lúc họ còn lênh đênh trên biển hoặc về "lưu hành nội bộ". Chỉ cần rửa sạch bao tử rồi bỏ vào nước lã luộc chín, sau đó rửa lại nước lạnh cho giòn, xắt thành miếng vừa ăn ướp với hành tây, tiêu, ớt, muối đường, mì chính... trộn đều là có món gỏi bao tử cá ngừ.
+ Cháo đầu cá: Đầu cá mua về rửa sạch, xẻ làm tư rồi cho vào nồi nấu cháo như các loại cá khác. Sau những lúc chén tạc, chén thù với bạn bè mà có được chén cháo đầu cá ngừ đang bốc hơi thì không mấy chốc hơi men sẽ thoát ra khỏi người và có được giấc ngủ sâu, khi dậy cảm thấy người vô cùng khoan khoái...
+ Ức cá ngừ: Ức cá ngừ sau khi tẩm ướt được hấp, kho và thậm chí xào và có mùi vị như thịt bò hoặc thịt lợn nếu có nhiều mỡ cá.
Các truyền thuyết, huyền thoại
Phú Yên có rất nhiều câu chuyện truyền thuyết và huyền thoại gắn liền với lịch sử hơn 400 năm của minh.
Một số truyện tiêu biểu:
Chiếc bánh nậm của Nữ Nhi Phù Quốc - nói về tấm lòng nhân hậu của người phụ nữ nông thôn Phú Yên
Gành Đá Đĩa và huyền thoại về kho báu biến thành đá
Truyền thuyết về con lươn ở buôn Đức
Du lịch
Phú Yên được biết đến là một vùng đất hoang sơ, xinh đẹp với nhiều bãi biển, đầm vũng, di tích lịch sử văn hoá như Núi Nhạn, Núi Đá Bia,Vũng Rô, Bãi Môn - Mũi Điện, Đầm Ô Loan,Gành Đá Đĩa, Nhà thờ Mằng Lăng, Vịnh Xuân Đài, Đập Đồng Cam. Ngoài ra Phú Yên còn rất nhiều danh thắng khác như Bãi Xép, biển Vịnh Hoà, đồi cát Từ Nham, hòn Nưa, hòn Chùa, Nhất Tự Sơn, bãi Bàu, hòn Yến, Gành Đèn, thác Cây Đu, thác H’Ly, Cao nguyên Vân Hòa... Sự kiện bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đã tạo động lực cho du lịch Phú Yên phát triển mạnh mẽ và đang trở thành điểm dừng chân đầy thú vị trên bản đồ du lịch Việt Nam.
Hiện tại Tp. Tuy Hoà và Tx. Sông Cầu có nhiều nhà hàng, khách sạn, Resort tiêu chuẩn du lịch phục vụ du khách.
Năm 2019, Phú Yên đón gần 1,8 triệu lượt khách tham quan.
Hình ảnh |
Oánh Sơn Thiệu Cẩn (zh. 瑩山紹瑾, ja. keizan jōkin), 1268-1325, là một vị Thiền sư Nhật Bản, Tổ thứ tư của tông Tào Động (ja. sōtō) sau Đạo Nguyên Hi Huyền (ja. dōgen kigen). Sư nối pháp Thiền sư Triệt Thông Nghĩa Giới (ja. tettsū gikai, 1219-1309), thành lập Tổng Trì tự (ja. sōji-ji), một trong hai ngôi chùa quan trọng nhất của dòng Tào Động song song với Vĩnh Bình tự (eihei-ji). Sư viết sách Truyền quang lục (zh. 傳光錄, ja. denkōroku), một tác phẩm được tất cả các dòng thiền Nhật Bản ưa chuộng và sử dụng cho đến ngày nay. Sư được các đệ tử trong tông môn Tào Động cung kính gọi là Đại Tổ (zh. 大祖, ja. daiso), Đạo Nguyên được gọi là Cao Tổ (zh. 高祖, ja. kōso).
Cơ duyên
Sư quê tại Echizen, sớm được bà mẹ sùng tín gửi đến Vĩnh Bình tự để tu học. Sư thụ giới lần đầu (1280) nơi Thiền sư Cô Vân Hoài Trang (zh. 孤雲懷奘, ja. koun ejō, 1198-1280) - vị Tổ thứ hai của tông Tào Động. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Hoài Trang quy tịch và Sư lưu lại tu học với Thiền sư Nghĩa Giới đến năm 17 tuổi. Sau đó, Sư bắt đầu một cuộc hành cước kéo dài bốn năm (1285-1288), thu thập kiến thức cho cuộc đời hoằng hoá vinh quang của mình. Sư yết kiến nhiều vị cao tăng của nhiều tông phái khác nhau, tu tập Thiền theo Thiền sư Tịch Viên (zh. 寂圓, ja. jakuen, 1207-1299, bạn đồng học với Đạo Nguyên nơi Thiên Đồng Như Tịnh) tại Bảo Khánh tự (zh. 寶慶寺, ja. hōkyō-ji). Tại Kinh Đô (kyōto), Sư tu tập Thiền theo tông Lâm Tế dưới sự hướng dẫn của hai vị Đông Sơn Trạm Chiếu (zh. 東山湛照, ja. tōzan tanshō, 1231-1291) và Bạch Vân Huệ Hiểu (zh. 白雲慧曉, ja. hakuun egyō, 1228-1297), cả hai đều là môn đệ của Viên Nhĩ Biện Viên (zh. 圓爾辨圓, ja. enni ben' nen, 1202-1280). Một cuộc viếng thăm núi Tỉ Duệ (ja. hieizan) được Sư sử dụng để nghiên cứu giáo lý của Thiên Thai tông (zh. 天台宗, ja. tendai-shū). Sư cũng đến tham vấn Thiền sư Tâm Địa Giác Tâm (zh. 心地覺心, ja. shinchi kakushin, 1207-1298) - người đã đem tập công án quan trọng Vô môn quan sang Nhật.
Khi trở về học với Nghĩa Giới - lúc bấy giờ trụ trì chùa Đại Thừa (ja. daijō-ji) - Sư đại ngộ (1294) khi Nghĩa Giới trao cho môn đệ công án thứ 17 của Vô môn quan để tham cứu. Trong cuộc vấn đáp trong công án này, Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện trả lời sư Triệu Châu Tòng Thẩm "Tâm bình thường là Đạo" (bình thường tâm thị đạo). Khi Sư suy nghĩ trình Nghĩa Giới 'Bình thường tâm', Nghĩa Giới liền đánh ngay vào miệng Sư. Ngay lúc này, mắt tâm Sư liền mở sáng. Không bao lâu sau, Nghĩa Giới phó chúc Sư là người nối dõi tông đường và từ đây, Sư bắt đầu cuộc đời giáo hoá của mình.
Sự nghiệp hoằng pháp
Sau khi thừa kế Nghĩa Giới trụ trì chùa Đại Thừa (1303), học chúng từ khắp nơi đến tham học và ngôi chùa này trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng của các miền Đông bắc Nhật Bản. Nơi đây, Sư hoàn tất hai tác phẩm quan trọng của mình là Truyền quang lục và Toạ thiền dụng tâm ký (zh. 坐禪用心記, ja. zazenyōjinki). Trong Toạ thiền dụng tâm ký, Sư khuyên mọi người chú tâm đến việc Toạ thiền (ja. zazen) và đặc biệt nhấn mạnh sự quan trọng của tư tưởng người đang toạ thiền. Tập này bắt đầu bằng những câu:
"Toạ thiền giúp con người khai sáng tâm lực và an trụ nơi cội nguồn. Đó chính là sự thấy rõ Bản lai diện mục, là sự phát minh tâm địa. Thân tâm đều biến mất, không còn vướng mắc vào những hành động như ngồi, nằm. Vì thế nên hành giả không nên nghĩ thiện, ác, vượt hẳn ngôn ngữ như phàm, thánh, vô minh, giác ngộ, rời bỏ cõi của chúng sinh và Phật."
Dựa trên các giáo lý nền tảng, Sư hướng dẫn rất tỉ mỉ về việc thực hành toạ thiền:
"Các buổi lễ long trọng và những ngôi chùa vĩ đại thờ Phật đều rất có ý nghĩa, nhưng nếu ai muốn toạ thiền rốt ráo, người ấy không được tham gia tổ chức các lễ này... Không nên toạ thiền ở nơi nào quá sáng hoặc quá tối, quá nóng hoặc quá lạnh, cũng không nên toạ thiền gần những người say đắm vào việc vui chơi hoặc kĩ nữ! Thiền đường, bên cạnh một vị thầy uy tín, cao vút trên núi hoặc tận sâu dưới thung lũng là những nơi thích hợp. Bên cạnh suối xanh, trên đỉnh núi cao là những nơi thuận tiện để kinh hành... Hành giả không được quên việc quán tất cả các pháp đều vô thường vì việc ấy giúp trau dồi tâm kiên cường... Lúc nào cũng giữ lòng từ bi và chuyển tất cả những phúc đức thu thập được đến tất cả chúng sinh! Không được phát tâm kiêu mạn, không được khinh thường Phật pháp! Những phong cách này chính là phong cách của phàm phu, ngoại đạo. Nếu lúc nào cũng chú tâm đến lời nguyện đoạn tất cả phiền não để đạt Giác ngộ thì phải toạ thiền và vô tác (không làm). Đây là quy luật quan trọng của việc toạ thiền."
Một trong những thành công lớn của Sư là việc thành lập hai ngôi chùa lớn của tông Tào Động, đó là Vĩnh Quang tự (ja. yōkō-ji) và Tổng Trì tự (ja. sōji-ji, 1322). Hậu Đề Hồ (ja. go-daigo) Thiên hoàng nâng cấp Tổng Trì tự ngang hàng với Vĩnh Bình tự (ja. eihei-ji) và gọi là Đại bản sơn (ja. daihonzan) của tông Tào Động.
Trong khoảng thời gian cuối đời, Sư lui về Vĩnh Quang tự và giao phó việc quản lý chùa Tổng Trì cho vị đại đệ tử là Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki, 1275-1365). Trước khi tịch, Sư còn soạn tập Oánh Sơn thanh quy (zh. 瑩山清規, ja. keizan shingi). Hài cốt của Sư được chia ra và thờ cúng tại bốn ngôi chùa: Đại Thừa, Vĩnh Quang, Tổng Trì và Tịnh Trụ (淨住寺, ja. jōjū-ji). |
Thật Phong Lương Tú (zh. 實峰良秀, ja. jippō ryōshū), 1318-1405, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (zh. 峨山韶碩, ja. gasan jōseki, 1275-1365). Sư là một người rất tài năng uyên bác. Tương truyền rằng, khi nhìn thấy Thập mục ngưu đồ, Sư phát tâm quyết chí tu học thiền. Sư lưu lại nơi Nga Sơn hơn mười năm giữ chức thị giả. Sư có công khai sáng Vĩnh Trường tự (ja. eishō-ji) tại Bitchū. Môn đệ của Sư hoằng hoá khắp nước Nhật. |
Thông Huyễn Tịch Linh (zh. 通幻寂靈, ja. tsūgen jakurei) 1322-1391, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (zh. 峨山韶碩, ja. gasan jōseki, 1275-1365). Trong năm vị đại đệ tử này thì Sư là thượng thủ. Lúc còn nhỏ Sư đã đọc kinh và năm lên 17, Sư xuất gia cầu đạo. Ban đầu, Sư đến học với Thiền sư Minh Phong Tố Triết (1277-1350) tại chùa Đại Thừa (ja. daijō-ji). Nơi đây, Sư tu tập không kể ngày đêm và vì vậy được tăng chúng cũng như dân dã xung quanh tôn kính. Sau hơn mười năm tu tập với Minh Phong, Sư chuyển sang Tổng Trì tự (ja. sōji-ji) tu học với Thiền sư Nga Sơn và ngay tại đây, Sư triệt ngộ và được Nga Sơn ấn khả.
Song song với bạn đồng học Thái Nguyên Tông Chân (zh. 太源宗真, ja. taigen sōshin, ?-1370), Sư rất thành công trong việc truyền bá dòng thiền Tào Động. Sư khai sáng và trụ trì nhiều thiền viện lớn và nhiều thiền sinh đến tham học dưới sự hướng dẫn của Sư—khắt khe nhưng nhiệt tình. Trong số các vị đệ tử thì Liễu Am Huệ Minh (zh. 了菴慧明, ja. ryōan emyō) trội hơn hết. Liễu Am lần lượt trụ trì Tổng Trì tự, Vĩnh Trác tự (ja. yōtaku-ji) và sau khai sáng Tối Thừa tự (ja. saijō-ji) tại Sagami. |
Tịch Thất Nguyên Quang (zh. 寂室元光, ja. jakushitsu genkō), 1290-1367, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, sau Thiền sư Lan Khê Đạo Long (zh. 蘭溪道隆) hai đời.
Cơ duyên
Sư xuất gia năm 12 tuổi, thụ giới cụ túc năm 15 tuổi và sau đó tham học với Thiền sư Ước Ông Đức Kiệm (zh. 約翁德儉, ja. yakuō tokken, 1244-1320), một môn đệ đắc pháp của Thiền sư Lan Khê Đạo Long. Một hôm, Sư thỉnh Ước Ông nói lời cuối (mạt ngữ 末語, ja. matsugo). Ước Ông không nói gì, chỉ dùng tay tát Sư một cái. Sư nhân đây đại ngộ, vào năm 18 tuổi.
Nghe lời khuyên của thầy, Sư yết kiến nhiều vị Thiền sư khác và đặc biệt là Sư thường tham học với các vị Thiền sư Trung Quốc giáo hoá tại Nhật, trong đó có Nhất Sơn Nhất Ninh (zh. 一山一寧). Nơi Nhất Sơn, Sư lưu lại hai năm để học cách làm thơ (thi pháp học) và chính vì vậy, các bài thơ, kệ tụng của Sư được đánh giá rất cao, nếu không nói là nổi danh nhất của thời đại này.
Sau, Sư đến Trung Quốc học hỏi nơi Thiền sư Trung Phong Minh Bản (zh. 中峰明本) và nhiều vị khác. Cuộc du học này kéo dài sáu năm và sau khi trở về Nhật, Sư tiếp tục cuộc đời du tăng của mình, 25 năm liền không trụ trì chùa nào. Năm 1361, Sư nhận lời thỉnh cầu, khai sơn trụ trì chùa Vĩnh Nguyên (ja. eigen-ji). Nhiều ngôi chùa lớn tại Kinh Đô (kyōto) và Liêm Thương (kamakura) thỉnh Sư về trụ trì nhưng Sư đều từ chối.
Đặc điểm
Lối sống đơn giản, cơ hàn không phụ thuộc, bác bỏ coi thường những nghi lễ long trọng, những ngôi chùa to lớn, từ chối những chức vụ cao quý, đó chính là những đức tính làm cho Sư nổi bật lên trong những vị Thiền sư thời bấy giờ. Mặc dù tên của Sư không nổi tiếng bằng những vị khác đồng thời, nhưng những phong cách cao quý trên nêu rõ tinh thần Thiền thuần tuý của Sư.
Sư viên tịch năm 1367. |
Tiên Nhai Nghĩa Phạm (zh. 仙崖義梵, ja. sengai gibon), 1751-1837, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế (ja. rinzai-shū), hệ phái Diệu Tâm tự (ja. myōshin-ji). Sư nối pháp Thiền sư Nguyệt Thuyền Thiền Huệ (zh. 月船禪慧, ja. gessen zenne, 1702-1781).
Sư xuất gia năm 11 tuổi và Hành cước năm lên 19. Sau khi yết kiến Nguyệt Thuyền, Sư lưu lại tu học nơi đây và được Nguyệt Thuyền ấn khả. Sau đó Sư lại cất bước du phương, nhận lời trụ trì chùa Thánh Phúc (ja. shōfuku-ji), Thiền viện đầu tiên tại Nhật - được Thiền sư Minh Am Vinh Tây khai sáng năm 1195 - và trở thành vị trụ trì thứ 123 của thiền viện này.
Sư nổi danh vì phương pháp giáo hoá nghiêm khắc nhưng vô cùng hiệu nghiệm, những đặc tính được phản ánh lại trong những tác phẩm nghệ thuật thiền như Mặc tích và những bức tranh mực tàu của Sư—hiện rất được ưa chuộng trong giới hâm mộ Thiền trên khắp hoàn cầu. |
Trạch Am Tông Bành (zh. 澤庵宗彭, ja. takuan sōhō), 1573-1645, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, dòng Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō). Sư không những là một vị Thiền sư lỗi lạc, tinh thông kinh điển mà còn là một nghệ sĩ trứ danh, một thi hào với những tác phẩm còn được nhắc đến ngày nay.
Sư sinh ra trong một gia đình mộ đạo, sớm xuất gia tu học với nhiều vị Thiền sư nổi danh lúc bấy giờ như Hi Tiên Tây Đường (zh. 希先西堂, ja. kisen seidō), Đổng Phủ Tông Trọng (zh. 董甫宗仲, ja. tōho sōchū). Sau, Sư đến học với Thiền sư Nhất Đống Thiệu Đích (zh. 一凍紹滴, ja. ittō shōteki, 1539-1612) và ngộ đạo nơi đây.
Song song với việc tu tập Thiền, Sư cũng chú tâm đến việc nghiên cứu các môn học thuộc ngoại điển như Nho giáo, Thư đạo (zh. 書道, ja. shōdō), thi pháp… Đặc biệt là những bài dạy cho những vị kiếm sĩ theo Kiếm đạo (zh. 道劍, ja. kendō) đương thời của Sư thường được nhắc nhở đến, nổi danh nhất là tác phẩm Bất động trí thần diệu lục (zh. 不動智神妙錄, ja. fudōchishinmyōroku). Trong những bài khuyên này, Sư phân tích tư tưởng, tâm trạng của một kiếm sĩ theo quan niệm của Thiền tông. |
Triệt Ông Nghĩa Đình (zh. 徹翁義亭, ja. tettō gikō), 1295-1369, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế hệ phái Đại Đức tự (ja. daitokuji-ha), môn đệ của Thiền sư Tông Phong Diệu Siêu (ja. shūhō myōchō).
Sư quê ở Izumo, ban đầu tu tập tại Kiến Nhân tự (ja. kennin-ji). Sau, vì không hài lòng với phong cách của Ngũ Sơn (ja. gozan) tại đây, Sư đến tham học với Thiền sư Tông Phong và được Ấn khả. Sư giáo hoá rất thành công tại chùa Đại Đức (ja. daitoku-ji). Nối pháp của Sư và là người kế thừa trụ trì Đại Đức tự là Thiền sư Ngôn Ngoại Tông Trung (zh. 言外宗忠, ja. gongai sōchū, 1315-1390) và một thế hệ sau đó là Thiền sư Hoa Tẩu Tông Đàm (zh. 花叟宗曇, ja. kesō sōdon, 1352-1428). |
Trung Phong Minh Bản (zh. zhōngfēng míngběn/ chung-feng ming-pen 中峰明本, ja. chūhō myōhon), 1263-1323 là một vị Thiền sư Trung Quốc, thuộc dòng Hổ Khâu, phái Dương Kỳ phái, đời thứ 19 Tông Lâm Tế. Sư là đệ tử nối pháp vượt trội nhất của Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu, và có các pháp tử như Thiên Như Duy Tắc, Thiên Nham Nguyên Trường...
Cuộc đời hoằng hóa của sư đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Tông Lâm Tế tại Trung Quốc thông qua việc tích cực truyền bá phương pháp Thiền thoại đầu, cũng như truyền bá tông này sang Nhật dưới thời nhà Nguyên. Bên cạnh đó, sư cũng nổi bật với tư tưởng Thiền - tịnh song tu và Tam giáo nhất nguyên.
Cơ duyên ngộ đạo
Sư họ Tôn, quê ở Tiền Đường, Hàng Châu, Tỉnh Triết Giang. Lúc còn nhỏ đã có chí hướng tu Phật, vào năm 9 tuổi thì mẹ mất. Năm 15 tuổi, sư có ý muốn xuất gia. Một hôm sư xem quyển Truyền Đăng Lục, đến công án Am-ma-la nữ hỏi Bồ tát Văn Thù: "Đã biết rõ sinh là lý bất sinh, tại sao lại bị sinh tử lưu chuyển?" bèn khởi nghi tình rất sâu.
Sau, sư đến tham học với Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu ở ngọn Sư Tử Nham (獅子巖) trên núi Tây Thiên Mục. Thiền sư Cao Phong bình thường rất nghiêm khắc, khi nói chuyện ngài thường không để lộ biểu cảm nhưng khi thấy sư, ngài Cao Phong tỏ vẻ rất vui và cho sư xuống tóc xuất gia liền.
Một hôm sư đọc Kinh Kim Cang đến câu "Gánh vác việc Như-lai" liền có chổ thâm nhập. Sau đó, lúc đi dạo nhân nhìn thấy suối nước đang chảy mà tỏ ngộ, liền đến gặp ngài Cao Phong cầu ấn chứng, nhưng bị Cao Phong đánh một gậy, đuổi ra ngoài. Về sau, triều đình tuyển mộ thanh niên nam nữ, sư hỏi Thiền sư Cao Phong: "Nếu có người đến hỏi hòa thượng bắt thanh niên nam nữ thì thầy sẽ chọn ai?" Ngài đáp: " Ta cứ đưa cây trúc bề (thiền bản) cho họ". Sư nghe câu này xong liền triệt ngộ và được Thiền sư Cao Phong ấn khả.
Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu trao cho sư bức họa chân dung của mình và nói kệ phó chúc truyền pháp:Ngã tướng bất tư nghì
Phật, Tổ chẳng thể biết
Chỉ hứa thằng du côn
Được thấy nửa bên mũi
Có người hỏi Thiền sư Cao Phong: "Trong các đệ tử của Ngài, ai hơn, ai kém?". Ngài đáp: "Thủ-tọa Nghĩa giống như là cây trúc già, nhưng vẫn còn bảy tám đốt cong. Chỉ Duy-na Bản (Minh Bản) mới thật là cây tre xuất sắc trong rừng tre. Sau này thành đạt không thể đếm được".
Hoằng pháp
Sau khi được ấn khả, sư không định cư, trụ trì tại bất kỳ một ngôi chùa nào nhất định mà lúc thì sống ở trên thuyền, có khi trong túp lều tranh đơn sơ và tự xưng là Huyễn Trú Lão Nhân, nơi am tranh đặt bảng là Huyễn Trụ am. Từng có rất nhiều vị tăng đến tham vấn và ngưỡng mộ gọi sư là Cổ Phật Giang Nam..
Sư được rất nhiều người đương thời tôn kính vì phong cách đơn giản, tu tập thiền thuần tuý của mình. Vua Nguyên Nhân Tông kính mến và mời sư vào cung thuyết pháp nhưng sư từ chối nên vua ban y ca sa tơ vàng và phong danh hiệu Phật Từ Viên Chiếu Quảng Huệ Thiền sư. Đến đời vua Nguyên Anh Tông cũng quy y theo sư.
Nhiều vị Thiền sư Nhật đã đến nơi sư tham học và trong số này trội hơn hết là Cổ Tiên Ấn Nguyên (zh. 古先印元, ja. kosen ingen, 1295-1374) và Cô Phong Giác Minh (zh. 孤峰覺明, ja. kohō kakumyō, 1271-1361). Và những vị này khi trở lại Nhật hoằng pháp cũng giữ phong cách giản dị như sư, lập am tranh đơn sơ để ẩn cư và không trú trì nhất định tại bất kỳ ngôi chùa nào.
Vào ngày 14 tháng 8 năm thứ 3 niên hiệu Chí Trị (至治), sư nói kệ từ biệt đại chúng rồi an nhiên tọa Thiền thị tịch, hưởng thọ 61 tuổi, chúng đệ tử xây tháp thờ nhục thân ở núi Thiên Mục. Vua Nguyên Văn Tông sắc phong thụy hiệu là Trí Giác Thiền Sư, đến đời vua Nguyên Thuận Tông ban thêm thụy hiệu là Phổ Ứng Quốc Sư. Bài kệ thị tịch của sư:Ta có một câu
Phó chúc Đại-chúng
Lại hỏi thế nào
Vốn chẳng căn cứ.Tác phẩm của sư lưu truyền trong đời rất nhiều, ví dụ như Trung Phong Quảng Lục (3 quyển), Huyễn Trú Am Thanh Quy (1 quyển), Nhất Hoa Ngũ Diệp (5 quyển)... Trong đó quyển Trung Phong Pháp Ngữ và Tín Tâm Minh Tịch Giải Nghĩa của sư đã được sư Thích Duy Lực dịch Việt.
Pháp ngữ
Sư thường dạy chúng rằng: "Nay người tham-thiền không được linh nghiệm là vì: 1. Không có chí khí chân thực như người xưa; 2. Không lấy sinh tử vô thường cho là việc lớn; 3. Tập khí từ nhiều kiếp đã không buông xuống được, lại không giữ được quyết tâm bền vững, không lui sụt. Bệnh tại sao? Đó chỉ vì không nhận biết được căn bản của sinh tử." |
Tuyết Thôn Hữu Mai (zh. 雪村有梅, ja. sesson yūbai), 1288-1346, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế. Ban đầu, Sư thụ giáo nơi Thiền sư Nhất Sơn Nhất Ninh tại thiền viện Kiến Trường (ja. kenchō-ji) ở Liêm Thương (ja. kamakura). Năm 1307, Sư cất bước sang Trung Quốc tu học nhưng không may, bị nghi là gián điệp và phải ngồi tù 10 năm liền. Sau khi được thả, Sư chu du đây đó, tham vấn nhiều vị Thiền sư danh tiếng bấy giờ. Năm 1328, Sư trở về Nhật và theo lời thỉnh cầu của vị tướng quân (shōgun) Túc Lợi Tôn Thị (Ashikaga Takauji) trụ trì chùa Vạn Thọ (ja. manju-ji). Năm 1345, Sư được cử trụ trì chùa Kiến Nhân (ja. kennin-ji). Cùng với Nhất Sơn Nhất Ninh, Sư được xem là người khai sáng phong trào Ngũ Sơn văn học (ja. gosan bungaku) tại Nhật.
Chú thích |
Vô Đoan Tổ Hoàn (zh. 無端祖環, ja. mutan sokan), ?-1387, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki, 1275-1365).
Sư khai sáng rất nhiều Thiền viện ở các tỉnh Echizen, Noto và Iwami. Môn đệ của Sư sau truyền bá tông Tào Động tại miền Bắc Nhật Bản. |
Vô Học Tổ Nguyên (zh. wúxué zǔyuán 無學祖元, ja. mugaku sogen), 1226-1286, là một vị Thiền sư Trung Quốc, thuộc tông Lâm Tế, đắc pháp nơi Thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm ở Kính Sơn. Năm 1279, sư được mời sang Nhật giáo hoá và nối dõi Thiền sư Lan Khê Đạo Long trụ trì chùa Kiến Trường (ja. kenchō-ji). Sau, sư thành lập chùa Viên Giác (ja. engaku-ji). Cả hai chùa đều được xếp vào Ngũ sơn của Liêm Thương (kamakura), trung tâm của Thiền tông tại Nhật. |
Vô Trụ Đạo Hiểu (zh. 無住道曉, ja. mujū dōkyō), 1226-1313; còn được gọi là Nhất Viên (ja. ichien), là một vị Thiền sư Nhật Bản dòng Lâm Tế, môn đệ của Thiền sư Viên Nhĩ Biện Viên. Sư diêu du khắp nước Nhật và tham vấn nhiều Thiền sư. Sư có một tác phẩm rất hay, được gọi là Sa thạch tập (zh. 沙石集, ja. shasekishū, được dịch ra Việt ngữ với tên Góp nhặt cát đá). Tác phẩm này là một bản sưu tầm những ngụ ngôn, lời dạy của các chư Phật, Tổ và những Thiền sư, rất được ưa chuộng trong giới thiền. |
Đại Triệt Tông Linh (zh. 大徹宗令, ja. daisetsu sōrei), 1333-1408, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki, 1275-1365).
Sư khai sáng nhiều Thiền viện như Diệu Ứng Giáo tự (ja. myō' ōkyō-ji) tại Mino, Lập Xuyên tự (ja. rissen-ji) tại Etchū. |
Đại Vân Tổ Nhạc Nguyên Điền (zh. 大雲祖嶽原田, ja. daiun sōgaku harada), 1870-1961, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, một trong những Thiền sư quan trọng nhất của Nhật Bản hiện đại.
Sư vào chùa tu học năm lên bảy và ban đầu tu tập theo tông Tào Động. Sau, Sư đến tu tập tại một Thiền viện khác theo quy tắc của tông Lâm Tế. Năm lên 40, Sư được cử làm thị giả cho Độc Trạm Lão sư (ja. dokutan rōshi), vị trụ trì Nam Thiền tự (ja. nanzen-ji) và cũng là một trong những vị Thiền sư danh tiếng nhất thời đó.
Sau khi được Độc Trạm ấn khả, Sư được mời đến trụ trì Pháp Tâm tự (ja. hosshin-ji) tại tỉnh Obama và dưới sự quản lý của Sư, Thiền viện này trở thành một trung tâm tu học quan trọng của Thiền tông tại Nhật.
Các bài thuyết pháp của Sư cho những người mới nhập môn tu học thiền đạo được môn đệ chính của Sư là Bạch Vân An Cốc (ja. hakuun yasutani) phổ biến rộng rãi tại phương Tây. |
Minh Phong Tố Triết (zh. 明峰素哲, ja. meihō sotetsu) (1277-1350), đạo hiệu Diệu Phong, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, nối pháp Thiền sư Oánh Sơn Thiệu Cẩn (ja. keizan jōkin) và là bạn đồng học của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki). |
Mộc Am Tính Thao (zh. mùān xìngtāo 木菴性瑫, ja. mokuan shōtō), 1611-1684, là một vị Thiền sư Trung Quốc, thuộc tông Hoàng Bá (ja. ōbaku-shū). Sư nối pháp Thiền sư Ẩn Nguyên Long Kì, và cùng với thầy sang Nhật giáo hoá.
Tại Nhật, Ẩn Nguyên khai sáng tông Hoàng Bá và cử sư làm vị Tổ thứ hai (1664). Sư thành lập Thuỵ Thánh tự (ja. zuishō-ji) tại Đông Kinh (tōkyō), góp công rất nhiều trong việc truyền bá tông này tại Nhật. |
Mộng Song Sơ Thạch (zh. 夢窗疏石, ja. musō soseki), 1275-1351, là một vị Thiền sư Nhật Bản danh tiếng thuộc tông Lâm Tế. Sư là người rất có công trong việc truyền bá tông phong Lâm Tế tại Nhật, sau được Nhật hoàng phong danh hiệu Quốc sư.
Sư sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc, mất mẹ năm bốn tuổi. Vừa lên tám, Sư đã xuất gia và ban đầu chuyên tu tập theo Mật giáo (zh. 密教, ja. mikkyō). Trong khoảng thời gian 10 năm, Sư thu thập tất cả những ấn tượng huyền bí của Mật giáo tại đây. Một năm sau khi thụ giới cụ túc (1292), Sư chuyển sang tu tập theo phương pháp của Thiền tông. Nguyên nhân của sự thay đổi này chính là cái chết bi thảm của một vị thầy. Sư tự thấy rằng, vấn đề chính của cuộc sống là sinh tử luân hồi không thể giải quyết được bằng tri thức uyên bác, kiến thức của một học giả. Trong thời gian 100 ngày sau khi thầy mình lâm chung, Sư tụng kinh cầu an cho thầy và nhân đây, Sư có một giấc mộng rất quan trọng. Trong giấc mộng này, Sư được gặp hai vị Thiền sư Trung Quốc quan trọng đời nhà Đường là Thạch Đầu Hi Thiên (zh. 石頭希遷, ja. sekitō kisen) và Sơ Sơn Quang Nhân (zh. 疏山光仁, ja. sozan kōnin), một môn đệ của Động Sơn Lương Giới (zh. 洞山良價). Thạch Đầu xuất hiện dưới dạng một vị tăng của Chân ngôn tông, Sơ Sơn dưới dạng Bồ-đề-đạt-ma. Sau giấc mộng này, Sư tự đặt tên cho mình là Sơ Thạch (疏石, ja. so-seki) - ghép từ hai chữ đầu của Sơ Sơn và Thạch Đầu. Mộng Song, 'Cửa sổ của giấc mộng' (zh. 夢窗, ja. musō) đã mở rộng, hướng dẫn Sư trên con đường Thiền.
Sau đó, Sư yết kiến nhiều vị Thiền sư danh tiếng đương thời - một trong những vị này là Nhất Sơn Nhất Ninh (zh. 一山一寧, ja. issan ichinei), một vị Thiền sư Trung Quốc danh tiếng - nhưng không hài lòng với những phương pháp tu tập của những vị này. Nghe danh của Thiền sư Cao Phong Hiển Nhật (zh. 高峰顯日, ja. kōhō kennichi), Sư liền đến tham học. Sư học không lâu nơi Cao Phong nhưng vẫn được xem là môn đệ vì sau này Cao Phong chính là người ấn khả cho Sư.
Vào một ngày tháng năm (1305), đang trên đường trở về am và trong lúc mệt mỏi, Sư vừa muốn dựa lưng vào tường thì có cảm giác bức tường bỗng nhiên biến mất, Sư té xuống và nhân đây ngộ được yếu chỉ thiền.
Sau sự việc quan trọng này, Sư vẫn chu du đây đó, chú tâm đến việc Toạ thiền (ja. zazen). Cuối cùng, Sư nhận lời mời trụ trì Thiên Long tự (zh. 天龍寺, ja. tenryū-ji) tại Kinh Đô - một ngôi chùa được xếp vào hệ thống Ngũ sơn thập sát (五山十剎, ja. gozan jissetsu) - và trở thành một nhân vật quan trọng của nền văn hoá Phật giáo tại đây.
Sư cũng là một trong những tác giả đứng hàng đầu của phong trào Ngũ sơn văn học (zh. 五山文學, ja. gosan bungaku), một phong trào rất quan trọng trong việc truyền bá văn hoá, khoa học và nghệ thuật của Trung Quốc sang Nhật. Tên của Sư gắn liền với nhiều việc khai sơn, sáng lập thiền viện và đích thân Sư cũng trụ trì nhiều thiền viện danh tiếng, trong đó có Nam Thiền tự (zh. 南禪寺, ja. nanzen-ji), một ngôi chùa với những kiến trúc, vườn cảnh nổi danh trên thế giới. Dưới sự chỉ đạo của Sư, một vị Tướng quân (shōgun) với tên Túc Lợi Tôn Thị (ja. ashikaga takauji) truyền lệnh lập 66 ngôi chùa ở 66 nơi khác nhau với tên An Quốc tự (zh. 安國寺, ja. ankoku-ji) và từ đây, Thiền tông được truyền bá khắp nước Nhật. Một trong những tác phẩm quan trọng của Sư là Mộng trung vấn đáp tập (zh. 夢中問答集, ja. muchūmondō-shū), trong đó, Sư trình bày các yếu chỉ của Thiền tông qua các câu hỏi và trả lời. Ngoài ra, Sư cũng nổi danh trong nghệ thuật Thư đạo (zh. 書道, ja. shodō). Sư được bảy vị Nhật hoàng tôn làm thầy và được phong bảy danh hiệu khác nhau. Dưới danh hiệu Mộng Song Quốc sư, Sư đi vào lịch sử của Phật giáo Nhật Bản. |
Quan Sơn Huệ Huyền (zh. 關山慧玄, ja. Kanzan Egen). 1277-1360, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế, nối pháp Tông Phong Diệu Siêu (ja. shūhō myōchō). Sư kế thừa và trụ trì Đại đức tự (ja. daitoku-ji), sau lại trụ trì Diệu Tâm tự (ja. myōshin-ji). Cả hai đều là những thiền viện danh tiếng nhất của tông Lâm Tế tại Kinh Đô (kyōto).
Sư sinh tại Shinano (phủ Nagano), sớm đã được cha gửi đến một người chú tại Liêm Thương (kamakura) để học Phật pháp. Nơi đây, Sư may mắn được học với Thiền sư Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō, 1235-1309). Sau khi Nam Phố tịch, Sư trở về quê nhà tu học khổ hạnh. Khi nghe danh tiếng của Thiền sư Tông Phong tại Liêm Thương, Sư liền đến Đại đức tự tại Kinh Đô đến tham học. Tông Phong giao cho Sư công án "Quan" (Bích nham lục, công án 8) của Thiền sư Vân Môn Văn Yển để tham cứu. Sau hai năm quán công án này—một thời gian tu tập cực kì khắt khe với một công án nổi danh là khó giải—Sư ngộ được yếu chỉ của Thiền tông. Tông Phong liền làm một bài kệ ấn chứng cho môn đệ của mình, năm đó Sư đã vượt ngoài năm mươi (1329).
Sau đó, theo lời khuyên của thầy, Sư lên núi ẩn cư tám năm để tiếp tục tu luyện và trong thời gian này, Sư làm việc hằng ngày trên đồng ruộng, đêm thì tọa thiền trên những tảng đá. Sau thời gian này, Sư nhận lời trụ trì chùa Diệu Tâm. Phong cách giảng dạy của Sư rất nghiêm khắc và cũng nhờ đó mà Lâm Tế chính mạch được truyền đến những đời sau qua dòng thiền này. Sư chẳng chú trọng đến đồ vật trang trí trong thiền viện và cũng không thích những nghi lễ rườm rà. Sư đòi hỏi nơi đệ tử một ý chí, một tâm trạng tinh tiến tuyệt đối. Một trong những công án Sư thường đưa ra để tham quán là "Đối với Huệ Huyền, nơi đây không có sinh tử." Chỉ những thiền sinh đầy ý chí quyết định mới dám ở lại đây, phần lớn đều rời Sư sau một thời gian. Dưới sự hoằng hóa của Sư, Diệu Tâm tự cũng được gọi là "Địa ngục tột cùng của Phật pháp." Sư cũng được gọi là Ẩn đức tổ sư (隱德[の]祖師, ja. intoku (no) soshi), "Tổ sư với những đức tính thầm kín".
Trước khi tịch, Sư trao pháp y lại cho vị kế thừa duy nhất là Thụ Ông Tông Bật (授翁宗弼, ja. jūo sōhitsu, 1296-1380), chuẩn bị hành lý và đứng mà tịch. Dòng thiền của Sư sau trở thành dòng chính của tông Lâm Tế Nhật Bản. |
Nam Phố Thiệu Minh (zh. 南浦紹明, ja. nampo shōmyō), 1235-1309, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế dòng Dương Kì. Sư lúc đầu học pháp nơi Lan Khê Đạo Long nhưng sau đích thân sang Trung Quốc tham học với Thiền sư Hư Đường Trí Ngu (zh. 虛堂智愚) và được Ấn khả. Trong dòng Thiền của Sư có nhiều vị nổi danh như Nhất Hưu Tông Thuần (ja. ikkyū sōjun) và Bạch Ẩn Huệ Hạc (ja. hakuin ekaku). Sư được Nhật hoàng ban hiệu Đại Ứng Quốc sư (ja. daiō kokushi).
Khác với các vị tiền nhân đưa Thiền tông sang Nhật như Minh Am Vinh Tây (ja. myōan eisai), Viên Nhĩ Biện Viên (ja. enni ben'en), Sư không hoà nhập Thiền tông với những giáo lý của các tông khác như Thiên Thai tông, Chân ngôn tông. Môn đệ danh tiếng nhất của Sư là Tông Phong Diệu Siêu (ja. shūhō myōchō, cũng được gọi là Đại Đăng Quốc sư).
Mặc dù đã nổi danh lúc còn hoằng hoá nhưng vai trò thật sự quan trọng của Sư cho Thiền Lâm Tế tại Nhật chính là hệ thống truyền thừa vô song với các môn đệ lừng danh. Qua đó, người ta có thể xem Sư là vị Tổ chính của Thiền Lâm Tế tại Nhật vì hầu hết tất cả những vị Thiền sư danh tiếng của tông Lâm Tế của Nhật sau này đều xuất phát từ hệ phái của Sư với tên gọi là Ứng Đăng Quan phái (ja. ō-tō-kan-ha) - viết tắt từ ba danh hiệu Đại Ứng (ō 應) Quốc sư, Đại Đăng (tō 燈) Quốc sư và Quan (kan 關) Sơn Huệ Huyền. Với sự hoằng hoá của Sư, giai đoạn du nhập của Thiền tông từ Trung Quốc sang Nhật đã kết thúc. |
Nga Sơn Thiều Thạc (zh. 峨山韶碩, ja. gasan jōseki), 1275-1365, là một vị Thiền sư Nhật Bản lỗi lạc thứ ba của tông Tào Động (ja. sōtō-shū) sau hai vị Đạo Nguyên Hi Huyền (ja. dōgen kigen) và Oánh Sơn Thiệu Cẩn (ja. keizan jōkin). Sư nối Pháp Thiền sư Oánh Sơn Thiệu Cẩn.
Sư sinh trong một gia đình tại Noto, sớm xuất gia (1290) tu học giáo lý của Thiên Thai tông trên núi Tỉ Duệ. Một cuộc gặp gỡ với Thiền sư Oánh Sơn đã thay đổi quan niệm tu học của Sư và từ đây, Sư tôn Oánh Sơn làm thầy và chú tâm vào việc Toạ thiền và quán công án. Dưới sự hướng dẫn của Oánh Sơn, Sư ngộ đạo và được ấn khả.
Sư trụ trì Tổng Trì tự (ja. sōji-ji) - với một cuộc gián đoạn ngắn (trong thời gian này Sư trụ trì Vĩnh Quang tự (ja. yōkō-ji)) - gần 40 năm liền và đã đưa danh tiếng của ngôi chùa này lên đến tuyệt đỉnh. Sư rất chú trọng đến việc thuyết pháp, hoằng hoá quần chúng, nhất là những người thuộc những tầng cấp thấp của xã hội và cố gắng gieo vào tâm của các vị đệ tử tư tưởng của một vị Bồ Tát, quên mình, vì người, một tư tưởng mà Thiền sư Oánh Sơn Thiệu Cẩn đã phát huy trong tông Tào Động.
Sư cũng là người đầu tiên đưa thuyết Ngũ vị quân thần của Thiền sư Động Sơn Lương Giới (Động Sơn ngũ vị) vào chương trình giảng dạy của tông Tào Động tại Nhật. Sư có rất nhiều đệ tử nhưng nổi danh nhất là năm vị, đó là:
Thái Nguyên Tông Chân (zh. 太源宗眞, ja. taigen sōshin, ?-1370);
Thông Huyễn Tịch Linh (zh. 通幻寂靈, ja. tsūgen jakurei, 1322-1391);
Vô Đoan Tổ Hoàn (zh. 無端祖環, ja. mutan sokan, ?-1387);
Đại Triệt Tông Linh (zh. 大徹宗令, ja. daisetsu sōrei, 1333-1408);
Thật Phong Lương Tú (zh. 實峯良秀, ja. jippō ryōshū, 1318-1405).
Với sự nghiệp hoằng hoá của năm vị này, tông Tào Động được truyền bá khắp nước Nhật. |
Thái Nguyên Tông Chân (zh. 太源宗真, ja. taigen sōshin), ?-1370, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki, 1275-1365). Sư kế thừa Nga Sơn trụ trì Tổng Trì tự (ja. sōji-ji) và cũng như thầy mình, Sư lấy thuyết Động Sơn ngũ vị làm lý thuyết căn bản của tông phong. Dòng thiền của Sư được truyền bá rất rộng với hơn trăm lần khai sơn lập tự tại Trung và Đông Nhật Bản. Về cuối đời, Sư trụ tại Vĩnh Quang tự (ja. yōkō-ji) và sáng lập Phật-đà tự (ja. budda-ji) tại tỉnh Kaga. |
Ngột Am Phổ Ninh (zh. wūān pǔníng 兀菴普寧, ja. gottan funei), 1197-1276, là một vị Thiền sư Trung Quốc thuộc tông Lâm Tế hệ phái Dương Kì. Sư nối pháp thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm.
Sư được Thiền sư Lan Khê Đạo Long khuyến khích sang Nhật năm 1260. Trước tiên, sư đến Kinh Đô (kyōto) và một thời gian trụ trì chùa Kiến Trường (kenchōji) theo lời mời của Tướng quân Bắc Điều Thời Lại (ja. shōgun hōjō tokiyori). Sư cũng hướng dẫn vị Tướng quân này trên con đường tu thiền và vị này sau cũng được sư ấn khả. Sau đó sư trở về Trung Quốc và tịch tại đây. |
Lan Khê Đạo Long (zh. lánxī dàolóng 蘭溪道隆, ja. rankei dōryū), 1208-1268 hoặc 1213-1278, là một vị Thiền sư Trung Quốc, thuộc nhánh Dương Kì, tông Lâm Tế.
Sư người Tây Thục, 13 tuổi xuất gia, sau tham học với nhiều Thiền sư danh tiếng ở Chiết Giang. Năm 33 tuổi (1246), sư sang Nhật truyền pháp. Trong thời gian này, các tông phái cũ ở Nhật đã có những triệu chứng suy đồi, chỉ lo chạy theo danh lợi và vì vậy, phong cách của Thiền gia chất phác, không cầu kì ham muốn, nhẫn nhục tu hành rất được kính trọng. Sư được mời đến Liêm Thương (kamakura), lập chùa Kiến Trường (ja. kenchō-ji) nơi đây.
Sư là một trong những Thiền sư góp phần quan trọng cho sự hưng thịnh của Thiền tông tại Nhật. Sư tịch tại chùa Kiến Trường, được ban hiệu là Đại Giác Thiền sư. Đây là lần đầu Nhật Bản có danh hiệu Thiền sư. |
Nguyệt Am Tông Quang (zh. 月菴宗光, ja. gettan sōkō), 1326-1389, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế, dòng Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō), hệ phái Diệu Tâm tự (ja. myōshin-ji).
Sư sống cùng thời với Thiền sư Bạt Đội Đắc Thắng (zh. 拔隊得勝, ja. bassui tokushō), sớm xuất gia và tham học với nhiều vị Thiền sư Nhật danh tiếng đương thời như Cổ Tiên Ấn Nguyên (zh. 古先印元, ja. kosen ingen), Mộng Song Sơ Thạch (zh. 夢窗疏石, ja. musō soseki) và Cô Phong Giác Minh (zh. 孤峰覺明, ja. kohō kakumō). Nơi Thiền sư Đại Trùng Tông Sầm (大蟲宗岑, ja. daichū sōshin), Sư triệt ngộ. Sau một thời gian dài chu du đây đó, Sư khai sáng thiền viện Đại Minh (ja. daimyō-ji) tại Tajima, tỉnh Hyōgo và bắt đầu cuộc đời giáo hoá vinh quang của mình.
Pháp ngữ của Sư được các môn đệ biên tập và lưu lại đến ngày nay và trong số đó có rất nhiều bài thuyết pháp dành cho giới Cư sĩ. Sư cho rằng, cư sĩ cũng có thể tu tập thiền với những kết quả khả quan và nếu họ tu tập với tất cả tấm lòng thì có thể vượt qua cả những vị tăng ni vì trong thời của Sư, rất nhiều vị xuất gia tu hành chỉ chú trọng đến việc học suông. Sư được xem là một tấm gương sáng, là một vị Thiền sư sống với quần chúng, sống vì quần chúng ngoài tăng đoàn. Ví dụ như Sư chẳng ngần ngại gì khi thuyết pháp cho một nữ Cư sĩ, vốn theo đuổi thực hành những nghi lễ rườm rà, ôm ấp nhiều khái niệm về thiên đường, địa ngục, cõi Phât... Chẳng đi quanh co, Sư giảng ngay về Tâm và Phật tính cho vị nữ cư sĩ này:
Tâm này chính là Phật. Tâm này từ vô thủy vô minh đến giờ chưa từng vướng mắc Phiền não. Nếu phiền não chẳng có thì cũng chẳng có pháp nào được chứng đắc khi đạt đạo. Và nếu như Giác ngộ cũng như phiền não không thật có thì tâm này chẳng bao giờ liên quan gì đến sinh tử Luân hồi... Chẳng có Vô minh để vượt qua, chẳng có vọng niệm nào phải đoạn diệt. Vì không có thiện ác nên thiên đường địa ngục cũng không tìm đâu ra. Vì phải cũng như trái đều không có nên cũng chẳng có Tịnh độ cũng như không có trần cảnh.
Sư tịch năm 1389. |
Nhất Hưu Tông Thuần (chữ Hán: 一休宗純, ja. ikkyū sōjun), 1394-1481, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế (ja. rinzai-shū), hệ phái Đại đức tự (ja. daitokuji-ha). Sư là một trong những Thiền sư danh tiếng nhất của Thiền tông Nhật Bản. Với phong điệu của một "Cuồng Thánh", Sư đả phá những phong cách tệ mạt trong những thiền viện lớn mà Sư cho rằng đang trên đường tàn lụi. Cách sống và giáo hoá của Sư vượt trên tất cả những tục lệ và vì vậy có rất nhiều tích nói về Sư, phần đúng, phần huyền hoặc.
Tiểu sử
Ikkyu ra đời vào lúc bình minh của ngày đầu của năm 1394. Mặc dù có lời đồn rằng Ikkyu là con trai của vị hoàng đế trẻ Go-Komatsu (1377—1433), vào lúc chào đời cậu bé được ghi vào sổ bộ thường dân. Mẹ của Ikkyu, một phụ nữ chờ việc trong cung đình và được Go-Komatsu yêu chuộng, đã bị sa thải bất công ra khỏi cung điện vì guồng máy của vị hoàng hậu ghen tuông và tay chân bà này. Do vậy, hoàn cảnh ra đời của Ikkyu thì khiêm tốn, mặc dù bản tiểu sử sớm nhất của sư viết rằng ngay cả khi sơ sinh, sư “mang dấu hiệu của một con rồng và dấu ấn của một phượng hoàng.”
Vào lúc 5 tuổi, Ikkyu được gửi vào làm chú tiểu tại Ankoku-ji, một ngôi chùa Thiền Tông ở Kyoto. Nơi đây, sư được bảo đảm có nền học vấn tốt, cũng như được bảo vệ trước các viên chức triều đình lắm mưu và các tướng quân đa nghi. Điều này quan trọng trong thời trung cổ Nhật Bản, vì ngay cả đứa con hoang của vị hoàng đế – với hoàn cảnh đúng thời và với những người ủng hộ có quyền lực – vẫn có thể ra giành ngôi vua. Tại chùa Ankoku-ji, Ikkyu được học kinh điển Phật giáo và các sách giáo khoa tại Trung Hoa và Nhật Bản. Là một học trò sáng dạ mà thiên tài của mình được mọi người công nhận, Ikkyu cũng là một cậu bé quá quắt và nhanh trí.
Gia thế & Cơ duyên
Tương truyền Sư là con của một cung phi, bị Nhật hoàng hất hủi khi mang thai Sư. Lên năm tuổi, Sư được mẹ gửi vào một ngôi chùa gần nhà. Năm lên mười ba, Sư đến Kiến Nhân tự (ja. kennin-ji) nhưng chỉ khoảng bốn năm sau đó, Sư rời chùa này vì không hài lòng với phong cách sinh hoạt quá phàm tục của những vị tăng tại đây. Sư đến tham học với Khiêm Ông (ja. gen'ō) - một vị tăng độc cư tu tập - và cũng có chút sở đắc nơi đây nhưng không bao lâu, Khiêm Ông tịch và Sư lại phải lên đường cầu đạo.
Chỉ một năm sau, Sư tìm được vị chân sư của mình là Hoa Tẩu Tông Đàm (zh. 華叟宗曇, ja. kesō sōdon, 1352-1428), vị trụ trì của Đại đức tự. Hoa Tẩu không ở tại chùa Đại đức mà lại ngụ tại một am gần đó để tránh sự náo nhiệt, phong cách quá nhập thế của một Thiền viện thời đó. Sư lưu lại đây chín năm và kiên nhẫn chịu đựng phương pháp tu tập rốt ráo của Hoa Tẩu. Nhân khi tham công án thứ 15 của tập Vô môn quan - với tên Động Sơn (Thủ Sơ) ba hèo (Động Sơn tam đốn) - Sư có ngộ nhập. Không bao lâu sau, trong khi toạ thiền trên một chiếc thuyền, Sư nhân nghe một con quạ kêu to bỗng nhiên ngộ đạo. Sư bèn trình Hoa Tẩu và được vị này ấn khả. Sư không nhận ấn chứng này và có thuyết bảo rằng Sư xé bỏ bản ấn chứng này ngay sau khi nhận. Sư tự tin rằng kinh nghiệm giác ngộ của ai chỉ có người ấy biết và không ai có thẩm quyền quyết định được cái thật hoặc giả của kinh nghiệm giác ngộ của Sư. Với những hành động này, Sư đảo ngược truyền thống ấn chứng của Thiền tông và chính Sư cũng không ấn chứng cho ai trong cả cuộc đời hoằng hoá của mình. Mặc dù vậy, Sư ở lại hầu cho đến lúc Hoa Tẩu viên tịch (1428).
Cơ phong hoằng pháp
Trong suốt một thời gian khoảng 30 năm, Sư không dừng chân nơi nào, chỉ chu du tuỳ duyên hoằng hoá nơi quần chúng. Sư tiếp xúc với mọi tầng cấp của xã hội Nhật thời bấy giờ như quan tước, võ sĩ, văn hào, nghệ sĩ... và cả kĩ nữ, và Sư đặc biệt đề cao tính tình chất phác của họ. Con đường hoằng hoá quần chúng của Sư đi xa, cũng có nhiều người cho rằng đi quá xa so với giáo lý của nhà Phật. Sư không để ý gì đến giới luật, ăn thịt cá, mê rượu, gái. Một mặt Sư chê bai, than trách về tư cách đạo đức giả, gian trá của các vị tăng tại những Thiền viện lớn bấy giờ, mặt khác Sư lại rất chú tâm đến việc phổ biến Phật pháp trong quần chúng và các hành động "phá giới" của Sư nêu trên đều có thể xem là trùng hợp với việc thực hành Phật pháp của phần lớn của Phật tử nằm ngoài Tăng-già thời bấy giờ. Sư viết:
"Thời xưa, mọi người có tín tâm đều vào cửa chùa, nhưng ngày nay tất cả đều rời chùa. Nếu nhìn kĩ thì người ta sẽ thấy rằng, các phường chủ không biết gì - không tham thiền, chẳng quán công án mà chỉ chú tâm đến vật chất, trang trí bồ đoàn. Họ rất tự hào về ca-sa của họ nhưng mặc dù họ mang ca-sa, họ cũng chỉ là phàm phu thay áo. Dù họ mang ca-sa, ca-sa cũng trở thành dây xích, gậy sắt trói buộc, hành hạ thân họ."
Sư chỉ trích mạnh mẽ sự tôn thờ và ham muốn thác sinh nơi Cực lạc Tịnh độ của Phật tử. Sư dạy: "Nếu ai thanh lọc tâm địa và kiến tính, người ấy chẳng còn muốn tái sinh cõi Phật, chẳng còn sợ địa ngục, chẳng còn phiền não phải đoạn, chẳng còn phân biệt thiện ác; người ấy đã đạt tự do tự tại trong sinh tử luân hồi, muốn tái sinh vào nơi nào cũng được - chỉ khi tâm người ấy mong cầu." Vì thế mà Sư chế nhạo tất cả những phong tục có tính cách mê tín dị đoan như đốt đèn, cầu cúng, dâng lễ vật cho người chết và tụng kinh cầu siêu cầu an.
Sư tự gọi mình là "Cuồng Vân" (狂雲, ja. kyōun) và rất nhiều câu chuyện thú vị về việc tuỳ cơ hoằng hoá và nhạo đời của Sư được lưu truyền. Mẩu chuyện sau đây được lưu lại:
Một lần nọ, Sư khất thực tại một nhà giàu sang với quần áo rách rưới dơ bẩn và chỉ nhận được nửa xu. Sau đó, Sư thay y phục, mặc ca-sa tía đến khất thực và được mời ngay vào nhà dùng cơm cùng với gia đình. Sư liền cởi áo tía ra, đặt nó vào ngay chỗ ngồi ăn và bảo rằng "Bữa ăn thịnh trọng ngày hôm nay không phải dành cho ta mà là áo ca-sa tía này."
Tính tình chân chính, phong cách tự do, bất lệ thuộc của Sư chính là nguyên do vì sao Sư rất được quần chúng mộ đạo yêu thích. Sư là một trong những vị Thiền sư nổi danh nhất thời trung cổ của Nhật Bản. Năm 1456, Sư nhận lời trụ trì Diệu Tâm tự (ja. myōshinji) và sống tại một am gần đó. Từ đây, Sư được các vị tăng dần dần chấp nhận, tôn kính, ngay cả những vị mà ngày xưa Sư chỉ trích thậm tệ. Vào những năm cuối đời, Sư được cử trụ trì Đại đức tự (ja. daitoku-ji). Không bao lâu sau, vào năm 1481, Sư viên tịch, thọ 87 tuổi. |
Nhất Sơn Nhất Ninh (zh. yīshān yīníng 一山一寧, ja. issan ichinei), 1247-1317, là một vị Thiền sư Trung Quốc thuộc tông Lâm Tế. Sau khi nhà Tống bị Mông Cổ lật đổ, sư được Nguyên Thành Tông cử đến Nhật Bản để nối lại mối quan hệ - vốn bị gián đoạn từ khi Mông Cổ cố gắng xâm lấn nhiều lần. Sư vừa đặt chân lên đất Nhật (1299) liền bị nghi là gián điệp, bị bắt giam. Sau khi được tha, sư được cử trụ trì Kiến Trường tự (ja. kenchō-ji), năm 1302 trụ trì Viên Giác tự (ja. engaku-ji) và năm 1312, Thiên hoàng Hậu Đề Hồ (ja. go-daigo) cử sư làm Phương trượng chùa Nam Thiền (ja. nanzen-ji) tại Kinh Đô (kyōto).
Sư nổi danh không chỉ là một Thiền sư mà còn là một nghệ sĩ xuất trần, một họa sĩ tinh thông Thư pháp (thư đạo, ja. shōdō).
Cùng với môn đệ người Nhật là Tuyết Thôn Hữu Mai (ja. sesson yūbai, 1290-1346), sư được xem là vị Khai tổ của phong trào Ngũ sơn văn học. Thiền sư Mộng Song Sơ Thạch (ja. musō soseki) - cũng một thời gian tu học với sư - là người đã góp phần lớn trong việc giúp đỡ các Thiền viện tại Kinh Đô trở thành những trung tâm của văn hoá, nghệ thuật và khoa học với sắc thái Trung Quốc rõ rệt. |
Mẫu hình, hệ hình, hay mô phạm (tiếng Anh: Paradigm) là một khái niệm có nhiều nghĩa hơi khác nhau.
Từ cuối thế kỷ 19, từ này có nghĩa là nề nếp dạng thức suy nghĩ trong một khuôn khổ thực nghiệm khoa học hay các ngữ cảnh khác của tri thức.
Trong tiếng Anh, khái niệm này (paradigm) đặc biệt để chỉ văn phạm: Từ điển 1900 Merriam-Webster định nghĩa đó là kỹ thuật chỉ dùng trong ngữ cảnh của văn phạm hay trong nghệ thuật tu từ, như là một cách gọi cho một truyên ngụ ngôn hay một truyện cổ dân gian có minh hoạ.
Trong ngôn ngữ học, Ferdinand de Saussure dùng từ mẫu hình để chỉ một lớp các phần tử có nhiều tính chất tương tự nhau.
Triết gia Thomas Kuhn đã cho từ này một ý nghĩa hiện tại khi ông ta dùng nó để chỉ tập hợp các thực hành và thao tác mà chúng xác định nên một khuôn khổ thực nghiệm khoa học trong suốt một giai đoạn của thời gian. Ý nghĩa mà Kuhn dùng đã và đang bị lạm dụng rộng rãi. Chính Kuhn dùng các từ như là "mẫu" (exemplar) và "khoa học thủ thuật" (normal science) để xác định chính xác hơn nghĩa triết học của nó. Mặc dù vậy, trong cuốn sách The Structure of Scientific Revolutions, Kuhn lại định nghĩa mẫu hình như là:
Cái gì để được quan sát và nghiên cứu kỹ lưỡng. (đối tượng)
Các loại câu hỏi mà chúng cần được giả thiết và thử nghiệm (hay chứng minh) cho các câu trả lời trong quan hệ tới các chủ thể.
các câu hỏi đó được đặt ra như thế nào.
các kết quả của sự điều tra nghiên cứu nên được diễn giải như thế nào. |
Nhất sư ấn chứng (zh. 一師印證, ja. isshi-injō) nghĩa là "sự ấn khả chứng minh của một vị thầy", chỉ sự tu tập của một thiền sinh dưới sự hướng dẫn của một vị thầy duy nhất. Sự cần thiết của nhất sư ấn chứng được Thiền tông - nhất là tông Tào Động (ja. sōtō-shū) - tại Nhật Bản đề cao từ khoảng thế kỉ 17 để chống lại khuynh hướng chạy tới chạy lui qua nhiều vị thầy của các thiền sinh thời bấy giờ.
Việc tu học trong Thiền tông dưới một vị thầy khác với cái học nơi thế tục ở một điểm: nơi đây thiền sinh không được học suông (tri) rồi truyền cái học suông này cho người khác mà còn phải thực hiện cái chân lý đã được học qua lý thuyết ngay ở chính mình, cứ như người khát nước uống nước (hành). Chỉ khi nào tri và hành hợp nhất thì thiền sinh mới có thể hi vọng một ngày nào đó sẽ kiến tính (ja. kenshō) ngộ đạo. Vì lý do này mà niềm tin và sự tu tập nơi một vị thầy - trong một tông phái tự gọi là Phật tâm tông và chủ trương việc Dĩ tâm truyền tâm - được xem là tối trọng. Mà cũng có khi một vị thầy nhìn nhận ra khả năng cao tột của một thiền sinh mới đến - nhưng thấy cơ duyên của thiền sinh này không hợp nơi mình thì vị này cũng gửi thiền sinh này đi nơi khác. Việc gửi các môn đệ đi học qua lại nhau của hai vị Mã Tổ Đạo Nhất và Thạch Đầu Hi Thiên là những ví dụ hay nhất của phương pháp giảng dạy này.
Vì trong Thiền tông không có bản quy định, thước đo cụ thể cho việc ấn chứng nên các Lão sư (ja. rōshi) chỉ có thể hướng dẫn và ấn chứng cho một đệ tử theo khả năng, trình độ đã đạt của mình và một sự hướng dẫn gần gũi trực tiếp. Một khi sự hướng dẫn của một vị thầy bị gián đoạn thì vị thầy sau không thể tiếp nối việc này một cách hoàn hảo. Thiền sinh vì vậy phải có niềm tin vững chắc nơi vị thầy - sau khi đã tìm được vị thích hợp - và chỉ học với vị này mà thôi. Sau khi thiền sinh đã đạt mức độ giác ngộ của vị thầy thì có thể Hành cước đây đó để trau dồi kinh nghiệm qua những cuộc vấn đáp (ja. mondō), cũng thường được gọi là pháp chiến (ja. hossen) với các vị Thiền sư khác. |
Nhật Bản Đạt-ma tông (zh. 日本達磨宗, ja. nihon (nippon) darumashū) là một trường phái thiền nhỏ của Nhật Bản được Thiền sư Đại Nhật Năng Nhẫn (ja. dainichi nōnin) sáng lập. Tông này được thành lập dựa vào tông Lâm Tế của Trung Quốc và nổi danh là một tông với phương pháp tu tập chân chính.
Tông này không tồn tại được bao lâu vì sau khi thiền đường của họ bị thiêu huỷ (1928) sau một sự tranh chấp với các vị tăng chùa Hưng Phúc (ja. kōfukuji) và sau khi Thiền sư Cô Vân Hoài Trang (ja. koun ejō) đến Đạo Nguyên Hi Huyền (ja. dōgen kigen) tham học. Một thời gian sau, các vị đệ tử quan trọng của Giác Yển (ja. kakuan) - vị kế thừa thứ hai của tông này - như Triệt Thông Nghĩa Giới (ja. tettsū gikai), Nghĩa Diễn (zh. 義演, ja. gi'en), Hàn Nham Nghĩa Doãn (zh. 寒巖義尹, ja. kangan gi'in),... đều đến gia nhập dòng thiền Tào Động của Đạo Nguyên.
Tông này chủ trương "Kiến tính thành phật" (zh. 見性成佛, ja. kenshō jōbutsu) và "Kiến tính linh tri" (zh. 見性靈知, ja. kenshō reichi), rất chú tâm đến hai bộ kinh Viên Giác (ja. engakkyō) và Thủ-lăng-nghiêm (ja. shuryōgongyō). Thiền sư Giác Yển thường trích những phần trong hai bộ kinh này làm tài liệu giảng dạy. Một đặc điểm của tông này nữa là sự tu tập thiền thuần tuý, tránh không pha trộn với những khuynh hướng tu tập thịnh hành khác thời bấy giờ như niệm danh Phật A-di-đà, thực hành các nghi lễ theo Chân Ngôn tông (ja. shingon-shū). Tuy vậy, họ cũng không tránh được các ảnh hưởng của các tông giáo khác biệt này và chính sự pha trộn giáo lý của Thiền sư Triệt Thông Nghĩa Giới (ja. tettsū gikai) sau này tại Vĩnh Bình tự (ja. eihei-ji) - Thiền Tào Động của Đạo Nguyên và Mật giáo - là nguyên do chính của sự chia rẽ sau này của tông Tào Động, ở thế hệ thứ ba. |
Tông Phong Diệu Siêu (zh. 宗峰妙超, ja. shūhō myōchō), 1282-1338, cũng được gọi là Đại Đăng Quốc sư (ja. daitō kokushi), là một vị Thiền sư Nhật Bản lỗi lạc thuộc tông Lâm Tế. Sư nối pháp Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō) và là thầy của Quan Sơn Huệ Huyền (ja. kanzan egen). Sư là người thành lập và trụ trì đầu tiên của Đại Đức tự (zh. 大德寺, ja. daitoku-ji) ở Kinh Đô (kyōto), một trong những ngôi chùa quan trọng nhất của Nhật Bản.
Cơ duyên
Sư sinh trưởng tại Harima, cách thành phố Osaka không xa. Lúc còn nhỏ Sư đã có những dấu hiệu lạ thường, lên mười đã không thích chơi với trẻ con cùng lứa. Sư bắt đầu nghiên cứu tu tập Phật pháp rất sớm và chu du viếng thăm nhiều thiền viện. Năm 22 tuổi, Sư đến tham học với Thiền sư Cao Phong Hiển Nhật (ja. kōhō kennichi) tại Vạn Thọ tự (ja. manju-ji) ở Liêm Thương (kamakura) và nơi đây có ngộ nhập. Sau, Sư đến học nơi Thiền sư Nam Phố Thiệu Minh và được vị này ấn khả. Nam Phố khuyên Sư tu tập thêm hai mươi năm nữa trước khi nhập thế hoằng hoá thế gian.
Sau khi Nam Phố tịch (1308), Sư trở về Kinh Đô sống ẩn dật hai mươi năm. Trong thời gian này, Sư sống cùng với những kẻ ăn xin và ngủ dưới cầu. Tin truyền về một kẻ ăn xin lạ thường đồn đến tai Thiên hoàng Hoa Viên (ja. hanazono) và ông đích thân đến cầu để tìm cho ra lai lịch của vị khất sĩ phi thường này. Ông mang theo một giỏ dưa và nói trước các khất sĩ: "Ta sẽ tặng quả dưa cho người nào đến đây mà không sử dụng đôi chân." Mọi người đều suy nghĩ chần chừ, Sư liền bước ra nói: "Đưa quả dưa cho ta mà không được dùng đôi tay!" Ngay sau sự việc này, Nhật hoàng thỉnh Sư về cung điện tham vấn.
Sau đó, Sư dựng một cái am trên đồi gần Kinh Đô, học chúng đua nhau đến rất đông, đến nỗi Thiền viện Đại đức được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của học khách. Sư được Cựu Thiên hoàng Hoa Viên phong là Hưng Thiền Đại Đăng Quốc sư (zh. 興禪大燈國師, ja. kōzen daitō kokushi).
Pháp ngữ
Tông phong của Sư nổi tiếng là uy nghiêm dũng mãnh. Nổi danh nhất là bản Di giới (zh. 遺誡, ja. yuikai) của Sư—được viết hai năm trước lúc Sư quy tịch. Bản Di giới này nêu rõ phong cách của dòng thiền Ứng-Đăng-Quan và truyền thống của Thiền tông từ Trung Quốc đến Nhật Bản nói chung. Bản này—thỉnh thoảng được biến đổi đôi chút—vẫn còn được treo trước mỗi Thiền viện của tông Lâm Tế tại Nhật. Nội dung bản này như sau:
Dù các thiền viện được hưng thịnh thế nào sau khi lão tăng qua đời đi nữa, dù tượng hình Phật và các bộ kinh được tạo bằng vàng ròng đi nữa, dù thiền sinh tham học đông đảo, tụng kinh, phát nguyện, toạ thiền suốt đêm, ăn chỉ một bữa, chuyên cần giữ giới đi nữa,—nếu họ không chú tâm tìm cho bằng được diệu pháp nằm ngoài kinh điển của chư Phật, Tổ thì họ không thể nào đoạn diệt lưới nghiệp, tông chỉ sẽ bị hoại, họ sẽ theo nhà ma. Dù khoảng thời gian từ khi lão tăng qua đời có dài thế nào đi nữa thì cũng không được gọi họ là con cháu của lão tăng.
Nhưng—nếu có người nào tại đây, ở nhà lá, ăn rau cỏ từ nồi nghiêng bếp hỏng để sống qua ngày, nếu người này tự tìm hiểu nguồn gốc của chính mình thì ngày ngày sẽ thấy được lão tăng và sẽ là người báo ân chân thật.
Sư lâm bệnh nặng năm 55 tuổi và phó chúc công việc cai quản thiền viện cho môn đệ là Triệt Ông Nghĩa Hanh (ja. tettō gikō). Sư căn dặn không được xây tháp cho Sư sau khi Sư tịch. Câu chuyện rất cảm động sau được truyền lại, tả lúc Sư quy tịch. Như phần lớn các vị Thiền sư, Sư muốn ngồi kết già viên tịch mặc dù chân của Sư bị thương và trước đó Sư cũng không thể nào ngồi kết già toạ thiền. Biết thời điểm đã đến, Sư dùng hết sức mình kéo chân trái đặt trên chân phải. Xương chân của Sư gãy, máu tuôn đầy ca-sa. Sư an nhiên ngồi thẳng và viết những dòng kệ sau:
Phật, Tổ ta đã đoạn
Tóc bay đã hết rối
Bánh xe tự tại chuyển
Chân không bèn nghiến răng.
Với sự xuất hiện của Sư, Thiền Nhật Bản đã vượt qua giai đoạn du nhập, các Thiền sư Nhật đã đạt được phong độ của các tiền bối tại Trung Quốc đời Đường, đời Tống. |
Viên Nhĩ Biện Viên (zh. 圓爾辨圓, ja. enni ben'en), 1202-1280, cũng được gọi là Thánh Nhất Quốc sư, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, hệ phái Dương Kì. Sau một cuộc du học bảy năm tại Trung Quốc, Sư được Thiền sư Vô Chuẩn Sư phạm ấn khả. Trở về Nhật, Sư khai sáng và trụ trì nhiều chùa và được Hoa Viên Thiên hoàng (ja. hanazono) sắc phong là Thánh Nhất Quốc sư (zh. 聖一國師, ja. shōichi kokushi). Đây là lần đầu tiên Nhật Bản có danh hiệu Quốc sư.
Sư xuất gia năm lên năm và sớm học giáo lý của Thiên Thai tông. Năm lên mười tám, Sư thụ giới cụ túc và sau đó, trong một khoảng thời gian ba năm, Sư chuyên học Nho giáo. Song song với các giáo lý trên, Sư cũng tu tập theo Mật giáo của Thiên Thai tông và được ấn chứng theo nghi lễ tông này năm 1228.
Năm 1235, Sư sang Trung Quốc và may mắn gặp được một trong những vị Thiền sư danh tiếng nhất thời là Vô Chuẩn Sư phạm ở Kính Sơn, trụ trì Vạn Thọ Thiền tự. Sau một thời gian tu tập không lâu, Sư được Vô Chuẩn ấn khả và tặng một bức tranh. Bức tranh này ngày nay vẫn còn được trưng bày tại Đông Phúc tự (ja. tōfuku-ji) tại Kinh Đô (kyōto).
Trở về Nhật, Sư sáng lập chùa Đông Phúc và trụ trì nơi đây. Ngoài ra, Sư còn quản lý hai thiền viện khác là Thụ Phúc (ja. jufuku-ji) và Kiến Nhân (ja. kennin-ji), cả ba đều là những thiền viện quan trọng nằm trong hệ thống Ngũ sơn thập sát của Liêm Thương và Kinh Đô.
Phương pháp dạy đệ tử của Sư bao gồm giáo lý của Thiên Thai, Chân ngôn và Thiền tông nhưng khác với Minh Am Vinh Tây (ja. myōan eisai), Thiền được xếp cao hơn hẳn hai giáo môn kia. Trong Thánh Nhất pháp ngữ (ja. shōichi hōgo), Sư trả lời câu hỏi:
"Tông này được gọi là nền tảng của tất cả các pháp, hiểu thế nào?":
"Thiền là Phật tâm, Giới luật chỉ là bề ngoài, giáo pháp là giảng nghĩa bằng văn tự, niệm Phật là Phương tiện (ja. hōben), cả ba đều xuất phát từ Phật tâm, vì thế tông này được xem là căn bản."
Hỏi: "Làm thế nào học để hiểu được 'Kiến tính thành Phật'?"
Sư đáp: "Cái hiểu biết qua Kinh (sa. sūtra), Luận (sa. śāstra) là thấy, nghe, thụ tưởng và nhận thức. Đó là cái hiểu biết của Phàm phu (sa. pṛthagjana, ja. bonpu), không phải cái hiểu biết chân thật. Ai biết xoay ánh sáng của tâm rọi chiếu trở lại sẽ nhìn ra Phật tính, người ta gọi là có huệ nhãn. Với huệ nhãn người ta kiến tính và thành Phật."
Sư mất năm 1280 tại Đông Phúc tự, thọ 80 tuổi. Đệ tử đắc pháp của Sư hơn 30 người. |
Đại Nhật Năng Nhẫn (zh. 大日能忍, ja. dainichi nōnin), thế kỷ 12-13, là một vị Thiền sư Nhật Bản, là người khai sáng Nhật Bản Đạt-ma tông (ja. nihon darumashū). Dòng thiền của Sư tồn tại không lâu vì sau này phần lớn các môn đệ chính đều gia nhập tông Tào Động (ja. sōtō) của Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền (ja. dōgen kigen). Người kế thừa Sư là Giác Yển (ja. kakuan).
Sư tu tập thiền không có sự hướng dẫn của thầy nhưng vẫn tự mình chứng ngộ. Vì không ai ấn chứng nên Sư không được chấp nhận. Thế nên, Sư viết một bức thư nhờ hai vị đệ tử sang Trung Quốc tìm thầy ấn chứng. Đệ tử của Sư đến yết kiến Thiền sư Phật Chiếu Đức Quang (ja. busshō tokkō, 1121-1203) thuộc tông Lâm Tế và được vị này thừa nhận, ấn khả. |
Ngũ sơn thập sát (zh. wǔshān shíshā 五山十剎, ja. gozan jissetsu), nghĩa là "năm núi và mười chùa", chỉ một giáo hội bao gồm năm ngọn núi và mười chùa tại hai thành phố Hàng Châu và Minh Châu, được Tống Ninh Tông sáng lập. Ngũ sơn thập sát tại Trung Quốc được theo gương của Ngũ tinh xá thập tháp tại Ấn Độ mà thành lập. Thiền tông Nhật Bản cũng theo cách tổ chức này mà thành lập Ngũ sơn thập sát tại hai thành phố lớn là Kinh Đô (kyōto) và Liêm Thương (kamakura). Ngũ sơn thập sát tại Nhật đã trở thành những trung tâm quan trọng của văn hoá và nghệ thuật tại đây (Ngũ sơn văn học). Tất cả năm núi và mười chùa tại Trung Quốc và Nhật Bản đều thuộc về tông Lâm Tế.
Danh từ "sơn" ở đây được sử dụng như một chùa, một Thiền viện bởi vì hầu hết các thiền viện đời xưa đều được thành lập trên một ngọn núi và các vị Thiền sư trụ trì tại đây cũng thường được gọi dưới tên ngọi núi này.
Ngũ sơn thập sát tại Trung Quốc
Ngũ sơn
Kính sơn (徑山) tại Hàng Châu với Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền tự (興聖萬壽禪寺)
A-dục vương sơn (阿育王山) tại Ninh Ba với Mậu Phong Quảng Lợi tự (廣利寺)
Thiên Đồng Sơn (天童山) tại Hàng Châu (杭州) với Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức tự (天童山景德寺)
Linh Ẩn sơn (靈隱山) tại Hàng Châu (杭州) với Cảnh Đức Linh Ẩn tự (景德靈隱寺)
Nam Bình sơn (南屏山) với chùa Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu Thiền tự (淨慈報恩光孝禪寺’).
Thập sát
Thiên Ninh Vạn Thọ Vĩnh Tộ tự (天寧萬壽永祚寺), tỉnh Chiết Giang
Hộ Thánh Vạn Thọ tự (護聖萬壽寺), tỉnh Chiết Giang
Thái Bình Hưng Quốc tự (太平興國寺, cũng gọi Linh Cốc tự 靈谷寺), tỉnh Giang Tô
Báo Ân Quang Hiếu tự (報恩光孝寺), tỉnh Giang Tô
Tư Thánh (資聖寺), tỉnh Chiết Giang
Long Tường tự (龍翔寺, cũng gọi Giang Tâm tự 江心寺), tỉnh Chiết Giang
Sùng Thánh tự (崇聖寺), tỉnh Phúc Kiến
Bảo Lâm tự (寶林寺), tỉnh Chiết Giang
Vân Nham tự (雲巖寺), tỉnh Giang Tô
Quốc Thanh tự (國清忠寺), tỉnh Chiết Giang
Ngũ sơn thập sát tại Nhật Bản
Ngũ sơn thập sát tại Nhật Bản thì thay đổi theo thời đại, vương triều. Mãi đến năm 1386 thì danh sách của Ngũ sơn tại đây mới có thể được gọi là hoàn chỉnh, cố định.
Chùa Nanzen, một ngôi chùa lớn tại Kyoto cũng có khi được đặt trên địa vị cao hơn Ngũ sơn tại đây. |
Ngũ sơn văn học (zh. 五山文學, ja. gozan bungaku) là tên gọi chung của những tác phẩm của các vị Thiền sư Nhật Bản thuộc hệ thống Ngũ sơn tại Kinh Đô (kyōto) trong thời Túc Lợi (ashikaga hoặc muromachi, 1338-1573). Thiền sư Trung Quốc Nhất Sơn Nhất Ninh - đến Nhật năm 1299 - và môn đệ người Nhật của sư là Tuyết Thôn Hữu Mai (zh. 雪村有梅, ja. sesson yūbai) được xem là Khai tổ của phong trào văn học này.
Các tác giả nổi danh nhất của Ngũ sơn văn học là:
Mộng Song Sơ Thạch (zh. 夢窗疏石, ja. musō soseki), không những là một Thiền sư trứ danh mà còn là một nghệ sĩ xuất chúng;
Hổ Quan Sư Luyện (zh. 虎關師鍊, ja. kokan shiren, 1278-1346), một môn đệ khác của Nhất Sơn Nhất Ninh;
Nghĩa Đường Châu Tín (zh. 義堂周信, ja. gidō shūshin, 1325-1388) và Tuyệt Hải Trung Tân (zh. 絕海中津, ja. zekkai chūshin, 1336-1405), cả hai đều là môn đệ của Mộng Song Sơ Thạch.
Các tác giả nêu trên chuyên nghiên cứu và phổ biến cách làm thơ (thi pháp) và triết lý của Tân nho giáo. Vì vậy, trong thời gian này, văn hoá, nghệ thuật và khoa học của Trung Quốc được truyền sang Nhật rất mạnh. Nhiều vị còn nổi danh trong các lĩnh vực nghệ thuật như Thư đạo (ja. shōdō),...
Qua những bài văn rõ ràng mạch lạc của mình - tất cả đều được viết bằng tiếng Nhật - Thiền sư Mộng Song Sơ Thạch đã góp công rất nhiều trong việc phổ biến Thiền học tại Nhật. |
Chùa Sōji (kanji: 總持寺, romaji: Sōji-ji) tại Yokohama là một trong hai Thiền viện chính của tông Tào Động tại Nhật Bản. Thiền viện này được một vị cao tăng tên Gyōgi (668-749) sáng lập, với tính cách là một ngôi chùa của tông Pháp tướng. Ngôi chùa này ban đầu nằm tại tỉnh Ishikawa. Từ khi Thiền sư Keizan Jyōkin (1268-1325) trụ trì ở đây, chùa này trở thành một thiền viện. Năm 1898, chùa Sōji được dời về Yokohama sau một cơn hoả hoạn. |
Chùa Eihei (kanji: 永平寺, romaji: Eihei-ji, phiên âm Hán-Việt: Vĩnh Bình tự) là một trong hai ngôi chùa chính của tông Tào Động ở Nhật Bản, được Thiền sư Dogen, người sáng lập phái Tào Động ở Nhật Bản thành lập năm 1243. Eihei nằm cách thành phố Fukui 10km về phía Đông.
Chú thích |
là một ngọn núi phía đông bắc thành phố Kyōto, nằm trên ranh giới giữa hai tỉnh Kyoto và Shiga.
Đây là nơi Đại sư Tối Trừng (ja. saichō) cho xây dựng Nhất Thừa Chỉ Quán viện (sau được đổi tên là chùa Diên Lịch) của tông phái Thiên Thai Nhật Bản vào đầu thế kỷ 9. Chùa này trở thành một trung tâm quan trọng của Phật giáo Nhật Bản vào thời Trung cổ, từng tiếp đón nhiều cao tăng của các trường phái khác như Chân ngôn tông (ja. shingon) và Thiền tông (ja. zen-shū). |
Đế quốc Quý Sương, tức Đế quốc Kushan (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan tới Biển Caspi và từ Afghanistan xuống đến lưu vực sông Hằng. Đế chế này được thành lập từ bộ lạc Quý Sương của dân Nguyệt Chi 月氏) đến từ Tân Cương (Trung Quốc) ngày nay, một dân tộc có thể có liên hệ với người Tochari. Do nằm tại trục giao thông huyết mạch của Trung Á, họ có quan hệ ngoại giao với Đế chế La Mã, Ba Tư Sassanid và nhà Hán Trung Quốc, và trong vài thế kỷ họ là trung tâm trao đổi giữa Đông Phương và Tây Phương.
Trong thế kỷ 1 và đầu thế kỉ 2 SCN, người Quý Sương bành trướng nhanh chóng trên phần phía bắc của khu vực Nam Á ít nhất là xa tới tận Saketa và Sarnath gần Varanasi (Benares), nơi mà các chữ khắc đã được tìm thấy với niên đại tới những năm đầu của thời đại của vị vua Quý Sương nổi tiếng nhất, Kanishka, mà dường như bắt đầu khoảng năm 127 SCN.
Các vị vua Quý Sương là một nhánh của liên minh Nguyệt Chi. Trước đó họ là một dân tộc du mục cư trú tại các thảo nguyên phía tây bắc của Trung Quốc, họ di chuyển về phía tây nam và định cư ở Bactria cổ đại. Họ cũng đã có quan hệ ngoại giao với Đế chế La Mã, nhà Sassanid của Ba Tư và nhà Hán ở Trung Quốc. Đế chế này suy yếu từ thế kỷ thứ 3 và sụp đổ bởi đế chế Sassanid và Đế chế Gupta.
Nguồn gốc
Tên Quý Sương từ tiếng Hoa 貴霜 để chỉ một trong năm bộ lạc người Nguyệt Chi, một liên minh lỏng lẻo của những dân tộc Ấn-Âu dùng các ngôn ngữ Tochari. Họ là người Ấn-Âu sống ở phía cực đông, trên những đồng cỏ khô cằn của lưu vực sông Tháp Lý Mộc ở Tân Cương ngày nay, đến khi dân Hung Nô đuổi họ về phía tây vào khoảng từ năm 176 TCN đến năm 160 TCN. Trong lịch sử Trung Quốc, năm bộ lạc Nguyệt Chi được gọi là Hưu Mật (休密), Quý Sương (貴霜), Song Mỹ (雙靡), Hật Đốn (肸頓), và Đô Mật (都密).
Dân Quý Sương tới Vương quốc Hy Lạp-Bactria, thuộc địa hạt Đại Hạ (miền bắc Afghanistan và Uzbekistan) vào khoảng năm 135 TCN, và chiếm đất và đẩy những triều đại Hy Lạp ở đấy tái định cư tại lưu vực sông Ấn Độ (ở nước Pakistan ngày nay) thuộc miền tây của Vương quốc Ấn-Hy Lạp.
Thời kì đầu
Một số dấu vết về sự hiện diện của người Quý Sương vẫn còn lại trong khu vực của Bactria và Sogdiana. Các công trình khảo cổ học được biết đến ở Takht-I-Sangin, Surkh Kotal (một ngôi chùa hoành tráng), và trong cung điện của Khalchayan. Một loạt các tác phẩm điêu khắc và những trụ gạch khác nhau đã được biết đến, đại diện là những cung thủ cưỡi ngựa, và đáng kể là một người đàn ông với hộp sọ nhân tạo bị biến dạng, chẳng hạn như hoàng tử Quý Sương của Khalchayan (một thực tế cũng chứng thực về nguồn gốc du mục Trung Á). Người Trung Quốc đầu tiên gọi những người này là Nguyệt Chi và nói rằng họ thành lập đế quốc Quý Sương, mặc dù mối quan hệ giữa người Nguyệt Chi và Quý Sương vẫn còn chưa rõ ràng. Trên đống đổ nát của thành phố cổ đại Hy Lạp cổ đại như Ai-Khanoum, Người Quý Sương được biết đến vì đã xây dựng pháo đài bảo vệ. Vị vua trong thư tịch đầu tiên, và là một trong những người đầu tiên tuyên bố mình là một vị vua Quý Sương, tên là Heraios. Ông tự gọi chính mình là một "bạo chúa" trên đồng tiền của mình. Ông có thể là được một đồng minh của người Hy Lạp, và ông đã chia sẻ cùng một phong cách của tiền đúc. Heraios có thể là cha của quốc vương Quý Sương đầu tiên, Kujula Kadphises.
Tài liệu Hậu Hán Thư của Trung Quốc ghi lại về sự hình thành của đế chế Quý Sương dựa trên một bản tấu của tướng Ban Dũng (con Ban Siêu) dâng lên Hán An Đế vào năm 125:
"Hơn một trăm năm sau [sau khi người Đại Nguyệt Chi chiếm Bactria], hấp hậu (nguyên văn chép 翕候, có lẽ là phiên âm từ thủ lĩnh theo ngôn ngữ địa phương) của Quý Sương (Badakhshan) là Khâu Tựu Tức (丘就卻, Kujula Kadphises) đã tấn công và tiêu diệt bốn hấp hậu khác, tự lập làm vương, quốc hiệu là Quý Sương (Kushan) vương. [Y] xâm chiếm An Tức (Indo-Parthia) và chiếm khu vực Cao Phụ (高附 - tức Kabul). [Y] diệt Bộc Đạt (濮达, Paktiya), Kế Tân (罽賓, Kapisha và Gandhara), mở rộng vương quốc. Khâu Tựu Tức ngoài 80 tuổi thì chết, con trai Diêm Cao Trân (閻高珍, có thể là Vema Tahktu hoặc em trai ông ta, Sadaṣkaṇa) kế nghiệp xưng vương. [Y] tiếp tục chinh phục Thiên Trúc (天竺 - Tây bắc Ấn Độ) và đặt một tướng cai quản ở đó. Người Nguyệt Chi từ đó trở nên giàu mạnh, các nước lân cận đều gọi là Quý Sương vương. Ở Hán vẫn theo tên cũ, gọi là Đại Nguyệt Chi". (Hậu Hán Thư,).
Ảnh hưởng văn hóa đa dạng
Trong thế kỷ 1 trước Công nguyên, người Quý Sương (贵霜) đã trở nên hùng mạnh hơn các bộ lạc Nguyệt Chi khác, và thống nhất họ thành một liên minh chặt chẽ dưới quyền yabgu Kujula Kadphises. Tên Quý Sương đã được chấp nhận ở phương Tây và sửa đổi thành Kushan để chỉ liên minh này, mặc dù người Trung Quốc tiếp tục gọi họ là Nguyệt Chi.
Dần dần giành giật quyền kiểm soát của khu vực từ các bộ tộc Scythia, người Quý Sương bành trướng về phía nam tiến vào các khu vực theo truyền thống được biết đến là Gandhara và thiết lập hai kinh đô song song ở Kabul ngày nay và Peshawar mà sau đó được gọi là Kapisa và Pushklavati.
Người Quý Sương chấp nhận các yếu tố của văn hóa Hy Lạp cổ đại của Bactria. Họ đã chấp nhận bảng chữ cái Hy Lạp cho phù hợp với ngôn ngữ riêng của họ (với sự phát triển thêm các chữ Þ "sh", như trong "Kushan") và sớm bắt đầu đúc tiền đúc theo kiểu Hy Lạp. Trên đồng tiền của họ họ sử dụng truyền thuyết ngôn ngữ Hy Lạp kết hợp với truyền thuyết Pali (trong chữ viết Kharoshthi), cho đến những năm đầu của triều đại Kanishka.
Người Quý Sương được cho chủ yếu là theo Hỏa Giáo.Tuy nhiên, từ triều đại Vima Takto, nhiều người Quý Sương bắt đầu chấp nhận các khía cạnh của văn hóa Phật giáo. Giống như Ai Cập, họ tiếp thụ các tàn dư của văn hóa Hy Lạp của các vương quốc Hy Lạp, ít nhất một phần bị Hy Lạp hóa. Đại đế Quý Sương Vima Kadphises có thể đã chấp nhận đạo Saivism, như phỏng đoán từ tiền xu đúc trong thời gian này.
Sự cai trị của người Quý Sương liên kết thương mại biển Ấn Độ Dương với thương mại của Con đường tơ lụa thông qua văn minh sông Ấn. Tại thời điểm đỉnh cao của triều đại, Người Quý Sương cai trị cai trị một vùng lãnh thổ lỏng lẻo mở rộng tới biển Aral ngày nay từ Uzbekistan, Afghanistan, và Pakistan tới miền bắc Ấn Độ.
Sự thống nhất lỏng lẻo và nền hòa bình tương đối của một vùng rộng lớn như vậy khuyến khích thương mại đường dài, mang lụa Trung Quốc tới La Mã, và tạo ra chuỗi các trung tâm đô thị phát triển.
Bành trướng lãnh thổ
Bằng chứng khảo cổ trực tiếp về sự thống trị của người Quý Sương suốt một thời gian dài về cơ bản có sẵn trong một khu vực trải dài từ Surkh Kotal, Begram, kinh đô mùa hè của người Quý Sương, Peshawar kinh đô dưới thời Kanishka I, Taxila và Mathura, kinh đô mùa đông của người Quý Sương.
Các khu vực khác có thể nằm dưới sự cai trị của họ bao gồm Khwarezm Kausambi (các cuộc khai quật của trường Đại học Allahabad), Sanchi và Sarnath (chữ khắc với tên và ngày tháng của các vị vua Quý Sương), Malwa và Maharashtra, Orissa.
Văn bia Rabatak mới được phát hiện xác nhận ghi chép của Hậu Hán Thư, Weilüe, và những chữ khắc có niên đại vào đầu thời đại Kanishka (có thể khởi đầu năm 127 CN), rằng lãnh thổ Quý Sương đã mở rộng sang khu trung tâm của miền bắc Ấn Độ vào đầu thế kỷ thứ 2.Các dòng 4-7 của văn bia mô tả những thành phố trực thuộc dưới sự cai trị của Kanishka, trong đó có sáu tên được nhận biết: Ujjain, Kundina, Saketa, Kausambi, Pataliputra, và Champa Về phía bắc, trong thế kỷ thứ 2 CN, người Quý Sương dưới thời Kanishka đã tiến hành những cướp phá khác nhau vào các lưu vực Tarim, dường như là đất đai ban đầu của tổ tiên của họ, người Nguyệt Chi,nơi họ đã có một số sự tiếp xúc với Trung Quốc. Cả hai phát hiện khảo cổ học và bằng chứng văn học cho thấy sự cai trị của người Quý Sương, tại Kashgar, Yarkand và Khotan.
Những vị vua Quý Sương chủ yếu
Kujula Kadphises (khoảng năm 30 – 80 CN)
Như đã nêu ở trên, Hậu Hán thư nhắc qua lời tấu của Ban Dũng vào năm 125"
Những cuộc chinh phục có thể diễn ra vào khoảng giữa năm 45 và 60, và đặt cơ sở cho Đế quốc Quý Sương mà đã nhanh chóng được mở rộng bởi các con cháu của ông.
Kujula đã ban hành rộng rãi một loạt tiền xu và là cha của ít nhất người hai con trai, Sadaṣkaṇa (người được biết đến chỉ từ hai câu khắc, đặc biệt là văn bia Rabatak, và dường như không bao giờ cai trị), và dường như là Vima Takto.
Kujula Kadphises là ông cố nội của Kanishka.
Vima Taktu hay Sadashkana (khoảng năm 80 – 95)
Vima Takto (tiếng Trung Quốc cổ: 阎膏珍 Diêm Cao Trân) không được đề cập trong văn bia Rabatak. Ông là tiên vương của Vima Kadphises, và Kanishka I. Ông đã mở rộng đế quốc Quý Sương về phía tây bắc của khu vực Nam Á. Hậu Hán Thư ghi lại:
Vima Kadphises (khoảng năm 95 – 127)
Vima Kadphises (tiếng Quý Sương: Οοημο Καδφισης) là một hoàng đế Quý Sương vào khoảng năm 90-100 CN, ông là con trai của Sadashkana và cháu trai của Kujula Kadphises, và cha của Kanishka I, theo ghi chép từ văn bia Rabatak.
Vima Kadphises đã mở rộng thêm lãnh thổ Quý Sương bằng những cuộc chinh phục của mình ở Afghanistan và tây bắc Pakistan. Ông cũng đã ban hành rộng rãi một loạt tiền xu và chữ khắc. Ông là người đầu tiên phát hành tiền đúc bằng vàng ở Ấn Độ, ngoài tiền đồng hiện có và tiền đúc bằng bạc
Kanishka I (khoảng năm 127-140)
Khoảng năm 127, vị vua thứ năm của Vương triều Quý Sương là Kanishka I (tức Ca Nị Sắc Vương) lên ngôi báu và trị nước phồn thịnh trong suốt 13 năm. Khi lên ngôi, Kanishka cai trị một vùng lãnh thổ lớn (hầu như tất cả miền bắc Ấn Độ), phía nam Ujjain và Kundina và phía đông vượt qua Pataliputra, theo văn bia Rabatak:
Lãnh thổ của ông được quản lý từ hai kinh đô: Purushapura (nay là Peshawar ở miền bắc Pakistan) và Mathura, ở miền bắc Ấn Độ. Ông cũng được ghi nhận (cùng với Raja Thoa) đã xây dựng pháo đài lớn, pháo đài Bathinda cổ(Qila Mubarak), tại thành phố Bathinda ngày nay, thuộc vùng Punjab của Ấn Độ.
Người Quý Sương cũng có một kinh đô mùa hè ở Bagram (sau đó được gọi là Kapisa), nơi mà "kho báu Begram ", bao gồm các tác phẩm nghệ thuật từ Hy Lạp tới Trung Quốc, đã được tìm thấy. Theo văn bia Rabatak, Kanishka là con trai của Vima Kadphises, cháu trai của Sadashkana, chắt nội của Kujula Kadphises. Thời đại Kanishka nói chung được ngày nay chấp nhận là bắt đầu vào năm 127 dựa trên cơ sở nghiên cứu đột phá của Harry Falk Thời đại Kanishka của sử dụng như là một lịch đối chiếu bởi người Quý Sương khoảng một thế kỷ, cho đến giai đoạn suy vong của vương quốc Quý Sương.
Vāsishka (khoảng năm 140 –160)
Vāsishka là một hoàng đế Quý Sương mà dường như đã trị vì 20 năm sau thời Kanishka. Sự cai vì của ông được ghi nhận là phía nam đến tận Sanchi (gần Vidisa), nơi một số chữ khắc tên của ông đã được tìm thấy, ngày tháng là năm 22 (văn bia Sanchi của "Vaksushana" - tức là Vasishka Kushana) và năm 28 (văn bia Sanchi của Vasaska - tức là Vasishka) của thời đại Kanishka.
Huvishka (khoảng năm 160 –190)
Huvishka (Tiếng Quý Sương Οοη ϸ κι, "Ooishki") là một hoàng đế Quý Sương khoảng 20 năm sau khi Kanishka qua đời (giả định trên các bằng chứng tốt nhất có sẵn trong năm 140 CN) cho đến khi Vasudeva I lên kế vị khoảng ba mươi năm sau đó. Thời kì trị vì của ông là một khoảng giai đoạn xây dựng và củng cố cho Đế quốc. Đặc biệt, ông dành thời gian và công sức vào giai đoạn đầu triều đại của ông cho các nỗ lực của kiểm soát thành phố Mathura tốt hơn.
Vasudeva I (khoảng năm 190 – 230)
Vasudeva I (tiếng Quý Sương: Βαζοδηο "Bazodeo", chữ Hán: 波调, "Ba Điệu") là vị đại đế Quý Sương cuối cùng. Các chữ khắc tên ông có niên đại từ năm 64 đến năm 98 của thời đại Kanishka, đưa ra giả thuyết là triều đại của ông kéo dài từ ít nhất năm 191 đến 225 CN. Ông là hoàng đế Quý Sương vĩ đại cuối cùng, và sự cai trị của ông kết thúc trùng hợp với cuộc xâm lược của nhà Sassanid xa tới tận Tây Bắc Ấn Độ, và thành lập triều đại Ấn-Sassanid hoặc Kushanshahs từ khoảng năm 240 CN.
Các vị thần của người Quý Sương
Hệ thần trong tôn giáo của người Quý Sương là cực kỳ đa dạng, như tiết lộ từ các đồng tiền của họ và con dấu của họ, mà trên đó có hơn 30 vị thần khác nhau xuất hiện, của người Hy Lạp, Iran, và một mức độ thấp hơn từ Ấn Độ. Các vị thần Hy Lạp, với những cái tên Hy Lạp xuất hiện trên các đồng xu vào giai đoạn đầu. Trong thời gian trị vì của Kanishka, ngôn ngữ của các tiền đúc thay đổi thành tiếng Bactria (mặc dù nó vẫn còn những chữ khắc Hy Lạp cho tất cả các vị vua). Sau thời Huvishka, chỉ có hai vị thần xuất hiện trên các đồng tiền: Ardoxsho và Oesho.
Đại diện cho sự xuất hiện của các thần từ thần thoại Hy Lạp và thuyết hỗn mang Hy Lạp cổ đại là:
Ηλιος (Helios), Ηφαηστος (Hephaistos), Σαληνη (Selene), Ανημος (Anemos). Hơn nữa, các đồng tiền của Huvishka cũng miêu tả hai bán-thần: erakilo Heracles, và sarapo Sarapis.
Các vị Phật, thần Ấn Độ xuất hiện trên tiền đúc bao gồm:
Βοδδο (boddo, Phật Thích-ca Mâu-ni)
Μετραγο Βοδδο (metrago boddo, Bồ tát Di-lặc)
Mαασηνo (maaseno, Mahasena)
Σκανδo koμαρo (skando komaro, Skanda Kumara)
þακαμανο Βοδδο (shakamano boddho, Phật Thích-ca Mâu-ni)
Các vị thần Iran xuất hiện trên tiền xu bao gồm:
Αρδοχþο (ardoxsho, Ashi Vanghuhi)
Aþαειχþo (ashaeixsho, Asha Vahishta)
Αθþο (athsho, Atar)
Φαρρο (pharro, Khwarenah)
Λροοασπο (lrooaspa, Drvaspa)
Μαναοβαγο, (manaobago, Vohu Manah)
Μαο (mao, Mah)
Μιθρο, Μιιρο, Μιορο, Μιυρο (mithro and variants, Mithra)
Μοζδοοανο (mozdooano, Mazda *vana "Mazda thần chiến thắng?")
Νανα, Ναναια, Ναναϸαο (variations of pan-Asiatic nana, Sogdian nny, in a Zoroastrian context Aredvi Sura Anahita)
Οαδο (oado Vata)
Oαxþo (oaxsho, "Oxus")
Ooρoμoζδο (ooromozdo, Ahura Mazda)
Οραλαγνο (orlagno, Verethragna)
Τιερο (tiero, Tir)
Người Quý Sương và Đạo Phật
Giao lưu văn hóa cũng phát triển mạnh mẽ, khích thích sự phát triển của Hy Lạp-Phật giáo, một sự hợp nhất của các yếu tố Hy Lạp với các yếu tố văn hóa Phật giáo, mà đã mở rộng vào vùng trung và phía bắc châu Á.
Vua Kanishka đã nổi tiếng trong truyền thuyết Phật giáo vì ông đã triệu tập một Hội đồng Phật giáo lớn ở Kashmir.
Nghệ thuật Quý Sương
Nghệ thuật và văn hóa Gandhara, ở giai đoạn bước ngoặt người Quý Sương nắm quyền bá chủ, là sự biểu hiện tốt nhất được biết đến của ảnh hưởng Quý Sương với người phương Tây. Một số miêu tả trực tiếp của người Quý Sương được biết đến từ Gandhara, nơi họ được thể diện với một đai lưng, áo dài và quần dài và đóng vai các tín đồ của Đức Phật, cũng như Bồ Tát và Phật Di Lặc tương lai.
Trong hình tượng, tuy nhiên,họ không có liên quan với những bức tượng "Phật Đứng" rất Hy Lạp (xem hình ảnh), do đó có thể tương ứng với một giai đoạn lịch sử trước đó. Phong cách của những trụ gạch kết hợp tín đồ Quý Sương đã được Ấn Độ hóa mạnh mẽ, khác xa những miêu tả theo kiểu Hy Lạp cổ đại trước đó của Đức Phật:
Tiếp xúc với La Mã
Một vài nguồn La Mã cổ đại đã mô tả chuyến thăm của sứ thần từ các vua Bactria và Ấn Độ trong thế kỷ thứ 2, có thể đề cập đến người Quý Sương.
Historia Augusta, khi nói về Hoàng đế Hadrian (117-138), có ghi:
"Reges Bactrianorum legatos ad eum, amicitiae petendae causa, supplices miserunt"
"Các vị vua của người Bactria đã gửi những sứ thần nhún nhường tới chỗ ngài, thỉnh cầu tình hữu nghị với ngài."
Cũng trong năm 138, theo Aurelius Victor (Epitome, XV, 4), và Appian (Praef., 7), Antoninus Pius, người kế vị Hadrian, cũng đã tiếp đón một số người Ấn Độ, những sứ thần người Bactria Hyrcania.
Tiếp xúc với Trung Hoa
Trong thế kỷ 1 và 2, Vương triều Quý Sương đã mở rộng các chiến dịch quân sự về phía bắc và chiếm đóng các phần của lòng chảo Tarim, vùng đất ban đầu của họ, đặt nó vào trung tâm của thương mại Trung Á đang sinh lợi với Đế chế La Mã. Họ có liên quan đến việc liên kết quân sự với người Trung Quốc để chống lại sự xâm nhập của các bộ lạc du cư, cụ thể là khi họ liên kết với tướng Trung Quốc là Ban Siêu để chống lại người Sogdian năm 84, khi những người này cố gắng ủng hộ cuộc nổi dậy của vua Kashgar. Khoảng năm 85, họ cũng hỗ trợ người Trung Quốc trong cuộc tấn công Thổ Phồn, ở miền đông lòng chảo Tarim.
Để đòi hỏi sự ghi nhận việc ủng hộ của mình với người Trung Quốc, người Quý Sương đã đòi hỏi (nhưng bị từ chối) các công chúa người Hán, ngay sau khi họ gửi các tặng phẩm cho triều đình Trung Quốc. Để trả thù, họ đã tấn công Ban Siêu năm 86 bằng một lực lượng tới 70.000 quân, nhưng, bị mệt mỏi do cuộc hành quân, cuối cùng họ đã bị lực lượng Trung Quốc ít người hơn đánh bại. Người Quý Sương phải rút lui và cống nộp cho hoàng đế Trung Hoa trong thời gian trị vì của Hán Hòa Đế (89-106).
Sau này, khoảng năm 116, người Quý Sương dưới thời Kanishka thành lập một vương quốc đóng đô ở Kashgar, cũng nắm quyền kiểm soát của Khotan và Yarkand, mà là những chư hầu của Trung Quốc trong lưu vực Tarim, Tân Cương hiện nay. Họ đã giới thiệu văn tự Brahmi, ngôn ngữ Prakrit của người Ấn Độ cho việc cai trị, và mở rộng ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp-Phật giáo mà đã phát triển thành nghệ thuật Serindia. Nhà sư Quý Sương Lokaksema là người đầu tiên được biết đến là đã dịch kinh Phật Đại thừa sang tiếng Hán, khoảng năm 170.
Suy yếu
Sau khi Vasudeva I qua đời năm 225, đế quốc Quý Sương chia thành nửa phía tây và phía đông. Người Tây Quý Sương (Afghanistan) đã nhanh chóng bị khuất phục bởi đế quốc Sassanid của Ba Tư và mất Bactria và các vùng lãnh thổ khác. Năm 248, họ bị đánh bại một lần nữa bởi người Ba Tư, những người đã lật đổ triều đại phía Tây và thay thế họ bằng các chư hầu Ba Tư được gọi là người Kushansha (Ấn-Sassanid).
Vương quốc Đông Quý Sương có căn cứ tại Punjab. Khoảng năm 270, vùng lãnh thổ của họ trên vùng đồng bằng Gangetic đã giành độc lập dưới triều đại địa phương như người Yaudheyas. Sau đó, vào giữa thế kỷ thứ 4, họ đã bị chinh phục bởi Đế chế Gupta dưới thời Samudragupta.
Năm 360 một chư hầu Quý Sương tên là Kidara đã lật đổ triều đại Quý Sương cũ và thành lập Vương quốc Kidarite. Phong cách Quý Sương của tiền xu Kidarite cho biết họ coi bản thân mình là người Quý Sương. Kidarite dường như đã khá thịnh vượng, mặc dù trên một quy mô nhỏ hơn so với những người Quý Sương tiền nhiệm của họ.
Những tàn tích của đế chế Quý Sương cuối cùng đã bị xóa sổ trong thế kỷ thứ 5 bởi cuộc xâm lược của người Hun trắng, và sau đó là sự mở rộng của đạo Hồi.
Các vị vua
Heraios (khoảng năm 1 – 30), vị vua Quý Sương đầu tiên
Kujula Kadphises (khoảng năm 30 – khoảng năm 80)
Vima Takto, (khoảng năm 80 – khoảng năm 95) biệt hiệu là Soter Megas hoặc "Vị cứu tinh Vĩ Đại."
Vima Kadphises (khoảng năm 95 – khoảng năm 127) vị hoàng đế Quý Sương vĩ đại đầu tiên
Kanishka Đại Đế (127 – khoảng 140)
Vāsishka (khoảng năm 140 – khoảng năm 160)
Huvishka (khoảng năm 160 – khoảng năm 190)
Vasudeva I (khoảng năm 190 – tối thiểu là tới năm 230), Vị hoàng đế Quý Sương vĩ đại cuối cùng
Kanishka II (khoảng năm 230 – 240)
Vashishka (khoảng năm 240 – 250)
Kanishka III (khoảng năm 250 – 275)
Vasudeva II (khoảng năm 275 – 310)
Vasudeva III được cho là con của Vasudeva II, không chắc chắn.
Vasudeva IV được cho là con của Vasudeva III, cai trị ở Kandahar, không chắc chắn.
Vasudeva V, hoặc "Vasudeva của Kabul" được cho là con của Vasudeva IV, cai trị ở Kabul, không chắc chắn.
Chhu (khoảng năm 310? – 325?)
Shaka I (khoảng năm 325 – 345)
Kipunada (khoảng năm 345 – 375)
Chú thích |
Cá sấu Xiêm (danh pháp hai phần: Crocodylus siamensis), còn gọi là cá sấu Thái Lan hay cá sấu nước ngọt, là loài cá sấu nước ngọt sinh sống ở Indonesia (Borneo và có thể là Java), Brunei, Đông Malaysia, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam.
Trong điều kiện tự nhiên chúng thích sống ở các vùng nước chảy chậm như đầm, sông và hồ. Phần lớn cá sấu trưởng thành không dài quá 3 m (10 ft), mặc dù trong điều kiện chăn nuôi có những con lai có thể dài hơn. Cá sấu Xiêm thuần chủng nói chung không gây nguy hiểm cho con người, và không có trường hợp cá sấu tấn công người khi không bị khiêu khích nào được ghi nhận.
Tập tính và kích thước
Đây là 1 loài có khích thước trung bình, đa số cá thể đều đạt kích thước dưới 3,5 mét. Việc làm tổ cảu loài này không được ghi chép đầy đủ và cho đến nay đã có vài chục tổ trứng đã được ghi nhận. Các tổ trứng hoang dã đã được ghi nhận ở Lào, Campuchia, Thái Lan ở các gò đất nằm trên thảm thực vật nổi, bên bờ hồ hoặc sông. Chúng thường làm tổ vào cuối mùa khô và mùa mưa. Theo quan sát, số lượng trứng được đẻ ra dao động từ 11 đến 26 trứng. Con non xuất hiện sau 70 đến 80 ngày ấp vào mùa mưa. Chúng thường ăn các loài động vật không xương sống, ếch, bò sát, chim và động vật có vú, bao gồm cả xác thịt.
Tình trạng bảo tồn
Vì bị săn bắt cực kỳ thái quá nên loài cá sấu này đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và nó được xếp vào trong danh sách các loài đang cực kỳ nguy cấp. Năm 1992, người ta tin là loài này đã tuyệt chủng, hoặc gần tuyệt chủng trong tự nhiên. Kể từ đó, các cuộc khảo sát đã phát hiện ra những quần thể rất nhỏ tại Thái Lan (2 con). Các nhà bảo tồn đã tìm thấy ổ các cá sấu Xiêm con ở tỉnh miền nam của Lào là Savannakhet và ở khu vực xã Ea Lâm (Sông Hinh, Phú Yên) (ít hơn 100 con). Điều này làm tăng hy vọng cho loài gần như tuyệt chủng này có cơ hội sống sót.
Tại Công viên Quốc gia Bang Sida tại Thái Lan, gần Campuchia, hiện có một chương trình đưa cá sấu Xiêm trở lại tự nhiên. Một số cá sấu con đã được thả vào các vùng nước hẻo lánh trong tự nhiên trong khu vực công viên quốc gia, mà khách tham quan không tới được.
Tại Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã Phnom Tamao ở Campuchia, người ta đã tiến hành nghiên cứu DNA của 69 cá sấu năm 2009, và xác nhận rằng 35 trong số đó thuộc họ C. Siamensis thuần chủng. Những nhà bảo tồn thuộc tổ chức Fauna and Flora International and Wildlife Alliance đã có kế hoạch sử dụng những cá sấu này để nhân giống, hợp tác với Bộ quản lý rừng Campuchia.
Phân bố
Cá sấu Xiêm từng có phạm vi phân bố rộng, trải dài phần lớn Đông Nam Á và một số vùng ở Indonesia. Tuy nhiên, phạm vi sinh sống đã giảm đi rất nhiều và phân mảnh kể cả ở các quần thể còn lại thuộc Việt Nam, Campuchia, CHHCND Lào, Thái Lan và Indonesia. Ở Việt Nam, nơi mà sự kiện tuyệt chủng đã xảy ra, khiến cho chúng gần như tuyệt chủng, sau đó 1 vài cá thể đã được tái thả vào Bàu Sấu. Hầu hết nơi chúng sinh sống là ở độ cao 50 đến 200 mét nhưng chúng có thể phân bố ở độ cao 560 mét ở Đầm lầy Veal Ven và thượng nguồn Sông Tatai. Tóm tắt về phân phối quốc gia như sau:
Campuchia: Khảo sát thực địa từ năm 2000 đã xác nhận cá sấu Xiêm phân bố ở 35 địa điểm thuộc 21 hệ thống sông của 11 tỉnh, chủ yếu là các khu vực xa xôi về phía tây nam và đông bắc của Campuchia. Các quần thể lớn nhất còn lại phân bố ở các con sông Srepok, Sekong, Sre Ambel / Kampong Saom, Pursat, Koi, Kep, Tatai, Areng và Đầm lầy Veal Ven.
Indonesia: Tại hồ Mesangat thuộc hệ thống sông Mahakam, tỉnh Đông Kalimantan (Borneo), có hỗ trợ 1 quần thể nằm ngoài lục địa Đông Nam Á. Theo nghiên cứu từ năm 2010 đến 2011 của N. Behler đã xác nhận sự tồn tại của quần thể này. Có một vài báo cáo địa phương về sự hiện diện của chúng tại Trung Kalimantan nhưng chưa được xác định. Một vài mẫu vật cũng được thu giữ ở Java cho thấy phạm vị phân bố trước đây của chúng, nhưng với sự mất mát nghiêm trọng của các môi trường đất ngập nước ở đó, không có khả năng quần thể nào còn lại.
CHDCND Lào: Các cuộc khảo sát từ năm 2003 đến 2008 cho thấy cá sấu Xiêm phân bố ở 9 hệ thống sông ở 5 tỉnh nhưng các quần thể còn tồn tại chỉ được biết đến từ bảy hệ thống sông ở bốn tỉnh. Các cuộc điều tra đã xác nhận các báo cáo trước đây cho thấy nhiều quần thể địa phương hiện đã bị tiêu diệt. Các quần thể còn lại ở hệ thống sông Xe Champhone, Xe Banghiang, Se Bangfai và Xe Xangxoy (tỉnh Savannakhet), hệ thống sông Xe Pian-Xe Khampho (tỉnh Attapu), sông Xe Don (tỉnh Saravane) và Khu bảo tồn quốc gia Phou Khaokhouay (Tỉnh Bolikhamxay). Hầu hết các vùng đất ngập nước ở CHDCND Lào vẫn chưa có cá sấu và có vẻ như Các địa phương của cá sấu Xiêm sẽ được ghi lại.
Malaysia: Một tài liệu tham khảo duy nhất về 'cá sấu nước ngọt' ở phía bắc Bán đảo Malaysia (Robinson và Annandale 1904 được Smith trích dẫn 1919) được Smith (1919) coi là 'có thể có giá trị đối với loài này'. Không có hồ sơ nào về loài này được biết đến từ Sarawak hoặc Sabah. Không có thông tin nào khác cho thấy cá sấu Xiêm xuất hiện ở Malaysia.
Myanmar: Một ghi chép về cá sấu và trứng, từ sông Mekong, không có hồ sơ nào khác được biết đến, mặc dù hầu hết các vùng đất ngập nước ở Myanmar vẫn không có cá sấu. Đoạn sông Mekong ở Myanmar (dài ~ 200 km) hiện đang bị hạn chế tiếp cận và bị giới hạn đối với các cuộc khảo sát quốc tế. Hình ảnh vệ tinh của Google chỉ ra rằng phần lớn diện tích vẫn giữ được rừng ven sông và mật độ người thấp: có thể một số loài cá sấu vẫn tồn tại.
Thái Lan: Lịch sử phổ biến và phân bố rộng rãi của loài này. Các quần thể ít tồn tại ở một số các địa phương ở miền trung và miền tây Thái Lan. Các địa điểm đã được xác nhận bao gồm Vườn quốc gia Pang Sida và Kaengkrachan.
Việt Nam: Lịch sử hiện diện của loài này có ở miền Nam Việt Nam nơi mà chúng đã tuyệt chủng. Các quần thể hoang dã có thể bị tuyệt chủng. Các cuộc khảo sát trong hơn hai thập kỷ qua đã không phát hiện được cá sấu ở các địa điểm mà chúng được báo cáo là đã xuất hiện, ngoài trừ ngoại trừ một địa điểm là hồ Hà Lầm (tỉnh Phú Yên), nơi có ít nhất hai cá thể vào năm 2005 nhưng hiện tai cũng đã tuyệt chủng. Một quần thể được giới thiệu lại duy nhất là tại Vườn Quốc gia Cát Tiên, nơi mà chúng đã sinh sản.
Chú thích |
Cá sấu sông Nin, tên khoa học Crocodylus niloticus là một loài cá sấu trong họ Crocodylidae. Loài này được Laurenti mô tả khoa học đầu tiên năm 1768.<ref>{{Chú thích web| url=http://reptile-database.reptarium.cz/species?genus=Crocodylus&species=niloticus| tiêu đề=Crocodylus niloticus | ngày truy cập=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> Chúng là loài cá sấu châu Phi lớn nhất và là động vật ăn thịt thượng hạng trong khu vực sinh sống của chúng, là khu vực bao gồm phần lớn miền nam sa mạc Sahara cũng như đảo Madagascar. Được biết đến như là động vật ăn thịt người, chúng vừa bị ghét vừa được sùng kính, đặc biệt là ở Ai Cập cổ đại khi mà các con cá sấu đã được ướp xác và tôn thờ như là thánh thần. Trong khi chúng chưa bị đe dọa tuyệt chủng thì quần thể tại nhiều quốc gia vẫn đang bị nguy hiểm do số lượng sụt giảm.
Đặc điểm
Chuyên khảo lớn và hiện đại đầu tiên về cá sấu là Các kết quả khoa học về yêu cầu trong sinh thái học và địa vị kinh tế của cá sấu sông Nin (Crocodilus niloticus) ở Uganda của Hugh B. Cott. Kích thước, danh tiếng, phạm vi sinh sống rộng và quan hệ với loài người của chúng vẫn tiếp tục làm cho chúng nổi tiếng hơn cả trong các loài cá sấu.
Giống như mọi loài cá sấu khác, chúng là động vật tứ chi với 4 chân ngắn và bàn chân bẹt; đuôi dài và rất khỏe; da có vảy với các hàng mai hóa xương chạy dọc theo lưng và đuôi của chúng; và các quai hàm khỏe. Chúng có màng nhầy để bảo vệ mắt của mình, và mặc dù có huyền thoại "về nước mắt cá sấu" nhưng chúng có tuyến lệ và có thể làm vệ sinh mắt bằng nước mắt.
Các lỗ mũi, mắt và tai nằm ở phần đỉnh của đầu chúng, vì thế các phần còn lại của cơ thể có thể che giấu dưới nước. Màu sắc cũng giúp chúng ngụy trang rất tốt: Những con non có màu xám, xanh ôliu sẫm hoặc nâu, với các dải màu nằm ngang sẫm hơn tên cơ thể và đuôi. Khi chúng trưởng thành thì màu của chúng sẫm hơn và các dải màu nằm ngang mờ dần đi, đặc biệt là các dải màu trên cơ thể. Lớp da dưới bụng màu vàng và được sử dụng để chế tạo da cá sấu chất lượng cao.
Cá sấu sông Nin thông thường trườn dọc theo bụng của chúng, nhưng chúng có thể "nhảy cao". Các cá thể nhỏ hơn có thể phóng nhanh, và thậm chí cả các cá thể lớn hơn cũng có khả năng tăng tốc độ đột biến đáng ngạc nhiên, đạt tới 12–14 km/h (7,5-8,5 dặm/h). Chúng có thể bơi khá nhanh bằng cách chuyển động cơ thể và đuôi của chúng theo đường hình sin, và chúng có thể duy trì kiểu chuyển động này khá lâu.
Chúng có tim 4 ngăn, giống như chim, điều đó rất có hiệu quả trong việc chuyên chở và cung cấp oxy cho máu của chúng. Thông thường chúng chỉ lặn trong vài phút, nhưng có thể ẩn mình dưới nước tới 30 phút nếu gặp nguy hiểm, và nếu chúng ngừng hoạt động thì có thể giữ cho hơi thở kéo dài tới 2 giờ dưới nước. Chúng có sự trao đổi chất thuộc hệ máu lạnh, vì thế chúng có thể sống rất lâu giữa hai lần có thức ăn — vì thế khi ăn, chúng có thể ăn một khối lượng thức ăn bằng một nửa khối lượng cơ thể mỗi lần.
Chúng có thể phát ra các âm thanh trong một khoảng rộng và có cơ quan thính giác tốt. Trên da của chúng có một loạt các giác quan mà con người vẫn chưa hiểu hết, giúp cho chúng có phản ứng kịp thời với các thay đổi trong áp lực nước.
Quai hàm của chúng có khả năng tạo ra một lực mạnh khi chúng bắt giữ con mồi. Miệng của chúng có tổng cộng 64 - 68 răng hình nón. Trên mỗi hàm có 5 răng cửa, 13 hay 14 răng trên mỗi bên của hàm trên, và 14 hay 15 răng trên mỗi bên của hàm dưới. Cá sấu mới sinh nhanh chóng mất đi mảnh da cứng trên đỉnh miệng của chúng (gọi là răng trứng, do chúng sử dụng cái này để phá vỡ vỏ trứng để chui ra khi mới sinh).
Kích thước
Cá sấu sông Nin có thể dài tới 5 m (16 ft), ít khi thấy chúng dài tới 5,5 m (18 ft). Cá sấu trưởng thành nặng khoảng 225 kg (500 lb), và có một số cá thể có thể nặng tới 700 kg (1.500 lb). Giống như các loài cá sấu khác, chúng là lưỡng hình theo giới, với con đực thông thường to hơn con cái khoảng 30%, mặc dù khác biệt này là nhỏ hơn so với các loài cá sấu khác, chẳng hạn cá sấu nước mặn.
Người ta cũng thông báo là có các cá thể dài tới 7 m (23 ft) và lớn hơn, nhưng điều này bị nghi ngờ do người ta thường hay thổi phồng các số liệu tổng thể. Người ta vẫn chưa biết tại sao một số cá sấu sông Nin to lớn hơn các cá sấu sông Nin khác, nhưng có lẽ là do chúng có môi trường sống thích hợp hơn. Vì thế cá sấu sông Nin ngày nay trong hoang dã khó có thể phá vỡ các kỷ lục: trước khi diễn ra các cuộc săn bắt trên quy mô lớn trong những năm thập niên 1940 và 1950, các quần thể lớn hơn sinh sống ở các môi trường đầm đất lầy có thể to lớn hơn bây giờ.
Có một số chứng cứ cho thấy cá sấu sông Nin ưa thích khí hậu mát mẻ. Các cá sấu sông Nin ở miền nam châu Phi nhỏ hơn, và chỉ dài khoảng 4 m (13 ft). Cá sấu sông Nin lùn cũng tồn tại ở Mali và sa mạc Sahara, chúng chỉ dài từ 2 – 3 m (6,5 – 10 ft). Chúng suy giảm kích thước có lẽ là do không có môi trường sống lý tưởng, chứ không phải do di truyền.
Trưởng thành và sinh sản
Con đực đạt đến độ tuổi trưởng thành sinh dục khi chúng dài khoảng 3 m (10 ft); trong khi con cái thì khi chúng dài 2 - 2,5 m (6,5 – 8 ft). Điều này diễn ra vào khoảng năm thứ 10 cho cả hai giới trong các điều kiện bình thường.
Trong mùa sinh sản, con đực hấp dẫn con cái bằng cách gầm rống, đập mõm của chúng xuống nước, phun nước ra từ mũi, và phát ra đủ mọi thứ tiếng động. Các con đực to lớn có xu hướng thắng thế hơn. Khi con cái bị hấp dẫn thì cặp cá sấu này cọ xát mặt bên dưới của quai hàm của chúng với nhau. Con cái đẻ trứng khoảng 2 tháng sau khi giao phối.
Việc làm ổ đẻ diễn ra trong tháng 11 hoặc tháng 12, là mùa khô ở miền bắc châu Phi, và là mùa mưa ở miền nam. Các chỗ ưa thích làm ổ là các bờ cát, bờ sông hay các chỗ khô ráo. Con cái đào lỗ cách bờ sông vài mét và sâu khoảng 50 cm (20 inch) và đẻ từ 25 đến 80 trứng. Số lượng trứng dao động theo từng quần thể, nhưng trung bình khoảng 50 quả. Các ổ trứng cá sấu có thể rất gần nhau.
Khi đẻ trứng xong, con cái phủ lấp trứng bằng cát và bảo vệ chúng khoảng 3 tháng của thời kỳ ấp trứng. Con đực thường nằm gần đó và cả hai sẵn sàng tấn công bất kể người hay động vật nào đến gần trứng của chúng. Con cái chỉ rời ổ khi chúng cần điều chỉnh thân nhiệt bằng cách ngâm mình rất nhanh xuống nước hay tìm chỗ có bóng râm. Mặc dù các ổ trứng được cha mẹ chúng bảo vệ kỹ lưỡng nhưng chúng vẫn bị con người hay các loài thằn lằn (các loài bò sát thuộc chi Varanus) hay các động vật khác lấy đi khi con mẹ tạm thời vắng mặt.
Trước khi chào đời con non bao giờ cũng phát ra các tiếng kêu nhỏ, đây là tín hiệu để con mẹ phá bỏ ổ. Cả hai con mẹ và cha có thể đưa trứng vào miệng và lăn chúng giữa lưỡi và vòm miệng trên của chúng để giúp con sơ sinh phá vỡ lớp vỏ trứng để chui ra. Sau khi chúng sinh ra, con mẹ sẽ dẫn chúng xuống nước hoặc đem chúng xuống trong miệng của mình.
Cá sấu sông Nin có sự xác định giới tính phụ thuộc nhiệt độ (TSD), có nghĩa là giới tính của con sơ sinh sẽ không phụ thuộc vào di truyền mà phụ thuộc vào nhiệt độ trung bình trong khoảng giữa của thời kỳ ấp trứng của chúng. Nếu nhiệt độ trong ổ là thấp hơn 31,7 °C (89,1 °F), hay cao trên 34,5 °C (94,1 °F), con non sinh ra sẽ là con cái. Con đực chỉ có thể sinh ra khi nhiệt độ nằm trong khoảng hẹp chỉ 2,8 độ (31,7 - 34,5).
Con non dài khoảng 30 cm (12 inch) khi mới sinh. Con mẹ sẽ bảo vệ chúng cho đến khi chúng được 2 năm tuổi, và nếu có nhiều ổ trứng trong cùng một khu vực, các con mẹ có thể tạo ra crèche. Trong thời gian này, các con mẹ có thể bảo vệ các con của mình bằng cách cho chúng vào trong miệng hoặc trong cổ họng. Vào cuối năm thứ hai, con non sẽ dài khoảng 1,2 m (4 ft), và sẽ dời bỏ khu vực ổ, tránh xa lãnh thổ của các con cá sấu già và lớn hơn.
Tuổi thọ của cá sấu sông Nin chưa được xác định rõ, nhưng các loài to lớn như cá sấu sông Nin thường sống lâu hơn và có tuổi thọ khoảng 70 năm.
Thức ăn và thói quen ăn uống
Con sơ sinh ăn côn trùng và các loài động vật không xương sống nhỏ dưới nước, và nhanh chóng thích nghi với các thức ăn từ động vật lưỡng cư, bò sát và chim. Tuy nhiên, 70% thức ăn của cá sấu sông Nin là cá, mặc dù những con cá sấu lớn có khả năng ăn thịt gần như bất kỳ động vật có xương sống nào khi chúng đi uống nước, ngoại trừ chỉ có voi và hà mã trưởng thành. Chúng cũng ăn thịt ngựa vằn, hà mã non, trâu, linh dương như gnu (phát âm nu - các loài động vật thuộc chi Connochaetes, trông giống như bò), và thậm chí cả các động vật lớn thuộc họ Mèo và các con cá sấu khác.
Cá sấu sông Nin trưởng thành sử dụng thân hình và đuôi của chúng để dồn cá thành một bầy về phía bờ sông để ăn thịt chúng với những cú cắn ngang đầu chúng. Chúng cũng hợp tác để ngăn chặn cá di cư bằng cách tạo ra các cung tròn ngang trên sông. Những con cá sấu to lớn nhất được ăn đầu tiên.
Khả năng ngụy trang bằng cách ngâm mình dưới nước cùng với tốc độ cao trong những khoảng cách nhỏ giúp chúng có hiệu quả trong việc săn bắt các con mồi lớn. Chúng ngoạm các con mồi như thế bằng trong các hàm cực khỏe và kéo con mồi xuống nước, và cố gắng giữ con mồi ở đó cho đến khi chúng bị chết đuối vì ngạt thở. Chúng cũng sẽ ăn thịt các loài chết đã lâu, mặc dù chúng tránh không ăn thịt thối rữa. Các nhóm cá sấu sông Nin có thể bò hàng trăm mét xa nguồn nước để săn tìm thức ăn tươi sống.
Khi con mồi của chúng đã chết, chúng xé toạc và ăn từng tảng thịt to. Khi nhóm cá sấu sông Nin chia sẻ thức ăn, chúng sử dụng nhau như là đòn bẩy, cắn sâu vào cơ thể con mồi và sau đó vặn xoắn cơ thể chúng để tách ra những lớp thịt lớn. Chúng cũng có thể tạo ra đòn bẩy cần thiết bằng cách hãm con mồi ở dưới các tảng đá hay cành cây, trước khi cắn xé và vặn mình.
Cá sấu sông Nin còn nổi tiếng với quan hệ cộng sinh với một số loài chim như choi choi. Theo các báo cáo, cá sấu há miệng rộng và sau đó các con chim choi choi sẽ rỉa các miếng thịt nhỏ còn rắt trong răng của cá sấu. Điều này rất khó kiểm chứng, nó có lẽ không phải là quan hệ cộng sinh thực thụ.
Khu vực sinh sống
Khu vực sinh sống ưa thích của cá sấu sông Nin là dọc theo các con sông, trong các đầm lầy nước ngọt hoặc trong các hồ; trong một số trường hợp chúng sinh sôi ở các vùng nước lợ chẳng hạn dọc theo các cửa sông hay ở các vùng ngập lụt có đước mọc.
Chúng được tìm thấy ở các vùng của châu Phi về phía nam sa mạc Sahara, ở Madagascar và dọc theo lưu vực sông Nin. Theo dòng lịch sử thì chúng đã từng tồn tại trên quần đảo Comoros (nằm giữa Madagascar và Mozambique), nhưng ngày nay không còn. Gần đây thôi cá sấu sông Nin còn hiện diện ở Israel, Jordan và Algérie. Sự vắng mặt của chúng ở nhiều nơi được quy cho là do sự mở rộng của khí hậu khô cằn và tương ứng với nó là sự suy giảm của các vùng đất ẩm ướt. Người ta gần như không còn tìm thấy chúng ở vùng đồng bằng châu thổ sông Nin hay dọc theo các vùng ven bờ biển Địa Trung Hải. Khu vực sinh sống của chúng đã bị thu hẹp chỉ còn trong vùng sinh thái nhiệt đới châu Phi.
Tình trạng môi trường
Từ những năm 1940 đến cuối thập niên 1960, cá sấu sông Nin đã bị săn bắn rất nhiều, chủ yếu để lấy da cá sấu có chất lượng cao được ưa thích trên thị trường hàng tiêu dùng bằng da, ngoài ra còn để lấy thịt và các chất làm thuốc chữa bệnh. Quần thể cá sấu sông Nin đã bị suy giảm mạnh và loài này gần như đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Luật pháp các quốc gia trong khu vực cũng như các quy định của thương mại quốc tế đã giúp cho loài này hồi sinh ở nhiều khu vực và loài này trên tổng thể đã thoát khỏi họa diệt chủng.
Hiện nay, người ta ước tính còn khoảng từ 250.000 đến 500.000 cá thể còn sống trong tự nhiên. Cá sấu sông Nin cũng phân bổ rộng rãi với các quần thể đã được xác định ở nhiều quốc gia ở miền đông và nam châu Phi, chẳng hạn ở Ethiopia, Kenya và Zambia. Các chương trình chăn nuôi cá sấu để lấy da đã được thực hiện với kết quả tốt trong khu vực này và thậm chí các quốc gia có hạn ngạch cho xuất khẩu cũng dịch chuyển sang việc chăn nuôi cá sấu. Năm 1993, 80.000 cá sấu sông Nin đã được sử dụng để sản xuất da, chủ yếu từ chăn nuôi ở Zimbabwe và Nam Phi.
Tình trạng của cá sấu sông Nin ở miền tây và trung châu Phi là nguy ngập hơn, dù đây là 2/3 diện tích khu vực sinh trưởng của chúng. Quần thể cá sấu sông Nin ở đây thưa thớt hơn và vẫn chưa được khảo sát chính xác. Quần thể cá sấu sông Nin trong khu vực này có thể ít hơn vì điều kiện môi trường ít thuận lợi hơn cũng như do có sự cạnh tranh của các loài cá sấu khác cùng khu vực sinh sống như cá sấu mõm thon và cá sấu lùn, do vậy tình trạng tuyệt chủng có thể nguy cấp hơn so với các khu vực khác. Các yếu tổ bổ sung cho vấn đề này là sự suy giảm nghiêm trọng của các vùng đất ẩm ướt cũng như sự săn bắn của con người trong những năm thập niên 1970. Các chương trình khảo sát sinh thái và quản lý bổ sung là cần thiết cho vấn đề này.
Cá sấu sông Nin là động vật ăn thịt hàng đầu trong môi trường của chúng và chúng duy trì quần thể các loài khác chẳng hạn cá da trơn có râu (cũng là động vật ăn thịt có thể ăn thịt hết các loài cá khác), cũng như các loài chim. Cá sấu sông Nin còn ăn cả động vật đã chết, mà nếu không thì các xác chết này có thể gây ô nhiễm môi trường nước. Đe dọa chủ yếu đối với cá sấu sông Nin lại là con người. Trong khi việc săn bắn trộm không còn là vấn đề chính thì chúng lại bị đe dọa bởi ô nhiễm, săn bắn cũng như bị mắc vào các lưới đánh cá.
Phần lớn lý do săn bắn chúng nảy sinh từ tiếng tăm của chúng như những động vật ăn thịt người, điều này vẫn chưa lý giải được hoàn toàn. Không giống như các loài cá sấu "ăn thịt người" khác, chẳng hạn cá sấu nước mặn, cá sấu sông Nin sinh sống gần với các tụ điểm dân cư, vì thế sự va chạm với chúng cũng là thường xuyên. Tuy chưa có con số chính xác, nhưng cá sấu sông Nin có thể đã giết chết vài trăm người trong một năm, con số này lớn hơn so với tất cả các loài cá sấu khác cộng lại.
Tình trạng bảo tồn của cá sấu sông Nin theo sách đỏ năm 1996 của liên minh bảo tồn thế giới (IUCN) là "ít nguy cấp". Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật đang nguy cấp (CITES) liệt kê cá sấu sông Nin vào Phụ lục I (đe dọa tuyệt chủng) ở phần lớn các khu vực sinh sống của chúng cũng như vào Phụ lục II (không bị đe dọa, nhưng cần kiểm soát việc buôn bán) ở các khu vực còn lại, điều này hoặc là cho phép chăn nuôi hay thiết lập hạn ngạch hàng năm về sản lượng da thu hoạch từ cá sấu sống hoang dã.
Thánh thần, xác ướp và bùa chú
Những người Ai Cập cổ đại tôn thờ Sobek, một vị thần liên quan đến độ màu mỡ của đất đai, bảo vệ và sức mạnh của Pharaôn (vua Ai Cập). Họ có quan hệ nước đôi với Sobek, giống như họ đối xử với cá sấu sông Nin; đôi khi họ săn bắt cá sấu sông Nin và chửi rủa Sobek, nhưng đôi khi họ lại coi ông như là người bảo vệ và là nguồn sức mạnh của Pharaôn.
Sobek được mô tả như một con cá sấu, cũng như là một con cá sấu đã ướp xác, hoặc như là một người với đầu là đầu cá sấu. Trung tâm thờ cúng ông là thành phố Arsinoe của Ai Cập cổ đại (khoảng từ năm 1986 TCN đến năm 1633 TCN) ở ốc đảo Faiyum (hiện nay là El Faiyûm), được người Hy Lạp cổ đại biết đến như là "Crocodopolis". Một đền thờ lớn của Sobek khác ở Kom-Ombo và các đền thờ khác nằm rải rác khắp nước này.
Theo Herodotus (thế kỷ 5 TCN), một số người Ai Cập cổ đại giam hãm cá sấu như là con vật nuôi. Trong đền thờ Sobek ở Arsinoe, cá sấu được nuôi giữ trong ao của đền thờ, chúng được cho ăn, được trang sức và thờ cúng. Khi các con cá sấu chết, chúng được tẩm chất thơm và ướp xác cũng như đặt vào trong quan tài đá, và sau đó được hỏa thiêu trong hầm mộ thánh thần. Rất nhiều xác ướp cá sấu đã được tìm thấy trong các hầm mộ Ai Cập, thậm chí còn tìm thấy cả trứng cá sấu.
Bùa chú được sử dụng ở Ai Cập cổ đại bằng các xác ướp cá sấu thậm chí cả những ngư dân Nubia cận đại cũng nhồi xác các con cá sấu và đặt ở cửa ra vào để phòng ma quỷ.
Cá sấu đôi khi cũng được gắn liền với Sutekh (tên khác: Set, Setesh), vị thần của ma quỷ.
Truyện viễn tưởng
Cá sấu cũng xuất hiện trong các phim ảnh và truyện kinh dị. Ví dụ, một kẻ xấu trong phim loại B Crocodile (sản xuất năm 2000) là một con cá sấu sông Nin 100 năm tuổi dài 9 m (30 ft) được gọi là "Flat Dog" (con chó bẹp), chuyên môn ăn thịt những đứa trẻ từ 13 đến 19 tuổi (tuổi teen).
Trong thế giới viễn tưởng Discworld, được mô tả trong sách của Terry Pratchett, một trong những vị thần của Discworld là Offler là vị thần cá sấu. Ông được thờ cúng chủ yếu ở Klatch và các quốc gia nóng bức khác gần các con sông lớn.
Tên gọi khác
Cá sấu sông Nin được gọi là Mamba ở Swahili, Garwe ở Shona, Ngwenya ở Ndebele và Olom ở Nubia.
tên gọi khoa học Crocodylus niloticus có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp kroko ("đá cuội"), deilos ("bọ", hay "người"), để chỉ tới lớp da sần sùi của chúng; và niloticus, có nghĩa là "từ sông Nin".
Phân loại
Cá sấu là các archosaur; được hình thành sớm từ sự chia tách ra khỏi phần còn lại của lớp bò sát khoảng 230 triệu năm trước đây, trong thời kỳ của kỷ Triassic. Họ hàng gần nhất của chúng còn tồn tại đến ngày nay là hậu duệ duy nhất còn sống sót của archosaur: chim. Giống như chim, chúng có mề và tim 4 ngăn. Không giống như chim, (là hậu duệ của khủng long (dinosaur)), hình dạng cơ thể cơ bản của cá sấu thay đổi rất ít theo thời gianCrocodylus niloticus sinh sống trong một khu vực rộng lớn và vì thế có nhiều khác biệt giữa các quần thể của loài này. Tuy nhiên, không có phân loài chính thức, mặc dù có ít nhất 7 phân loài đã được đưa ra. Đó là:
C. n. africanus: Cá sấu sông Nin ở Đông Phi
C. n. chamses: Cá sấu sông Nin ở Tây Phi
C. n. corviei: Cá sấu sông Nin ở Nam Phi
C. n. madagascariensis: Cá sấu sông Nin ở Malagasy, cá sấu alligator Malagasy, hay Croco Mada
C. n. niloticus: cá sấu sông Nin ở Ethiopia
C. n. pauciscutatus: cá sấu sông Nin ở Kenya, cá sấu alligator Kenya hay cá sấu caiman Kenya
C. n. suchus'': cá sấu sông Nin ở Trung Phi
Hình ảnh
Chú thích |
Thị xã là một đơn vị hành chính cấp huyện ở Việt Nam, dưới tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Theo cách phân loại đô thị hiện nay, thị xã là đô thị loại IV hoặc loại III.
Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2008, Việt Nam có 47 thị xã. Đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, Việt Nam có 52 thị xã.
Tất cả các tỉnh lỵ của Việt Nam hiện nay trước kia đều là thị xã, đến nay các thị xã tỉnh lỵ đều đã được nâng cấp lên thành phố thuộc tỉnh.
Về quy mô, thị xã thường nhỏ hơn các thành phố và lớn hơn thị trấn; là nơi tập trung đông dân cư, sinh sống chủ yếu nhờ các hoạt động trong các lĩnh vực như: công nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Về loại hình, thị xã là một đô thị và dân cư tại đó được xếp là dân thành thị; mặc dù có thể vẫn còn một phần dân cư sống bằng nông nghiệp.
Một thị xã được chia thành nhiều phường (phần nội thị) và xã (phần ngoại thị). Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ là thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An với tất cả các đơn vị hành chính chỉ có phường mà không có xã trực thuộc.
Quy định trong luật pháp
Cấp hành chính
Trong Hiến pháp 2013, Chương IX: Chính quyền địa phương, Khoản 1 Điều 110 có viết:
1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019), quy định tại Điều 2: Đơn vị hành chính, Chương I: Những quy định chung:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Như vậy, thị xã nằm ở cấp hành chính thứ hai trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) của Việt Nam.
Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính
Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại Điều 6, Mục 2: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị, Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính thì một thị xã cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau:
Điều 6. Tiêu chuẩn của thị xã
1. Quy mô dân số từ 100.000 người trở lên.
2. Diện tích tự nhiên từ 200 km² trở lên.
3. Đơn vị hành chính trực thuộc:
a) Số đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc có từ 10 đơn vị trở lên;
b) Tỷ lệ số phường trên tổng số đơn vị hành chính cấp xã từ 50% trở lên.
4. Đã được công nhận là đô thị loại III hoặc loại IV; hoặc khu vực dự kiến thành lập thị xã đã được phân loại đạt tiêu chí của đô thị loại III hoặc loại IV.
5. Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Danh sách thị xã
Số liệu về dân số chủ yếu lấy theo kết quả sơ bộ của cuộc tổng điều tra dân số ngày 1/4/2019 (không tính dân số quy đổi).
{|class= "wikitable sortable" style="text-align:center;"
|-
!style="width:24%;" rowspan="2" |Thị xã (Năm thành lập)
!style="width:20%;" rowspan="2" |Thuộc tỉnh (Vùng)
!style="width:8%;" rowspan="2" |Diện tích (km²)
!style="width:8%;" rowspan="2" |Dân số (người)
!style="width:8%;" rowspan="2" |Mật độ dân số (người/km²)
!style="width:10%;" colspan="2" |Hành chính
!style="width:10%;" rowspan="2" |Loại đô thị (Năm công nhận)
!style="width:12%;" rowspan="2" |Hình ảnh
|-
!style="width:5%;" |Phường
!style="width:5%;" |Xã
|-
|An Khê2003
|Gia LaiTây Nguyên
|200,65
|81.600
|407
|6 phường
|5 xã
|2003
|
|-
|An Nhơn2011
|Bình ĐịnhDuyên hải Nam Trung Bộ
|242,70
|178.709
|736
|5 phường
|10 xã
|2021
|
|-
|Ayun Pa2007
|Gia LaiTây Nguyên
|287,00
|39.936
|139
|4 phường
|4 xã
|2007
|
|-
|Ba Đồn2013
|Quảng BìnhBắc Trung Bộ
|162,30
|106.413
|656
|6 phường
|10 xã
|2013
|
|-
|Bến Cát2013
|Bình DươngĐông Nam Bộ
|234,35
|355.663
|1.518
|5 phường
|3 xã
|2018
|
|-
|Bỉm Sơn1981
|Thanh HóaBắc Trung Bộ
|63,86
|58.378
|914
|6 phường
|1 xã
|2015
|
|-
|Bình Long2009
|Bình PhướcĐông Nam Bộ
|126,28
|57.598
|456
|4 phường
|2 xã
|2009
|
|-
|Bình Minh2012
|Vĩnh LongĐồng bằng sông Cửu Long
|93,63
|94.862
|1.013
|3 phường
|5 xã
|2020
|
|-
|Buôn Hồ2008
|Đắk LắkTây Nguyên
|282,61
|108.413
|384
|7 phường
|5 xã
|2008
|
|-
|Cai Lậy2013
|Tiền GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|140,20
|143.050
|1.020
|6 phường
|10 xã
|2020
|
|-
|Chơn Thành2022
|Bình PhướcĐông Nam Bộ
|390,34
|121.083
|310
|5 phường
|4 xã
|2020
|
|-
|Cửa Lò1994
|Nghệ AnBắc Trung Bộ
|27,81
|55.668
|2.002
|7 phường
|0 xã
|2009
|
|-
|Duy Tiên2020|Hà NamĐồng bằng sông Hồng
|120,92
|152.700
|1.263
|9 phường
|7 xã
|2017
|
|-
|Duyên Hải2015
|Trà VinhĐồng bằng sông Cửu Long
|175,07
|48.210
|275
|2 phường
|5 xã
|2015
|
|-
|Điện Bàn2015
|Quảng NamDuyên hải Nam Trung Bộ
|214,28
|226.564
|1.057
|12 phường
|8 xã
|2015
|
|-
|Đông Hòa2020
|Phú YênDuyên hải Nam Trung Bộ
|265,62
|119.991
|452
|5 phường
|5 xã
|2019
|
|-
|Đông Triều2015
|Quảng NinhĐông Bắc Bộ
|396,58
|171.673
|433
|10 phường
|11 xã
|2020
|
|-
|Đức Phổ2020
|Quảng NgãiDuyên hải Nam Trung Bộ
|372,76
|150.927
|405
|8 phường
|7 xã
|2018
|
|-
|Giá Rai2015
|Bạc LiêuĐồng bằng sông Cửu Long
|354,49
|145.340
|410
|3 phường
|7 xã
|2015
|
|-
|Gò Công1987
|Tiền GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|102,36
|99.657
|974
|5 phường
|7 xã
|2017
|
|-
|Hòa Thành2020
|Tây NinhĐông Nam Bộ
|82,92
|147.666
|1.781
|4 phường
|4 xã
|2018
|
|-
|Hoài Nhơn2020
|Bình ĐịnhDuyên hải Nam Trung Bộ
|420,84
|212.063
|504
|11 phường
|6 xã
|2019
|
|-
|Hoàng Mai2013
|Nghệ AnBắc Trung Bộ
|169,75
|113.360
|668
|5 phường
|5 xã
|2013
|
|-
|Hồng Lĩnh1992
|Hà TĩnhBắc Trung Bộ
|58,95
|36.940
|627
|5 phường
|1 xã
|1992
|
|-
|Hương Thủy2010
|Thừa Thiên HuếBắc Trung Bộ
|426,96
|95.299
|223
|5 phường
|5 xã
|2010
|
|-
|Hương Trà2011
|Thừa Thiên HuếBắc Trung Bộ
|392,32
|72.677
|185
|5 phường
|4 xã
|2011
|
|-
|Kiến Tường2013
|Long AnĐồng bằng sông Cửu Long|204,36
|51.620
|253
|3 phường
|5 xã
|2023
|
|-
|Kinh Môn2019
|Hải DươngĐồng bằng sông Hồng|165,33
|203.638
|1.232
|14 phường
|9 xã
|2019
|
|-
|Kỳ Anh2015
|Hà TĩnhBắc Trung Bộ
|280,25
|82.955
|296
|6 phường
|5 xã
|2020
|
|-
|La Gi2005
|Bình ThuậnDuyên hải Nam Trung Bộ
|185,40
|107.820
|582
|5 phường
|4 xã
|2017
|
|-
|Long Mỹ2015
|Hậu GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|149,27
|61.781
|414
|4 phường
|5 xã
|2019
|
|-
|Mường Lay1971
|Điện BiênTây Bắc Bộ
|114,03
|11.162
|98
|2 phường
|1 xã
|2005
|
|-
|Mỹ Hào2019
|Hưng YênĐồng bằng sông Hồng
|79,37
|115.608
|1.457
|7 phường
|6 xã
|2018
|
|-
|Ngã Năm2013
|Sóc TrăngĐồng bằng sông Cửu Long
|242,15
|74.115
|306
|3 phường
|5 xã
|2010
|
|-
|Nghi Sơn2020
|Thanh HóaBắc Trung Bộ
|455,61
|307.304
|674
|16 phường
|15 xã
|2019
|
|-
|Nghĩa Lộ1995
|Yên BáiTây Bắc Bộ
|107,78
|68.206
|633
|4 phường
|10 xã
|1995
|
|-
|Ninh Hòa2010
|Khánh HòaDuyên hải Nam Trung Bộ
|1.195,70
|245.100
|192
|7 phường
|20 xã
|2010
|
|-
|Phú Mỹ2018
|Bà Rịa – Vũng TàuĐông Nam Bộ
|333,84
|179.688
|538
|5 phường
|5 xã
|2020|
|-
|Phú Thọ1903
|Phú ThọĐông Bắc Bộ
|64,60
|70.653
|1.094
|4 phường
|5 xã
|2010
|
|-
|Phước Long2009
|Bình PhướcĐông Nam Bộ
|119,38
|53.992
|452
|5 phường
|2 xã
|2009
|
|-
|Quảng Trị1989
|Quảng TrịBắc Trung Bộ
|74,00
|23.356
|316
|4 phường
|1 xã
|1989
|
|-
|Quảng Yên2011
|Quảng NinhĐông Bắc Bộ
|333,70
|180.028
|539
|11 phường
|8 xã
|2020
|
|-
|Quế Võ2023
|Bắc NinhĐồng bằng sông Hồng
|155,11
|219.929
|1.418
|11 phường
|10 xã
|2022
|
|-
|Sa Pa2019
|Lào CaiTây Bắc Bộ
|681,37
|81.857
|120
|6 phường
|10 xã
|2012
|
|-
|Sông Cầu2009
|Phú YênDuyên hải Nam Trung Bộ
|492,80
|120.780
|245
|4 phường
|9 xã
|2019
|
|-
|Sơn Tây1884|Hà NộiĐồng bằng sông Hồng|117,20
|151.090
|1.289
|9 phường
|6 xã
|2006
|
|-
|Tân Châu2009
|An GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|176,43
|175.211
|989
|5 phường
|9 xã
|2019
|
|-
|Thái Hòa2007
|Nghệ AnBắc Trung Bộ
|135,14
|66.127
|489
|4 phường
|5 xã
|2007
|
|-
|Thuận Thành2023
|Bắc NinhĐồng bằng sông Hồng|117,83
|199.577
|1.694
|10 phường
|8 xã
|2020
|
|-
|Tịnh Biên2023
|An GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|354,67
|143.098
|403
|7 phường
|7 xã
|2018
|
|-
|Trảng Bàng2020
|Tây NinhĐông Nam Bộ
|340,14
|161.831
|476
|6 phường
|4 xã
|2018
|
|-
|Vĩnh Châu2011
|Sóc TrăngĐồng bằng sông Cửu Long
|468,71
|164.663
|351
|4 phường
|6 xã
|2010
|
|-
|}
Thống kê
Tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, cả nước có:
2 tỉnh có 3 thị xã trực thuộc:Bình Phước: Bình Long, Phước Long, Chơn ThànhNghệ An: Cửa Lò, Thái Hòa, Hoàng Mai
12 tỉnh có 2 thị xã trực thuộc:An Giang: Tân Châu, Tịnh BiênBắc Ninh: Quế Võ, Thuận ThànhBình Định: An Nhơn, Hoài NhơnGia Lai: An Khê, Ayun PaHà Tĩnh: Hồng Lĩnh, Kỳ AnhPhú Yên: Sông Cầu, Đông HòaQuảng Ninh: Quảng Yên, Đông TriềuSóc Trăng: Vĩnh Châu, Ngã NămTây Ninh: Hòa Thành, Trảng BàngThanh Hóa: Bỉm Sơn, Nghi SơnThừa Thiên Huế: Hương Thủy, Hương TràTiền Giang: Gò Công, Cai Lậy
22 tỉnh, thành phố có 1 thị xã trực thuộc:Bà Rịa – Vũng Tàu: Phú MỹBạc Liêu: Giá RaiBình Dương: Bến CátBình Thuận: La GiĐắk Lắk: Buôn HồĐiện Biên: Mường LayHải Dương: Kinh MônHà Nam: Duy TiênHà Nội: Sơn TâyHậu Giang: Long MỹHưng Yên: Mỹ HàoKhánh Hòa: Ninh HòaLào Cai: Sa PaLong An: Kiến TườngPhú Thọ: Phú ThọQuảng Bình: Ba ĐồnQuảng Nam: Điện BànQuảng Ngãi: Đức PhổQuảng Trị: Quảng TrịTrà Vinh: Duyên HảiVĩnh Long: Bình MinhYên Bái'': Nghĩa Lộ
27 tỉnh, thành phố không có thị xã trực thuộc: Bắc Giang, Bắc Kạn, Bến Tre, Cao Bằng, Cà Mau, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đắk Nông, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hải Phòng, Hà Giang, Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lạng Sơn, Lâm Đồng, Nam Định, Ninh Bình, Ninh Thuận, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
Thị xã có diện tích lớn nhất: thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa) với 1.195,7 km².
Thị xã có diện tích nhỏ nhất: thị xã Cửa Lò (Nghệ An) với 27,81 km².
Thị xã có dân số đông nhất: thị xã Bến Cát (Bình Dương) với 355.663 người.
Thị xã có dân số ít nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) với 11.162 người.
Thị xã có nhiều đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc nhất: thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) với 16 phường và 15 xã.
Thị xã có ít đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) với 2 phường và 1 xã.
Thị xã có nhiều xã nhất: thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa) với 20 xã.
Thị xã Cửa Lò (Nghệ An) là thị xã duy nhất ở Việt Nam hiện nay chỉ có phường, không có xã trực thuộc.
Thị xã có nhiều phường nhất: thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) với 16 phường.
Thị xã có ít phường nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) và thị xã Duyên Hải (Trà Vinh) với 2 phường ở mỗi thị xã.
Lịch sử
Trước năm 1945
Giai đoạn 1945 - 1975
Thị xã của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà
Thị xã của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1955-1975)
Tại miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa, các xã ở trung tâm tỉnh lỵ có mức độ đô thị hóa cao được gọi là thị xã (xã thành thị) và tất cả đều trở thành các thị xã tự trị (không còn phụ thuộc vào đơn vị cấp "quận trực thuộc tỉnh"). Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không xây dựng quy chế thành phố mà thành lập hai cấp tương đương là Đô thành Sài Gòn và 10 thị xã tự trị trong đó có Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá
Về phân cấp hành chính các thị xã tự trị được tổ chức không giống nhau tùy theo ý nghĩa về quân sự và văn hóa.
Các thị xã là những đô thị trực thuộc trung ương gồm Đà Nẵng, Cam Ranh và Vũng Tàu
Các thị xã vừa là đô thị trực thuộc trung ương đồng thời là tỉnh lị một tỉnh gồm Huế (tỉnh lị tỉnh Thừa Thiên) và Đà Lạt (tỉnh lị tỉnh Tuyên Đức đến 7/9/1967)
Các thị xã là đô thị trực thuộc tỉnh nhưng hưởng quy chế tự trị cao tương đương các đô thị trực thuộc trung ương gồm Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa), Quy Nhơn (tỉnh Bình Định), Mỹ Tho (tỉnh Định Tường), Cần Thơ (tỉnh Phong Dinh) và Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang)
Đơn vị hành chính trong các thị xã
Các thị xã được chia thành các quận đô thị (khác quận trực thuộc tỉnh vì thị xã tương đương quận trực thuộc tỉnh, có khi tương đương cấp tỉnh):
Thị xã độc lập trực thuộc trung ương được chia thành vài quận (khi đó quận đô thị tương đương cấp quận trực thuộc tỉnh vì thị xã có cấp bậc tương đương tỉnh)
Thị xã trực thuộc tỉnh được chia thành vài quận (quận đô thị).
Một số thị xã chỉ có một quận (quận đô thị).
Sau năm 1975
Sau năm 1975, cả nước có 64 thị xã, bao gồm: Bạc Liêu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bến Tre, Biên Hòa, Buôn Ma Thuột, Cà Mau, Cam Đường, Cam Ranh, Cao Bằng, Cẩm Phả, Châu Đốc, Cao Bằng, Đà Lạt, Đồ Sơn, Đông Hà, Đồng Hới, Gò Công, Hà Đông, Hà Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hòa Bình, Hồng Gai, Hội An, Huế, Hưng Yên, Kiến An, Kon Tum, Lai Châu (cũ), Lạng Sơn, Lào Cai, Long Xuyên, Nghĩa Lộ, Nha Trang, Ninh Bình, Phan Rang, Phan Thiết, Phú Thọ, Phúc Yên, Pleiku, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Sơn La, Sơn Tây, Tam Kỳ, Tân An, Tây Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tuy Hòa, Tuyên Quang, Uông Bí, Vị Thanh, Vĩnh Long, Vĩnh Yên, Vũng Tàu, Yên Bái.
Tháng 6 năm 1975, chuyển thị xã Huế thành thành phố Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 1976, thành lập thành phố Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Biên Hòa.
Ngày 10 tháng 3 năm 1976, tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải, đồng thời thị xã Bạc Liêu cũng được đổi tên thành thị xã Minh Hải thuộc tỉnh Minh Hải.
Ngày 26 tháng 6 năm 1976, sáp nhập thị xã Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phú vào huyện Yên Lãng.
Ngày 20 tháng 11 năm 1976, sáp nhập thị xã Tam Kỳ với hai huyện Bắc Tam Kỳ và Nam Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ngày 10 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 49-CP. Theo đó, thành lập thành phố Nha Trang thuộc tỉnh Phú Khánh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Nha Trang cùng với 7 xã thuộc huyện Vĩnh Xương, hợp nhất thị xã Cam Ranh và huyện Khánh Sơn thành huyện Cam Ranh, hợp nhất thị xã Tuy Hòa với huyện Tuy Hòa thành huyện Tuy Hòa.
Đồng thời, ngày 10 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 51-CP. Theo đó, thành phố Đà Lạt gồm có 6 phường và xã Lát thuộc huyện Đức Trọng chuyển sang.
Ngày 26 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 77-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang vào huyện Gò Công.
Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành 2 quyết định:
Quyết định số 124-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Phan Rang thuộc tỉnh Thuận Hải vào hai huyện Ninh Hải và An Sơn.
Quyết định số 125-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Hà Nam thuộc tỉnh Hà Nam Ninh với 2 huyện Kim Bảng và Thanh Liêm thành huyện Kim Thanh, sáp nhập thị xã Ninh Bình với huyện Gia Khánh thành huyện Hoa Lư.
Ngày 30 tháng 8 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 228-CP. Theo đó, thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng từ ba quận I, II, III của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (các quận này trước đây thuộc thị xã Đà Nẵng trực thuộc trung ương, sau khi thị xã sáp nhập với tỉnh Quảng Nam thì ba quận trên trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng).
Ngày 15 tháng 12 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 330-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang (cũ) vào huyện Long Mỹ.
Ngày 4 tháng 3 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 56-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn vào huyện Văn Chấn.
Ngày 22 tháng 9 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 241-CP. Theo đó, tái lập thị xã Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Khánh từ huyện Tuy Hòa.
Ngày 17 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 168-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn vào thị xã Lào Cai.
Ngày 30 tháng 5 năm 1979, Quốc hội ban hành Nghị quyết thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo trực thuộc trung ương. Theo đó, thị xã Vũng Tàu sáp nhập với một số đơn vị hành chính khác thành đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo.
Đến cuối năm 1979, cả nước có 48 thị xã.
Ngày 5 tháng 3 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 72-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng với một phần huyện An Thụy để thành lập huyện Đồ Sơn, sáp nhập thị xã Kiến An với phần còn lại của huyện An Thụy thành huyện Kiến An.
Ngày 9 tháng 4 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 151-CP. Theo đó, tái lập thị xã Hà Nam thuộc tỉnh Hà Nam Ninh từ huyện Kim Thanh, tái lập thị xã Ninh Bình từ huyện Hoa Lư.
Ngày 24 tháng 8 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 41-HĐBT. Theo đó, chia thị xã Quảng Nghĩa thuộc tỉnh Nghĩa Bình thành thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa.
Ngày 1 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 145-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Phan Rang thuộc tỉnh Thuận Hải từ hai huyện Ninh Hải và An Sơn với tên gọi mới là thị xã Phan Rang – Tháp Chàm.
Ngày 18 tháng 12 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 157-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quảng Xương và thành lập thị xã Bỉm Sơn trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hà Trung.
Ngày 18 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 200-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Tam Điệp thuộc tỉnh Hà Nam Ninh trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Tam Điệp.
Ngày 23 tháng 2 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 13-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Cao Lãnh.
Ngày 3 tháng 12 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 144-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng từ huyện Tam Kỳ.
Ngày 17 tháng 5 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 75-HĐBT. Theo đó, đổi tên thị xã Minh Hải thành thị xã Bạc Liêu thuộc tỉnh Minh Hải.
Ngày 11 tháng 4 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 113-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Sông Công thuộc tỉnh Bắc Thái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Phổ Yên.
Ngày 23 tháng 12 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 284-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Vĩnh An thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Cửu.
Đến cuối năm 1985, cả nước có 56 thị xã.
Ngày 3 tháng 7 năm 1986, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 81-HĐBT. Theo đó, thành lập thành phố Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Quy Nhơn.
Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 37-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang từ hai huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây.
Ngày 6 tháng 6 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 100-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng từ huyện Đồ Sơn và tái lập thị xã Kiến An từ huyện Kiến An.
Ngày 16 tháng 9 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 134-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Quảng Trị thuộc tỉnh Quảng Trị trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Triệu Hải.
Đến cuối năm 1989, cả nước có 59 thị xã.
Ngày 16 tháng 7 năm 1990, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 262-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Bắc Kạn thuộc tỉnh Bắc Thái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Bạch Thông.
Ngày 2 tháng 3 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 67-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Hồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Đức Thọ và Can Lộc.
Ngày 18 tháng 4 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 130-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Điện Biên.
Ngày 9 tháng 6 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 205-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Lào Cai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của thị xã Lào Cai.
Ngày 27 tháng 12 năm 1993, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 102-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Gai.
Ngày 1 tháng 5 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 37-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thanh Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thanh Hóa.
Ngày 2 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 45-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bà Rịa thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Châu Thành.
Ngày 11 tháng 7 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 65-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Bảo Lộc.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành 3 nghị định:
Nghị định số 100-CP. Theo đó, thành lập quận Kiến An thuộc thành phố Hải Phòng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Kiến An.
Nghị định số 109-CP. Theo đó, giải thể thị xã Vĩnh An thuộc tỉnh Đồng Nai để tái lập huyện Vĩnh Cửu.
Nghị định số 113-CP. Theo đó, thành lập thị xã Cửa Lò thuộc tỉnh Nghệ An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Nghi Lộc.
Ngày 21 tháng 1 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 08-CP. Theo đó, thành lập thành phố Buôn Ma Thuột thuộc tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Buôn Ma Thuột.
Ngày 15 tháng 5 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 31-CP. Theo đó, tái lập thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Văn Chấn.
Đến cuối năm 1995, cả nước có 62 thị xã.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, tái lập tỉnh Hà Nam và đổi tên thị xã Hà Nam thành thị xã Phủ Lý.
Ngày 6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 88-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hải Dương thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hải Dương.
Ngày 8 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hà Tiên.
Ngày 20 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 52/NĐ-CP. Theo đó, tái lập thị xã Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hải Ninh.
Ngày 1 tháng 3 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Xuyên.
Ngày 14 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cà Mau.
Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Vị Thanh.
Ngày 24 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Pleiku thuộc tỉnh Gia Lai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Pleiku.
Ngày 25 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 81/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phan Thiết.
Ngày 1 tháng 9 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Đồng Xoài thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Đồng Phú.
Đến cuối năm 1999, cả nước có 61 thị xã.
Ngày 7 tháng 7 năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Cam Ranh.
Ngày 11 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Yên Bái thuộc tỉnh Yên Bái trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Yên Bái.
Ngày 31 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Lào Cai vào thị xã Lào Cai.
Ngày 17 tháng 10 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lạng Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lạng Sơn.
Ngày 21 tháng 8 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Long Khánh.
Ngày 26 tháng 9 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2003/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Điện Biên Phủ.
Ngày 9 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 153/NĐ-CP. Theo đó, tái lập thị xã Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mê Linh.
Nghị định số 155/2003/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã An Khê thuộc tỉnh Gia Lai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện An Khê.
Ngày 29 tháng 4 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 117/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thái Bình thuộc tỉnh Thái Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thái Bình.
Ngày 16 tháng 8 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 156/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Hới.
Ngày 10 tháng 10 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Lai Châu (mới) thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Tam Đường.
Ngày 30 tháng 11 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 195/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lào Cai.
Ngày 5 tháng 1 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 03/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tuy Hòa.
Ngày 2 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 25/NĐ-CP. Theo đó, đổi tên thị xã Lai Châu cũ thuộc tỉnh Điện Biên thành thị xã Mường Lay.
Ngày 7 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành nghị định số 75/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bắc Giang thuộc tỉnh Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Giang.
Ngày 27 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2005/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Gia Nghĩa thuộc tỉnh Đắk Nông trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Đắk Nông.
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 97/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Rạch Giá.
Nghị định số 98/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Tân Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Phụng Hiệp.
Ngày 26 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 112/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Quảng Ngãi.
Ngày 5 tháng 9 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 114/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã La Gi thuộc tỉnh Bình Thuận trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hàm Tân.
Đến cuối năm 2005, cả nước có 58 thị xã.
Ngày 26 tháng 1 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Ninh.
Ngày 29 tháng 9 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 113/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Tam Kỳ.
Ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 124/NĐ-CP. Theo đó, đổi tên thị xã Tân Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang thành thị xã Ngã Bảy.
Nghị định số 126/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hòa Bình thuộc tỉnh Hòa Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hòa Bình.
Ngày 1 tháng 12 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 146/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vĩnh Yên.
Ngày 27 tháng 12 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 155/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Đông.
Ngày 16 tháng 1 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cao Lãnh.
Ngày 7 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Ninh Bình thuộc tỉnh Ninh Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Ninh Bình.
Ngày 8 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 21/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Phan Rang – Tháp Chàm thuộc tỉnh Ninh Thuận trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phan Rang – Tháp Chàm.
Nghị định số 22/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sóc Trăng thuộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sóc Trăng.
Ngày 26 tháng 4 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 50/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ayun Pa thuộc tỉnh Gia Lai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Ayun Pa.
Ngày 28 tháng 5 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Tĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Tĩnh.
Ngày 2 tháng 8 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 130/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sơn Tây.
Ngày 12 tháng 9 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 145/NĐ-CP. Theo đó, thành lập quận Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng
trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồ Sơn.
Ngày 15 tháng 11 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 164/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Thái Hòa thuộc tỉnh Nghệ An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Nghĩa Đàn.
Ngày 9 tháng 1 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hội An.
Ngày 9 tháng 6 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 72/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Phủ Lý thuộc tỉnh Hà Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phủ Lý.
Ngày 3 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 98/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sơn La thuộc tỉnh Sơn La trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sơn La.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 101/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Từ Sơn.
Nghị định số 103/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Móng Cái.
Ngày 23 tháng 12 năm 2008, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 107/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Buôn Hồ thuộc tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Krông Búk.
Nghị định số 108/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hồng Ngự.
Ngày 19 tháng 1 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hưng Yên thuộc tỉnh Hưng Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hưng Yên.
Ngày 10 tháng 4 năm 2009, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 15/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Kon Tum thuộc tỉnh Kon Tum trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Kon Tum.
Nghị quyết số 16/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Vĩnh Long thuộc tỉnh Vĩnh Long trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vĩnh Long.
Ngày 8 tháng 5 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP. Theo đó, chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội.
Ngày 11 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 33/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đông Hà.
Nghị quyết số 34/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bến Tre thuộc tỉnh Bến Tre trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bến Tre.
Nghị quyết số 35/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bình Long và thị xã Phước Long thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Bình Long và Phước Long.
Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành 2 nghị quyết:
Nghị quyết số 38/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tân An thuộc tỉnh Long An trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tân An.
Nghị quyết số 40/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Tân Châu thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Tân Châu và điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Phú Tân.
Ngày 27 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Sông Cầu thuộc tỉnh Phú Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Sông Cầu.
Đến cuối năm 2009, cả nước có 46 thị xã.
Ngày 9 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hương Thủy thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Thủy.
Ngày 12 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Chí Linh.
Ngày 4 tháng 3 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Trà Vinh thuộc tỉnh Trà Vinh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Trà Vinh.
Ngày 8 tháng 4 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bảo Lộc.
Ngày 2 tháng 7 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tuyên Quang thuộc tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tuyên Quang.
Ngày 27 tháng 8 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 32/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bạc Liêu thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bạc Liêu.
Ngày 23 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vị Thanh.
Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Giang thuộc tỉnh Hà Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Giang.
Ngày 25 tháng 10 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 41/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ninh Hòa thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Ninh Hòa.
Ngày 23 tháng 12 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 65/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cam Ranh.
Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của các huyện Dĩ An và Thuận An.
Ngày 25 tháng 2 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Uông Bí.
Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Châu.
Ngày 15 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Trà.
Ngày 25 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Quảng Yên thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Yên Hưng.
Ngày 28 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 101/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã An Nhơn thuộc tỉnh Bình Định trên cơ sở toàn bộ diên tích và dân số của huyện An Nhơn.
Ngày 21 tháng 2 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cẩm Phả thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cẩm Phả.
Ngày 2 tháng 5 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thủ Dầu Một.
Ngày 22 tháng 8 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 43/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bà Rịa thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bà Rịa.
Ngày 25 tháng 8 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 60/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cao Bằng thuộc tỉnh Cao Bằng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cao Bằng.
Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 89/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bình Minh thuộc tỉnh Vĩnh Long trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân só của huyện Bình Minh.
Ngày 18 tháng 3 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Kiến Tường thuộc tỉnh Long An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mộc Hóa.
Ngày 3 tháng 4 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 47/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hoàng Mai thuộc tỉnh Nghệ An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quỳnh Lưu.
Ngày 19 tháng 7 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Châu Đốc.
Ngày 14 tháng 10 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 113/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sa Đéc.
Ngày 20 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 125/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quảng Trạch.
Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 130/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Cai Lậy thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Cai Lậy.
Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 131/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lai Châu thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lai Châu.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 133/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ngã Năm thuộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Ngã Năm.
Nghị quyết số 135/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tây Ninh thuộc tỉnh Tây Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tây Ninh.
Nghị quyết số 136/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bến Cát và thị xã Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở một phần diện tích của các huyện Bến Cát và Tân Uyên.
Ngày 11 tháng 3 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 889/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Điện Bàn.
Nghị quyết số 891/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Đông Triều thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Đông Triều.
Nghị quyết số 892/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thành phố Bắc Kạn thuộc tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Kạn.
Ngày 10 tháng 4 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết:
Nghị quyết số 903/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Kỳ Anh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Kỳ Anh.
Nghị quyết số 904/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thành phố Tam Điệp thuộc tỉnh Ninh Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tam Điệp.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết:
Nghị quyết số 930/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Giá Rai.
Nghị quyết số 932/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thành phố Sông Công thuộc tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sông Công và thành lập thị xã Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Phổ Yên.
Nghị quyết số 933/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Long Mỹ thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Long Mỹ.
Nghị quyết số 934/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Duyên Hải.
Cuối năm 2015, cả nước có 51 thị xã.
Ngày 19 tháng 4 năm 2017, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 368/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sầm Sơn.
Ngày 7 tháng 2 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 484/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phúc Yên.
Ngày 12 tháng 4 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 492/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Phú Mỹ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Tân Thành.
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 573/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Tiên.
Ngày 16 tháng 10 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 587/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Đồng Xoài thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Xoài.
Ngày 10 tháng 1 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 623/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Chí Linh.
Ngày 12 tháng 3 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 656/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Mỹ Hào thuộc tỉnh Hưng Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Mỹ Hào.
Ngày 10 tháng 4 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 673/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Khánh.
Ngày 11 tháng 9 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết:
Nghị quyết số 767/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Sa Pa thuộc tỉnh Lào Cai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Sa Pa.
Nghị quyết số 768/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Kinh Môn thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Kinh Môn.
Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết:
Nghị quyết số 829/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Duy Tiên thuộc tỉnh Hà Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Duy Tiên.
Nghị quyết số 835/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Gia Nghĩa thuộc tỉnh Đắk Nông trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Gia Nghĩa.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết:
Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Dĩ An và thành phố Thuận An thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An.
Nghị quyết số 865/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Hòa Thành và thị xã Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hòa Thành và huyện Trảng Bàng.
Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Đức Phổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Đức Phổ.
Nghị quyết số 869/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Ngã Bảy thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Ngã Bảy.
Ngày 22 tháng 4 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 931/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Đông Hòa thuộc tỉnh Phú Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Đông Hòa.
Nghị quyết số 932/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Hoài Nhơn thuộc tỉnh Bình Định trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hoài Nhơn.
Nghị quyết số 933/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Nghi Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Tĩnh Gia.
Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1003/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Ngự.
Ngày 22 tháng 9 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 387/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thành phố Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Từ Sơn.
Ngày 15 tháng 2 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 469/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thành phố Phổ Yên thuộc tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phổ Yên.
Ngày 11 tháng 8 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 570/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thị xã Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Chơn Thành.
Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết:
Nghị quyết số 721/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thị xã Tịnh Biên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Tịnh Biên.
Nghị quyết số 723/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thị xã Quế Võ và thị xã Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Quế Võ và huyện Thuận Thành.
Nghị quyết số 725/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thành phố Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Tân Uyên.
Cả nước có 52 thị xã như hiện nay.
Trường hợp đặc biệt là huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang được nâng cấp lên thẳng thành phố mà không trải qua cấp thị xã như các thành phố trực thuộc tỉnh khác trên cả nước.
Phát triển
Một số huyện đã được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV và đang định hướng trở thành thị xã:
Huyện Diên Khánh (Khánh Hòa)
Huyện Việt Yên (Bắc Giang)
Huyện Núi Thành (Quảng Nam)
Huyện Yên Phong (Bắc Ninh)
Một số huyện đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch nâng cấp đô thị giai đoạn 2021 - 2030 và cũng có định hướng thành lập thị xã:
Huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang)
Huyện Yên Dũng (Bắc Giang)
Huyện Lương Sơn (Hoà Bình)
Huyện Mai Châu (Hòa Bình)
Huyện Thanh Ba (Phú Thọ)
Huyện Thanh Sơn (Phú Thọ)
Huyện Phù Ninh (Phú Thọ)
Huyện Tiên Du (Bắc Ninh)
Huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc)
Huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc)
Huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc)
Huyện Tam Đảo (Vĩnh Phúc)
Huyện Bình Giang (Hải Dương)
Huyện Kim Bảng (Hà Nam)
Huyện Phong Điền (Thừa Thiên - Huế)
Huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi)
Huyện Tây Sơn (Bình Định)
Huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa)
Huyện Ngọc Hồi (Kon Tum)
Huyện Chư Sê (Gia Lai)
Huyện Đắk Mil (Đắk Nông)
Huyện Cư Jút (Đắk Nông)
Huyện Đắk R'lấp (Đắk Nông)
Huyện Đức Trọng (Lâm Đồng)
Huyện Bến Cầu (Tây Ninh)
Huyện Dương Minh Châu (Tây Ninh)
Huyện Trảng Bom (Đồng Nai)
Huyện Long Thành (Đồng Nai)
Huyện Ba Tri (Bến Tre)
Huyện Bình Đại (Bến Tre)
Huyện Mỏ Cày Nam (Bến Tre)
Huyện Hòa Vang (Đà Nẵng)
Huyện Tiểu Cần (Trà Vinh) |
Thị trấn là một đơn vị hành chính cấp xã tại Việt Nam.
Tất cả thị trấn tại Việt Nam đều trực thuộc các huyện. Thị trấn có thể là huyện lỵ nếu các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện được đặt tại thị trấn đó. Tuy nhiên, không phải thị trấn nào cũng là huyện lỵ và không phải huyện nào cũng có thị trấn. Đặc biệt, có một số huyện lỵ không đặt ở thị trấn cùng tên với chính mình, chủ yếu do giao thông không thuận lợi với các xã khác trong huyện như huyện Nhà Bè (Thành phố Hồ Chí Minh), huyện Tam Đảo (Vĩnh Phúc), huyện Chi Lăng (Lạng Sơn), huyện Đức Hòa (Long An). Hầu hết những huyện không có thị trấn nào là những huyện mới chia tách.
Quy định trong luật pháp
Cấp hành chính
Trong Hiến pháp 2013, Chương IX: Chính quyền địa phương, Khoản 1 Điều 110 có viết:
1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019), quy định tại Điều 2: Đơn vị hành chính, Chương I: Những quy định chung:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Như vậy, thị trấn nằm ở cấp hành chính thứ ba trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) của Việt Nam.
Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính
Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại Điều 9, Mục 2: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị, Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính thì một thị trấn cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau:
Điều 9. Tiêu chuẩn của thị trấn
1. Quy mô dân số từ 8.000 người trở lên.
2. Diện tích tự nhiên từ 14 km² trở lên.
3. Đã được công nhận là đô thị loại IV hoặc loại V; hoặc khu vực dự kiến thành lập thị trấn đã được phân loại đạt tiêu chí của đô thị loại IV hoặc loại V.
4. Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Thống kê
Tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, Việt Nam có 10.598 đơn vị hành chính cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn), trong đó có 620 thị trấn.
Tỉnh có nhiều thị trấn nhất là Thanh Hóa với 30 thị trấn, tiếp theo là thành phố Hà Nội với 21 thị trấn. Tỉnh Ninh Thuận có 3 thị trấn còn thành phố Đà Nẵng là đơn vị hành chính cấp tỉnh duy nhất không có thị trấn nào.
Danh sách các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xếp theo số lượng thị trấn:
Thanh Hóa (30 thị trấn)
Hà Nội (21 thị trấn)
An Giang, Vĩnh Phúc (18 thị trấn)
Bắc Giang, Nghệ An (17 thị trấn)
Nam Định (16 thị trấn)
Long An (15 thị trấn)
Cao Bằng, Gia Lai, Lạng Sơn, Quảng Nam (14 thị trấn)
Đắk Lắk, Hà Giang, Hà Tĩnh, Lâm Đồng (13 thị trấn)
Bình Thuận, Sóc Trăng (12 thị trấn)
Bình Định, Hậu Giang, Phú Thọ, Quảng Trị (11 thị trấn)
Bến Tre, Hải Dương, Hải Phòng, Hòa Bình, Kiên Giang, Thái Nguyên, Trà Vinh, Yên Bái (10 thị trấn)
Cà Mau, Đồng Tháp, Lào Cai, Sơn La, Thái Bình (9 thị trấn)
Đồng Nai, Hưng Yên, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang (8 thị trấn)
Bắc Kạn, Kon Tum, Lai Châu, Ninh Bình, Quảng Ninh (7 thị trấn)
Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nam, Khánh Hòa, Phú Yên, Tây Ninh, Tuyên Quang, Vĩnh Long (6 thị trấn)
Bạc Liêu, Bình Dương, Bình Phước, Cần Thơ, Đắk Nông, Điện Biên, Thành phố Hồ Chí Minh (5 thị trấn)
Bắc Ninh (4 thị trấn)
Ninh Thuận (3 thị trấn)
Đà Nẵng (không có thị trấn nào).
Hiện nay, cả nước có:
1 huyện có 5 thị trấn, đó là huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc)
2 huyện có 4 thị trấn, đó là các huyện:
Châu Thành A (Hậu Giang).
Yên Định (Thanh Hóa).
18 huyện có 3 thị trấn, đó là các huyện:
Quảng Hòa (Cao Bằng)
Thọ Xuân (Thanh Hóa)
Phụng Hiệp (Hậu Giang)
Đức Hòa (Long An)
Thoại Sơn, Chợ Mới, An Phú, Tri Tôn (An Giang)
Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Trực Ninh (Nam Định)
Tam Đảo, Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc)
Bảo Thắng (Lào Cai)
Văn Chấn (Yên Bái)
Bố Trạch (Quảng Bình)
Vĩnh Linh (Quảng Trị)
Đồng Hỷ (Thái Nguyên)
89 huyện có 2 thị trấn, đó là các huyện:
Hiệp Hòa, Lạng Giang, Lục Nam, Sơn Động, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng, Yên Thế (Bắc Giang)
Hà Quảng, Nguyên Bình, Trùng Khánh (Cao Bằng)
Bắc Quang, Đồng Văn, Vị Xuyên (Hà Giang)
Cao Lộc, Chi Lăng, Đình Lập, Lộc Bình (Lạng Sơn)
Lâm Thao (Phú Thọ)
Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên)
Lạc Thủy (Hòa Bình)
Ngân Sơn (Bắc Kạn)
Mộc Châu (Sơn La)
Yên Bình (Yên Bái)
Chương Mỹ, Gia Lâm, Mê Linh, Phú Xuyên (Hà Nội)
Kim Bảng, Thanh Liêm (Hà Nam)
Cẩm Giàng (Hải Dương)
An Lão, Cát Hải, Thủy Nguyên (Hải Phòng)
Giao Thủy (Nam Định)
Kim Sơn (Ninh Bình)
Hưng Hà, Quỳnh Phụ (Thái Bình)
Lập Thạch, Tam Dương, Yên Lạc (Vĩnh Phúc)
Thạch Thành, Triệu Sơn (Thanh Hóa)
Cẩm Xuyên, Hương Sơn, Nghi Xuân, Can Lộc (Hà Tĩnh)
Lệ Thủy (Quảng Bình)
Gio Linh, Hướng Hóa (Quảng Trị)
Phú Lộc (Thừa Thiên Huế)
Quế Sơn (Quảng Nam)
Tư Nghĩa (Quảng Ngãi)
Phù Cát, Phù Mỹ, Tuy Phước (Bình Định)
Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc, Tuy Phong (Bình Thuận)
Chư Păh (Gia Lai)
Cư M'gar, Ea Kar (Đắk Lắk)
Cát Tiên, Đạ Huoai, Đơn Dương, Lâm Hà (Lâm Đồng)
Bắc Tân Uyên (Bình Dương)
Đất Đỏ, Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Châu Phú, Châu Thành, Phú Tân (An Giang)
Trần Văn Thời (Cà Mau)
Vĩnh Thạnh (Cần Thơ)
Châu Thành (Hậu Giang)
Hòn Đất (Kiên Giang)
Kế Sách, Long Phú, Thạnh Trị, Trần Đề (Sóc Trăng)
Gò Công Đông (Tiền Giang)
Cầu Ngang, Tiểu Cần, Trà Cú (Trà Vinh)
Ba Tri, Châu Thành (Bến Tre)
39 huyện không có thị trấn, đó là các huyện:
Mường Nhé, Nậm Pồ, Điện Biên (Điện Biên)
Quỳnh Nhai, Sốp Cộp, Vân Hồ (Sơn La)
Pác Nặm (Bắc Kạn)
Tân Sơn (Phú Thọ)
Bạch Long Vĩ (Hải Phòng)
Kỳ Anh (Hà Tĩnh)
Quảng Trạch (Quảng Bình)
Cồn Cỏ (Quảng Trị)
Hòa Vang, Hoàng Sa (Đà Nẵng)
Tây Giang, Nam Trà My (Quảng Nam)
Sơn Tịnh, Sơn Tây, Minh Long, Lý Sơn (Quảng Ngãi)
Tu Mơ Rông, Ia H'Drai (Kon Tum)
Ia Pa (Gia Lai)
Buôn Đôn, Cư Kuin (Đắk Lắk)
Đắk Glong, Tuy Đức (Đắk Nông)
Bác Ái, Thuận Bắc, Thuận Nam (Ninh Thuận)
Phú Quý (Bình Thuận)
Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Đam Rông (Lâm Đồng)
Bù Gia Mập, Phú Riềng (Bình Phước)
Tân Phú Đông (Tiền Giang)
Giang Thành, Kiên Hải, U Minh Thượng (Kiên Giang)
375 huyện có 1 thị trấn.
Thông thường tên các thị trấn thường có 2 âm tiết, nhưng có một số thị trấn mà tên gọi chỉ có 1 âm tiết, chủ yếu tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng:
Thắng (Hiệp Hòa), Vôi, Kép (Lạng Giang), Chũ (Lục Ngạn), Nếnh (Việt Yên)
Đu (Phú Lương)
Bo (Kim Bôi)
Thứa (Lương Tài), Lim (Tiên Du), Chờ (Yên Phong)
Phùng (Đan Phượng)
Vương (Tiên Lữ)
Quế (Kim Bảng)
Cồn (Hải Hậu), Gôi (Vụ Bản), Lâm (Ý Yên)
Me (Gia Viễn)
Nưa (Triệu Sơn)
Nghèn (Can Lộc)
Sịa (Quảng Điền)
Prao (Đông Giang)
Kbang (Kbang)
M'Drắk (M'Drắk)
D'Ran (Đơn Dương).
Thị trấn có diện tích lớn nhất: thị trấn Thạnh Mỹ (huyện Nam Giang) với 206,58 km².
Thị trấn có diện tích nhỏ nhất: thị trấn Trường Sa (huyện Trường Sa) với 0,15 km².
Phân loại đô thị
Đa số thị trấn tại Việt Nam được xếp vào đô thị loại V. Một số thị trấn lớn được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV như:
Phân biệt với xã
Tiêu chí để xét một khu vực dân cư là thị trấn hay xã thông thường gắn với tỷ lệ ngành nghề. Tại khu vực xã, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp (lâm nghiệp, ngư nghiệp) cao hơn so với một thị trấn. Tại địa bàn một huyện, mật độ dân số tại các thị trấn thông thường cũng cao hơn so với mật độ dân số tại các xã. Các tiêu chí khác như số lượng dân số, đóng góp cho ngân sách (qua thuế chẳng hạn), diện tích đất đai không rõ nét trong trường hợp này. Một thị trấn có thể đông dân và nộp ngân sách nhiều hơn một xã, song cũng không ít trường hợp ngược lại.
Thị tứ
Các sách báo gần đây đề cập nhiều đến khái niệm thị tứ. Tuy nhiên, thị tứ không phải là một đơn vị hành chính nhà nước chính thức. Một thị tứ thông thường được hiểu là trung tâm của một tiểu vùng kinh tế (bao gồm phạm vi nhiều xã với lượng dân cư khoảng 4-5 nghìn người, nhưng không phải trong phạm vi toàn huyện); trong đó các ngành nghề như thương mại, dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển hơn so với các vùng phụ cận. Dân cư sống trong khu vực đó cũng sống tập trung và có mật độ cao hơn. Một thị tứ được hình thành khi ở khu vực đó có sự thuận lợi về các điều kiện hạ tầng cơ sở hơn so với khu vực phụ cận. Nó có thể nằm trong khu vực thuộc nhiều xã giáp ranh. Nó là tiền đề để hình thành nên các thị trấn mới trong tương lai, khi nó phát triển đủ lớn để chính quyền có thể công nhận.
Chú thích |
Huyện là thuật ngữ để chỉ một đơn vị hành chính bậc hai của một quốc gia (đơn vị bậc một là tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương như ở Việt Nam). Huyện được chia thành các xã và ít nhất là một thị trấn nơi chính quyền huyện đặt cơ quan hành chính.
Cấp huyện là một thuật ngữ khác được dùng để chỉ các đơn vị hành chính tương đương với huyện gồm có huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh.
Gần như trong tiếng Việt, "huyện" được dùng để chỉ đơn vị hành chính ở Việt Nam, Trung Quốc và có thể các quốc gia láng giềng như Lào, Campuchia trong khi "quận" được dùng khá rộng rãi hơn để chỉ các đơn vị hành chính tương đương ở các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Pháp.
Việt Nam
Phân chia cấp đơn vị hành chính
Hiện nay, tại Việt Nam thì các đơn vị hành chính được phân chia một cách chính thức thành 3 cấp là cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Các đơn vị hành chính tương đương
Tại các thành phố trực thuộc trung ương, huyện ngang cấp với:
Quận (nội thành).
Thị xã (nếu có)
Tại các tỉnh, huyện tương đương với:
Thành phố thuộc tỉnh (nếu có)
Thị xã (nếu có)
Các đơn vị hành chính cấp dưới
Một huyện thông thường được chia ra thành nhiều xã và có thể có một vài thị trấn.
Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam cũng có trường hợp huyện không có các đơn vị hành chính cấp dưới như:
Bạch Long Vĩ, thuộc thành phố Hải Phòng.
Côn Đảo, thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Cồn Cỏ, thuộc tỉnh Quảng Trị.
Hoàng Sa, thuộc thành phố Đà Nẵng.
Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Phân loại đơn vị hành chính cấp huyện
Theo nghị định của Chính phủ số 15/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 1 năm 2007 "Về phân loại đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện" thì dơn vị hành chính cấp huyện được phân làm ba loại: loại I, loại II và loại III.
Thành phố thuộc tỉnh, quận thuộc thủ đô Hà Nội và quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh là các đơn vị hành chính cấp huyện loại I. Quận thuộc Thủ đô Hà Nội và quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có dân số và mật độ dân số cao, tính chất quản lý nhà nước về đô thị phức tạp và khó khăn, đạt tỷ lệ thu chi cân đối ngân sách hàng năm cao, là đơn vị hành chính cấp huyện thuộc đô thị loại đặc biệt.
Các đơn vị hành chính cấp huyện còn lại được tính điểm để phân loại theo các tiêu chí:
Dân số
Diện tích tự nhiên
Các yếu tố đặc thù
Trung Quốc
Trong phân cấp hành chính của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, huyện là cấp hành chính thứ ba sau cấp tỉnh và cấp địa khu, các đơn vị "cấp huyện" bao gồm huyện, huyện tự trị, thành phố cấp huyện, kỳ, kỳ tự trị, và khu. Có 1467 huyện ở Trung Quốc đại lục trong tổng số 2861 đơn vị cấp huyện.
Nhật Bản
Hàn Quốc
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
Đài Loan |
Tỉnh lỵ là trung tâm hành chính của một tỉnh ở Việt Nam, tức là nơi các cơ quan hành chính nhà nước của tỉnh đó đóng trụ sở. Thông thường, mỗi tỉnh sẽ chọn tỉnh lỵ (trung tâm hành chính tỉnh) là một thị xã hoặc thành phố trực thuộc tỉnh đó, nhưng không nhất thiết là thị xã hay thành phố lớn nhất.
Đối với các thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan hành chính của nó cũng thường đặt trụ sở tại một quận (hoặc một vài quận) trực thuộc. Quận này được coi là quận trung tâm của thành phố trên thực tế, nhưng không hề có khái niệm công nhận chính thức nó là "quận trung tâm" hoặc "thành phố lỵ".
Danh sách các tỉnh lỵ ở Việt Nam |
Trong Phật giáo, có nhiều phương pháp và kĩ thuật thiền khác nhau. Một trong những mục tiêu chính của thiền là giúp cho sự bất động của "sáu căn" không phóng dật, không bị dụ dỗ lôi kéo dính mắc sáu pháp trần gian bên ngoài thân ngũ uẩn, gây nên sự ham muốn thích thú đam mê.
Từ nguyên
Thiền (zh. chán 禪, ja. zen), gọi đầy đủ là Thiền-na (zh. chánna 禪那, sa. dhyāna, pi. jhāna, ja. zenna, en. meditation), là thuật ngữ Hán-Việt được phiên âm từ dhyāna trong tiếng Phạn. Dhyāna là danh từ phái sinh từ gốc động từ √dhyā (hoặc √dhyai). Bộ Sanskrit-English Dictionary của Monier-Williams ghi lại những nghĩa chính như sau: to think of, imagine, contemplate, meditate on, call to mind, recollect.
Tất cả các trào lưu triết học Ấn Độ đều hiểu dưới gốc động từ này là sự tư duy, tập trung lắng đọng và vì vậy, ta cũng tìm thấy từ dịch ý Hán-Việt là Tĩnh lự (zh. 靜慮). Các cách phiên âm Hán-Việt khác là Đà-diễn-na (zh. 馱衍那), Trì-a-na (持阿那). Có thể coi Thiền là sự kết hợp giữa thân thể và ý niệm trong thời gian – không gian hiện tại để nhận biết sự vật, hiện tượng và ý niệm. Thiền là để tĩnh tâm, gạt bỏ mọi tạp niệm để nhận thức bản ngã và thế giới xung quanh một cách đúng đắn, sáng suốt nhất.
"Định" là sự hướng tâm của Ý thức để tác động chỉ đạo sáu căn nghe theo sự xuất nhập đóng mở và an trú vào một điểm trên cơ thể, nhằm tạo sự lớn dần về nội lực thân tâm thanh thản an lạc giải thoát hoàn toàn sau khi đã ly được dục và ác pháp trên thân tâm. "Thiền Định" của Phật giáo Thích Ca là sự bất động của tâm và thân theo từng cấp độ tăng dần theo nội lực của Ý thức cho đến đỉnh cao của sự giải thoát hoàn toàn của thân và tâm "định" vào một khối sau khi Ý thức lực tác động làm cho hơi thở ngừng hoàn toàn một cách tự nhiên mà không bị ức chế hay rối loạn thân tâm.
Trong đạo Phật
Ý chí cương quyết tu tập Thiền sẽ dẫn hành giả đến một tâm trạng Bất nhị, nơi mà những ý nghĩ nhị nguyên như "ta đây vật đó" được chuyển hoá; hành giả chứng ngộ cái "Tuyệt đối", mở ra những khả năng của Chân Như, những khái niệm về không gian và thời gian đều được chuyển biến thành cái "hiện tại thường hằng", hành giả chứng ngộ được sự đồng nhất của thế giới hiện hữu và bản tính. Nếu kinh nghiệm này được trau dồi thâm sâu và hành giả áp dụng nó vào những hành động của cuộc sống hằng ngày thì đó chính là trạng thái mà tất cả những tôn giáo đều gọi chung là "Giải thoát".
Theo đạo Phật, hành giả nhờ Định (sa. samādhi) mà đạt đến một trạng thái sâu lắng của tâm thức, trong đó toàn bộ tâm thức chỉ chú ý đến một đối tượng thiền định thuộc về tâm hay vật. Tâm thức sẽ trải qua nhiều chặng, trong đó lòng tham dục dần dần suy giảm. Một khi hành giả trừ năm chướng ngại (ngũ cái五蓋, sa. nīvaraṇa) thì đạt được bốn cõi thiền (tứ thiền định) của sắc giới (sa. rūpadhātu, xem Tam giới), đạt Lục thông (sa. ṣaḍabhijñā) và tri kiến vô thượng. Tri kiến này giúp hành giả thấy rõ các đời sống trước của mình, thấy diễn biến của sinh diệt và dẫn đến giải thoát mọi lậu hoặc (sa. āsrava). Hành giả đạt bốn cõi thiền cũng có thể chủ động tái sinh trong các cõi Thiên (sa. deva) liên hệ.
Trong giai đoạn một của thiền định, hành giả buông xả lòng tham dục và các pháp bất thiện, nhờ chuyên tâm suy tưởng mà đạt đến. Trong cấp này, hành giả có một cảm giác hỉ lạc. Trong giai đoạn hai, tâm suy tưởng được thay thế bằng một nội tâm yên lặng, tâm thức trở nên sắc sảo bén nhọn vì bao hàm nhân tố chú tâm quán sát. Hành giả tiếp tục ở trong trạng thái hỉ lạc. Qua giai đoạn ba, tâm hỉ lạc giảm, tâm xả bỏ hiện đến, hành giả tỉnh giác, cảm nhận sự nhẹ nhàng khoan khoái. Trong giai đoạn bốn, hành giả an trú trong sự xả bỏ và tỉnh giác.
Tại Trung Quốc, Thiền có một ý nghĩa rộng hơn rất nhiều. Nó bao gồm tất cả phép tu như quán niệm hơi thở Nhập tức xuất tức niệm (zh. 入息出息念, pi. ānāpānasati), Tứ niệm xứ (pi. satipaṭṭhāna)... với mục đích nhiếp tâm và làm tâm tỉnh giác. Từ phép Thiền do Bồ-đề-đạt-ma truyền, Thiền Trung Quốc đã phát triển rất mạnh (Thiền tông).
Trong một ý nghĩa bao quát, Thiền cũng không phải là những phương pháp đã nêu trên. Thiền là một trạng thái tâm thức không thể định nghĩa, không thể miêu tả và phải do mỗi người tự nếm trải. Trong nghĩa này thì Thiền không nhất thiết phải liên hệ với một tôn giáo nào cả — kể cả Phật giáo. Trạng thái tâm thức vừa nói đã được các vị thánh nhân xưa nay của mọi nơi trên thế giới, mọi thời đại và văn hoá khác nhau trực nhận và miêu tả bằng nhiều cách. Đó là kinh nghiệm giác ngộ về thể sâu kín nhất của thật tại, nó vừa là thể của Niết-bàn và vừa của Luân hồi, sinh tử. Vì vậy, Toạ thiền không phải là một phương pháp đưa con người đi từ vô minh đến giác ngộ, mà là giúp con người khám phá bản thể thật sự của mình đang mỗi lúc hiện diện. |
Tam giới (, , , ), cũng được gọi là Tam hữu (), là ba cõi giới của vòng sinh tử. Các khái niệm về ba thế giới (tri-loka) xuất hiện trong Ấn Độ giáo và Kỳ Na giáo, cũng như các kinh điển Phật giáo thời kì sơ khai.
Phật giáo
Khái niệm Tam giới này có thể hiểu là Vũ trụ quan của đạo Phật. Tam giới bao gồm: cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Tất cả chúng sanh ở trong Tam Giới, gọi là loài Hữu tình, đều tái sinh theo hướng Lục đạo ().
Cõi Dục
Dục giới hay cõi Dục (zh. 欲界; s, p: kāmaloka, kāmadhātu, bo. dö kham འདོད་ཁམས་, dö pé kham འདོད་པའི་ཁམས་): có ham muốn về thể xác, giới tính và đầy đủ những ham muốn khác.
Trong Dục giới có sáu loại hữu tình sau:
Địa ngục (zh. 地獄, sa. naraka)
Ma đói (zh. 餓鬼, sa. preta)
Loài vật (zh. 畜生, sa. paśu)
Loài người (zh. 人世, sa. nāra)
Cõi thần (zh. 阿修羅, sa. asura)
6 Cõi trời dục (lục dục thiên 六欲天):
Trời Tứ thiên vương (zh. 四天王, sa. cāturmahārājika);
Trời Đao lợi (忉利) hay trời Ba mươi ba (zh. 三十三天, sa. trayastriṃśa);
Trời Dạ ma (zh. 夜摩, sa. yāmadeva) hoặc trời Tu dạ ma (zh. 須夜摩天, sa. suyāma);
Trời Đâu suất (zh. 兜率天, sa. tuṣita);
Trời Hoá lạc (zh. 化樂天, sa. nirmāṇarati);
Trời Tha hoá tự tại (zh. 他化自在天, sa. paranirmitavaśavarti);
Chúng sinh ở cõi Dục giới tuy hưởng dục lạc khác nhau (ở cõi trên thì sung sướng hơn cõi dưới), nhưng nói chung đều chịu những nỗi khổ: hành khổ (không thoát được luân hồi, đã sinh ra thì phải có lúc chết đi), hoại khổ (thể xác và những dục lạc được hưởng rồi sẽ mất đi chứ không duy trì được mãi), bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ). Những chúng sinh ở 3 cõi thấp tức tam ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) thì gần như không có sung sướng mà chỉ có khổ đau. Trừ cõi người, địa ngục, súc sanh tất cả chúng sinh cõi khác đều có Ngũ thông bẩm sinh. Cõi người và súc sanh không có vì bị chướng ngại thân xác vật lí, cõi quỷ thần không có thân, cõi trời là do phước báu nên có cả thân và thần thông. Người có thần thông do tu luyện chứng đắc thiền định hoặc do nghiệp tiền kiếp, phước báu đời trước, tu phước cầu thần thông. Thần thông từ thiền định nếu thối quả vị sẽ mất thần thông, tâm ô nhiễm mất thanh tịnh sẽ hết khả năng cảm ứng tâm linh, thần thông tự tại từ phước báu khi hết phước thì sẽ mất tất cả. Người hay có cảm ứng tâm linh là do đời trước từng làm loài trời, a tu la nên nay còn dư phước, kiếp trước từng tu thiền, tu đạo, tu tiên hoặc luyện phép bùa chú hoặc là người sống giản dị, chất phác có đức và có phước, giữ năm giới hay siêng năng làm mười điều thiện thần thông sẽ khai mở vì nó là thiên tính ai cũng có thể được, nhưng muốn có Nhân thì phải có Quả, nếu cầu không thì sẽ không có. Nhưng tuyệt đối chẳng có chuyện làm loài quỷ đọa lạc kiếp này đầu thai mà được, dù có chắc hẳn là do phước đời trước còn sót lại nay dễ dùng vào việc tà. Thiên mục cũng dễ dàng có được nhờ cúng dường đèn, nến, ánh sáng nhất là cúng dường Phật, Tam Bảo. Phóng sinh nhiều dễ luyện có phép xuất hồn, hồi hướng khắp tất cả nhanh thành Phật đạo phước báu càng nhanh tăng trưởng. Ít nhất cõi trời Tứ Thiên Vương trở lên tất cả chúng sanh đều có thần thông.
Cõi Sắc
Sắc giới hay cõi Sắc (zh. 色界, sa. rūpaloka, rūpadhātu, bo. zug kham གཟུགས་ཁམས་): thuộc tầng trời sắc giới, các chúng sinh ở đây đều đã chấm dứt mọi ham muốn giới tính, không cần ăn uống, nhưng còn có thân xác và khoái lạc tinh thần, sắc. Đây là thế giới của những người đã đạt tới Thiền định (sa. dhyāna) nếu chỉ có phước báu sẽ không thể sinh lên cảnh giới này, không bị bát phong (8 loại gió) làm lay động tâm gồm: “lợi-suy, hủy-dự, xưng-cơ, khổ-lạc”, là lợi dưỡng - suy hao, hủy báng - tán thán, tôn kính - chê bai, đau khổ - vui mừng, hay còn gọi là được - mất, khen - chê, tốt - xấu, khổ đau - sung sướng, càng lên tầng trời cao công phu thiền định càng sâu, hỷ lạc thiền sinh ra ở tâm càng lớn. Thức ăn hoặc yếu tố để duy trì sinh mạng là hỉ lạc vô dục nơi nội tâm của thiền. Không có già bệnh, nhưng vẫn còn tuổi thọ và khổ. Thể xác không được cấu tạo bằng vật chất như dục giới mà là hình sắc của ánh sáng giống như linh hồn, khi chết thì thân xác sẽ biến mất mà không trải qua già bệnh, sau đó luân hồi sang cõi khác.
Sắc giới gồm bốn cõi, mỗi cõi lại được chia thành nhiều cõi trời khác nhau. Những người tu thiền đã đạt đến Tứ thiền định, khi thọ mạng hết thì tùy mức chứng đắc mà có thể sinh vào 1 trong 4 xứ này (ví dụ: người chứng đắc được Nhị thiền thì sẽ tái sinh vào cõi Nhị thiền trong Sắc giới).
Trời Sơ thiền (zh. 初禪天) với ba cõi sau:
Trời Phạm thiên (zh. 梵身天, sa. brahmakāyika);
Trời Phạm phụ (zh. 梵輔天, sa. brahmapurohita);
Trời Đại phạm (zh. 大梵天, sa. mahābrahmā).
Có hệ thống ghi thêm cõi trời thứ tư của trời Sơ thiền là trời Phạm chúng (zh. 梵眾天, sa. brahmaparśadya).
Trời Nhị thiền (zh. 二禪天) với ba cõi sau:
Trời Thiểu quang (zh. 少光天, sa. parīttābha);
Trời Vô lượng quang (zh. 無量光天, sa. apramāṇābha);
Trời Cực quang tịnh (zh. 極光淨天, sa. abhāsvara, kiểu dịch cũ là trời Quang âm (zh. 光音天).
Trời Tam thiền (zh. 三禪天) bao gồm:
Trời Thiểu tịnh (zh. 少淨天, sa. parīttaśubha);
Trời Vô lượng tịnh (zh. 無量淨天, sa. apramāṇaśubha);
Trời Biến tịnh (zh. 遍淨天, sa. śubhakṛtsna).
Trời Tứ thiền (zh. 四禪天) gồm có:
Trời Vô vân (zh. 無雲天, sa. anabhraka);
Trời Phúc sinh (zh. 福生天, sa. puṇyaprasava);
Trời Quảng quả (zh. 廣果天, sa. bṛhatphala);
Trời Vô tưởng (zh. 無想天, sa. asāṃjñika);
Trời Vô phiền (zh. 無煩天, sa. avṛha);
Trời Vô nhiệt (zh. 無熱天, sa. atapa);
Trời Thiện kiến (zh. 善見天, sa. sudarśana);
Trời Sắc cứu cánh (zh. 色究竟天, sa. akaniṣṭha);
Trời Hoà âm (zh. 和音天, sa. aghaniṣṭha);
Trời Đại tự tại (zh. 大自在天, sa. mahāmaheśvara).
Có sách xếp trời Vô tưởng, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu kính, trời Hoà âm thuộc trời Tịnh phạm (zh. 淨梵天), không thuộc về trời Tứ thiền.
Chúng sinh ở cõi Sắc giới không phải chịu bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ) bởi họ đã trừ hết những ham muốn về giới tính, thể xác. Nhưng họ vẫn chịu hành khổ (không thoát được luân hồi), hoại khổ (do vẫn có thể xác nên thể xác đó rồi cũng tới lúc phải hư hoại rồi chết).
Cõi Vô sắc
Vô sắc giới hay cõi Vô sắc (zh. 無色界, sa. arūpaloka, arūpadhātu, bo. zuk mé kham གཟུགས་མེད་ཁམས་, zuk mé kyi kham གཟུགས་མེད་ཀྱི་ཁམས་): thế giới này được tạo dựng thuần tuý bằng tâm thức và gồm bốn xứ (sa. arūpasamādhi). Các chúng sinh ở đây không còn thân xác vật chất mà chỉ tồn tại dưới dạng ý thức, họ đã chấm dứt mọi ham muốn và khoái lạc tinh thần, ngoại trừ vọng tưởng, chấp trước, phiền não. Chúng sinh ở đây đã loại bỏ được sự phiền toái của thân xác, sự lệ thuộc và chướng ngại vật lý nên họ không có và không cần thân xác. Họ vẫn cần thức ăn hay cách để duy trì sự tồn tại theo chu kỳ đó là ý niệm tịnh tĩnh mông lung, bao la, đó là nhập vào đại định. Nếu chúng sinh nào tu lên tầng này họ sẽ không thể tiếp thu Phật pháp, không nghe chánh pháp Như Lai: họ không biết khổ vì lục căn của họ đã xả đi, thân xác họ cũng không có, họ không nghe được giáo pháp Như Lai mà chỉ hưởng thụ chìm đắm khoái lạc của thiền định, tịnh tĩnh trong khoảng thời gian cực dài - đại kiếp nên Phật có thuyết pháp cho họ cũng không được, không thể tiếp nhận, có thể nói ngần ấy thời gian không gặp Phật pháp, rất khó đi đến giải thoát, cuối cùng vẫn phải đọa lạc.
Vô sắc giới gồm các tầng trời:
Xứ Không vô biên (zh. 空無邊處, sa. ākāśanantyāyatana);
Xứ Thức vô biên (zh. 識無邊處, sa. vijñānanantyāyatana);
Xứ Vô sở hữu (zh. 無所有處, sa. ākiṃcanyāyatana);
Xứ Phi tưởng phi phi tưởng (zh. 非想非非想處, sa. naivasaṃjñā-nāsaṃjñāyatana).
Hành giả tu học thiền đến cảnh giới cao, trên mức tứ thiền định (từ Không vô biên xứ trở lên) có thể sinh vào bốn xứ này.
Chúng sinh ở cõi Vô Sắc không phải chịu bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ) bởi họ đã trừ hết những ham muốn về giới tính, thể xác. Họ cũng không phải chịu hoại khổ (do không còn thể xác nên không lo bản thân bị hư hoại). Nhưng họ vẫn chịu hành khổ (không thoát được luân hồi), tức là đến lúc hết phước báu, thọ mạng của họ sẽ hết và họ sẽ phải chết đi, luân hồi sang kiếp khác vì cảnh giới này cao nhất Phi tưởng Phi-Phi tưởng tâm không có phiền não trong 84 000 Đại kiếp (84000×1.334.240.000 năm) cũng là thọ mạng của họ, hết thời hạn lập tức đọa xuống tầng trời thấp hơn, cảnh giới này không duy trì vĩnh viễn và nằm trong luân hồi.
Phi Tam giới
Trên tam giới còn có các cõi phi tam giới như: Thinh Văn Giác, Phật Độc Giác và Phật Toàn Giác, đây là cõi của những chúng sinh đã chấm dứt phiền não và thoát khỏi luân hồi vĩnh viễn. |
Tam thừa (sa. triyāna, Hán tự: 三乘) theo quan niệm Phật giáo Đại thừa là ba con đường tu hành giúp hành giả đạt đến sự giải thoát hay chứng được Niết-bàn ở các cấp độ khác nhau. Ba phương pháp tu đó là: Thanh Văn thừa (sa. śrāvakayāna), Duyên Giác thừa (sa. pratyekabuddhayāna) và Bồ-tát thừa (sa. bodhisattvayāna). Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hành trình đến sự giải thoát chỉ có duy nhất một con đường là Phật thừa (hay Nhất thừa, sa. Ekayāna), tuy nhiên do căn cơ chúng sinh khác nhau mà từ một Phật thừa phân biệt giảng nói thành ba thừa (Phẩm 2. Phương Tiện) để cho mọi chúng hữu tình đều có thể giác ngộ.
Thanh Văn thừa (Śrāvakayāna)
Thanh Văn thừa là phương pháp tu hành của những vị đệ tử xuất gia (gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni) tu học theo Phật toàn giác (như Phật Thích Ca) với mục đích tột cùng là đắc quả A-la-hán (sa. Arhat hay trong một số văn bản dùng là Sāvakabuddha). Nhiều học giả gọi Thanh Văn thừa là Tiểu thừa (sa. Hinayana) vì cho rằng con đường này không thể độ được các chúng sinh khác đắc đạo (tha lực) mà chỉ có thể giúp người tu hành chứng ngộ và bản thân A-la-hán chưa phải là Phật quả. Nội dung tu học của Thanh Văn thừa chủ yếu xoay quanh chân lý Tứ diệu đế (Sa. catvāry āryasatyāni) bao gồm Khổ đế (chỉ ra khổ của mọi chúng sinh bao gồm bát khổ, tam khổ), Tập đế (chỉ ra nguyên nhân của sự khổ đau: do vô minh), Diệt đế (chỉ ra phương pháp tiêu trừ khổ đau) và Đạo đế (hay Bát chính đạo: cách thức tu tập để thoát khỏi khổ đau). Người tu hành theo Thanh Văn thừa có thể đốn ngộ (chứng đạt Niết-bàn ngay tức khắc) hoặc tiệm ngộ (chứng đạt Niết-bàn qua một quá trình dài lâu). Có bốn cấp bậc đạo quả mà hành giả đạt được khi tu theo Thanh Văn thừa (tức Tứ thánh quả), bao gồm:
Sơ quả Nhập Lưu hay Thất Lai: tức quả Tu-đà-hoàn (Sotāpatti) là quả đầu tiên do hành giả chứng được sau khi phá được ba kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ, và Nghi. Người đã đắc quả Nhập Lưu sẽ không còn bị đọa sinh vào ba cõi ác: địa ngục (sa. Naraka), Ngạ quỷ, Súc sinh trong đời vị lai và chắc chắn sẽ đắc quả A-la-hán sau bảy kiếp nữa.
Nhị quả Nhất Lai: tức quả Tư-đà-hàm (Sakadāgāmī), người chứng nhị quả này làm giảm nhẹ 2 kiết sử tham, sân và sẽ là Người đắc nhị quả, chỉ còn tái sinh thêm một lần nữa thì đắc quả A-la-hán.
Tam quả Bất Lai: tức quả A-na-hàm (Anāgāmī), người đắc quả A-na-hàm đã phá xong 2 kiết sử tham, sân (dù hai kiết sử này vẫn ở trạng thái vi tế). không tái sinh cõi người nữa mà được sinh lên tầng thiên rồi tu đến khi đắc đạo.
Tứ quả A-la-hán: tức quả vị cuối cùng của bốn thánh quả khi tu hạnh Thanh Văn, vị này đã phá xong 10 kiết sử, những vị đã chứng quả A-la-hán đã thoát khỏi vòng quay luân hồi mà hưởng sự tĩnh tịch nơi Niết-bàn. Các vị A-la-hán được gọi là các vị vô học vì các ngài đã thông suốt chân lý nên không cần học thêm nữa trong khi các quả khác gọi là bậc hữu học vì còn phải học tập để đạt tới sự giải thoát.
Tuy nhiên, quả vị A-la-hán chưa phải là sự giác ngộ viên mãn, tột cùng theo quan niệm Đại thừa. Theo Tạp A Tì Đàm Tâm (quyển 5) và Câu Xá Luận (quyển 25), tùy theo căn tính nhanh hay chậm thì A-la-hán được chia thành sáu bậc:
Thoái Pháp A La Hán, cũng gọi là Thoái Tướng A La Hán: chỉ những vị mới chỉ gặp một ít ác duyên đã dễ dàng đánh mất quả vị đã chứng được.
Tư Pháp A La Hán, cũng gọi là Tử Tướng A La Hán: chỉ những vị lo sợ bị mất quả vị A La Hán mà nghĩ đến việc tự sát.
Hộ Pháp A La Hán, cũng gọi Thủ Tướng A La Hán: chỉ những vị có khả năng giữ gìn, không để mất quả vị.
An Trụ Pháp A La Hán, cũng gọi là Trụ Tướng A La Hán, chỉ những vị không lui cũng không tiến mà ở yên nơi quả vị.
Kham Đạt Pháp A La Hán, cũng gọi là Khả Tiến Tướng A La Hán, chỉ những vị có khả năng tiến tới nhanh chóng mà đạt đến pháp Bất Động.
Bất Động Pháp A La Hán, cũng gọi là Bất Hoại Tướng A La Hán, chỉ những vị vĩnh viễn không đánh mất pháp đã chứng được.
Duyên Giác thừa (Pratyekabuddhayāna)
Bích Chi Phật (Sa. Pratyekabuddha) là một vị Phật đã giác ngộ nhưng không có khả năng giáo hóa chúng sinh đắc quả Vô thượng nên kém hơn Phật Toàn Giác (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác). Duyên Giác thừa thuộc hạng Trung thừa (nằm giữa Thanh Văn thừa và Bồ-tát thừa). Hành giả trên con đường này chủ yếu tu theo thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (Duyên khởi) mà đắc đạo. Có hai nhóm Bích Chi Phật đó là
Duyên Giác Phật: những vị do căn tu hành nhờ nghe theo Phật Toàn giác mà chứng được Phật quả.
Độc Giác Phật: những vị tự chứng ngộ lý Duyên khởi mà không thầy chỉ dạy mà chứng được Phật quả. Theo một số học giả, Độc Giác Phật thực ra là Duyên Giác Phật là do các vị này đã từng được thụ giáo thuyết Duyên khởi bởi Phật Toàn giác, sau đó sinh lên cõi Thiên tiếp tục tu. Sau đó hóa về kiếp người (khi Phật Toàn Giác đã diệt độ), do căn tu đã được gieo trồng từ trước nên chứng được thuyết Thập nhị nhân duyên, đắc Phật quả.
Bồ-tát thừa (Bodhisattvayāna)
Bồ-tát thừa (Bodhisattvayāna) hay Bồ tát đạo được xem là Đại thừa vì những chúng sinh nào tu theo con đường này sẽ đưa đến quả Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, Sa. Anuttara-samyak-sambodhi), bất kỳ ai cũng có thể thụ giới Bồ-tát (gồm 10 giới trọng, 48 giới khinh trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới) và tu theo Bồ-tát thừa dù là bậc xuất gia (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni) hay bậc tại gia/hàng bạch y (ưu-bà-tắc/ cận sự nam như trưởng giả Duy-ma-cật trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh, ưu-bà-di/ cận sự nữ). Phương pháp tu hạnh chính của con đường này là thực hành các ba-la-mật-đa (sa. paramita), theo dòng văn Bát-nhã và một số kinh điển khác như kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì có lục độ: Bố thí (dana), Trì giới (śīla), Nhẫn (kṣānti), Tinh tấn (vīrya), Thiền định (dhyāna), Trí huệ (prajñā); trong phẩm Thập Địa, kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm có bổ sung thêm bốn ba-la-mật đó là Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí.
Bồ-tát hay gọi đầy đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (sa. Bodhisattva) là những chúng sinh có nguyện lực lớn muốn vừa tự giải thoát chính mình (tự giác) vừa cứu độ những chúng sinh khác (tha giác). Một vị Bồ-tát có thể phát nguyện thành Phật mới độ chúng sinh (như Phật Vô Lượng Thọ, Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương, Phật Bất Động...) hoặc độ chúng sinh rồi mới thành Chính quả (như ngài Địa Tạng Vương Bồ-tát); một số trường hợp thì dù đã đắc quả Vô thượng nhưng vì thương xót chúng sinh nên mới hiện thân làm Bồ-tát (như ngài Quán Thế Âm Bồ-tát trong kinh Đại Bi Tâm Đà-la-ni). Theo kinh Phạm Võng, kinh Anh Lạc thì có 52 cấp bậc của Bồ-tát (xếp từ thấp lên cao) là:
Thập Tín vị: Tín tâm, Niệm tâm, Tinh tấn tâm, Huệ tâm, Định tâm, Bất thoái tâm, Hồi hướng tâm, Hộ pháp tâm, Giới tâm và Nguyện tâm.
Thập Trụ vị: Phát tâm trụ, Trị địa tâm trụ, Tu hành tâm trụ, Sinh quý tâm trụ, Phương tiện cụ trúc tâm trụ, Chánh tâm trụ, Bất thoái tâm trụ, Đồng chân tâm trụ, Pháp vương tử tâm trụ và Quán đảnh tâm trụ.
Thập Hạnh vị: Hoan hỷ tâm hạnh, Nhiêu ích tâm hạnh, Vô sân hận tâm hạnh, Vô tận tâm hạnh, Ly si loạn tâm hạnh, Thiện hiện tâm hạnh, Vô trước tâm hạnh, Tôn trọng tâm hạnh, Thiện pháp tâm hạnh và Chân thật tâm hạnh.
Thập Hồi hướng vị: Cứu độ nhất thiết chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi hướng tâm, Bất hoại hồi hướng tâm, Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng tâm, Chí nhất thiết xứ hồi hướng tâm, Vô tận công đức hồi hướng tâm, Tuỳ thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng tâm, Tuỳ thuận đẳng quan nhất thiết chúng sinh hồi hướng tâm, Như tướng hồi hướng tâm, Vô phược giải thoát hồi hướng tâm, Pháp giới vô lượng hồi hướng tâm.
Thập Địa: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa và Pháp vân địa.
Ngoài ra trên bậc Thập Địa là Đẳng Giác Bồ Tát, sau khi mãn được Đẳng Giác thời thành Diệu Giác (tức Phật Chính Đẳng Chính Giác).
Thập Trụ vị, Thập Hạnh vị, Thập Hồi hướng vị được gọi chung là 30 bậc Hiền; Thập địa được gọi là 10 bậc thánh. Thông thường, những vị đã chứng được Viễn hành địa trở lên được gọi là Đại Bồ-tát, Đại sĩ hay Ma-ha-tát-đỏa (Mahasattva) như Quán Thế Âm Bồ-tát, Địa Tạng Vương Bồ-tát, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Phổ Hiền Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát (A-dật-đa Bồ-tát), Hư Không Tạng Bồ-tát, Trừ Cái Chướng Bồ-tát...
Nhất thừa (Ekayāna)
Trong Phẩm 2. Phương tiện của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật Thích-ca có thuyết rằng chỉ có một Phật thừa duy nhất. Tuy nhiên, chúng sinh có căn tính khác nhau nên sự lĩnh hội cũng khác nhau do đó mới từ một Phật thừa mà nói thành tam thừa là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ-tát thừa để mọi chúng sinh đều có thể giác ngộ, thoát khỏi khổ đau. Trong phẩm 3. Thí dụ, Phật có đưa ra thí dụ minh họa cho ý niệm trên: nhà một vị trưởng giả bị cháy (tượng trưng cho cõi Ta-bà sa. Saha), ông trưởng giả (ẩn dụ cho đức Phật) chạy thoát được ra ngoài trong khi ba đứa con của ông (ẩn dụ cho chúng sinh) vẫn mẩn mê chơi bời trong ngôi nhà cháy rực ấy. Biết căn tính các con thích đồ chơi mới lạ trưởng giả nói lớn với các con rằng sẽ cho các con, mỗi người một trong ba cỗ xe (con đường tu thoát): cỗ xe dê, xe hươu và xe trâu, thế là các con vì phấn khích nên mới chạy ra khỏi ngôi nhà cháy. Sau đó, trưởng giả biết mình giàu có nên những cỗ xe tầm thường ấy không xứng với các con do đó ông quyết định cho mỗi người con cỗ xe đẹp, lớn, giăng châu báu giống nhau, mà không phân biệt (ẩn dụ cho Nhất thừa). |
Thập nhị bộ kinh (chữ Hán: 十二部經), còn gọi là Thập nhị phần giáo (十二分教), Thập nhị phần thánh giáo (十二分聖教; tiếng Phạn:dvādaśāṅga-dharma-pravacana), Thập nhị phần kinh (十二分經), Thập nhị Phật ngữ (十二佛語; tiếng Phạn: dvādaśānga-buddhavacana), là một thuật ngữ phân loại kinh điển Phật giáo trung kỳ. Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ và Phật giáo Đại thừa cùng sử dụng cách phân loại Thập nhị phần giáo.
Cách phân loại Thập nhị bộ kinh được xem là bắt nguồn từ thời kỳ Phật giáo Bộ phái, phát triển từ cách phân loại Cửu phần giáo. Do sự bất đồng từ hệ thống kinh điển của các bộ phái mà Thập nhị bộ kinh cũng có những khác biệt.
Cách phân loại Mười hai bộ kinh như sau:
Kinh chỉ những bài kinh chính Phật thuyết;
Trùng tụng một dạng kệ tụng mà trong đó nhiều câu được lặp đi lặp lại;
Thọ ký chỉ những lời do Phật thọ ký, chứng nhận cho các vị Bồ Tát, đệ tử mai sau thành Phật và những việc sẽ xảy ra…;
Kệ-đà những bài thơ ca không thuật lại văn trường hàng, xem Kệ;
Tự thuyết chỉ những bài kinh mà Phật tự thuyết, không phải đợi người thỉnh cầu mới trình bày;
Nhân duyên chỉ những bài kinh nói về nhân duyên khi Phật thuyết pháp và người nghe pháp…;
Thí dụ chỉ những loại kinh mà trong đó Phật sử dụng những thí dụ, ẩn dụ để người nghe dễ hiểu hơn;
Như thị pháp hiện chỉ những bài kinh nói về sự tu nhân chứng quả của các vị đệ tử trong quá khứ, vị lai;
Bản sinh kinh còn gọi chuyện tiền thân đức Phật, truyện tái sanh của Bồ Tát, Túc sanh truyện, những kinh nói về đời trước của đức Phật khi còn là Bồ Tát, tu các pháp khổ hạnh, trong những kiếp đó đức Phật đã từng làm hươu, gấu, thỏ, chim, rồng… cũng có lúc làm người, làm vua. Là loại Kinh nói về các đời trước của đức Phật khi ngài thực hành thập độ hay lục độ. Thường mỗi Kinh Bổn Sanh gồm có bốn phần: 1) Câu chuyện hiện tại 2) Câu chuyện quá khứ có liên hệ đến những nhân vật trong câu chuyện hiện tại. 3) Giải thích bài kệ hay một vài danh từ trong câu chuyện quá khứ. 4) Phần kết hợp chỉ rõ sự liên hệ giữa những nhân vật chính trong hai câu chuyện quá khứ và hiện tại.
Phương quảng Thuộc loại kinh điển đại thừa là phần kinh có nghĩa lý sâu xa bí mật. Theo Từ điển Phật Hoc (tg: Đặng Trung Còn) "Trong mười hai bộ kinh, nếu chỉ đọc tụng, thơ tả, giảng thuyết phương quảng kinh, thì người ấy cũng có thể gọi là Bồ Tát Đa Văn."
Hi pháp kinh nói về thần lực chư Phật và thánh đệ tử, cảnh giới kì diệu, hi hữu mà phàm phu không hội nổi;
Luận nghị chỉ những bài kinh có tính cách vấn đáp với lý luận cho rõ lý tà, chính.
Chú thích |
Trong Phật giáo, Tứ Diệu Đế (hay Tứ Thánh Đế) là "những sự thật của bậc thánh", là những sự thật hay những cái có thật cho "những người xứng đáng về mặt tâm linh". Các sự thật bao gồm:
khổ đế (dukkha sự không thỏa mãn, sự đau đớn) là một tính chất bẩm sinh khi tồn tại trong các cảnh luân hồi;
tập đế (samudaya: nguồn gốc, sự sanh khởi hay là "nguyên nhân"): dukkha khởi cùng với taṇhā (ái). Trong khi taṇhā được dịch một cách truyền thống trong các ngôn ngữ phương tây là 'nguyên nhân' của khổ (dukkha), taṇhā còn có thể được xem là yếu tố buộc chúng ta vào khổ, hoặc là một phản ứng với khổ, cố gắng để thoát khỏi nó;
diệt đế (nirodha: sự đoạn diệt, sự chấm dứt, sự giam cầm): khổ có thể được chấm dứt hoặc được ngăn chặn bằng sự từ bỏ hoặc cắt đứt quan hệ với ái (taṇhā); sự từ bỏ ái sẽ giải thoát khỏi sự trói buộc của khổ;
đạo đế (magga: Bát chánh đạo) là con đường dẫn đến sự từ bỏ, sự đoạn diệt ái (tanha) và khổ (dukkha).
Bốn sự thật
Bộ đầy đủ – Dhammacakkappavattana Sutta
Tứ diệu đế được biết đến nhiều nhất qua sự giải thích của chúng trong bài kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana) mà nó bao gồm hai bộ về tứ diệu đế, trong khi một vài bộ khác có thể được tìm thấy ở tạng kinh tiếng Pali, một bộ sưu tập các bản miêu tả trong truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ. Bộ đầy đủ, là bộ được sử dụng nhiều nhất trong các bản giải thích hiện đại, bao gồm nhiều lỗi ngữ pháp, dẫn đến nhiều nguồn khác cho bộ này và có vài vấn đề liên quan đến việc phiên dịch trong cộng đồng Phật giáo cổ đại. Tuy nhiên, những điều trên đã được xem như là đúng bởi truyền thống tiếng Pali, mà nó đã không sửa lại những lỗi trên.
Dựa theo truyền thống Phật giáo, Kinh Chuyển pháp luân, "Thiết lập chuyển động cho bánh xe của chánh Pháp", chứa đựng các phương pháp giảng dạy đầu tiên mà Đức Phật đã đưa ra sau khi đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, và giải thoát khỏi sự tái sinh. Theo L. S. Cousins, rất nhiều học giả xem rằng "bài kinh này đã được xác định như là bài giảng đầu tiên của Đức Phật chỉ ở thời gian sau này," và theo giáo sư về tôn giáo Carol S. Anderson thì bốn sự thật có lẽ lúc ban đầu không phải là một phần của bài kinh này, nhưng chúng đã được thêm vào sau đó thông qua một vài phiên bản chỉnh sửa. Trong bài kinh này, tứ diệu đế được trình bày như sau ("tỳ-kheo" thường được dịch là "tu sĩ Phật giáo"):
Cũng theo bài kinh này, với sự thấu hiểu hoàn toàn về bốn sự thật này thì việc giải thoát khỏi vòng luân hồi (saṃsāra) đã được Đức Phật đạt được:
Việc thấu hiểu bốn sự thật đối với những người nghe pháp của Đức Phật sẽ dẫn đến sự mở ra Con mắt chánh pháp (Dhamma Eye: pháp nhãn), đó là, sự đạt được chánh kiến:
Bộ cơ bản
Theo K.R. Norman, bộ cơ bản được trình bày như sau:
idam dukkham, "đây là khổ"
ayam dukkha-samudayo, "đây là sự tập khởi của khổ"
ayam dukkha-nirodha, "đây là sự đoạn diệt của khổ"
ayam dukkha-nirodha-gamini patipada, "đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của khổ." Các thuật ngữ chính trong phiên bản dài hơn của câu này là dukkha-nirodha-gamini Patipada, có thể được dịch như sau:
Gamini: dẫn tới, làm đến
Patipada: con đường, lối đi, hướng đi; là một phương tiện để đạt đến một mục tiêu hoặc một đích đến.
Bộ ghi nhớ
Theo K. R. Norman, tạng kinh tiếng Pali chứa nhiều dạng rút gọn của tứ diệu đế. "Bộ ghi nhớ" là bộ được "dùng để nhắc nhở người nghe về dạng đầy đủ của tứ diệu đế." Dạng sớm nhất của bộ ghi nhớ là "dukkham samudayo nirodho magga", mà không đề cập đến các thuật ngữ sacca hay arya vì chúng được thêm vào trong công thức về sau. Bốn thuật ngữ ghi nhớ có thể được hiểu như sau:
Dukkha - "không thỏa mãn", "bản chất không thỏa mãn và sự không an toàn của tất cả các pháp hữu vi"; "đau đớn". Dukkha thường hay được dịch là "đau đớn" (suffering). Theo Khantipalo, đây là một bản dịch chưa chính xác, bởi vì nó chỉ cho bản chất không thỏa mãn tột cùng của những trạng thái và thứ tạm thời, bao gồm những trải nghiệm mang tính hài lòng nhưng tạm thời. Theo Emmanuel, Dukkha là đối lập với sukha, "hài lòng", và nó nên được dịch như là "khổ".
Samudaya - "nguồn gốc", "nguồn", "sự sinh khởi", "đưa đến sự tồn tại"; "tổng các yếu tố hay phần tử của một cá thể hoặc sự tồn tại", "nhóm", "đi cùng với nhau", "sự kết hợp", "sản sinh ra nguyên nhân", "sự sinh khởi". Nó bao gồm:
sam - "với, cùng với";
udaya - "sự sinh khởi," "sự gia tăng"; "sự vươn lên, sự đến trước"; "sự nâng cao, sự đề cao, sự gia tăng; sự phát triển"; "kết quả, hậu quả";
Nirodha - sự đoạn diệt; sự giải phóng; để hạn chế; "sự ngăn chặn, sự đàn áp, sự xây tường, sự kiểm soát"
Marga - "con đường". |
Chùa Myōshin (kanji: 妙心寺, romaji: Myōshin-ji, phiên âm Hán-Việt: Diệu Tâm tự) là một ngôi chùa danh tiếng, thuộc tông Lâm Tế tại Kyoto, Nhật Bản, được Thiền sư Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền, 1277-1360) sáng lập.
Kanzan Egen vâng lệnh Nhật hoàng Hanazono sửa đổi một li cung của ông mà thành chùa Myōshin. Ban đầu, chùa này chỉ là một ngôi nhà nhỏ, sụp nát, mưa chảy cả vào trong. Tại đây, Kanzan Egen đã dẫn dắt môn đệ rất kĩ lưỡng, nghiêm khắc. Có lần, Quốc sư Musō Sōseki đến viếng thăm và khi trở về, sư bảo các vị đệ tử của mình rằng "tương lai của Thiền Lâm Tế nằm tại chùa Myōshin".
Dòng Lâm Tế sau chủ yếu lấy chùa này làm trung tâm mà phát triển. Đến pháp tôn đời thứ sáu là Sekkō Sōshin (1408-1486) thì chia thành 4 phái và trở thành chủ lực lớn nhất của Thiền tông Nhật Bản. |
Đại chúng bộ (chữ Hán: 大眾部, tiếng Phạn: महासांघिक, ; bo. ཕལ་ཆེན་པའི་སྡེ་པ་, phiên âm THL: pel chen pé dé pa), còn gọi là Ma-ha-tăng-kỳ bộ (摩訶僧祇部), giản lược thành Tăng-kỳ bộ (僧祇部), Thánh đại chúng bộ (聖大眾部), là một trong hai bộ phái hình thành đầu tiên thời Phật giáo Bộ phái. Danh xưng của phái này, "đại chúng", nhằm để chỉ đến đặc điểm được hình thành bởi phái đa số, chủ yếu là các tăng sĩ trẻ, cấp tiến, của Tăng-già nguyên thủy, sau khi phái thiểu số, chủ yếu là các trưởng lão, tách ra để hình thành Trưởng lão bộ (sa. sthaviravāda).
Theo các ghi chép của Dị bộ tông luân luận và Dị bộ tông luân luận thuật ký, Đại chúng bộ chủ trương Đức Phật đã hoàn toàn ly tình tuyệt dục, uy lực vô biên, thọ lượng vô cùng. Những lời của Đức Phật là chánh pháp giáo lý, nên được tiếp thu trọn vẹn. Hiện tại là có thực, quá khứ vị lai là không có thực. Pháp vô vi có 9 loại. Bản tính của Tâm vốn thanh tịnh, ban đầu bị ô nhiễm bởi phiền não, tu tập Phật pháp có thể loại bỏ ô nhiễm và trở về thanh tịnh.
Nguồn gốc hình thành
Các tài liệu Phật giáo ghi chép việc chia rẽ Tăng đoàn nguyên thủy theo những thuyết khác nhau:
Đại Tỳ-bà-sa luận (bản Hán dịch Huyền Trang) chép nguyên nhân chia rẽ do Đại Thiên nêu lên Năm việc gây tranh cãi, từ đó dẫn đến phân liệt.
Dị bộ tông luân luận (bản Hán dịch Huyền Trang) ghi rằng sự chia rẽ cơ bản là do bất đồng quan điểm từ Năm việc do Đại Thiên nêu lên. Sư phân liệt này xảy ra dưới thời Ashoka, sau đó khoảng 100 năm thì có một Đại Thiên thứ hai cũng đề xuất Năm việc, từ đó thành lập Chế-đa bộ ở Nam Ấn.
Đảo sử liên kết việc chia rẽ đến Đại hội kết tập lần thứ hai tại Vaishali (Tỳ-xá-ly) phê phán Mười điều phi Pháp.
Xá-lợi-phất vấn kinh (bản Hán dịch khuyết danh đời Tấn) cho rằng nguyên nhân chia rẽ từ việc sau thời kỳ bị Vương triều Shunga bức hại, Phật giáo được phục hưng, một số trưởng lão trong Tăng đoàn muốn tăng thêm giới luật dẫn đến sự phân liệt.
Đại Đường Tây Vực ký (tác giả Huyền Trang) ghi chép một truyền thuyết của phái Đại chúng bộ, nói rằng những người không được tham dự Đại hội kết tập lần thứ nhất đã tự tổ chức một đại hội kết tập riêng gần với địa điểm 500 trưởng lão kết tập. Do số lượng lớn lên đến hàng nghìn người nên có danh xưng là "Đại chúng bộ kết tập".
Các nhà nghiên cứu hiện đại như André Bareau, Paul Demiéville, Nalinaksha Dutt... đều thiên về một trong các thuyết chính trên, nhưng tất cả đều thống nhất quan điểm bản chất sự chia rẽ liên quan đến giới luật (vinaya). Theo đó, sự chia rẽ là do phái đa số (Mahāsaṃgha) từ chối chấp nhận đề nghị bổ sung thêm các giới luật vào Luật tạng của phái thiểu số (Sthavira). Thông tin này được củng cố bởi chính các nguồn về giới luật, vì các giới luật liên quan đến Sthavira chứa đựng nhiều quy tắc hơn giới luật trong Luật tạng Mahāsāṃghika. Ví dụ, Mahāsāṃghika Prātimokṣa có 67 giới luật trong phần Chúng học pháp (sa. śaikṣa-dharma), trong khi phiên bản Theravāda có đến 75 giới. Học giả hiện đại nói chung đều đồng ý rằng Luật tạng Đại chúng bộ là lâu đời nhất.
Các mô tả
Nhà sư Parthia An Thế Cao khi đến Trung Quốc đã dịch Đại Tỳ-kheo Tam thiên Uy nghi (大比丘三千威儀), một tác phẩm mô tả màu sắc của y phục tăng nhân (kāṣāya) được sử dụng trong năm bộ phái Phật giáo lớn của Ấn Độ. Tài liệu Xá-lợi-phất vấn kinh (Śāriputraparipṛcchā) được dịch sau này cũng có những đoạn mô tả xác nhận thông tin này. Trong cả hai nguồn, các tăng nhân Mahāsāṃghika được mô tả là mặc y vàng.
Theo Dudjom Rinpoche, tăng y của các tu sĩ Mahāsāṃghika thọ giới cụ túc phải được may từ hơn 7 mảnh, nhưng không quá 23 mảnh. Các biểu tượng được may trên y là chữ Vạn (sa. śrīvatsa) và ốc loa (sa. śaṅkha), hai trong số Tám Dấu hiệu Tốt lành (Ashtamangala) trong Phật giáo.
Nhà sử học Tây Tạng Buton Rinchen Drub (1290-1364) đã viết rằng các Mahāsāṃghika sử dụng ngôn ngữ Prākrit, Sarvāstivādin sử dụng Phạn ngữ, Sthaviravādin sử dụng Paiśācī và Saṃmitīya sử dụng Apabhraṃśa.
Tông nghĩa
Quan điểm của Đại chúng bộ được xem là tiền thân của giáo pháp Đại thừa sau này. Người ta đã tìm thấy nơi Đại chúng bộ quan điểm cho rằng, tất cả đều chỉ là giả danh, cái tuyệt đối cũng như tương đối, Niết-bàn hay Luân hồi, thế gian hay xuất thế gian. Tất cả những danh tự đó không hề có một thật chất trường tồn. Thời đó, quan điểm này đã ngược hẳn giáo lý của Trưởng lão bộ (sa. sthaviravādin, pi. theravādin).
Các vị thuộc Đại chúng bộ xem đức Phật là con người siêu thế, với thân tâm hoàn toàn thanh tịnh. Đó là khái niệm đầu tiên dẫn đến quan điểm "Phật siêu việt" sau này của Đại thừa Phật giáo. Đại chúng bộ xem đức Phật là sống vô tận, đã đạt Nhất thiết trí, toàn năng, thể nhập đại định vĩnh cửu.
Kinh văn
Hầu hết tài liệu kinh văn của Đại chúng bộ không còn được lưu truyền cho đến ngày nay, chỉ còn sót lại Ma-ha-tăng-kỳ luật (摩訶僧祇律) Hán dịch của Đại chúng bộ, Đại sự (Mahāvastu) Phạn ngữ lai của Thuyết xuất thế bộ và Giới kinh (Pratimokṣa) Phạn ngữ lai của Đại chúng bộ.
Phân nhánh
Theo thời gian, Đại chúng bộ lại tách ra thành các phái Nhất thuyết bộ (Ekavyāhārika), Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravāda) và Kê dận bộ (Kukkuṭika), Đa văn bộ (bahuśrutīya), Thuyết giả bộ (Prajñaptivāda), Chế Đa Sơn bộ (Caityasaila), Tây Sơn trú bộ (Aparasaila) và Bắc Sơn trú bộ (Uttarasaila).
Chú thích |
Đại cứu cánh (zh. 大究竟, bo. rdzogs chen རྫོགས་ཆེན་, rdzogs pa chen po རྫོགས་པ་ཆེན་པོ་, sa. atiyoga), cũng gọi là Đại viên mãn (zh. 大圓滿), Đại thành tựu (zh. 大成就), là giáo pháp chủ yếu của tông Ninh-mã (bo. nyingmapa) trong Phật giáo Tây Tạng. Giáo pháp này được xem là Mật giáo cao nhất được Thích-ca Mâu-ni chân truyền. Giáo pháp này được gọi là "Đại cứu cánh" vì nó cùng tột, không cần bất cứ một phương tiện nào khác. Theo giáo pháp này, tâm thức luôn luôn thanh tịnh, hành giả chỉ cần trực nhận điều đó. Theo truyền thuyết, Đại cứu cánh được Liên Hoa Sinh (sa. padmasambhava) và Tì-ma-la-mật-đa (sa. vimalamitra) đưa vào Tây Tạng trong thế kỉ 8 và sau đó được Lũng-cần Nhiêu-ráng-ba (zh. 隴勤饒絳巴, bo. klong chen pa ཀློང་ཆེན་པ་) tổng kết trong thế kỉ 14. Cuối cùng, tông phái này được Jigme Lingpa (1730-1798) kết tập và truyền đến ngày nay.
Giáo pháp Đại cứu cánh xuất phát từ Bản sơ Phật Phổ Hiền, từ Pháp thân (Tam thân) siêu việt thời gian và không gian. Pháp thân truyền trực tiếp cho Báo thân là Kim Cương Tát-đỏa (sa. vajrasattva), truyền đến Ứng thân là Garab Dorje (sinh năm 55). Garab Dorje truyền lại giáo pháp này cho đệ tử là Diệu Đức Hữu (sa. mañjuśrīmitra) với hơn 6 triệu câu kệ. Vị đệ tử này chia các câu kệ này làm 3 phần: Semde (tâm thức), Longde (hư không) và Mengagde (khai thị). Học trò của Diệu Đức Hữu là Cát Tường Sư Tử (sa. śrīsiṃha) hoàn chỉnh thêm phần khai thị và giao cho Kì-na-tu-đa-la (sa. jñānasūtra) và Tì-ma-la-mật-đa (Vô Cấu Hữu). Sau đó Tì-ma-la-mật-đa đưa giáo pháp này qua Tây Tạng.
Một dòng khác của giáo pháp này được Liên Hoa Sinh Đại sư phát triển hơn nữa. Sư là người được các vị Không hành nữ (sa. ḍākinī) truyền pháp Đại cứu cánh. Giáo pháp này xuất phát từ nhận thức, thể của tâm thức vốn thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng vì con người không nhận ra điều đó nên cứ mãi trầm luân trong sinh tử. Một phương cách đột phá được vòng sinh tử này là nhận cho được tâm thức "trần trụi", "tự nhiên" là thể tính của mọi hoạt động tâm lý. Sư trình bày cánh cửa dẫn đến "Tri kiến uyên nguyên", là sự thống nhất giữa tính Không (sa. śūnyatā) và Cực quang (sa. ābhāsvara, en. clear light, ánh sáng rực rỡ). Bên cạnh các cách thể nhận Không, còn có cách dựa vào ánh sáng của tri kiến uyên nguyên mà giác ngộ. Đây chính là cơ sở của các lời khai thị trong Tử thư, một trong những luận giải quan trọng của Phật giáo Tây Tạng.
Một phép tu khác là thực hiện được sự tan rã của tứ đại đã tạo thành thân thể không để lại dấu vết (biến mất), đạt được "thân cầu vồng" (sa. indracāpakāya). |
Chùa Daitoku (kanji: 大徳寺, romaji: Daitoku-ji, phiên âm Hán-Việt: Đại đức tự) là một ngôi chùa nổi danh thuộc tông Lâm Tế tại thành phố Kyoto, Nhật Bản. Chùa thờ Thích Ca Như Lai và do Thiền sư Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超, shūhō myōchō) sáng lập. Daitoku là một trong thập sát Kyoto.
Năm 1315, Thiền sư Diệu Siêu tự lập cho mình một cái am nhỏ mang tên Đại đức, nằm ở hướng Tây Bắc của Kyōto. Sau một thời gian, danh tiếng của Sư lan truyền khắp nơi và Nhật hoàng Godaigo mời Sư vào cung tham hỏi Phật pháp. Nhân dịp này, Sư được Thiên hoàng ban cho một khoảnh đất rất lớn để xây dựng một ngôi chùa to (1324). Dưới sự hướng dẫn của một vị tăng thuộc tông Thiên Thai, công trình xây dựng ngôi chùa lớn này được xúc tiến. Tháng ba năm 1327, ngôi chùa này—mang tên am cũ của Sư là Đại đức—được khánh thành dưới sự hiện diện của cựu Nhật hoàng Hanazono và Nhật hoàng Godaigo.
Ngay từ sau khi thành lập, chùa Daitoku là một trung tâm văn hoá quan trọng của Nhật. Với thời gian, ngôi chùa này trở thành một công trình với nhiều chùa nhỏ xung quanh với những vị trụ trì riêng biệt. Một hệ phái thiền quan trọng cũng mang tên của ngôi chùa này, đó là phái Daitokuji (Daitokuji-ha). |
Giác ngộ (zh. 覺悟, sa., pi. bodhi), danh từ được dịch nghĩa từ chữ bodhi (bồ-đề) của Phạn ngữ, chỉ trạng thái tỉnh thức trong Phật giáo.
Giải nghĩa của bodhi và Phật thành
Phật giáo giai đoạn đầu
Thượng tọa bộ
Đại thừa
Một trong các giải nghĩa của bodhi là lúc con người bỗng nhiên trực nhận tính Không (sa. śūnyatā), bản thân nó là Không cũng như toàn thể vũ trụ cũng là Không. Chỉ với trực nhận đó, con người mới thấu hiểu được thể tính mọi hiện tượng. Tính Không hiểu ở đây không phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên không thể dùng suy nghĩ, cảm nhận để đo lường, nằm ngoài cặp đối đãi có-không. Tính Không này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận đến vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Vì vậy, giác ngộ là một kinh nghiệm cá nhân không thể giãi bày. Con người chỉ đạt trạng thái giác ngộ khi họ đã biết tất cả (toàn giác), hiểu biết rõ ràng, đúng đắn bản ngã và thế giới xung quanh, đã nhận thức được tận cùng bản thể của vạn vật do đó không còn chấp thủ, hoài nghi và đạt đến một trình độ nhận thức được gọi là giác ngộ. Phương Tây dịch giác ngộ thành khai sáng (enlightenment) vì trong triết học phương Tây khai sáng là tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức đúng đắn thế giới cũng giống như giác ngộ trong Phật giáo.
Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói với đạo sĩ Brahmàyu:
"Những gì cần biết rõ, Ta đã biết rõ.
Những gì cần từ bỏ, Ta đã từ bỏ.
Những gì cần tu tập. Ta đã tu tập.
Do vậy, này Vị đạo sĩ, Ta là Phật"
Trích Trung bộ kinh, kinh Brahmàyu
Dù rằng cái thể của tính Không là một, nhưng người ta cho rằng có nhiều mức độ giác ngộ khác nhau. Nếu so sánh giác ngộ như phá vỡ một bức tường, thì có mức giác ngộ như chỉ hé mở một lỗ nhỏ và giác ngộ như Phật Thích-ca là phá vỡ hoàn toàn bức tường đó. Có vô vàn khác nhau giữa các mức giác ngộ, biểu hiện bằng sự rõ ràng chính xác của thiền giả đạt được. Dựa trên kinh nghiệm của các bậc giác ngộ, thế giới của sự giác ngộ không hề khác với thế giới hiện tượng của chúng ta, tất cả đều là một, Hiện tượng-Tính không, Tương đối-Tuyệt đối. Kinh nghiệm về cái tất cả là một này chính là kinh nghiệm về thể tính tuyệt đối đó. Trong Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh (sa. mahāprajñāpāramitā-hṛdaya-sūtra) chỉ rõ "sắc tức là không, không tức là sắc", tức là không hề có hai thế giới. Nhờ tình trạng giác ngộ sâu xa, hành giả từ bỏ được cái Ngã. Trong Thiền tông, một khi cái ngã đã chết ("đại tử") thì "đời sống" mới bắt đầu, đó là một cuộc sống tự tại và an lạc. Người điển hình đã giác ngộ hoàn toàn mà tất cả các Phật tử đều công nhận là vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, cũng là người bắt đầu giáo hoá cho nên đạo Phật cũng được gọi là "đạo giác ngộ".
Mặc dù Thần thông, Tất-địa (sa. siddhi) là một dấu hiệu của sự tiến triển trong quá trình tu tập nhưng Phật khuyên không nên sử dụng - nếu có khả năng - và không nên coi trọng nó - nếu đang trên đường tìm Đạo, vì nó vẫn nằm trong thế giới hữu vi, chưa là biểu hiện của cái tuyệt đối, của chân như. |
Bồ-đề đạo đăng luận (zh. 菩提道燈論, sa. bodhipathapradīpa) là một tác phẩm quan trọng của Đại sư A-đề-sa, người truyền Phật pháp sang Tây Tạng trong thời kì truyền pháp thứ hai. Tác phẩm này là nền tảng tu học của hầu hết các tông phái Phật giáo tại đây.
Đại ý của tác phẩm này là việc chia ra thứ bậc trong việc tu hành Phật pháp do căn cơ của người ta không giống nhau. Người phát đại tâm là Đại thừa, người chỉ phát tâm xuất li là Tiểu thừa. Vì vậy cùng là Bố thí, trì Giới (sa. śīla), Định (sa., pi. samādhi), Huệ (sa. prajñā) nhưng kết quả lại không giống nhau. Căn cơ kém của con người ta là do tu tập mà thành, không phải do chủng tộc từ vô thủy đến nay đã có sẵn, không thể thay đổi được. Ngay cả con đường tu tập cũng phải tuần tự theo các thứ bậc mà tiến lên, không thể bỏ nhảy vượt qua được, nếu không thì không bao giờ đạt phúc đức vô thượng cả.
Bài tụng từ thứ 2 đến thứ 5 mở đầu của bài luận này là làm rõ hành tướng và thứ bậc ba hạng người được gọi là "Tam sĩ hành tướng thứ đệ" (三士行相次第):
Người lang thang trong Vòng sinh tử, nhưng không cho là khổ, cho là vui, lấy việc cầu mong tư lợi làm mục đích. Loại người này được gọi là "hạ sĩ";
Người tuy chán ghét luân hồi sinh tử, xa rời ác nghiệp, nhưng vẫn còn tâm tư lợi. Loại người này được gọi là "trung sĩ";
Người đã dứt hết được mọi đau khổ của mình, muốn cứu giúp chúng sinh, nguyện dứt bỏ mọi nỗi đau khổ cho các loài hữu tình. Loại người này được gọi là "thượng sĩ".
Trong ba hạng người trên chỉ thượng sĩ có thể đảm nhiệm Đại thừa nhưng thiện nghiệp của hạng phàm phu, bậc nhị thừa cũng không vứt bỏ. Cái sau hơn cái trước, cái trước được thu nhiếp trong cái sau, đó chính là thứ bậc của sự tu hành.
A-đề-sa chia hạnh của Bồ Tát thành hai loại Hiển-Mật: lấy Bát-nhã của Hiển giáo làm nhân, lấy Vô thượng du-già đát-đặc-la (sa. anuttarayogatantra) làm quả. Giữa khoảng nhân quả thì lấy việc phát Bồ-đề tâm (sa bodhicitta) để kết nối quán thông. Thứ bậc trong khoảng đó thì trước hết là Hiển-Mật cùng tu hành, lấy Tam quy y, Tam học làm cơ sở. Từ giới đạt định, từ định phát huệ rồi sản sinh những hạnh lợi tha. Sau đó cùng vận dụng cả trí huệ và phương tiện. Đó chính là phát tâm đại dũng, thực hiện chính hạnh Bồ Tát. Do vận dụng đủ cả bi và trí để tích tập công đức trí huệ, sau đó lại tu hành riêng theo Mật thừa, Bồ Tát nhanh chóng chứng đắc Vô thượng bồ-đề.
Tam quy y đây tức là yếu chỉ giải thoát, là chỗ sở y để phát tâm Bồ-đề. Bồ Tát phải cúng dường tài vật cho Tam bảo. Đến khi thành Phật thì vẫn phải lấy tâm bất thoái chuyển bảy lần cúng dường nữa, rồi lại lấy cái tâm kiên quyết dứt khoát ấy ba lần dâng Tam bảo nữa thì mới được gọi là thành tựu quy y. Lấy Tam quy đó làm căn bản, nảy nở tâm đại bi (sa. mahākaruṇā) với tất cả các loài Hữu tình, quán sát suy nghĩ vì sao các loài chúng sinh đang trôi lăn trong vòng sinh tử. Sau khi hiểu rõ thì lại thi hành phương tiện cứu độ họ và nảy nở tâm Bồ-đề không lay chuyển (vô đảo 無倒). Tam học đây chính là "Tam tăng thượng học" (zh. 三增上學) được giới thiệu như sau:
Tăng thượng giới học (zh. 增上戒學, sa. adhiśīlaśikṣā): Luật nghi của bảy hàng Thanh văn nên thực hành song song với Bồ Tát giới, tuân thủ theo nghi quỹ trong Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra) của Vô Trước và Tập Bồ Tát học luận (sa. śikṣāsamuccaya) của Tịch Thiên (sa. śāntideva);
Tăng thượng định học (zh. 增上定學, sa. adhicittaśikṣā): Do giới mà sinh định, định được sản sinh thì có rất nhiều phần, tuân theo chín phần của Giác Hiền (sa. buddhabhadra), tức là: 1. Lìa ma nghiệp; 2. Lấy việc nghe pháp để hướng dẫn; 3. Vứt bỏ lý luận; 4. Không tham nói rộng; 5. Dựa vào tướng mà tác ý; 6. Niệm định phúc đức; 7. Chăm chỉ đối trị; 8. Hoà hội chỉ quán, 9. Hiểu rõ ở, ăn chỉ là phương tiện. Sau khi đầy đủ chín điều kiện này rồi dùng Phương tiện thiện xảo (善巧方便, sa. upāyakauśalya) như thế nào để thật tế tu định thì phải có thầy đích thân truyền cho, vì đó không phải là điều văn tự trình bày được hết;
Tăng thượng huệ học (zh. 增上慧學, sa. adhiprajñāśikṣā): Định (sa. samādhi) là một loại công phu của Chỉ (sa. śamatha) nhưng tu chỉ vẫn chưa đủ để cắt đứt các chướng ngại như nghiệp, hoặc,... Vì vậy phải thêm công phu Quán (sa. vipaśyanā).
Đó chính là Huệ học mà Bát-nhã và Du-già đã nói nhưng chỉ có trí huệ không thôi thì chưa đạt được cứu cánh, phải có thêm phương tiện mới thành tựu được. Trong đây, A-đề-sa dựa vào kiến giải của Giác Hiền (không phải Giác Hiền qua Trung Quốc dịch kinh), chia Lục ba-la-mật-đa thành hai loại:
Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định là thuộc phương tiện;
Bát-nhã là thuộc trí huệ. Lấy phương tiện giúp tăng thượng để tu trí huệ, chứng đắc Bồ-đề, tức là không còn chướng ngại.
Đây mới chỉ là nói về phương pháp tu hành chung cho Hiển và Mật giáo. Từ Hiển vào Mật giáo thì không cần phải phát tâm nào khác, chỉ cần tuân theo tất cả nghi quỹ chung mà bắt đầu tu tập theo những Tantra. Còn như Mật pháp tu hành cụ thể như thế nào phải đích thân Đạo sư truyền giảng cho, vì đây là điều không miêu tả bằng văn tự được. |
Bồ đề hay còn gọi cây đề, cây giác ngộ (danh pháp khoa học: Ficus religiosa) là một loài cây thuộc chi Đa đề (Ficus) có nguồn gốc ở Ấn Độ, tây nam Trung Quốc và Đông Dương, về phía đông tới Việt Nam. Nó là một loài cây rụng lá về mùa khô hoặc thường xanh bán mùa, cao tới 30 m và đường kính thân tới 3 m.
Lá của chúng có hình trái tim với phần chóp kéo dài đặc biệt; các lá dài 10–17 cm và rộng 8–12 cm, với cuống lá dài 6–10 cm. Quả của cây bồ đề là loại quả nhỏ giống quả vả đường kính 1-1,5 cm có màu xanh lục điểm tía.
Tín ngưỡng, tôn giáo
Cây Bồ-đề được gọi trong một số ngôn ngữ khác là cây Bo, Pipul hay Aśvattha, Assattha (tiếng Pali). Từ Aśvattha là tiếng Phạn; Śvaḥ có nghĩa là "ngày mai", a chỉ sự phủ nhận, và tha có nghĩa là "người hay vật dừng lại hay tồn tại". Nhà triết học nổi danh thuộc hệ phái Advaitavedānta (Bất nhị phệ-đà) là Śaṅkara diễn giải tên gọi này là "Người hay vật không thể tồn tại giống như thế vào ngày mai", cũng giống như toàn thể vũ trụ.
Loài cây này được cho là thiêng liêng bởi những người theo Ấn Độ giáo, Kì-na giáo và Phật giáo. Tương truyền thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm ngồi thiền định dưới một gốc cây như vậy và đạt giác ngộ, trở thành một vị Phật. Qua đó mà cây này có tên bồ đề, vì Bồ-đề có nghĩa là Giác ngộ.
Hiện tại người ta có thể chiêm ngưỡng một cây Bồ-đề rất lớn tại chùa Đại Bồ-đề (Mahābodhi) tại Bồ-đề đạo trường (Bodhgayā), khoảng 96 km (60 dặm) từ Patna thuộc bang Bihar) của Ấn Độ. Đây là con của cây Bồ-đề mà ngày xưa Phật Thích-ca Mâu-ni đã ngồi thiền định 49 ngày sau khi thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác. Cây này là điểm dừng chân của những người hành hương, là tụ điểm quan trọng nhất trong bốn khu vực thiêng liêng đối với những người theo đạo Phật.
Cây Bồ-đề thời Phật thành Đạo đã bị vua Bengal là Śaṣaṅka phá hủy hồi thế kỉ thứ 7. Cây con được trồng kế nó cũng bị bão thổi trốc gốc năm 1876. Cây con ngày nay được lấy từ một nhánh của cây Bồ-đề gốc được vua A-dục tặng vua Tích Lan vào khoảng 288 TCN. Nó mang tên Śrī Mahā ("điềm lành và to lớn"). Ngày nay, tại cố đô Anurādhapura của Tích Lan (Sri Lanka), cây Bồ-đề đó vẫn còn xanh tốt và thời điểm trồng này làm cho nó trở thành cây già nhất trong số các thực vật có hoa có thể kiểm chứng được tuổi.
Trong văn học
"Cây đa, cây đề" là chỉ những người đã có tên tuổi thành danh.
Tên gọi trong các ngôn ngữ khác nhau
Tiếng Việt — bồ-đề
Tiếng Kannada — araLi mara ಅರಳಿ ಮರ
Tiếng Malayalam — അരയാല് arayaal
Tiếng Tamil — அரசு, அரச மரம் arasa maram (Literally "king" or "king's tree"; arasu or arasan is Tamil for "king")
Tiếng Telugu — రావి చెట్టు raavi chettu
Tiếng Bengal — অশ্বথ, i.e. ashwath, পিপুল, i.e. pipul
Tiếng Bhojpuri — pippar
Tiếng Gujarati — પિપળો (pipdo)
Tiếng Hindi - Peepal - पीपल
Tiếng Konkani — pimpalla rook/jhadd
Tiếng Mahal — އަޝްވަތި ގަސް (aśvati gas)
Tiếng Maithili (मैथिली) — पीपर (peepar)
Tiếng Marathi — पिंपळ pimpaL (where L is as in for example Nagold)
Tiếng Nepal (नेपाली) — पीपल (peepal or pipal)
Tiếng Odia — ଅଶ୍ୱତ୍ଥ (ashwatth)
Tiếng Pali — assattha; rukkha
Tiếng Punjab — Pippal - ਪਿੱਪਲ/ پپل
Tiếng Phạn — अश्वत्थः aśvatthaḥ vṛksha, pippala vṛksha (vṛksha means "tree")
Tiếng Sinhala — ඇසතු esathu
Tiếng Urdu — peepal پیپل
Tiếng Nhật —
Tiếng Triều Tiên —
Tiếng Tây Ban Nha Cuba - alamo
Tiếng Tagalog - ballete
Tiếng Miến Điện — ဗောဓိညောင်ပင် (Bodhi nyaung pin), ဗောဓိပင် (Bodhi pin)
Tiếng Hoa — 菩提樹 (pútíshù, bodhi tree)
Tiếng Thái — โพธิ์ (pho)
Ảnh |
Siddhārtha Gautama (, chữ Hán: 悉達多瞿曇, phiên âm Hán-Việt: Tất-đạt-đa Cồ-đàm) hay Gautama Buddha, còn được gọi là Phật Sakyamuni (, chữ Hán: 釋迦牟尼, phiên âm Hán-Việt: Thích-ca Mâu-ni, trong khẩu ngữ thường gọi là Phật, Bụt, Phật Tổ, Đức Thế Tôn hoặc Đức Phật) là nhà tu hành, nhà truyền giáo, nhà thuyết giảng, nhà triết học và đạo sư sống ở Ấn Độ cổ đại, người sáng lập Phật giáo. Sinh ra ở vùng đất ngày nay là Nepal nhưng khoảng thời gian quan trọng nhất của Tất-đạt-đa gắn liền với các khu vực mà ngày nay là Ấn Độ khi ông đi xuống phía Đông và Nam để truyền đạo. Tín đồ Phật giáo xem ông là người đầu tiên hoàn toàn giác ngộ để đạt niết bàn thành Phật.
Theo kinh Phật cùng sử liệu thì ông vốn xuất thân là một thái tử thuộc vương tộc Gautama của tiểu quốc Sakya ở vùng Kapilavastu. Tuy nhiên, ông sớm từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý để lên đường đi tìm chánh đạo. Sau 6 năm tu đạo, ông đạt được giác ngộ chính pháp vào năm 35 tuổi và dành tiếp 45 năm còn lại cho việc truyền bá, giảng dạy giáo lý Phật pháp trên khắp những khu vực ở Đông và Nam tiểu lục địa Ấn Độ. Tất-đạt-đa đề xướng con đường Trung đạo - tức vừa từ bỏ đời sống xa hoa nhưng cũng không đi theo lối tu hành ép xác khổ hạnh vốn rất thịnh hành trong các học thuyết tôn giáo Ấn Độ thời đó. Giáo pháp của ông đặt nền tảng cho sự hình thành và phát triển của giáo lý đạo Phật ngày nay.
Ông được các Phật tử coi là một bậc đạo sư, người giác ngộ tự giải thoát bản thân khỏi quy luật sinh tử luân hồi đồng thời hiểu rõ được bản chất của mọi sự vật sự việc. Chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của ông được nhiều thế hệ học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn. Hàng loạt bản kinh ghi lại lời dạy của ông được lưu giữ qua nhiều thế hệ và dần bắt đầu được viết thành sách 200 năm sau đó.
Cuộc đời
Các cách phiên âm tên
Tất-đạt-đa Cồ-đàm; đôi khi cũng được phiên âm là Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm (悉達多 瞿曇) đều là các kiểu phiên âm Hán-Việt (dùng tiếng Trung Quốc phiên âm tiếng Phạn ra chữ Hán, rồi dùng âm Hán-Việt đọc các chữ Hán đó sang tiếng Việt), còn được người đương thời và các Phật tử sau này tôn xưng là Shakyamuni (शाक्यमुनि), tiếng Hán phiên âm thành 释迦牟尼, Hán-Việt đọc là "Thích-ca-mâu-ni", hay thường gọi đơn giản là Bụt; Devanagari: बुद्ध, phiên âm Hán-Việt từ tiếng Trung: 佛 (Phật). Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành (一切義成), Thành tựu chúng sinh (成就眾生, dịch từ dạng dài của tên Phạn ngữ là Sarvārthasiddha).
Bối cảnh và gia thế
Dù có nhiều hoài nghi và do dự trước đây, nhưng sau các khám phá khảo cổ vào đầu thế kỷ 20, hầu hết các học giả ngày nay đều công nhận Ngài đã sống và truyền dạy giáo lý trong thời Mahajanapada dưới thời cai trị của vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra) (558 - 491 TCN) và qua đời trong thời gian đầu của triều đại A-xà-thế (Ajātaśatru), người kế thừa của Tần-bà-sa-la. Cuộc đời của Tất-đạt-đa không những trùng hợp với thời kỳ phát triển của Bà-la-môn mà còn trùng với sự phát triển của trường phái tu khổ hạnh Sramana như Kỳ-na giáo, Ājīvika, Ajñana, Cārvāka (triết học duy vật khoái lạc).
Thời điểm chính xác năm sinh theo lịch hiện đại của ông không được ghi nhận rõ, dao động trong khoảng từ 624 tới 563 trước Công nguyên. Tuy nhiên, Đại hội Phật giáo Thế giới đã thống nhất cho rằng Tất-đạt-đa sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên và qua đời khi 80 tuổi (năm 544 TCN).
Cha ông là vua Tịnh-phạn (Suddhodana), người đứng đầu tiểu quốc Thích-ca (Shakya), một tiểu quốc nằm ở vùng biên giới Ấn Độ - Nepal ngày nay, có kinh đô là Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Mẹ ông là hoàng hậu Ma-da (Maya), người tiểu quốc Koli láng giềng.
Cuộc sống ban đầu và hôn nhân
Thái tử Tất-đạt-đa được sinh ra tại vườn Lumbini (Lâm-tì-ni), nay thuộc Nepal.
Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm thân mẫu Phật của bà Ma-da như sau: cách đây 91 đại kiếp Trái Đất, đã có 1 vị Phật Chánh Đẳng Giác tên là Phật Tỳ Bà Thi (Vipassī) ra đời. Có một công nương (con một vị đại thần trong triều đình) đã cúng dường Phật Tỳ-bà-thi với lòng chí thành và ước nguyện rằng trong tương lai, cô sẽ được làm mẹ của 1 vị Phật. Đức Phật Tỳ-bà-thi đã thọ ký cho cô sẽ được như nguyện. Công nương đó chính là tiền kiếp của hoàng hậu Ma-da
Tiền kiếp của Thái tử Tất-đạt-đa là bồ-tát Setaketu, cư trú ở cõi trời Đâu-suất, trong khi theo quan niệm của đạo Bà La Môn, Setaketu là thái tử được thần Vishnu sai xuống làm con. Sau khi quán xét thấy nhân duyên và Ba-la-mật-đa đã chín muồi để đạt tới quả vị Phật, vị này quyết định biến hình thành một con voi trắng, nhập thai vào bà Maya cho lần luân hồi chuyển kiếp cuối cùng để thành Phật ở nhân gian.
Trong 10 tháng trước đó, hoàng hậu Maya được vua cho phép giữ 8 giới thanh tịnh nhân dịp lễ cầu mưa (Asadh Utsav). Một đêm tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu), hoàng hậu Maya nằm mộng thấy được chở đi bởi 4 thiên thần đến hồ Anotatta bên dãy Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn). Sau khi tắm trong hồ, các thiên thần đã mặc cho bà bộ quần áo của cõi trời, xức dầu thơm cho bà, và trang điểm cho bà bằng những bông hoa tuyệt đẹp. Một con voi trắng sáu ngà, vòi cuốn một hoa sen lớn màu trắng, từ trên trời bay xuống chui vào hông phải của bà, lúc đó bà cảm thấy thân tâm an lạc, sáng chói như ánh trăng rằm. Thức dậy, bà đem chuyện giấc mộng kỳ lạ kể cho nhà vua nghe. Nhà vua liền cho mời 64 nhà tiên tri Bà-la-môn đến giải mộng; các vị này đoán là hoàng hậu đã mang thai và hoàng tử sắp được sinh ra sẽ là một bậc thánh nhân, là Chuyển luân Thánh vương (vua của các vị vua) hoặc một bậc Thánh giác ngộ.
Khoảng mười tháng sau giấc mơ kỳ lạ đó, ngày sinh nở của Hoàng hậu Maya ngày càng đến gần. Một ngày nọ, Hoàng hậu Maya đến bên vua và thưa: "Bệ hạ, thiếp phải trở về quê để chuẩn bị sinh con". Theo tập quán thời đó, người vợ phải về sinh con tại nhà cha mẹ của mình. Vua đồng ý, nói rằng: "Rất tốt, ta sẽ chuẩn bị chu đáo để hoàng hậu về quê". Nhà vua sai binh lính đi trước để dọn đường và cho người chuẩn bị kiệu cho hoàng hậu trở về quê. Hoàng hậu rời kinh đô Ca-tỳ-la-vệ bằng một đoàn rước kiệu của những người lính trở về thủ đô vương quốc Koliya nơi vua cha Anjana trị vì.
Trên đường trở về quê hương Koliya, đoàn rước kiệu đi qua một khu vườn gọi là Lâm-tỳ-ni. Khu vườn này gần vương quốc Nepal, dưới chân dãy núi Himalaya. Lâm Tỳ Ni có nhiều cây sala (Ta-la) che bóng mát tỏa hương thơm ngát, chim chóc và bướm ong bay lượn làm hoàng hậu phải chú ý. Bởi nơi này thuận lợi cho nghỉ ngơi, hoàng hậu đã ra lệnh cho mọi người dừng chân. Khi hoàng hậu nghỉ dưới một gốc cây sala, bà chuyển dạ và sinh hạ một người con trai. Người con trai đó sau này là Đức Phật. Đó là rạng sáng ngày mồng 8 tháng Tư âm lịch theo Phật giáo Bắc tông hoặc vào ngày trăng tròn tháng Vesak theo Phật giáo Nam tông
Theo các kinh điển Phật giáo, ngay từ lúc sinh ra, ông đã có đầy đủ tướng tốt (Ba mươi hai tướng tốt). Tên được chọn là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha) có nghĩa là "người thành đạt mọi nguyện vọng".
Sau khi 2 mẹ con về cung, vua Tịnh-phạn nghe tin có 1 vị cao nhân đến thăm. Người đó là tu sĩ A-tư-đà (Asita), người có tài tiên tri do đã chứng thiền tới cấp rất cao - Phi tưởng phi phi tưởng. Khi xem các tướng của thái tử thì thái tử giơ 2 chân lên đầu A-tư-đà, ông nhìn xuống lòng bàn chân và nói "Dưới 2 lòng bàn chân của thái tử, có hình bánh xe ngàn căm và 32 tướng tốt, sau này chắc chắc thái tử sẽ là một nhà tu hành đắc đạo, hoặc là một chuyển luân thánh vương (vua của các vị vua) cai trị toàn Ấn Độ". Khi tiên nhân A-tư-đà vừa nói xong ông bật khóc, vua Tịnh-phạn hỏi tại sao khóc thì tiên nhân A-tư-đà đáp lại rằng "sau này tôi không thể nghe 1 bậc thánh nhân giảng pháp vì tôi đã quá già rồi" (tu sĩ A-tư-đà đã tiên tri được rằng thọ mạng của ông sắp hết, ông sẽ qua đời trước khi Tất-đạt-đa thành đạo). Nói xong vua cha Tịnh-phạn bực tức, nói rằng "Con ta sẽ là 1 bậc chuyển luân thánh vương, và sẽ là 1 Sát-đế-lỵ (Kshastriya), nên tôi xin mời tiên nhân về cho, tôi còn phải cho các thần dân xem con tôi đã". Lúc này tiên nhân A-tư-đà đi về và nén lại giữa đám đông để nhìn mặt của thái tử. Khi đệ tử ông cũng có hỏi rằng "tại sao ông không về", A-tư-đà đáp "Vì ta đang nhìn cả 1 vũ trụ lần cuối".
Bảy ngày sau khi sinh thì hoàng hậu Ma-da - mẹ của Tất-đạt-đa mất, ông được người dì ruột là Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Kiều-đàm-di) (Mahāpajāpatī Gotamī) - Đại-Ái-Đạo Kiều Đàm Di chăm sóc. Bà Kiều-đàm-di (Gotamī) là em gái của hoàng hậu Ma-da (cả hai cùng kết hôn với vua Tịnh-phạn) đã tình nguyện nhận nuôi dưỡng Thái tử Tất-đạt-đa, còn con ruột của mình là Nan-đà (Nanda) thì giao lại cho người vú chăm sóc. Về sau, khi Tất-đạt-đa đã đắc đạo, bà Kiều-đàm-di đã xin Phật cho phép xuất gia, trở thành nữ đệ tử (Tỳ-kheo ni) đầu tiên của Phật giáo và sau này đã đắc quả A-la-hán:
Kinh Phật nói rằng mẹ của mọi vị Phật đều sẽ qua đời vào 7 ngày sau khi sinh (bởi phúc báu quá lớn của việc đản sinh ra Phật sẽ giúp người mẹ xả bỏ thân xác yếu ớt và thọ mạng ngắn ngủi của con người để tái sinh làm thần trên cõi Trời). Sau khi qua đời, bà Ma-da đã tái sinh làm 1 vị thần trên cõi trời Đâu-suất có tên là Ma-da-đức-ngoá-phổ-đa (Māyādevaputta). Sau này khi thành đạo, Phật Thích Ca đã dùng thần lực để thuyết Vi diệu pháp cho vị thần tiền kiếp là mẹ mình trên cõi trời này để tỏ lòng biết ơn thân mẫu.
Về bà Kiều-đàm-di, Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm dưỡng mẫu Phật của bà như sau: cách đây 100.000 đại kiếp Trái Đất, đã có Phật Thượng Liên Hoa (Padumuttara) truyền đạo trên thế gian. Có một công chúa đã cúng dường Phật với lòng chí thành, một hôm khi đang nghe Phật Liên Hoa thuyết pháp, công chúa nhận thấy có một Tỳ kheo ni thật đáng tôn quý, đứng đầu hội chúng Tỳ kheo ni, và là người nữ đệ tử đạt giác ngộ sớm nhất. Bà liền lập nguyện rằng, trong tương lai, do công đức tu tập, bà sẽ được như vị Tỳ kheo ni ấy. Lời nguyện của bà đã được Đức Phật Thượng Liên Hoa ấn chứng là sẽ thành tựu trong thời kỳ của Đức Phật Thích-ca (Shakya). Công chúa đó chính là tiền kiếp của bà Kiều-đàm-di.
Do lời tiên đoán rằng thái tử sẽ bỏ đi tu hành "sau khi thấy một người già, một người bệnh, một xác chết và một Sa môn" ở bốn cửa thành đông-tây-nam-bắc nên vua Tịnh-phạn tìm đủ mọi cách cho Tất-đạt-đa hưởng đầy đủ lạc thú trong hoàng cung, không bao giờ phải nhìn thấy các cảnh khổ đau, bệnh hoạn, già chết ở đời.
Tất-đạt-đa đã sống một cuộc sống thanh tịnh. Vua Tịnh-phạn vốn muốn con ông trở thành quân vương vĩ đại nên không muốn thái tử đi tu. Ông đã cho nhiều người danh tiếng dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, cho thái tử hưởng đầy đủ vinh hoa phú quý, nhất là không để thái tử tiếp xúc với cảnh khổ của cuộc đời. Sau này, Phật kể lại: "Đời sống của ta (lúc bấy giờ) thật là tế nhị, vô cùng tinh tế. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh sen trắng đua nhau khoe vẻ đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Ca-tây (Kāsi) đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhất từ Ca-tây chở đến".
Năm lên 18 tuổi, Tất-đạt-đa kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yaśodharā) của thị tộc Khoa-lợi (Koli). Dù đã kết hôn, Tất-đạt-đa vẫn sống cùng công chúa Da-du-đà-la như đôi bạn thanh tịnh, đều yêu thích thiền định (Thiền), thực hành thiền định và lòng thấy an lạc.
Theo Kinh Bản Sinh, cách đây 4 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp Trái Đất, tiền thân của Tất-đạt-đa là tu sĩ Thiện Huệ (Sumedha). Khi đó có đức Phật tại thế là Phật Nhiên Đăng (Dīpankara). Thiện Huệ nhìn thấy Nhiên Đăng Cổ Phật tận mắt, liền phát nguyện sẽ cố gắng tu học cho đến khi được hoàn toàn giác ngộ như Phật. Sau đó, Thiện Huệ còn nằm sát đất, lấy thân mình để giúp Phật bước qua vũng lầy. Thiện Huệ xin được 5 bông hoa sen của 1 cô gái tên là Trụ-điền (Sumita), chàng chí thành tung năm hoa sen của mình lên không trung để cúng dường Phật. Trụ-điền cũng trao cho chàng 2 bông hoa sen nhờ dâng cúng giùm, với tâm nguyện rằng đời đời kiếp kiếp luân hồi về sau sẽ luôn là vợ của Thiện Huệ, trợ giúp chàng trong muôn kiếp luân hồi cho tới khi chàng thành Phật. Đức Phật Nhiên Đăng quán xét tương lai rồi hoan hỉ thọ ký rằng 2 người sẽ đạt tâm nguyện: sau 4 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp Trái Đất nữa, Thiện Huệ sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni (Sākyamuni) trong đời Hiền kiếp (Bhadra kalpa), còn cô gái Trụ-điền sẽ thường xuyên là vợ của chàng trong các kiếp luân hồi, cho tới khi chàng thành Phật.
Tu sĩ Thiện Huệ thời xa xưa đó chính là tiền kiếp của thái tử Tất-đạt-đa, còn cô gái Trụ-điền chính là tiền kiếp của công chúa Da-du-đà-la.
Nhận thấy con trai vẫn còn ưu tư, vua Tịnh-phạn đã cho xây dựng 3 lâu đài: Lâu đài mùa xuân, lâu đài mùa thu, lâu đài mùa đông để thái tử hưởng thụ, nhằm lung lay ý định xuất gia của ông. Ngoài ra, vua cũng đưa ra điều kiện: thái tử phải sinh được một người con trai thì mới được xuất gia. Nhưng Thái tử và công chúa Da-du-đà-la chỉ sống thanh tịnh như đôi bạn thì không thể đáp ứng yêu cầu của vua cha.
Theo kinh điển, công chúa Da-du-đà-la đã cầu nguyện các vị Chư thiên ban cho mình một đứa con. Do nhân duyên hội đủ để đáp ứng yêu cầu của vua Tịnh-phạn và sự đầy đủ tâm thành trong lời cầu nguyện của công chúa, một vị Chư thiên đã chấp nhận thỉnh cầu đó, một vị đã nhập thai và trở thành con của thái tử. Trong 32 tướng tốt của Đức Phật, có một quý tướng là Âm mã tàng, đây là quý tướng chỉ xuất hiện ở người đã rất nhiều tiền kiếp sống chánh hạnh mới có.
Theo mô tả của các kinh điển Phật giáo, các dục lạc cũng không thể giữ chân Tất-đạt-đa. Do nhân duyên không thể tránh khỏi, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử Tất-đạt-đa phát tâm tu hành. Rồi trong một đêm, ông lặng lẽ từ biệt hoàng cung, quyết định sống cảnh không nhà của một tu sĩ.
Tương truyền rằng, cả bốn người trong cảnh ngộ vừa kể là do các vị thần trên thiên giới biến hóa thành nhằm nhắc nhở ông lên đường tu thành Phật quả. Tất-đạt-đa thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho cái Khổ trong thế gian và hình ảnh tu sĩ chính là sứ mệnh cuộc đời của ông.
Xuất gia
Năm 19 tuổi, công chúa Da-du-đà-la hạ sinh một bé trai. Tất-đạt-đa thấy rằng việc có con khiến cho mong muốn rời nhà đi tu trở nên khó khăn hơn, nên đặt tên đứa trẻ là La-hầu-la (nghĩa là Chướng ngại).
Một đêm, Tất-đạt-đa hạ quyết tâm từ bỏ cuộc sống xa hoa, lìa cung điện bất chấp nỗ lực ngăn cản của cha mình. Trong đêm tối, Tất-đạt-đa gọi người nô bộc trung thành là Sa-nặc (Channa) lấy con ngựa Kiền Trắc (Kanthaka) rồi ra đi. Khi tới bờ sông A-nặc-mã (Anomà), Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, cắt tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Sa-nặc, lệnh cho Sa-nặc trở về thông báo việc này cho phụ hoàng. Sử sách Phật giáo xác định rằng đó là rạng ngày mồng 8 tháng 2 năm 595 trước công nguyên, và gọi đó là cuộc "Đại xả li" hoặc "Đại xuất hành" (cuộc ra đi vĩ đại)
Tương truyền rằng, các vị trời trên thiên giới đã phù phép để các lính canh ngủ gục, giúp chuyến ra đi của thái tử Tất-đạt-đa diễn ra thuận lợi. Khi tới bờ sông A-nặc-mã, Thái tử dừng lại, cắt tóc và ném mớ tóc lên trời, mớ tóc không rơi xuống mà bay vút lên không trung rồi biến mất, do vua trời Đế Thích (Śakra) đã hứng lấy mớ tóc đó đem về thờ phụng trong bảo tháp trên cõi trời Đao Lợi (Tavatimsa) (một cung trời trong quan điểm Phật giáo). Sau khi trở về, ngựa Kiền Trắc vô cùng buồn bã, bỏ ăn mấy ngày rồi chết. Nhờ thiện nghiệp đưa thái tử đi xuất gia, ngựa Kiền Trắc được tái sanh làm một vị tiên nam trên cung trời Đao Lợi, về sau vị thần này đã được gặp tôn giả Mục-kiền-liên (Moggallāna) - 1 trong 2 đại đệ tử của Phật, và kể lại chuyện tái sinh của mình.
Khi kể lại câu chuyện, vị thần Kiền Trắc có những vần thơ mô tả lại cảnh tượng này như sau:
Vào nửa đêm vương tử xuất gia.
Đi tìm giác ngộ, giã từ nhà
Ngài bảo tôi, vừa thúc mạn sườn:
"Hãy mang ta, hỡi bạn hiền thương
Khi nào giác ngộ đường vô thượng
Ta sẽ giúp người khắp thế gian".
Khi biết hoàng nam Tịnh Phạn Vương,
Đại danh lừng lẫy, cưỡi lưng mình
Với tâm phấn khởi, đầy hoan hỉ
Ta rước người vô thượng chí tôn.
Vượt qua đất nước khắp của người,
Khi mặt trời lên đã quá xa,
Ngài bước đi, lòng không luyến tiếc
Bỏ ta cùng với chú Sa-nặc.
Và ta kêu khóc nhìn theo mãi,
Khi thấy Ngài đi, bậc Đại hùng.
Tất-đạt-đa bắt đầu thử cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Ông quyết tâm tìm cách diệt khổ và tìm mọi đạo sư với các giáo phái khác nhau. Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Các vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đó là A-la-la Ca-lam (阿羅邏迦藍, sa. ārāda kālāma, pi. āḷāra kālāma) và Ưu-đà-la La-ma tử (優陀羅羅摩子, sa. rudraka rāmaputra, pi. uddaka rāmaputta). Nơi A-la-la Ca-lam, Tất-đạt-đa nhanh chóng đạt đến cấp Thiền Vô sở hữu xứ (sa. ākimcanyāyatana, pi. ākiñcaññāyatana), nơi Ưu-đà-la La-ma tử thì học đạt đến cấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ (sa. naivasamjñā-nāsaṃñāyatana, pi. nevasaññā-nāsaññāyatana), là trạng thái siêu việt nhất của thiền định.
Nhưng Tất-đạt-đa cũng không tìm thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của mình. Ngay cả cấp độ thiền định cao nhất là "Phi tưởng phi phi tưởng xứ" cũng chưa đạt đến mức độ triệt để cho việc giải thoát khỏi khổ đau, không phải là chân lý tối hậu, nên ông quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát. Có 5 Tỳ-kheo (năm anh em ngài Kiều Trần Như, (Kondañña) đồng hành cùng ông.
Sau 5 năm tu khổ hạnh, có lúc gần kề cái chết, Tất-đạt-đa nhận ra đó không phải là cách tu dẫn đến giác ngộ, nên ông bắt đầu ăn uống bình thường, 5 Tỳ-kheo kia thất vọng bỏ đi. Cách tu cực khổ được Phật nhắc lại sau khi thành đạo như sau:
Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hạt hay súp đậu nhỏ". Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn chân của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Cồ-đàm có da đen". Một số người nói như sau: "Sa-môn Cồ-đàm, da không đen, Sa-môn Cồ-đàm có da màu xám". Một số người nói như sau: "Sa-môn Cồ-đàm da không đen, da không xám". Một số người nói như sau: "Sa-môn Cồ-đàm da không đen, da không xám, Sa-môn Cồ-đàm có da màu vàng sẫm". Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít".
Ông có thể bền bỉ vượt qua 6 năm khổ hạnh một phần nguyên nhân là do từ bé, ông đã được sự dạy dỗ về võ thuật và đặc biệt là bộ môn Yoga. Ngoài ra, do sự tập luyện của ông đã đạt đến mức độ xuất sắc, nên mới đủ để vượt qua những thử thách khốc liệt về sức khỏe.
Không đạt giải thoát với cách tu khổ hạnh, ông từ bỏ cách tu này. Quả quyết rằng mình đã đi đến chỗ cùng cực của công phu tu khổ hạnh và khổ hạnh không dẫn đến giác ngộ, ông tìm phương pháp khác, và nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, lúc đang ngồi thiền dưới gốc cây mận:
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng Thích-ca (Shakya) đang cày và Ta đang ngồi thiền dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta li dục, li pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do li dục sinh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ". Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện".
Đạt tới giác ngộ
Sau 6 năm tu khổ hạnh không đạt kết quả, Tất-đạt-đa quyết định ăn uống bình thường trở lại và đi đến Giác Thành. Tất-đạt-đa thường đến bờ sông Nairanjana (Ni-liên-thiền, hiện nay là sông Phalgu) ngồi thiền định trên bãi cát. Một hôm, có hai cô bé chăn bò tên: Nan-đà Nanda và Ba-lạp (Balap) đang dắt bò xuống sông tắm thì thấy Tất-đạt-đa đang ngồi thiền định, họ sanh lòng kính mến liền tự tay vắt lấy sữa bò, nấu chín rồi dâng lên. Tất-đạt-đa ăn xong cảm thấy thân thể khoẻ mạnh.
Đến ngày thứ 49, Tất-đạt-đa ngồi thiền định dưới gốc cây cổ thụ Ni-câu-đà (cách cây Bồ-đề khoảng 150 m về hướng đông), sắp đi khất thực, thì có hai chị em nàng Tu-Xà-Đề (Sujata), con ông trưởng làng Senani, mang bát cháo sữa (kheer) đến cúng vị Thần gốc cây để tạ ơn. Khi thấy Tất-đạt-đa đang tĩnh tọa, hào quang của ông sáng tỏa làm cho Sujata tưởng rằng vị Thần cây đang hiện thân, hai nàng đặt bát cháo sữa bằng vàng trước mặt, cung kính đảnh lễ rồi ra về. Sau khi ăn xong bát cháo sữa, Tất-đạt-đa thấy cơ thể khỏe mạnh lạ thường nên không đi khất thực mà xuống sông Ni-liên-thiền tắm, tâm trạng ông vô cùng phấn chấn, cảm thấy sắp đạt thành tựu viên mãn.
Tương truyền rằng sau khi rửa bát xong, ông để cái bát bằng vàng trên dòng nước và nguyện rằng: "Nếu hôm nay ta được chứng quả thành Phật, thì nguyện cho cái bát nầy nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông". Quả nhiên cái bát nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông 80 sải tay, đến khi gặp phải một xoáy nước mạnh thì chìm xuống đáy sông, làm chấn động cả Long cung, đúng nơi có 3 chiếc bát vàng của 3 vị Phật đắc đạo trước Tất-đạt-đa trong Hiền kiếp này (Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp)
Sau đó, Tất-đạt-đa đi trở lên bờ, đến cội Bồ-đề ở Bồ-đề Đạo Tràng hay Bồ Đề Già Da (Bodh Gaya) và phát nguyện rằng: sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc đắc đạo, tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Trước khi ngồi, ông thầm nghĩ làm thế nào có một tòa ngồi cho yên tĩnh, trang nghiêm. Bỗng một em bé tên là Sotthiya (hoặc Svastika, nghĩa là Cát-Tường) gánh cỏ đi ngang qua đó, ông gọi lại hỏi xin một mớ cỏ để làm tòa ngồi. Em bé cung kính dâng ông sáu bó cỏ sắc (kusha) mềm mại và có hương thơm. Ông xấp cỏ thành tọa cụ và bồ đoàn, ngồi kiết già, lưng thẳng đứng hướng về phía gốc cây, mặt hơi cúi xuống nhìn về hướng đông, phía bờ sông Ni-liên-thiền.
Đêm hôm đó, Tất-đạt-đa bắt đầu thực hành các pháp thiền định. Cuối cùng, ông đạt Diệt-Thọ-Tưởng định (Nirodha-samapatti), tỏa ra uy năng chiếu khắp Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới). Ma vương Thiên ma (Ba-tuần - vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại) không muốn ông đắc đạo, đã quấy nhiễu bằng nhiều phương thức nhưng cuối cùng đều thất bại. Ba cô con gái của ma vương tên là Ái Dục (Tanhā), Bất Mãn (Aratī) và Tham Vọng (Ragā) hóa ra ba nàng tiên tuyệt đẹp để quyến rũ nhưng cũng chịu thất bại.
Sau khi hàng phục ma vương xong, Tất-đạt-đa tiếp tục nhập Diệt-Thọ-Tưởng định và bắt đầu chứng đắc các đạo quả:
Tận diệt các vi tế phiền não (Kammavasa) còn ẩn náu trong tâm làm nghiệp nhân cho Sinh Tử Luân Hồi (Samsara). Đến canh một đêm đó, ông chứng Túc Mạng Minh (Pubbe-nivasanussati-nana), biết rõ tất cả các tiền kiếp của ông (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết thế nào, rồi tái sinh thế nào...)
Tận diệt các vi tế vô minh (Avidyasava). Đến canh ba, ông chứng Thiên Nhãn Minh (Cutupapata-nana), biết rõ tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua các giai-đoạn thành, trụ, hoại, không; và biết rõ tất cả chúng sanh (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết cách nào, rồi tái sinh thế nào...). Ông biết rõ tất cả nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh, từ đó nhìn thấu được luật Nhân-Quả và Luân hồi.
Tìm ra phương cách giúp chúng sinh chấm dứt phiền não và vô minh, đạt đến giác ngộ hoàn toàn, thoát ra khỏi vòng Sinh Tử Luân Hồi. Đến canh năm, ông chứng Lậu Tận Minh (Asavakkhaya-nana): Do đã biết rõ tất cả các tiền kiếp của chính bản thân mình và của mỗi chúng sinh, nên ông nhận thấy rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc chân thật vĩnh cửu và làm thế nào để đạt được nó. Ông đã tìm ra Tứ Thánh Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
Theo sử Phật giáo, đó là ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm 589 TCN. Ở tuổi 35, Tất-đạt-đa đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (anuttara samma sambodhi), là đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) với Thập hiệu:
Như Lai (如來) (tathāgata), là "Người đã đến như thế" hoặc "Người đã đến từ cõi Chân như"; tuệ giác của Đức Phật như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
Ứng Cúng (應供) (arahant), dịch nghĩa là A La Hán, là "Người đáng được cúng dường", đáng được tôn kính.
Chánh Biến Tri (正遍知) (samyaksaṃbuddha), dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà, là "Người hiểu biết đúng tất cả các pháp".
Minh Hạnh Túc (明行足) (vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa là "Người có đủ trí huệ và đức hạnh", tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
Thiện Thệ (善逝) (sugata), là "Người đã đi một cách tốt đẹp"
Thế Gian Giải (世間解) (lokavid), là "Người đã thấu hiểu thế giới"
Vô Thượng sĩ (無上士) (anuttarapuruṣa), là "bậc tu hành tối cao, không ai vượt qua"
Điều Ngự Trượng Phu (調御大丈夫) (puruṣadamyasārathi), nghĩa là "Người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại", có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
Thiên Nhân Sư (天人師) (devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là "Bậc thầy của cõi người và cõi trời"
Phật Thế Tôn (佛世尊) (buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là "Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính"
Từ thời điểm đó, Siddhārtha biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa. Kinh nghiệm giác ngộ được ghi lại trong kinh sách theo chính lời của Siddhārtha như sau:
"... Sau khi hoàn lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh vô ích), ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền, nhưng những cảm giác hỉ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta.
Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những ký ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm,..., trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. 'Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta... Ta đã chết như vầy...' Sự hiểu biết (sa. vidyā, pi. vijjā) đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu...
Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt mọi giới hạn nhân thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại,... chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng 'Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải thân khẩu ý đều chìm đắm sau khi chết, tái sinh trong đoạ xứ, địa ngục. Các chúng sinh nào tạo thiện nghiệp bằng thân khẩu ý được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên'... Sự hiểu biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai.
Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu diệt các lậu hoặc (漏, sa. āsrava, pi. āsava) và nhìn nhận như thật: 'Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp tiêu diệt khổ, đây là con đường tiêu diệt khổ', và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, vô minh. Ta tự hiểu chân lý 'Tái sinh ta đã đoạn, cuộc sống tu tập của ta đã hoàn tất, ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống (khổ đau) này ta đã vượt qua'... Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba..."
Tất-đạt-đa lúc đó biết rằng kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt, cũng như ông thấy con người đã bị áp đảo bởi vô minh, tham lam và thù hận nên họ rất khó có thể nhận ra "con đường giác ngộ", vốn rất sâu sắc và khó nắm bắt. Tất-đạt-đa nghĩ rằng: "Giáo pháp mà Ta đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi lý luận, rất tế nhị, chỉ có bậc hiền thánh mới thấu hiểu. Nếu Như Lai truyền dạy giáo pháp ấy thì kẻ khác sẽ không hiểu được. Thật hoài công! Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được giáo pháp, vì bị tham ái bao phủ như đám mây đen kịch. Giáo Pháp đi ngược dòng đời, sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị". Nên ông tiếp tục yên lặng ngồi quán chiếu tâm chúng sinh dưới gốc cây Bồ-đề một thời gian là 7 tuần lễ.
Sau đó, có một vị thiên vương Phạm Thiên là Sahampati đã thỉnh cầu Tất-đạt-đa hoằng dương chánh pháp (trong thời xa xưa, tiền kiếp của vị Phạm Thiên này là bạn của Jotipala - tiền kiếp của Tất-đạt-đa vào đời Phật Ca Diếp). Ông sử dụng Thiên nhãn và nhận thấy một số chúng sinh có duyên lành với ông có thể được hóa độ và trở thành những bậc Thánh. Với lòng thương yêu chúng sinh, Ông chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp Luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh để thuyết Pháp cứu độ. Từ đó ông có danh hiệu Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) — "Trí giả của dòng dõi Thích-ca".
Thành lập tăng đoàn và truyền giảng giáo lý
Xem thêm: Trapusa và Bahalika, Thập đại đệ tử
49 ngày sau khi đắc đạo, Phật chỉ thiền định, không ăn uống. Đến ngày từ 49, có hai thương gia người Miến Điện tên Tapassu và Bhallika từ Ukkala (hiện nay là Orissa) đến. Hai thương gia sửa soạn bột rang và mật ong rồi đến trước Phật rồi cung kính dâng lên. Phật nhận lãnh rồi khuyên 2 thương gia quy y Phật và quy y Pháp, thọ trì năm giới để được phước báo lâu dài. Hai thương gia đồng ý, xin Phật thu nhận vào hàng thiện tín (Upāsaka, nam cư sĩ). Đó là hai thiện tín đầu tiên đã quy y Nhị Bảo (Phật và Pháp, khi đó chưa có Tăng) và là hai vị Phật tử Tại gia đầu tiên. Sau khi đã được Đức Phật ban pháp quy y và truyền năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không nói dối), hai vị thương gia xin ông ít vật lưu niệm để luôn luôn tưởng nhớ đến ông. Đức Phật tặng cho hai vị 8 sợi tóc và móng tay, rồi ban lời tiên tri: "Các ông vậy là có đại nhân duyên. Mấy sợi tóc của Như Lai không phải đơn giản. Sau này, lúc Như Lai nhập diệt rồi, ở xứ các ông sẽ thịnh hành giáo pháp diệt khổ nhiều ngàn năm". Hai vị cung kính nhận lãnh, lạy tạ rồi mang về Miến Điện xây tháp thờ. Hiện nay, Phật giáo là quốc giáo của Miến Điện, 8 sợi tóc bảo vật này vẫn còn được giữ gìn cẩn thận trong bảo tháp của chùa Shwedagon tại thủ đô Rangoon (Ngưỡng Quang) của Miến Điện, được người Myanmar xem là quốc bảo.
Sau khi giác ngộ, Phật có ý định gặp 2 vị thầy cũ của mình là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất) để truyền đạo, bởi 2 người đều là bậc tu sĩ đã đạt cảnh giới thiền rất cao, không còn bị che mắt bởi dục lạc. Nhưng cả hai vị đều đã qua đời cách đó ít lâu.
Ông quyết định tới gặp năm người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở tại vườn Nai gần Benarès (Ba-la-nại) và truyền dạy giáo lý của mình cho họ. Tất cả năm vị sau đó đều trở thành A-la-hán. Sự kiện này diễn ra vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau khi Tất-đạt-đa thành đạo. Trong bài thuyết pháp đầu tiên này, ông đề xướng con đường Trung đạo, một sự bác bỏ đối với hai thái cực khác nhau của các học thuyết của Ấn Độ thời đó:
Đức Phật bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, ông đã giảng Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Duyên khởi, quy luật Nhân quả (Nghiệp) và nhiều bài pháp khác mở rộng phù hợp với căn cơ của nhiều người. Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại (Benares hay còn gọi là Varanasi), ông bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân".
Trong 45 năm tiếp đó, ông đi nhiều nơi, nhiều vùng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải giáo pháp và điều này diễn ra liên tục từ năm này qua năm khác. Ông hay lưu trú tại Vương-xá (zh. 王舍城, sa. rājagṛha), Xá-vệ (zh. 舍衛城, sa. sāvatthī) và Phệ-xá-li (zh. 吠舍釐, sa. vaiśālī), sống bằng khất thực, không nhà ở cố định.
Thông qua những lời dạy của mình về chân lý, Tất-đạt-đa đã dần dần gây dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 thành phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-bà-tắc (nam cư sĩ, cận sự nam), ưu-bà-di (nữ cư sĩ, cận sự nữ). Trong hàng đệ tử tại gia của ông có những nhân vật quyền thế như vua Tần-bà-sa-la (zh. 頻婆娑羅, sa. bimbisāra) và vương hậu Vi-đề-hi (Vaideli) của xứ Ma-kiệt-đà, vua Ba-tư-nặc và vương hậu Mạt-lợi (Mallika) nước Kiều-tát-la. Chính Vua Tần-bà-sa-la đã dâng cung cho Tăng đoàn ngôi tu viện đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, đó là Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) tại kinh đô Vương-xá. Ngoài ra trưởng giả Cấp Cô Độc, một thương gia giàu có ở kinh thành Xá-vệ, cũng cúng dường cho giáo đoàn của Phật Thích-ca một ngôi tịnh xá trong khu vườn của Thái tử Kỳ-đà tại Xá-vệ, được kinh điển gọi là tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana). Kinh Phật cho biết Cấp Cô Độc đã chở nhiều xe vàng và lót vàng khắp sân vườn để mua lại nó từ tay Thái tử Kỳ-đà, con trai quốc vương Ba-tư-nặc.
Các đệ tử quan trọng của ông là Thập đại đệ tử, trong đó có A-nan-đà (thị giả của Phật), Xá-lợi-phất (trí huệ đệ nhất), Mục-kiền-liên (thần thông đệ nhất), Ma-ha-ca-diếp (hạnh đầu đà đệ nhất), A-na-luật (thiên nhãn đệ nhất) và Phú-lâu-na. Trong đó, A-nan-đà gia nhập giáo hội 2 năm sau ngày thành lập, vào hạ thứ 19 thì tôn giả trở thành thị giả thân cận của Đức Phật. Tôn giả A-nan-đà nổi tiếng với trí nhớ phi thường, đã ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy. Chính tôn giả là người đã đọc tụng lại tạng Kinh trong lần Kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất để các chư tăng ghi nhớ, do đó kinh Phật được bảo tồn tới ngày nay chính là bắt nguồn từ công lao của tôn giả (các đoạn kinh Phật được lưu truyền tới nay thường bắt đầu bằng cụm từ "Tôi nghe như vậy" hay âm Hán việt là "Như thị ngã văn", "tôi" ở đây chính là tôn giả A-nan-đà). Ngoài ra, tôn giả cũng là người đầu tiên cung Phật phát minh ra "áo cà sa" - trang phục thường ngày về sau của các chư tăng, chư ni nhà Phật
Cũng trong thời gian này, đoàn Tỳ-kheo-ni (sa. bhikṣuṇī, gồm các vị nữ tu) được thành lập do kế mẫu của Tất-đạt-đa là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề làm ni trưởng. Ban đầu, Phật Thích Ca không đồng ý nhận người nữ vào tăng đoàn, không phải vì ghét phụ nữ hoặc cho rằng nữ giới không thể tu đắc đạo, mà vì ông biết rằng điều này dễ làm phát sinh các vi phạm về sắc giới trong tăng đoàn. Phật tiên đoán rằng sự có mặt của nữ giới sẽ làm Tăng-già khó tu hành và dự đoán là thời mạt pháp vì lý do đó mà sẽ tới sớm hơn. Nếu tiếp nhận nữ giới, thời kỳ tượng pháp (thời kỳ giáo pháp của Phật được chư tăng duy trì vững vàng, chưa bị biến hoại) thay vì kéo dài 1000 năm, sẽ chỉ còn 500 năm mà thôi. Mặc dù vậy, nhờ sự cầu xin của A-nan-đà (Ananda) mà Phật chấp nhận thành lập ni đoàn, nhưng ông cũng chế định ra 8 giới luật nghiêm khắc với các Tỉ-khâu-ni để ngăn chặn việc phạm sắc giới trong tăng đoàn. Phật dạy đại đức A-nan-đà rằng:
"Này A-nan-đà, nếu phụ nữ không được phép xuất gia và sống trong Pháp và Luật của Ta, thì cuộc sống Thánh hạnh của các đệ tử của Ta có thể giữ vững dài lâu, Chánh pháp cao cả của Ta có thể duy trì 1.000 năm, nhưng vì phụ nữ được phép xuất gia, cuộc sống Thánh của các đệ tử Ta sẽ không duy trì dài lâu, và từ nay Chánh pháp cao cả của Ta sẽ chỉ còn duy trì được 500 năm nữa mà thôi".
"Cũng thế, này A-nan-đà, có những ngôi nhà có nhiều phụ nữ và ít đàn ông, những ngôi nhà đó rất dễ bị mất trộm. Nếu để phụ nữ xuất gia, sống trong Pháp và Luật của Như Lai, cuộc sống Thánh của các đệ tử sẽ khó mà duy trì dài lâu. Cũng như một người đắp một con đê để ngăn một bể nước lớn, không để cho nước tràn qua. Ta cũng vậy, Ta chế định ra 8 giới điều nghiêm khắc trên là để ngăn ngừa không để cho Tỳ kheo ni vi phạm".
Cuộc đời ông cũng gặp nhiều người xấu muốn ám hại. Trong số đó có Đề-bà-đạt-đa, là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng-già nên rắp tâm tìm cách giết hại ông nhiều lần nhưng không thành. Tuy thế Đề-bà-đạt-đa đã chia rẽ được một số thành viên khỏi Tăng-già ở Phệ-xá-li. Tất-đạt-đa đi con đường trung đạo và tùy thuận chúng sinh, ngược lại Đề-bà-đạt-đa chủ trương một cuộc sống khổ hạnh cực đoan. Cho nên đến cuối đời, Đề-bà-đạt-đa vì phạm 2 trong 5 đại tôi là 'Làm thân Phật chảy máu' và 'Phá hòa hợp Tăng' cho nên Địa Cầu không thể dung chứa ông, mặt đất đã nứt ra và hút ông xuống địa ngục.
Nhập Niết bàn
Trong kinh điển Pali, Phật Thích Ca tại thế tám mươi năm. Tuy trải qua suốt phần đời còn lại - 45 năm đi giảng dạy, nhưng ông lại lưu ý với các đệ tử rằng: Đối với chân lý, Như Lai chưa từng nói lời nào. Ý nghĩa của câu này là: giáo pháp của Phật là một phương tiện để người tu hành đạt tới giác ngộ chân lý, chứ chính nó không thể mô tả hoàn toàn chân lý. Chân lý rất vi diệu, không thể dùng lời nói để diễn tả đầy đủ mà phải tự mình chứng đắc, những lời dạy của Phật chỉ là phương tiện để giúp người tu hành tự mình đạt tới chân lý mà thôi. Phật xem những bài thuyết pháp của ông cũng như ngón tay chỉ tới mặt trăng, chứ không phải là mặt trăng. Người ta phải nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng, còn nếu chỉ cố chấp vào ngón tay, chỉ tập trung nhìn ngón tay thì sẽ không bao giờ thấy được mặt trăng. Như Lai dạy cho người khác con đường giác ngộ chân lý, nhưng mỗi người phải tự bước trên con đường giác ngộ chân lý cho mình.
Theo kinh Đại bát-niết-bàn (pi. mahāparinibbāna-sutta), vào mùa mưa năm 80 tuổi, Phật Thích Ca đã dự đoán trước rằng ông sẽ nhập diệt sau 3 tháng nữa. Ông qua đời tại thành phố Câu-thi-na (zh. 拘尸那, sa. Kuṣinagara) của bộ tộc Malla vào năm 544 trước Công nguyên, địa điểm này được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Uttar Pradesh ngày nay. Vào một ngày trước, sức khoẻ của ông đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà người thợ rèn Thuần-đà (zh. 純陀, pi. cunda), một số kinh sách ghi rằng do nguyên liệu nấu ăn có lẫn nấm độc. Tuy nhiên sau đó Phật đã nhấn mạnh cho tôn giả A-nan-đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách Thuần-đà bởi ông ta đã có thiện ý tối thượng, còn việc Phật trở bệnh nặng là quả báo đến lúc phải trả, điều này đã được Phật dự đoán từ 3 tháng trước rồi.
Trước khi qua đời, Tất-đạt-đa tạo điều kiện cho các tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, các vị đã im lặng vì thương Thế Tôn đang rất yếu. Lời dạy cuối cùng của ông: "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tấn tu học !"
Theo các Phật tử, ông đã nhập Niết-bàn thông qua các mức thiền định, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống.
Trưởng lão tỳ-kheo Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) nói pháp thoại ca ngợi công hạnh của Đức Phật Gautama, rồi kết luận:
Thế Tôn cũng là một con người như chúng ta, nhưng nhờ phát đại nguyện cứu khổ chúng sanh, rồi dũng mãnh tinh tấn tu Bát Chánh Đạo, thực tập thiền quán mà trở thành bậc Đại Giác, có đầy đủ trí huệ rộng lớn, đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, có đầy đủ phương tiện thiện xảo chỉ dạy và hướng dẫn chúng sanh hết mê được ngộ, thoát khổ được vui, biết phương pháp tu tập để tự giải thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi, vào cảnh niết-bàn an lạc thanh tịnh. Này các huynh đệ, để đền đáp ơn Thế Tôn, chúng ta hãy nương theo lời giáo huấn của Thế Tôn và noi theo gương sáng của Thế Tôn mà tinh tấn tu tập Bát Chánh Đạo, cố đạt cho kỳ được mục tiêu giải thoát.
Tương truyền rằng trong buổi trà tỳ kim thân Phật có nhiều hiện tượng lạ xảy ra: hoa mạn đà la bay đầy trời (do các chư thiên cúng dường), và người ta không thể thắp ngọn lửa để làm lễ trà tỳ cho Ngài cho tới khi trưởng lão Tỷ-kheo Maha Kassapa (Ma-Ha Ca-Diếp, một trong các vị học trò Tối thắng của Phật, người đã được Phật truyền lại y bát) tới nơi để làm lễ.
Mặc dù cuộc đời Thái tử Tất-đạt-đa có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học - vốn hay có nhiều hoài nghi và thành kiến - cũng đều nhất trí công nhận ông là một nhân vật lịch sử có thật và là người đã thành lập ra Phật giáo.
Di tích
Xá lợi Phật
Sau khi qua đời, Xá lợi của Tất-đạt-đa Cồ-đàm được chia thành 8 phần, gồm: Xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) xây tháp thờ xá lợi Phật ở Rajagriha, xứ Vajji xây tháp ở Vesali, xứ Sakya xây tháp ở Mungali, xứ Koliya xây tháp ở Ramagama, xứ Buliya xây tháp ở Allakappa, vị Bà-la-môn xây tháp thờ ở Vethadipa, xứ Malla nhận hai phần xá lợi, xây một tháp ở thủ đô Pava và một tháp khác tại Kushinagar. Riêng vị Bà-la-môn Dona xin thỉnh cái chậu vàng dùng để chia xá lợi, đem về khu vườn nhà mình xây tháp thờ. Sứ giả xứ Moriya đến trễ, xin thỉnh phần tro còn lại về xây tháp thờ tại thủ đô Pipphalivana.
Nhiều thế kỷ sau đó, vua Ashoka (A-sô-ka) đã tập hợp các xá lợi, cho xây cất và tôn thờ thành 84.000 tháp.
Trước đây nhiều người không phải tín đồ Phật giáo đã không tin là có xá-lợi Phật, họ cho đó chỉ là huyền thoại. Mãi đến năm 1898, ông W. C. Peppé, người Pháp, tiến hành khảo cổ tại vùng Pīprāvā, phía Nam nước Népal, đã tìm thấy một cái hộp bằng đá khá lớn, trong đó có chứa hai chiếc bình bằng đá và vài dụng cụ bằng đá khác như tách trà. Hai bình đá một lớn một nhỏ đều có chứa những viên xá-lợi. Bình đá nhỏ dạng hình cầu, chia thành hai phần thượng hạ. Nửa phần trên có hình tay cầm, khắc niên đại của vua Ashoka và nội dung của nó như sau: "Đây là xá-lợi của Đức Phật. Phần xá-lợi này do bộ tộc Śākya, nước Śrāvastī phụng thờ". Chiếc bình đã chứng minh nội dung trong kinh Trường A-hàm và rải rác ở những kinh khác về việc phân chia xá-lợi của Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại Ấn Độ sau khi Phật nhập Niết-bàn hoàn toàn là sự thật.
Kinh Phật
Sau khi Phật nhập diệt ít lâu, Thượng tọa Maha Ca Diếp đã triệu tập 500 vị A-la-hán họp tại động Sattapanni (động Thất Diệp, còn gọi là động Tất-bát-la) ở Rajagriha để ôn tụng và ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy. Đó chính là Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất.
Khoảng 300 năm sau là thời Asoka' (A Dục) là hoàng đế của đế chế Mauryan, khoảng năm 240 TCN. Trước khi trở thành Phật tử, ông có tính khí rất hung bạo, đã giết nhiều anh em của mình để cướp ngôi vua cũng như đã xua quân đánh chiếm nhiều lãnh thổ. Nhưng ngay sau đó nhờ gặp được Sa di Nigrodha, ông theo Phật giáo cải hối và làm rất nhiều điều thiện, chống lại bạo lực. Từ thời điểm đó, vua A-dục, người đã từng được miêu tả như là "A-dục ác vương" (Chandashoka), bắt đầu được mô tả như là "A-dục sùng đạo" (Dharmashoka). Ông là người có công lớn khuyến khích Phật giáo, xây dựng hàng chục ngàn chùa chiền, bảo tháp Phật giáo. Nhiều đoàn truyền giáo đạo Phật đã được ông tài trợ và cử đến khắp nơi, từ Âu sang Á, đến tận Hy Lạp, các nước tại Trung Á, Trung Đông, cũng như Trung Quốc, Đông Nam Á, Miến Điện và Sri Lanka. Ngoài ra, vua Asoka còn là người bảo trợ cho kì Kết tập kinh điển lần thứ III.
Phật giáo ngày nay phát triển mạnh ở Sri Lanka, Đông Á và Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Singapore) và bao gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn. Mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Đạo Phật được tìm thấy ở khắp thế giới. Ước tính số người chính thức theo đạo Phật (đã làm lễ Quy y Tam Bảo) vào khoảng 350 triệu đến 700 triệu người, số người chưa làm lễ Quy y Tam Bảo nhưng có niềm tin vào đạo Phật thì còn đông hơn gấp mấy lần con số đó.
Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đã nhập niết-bàn hơn 2.500 năm, nhưng các bài kinh Phật còn được chư tăng gìn giữ cẩn thận cho đến ngày nay. Dù đạo Phật đã bị hủy hoại ở Ấn Độ do sự tấn công của các tôn giáo khác, nhưng tín đồ Phật giáo đã trải khắp các nước, đặc biệt là ở Đông Á. Tam Tạng Pháp Bảo gồm những lời dạy của Đức Phật vẫn còn đó, hiện được các chư tăng, tín đồ lưu giữ và truyền tụng ở khắp năm châu, bất kỳ ai mong muốn theo Đạo hoặc nghiên cứu giáo lý đạo Phật đều có thể dễ dàng tìm đọc.
Các thánh tích
Đối với tín đồ Phật giáo, có 4 thánh tích liên quan đến cuộc đời Phật Thích Ca. Bodh Gaya (tiếng Việt là Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Phật Thích Ca thành đạo là nơi quan trọng nhất, ngoài ra còn 3 nơi khác đó là:
Kushinagar (Câu-thi-na): Đây là nơi mà Phật nhập niết bàn. Qua các khai quật thì người ta đã tìm thấy được các mảnh vỡ của các tượng Phật và các cột trụ mà vua Asoka đã xây dựng. Nơi này ngày nay là Kasia, thuộc về Deoria của bang Uttar Pradesh.
Lâm-tỳ-ni (Lumbini) - nơi Phật đản sinh. Trước đây người ta không xác định được địa danh này, nhiều người coi đây chỉ là huyền thoại. Mãi đến ngày 1 tháng 12 năm 1886, nhà khảo cổ người Đức Alois A. Fuhrer mới tìm thấy cột tháp của vua Asoka xác nhận đây là nơi ra đời của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sarnath (vườn Nai, hay Lộc Uyển) - nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên. Di tích còn sót lại là tháp Dhamekh được xây vào triều đại Gupta thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. (Chữ Phạn "dharmekh" nghĩa là chánh pháp).
Bodh Gaya là trái tim của văn hóa Phật giáo trong suốt hàng thế kỷ cho đến khi nó bị người Hồi giáo đánh chiếm và tàn phá vào thế kỷ 12. Năm 1875, vua Mindon Min của Miến Điện đã đề nghị và được sự đồng ý của chính phủ Ấn Độ và giáo hội Ấn giáo Mahant để sửa sang lại ngôi tháp Đại Giác bị hoang phế nhiều năm. Nhưng kỳ sửa chữa đầu tiên của người Miến Điện diễn ra không đúng theo truyền thống nên chính phủ Ấn Độ đã quyết định bổ nhiệm ông J.D Beglar vào năm 1880 trùng tu lại hoàn toàn ngôi tháp. Nhưng sau khi được khôi phục, ngôi tháp Đại Giác và vùng đất xung quanh vẫn tiếp tục thuộc về giáo hội Ấn giáo Mahant, họ chỉ giữ Thánh Tích với mục đích hưởng lợi qua sự thăm viếng của Phật tử chứ không có ý muốn tu sửa hay cung kính. Sự vận động giành lấy lại quyền điều hành tại khu vực Tháp Đại Giác bắt đầu vào tháng 1 năm 1891 khi đại sư Anagarika Dharmapala đến đảnh lễ thánh địa này. Ông Dharmapala ghi trong nhật ký ngày 21/1/1891 như sau: "Tại ngôi đền của ông Mahant hai bên cửa có những tượng Đức Thế Tôn đang thiền định hay đang thuyết pháp. Ôi! Tôn nghiêm làm sao ngôi tháp quý báu này! Đức Thế Tôn ngồi trên pháp tòa và sự tôn nghiêm tỏa khắp làm cho Phật tử chí thành phát khóc. Ôi sung sướng biết bao! Khi vầng trán của tôi chạm đến Kim Cương Tòa, một ý niệm phát ra rồi đánh mạnh vào tâm trí tôi. Ý niệm ấy bảo tôi dừng lại đây và gìn giữ thánh tích tôn nghiêm nầy, tôn nghiêm đến nỗi không gì trên đời này sánh bằng, vì đây là chỗ mà dưới gốc Bồ Đề, Thái tử Tất-đạt-đa đã giác ngộ thành Phật."Ông Dharmapala từng bước ngăn chặn những việc làm của ngoại đạo tại thánh địa này và đã sáng lập ra "Hội Đại Giác Ngộ, Bồ-đề Đạo Tràng" (The Buddha Gaya Mahabodhi Society) vào ngày 31 tháng 5 năm 1891. Sau nhiều năm đấu tranh, vận động sự ủng hộ từ Phật tử các nước, năm 1952, chính phủ Ấn Độ đã thành lập một ủy ban điều hành quản lý khu vực Bồ-đề Đạo Tràng và những di sản khác. Ủy ban này gồm có 8 thành viên, 4 vị Ấn giáo và 4 vị Phật giáo, với một vị quận trưởng Gaya làm chủ tịch. Năm 2002, ngôi chùa Mahabodhi (Đại Giác Ngộ tự) ở Bodh Gaya đã trở thành Di sản thế giới.
Tại Bodh Gaya còn có cội Bồ-đề, là nơi có cây bồ đề đã che bóng mát cho Đức Phật khi ông ngồi thiền và đạt tới giác ngộ. Một cành chiết từ cây bồ đề nguyên thủy đã được vua Asoka gửi tặng cho vua Devanampiya Tissa (Thiên-Ái-Đế-Tu) tại Sri Lanka vào năm 247 TCN. Con gái của vua Asoka là Tỳ-kheo-ni Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) đã sang Sri Lanka với mục đích thành lập ni đoàn Phật giáo đã mang nhánh bồ-đề này qua Tích Lan, đem đến trồng ở Anuradhapura, tại đây nó đã phát triển thành một cây to. Sau này người Sri Lanka đã gọi cây bồ-đề này là "Sri-Maha Bodhi", nghĩa là "Cây Bồ Đề Cát Tường Vĩ Đại". Cho tới nay, trải qua gần 2.300 năm, Cây Bồ Đề Vĩ Đại vẫn sống tươi tốt và được người Sri Lanka coi là quốc bảo. Rất nhiều nhánh từ cây này đã được chiết để gửi đi trồng ở chùa chiền khắp nơi trên thế giới.
Cùng chung với số phận thăng trầm của lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ, cây bồ-đề ở Bodh Gaya đã nhiều lần bị chặt đốt, thiêu hủy do thiên tai vô thường tác động và do những người thù ghét đạo Phật muốn xóa tan vết tích của nó. Thế nhưng trải qua bao nguy khốn, dòng dõi hậu duệ của cây bồ đề vẫn không tuyệt diệt mà vẫn tiếp tục bám trụ và đâm chồi nảy lộc, đời sau nối tiếp đời trước che bóng mát cho nơi Phật đã ngồi khi thành đạo. Cây bồ đề hiện nay ít nhất đã là đời thứ sáu của cây bồ-đề nguyên thủy đã che mát cho Đức Phật. Mặc dù trải qua nhiều lần sinh diệt, nhưng vị trí cây bồ đề ngày nay so với gốc cây ban đầu vẫn không có sự thay đổi chuyển dịch, vẫn định vị như gốc cây bồ đề nguyên thủy, nơi khoảng 2.600 năm về trước, thái tử Tất-đạt-đa đã ngồi trong đêm giác ngộ thành Phật. Với lịch sử hiển hách này, có thể nói cây bồ-đề tựa như một biểu tượng cao cả cho những tín đồ Phật giáo đã truyền đời nhau suốt 2.600 năm bảo tồn Chánh pháp mà Phật Thích Ca truyền dạy cho thế gian.
Ngoại hình
Có nhiều miêu tả về ngoại hình của Tất-đạt-đa trong các kinh điển Phật giáo. Là một vị hoàng tử có đầy đủ 32 tướng tốt, ông đã được tập huấn, rèn luyện sức mạnh, được nuôi dạy rất chu đáo về cả văn lẫn võ. Từ năm 13 tuổi ông được truyền thụ võ nghệ và có sở trường bắn cung. Từ lúc trước khi ra đi tìm đạo, ông đã là người có cơ thể cường tráng, phi phàm hơn người.
Một người Bà la môn Sonadanda miêu tả ngoại hình ông là "đẹp trai, ưa nhìn, cùng với một làn da rất đẹp. Ông ta có vẻ ngoài thần thái và oai nghiêm... Ông đẹp đẽ, xinh tươi, dễ nhìn, một hình sắc tốt đẹp nhất, hình thể và nét trang nghiêm của ông như Phạm Thiên, ngoại hình của Ông đẹp đẽ (Digha Nikaya, Kinh số 4).
Ông đẹp đẽ, gây được niềm tin, với ý thức điềm tĩnh và tâm trí thanh tịnh, trầm tĩnh và tự chủ, như một con voi được thuần phục một cách hoàn hảo (Anguttara Nikaya, Kinh số 36).
Có những đệ tử của ông đang trong quá trình tu tập chưa trở thành A la hán, bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của ông, nhưng đã được ông khuyên chấm dứt việc đó, và nhắc nhở rằng không nên nhìn ông bằng hình tướng bên ngoài, mà nên nhìn vào giáo pháp của ông truyền dạy thì mới thấy được một Như Lai chân thật. Trong kinh Kim cang có bài kệ: "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai", tức là nếu dùng sắc thấy Ta, dùng âm thanh cầu Ta, người đó hành đạo tà, không thể thấy Như Lai.
Không có một tác phẩm, văn bản nào miêu tả rõ ngoại hình Tất-đạt-đa Cồ-đàm dưới dạng con người cho đến khoảng thế kỷ thứ I TCN, sau thời gian đó thì mới bắt đầu có những mô tả về hình dáng được cho là của ông trong Kinh Lakkhaṇa Sutta. Ngoài ra, Yasodhara mô tả sơ lược hình dáng của Tất-đạt-đa Cồ-đàm sau khi ông lần đầu tiên trở lại cung điện của mình trong kinh điển Pali, Narasīha Gāthā. Trong 32 tướng tốt, người ta nói ông có đôi mắt xanh biếc.
Ngoài ra, khác với hình tượng tóc dày và xoăn trên các bức tượng khắc họa ông, Đức Phật được tả là đã cạo đầu khi tu để giải thoát khỏi trần đời thế tục.
Nhận định
Các danh xưng khác (Thập hiệu)
Như Lai (zh. 如來, sa., pi. tathāgata), là "Người đã đến như thế" hoặc "Người đến từ cõi Chân như". Phật giáo Mật Tông còn gọi là "Tỳ Lô Giá Na", dịch ý nghĩa là "Đại Nhật Như Lai". Theo tiếng Phạn, "Tỳ Lô Giá Na" là tên gọi khác của Mặt Trời. Dùng danh hiệu "Tỳ Lô Giá Na" có nghĩa coi Tất-đạt-đa Cồ-đàm là Mặt Trời hồng không bao giờ tắt; tuệ giác của ông như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
Ứng Cúng (zh. 應供) dịch nghĩa là A La Hán (zh. 阿羅漢, sa. arhat, pi. arahant), là "Người đáng được cúng dường", đáng được tôn kính.
Chánh Biến Tri (zh. 正遍知, sa. samyaksaṃbuddha), dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà (zh. 三藐三佛陀), là "Người hiểu biết đúng tất cả các pháp".
Minh Hạnh Túc (zh. 明行足, sa. vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa là "Người có đủ trí huệ và đức hạnh", tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
Thiện Thệ (zh. 善逝, sa. sugata), là "Người đã ra đi một cách tốt đẹp".
Thế Gian Giải (zh. 世間解, sa. lokavid), là "Người đã thấu hiểu thế giới".
Vô Thượng sĩ (zh. 無上士, sa. anuttarapuruṣa), là "Đấng tối cao, không ai hơn".
Điều Ngự Trượng Phu (zh. 調御大丈夫, sa. puruṣadamyasārathi), nghĩa là "Người chế ngự được bản ngã và nhân loại". Điều Ngự Trượng Phu còn một nghĩa khác nữa là đức Phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
Thiên Nhơn Sư (zh. 天人師, sa. devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là "Bậc thầy của cõi người và cõi trời".
Phật Thế Tôn' (zh. 佛世尊, sa. buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là "Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính".
Tất-đạt-đa Cồ-đàm trong các tôn giáo khác trên thế giới
Nhiều người theo Ấn Độ giáo cho rằng Tất-đạt-đa Cồ-đàm là hóa thân thứ 9 của thần Vishnu. Tuy nhiên nhiều lời dạy của Phật Thích Ca vốn đi ngược lại giáo điều tôn giáo của Ấn Độ giáo, điển hình là Phật phủ nhận quyền năng của kinh Vệ Đà (Vedas) và phủ nhận sự tồn tại của Ngã, linh hồn trường tồn, bất biến (Atman). Phật cũng phủ nhận địa vị tối cao của Brahma trong Ấn Độ giáo, Phật nói rằng các vị thần cũng chỉ là một chúng sinh trong tam giới mà thôi, họ không phải toàn năng và cũng không bất tử. Do vậy, chi tiết này có lẽ là do Ấn Độ giáo hư cấu ra để thuyết phục những tín đồ Phật giáo chuyển sang Ấn Độ giáo.
Tất-đạt-đa Cồ-đàm được một giáo phái Hồi giáo của dân tộc Ahmadiyya coi như là một nhà tiên tri. Một số tín đồ Phật giáo Trung Quốc thời sơ khai từng nghĩ Tất-đạt-đa Cồ-đàm là hóa thân của Lão Tử trong Đạo giáo.
Các tín đồ của Đạo Cao Đài tôn thờ ông như một bậc thầy tôn giáo lớn của họ. Hình ảnh của Tất-đạt-đa Cồ-đàm có thể được tìm thấy trong cả Tòa Thánh và trên bàn thờ ở nhà. Ông cũng được họ cho là có mối liên hệ với những người sáng lập tôn giáo lớn khác như Lão Tử hoặc Khổng Tử.
Kể từ thời kỳ Nara ở Nhật Bản, thuyết "bản địa thùy tích" được khởi xướng với quan điểm rằng các vị thần của Nhật Bản thực tế là hóa thân của Phật, và người ta đã xác định "nguồn gốc Phật" của nhiều vị thần và tạo tác các tượng thần dưới hình dáng tăng lữ.
Trong giáo phái Gnostic cổ Mani giáo, Tất-đạt-đa Cồ-đàm được cho là một trong số những vị thầy giảng đạo của Đức Chúa Trời trước khi Mani xuất hiện.
Trong đạo Sikh, Phật được đề cập như là đại diện thứ 23 của Vishnu trong Chaubis Avtar, một tác phẩm Dasam Granth theo truyền thống được viết bởi Guru Gobind Singh.
Hình tượng Barlaam và Josaphat trong Cơ Đốc giáo được các nhà nghiên cứu xem là chịu ảnh hưởng từ cuộc đời thành đạo của Tất-đạt-đa Cồ-đàm.
Tất-đạt-đa Cồ-đàm trong nghệ thuật và điện ảnh
Phim
Little Buddha, bộ phim của Bernardo Bertolucci năm 1994
Prem Sanyas, bộ phim câm 1925, đạo diễn bởi Franz Ostenn và Himansu Rai
Con đường giác ngộ, bộ phim nhựa Việt Nam do Công Hậu làm đạo diễn. Phim được chùa Hoằng Pháp (huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh) và Công ty Nghiệp Thắng sản xuất vào năm 2013. Diễn viên Tuấn Phương diễn vai Đức Phật. Ngày 8 tháng 6 năm 2014, phim đạt Giải nhất trong Liên hoan phim Vesak, được tiến hành nhân dịp Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc Vesak lần thứ 11 ở Việt Nam với sự tham dự của 95 quốc gia.
Buddha, phim hoạt hình anime do Toei sản xuất dựa trên manga Buddha của Osamu Tenzuka.
Record Of Ragnarok
Phim truyền hình
Buddha, phim truyền hình lịch sử của Ấn Độ năm 2013, diễn viên Himanshu Soni đảm nhận vai Tất-đạt-đa Cồ-đàm.
Văn học
The Light of Asia, một bài thơ sử thi của Edwin Arnold năm 1879.
Buddha, một loạt truyện manga từ 1972-1983 được hư cấu, thêm thắt lại từ câu chuyện của Đức Phật của Osamu Tenzuka.
Tất-đạt-đa hay Câu chuyện dòng sông, bộ tiểu thuyết của Hermann Hesse, viết bằng tiếng Đức vào năm 1922.
Lord of Light, một cuốn tiểu thuyết của Roger Zelazny, nói về một con người trong tương lai xa ở Trái Đất, sẽ dùng Phật pháp để giảng dạy con người, chống đối lại các vị thần.
Câu nói Lù khù có ông Cù độ mạng: Lù khù là chỉ hạng người khờ dại, ngây thơ, không biết chút gì về cuộc đời, trình độ văn hóa giới hạn, không biết đua chen với đời, cứ sống buông trôi cho qua ngày đoạn tháng, nhưng không biết tại sao họ lại được rất nhiều may mắn ngoài khả năng của họ. Còn Cù chính là Cù-đàm, tức tên Gotama của Phật Thích Ca trong Câu chuyện dòng sông. Câu này ý nói những người khờ khạo sở dĩ được may mắn là nhờ Đức Phật Thích Ca độ mạng.
Âm nhạc
Ánh sáng Á Châu, một vở kịch diễn xướng của Dubley Buck năm 1886.
Karuna Nadee, một vở kịch diễn xướng của Dinesh Subasinghe năm 2010.
Tranh vẽ
Xem thêm
Nhiên Đăng Cổ Phật (Dipankara)
Tỳ Lô Giá Na Phật
Phật Tỳ Bà Thi (hay Phật Bỳ Lư Thi, Vipasyin)
Phật Thi Khí (Sikhin)
Phật Tỳ Xá Phù (hay Phật Tỳ Xá Bà, Visvabhu)
Phật Câu Lưu Tôn (hay Phật Câu Lâu Tôn, Krakucchanda)
Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni)
Phật Ca Diếp (Kasyapa)
Phật Di Lặc (sa. maitreya, pi. metteyya)
Phật A Di Đà
Phật
Phật giáo
Lịch sử Phật giáo
Thập đại đệ tử
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Schumann, H.W.:Buddhismus: Stifter, Schulen und Syteme, Olten 1976.Der historische Buddha: Leben und Lehren des Gotama, Köln, 1982.
Hirakawa, Akira: A History of Indian Buddhism. From Śākyamuni to Early Mahāyāna''. Translated and Edited by Paul Groner. University of Hawaii Press, 1990.
Thích Minh Châu (dịch): Trung bộ kinh 36 (MN 36)
, 1120 pp.
.
.
, 231 pp. |
Hẹ trong tiếng Việt có thể là:
Hẹ, một loài thực vật thuộc họ Hành (Alliaceae), chi Hành (Allium), có danh pháp khoa học là Allium orodum.
Tên gọi khác của dân tộc Ngái.
Tên gọi khác của người Khách Gia. |
Ă (chữ in) hoặc ă (chữ thường), là một mẫu tự trong chính tả tiếng Việt và tiếng Rumani chuẩn. Trong tiếng Rumani, nó được dùng để đại diện cho nguyên âm giữa không uốn lưỡi, trong khi trong tiếng Việt nó đại diện cho âm a ngắn. Nó là mẫu tự thứ hai trong cả bảng mẫu tự tiếng Rumani và tiếng Việt.
Ă/ă còn được dùng để chuyển tự mẫu tự Ъ/ъ trong tiếng Bulgaria trong ngôn ngữ Slovak, Séc, và Thụy Điển.
'Ă' trong tiếng Rumani
Âm đại diện cho ă trong tiếng Rumani, mặc dù được gọi là schwa (có thể tưởng nhầm là âm lỏng không trọng âm), lại là một nguyên âm. Không giống như tiếng Anh hay tiếng Pháp, nhưng lại tương tự tiếng Bulgaria và tiếng Afrikaans, nó có thể được đọc có trọng âm. Có những từ mà nó chỉ đóng vai trò là nguyên âm, như "măr" (táo) hoặc "văd" (Ra thế). Hơn nữa, một số từ cũng chứa những nguyên âm khác có thể nhấn âm ở ă, như trong ví dụ "cările" (những cuốn sách) và "odăi" (những cái phòng).
'Ă' trong tiếng Việt
Ă là chữ cái thứ hai trong Bảng chữ cái tiếng Việt và đại diện cho âm , khi được phát âm riêng lẻ trong bản chữ cái sẽ được phát âm như á. Vì tiếng Việt là ngôn ngữ âm, mẫu tự này có thể có 5 dấu thanh ở dưới hoặc trên nó. Xem ngữ âm tiếng Việt.
Thanh Huyền:,
Thanh Sắc:,
Thanh Hỏi:,
Thanh Ngã:,
Thanh Nặng:. |
Xin xem các mục từ khác có cùng tên ở Hẹ (định hướng).
Hẹ có tên gọi khác là cửu thái, cửu thái tử, khởi dương thảo và nhiều tên khác. Danh pháp khoa học là Allium ramosum L. (dạng hoang dã, đồng nghĩa: Allium odorum L.) hay Allium tuberosum Rottler ex Spreng. (dạng gieo trồng), thuộc họ Hành (Alliaceae). Các văn bản gần đây chỉ liệt kê nó dưới tên gọi Allium ramosum. Một số nhà thực vật học còn đặt cả các giống hoang dã và giống gieo trồng vào A. ramosum do có nhiều dạng trung gian tồn tại. Cây mọc thành từng khóm, lá dài hình kiếm giống lá cây tóc tiên (nhưng mỏng hơn lá tóc tiên), hoa có màu trắng. Mùi vị của nó là trung gian giữa tỏi và hành tăm.
Hẹ là loại rau được dùng nhiều trong các món ăn. Ngoài ra người ta còn dùng hẹ như hành hay tỏi để chữa nhiều bệnh từ thông thường đến phức tạp.
Dược lý
Đông y
Hẹ là thức ăn - vị thuốc có tác dụng tốt nhất về mùa xuân. Vào thời điểm này, chất lượng làm thuốc của hẹ cao hơn. Sách Nội kinh có viết: "Xuân hạ dưỡng dương", nghĩa là mùa xuân cần ăn các món ôn bổ dương khí. Hẹ nằm trong nhóm thức ăn đó. Còn Bản thảo thập di viết: "Rau hẹ là ấm nhất, có ích cho người, nên ăn thường xuyên". Sách Lễ ký viết củ hẹ trị chứng di mộng tinh, đau lưng rất công hiệu. Lá hẹ có vị cay hơi chua, hăng, tính ấm, có tác dụng trợ thận, bổ dương, ôn trung, hành khí, tán huyết, giải độc, cầm máu, tiêu đờm. Hẹ kỵ với mật ong và thịt trâu. Không nên sử dụng lâu dài và đối với những người bị các chứng âm hư hỏa vượng, vị hư có nhiệt.
Tây y
Trong 1 kg lá hẹ có 5-10 g đạm, 5-30 g đường, 20 mg vitamin A, 89 g vitamin C, 263 mg calci, 212 mg phosphor, nhiều chất xơ.
Nếu ăn 86 g hẹ sẽ thu được 1,9 g protid, 5,1g glucid và 25 calo năng lượng. Chất xơ có tác dụng tăng tính nhạy cảm với insulin làm giảm đường huyết, giảm mỡ máu, ngừa xơ mỡ động mạch, bảo vệ tuyến tụy. Chất Odorin là một kháng sinh mạnh chống tụ cầu và các vi khuẩn khác.
Các bài thuốc chủ yếu
Ho khò khè ở trẻ em: Lá hẹ hấp cơm lấy nước cho trẻ uống.
Rôm sẩy: Rễ hẹ 60g sắc nước uống.
Cảm mạo, ho do lạnh: Hẹ 250 g, gừng tươi 25 g, cho thêm ít đường hấp chín, ăn cái, uống nước.
Táo bón: Hạt hẹ rang vàng, giã nhỏ. Mỗi lần uống 5 g. Hòa nước sôi uống ngày 3 lần.
Phòng táo bón, tích trệ: Hàng sáng dậy, chưa ăn sáng, uống nước hẹ giã đã lọc bã.
Đái dầm, ỉa chảy lâu ngày ở trẻ em: Nấu cháo rễ hẹ. Rễ hẹ tươi 25 g, gạo 50 g, rễ hẹ vắt lấy nước cho vào cháo đang sôi, thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.
Nấc do lạnh: Uống một bát nước hẹ đã giã nát và lọc bỏ bã.
Thổ tả: Cấp cứu bằng một nắm rau hẹ giã lấy nước cốt, chưng cách thủy cho uống.
Đau răng: Lấy 1 nắm hẹ (cả rễ) giã nhuyễn, đặt vào chỗ đau, đặt liên tục cho đến khi khỏi.
Đau họng: Lá và củ hẹ giã đắp lên cổ, băng lại, nhai củ cải, lá húng chanh và nuốt nước.
Suyễn (khó thở): Lá hẹ một nắm giã nát, lấy nước uống hay sắc lên để uống.
Sơn ăn lở loét: Lá hẹ giã nát đắp lên chỗ tổn thương.
Ghẻ: Lá hẹ 50 g, rau cần 30 g, giã nát đắp lên chỗ tổn thương. Ngày 2 lần.
Giun kim: Rễ hẹ giã lấy nước cho uống.
Thối tai (Viêm tai giữa): Lá hẹ 1 nắm rửa kỹ, giã nhuyễn lấy nước nhỏ vào tai cho đến khi khỏi. Còn dùng cho trường hợp kiến, muỗi bò vào tai.
Trĩ sưng đau: Một nắm to lá hẹ cho vào nồi đất cùng với nước, dùng lá chuối bịt kín nồi, đun đến khi sôi thì nhấc xuống, chọc một lỗ thủng trên lá chuối cho hơi bay lên để xông trĩ. Khi thấy hết hơi bay lên thì đổ hẹ ra chậu ngâm rửa hậu môn. Còn có cách giã nhuyễn lá hẹ cho vào chậu, rồi ngồi và để trực tiếp trĩ lên lá hẹ.
Thoát giang (lòi dom): Một nắm lá hẹ giã nhỏ trộn dấm, đảo nóng: Dùng 2 miếng vải sô sạch gói hẹ để chườm và chấm hậu môn thay đổi lẫn nhau.
Càng cua chín mé (nhiễm trùng sưng tấy đầu móng tay): Hẹ dùng cả củ và rễ, giã nát, xào rượu chườm, bó, băng lại. Thay băng nhiều lần.
Tâm hãn (mồ hôi ra không ngớt, chỉ khu trú ở vùng ngực): Dùng 49 cây hẹ cả gốc rửa sạch, đổ vào 2 bát nước, nấu còn 1 bát, uống liên tục nhiều ngày cho đến khi khỏi.
Viêm loét dạ dày thể hàn, đau vùng thượng vị, buồn nôn hoặc nôn do lạnh: Lá hẹ 250 g, gừng tươi 25 g. Tất cả thái vụn, giã nát, lọc lấy nước đổ vào nồi cùng với 250 g sữa bò. Đun nhỏ lửa cho đến khi sôi, uống nóng.
Đái tháo đường: Củ hẹ 150 g, thịt sò 100 g. Nấu chín, nêm gia vị. Ăn thường xuyên. Trường hợp ra mồ hôi trộm (âm hư tự hãn) dùng món này cũng tốt.
Gan đọng mỡ ở người béo phì: Hải đới 100 g ngâm nước cho nở, cắt sợi. Lá hẹ 200 g cắt đoạn dài, cùng nhúng nước sau 5 phút vớt ra. Cho tỏi giã nhuyễn, dấm, dầu vừng, tương và một ít đường trộn đều. Ăn hàng ngày và kéo dài trong một tháng.
Lỵ amíp: Nấu canh hẹ cá diếc (ngày một con), ăn cái uống nước, dùng trong 1 tuần.
Ung thư thực quản: Nên dùng nước rau hẹ pha với sữa.
Bế kinh:
Hạt hẹ 10g, hạt dành dành 10 g, sắc nước uống ngày 2 lần.
Lá hẹ 250g giã lấy nước hòa với đường đỏ, đun sôi để uống.
Di mộng tinh, xuất tinh sớm, liệt dương: 0,5 kg lá hẹ tươi giã lấy nước, uống ngày 2 lần trong một tuần.
Chữa đi tiểu nhiều lần: Lá hẹ, cây tơ hồng xanh, ngũ vị tử, phúc bồn tử, câu kỷ tử, nữ trinh tử. Lượng bằng nhau. Phơi khô tán bột, mỗi lần uống 6 g. Ngày uống 2 lần với nước ấm.
Lá hẹ 30 g, phúc bồn tử 1,5 g, dây tơ hồng xanh 20 g. Sấy khô tán bột hoàn viên. Dùng mỗi lần 3 g, ngày 3 lần.
Cung đình hồi xuân tửu: Hạt hẹ 20 g, câu kỷ 30 g, ba kích 15 g, hồng sâm 20 g, lộc nhung lát 10 g, đường phèn 200 g, rượu trắng 200 g. Ngâm nửa tháng trở ra thì dùng được.
Trong các sách y học nói chung và Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh nói riêng còn nhiều bài thuốc dùng hẹ. Tuy nhiên, vẫn có một số vấn đề chưa được kiểm chứng khoa học, ví dụ: chữa đau ngực như dùi đâm, chó dại cắn, sản hậu bất tỉnh v.v.
Trong Thiên kim tập ký có kể lại chuyện: Thiên hoàng tự nhiên bị nấc suốt ngày. Các ngự y đã đến khám và sau đó thiên hoàng khỏi bệnh chỉ bằng bài thuốc dùng nước hẹ pha rượu hùng hoàng.
Ẩm thực
Bánh nhân hẹ: Lá hẹ 200 g, đậu phụ 100 g, bột mì 500 g, miến 50 g ngâm cắt vụn, rau hẹ thái nhỏ, đậu thái quân cờ. Xào khô già với nước tương, muối, bột ngọt, hành, gừng, dầu vừng trộn đều viên làm nhân. Bột mì nhồi làm viên rồi cán mỏng, bọc nhân chưng chín.
Các món xào
Hẹ 200 g cắt đoạn dài, xào với giá đậu xanh.
Hẹ xào tôm nõn tươi: Lá hẹ 200 g, tôm nõn 200 g, xào ăn.
Hẹ xào gan dê: Lá hẹ 150 g, gan dê 150 g. Có tác dụng làm sáng mắt.
Hẹ xào lươn: Lươn 500 g lọc bỏ xương, cắt đoạn xào qua, thêm gia vị, gừng, tỏi và nước, vừa cạn cho thêm 300 g lá hẹ cắt đoạn, xào thêm 5 phút. Ăn nóng.
Hẹ xào: Hẹ 240 g, hồ đào nhục (quả óc chó) 60 g. Xào với dầu vừng và ít muối. Ăn ngày 1 lần lúc đói hoặc vào bữa cơm trong 2 tuần đến 1 tháng. Còn dùng chữa táo bón, đau lưng, gối, tiểu tiện luôn, nữ giới bị khí hư, lãnh cảm.
Các món cháo
Cháo hẹ: Hẹ 20 g, gạo 90 g. Nấu cháo ăn nóng ngày 2 lần. Còn dùng chữa đau lưng, gối mỏi, ăn uống kém, phân sống nát, chân tay lạnh; nữ giới bị đới hạ, lãnh cảm.
Cháo hạt hẹ: Hạt hẹ (xào chín) 15 g, gạo tẻ 50 g, ăn hàng ngày.
Trồng
Cây hẹ dễ trồng và ít phải chăm sóc, gieo một lần có thể thu hoạch nhiều lần, cây phát triển xanh tốt quanh năm, vừa cho lá để ăn vừa có thể dùng làm thuốc những khi cần thiết.
Thành ngữ |
(a-mũ) là một ký tự của tiếng Rumani và tiếng Việt. Ký tự này còn xuất hiện trong tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Frisia, tiếng Friuli và tiếng Wallon như là một biến thể của ký tự "a".
Cách dùng trong những ngôn ngữ khác nhau
Tiếng Rumani
 là ký tự thứ ba của bảng mẫu tự tiếng Rumani và đại diện cho âm . Âm này còn được đại diện bởi ký tự î.
Tiếng Việt
 là chữ cái thứ ba của bảng chữ cái tiếng Việt và đại diện cho âm . Trong âm vị học tiếng Việt, những dấu thanh có thể thêm vào để hình thành nên 5 dạng sau đây để đại diện cho 5 ngữ điệu khác nhau của â.
Thanh Huyền: ,
Thanh Hỏi: ,
Thanh Ngã: ,
Thanh Sắc ,
Thanh Nặng: .
Tiếng Ukraina
 được sử dụng trong hệ thống ISO 9:1995 dùng để chuyển tự tiếng Ukraina cho ký tự Я.
Tiếng Bồ Đào Nha
 được sử dụng để biểu thị trọng âm. Phiên âm IPA của nó là (trong tiếng Bồ Đào Nha của Brasil là khi nó được dùng trước 1 phụ âm mũi).
Tiếng Wales
 để đại diện cho âm /ɑː/.
Bảng mã
Cách phát âm
Trong tiếng Việt, "â" được phát âm là "ớ". |
Ê, ê là một ký tự trong bảng chữ cái Latin. Chữ cái này được sử dụng trong các tiếng Afrikaans, tiếng Hà Lan, tiếng Pháp, tiếng Friuli, tiếng Kurd, tiếng Na Uy, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Việt và tiếng Wales.
Ê trong tiếng Việt có thể dùng như một tiếng gọi "Ê, mày đang đi đâu đó?"
Ê còn có nghĩa là cảm giác tê ở trên cơ thể: ê răng, ê lưng.. |
Tam tạng (chữ Hán: 三藏; ,;) là thuật ngữ truyền thống để chỉ tổng tập kinh điển Phật giáo. Tùy theo mỗi truyền thống Phật giáo sẽ tồn tại những bộ Tam tạng tương ứng như Tam tạng Pali được duy trì bởi truyền thống Theravāda ở Sri Lanka và Đông Nam Á, Tam tạng Hán ngữ được duy trì bởi truyền thống Phật giáo Đông Á và Tam tạng Tạng ngữ được duy trì bởi truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Những bộ Tam tạng này giữ vị trí quan trọng nhất trong thế giới Phật giáo đương đại. Ngoài ra, còn tồn tại những bộ tổng tạng được phiên dịch sang ngôn ngữ địa phương. .
Trong lịch sử, Tam tạng được sử dụng như một thuật ngữ chung cho các bộ tổng tạng tông phái Phật giáo khác nhau, dù sự phân chia chung của chúng không hoàn toàn phù hợp với sự phân chia nghiêm ngặt thành ba tạng như truyền thống. Trong một thời gian dài, thuật ngữ Đại tạng kinh được xem là tương đương với thuật ngữ Tam tạng theo truyền thống (Đại tạng Pali, Đại tạng Hán văn, Đại tạng Tạng văn). Tuy nhiên, các học giả hiện đại chỉ ra rằng cách đặt tên như thế là sai lệch vì Đại tạng kinh thực tế có quy mô lớn hơn nhiều so với Tam tạng. Do các phiên bản Đại tạng Hán văn có số lượng lớn nhất, với các phiên bản Càn Long tạng, Gia Hưng tạng..., một số học giả phương Tây thường dùng thuật ngữ Đại tạng kinh theo nghĩa hẹp để chỉ riêng các bộ tổng tạng chữ Hán, sử dụng phổ biến ở Đông Á và Việt Nam. Sự khác biệt lớn nhất giữa hái niệm Tam tạng và Đại tạng chính là Đại tạng kinh không chỉ bao gồm Tam tạng với các kinh văn A-hàm (Āgama), Tỳ-nại-da (Vinaya) và A-tì-đạt-ma (Abhidharma) từ các bộ phái Phật giáo sơ kỳ; mà còn bổ sung thêm các kinh điển Đại thừa và Mật thừa, các tập du ký, kinh văn bản địa, từ điển chú giải, cũng như tiểu sử các cao tăng.
Từ nguyên
Tripiṭaka (tiếng Phạn: त्रिपिटक), hay Tipiṭaka (trong tiếng Pāli), có nghĩa là "Ba cái giỏ". Nó là từ ghép tiếng Phạn của tri (त्रि) hoặc từ Pāli ti, nghĩa là "ba", và piṭaka (पिटक) hoặc piṭa (पिट), nghĩa là "cái giỏ". Theo truyền thống, nó hàm chỉ đến phương pháp phân loại kinh điển Phật giáo thành 3 phần tạo thành kinh điển Phật giáo, gồm: Kinh tạng (zh. 經藏, sa. sūtra-piṭaka, pi. sutta-piṭaka), gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử; Luật tạng (zh. 律藏; sa., pi. vinaya-piṭaka) chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già cũng như các giới luật của người xuất gia; và Luận tạng (zh. 論藏, sa. abhidharma-piṭaka, pi. abhidhamma-piṭaka), chứa đựng các kiến thức về phương pháp luận triết học Phật giáo.
Truyền thống Phật giáo Hán truyền còn sử dụng thuật ngữ "Tam tạng" (三藏) như một danh hiệu danh dự cho những vị cao tăng tinh thông kinh điển Tam tạng. Theo đó, những vị thông thạo cả Kinh, Luật, Luận, thường được xưng tụng là Tam tạng pháp sư (三藏法师) hoặc Tam tạng trì giả (三藏持者). Vị Tam tạng pháp sư nổi tiếng nhất là cao tăng Trần Huyền Trang đời nhà Đường, người đã hành hương đến Ấn Độ để nghiên cứu và mang kinh điển Phật giáo trở về Trung Quốc. Do ảnh hưởng của tiểu thuyết Tây du ký, nhiều người hiểu lầm danh xưng "Đường Tam Tạng" chính là tên của nhà sư Huyền Trang.
Lược sử
Hình thành
Theo truyền thống Phật giáo, ngay sau khi Đức Phật nhập diệt, 500 đệ tử cao đệ của Ngài, dưới sự lãnh đạo của Ma-ha Ca-diếp, đã tổ chức kết tập nhằm đúc kết lại những lời dạy của thầy. Tại lần kết tập này, Ưu-bà-li tụng về Luật và A-nan-đà tụng về Pháp. Nếu như phần Kinh tạng gần như hoàn chỉnh, thì phần giới luật chỉ mới là những tập hợp rời rạc mà truyền thống Phật giáo Hán truyền gọi là Bát thập tụng luật (八十誦律). Khoảng 100 năm sau, các trưởng lão của Tăng đoàn đã tổ chức kết tập lần thứ hai, hoàn chỉnh thêm phần Luật tạng.
Mặc dù tất cả 6 truyền thống giới luật Phật giáo còn sót lại đều có ghi chép, toàn bộ hoặc một phần, về các kỳ kết tập thứ nhất và thứ hai, nhưng hầu hết các học giả hiện đại đều đặt câu hỏi về tính lịch sử của những lần kết tập đầu tiên này. Trong khi đó, các ghi chép về kỳ kết tập thứ ba lại có sự khác biệt đáng kể giữa các tài liệu. Tuy nhiên, hầu hết chúng đều thống nhất rằng nó đã được diễn ra tại Pataliputra, kinh đô của hoàng đế Ashoka bấy giờ. Phần tạng Luận, tập hợp từ các phần A-tì-đạt-ma, cũng được hệ thống hóa và trở thành phần thứ 3 trong Tam tạng. Các học giả hiện đại cũng ghi nhận kỳ kết tập thứ ba đánh dấu sự hình thành hệ kinh điển bằng chữ viết thay cho hình thức khẩu truyền trước đó, cũng như sự ra đời của các phái bộ truyền giáo. Kỳ kết tập này cũng ghi dấu mốc chính thức mở đầu thời kỳ Phật giáo Bộ phái dẫn đến sự hình thành các bộ phái cũng như các hệ tổng tạng kinh điển khác nhau sau đó.
Các thành phần
Luật tạng
Giai đoạn đầu hình thành Tăng đoàn, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đưa ra những khuyến cáo những việc xấu nên tránh và những việc tốt nên làm, nhằm định hướng mục tiêu cho các đệ tử theo đuổi để đạt đến Niết-bàn. Những khuyến cáo đó được gọi là Thi-la (शील, sa. Śīla; pi. Sīla; zh. 戒, Giới), mang tính chất khuyến khích mọi người theo đưởi nó càng nhiều càng tốt tùy theo khả năng, hoàn cảnh và phán đoán của chính họ. Khi Tăng đoàn phát triển lớn số lượng tăng nhân, Đức Phật bắt đầu chế định những cách thức sinh hoạt trong cộng đồng tăng đoàn. Những chế định quan trọng nhất được tập hợp thành các bài kệ, và chúng được đọc trong các buổi Uposatha để nhắc nhở tăng chúng, hình thành các Tỳ-nại-da (विनय, sa., pi. Vinaya; zh. 律, Luật). Khác với Thi-la mang tính chất tự giác, Tỳ-nại-da mang tính chất chế tài. Những tăng nhân nào không tuân thủ sẽ bị Tăng đoàn trừng phạt tùy theo mức độ nghiêm trọng của vụ việc, lỗi nhẹ có thể sám hối trước tăng chúng, lỗi nặng sẽ bị trục xuất khỏi Tăng đoàn. Cả hai thành phần này thường đi chung với nhau trong đời sống tăng đoàn, nên thường được gọi chung là những giới luật.
Truyền thống Phật giáo đều cho rằng, giới luật được hệ thống ngay từ kỳ kết tập thứ nhất, do tôn giả Ưu-bà-ly tuyên đọc, tập hợp tất cả các giới luật từng được Đức Phật chế ra, gồm các quy tắc và quy định, hoặc luân lý và đạo đức, của đời sống tu sĩ, từ quy định về trang phục và chế độ ăn uống đến các điều cấm đối với một số hành vi cá nhân. Sau kỳ kết tập thứ hai, vì quan điểm khác nhau về giới luật, nên các bộ phái Phật giáo bị chia rẽ, Tăng đoàn của các bộ phái khác nhau đều có giới luật riêng, hình thành Luật tạng đặc thù của từng bộ phái.
Theo các nhà nghiên cứu hiện đại, Luật tạng dường như đã phát triển dần dần như một bản phân tích cho các quy tắc tu viện (Prātimokṣa), giả định trước một sự chuyển đổi từ một cộng đồng hành khất lang thang (thời kỳ Sūtra Piṭaka) sang một cộng đồng tu sĩ ít vận động hơn (thời kỳ Vinaya Piṭaka). Chính sự cách biệt về mặt địa lý là yếu tố quan trọng hình thành sự khác biệt về giới luật. Truyền thống Thượng tọa bộ phụng hành Luật tạng Pali, xuất phát từ Luật tạng của Xích đồng diệp bộ. Truyền thống Đại thừa phụng hành theo Bồ tát giới, rải rác trong các kinh, luận Đại thừa như Du-già sư địa luận (phần "Bồ tát địa", giới phẩm), Phạm võng Bồ tát giới kinh, Hư không tạng Bồ tát kinh... Truyền thống Tạng truyền thì phụng hành Luật tạng của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (xuất xứ từ Thuyết nhất thiết hữu bộ).
Truyền thống Phật giáo Hán truyền trước thời nhà Đường có 3 truyền thống phụng hành Luật tạng, gồm Tứ phần luật (từ Pháp Tạng bộ), Thập tụng luật (từ Thuyết nhất thiết hữu bộ) và Ma-ha-tăng-kỳ luật (từ Đại chúng bộ). Về sau, do sự ủng hộ của đại sư Đạo Tuyên và các đệ tử, luật Tứ phần được đánh giá là "phân thông Đại thừa" (分通大乘), nên từ thời Đường, nghiên cứu về luật Tứ phần đã trở thành xu hướng chủ đạo, được xưng là "Nam Sơn luật học" hoặc "Tứ phần luật tông". Đạo Tuyên cũng được xưng tụng là Sơ tổ của Luật tông Trung Quốc.
Kinh tạng
Trong cuộc đời hoằng pháp của mình (khoảng 40 hoặc 45 năm tùy theo truyền thống Phật giáo), Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng thuyết với số lượng bài giảng đồ sộ ở dạng cách ngôn hoặc tường thuật. Sau khi Ngài nhập diệt, các đệ tử đã kết tập chúng ngay trong kỳ kết tập thứ nhất, nhằm bảo tồn trọn vẹn những giáo thuyết của thầy mình. Những bài giảng ấy được gọi chung là Tu-đa-la (सूत्र, sa. Sūtra; pi. Sutta; zh. 經, Kinh), theo truyền thống, do thị giả của Đức Phật là A-nan tụng đọc, được các trưởng lão duy trì bằng cách truyền khẩu qua nhiều thế hệ trước khi được lập thành văn tự vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Trong suốt quá trình đó, các kinh văn liên tục được điều chỉnh và bổ sung, nên ngay cả trong King tạng cũng có thể tìm thấy những kinh văn cũ hơn và muộn hơn.
Trong kinh điển Pali, Kinh tạng được phân thành các Bộ kinh (pi. nikāya), gồm 5 phần: Trường Bộ kinh (pi. dīgha-nikāya), Trung Bộ kinh (pi. majjhima-nikāya), Tương ưng Bộ kinh (pi. saṃyutta-nikāya), Tăng chi Bộ kinh (pi. aṅguttara-nikāya), và Tiểu Bộ kinh (pi. khuddaka-nikāya). Truyền thống Phật giáo Hán truyền chủ yếu sắp xếp phần Kinh tạng thành 4 A-hàm (sa. āgama), gồm Trường a-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama), Trung a-hàm (zh. 中阿含, sa. mādhyamāgama), Tăng nhất a-hàm (zh. 增壹阿含, sa. ekottarikāgama), và Tạp a-hàm (zh. 雜阿含, sa. saṃyuktāgama). Ngoài ra, một số truyền thống bộ phái còn có thêm phần Tạp tạng, chứa các phần Pháp cú kinh, Xuất diệu kinh, Bản sự kinh, Bản sinh kinh... như là phần phụ lục của 4 bộ A-hàm.
Kinh điển Đại thừa còn bổ sung vào Kinh tạng các bộ kinh Đại thừa như Bát-nhã, Bảo tích, Đại tập, Hoa nghiêm, Niết-bàn, và các bộ kinh khác ngoài 5 bộ kinh chính trên (như Pháp hoa kinh, Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Giải thâm mật kinh, Lăng-già kinh, A-di-đà kinh, Kim quang minh kinh...
Luận tạng
Thời Đức Phật tại thế, Ngài đã sử dụng một phương pháp luận mà Ngài gọi là A-tì-đạt-ma (अभिधम्म, sa. Abhidharma; pi. Abhidhamma) để truyền thụ chủ thuyết của mình, thông qua việc sử dụng các mẫu đề (sa. mātŗkā; pi. mātikā). Tuy nhiên, trong kỳ kết tập thứ nhất, các A-tì-đạt-ma chưa thực sự được tập hợp thành hệ thống riêng, mà vẫn còn nằm rải rác trong phần Kinh tạng. Những văn bản sớm nhất của Kinh điển Pali đã không đề cập đến các văn bản của Luận tạng. Theo các học giả hiện đại, niên đại nguồn gốc của Luận tạng thường được xác định vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, xấp xỉ 100 đến 200 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Nó cũng được bổ sung phần Ưu-bà-đề-xá (उपदेश, sa. upadeśa; zh. 論議, Luận nghị), những bình luận và rút ra ý nghĩa từ kinh điển do chính Đức Phật thuyết giảng. Văn học A-tì-đạt-ma có thể bắt nguồn từ việc biên soạn và giải thích kinh điển, nhưng sau đó đã phát triển thành các học thuyết độc lập. Vì vậy, các học giả khẳng định A-tì-đạt-ma không phải là những lời của chính Đức Phật, mà là của các đệ tử và đại sư hậu thân.
Chính sự phát triển của những bộ luận giải như thế sau đó đã phát triển thành các bộ luận của các bộ phái khác nhau. Trong đó, hai bộ Luận tạng còn được bảo tồn gồm:
Luận tạng của Xích đồng diệp bộ có 7 bộ luận chính:
Pháp tập luận (Dhamma-saṅganī)
Phân biệt luận (Vibhaṅga)
Giới luận (Dhātu-kathā)
Nhân thi thiết luận (Puggala-paññatti)
Luận sự (Kathā-vatthu)
Song luận (Yamaka)
Phát thú luận (Paṭṭhāna)
Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ cũng có 7 bộ:
Pháp uẩn luận (Dharma-skandha)
Tập dị môn luận (Saṃgīti-paryāya)
Thi thiết luận (Prajñapti)
Thức thân luận (Vijñānakāya)
Phẩm loại luận (Prakaraṇa)
Giới thân luận (Dhātukāya)
Phát trí luận (Jñāna-prasthāna)
Ngoài ra, các bộ luận khác đã được lưu truyền bao gồm Xá-lợi-phất A-tì-đàm luận (Śāriputrābhidharma) của Pháp Tạng bộ, tương truyền do Ma-ha Ca-diếp sáng tác từ thời D(ức Phật tại thế, nằm trong bộ Tạng thích (Petakopadesa). Hay như bộ Nghĩa thích và Vô ngại giải đạo của Đồng diệp bộ, tuy được xếp vào King tạng, nhưng nội dung lại thuộc thể loại Ưu-ba-đề-xá hoặc A-tì-đạt-ma.
Do các bộ Luận tạng lớn và khó hiểu, các thế hệ luận sư về sau đã phát triển nhiều tác phẩm "tập đại thành" cho mục đích toàn diện, chẳng hạn như Tạp tâm luận của Pháp Cứu, Thành thực luận của Ha-lê-bạt-ma, Câu-xá luận của Thế Thân, Thanh tịnh đạo luận của Phật Âm.
Các bộ luận quan trọng của Phật giáo Đại thừa gồm có Trung luận của Long Thọ, Bách luận và Tứ bách luận của Đề-bà, Du-già sư địa luận, Đại thừa Trang nghiêm kinh luận và Biện trung biên luận của Duy thức tông, Nhiếp Đại thừa luận của Vô Trước, Duy thức nhị thập luận và Duy thức tam thập tụng của Thế Thân, Bảo tính luận của Kiên Huệ...
Truyền thống Bộ phái
Mặc dù có cùng nguồn gốc, nhưng mỗi bộ phái đều phát triển những các phiên bản Tam tạng kinh điển của riêng mình, mà theo Nghĩa Tịnh, chỉ khác nhau ở một số điểm dị biệt cố ý hoặc vô ý. Theo một số tài liệu, từ cách phân loại Tam tạng theo truyền thống, một vài bộ phái còn phát triển thành 5 hoặc 7 bộ tạng. Chẳng hạn theo ghi ghép trong Tam luận huyền nghĩa (三論玄義), kinh điển của Pháp Tạng bộ, ngoài Tam tạng, còn có thêm Bồ tát tạng và Chú tạng, hợp thành Ngũ tạng. Vãn kỳ Phật giáo Đại thừa cũng có tồn tại một cách phân loại Ngũ tạng, như ghi chép của Đại thừa Lý thú lục Ba-la-mật-đa kinh (大乘理趣六波羅蜜多經), ngoài Tam tạng, còn có Bát-nhã tạng, Đà-la-ni tạng, hợp thành Ngũ tạng.
Trong các ghi chép của mình, Nghĩa Tịnh từng lưu ý rằng mặc dù có rất nhiều bộ phái chính và nhánh phụ, nhưng các bộ phái này đều chia sẻ kinh điển Tam tạng của truyền thống mẹ (mà ông gọi là "bốn bộ phái truyền thừa chính" hoặc truyền thống "arya"). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các nhánh bộ phái phụ khác nhau không sở hữu Tam Tạng độc đáo của riêng họ.
Sau chuyến du hành Ấn Độ, Nghĩa Tịnh được cho là đã mang về Trung Quốc 4 bộ Tam tạng của 4 bộ phái phi Đại thừa là Đại chúng bộ, Nhất thiết hữu bộ, Thượng tọa bộ và Chính lượng bộ. Huyền Trang sau đó cũng mang về ngoài 4 bộ Tam tạng của 4 bộ phái trên, còn mang thêm được 3 bộ Tam tạng của các bộ phái Pháp Tạng bộ, Ca-diếp bộ và Hóa địa bộ.
Dẫn theo AK Warder, nhà sử học Tây Tạng Bu-ston cho rằng vào khoảng hoặc trước thế kỷ thứ nhất, có 18 bộ phái Phật giáo, mà mỗi bộ phái đều có kinh điển Tam tạng của riêng mình được phiên âm thành văn tự. Tuy nhiên, ngoại trừ phiên bản của Thượng tọa bộ còn tồn tại đầy đủ và những phiên bản khác còn tồn tại một phần, tất cả các kinh văn của các bộ phái đều bị thất lạc trong lịch sử hoặc vẫn chưa được tìm thấy.
Đại chúng bộ
Theo Chân Đế (Paramārtha), 200 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, phần lớn phái Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) đã di chuyển về phía bắc Rājagṛha, bị chia rẽ về việc liệu các kinh văn Đại thừa có nên được chính thức đưa vào Tam tạng của họ hay không. Theo đó, Đại chúng bợ chia thành ba nhánh dựa trên cách thức và mức độ tương đối chấp nhận thẩm quyền của các bản kinh văn Đại thừa này. Chân Đế viết rằng phái Kê-dận bộ (Kukkuṭika) không chấp nhận kinh Đại thừa là Buddhavacana ("Phật ngôn"), trong khi phái Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravāda) và Nhất thuyết bộ (Ekavyāvahārika) lại chấp nhận kinh điển Đại thừa như là lời Phật dạy. Cũng trong thế kỷ thứ 6, tài liệu Avalokitavrata viết về Đại chúng bộ đã sử dụng thuật ngữ "Đại tạng kinh", sau đó được liên kết với các kinh Đại thừa như Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (Prajñāparamitā) và Thập địa kinh (Daśabhūmika Sūtra).
Theo một số tài liệu, các bản A-tì-đạt-ma không được phái Đại chúng bộ xem là kinh điển. Tài liệu Đảo sử (Dīpavaṃsa) của Thượng tọa bộ ghi lại rằng Đại chúng bộ không có phần A-tì-đạt-ma. Tuy nhiên, các tài liệu khác lại chỉ ra tự tồn tại của những bộ Luận tạng như vậy, cụ thể là cả Pháp Hiển lẫn Huyền Trang đều có đề cập đến Luận tạng của Đại chúng bộ. Trên cơ sở bằng chứng văn bản cũng như bia ký ở Nāgārjunakoṇḍā, Joseph Walser kết luận rằng ít nhất một số nhánh Đại chúng bộ có lẽ đã có một tuyển tập A-tỳ-đạt-ma, và nó có thể bao gồm năm hoặc sáu quyển.
Phần Luật tạng của Đại chúng bộ đã được Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra) và Pháp Hiển dịch ra Hán văn vào năm 416. Chúng hiện được bảo tồn và được xếp trong bộ Taishō Tripiṭaka, đánh số 1425.
Nhất thiết hữu bộ
Pháp Tạng bộ
Hóa Địa bộ
Ca-diếp bộ
Các truyền thống phát triển
Kinh điển Pali
Kinh điển Hán văn
Kinh điển Tạng văn
Hình ảnh |
Cú pháp ngôn ngữ (lập trình) C là tập hợp các quy tắc nhằm xác định cách thức để viết và dịch trong ngôn ngữ lập trình C.
Thí dụ:
// Dòng này sẽ được bỏ qua (không đọc) bởi trình dịch.
/* Các dòng này
cũng được bỏ qua
bởi trình dịch */
... (Tiếp tục mã C)
Các hàm
Cú pháp
Một hàm C phải bao gồm một kiểu trả về (kiểu đó trả về void nếu không có giá trị trả về), một tên xác định, một danh sách các tham số để trong ngoặc đơn (nếu danh sách này không có tham số nào thì ghi là void bên trong dấu ngoặc), sau đó là khối các câu lệnh (hay khối mã) và/hay các câu lệnh return. (Nếu kiểu trả về là void thì mệnh đề này không bắt buộc phải có. Ngược lại, cũng không bắt buộc chỉ có một câu lệnh return mà tùy theo kỹ thuật, người lập trình có thể dẫn dòng mã sao cho mọi hướng chẻ nhánh đều được trả về đúng kiểu.)
<kiểu_trả_về> tên_hàm(<danh sách tham số>)
{
<các_câu_lệnh>
return <biến (hay giá trị) có kiểu là kiểu_trả_về>;
}
Trong đó, <danh sách tham số> của N biến thì được khai báo như là kiểu dữ liệu và tách rời nhau bởi dấu phẩy ,:
<kiểu_dữ_liệu> var1, var2,..., varN;
Toàn bộ danh sách này được đặt trong ngoặc đơn ngay sau tên_hàm.
Thí dụ
Hàm add tính tổng hai số có kiểu integer, hàm abs tính trị tuyệt đối của số có kiểu integer, và chương trình (hàm main) hiển thị hai dòng 1 + 1 = 2 và absolute value of -2 is 2
#include <stdio.h>; //Chú giải: dòng này khai báo thư viện là stdio.h
int add(int x, int y)
{
return x + y;
}
int abs(int x)
{
if (x > 0) return x;
if (x < 0) return -x;
if (x == 0) return 0;
/* đây chỉ là thí dụ cho thấy C có khả năng dùng nhiều hơn 1 câu lệnh <code>return</code>
hoàn toàn có thể dùng các câu lệnh khác đơn giản hon. */
}
int main(void)
{
{
int z;
int y;
printf("nhap z:");
scanf("%d",&z);
printf("nhap y:");
scanf("%d",&y);
printf("%d + %d = %d\n", z, y,add(z, y));
printf ("gia tri tuyet doi cua %d la %d", y, abs(y));
}
}
Chú ý: phần mã trên đã được thử thành công dùng trình dịch GNU (cho ANSI C và C99)
Mô tả
Trong các câu lệnh tiền xử lý, ở cấp độ cao nhất, một chương trình ngôn ngữ C luôn có một chuỗi các khai báo cho các tập tin bao gồm.
Sau đó là các khai báo của phạm vi tập tin. Các khai báo này giới thiệu các hàm, các biến và các kiểu biến. Các hàm trong C nhìn tương tự với các chương trình con của Fortran hay các thủ tục của Pascal. Định nghĩa của hàm xuất hiện trong phần thân của nó (phần giữa bộ dấu ngoặc { và } theo sau nguyên dạng của hàm).
Các chương trình trong C để tạo các ứng dụng trực tiếp đều cần phải có một hàm đặc biệt tên là main, đây sẽ là hàm đầu tiên được gọi khi chương trình bắt đầu thực thi. Sau đây là một chương trình đầy đủ mặc dù không có mấy ứng đụng thiết thực.
int main (void)
{
return 0;
}
Hàm code>main</code> thường gọi các hàm khác để giúp nó hoàn tất công việc (tuỳ theo sự lập trình của người dùng).
Trọng một số trường hợp C được dùng không phải để tạo ra các ứng dụng trực tiếp mà để dùng với hệ điều hành hay các nơi khác (như là phát triển các bộ điều vận, các phần sụn, hay các thư viện...). Những trường hợp như vậy thì người lập trình hoàn toàn tự do trong việc giải quyết làm sao để xử lý khởi động chương trình, đặc biệt nó sẽ không cần định nghĩa hàm main.
Các hàm có thể được viết ra bởi người lập trình hay được cung cấp sẵn bởi các thư viện. Các thư viện cần được khai báo (sử dụng) bằng cách nêu tên các tập tin tiêu dề trong câu lệnh dạng #include tập tin tiêu đề. Một số hàm thư viện như là printf đã được định nghĩa bởi chuẩn C, chúng được tham chiếu như là các hàm thư viện chuẩn.
Một hàm có thể trả về một giá trị cho môi trường gọi nó. Khi hàm main trả về giá trị 0 chỉ dấu cho rằng toàn bộ chương trình đã hoàn tất thành công và kết thúc. Hàm printf cùng có giá trị trả về, đó là số lượng ký tự đã hiển thị, nhưng giá trị này thường bị bỏ qua không dùng.
Truyền các biến
Các biến trong C được truyền qua các hàm bằng giá trị trong khi nhiều ngôn ngữ khác lại được truyền bằng tham chiếu (hay bằng địa chỉ). Điều này có nghĩa là hàm chỉ chép lại các giá trị và không thể thay đổi các giá trị đó của các biến (hay đối số) đưa vào. Để có thể thay đổi được giá trị của các biến truyền vào, người lập trình có thể truyền địa chỉ của nó vào hàm và tham chiếu ngược nó trong hàm được dùng (xem thêm kiểu tham chiếu)
void incInt(int *x)
{
(*x)++; // tăng giá trị của x trong <code>main<code> 1 đơn vị
}
int main(void)
{
int x = 0;
incInt(&x); // chuyển một tham chiếu vào incInt cho 'x'
return 0;
}
Để có thể chuyển một con trỏ (mà có thể cần đổi địa chỉ nó chỉ đến), có thể chuyển một tham chiếu cho con trỏ (tham chiếu này chỉ đến địa chỉ của con trỏ):
void setInt(int **p, int n)
{
*p = (int *) malloc(sizeof(int)); // đăng ký một vùng nhớ
*p = n; // cài giá trị vào
}
int main(void)
{
int *p; //khai báo một con trỏ kiểu integer
setInt(&p, 42); // chuyển giá trị của 'p' vào.
return 0;
}
int **p sẽ định nghĩa một con trỏ chỉ đến con trỏ (thay vì chỉ đến các kiểu dữ liệu thông thường) tức là chỉ đến địa chỉ của con trỏ p.
Hàm scanf làm việc theo cùng một cách thức:
int x;
scanf("%d", &x);
Các cấu trúc dòng điều khiển
Một cách cơ bản thì C là ngôn ngữ dạng tự do. Trong phần này, tất cả các chữ "mệnh đề" có nghĩa tương đương với chữ "câu lệnh".
Các mệnh đề phức hợp
Câu lệnh phức hợp được bọc trong dấu ngoặc { và } còn được gọi là khối mã. Các câu lệnh phức hợp trong C có dạng.
{ <danh sách khai báo tùy chọn> <danh sách câu lệnh tùy chọn> }
Khối mã được dùng như là phần thân của một hàm hay được đặt bất kì ở vị trí nào mà một câu lệnh đơn giản có thể đặt. Nghĩa là, về ý nghĩa văn phạm thì câu lệnh đơn giản và câu lệnh phức hợp là tương đương nhau.
Các mệnh đề biểu thức
Một câu lệnh (hay một mệnh đề) của C có dạng:
<biểu thức tùy chọn>;
là một mệnh đề biểu thức. Nếu biểu thức này không có nội dung (mà chỉ còn lại dấu ; thì biểu thức được gọi là mệnh đề null (hay mệnh dề rỗng). (Theo ngôn ngữ máy Assembler thì mệnh đề null sẽ tương đương với câu lệnh NOP; chiếm 1 byte chỉ làm nhiệm vụ tăng địa chỉ của chồng (stack) lên 1 đơn vị.)
Các mệnh đề lựa chọn (hay điều kiện)
Có ba loại mệnh đề lựa chọn: hai loại dùng từ khóa if và một loại dùng từ khóa switch. Đó là:
Dạng dùng từ khóa if
if (<biểu thức>)
<mệnh đề1>;
if (<biểu thức>)
<mệnh đề1>;
else
<mệnh đề2>;
Trong dạng này, nếu phần trong ngoặc đơn có giá trị khác 0 hay có giá trị "đúng" (true) thì dòng điều khiển sẽ chuyển vào để thực thi <mệnh đề1>. Nếu trong câu lệnh if có thêm từ khóa else thì <mệnh đề2> sẽ được thực thi một khi <biểu thức> có giá trị 0 hay giá trị "sai".
Nhắc lại: như trên thì vị trí mỗi mệnh đề đều có thể thay bằng một khối mã.
Trong cách viết mã lồng nhau phức tạp bao gồm nhiều mệnh đề if thì từ khóa else sẽ được gán vào mệnh đề if phía trên gần nhất nào chưa được ghép. Để tránh sự nhầm lẫn cách tốt nhất là lồng chúng vào trong các dấu { và }.
Dạng dùng từ khóa switch
Mệnh đề switch sẽ gây ra việc chuyển dòng điều khiển sang một trong những mệnh đề con kế tiếp tùy theo giá trị của một biểu thức X (biểu thức này phải có kiểu nguyên). Các mệnh đề con này thường là các mệnh đề phức hợp. Đứng trước mỗi mệnh đề con sẽ là một từ khóa case, sau đó là một biểu thức hằng Hi, và dấu hai chấm : gắn liền tiếp theo đó là mệnh đề con Mi.
Khi giá trị của X trùng với một giá trị Hi được nêu ở đâu thì mệnh đề con đi gắn liền với hằng tại đó (tức là Mi) sẽ được thực thi.
Nếu X không bằng với bất kì giá trị Hi nào thì người lập trình có thể dùng thêm từ khóa default, sau đó là dấu hai chấm : và tiếp theo là một mệnh đề con Mdefault. Mệnh đề con này sẽ được thực thi khi mà giá trị của X khác với mọi giá trị hằng Hi.
Lưu ý:
Trong câu lệnh switch thì không cho phép có hai giá trị hằng bằng nhau. Nghĩa là khi X được đánh giá thì chỉ có tối đa một mệnh đề con được thực thi.
Các câu lệnh switch có thể được dùng trong dạng lồng vào nhau (nest), một từ khóa case hay default sẽ thuộc vào câu lệnh switch bên trong nhất (hay nhỏ nhất) chứa nó.
Một khi dòng điều khiển hoàn tất câu lệnh con Mi thì nó sẽ tiếp tục thi hành các câu lệnh con Mi+1 theo sau cho đến khi nó bị yêu cầu ngưng bởi câu lệnh nhảy (mà thường dược dùng nhiều nhất là câu lệnh break)
Trong dạng thí dụ dưới đây, nếu <biểu thức X> có giá trị bằng <hằng H2> thì mệnh đề các biểu thức <mệnh đề M2>,<mệnh đề M3>, và <mệnh đề Mdefault> sẽ lần lần lượt được thực thi theo thứ tự nếu như trong chúng không có câu lệnh break. Nhưng vì trong mã thí dụ có câu lệnh break nên dòng điều khiển sẽ ngưng và kết thúc câu lệnh switch khi thi hành lệnh break này.
switch (<biểu thức X>)
{
case <hằng H1>:
<mệnh đề M1>
case <hằng H2>:
<mệnh đề M2>
break;
case <hằng H3>:
<mệnh đề M3>
default:
<mệnh đề Mdefault>
}
Các mệnh đề tái lặp (hay vòng lặp)
C có 3 dạng câu lệnh vòng lặp:
Vòng lặp do
do
<mệnh đề>
while (<biểu thức>);
Trong mệnh đề này thì mệnh đề được thực thi lặp lại cho tới khi nào <biểu thức> được đánh giá (hay có giá trị) là true. Một khi <biểu thức> không còn có giá trị true nữa thì vòng lặp sẽ bị kết thúc.
Vòng lặp while
while (<biểu thức>)
<mệnh đề>
<mệnh đề> chỉ được thực thi hay thực thi lặp lại khi <biểu thức> có giá trị là true. Nếu <biểu thức> có giá trị false thì câu lệnh sẽ bị kết thúc ngay lập tức.
Vòng lặp for
Dạng C89 của vòng lặp for là:
for (<biểu thức 1>; <biểu thức 2>; <biểu thức 3>)
<câu lệnh>
Nó đã được tổng quát hóa trong C99 thành:
for (<khai báo> <biểu thức 1>; <biểu thức 2>)
<câu lệnh>
Khi cả ba biểu thức đều hiện diện trong một câu lệnh for, thì mệnh đề:
for (e1; e2; e3)
s;
sẽ tương đương với
e1;
while (e2) {
s;
e3;
}
Bất kì biểu thức nào trong vòng lặp for có thể được loại bỏ. Một biểu thức bị mất (e2 chẳng hạn) có thể làm cho vòng lặp biến thành vòng lặp vô hạn.
Thí dụ: vòng lặp for sau đây 3 biểu thức ở dạng phức hợp và ngăn cách nhau bởi dấu chấm phẩy ;:
for (x=10,y=1;((x>4) && (y<8)); x--,y+=2)
printf("x = %d, y = %d \n", x,y);
Kết quả thực thi màn hình sẽ hiển thị như sau:
x = 10, y = 1
x = 9, y = 3
x = 8, y = 5
x = 7, y = 7
Vòng lặp kết thúc vì điều kiện trong biểu thức thứ nhì ((x>4) && (y<8)) không còn đúng nữa.
Các mệnh đề nhảy (hay bước nhảy)
Các lệnh nhảy sẽ thay đổi dòng điều khiển một cách vô điều kiện. có 4 kiểu mệnh đề nhảy trong C là goto, continue, break, và return.
goto
câu lệnh goto sẽ có dạng:
goto <nhãn>;
nhãn phải có mặt trong hàm có chứa câu lệnh goto. Khi đọc đến lệnh này, dòng điều khiển sẽ chuyển đến mệnh đề nhãn.
continue
Mệnh đề continue chỉ có thể xuất hiện trong một vòng lặp và có tác dụng làm cho dòng điều khiển chuyển sang chu kì mới của vòng lặp trong cùng nhất (có chứa câu lệnh). Các dạng sử dụng bao gồm
while (expression) {
/*... */
cont:;
}
do {
/*... */
cont:;
} while (expression);
for (optional-expr; optexp2; optexp3) {
/*... */
cont:;
}
break
Mệnh đề break dùng để kết thúc một câu lệnh vòng lặp hay câu lệnh switch ngay lập tức và chuyển tiếp đến câu lệnh tiếp theo sau của vòng lặp đó.
return
Một hàm trả dòng điều khiển về nơi gọi nó bằng câu lệnh return. Khi lệnh return được theo sau bởi một biểu thức thì biểu thức đó sẽ được đánh giá và giá trị này sẽ được trả về cho nơi đã gọi hàm. Khi return được gọi mà không có biểu thức đi kèm thì giá trị trả về là không xác định.
Các phép toán
Xem thêm bài chính Phép toán trong C và C++
Để tham khảo, sau đây là bảng thứ tự ưu tiên của các phép toán theo C89:
Nguồn: C Operator Precedence and Associativity
Khai báo dữ liệu
Các kiểu dữ liệu cơ bản
Nhiều ngôn ngữ lập trình kể cả C, biểu thị các số trong hai dạng: nguyên và thực (hay không nguyên). Sự khác nhau này hình thành từ khía cạnh kỹ thuật của các cách thức xử lý và lưu trữ các giá trị trong bộ nhớ.
<div id="QUALIFIER">Kiểu nguyên viết dưới dạng int được dùng để biểu thị các số nguyên. Kiểu nguyên có trong nhiều kích cỡ khác nhau tùy theo phân lượng bộ nhớ được dùng và độ lớn cao nhất. Các từ khóa, có tên là các định tính, được dùng thêm vào để điều chỉnh lại kích cỡ là: short, long và long long. Kiểu ký tự mà từ khóa của nó là char, biểu thị đơn vị nhỏ nhất có thể địa chỉ hóa được (bởi kiến trúc máy tính) thường là một byte với 8 bit.</div>
Dạng thực được dùng để biểu thị các số thập phân hay các bộ phận hữu tỉ. Mặc dù vậy chúng không hoàn toàn chính xác mà chỉ là các biểu thị gần đúng.
Có 3 kiểu giá trị thực bao gồm: loại có độ chính xác đơn (có đặc tả là float), loại có độ chính xác kép (có đặc tả là double), và loại có độ chính xác kép mở rộng (có đặc tả là long double). Mỗi loại dùng để biểu thị các giá trị không nguyên trong một dạng khác nhau.
Các kiểu nguyên có thể hoặc là có dấu (signed) hay không dấu (unsigned). Nếu không chỉ rõ khi khai báo thì mặc định (hiểu ngầm) sẽ là loại có dấu. Một ngoại lệ là các kiểu char, signed char và unsigned char đều khác nhau, và kiểu char có thể là loại có dấu hay không có dấu.
Đối với loại có dấu, thì bit có nghĩa cao nhất được dùng để biểu thị dấu (dương hay âm). Thí dụ một số nguyên 16-bit loại có dấu thì chỉ dùng 15 bit để biểu thị giá trị (tuyệt đối) của nó còn bit có nghĩa cao nhất lại được dùng để cho biết đó là số dương hay âm. Đối với loại không dấu thì bit này lại được dùng thêm vào để biểu thị giá trị.
= Trong các kiểu nguyên, độ lớn cao nhất biểu thị giá trị lớn nhất (tùy theo có dấu hay không) mà nó biểu thị. (Xem thêm bản dưới đây)
= Từ khóa long long được đưa thêm vào trong chuẩn C99.
Các hằng số xác định các giá trị biên
Tập tin tiêu đề chuẩn limits.h sẽ xác định các giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của các kiểu nguyên cơ bản cũng như là xác định các giới hạn khác. Tập tin tiêu đề chuẩn float.h sẽ xác định các giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của các kiểu float, double, và long double. Nó cũng xác định các giới hạn khác liên quan tới việc xử lý các giá trị của dấu chấm động (floating-point) có độ chính xác đơn hay có độ chính xác kép như là chúng được định nghĩa trong chuẩn IEEE 754.
— Định tính long long chỉ được hỗ trợ trong các trình dịch thỏa mãn chuẩn C99.
— Các hằng LLONG_MIN, LLONG_MAX, và ULLONG_MAX chỉ được định nghĩa trong limits.h nếu trình dịch tương ứng thỏa mãn chuẩn C99.
Các giá trị biên điển hình
Sau đây là danh sách kích cỡ và các biên điển hình của các kiểu nguyên. Các giá trị này có thể khác nhau tùy theo kiến trúc (máy và trình dịch). ISO C cung cấp tiêu đề inttypes.h, trong đó, có xác định các kiểu nguyên có dấu và không có dấu nhưng điều chắc chắn là kích cỡ đều nằm trong khoảng 8 đến 64 bit.
— Định tính long long chỉ được hỗ trợ trong các trình dịch thỏa mãn chuẩn C99.
Kích cỡ và giới hạn của kiểu cơ bản int (mà không có các định tính short, long, hay long long) có thể thay đổi khác nhau (nhiều hơn các kiểu nguyên khác) tùy theo sư thiết lập (của trình dịch hay của kiến trúc máy). Cho nên, một thao tác thông thường là định nghĩa nó như là một đồng nghĩa của size_t — trong tập tin sys/types.h — và do đó, đủ sức để thích ứng với giá trị lớn nhất khả dĩ của con trỏ mà có thể được cấp phát bởi hệ thống. Đặc tả UNIX đơn chỉ ra rằng kiểu int phải có ít nhất 32 bit, mặc dù chuẩn ISO C chỉ yêu cầu có 16 bit.
Các kiểu tham chiếu
Tiền tố ký tự * được dùng để biểu thị kiểu tham chiếu, mà thường được biết đến như là một con trỏ. Nếu như đặc tả int biểu thị một kiểu nguyên cơ bản thì đặc tả int * lại biểu thị một tham chiếu kiểu nguyên, tức là một loại con trỏ. Các giá trị tham chiếu tương quan sẽ bao gồm hai phần thông tin: đó là địa chỉ của vùng nhớ và một kiểu dữ liệu. Câu lệnh sau đây khai báo một biến tham chiếu nguyên có tên là ptr:
<nowiki>int *ptr;</nowiki>
Sự tham chiếu
Khi một con trỏ địa phương được khai báo, thì chưa có một địa chỉ nào gán cho nó cả. Địa chỉ tương quan với một con trỏ có thể được thay đổi (hay hình thành) qua phép gán. Trong thí dụ sau, biến ptr sẽ cài cho nó chỉ tới cùng một dữ liệu như là biến nguyên cơ bản a:
<nowiki>int *ptr;
int a;
ptr = &a;</nowiki>
Để làm được việc này, toán tử tham chiếu (hay còn gọi là tham chiếu ngược) & đã được dùng tới. Nó trả về vị trí của biến trong bộ nhớ (tức là địa chỉ) hay là chỗ chứa thực thể theo sau (trong thí dụ thì thực thể đó là a). Toán tử này như là công việc nó làm thường được gọi là toán tử "địa chỉ".
Trong trường hợp tổng quát, cụm từ giá trị tham chiếu được dùng để nói về địa chỉ trong bộ nhớ của sự tham chiếu (hay tham chiếu ngược).
Sự tham chiếu ngược
Cùng một biểu hiện, giá trị có thể đọc về từ một giá trị tham chiếu. Trong thí dụ sau, biến nguyên cơ bản b sẽ được gán đến dữ liệu mà dữ liệu đó được tham chiếu bởi ptr:
<nowiki>int *ptr;
int a, b;
a = 10; //gán cho a giá trị là 10
ptr = &a; //phép gán địa chỉ của a (tức là &a) lên con trỏ 'ptr'
//để ptr bây giờ chỉ đến địa chỉ có nội dung là 10
b = *ptr //phép gán này cho b một giá trị nằm ở địa chỉ mà 'ptr'
//chỉ tới tức là giá trị của b sẽ là 10
</nowiki>
Để hoàn tất được thao tác này, toán tử tham chiếu ngược (&) đã được dùng. Nó trả về dữ liệu cơ bản. Dữ liệu này có giá trị là một tham chiếu chỉ tới (tức là một địa chỉ). Biểu thức *ptr là một cách viết khác của giá trị 10 (gán cho b).
Việc quá tải của ký tự * có hai biểu hiện liên hệ mà có thể gây ra sự nhầm lẫn. Hiểu được sự khác nhau giữa việc dùng nó như là một tiền tố trong một khai báo (con trỏ) và việc xem nó là toán tử tham chiếu trong một biểu thức là rất quan trọng.
Sự tham chiếu tương đương và các mệnh đề cơ bản
Bảng sau đây là danh sách các mệnh đề tương đương giữa kiểu cơ bản và kiểu tham chiếu (hay tham chiếu ngược). Trong đó, biến cơ bản d và biến tham chiếu ptr được hiểu ngầm.
Các mảng
Khai báo mảng tĩnh
Trong C, mảng được dùng để biểu thị một cấu trúc của một dãy nhiều giá trị có cùng một kiểu được xếp thứ tự. Một mảng gọi là tĩnh nếu độ dài của dãy mảng này cố định. Sự khai báo của mảng tĩnh có cú pháp sau:
<nowiki>int array[n];</nowiki>
trong đó, tên của mảng là array sẽ có thể chứa được n giá trị của kiểu cơ bản int. Trong thực hành, phần bộ nhớ cho n giá trị nguyên này được để dành riêng và được gán cho mảng này (mặc dù giá trị của các phần tử trong mảng chưa được xác định). Biến array thực chất là một kiểu tham chiếu của kiểu nguyên; nó khởi thủy sẽ chỉ tới địa chỉ của giá trị đầu tiên trong mảng.
Truy cập các phần tử
Các giá trị của một mảng được gọi là các phần tử trong mảng.
Một cách để truy cập đến các phần tử này là dùng đến cặp ký tự ngoặc vuông dạng [k]. Trong đó k là chỉ số (hay vị trí thứ tự đếm từ 0). Như vậy, phần tử thứ k trong mảng array sẽ có cú pháp
array[k]
Giá trị trả về của array[k] chính là giá trị mà nó chứa ở vị trí k. Thoạt nhìn thì cú pháp của việc truy cập này trông giống như cú pháp khi mảng array được khai báo nhưng về chức năng thì hoàn toàn khác nhau.
Chỉ số bắt đầu của một mảng là 0. Như vậy, chỉ số lớn nhất của một mảng bằng tổng số các phần tử trong mảng trừ đi 1. Thí dụ mảng A có 10 phần tử thì giá trị của phần tử đầu tiên của A là A[0] và của phần tử cuối dùng là A[9].
Một cách truy cập khác là dùng con trỏ số học để tham chiếu đến giá trị của các phần tử trong mảng.
Bảng sau đây sẽ minh họa cách dùng của cả hai phương pháp:
Các mảng động
C không cung cấp phương tiện để kiểm tra biên cho các mảng. Nghĩa là nó không thể bắt được các lỗi khi gán cho một mảng chỉ số âm hay chỉ số vượt quá độ đài của mảng đó. Và hơn thế nữa các chỉ số trong một mảng có thể vượt khỏi độ dài sẵn có của mảng đó.
Vì các mảng là thuần nhất, tức là nó chỉ chứa các dữ liệu có chung một kiểu nên hai thành phần thông tin cần nhớ là địa chỉ của phần tử đầu tiên và kiểu của dữ liệu.
Nhắc lại về cú pháp để khai báo một mảng tĩnh, tức là tạo ra một biến tham chiếu nguyên và cấp phát một vùng nhớ tương ứng cho nó:
<nowiki>int array[n];</nowiki>
Cách biểu hiện này có thể được tái lập với sự giúp đỡ của thư viện chuẩn C. Hàm calloc cung cấp một cách đơn giản để cấp phát một vùng nhớ. Hai tham số dùng đến sẽ là số lượng các phần tử và kích cỡ (độ lớn) của mỗi phần tử. Khi việc cấp phát bộ nhớ hoàn thành, calloc trả về một con trỏ chỉ tới phần tử đầu tiên và gán cho mọi phần tử giá trị khởi động là 0. Nếu sự cấp phát vùng nhớ không thành công (vì bộ nhớ không đủ chỗ trống hạn) thì calloc trả về con trỏ rỗng. Thí dụ: đoạn mã sau đây có chức năng tương đương với việc khai báo một mảng tĩnh của n phần tử có kiểu int:
<nowiki>int *array;
array = calloc(n, sizeof(int));</nowiki>
Tuy nhiên, điểm vượt trội của cách khai báo này là việc sử dụng cấp phát vùng nhớ động . Kích cỡ của mảng (tức là lượng không gian nhớ được cấp phát một cách an toàn cho mảng) lại có thể được thay đổi sau khi đã khai báo.
Một khi việc cấp phát vùng nhớ động không còn cần thiết nữa thì phần bộ nhớ đó nên được trả về cho hệ điều hành. Thao tác này có thể tiến hành bằng hàm free. Nó cần một tham số: tên của con trỏ mà trước đây đã xin cấp phát vùng nhớ. Một cách an toàn hơn là sau khi đã trả vùng nhớ về cho hệ điều hành, người lập trình cũng nên cài (hay gán) cho con trỏ liên đới giá trị NULL để hủy bỏ địa chỉ mà nó đang chỉ tới (nhằm tránh gây ra các hiệu ứng phụ do việc tham chiếu của con trỏ này có thể gây ra).
<nowiki>
free(array);
array = NULL;</nowiki>
Các mảng đa chiều
C có hỗ trợ việc dùng mảng đa chiều. Việc định nghĩa chúng giống như là tạo ra mảng của các mảng , mặc dù vậy trong thực tế nó không hoàn toàn đúng. Cú pháp sau:
<nowiki>int array2D[số_hàng][số_cột];</nowiki>
sẽ định nghĩa một mảng hai chiều; chiều thứ nhất có số_hàng phần tử. Chiều thứ hai sẽ có số_hàng * số_cột các phần tử—một tập hợp của số_cột các phần tử mà mỗi phần tử là một chiều thứ nhất.
Các mảng đa chiều hoàn toàn có thể được xem như là dãy của các con trỏ. Trong thí dụ trên, array2D (nếu số_hàng là 1) sẽ là một tham chiếu giá trị nguyên mà nó chỉ tới một mảng của số_cột các phần tử.
Dãy ký tự
Dãy ký tự có thể được thay đổi nội dung của nó mà không cần đến thư viện chuẩn. Tuy nhiên, thư viện này có nhiều hàm có thể dùng cho cả dãy ký tự có kết thúc 0 và mảng không có ký tự kết thúc kiểu char. Trong phần này từ "dãy" được để chỉ dãy ký tự.
Các hàm thường dùng là:
strcat(dest, source) - nối một dãy ký tự source tiếp vào vị trí cuối của dãy ký tự dest
strchr(source, c) - tìm vị trí sự xuất hiện đầu tiên của c trong dãy ký tự source và trả về con trỏ chỉ tới vị trí đó hay con trỏ trống nếu c không tìm thấy trong source
strcmp(a, b) - so sánh hai dãy ký tự a và b (theo thứ tự từ điển); trả về số âm nếu a nhỏ hơn b, 0 nếu chúng bằng nhau, dương nếu a lớn hơn
strcpy(dest, source) - chép và thay các ký tự của dãy source vào dãy dest
strlen(st) - trả về độ dài của st
strncat(dest, source, n) - nối tối đa n ký tự từ dãy source tiếp vào vị trí cuối của dãy dest; các ký tự sau dấu kết thúc null sẽ không được chép vào
strncmp(a, b, n) - so sánh từ ký tự đầu cho đến tối đa n ký tự từ hai dãy a và b (theo thứ tự từ điển); hàm trả về số âm nếu phần so sánh của a nhỏ hơn b, 0 nếu bằng nhau, và dương nếu lớn hơn
strncpy(dest, source, n) - chép từ đầu đến tối đa n ký tự từ dãy source vào dãy dest
strrchr(source, c) - tìm vị trí hiện lần cuối cùng của ký tự c trong dãy source và trả về một con trỏ chỉ vào vị trí đó hay con trỏ trống nếu không tìm thấy c trong đó
Các hàm ít dùng tới hơn là:
strcoll(s1, s2) - so sánh hai dãy theo một trình tự địa phương đặc thù
strcspn(s1, s2) - trả về chỉ số của ký tự đầu tiên trong s1 trùng với ký tự bất kì nào trong s2
strerror(err) - trả về một dãy ký tự dưới dạng một thông báo lỗi ứng với mã (câu viết) trong err
strpbrk(s1, s2) - trả về một con trỏ chỉ vào ký tự đầu tiên nào trong s1 mà trùng với ký tự bất kì trong s2 hay một con trỏ trống nếu không tìm thấy
strspn(s1, s2) - trả về chỉ số của ký tự đầu tiên trong s1 mà nó không xuất hiện trong s2
strstr(source, subst) - trả về một con trỏ chỉ tới vị trí của dãy subst trong dãy source hay trả về một con trỏ rỗng nếu không tồn tại một dãy như vậy bên trong source
strtok(s1, s2) - trả về một con trỏ chỉ đến một token bên trong s1 mà được phân chia ra bởi các ký tự trong s2
strxfrm(s1, s2, n) - chuyển đổi s2 thành s1 dùng các quy tắc địa phương đặc thù
Tập tin I/O
Trong C, I/O được tiến hành qua một nhóm các hàm trong thư viện chuẩn. Trong ANSI/ISO C, những hàm đó được định nghĩa trong stdio.h.
fopen
fclose
Tiêu chuẩn I/O
Ba tiêu chuẩn dòng I/O được định nghĩa sẵn là:
stdin đầu vào chuẩn
stdout đầu ra chuẩn
stderr lỗi chuẩn
Các dòng này được tự động mở và đóng lại bởi môi trường của thời gian thi hành, chúng không cần và không nên được mở một cách rõ ràng.
Thí dụ sau minh họa làm thế nào một chương trình bộ lọc được cấu trúc một cách điển hình:
<nowiki>
#include <stdio.h>
int main()
{
int c;
while ((c = getchar()) != EOF) {
/* do various things
to the characters */
if (anErrorOccurs) {
fputs("an error eee occurred\n", stderr);
break;
}
/*... */
putchar(c);
/*... */
}
return 0;
}
</nowiki>
Việc chuyển các đối số qua dòng lệnh
Các tham số được gõ vào một dòng lệnh thì được chuyển vào một chương trình C với hai biến sẵn có - một để đếm số đối số là argc và biến kia là một mảng con trỏ có tên là argv, mà mỗi con trỏ chỉ đến một đối số (các đối số được xem như là mảng ký tự)
Thí dụ mệnh lệnh
myFilt p1 p2 p3
(Lưu ý: không có gì bảo đảm rằng các dãy ký tự riêng lẻ là liền nhau)
Đối với thí dụ này, các giá trị riêng lẻ của các tham số có thể được truy cập bằng argv[1], argv[2], và argv[3] như là được chỉ ra trong chương trình sau:
<nowiki>
#include <stdio.h>
int main(int argc, char *argv[])
{
int i;
printf ("argc\t= %i\n", argc);
for (i = 0; i < argc; i++)
printf ("argv[%i]\t= %s\n", i, argv[i]);
return 0;
}
</nowiki>
Thứ tự đánh giá
Một trình dịch C có thể đánh giá các biểu thức theo thứ tự bất kì giữa dãy các điểm. Dãy các điểm được định nghĩa bởi:
Các kết thúc của mệnh đề tại các dấu chấm phẩy.
Toán tử dãy: dấu phẩy.
Các toán tử ngắn mạch: gồm phép và (&&) và phép hoặc (||).
Toán tử điều kiện (A?B:C): Giá trị của biểu thức A được đánh giá trước. Nếu A là đúng thì B sẽ được đánh giá bỏ qua biểu thức C. Nếu A sai thì B bị bỏ qua và chỉ có C được đánh giá tiếp.
Lưu ý: Các biểu thức đứng trước trong một dãy điểm sẽ luôn luôn được đánh giá trước các biểu thức theo sau. Trong trường hợp đánh giá của các ngắn mạch, biểu thức thứ hai có thể sẽ không cần được đánh giá. Thí dụ, trong biểu thức (a() || b()), nếu a() trả về giá trị đúng thì trình dịch sẽ không cần đánh giá b() nữa (vì lúc đó đã đủ để kết luận mệnh đề (a() || b()) là đúng). Trong thực hành viết mã, nhiều lập trình viên thiếu kinh nghiệm rất dễ bị lọt vào tình huống rằng trình dịch không chịu tiến hành những gì họ muốn mà bỏ qua nhiều bước dẫn tới các kết quả không chính xác mặc dù về lô gíc họ không hề sai sót. Trong trường hợp như vậy, cách tốt nhất là hãy xem lại thật kỹ các mệnh đề Bool và đặc tính đánh giá này của trình dịch. Các lỗi này thuộc loại rất khó tìm ra bởi vì nó hoàn toàn chính xác về mặt cú pháp, về mặt toán học và ngay cả về mặt thuật toán xử lý và rất dễ dẫn đến nhiều kết quả sai về mặt tính toán mà người lập trình không ngờ. Đây cũng là điểm khác nhau giữa ngôn ngữ toán học thuần túy (dùng trong các mã giả --pseudo code ) và thực tế của ngôn ngữ lập trình.
Ứng xử không xác định
Một khía cạnh thú vị (mặc dù chắc không đơn nhất) của tiêu chuẩn C là ứng xử của một số dạng mã chắc chắn dẫn tới tình trạng không xác định. Trong thực tế, điều này có nghĩa là chương trình tạo ra từ mã này có thể làm bất kì gì từ việc thực thi đúng theo ý muốn cho đến việc hư hỏng mỗi lần nó chạy.
Thí dụ: mã sau đây gây ra ứng xử không xác định, vì biến b được dùng tới nhiều hơn một lần (đồng thời lại có sự biến đổi của chính b trong lúc tính toán) qua biểu thức a = b + b++;:
<nowiki>
#include <stdio.h>
int main (void)
{
int a, b = 1;
a = b + b++;
printf ("%d\n", a);
return 0;
}
</nowiki>
Vì không có dãy điểm giữa việc truy cập của b trong b + b++, nó tạo nên tình trạng là trình dịch có thể tự quyết định tăng b trước hay sau khi cộng (tùy theo trình dịch và trạng thái máy!) dẫn đến kết quả là 2 hay 3. Mặc dù vậy, vì để cho phép trình dịch thực hiện tốt các quá trình tối ưu, tiêu chuẩn này (của C) còn có thể tạo ra tình hình tệ hơn như trình bày trên. Một cách tổng quát, mọi sự diều chỉnh (hay thay đổi giá trị) và truy cập giữa các dãy điểm có thể gây ra tình huống bất định. |
Thiền Tông Vĩnh Gia tập (zh. chánzōng yŏngjiā jí 禪宗永嘉集, ja. zenshūyōkashū) là một tác phẩm được Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác (zh. 永嘉玄覺), đệ tử của Lục tổ Huệ Năng (zh. 慧能) soạn. Tập sách đề cập đến việc tu tập giác ngộ qua 10 chương. Lời tựa do Ngụy Tĩnh (zh. 魏静), một vị quan triều nhà Đường soạn. Sách giải thích vị trí của Thiền tông phương Nam, trong sự phối hợp với giáo lý tông Thiên Thai và tông Hoa Nghiêm. Tập sách này rất thông dụng trong Thiền tông Triều Tiên, đã được Kỉ Hoà (zh. 己和) chú giải. Tập sách này thường được gọi ngắn là Vĩnh Gia tập (永嘉集.)
Mười chương tóm tắt nội dung như sau:
Chương 1: Nghi thức mộ đạo (Mộ đạo chí nghi) - Phàm muốn tu đạo, trước nên lập chí, cùng hầu thầy đúng lễ, làm sáng điều thầy dạy. Do đó, đặt để hàng thứ nhất để làm sáng tỏ Nghi thức mộ đạo.
Chương 2: Giới ý kiêu sa (Giới kiêu xa ý) - Ban đầu tuy lập chí tu đạo, khéo biết nghi thức phép tắc, nếu ba nghiệp kiêu sa, vọng tâm xáo động thì sao được định. Do đó, đặt để hàng thứ hai để nêu rõ giới ý kiêu sa.
Chương 3: Tịnh tu ba nghiệp (Tịnh tu tam nghiệp) - Trước, giới kiêu sa để lược nêu cương yếu. Nay kiểm trách lại kỹ lưỡng, khiến sự lỗi lầm không nảy sanh. Do đó, đặt để hàng thứ ba là làm rõ ba nghiệp tịnh tu, giữ giới thân, khẩu, ý.
Chương 4: Bài tụng Xa-ma-tha (Xa-ma-tha tụng) - Đã kiểm trách thân, miệng, khiến lỗi chẳng nảy sanh. Thứ đến vào cửa tu đạo dần theo thứ tự trước sau năm loại khởi tâm, không ra khỏi định huệ năm loại khởi tâm sáu khoa liệu lường. Do đó, đặt để hàng thứ tư để làm rõ bài tụng Xa-ma-tha.
Chương 5: Bài tụng Tì-bà-xá-na (Tì-bà-xá-na tụng) - Không giới thì chẳng có Thiền, không Thiền thì chẳng có huệ. Trên đã tu định, định lâu thì huệ sáng. Do đó, đặt để hàng thứ năm làm rõ bài tụng Tì-bà-xá-na.
Chương 6: Bài nghĩa tụng Ưu-tất nghĩa (Ưu-tất nghĩa tụng) - Thiên tu về định, định lâu tất chìm sâu. Thiên học về huệ, huệ nhiều tâm động. Do đó, đặt để hàng thứ sáu là nêu rõ các bài tụng Ưu-tất, nghĩa nơi định huệ, khiến chẳng chìm động, làm cho định huệ quân bình, buông bỏ hai bên.
Chương 7: Lần lượt của ba thừa (Tam thừa tiệm thứ) - Định huệ đã quân bình ắt lặng lẽ mà thường soi. Tam quán nhất tâm thì có nghi nào chẳng dứt, có sáng chiếu nào chẳng tròn đầy ? Dù đã tự hiểu rõ ràng nhưng thương kẻ khác chưa ngộ, ngộ có nông sâu. Do đó, đặt để hàng thứ bảy là nói rõ thứ bậc lần lượt của ba thừa.
Chương 8: Sự lý không hai (Sự lý bất nhị) - Ba thừa thấy lý, lý chẳng không cùng. Lý cùng ở tại sự, rõ sự tức lý. Do đó, đặt để hàng thứ tám là làm rõ sự lý không hai, tức sự mà chân, dùng loại trừ kiến chấp.
Chương 9: Sách khuyên bạn hữu (Khuyên hữu nhân thư) - Sự lý đã dung thông, trong tâm tự sáng, lòng lại thương xót người học về sau, phí mất thời gian. Do đó, đặt để hàng thứ chín là tỏ rõ sách khuyên bạn.
Chương 10: Văn phát nguyện (Phát nguyện văn) - Khuyên bạn tuy là thương xót kẻ khác nhưng chỉ chú tâm vào một người, thì tình vẫn chưa cùng khắp. Do đó, đặt để hàng thứ mưới là tỏ rõ văn pháp nguyện, thề nguyện độ tất cả. |
Trương Ba-na-ba (tiếng Trung: 張巴拿巴; 1882-1961), người Trung Quốc, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1882 tại tỉnh Sơn Đông. Lúc sinh ra có tên là Diện Cử (殿舉). Ông là một nông dân và cũng là một người sưu tập đồ cổ.
Tương truyền rằng vào ngày 16 tháng 3 năm 1911, khi đang đi trong một vùng hoang vu, đột nhiên ông nghe thấy lời phán truyền từ trên trời như sau: "Mạt thế cứu ân do đông nhi tây, phổ cứu vạn dân" ().
Năm 1926, trong vòng 40 ngày Trương Ba-na-ba đã thiết lập được ba nhà thờ để truyền giáo ở Đài Loan.
Năm 1927 do những người tin theo đạo này ở Đông Nam Á yêu cầu, ông đã sang Singapore, Malaysia để thiết lập giáo hội và truyền đạo. Sau này, do kiêu ngạo, không hối cải trong nhận thức, năm 1930 Trương Ba-na-ba đã bị khai trừ khỏi giáo hội. |
Ô, ô là ký tự thứ 18 trong bảng chữ cái tiếng Việt.Chữ cái o được dùng để biểu thị cho âm Nguyên âm tròn lưng mở miệng vừa phải /o/ trong tiếng Việt. Mượn từ kí tự O with circumflex trong bảng chữ cái Tiếng Bồ Đào Nha và Tiếng Pháp
Lịch sử
Chữ Quốc ngữ được hình thành bởi các tu sĩ Dòng Tên trong quá trình truyền đạo Công giáo tại Việt Nam đầu thế kỷ 17 dưới quy chế bảo trợ của Bồ Đào Nha. Francisco de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt, ông đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh
Chú thích |
Chữ Quốc ngữ (chữ Nôm: 𡨸國語) là một loại chữ viết tiếng Việt, được ghi bằng tập hợp các chữ cái Latinh và dấu phụ được dùng cùng với các chữ cái đó.. Chữ Quốc ngữ được tạo ra bởi các tu sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha, Ý và Pháp, bằng việc cải tiến bảng chữ cái Latinh và ghép âm dựa theo quy tắc chính tả của văn tự tiếng Bồ Đào Nha và một chút tiếng Ý.
Tên gọi
Muộn nhất là từ năm 1867 đã có người gọi chữ Latinh cho tiếng Việt là chữ quốc ngữ. Trong năm này, Trương Vĩnh Ký xuất bản hai quyển sách về ngữ pháp. Quyển đầu là sách tiếng An Nam viết bằng chữ quốc ngữ về ngữ pháp tiếng Pha Lang Sa (tiếng Pháp) có tên gọi là Mẹo luật dạy học tiếng pha-lang-sa. Trong sách có tên gọi chữ quốc ngự (ngự chứ không phải là ngữ) được dùng để chỉ văn tự Latinh tiếng Việt. Quyển sách thứ hai là sách ngữ pháp tiếng An Nam viết bằng tiếng Pha Lang Sa, có tên gọi là Abrégé de grammaire annamite (Khái yếu ngữ pháp tiếng An Nam). Trong quyển sách tiếng Pha Lang Sa, chữ Latinh tiếng Việt được gọi bằng tiếng Pha Lang Sa là l’alphabet européen (bảng chữ cái châu Âu), les caractères latins (chữ Latinh). Trên Gia Định báo số phát hành ngày 15 tháng 4 cùng năm, khi đề cập tới quyển sách ngữ pháp tiếng An Nam viết bằng tiếng Pha Lang Sa của Trương Vĩnh Ký, tên gọi chữ quốc ngữ đã được sử dụng để chỉ chữ Latinh cho tiếng Việt.
Lịch sử
Hình thành
Chữ Quốc ngữ được hình thành bởi các tu sĩ Dòng Tên trong quá trình truyền đạo Công giáo tại Việt Nam đầu thế kỷ 17 dưới quy chế bảo trợ của Bồ Đào Nha. Francisco de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt, ông đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có công hệ thống hóa và định chế hóa chữ quốc ngữ qua cuốn từ điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum in năm 1651 tại Roma. Ông cho biết mình đã biên soạn cuốn từ điển này dựa trên hai từ điển (nay đã thất truyền) của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa. Các nhà truyền giáo khác đóng góp trong lịch sử sơ khởi của chữ Quốc ngữ có thể kể đến Francesco Buzomi, Christoforo Borri, Girolamo Maiorica, và Antonio de Fontes.
Theo soạn giả Alexandre de Rhodes, ông mượn dấu sắc, huyền, ngã từ tiếng Cổ Hy Lạp mà vẫn không đủ nên phải thêm iota subscriptum (dấu nặng) và dấu hỏi để biểu lộ thanh giọng của tiếng Việt. So sánh ký tự thì âm nh, ch theo tiếng Bồ Đào Nha; gi theo tiếng Ý; còn ph theo tiếng Cổ Hy Lạp. Dấu lưỡi câu ◌᷄ được dùng để thể hiện phụ âm cuối mũi hóa.
Các văn bản thời kỳ này là tài liệu ghi chép quan trọng về cách phát âm của tiếng Việt trung đại. Bên cạnh mục đích thực tiễn là để các nhà truyền giáo học tiếng Việt thuận lợi hơn, chữ Quốc ngữ còn giúp một vài giáo hữu Việt Nam thông qua mẫu tự Latinh làm quen với tiếng Latinh, ngôn ngữ hoàn vũ của Giáo hội Công giáo.
Linh mục Giovanni Filippo de Marini chép lại biên bản hội nghị năm 1645 về mô thức rửa tội có ghi: "Tau rữa mầï nhân danh Cha, uà Con, uà Spirito Santo. Taü lấÿ tên Chuá, tốt tên, tốt danh, tốt tiẽng..."
Chỉnh lý
Cuối thế kỷ 18 tại Đàng Trong diễn ra cuộc chỉnh lý khiến chữ Quốc ngữ hầu như giống với ngày nay. Các giáo hữu Đàng Trong đã biên soạn từ điển chữ Quốc ngữ, dưới sự điều phối của Giám mục Bá Đa Lộc Bỉ Nhu (Pierre Pigneau de Behaine). Căn cứ vào bản thảo này, giáo sĩ Jean-Louis Taberd đã biên tập và cho xuất bản năm 1838.
Cuốn tự điển của Bá Đa Lộc được soạn quãng năm 1772–1773 có tên Dictionarium Anamatico-Latinum mới chỉ là bản viết tay (nay còn giữ ở Văn khố Hội Truyền giáo Paris) chứ chưa được in ra. Trong khi đó tự điển của Taberd mang tên Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị (tựa Latinh giống với tựa cuốn của Bá Đa Lộc) được in ở Serampore, Ấn Độ. Nó phản ảnh một biến chuyển quan trọng của tiếng Việt trong khoảng thế kỷ XVIII và XIX. So sánh tự điển của Taberd và De Rhodes thì âm "ꞗ" () biến mất, thay thế bằng âm "v" hoặc "b". Những âm "bl", "ml", "pl", "sl", và "tl" cũng biến mất, thay thế bằng "tr", "nh", "l", "s". Lưu ý một số cách viết chính tả cũ vẫn còn gặp ở các văn bản của João de Loureiro đương thời tại Đàng Trong và của Philipphê Bỉnh tại Lisboa vào đầu thế kỷ 19.
Cuốn tự điển có phần phụ lục tựa là "Lời Chúa Tàu và Người Annam vấn đáp cùng nhau" (Dialogus Inter Unum Navis Praevectum et Unum Cocincinensem), trong đó có đoạn như sau:
- Ông đi viếng Quan lớn thì được song thói nước nầy chẳng cho phép thăm đờn bà.
- Tôi cam lòng chìu theo quốc pháp, tôi chẳng có ý làm đều gì nghịch cùng thói phép đất nầy, có tục ngữ rằng: nhập giang tùy khúc nhập gia tùy tục.
Như vậy, dạng chính tả của chữ Quốc ngữ ở lần chỉnh lý này với cách viết không khác mấy thời nay là bước chuẩn hóa chính cuối cùng, các phương án sửa đổi chính tả sau này đều không phổ biến được. Trong hơn 200 năm, Công giáo tại Việt Nam tuy lưu hành chữ Quốc ngữ nhưng vẫn sử dụng chữ Nôm là chủ yếu.
Địa vị chính thức
Do sự thống trị của Hán học ở Việt Nam, chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm hình thành và phát triển nhưng chưa đủ phổ biến để coi là văn tự chính thức. Chữ Nôm và chữ Hán vẫn là dạng văn tự chính của tiếng Việt trong mấy trăm năm qua, đang được mọi người trong xã hội sử dụng phổ biến nên không có lý do gì phải bị thay thế. Phải cho tới khi người Pháp xâm lăng, chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX, thì tên gọi và vị trí "chữ Quốc ngữ" của chữ Latinh cho tiếng Việt mới được xác lập, lúc đó chữ Quốc ngữ mới được bảo hộ để phổ biến, nhằm khiến tiếng Việt đồng văn tự Latinh với tiếng Pháp, giúp phổ biến tiếng Pháp và văn hoá Pháp ở Việt Nam. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định "bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán" trong các công văn ở Nam Kỳ.
Nghị định 82 ký ngày 6 tháng 4 năm 1878 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký cũng đề ra mốc hẹn trong bốn năm (tức năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ:
Kể từ mồng một Tháng Giêng năm 1882 tất cả văn kiện chánh thức, nghị định, quyết định, lịnh, án tòa, chỉ thị... sẽ viết, ký tên và công bố bằng chữ quốc ngữ; nhân viên nào không thể viết thơ từ bằng chữ quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm và thăng thưởng trong ngạch phủ, huyện và tổng...
Ngày 1 Tháng Giêng năm 1879 thì lại có lệnh khẳng định các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó chính quyền Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục, bắt đầu ở các thôn xã Nam Kỳ phải dạy lối chữ này. Để khuyến khích việc truyền bá chữ Quốc ngữ, nhà chức trách thuộc địa Nam Kỳ còn ra nghị định ngày 14 Tháng 6 năm 1880 giảm hoặc miễn thuế thân và miễn sưu dịch cho thân hào hương lý nếu họ biết viết chữ Quốc ngữ.
Gia Định Báo, một tờ báo do Trương Vĩnh Ký làm chủ biên phát hành, là tờ báo đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ ra mắt năm 1865; so với ngày nay thì câu văn đã thêm phần mạch lạc, chính tả không mấy khác biệt. Ví dụ như bản thông báo ngày 22 tháng 12 năm 1888 sau đây:
Sở Thuế Chánh Ngạch. Các người thiếu thuế... đặng hay: các sổ phụ trong tháng Octobre 1888 thuế đất, thuế sanh ý, thuế ghe biển, thuế ghe sông, cùng thuế thân đã lập theo phép để trong tay quan Kho Bạc Sài Gòn và Chợ Lớn hay về việc thâu thuế. Bởi đó sức cho các người ấy phải y theo hạn trong luật dạy mà đóng các món thuế biên trong sổ ấy, bằng không thì phải cứ phép mà bắt buộc...
Nửa đầu thế kỷ XX
Sang thế kỷ XX thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910. Thượng thư bộ Học là Cao Xuân Dục có công văn trả lời Toàn quyền Đông Dương với ý tán đồng:
<blockquote>... cả nước cùng học chữ Quốc ngữ Latinh, tuyển chọn các vị cử nhân, tú tài, tôn sinh, ấm sinh người bản quốc sung làm giáo sư và thành lập viện dịch chữ Quốc ngữ... Nay vâng mệnh Hoàng đế bản quốc lập ra trường chuyên dạy thứ chữ này chính là muốn thống nhất một lối dùng làm thứ chữ dạy học phổ thông.</blockquote>
Năm 1915 thì kỳ thi Hương cuối cùng diễn ra ở Bắc Kỳ mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu. Ở Trung Kỳ thì đạo dụ của vua Khải Định ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28 tháng 12 năm 1918) chính thức bãi bỏ khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế. Chữ Quốc ngữ từ đó trở thành văn tự diễn đạt phổ biến ở Việt Nam, trong khi đó người Việt đang dần "mù chữ" với Chữ Hán và chữ Nôm, hai dạng văn tự này trở nên ít được sử dụng.
Trong khi đó cũng có thành phần theo Nho học nhưng hiểu được ưu điểm dễ viết dễ đọc của chữ Quốc ngữ và cổ động việc thâu nhận chữ Quốc ngữ như là một cách nâng cao trình độ kiến thức đại chúng, canh tân xã hội, thức tỉnh tinh thần yêu nước và huy động động lực phản kháng của người Việt trước quyền lực của thực dân Pháp. Trong đó có nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục. Việc theo học chữ Quốc ngữ theo đó thì không chỉ là phương tiện đọc và viết mà còn hàm ý vận động chính trị và vận mệnh dân tộc.
Chữ Quốc ngữ qua những tác phẩm biên khảo, phóng sự, bình luận, du ký của những Nam Phong Tạp chí, Đông Dương Tạp chí, cùng một loạt tiểu thuyết và thơ mới của nhóm Tự lực Văn đoàn với tư tưởng mới, phong cách mới cũng và nhiều tác giả khác giúp ưu điểm dễ viết dễ đọc của chữ Quốc ngữ được thể hiện.
Từ giữa thế kỷ XX
Nửa cuối thế kỷ XX diễn ra các chỉnh sửa chữ Quốc ngữ, trong đó có sửa đổi chữ viết liên quan đến các cuộc cải cách giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam thực hiện. Do lúc này có hơn 4 triệu người Việt ở nước ngoài, cùng với những hay dở của cải cách giáo dục trong nước, dẫn đến quan niệm và sử dụng chữ Quốc ngữ có sự khác nhau nhất định, tùy theo từng người được thụ hưởng nền giáo dục nào.
Từ những năm 1950 tại miền Bắc, chữ Quốc ngữ được giản lược bằng cách bỏ dấu gạch nối giữa từ ghép và tên riêng, ví dụ: tự-do thành tự do, Họ-Văn-Tên thành Họ Văn Tên. Tuy nhiên điều đặc biệt là năm 1973 khi xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, thì lại có yêu cầu có dùng gạch nối trong dòng tên ở mặt chính là Hồ-Chí-Minh.
Những người không thụ hưởng cải cách giáo dục, gồm những người ở nước ngoài hoặc đã học phổ thông trước cải cách giáo dục.
Thế hệ thụ hưởng cải cách giáo dục với tên chữ "a bờ cờ" (đọc thêm âm).
Thế hệ thụ hưởng cải cách giáo dục thứ hai với tên chữ "a bê xê" (đọc theo tên tiếng Pháp).
Bảng chữ cái
Bảng chữ cái hiện tại
Bảng chữ cái Latinh cho tiếng Việt hiện tại có 29 chữ cái:Quyết định Số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 14/6/2002 về Ban hành kèm theo Quyết định này "Mẫu chữ viết trong trường tiểu học". Thuvien Phapluat Online, 2005.
So với bảng chữ cái tiếng Anh, bảng chữ cái tiếng Việt giống 22 chữ cái. Có 7 chữ cái biến thể bằng cách thêm dấu là Ă-Â-Đ-Ê-Ô-Ơ-Ư. 4 chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Anh chưa có trong bảng chữ cái tiếng Việt là F-J-W-Z.
Mỗi chữ cái đều có hai hình thức viết lớn và nhỏ. Kiểu chữ lớn gọi là "chữ hoa" (chữ in hoa, chữ viết hoa). Kiểu chữ nhỏ gọi là "chữ thường" (chữ in thường, chữ viết thường).
Chữ quốc ngữ có 11 chữ ghép biểu thị phụ âm gồm:
10 chữ ghép đôi: ch, gh, gi, kh, ng, nh, ph, qu, th, tr
1 chữ ghép ba: ngh
Chữ ghép là tổ hợp gồm từ hai chữ cái trở lên được dùng để ghi lại một âm vị hoặc một chuỗi các âm vị có cách phát âm không giống với âm vị mà các chữ cái trong tổ hợp chữ cái đó biểu thị. Chữ ghép đôi là chữ ghép có hai chữ cái, chữ ghép ba là chữ ghép có ba chữ cái.
Bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La-tinh
Bảng chữ cái La-tinh tiếng Việt trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La-tinh in năm 1651 của Đắc Lộ (dưới đây gọi tắt là Từ điển) có 23 chữ cái là:
Bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển có ít chữ cái hơn bảng chữ cái tiếng Việt đương đại. Các ký hiệu ă, â, ê, ô, ơ, ư, được xem là chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt đương đại, đều đã có trong Từ điển nhưng tác giả của Từ điển không xem chúng là chữ cái độc lập. Trong Từ điển, mọi ký hiệu được cấu thành từ một tự mẫu nguyên âm và một hoặc hai dấu phụ, thí dụ như à, ạ, ă, ằ, ặ, đều không được xem là một tự mẫu riêng biệt khác với tự mẫu nguyên âm xuất hiện trong ký hiệu đó,à, ạ, ă, ằ, ặ đều chỉ được xem là tự mẫu a mang dấu phụ chứ không được xem là những tự mẫu khác với tự mẫu a.
Trong bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển có một chữ cái nay không còn được sử dụng để ghi chép tiếng Việt và không có trong bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành là chữ b đuôi quặp ꞗ. Chữ này được dùng để ghi âm sát đôi môi hữu thanh /β/.
Hai tự mẫu ꞗ và đ trong Từ điển không có hình thức chữ hoa và chữ thường. ꞗ và đ không phải là chữ thường mà cũng chẳng phải là chữ hoa của hai chữ. Nếu chỉ viết hoa địa danh bằng chữ hoa có trong Từ điển thì tên gọi của hai tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng ở Việt Nam sẽ phải viết là đồng Nai và Lâm đồng. Hiện nay, tự mẫu đ đã có hình thức chữ hoa và chữ thường, đ được xem là hình thức chữ thường của tự mẫu đ, còn hình thức chữ hoa của tự mẫu này là Đ.
Chữ s thường trong Từ điển có hai kiểu là chữ s dài ſ và chữ s ngắn s.Kenneth J. Gregerson. "A study of Middle Vietnamese phonology". Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Nouvelle Série – Tome XLIV, Nº 2, năm 1969, trang 160. Trong chữ quốc ngữ đương đại, chữ s dài ſ không còn được dùng nữa, chữ s ngắn s là hình thức chữ thường duy nhất của chữ s.
Chữ v thường trong Từ điển có hai kiểu là chữ v đáy nhọn v và chữ v đáy cong u.Kenneth J. Gregerson. "A study of Middle Vietnamese phonology". Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Nouvelle Série – Tome XLIV, Nº 2, năm 1969, trang 151, 173. Vào thế kỷ 17, v và u chưa được xem là hai chữ cái riêng biệt, u chỉ được xem là biến thể của chữ v.
Thêm hay không thêm bốn tự mẫu f, j, w, z vào bảng chữ cái tiếng Việt?
Bốn chữ cái F, J, W, Z vốn có trong bảng chữ cái tiếng Pháp, tiếng Anh hiện không được coi là chính thức trong tiếng Việt cũng như trong quy ước chung về tiếng phổ thông.
Tuy nhiên trong văn bản hành chính chính thức thì các chữ cái này vẫn được sử dụng để viết các tên riêng theo tiếng của các dân tộc khác nhau. Ví dụ như tên các xã Zuôih, Jơ Ngây, Za Hung,... ở huyện Nam Giang, Quảng Nam, xã Ea Wy huyện Ea H'leo, xã Cư Ê Wi huyện Cư Kuin,... ở tỉnh Đắk Lắk, huyện Cư Jút ở tỉnh Đăk Nông. Ngoài ra là cách ghép vần "phi Việt ngữ" như uôih, uôp, h'l, k't, kr,... cũng tùy nghi được sử dụng.
Hay như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tự tay viết di chúc đã sử dụng chữ F thay chữ PH, chữ Z thay chữ D.Điều này thể hiện sự thiếu chặt chẽ về pháp lý, nhưng tại Việt Nam vẫn được mặc nhiên thừa nhận. Đã có ý kiến cho rằng "F, J, W, Z không thể nằm ngoài bảng chữ cái" . Nó cần thiết trong việc xây dựng tiếng phổ thông bao quát được các thành tố cơ bản trong ngôn ngữ của đất nước, đảm bảo chặt chẽ trong các văn bản pháp lý, cũng như cần đưa vào giảng dạy để học sinh đọc đúng tên quê mình. Tuy nhiên sự việc không thuộc nhóm cấp thiết và không gây chết người nên chưa có cấp nào quan tâm chỉ đạo và giải quyết. Cá biệt có học giả hàn lâm thì cho rằng tiếng Việt có chữ viết là đầy đủ rồi.
Tên gọi các chữ cái
Tất cả tên gọi các chữ cái trong tiếng Việt đều được bắt nguồn từ tiếng Pháp. Chúng thường được dùng để đánh vần hoặc gọi tên viết tắt như VTV (vê-tê-vê), HTV (hắt-tê-vê),...
Tên gọi của hai cặp chữ cái nguyên âm "a", "ă" và "ơ", "â" chỉ khác về thanh điệu. Chúng biểu thị các biến thể dài ngắn của cùng một nguyên âm, với "a", "ă' là nguyên âm , với "ơ" và "â" là nguyên âm . Vì trong tiếng Việt khi và là âm tiết thì không có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm nên tên gọi của hai cặp chữ cái "a", "ă" và "ơ", "â" phải mang thanh điệu khác nhau để tránh cho chúng trở thành đồng âm.
Bốn chữ cái F, J, W và Z hiện tại được coi là không có trong bảng chữ cái quốc ngữ, nhưng trong đời sống có thể bắt gặp chúng trong các từ ngữ có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác. Trong tiếng Việt bốn chữ cái này có tên gọi như sau:
F-f: ép/ép-phờ. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là "effe" /ɛf/. Chữ này thường mang âm tương ứng với cặp chữ PH trong tiếng Việt.
J-j: gi. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là "ji" /ʒi/. Chữ này thường mang âm tương ứng với cặp chữ GI trong tiếng Việt.
W-w: vê kép, vê đúp (cũ), đáp-lưu. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là "double vé" /dubləve/. Chữ này thường mang âm tương ứng với chữ O và U nếu sau 2 chữ này là nguyên âm trong tiếng Việt.
Z-z: dét. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là "zède" /zɛd/. Chữ này thường mang âm tương ứng với chữ D trong tiếng Việt.
Hiện đang có ý kiến cho rằng, cần bổ sung thêm bốn chữ cái F, J, W và Z vào bảng chữ cái quốc ngữ để hợp thức hóa cách sử dụng để đáp ứng sự phát triển của tiếng Việt hiện đại (như F thay PH, J thay GI để giảm ký tự, tránh nhầm sang âm "ghi", Z thay D để tránh nhầm sang âm "đờ" của Đ). Mặc dù không có các chữ cái F, J, W và Z trong bảng chữ cái, người Việt khi gặp các chữ cái này trong các từ họ thường phiên âm từ ra để đọc chính xác hoặc họ đọc theo kiểu tiếng Anh.
Chữ viết tay
Thể chữ viết tay của chữ cái Latinh gồm hai loại loại lớn là thể chữ in và thể chữ thảo, mỗi thể chữ này lại bao gồm nhiều thể chữ khác nhau. Trong thể chữ in tự hình của các chữ cái gần giống như các chữ được in trên sách báo, các chữ cái được viết tách rời, không nối với nhau. Trong thể chữ thảo các chữ cái được nối liền với nhau. Thể chữ in dễ đọc nhưng viết chậm, thể chữ thảo viết nhanh hơn nhưng khó đọc hơn. Các trường học ở Việt Nam không dạy thể chữ in, chỉ dạy thể chữ thảo. Trong thực tế, không như những gì được dạy ở nhà trường, hầu hết người Việt Nam viết một thứ chữ pha trộn gồm cả chữ thảo lẫn chữ in. Các chữ hoa thường được viết theo thể chữ in vì chúng dễ viết hơn.
Thể chữ thảo được dạy trong các trường học ở Việt Nam là thể chữ tròn Anh quốc. Thể chữ tròn Anh quốc ra đời ở Anh cuối thế kỷ XVII, trên cơ sở cải biến thể chữ tròn Pháp quốc (còn gọi là thể "chữ rông" ["rông" là phiên âm từ Pháp "ronde" có nghĩa là tròn, hình tròn]). Như tên gọi của nó thể chữ tròn Pháp quốc do người Pháp tạo ra. Đến thế kỷ thứ XVIII thể chữ tròn Anh quốc được truyền bá và sử dụng rộng rãi khắp châu Âu, trong đó có nước Pháp, nơi cung cấp chất liệu để tạo nên thể chữ tròn Anh quốc.
Chính tả
Chính tả chữ Quốc ngữ là một quy định xã hội thống nhất cần tuân theo. Ý thức viết đúng chính tả là ý thức văn hóa. Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc ngữ đã được Ủy ban Cải cách chữ Quốc ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.
Hiện nay phần lớn các văn bản trong nước được viết chủ yếu là theo những "Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt" áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984 do những người thụ hưởng giáo dục đó sau này ra làm việc trong mọi lĩnh vực xã hội.
Quan hệ đối ứng giữa chính tả chữ quốc ngữ và ngữ âm tiếng Việt
Chữ cái phụ âm đứng đầu từ chính tả và âm đối ứng
Phụ âm đầu trong chữ quốc ngữ là các chữ cái phụ âm và chữ ghép đứng đầu từ. Ví dụ: xem có phụ âm đầu là x, phim có phụ âm đầu là ph. Chữ quốc ngữ có 17 chữ cái phụ âm (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x) và 11 chữ ghép (ch, gh, gi, kh, ng, ngh, nh, ph, qu, th, tr). Tất cả các chữ cái phụ âm và chữ ghép trong chữ quốc ngữ đều có thể làm phụ âm đầu.
Vần chính tả chữ quốc ngữ
Tiếng Việt hiện đại có khoảng 200 vần, tiếng là một âm thanh được ghi lại gọi là chữ gồm năm yếu tố: Phụ âm đầu, Âm đệm, Âm chính, Âm cuối, và thanh điệu. Vần hay còn gọi âm vận nên không có phụ âm đầu và có thể vắng mặt nhiều yếu tố trên, nhưng âm chính và thanh điệu luôn luôn phải có. Vần được chia ra như sau:
Vần đơn: Chỉ có một nguyên âm và thanh điệu (a,e,o,u,..)
Vần ghép: Do nhiều nguyên âm hợp lại và thanh điệu mà thành (ai, ay, oai,...).Vần ghép có thể là nguyên âm đôi hoặc nguyên âm ba.
Vần trơn: Có nguyên âm ở cuối và thanh điệu (ai, êu, oai, ươi,...).
Vần cản: Có phụ âm theo sau và thanh điệu (ac, ach, am, an, ang, anh, ap, at,...).
+ A
- a, ac, ach, ai, am, an, ang, anh, ao, ap, at, au, ay.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý: âm đầu /ʔ/ không được thể hiện trên chính tả.
+ Ă
- ăc, ăm, ăn, ăng, ăp, ăt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.
+ Â
- âc, âm, ân, âng, âp, ât, âu, ây.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.
+ E
- e, ec, em, en, eng, eo, ep, et.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.
+ Ê
- ê, êch, ênh, êm, ên, êp, êt, êu.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý: gi chỉ thực sự đứng trước 3 vần: ê, ênh, êch. Khi ghép với các vần còn lại nó gây ra tranh cãi về cách đọc (chẳng hạn giền có thể hiểu là gi+iền hoặc gi+ền nhưng cũng có thể lưu ý là chữ gen đọc là (gi+en) lược mất đi chữ i nên gên có thể đọc là (gi+ên))
+ I
Gồm các vần:
1. i, ich, im, in, inh, ip, it, iu.
2. ia, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iêt, iêu.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý:
Khi gi ghép với các vần bắt đầu với i thì một chữ i bị giản lược, trừ trường hợp gi+ia=gia.
Khi qu ghép với i thì chuyển i thành y, ví dụ: qu+i=quy, qu+iên=quyên. qu không ghép với vần ia+ O
- Gồm các vần:
1. o, oc, oi, om, on, ong, op, ot, oong, ooc.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý: Âm đệm không đứng trước nguyên âm o, trừ ngoại lệ: "quọ".
2. oa, oac, oach, oai, oam, oan, oang, oanh, oao, oap, oat, oay,
- oăc, oăm, oăn, oăng, oăt,
- oe, oen, oeo, oet; oem, oeng (hiếm gặp).
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.+ Ô
- ô, ôc, ôi, ôm, ôn, ông, ôp, ôt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.+ Ơ
- ơ, ơi, ơm, ơn, ơp, ơt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.+ U
- Gồm các vần:
1. u, uc, ui, um, un, ung, up, ut.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.2. ua, uôc, uôi, uôm, uôn, uông, uôt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, q, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý: Âm /k/ khi đứng trước nguyên âm đôi ua/uô được ghi lại bằng c, ngoại lệ duy nhất là "quốc" được ghi lại bằng q để khu biệt ý nghĩa: q+uốc = quốc
3. uây, uân, uâng, uât
- uơ.
- uê, uênh, uêch.
- uy, uych, uynh, uyt, uyu; uyn, uyp. (chỉ gặp trong từ mượn).
- uya, uyên, uyêt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.+ Ư
- Gồm các vần:
1. ư, ưc, ưi, ưu, ưng, ưt, ưm (hiếm gặp; có ừm (ừ; biểu thị ý kiến tán thành), hừm (tiếng phát ra khi người ta suy nghĩ, trầm ngâm)).
2. ưa, ươc, ươi, ươm, ươn, ương, ươp, ươt, ươu.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.
+ Y
- Gồm các vần:
1. y.
Phụ âm đầu: /ʔ/, h, k, l, m, qu, t, n, s, th, v (hiếm gặp - chỉ xuất hiện trong tên riêng như: Ny, Sỹ, Thy, Vy, Vỹ).2. yêm, yên, yêng, yêt, yêu.
Phụ âm đầu: /ʔ/.Danh sách trên chỉ gồm các vần có mặt trong tiếng Việt toàn dân, một số vần cổ như: ơng (cơng cơng), uyêc (tuyếc-bin), ơu (nớu),... hay chỉ xuất hiện tại một vùng phương ngữ nào đó như: ôông, ôôc, ưn, êng,... không được liệt kê.
Chữ cái nguyên âm trong vần chính tả và âm đối ứng
Có 11 ký tự nguyên âm đơn A, Ă, Â, E, Ê, I/Y, O, Ô, Ơ, U, Ư.Ngoài các nguyên âm đơn, trong tiếng Việt còn có: 26 nguyên âm đôi, còn gọi là trùng nhị âm (AI, AO, AU, ÂU, AY, ÂY, EO, ÊU, IA/IÊ (còn viết là: YA/YÊ), IU, OA, OĂ, OE, OI, ÔI, ƠI, OO, ÔÔ, UA/UÔ, UÂ, ƯA/ƯƠ, UÊ, UI, ƯI, UƠ, ƯU, UY) và 12 nguyên âm ba hay trùng tam âm (IÊU/YÊU, OAI, OAO, OAY, OEO, UAO, UÂY, UÔI, ƯƠI, ƯƠU, UYA/UYÊ, UYU).Có các nguyên âm: Ă, Â, IÊ/YÊ, OĂ, OO, ÔÔ, UÂ, UÔ, ƯƠ, UYÊ bắt buộc phải thêm phần âm cuối được chia theo quy tắc đối lập bổ sung như sau:
Bắt buộc thêm nguyên âm cuối, hoặc phụ âm cuối: Â, IÊ/YÊ, UÂ, UÔ, ƯƠ. Bắt buộc thêm phụ âm cuối: Ă, OĂ, OO, ÔÔ, UĂ, UYÊ.
Có 4 nguyên âm ghép có thể đứng tự do một mình hoặc thêm âm đầu, cuối, hoặc cả đầu lẫn cuối: OA, OE, UÊ, UY.Như vậy ta chỉ có 29 nguyên âm ghép không thêm được phần âm cuối là: AI, AO, AU, ÂU, AY, ÂY, EO, ÊU, IA (Dạng biến thể của IÊ), IÊU/YÊU, IU, OI, ÔI, ƠI, OAI, OAO, OAY, OEO, UA (Dạng biến thể của UÔ), UI, ƯA (Dạng biến thể của ƯƠ), ƯI, ƯU, UÂY, UÔI, ƯƠI, ƯƠU, UYA (Dạng biến thể của UYÊ) và UYU. Trong phát âm và viết thành chữ Quốc ngữ thì việc lên xuống, kéo dài âm từ để biểu hiện từ tượng thanh, tượng hình và lớn, nhỏ... luôn là việc cần thiết.
Có mối liên hệ phức tạp giữa nguyên âm và cách phát âm của chúng. Một nguyên âm có thể biểu thị cho vài cách phát âm khác nhau, tùy theo nó nằm trong nguyên âm đơn, đôi hay ba, và nhiều khi các cách viết nguyên âm khác nhau tượng trưng cho cùng một cách phát âm.
Bảng sau cho biết các cách phát âm có thể tương ứng với từng cách viết nguyên âm:
Hiện nay các nhà ngôn ngữ học chưa có sự thống nhất hoàn toàn về số lượng nguyên âm trong tiếng Việt. Tuy nhiên, quan điểm phổ biến cho rằng tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi và không có nguyên âm ba, gồm: /i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ, ie, ɯɤ, uo/.
Bảng sau cho biết các cách viết có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đơn:
Bảng sau cho biết các cách viết có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đôi và ba:
* Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) i.
** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) u.
*** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) o.
Chữ cái phụ âm đứng cuối vần chính tả và âm đối ứng
Thanh điệu chính tả và thanh điệu ngữ âm đối ứng
Tiếng Việt là ngôn ngữ thanh điệu, mọi âm tiết của tiếng Việt đều luôn mang một thanh điệu nào đó. Phương ngôn tiếng Việt miền Bắc có sáu thanh điệu, phương ngôn tiếng Việt miền Trung và miền Nam có năm thanh điệu.
{| class="wikitable" style="text-align: center;"
|+ So sánh điệu trị thanh điệu các phương ngôn tiếng Việt
! rowspan="2" | Thanh điệu
! rowspan="2" | Bắc Bộ
! colspan="3" | Bắc Trung Bộ
! rowspan="2" | Trung Bộ
! rowspan="2" | Nam Bộ
|- style="font-size: small; line-height: 1.1em;"
! Vinh!! ThanhChương!! Hà Tĩnh
|-
! style="text-align: left;" | ngang| || || || || ||
|-
! style="text-align: left;" | huyền| || || || || ||
|-
! style="text-align: left;" | sắc| || || || || ||
|-
! style="text-align: left;" | hỏi| ||
| rowspan="2" |
|
| rowspan="2" |
| rowspan="2" |
|-
! style="text-align: left;" | ngã| ||
| rowspan="2" |
|-
! style="text-align: left;" | nặng| || || || ||
|}
Trừ thanh ngang không có ký hiệu riêng để biểu thị (vì vậy mà một số người gọi nó là "thanh không dấu"), chữ quốc ngữ dùng năm ký hiệu gọi là "dấu thanh" hoặc "dấu", để biểu thị thanh điệu của tiếng Việt.
Quy tắc sử dụng i và y
Hai chữ "i" và "y" đều được gọi là "i", khi cần phân biệt thì dựa theo hình dạng của chúng chữ "i" được gọi là "i ngắn" (vì chiều cao in thường của nó ngắn hơn chữ "y"), chữ "y" được gọi là "y dài". Cái tên "i grec" của chữ "y" là do nó được vay mượn từ chữ Upxilon của bảng chữ cái Hy Lạp, nên tên gọi của nó trong tiếng Latinh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Pháp đều có nghĩa là "chữ i Hy Lạp". Trong tiếng Hy Lạp hiện đại (thường được tính mốc là bắt đầu từ năm 1453 khi Đế quốc Đông La Mã sụp đổ) chữ "y" biểu thị nguyên âm /i/. Trong tiếng Latinh chữ "i" (còn được viết là "j") biểu thị hai nguyên âm /ɪ/, /iː/ và phụ âm /j/. Trong chữ quốc ngữ, chữ "i" cũng được dùng để ghi lại âm vị /i/ và /j/ giống như tiếng Latinh nhưng không phải lúc nào hai âm vị /i/ và /j/ cũng được ghi lại bằng chữ cái "i", trong một số trường hợp chúng được ghi lại bằng chữ "y".
Các giáo sĩ phương Tây khi đặt ra chữ quốc ngữ vì sợ rằng nếu ghi nguyên âm /i/ ở đầu từ bằng chữ cái "i" thì những người biết tiếng Latinh có thể hiểu lầm chữ "i" ở đây biểu thị phụ âm /j/ dẫn tới đọc sai từ nên đã ghi nguyên âm /i/ ở đầu từ bằng chữ cái Hy Lạp "y" (vì trong tiếng Hy Lạp hiện đại, chữ cái "y" cũng biểu thị phụ âm /i/ giống như chữ cái "i" trong chữ quốc ngữ).
Hai vần "ay" /aj/ và "ai" /aːj/ đều mang nguyên âm /a/ và bán nguyên âm /j/, cái tạo nên sự khác biệt trong cách phát âm của hai vần này là trường độ của nguyên âm /a/. Vần "ay" chứa nguyên âm a ngắn /a/, vần "ai" /aːj/ chứa nguyên âm a dài /aː/. Sự khác biệt trong cách phát âm của hai vần "ây" /əj/ và "ơi" /əːj/ cũng nằm ở trường độ của nguyên âm, vần "ây" /əj/ chứa nguyên âm ơ ngắn /ə/, vần "ơi" /əːj/ chứa nguyên âm ơ dài /əː/. Chữ quốc ngữ đã có chữ "ă" để biểu thị nguyên âm a ngắn nhưng các giáo sĩ phương Tây đã không dùng chữ này để ghi lại nguyên âm a ngắn trong vần "ay". Vì muốn hạn chế dùng các chữ cái có dấu nên họ đã dùng chữ "a" để ghi lại cả nguyên âm a dài lẫn nguyên âm a ngắn trong vần "ai" và "ay". Để phân biệt hai vần này họ dùng hai chữ cái "i" và "y" để ghi lại bán nguyên âm /j/ trong hai vần "ay" và "ai". Với vần "ai" họ dùng chữ "i", với vần "ay" họ dùng chữ "y". Hai chữ "i" và "y" ở đây ngoài việc biểu thị bán nguyên âm /j/ trong hai vần ra còn báo cho người đọc biết nguyên âm đứng trước nó là nguyên âm dài hay nguyên âm ngắn, "i" biểu thị nguyên âm dài, "y" biểu thị nguyên âm ngắn. Để cho nhất quán bán nguyên âm /j/ trong vần "ây" (chứa nguyên âm ơ ngắn) được ghi bằng chữ "y", còn trong vần "ơi" (chứa nguyên âm ơ dài) nó được ghi lại bằng chữ "i". Vần "uy" /wi/ viết là "uy", vần "ui" /uj/ viết là "ui" (uy và ui đều mang bán nguyên âm /j/, /w/ và /u/ được ghi lại bằng cùng một chữ "u" giống như các vần khác). Vần "uy" đứng sau "q" viết là "u" như châu Âu (quy).
Ngoài các trường hợp kể trên ra, trong các trường hợp còn lại nguyên âm /i/ và bán nguyên âm /j/ phải được viết bằng chữ cái "i".
Nguyên nhân dẫn đến việc dùng hai chữ i dài i ngắn trong chữ quốc ngữ là như trên nhưng từ thuở ban đầu của chữ quốc ngữ đến nay vì nhiều nguyên nhân như do không biết nguồn gốc của hai chữ i ngắn y dài trong chữ quốc ngữ, do thói quen cố hữu, theo thẩm mỹ quan cá nhân (thấy ở trường hợp này trường hợp kia viết với chữ i hay chữ y thì dễ nhìn hơn), bắt chước theo cách viết của người khác vân vân, nguyên tắc sử dụng i và y đặt ra lúc ban đầu liên tục bị vi phạm. Ngay cả các giáo sĩ phương Tây cũng không tuân thủ triệt để. Người ta chỉ cố gắng viết đúng y dài i ngắn để phân biệt hai vần "ay" và "ai", trong các trường hợp khác người ta tùy tiện viết y dài i ngắn theo ý mình.
Trong phương ngữ tiếng Việt miền Nam, nguyên âm /a/ luôn là một nguyên âm dài khi đứng trước bán nguyên âm /j/, không còn sự đối lập về trường độ của nguyên âm /a/ nữa, do đó "ay" và "ai" trong phương ngữ miền Nam là đồng âm, đều được phát âm là /aj/. Vì "ay" và "ai" trong phương ngữ miền Nam chỉ là hai cách viết khác nhau theo quy ước chính tả của cùng một vần nên người miền Nam hay viết sai chính tả các từ có "ay" và "ai", chỗ theo chính tả phải viết là "ay" thì lại viết "ai" và ngược lại, chỗ phải viết là "ai" thì lại viết là "ay".
Nhằm chấm dứt tình trạng viết i ngắn i dài lung tung, đã có một số người, cơ quan, tổ chức đặt ra quy tắc sử dụng i và y của riêng mình, quy định khi nào viết chữ i, khi nào viết chữ y. Các quy tắc này thường không xét đến nguyên nhân các giáo sĩ phương Tây đưa hai chữ i ngắn i dài vào chữ quốc ngữ.
Quy tắc sử dụng i và y trong sách giáo khoa
Nguyên âm trong các âm tiết mở, viết i ngắn: kĩ (thuật), lí (thuyết), mĩ (thuật), hi (vọng), (nghệ) sĩ,...
Nguyên âm đứng một mình (âm tiết độc lập) thì sẽ viết i ngắn nếu là từ thuần Việt: ỉ (eo), ì (à) ì (ạch), (béo) ị, (ầm) ĩ,... và y dài, nếu là từ Hán Việt: ý (kiến), (lưu) ý, y (sĩ), (chuẩn) y...
Nguyên âm đứng đầu âm tiết, có tổ hợp nguyên âm hoặc nguyên âm đôi, viết y dài: yêu (quý), yểu (điệu), yến (tiệc), yêng (hùng), huỳnh huỵch...
Trong các âm tiết nửa mở, nếu là tổ hợp nguyên âm [wi], như trong các từ quy (tắc), (thâm) thúy, (ma) túy, (xương) tủy, quỵ lụy... thì viết y dài. Nếu là tổ hợp nguyên âm [uj], như trong các từ cúi (đầu), túi (quần), tủi (hổ), xúi (bẩy), (tàn) lụi... thì viết i ngắn.
Kiểu mới
Trừ tên riêng, đề xuất tương đối hợp lý cách dùng hai chữ i ngắn và y dài hiện nay như sau:
Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /Ø/, âm chính /i/ và âm cuối /Ø/, thì có hai cách viết:
Dùng "i" trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là: i - i tờ; ì - ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp; ỉ - lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi; í - í a í ới, í oắng, í ới; ị - ị, béo ị
Dùng "y" trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán-Việt), ví dụ: y - y tế, y nguyên, y phục; ỷ - ỷ lại; ý - ý nghĩa, ý kiến...
Đối với các âm tiết có âm đệm /Ø/ và âm chính /iə/ thì dùng "i". Ví dụ: chịa, đĩa, tía... kiến, miền, thiến... Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /Ø/ thì dùng "y": yếm, yến, yêng, yêu...
Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /iə/ thì dùng "y". Ví dụ: huy, quý, quýt... khuya, tuya, xuya... quyến, chuyền, tuyết, thuyết...
Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /Ø/) thì dùng "i". Ví dụ: inh, ích, ít... bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi... bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh...
Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng "y" trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy... và dùng "i" trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi...
Dùng "i" trong trường hợp các tiếng có phụ âm đầu + vần "i" (ví dụ: lí, mĩ, kĩ, thi, sĩ...) đều thống nhất viết bằng "i" (i ngắn). Ví dụ: lí luận, lí tưởng, thi sĩ, nước Mĩ, Hoa Kỳ, bánh mì, kỉ niệm, v.v... mà không viết "y" (y dài) như trước đây. Đây là quy định của Bộ Giáo dục Việt Nam từ năm 1983 . Hiện nay Nhà xuất bản Giáo dục vẫn thực hiện nghiêm chỉnh quy định này trong việc in Sách giáo khoa các loại.
Theo quy định của Bộ giáo dục (1984) có quy định cách viết " I " như sau:
- Nếu không có sự thay đổi về âm và nghĩa, trừ trường hợp " Y " đứng sau " QU ", hầu hết các từ có âm " I " ở cuối đều được viết thống nhất bằng " I ". Thí dụ: Hi sinh, kỉ niệm, lí luận, thẩm mĩ,...
- Nếu "I" hoặc "Y" đứng một mình, đứng đầu từ hoặc ở giữa từ, ta viết theo thói quen cũ. Thí dụ: ý nghĩa, y tế, yêu thương, Nguyễn Khuyến,...
Kiểu cũ
Cách dùng "i" hoặc "y" kiểu cũ thì thường căn cứ vào Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh (1931). Theo đó thì "y" được dùng thay "i" với những từ gốc Hán Việt nếu đứng sau các phụ âm h, k, l, m, t, và q (qu). Vì vậy nên có "ngựa hí", "tì tay" (gốc Nôm) nhưng "song hỷ", "tỵ nạn" (gốc Hán Việt). Những phụ âm khác thì vẫn dùng "i" như "tăng ni" chứ không có ny (tuy nhiên có ca sĩ mang tên là "Tố Ny" từng tham gia chương trình Giọng Hát Việt). Người Việt ở hải ngoại dạy tiếng Việt cho trẻ em dùng mẹo để nhớ sáu phụ âm trên bằng câu "học mau lên kẻo ta quên".
Quy tắc đánh dấu thanh
Trong các nguyên âm đôi và ba có ít nhất hai cách đặt dấu phụ lên chúng, trong đó một cách ("cách mới") dựa trên lý thuyết ngôn ngữ học.
Trong xếp thứ tự chữ cái, các chữ cái được ưu tiên, tiếp sau là dấu âm, dấu thanh điệu, và sau cùng là chữ hoa/chữ thường. Quá trình ưu tiên này được thực hiện lần lượt trên các âm tiết. Ví dụ một từ điển sẽ xếp "tuân thủ" trước "tuần chay".
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc vị trí đặt dấu thanh, một trong các quan điểm đó như sau:
Với các âm tiết [-tròn môi] (âm đệm /Ø/) có âm chính là nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của chữ cái biểu diễn cho âm chính đó. Ví dụ: á, tã, nhà, nhãn, gánh, ngáng...
Với các âm tiết [+tròn môi] (âm đệm /w/, được biểu diễn bằng "o, u") có âm chính là nguyên âm đơn thì cũng bỏ dấu thanh điệu vào vị trí chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: hoà, hoè, quỳ, quà, quớ, thủy, nguỵ, hoàn, quét, quát, quỵt, suýt, loã, tuế,...
Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi:
Nếu là âm tiết [-khép] (nguyên âm được viết là: "iê, yê, uô, ươ"; âm cuối được viết bằng: "p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i") thì bỏ dấu lên chữ cái thứ hai trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: yếu, uốn, ườn, tiến, chuyến, muốn, mượn, thiện, thuộm, người, viếng, muống, cường...
Nếu là âm tiết [+khép] (nguyên âm được viết là: "ia, ya, ua, ưa") thì nhất loạt bỏ dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: tỉa, tủa, cứa, thùa, khứa, ứa,...
Phân biệt vị trí đặt dấu thanh điệu ở tổ hợp "ua" và "ia":
Với "ia" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt vào "a" (già, giá, giả...), không có "g" thì đặt vào "i" (bịa, chìa, tía...). Trường hợp đặc biệt: "gịa" (trong từ "giặt gịa", có nghĩa là "giặt giũ") - cách đọc: ghép phụ âm "gi" với nguyên âm kép "ịa"; "gìn" (trong từ "giữ gìn") - cách đọc: ghép phụ âm "gi" với vần "ìn"; "gì" - cách đọc: ghép phụ âm "gi" với nguyên âm đơn "ì"; tương tự: giếng; giêng; giềng; giết; gin.
Với "ua" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a" (quán, quà, quạ...), không có "q" thì đặt vào "u" (túa, múa, chùa...). Hoặc để giản tiện cho việc làm bộ gõ, có thể coi "qu" như là một tổ hợp phụ âm đầu tương tự như "gi, nh, ng, ph, th"... Khi đó, sẽ coi "quán, quà, quạ"... như là những âm tiết có âm đệm /Ø/.
Trong đời sống, hiện vẫn tồn tại hai cách đặt dấu thanh trong tiếng Việt, vẫn xuất hiện trên cùng một văn bản, làm cho văn bản đẹp hơn, vẫn không sai. Ví dụ "hòa" là một cách đặt dấu thanh khác cho "hoà", trong đó "hòa" còn gọi là cách đặt dấu thanh "cũ". Bảng sau liệt kê các trường hợp mà hai cách đặt dấu thanh khác nhau:
Dấu câu dùng kèm chữ quốc ngữ
Một số loại dấu thường dùng trong chữ Quốc ngữ
Nguồn gốc một số chữ cái chữ quốc ngữ
ă: Vay mượn từ tiếng Latinh. Trong tiếng Latinh dấu âm ngắn (˘) được thêm vào phía trên các chữ cái nguyên âm để biểu thị nguyên âm ngắn, "ă" biểu thị nguyên âm ngắn . Nguyên âm ngắn và nguyên âm dài có cách phát âm giống nhau nhưng thời gian phát âm của nguyên âm dài dài hơn nguyên âm ngắn. "Ă" không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Latinh. Chữ quốc ngữ dùng chữ "ă" để biểu thị nguyên âm ngắn khi có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm . Ví dụ: và ) được lần lượt ghi lại bằng chữ quốc ngữ là "căn" và "can".
â: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha "â" biểu thị nguyên âm và . Hai nguyên âm và trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc mạnh, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ a biểu thị độ cao của chúng. "Â" không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ dùng chữ "â" để biểu thị nguyên âm ngắn khi có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm , dấu mũ (ˆ) phía trên chữ a biểu thị đây là nguyên âm dài. Nguyên âm ngắn và nguyên âm dài có cách phát âm giống nhau nhưng thời gian phát âm của nguyên âm dài dài hơn nguyên âm ngắn. Ví dụ: và ) lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ là "cân" và "cơn".
c: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ "c" khi đứng trước "a", "o", "u" sẽ biểu thị phụ âm , khi đứng trước "e", "i" sẽ biểu thị phụ âm . Chữ quốc ngữ dùng chữ "c" để biểu thị phụ âm . Vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ "c" khi đứng trước "e", "i" sẽ biểu thị phụ âm nên để tránh cho những người biết tiếng biết Bồ Đào Nha khỏi đọc sai, trong chữ quốc ngữ phụ âm đầu được ghi lại bằng chữ "c" khi sau nó là nguyên âm "a", "ă", "â", "o", "ô", "ơ", "u", "ư", ghi bằng chữ "k" nếu sau nó là nguyên âm "e", "ê", "i". Ví dụ: được ghi lại bằng chữ quốc ngữ là "keo", không được viết là "ceo".
ch: Vay mượn từ tiếng Bắc Bồ Đào Nha. Dựa theo thống kê hiện đại, trong tiếng Bắc Bồ Đào Nha thuộc huyện Guarda, miền Beira Alta, nơi Francisco de Pina đã trưởng thành, rất có khả năng chữ cái ghép đôi "ch" biểu thị bằng âm vị /ʧ/. Chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi "ch" với âm vị /ʧ/ của tiếng Bắc Bồ Đào Nha để ghi một âm vị trong tiếng Việt [c]. Phương ngữ miền Nam có sự lẫn lộn "CH" thành "T" cho phụ âm cuối.
d: Trong hầu hết các hệ thống chữ viết dựa trên chữ Latinh chữ "d" thường dùng để ghi lại phụ âm /d/ hoặc /d̪/ nhưng vì trong tiếng Việt trung đại (và cả tiếng Việt hiện đại) không có hai phụ âm này nên chữ "d" được dùng để ghi lại một phụ âm trong tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống là . Phụ âm không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm trong phương ngữ Bắc và phụ âm trong phương ngữ Nam.
đ: Chữ này được tạo thành bằng cách thêm một nét gạch ngang ngắn vào chữ "d" để ghi lại phụ âm , ý là cách phát âm của phụ âm có phần giống với phụ âm và .
ê: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha "ê" biểu thị nguyên âm và nguyên âm đôi . Nguyên âm trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc nặng, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ e biểu thị độ cao của nó. "Ê" không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ dùng chữ "ê" để biểu thị nguyên âm và (trong nguyên âm đôi "iê" ).
g: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái "g" khi đứng trước "a", "o", "u" sẽ biểu thị phụ âm , khi đứng trước "e", "i" sẽ biểu thị phụ âm . Chữ quốc ngữ mượn chữ cái "g" của tiếng Bồ Đào Nha để ghi lại một phụ âm trong tiếng Việt có cách phát âm gần giống với là . Vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái "g" khi đứng trước "e", "i" sẽ biểu thị phụ âm nên để tránh cho người biết tiếng Bồ Đào Nha khỏi đọc sai chữ quốc ngữ chữ ghép đôi "gh" mượn từ tiếng Ý để ghi lại khi sau nó là nguyên âm "e", "ê", "i". Ví dụ: , lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ ghi là "gỗ", "ghế", không viết là "ghỗ", "gế".
gh: Vay mượn từ tiếng Ý. Trong tiếng Ý chữ cái "g" biểu thị phụ âm khi đứng trước "a", "o", "u", biểu thị phụ âm khi đứng trước "e", "i". Phụ âm khi đi với nguyên âm "e", "i" sẽ được ghi lại bằng "gh". Chữ quốc ngữ mượn chữ "g" của tiếng Bồ Đào Nha để ghi lại phụ âm của tiếng Việt. Trong tiếng Bồ Đào Nha cũng có hiện tượng "g" khi đứng trước "e", "i" đọc khác với "g" đứng trước "a", "o", "u". Để tránh cho những người biết tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý khỏi đọc sai, trong chữ quốc ngữ phụ âm sẽ được ghi lại bằng chữ ghép đôi "gh" mượn từ tiếng Ý khi sau nó là nguyên âm "e", "ê", "i". Ví dụ: , lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ ghi là "ghế" "gỗ", không viết là "gế", "ghỗ".
gi: Vay mượn từ tiếng Ý. Trong tiếng Ý chữ cái "g" biểu thị phụ âm khi đứng trước "a", "o", "u", biểu thị phụ âm khi đứng trước "e", "i". Khi sau "g" là "i", sau "i" là "a", "o", "u" thì "i" không ghi lại âm vị nào, nó chỉ đóng vai trò là một chỉ báo về cách phát âm của chữ "g" đứng trước nó, cho biết rằng chữ "g" ở đây biểu thị phụ âm chứ không phải là . Vì phụ âm của tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống với phụ âm của tiếng Ý nên chữ quốc ngữ đã mượn "gi" của tiếng Ý để ghi lại phụ âm và âm tiết của tiếng Việt trung đại. Trong phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam của tiếng Việt hiện đại phụ âm không còn tồn tại, nó đã biến đổi thành phụ âm trong phương ngữ Bắc và phụ âm trong phương ngữ Nam. Ngày nay, "dàn" và "giàn", "dì" và "gì" trong hai phương ngữ Bắc và Nam là đồng âm.
i: Không rõ từ đâu trong phương ngữ miền Nam, nếu ghép với một phụ âm cuối thì đa số đọc thành "Ư" ngoại trừ "M". Thí dụ: Inh/ưn,it/ưt,ích/ứt
k: Vay mượn từ tiếng Hy Lạp. Trong tiếng Hy Lạp chữ cái "k" biểu thị phụ âm . Trong chữ quốc ngữ phụ âm đầu được ghi lại bằng chữ "k" khi sau nó là nguyên âm "e" , "ê" , "i/y" , ghi bằng chữ "c" khi sau nó là nguyên âm "a", "ă", "â", "o", "ô", "ơ", "u", "ư". Mục đích là để tránh cho những người biết tiếng Bồ Đào Nha khỏi đọc sai vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ "c" khi đứng trước ba chữ "e", "i", "y" sẽ biểu thị phụ âm , chứ không phải là phụ âm .
kh: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ "h" vào phía sau. Phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ "χ") được chuyển tự sang tiếng Latinh thành "ch". Tiếng Việt trung đại cũng có phụ âm . Chữ quốc ngữ đã phỏng theo cách thức chuyển tự trên để ghi lại phụ âm của tiếng Việt trung đại bằng chữ cái ghép đôi "kh" (chữ cái ghép đôi "ch" đã dùng để ghi lại một phụ âm khác của tiếng Việt). Trong tiếng Việt hiện đại phụ âm không còn tồn tại trong phương ngữ Bắc, nó đã biến đổi thành phụ âm , phương ngữ Nam thì vẫn còn phụ âm này.
nh: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha và quốc ngữ chữ cái ghép đôi "nh" đều biểu thị phụ âm .
ô: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ o với dấu mũ dấu mũ (ˆ) "ô" biểu thị nguyên âm . Nguyên âm trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc nặng, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ o biểu thị độ cao của nó. "Ô" không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ cũng dùng chữ "ô" đề biểu thị nguyên âm giống như trong tiếng Bồ Đào Nha.
ph: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ "h" vào phía sau. Phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ "φ") được chuyển tự sang tiếng Latinh thành "ph". Tiếng Việt trung đại cũng có phụ âm nên chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi "ph" để ghi lại của tiếng Việt trung đại. Phụ âm không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm .
s: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Đa số phát âm "S" thành "X".
th: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ "h" vào phía sau. Phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ "τ") được chuyển tự sang tiếng Latinh thành "th". Tiếng Việt cũng có phụ âm nên chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi "th" để ghi lại phụ âm của tiếng Việt.Người Thủ Dầu Một xưa kia đa số phát âm sai "TH" thành "KH".
x: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái "x" khi đứng đầu từ luôn biểu thị phụ âm . Chữ quốc ngữ dùng chữ "x" để ghi lại một phụ âm của tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống với phụ âm là . Phụ âm không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm .
Vị thế pháp lý của chữ Quốc ngữ
Tuy bộ chữ Latinh cho tiếng Việt thường được gọi là "chữ Quốc ngữ", nó chỉ được xem như là một bộ chữ viết phổ thông thường dùng trên thực tế cho tiếng Việt hiện nay. Không có bất kỳ văn bản pháp lý nào ở cấp nhà nước quy định hay công nhận chữ Latinh là "Quốc tự" (chữ viết quốc gia) hay "văn tự chính thức". Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, chương I điều 5 mục 3 ghi là "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt", khẳng định tiếng Việt là Quốc ngữ nhưng không đề cập tới "Quốc tự".
Ở các văn bản thuộc lĩnh vực hành chính, tiếng Việt thường được viết bằng chữ Quốc ngữ theo "Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt" áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục, nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984. Ngoài lĩnh vực này, không có quy định nào yêu cầu người Việt trong đời sống hiện nay chỉ được viết tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ và cấm viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm. Hiến pháp chương I điều 5 mục 3 cũng ghi "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình", nên nếu có bộ luật hay quy định nào đó được đặt ra để cấm người Việt hiện tại viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm như người Việt xưa thì sẽ là một bộ luật vi hiến.
Dù chữ Latinh cho tiếng Việt đã được tạo ra bởi các tu sĩ Dòng Tên của Bồ Đào Nha và Ý vào thế kỷ XVII, nhưng sau 200 năm thì tiếng Việt vẫn được viết phổ biến bằng chữ Hán và chữ Nôm. Chính quyền phong kiến cũng không có luật công nhận văn tự chính thức, nên lúc đó vị thế của chữ Hán và chữ Nôm cũng chưa phải là Quốc tự. Tuy vậy chữ Nôm khi đó cũng hay được gọi là "Quốc âm", "Quốc ngữ". Người Việt cũng không có lý do gì để thay đổi chữ viết phổ biến, nên chữ Latinh cho tiếng Việt khi đó thường được dùng trong phạm vi xung quanh những nhà truyền giáo.
Phải đến thời kỳ Pháp thuộc ở cuối thế kỷ XIX, sau sự xâm lược của Thực dân Pháp, chính quyền Đông Dương ở Nam Kỳ đưa ra những quy định pháp lý bảo hộ chữ Latinh cho tiếng Việt thay thế chữ Hán và chữ Nôm, để khiến tiếng Việt đồng văn tự với tiếng Pháp cũng sử dụng chữ Latinh. Đồng thời chữ Latinh cho tiếng Việt cũng bắt đầu được gọi là chữ Quốc ngữ. Sang thế kỷ XX, mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ ra Bắc Kỳ. Từ đó tiếng Việt được viết phổ biến bằng chữ Latinh. Người Việt cũng dần bị "mù chữ" đối với chữ Hán và chữ Nôm.
Theo tư liệu trong "Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (25/5/1938)" do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 25/5/2008,70 năm thành lập Hội truyền bá quốc ngữ. Nhân Dân Online, 25/05/2008. Truy cập 20/07/2016. thì Hội ra đời ngày 25/5/1938. Ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc Kỳ là người Pháp công nhận sự hợp pháp của Hội, và Hội cho rằng đó là dấu mốc chắc chắn cho vị thế "chữ Quốc ngữ" của chữ Latinh cho tiếng Việt. Việc cổ động cho học "chữ Quốc ngữ" ở Việt Nam gắn với các phong trào cải cách trong giai đoạn 1890 - 1910 như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành, đã thừa nhận và cổ vũ học "chữ Quốc ngữ", coi là phương tiện thuận lợi cho học hành nâng cao dân trí .
Theo Tiến sĩ Trần Trọng Dương, sắc lệnh số 20 do Võ Nguyên Giáp ký năm 1945 "có quy định về việc sử dụng chữ Quốc ngữ và coi đó là chữ viết của nước mình."
Vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ
Từ giữa thế kỷ 20, một số người quan tâm tìm cách cải tiến chữ Quốc ngữ, và cho rằng cần làm giản tiện và hợp lí hơn. Tuy nhiên, cải tiến chữ viết là công việc khó khăn, phải được hàng triệu người chấp nhận, nên thực ra chưa có cải tiến nào được ứng dụng. Dưới đây là hai phương án nổi bật nhất từng được đưa ra:
Dự thảo "Phương án cải tiến chữ Quốc ngữ bước đầu" của Giáo sư Hoàng Phê Dự thảo Phương án cải tiến chữ Quốc ngữ bước đầu được Giáo sư Hoàng Phê xây dựng vào năm 1960-1961. Ông đã dựa vào cơ sở phân tích hệ thống ngữ âm tiếng Việt đã được các nhà Việt ngữ học (những người chuyên về âm vị học tiếng Việt) cơ bản chấp nhận. Bản dự thảo đã đề cập:
Các âm vị tiếng Việt và cách viết các âm vị (gồm âm vị nguyên âm đơn, âm vị phụ âm); Kết cấu âm tiết tiếng Việt và cách viết các âm tiết; Vấn đề thêm vần mới và vấn đề viết liền. Để cụ thể hoá một số ý kiến về nguyên tắc đã trình bày, ông nêu tóm tắt mấy điểm đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ trong bước đầu:
Bỏ H trong GH và NGH (vd: ghê >> gê, nghe >> nge, nghiêng >> ngiêng).
Dùng F thay PH; D thay Đ; Z thay D và GI (vd: dân tộc >> zân tôc, đất nước>> dất nước, phương pháp >> fương fáp).
Nhất luật viết phụ âm k bằng K trong mọi trường hợp, thay cho C, và nghiên cứu thay cả cho Q (vd như "Đường kách mệnh").
Nhất luật viết nguyên âm i bằng I trong mọi trường hợp: i (học), iêu (thương), iết (kiến), kì (lạ), mĩ (thuật). v.v. Chỉ dùng Y để viết bán nguyên âm i trong ay và ây.
Thêm W để viết bán nguyên âm u trong uy:uy, uya, uynh sẽ viết WI, WIA, WINH, và qui sẽ viết KWI (còn cui sẽ viết KUI).
Thêm W là để có thể bỏ vần bất hợp lí UY; đồng thời cũng để chuẩn bị để dần dần, trong bước sau, dùng W viết bán nguyên âm U đứng trước nguyên âm, thay cho các con chữ O và U: oa, oe, uê, ươ, uy viết WA, WE, WÊ, WƠ, WI.
Thực hiện viết liền những trường hợp rõ ràng là một từ (xãhội, káchmạng, chiếnsĩ, thiđua, chuẩnbị, fấnkhởi, vuivẻ, v.v.). Nói chung, các danh từ riêng cũng viết liền, trường hợp là tên người thì viết rời tên và họ (Việtnam, Hànội, Nguyễn Du, Trần Hưngđạo).
Căn cứ vào những nội dung đó, GS Hoàng Phê thử cụ thể hóa bằng việc viết lại bản Tuyên ngôn Độc lập (do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945).
Xin trích hai đoạn mở đầu:TWIÊNNGÔN DỘCLẬP (do Hồ Chủtịch dọc ngằi 2-9-1945) Tấtcả mọi người dều sinh ra có cwiền bìnhdẳng. Tạohóa cho họ những cwiền không ai cóthể xâmfạm được; trong những cwiền ấi, có cwiền dược sống, cwiền tựzo và cwiền mưucầu hạnhfúc. Lời bấthủ ấi ở trong bản Twiênngôn Dộclập năm 1776 của nước Mĩ. Swi rộng ra, câu ấi có í nghĩa là: tấtcả các zântộc trên thếzới dều sinh ra bìnhdẳng; zântộc nào cũng có cwiền sống, cwiền sungsướng và cwiền tựzo…Nguyên bản: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (do Hồ Chủ tịch đọc ngày 2-9-1945)
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Đề xuất "Phương án cải tiến chữ quốc ngữ" của Phó giáo sư Bùi Hiền
Phó giáo sư Bùi Hiền từng công bố một đề xuất "Phương án cải tiến chữ quốc ngữ" ở Báo Giáo dục và Thời đại số 72 ngày 8/9/1995. Đây chỉ là một nghiên cứu cá nhân mà ông Hiền theo đuổi từ lâu. Cuối năm 2017, sau một cuộc hội thảo thì đề xuất của ông được đưa ra truyền thông và đã có bàn cãi sôi nổi do những khác lạ trong lối viết "cải tiến" mà ông đưa ra. Bàn cãi lắng xuống khi các chuyên gia xác định nếu có cải tiến loại chữ viết mà hàng triệu người ở trong và ngoài nước đang sử dụng, thì sẽ không thể đơn giản như một cá nhân đề xuất.
Hỗ trợ trên máy tính
Các phông chữ Unicode chứa các chữ cái tiếng Việt; nằm rải rác trong phần "Latin Cơ bản", "Latin-1 Thêm", "Latin Mở rộng-A", "Latin Mở rộng-B", và Latin Mở rộng Thêm.
Chữ quốc ngữ có thể được biểu thị trong ASCII dựa trên quy ước như VIQR. Trước khi Unicode được dùng rộng rãi, các phông chữ TCVN3, VNI, và VISCII cũng đã được dùng để biểu thị tiếng Việt. Ngày nay UTF-8 là mã hoá được dùng rộng rãi trên máy tính cho tiếng Việt.
Nhiều bàn phím máy tính không hỗ trợ việc nhập trực tiếp các ký tự tiếng Việt. Điều này dẫn đến sự ra đời của các phần mềm cho phép thực hiện các phương pháp nhập ký tự tiếng Việt theo quy ước như Telex, VIQR hay VNI.
Xem thêm
Âm vị học tiếng Việt
Từ vựng tiếng Việt
Văn học Việt Nam
Tham khảo thêm
Francisco de Pina
Antonio Barbosa
Gaspar do Amaral
Alexandre de Rhodes
António de Fontes.
Ghi chú
Chú thích
Đọc thêm
Chiung, Wi-vun T. (2003). Learning Efficiencies for Different Orthographies: A Comparative Study of Han Characters and Vietnamese Romanization. PhD dissertation: University of Texas at Arlington.
Gregerson, Kenneth J. (1969). A study of Middle Vietnamese phonology. Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, 44, 135-193. (Published version of the author's MA thesis, University of Washington). (Reprinted 1981, Dallas: Summer Institute of Linguistics).
Haudricourt, André-Georges. (1949). Origine des particularités de l'alphabet vietnamien. Dân Việt-Nam, 3, 61-68.
Nguyen, Đang Liêm. (1970). Vietnamese pronunciation. PALI language texts: Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-87022-462-X
Nguyễn, Đình-Hoà. (1955). Quốc-ngữ: The modern writing system in Vietnam. Washington, D. C.: Author.
Nguyễn, Đình-Hoà. (1992). Vietnamese phonology and graphemic borrowings from Chinese: The Book of 3,000 Characters revisited. Mon-Khmer Studies, 20, 163-182.
Nguyễn, Đình-Hoà. (1996). Vietnamese. In P. T. Daniels, & W. Bright (Eds.), The world's writing systems, (pp. 691-699). New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-507993-0.
Nguyễn, Đình-Hoà. (1997). Vietnamese: Tiếng Việt không son phấn. Amsterdam: John Benjamins Publishing Company. ISBN 1-55619-733-0.
Pham, Andrea Hoa. (2003). Vietnamese tone: A new analysis. Outstanding dissertations in linguistics. New York: Routledge. (Published version of author's 2001 PhD dissertation, University of Florida: Hoa, Pham. Vietnamese tone: Tone is not pitch). ISBN 0-415-96762-7.
Thompson, Laurence E. (1991). A Vietnamese reference grammar. Seattle: University of Washington Press. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-8248-1117-8. (Original work published 1965).
Vietnamese a complete course for beginners của DANA HEALY do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 2001.
Giáo trình tiếng Việt chủ biên Bùi Tất Tươm do Nhà xuất bản GD.
Từ điển tiêu chuẩn Việt Anh của Lê Bá Khanh và Lê Bá Kông do Nhà xuất bản Mũi Cà Mau 1990.
Modern Vietnamese của Phan Văn Giưỡng Nhà xuất bản Saigon lưu chiểu 6/2009
Sơ thảo tốc ký Việt Nam của Ngọc Quang bản quay Roneo 5/1974 và bản Phụ tên quay Roneo của CC VK nha CS đô thành Saigon. |
Ơ, ơ là ký tự thứ 19 trong bảng chữ cái tiếng Việt.
Trong tiếng Việt, ơ là từ cảm thán thể hiện sự ngạc nhiên giống từ ô, ví dụ: "Ơ! Sao nó vẫn chưa về?" |
Mười điều răn là danh sách các mệnh lệnh đạo đức và tôn giáo, theo Kinh Thánh, được Thiên Chúa phán truyền Môi-sê ở núi Sinai và được khắc vào hai phiến đá. Mười điều răn đóng vai trò quan trọng trong Do Thái giáo và Kitô giáo.
Tên gọi Mười điều răn được ghi nhận ở 3 nguồn: một ở Sách Xuất Hành 34:28, ngày nay thường được gọi là Mười điều răn lễ nghi, Sách Đệ Nhị Luật 4:13 và 10:4, thường được cho là liên hệ đến các mệnh lệnh được liệt kê ở Đệ nhị luật 5:6-21 (và danh sách tương tự ở Xuất hành 20:2-17), và để tránh nhầm lẫn, bản này thường được gọi là Mười điều răn đạo đức. Trong hầu hết các trường hợp, thuật ngữ Mười điều răn chỉ dùng để nói đến Mười điều răn đạo đức.
Các văn bản nền tảng
Bản tiếng Việt của Công giáo Rôma
Bản tiếng Việt của Tin Lành
Sự sắp xếp
Chú thích
http://www.biblegateway.com/passage/?search=Xu%E1%BA%A5t%20H%C3%A0nh+20&version=VIET |
Ư, ư là kí tự thứ 26 trong bảng chữ cái tiếng Việt được dùng để biểu thị âm ɨ hoặc ɯ
Như với hầu hết các chữ cái đặc biệt của Việt Nam, chữ cái này không được hỗ trợ tốt bởi phông chữ và thường được gõ là u+ hoặc u*. Các VIQR giữa các ý kiến u+.
Bởi vì tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu cho nên kí tự này còn có thể kèm theo 5 dấu thanh:
Mã kí tự |
Tiếng Mân Nam là một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Hán-Tạng được nói như tiếng mẹ đẻ ở miền nam của Phúc Kiến, một tỉnh thuộc miền đông nam của Trung Quốc. Có người nói tiếng Mân Nam trong dân nhập cư ở Đài Loan, Quảng Đông (vùng Triều Châu-Sán Đầu và bán đảo Lôi Châu), Hải Nam, hai huyện ở vùng nam của Chiết Giang, và quần đảo Chu San gần Ninh Ba. Cũng có nhiều người biết nói tiếng Mân Nam thuộc dân Hoa ở Đông Nam Á và khắp nơi. |
Trà (hay chè theo phương Bắc bộ, tên khoa học: Camellia sinensis) là loài cây mà lá và chồi được sử dụng để sản xuất trà (đừng nhầm với cây hoa trà). Tên gọi sinensis có nghĩa là "Trung Quốc" trong tiếng Latinh. Các danh pháp khoa học cũ còn có Thea bohea và Thea viridis.
Trà xanh, trà ô long và trà đen tất cả đều được chế biến từ loài này, nhưng ở các mức độ oxy hóa khác nhau.
Đặc điểm
Camellia sinensis xuất xứ từ Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á, nhưng ngày nay nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa để thấp hơn 2 mét (6 ft) khi được trồng để lấy lá. Nó có rễ cái dài. Hoa trà màu trắng ánh vàng, đường kính từ 2,5–4 cm, với 7 - 8 cánh hoa. Hạt của nó có thể ép để lấy dầu.
Hạt của Camellia sinensis và Camellia oleifera được ép lấy tinh dầu trà, gia vị ngọt và dầu ăn không được trộn lẫn với tinh dầu trà. Tinh dầu thường được sử dụng làm thuốc và mỹ phẩm, có khởi nguồn từ lá của nhiều thực vật khác.
Lá của trà dài từ 4–15 cm và rộng khoảng 2–5 cm. Lá tươi chứa khoảng 4% caffein. Lá non có sắc xanh lục nhạt được thu hoạch để sản xuất trà. Ở thời đoạn đó, mặt dưới lá có lông tơ ngắn màu trắng. Lá già thì chuyển sang màu lục sẫm. Tùy lứa tuổi mà lá trà có thể dùng làm thành phẩm trà khác nhau vì thành phần hóa học trong lá khác nhau. Thông thường, chỉ có lá chồi và 2 đến 3 lá mới mọc gần thời gian đó được thu hoạch để chế biến. Việc thu hoạch thủ công bằng tay diễn ra đều đặn mỗi 1 đến 2 tuần.
Trồng trọt và phân bố
Trà thường được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi có lượng mưa tối thiểu là 127 cm. (50 inches) mỗi năm. Khí hậu ẩm ướt và nhiều nắng ấm là hai yếu tố chính. Ngoài khu vực lý tưởng kể trên, cây trà có thể sống suốt từ đường xích đạo lên đến miền nam nước Anh như Cornwall. trà ngon thường mọc ở cao độ trên 1.500 mét (4.900 feet) để cây trà phát triển chậm, tích tụ nhiều hương vị đậm đà.
Việt Nam
Cây trà tại Việt Nam đến giữa thế kỷ XX được trồng khắp miền quê ngoài Bắc và Trung (phương ngữ tại đây thường gọi là trà ), diện tích lớn nhất ở hai tỉnh Phú Thọ và Quảng Nam. Loại này thân mọc cao, lá lớn và dày, có thể hái về vò nát để nấu uống tươi gọi là trà xanh. Loại thứ hai là trà đồn điền du nhập từ phương Tây, cây thấp, lá nhỏ, thường phải ủ rồi mới nấu nước. Hạng nhất là trà búp (hoặc trà nõn tôm), có khi gọi văn vẻ là "trà bạch mao" hay "trà bạch tuyết" nếu búp có lông tơ trắng ở đầu ngọn. Hạng nhì là hai lá trà kế (còn có thể phân chia "một tôm một lá" tức lấy búp và một lá kế, và "một tôm hai lá" tức lấy búp và hai lá tiếp theo). Lá thứ tư, thứ năm là trà hạng ba. Những lá dưới nữa thì dùng làm trà mạn, rẻ hơn cả.
Đồn điền cây trà thì mãi đến năm 1924 thời Pháp thuộc mới bắt đầu hoạt động ở vùng Cao nguyên Trung Kỳ gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac và Đồng Nai Thượng. Sang thập niên 1930, trà được đem trồng một cách quy mô trên cao nguyên vùng B'lao và Djiring và vùng này sau chiếm địa vị là vựa trà .
Tính đến năm 1960, Việt Nam xuất cảng 2.000 tấn trà mỗi năm. Đến năm 2007 thì sản lượng trà của Việt Nam đã vượt một triệu tấn, canh tác trên 125.000 hecta.
Vào đầu năm 2016, thị trường lớn nhất mua trà Việt Nam là Pakistan chiếm khoảng 1/3 thị phần. Việt Nam cũng là nước xuất cảng trà đứng thứ năm trên thế giới. Tuy nhiên giá bán thấp hơn so với các nước khác vì phẩm chất kém, chỉ đạt 60-70% giá thị trường quốc tế.
Ấn Độ
Phần lớn trà được sản xuất tại Ấn Độ gọi là trà Assam (đôi khi nó được gọi là C. sinensis assamica hay C. assamica). Đây là loại cây nhỏ (thân đơn), lá to bản. Trong thiên nhiên, trà Assam có thể mọc cao đến 6 - 20 mét (20–65 ft); nhưng khi canh tác thì cây được xén kỹ chỉ còn cao nhỉnh hơn thắt lưng người. Ở những vùng đất trũng, cây trà cần độ ẩm cao (mưa nhiều) nhưng đất trồng phải ráo nước, không được úng. Những cây trà thuần hóa không chịu được nhiệt độ quá cao.
Cây trà Assam được phát hiện năm 1823 (mặc dù đã được người dân địa phương sử dụng làm đồ uống từ lâu). trà Assam sau đó được dùng là một trong hai giống trà gốc. Tất cả các cây trà Assam và phần lớn trà Ceylon (Tích Lan, nay là Sri Lanka) có nguồn gốc từ giống cây này. trà Assam có hương vị ngọt khi pha nước uống, không giống như vị các loại trà Trung Hoa.
Campuchia
Trà Campuchia đôi khi được gọi là C. sinensis parvifolia. Lá trà này về kích thước trung bình, giữa lá trà Assam và lá trà Trung Quốc; nó là một loại cây nhỏ, dạng bụi. Đôi khi người ta coi biến thể này là sản phẩm lai ghép của trà Assam và Trung Quốc.
Trung Quốc
Trà Trung Quốc (đôi khi gọi là C. sinensis sinensis) là loài cây lá nhỏ, nhiều thân mọc thành bụi rậm cao tới 3 mét. Đây là loại trà đầu tiên được ghi nhận với lịch sử trong văn tịch hơn 3000 năm, trà này được dùng sản xuất nhiều loại trà nổi tiếng.
Sâu bệnh
Lá trà là thức ăn của nhiều loài động vật ăn cỏ, như các loài sâu bướm thuộc họ Peribatodes rhomboidaria, Geometridae.
Hiệu quả sức khỏe
Lá trà được dùng trong Đông y để trị hen phế quản (như một loại thuốc trị hen suyễn), nhiệt miệng, đau thắt ngực, bệnh tim mạch vành và bệnh mạch máu ngoài.
Ngày nay, trà xanh phổ biến khắp nơi, là thức uống rất có lợi cho sức khỏe, góp phần ngừa ung thư, giảm cholesterol, diệt khuẩn và giảm cân. Trà chứa lượng lớn catechin, một chất chống oxy hóa. Trong các hoạt tính, (-)-catechin từ C. sinensis làm kích thích PPARgamma, thụ quan hạt nhân, là mục tiêu dược lý hiện hành cho điều trị đái tháo đường loại 2.
Tuy nhiên, ngày nay trà cũng có tác dụng xấu đến sức khỏe, như chứa caffein vượt mức cho phép, nhiều loại trà còn chứa flo và oxalat.
Thư viện ảnh |
Chè trong tiếng Việt có thể là:
Một trong số các tên gọi của loài thực vật có tên khoa học là Camellia sinensis, thường được dùng phần lá, ngọn (búp)... để sản xuất các loại chè uống (còn gọi là trà). Xem bài Chè (thực vật).
Tên gọi của một số món ăn trong nghệ thuật ẩm thực Việt Nam, được nấu chủ yếu từ gạo và/hoặc đỗ (đậu) cùng với đường và một số nguyên liệu khác để tạo hương vị. Xem thêm bài Chè (ẩm thực).
Bánh chè là tên của một mảnh xương tròn trước đầu gối, giữa hai mối nối xương đùi và xương cẳng chân.
Trà (định hướng) |
Nhị thập bát tổ (chữ Hán: 二十八祖), hay đầy đủ hơn là Tây Thiên Nhị thập bát tổ (chữ Hán: 西天二十八祖), là danh xưng trong Phật giáo Thiền tông nhằm để chỉ 28 vị đại sư Phật giáo được xếp là Tổ sư Thiền gốc Ấn. Theo đó, Phật giáo Thiền tông khai thủy từ sự kiện Thích-ca Mâu-ni tại hội Linh Sơn thông qua hành động "Niêm hoa vi tiếu" đã truyền pháp cho Ma-ha Ca-diếp tôn giả. Ca-diếp sau đó được tông là Đệ nhất thủy tổ của Thiền tông, truyền thừa đến Bồ-đề-đạt-ma, tổng cộng được 28 đời, được ghi chép với tên gọi cụ thể như sau:
Danh sách
Ma-ha-ca-diếp (zh. 摩訶迦葉, sa. mahākāśyapa)
A-nan-đà (zh. 阿難陀, sa. ānanda)
Thương-na-hòa-tu (zh. 商那和修, sa. śānavāsin)
Ưu-ba-cúc-đa (zh. 優婆掬多, sa. upagupta)
Đề-đa-ca (zh. 提多迦, sa. dhītika)
Di-già-ca (zh. 彌遮迦, sa. miśaka)
Bà-tu-mật (zh. 婆須密, sa. vasumitra, cũng gọi là Thế Hữu)
Phù-đà-nan-đề (zh. 浮陀難提, sa. buddhanandi, hoặc Phật-đà-nan-đề 佛陀難提)
Phù-đà-mật-đa (zh. 浮陀密多, sa. buddhamitra, hoặc Phật-đà-mật-đa 佛陀密多)
Bà-lật-thấp-bà (zh. 婆栗濕婆, sa. pārśva, cũng gọi là Hiếp tôn giả 脅尊者)
Phú-na-dạ-xa (zh. 富那夜奢, sa. puṇayaśa)
A-na-bồ-đề (zh. 阿那菩提, sa. ānabodhi, hoặc Mã Minh 馬鳴, sa. aśvaghoṣa)
Ca-tì-ma-la (zh. 迦毘摩羅, sa. kapimala)
Long Thụ (zh. 龍樹, sa. nāgārjuna, cũng gọi Na-già-hạt-thụ-na 那伽閼樹那)
Ka-na-đề-bà (zh. 迦那提婆, sa. kāṇadeva, hoặc ngắn là Đề-bà 提婆, hoặc Thánh Thiên, sa. āryadeva)
La-hầu-la-đa (zh. 羅睺羅多, sa. rāhulabhadra)
Tăng-già-nan-đề (zh. 僧伽難提, sa. saṃghanandi)
Tăng-già-xá-đa (zh. 僧伽舍多, sa. saṃghayathata)
Cưu-ma-la-đa (zh. 鳩摩羅多, sa. kumāralāta)
Xà-dạ-đa (zh. 闍夜多, sa. śayata)
Thế Thân (zh. 世親, sa. vasubandhu, hoặc Thiên Thân 天親, Bà-tu-bàn-đầu 婆:|)
Ma-noa-la (zh. 摩拏羅, sa. manorata)
Cưu-lặc-na (zh. 鳩勒那, sa. haklenayaśa, hoặc Hạc-lặc-na 鶴勒那)
Sư Tử Bồ-đề (zh. 師子菩提, sa. siṃhabodhi)
Bà-xá-tư-đa (zh. 婆舍斯多, sa. baśaṣita)
Bất-như-mật-đa (zh. 不如密多, sa. puṇyamitra)
Bát-nhã-đa-la (zh. 般若多羅, sa. prajñādhāra)
Bồ-đề-đạt-ma (zh. 菩提達磨, sa. bodhidharma) |
Nhạc vàng là dòng nhạc trữ tình lãng mạn bắt nguồn từ thời tiền chiến và tiếp tục phát triển ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954–1975. Nhạc vàng khi phân biệt với các dòng nhạc khác thường xoay quanh các vấn đề giai điệu, tiết tấu, lối hát, hòa âm, nội dung sáng tác, tư tưởng chính trị.
Nguồn gốc
Buổi ban đầu, nền tảng phát triển của nhạc vàng là sự tiếp nối của phong cách tân nhạc được khai phá từ những thập kỷ 1930–1940 (còn gọi là nhạc cải cách) rồi pha trộn với những yếu tố dân ca trữ tình truyền thống của Nam Bộ mà tạo nên nét đặc trưng của dòng nhạc này. Giống như hầu hết các dòng tân nhạc khác của Việt Nam hình thành từ trước năm 1975, sự phát triển của nhạc vàng bị chi phối rất mạnh bởi hoàn cảnh lịch sử - chính trị của nó, đặc biệt là sự chia cắt đất nước bởi Chiến tranh Việt Nam. Nhạc vàng được xem là một trong những trào lưu văn hóa của thời Pháp thuộc, Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa với nhiều ca khúc từ 1930 đến 1975 và lẫn hải ngoại sau này.
Đặc điểm
Đặc trưng của các sáng tác nhạc vàng là lời ca trữ tình bình dân được viết trên những giai điệu chậm buồn đều đều (bolero, rumba, ballade...), âm hưởng dân ca, hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc trầm. Đôi khi nhạc vàng còn được dùng chỉ các bài thời tiền chiến hay "tình khúc 1954–1975" chậm buồn nhưng giai điệu khác với nhạc vàng, hay một số bài đậm chất dân gian nhưng không mang đặc trưng của nhạc vàng theo nghĩa phổ thông (nhiều bài đậm chất dân gian theo điệu chachacha). Đặc trưng của dòng nhạc vàng là lời ca giản dị, câu nhạc dễ nghe, chất chứa nỗi niềm của một bộ phận trong xã hội, chủ yếu là những người nghèo, bình dân. Dòng nhạc vàng có thể xem là chính thức định hình và đạt tới giai đoạn hoàng kim của nó trên phần đất Nam Việt Nam trong giai đoạn 1955–1975.
Điệu Bolero Việt Nam được sử dụng phổ biến nhất trong các bài nhạc vàng. Tuy nhiên, không phải bài nhạc vàng nào cũng viết theo giai điệu bolero và bolero chỉ là một phần thuộc nhạc vàng. Một số nhạc sĩ các dòng khác cũng có thể sử dụng bolero để sáng tác.
Trong Tân nhạc Việt Nam, nhạc vàng được xếp vào dòng nhạc nhẹ, nhiều bài ảnh hưởng dân ca ở mức độ khác nhau, do đó thường hát với một dàn nhạc nhẹ, đôi khi có các nhạc cụ dân tộc. Về cấu trúc thường A-B-A, theo cấu trúc phổ biến âm nhạc đại chúng thế giới khi đó, nhịp điệu tiết tấu ít biến đổi thường 4/4. Chủ đề các bài hát thường là mô tả tâm trạng cá nhân, kể chuyện, xoay quanh nghèo, thất tình, quê hương hay người lính... Hát thường giọng ngực, ít nốt cao, nặng tự sự giải bày nên coi trọng tròn chữ, ngọt ngào phù hợp tâm lý đối tượng hay nghe dòng này.
Nhạc vàng là sự liên kết giữa dân ca với nhạc nhẹ, nhạc ballad của phương Tây. Vì vậy, nhạc vàng cũng chịu ảnh hưởng của các trào lưu nhạc nhẹ phổ biến trên thế giới khi đó. Thuật ngữ nhạc nhẹ ở Việt Nam là dịch từ tiếng Nga, ám chỉ nhạc đại chúng. Lúc đầu nhạc nhẹ là chỉ một phong trào cách tân nhạc cổ điển ở Anh (về sau hay được hiểu là vừa có chất cổ điển lại có chất đại chúng), sau đó nhạc nhẹ hay được dùng từ giữa thế kỷ 19 như là một sự thoát ly nhạc cổ điển và dần hình thành nên nhạc đương đại sau này. Nó được ám chỉ cho các sáng tác dễ nghe, nhẹ nhàng. Nhạc vàng thường có cấu trúc đơn giản, thường có chất ballad có chất thơ / văn vần, nhưng cũng có thể đậm chất văn nói.
Trên thực tế hiện nay, rất nhiều ca sĩ trình bày các tác phẩm cũ theo các phong cách khác nhau, pha tạp các trào lưu và nhạc cụ mới nên giai điệu bài hát thường không còn đúng theo nguyên gốc.
Tên gọi
Từ nhạc vàng bắt chước từ Trung Quốc, vì trong Hán ngữ nhạc màu vàng (黃色音樂, Hán Việt: hoàng sắc âm nhạc) được hiểu là nhạc tình thời thượng của thập niên 1930, dòng nhạc này phổ biến ở Thượng Hải. "Nhạc màu vàng" theo đó bị coi "là thứ âm nhạc lãng mạn bi quan, hoặc khêu gợi tình dục và những khát vọng thấp kém của xác thịt". Trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, Trung Quốc cũng có hai màu nhạc chính là hồng ca (nhạc đỏ, nhạc cổ vũ quân sự chính trị) và hoàng ca (nhạc vàng, nhạc trữ tình thời thượng được cho là có xuất xứ từ Thượng Hải thời kỳ quân phiệt), nhạc vàng Trung Quốc bị coi là dòng nhạc phản động, khêu gợi luyến ái và có tính chất có hại cho sự nghiệp xây dựng đất nước và phát triển văn hóa lành mạnh.
Theo người sáng tác
Theo nhạc sĩ Tuấn Khanh "Bolero sau nửa thế kỷ, mới tạm định hình với cái tên hiện nay. Trước đó, mỗi khúc quanh của thời cuộc lại đặt để cho hàng chục ngàn bài tình ca đô thị miền Nam này mỗi cái tên khác như nhạc sến, nhạc mùi, nhạc bình dân... và rồi là nhạc vàng".
Theo Phạm Duy thì "Có sự thành công của những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến"
Theo báo chí trong nước trước năm 1975
Theo tuần báo nghị luận Đời Mới xuất bản Sài Gòn 1954, số 130: "Âm nhạc của chúng ta không chỉ có Quốc nhạc và nhạc Tây phương, mà còn có dòng nhạc Cải cách. Mười mấy năm nay, chẳng phải có một thế hệ nhạc sĩ sáng tác "nhạc Tây" nhưng "hồn Việt" đó sao. Chúng ta có Văn Cao, Lưu Hữu Phước rất sành nhạc cổ điển Tây phương, có một Phạm Duy sáng tác dân ca cải cách, có một Lê Thương dám sáng tác cả trường ca đồ sộ...Tuy nhiên so sánh với mấy nước láng giềng thôi, như Nhật Bổn, Tân Gia Ba, thì âm nhạc của chúng ta vẫn thua kém họ nhiều lắm. Chúng ta còn yếu về nhạc cổ điển, thậm trí yếu cả sáng tác nhạc cho trẻ em, mà vài năm nay thì chỉ mạnh lên có mấy sáng tác theo thị hiếu nhất thời nông nổi của lứa tuổi choai choai, "kề làn môi hương tình ngây ngất" văng vẳng trên sóng phát thanh... Nhiều hơn cả là sáng tác theo mấy điệu nhạc khiêu vũ thịnh hành ở Lạp Đinh Mỹ Châu (mambo, chachacha, rumba, bolero, tango, samba,...), đầu Ngô mình Sở, chỉ cần mấy nhạc cụ đơn giản Tây ban cầm, Hạ uy di là có thể nghêu ngao khắp phố phường. Một vài nhạc sĩ cũng muốn thoát khỏi "Nhớ nhung", "Trăng chờ"... để quay lại với "Việt Nam anh dũng", "Thúc quân", nhưng chỉ như ngọn đèn lung lay trước bão. Đến "Hòn vong phu" của Lê Thương còn có ý kiến cho yếu đuối, hoài cổ, mấy sáng tác "lãng mạn cách mạng" của Trần Hoàn, hay mấy bản dân ca tự tôn dân tộc của Phạm Duy, ngày càng lép vế với nhạc tình kiểu "Khúc nhạc tương tư" của Ngọc Bích mà người sáng tác bê về thành hay mấy bài của Đoàn Chuẩn, vốn đang ăn khách gần đây...Thật ra thị hiếu quần chúng cũng là do nhạc sĩ dẫn dắt, một vòng luẩn quẩn..."
Theo báo chí trong nước sau năm 1975
"Nhạc vàng để chỉ các ca khúc trữ tình lãng mạn thời tiền chiến và trong vùng do chế độ Sài Gòn kiểm soát. Các ca khúc này có thể được xem là thuộc dòng nhạc nhẹ, với các thể điệu phổ biến như bolero, rumba, slow, tango, chachacha, boston,..., với đặc trưng là dễ hát, dễ đi vào quần chúng bình dân. Nhạc cổ điển không phát triển trong chế độ cũ, mặc dù có Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn và Trường Quốc gia Âm nhạc Huế, nhưng giáo trình nghèo nàn... Các nhạc sĩ có năng lực sáng tác nhạc cổ điển như Nghiêm Phú Phi thì "thất nghiệp" phải đi làm hòa âm, còn Hoàng Thi Thơ thì sáng tác nhạc đại chúng, nhạc giải trí vì nó dễ kiếm tiền. Thiếu vắng "nhạc hùng", nhạc cổ điển "mới" có thể chơi với dàn nhạc giao hưởng, họ hay "mượn tạm" các ca khúc thời kháng Pháp, sửa lời, và một số sáng tác thời Pháp chiếm như Hòn vọng phu (Lê Thương), "Hội trùng dương" (Phạm Đình Chương), giai điệu khá đơn giản nhưng có tính dân tộc có giá trị đáng kể về mặt nghệ thuật... Một nền âm nhạc phân chia giai cấp và ảnh hưởng của thị trường khiến cho sự phân loại không dễ dàng... Nhưng phổ biến hơn cả, là hai dòng "nhạc sang" và "nhạc sến" đều là những khái niệm ra đời ngay trong lòng của thị trường âm nhạc thời đó. Dù là sang hay sến, dù là Văn Phụng, Ngô Thụy Miên, Lam Phương, hay Vinh Sử, thì đều là nhạc nhẹ với cái tên chung là nhạc thời trang (tức là nhạc thị trường bây giờ). Do tác động của kinh tế thị trường, ít tác phẩm có chiều sâu về nghệ thuật, nên năm 1970 một số văn nhạc sĩ như Nguyễn Đình Toàn, Ngọc Chánh, Hoàng Trọng, Hoàng Nguyên, Phạm Mạnh Cương,... đã giới thiệu nhiều tác phẩm có giá trị hơn của "thời tiền chiến" và đặt cho nó cái tên là nhạc tiền chiến, với những bài cả dòng nhạc nhẹ lẫn nhạc cổ điển và bán cổ điển. Cái tên này chỉ là để phân biệt với nhạc thời trang hay "nhạc thương phẩm" theo Phạm Duy lúc đó...Để chiều theo thị hiếu, khác với miền Bắc lúc đó đề cao nhạc cổ điển và dân ca, hát theo lối Bel canto, trừ một số rất ít thế hệ cũ như Thái Thanh, Kim Tước, thì hầu hết các ca sĩ miền Nam hát theo lối hát truyền thống, giọng trầm tròn vành rõ chữ. Đối với dòng "nhạc vàng" phổ biến nhất lúc đó, thì bên cạnh phối theo nhạc nhẹ, hát bằng giọng Bắc, dù không hay ít ảnh hưởng dân ca, còn có thể chơi với dàn nhạc dân gian (dù trên thực tế là hiếm trước 1975) và hát giọng Nam với một số ít các bài hát ảnh hưởng sâu sắc dân ca Nam Bộ. Lối hát "giọng mũi" là đặc trưng của nhạc điệu bolero, và phù hợp "giọng bẹt" của người miền Nam, mà làm cho nó càng trở nên mùi mẫn... Trong số các nhạc sĩ thời đó, nổi bật nhất là Trịnh Công Sơn, dù chỉ là những bản ballad nhẹ nhàng chịu ảnh hưởng nhạc phương Tây "đương đại", giai điệu đơn giản, không cầu kỳ, tiết tấu nhịp nhàng "dễ chịu", nhưng hồn thơ thì thấm đẫm..." Tuy nhiên Trịnh Công Sơn ít khi được xem là nhạc sĩ nhạc vàng, mà ông được xem là có dòng nhạc cho riêng mình.
Quá trình phát triển
Giai đoạn trước năm 1975
Ở phía Nam vĩ tuyến 17
Tại miền Nam, nhạc vàng phát triển thành nhiều phong cách, từ nhạc tình tự quê hương với biến thể từ dân ca Nam Bộ, nhạc lính, bolero kể chuyện, "kích động nhạc",... Bài hát điệu Rumba đầu tiên là Trăng sơn cước của Văn Phụng và Văn Khôi viết năm 1949, còn bài hát điệu bolero đầu tiên là Nắng chiều của Lê Trọng Nguyễn năm 1952.
Nhiều sáng tác của các nhạc sĩ nổi tiếng được xem là có đóng góp cho Tân nhạc Việt Nam nhiều ca khúc có giá trị như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Cung Tiến,... thời kỳ này cũng được xem là nhạc vàng, căn cứ cụ thể vào từng bài hát của họ. So với thời kỳ thập niên 1950 về trước, sáng tác của Phạm Duy có những chuyển biến rất đa dạng, nhiều đề tài, thái độ từ tâm linh, tôn giáo, xã hội và một số mang màu sắc thị trường như dòng nhạc trẻ, nhạc vỉa hè. Trịnh Công Sơn thì ảnh hưởng nhiều bởi chủ nghĩa hiện sinh, thái độ lạc lõng bơ vơ, "nổi loạn tinh thần" và mang màu sắc vô thần (tư tưởng này có một số nét trùng lặp giống chủ nghĩa cộng sản về lý thuyết), nên nhạc Trịnh được coi là một dòng nhạc riêng biệt chứ không phải nhạc vàng.
Những hãng phát hành băng và đĩa nhạc cũng cho ra nhiều sản phẩm với danh hiệu "nhạc vàng" như hãng Hương Giang, hãng Dạ Lan của nhạc sĩ Anh Bằng, và hãng Shotguns của Ngọc Chánh. Nhạc vàng sau đó được hiểu là thể loại nhạc tình êm dịu có tình yêu quê hương, tình yêu lứa đôi hoặc có nỗi lòng riêng tư của lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Ở phía Bắc vĩ tuyến 17
Phong trào bài trừ "nhạc màu vàng" ở Trung Quốc thời Mao Trạch Đông lan sang miền Bắc Việt Nam. Nhà nước chống nhạc "ủy mị" vì thiếu tinh thần đấu tranh cách mạng. Cả nhạc vàng lẫn dòng nhạc tiền chiến thịnh hành trước năm 1954 cũng không được hát. Đối lập với nhạc vàng bị cấm đoán là nhạc đỏ, tức dòng nhạc nêu cao tinh thần cách mạng, mục tiêu đấu tranh giai cấp và cổ vũ những người Cộng sản chiến đấu.
Giai đoạn sau năm 1975
Trong nước
Đối với người Việt hải ngoại thì nhạc vàng là một dòng nhạc chủ đạo trong thị hiếu người nghe nhạc và cùng với tình khúc 1954-1975 trở thành dòng nhạc chủ đạo của tân nhạc hải ngoại, tuy nhiên ranh giới giữa hai dòng nhạc này không còn rõ rệt như thời kỳ trước năm 1975.
Đến đầu thế kỷ 21, nhạc vàng bắt đầu thoái trào ở hải ngoại. Những khán giả gốc Việt thích nghe nhạc vàng đã lớn tuổi và dần qua đời, trong khi lớp thanh niên trẻ gốc Việt sinh ra ở Âu - Mỹ thì đã chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa, âm nhạc bản xứ nên chỉ thích nghe nhạc Âu - Mỹ, họ ngày càng ít quan tâm đến các dòng nhạc tiếng Việt. Vì vậy, thị trường văn nghệ hải ngoại ngày càng thu hẹp, các trung tâm chuyên trình diễn nhạc vàng ở hải ngoại phải thu hẹp dần hoạt động. Từ năm 2007, nhiều nghệ sĩ chuyên hát nhạc vàng ở hải ngoại đã bắt đầu từ hải ngoại trở về Việt Nam để tìm kiếm cơ hội phát triển sự nghiệp.
Nghệ sĩ nổi bật
Nhạc sĩ: Anh Bằng, Anh Việt Thanh, Anh Việt Thu, Bảo Thu, Bắc Sơn, Bằng Giang, Châu Kỳ, Dzũng Chinh, Đài Phương Trang, Đinh Miên Vũ, Đinh Trầm Ca, Giao Tiên, Hàn Châu, Hoài An, Hoài Linh, Hoài Nam, Hoàng Phương, Hoàng Thi Thơ, Hoàng Trang, Hồng Vân, Huỳnh Anh, Khánh Băng, Lam Phương, Lê Dinh, Lê Minh Bằng (nhóm), Lê Mộng Bảo, Minh Kỳ, Mạnh Phát, Mặc Thế Nhân, Ngân Giang, Nhật Ngân, Phạm Mạnh Cương, Phạm Thế Mỹ, Quốc Dũng, Song Ngọc, Tâm Anh, Tô Thanh Sơn, Tô Thanh Tùng, Thanh Sơn, Trần Long Ẩn, Trầm Tử Thiêng, Trần Thiện Thanh, Trịnh Lâm Ngân (nhóm), Trúc Phương, Tú Nhi, Tuấn Hải, Vinh Sử, Y Vân, Y Vũ, ...
Ca sĩ: Anh Khoa, Băng Châu, Băng Tâm, Bảo Yến, Bùi Thiện, Cẩm Ly, Châu Ngọc Hà, Chế Linh, Chế Thanh, Dalena Morton, Dương Hồng Loan, Duy Khánh, Duy Quang, Duy Trường, Dương Ngọc Thái, Đàm Vĩnh Hưng, Đan Nguyên, Đặng Thế Luân, Đình Văn, Giang Tử, Giao Linh, Hà Thanh Xuân, Hạ Vy, Hoài Lâm, Hoài Nam (hải ngoại), Hoàng Oanh, Hoàng Thục Linh, Hùng Cường, Huỳnh Nguyễn Công Bằng, Huỳnh Phi Tiễn, Hương Lan, Hương Thủy, Kim Anh, Lệ Quyên, Lưu Chí Vỹ, Lưu Hồng, Mai Lệ Huyền, Mai Thiên Vân, Mạnh Đình, Mạnh Quỳnh, Mỹ Huyền, Ngọc Huyền, Ngọc Ngữ, Ngọc Sơn, Nhật Trường, Như Quỳnh, Phi Nhung, Phương Anh, Phương Dung, Phương Hồng Quế, Phượng Mai, Quang Lê, Quang Linh, Quỳnh Dung, Sơn Ca, Sơn Tuyền, Tâm Đoan, Thái Châu, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Thạch Thảo,Thế Sơn, Trung Chỉnh, Trường Vũ, Tuấn Vũ, Tường Nguyên, Y Phụng, Yên Khoa, ...
Đánh giá |
Nghệ thuật Thiền tông Phật giáo là một loại hình nghệ thuật có nguồn gốc từ Thiền tông. Các thiền sư đã mượn các nghệ thuật này để miêu tả những kinh nghiệm hay chứng nghiệm cũng như để tạo ra môi trường phù hợp cho việc tu học.
Nhiều nghệ thuật Thiền có xuất xứ từ Trung Hoa nhưng đa số các nghệ thuật này lại phát triển mạnh tại Nhật. Tại đây nghệ thuật Thiền trở nên rất đa dạng trong đó bao gồm các lĩnh vực như kiến trúc, hội họa, trà đạo, thơ Thiền, cắm hoa và ẩm thực.
Alan Watts, một học giả về triết học Đông Phương, nhận xét: nghệ thuật Thiền tông là nghệ thuật của phi nghệ thuật, nghệ thuật của sự điều khiển các bất thường.
Kiến trúc
Với ảnh hưởng của Thiền tông, bắt đầu từ thời Kamakura (1185-1333) các chùa Nhật theo Thiền tông đã có nhiều thay đổi về kiến trúc:
Đơn giản đi và trở về với kiểu Shinto.
Thêm vào là các bức tường giấy ngăn không gian nội thất. Giấy này được làm từ lúa gạo.
Các cửa sổ và màn che được trổ thêm ra phía vườn làm chỗ lấy ánh sáng để đọc và viết gọi là kiểu dáng shoin.
Ngày nay, các kiểu dáng shoin này đã được tiếp nối qua các thiết kế chi tiết thêm vào của các trà đường.
Các kiến trúc Thiền đã thể hiện tính cởi mở, nhẹ nhàng, và hoà vào thiên nhiên giúp rất nhiều có các ngôi nhà hay đền đài Nhật Bản vượt qua được thử thách của các địa chấn. Tuy nhiên, mục tiêu chính của kiểu kiến trúc này là để tạo bầu không khí an nhiên và cởi mở của tâm.
Vườn Thiền
Các ngôi vườn Phật giáo thì đã có từ rất lâu (thế kỉ thứ 6), nhưng những nét đặc trưng về khung cảnh khô (dry landscape) của kiến trúc vườn Thiền mãi đến thế kỷ 14 mới bắt đầu. Một số vườn Thiền chỉ bao gồm sự kết hợp của các khối đá. Tuy nhiên những điểm nổi bật của một mảnh vườn Thiền Nhật Bản thường là:
Khung cảnh khô tạo nên một sắc thái giống các tranh vẽ 3 chiều.
Mảnh vườn không quá lớn, về kích cỡ gần với một sân chơi nhỏ hơn là một khu vườn.
Có dùng tới các hiệu ứng tâm lý tạo cảm giác về không gian và khoảng cách như là việc thiết trí các cây bonsai nhỏ làm nền. Các non bộ (hay tảng đá) được đặt cẩn thận gợi cảm của núi non hùng vĩ.
Cát được trải thành các dòng chảy nhỏ, tạo ra hình ảnh của nước.
Cách bài trí không đối xứng, dùng cây cỏ sắp xếp giản dị và là loại cây dễ tìm. Phản ánh khung cảnh thiên nhiên.
Triết lý của vườn Thiền là một sự cố gắng thể hiện cốt tủy của thiên nhiên hơn là một sự bắt chước thiên nhiên. Do đó, các mảnh vườn này có thể rất trừu tượng.
Hội họa
[[Tập tin:BoDeDatMa.jpg|nhỏ|Tranh Thiền: Bồ Đề Đạt Ma của Hakuin Ekaku (1689-1796) tông Lâm Tế (Rinzai)]]
Tranh Thiền đã xuất hiện ở Trung Hoa từ cuối đời Đường khi sang đến đời Tống thì nghệ thuật này phát triển khá mạnh. Tranh Thiền được du nhập sang Nhật vào đâu thế kỷ 15 do sự phổ biến của Josetsu. đến nửa sau thế kỷ 15 thì kỹ thuật vẽ tranh Thiền tại Nhật tiến thêm một bước nhờ vào việc phát triển các kỹ thuật vẽ mới của sư Sesshu Toyo (1420-1506). Đó là kỹ thuật shin để vẽ những nét gãy to, bén và kỹ thuật so để vẽ các đường mờ dùng cho vẽ cảnh. Một số đặc tính của tranh Thiền là:
Tranh thiền là một loại tranh vẽ khó thực hiện vì đòi hỏi người vẽ có sức tập trung cao.
Được vẽ trên loại giấy rất mỏng dễ rách nên nét vẽ không thể dừng lâu ở một chỗ và cũng không thể bôi sửa vì sẽ làm rách giấy.
Mỗi một nét vẽ cần có sự định thần và nét đi cọ phải dứt khoát đều đặn mới có thể thành công trong một bức hoạ.
Thường chỉ vẽ bằng một màu mực đen.
Đây là một phương pháp để các thiền sinh hay thiền sư thể nghiệm sức định của tâm trí.
Nhiều tranh Thiền đặt vị trí con người vào quan hệ thực chất với thiên nhiên và vũ trụ mà không thể diễn tả được bằng lời.
Mục tiêu của các bức tranh là chỉ ra trạng thái của tâm.
Loại tranh Thiền được biết đến nhiều nhất là loại tranh chăn trâu có tên Thập Mục Ngưu Đồ. Nội dung của 10 bức tranh miêu tả các giai đoạn của việc tu tập Thiền. Thật ra, trong Phật giáo Đại thừa cũng có tranh trâu nhưng hai loại này có khác nhau vì mục đích diễn tả. Cụ thể tranh chăn trâu Đại thừa nói về quá trình làm chủ tâm trong khi tranh Thiền tông thu gọn trong việc thấy tánh hay thấy được các ý tưởng và tư duy của chính thiền giả nhằm cắt đứt các nguồn tư tưỏng tạo nên cái "tôi". Ngoài ra, hình ảnh trâu trong tranh Đại thừa có chuyển hóa dần từ đen sang trắng cho thấy quá trình chuyển hóa việc làm chủ bản ngã trong khi màu của trâu trong tranh Thiền thì không đổi thể hiện sự đốn ngộ.
Thư pháp
Song song với sự phát triển của hội họa Thiền thì thư pháp Thiền cùng ra đời và phát triển. Ban đầu thư pháp được viết chung với các tranh thiền như là các lời minh họa ý dưới dạng thơ hay vài từ ngắn gọn. Về sau thì thư pháp được tách ra. Tuy nhiên về mục đích thì vẫn như các tranh Thiền. Những thư pháp Thiền của Nhật (tức là sumi-e) xuất hiện sớm vào thời kì Kamakura (1185-1333). Tuy nhiên, chính những đóng góp tại Nhật mới làm cho nghệ thuật này trở thành một nghệ thuật được sự thán phục tại Tây phương. Một số đặc tính của thư pháp Thiền là:
Mực pha bằng các khối nhỏ gọi là sumi làm từ nhọ đen của đèn trộn với keo. Mực khi dùng được nhúng ướt và mài cho tới khi đạt được độ đậm nhạt vừa ý.
Cọ từ lông thú. Nó được nhúng nước và để cho khô trước khi dùng. Khi viết cọ được nhúng ngập trong mực được giữ trong tư thế thẳng đứng với giấy và được viết những nét cọ nhanh chắc chắn và có các độ dày khác nhau.
Bởi vì thư pháp Thiền không cho phép những sai sót nên nó thể hiện trạng thái của tâm.
Các nét cọ quét và biến đổi theo cùng lúc và không dự đoán trước cũng như không tuân theo phép tắc nào.
Thơ thiền
Thơ Thiền còn được gọi là Kệ. Tiếng Phạn, đó là "gà thà", có nghĩa là tụng, ngợi, ca, tán dùng để khẳng định giáo lý, kinh nghiệm, truyền tâm pháp cho đệ tử. Thơ Thiền Trung Hoa đã phát triển mạnh từ thời nhà Đường. Tuy nhiên, hầu hết các học giả phương Tây cho rằng thơ Thiền là kiểu thơ haiku của Nhật.
Thơ Thiền Nhật ban đầu cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa, nhưng đến thế kỉ 15 khi thể thơ renga ra đời thì nó phát triển rực rỡ. Đến thế kỉ 19 nó trở thành thơ haiku 5 dòng, mỗi dòng 17 âm, hay 5 âm, hay 5,7 âm đan nhau. Những vần thơ này thường hàm chứa các từ về mùa màng.
Đặc điểm của thơ Thiền là:
Lời thơ mộc mạc hoà vào thiên nhiên
Tỉnh thức trước luật vô thường
Tha thiết với sự cô liêu trật tự và mầu nhiệm của thế giới (giác ngộ và trở về với thế tục)
Cấp độ khác, thơ Thiền có thể miêu tả các biến cố trực tiếp chỉ thẳng vào chân lý thâm sâu (như các công án)
Bừng mở tâm ra khỏi thói quen thụ cảm sự vật theo cách thông thường.
Một bài thơ Thiền "Lô Sơn" (hay Lư Sơn) của Tô Đông Pha nhà thơ đời Tống:
Lô SơnLô sơn yên tỏa Triết giang triềuVị đáo sanh bình hận bất tiêuĐáo đắc hoàn lai vô biệt sựLô sơn yên tỏa Triết giang triều.Lời dịch của Trúc Thiên:
Lô SơnKhói tỏa Lô Sơn, sóng Chiết GiangKhi chưa đến đó luốn mơ màngĐến rồi, hóa cũng không gì lạKhói toả Lô Sơn, sóng Chiết Giang.Cắm hoa
Khác với các nghệ thuật Thiền khác, nghệ thuật cắm hoa (trong tiếng Nhật là Ikebana) phát triển từ việc Phật tử Nhật dùng hoa để dâng cúng linh hồn người quá cố. Các nguyên lý và thực hành ban đầu của Ikebana được truyền lại từ nhóm những nhà truyền đạo gọi là Ikebono. Ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông sau đó được tìm thấy qua chứng cớ về sự thiết trí hoa bất đối xứng để miêu tả sự biểu lộ có thể của thiên nhiên. Một kiểu (cắm hoa) gần gũi triết lý Thiền nhất được biết là chabana (hay nageive) rất đơn giản và không gò bó được tạo ra bởi trà sư Sen no Rikyu (1521-1591).
Ảnh hưởng của Thiền ngày nay vẫn còn lại trong ý chỉ rằng cắm hoa là một ý nghĩa của sự thưởng thức, một sự thiền định trong mối quan hệ giữa bản ngã và thiên nhiên.
Ẩm thực
Tính lễ nghi, tính thẩm mỹ, và các gia vị trong khoa ẩm thực Nhật đều có dấu tích Phật giáo đặc biệt là Thiền tông. Thực tế là từ năm 676 đến 737 việc tiêu thụ thịt và cá đã bị cấm thay vào đó là việc ăn chay phát sinh từ các luật lệ của những vị hoàng đế theo Phật giáo. Cá và hải sản chỉ được phép dùng lại từ năm 737, sau đó mãi tới thời Meiji (1868-1912) thì người Nhật mới ăn thịt.
Đặc trưng Phật giáo của kiểu nấu ăn Nhật được gọi là shojin-ryori, đây là sự kết hợp của hai từ có nghĩa là tôn giáo và mỹ thuật. Shojin-ryori nguyên thủy là thức ăn để phục vụ cho các sư Thiền tông thường làm từ gạo và rau quả. Cách ẩm thực này truyền sang từ Trung Hoa vào thế kỉ 13. Cách thức ẩm thực như vậy nhằm giúp cho sự sáng suốt của tâm (cũng vì lý do này các thức ăn cay và kích thích như là tỏi và hành đều bị tránh dùng).
Trà đạo
Nghệ thuật dùng trà Thiền có nguồn gốc từ Trung Hoa được truyền sang Nhật từ sư Eisai (1141-1215. Ở Nhật thì trà gọi là cha-no-yu nghĩa là trà lễ hay chado'' tức là trà đạo. Trà đạo phát triển trên triết lý cho rằng uống trà như là một thú tiêu khiển thanh tao cũng như là việc lễ giáo hóa việc uống trà bởi các sư Thiền tông để giữ cho mình thức tỉnh. Sau đó, thiền sư Sen no Rikyu (1521-1591) thì nó thực sự trở thành một nghệ thuật gắn liền với đời sống thiền thông qua việc định nghĩa các yêu cầu của trà đạo như là sự hài hòa, tĩnh lặng, thanh khiết và kính trọng. |
Sinh vật phù du là những sinh vật nhỏ bé, thường là thức ăn của các loài cá lớn, nhỏ như cá nhám voi và cá tráo.
Từ nguyên
Tên gọi của chúng bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp πλαγκτoν - có nghĩa là "kẻ du mục hay những tên sống trôi nổi". Khoa học nghiên cứu về plankton được gọi là Planktology.
Đặc điểm
Vì rằng các loài trong nhóm plankton chỉ có thể di chuyển theo chiều thẳng đứng tới vài trăm mét trong một ngày (một tập tính được gọi là di cư theo chiều thẳng đứng) nên việc dịch chuyển theo phương nằm ngang của plankton phụ thuộc hoàn toàn vào sự chuyển động của dòng nước chứa chúng. Điều này khác với các sinh vật tự bơi (Nekton), những sinh vật này thường lớn hơn, ví dụ mực, cá và các loài thú biển và có thể kiểm soát được sự di chuyển theo chiều ngang cũng như bơi ngược dòng nước.
Plankton là những sinh vật khá nhạy cảm với những thay đổi về các tính chất lý hóa của nước.
Phân loại
Theo đời sống
Plankton có thể được chia thành Holoplankton và Meroplankton:
Holoplankton: là những sinh vật dành toàn bộ vòng đời của nó sống trôi nổi; ví dụ: Copepods, Salps krill hay jellyfish.
Meroplankton: Là bọn chỉ có một giai đoạn nhất định trong vòng đời sống trôi nổi (thường là trạng thái ấu trùng) ví dụ: sao biển, giáp xác, giun biển và hầu hết cá.
Theo kích thước
Nếu dựa theo kích thước thì có thể chia Plankton thành các nhóm:
Megaplankton, 2×10−1→2×100 m (20–200 cm)
Macroplankton, 2×10−2→2×10−1 m (2–20 cm)
Mesoplankton, 2×10−4→2×10−2 m (0.2 mm-2 cm)
Microplankton, 2×10−5→2×10−4 m (20-200 μm)
Nanoplankton, 2×10−6→2×10−5 m (2-20 μm)
Picoplankton, 2×10−7→2×10−6 m (0.2-2 μm), chủ yếu là vi khuẩn
Femtoplankton, < 2×10−7 m, (< 0.2 μm, nhỏ hơn 0,2 μm), bao gồm một vài loài virus biển
Tuy nhiên, một vài thuật ngữ trên có thể được sử dụng tương đối linh hoạt, đặc biệt là ở những nhóm có kích thước lớn. Sự tồn tại và tầm quan trọng của nhóm Nano- hay thậm chí những loài nhỏ hơn mới chỉ được phát hiện từ những năm 1980. Nhưng người ta cho rằng đây là nhóm chiếm một tỷ lệ lớn nhất về số lượng thành viên cũng như về sự đa dạng trong số các nhóm plankton.
Theo nguồn gốc phân loại
Nếu dựa theo chức năng thì có thể phân chia Plankton thành các nhóm sau:
Phytoplankton (từ gốc Hy Lạp phyton là thực vật), bao gồm các nhóm tảo sống gần mặt nước nơi có đầy đủ ánh sáng cho quá trình quang hợp.
Zooplankton (từ gốc Hy Lạp zoon là động vật), bao gồm các động vật nguyên sinh, giáp xác và rất nhiều các động vật nhỏ khác mà chúng cũng có thể sử dụng các plankton khác làm thức ăn. Zooplankton cũng bao gồm trứng và ấu trùng của một số loài động vật lớn như cá, giáp xác, giun đốt...
Bacterioplankton, gồm có vi khuẩn và archaea, chúng giữ một vai trò quan trọng trong việc hấp thụ các chất dinh dưỡng hòa tan trong nước.
Phân bố
Sinh vật phù du sống trong các môi trường như đại dương, biển, hồ, ao. Sự dồi dào theo cấp địa phương của chúng thay đổi theo phương ngang (một lớp), phương đứng (độ sâu) và theo mùa. Nguyên nhân cơ bản của sự thay đổi này do do ảnh sự thay đổi của ánh sáng. Tất cả các hệ sinh thái của sinh vật phù du chịu ảnh hưởng bởi năng lượng mặt trời (xem hóa tổng hợp), làm cho chúng chủ yếu phát triển ở các thể nước trên mặt, và đối với các vùng địa lý và mùa có nhiều ánh sáng mặt trời.
Yếu tố làm thay đổi thứ hai là sự biến động về dinh dưỡng. Mặc dù những khu vực rộng lớn trên các đại dương thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới có nhiều ánh sáng, nhưng chúng ít phát triển do chúng được cung cấp ít chất dinh dưỡng như nitrat, phosphat và silicat. Điều này là kết quả của sự tuần hoàn của các dòng hải lưu và sự phân tầng các lớp nước theo chiều thẳng đứng. Ở các vùng như thế, sự sinh sản sơ cấp thường diễn ra ở các độ sâu lớn hơn, mặc dù có sự suy giảm về cấp độ (do sự suy giảm ánh sáng mặt trời).
Mặc dù các hàm lượng chất dinh dưỡng đáng kể nhưng một số khu vực của đại dương được xem là không có hiệu quả (cũng được gọi là các vùng HNLC). Vi chất dinh dưỡng sắt thiếu ở những vùng này, và việc bổ sung nó có thể tạo nên sự nở hoa của một số loài thực vật phù du.
Vai trò sinh địa hóa
Ngoài việc chúng nằm trong các cấp bên dưới của chuỗi thức ăn có vai trò quan trọng trong công nghiệp thủy sản, các hệ sinh thái sinh vật phù du còn đóng một vai trò trong các chu trình sinh địa hoá của các nguyên tố hóa học quan trọng, bao gồm cả chu trình cacbon của đại dương.
Thực vật phù du, động vật phù du chủ yếu cung cấp carbon cho mạng lưới thức ăn thông qua, hoặc là chúng hô hấp để cung cấp năng lượng trao đổi chất, hoặc lúc chết chúng cấp cấp sinh khối hoặc ở dạng mảnh vụn thức ăn cho các sinh vật khác. Thông thường khi chúng nặng hơn nước biển, các vật liệu hữu cơ có xu hướng chìm xuống. Trong hệ sinh thái đại dương mở cách xa bờ biển, sự vận chuyển carbon này sẽ từ bề mặt nước xuống các phần biển sâu hơn. Quá trình này được gọi là bơm sinh học, và là một trong những lý do mà các đại dương tạo thành bể chứa cacbon lớn nhất trên Trái Đất.
Có thể là tăng sự hấp thu khí carbon dioxide do các hoạt động của con người trong đại dương bằng cách kích thích tăng sản xuất sinh vật phù du thông qua việc cung cấp vi chất dinh dưỡng sắt như là một loại hạt giống. Tuy nhiên, kỹ thuật này có thể không được thực hiện ở quy mô lớn. Sự cạn kiệt oxy trong đại dương và sự sản sinh ra các sản phẩm metan (do sản xuất dư thừa sự tái khoáng hóa ở dưới sâu) là một trong những nhược điểm tiềm ẩm của phương pháp này. |
Tịnh độ chân tông (zh. 淨土真宗, ja. jōdo-shin-shū) là một nhánh của Tịnh Độ tông tại Nhật do Thân Loan (1173-1262) sáng lập. Tông phái này đặt trọng tâm vào Vô lượng thọ kinh (sa. sukhāvatīvyūha), bộ kinh với 48 đại nguyện của Phật A-di-đà. Giáo pháp của tông phái là chuyên trì tụng danh hiệu A-di-đà, với hi vọng sẽ được tái sinh ở cõi Cực lạc Tịnh độ, nhờ sức cứu độ của Phật. Vì vậy, yếu tố quan trọng nhất trong tông phái này là niềm tin kiên cố nơi Phật A-di-đà.
Tịnh độ chân tông là một giáo phái không có tăng đoàn mà chỉ có cư sĩ tại gia. Một đặc trưng quan trọng của tông phái này là các cấp lãnh tụ kế thừa theo phép cha truyền con nối. Ngày nay, Chân tông là hệ phái mạnh nhất ở Nhật với hai chi phái: Ōtani và Honganji, đều đặt chùa chính tại Kinh Đô (Kyōto). Hai chi phái này tách ra vào thế kỷ 17 vì bất đồng trong cách tụng niệm thờ cúng. Cả hai chi phái đều cho lập các viện đại học lớn. |
Bát-niết-bàn (zh. 般涅槃, sa. parinirvāṇa, pi. parinibbāna) là tịch diệt hoàn toàn, thường dùng để chỉ Niết-bàn (sa. nirvāṇa) sau khi chết, xảy ra sau cái chêt của một người đã đạt niết bàn trong cuộc đời. Thường thường người ta hiểu Bát-niết-bàn là Niết-bàn vô dư, nhưng cũng có người hiểu Bát-niết-bàn là Niết-bàn hữu dư, thậm chí có người hiểu cái chết một vị tăng, ni cũng là Bát-niết-bàn. |
Tứ vô lượng (zh. 四無量, sa. catvāryapramāṇāni, pi. catasso appamaññāyo), là "bốn trạng thái tâm thức vô lượng", còn được gọi là Tứ phạm trú (zh. 四梵住, sa. caturbrahmavihāra), "bốn cách an trú trong cõi Phạm" hay gọi là Tứ vô lượng tâm và gọi tắt là Từ bi hỷ xả. Là thuật ngữ chỉ một phép thiền định, trong đó hành giả tạo điều kiện cho bốn tâm thức cao thượng phát sinh. Bốn tâm vô lượng là:
Từ vô lượng (sa. maitry-apramāṇa, pi. metta-appamaññā)
Bi vô lượng (sa. karuṇāpramāṇa, pi. karuṇā-appamaññā)
Hỉ vô lượng (sa. muditāpramāṇa, pi. muditā-appamaññā)
Xả vô lượng (sa. upekṣāpramāṇa, pi. upekkhā-appamaññā).
Bốn tâm này đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham muốn. Trong Đại thừa, Bốn tâm vô lượng cũng được gọi là hạnh Ba-la-mật-đa (sa. pāramitā, Lục độ). Đó là tâm thức của Bồ Tát muốn cứu độ chúng sinh. Thực hành Tứ vô lượng, thiền giả sẽ tái sinh tại cõi Thiên (sa. deva).
Miêu tả
Phật Thích-ca Mâu-ni giảng về phép thiền định này như sau:
"Có bốn vô lượng. Hỡi các tỉ-khâu, một người tràn đầy tâm từ (bi, hỉ, xả) sẽ phóng tâm đó đi một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, rồi phía trên, phía dưới, xung quanh mình. Người đó phóng tâm đi khắp thế giới, chiếu rọi khắp nơi với tâm từ (bi, hỉ, xả), tâm thức vô lượng vắng bóng sân hận và phiền não."
Từ vô lượng
Còn gọi là Tâm từ, tâm từ trầm tĩnh, bi mẫn khoan dung đối nghịch với sân hận, giận dữ. Tình yêu thương (không phải là tình yêu đôi lứa) to lớn, đồng đều dành cho tất cả chúng sinh vạn vật, không thành kiến, phân biệt đối tượng, làm cho tâm ta trở nên êm dịu mát và chân thành, thiện ý, lời nói chân thật, thiện chí, hành vi đúng mực.
Bi vô lượng
Bi là sự thương xót, thấu hiểu, cảm thông, cũng là liều thuốc chữa chứng bệnh hung dữ, ngang tàng, độc ác. Là động lực làm cho tâm người thiện lành, rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, biết suy nghĩ và chia sẽ, giúp đỡ vượt qua khó khăn, thử thách của cuộc sống; lắng nghe và thoa dịu lo lắng, đau khổ của người khác.
Hỉ vô lượng
Là tâm hoan hỷ, vui mừng thành tâm với hạnh phúc, thành công, thành quả của người khác. Là một trạng thái bình tĩnh và hạnh phúc của chân tâm. Tâm Hỷ đối nghịch ưu lo, phiền não có chiều hướng ngăn trừ lòng ganh ghét, đố kỵ.
Xả vô lượng
Lòng buông xả, không câu chấp bám chặt vào bất cứ điều gì, khi nhận ra và từ bỏ tham lam ích kỷ, vọng tâm, kiêu ngạo khi tự coi mình là trung tâm, đề cao giá trị bản thân. Thân tâm giữ vững trước sự vô thường thế gian, thản nhiên trước sự thay đổi của thế nhân; đời là bể khổ mà vẫn ung dung, bình thản, không bận lòng, phiền muộn hay lo lắng trước thuận cảnh hay nghịch cảnh. Mọi hiện tượng luôn chuyển biến theo quá trình Thành, Trụ, Hoại, Không (sinh, trụ, dị, diệt) nên không mê đắm vật chất giả tạm, không vui quá đà mà cũng không luẩn quẩn u sầu, vinh hay nhục thì tâm vẫn không động. |
Từ kinh (zh. 慈經, pi. mettā-sutta), cũng được gọi là Từ bi kinh, là một bài kinh văn hệ Pali, giúp Phật tử phát huy lòng từ ái. Kinh này được phổ biến rất rộng rãi ở các nước theo truyền thống Thượng toạ bộ, được tăng ni tụng niệm hàng ngày.
Toàn văn kinh Từ (bản dịch của Thích Thiện Châu) (Sutta-Nipāta, 143-152):
143
Ai khôn ngoan muốn tìm hạnh phúc
Và ước mong sống với an lành
Phải tài năng, ngay thẳng, công minh
Nghe lời phải, dịu dàng khiêm tốn.
144
Ưa thanh bần, dễ dàng chịu đựng
Ít bận rộn, vui đời giản dị
Chế ngự giác quan và thận trọng
Không liều lĩnh, chẳng mê tục luỵ.
145
Không chạy theo điều quấy nhỏ nhoi
Mà thánh hiền có thể chê bai
Đem an vui đến cho muôn loài
Cầu chúng sinh thảy đều an lạc.
146
Không bỏ sót một hữu tình nào
Kẻ ốm yếu hoặc người khỏe mạnh
Giống lớn to hoặc loại dài cao
Thân trung bình hoặc ngắn, nhỏ, thô.
147
Có hình tướng hay không hình tướng
Ở gần ta hoặc ở nơi xa
Đã sinh rồi hoặc sắp sinh ra
Cầu cho tất cả đều an lạc.
148
Với ai và bất luận ở đâu
Không lừa dối, chẳng nên khinh dễ
Lúc căm hờn hoặc khi giận dữ
Đừng mưu toan gây khổ cho nhau.
149
Như mẹ hiền thương yêu con một
Dám hi sinh bảo vệ cho con
Với muôn loài ân cần không khác
Lòng ái từ như bể như non.
150
Tung rãi từ tâm khắp vũ trụ
Mở rộng tình thương không giới hạn
Từng trên, phía dưới và khoảng giữa
Không vướng mắc oán thù ghét bỏ.
151
Khi đi, khi đứng hoặc nằm ngồi
Hễ lúc nào tinh thần tỉnh táo
Phát triển luôn dòng chính niệm này
Là đạo sống đẹp cao nhất đời.
152
Đừng để lạc vào nơi mê tối
Đủ giới đức, trí huệ cao vời
Và dứt bỏ lòng tham dục lạc
Được như thế thoát khỏi luân hồi. |
A-tì-đạt-ma-câu-xá luận (zh. 阿毗達磨俱舍論, sa. abhidharmakośa-śāstra), thường được gọi tắt là Câu-xá luận, có nghĩa là "Báu vật của A-tì-đạt-ma", tên khác là Thông minh luận (zh. 通明論), là bộ luận quan trọng của Phật học, được Thế Thân (sa. vasubandhu) soạn vào thế kỉ thứ 5 sau Công nguyên tại Kashmir. Luận gồm có hai phần: sưu tập khoảng 600 kệ A-tì-đạt-ma câu-xá luận bản tụng (sa. abhidharmakośakārikā) và A-tì-đạt-ma câu-xá luận thích (sa. abhidharmakośa-bhāṣya), bình giải về những câu kệ đó. Ngày nay người ta còn giữ bản tiếng Hán và tiếng Tây Tạng của luận này, đó là những tác phẩm đầy đủ nhất để trả lời các câu hỏi về kinh điển.
A-tì-đạt-ma-câu-xá luận phản ánh sự tiếp nối của giáo lý từ Tiểu thừa đến Đại thừa và cũng là tác phẩm nền tảng của các tông phái Phật giáo Trung Quốc, đóng góp phần chính trong việc truyền bá và phát triển đạo Phật nơi này.
Có 9 điểm được phân tích và xử lý trong luận:
Giới phẩm (zh. 界品, sa. dhātunirdeśa): nói về cái thể của các Giới (pháp)
Căn phẩm (zh. 根品, sa. indriyanirdeśa): nói về cái dụng của chư phápHai phẩm trên nói về thể và dụng chung cho Hữu lậu (zh. 有漏, sa. sāśrava, tức là còn bị Ô nhiễm) và Vô lậu (zh. 無漏, sa. anāśrava, không bị ô nhiễm).
Thế gian phẩm (zh. 世間品, sa. lokanirdeśa): nói về các thế giới, Lục đạo, Ba thế giới
Nghiệp phẩm (zh. 業品, sa. karmanirdeśa)
Tùy miên phẩm (zh. 隨眠品, sa. anuśayanirdeśa)Các điểm 3, 4 và 5 nói về Hữu lậu, trong đó 3. là Quả (zh. 果, kết quả), 4. là Nhân (zh. 因) và 5. là Duyên (zh. 緣).
Hiền thánh phẩm (zh. 賢聖品, sa. pudgalamārganirdeśa)
Trí phẩm (zh. 智品, sa. jñānanirdeśa): nói về mười loại trí
Định phẩm (zh. 定品, sa. samādhinirdeśa).Các điểm 6, 7 và 8 nói về Vô lậu, trong đó 6. là Quả, 7. là Nhân và 8. là Duyên.
Phá ngã phẩm (zh. 破我品, sa. pudgalaviniścaya): nói về lý Vô ngã (sa. anātman), phá tà, chống lại thuyết của Độc Tử bộ. Phẩm này là một phẩm độc lập và cũng là phẩm cuối của bộ luận. |
Bát nhiệt địa ngục (zh. bārè dìyù 八熱地獄, sa. aṣṭoṣaṇanaraka, ja. hachinetsu jigoku) hay bát đại địa ngục (八大地獄), là một khái niệm trong Phật giáo để chỉ tám địa ngục, mỗi địa ngục được chia thành 16 địa ngục nhỏ hơn, tổng cộng có 128 địa ngục nhỏ. Càng những ngục sau thì đau khổ càng tăng, ứng với tội lỗi càng lớn. |
Động vật giáp xác (Crustacea) còn gọi là động vật vỏ giáp hay động vật thân giáp là một phân ngành động vật Chân khớp lớn và đa dạng gồm hơn 44.000 loài như cua, tôm hùm, tôm càng, tôm, tôm nước ngọt, lân hà, Oniscidea, ốc mượn hồn và hà biển. Chúng thường sống dưới nước và hô hấp bằng mang. Đa số các loài giáp xác sống ở biển, bên cạnh đó cũng có nhiều loài sống ở nước ngọt. Một vài nhóm giáp xác sống ở trên cạn không phải là những động vật thực sự thành công về mặt tiến hóa nhưng hầu hết chúng vẫn đòi hỏi một môi trường ẩm ướt để tồn tại. Rận nước có kích thước khoảng 2mm. Di chuyển nhờ vận động của đôi râu lớn. Rận nước mùa hạ chỉ sinh sản toàn con cái, là thức ăn chủ yếu của cá.
Kích thước
Động vật giáp xác có thể được chia thành hai nhóm chính dựa trên kích thước của chúng.
Nhóm có kích thước lớn: Bao gồm các đại diện của các lớp Branchiopoda (Chân mang), Copepoda (Chân chèo), Cirripedia (Chân tơ)
Nhóm có kích thước nhỏ: Bao gồm các loài có kích thước hiển vi cho tới kích thước khoảng 5 cm. Hầu hết các loài này sống ở biển và là thành phần quan trọng của sinh vật phù du, đóng vai trò lớn trong chuỗi thức ăn.
Nhiều loài chân chèo là nguồn thức ăn cho cá nhỏ, thậm chí chúng là những con vật ký sinh trên da hay mang cá. Trong nhóm này, được biết rõ nhất là các thành viên trong giống Daphnia (rận nước) và Cyclops (thuộc bọ chân chèo).
Bộ chân đều (Isopoda) là nhóm duy nhất có đại diện là thành viên trên cạn thực sự. Trong nhóm này có thể kể đến rận cây, mọt gỗ, hay rệp tròn. Những sinh vật nhỏ này có thể được tìm thấy ở dưới các khúc cây đổ, dưới các tảng đá và những nơi ẩm thấp khác. Khi bị làm phiền chúng thường cuộn người lại vào bên trong bộ xương ngoài (lớp vỏ kitin).
Hình dạng
Tất cả động vật giáp xác có hình dạng phần đầu-ngực giáp với nhau, cơ thể được bao bọc với một bộ xương ngoài bằng kitin, nhờ lớp vỏ thấm calci và vôi hóa làm cho vỏ giáp xác rất cứng cáp, có loại vỏ có màu rất đẹp hay rất mỏng manh và trong suốt (như ở rận nước). Vì lớp vỏ cố định nên nó phải được thay thế định kỳ khi con vật tiến hành quá trình biến thái (từ dạng ấu trùng bơi tự do cho đến khi trưởng thành) hay chỉ đơn giản là phát triển nhô ra ngoài lớp vỏ. Dạng ấu trùng bơi tự do đặc trưng cho giáp xác được gọi là ấu trùng Nauplius, là dạng có cơ thể không phân đốt, một mắt và 3 cặp chân giả.
Cũng như tất cả các thành viên khác trong ngành Động vật chân đốt, giáp xác trưởng thành có cơ thể và chân phân đốt. Các đốt thường liên kết lại tạo thành 2 phần phân biệt là đầu-ngực và bụng. Phần lớn động vật giáp xác trong nhóm lớn có phần đầu và ngực hợp lại thành phần đầu-ngực, phần này được bảo vệ bởi một phần của bộ xương ngoài khá lớn và được gọi là giáp đầu ngực. Trên đầu có hai cặp râu, một mắt điểm (điểm mắt), hai mắt kép và 3 cặp phụ miệng. Các phần phụ của giáp xác đã trải qua quá trình tiến hóa để thích nghi một cách đa dạng với các chức năng khác nhau như: bơi, bò, cơ quan cảm giác. Nhiều loài có cặp chân ngực thứ nhất biến đổi thành vuốt hoặc càng. Các mang thường được gắn ở phần gốc của các cặp chân ngực, vận động của chân ngực sẽ tạo dòng nước chảy qua mang, giúp cho quá trình hô hấp diễn ra.
Sinh sản
Trừ chân mang là phân lớp nguyên thủy có sinh sản đơn tính, còn lại hầu hết lớp giáp xác đều sinh sản hữu tính, có giới tính phân chia rõ ràng. Nhiều loài trứng được giữ ở dưới các đốt bụng của con cái.
Lịch sử địa chất học
Mặc dù các hóa thạch giáp xác hiếm hơn so với trùng ba lá nhưng số lượng các dạng của chúng khá phổ biến trong các lớp địa chất thuộc kỷ Creta cũng như trong Đại Tân sinh. Hầu hết những giáp xác nhỏ như tôm có bộ xương ngoài khá mỏng manh, do vậy các hóa thạch của chúng thường không đầy đủ. Tuy nhiên, các nhóm giáp xác như cua và tôm hùm có bộ xương ngoài dày hơn và nó thường được làm cứng bởi CaCO3, do vậy các hóa thạch của chúng thường tốt hơn. Các hóa thạch của động vật hầu như rất hiếm và người ta biết rất ít về lịch sử của chúng từ Đại Trung sinh trở về trước. Các mẫu được bảo tồn tốt nhất được tìm thấy trong các hóa thạch thuộc kỷ Creta và Đại Tân sinh. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.