text
stringlengths
0
512k
Thảm sát Mỹ Lai hay thảm sát Sơn Mỹ là một tội ác chiến tranh của Lục quân Hoa Kỳ gây ra trong thời gian Chiến tranh Việt Nam. Trong tiếng Anh, vụ thảm sát này có tên My Lai Massacre, Son My Massacre hoặc Pinkville, trong đó Pinkville là tên địa danh của quân đội Hoa Kỳ đặt cho khu vực Mỹ Lai. Vào ngày 16 tháng 3 năm 1968 tại khu vực thôn Mỹ Lai thuộc xã Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi), các đơn vị lính Lục quân Hoa Kỳ đã thảm sát hàng loạt từ 347 cho đến 504 thường dân không có vũ khí, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em. Trước khi bị sát hại, nhiều người trong số các nạn nhân còn bị cưỡng bức, quấy rối, tra tấn, đánh đập hoặc cắt xẻo các bộ phận trên cơ thể. Sự kiện thảm khốc này đã gây sốc cho dư luận Mỹ, Việt Nam, và thế giới, hâm nóng phong trào phản chiến và là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự triệt thoái của quân đội Hoa Kỳ khỏi Việt Nam năm 1972. Vụ thảm sát đã bị che giấu, trong báo cáo của quân đội Mỹ ghi rằng họ đã "tiêu diệt 128 binh lính kẻ thù mà không chịu bất cứ thương vong nào". Cho tới cuối năm 1969, vụ việc mới bị phát hiện. Tuy nhiên, tòa án Mỹ đã không kết tội bất cứ sĩ quan hay binh lính Hoa Kỳ nào sau vụ thảm sát này, ngoại trừ một chỉ huy cấp trung đội là William Calley bị tuyên án chung thân, nhưng chỉ 1 ngày sau, Tổng thống Mỹ ra lệnh ân xá và Calley chỉ phải chịu quản thúc tại gia 3 năm rưỡi. Sự kiện Bối cảnh Đại đội Charlie thuộc Tiểu đoàn số 1, Trung đoàn bộ binh số 20, Lữ đoàn bộ binh số 11, Sư đoàn bộ binh số 23, Lục quân Hoa Kỳ, tới Nam Việt Nam tháng 12 năm 1967. Trong tháng đầu tiên tại Việt Nam họ không có cuộc chạm trán nào với đối phương nhưng vẫn phải chịu nhiều thương vong. Tính cho đến giữa tháng 3 năm 1968, thương vong của đơn vị này là 5 người chết, 23 người bị thương, trong đó phần lớn binh sĩ thiệt mạng vì mìn và bẫy. Trong thời gian diễn ra Sự kiện Tết Mậu Thân (tháng 1 năm 1968), Tiểu đoàn 48 của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (thường được quân đội Hoa Kỳ gọi là Việt Cộng) đã tiến hành một số cuộc tấn công trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Tình báo Mỹ cho rằng sau Sự kiện Tết Mậu Thân, Tiểu đoàn 48 đã rút lui về ẩn náu tại địa bàn làng Sơn Mỹ thuộc tỉnh này, cụ thể là các thôn Mỹ Lai 1, 2, 3 và 4. Lục quân Hoa Kỳ quyết định tổ chức một cuộc tấn công lớn vào các làng bị nghi ngờ này. Đại tá Oran K. Henderson ra lệnh cho các sĩ quan cấp dưới "đánh mạnh vào đây, tiến gần kẻ địch và xóa sạch chúng". Trung tá Frank A. Barker ra lệnh cho các chỉ huy của Tiểu đoàn 1 đốt các ngôi nhà, giết sạch gia súc, phá hủy các kho lương thực và giếng nước Vào hôm trước của cuộc tấn công, tại cuộc họp chiến thuật của Đại đội Charlie, đại úy Ernest Medina thông báo cho lính của mình rằng gần như mọi dân làng sẽ ra chợ vào lúc 7 giờ sáng, tất cả những ai còn ở lại đều là lính Việt Cộng hoặc người giúp đỡ Việt Cộng. Một số binh sĩ của đại đội Charlie sau này đã khai rằng mệnh lệnh của Medina theo như họ hiểu là giết toàn bộ du kích, lính Việt Cộng và những ai "khả nghi" (bao gồm cả phụ nữ, trẻ em), đốt trụi làng và đầu độc các giếng nước. Trung đội 1 được chỉ định là đơn vị xung kích của Đại đội Charlie trong cuộc tấn công. Ngoài Charlie, còn có 2 đại đội khác có nhiệm vụ bao vây làng Sơn Mỹ. Vào tối ngày 15 tháng 3 năm 1968, chỉ huy đại đội Charlie, đại úy Ernest Medina đã ra lệnh cho quân lính của mình rằng ngày hôm sau bọn họ sẽ triển khai theo kế hoạch đã định nhắm vào một địa điểm gọi là "Pinkville". Binh sĩ Harry Stanley nhớ lại, "Medina ra lệnh cho chúng tôi giết hết thảy mọi thứ trong làng". Salvatore LaMartina, một lính bộ binh lúc đó, cũng nhớ lại gần như nguyên văn lời của Medina: "Hãy giết sạch tất cả những gì còn sống". Trong tâm trí của sĩ quan pháo binh James Flynn vẫn còn bị ám ảnh câu hỏi của đồng đội: "Chẳng nhẽ chúng ta cũng giết cả phụ nữ lẫn trẻ em sao?" và Medina trả lời ngắn gọn: "Hễ thấy gì động đậy là giết" Vụ thảm sát Sáng ngày 16 tháng 3, sau một đợt công kích dọn chỗ ngắn bằng pháo và súng máy bắn từ trực thăng, Đại đội Charlie đổ bộ vào làng Sơn Mỹ. Các binh sĩ của đơn vị này không tìm thấy bất cứ lính Việt Cộng nào trong làng, thay vào đó chỉ có những người dân thường, phần lớn là phụ nữ và trẻ em, đang cố gắng tìm chỗ ẩn nấp trước cuộc càn quét của quân đội Mỹ. Nhiều người trong làng vẫn còn đang nấu cơm sáng. Tuy nhiên, binh lính đã răm rắp tuân lệnh đại đội trưởng Medina. Cả đại đội bắt đầu giết chóc, "tàn sát bất cứ thứ gì động đậy". Trung đội của thiếu úy William Calley bắt đầu xả súng vào các "địa điểm tình nghi có đối phương", những người dân thường đầu tiên bị giết chết hoặc bị thương bởi các loạt đạn bừa bãi này. Sau đó lính Mỹ bắt đầu hủy diệt tất cả những gì chuyển động, người, gia súc, gia cầm... Họ bị giết bằng các loạt súng, bằng lưỡi lê hoặc bằng lựu đạn với mức độ tàn bạo mỗi lúc một cao. Lính Mỹ quăng lựu đạn vào nhà mà không thèm bận tâm xem trong nhà có gì. Một sĩ quan túm tóc một người đàn bà và dùng súng ngắn bắn thẳng vào người đó. Một phụ nữ vừa ôm con nhỏ bước ra khỏi nhà liền bị bắn chết ngay lập tức, khủng khiếp hơn, một lính Mỹ liền dùng khẩu súng trường tự động M16 xả đạn bắn tung xác đứa trẻ sơ sinh khi nó vừa rơi xuống đất. Đài BBC News mô tả lại cảnh này: Binh lính bắt đầu nổi điên, họ xả súng vào đàn ông không mang vũ khí, đàn bà, trẻ em và cả trẻ sơ sinh. Những gia đình tụm lại ẩn nấp trong các căn lều hoặc hầm tạm bị giết không thương tiếc. Những người giơ cao hai tay đầu hàng cũng bị giết... Những nơi khác trong làng, nỗi bạo tàn [của lính Mỹ] mỗi lúc chồng chất. Phụ nữ bị cưỡng bức hàng loạt; những người quỳ lạy xin tha bị đánh đập và tra tấn bằng tay, bằng báng súng, bị đâm bằng lưỡi lê. Một số nạn nhân bị cắt xẻo với dấu "C Company" ("Đại đội C") trên ngực. Đến cuối buổi sáng thì tin tức của vụ thảm sát đến tai thượng cấp và lệnh ngừng bắn được đưa ra. Nhưng Mỹ Lai đã tan hoang, xác người la liệt khắp nơi. Vài chục người bị dồn vào một mương nước và xả súng giết chết, một số chỗ khác cũng xảy ra những giết hàng loạt như vậy. Một nhóm lớn gồm khoảng 70 hoặc 80 dân làng nằm trong vòng vây của Trung đội 1 ở trung tâm làng bị Calley đích thân giết hoặc ra lệnh cho cấp dưới giết. Các binh sĩ của Trung đội 2 đã giết ít nhất từ 60 đến 70 dân làng bao gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em trong khi đơn vị này càn qua nửa phía bắc của thôn Mỹ Lai 4 và Bình Tây. Sau cuộc càn quét đầu tiên của Trung đội 1 và 2, Trung đội 3 được lệnh giải quyết bất cứ sự "kháng cự còn lại" nào. Ngay lập tức lính Mỹ giết tất cả những người và gia súc còn sống nhưng không may bị họ tìm được. Ngay cả những người giơ tay đầu hàng từ chỗ ẩn nấp hoặc những tiếng rên cất lên từ các đống xác người cũng bị những lính Mỹ này "giải quyết". Trung đội 3 cũng là đơn vị bao vây và giết một nhóm khoảng từ 7 đến 12 dân thường chỉ gồm phụ nữ và trẻ em. Vì Đại đội Charlie không gặp bất cứ sự kháng cự nào của "quân địch", Tiểu đoàn 4 thuộc Trung đoàn bộ binh số 3 bắt đầu chuyển hướng càn quét sang các xóm của thôn Mỹ Khê 4 và giết khoảng 90 dân thường. Có một binh sĩ Mỹ chết và 7 người khác bị thương vì mìn và bẫy cá nhân. Trong vòng 2 ngày tiếp theo, các đơn vị lính Mỹ tiếp tục việc đốt phá các làng xóm và tra tấn những người bị bắt. Các lính Mỹ nếu không tham gia vào các tội ác thì cũng không phản đối hoặc báo cáo lại nó với cấp trên Một lính Mỹ tham gia vụ thảm sát sau này kể lại: Thôn Cổ Lũy Tại thôn Cổ Lũy, vừa bước ra khỏi máy bay, một trung đội đã xông vào xóm Mỹ Hội. Lính Mỹ chia thành nhiều tốp, sục đến từng nhà, tìm đến từng hầm. Nhà bị sục đầu tiên là nhà ông Lệ lúc trong hầm nhà này có 15 người đang trú ẩn. Thấy lính Mỹ kéo đến, 8 người trong hầm bước ra, liền bị xả súng bắn chết tất cả, xác đè lên nhau. Lính Mỹ tiếp tục ném mìn vào hầm, giết nốt những người còn lại Một tốp lính Mỹ khác kéo vào nhà chị Trinh ở cạnh. Con chị Trinh là cháu Đức 8 tuổi từ trong hầm chạy ra liền bị bắn chết khi miệng còn ngậm đầy cơm. Giết xong cháu bé, tốp lính Mỹ đặt mìn giật tung hầm giết chết cả thảy 7 người gồm mẹ con chị Trinh và ba mẹ con chị Hòa, không một ai được toàn thây. Chị Võ Thị Mại vừa mới sinh hôm trước, sức yếu không kịp xuống hầm trú ẩn, đã bị lính Mỹ lột hết quần áo rồi hãm hiếp cho đến chết. Đứa bé mới sinh và hai con chị đang núp trong hầm cũng bị lính Mỹ bắn chết. Chị Ngôn có mang đến gần ngày sinh cũng bị hãm hiếp, hiếp xong lính Mỹ dùng lưỡi lê đâm thủng bụng, bào thai lòi hai chân ra ngoài. Ba đứa con của chị cũng bị lính Mỹ bắn chết tất cả. Chị Võ Thị Phụ bị bắn chết đang lúc cho con bú, lính Mỹ chất cỏ khô lên cả hai mẹ con rồi châm lửa đốt. Thi thể hai mẹ con bị lửa thiêu co quắp cả chân tay, bộ xương của cháu bé vẫn còn nằm nguyên trên xác mẹ. Hai chị Ngô Thị Mùi, Ngô Thị Một bị lính Mỹ lôi ra khỏi hầm, thay nhau hãm hiếp, hiếp xong lính Mỹ xô hai chị em vào lại trong hầm, giật mìn giết luôn cả hai chị em cùng 4 đứa con nhỏ của chị Mùi trong đó. Gia đình ông Võ Mãi có bốn người bị giết hết. Hầm nhà ông Võ Toan có sáu người, bị lính Mỹ ném lựu đạn vào giết chết 4 người. Hầm nhà bà Nguyễn Thị Thi bị đánh sập, có 2 bà già và 6 em nhỏ bị chết, chỉ sót lại một cháu bé 10 tuổi bị thương nặng. Trong số 16 gia đình khác trong xóm có 7 cụ già, 12 phụ nữ, 17 trẻ em dưới 15 tuổi đều bị bắn chết. Nhà cửa trong xóm đều bị thiêu hủy. Cả thôn Cổ Lũy có 97 người bị tàn sát, phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em. Tập sách ảnh Nhật Bản "Việt Nam: cách mạng và thắng lợi" ghi lại vụ thảm sát như sau: Ngày 16-3-1968, xã Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi bị quân Mỹ triệt hạ, tàn sát một lúc 500 thường dân. Lúc đó, quân Mỹ dùng mọi loại máy bay sẵn có chia làm bốn tầng bay trên bầu trời Sơn Mỹ. Bay thấp dưới 300 mét là máy bay lên thẳng vũ trang bắn chết tất cả những "Việt cộng" định thoát ra khỏi xã. Trên 300 mét là máy bay chở sĩ quan tư lệnh quân cơ động, chỉ huy trận đánh. Trên 800 mét là máy bay sư đoàn trưởng quan sát trận đánh. Sự tàn bạo lên đến cực điểm khi quân Mỹ coi những cuộc hành quân đó như một trò chơi thể thao. Nó làm chúng ta phẫn nộ tới mức không thể nào tả nổi Hành động giải cứu Chuẩn úy Hugh Thompson, Jr., phi công trực thăng 24 tuổi thuộc đơn vị trinh sát trên không, ngay khi bay qua làng đã chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp: vô số xác người chết, tất cả đều chỉ là trẻ con, phụ nữ và người già, không hề có dấu hiệu của người thuộc độ tuổi tòng quân hay vũ khí ở bất cứ đâu. Đội bay của Thompson tận mắt nhìn thấy đại úy Medina đá và bắn thẳng vào đầu một phụ nữ không có vũ khí (Medina sau này tuyên bố người phụ nữ có mang một quả lựu đạn). Sau khi chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng này, đội bay Thompson cố gắng thực hiện các cuộc điện đàm để cứu những người bị thương. Chiếc trực thăng của họ hạ cánh xuống một cái mương đầy xác người, trong đó vẫn còn người cử động. Thompson đề nghị một sĩ quan cứu người đó ra khỏi cái mương, viên sĩ quan này trả lời anh ta sẽ "giúp họ thoát khỏi nỗi khốn khổ". Cho rằng đây là một câu đùa, chiếc trực thăng của Thompson cất cánh, ngay lúc đó một người của phi đội thốt lên "Chúa ơi, anh ta đang xả súng vào cái mương". Thompson sau đó nhìn thấy một nhóm dân thường (lại chỉ bao gồm phụ nữ, trẻ em và người già) trong một căn hầm tạm đang bị lính Mỹ tiếp cận. Chiếc trực thăng của phi đội Thompson hạ cánh và cứu được khoảng từ 12 đến 16 người trong căn hầm. Phi đội Thompson sau đó còn cứu được một đứa bé toàn thân đầy máu nhưng vẫn sống sót từ trong cái mương đầy xác người. Thompson sau đó đã báo cáo lại những gì anh nhìn thấy cho chỉ huy của mình, thiếu tá Watke, trong báo cáo Thompson đã dùng những cụm từ như "murder" (giết người) và "needless and unnecessary killings" (sát hại vô cớ và không cần thiết). Báo cáo của Thompson được các phi công và phi đội khác xác nhận. Năm 1998 tại thủ đô Washington D.C., ba cựu sĩ quan thuộc phi đội Thompson gồm chỉ huy phi đội Glenn Andreotta, phi công Hugh Thompson và xạ thủ Lawrence Colburn đã được trao tặng Soldier's Medal (Huy chương Chiến sĩ) vì hành động ngăn cản đồng đội giết dân thường. Hậu quả Do hoàn cảnh hỗn loạn khi vụ thảm sát xảy ra và việc Lục quân Hoa Kỳ không thực hiện thống kê chính xác số nạn nhân, người ta không biết được hoàn toàn chính xác số dân thường bị lính Mỹ giết hại tại Mỹ Lai. Con số ghi lại tại Khu chứng tích Sơn Mỹ là 504 dân thường từ 1 tuổi đến 82 tuổi, trong đó có: 182 phụ nữ (có 17 người đang mang thai), 173 trẻ em (có 56 em dưới 5 tháng tuổi), 60 cụ già trên 60 tuổi, 89 trung niên.. Con số do phía Mỹ đưa ra thấp hơn, 347 nạn nhân. Có 247 căn nhà bị lính Mỹ thiêu hủy, hàng ngàn trâu bò, gia súc cũng bị giết. Sự che giấu của quân đội Hoa Kỳ Những báo cáo đầu tiên của các đơn vị lính Mỹ đã tuyên bố rằng "128 Việt Cộng và 22 dân thường" bị giết tại làng sau "cuộc đọ súng ác liệt". Theo báo Stars and Stripes của Lục quân Hoa Kỳ vào thời điểm đó đưa tin thì "Bộ binh Hoa Kỳ đã giết 128 tên Cộng sản sau một trận đánh đẫm máu kéo dài 1 ngày mà không bị thương vong một binh sĩ nào". Trong bức điện mừng, Tướng William Westmoreland, tư lệnh chiến trường Việt Nam đã tán dương "cú giáng mạnh" này lên kẻ thù. Thuộc hạ của ông, tư lệnh Sư đoàn Americal 23 bộ binh còn viết thư ca ngợi "cuộc đọ súng ác liệt" của Đại đội C. Những báo cáo sau này của phía Việt Nam thì tuyên bố rằng "toàn bộ số người dân bị lính Mỹ giết tại Mỹ Lai đều là dân thường". Cuộc điều tra đầu tiên về chiến dịch Mỹ Lai được thiếu tướng George H. Young giao cho đại tá Henderson, sĩ quan chỉ huy của Lữ đoàn bộ binh hạng nhẹ số 11 phụ trách. Henderson đã thẩm vấn một số binh lính tham gia vụ thảm sát, sau đó đưa ra một báo cáo vào cuối tháng 4 ghi nhận rằng khoảng 22 dân thường đã bị giết hại một cách không cố ý trong chiến dịch. Quân đội Mỹ lúc này vẫn coi sự kiện ở Mỹ Lai là một chiến thắng quân sự khi lính Mỹ đã tiêu diệt được 128 lính đối phương. Sáu tháng sau, Tom Glen, một binh sĩ 21 tuổi của Lữ đoàn 11, đã viết một lá thư cho tướng Creighton Abrams, tổng chỉ huy mới của các lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong lá thư Glen buộc tội Sư đoàn Americal, tức Sư đoàn bộ binh số 23 (và toàn bộ các đơn vị lính Mỹ khác) liên tục sử dụng bạo lực chống lại dân thường Việt Nam, lá thư không trực tiếp nhắc tới vụ Mỹ Lai vì Glen không biết nhiều về vụ tàn sát. Một trong các sĩ quan được giao phân tích lá thư là Colin Powell. Trong báo cáo phân tích, Powell viết: "Điều phản bác lại những gì miêu tả trong bức thư là sự thật rằng quan hệ giữa binh sĩ Hoa Kỳ và người dân Việt Nam là tuyệt vời", một vài nhà quan sát cho rằng cách thức Powell xử lý lá thư đồng nghĩa với việc rửa sạch sự tàn bạo của quân đội Hoa Kỳ ở Mỹ Lai. Tháng 5 năm 2004, Powell, khi này đã là Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đã trả lời trong chương trình của Larry King trên đài CNN: "Ý tôi là, tôi đã ở trong đơn vị chịu trách nhiệm về vấn đề Mỹ Lai. Tôi ở đó sau khi sự kiện xảy ra. Mà trong chiến tranh thì những vụ việc kinh khủng như vậy vẫn xảy ra, và chúng ta vẫn phải ân hận về chúng". Bất chấp mọi thông cáo, bản tin trên đài phát thanh và những bản báo cáo bằng tiếng Anh được phía quân Giải phóng đưa ra, trong vòng hơn một năm liền, thế giới vẫn chỉ biết tới Mỹ Lai như một "trận đánh thắng lợi" của lính Mỹ. Điều tra Sự thật rất có thể sẽ bị vùi lấp mãi mãi nếu như không có cựu chiến binh Mỹ Ronald Ridenhour tiết lộ. Tận mắt thấy những dân thường bị sát hại ở khắp mọi nơi ở Việt Nam, người lính 22 tuổi Ridenhour tuy không nằm trong số những người lính tham gia trực tiếp vào vụ Mỹ Lai, nhưng anh đã nghe chính những người lính tham gia vào vụ việc Pinkville ngày hôm đó kể cho nghe về vụ thảm sát. Không nao núng, người lính trẻ Ridenhour đã có một hành động chưa từng có, đó là cẩn thận thu thập lời khai từ nhiều người Mỹ đã chứng kiến vụ việc. Rồi sau một năm nghĩa vụ quân sự, Ridenhour trở về Mỹ và quyết tâm theo đuổi đến cùng để đưa sự việc ra ánh sáng công luận. Vụ thảm sát Mỹ Lai có lẽ sẽ tiếp tục bị che giấu nếu không có bức thư thứ hai của Ron Ridenhour. Ridenhour, một thành viên cũ của Đại đội Charlie và biết về vụ thảm sát qua lời kể của đồng đội, vào tháng 3 năm 1969 đã gửi một lá thư trình bày chi tiết sự kiện Mỹ Lai cho tổng thống Richard M. Nixon, Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Bộ Tham mưu Liên quân và một số thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ. Phần lớn những người được nhận thư đã bỏ qua tầm quan trọng của nó. Độc lập với chính phủ, nhà báo Seymour Hersh đã tiến hành cuộc điều tra về vụ Mỹ Lai thông qua các cuộc nói chuyện với Calley. Ngày 12 tháng 11 năm 1969 vụ việc Mỹ Lai vỡ lở. Ngày 20 tháng 11, các tạp chí lớn như Time, Life và Newsweek đồng loạt đăng lên trang bìa vụ thảm sát Mỹ Lai, đài truyền hình CBS cũng phát sóng cuộc phỏng vấn với Paul Meadlo. Tờ Plain Dealer ở Cleveland còn mạnh dạn hơn khi đăng các bức ảnh mô tả những dân thường bị giết trong vụ thảm sát. Tháng 11 năm 1969, tướng William R. Peers được chỉ định điều tra về sự kiện Mỹ Lai và các hành động che giấu của Lục quân Hoa Kỳ. Bản báo cáo cuối cùng, bản báo cáo Peers (Peers Report), được công bố tháng 3 năm 1970, đã chỉ trích mạnh mẽ việc các sĩ quan cấp cao che giấu vụ việc cũng như những hành động của các sĩ quan thuộc Đại đội Charlie tại làng Mỹ Lai 4. Theo đó: Các binh lính [tiểu đoàn 1] đã giết ít nhất từ 175 đến 200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam. Dù trong số bị giết có người ủng hộ hoặc thân với Việt Cộng (họ không mang vũ khí, gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em) nhưng nhiều bằng chứng đã xác nhận rõ chỉ có 3-4 người đích thực là Việt Cộng (VC). Một lính của đại đội được ghi nhận đã vô ý bị thương lúc nạp đạn.[The 1st Battalion] members had killed at least 175-200 Vietnamese men, women, and children. The evidence indicates that only 3 or 4 were confirmed as Viet Cong although there were undoubtedly several unarmed VC (men, women, and children) among them and many more active supporters and sympathizers. One man from the company was reported as wounded from the accidental discharge of his weapon. Các phiên tòa Ngày 17 tháng 3 năm 1970, Lục quân Hoa Kỳ đã buộc tội 14 sĩ quan, bao gồm cả thiếu tướng Samuel W. Koster, sĩ quan chỉ huy Sư đoàn Americal (Sư đoàn bộ binh số 23), về việc che giấu thông tin liên quan tới sự kiện Mỹ Lai. Phần lớn các lời buộc tội sau đó đã được hủy bỏ. Chỉ huy lữ đoàn Henderson là sĩ quan duy nhất phải ra tòa án binh về tội che giấu thông tin, dù vậy ông này cũng được tuyên bố trắng án ngày 17 tháng 12 năm 1971. Sau phiên tòa 10 tháng, mặc dù đã tuyên bố mình chỉ tuân theo mệnh lệnh của sĩ quan cấp trên (đại úy Medina), Calley bị tòa tuyên là có tội ngày 10 tháng 9 năm 1971 với các tội danh giết người có chủ ý và ra lệnh cho cấp dưới nổ súng. Ban đầu Calley bị tuyên án chung thân nhưng chỉ 2 ngày sau, tổng thống Nixon đã ra lệnh ân xá cho Calley. Sau cùng Calley chỉ phải chịu án 4 tháng rưỡi ngồi tù quân sự tại Fort Leavenworth, Kansas, trong thời gian này anh ta vẫn được bạn gái thăm nuôi không hạn chế. Trong một phiên tòa khác, Medina phủ nhận việc ra lệnh thảm sát, và được tuyên trắng án ở tất cả các lời buộc tội. Vài tháng sau phiên tòa, Medina thừa nhận đã che giấu bằng chứng và nói dối Henderson về con số dân thường bị giết. Phần lớn các binh lính khác có dính líu tới vụ thảm sát Mỹ Lai khi phiên tòa xảy ra đã giải ngũ, vì vậy họ được miễn truy tố. Trong số 26 người bị buộc tội, chỉ có duy nhất Calley bị kết án. Calley cho rằng anh ta nên đặt nhiệm vụ mà Tổ quốc giao cho lên trên cái tôi của mình. Khi tiến vào Mỹ Lai, tất cả đàn ông ở đâu? Thôn Mỹ Lai toàn là phụ nữ và trẻ em, không có thanh niên nào cả. Điều đó có nghĩa là cha chúng xa nhà đi chiến đấu. Calley tuyên bố những phụ nữ và trẻ em mà anh ta sát hại "chắc chắn là Việt Cộng". Những người ủng hộ cuộc chiến cho rằng Calley đang làm nhiệm vụ. Phe chống đối thì cho rằng anh ta chỉ là người giơ đầu chịu báng, phải nhận tội thay cho các sĩ quan chỉ huy. Ngày 19 tháng 8 năm 2009, trong lúc phát biểu tại Kiwanis Club, Greater Columbus, lần đầu tiên William L.Calley công khai lên tiếng xin lỗi nạn nhân. Ông nói: "Không một ngày nào trôi qua mà tôi không cảm thấy hối hận vì những gì đã xảy ra ngày hôm đó tại Mỹ Lai" Những người sống sót Trong vụ thảm sát ở Mỹ Lai, có một số người sống sót nhờ được xác của những người thân che chắn khỏi những làn đạn của lính Mỹ, một trong số đó là Đỗ Ba (Đỗ Hòa), người đã được phi đội Thompson cứu khỏi cái mương đầy xác chết. Những người sống sót sau đó đã tái định cư tại khu lán trại nằm ở thôn Mỹ Lai 2. Khu định cư này gần như đã bị phá hủy sau cuộc pháo kích và không kích của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mùa xuân năm 1972. Vụ phá hủy đầu tiên được đổ cho Việt Cộng nhưng sự thật sau đó đã được các nhân viên Quaker làm việc ở Quảng Ngãi công bố. Vụ việc này sau đó đã được đăng trên tờ New York Times tháng 6 năm 1972. Tưởng niệm Nhà báo Seymour Hersh, người phát hiện ra tình huống bi kịch này đã nhận giải thưởng Pulitzer về tường thuật quốc tế năm 1970. Tường thuật của ông được minh họa bằng hình của nhà nhiếp ảnh Ron Haeberle. Người nhiếp ảnh này đã tham dự vào chiến dịch dưới tư cách là phóng viên quân đội chính thức nhằm cung cấp chứng cứ cho cái được gọi là "đếm xác" (body count) trong thống kê quân sự của Mỹ. Các xác chết được chụp đã được các sĩ quan Mỹ xác nhận là của các binh sĩ Việt Cộng đã bị giết, thế nhưng người ta không gặp một dấu hiệu nào của Việt Cộng trong làng và cũng không gặp kháng cự nào. Mặc dầu vậy, quân đội Mỹ rất hài lòng với cuộc hành quân, họ báo cáo rằng không có quân nhân Mỹ nào chết hay bị thương và 128 binh sỹ kẻ thù đã bị tiêu diệt. Phải mất 1 năm Hersh mới tìm được một nhà xuất bản sẵn sàng công bố câu chuyện và hình ảnh của ông. Việc xuất bản này đã đánh dấu một bước ngoặt trong cảm nghĩ của công chúng về Chiến tranh Việt Nam, cả ở Mỹ lẫn trong toàn bộ thế giới phương tây và đã góp phần quyết định vào việc tổng động viên của phong trào chống chiến tranh. Ngày nay, Sơn Mỹ đã trở thành một trung tâm tư liệu về sự kiện: Khu chứng tích Sơn Mỹ. Bên cạnh làng cũ là 2 tòa nhà: 1 trường học và 1 trung tâm văn hóa, được xây dựng và tài trợ bởi cựu quân nhân của Chiến tranh Việt Nam. Đạo diễn chuyên về đề tài chiến tranh Việt Nam Oliver Stone vào năm 2007 đã dự định làm một bộ phim về vụ thảm sát lấy tên Pinkville. Bộ phim xoay quanh cuộc điều tra của tướng Peers, vai William Peers được giao cho diễn viên Bruce Willis, Woody Harrelson vào sẽ vào vai đại tá Henderson. Hình ảnh vụ thảm sát
Thiên Ấn có thể là: Núi Thiên Ấn ở Quảng Ngãi, Việt Nam Chùa Thiên Ấn ở trên núi Thiên Ấn Thiên Ấn - Văn Hoá Cội Nguồn
Núi Thiên Ấn là một ngọn núi và cũng được xem là một thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Vị trí Thiên Ấn hay còn gọi là Kim Ấn Sơn là ngọn núi nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc, thuộc địa phận xã Tịnh Ấn Đông và phường Trương Quang Trọng, Thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Đặc điểm Núi cao 106 m, tựa hình một chiếc ấn, bốn phía sườn có hình thang cân. Giữa thiên nhiên thoáng đãng, ngọn núi như chiếc ấn của trời cao niêm cạnh dòng sông xanh nên người xưa gọi là Thiên Ấn Niêm Hà. Trên đỉnh núi có ngôi chùa cổ nằm dưới bóng cây cổ thụ, được Chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch vào năm 1716. Năm 1830, ngọn núi được khắc vào dinh tự và năm 1850, vua Tự Đức đưa núi vào hàng danh sơn của đất nước và ghi vào tự điển. Phía Đông chùa có khu "Viên Mộ" thiết diện hình lục giác, gồm nhiều tầng, là nơi an táng các vị sư trụ trì của chùa và mộ nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng (1876 - 1947). Thiên Ấn niêm hà (dấu trời đóng bên sông) là một quả núi cao 106m nằm giữa đồng bằng huyện Sơn Tịnh ở tả ngạn của sông Trà Khúc, cách thành phố Quảng Ngãi hơn 3 km về hướng Bắc. Từ bến đò Trà Khúc năm xưa qua khỏi cầu Trà Khúc 1 nằm trong tuyến Quốc lộ 1 có thể nghỉ chân nắ ngắm cảnh Long Đầu hý thủy rồi theo quốc lộ 24B Trà Khúc – Sa Kỳ 2 km, bên tay phải có con đường trải nhựa, xoáy tròn trôn ốc lên đến tận đỉnh bằng phẳng hơn 10 mẫu. Chân núi rộng chu vi khoảng 5 km như một khối hình thang, chiếm mặt đất khoảng 50 mẫu. Núi Ấn còn có nhiều tên gọi khác như: núi Hó, Kim Ấn Sơn, Thổ Sơn (núi đất), Thổ châu (núi đỏ). Xưa kia núi mọc toàn là tranh chen lẫn với đá, mặt đỉnh câu cối mộc sầm uất có cọp ở. Người dân trong làng thường dùng tranh của núi Ấn để lợp nhà, tuy nhiên, không ai dám bén mảng lên đỉnh và cho rằng đất là vùng đất thiêng. Chân núi phía Đông Thiên Ấn có cái gò cao giống cái hộp đựng con dấu, gọi là hòn Triện. Mặt khác, ngày xưa các nho sĩ thường đến Thiên Ấn lấy đá non về mài mực viết vẽ, phê sách vở rất tốt. Cũng từ đó mà trong dân gian đã có câu: " Son núi Ấn, mài hòn son Ấn, Ấn tốt son tươi Nước sông Trà, pha nấu nước trà, trà thơm nước động" Đứng trên Thiên Ấn có thể nhìn bao quát cả một khung cảnh thiên nhiên núi non thơ mộng. Phía Tây Thiên Ấn giáp với núi Long Đầu, phía Bắc giáp núi La Vọng. Ngoài cảnh đẹp núi non Thiên Ấn còn thu hút khách hành hương đến đây chiêm bái, hành lễ vì trên núi còn có mộ của cụ Huỳnh Thúc Kháng một nhà nho yêu nước, một chiến sĩ cách mạng trong thời kỳ đấu tranh đòi tự do dân chủ từ thực dân Pháp. Tọa lạc trên núi còn có "Sắc Tứ tổ đình Thiên Ấn" chứa đựng nhiều câu chuyện kỳ bí thú vị, được vua Lê sắc phong vào năm 1727. Núi Thiên Ấn là đệ nhất thắng cảnh và là "núi thiêng" của người Quảng Ngãi. Năm 1990 núi Thiên Ấn - mộ cụ Huỳnh đã được Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích và thắng cảnh quốc gia.
Sơn Mỹ có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây: Xã Sơn Mỹ, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận Xã cũ Sơn Mỹ thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; nay là một phần xã Tân Mỹ Hà Tên cũ của xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, nơi có khu chứng tích Sơn Mỹ để tưởng nhớ các nạn nhân trong vụ thảm sát Mỹ Lai tại địa phương này.
Kolomenskoye (tiếng Nga: Коломенское) là tài sản của hoàng gia Nga trước đây, nằm cách Moskva vài dặm về phía đông nam với diện tích 390 ha, trên con đường cổ dẫn tới thị trấn Kolomna (vì thế mà có tên gọi này). Khu vực có phong cảnh đẹp này nhìn ra các bờ dốc đứng của sông Moskva đã trở thành một phần của Moskva trong thập niên 1960. Nhà thờ Kolomenskoe Làng Kolomenskoye lần đầu tiên được nhắc đến trong di chúc của Ivan Kalita năm 1339. Từ thời gian đó thì làng này đã phát triển như là một vùng quê ưa thích của các đại công tước Moskva. Công trình xây dựng cổ nhất còn tồn tại là nhà thờ Thăng thiên rất khác thường (1530), được xây bằng đá trắng theo lệnh của đại công tước Vasilii III Ivanovich để kỷ niệm sinh nhật của người thừa kế ngai vàng được chờ đợi từ lâu (Ivan Bạo chúa trong tương lai). Là nhà thờ đá đầu tiên có kết cấu tháp có chóp mái, tên gọi dân dã là "Cột trắng" (đôi khi người ta gọi nó như vậy) đã đánh dấu sự đoạn tuyệt rõ ràng với kiểu xây dựng Byzantin truyền thống. Nhà thờ được xây dựng từ tầng hầm (podklet) hình chữ thập, sau đó là phần thân tháp (chetverik) hình bát giác kéo dài, sau đó là phần chóp bát giác (tent) với một vòm nhỏ ở phía trên. Các trụ bổ tường hẹp ở các mặt của phần thân bát giác, các khung cửa sổ hình mũi tên với ba lớp vòm cuốn bán tròn với phần lồi lên ở giữa (kokoshnik), sự nhịp nhàng đơn giản của các vòm cuốn cầu thang và các gian phòng mở nhấn mạnh xu hướng động của tác phẩm lớn của kiến trúc Nga này. Người ta cho rằng toàn bộ đường nét kết cấu theo chiều đứng của nó đã vay mượn từ kiểu mái có mép bờ của các nhà thờ gỗ của miền bắc Nga. Công nhận giá trị đáng chú ý của nó đối với nhân loại, UNESCO đã quyết định đưa nhà thờ này vào danh sách Di sản thế giới năm 1994. Các công trình xây dựng khác Ở một hẻm núi gần Kolomenskoe người ta có thể thấy 5 chóp mái, được xây dựng vào khoảng năm 1547. Trên thực tế, nguồn gốc của nhà thờ này vẫn còn là một điều bí ẩn. Một số người cho rằng những người xây dựng nó đến từ Italia, còn những người khác lại nói rằng nó được Postnik Yakovlev xây dựng (ông cũng được coi là người xây dựng ra nhà thờ thánh Basil trên Quảng trường Đỏ. Cho dù sự thật là gì đi chăng nữa thì một điều rõ ràng là nhà thờ này tiêu biểu cho trạng thái chuyển tiếp từ nhà thờ Thăng thiên miêu tả trên đây với nhà thờ tám chóp mái nổi tiếng trên Quảng trường Đỏ. Sa hoàng Alexei Mikhailovich Romanov (1629-1676) đã cho phá hủy toàn bộ các công trình xây dựng bằng gỗ trước đó tại Kolomenskoye và thay thế chúng bằng cung điện lớn bằng gỗ mới, được biết đến vì các mái khác thường, thần kỳ của nó. Những người nước ngoài nhắc đến mêcung lớn này với các hành lang phức tạp và 250 phòng, được xây dựng mà không cần cưa, đinh, móc như là kỳ quan thứ tám của thế giới. Nữ hoàng tương lai Elizaveta Petrovna (1709-1762) đã sinh tại cung điện này. Khi thủ đô được rời tới Sankt-Peterburg, cung điện này đã bị bỏ hoang và xuống cấp nặng nề, vì thế nữ hoàng Catherine Đại Đế (1729-1796) đã từ chối không dùng nó làm nơi ở của bà tại Moskva. Theo lệnh của bà cung điện này đã bị phá bỏ vào năm 1768. Một điều may mắn là mô hình gỗ của cung điện này vẫn còn và chính quyền thành phố Moskva đang có kế hoạch xây dựng lại cung điện này theo đúng kích thước thật của nó. Các vết tích còn lại của cung điện này là nhà thờ Kazanskaya 5 chóp mái (1662) với kiến trúc cổ truyền, các cổng bằng gỗ và đá của cung điện cũ. Trong thời kỳ Liên Xô, các công trình cổ bằng gỗ đã được chuyển tới Kolomenskoye từ Karelia (nhà thờ thánh Georgii), Siberia (tháp cọc chắn Bratsk) và từ nhiều khu vực khác (nhà gỗ, cối xây gió v.v). Một số trong các công trình này có từ thế kỷ 17. Hình ảnh
Đặng Thùy Trâm (sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 tại Huế, hy sinh ngày 22 tháng 6 năm 1970 tại Đức Phổ, Quảng Ngãi) là một bác sĩ, liệt sĩ trong Chiến tranh Việt Nam. Tiểu sử Bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh tại Huế nhưng lớn lên tại Hà Nội trong một gia đình giàu tri thức. Bố chị là ông Đặng Ngọc Khuê, bác sĩ ngoại khoa; mẹ chị là bà Doãn Ngọc Trâm, giảng viên trường Đại học Dược Hà Nội. Đặng Thùy Trâm là chị cả, dưới còn ba em gái và một em trai, cả chị và ba người em đều mang tên giống mẹ và chỉ khác nhau tên đệm (Đặng Phương Trâm, Đặng Hiền Trâm, Đặng Kim Trâm), cho nên bạn bè và người thân đều gọi Thùy Trâm là "Thùy" để phân biệt. Chị từng là học sinh của Trường Chu Văn An, Hà Nội và là giọng ca xuất sắc của trường Chu Văn An và Đại học Y Hà Nội. Bằng các ca khúc Bài ca hy vọng (của Văn Ký), Cây thùy dương (ca khúc Nga), Sullico..., chị đã đoạt hàng chục huy chương trong các cuộc đua tài văn nghệ quần chúng thủ đô. Bên cạnh việc say mê học tập, luôn giúp đỡ bạn bè gặp khó khăn, Thùy Trâm còn tích cực tham gia câu lạc bộ thơ văn cùng khóa của trường Chu Văn An, gồm có các thành viên sau này trở thành các nhà văn, nhà thơ như Nguyễn Khoa Điềm, Tô Nhuận Vĩ, Vương Trí Nhàn... Chị và các anh bạn cùng lớp Lê Văn Kiếm, Hoàng Ngọc Kim, Dương Đức Niệm kết thành nhóm phấn đấu vào Đảng. Nối nghiệp gia đình, Thùy Trâm thi đỗ vào Đại học Y khoa Hà Nội chuyên khoa Mắt và được nhà trường cho tốt nghiệp sớm một năm để đi chiến trường. Với kết quả học tập, thi tốt nghiệp loại ưu, bác sĩ trẻ Thùy Trâm có thể, hoặc nhận lời ở lại trường làm cán bộ giảng dạy hoặc nhận công tác tại một bệnh viện hoặc cơ quan nào đó ở ngay Hà Nội vì bố mẹ đều là cán bộ có uy tín, có nhiều quan hệ trong ngành Y tế. Nhưng vì có người yêu vào chiến trường trước mấy năm nên sau khi tốt nghiệp chị xung phong vào Nam ngay. Năm 1966, Thùy Trâm xung phong vào công tác ở chiến trường B. Sau ba tháng hành quân từ miền Bắc, tháng 3 năm 1967, chị vào đến Quảng Ngãi và được phân công về phụ trách bệnh viện huyện Đức Phổ, một bệnh xá dân sự nhưng chủ yếu điều trị cho các thương bệnh binh. Chị được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 27 tháng 9 năm 1968. Ngày 22 tháng 6 năm 1970, trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba Tơ về đồng bằng, Đặng Thùy Trâm bị địch phục kích và hy sinh khi chưa đầy 28 tuổi đời, 2 tuổi Đảng và 3 năm tuổi nghề. Hài cốt của chị được nhân dân địa phương mai táng tại nơi hy sinh và luôn hương khói. Sau chiến tranh, mộ của chị được đồng đội đưa về Nghĩa trang liệt sĩ xã Phổ Cường. Năm 1990, gia đình đã đưa hài cốt chị về Nghĩa trang liệt sĩ xã Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội (nay là phường Xuân Phương, quận Bắc Từ Liêm). Chị đồng thời là tác giả hai tập nhật ký được viết từ ngày 8 tháng 4 năm 1968, khi phụ trách bệnh xá Đức Phổ, cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1970, 2 ngày trước khi hy sinh. Hai tập nhật ký này được Frederic Whitehurst, cựu sĩ quan quân báo Hoa Kỳ, lưu giữ suốt 35 năm cho đến ngày được trả lại cho gia đình tác giả vào cuối tháng 4 năm 2005. Nhật ký của cô sau đó được nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn biên tập thành quyển sách mang tên Nhật ký Đặng Thùy Trâm và trở thành một hiện tượng văn học với hơn 400.000 bản được bán. Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được báo chí nước ngoài bình luận như một "Nhật ký Anne Frank của Việt Nam". Cuộc gặp với Đặng Thùy Trâm Trong loạt bài phóng sự "Huyền thoại tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển", Nhà báo Nguyễn Thành Luân (Báo Đại Đoàn Kết) thuật lại cuộc gặp gỡ với các nhân chứng lịch sử, trong đó có Thuyền phó con tàu đầu tiên ra miền Bắc - Nguyễn Văn Đức, kể lại về cuộc gặp của các thủy thủ trên con tàu "Không số" vận chuyển vũ khí đầu tiên ra Bắc với liệt sĩ Đặng Thùy Trâm trên tuyến đường mòn nổi tiếng này vào năm 1968 mà đến nay ông vẫn còn nhiều ấn tượng tốt đối với Đặng Thùy Trâm. Mối tình của Đặng Thùy Trâm Trong nhật ký, Đặng Thùy Trâm viết về người mình yêu bằng chữ viết tắt "M" (Mộc). Tên thật của người chiến sĩ này là Khương Thế Hưng. Anh sinh ngày 18 tháng 9 năm 1934 tại thị xã Hội An, Quảng Nam, là con thứ ba của Nhà thơ lão thành Khương Hữu Dụng, sau Khương Thế Xương và Khương Băng Tâm. M. là chữ đầu của chữ Mộc. Nguyên Mộc tức Đỗ Mộc, là bút danh của Khương Thế Hưng ở chiến trường. Năm 1966, Đặng Thùy Trâm vào chiến trường. Khương Thế Hưng gặp chị khi trong mình đã có hàng chục vết thương. Trong một lá thư, viết ngày 15 tháng 2 năm 1968, gửi cho bạn là Dương Đức Niệm, Thùy viết về M: "Anh bây giờ sống thật đơn giản, anh không mơ gì hơn là diệt được thật nhiều giặc Mỹ, anh không cần gì cho bản thân, kể cả tình yêu và sự nghiệp. Đối với Thùy, anh thương với tình thương rất đỗi chân thành, anh tôn trọng và cảm phục trước tình yêu thủy chung của Thùy, nhưng chỉ có thế thôi. Con tim anh không còn những rung cảm sâu xa, những vần thơ thắm đượm tình yêu, những lời ca bay bổng ước mơ nữa rồi". Anh rất cảm phục trước tình yêu chung thủy của Thùy nhưng trái tim anh đau đớn khi thấy miền Nam đau thương, khi đồng đội của anh từng ngày, từng giờ đã và đang ngã xuống để giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong một lá thư gửi cho em gái, anh Hưng viết: Anh đã hành quân qua hàng ngàn thôn xóm cháy rụi, những cánh đồng khô héo vì chất độc… Anh đã từng lặng người trước 70 bà con Hành Đức bị thuốc độc Mỹ làm chết trong hầm, thân thể bầm tím… Anh đã nhìn tận mắt chị phụ nữ Gành Cả bị giặc Pắc Chung Hi (Hàn Quốc) hiếp, ruột chị dao găm giặc rọc từ dưới lên trên, cổ chị bị giặc vác cối đá chần lên, lưỡi chị phải thè ra ngoài! Tay anh đã từng cầm chuỗi cườm của em bé, mảng da đầu dính tóc của người con gái, mảnh xương sọ của bà mẹ – những người trong số 394 người bị giặc Pắc Chung Hi tàn sát trong một giờ vào một sớm mưa lạnh ngày Đông 1966 ở Bình Hòa… Anh đã từng chứng kiến những vụ vây ráp bắt thanh niên ta đi làm bia đỡ đạn cho chúng, chúng đã giành giật trong tay những bà mẹ những người chị, những đứa con thân yêu, những người em hiền hậu… một cách vô cùng man rợ! Nhưng đối với đồng bào Quảng Ngãi ta, mỗi tội ác của giặc Mỹ và tay sai gây ra chỉ có tác dụng như đổ thêm dầu vào ngọn lửa căm thù, chỉ có tác dụng làm cho quân và dân Quảng Ngãi ta thêm quyết tâm, thêm sức mạnh chiến đấu vì độc lập tự do, vì hòa bình, hòa hợp dân tộc. Năm 1970, khi Thùy Trâm hi sinh, anh Hưng cũng bị thương nặng phải chuyển ra Bắc. Dòng nhật ký được viết sau ngày anh Hưng biết tin Đặng Thùy Trâm hi sinh: "Em dịu dàng là vậy, chưa biết nói nặng ai câu nào. Em dũng cảm là vậy. Giặc đốt hầm bí mật vẫn bình tĩnh cứu chữa thương binh. Cuỡi hon đa phóng qua trước rào lính địch để cấp cứu ca thương binh nặng. B-52 trên đầu. Quân đánh bộ bên cạnh vẫn bình tĩnh băng bó thương binh, dìu đi khỏi vòng vây.Bà con thương yêu đùm bọc em. Các mẹ gọi em là Con gái. Các em gọi em là Chị. Cánh lính trẻ gọi em là Sao Vệ nữ. Các nhà thơ gọi em là người của làng thơ họ. Các nhà văn cãi lại bảo em là người của họ gửi nhờ Sê Khốp dạy nuôi. Vậy mà em ngã xuống. Và em cũng không nhận ra anh! Em chết đi biến thành ngọn gió lượn trên đầu anh. Trên đời anh. Thành tiếng gọi đằng trước để anh đi tới… Anh đã nghĩ, đó là tình yêu của người lính!...". Ông Khương Thế Hưng mất ngày 13 tháng 11 năm 1999, sau nhiều năm dài vật lộn với thương tật và bệnh tật do di chứng chiến tranh, thọ 65 tuổi. Em gái ông là bà Khương Băng Kính đã giữ lại bức thư viết ngày 17–3–1969 của chị Thùy Trâm gửi anh Hưng, được anh kẹp trong cuốn nhật ký. Bức thư được gia đình tặng Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam cuối năm 2009 và đang được trưng bày trong triển lãm Những kỷ vật kháng chiến tại Bảo tàng Quân khu 4 (Nghệ An). Vinh danh Năm 2006, chị được Chủ tịch nước Trần Đức Lương truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tên chị được đặt cho một trạm xá tại thôn Nga Mân, xã Phổ Cường, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Tên chị cũng được lấy làm tên cho 'bệnh viện đa khoa khu vực Đặng Thùy Trâm' tại thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Tại Hà Nội, tên chị được đặt cho ngõ 477 Hoàng Quốc Việt trước đây. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trục đường từ đường sắt Bắc Nam đến bờ sông Vàm Thuật thuộc Phường 13, quận Bình Thạnh được đặt theo tên chị. Ở huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu có một trường mẫu giáo tên Đặng Thùy Trâm. Bộ phim Đừng đốt'' do Đặng Nhật Minh làm đạo diễn được dựng lên từ Nhật ký Đặng Thùy Trâm, trong đó chị là nhân vật trung tâm của bộ phim. Ngày 5 tháng 9 năm 2019, trong khuôn khổ lễ khai giảng năm học 2019-2020, trường THPT Chu Văn An đã khánh thành bức tượng liệt sĩ Đặng Thùy Trâm.
Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai (tiếng Anh: The Sound of the Violin in My Lai) là một bộ phim tài liệu Việt Nam sản xuất bởi Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương, do Trần Văn Thủy biên kịch và đạo diễn. Phim công chiếu lần đầu vào năm 1998 và đã đoạt được nhiều giải thưởng lớn tại các kỳ liên hoan phim quốc tế, bao gồm Liên hoan Phim châu Á-Thái Bình Dương năm 1999 và Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12. Nội dung Bộ phim nói về vụ thảm sát xảy ra tại Sơn Mỹ, Quảng Ngãi vào buổi sáng ngày 16 tháng 3 năm 1968, khi quân đội Mỹ giết chết 504 dân thường chỉ trong vòng 4 giờ đồng hồ. Khoảng 30 năm sau cuộc thảm sát đẫm máu, những người Mỹ từng trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc thảm sát đã trở lại Việt Nam để chữa lành vết thương chiến tranh và hàn gắn mối quan hệ giữa người dân hai nước Việt – Mỹ. Trong số này có Mike Boehm. Dù không tham gia vào sự việc nhưng ông rất tức giận với tội ác của quân đội Hoa Kỳ và vì thế đã về Việt Nam mỗi năm một lần để chơi vĩ cầm, cho những cư dân hiện tại và cho cả những người đã khuất. Bên cạnh đó, hai cựu chiến binh người Mỹ là Hugh Thompson và Larry Colburn từng có mặt và cứu giúp những em bé trong thảm sát ấy cũng thực hiện một chuyến trở về để bày tỏ sự hối hận và cùng hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Phát triển và sản xuất Nhân tưởng niệm 30 năm ngày xảy ra thảm sát 16 tháng 3 năm 1968 – 16 tháng 3 năm 1998, đại sứ Mỹ tại Việt Nam Pete Peterson và nguyên tổng thống Bill Clinton đã lên tiếng xin lỗi nhân dân Việt Nam về vụ thảm sát này. Trước thềm sự kiện trên, Trần Văn Thủy nảy ý định làm một bộ phim tài liệu về vụ thảm sát, nhưng lúc đó ý tưởng và đề cương cho phim vẫn còn mơ hồ, chưa rõ ràng. Nhờ sự hỗ trợ của giám đốc Hãng phim Tài liệu Trung ương và phó giám đốc là Nguyễn Văn Nhân và Lê Mạnh Thích, ông đã quyết định bắt tay vào dự án. Thông qua báo chí, Trần Văn Thủy biết sự kiện hai cựu binh Hugh Thompson và Larry Colburn sắp về Việt Nam. Cũng cùng lúc đó, ông có cơ may được gặp một cựu binh khác tên Mike Boehm. Khi biết câu chuyện của Mike Boehm, một lính Mỹ từng hoạt động trong chiến tranh Việt Nam, đã trở lại Việt Nam thường xuyên từ năm 1992 để chơi vĩ cầm tưởng niệm tại thôn Mỹ Lai, đạo diễn Trần Văn Thủy đã bị ấn tượng mạnh và quyết định triển khai tác phẩm tiếp theo của mình với trọng tâm đặt vào câu chuyện của Mike Boehm. Trần Văn Thủy đã đảm nhận vai trò biên kịch và đạo diễn cho bộ phim. Phim được quay dưới định dạng phim 35 mm – vốn phổ biến với điện ảnh bấy giờ. Trong quá trình làm phim tài liệu này, đạo diễn Trần Văn Thủy đã phải đối mặt với nhiều khó khăn. Không chỉ thiếu thốn về mặt kỹ thuật và công cụ làm phim mà cả những tư liệu sơ sài từ phía Việt Nam về cuộc thảm sát cũng là một trở ngại lớn với ông khi tiếp cận đề tài. Trên thực tế, hầu hết những bức ảnh về sự kiện trong phim đều bắt nguồn từ nguồn tin của truyền thông Mỹ đăng tải ngay sau vụ thảm sát. Chưa dừng lại tại đó, đoàn phim cũng bị ngăn cản khỏi việc ghi hình ngày khai trương Công viên Hòa bình Mỹ Lai, lập nên bởi Mike Boehm, khi đài truyền hình CBS (Mỹ) đã ký hợp đồng độc quyền với tỉnh để đưa những thông tin then chốt về sự kiện. Dù vậy, Trần Văn Thủy vẫn tìm được cách để ghi hình các trường đoạn quan trọng đó bằng nhiều góc quay khác nhau. Về phần âm nhạc, Mike Boehm đã sáng tác một bản nhạc cùng tên (1992) và bản nhạc này xuất hiện ở phần đầu và phần cuối của bộ phim. Trong những năm tiếp đó, nhạc khúc này vẫn thường xuyên được ông biểu diễn trong những lần trở về Sơn Mỹ. Kiểm duyệt và công chiếu Thời điểm mới hoàn thành, bộ phim đã không được Cục Điện ảnh duyệt, với lý do phim thực hiện mà không có sự cho phép của Cục. Đích thân các giám đốc Nguyễn Văn Nhân và Lê Mạnh Thích sau đó đã đi mời bằng được bộ trưởng Bộ Văn hóa Nguyễn Khoa Điềm về xem phim và cho ý kiến. Cuối cùng, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai được Cục Điện ảnh thông qua. Năm 1998, bộ phim đã trình chiếu lần đầu trên sóng truyền hình Việt Nam nhân tưởng niệm 30 năm Thảm sát Mỹ Lai. Tác phẩm cũng được cho in thành nhiều bản tranh cử liên hoan phim, trình chiếu trong hội thảo tại quốc tế và tại Việt Nam, trong đó có Liên hoan phim tài liệu châu Âu – Việt Nam lần thứ 7 dưới dạng phim khai mạc. Tiếp nhận Bộ phim đã có được phản ứng tích cực từ giới chuyên môn Việt Nam lẫn quốc tế. Nhà phê bình Ngô Phương Lan, viết trong cuốn tiểu luận Đồng hành với màn ảnh, coi Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai là một "điểm sáng của phim tài liệu" trong những năm cuối thế kỷ 21. Chỉ bằng "mấy bức ảnh tư liệu và một vài nhân chứng sống", nhưng Trần Văn Thủy đã chạm đến vùng sâu thẳm trong tâm can của mỗi người, đó là "lương tri" bằng sự tự nhiên "không có sự gượng ép, không hề nhìn thấy bàn tay sắp đặt của nhà làm phim". Cây bút Barbara Gaerlan của viện quốc tế UCLA thì dành lời khen ngợi cho phim trong việc "nhìn lại chương lịch sử đáng sợ này với tính nhân văn sâu sắc". Và với "sự tái hiện nhạy cảm nhưng không hề nao núng" về vụ thảm sát, tác giả ghi nhận đây là lý do khiến bộ phim được "khán giả trên toàn thế giới hoan nghênh". Cũng phân tích về mặt kỹ thuật của bộ phim, nhà báo Duy Hiển nhận xét tác phẩm vận dụng rất hiệu quả các thủ pháp xây dựng kịch tính qua từng phân cảnh. Ví dụ, Trần Văn Thủy đã tập trung cao độ cho trường đoạn những người phụ nữ thoát chết nhờ sự cứu giúp của một số lính Mỹ bày tỏ mong muốn được gặp lại ân nhân. Và khi sự kiện đó thực sự diễn ra, nó đã đã đóng vai trò như một "ngòi nổ" được tháo ra khỏi người xem với những cảm xúc hồi hợp, mong đợi. Bên cạnh đó, ông nhận xét đạo diễn còn rất dày công khi xây dựng các trường đoạn tương tự cho Mike Boehm – nhân vật chính của phim nhằm tạo nên "sự "bùng nổ"", khiến khán giả "vỡ òa cảm xúc". Vào năm 1999, phim đã được trao giải Bông sen bạc của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12, cùng với giải Đạo diễn xuất sắc dành cho Trần Văn Thủy. Cũng trong năm này, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai đoạt giải thưởng Con hạc vàng hạng mục Phim ngắn hay nhất (Best Short Film Award) tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 43, tổ chức ở Thái Lan năm 1999. Báo Nhân Dân sau đó đã xếp sự kiện phim đoạt giải quốc tế vào trong số "10 sự kiện văn hóa Việt Nam năm 1999". Bộ phim từng được thử nghiệm và sau đó là chính thức đưa vào hệ thống sách giáo khoa Việt Nam, dưới dạng chuyện kể cho học sinh lớp 5. Cho đến nhiều năm sau, phim vẫn được xem như là một tác phẩm tiêu biểu về đề tài Chiến tranh Việt Nam của Điện ảnh Việt Nam. Tiếng vĩ cầm của Mỹ Lai đã xuất hiện trong một tập của chương trình radio Democracy Now!. Chương trình bàn luận về bộ phim cũng như đề cập tới những di sản sau vụ Thảm sát Mỹ Lai. Giải thưởng
Trà Bồng là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Địa lý Huyện Trà Bồng là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc của tỉnh Quảng Ngãi, có độ cao từ 80 - 1.500 m so với mực nước biển. Huyện có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Bình Sơn và huyện Sơn Tịnh Phía tây giáp huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam Phía nam giáp huyện Sơn Tây Phía bắc giáp hai huyện Bắc Trà My và Núi Thành thuộc tỉnh Quảng Nam. Huyện lỵ của huyện là thị trấn Trà Xuân, cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 50 km về phía tây bắc theo Quốc lộ 1 và tỉnh lộ 622. Trà Bồng nằm ở vùng khí hậu á nhiệt đới, nhiệt độ trung bình 26-27 °C, có 2 mùa mưa nắng tương đối rõ rệt. Mùa nắng từ tháng 2 đến tháng 8 (âm lịch), khí hậu mát mẽ, mưa nhiều, lượng mưa trung bình 50-60mm/tháng. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, thường hay gây lũ, lụt, sạt lở núi gây khó khăn trở ngại cho đời sống nhân dân các dân tộc trong huyện. Là một huyện miền núi nên diện tích đồi núi chiếm phần lớn đất đai trong huyện, vùng đồng bằng nằm ở phía Đông huyện, giáp với huyện Bình Sơn và phía hữu ngạn sông Trà Bồng, nằm ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân. Địa hình huyện Trà Bồng khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các khối núi và sông suối chằng chịt trong các thung lũng nhỏ hẹp, núi ở đây có độ dốc lớn. Dân tộc Kinh sống tập trung chủ yếu ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân. Người Kor sống rải rác ở các xã còn lại của huyện. Người Kor ở Trà Bồng thuộc nhóm ngữ hệ Môn – Khmer. Người Kor sống thành từng Nóc (làng), có đến vài chục hộ gia đình cùng quần cư trong 1 Nóc, Nóc của người Kor thường ở trên lưng chừng núi hay ven các dòng sông suối hoặc ở giữa thung lũng. Phương thức sản xuất canh tác cũng gần giống với các dân tộc khác ở dọc Trường Sơn - Tây Nguyên, chủ yếu là sản xuất lúa nước kết hợp với kinh tế nương rẫy. Bên cạnh đó người Kor còn săn bắt, hái lượm, đánh cá dọc theo các sông, suối. Trong quá trình phát triển bên cạnh nét văn hóa chung với các dân tộc khác nhau ở miền Tây Quảng Ngãi, người Kor ở Trà Bồng vẫn bảo lưu và phát triển được vốn văn hóa cổ truyền giàu bản sắc của dân tộc mình như: các lễ hội truyền thống, Nghệ thuật Dân ca, Dân nhạc, Dân vũ, Nghệ thuật Điêu khắc, đan lát, trang sức, trang phục độc đáo riêng có của Trường Sơn – Tây Nguyên. Trên địa bàn huyện có trên 4 dân tộc cùng sinh sống gồm Kinh, Kor, Hrê và Ca Dong, ngày nay còn có dân tộc Mường và các dân tộc khác... Về tín ngưỡng, tâm linh các dân tộc Trà Bồng đều theo Đảng và Bác Hồ, người Kor Trà Bồng tôn thờ vạn vật hữu linh, một số theo 4 tôn giáo nhỏ là Thiên Chúa, Tin Lành, Phật giáo, Cao Đài. Lịch sử Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, Trà Bồng xưa là một trong bốn nguồn (nguyên) của tỉnh Quảng Ngãi, được gọi là "Nguồn Đà Bồng". Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), triều Nguyễn đổi tên thành "Nguồn Thanh Bồng". Năm 1915 Thực dân Pháp đổi thành "Đồn Trà Bồng" gồm 3 tổng: Sơn Bồng, Sơn Thuận và Sơn Thọ, chia làm 34 sách (làng). Năm 1930, Thực dân Pháp đặt tại đây Đồn kiểm lý, dưới đồn kiểm lý có " Chánh, phó tổng dịch Man" ở các tổng và "Sách trưởng" ở các sách. Sau đó "Đồn Trà Bồng" được đổi tên thành " Châu Trà Bồng". Ở các xã vùng thấp, đồng bào Kinh sinh sống (lúc này thuộc huyện Bình Sơn) gồm: Làng Xuân Khương, ấp Đại An; làng Đông Phú, ấp Phú Tài; làng Bình Hòa, làng An Phong, ấp Thạch Bích; ở mỗi làng Thực dân Pháp đặt một Lý trưởng đứng đầu. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính quyền cách mạng đổi tên châu Trà Bồng thành huyện Trà Bồng, các sách cũ nhập thành các xã mới, các làng ở phía tây huyện Bình Sơn nhập vào huyện Trà Bồng, hình thành 10 xã đồng bào dân tộc thiểu số là: Trà Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Thanh, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thủy, Trà Sơn. Đối với các làng, ấp người Kinh, chính quyền tổ chức lại thành 3 xã: Xuân Khương và Đại An hợp thành xã Nguyễn Lang; Đông Phú và Phú Tài hợp thành xã Đào Yển; Bình Hòa, Vinh Hòa, An Phong, Thạch Bích hợp thành xã Nguyễn Hiệt. Đầu năm 1946, ba xã Nguyễn Lang, Nguyễn Hiệt, Đào Yển hợp nhất thành xã có tên là Võ Cẩn. Cuối năm 1955, sau khi tiếp quản Trà Bồng, chính quyền Sài Gòn đổi huyện Trà Bồng thành quận Trà Bồng, lập nên 7 xã và 13 ấp. ba xã người Kinh đổi tên gọi là Trà Khương, Trà An, Trà Hòa. Về phía chính quyền cách mạng, để xây dựng căn cứ địa phục vụ cho lãnh đạo, chỉ đạo, vào năm 1957, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định tách 4 xã người Kor của huyện Sơn Hà là: Sơn Thọ, Sơn Hiệp, Sơn Bùi, Sơn Tân, sáp nhập vào huyện Trà Bồng và lần lượt đổi tên thành: Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Tân, Trà Bùi. Tháng 5 năm 1958, để thuận lợi cho việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định tách các xã Đông Bắc của huyện, thành lập khu I (Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình, Trà Sơn, Trà Thủy, Trà Giang) các xã vùng núi Cà Đam thành lập khu II (Trà Tân, Trà Bùi, Trà Phong, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thọ, Trà Xinh, các xã phía Tây thành lập khu IV (Trà Khê, Trà Thanh, Trà Hiệp, Trà Lâm). Đầu năm 1970, Trà Bồng được chia làm 2 huyện là Đông Trà và Tây Trà. Cuối năm 1970, Khu ủy V nhập huyện Trà Bồng và Sơn Tây thành Khu Sơn Trà trực thuộc Khu A của Khu ủy V. Cuối năm 1972, Khu Sơn Trà giải thể, các xã Sơn Tây trở lại Sơn Tây, các xã thuộc huyện Trà Bồng được tái lập như cũ. Sau năm 1975, sau nhiều lần tách, nhập các đơn vị hành chính cơ sở, huyện Trà Bồng thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 20 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Tây, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh và Trà Xuân. Ngày 20 tháng 4 năm 1978, sáp nhập ba xã Trà Tây, Trà Xinh và Trà Trung vào xã Trà Thọ. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Trà Bồng thuộc tỉnh Quảng Ngãi. gồm 19 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh và Trà Xuân. Ngày 23 tháng 6 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 39/1999/NĐ-CP về việc thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện Sơn Tây, Đức Phổ, Ba Tơ và Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Theo đó, thành lập thị trấn Trà Xuân trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Trà Xuân. Năm 2002, huyện Trà Bồng có thị trấn Trà Xuân và 18 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh. Ngày 1 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 145/2003/NĐ-CP. Theo đó, tách 9 xã: Trà Khê, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Quân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Trung, Trà Xinh để thành lập huyện Tây Trà. Huyện Trà Bồng còn lại thị trấn Trà Xuân và 9 xã: Trà Phú, Trà Bình, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Thủy, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Sơn. Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó: Sáp nhập toàn bộ 339,10 km² diện tích tự nhiên và 20.168 người của huyện Tây Trà (gồm 9 xã: Trà Khê, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Quân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Trung, Trà Xinh) trở lại huyện Trà Bồng. Hợp nhất hai xã Trà Quân và Trà Khê thành xã Sơn Trà. Hợp nhất hai xã Trà Nham và Trà Lãnh thành xã Hương Trà. Hợp nhất hai xã Trà Trung và xã Trà Thọ thành xã Trà Tây. Huyện Trà Bồng có 1 thị trấn và 15 xã như hiện nay. Hành chính Huyện Trà Bồng có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Trà Xuân (huyện lỵ) và 15 xã: Hương Trà, Sơn Trà, Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Phong, Trà Phú, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Tây, Trà Thanh, Trà Thủy, Trà Xinh. Kinh tế Kinh tế Trà Bồng nhìn chung còn chậm phát triển so với mặt bằng chung của các địa phương khác trong tỉnh. Hoạt động kinh tế chủ yếu của nhân dân Trà Bồng là Nông – Lâm nghiệp, Công – Thương nghiệp và Dịch vụ, hiện đang trong quá trình trên đà phát triển. Trong những năm qua mặc dù đời sống kinh tế của nhân dân tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước, nhiều chương trình được triển khai trên địa bàn: Chương trình 134, 135, 30a, Nông thôn mới từng bước cơ sở hạ tầng được xây dựng khang trang, nhiều hợp phần hỗ trợ sản xuất, cũng như hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo và các chương trình khác được đầu tư trên địa bàn huyện, cho nên nền kinh tế có bước phát triển theo hướng tích cực, từng bước thực hiện công tác giảm nghèo nhanh và bền vững. Nông nghiệp của huyện chủ yếu là dựa vào trồng lúa, mía, khoai, mì, bắp và trồng quế….chăn nuôi gia súc, gia cầm ở huyện Trà Bồng phổ biến là bò, trâu, gà, vịt. Tiểu thủ công nghiệp ở Trà Bồng chủ yếu vẫn là các nghề mang tính thủ công tự túc, tự cấp của người Kor, trong đó chủ yếu là đan lát các vật dụng dùng cho sinh hoạt và sản xuất như gùi các loại, chiếu nằm, chiếu phơi lúa… với những nét đan lát tinh xảo, vật liệu chủ yếu dùng mây, cây lùng, nứa sẵn có tại địa phương. Nghề thủ công của người Kinh thì chủ yếu là các nghề thông dụng như hồ, mộc, làm gạch ngói, rèn, khai thác đá và nghề sản xuất đồ thủ công mĩ nghệ từ vỏ quế như bình ly, ống đựng tăm, tinh dầu quế, quả bánh bằng vỏ quế già, sản xuất nhang quế. Nhiều nhà máy, công ty, xí nghiệp ra đời và phát triển, điển hình là nhà máy sản xuất chế biến quế của công ty TNHH Hương Quế Trà Bồng, có nguồn nước khoáng Thạch Bích tại xã Trà Bình hiện được công ty Đường Quảng Ngãi đang đầu tư khai thác…… Thương mại và dịch vụ Trà Bồng đã và đang được quan tâm đầu tư phát triển. Huyện đã chủ động đầu tư, nâng cấp, mở rộng chợ Trà Bồng, và các chợ khác ở các xã và trung tâm cụm xã. Các loại hình dịch vụ như: internet, karaoke, nhà nghỉ… cũng đang trên đã xây dựng, hình thành và phát triển. Hạ tầng Cách khu kinh tế Dung Quất 22 km về phía tây. Quý III năm 2006, Bộ Giao thông vận tải sẽ khởi công tuyến Dung Quất - Trà Bồng - Bắc Trà My (Quảng Nam) nối khu kinh tế Dung Quất với Tây Nguyên, các tỉnh Đông Bắc Campuchia và Lào. Cơ sở hạ tầng ở huyện đã có bước phát triển khá, hệ thống điện, đường, trường, trạm đã được chú trọng đầu tư, xây dựng và nâng cấp đồng bộ rộng khắp từ thị trấn đến các thôn xã. Công tác thông tin liên lạc cũng được phát triển, ở huyện đã có Bưu điện huyện, các xã đều có điểm bưu điện văn hóa xã. Hệ thống Viễn thông được đầu tư, mạng cáp quang đã được kéo đến các xã, phục vụ cho việc hiện đại hóa về Công nghệ thông tin. Trung tâm huyện lỵ đã có đường 1 chiều, hệ thống điện đường từng bước được hiện đại hóa, Đường liên xã từ huyện về được nhựa hóa, phục vụ đắc lực cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt của cán bộ và nhân dân; Tính đến nay hầu hết các xã điều có điện, điện kéo về đã góp phần làm thay đổi lớn diện mạo của vùng đất quế, đời sống vật chất và tinh thần của người dân tăng lên rõ rệt. Cùng với sự phát triển đó, các cơ sở công cộng như cơ quan, trường học, trạm y tế, bệnh viện cũng được đầu tư xây dựng khang trang. Các xã đồng bằng đều đã có nhà xây kiên cố, ở các làng đồng bào Kor, một số hộ gia đình cũng đã xây dựng được cho mình những ngôi nhà ngói khang trang kiên cố. Tuy nhiên việc phát triển không đồng đều giữa người Kinh và người Kor cũng là một trở ngại trên con đường phát triển của huyện nhà. Văn hóa Điểm nổi bật trong văn hóa ở Trà Bồng là các di sản văn hóa cổ truyền và hoạt động văn hóa. Ở dân tộc Kor, di sản văn hóa khá phong phú, đậm nét còn lưu giữ nguyên vẹn. Trà Bồng là nơi cư trú chính của dân tộc Kor, nhà của người Kor thường ở trên lưng chừng núi, hay ven các dòng sông suối, nhà được chia dọc làm hai phần, một nửa chạy dọc suốt từ cầu thang đầu hồi bên này tới đầu hồi cầu thang bên kia gọi là gưl tức nơi sinh hoạt cộng đồng hay nhà khách. Phần còn lại gọi là tum, là nơi sinh hoạt thiêng liêng của từng gia đình,không ai được vào, nếu không có sự đồng ý của gia chủ,nhiều tum gộp lại trở thành 1 nóc (nhà dài hay còn gọi là nhà tàu lửa), đứng đầu mỗi nóc là một già làng. Nơi đây, người dân vẫn bảo tồn được các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý báu. Người Kor vốn có tín ngưỡng nguyên thủy vạn vật hữu linh, thờ những đỉnh núi cao gọi là núi Ông, núi Bà. Trong di sản văn hóa dân tộc Kor có truyện cổ tích (đã được sưa tầm, dịch thuật và xuất bản), có các làn điệu như xà ru, a giới, cà ru, a lát, a-rợp… Người Kor thích đánh chiêng và có nhiều giai điệu chiêng đặc sắc, lễ hội của người Kor thì có lễ ăn lúa mới, làm nhà mới, lễ giã rạ, đặc sắc có lễ cưới, lễ rước hồn lúa, lễ hội hiến trâu rất đậm màu sắc dân tộc. Trong lễ hiến trâu có cây nêu và cây gu, 2 công trình điêu khắc hết sức độc đáo riêng có của Người Kor. Cây nêu của dân tộc Kor được dựng khá cao, với nhiều nét hoa văn, đan, khắc tinh xảo, có hình tượng chim chèo bẻo trên đầu nêu, thể hiện quan niệm thẩm mĩ và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân Kor. Riêng bộ gu trong nhà là di sản riêng có của dân tộc Kor, không thể tìm thấy ở các dân tộc khác. Gu có gu pi và gu pô thể hiện giống nòi, sự sinh tồn của dân tộc được treo giữa nhà, có con chim đại bàng lớn được khắc vạch các hoa văn đỏ, trắng trên nền đen. Gu dẹt hay la vang treo ở cửa trước tum. Trên la vang là cả một bức tranh liên hoàn, trong đó có vẽ các hình ảnh, hoa lá, sinh hoạt rất đặc thù. Người Kor giỏi đan lát, trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và hái lượm, những sản phẩm đồ đan của người Kor thật sự là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo, đẹp mắt. Những kinh nghiệm về trồng, chế biến, khai thác quế, kinh nghiệm chữa bệnh…. cũng là những tri thức dân gian quý báu. Về di sản văn hóa Việt ở Trà Bồng thì có thể kể đến những bài ca dao, các điệu hát dân ca còn lưu truyền tới ngày nay. Giữa người Kor và người Việt ở Trà Bồng cũng có sự giao thoa văn hóa với nhau khá đậm nét đó là người Kor cũng có bộ lễ phục áo dài vốn là sản phẩm của miền xuôi, ở Điện Trường Bà người Kinh, người Kor đều tới cúng lễ, tưởng niệm bà Thánh Mẫu Thiên Y A Na, biểu tượng cho tinh thần đại đoàn kết các dân tộc ở Trà Bồng. Lăng thờ Bạch Hổ ở Thị trấn Trà Xuân cũng là biểu tượng của giao lưu văn hóa Việt – Kor. Các hoạt động Văn hóa, Thể thao từng bước được đầu tư và phát triển, các thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng từ huyện đến cơ sở, các công trình tiêu biểu: Quảng Trường 28/8, Trung tâm Văn hóa – Thể thao. Sắp đến đầu tư Sân vận động, Khu bảo tồn Văn hóa các dân tộc huyện Trà Bồng, Cung Văn hóa thiếu nhi, Công viên 28/8. Hoạt động Du lịch được hình thành và từng bước phát triển, góp phần phục vụ nhu cầu tham quan của nhân dân và du khách trong và ngoài tỉnh như. Huyện ủy ban hành Nghị quyết chuyên đề, Hội đồng nhân dân phê duyệt Đề án phát triển Du lịch Trà Bồng giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020. Hoạt động Y tế, giáo dục được quan tâm đặc biệt, từng bước phát triển. Du lịch Các di tích của cuộc khởi nghĩa Trà Bồng ở miền tây Quảng Ngãi được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lich Việt Nam xếp hạng Thác Cà Đú Khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Cà Đam đang trong quá trình khảo sát đầu tư. Chú thích
Hệ chuyên gia, còn gọi là hệ thống dựa tri thức hoặc hệ thống chuyên gia, là một chương trình máy tính chứa một số tri thức đặc thù của một hoặc nhiều chuyên gia con người về một chủ đề cụ thể nào đó. Các chương trình thuộc loại này đã được phát triển từ các thập niên 1960 và 1970, và trở thành ứng dụng thương mại từ thập niên 1980. Dạng phổ biến nhất của hệ chuyên gia là một chương trình gồm một tập luật phân tích thông tin (thường được cung cấp bởi người sử dụng hệ thống) về một lớp vấn đề cụ thể, cũng như đưa ra các phân tích về các vấn đề đó, và tùy theo thiết kế chương trình mà đưa lời khuyên về trình tự các hành động cần thực hiện để giải quyết vấn đề. Đây là một hệ thống sử dụng các khả năng lập luận để đạt tới các kết luận. Nhiều hệ chuyên gia đã được thiết kế và xây dựng để phục vụ các lĩnh vực kế toán, y học, điều khiển tiến trình (process control), dịch vụ tư vấn tài chính (financial service), tài nguyên con người (human resources), v.v..
Trần Văn Thủy (sinh ngày 26 tháng 11 năm 1940) là một đạo diễn phim tài liệu người Việt Nam, nổi tiếng qua các tác phẩm Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế và Phản bội. Ông được công nhận là nhân vật hàng đầu ngành điện ảnh tài liệu Việt Nam với phong cách làm phim hướng vào hiện thực xã hội của mình. Bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một phóng viên chiến tranh và phim tài liệu đầu tay có tên Những người dân quê tôi, Trần Văn Thủy đã sớm gây được tiếng vang sơ khởi trên trường điện ảnh quốc tế. Ông tiếp tục ghi dấu ấn bằng bộ phim tài liệu Phản bội sản xuất vào đầu những năm thập niên 1980 nói về Chiến tranh biên giới Việt–Trung. Dưới thời bao cấp và Đổi Mới, ông thực hiện hai cuốn phim Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế – là bộ đôi tác phẩm tiêu biểu nhất của Trần Văn Thủy, đạt được thành công vang dội cả trong nước lẫn quốc tế nhưng cũng từng là đối tượng bị kiểm duyệt gắt gao bởi các cấp chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam. Xuyên suốt sự nghiệp làm phim, Trần Văn Thủy đã đạo diễn trên 20 bộ phim, nhiều trong số đó đoạt giải cao tại các kỳ liên hoan phim quốc gia và quốc tế. Ông từng được trao ba giải Đạo diễn xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam và được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 2001. Vào năm 2022, Trần Văn Thủy đã nhận giải thưởng Lớn Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội vì những cống hiến trọn đời cho điện ảnh. Đầu đời Trần Văn Thủy sinh ngày 26 tháng 11 năm 1940 ở thành phố Nam Định. Cha ông tên Trần Văn Vỵ (1902–1975) – một viên chức chính quyền Pháp ngầm ủng hộ Việt Minh, còn mẹ ông tên Đỗ Thị Hiếu (1913–2013). Trong gia đình gồm bảy người con, Trần Văn Thủy là con trai thứ hai. Sau khi Toàn quốc kháng chiến nổ ra vào năm 1946, cả nhà ông tản cư về làng An Phú (xóm 2), xã Hải Phong, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thời gian này, ông và anh chị em được chăm sóc và dạy dỗ bởi bà vú nuôi tên Nhuận; sau này bà mất đã được ghi vào gia phả của gia đình. Vào năm 1949, người anh cả Vĩnh lớn hơn Trần Văn Thủy bốn tuổi bị trúng đạn và chết trong một trận càn. Vì thế ông trở thành con trai cả trong gia đình. Sau sự kiện này, ông Vỵ quyết định đưa các con trở lại thành phố, lúc này đã nằm trong tay quân đội Pháp. Thời kỳ thơ ấu, Trần Văn Thủy được dạy học bơi lội và hàng ngày hăng hái đi bơi. Sở trường này đã góp phần quan trọng cho ông trong quãng thời gian sinh hoạt ở chiến trường. Lên 13 tuổi, ông nhập học vào trường Nguyễn Khuyến, Nam Định, học lớp Đệ thất B3 niên khóa 1953–1954. Khi còn sinh sống tại thành phố tạm chiếm, Trần Văn Thủy đã trở nên "nghiện" phim khi được xem các cuốn phim kinh điển nước ngoài, khiến ông dành tất cả tiền vào rạp chiếu bóng và sưu tầm ảnh chân dung của những tài tử điện ảnh thời ấy. Ông cũng từng đi học nghề ở nhà bạn của cha là chủ một hiệu ảnh trên phố Paul Bert, Nam Định và bước đầu đã có cơ hội tiếp xúc, làm quen với phim ảnh. Sau Hiệp định Genève 1954, bởi cha Trần Văn Thủy bị chính quyền miền Bắc kết tội là thành phần thân Pháp nên ông và các em đã không vào được đại học. Vì vậy hậu tốt nghiệp trung học phổ thông ông xin vào một lớp nhân loại học do Bộ Văn hóa tổ chức. Năm 1960 học xong, ông về công tác tại Ty Văn hóa Khu tự trị Thái Mèo, nghiên cứu dân tộc học về các nhóm dân tộc thiểu số. Thời gian làm tại đây, Trần Văn Thủy nhận ra tác động của điện ảnh tới công chúng và nảy sinh hứng thú. Ông đã biết có một khóa học làm phim đào tạo phóng viên chiến trường tổ chức bởi Trường Điện ảnh Việt Nam, rồi xin trưởng Ty Văn hóa khi đó là nhà thơ Lương Quy Nhân và được ông chấp thuận. Giữa năm 1965, Trần Văn Thủy tự cuốc bộ từ Lai Châu về Hà Nội để thi tuyển vào Trường Điện ảnh, nhưng khi tới nơi mới biết buổi thi đã tổ chức từ hai tuần trước. Dù không có cơ hội tham dự, ông vẫn cố ở lại Hà Nội để tìm những "ngách" khác học điện ảnh nhưng đều bị từ chối. Nhờ vào sự giúp đỡ của đạo diễn Nông Ích Đạt – khi đó công tác tại Xưởng phim truyện Việt Nam – Trần Văn Thủy được nhận vào lớp quay phim "chống Mỹ cứu nước" của trường, đồng khóa với các đồng nghiệp sau này của ông. Chương trình lẽ ra kéo dài hai năm và kết thúc vào giữa 1967, nhưng chỉ sau một nửa khóa, tháng 8 năm 1966 ông đã bị nhà trường cử vào miền Nam làm phóng viên quay phim tại chiến trường Khu 5, dù mới động vào máy quay hai lần. Để đủ điều kiện đi tác nghiệp, Trần Văn Thủy được kết nạp làm Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian gấp gáp tuy lý lịch gia đình ông khi đó từng bị "gạt phắt đi". Sự nghiệp điện ảnh 1966–1980: Dưới thời Chiến tranh Việt Nam và sang Liên Xô, về Việt Nam Những người dân quê tôi Trần Văn Thủy làm phóng viên chiến tranh tại Ban Tuyên huấn Khu 5 từ năm 1966 đến 1969, liên miên quay phim trên địa bàn tỉnh Quảng Đà. Chưa có kinh nghiệm gì nơi chiến trường, cuộc sống của ông hết sức nguy hiểm và phải chịu đựng sự thiếu thốn mọi điều. Khi mới đến, thay vì quay phim ông đã phải làm nương rẫy một thời gian. Về sau, lúc được xuống đồng bằng, Trần Văn Thủy mới ghi lại những thước phim đầu tiên về nơi đây, khởi nguồn từ dòng sông Thu Bồn. Cùng với sự hỗ trợ của người dân địa phương, ông dành nhiều tâm huyết vào công việc mặc cho điều kiện sinh hoạt hạn chế, đến mức khi đã xong việc, vì rất ốm yếu và không còn đủ sức khỏe để ở lại đơn vị nên Trần Văn Thủy được cơ quan giao nhiệm vụ cõng 27 hộp phim ông đã quay về Bắc. Đi giữa đường, có lúc ông đã bị sốt nguy hiểm đến tính mạng; khi về đến nơi liền`phải vào viện chữa trị nhiều tháng liên tiếp. Tuy gặp nhiều khó khăn trong quá trình làm phim, nhiều người đã nghi ngờ Trần Văn Thủy "lừa dối", chỉ "bấm cho hết" số phim để đào ngũ ra Bắc. Một trong số những lý do cho các cáo buộc này là bởi khâu tráng phim đã gặp nhiều khó khăn, do phim màu Tây Đức không thể tráng được với kĩ thuật của miền Bắc Việt Nam hiện thời; có người từng định hủy bỏ toàn bộ số cuốn phim trên. Nhà quay phim Nguyễn Thế Đoàn đã dùng hết kinh nghiệm của mình để tráng các cuộn phim nhằm minh oan cho đồng nghiệp. Cuối cùng, ông Đoàn sáng tạo ra một cách tráng phim, tuy là tráng trắng đen nhưng vẫn tạo nên hiệu ứng đặc biệt và sau này được đạo diễn điện ảnh nổi tiếng Liên Xô Roman Karmen khen ngợi. Trần Văn Thủy sau đó tiếp tục tự dựng và biên tập tư liệu thành một tác phẩm hoàn chỉnh và đầu tay của ông, đặt tên là Những người dân quê tôi. Với thời lượng gần 50 phút, nội dung phim nói về cuộc sống của người dân nơi chiến trường. Bộ phim đã được gửi đi dự thi các liên hoan phim khối xã hội chủ nghĩa và giành giải Bồ câu Bạc tại Liên hoan phim tài liệu quốc tế Leipzig, Đức () năm 1970. Nhập học VGIK; Nơi chúng tôi đã sống Sau khi trở về công tác tại Trường Điện ảnh Việt Nam từ tháng 8 năm 1970, đến tháng 8 năm 1972 đạo diễn Trần Văn Thủy đi Liên Xô theo gợi ý của trường để học đạo diễn. Mới đầu, ông dành một năm học tiếng Nga tại Đại học Quốc gia Moskva. Mùa hè 1973, ông đã tham dự buổi thi tuyển vào Trường Đại học Điện ảnh Liên Xô (VGIK). Khi mới đến phỏng vấn, Roman Karmen – người trước đó từng trao giải cho Trần Văn Thủy ở DOK Leipzig – đã dành lời đánh giá cao phim Những người dân quê tôi và đặc cách cho ông làm tân sinh viên, bất chấp sự phản đối từ những thành viên ban giám hiệu khác. Ông Thủy trở thành học trò của vị đạo diễn này rồi theo học tại trường suốt 4 năm. Năm 1975, dưới sự chỉ dẫn, hỗ trợ về phương tiện từ thầy Karmen, ông đã thực hiện một bộ phim tài liệu làm ở Siberia có tên Nơi chúng tôi đã sống (tiếng Nga: Там где мы жили). Đây là bài tập năm thứ hai của ông, nội dung tường thuật lại cuộc sống lao động của những sinh viên quốc tế trên công trường . Tuy chỉ là bài tập khóa, bộ phim đã đoạt giải Hoa cẩm chướng đỏ trong liên hoan phim VGIK, đồng thời được đem đi trình chiếu toàn liên bang và tại nhiều nước Đông Âu. Sau này phim trở thành "kinh điển", hàng năm được các sinh viên khoa đạo diễn điện ảnh của trường xem. Trần Văn Thủy sau đó đã chọn Nơi chúng tôi đã sống là phim tốt nghiệp rồi nhận bằng loại xuất sắc. Ông về quê nhà sớm hơn một năm do không phải ở lại làm sản phẩm cuối khóa. Phản bội Tháng 9 năm 1977, Trần Văn Thủy trở lại Việt Nam và làm việc tại Xí nghiệp Tài liệu và Khoa học Trung ương (DSF). Ông đã được giao thực hiện bộ phim tài liệu về xung đột (sau này là chiến tranh) biên giới Việt Nam–Trung Quốc công chiếu năm 1979 mang tên Phản bội. Bộ phim – dài 9 cuốn (90 phút) do ông tự chấp bút viết kịch bản – vào thời điểm đó được nhiều người xem là phim tài liệu dài nhất do đó cũng khó làm và khó hấp dẫn người xem vì vấn đề thời lượng. Phim bao gồm các cuộc phỏng vấn tù nhân chiến tranh Trung Quốc và những thủ pháp điện ảnh để nêu bật lên sự vi phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là người đã hỗ trợ nhiệt tình việc thực hiện bộ phim. Thời điểm hoàn thành năm 1980, Xưởng phim Tài liệu Trung ương chưa đưa ra chỉ đạo gì cụ thể về cuốn phim. Chỉ tới khi Nguyễn Cơ Thạch được mời xem và khen ngợi phim là "hấp dẫn", chính xác lịch sử thì Phản bội mới được duyệt chiếu. Tuy nhiên, vẫn còn ý kiến cho rằng mặt hình thức thể hiện tác phẩm bắt chước lối làm phim của dự án phim tài liệu lớn, dài 4 tập bởi hai đạo diễn Đông Đức và . Thế nhưng chính hai vị đạo diễn này khi xem xong bộ phim đã lên tiếng phát biểu rằng: Sau khi ra mắt, bộ phim đã được chọn đi tham dự nhiều liên hoan phim quốc tế, trong đó được trao tặng bằng khen bởi Ủy ban bảo vệ hòa bình Liên Xô tại Liên hoan phim quốc tế Moskva lần thứ 12. Phản bội cũng nhận giải Bông sen vàng hạng mục phim tài liệu tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 (1980) cùng với hai tác phẩm khác của Bùi Đình Hạc, tuy theo cơ chế liên hoan chỉ có duy nhất một giải Bông sen vàng trao cho mỗi hạng mục. Cho đến nhiều năm sau, đây vẫn được coi là bộ phim tài liệu hấp dẫn nhất của lịch sử phim tài liệu chính luận Việt Nam. Dù vậy, khi chiến tranh kết thúc, các bản phim Phản bội đã hoàn toàn không thể tìm thấy và được cho là bị "giấu" đi vì lý do chính trị. 1982–1987: Thành công với Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế Sau thành công lớn của Phản bội, cả năm 1981 ông đã không có tác phẩm nghệ thuật mới. Đến đầu năm 1982, Trần Văn Thủy nhận làm đạo diễn cho một bộ phim tài liệu quảng bá du lịch Hà Nội mang tên Hà Nội năm cửa ô. Sau khi đọc kịch bản do Đào Trọng Khánh chấp bút, ông quyết định sửa lại hoàn toàn thành một nội dung khác dựa trên tìm hiểu thực tế đời sống xã hội lúc bấy giờ. Thông qua các nhân vật và câu chuyện lịch sử của Hà Nội trong quá khứ, ông đã dần tạo nên nội dung cho bộ phim. Phim cũng có sự xuất hiện của những nhân vật đương thời như nghệ sĩ guitar khiếm thị Văn Vượng và họa sĩ Bùi Xuân Phái, với các cảnh quay được thực hiện xung quanh Hà Nội thời bao cấp. Trái ngược với phong cách chính luận của các bộ phim tài liệu thời đó, Hà Nội trong mắt ai khắc họa nên một thủ đô mang "âm hưởng tha thiết, trong sáng và có chút ngậm ngùi từ tình yêu dành cho nó [...] với vẻ đẹp về chiều sâu tư tưởng, về cách trị nước yên dân trong quá khứ". Khi mới hoàn thành, Hà Nội trong mắt ai nhanh chóng vấp phải rắc rối với các cơ quan kiểm duyệt. Việc bộ phim "mượn chuyện xưa để nói chuyện nay" đã đụng chạm tới quan chức và bị một số lãnh đạo trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, chủ yếu được cho là Tố Hữu, xem là "có vấn đề". Trong một văn bản soạn trước thềm Đại hội II Hội Điện ảnh Việt Nam, phim của Trần Văn Thủy bị "kết tội" với ba ý gồm phim "không đi theo đường lối của Đảng"; "không cùng Đảng giải quyết những khó khăn của hiện tại" và "bằng vào sự nuối tiếc quá khứ phong kiến ngày xưa mà gieo rắc vào thực tại những hoài nghi bi quan và tiêu cực". Bộ phim sau cùng đã bị cấm chiếu dù không có văn bản nào chính thức, nhưng vẫn có một đoạn thời gian từ tháng 10 năm 1983 từng được phép ra rạp nhờ vào sự can thiệp của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong thời gian này, ông âm thầm làm tiếp một bộ phim khác mang tên Chuyện tử tế. Khác với tác phẩm trước, lần này phim đi sâu vào thân phận cơ cực của những người nghèo khổ và thực trạng xã hội Việt Nam đương thời. Cuốn phim được ông hoàn thành vào năm 1985, trong hoàn cảnh gia đình rất khó khăn và bị công an chính quyền theo dõi. Nhưng sớm sau đó, phim cũng chung số phận với Hà Nội trong mắt ai khi không thể phổ biến tới công chúng và phải cất đi để tránh bị lãnh đạo hãng phim phát hiện. Năm 1987, khi Việt Nam bước vào giai đoạn Đổi Mới, Trần Văn Thủy đã được Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh ủng hộ bộ phim Hà Nội trong mắt ai. Ông Linh cho tập hợp những cán bộ quản lý văn hóa văn nghệ, chủ tịch, tổng thư ký các hội văn học nghệ thuật cùng xem phim để cho phiếu chiếu hay không chiếu phim và tất cả mọi người đều thông qua việc chiếu phim. Cùng lúc này, Tổng bí thư cũng gặp riêng Trần Văn Thủy vào tháng 5 năm 1987, đề nghị ông làm tiếp phần 2 của phim tài liệu này. Vì vậy mà hai phim vốn nằm kho từ lâu có cơ may ra mắt cùng một lúc. Thời điểm công chiếu 1987, cả hai tác phẩm đã được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Các buổi chiếu rạp của phim luôn trong tình trạng kín chỗ, người dân thậm chí phải xếp hàng để mua vé xem phim. Đây được xem là điều chưa từng có đối với dòng phim tài liệu sản xuất bởi nhà nước, vốn nhận về ít sự quan tâm và thường chỉ chiếu kèm phim truyện hoặc chiếu miễn phí. Với sự đón nhận tích cực từ người xem lẫn giới chuyên môn, Hà Nội trong mắt ai đã được chiếu lại nhiều lần và đoạt giải Bông sen vàng hạng mục Phim tài liệu cùng ba hạng mục biên kịch, đạo diễn, quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 năm 1988, trong khi đó Chuyện tử tế cũng đoạt giải Bồ câu bạc tại DOK Leizpig cùng năm, bất chấp việc phim từng bị chính quyền ngăn không cho chiếu tại nước ngoài. Nhiều khán giả và báo chí quốc tế đã gọi Chuyện tử tế là "một quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leizpig". Cả hai bộ phim Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế đã thành công thu hút hàng triệu khán giả, cho đến nhiều thập kỷ sau vẫn còn giữ nguyên tính thời sự và là bộ đôi tác phẩm tiêu biểu và nổi tiếng nhất của đạo diễn Trần Văn Thủy. Riêng với Chuyện tử tế, phim có mặt tại vô số liên hoan phim, sự kiện điện ảnh khác nhau trên thế giới, tạo nên một lượng tín đồ người xem từ quốc tế cũng như người Việt hải ngoại và được 12 đài truyền hình từ các nước mua bản quyền về chiếu. Đạo diễn, nhà phê bình điện ảnh người Mỹ cũng đề cử phim vào danh sách một trong số 10 phim tài liệu hay nhất mọi thời đại của Viện phim Anh. 1988–nay: Các dự án phim khác Giai đoạn này, Trần Văn Thủy vẫn tiếp tục đạo diễn kiêm biên kịch nhiều bộ phim tài liệu khác nhau. Nhờ những thành tựu điện ảnh của mình, ông từng được bầu vào ban chấp hành Hội Điện ảnh Việt Nam tại Đại hội IV của hội tháng 8 năm 1995. Trần Văn Thủy cũng được mời làm thành viên ban giám khảo phim tài liệu tại các liên hoan phim quốc tế, giải thưởng điện ảnh lớn như DOK Leipzig (1989), Giải Cánh diều (2008), Liên hoan Truyền hình toàn quốc (2020), Giải Văn hóa doanh nhân Việt Nam (2005),... Phim về đề tài hậu chiến Trong những năm cuối thập niên 1980 và 1990, ông đã thực hiện hai dự án phim lớn, lấy chủ đề xoay quanh thân phận con người thời hậu chiến. Năm 1996, ông cùng Hồ Trí Phổ thực hiện một bộ phim về cuộc sống gia đình của cựu quân nhân Việt Nam có hai người con bị khuyết tật bẩm sinh do chất độc da cam mang tên Chuyện từ góc công viên. Không giống với những phim có sử dụng lời bình, bộ phim này Trần Văn Thủy đã gần như không dùng lời bình, không âm nhạc – là phương pháp làm phim tài liệu hiện đại vốn còn rất sơ khai tại Việt Nam khi ấy. Phim từng đem đi chiếu tại hội thảo quốc tế về chất độc da cam tổ chức ở nhiều nơi khác nhau, đặc biệt là Mỹ. Năm 1998, vào đúng ngày tưởng niệm 30 năm thảm sát Mỹ Lai, ông xuất xưởng bộ phim tài liệu Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai. Nhân vật chính của phim là một cựu chiến binh người Mỹ Mike Boehm luôn cố gắng đem tiếng vĩ cầm đến người dân sống tại thôn Mỹ Lai và những người đã khuất, cùng với đó là cuộc trở về của các lính Mỹ từng tham gia ngăn chặn cuộc thảm sát. Bộ phim đã đoạt nhiều giải thưởng lớn ở cả Việt Nam và quốc tế, bao gồm giải Hạc vàng hạng mục phim ngắn hay nhất tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 43 (1999), giải Bông sen bạc và "Đạo diễn xuất sắc" cho Trần Văn Thủy tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12. Dù vậy khi mới hoàn thành, tác phẩm lại không được Cục Điện ảnh duyệt vì phim thực hiện mà không có sự cho phép của Cục. Đích thân các giám đốc DSF Nguyễn Văn Nhân và Lê Mạnh Thích phải mời bộ trưởng Bộ Văn hóa Nguyễn Khoa Điềm đến xem phim để Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai được Cục Điện ảnh thông qua và phim được cho in thành nhiều bản tranh cử liên hoan phim quốc tế. Bộ phim từng là tác phẩm khai mạc Liên hoan phim tài liệu châu Âu – Việt Nam lần thứ 7 và đã thí điểm (sau đó là chính thức) đưa vào chương trình giảng dạy dưới dạng chuyện kể cho các học sinh lớp 5 trên khắp Việt Nam. Từ tháng 3 năm 1989 đến tháng 3 năm 1990, Hội người Việt Nam tại Pháp và Cộng hòa Liên bang Đức cùng các bạn bè của Trần Văn Thủy đã tổ chức cho ông đi phỏng vấn, khảo sát về cộng đồng người Việt ở các nước Tây Âu bằng camera ghi hình với dung lượng 100 giờ băng. Sau khi hoàn thành, ông đặt tên cho bộ phim là Thầy mù xem voi, dài 2 tập. Tác phẩm chưa được chiếu tại Việt Nam bởi những nguyên do khác nhau, bao gồm chính trị. Phim làm theo đơn đặt hàng Nhờ vào độ nổi tiếng của Chuyện tử tế, Trần Văn Thủy đã được nhiều hãng phim, đài truyền hình nước ngoài mời làm phim tài liệu. Tác phẩm đầu tiên thuộc kiểu này là Một cõi tâm linh, sản xuất năm 1992 và công chiếu năm 1993 do đài (Anh) đặt hàng. Bộ phim gom góp, bàn luận nhiều chuyện về thờ cúng, các khái niệm tâm linh của người Việt Nam. Trước đó, ông được mời sang nước Anh để trao đổi việc sản xuất phim và rồi khi về nước vẫn tiếp tục giữ liên lạc thông qua đạo diễn Neil Gibson. Khi vị đạo diễn này bất ngờ bị đột tử, phía đài truyền hình Anh đã gửi thẳng một bức thư đến nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt để nhờ chuyển lá thư trên từ nhà đài đến Trần Văn Thủy. Bởi sự kiện trên mà các dự án sau đó ông đã không gặp phải bất cứ trở ngại nào trong quá trình làm việc với các đối tác nước ngoài. Cũng vào năm 1993, Trần Văn Thủy được đài NHK (Nhật Bản) tài trợ để làm một bộ phim tài liệu nói về con người Việt Nam mang tên Có một làng quê. Ông quyết định về làng gốm Phù Lãng, tỉnh Bắc Ninh để ghi lại cảnh sinh hoạt nơi đây. Bộ phim làm xong năm 1994 và phát trên sóng truyền hình Nhật Bản cùng năm. Sau khi nghỉ hưu ở Xưởng phim tài liệu Trung ương năm 2000, đến năm 2007 đạo diễn Trần Văn Thủy đã hoàn thành loạt phim tiểu sử dài 4 tập mang tên Mạn đàm về người man di hiện đại nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Ý tưởng thực hiện bộ phim xuất phát từ Nguyễn Lân Bình, cháu nội của Nguyễn Văn Vĩnh, và ông cũng là người đứng ra tổ chức đầu tư lẫn chấp bút viết kịch bản. Trần Văn Thủy đã được đề nghị làm đạo diễn bộ phim và đồng biên kịch, còn Nguyễn Sỹ Bằng là người quay phim. Phim làm trong vòng một năm, trải dài qua vô số địa điểm khác nhau từ Bắc, Trung, Nam Việt Nam đến Lào, Pháp,... để thu thập khung cảnh và tìm kiếm tư liệu. Tuy ban đầu chỉ ra mắt dưới dạng phim tư liệu gia đình, công chiếu trong nội bộ gia tộc và một số bạn hữu, trường đại học, phim đã dần được các nhà nghiên cứu để ý đến và sau đó là cả các cơ quan truyền thông, dư luận Việt Nam cùng quốc tế. Tác phẩm được chiếu rộng rãi sau đó tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; buổi chiếu phim ở Hà Nội được mô tả là "quá đông người". Phim đã nhận về nhiều phản hồi tích cực, được đánh giá là "vượt ngưỡng rất xa khỏi tư liệu gia tộc" và từng được mời chiếu tại Pháp với các nước khác. Nhân sự kiện Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Trần Văn Thủy cùng với đạo diễn Nguyễn Sỹ Chung thực hiện một tác phẩm tài liệu về đề tài âm nhạc cổ truyền mang tựa Vọng khúc ngàn năm, theo đơn đặt hàng của Nhà xuất bản Âm nhạc Việt Nam. Bộ phim có độ dài 4 tập, mỗi tập dài từ 70 đến 80 phút nói về một chủ đề khác nhau; hai tập phim đầu sau đó đã phát hành dưới dạng đĩa DVD trên toàn quốc. Sự nghiệp sáng tác Sách nghiên cứu Từ những năm 2001–2002, Viện William Joiner Center (WJC) thuộc đã có lời ngỏ mời Trần Văn Thủy sang Mỹ tham gia chương trình "Nghiên cứu về cộng đồng người Việt". Sau hai lần nhận lời mời, ông quyết định xuất ngoại trong sáu tháng và tại đây được tiếp xúc với nhiều hoàn cảnh, bị ám ảnh bởi những thân phận phải tha hương sau 1975. Đây là động lực khiến ông dành toàn bộ công sức vào hoàn thành công trình nghiên cứu. Trong quá trình tìm hiểu, Trần Văn Thủy đã đi gặp những người bạn đồng lớp cũ, giới văn chương, trí thức để phỏng vấn và trò chuyện một cách cởi mở về cuộc sống cũng như suy nghĩ của người Việt tại hải ngoại. Vào năm 2003, sau khi hoàn thành xong bản thảo dài trên 200 trang, Trần Văn Thủy đã có dịp gặp nhà văn Nguyên Ngọc hai tuần trước khi về nước và được ông Nguyên Ngọc thúc giục in công trình thành sách. Cuốn sách đầu tay của ông mang tên Nếu đi hết biển nhờ đó mà ra đời. Cuốn sách dài gần 200 trang, in bởi nhà xuất bản Thời Văn ở California sau khi phát hành đã gây nên những phản ứng trái chiều trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Có người viết hẳn một cuốn sách để phản bác toàn bộ công trình của Trần Văn Thủy và chỉ trích ông. Những ý kiến cáo buộc cho rằng sách phát hành có chủ đích trong hoàn cảnh một nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đang được triển khai tại cộng đồng người Việt hải ngoại, cùng với đó là việc hầu hết nhân vật được phỏng vấn trong sách là những người tỵ nạn cộng sản. Tuy vậy, Nếu đi hết biển vẫn tiếp tục tái bản một lần nữa tại Mỹ vào năm 2004. Không dừng lại với những tranh luận ở hải ngoại, cuốn sách cũng không được chính quyền Việt Nam chấp nhận và phổ biến trong nước. Đã từng có nhà xuất bản tại Việt Nam muốn in sách nhưng Trần Văn Thủy yêu cầu phải giữ "đúng từng dấu chấm, dấu phẩy". Hồi ký Vào ngày 20 tháng 5 năm 2013, Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng ra mắt cuốn hồi ký dài 29 chương, 480 trang nói về cuộc đời ông mang tên Chuyện nghề của Thủy. Sách do Nhà xuất bản Hội nhà văn phối hợp với Công ty sách Phương Nam ấn hành. Ý định viết sách khởi đầu từ khoảng 2011–2012, hai học giả người Mỹ Michael Ronov và Dean Wilson đã sang phỏng vấn ông trong nửa năm để viết một luận văn dài với tựa đề "Tran Van Thuy's Story of Kindness: Spirituality and Political Discourse"; ông cùng Lê Thanh Dũng sau đó dành ra 10 tháng liền sắp xếp lại các thông tin đã nói với hai nhà nghiên cứu và bổ sung thêm những điều chưa kể. Trong sách còn có một số chương của Nếu đi hết biển mà ông đưa vào. Dù lo sợ tác phẩm sẽ không được phép xuất bản và có thể bị cắt gọt, nhưng cuối cùng bản thảo của ông đã giữ nguyên từ đầu đến cuối. Các buổi ra mắt Chuyện nghề của Thủy được lên kế hoạch tổ chức trên khắp Việt Nam và thu hút rất đông người tham gia, đi qua lần lượt 5 tỉnh, thành phố lớn lần lượt là Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội. Tuy chỉ mới in 1000 bản đầu tiên và nhà phát hành có tính đến nguy cơ bị lỗ, cuốn sách đã nhanh chóng bán hết hàng và có được sự phê bình tích cực từ độc giả, được tái bản lại nhiều lần và được trao giải "Phát hiện mới" tại Giải Sách hay năm 2013. Giáo sư, cựu chiến binh người Mỹ Eric Henry cùng nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Dy sau đó đã chuyển ngữ sách sang tiếng Anh; Wayne Karlin là người biên tập nội dung và đặt tựa sách thành In Whose Eyes, do xuất bản năm 2016. Đây được xem là cuốn hồi ký đầu tiên của một đạo diễn Việt Nam dịch ra tiếng Anh. Cùng thời điểm bản Anh ngữ Chuyện nghề của Thủy ra mắt tại Mỹ, ông cũng cho in Trong đống tro tàn, một cuốn tạp bút gồm 16 tiểu luận dài 430 trang, bàn luận về vấn đề xã hội và những câu chuyện có thật của thân phận con người. Cuốn sách do nhà xuất bản Người Việt Books phát hành ở Hoa Kỳ. Phong cách sáng tác và quan điểm Các tác phẩm điện ảnh của đạo diễn Trần Văn Thủy đều hướng tới con người và xoáy sâu vào tâm tư, số phận của họ. Đối với Trần Văn Thủy, điểm xuất phát những bộ phim tài liệu ông làm là lòng yêu nước; ông luôn đề cao "sự thật", "con người" trong tư tưởng và trong cả các thước phim tài liệu, cũng như đặc biệt để ý đến cách một tác phẩm nghệ thuật phản ánh hiện thực xã hội. Ông còn là một nhà làm phim theo chủ nghĩa xét lại giống với thế hệ nghệ sĩ tiên phong khi ấy. Tuy nhiên vì lối đi này mà Trần Văn Thủy đã gặp phải không ít cản trở từ các cấp chính quyền Việt Nam. Thậm chí, chỉ tính đến năm 2016, vẫn có những bộ phim do ông thực hiện chưa được phép chiếu rộng rãi ra công chúng. Trần Văn Thủy cho biết người gây ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp làm phim của ông là đạo diễn Roman Karmen. Sự thành công của những bộ phim tài liệu ông làm cũng dựa trên kinh nghiệm và tác động sâu sắc từ nền điện ảnh Liên Xô. Chính Karmen là người đã truyền cảm hứng cho Trần Văn Thủy về nhân cách, điều tạo nên một nghệ sĩ, và quan niệm phải "đánh đúng vào dây thần kinh của xã hội". Phần lớn các bộ phim đề tên ông, giống với đồng nghiệp lúc bấy giờ, được thực hiện theo lối kể tự sự: hình ảnh, âm nhạc là phụ còn lời bình là trung tâm. Tất cả những bộ phim do ông làm đều là phim tài liệu, trong đó tự viết kịch bản và lời bình, dù trên thực tế hầu hết số cuốn phim này đều không có sẵn kịch bản và nó được hình thành thông qua quá trình đi tìm ý tưởng, ghi hình phim. Trong một cuộc phỏng vấn, đạo diễn Trần Văn Thủy nhận định rằng "[phim tài liệu] phải truyền tải được một thông điệp gì đó về lẽ sống, về cách ứng xử, về bổn phận [...] lấy mục tiêu con người, xoay quanh con người". Ông tự nhận mình chưa bao giờ làm phim mang tính khoa trương, tụng ca. Bên cạnh "đúng và đủ", tính hấp dẫn trong một tác phẩm phim tài liệu cũng được ông chú trọng và là "tiêu chí đầu tiên" của đạo diễn. Về quan điểm xã hội, ông đặt ra điều quan trọng nhất đối với xã hội Việt Nam là nhân cách và "sự tử tế". Trần Văn Thủy dành mối quan tâm nhất định và một cái nhìn trực diện về chính trị, về vấn đề hòa hợp dân tộc Việt Nam và cuộc sống con người hậu 1975, ở lĩnh vực điện ảnh đã có thể thấy qua những bộ phim về đời sống xã hội Việt Nam mà điển hình là Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế. Ở lĩnh vực văn chương, cuốn sách đầu tay của ông Nếu đi hết biển – trong đó đề cập tới khía cạnh hòa hợp dân tộc, thuật lại những câu chuyện và phỏng vấn các văn nghệ sĩ, giới tri thức tại hải ngoại, bao gồm những người chống Cộng – từng bị phê phán cũng vì đưa ra một cái nhìn trực diện vào vấn đề nhạy cảm ít ai muốn nhắc đến. Lối khai thác này đã được áp dụng tương tự với cuốn Chuyện nghề của Thủy ra đời một thập kỷ sau đó. Phim tài liệu Di sản Trong giới phim tài liệu Việt Nam, Trần Văn Thủy đã trở thành "cây đa, cây đề" và được mệnh danh là "đạo diễn phim tài liệu số một", hay được ví như "Francis Coppola của Việt Nam". Ông từng được mời vào vô số những buổi thuyết trình, hội thảo, các buổi phỏng vấn từ Việt Nam đến khắp nơi trên quốc tế về các bộ phim của ông, nhiều nhất là Mỹ, cùng với đó là chia sẻ góc nhìn về chính trị, xã hội. Trong bối cảnh đất nước còn sống dưới chế độ bao cấp, giới văn nghệ sĩ vẫn chưa thể "cởi trói", ông đã trở thành người dũng cảm thực hiện các bộ phim đụng đến mặt tối của xã hội. Được xem như là một "Perestroika Việt Nam" trong công cuộc Đổi Mới, tác phẩm của Trần Văn Thủy gây ra vô vàn tranh cãi vì nó không chỉ cho thấy mặt tối của bộ phận chính khách trong Đảng mà còn phơi bày nó một cách trần trụi. Dù thực tế phổ biến là các nhà làm phim Việt Nam không được phép quay những bộ phim mang tính phê phán tầng lớp lãnh đạo, hai cuốn phim Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế do ông đạo diễn sau này đã đóng vai trò tiên phong trong quá trình công khai hóa ("glasnost") của Đảng Cộng sản Việt Nam khi bước sang thời kỳ Đổi Mới, cho thấy rằng việc chỉ trích, phê bình chính phủ và phương cách quản trị đất nước vẫn xuất hiện trong các tác phẩm sản xuất bởi nhà nước Việt Nam. Mặc dù chúng góp phần vào làn sóng các tác phẩm "mới", sự tự do trong nghệ thuật và báo chí chỉ một thời gian ngắn sau đó cũng dần bị đóng lại và "ở hồi kết". Theo nhận định của tác giả Đoàn Ánh Dương (2020), Trần Văn Thủy đã "phá vỡ những khung khổ hiện thực quen thuộc để phơi bày các hiện thực nghệ thuật mới trong phim nghệ thuật [với Đặng Nhật Minh] và phim tài liệu". Trần Văn Thủy cũng là một nhân vật có quan điểm chính trị gây trái chiều. Giống như các văn nghệ sĩ thời kì Đổi Mới, ông đã đặt câu hỏi, thách thức những điều được tôn vinh trong Chiến tranh Việt Nam và thời hậu chiến của chính quyền cộng sản qua các tác phẩm của mình. Cho đến nhiều thập kỷ sau, ông vẫn lên tiếng về tình hình xã hội tại Việt Nam và bày tỏ lập trường về một số sự kiện chính trị khác nhau. Nhưng cũng vì điều này mà trong một thời gian dài, khoảng cuối thế kỷ 20, ông từng trở thành đối tượng bị dò xét bởi chính quyền; bị công an theo dõi và thẩm vấn, khám xét nhiều lần và bị Bộ Văn hóa gây khó dễ không cho xuất cảnh. Theo chính lời Trần Văn Thủy kể lại, một trong số những viên công an từng tham gia vào việc bắt giữ đạo diễn tại Thủ Đức đã chỉ thẳng mặt ông "mày là thằng phản động". Tuy vậy, ông lại nhận được đánh giá cao từ các học giả quốc tế về những thông điệp đem lại cho khán giả. Trong một buổi thảo luận với đạo diễn Trần Văn Thủy vào năm 2003, giáo sư Pam McElwee của Đại học Yale đã bình luận: "Những nhận xét của ông [Trần Văn Thủy] thực sự thẳng thắn, thực sự cởi mở, thực sự trung thực khi nói về tình hình xã hội, điều mà bạn không thể nghe thấy ở Việt Nam. [...] Ông chắc chắn là một trong những tiếng nói đơn độc, độc lập và rất tuyệt khi được nghe". Giải thưởng và vinh danh Tính đến năm 2000, ông đã có danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Năm 2001, Trần Văn Thủy được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam, ông đoạt ba giải Đạo diễn xuất sắc lần lượt vào những năm 1980, 1988 và 1999. Ở phạm vi quốc tế, Trần Văn Thủy đã được vinh danh là "Chứng nhân thế giới" ("Witnessing the World") tại Hội thảo điện ảnh tài liệu quốc tế The Robert Flaherty tổ chức tháng 5 năm 2003 ở New York và từng xuất hiện trong cuốn "Từ điển danh nhân" của Nhật Bản. Vào năm 2021, Trần Văn Thủy cùng Nghệ sĩ nhân dân Đào Trọng Khánh được đề cử xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 6 ở lĩnh vực điện ảnh, phim truyền hình. Tuy nhiên ông đã không thông qua sự đồng thuận của hội đồng xét duyệt. Cụm tác phẩm trong hồ sơ của đạo diễn, gồm Nơi chúng tôi đã sống, Phản bội, Chuyện tử tế, Hà Nội trong mắt ai, Chuyện từ góc công viên và Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai đã không tích đủ 80% số phiếu đồng ý từ các thành viên hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước, gây nên những ý kiến trái chiều từ người trong nghề và dư luận. Theo tiết lộ của Trần Văn Thủy, lý do cho việc hội đồng không chấp thuận là vì một bức thư của đạo diễn phim khoa học Nguyễn Lương Đức gửi đến Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trước đó, cáo buộc phim Phản bội do ông thực hiện lấy nguyên xi từ bản gốc phim Liên Xô và chỉ lồng tiếng thuyết minh vào. Việc chủ đề của tác phẩm nói về chiến tranh biên giới cũng được cho là nguyên do khiến cơ quan thẩm quyền rơi vào thế khó xử vì sẽ bị Trung Quốc phản đối nếu trao giải cho ông nhờ cuốn phim này. Câu chuyện về quãng đời vào chiến trường của Trần Văn Thủy từng được khắc họa trong bộ phim truyện hợp tác Việt Nam – Singapore Vũ khúc con cò, với hình tượng là một chiến sĩ vào chiến trường quay phim tên Vinh, một trong số những nhân vật chính của tác phẩm. Vào năm 2022, nhân kỷ niệm 40 năm ngày bộ phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai ra đời, ông đã được trao giải thưởng Lớn giải Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội vì những cống hiến trọn đời dành cho điện ảnh. Giải thưởng điện ảnh Đời tư Trần Văn Thủy đã kết hôn và lập gia đình với nhà quay phim, Nghệ sĩ ưu tú Thủy Hằng. Ông có hai người con: một con trai cả là họa sĩ Trần Nhật Thăng, sinh năm 1972 và con gái tên Trần Thu Hương, sinh năm 1982. Sau khi thành hôn, cả hai đã đến ở nhờ nhà bạn và tại cơ quan một thời gian, trước khi tích cóp đủ tiền để mua một căn phòng nhỏ tại làng Ngọc Hà. Lúc đạo diễn Trần Văn Thủy từ Liên Xô trở về, vợ chồng ông nỗ lực mua lại nhà số 52 Hàng Bún từ nhà thơ Phan Vũ. Căn nhà này về sau do con trai ông tiếp quản. Từ năm 1997, gia đình ông đang sống tại một ngôi nhà nằm trong con ngõ nhỏ trên đường Hoàng Hoa Thám. Ngôi nhà này được xây dựng bằng số tiền Trần Văn Thủy tích cóp từ các dự án phim nước ngoài ông từng làm. Hoạt động từ thiện Không dừng lại ở lĩnh vực điện ảnh, đạo diễn Trần Văn Thủy cũng được biết đến với hoạt động thiện nguyện hướng tới những người sinh sống tại làng quê nghèo, nạn nhân của chất độc da cam. Ông đã cấp học bổng cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn và giúp cháu bé bị tật nguyền lên thành phố chữa trị. Ở quê nhà Nam Định, thông qua một số tổ chức như "Các bạn của Trần Văn Thủy" tại Paris và các quỹ từ thiện Pháp, ông xây dựng nhiều công trình quan trọng cho khu dân cư như trường học, nhà văn hóa, nhà thờ; xây cầu, bê tông hóa đường làng; lập mộ tổ,... Chú thích Ghi chú
Sa Huỳnh là tên gọi một cửa biển ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi, nơi đầm Nước Mặn thông ra Biển Đông và cũng là tên khu dân cư nằm cạnh cửa biển này. Địa danh này ngày nay còn có phạm vi rộng hơn là toàn bộ vùng đất ven biển cực nam tỉnh Quảng Ngãi, thuộc địa phận phường Phổ Thạnh và hai xã Phổ Châu, Phổ Khánh của thị xã Đức Phổ. Vị trí Cửa biển và thị tứ Sa Huỳnh cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi, tỉnh lỵ Quảng Ngãi, khoảng 60 km về phía nam, có Quốc lộ 1 và đường sắt Bắc Nam đi qua. Lịch sử Địa danh này trước kia vốn được đọc và viết là Sa Hoàng, có nghĩa là cát vàng. Về sau, do kỵ húy chúa Nguyễn Hoàng nên phải đọc và viết thành Sa Huỳnh như hiện nay. Cũng như cửa Đại Cổ Lũy, cửa Sa Huỳnh có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt–Chiêm (1471) do vua Lê Thánh Tông phát động. Sa Huỳnh cũng là cửa biển được sử dụng trên tuyến đường giao thương hàng hải khu vực Đông Nam Á từ rất sớm, có ý kiến cho rằng từ khoảng thiên niên kỷ 1. Năm 1909, nhà khảo cổ học người Pháp M.Vinet phát hiện những ngôi mộ chum vùi dưới cồn cát Phú Khương ở ven biển cạnh đầm An Khê. Trong các báo cáo sau này, khu mộ chum ấy được gọi là (có nghĩa là Kho chum Sa Huỳnh). Các cuộc khai quật sau đó vào các năm 1923 và 1934 tại hai khu vực Phú Khương và Thạnh Đức đã tiếp tục phát hiện thêm nhiều ngôi mộ chum. Từ năm 1937, nền văn hóa khảo cổ có niên đại 2.500–3.000 năm này chính thức được gọi là văn hóa Sa Huỳnh, theo địa danh Sa Huỳnh. Kinh tế Khu vực Sa Huỳnh là một trong những thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi, với bãi biển đẹp và các cảnh quan bãi cát, làng mạc, đồi núi, ruộng muối. Bãi biển Sa Huỳnh dài 6 km, bờ biển cong hình lưỡi liềm với cát vàng, không có bãi đá ngầm, phù hợp cho các hoạt động như bơi lội, vui chơi trên bãi biển. Phía nam bãi biển có ghềnh đá Châu Me, đông bắc có đảo Khỉ. Sa Huỳnh cũng là một trong những vùng sản xuất muối nổi tiếng tại Việt Nam, nghề làm muối tại đây đã có từ hàng trăm năm nay. Cánh đồng muối Sa Huỳnh có diện tích 120 ha, thuộc địa bàn phường Phổ Thạnh. Năm 2011, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu "Muối Sa Huỳnh" cho diêm dân tại đây. Tuy nhiên, do giá thành muối không ổn định nên các diêm dân gặp nhiều khó khăn và nhiều hộ đã bỏ nghề. Cảng cá Sa Huỳnh cũng là một cảng cá sầm uất ở bờ biển miền Trung Việt Nam. Tuy nhiên trong những năm gần đây, luồng lạch cửa biển bị bồi lấp, gây trở ngại cho tàu thuyền đánh bắt hải sản của ngư dân địa phương ra khơi.
Tài tử Ngọc Bảo (tên đầy đủ: Bùi Ngọc Bảo, 8 tháng 2 năm 1926 - 4 tháng 5 năm 2006) là một ca sĩ người Việt Nam dòng nhạc tiền chiến, nổi tiếng từ thập niên 1940. Danh hiệu "Tài tử" được gắn liền với tên ông do vào năm 1951, ông là người Việt Nam đầu tiên được hãng đĩa Pathé-Marconi mời sang Pháp thu 20 bài hát cùng dàn nhạc Guy Théven. Cuộc đời Tài tử Ngọc Bảo cho biết ông sinh năm 1926 (có nguồn lại đề năm 1925) tại làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, có cha là ông Bùi Xuân Thắng, chủ bút báo Đông Pháp. Ông chịu ảnh hưởng từ mẹ là bà Nguyễn Thị Quy - người hát ả đào lừng danh miền Bắc Việt Nam, từ đó nghệ thuật dân tộc thấm vào ông. Tuy không qua trường lớp đào tạo nào về âm nhạc, nhưng ông đã xuất hiện trên sân khấu từ khi còn rất trẻ. Mới 6 tuổi, ông đã hát được ca trù và chèo. Năm 10 tuổi, ông ra Hà Nội theo học ở trường Madelon trên phố Hàng Đẫy. Vì quá mê tài tử Tino Rossi nên ông thường trốn học đi bộ tới phòng trà Thiên Phúc ở phố Hàng Gai để nghe tiếng hát của Tino. Chính giọng của Tino Rossi là động lực thúc đẩy ông bước vào con đường ca hát. Năm 1947, người ta bắt đầu biết đến ông qua màn biểu diễn bài "Em đến thăm anh một chiều mưa" của Tô Vũ tại chính phòng trà Thiên Phúc. Giọng hát của ông gây ấn tượng với người nghe qua những ca khúc trữ tình, lãng mạn của các tác giả Văn Cao, Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn - Từ Linh, Dzoãn Mẫn, Tô Vũ,... Ông rất thường hát "Đêm đông" (Nguyễn Văn Thương), "Giọt mưa thu" (Đặng Thế Phong, lời Bùi Công Kỳ) và "Biệt ly" (Dzoãn Mẫn). Giọng hát Ngọc Bảo hết sức ăn khách, việc lo liệu tài chính ông phó thác cho vợ để chỉ chuyên tâm đi hát, diễn cho cả Hoàng đế Bảo Đại nghe. Bình quân một đêm diễn của ông thu về 15 đến 20 lượng vàng. Năm 1949, ông diễn ba đêm liền tại rạp Nguyễn Văn Hảo ở Sài Gòn, thu được 80 lượng vàng. Năm 1951, ông là người Việt Nam đầu tiên được hãng đĩa Pathé-Marconi mời sang Paris, Pháp thu 20 bài hát cùng dàn nhạc Guy Théven; một số tiết mục là: "Nỗi lòng" (Nguyễn Văn Khánh), "Túi đàn" (Canh Thân), "Khúc ca mùa hè" (Canh Thân), "Đường về" (Hoàng Trọng, lời Quang Khải), "Lạnh lùng" (Hoàng Trọng, lời Quách Đàm), "Ngàn cánh chim về" (Thẩm Oánh),... Các chuyên gia Pháp thấy ông có dáng dấp phong lưu như tài tử điện ảnh nên gọi ông là Tài tử. Kể từ đó, danh hiệu này đã gắn liền với ông trên các bìa đĩa hay báo chí. Ông còn thu âm cho nhiều hãng khác như Philips, Viễn Đông, Polyphon,... Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông đã gia nhập đoàn kịch Sao Vàng do nhạc sĩ Đỗ Nhuận làm chủ nhiệm. Ông thể hiện khả năng cảm thụ âm nhạc cao và tận tụy với từng bài nhạc, có thể dành nửa năm để tập luyện một bài hát. Thậm chí ông dành hai năm để luyện Bài "Đợi anh về" (nhạc Văn Chung, Tố Hữu dịch thơ Simonov) nhưng vẫn không thật ưng ý. Ngọc Bảo nói rằng ông có ba người tình. Người thứ nhất là nhạc Pháp, nhạc tiền chiến. Người tình thứ hai là hàng triệu thính giả. Người thứ ba là vợ ông. Họa sĩ Hoàng Lập Ngôn có lần nói rằng típ người tài tử như Ngọc Bảo nhiều chục năm mới có một. Nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Khiêu tặng ông câu đối: "Tiếng ngọc ngàn năm là quốc bảo / Tuổi vàng tám chục giữa xuân hoa ". Sau khi nhạc tiền chiến được chính quyền cho phép phổ biến trở lại, ông có thực hiện các album là Lời du tử (1998) và Ký ức đêm (2005) do Hồ Gươm Audio – Video phát hành. Album Ký ức đêm được làm xong chỉ không lâu trước khi ông mất. Nửa đầu thập niên 2000, ông có xuất hiện trên truyền hình trong chương trình Ký ức thời gian của đài VTV, biểu diễn nhạc phẩm "Mơ hoa" của Hoàng Giác. Dù tuổi đã cao nhưng ông thể hiện niềm đam mê âm nhạc rất lớn: "60 tuổi mới ở ngưỡng dậy thì, 70 tuổi chập chững mới lớn và 80 mới là ngưỡng trưởng thành." Tài tử Ngọc Bảo mắc bệnh ung thư phổi và mất vào hồi 15 giờ ngày 4 tháng 5 năm 2006. Lúc sinh tiền, ông từng kể về sự yêu thích đối với nhiều loại thuốc lá.
Cúp Hiệp hội Bóng đá Hoàng gia Hà Lan hay Cúp KNVB (tiếng Hà Lan: Koninklijke Nederlandse Voetbal Bond-beker) được tài trợ bởi TOTO KNVB Beker là giải bóng đá được tổ chức cho tất cả các đội bóng chuyên nghiệp và nghiệp dư ở Hà Lan do Liên đoàn bóng đá Antille thuộc Hà Lan (KNVB) tổ chức từ năm 1898.dựa trên thể thức của Cúp FA . là giải đấu đóng vai trò tiền mùa giải để chuẩn bị cho mùa giải tiếp theo. Lịch sử Giải đấu được hình thành trong cuộc họp hội đồng quản trị của Liên đoàn bóng đá Antille thuộc Hà Lan, tại Den Haag, vào ngày 19 tháng 1 năm 1898. Giải đấu bắt đầu vào mùa giải sau đó, 1898–99. Trận chung kết đầu tiên diễn ra vào ngày 9 tháng 5 năm 1899 giữa RAP Amsterdam và HVV Den Haag, và kết thúc với chiến thắng 1–0 cho đội trước nhờ bàn thắng của Julius Hisgen trong Hiệp phụ . Năm 1946, chiếc cúp được đổi thành một chiếc làm bằng bạc, một thứ cực kỳ hiếm gặp ngay sau Thế chiến thứ hai. Chiếc cúp đó vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Vào năm 2018, một chiếc cúp có màu vàng đã được đặt làm để kỷ niệm 100 năm giải đấu được tổ chức. Thay đổi tên Giống như nhiều giải đấu cúp quốc gia, tên của giải đấu đã thay đổi với sự tài trợ. Từ năm 1995, cuộc thi từ KNVB Beker được biết đến với tên gọi Amstel Cup theo tên nhà tài trợ lúc đó là Amstel . Vào ngày 16 tháng 8 năm 2005, tên được đổi thành Gatorade Cup theo tên công ty đồ uống Gatorade . Năm 2006, cái tên trở lại là KNVB Beker với Gatorade vẫn là nhà tài trợ chính. Vào ngày 12 tháng 1 năm 2018, có thông báo rằng TOTO sẽ là nhà tài trợ chính của KNVB Cup, cho đến mùa giải 2021–22. Cuộc thi được đổi tên thành TOTO KNVB Beker với hiệu quả tức thì. Tư cách tham dự các giải đấu châu Âu Cho đến năm 1998, đội vô địch của chiếc cúp này đã tham gia UEFA Cup Winners' Cup , nhưng với việc từ bỏ giải đấu đó, Đội vô địch bây giờ sẽ được tham dự UEFA Europa League. Nếu đội vô địch đã hoàn thành ở vị trí thứ hai của Eredivisie và giành quyền tham dự UEFA Champions League , thì suất tham sẽ được phân phối lại cho Eredivisie của mùa giải đó. Năm 1998, cả hai đội lọt vào chung kết KNVB Cup, Ajax và PSV , đều giành quyền tham dự Champions League, do đó, một trận play-off tranh hạng ba được diễn ra giữa hai đội bán kết bị đánh bại, SC Heerenveen và FC Twente , để xác định ai sẽ giành Cúp. 'Nơi tách. Các trận chung kết 20 lần - Ajax Amsterdam 13 lần - Feyenoord Rotterdam 10 lần - PSV Eindhoven 04 lần - AZ Alkmaar 03 lần - HFC, Quick, Sparta Rotterdam, FC Utrecht 02 lần - DFC, Fortuna'54, Haarlem, Quick 2, RCH, Roda JC, FC Twente, Velocitas, VOC, FC Wageningen, Willem II Tilburg 01 lần - ADO, Concordia, CVV, FC Eindhoven, FC Den Haag, HBS, HBS 2, HVV, LONGA, NAC, RAP, Roermond, Schoten, VSV, VUC, VVV Venlo, ZFC, SC Heerenveen, PEC Zwolle, FC Groningen, Vitesse
Trong toán học, một phương trình vi phân riêng phần (Partial Differential Equations, PDEs) (còn gọi là phương trình vi phân đạo hàm riêng, phương trình đạo hàm riêng, phương trình vi phân từng phần, hay phương trình vi phân riêng) là một phương trình vi phân bao gồm liên hệ giữa một hàm đa biến chưa biết và các đạo hàm riêng của hàm theo các biến này. Để tìm được hàm chưa biết, thường cần giải các hệ phương trình vi phân riêng phần, tức là các hệ phương trình chứa các phương trình vi phân riêng phần. PDEs thường được sử dụng để xây dựng giải quyết các vấn đề xoay quanh các hàm đa biến hay xây dựng các mô hình máy tính. Một trường hợp đặc biệt của PDEs là phương trình vi phân thường (ODEs), được sử dụng để giải quyết các bài toán đơn biến và đạo hàm của chúng. PDEs có thể được sử dụng để mô tả một số các hiện tượng chuyển động của âm thanh, nhiệt, sự phân tán, tĩnh điện học, động điện học, động học chất lưu, độ co giãn hay cơ học lượng tử nói chung là các hiện tượng biến đổi trong không gian và thời gian. Nhiều hiện tượng vật lý khác nhau thường có thể quy về việc giải các hệ phương trình vi phân riêng phần giống nhau, khiến cho công cụ toán học là cầu nối liên hệ và tổng quát hoá nhiều hiện tượng tự nhiên. Phương trình vi phân thường thường chỉ mô tả hệ động học một chiều, ngược lại PDEs mô tả các hệ đa chiều. Giới thiệu Phương trình vi phân riêng phần đơn giản hay gặp trong giáo trình toán là: với u là hàm chưa biết của x và y. Phương trình này thực tế cho biết u(x,y) không phụ thuộc vào x; và lời giải tổng quát là: với f là hàm bất kỳ của y. Phương trình này tương tự như phương trình vi phân thường có lời giải với c là hằng số bất kỳ không phụ thuộc vào x. Thí dụ này cho thấy các lời giải tổng quát của phương trình vi phân riêng phần thường chứa các hàm bất kỳ, tương tự như lời giải tổng quát của phương trình vi phân thường chứa các hằng số bất kỳ. Để xác định cụ thể lời giải trong dải rộng của lời giải tổng quát cho từng bài toán riêng lẻ, cần có thêm các điều kiện biên.
Hấp dẫn có thể đề cập đến: Tương tác hấp dẫn, hay lực hấp dẫn trong vật lí Mô hình lực hấp dẫn trong kinh tế học Sự thu hút Sự thu hút liên cá nhân Hấp dẫn thể chất Hấp dẫn tình dục Luật hấp dẫn
Bóng ma trong nhà hát là một bộ phim ca nhạc phát hành năm 2004 của đạo diễn Joel Schumacher. Bộ phim này được thực hiện theo vở nhạc kịch cùng tên năm 1986, còn bản gốc là tiểu thuyết Bóng ma trong nhà hát của nhà văn Pháp Gaston Leroux. Andrew Lloyd Webber là nhà sản xuất và cũng là tác giả kịch bản của bộ phim cùng với Joel Schumacher. Hai diễn viên chính là Gerard Butler trong vai bóng ma, và Emmy Rossum trong vai Christine Daaé. Nhạc phim Bộ phim tung ra hai phiên bản album nhạc phim, một phiên bản thường có 14 bài và một phiên deluxe với 2 đĩa CD với tổng cộng 35 bài. Phiên bản thường Phiên bản deluxe với 2 đĩa CD
Sông Ngàn Phố là một con sông phụ lưu của sông La chảy chủ yếu trong địa phận huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh . Tên gọi tên sông là sông Phố - người dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, vẫn gọi con sông chảy ngang huyện (nằm trọn trong huyện) như vậy. Trong các tác phẩm văn học, lịch sử, địa lý thì gọi là sông Ngàn Phố Khái lược Sông Ngàn Phố bắt nguồn bằng các dòng suối nhỏ từ dãy núi Giăng Màn thuộc dãy Trường Sơn (còn gọi là núi Khai Trướng) nằm trong địa phận các xã Sơn Hồng, Sơn Kim 1 và Sơn Kim 2 huyện Hương Sơn, ven biên giới Việt-Lào, ở độ cao khoảng 700 m. Sông Phố chảy gần như theo hướng Tây-Đông tới ngã ba Tam Soa (xưa có bến Tam Soa), nơi giáp ranh các xã Sơn Tân, Sơn Long (huyện Hương Sơn) với các xã Trường Sơn, Tùng Ảnh (huyện Đức Thọ). Tại đây, nó hợp lưu với sông Sâu (tức sông Ngàn Sâu) từ các huyện Hương Khê, Vũ Quang chảy từ phía Nam lên để tạo thành sông La, một phụ lưu của sông Lam. Chiều dài tối đa khoảng 71–72 km. Diện tích lưu vực 1.060 km², độ cao trung bình 331 m, độ dốc trung bình 25,2%. Mật độ sông suối 0,91 km/km². Tổng lượng nước 1,40 km³ tương ứng với lưu lượng trung bình 45,6 m³/s. Các thắng tích, địa danh lịch sử Vùng lưu vực sông Phố có nhiều thắng tích, địa danh lịch sử như: Núi Thiên Nhẫn Thành Lục Niên (Khởi nghĩa Lam Sơn Rú Vằng (Kim Sơn) Động Tiên Hoa Danh nhân nổi bật Hải Thượng lãn ông Lê Hữu Trác Chưởng quân Cao Thắng Chú thích
Pemphigus là một nhóm những bệnh bọng nước tự miễn dịch hiếm gặp của da và/hay các niêm mạc. Pemphigus không lây - thậm chí khi tiếp xúc máu. Thông thường hệ thống miễn dịch của cơ thể tạo ra các kháng thể tấn công những virus và vi khuẩn có hại trong nỗ lực nhằm giữ cho cơ thể khoẻ mạnh. Tuy nhiên, ở một người mắc bệnh pemphigus, hệ thống miễn dịch nhận định nhầm các tế bào ở da và/hay các niêm mạc là những vật chất lạ, và tấn công chúng. Các kháng thể tấn công các tế bào của chính cơ thể mình được gọi là những tự kháng thể. Trong pemphigus, tế bào bị tấn công tại những cầu nối desmosome. Các desmosome là cầu nối giữa những tế bào gai giữ cho da nguyên vẹn. Khi những tự kháng thể tấn công các desmosome, các tế bào gai bị chia tách, dịch gian bào tập trung tại vị trí tổn thương hình thành bọng nước. Điều này gây nên thương tổn giống như bị bỏng hay vết rộp không lành lại. Ở một số rường hợp, những vết rộp đó có thể chiếm một vùng rộng trên cơ thể. Có nhiều loại pemphigus, và chẩn đoán bệnh sớm là một điều quan trọng. Dù có thể có tính chất di truyền và một số nhóm người có thể có nguy cơ cao hơn về căn bệnh này, thì bệnh không có vẻ ảnh hưởng tới những người theo đặc trưng chủng tộc và phạm vi văn hoá, vì thế không thể nói rằng ai sẽ có thể mắc bệnh pemphigus. Bệnh có thể điều trị và có những hỗ trợ để người bệnh có thể sống chung với bệnh, gồm cả thông tin về dinh dưỡng và chăm sóc. Chẩn đoán Bởi vì là một bệnh hiếm, pemphigus thường là điều cuối cùng người ta nghĩ tới khi chẩn đoán bệnh. Cần hỏi ý kiến một thầy thuốc da liễu nếu có bất kỳ thương tổn da hay miệng kéo dài nào. Chẩn đoán sớm có thể cho phép điều trị thành công với mức độ sử dụng thuốc thấp. Có ba tiêu chí cho một chẩn đoán xác định: Khám bệnh tại bệnh viện — khám bằng mắt về những tổn thương da. Sinh thiết thương tổn — Lấy một mẫu da rộp và khám nghiệm bằng kính hiển vi để xác định xem tế bào có bị phân chia theo cách đặc trưng của pemphigus. Ngoài ra, lớp da có hiện tượng chia tách tế bào có thể được xác định. Huỳnh quang miễn dịch trực tiếp (direct immunofluorescence) — Mẫu sinh thiết da được xử lý để để phát hiện các tự kháng thể kháng desmosome của da. Sự hiện diện của các tự kháng thể đó cho thấy dấu hiệu của pemphigus. Ngoài những điều trên, một xét nghiệm chẩn đoán khác cũng có thể được sử dụng, được gọi là huỳnh quang miễn dịch gián tiếp hay xét nghiệm hiệu giá tự kháng thể. Xét nghiệm này xác định các tự kháng thể kháng desmosome trong huyết thanh máu. Nó có thể được dùng để xác định rõ hơn về mức độ bệnh. Ngoài ra, một thử nghiệm huyết thanh về các tự kháng thể desmoglein, được gọi là ELISA, cũng có thể được thực hiện. Nó là biện pháp chính xác nhất, tuy nhiên không phải tất cả các phòng thí nghiệm đều thực hiện được xét nghiệm này. Các dạng pemphigus Có nhiều dạng pemphigus. Ba dạng chính là pemphigus vulgaris, pemphigus foliaceus, và paraneoplastic pemphigus. Pemphigus Vulgaris (PV) Thuật ngữ "vulgar" có nghĩa "thông thường," và PV là dạng thường được chẩn đoán nhất của pemphigus. Những chỗ đau và rộp da luôn xuất hiện đầu tiên ở miệng. Bởi vì da là một cơ quan của cơ thể nên PV được gọi là bệnh đơn cơ quan. Nó không gây ảnh hưởng gì tới các cơ quan bên trong. Những vết rộp có thể lan tới dây thanh quản, nhưng không thể xa hơn. PV không gây ra sẹo vĩnh viễn trừ khi có sự nhiễm trùng ở vị trí thương tổn. Trong kiểu bệnh này, các tự kháng thể tấn công protein "keo", là chất giữ các tế bào da dính với nhau, được gọi là desmoglein. Các thương tổn rất đau đớn. Thỉnh thoảng có xuất hiện hiệu ứng Nikolsky, chỉ cần chạm vào da cũng đủ khiến nó rách ra. Trước kia, khi chưa được điều trị bằng thuốc, PV gây ra tỷ lệ tử vong 99%, nhưng với các liệu pháp chữa trị hiện nay, tỷ lệ tử vong giảm xuống chỉ còn 5 đến 15% Pemphigus Foliaceus (PF) Ở loại pemphigus foliaceus này, các vết rộp và đau không xuất hiện ở miệng. Những vảy cứng đau nhức hay những vết rộp dễ vỡ thường xuất hiện đầu tiên trên mặt và da đầu và sau đó lan xuống ngực và lưng. Các tự kháng thể được hệ miễn dịch sản xuất ra nhưng chúng chỉ liên kết với desmoglein 1. Các vết rộp rất nông và thường gây ngứa, nhưng không gây đau đớn như PV. Đối với PF, thương tổn gây biến dạng da có thể xảy ra, nhưng tỷ lệ tử vong của kiểu bệnh này thấp hơn so với PV. Paraneoplastic Pemphigus (PNP) PNP là kiểu pemphigus nguy hiểm nhất. Nó thường xảy ra với những người có tiền sử chẩn đoán mắc một bệnh ác tính (ung thư). Tuy nhiên, nó lại là tuýp bệnh ít xảy ra nhất. Nó luôn xuất hiện những thương tổn đau đớn trong miệng, môi và thực quản, và xảy ra thương tổn da theo nhiều kiểu. PNP có thể gây ảnh hưởng đến phổi. Trong một số trường hợp việc chẩn đoán bệnh có thể khiến các bác sĩ phải lưu ý tìm kiếm một khối u ẩn. Một số trường hợp khối u là lành tính và tình trạng bệnh sẽ được cải thiện nếu khối u được loại bỏ bằng phẫu thuật. Dạng bệnh này hiếm khi xảy ra và trông nó rất khác biệt so với những hình thái pemphigus khác. Các tự kháng thể trong máu cũng khác biệt và sự khác biệt đó có thể được xác định bằng các xét nghiệm. Các loại thuốc điều trị Corticosteroids Thuốc ức chế miễn dịch Azathioprine (Imuran®) Mycophenolate mofetil (CellCept®) Cyclophosphamide (Cytoxan®) Cyclosporine Các thuốc khác: thường được dùng với các tác dụng khác nhau Dapsone® Tiêm vàng Methotrexate Tetracycline, minocycline, hay doxycycline kết hợp với niacinamide Các chế phẩm sinh học - một số thuốc này (Rituxan và Enbrel) đang được thử nghiệm lâm sàng. Dinh dưỡng Việc sử dụng prednisone yêu cầu một số chú ý về dinh dưỡng nhằm kiểm soát sự bùng phát bệnh pemphigus. Nó là một loại thuốc steroid glucocorticoid yêu cầu một chế độ ăn có nhiều protein, ít cacbonhydrate, ít muối, ít chất béo, với sự chú ý đặc biệt tới liều lượng calci và kali. Calci với các vitamin D bổ sung là cần thiết trong chế độ ăn hàng ngày. Có một chế độ ăn kiêng tốt rõ ràng là quan trọng đối với sức khoẻ, nhưng nó đặc biệt quan trọng đối với các bệnh nhân pemphigus để làm giảm bớt những tác dụng phụ của thuốc và làm cho cơ thể khoẻ mạnh để có thể chống chọi với bệnh tật và phục hồi. Acidophilus, một vi khuẩn hữu ích có trong sữa chua, cũng như trong những phần bổ sung của chế độ ăn, được khuyến cáo cho những người thường xuyên phải dùng thuốc kháng sinh. Nó cũng giúp ngăn chặn nhiễm trùng. Đã có tài liệu cho rằng một số bệnh nhân nhạy cảm với tỏi, hành và tỏi tây (nhóm thực phẩm Alium). Các thực phẩm đó và có thể cả những loại khác có thể gây ra hay làm tệ hại thêm tình trạng bệnh. Nhạy cảm với thực phẩm có thể có lợi hay có hại, tuỳ vào từng người bệnh. Nếu một loại thức ăn bị nghi ngờ gây phồng da, thì sau một lần thử ăn lại nó, nếu tình trạng đó lại xuất hiện, loại thực phẩm đó cần được lấy ra khỏi chế độ ăn.
Thảm sát Nam Kinh, cũng thường được gọi là vụ "Cưỡng hiếp Nam Kinh", là một tội ác chiến tranh do quân đội Nhật Bản tiến hành bên trong và xung quanh Nam Kinh, Trung Quốc sau khi thành phố này rơi vào tay Quân đội Thiên hoàng Nhật Bản ngày 13 tháng 12 năm 1937. Thời gian diễn ra cuộc thảm sát vẫn chưa được biết rõ, dù bạo lực đã kết thúc trong vòng sáu tuần, cho tới đầu tháng 2 năm 1938. Trong khi chiếm đóng Nam Kinh, quân đội Nhật Bản đã thực hiện nhiều hành động tàn ác như hãm hiếp, cướp bóc, đốt phá và hành quyết tù binh chiến tranh cũng như thường dân. Tuy những vụ hành quyết diễn ra trong bối cảnh nhiều binh lính Trung Quốc giả dạng làm thường dân, một số lớn dân thường vô tội đã bị quy là các chiến binh địch và bị giết hại, hay đơn giản bị giết ở bất kỳ hoàn cảnh nào có thể. Một số lớn phụ nữ và trẻ em cũng bị giết hại, khi những vụ hãm hiếp và giết người ngày càng lan rộng ở cả những vùng ngoại ô Nam Kinh. Con số thương vong cụ thể là một chủ đề được bàn cãi hết sức gay gắt giữa các nhà nghiên cứu. Các ước tính từ 40.000 lên đến 300.000 người. Con số 300.000 người lần đầu tiên được Harold Timperly, một nhà báo tại Trung Hoa trong thời gian này đưa ra vào tháng 1 năm 1938. Con số này có lẽ bao gồm cả những người bị thảm sát ở những vùng xung quanh thành phố Nam Kinh trong thời gian chiếm đóng của Nhật Bản. Các ước tính khác đến từ tuyên bố của Quân đội Thiên hoàng Nhật Bản tại Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông rằng số người chết đều là binh sĩ và rằng những hành động hung bạo như vậy không hề xảy ra, cho tới lời kể của những nhân chứng phương Tây tại Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông, những người đã tận mắt chứng kiến những thường dân bị giết hại và những phụ nữ bị hãm hiếp bởi binh sĩ Nhật Bản, cho tới tuyên bố của Trung Quốc cho rằng số lượng người không phải là binh lính thiệt mạng lên tới 300.000. Nhiều người thiên về tin con số thương vong cao một phần bởi vì có nhiều bằng chứng phim ảnh về những thân thể phụ nữ, trẻ em bị chém giết, cũng như thành công thương mại của cuốn sách vụ Cưỡng hiếp Nam Kinh của Iris Chang, một lần nữa thu hút sự chú ý của mọi người tới sự kiện. Ngoài số lượng nạn nhân, một số nhà phê bình Nhật Bản thậm chí đã tranh luận về việc liệu vụ thảm sát có thực sự xảy ra. Trong khi Chính phủ Nhật Bản đã thừa nhận vụ việc thật sự đã xảy ra, những người cực đoan đã trưng ra lý lẽ của mình bắt đầu bằng những tuyên bố của Quân đội Thiên hoàng tại Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông rằng số người chết đều thuộc quân đội và những hành động thù địch với dân thường không hề xảy ra. Tuy nhiên, một số lượng khổng lồ các bằng chứng đã chống lại luận điểm đó. Sự tồn tại của vụ việc đã nhiều lần được khẳng định thông qua những lời tuyên bố của các chứng nhân phương Tây tại Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông cũng như của những người đã tận mắt chứng kiến các thường dân bị thảm sát và phụ nữ bị binh lính Nhật hãm hiếp. Nhiều bộ sưu tập ảnh về các xác chết phụ nữ và trẻ em Trung Quốc hiện cũng đang tồn tại. Những tìm kiếm khảo cổ học gần đây càng ủng hộ lý lẽ về sự thực của vụ thảm sát. Việc lên án vụ thảm sát là một vấn đề trọng tâm của chủ nghĩa Quốc gia Trung Quốc đang bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, tại Nhật Bản ý kiến công chúng về sự thảm khốc của cuộc thảm sát vẫn còn chia rẽ – điều này được minh chứng qua sự thực rằng trong khi một số nhà bình luận Nhật Bản gọi nó là vụ 'Tàn sát Nam Kinh' (南京大虐殺, Nankin daigyakusatsu), những người khác lại sử dụng một thuật ngữ mềm mại hơn vụ 'Sự kiện Nam Kinh' (南京事件, Nankin jiken). Sự kiện tiếp tục là một trong tâm chú ý và tranh cãi trong quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản. Bối cảnh lịch sử Cuộc xâm lược Trung Quốc Tới tháng 8 năm 1937, giữa cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, quân đội Nhật Bản gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ và chịu nhiều tổn thất trong Trận Thượng Hải. Trận đánh diễn ra đẫm máu và cả hai bên đều thiệt hại nặng nề trong những trận đánh giáp lá cà. Ngày 5 tháng 8 năm 1937, Nhật hoàng Chiêu Hoà đích thân phê chuẩn lời đề nghị từ phía quân đội của ông ngừng tôn trọng luật pháp quốc tế đối với các tù binh chiến tranh Trung Quốc trong tay. Nghị định này cũng hướng dẫn các sĩ quan tham mưu ngừng sử dụng thuật ngữ "tù binh chiến tranh". Từ Thượng Hải tới Nam Kinh, binh lính Nhật Bản sau đó đã thực hiện nhiều hành vi tàn bạo, nổi tiếng nhất là cuộc thi chặt đầu 100 người. Cũng có nhiều hành động hung bạo khác từ phía người Trung Quốc chống lại những tù binh chiến tranh Nhật Bản. Tới giữa tháng 11, người Nhật đã chiếm Thượng Hải với sự trợ chiến của hải quân và không quân. Tổng tư lệnh Bộ tham mưu tại Tokyo đã quyết định không mở rộng thêm nữa cuộc chiến, vì số lượng tổn thất to lớn cũng như tinh thần đang suy sụp trong binh lính. Thảm Sát Nam Kinh Khi quân đội Nhật Bản áp sát Nam Kinh, thường dân Trung Quốc lũ lượt bỏ chạy khỏi thành phố, và quân đội Trung Quốc đưa ra thi hành một chiến dịch tiêu thổ kháng chiến, với mục tiêu hủy hoại bất kỳ thứ gì có thể bị sử dụng bởi quân đội xâm lược Nhật Bản. Các mục tiêu bên trong và bên ngoài phạm vi thành phố như các trại lính, nhà cửa, Bộ thông tin Trung Quốc, rừng rú và thậm chí là toàn bộ các ngôi làng bị đốt cháy tận móng, ước tính giá trị của chúng lên tới 20 đến 30 triệu dollar Mỹ (1937). Ngày 2 tháng 12, Nhật hoàng Showa chỉ định chú của mình là hoàng tử Asaka, làm tư lệnh cuộc xâm lược. Rất khó biết, với tư cách thành viên gia đình hoàng gia, Asaka liệu có quyền uy tối cao đối với Matsui Iwane, người chính thức là tổng tư lệnh, nhưng rõ ràng vì ở trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp nhất, ông có quyền đối với các vị chỉ huy cấp sư đoàn, các trung tướng Nakajima Kesago và Yanagawa Heisuke. An toàn khu Nam Kinh Nhiều người phương Tây đang sống trong thành phố ở thời điểm đó, là các thương nhân hay nhà truyền giáo cho nhiều tôn giáo khác nhau. Khi quân đội Nhật Bản bắt đầu các phi vụ ném bom vào Nam Kinh, đa số người phương Tây và toàn bộ các phóng viên đều quay về nước chỉ trừ 22 người, gồm cả doanh nhân John Rabe của tập đoàn Siemens (có lẽ vì tư cách một nhân vật Phát xít và Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản song phương Nhật-Đức), ông đã ở lại và thành lập ra một ủy ban, gọi là Ủy ban Quốc tế về An toàn khu Nam Kinh. Rabe được bầu làm lãnh đạo ủy ban này. Ủy ban đã lập ra An toàn khu Nam Kinh ở khu vực phía tây thành phố. Chính phủ Nhật Bản đã chấp nhận không tấn công vào những vùng không có quân đội Trung Quốc chiếm giữ của thành phố, và các thành viên Ủy ban Quốc tế về An toàn khu Nam Kinh đã tìm cách thuyết phục chính phủ Trung Quốc rút lui toàn bộ binh sĩ của họ ra khỏi khu vực. Người Nhật quả thực đã tôn trọng An toàn khu tới một mức độ nào đó; không một quả đạn pháo nào rơi vào khu vực này chỉ trừ vài viên đạn lạc. Trong thời gian hỗn loạn sau cuộc tấn công vào thành phố, một số người đã bị giết hại trong An toàn khu, nhưng những hành động bạo lực xảy ra trong khu vực này thấp hơn rất nhiều so với các nơi khác về mọi phương diện. Bao vây thành phố Ngày 7 tháng 12, quân đội Nhật Bản ra một sắc lệnh cho tất cả binh lính, cho rằng hành động chiếm giữ một thủ đô nước ngoài là sự kiện chưa từng có với Quân đội Nhật Bản, vì thế tất cả những binh sĩ "phạm bất kỳ hành vi sai trái nào", "làm mất danh dự quân đội Nhật Bản", "cướp bóc", hay "để hỏa hoạn cháy lan, thậm chí vì lý do bất cẩn" sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Quân đội Nhật Bản tiếp tục tiến về phía trước, chọc thủng những giới tuyến cuối cùng của quân kháng chiến Trung Quốc, và tới sát ranh giới thành phố Nam Kinh ngày 9 tháng 12. Vào buổi trưa, quân đội thả truyền đơn vào thành phố, hối thúc Nam Kinh đầu hàng trong 24 giờ: Quân đội Nhật Bản, với sức mạnh 1 triệu quân, đã chinh phục Changshu (Thường Châu). Chúng tôi đã bao vây thành phố Nam Kinh... Quân đội Nhật Bản sẽ không khoan dung với những kẻ phản kháng, trừng phạt chúng nghiêm khắc nhất, nhưng sẽ không gây hại tới những thường dân vô tội cũng như những binh sĩ trong quân đội Trung Quốc những người không kháng cự. Mong ước cao nhất của chúng tôi là bảo vệ nền văn hóa Đông Á. Nếu quân đội Trung Quốc tiếp tục kháng cự, chiến tranh tại Nam Kinh là không thể tránh khỏi. Nền văn hóa đã kéo dài hơn một nghìn năm sẽ chỉ còn là tro tàn, và chính phủ đã tồn tại từ hơn một thập kỷ nay sẽ bị đập tan. Bản sắc lệnh này được gửi dưới danh nghĩa Tổng tư lệnh Quân đội Nhật Bản. Hãy mở cửa thành phố Nam Kinh theo cách hòa bình, và tuân theo những huấn lệnh dưới đây. Quân đội Nhật Bản chờ đợi câu trả lời. Tới 1 giờ chiều ngày hôm sau, khi không thấy phái đoàn Trung Quốc nào, Tướng Matsui Iwane ra lệnh dùng vũ lực chiếm Nam Kinh. Ngày 12 tháng 12, sau hai ngày tấn công của quân đội Nhật Bản, với pháo binh dồn dập và những cuộc ném bom từ trên không, Tướng Tang Sheng-chi ra lệnh quân sĩ rút lui. Diễn biến tiếp theo là sự hỗn loạn. Một số binh lính Trung Quốc vứt bỏ binh phục đóng giả thường dân để trốn tránh, nhiều người khác bị sĩ quan bắn vào lưng khi tìm cách trốn chạy. Những người đã ở bên ngoài thành phố bỏ chạy về phía bắc tới sông Dương Tử, chỉ để thấy rằng không còn một chiếc thuyền nào đợi ở đó để cứu họ. Một số người nhảy xuống làn nước mùa đông và chết đuối. Ngày 13 tháng 12, người Nhật tiến vào thành phố Nam Kinh, không gặp bất kỳ một sự kháng cự quân sự nào. Sự tàn bạo bắt đầu Những lời tường thuật của các nhân chứng tận mắt chứng kiến nói rằng trong thời gian sáu tuần sau khi Nam Kinh sụp đổ, quân đội Nhật Bản đã thực hiện các hành vi hãm hiếp, giết hại, trộm cướp, và đốt phá. Những lời chứng đáng tin cậy nhất là từ phía những người nước ngoài đã chọn lựa ở lại để bảo vệ những thường dân Trung Quốc khỏi những hành động kinh hoàng đó, gồm những cuốn nhật ký của John Rabe và Minnie Vautrin. Những nguồn tin khác gồm những lời tường thuật từ phía những người sống sót sau vụ thảm sát Nam Kinh. Ngoài ra còn có báo cáo từ phía những nhân chứng tận mắt chứng kiến khác như các nhà báo, cả phương Tây và Nhật Bản, cũng như nhật ký của một số thành viên quân đội. Một nhà truyền giáo Mỹ, John Magee, đã ở lại và quay được một cuốn phim tài liệu 16mm và một số bức ảnh về vụ thảm sát Nam Kinh. Ngoài ra, dù rất ít cựu chiến binh Nhật thừa nhận từng tham gia vào những hành động tàn ác tại Nam Kinh, một số người mà nổi tiếng nhất là Shiro Azuma đã thừa nhận có thực hiện hành vi đó. Ngay sau khi thành phố sụp đổ, một nhóm người nước ngoài dưới sự chỉ huy của John Rabe đã hình thành nên Ủy ban Quốc tế gồm 15 người ngày 22 tháng 11 và lập ra An toàn khu Nam Kinh để bảo vệ mạng sống của các thường dân trong thành phố, với số lượng khoảng 200.000 tới 250.000 người. Có lẽ con số nạn nhân là dân thường sẽ cao hơn nhiều nếu vùng an toàn này không được lập ra. Rabe và nhà truyền giáo Mỹ Lewis S. C. Smythe, thư ký của Ủy ban Quốc tế, người cũng là một giáo sư xã hội học tại Đại học Nam Kinh, đã ghi lại những hành động tàn ác của quân đội Nhật Bản và gửi nhiều báo cáo phàn nàn tới đại sứ quán Nhật. Hãm hiếp Ba mươi cô gái bị bắt từ một trường ngoại ngữ tối qua, và hôm nay tôi đã nghe nhiều câu chuyện đau lòng về những cô gái bị bắt đó -- một trong số họ mới chỉ 12 tuổi....Tối nay một chiếc xe tải chạy qua và trong đó là tám hay mười cô gái khác, và khi nó chạy qua họ gào lên "Ging ming! Ging ming!"--Cứu mạng! (Nhật ký Minnie Vautrin, 16 tháng 12 1937) Đó là một câu chuyện quá khủng khiếp để tường thuật lại; con không biết nên bắt đầu và kết thúc ở đâu. Con chưa bao giờ nghe hay đọc về một sự tàn bạo đến như vậy. Hãm hiếp: Tụi con ước tính ít nhất 1.000 vụ mỗi đêm và rất nhiều vào ban ngày. Trong trường hợp phản kháng hay bất kỳ điều gì có vẻ là sự bất tuân đó sẽ là một nhát lê đâm hay một viên đạn. (James McCallum, thư gửi về gia đình, 19 tháng 12 1937) Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông đã cho rằng 20.000 (và có lẽ có thể lên tới 80.000) phụ nữ đã bị hãm hiếp - họ ở trong độ tuổi từ thiếu niên cho tới già lão (tới 80 tuổi). Những vụ hãm hiếp thường diễn ra ở nơi công cộng ngay giữa ban ngày, thỉnh thoảng trước mặt cả người chồng hay gia đình nạn nhân. Một số lớn trong những vụ hãm hiếp đó mang tính hệ thống theo một quy trình với các binh sĩ đi tìm kiếm từng nhà để bắt các cô gái trẻ, rất nhiều phụ nữ bị bắt và bị hiếp dâm tập thể. Những phụ nữ đó bị giết hại ngay sau khi bị hãm hiếp, thường bị cắt xẻo thân mình. Theo một số lời chứng, các phụ nữ khác bị buộc phải vào trại mại dâm quân đội làm phụ nữ giải trí. Thậm chí còn có những câu chuyện kể rằng quân đội Nhật buộc nhiều gia đình phải thực hiện các hành vi loạn luân. Con trai bị buộc phải hiếp mẹ mình, những người cha bị buộc phải hiếp con gái. Một phụ nữ có thai bị binh lính Nhật hiếp dâm tập thể đã sinh con chỉ vài giờ sau đó; đứa trẻ hoàn toàn khỏe mạnh (Robert B. Edgerton, Warriors of the Rising Sun). Những vị sư sãi đã nguyện trọn đời chay tịnh bị buộc phải hiếp các phụ nữ để làm trò vui cho quân Nhật. Đàn ông Trung Quốc bị buộc phải hiếp các xác chết. Bất kỳ sự chống cự nào đều dẫn tới sự hành quyết. Tình trạng hãm hiếp đạt tới đỉnh điểm ngay sau khi thành phố sụp đổ nhưng nó còn tiếp tục kéo dài suốt thời gian chiếm đóng của Nhật Bản. Giết hại Nhiều người nước ngoài sống tại Nam Kinh vào thời điểm đó đã ghi lại những trải nghiệm của họ về điều đang diễn ra trong thành phố: Robert Wilson trong bức thư của ông gửi về gia đình: Sự tàn sát thường dân đang diễn ra một cách kinh hoàng. Tôi có thể viết nhiều trang kể lại những vụ hãm hiếp và sự tàn bạo hầu như đã vượt quá sự tưởng tượng. Hai thân hình bị đâm bằng lưỡi lê là những người còn sống sót duy nhất trong số bảy công nhân vệ sinh thành phố, những người đang ở trong trụ sở làm việc của họ khi quân đội Nhật tràn vào không có bất kỳ một sự cảnh báo nào hay một lý do nào họ giết năm người trong số đó và làm bị thương hai người đang tìm cách chạy trốn tới bệnh viện. John Magee trong bức thư gửi cho vợ: Chúng không chỉ giết bất kỳ tù nhân nào tìm thấy mà còn giết hại rất nhiều thường dân ở mọi lứa tuổi.... Chỉ ngày hôm kia thôi tụi anh đã thấy một người nghèo khổ bất hạnh bị giết ngay gần ngôi nhà tụi anh đang sống. Robert Wilson trong một bức thư khác gửi về gia đình: Chúng [binh lính Nhật] dùng lưỡi lê đâm một đứa trẻ, giết nó, và con đã mất một giờ rưỡi sáng nay để cứu chữa thân thể một đứa trẻ mới lên tám khác với năm vết lê đâm và một phát xuyên tới tận dạ dày nó, nhiều phần ruột đã lòi ra ngoài bụng. Ngay sau khi thành phố sụp đổ, quân đội Nhật đã tiến hành một chiến dịch tìm kiếm rộng khắp với những cựu chiến binh đối phương với hàng ngàn thanh niên bị bắt giữ. Nhiều người bị mang tới Sông Dương Tử, bị hành quyết bằng súng máy để xác họ có thể trôi xuống Thượng Hải. Những người khác, theo báo cáo, đã bị sử dụng làm bia sống trong những bài tập lưỡi lê. Chặt đầu đã trở thành biện pháp giết người thông dụng nhất, tuy nhiên những hành động giết người tàn bạo khác như thiêu sống, đóng đinh lên cây, chôn sống, và treo cổ cũng được áp dụng. Một số người bị đánh tới chết. Người Nhật cũng có thể đơn giản hành quyết những người đi bộ trên đường phố, thường với lý do họ có thể là binh lính đang cải trang làm dân thường. Hàng nghìn người bị giải đi và bị hành quyết tập thể tại một chiếc hố được gọi là "Hố mười nghìn xác", một cái rãnh dài khoảng 300 mét và rộng 5 mét. Vì những bản ghi chép không được giữ lại, những con số ước tính về số nạn nhân bị chôn trong hố này trong khoảng từ 4.000 tới 20.000 người. Tuy nhiên, đa số học giả và sử gia coi con số này ở khoảng 12.000 nạn nhân. Phụ nữ và trẻ em cũng không thoát khỏi sự tàn bạo của cuộc thảm sát. Những nhân chứng kể lại việc các binh sĩ Nhật tung trẻ em lên không và đỡ chúng bằng lưỡi lê. Phụ nữ có thai thường trở thành mục tiêu bị giết hại, họ thường bị đâm lê vào bụng, và thỉnh thoảng bị giết sau khi đã bị hãm hiếp. Nhiều phụ nữ bị hãm hiếp tàn bạo rồi mới bị giết. Cướp bóc và đốt phá Ước tính cho rằng hơn một phần ba và có thể lên tới hai phần ba thành phố đã bị phá hủy vì hành động đốt phá. Theo các báo cáo, quân đội Nhật đã đốt những tòa nhà mới xây của chính phủ và cả nhà của nhiều thường dân. Bên ngoài thành phố cũng phải hứng chịu nhiều sự đốt phá. Binh lính đi cướp bóc của cả người giàu lẫn người nghèo. Vì không có sự kháng cự từ phía quân đội cũng như thường dân Trung Quốc tại Nam Kinh nên binh lính Nhật thả sức cướp bóc tất cả những đồ giá trị khi họ thấy chúng. Điều này khiến nạn cướp phá, trộm cắp lan rộng. Những con số ước tính số người chết Có nhiều sự tranh luận về tầm mức của những hành động tàn bạo trong chiến tranh tại Nam Kinh, đặc biệt về con số người chết. Những con số liên quan tới số nạn nhân chủ yếu dựa trên việc định nghĩa của các bên về phạm vi địa lý và thời gian kéo dài của sự kiện, cũng như định nghĩa của họ về từ "nạn nhân". Tầm mức và thời gian Quan điểm thận trọng nhất cho rằng diện tích địa lý của vụ thảm sát chỉ nên được giới hạn trong phạm vi vài kilômét vuông của thành phố được gọi là An toàn khu, nơi các thường dân tụ tập sau cuộc xâm chiếm. Nhiều sử gia Nhật Bản đã nắm lấy sự thực rằng trong thời kỳ xâm chiếm của Nhật Bản chỉ có khoảng 200.000–250.000 thường dân tại Nam Kinh như thông báo của John Rabe, để cho rằng con số 300.000 người chết do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa ra là sự thổi phồng quá mức. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học cho tầm mức vụ việc diễn ra trên một diện tích rộng bao quanh thành phố. Gồm cả quận Xiaguan (vùng ngoại ô phía bắc thành phố Nam Kinh, kích thước khoảng 31 km vuông) và nhiều khu vực khác bên ngoài thành phố, dân số của cả vùng Nam Kinh trong khoảng 53.500.000 tới 63.500.000 người ngay trước cuộc chiếm đóng của Nhật Bản. Một số nhà sử học cũng gộp sáu huyện khác quanh Nam Kinh vào trong vụ việc này, được gọi là Khu đô thị Đặc biệt Nam Kinh. Thời gian của vụ việc cũng được định nghĩa theo khu vực địa lý của nó: người Nhật vào khu vực này càng sớm thì thời gian càng kéo dài. Trận Nam Kinh chấm dứt ngày 13 tháng 12, khi các sư đoàn của Quân đội Nhật Bản vượt qua bức tường bao thành phố Nam Kinh. Tòa án Tội phạm Chiến tranh Tokyo đã định nghĩa giai đoạn cuộc thảm sát là sáu tuần kể từ sau sự kiện đó. Những ước tính khác thận trọng hơn nói cuộc thảm sát bắt đầu ngày 14 tháng 12, khi quân đội xâm nhập An toàn khu, và rằng nó chấm dứt sau 6 tuần. Các nhà sử học định nghĩa vụ Thảm sát Nam Kinh bắt đầu từ khi quân đội Nhật tiến vào tỉnh Giang Tô coi vụ thảm sát bắt đầu vào khoảng giữa tháng 11 tới đầu tháng 12 (Suzhou thất thủ ngày 19 tháng 11), và chấm dứt ở cuối tháng 3 năm 1938. Vì thế, số lượng nạn nhân do các nhà sử học này đưa ra cũng lớn hơn nhiều so với ước tính của những nguồn thận trọng hơn. Xác định các nạn nhân Một điểm tranh luận khác là vấn đề những ai được coi là nạn nhân của những hành động tàn bạo. Tất cả các nhà sử học đồng ý rằng có nhiều thường dân đã thiệt mạng tại Nam Kinh. Trong suốt cuộc chiến tranh tại Trung Quốc, không bên nào bắt giữ nhiều tù binh chiến tranh. Quân đội Nhật thường đơn giản hành quyết những tù binh hay những binh lính Trung Quốc đầu hàng. Họ cũng hành quyết nhiều người bị họ coi là chiến binh du kích trong trang phục thường dân. Hiện không rõ có bao nhiêu thường dân vô tội đã bị xác nhận và giết hại nhầm theo cách này. Tuy tất cả các nhà sử học đồng ý rằng thường dân phải được tính vào con số thiệt mạng trong vụ thảm sát, các nhóm khác nhau có những quan điểm khác nhau về tính chính xác của những điều sau: những binh sĩ thiệt mạng trong chiến đấu; những binh sĩ đầu hàng/bị bắt và bị hành quyết sau trận đánh; những chiến binh du kích trong trang phục thường dân; phụ nữ, trẻ em và người già rõ ràng là dân thường nhưng cũng bị giết hại. Không may thay, bằng chứng lưu trữ, như ghi chép về các cuộc chôn cất, thường chỉ đề cập tới số lượng thi thể, chứ không phải về đối tượng xuất thân của họ. Vì thế, chúng không có ý nghĩa trong việc xác định ai đã bị giết "một cách hợp pháp" và "bất hợp pháp". Cuộc tranh cãi vẫn đang tiếp diễn. Những con số ước tính khác nhau Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông đã ước tính trong hai bản báo cáo (có vẻ rất mâu thuẫn) rằng "hơn 200.000" và "hơn 100.000" thường dân và tù binh chiến tranh đã bị giết hại trong sáu tuần chiếm đóng đấu tiên. Con số này dựa trên những bản ghi chép về các vụ chôn cất do các tổ chức từ thiện gồm cả Red Swastika Society và Chung Shan Tang (Tsung Shan Tong)-nghiên cứu do tiến hành Smythe- đưa ra, và một số ước tính do những người sống sót tường thuật. Năm 1947, tại Tòa án Tội phạm Chiến tranh Nam Kinh, lời tuyên án của Trung tướng Tani Hisao—chỉ huy Su đoàn số 6- đưa ra con số hơn 300.000 người chết. Ước tính này được đưa ra dựa trên những bản ghi chép về các vụ chôn cất và lời kể của các nhân chứng. Lời tuyên án kết luận khoảng 190.000 người đã bị giết hại trái phép tại nhiều địa điểm hành quyết và 150.000 người đã bị giết hại từng người (one-by-one). Con số 300.000 người chết là ước tính chính thức được khắc trên bức tường ở lối vào chính của "Đài tưởng niệm những Nạn nhân Yêu nước trong vụ Thảm sát Nam Kinh của Quân đội Nhật Bản" tại Nam Kinh. Một số nhà sử học Nhật Bản hiện đại, như Kasahara Tokushi tại Đại học Tsuru và Fujiwara Akira, một giáo sư danh dự tại Đại học Hitotsubashi, đã quan tâm tới toàn bộ Khu vực đô thị Đặc biệt Nam Kinh, gồm cả thành phố và sáu quận lân cận, và đã đưa ra con số người chết xấp xỉ 200.000. Các nhà sử học Nhật Bản khác, dựa theo định nghĩa về vùng không gian địa lý và thời gian diễn ra cuộc thảm sát của họ, cho số người chết ở mức độ cao hơn từ 40.000 tới 300.000. Tại Trung Quốc ngày nay đa số những con số ước đoán về số nạn nhân trong vụ Thảm sát Nam Kinh trong khoảng từ 200.000 tới 400.000, và không một nhà sử học có danh tiếng nào đặt con số dưới 100.000 người. Một tài liệu 42 phần của Cộng hòa Trung Hoa được đưa ra năm 1995 dưới tít "Một tấc sơn hà một tấc máu" (一寸河山一寸血), khẳng định rằng 340.000 thường dân Trung Quốc đã thiệt mạng tại thành phố Nam Kinh sau sự chiếm đóng của Nhật Bản, 150.000 người khác vì các trận ném bom và đấu súng trong 5 ngày chiến đấu, và 190.000 người trong vụ thảm sát, dựa trên bằng chứng được đưa ra trong những phiên Tòa tại Tokyo. Những cuộc xét xử Sau bằng chứng về những hành động tàn bạo hàng loạt, Tướng Iwane Matsui đã bị phán xử về "những tội ác chống lại loài người" và, vào năm 1948, bị kết án tử hình tại Tòa án Tokyo. Matsui đã tìm cách bảo vệ Hoàng tử Asaka bằng cách chĩa mũi dùi về phía các sĩ quan chỉ huy cấp dưới. Các tướng Hisao Tani và Rensuke Isogai đều bị Tòa án Nam Kinh tuyên án tử hình. Theo hiệp ước được ký kết giữa Tướng MacArthur và Hirohito, chính Hoàng đế và toàn thể các thành viên của gia đình hoàng gia sẽ không bị truy tố. Hoàng tử Asaka, người là sĩ quan cấp cao tại thành phố ở thời điểm xảy ra vụ thảm sát, chỉ phải ra cung khai một lần tại Nhóm Truy tố Quốc tế thuộc Tòa án Tokyo ngày 1 tháng 5 năm 1946. Asaka bác bỏ bất kỳ một cuộc thảm sát nào với thường dân Trung Quốc và tuyên bố chưa bao giờ nhận được những lời phàn nàn về hành vi của binh lính dưới quyền mình. Tường thuật trong sử sách và sự tranh luận Hiện tại, cả Trung Quốc và Nhật Bản đều thừa nhận các hành vi tàn ác có xảy ra trong chiến tranh. Tuy nhiên, những tranh cãi về sự miêu tả những sự kiện đó đã trở thành một vấn đề gây căng thẳng chính trị giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Những hành động tàn ác ngày càng lan rộng của binh lính Nhật Bản tại Nam Kinh lần đầu tiên đã được thông tin tới Thế giới thông qua các phóng viên phương Tây tại An toàn khu Nam Kinh. Ví dụ, ngày 11 tháng 1 năm 1938, phóng viên tờ Manchester Guardian, Harold Timperley, đã gửi báo cáo về ước tính của mình "không ít hơn 300.000 thường dân Trung Quốc" đã bị giết hại trong những cuộc "tắm máu" tại Nam Kinh và những nơi khác. Báo cáo của ông đã được Kōki Hirota truyền từ Thượng Hải tới Tokyo, và được chuyển tới các đại sứ quán Nhật tại châu Âu cũng như Hoa Kỳ. Những báo cáo về các hành động tàn bạo của người Nhật chống lại thường dân Trung Hoa của các nhà báo Mỹ, cũng như Panay incident, ngay trước việc chiếm đóng Nam Kinh, đã giúp thay đổi hướng ý kiến đại chúng Mỹ chống lại Nhật Bản. Những điều đó, dù chỉ một phần, đã dẫn tới một loạt các sự kiện dẫn tới việc Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản sau vụ tấn công Trân Châu Cảng của họ. Sự quan tâm của Nhật sau 1972 Sự quan tâm tới vụ Thảm sát Nam Kinh đã mất dần và hầu như bị quên lãng cho tới tận năm 1972, năm Trung Quốc và Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Tại Trung Quốc, để nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiện mới được thành lập với Nhật Bản, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông bề ngoài có vẻ không muốn đề cập tới vụ Thảm sát Nam Kinh trên các phương tiện truyền thông, vốn bị Đảng cộng sản trực tiếp điều khiển. Vì thế, toàn bộ cuộc tranh cãi về vụ thảm sát Nam Kinh trong thập niên 1970 chỉ diễn ra tại Nhật Bản. Trong lễ kỷ niệm sự kiện bình thường hóa quan hệ, một tờ báo lớn tại Nhật Bản, tờ Asahi Shimbun đã cho đăng một loạt bài báo với tựa đề , do nhà báo Katsuichi Honda viết. Các bài báo đã mô tả chi tiết những hành động tàn bạo của Quân đội Nhật Bản tại Trung Quốc, gồm cả vụ Thảm sát Nam Kinh. Trong loạt bài này, Honda đã đề cập tới một sự kiện khi hai sĩ quan Nhật Bản thi chặt đầu 100 người bằng thanh kiếm của mình. Sự thực về vụ việc vẫn đang bị tranh cãi gay gắt và những người chỉ trích vẫn cố gắng nắm lấy cơ hội để đưa ra ý kiến của mình về sự kiện, cũng như về cả vụ Thảm sát Nam Kinh và toàn bộ các vấn đề liên quan. Đây được coi là sự bắt đầu của cuộc tranh cãi về vụ Thảm sát Nam Kinh tại Nhật Bản. Cuộc tranh cãi liên quan tới sự xảy ra trên thực tế của những vụ giết hại và hãm hiếp diễn ra chủ yếu trong thập kỷ 1970. Ý kiến của Chính phủ Trung Quốc về vấn đề này khi ấy đã bị chỉ trích, bởi vì họ dựa quá nhiều vào những lời chứng từ phía các cá nhân và những câu chuyện ít tính tin cậy. Những bản ghi chép về các cuộc chôn cất và các bức hình được đệ trình tại Tòa án Tội phạm Chiến tranh Tokyo cũng bị bác bỏ, với lý lẽ cho rằng chúng là những giả mạo của chính phủ Trung Quốc, những bằng chứng đã bị gán ghép một cách cố ý hay sai lầm cho vụ Thảm sát Nam Kinh. Nhà phân phối Nhật của bộ phim Hoàng đế cuối cùng (1987) đã xuất bản phim lưu trữ về vụ Hãm hiếp Nam Kinh của bộ phim này. Cuộc tranh cãi về sách giáo khoa Ienaga Tranh cãi một lần nữa lại nổ ra năm 1982, khi Bộ giáo dục Nhật Bản kiểm duyệt tất cả những lời đề cập tới vụ Thảm sát Nam Kinh trong một cuốn sách sử. Lý do được bộ đưa ra là vụ Thảm sát Nam Kinh không phải là một sự kiện lịch sử đích thực. Tác giả của cuốn sách, giáo sư Saburō Ienaga, đã kiện Bộ giáo dục trong một vụ kiện kéo dài, và thắng kiện với tư cách nguyên đơn năm 1997. Một số vị bộ trưởng trong nội các Nhật Bản, cũng như một số nhà chính trị cao cấp, cũng đã đưa ra những lời bình luận bác bỏ những hành động tàn ác do Quân đội Nhật Bản tiến hành trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau này một số người đã từ chức sau những hành động phản đối từ phía Trung Quốc và Hàn Quốc. Để đối phó lại việc đó và những sự việc tương tự, một số nhà báo và sử gia Nhật Bản đã thành lập Nhóm Nghiên cứu vụ việc Nam Kinh (Nankin Jiken Chōsa Kenkyūkai). Nhóm nghiên cứu đã thu thập rất nhiều tài liệu lịch sử cũng như lời chứng từ phía những nguồn tin Trung Quốc và Nhật Bản. Các thành viên bảo thủ hơn bên trong chính phủ cảm thấy sự khám phá những tội ác do quân đội Nhật Bản tiến hành đã tạo ra một phong trào Chủ nghĩa Quốc gia Trung Quốc. Họ bị buộc tội đã cố tình giảm bớt số lượng thương vong bằng cách thao túng sửa đổi dữ liệu.
Bói bằng cỏ thi là một hình thức bói Dịch, lập quẻ bằng cách sắp các cọng cỏ thi theo một quy tắc riêng. Bói Dịch nguyên là phép xem bói bằng mai rùa (bói giáp cốt). Xưa kia, các thuật sĩ xem hoa văn trên mai rùa mà suy đoán khí hậu, thời tiết, các điều lành dữ... Về sau, phép bói cỏ thi được dùng thay thế hoặc bổ sung cho phép bói mai rùa. Phương pháp bói bằng cỏ thi được ghi trong "Hệ từ truyện" (chương IX và chương XI, thiên thượng). Sau này, người ta đơn giản hóa việc lấy quẻ Dịch bằng cách gieo đồng xu (còn gọi là lắc hào). Cách lập quẻ Dịch bằng cỏ thi Vật bói: 50 cọng cỏ thi (hoặc 50 que nhỏ). Để cho tiện, ta quy ước các ngón bàn tay trái là ngón trỏ số 1, ngón giữa số 2, ngón áp út số 3 và ngón út số 4. Cần thao tác ba lần mới được một hào, nghĩa là mất 18 lần mới được một quẻ bói. Gieo hào 1 (hào sơ) Lần 1 Trả một que vào hộp (hộp dùng để đựng các que bói), chỉ dùng 49 que bói thôi. Chia đại thành 2 mớ bất kỳ, đặt mỗi mớ vào một cái khay (Ta gọi A là mớ que bên trái, B là mớ que bên phải) Lấy một que ở mớ B kẹp vào kẽ ngón 3 và ngón 4 tay trái. Tay phải tách mớ A thành từng đợt 4 que, sao cho số que dư còn lại là ≤ 4 (ít hơn hoặc bằng 4). Lấy số que dư đó kẹp vào kẽ ngón 2 và ngón 3 tay trái. Tay phải tách mớ B thành từng đợt 4 que như trên rồi kẹp số que dư ≤ 4 vào kẽ ngón 1 và 2 tay trái. Tổng các que trên bàn tay trái là 5 hoặc 9 (9 sẽ được xem là 2, 5 sẽ được xem là 3). Để số que (5 hoặc 9) này qua một bên. Đó là kết quả lần 1. Lần 2 Bó que còn lại sẽ là 44 hoặc 40 (do 49 quẻ trừ đi kết quả lần 1 là 5 hoặc 9). Chia đại thành hai mớ bất kỳ A và B. Tiếp tục làm như ở lần 1. Tổng các que trên bàn tay trái sau đó sẽ là 8 hoặc 4 (8 sẽ được xem là 2, 4 sẽ được xem là 3). Để số que (8 hoặc 4) này qua một bên. Đó là kết quả lần 2. Lần 3 Số que còn lại có thể là 32 hoặc 36 hoặc 40 (do 44 và 40 trừ kết quả lần 2 là 4 hoặc 8). Chia đại làm hai mớ bất kỳ A và B, rồi tiếp tục tách ra từng đợt như trên. Sau đó tổng các que trên bàn tay trái sẽ là 8 hoặc 4 (8 sẽ được xem là 2, 4 sẽ được xem là 3). Để số que (8 hoặc 4) này qua một bên. Đó là kết quả lần 3. Cộng 3 kết quả trên với nhau ta được một hào. Thí dụ: Lần 1 được 5 que, lần hai được 8 que, lần 3 được 4 que. Vì 5 kể là 3, 8 kể là 2, 4 kể là 3 nên tổng (5 +8 +4) phải được kể là 3 + 2 +3 = 8. Dựa theo bảng bói để biết nó là hào gì: Số 9: Lão dương (động) Số 6: Lão âm (động) Số 7: Thiếu dương (tĩnh) Số 8: Thiếu âm (tĩnh) Hào sơ mới gieo được là số 8, vậy nó là hào thiếu âm. Gieo hào 2 Gom lại đủ 49 que bói, thao tác y hệt như trên, sau 3 lần ta sẽ được một tổng có thể là 6 hoặc 7 hoặc 8 hoặc 9. Rồi căn cứ vào bảng bói trên mà biết đó là hào gì. Gieo hào 3, 4, 5, 6 Thực hiện như trên. Như vậy, mất 18 lần thao tác ta mới lập được một quẻ bói. Đoán giải Sau khi lập được quẻ Dịch với quẻ gốc (quẻ chủ), hào động và quẻ biến (nếu có), người giải đoán căn cứ lời quẻ (thoán từ), lời hào (hào từ) trong Kinh Dịch để luận đoán sự lành dữ, tốt xấu cho đương sự. Lời giải là sự tổng hợp của thoán từ và hào từ của quẻ gieo được, chú trọng nhất là hào động. Ngoài ra cần xét thêm quẻ biến từ hào động và quẻ hỗ. Khi xét quẻ biến thì bỏ đi ý nghĩa của hào tương ứng với hào động. Trong bói toán, tính trực giác của người giải đoán là rất quan trọng cho kết quả giải đoán. Chú thích Kinh Dịch
WC có thể chỉ đến: Viết tắt trong tiếng Anh của: Water closet: tức nhà vệ sinh hay phòng vệ sinh hoặc cầu tiêu. Water column: (cột nước), đơn vị đo áp suất tương ứng với trọng lượng trên diện tích của một cột nước trên Trái Đất. Hệ số chuyển đổi là 27,7 inch WC = 1 PSI. Webcam Welcome Washington Capitals, một đội khúc côn cầu trên băng ở Washington, D.C. World Cup (cúp thế giới) hay World Championship (giải vô địch thế giới) trong thể thao. Công thức hóa học của wolfram carbide. Danh sách các từ kết hợp từ hai chữ cái
Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. Tên gọi "Bát tự" là "tám chữ", đó là: Can, chi của năm sinh Can, chi của tháng sinh Can, chi của ngày sinh Can, chi của giờ sinh. "Hà Lạc" là gọi tắt của Hà đồ và Lạc thư. Đối tượng dự trắc Mệnh vận của người (tương tự như Tử vi, Tử Bình) Cách lập quẻ 1. An can chi cho năm, tháng, ngày và giờ sinh 2. Từ Bát tự, căn cứ Bảng trị số của Can và Bảng trị số của Chi, tính trị số Hà Lạc Bảng trị số của Can (10 thiên can phối hợp Lạc đồ) Mậu: 1 Ất và Quý: 2 Canh: 3 Tân: 4 Số 5 đứng giữa không đi với Can nào. Nhâm Giáp: 6 Đinh: 7 Bính: 8 Kỷ: 9 Bảng trị số của Chi (12 địa chi kết hợp Hà Đồ) Hợi Tý là Thủy: Sinh ở số 1, thành ở số 6. Tỵ Ngọ là Hỏa: Sinh ở số 2, thành ở số 7. Dần Mão là Mộc: Sinh ở số 3, thành ở số 8. Thân Dậu là Kim: Sinh ở số 4, thành ở số 9. Thìn Tuất - Sửu Mùi là Thổ: Sinh ở số 5, thành ở số 10. 3. Tìm tổng số âm và tổng số dương theo trị số Hà Lạc 4. Từ tổng số âm và tổng số dương chuyển hình ra quẻ Hà Lạc 5. Tìm Hóa công, Thiên nguyên khí và Địa nguyên khí 6. Lập Quẻ Tiên Thiên tính Nguyên Đường và lập quẻ Hậu Thiên, tìm quẻ Hỗ 7. Tính Đại Vận và tính Lưu Niên (Trích từ sách "Bát tự Hà Lạc - Học Năng) 7.1. Thế nào là đại vận ? Đời người ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, chia ra làm nhiều thời kỳ, hay giai đoạn. Mỗi thời kỳ ấy gồm nhiều năm và ít nhiều có tính cách chung không giống hẳn như thời kỳ khác, hoặc thịnh suy bĩ thái, hoặc đắc thất hanh truân. Cách tính đại vận thì bắt đầu khởi lên 1 từ Nguyên đường, rồi cứ đi lên, mỗi hào là 1 Đ-V gồm hoặc 6 năm hoặc 9 năm. Đi lên đến Hào 6 thì lại lộn trở xuống Hào 1 ở bên dưới Nguyên-đường để dùng nốt hào nào mà chưa đi tới. Nghĩa là phải đi hết 6 hào của quẻ T-T, rồi mới sang H-T, mà ở đây cũng phải bắt đầu đi từ N-Đ của H-T để tiếp theo Đ-V trước của T-T, và cũng tính đi lên đi xuống như ở T-T. THÍ DỤ: TIÊN THIÊN HẬU THIÊN Thủy hỏa Ký tế—Biến--> Hỏa địa Tấn -- --10-15 ------73-81 NĐ------ 1-9 -- --67-72 -- --40-45 ------58-66 ------31-39 -- --52-57 -- --25-30 NĐ-- --46-51 ------16-24 -- --82-87 (Nên nhận xét kỹ lưỡng: Những hào dương đều gồm 9 năm và những hào âm đều gồm 6 năm. Số 45 ở T-T là năm cuối cùng của tiền vận. Số 46 của H-T là năm bắt đầu của hậu vận). LƯU Ý: - Các đại vận liên tiếp nhau đi lên từ trước mặt N-Đ rồi lại trở về sau lưng. N-Đ làm thành một vòng kín (không hở). - Những số đặt cạnh từng hào đều là số năm của Đ-V cả. Số cuối cùng của Đ-V trước tăng thêm 1 làm thành số bắt đầu của Đ-V sau. Nếu là hào âm thì số bắt đầu ấy cộng thêm 5 thành đủ 6 năm của Đ-V âm. Nếu là hào dương thì số bắt đầu ấy cộng thêm 8 thành đủ 9 năm cửa Đ-V dương. 7.2. Thế nào là lưu niên ? Lưu niên là hạn đi từng năm một, cũng như tiểu hạn của tử vi. Đại vận của Hà lạc cọn gọi là Đại tượng và lưu niên là tiểu tượng. Cách tính lưu niên (hay tuế vận) a). Nếu đại vận là hào âm thì cứ việc biến ngay từ hào ấy bất luận Âm tuế hay Dương tuế. Quẻ do hào biến lần đầu là hạn lưu niên năm thứ nhất, cứ biến lần hết 6 hào là đúng 6 năm. b). Nếu Đ-V là hào dương thì phải xem Âm tuế mới biến ngay còn Dương tuế thì không biến (bất biến) nhưng dù biến hay bất biến thì hào ấy cũng được kể là năm thứ nhứt, hào của năm thứ nhất ấy coi như hào thế. Lấy hào ứng của nó mà biến đi thì được quẻ của năm thứ hai. Được năm thứ hai rồi thì lại trở về biến hào thế là được quẻ năm thứ ba. Hết ba năm rồi, thì theo lệ thường như đại vận âm nghĩa là cứ biến mỗi năm một hào, hết 6 hào là vừa đúng 6 năm nữa, 6 năm này cộng với 3 năm trước, vị chi là 9 năm. Vậy tóm tắt: Đ-V hào âm gồm 6 năm. Đ-V hào dương gồm 9 năm và. THÍ DỤ: (Lấy ở sách Hà lạc Lý số) 1 tuổi được quẻ Thiên hỏa đồng nhân, Nguyên đường ngôi Hào 2 âm. ------ ------ ------16-24 ------ 7-15 NĐ-- -- 1-6 ------ - Muốn tính lưu niên của Đại vận hào N-Đ tức hào âm từ lên 1 đến lên 6. - Đ-V là hào âm thì cứ biến ngay. Vậy: Năm thứ 1- Hào 2 âm quẻ Đồng Nhân biến thành Hào 2 dương quẻ Thuần Kiền. Năm thứ 2- Hào 3 dương quẻ Thuần Kiền của năm thứ 1 biến thành Hào 3 âm quẻ Thiên Trạch Lý. Năm thứ 3- Hào 4 dương quẻ Lý (của năm thứ 2) biến thành Hào 4 âm quẻ Phong Trạch Trung Phu. Năm thứ 4- Hào 5 dương quẻ Trung Phu (của năm thứ 3) biến thành Hào 5 âm quẻ Sơn Trạch Tổn. Năm thứ 5- Hào 6 dương quẻ Tốn (của năm thứ 4) biến thành Hào 6 âm quẻ Địa Trạch Lâm. Năm thứ 6- Hào 1 dương quẻ Lâm (của năm thứ 5) biến thành Hào 1 âm Địa Thủy Sư. (Thế là biến đủ 6 hào thành quẻ 6 năm. Nhớ rằng: Quẻ lưu niên năm sau là do quẻ lưu niên năm trước biến mà thành ra, chứ không phải do quẻ T-T hay H-T lúc mới bắt đầu tính Đ-V. Theo bốc dịch thì X là hào âm biến ra hào dương, và dấu O là hào dương biến ra hào âm). - Vẫn quẻ đồng nhân trên, muốn tính lưu niên của đại vận Hào 3 dương từ 7 đến 15 gồm 9 năm. Cần nhớ rằng: Đ-V hào dương nếu gặp Dương tuế thì bất biến gặp Âm tuế mười biến. Như gặp năm Nhâm Tý thì Hào 3 dương trên này bất biến và được dùng luôn làm quẻ năm thứ nhất. THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN Tính lưu niên của đại vận Hào 3 dương từ 7 đến 15 gồm 9 năm. ------ ------ ------16-24 ------ 7-15 NĐ-- -- 1-6 ------ Năm thứ 1- Để nguyên Hào 3 dương không biến (vì gặp Dương tuế). Năm thứ 2- Hào 6 dương lấy làm ứng (vì Thế ở Hào 3 dương) biến thành Hào 6 âm quẻ Trạch Hỏa Cách. Năm thứ 3- Hào 3 dương quẻ Cách (của năm thứ 2) tức là Hào Thế, biến thành Hào 3 âm quẻ Trạch Lôi Tùy. Năm thứ 4- (đến đây T và Ư hết vai trò rồi, hào bắt đầu biến theo thường lệ) Hào 4 dương quẻ Túy (của năm thứ 3) biến thành hào âm quẻ Thủy Lôi Truân. Năm thứ 5- Hào 5 dương quẻ Truân (của năm thứ 4) biến thành Hào 5 âm quẻ Địa Lôi Phục. Năm thứ 6- Hào 6 âm quẻ Phục (của năm thứ 5) biến thành Hào 6 dương quẻ Sơn Lôi Di. Năm thứ 7- Hào 1 dương quẻ Di (của năm thứ 6) biến thành Hào 1 âm quẻ Sơn Địa Bắc. Năm thứ 8- Hào 2 âm quẻ Bắc (của năm thứ 7) biến thành Hào 2 dương quẻ Sơn Thủy Mông. Năm thứ 9- Hào 3 âm quẻ Mông (của năm thứ 8) biến thành Hào 3 dương quẻ Sơn Phong Cổ. Thế là tính đủ 9 năm của 1 đại vận dương. (Nhớ rằng: Đại vận nào thì Thế ngồi ngay ở hào ấy và Ứng ở cách T 2 hào (hoặc ở trên hoặc ở dưới) vì T và Ư cần để tính 3 năm đầu của Đ.V dương. - Năm thứ 1: Hào 3 dương, quẻ Đồng Nhân - Năm thứ 2: Hào 6 âm, quẻ Cách - Năm thứ 3: Hào 3 âm, quẻ Tùy - Năm thứ 4: Hào 4 âm, quẻ Truân - Năm thứ 5: Hào 5 âm, quẻ Phục - Năm thứ 6: Hào 6 dương, quẻ Di - Năm thứ 7: Hào 1 âm, quẻ Bác - Năm thứ 8: Hào 2 dương, quẻ Mông - Năm thứ 9: Hào 3 dương, quẻ Cổ Cách đoán quẻ 10 Thể cách tốt của mệnh hay (Quý mệnh thập cát thể) Tên quẻ tốt (quái danh cát) Hào vị tốt (hào vị cát) Lơi hào Nguyên đường tốt Được mùa sanh (đắc thời): Như sanh tháng 9 được quẻ Bác, sanh tháng 11 được quẻ Phục. Có yểm trợ (hữu viện) tức Nguyên đường (lấy làm thế) ngồi hào âm mà được ứng ngồi hào dương (hoặc Nguyên đường dương hào mà ứng âm hào). Số thuận mùa sanh (số thuận thời) tức 2 số âm và dương: hoặc âm ít dương nhiều, hoặc âm nhiều dương ít, nhưng đều thích nghi hợp với mùa sanh. Được thể (Đắc thể) như người mạng Kim được quẻ Cấn (Thổ sinh Kim). Có năm loại mạng (Can Chi Ngũ hành) nếu gặp đúng quẻ thì đoán là được Thể Đáng vị như người sanh tháng âm lại được Nguyên đường ngồi hào âm (sanh tháng dương lại được nguyên đường ngồi hào dương). Hợp lý như người tuổi Canh được quẻ Chấn ở vào mùa xuân mùa hạ. Nhược bằng người mạng Kim mà không được Đoài Kim, thì cũng nên được Khôn Cấn (Thổ sanh Kim). Chúng đều theo (Chúng tông) như quẻ có 1 hào âm 5 hào dương mà nguyên đường ngồi hào âm, hoặc 1 quẻ hào dương 5 hào âm mà nguyên đường ngồi hào dương. Trong 10 thể cách trên, người nào được: 3 - 4 cách thì làm nên chức Tuyển Tào 5 - 6 cách thì làm nên chức Tri đạo 7 - 8 cách thì làm nên chức Khanh giám, thị tòng. 9 - 10 cách thì làm nên chức Tướng, Công Hầu. 10 thể cách ấy lại có cả Hóa Công, Thiên Địa, Nguyên khí thì hẳn phải được phú quý, thọ đến tột đỉnh và hưởng kiêm toàn ngũ phúc mà vẫn là bác sĩ có đạo đức vậy. 10 Thể cách không tốt của mệnh Trái với 10 thể cách tốt trên, lại có: Tên quẻ xấu (quái danh hung) Hào vị xấu (hào vị hung) Lời hào xấu (từ hung) Không được mùa sanh (bất đắc thời) Không yểm trợ (vô viện) Số nghịch mùa sanh (số nghịch thời) Không được thể (bất đắc thể) Không đáng vị (vị bất đáng) Trái lý (vi lý) Chúng đều ghét (chúng tật) Trong 10 Thể cách không tốt vừa kể, người nào phạm phải: 3 - 4 cách thì làm Tăng Đạo, Cửu Lưu, Bách Công, Kỹ Nghệ. 5 - 6 cách thì cô độc. 7 - 8 cách thì đi ăn xin, hay bị chém giết. Theo tác giả Học Năng: Phạm vào 10 cách ấy không chết non thì cũng nghèo hèn. Nên đo lường nặng nhẹ để định xấu tốt. Hoặc vừa nghịch thời, phạm kỵ mà hung nhiều thì thuộc bọn người khát cái hoặc bị chém giết hoặc hung nhiều cát ít thì là mệnh Cửu Lưu Tăng Đạo. Ví bằng được Hóa Công và Thiên địa nguyên khí đầy đủ thì tuy gian nan nhưng rồi cũng được hưởng phúc lành, trong cảnh Tân Khổ mà cũng tạm an vui. Nếu chẳng có gì cả thì tất xấu lắm. Nói gộp các Cách tốt xấu vào 1 mục thì: Trừ 3 Thể cách: Tên quẻ tốt hay xấu Lời hào tốt hay xấu Được mùa sanh hay không được mùa sanh. Nội dung lời đoán giải một lá số Hà Lạc 1. Nhận xét tổng quát: Những thông tin quan trọng nhất ảnh hưởng đến tính cách và số phận của đương số. Phân tích các thông tin này ở: • Tám chữ can chi và ngũ hành tương ứng với quẻ. • Trị số âm và dương • Hóa công, Thiên nguyên khí và Địa nguyên khí • Mệnh hợp cách và mệnh không hợp cách • Phân tích quẻ tiên thiên, nguyên đường, quẻ hậu thiên • Dự báo những nét lớn về Tiền vận, đối chiếu giữa tiền vận và hậu vận. • Dự báo về Tiền vận, hậu vận, tiểu vận. 2. Tính khoa học và tính nghệ thuật trong giải đoán lá số Hà Lạc • Vấn đề số và lý • Tính cách và số phận • Tham khảo các môn lý số đoán mệnh khác (Tử vi, Mai Hoa Dịch số, Tử Bình…) • Vai trò quẻ Tiên thiên, Hậu thiên và quẻ Hỗ.
Kizhi (tiếng Nga: Кижи) là một hòn đảo trên hồ Onega tại Karelia, Nga (tọa độ 62°04′vĩ bắc, 35°14′17″kinh đông) với các nhà thờ, nhà và các công trình khác bằng gỗ. Nó là một trong những điểm đến phổ biến nhất của du khách tại Nga. Phần lớn trong chúng được dựng lên tại chỗ, những công trình còn lại được chuyển từ các nơi khác đến. Theo một trong các truyền thuyết, các tòa nhà được làm từ một cây búa (không có các công cụ khác), mà sau đó người thợ cả đã ném nó xuống hồ. Hiện nay tại Kizhi là Viện bảo tàng-bảo tồn dân tộc học và kiến trúc-lịch sử quốc gia Liên bang Nga (GIAEMZ). Kizhi từ năm 1990 đã được đưa vào trong danh sách di sản thế giới và nằm dưới sự bảo vệ của UNESCO. Đảo này dài khoảng 7 km và rộng 0,5 km. Nó được bao bọc bởi khoảng 5.000 đảo khác, phần lớn trong số đó rất nhỏ-một số trong chúng chỉ có kích thước khoảng 2x2 m, mặc dù một số đảo khác lại khá lớn, có đảo dài tới 35 km. Kizhi là nơi định cư thời trung cổ bao gồm trên 100 làng vào thế kỷ 16. Các ghi chép đầu tiên nhắc tới Kizhi có từ thế kỷ 12. Tổng quan Nổi bật nhất trong số các công trình kiến trúc của nó là Nhà thờ Biến hình với 22 chóp mái, với khung tranh thánh kiểu barốc tuyệt đẹp. Nhà thờ Pokrov với 9 chóp mái được xây dựng gần đó vào năm 1764 và gác chuông được bổ sung khoảng những năm 1862-1874. Điều gây ấn tượng nhất là các công trình xây dựng này hoàn toàn không sử dụng đinh hay các vật liệu kết nối bằng kim loại nào. Các công trình xây dựng nhỏ bằng gỗ đã được chuyển từ các khu vực khác nhau tại Karelia tới đây, đáng chú ý là nhà thờ Lazar Phục sinh thế kỷ 14 từ tu viện Muromskii và nó là nhà thờ gỗ cổ nhất tại Nga. Viện bảo tàng-bảo tồn kiến trúc gỗ Nga được chính quyền Liên Xô thành lập tại Kizhi năm 1960. Năm 1990, Kizhi Pogost, một di tích lịch sử có niên đại từ thế kỷ 17 trên đảo, đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới và năm 1993, nó đã được liệt kê như là một di sản văn hóa của nước Nga. Các di sản có giá trị Nhà thờ Biến hình Nhà thờ Biến hình (của Chúa) (tức nhà thờ Preobrazhenie Gospodnya) thuộc di tích lịch sử Kizhi Pogost, ước đoán được xây dựng trong khoảng thời gian những năm từ 1714-1722, là công trình kiệt xuất nhất và đáng chú ý nhất của quần thể kiến trúc này. Là di tích có giá trị toàn Liên bang [Nga], di tích di sản văn hóa của Liên bang Nga (tức hạng mục có giá trị đặc biệt). Nó được coi là xây dựng theo mô hình mẫu của Nhà thờ Pokrova Presvyatoi Bogoroditsy (xây dựng năm 1708) ở tỉnh Vologda. Nhà thờ này được xây dựng tại khu vực trước đây bị sét đánh cháy. Tên tuổi thực sự của những người xây dựng ra nó hiện nay vẫn không rõ. Chiều cao của nhà thờ là 37 m. Nhà thờ được xây dựng theo các truyền thống của nghề mộc Nga - không có đinh (ngoại trừ các "lớp vảy" trên các "lưỡi cày" của mái vòm - tại đó chúng được gắn với nhau bằng các đinh nhỏ). Theo kiểu của nó thì nhà thờ này thuộc loại "mùa hè", về mùa đông không thể tiến hành làm lễ ở đây được. Nhà thờ Biến hình đại diện cho loại các nhà thờ nhiều tầng hình bát giác. Thành phần cơ bản của công trình là thành gỗ tám mặt (bát giác) phân bổ theo các hướng chiếu sáng. Từ phía tây tới thành gỗ cơ bản là sự tiếp giáp với vách gỗ không cao của nhà ăn. Trên bát giác dưới người ta còn bố trí thêm 2 thành gỗ bát giác có kích thước nhỏ hơn. Nhà thờ này có 22 chóp mái, sắp xếp thành các tầng trên các mái, có dạng cong đều kiểu nấm. Hình dạng và kích thước các chóp mái thay đổi theo tầng, tạo ra một bức tranh hài hòa đặc biệt do hình dáng của nhà thờ. Phòng ăn được đóng lại bằng các cánh cửa có ba trục lăn. Lối vào trong nhà thờ được làm thành dạng bậc tam cấp hai lối vào có mái che trên các côngxon. Khung tranh tượng thánh có 4 tầng, tạo thành từ 102 tranh thánh. Niên đại của khung tranh thánh vẫn chưa được xác định một cách chính xác: Về cơ bản nó có từ nửa sau thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Các tranh thánh theo thời gian vẽ và các nét đặc biệt của kiểu dáng có thể chia thành 3 nhóm chính: hai tranh thánh cổ nhất là "Biến hình" và "Pokrov" có từ cuối thế kỷ 17 và là điển hình cho phong cách hội họa miền bắc. Phần cơ bản của các tranh thánh dãy dưới (bản địa) tạo thành nhóm tranh thánh thứ hai, có vào nửa sau thế kỷ 18. Các tranh thánh của 3 tầng trên cao tạo thành nhóm thứ ba và có vào khoảng đầu thế kỷ 18 và có lẽ được đưa từ nơi khác đến. Thành gỗ của nhà thờ được dựng lên mà không có móng đá, chỉ ở nhà thờ phụ bên hông phía tây của nhà thờ này mới có móng đá (năm 1870). Các góc của nhà thờ được ốp bằng gỗ thông đuôi ngựa (chi Pinus). Mái của nhà ăn, bậc tam cấp được ốp từ các tấm ván gỗ thông đuôi ngựa và vân sam (chi Picea) dọc theo các ván gỗ bạch dương (chi Betula). Tại các kết cấu ẩn người ta dùng các chi tiết làm từ gỗ bạch dương. Các "lưỡi cày" làm từ gỗ liễu hoàn diệp (Populus tremula). Nhà thờ Pokrov Nhà thờ này là dạng mùa đông (có sưởi ấm), tại đây có thể tiến hành lễ từ 1 tháng 10 tới Lễ Phục sinh. Người ta cho rằng nhà thờ Pokrov được xây dựng sau nhà thờ Preobrazhen khoảng 50 năm. Khung tranh tượng thánh ban đầu của nhà thờ Pokrov đã bị mất. Khung hiện tại được phục chế trong những năm thập niên 1950 từ các tranh thánh Zaonezh trong khoảng thế kỷ 17 tới đầu thế kỷ 18, trong số đó đáng chú ý là tranh "Điều kỳ diệu về Phlora và Lavra". Gác chuông Gác chuông hoàn tất quần thể kiến trúc Kizhi. Nó được dựng lên khoảng những năm 1862-1874 tại khu vực của gác chuông cũ đã bị hỏng. Hàng rào gỗ Hàng rào gỗ nguyên thủy không tồn tại đến ngày nay, nó được phục chế lại năm 1959 theo mẫu còn giữ được trên các công sự gỗ ở miền bắc. Nhà thờ Lazar Phục sinh Được chuyển từ tu viện Muromskii. Nhà thờ khiêm tốn này có khung tranh thánh với hai tầng tranh tượng thánh, có lẽ không trước thế kỷ 16. Nhà thờ nhỏ Mikhail Arkhangel Được chuyển từ làng Lelikozero. Trong nhà thờ nhỏ này còn giữ được khung tranh thánh và trần được tô điểm từ các tranh thánh bản địa cuối thế kỷ 17.
Iowa (phát âm là Ai-ô-va) là một tiểu bang thuộc miền Trung Tây Hoa Kỳ. Iowa giáp với Minnesota về phía bắc, Nebraska và Nam Dakota về phía tây, Missouri về phía nam, và Wisconsin và Illinois về phía đông. Nó có hai tên hiệu là "Tiểu bang Ngô cao" (The Tall Corn State) và "Tiểu bang Hawkeye" (The Hawkeye State) theo tên Black Hawk. Đây là nơi sinh của Tổng thống Herbert Hoover (tại West Branch). Địa lý Sông Mississippi là đường biên giới phía đông của tiểu bang. Ranh giới bên tây gồm sông Missouri từ Thành phố Sioux trở về phía nam và sông Big Sioux trở về phía bắc. Có vài hồ tự nhiên ở tiểu bang này, nổi tiếng nhất là hồ Linh hồn (Spirit Lake), hồ Tây Okoboji, và hồ Đông Okoboji vào miền tây bắc của Iowa (xem Iowa Great Lakes). Các hồ nhân tạo bao gồm hồ Odessa, hồ Saylorville, hồ Đá đỏ (Lake Red Rock), và hồ Rathbun. Địa hình của tiểu bang là đồng bằng đồi nhỏ. Những đồi hoàng thổ nằm trên đường biên giới tây của tiểu bang. Vài trong những đồi này dày đến vài trăm foot. Vào miền đông bắc theo sông Mississippi có một phần của Đới Phi đất bồi, ở đấy đất có những đồi gồ ghề thấp có cây tùng bách – loại đất bất thường trong Idaho. Nơi thấp nhất là Keokuk ở miền đông nam Iowa, có độ cao 146 mét (480 foot). Nơi cao nhất, cao 509 m (1.670 foot), là đỉnh Hawkeye, nằm ở trại nuôi súc vật về phía bắc của Sibley vào miền tây bắc của Iowa. Độ cao trung bình của tiểu bang là 335 m (1.099 foot). Tiểu bang trải qua 145.743 km² (56.271 dặm vuông), tức là độ cao chỉ thay đổi tí. Iowa có 99 quận. Thủ đô là Des Moines, thuộc về Quận Polk. Các vùng dưới quyền Dịch vụ Vườn Quốc gia bao gồm: Khu kỷ niệm Quốc gia Effigy Mounds (Effigy Mounds National Monument) gần Harpers Ferry Khu lưu niệm Quốc gia Herbert Hoover tại West Branch Đường lịch sử Quốc gia Lewis và Clark Đường lịch sử Quốc gia Nhà thám hiểm Mormon (Mormon Pioneer National Historic Trail) Các thành phố quan trọng Các thống kê dân số trong ngoặc đơn dựa trên số ước lược năm 2004, trừ các số có dấu *, những con số đó được lấy từ cuộc điều tra dân số đặc biệt năm 2005. Các số khu vực thống kê đô thị được ước lượng năm 2005. Các khu vực đô thị hơn 100.000 người: Des Moines (194.311 / MSA 522.454), thủ phủ Cedar Rapids (122.206 / MSA 246.412) Davenport (98.355 / MSA 376.309), vị trí của Đại học Thánh Ambrose và thành phố lớn nhất của nhóm Quad Cities Thành phố Sioux (Sioux City; 83.680 / MSA 142.571) Waterloo (66.767 / MSA 161.897) Thành phố Iowa (63.027 / MSA 138.524), vị trí của Đại học Iowa Council Bluffs (59.347 / MSA 813.170), thuộc về khu vực đô thị Omaha, Nebraska Các thành phố hơn 10.000 người: Dubuque (57.504 / MSA 91.631), thị trấn đại học, trung tâm sản xuất, và cảng trên sông Ames (52.319 / MSA 79.952), vị trí của Đại học Tiểu bang Iowa Tây Des Moines (*51.744), ngoại ô Des Moines và trung tâm bảo hiểm Cedar Falls (36.343), vị trí của Đại học Bắc Iowa và thuộc khu vực đô thị Waterloo Ankeny (*36.161), ngoại ô Des Moines Urbandale (*35.904), ngoại ô Des Moines Bettendorf (31.615), thuộc nhóm Quad Cities Marion (29.825), ngoại ô Cedar Rapids Thành phố Mason (28.177), thành phố nổi tiếng về sản xuất xi măng Clinton (27.319), thị trấn công nghiệp trên bờ sông Marshalltown (26.057), vị trí của Nhà Cựu chiến binh Iowa (Iowa Veterans Home) và nổi tiếng về sản xuất lò sưởi và van Fort Dodge (25.723), nổi tiếng về thuốc cho thợ mỏ và thú vật Burlington (25.579), thị trấn công nghiệp trên bờ sông Ottumwa (24.680), thị trấn công nghiệp trên bờ sông Muscatine (22.713), vị trí của nhiều nhà máy hóa học Coralville (17.528), ngoại ô Thành phố Iowa Newton (15.696), vị trí của tổng hành dinh Công ty Maytag Clive (13.598), ngoại ô Des Moines Johnston (*13.596), ngoại ô Des Moines Boone (12.856), trung tâm quan trọng của Đường sắt Union Pacific Altoona (12.107), ngoại ô Des Moines Spencer (11.063) Oskaloosa (10.945), vị trí của Đại học William Penn Fort Madison (10.944), vị trí của Nhà tù Tiểu bang Iowa Keokuk (10.845), cảng trên sông ở miền xa đông nam Pella (10.182), vị trí của tổng hành dinh Pella Windows, Đại học Trung ương (Central College), nhà của Wyatt Earp khi còn nhỏ, và Tulip Fest Chú thích
Vườn Treo Babylon là một trong Bảy kỳ quan thế giới cố đại được nhắc đến trong văn hóa Hy Lạp cổ đại. Nó được ca ngợi là một thành tựu nổi bật về kỹ thuật xây dựng với một chuỗi vườn bậc thang, có đủ các loại cây, cây bụi và cây leo đa dạng, tạo nên một ngọn núi xanh lớn được đắp bởi gạch bùn. Vườn treo được cho là được xây dựng tại thành phố cổ đại Babylon, gần thành phố Hillah tỉnh Babil, Iraq ngày nay. Tên của nó được lấy nguồn gốc từ chữ Hy Lạp kremastós (κρεμαστός có nghĩa là "treo qua"), dùng để chỉ những cây cối được trồng trên một cấu trúc trên cao như là ban công hay sân thượng. Theo một truyền thuyết, vườn treo nằm kế bên một cung điện rất lớn được biết đến với cái tên Kì quan của nhân loại, được xây dựng bởi Nebuchadnezzar II thời Tân Babylon (trị vì 605- 562 TCN), dành tặng cho vợ của mình, Amytis người Media, để làm bà khuây khỏa nỗi nhớ quê hương, nơi vốn có những ngọn đồi và thung lũng xanh tươi. Điều này được ghi chép lại bởi một tu sĩ người Babylon, Berossus, vào khoảng 290 TCN, sau này được dẫn lại bởi Josephus. Vườn treo cũng được gắn với vị nữ vương huyền thoại Semiramis, người được cho là đã trị vì Babylon vào thế kỷ thứ 9 TCN, do đó còn có một tên gọi khác là Vườn treo của Semiramis. Vườn treo là công trình duy nhất trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại mà vị trí vẫn chưa được xác định chính xác. Không có văn bản thời Babylon còn tồn tại nào nhắc tới vườn treo, và không có bằng chứng khảo cổ vững chắc nào được tìm thấy tại Babylon. Có ba giả thuyết được đưa ra để giải thích cho vấn đề này. Thứ nhất, công trình chỉ là một huyền thoại, và các mô tả được nhắc đến trong ghi chép của các tác giả Hy Lạp và La Mã cổ đại như Strabo, Diodorus Siculus và Quintus Curtius Rufus đã tô vẽ một hình ảnh lý tưởng hóa về một khu vườn phương Đông. Thứ hai, Vườn treo đã từng tồn tại tại Babylon, nhưng đã bị phá hủy hoàn toàn trong khoảng thời gian thế kỷ 1 TCN. Thứ ba, khu vườn được nhắc đến trong truyền thuyết thực chất là khu vườn treo do vua Sennacherib của Assyria (704–681 TCN) xây dựng tại thủ đô Nineveh bên bờ sông Tigris, gần thành phố Mosul thời hiện đại. Mô tả Có năm tác giả chính mà những ghi chép về Vườn treo còn tồn tại cho đến ngày nay. Những tác giả này tập trung vào kích thước, thiết kế tổng quan, hệ thống thủy lợi, và mục đích xây dựng của khu vườn. Josephus (khoảng 37–100 CN) dẫn lại mô tả về Vườn treo từ tác phẩm của Berossus, một tu sĩ đền thần Marduk người Babylon, viết khoảng năm 290 TCN, là tài liệu cổ nhất từng được biết tới có đề cập tới Vườn treo. Berossus viết về triều đại của Nebuchadnezzar II và là người duy nhất ghi lại rằng vị vua này là người xây dựng vườn treo. Diodorus Siculus (60–30 TCN) có vẻ như đã tham khảo các ghi chép vào thế kỷ thứ 4 TCN của cả hai tác giả Cleitarchus (một nhà sử học của Alexander Đại đế) và Ctesias của Cnidus. Diodorus cho là Vườn treo được xây bởi một ông vua Syria. Ông chỉ ra khu vườn có hình vuông, với mỗi bên dài khoảng bốn plethron (xấp xỉ 120m), được thiết kế theo dạng bậc thang, với tầng trên cùng cao 50 cubit (khoảng 25m). Những bức tường, dày 22 feet (6.7m), được xây bằng gạch. Nền của những bậc thang đủ sâu để chứa rễ của những cây lớn nhất, và khu vườn được dẫn nước tưới từ sông Euphrates gần đó. Quintus Curtius Rufus (thế kỷ 1 CN) được cho là đã dẫn từ cùng nguồn với Diodorus. Ông cho rằng khu vườn nằm trên đỉnh của một khu thành cổ có chu vi 20 stadion. Ông gắn khu vườn cho một vị vua Syria, cũng cùng lí do xây tặng người vợ nhớ quê hương. Tài liệu ghi chép của Strabo (64 TCN – 21 CN) có thể là dựa trên tài liệu đã mất của Onesicritus từ thế kỷ 4 TCN. Ông cho rằng khu vườn được tưới tiêu bởi hệ thống máy bơm đinh vít dẫn nước lên từ sông Euphrates. Nguồn tài liệu cổ điển cuối cùng được cho là độc lập với các nguồn tài liệu khác, Sổ tay Bảy kì quan Thế giới bởi Philo của Byzantium (được viết vào thế kỷ thứ 4 đến thứ 5 CN; không cùng một người với Philo của Byzantium, sống vào khoảng 280 TCN – 220 TCN). Kỹ thuật dẫn nước lên bằng bơm đinh vít được miêu tả bởi Strabo. Philo ca ngợi kỹ thuật xây dựng khu vườn với một khối lượng lớn đất trồng nằm ở trên cao so với nền đất xung quanh, cùng với kỹ thuật tưới tiêu. Lịch sử tồn tại Các nhà sử học không xác định được vườn treo này có thật sự tồn tại hay chỉ là hư cấu, do không có nguồn tài liệu Babylon đương thời nào nhắc đến khu vườn này. Cũng không có nguồn tài liệu nào nhắc đến Amvitis vợ của Nebuchadnezzar (hoặc bất cứ người vợ nào), tuy nhiên một cuộc hôn nhân chính trị với người Media hoặc Ba Tư cũng không phải điều hiếm gặp. Có nhiều tài liệu ghi chép về các công trình của Nebuchadnezzar, tuy nhiên không hề nhắc tới bất kì khu vườn nào. Tuy nhiên, khu vườn được cho là vẫn tồn tại vào thời điểm các tác giả sau này viết về nó, một số ghi chép được cho là dẫn lại từ những người đã ghé thăm Babylon. Herodotus, người mô tả Babylon trong bộ Sử học, không hề nhắc tới vườn treo, tuy có thể do khu vườn chưa trở nên nổi tiếng với người Hy Lạp tại thời điểm mà ông ghé thăm. Cho đến nay, không có bằng chứng khảo cổ nào về khu vườn treo được tìm thấy tại Babylon. Có thể các chứng tích hiện đã bị chôn vùi dưới sông Euphrates khiến cho không thể khai quật được. Vào thời vua Nebuchadnezzar II, con sông chảy lệch về phía Đông so với hiện tại, và người ta không biết nhiều về phần phía Tây của Babylon. Rollinger đề xuất rằng Berossus gán công trình vườn treo cho Nebuchadnezzar vì lý do chính trị, sử dụng lại truyền thuyết đó từ một nơi khác. Khu vườn treo tại Nineveh Có một giả thuyết cho rằng khu vườn treo Babylon thật ra được xây dựng bởi vua Sennacherib của Assyria (trị vì 704 – 681 TCN) trong cung điện tại Nineveh. Stephanie Dalley chỉ ra rằng trong những thế kỷ sau này, hai địa điểm đã bị nhầm lẫn, và những khu vườn rộng lớn ở cung điện Sennacherib đã bị gán cho Nebuchadnezzar II của Babylon. Các cuộc khai quật khảo cổ cho thấy dấu tích của một hệ thống dẫn nước rộng lớn được cho là dưới thời Sennacherib, theo như những dòng chữ được tìm thấy. Dalley cho rằng khu vườn là một phần của hệ thống kênh, đập, và ống dẫn nước dài 80 km dùng để đưa nước tới Nineveh, và nước được đưa lên các tầng cao khu vườn bằng bơm đinh vít. Giả thuyết của Dalley dựa trên phân tích các mô tả tiếng Akkadia đương thời, bao gồm các luận điểm chính: Cái tên "Babylon", có nghĩa là "Cánh cổng của những Vị thần" được đặt cho một số thành phố Lưỡng Hà. Sennacherib đã đổi tên các cổng vào thành phố Nineveh theo tên của những vị thần, cho thấy ông muốn thành phố của mình được xem như là "một Babylon". Chỉ có duy nhất ông Josephus ghi lại Nebuchadnezzar là người xây dựng khu vườn; tuy nhiên các tài liệu liên quan đến Nebuchadnezzar không hề nhắc đến khu vườn hay công trình kĩ thuật nào. Diodorus Siculus và Quintus Curtius Rufus nhắc đến một vị vua người "Syria." Trong khi đó, Sennacherib để lại các ghi chép miêu tả khu vườn, và có bằng chứng khảo cổ về kỹ thuật bơm nước ở thời ông. Cháu trai của ông, Assurbanipal đã cho khắc lại hình ảnh khu vườn hoàn chỉnh trên một bức tường của cung điện. Sennacherib gọi cung điện và khu vườn mới của mình là "một kỳ quan của toàn nhân loại". Ông có mô tả cách xây dựng và vận hành của hệ thống bơm đinh vít đưa nước lên khu vườn. Mô tả của các tác giả thời Cổ điển phù hợp với các ghi chép đương thời. Trước trận Gaugamela năm 331 TCN, Alexander Đại đế đã cắm trại bốn ngày gần hệ thống dẫn nước tại Jerwan. Các sử gia đi cùng ông đã có đủ thời gian để tìm hiểu công trình vĩ đại xung quanh họ và ghi chép nó bằng tiếng Hy Lạp. Các văn bản gốc không còn tồn tại nhưng đã được trích dẫn bởi những tác giả Hy Lạp sau này. Khu vườn của vua Sennacherib không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp của nó như là một ốc đảo xanh tươi quanh năm giữa sa mạc, mà còn bởi hệ thống dẫn nước. Người Assyria có truyền thống xây dựng những khu vườn hoàng gia. Vua Ashurnasirpal II (883–859 BC) đã cho đào một con kênh cắt ngang qua những ngọn núi. Một bức điêu khắc trên tường của Assurbanipal thể hiện hình ảnh khu vườn hoàn chỉnh. Bản khắc gốc và bản vẽ lại hiện được lưu trữ trong Bảo tàng Anh, nhưng không được đem ra trưng bày. Hình ảnh khu vườn bức điêu khắc phù hợp với một số đặc điểm đã được nhắc đến bởi các tác giả cổ điển. Sennacherib nhắc đến những khối đá vôi lớn để củng cố hệ thống đê ngăn lũ trong cung điện của mình. Nhiều phần của cung điện đã được khai quật bởi Austin Henry Layard vào giữa thế kỷ 19. Bản quy hoạch thành cổ cho thấy các đường bao nhất quán với khu vườn của Sennacherib, nhưng vị trí chắc chắn vẫn chưa được xác nhận. Khu vực này được sử dụng để làm căn cứ cho quân đội trong thời gian gần đây nên rất khó để nghiên cứu xa hơn Việc tưới tiêu cho khu vườn đòi hỏi hệ thống cấp nước cho Nineveh phải được nâng cấp. Một hệ thống kênh đào được xây lấn sâu 50 km vào những ngọn núi. Sennacherib rất tự hào về công nghệ của mình và đã miêu tả một vài chi tiết trong các tài liệu để lại. Ông nhắc đến những cánh cổng dẫn nước tự động tại đầu nguồn nước Bavian (Khinnis). Một hệ thống cống nước khổng lồ xuyên qua thung lũng Jerwan được xây dựng từ hơn 2 triệu khối đá mài, sử dụng vòm đá và xi măng chống thấm, trên đó được viết:Sennacherib Vua của thế gian - Vua của Assyria. Từ nơi xa xôi ta đã xây dựng đường dẫn nước hướng về Nineveh, hợp với các dòng chảy.... Trên thung lũng dốc đứng ta đã dựng một cây cầu cống từ các khối đá vôi trắng, và làm nước chảy qua đó. Thực vật Khu vườn, như được mô tả qua các tác phẩm nghệ thuật, có hoa nở rực rỡ, hoa quả chín, thác nước đổ và sân hóng mát dưới tán lá dày. Những loài thực vật có thể có mặt trong khu vườn, dựa theo văn học và truyền thống Babylon, cùng với các đặc điểm môi trường quanh khu vực, bao gồm: Ô liu Mộc qua Kavkaz Chi lê Vả tây Hạnh đào Nho Chà là Tam thất Pistacia atlantica
Đại Kim tự tháp Giza là Kim tự tháp Ai Cập lớn nhất và là lăng mộ của Vương triều thứ Tư của pharaoh Khufu. Được xây dựng vào đầu thế kỷ 26 trước Công nguyên trong khoảng thời gian 27 năm, đây là kim tự tháp lâu đời nhất còn nằm trong Bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, và là kim tự tháp duy nhất với phần lớn còn nguyên vẹn. Là một phần của Quần thể kim tự tháp Giza, nó giáp với Giza ngày nay tại Greater Cairo, Ai Cập. Ban đầu với chiều cao , Đại Kim Tự Tháp là cấu trúc nhân tạo cao nhất thế giới trong hơn 3.800 năm. Theo thời gian, hầu hết lớp vỏ đá vôi trắng mịn đã bị loại bỏ, điều này đã hạ thấp chiều cao của kim tự tháp xuống như hiện nay, còn . Những gì được nhìn thấy ngày nay là cấu trúc cốt lõi cơ bản. Cơ sở đo đạc là khoảng vuông, cho một khối lượng khoảng, trong đó bao gồm cả một ngọn đồi bên trong. Kích thước của kim tự tháp là cao , chiều dài cơ sở ,với seked palm (độ dốc của 51°50'40"). Đại Kim tự tháp được xây dựng bằng cách khai thác khối lượng đá đá ước tính khoảng 2,3 triệu khối lớn với tổng trọng lượng 6 triệu tấn. Phần lớn các viên đá không đồng nhất về kích thước hoặc hình dạng và chỉ được trang trí sơ xài. Các lớp bên ngoài được liên kết với nhau bằng vữa. Chủ yếu là sử dụng đá vôi địa phương khai thác từ Cao nguyên Giza. Các khối khác được nhập khẩu bằng thuyền xuống sông Nile: Đá vôi trắng từ Tura để làm vỏ và các khối đá granit từ Aswan, nặng tới 80 tấn, cho cấu trúc Phòng Nhà Vua. Có ba phòng được biết đến bên trong Đại kim tự tháp. Phần thấp nhất được cắt thành nền đá, trên đó xây kim tự tháp, nhưng vẫn chưa hoàn thành. Cái gọi là Phòng của Nữ hoàng và Phòng của Vua, chứa một cỗ quan tài bằng đá granit, nằm trên cao hơn, trong cấu trúc kim tự tháp. Tể tướng của Khufu là Hemiunu (còn gọi là Hemon), được một số người tin rằng là kiến trúc sư của Đại Kim tự tháp. Cho đến nay, nhiều giả thuyết khoa học và những giả thuyết khác nhau luôn cố gắng giải thích các kỹ thuật xây dựng chính xác của Kim tự tháp. Quần thể lăng mộ xung quanh kim tự tháp bao gồm hai đền thờ được nối với nhau bằng một con đường đắp cao (một gần kim tự tháp và một gần sông Nile), lăng mộ cho gia đình và triều đình của Khufu, bao gồm ba kim tự tháp nhỏ hơn dành cho vợ của Khufu, một "kim tự tháp vệ tinh" thậm chí còn nhỏ hơn và năm Thuyền mặt trời bị chôn vùi. Ghi công cho Khufu Trong lịch sử, Đại Kim tự tháp được cho là của Khufu dựa trên lời của các tác giả cổ điển, trước hết là Herodotus và Diodorus Siculus. Tuy nhiên, trong thời Trung cổ, một số người khác cũng được ghi nhận là người xây dựng kim tự tháp, ví dụ Joseph, Nimrod hoặc vua Saurid. Năm 1837, bốn Phòng bổ sung đã được tìm thấy phía trên Phòng của Vua sau khi đào hầm. Các căn phòng, trước đây không thể tiếp cận, được bao phủ với chữ tượng hình bằng sơn đỏ. Những công nhân xây dựng kim tự tháp đã đánh dấu các khối bằng tên của các nhóm thợ của họ, trong đó có tên của pharaoh (ví dụ: “Nhóm, white crown của Khnum-Khufu đầy quyền năng”). Tên của Khufu đã được viết trên các bức tường hơn chục lần. Một bức vẽ graffiti khác được Goyon tìm thấy trên khối bên ngoài của lớp thứ 4 của kim tự tháp. Các chữ khắc có thể so sánh với các chữ khắc được tìm thấy ở các địa điểm khác của Khufu, chẳng hạn như mỏ đá alabaster tại Hatnub hoặc bến cảng tại Wadi al-Jarf và cũng có mặt trong các kim tự tháp của các pharaoh khác. Trong cuộc khai quật năm 2013, Nhật ký của Merer đã được tìm thấy tại Wadi al-Jarf. Nó ghi lại việc vận chuyển khối đá vôi màu trắng từ Tura đến Đại kim tự tháp, được nhắc đến hàng chục lần với tên ban đầu là Akhet Khufu (với một kim tự tháp có tính xác định). Nó nêu chi tiết rằng những viên đá đã được chấp nhận tại She Akhet-Khufu ("vực kim tự tháp Chân trời của Khufu") và Ro-She Khufu ("lối vào vực Khufu") dưới sự giám sát của Ankhhaf, anh trai cùng cha khác mẹ và là tể tướng của Khufu, đồng thời là chủ sở hữu của mastaba lớn nhất ở Cánh đồng phía Đông Giza. Niên đại Đại kim tự tháp lớn đã được xác định là khoảng 4600 năm tuổi bằng hai cách tiếp cận chính: gián tiếp, thông qua việc ghi nhận Khufu và niên đại của nó, dựa trên bằng chứng khảo cổ và văn bản; và trực tiếp, thông qua xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ của vật liệu hữu cơ được tìm thấy trong kim tự tháp và có trong vữa của nó. Niên đại lịch sử Trong quá khứ, Đại kim tự tháp được xác định niên đại bởi chỉ do công của Khufu, người đã đặt nền móng cho việc xây dựng Đại kim tự tháp trong triều đại của ông. Do đó việc xác định niên đại của kim tự tháp là vấn đề xác định niên đại của Khufu và triều đại thứ 4. Trình tự tương đối và tính đồng bộ của các sự kiện là tiêu điểm của phương pháp này. The majority of recent chronological estimates date Khufu and his pyramid roughly between 2700 and 2500 BC. Xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ Vữa được sử dụng rộng rãi trong việc xây dựng Đại kim tự tháp. Trong quá trình trộn, tro từ đám cháy đã được thêm vào vữa, vật liệu hữu cơ có thể được chiết xuất và do theo niên đại cacbon phóng xạ. Tổng cộng 46 mẫu vữa được lấy vào năm 1984 và 1995, đảm bảo rằng chúng rõ ràng là vốn có của cấu trúc ban đầu và không thể trộn lẫn vào ngày sau đó. Các kết quả đã được hiệu chỉnh vào năm 2871–2604 trước Công nguyên. Vấn đề gỗ cũ được cho là nguyên nhân chính gây ra sự bù đắp 100–300 năm, vì tuổi của vật liệu hữu cơ được xác định, chứ không phải khi nó được sử dụng lần cuối. Việc phân tích lại dữ liệu đã đưa ra ngày hoàn thành của kim tự tháp la trong khoảng từ năm 2620 đến năm 2484 trước Công nguyên, dựa trên các mẫu ít tuổi hơn. Lịch sử xác định niên đại của Khufu và Đại kim tự tháp Vào khoảng năm 450 trước Công nguyên, Herodotus cho rằng Đại Kim tự tháp là cho Cheops (tên Hy Lạp hóa của Khufu), nhưng lại đặt triều đại một cách sai lầm là vào sau thời kỳ Ramesside. Manetho, khoảng 200 năm sau, đã soạn một danh sách phong phú của các vị vua Ai Cập mà ông chia thành các triều đại, gán Khufu vào vị trí thứ 4. Tuy nhiên, sau những thay đổi ngữ âm trong ngôn ngữ Ai Cập và do đó là bản dịch tiếng Hy Lạp, "Cheops" đã chuyển thành "Souphis" (và các phiên bản tương tự). Niên đại Ai Cập tiếp tục được tinh chỉnh và dữ liệu từ nhiều ngành bắt đầu được đưa vào dữ liệu, chẳng hạn như niên đại phát quang, xác định niên đại bằng carbon phóng xạ và dendrochronology. Ví dụ, Ramsey et al. bao gồm hơn 200 mẫu cacbon phóng xạ trong mô hình của họ. Hồ sơ lịch sử Kiến trúc thượng cổ Herodotus Nhà sử học Hy Lạp cổ đại Herodotus đã bắt đầu viết về kim tự tháp vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, ông là một trong những tác giả lớn đầu tiên đề cập đến kim tự tháp. Trong cuốn sách thứ hai của ông là Sử ký, ông bắt đầu thảo luận về lịch sử của Ai Cập và Đại Kim tự tháp. Báo cáo này được viết ra sau khi cấu trúc đã tồn tại hơn 2000 năm, có nghĩa là Herodotus thu thập kiến thức chủ yếu từ nhiều nguồn gián tiếp, bao gồm các quan chức và linh mục cấp thấp, người Ai Cập địa phương, người nhập cư Hy Lạp và thông dịch viên của chính Herodotus. Theo đó, những lời giải thích của ông thể hiện một hỗn hợp của những mô tả dễ hiểu, thuộc về cá nhân, những báo cáo sai lầm và truyền thuyết viển vông; do đó, nhiều suy đoán và nhầm lẫn sai sót về di tích có thể bắt nguồn từ Herodotus và công việc của ông. Herodotus cũng mô tả một dòng chữ bên ngoài kim tự tháp, theo các dịch giả của ông, cho biết lượng củ cải, tỏi và hành tây mà các công nhân sẽ ăn khi làm việc trên kim tự tháp. Đây có thể là một ghi chú về công việc trùng tu mà Khaemweset, con trai của Ramesses II, đã thực hiện. Rõ ràng, những người bạn đồng hành và thông dịch viên của Herodotus không thể đọc được các chữ tượng hình hoặc cố tình cung cấp cho ông thông tin sai lệch. Diodorus Siculus Giữa năm 60 và 56 trước Công nguyên, nhà sử học Hy Lạp cổ đại Diodorus Siculus đã đến thăm Ai Cập và sau đó đã viết cuốn sách đầu tiên của ông là Bibliotheca historyca về vùng đất, lịch sử và di tích của nó, bao gồm cả Đại Kim tự tháp. Tác phẩm của Diodorus được truyền cảm hứng từ các nhà sử học trong quá khứ, nhưng ông cũng tách mình khỏi Herodotus, người mà Diodorus tuyên bố là chỉ biết kể những câu chuyện kỳ diệu và huyền thoại. Diodorus có lẽ đã rút ra kiến thức của ông từ công việc dang dở của Hecataeus của Abdera, và giống như Herodotus, ông cũng đặt người xây dựng kim tự tháp, "Chemmis," sau Ramses III. Theo báo cáo của ông, cả Chemmis (Khufu) và Cephren (Khafre) đều không được chôn cất trong kim tự tháp của họ, mà là ở những nơi bí mật, vì sợ rằng những người bề ngoài bị buộc phải xây dựng các công trình sẽ tìm kiếm cơ thể để trả thù; với khẳng định này, Diodorus đã củng cố mối liên hệ giữa việc xây dựng kim tự tháp và chế độ nô lệ. Strabo Nhà địa lý, triết gia và sử gia người Hy Lạp Strabo đã đến thăm Ai Cập vào khoảng năm 25 trước Công nguyên, ngay sau khi Ai Cập bị người La Mã thôn tính. Trong tác phẩm của ông là Geographica, ông lập luận rằng các kim tự tháp là nơi chôn cất các vị vua, nhưng ông không đề cập đến vị vua nào được chôn cất trong công trình kiến trúc. Strabo cũng đề cập: "Ở độ cao vừa phải, một trong hai bên là một tảng đá, có thể được đưa ra ngoài; khi loại bỏ nó, sẽ có một lối đi xiên vào lăng mộ." Tuyên bố của ông đã tạo ra nhiều suy đoán, vì nó gợi ý rằng kim tự tháp có thể đã bị đột nhập vào thời điểm này. Pliny the Elder Nhà văn La Mã Pliny the Elder đã viết vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, lập luận rằng Đại kim tự tháp đã được nâng lên, hoặc "để ngăn chặn các tầng lớp thấp hơn bị bỏ trống", hoặc là một biện pháp để ngăn chặn của cải giàu có của các pharaoh rơi vào tay đối thủ hoặc người kế nhiệm. Pliny không suy đoán về vị pharaoh đang được đề cập, rõ ràng lưu ý rằng "sự ngẫu nhiên [đã] khiến tên tuổi của những người đã dựng lên những đài tưởng niệm tuyệt vời như vậy về sự hư vô của họ bị lãng quên." Khi cân nhắc xem làm thế nào những viên đá có thể được vận chuyển đến một độ cao khổng lồ như vậy, ông đưa ra hai giải thích: Đó là hoặc là những gò đất rộng lớn đá nitre và muối được chất thành đống trên kim tự tháp, sau đó chúng chảy xuôi theo dòng nước từ con sông. Hoặc, những "cây cầu" được xây dựng, gạch của họ sau đó được phân phối để xây dựng nhà ở của các cá nhân, lập luận rằng mực nước sông quá thấp để các con kênh có thể đưa nước lên đến kim tự tháp. Pliny cũng kể lại rằng "theo suy đoán, trong nội thất của Kim tự tháp lớn nhất có một cái giếng, sâu tám mươi sáu cubit [], tiếp giáp với sông". Hơn nữa, ông mô tả một phương pháp được Thales của Miletus phát hiện ra để xác định chiều cao của kim tự tháp bằng cách đo bóng của nó. Thời hậu cổ đại và Trung cổ Trong thời kỳ hậu cổ đại, việc hiểu sai các kim tự tháp là "vựa lúa của Joseph" bắt đầu trở nên phổ biến. Bằng chứng văn bản đầu tiên về mối liên hệ này được tìm thấy trong các câu chuyện của một nữ hành hương Cơ đốc giáo Egeria, người ghi lại rằng trong chuyến thăm của bà từ năm 381 đến năm 384 sau Công nguyên, "trong đoạn đường mười hai dặm giữa Memphis và Babylonia [= Cairo cũ] là nhiều kim tự tháp mà Joseph đã làm để chứa ngô." Mười năm sau, việc sử dụng này được xác nhận trong cuộc du hành ẩn danh của bảy nhà sư khởi hành từ Jerusalem để thăm các nhà khổ hạnh nổi tiếng ở Ai Cập, trong đó báo cáo rằng họ "đã nhìn thấy kho thóc của Joseph, nơi ông cất giữ ngũ cốc trong Kinh thánh." Cách sử dụng cuối thế kỷ thứ 4 này được khẳng định thêm trong chuyên luận địa lý Cosmographia do Julius Honorius viết vào khoảng năm 376 sau Công nguyên, giải thích rằng các Kim tự tháp được gọi là "kho thóc của Joseph" (). Tham chiếu này từ Julius rất quan trọng, vì nó chỉ ra rằng nhận dạng bắt đầu lan rộng từ người hành hương du lịch. Vào năm 530 sau Công nguyên, Stephanos của Byzantium đã bổ sung thêm ý tưởng này khi ông viết trong cuốn Ethnica rằng từ "kim tự tháp" được kết nối với từ tiếng Hy Lạp πυρός (puros), có nghĩa là lúa mì. Vào cuối thời Trung cổ, Đại kim tự tháp đã trở nên nổi tiếng là một công trình kiến trúc bị ma ám. Nhiều người cảm thấy sợ hãi khi bước vào vì đây là nơi sinh sống của các loài động vật như dơi. Xây dựng Chuẩn bị cho vị trí xây dựng Một ngọn đồi sẽ được chọn để làm nơi hình thành nên cơ sở cho các kim tự tháp đứng trên đó. Nó sẽ được cắt lại thành các bậc và chỉ có một dải xung quanh chu vi được san bằng, phần được đo là kích thước ngang và phẳng trong khoảng . Phần nền móng đạt đến chiều cao gần nằm phía trên phần đế kim tự tháp tại vị trí Grotto. Dọc theo các mặt của bệ cơ sở, một loạt các lỗ sẽ được khoét trên nền đá. Lehner đưa ra giả thuyết rằng họ đã giữ các cột gỗ cho việc căn chỉnh. Edwards cũng như những người khác, đã đề xuất việc sử dụng nước cho phần nền của bệ, mặc dù không rõ hệ thống như vậy sẽ thực tế và mang tính khả thi như thế nào.. Vật liệu Đại kim tự tháp ước tính bao gồm 2,3 triệu khối xếp lại với nhau. Khoảng 5,5 triệu tấn đá vôi, 8.000 tấn đá granit và 500.000 tấn vữa đã được sử dụng để xây dựng kim tự tháp. Hầu hết các khối là đá ở Giza, nằm ngay phía nam của kim tự tháp, khu vực này nay gọi là Central Field. Đá vôi trắng được sử dụng làm phần phủ có nguồn gốc từ Tura (cách về phía nam Giza) và vận chuyển bằng thuyền dọc theo sông Nile. Năm 2013, các nhà khảo cổ học tìm ra những cuộn giấy cói được gọi là Nhật ký của Merer, nó thuộc về một người giám sát việc vận chuyển đá vôi và các vật liệu xây dựng khác từ Tura đến Giza trong lần cuối cùng năm trị vì của Khufu. Đá Granit trong kim tự tháp được vận chuyển từ Aswan, cách đó hơn . Những khối đá lớn nhất, nặng từ 25 đến 80 tấn, tạo thành các mái của "buồng của Vua" và "buồng giảm bớt" phía trên nó. Người Ai Cập cổ đại cắt đá thành các khối thô bằng cách dùng búa đóng các rãnh vào bề mặt đá tự nhiên, chèn các nêm gỗ, sau đó ngâm chúng với nước. Khi các miếng nêm hấp thụ nướ, cũng sẽ nở ra, phá vỡ tảng đá thành các khối có thể thi công được. Sau khi các khối đá được cắt, chúng được chở bằng thuyền lên hoặc xuống sông Nile để đến kim tự tháp. Lực lượng lao động Người Hy Lạp tin rằng họ đã sử dụng các nô lệ, nhưng những khám phá hiện đại được thực hiện tại các trại công nhân gần đó liên quan đến việc xây dựng tại Giza cho thấy nó được xây dựng bởi hàng nghìn lính nghĩa vụ . Những bức vẽ graffiti của công nhân được tìm thấy tại Giza cho thấy những thước kẻ chia thành zau (số ít là za), các nhóm gồm 40 người đàn ông, bao gồm bốn đơn vị con mà mỗi đơn vị có một "Giám thị nhóm Mười người". Đối với câu hỏi về việc làm thế nào có thể cắt hơn hai triệu khối đá trong suốt cuộc đời của Khufu, thợ đá Franck Burgos đã tiến hành thí nghiệm khảo cổ học dựa trên một mỏ đá bị bỏ hoang của Khufu được phát hiện vào năm 2017. Trong đó, một khối đá gần như đã hoàn thành và các công cụ được sử dụng để cắt nó gồm: đục làm bằng đồng thạch tín cứng, vồ gỗ, dây thừng và các công cụ bằng đá. Trong thí nghiệm, các bản sao của chúng được sử dụng để cắt một khối nặng khoảng 2,5 tấn (kích thước khối trung bình sử dụng cho Đại kim tự tháp). Bốn công nhân đã mất 4 ngày (với mỗi người làm việc 6 giờ một ngày) để khai quật. Sự chậm chạp ban đầu đã tăng lên gấp sáu lần khi viên đá bị nước làm ướt. Dựa trên dữ liệu, Burgos ngoại suy rằng cần khoảng 3.500 người khai thác đá mới có thể sản xuất 250 khối/ngày để hoàn thành Đại kim tự tháp trong 27 năm. Một nghiên cứu quản lý xây dựng thực hiện năm 1999, cùng với Mark Lehner và các nhà Ai Cập học khác, đã ước tính rằng tổng dự án yêu cầu lực lượng lao động trung bình khoảng 13.200 người và cao điểm nhất là khoảng 40.000 người. Khảo sát và thiết kế Các phép đo chính xác đầu tiên của kim tự tháp được thực hiện bởi nhà Ai Cập học Flinders Petrie vào năm 1880–1882 và xuất bản trong sách The Pyramids and Temples of Gizeh. Nhiều viên đá bọc ngoài và các khối buồng bên trong của Đại kim tự tháp khớp với nhau với độ chính xác cao, với các khớp nối trung bình chỉ rộng . Ngược lại, các khối lõi chỉ có hình dạng gần đúng, với những đống đổ nát được chèn vào giữa những khoảng trống lớn hơn. Vữa được sử dụng để kết dính các lớp bên ngoài với nhau và lấp đầy các khoảng trống và khớp nối. Chiều cao và trọng lượng của khối có xu hướng nhỏ dần về phía trên cùng. Petrie đo lớp thấp nhất cao , trong khi các lớp ở phía đỉnh gần như không vượt quá . Độ chính xác của chu vi hình chóp sao cho bốn cạnh của đáy có sai số trung bình chỉ là theo chiều dài và phần đế hoàn thiện được bình phương thành sai số góc trung bình chỉ 12 giây của cung. Kích thước thiết kế hoàn chỉnh được đo ban đầu là cao và dài ở mỗi cạnh trong bốn cạnh nền. Người Ai Cập cổ đại sử dụng seked để mô tả độ dốc. Đối với Đại kim tự tháp, người ta đã chọn lòng bàn tay, tỷ lệ 14 đến 11 in. Một số nhà Ai Cập học cho rằng độ dốc này được chọn vì tỷ lệ giữa chu vi và chiều cao (1760/280 cubits) bằng 2 π với độ chính xác hơn 0,05 phần trăm (tương ứng với giá trị xấp xỉ nổi tiếng của π như 22/7). Verner đã viết, "Chúng ta có thể kết luận rằng mặc dù người Ai Cập cổ đại không thể xác định chính xác giá trị của π, nhưng trong thực tế họ đã sử dụng nó". Petrie kết luận: "nhưng những mối quan hệ này của các khu vực và tỷ lệ vòng tròn có hệ thống đến mức chúng ta nên cho rằng chúng nằm trong thiết kế của người xây dựng". Những người khác lập luận rằng người Ai Cập cổ đại không có khái niệm về số pi và sẽ không hề có ý mã hóa nó trong các đài kỷ niệm của họ và rằng độ dốc của kim tự tháp quan sát được có thể chỉ dựa trên seked. Căn chỉnh với các hướng chính Các mặt của chân đế của Đại kim tự tháp được căn chỉnh chặt chẽ theo bốn hướng cơ bản địa lý (không dựa trên từ tính), lệch trung bình 3 phút 38 giây của cung, hoặc khoảng một phần mười độ. Một số phương pháp đã được đề xuất về việc làm thế nào người Ai Cập cổ đại có thể đạt được mức độ chính xác này: Phương pháp Solar Gnomon: Bóng của một thanh thẳng đứng được theo dõi suốt một ngày. Đường bóng bị cắt bởi một vòng tròn được xung quanh đế. Kết nối các điểm giao nhau tạo ra một đường đông tây. Một thử nghiệm sử dụng phương pháp này đã dẫn đến trung bình các dòng bị lệch 2 phút, 9 giây theo hướng đông-tây. Sử dụng lỗ kim tạo ra kết quả chính xác hơn nhiều (lệch 19 vòng cung giây), trong khi sử dụng một khối có góc cạnh làm công cụ xác định bóng kém chính xác hơn (lệch 3′ 47″). Phương pháp Pole Star: Sao cực được theo dõi bằng cách sử dụng một thiết bị ngắm có thể di chuyển và dây dọi cố định. Một nửa giữa độ giãn dài cực đại phía đông và phía tây chính là hướng bắc thực. Thuban, sao cực trong thời kỳ Vương quốc Cổ, cách thiên cực khoảng hai độ vào thời điểm đó. Phương pháp chuyển tuyến đồng thời: Các ngôi sao Mizar và Kochab xuất hiện trên một đường thẳng đứng trên đường chân trời, gần với phía bắc thực vào khoảng 2500 năm TCN. Chúng chuyển dịch chậm và đồng thời về phía đông theo thời gian, được sử dụng để giải thích sự lệch lạc tương đối của các kim tự tháp. Lý thuyết xây dựng Nhiều lý thuyết thay thế từng được đề xuất, thường mâu thuẫn với nhau, liên quan đến kỹ thuật xây dựng kim tự tháp. Một bí ẩn về việc xây dựng kim tự tháp chính là quy hoạch của nó. John Romer cho rằng họ đã sử dụng cùng một phương pháp đã được sử dụng cho các công trình xây dựng trước đó và sau này, đặt các phần của kế hoạch trên mặt đất với tỷ lệ 1-1. Ông viết rằng "một sơ đồ làm việc như vậy cũng sẽ phục vụ cho việc tạo ra kiến trúc của kim tự tháp với độ chính xác chưa từng có bằng bất kỳ phương tiện nào khác". Các khối đá bazan của ngôi đền kim tự tháp cho thấy "bằng chứng rõ ràng" về việc đã bị cắt bằng một loại cưa nào đó với lưỡi cắt ước tính dài . Romer cho rằng "siêu cưa" này có thể có răng bằng đồng và nặng tới . Ông đưa ra giả thuyết rằng một chiếc cưa như vậy có thể được gắn vào giá đỡ có khung bằng gỗ và có thể sử dụng cùng với dầu thực vật, cát cắt, đá nhám hoặc thạch anh để cắt thành các khối, mà sẽ cần đến sức lao động của ít nhất một chục người đàn ông để vận hành nó. Lớp ngoài Lớp đá bọc ngoài Khi hoàn thành, Đại kim tự tháp được xây hoàn toàn bằng đá vôi trắng. Các khối gia công chính xác được đặt thành các lớp nằm ngang và gắn cẩn thận với nhau bằng vữa, mặt ngoài của chúng được cắt theo độ dốc và làm nhẵn ở mức độ cao. Cùng nhau chúng tạo ra bốn bề mặt đồng nhất, góc 51°50'40" (một Seked của palm). Các khối vỏ chưa hoàn thành của các kim tự tháp Menkaure và Henutsen tại Giza gợi lên đề xuất rằng mặt trước chỉ được làm nhẵn sau khi đặt đá, với các đường nối đục đánh dấu vị trí chính xác và nơi đá thừa sẽ phải bị cắt bỏ. Chiều cao của các lớp ngang không đồng nhất nhưng thay đổi đáng kể. Lớp cao nhất trong số 203 hàng gạch còn lại nằm ở phía dưới, lớp đầu tiên cao nhất ở . Về phía trên cùng, các lớp có xu hướng chỉ cao hơn một chút. Một mô hình bất thường có thể nhận thấy khi xem xét các kích thước theo thứ tự, trong đó chiều cao các lớp giảm đều đặn và ngày càng nhọn dần. Cái được gọi là "đá nền" đã hỗ trợ lớp vỏ (không giống như các khối lõi) cũng được chế tạo chính xác và gắn với vỏ bằng vữa. Ngày nay, những viên đá này mang lại cho cấu trúc vẻ ngoài còn nhận thấy được, sau khi kim tự tháp bị tháo dỡ vào thời trung cổ. Năm 1303 sau Công Nguyên, một trận động đất lớn đã làm mất nhiều đá bên ngoài, và còn được cho là đã bị Vương triều Bahri của An-Nasir Nasir-ad-Din al-Hasan sử dụng ở Cairo gần đó vào năm 1356. Muhammad Ali Pasha đã lấy nhiều viên đá vỏ bọc khác vào đầu thế kỷ 19 để xây dựng phần trên của Nhà thờ Hồi giáo Alabaster của ông ở Cairo, không xa Giza. Các nhà thám hiểm sau đó đã báo cáo về những đống đổ nát khổng lồ ở chân của các kim tự tháp còn sót lại sau sự sụp đổ liên tục của các tảng đá bọc, sau đó chúng đã được dọn đi trong quá trình tiếp tục khai quật địa điểm. Ngày nay có thể nhìn thấy một vài viên đá bọc từ hàng thấp nhất in situ ở mỗi bên, với phần được bảo tồn tốt nhất ở phía bắc bên dưới lối vào, do Vyse khai quật năm 1837. Phần vữa đã được phân tích hóa học và chứa các tạp chất hữu cơ (chủ yếu là than củi), các mẫu trong số đó là cacbon phóng xạ có niên đại 2871–2604 trước Công nguyên. Có giả thuyết rằng vữa cho phép thợ xây đặt đá chính xác bằng cách cung cấp một lớp nền. Người ta cho rằng một số hoặc tất cả đá vỏ được đúc ngay tại chỗ, thay vì khai thác và di chuyển, nhưng bằng chứng khảo cổ và phân tích thạch học cho thấy điều này không đúng như vậy. Petrie ghi chú vào năm 1880 rằng các mặt của kim tự tháp, như chúng ta thấy ngày nay, là "rõ là rỗng" và "mỗi mặt có một loại rãnh đặc biệt ở giữa mặt", mà ông lý luận là do sự gia tăng độ dày của vỏ ở những khu vực này. Một cuộc khảo sát bằng tia laser vào năm 2005 đã xác nhận sự tồn tại của các dị thường này, ở một mức độ nào đó, có thể là do đá bị hư hỏng và bị bỏ đi. Trong các điều kiện ánh sáng nhất định và với việc nâng cao hình ảnh, các mặt có thể bị tách ra, dẫn đến suy đoán rằng kim tự tháp đã được cố ý xây dựng tám mặt. Chóp tháp và phần đỉnh bị thiếu Trên đỉnh kim tự tháp đã từng gắn một viên đá tảng được gọi là pyramidion (chóp kim tự tháp, số nhiều: pyramidia). Vật liệu làm ra nó vẫn còn nằm trong vòng suy đoán; Đá vôi, đá granit hoặc đá bazan thường được đề xuất, trong khi với nền văn hóa phổ biến, nó thường là vàng nguyên khối hoặc mạ vàng. Tất cả triều đại thứ 4 đều biết các pyramidia (của Kim tự tháp Đỏ, Kim tự tháp vệ tinh Khufu (G1-d) và Kim tự tháp Menkaure của Nữ hoàng (G3-a)) là bằng đá vôi trắng và không mạ vàng. Chỉ từ triều đại thứ 5 trở đi mới có bằng chứng về những viên đá quý mạ vàng; ví dụ: một khung cảnh trên đường đắp cao của Sahure nói về "chóp tháp bằng vàng trắng thuộc về kim tự tháp Soul Shines của Sahure". Chóp tháp của Đại Kim tự tháp đã biến mất trong thời cổ đại, khi Pliny the Elder và các tác giả sau này báo cáo về một phần trên đỉnh của nó. Ngày nay, kim tự tháp ngắn hơn khoảng so với khi còn nguyên vẹn, với khoảng 1.000 tấn vật liệu bị thiếu trên đỉnh. Năm 1874, một nhà thiên văn học người Scotland là Sir David Gill đã lắp đặt một cột buồm trên đỉnh để quan sát hiện tượng đi qua của sao Kim hiếm hoi, đã được mời tham gia khảo sát Ai Cập và bắt đầu bằng việc khảo sát Đại kim tự tháp. Kết quả đo kim tự tháp của ông chính xác đến 1 mm và cột buồm khảo sát vẫn còn ở vị trí đó cho đến ngày nay. Nội thất bên trong Cấu trúc bên trong bao gồm ba phòng chính (Phòng của Vua-, Nữ hoàng- và Phòng dưới lòng đất), Phòng trưng bày lớn và các hành lang và trục khác nhau. Có hai lối vào kim tự tháp: lối đi ban đầu và lối đi bắt buộc, chúng gặp nhau tại một đường giao nhau. Từ đó, một lối đi xuống Căn phòng dưới lòng đất, trong khi lối đi khác đi đến Phòng trưng bày lớn. Từ đầu thư viện, bạn có thể đi ba con đường: một trục thẳng đứng dẫn xuống, qua một hang động, để gặp Lối đi xuống, một hành lang ngang dẫn đến Phòng Nữ hoàng, và con đường dẫn lên Phòng trưng bày đến Phòng Nhà Vua, nơi chứa quan tài. Cả Phòng Nhà vua và Nữ hoàng đều có một cặp "trục không khí" nhỏ. Phía trên Phòng của Nhà vua là một loạt năm Buồng thông. Cổng vào Lối vào ban đầu Lối vào ban đầu nằm ở phía bắc, phía đông của đường tâm của kim tự tháp. Trước khi loại bỏ vỏ bọc vào thời trung cổ, kim tự tháp đã được đi vào qua một lỗ trong lớp xây thứ 19, khoảng trên nền của kim tự tháp. Chiều cao của lớp đó – – tương ứng với kích thước của đường hầm lối vào, thường được gọi là Lối đi xuống. Theo Strabo (64–24 trước Công nguyên), một tảng đá có thể di chuyển được có thể được nâng lên để đi vào hành lang dốc này, tuy nhiên người ta không biết nó là một bổ sung sau này hay là nguyên bản. Một hàng trang trí chuyển hướng trọng lượng ra khỏi cửa ra vào. Các mặt nghiêng mà chúng từng nằm trên cho thấy một vài trong số các khối trang trí này hiện đã bị mất, vì Nhiều hình vẽ graffiti, chủ yếu là hiện đại, được cắt trên những viên đá xung quanh lối vào. Đáng chú ý nhất là một văn bản chữ tượng hình lớn, vuông được chạm khắc để vinh danh Frederick William IV, bởi chuyến thám hiểm người Phổ của Karl Richard Lepsius đến Ai Cập năm 1842. Hành lang phía Bắc Vào năm 2016, nhóm ScanPyramids đã phát hiện ra một lỗ hổng phía sau các chữ V lối vào bằng cách sử dụng muography, được xác nhận vào năm 2019 ít nhất là một hành lang dài, chạy ngang hoặc dốc lên trên (do đó không song song với Lối đi xuống). Cho dù nó có kết nối với Big Void phía trên Phòng trưng bày lớn hay không vẫn còn phải xem xét. Đường hầm của bọn cướp Ngày nay khách du lịch vào Đại kim tự tháp thông qua Đường hầm của bọn cướp, đường hầm từ lâu đã được cắt thẳng qua khối xây của kim tự tháp. Lối vào là từ lớp thứ 6 và thứ 7 của vỏ, khoảng phía trên phần nền. Sau khi chạy thẳng và ngang nhiều hơn hoặc ít hơn nó rẽ ngoặt sang trái để gặp những viên đá chặn trong Lối đi lên. Có thể đi vào Lối đi xuống từ thời điểm này nhưng thường bị cấm vào. Nguồn gốc của Đường hầm của bọn cướp này là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận học thuật. Theo truyền thống, hố sâu được tạo ra vào khoảng năm 820 sau Công nguyên bởi những người thợ của caliph al-Ma'mun với một phiến đá phá thành. Việc đào bới làm bật tung tảng đá trên trần của Lối đi xuống, nơi che khuất lối vào của Lối đi lên, mớ hỗn tạp của hòn đá đó rơi xuống và sau đó trượt xuống Lối đi xuống, cảnh báo họ cần phải rẽ trái. Tuy nhiên, không thể loại bỏ những viên đá này, những người thợ đã đào hầm bên cạnh xuyên qua lớp đá vôi mềm hơn của Kim tự tháp cho đến khi họ đến Lối đi lên. Do một số khác biệt về lịch sử và khảo cổ, nhiều học giả (với Antoine de Sacy có lẽ là người đầu tiên) cho rằng câu chuyện này là giả tạo. Họ cho rằng nhiều khả năng đường hầm đã được chạm khắc ngay sau khi niêm phong kim tự tháp ban đầu. Các học giả tiếp tục cho biết, đường hầm này sau đó đã đóng lại (có thể là trong thời Khôi phục Ramesside), và cuộc thám hiểm vào thế kỷ thứ chín của al-Ma'mun đã xóa sạch. Lý thuyết này càng được củng cố bởi báo cáo của tộc trưởng Dionysius I Telmaharoyo, ông đã tuyên bố rằng trước chuyến thám hiểm của al-Ma'mun, đã có một lỗ thủng ở mặt phía bắc của kim tự tháp kéo dài vào cấu trúc tới trước khi đi vào ngõ cụt. Điều này cho thấy rằng một số loại đường hầm của bọn cướp có trước al-Ma'mun, và họ chỉ đơn giản là mở rộng nó và dọn sạch các mảnh vỡ. Lối đi xuống Từ lối vào ban đầu, một lối đi xuống xuyên qua khối xây của kim tự tháp và sau đó đi vào nền đá bên dưới nó, cuối cùng dẫn đến Căn phòng dưới lòng đất. Nó có chiều cao nghiêng là 4 feet Ai Cập (1.20 m; 3.9 ft) và chiều rộng của . Góc 26°26'46" của nó tương ứng với tỷ lệ 1 đến 2. Sau, sẽ đến điểm cuối thấp hơn của Lối đi lên; một lỗ thủng trên trần nhà, bị chặn bởi đá granit và có thể ban đầu đã bị che đi. Để phá vỡ những tảng đá cứng này, người ta đã đào một đường hầm ngắn nối với phần cuối của Đường hầm của bọn cướp. Nó đã mở rộng theo thời gian và vừa với cầu thang. Đoạn tiếp tục đi xuống và đến một đoạn khác, bây giờ thông qua nền tảng thay vì cấu trúc thượng tầng kim tự tháp. Những thanh hướng dẫn lười biếng được sử dụng để chặn bộ phận này bằng gạch vụn để tránh phải dẫn người xuống và quay ngược trục dài, cho đến khoảng năm 1902 khi Covington lắp đặt một cửa sắt có khóa móc để ngăn chặn hoạt động này. Gần cuối phần này, trên bức tường phía tây, là kết nối với trục thẳng đứng dẫn đến Phòng trưng bày lớn. Một trục nằm ngang nối phần cuối của Đoạn đi xuống với Căn phòng dưới lòng đất, Nó có chiều dài là , rộng và cao . Một chỗ lõm nằm ở cuối bức tường phía tây, lớn hơn một chút so với đường hầm, trần nhà không đều và trống không. Phòng ngầm dưới lòng đất Phòng dưới lòng đất, hay còn gọi là "Hố", là phòng thấp nhất trong số ba phòng chính và là phòng duy nhất được đào vào nền móng bên dưới kim tự tháp. Nằm sâu bên dưới tầng nền, với số đo đại khái bắc nam đông-tây , với chiều cao xấp xỉ . Nửa phía tây của căn phòng, ngoài trần nhà, còn chưa hoàn thành, với những đường hào do những người khai thác đá chạy từ đông sang tây để lại. Một phần hốc đã bị cắt vào từ nửa phía bắc của bức tường phía tây. Duy nhất chỉ có chỗ lõm, qua Lối đi xuống, nằm ở cuối phía đông của bức tường phía bắc. Mặc dù dường như mới được biết đến trong thời cổ đại, theo Herodotus và các tác giả sau này, sự tồn tại của nó đã bị lãng quên vào thời Trung cổ cho đến khi được khám phá lại vào năm 1817, khi Giovanni Caviglia dọn sạch đống đổ nát chặn Lối đi xuống. Đối diện với lối vào, một hành lang mù chạy thẳng về phía nam và tiếp tục uốn cong một chút khoảng , đo khoảng mét vuông. Một ký tự Hy Lạp hoặc La Mã trên trần nhà với ánh sáng của một ngọn nến, cho thấy rằng căn phòng thực sự có thể đã có người bước vào từ Thời kỳ cổ điển. Ở giữa nửa phía đông, một lỗ lớn được mở ra, gọi là Pit Shaft hoặc Shaft của Perring. Phần trên cùng có thể có nguồn gốc cổ xưa, rộng khoảng mét vuông và sâu , căn chỉnh theo đường chéo với buồng. Caviglia và Salt đã mở rộng nó đến độ sâu khoảng . Năm 1837 Vyse hướng trục bị chìm xuống độ sâu , với hy vọng phát hiện ra khoang chứa nước mà Herodotus ám chỉ. Chiều rộng hẹp hơn một chút vào khoảng . Không có khoang nào được phát hiện sau khi Perring và các công nhân của ông đã trải qua một năm rưỡi đục xuyên qua lớp đá gốc đến mực nước lúc bấy giờ của sông Nile, một số nơi sâu đến sâu hơn nữa. Đống đổ nát được tạo ra trong quá trình hoạt động này tích tụ khắp buồng. Petrie khi ghé thăm vào năm 1880, phát hiện ra trục được lấp đầy một phần bởi nước mưa chảy tràn xuống Lối đi xuống. Năm 1909, khi các hoạt động khảo sát của anh em nhà Edgar bị cản trở bởi vật chất, họ chuyển cát và đá nhỏ trở lại trục, để lại phần trên sạch sẽ. Chiếc trục sâu đôi khi bị nhầm là một phần của thiết kế ban đầu . Ludwig Borchardt cho rằng Căn phòng dưới lòng đất ban đầu được lên kế hoạch làm nơi chôn cất pharaoh Khufu, nhưng nó đã bị bỏ hoang trong quá trình xây dựng vì một căn phòng cao hơn trong kim tự tháp sẽ thích hợp hơn. Lối đi lên Lối đi lên kết nối Lối đi xuống với Phòng trưng bày lớn. Dài , có cùng chiều rộng và chiều cao với trục mà nguồn, mặc dù góc thấp hơn một chút ở 26°6'. Đầu dưới của trục cắm ba viên đá granit, được trượt xuống từ Phòng trưng bày lớn để bịt kín đường hầm. Chúng dài , và tương ứng. Phần trên cùng bị hư hại nặng, do đó ngắn hơn. Phần cuối của Đường hầm của bọn cướp nằm bên dưới những phiến đá, vì vậy một đường hầm ngắn đã được đào xung quanh chúng để có thể đi đến Lối đi xuống, vì đá vôi xung quanh mềm hơn đáng kể và dễ làm việc hơn. Hầu hết các khớp nối giữa các khối tường chạy vuông góc với sàn, có hai trường hợp ngoại lệ. Thứ nhất, những khớp ở một phần ba phía dưới của hành lang là thẳng đứng. Thứ hai, ba viên đá dầm được chèn vào gần giữa (cách nhau khoảng 10 cubit), có lẽ là để ổn định đường hầm. Trục giếng và Hang động Trục giếng (còn được gọi là Trục phục vụ hoặc Trục dọc) liên kết phần dưới của Phòng trưng bày lớn với phần cuối của Lối đi xuống, khoảng ở phía dưới. Nửa trên đi qua khối xây hạt nhân của hình chóp. Lúc đầu, nó chạy thẳng đứng trong khoảng , sau đó hơi nghiêng về phía nam trong cùng một khoảng cách, cho đến khi chạm vào nền đá khoảng trên nền của kim tự tháp. Một phần thẳng đứng khác đi xuống sâu hơn, được lót một phần bằng khối xây đã bị phá vỡ tới một cái hốc được gọi là Grotto. Nửa dưới của Trục giếng đi qua nền đá một góc khoảng 45° với trước một đoạn dốc hơn, dài , dẫn đến điểm thấp nhất của nó. Phần cuối cùng của kết nối nó với Lối đi xuống, chạy gần như nằm ngang. Các nhà xây dựng rõ ràng đã gặp khó khăn khi căn chỉnh lối ra phía dưới. Mục đích của trục thường được giải thích là trục thông gió cho Phòng dưới lòng đất và như một trục thoát hiểm cho những công nhân trượt các tảng đá chặn Lối đi lên vào đúng vị trí. Hang là một hang động đá vôi tự nhiên có khả năng đã từng lấp đầy bởi cát và sỏi trước khi xây dựng, và trước cả khi bị bọn cướp phá rỗng. Một khối đá granit nằm trong đó có khả năng có nguồn gốc từ cổng vòm đã từng phong tỏa Phòng Nhà Vua. Phòng Nữ hoàng nhỏ|Chế độ xem hình chiếu trục đo của Phòng Nữ hoàng Phòng trưng bày lớn nhỏ|Phòng trưng bày lớn (với lối đi hiện đại ở giữa) Lỗ hổng lớn Antechamber nhỏ|Sơ đồ của Antechamber Phòng Nhà Vua nhỏ|Chế độ xem hình chiếu trục đo của Phòng Nhà Vua Sarcophagus trái|nhỏ|Quách trong Phòng Nhà Vua Trục khí Buồng giảm áp nhỏ|Các buồng giảm áp trên Phòng Nhà Vua, Smyth năm 1877 Khu phức hợp kim tự tháp Đại kim tự tháp bao quanh bởi một khu phức hợp gồm một số tòa nhà, bao gồm cả các kim tự tháp nhỏ. Đền và đường đắp cao Đền Kim tự tháp, đứng ở phía đông của kim tự tháp và đo từ bắc xuống nam và từ đông sang tây, đã gần như biến mất hoàn toàn. Chỉ còn lại một số đá lát bazan đen. Chỉ có một số tàn tích của con đường đắp cao liên kết kim tự tháp với thung lũng và Đền Thung lũng. Đền Thung lũng chôn cất bên dưới ngôi làng Nazlet el-Samman; đã tìm thấy những bức tường đá vôi và lát đá bazan nhưng địa điểm vẫn chưa được khai quật. Khu mộ hướng đông Ngôi mộ của Queen Hetepheres I, em gái của Sneferu và mẹ của Khufu, nằm cách Đại kim tự tháp khoảng về phía đông. Được phát hiện tình cờ bởi đoàn thám hiểm Reisner, nơi chôn cất vẫn còn nguyên vẹn, mặc dù chiếc quan tài niêm phong cẩn thận đã được chứng minh là trống rỗng. Kim tự tháp con Ở đầu phía nam của phía đông là bốn kim tự tháp phụ. Ba kim tự tháp vẫn có độ cao gần như đầy đủ thường được gọi là Kim tự tháp Nữ hoàng (G1-a, G1-b và G1-c). Kim tự tháp vệ tinh thứ tư, nhỏ hơn (G1-d), đã bị hủy hoại đến nỗi sự tồn tại của nó chưa từng được biết đến cho đến khi phát hiện ra phiến đá đầu tiên và sau đó, phần còn lại của nó lộ ra trong các cuộc khai quật năm 1991–93. Thuyền Ba hố hình con thuyền nằm ở phía đông của kim tự tháp. Chúng có kích thước và hình dạng đủ lớn để chứa những con thuyền hoàn chỉnh, mặc dù nông đến mức bất kỳ cấu trúc thượng tầng nào, nếu từng có, đều phải bị dỡ bỏ hoặc tháo rời. Hai hố thuyền bổ sung, dài và hình chữ nhật, được tìm thấy ở phía nam của kim tự tháp, vẫn được bao phủ bởi những phiến đá nặng tới 15 tấn. Công trình đầu tiên trong số này được nhà khảo cổ học Ai Cập Kamal el-Mallakh phát hiện tháng 5 năm 1954. Bên trong là 1.224 mảnh gỗ, dài nhất , ngắn nhất . Những thứ này được giao cho một người thợ đóng thuyền là Haj Ahmed Yusuf, ông đã tìm ra cách để ghép các mảnh lại với nhau. Toàn bộ quá trình, bao gồm bảo tồn và làm thẳng gỗ cong vênh, mất mười bốn năm. Kết quả là một chiếc thuyền làm bằng gỗ tuyết tùng dài , các tấm gỗ của nó nối kết lại với nhau bằng dây, ban đầu nằm trong Bảo tàng thuyền Giza Solar, một bảo tàng hình con thuyền đặc biệt, có máy lạnh bên cạnh kim tự tháp. Nó hiện nằm trong Bảo tàng Grand Egypt. Trong quá trình xây dựng bảo tàng này vào những năm 1980, hố thuyền kín thứ hai đã được phát hiện. Nó vẫn chưa mở cho đến năm 2011, khi việc khai quật bắt đầu trên con thuyền. Thị trấn kim tự tháp Một công trình đáng chú ý bên cạnh quần thể kim tự tháp Giza là bức tường đá cực lớn, Bức tường của Quạ. Mark Lehner đã khám phá ra một thị trấn công nhân bên ngoài bức tường, còn được gọi là "Thành phố đã mất", có niên đại vào khoảng thời gian trị vì của Khafre (2520–2494 trước Công nguyên) và Menkaure (2490–2472 TCN) dựa trên phong cách đồ gốm, dấu ấn và địa tầng theo triều đại đã được xây dựng và chiếm đóng. Vào đầu thế kỷ 21, Lehner và nhóm của ông đã thực hiện một số khám phá, bao gồm cả những gì dường như là một khu cảng thịnh vượng, gợi ý về thị trấn và các khu sinh sống liên quan, bao gồm các doanh trại được gọi là "phòng trưng bày", có thể không dành cho các công nhân kim tự tháp, nhưng là dành cho những người lính và thủy thủ sử dụng cảng. Với phát hiện mới này, về nơi mà các công nhân kim tự tháp có thể đã sống sau đó, Lehner đề xuất khả năng thay thế họ là có thể đã cắm trại trên những con dốc mà ông tin rằng đã dùng để xây dựng các kim tự tháp, hoặc có thể tại các mỏ đá gần đó. Vào đầu những năm 1970, nhà khảo cổ học người Úc Karl Kromer đã khai quật một gò đất ở Cánh đồng Nam của cao nguyên. Nó được tìm thấy có chứa các đồ tạo tác bao gồm cả con dấu bằng gạch bùn của Khufu, mà ông đã xác nhận với một khu định cư của các nghệ nhân. Các tòa nhà bằng gạch bùn ở ngay phía nam của Đền Thung lũng Khufu chứa các vật liệu niêm phong bằng bùn của Khufu và được gợi ý là một khu định cư phục vụ cho sự sùng bái Khufu sau khi ông qua đời. Một nghĩa trang của công nhân được sử dụng ít nhất là từ thời trị vì của Khufu đến cuối Vương triều thứ Năm đã được Hawass phát hiện ở phía nam của Bức tường Quạ năm 1990. Cướp bóc Các tác giả Bob Brier và Hoyt Hobbs cho rằng "tất cả các kim tự tháp đã bị cướp" bởi Tân Vương quốc ngay từ khi việc xây dựng các lăng mộ hoàng gia ở Thung lũng các vị vua bắt đầu. Joyce Tyldesley nói rằng bản thân Đại kim tự tháp "được cho là đã bị Vương quốc Trung cổ mở ra và vét sạch", trước khi caliph Al-Ma'mun người Ả Rập vào kim tự tháp vào khoảng năm 820 sau Công nguyên. I. E. S. Edwards thảo luận về việc Strabo từng đề cập rằng kim tự tháp "đi lên phía trên một chút có một viên đá có thể lấy ra, đá sẽ được nâng lên tạo ra một lối đi dốc dẫn đến phần nền móng". Edwards cho rằng kim tự tháp đã bị bọn cướp đột nhập sau khi Vương quốc cũ kết thúc và bị phong ấn rồi mở ra lại nhiều lần cho đến khi cánh cửa của Strabo được thêm vào. Ông nói thêm: "Nếu phỏng đoán mang tính suy đoán cao này là chính xác, thì cũng cần phải giả định rằng sự tồn tại của cánh cửa đã bị lãng quên hoặc lối vào một lần nữa bị chặn bằng đá ốp", để giải thích tại sao al-Ma'mun có thể không tìm thấy lối vào. Các học giả như Gaston Maspero và Flinders Petrie đã lưu ý có bằng chứng cho rằng một cánh cửa tương tự đã được tìm thấy tại Kim tự tháp Bent của Dashur. Herodotus đã đến thăm Ai Cập vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên và kể lại một câu chuyện mà ông từng nghe kể về những căn hầm dưới kim tự tháp được xây dựng trên một hòn đảo nơi thi thể của Khufu nằm lại. Edwards lưu ý rằng kim tự tháp "gần như chắc chắn đã được mở ra và đồ đạc của nó bị cướp bóc từ rất lâu trước thời Herodotus" và nó có thể đã bị đóng cửa một lần nữa trong Vương triều thứ hai mươi sáu của Ai Cập khi các di tích khác được trùng tu. Ông gợi ý rằng câu chuyện được kể cho Herodotus có thể là kết quả của gần hai thế kỷ kể đi kể lại của các hướng dẫn viên kim tự tháp.
Cuốn theo chiều gió (tiếng Anh: Gone With the Wind) (1939) là bộ phim Mỹ, thuộc thể loại phim chính kịch-lãng mạn-sử thi, được phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của Margaret Mitchell, xuất bản năm 1936. Phim được sản xuất bởi David O.Selznick, đạo diễn Victor Fleming và kịch bản gốc Sidney Howard. Bộ phim được quay ở miền Nam nước Mỹ trong thời gian xảy ra nội chiến. Các diễn viên chính bao gồm: Clark Gable, Vivien Leigh, Leslie Howard, Olivia de Havilland và Hattie McDaniel. Nội dung của phim xoay quanh cuộc nội chiến Mỹ và thời kì tái thiết nhìn từ quan điểm của một người Mỹ da trắng ở miền Nam. Ra mắt năm 1939, Gone With the Wind vẫn chứng tỏ sức sống lâu bền trong lòng khán giả khi dẫn đầu danh sách 100 bộ phim thành công nhất mọi thời đại về doanh thu tại Mỹ. Đây là kết quả từ cuộc thăm dò của nhật báo điện ảnh Screen Digest. Bộ phim đoạt 9 giải Oscar vừa được bình chọn là bộ phim có nhiều khán giả nhất mọi thời đại trong lịch sử chiếu bóng Anh Quốc. Kể từ khi được phát hành năm 1939, "Cuốn theo chiều gió" đã mang lại 3.4 tỷ đô la, vẫn kém so với con số 4 tỷ đô la doanh thu phòng vé mà Titanic hay Avenger: Endgame kiếm được, tính đến thời điểm này). Bộ phim được bình chọn là một trong 100 phim hay nhất của điện ảnh Hoa Kỳ bởi viện phim Mỹ (đứng thứ 6 trong danh sách năm 2007). Với độ dài ba giờ bốn mươi phút và bốn phút nghỉ giữa các phần, Cuốn theo chiều gió là bộ phim Mỹ có lồng tiếng dài nhất từng được thực hiện tính đến thời điểm hiện tại. Tóm tắt nội dung Phần 1 Bộ phim bắt đầu trên trang trại trồng bông Tara ở vùng nông thôn Georgia năm 1861 - thời kì nước Mỹ đang xảy ra nội chiến, nơi mà Scarlett O'Hara (Vivien Leigh) đang tán tỉnh hai anh em nhà Tarleton, Brent (Fred Crane) và Stuart (George Reeves). Scarlett, Suellen (Evelyn Keynes) và Careen (Ann Rutherford) là ba cô con gái của một người di cư gốc Ailen, Gerald O'Hara (Thomas Mitchell), và vợ ông, Ellen O'Hara (Barbara O'Neil), một hậu duệ của dòng dõi quý tộc Pháp. Hai anh em nhà Tarleton chia sẻ với Scarlett một bí mật, rằng Ashley Wilkes (Leslie Howard), người mà Scarlett thầm yêu, sẽ cưới chị em họ anh ta là Melanie Hamilton (Olivia de Havilland). Lễ đính hôn dự định sẽ được thông báo và ngày tiếp theo đó trong bữa tiệc ngoài trời tại nhà Ashley, trang trại Twelve Oaks gần đó. Tại Twelve Oaks, Scarlett nhận ra cô đang được mến mộ bởi Rhett Butler (Clark Gable), một khách mời đẹp trai láu cá mà đã bị dòng họ ở Charleston của anh ta từ mặt. Rhett bị mọi người phản đối trong một cuộc thảo luận về chiến tranh, khi anh cho rằng miền Nam chẳng có cơ hội nào thắng những con số vượt trội và sức mạnh công nghiệp của miền Bắc. Scarlett lẻn đi khi mọi người đang ngủ trưa để được ở một mình với Ashley trong thư viện, và thú nhận tình yêu dành cho anh. Ashley thừa nhận anh thấy Scarlett hấp dẫn, và rằng anh cũng đã luôn thầm yêu cô, nhưng anh và Melanie ngọt ngào hợp nhau hơn. Cô buộc tội Ashley đã khiến cô hiểu nhầm và tát anh một cách giận dữ. Ashley im lặng bỏ đi còn Scarlett càng tức giận khi biết rằng Rhett đang chợp mắt trên ghế bành trong thư viện, và anh đã nghe lỏm toàn bộ câu chuyện. "Này ông, ông thật chẳng ra dáng một quý ngài!", và anh đáp lại lời của cô: "Còn cô, thưa cô, chẳng phải một quý bà!". Tuy nhiên Rhett hứa sẽ giữ kín bí mật tội lỗi của cô. Scarlett vội vã rời khỏi thư viện. Bữa tiệc bị gián đoạn bởi thông báo rằng chiến tranh đã nổ ra, do đó đám đàn ông phải vội đi tòng quân và đám phụ nữ thì bị tỉnh giấc trưa. Khi Scarlett nhìn Ashley hôn tạm biệt Melanie từ trên lầu, cậu em trai nhút nhát của Melanie, Charles Hamilton (Rand Brooks), người mà Scarlett đã vô tư đùa bỡn, hỏi cưới cô trước khi lên đường. Mặc dù không thực sự yêu Charles nhưng Scarlett vẫn đồng ý với mục đích tiếp cận gia đình Ashley và khiến anh ghen tuông. Charles và Scarlett cưới trước khi anh lên đường ra mặt trận. Scalett sớm goá bụa khi Charles chết vì bệnh viêm phổi và bệnh sởi trong quá trình phục vụ quân đội Liên minh miền Nam. Mẹ của Scarlett gửi cô đến nhà Hamilton ở Atlanta để khiến cô vui lên, mặc dù bà vú trực tính Mammy (Hattie McDaniel) bảo với Scarlett rằng bà biết cô tới đó chỉ hòng hi vọng Ashley quay lại. Scarlett và Melanie tham gia buổi bán hàng từ thiện ở Atlanta; Scarlett, người đáng nhẽ phải chìm đắm trong tột cùng đau khổ thì bị xì xào căm ghét. Rhett, bây giờ là người hùng vượt phong tỏa của Liên minh, xuất hiện trong sự ngạc nhiên của mọi người. Scarlett thậm chí còn làm dân chúng Atlanta kinh ngạc hơn khi chấp nhận lời mời nhảy cùng của Rhett. Trong khi nhảy, Rhett tiết lộ ý định giành lấy cô, và Scarlett đáp rằng điều đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra khi mà cô còn đang sống. Cuộc chiến trở nên bất lợi cho Liên minh sau trận Gettysburg mà trong đó nhiều đàn ông ra đi từ thị trấn của Scarlett đã hi sinh. Scarlett một lần nữa không thành trong nỗ lực giành lấy trái tim Ashley khi anh về nghỉ lễ Giáng sinh, mặc dù họ đã hôn nhau say đắm trong phòng khách trước khi anh quay trở lại mặt trận. Trong bệnh viện, Scarlett và Melanie chăm sóc những chiến sĩ bị thương (Cliff Edwards). Tám tháng sau, thành phố bị bao vây bởi quân đội Liên bang trong chiến dịch Atlanta, Melanie trở dạ sớm. Giữ lời hứa với Ashley rằng sẽ "chăm sóc Melanie", Scarlett và người hầu gái Prissy (Butterfly McQueen) phải tự đỡ đẻ mà không có bác sĩ. Scarlett cầu xin Rhett đưa cô trở về Tara ngay lập tức cùng với Melanie, Prissy và đứa bé. Anh xuất hiện trên xe ngựa để mang họ rời khỏi thành phố trên một hành trình nguy hiểm vượt qua những bến ga và kho hàng bốc cháy. Anh bỏ cô lại cùng với con ngựa sắp chết, Melanie đang hấp hối, đứa bé và Prissy khóc lóc sướt mướt, cùng một nụ hôn say đắm trên đường trở về Tara. Cô đáp lại sự sửng sốt của anh bằng một cái tát khi anh lên đường chiến đấu cho quân đội Liên minh. Trên hành trình trở về nhà, Scarlett thấy Twelve Oaks bị cháy, tàn phá và bỏ hoang. Cô thở phào nhìn thấy Tara vẫn còn nhưng tất cả đã bỏ đi ngoại trừ bố mẹ cô, những người chị em và hai người làm, Mammy và Pork (Oscar Polk). Scarlett biết tin mẹ cô vừa mất vì sốt thương hàn còn cha cô thì đang trở nên mất trí sau những đau khổ. Trước Tara không có ai coi sóc và bị cướp phá bởi đám lính Liên Bang, Scarlett thề cô sẽ làm bất cứ điều gì để cứu sống gia đình và bản thân: "Có chúa chứng giám, ta sẽ không bao giờ đói nữa". Phần 2 Scarlett xếp đặt công việc thu hoạch bông cho người nhà và giúp việc. Cô còn giết cả một tên lính miền Bắc đào ngũ đã đột nhập và hăm doạ cô, và tìm được tiền vàng trong túi dết của hắn, đủ để chu cấp cho gia đình cô trong một thời gian ngắn. Chiến tranh kết thúc với sự thất bại của quân Liên minh. Ashley trở về sau khi bị bắt làm tù binh. Mammy ngăn Scarlett chạy đến bên anh trong ngày anh và Melanie đoàn tụ. Ashley chán nản thấy mình không giúp được gì nhiều cho Tara, và khi Scarlett cầu xin anh hãy chạy trốn cùng cô, anh thú nhận rằng anh khao khát cô rồi hôn cô say đắm, nhưng cũng nói rằng anh không thể rời bỏ Melanie. Gerad O’Hara chết vì ngã ngựa trong lúc cố rượt tên Yankee, đốc công cũ của Tara bây giờ muốn mua lại điền trang này, ra khỏi lãnh địa của ông. Chỉ còn lại Scarlett một mình gánh vác gia đình, và cô nhận thấy là không thể trả nổi những khoản thuế má ngày càng tăng cho Tara. Biết rằng Rhett vẫn còn ở Atlanta và tin rằng anh vẫn giàu có, cô yêu cầu Mammy may cho một chiếc váy từ tấm rèm cũ của mẹ cô vẫn treo trong phòng khách. Tuy nhiên, qua cuộc viếng thăm, Rhett bảo cô rằng tài khoản ngân hàng của anh đã bị phong toả, và rằng nỗ lực vay mượn của cô là vô ích. Khi Scarlett từ biệt Rhett, cô chạm trán vị hôn phu của cô em gái, Frank Kennedy (Carroll Nye) đã luống tuổi, người mà hiện tại đang sở hữu một cửa hàng tạp hoá và một nhà máy xẻ gỗ đều làm ăn phát đạt. Scarlett nói dối rằng Suellen mệt mỏi vì chờ đợi và đã cưới một gã đẹp trai khác. Sau khi trở thành bà Frank Kennedy, Scarlett cũng tiếp quản luôn công việc kinh doanh của chồng, và nàng dùng lợi nhuận kiếm được để mua một nhà máy cưa mà đã rất phát đạt trong quá trình tái thiết Atlanta, một phần là vì cô sẵn sàng giao thương với cả bọn Yankee đáng khinh cũng như thuê dùng những công nhân từng ngồi tù trong nhà máy của cô. Khi Ashley sắp nhận được một công việc trong nhà băng, Scarlett lại nhử tính yếu đuối của anh bằng cách khóc lóc rằng cần anh giúp một tay điều hành nhà máy cưa. Dưới sức ép từ Melanie, anh nhận lời. Một hôm, sau vụ Scarlett bị tấn công khi đánh xe một mình qua khu ổ chuột lân cận, Frank, Ashley và những người khác đã bất ngờ đột kích vào khu phố đó. Ashlet bị thương trong cuộc ẩu đả với đám lính Liên bang, còn Frank thì chết. Sau đám tang của Frank, Rhett tới thăm Scarlett và cầu hôn nàng. Scarlett chấp nhận anh một phần vì tiền. Anh hôn nàng say đắm và nói rằng rồi một ngày anh sẽ giành được tình yêu của nàng bởi cả anh và nàng đều giống nhau. Sau tuần trăng mật ở New Orleans, Rhett hứa rằng sẽ lấy lại vẻ huy hoàng cũ cho Tara, trong khi Scarlett xây dựng biệt thự lớn nhất ở Atlanta. Hai người có với nhau một bé gái. Scarlett muốn đặt tên bé là Eugenie Victoria, nhưng Rhett lại đặt là Bonnie Blue Butler (Cammie King). Rhett làm mọi thứ để có được danh tiếng tốt đối với dân chúng Atlanta vì lợi ích của cô con gái bé bỏng. Scarlett, vẫn bám lấy Ashley và buồn phiền trước những dấu hiệu đi xuống của nhan sắc (vòng eo của nàng đã tăng từ 18,5 inch lên 20 inch), nói với Rhett rằng cô không muốn có thêm con nữa và rằng họ sẽ không ngủ chung giường kể từ nay. Trong cơn tức giân, anh đạp đổ cánh cửa ngăn đôi phòng ngủ của hai người, cho cô biết rằng cô không thể xua đuổi anh một khi anh đã muốn gần cô. Một hôm trong lúc đi thăm nhà máy, Scarlett và Ashley cùng ôn lại những kỉ niệm xưa cũ, và khi cô ôm lấy anh để an ủi thì đã bị phát hiện bởi hai kẻ hay buôn chuyện, trong đó có chị gái India của Ashley, người vốn ghét Scarlett. Họ hăm hở rêu rao tin đồn khắp nơi và danh tiếng của Scarlett lại một lần nữa bị huỷ hoại. Tối hôm đó, Rhett, đã biết chuyện, buộc Scarlett phải ra khỏi giường và đến dự bữa tiệc sinh nhật của Ashley. Không tin bất cứ lời nói xấu nào về chị dâu mình, Melanie đã đứng về phía Scarlett để cho mọi người thấy rằng cô tin những tin đồn kia là sai sự thật. Tối muộn hôm đó, sau khi về đến nhà, trong khi định lén lấy cho mình một ly rượu thì Scarlett phát hiện ra Rhett đang ngồi uống ở tầng dưới. Mù quáng vì ghen tuông, anh bảo Scarlett rằng anh có thể giết cô nếu điều đó có thể khiến cô quên được Ashley. Bế xốc cô lên tầng, anh nói: "Đêm nay em sẽ không đẩy tôi ra". Cô tỉnh dậy vào sáng hôm sau với vẻ hạnh phúc tội lỗi, nhưng Rhett trở lại để xin lỗi cô và đề nghị li hôn. Scarlett không đồng ý, nói rằng đó là một sự ô nhục. Rhett quyết định mang theo Bonnie trong chuyến đi dài ngày đến Luân Đôn. Tuy nhiên sau đấy anh nhận ra rằng một đứa bé như Bonnie vẫn luôn cần có mẹ vì một đêm, Bonnie gặp ác mộng và bé đã khóc gọi mẹ trong mơ. Rhett trở về cùng với Bonnie và Scarlett vui sướng được gặp lại anh, nhưng anh cự tuyệt nỗ lực hoà giải của cô. Anh để ý thấy sự khác biệt ở cô. Cô cho anh biết cô đang mang bầu nữa. Rhett hỏi ai là cha đứa bé và Scarlett nói với anh rằng anh biết rõ đấy là ai và thậm chí cô còn chẳng muốn đứa bé. Bị tổn thương, Rhett bảo cô "Vui lên đi. Biết đâu cô sẽ gặp tai nạn." Điên tiết, Scarlett nhảy bổ vào Rhett nhưng bị trượt chân ngã xuống cầu thang và sẩy thai. Rhett, phát điên lên vì cảm giác tội lỗi, khóc và kể với Melanie về cơn ghen của anh nhưng vẫn không để lộ sự thật về tình cảm của Scarlett dành cho Ashley. Khi Scarlett đang hồi phục thì Bonnie bé bỏng, cũng bốc đồng như ông ngoại, chết trong một cú ngã trong lúc nhảy qua hàng rào với chú ngựa con. Scarlett đổ lỗi cho Rhett còn Rhett thì đổ lỗi cho chính mình. Melanie tới thăm để an ủi họ, và thuyết phục Rhett hãy để Bonnie được yên nghỉ nhưng sau đó thì cô đổ gục khi mang cái thai thứ hai mà bác sĩ đã cảnh báo có thể khiến cô mất mạng. Lúc hấp hối, cô nhờ Scarlett chăm sóc Ashley dùm cô như nàng đã từng chăm sóc cô dùm Ashley. Melanie cũng bảo Scarlett hãy đối tốt với Rhett vì anh rất yêu cô và trút hơi thở cuối cùng. Bên ngoài, Ashley khuỵu xuống trong nước mắt, vô vọng khi không còn vợ nữa. Chỉ đến lúc đấy Scarlett mới nhận ra cô không hề có một ý nghĩa gì trong anh, rằng cô đã yêu một điều gì đó chưa từng tồn tại. Cô chạy về nhà chỉ để biết rằng Rhett đang đóng gói hành lý rời bỏ cô. Cô cầu xin anh đừng đi, nói với anh rằng cô đã luôn yêu anh, rằng cô chưa từng thật sự yêu Ashley. Nhưng, anh cự tuyệt, nói rằng cái chết của Bonnie đã đi cùng với mọi cơ hội hàn gắn giữa hai người. Và khi cô nhắc lại rằng cô yêu anh, anh khẳng định: "Đấy là điều không may của em". Khi Rhett bước ra khỏi cửa, dự định sẽ quay về quê hương Charleston của anh, Scarlett van nài, "Rhett, nếu anh đi, em sẽ về đâu? Em sẽ làm gì? Anh đã trả lời một câu nổi tiếng, "Nói thẳng là, em yêu, tôi đếch quan tâm!" và lẩn vào màn sương. Cô ngồi trên bậc thang và khóc trong tuyệt vọng, "Vậy thì có sao chứ?". Và rồi cô nhớ lại giọng nói của Gerald, Ashley, Rhett, tất cả họ đều gợi nhắc cô rằng sức mạnh của cô đến từ chính Tara. Hi vọng bừng sáng trên gương mặt Scarlett: "Tara! Nhà. Mình sẽ về nhà, và mình sẽ nghĩ cách mang Rhett trở về! Rốt cuộc thì, ngày mai là một ngày khác!". Trong cảnh cuối, Scarlett đứng dậy, kiên quyết, trước khi đến Tara. Sản xuất Kịch bản Về biên kịch Sidney Howard, nhà nghiên cứu lịch sử điện ảnh Joanne Yeck viết, "đơn giản hoá cuốn tiểu thuyết đồ sộ Cuốn theo chiều gió quả thực là một nhiệm vụ hết sức nặng nề...và bản thảo đầu tiên của Howard thì cực dài, yêu cầu bộ phim kéo dài ít nhất sáu tiếng đồng hồ;... Selznick đã muốn Howard ở lại để sửa bản thảo...nhưng Howard từ chối rời khỏi New England và kết quả là, bản thảo đã được sửa lại bởi một nhóm những nhà viết kịch địa phương, gồm cả Bent Hecht..." Nhà sản xuất David O.Selznick đã thay đạo diễn ba tuần trước khi khởi quay và sau đó thay luôn kịch bản. Ông tìm ra Victor Fleming, người mà thời điểm đó đang thực hiện bộ phim "The Wizard of Oz". Fleming đã không bằng lòng với kịch bản nên Selznick đã yêu cầu nhà viết kịch lừng danh Ben Hecht viết lại hoàn toàn kịch bản trong vòng năm ngày." Nhà viết kịch Ron Hutchinson đã khai thác tình tiết li kì này trong vở kịch nổi tiếng Moonlight and Magnolias, khi mà "Selznick thực sự nhốt bản thân ông cùng Fleming và Ben Hecht trong phòng trong vòng năm ngày để viết lại hoàn toàn kịch bản". Cùng lúc bộ phim được phát hành năm 1939, người ta đã thắc mắc rằng ai nên được cho là người biên kịch cho bộ phim. "Tuy nhiên bất chấp những thay đổi và số lượng người tham gia biên kịch, kịch bản cuối cùng giống bản thảo của Howard một cách đáng kể. Tên của Howard xuất hiện duy nhất trong phần hiệu đính như là một sự tưởng nhớ đến ông và sự nghiệp của ông, vì năm 1939, Sidney Howard chết thảm khốc trong một vụ tai nạn máy kéo trên nông trường ở tuổi bốn mươi tám, trước khi bộ phim được khởi chiếu." Selznick nhớ lại vào tháng 10 năm 1939, cuộc thảo luận với người hiệu đính cho phim: "Anh có thể nó thẳng rằng một phần tương đối nhỏ trong những chất liệu của bộ phim mà không phải từ truyện, phần lớn là chính bản thân tôi, và những lời thoại duy nhất không phải của tôi thì một ít là của Sidney Howard, một ít của Ben Hecht và một ít của John Van Druten. Tôi nghi ngờ rằng có khoảng mười từ trong kịch bản là của Oliver Garrett. Về phần kết cấu, khoảng tám mươi phần trăm là của tôi, phần còn lại thì chia cho Jo Swerling và Sidney Howard, cùng Ben Hecht đóng góp cho kết cấu của phần cuối". Theo người viết tiểu sử cho Hecht, illiam MacAdams, "Lúc bình minh ngày chủ nhật 20 tháng 2 năm 1939, David Selznick và đạo diễn Victor Fleming lắc Hecht dậy để thông báo rằng ông đang nợ MGM và phải đi cùng họ ngay lập tức để quay Cuốn theo chiều gió mà đã được bấm máy từ năm tuần trước. Selznick mất khoảng 50,000 đô-la cho mỗi một ngày trì hoãn bộ phim để đợi biên kịch và thời gian thì rất là cấp bách. Hetch lúc đấy đang làm dở dự án At the Circus cho anh em Marx. Nhớ lại bức thư viết cho người bạn Gene Fowler, cũng là một nhà biên kịch, Hecht nói ông chưa từng đọc cuốn tiểu thuyết nhưng Selznick và Fleming không thể đợi cho tới khi ông đọc xong nó. Họ phải ứng biến dựa trên kịch bản gốc của Howard. Hecht viết, "Sau mỗi cảnh được thảo luận và mổ xẻ, tôi ngồi xuống trước máy chữ và gõ nó ra. Selznick và Fleming nóng lòng muốn tiếp tục việc quay phim đang dở của họ liên tục giục tôi. Chúng tôi làm việc như vậy trong bảy ngày, từ mười tám đến hai mươi giờ một ngày. Selznick không cho chúng tôi ăn trưa với lý do rằng ăn uống sẽ làm chậm tiến độ. Anh ta chỉ cho chúng tôi chuối và lạc muối...vậy nên đến ngày thứ bảy thì tôi xong gọn ghẽ chín cuộn phim đầu tiên về cuộc nội chiến. Nhân vật Scarlett O'Hara Katie Scarlett O'Hara Hamilton Kennedy Butler: Nhân vật chính của tác phẩm, một cô gái xinh đẹp, con của một điền chủ giàu có ở Georgia trước nội chiến Mỹ. Nàng đã 3 lần kết hôn, tính tình ích kỷ, ngang bướng nhưng là con người đầy nghị lực và sức mạnh vượt qua khó khăn. Scarlett O'Hara do nữ diễn viên Vivien Leigh thủ vai. Rhett Butler Rhett Butler: Người chồng thứ ba của Scarlett, một con người từng trải, mưu trí, vô cùng thông minh và sâu sắc, thực dụng nhưng cũng rất đa cảm và có một tình yêu thương vô bờ bến dành cho Scarlett và Bonnie. Rhett Butler được thể hiện bởi Clark Gable. Ashley Wilkes George Ashley Wilkes: George Ashley Wilkes: Chồng của Melanie và là người Scarlett theo đuổi đến gần hết tác phẩm. Một người đàn ông quý phái và hay mơ mộng, thông minh nhưng yếu đuối, dễ gục ngã trước thực tế. Ashley Wilkes được thể hiện bởi Leslie Howard. Melanie Hamilton Melanie Hamilton Wilkes: Vợ và là chị em họ của Ashley, chị chồng Scarlett, một người phụ nữ quý phái, yếu đuối, hiền dịu, đôn hậu nhưng lại đầy nghị lực và sức mạnh tiềm ẩn, là điểm tựa tinh thần của Ashley và Scarlett. Sau khi cố gắng sinh đứa con thứ hai, nàng đã mất vì không đủ sức khỏe. Melanie Hamilton được thể hiện bởi Olivia de Havilland. Phân vai Vivien Leigh vai Scarlett O'Hara Clark Gable vai Rhett Butler Leslie Howard vai Ashley Wilkes Olivia de Havilland vai Melanie Hamilton Hattie McDaniel vai Mammy Oscar Polk vai Pork Butterfly McQueen vai Prissy George Reeves vai Stuart Tarleton (hoặc Brent Tarleton) Fred Crane vai Brenton Tarleton (hoặc Stuart Tarleton) Thomas Mitchell vai Gerald O'Hara Barbara O'Neil vai Ellen O'Hara Ward Bond vai Tom - Đại úy Yankee Evelyn Keyes vai Suellen O'Hara Ann Rutherford vai Carreen O'Hara Howard Hickman vai John Wilkes Alicia Rhett vai India Wilkes Rand Brooks vai Charles Hamilton Carroll Nye vai Frank Kennedy Victor Jory vai Jonas Wilkerson Everett Brown vai Big Sam Harry Davenport vai Dr. Meade Cammie King vai Bonnie blue Butler Cliff Edwards vai Reminiscent Soldier Ona Munson vai Belle Watling (*Mục giới thiệu trên phim có một chỗ nhầm: George Reeves và Fred Crane diễn vai anh em nhà Tarleton. Reeves trong vai Stuart, nhưng lại được chú thích là đóng vai Brent, trong khi Crane trong vai Brent, thì lại được ghi là Stuart.) Một vài chi tiết thú vị Tất cả rượu sử dụng trong bộ phim đều là trà. Tuy nhiên, trong cảnh quay khi Clark Gable và Hattie McDaniel uống mừng ngày sinh của Bonnie thì Gable đã bí mật thay trà bằng rượu thật. Hattie không hề biết chút gì cho tới khi uống một ngụm. Chiều hôm sau, Gable hỏi Hattie: "Này vú, cơn say rượu thế nào? Gable cũng bị đoàn làm phim chơi một vố. Trong cảnh quay khi Rhett tới để cứu Scartlett, Prissy và hai mẹ con Melanie, Rhett phải vào phòng ngủ để bế Melanie (đang bệnh) ra khỏi giường. Nhân viên hậu trường đã khâu thêm 70 pounds vào đồ ngủ của Melanie. Khi Gable bế de Havilland lên, ông cảm thấy bà nặng hơn bình thường. Vốn là người là người rất vui tính, Gable đã đùa lại rằng có ai đó trong đoàn làm phim đã đóng đinh de Ha villand vào giường. Trong bốn nhân vật chính trong phim thì Melanie là nhân vật duy nhất chết. Điều kì lạ là ngoài đời thực thì diễn viên Olivia de Havilland là diễn viên sống lâu nhất (bà qua đời năm 2020 ở tuổi 104) (Leslie Howard mất vì tai nạn máy bay trong chiến tranh, Vivien Leigh mất năm 1967 do căn bệnh viêm phổi còn Clark Gable thì chết vì nhồi máu cơ tim vào năm 1960) Vivien Leigh nói rằng bà không thích hôn Clark Gable vì miệng ông có mùi rất khó chịu. Khi Hattie McDaniel nhận được giải Oscar, bà sung sướng đến phát khóc và chỉ lý nhí được lời cảm ơn. Bạn diễn của bà, Olivia de Havilland đã tới chúc mừng và chỉ đến lúc ấy, de Havilland mới nhớ ra là mình đã bị vuột mất giải Oscar (cả hai người đều được đề cử giải Oscar cho diễn viên phụ xuất sắc nhất). Quá thất vọng, de Havilland đã lặng lẽ ra ngoài trong nước mắt. Trong giờ nghỉ, Vivien Leigh và Clark Gable thường chơi trò battleship (một trò đố chữ). Một lần, hai người mời Olivia de Havilland chơi và bà đã dễ dàng đánh bại cả hai người. Từ đó, Leigh và Gable không cho de Havilland chơi cùng nữa. Trong thời gian quay phim, Vivien Leigh hút bốn gói thuốc lá một ngày. Nhạc phim Phần nhạc sử dụng trong phim được xếp thứ 2 trong Danh sách 100 năm nhạc phim của Viện phim Mỹ Mở màn - Ban nhạc MGM Studio Nhan đề chính - "Tara's Theme" "(I Wish I Was in) Dixie's Land" (1860) (không chắc chắn) Viết bởi Daniel Decatur Emmett "Katie Belle" (không chắc chắn) Viết bởi Stephen Foster "Under the Willow She's Sleeping" (1860 (không chắc chắn) Viết bởi Stephen Foster "Lou'siana Belle" (1847) (không chắc chắn) Viết bởi Stephen Foster "Dolly Day" (1850) (không chắc chắn) Viết bởi Stephen Foster "Ring de Banjo" (1851) (không chắc chắn) Viết bởi Stephen Foster "Sweet and Low" (1865) (không chắc chắn) Nhạc Joseph Barnby "Ye Cavaliers of Dixie" (không chắc chắn) Khuyết danh "Taps" (1862) (không chắc chắn) Viết bởi Tướng Daniel Butterfield "Massa's in de Cold Ground" (1852) (không chắc chắn) Viết bởi Stephen Foster "Maryland, My Maryland" (1861) (không chắc chắn) Dựa trên bài ca Giáng sinh Đức "O Tannenbaum" "Irish Washerwoman" (không chắc chắn) Dân ca Ái Nhĩ Lan "Garryowen" (không chắc chắn) Dân ca "When Johnny Comes Marching Home" (1863) (không chắc chắn) Viết bởi Louis Lambert (Patrick Sarsfield Gilmore) "Weeping, Sad and Lonely (When This Cruel War Is Over)" (1862) Nhạc Henry Tucker (không chắc chắn) "The Bonnie Blue Flag" (1861) (không chắc chắn) Soạn bởi Harry McCarthy "Hark! the Herald Angels Sing" (pub. 1856) (không chắc chắn) Nhạc Felix Mendelssohn-Bartholdy (1840) "Tramp! Tramp! Tramp! (The Boys Are Marching)" (1864) (không chắc chắn) Nhạc và lời George Frederick Root "The Old Folks at Home (Swanee River)" (1851) (không chắc chắn) Viết bởi Stephen Foster "Go Down Moses (Let My People Go)" (không chắc chắn) Thánh ca của người da đen "My Old Kentucky Home" (1853) (không chắc chắn) Nhạc và lời Stephen Foster Thể hiện bởi Butterfly McQueen "Marching Through Georgia" (1865) (không chắc chắn) Viết bởi Henry Clay Work "Battle Hymn of the Republic" (circa 1856) (không chắc chắn) Nhạc William Steffe "Beautiful Dreamer" (1862) (không chắc chắn) Nhạc Stephen Foster Nhạc chờ "Jeanie with the Light Brown Hair" (1854) (không chắc chắn) Nhạc Stephen Foster Nhạc chờ "Yankee Doodle" (ca. 1755) (không chắc chắn) Dân ca Anh "Stars of the Summer Night" (1856) (không chắc chắn) Nhạc Isaac Baker Woodbury "Bridal Chorus (Here Comes the Bride)" (1850) (không chắc chắn) từ "Lohengrin" viết bởi Richard Wagner "Deep River" (không chắc chắn) Dân ca "For He's a Jolly Good Fellow" (không chắc chắn) "London Bridge Is Falling Down" (không chắc chắn) Đồng dao "Ben Bolt (Oh Don't You Remember)" (1848) (không chắc chắn) Nhạc Nelson Kneass Phổ thơ Thomas Dunn English (1842) Thể hiện bởi Vivien Leigh Giải Oscar Phim được đề cử 13 giải năm 1939, trong đó có 8 đoạt giải, trở thành phim đầu tiên đoạt trên 5 giải Oscar. Phim hay nhất - Selznick International Pictures (nhà sản xuất: David O. Selznick) Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất - Vivien Leigh Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất - Hattie McDaniel Quay phim xuất sắc nhất - Ernest Haller và Ray Rennahan Đạo diễn xuất sắc nhất - Victor Fleming Biên tập phim xuất sắc nhất - Hal C. Kern và James E. Newcom Kịch bản chuyển thể hay nhất - Sidney Howard Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất - Lyle Wheeler Giải thưởng đặc biệt - William Cameron Menzies - "Vì thành tích nổi bật trong việc sử dụng màu sắc làm tăng kịch tính trong tác phẩm Cuốn theo chiều gió''." Giải thưởng về thành tựu kỹ thuật - Don Musgrave and Selznick International Pictures Vinh danh Được viện phim Mĩ xếp loại Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ #4 năm 1998, #6 năm 2007 Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ Danh sách 100 phim truyền cảm hứng của Viện phim Mỹ #43 Danh sách 100 phim tình cảm của Viện phim Mỹ #2 Danh sách 100 năm nhạc phim của Viện phim Mỹ #2 Danh sách 10 phim 10 thể loại của Viện phim Mỹ: phim Sử thi #4.
Đường Lâm là một xã thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Địa lý Đường Lâm nằm bên hữu ngạn sông Hồng (bờ phía Nam), cạnh đường Quốc lộ 32, tại ngã ba giao cắt với Quốc lộ 21A. Xã cách Hà Nội 50 km về phía Tây. Sông Tích Giang chảy từ hướng hồ Suối Hai qua Đường Lâm để vào thị xã Sơn Tây. Phía Tây và Tây Bắc giáp xã Cam Thượng huyện Ba Vì Phía Tây Nam giáp xã Xuân Sơn Phía Nam giáp xã Thanh Mỹ Phía Đông Nam giáp phường Trung Hưng Phía Đông giáp phường Phú Thịnh Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc Tên gọi Tên gọi Đường Lâm được nhắc tới trong Đại Việt sử ký toàn thư là nơi sinh của Phùng Hưng, Ngô Quyền. Còn trong An Nam chí lược của Lê Tắc lại ghi kèm Châu Ái. Điều này dẫn tới một số tranh luận gần đây về 3 địa điểm được cho là Đường Lâm thật gồm: Sơn Tây, Thanh Hóa và Hà Tĩnh. Chi tiết xem mục tồn nghi bên dưới. Nơi này cũng xuất hiện với tên gọi Thôn Đường trong sự kiện Loạn hai thôn Đường Nguyễn xảy ra ở đất Thái Bình (tỉnh Sơn Tây) khi vua Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi và cháu của Ngô Quyền là Ngô Nhật Khánh đã nổi lên chống họ Dương, trở thành một trong 12 sứ quân đóng tại đây. Trải qua nhiều thời kỳ, tới sau tháng 8/1945 xã Đường Lâm được tái lập từ các làng cũ của tổng Cam Giá Thịnh, huyện Phúc Lộc, vốn là nơi đặt lỵ sở của trấn Sơn Tây. Hành chính Trong số 9 thôn thuộc xã Đường Lâm hiện nay có 5 thôn thực sự là những làng cổ: Cam Thịnh (gọi tắt từ Cam Giá Thịnh), Cam Lâm (trước gọi là Cam Tuyền), Đoài Giáp, Đông Sàng và Mông Phụ. 4 thôn kia thì tương đối mới: vào nửa đầu thế kỷ 19, Phụ Khang là một xóm biệt lập của Mông Phụ; vốn là xóm cũ của Đông Sàng và Cam Thịnh, 2 làng Hà Tân và Hưng Thịnh được biến thành thôn cách đây khoảng 30 - 40 mươi năm; còn Văn Miếu thì mới tách ra từ Mông Phụ. Lịch sử Đường Lâm trở thành làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được Nhà nước trao bằng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia ngày 19 tháng 5 năm 2006. Đây là quê hương nhiều danh nhân như bà Man Thiện (mẹ của hai Bà Trưng), Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, vua Ngô Quyền, Thám hoa Giang Văn Minh, bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Phùng Hưng và Ngô Quyền. Tuy thường được gọi là làng cổ nhưng thực ra Đường Lâm từ xưa gồm 9 làng thuộc tổng Cam Giá Thịnh huyện Phúc Thọ trấn Sơn Tây, trong đó 5 làng Mông Phụ, Đông Sàng, Cam Thịnh, Đoài Giáp và Cam Lâm liền kề nhau. Các làng này gắn kết với nhau thành một thể thống nhất với phong tục, tập quán, và tín ngưỡng hàng ngàn năm nay không hề thay đổi. Đầu thế kỷ 19, Đường Lâm là nơi đặt lỵ sở của trấn Sơn Tây. Sách Đại Việt địa dư toàn biên, Nguyễn Văn Siêu viết: "... Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng. Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm. Nay xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ (xã Cam Lâm trước là xã Cam Tuyền) có 2 đền thờ Bố Cái Đại Vương và Tiền Ngô Vương. Còn có một bia khắc rằng: Bản xã đất ở rừng rậm, đời xưa gọi là Đường Lâm, đời đời có anh hào. Đời nhà Đường có Phùng Vương tên húy Hưng, đời Ngũ Đại có Ngô Vương tên húy Quyền. Hai vương cùng một làng, từ xưa không có. Uy đức còn mãi, miếu mạo như cũ. Niên hiệu đề là Quang Thái năm thứ 3 (Trần Thuận Tông-1390) mùa xuân tháng 2, ngày 18 làm bia này..." Di sản kiến trúc Ngày nay, làng Đường Lâm vẫn giữ được hầu hết các đặc trưng cơ bản của một ngôi làng người Việt với cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình, chùa, miếu, điếm canh, giếng nước, ruộng nước, gò đồi. Hệ thống đường sá của Đường Lâm rất đặc biệt vì chúng có hình xương cá. Với cấu trúc này, nếu đi từ đình sẽ không bao giờ quay lưng vào cửa Thánh. Một điểm đặc biệt là Đường Lâm còn giữ được một cổng làng cổ ở làng Mông Phụ. Đây không phải là một cổng làng như các cổng làng khác ở vùng Bắc Bộ có gác ở trên mái với những mái vòm cuốn tò vò mà chỉ là một ngôi nhà hai mái đốc nằm ngay trên đường vào làng. Cũng ở làng Mông Phụ có đình Mông Phụ - được xây dựng năm 1684 (niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê Hy Tông) - là ngôi đình đặc trưng cho đình Việt truyền thống. Sân đình thấp hơn mặt bằng xung quanh nên khi trời mưa, nước chảy vào sân rồi thoát ra theo hai cống ở bên tạo thành hình tượng hai râu rồng. Hàng năm, đình tổ chức lễ hội từ mùng Một đến mùng Mười tháng Giêng âm lịch với các trò chơi như thu lợn thờ, thi gà thờ,... Về nhà cổ, ở Đường Lâm có 956 ngôi nhà truyền thống trong đó các làng Đông Sàng, Mông Phụ và Cam Thịnh lần lượt có 441, 350 và 165 nhà. Cò nhiều ngôi nhà được xây dựng từ rất lâu (năm 1649, 1703, 1850,...). Đặc trưng của nhà cổ truyền thống ở đây là tất cả đều được xây từ những khối xây bằng đá ong. Trong số 8 di tích lịch sử - văn hóa ở Đường Lâm (có đình Mông Phụ), chùa Mía (tức Sùng Nghiêm tự) được Bộ Văn hóa Thông tin xếp vào loại đặc biệt. Chùa có 287 pho tượng gồm 6 tượng đồng, 107 tượng gỗ và 174 tượng đất (làm từ đất sét, thân và rễ cây si). Văn miếu Sơn Tây Văn miếu Sơn Tây là văn miếu cấp vùng của cả vùng xứ Đoài, trước thời nhà Nguyễn cho tới năm 1831, là một trong 4 văn miếu của tứ trấn Thăng Long. Năm 1831 tỉnh Sơn Tây nhà Nguyễn được thành lập, nó trở thành Văn miếu của tỉnh Sơn Tây nhà Nguyễn, thời này nó được đặt ở làng Cam Giá Thịnh (tức thôn Cam Thịnh Đường Lâm ngày nay). Đến tháng 7 âm lịch năm Đinh Mùi, niên hiệu Thiệu Trị thứ 7 (1847), Văn miếu tỉnh Sơn Tây được dời từ Cam Thịnh đến làng (tức xã thời Nguyễn) Mông Phụ thuộc tổng Cam Giá Thịnh, vị trí này nay trùng với vị trí Văn miếu phục dựng năm 2012 thôn Văn miếu xã Đường Lâm. Thời gian này Nguyễn Đăng Giai làm tổng đốc Sơn Hưng Tuyên cho di dời. Năm Thành Thái thứ 3 (1891), tổng đốc Sơn Hưng Tuyên Cao Xuân Dục cho trùng tu lại tại vị trí năm 1847. Tới thời năm 1947, do chủ trương tiêu thổ kháng chiến chống Pháp của Việt Minh và do chiến tranh tàn phá những năm 1947-1954 di tích này không còn tồn tại. Thời Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước năm 2012, trên nền di tích chính quyền cho xây dựng một cơ sở cao 7 tầng để chế biến thức ăn và chăn nuôi gia xúc gia cầm (bảo tồn giống gà Mía đặc sản địa phương). Năm 2012, chính quyền thành phố Hà Nội cho di dời cơ sở chăn nuôi này đi chỗ khác để phục dựng lại Văn miếu Sơn Tây. Nghề truyền thống Nghề làm tương ở đây cũng rất nổi tiếng và chất lượng tương của làng không hề thua kém các làng làm tương khác như làng Bần Yên Nhân (Hưng Yên), Cự Đà (Thanh Oai, Hà Tây...).Ngoài ra còn nổi tiếng vời loại kẹo dồi, kẹo lạc, chè lam thơm ngon, đặc sản. Đường lâm cũng nổi tiếng với món thịt quay đòn, hương vị đặc biệt mà chỉ nơi đây mới có. Tồn nghi Vào thế kỷ 13, Lê Tắc, một vị quan nhà Trần đào ngũ theo quân Nguyên, khi quân Nguyên thua trận ông đã sang Trung Quốc và viết quyển sách sử An Nam chí lược, sách này viết rằng: Ngô Quyền, người Châu Ái, nha tướng của Đình Nghệ, giết Công Tiện, tự lập làm vua. Vào thế kỷ 15, nhà Minh xâm chiếm Việt Nam, đã đốt toàn bộ sách vở hoặc thu sách vở đem về Trung Quốc. Lê Lợi đánh đuổi người Minh, dựng nên nhà Lê, đến đời cháu ông là Lê Thánh Tông đã sai Sử quan Ngô Sỹ Liên biên soạn bộ sách chính sử là Đại Việt Sử ký Toàn thư. Sách chép rằng Ngô Quyền là người Đường Lâm nhưng chỉ chép mỗi tên Đường Lâm chứ không chép rõ Đường Lâm ở đâu. Quan điểm 1: Đường Lâm, Sơn Tây Khi Phùng Hưng nổi dậy, xưng là Đô Quân đã ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của các châu Đường Lâm và Trường Phong (châu Phong) do gia tộc ông là tù trưởng vùng này. Xét về địa lý Đường Lâm (Sơn Tây) và Phong Châu (Phú Thọ) nằm ngay cạnh nhau và là trung tâm của nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương. Trong khi đó Ái Châu, Hoan Châu ở rất xa về phía nam và không được nhắc đến trong ghi chép về Phùng Hưng ở Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh - hai tác phẩm được viết vào thời nhà Trần. Quan điểm này phổ biển nhất và cũng phù hợp lịch sử thôn Đường trong sự kiện Loạn hai thôn Đường Nguyễn và sứ quân Ngô Nhật Khánh là cháu Ngô Quyền cát cứ tại đây, trở thành 1 trong 12 sứ quân tranh giành quyền lực ở trung tâm Đồng bằng sông Hồng. Cả 3 sứ quân Kiều Công Hãn, Kiều Thuận và Đỗ Cảnh Thạc cát cứ ở vùng Sơn Tây Phú Thọ cũng đều là tướng trong triều đình nhà Ngô, trong khi nhiều sứ quân nơi khác chỉ là thổ hào địa phương, không làm việc cho triều đình. Các ý kiến ủng hộ gồm Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu án, Nguyễn Văn Siêu trong Đại Việt địa dư toàn biên căn cứ vào văn bia Phụng tự bi khắc năm Quang Thái thời Trần Thuận Tông, sách Đại Nam nhất thống chí thời Nguyễn và nhà sử học Trần Quốc Vượng là tiếng nói quan trọng ủng hộ quan điểm này. Quan điểm 2: Đường Lâm, Thanh Hóa (Ái Châu) Trong tập kỷ yếu hội thảo "Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập" tổ chức vào tháng 3 năm 2011, các nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vượng, Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm, với bài viết Đường Lâm là Đường Lâm nào? đã cho rằng tấm bia Đường Lâm là giả mạo, chỉ mới được lập thời Nguyễn. Đồng thời cho rằng tên Đường Lâm mới chỉ có từ sau năm 1945. Do đó căn cứ vào địa danh Châu Ái của Lê Tắc trong An Nam chí lược nhóm này cho rằng Đường Lâm thuộc Thanh Hóa hoặc phía bắc Nghệ An. Quan điểm 3: Đường Lâm, Hà Tĩnh (Hoan Châu) Quan điểm này được học giả Đào Duy Anh đề xuất trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời, xuất bản năm 1964: "Chúng tôi rất ngờ những lời ghi chú ấy và nghĩ rằng rất có thể người ta đã lầm Đường-lâm là tên huyện đời Đường thuộc châu Phúc-lộc (Phúc-lộc châu có huyện Đường-lâm) thành tên xã Đường-lâm ở huyện Phúc-thọ. Huyện Đường-lâm châu Phúc-lộc là ở miền nam Hà-tĩnh". Quan điểm này được học giả Văn Tân ủng hộ. Tạm kết Trên thực tế hiện nay, toàn bộ khu vực 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh đều KHÔNG có bất kỳ đền thờ hay di tích hay thần tích nào liên quan đến Phùng Hưng và Ngô Quyền. Nếu hai ông là người ở đây thì điều này đi ngược lại hoàn toàn truyền thống thờ cúng tổ tiên và thờ cúng các vị anh hùng dân tộc của người Việt Nam xưa nay. Vì vậy, việc tất cả các di tích gắn với hai vị anh hùng dân tộc này đều thuộc miền Bắc, chủ yếu tại Hà Nội (Hà Tây cũ), Hải Phòng, Phú Thọ, Hưng Yên, Ninh Bình... đã chứng mình rằng giả thiết quê hương hai ông ở miền Trung là vô lý. Chú thích
Giorgio Napolitano (29 tháng 6 năm 1925 – 22 tháng 9 năm 2023), là nhà chính trị và là thượng nghị sĩ của Ý. Ông được bầu làm tổng thống thứ mười một của Cộng hòa Ý từ ngày 10 tháng 5 năm 2006 đến ngày 14 tháng 1 năm 2015. Ở tuổi 90, ông Napolitano là một trong số các nguyên thủ quốc gia cao tuổi nhất thế giới. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Ý từ năm 1945 đến năm 1991 nhưng sau này chuyển sang Đảng Dân chủ cánh tả, ông đã là Chủ tịch Hạ viện Ý từ 1992-1994 và Bộ trưởng Nội vụ từ 1996-1998. Năm 1942, ông trúng tuyển tại trường Đại học Napoli Federico II. Ông đã gia nhập Tổ chức phát xít đại học địa phương ("Gioventù Universitaria Fascista"), nơi ông gặp nhóm bạn bè nòng cốt của mình, là những thành viên của chủ nghĩa phát xít. Sau này, ông khẳng định rằng, nhóm sinh viên đó thực ra là mảnh đất ươm trồng thực sự cho năng lượng tri thức chống phát xít. Đắc cử tổng thống Ý Năm 2005, ông được bổ nhiệm là Nghị sĩ suốt đời, và ngày 6 tháng 10 năm 2006 ông được bầu làm Tổng thống Ý. Ngày 20 tháng 4 năm 2013, ông đã tái đắc cử Tổng thống Ý nhiệm kỳ thứ hai. Với sự ủng hộ của tất cả các chính đảng lớn, trừ Phong trào Năm sao, ông Napolitano đã dễ dàng nhận được hơn 50% số phiếu bầu cần thiết (504 phiếu) trong tổng số 1.007 phiếu để giành chiến thắng trong phiên bỏ phiếu tại cuộc họp lưỡng viện đặc biệt của quốc hội. Chú thích
Tổng thống Ý là nguyên thủ quốc gia Ý. Nhiệm kỳ tổng thống là bảy năm. Tổng thống Ý đại diện sự thống nhất dân tộc và đảm bảo rằng nền chính trị Ý tuân thủ theo hiến pháp Ý. Tổng thống thực hiện nhiệm vụ như điểm kết nối 3 ngành: Được bầu bởi cơ quan lập pháp, bổ nhiệm Thủ tướng điều hành hành pháp, và là chủ tịch ngành tư pháp. Ngoài ra còn là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Trình độ chuyên môn Những người soạn thảo Hiến pháp Ý cho rằng Tổng thống cần là một chính khách cao tuổi có vị thế. Theo điều 84 của hiến pháp Ý, bất kỳ công dân Ý nào đủ 50 tuổi vào ngày bầu cử và có quyền dân sự và chính trị có thể được bầu làm tổng thống. Những người đang nắm giữ bất kỳ chức vụ nào đều bị ngăn cản trở thành Tổng thống, trừ khi họ miễn nhiệm chức vụ của họ được bầu trước đây. Mặc dù Hiến pháp không quy định giới hạn nhiệm kỳ. Nhưng không có vị Tổng thống nào có nhiệm kỳ thứ 2 trừ Tổng thống Napolitano được bầu lại năm 2013. Khi đó đã đồng ý với nhiệm kỳ 2 vì Nghị viện bế tắc trong việc bầu cử Tổng thống. Nhưng ông không thực hiện hết nhiệm kỳ của mình và đã về hưu tháng 1/2015. Bầu cử Tổng thống nước Cộng hòa được bầu bởi Quốc hội trong một phiên họp chung của Hạ viện Ý và Thượng viện Ý. Ngoài ra, 20 vùng của Ý cử 58 đại diện cử tri đặc biệt. Ba đại diện đến từ mỗi vùng, ngoại trừ Aosta Valley chỉ định một vị, các đại diện được bầu bởi Hội đồng Khu vực để đảm bảo quyền đại diện cho tất cả các địa phương và các dân tộc thiểu số. Theo hiến pháp, cuộc bầu cử phải được tổ chức theo hình thức bỏ phiếu kín, với 315 thượng nghị sĩ, 630 đại biểu hạ và 58 đại diện khu vực bỏ phiếu. Tỷ lệ 2/3 số phiếu cần thiết để bầu trên bất kỳ ba vòng bỏ phiếu đầu tiên, sau đó là 1/2, và vòng cuối chỉ cần đa số phiếu là đủ. Cuộc bầu cử được chủ trì bởi Chủ tịch Hạ viện, người kêu gọi kiểm công khai kiểm phiếu. Việc bỏ phiếu được tổ chức tại Palazzo Montecitorio, trụ sở của Hạ viện. Tổng thống nhậm chức sau khi đã thực hiện một lời tuyên thệ trước Quốc hội và đọc diễn văn tổng thống. Tổng thống được bầu duy nhất chỉ trong 1 vòng là Francesco Cossiga và Carlo Azeglio Ciampi. Sau đó Tổng thống Ciampi được Giorgio Napolitano thay thế trong cuộc bầu cử ngày 10/5/2006. Nhiệm kỳ Tổng thống có nhiệm kỳ 7 năm, điều này ngăn cản bất cứ Tổng thống tái đắc cử của viện tương tự với nhiệm kỳ 5 năm, và cấp một số quyển tự do từ các mối quan hệ chính trị quá độ đến cơ quan bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của Tổng thống có thể kết thúc khi: Từ chức; Mất; Bị thương tật vĩnh viễn không thể đảm đương; Miễn nhiễm, như đối với tội danh phản quốc hoặc vi hiến; Cựu Tổng thống được gọi Tổng thống danh dự và được bổ nhiệm Thượng nghị sĩ suốt đời. Khi Tổng thống vắng mặt, Chủ tịch thượng viện đảm nhiệm chức vụ của Tổng thống. Quyền hạn Hiến pháp quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng thống: Đối ngoại Ủy nhiệm và tiếp nhận đại sứ ngoại giao Phê chuẩn Hiệp ước Quốc tế theo ủy quyền của Nghị viện (nếu có yêu cầu được quy định tại điều 80 Hiến pháp Ý) Tổ chức chuyến thăm nước ngoài, hộ tống bởi thành viên Chính phủ Tuyên chiến theo ủy quyền của Nghị viện Đối nội Bổ nhiệm 5 thượng nghĩ sĩ suốt đời Triệu tập Hạ viện với phiên họp bất thường hoặc giải tán Hạ viện Kêu gọi bầu cử và định ngày cho phiên họp đầu tiên của Hạ viện Lập pháp Ủy quyền giới thiệu dự thảo của Chính phủ đến Nghị viện Công bố luật do Nghị viện thông qua Gửi trả đến Hạ viện (với lời giải thích) và yêu cầu xem xét một dự luật (được phép giới hạn 1 lần cho 1 dự luật) Quyền phổ biến Kêu gọi trưng cầu dân ý Hành pháp và nghi thức ngoại giao Bổ nhiệm Thủ tướng và các Bộ trưởng theo lời đề nghị của Thủ tướng Chấp thuận lời tuyên thệ Chính phủ Tiếp nhận sự từ chức của Chính phủ Ban hành luật bằng nghị định, được chính phủ đề nghị độc lập. Những nghị định này trừ Nghị viện chứng nhận đều hết hạn trong 60 ngày Bổ nhiệm một số viên chức cao cấp Chủ trì Consiglio Supremo di Difesa (Hội đồng Quốc phòng Tối cao) và chỉ huy các lực lượng vũ trang Ra nghị định giải tán Hội đồng vùng và miễn nhiệm Thống đốc vùng Tư pháp Chủ trì Consiglio Superiore della Magistratura (Hội đồng Tư pháp tối cao) Bổ nhiệm 1/3 của Tòa án Hiến pháp Ban ân xá hoặc giảm án Trên thực tế chức vụ Tổng thống chủ yếu, cho dù không hoàn toàn mang tích chất lễ nghi. Hiến pháp quy định rằng mọi quyết định của Tổng thống phải được thành viên của Chính phủ ký tiếp (hoặc Thủ tướng hoặc cá nhân bộ trưởng), hầu hết quyết định của Tổng thống mang tích chất nghi thức và trách nhiệm chính trị thực sự thuộc về Chính phủ. Tuy nhiên quyền ân xá và giảm án là đặc quyền độc lập của Tổng thống. Kế nhiệm Điều 86 Hiến pháp quy định, trong mọi trường hợp Tổng thống không đủ khả năng đảm đương trách nhiệm, thì Chủ tịch Thượng viện có vai trò là Quyền Tổng thống. Trong trường hợp không thể đảm nhiệm, qua đời hoặc từ chức Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện sẽ triệu tập cuộc bầu cử Tổng thống mới trong vòng 15 ngày, mặc dù nhiệm kỳ dài hơn dự tính trong thời gian Nghị viện giản tán hoặc 3 tháng trước khi giải tán. Cư trú Tổng thống cư trú tại cung điện Quirinal tại Rome, và có toàn quyền sử dụng tại Castelporziano, gần Rome, và Villa Rosebery, tại Naples. Danh sách tổng thống Ý Thời gian biểu Chú thích
Đây là danh sách Tổng thống Ý với danh hiệu Presidente della Repubblica từ năm 1948. Tổng thống Ý Tổng thống tạm quyền Không muốn được gọi là Tổng thống Cộng hòa Ý, chỉ muốn là Quốc trưởng Lâm thời, vì ông chưa được Nghị viện Cộng hòa bầu lên, nó chỉ được bầu đầu tiên năm 1948. Từ chức Lâm thời, Chủ tịch Thượng viện Cộng hòa Lâm thời từ 23 tháng 6 năm 1985 đến 3 tháng 7 năm 1985 Điện Quirinal (trong tiếng Ý là ) tại Roma là nơi ở chính thức của Tổng thống nước Cộng hòa Ý.
Sữa chua hay Yogurt là một chế phẩm sữa được sản xuất bằng cách cho vi khuẩn lên men sữa. Mọi loại sữa có thể dùng để làm sữa chua nhà làm, nhưng trong cách chế tạo hiện đại, sữa bò được dùng nhiều nhất. Sữa chua đặc và yaourt là sản phẩm lên men lactic từ sữa bò tươi, sữa bột hay sữa động vật nói chung sau khi đã khử chất béo và thanh trùng vi khuẩn gây bệnh bằng phương pháp tiệt trùng Pasteur ở nhiệt độ 80-90 °C. Quá trình tạo thành Sữa lên men thành sữa chua do vi khuẩn lactic và hiện tượng này gọi là lên men lactic. Sữa chua có vị sánh, sệt do vi khuẩn lactic đã biến dịch trong sữa thành dịch chứa nhiều axit lactic: Đường lactose + (xt) vi khuẩn lactic => axit lactic + năng lượng (ít). Từ đó, độ pH trong sữa giảm thấp, casein trong sữa sẽ đông tụ và làm cho sữa từ lỏng trở thành sệt. Thành phần Sữa chua chứa rất nhiều các khoáng chất như calci, vitamin C, vitamin D, kẽm, axit lactic và probiotic. Hàm lượng các chất có trong 180 gram sữa chua bao gồm: Năng lượng: 100-150 kcal Chất béo: 3,5 gram Chất béo bão hòa: 2 gram Protein: ít nhất 8-10 gram Đường: 20 gram hoặc ít hơn Calci: ít nhất 20% lượng calci cần thiết hàng ngày Vitamin D: ít nhất 20% lượng vitamin D cần thiết hàng ngày Công dụng Từ lâu sữa chua được biết đến như một nguồn bổ sung calci, kẽm và các vi khuẩn có lợi cho đường ruột. Các công dụng nổi bật của sữa chua bao gồm: Hỗ trợ tiêu hóa, bổ sung vi khuẩn có lợi cho đường ruột: vì sữa chua có rất nhiều các vi sinh vật probiotic Tăng cường sức đề kháng: ăn sữa chua thường xuyên cũng làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể Giúp giảm cân: ăn sữa chua hằng ngày giúp bạn có một vòng eo lý tưởng. Theo một nghiên cứu của tiến sĩ Michael Zemel từ đại học Tennessee, Knoxville: Khi ăn sữa chua cơ thể tiết ra ít cortisol hơn, giúp cho các amino acid dễ dàng đốt cháy các chất béo làm giảm hàm lượng mỡ bụng trong vòng eo của bạn. Ngăn ngừa cao huyết áp: trung bình khoảng 70% chúng ta tiêu thụ lượng muối trong cơ thể ít hơn hàm lượng muối hấp thụ, quá trình này diễn ra thường xuyên khiến xảy ra các bệnh suy thận, tim và cao huyết áp. Chỉ cần sử dụng sữa chua hàng ngày, kali có trong sữa chua sẽ giúp cơ thể loại bỏ muối dư thừa trong cơ thể của bạn. Giảm cholesterol. Bảo vệ răng miệng: sữa chua có hàm lượng chất béo thấp nên không gây ra các vấn đề về răng, miệng. Axit lactic có trong sữa chua cũng góp phần bảo vệ lợi rất tốt. Bổ sung calci giúp xương và răng chắc khỏe. Giúp làm đẹp da và bảo vệ tóc. Kết hợp Sữa chua khi ăn có thể để thêm vài miếng trái cây, rất bỗ dưỡng cho sức khỏe và còn kích thích vị giác. Nó có thể là một bữa xế bổ dưỡng.
Malta (phiên âm tiếng Việt: Man-ta; ), tên chính thức Cộng hòa Malta (), là một đảo quốc Nam Âu, gồm một quần đảo ở Địa Trung Hải. Nó tọa lạc ở vị trí về phía nam của Ý, về phía đông của Tunisia, và về phía bắc của Libya. Quốc gia này chỉ có diện tích , với dân số khoảng 450.000 người, khiến nó trở thành một trong những quốc gia nhỏ nhất, vào loại có mật độ dân cư dày nhất. Thủ đô của Malta, Valletta, với diện tích 0.8 km², là thủ đô nhỏ nhất trong Liên minh châu Âu. Malta có hai ngôn ngữ chính thức: tiếng Malta và tiếng Anh. Địa lý Malta là một quần đảo nằm giữa Địa Trung Hải (nằm ở lòng chảo phía đông). Chỉ có ba đảo lớn – Malta (Malta), Gozo (Għawdex), và Comino (Kemmuna) – là có người ở. Những đảo nhỏ (xem dưới đây) đều bỏ hoang. Quần đảo này là dấu tích của dải đất nối liền Sicilia và Bắc Phi, bị tách ra khi nước biển dâng cao ở cuối Kỉ Băng Hà.. Quần đảo Malta nằm ở rìa mảng kiến tạo Phi, nơi nó tiếp giáp với mảng Âu. Rất nhiều vịnh nằm dọc theo bờ biển lồi lõm tạo ra các cảng đẹp. Địa hình bao gồm đồi thấp và đồng bằng. Điểm cao nhất của Malta là Ta' Dmejrek, cao , gần Dingli. Mặc dù có một vài sông nhỏ vào thời điểm có lượng mưa lớn, ở Malta không có một con sông hay hồ cố định nào. Tuy nhiên, có một vài suối chảy quanh năm ở Baħrija, l-Imtaħleb, San Martin, và thung lũng Lunzjata ở Gozo. Theo Địa thực vật học, Malta thuộc về khu vực khí hậu Địa Trung Hải. Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên, lãnh thổ Malta thuộc về vùng rừng và cây bụi Địa Trung Hải. Những hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo và không có người ở Khí hậu Malta có khí hậu Cận nhiệt Địa Trung Hải, với mùa đông không quá lạnh, mùa hè ấm nóng. Mưa nhiều vào mùa đông, mùa hạ nói chung khô hạn. Nhiệt độ trung bình năm là vào ban ngày và vào ban đêm. Vào tháng lạnh nhất – tháng 1 – Nhiệt độ nằm trong khoảng ban ngày và ban đêm. Tháng nóng nhất là tháng 8, nhiệt độ nằm trong khoảng ban ngày và ban đêm. Nhìn chung mùa hè kéo dài 8 tháng, bắt đầu từ khoảng giữa tháng tư vào ban ngày và vào ban đêm, kết thúc vào tháng 11 với nhiệt độ khoảng ban ngày và ban đêm, mặc dù vậy, trong bốn tháng còn lại, nhiệt độ cũng có khi lên đến . Trong tất cả các thủ đô ở châu Âu, Valletta -thủ đô của Malta có mùa đông ấm nhất, với nhiệt độ trung bình khoảng ban ngày và ban đêm trong khoảng từ tháng Một đến tháng Hai. Vào tháng Ba và tháng 11, nhiệt độ trung bình khoảng vào ban ngày và ban đêm. Rất hiếm những biến động đột ngột về nhiệt độ. Malta cũng là một trong số ít những nước châu Âu "xanh quanh năm". Nhiệt độ trung bình năm của nước biển vào khoảng (cao nhất ở châu Âu), từ vào tháng 1 đến vào tháng 8.Trong cả sáu tháng – từ tháng 6 đến tháng 11 – nhiệt độ trung bình của nước biển lên đến . Khoảng 3000 giờ nắng mỗi năm (cao hàng đầu châu Âu), từ trung bình trên 5 giờ mỗi ngày vàng tháng 12 đến trên 12 giờ vào tháng 6. tức là khoảng gấp đôi so với thành phố nằm ở phía bắc của châu Âu Luân Đôn – 1,461, chênh lệch này còn lớn hơn vào mùa đông, London chỉ có 37 giờ nắng trong khi khi Malta có 155 đến 167 giờ nắng vào tháng 12. Lịch sử Do có vị trí chiến lược quan trọng nên hòn đảo này từ xưa bị người Phoenicia, đến người Hy Lạp, người Carthage và người La Mã tranh giành quyền thống trị. Khoảng năm 58, trong một tai nạn đắm tàu gần đảo Malta, Thánh Phaolô đã lưu lại và rao giảng Phúc âm trên đảo này. Năm 870, Malta rơi vào tay người Ả Rập. Bá tước Roger I chinh phục Malta năm 1090, từ đây số phận của đảo này gắn liền với lịch sử của vương quốc Sicilia cho đến thế kỷ XVI. Năm 1530, Charles Quint giao lại đảo này cho dòng Hiệp sĩ Cứu tế, nơi đây trở thành căn cứ quân sự chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ. Malta bị Napoléon Bonaparte chiếm giữ năm 1798. Người Anh giành lại đảo này sau hai năm vây hãm. Malta trở thành thuộc địa và là căn cứ quân sự của thực dân Anh từ năm 1813. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, Malta giữ một vai trò quan trọng trong cuộc chiến ở Địa Trung Hải (1940-1943), trở thành đảo quốc độc lập và là nước thành viên trong Khối Liên hiệp Anh năm 1964. Năm 1972, Malta đã thỏa thuận với Anh việc đóng cửa các căn cứ Anh trên đảo, việc ký kết có hiệu lực năm 1979. Malta tuyên bố là nước cộng hòa năm 1974. Sau khi kết thúc liên minh với Anh, Malta tìm cách đảm bảo chính sách trung lập của mình thông qua các thỏa thuận với các nước khác. Malta gia nhập Liên minh châu Âu từ năm 2004. Chính trị Theo chế độ cộng hòa, đứng đầu Nhà nước là Tổng thống (nhiệm kỳ 5 năm). Quốc hội gồm 1 Viện với 65 ghế (nhiệm kỳ 5 năm). Theo Hiến pháp Malta, Tổng thống được các Nghị sĩ bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Dựa trên kết quả bầu cử, lãnh đạo đảng nào hoặc lãnh đạo liên minh đảng nào được đa số phiếu sẽ được chỉ định làm thủ tướng. Theo kết quả cuộc bầu cử tháng 3 năm 2004, Tổng thống Eddie Fenech Adami được 33/65 phiếu. Đối ngoại Là một nước nhỏ nên Malta chọn lọc trong việc chọn đối tác quan hệ. Do lịch sử, Malta có quan hệ khá chặt chẽ với Anh. Malta ưu tiên chính phát triển quan hệ với các nước thành viên EU, bên cạnh đó, Malta cũng chú trọng mở rộng quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực Địa Trung Hải và Bắc Phi; các nước lớn ở Trung Âu và vùng Baltic; và tại Châu Á là Trung Quốc. Năm 2004, Malta gia nhập khối EU. Malta còn là thành viên của Liên Hợp Quốc (1 tháng 12 năm 1964) Chính sách quốc tịch Với mục đích hỗ trợ phát triển kinh tế, Malta đưa ra nhiều chính sách phát triển kinh tế, trong đó Chương trình Nhà đầu tư Cá nhân của Malta (IIP) được giới thiệu vào đầu năm 2014, cho phép cấp quốc tịch cho các cá nhân và gia đình giàu có trên thế giới tại Malta. Những người muốn hay được cấp hộ chiếu Malta phải giàu có để đáp ứng chính sách đầu tư của chính phủ Malta qua hình thức đầu tư trực tiếp bằng tiền, mua trái phiếu, mua bất động sản theo Chương trình nhà đầu tư cá nhân của Malta. Ví như, nếu mua trái phiếu chính phủ Malta hoặc các dạng trái phiếu được chính quyền công nhận, nhà đầu tư cần bỏ ra ít nhất 150 nghìn euro với cam kết 5 năm trở lên. Chỉ sau khi có bất động sản và được cấp quyền định cư, nhà đầu tư mới được cấp quốc tịch. Ước tính, để có được quốc tịch Malta phải tốn ít nhất là gần 900 nghìn USD. Thủ tục pháp lý của IIP khá nhanh gọn. Nếu Việt Nam phải mất 5 năm sinh sống kể từ thời điểm xin nhập tịch thì tại Malta chỉ cần 12 tháng. Thậm chí, nếu đã đáp ứng được các yêu cầu cư trú của Malta theo tiêu chuẩn IIP, khoảng thời gian được công nhận quốc tịch chỉ trong 6 tháng. Theo quy định của pháp luật Malta thì các cá nhân đầu tư để có quốc tịch thứ hai không phải từ bỏ quốc tịch hiện có của họ. Các ứng viên thành công sẽ được cấp quốc tịch ở Malta bằng một Giấy Chứng Nhận Nhập Tịch và có thể được mở rộng cho cả gia đình của họ. Khi một ứng viên được cấp quốc tịch Malta, sẽ trở thành công dân châu Âu, họ được hưởng quyền tự do đi lại tới tất cả 28 quốc gia châu Âu và Thụy Sĩ. Họ được phép thành lập doanh nghiệp ở Malta và được cấp hộ chiếu Malta cho phép họ được miễn thị thực khi đến hơn 160 quốc gia trên toàn thế giới trong đó có cả Mỹ. Kinh tế Kinh tế khá đa dạng và thịnh vượng. Vốn đầu tư nước ngoài gia tăng đáng kể từ năm 1987 vào các ngành hàng hải, hàng không, tài chính và văn hóa. Nông nghiệp trồng trọt gồm ngũ cốc và rau quả. Du lịch là một ngành quan trọng. Tính đến năm 2016, GDP của Malta đạt 10.463 USD, đứng thứ 133 thế giới và đứng thứ 42 châu Âu. Đồng tiền: Euro. GDP: 5.4 tỷ USD (2006). Tăng trưởng GDP năm 2006: 2.4%. Thu nhập bình quân đầu người:: 21.000 USD (2006) Lạm phát: 2.6% (2006). Xuất khẩu: 2,4 tỷ USD (2006) với các mặt hàng máy móc và phương tiện vận chuyển. Đối tác xuất khẩu: Singapore, Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Trung Quốc và Ý. Nhập khẩu: 4.0 tỷ USD (2006) chủ yếu là thực phẩm, máy chưa lắp ráp hoàn thiện và các phương tiện vận chuyển. Với vị trí địa lý thuận lợi, Malta có tài nguyên thiên nhiên chính là đá vôi. Malta chỉ sản xuất 20% nhu cầu thực phẩm và thiếu nguồn nước ngọt. Nền kinh tế Malta dựa chủ yếu vào trao đổi thương mại nước ngoài, du lịch, sản xuất đồ điện tử và dệt may, đóng và sửa chữa thuyền. Dịch vụ chiếm 74% tổng sản phẩm xã hội. Công nghiệp chiếm 23% bao gồm các mặt hàng máy móc, sản xuất và sửa chữa tàu thuyền, thực phẩm, giày dép và quần áo... Nông nghiệp chiếm 3%. Lực lượng lao động: 164.000 người (2006). Tỷ lệ thất nghiệp: 6,8% (2006). Tôn giáo Công giáo Rôma là quốc giáo ở Malta bởi quốc đảo này theo truyền thuyết đã có một lịch sử lâu dài 2000 năm gắn bó với Kitô giáo, kể từ vụ đắm tàu của Tông đồ Phaolô vào khoảng năm 60 Công Nguyên. Theo Văn phòng Thống Kê Trung ương của Tòa Thánh Vatican cuối năm 2008, Malta chỉ có 443,000 dân, trong đó có 418,000 (tức 94.4%) là tín hữu Công giáo Rôma chiếm 97% dân số. Malta có hai giáo phận và 85 giáo xứ với 9 Giám mục, 853 linh mục, 1.143 tu sĩ, 1.231 giáo lý viên, 269 tiểu chủng sinh và 91 đại chủng sinh. Có 17.786 học sinh tham dự ở 80 trung tâm giáo dục Công giáo, từ mẫu giáo tới đại học. Các hoạt động bác ái xã hội do Công giáo điều hành bao gồm 24 nhà chăm sóc cho người tàn tật và già yếu, 26 viện mồ côi và nhà trẻ, 9 trung tâm tham vấn về gia đình và phò sự sống, 24 trung tâm giáo dục và phục hồi, và 4 tổ chức các loại khác. Ngoài ra Malta còn 1% Kitô hữu ngoài Công giáo bao gồm Chính Thống giáo và Tin Lành; 1% theo Hồi giáo và 1% không theo đạo nào. Văn hóa
Phương pháp DMFT hay lý thuyết DMFT hay lý thuyết trường trung bình động (DMFT là viết tắt của chữ tiếng Anh dynamical mean field theory) là một lý thuyết trường trung bình trong vật lý chất rắn cho phép tính toán các tính chất của các vật liệu gần với thực tế hơn. Nó xuất phát từ cùng ý tưởng của các lý thuyết trường trung bình; nhưng được phát triển thay thế các lý thuyết trường trung bình cũ để tính đến cả các nhiễu loạn lượng tử. Các phiên bản mới nhất thể được áp dụng cho các hệ vật lý chất rắn ở trạng thái cơ bản phức tạp với nhiều tham số trật tự tầm xa (long rang order parameter). Lịch sử DMFT là một lý thuyết trường trung bình mới được bắt đầu giới thiệu và phát triển từ đầu nhưng năm 1990 bởi hai nhà vật lý Antoine Georges (Pháp) và Gabriel Kotliar (Mỹ). Cho đến nay, lý thuyết đang được dần hoàn chỉnh với các phiên bản mới như C-DMFT (Cluster-DMFT). Giới thiệu Lý thuyết này bắt nguồn cùng ý tưởng với các lý thuyết trường trung bình trước đây. Thay vì giải bài toán tổng quát cho cả hệ chất rắn nhiều hạt, nó giải bài toán hệ một hạt tương tác với các phần tử còn lại được xem như một trường trung bình. Thường thì trong các phương pháp trường trung bình trước đây ví dụ như trường trung bình Weisse, hay là trường trung bình Hartree Fock, vấn đề ban đầu được đưa về bài toán hệ một hạt bằng phương pháp lấy trung bình các tham số trong hệ, có nghĩa là bỏ qua tất cả các nhiễu loạn lượng tử. Chính vì vậy những phương pháp này chỉ cho kết quả gần đúng trong giới hạn tương tác trong hệ là yếu, với những nhiễu lượng tử là nhỏ và hoàn toàn có thể bỏ qua được. Những lý thuyết này đã thành công trong việc giải thích những hiện tượng vật lý chất rắn trên kim loại, bán dẫn, và cả siêu dẫn nhiệt độ thấp (lý thuyết BCS). Song khi tương tác các điện tử trong hệ là tương đối lớn so với động năng của các điện tử, những phương pháp này lại không thể giải thích được, đơn giản vì lúc này những nhiễu lượng tử không thể bỏ qua được. Một ví dụ điển hình của sự thất bại đó là chất cách điện Mott. Nếu theo các lý thuyết cũ thì những chất này phải là chất dẫn điện do chỉ có một điện tử duy nhất ở lớp ngoài cùng. Do những yêu cầu trên, một lý thuyết mới với khả năng mô tả hệ chất rắn mà không bỏ qua các nhiễu lượng tử là một nhu cầu tất yếu. DMFT ra đời và thành công đầu tiên chính là việc giải thích vấn đề chất cách điện Mott và chuyển pha Mott (chuyển pha kim loại - chất cách điện). DMFT được xây dựng trên cơ sỏ lý thuyết hàm Green. Đầu tiên nó được dùng để tính toán cho các mô hình với số chiều tiến đến vô cùng (những mô hình phi vật lý nhưng lại là một giới hạn rất tốt cho các lý thuyết trường trung bình, vì hoàn toàn có thể tính toán các kết quả một cách giải tích). Hiện nay, nhờ những phát triển về kĩ thuật tính toán và kết hợp với lý thuyết DFT (density functional theory), mà cụ thể là xấp xỉ LDA (local density approximation), DMFT hoàn toàn có thể cho phép tính toán trên các hệ vật lý rất gần thực tế.
Hiệu ứng phát xạ bằng photon là hiện tượng tách các điện tử trên bề mặt vật liệu (kim loại, hợp kim,...) bằng cách bắn phá các photon lên bề mặt vật liệu đó. Photon với năng lượng đủ lớn có thể làm bắn ra các điện tử ở các lớp nằm sâu hơn trong vật liệu. Một ứng dụng quan trọng của hiệu ứng này trong vật lý chất rắn là phép đo ARPES (angle-resolved photoemission spectroscopy) dùng để xác định phổ kích thích một điện tử "A(k,w)" của vật liệu. Hiện nay các nghiên cứu lý thuyết về các mô hình chất rắn vật liệu thường dựa trên việc so sánh kết quả mô phỏng với kết quả của thí nghiệm ARPES để đánh giá tính chính xác của nó.
Ngưng tụ Bose–Einstein (bose-einstein condensate hay BEC) là một trạng thái vật chất của khí boson loãng bị làm lạnh đến nhiệt độ rất gần độ không tuyệt đối (hay rất gần giá trị 0 K hay —273,15 °C hoặc —459.67 °F). Dưới những điều kiện này, một tỷ lệ lớn các boson tồn tại ở trạng thái lượng tử thấp nhất, tại điểm mà các hiệu ứng lượng tử trở lên rõ rệt ở mức vĩ mô. Những hiệu ứng này được gọi là hiện tượng lượng tử mức vĩ mô. Mặc dù các thí nghiệm về sau cho thấy có những tương tác phức tạp trong hệ, trạng thái vật chất này lần đầu tiên được Satyendra Nath Bose và Albert Einstein tiên đoán tồn tại trong năm 1924–25. Bose đầu tiên gửi một bài báo đến Einstein về thống kê lượng tử của lượng tử ánh sáng (ngày nay gọi là photon). Einstein đã rất ấn tượng về bài viết này, ông dịch nó từ tiếng Anh sang tiếng Đức và gửi bài viết của Bose đến tạp chí Zeitschrift für Physik và được công bố bởi tạp chí này. (Bản nháp của Einstein, lúc đầu nghĩ là có thể bị mất, đã được tìm thấy trong thư viện của Đại học Leiden vào năm 2005.). Einstein sau đó mở rộng ý tưởng của Bose cho hệ hạt vật chất trong hai bài báo sau đó. Những nỗ lực của Bose và Einstein cho kết quả về khái niệm khí Bose trong khuôn khổ lý thuyết thống kê Bose–Einstein, miêu tả phân bố thống kê của những hạt đồng nhất với spin nguyên, mà sau này Paul Dirac gọi là các boson. Các hạt boson, bao gồm photon cũng như các nguyên tử heli-4 (4He), được phép tồn tại ở cùng trạng thái lượng tử như nhau. Einstein chứng minh rằng khi làm lạnh các nguyên tử boson đến nhiệt độ rất thấp thì hệ này tích tụ lại (hay "ngưng tụ") trong trạng thái lượng tử thấp nhất có thể, và tạo nên trạng thái mới của vật chất. Năm 1938 Fritz London đề xuất trạng thái BEC như là một cơ chế giải thích cho tính siêu chảy của 4He cũng như tính siêu dẫn nhiệt độ thấp ở một số vật liệu. Năm 1995 khí ngưng tụ đầu tiên đã được tạo ra bởi nhóm của Eric Cornell và Carl Wieman ở phòng thí nghiệm JILA thuộc Viện Công nghệ Tiêu chuẩn Quốc gia (NIST) tại Đại học Colorado ở Boulder, khi họ làm lạnh khí nguyên tử Rubidi đến nhiệt độ 170 nanokelvin (nK) (1,7 x 10−7 K). Cũng trong thời gian này, Wolfgang Ketterle ở Học viện Công nghệ Massachusetts tạo ra được ngưng tụ Bose-Einstein đối với nguyên tử Natri và duy trì được hệ 2000 nguyên tử này trong thời gian lâu cho phép nghiên cứu những tính chất của hệ này. Thành tựu này mà Cornell, Wieman và Ketterle được nhận Giải Nobel Vật lý năm 2001. Tháng 11 năm 2010 trạng thái BEC của photon đã được quan sát thấy. Năm 2012, các nhà vật lý đã phát triển lý thuyết BEC cho hệ photon. Sự chuyển pha dẫn đến ngưng tụ Bose Einstein xuất hiện ở dưới nhiệt độ giới hạn, đối với khí phân bố đều 3 chiều của hệ hạt không tương tác mà không có bậc tự do nội tại trong nó, được cho bởi công thức: với: Giới thiệu Các hạt trong vật lý được chia ra làm hai lớp cơ bản: lớp các boson và lớp các fermion. Boson là những hạt với "spin nguyên" (0,1,2...), fermion là các hạt với "spin bán nguyên" (1/2,3/2...). Các hạt boson tuân theo thống kê Bose-Einstein, còn các hạt fermion tuân theo thống kê Fermi-Dirac. Ngoài ra các hạt fermion còn tuân theo nguyên lý loại trừ Pauli, "hai hạt fermion không thể cùng tồn tại trên một trạng thái lượng tử". Đối với mô hình khí lý tưởng (không có tương tác giữa các boson), khi ở nhiệt độ đạt đến không tuyệt đối (0 kelvin) tất cả các hạt boson có thể cùng tồn tại trên một trạng thái lượng tử với năng lượng thấp nhất. Đó chính là ngưng tụ Bose-Einstein. Trong trường hợp một hệ khí lý tưởng ba chiều, tồn tại một nhiệt độ chuyển pha, mà hệ khí sẽ ngưng tụ ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ này. Đối với hệ khí boson có tương tác (mô hình khí thực), người ta đã chứng minh một cách lý thuyết là tồn tại nhiệt độ chuyển pha, mà khí bose có thể ngưng tụ ngay cả trong các hệ hai chiều (Bologiubov-Pitaevskii). Những tiến bộ trong kĩ thuật làm lạnh và giam nguyên tử (làm lạnh bằng laser, làm lạnh bằng bay hơi, bẫy nguyên tử bằng laser, từ trường, điện trường) đã cho phép thực nghiệm quan sát được hiện tượng ngưng tụ Bose-Einstein trong các hệ khí lithi, kali và natri. Sau khi quan sát hiện tượng ngưng tụ Bose, các nhà vật lý thực nghiệm đã tiếp tục đạt được những thành công trong việc làm lạnh khí fermion. Quá trình làm lạnh này khó hơn đối với boson do các fermion phải tuân theo nguyên lý Pauli. Người ta cũng đã quan sát hiện tượng ngưng tụ này ở fermion, nhưng với số phần trăm nguyên tử ngưng tụ thấp hơn. Hiện tượng này được gọi là "khí fermi suy biến". Các lý thuyết giải thích hiện tượng này bằng mô hình các hạt fermion tương tác với nhau. Hai fermion trong tương tác có thể liên kết được với nhau sẽ tạo ra các phân tử boson, ở nhiệt độ đủ thấp, các boson nhân tạo này sẽ ngưng tụ.
Trong vật lý, lượng tử là số lượng tối thiểu của bất kỳ thực thể vật lý (thuộc tính vật lý) tham gia vào một sự tương tác. Khái niệm cơ bản rằng một thuộc tính vật lý có thể được "lượng tử hóa" được gọi là "giả thuyết lượng tử hóa ". Điều này có nghĩa là độ lớn của thuộc tính vật lý chỉ có thể nhận các giá trị rời rạc bao gồm các bội số nguyên của một lượng tử. Ví dụ, một photon là một lượng tử ánh sáng (hoặc bất kỳ dạng bức xạ điện từ nào khác). Tương tự, năng lượng của một electron liên kết bên trong nguyên tử được lượng tử hóa và chỉ có thể tồn tại ở một số giá trị rời rạc nhất định. (Nguyên tử và vật chất nói chung là ổn định vì các điện tử chỉ có thể tồn tại ở các mức năng lượng riêng biệt trong nguyên tử.) Lượng tử hóa là một trong những nền tảng của vật lý rộng lớn hơn nhiều của cơ học lượng tử. Lượng tử hóa năng lượng và ảnh hưởng của nó đến cách năng lượng và vật chất tương tác (điện động lực học lượng tử) là một phần của khuôn khổ cơ bản để hiểu và mô tả thiên nhiên. Tài nguyên và khám phá Từ gốc quantum là số ít trung tính của Latin quantus tính từ nghi vấn, có nghĩa là "bao nhiêu". "Quanta", số nhiều trung tính, viết tắt của "lượng tử điện" (electron), được sử dụng trong một bài báo năm 1902 về hiệu ứng quang điện của Philipp Lenard, người cho rằng Hermann von Helmholtz đã sử dụng từ này trong lĩnh vực điện. Tuy nhiên, từ lượng tử nói chung đã được biết đến nhiều trước năm 1900, ví dụ như lượng tử được sử dụng trong EA Poe's Loss of Breath. Nó thường được sử dụng bởi các bác sĩ, chẳng hạn như trong thuật ngữ lượng tử thỏa mãn. Cả Helmholtz và Julius von Mayer đều là bác sĩ cũng như nhà vật lý. Helmholtz đã sử dụng lượng tử liên quan đến nhiệt trong bài báo của ông về công trình của Mayer, và từ lượng tử có thể được tìm thấy trong công thức của định luật nhiệt động lực học đầu tiên của Mayer trong bức thư của ông ngày 24 tháng 7 năm 1841. Năm 1901, Max Planck sử dụng quanta có nghĩa là "lượng tử của vật chất và điện", khí và nhiệt. Năm 1905, để đáp lại công trình của Planck và công trình thí nghiệm của Lenard (người đã giải thích kết quả của mình bằng cách sử dụng thuật ngữ lượng tử điện), Albert Einstein cho rằng bức xạ tồn tại trong các gói bản địa hóa không gian mà ông gọi là "lượng tử ánh sáng" ("Lichtquanta"). Khái niệm lượng tử hóa bức xạ được phát hiện vào năm 1901 bởi Max Planck, người đã cố gắng tìm hiểu sự phát bức xạ từ các vật thể bị nung nóng, được gọi là bức xạ vật đen. Bằng cách giả định rằng năng lượng chỉ có thể được hấp thụ hoặc giải phóng trong các gói nhỏ, vi phân, rời rạc (mà ông gọi là "bó", hay "phần tử năng lượng"), Planck đã tính đến một số vật thể thay đổi màu sắc khi bị đốt nóng. Vào ngày 14 tháng 12 năm 1900, Planck báo cáo những phát hiện của mình cho Hiệp hội Vật lý Đức, và lần đầu tiên giới thiệu ý tưởng lượng tử hóa như một phần trong nghiên cứu của ông về bức xạ vật đen. Kết quả của các thí nghiệm của mình, Planck đã suy ra giá trị số của h, được gọi là hằng số Planck, và báo cáo các giá trị chính xác hơn cho đơn vị điện tích và số Avogadro – Loschmidt, số phân tử thực trong một mol, cho Hội Vật lý Đức. Sau khi lý thuyết của mình được xác thực, Planck đã được trao giải Nobel Vật lý cho khám phá của ông vào năm 1918. Lượng tử hóa Khái niệm cơ bản rằng một tính chất vật lý có thể được "lượng tử hóa" được gọi là "giả thuyết lượng tử hóa". Điều này có nghĩa là độ lớn của tính chất vật lý chỉ có thể đảm nhận các giá trị cụ thể bao gồm bội số nguyên của một lượng tử. Ví dụ, một photon là một lượng tử ánh sáng (hoặc bất kỳ dạng bức xạ điện từ nào khác). Tương tự, năng lượng của một electron liên kết trong một nguyên tử được lượng tử hóa và chỉ có thể tồn tại trong một số giá trị bội của nó. (Thật vậy, các nguyên tử và vật chất nói chung đều ổn định vì các electron chỉ có thể tồn tại ở các mức năng lượng riêng biệt trong một nguyên tử.) Lượng tử hóa là một trong những nền tảng của vật lý lượng tử rộng hơn nhiều. Lượng tử hóa năng lượng và ảnh hưởng của nó đối với cách năng lượng và vật chất tương tác (điện động lực học lượng tử) là một phần của khung cơ bản để hiểu và mô tả thiên nhiên. Trong khi lượng tử hóa lần đầu tiên được phát hiện trong Bức xạ điện từ, nó mô tả một khía cạnh cơ bản của năng lượng không chỉ giới hạn ở các Photon.. Trong nỗ lực đưa lý thuyết vào thỏa thuận với thực nghiệm, Max Planck đã quy định rằng năng lượng điện từ được hấp thụ hoặc phát ra trong các gói hoặc lượng tử riêng biệt.
Thiên sứ (tiếng Anh: Angel) là những thực thể siêu nhiên phục vụ Thiên Chúa được tìm thấy trong nhiều tôn giáo hữu thần. Theo niềm tin của ba tôn giáo chính thuộc nhất thần giáo, các thiên sứ thường thi hành nhiệm vụ của các sứ giả là kết nối Thiên đàng với nhân giới, họ hướng dẫn, bảo vệ nhân loại và là bề tôi trung thành của Thiên Chúa. Các thiên sứ trong nghệ thuật thường có hình dáng giống con người với vẻ đẹp phi thường, dù điều này không phải lúc nào cũng đúng. Đôi khi, họ được miêu tả một cách đáng sợ và vô nhân đạo. Họ thường được xác định trong tác phẩm nghệ thuật Kitô giáo với đôi cánh to lớn cùng quầng hào quang trên đầu và phát ra ánh sáng thần thánh. Từ nguyên Trong tiếng Anh Từ angel trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Anh cổ engel (thay a đọc g) rồi qua tiếng Latinh angelus, từ này lại đến từ tiếng Hy Lạp cổ ἄγγελος ángelos, nghĩa là "sứ giả", nhà ngôn ngữ học Beekes tin rằng từ này có nguồn gốc Ba Tư cổ "liên quan đến ἄγγαρος *angaros, chức vụ sang sứ của người Ba Tư" cũng từ tiếng Akkad 𒂊𒄈𒌅 (egirtu) chỉ một thoả thuận đối với các vị thần bằng một tấm bảng đất sét vào thời cổ đại (xem Giáp cốt văn hay chữ hình nêm). Một từ trong tiếng Hebrew có nghĩa gần nhất với ángelos là מלאך, mal’ach trong Từ điển Strong (Strong’s Concordance) cũng có nghĩa là "sứ giả". Trong tiếng Việt Thiên sứ trong tiếng Việt được dịch lần đầu từ những văn bản từ điển Việt-Bồ-La qua các giáo sĩ người Bồ Đào Nha từ hội Dòng Tên, viết bằng chữ Hán là 天使, bao gồm chữ Thiên (天) trong Thiên đàng và chữ Sứ (使) trong Sứ giả. Vậy Thiên sứ mang nghĩa đen là "sứ giả từ thiên đàng". Trong một số tài liệu, thiên sứ cũng được gọi là "thiên thần", nhưng tên gọi này không đúng lắm vì thiên sứ không phải là một vị thần. Thiên sứ học Thiên sứ học (angelology) là một nhánh gần gũi với thần học, tuy Thiên sứ học không phải là Thần học (Theology), nghiên cứu về hệ thống đẳng cấp của thiên sứ, sứ giả hoặc các quyền lực trên chốn khinh không, chủ yếu quan hệ với Do Thái giáo (gọi hệ thống này là kaballistic), dù vẫn thường bị lãng quên.Có những người tin rằng đạo Zoroastra có ảnh hưởng trên thiên sứ học của Do Thái giáo, như vậy cũng ảnh hưởng trên thiên sứ học của Cơ Đốc giáo, do có những yếu tố của đạo Zoroastra xuất hiện trong Do Thái giáo sau khi dân tộc Israel tiếp xúc với nền văn minh Ba Tư trong thời kỳ lưu đày ở Babylon, trong đó Satan được xem là kẻ đứng đầu các quyền lực tội ác trong sự đối đầu với Thiên Chúa (so sánh Satan với Angra Mainyu, cũng gọi là Ahriman, trong đức tin Zoroastra, chống nghịch Ahura Mazda, thần linh tối thượng). Danh hiệu"Vua của sự tối tăm"dành cho Satan có thể có nguồn gốc từ đức tin Zoroastra. Ngược lại, có những nhà phê bình bày tỏ xác tín rằng Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo đã có ảnh hưởng trên đạo Zoroastra. Họ cho rằng những điểm tương đồng như đã thấy giữa Zoroastra và Chúa Giê-xu, cũng như trong các nhân tố khác, là sản phẩm của những thầy tư tế trong nỗ lực tôn cao Zoroastra và ngăn cản tín đồ đạo Zoroastra quay sang các tôn giáo khác. Thiên sứ trong Kinh Tanakh (Cựu Ước) Tên trong Kinh Thánh của thiên sứ, מלאך ("malakh"), có ý nghĩa sâu xa hơn khi được thêm vào danh xưng của Thiên Chúa như"thiên sứ của Chúa", hoặc"thiên sứ của Thiên Chúa"(Zechariah 12.8 – "Trong ngày đó, Chúa sẽ làm đấng bảo hộ của dân cư Jerusalem, và trong ngày đó kẻ rất yếu trong vòng chúng nó sẽ như David, nhà David sẽ như Thiên Chúa, sẽ như thiên sứ của Chúa ở trước mặt chúng nó."). Có những danh xưng khác dành cho thiên sứ như"Các con trai của Thiên Chúa"(Sáng thế ký 6.4; Job 1. 6). Theo Do Thái giáo, danh xưng Elohim chỉ dành riêng cho một Thiên Chúa duy nhất; song có những lúc Elohim (thế lực), bnē 'Elohim, bnē Elim, (các con trai của thần linh) (ngụ ý các thực thể thuộc thế giới thần linh) được dùng để chỉ các thực thể có quyền năng lớn. Dần dà được dùng để chỉ những thực thể siêu nhiên, khác với Yahweh (Đức Giê-hô-va tức Thiên Chúa) và vì vậy, là thực thể cấp thấp và hoàn toàn phục tùng Ngài (Sáng thế ký 6.2; Job 1.6; Thi thiên 8.5). Thiên sứ đôi khi được gọi là"đấng thánh’’ (Zechariah 14.5) và"đấng canh giữ"(Daniel 4.13 – "Ta nhìn xem những sự hiện thấy trong đầu ta, khi ta nằm trên giường, và này, có một đấng thánh canh giữ từ trên trời xuống,") cũng được gọi là"thiên binh"(Phục truyền luật lệ ký 17.3 – "...đi hầu việc và quỳ lạy các thần khác, hoặc mặt trời, Mặt Trăng, hay là cả thiên binh - tức là điều ta không dạy bảo;") hoặc là"Tướng đạo binh của Yahweh"(Joshua 5.14 – "Người đáp: Không, bây giờ ta đến làm tướng đạo binh của Yahweh.") Các thiên sứ thường được nối kết với các vì tinh tú. YHWH (Yahweh tức Thiên Chúa) luôn phân biệt Ngài với các thiên sứ, do đó, Moses (Mô-sê hoặc Môi-se) cấm dân Hebrew (Do Thái cổ) thờ lạy"thiên binh". Hình dạng của thiên sứ Trong Kinh Thánh Hebrew, thiên sứ thường xuất hiện trong hình dạng con người, và người ta thường không nhận ra thiên sứ (Sáng thế ký 18.2; Các Quan xét 6. 21,22; Xuất Ai Cập ký 3.2). Là những thực thể siêu nhiên, thiên sứ có thể mang hình dạng loài người, thích ứng với sứ mạng thực thi. Thiên sứ có thể cầm gươm trần hoặc các loại vũ khí khác (Dân số ký 22. 23; Joshua 5. 13; Ezekiel 9. 2). Có một thiên sứ thi hành sự trừng phạt được đề cập ở 1Sử ký 21. 16,30 "David ngước mắt lên, thấy thiên sứ của Chúa đứng giữa lưng trời, tay cầm gươm đưa ra trên Jerusalem". Sách Daniel có nhắc đến một thiên sứ "mặc vải gai, chung quanh lưng thắt đai bằng vàng ròng U-pha. Mình người như bích ngọc; mặt người như chớp, và mắt như đuốc cháy; tay và chân như đồng đánh bóng, và tiếng nói như tiếng đám đông" (Daniel 10. 5,6). Hình tượng này của thiên sứ tương tự như sự miêu tả dành cho Chúa Giê-Su trong sách Khải Huyền. Người ta tin rằng thiên sứ có cánh (Daniel 9. 21 – "Gabriel, người mà ta đã thấy trong sự hiện thấy đầu tiên, được sai bay mau đến gặp ta độ lúc dâng lễ chiều hôm") theo sự mô tả trong hội họa Cơ Đốc, Do Thái và Zoroastra, theo đó, các thiên sứ thường có vầng hào quang. Thiên sứ thường được tin là có quyền năng và đáng sợ, khôn ngoan và thấu suốt mọi điều trên đất, sáng suốt trong phán đoán, thánh khiết mặc dù là không phải không thể sa ngã. (Thi thiên 103. 20; 2Samuel 14. 17, 20; 19. 27; Zechariah 14. 5; Job 4. 18; 25. 2). Thiên sứ được cho là có liên quan đến các sứ mạng đặc biệt như"thiên sứ cứu nạn","kẻ truyền giải","thiên sứ huỷ diệt","sứ giả của giao ước","thiên sứ đứng chầu Thiên Chúa", cũng có"một nhóm thiên sứ ác"(Sáng thế ký 48. 16; 33. 23; 2Samuel 24. 16; Malachi 3.1; Isaiah 63. 9; Thi thiên 78. 49). Quan điểm Cơ Đốc giáo Trong Tân Ước thiên sứ thường xuất hiện như là những sứ giả đem mặc khải đến từ Thiên Chúa như khi hiện đến cho Thánh Giuse (Joseph), cho Chúa Giê-su, cho Maria , cho Phê-rô; Chúa Giê-su cũng nói về các thiên sứ thi hành nhiệm vụ ở sách Mác-cô 8.38 và Mác-cô 13.27, có lần ngài đã ngụ ý rằng họ không kết hôn. Tân Ước không nói nhiều về thứ bậc của thiên sứ, nhưng có những ám chỉ về điều này. Sự phân biệt giữa thiên sứ thiện và thiên sứ ác được thừa nhận. Các thiên sứ thiện như Gabriel, Metratron, và Michael. Các thiên sứ ác như Beelzebul, Samael và Apollyon. Có những thứ bậc trong hàng ngũ thiên sứ cũng được nhắc đến, thiên sứ trưởng Michael. Các thiên sứ của Bảy Hội thánh vùng Tiểu Á đã được mô tả trong Khải Huyền 1-3. Đây có lẽ là những thiên sứ bảo vệ, đại diện cho các hội thánh cũng giống như các thiên sứ trong sách Daniel đại diện cho các dân tộc. Thiên sứ trưởng Gabriel hiện ra cùng Đức Mẹ Maria trong vai trò truyền thống của một sứ giả tỏ cho Đức Mẹ biết con của bà là đấng Cứu thế[Messiah hoặc Savior theo tiếng Anh], các thiên sứ khác cũng hiện ra để báo tin về sự ra đời của hài nhi Giê-su. Trong Matthew 28.2 một thiên sứ hiện ra tại mộ của Chúa Giê-su, làm lính gác La Mã kinh khiếp, lăn tảng đá ở cửa mộ, và bảo cho những phụ nữ đến thăm mộ biết về sự phục sinh của Chúa Giê-su ("Và này, đất rúng động dữ dội, vì có thiên sứ của Chúa ở trên trời xuống, đến lăn hòn đá mà ngồi ở trên."). Trong Phúc âm Máccô 16.5, khi các phụ nữ này vào bên trong ngôi mộ trống họ thấy một thiên sứ được miêu tả như là"một người trẻ tuổi". Theo ký thuật của Phúc âm Luca 24.4, có hai thiên sứ hiện ra khi những phụ nữ này đã vào bên trong ngôi mộ; ở đây các thiên sứ được miêu tả mặc áo"sáng như chớp". Tương tự, Phúc âm Gioan 20.12 thuật lại rằng Mary nói chuyện với"hai thiên sứ mặc áo trắng"ngồi trong mộ Chúa Giê-su. Khi Chúa Giê-su về trời, có hai thiên sứ hiện ra và báo rằng Ngài sẽ trở lại (Công vụ 1. 10,11). Khi Phê-rô (Peter - Tiếng Anh) bị bắt giam, một thiên sứ khiến lính gác ngủ mê, giải thoát ông khỏi xiềng xích và đưa ông ra khỏi nhà giam (Công vụ 12. 7-8).Trong sách Khải Huyền, các thiên sứ thi hành nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó có việc chầu quanh Ngai Thiên Chúa và ca hát chúc tụng: "Thánh thay, thánh thay, thánh thay". Các thiên sứ thường khi xuất hiện trong hình dạng loài người, mặc dù các nhà thần học cho rằng thiên sứ không có thân xác, nhưng có thể hoá thân. Seraphim được miêu tả trong Kinh Thánh là có sáu cánh toả sáng từ bên trong. Từ cuối thế kỷ thứ 4, người ta hình dung các thiên sứ xuất hiện với đôi cánh, một cách giải thích dễ hiểu cho khả năng di chuyển của thiên sứ đến từ thiên đàng. Khả năng này được ngụ ý trong Kinh Thánh. Các nhà thần học kinh viện cho rằng các thiên sứ có thể lập luận và di chuyển cực nhanh. Những người này cũng dạy rằng thiên sứ là những nhân tố trung gian của một số năng lực, hoặc là năng lực tự nhiên của vũ trụ như lực quay của các hành tinh hoặc lực chuyển động của các vì sao. Thiên sứ được ban cho những khải tượng phước hạnh, hoặc sự hiểu biết thấu suốt về Thiên Chúa. Mặc dù các bản tín điều không nhắc đến một học thuyết chính thức nào về thiên sứ, trong thời trung cổ, các tư tưởng tôn giáo thường chịu ảnh hưởng bởi tác phẩm Phẩm hàm các Thiên thể (Celestial Hierachy) của một tác giả ẩn danh vào thế kỷ thứ 5 hoặc của các tác giả viết theo văn phong của Dionysius the Areopagite. Người theo thuyết Bất khả tri có khuynh hướng bác bỏ sự hiện hữu của thiên sứ, hoặc cho đó là điều không thể biết. Song, theo nguyên lý về tính liên tục, cần có những thực thể trung gian giữa loài người và Thiên Chúa. Một số truyền thống Cơ Đốc cho rằng các thiên sứ được tổ chức vào ba thứ bậc chính, rồi có những thứ bậc nhỏ hơn nữa, có đến chín cấp bậc thiên sứ. Dựa vào Phẩm hàm các Thiên thể mà có: Thiên sứ, Trưởng thiên sứ, Principatus, Potestates, Virtutes, Dominationes, Thrones, Cherubim và Seraphim. Trong các phẩm hàm này, Cherubim và Seraphim là thân cận nhất với Thiên Chúa, trong khi các Thiên thần và trưởng thiên sứ hoạt động tích cực trong tiếp xúc với loài người; tuy nhiên có một số truyền thống cho rằng các trưởng thiên sứ có phẩm hàm cao nhất, và con số các trưởng thiên sứ cũng ít hơn các thiên thể khác. Một số truyền thống trong Cơ Đốc giáo cho rằng thiên sứ giữ các vai trò đặc biệt trong đời sống tín hữu. Người Công giáo tin rằng có thiên thần bảo hộ cho mỗi người ngay khi vừa chào đời. Phổ biến trong cộng đồng Kháng Cách (Protestant), Anh giáo và Công giáo là niềm tin cho rằng danh hiệu"Thiên sứ của Đức Giê-hô-va"là dành cho Chúa Giê-su trước khi ngài hoá thân thành người. Ngày nay, quan điểm về sự hiện hữu của thiên sứ vẫn được chấp nhận rộng rãi trong vòng các giáo phái thuộc Cơ Đốc giáo. Satan (còn gọi là Lucifer) và ma quỷ, theo quan điểm Cơ Đốc, là các thiên sứ phản loạn chống nghịch Thiên Chúa và bị đuổi khỏi Thiên đàng. Cơ Đốc giáo không công nhận sự hiện hữu của thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa, nên các trường phái thần học xem những thiên sứ ác này là những thực thể phản loạn chống lại Ba Ngôi và dối trá tự nhận mình là các thần linh. Quan điểm Cơ Đốc về đời sau tin rằng linh hồn của những người công chính sau khi chết sẽ lên Thiên đàng và được biến hoá trở nên giống các thiên sứ. Kinh Thánh ký thuật lời của Chúa Giê-su miêu tả người được cứu sau khi phục sinh sẽ trở nên giống như thiên sứ trong các vấn đề liên quan đến hôn nhân và sự sống vĩnh cửu, "...song những người đã được kể đáng dự phần đời sau và đáng từ kẻ chết sống lại, thì không lấy vợ gả chồng. Bởi vì họ sẽ không chết được nữa, vì giống như các thiên sứ, và là con của Thiên Chúa, tức là con của sự phục sinh." (Luca 20. 35-36). Sứ đồ Phao-lô cũng đề cập đến sự hoá thân này, "Này là sự mầu nhiệm tôi tỏ cho anh em: Chúng ta không ngủ hết, nhưng hết thảy đều sẽ biến hoá" (1Côr. 15.51), Phao-lô cho biết các thánh đồ sẽ"xét đoán các thiên sứ"(1Cor 6. 3).
Băng nhạc Sơn Ca là một chương trình nghệ thuật của nhạc sĩ Phượng Linh (tức Nguyễn Văn Đông) được phát hành từ 1971 đến 1975 tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa dưới dạng băng magnetophon và băng cassette. Chương trình này gồm tất cả 10 băng nhạc, đánh số từ 1 đến 11 nhưng không có băng số 4. Các giọng ca nổi tiếng được hãng dĩa hát Sơn Ca thu âm băng riêng ca sĩ có Phương Dung, Giao Linh, Khánh Ly, Sơn Ca, Lệ Thu và Thái Thanh. Lịch sử Hãng dĩa hát Sơn Ca là một công ty ghi âm và phát hành âm nhạc do doanh nhân có tiếng ở Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa là Huỳnh Văn Tứ và nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đồng sáng lập vào cuối năm 1967, có biểu trưng là hình con chim hót đậu trên quả địa cầu, kinh doanh sản phẩm tại quầy 116, thương xá TAX. Thể loại âm nhạc đa dạng từ nhạc vàng đến tân cổ giao duyên. Ngoài việc thu âm và phát hành dĩa hát, từ năm 1971 trở đi hãng này cho ra đời loạt băng nhạc dưới hình thức băng magnetophon (thời này còn gọi đơn giản là "băng lớn") và băng cassette, gọi chung là băng nhạc Sơn Ca. Băng nhạc Sơn Ca gồm tất cả 10 băng được đánh số từ 1 đến 11 nhưng không có băng số 4. Mở đầu và kết thúc băng thường là đoạn nhạc hiệu độc đáo "Sơn Ca, Sơn Ca, Sơn Ca" do Nguyễn Văn Đông soạn, Lê Văn Thiện phối khí, với lời giới thiệu và tạm biệt do nữ xướng ngôn viên tên Hiền diễn đọc. Nội dung băng là những ca khúc có thể được tạm xếp vào các thể loại là nhạc vàng, tình khúc 1954-1975, nhạc tiền chiến và hiếm hoi là một vài ca khúc nhạc nước ngoài lời Việt. Mỗi băng có từ 17 đến 20 bài hát (thường là 18) của nhiều tác giả, riêng băng Sơn Ca 7 đặc biệt dành riêng cho các sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Hai năm đầu 1971-1972, hãng phát hành ba băng nhạc theo chủ đề, quy tụ nhiều giọng ca thượng thặng đương thời. Từ băng Sơn Ca 5 trở đi, hãng chuyển hướng làm băng đơn ca, mỗi băng một ca sĩ, khởi màn là ca sĩ Phương Dung và đây cũng là giọng ca duy nhất mà hãng Sơn Ca làm nhiều hơn một băng đơn ca. Băng Sơn Ca 6 là băng đơn ca đầu tiên của Giao Linh - một trong hai học trò nổi tiếng của Nguyễn Văn Đông bên cạnh ca sĩ Thanh Tuyền. Băng Sơn Ca 10 có sự cộng tác của danh ca Thái Thanh và ban hợp ca nổi tiếng nhất thời bấy giờ là ban Thăng Long. Việc làm băng đơn ca riêng cho từng ca sĩ, được nhìn nhận là ý tưởng tiên phong, mới mẻ, mở đầu xu hướng cho nhiều băng khác về sau, trong bối cảnh các băng nhạc đương thời phần lớn là băng tổng hợp nhiều ca sĩ. Chuỗi băng nhạc Sơn Ca được phát hành liên tục cho đến khi hãng dĩa Sơn Ca chấm dứt tồn tại từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Băng nhạc cuối cùng là Sơn Ca 11 thực tế không kịp phát hành tại Việt Nam dù công việc hậu kỳ đã xong từ cuối năm 1974. Sau này, ông chủ Tứ đi định cư Pháp, hành trang mang theo bản thu gốc của Sơn Ca 11 rồi giao lại cho Thúy Nga Paris phát hành chỉ dưới hình thức cassette. Riêng về Sơn Ca 4, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cho biết băng này có bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, không được cơ quan kiểm duyệt của Việt Nam Cộng hòa cấp phép. Có người nhầm lẫn Sơn Ca 4 với một băng cassette khác mang tên Chương trình nhạc tuyển Sơn Ca 4: Đưa em vào hạ được thực hiện tại California, Hoa Kỳ vào thập niên 1980, vốn dĩ nằm trong chuỗi băng do ca sĩ Sơn Ca thực hiện theo nghệ danh của bà và không có mối liên quan nào với hãng dĩa hát Sơn Ca. Tại hải ngoại, băng Sơn Ca được một số cơ sở phát hành băng nhạc in sang lại đều ở hình thức cassette. Danh sách băng và nội dung Sơn Ca 1: Những chuyến đi mùa ly loạn (1971) Sơn Ca 2: Xuân 72 - Xuân hạnh phúc, xuân nhớ nhau (1972) Sơn Ca 3: Mừng Giáng Sinh – Tình yêu và thanh bình (1972) Sơn Ca 5: Phương Dung Sơn Ca 6: Giao Linh Sơn Ca 7: Khánh Ly và những tình khúc của Trịnh Công Sơn (1974) Sơn Ca 8: Tiếng hát Sơn Ca (1974) Sơn Ca 9: Lệ Thu và những tình khúc tiền chiến (1974) Sơn Ca 10: Tiếng hát Thái Thanh và ban hợp ca Thăng Long (1975) Sơn Ca 11: Tiếng hát Phương Dung
Quỳnh Giao (1946 – 2014) là một nữ ca sĩ Việt Nam, tên thật là Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, sinh ngày 8 tháng 11 năm 1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế, Việt Nam. Quỳnh Giao sinh ra trong gia đình dòng dõi hoàng tộc ở Huế, là con gái của Minh Trang (tên thật: Nguyễn Thị Ngọc Trâm (1921 – 2010)), nữ danh ca của tân nhạc những năm đầu. Cha là Nguyễn Phước Ưng Quả (1905 – 1951), cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, là người con thứ 11 của vua Minh Mạng và em vua Thiệu Trị và là một học giả uyên bác, từng là Thái tử Thiếu bảo khi dạy học Thái tử Bảo Long, Hiệu trưởng trường Quốc học tại Huế, và Giám đốc Nha học chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp. Năm Quỳnh Giao 5 tuổi, cha của bà qua đời và mẹ bà tái giá với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Tiểu sử Ngay từ bé, với tên thật Đoan Trang, Quỳnh Giao đã hát trên đài Phát thanh Quốc gia Sài Gòn, trong ban Tuổi Xanh của kịch sĩ Kiều Hạnh. Quỳnh Giao cũng từng tốt nghiệp thủ khoa lớp dương cầm và được bà Robin của Trung tâm văn Hóa Pháp, Alliance Française, hướng dẫn về thanh nhạc và opera. Quỳnh Giao thực sự đến với âm nhạc khi 15 tuổi. Đó là năm 1961, bà Minh Trang đang cộng tác với ban Tây Hồ của nhạc sĩ Hoàng Trọng thì mất giọng do căn bệnh hen suyễn nên Quỳnh Giao được mời vào thay thế cho mẹ. Từ đó bà đi hát với nghệ danh Quỳnh Giao và trở thành một ca sĩ quan trọng trong những chương trình ca nhạc của các đài phát thanh Sài Gòn, Quân đội và Tiếng Nói Tự Do trước năm 1975. Trong những năm đầu 1970 Quỳnh Giao cùng với các em gái Vân Quỳnh, Vân Khanh và Vân Hòa thành lập Ban tứ ca Bốn Phương chuyên hát tại vũ trường Ritz và thâu âm cho các trung tâm Băng nhạc Jo Marcel, Phạm Mạnh Cương và Premier. Ngày 24 tháng 4 năm 1975, Quỳnh Giao cùng chồng và con rời Việt Nam sang cư ngụ tại thành phố Annandale, Virginia. Trong thời gian ở Annandale, bà gần như ngưng mọi hoạt động về ca nhạc ngoài việc tiếp tục mở lớp dạy dương cầm và thỉnh thoảng thực hiện vài băng nhạc có tính cách lưu niệm do chính bà tự đàn và hát. Năm 1990, Quỳnh Giao tái giá với chuyên gia kinh tế học Nguyễn Xuân Nghĩa, sau đó bà cùng chồng về sống tại California. Từ đó, bà bắt đầu quay lại với âm nhạc và phát hành nhiều CD thành công như Khúc nguyệt quỳnh, Hành trình Phạm Duy... Quỳnh Giao cũng cùng với các ca sĩ Mai Hương, Kim Tước lập ban Tiếng Tơ Đồng ở hải ngoại và thu được nhiều thành công. Ca sĩ Quỳnh Giao qua đời vào lúc 3 giờ sáng hôm thứ tư ngày 23 tháng 7 năm 2014 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 68 tuổi. Băng nhạc Quỳnh Giao Trong khoảng thời gian từ 1965 đến 1975, Quỳnh Giao cùng với ban Bốn Phương đã thâu âm một số băng nhạc cho các hãng Phạm Mạnh Cương, Jo Marcel, Premier, Tiếng Nhạc Tâm Tình... Quỳnh Giao – Hát cho kỷ niệm 1, 1983 Quỳnh Giao – Còn Thoáng Chiêm Bao, Duyên Anh soạn nhạc, 1986 Quỳnh Giao – Chinh Phụ Ngâm, Cung Tiến soạn nhạc, hát cùng với Kim Tước, Mai Hương và Giàn nhạc thính phòng San José, thâu live ngày 27 tháng 3 năm 1988 Quỳnh Giao – Hát cho kỷ niệm 2, 1988 CD Quỳnh Giao Khúc Nguyệt Quỳnh, 1992 Đêm Tàn Bến Ngự - Tình khúc Dương Thiệu Tước. Cùng Kim Tước, 1995 Tình khúc Văn Cao. Cùng Mai Hương, 1995 Tiếng chuông chiều thu, 1996 Chiều về trên sông, 1997 Ngàn thu áo tím, 1998 Tìm nhau bốn mùa. Cùng Kim Tước, Mai Hương và Duy Trác, 1998 Hành trình Phạm Duy, 1999 Hình ảnh một buổi chiều, 2000 Tình khúc Văn Phụng & Hoàng Trọng, 2001 Thơ tình phổ nhạc, 2002 Hoa xuân, 2003 Tình ca Phạm Duy, 2005 Trở về thôn cũ, 2005 Các bản thâu âm lẻ cho các Chương trình CD: Đoàn Chuẩn, Xuân, Hùng Ca, Giáng Sinh của Trung tâm Mai Ngọc Khánh từ năm 1995 ~ 1998 Các bản thâu âm lẻ cho các Chương trình CD: CD Đưa Người Về Phương Đông-Tình Ca Phạm Anh Dũng phát hành 1993. CD Thiền Ca do Tuấn Khanh soạn nhạc, thơ thiền Tu sĩ Tịnh Liên do Thiền viện Sùng Nghiêm phát hành 2001. CD Lá Rơi Bên Thềm-Ca Khúc Lê Trọng Nguyễn 2006. Chú thích
Trong mật mã học, mã hóa khối (tiếng Anh: block cipher) là những thuật toán mã hóa đối xứng hoạt động trên những khối thông tin có độ dài xác định (block) với những chuyển đổi xác định. Chẳng hạn một thuật toán mã hóa khối có thể xử lý khối 128 bít đầu vào và biến nó thành khối 128 bít ở đầu ra. Quá trình chuyển đổi còn sử dụng thêm một tham số nữa: khóa bí mật để cá biệt hóa quá trình. Việc giải mã cũng diễn ra tương tự: xử lý khối mã hóa 128 bít cùng với khóa để trả về khối 128 bít bản rõ ban đầu. Để mã hóa những văn bản có độ dài vượt quá độ dài của khối, người ta sử dụng thuật toán theo một chế độ mã hóa khối nào đó. Phân biệt với mã hóa khối là mã hóa dòng. Mã hóa dòng làm việc trên từng bít của dòng dữ liệu và quá trình biến đổi thay đổi theo quá trình mã hóa. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa 2 phương pháp nhiều khi không rõ ràng vì mã hóa khối khi hoạt động theo một chế độ nào đó thì có tác dụng như một phương pháp mã hóa dòng. Thuật toán mã hóa khối ra đời sớm và có nhiều ảnh hưởng là thuật toán DES (Data Encryption Standard - Tiêu chuẩn mã hóa dữ liệu) do công ty IBM phát triển và được ban hành làm tiêu chuẩn năm 1977. Tiêu chuẩn thay thế DES có tên là AES (Advanced Encryption Standard - Tiêu chuẩn mã hóa nâng cao) được ban hành năm 2001. Tổng quan Quá trình mã hóa khối bao gồm 2 thuật toán: mã hóa - ký hiệu E và giải mã - ký hiệu E-1. Cả hai thuật toán đều tác động lên một khối đầu vào n bít sử dụng một khóa k bít để cho ra một khối đầu ra n bít. Đối với bất kỳ khóa nào, giải mã là hàm ngược của mã hóa, nghĩa là: trong đó M là khối thông tin và K là khóa bất kỳ. Với mỗi khóa K, EK là một hoán vị (song ánh) của khối đầu vào. Mỗi khóa sẽ xác định một hoán vị trong tổng số khả năng. Độ dài của khối thông tin, ký hiệu là n, thông thường là cố định ở 64 hoặc 128 bít. Một số thuật toán có độ dài khối thay đổi nhưng không phổ biến. Tính đến trước những năm giữa của thập kỷ 1990 thì độ dài 64 bít thường được sử dụng. Từ đó trở về sau thì khối 128 bít được sử dụng rộng rãi hơn. Trong các chế độ mã hóa khối thì người ta thường phải bổ sung thêm một số bít cho văn bản (tiếng Anh: padding) để văn bản chứa số nguyên lần các khối. Mỗi chế độ mã hóa có đặc tính khác nhau về lan truyền lỗi (lỗi mã hóa trong khối này ảnh hưởng tới khối khác), khả năng truy xuất ngẫu nhiên và khả năng chống lại các kiểu tấn công khác nhau. Độ dài thông thường của khóa, k, là 40, 56, 64, 80, 128, 192 và 256 bít. Hiện tại (năm 2006) thì 80 bít là độ dài tối thiểu của khóa để có thể chống lại tấn công kiểu duyệt toàn bộ. Mã hóa khối gồm nhiều quá trình lặp lại Hầu hết các thuật toán mã hóa khối sử dụng lặp đi lặp lại các hàm đơn giản. Phương pháp này còn được gọi là mã hóa khối lặp (xem thêm product cipher). Mỗi chu kỳ lặp được gọi là một vòng (tiếng Anh: round) và thông thường các thuật toán có từ 4 tới 32 vòng. Rất nhiều thuật toán mã hóa khối có tính chất của mạng Feistel, hay tổng quát hơn là hệ thống thế và hoán vị. Các thành phần sử dụng trong thuật toán là các hàm toán học, các hàm lô gíc (đặc biệt là hàm XOR), hộp thế (S-box) và các phương pháp hoán vị. Lịch sử Thuật toán mã hóa Lucifer do công ty IBM phát triển dựa trên những nghiên cứu của Horst Feistel được xem là thuật toán mã hóa đầu tiên dùng cho mục đích dân sự. Sau đó, thuật toán này được sửa đổi và trở thành tiêu chuẩn mã hóa của chính phủ Hoa Kỳ vào năm 1976 với tên gọi là DES (Tiêu chuẩn mã hóa dữ liệu, tiếng Anh: Data Encryption Stardard). Từ đó, DES được sử dụng rất rộng rãi. DES đã được thiết kế chống lại một số dạng tấn công mà Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA) và IBM đã biết vào thời điểm thiết kế. Tuy nhiên, những thông tin này đã không được công bố và chỉ được biết đến vào cuối những năm 1980 nhờ những nghiên cứu của Eli Biham và Adi Shamir. Kỹ thuật đó có tên là tấn công vi sai. Kỹ thuật tấn công tuyến tính là một dạng tấn công khác chỉ được làm sáng tỏ sau xuất bản của Mitsuru Matsui. DES đã tạo nên một làn sóng nghiên cứu trong lĩnh vực mật mã học và thám mã. Từ đó nhiều vấn đề được làm sáng tỏ và nhiều thuật toán mã hóa mới đã ra đời. Khối dữ liệu trong DES có độ dài 64 bít (khối 64 bít trở nên phổ biến sau DES) và độ dài khóa là 56 bít. Độ dài khóa phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó bao gồm cả quy định của chính phủ. Ngay từ những năm 1970, nhiều người đã cho rằng độ dài khóa 56 bít là không đủ an toàn. Cùng với sự phát triển của khả năng tính toán, vấn đề này ngày càng trở nên cấp thiết. Năm 1998, một hệ thống dành riêng cho thám mã DES của tổ chức Electronic Frontier Foundation đã phá được khóa DES trong thời gian hơn 2 ngày. Một số biến thể của DES như Triple DES hay 2TDES có độ dài khóa hiệu dụng 112 và 80 bít vẫn được coi là an toàn vào thời điểm năm 2004. DES được thay thế như là một tiêu chuẩn bởi AES (thuật toán mã hóa nâng cao, tiếng Anh: Advanced Encryption Standard) vào năm 2001 sau một cuộc thi rộng rãi. Tác giả của AES là 2 người Bỉ: Joan Daemen và Vincent Rijmen (lấy tên chung là Rijndael). AES có độ dài khối là 128 bít và khóa có độ dài có thể là 128, 192 hay 256 bít. Chính phủ Hoa Kỳ cho phép sử dụng AES với các thông tin mật do NSA xếp loại. Phá mã Bên cạnh tấn công tuyến tính và vi sai còn có rất nhiều kiểu tấn công khác lên mã hóa khối: tấn công vi sai từng phần (tiếng Anh: truncated and partial differential cryptanalysis), tấn công kiểu XLS, tấn công kiểu bu mê răng (tiếng Anh: boomerang attack)... Để một thuật toán mới được chấp nhận, nó phải được chứng minh có khả năng chống lại các dạng tấn công đã biết. Các hàm băm dựa trên mã hóa khối Các thuật toán mã hóa khối có thể sử dụng theo một số cách để tạo ra hàm băm mật mã. Những phương pháp này tương tự với các chế độ mã hóa khối dùng cho mã hóa Sử dụng mã hóa khối cho hàm băm thường chậm hơn so với dùng các hàm băm chuyên dụng. Tuy nhiên dùng mã hóa khối cho cả hai mục đích (mã hóa và hàm băm) lại tiện lợi vì chỉ phải thực hiện 1 lần. Điều này càng có ý nghĩa cho các hệ thống nhúng (chẳng hạn như thẻ thông minh) do không gian dành cho phát triển phần mềm bị hạn chế. Mã hóa khối với tham số M. Liskov, R. Rivest, và D. Wagner đã mô tả một dạng tổng quát hơn là mã hóa khối với tham số (tiếng Anh:"tweakable" block ciphers). Đầu vào của thuật toán dạng này bên cạnh bản rõ/bản mã và khóa còn có thêm một tham số nữa gọi là tweak. Tweak cùng với khóa sẽ lựa chọn cách hoán vị của thuật toán. Nếu việc thay đổi tweak yêu cầu khối lượng tính toán nhỏ (so với quá trình tạo khóa) thì ta sẽ có thêm một số chế độ hoạt động khác. Xem thêm bài mã hóa ổ đĩa để có thêm thông tin về vấn đề này.
(kanji cổ: 大日本帝國陸軍, kanji mới: 大日本帝国陸軍; romaji: Dai-Nippon Teikoku Rikugun; Hán-Việt: Đại Nhật Bản đế quốc lục quân) thường gọi tắt là Lục quân Nhật, là lực lượng quân sự trên bộ của Đế quốc Nhật Bản từ năm 1868 đến 1945, được kiểm soát bởi Bản bộ Tham mưu và Bộ Lục quân, cả hai đều dưới quyền Thiên hoàng Nhật Bản với tư cách là chỉ huy tối cao của quân đội và Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Sau này, có Tổng giám bộ Hàng không Lục quân trở thành cơ quan thứ ba giám sát quân chủng này. Vào thời kì đỉnh cao, Lục quân Đế quốc Nhật Bản là một trong những lực lượng chính trị mạnh mẽ nhất ở Đế quốc Nhật Bản, đồng thời cũng là nòng cốt thường chiếm ưu thế trên chiến trường. Lục quân Đế quốc Nhật Bản nổi tiếng với vô số tội ác chiến tranh đã gây ra trong Chiến tranh Trung–Nhật và Chiến tranh Thái Bình Dương, chẳng hạn như vụ cưỡng hiếp ở Nam Kinh và cuộc hành quân chết chóc Bataan. Tổ chức Bộ máy chỉ huy Bộ Lục quân, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Lục quân. Bộ Tổng tham mưu, đứng đầu là Tổng Tham mưu trưởng Cục Quân huấn, đứng đầu là Cục trưởng. Trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản, không kể Thiên hoàng, thì 3 vị đứng đầu 3 cơ quan trên là 3 người có vị trí cao nhất. Cục hàng không, Bộ Tư lệnh Cảnh bị Tōkyō, Bộ Tư lệnh Phòng vệ, Bộ Tư lệnh các Căn cứ, Bộ Tư lệnh các Quân khu, Cục Quân giới, v.v... Biên chế Tổng quân (総軍, sōgun): là quy mô đơn vị lục quân lớn nhất, gồm một số phương diện quân và các đơn vị cấp thấp hơn hợp thành. Tư lệnh thường mang hàm đại tướng; Phương diện quân (方面軍, hōmengun): gồm một số đơn vị cấp quân đoàn và các đơn vị cấp thấp hơn hợp thành. Tư lệnh thường mang hàm đại tướng hoặc trung tướng; Quân (軍, gun): khác với biên chế trong quân đội nhiều quốc gia khác, cấp quân trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản không có biên chế cố định, thường gồm một số sư đoàn và các đơn vị cấp thấp hơn hợp thành, có thể xem như có biên chế tương đương quân đoàn. Tư lệnh thường mang hàm trung tướng, tham mưu trưởng thường mang hàm thiếu tướng. Sư đoàn (師団, shidan): là cấp đơn vị nòng cốt của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Ban đầu, tư lệnh thường mang hàm trung tướng; về sau, thường mang hàm thiếu tướng; Lữ đoàn (旅団, ryodan): lúc mới thành lập cấp này, lữ trưởng được quy định mang hàm thiếu tướng; sau đó có điều chỉnh lại, chỉ huy trưởng là đại tá. Liên đội (連隊, rentai): lúc mới thành lập, cấp này có biên chế tương đương cấp trung đoàn, liên đội trưởng bộ binh thường mang hàm đại tá, liên đội trưởng kỵ binh, pháo binh, cơ giới mang hàm trung tá; sau đó có điều chỉnh lại, quy mô chỉ còn tương đương tiểu đoàn; Đại đội (大隊, daitai): thời kỳ đầu, cấp trưởng quan đại đội bộ binh thường mang hàm thiếu tá, sau được điều chỉnh lại. Trung đội (中隊, chutai): một trung đội bộ binh có 136 chiến sĩ; một trung đội kỵ binh có 159 chiến sĩ; Tiểu đội (小隊, shoutai): khoảng 2-4 phân đội hay 20-40 chiến sĩ; Phân đội (分隊, buntai): khoảng 10 chiến sĩ. Các đơn vị được biên chế theo binh chủng: bộ binh, kỵ binh, pháo binh Quân hàm Thời kỳ 1944-1945, Lục quân Đế quốc Nhật Bản có các quân hàm sau, xếp từ cao xuống thấp: Nguyên soái đại tướng (元帥大将, gensui taisho) Đại tướng (大将, taisho) Trung tướng (中将, chusho) Thiếu tướng (少将, shousho) Đại tá (大佐, taisa) Trung tá (中佐, chusa) Thiếu tá (少佐, shousa) Đại úy (大尉, tai-i) Trung úy(中尉, chu-i) Thiếu úy (少尉, sho-i) Chuẩn úy (准尉, jun-i) Tào trưởng (曹長, sōchō) Quân tào (軍曹, gunsō) Ngũ trưởng (伍長, gochō) Binh trưởng (兵長, heichō) Thượng đẳng binh (上等兵, jōtōhei) Nhất đẳng binh (一等兵, ittōhei) Nhị đẳng binh (二等兵, nitōhei'')
[[Tập tin:rhodes0211.jpg|443x443px|thumb|'Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes, được vẽ minh hoạ trong cuốn Book of Knowledge của nhà xuất bản Grolier năm 1911, có lẽ chỉ là tưởng tượng, bởi vì có lẽ bức tượng đó không đứng dạng chân ở cửa cảng]] Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes là một bức tượng vĩ đại của thần Mặt Trời trên đảo Rhodes (Hy Lạp), do Chares xứ Lindos (một nhà điêu khắc Hy Lạp) dựng nên trong khoảng 292 TCN và 280 TCN. Nó khoảng cùng kích thước với Tượng thần tự do ở New York, dù được đặt trên một cái bệ thấp hơn. Bức tượng từng là một trong Bảy kỳ quan thế giới. Quyết định dựng tượng Alexandros Đại đế băng hà khi tuổi còn trẻ năm 323 TCN khi chưa có thời gian lập ra bất kỳ một kế hoạch nào cho người kế vị. Chiến tranh giành quyền lực nổ ra giữa những tướng lĩnh của ông, cuối cùng ba người trong số họ chia nhau phần lớn đế chế của ông tại vùng Địa Trung Hải. Trong thời gian chiến tranh, Rhodes đứng về phía Ptolemaios, và cuối cùng khi Ptolemaios chiếm được quyền kiểm soát Ai Cập, Rhodes và Ai Cập của Ptolemaios lập ra một đồng minh kiểm soát đa số hoạt động thương mại ở miền đông Địa Trung Hải. Một tướng khác của Alexanderos là Monophthalmus phản đối việc đó. Năm 305 TCN, ông cho con trai là Demetrius (lúc ấy là một vị tướng nổi tiếng) tấn công Rhodes với một đội quân 40.000 người. Tuy nhiên, thành phố được phòng ngự vững vàng và Demetrius phải bắt đầu xây dựng một số tháp bao vây nhằm cho quân leo được lên tường thành. Tháp đầu tiên được dựng trên sáu chiếc tàu, và chúng đã bị một cơn bão lật úp trước khi có thể đem ra sử dụng. Ông lại thử lần nữa với một tháp dựng trên mặt đất với kích thước lớn hơn, gọi là Helepolis, nhưng những người lính phòng ngự trong thành phố Rhode đã cho nước chảy tràn ra khu đất trước tường thành khiến tháp này không thể di chuyển được. Năm 304 TCN, một lực lượng viện binh gồm các tàu chiến do Ptolemaios gửi đến đã tới nơi, quân của Demetrius buộc phải nhanh chóng rút chạy, để lại hầu như toàn bộ những trang bị vây hãm của mình. Dù không giành được thắng lợi ở Rhodes, Demetrius đã được đặt tên hiệu là Poliorcetes, "kẻ vây hãm các thành phố", vì ông đã thành công trong việc vây hãm ở nhiều thành phố khác.1 Để ăn mừng thắng lợi, người Rhode quyết định xây dựng một bức tượng vĩ đại cho vị thần bảo hộ mình là Helios (thần Mặt Trời). Việc xây dựng được giao cho Chares, một người sinh ra tại Rhodes và đã từng tham gia vào việc xây dựng các bức tượng to lớn trước đó. Thầy giáo của ông, nhà điêu khắc lừng danh Lysippus, đã dựng nên một bức tượng thần Zeus cao 60 foot. Để có tiền chi trả cho việc xây dựng tượng thần Mặt Trời, người Rhode đã bán toàn bộ các trang bị vây hãm mà Demetrius để lại phía trước thành phố của họ. Xây dựng Những miêu tả thời trước (có khác biệt một chút so với nhau) về bức tượng cho rằng kết cấu của nó dựa trên nhiều cột đá (hay những tháp bằng gạch) bên trong, và đứng trên một bệ bằng cẩm thạch trắng cao 15 mét (50 feet) gần lối vào cảng Mandraki (một số khác cho rằng trên một đê chắn sóng ở cảng). Các xà bằng thép được đặt vào bên trong các tháp, và các tấm đồng được gắn vào các thanh ngang để tạo thành da. Đa số các vật liệu được nấu chảy từ các loại vũ khí mà đội quân của Demetrius bỏ lại, và cái tháp bao vây được dùng làm giàn giáo ở tầng thấp. Những phần phía trên được dựng lên bằng cách dùng một đoạn dốc lớn bằng đất nung. Riêng bức tượng đã cao hơn 34 mét (110 feet). Sau 12 năm, năm 280 TCN, bức tượng vĩ đại được hoàn thành. Phá huỷ Bức tượng chỉ tồn tại trong vòng 56 năm cho tới khi Rhodes phải hứng chịu một trận động đất năm 224 TCN. Bức tượng bị gãy ở phần đầu gối và sụp xuống phần đất liền. Ptolemaios III ra lệnh chi tiền làm lại bức tượng, nhưng một lời sấm đã khiến những người Rhode sợ hãi rằng họ đã xúc phạm đến thần Mặt Trời, và họ không dám xây dựng lại nó. Những phần đổ vỡ của bức tượng tiếp tục nằm trên mặt đất trong hơn 800 năm tiếp theo, thậm chí đã vỡ ra, nhiều du khách đã du lịch tới đó vì ấn tượng khi nhìn thấy. Gaius Plinius Secundus (Pliny the Elder) đã ghi chép rằng rất ít người có thể vòng tay ôm được ngón tay cái và rằng mỗi ngón tay của tượng đã lớn hơn đa số những bức tượng bình thường khác. Năm 654, một lực lượng Ả Rập dưới quyền chỉ huy của Muawiyah I chiếm Rhodes và, theo những nhà sử học Theophanes, những phần còn lại của tượng đã bị đem bán cho một nhà buôn từ Edessa. Ông ta phá vỡ bức tượng và chở những tấm đồng bằng 900 con lạc đà về quê hương. Những mảnh rời đó tiếp tục được đào lên đem bán, sau khi được tìm thấy dọc theo con đường lữ hành. Sự bí ẩn Nhiều bức hoạ cũ (ở trên) cho thấy hình tượng đứng mỗi chân đặt trên một phía của cổng cảng và các con tàu đi qua bên dưới để vào: "... pho tượng đồng thau nổi tiếng của Hy Lạp, mỗi chân đặt trên một phía cảng... " (trong The New Colossus, bài thơ được tìm thấy ở bệ Tượng thần tự do). Nhân vật Cassius của Shakespeare trong kịch Julius Caesar (II,i,136-38) đã nói về Caesar:Why man, he doth bestride the narrow worldLike a Colossus, and we petty menWalk under his huge legs and peep aboutTo find ourselves dishonourable gravesBức tượng thần đứng dạng chân trên cảng chỉ là sự tưởng tượng của người sau này. Thần Mặt Trời ở thời hiện đại Năm 1989, một cấu trúc xây dựng bằng đá trông giống với nắm đấm của con người được tìm thấy ở vùng biển Rhodes. Nó được cho là phần đầu tiên được khám phá ra của bức tượng thần Mặt Trời. Tuy nhiên, sau đó người ta đã xác định nó chỉ là đá và bùn rác đã bị một xe ủi hất xuống biển. Đã từng có nhiều lời bàn cãi về việc có nên xây dựng lại bức tượng hay không. Những người ủng hộ cho rằng điều này sẽ làm bùng nổ lượng khách du lịch tới Rhodes, nhưng những người phản đối nói nó quá tốn kém (hơn 100 triệu euro). Ý kiến này đã nhiều lần được đặt ra từ năm 1970, nhưng vì thiếu hụt tài chính, nên những công việc đó vẫn chưa thực hiện được. Các kế hoạch xây dựng tượng đã được tiến hành từ năm 1998 bởi nghệ sĩ Nikolaos Kotziamanis người Síp-Hy Lạp. Gần đây bức tượng lại một lần nữa được đề cập tới trong bài thơ The New Colossus của Emma Lazarus:Not like the brazen giant of Greek fame,With conquering limbs astride from land to landTrong đoạn mở đầu bài thơ, Lazarus so sánh bức tượng thần Mặt Trời với bức tượng Nữ thần Tự do. Trong phim Hercules của Disney, con quái vật Philoctetes sống trên đảo Rhodes, và có những phần vẫn còn nhìn thấy của bức tượng trên đảo như cái đầu và đôi chân vẫn còn đứng trên bệ. Trong bài thơ The Colossus'', Sylvia Plath đề cập tới tượng thần Mặt Trời ở Rhodes.
Hemoglobin (còn gọi là huyết sắc tố, viết tắt Hb hay Hgb; công thức hóa học: C2952H4664N812O832S8Fe4) là một protein chứa sắt có trong erythrocyte của hầu hết các loài động vật có xương sống (ngoại trừ họ cá Channichthyidae), cũng như mô của một số động vật không xương sống. Hemoglobin trong máu có nhiệm vụ vận chuyển oxy từ các cơ quan hô hấp (phổi hoặc mang) đến các mô khác của cơ thể, nơi nó giải phóng oxy để tạo điều kiện cho quá trình hô hấp hiếu khí giúp tăng cường quá trình trao đổi chất của động vật. Một người khỏe mạnh có từ 12 đến 20 gam hemoglobin trong mỗi 100mL máu. Hemoglobin là một metallicoprotein, là một chromoprotein cũng như là một globulin. Ở động vật có vú, hemoglobin chiếm khoảng 96% trọng lượng khô của hồng cầu (không bao gồm nước) và khoảng 35% tổng trọng lượng (bao gồm cả nước). Các loại hemoglobin Tùy theo sự kết hợp các loại chuỗi globin, có các loại hemoglobin khác nhau: Hemoglobin A (HbA) được tạo thành từ 2 chuỗi alpha (α) và 2 chuỗi beta (β), ký hiệu là α2β2. Đây là hemoglobin tetramer phổ biến nhất ở người, chiếm hơn 97% tổng lượng hemoglobin hồng cầu. Hemoglobin A2 (HbA2) là một biến thể bình thường của hemoglobin A bao gồm 2 chuỗi alpha và 2 chuỗi delta (δ) (α2δ2), chiếm tỷ lệ 2–3,5%. Hemoglobin F (còn gọi hemoglobin bào thai vì nó chiếm tỷ lệ rất cao ở giai đoạn cuối của thai nhi và sơ sinh), có cấu tạo gồm 2 chuỗi alpha và 2 chuỗi gamma (γ) (α2γ2). Một số hemoglobin ở thời kỳ phôi và thời kỳ đầu của bào thai. Hemoglobin Gower I (ζ2ε2 hay HbE Gower-1) gồm 2 chuỗi zeta và 2 chuỗi epsilon, tương đối không ổn định, dễ bị phá vỡ. Hemoglobin Gower II (α2ε2 hay HbE Gower-2) gồm 2 chuỗi alpha và 2 chuỗi epsilon. Hemoglobin Gower II có phần không ổn định, mặc dù không nhiều như hemoglobin Gower 1. Hemoglobin Porland I (ζ2γ2 hay HbE Portland-1) tồn tại ở ngưỡng thấp trong thời kỳ phôi thai và bào thai, gồm 2 chuỗi zeta và 2 chuỗi gamma. Hemoglobin Portland II (ζ2β2 hay HbE Portland-2) tồn tại ở ngưỡng thấp trong thời kỳ phôi thai và bào thai, gồm 2 chuỗi zeta và 2 chuỗi beta. Là một hemoglobin không ổn định, thậm chí còn không ổn định bằng hemoglobin Gower 1, hemoglobin Portland II bị phân hủy rất nhanh khi bị stress.
Jerusalem (phiên âm tiếng Việt: Giê-ru-sa-lem, ; tiếng Do Thái: ירושׁלים Yerushalayim; tiếng Ả Rập: al-Quds, tiếng Hy Lạp: Ιεροσόλυμα Ierosólyma) là một thành phố ở Trung Đông, nằm trên một cao nguyên thuộc dãy núi Do Thái giữa Địa Trung Hải và Biển Chết. Đây là một trong những thành phố lâu đời nhất trên thế giới và được coi là một địa điểm linh thiêng đối với ba tôn giáo chính khởi nguồn từ Abraham - Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Cả Israel và Chính quyền Palestine đều tuyên bố Jerusalem là thủ đô của họ, khi Israel duy trì các thể chế chính phủ chính của mình ở đó và Nhà nước Palestine dự đoán đây sẽ là trung tâm quyền lực của nhà nước này; tuy nhiên, không yêu cầu nào được công nhận rộng rãi trên phạm vi quốc tế . Trong lịch sử lâu dài của mình, Jerusalem đã bị phá hủy ít nhất hai lần, bị bao vây 23 lần, bị bắt và chiếm 44 lần, bị tấn công 52 lần. Một phần của Jerusalem được gọi là Thành phố David cho thấy những dấu hiệu định cư đầu tiên trong thiên niên kỷ thứ 4 TCN, dưới dạng lều trại của những người chăn cừu du mục. Jerusalem được đặt tên là "Urusalim" trên các sách cổ Ai Cập cổ đại, có lẽ có nghĩa là "Thành phố Shalem" theo một vị thần Canaan, trong thời kỳ Canaanite (thế kỷ 14 trước Công nguyên). Trong thời kỳ Israel cổ đại, hoạt động xây dựng quan trọng ở Jerusalem bắt đầu vào thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên (Thời đại đồ sắt II), và vào thế kỷ thứ 8, thành phố đã phát triển thành trung tâm tôn giáo và hành chính của Vương quốc Judah. Năm 1538, các bức tường thành phố được xây dựng lại lần cuối cùng xung quanh Jerusalem dưới thời Suleiman the Magnificent. Ngày nay, những bức tường đó xác định Thành phố Cổ, theo truyền thống được chia thành bốn phần tư được biết đến từ đầu thế kỷ 19 là Khu vực Armenia, Cơ đốc giáo, Do Thái và Hồi giáo. Thành phố cổ này trở thành Di sản Thế giới năm 1981 và nằm trong Danh sách Di sản Thế giới đang bị đe dọa. Kể từ năm 1860, Jerusalem đã phát triển vượt xa ranh giới của Thành phố Cổ. Năm 2015, Jerusalem có dân số khoảng 850.000 cư dân, bao gồm khoảng 200.000 người Do Thái thế tục, 350.000 người Do Thái Haredi và 300.000 người Palestine. Năm 2011, dân số là 801.000, trong đó người Do Thái chiếm 497.000 (62%), Hồi giáo 281.000 (35%), Kitô hữu 14.000 (khoảng 2%) và 9.000 (1%) người không được phân loại theo tôn giáo. Theo Kinh thánh, Vua David đã chinh phục thành phố từ người Jebusite và thiết lập nó trở thành thủ đô của vương quốc Israel, và con trai của ông, Vua Solomon, đã chi tiền xây dựng Đền thờ đầu tiên. Các học giả hiện đại cho rằng người Do Thái tách ra khỏi các dân tộc và văn hóa Canaan thông qua sự phát triển của một tôn giáo độc quyền - và sau đó là độc thần - tập trung vào El/Yahweh, một trong những thần của người Canaan cổ đại. Những sự kiện nền tảng này, diễn ra vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ 1 TCN, cho thấy tầm quan trọng biểu tượng trung tâm của người Do Thái. Biệt danh thành phố linh thiêng (עערררר, phiên âm ' ir haqodesh) có lẽ đã được gắn liền với Jerusalem trong thời kỳ hậu lưu đày. Jerusalem được coi là thành phố Thánh trong Kitô giáo, được bảo tồn trong bản Septuagint mà các Kitô hữu đã nhận là sách riêng của họ, đã được củng cố bởi bản tường thuật Tân Ước về sự đóng đinh của Giêsu ở đó. Trong Hồi giáo Sunni, Jerusalem là thành phố linh thiêng thứ ba, sau Mecca và Medina. Theo truyền thống Hồi giáo, vào năm 610 CE, nó đã trở thành qibla đầu tiên, điểm cầu nguyện của người Hồi giáo (salat), và Muhammad thực hiện Hành trình đêm của mình ở đó mười năm sau, lên thiên đàng, nơi ông nói chuyện với Thiên Chúa, theo Kinh Qur'an. Kết quả là, mặc dù có diện tích chỉ 0.9km2, Thành phố cổ là nơi có nhiều địa điểm có tầm quan trọng tôn giáo, trong đó có Núi Đền với Bức tường phía Tây, Mái vòm Đá và Nhà thờ Hồi giáo al-Aqsa, và Nhà thờ Mộ Thánh. Bên ngoài Thành phố cổ có Lăng mộ Vườn. Ngày nay, vị thế của Jerusalem vẫn là một trong những vấn đề cốt lõi trong cuộc xung đột giữa Palestine và Israel. Trong Chiến tranh Ả Rập Israel năm 1948, Tây Jerusalem là một trong những khu vực bị Israel kiểm soát và sau đó sáp nhập trong khi Đông Jerusalem, bao gồm Thành phố Cổ, bị Jordan chiếm và sau đó bị Jordan sáp nhập. Israel tái kiểm soát được Đông Jerusalem từ Jordan trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967 và sau đó sáp nhập vào Jerusalem, cùng với lãnh thổ xung quanh bổ sung. Một trong những Luật cơ bản của Israel, Luật Jerusalem năm 1980, gọi Jerusalem là thủ đô không thể tách rời của đất nước. Tất cả các chi nhánh của chính phủ Israel đều được đặt tại Jerusalem, bao gồm Knesset (quốc hội của Israel), nơi ở của Thủ tướng (Beit Aghion) và Tổng thống (Beit HaNassi) và Tòa án tối cao. Trong khi cộng đồng quốc tế coi việc sáp nhập là bất hợp pháp và coi Đông Jerusalem là lãnh thổ của Palestine bị Israel chiếm đóng, Israel có yêu sách chủ quyền mạnh mẽ hơn đối với Tây Jerusalem. Tên gọi, từ nguyên Nguồn Ai Cập cổ đại Một thành phố được gọi là Rušalim trong các văn bản ghi tên kẻ thù của Vương quốc Ai Cập (khoảng thế kỷ 19 TCN), với độ phổ biến rộng rãi, được xác định là Jerusalem. Jerusalem được gọi là Urušalim trong các chữ cái Amarna của Abdi-Heba (1330s BCE). Từ nguyên Cái tên "Jerusalem" được nhiều từ khác nhau có nghĩa là "nền tảng (Sumerian yeru, 'khu định cư' / Semitic yry : được tìm thấy, đặt một nền tảng) của vị thần Shalem "; Thần Shalem do đó là vị thần ban đầu của thành phố Thời đại đồ đồng này. Shalim hay Shalem là tên của vị thần hoàng hôn trong tôn giáo Canaan, với tên của họ dựa trên cùng một SLM gốc mà từ này có nghĩa là từ "hòa bình" trong tiếng Do Thái (Salam hoặc Shalom trong tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái hiện đại).Ringgren, H., Die Rel Tôn giáo des Alten Orients (Göttingen, 1979), 212. Do đó, cái tên được đặt cho các từ nguyên như "Thành phố hòa bình", "Nơi trú ngụ của hòa bình", "trú ngụ trong hòa bình" ("an toàn khi trú ngụ"), xen kẽ với "Tầm nhìn hòa bình" trong một số sách của tác giả Kitô giáo. Đuôi -ayim kết thúc mang nghĩa kép, do đó dẫn đến sự gợi ý rằng tên Yerushalayim đề cập đến thực tế là thành phố đầu tiên tọa lạc trên hai ngọn đồi. (see here ) Kinh thánh tiếng Do Thái và nguồn Do Thái Hình thức Yerushalem hoặc Yerushalayim (Jerusalem) lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh thánh, trong Sách Joshua. Theo một người Midrash, cái tên này là sự kết hợp của " Yireh " ("Nơi ở", tên do Abraham đặt cho nơi ông bắt đầu hy sinh con trai mình) và " Shalem " ("Nơi bình yên", do linh mục cao cấp Shem đặt), sau đó hai tên được Thiên Chúa hợp nhất lại. Bản chữ ghi lại cũ nhất Chữ viết trong tiếng Hebrew ngoài Kinh thánh đầu tiên của từ Jerusalem có niên đại vào thế kỷ thứ sáu hoặc thứ bảy TCN Vua Manasseh và sự hy sinh của trẻ em: Những biến dạng trong Kinh thánh về hiện thực lịch sử của Francesca Stavrakopoulou p. 98 và được phát hiện ở Khirbet Beit Lei gần Beit Guvrin năm 1961. Dòng chữ ghi: "Tôi là Yahweh Đức Chúa Trời, tôi sẽ chấp nhận các thành phố của Judah và tôi sẽ cứu chuộc Jerusalem",Ngọn núi của Chúa bởi Benyamin Mazar p. 60 hoặc như các học giả khác đề nghị dịch thành: "Yahweh là Thần của cả Trái Đất. Những ngọn núi của Judah thuộc về Người, thuộc về Thần Jerusalem ".Khám phá Thế giới Kinh Thánh của LaMar C. Berrett p. 178 Jebus, Zion, Thành phố David Một khu định cư cổ xưa của Jerusalem, được thành lập sớm nhất là vào thời đại đồ đồng trên đồi phía trên mùa xuân Gihon, đã theo Kinh Thánh được đặt tên làJebus (ví dụ, Judges 19: 10: יְב֔וּס הִ֖יא יְרוּשָׁלִָ֑ם: "Jebus, nó [là] Jerusalem" ). Được gọi là "Pháo đài Zion" (metsudat Zion), nó được David đổi tên thành Thành phố David, và được biết đến với cái tên này trong thời cổ đại. Một tên khác, " Zion ", ban đầu được gọi là một phần riêng biệt của thành phố, nhưng sau đó được dùng để biểu thị toàn bộ thành phố và đại diện cho vùng đất Thánh của Israel. Tên Hy Lạp, La Mã và Byzantine Trong tiếng Latin Hy Lạp và tên của thành phố đã được phiên âm Hierosolyma (tiếng Hy Lạp: Ἱεροσόλυμα; trong hieròs Hy Lạp, ἱερός, có nghĩa là thánh), mặc dù thành phố được đổi tên thành Aelia Capitolina cho một phần của thời kỳ lịch sử La Mãcủa nó. Salem Apocryphon Aramaic của Genesis of the Dead Sea Scrolls (1QapGen 22:13) đánh đồng Jerusalem với "Salem" trước đó (שלם), được cho là vương quốc Melchizedek trong Genesis 14:18. Các nguồn gốc tiếng Hebrew khác, kết xuất Kitô giáo đầu tiên của câu và targumim,, đưa Salem ở Bắc Israel gần Shechem (hoặc Sichem), nay là Nablus, một thành phố có tầm quan trọng trong văn bản tiếng Hebrew thời kỳ đầu. Có thể người điều khiển Apocryphon của Genesis muốn tách Melchizedek khỏi khu vực của Shechem, lúc đó đang thuộc quyền sở hữu của người Samari. Tuy nhiên, có thể, các nguồn Rabbinic sau này cũng đánh đồng Salem với Jerusalem, chủ yếu để liên kết Melchizedek với các truyền thống Đền thờ sau này. Tên tiếng Ả Rập Trong tiếng Ả Rập, Jerusalem là phổ biến nhất được gọi là , phiên âm là al-Quds và có nghĩa là "Thành phố linh thiêng" hoặc "Thánh địa". Chính sách của chính phủ Israel bắt buộc rằng , Phiên âm như Ūršalīm, đó là cùng nguồn gốc của tên tiếng Hebrew và tiếng Anh, được sử dụng như tên tiếng Ả Rập cho thành phố kết hợp với . . Các gia đình Ả Rập Palestine đến từ thành phố này thường được gọi là " Qudsi " hoặc " Maqdisi ", trong khi những người theo đạo Hồi giáo Palestine có thể sử dụng những thuật ngữ này như một tên gọi dân cư. Lịch sử Jerusalem có lịch sử lâu dài, Theo truyền thuyết Do Thái, Vua David hậu duệ của tổ phụ Abraham, đã chinh phục thành phố này từ người Jebusite. Theo những đồ vật khảo cổ học đã được tìm thấy, sự định cư tại Jerusalem bắt đầu tồn tại từ 3 nghìn năm trước Công Nguyên. Theo những nguồn tin tức lịch sử, thành phố được nhắc đến lần đầu tiên vào những năm 2 nghìn trước Công Nguyên. Lúc đầu, thành phố được xây dựng và sáng lập nên bởi người Canaanite (có thể, nhưng cũng không nhất thiết phải là người Jebusite, người đã chiếm giữ thành phố cuối thời kỳ đồng thiếc) và trở thành thủ đô các vương quốc và thực thể: Vương quốc Israel thống nhất, Vương quốc Judah và Judea trong thời kỳ Đền thờ Thứ nhất và thời kỳ Đền thờ Thứ hai. Thành phố tiếp tục giữ vai trò quan trọng là thủ phủ của Đất Thánh trong thời kỳ thống trị của người Hồi giáo. Jerusalem là thành phố linh thiêng nhất của Do Thái giáo, và có ý nghĩa đặc biệt với Cơ Đốc giáo và Hồi giáo. Từ năm 1948 đến 1967, phần phía tây của Jerusalem được quản lý bởi Israel như thủ đô của đất nước, trong khi phía Đông Jerusalem được quản lý bởi Jordan. Thành phố hợp nhất lại bởi thắng lợi của Israel trong Chiến tranh sáu ngày, mặc dù địa vị của thành phố vẫn bị tranh chấp. Luật của Israel từ năm 1980 tuyên bố Jerusalem như thủ đô vĩnh viễn, không bị chia cách của Israel, trong khi Đông Jerusalem lại được cho là thủ đô đang được chờ đợi của đất nước Palestina sau này. Địa vị của những nơi linh thiêng trong thành phố cũng đang bị tranh cãi. Với số dân 704.900 (từ ngày 31 tháng 12 năm 2004), Jerusalem là thành phố không đồng nhất, tiêu biểu cho nhiều loại dân tộc, tôn giáo và những nhóm kinh tế xã hội. Khu vực được gọi là "Thành phố cổ" được bao vây bởi bức tường thành và bao gồm bốn khu: Hồi giáo, Kitô giáo, Do Thái, và Armenia. Thị trưởng hiện giờ của Jerusalem là Nir Barkat. Tư cách chính trị Tư cách quốc tế Trong khi cộng đồng quốc tế xem Đông Jerusalem, bao gồm toàn Phố Cổ, như một phần của các vùng lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng, không phải phần nào, phần phía Tây hoặc Đông Jerusalem, được công nhận như là một phần của lãnh thổ của Israel hoặc Nhà nước Palestine. Theo Kế hoạch phân vùng của Liên Hợp Quốc cho Palestine thông qua tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào năm 1947, Jerusalem đã được dự kiến ​​sẽ trở thành một corpus separatum (thực thể tách biệt) được quản lý bởi Liên Hợp Quốc. Trong cuộc chiến tranh năm 1948, phần phía tây của thành phố bị chiếm đóng bởi lực lượng của nhà nước non trẻ của Israel, trong khi phần đông bị chiếm đóng bởi Jordan. Cộng đồng quốc tế chủ yếu là xem xét tình trạng pháp lý của Jerusalem để lấy được từ kế hoạch phân vùng, và tương ứng từ chối công nhận chủ quyền của Israel trên thành phố. Tình trạng dưới sự quản lý của Israel Sau năm 1967 chiến tranh sáu ngày, Israel đã mở rộng thẩm quyền và điều hành của mình trên Đông Jerusalem, thiết lập biên giới thành phố mới. Trong năm 2010, Israel thông qua luật cho Jerusalem tình trạng ưu tiên quốc gia cao nhất ở Israel. Luật này ưu tiên việc xây dựng trong thành phố, và cung cấp các khoản tài trợ và lợi ích về thuế cho cư dân để làm nhà ở, cơ sở hạ tầng, giáo dục, việc làm, kinh doanh, du lịch, và các sự kiện văn hóa giá cả phải chăng hơn. Bộ trưởng Tài chính Moshe Kahlon nói rằng dự luật gửi "một thông điệp chính trị rõ ràng, dứt khoát rằng Jerusalem sẽ không được chia", và rằng "tất cả những người trong cộng đồng Palestine và quốc tế những người mong đợi chính phủ Israel hiện để chấp nhận bất cứ nhu cầu liên quan đến chủ quyền của Israel hơn của nó vốn là sai lầm và gây hiểu nhầm ". Tư cách của thành phố, và đặc biệt là thánh địa của mình, vẫn còn là một vấn đề cốt lõi trong cuộc xung đột Israel-Palestine. Chính phủ Israel đã thông qua kế hoạch xây dựng trong khu phố Hồi giáo của thành phố cũ để mở rộng sự hiện diện của người Do Thái ở Đông Jerusalem, trong khi một số nhà lãnh đạo Hồi giáo đã tuyên bố rằng người Do Thái không có kết nối lịch sử với Jerusalem, cáo buộc rằng bức tường phía Tây 2500 tuổi được xây dựng như là một phần của một nhà thờ Hồi giáo. Người Palestine coi Jerusalem là thủ đô của Nhà nước Palestine, và biên giới của thành phố đã là chủ đề của các cuộc đàm phán song phương. Một nhóm các chuyên gia đã nhóm họp lúc đó, Thủ tướng Israel Ehud Barak trong năm 2000 kết luận rằng thành phố phải được phân chia, do Israel đã không đạt được bất kỳ mục tiêu quốc gia của mình ở đó. Tuy nhiên, Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu cho biết vào năm 2014 rằng "Jerusalem sẽ không bao giờ bị chia cắt". Một cuộc thăm dò được tiến hành trong tháng 6 năm 2013 cho thấy 74% người Do Thái Israel bác bỏ ý tưởng của một thủ đô của Palestine ở bất cứ phần nào của Jerusalem, mặc dù 72% công chúng coi nó như là một thành phố chia cắt. Một cuộc thăm dò được tiến hành bởi Trung tâm Palestine cho dư luận và Mỹ Pechter Trung Đông thăm dò ý kiến ​​của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, giữa những người dân Ả Đông Jerusalem vào năm 2011 cho thấy 39% người dân Ả Rập Đông Jerusalem sẽ thích có quốc tịch Israel so với 31% người chọn quyền công dân Palestine. Theo thăm dò, 40% cư dân Palestine sẽ thích được ở lại các khu phố của họ nếu họ sẽ được đặt dưới sự cai trị của người Palestine. Jerusalem là thủ đô Thủ đô của Israel Ngày 05 tháng 12 năm 1949, Thủ tướng đầu tiên của Israel, David Ben-Gurion, đã tuyên bố Jerusalem là thủ đô của Israel, và từ đó tất cả các nhánh của chính quyền Israel từ lập pháp, tư pháp và hành pháp-được đóng ở đó, ngoại trừ Bộ Quốc phòng đóng ở HaKirya ở Tel Aviv. Tại thời điểm công bố, Jerusalem đã được phân chia giữa Israel và Jordan và do đó chỉ có Tây Jerusalem đã được tuyên bố thủ đô của Israel. Vào tháng 7 năm 1980, Israel đã thông qua Luật Jerusalem là Luật cơ bản. Luật tuyên bố Jerusalem là thủ đô "hoàn chỉnh và thống nhất" của Israel. "Luật cơ bản: Jerusalem, thủ đô của Israel" là một lý do quan trọng đối với cộng đồng quốc tế không công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 478 trên 20 tháng 8 năm 1980, trong đó tuyên bố rằng Luật cơ bản là "một sự vi phạm luật pháp quốc tế", là "vô giá trị và phải được hủy bỏ ngay lập tức". Các nước thành viên đã được kêu gọi rút đại diện ngoại giao của họ khỏi Jerusalem. Sau nghị quyết, 22 trong số 24 quốc gia mà trước đó đã có Đại sứ quán tại (Tây) Jerusalem chuyển chúng ở Tel Aviv, nơi mà nhiều đại sứ quán đã cư trú trước khi Nghị quyết 478. Costa Rica và El Salvador tiếp vào năm 2006. Hiện nay, không có đại sứ quán nằm trong giới hạn thành phố Jerusalem, mặc dù có bốn lãnh sự trong thành phố. Năm 1995, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật Đại sứ quán Jerusalem, yêu cầu, với điều kiện, mà đại sứ quán của nó được chuyển từ Tel Aviv đến Jerusalem. Tuy nhiên, Tổng thống Hoa Kỳ đã lập luận rằng các nghị quyết của Quốc hội về tình trạng của Jerusalem chỉ là tư vấn. Hiến pháp bảo lưu quan hệ đối ngoại như một quyền hành pháp, và như vậy, Đại sứ quán Hoa Kỳ vẫn là ở Tel Aviv. Do không công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel, một số báo chí phi Israel sử dụng Tel Aviv là một hoán dụ cho Israel. Ngày 6 tháng 12 năm 2017, tổng thống Mỹ Donald Trump chính thức công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel. Thủ đô của Palestine Palestine xem Đông Jerusalem là lãnh thổ bị chiếm đóng theo Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc 242. Chính quyền Palestine tuyên bố Jerusalem, bao gồm cả Haram al-Sharif, là thủ đô của Nhà nước Palestine, PLO tuyên bố rằng Tây Jerusalem cũng tuỳ thuộc vào cuộc đàm phán tình trạng vĩnh viễn. Tuy nhiên, nó đã tuyên bố họ sẽ sẵn sàng xem xét các giải pháp thay thế, chẳng hạn như làm Jerusalem là một thành phố mở. Vị trí hiện tại của PLO là Đông Jerusalem, theo định nghĩa của ranh giới đô thị trước năm 1967, sẽ là thủ đô của Palestine và Tây Jerusalem là thủ đô của Israel, với mỗi nhà nước được hưởng đầy đủ chủ quyền đối với một phần tương ứng của thành phố và với riêng của mình đô thị. Một hội đồng phát triển chung sẽ chịu trách nhiệm phát triển phối hợp. Một số nhà nước, như Nga và Trung Quốc, công nhận nhà nước Palestine với Đông Jerusalem là thủ đô của nó. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc Nghị quyết 58/292 khẳng định rằng những người Palestine có quyền chủ quyền đối với Đông Jerusalem. Nhân khẩu học Thành phố kết nghĩa Jerusalem là thành phố kết nghĩa với: : Thành phố New York, Hoa Kỳ (từ 1993) Hình ảnh Ghi chú Chú thích Tài liệu khác Cheshin, Amir S.; Bill Hutman and Avi Melamed (1999). Separate and Unequal: the Inside Story of Israeli Rule in East Jerusalem Harvard University Press ISBN 978-0-674-80136-3 Cline, Eric (2004) Jerusalem Besieged: From Ancient Canaan to Modern Israel. Ann Arbor: University of Michigan Press ISBN 0-472-11313-5. Collins, Larry, and La Pierre, Dominique (1988). O Jerusalem! Simon and Shuster, N.Y. ISBN 0-671-66241-4 Gold, Dore (2007) The Fight for Jerusalem: Radical Islam, The West, and the Future of the Holy City International Publishing Company J-M, Ltd. ISBN 978-1-59698-029-7 Köchler, Hans (1981) The Legal Aspects of the Palestine Problem with Special Regard to the Question of Jerusalem Vienna: Braumüller ISBN 3-7003-0278-9 The Holy Cities: Jerusalem produced by Danae Film Production, distributed by HDH Communications; 2006 Wasserstein, Bernard (2002) Divided Jerusalem: The Struggle for the Holy City New Haven and London: Yale University Press. ISBN 0-300-09730-1
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (gọi ngắn gọn là Đội) là một tổ chức dành cho thiếu niên nhi đồng hoạt động tại Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ngày 15 tháng 5 năm 1941, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng và được Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách. Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh được dựa trên nền tảng hoạt động của Phong trào Thiếu niên Tiền phong tại các quốc gia Cộng sản. Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh lấy 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng làm mục tiêu phấn đấu rèn luyện cho đội viên, giúp đỡ thiếu nhi trong học tập, hoạt động, vui chơi, thực hiện quyền và bổn phận theo Công ước quốc tế về Quyền Trẻ em, Luật Trẻ em. Lịch sử Ngày 26 tháng 3 năm 1931, Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết thành lập tổ chức Đoàn Thanh niên và giao cho Đoàn phụ trách thiếu nhi. Ngày 15 tháng 5 năm 1941: Đội Nhi đồng Cứu quốc đầu tiên được thành lập tại thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng và được coi là thành viên của Mặt trận Việt Minh. Đội đã hoạt động theo Điều lệ của Mặt trận Việt Minh với nội dung "Dự bị giúp đánh Tây, đánh Nhật để làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập". Vào ngày thành lập, 05 Đội viên đầu tiên của Đội là Nông Văn Dền (Bí danh Kim Đồng, đội trưởng), Nông Văn Thàn (Bí danh Cao Sơn), Lý Văn Tịnh (Thanh Minh), Lý Thị Nì (Thủy Tiên), Lý Thị Xậu (Thanh Thủy). Người phụ trách Đội đầu tiên là Đức Thanh. Giữa năm 1950, hai tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong và Đội Nhi đồng cứu Quốc sáp nhập lại làm một và lấy tên chung là Đội Thiếu nhi cứu quốc. Tháng 3 năm 1951, Đội Thiếu nhi cứu quốc được đổi tên thành Đội Thiếu nhi Tháng Tám Tháng 11 năm 1956, Đội Thiếu nhi Tháng Tám được đổi tên thành Đội Thiếu niên Tiền phong và từ ngày 19 tháng 3 năm 1960 các em nhi đồng được tổ chức vào Đội Nhi đồng Tháng Tám. Ngày 30 tháng 1 năm 1970, thể theo nguyện vọng của thiếu nhi cả nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết trao cho Đội được mang tên Bác Hồ. Từ đó đến nay, Đội được mang tên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn hoạt động Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là trường học giáo dục thiếu nhi Việt Nam trong và ngoài nhà trường, là đội dự bị của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; lực lượng nòng cốt trong các phong trào thiếu nhi. Các biểu trưng của Đội Cờ Đội: nền đỏ, hình chữ nhật, chiều rộng bằng 2/3 chiều dài. Ở giữa có hình huy hiệu Đội, đường kính huy hiệu bằng 2/5 chiều rộng cờ. Cờ Đội tượng trưng cho truyền thống cách mạng, truyền thống Đội, tượng trưng cho lòng yêu Tổ Quốc, niềm vinh dự và tự hào của Đội. Dưới cờ Đội hàng ngũ sẽ chỉnh tề hơn, thúc giục đội viên tiến lên. Mỗi chi đội và liên đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh đều có cờ Đội. Chiều rộng cờ bằng 2/5 chiều dài cán cờ. Huy hiệu Đội: hình tròn, ở trong có hình măng non trên nền cờ đỏ sao vàng, ở dưới có băng chữ "SẴN SÀNG". Nền đỏ sao vàng là cờ Tổ Quốc, Măng non tượng trưng cho lứa tuổi thiếu niên là thế hệ tương lai của dân tộc Việt Nam. Băng chữ "SẴN SÀNG" là khẩu hiệu hành động của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đội viên đeo huy hiệu Đội nhằm nhắc nhở đội viên học tập và rèn luyện để sẵn sàng kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Bác Hồ. Khăn quàng đỏ: hình tam giác cân, có đường cao bằng 1/4 cạnh đáy. Khăn quàng đỏ là một phần cờ Tổ quốc, màu đỏ tượng trưng cho lý tưởng cách mạng. Đeo khăn quàng đỏ, đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tự hào về Tổ quốc, về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Bác Hồ, về nhân dân Việt Nam và nguyện phấn đấu để trở thành Đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đội viên đeo khăn quàng đỏ khi đến trường học, trong mọi sinh hoạt và hoạt động của Đội. Đội ca: bài hát Cùng nhau ta đi lên, do nhạc sĩ Phong Nhã sáng tác. Khẩu hiệu Đội: Đội viên Đội viên Đội TNTP Hồ Chí Minh là thiếu niên Việt Nam từ 9 đến hết 15 tuổi thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, phấn đấu học tập, rèn luyện và tu dưỡng để trở thành đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Lời hứa của đội viên 1. Thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng. 2. Tuân theo Điều lệ Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. 3. Giữ gìn danh dự Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Quyền của đội viên 1. Được Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh giúp đỡ để phát huy năng lực trong học tập, hoạt động, vui chơi, công tác xã hội. 2. Được Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình theo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Điều lệ Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. 3. Được sinh hoạt Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, bàn bạc và quyết định các công việc của Đội. Được ứng cử, đề cử, bầu cử vào Ban Chỉ huy liên đội, chi đội. Đội viên hết tuổi Đội, chi đội làm lễ trưởng thành Đội. Nhiệm vụ của đội viên 1. Thực hiện Điều lệ, Nghi thức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Chương trình Rèn luyện đội viên. 2. Thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy để trở thành con ngoan, trò giỏi, đội viên tốt, Cháu ngoan Bác Hồ, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. 3. Làm gương tốt cho thiếu niên, nhi đồng; giúp đỡ thiếu niên và nhi đồng trở thành đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Tích cực tham gia công tác Nhi đồng. Nhi đồng Nhi đồng từ 6 đến 8 tuổi là lớp dự bị của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Nhi đồng sinh hoạt theo Sao, mỗi Sao Nhi đồng có số lượng tối thiểu 5 em, trong đó có 1 trưởng Sao. Sao nhi đồng do liên đội thành lập. Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh giúp đỡ nhi đồng thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng, xứng đáng là con ngoan, trò giỏi, bạn tốt và trở thành đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng Vào năm 1961, nhân Lễ kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam (15 tháng 5 năm 1941 - 15 tháng 5 năm 1961), theo đề nghị của Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư cho thiếu niên, nhi đồng. Nội dung trong thư đã trở thành một trong các nội dung của điều lệ hoạt động của Đội: Dùng làm mục tiêu: "Phấn đấu rèn luyện cho đội viên, giúp đỡ đội viên phát triển mọi khả năng trong học tập, hoạt động, vui chơi, thực hiện quyền và bổn phận theo luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em. Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh đoàn kết, hợp tác với các tổ chức, phong trào thiếu nhi ở khu vực và thế giới vì những quyền của trẻ em, vì hòa bình, hạnh phúc của các dân tộc." Khăn quàng đỏ Khăn quàng đỏ là biểu tượng và đồng phục của đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đó là một tấm vải màu đỏ, hình tam giác cân, thường từ vải bông, lụa, valise hoặc vải voan và được xem là một phần của cờ Tổ quốc. Khăn quàng đỏ được thắt lên cổ áo đồng phục của đội viên theo một quy tắc nhất định. Khăn quàng đỏ còn là biểu tượng của Chủ nghĩa Cộng sản. Khăn quàng đỏ được Đội viên mang trong tất cả các hoạt động của Đội. Co cấu tổ chức của Đội Hội đồng Đội Hội đồng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh các cấp đại diện cho tổ chức Đội, do Ban Chấp hành Đoàn cùng cấp lập ra và giúp Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Hệ thống tổ chức của Hội đồng Đội gồm 4 cấp: Cấp xã. Cấp huyện. Cấp tỉnh. Cấp Trung ương. Cấp cơ sở Cấp cơ sở của Đội là liên đội và chi đội. Tổ chức cơ sở Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh được thành lập trong trường học và ở địa bàn dân cư. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ Đoàn, Đội; Cung, Nhà thiếu nhi, Trung tâm hoạt động thanh thiếu nhi và các hoạt động tập thể của Đội được thành lập các liên đội, chi đội tạm thời để tổ chức các hoạt động theo Điều lệ và Nghi thức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Chi đội được thành lập khi có từ 3 đội viên trở lên. Chi đội có từ 9 đội viên trở lên có thể chia thành các phân đội (mỗi phân đội có ít nhất 3 đội viên). Liên đội được thành lập khi có từ 2 chi đội trở lên. Việc thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể chi đội, liên đội trong nhà trường hoặc ở địa bàn dân cư do cấp bộ Đoàn hoặc Hội đồng Đội cấp xã ra quyết định. Hội đồng Đội Trung ương Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn Hội đồng Đội Trung ương Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là cơ quan do Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lập ra và lãnh đạo; với chức năng tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Ban Thường vụ Trung ương Đoàn chỉ đạo, hướng dẫn Hội đồng Đội các cấp về công tác Đội và phong trào thiếu nhi; thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng; phối hợp với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, các lực lượng xã hội, các tổ chức quốc tế trong công tác xây dựng Đội và tham gia thực hiện Công ước của Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em, Luật  bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Hội đồng Đội Trung ương là cơ quan giúp Ban Bí thư, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn thẩm định và quyết định các chương trình, nội dung tài liệu nghiệp vụ, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phụ trách và chỉ huy Đội để ban hành thống nhất trong cả nước. Chức năng - Tham mưu cho Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đoàn Trung ương Đoàn về công tác Đội và phong trào thiếu nhi; thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Hội đồng Đội Trung ương tham mưu cho Trung ương Đoàn thực hiện nhiệm vụ đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em. - Chỉ đạo và hướng dẫn Hội đồng Đội cấp dưới tổ chức thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ của Đoàn về công tác Đội, phong trào thiếu nhi, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng. - Phối hợp với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, các lực lượng xã hội, các tổ chức quốc tế trong công tác xây dựng Đội và tham gia thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Luật Trẻ em, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến trẻ em. Nhiệm vụ - Phụ trách công tác tổ chức và hoạt động của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, phát triển phong trào thiếu nhi theo đường lối của Đảng và chủ trương của Đoàn. - Nghiên cứu, đề xuất với Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Trung ương Đoàn những chủ trương công tác Đội và phong trào thiếu nhi, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng, chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng xã hội, định hướng quá trình hình thành nhân cách cho các em từ tuổi nhi đồng; đổi mới hình thức sinh hoạt Đội, hoạt động thiếu nhi phù hợp với các loại hình trường, lớp và địa bàn dân cư - Xây dựng kế hoạch, biện pháp tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Trung ương Đoàn về công tác Đội và phong trào thiếu nhi; chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện điều lệ Đội, nghiệp vụ đối với Hội đồng Đội cấp dưới và nội dung phương hướng hoạt động của hệ thống các Cung, Nhà Thiếu nhi, Trung tâm hoạt động thanh thiếu nhi, trường Đội, điểm vui chơi dành cho trẻ em, hướng dẫn thiếu niên, nhi đồng đoàn kết, giúp đỡ nhau thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em. - Tổng kết, phổ biến, áp dụng những mô hình tiên tiến, phù hợp về công tác Đội và phong trào thiếu nhi. Báo cáo tình hình công tác Đội, phong trào thiếu nhi và hoạt động của Hội đồng Đội với Ban Chấp hành Đoàn Trung ương Đoàn. - Phối hợp với các Ban chức năng, các cơ quan nghiệp vụ của Đoàn để thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đội và phong trào thiếu nhi, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng. - Đại diện Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tham gia các tổ chức liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. - Liên kết với các ngành, đoàn thể để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đội và sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. - Tham gia giám sát việc chấp hành pháp luật về trẻ em, chủ động đưa ra những kiến nghị cần thiết đối với các cơ quan Nhà nước hữu quan để thực hiện nhiệm vụ đó; góp phần ngăn ngừa và xử lý các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của thiếu nhi. - Quan hệ với các tổ chức thiếu nhi, các tổ chức trong nước và quốc tế vì sự phát triển của trẻ em. - Tham gia giám sát và đưa ra những kiến nghị đối với Ban Chấp hành Đoàn và các cơ quan Nhà nước trong việc đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện cơ chế, chính sách cho đội ngũ Giáo viên làm tổng phụ trách Đội và cán bộ phụ trách Đội trên địa bàn dân cư. Quyền hạn - Ban hành các văn bản, hướng dẫn thực hiện chương trình công tác Đội và phong trào thiếu nhi theo chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn. - Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ công tác Đội và phong trào thiếu nhi của Ban Chấp hành Đoàn, Hội đồng Đội và tổ chức Đội cấp dưới. - Tổ chức các hội nghị, đại hội, liên hoan, gặp mặt của thiếu nhi, cán bộ phụ trách, các lực lượng tình nguyện vì trẻ em và hệ thống Cung, Nhà thiếu nhi, Trung tâm hoạt động thanh thiếu nhi. - Đề nghị các cấp, các ngành và Đoàn Thanh niên tuyên dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác Đội và phong trào thiếu nhi; công tác bảo vệ, chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng; Quy định và thực hiện các hình thức khen thưởng của tổ chức Đội theo hướng dẫn của Hội đồng Đội Trung ương. - Kiến nghị, đề xuất với các cơ quan Nhà nước, các ngành, đoàn thể xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; chăm lo các hoạt động của tổ chức Đội và thiếu nhi. Đại diện bảo vệ quyền lợi, ngăn ngừa và kháng nghị những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của thiếu nhi. - Định kỳ tổ chức, kiểm tra việc triển khai thực hiện các chủ trương của Đoàn về công tác Đội và phong trào thiếu nhi; tham gia giám sát việc thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Luật Trẻ em. - Giúp Ban Thường vụ Đoàn Trung ương Đoàn phối hợp với Ban Thường vụ Đoàn cấp dưới quản lý chức danh chủ tịch Hội đồng Đội cấp dưới trực tiếp. - Quyết định chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công tác Đội cho đội ngũ cán bộ phụ trách và cán bộ chỉ huy Đội; nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm công tác Đội và phong trào thiếu nhi. - Hội đồng Đội Trung ương là cơ quan giúp Ban Bí thư, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn thẩm định và quyết định các chương trình, nội dung tài liệu nghiệp vụ, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phụ trách và chỉ huy Đội để ban hành thống nhất trong cả nước. - Giúp Ban Thường vụ Đoàn Trung ương Đoàn theo dõi, hướng dẫn và chỉ đạo hệ thống các trung tâm hoạt động thiếu nhi, các cung, nhà thiếu nhi, điểm vui chơi dành cho trẻ em. - Thay mặt cho tổ chức Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong mối quan hệ với các tổ chức quốc tế có liên quan tới trẻ em. Chủ tịch Hội đồng Đội Trung ương Chủ tịch Hội đồng Đội Trung ương phải là Bí thư Trung ương Đoàn: Lê Thanh Đạo (1981 - 1987) - Khóa I Phùng Ngọc Hùng (1988 - 1992) - Khóa II Phạm Phương Thảo (1992 - 1994) - Khóa III Hoàng Bình Quân (1994 - 1997) - Khóa III Đào Ngọc Dung (1997 - 2005) - Khóa IV, V Nguyễn Lam (2005 - 2008) - Khóa V Nguyễn Thị Hà (2008 - 2014) - Khóa VI, VII Nguyễn Long Hải (2014 - 2018) - Khóa VII Nguyễn Ngọc Lương (2018 - 2022) - Khóa VIII Nguyễn Phạm Duy Trang (2022 - nay) - Khoá VIII Thường trực Hội đồng Đội Trung ương khóa VIII Chủ tịch: Nguyễn Phạm Duy Trang - Bí thư Trung ương Đoàn Phó Chủ tịch Thường trực: Lê Hải Long - Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đoàn, Trưởng ban Công tác Thiếu nhi Trung ương Đoàn Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Hà - Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Ngô Thị Minh - Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Lê Anh Quân - Phó Trưởng Ban Công tác thiếu nhi Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Huấn luyện Trung ương
Lực đẩy Archimedes (hay lực đẩy Ác-si-mét) là lực tác động bởi một chất lưu (chất lỏng hay chất khí) lên một vật thể nhúng trong nó, khi cả hệ thống nằm trong một trường lực của Vật lý học (trọng trường hay lực quán tính). Lực vật lý học này có cùng độ lớn và ngược hướng của tổng lực mà trường lực tác dụng lên phần chất lưu có thể tích bằng thể tích vật thể chiếm chỗ trong chất này. Lực này được đặt tên theo Archimedes, nhà bác học người Hy Lạp đã khám phá ra nó. Lực đẩy Archimedes giúp thuyền và khí cầu nổi lên, là cơ chế hoạt động của sự chìm nổi của tàu ngầm hay cá, và đóng vai trò trong sự đối lưu của chất lưu. Sự nổi Nếu thả một vật ở trong lòng chất lỏng thì: Vật chìm xuống khi lực đẩy Archimedes nhỏ hơn trọng lượng FA < P Vật nổi khi: FA > P và dừng nổi khi FA = P Vật lơ lửng trong chất lỏng (trong lòng chất lỏng hoặc trên mặt thoáng) khi FA = P Vậy nói một cách dễ hiểu, vật sẽ nổi khi "trọng lượng riêng tổng hợp" của nó nhỏ hơn trọng lượng riêng của nước. Điều này có thể lý giải việc tàu to và nặng gấp nhiều lần so với kim lại có thể nổi. Kim tuy nhẹ nhưng thể tích chiếm nước nhỏ nên trọng lượng riêng sẽ lớn còn tàu tuy nặng nhưng thể tích chiếm nước rất lớn do đó "trọng lượng riêng tổng hợp" sẽ nhỏ. Kết cấu thân vỏ tàu là kết cấu vỏ có khung gia thường làm bằng thép. Về một khía cạnh nào đó bên trong lớp tôn vỏ tàu hoàn toàn "rỗng" dẫn đến thể tích chiếm nước lớn. Trọng lượng tàu luôn thay đổi nên "trọng lượng riêng tổng hợp" cũng luôn thay đổi theo. Khi ta chất hàng vào tàu, tàu sẽ chìm dần ứng với công thức bên trên. Nếu ta chất quá nhiều hàng, tàu chìm đến mức mà nước sẽ tràn vào chiếm chỗ các không gian trong các kết cấu vỏ rỗng, các khoang, các két, một mặt làm tăng trọng lượng tàu, một mặt làm giảm thể tích chiếm nước kết quả là "trọng lượng riêng tổng hợp" tăng và giá trị này lớn hơn trọng lượng riêng của nước. Nói cách khác - tàu đang chìm. Tất cả các phân tích trên đây chỉ đúng khi đảm bảo giả thuyết tàu ổn định, không nghiêng, không chúi. Các ví dụ Khi thả một vật xuống nước, trên bề mặt Trái Đất, nếu vật có trọng lượng riêng nhẹ hơn trọng lượng riêng của nước thì nó sẽ nổi lên trên mặt nước, do trọng lực của vật kéo nó xuống nhỏ hơn lực đẩy Archimedes nên vật nổi hoàn toàn. Trạng thái cân bằng đạt được khi lực đẩy Archimedes bằng trọng lực của vật, và vật chiếm một thể tích trong nước nhỏ hơn tổng thể tích của nó. Nếu khối lượng riêng của vật này nặng hơn nước thì nó sẽ chìm xuống, do lực đẩy Archimedes lớn nhất có được khi vật chìm hoàn toàn cũng không đủ thắng trọng lực tác dụng vào vật. Công thức tính lực đẩy Ác-si-mét Lực Ác si mét xuất hiện từ tác dụng của áp suất chất lỏng (hay khí) trên bề mặt vật thể. Công thức cho tổng lực áp suất: FA = d.V - P - áp suất trên bề mật vật thể (N/m2) Hàm P cho chất lỏng tĩnh: P(z) = ρl g z + P0 - ρl - tỉ trọng chất lỏng (kg/m3) - g - hấp dẫn (m/s2) - z - độ sâu dưới bề mặt chất lỏng (m) - P0 - áp suất trên bề mặt chất lỏng (N/m2) (áp suất thuộc độ sâu). Áp dụng định luật Guass biến đổi cộng thức này thành: FA = ∬ P n dS = ∭ ∇P dV = ∭ ρl g dV k = ρl g V k - dV - miếng thể tích vật thể (m3) - V - thể tích vật thể (m3) - k - vectơ đơn vị hướng z Đây là kết quả lực đẩy Ác-si-mét bằng tích của tỉ trọng của chất lỏng nhân thể tích bị vật chiếm chỗ. Phương pháp ở trên có thể dùng cho trường chất lỏng tỉ trọng không đều như 2+ chất lỏng khác nhau (ví dụ cục sắt nổi trên thủy ngân dưới nước) hay chất lỏng đổi tỉ trọng tùy áp suất. Phân tích nâng cao Lực đẩy không xem xét sức căng bề mặt (lực mao dẫn) tác động lên vật. Hơn nữa, lực đẩy Archimedes không áp dụng được trong chất lỏng phức tạp. Có một ngoại lệ đối với nguyên tắc của Archimedes được gọi là trường hợp dưới cùng (hoặc bên). Điều này xảy ra khi một bên của vật chạm vào đáy (hoặc bên) của tàu mà nó bị ngập trong nước, và không có chất lỏng nào thấm vào dọc theo bên đó. Trong trường hợp này, lực đẩy ròng là khác với lực đẩy Archimedes, do thực tế là do không có chất lỏng nào thấm vào bên đó, nên sự đối xứng của áp lực đã bị phá vỡ.
Kimi Räikkönen (tên đầy đủ Kimi Matias Räikkönen, phát âm IPA: ; sinh ngày 17 tháng 10 năm 1979 tại Espoo, Phần Lan), biệt danh Ice Man, là tay đua Công thức 1 người Phần Lan. Raikkonen từng vô địch mùa giải 2007. Mùa giải 2021, Raikkonen thi đấu cho đội đua Alfa Romeo. Sự nghiệp Những năm đầu Raikkonen có một chuỗi thành tích khá ấn tượng tại các giải karting từ năm 10 tuổi. Từ năm 15 tuổi, Raikkonen bắt đầu tham gia các giải đua bên ngoài lãnh thổ Phần Lan. Năm 1998, Raikkonen về nhất giải Nordic Championship tổ chức ở Na Uy. Từ năm 1999, Raikkonen chính thức chọn con đường đua xe chuyên nghiệp, bắt đầu bằng giải đua European Formula Ford. Cuối năm 1999, anh sang Anh thi đấu. Anh đã vô địch giải đua Mùa đông Formula Renault UK Winter 1999. Sang năm 2000, anh tiếp tục vô địch giải Formula Renault UK. Tổng cộng trong hai năm đua chuyên nghiệp đầu tiên của mình (1999 và 2000) Raikkonen tham gia 23 chặng đua, giành được 13 chiến thắng. Sauber (2001) Quá ấn tượng trước thành tích tuyệt vời của Kimi, Peter Sauber (ông chủ của đội F1 Sauber) đã cho anh chạy thử xe F1 vào tháng 9 năm 2000 ở trường đua Mugello. Để tránh sự soi mói của các đối thủ, đội đua Sauber đã gọi Raikkonen bằng mật danh Eskimo. Sau đó Raikkonen tiếp tục tham gia hai đợt thử xe khác ở trường đua Jerez và trường đua Catalunya và được Sauber ký hợp đồng chính thức để tham gia F1 mùa giải 2001. Tuy nhiên, bản hợp đồng này gây ra nhiều tranh cãi bởi anh không có nhiều kinh nghiệm đua thể loại xe bánh hở như các tay đua cùng tuổi. Những người phản đối cho rằng không nên cấp bằng đua F1 cho một tay đua còn thiếu kinh nghiệm, mới chỉ tham gia 23 chặng đua như Raikkonen. Tuy vậy Kimi vẫn được cấp bằng và anh đã đập tan mọi lời phê bình bằng việc ghi điểm ngay trong lần ra mắt đầu tiên tại GP Úc 2001 với vị trí thứ sáu. Sau đó anh tiếp tục ghi được điểm ở 3 chặng đua ở Áo, Canada và Anh. Tổng kết mùa giải F1 đầu tiên trong sự nghiệp, Raikkonen ghi được 9 điểm, xếp thứ 10 chung cuộc. Đến lúc này thì Raikkonen lại trở thành một cái tên được nhiều đội đua săn đón. Đội đua Mclaren, với sự thuyết phục của Mika Hakkinen (đồng hương Phần Lan của Raikkonen) đã thành công trong việc chiêu mộ Raikkonen để thay thế cho chính Hakkinen, người đã quyết định giải nghệ sau khi mùa giải 2001 kết thúc. McLaren (2002-2006) Năm 2002, một lần nữa Raikkonen gây ấn tượng mạnh ngay ở chặng đua đầu tiên cho đội đua mới. Anh đã có lần đầu tiên trong sự nghiệp lên podium ở chặng đua GP Úc. Ở chặng đua GP Pháp, Raikkonen có cơ hội chiến thắng nhưng lại bị trượt do vết dầu loang từ một chiếc xe khác, nên đã bị Michael Schumacher vượt, sau cùng chỉ về nhì. Ngoài ra thì đây là một mùa giải mà chiếc xe Mclaren gặp rất nhiều trục trặc khiến cho Raikkonen phải bỏ cuộc rất nhiều lần. Chỉ có 6 lần Raikkonen hoàn thành cuộc đua, với vị trí thấp nhất là P4. Toàn mùa giải, anh xếp thứ sáu với 24 điểm. Năm 2003, Raikkonen bắt đầu mùa giải với 1 thành tích cực kỳ ấn tượng, lên bục podium 5 trên 6 chặng đua đầu tiên, trong đó có chiến thắng đầu tiên trong sự nghiệp tại Malaysia. Mùa giải này Raikkonen trở thành tay đua cạnh tranh chức vô địch với Michael Schumacher. Cuối cùng anh giành ngôi Á quân với 2 điểm kém hơn, một phần do anh bỏ cuộc nhiều hơn đối thủ (Raikkonen bỏ cuộc 3 lần, Schumacher bỏ cuộc 1 lần). Lần bỏ cuộc đáng tiếc nhất là ở chặng đua GP Châu Âu, đây cũng là chặng đua đầu tiên trong sự nghiệp mà Raikkonen xuất phát ở vị trí pole. Trong cuộc đua chính, Raikkonen cũng bảo vệ được vị trí dẫn đầu cho đến khi bị hư động cơ ở vòng 25. Một chặng đua đáng nhớ khác của Raikkonen ở mùa giải này là GP Brasil. Ở cuối cuộc đua chính, Raikkonen đã vượt được Giancarlo Fisichella để có vị trí dẫn đầu. Nhưng gần như cùng lúc đó thì xảy ra một tai nạn nghiêm trọng liên quan đến Fernando Alonso và Mark Webber ở nhóm sau khiến cho cuộc đua phải kết thúc sớm. Theo quy định thì kết quả chính thức được tính ở vòng chạy trước khi Raikkonen vượt Fisichella nên Raikkonen chỉ xếp thứ hai ở chặng đua này. Năm 2004 là một mùa giải thất vọng của Raikkonen. Anh phải bỏ cuộc ở 3 chặng đua đầu tiên của mùa giải đều vì lý do bị hư động cơ. Phải đến chặng đua thứ 11 ở GP Anh Raikkonen mới có lần đầu tiên trong mùa giải lên bục podium. Ở cuối mùa giải, Raikkonen có chiến thắng ngoạn mục ở chặng đua GP Bỉ dù chỉ xuất phát từ vị trí thứ 10. Raikkonen kết thúc mùa giải 2004 ở vị trí thứ bảy, 45 điểm và 4 podium Năm 2005 Raikkonen lần thứ hai đua tranh danh hiệu vô địch, lần này là với Fernando Alonso. Do khởi đầu mùa giải không tốt, nên Raikkonen là người phải bám đuổi Alonso. Raikkonen có kết quả rất tốt ở giai đoạn cuối mùa giải nhưng không thể lật đổ được tay đua người Tây Ban Nha, lần thứ hai nhận giải Á quân. Ở 4 chặng đua đầu tiên, Raikkonen chỉ có 1 lần lên podium ở Bahrain nhưng lại có đến 2 lần không ghi được điểm nào ở Malaysia và San Marino. Đến chặng đua thứ năm-GP Tây Ban Nha, Raikkonen có lần đầu tiên trong sự nghiệp chiến thắng pole-to-win. Anh tái lập thành tích này ở chặng sáu-GP Monaco. Raikkonen tiếp tục là tay đua dẫn đầu ở chặng bảy-GP Châu Âu. Đáng tiếc là ở vòng chạy cuối cùng, chiếc xe của anh lại bị hỏng nên để mất chiến thắng quan trọng vào chính tay đối thủ Fernando Alonso. Chặng tám-GP Canada thì ngược lại, Alonso phạm sai lầm tông rào khi đang dẫn đầu, Raikkonen tận dụng cơ hội để giành chiến thắng. Sau đó cả Raikkonen và Alonso (cùng các tay đua sử dụng lốp Michelin) đều không tham gia đua chính chặng chín-GP Mỹ. Trong số 7 chặng đua cuối cùng của mùa giải, Raikkonen giành được 4 chiến thắng và 2 lần về nhì. Nổi bật nhất là chiến thắng chặng đua GP Nhật Bản, nơi anh chỉ xuất phát từ vị trí thứ 17, đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử F1. Nhưng như đã nêu ở trên, điều đó là không đủ để ngăn cản Fernando Alonso lên ngôi vô địch. Năm 2006, Mclaren lại khủng hoảng. Cả ba tay đua của họ (bao gồm cả Raikkonen) đã không giành được một chiến thắng nào. Từ giữa mùa giải, Mclaren đã phải thay thế tay đua chính thức Juan Pablo Montoya bằng tay đua dự bị Pedro De la Rosa. Với Raikkonen, kết quả tốt nhất trong mùa giải này của anh chỉ là 2 lần về nhì ở Úc và Italia. Ferrari lần một (2007—2009) Sau Grand Prix Italia năm 2006, Ferrari thông báo đã ký hợp đồng ba năm 2007-2009 với Räikkönen. Hợp đồng này biến Räikkönen trở thành tay đua được trả lương cao nhất làng F1, với mức lương cơ bản 51 triệu dollar Mỹ mỗi năm. Ở Ferrari anh làm đồng đội với tay đua Brazil Felipe Massa., Đoạt chức vô địch năm 2007 Räikkönen khởi đầu mùa giải tại Australia với vị trí pole, lập được vòng nhanh nhất và trở thành tay đua đầu tiên sau Nigel Mansell hồi năm 1989 giành chiến thắng ngay ở Grand Prix đầu tiên với Ferrari. Đây là lần đầu tiên trong sự nghiệp anh giành hat-trick: pole, vòng nhanh nhất và chiến thắng. Ở Grand Prix Malaysia năm 2007 Räikkönen bị Lewis Hamilton vượt ngay ở pha xuất phát và chỉ về đích vị trí thứ 3. Tại Bahrain Grand Prix năm Chặng đua GP Bahrain 2007, Räikkönen xuất phát ở vị trí thứ 3 nhưng bị tay đua người Tây Ban Nha của đội McLaren Fernando Alonso vượt qua, cuối cùng anh một lần nữa lại về đích ở vị trí thứ 3. Sau chặng đua này Raikkonen, Alonso và Hamilton cùng có được 22 điểm, chia sẻ 3 vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng tổng. Tại Grand Prix Tây Ban Nha Räikkönen phải bỏ cuộc khi cuộc đua chỉ còn 10 vòng nữa vì lỗi hệ thống điện. Sự cố này khiến anh rơi xuống vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng cá nhân, sau người đồng đội Felipe Massa. Trong cuộc đua phân hạng tại Monaco Grand Prix năm Chặng đua GP Monaco 2007 Räikkönen lao vào một barrier khiến hệ thống treo phía trước bên phải hư hỏng. Anh xuất phát ở vị trí 16 và về đích thứ 8. Tại Canada Räikkönen xếp hạng xuất phát thứ 4 và về đích thứ 5. . Tại Grand Prix Hoa Kỳ, Räikkönen xuất phát thứ 4 và về đích thứ 4 nhưng đã lập được thành tích vòng chạy nhanh nhất. Sau chặng này thì anh tạm thời đứng thứ 4, kém người dẫn đầu Lewis Hamilton 26 điểm Tại Pháp Räikkönen xuất phát thứ 3, và đã vượt qua được Hamilton ngay ở góc cua đầu tiên của cuộc đua. Sau đó anh vượt được đồng đội Felipe Massa bằng pit-stop và giành thắng lợi thứ 2 trong mùa giải. Đây chiến thắng 1-2 đầu tiên của Ferrari trong mùa giải 2007. Raikkonen tiếp tục giành chiến thắng ở chặng đua Grand Prix Anh. Hai chiến thắng liên tiếp giúp cho Raikkonen thu hẹp khoảng cách với Hamilton xuống còn 18 điểm. European Grand Prix là lần thứ hai trong mùa giải anh giành pole. Ngay ở vòng 1 trời đã đổ mưa khiến cho rất nhiều tay đua phải vào pit để thay sang lốp mưa, trong đó có Raikkonen. Tuy nhiên anh lại để mất lái ngay trước cổng pit nên buộc phải chạy thêm một vòng nữa nên để tụt hạng rất sâu. Đến vòng 35 Raikkonen phải bỏ cuộc vì chiếc xe bị hư hệ thống thủy lực. Do Hamilton cũng không ghi được điểm nào nên khoảng cách giữa 2 người được giữ nguyên là 18 điểm. Ở chặng đua Hungary Grand Prix, Raikkonen phân hạng đứng thứ 4 nhưng sau đó đã được đôn lên thứ 3 do Alonso bị phạt. Trong cuộc đua Räikkönen đã vượt Nick Heidfeld ngay khi xuất phát và gây áp lực lên Lewis Hamilton cho tới khi cán đích ở vị trí thứ hai, do đó đã bị đối thủ nới rộng khoảng cách lên thành 20 điểm. Tại Thổ Nhĩ Kỳ anh xuất phát thứ 3. Trong ngày đua anh vượt qua Hamilton ở góc cua đầu tiên để có vị trí thứ hai, và giữ vị trí này tới cuối cuộc đua, sau đồng đội Felipe Massa. Đây là chiến thắng 1-2 thứ hai của Ferrari trong mùa giải. Hamilton chỉ về đích thứ 5 nên khoảng cách được thu hẹp xuống còn 16 điểm. Ở GP Italia, Raikkonen xuất phát ở vị trí thứ 5, trong cuộc đua chính anh một lần nữa vượt được Nick Heidfeld ở pha xuất phát, để leo lên vị trí thứ 4. Sau khi Felipe Massa phải bỏ cuộc anh có được vị trí thứ 3 sau hai tay đua Mclaren. Một lần nữa khoảng cách 18 điểm với Hamilton lại được tái lập. Tại trường đua sở trường Spa-Francorchamps Räikkönen có lần thứ 3 trong mùa giành pole. Sau xuất phát suôn sẻ, anh dần nới rộng khoảng cách 5 giây với Massa, và 20 giây với các tay đua McLaren, qua đó thẳng tiến giành thắng lợi thứ 4 trong mùa. Lúc này khoảng cách với Hamilton chỉ còn 13 điểm. Nó lại được nới rộng thành 17 điểm sau chặng đua ở Fuji Speedway. Đây là một cuộc đua mưa nữa và Hamilton đã chiến thắng còn Raikkonen chỉ về ba. Hamilton sau đó phạm sai lầm nghiêm trọng, phải bỏ cuộc ở chặng đua Grand Prix Trung Quốc, Raikkonen đã tận dụng tối đa cơ hội, giành được chiến thắng để thu hẹp khoảng cách xuống còn 7 điểm trước chặng đua cuối cùng của mùa giải. Raikkonen bước vào chặng đua cuối cùng Grand Prix Brazil năm 2007 với vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng cá nhân sau hai tay đua của Mclaren. Ở chặng này, Raikkonen xuất phát từ vị trí thứ ba sau người đồng đội Felipe Massa (pole) và Hamilton. Ở pha xuất phát Räikkönen vượt được Hamilton để vươn lên vị trí thứ hai. Massa do đã đã hết hi vọng giành chức vô địch cá nhân nên đã chơi đồng đội, để cho Räikkönen vượt ở lần vào pit thứ hai. Räikkönen từ đó thẳng tiến về đích và giành chiến thắng. Trong khi đó Hamilton có một cuộc đua vô cùng vất vả, chỉ về đích thứ 7. Nhờ đó mà Raikkonen có một pha ngược dòng ngoạn mục, đoạt chức vô địch với chỉ 1 điểm nhiều hơn Hamilton và Alonso. Sau chặng đua này, xuất hiện cáo buộc những chiếc xe của Nico Rosberg, Robert Kubica và Nick Heidfeld không tuân thủ các quy định về nhiên liệu nên các trọng tài đã phải tiến hành điều tra. Nếu họ bị kết tội và bị hủy kết quả thì sẽ làm thay đổi kết quả cuộc đua chính, Hamilton sẽ được đôn từ vị trí thứ bảy lên thứ ba. và sẽ giành lại chức vô địch. Tuy nhiên, sau cùng thì trọng tài không xử phạt tay đua nào, kết quả vẫn được giữ nguyên và Räikkönen chính thức giành chức Vô địch cá nhân năm 2007, Mclaren đã khiếu nại quyết định này nhưng không thành công.. Năm 2008, Raikkonen có kết quả rất tốt ở đầu mùa giải. Trong 5 chặng đầu tiên thì anh giành được 2 chiến thắng ở GP Malaysia và GP Tây Ban Nha, thêm 2 lần lên podium ở GP Bahrain và GP Thổ Nhĩ Kỳ. Thành tích đó giúp cho Raikkonen tạm vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng cá nhân sau 5 chặng. Tuy nhiên chuỗi 2 chặng không ghi điểm liên tiếp ở Monaco và Canada khiến cho Raikkonen bị dần tụt lại sau người đồng đội Massa. Và cho đến cuối mùa giải Raikkonen cũng không giành được thêm chiến thắng nào, chấp nhận đứng sau Massa (và nhà vô địch Lewis Hamilton). Năm 2009, Raikkonen cùng đồng đội Massa không thể ghi điểm ở 3 chặng đua đầu tiên của mùa giải. Đến chặng đua thứ sáu ở Monaco, Raikkonen là người mang về podium đầu tiên trong mùa giải cho Ferrari. Kể từ khi Massa phải nghỉ thi đấu vì chấn thương (ở chặng đua Hungary), Raikkonen là chủ lực ghi điểm của Ferrari. Anh có chuỗi 4 lần lên podium liên tiếp ở GP Hungary, GP Châu Âu, GP Bỉ và GP Italia, trong số đó podium ở Bỉ là một chiến thắng. Tạm nghỉ F1 để đua Rally (2010-2011) Trong hai năm 2010 và 2011, Raikkonen tham gia giải đua World Rally Championship. Anh xếp thứ 10 chung cuộc ở cả hai mùa giải nhưng không giành được chiến thắng nào. Bên cạnh đó Raikkonen cũng thử sức ở giải Nascar Mỹ. Lotus (2012-2013) Năm 2012, Raikkonen tìm được suất đua chính F1 ở đội đua Lotus. Anh không mất nhiều thời gian để làm quen trở lại với chiếc xe F1, đã lên podium ngay ở chặng đua thứ tư (GP Bahrain). Cho đến cuối mùa giải, Raikkonen có thêm 6 lần lên podium nữa, nổi bật nhất là chiến thắng chặng đua GP Abu Dhabi với câu radio nổi tiếng 'hãy để tôi một mình, tôi biết tự biết phải làm gì'. Năm 2013, Raikkonen có chiến thắng ngay ở chặng đua mở màn GP Úc và có phong độ rất tốt ở nửa đầu mùa giải. Ở nửa cuối mùa giải, Raikkonen phải bỏ cuộc hai lần ở GP Bỉ và GP Abu Dhabi. Anh cũng không tham gia hai chặng đua cuối cùng do bị chấn thương ở lưng. Ferrari lần hai (2014-2018) Năm 2014, Raikkonen trở lại Ferrari và đua cho đội đua này trong suốt 5 năm. Ở lần trở lại này, Raikkonen đã bị hai đồng đội là Fernando Alonso và Sebastian Vettel lất lướt. Cơ hội chiến thắng đầu tiên của Raikkonen là ở chặng đua GP Monaco 2017 nơi anh đã giành pole, song lại để mất chiến thắng vào tay Vettel do chiến thuật của Ferrari. Ở GP Singapore 2017, Vettel và Raikkonen cùng với Max Verstappen đã tông nhau ở pha xuát phát. Năm 2018 là mùa giải đỉnh cao cuối cùng của Raikkonen, anh nhiều lần lên podium và đã giành được chiến thắng cuối cùng trong sự nghiệp ở chặng đua GP Mỹ. Trước đó ở chặng đua GP Anh, ở giai đoạn xuất phát thì Raikkonen có tình huống tông vào đuôi xe Lewis Hamilton và bị phạt 10 giây. Vì đã bỏ lỡ cơ hội chiến thắng trước khán giả nhà nên Hamilton đã rất bức xúc nói Ferrari cố tình dàn xếp để Raikkonen gây tai nạn hòng làm lợi cho đồng đội Vettel (là người chiến thắng cũng là người cạnh tranh danh hiệu vô địch với Hamilton ở mùa giải 2018), sau đó thì hai bên mau chóng giảng hòa. Alfa Romeo (2019-2021) Năm 2019, Raikkonen trở lại đội đua đầu tiên của mình là Sauber, lúc này đã được đổi tên thành Alfa Romeo. Anh là chủ lực ghi điểm của đội đua này với kết quả tốt nhất là vị trí thứ 4 ở chặng đua GP Brasil. Năm 2020, do động cơ Ferrari suy yếu khiến cho Alfa Romeo và Kimi Raikkonen bị ảnh hưởng theo. Cả mùa giải, anh chỉ có 2 lần ghi điểm (đều về 9 ở GP Tuscan và GP Emilia Romagna). Tình hình của mùa giải 2021 cũng không khả quan hơn. Raikkonen còn không thể tham gia hai chặng đua GP Hà Lan và GP Italia do bị nhiễm COVID-19. Anh cũng thông báo quyết định giải nghệ sau khi hoàn thành mùa giải 2021. Cuộc sống cá nhân Räikkönen từng kết hôn với cựu Hoa hậu Scandinavia người Phần Lan Jenni Dahlman vào ngày 31 tháng 7 năm 2004, họ chưa có con và đã ly dị vào năm 2014. Ngày 7 tháng 8 năm 2016, Raikkonen lần thứ hai lập gia đình, lần này là với người mẫu Minna-Mari "Minttu" Virtanen. Hai người có hai con, một trai sinh năm 2015 và một gái sinh năm 2017. Thời còn trẻ, Raikkonen có lối sống tự do theo phong cách playboy, anh hâm mộ cố tay đua F1 James Hunt một phần do ông cũng có lối sống này, tuy nhiên sau khi có con thì Raikkonen thực sự trở thành mẫu người đàn ông của gia đình. Các sở thích của Räikkönen gồm trượt tuyết, hockey trên băng. Anh cũng thích chạy nhiều loại xe khác nhau như Snowmobile hay Motorcross. Thống kê thành tích * Mùa giải đang diễn ra Kết quả ở giải đua Công thức 1 * Mùa giải đang diễn ra.
Huyện tự trị dân tộc Dao Hà Khẩu (; Tiếng Cáp Nê: ) là một huyện cửa khẩu của Trung Quốc nằm gần biên giới với Việt Nam, thuộc Châu tự trị dân tộc Cáp Nê, Di Hồng Hà, phía nam của tỉnh Vân Nam, giáp biên giới với tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Huyện có diện tích 1.313 km² và có 80.000 dân (thống kê năm 2002), được biết đến nhiều nhất như là huyện có đường xe lửa từ Côn Minh đến Hà Nội. Hành chính Huyện lị là thị trấn Hà Khẩu (Hà Khẩu trấn), nhìn sang thành phố Lào Cai của Việt Nam qua sông Nậm Thi. Huyện Hà Khẩu gồm 2 trấn và 4 hương, là các hương trấnː Liên Hoa Than (ghềnh Liên Hoa, 莲花滩乡), Dao Sơn (瑶山乡), Lão Phạm Trại (老范寨乡), Hà Khẩu (河口镇), Nam Khê (南溪镇), Kiều Đầu (桥头乡). Lịch sử Năm Điều Lộ thứ nhất (679), vua Cao Tông nhà Đường lập ra An Nam đô hộ phủ, đất huyện Hà Khẩu ngày nay thuộc An Nam đô hộ phủ thời đó. Vùng đất huyện Hà Khẩu châu Hồng Hà, một phần Kim Bình châu Hồng Hà và một phần huyện Mã Quan (châu Văn Sơn) ngày nay là là động Thất Quán (七綰洞), thuộc Lâm Tây Nguyên (林西原, Cao nguyên Lâm Tây, ngày nay là tỉnh Lào Cai Việt Nam). Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu chép rằngː "Lâm Tây nguyên ở phía tây Phong Châu, bên cạnh Lâm Tây Nguyên có động Thất Quán của người dân tộc thiểu số mà thủ lĩnh là Lý Do Độc (李猶獨), bộ thuộc có thêm các động như động Đào Hoa (桃花), tất cả đều giúp Trung Quốc canh phòng và thu thuế nơi biên ải với Nam Chiếu. Đường thư chép: Lâm Tây Nguyên trước có binh lính canh phòng cả vào mùa đông. Vào năm Đại Trung thứ tám (854) (thời vua Đường Tuyên Tông), Lý Trác, giữ chức đô hộ An Nam, đã bãi bỏ binh lính biên phòng và giao hết việc phòng biên cho thổ tù Lý Do Độc. Lý Do Độc ở vào thế cô lập không có đủ quân để canh phòng. Nhân đó, viên Thác Đông tiết độ sứ nước Nam Chiếu dụ dỗ mua chuộc ông ta theo về Nam Chiếu. Từ đó, An Nam bắt đầu bị Nam Chiếu xâm lấn. Tân Đường Thư chép rằngː An Nam Đô hộ phủ cai trị quản lĩnh châu Lâm Tây (林西州). Châu này có 2 huyện làː Lâm Tây và Cam Quất (甘橘)." Động Đào Hoa về sau có thể là ải Lê Hoa, tức ải Liên Hoa, nằm trên biên giới Đại Việt và Trung Hoa, nay là hương Liên Hoa Than (Ghềnh Liên Hoa) của huyện Hà Khẩu. Cam Quất có thể là đất thị xã Cam Đường tỉnh Lào Cai Việt Nam ngày nay. Sách Tân Đường thư cũng chépː "An Nam Đào Lâm nhân giả, cư Lâm Tây nguyên, Thất Quán động thủ lĩnh Lý Do Độc chủ chi, tuế tuế thú biên。Lý Trác chi tại An Nam, dã tấu bãi phòng đông binh lục thiên nhân, vị Do Độc khả đương nhất đội, át man chi nhập。Man tù dĩ nữ thê Do Độc tử, Thất Quán động cử phụ man, Vương Khoan bất năng chế。" . Dịch nghĩa làː Một người gốc Đào Lâm (桃林) ở An Nam, sống ở Lâm Tây Nguyên (林西原), là chúa Lý Do Độc (李由獨), thủ lĩnh của động Thất Quán (七綰洞), canh gác biên giới hàng năm. Lý Trác (李琢) cũng ở An Nam, tuyên bố rút bỏ 6000 binh lính phòng biên mùa đông, và bảo với Lý Do Độc hãy dùng đội thổ binh duy nhất thuộc quyền để mà kiềm chế sự xâm nhập của Nam Chiếu. Vua Nam Chiếu kết thông gia với Lý Do Độc. Độc đem toàn bộ động Thất Quán theo về Nam Chiếu, mà Vương Khoan (王寬) không thể kiểm soát được. (Vương Khoan làm đô hộ An Nam năm 861). Đại Việt sử ký tiền biên viết: "... Người Đào Lâm, Phong Châu, An Nam ở động Thất Quán [thuộc] Lâm Tây Nguyên, do thủ lĩnh Lý Do Độc làm chủ, hàng năm vẫn đóng thú biên giới gọi là phòng thủ binh, lại thường giúp Trác [thu] nộp tô thuế. Viên tri châu Phong Châu nói với Trác hãy xin bãi quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc phòng giữ. Trác tâu xin bãi 6 nghìn người ở phòng thú binh và bảo Do Độc có thể tương đương một đội. Thế là Do Độc thế cô không tự lập được. Quan Thác đông tiết độ của Nam Chiếu viết thư mời Do Độc, rồi đem gả con gái cho con trai Độc, bổ làm Thác đông Thác nha (Thác đông là nói sẽ khai thác biên giới phía đông. Giao Chỉ ở phía đông Nam Chiếu cho nên đặt chức ấy). Từ đó An Nam bắt đầu có mối lo về người Man [Nam Chiếu]." Đất Hà Khẩu ngày nay, thuộc động Thất Quán thời kỳ (854-860) cũng theo về sáp nhập vào Thác Đông tiết độ sứ (拓東節度使) của Nam Chiếu. Năm 860, Mông Thế Long lên ngôi vua Nam Chiếu sửa quốc hiệu thành Đại Lễ quốc (大禮國), và chia đôi Thác Đông tiết độ. Nửa phía Nam của Thác Đông tiết độ sứ, tiếp giáp An Nam đô hộ phủ của Đại Đường, lập thành Thông Hải đô đốc (通海都督). Đất Hà Khẩu cũng theo Thất Quán động thuộc vào Thông Hải đô đốc, nằm trên vùng biên giới đông nam của Nam Chiếu với An Nam. Lần thứ hai, đất huyện Hà Khẩu được cho là thuộc lãnh thổ An Nam nhưng là An Nam Quốc, tức Đại Việt của Việt Nam, sớm nhất có thể là từ thời nhà Lý - Vương quốc Đại Lý (khoảng năm 1014-1037) và muộn nhất là thời nhà Minh - Nhà Lê trung hưng (khoảng năm 1644-1660). Đại Việt sử ký toàn thư chépː "Vào năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ tư (1013), mùa đông, tháng 10 âm lịch, châu Vị Long (渭龍) liên kết với man Nam Chiếu (vương quốc Đại Lý) nổi dậy chống nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ tự dẫn quân đi đánh châu này. Thủ lĩnh châu Vị Long là Hà Yến Tuấn (何晏俊) sợ hãi, dẫn các thuộc hạ chạy vào rừng núi… Vào năm Giáp Dần niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (1014, tức năm Đại Trung Tường Phủ thứ bảy nhà Tống), mùa xuân, tháng Giêng âm lịch, các tướng nước Đại Lý là Dương Trường Huệ (楊長惠), Đoàn Kính Chí (段敬至) dẫn 200000 quân Đại Lý vào cướp phá lãnh thổ Đại Cồ Việt, lập doanh trại ở bến Kim Hoa (金華步), đặt tên là Ngũ Hoa trại (五花寨). Châu mục châu Bình Lâm (平林) là Hoàng Ân Vinh (黃恩榮) đã báo cáo vụ việc cho nhà Lý. Vua sai Dực Thánh Vương (翊聖王) đưa quân đi đánh quân Đại Lý xâm lược, chặt đầu hàng nghìn người và bắt sống vô số binh lính và ngựa chiến. Vua ban chiếu cho các viên ngoại lang là Phùng Chân (馮真) và Lý Thạc (李碩) sang nước Tống báo tin thắng trận, và đem biếu 100 ngựa thu được của quân Đại Lý. Vua Tống ban chiếu cho nơi sở tại đưa các sứ nước Việt đến cửa khuyết và đón tiếp đầy đủ. Khi đến nơi, vua Tống cho mời đoàn của Phùng Chân vào yết kiến tại cung Sùng Đức, rồi theo thứ bậc ban thưởng mũ, áo, vải lụa… Vào năm Ất Mão, niên hiệu Thuận Thiên thứ sáu (1015), mùa xuân, … tháng 2 âm lịch, … Vua ban chiếu cho Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương (武德王) đi đánh các châu Đô Kim (都金), Vị Long (渭龍), Thường Tân (常新), Bình Nguyên (平原) , bắt được thủ lĩnh Hà Yến Tuấn đem về kinh sư, bêu đầu ở chợ Đông." "Năm Đinh Sửu niên hiệu Thông Thụy thứ 4 (1037), mùa xuân, ngày mồng 1 tháng 2, vua Lý Thái Tông thân đi đánh đạo Lâm Tây (林西道), sai Khai Hoàng Vương Nhật Tôn làm Đại nguyên soái đánh các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên, cho Phụng Càn Vương Nhật Trung làm Kinh sư lưu thủ. Quân đi từ Kinh sư đến đóng ở Lâm Tây, dẹp yên được. Tháng 3, vua từ đạo Lâm Tây về đến kinh." Vào thời thuộc Minh và thời nhà Lê sơ của Đại Việt, đất huyện Hà Khẩu là một phần của châu/huyện Thủy Vĩ của Việt Nam. Địa đầu của Thủy Vĩ là ải Lê Hoa (梨花隘), sau được gọi là ải Liên Hoa (蓮花隘), nay thuộc địa phận hương Liên Hoa Than (Ghềnh Liên Hoa, ghềnh hoa sen) huyện Hà Khẩu châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc, là cửa ải biên giới giữa Đại Việt (Việt Nam) và Đại Minh (Trung Quốc). Trong chiến tranh Minh–Việt (1407–1414) và khởi nghĩa Lam Sơn, nhiều lần cánh quân Minh do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam thường tiến vào Việt Nam qua cửa ải này. Tháng 3 năm 1427, Mộc Thạnh cùng tham tướng Từ Hanh và Đàm Trung, theo đường Vân Nam, tiến đánh cửa ải Lê Hoa. Quân của Mộc Thạnh cầm cự với quân do các tướng Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả chỉ huy nhưng tới tháng 9 cùng năm nghe tin Liễu Thăng tử trận, phải rút quân. Trịnh Khả nhân đà đang sắc bén, tung quân ra đánh phá; chém hơn vạn thủ cấp, bắt được hơn 1.000 quân và hơn 1.000 ngựa. Mộc Thạnh chỉ kịp một người một ngựa chạy thoát. An Nam truyện trong Minh sử chép: 沐晟軍至水尾, 造船將進, 聞通已議和, 亦引退, 賊乘之, 大敗 (Mộc Thạnh quân chí Thủy Vĩ, tạo thuyền tương tiến, văn Thông dĩ nghị hòa, diệc dẫn thoái, tặc thừa chi, đại bại) nghĩa là "Mộc Thạnh kéo quân đến Thủy Vĩ, làm thuyền bè, sửa soạn để chực tiến quân. Được tin Thông đã nghị hòa, Thạnh cũng rút lui. Địch thừa thắng đổ ra đánh. Thạnh thua to.'''". Theo Minh thực lục, ngày 14 tháng 12 năm 1427, Mộc Thạnh cùng thuộc hạ chạy tới Cao Trại, Thủy Vĩ thì bị quân Lam Sơn phục kích cả trên sông lẫn trên bờ, phải vất vả làm lại thuyền mới đi tiếp được. Hiện nay, tại hương Đại Trại huyện Kim Bình châu Hồng Hà, (tiếp giáp hương Liên Hoa Than), có tồn tại các địa danh là Cao Gia trại (Gaojiazhai 高家寨) và Thủy Vĩ (Shuiwei 水尾). Địa danh Lãnh Thủy Câu (suối nước lạnh, 冷水沟, Lengshuigou) đầu nguồn con suối chảy vào sông Hồng, thuộc Mạn Chương xã khu của trấn Hà Khẩu, nằm đối diện phía bắc đền Thượng Lào Cai (châu Thủy Vĩ xưa (水尾)), có thể là nơi diễn ra trận Lãnh Câu (冷溝) kết thúc thắng lợi khởi nghĩa Lam Sơn, được Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáoː (冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;) "Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc". Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn viết: "... Sau khi Liễu Thăng thua trận, vua sai đem bốn tên chỉ huy, thiên hộ đã bắt được, và bằng sắc ấn tín của Liễu Thăng, đưa đến cho Mộc Thạnh. Quân sĩ của Thạnh quá kinh hãi tự tan rã. Các ông Phạm Văn Xảo liền tung quân vào đánh, phá tan đạo quân đó ở Lãnh Thủy Câu (冷水溝 [ngòi nước lạnh]) và Đan Xá, chém đầu hơn vạn tên và bắt sống được rất nhiều.''" Các nhóm dân tộc Theo số liệu năm 1994, các nhóm dân tộc ở Hà Khẩu bao gồm: Người Dao Người Tráng Người Miêu Người Lô Lô Người Thái Người Bố Y Người Hán Người Việt Do nằm sát biên giới Việt Nam, đa số các chủ thể kinh doanh tại Hà Khẩu đều có người Việt hoặc người Trung biết tiếng Việt cơ bản. Tuy nhiên, một số cửa hàng chỉ có người Trung Quốc phục vụ và không sử dụng tiếng Anh. Giao thông Có tuyến xe buýt đến tất cả các điểm đến trong tỉnh Vân Nam, bao gồm cả dịch vụ xe chạy qua đêm từ Côn Minh. Nhiều điểm có thể đến được bằng cách trung chuyển ở Mông Tự. Xa lộ Có một đường cao tốc nối liền Xinjie, một thị trấn thuộc huyện Hà Khẩu, với tỉnh Lào Cai ở miền Bắc Việt Nam. Nó được khai trương vào tháng 2 năm 2008 và đánh dấu việc hoàn thành đường cao tốc đầu tiên nối Vân Nam với một quốc gia láng giềng thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Đường cao tốc Xinhe 56,3 km, 3,58 tỷ nhân dân tệ là một trong nhiều dự án cơ sở hạ tầng sẽ tăng kết nối giữa Vân Nam và ASEAN và tạo điều kiện cho việc vận chuyển người và hàng hóa giữa hai khu vực, dự kiến ​​sẽ thấy sự gia tăng lớn về du lịch và thương mại những năm tới. Đường sắt Tuyến đường sắt Hải Phòng - Vân Nam khổ hẹp, nối Côn Minh với thành phố cảng Hải Phòng, được thực dân Pháp mở cửa năm 1910, đi qua biên giới Trung Quốc-Việt Nam tại Hà Khẩu. Vào tháng 12 năm 2014, phần cuối cùng (Mông Tự - Hà Khẩu) của tuyến đường sắt Côn Minh - Hà Khẩu tiêu chuẩn mới đã được hoàn thành. Nó kết thúc tại ga đường sắt Bắc Hà Khẩu mới, cũng được kết nối bằng đường ray hẹp đến đường sắt cũ, để tạo điều kiện cho việc di chuyển hàng hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam. Kinh tế Tuy chỉ là một thị trấn nhỏ cạnh biên giới, nhưng Hà Khẩu khá tấp nập, nhộn nhịp với nhiều trung tâm thương mại, cửa hàng mua sắm lớn và các khu ẩm thực bao gồm nhà hàng, quán ăn phục vụ các món ăn Trung Hoa như bánh bao, sủi cảo, xá xíu, trà sữa. Trung tâm thương mại Bằng Hữu là trung tâm mua sắm lớn nhất tại Hà Khẩu. Các mặt hàng được bày bán chủ yếu ở đây là quần áo, trang sức và đồ điện tử. Khu công nghiệp Được thành lập lần đầu tiên vào năm 1992, Khu hợp tác kinh tế biên giới Hà Khẩu là khu vực biên giới được Hội đồng Nhà nước tại Trung Quốc phê duyệt nhằm thúc đẩy thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nó có diện tích quy hoạch là 4,02 km2. Khu vực này đã thực hiện một số chính sách để phục vụ khách hàng của mình tại Trung Quốc từ các ngành và lĩnh vực khác nhau bao gồm đầu tư, thương mại, tài chính, thuế, nhập cư, v.v. Du lịch Hà Khẩu đang trở thành một điểm đến mới hấp dẫn cho những du khách Việt Nam muốn tham quan Trung Quốc trong ngày với chi phí phải chăng, do du khách chỉ cần làm sổ thông hành và không phải trải qua các thủ tục xin thị thực thông thường, cũng như vì tiền Việt Nam được chấp nhận ở Hà Khẩu. Sổ thông hành có thời hạn một tháng, nhưng du khách chỉ được phép di chuyển tự do trong bán kính 100 km thuộc phạm vị huyện Hà Khẩu. Du khách đi trong ngày cần về trước 23h (giờ Trung Quốc) tức 22h (giờ Việt Nam). Nếu ở lại qua đêm, cần xin vé ngủ tại khu thương mại tự do thí điểm tỉnh Vân Nam. Một địa điểm hút khách đáng chú ý ở Hà Khẩu là công viên Sơn Lâm, một công viên nhân tạo được xây theo kiểu vườn Trung Hoa, nằm cách cửa khẩu khoảng 7 km.
Hướng Dương (hay còn gọi là Hướng Nhật Quỳ, Hướng Dương Quỳ Tử, Thiên Quỳ Tử, Quỳ Tử, Quỳ Hoa Tử) là loài hoa thuộc họ Cúc (Asteraceae), có tên khoa học là Helianthus Annuus. Mô tả Cây hướng dương có nguồn gốc từ Bắc Mỹ. Đây là loài cây thảo sống khoảng một năm, thân to thẳng có lông cứng, thường có đốm, cao 1-3 m. Lá to, thường mọc so le, có cuống dài, phiến lá hình trứng đầu nhọn, phía dưới hình tim, mép có răng cưa, hai mặt đều có lông trắng. Cụm hoa đầu lớn, đường kính 7-20 cm, bao chung hình trứng; Hoa hình lưỡi, ngoài màu vàng; các hoa lưỡng tính ở giữa màu tím hồng. Cây ra hoa vào mùa đông, mùa xuân. Thời gian ra hoa tại châu Âu thường là từ cuối tháng 6 / tháng 7 đến tháng 9. Tại Việt Nam, như tại Nghệ An, có hai vụ thu hoạch hoa hướng dương là vào tháng 3-4 và tháng 11-12. Bông hoa Hướng Dương trên thực tế là một cụm hoa dạng đầu, bao gồm những bông hoa con (chiếc hoa) tập hợp cùng nhau. Ở vòng ngoài, những bông hoa con gọi là chiếc hoa tỏa tia. Chúng có thể có màu vàng, nâu sẫm, da cam hoặc các màu khác. Những bông hoa con này không có khả năng sinh sản. Các bông hoa con nối thành một vòng tròn ở bên trong các chiếc hoa toả tia được gọi là chiếc hoa dạng đĩa. Các chiếc hoa trong cụm này được sắp xếp theo kiểu xoắn ốc. Thông thường mỗi chiếc hoa hướng về phía chiếc tiếp theo theo một góc xấp xỉ bằng góc vàng, tạo ra một kiểu các vòng xoắn nối liền với nhau, trong đó số các vòng xoắn trái và số các vòng xoắn phải là các số kế tiếp trong dãy Fibonacci, điển hình là 34 vòng xoắn theo một hướng và 55 theo hướng kia; trên một bông hoa hướng dương rất to người ta có thể thấy 89 vòng xoắn theo một hướng và 144 theo hướng kia. Những bông hoa dạng đĩa khi trưởng thành phát triển thành những cái mà người ta gọi là "hạt Hướng Dương". Tuy nhiên, các "hạt" đó thực sự là một loại quả (quả bế) của loài cây này, với những hạt thật sự nằm bên trong, lớp vỏ không ăn được. Hoa Hướng Dương quay về Mặt Trời Hoa Hướng Dương quay theo hướng Mặt Trời. Trong một nghiên cứu được công bố trên Khoa học, các nhà nghiên cứu phát hiện đồng hồ sinh học và khả năng phát hiện ánh sáng của hoa Hướng Dương cùng hoạt động, kích hoạt các gen liên quan đến sự phát triển tại đúng thời điểm cho phép thân cây uốn theo hình cung của Mặt Trời. Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, khi phát triển đầy đủ, trong một số trường hợp cao bằng người, các cây luôn hướng về phía đông cho một khởi đầu mới, để được sưởi ấm từ Mặt Trời nhằm thu hút các côn trùng thụ phấn. Stacey Harmer và Hagop Atamian, nhà sinh học thực vật tại Đại học California, cùng với Davis và các đồng nghiệp của họ đã nghiên cứu hoa Hướng Dương trên các cánh đồng, trong chậu và trong các phòng tăng trưởng. Họ nhận thấy, các cây phát triển chậm hơn so với những cây có ánh Mặt Trời chiếu vào. Việc đuổi theo Mặt Trời đã thúc đẩy quá trình tăng trưởng của cây. Thực tế là hoa Hướng Dương chuyển hướng lại quay về phía đông vào ban đêm, chưa có nguyên nhân cụ thể, có thể do hoạt động của đồng hồ sinh học. Các nhà nghiên cứu đặt cây hướng dương trong phòng có đèn chiếu giống như đường đi của ánh Mặt Trời trong các chu trình sáng và tối khác nhau. Các cây hoạt động như mong đợi trong chu kỳ 24 giờ. Nhưng trong chu kỳ 30 giờ, chúng đã bị lẫn lộn. Và khi các cây đã hoạt động theo chu kỳ 24 giờ ngoài trời và được đặt trong nhà dưới ánh sáng cố định, chúng vẫn tiếp tục uốn từ đông sang tây trong một vài ngày theo chu kỳ của Mặt Trời. Điều này có nghĩa rằng nhịp sinh học 24 giờ đã định hướng cho sự chuyển động của hoa Hướng Dương. Thân của Hướng Dương non phát triển nhanh hơn vào ban đêm ở mặt phía tây cho phép đầu của chúng ngả về phía đông. Ban ngày, mặt phía đông của thân phát triển và chúng ngả về phía tây theo hướng Mặt Trời. Tiến sĩ Atamian đã thu thập các mẫu về các cạnh đối diện của thân từ hoa Hướng Dương một cách định kỳ, và tìm thấy những gen khác nhau, liên quan đến việc phát hiện ánh sáng và quá trình tăng trưởng, hoạt động của các mặt đối diện của thân cây. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện thấy các hoa trong chậu quay mặt hướng Đông được sưởi ấm và thu hút nhiều côn trùng thụ phấn hơn, ngược với những bông hoa bị buộc phải quay mặt phía tây vào lúc bình minh. Việc sưởi ấm những bông hoa quay mặt hướng tây cũng thu hút nhiều loài thụ phấn hơn. Các nhà nghiên cứu cho rằng, thực vật thường phát triển theo hướng đông khi còn non, và tiếp tục khi trưởng thành bởi vì hướng đó được sưởi ấm vào buổi sáng, khi đó các con bọ hoạt động tích cực hơn mang lợi thế phát triển cho cây. Khả năng chịu mặn Từ những năm 1990, hoa hướng dương đã được chứng minh là có khả năng chịu mặn ở mức độ trung bình nhờ khả năng tích trữ và chống chịu (tolerate) muối trong mô. Cây hướng dương được đề xuất như một giải pháp cho những vùng đất nhiễm mặn nhờ khả năng hấp thụ muối và nước dư thừa. Cách trồng (sơ lược) Hướng Dương ưa ấm, đất tơi xốp sợ ngập úng, nhiệt độ cao cây mọc kém, cây ngủ nghỉ. Cây Hướng Dương có thể trồng chậu, đất chậu thường dùng là đất lá rụng trộn với đất cát, thêm một ít bột xương. Mỗi năm thay chậu một lần vào tháng 8 - 9. Trước lúc thay chậu cần tỉa thưa, chỉnh hình, cắt bớt rễ. Hàng năm vào tháng 4 đem cây ra ngoài nơi thoáng gió. Để cho cây không ngừng ra hoa tăng cường tưới phân loãng, 10 ngày tưới một lần. Tưới nước bình thường không nên tưới nhiều nước. Đến mùa hè nóng cây bước vào ngủ nghỉ, nên đưa cây vào nhà bệ cây. Mùa thu là mùa ra hoa cần kết hợp tưới nước bón ít phân loãng. Sau mùa hoa cần tỉa cành, xúc tiến phân nhánh. Cây Hướng Dương mọc nhanh hàng năm đề phải tỉa cành, mỗi năm 3 lần: mùa xuân, mùa hè và mùa thu. Căn cứ vào sinh trưởng của cây cần để cây có 3 - 5 cành chính, các cành dài cũng phải được tỉa bớt. Cây hướng dương mọc được 1 năm chỉ cần cắt ngắn ít cành. Sau khi tỉa cành thường đòi hỏi một thời gian hồi phục, nên sau đó nửa tháng phải bón thúc phân, cho cây không. Ngưng ra chồi nở hoa. Để tránh cây mọc quá cao, cần phải hái ngọn, cho mọc nhánh bên và nhiều hoa. Nhân giống cây hoa Hướng Dương thông thường dùng phương pháp giâm cành. Giâm cành vào mùa xuân tỷ lệ sống cao hơn mùa thu. Cánh làm cụ thể là: Cắt đầu cành có chồi đỉnh 6 - 8 cm, cắt các đốt phía dưới, cắt bỏ lá gốc, sau khi vết cắt khô, cắm vào chậu cát hoặc sỏi, sâu 1/8 - 1/2 cành giâm, rồi tưới nước đẫm. Sau đó 2 ngày tưới 1 lần, để ở nhiệt độ 18 - 20 độ C. Sau 20 ngày mọc rễ và chờ khi cây con cao 2 – 3 cm là đưa vào chậu, chậu để nơi râm, khi cây mọc chồi mới có thể chuyển vào nơi quản lý bình thường... Công dụng làm thuốc Toàn bộ các bộ phận của cây Hướng Dương đều được dùng làm thuốc. Theo Đông Y và kinh nghiệm dân gian, thì: - Hạt Hướng Dương có vị ngọt, tính bình, không độc. Tác dụng tư âm bổ hư, ninh tâm an thần, chỉ lỵ, thấu chẩn. Dùng chữa tinh thần uất ức, thần kinh suy nhược, chán ăn, đau đầu do suy nhược, đi lỵ ra máu, sởi không mọc được. - Vỏ hạt có thể dùng để chữa tai ù. - Hoa Hướng Dương có tác dụng trừ phong, sáng mắt. Dùng chữa đầu choáng váng, mặt sưng phù, còn dùng để thúc sinh cho phụ nữ. - Khay hạt Hướng Dương (còn gọi là Quỳ Phòng, Hướng Nhật Quỳ Hoa Thác, Hướng Nhật Quỳ Hoa Bàn) có tác dụng chữa đầu đau, mắt hoa, răng đau, đau dạ dày và bụng, phụ nữ thống kinh, sưng đau lở loét. - Lá có tác dụng tăng cường tiêu hóa và chữa cao huyết áp. - Lõi thân cành (còn gọi là Hướng Nhật Quỳ Ngạnh Tâm, Hướng Nhật Quỳ Kinh Tâm, Hướng Nhật Quỳ Nhương) có tác dụng chữa tiểu tiện xuất huyết, tiểu dưỡng chấp, sỏi đường tiết niệu, tiểu tiện khó khăn. - Rễ cây Hướng Dương có tác dụng chữa ngực, sườn và vùng thượng vị đau nhức, thông đại tiểu tiện, chữa đòn ngã chấn thương, mụn nhọt lở loét chảy nước vàng. Hướng Dương tại Việt Nam Ở Việt Nam còn có loài "Hướng Dương dại" (còn gọi là "Sơn Quỳ", "Dã Quỳ" tên khoa học là Tithonia diversifolia (Hemsl.) A. Gray, cùng thuộc họ Cúc. Cây được nhập trồng, hiện nay mọc hoang dại ở nhiều nơi, từ đồng bằng tới vùng núi, thường thấy ở dọc các đường đi, bãi hoang... Hướng Dương dại thường được dùng làm phân xanh, một số nơi lấy lá xát trị ghẻ Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tại Việt Nam hầu như không trồng Hướng Dương để lấy hạt, vì điều kiện thời tiết, khí hậu không phù hợp. Hướng Dương tại Việt Nam thường chỉ cho hạt lép, trừ một số ít diện tích nhỏ tại Lâm Đồng, Lào Cai… Hạt Hướng Dương tiêu thụ tại Việt Nam thường được nhập khẩu từ Trung Quốc. Cánh đồng hoa Hướng Dương lớn nhất Việt Nam là ở tại nông trường xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An rộng gần 60 ha và bắt đầu trồng Hướng Dương từ năm 2010 để làm thức ăn cho bò. Hoa nở hai mùa vào tháng 3-4 và tháng 11-12. Sự hình thành của hoa Ảnh
Miguel de Cervantes y Saavedra (, phiên âm là Xéc-van-tét); 29 tháng 9 năm 1547 (giả định)23 tháng 4 năm 1616 NS) là tiểu thuyết gia, nhà thơ và nhà soạn kịch người Tây Ban Nha, được nhiều người đánh giá là nhà văn vĩ đại nhất trong văn học tiếng Tây Ban Nha, và là một trong những tiểu thuyết gia xuất sắc nhất mà thế giới từng sản sinh. Ông được biết đến với tiểu thuyết Don Quixote, một tác phẩm thường được coi là tiểu thuyết hiện đại đầu tiên và là một trong những tác phẩm đỉnh cao của văn học thế giới. Phần lớn cuộc đời ông sống trong cảnh nghèo đói và tương lai mờ mịt, nhiều chi tiết trong tiểu sử còn đang tranh cãi hoặc không rõ, và phần lớn tác phẩm còn lại của ông được sáng tác trong ba năm trước khi ông qua đời. Mặc cho tất cả điều này, ảnh hưởng và đóng góp của ông cho văn học được phản ánh bởi thực tế rằng tiếng Tây Ban Nha thường được mệnh danh là "ngôn ngữ của Cervantes". nhỏ|Một sự cố trong câu chuyện Don Quixote (1870), của họa sĩ người Anh Robert Hillingford, mô tả một cảnh trong kiệt tác nói trên của Cervantes. Năm 1569, Cervantes buộc phải rời Tây Ban Nha và chuyển đến Rome, nơi ông làm việc trong gia đình của một hồng y. Năm 1570, ông gia nhập một trung đoàn Bộ binh Hải quân Tây Ban Nha, và bị thương nặng trong Trận Lepanto vào tháng 10 năm 1571. Ông phục vụ quân địch cho đến năm 1575, khi bị cướp biển Barbary bắt giữ; sau năm năm bị giam cầm, ông được trả tiền chuộc và trở về Madrid. Cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của ông, có tựa đề La Galatea, được xuất bản vào năm 1585, nhưng ông vẫn tiếp tục làm công việc thu mua, sau đó là viên chức thu thuế của chính phủ. Phần I của Don Quixote được xuất bản năm 1605, trong khi Phần II xuất bản năm 1615. Các tác phẩm khác bao gồm bộ 12 tác phẩm Novelas ejemplares (Tiểu thuyết mẫu mực); một bài thơ dài, Viaje del Parnaso (Hành trình đến Parnassus); và Ocho comedias y ocho entremeses (Tám vở kịch và tám entr'acte). Los trabajos de Persiles y Sigismunda (Công việc khổ cực của Persiles và Sigismunda), được xuất bản sau khi ông qua đời vào năm 1616. Tiểu sử Tuổi thơ Người ta cho rằng Cervantes đã được sinh ra tại Alcalá de Henares, một thành phố Castilian khoảng 35 km (22 dặm) về phía đông bắc từ Madrid, có thể là vào ngày 29 tháng 9 (ngày lễ Thánh Micae) năm 1547. Ngày sinh của ông có thể đã được xác định từ sổ đăng ký nhà thờ, do truyền thống đặt tên một đứa trẻ theo tên Thánh của ngày sinh. Ông được rửa tội tại Alcalá de Henares vào ngày 9 tháng 10 năm 1547 tại nhà thờ giáo xứ Santa María la Mayor. Sổ đăng ký rửa tội ghi lại như sau: Cervantes lúc sinh không có tên Cervantes Saavedra. Ông đặt tên "Saavedra" khi đã trưởng thành. Theo quy ước đặt tên Tây Ban Nha họ thứ hai của ông là của người mẹ, Cortinas. Cervantes sinh ra tại một gia đình quý tộc sa sút ở Tây Ban Nha. Cha ông là một bác sĩ ngoại khoa bất đắc chí, từng phải ra toà vì thiếu nợ. Do kinh tế gia đình vất vả, ông chỉ học đến Trung học, tuy nhiên, ông rất chăm chỉ đọc sách. Hơn 22 tuổi, ông đến Ý, đúng vào thời kỳ Phục Hưng và làm người hầu cho một Hồng y giáo chủ. Đây là cơ hội lớn cho ông đọc sách của chủ và học tập. Năm 1571, hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ xâm nhập vào khu vực Địa Trung Hải, Tây Ban Nha và Cộng hòa Venezia tổ chức hạm đội liên hợp chống lại. Hạm đội Liên minh thần thánh cuối cùng cũng đánh tan quân Thổ trong trận Lepanto, Cervantes tham gia trận này, được mô tả như một "hiệp sĩ gầy gò và khờ dại". Năm tháng tù đày Sau khi tham gia nhiều trận đánh lớn trên biển Địa Trung Hải với tư cách là lính Tây Ban Nha, ông bị cướp biển Bắc Phi bắt giữ khi trên đường trở về Tây Ban Nha. Chúng đòi tiền chuộc quá lớn, gia đình ông không kịp chuẩn bị và triều đình thì không hề quan tâm. Ông bị giam 5 năm ở Algie, tiếp xúc với văn hóa Hồi giáo (sau trở thành tư liệu quan trọng cho sáng tác của ông). Đến năm 1580, khoản tiền chuộc giảm xuống một phần vì bọn cướp phục lòng dũng cảm của ông, một phần vì chúng nhận ra không thể lợi dụng ông để lấy tiền từ triều đình Tây Ban Nha. Hai chị gái của ông đã phải gia nhập vào nhà thờ để nhận một số tiền đem chuộc ông. Cái chết Ông mất tại Madrid ngày 23 tháng 4 năm 1616 trong lịch Gregory, cùng ngày Shakespeare mất trong lịch Julian. Đáng kể là bách khoa toàn thư Encyclopedia Hispanica cho rằng ngày mất của Cervantes theo truyền thống – 23 tháng 4 – là ngày đề trên mộ. Theo truyền thống ở Tây Ban Nha trong hồi đó, ngày trên mộ là ngày chôn, chứ không phải là ngày mất. Nếu Encyclopedia Hispanica đúng thì Cervantes chắc qua đời ngày 22 tháng 4 và được chôn ngày 23 tháng 4. Dù sao, Cervantes và Shakespeare thực sự không mất cùng ngày, tại vì hai nước Anh và Tây Ban Nha đang sử dụng lịch khác trong thời kỳ đó. Chú thích
Sông Trà Khúc là con sông lớn nhất ở tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam . Dòng chảy Sông Trà Khúc phát nguồn từ núi Đắc Tơ Rôn với đỉnh cao 2.350 m, do hợp nước của bốn con sông lớn là sông Rhe, sông Xà Lò (Đắk Xà Lò), sông Rinh (Drinh), sông Tang (Ong). Chỗ ngã tư đó còn gọi là ngã tư Ly Lang. Sông từ đó chảy theo hướng đông qua ranh giới các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, thành phố Quảng Ngãi và đổ ra cửa Đại Cổ Lũy (Chiêm lũy lịch môn). Sông Trà Khúc có độ dài khoảng 135 km, trong đó có khoảng 1/3 chiều dài sông chảy qua vùng núi và rừng rậm, có độ cao 200- 1.000m, phần còn lại chảy qua vùng đồng bằng. Đây là con sông có độ dốc lớn. Đầu nguồn của sông có công trình thủy lợi Thạch Nham nên khi chảy về hạ lưu ở địa bàn thành phố Quảng Ngãi, huyện Tư Nghĩa và huyện Sơn Tịnh nguồn nước trở nên cạn kiệt. Mùa mưa, sông thường gây lũ lớn. Những hình tượng Tên "Trà Khúc" mang giọng Chiêm vì "Trà" có gốc từ jaya trong tiếng Phạn, và là một trong bốn họ chính thống của các vua Chiêm: On, Ma, Trà, Chế. Bờ xe nước (guồng nước) của sông đã từng là hình ảnh đi vào thi ca. Chính thức ngừng hoạt động năm 1993, mang nước tưới tiêu cho các đồng ruộng mía xứ Quảng; nhưng bây giờ bờ xe nước đã đi vào ký ức. Dự án khôi phục bờ xe nước đã được triển khai. Cặp núi Thiên Ấn và sông Trà Khúc là biểu tượng của tỉnh Quảng Ngãi. Bài ca Nhớ Đàn Xe Nước của tác giả Văn Đông, trong đó có câu: Ta nhớ quê ta có núi Ấn sông Trà. Tai nạn Trưa 15/4/2016, 11 học sinh lớp 6 trường THCS Nghĩa Hà ra sông Trà Khúc - đoạn thuộc thôn Thanh Khiết, xã Nghĩa Hà, TP Quảng Ngãi - chơi, 9 em tuổi 12-13 đã bị chết đuối, chỉ còn 2 em nữ ở trên bờ.
Lê Thái Tổ (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là Lê Lợi (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã thành lập một đội quân người Việt và lãnh đạo đội quân này chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân đội nhà Minh từ năm 1418 đến lúc đánh đuổi hoàn toàn quân Minh ra khỏi Đại Việt vào năm 1428 sau đó xây dựng và tái thiết lại đất nước. Ông cũng thành công với các chiến dịch quân sự đánh dẹp các tù trưởng ở biên giới phía Bắc Đại Việt và quân đội Ai Lao bị xúi giục. Ông được coi là anh hùng, vị Hoàng đế huyền thoại của Đại Việt với tài năng quân sự, khả năng cai trị và lòng nhân ái đối với nhân dân. Lê Lợi sinh ra trong một gia đình hào trưởng tại Thanh Hóa, trưởng thành trong thời kỳ Nhà Minh đô hộ nước Việt. Thời bấy giờ có nhiều cuộc khởi nghĩa của người Việt nổ ra chống lại quân Minh nhưng đều thất bại. Năm 1418, Lê Lợi tổ chức cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với lực lượng ban đầu chỉ khoảng vài nghìn người. Thời gian đầu ông hoạt động ở vùng thượng du Thanh Hóa, quân Minh đã huy động lực lượng tới hàng vạn quân để đàn áp, nhưng bằng chiến thuật trốn tránh hoặc sử dụng chiến thuật phục kích và hòa hoãn, nghĩa quân Lam Sơn đã dần lớn mạnh. Năm năm sau (1424), Lê Lợi quyết định đánh vào Nghệ An, Thuận Hóa, liên tục thắng trận rồi trở ra giải phóng Thanh Hóa. Cuối năm 1425, quân Lam Sơn đã làm chủ từ Thanh Hóa tới Thuận Hóa, quân Minh chỉ còn co cụm trong các thành Nghệ An, Thuận Hóa và Thanh Hóa. Năm 1426, ông cử 3 đạo quân tiến ra Bắc, trong khi nhà Minh cử một lực lượng lớn do Vương Thông chỉ huy sang tiếp viện. Hai cánh quân của Lê Lợi kết hợp với nhau, đánh bại quân Minh ở trận Tốt Động – Chúc Động, ép Vương Thông lui về Đông Quan cố thủ. Nghe tin, Lê Lợi lập tức mang đại quân ra Bắc, tổ chức lại quân đội, phân chia hành chính, ban hành các đạo dụ răn quân lính và nhân dân,... lập thế trận bao vây quân Minh. Nhà Minh lại tiếp tục sai các tướng Liễu Thăng, Mộc Thạnh mang quân sang tiếp viện, Lê Lợi sai quân ngăn chặn và đánh bại hoàn toàn hai đạo quân tiếp viện này. Vương Thông cùng đường phải xin hòa với quân Lam Sơn khi chưa được sự cho phép của triều đình Minh. Bất chấp sự phản đối của tướng lĩnh và dân chúng, Lê Lợi không những cho phép quân Minh được rút lui an toàn mà còn chu cấp vật tư như thuyền bè, tu sửa đường sá,... cho họ. Đến ngày 17 tháng 12 năm 1427 (âm lịch) quân Minh chính thức về nước, Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thay mình làm bài Bình Ngô đại cáo báo cáo cho thiên hạ biết về việc quân Minh đã giảng hòa, rút quân về nước, Nam Bắc thôi việc binh đao, thiên hạ đại định. Năm 1428, lên ngôi vua, Lê Lợi từ điện Tranh ở Bồ Đề vào thành Đông Quan, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, lấy Đông Kinh làm thủ đô, xưng là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là Lam sơn động chủ, sử gọi là Thái Tổ Cao Hoàng đế, dựng lên hoàng triều Lê (sử Việt Nam hiện đại gọi là nhà Hậu Lê). Lê Lợi đã xây dựng lại khoa cử, luật lệ, kinh tế, chế tác lễ nhạc, đồng thời thu thập lại sách vở, mở mang trường học... làm cho nước Đại Việt được thịnh trị. Ông còn dẹp yên các thổ tù chống đối ở vùng biên viễn phía Tây như Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái (châu Thạch Lâm) và Đèo Cát Hãn (châu Mường Lễ), đánh bại một cánh quân Ai Lao sang giúp Hãn. Ông được các sử gia đánh giá cao ở tài năng chính trị, quân sự, kinh tế, là một trong hai vị thánh trung hưng của dân tộc (người đầu tiên là Ngô Quyền) nhưng một số sử gia hiện đại lại chỉ trích vì cho rằng ông đã làm hại hai trong số gần một trăm công thần được ông phong là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Tuy nhiên, các sử gia Lê Quý Đôn, Trần Quốc Vượng và Tạ Chí Đại Trường cho rằng Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo thực sự đã phạm tội, và Lê Lợi xử tội họ là đúng theo pháp luật. Khi Việt Nam bị người Pháp đô hộ, những người chủ trương khôi phục quốc gia đã coi Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn như là hình mẫu, niềm cảm hứng và biểu tượng của sự đoàn kết quốc gia. Phan Bội Châu coi ông là hình ảnh chói lọi của vị vua Trung hưng thứ hai sau Ngô Quyền. Trong Chiến tranh Việt Nam (1945-1975) để đề ra chiến lược đánh Pháp và Mỹ, lãnh tụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Trường Chinh viết cuốn sách Kháng chiến nhất định thắng lợi đã lấy cuộc kháng chiến 10 năm của Lê Lợi làm ví dụ cho việc kháng chiến trường kỳ. Nguồn gốc và giáo dục Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm 1385, người làng Lam Giang hay Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa (nay là thị trấn Lam Sơn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Tổ 4 đời (cụ nội) của Lê Lợi là Lê Hối, có lần đến Lam Sơn, sách Đại Việt thông sử đã chép rằng: Đã trông thấy đàn chim bay lượn quanh chân núi, giống như cảnh đông người tụ hội. Lê Hối cho là đất tốt và chuyển nhà đến ở đấy. Sau 3 năm thì thành sản nghiệp. Từ đó, các thế hệ họ Lê thay nhau làm quân trưởng ở Thanh Hóa, đế nghiệp của họ Lê bắt đầu từ đó. Căn cứ vào thành phần cư dân ở vùng Lam Sơn hiện nay phần lớn là người Mường và dòng họ Lê Lợi đã mấy đời làm quân trưởng ở đó, có những giả thuyết cho rằng Lê Lợi là một tù trưởng người Mường. Tuy nhiên, các khảo cứu về gia phả họ Lê gần đây đã tìm ra tổ 5 đời(kỵ nội) của Lê Lợi là ông Lê Mỗi, người trang Bái Đô (nay thuộc xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân). Lê Mỗi sinh được 5 người con, trong đó Lê Hối là con trai thứ hai. Bái Đô là một vùng đất chưa bao giờ có người Mường ở. Về dòng họ mẹ của Lê Lợi cũng có nguồn gốc là người Kinh từ nơi khác đến khai khẩn vùng đất Thủy Chú. Như vậy có thể khẳng định Lê Lợi là người Kinh, không phải người Mường Lê Hối lấy bà Nguyễn Thị Ngọc Duyên, người sách Quần Dội (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Hai người sinh ra Lê Đinh, nối được nghiệp nhà, lòng yêu người, người gần xa đến quy phụ, trong nhà đông tới hàng ngàn người. Lê Đinh lấy vợ là Nguyễn Thị Quách, sinh được 37 người con trai, con trưởng là Lê Tòng, con thứ là Lê Khoáng. Lê Khoáng lấy bà Trịnh Ngọc Thương (người làng Chủ Sơn nay là Thủy Chú) Bà Trịnh Ngọc Thương có ông nội tên là Trịnh Tám, khi đi đánh Chiêm Thành có công bắt được con voi trắng, được trao chức Đại toát hữu. Cha bà là Trịnh Sai được kế tập chức vị Đại toát hữu Hai ông bà Lê Khoáng ở làng Lam Sơn thì các tù trưởng người Ai Lao là Cầm Lô, Cầm Lạn kéo đến cướp phá. Hai cụ chuyển tới Thủy Chú, sinh ra Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi, lại sinh 3 người con gái là Quốc thái Trưởng Công chúa Ngọc Tá, Quốc trưởng Công chúa Ngọc Vĩnh và Quốc trưởng Công chúa Ngọc Tiên. Lê Lợi sinh vào giờ Tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức ngày 10 tháng 9 năm 1385, niên hiệu Xương Phù năm thứ 9 đời Nhà Trần tại làng Chủ Sơn tức làng Thủy Chú, huyện Lôi Dương, quê của mẹ ông. Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người "thiên tư tuấn tú khác thường, khi lớn lên, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có một nốt ruồi, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hổ".Lê Lợi lúc nhỏ được người anh ruột Lê Học nuôi nấng. Lê Lợi còn có một người anh trai tên là Lê Trừ - tổ 5 đời của vua Lê Anh Tông sau này. Các vua nhà Lê trung hưng đều là con cháu của Lê Anh Tông, tức là thuộc dòng Lê Trừ chứ không phải dòng Lê Lợi. Thời trẻ và bối cảnh lịch sử Lê Lợi nối đời làm phụ đạo Lam Sơn, lớn lên giữa lúc nước Đại Việt có nhiều biến động. Năm ông 16 tuổi (1400), ngoại thích nhà Trần là Hồ Quý Ly sau nhiều năm nắm quyền đã truất ngôi của Trần Thiếu Đế, lên làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên Nhà Hồ.Nhà Minh (Trung Quốc) vốn rất muốn xâm lăng Đại Ngu, đã nhân cơ hội Hồ Quý Ly cướp ngôi Nhà Trần để đưa quân tràn vào đất Việt năm 1406. Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407 thì bị bắt cùng các con trai là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương và cháu nội là Hồ Nhuế. Nhà Hồ sụp đổ, người Việt rơi vào 20 năm dưới sự cai trị của nhà Minh. Hoàng đế nhà Minh (Trung Quốc) lúc đó thực hiện chính sách xóa bỏ nền văn minh Đại Việt thời Nhà Lý và Nhà Trần bằng các cách như đốt, phá và chở về Yên Kinh tất cả các loại sách, văn bia có nói về dân Việt, của dân Việt tạo lập, thiến hoạn đàn ông người Việt; dùng chính lệnh ngặt nghèo, thi hành hình phạt tàn ác, cấm muối mắm, nâng sưu thuế, bắt nộp sản vật. Ngoài ra họ còn dời dân chúng đi xa, đắp 10 tòa thành khắp nước, chia quân đóng giữ, nhằm dễ bề cai trị và trấn áp những cuộc nổi dậy của người Việt. Những hành động đó làm người Việt căm giận. Ngay sau khi Nhà Minh chiếm đóng, tông thất Nhà Trần là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng đã khởi binh dựng lên Nhà Hậu Trần. Sử sách ghi chép khác nhau về thái độ của Lê Lợi đối với Nhà Hậu Trần. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Lê Lợi thấy họ không có thực lực nên không theo mà ẩn náu trong vùng Lam Sơn, chiêu nạp kẻ sĩ. Sách Việt sử tiêu án lại cho rằng Lê Lợi từng theo Trùng Quang Đế và làm chức Kim ngô Tướng quân. Theo sách Đại Việt thông sử, trong thời kì Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, Lê Lợi ở nhà đọc sách, nghiền ngẫm binh pháp, giữ mình chờ thời. Đến khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ, Lê Lợi ngầm có chí khôi phục quốc gia, nên hạ mình tôn người hiền, bỏ tiền của ra nuôi binh sĩ, thu dụng những người mắc lối và chống đối nhà Minh, được nhiều người qui phục. Tướng Hoàng Phúc Nhà Minh biết tiếng ông, đã trao cho chức quan để dụ theo, nhưng ông không chịu khuất phục. Lê Lợi "ẩn dấu ở núi rừng làm nghề cày cấy; đọc sách kinh, sử, nhất là càng chuyên tâm về các sách Thao Lược; hậu đãi các tân khách; chiêu nạp kẻ trốn, kẻ làm phản; ngầm nuôi ác kẻ mưu trí; bỏ của, phát thóc để giúp cho kẻ côi cút, nghèo nàn; hậu lễ, nhún lời, để thu bọn anh hùng hào kiệt; đều được lòng vui vẻ của họ" (theo Lam Sơn thực lục). Những hào kiệt như Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu và Lê Xa Lôi nối tiếp đến quy phục. Đến năm 1414 thì Nhà Hậu Trần hoàn toàn bị quân Minh đánh bại. Khởi nghĩa Lam Sơn Năm 1416, Lê Lợi đã cùng 18 người khác tham gia hội thề Lũng Nhai nguyện đánh quân Minh cứu nước. Khi nhà Minh đánh bại hoàn toàn nhà Hồ đã kêu gọi Lê Lợi ra làm quan cho họ nhưng Lê Lợi từ chối. Lê Lợi nhận thấy thế quân Minh còn mạnh, nên đem nhiều tiền của hối lộ cho các chỉ huy nhà Minh là Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ,... để khỏi bị nạn, chờ thời cơ. Thổ quan người Việt phục vụ cho nhà Minh là Lương Nhữ Hốt quê ở huyện Cổ Đằng (nay là Hoằng Hóa, Thanh Hóa) biết Lê Lợi có chí lớn, ngầm ghen ghét, bèn báo cho quân Minh. Bị quân Minh bức bách, Lê Lợi quyết định dấy binh khởi nghĩa. Lê Lợi từng nói rằng: Mùa xuân, ngày mồng 2, tháng Giêng, năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Phạm Vấn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Ngân, Nguyễn Lý... tất cả 50 tướng văn và tướng võ (trong đó có 19 người đã từng kết nghĩa anh em nguyện cùng chí hướng với nhau ở hội thề Lũng Nhai, năm 1416), chính thức phất cờ khởi nghĩa (khởi nghĩa Lam Sơn). Sách Lam Sơn thực lục chép rằng: Ông tự xưng là Bình Định vương, đặt quan chức và liêu thuộc, phát hịch các nơi xa gần cùng tham gia khởi nghĩa, giành lấy chính quyền Đại Việt. Thời kì hoạt động ở vùng thượng du Thanh Hóa, Lê Lợi tổ chức quân đội bằng cách lập các đạo binh phụ tử gồm ba binh chủng: Quân thiết đột, quân dũng sĩ, quân nghĩa sĩ, mỗi binh chủng có hai trăm người. Thời kỳ đầu ở vùng núi Thanh Hóa Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại. Hoạt động trong thời này chủ yếu ở vùng núi Thanh Hóa. Có những lúc Lê Lợi và quân Lam Sơn phải trốn chạy. Thời gian từ năm 1418 tới năm 1423, trong 5 năm nghĩa quân Lam Sơn đã có 18 trận đánh với quân Minh. Ngày 9 tháng 1 âm lịch năm 1418, tướng Nhà Minh là Mã Kỳ dẫn đại quân đánh vào Lam Sơn. Lê Lợi rút quân tới Lạc Thủy, tại đây ông bố trí quân mai phục chờ địch. Khi quân Mã Kỳ tới vào ngày 13 tháng 1, Lê Lợi sai quân mai phục đổ ra đánh; theo Toàn thư: "Lê Thạch cùng các tướng Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý... dẫn đầu xông vào trận giặc, chém được hơn 3.000 thủ cấp, thu được hàng ngàn quân tư, khí giới", sau đó nghĩa quân dời về núi Chí Linh. Ba ngày sau, cộng sự người Việt tên là Ái dẫn quân Minh theo lối tắt đánh úp nghĩa quân. Người Minh bắt được vợ con của Lê Lợi và thân quyến của nhiều tướng sĩ. Một bộ phận nghĩa quân nhụt chí đành bỏ cuộc, chỉ có Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Bí, Lê Xí và Lê Đạp theo Lê Lợi vào ẩn náu ở núi Chí Linh. Nghĩa quân tuyệt lương đến 2-3 tháng; đến khi quân Minh rút lui, Lê Lợi mới trở về thu lại được tàn quân hơn 100 người, xây chiến lũy ở Lam Sơn cố thủ, phủ dụ quân lính, ước thúc cơ đội và sửa sang khí giới; nhờ đó nghĩa quân Lam Sơn lại mạnh lên. Cuối tháng 1 âm lịch năm 1418, nghĩa quân Lam Sơn bị thua trận ở Mường Một, chạy thoát về Trịnh Cao, quân Minh đuổi theo vây chặt các lối hiểm yếu. Trong tình thế nguy cấp Lê Lợi hỏi mọi người: "Có ai dám bắt chước Kỷ Tín ngày xưa không?" Lúc ấy chỉ có Lê Lai nhận lời, đem quân ra khiêu chiến và tự xưng là chúa Lam Sơn. Quân Minh vây đánh và bắt được Lê Lai và một số tướng lĩnh khác. Vì tưởng là Lê Lợi, người Minh đã xử tử Lê Lai một cách tàn ác và lui quân. Nhờ hành động của Lê Lai, Lê Lợi cùng các tướng lĩnh khác được thoát. Năm 1419, tận dụng thời cơ quân Minh lui quân, Lê Lợi tiến hành xây dựng thành lũy, sửa sang chiến cụ và động viên sĩ khí quân đội. Tháng 10 âm lịch năm 1420, quân Minh tiến đánh nghĩa quân Lam Sơn, Lê Lợi cho quân mai phục ở bến Bổng, đánh thắng và thu hơn 100 con ngựa. Lê Lợi cho quân nghỉ ở Mường Nanh, sau dời quân đóng ở Mường Thôi. Lý Bân và Phương Chính được Đồng tri châu Quỳ Châu là Cầm Lạn dẫn đường, kéo 10 vạn đại quân tới, theo đường từ Quỳ Châu tới Mường Thôi. Lê Lợi sai Lê Triệu, Lê Lý và Lê Vấn đem quân phục ở xứ Bồ Mộng để phục đánh tiền quân Nhà Minh. Quân Minh đến, nghĩa quân Lam Sơn đổ ra đánh, quân Minh tan vỡ, nghĩa quân giết 300 quân Minh. Đại quân Minh tiến gần tới dinh Lê Lợi đóng, Lê Lợi sai quân mai phục ở chỗ hiểm yếu. Ngày hôm sau, Lê Lợi tung quân ra đánh, quân Minh đại bại ở xứ Bồ Thi Lang và bị mất hơn 1000 quân; Lý Bân và Phương Chính chỉ chạy thoát được thân mình. Nghĩa quân truy sát đến 6 ngày đêm mới dẫn quân trở về. Tận dụng thời cơ, Lê Lợi tiến quân đóng ở trại Ba Lẫm thuộc Lỗi Giang, quân Minh không dám khiêu chiến. Tướng Nhà Minh là Tạ Phượng, Hoàng Thành lui binh về Nga Lạc, rồi lại về giữ trại Quan Du để phòng vệ thành Tây Đô, giữ chặt lũy không ra. Lê Lợi sai tướng Lam Sơn là Lê Hào, Lê Sát đánh trại Quan Du, chém hơn nghìn người. Chiến thắng Thị Lang là trận đánh mang tính bước ngoặt với nghĩa quân Lam Sơn, trước nay nghĩa quân dù thắng cũng phải rút chạy, nay đánh bại 10 vạn quân địch, thừa thế đuổi theo, lập chiến tuyến ở Lỗi Giang, dòm ngó Tây Đô. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng "từ đó thế giặc ngày một suy". Lê Lợi nhân cơ hội đó mộ binh, chiêu tập nhân dân các xứ, các huyện bên cạnh đều hưởng ứng. Ngày 20 tháng 11 năm 1421, tướng Nhà Minh là Trần Trí thu quân các vệ Giao Châu cùng ngụy binh, hơn 10 vạn quân tiến tới chiến tuyễn Lỗi Giang. Lê Lợi cho rằng: Lê Lợi chia quân tập kích doanh trại quân Minh vào ban đêm, phá 4 trại, chém hơn 1000 người. Trần Trí không nản, đem quân phá núi, mở đường tiến đánh nghĩa quân, Lê Lợi sai quân phục ở đèo Ống, đánh tan quân Trần Trí, khiến Trí tháo chạy. Vừa lúc ấy quân Ai Lao đem 3 vạn quân, 100 thớt voi đột xuất đến doanh trại nghĩa quân Lam Sơn, phao tin là hợp sức với nghĩa quân đánh quân Minh. Lê Lợi chấp thuận, quân Ai Lao nửa đêm đánh úp nghĩa quân. Lê Lợi đích thân đốc chiến, đánh tan quân Ai Lao, chém 1 vạn người, bắt 14 con voi, truy kích 4 ngày đêm đến tận sào huyệt quân Ai Lao rồi dẫn quân trở về đóng ở Sách Thủy. Một thời gian sau, tù trưởng Ai Lao là Mãn Sát xin giảng hòa, Lê Lợi cho đó là kế gian, các tướng cố xin hòa, Bình chương Lê Thạch tiến đánh nhưng trúng phải chông ngầm mà chết. Trận Sách Khôi Tháng 2 âm lịch năm 1422, viên tướng Nhà Minh là Lý Bân bệnh mà chết. Tháng 12 âm lịch năm 1422, quân Minh và quân Ai Lao tiến đánh nghĩa quân ở Trại Quan Du, do bị đánh cả hai mặt, nghĩa quân nhiều người chết và bị thương. Lê Lợi rút quân về Sách Khôi, 7 ngày sau quân Minh tiến tới. Lê Lợi nói với các quân sĩ: Nói xong chảy nước mắt, quân sĩ xúc động, tranh nhau xin chết. Lê Lĩnh, Phạm Vấn, Lê Hào, Lê Triện xông lên trước, chém tướng Nhà Minh là Phùng Quý và hơn 1000 người, bắt được 100 con ngựa. Quân Minh đại bại, Mã Kỳ, Trần Trí thoát thân chạy về Đông Quan; quân Ai Lao tan vỡ. Giảng hòa Sau trận Sách Khôi, Lê Lợi thu quân về núi Chí Linh, nghĩa quân thiếu lương 2 tháng, phải đẵn măng rừng, rau và củ để ăn, nhiều người bỏ trốn. Lê Lợi bắt chém viên tướng trốn đi tên Khanh, từ đó việc quân mới tạm an ổn. Do chinh chiến nhiều ngày, tướng sĩ mệt mỏi nên Lê Lợi chấp thuận hòa hoãn với quân Minh, sai Lê Vận, Lê Trăn đi giảng hòa, và được quân Minh chấp thuận. Ngày 14 tháng 4 âm lịch năm 1423, Lê Lợi lui quân về Lam Sơn. Các chỉ huy quân Minh như Tham tướng Trần Trí và Nội quan Sơn Thọ đem nhiều cá, muối, thóc giống và nông cụ tặng nghĩa quân, Lê Lợi tặng vàng, bạc đáp lễ, nhưng vẫn bí mật cảnh giác. Quân Minh cho rằng không khuất phục được Lê Lợi, bèn bắt giam nhóm sứ giả Lê Trăn không cho về. Lê Lợi đình chỉ việc giảng hòa, tướng sĩ Lam Sơn đều căm giận người Minh và thề chiến đấu tới cùng. Bài Bình Ngô đại cáo do Lê Lợi sai Nguyễn Trãi soạn sau này đã thuật lại một cách sâu sắc những năm đầu gian khổ của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn: Tiến vào Nghệ An Ngày 20 tháng 9 âm lịch năm 1424, khi Lê Lợi hỏi mọi người rằng: "Nay chúng ta nên tới xứ nào để mưu đồ việc nước?", Thiếu úy Nguyễn Chích đã đáp: Trên tình hình đó, ông chia hơn nghìn quân, sai tướng Lê Liệt theo đường tắt giữ huyện Đỗ Gia, cướp thế tranh tiên của địch. Còn Lê Lợi thì chính mình cầm đại quân, đóng giữ vào nơi hiểm trở để đợi. Chừng ba, bốn ngày, người Minh đem hết cả quân, mặt thủy, mặt bộ đều tới ải Khả Lưu, đắp lũy và đóng trại ở miệt dưới. Nghĩa quân ở miệt trên, dương cờ, đánh trống, đêm thì đốt lửa. Lại ngầm sai quân tinh nhuệ và bốn thớt voi, qua sông phục nơi hiểm yếu. Trời sắp sáng, quân Minh bèn dẫn quân, trên cạn, dưới sông đều tiến, để đánh dinh trại của nghĩa quân. Lê Lợi giả vờ lui, nhử giặc vào chỗ có quân phục. Giặc không ngờ, đem hết quân vào sâu. Quân phục bốn mặt nổi lên, xông đánh, cả phá được trận giặc. Quân Minh thiệt hại vô số, rồi tựa núi, đắp lũy cố thủ và không tấn công nữa. Khi ấy, lương của nghĩa quân không tới 10 ngày, quân Minh còn nhiều lương, Lê Lợi nhận định rằng: Ông bèn sai đốt hết trại, dinh, rồi giả vờ chạy lên miệt trên; nhưng thật ra quân Lam Sơn đi ngầm đường tắt, đợi quân Minh đến thì đánh. Quân Minh cho rằng nghĩa quân bỏ chạy, đem quân từ dưới lên đóng vào dinh trại cũ. Ngày sau, Lê Lợi đem quân khiêu chiến, quân Minh tung hết quân ra đánh. Lê Sát, Lê Vấn, Lê Bí, Lê Lễ, Lê Nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê Tông Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi, Lê văn An đều thi nhau hãm trận. Quân Minh vỡ trận, người chết vô số, thuyền trôi nghiền, quân lính chết đuối tắc cả dòng sông. Tướng tiên phong Hoàng Thành bị chém chết, tướng Chu Kiệt cùng hơn 1000 quân Minh bị bắt, nghĩa quân thừa thắng đuối 3 ngày, quân Minh chạy vào thành Nghệ An cố thủ. Tháng 5 năm 1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Thành Trài Diễn Châu, Tướng minh Tiết Tụ tập hợp quân minh đánh trả nghĩa quân lam sơn Đinh Lễ chỉ huy đánh quân minh Tiết Tụ thua rút vào thành trài diễn châu cố thủ , Bình Định vương Lê Lợi điều quân Lam Sơn bao vây Thành Trài (Diễn Châu), hạ Thành Nghệ An phía nam… Tướng nhà Minh là Tiết Tụ bối rối trước thế lực của quân Lam Sơn áp đảo, phải kêu cứu… Bọn giặc Minh ở Tây Đô Thanh hóa cấp tốc điều Đô ti Trương Hùng đem 300 chiến thuyền quân, lương vượt biển đến Cửa Vạn qua Hoa Lũy vào sông Trài để cứu viện. Tướng quân Đinh Lễ đem quân Lam Sơn đánh tiêu diệt viện binh ngay từ Cửa Vạn đến các ngả sông Bùng, sông Trài, diệt gọn 300 chiến thuyền, Đinh Lễ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn đánh hạ Thôn trang ,thành Trài (Diễn Châu), Tương truyền, tướng nhà Minh (Tiết Tụ) ôm đầu máu kéo tàn quân tháo chạy ra phía cung Đất Đỏ, Hoàng Mai . . , Quân Minh Tiết Tụ Chỉ huy thua chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Sau đó ông lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Lý Triện tiếp ứng cho Đinh Lễ đánh ra Tây Đô, quân Minh ra đánh lại bị thua phải rút vào cố thủ trong thành. Lê Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem quân vào nam đánh Tân Bình, Thuận Hóa. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau đó Lê Lợi lại sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hóa. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt. Như vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành của đối phương đều bị bao vây. Chiến dịch Tốt Động - Chúc Động Tháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh Bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lý Triện ra phía Tây Bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông Bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan. Lý Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trần Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Lý Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan. Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thành Xương Giang. Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, còn mình kéo đại quân ra Bắc. Vua Minh sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lý Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí. Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nhân biết Vương Thông định chia dường đánh úp Lý Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan. Kết cục của trận Tốt Động-Chúc Động đã làm phá sản kế hoạch phản công của Vương Thông đồng thời tạo ra lợi thế cho nghĩa quân Lam Sơn buộc quân Minh phải rút về cố thủ và chấp nhận đàm phán. Do mất rất nhiều vũ khí trong trận này, quân Minh buộc phải tìm cách chế tạo vũ khí, Vương Thông đã sai quân phá chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh để làm hỏa khí. Trong khi đó, quân Lam Sơn có thêm rất nhiều vũ khí và có thể đã tiếp thu thêm công nghệ chế tạo súng của quân Minh. Sách Đại Việt thông sử viết rằng: Lê Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chia hai đường thủy bộ tiến ra gần Đông Quan. Lê Lợi tiến quân ra Bắc, lập Trần Cảo, bao vây thành Đông Quan Cánh quân của Đinh Lễ, Lý Triện sau trận Tốt Động - Chúc Động liền bao vây thành Đông Quan, báo tin về hành dinh Lê Lợi đóng ở Lỗi Giang Thanh Hóa. Được tin, Lê Lợi liền đem đại quân và 20 con voi, theo đường thủy tiến gấp ra Bắc, đóng dinh ở sông Lũng Giang (sông Đáy). Sau đó Lê Lợi tiến đánh một trận lớn phá tiền đồn quân Minh bảo vệ thành Đông Quan, khiến cho quân Minh phải chạy hoàn toàn vào Đông Quan đắp lũy cố thủ. Lê Lợi nhân cơ hội quân Minh bị vây ở Đông Quan, liền chia các lộ trấn ở Đông Đô thành bốn đạo, xếp đặt lại tổ chức, kén chọn người tài, trị tội các ngụy quan người Việt phục vụ cho nhà Minh. Vương Thông không dám ra đánh, viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thông sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua. Lấy đại cuộc làm trọng, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nên Lê Lợi đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công. Vương Thông ngoài mặt giảng hòa nhưng lại sai quân đào hào cắm chông phòng thủ và mật sai người về xin cứu viện. Lê Lợi biết chuyện liền cắt đứt giảng hòa. Sau khi cắt đứt giảng hòa, Lê Lợi sai các tướng đi đánh chiếm các thành ở Bắc Bộ như Điêu Diêu (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đái, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), Kỳ Ôn, không lâu sau đều hạ được. Đầu năm 1427 ông chia quân tiến qua sông Nhị, đóng dinh ở Bồ Đề, sai các tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến các nơi rất được lòng dân. Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ đối phương ở các thành khác ra hàng. Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Sau Đinh Lễ bị giết, Nguyễn Xí trốn thoát được. Chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông, sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Trước khi viện binh Nhà Minh kéo sang Lê Lợi đã sai Thái úy Trần Nguyên Hãn, Tư mã Lê Sát, Thiếu úy Nguyễn Lý công thành gấp hạ thành Xương Giang. Thành Xương Giang bị nghĩa quân vây trong hơn 6 tháng, không hạ được, đến đây Lê Lợi đích thân ra lệnh cho các tướng đắp đất, mở đường, dùng câu liêm, giáo dài, nỏ cứng, tên lửa và súng lửa công phá thành từ bốn mặt. Quân Lam Sơn cuối cùng đã hạ được Xương Giang. Các tướng Minh chỉ huy thành này là Lưu Tử Phụ và Lý Nhiệm chết trận. Lại ra lệnh dời người ở những vùng đối phương đi qua như Lạng Giang Bắc Giang, Quy Hóa Tuyên Quang, để đồng không để cô lập đối phương. Các tướng khuyên Lê Lợi đánh thành Đông Đô nhưng Lê Lợi phản đối: Lê Lợi họp bàn với các tướng, nói rằng: Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Lãnh, Đinh Liệt, Lê Thụ mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Lê Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh. Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lưu Nhân Chú, Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết. Các tướng thừa dịp xông lên đánh quân Minh, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân ngoài đồng không. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Lê Khôi đem 3000 quân Thiết đột, 4 thớt voi, cùng với Lê Sát, Nguyễn Lý, Lưu Nhân Chú, Lê Văn An tấn công, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc và hơn 3 vạn quân bị bắt, Thôi Tụ không hàng bị giết. Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa. Hội thề Đông Quan Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi, tức 10 tháng 12 năm 1427, Lê Lợi cùng các tướng Nhà Minh: Tổng binh Thành Sơn hầu Vương Thông, Tham tướng Mã Anh, Thái giám Sơn Thọ, Mã Kỳ, Vinh Xương hầu Trần Trí, An Bình hầu Lý An, Đô ty Phương Chính, Chưởng đô ty sự Trần Tuyền, Trần Hựu, Giám sát Ngự sử Chu Kỳ Hậu, Cấp sự trung Quách Vĩnh Thanh, Hữu bố chính sứ Dặc Khiêm, Tả hữu tham chính là Hồng Bỉnh Lương, Lục Trinh và Lục Quảng Bình, Án sát sứ Dương Thời Tập và Thiêm sự Quách Đoan làm hội thề ở cửa Nam thành Đông Đô. Vương Thông hẹn rằng đến ngày 12 tháng 12 âm lịch thì đem quân về nước và sai người đem tờ trình xin trả lại đất đai cho nghĩa quân. Lê Lợi sai giải vây thành Đông Quan, kéo quân lui về, lại sai giải vây cho 3 thành: Tây Đô, Cổ Lộng và Chí Linh; truyền cho nghĩa quân hộ tống các tướng trong 3 thành trên dẫn quân về thành Đông Quan, để cùng về Trung Quốc. Ngày 29 tháng 11 âm lịch năm 1427, Lê Lợi sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Cảnh Quang đem tờ biểu cầu phong của Trần Cảo, cùng các vật phẩm theo viên chỉ huy do Vương Thông sai, sang triều Minh. Các tướng sĩ và người dân căm tức sự tàn ngược của quân Minh, nên khuyên ông giết các bại tướng. Lê Lợi đáp rằng: Tháng 12 âm lịch năm 1427, Lê Lợi ra lệnh Cánh đường thủy, cấp 500 chiếc thuyền, cho Phương Chính, Mã Kỳ lãnh nhận. Cánh đường bộ, cấp lương thảo, cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc lãnh nhận. Còn hơn 2 vạn người bị bắt hoặc đầu hàng và 2 vạn con ngựa thì do Mã Anh lãnh nhận. Chinh man tướng quân Trần Tuấn đem quân trấn thủ đi theo. Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Ngày 12 tháng 12 âm lịch năm 1427, Phương Chính, Mã Kỳ tới dinh Bồ Đề cáo biệt Lê Lợi, ở lại suốt một buổi chiều, Lê Lợi sai sắm trâu ngựa, trướng vẽ và lễ phẩm hậu tặng. Đến ngày 17, tướng Minh là Vương Thông dẫn quân bộ đi sau. Lê Lợi đã nói chuyện với Vương Thông suốt đêm trước khi từ biệt nhau. Ông còn sai đưa trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn Vương Thông rất hậu. Quân thủy, bộ của ba thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh cùng lục tục rút tiếp. Từ đây, chiến tranh chấm dứt với thắng lợi hoàn toàn của nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để báo cáo cho thiên hạ biết về việc quân Minh đã giảng hòa, rút quân về nước, Nam Bắc thôi việc binh đao, thiên hạ đại định. Đây là áng văn chương rất có giá trị, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ Nam quốc sơn hà. Sáng lập triều Hậu Lê Lê Lợi lên ngôi vua nước Đại Việt Sau khi quân Minh rút về vào tháng 12 năm 1427, Trần Cảo là người được triều đình nhà Minh phong làm Quốc vương của Đại Việt. Đến tháng Giêng, năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (phủ Trấn Ninh), bị quan quân bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Trước khi lên ngôi vào ba tháng sau đó, Lê Lợi đã thi hành nhiều chính sách khác nhau để khôi phục đất nước. Vào tháng 8 năm 1427, lúc chiến sự đang diễn ra, Lê Lợi sai sứ sang nhà Minh xin lập Trần Cảo làm An Nam quốc vương, vua Minh đồng ý. Liền sai sứ giả sang sắc phong, đến tháng 3 năm 1428 đoàn sứ giả nhà Minh mới đến được thành Đông Quan, Đại Việt. Lê Lợi lại sai sứ giả sang nhà Minh báo tang về cái chết của Trần Cảo. Ngày 15 tháng 4 âm lịch năm 1428, Lê Lợi từ điện Tranh ở Bồ Đề vào thành Đông Quan, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, lấy Đông Kinh làm thủ đô, xưng là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là Lam Sơn động chủ, sử gọi là Thái Tổ Cao Hoàng đế, dựng lên Hoàng triều Lê (sử Việt Nam hiện đại thường gọi là nhà Hậu Lê). Quan hệ ngoại giao với Đại Minh Theo sử gia Phan Huy Chú, do Việt Nam ở phía Nam Trung Quốc, tuy là một nước tự chủ, có quy mô riêng, ở trong xưng đế, mà bên ngoài thì phong vương, vẫn chịu phong hiệu của triều đình Trung Quốc. Vào thời nhà Hồ, nhà Minh xâm lược nước Việt trên danh nghĩa phù Trần diệt Hồ. Khi Lê Lợi khởi nghĩa đánh nhà Minh, cho tới năm 1427, khi ấy nghĩa quân Lam Sơn đang vây thành Đông Quan, Lê Lợi lập Trần Cảo làm vua, sai sứ sang nhà Minh cầu phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương. Nhà Minh đồng ý, sai sứ sang nước Việt để thụ phong cho Trần Cảo. Nhưng khi sứ giả nhà Minh sang Đại Việt năm 1428, Trần Cảo đã chết, Lê Lợi sai sứ sang báo tang, và ông tổ chức lễ lên ngôi làm vua nước Đại Việt mà không cần thông qua triều đình nhà Minh. Sau đó Lê Lợi liên tiếp cử các đoàn sứ giả sang triều đình nhà Minh xin lại người con gái ông bị bắt lúc 9 tuổi khi loạn lạc và xin phong vương, với lý do con cháu nhà Trần đã tuyệt diệt. Ngược lại, nhà Minh sai sứ giả sang Đại Việt nói rằng con gái Lê Lợi đã chết vì bệnh đậu mùa và dụ Lê Lợi trả lại người bị bắt và vũ khí Đại Việt còn giữ lại. Lê Lợi đã không trả vũ khí thu được trong chiến tranh cho nhà Minh, đến năm 1430, triều đình nhà Minh mới từ bỏ yêu sách đòi trả vũ khí, chiếu chỉ vua Minh gửi cho Lê Lợi (ngày 7/5/1430) có đoạn viết: Binh khí nhằm mục đích bảo vệ dân, dân chúng An Nam đều là con đỏ, nay để lại đó hay mang về đây Trẫm đều không hỏi thêm. Duy quan lại, quân nhân của triều đình cùng gia thuộc đều chưa trở về, họ đều có cha mẹ vợ con trông ngóng, khiến ân ái cách tuyệt lòng sao nỡ... Đến ngày 15/7/1431 triều đình nhà Minh vẫn không chịu phong Vương cho Lê Lợi, mà chỉ phong làm quyền cai quản nước An Nam, gọi là quyền thự An Nam quốc sự. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Lợi sai sứ sang nhà Minh tạ ơn và nộp 5 vạn lạng vàng tuế cống, nhưng theo sách này chép ngày 19/12/1433, nhà Minh sai sứ đòi triều đình Đại Việt số vàng cống hàng năm: Ngày 19, nhà Minh sai Chánh sứ là Binh bộ Thị lang Từ Kỳ, Phó sứ là Hành nhân ty Hành nhân Quách Tế sang đòi số vàng cống hàng năm. Trước đó, nhà Minh mấy lần sai sứ sang đòi nhiều số vàng cống hàng năm. Cao Hoàng đế xin theo như lệ cống năm Hồng Vũ thứ 3. Vua Minh vẫn cứ không nghe, đến đây lại sai bọn Kỳ, Tế sang đòi. Không rõ Lê Lợi có cống số vàng cống theo lệ cho triều đình nhà Minh hay không. Nhà nước và chính trị Lúc nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Đông Đô năm 1427, Lê Lợi chia các lộ, trấn làm 4 đạo, đặt liêu thuộc văn võ ở trong ở ngoài; đặt chức tướng quân, các thị vệ và chức tuần kiểm ở cửa biển, còn vệ quân các lộ, các phủ thì bổ quan đại thần làm kiểm tri, tổng tri và đồng tri để chỉ huy và thi hành mệnh lệnh, quân ở 4 đạo thuộc về các quan này; ở nơi trấn thủ thì có chức quan sát và phòng ngự. Theo Lê Quý Đôn, Lê Lợi phỏng theo chế độ nhà Trần, nhằm cho các đơn vị to nhỏ giữ gìn lẫn nhau và các cấp ràng buộc với nhau. Vua Lê Thái Tổ sau khi lên ngôi năm 1428, chia trong nước làm năm đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây. Mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi vệ đặt chức Tổng quản(có các chức tổng quản, đô tổng quản, đồng tổng quản, trên dưới liên hệ nhau, lớn nhỏ giữ gìn nhau). Ông còn đặt chức Hành khiển ở năm đạo, chia giữ việc sổ sách và từ tụng của quân dân, đứng đầu là Hành khiển, thứ đến là các chức Tham tri, Đồng tri, Chủ bạ, Đạo thuộc. Các đạo đều đặt các ban tả hữu, giữa của cải chứa trong kho tàng (có chức Đô tri). Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, Lê Thái Tổ còn có những chính sách hành chính như sau: Định quan các lộ, các huyện (lộ đặt Tri phủ, Chưởng ấn, thứ đến các chức Trấn phủ sứ, An phủ sứ, Tuyên phủ sứ, Chiêu thảo sứ...) và đặt quan trấn thủ nơi hiểm yếu. Đặt các quan có các tên gọi: Bình chương, Tư đồ (sau thêm chữ đại), đại Tư không, đại Tư mã, Khu mật đại sứ, Thiếu úy, Thượng tướng, Đại tướng, Á hầu, Thông hầu, Quan phục hầu, Trước phục hầu. Chia các lộ ở Đông Đô làm bốn đạo, đặt các chức văn võ liêu thuộc trong ngoài, có chức Bộc xạ, Thị trung, Thiếu bảo, Hành khiển, Thượng thư, Hàn lâm, các chức quan bốn đạo (chức chánh mang hàm tổng tri, coi việc quân dân; chức phó mang hàm kiên tri quân dân bạ tịch), quan Mật viện, quan các bộ (chẳng hạn như Thượng thư bộ Lại Nguyễn Trãi), quan các sảnh (như Thượng thư sảnh), quan Hàn lâm viện (như các chức Thừa chỉ, Học sĩ), quan Hình viện, quan quân vệ, quan điền binh. Các chức quan ngoài thì có các chức sứ, Quan sát sứ, Phòng ngự sứ, Tuyên úy sứ, An phủ sứ. Các quan văn võ đại thần được vua coi thân tín, đều được thêm chữ nhập nội. Quan võ từ Tổng quản, Tổng lĩnh, Đồng tri xuống đến Đại đội trưởng, Đội trưởng, quan văn từ Hành khiển, Thượng thư xuống đến thất phẩm đều là những chức sang, lại có ngự tiền văn đội, ngựa tiền võ đội và khách đội, thực đội. Lại đặt các quan ở các xã. Luật pháp và thực thi luật pháp Về luật pháp, Thái Tổ cho đặt ra bộ luật mới theo như hình luật của nhà Đường; đặt ngũ hình là: xuy, trượng, đồ, lưu và tử. Đặt lệ bát nghị: nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quí, nghị cần, nghị tân. Tháng 1 âm lịch năm 1428, thiên hạ thái bình, vua Lê Thái Tổ sai các quan Tư không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy, Hành khiển bàn việc soạn các điều luật dân sự và quân sự, nhằm mục đích "để cho người làm tướng biết phép trị quân, người làm quan các Lộ biết phép trị dân, và sự răn dạy quân dân, cũng nên cho biết có phép, để những người giữ việc gì, biết phép của việc ấy mà làm". Các cơ quan triều đình đã thực thi lệnh này, và đệ trình những đề xuất của mình lên nhà vua. Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429), Lê Thái Tổ định luật cấm cờ bạc, đánh bạc thì chặt bàn tay 5 phân, đánh cờ thì chặt bàn tay 2 phân. Những kẻ vô cố không phải việc công mà họp nhau uống rượu thì bị 100 trượng, kẻ dung túng thì tội giảm 1 bậc. Về tội ăn hối lộ, Lê Thái Tổ quy định nếu ghi nhận ăn hối lộ 1 quan tiền trở lên thì bị xử chém. Tiền tệ Từ đời vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly chấp chính, bắt đầu dùng tiền giấy gọi là hội sao, nhà nước thu tiền đồng đổi tiền giấy. Đến khi Lê Lợi lên ngôi, tiền đồng trong nước không còn, nên đúc thứ tiền đồng mới. Đến tháng 4, năm 1428, triều đình cho đúc đồng tiền mới của Đại Việt, gọi là tiền Thuận Thiên, được sử mô tả là mây xanh hiện, có cánh có chân, bên dưới như mâm ngọc, hai bên tả hữu hình như hai con cá chép vờn nhau. Đến tháng 12, năm Thuận Thiên thứ 1 (1428), Lê Thái Tổ lại đúc tiền Thuận Thiên thông bảo, tính 50 đồng là 1 tiền. Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429), ông truyền cho các quan trong ngoài bàn phép dùng tiền. Ông xuống chiếu rằng: Giáo dục Nhà Minh hoàn thành việc xâm lược Đại Ngu bằng việc đánh bại Nhà Hậu Trần năm 1414; Nhà Minh có mở khoa thi nhưng kẻ sĩ đều trốn tránh không chịu ra thi. Phép thi cử bỏ mặc cho đến khi vua Lê Thái Tổ đánh thắng quân Minh. Năm 1426, Lê Thái Tổ tiến quân ra Bắc, đóng quân ở dinh Bồ Đề. Ông liền hạ lệnh thi học trò văn học, đầu đề bài thi: Bảng văn dụ thành Đông Quan, lấy đỗ 50 người, sung bổ chức An phủ các lộ bên ngoài và chức Viên ngoại lang ở 6 bộ trong Kinh. Khoa này Đào Công Soạn, người Tiên Lữ, Hưng Yên đỗ đầu. Sau khi giành độc lập năm 1428, Lê Thái Tổ cho mở lại trường Quốc Tử giám để cho con cháu các quan và người thường dân tuấn tú vào học và đặt các nhà học ở các phủ và các lộ. Lúc mới đến Đông Đô, Thái Tổ mở khoa thi lấy đỗ 32 người. Năm 1429, Lê Thái Tổ hạ chiếu cho quân nhân các lộ và những người ẩn dật ở rừng núi, cùng các quan từ tứ phẩm trở xuống, ai thông kinh sử, thì đến cả sảnh đường để thi, năm ấy thi khoa Minh kinh. Năm 1431, Thái Tổ mở thi Hoành từ. Năm 1433, ông đích thân ra thi văn sách. Thi hai khoa này, hoặc dùng minh kinh, hoặc luận phú hoặc dùng sách vấn, đều tùy tài năng mà cất nhắc bổ dụng vượt bậc, vẫn chưa lấy đỗ Tiến sĩ. Theo Đào Duy Anh, nước Đại Việt về văn hóa, nửa triều Trần từ đời Chu Văn An Nho học đã bắt đầu thắng Phật học. Sang đời Lê, Nguyễn, Nho học mới chiếm địa vị độc tôn. Hai triều ấy đều có phép luật nghiêm khắc đối với các nhà tu hành Phật giáo và Đạo giáo. Nước Việt trải qua sự chiếm đóng của Nhà Minh thì rất nhiều sách vở về Nho học, Phật học của nước Việt bị người Minh thu mất, rồi người Minh phát lại những sách Ngũ kinh, Tứ thư thể chú để dùng ở các trường công. Đến khi Nhà Lê phục quốc, những chế độ và thư tịch ở đời Lý, Trần đã bị người Minh tiêu hủy hoặc mất tích nên đành phỏng theo chế độ của Minh triều, lấy khoa cử làm con đường dụng thân duy nhất, dùng văn chương bác cổ để làm thước đo nhân tài, lấy sách Tống nho làm chính thư. Tôn giáo Nhà Minh âu khi xâm chiếm Đại Việt đã có chính sách thu hoặc đốt phá các sách vở về Nho học, Phật học của người Việt, rồi phát các sách Tứ thư, Ngũ kinh thể chú để dùng ở các trường công. Khi nhà Lê phục quốc Đại Việt, chế độ và thư tịch đời Lý, Trần đều bị người Minh tiêu hủy hoặc mất tích nên đành phỏng theo chế độ của Nhà Minh, lấy khoa cử làm con đường dụng nhân duy nhất, dùng văn chương để đánh giá tài năng. Theo Đào Duy Anh, thời kỳ Lý Trần là thời kỳ Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo) cùng song hành tồn tại; đến nay Nho học hoàn toàn độc tôn. Nhà nước có mở các cuộc thi cho người theo tôn giáo nhưng đó chỉ là cách hạn chế giai tầng này. Đối với tôn giáo, Lê Thái Tổ quy định những người muốn xuất gia trong Phật giáo và Lão giáo phải thi kinh điển các đạo này. Người thi đỗ được phép làm sư hoặc làm đạo sĩ, còn người thi trượt thì phải về quê làm ăn. Quân đội Với lực lượng ban đầu năm 1418 kể cả khoảng vài nghìn người, bao gồm quân Thiết đột, quân Nghĩa sĩ, quân Dũng sĩ mỗi binh chủng có 200 người. Đến năm 1427 khi tiến ra thành Đông Quan, Nghĩa quân Lam Sơn đã có tổng số 35 vạn quân, trong đó có 7 vạn quân tinh nhuệ, chia làm trung, tiền, hậu, tả, hữu đều có chức năng hành quân tổng lĩnh. Lại đặt 14 vệ, Thiết đột, Kim ngô, Ngọc kiềm, Phủng thần, Xa kỵ, Câu kiềm, Thiên ngưu, Phủng thánh, Tráng sĩ, Thần vũ, Du nỗ, Thần tý, Vũ lâm, Thiên uy, Nhũ uy. Mỗi vệ có các chức thượng tướng quân, đại tướng quân, tướng quân, đô chỉ huy sứ và hỏa đầu, hỏa thủ. Sau khi đánh được quân Minh, Lê Lợi cho 25 vạn quân về làm ruộng, còn 10 vạn ở lại. Một nhà có ba người thì 1 người làm lính, việc phú dịch những gia đình này sẽ miễn trong ba năm. Lê Lợi sau khi lên ngôi lại tổ chức lại quân đội, chia ra làm vệ quân 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây. Mỗi vệ đặt chức Tổng quản. Lại đặt sáu chân ngự tiền và Ngự tiền vũ đội. Lê Lợi đã áp dụng chế độ luân phiên với quân đội, bằng cách chia quân đội thành 5 phiên, 1 phiên lưu lại quân ngũ và 4 phiên cho về làm ruộng. Vào năm 1429, Lê Lợi tổ chức thao diễn quân đội, các sử quan triều Nguyễn gọi lần thao diễn này là thao diễn quân đội một cách vĩ đại, điều động tất cả các vệ quân để tập trận thủy bộ. Theo sử gia Sun Lai Chen, nhà Minh Trung Quốc đã có sự phát triển cao về hỏa khí, khiến cho họ bất bại khi đi đánh nhau khắp bốn phương. Cuộc xâm lăng của nhà Minh với nhà Hồ là cuộc xâm lăng của Trung Quốc với Đại Việt chưa bao giờ dễ dàng và nhanh chóng như thế, đó là nhờ sự ưu việt của hỏa khí nhà Minh có được. Nghĩa quân Lam Sơn đã học được cách chế tạo súng, và thu được nhiều súng của quân Minh nên là một phần nguyên nhân của chiến thắng. Số súng Nghĩa quân Lam Sơn thu được sau chiến tranh đã làm triều đình nhà Minh lo ngại, họ liên tục hối thúc Lê Lợi trả lại, nhưng Lê Lợi đã không trả cái nào, rốt cuộc nhà Minh buộc phải chấp nhận. Chính sách ruộng đất Mùa xuân tháng 1 năm 1428, quân Minh đã về nước, Đại Việt hoàn toàn độc lập. Lê Lợi đã thực hiện những chính sách của mình nhằm phục hồi lại đất nước vốn đã bị suy tàn sau những năm bóc lột của quân Minh và chiến tranh. Tháng 7 âm lịch năm 1426 Lê Lợi cho làm sổ hộ tịch (sổ đinh). Tháng Giêng năm 1428, nhà vua hạ lệnh cho con em các nhà đầu mục và các tướng hiệu đều nên trở về nhận ruộng đất ở quê cha đất tổ, để chấm dứt nạn tranh chiếm ruộng đất. Tháng 4 âm lịch năm 1428, nhà vua ra lệnh trả lại ruộng đất, nhà cửa cho những quân dân bị bắt vào 4 thành Tây Đô, Đông Kinh, Cổ Lộng, Chí Linh đã được bổ vào các quân phụ vào quân Thiết đột. Ngày 25 tháng 11 âm lịch năm 1428, triều đình cho làm sổ ruộng đất, sổ hộ tịch. Triều đình ra chỉ thị cho các phủ, huyện, lộ khám xét các chằm bãi, ruộng đất, mỏ vàng bạc, những sản vật núi rừng trong hạt, các loại thuế cũ, cùng ruộng đất đã sung công các nhà thế gia và những người tuyệt tự, ruộng đất của bọn đào ngũ, ngụy quan. Ngày 22 tháng 12 âm lịch năm 1428, Lê Thái Tổ ra lệnh chỉ cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn, xã, sách đối chiếu, khám xét ruộng đất, đầm bãi công tư trong các huyện, xã của lộ mình. Ngày 22 tháng 1 năm 1429, nhà vua ra lệnh cho các đại thần tâu lên về việc cấp đất cho dân chúng, từ quan lại, quân nhân, đàn ông, đàn bà, người già yếu, mồ côi, góa chồng. Tháng 2 âm lịch năm 1429, Lê Thái Tổ lệnh cho tập trận trong 5 đạo, cả thủy binh và bộ binh. Sau cuộc tập trận, ông chia số quân sĩ làm 5 phiên, lưu lại 1 phiên còn 4 phiên về làm ruộng. Ngày 29 tháng 3 âm lịch năm 1429, nhà vua ra lệnh rằng phần đất của các quan và phủ đệ công hầu trăm quan nên trồng cây, hoa, rau đậu, không được để hoang, ai không theo thì mất phần đất đó. Các công hầu đã được ban cho đất ở, nếu trong phần đất của quân Thiết đột thì không cho quá nhiều, chỉ từ 5 sào trở xuống, nếu không phải trong phần đất của quân Thiết đột thì cho 2 mẫu trở xuống đến 1 mẫu. Nếu đã được chia ruộng đất vườn nhà nhất định rồi, lại còn chiếm đất trong thành Đại La làm nhà cửa khác nữa thì không được. Ngày 30 tháng 5 âm lịch năm 1429, ông sai định hạng ruộng đất của các cộng sự người Việt của quân Minh trước đây. Ngày 19 tháng 12 âm lịch năm 1429, ông ra lệnh xã nào có nhiều ruộng đất nhưng ít người, để bỏ hoang thì cho phép các quan nơi đó cho những người không có ruộng ở các xã khác đến cày cấy, người chủ ruộng xã đó không được chiếm giữ rồi bỏ hoang. Ai vi phạm sẽ bị xử theo tội cưỡng bức chiếm đoạt. Vào các năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) và 6 (1433), ông lại cho làm sổ hộ tịch. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, chính sách ruộng đất của Lê Thái Tổ gọi là phép quân điền. Triều đình ra lệnh cho các phủ huyện khám đo những ruộng đất đầm bãi công tư làm thành sổ sách. Lại sắc cho các quan đại thần bàn định số ruộng cấp cho các quan, quân đội và nhân dân, từ quan đại thần trở xuống, cho đến những người già yếu, con mồ côi, bà góa và đàn ông, đàn bà trở lên, theo thứ bậc khác nhau. Lại truyền cho các phủ, huyện, xã, rằng nơi nào có ruộng đất nhiều mà dân ít phải bỏ hoang, thì cho phép các quan bản hạt được cho người không có ruộng ở xã khác đến cày cấy. Điền chủ xã ấy không được chiếm đoạt mà bỏ hoang, làm trái thì phạt. Chính sách đất đai của vua Thái Tổ đã làm cho Đại Việt như lời nhận xét của sử thần trong sách Đại Việt sử ký toàn thư: "Vua mặc áo sớm, ăn cơm trưa, trải 10 năm mà thiên hạ đại trị". Dân gian có câu ca dao về việc no đủ, thịnh trị thời của vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn. Dẹp phản kháng trong nước, thu châu Phục Lễ Đánh Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái Ngoài xây dựng kinh tế, Thái Tổ còn phải đối phó với bạo loạn trong nước. Tháng 11 âm lịch năm 1430, Thổ tù ở châu Thạch Lâm, trấn Thái Nguyên là Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái nổi dậy; để đối phó, Lê Lợi tuyển binh ở bãi Bồ Đề. Tháng Giêng năm 1431, sau khi giết Phạm Văn Xảo, Lê Lợi thân chinh đem quân đánh trấn Thái Nguyên. Khi đến châu Thạch Lâm, thành Na Lữ, ông cho đóng quân ở đây, vì thấy thắng cảnh núi sông, nên sai lập sinh từ thờ phụng. Trên núi đá phía tây bắc thành Na Lữ, có bài thơ của vua Lê Thái Tổ ngự chế khắc vào đá, bên dưới ghi rằng: Thuận Thiên tứ niên Tân Hợi chính nguyệt thị thập nhật đà. Nội dung bài thơ như sau, được viết trong sách Đại Nam nhất thống chí: Bất từ vạn lý chỉnh sư đồ, Duy lục biên manh xích tử tô. Thiên địa bất dung gian đảng tại, Cổ kim thùy xá bạn thần chu. Trung lương tự khả lương đa phúc. Bạo bội chung nan bảo nhất khu. Đái lệ bất di thần tử tiết; Danh thùy vạn cổ dữ sơn câu. Dịch nghĩa: Đường xa chẳng quản ngại ra quân Chỉ muốn biên phương cứu lấy dân. Trời đất chẳng dung phường phản tặc, Xưa nay ai xá tội gian thần Trung lương ắt tự giành nhiều phúc. Bạn nghịch đành khôn giữ chiếc thân. Sông cạn đá mòn không đổi tiết Danh cùng núi ấy vạn năm xuân. Tháng 2 âm lịch cùng năm, ông đánh chiếm được Lâm Châu, giết Bế Khắc Thiệu và bắt sống Nông Đắc Thái. Đánh Đèo Cát Hãn, thu châu Mường Lễ Năm 1407, khi quân Minh sang đánh Nhà Hồ, Đèo Cát Hãn dẫn 4.000 quân ra xin hợp tác với quân Minh. Theo Minh sử, năm 1405, Đèo Cát Hãn dâng sớ lên triều đình Nhà Minh tố cáo Nhà Hồ đánh chiếm 7 trại Mãnh Man thuộc châu Ninh Viễn dưới quyền Đèo Cát Hãn, vốn thuộc phủ Vân Nam, giết con rể của ông, bắt con gái của ông để khống chế. Năm 1427, Lê Lợi sai Chủ thư thị sử Trần Hồ đi chiêu dụ châu Ninh Viễn (tức châu Mường Lễ, sau đổi là châu Phục Lễ, nay là phủ An Tây). Phụ đạo châu ấy là Đèo Cát Hãn đem binh tướng theo về. Tháng giêng năm 1432, Lê Lợi sai con trai cả là Lê Tư Tề và Tư đồ Lê Sát đem quân đánh châu Mường Lễ, do Đèo Cát Hãn thông đồng Phạm Văn Xảo làm loạn, liên kết với nghịch thần Ai Lao là Kha Đốn xâm lấn đất Mang Mỗi. Sau đó đích thân Lê Lợi thân chinh, đánh được Mang Lễ, Kha Đốn bị giết, Đèo Cát Hãn bỏ chạy, Lê Lợi thu Mang Lễ, đổi tên thành châu Phục Lễ. Trên đường đi thảo phạt Đèo Cát Hãn, vua Lê Thái Tổ đã có 2 bài thơ; bài thứ nhất được khắc trên vách đá Pú Huổi Chỏ, có tên là Thân chinh Phục Lễ châu Đèo Cát Hãn (Tự mình đi đánh Đèo Cát Hãn ở châu Phục Lễ), viết bằng chữ Hán theo thể ngũ ngôn bát cú; bài thơ thứ hai, bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú, được khắc trên vách núi Hào Tráng (Hòa Bình), có tên là Chinh Đèo Cát Hãn, quá Long Thủy đê (Đi đánh Đèo Cát Hãn trở về, qua đường đê Long Thủy). Bài thơ này đã được chép trong Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích (1744-1818), và được nhắc tới trong sách Hưng Hóa ký lược của Phạm Thận Duật (1825-1885), dưới triều vua Tự Đức. Chính sách với các công thần tham gia khởi nghĩa Lam Sơn Lê Lợi đã dành cho người chết thay mình là Lê Lai nhiều ân sủng đặc biệt. Khi Lê Lai vừa chết, Lê Lợi ngầm sai người tìm di hài đem về Lam Sơn mai táng. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), phong Lê Lai là Công thần hạng nhất, tặng là Suy trung Đồng đức Hiệp mưu Bảo chính Lũng Nhai công thần, hàm Thiếu úy, thụy là Toàn Nghĩa. Tháng 12 năm 1429, vua Lê Thái Tổ sai Nguyễn Trãi viết hai bản lời thề ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai, để trong hòm vàng. Lại gia phong làm Thái úy. Năm Thái Hòa thứ nhất 1443 ban tặng tước Bình chương quốc quân trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng, tước Huyện Thượng hầu. Năm 1428 truy tặng Lê Thạch làm Trung vũ Đại vương, được thờ ở tẩm miếu hoàng gia. Đối với Lý Triện, Lê Lợi trao cho cha của ông là Lê Ba Lao làm Quan sát sứ, tước Thượng phẩm, cấp 400 mẫu ruộng, con ông là Lý Lăng làm Phòng ngự sứ, tước Phục hầu, đều được đổi sang họ Lê. Năm 1428, Lý Triện được truy tặng chức Nhập nội Tư mã. Khi Đinh Lễ hi sinh trong Khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi cho em ông là Đinh Liệt làm Nhập nội Thiếu úy, tước Á hầu, các vợ lẽ của ông là bọn Hà Ngọc Dung gồm 5 người được làm tông cơ. Tháng 2, năm 1428, Lê Lợi định các hạng công cho các hỏa thủ và quân nhân Thiết đột có công ở Lũng Nhai, chia ra thứ bậc gồm 221 người: Công hạng nhất, cho mang họ vua là Phạm Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, Lê Ê,... 52 người, làm Vinh lộc đại phu tả Kim ngô vệ đại tướng quân tước Thượng trí tự; công thứ 2, cho quốc tính là Lê Bố, Đinh Liệt, Lê Khảo gồm 72 người, làm Trung lượng đại phu tả Bổng thần vệ tướng quân tước Đại trí tự; công thứ 3, cho mang họ vua, là Đinh Lễ gồm 94 người, làm Trung vũ đại phu Câu kiềm vệ tướng quân tước Trí tự. Khoảng tháng 3, năm 1428, sách Đại Việt sử ký toàn thư lại chép về việc ban thưởng cho 3 người: Lấy Thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Quan Phục hầu, Tư đồ Trần [Nguyên] Hãn làm Tả Tướng quốc, Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo làm Thái bảo, đều ban quốc tính. Tháng 5 năm 1429, Lê Lợi lại ban biển ngạch công thần cho 93 người (những người tên chữ nghiêng đều được cải sang họ Lê của vua, ở đây ghi nguyên họ những người đó): Huyện Thượng hầu, 3 người: Phạm Vấn, Lê Sát, Phạm Văn Xảo. Á Thượng hầu, 1 người: Lê Ngân. Hương Thượng hầu, 3 người: Nguyễn Lý, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng. Đình Thượng hầu, 14 người: Nguyễn Chích, Lê Văn An, Đinh Liệt, Lê Miễn, Đinh Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Trịnh Lỗi, Nguyễn Nhữ Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Bật. Huyện hầu, 14 người: Bùi Bị, Lê Bì, Lê Phủ, Lê Náo, Lê Thụ, Trương Lôi, Trịnh Khả, Lê Bồi, Lê Lang, Nguyễn Xí, Đỗ Khuyển, Đỗ Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật. Á hầu, 26 người: Lê Lạn, Nguyễn Trãi, v.v... Quan nội hầu, 16 người: Lê Thiệt, Lê Chương,... Quan phục hầu, 12 người: Phạm Cuống, Lê Dao,... Thượng trí tự trước phục hầu, 4 người: Trịnh Khắc Phục, Lê Hài, v.v... Chính sách đối với những người Việt làm quan cho Nhà Minh Trước năm 1428, Lê Lợi đã cho tiến hành bắt những quan lại người Việt phục vụ cho Nhà Minh, bắt vợ con, nô tỳ, tài vật, trâu bò đem giải nộp cho hết, điều tra những kẻ có lòng khác, thu nhập văn bằng ấn tin của ngụy quan, theo đúng hạn nộp lên. Sau đó cho ngụy quan chuộc mệnh, định lệ tiền chuộc các vợ cả, vợ lẽ và nô tỳ của ngụy quan. Vợ Bố chính ty thì 70 quan, dưới đến các hạng sinh viên, thổ quan, thừa sai, bạn đương, thì vợ là 10 quan, con trai, con gái và nô tỳ từ 10 tuổi trở xuống thì 5 quan. Năm 1428, sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ ra lệnh trị tội những viên quan cộng tác với Nhà Minh. Năm 1429 ông ra lệnh chỉ rằng những người này trước đã có lệnh cho tha tội chuộc mệnh, thì cho miễn cả ruộng đất (không phải sung công). Tháng 5 âm lịch năm 1429, Lê Thái Tổ ra lệnh: cho những văn võ hào kiệt nào còn bị bỏ sót có thể đến chỗ Thiếu phó Lê Văn Linh mà tự tiến, không phân biệt ngụy quan hay sĩ thứ, cốt lấy tài đức. Các quan người Việt của Nhà Minh như Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Đỗ Duy Trung, con cái của Mạc Thúy như Mạc Tung đều được Lê Thái Tổ tha mạng. Các ngụy quan như Trần Phong, Lương Nhữ Hốt,... lại mưu làm loạn, kết bè đảng, ngầm đưa thư sang nhà Minh thì họ sẽ làm nội ứng. Người đưa thư bị Thượng tướng trấn Thái Nguyên là Hoàng Nguyên Ý bắt được. Lê Lợi sai giết đi, giấu việc ấy. Sau có người tố giác, Lê Lợi mới hạ chiếu giết đi, còn con cái, đồ đảng đều được tha mạng. Lập người kế vị và băng hà Ngày 7 tháng 1 âm lịch năm 1429, Lê Thái Tổ lập con trưởng Lê Tư Tề làm Quận vương, giúp trông coi việc nước, con thứ Nguyên Long làm Hoàng thái tử. Lê Tư Tề mắc chứng điên cuồng, giết bừa các tì thiếp, việc đó không hợp ý vua Thái Tổ. Năm 1433, Lê Thái Tổ vời người con của anh ruột của mình là Nhập nội Thiếu úy Lê Khôi lúc ấy đang trấn thủ Hóa châu về để bàn định việc lập Thái tử, tháng 8 âm lịch năm đó, con trưởng Lê Tư Tề bị phế giáng làm Quận vương, con thứ Nguyên Long kế thừa tông thống. Đô đốc Phạm Vấn, Đại Tư đồ Lê Sát và Tư khấu Lê Ngân được vua trao trọng trách phụ chính giúp vua Lê Thái Tông còn ít tuổi. Lê Thái Tổ ở ngôi được 5 năm thì qua đời vào ngày 22 tháng 8 âm lịch (ngày 7 tháng 9 dương lịch) năm Quý Sửu (1433), hưởng dương 49 tuổi. Vì nhớ công Lê Lai chết thay cho mình ở núi Chí Linh trước kia, ông dặn lại đời sau phải giỗ Lê Lai trước khi giỗ ông một ngày. Bởi thế đời sau truyền lại câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi. Lê Lợi được an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn và được tôn miếu hiệu là Thái Tổ (太祖), thụy hiệu là Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế (chữ Hán: 統天啟運聖德神功睿文英武寬明勇智弘義至明大孝高皇帝). Đời sau đều gọi là Thái Tổ Cao Hoàng đế (chữ Hán: 太祖高皇帝) hay Cao Hoàng (高皇), Cao Đế (皇帝). Thái tử Lê Nguyên Long 11 tuổi lên nối ngôi, tức hoàng đế Lê Thái Tông. Nhận định Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại những lời nhận xét về Lê Thái Tổ như sau: Sử thần bàn: Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn chép rằng: <p>"Bậc trượng phu sinh ở đời phải cứu nạn lớn, lập công to, lưu lại tiếng thơm ngàn năm sau, sao lại chịu hèn nhát để cho người sai khiến?"<p> - Đại Việt sử ký toàn thư Huyền thoại Gươm thần Thuận Thiên Theo sách Đại Việt thông sử, Lam Sơn thực lục chép về nhân vật Lê Thận, Lê Thận ở làng Mục Sơn và Lê Lợi là bạn thân. Lê Thận làm nghề đánh cá, có hôm quăng chài bắt được thanh sắt, về để ở góc tối. Một hôm Lê Lợi tới chơi nhân ngày giỗ cha mẹ của bạn, thấy ánh sáng trong góc nhà, đến nơi chỉ thấy thanh sắt. Lê Thận mới kể lại cho vua nghe, vua lấy mang về nhà, không mài mà sáng, thấy chữ triện, ghi rõ Thuận Thiên và chữ Lợi, biết là gươm thần trời cho. Hôm sau vua bắt được chuôi gươm ở gốc cây đa, tra vừa gươm vừa khớp. Về sau Lê Thận tham gia khởi nghĩa Lam Sơn trước nhất, sau đảm nhiệm những chức quan quan trọng trong triều đình Đại Việt. Sau khi đuổi giặc Minh về được một năm, ngày hôm ấy Lê Lợi - bấy giờ đã là một vị thiên tử - cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả-vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Vua đứng trên và nhận thấy lưỡi gươm đeo bên mình cũng đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về phía thuyền vua. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói: "Bệ hạ hoàn gươm cho Long quân!" Nghe nói thế nhà vua bỗng hiểu ra bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát thanh gươm thần rời khỏi tay vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy ngang lưỡi. Cho đến khi gươm và rùa lặn xuống, người ta vẫn thấy có vệt sáng le lói dười mặt nước hồ xanh. Khi những chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì vua liền báo ngay cho họ biết: Đức Long quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh bình, Người sai rùa lấy lại. Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn-kiếm. Phu nhân hồ ly Truyền thuyết kể rằng thời quân Lam Sơn chưa mạnh, Lê Lợi bị đánh bại, tướng sĩ chạy tan tác mỗi người một nơi. Bị quân Minh đuổi, Lê Lợi trốn vào rừng, trông thấy xác một cô gái chết trên bãi cỏ. Ông rút gươm đào tạm một cái huyệt chôn cô gái và cầu khấn người chết phù hộ để thoát nạn. Quân Minh đuổi tới gần, Lê Lợi vội trốn vào một gốc cây to rỗng ruột, xung quanh là cỏ mọc cao. Quân Minh cho chó sục sạo, đánh hơi đến gốc cây. Thấy chó sủa ở gốc cây, quân Minh đâm bừa ngọn giáo vào trong, trúng đùi Lê Lợi. Ông vội lấy vạt áo chùi vết máu ở mũi giáo. Quân Minh rút giáo ra không thấy gì nhưng chó vẫn sủa. Quân Minh định dùng lửa đốt cây thì trong gốc cây có con cáo trắng chạy ra, chó săn ùa theo đuổi bắt. Quân Minh tưởng là chó sủa vì con cáo nên bỏ đi. Lê Lợi thoát nạn, cho rằng linh hồn người con gái đã chết hóa thành cáo cứu mình. Ông đến nấm mộ cô gái vái tạ. Sau này lên ngôi vua, ông truy tặng cô gái là Hồ ly phu nhân. Cụ thể cho truyền thuyết trên, thần tích đền Mẫu Thượng cho biết trong một trận đánh Lê Lợi bị giặc đuổi tới khu vực Đồng Giao - Tam Điệp thì gặp xác một người phụ nữ đã bị mối xông, vua vội lấy đất lấp mà không để ý quân giặc đã đuổi tới gần. Tình thế cấp bách vua vội nấp vào gốc cây đa rất to ở gần đó. Giặc có con chó săn rất giỏi tìm người, trận đánh nào chúng cũng cho chó đi theo và chưa khi nào nó tìm sai. Đến gần gốc cây đa nơi vua Lê Lợi đang nấp, bất ngờ từ trong gốc đa có một con cáo chạy ra, đánh lạc hướng quân địch; nhờ vậy vua Lê Lợi được cứu. Vua cho rằng chính vong hồn của người phụ nữ vừa được nhà Vua lấp đã hoá thành con cáo để cứu mình nên cho quân lập đền thờ đặt hiệu cho cô gái là "Bạch Diện Sơn Tinh công chúa" để ghi nhớ ơn cứu mạng. Từ đó nhân dân trong vùng Tam Điệp truyền tụng nhau và đến đây lễ rất đông, đền thuộc địa phận thôn Tân Thượng xã Quang Sơn nên thường gọi là đền Mẫu thượng, hiện nay vẫn còn ở thành phố Tam Điệp. Cuối thế kỷ 18, Phạm Đình Hổ xác minh việc nhà Lê trung hưng đã làm tượng thờ ân nhân của Lê Thái Tổ trong sân triều đình Lê - Trịnh: Những buổi chầu trong điện không bị ngăn cấm người ngoài vào xem. Ta khi nhỏ thường hay vào sân rồng, thấy bên võ ban có đặt pho tượng "Hộ quốc phu nhân". Tượng ấy đầu người thân hồ ly, dáng rất đẹp, hình dung một thiếu nữ búi tóc, cài trâm. Gia đình Tổ tiên Tằng tổ phụ: Lê Hối được truy tôn làm Thượng Tổ Cao Minh Hoàng đế. Theo Đại Việt thông sử, Lê Hối là người tính tình chất phác, ngay thẳng, một lần đi du ngoạn thấy đất Lam Sơn có khí đất tốt bèn dời nhà về đó, tự cày cấy ruộng vườn, ba năm thành sản nghiệp. Các đời sau nối nghiệp làm quân trưởng một phương, đế nghiệp của họ Lê bắt đầu từ đây. Tằng tổ mẫu: Nguyễn Thị Ngọc Duyên, được truy tôn Phổ Từ Cao Minh Hoàng hậu. Ông nội: Lê Đinh, được truy tôn là Hiển Tổ Chiêu Đức Chí Nhân Trạch Hoàng đế, nối cơ nghiệp của cha, trong nhà có hàng nghìn tôi tớ, có lòng yêu người, xa gần đều quy phụ. Bà nội: Nguyễn Quách, được truy tôn là Hiển Từ Gia Thục Khâm Thuận Trạch Hoàng hậu. Hai ông bà sinh được hai con trai: con trưởng Lê Tòng và Lê Khoáng (cha của Lê Lợi) Cả 4 người trên đều có mộ táng tại Lỗi Viên, thôn Hào Lương. Cha mẹ, anh em Thân phụ: Lê Khoáng được truy tôn là Tuyên Tổ Hiến Văn Duệ Triết Phúc Hoàng đế. Giỗ ngày 17/10 âm lịch, táng tại lăng Phật Hoàng, động Chiêu Nghi. Thân mẫu: Trịnh Ngọc Thương, người sách Chủ Sơn, được truy tôn là Trinh Từ Ý Văn Trang Hiến Phúc Hoàng hậu. Giỗ ngày 17/10 âm lịch, táng tại lăng Bạch Thạch, thôn Chiêu Thị. Ông bà sinh được ba con trai là Lê Học, Lê Trừ, Lê Lợi và ba con gái là Ngọc Tá, Ngọc Vĩnh, Ngọc Tiên. Lê Học, được truy tặng là Chiêu Hiếu Đại vương. Ông có con trai là Tướng quốc Lê Thạch tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, do ham đuổi theo quân địch trúng phải tên mà chết, được truy tặng làm Nhập nội kiểm hiệu Thái úy Bình chương quân quốc trọng sự, phong làm Trung Vũ Đại vương. Lê Trừ, được tôn là Lam quốc công, về sau được tôn là Hoằng Dụ vương. Con trai ông là Khai quốc công thần Kì Lân Hổ vệ tướng quân Lê Khôi. Về sau cháu 6 đời là Lê Duy Bang được lập nối ngôi nhà Lê Trung hưng, tức là Lê Anh Tông. Vợ Vua Lê Thái Tổ không lập chính thất (vợ cả hay vương hậu, hoàng hậu), sử sách ghi chép lại có các bà: Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ, người trang Bái Đô, huyện Lôi Dương, phủ Thiện Thiên, trấn Thanh Hoa, là người vợ đầu tiên của Thái Tổ, thân mẫu Lê Tư Tề, mất năm Thái Hòa (1443-1453) thời vua Lê Nhân Tông. Cung Từ Cao Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần. Bà sinh ra Lê Nguyên Long vào năm 1423, sau trở thành Lê Thái Tông. Bà mất khi Nguyên Long được 3 tuổi. Huệ phi Phạm Thị Nghiêu (? - 1441), bà không có con. Bà được vua Thái Tông tôn làm Huệ phi, sau bị đảng gian lừa dối, mưu phế lập vua. Nhà vua Thái Tông bèn cho bà về Lam Kinh coi giữ Vĩnh Lăng, do vẫn oán thán nên nhà vua cho đình thần luận tội, cho được chết. Trinh Thục phi Trần Thị Ngọc Hiền, là Huy Chân công chúa nhà Trần, con gái vua Trần Duệ Tông. Con cái Vua Lê Thái Tổ có bốn người con là: Quận Ai vương Lê Tư Tề, con của Trịnh Thần phi. Lê Thái Tông Lê Nguyên Long, con của Cung Từ Cao Hoàng hậu. Công chúa Lê Thị Đào Nữ, con gái của Trịnh Thần phi. Bị giặc Minh bắt năm 9 tuổi rồi được viên nội quan Nhà Minh là Mã Kỳ đem về nuôi, rồi đưa về Yên Kinh tiến làm cung tỳ. Năm 1428, vua sai sứ sang xin về. Vua Minh trả lời là công chúa đã mất vì bệnh đậu mùa. Trang Từ Công chúa Lê Thị Ngọc Châu, con của Trần Trinh Thục phi, được Thái Tổ gả cho Bùi Ban, con trai của tướng Bùi Bị. Bùi Ban hy sinh trong chiến trận với Chiêm Thành, bà tái giá với Khôi Quận công Trần Hồng rồi xin đi tu. Con rể Nguyễn Bá Sương Là một Phò mã Nhà Lê con trai thứ 2 của Huyện Hầu Quỳ Quận Công Nguyễn Xí. Họ hàng Hai anh em Hiển Khánh vương Đinh Lễ, Nhập nội Thái phó Á Quận hầu Đinh Liệt là cháu ruột của Lê Lợi, gọi Lê Lợi bằng cậu. Tư liệu dùng để viết bài Đại Việt sử ký toàn thư Tác giả: Ngô Sĩ Liên và các sử quan thời quân chủ Việt Nam...; Nhà Xuất bản Thời đại, 2013. Đại Việt thông sử, Tác giả Lê Quý Đôn, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 2007. Lịch triều hiến chương loại chí, Tác giả Phan Huy Chú, tập 1, 2, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2006. Lam Sơn thực lục bản Nhà Lê Sát, Nhà Xuất bản KHXH, 2006. Lam Sơn thực lục, Tác giả không rõ, Nhà Xuất bản Tân Việt, 1944, Dịch giả Mạc Bảo Thần. Việt sử tiêu án, Tác giả Ngô Thì Sĩ. Khâm định Việt sử thông giám cương mục tác giả Quốc sử quán triều Nguyễn, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2008. Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, 1977. Hoàng Việt văn tuyển, tập 3, Tác giả Tồn Am Bùi Huy Bích, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, 1972. Minh Thực lục, Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thế kỉ XIV-XVII, tập 1, 2, 3 Nhà Xuất bản Hà Nội, 2010. Người dịch Hồ Bạch Thảo. Suy ngẫm về 20 năm - Một chớp mắt của lịch sử đầu thế kỷ XV (1407 - 1427), Tác giả Nguyễn Diên Niên, Nhà Xuất bản Trí thức, 2016. Đại Nam nhất thống chí Nhà Xuất bản Thuận Hóa, 2006. Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Lê Thái Dũng (2008), Giở trang sử Việt, Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Trần Trọng Kim (2010), Việt Nam sử lược Nhà Xuất bản Thời đại. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Tác giả Trường Chinh, Nhà Xuất bản Sự thật, 1975. Nam hải dị nhân, tác giả Phan Kế Bính, 1930. Việt Nam văn hóa sử cương; soạn giả Đào Duy Anh, 1938; in tại Quan Hải tùng thư. Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh, Nhà Xuất bản Nhã Nam, 2016. Việt Sử tân biên, quyển II, III, Tác giả Phạm Văn Sơn, Tủ sách sử học Việt Nam, 1959. Đọc thêm Khởi nghĩa Lam Sơn, Tác giả Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân, 2005. Trùng san Lam Sơn thực lục, Nhà Xuất bản khoa học Xã hội, 1992. Vũ Trung tùy bút, Tác giả Phạm Đình Hổ, Nhà Xuất bản Trẻ, 1989. Sun Laichen, Military Technology Transfers From Ming China and The Emergence Of Northern Mainland Southeast Asia (c. 1390-1527), Journal of Southeast Asian Studies, 34.3 (Oct. 2003). Bản dịch tiếng Việt của Ngô Bắc. Lịch sử của người Việt Nam (A History of the Vietnamese - Cambridge University Press ấn hành, New York, 2013). Chủ nghĩa yêu nước thời Khởi nghĩa Lam Sơn, Nhà Xuất bản ĐH&THCN, 1984.
Bảo hiểm là phương thức bảo vệ trước những tổn thất tài chính. Đó là hình thức quản lý rủi ro, chủ yếu được sử dụng để bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên hoặc tổn thất có thể xảy ra. Một doanh nghiệp cung cấp bảo hiểm được gọi là nhà bảo hiểm, công ty bảo hiểm. Lịch sử Sơ khởi Các phương pháp chuyển giao hoặc phân tán rủi ro đã được các thương nhân Babylonia, Trung Hoa và Ấn Độ thực hành từ rất lâu trước đây lần lượt từ thiên niên kỷ thứ 3 và thứ 2 trước Công nguyên. Các thương nhân Trung Quốc đi qua các ghềnh thác đầy nguy hiểm sẽ phân phối lại hàng hóa của họ cho nhiều tàu để hạn chế tổn thất do bất kỳ tàu nào bị lật. Luật Codex Hammurabi 238 (khoảng năm 1755–1750 TCN) quy định rằng thuyền trưởng tàu biển, quản lý tàu hoặc người thuê tàu đã cứu một con tàu khỏi tổn thất toàn bộ là chỉ được yêu cầu trả một nửa giá trị của con tàu cho chủ tàu. Trong Digesta seu Pandectae (533), tập 2 của mã hóa các luật theo lệnh của Justinian I (527–565) thuộc Đế chế Đông La Mã, một ý kiến ​​pháp lý được viết bởi Luật gia La Mã Paulus vào đầu Cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba năm 235 sau Công nguyên đã được đưa vào về Lex Rhodia ("Luật Rhodia" ) nêu rõ nguyên tắc trung bình chung của bảo hiểm hàng hải được thành lập trên đảo Rhodes vào khoảng năm 1000 đến 800 trước Công nguyên với tư cách là thành viên của Doric Hexapolis, một cách chính đáng bởi Phoenicia trong cuộc xâm lược Doria được đề xuất và sự nổi lên của Dân tộc trên biển trong thời kỳ đen tối của Hy Lạp (khoảng 1100 – c. 750) dẫn đến sự gia tăng của phương ngữ tiếng Hy Lạp Doric. Tổng quan Khái niệm Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ...) Định nghĩa 1: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít Định nghĩa 2: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê Bảo hiểm có thể định nghĩa là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn thất cộng đồng và có thể dự tính được. Các định nghĩa trên thường thiên về một góc độ nghiên cứu nào đó (hoặc thiên về xã hội - định nghĩa 1, hoặc thiên về kinh tế, luật pháp - định nghĩa 2, hoặc thiên về kỹ thuật tính - định nghĩa 3). Một định nghĩa vừa đáp ứng được khía cạnh xã hội (dùng cho bảo hiểm xã hội) vừa đáp ứng được khía cạnh kinh tế (dùng cho bảo hiểm thương mại) và vừa đầy đủ về khía cạnh kỹ thuật và pháp lý có thể phát biểu như sau: Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê Đặc điểm Bảo hiểm là một loại dịch vụ đặc biệt (bảo hiểm là một sản phẩm vô hình và chu trình đảo ngược) Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn, vừa mang tính không bồi hoàn; Vai trò Bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống của người tham gia bảo hiểm; Đề phòng và hạn chế tổn thất; Bảo hiểm là một công cụ tín dụng; Góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm. Hình thức Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước Geneva năm 1952 gồm Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp sinh sản; Trợ cấp tàn phế; Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng. Ở Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thực hiện 7 chế độ Bảo hiểm thất nghiệp; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thai sản; Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp hưu trí; Trợ cấp tử tuất. Bảo hiểm y tế Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội: Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội Người sử dụng lao động đóng góp; Người lao động đóng góp một phần tiền lương của mình;thu từ các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Chi các khoản trợ cấp và chi phí cho người tham gia bảo hiểm xã hội trong các trường hợp: Gặp phải các biến cố đã quy định trong chế độ bảo hiểm xã hội; Người được bảo hiểm là thành viên của bảo hiểm xã hội; Đóng bảo hiểm xã hội đều đặn; Chi khác: chi quản lý, nộp bảo hiểm y tế theo quy định, chi hoa hồng đại lý, v.v... Bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và sử dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo hiểm khi ốm đau. Đặc điểm của bảo hiểm y tế Vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn; Quá trình phân phối quỹ bảo hiểm y tế gắn chặt với chức năng giám đốc bằng đồng tiền đối với mục đích tạo lập và sử dụng quỹ. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm y tế Vì quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và bảo đảm an toàn sức khỏe cho cộng đồng; Chỉ bảo hiểm cho những rủi ro không lường trước được, không bảo hiểm những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra; Hoạt động dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đối tượng của bảo hiểm y tế Đối tượng của bảo hiểm y tế là sức khỏe của người được bảo hiểm (rủi ro ốm đau, bệnh tật,...). Hình thức của bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế bắt buộc; Bảo hiểm y tế tự nguyện. Phạm vi của bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do chính phủ tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm; Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế; Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ theo quy định; cơ quan bảo hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này. Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm y tế: Hình thành quỹ bảo hiểm y tế Ngân sách nhà nước cấp; Tài trợ của các tổ chức xã hội, từ thiện; Phí bảo hiểm y tế của người tham gia bảo hiểm, đối với người nghỉ hưu, mất sức: do bảo hiểm xã hội đóng góp; Phí bảo hiểm của tổ chức sử dụng người lao động. Sử dụng quỹ bảo hiểm y tế Thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm theo định mức; Chi dự trữ, dự phòng; Chi cho đề phòng hạn chế tổn thất; Chi phí quản lý; Chi trợ giúp cho hoạt động nâng cấp các cơ sở y tế. Bảo hiểm kinh doanh Trên góc độ tài chính, bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra. Trên góc độ pháp lý, bảo hiểm kinh doanh thực chất là một bản cam kết mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu bên kia đóng phí bảo hiểm. Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm. Đặc điểm của bảo hiểm kinh doanh: Người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm; Là một biện pháp hiệu quả nhất cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và an toàn với đời sống cộng đồng. Nguyên tắc của bảo hiểm kinh doanh: Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tuân theo luật pháp quy định cho doanh nghiệp nói chung, và cho doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng. Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính. Hình thức của bảo hiểm kinh doanh: Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm Bảo hiểm tài sản: Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu; Bảo hiểm thân tàu, thuyền, ô tô,...; Bảo hiểm hỏa hoạn. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự; Bảo hiểm con người Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động: Bảo hiểm nhân thọ; Bảo hiểm phi nhân thọ. Căn cứ vào tính chất hoạt động Bảo hiểm tự nguyện; Bảo hiểm bắt buộc. Cơ chế, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh: Cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm kinh doanh Vốn kinh doanh; Doanh thu và thu nhập. Phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh Ký quỹ; Quỹ dự trữ bắt buộc; Bồi thường tổn thất và trả tiền bảo hiểm; Dự phòng nghiệp vụ; Nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước; Chế độ phân phối lợi nhuận. Bảo hiểm thương mại Bảo hiểm thương mại hay hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước trên hợp đồng. Nội dung Bảo hiểm thương mại: Nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngoài mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng của mình (gọi là Người mua bảo hiểm) còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa người bảo hiểm gốc và người nhận tái bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm và bao hàm các hoạt động của trung gian bảo hiểm như: môi giới, đại lý.... Nhà bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận trong việc đảm bảo rủi ro cho khách hàng của mình. Lợi ích: Trong cuộc sống hàng ngày, lúc này hay lúc khác, dù không hề mong muốn và dù khoa học kỹ thuật có tiến bộ đến đâu, người ta vẫn có thể phải gánh chịu những rủi ro tổn thất bất ngờ. Tác động của rủi ro làm cho con người không thu hái được kết quả như đã dự định trước và tạo ra sự ngưng trệ quá trình sản xuất, sinh hoạt của xã hội. Đó chính là tiền đề khách quan cho sự ra đời của các loại quỹ dự trữ bảo hiểm nói chung và hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng. Tồn tại song song với các quỹ dự trữ khác, Bảo hiểm thương mại đóng vai trò như một công cụ an toàn thực hiện chức năng bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho kinh tế và xã hội. Cụ thể là:  Đối với người dân, bảo hiểm đảm bảo cho họ về mặt tài chính nhằm khắc phục hậu quả khi bất ngờ gặp rủi ro tai nạn hay bệnh tật như chi phí điều trị, viện phí, thu nhập mất giảm…Bảo hiểm nhân thọ còn cung cấp những chương trình tiết kiệm và là người đại diện đầu tư mang lại lợi tức cho khách hàng.  Đối với các doanh nghiệp, tham gia bảo hiểm giúp các doanh nghiệp với việc bỏ ra một khoản phí bảo hiểm ổn định và nhỏ có thể hoán chuyển rủi ro - những yếu tố không ổn định và tổn thất không lường trước được sang cho nhà bảo hiểm. Nhờ vậy, các doanh nghiệp an tâm sản xuất và khi có những tổn thất xảy ra, bồi thường bảo hiểm sẽ giúp họ nhanh chóng khôi phục quá trình kinh doanh.  Đối với ngân hàng thương mại, bảo hiểm đảm bảo cho khả năng hoàn trả vốn vay của doanh nghiệp – người đi vay trong những trường hợp gặp rủi ro tổn thất. Mặt khác, các loại hình bảo hiểm nhân thọ còn giúp các ngân hàng an tâm triển khai các loại hình tín dụng tiêu dùng cho người dân.  Hoạt động bảo hiểm phát triển.góp phần cải thiện môi trường đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác hoạt động bảo hiểm còn mang về cho kinh tế quốc dân một khoản ngoại tệ đáng kể.  Bảo hiểm chẳng những có tác dụng bồi thường tổn thất sau khi có rủi ro phát sinh mà còn góp phần rất lớn cho việc đề phòng rủi ro và hạn chế tổn thất. Nhà bảo hiểm thường sử dụng những chuyên gia giỏi, tổ chức các dự án nghiên cứu, tư vấn – tài trợ cho cơ quan quản lý nhà nước áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất hoặc tư vấn cho khách hàng tăng cường quản trị rủi ro ở đơn vị mình.  Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm với việc nắm giữ quỹ tiền tệ bảo hiểm rất lớn nhưng tạm thời nhàn rỗi đã trở thành những nhà đầu tư lớn. Bảo hiểm vì vậy còn có vai trò trung gian tài chính là một kênh huy động và cấp vốn có hiệu cho nền kinh tế. Đặc biệt, ở nhiều nước phát triển, các nhà bảo hiểm còn bảo hiểm cho trái phiếu nhất là trái phiếu đô thị. Điều nầy làm tăng tính an toàn của trái phiếu đô thi, giúp cho chính quyền trung ương và địa phương thu hút vốn từ dân cư, đầu tư cho các dự án y tế, giáo dục, công trình phúc lợi và cơ sở hạ tầng.  Với những lợi ích nói trên, bảo hiểm đã ra đời từ rất lâu và ngày càng phát triển. Trong những năm gần đây, hàng năm, trên toàn thế giới, số phí bảo hiểm thu được lên đến hàng ngàn tỷ đô la Mỹ (năm 2001: trên 2400 tỷ), trung bình mỗi cư dân trên hành tinh chúng ta mỗi năm bỏ ra 393 USD cho việc tham gia bảo hiểm, trong đó, 235 USD cho BHNT và 158 USD cho BHPNT. Ở nhiều nước, bảo hiểm chiếm tỷ lệ đáng kể trong GDP (Ví dụ, Hàn Quốc: 12%, Nhật Bản: 11%, Mã Lai: 5%). Hàng năm, bảo hiểm cũng đã góp phần đáng kể trong việc khắc phục hậu quả của những tổn thất đặc biệt là các tổn thất thảm họa. Đặc điểm của Bảo hiểm thương mại: Nhìn chung, bảo hiểm thương mại có một số đặc điểm cơ bản sau:  Trước tiên, hoạt động bảo hiểm thương mại là một hoạt động thỏa thuận (nên còn gọi là bảo hiểm tự nguyện);  Hai là, sự tương hổ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một "cộng đồng có giới hạn", một "nhóm đóng";  Ba là, bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro bản thân) mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của Bảo hiểm thương mại thì hoạt động bảo hiểm nói chung, hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng tạo ra được một "sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít" trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số người tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất thể hiện ở mức phí bảo hiểm phải đóng là nhỏ nhất đủ để mỗi người đó không ảnh hưởng gì quan trọng đến hoạt động sinh hoạt sản xuất của mình. Hoạt động theo quy luật số đông, đó là nguyên tắc cơ bản nhất của bảo hiểm. Bên cạnh đó, đám đông tham gia vào cộng đồng càng lớn thể hiện nhu cầu bảo hiểm càng tăng theo đà phát triển của nền kinh tế - xã hội, những người được bảo hiểm không thể và cũng không cần biết nhau, họ chỉ biết người quản lý cộng đồng (doanh nghiệp bảo hiểm) là người nhận phí bảo hiểm và cam kết sẽ bồi thường cho họ khi có rủi ro tổn thất xảy ra. Hoạt động bảo hiểm thương mại tạo ra được một sự hoán chuyển rủi ro từ những người được bảo hiểm qua người bảo hiểm trên cơ sở một văn bản pháp lý: Hợp đồng bảo hiểm. Điều này đã tạo ra một rủi ro mới đe dọa mối quan hệ giữa 2 bên trên hợp đồng. Dịch vụ bảo hiểm thương mại là một lời cam kết, liệu lúc xảy ra tổn thất, doanh nghiệp bảo hiểm có thực hiện hoặc có khả năng thực hiện cam kết của mình hay không trong khi phí bảo hiểm đã được trả theo "nguyên tắc ứng trước". Ngược lại các rủi ro, tổn thất được bảo hiểm được minh thị rõ ràng trên hợp đồng, liệu có sự man trá của phía người được bảo hiểm hay không để nhận hưởng tiền bảo hiểm. Như vậy, mối quan hệ giữa 2 bên trên hợp đồng bảo hiểm gắn liền với sự tin tưởng lẫn nhau và điều này đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc cơ bản thứ hai: Nguyên tắc trung thực. Các nét khác nhau cơ bản giữa Bảo hiểm thương mại và Bảo hiểm xã hội: Bảo hiểm thương mại được thực hiện bởi các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích cung cấp cho xã hội một loại hàng hóa, dịch vụ "an toàn", trên cơ sở đó, nhà bảo hiểm tìm kiếm một khoản lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm. Trong khi đó, Bảo hiểm xã hội được thực hiện bởi cơ quan bảo hiểm xã hội  một tổ chức sự nghiệp của nhà nước nhằm chăm lo phúc lợi xã hội. Nói cách khác, Mối quan hệ của Bảo hiểm thương mại nẩy sinh mang tính chất tự nguyện, còn Mối quan hệ của Bảo hiểm xã hội mang tính chất bắt buộc. Nội dung bảo hiểm thương mại rất rộng. Bảo hiểm thương mại không chỉ đảm bảo cho các rủi ro về con người như Bảo hiểm xã hội mà còn đảm bảo các rủi ro của các đối tượng khác như tài sản (công trình, nhà cửa, nhà xưởng, hàng hóa, phương tiện sản xuất kinh doanh và sinh hoạt) và trách nhiệm (trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản phẩm,...); Bảo hiểm thương mại có mức phí, mức chi trả bồi thường phụ thuộc vào thỏa thuận phù hợp theo nhu cầu (xuất phát từ giá trị tài sản được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm lựa chọn, mức độ quan trọng của rủi ro,...) và khả năng của Người được bảo hiểm, thông thường nghĩa vụ và quyền lợi trên Hợp đồng bảo hiểm là tương xứng nhau. Ngược lại, phí bảo hiểm của Bảo hiểm xã hội được xác định theo thu nhập của người lao động (theo tỷ lệ phần trăm trên lương) chứ không theo tình trạng sức khỏe, tuổi thọ của họ. Mối quan hệ của Người được bảo hiểm và Người bảo hiểm trong Bảo hiểm thương mại là có thời hạn và thông thường là ngắn hạn (bảo hiểm phi nhân thọ). Ngược lại mối quan hệ giữa Người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội là dài hạn, trọn đời. Cộng đồng Người được bảo hiểm của Bảo hiểm thương mại là một “nhóm đóng” có giới hạn trong một thời kỳ nhất định còn đối với Bảo hiểm xã hội đó lại là một “nhóm mở” có đầu vào và đầu ra là các thế hệ người lao động nối tiếp nhau. Phân loại Bảo hiểm thương mại: Phân loại theo đối tượng bảo hiểm: Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm thì toàn bộ các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm được chia thành ba nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Bảo hiểm tài sản: là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt hại thực tế và mức độ đảm bảo thuận tiện hợp đồng; Bảo hiểm con người (bảo hiểm nhân thọ): đối tượng của các loại hình này, chính là tính mạng, thân thể, sức khỏe của con người. Người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm để thực hiện mong muốn nếu như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tính mạng, sức khỏe của người được bảo hiểm thì họ hoặc một người thụ hưởng hợp pháp khác sẽ nhận được khoản tiền do người bảo hiểm trả. Bảo hiểm con người có thể là bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm tai nạn – bệnh. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát sinh do ràng buộc của các quy định trong luật dân sự, theo đó, người được bảo hiểm phải bồi thường bằng tiền cho người thứ 3 những thiệt hại gây ra do hành vi của mình hoặc do sự vận hành của tài sản thuộc sở hữu của chính mình. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể là bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc bảo hiểm trách nhiệm công cộng. Phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm: Theo cách phân loại này các loại hình bảo hiểm được chia ra làm 2 loại: loại dựa trên kỹ thuật "phân bổ" và loại dựa trên kỹ thuật "tồn tích vốn". Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật phân bổ: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất ổn định (tương đối) theo thời gian và thường độc lập với tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm phi nhân thọ). Hợp đồng bảo hiểm loại này thường là ngắn hạn (một năm); Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật tồn tích vốn: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất thay đổi (rõ rệt) theo thời gian và đối tượng, thường gắn liền với tuổi thọ con người (nên gọi là bảo hiểm nhân thọ). Các hợp đồng loại này thường là trung và dài hạn (10 năm, 20 năm, trọn đời...). Phân loại theo tính chất của tiền bảo hiểm trả: Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thường: Theo nguyên tắc này, số tiền mà người bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không bao giờ vượt quá giá trị thiệt hại thực tế mà anh ta đã phải gánh chịu. Các loại bảo hiểm này gồm có: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự (gọi chung là bảo hiểm thiệt hại). Với loại bảo hiểm nầy, về nguyên tắc, người mua bảo hiểm không được ký hợp đồng trên giá hoặc bảo hiểm trùng ; Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: Người được bảo hiểm sẽ nhận được số tiền khoán theo đúng mức mà họ đã thỏa thuận trước trên hợp đồng bảo hiểm với người bảo hiểm tùy thuộc và phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng đóng phí. Đây chính là các loại bảo hiểm nhân thọ và một số trường hợp của bảo hiểm tai nạn, bệnh tật. Với loại bảo hiểm nầy, về nguyên tắc, người mua bảo hiểm có thể cùng một lúc ký nhiều hợp đồng bảo hiểm cho một đối tương và không bị hạn chế số tiền bảo hiểm Phân loại theo phương thức quản lý: Với cách phân loại này, các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại được chia làm 2 hình thức: bắt buộc và tự nguyện Bảo hiểm tự nguyện: Là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được kết lập dựa hoàn toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm thương mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt con người. Bảo hiểm bắt buộc: Được hình thành trên cơ sở luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Các hoạt động nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề nghiệp thường là đối tượng của sự bắt buộc này. Ví dụ: bảo hiểm trách nhiện dân sự chủ xe cơ giới, trách nhiệm dân sự của thợ săn... Tuy nhiên, sự bắt buộc chỉ là bắt buộc người có đối tượng mua bảo hiểm chứ không bắt buộc mua bảo hiểm ở đâu. Tính chất tương thuận của hợp đồng bảo hiểm được ký kết vẫn còn nguyên vì người được bảo hiểm vẫn tự do lựa chọn nhà bảo hiểm cho mình. Các cam kết Các điều khoản loại trừ phổ biến Bảo hiểm nhân thọ: Tử hình Bị nhiễm HIV Tự tử trong vòng 24 tháng Trục lợi bảo hiểm Các thuật ngữ bảo hiểm thường gặp trong đơn bảo hiểm: Số tiền bảo hiểm Mức miễn thường/Mức khấu trừ Hạn mức trách nhiệm Khấu hao tài sản Tỉ lệ phí bảo hiểm So với cá cược Một số người cho rằng việc tham gia bảo hiểm cũng giống như một loại cá cược. Công ty bảo hiểm sẽ đặt cược rằng bạn hoặc tài sản của bạn sẽ không phải gánh chịu tổn thất trong khi bạn đang sử dụng tiền vào việc khác. Có thể hiểu một cách đại khái rằng: sự chênh lệch giữa phí bảo hiểm và khoản tiền giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm được tính theo tỉ lệ ( tương tự như việc chơi cá ngựa với tỉ lệ 10:1). Chính vì lí do này, rất nhiều các nhóm tôn giáo (bao gồm Amish và Hồi giáo) đã không tham gia bảo hiểm, thay vào đó họ trông chờ vào sự hỗ trợ của cộng đồng khi có thảm họa xảy ra. Hay nói cách khác, cộng đồng này sẽ hỗ trợ họ phục hồi lại tổn thất bị mất. Tuy nhiên, cách thức này không hỗ trợ một cách hiệu quả đối với các rủi ro lớn. Ngay cả các công ty bảo hiểm ở Phương Tây cũng gặp khó khăn khi đối phó với các rủi ro lớn. Ví dụ như lũ lụt xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến gần như toàn bộ thành phố, và công ty bảo hiểm sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi phải thực hiện việc bồi thường. Ví dụ điển hình đó là lũ lụt ở New Orleans, 2005. Tương tự, các tổn thẩt do chiến tranh và động đất cũng bị loại trừ. Tuy nhiên, vẫn có thể bảo hiểm cho những tổn thất lũ lụt và động đất thông qua hình thức tái bảo hiểm. Trong các trò chơi cá cước, thì mức tỉ lệ đã được xác định ngay từ đầu trò chơi và không chịu tác động bởi người chơi. Còn đối với việc tham gia bảo hiểm, ví dụ như bảo hiểm cháy, người tham gia bảo hiểm được yêu cầu là phải tìm cách giảm thiểu rủi ro: lắp các thiết bị báo cháy và sử dụng các vật liệu chống cháy để giảm thiểu những tổn thất gây ra bởi cháy. Bên cạnh đó, doanh nghiệp bảo hiểm cũng giúp thực hiện việc giảm thiểu tổn thất khi có rủi ro gây nên. Như vây, bảo hiểm tương tự như cá cược ở góc độ rủi ro, nhưng có sự khác biệt về động cơ (tìm kiếm rủi ro hay tránh né rủi ro). Đối với trò cá cược, bạn không có sự lựa chọn nào khác hoặc thua hoặc thắng. Nhưng đối với bảo hiểm, bạn có thể quản lí rủi ro mà bạn không thể nào tránh được hoặc rủi ro thuần túy mà bạn không đoán trước được khả năng xảy ra. Quản trị rủi ro là việc xác định và kiểm soát rủi ro. Tránh né, giảm thiểu hay chuyển giao rủi ro là cách thức tạo sự dự đoán tốt hơn cho người tiêu dùng hay doanh nghiệp để họ đạt tối đa lợi ích trong các cơ hội của mình. Cá cược cũng được xem là loại rủi ro không được bảo hiểm.
Phan Huy Ích (chữ Hán: 潘輝益; 1751 – 1822), tự Khiêm Thụ Phủ, Chi Hòa, hiệu Dụ Am, Đức Hiên, là quan đại thần trải ba triều đại Lê trung hưng, Tây Sơn và Nguyễn. Góp nhiều công lớn trong lĩnh vực ngoại giao, ông trở thành nhà ngoại giao tiêu biểu thời Tây Sơn. Phan Huy Ích được vua Quang Trung giao cùng với Ngô Thì Nhậm trông nom công việc ngoại giao sau chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu. Hai anh em Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích được giao toàn quyền việc đối ngoại với nhà Thanh. Dưới triều Tây Sơn, Phan Huy Ích đã nhận một nhiệm vụ vô cùng cao cả: đi sứ sang nhà Thanh. Ngoài những thành tích ngoại giao, ông còn đóng góp nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Tiểu sử Ông tên thật là Phan Công Hậu, sinh ngày 12 tháng 12 năm Canh Ngọ (tức 9 tháng 1 năm 1751) ở làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Do kiêng húy của Tuyên phi Đặng Thị Huệ, về sau ông đổi tên là Huy Ích. Ông là con trai đầu của Tiến sĩ Phan Huy Cận (hay Cẩn, về sau đổi thành Phan Huy Áng). Thuở nhỏ, ông sống và học tập tại làng Thu Hoạch, đến năm 20 tuổi, năm 1771, ông thi đỗ Giải nguyên tại trường thi Nghệ An. Trước đó, năm 1753, cha ông là Phan Huy Cận cũng đỗ Giải nguyên tại trường thi Hương này. Sau khi đỗ Giải nguyên, ông được triều đình thu dụng và bổ nhiệm một chức quan nhỏ tại trấn Sơn Nam. Ông trở thành học trò của Ngô Thì Sĩ, được thầy mến tài và gả con gái cho. Đỗ đầu khoa thi Hương trường Nghệ khoa Tân Mão (1771), ông được xem là một nhân tài đầy tiềm năng. Mãi đến năm 1773, Phan Huy Ích mới được bổ chức Tả mạc xứ Sơn Nam. Năm 1775, ông cùng người anh vợ là Ngô Thì Nhậm dự thi Hội ở Thăng Long và cùng đỗ Tiến sĩ, rồi sau đó đỗ chế khoa đồng tiến sĩ. Khoa này có 18 tiến sĩ, và Phan Huy Ích đỗ Hội nguyên Tiến sĩ, đứng đầu số đó. Trước đó, vào năm 1754, cha ông cũng từng đỗ Hội nguyên Tiến sĩ như thế. Làm quan ba triều Triều Lê trung hưng Năm 1776, ông tiếp tục thi đỗ kỳ thi Ứng chế và được triều đình bổ làm Hàn lâm thừa chỉ, rồi làm Đốc đồng tỉnh Thanh Hóa, trông coi việc an ninh. Ủng hộ chế độ Chúa Trịnh, năm Đinh Dậu (1777) sau khi được bổ làm Đốc đồng Thanh Hoa (tức Thanh Hóa), ông về giữ chức Thiêm sai tri hình phiên ở phủ Chúa. Cũng trong năm 1777, ông được chúa Trịnh Sâm lệnh mang ấn kiếm, sắc phong tước Cung quận công của vua Lê ban cho Nguyễn Nhạc, nhưng khi vào đến Phú Xuân, tướng Phạm Ngô Cầu trấn giữ Phú Xuân cản giữ ông lại, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đi vào Quảng Nam phong cho Nguyễn Nhạc. Sau đó, ông được chúa phái lên Nam quan tiếp sứ thần nhà Thanh rồi được thăng Hiến sát sứ Thanh Hóa, trông coi việc xét xử và luật pháp. Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc tiêu diệt kiêu binh và Trịnh Khải, sau đó rút về Nam. Trịnh Bồng đem quân bao vây kinh thành uy hiếp vua Chiêu Thống, vua Lê triệu Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An về Kinh để bảo vệ. Phan Huy Ích đang ở dưới trướng Bùi Thế Toại chống lại Nguyễn Hữu Chỉnh nhưng bị đánh thua. Phan Huy Ích bị bắt sống, Nguyễn Hữu Chỉnh không giết mà mang theo. Cuối năm 1787, quân Tây Sơn ra Bắc Hà lần thứ hai. Lê Chiêu Thống chạy sang Kinh Bắc chống lại Tây Sơn. Phan Huy Ích bỏ lên Sài Sơn (Sơn Tây), chấm dứt 14 năm làm quan với chính quyền vua Lê - chúa Trịnh. Triều Tây Sơn Tháng 5 năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc, xuống chiếu cầu hiền. Phan Huy Ích cùng Ngô Thì Nhậm, Đoàn Nguyên Tuấn, Nguyễn Thế Lịch (có tên khác là Nguyễn Gia Phan) ra hợp tác với Tây Sơn. Phan Huy Ích được phong làm Tả Thị lang bộ Hộ. Sau cuộc hành quân phá quân Thanh, mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, của Quang Trung, ông phụ trách công việc ngoại giao. Cuối tháng 2 năm 1790, Phan Huy Ích cùng với Đại Tư mã Ngô Văn Sở được cử trong phái đoàn do Phạm Công Trị đóng giả vua Quang Trung dẫn đầu sang Trung Quốc mừng vua Càn Long 80 tuổi. Năm 1792, về nước, được thăng Thị trung Ngự sử ở tòa Nội các rồi Thượng thư bộ Lễ. Cũng trong năm này, vua Quang Trung mất. Ông cố gắng giúp đỡ vua trẻ Quang Toản, nhưng không ngăn nổi đà suy vi của Tây Sơn. Triều Nguyễn Mùa hạ năm 1802, vua Gia Long đem quân ra Bắc. Ông bị bắt cùng với Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch, cả ba đều bị đánh đòn trước Văn Miếu. Vào năm 1804, Gia Long nhân muốn định lại tên nước, bèn cử Phan Huy Ích soạn một bài tuyên cáo, nội dung được ông sao lại trong Dụ Am thi văn tập, có đoạn như sau: "Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết: Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Đến thời Đinh Tiên hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gầy dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài [...] Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ. Từ nay trở đi, cõi viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền, ở trong bờ cõi đều hưởng phước thanh ninh [...]''. Năm 1814, ông về lại quê Thu Hoạch dạy học và sau đó lại ra Sài Sơn an dưỡng. Theo các nhà nghiên cứu, trong thời gian này, ông hoàn chỉnh bản dịch Chinh phụ ngâm, mà người diễn Nôm đầu tiên tương truyền là bà Đoàn Thị Điểm. Ngoài ra, ông còn sáng tác Dụ Am thi văn tập, Dụ Am ngâm lục. Ngày 20 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (tức 13 tháng 3 năm 1822), Phan Huy Ích mất tại quê nhà.
Ayrton Senna, tên thật là Ayrton Senna Da Silva, (21 tháng 3 năm 1960 - 1 tháng 5 năm 1994) là tay đua Công thức 1 nổi tiếng người Brasil. Senna được coi là một huyền thoại của môn thể thao tốc độ này. Cái chết bất ngờ của Senna trong khi đang dẫn đầu cuộc đua San Marino Grand Prix tại Imola đã để lại nhiều tiếc thương trong lòng người hâm mộ. Với những thành tích đã cống hiến cho môn thể thao này, Ayrton Senna được coi là một tượng đài vững chắc của F1, cùng với các tên Juan Manuel Fangio, Jackie Stewart, Niki Lauda, Nelson Piquet, Alain Prost, Michael Schumacher... Thời trẻ Senna sinh ra tại Sao Paulo (Brasil). Là con trai của một địa chủ giàu có, niềm đam mê đua xe của anh đã được phát triển nhanh chóng. Được sự ủng hộ từ người cha, một người cực kỳ đam mê đua xe, Senna đã ngồi lên chiếc xe kart đầu tiên vào năm 4 tuổi. Anh tham gia vào một cuộc thi kart ở tuổi 13. Tại cuộc đua này, Senna đã giành được pole position. Mặc dù kinh nghiệm hơn Senna rất nhiều nhưng các đối thủ khác không thể bắt kịp anh trên các đoạn đường thẳng, đơn giản vì lúc đó Senna còn ít tuổi, trọng lượng cơ thể nhẹ hơn nhiều so với các tay đua khác. Năm 1977, Senna thắng Giải vô địch Kart Nam Mỹ. Di chuyển sang châu Âu vào năm 1981, Senna tham gia cuộc thi British Formula Ford 1600 và lại chiến thắng. Anh đã rất thành công tại các giải đua F3 và quyết định chạy thử với Williams, McLaren, Brabham và Toleman. Sau các lần thử, Senna bước vào đấu trường F1 với đội Toleman. Bắt đầu sự nghiệp F1 Toleman là một đội đua khá nhỏ nếu so sánh với những "ông lớn" như Williams, McLaren hay Brabham. Mặc dù vậy, đội này vẫn xây dựng một động cơ khá tươm tất được vận hành bởi động cơ Hart Turbo. Nhờ có chiếc xe mang động cơ này Senna đã sớm thu hút được nhiều sự chú ý tới tài năng của mình. Anh ghi điểm đầu tiên ngày 7 tháng 4 năm 1984 tại South Africa Grand Prix. Tại Monaco Grand Prix, Senna đã thực sự gây ấn tượng tới các chuyên gia. Trời mưa đã gây cản trở cho các tay đua, nhất là lúc vượt nhau. Nhưng với nỗ lực không ngừng, từ vị trí xuất phát thứ 13, Senna đã kiên trì vượt lên. Tại vòng thứ 19 Senna vượt qua người thứ 2, và là nhà vô địch tương lai lúc bấy giờ, Niki Lauda rồi nhanh chóng bám đuổi người dẫn đầu Alain Prost. Tuy nhiên, mưa ngày càng nặng hạt, cuộc đua bị buộc phảIi chấm dứt và Senna về với vị trí số 2. Đây là mùa F1 đầu tiên của Senna và anh hoàn thành mùa đầu tiên với 13 điểm, đứng thứ 9 trên bảng năm đó. Thời gian với Lotus Năm tiếp theo, Senna tham gia đội đua Lotus, dùng động cơ của Renault. Anh giành pole position lần đầu tiên tại Brasil nhưng phải bỏ cuộc đua vì một sự cố kỹ thuật. Chặng tiếp theo, vào ngày 21 tháng 4 năm 1985, Senna giành được chiến thắng F1 đầu tiên nhờ giành được pole position cộng với đối thủ chính Alain Prost bị lao vào hàng rào. Senna hoàn thành mùa F1 này khá thành công với 3 chiến thắng, 4 lần đứng hạng 2 hay 3, và được xếp thứ 4 vào cuối mùa. Năm thứ hai tại Lotus, động cơ đã được nâng cấp để đạt độ tin cậy cũng như mạnh mẽ hơn. Khởi đầu mùa, Senna đã vượt qua những người nổi tiếng như Alain Prost, Niki Lauda để giành vị trí thứ 2, sau người đồng hương Nelson Piquet tại cuộc đua ở Brasil. Không lâu sau, Senna chiếm lấy ngôi đầu bảng đầu tiên sau khi giành lấy một chiến thắng oanh liệt tại Jerez ở Tây Ban Nha. Thế nhưng anh không tồn tại được trên đầu của bảng xếp hạng. Cuộc tranh giành cho vị trí đầu bảng, rốt cục, lại trở về với Prost, Piquet và Mansell. Những thất bại kỹ thuật, một lần nữa, xảy đến làm ngăn cản hy vọng trở thành vô địch của anh. Senna hoàn thành mùa 1986 với vị trí thứ 4, giành được 55 điểm, 8 pole position và 6 lần đứng hạng 2 hay 3. Mùa giải 1987 đến với nhiều hy vọng. Đội Lotus dường như mạnh mẽ hơn với động cơ do Honda cung cấp, sau khi Renault quyết định rút khỏi cuộc chơi đầy may rủi này. Senna đã giành 2 chiến thắng liên tiếp tại Monaco và Hoa Kỳ, một lần nữa bước lên ngôi đầu bảng. 1987 đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong sự nghiệp của Senna khi anh có thể đối chọi với 2 tay đua của Williams-Honda là Nelson Piquet và Nigel Mansell. Theo như tính toán trước đó, Senna có thể hất cẳng 2 tay đua trên nếu về đích thứ 3 tại 2 chặng đua cuối. Và anh đã làm được nhiều hơn thế khi về đích thứ 2 tại Nhật và tại Úc. Thế nhưng thần may mắn đã không mỉm cười với Senna khi đội Lotus của anh bị phát hiện có một số chi tiết phạm luật. Do vậy, các kết quả trên không được công nhận. Senna xếp thứ 3 vào cuối mùa, giành 57 điểm, 1 pole position và 6 lần hạng 2 hay 3. Dù trắng tay nhưng Senna đã lọt vào mắt xanh của McLaren, đánh dấu một sự khởi đầu mới với đội đua nước Anh. Sự nghiệp với McLaren Năm 1988, nhờ có mối quan hệ khá tốt đẹp với Honda suốt mùa 1987 cộng với sự ủng hộ của nhà vô địch lúc bấy giờ là Alain Prost, Senna ký hợp đồng với McLaren và trở thành đồng đội của Prost. Bộ đôi này đã thể hiện tài năng của mình bằng việc đem về cho McLaren 15 chiến thắng trên tổng số 16 cuộc đua của mùa. Cuối mùa, Senna đã vượt qua Prost, giành vị trí quán quân chung cuộc. Năm tiếp theo, cuộc tranh đua nội bộ giữa 2 nhà vô địch diễn ra càng quyết liệt, tiêu biểu tại German Grand Prix, nơi Senna đã giành chiến thắng. Tuy nhiên, ngôi vô địch 1989 lại thuộc về Prost sau cuộc đua tại Nhật Bản, nơi hai tay đua đã cố gắng bám đuổi nhau và hậu quả là cả hai đều phải bỏ cuộc. Dù trắng tay tại Nhật Bản, McLaren và Prost vẫn giành ngôi đầu bảng mùa 1989. Về sau, Senna còn giành thêm 2 chức vô địch nữa vào năm 1990 và 1991 trước khi chuyển sang thi đấu cho Williams. Tử nạn trên đường đua Hay bị cho là thô lỗ và cục cằn, Senna thực ra lại là một người giàu tình cảm, thường cố gắng giấu những cảm xúc thật của mình dưới vẻ ngoài cứng rắn. Anh đã bật khóc trước cái chết của tay đua người Áo Roland Ratzenberger, một ngày trước cái chết của chính anh. Những giờ phút cuối cùng của Ayrton Senna - ngày Chủ nhật 1 tháng 5 năm 1994 - đã được ghi lại một cách cẩn thận: 7h30: Senna được gọi dậy tại phòng số 200 khách sạn Castello ở Castel San Pietro bởi Owen O'Mahony, phi công riêng của anh. Sau đó anh bay tới đường đua trên một chiếc trực thăng, rồi dễ dàng dẫn đầu ở đợt đua khởi động buổi sáng. Anh đề nghị David Brown, kỹ sư phụ trách chiếc xe đua của anh không điều chỉnh gì thêm ở chiếc xe. Anh cũng chạy một vòng biểu diễn ghi hình cho kênh truyền hình TF1 của Pháp, nơi kỳ phùng địch thủ một thời của anh, Alain Prost đang làm việc. Anh nói với người của TF1 qua radio: "Cho tôi gửi lời hỏi thăm tới người bạn cũ của tôi, Alain Prost. Hãy nói với anh ấy rằng chúng tôi rất nhớ anh ấy." Bởi hai đối thủ cũ từng như Mặt Trăng và Mặt Trời và hầu như không bao giờ nói chuyện với nhau, hành động của Senna đã khiến Prost xúc động, và sau đó 2 người đã nói chuyện với nhau rất lâu. Prost còn hẹn gặp lại Senna tại vòng đua Monaco 2 tuần sau đó. 11h: Senna cùng với Gerhard Berger, đồng đội cũ ở McLaren, tới buổi họp báo trước cuộc đua. Cuộc họp báo ngắn, trong đó những người có mặt đã dành 1 phút tưởng niệm tay đua Roland Ratzenberger (của đội Simtek), người đã chết ngày hôm trước trong một tai nạn ở vòng đua xếp hạng. Trong cuộc họp báo này, Senna đã thể hiện sự lo ngại của mình về tốc độ của xe an toàn. Anh cho rằng xe an toàn chạy quá chậm so với tốc độ hoạt động lý tưởng của lốp xe đua, khiến cho lốp xe đua bị nguội đi, giảm độ ma sát với đường đua. 12h: Senna tới khu vực tiếp khách của đội Williams để cùng với người đồng đội Damon Hill đón tiếp các vị khách mời. Anh không còn tâm trạng nào để làm việc này, nhưng hiểu rằng tiếp thị là một phần trong công việc của một tay đua. 12h20: Senna bắt đầu chuẩn bị cho cuộc đua. Thông thường anh hay ăn một bữa trưa nhẹ với cá hoặc pasta, sau đó nghỉ ngơi khoảng 1 giờ, không nói chuyện với ai cả. 13h30: Nửa tiếng trước khi xuất phát, Senna tới khu vực kỹ thuật của đội đua Williams. Jaime Brito, một phóng viên người Brasil, đã đề nghị anh ký tặng 3 bức ảnh. "Anh ấy đã làm một việc mà tôi chưa bao giờ thấy anh ấy làm trước đây," Brito nhớ lại. "Anh ấy đi vòng quanh chiếc xe đua của mình, xem xét lốp xe, tì thử cánh gió sau của xe, cứ như là anh ấy nghi ngờ điều gì bất thường ở chiếc xe". 13h45: Senna phá vỡ quy luật thông thường trên vạch xuất phát của anh khi tháo bỏ mũ bảo hiểm. Trong khi phần đông các tay đua khác thường đợi đến sát giờ đua mới vào xe, Senna thường vào xe rất sớm và tập trung suy nghĩ. 14h: Đèn xuất phát bật sáng, Senna dẫn đầu các xe đua ào ào tiến tới cua đầu tiên. Tuy nhiên một tai nạn xảy ra: tay đua Pedro Lamy của đội Lotus đâm vào chiếc xe Benetton bị chết máy giữa đường của tay đua J. J. Lehto, khiến mảnh vỡ văng tung toé khắp đường đua. Một chiếc bánh xe bay lên tận khán đài, làm bị thương 9 người. 14h03: Xe an toàn xuất hiện, dẫn đầu đoàn đua chạy chậm xung quanh đường đua trong khi các nhân viên kỹ thuật dọn dẹp các mảnh vỡ. Đây chính là điều mà Senna đã lo ngại trong cuộc họp báo. Senna vẫn dẫn đầu, theo sau lần lượt là Michael Schumacher, Gerhard Berger và Damon Hill. 14h15: Đội Williams thông báo cho Senna biết xe an toàn chuẩn bị rời khỏi đường đua để cuộc đua tiếp tục. Senna trả lời. Đây là lần liên lạc cuối cùng của anh với đội đua. Cuộc đua bắt đầu trở lại, Senna và Schumacher lập tức bám sát nhau và gia tăng khoảng cách với các tay đua còn lại. 14h17: Vòng đua thứ bảy, Senna vào khúc cua Tamburello với tốc độ 190 dặm/giờ (khoảng 305 km/h), mất lái và lao vào bức tường bêtông không có lớp lốp cao su bảo vệ. Điểm va chạm đầu tiên là khu vực phía trước bên phải của xe, lốp xe văng ra ngoài, chiếc xe bẹp dúm, bật trở lại tới gần mép đường đua. Khi chiếc xe Williams mất lái, Senna đã đạp phanh, nên tốc độ xe khi chạm vào tường bêtông giảm xuống còn 131 dặm/giờ (khoảng 210 km/h). Ngay sau khi đâm, người ta thấy Senna dường như cử động đầu, mang lại chút hy vọng nhỏ rằng anh không bị thương nặng. Tuy nhiên, Senna đã bị chấn thương rất nặng ở vùng đầu. Hàng triệu người xem truyền hình đã nhìn thấy máu chảy ra khỏi xe trong những hình ảnh quay từ trên không. Senna được đưa ra khỏi xe và chở đến bệnh viện Maggiore ở Bologna bằng trực thăng. Trên máy bay, các bác sĩ cố gắng duy trì nhịp tim cho anh. 14h55: 37 phút sau tai nạn của Senna, cuộc đua được cho xuất phát lại. Berger dẫn đầu trong 11 vòng trước khi vào pit và bỏ cuộc ở vòng 14. Là bạn thân của Senna, anh lập tức vào bệnh viện. 16h20: Michael Schumacher cán vạch đích trước tiên, giành chiến thắng thứ ba liên tiếp. Ngay sau đó, tại bệnh viện, các tín hiệu điện não đồ cho thấy não của Senna đã ngừng hoạt động, và anh chỉ còn được duy trì cuộc sống thực vật bởi các máy móc y tế. Theo luật của Ý, các bác sĩ không được phép ngừng hoạt động của các máy móc trong vòng 12 tiếng đồng hồ. Tuy nhiên 12 tiếng đồng hồ là quá nhiều với tình trạng của Senna. 18h40: Bác sĩ trưởng Maria Theresa Fiandri ra thông báo rằng Senna đã chết. Tại đường đua, khi dọn dẹp những gì còn lại của chiếc xe của anh, người ta đã tìm thấy một lá quốc kỳ Áo. Senna đã định giành chiến thắng thứ 42 của mình để tưởng nhớ Ratzenberger. Những câu nói đáng nhớ "On a given day, a given circumstance, you think you have a limit and you go for this limit and you touch this limit and you think, ok, this is the limit. As soon as you touch this limit, something happens and you realise that you can suddenly go a little bit further. With your mind power, your determination, your instinct, and your experience as well, you can fly very high." "Being second, is to be the first of the ones who lose." "Racing, competing, it's in my blood. It's part of me, it's part of my life; I have been doing it all my life and it stands out above everything else." "It's going to be a season with lots of accidents, and I'll risk saying that we'll be lucky if something really serious doesn't happen." - trước mùa 1994. Những con số Tham dự 161 cuộc đua F1 Vô địch F1: 3 lần Thắng: 41 lần Về hạng 2 hay 3: 80 lần Pole position: 65 lần Số vòng nhanh nhất: 19 lần Grand Prix đầu: 1984 Brazilian Grand Prix Lần thắng đầu: 1985 Portuguese Grand Prix Lần thắng cuối: 1993 Australian Grand Prix Grand Prix cuối: 1994 San Marino Grand Prix
Trong toán học và vật lý học, một liên hệ Kramers-Kronig cho biết quan hệ giữa phần thực của một hàm giải tích phức với một tích phân chứa phần ảo của nó; và ngược lại. Liên hệ này được đặt theo tên của Ralph Kronig và Hendrik Anthony Kramers. Quan hệ này thường được ứng dụng trong vật lý học khi nghiên cứu về điện trường và từ trường trong môi trường vật chất. Ví dụ, trong quang học, đặc biệt là quang học phi tuyến, liên hệ này giúp tính được chiết suất của vật liệu bằng cách đo hệ số hấp thụ, một đại lượng dễ dàng đo được chính xác. Định nghĩa Xét một bức xạ điện từ đơn sắc có biến đổi theo thời gian được viết bởi trong biểu diễn phức của sóng. Công thức sau cho thấy mối liên hệ giữa hệ số hấp thụ và độ điện thẩm : Các tích phân ở trên là tích phân Cauchy và là giá trị Cauchy chính. Biểu diễn theo hệ số hấp thụ α, chiết suất n và tốc độ ánh sáng trong chân không c: Điều kiện để thỏa mãn liên hệ Kramers-Kronig là nó phải lài biến đổi Fourier của một tiến trình vật lý tuyến tính và có tính nhân quả. Nếu viết , với và là các hàm giải tích thực, liên hệ Kramers-Kronig sẽ là , Liên hệ Kramers–Kronig có quan hệ với biến đổi Hilbert, và thường được áp dụng cho độ điện thẩm của vật liệu. Chú ý là , với là độ cảm điện môi của vật liệu. Độ cảm điện môi có thể được coi là biến đổi Fourier của sự biến đổi theo thời gian của véctơ phân cực trong vật liệu sau khi bị tác động của một xung điện trường.
Đới Đức Tuấn (1908 - 1969), hay Đái Đức Tuấn, nổi tiếng với bút danh TchyA, là một kí giả, văn sĩ và thi sĩ Việt Nam. Lịch sử Đới Đức Tuấn sinh năm 1908 tại thôn Ngọc Giáp, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, xứ An Nam thuộc Liên bang Đông Dương. Xuất thân trong một gia đình quan lại, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, ông làm tham tá ở Nha học chánh Đông Dương từ năm 1930. Đới Đức Tuấn bắt đầu viết báo, viết văn từ 1935 cho các tờ Đông Tây, Nhật Tân, Tiểu thuyết thứ bảy. Đến năm 1940 ông xin nghỉ việc và sang cư trú dài hạn tại Côn Minh. Đến năm 1945 ông trở lại Bắc Kỳ tiếp tục làm báo. Năm 1950 ông dạy học ở trường Quốc học Huế. Về bút danh TchyA, có người cho rằng chữ A trong bút danh phải được viết hoa mới đúng theo ý của Đới Đức Tuấn. Tạ Tỵ khi vẽ chân dung Đới Đức Tuấn đều ghi rõ bút danh của Đới Đức Tuấn là TchyA; nhưng trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan (Nhà xuất bản Sống mới, Sài Gòn, 1959, tr.985) và các bộ sách từ điển văn học được xuất bản gần đây, như Từ điển Văn học (bộ mới), Từ điển tác gia Văn hóa Việt Nam (Nhà xuất bản VH-TT, Hà Nội, 1999) đều ghi là Tchya.] Năm 1946 Đới Đức Tuấn gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sau đó đăng trình vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, thăng tới Đại úy đồng hóa và rã ngũ năm 1956. Ông mất ngày 8 tháng 8 năm 1969 tại Sài Gòn. Sự nghiệp Tác phẩm đã in Thần trùng (1934) Khúc sáo du dương (1936) Thủ xú (1936) Số kiếp (1937) Thần hổ (1937) Linh hồn hay Xác thịt (1938) Oan nghiệt (1939) Thầy Cử (1939) Kho vàng Sầm Sơn (1940) Đồng tiền Vạn Lịch (Viết tiếp theo Kho Vàng Sầm sơn – 1940) Ai hát giữa rừng khuya (1940) Đầy vơi (Tập thơ – 1943) Tình Sơn nữ (1956) Ảnh hưởng Vũ Ngọc Phan nhận xét: Văn của Tchya "không phải thứ văn chương hàm súc hay linh hoạt, nên những truyện ngắn của ông đều dài dòng, cổ lỗ… chỉ những tập truyện truyền kỳ là còn kha khá.Và cũng như văn, thơ ông đượm rất nhiều phong vị cổ. Ở văn, gọt giũa quá, nhiều khi tai hại; nhưng ở thơ, nó lại có được đôi phần hay là lời điêu luyện, già giặn. Tôi nói "có được đôi phần hay", vì nếu gọt giũa lắm vẻ tự nhiên, sự thành thật sẽ không còn nữa…Sống liều nghịch với sầu thương Thuyền cô đẫm bóng tà dương nhẹ chèo Sương tàn lả ngọn ba tiêu,Lòng trần thoảng sạch bể chiều nhấp nhô(trích Thoát tục)…Về không nổi, ngày thêm tẻ Ở chẳng nên chi, tóc điểm vàng Gánh nợ thê noa nào trả nữa Chân trời đâu nhỉ cái bồng tang?...(trích Mưa Gió)Về thơ, ông chịu ảnh hưởng thơ Đường rất nhiều, còn về tiểu thuyết truyền kỳ, ông cũng lại chịu ảnh hưởng Liêu trai. Ông là một nhà văn và là một nhà thơ không có cái gì đặc sắc."Sau này, Nguyễn Vinh Phúc có những đánh giá tương tự: Về tiểu thuyết, Tchya sử dụng "quá nặng màu sắc thần bí và định mệnh, văn chương lại xen nghị luận, giảng thuyết nên tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm không có gì đáng kể. May mà, cốt truyện hấp dẫn, cách kết cấu các chương khéo, phần đuôi của câu chuyện trước lại khởi đầu cho một câu chuyện ly kỳ khác ở chương sau…"Còn tập thơ Đầy vơi, "tuy ra đời vào cuối phong trào thơ mới, nhưng ý vị khá cổ, lời nhiều sáo ngữ, rất ít tứ mới, từ mới. Tuy nhiên, nhờ kỹ thuật gọt giũa công phu nên thơ Tchya nói chung cũng tao nhã…"'' Chú thích Sinh năm 1908 Mất năm 1969 Người Thanh Hóa Người Hà Nội Người Sài Gòn Nhà văn Việt Nam Nhà thơ Việt Nam Giáo viên Quốc học Huế Đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng
Jean-Pierre Papin (sinh 5 tháng 11 năm 1963 tại Boulogne-sur-Mer, Pháp) là một trong những cầu thủ bóng đá xuất sắc của Pháp, giành Quả Bóng Vàng năm 1991. Sự nghiệp cầu thủ Bắt đầu sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp của mình tại câu lạc bộ Brugge năm 1985, nhưng ông đạt đến đỉnh cao khi chơi tại câu lạc bộ hàng đầu Pháp là Olympique Marseille ở vị trí trung phong với năm lần liên tiếp đoạt chức vua phá lưới giải vô địch quốc gia Pháp, từ 1988 đến 1992. Mùa bóng 1992-1993, Papin chuyển sang A.C. Milan và gặp lại Olympique Marseille trong trận chung kết Champions League năm 1993. Kết quả là đội bóng mới của ông đã thua đội bóng cũ 0-1. Sau đó, Papin lần lượt trải qua các câu lạc bộ Bayern München, Girondins de Bordeaux, Guingamp trước khi giải nghệ năm 1999. Sau khi từ giã sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp, ông tiếp tục chơi bóng cho đến năm 40 tuổi, khi đầu quân cho các đội bóng nghiệp dư gần nơi mình sinh sống: Jeunesse sportive Saint-Pierroise (tại đảo Reunion) và US Cap-Ferret, nơi ông đã ghi được tổng cộng 140 bàn trong ba mùa bóng. Papin chơi cho đội tuyển Pháp 54 trận từ năm 1986 đến năm 1995, ghi 30 bàn. Thành tích cao nhất của ông khi chơi cho đội tuyển quốc gia là hạng ba World Cup 1986 tại México. Ông đoạt giải Quả bóng vàng châu Âu 1991. Papin cũng có trong danh sách 125 cầu thủ hay nhất thế giới còn sống do FIFA bình chọn năm 2004, với những pha ngả bàn đèn đã trở thành kinh điển. Kỹ thuật này là thành quả của sự khổ luyện trong nhiều năm của ông, độ chuẩn xác và uy lực của cú sút bù đắp cho thể hình có phần khiêm tốn của Papin. Nó khiến cho ông trở thành một mẫu tiền đạo vô cùng độc đáo, khi là một trung phong cắm nhưng lại có khả năng ghi bàn từ xa. Ngày nay, động tác này mang tên ông, các cú papinade. Sự nghiệp Huấn luyện viên Trong những năm thi đấu cho US Cap-Ferret, Papin tranh thủ thi lấy bằng Huấn luyện viên. CLB đầu tiên mà ông dẫn dắt là FC Bassin d'Arcachon, một đội thi đấu tại Division d'Honneur (Giải hạng 6 Pháp) nằm tại miền Tây nước Pháp. Dưới sự dẫn dắt của ông, đội đã giành được cúp vùng Nouvelle-Aquitaine cũng như quyền thăng hạng, lên chơi ở giải CFA 2 (hạng 5) ở mùa bóng 2004-2005. Đội bóng chuyên nghiệp đầu tiên mời ông về huấn luyện là RC Strasbourg tại mùa giải 2006-2007 ngay sau khi họ bị xuống hạng. Papin đã lèo lái đội khá thành công, giúp đội trở lại Ligue 1 chỉ sau đúng một năm thi đấu tại giải hạng hai. Nhưng tại cuối mùa bóng này, vì một số vấn đề nội bộ mà ông không tiếp tục dẫn dắt đội. Trong mấy tháng thất nghiệp, nhiều thông tin tuyên bố đội có mời ông về làm Huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia nước này nhưng ông từ chối. Ông cũng từ chối về dẫn dắt FC Nantes Atlantique. Khi giải vô địch Pháp năm 2007-2008 khởi tranh được 4 vòng đấu, ông chính thức thay thế huấn luyện viên gạo cội Guy Roux về cầm quân RC Lens sau những kết quả khá thất vọng của đội này tại đầu mùa bóng. Nhưng Papin cũng không thể giúp đội giành quyền trụ hạng thành công với lực lượng cầu thủ không phải do ông lựa chọn trước khi mùa giải diễn ra. Kết thúc mùa bóng ông thôi giữ chức huấn luyện viên trưởng của RC Lens. Ngay sau đó ông có một số lời đề nghị khác (như của FC Nantes Atlantique hay Châteauroux) nhưng sau kinh nghiệm trên ông đều từ chối khi đánh giá chưa tìm được đội bóng và môi trường làm việc thích hợp. Các danh hiệu Với Đội tuyển Pháp Giải vô địch bóng đá thế giới Thứ 3 tại Mexico 1986 Giải vô địch bóng đá châu Âu Dự vòng chung kết năm 1992 Với câu lạc bộ FC Brugge Cúp Quốc gia Bỉ: 1986 Với câu lạc bộ Olympique Marseille Vô địch Pháp: 1989, 1990, 1991, 1992 Cúp Quốc gia Pháp: 1989 Với câu lạc bộ A.C. Milan UEFA Champions League: 1994 Vô địch Ý: 1993, 1994 Siêu cúp bóng đá Ý: 1992 Với câu lạc bộ FC Bayern München Cúp UEFA: 1996 Các danh hiệu cá nhân Quả bóng vàng châu Âu 1991 Vua phá lưới Ligue 1 5 năm liên tiếp: 1988, 1989, 1990, 1991, 1992 Vua phá lưới Cúp C1 3 năm liên tiếp: 1990, 1991, 1992 Nhận Bắc đẩu bội tinh năm 2005 Được Pelé đưa vào danh sách FIFA 100 Thống kê thành tích từng mùa giải Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia Ghi chú Papin, Jean-Pierre Papin, Jean-Pierre Papin, Jean-Pierre Papin, Jean-Pierre Papin, Jean-Pierre Papin, Jean-Pierre Papin, Jean-Pierre Papin, Jean-Pierre Huấn luyện viên bóng đá Pháp Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ bóng đá Bundesliga Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1986
Thái Ất thần kinh hay Thái Ất là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn). Thái Ất tức là Thái Nhất, tên gọi khác của Thần Bắc cực. Cách lập quẻ Tính số cục bao gồm niên cục, nguyệt cục, nhật cục và thời cục. Số niên cục Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục là số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý. Người ta dùng mốc tính tích niên từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng, cách năm CN 10.153.917 năm. Để tính số niên cục của một năm, sử dụng công thức: Tính Tích niên (Tuế tích) = (số của năm xem) + 10.153.917 Tích niên chia 3.600 Phần dư của phép chia trên chia 360 Phần dư của phép thứ 2 chia 72 số dư của phép chia này chính là số niên cục. Có một số thuyết tính mốc tích niên từ Trung cổ, năm Giáp Dần đến năm tuổi Việt (tuổi Việt lấy năm dương lịch là năm 2879 TCN cộng với năm xem) Từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng đến Trung cổ, năm Giáp Dần cách nhau 10.141.310 năm. Nếu dùng mốc Trung cổ, năm Giáp Dần, những vì sao xuất phát từ Thượng cổ, năm Giáp Tý thì phải thêm số doanh sai, tính toán phiền phức. Ví dụ năm 2014 dương cục là: Tích niên = 2014 + 10.153.917 = 10.155.931, chia tích niên cho 3.600 được số dư 331, phần dư lại chia tiếp 360 dư 331, phần dư này chia tiếp cho 72 được số dư 43. Vậy được số niên cục dương 43. Số nguyệt cục Cục tương ứng với tháng gọi là nguyệt cục. Cách tính là lấy số tích tháng từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đến tháng xem, cộng thêm hai tháng Tý, Sửu vì người ta dùng lịch kiến Dần; hai tháng này gọi là Thiên Chính, Địa Chính. Công thức tính: Tính số tích tháng từ định tính so với mốc = (10.153.917 + [năm trước năm có tháng xem])*12 + 2 + [số của tháng xem] Chia số Tích tháng tính được cho 360 Phần dư của phép chia trên chia tiếp cho 72, số dư là nguyệt cục. Ví dụ: Tính nguyệt cục của tháng 06/2009 Từ Thượng cổ Giáp Tý đến năm trước năm có tháng xem (năm 2008) có: 10.153.917 + 2008= 10.155.925 năm, 10.155.925 * 12 = 121.871100 tháng. Số tháng Thiên Chính, Địa Chính và tháng cần xem (6)là 8, nghĩa là phải cộng thêm 8 được tổng số tháng = 121.871100 + 8= 121.871108. Lấy số này: 360 dư 308, 308: 72 dư 20. Như vậy tháng 06/2009 thuộc nguyên Nhâm Tý, có Nguyệt cục dương 20. Một số thuyết tính gốc Nguyệt cục là ngày mồng một (Mậu Ngọ) tháng 11 (Bính Tý), năm Giáp Tý, năm đầu niên hiệu Nguyên Gia, vua Tống Văn Đế nhà Tống (420-479) ở Trung Quốc thời kỳ Nam-Bắc triều (Tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424). Sách Thái Ất dị giản lục có ghi cách tính này. Ví dụ: Tính Nguyệt cục của tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) Từ tháng Bính Tý năm Giáp Tý (năm 424) đến tháng Ất Hợi (tháng trước tháng Bính Tý) năm Kỷ Mão (năm 1999) có: (2000-1) – 423 = 1.576 năm. Lấy số năm (1.576) * 12 được 18.912 tháng (mỗi năm 12 tháng). Từ tháng tháng Bính Tý năm Kỷ Mão (1999) đến tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) có 3 tháng. Vậy số Tích tháng = 18.912 + 3 = 18.915. Lấy số này chia cho 360 dư 195. Lấy dư số chia cho 72 dư 51. Như thế tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) thuộc nguyên Nhâm Tý, dương có Nguyệt cục dương 51. Nguyên tắc: niên cục dương thì nguyệt cục cũng dương; niên cục âm thì nguyệt cục cũng âm. Số nhật cục Phương pháp tính: Sau tiết Đông chí, tìm ngày Giáp Tý đầu tiên gần nhất sau Đông chí năm trước, lấy đó làm gốc đếm trở đi, tích cho đến ngày xem, được bao nhiêu là số tích ngày. Chia số tích ngày đó cho 360 phần dư lại tiếp tục chia cho 72, còn dư lại bao nhiêu chính là nhật cục. Theo sách Thái Ất thần kinh, chỉ có thời kế là có phân biệt âm cục, dương cục. Một số thuyết áp dụng cục âm dương trong Thái Ất kể ngày. Cục âm, dương tính như sau: Từ Đông chí đến trước ngày Hạ chí, là dương cục; từ Hạ chí đến trước ngày Đông chí, thuộc âm cục (chú ý tính ngày phải xét đến cả giờ chuyển tiết, khí) Thí dụ: Tính nhật cục ngày 26/4/2012 dương lịch. Tính Nhật cục theo Thái Ất thần kinh: Ngày Đông chí năm trước: 22 tháng 12 năm 2011 Ngày Giáp Tí đầu tiên gần nhất sau Đông chí năm trước là ngày 04/01/2012 Số ngày tích lại: 26/04/12- 04/01/12+ 1 = 114 đem chia cho 360 được số dư 114. Số dư chia tiếp cho 72 được số dư là 42. Vậy ngày 26/04/2012 có Nhật cục 42 Có thuyết tính mốc tích ngày là ngày Giáp Tí (01) tháng Giáp Tí (11), năm Quý Hợi thuộc niên hiệu Cảnh Bình đời Tống tương ứng với ngày 19 tháng 12 năm 423 theo dương lịch. Trước hết tính số ngày từ gốc là ngày 19 tháng 2 năm 423 tới ngày 18 tháng 2 trước ngày xét và tính được tròn số từ năm 423 tới năm xét. Tiếp đó người ta sử dụng công thức tính làm tròn ngày tích 365,2425 ngày/năm với số năm. Bước tiếp theo tính số ngày lẻ từ ngày 19 tháng 2 tới ngày xét. Lấy tổng số ngày (số tích ngày) chia 360 lấy dư. Lại chia tiếp 72 lấy dư làm số Nhật cục. Có thuyết quy định tính Tích Nhật dựa vào Tích Nguyệt. Sách Thái Ất dị giản lục có ghi cách tính này. Số thời cục Cách tính: Cục âm dương của thời cục cũng tính như Nhật cục Số giờ từ ngày Giáp Tí hoặc Giáp Ngọ gần nhất đến ngày, giờ muốn tính Chia số giờ đó cho 360, số dư lại chia tiếp 72 số dư chính là Thời cục. Ví dụ: Tính thời cục giờ Tý, ngày 12/08/2011 Ngày Giáp Ngọ gần nhất là 01/08/2011. Số ngày tích lại: 11. Số tích giờ 11. 12 = 132 giờ. Cộng thêm 1 giờ là 133 giờ. 133 chia 360 dư 133, lại chia 133 cho 72 dư 61. Ngày 12/08/2011 thuộc dương cục. Vậy tính được Thời cục 61 Dương. Cách tính số Niên cục, Nguyệt cục, Nhật cục, Thời cục gọi là Tứ kế (Tuế kế, Nguyệt kế, Nhật kế, Thời kế) An các sao chính Thái Ất Tiểu Du Thái Ất, Tiểu Du Thiên Mục và Đại Du. Thái Tuế Thần Hợp Kể Định (Kể Mục) và Toán Định Kể Thần Thái Âm Văn Xương Thủy Kích Toán Chủ - Toán Khách Đại tướng Chủ Đại tướng Khách Tham Tướng (Tiểu Tướng) Chủ và Khách Ngũ Phúc Quân Cơ Thần Cơ Dân Cơ Tứ Thần Thiên Ất Địa Ất Trực Phù (Phép Tôn) Phi Phù Phi Lộc Phi Mã Hạn Dương Cửu Hạn Bách Lục – Vào quẻ
Chợ Mới là một huyện thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam. Địa lý Huyện Chợ Mới nằm ở phía đông của tỉnh An Giang, có địa giới hành chính: Phía đông giáp huyện Lấp Vò, huyện Cao Lãnh và thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp Phía tây giáp huyện Châu Thành và huyện Châu Phú Phía nam giáp thành phố Long Xuyên Phía bắc giáp huyện Phú Tân và huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. Huyện Chợ Mới được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao và rạch Cái Tàu Thượng, có 2 cù lao là cù lao Ông Chưởng và cù lao Giêng. Chợ Mới có diện tích 355,71 km², dân số là 442.908 người (theo tổng điều tra dân số năm 2020 của huyện để báo cáo Thủ tướng), bao gồm: Độ tuổi lao động: 236.906 người: Độ tuổi có khả năng lao động: 211.621 người; Độ tuổi không có khả năng lao động: 7.011 người. Độ tuổi học sinh: 18.274 người Mật độ dân số: 866 người/km². Tổng diện tích đất tự nhiên: 36.928,9 ha, bao gồm: Diện tích đất nông nghiệp: 27.681 ha; Diện tích đất chuyên dùng: 3.005 ha; Diện tích đất ở: 2.483 ha. Thủy sản: Cá sông (cá trắng): cá linh, cá he, cá chài, cá mè vinh, cá bống,... Cá đồng (cá đen): cá lóc, cá trê, cá rô,... Mùa lũ có khả năng tải nước 8000 m3/s với tốc độ 1 m/s. Mực nước thấp nhất có lưu lượng dao động 1000 m3/s đến 2000 m3/s xuất hiện vào tháng 4 và đầu tháng 5. Mùa thường có hệ thống sông ngòi chằng chịt dọc theo các kênh rạch cung cấp đủ lượng nước tưới tiêu cho cả huyện. Khoáng sản: chủ yếu là bột sét và cát mịn do trầm tích trên sông tụ lại phân bố chủ yếu dọc theo các bờ sông. Lịch sử Nguồn gốc tên gọi Chợ Mới Về nguồn gốc của tên gọi Chợ Mới, tương truyền rằng ngày xưa có ngôi chợ cũ tên Phó Định Bài nằm ở bên kia bến đò Kiến An. Về sau, một ngôi chợ khá bề thế được xây dựng tại làng Long Điền thuộc khu vực huyện lỵ ngày nay và được người dân gọi là "Chợ Mới". Trước đó, vào năm 1897 tại làng Long Điền đã có hai ngôi chợ cũ tên là chợ Ông Chưởng và chợ Thủ Chiến Sai. Ban đầu, địa danh Chợ Mới chỉ là tên một ngôi chợ tại làng Long Điền thuộc tỉnh Long Xuyên. Sau này, thực dân Pháp thành lập quận và đặt tên là quận Chợ Mới do lấy theo tên gọi Chợ Mới vốn là nơi đặt quận lỵ. Chợ Mới cũng là nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Long Xuyên và ngày nay là tỉnh An Giang. Thời phong kiến Vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Chợ Mới ngày nay vốn là một phần của huyện Đông Xuyên thuộc phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Thời Pháp thuộc Sau khi chiếm hết được các tỉnh Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Vùng đất Chợ Mới lúc này thuộc hạt Thanh tra Long Xuyên. Đồng thời, hạt Long Xuyên cũng lấy thêm địa phận các làng Tân Phú, Tân Thạnh trước đó thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường để lập tổng mới gọi là tổng Phong Thạnh Thượng trực thuộc hạt Thanh tra Long Xuyên. Ngày 5 tháng 1 năm 1876, hạt Thanh tra Long Xuyên đổi thành hạt tham biện Long Xuyên, các thôn đổi thành làng. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh ở Đông Dương điều thống nhất gọi là "tỉnh", trong đó có tỉnh Long Xuyên. Năm 1897, ba tổng An Bình, Định Hòa và Phong Thạnh Thượng có các làng trực thuộc như sau: Tổng An Bình gồm 6 làng: Bình Đức Đông, Mỹ Chánh, Mỹ Hưng, Phú Xuân, Tấn Đức, Tân Phước; Tổng Định Hòa gồm 9 làng: An Thạnh Trung, Hưng Châu, Long Kiến, Kiến An, Mỹ Hòa, Mỹ Hội Đông, Mỹ Luông, Nhơn An, Long Điền; Tổng Phong Thạnh Thượng gồm 6 làng: An Phú, An Phong, An Thành, Bình Thành, Tân Phú, Tân Thạnh. Năm 1917, thực dân Pháp thành lập quận Chợ Mới thuộc tỉnh Long Xuyên, gồm 3 tổng với 20 làng: tổng Định Hoà có 8 làng, tổng An Bình có 6 làng, tổng Phong Thạnh Thượng có 6 làng. Quận lỵ Chợ Mới đặt bên bến đò Kiến An, sau dời về làng Long Điền, tức thị trấn Chợ Mới ngày nay. Lúc này, số làng đã giảm do thực dân Pháp tiến hành hợp nhất một số làng lại thành các làng mới với các tên gọi mới. Ngày 1 tháng 1 năm 1920, hợp nhất ba làng Bình Đức Đông, Phú Xuân, Tân Phước thành lập làng mới lấy tên là làng Bình Phước Xuân. Năm 1939, quận Chợ Mới có 3 tổng: Tổng An Bình gồm 4 làng: Bình Phước Xuân (hợp nhất Bình Đức Đông, Tân Phước và Phú Xuân), Mỹ Chánh, Mỹ Hưng, Tấn Đức (Cù lao Giêng); Tổng Định Hòa gồm 7 làng: An Thạnh Trung, Kiến An, Long Điền, Long Kiến, Mỹ Hội Đông, Mỹ Luông, Nhơn Mỹ (hợp nhất Nhơn An và Mỹ Hòa); Tổng Phong Thạnh Thượng gồm 5 làng: An Phong, Phú Thành (hợp nhất An Phú và An Thành), Bình Thành, Tân Phú, Tân Thạnh Ngày 7 tháng 11 năm 1939, ba làng Tấn Đức, Mỹ Hưng, Mỹ Chánh bị giải thể để thành lập hai làng mới là Tấn Mỹ và Mỹ Hiệp. Cũng sau này, quận Chợ Mới được nhận thêm các làng Hội An (trước đây thuộc tổng An Thạnh Thượng, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc và làng Hòa Bình (trước đây thuộc tổng An Phú, quận Lấp Vò, tỉnh Long Xuyên). Làng Hòa Bình được chính quyền thực dân Pháp thành lập do hợp nhất làng An Hòa và làng Bình Thạnh Tây trước đó. Đặc biệt, tên làng An Hòa đã được dùng để chỉ phà (bắc) An Hòa nối liền hai bờ quận Châu Thành và quận Chợ Mới của tỉnh Long Xuyên lúc bấy giờ (ngày nay nối liền hai bờ thành phố Long Xuyên và huyện Chợ Mới của tỉnh An Giang). Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Huyện Chợ Mới ban đầu vẫn thuộc tỉnh Long Xuyên. Ngày 6 tháng 3 năm 1948, huyện Chợ Mới thuộc tỉnh Long Châu Tiền. Ngày 27 tháng 6 năm 1951, huyện Chợ Mới thuộc tỉnh Long Châu Sa. Đến năm 1954, huyện Chợ Mới lại trở về thuộc tỉnh Long Xuyên như cũ. Giai đoạn 1956-1975 Việt Nam Cộng hòa Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cắt tổng Phong Thạnh Thượng ra khỏi quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên để nhập vào tỉnh Phong Thạnh mới thành lập, sau đó trở thành quận Thanh Bình của tỉnh Kiến Phong, ngày nay bao gồm huyện Thanh Bình và huyện Tam Nông của tỉnh Đồng Tháp. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Long Xuyên hợp nhất với tỉnh Châu Đốc thành tỉnh An Giang. Ngày 24 tháng 4 năm 1957, quận Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang, quận lỵ đặt tại xã Long Điền, gồm 2 tổng với 12 xã như sau: Tổng An Bình gồm 5 xã: Bình Phước Xuân, Mỹ Hiệp, Tấn Mỹ, Mỹ Luông, Hội An. Tổng Định Hoà gồm 7 xã: An Thạnh Trung, Long Kiến, Long Điền, Kiến An, Mỹ Hội Đông, Nhơn Mỹ, Hoà Bình. Địa giới này được duy trì cho đến năm 1975, kể cả khi An Giang tách thành hai tỉnh là An Giang và Châu Đốc vào ngày 8 tháng 9 năm 1964. Sau năm 1965, cấp tổng bị giải thể, các xã trực thuộc quận. Năm 1970, quận Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang gồm 12 xã: An Thạnh Trung, Bình Phước Xuân, Hòa Bình, Hội An, Kiến An, Long Điền, Long Kiến, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội Đông, Mỹ Luông, Nhơn Mỹ, Tấn Mỹ. Quận lỵ vẫn đặt tại xã Long Điền. Chính quyền Cách mạng Trong giai đoạn 1957-1965, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng đặt huyện Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang, giống như sự phân chia hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tháng 12 năm 1965, chính quyền Cách mạng giao huyện Chợ Mới về cho tỉnh Kiến Phong quản lý. Tháng 5 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể các tỉnh Kiến Phong và An Giang để tái lập các tỉnh Long Châu Tiền và tỉnh Sa Đéc. Lúc này, huyện Chợ Mới lại thuộc tỉnh Sa Đéc. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt huyện Chợ Mới thuộc tỉnh Sa Đéc như trước đó cho đến đầu năm 1976. Từ năm 1976 đến nay Tháng 2 tháng 1976, huyện Chợ Mới trở lại thuộc tỉnh An Giang cho đến ngày nay. Huyện Chợ Mới lúc đó bao gồm thị trấn Chợ Mới và 12 xã: An Thạnh Trung, Bình Phước Xuân, Hòa Bình, Hội An, Kiến An, Long Điền, Long Kiến, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội Đông, Mỹ Luông, Nhơn Mỹ, Tấn Mỹ. Trong đó, thị trấn Chợ Mới được thành lập do tách đất từ xã Long Điền. Ngày 25 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 181-CP về việc điều chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang như sau: Tách các ấp Phú Hạ 1, Phú Hạ 2, Kiến Quới 1, Kiến Quới 2, Kiến Thuận 1, Kiến Thuận 2, Kiến Hưng 1 và Kiến Hưng 2 của xã Kiến An lập thành xã Kiến Thành Tách các ấp Long Phú 1, Long Phú 2, Long Quới 1, Long Quới 2 của xã Long Điền lập thành xã Long Điền B; đổi tên xã Long Điền thành xã Long Điền A. Tách các ấp Bình Phú, Bình Quới, Bình Thạnh 1, Bình Thạnh 2, 2/3 ấp An Mỹ và 1/3 ấp An Thạnh của xã Hòa Bình lập thành xã Hòa An. Ngày 12 tháng 1 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 8-HĐBT về việc phân vạch địa giới phường, thị trấn và một số xã của huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang như sau: Thành lập xã Long Giang trên cơ sở tách các ấp Long Thuận, Long Phú, Long Mỹ 1, Long Mỹ 2, Long Thạnh 1, Long Thạnh 2 của xã Long Kiến Sáp nhập ấp Long Qưới 1 và ấp Long Qưới 2 của xã Long Kiến vào xã Long Điền B Sáp nhập một phần ấp Long Bình của xã Long Kiến vào xã An Thạnh Trung Sáp nhập ấp An Ninh của xã An Thạnh Trung vào xã Long Kiến. Ngày 17 tháng 10 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 119/2003/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị trấn Mỹ Luông trên cơ sở 808 ha diện tích tự nhiên và 15.540 nhân khẩu của xã Mỹ Luông, đổi tên xã Mỹ Luông thành xã Mỹ An. Ngày 9 tháng 2 năm 2018, UBND huyện Chợ Mới tổ chức lễ công bố quyết định xã Hội An đạt chuẩn đô thị loại V của UBND tỉnh An Giang. Ngày 19 tháng 12 năm 2019, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 1059/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Chợ Mới mở rộng (gồm thị trấn Chợ Mới và một phần các xã: Long Điền A, Long Điền B, Kiến Thành và Kiến An) là đô thị loại IV. Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 721/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 10 tháng 4 năm 2023). Theo đó, thành lập thị trấn Hội An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hội An. Từ đó, huyện Chợ Mới có 3 thị trấn và 15 xã như hiện nay. Hành chính Huyện Chợ Mới có 18 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 3 thị trấn: Chợ Mới (huyện lỵ), Hội An, Mỹ Luông và 15 xã: An Thạnh Trung, Bình Phước Xuân, Hòa An, Hòa Bình, Kiến An, Kiến Thành, Long Điền A, Long Điền B, Long Giang, Long Kiến, Mỹ An, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội Đông, Nhơn Mỹ, Tấn Mỹ được chia thành 142 ấp. Nông thôn mới Huyện Chợ Mới có 9 xã đạt chuẩn nông thôn mới: Long Điền A, Long Điền B (2015), Kiến Thành (2016), Mỹ Hiệp, Hòa An (2017), Long Kiến, Tấn Mỹ, Bình Phước Xuân (2018), Kiến An (2019), An Thạnh Trung (2021), Long Giang (2022). Danh nhân Ung Văn Khiêm (Tấn Mỹ) - Ủy viên Trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao - Bộ trưởng Bộ Nội vụ . Nguyễn Văn Hưởng (Mỹ Hiệp) - Bộ trưởng Bộ Y tế. Nguyễn Văn Giàu (Mỹ Hiệp) - Ủy viên Trung ương Đảng - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước - Bí thư Tỉnh Ủy Ninh Thuận - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội XIII. Nguyễn Ngọc Trân (Mỹ Hiệp) - GS. TSKH. Đại biểu Quốc hội. Trương Công Thận (Mỹ Hiệp) - Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh Ủy An Giang - Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Nguyễn Văn Hơn (Hội An) - Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh Ủy An Giang. Nguyễn Hữu Khánh (Hội An) - Bí thư Tỉnh Ủy An Giang. Nguyễn Tuấn Khanh (Long Điền A) - Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh Ủy Gia Lai - Bí thư Tỉnh Ủy Cà Mau - Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Nguyễn Hoàng Việt (Long Giang) - Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh Ủy An Giang - Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Lương Văn Cù (1915-1941) - Bí thư liên Tỉnh ủy Long Xuyên (cũ), quê ở xã Nhơn Mỹ. Huỳnh Văn Hây (1913-1941) - Thành viên Uỷ ban khởi nghĩa Long Xuyên (cũ), đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (1936), quê ở Kiến An. Phan Thành Long, tên thật là Phan Văn Hân (1925-1968) - Bí thư Huyện ủy Chợ Mới, Tỉnh ủy viên Long Châu Tiền, Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Sa, kiêm Tỉnh đội trưởng và Trương Tỷ Công an, Phó Bí thư Đặc ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, kiêm Bí thư phân khu Sài Gòn - Gia Định, quê ở Nhơn Mỹ.. Huỳnh Thị Hưởng (1945-1965) - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1985), quê ở Hội An. Nguyễn Văn Cưng (1909-1935) - Bí thư Ban Chấp hành lâm thời tỉnh Long Xuyên (cũ) năm 1930, quê ở xã Hoà An. Lê Hùng Dũng (Tấn Mỹ) - Chủ tịch Liên Đoàn Bóng Đá VN (VFF) - Chủ tịch HĐQT Eximbank. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng (Mỹ Luông). Nhà văn Lê Thành Chơn (Tấn Mỹ). Nhà biên khảo Nguyễn Văn Hầu (Bình Phước Xuân). Nhạc sĩ Hoàng Hiệp (Mỹ Hiệp). Nghệ sĩ Can Trường. Nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Quang (Hội An). Đạo diễn - Nghệ sĩ ưu tú Bạch Lan (Mỹ Hiệp). Họa sĩ Chóe (Hội An). Đạo diễn Nguyễn Quang Dũng (Mỹ Luông). Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Ngọc Bạch (Mỹ Hiệp). Tướng nhà Nguyễn Thư Ngọc Hầu (Bình Phước Xuân). Linh mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp (Mỹ An). Giáo dục Trên địa bàn huyện có 97 trường học ở các cấp, trong đó có 7 trường THPT: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, thị trấn Chợ Mới Trường THPT Huỳnh Thị Hưởng, thị trấn Hội An Trường THPT Châu Văn Liêm, thị trấn Mỹ Luông Trường THPT Nguyễn Văn Hưởng, xã Mỹ Hiệp Trường THPT Lương Văn Cù, xã Mỹ Hội Đông Trường THPT Ung Văn Khiêm, xã Long Kiến Trường THPT Võ Thành Trinh, xã Hoà Bình Văn hóa - Du lịch Văn hóa Tôn giáo Chợ Mới là nơi có nhiều tôn giáo chung sống: Phật giáo, Hòa Hảo, Thiên chúa, Cao Đài, Tin Lành,... Chợ Mới trong các tác phẩm văn học nghệ thuật Thơ: "Ba phen quạ nói với diều Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm." (Ca dao) "Lung linh bóng nước con đò Nhớ sao Chợ Mới câu hò thủy chung Quê tôi miền đất anh hùng Hôm nay vẫn đẹp vô cùng ai ơi." (Nguyễn Ngọc Mỹ) Văn: Chợ Mới được nhà văn Nguyễn Quang Sáng xem là quê hương văn học của mình, các địa danh của quê hương thường được nhắc đến trong các tác phẩm của ông như Dòng sông thơ ấu, Đất lửa, Nhà văn về làng,... Nhạc: vọng cổ Chợ Mới (Trọng Nguyễn), bài hát Trở về dòng sông tuổi thơ (Hoàng Hiệp), bài hát Long Giang chiều mưa (Vũ Phương),... Du lịch Cù lao Ông Chưởng Ngày nay cả một cù lao rất rộng lớn được bao bọc xung quanh bởi bốn con sôngː sông Tiền (phía đông bắc), sông Vàm Nao (phía tây bắc), sông Hậu (phía tây) và rạch Ông Chưởng (phía đông và nam) được gọi là cù lao Ông Chưởng (Chợ Mới). Cù lao Ông Chưởng (Chợ Mới) là vùng đất bờ hữu ngạn (phía tây) rạch Ông Chưởng gồm địa bàn 5 xã: Kiến An, Kiến Thành, Mỹ Hội Đông, Nhơn Mỹ và Long Giang của huyện Chợ Mới tỉnh An Gianɡ. Ngày nay, Cù lao Ông Chưởng (thượng khẩu) gần như được bồi lấp dính liền thành chỏm phía bắc của cái cù lao Ông Chưởng (Chợ Mới) này. Trên cù lao Ông Chưởng (Chợ Mới) chỉ có một trong 4 đền thờ chính thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đó là Dinh Ông Kiến An, nằm ở bờ phải cửa trên rạch Ông Chưởng. Cù lao Giêng Gồm 3 xã: Tấn Mỹ, Mỹ Hiệp và Bình Phước Xuân. Đây là cù lao chia con sông Tiền làm hai nhánh. Nơi đây được huyện chọn để phát triển du lịch Thánh đường Cù lao Giêng Là công trình kiến trúc Thiên chúa giáo bề thế vào bậc nhất Đồng bằng Sông Cửu Long. Công trình được Pháp cho xây dựng suốt 12 năm mới hoàn thành. Chùa Đạo Nằm (Thành Hoa Tự) Ngôi chùa gắn với vị trụ trì sáng lập có cách tu khác thường là "Cửu niên diện bích" (chín năm nằm thiền). Một số địa điểm hấp dẫn khác Chùa Bà Vú, Phủ thờ Mã Tộc, Đình Tấn Mỹ, Dương Công Phủ. Cột dây thép (xã Long Điền A) Được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Nơi đây, tháng 4/1930, chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh An Giang đã được thành lập. Thị trấn Mỹ Luông Nằm giữa huyện, có chợ, trung tâm thương mại, các ngân hàng, bệnh viện,... Nơi đây đang dự định khởi công xây dựng Khu vui chơi phức hợp và cầu Mỹ Luông-Tấn Mỹ (do tư nhân tài trợ). Thị trấn Chợ Mới Đây là trung tâm hành chính huyện Chợ Mới, đô thị sung túc nhất huyện Chợ Mới. Đang khởi công xây dựng khu phức hợp thể dục thể thao và khu vui chơi trẻ em, siêu thị, trung tâm thương mại, nâng cấp đường Nguyễn Hữu Cảnh, đường dẫn cầu ông Chưởng, đường Lê Lợi.. Hình ảnh Chú thích
Đội viên là danh hiệu của một người khi tham gia và được kết nạp vào một tổ chức Đội. Như: Đội viên Đội Thiếu Niên Tiền Phong. Đội viên Đội Công Tác Xã Hội. Tại Việt Nam, Đội viên thường được hiểu là thành viên của Đội Thiếu Niên Tiền Phong. Những đội viên này đa số là học sinh cấp 1 hoặc cấp 2 và phải đeo khăn quàng đỏ. Trang web Đội viên
Đế quốc là một nhà nước lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng, thống trị nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn hoặc chi phối được nhiều quốc gia khác. Trong lịch sử đã tồn tại nhiều đế quốc sở hữu diện tích lãnh thổ rộng lớn, trải dài qua nhiều châu lục, đôi khi được gọi là các đế quốc toàn cầu, nhưng chưa từng có bất kỳ một đế quốc nào đủ khả năng để thống trị toàn bộ thế giới. Những nỗ lực xuất phát từ tham vọng cá nhân hay chủ nghĩa dân tộc bá quyền, điển hình như Đế quốc Pháp thời Napoleon hay Phe Trục trong Thế Chiến II,... đều thất bại. Tên gọi Đế quốc, xét về ngữ nghĩa, là từ Hán Việt có nghĩa là đất nước được cai trị bởi một vị hoàng đế. Đế quốc có cấp bậc cao hơn vương quốc, là đất nước được cai trị bởi một quân vương. Các cấp bậc này nằm trong hệ thống phân chia thứ bậc của chế độ chính trị phong kiến. Đế quốc là rộng lớn và đông dân hơn vương quốc, uy quyền hoàng đế là lớn hơn so với tước vương. Điều này tương tự cách dùng "Empire" (đế quốc) trong tiếng Anh dùng chỉ nước cai trị bởi một "Emperor" (hoàng đế), cấp bậc cao hơn "Kingdom" (vương quốc) là nước cai trị bởi một "King" (quân vương). Ở Trung Hoa, người nắm lấy thiên hạ sau một cuộc chinh phạt sẽ trở thành hoàng đế, tước vương và đất đai thường do hoàng đế ban cấp cho họ hàng thân thuộc. Ở Châu Âu, quyền lực cao nhất ở từng nước là Vương Thất (một số nước tước vị thậm chí thấp hơn, ví dụ: Đại công quốc Ba Lan,...). Danh hiệu quý tộc cao nhất ở châu Âu là hoàng đế do bầu chọn bởi các nước với danh hiệu Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh. Ở Pháp, đến khi Napoleon Đệ nhất nắm quyền, ông ta trở thành hoàng đế đầu tiên của nước Pháp bởi Napoleon đã chinh phạt và chiếm được gần như toàn bộ phần tây châu Âu. Ở Anh, người được xem là hoàng đế đầu tiên chính là Victoria với danh hiệu Nữ hoàng Ấn Độ, vì lý do chính trị, Victoria giới hạn danh hiệu "nữ hoàng" chỉ sử dụng trên phạm vi Ấn Độ thuộc Anh, trong khi chỉ duy trì danh hiệu "Vương" ở Anh và các phần còn lại của đế quốc Anh. Hệ thống phân chia thứ bậc phong kiến cũng có tính chất cưỡng ép chứ không phải được đồng thuận. Ví dụ, hoàng đế Trung Quốc qua nhiều thời kỳ chỉ xem Việt Nam như một vương quốc chư hầu, và phong tước An Nam quốc vương cho vua Việt Nam, nhưng trên thực tế không sở hữu hay có bất kỳ thẩm quyền nào đối với Việt Nam. Về sau, từ Đế quốc (hay "Empire" trong tiếng Anh) vẫn được sử dụng cho các nước lớn không theo chế độ phong kiến, dùng để chỉ một nước với khả năng kiểm soát hệ thống chính trị rộng lớn bao gồm nhiều nước. Từ Đế quốc được sử dụng với hàm nghĩa một nước mở rộng kiểm soát lãnh thổ và quyền lực chính trị, chứ không nhất thiết phải là một nước mang đặc tính chính trị phong kiến. Ví dụ, Đế quốc Mỹ. Sử dụng nhầm lẫn Từ "đế quốc" và "đế chế" trong tiếng Việt là hai từ riêng biệt với ý nghĩa khác nhau thường được sử dụng nhầm lẫn. Từ "đế quốc" chỉ một hệ thống liên kết nhiều quốc gia, trong khi từ ''đế chế'' chỉ chế độ chính trị quân chủ. Trường hợp nhầm lẫn điển hình là Đế quốc Việt Nam, từ "đế quốc" ở đây chỉ quốc gia theo chế độ chính trị hoàng quyền nhà Nguyễn vừa giành được độc lập dưới sự hỗ trợ danh nghĩa của Nhật, trong ý nghĩa này "đế quốc" chỉ chế độ chính trị. Trường hợp Đế chế thứ ba của Đức, từ "đế chế" được sử dụng trong khi nước Đức dưới quyền Hitler lúc đó không phải là chế độ quân chủ mà là chế độ độc tài quân sự, trong ý nghĩa này "đế chế" lại được dùng để chỉ quốc gia. Định nghĩa Theo định nghĩa của các nhà sử học Marxist thì đế quốc là quốc gia đi xâm lược các nước khác, thống trị các nước chiếm được, tiến hành vơ vét của cải, khai thác tài nguyên và bóc lột sức lao động dân bản xứ. Đế quốc là một nước thống trị nhiều nước, và các nước bị thống trị được gọi là thuộc địa. Trường phái Marxist chỉ trích rất nặng nề đối với "đế quốc" nhất là giai đoạn đối đầu ý thức hệ trong thế kỷ XX. Theo cách lý giải của những nhà sử học tư bản phương Tây thì đế quốc là tập hợp nhiều quốc gia, trong đó có một quốc gia nắm vai trò lãnh đạo cả hệ thống. Đế quốc theo quan niệm này không phải là một nước, mà là một hệ thống. Những nhà sử học thuộc trường phái này mặc dù thừa nhận sự tiêu cực của đế quốc nhưng vẫn mô tả mặt tích cực của nó, như sự lây lan của văn minh phương Tây với nhiều tiến bộ. Quan niệm thống nhất giữa hai trường phái sử học đối với "đế quốc" thì quan hệ giữa nước thống trị và bị trị trong hệ thống đế quốc đó là bất bình đẳng. Vì nếu sự bất bình đẳng không tồn tại thì hệ thống sẽ được gọi là "liên bang". Trong các cách định nghĩa khác, đế quốc là một quốc gia đa sắc tộc hay nhà nước đa quốc gia với sự thống trị về mặt chính trị, quân sự của một dân tộc đối với các dân tộc có sự khác biệt về văn hóa và dân tộc. Tom Nairn và Paul James định nghĩa đế chế là thực thể chính trị "mở rộng quan hệ quyền lực trên các không gian lãnh thổ mà họ không có chủ quyền pháp lý trước đó và mở rộng một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa, họ có được một số đo lường quyền bá chủ rộng rãi trên các không gian đó cho mục đích trích xuất hoặc tích lũy giá trị". Rein Taagepera đã định nghĩa một đế chế là "bất kỳ thực thể chính trị có chủ quyền tương đối lớn nào đối với các thành phần không có chủ quyền". Tuy vậy, trong lịch sử tồn tại những trường hợp rất khác biệt nhau khiến cho việc hiểu đế quốc theo một định nghĩa chung không phải là điều đơn giản. Điển hình như trường hợp Đế quốc La Mã Thần thánh (từ thế kỷ 8 đến năm 1806) không có thẩm quyền ở nhiều nước châu Âu nhưng vẫn được duy trì như một hệ thống phân chia thứ bậc chính trị hoàng quyền, một hệ thống Công giáo được nhiều nước thần phục và đóng thuế tượng trưng. Trường hợp khác là Trung Quốc với hệ thống thần phục và triều cống chứ không có chủ quyền thực tế chính trị và lãnh thổ đối với các nước láng giềng. Hay như trường hợp phức tạp của Hoa Kỳ vẫn gây tranh cãi hiện nay. Đặc điểm Cấu trúc chính trị Một cấu trúc chính trị đế quốc có thể được thiết lập và duy trì theo hai cách: Chinh phục và kiểm soát trực tiếp bằng vũ lực: Phương pháp này cho phép chiếm dụng chặt chẽ hơn và kiểm soát chính trị trực tiếp hơn, nhưng hạn chế mở rộng lãnh thổ hơn nữa vì nó hấp thụ lực lượng quân sự đế quốc vào việc đóng quân cố định. Cưỡng chế, bá quyền trong việc chinh phục và kiểm soát gián tiếp bằng quyền lực: Phương pháp thứ hai này chiếm dụng lỏng lẻo hơn và kiểm soát gián tiếp, nhưng ngược lại cho phép gia tăng khả năng quân sự lớn có thể dùng để tiếp tục mở rộng đế quốc hơn nữa. Hình thức chính trị đế quốc Hình thức nhà nước: 1) nhà nước đơn nhất như nhiều nước, Nga, Pháp, Nhật Bản,...; 2) liên bang: trường hợp Đế quốc Đức mặc dù thống nhất vào năm 1871, nhưng đó là một liên bang gắn kết nhiều quốc gia mà các tầng lớp quý tộc địa phương vẫn còn ảnh hưởng, do Vương quốc Phổ đứng đầu và quốc vương Phổ trở thành hoàng đế Đức, hoặc trường hợp liên bang khác là Hoa Kỳ, 3) liên minh: như Liên minh Delian, hay Đế quốc Tây Ban Nha ban đầu là liên minh gắn kết giữa Vương quốc Castile và Vương quốc Aragon vốn không thống nhất chính trị,... Hình thức chính phủ: quân chủ hay cộng hòa. Các trường hợp điển hình là Hà Lan đã nhiều lần thay đổi chế độ, nhưng vẫn đồng thời duy trì hệ thống thuộc địa hải ngoại. Hoặc trường hợp Đế quốc thuộc địa Pháp lần thứ nhất dưới chính quyền quân chủ của triều đại Bourbon, trong khi Đế quốc thuộc địa Pháp lần thứ hai diễn ra dưới chế độ cộng hòa. Đế quốc của La Mã trong thời cổ đại đã liên tục bành trướng từ thế kỷ 5 TCN - thế kỷ 1 TCN dưới chế độ cộng hòa và từ thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ 5 dưới chế độ quân chủ, lãnh thổ đã không ngừng mở rộng và kết nối cho đến khi hoàn tất bao bọc Địa Trung Hải. Cấu trúc lãnh thổ Về phạm vi và hình lãnh thổ, đế quốc có hai dạng chủ yếu: Đế quốc tiếp giáp: là đế quốc mà phạm vi lãnh thổ mở rộng trên đất liền và có sự liên tục, nối dài các vùng đất chiếm được từ biên giới ban đầu. Đế quốc hàng hải: là đế quốc bao gồm tập hợp các lãnh thổ rời rạc trải rộng qua nhiều lục địa và đại dương. Việc xây dựng và bảo vệ phụ thuộc vào lực lượng hải quân hùng mạnh. Văn hóa-Xã hội Các đế quốc thường được hình thành từ nhiều thành phần dân tộc, đa quốc gia, đa dạng văn hóa và tôn giáo khác nhau. Nguồn gốc và lịch sử Mục đích cơ bản của đế quốc và các cuộc chiến tranh chinh phục liên quan mở rộng phạm vi lãnh thổ, chiếm hữu của cải và tài nguyên, chiếm hữu nô lệ, duy trì hoạt động thương mại, trong đó bao gồm độc quyền thương mại, truyền giáo hoặc duy trì hệ thống trưng thu thuế và triều cống lên nhiều nước. Không chỉ chiếm dụng mà còn duy trì lâu dài việc chiếm dụng đó để phục vụ và duy trì sự thịnh vượng của đế quốc. Mục đích riêng mỗi đế quốc trong quá trình bành trướng có thể khác nhau đôi chút từ mục đích cơ bản, do các điều kiện kinh tế-xã hội và lịch sử khác nhau. Các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha mở rộng đế quốc xuất phát từ nhu cầu truyền đạo Công giáo. Trong bối cảnh nổi lên của Đế quốc Ottoman đã chiếm con đường sang phương Đông, mở rộng Hồi giáo và các cuộc tấn công lấn sâu vào châu Âu đang diễn ra trên vùng Balkan. Sứ mệnh truyền đạo Công giáo để cạnh tranh trở thành nhu cầu bức thiết. Bên cạnh đó, người Bồ Đào Nha, mà sau đó là Hà Lan đặc biệt chú trọng thương mại vì nhu cầu thịnh vượng, củng cố mạnh mẽ quốc gia trước các cường quốc ở châu Âu. Bồ Đào Nha do đất nước nhỏ bé và dân số ít hơn các nước châu Âu không cho phép họ khả năng lấn sâu vào châu Âu, buộc họ bành trướng hải ngoại, chiếm lấy những vùng đất lạc hậu mà khả năng quân sự và công nghệ Bồ Đào Nha lúc bấy giờ có thể cho phép họ dễ dàng thực hiện hơn so với ở châu Âu. Còn trường hợp Hà Lan, họ được thôi thúc bởi nhu cầu củng cố thịnh vượng, là nhu cầu đảm bảo cho cuộc chiến tranh dài nhiều thập niên chống Tây Ban Nha để giành độc lập ở miền Bắc và sau đó là các tỉnh miền Nam. Nước Pháp từ thế kỷ 17 đã đẩy mạnh bành trướng thuộc địa hải ngoại bởi nhu cầu xây dựng quyền lực và sự thịnh vượng khắp các lục địa, qua đó, thúc đẩy vinh quang và uy tín chính trị của triều đại Bourbon ở châu Âu. Vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, theo cách lý giải của các nhà sử học Marxist, mở rộng của đế quốc liên quan đến chủ nghĩa thực dân, với động cơ kinh tế rõ ràng hơn, trong giai đoạn phát triển tột cùng của chủ nghĩa tư bản, các lý do của bành trướng đế quốc chủ yếu từ: Thị trường. Tài nguyên. Lao động thuộc địa. Thuộc địa là nơi cung cấp tài nguyên, là nơi tiêu thụ hàng hóa cùng nguồn nhân công rẻ mạt, và là nơi để đế quốc trút các gánh nặng của "khủng hoảng thừa". Từ đó thôi thúc các nước đế quốc chạy đua xâm lược và tranh giành thuộc địa trên khắp thế giới. Ở một số nước đế quốc, động cơ xây dựng đế quốc đạt mức cực đoan, như trường hợp Đế chế Đức III, dưới chính quyền Đức Quốc xã. Mục tiêu cơ bản là Không gian sinh tồn, xâm chiếm các quốc gia Tây châu Âu, sau đó là Nga, chiếm đất đai dân tộc khác, thuyên chuyển, cưỡng bức họ di cư đến những vùng đất xa xôi, nô lệ hóa hoặc diệt chủng. Những đế quốc đầu tiên Vào thế kỷ 24 trước Công nguyên (TCN), Đế quốc Akkad do vua Sargon Đại đế trị vì là một đế chế lớn đầu tiên trong lịch sử. Trong thế kỷ 15 TCN, Ai Cập bước vào thời kỳ Tân Vương quốc Ai Cập, dưới sự thống trị của pharaon Thutmose III. Đế chế đầu tiên có uy lực sánh ngang với La Mã trong giai đoạn sau là Đế quốc Assyria (2000 - 612 TCN). Ngoài ra, gần Đế quốc Assyria, người Media cũng có một "đế quốc" và chính họ đã chinh phạt luôn cả kinh thành Assyria với sự hỗ trợ của Đế quốc Tân Babylon. Cận kề với Đế quốc Media có đế quốc Lydia, với ông vua giàu có nổi tiếng Kroisos. Nhưng rồi Media bị vua chư hầu xứ Ba Tư là Cyrus Đại Đế tiêu diệt, và lập nên Đế quốc Ba Tư của nhà Achaemenes (550-330 TCN). Dưới sự chỉ huy của vua Cyrus Đại Đế, quân Ba Tư chinh phạt được Lydia và Babylon. Ba Tư là một đế quốc vinh quang, rộng lớn và đa văn hóa, thâu tóm cả Lưỡng Hà, Ai Cập, một phần của Hy Lạp, xứ Thrace, phần còn lại là Trung Đông, nhiều khu vực tại Trung Á và Pakistan, cho đến khi đế quốc này bị Alexandros Đại Đế đánh đổ và thay thế bằng Đế quốc Macedonia, nhưng rồi đế quốc này cũng yểu mệnh như ông. Sử dụng hoán dụ Đế chế được dùng chỉ một doanh nghiệp kinh doanh quy mô lớn (ví dụ một công ty xuyên quốc gia), một tổ chức chính trị được kiểm soát bởi một cá nhân duy nhất (một ông chủ chính trị) hoặc một nhóm (các ông chủ chính trị).
Pavel Novotný (sinh ngày 5 tháng 2 năm 1977, tên khai sinh Jaroslav Jirík, ngoài ra còn có một số tên gọi khác là Max Orloff, Jan Dvorak) là một nam diễn viên đóng phim khiêu dâm người Cộng hòa Séc. Anh chính thức xuất hiện trong làng giải trí khiêu dâm từ năm 1998 và chủ yếu hợp tác với hãng Bel Ami có trụ sở tại Bratislava, Slovakia và hãng Studio 2000 của Mỹ. Hiện tại, anh đã bí mật rút khỏi nghề diễn viên khiêu dâm và thông tin về cuộc sống riêng tư sau đó của anh không được tiết lộ. Sự nghiệp Các phim tiêu biểu 101 Men phần 4 (1998) Czech Point (1999) Prague Rising (2000) Team Play (2000) Prague Buddies 2 (2000) The Jan Dvorak Story (2001) High Sticking (2002) Bi the Blue Line (2002) Czech Firemen (2002) Under the Big Top (2003) Stranger In the City (2005) Đặc điểm diễn xuất Pavel Novotny được coi là một trong những ngôi sao phim khiêu dâm nổi bật nhất của Cộng hòa Séc và có ảnh hưởng ở tầm quốc tế. Một trong những đặc điểm làm nên thành công của anh phải kể đến là ngoại hình đặc trưng cho người Slav Đông Âu. Pavel sở hữu một khuôn mặt đẹp trai với những đường nét vuông vức, khỏe khoắn, mũi cao và có phần hao hao giống một thiếu niên trong thời gian đầu đóng phim khiêu dâm nhưng về sau khuôn mặt anh thể hiện nhiều nét nam tính trưởng thành hơn. Trong phần lớn các phim của mình, Pavel đóng cảnh top, đưa dương vật vào hậu môn của đối tác. Bộ phim quốc tế đầu tiên Pavel Novotny tham gia là Czech Point (1999). Trong phim này, Pavel Novotny và Ales Hanak là hai diễn viên người Séc duy nhất. Họ đóng vai hai người lính thuộc lực lượng đặc nhiệm của quân đội Séc sang học tập trong môi trường quân đội Mỹ và không hề biết tiếng Anh. Vị chỉ huy (do Chris Steel đóng) yêu cầu Pavel cởi bỏ quần áo để kiểm tra phát triển hình thể và sau đó hai người đã quan hệ tình dục ngay trong phòng chỉ huy. Trong Prague Rising (2000), Pavel cùng Ales Hanak lại diễn xuất cùng nhau và nhập vai những bóng ma ám trong ngôi nhà cổ ở Cộng hòa Séc. Sự đa dạng trong diễn xuất cũng là một thành công lớn của Pavel khi anh đóng nhiều cảnh top khác nhau với những vai trò như lính cứu hỏa (trong Czech Firemen) hay nhân viên khách sạn (The Jan Dvorak Story).
Kim Đồng (1929 – 15 tháng 2 năm 1943) là bí danh của Nông Văn Dền , một thiếu niên người dân tộc Nùng, ở xóm Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tiểu sử Kim Đồng, tên thật là Nông Văn Dền. Dền tiếng Tày, Nùng có ý nghĩa là Tiền. Khi sinh ra Dền, cha mẹ Dền mong muốn đứa con trai của mình sau này sẽ có cuộc sống hạnh phúc, ấm no nên mới đặt tên như vậy. Gia đình Kim Đồng Cha của Kim Đồng, là người làng Nà Mạ, tên là Nông Văn Ý. Trong một lần sang quê vợ ở làng Kép Ké (Nà Sác) gặp nạn, chết không xác định được nguyên nhân chính xác. Mẹ Kim Đồng tên là Lân Thị Hò (1890 - 1972), quê làng Kép Ké. Bà là một người phụ nữ chăm chỉ, hết lòng vì chồng con, giỏi nghề dệt và làm giấy bản, là hội viên Hội phụ nữ cứu quốc. Sức khỏe bà rất yếu nên từ nhỏ Kim Đồng đã phải làm nhiều việc của người lớn, điều đó sớm hình thành trong Kim Đồng những tính cách của người lớn như: Quyết đoán, năng động, không ngại khó, dũng cảm,... Kim Đồng có hai chị gái, một anh trai và một em gái. Chị gái cả tên là Nông Thị Nhằm. Lấy chồng trong làng tên là Lý Văn Kinh thường được gọi là Kinh Xình, nhà anh Kinh Xình là nơi hội họp, đón tiếp, bảo vệ cán bộ cách mạng. Trong ngôi nhà này, ngày 14/2/1943, lãnh đạo chủ chốt Châu uỷ Hà Quảng họp, nhờ hành động dũng cảm của Kim Đồng mà thoát cả lên núi phía sau nhà. Chị gái thứ hai là Nông Thị Lằng cũng lấy chồng trong làng. Anh trai là Nông Văn Tằng (bí danh là Phục Quốc) sớm tham gia cách mạng, là đội viên giải phóng quân, chiến đấu và hy sinh ở Chợ Đồn (Bắc Kạn). Để anh Phục Quốc có điều kiện hoạt động cách mạng, 12 tuổi, Kim Đồng đã thay anh đi làm phu, chặt cây, trồng cỏ ở đồn Sóc Giang. Em gái là Nông Thị Slấn, xinh đẹp, chăm chỉ. Một lần qua suối, không may trượt chân ngã, chết đuối. Sự hy sinh Kim Đồng đã cùng đồng đội làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Trong một lần đi liên lạc, khi cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp đang tới nơi cư trú của cán bộ, Kim Đồng đã đánh lạc hướng họ để các bạn của mình đưa bộ đội về căn cứ được an toàn. Kim Đồng chạy qua suối, quân Pháp theo không kịp liền nổ súng vào anh. Kim Đồng ngã xuống ngay bên bờ suối Lê Nin ở Cao Bằng ngày 15 tháng 2 năm 1943, khi đó anh vừa mới tròn 14 tuổi. Để tưởng nhớ về anh có nhà thơ đã miêu tả rằng:  "Anh là anh Kim Đồng Người anh hùng tuổi nhỏ Đã anh dũng hy sinh Vì quê hương đất nước Nhưng Kim Đồng sống mãi Nêu gương sáng muôn đời Cho tuổi thơ Việt Nam Luôn chăm ngoan, học tốt!". Bài hát Nhạc sĩ Phong Nhã đã sáng tác bài hát Kim Đồng vào năm 1945 để ca ngợi những chiến công của anh. Bài hát đã được chọn trong danh sách 50 bài hát hay nhất thế kỷ 20. ''Hờn căm bao lũ tham tàn phát xít Dấn bước ra đi Kim Đồng lên chiến khu Kim Đồng quê hương Việt Bắc xa mù Kim Đồng thay cha rửa mối quốc thù...'' Danh hiệu Tháng 7 năm 1997, Kim Đồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Trong khoa học vật liệu, hiệu ứng lá sen chỉ sự không thấm nước của bề mặt một số lá cây, điển hình là lá sen. Nước bị đẩy lùi khỏi bề mặt của lá nhờ các sợi lông nhỏ mịn trên bề mặt. Barthlott đã nghiên cứu và chứng minh sự liên quan giữa cấu trúc micro và các hợp chất hóa học trên bề mặt lá sen với khả năng chống bị ướt và tự làm sạch khỏi chất làm ô nhiễm. Nước rơi lên bề mặt lá sẽ lăn như những giọt hình cầu, cuốn đi bùn bẩn và vi trùng. Người ta đã mô phỏng hiệu ứng này để tạo ra các vật liệu tự làm sạch, siêu kị nước dựa trên hiệu ứng này của tự nhiên. Chúng được ứng dụng để chế tạo sơn, ngói lợp mái nhà, vải hay các bề mặt khác cần tự làm sạch. Sen là loài nổi tiếng về sự sạch sẽ, dù mọc trong môi trường bùn lầy. Ca dao Việt Nam có câu: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn Cũng từ hiện tượng và định nghĩa nêu trên, tục ngữ Việt Nam đã lấy chúng làm một trong các câu thành ngữ sau đây: "nước đổ lá sen", "nước đổ lá khoai", "nước đổ lá môn", "nước đổ đầu vịt" dùng để ám chỉ những người không chịu tiếp thu cái được dạy dù đã được chỉ dạy nhiều lần. Hình ảnh
Ngô Đức Kế (chữ Hán: 吳德繼; 1878 - 1929) tên thật là Ngô Bình Viên, hiệu Tập Xuyên (集川); là chí sĩ, và là nhà thơ, nhà báo Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Tiểu sử Ngô Đức Kế là người làng Trảo Nha, thuộc tổng Đoài, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh (nay là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Xuất thân trong một gia đình quan lại nhiều đời. Cha ông là Tả tham tri bộ Lễ Ngô Huệ Liên (1840- 1912), về sau giữ chức Toản tu Quốc sử quán triều Nguyễn. Năm Tân Sửu (1901), ông Kế dự thi Đình, đỗ Á khoa năm Thành Thái thứ 13. Tuy nhiên, ông không ra làm quan ở nhà dạy học, đọc tân thư, liên hệ với Phan Bội Châu , và đứng ra đề xướng lối học mới và bài xích cái học từ chương và cử nghiệp . Đồng thời, ông cùng với Lê Văn Huân và Đặng Nguyên Cẩn lập ra Triều Dương thương điếm ở Vinh . Năm Mậu Thân (1908), ông bị thực dân Pháp bắt và bị đày ở Côn Đảo cho đến năm 1921. Năm 1921, ông ra tù. Đến năm sau (1922), ông làm Chủ bút báo Hữu thanh của Hội Công thương tương tế ở Hà Nội, đồng thời sáng tác thơ vǎn. Trên báo Hữu thanh, ông đã viết một số bài "đả kích thơ văn lãng mạn và quyết liệt bài xích nhóm Nam Phong (đứng đầu là Phạm Quỳnh) vì đã bênh vực Truyện Kiều". Năm 1927, tờ báo trên bị đóng cửa, Ngô Đức Kế mở Giác quần thư xã, để xuất bản một số sách tiến bộ, trong số đó có "Phan Tây Hồ di thảo" của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh. Ngô Đức Kế qua đời ngày 10 tháng 12 năm 1929 tại Hà Nội. Khi ấy, ông 51 tuổi. Nhân dân gọi ông là Ngô Nhân Tổ (người cụ tổ họ Ngô) hoặc gọi là Ngô Việt Hành (hành tinh đất Ngô - Việt) Tác phẩm Sau khi mở Giác quần thư xã, ông có soạn: Phan Tây Hồ di thảo (Bản thảo để lại của Phan Tây Hồ) Đông Tây vĩ nhân (Vĩ nhân Đông Tây) Khi ở Côn Đảo, ông có soạn: Thái Nguyên thất thật quang phục ký (Ghi chép về 7 ngày giành lại Thái Nguyên). Thiên nhiên học hiệu ký (Ghi chép về trường học thiên nhiên) Sở am tập (Tập văn về những điều am tường) Ngoài ra, ông Kế còn có một số bài báo và thơ. Trong số ấy, nổi bật có bài "Nền quốc văn" (đăng trên báo Hữu thanh, tháng 4 năm 1924) và "Luận về chánh học cùng tà thuyết" (đăng trên báo Hữu thanh, tháng 9 năm 1924), ông đã kịch liệt chống lại chủ trương đề cao Truyện Kiều của Phạm Quỳnh. Vì theo ông, tác phẩm ấy đã làm cho các thanh niên "say đắm trong trời tình biển ái mà mềm nhũng cái lòng sắt đá, bỏ mất cái chí nguyện cao xa"... Ghi nhận công lao Nội dung thơ văn của Ngô Đức Kế thường xoay quanh đề tài vận động duy tân đất nước, ca ngợi khí tiết của người trượng phu, ca ngợi các đồng chí đã hy sinh, và bộc lộ niềm phấn khởi khi nghe tin phong trào yêu nước lại dấy lên mạnh mẽ. Bên cạnh đó, ông cũng dũng cảm và sắc sảo chống văn hóa nô dịch của thực dân Pháp, và phê phán nghiêm khắc vua quan nhà Nguyễn đã để đất nước lâm cảnh khốn cùng. Tuy quan điểm không khỏi phiến diện và bảo thủ, nhưng ông đã góp phần thức tỉnh tinh thần yêu nước trong thanh niên và các tầng lớp khác vào thời đó... Ghi nhận công lao ông, tên Ngô Đức Kế được dùng để đặt cho một số con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Vinh, Cần Thơ, Huế, Bà Rịa...và một số ngôi trường như trường Ngô Đức Kế ở chính quê hương ông,... Chú thích
Hồ Bá Cự còn được biết đến nhiều hơn là Hồ Tùng Mậu (15 tháng 6 năm 1896 – 23 tháng 7 năm 1951) là một nhà hoạt động cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông từng là đảng viên của cả Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam, thành viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Thanh tra Ban Thanh tra Chính phủ. Thân thế Ông tên thật là Hồ Bá Cự, sinh ngày 15 tháng 6 năm 1896 tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống chống Pháp. Ông nội ông là Hồ Bá Ôn, hi sinh trong trận chiến với Pháp năm 1883. Cha ông là Hồ Bá Kiện, một chí sĩ trong phong trào Văn Thân, bị thực dân Pháp bắt giam và bắn chết trong khi vượt ngục tại Lao Bảo năm 1915. Thoát ly gia đình hoạt động cách mạng Chịu ảnh hưởng sâu sắc của cha, năm 1916, ông thoát ly gia đình, dạy học ở hai huyện Thanh Chương và Anh Sơn (Nghệ An) mong tìm được bạn cùng chí hướng. Năm 1919, với bí danh Hồ Tùng Mậu, ông cùng với Lê Hồng Sơn, Ngô Chính Học, Nguyễn Thị Tích, Đặng Quỳnh Anh, dưới sự dẫn đường của Đặng Xuân Thanh, bí mật xuất dương sang Lào rồi sang Xiêm. Sau ba tháng ở Trại Cày ở Bản Đông (tỉnh Phì Chịt), tháng 7 năm 1920, ông cùng Lê Hồng Sơn được cụ Đặng Thúc Hứa bố trí vượt biển sang Quảng Châu (Trung Quốc). Ông ở trọ nhà của chí sĩ Hồ Học Lãm, một họ hàng gần của ông (vai chú), học tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, rồi học trường Trung học An Định và trường Bưu điện. Năm 1923, ông cùng Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái,… thành lập nhóm Tâm Tâm Xã, một tổ chức thanh niên mang tư tưởng phục quốc, hoạt động chính trị với mục đích giành độc lập cho Việt Nam khỏi chế độ thực dân Pháp. Tháng 3 năm 1924, ông được Phan Bội Châu giao nhiệm vụ mang tài liệu về nước tuyên truyền và vận động thanh niên xuất dương, nhưng đến tháng 7 năm 1924, được tin Phạm Hồng Thái mưu sát Toàn quyền Martial Henri Merlin, ông trở lại Quảng Châu. Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu, tiếp xúc với một số thành viên của Tâm Tâm xã, kết nạp các thành viên này vào tổ chức Cộng sản đoàn. Trong số các thành viên này có Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. Hồ Tùng Mậu nhanh chóng trở thành một trong những thành viên tích cực trong việc phát triển Hội. Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông còn sử dụng một số bí danh khác như Lương, Ích, Phan Tái, Hồ Mộng Tống, Hồ Quốc Đống, Hồ Tùng Tôn, Ninh Võ, Hà Quị, Yên Chính, Lương Gầy, Lương Tử Anh. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội trên cơ sở Cộng sản đoàn và mở lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên ở trong nước sang. "Ban huấn luyện chính trị đặc biệt" của Hội đặt ở ngôi nhà số 13 đường Văn Minh (Quảng Châu). Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn là giảng viên phụ giảng của Nguyễn Ái Quốc. Vận động lập Đảng Cộng sản Tháng 3 năm 1926, Nguyễn Ái Quốc giới thiệu ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1927, ông bị chính quyền Trung Quốc Quốc dân Đảng bắt giam 3 lần, lần lâu nhất bị giam 5 tháng, nhưng cuối cùng ông được trả lại tự do cùng một số người khác. Tháng 8 năm 1928, ông lại bị bắt giam tới tháng 11 năm 1929. Sau khi được thả, ông đến Hồng Kông. Tại đây, ông gia nhập Chi bộ Hải ngoại của An Nam Cộng sản Đảng. Cũng trong thời gian này, thực dân Pháp đã cho lập phiên tòa ở Nghệ An để xử vắng mặt và kết án tử hình Hồ Tùng Mậu với tội danh "Vận động lập Đảng Cộng sản, xúi giục đưa người ra nước ngoài, mưu đồ phản loạn". Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông, tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam. Hồ Tùng Mậu là một trong bảy thành viên tham dự Hội nghị thành lập Đảng ngày 3 tháng 2 năm 1930 tại Cửu Long (Hương Cảng), do Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì. Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn tham dự Hội nghị với tư cách "Cán bộ lãnh đạo ở hải ngoại", tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Giải thoát Nguyễn Ái Quốc và cuộc sống lưu đày Ngày 6 tháng 6 năm 1931, nhận được tin Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Anh bắt tại Hương Cảng, ông cùng Trương Vân Lĩnh liên hệ với Hội Quốc tế Cứu tế Đỏ nhờ can thiệp và vận động luật sư Francis Henry Loseby bào chữa buộc chính quyền thực dân Anh phải trả lại tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Ông cũng nhanh chóng liên lạc và báo cáo cho cơ quan Đông Phương bộ của Quốc tế Cộng sản và tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhờ giúp đỡ giải thoát cho lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Nhờ sự tích cực của ông, Vụ án Tống Văn Sơ diễn ra theo chiều hướng có lợi. Tuy nhiên, đến ngày 30 tháng 6 năm 1931, Hồ Tùng Mậu bị chính quyền thực dân Anh bắt giam với lý do hoạt động chống nhà cầm quyền Hồng Kông, nhưng vì không đủ chứng cứ buộc tội nên họ trục xuất ông khỏi Hương Cảng, đồng thời thông tin cho mật thám Pháp đón lõng bắt ông tại Thượng Hải. Ngày 26 tháng 6 năm 1931, ông bị mật thám Pháp bắt giữ ngay khi vừa đặt chân đến Thượng Hải. Ông bị giải về tô giới Pháp rồi bị đưa về Việt Nam xét xử. Ông bị chính quyền thực dân Pháp tuyên án tử hình tại phiên tòa ngày 6 tháng 12 năm 1931 tại Nghệ An, nhưng sau đó giảm xuống thành án chung thân khổ sai. Ông trải qua các nhà lao Vinh, Lao Bảo, sau đó mới đến nhà đày Kontum. Tại ngục Kontum, ông tham gia sáng lập "Hội tao đàn ngục thất", lấy thơ văn để nuôi dưỡng chí khí chiến đấu. Trong những năm sau đó, ông bị đày qua nhà đày Buôn Ma Thuột, rồi ngục Trà Khê. Mãi đến ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông cùng các đồng chí của mình vượt ngục Trà Khê, trở về quê nhà tại làng Quỳnh Đôi, Nghệ An. Bấy giờ, Chính phủ Trần Trọng Kim có mời ông ra làm cố vấn, nhưng ông dứt khoát từ chối. Tham gia kháng chiến Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông nhận được giấy mời ra Hà Nội của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại đây, ông gặp lại người bạn cũ Lê Thiết Hùng và được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ làm Chính ủy và Khu trưởng Khu 4 (nay là Quân khu 4) để chuẩn bị cho nguy cơ chiến tranh đang đến gần. Ông giữ chức vụ Chính ủy Khu 4 từ tháng 10 năm 1945 đến tháng 11 năm 1946. Ông cũng đồng thời làm Giám đốc kiêm Chính ủy Trường Quân chính Nhượng Bạn, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Năm 1947, ông được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Liên khu IV, đồng thời được bầu làm Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy. Ngày 19 tháng 3 năm 1948, Hồ Mỹ Xuyên, con trai duy nhất của ông, trên đường công tác tại địa phận Lục Yên, tỉnh Yên Bái, đã bất ngờ lâm nạn và hy sinh khi tuổi đời vừa tròn 28. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay đánh máy chữ, gửi thư chia buồn tới gia đình ông. Ngày 18 tháng 12 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra Chính phủ và cử ông giữ chức vụ Tổng Thanh tra. Đầu năm 1950, Hội Hữu nghị Việt - Hoa được thành lập. Ông được bầu làm Hội trưởng đầu tiên của Hội. Tại Đại hội Đảng lần thứ II vào tháng 2 năm 1951, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hy sinh Ngày 23 tháng 7 năm 1951, ông hy sinh trên đường đi vào Liên khu IV công tác, do bị máy bay địch Pháp phát hiện và bắn chết tại Phố Còng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, nguyên nhân cái chết của Hồ Tùng Mậu vẫn còn nhiều nghi vấn. Theo sử gia Laura Calkins, có rất nhiều tin đồn xung quanh cái chết của Hồ Tùng Mậu. Một giả thiết đưa ra là Hồ Tùng Mậu tự tử vì trách nhiệm của ông trong vụ nạn đói ở Thanh Hóa. Tình báo của Pháp xác nhận bí mật với quan chức Mỹ rằng ông bị thanh trừng. Công trình gắn liền với tên tuổi của Hồ Tùng Mậu Sau khi được tin ông hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và tự tay viết Lời điếu viếng ông, trong đó có đoạn: "Chú Tùng Mậu ơi! Lòng ta rất đau xót, linh hồn chú biết chăng? Về tình nghĩa riêng - tôi với chú là đồng chí, lại là thân thiết hơn anh em ruột. Khi hoạt động ở đất khách quê người, khi bị giam ở lao tù đế quốc, khi tranh đấu ở nước nhà… đã bao phen chúng ta đồng cam cộng khổ như tay với chân". "Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, đoàn thể mất một người đồng chí trung thành và tôi mất một người anh em chí thiết! Mấy nguồn thương tiếc! Mấy nguồn thương tiếc cộng vào một lòng tôi…". Ngày 22 tháng 8 năm 1951, khi đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hoàng Quốc Việt dẫn đầu đến Bình Nhưỡng (Triều Tiên), Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc gửi lời chia buồn đến sự hi sinh của Hồ Tùng Mậu. Họ gọi ông là "người cách mạng cao quý", nhưng không nhắc đến việc ông là Đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc lâu năm. Năm 2008, ông được truy tặng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của nhà nước Việt Nam. Tên ông được đặt cho nhiều đường phố và trường học tại Việt Nam. Tên ông cũng là của một xã cùng tên ở huyện Ân Thi, Hưng Yên. Ở Hà Nội, tên ông được đặt cho đoạn Quốc lộ 32 từ phường Cầu Diễn thuộc quận Nam Từ Liêm đến địa ngã tư cầu vượt Mai Dịch thuộc quận Cầu Giấy. Gia đình Hồ Tùng Mậu có một vợ người Trung Quốc, tên là Lý Phương Thuận (hay Lý Ưng Thuận, Lý Sâm). Lý Phương Thuận bị cảnh sát Hong Kong bắt khi đang ở cùng với Nguyễn Ái Quốc vào ngày 6 tháng 6 năm 1931 tại Cửu Long, Hương Cảng. Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Thảo, nhưng ông bà chỉ có một người con trai duy nhất là Hồ Mỹ Xuyên, sinh năm 1920. Ông Xuyên hy sinh năm 1947, nhưng trước đó đã lập gia đình với bà Nguyễn Thị Chanh và có với nhau 3 người con, về sau đều trở thành những chính khách cao cấp của Việt Nam là Hồ Anh Dũng, nguyên Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam Hồ Ngọc Hải, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam Hồ Đức Việt, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa X, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Chú thích
Mũi đất hay mũi biển là phần đất nằm kề biển với 3 mặt là nước bao quanh. Địa chất và địa lý học Mũi đất thường bao bọc vịnh biển. Những mũi đất được tạo nên chủ yếu là do quá trình biến đổi địa chất, hay do nước biển dâng lên làm ngập các phần đất thấp hơn còn phần đất cao thì nổi lên tạo thành mũi đất. Những mũi đất nổi tiếng Việt Nam Mũi Cà Mau. Mũi Né. Châu Á Mũi Kanyakumari hay mũi Cape Comorin ở Tamil Nadu, Ấn Độ Mũi Engaño ở Philippines Mũi Indira ở đảo Andaman và Nicobar, Ấn Độ Mũi Dezhnev. Nga Châu Âu Mũi Cabo da Roca, Bồ Đào Nha. Mũi Arkona, Đức. Mũi Finisterre, Tây Ban Nha Mũi Bắc, North Cape, Na Uy. Mũi Wrath, Scotland MũiGris Nez, Pháp. Land's End, Anh Mũi Pointe du Raz, Pháp. Châu Phi Mũi Agulhas, Nam Phi Mũi Hảo Vọng, Nam Phi. Mũi Juby,Maroc. Cape Guardafui, Xô-ma-li, Somalia Mũi Verde, Sénégal Mũi Blanc, Tuy-ni-di, Tunisia Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Ca-ri-bê Mũi đảo Breton, Nova Scotia, Canada Mũi Canaveral, Florida, Hoa Kỳ MũiChidley, Newfoundland và Labrador/Nunavut, Canada Mũi Cod, Massachusetts, Hoa Kỳ Mũi Columbia, Nunavut, điểm cực bắc của Canada Mũi Farewell, điểm cực Nam của Greenland Mũi Hatteras,Bắc Carolina, Hoa Kỳ Mũi Henry, Virginia, Hoa Kỳ Mũi Prince of Wales, Alaska, Hoa Kỳ Mũi Spear, Newfoundland và Labrador,cực Đông Canada Mũi Cabo San Lucas, Baja California Sur, México. Nam Mỹ Mũi Froward ở Chile Mũi Sừng, Horn, Chile, điểm gần cực Nam của Châu Mỹ. Mũi Virgenes, Argentina Châu Úc Mũi Egmont, New Zealand Mũi Foulwind, New Zealand Mũi Leeuwin, Australia Mũi Reinga, New Zealand Mũi York, Australia Mũi Đông, New Zealand Mũi Bắc, New Zealand Mũi Nam, Australia Young Nick's Head, New Zealand
Lý Tự Trọng (20 tháng 10 năm 1914 – 21 tháng 11 năm 1931) tên thật là Lê Hữu Trọng, còn được gọi là Huy là một trong những nhà cách mạng trẻ tuổi của Việt Nam. Tiểu sử Ông sinh ngày 20 tháng 10 năm 1914 tại làng Bản Mạy, tỉnh Nakhon Phanom - Thái Lan. Quê gốc ông ở xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Cha ông là Lê Hữu Đạt, mẹ là Nguyễn Thị Sờm, đều là những Việt kiều sống ở Nakhon; họ gốc của ông vốn là Lê Hữu song đến đời ông thì được đặt thành Lê Văn. Ông có đông anh chị em gồm: Lê Văn Đại, Lê Văn Tăng, Lê Văn Năng, Lê Thị Sáu, Lê Thị Bảy,... Năm 1923, chỉ mới 10 tuổi, Lý Tự Trọng được sang Trung Quốc học tập và hoạt động trong Hội Thanh niên Cách mạng đồng chí. Năm 1926, ông về nước hoạt động với nhiệm vụ thành lập đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương và làm liên lạc cho Xứ ủy Nam Kỳ với Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 9 tháng 2 năm 1931, trong buổi kỷ niệm gặp mặt một năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái tổ chức tại Sài Gòn, Lý Tự Trọng đã bắn chết viên mật thám Le Grand để bảo vệ diễn giả Phan Bôi đang diễn thuyết tại quảng trường Lareni. Tuy nhiên, sau đó ông đã bị bắt giam vào Khám Lớn và bị kết án tử hình ngày 21 tháng 11 năm 1931 khi mới 17 tuổi. Sự kiện này làm dấy lên một phong trào đấu tranh mạnh mẽ ở Khám Lớn khiến từ đó cai ngục tại đây luôn gọi Lý Tự Trọng là "Ông Nhỏ". Vinh danh Nhà thờ Lý Tự Trọng được xây trên nền nhà tổ tiên của dòng họ Lê tại xã Việt Tiến, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Lý Tự Trọng được Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh công nhận là người Đoàn viên đầu tiên với tấm thẻ Đoàn viên danh dự số 1. Tên của ông đã được đặt cho tên của một giải thưởng của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh dành trao tặng cho thanh niên. Ngoài ra, tên ông cũng được đặt cho nhiều trường học và con đường ở Việt Nam. Câu nói Mộ phần Theo thông tin của hội đồng hương Hà Tĩnh tại Thành phố Hồ Chí Minh, mộ của liệt sĩ Lý Tự Trọng "được tìm thấy tại công viên Lê Thị Riêng". Còn theo một số thông tin địa phương thì được tìm thấy dưới một ngôi nhà 3 tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh, gần khu vực tìm thấy mộ cố tổng bí thư Trần Phú.
Phan Huy Chú (chữ Hán: 潘輝注; 1782 – 28 tháng 5 năm 1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, là quan triều nhà Nguyễn và là nhà thơ, nhà thư tịch lớn, nhà bác học Việt Nam. Nguồn gốc và giáo dục Phan Huy Chú là con của Phan Huy Ích, một nhà nho có tiếng đậu tiến sĩ đời nhà Hậu Lê và từng làm quan cho nhà Tây Sơn. Mẹ ông là Ngô Thị Thực, con gái của Ngô Thì Sĩ, em gái của Ngô Thì Nhậm, bà mất khi ông 10 tuổi. Phan Huy Chú có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc húy của nhà Nguyễn mới đổi là Chú, tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong. Ông sinh ra và lớn lên ở thôn Thụy Khuê, thuộc huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (trước thuộc tỉnh Sơn Tây, sau thuộc Hà Tây và nay là thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội). Ông xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng, là con trai thứ ba của Lễ bộ Thượng thư, tiến sĩ Phan Huy Ích. Ông nội là tiến sĩ Phan Huy Cận, ông ngoại là Ngô Thì Sĩ, cha là Phan Huy Ích, bố vợ là Nguyễn Thế Lịch, bác là Ngô Thì Nhậm, chú là Phan Huy Ôn, anh là Phan Huy Thực… Quê gốc của ông là thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch (đầu thời Nguyễn thuộc huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quan, trấn Nghệ An, nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1787, một người trong dòng họ Phan Huy (và là ông nội của Phan Huy Chú) là Phan Huy Cận (sau đổi tên là Áng), làm quan lớn dưới triều Lê-Trịnh, sau khi từ giã chốn quan trường đã đến ở làng Thụy Khuê, và trở thành "ông tổ đầu tiên của chi phái Phan Huy" ở đây. Phan Huy Chú được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, lại từng được Ngô Thì Nhậm (cậu ruột) rèn dạy từ lúc 6 tuổi; nổi tiếng hay chữ ở miền phủ Quốc tỉnh Sơn, nhưng cả hai lần thi Hương (Đinh Mão 1807 và Kỷ Mão 1819) ông chỉ đỗ Tú tài (nên tục gọi ông là "Kép Thầy", vì ở làng Thầy và đỗ hai lần). Kể từ đó, ông thôi việc thi cử, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và trước tác. Tác động của dòng dõi tài danh, hiếu học và những quan hệ trí tuệ đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tính cách của Phan Huy Chú. Phan Huy Chú là một nhà bác học, danh nhân văn hóa Việt Nam, với tài danh lỗi lạc về bách khoa thư. Sự nghiệp Năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mạng biết tiếng Phan Huy Chú, cho triệu ông vào kinh đô Huế, cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm này, ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên soạn (khởi soạn khi còn đi học, đến năm 1809 thì cơ bản hoàn thành), và được khen thưởng. Năm Ất Dậu (1825), ông được sung làm Phó sứ sang Trung Quốc. Khi về, được làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp trấn Quảng Nam (1829). Ít lâu sau, ông bị giáng vì phạm lỗi, được điều động về Huế giữ chức Thị độc ở Viện Hàn lâm. Năm Tân Mão (1831), lại sung Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả đoàn sứ bộ đều bị giáng chức vì tội "lộng quyền", riêng ông bị cách chức. Năm sau (Nhâm Thìn 1832), cho ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba, Indonesia) để lập công chuộc tội. Trở về (Giáp Ngọ 1834), ông được bổ làm Tư vụ bộ Công. Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin về hưu ở làng Thanh Mai, thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất. Mộ phần Phan Huy Chú mất ngày 27 tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi. Phần mộ của ông hiện ở tại thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, (trước thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà Nội). Đã sửa lại lần 1, lần 2 năm 2012 và được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2014. Các tác phẩm chính Lịch triều hiến chương loại chí Hoàng Việt dư địa chí Mai Phong du Tây thành dã lục Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ sang Trung Quốc) Hoa trình tục ngâm Hải trình chí lược, hay còn gọi là Dương trình ký kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia) Lịch đại điển yếu thông luận, v.v... Nhìn chung, Phan Huy Chú nổi tiếng là nhà nghiên cứu, biên khảo hơn là nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm có giá trị nhất của ông là bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Đây có thể xem là "bộ bách khoa toàn thư" đầu tiên của Việt Nam. Kế tiếp, đáng kể nữa là bộ Hoàng Việt dư địa chí, ghi chép về địa lý Việt Nam. Thông tin thêm Vợ của Phan Huy Chú là bà Nguyễn Thị Vũ, con gái Tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch (tức Nguyễn Gia Phan), người thôn Yên Lũng, Từ Liêm (nay thuộc Hoài Đức, Hà Nội). Ông giỏi nghề thuốc, và từng làm quan trải đến chức Thượng thư bộ Hộ dưới triều Tây Sơn. Năm 1803, ông bị vua Gia Long sai đánh đòn tại Văn Miếu cùng với Ngô Thì Nhậm. Có thông tin nghi vấn cho rằng, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon là hậu duệ của nhà bác học Phan Huy Chú. Ngày 23 tháng 5 năm 2015, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon đã đến dâng hương tại nhà thờ dòng họ Phan Huy. Tuy nhiên trong lưu bút của mình, ông Ban chỉ ghi nhận mình là một "thành viên họ Phan" (tức là một người mang họ Phan), chứ không nói rõ là thành viên họ Phan Hàn Quốc, hay họ Phan Việt Nam (thậm chí dòng họ Phan Huy). Họ Phan là một họ của người Á Đông, có cả ở Hàn Quốc, Trung Quốc lẫn Việt Nam. Tại Việt Nam, những con đường và ngôi trường mang tên ông từ thời kỳ thuộc địa đã không hề thay đổi cho đến nay mặc dù các con đường khác mang tên của các anh hùng dân tộc Việt Nam lại bị thay đổi qua nhiều biến thiên thời cuộc.
Cabo da Roca là mũi biển, điểm cực Tây của đại lục Bồ Đào Nha. Đồng thời cũng là điểm cực Tây của lục địa châu Âu. Thuộc một địa điểm của quận Lisbol, cách Lisbol 40 km về phía Tây, trong công viên tự nhiên Serra de Sintra. Có tọa độ là 38°47′ Bắc 9°30′ Tây. Tại đây có một tấm bia đá khắc làm mốc. Điểm cao nhất so với mặt nước Đại Tây Dương là 140 m. Trên đỉnh có một ngọn hải đăng và điểm du lịch nhỏ. Ngày nay mũi biển này là một địa điểm hấp dẫn du lịch, với lượng khách tham quan nhiều.
Đặng Dung ( 1373 – 1414) là tướng lĩnh nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của Đặng Tất, người theo phò vua Giản Định đế của nhà Hậu Trần, sau bị Giản Định đế giết chết cùng với tướng Nguyễn Cảnh Chân. Giận vì cha mình chết oan, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) rời đi, lập Trần Quý Khoáng tức vua Trùng Quang tiếp tục khởi nghĩa. Tiểu sử Đặng Dung là người xã Mỹ Tho, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con trai cả của Quốc công Đặng Tất. Theo Đặng tộc Đại Tông phả, ông tổ 4 đời của Đặng Tất là Đặng Bá Kiển vốn cư ngụ ở vùng kinh kỳ Thăng Long, sau đó di dời vào Nghệ An châu. Đặng Bá Kiển sinh ra Đặng Bá Tĩnh đỗ Thám hoa đời nhà Trần. Đặng Bá Tĩnh sinh ra Đặng Đình Dực, Đặng Đình Dực sinh ra Đặng Tất, Đặng Tất sinh ra Đặng Dung. Sự nghiệp Bối cảnh Cha của Đặng Dung là Đặng Tất, làm quan cho nhà Trần và nhà Hồ; vào năm 1391, Hồ Quý Ly bổ dụng Đặng Tất làm Châu phán Hóa Châu. Năm 1402, Đặng Tất giúp việc cho Hoàng Hối Khanh cai trị vùng đất Thăng Hoa mới lấy được từ Chiêm Thành. Tháng 5, năm 1407, cha con họ Hồ bị bắt ở cửa biển Kỳ La, Chiêm Thành nhân đó dấy quân hòng chiếm lại đất Thăng Hoa. Đặng Tất xin với Trương Phụ cho mình cai trị đất Hóa Châu, Trương Phụ chấp thuận, sau đó quân Chiêm Thành rút về. Năm 1407, vào tháng 10, người con thứ của vua Trần Nghệ Tông, tên là Trần Ngỗi, tự lập làm vua lên ngôi ở Tràng An, xưng là Giản Định đế. Do quân mới lập, nhà vua phải chạy vào Nghệ An, Đặng Tất lúc ấy làm Đại tri châu Hóa Châu nghe tin, liền giết viên quan nhà Minh đem quân từ Hóa châu ra Nghệ An phò giúp. Đặng Tất dâng con gái cho vua Giản Định đế, sau đó được phong làm Quốc công. Năm 1409, sau trận đại chiến Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vì nghe lời của hoạn quan Nguyễn Quỹ và học sinh Nguyễn Mộng Trang nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi (Giản Định Đế), cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) đem binh Thuận Hóa về Thanh Hóa, rước Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập làm vua, tức Trùng Quang Đế. Phò vua Trùng Quang Trần Quý Khoáng hay Trần Quý Khoách là con Trang Định vương Trần Ngạc và là cháu nội của Trần Nghệ Tông, trước kia Quý Khoáng làm quan Nhập nội thị trung. Trần Quý Khoáng lên ngôi vua ở Chi La, đổi niên hiệu là Trùng Quang, dùng Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Chương làm Tư mã. Lúc này Giản Định đế đang ở thành Ngự Thiên, chống nhau với nhà Minh. Trùng Quang đế sai Nguyễn Súy mang quân đến đánh úp, bắt được Giản Định đế. Mẹ của Giản Định đế là Hưng Khánh Thái hậu và bầy tôi là Lê Tiệt, Lê Nguyên Đỉnh bàn nhau khởi binh đánh úp lại Trùng Quang đế để khôi phục quyền lực cho Giản Định đế. Việc bị tiết lộ, Trùng Quang đế bắt giết Lê Tiệt và Lê Nguyên Đỉnh, còn lại thì tha cả. Gặp khi ấy Nguyễn Súy đưa Giản Định đế đến Nghệ An, Trùng Quang đế thay mặc mũ áo thường ra đón tiếp. Trùng Quang đế bèn tôn Giản Định đế làm Thượng hoàng, cùng nhau mưu tính việc khôi phục. Trận Mô Độ Giản Định đế và Trùng Quang đế chia quân làm hai, Giản Định đế tiến quân đến Hạ Hồng, vua Trùng Quang tiến quân đến Bình Than, các người hùng kiệt ở các lộ đều hưởng ứng; gặp lúc Trương Phụ dẫn quân đến, Giản Định đế bỏ thuyền lên bộ, Trương Phụ chia quân đi đằng sau, bắt được giải về Kim Lăng. Cánh quân vua Trùng Quang giữ nhau với Trương Phụ ở Bình Than, chia cho Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử, vì thiếu lương thực, quân tan vỡ, vua Trùng Quang được tin, tự liệu không chống nổi, lại về Nghệ An, Trương Phụ đuổi theo, đến đâu cũng chém giết người vô số. Năm 1410, vua Trùng Quang dẫn quân tiến ra Bắc, thắng một số trận nhưng vì hiệu lệnh không thống nhất, quân Minh tiến đến đâu, quân Hậu Trần tan vỡ đến đó. Vua Trùng Quang lại rút binh về Nghệ An. Đầu năm 1411, vua nhà Minh sai Trương Phụ mang 14 vệ, tổng cộng 78.400 quân (Minh sử chép 2.400 quân) tiếp viện cho Mộc Thạnh, năm sau Trương Phụ dẫn binh vào Nghệ An, gặp Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung ở trận Mô Độ. Hai bên liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại, thì Nguyễn Súy và Nguyễn Cảnh Dị bất ngờ dẫn quân vượt biển rút chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ. Đặng Dung thế cô, không có cứu viện, liền đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi. Năm 1413, Trương Phụ lại tiến đánh Nghệ An, đến đây nhà Hậu Trần phải lui vào Hóa Châu, đất cố thủ cuối cùng của nhà Hậu Trần. Trận Sái Già Tháng 6 năm Quý Tỵ (1413) quân Trương Phụ vào đến Nghệ An, quan Thái phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng, được mấy hôm thì mất. Trương Phụ cho con Quý Hữu là Phan Liêu làm Tri phủ Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công, nên nói cho Phụ biết Trần Quý Khoáng có bao nhiêu tướng tá người nào giỏi, người nào dở, quân số nhiều ít, sơn xuyên chỗ hiểm, chỗ không thế nào. Trương Phụ bèn quyết ý vào Hóa Châu, và hội chư tướng lại để bàn kế tiến binh. Mộc Thạnh nói rằng: "Hóa Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm". Trương Phụ nhất định vào đánh cho được, nói rằng: "Ta sống cũng ở đất Hóa Châu này, mà chết cũng ở đất Hóa Châu này. Hóa Châu mà không lấy được thì không mặt mũi nào về trông thấy chúa thượng!". Lập tức truyền cho quân thủy bộ tiến vào đánh Hóa Châu. Tháng 9 năm 1413, quân Trương Phụ vào đến Thuận Châu, Nguyễn Súy và Đặng Dung giữ sông Thái Gia, đặt phục binh, nhân đêm đánh úp dinh Trương Phụ. Đặng Dung nhảy lên thuyền Trương Phụ toan bắt sống, nhưng không biết mặt, vì thế Trương Phụ mới nhảy xuống sông lấy thuyền nhỏ mà chạy thoát được. Bấy giờ quân Hậu Trần còn rất ít, Trương Phụ thấy vậy đem binh đánh úp lại, bọn Đặng Dung địch không nổi phải bỏ chạy. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư nói: Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tàn quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không? Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao vậy? Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mới chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được! Cái chết Tháng 12, năm 1413, từ khi thua trận Sái Già, quân Hậu Trần thế yếu không thể chống với quân Minh được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi; Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung muốn chạy sang Xiêm La, Trương Phụ đuổi theo bắt được. Nguyễn Cảnh Dị mắng chửi Phụ rằng: Chính ta muốn giết mày, bây giờ lại bị mày bắt! Mắng chửi mãi không ngớt mồm, Phụ đem giết đi, lấy gan ăn. Trùng Quang đế chạy sang Lão Qua, Nguyễn Súy chạy sang Minh Linh cũng đều bị quân nhà Minh bắt. Chẳng được bao lâu vua Trần và các tướng đều bị bắt và bị giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống nước tự tử, Đặng Dung và Nguyễn Súy cũng nhảy xuống theo tự sát. Đặng Dung có làm bài thơ Thuật hoài, sau được nhiều người truyền tụng: Việc đời bối rối tuổi già vay Trời đất vô cùng một cuộc say Bần tiện gặp thời lên cũng dễ Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay Vai khiêng trái đất mong phò chúa Giáp gột sông trời khó vạch mây Thù trả chưa xong đầu đã bạc Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép: Đang khi đôi bên quân Nam và quân Bắc đang cầm cự nhau thì Đặng Dung bí mật dùng bộ binh và tượng binh mai phục, đúng nửa đêm thì bất ngờ đánh úp vào doanh trại của [Trương] Phụ. [Đặng] Dung đã nhảy lên thuyền của [Trương] Phụ và định bắt sống Phụ nhưng lại không biết mặt để có thể nhận ra hắn, vì thế, Phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, thế mà [Nguyễn] Súy không biết hợp lực để cùng đánh. [Trương] Phụ biết quân của [Đặng] Dung ít nên lập tức quay lại đánh. Dung đành phải chịu thất bại, quân sĩ chạy tan tác hết.. Nguyễn Khắc Thuần kể tiếp: Tháng 11 năm 1413, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ bắt sống khi đang tìm đường tạm lánh sang Xiêm La để tính kế lâu dài. Vì liên tục lớn tiếng chửi mắng nên Nguyễn Cảnh Dị đã bị Trương Phụ hạ lệnh giết ngay. Còn Đặng Dung cùng Trần Quý Khoáng, Nguyễn Súy và một số tướng lãnh khác bị áp giải về Yên Kinh (Trung Quốc). Dọc đường, Trần Quý Khoáng nhảy xuống nước tự tử, Đặng Dung cũng lập tức nhảy xuống chết theo. Trần Trọng Kim cũng cho biết tương tự: Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoáng, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống nước tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả. Ông Đặng Dung có làm bài thơ Thuật hoài, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng. Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh... Theo Minh Thực lục thì: Quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ mang quân đến trang Tra Hoàng, huyện Chính Hòa, châu Chính Bình (Quảng Bình); tướng giặc là Hồ Đồng hàng. Nghe tin bọn Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung, Long Hổ Tướng quân ngụy Lê Thiềm hơn 700 tên chạy đến sách Côn Bồ, Tiêm Man; bọn Phụ tiến binh ngay đến sông La Mông. Phải theo đường núi vin cành lá mà leo lên nên đành bỏ ngựa, tướng sĩ tiếp tục đi theo. Đến sách Côn Bồ, bọn Cảnh Dị đã bỏ trốn; lại truy kích đến sách Tra Bồ Nại, bọn giặc và dân địa phương đều trốn, không biết ở chốn nào, nên làm cuộc lục soát lớn. Vào canh tư, đi trên 20 dặm, nghe tiếng trống điểm canh, Phụ sai Đô Chỉ huy Phương Chính mang quân lẳng lặng đi, đến lúc trời sáng đến phía bắc sông, tại sách Tra Bồ Cán. Giặc lập trại tại bờ phía nam, quan quân vượt sông vây đánh. Giặc chống không nổi, tên bắn liên tiếp trúng, Cảnh Dị bị thương tại sườn, bắt được. Đặng Dung trốn, Phương Chính mang quân truy lùng, bị bắt cùng với em là Đặng Nhuệ. Bắt hết bọn giặc Lê Thiềm, tịch thu ấn ngụy của Cảnh Dị. Cảnh Dị bị thương nặng, bị róc thịt lấy thủ cấp, áp giải cùng anh em Đặng Dung đến kinh đô; tất cả đều bị xử chém để làm răn.Nhận định Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng:Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy đem tàn quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không? Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao vậy? Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức giúp đỡ [23a] Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được! Ngày xưa nước Lỗ đánh nhau với nước Tề ở đất Can Thì bị thất bại, thánh nhân không vì thua mà kiêng né, lại chép rõ để nêu niềm vinh quang chiến đấu với kẻ thù, chứ không bàn đến việc thành bại. Thế thì trận đánh ở Sái Già, quân Minh bị tan vỡ một nửa, quân ta đến khi sức kiệt mới chịu thua cũng vinh quang lắm thay !Con cái Đặng Nghi: lập nghiệp tại Chúc Sơn, Chương Đức. Đặng Địch Quả:A Giám sinh Quốc tử giám, về sống tại lại Tả Thiên lộc) Đặng Di (lập nghiệp tại Sơn Vi, Mao Phổ thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay), cha của Đặng Minh Khiêm. Đặng Công Thiếp (đỗ Hoàng giáp, di cư đến Sơn Đông, huyện Lập Thạch) Hậu duệ nổi tiếng Tiến sĩ, Thượng thư Đặng Minh Khiêm (1457 – ?) Thám hoa Đặng Thì Thố Hoàng giáp Đặng Chiêm Thái úy Nghĩa Quốc công Đặng Huấn (? – 1583) Tiến sĩ, Quốc lão Đặng Đình Tướng (1649 – 1735) Đặng Lương Mô (có hơn 300 công trình khoa học công công bố ở Mỹ, Nhật,... hiện là Trưởng ban khuyến học họ Đặng) Đặng Đình Áng Tổng bí thư Trường Chinh Giáo sư Đặng Thai Mai
Đội Cung (1903–1941) hay Nguyễn Văn Cung, là một thủ lĩnh của cuộc binh biến của một số binh sĩ lính khố xanh ngày 13 tháng 1 năm 1941 tại Nghệ An, chống lại thực dân Pháp. Thân thế và sự nghiệp Tên thật của Đội Cung là Trần Văn Cung. Năm sinh của ông chưa được xác định rõ. Cha của ông là Trần Công Dậu, người ở Long Trì, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, một người yêu nước bị thực dân Pháp giết hại. Mẹ ông là người họ Nguyễn, ở làng Hạc Oa, Đông Sơn, Thanh Hóa nay là làng Hạc oa, phường Đông Cương, thành phố Thanh Hóa. Ở tài liệu khác lại ghi cha ông là Cử nhân Trần Công Thưởng, quê ở làng Long Trì, nay là xã Kỳ Phú, huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh), mẹ là bà thiếp Lương Thị Uyên quê làng Thổ Sơn (tên gọi khác của Làng Hạc Oa), huyện Đông Sơn (Thanh Hóa). Ông sinh ở quê mẹ khi cha ông làm tri huyện Đông Sơn. Từ nhỏ, do được một người họ Nguyễn nhận làm con nuôi nên lấy tên là Nguyễn Văn Cung (Theo Từ điển Hà Tĩnh, từ điển Bách Khoa và cuốn lịch sử xã Tràng Sơn) Khi ông sinh ra, được người cậu ruột nhận làm con nuôi và đưa về quê ngoại, nên ông lấy theo họ bên ngoại là Nguyễn Văn Cung Một số tài liệu ghi tên ông là Nguyễn Tri Cung. Khi trưởng thành, ông tham gia lực lượng lính khố xanh tại Nghệ An và thăng dần lên chức Đội (tương đương Trung sĩ). Khi thực dân Pháp có ý định điều một số đội lính khố xanh tại Nghệ An sang chiến đấu tại Lào, các binh sĩ tại đây đã hoang mang và bất mãn. Ngày 8 tháng 1 năm 1941, Đội Cung được điều động từ Vinh về đồn Chợ Rạng (Thanh Chương, Nghệ An) thay cho viên đồn trưởng người Pháp là Alonzo. Đêm 13 tháng 1 năm 1941, ông cùng 11 lính đồn Chợ Rạng tiến về Đô lương giết viên đồn trưởng Pháp ở đồn Đô Lương rồi cùng 25 lính ở đây tiến về Vinh ngay trong đêm đó với mục đích chiếm Trại Giám Binh Desrioux ở thành Nghệ An và sau đó phát triển ra các nơi khác. Do bị lộ nên không chiếm được trại Giám Binh Desrioux ở Vinh. Nghĩa binh bị đàn áp, binh biến chấm dứt. Riêng Đội Cung thoát được lẩn trốn một thời gian, nhưng do có chỉ điểm nên một tháng sau ông bị bắt khi vào nhà Tống Gia Liêm, khu vực Cổng Chốt.. Cuối tháng 2 năm 1941, Toà án binh Hà Nội đã xử án 51 bị can trong vụ khởi nghĩa Rạng - Đô Lương. Đội Cung, Cai Vỵ cùng 9 người lính khác bị kết án tử hình, 12 người bị án chung thân, 2 người bị án 20 năm khổ sai... Sáng 25 tháng 4 năm 1941, thực dân Pháp tiến hành cuộc hành quyết Đội Cung và 10 đồng đội của ông ở Vinh. Báo "Cởi ách" của Tỉnh ủy Đảng Cộng sản Đông Dương Nghệ An ra ngày 20 tháng 2 năm 1941 viết: Phần mộ Đội Cung hiện nay ở phía ngoài cửa Hữu thành Nghệ An cũ. Năm 1934, ông lập gia đình với bà Mai Thị Doan, người làng Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông bà có với nhau hai người con gái tên là Nguyễn Thị Châu và Nguyễn Thị Thu Lan. Cả hai người con gái của ông đều theo nghề dạy học. Người con đầu đã mất năm 1977 còn người con gái út Nguyễn Thị Thu Lan nay đã nghỉ hưu, sống tại Hà Nội và vẫn thường xuyên về Vinh chăm sóc mộ phần cha. Tên Đội Cung được đặt cho các con phố ở Hà Nội (Quận Hai Bà Trưng), Vinh, Huế, Thanh Hóa và Thành phố Hồ Chí Minh (Quận 11). Chú thích SGK Lịch sử 9,tr 85
Hải Thượng Lãn Ông (chữ Hán: 海上懶翁, 10 tháng 11 năm 1720 - 18 tháng 3 năm 1791), tên thật là Lê Hữu Trác (黎有晫) là một lang y, được coi là ông tổ của ngành y học cổ truyền Việt Nam. Tiểu sử Lê Hữu Trác vốn có tên là Huân (薰), biểu tự Cận Như (瑾如), bút hiệu Quế Hiên (桂軒), Thảo Am (草庵), Lãn Ông (懶翁), biệt hiệu cậu Chiêu Bảy (舅招𦉱), sinh ngày 10 tháng 11 năm Canh Tý (1720) tại thôn Văn Xá, hương Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương, (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên). Tuy nhiên, cuộc đời ông phần nhiều (đặc biệt là từ năm 26 tuổi đến lúc mất) gắn bó với ở quê mẹ thôn Bàu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Quang Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con thứ 7 của tiến sĩ Lê Hữu Mưu và phu nhân Bùi Thị Thưởng . Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân. Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình" (tựa "Tâm lĩnh"). Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới. Nghề thuốc Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân ngũ, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả "trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu" (Lời tựa "Tâm lĩnh"), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt tình chữa khỏi. Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc "Phùng thị cẩm nang" và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc. Ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu "Hải Thượng Lãn Ông". "Hải Thượng" là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xứ Bầu Thượng quê mẹ. "Lãn Ông" nghĩa là "ông lười", ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó. Mùa thu năm Bính Tý (1756), Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm vì ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách" (tựa "Tâm lĩnh"), vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu. Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn Ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ "Y tôn tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ánh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải Thượng Lãn Ông. Lai kinh Ngày 12 tháng 1 năm Cảnh Hưng 43 (1782), ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức yếu lại quyết chí xa lánh công danh, nhưng do theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm mà bộ "Tâm lĩnh" chưa in được, "không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được" ("Thượng kinh ký sự"), ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách. Vì vậy ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh, từ giã gia đình, học trò rời Hương Sơn lên đường. Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen "hiểu sâu y lý" ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, kết quả để sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi. Thời gian ở kinh đô, ông nhiều lần xin về thăm cố hương Hải Dương, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông về. Không lâu sau, ông lại có lệnh triệu về kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: "Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được" ("Thượng kinh ký sự"). Sau khi Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên "khí lực khô kiệt", khó lòng khỏe được. Do nóng lòng trở về Hương Sơn, nhân có người tiến cử một lương y mới, Lê Hữu Trác liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh, ông rất vui mừng. Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn ông về đến Hương Sơn. Soạn sách Năm 1783 ông viết xong tập "Thượng kinh ký sự" bằng chữ Hán tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa - những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Tập ký ấy là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khí bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Hải Thượng y tông Tâm lĩnh". Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại. Ông qua đời vào ngày 25 tháng Giêng năm Tân Hợi (1791) (nhằm ngày 18 tháng 3 năm 1791) tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), hưởng thọ 67 hoặc 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở khe nước cạnh chân núi Minh Từ thuộc xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn. Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, trong đó có thuốc Nam, kế thừa xuất sắc sự nghiệp "Nam dược trị Nam nhân" của Tuệ Tĩnh thiền sư. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học. Câu nói nổi tiếng Suốt đời, Hải Thượng Lãn Ông không vương vào vòng danh lợi. Ông có hai câu thơ tỏ chí của mình: "Công danh trước mắt trôi như nước, Nhân nghĩa trong lòng chẳng đổi phương." Vinh danh Quần thể khu di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, trải dài trên một cung đường gần 8 km, bao gồm: nhà thờ Lê Hữu Trác (xã Quang Diệm); chùa Tượng Sơn (xã Sơn Giang); mộ, tượng đài và khu du lịch sinh thái Hải Thượng (xã Sơn Trung). Năm 1990, Quần thể di tích lịch sử văn hoá Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được Bộ Văn hoá, Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Ngày 31 tháng 10 năm 2003 Bộ trưởng Bộ Y Tế đã quyết định phê chuẩn Dự án tu bổ, tôn tạo quần thể di tích gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của ông. Công trình được khởi công ngày 21 tháng 11 năm 2004. Đến nay các hạng mục công trình đã hoàn thành, được xây dựng rất khang trang và đưa vào sử dụng để đón các đoàn khách đến tham quan. Tên ông được đặt cho nhiều đường phố trên khắp Việt Nam như tại: Hà Nội có phố Lãn Ông (từ phố Hàng Đường đến phố Thuốc Bắc); thành phố Uông Bí (từ phố Tuệ Tĩnh đến phố Hữu Nghị), Thành phố Hồ Chí Minh (từ đường Võ Văn Kiệt đến Học Lạc),... Ông được ca ngợi bởi tấm lòng nhân ái của mình, hết lòng quan tâm, giúp đỡ các bệnh nhân trong bài tập đọc "Thầy thuốc như mẹ hiền" - SGK lớp 5 tập 1. Tháng 6 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức cho phép Học viện Quân y Việt Nam có thêm tên mới là Trường Đại học Y - Dược Lê Hữu Trác để sử dụng trong giao dịch dân sự và hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu và điều trị. Viện bỏng quốc gia mang tên Lê Hữu Trác cũng thuộc Học viện Quân y.
Cape Horn (tiếng Hà Lan: Kaap Hoorn; tiếng Tây Ban Nha: Cabo de Hornos; có nghĩa là "Mũi Sừng") là mũi đất, điểm cực nam của quần đảo Tierra del Fuego, miền Nam Chile. Có ý kiến phổ biến cho rằng Cape Horn là điểm tận cùng về phía Nam của châu Mỹ. Mặc dù trên lý thuyết đây không phải là điểm cực nam của Nam Mỹ (là Quần đảo Diego Ramírez cách Cape Horn 105 km về phía tây nam), Cape Horn đánh dấu ranh giới phía bắc của eo biển Drake và đánh dấu nơi hai đại dương Đại Tây Dương và Thái Bình Dương gặp nhau. Cape Horn được khám phá lần đầu tiên vào năm 1616 bởi thủy thủ người Hà Lan Willem Schouten, người đặt tên cho nó là Kaap Hoorn theo tên thành phố Hoorn ở Hà Lan. Trong nhiều thập kỷ, Cape Horn là một cột mốc quan trọng trên tuyến đường vận tải đường thủy, qua đó các tàu thuyền chở hàng hóa thương mại trên khắp thế giới. Vùng nước xung quanh Cape Horn đặc biệt nguy hiểm, do gió mạnh, sóng lớn, dòng chảy mạnh và các tảng băng trôi; những nguy hiểm này đã khiến nó trở nên khét tiếng như một nghĩa địa của các thủy thủ. Nhu cầu đi lại qua Cape Horn đã giảm đáng kể từ khi kênh đào Panama được mở vào tháng 8 năm 1914. Tuy nhiên, đi thuyền quanh Cape Horn vẫn được coi là một trong những thử thách đáng trải nghiệm trong giới du thuyền mạo hiểm. Do đó, một số thủy thủ giải trí tiếp tục đi theo tuyến đường này, đôi khi là một phần của việc đi vòng quanh thế giới. Hầu như tất cả trong số này chọn các tuyến đường qua các kênh ở phía bắc của mũi. (Nhiều người đi đường vòng qua các đảo và neo đậu để chờ thời tiết thuận lợi đến thăm Cape Horn, hoặc đi thuyền quanh đó để tái tạo một vòng quanh địa điểm lịch sử này). Một số cuộc đua du thuyền trên biển nổi bật, đáng chú ý là Cuộc đua Đại dương Volvo, VELUX 5 Oceans và Quả cầu Vendée, đi thuyền vòng quanh thế giới qua Mũi Sừng. Những kỷ lục về tốc độ cho hành trình đi thuyền vòng quanh thế giới được công nhận theo tuyến đường này. Lịch sử Năm 1525, con tàu San Lesmes do Francisco de Hoces, thành viên của Đoàn thám hiểm Loaísa chỉ huy, đã bị thổi bay về phía nam bởi một cơn gió ở phía trước Đại Tây Dương ở đoạn cuối eo biển Magellan và đến vĩ độ 56 °S nơi họ nghĩ là sẽ thấy nơi tận cùng của đất liền. Vào tháng 9 năm 1578, Francis Drake, trong quá trình đi vòng quanh thế giới, đã đi qua eo biển Magellan vào Thái Bình Dương. Trước khi ông ta có thể tiếp tục hành trình về phía bắc, các con tàu của ông đã gặp phải một cơn bão và được thổi về phía nam Tierra del Fuego. Sự mở rộng của vùng nước mở mà họ gặp phải khiến Drake đoán rằng từ xa là một lục địa khác, như đã tin trước đây, Tierra del Fuego là một hòn đảo có vùng biển mở về phía nam. Phát hiện này đã không được để mắt trong một thời gian, khi các tàu sau này tiếp tục sử dụng lối đi đã biết qua Eo biển Magellan. Vào đầu thế kỷ 17, Công ty Đông Ấn Hà Lan đã được trao độc quyền cho tất cả các giao dịch của Hà Lan thông qua Eo biển Magellan và Mũi Hảo Vọng, các tuyến đường duy nhất được biết đến để đi đến Viễn Đông. Để tìm kiếm một tuyến đường thay thế và một tuyến đến Terra Australis chưa biết, Isaac Le Maire, một thương nhân giàu có ở Amsterdam và Willem Schouten, một chủ tàu của Horn, đã đóng góp cổ phần bằng nhau cho doanh nghiệp, với sự hỗ trợ tài chính bổ sung từ các thương nhân Horn. Jacob Le Maire, con trai của Isaac, đã tiếp tục cuộc hành trình với tư cách là trưởng nhóm Marchant Marchant và là nhân tố chính, phụ trách các khía cạnh giao dịch của nỗ lực này. Hai chiếc tàu rời Hà Lan vào đầu tháng 6 năm 1615 là Eendracht 360 tấn với Schouten và Le Maire trên tàu, và Hoorn 110 tấn, trong đó anh trai của Schouten, Johan là chủ. Sau đó, Eendracht, cùng với phi hành đoàn của chiếc tàu Hoorn bị đắm gần đây, đi qua eo biển Le Maire và Schouten cùng với Le Maire đã thực hiện chuyến khám phá tuyệt vời của họ. Vào thời điểm nó được phát hiện, Mũi Sừng được cho là điểm cực nam của Tierra del Fuego; những mối nguy hiểm không thể đoán trước của điều kiện thời tiết và biển cả trong eo biển Drake khiến việc thám hiểm trở nên khó khăn và chỉ đến năm 1624, Mũi Sừng mới được phát hiện là một hòn đảo. Đó là một minh chứng kể đến những khó khăn của điều kiện khu vực này khi mà Nam Cực, chỉ cách đó 650 km (400 dặm) trên eo biển Drake, được phát hiện chỉ là thời gian gần đây như năm 1820, mặc dù eo biển này đã được sử dụng như một tuyến đường vận chuyển chính trong 200 năm. Trong nhiều thế kỷ, Cape Horn là hải trình chủ yếu giữa các lục địa Mỹ, Âu và Á châu. Các tàu thuyền đi vòng quanh Mũi Sừng mang theo len, ngũ cốc vàng từ Úc trở về châu Âu; nhiều giao dịch được thực hiện quanh Mũi Sừng giữa Châu Âu và Viễn Đông; và các tàu thương mại và hành khách đi lại giữa các bờ biển của Hoa Kỳ thông qua Mũi Sừng. Các thuyền tàu hầu như phải chọn thủy lộ này, dù bao hiểm nguy luôn rình rập trên khúc quanh tuy nhỏ nhưng thuộc hàng đáng sợ nhất thế giới. Năm 1934, một nhà thám hiểm người Na Uy tên là Al Hansen là người đầu tiên trên thế giới chinh phục Mũi Sừng bằng thuyền mộc. Nhưng vì đi sai đường từ đông sang tây, thuyền của ông đã bị đắm sau khi không thể chống chọi nổi với những cơn gió lớn tại đây. Các tuyến đường sắt xuyên lục địa ở Bắc Mỹ, cũng như Kênh đào Panama mở cửa năm 1914 ở Trung Mỹ, dẫn đến việc giảm dần việc sử dụng Cape Horn để buôn bán. Khi tàu hơi nước thay thế tàu thuyền, Flying P-liner Pamir trở thành chiếc thuyền buồm thương mại cuối cùng đi vòng quanh mũi Cape Horn chở hàng hóa, chở ngũ cốc từ cảng Victoria ở Úc, đến Falmouth, Anh vào năm 1949. Trải qua hàng trăm năm nay, Cape Horn luôn là nỗi khiếp sợ cho các thủy thủ, ngay cả những người đi biển lâu năm, dày dặn kinh nghiệm nhất. Địa lý Cape Horn là một vách đá cao khoảng 425 m, nằm ở cực nam châu Mỹ, trên một hòn đảo nhỏ (đảo Horn), diện tích 12 km². Mũi Horn tiếp giáp với rìa phía bắc của eo biển Drake, một eo biển rộng 650 km phân cách hai lục địa Nam Mỹ và Nam Cực. Khoảng cách từ đây đến bán đảo Nam Cực chỉ khoảng 1000 km. Nó nằm trong vườn quốc gia Cabo de Hornos. Mũi đất nằm trong lãnh hải Chile và Hải quân Chile duy trì một trạm trên đảo Horn, bao gồm một khu dân cư, tòa nhà tiện ích, nhà nguyện và ngọn hải đăng. Một khoảng cách ngắn từ nhà ga chính là một đài tưởng niệm, bao gồm một tác phẩm điêu khắc lớn được thực hiện bởi nhà điêu khắc người Chile, Jose Balcells, có hình bóng của một con hải âu, để tưởng nhớ các thủy thủ đã chết trong khi cố gắng "vượt qua Mũi Sừng". Nó được dựng lên vào năm 1992 thông qua sáng kiến của Lực lượng anh em thuyền trưởng Cape Horn của Chile. Do gió mạnh đặc trưng của khu vực, tác phẩm điêu khắc này đã bị thổi bay vào năm 2014 và chưa biết liệu nó đã được khôi phục lại vị trí bình thường hay chưa. Địa hình ở đây hoàn toàn không có cây cối, mặc dù khá tươi tốt do lượng mưa thường xuyên. Cape Horn là giới hạn phía nam của phạm vi mà chim cánh cụt Magellan phân bố. Khí hậu Khí hậu trong khu vực nói chung là từ mát mẻ đến lạnh, do vĩ độ cao ở bán cầu nam. Không có trạm thời tiết trong nhóm đảo bao gồm Cape Horn; nhưng một nghiên cứu vào năm 1882-1883, đã tìm thấy lượng mưa hàng năm là 1.357 mm (53,4 inch), với nhiệt độ trung bình hàng năm là 5,2 °C (41,4 °F). Gió được báo cáo trung bình 30 km mỗi giờ (8,33 m / s; 18,64 dặm / giờ), (5 Bf), với các cơn gió trên 100 km mỗi giờ (27,78 m / s; 62,14 dặm / giờ), (10 Bf) xảy ra trong tất cả các mùa. Có 278 ngày mưa (70 ngày có tuyết) và 2.000 milimét (79 inch) lượng mưa hàng năm. Độ che phủ của mây nhìn chung rất rộng, với trung bình từ 5,2 eighth trong tháng 5 và tháng 7 đến 6,4 eighth trong tháng 12 và tháng 1. Lượng mưa cao trong suốt cả năm: trạm thời tiết trên Quần đảo Diego Ramirez gần đó, 109 km (68 dặm) về phía tây nam trong eo Drake, cho thấy lượng mưa lớn nhất vào tháng 3, trung bình là 137,4 mm (5,41 in); trong khi tháng 10, nơi có lượng mưa ít nhất, vẫn trung bình khoảng 93,7 mm (3,69 in). Điều kiện gió ở đây thường rất xấu và nghiêm trọng, đặc biệt là vào mùa đông. Các trận cuồng phong có tốc độ 30– 100 km/giờ liên tục thổi qua đây khiến thời tiết ở mũi Horn có thể trở nên lạnh giá và ẩm ướt hơn. Vào mùa hè, gió ở Cape Horn chỉ có lực mạnh trong 5% thời gian, nhìn chung tầm nhìn khá tốt; tuy nhiên, vào mùa đông, gió bão xuất hiện tới 30% thời gian, thường có tầm nhìn kém. Nhiều câu chuyện được kể về những chuyến đi nguy hiểm "quanh Mũi Sừng", mô tả hầu hết các cơn bão dữ dội. Charles Darwin đã viết: "Một cảnh tượng của một bờ biển như vậy là đủ để thực hiện giấc mơ của một người trên cạn trong một tuần về các vụ đắm tàu, nguy hiểm và cái chết." Là điểm cực nam của vùng đất bên ngoài Nam Cực, khu vực này chỉ trải qua 7 giờ ánh sáng ban ngày trong ngày Hạ chí, với bản thân Cape Horn có 6 giờ 57 phút. Khu vực này trong tháng 12 trải qua khoảng 17 giờ rưỡi ban ngày trong ngày Đông chí tháng 12 và có thể trải qua những ngày sáng chạng vạng trên biển từ hoàng hôn đến bình minh. Ban ngày vùng cực hoặc đêm trắng có thể được quan sát trong tuần xung quanh ngày Đông chí. Cape Horn có khí hậu vùng lãnh nguyên (ET), với lượng mưa dồi dào, phần lớn là tuyết rơi xuống. Hành chính Cape Horn là một phần của xã Cabo de Hornos, lỵ sở là Puerto Williams thuộc tỉnh Antártica Chilena. Khu vực này là một phần của Vùng Magallanes y la Antártica Chilena của Chile. Thị trấn gần Mũi Sừng nhất là Puerto Toro chỉ cách Puerto Williams vài cây số về phía nam. Hiện nay Nhiều tàu chở dầu hiện đại quá rộng để phù hợp với Kênh đào Panama, cũng như một vài tàu chở khách và một số tàu sân bay. Nhưng không có tuyến đường thương mại thông thường xung quanh Mũi Sừng và các tàu hiện đại chở hàng hóa hiếm khi được nhìn thấy. Tuy nhiên, một số tàu du lịch thường xuyên đi vòng quanh Mũi Sừng khi đi từ đại dương này sang đại dương khác. Những nơi này thường dừng ở Ushuaia hoặc Punta Arenas cũng như Cảng Stanley. Một số tàu du lịch nhỏ chở khách đi giữa Ushuaia và Bán đảo Nam Cực cũng sẽ vượt qua Mũi Sừng, nếu thời gian và thời tiết cho phép. Các tuyến thuyền buồm Một số tuyến thuyền buồm tiềm năng có thể được theo sau xung quanh mũi Nam Mỹ. Eo biển Magellan, giữa đại lục và Tierra del Fuego, là một con đường lớn mặc dù lối đi hẹp, được sử dụng để buôn bán trước khi Mũi Sừng được phát hiện. Kênh Beagle (được đặt tên theo con tàu của đoàn thám hiểm Charles Darwin), giữa Tierra del Fuego và Isla Navarino, cung cấp một tuyến đường tiềm năng, mặc dù khó khăn. Các đoạn khác có thể được thực hiện xung quanh Quần đảo Wollaston và Hermite ở phía bắc của Cape Horn. Tuy nhiên, tất cả những đoạn đường này đều nổi tiếng với những cơn gió nguy hiểm, có thể bất ngờ tấn công một con tàu với rất ít hoặc không có cảnh báo nào; Vùng nước mở của eo Drake, phía nam Cape Horn, đến nay vẫn là con đường rộng nhất, đoạn hẹp nhất cũng vào khoảng 800 km (500 dặm) chiều rộng; lối đi này cung cấp không gian biển rộng rãi để điều động khi gió thay đổi, và là tuyến đường được sử dụng bởi hầu hết các tàu và thuyền buồm, mặc dù có khả năng cao xảy ra hiện tượng sóng cực đoan. "Vòng quanh Mũi Sừng" Tham quan Cabo de Hornos có thể được thực hiện trong một chuyến đi trong ngày bằng trực thăng hoặc bằng thuyền điều lệ hoặc thuyền buồm tuy sẽ khó khăn hơn, hoặc tàu du lịch. "Nhân đôi sừng" theo truyền thống được hiểu là liên quan đến việc chèo thuyền từ 50 độ Nam trên một bờ biển này đến 50 độ Nam trên bờ biển khác, hai vĩ độ chuẩn của một cuộc du ngoạn quanh Mũi Sừng, một nỗ lực khó khăn và tốn thời gian hơn đáng kể chiều dài tối thiểu là 930 dặm (1.500 km). Rủi ro Một số yếu tố kết hợp để làm cho lối đi xung quanh Cape Horn trở thành một trong những tuyến vận chuyển nguy hiểm nhất trên thế giới: điều kiện đi thuyền khốc liệt phổ biến ở Nam Đại Dương nói chung; địa lý của đoạn phía nam của Mũi Sừng; và vĩ độ cực nam của nó, ở 56 ° nam. (Để so sánh, Cape Agulhas ở cực nam châu Phi nằm ở 35 ° nam; Đảo Stewart/Rakiura ở cuối phía nam của New Zealand là 47 ° nam.) Nơi đây được xem là địa ngục của gió, những cơn gió mạnh ở vĩ độ trên 40 ° nam có thể thổi từ tây sang đông mà gần như không bị ngăn trở bởi đất liền. Những cơn gió này đủ nguy hiểm để các tàu đi về phía đông sẽ có xu hướng ở lại phía bắc thuộc khu vực không quá 40 ° vĩ độ nam; tuy nhiên, tiếp cận Cape Horn đòi hỏi tàu phải tiến về phía nam ở vĩ độ 56 ° nam, vào vùng gió mạnh nhất. Hơn nữa, bị gò ép giữa lục địa Nam Cực và dãy núi Andes, gió ùa thẳng vào eo hẹp Drake, gây ra những trận bão kinh hoàng tạo ra các con sóng lớn. Những cơn gió mạnh của Nam Đại Dương tạo ra những đợt sóng lớn tương ứng; những con sóng này có thể đạt được độ cao lớn khi chúng cuộn quanh Nam Đại Dương, không bị ngăn trở từ đất liền. Tuy nhiên, tại Cape Horn, những con sóng này gặp phải một vùng nước nông ở phía nam của mũi, có tác dụng làm cho sóng ngắn hơn và dốc hơn, làm tăng đáng kể nguy cơ cho tàu. Nếu dòng chảy hải lưu mạnh về phía đông qua eo Drake gặp phải một cơn gió đông đối nghịch, điều này có thể có tác dụng xuất hiện thêm các đợt sóng. Ngoài những con sóng "bình thường" này, khu vực phía tây của Cape Horn đặc biệt nổi tiếng với những con sóng độc, có thể đạt được độ cao lên tới 30 mét (98 feet). Các luồng gió và dòng chảy hải lưu mạnh tạo ra các vấn đề đặc biệt đối với các tàu đang cố gắng đi vòng qua khu vực, tức là từ đông sang tây. Đây là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các tàu thuyền truyền thống, có thể tạo ra rất ít khả năng chống gió vào thời điểm tốt nhất; các thuyền buồm hiện đại có hiệu quả hơn đáng kể đối với gió và đáng tin cậy hơn có thể thực hiện một chuyến đi về phía tây của Cape Horn, như họ làm trong cuộc đua Thách thức toàn cầu. Những tảng băng trôi là mối nguy hiểm cho các thủy thủ mạo hiểm đi xa trên vĩ độ 40 ° nam. Mặc dù giới hạn băng trôi là ở phía nam xung quanh mũi, tảng băng trôi là mối nguy hiểm đáng kể cho các tàu thuyền trong khu vực. Ở Nam Thái Bình Dương vào tháng Hai (mùa hè ở Nam bán cầu), các tảng băng thường bị giới hạn ở dưới 50 ° nam; nhưng vào tháng 8, nguy cơ băng trôi có thể di chuyển xa về phía bắc ở 40 ° nam. Ngay cả trong tháng hai, Cape Horn vẫn ở dưới vĩ độ của giới hạn xuất hiện các tảng băng. Những mối nguy hiểm này đã khiến cho Cape Horn trở nên khét tiếng vì có lẽ đây là tuyến đường biển nguy hiểm nhất thế giới; nhiều tàu bị đắm, và nhiều thủy thủ đã chết khi cố gắng đi vòng quanh khu vực này. Hải đăng Hai ngọn hải đăng được đặt gần hoặc ở Cape Horn. Một ngọn nằm trong Trạm Hải quân Chile là nơi dễ tiếp cận và tham quan hơn, và thường được gọi là ngọn hải đăng Cape Horn. Tuy nhiên, trạm Hải quân Chile, bao gồm ngọn hải đăng (ARLS CHI-030, 55 ° 57′49 ″ S 67 ° 13′14 W) và đài tưởng niệm, không được đặt trên Cape Horn (rất khó tiếp cận bằng đường bộ hoặc biển), nhưng trên một điểm đất khác khoảng một dặm về phía đông-đông bắc. Ngọn hải đăng Cape Horn thích hợp là một tháp ánh sáng bằng sợi thủy tinh nhỏ hơn 4 mét (13 feet), với một mặt phẳng tiêu cự 40 mét (130 feet) và một loạt các khoảng 21 km (13 dặm). Đây là ngọn hải đăng Cape Horn đích thực (ARLS CHI-006, 55 ° 58′38 ″ S 67 ° 15′46 ″ W), và là ngọn hải đăng truyền thống cực nam của thế giới. Một vài công cụ hỗ trợ điều hướng nhỏ được đặt ở phía nam xa hơn, bao gồm một ở Quần đảo Diego Ramírez và một số ở Nam Cực. Thuyền giải trí và thể thao Mặc dù đã mở các kênh đào Suez và Panama, Cape Horn vẫn là một phần của tuyến thuyền buồm nhanh nhất trên thế giới, và vì vậy sự phát triển của thuyền buồm giải trí đường dài đã mang lại sự hồi sinh của những thuyền buồm đi qua Mũi Sừng. Do sự xa xôi của địa điểm và các mối nguy hiểm ở đó, du thuyền một vòng quanh Cape Horn được coi là tương đương với việc leo lên đỉnh Everest, và vì vậy nhiều thủy thủ đã đến đây và tìm thử thách cho riêng mình. Joshua Slocum là người chèo du thuyền một mình đầu tiên vượt qua thành công theo cách này (vào năm 1895) mặc dù cuối cùng, thời tiết khắc nghiệt đã buộc anh phải sử dụng một số tuyến đường nội địa giữa các kênh và đảo và người ta tin rằng anh không thực sự vượt ra ngoài Mũi Sừng. Nếu người ta phải đi theo định nghĩa nghiêm ngặt, chiếc thuyền nhỏ đầu tiên đi thuyền ra ngoài Cape Horn là chiếc du thuyền Saoirse dài 42 feet, được Conor O'Brien cùng với ba người bạn chèo thuyền trong một chuyến đi vòng quanh thế giới từ năm 1923 đến 1925. Năm 1934, Al Hansen của Na Uy là người đầu tiên đi vòng quanh Cape Horn một mình từ đông sang tây qua "con đường sai" bằng con thuyền Mary Jane, nhưng sau đó bị đắm ở bờ biển Chile. Người đầu tiên đi vòng quanh thế giới theo kiểu du thuyền một mình thành công thông qua Cape Horn là Vito Dumas người Argentina, người đã thực hiện chuyến đi vào năm 1942 trong chiếc ketch Lehg II dài 33 feet (10 mét); kể từ đó, một số thủy thủ khác đã theo ông, bao gồm cả Webb Chiles, người vào tháng 12 năm 1975 đã đi một vòng quanh Cape Horn. Vào ngày 31 tháng 3 năm 2010, Abby Sunderland, 16 tuổi, đã trở thành người trẻ nhất đi thuyền một mình quanh Cape Horn trong nỗ lực đi vòng quanh thế giới. Vào năm 1987, Đoàn thám hiểm Cape Horn của Anh, đứng đầu là Nigel H Seymour, đã đi quanh Cape Horn trong chiếc thuyền kayak đầu tiên trên thế giới có tên là "Kaymaran". Hai chiếc thuyền kayak đi biển có thể liên kết với nhau bằng hai cánh buồm ở bất kỳ vị trí nào trong bốn vị trí chèo thuyền giữa hai chiếc thuyền kayak. Ngày nay, có một số cuộc đua du thuyền lớn được tổ chức thường xuyên dọc theo tuyến đường cũ qua Cape Horn. Đầu tiên trong số đó là Cuộc đua Quả cầu vàng Chủ nhật, là cuộc đua cá nhân; điều này đã truyền cảm hứng cho cuộc đua Around Alone ngày nay, nơi những người đi vòng quanh có điểm dừng và Quả cầu Vendée, không ngừng nghỉ. Cả hai đều là những cuộc đua cá nhân, và được tổ chức bốn năm một lần. Volvo Ocean Race là một cuộc đua đường thủy với các điểm dừng, đi theo lộ trình cứ sau bốn năm. Nguồn gốc của nó nằm trong Cuộc đua vòng quanh thế giới cuộc đua lần đầu tiên vào năm 1973. Giải thưởng Jules Verne là giải thưởng cho việc đi vòng quanh thế giới nhanh nhất bởi bất kỳ loại du thuyền nào, không có giới hạn về quy mô người tham gia (không hỗ trợ, không ngừng nghỉ). Cuối cùng, cuộc đua Thử thách Toàn cầu đi vòng quanh thế giới "sai đường", từ đông sang tây, liên quan đến việc phải đi vòng quanh Cape Horn trước những cơn gió và dòng chảy hải lưu hung tợn. Cape Horn vẫn là một mối nguy hiểm lớn cho các thủy thủ đi du ngoạn với mục đích giải trí. Tuy nhiên, một trường hợp kinh điển là của Miles và Beryl Smeeton, người đã cố gắng đi quanh mũi trong du thuyền Tzu Hang của họ. Bị tấn công bởi một làn sóng độc khi đến gần mũi, chiếc thuyền đã bị lật nhào. Mặc dù họ sống sót và có thể sửa chữa thuyền ở Talcahuano, Chile, họ đã cố gắng vượt qua chặng đường đó một lần nữa, và thuyền vẫn bị lật và bị phá hủy lần thứ hai, bởi một làn sóng độc khác, một lần nữa họ sống sót một cách kỳ diệu.
Mũi Arkona là mũi đất nằm trên đảo Rugen (Rügen) ở Mecklenburg-Vorpommern, Đức. Vào năm 1927, tên của mũi được đặt cho tàu Cap Arcona.
Tiền âm phủ (còn gọi là tiền địa phủ, tiền vàng bạc, tiền vàng mã) gọi tắt là vàng mã là một loại giấy kích thước và trang trí giống (hoặc gần giống) như giấy bạc thật, được dùng để cúng bái trong các dịp ma chay, đám giỗ, cúng tế, làm lễ tại các đền, chùa. Theo quan niệm của những người còn sống, những người đã chết được đưa xuống cõi âm, một nơi giống với cõi dương. Những người ở cõi âm đều sinh hoạt giống như trên dương thế và họ cũng cần có những vật dụng dành cho cuộc sống. Sử dụng Để có thể gửi tiền, đồ dùng cho người ở cõi âm, người ta đốt tiền âm phủ và nhiều loại vàng mã khác như vật dụng thường dùng, sau này biến tấu thêm nhà, xe, máy tính, ti vi, điện thoại, quần áo.... Nhiều người tin là người cõi âm được đốt càng nhiều tiền âm phủ thì sẽ có càng nhiều tiền để tiêu và trở nên giàu có ở dưới cõi âm và khi họ trở nên giàu có thì sẽ phù hộ nhiều hơn cho người sống trở nên phát tài, làm ăn phát đạt hơn. Tuy nhiên cái chính của việc đốt tiền âm phủ là thể hiện sự quan tâm, mối thâm tình sâu đậm với người đã khuất. Tại Việt Nam có nhiều công ty sản xuất và in tiền âm phủ để bán ra thị trường. Đây là một loại hàng hóa được bán rất chạy vào các dịp lễ, Tết. Ra đời Tục đốt vàng mã có nguồn gốc từ Trung Quốc, xuất hiện trong đám tang của người xưa. Vào thời nhà Tần (thế kỉ 2), nhiều quý tộc Trung Hoa có thói quen tùy táng theo người chết bằng bạch ngọc cùng nhiều đồ vật quý giá khác và phát triển cực thịnh dưới thời nhà Đường (618-907). Người Ai Cập cổ đại (khoảng năm 3100-30 TCN), với quan niệm chết là bắt đầu cho cuộc sống dưới âm phủ sau đó nên trong triều đại của mình, các pharaoh Ai Cập đã ra công xây dựng những kim tự tháp nguy nga, tráng lệ để ướp xác mình và chôn theo vàng bạc, châu báu, các hoàng phi, cung tần mỹ nữ của mình với mục đích tiếp tục hưởng thụ cuộc sống sung túc về vật chất sau khi chết trong cõi âm. Từ thời nhà Hạ khoảng năm 2205 TCN, người Trung Quốc mới có tục làm đồ đất, đồ gỗ chôn theo người chết. Nhưng đến đời nhà Chu (1.122 TCN), họ lại có tục tuẫn táng, chôn sống vợ con, bộ hạ, đồ vật yêu thích của vua, các quan lớn khi những người này chết. Về sau, thấy lệ tuẫn táng là vô nhân đạo nên người Trung Quốc lại chế ra người gỗ, người cỏ để chôn thay người thật. Tục chôn người gỗ, người cỏ này vẫn gây nên nhiều ác cảm, căm phẫn trong lòng các nhà Nho nổi tiếng như Khổng Tử, Mạnh Tử. Trong Kinh Lễ, đức Khổng Tử (551 – 479 TCN, người khai sáng Nho giáo, triết gia lỗi lạc bậc nhất Trung Quốc và châu Á thời cổ) quở rằng: "Ai bày ra hình nhơn thế mạng để chôn theo người chết đó là kẻ bất nhân". Thầy Mạnh Tử (372–289 TCN, nhà Nho và triết gia vĩ đại thứ hai Trung Quốc, chỉ sau Khổng Tử), cũng nói: "Ai làm ra Bồ nhìn con gỗ bởi cái lệ chôn sống người, là kẻ tuyệt tự". Đến thời nhà Hán (206 TCN-220 SCN), do sự phản đối của các bậc thầy Nho giáo nêu trên mà lệ tuẫn táng được bãi bỏ nhưng người ta vẫn chôn sống các món đồ ăn mặc, hành dùng của người chết, ngoài ra còn có thêm một phong tục khác là làm nhà mồ để người thân người chết ra ấp mộ, làm phỗng đá quanh nhà mồ. Khi Tần Thủy Hoàng (259-210 TCN) lên ngôi hoàng đế (221-210 TCN), nhận thấy việc này quá lãng phí nên đã ra sắc lệnh cấm tùy táng bằng hiện vật thật. Thay vào đó là nghi thức tượng trưng, tùy táng bằng tiền giả, vàng giả... (làm bằng giấy). Tục này phát triển cực thịnh vào thời Đường (thế kỉ 7) và bắt đầu lưu truyền vào Việt Nam. Như vậy có thể thấy, ý nghĩa ban đầu của tục đốt vàng mã rất nhân văn, nhằm tránh sự lãng phí của cải. Cho đến thời nhà Hán, người Trung Quốc đã bỏ lệ tuẫn táng (chôn người sống theo người chết) rất bất nhân; tuy nhiên họ vẫn còn tục tùy táng: chôn sống các món đồ ăn mặc, hành dùng của người chết, làm nhà mồ để người thân người chết ra ấp mộ, làm phỗng đá. Từ đời Đường, người Trung Quốc mới chế ra giấy vàng mã để thay cho các hình nhân, đồ vật thật, đồ mã chôn theo người chết khi có tang ma. Câu chuyện chế tạo vàng mã bắt đầu từ việc chế ra giấy. Đời Hán, vua Hòa Đế hiệu Nguyên Hưng năm đầu (105 Sau Công nguyên), ông Thái Lĩnh lấy vỏ cây dó và rẻ rách, lưới rách đem chế ra giấy. Đời Đường(bắt đầu từ năm 618), ông Vương Dũ dùng giấy chế ra vàng bạc, quần áo... bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Phát triển Năm Khai Nguyên thứ 26 (năm 738), vua Đường Huyền Tông (685-762) ra sắc dụ cho phép dùng tiền giấy thay cho tiền thật trong việc cúng tế, cầu siêu... Như vậy, có thể nói Vương Dũ chính là thủy tổ nghề vàng mã. Ngoài giấy tiền vàng bạc cùng các loại giấy khác, người Trung Quốc thời đó còn chế ra các loại hình nhân thế mạng cho vợ hầu, con cái, tôi tớ, cửa nhà, xe cộ, đồ đạc, vật dụng, áo quần, lục súc… và hàng trăm vật khác làm bằng giấy. Các loại đồ vàng mã gọi chung là minh khí này liên tục xuất hiện, làm cho nhân dân đua nhau chuộng đồ mã. Đến đời vua Đường Đại Tông (726-779) (năm 762), khi Phật giáo đang cực thịnh ở Trung Quốc, nhân dịp lễ Vu Lan, một nhà sư Phật giáo muốn khuyến khích người dân theo Phật nên tâu với vua ra lệnh cho người dân đốt nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên trong ngày này. Không lâu sau, chiếu chỉ của vua lại bị chư tăng Phật giáo công kích dữ dội vì đốt vàng mã vào ngày rằm tháng 7 đã làm mất đi ý nghĩa thật sự ngày lễ Vu Lan. Trước sự phản đối của chư Tăng, người dân Trung Quốc tỉnh ngộ bỏ vàng mã nên nghề vàng mã dần suy thoái. Hậu duệ của Vương Dũ là Vương Luân bị thất nghiệp đã nghĩ kế làm người chết sống lại để người đời tin tưởng là nhờ hối lộ vàng mã mà thần thánh cho mình được phục sinh. Kể từ đó, nghề vàng mã lại phục hưng, người dân Trung Quốc tiếp tục dùng vàng mã để đốt cho linh hồn các gia tiên và thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ khi ma chay, tế lễ... (Tam tứ phủ là tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam và nhiều nước châu Á, thờ các vị đứng đầu và các quan cai quản trời-đất-nước và địa phủ để cầu xin tài lộc, sức khỏe trong đời sống hiện tại). Sách Trực Ngôn Cảnh Giáo của Trung Hoa kể lại rằng Vương Luân là dòng dõi của Vương Dũ, vì không muốn nghề nghiệp gia truyền làm vàng mã bị mai một, nên cố gắng hết sức để chấn hưng nghề làm đồ mã, bèn lập mưu với người bạn thân, lên kế hoạch bí mật chết giả, bằng cách để người bạn thân đó giả vờ đau ốm cho mọi người biết, khoảng vài ngày sau Vương Luân loan tin người bạn thân đã qua đời, sau đó khâm liệm bỏ vào quan tài chờ ngày an táng. Nhưng sự thật thì người bạn của Vương Luân vẫn còn sống, tuy ở trong quan tài nhưng vẫn có lỗ trống ở dưới đáy để thở và đưa thức ăn vào. Đến ngày đưa đám tang, trong khi lễ nhạc linh đình, phúng điếu rộn rịp, Vương Luân đem giấy tiền vàng mã và những đồ dùng bằng giấy như nhà cửa, áo quần và hình nhân thế mạng, đích thân làm lễ cúng tế để cầu nguyện cho người bạn thân. Sau đó ông ta đốt hết giấy tiền vàng mã và hình nhân thế mạng. Khi đốt xong thì quan tài tự nhiên rung động, ai nấy đều mục kích rõ ràng, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra. Người bạn thân của Vương Luân quả nhiên sống lại, đến trước mặt Vương Luân phủ phục xuống đất cảm tạ và thuật lại cho mọi người nghe rằng chư vị thần dưới âm đã nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng nên thả hồn ông ta trở về cõi trần, nên ông ta mới được sống lại. Mọi người đều tin là thật và tin tức được loan truyền rộng rãi trong dân gian, nên đồ mã của Vương Luân sau đó lại được hưng thịnh như xưa. Nhờ thế các nhà buôn đồ mã lại làm giàu một cách nhanh chóng và phổ biến sang các nước chư hầu để tiêu thụ, trong đó có Việt Nam. Sau này do sự cạnh tranh nghề nghiệp, nên người bạn thân đã tiết lộ mưu kế gian xảo của Vương Luân và vì thế ngày nay chúng ta mới biết lai lịch việc này. Vàng mã đã được phát triển bởi người Trung Quốc hiện đại và trên khắp Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á (như: Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ, Triều Tiên, Việt Nam, Mông Cổ...) từ cuối thế kỷ 19. Từ đầu thế kỷ 20 có sự tương đồng với loại tiền thương mại nhỏ thuộc loại được phát hành bởi các doanh nghiệp trên khắp Trung Quốc cho đến khi giành độc lập giữa những năm 1940. Tục lệ đốt vàng mã này ảnh hưởng sâu đậm vào nước ta, từ vua chúa đến thứ dân. Vụ đốt vàng mã lớn nhất Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là trong đám tang của Vua Khải Định, băng hà vào ngày 25 tháng 11, năm 1925, triều đình Huế đã làm nguyên cả ngôi điện Kiến Trung bằng giấy thật lớn và nhiều loại đồ dùng của vua như ngự liễn, long xa, tàn kiệu, v.v... để đốt theo vua. Chỉ trích Cố đại lão Hòa thượng Thích Tố Liên (1903-1977) là một tu sĩ Phật giáo có nhiều công lao trong phong trào chấn hưng Phật giáo, đưa Phật giáo Việt Nam hòa nhập với Phật giáo Thế giới giai đoạn giữa thế kỷ 20. Năm 1951, ông là sáng lập viên kiêm Tổng thư ký của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức thống nhất Phật giáo toàn quốc, tiền thân của Giáo hội Phật giáo thống nhất Việt Nam sau này. Bài tuyên truyền bài trừ vàng mã "Nguyên nhân tục lệ đốt vàng mã" của hòa thượng Tố Liên được đăng trên báo Đuốc Tuệ (cơ quan ngôn luận của Hội Phật giáo Bắc Kỳ thời trước Cách mạng tháng Tám) số ra năm 1952. Bài viết ra đời trong bối cảnh phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ 20 của các cao tăng và cư sĩ trí thức với mục đích loại bỏ những "đám mây" mê tín dị đoan, làm cho bầu trời văn hóa Phật giáo Việt Nam trở nên trong sáng hơn. Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định tục đốt vàng mã không có trong Phật giáo Việt Nam. Việc ra văn bản là góp phần khẳng định một lần nữa quan điểm này, đồng thời mang tính chất nhắc nhở, thầy trụ trì các chùa phổ biến cho người dân hiểu rõ hơn, tường tận hơn để hạn chế và dần dần đi đến từ bỏ tục đốt vàng mã. Không đốt vàng mã trong các cơ sở thờ tự, tín ngưỡng thờ Phật đó cũng là chủ trương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. "Hiện, còn một bộ phận người nghèo đói, túng thiếu, cơm gạo không đủ ăn. Trong khi đó, không ít người bỏ ra rất nhiều tiền để đốt vàng mã. Đây là điều bất hợp lý", Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, trụ trì chùa Quán Sứ, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhấn mạnh. Trụ trì chùa Quán Sứ cũng khẳng định: Một mình nhà chùa không thể ngăn được người dân mang vàng mã đến chùa cúng và đốt. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước, các tỉnh, thành phải cùng vào cuộc, trong đó phải làm từ gốc của vấn đề là việc sản xuất, buôn bán vàng mã... Thượng tọa Thích Nhật Từ, Phó Trưởng ban Phật giáo Quốc tế - Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam chỉ rõ: Về bản chất, đạo Phật không khích lệ tập tục đốt vàng mã. Việc ngừng các hoạt động mê tín dị đoan, trong đó có việc đốt vàng mã là điều cần thiết. Đã đến lúc không nên để tập tục này tiếp tục diễn ra trong các cơ sở thờ tự. Các tăng ni cần nêu cao ý thức vì việc này trái với Phật pháp… Thượng tọa Thích Thanh Duệ, Phó Trưởng ban Nghi lễ Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định: "Trong giáo lý nhà Phật không có việc đốt vàng mã cúng tế người chết. Quan điểm của đạo Phật hoàn toàn bác bỏ tục lệ mê tín này. Phật giáo chỉ khuyên trong ngày Lễ vu-lan (báo hiếu cha mẹ) thì nên ăn chay niệm Phật để tưởng nhớ. Và làm Lễ xá tội vong nhân (cúng chúng sinh) – cúng những vong hồn lưu lạc một mâm cỗ chay để bố thí siêu sinh. Đồng thời, giúp đỡ những người nghèo khổ chốn trần gian, ăn chay niệm Phật và phóng sinh tích đức để siêu độ vong linh". Thượng toạ Thích Thanh Nhã, trụ trì chùa Trấn Quốc (Hà Nội) cũng khẳng định: Kinh Phật không dạy đốt vàng mã cho người quá cố. Bản thân trụ trì cũng thường xuyên nhắc nhở Phật tử nên hạn chế đốt vàng mã. Theo ông thì nên dùng tiền mua vàng mã đốt để làm việc thiện cho đời sẽ tốt hơn rất nhiều. Đại đức Thích Thiện Hạnh, trụ trì chùa Vinh Phúc (thôn Quang Độ, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, Bắc Ninh) cũng cho rằng, việc đốt vàng mã là mê tín dị đoan và sai hoàn toàn. Đại đức Thích Thiện Hạnh giải thích: "Chúng ta vẫn có câu: Dương sao âm vậy. Nhưng vàng mã của chúng ta về dưới đó có tiêu được không? Quần áo chúng ta đốt về có vừa với kích cỡ của ông bà chúng ta nữa không? Xe cộ, đồ dùng… có được gửi đúng địa chỉ không? Thành thực trả lời những câu hỏi đó cũng đủ thấy đốt vàng mã là mê tín dị đoan, không hề phù hợp hay có cơ sở. Nếu cha mẹ cõi âm chỉ mong chờ ngày này để được miếng cơm, manh áo, căn nhà… thì những tháng ngày còn lại, tổ tiên ông bà, cha mẹ ăn, mặc, ngủ, nghỉ ở đâu". Các đại đức đều cho rằng: Người dương biết làm phúc, thì người âm dễ siêu thoát. Chúng ta nên lên chùa, thành tâm cầu nguyện hồi hướng tâm đức. Nếu có tiền để mua sắm vàng mã đốt cho cha mẹ, thì nên dùng tiền đó để chia sẻ cho những người nghèo khó. Bởi "Cứu một người dương gian bằng ngàn người âm phủ". Còn cầu nguyện, chỉ cần tấm lòng thành, nếu không thành tâm thì làm gì cũng vô ích". Cổ tục đốt vàng mã đã có từ lâu đời, ăn sâu vào tâm thức của người dân Việt Nam nên rất khó từ bỏ trong một sớm một chiều. Tuy vậy, chúng ta cố gắng nên hạn chế là tốt nhất. Phố Hàng Mã Phố Hàng Mã có một lịch sử lâu đời là nơi bán các loại hàng mã. Theo tục lệ, những người chết ban đầu được chôn kèm những đồ tùy táng (đồ thật) nhưng sau người ta thấy việc đó tốn kém và lãng phí nên thay bằng các hình mô phỏng bằng giấy, tre, gỗ… đốt để thay thế. Ngày xưa thì cung tiến xe ngựa, tiền giấy, người thế thân… bây giờ thì có nhà lầu, xe hơi, điện thoại di động… Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt tin rằng trần sao âm vậy nên người sống thường mua các đồ mô phỏng (hàng mã) để cúng tiến cho người đã khuất. Ngày xưa còn có một phố Hàng Mã khác nữa, sau đã ghép vào phố Mã Mây bây giờ. Khi nếp sống văn minh càng chiếm ưu thế, các mặt hàng phục vụ đám hiếu ở Mã Mây suy giảm và một phần chuyển về phố Hàng Mã bây giờ. Và Hàng Mã, cũng theo xu hướng đó, từ một con phố chuyên bán mặt hàng phục vụ đám hiếu thì giờ thành phố bán đồ chơi và các mặt hàng trang trí.
Mũi Columbia là điểm cực Bắc trên đất liền của Canada, cách Bắc Cực khoảng 769 km, nằm trên đảo Ellesmere tại 83°06'41" Bắc, 69°57'30" Tây. Mũi đất này là điểm đất liền xa nhất về phía tây của biển Lincoln thuộc Bắc Băng Dương. Mũi Columbia được nhà thám hiểm người Anh George Nares khám phá trong cuộc thám hiểm từ năm 1875 đến 1876. Trạm trung chuyển tại mũi Columbia là trạm xa nhất về phía Bắc, phục vụ cho việc thám hiểm Bắc Cực.
nhỏ|Bản vẽ thành Quảng Ngãi Thành cổ Quảng Ngãi, còn gọi là Cẩm thành hay thành Gấm, là một thành lũy được xây dựng vào năm 1807 thời nhà Nguyễn ở Quảng Ngãi, Việt Nam. Thành cổ Quảng Ngãi là trong 29 thành được xây dựng ở thời nhà Nguyễn. Trước năm 1945, thành được dùng làm trung tâm hành chính của nhà Nguyễn và của chính quyền thực dân Pháp. Năm 1947, thành đã bị Việt Minh thực hiện tiêu thổ kháng chiến phá hủy hoàn toàn. Cùng năm này, thực dân Pháp cũng đã lên núi Thiên Ấn và đốt cháy điện Thiên Ấn trong khuôn viên chùa Thiên Ấn. Thành cổ hiện chỉ còn dấu tích nằm phía trước khách sạn Ninh Thọ, thuộc khuôn viên quảng trường tỉnh Quảng Ngãi, cạnh một con đường nằm ở phía đông nam thị xã Quảng Ngãi trước đây. Tên gọi Cẩm thành là cái tên xuất hiện ở thế kỷ 19, còn dùng để chỉ vùng Quảng Ngãi ngày nay, với trung tâm là thành cổ Quảng Ngãi. Có giả thuyết cho rằng cái tên này do Nguyễn Cư Trinh đặt ra nhưng cũng có giả thuyết khác . Cẩm có nghĩa là đẹp; vậy Cẩm thành có nghĩa là thành đẹp vì trong Quảng Ngãi thập nhị cảnh có nêu rõ 12 cảnh đẹp xứ Quảng : Thiên Ấn niêm hà Long Đầu hí thủy Thiên Bút phê vân La Hà thạch trận Thạch Bích tà dương Hà Nhai vãn độ An Hải sa bàn Cổ Lũy cô thôn Liên Trì dục nguyệt Vu Sơn lộc trường Vân Phong trúc vũ Thạch Cơ điếu tẩu Câu chuyện Vua Nguyễn Ánh (Gia Long) thật tinh tường khi chọn xây dựng thành Quảng Ngãi thay vì chọn vùng đất Phú Nhơn (tả ngạn sông Trà Khúc) trước đó, cách xa hơn là Châu Sa là lỵ sở của người Chăm và cũng là nơi đặt tam ty của Thừa tuyên Quảng Nam triều Lê. Thành Quảng Ngãi được xây dựng có bình đồ hình vuông cổng chính hướng về phía bắc (kinh thành Huế). Thành phố Quảng Ngãi hiện nay được xây dựng trên nền thành cổ.
Văn phòng phẩm là những vật phẩm đơn giản phục vụ cho các hoạt động văn phòng như: giấy in, sổ, giấy viết, bút (chì, bi), ghim, kẹp, giấy bóng kính, túi nhựa, cặp nhựa, băng dính, hồ dán, phong bì, túi bìa cứng, sổ cặp tài liệu, băng keo giấy... Lịch sử Phân loại Theo vật liệu Đồ dùng bằng giấy: giấy in, giấy viết, cặp giấy Giấy photocopy Giấy in laser Giấy in phun Giấy can Giấy viết sổ, vở văn phòng Giấy ghi việc: :en:Post-it note Cặp tài liệu văn phòng bằng giấy Phân trang hay chia file bằng giấy Đồ dùng bằng nhựa: Đồ dùng bằng gỗ: Đồ dùng bằng kim loại: Theo công dụng Dụng cụ cơ bản và nhãn Cặp đục lỗ và các thiết bị Business Cases Lịch và kế hoạch Sản phẩm in ấn Đồ dùng trên bàn Quà tặng Lưu trữ tài liệu Giấy, tiêu đề thư, phong bì và biểu mẫu văn phòng Bút: Bút bi, bút chì, bút bi kim, bút dạ kim, bút dạ, bút đánh dấu, bút tẩy... Máy in, máy fax và các thiết bị kèm theo Hàng khuyến mãi Đồ dùng học sinh Thư viện hình Chú thích
Mũi Spear là điểm cực Đông của Canada,(52°37' Đông). Mũi đất nằm ở Avalon Peninsula gần St. John's, Newfoundland, đây là nơi đầu tiên ở Canada có thể nhìn thấy Mặt Trời mọc mỗi ngày. Trong tiếng Bồ Đào Nha "Cabo da Esperança" có nghĩa là "mũi của hy vọng'' đã trở thành "Cap d'Espoir" trong tiếng Pháp và cuối cùng là lan "Cape Spear".
Mũi Cà Mau là một mũi đất ở phía nam tỉnh Cà Mau thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Đây cũng là điểm cực Nam trên đất liền của Việt Nam. Mũi đất này còn có tên là Mũi Bãi Bùng. Vị trí Mũi Cà Mau hướng về phía tây, thuộc địa phận xóm Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cách thành phố Cà Mau hơn 100 km. Bên trái mũi là biển Đông, bên phải là biển Tây, tức Vịnh Thái Lan. Hiện nay nếu xét về mặt địa lý thì mũi Cà Mau không phải là điểm cực Nam trên đất liền của Việt Nam, mà chỉ nằm ở vùng cực Nam của Việt Nam. Điểm cực nam trên đất liền của tỉnh Cà Mau nằm ở xã Viên An, huyện Ngọc Hiển, có độ vĩ 8°30' Bắc. Mũi Cà Mau là điểm cực Tây của tỉnh Cà Mau. Trước đây một số tài liệu nói rằng điểm cực Nam trên đất liền của Việt Nam là xóm Rạch Tàu, cũng thuộc xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, ở tọa độ 8°34' (hoặc 8°30') độ vĩ Bắc, 104°40' (hoặc 104°50') độ kinh Đông. Đặc điểm Tại đây có hệ sinh thái rừng ngập mặn rất đa dạng và phong phú. Và còn có các công trình như cột mốc toạ độ quốc gia, biểu tượng Mũi Cà Mau. Vùng đất này hằng năm lấn ra biển hàng chục mét, do sự bồi đắp rất lớn. Ngày 2 tháng 11 năm 2019, tỉnh Cà Mau quyết định di dời biểu tượng con tàu nằm trong Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau đến vị trí khác. Theo đó, biểu tượng con tàu sẽ di dời đến vị trí mới là khu vực đầu bờ kè chống sạt lở Mũi Cà Mau. Nguyên nhân là vì tỉnh Cà Mau triển khai xây dựng một số công trình tại Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau như biểu tượng cột cờ Hà Nội, đền thờ Lạc Long Quân, mốc điểm cuối đường Hồ Chí Minh...Các công trình này có cốt nền cao, trong khi đó biểu tượng con tàu đã xây dựng lâu, có cốt nền thấp, bị ngập khi triều cường dâng cao. Thêm vào đó, hiện bờ kè chống sạt lở Mũi Cà Mau đã được xây dựng phía ngoài, giáp biển. Tâm thức Người Việt khi nói về đất nước của mình thường dùng câu "Nước Việt Nam trải dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau". Vì vậy, trong tâm thức người Việt, cùng với Ải Nam Quan, Mũi Cà Mau là một địa điểm thiêng liêng, xa xôi nhưng rất đỗi gần gũi.
Du lịch Quảng Ngãi gồm có các khu du lịch Mỹ Khê, Sa Huỳnh, khu du lịch văn hoá Thiên Ấn, khu du lịch sinh thái núi Cà Đam, khu du lịch Thác Trắng, khu du lịch Suối Chí, khu Du lịch văn hoá Thiên Bút, khu du lịch Thạch Nham, khu du lịch đảo Lý Sơn, khu du lịch sinh thái Vạn Tường, khu nghỉ dưỡng Vạn Tường. Tiềm năng trái|nhỏ|255x255px|Phong cảnh Lý Sơn Tỉnh Quảng Ngãi có 150 km đường bờ biển kéo dài từ An Tân đến Sa Huỳnh nên có nhiều bãi tắm đẹp như Mỹ Khê, Sa Huỳnh Khe Hai, Lệ Thủy, Minh Tân... Quảng Ngãi có các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh (cách đây 2000 đến 3000 năm), Chùa Ông với kiến trúc là sự kết hợp giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa Việt, Văn hóa ChămPa với Thành cổ Châu Sa, ngoài khơi có đảo Lý Sơn với các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh như Xóm Ốc, suối Chình, văn hóa Chămpa. Với 23 di tích lịch sử văn hóa và 2 di tích danh nhân quốc gia hiện có Quảng Ngãi còn có hơn 100 di tích cấp tỉnh và đang từng bước lập hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa thông tin công nhận nhằm bảo tồn và phát huy giá trị. Có lẽ không có tỉnh nào, ngoài các di tích cách mạng, di tích danh nhân, di tích thắng cảnh, hội đủ các loại hình du lịch: du lịch tâm linh, du lịch di tích lịch sử cách mạng, du lịch nghỉ dưỡng biển và du lịch sinh thái, Quảng Ngãi còn có các di tích căm thù và qua 2 cuộc kháng chiến, Quảng Ngãi cũng là nơi có các cuộc đấu tranh đi vào lịch sử: Ba Tơ, Trà Bồng, Ba Gia, Vạn Tường, khu chứng tích Sơn Mỹ. Quảng Ngãi nổi tiếng với các đặc sản: muối Sa Huỳnh, quế Trà Bồng, mạch nha, đường phổi, kẹo gương... Các di tích lịch sử Núi Thiên Ấn, Chùa Thiên Ấn và mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng. Thành cổ Châu Sa. Núi Phú Thọ và Cổ lũy cô thôn. Chùa Ông. Chùa Hang. Quần thể di tích theo dòng nhật ký Đặng Thùy Trâm. Di tích và đền thờ Bùi Tá Hán. Các di chỉ của Văn hóa Sa Huỳnh. Khu chứng tích Sơn Mỹ. Di tích chiến thắng Vạn Tường. Di tích vụ thảm sát Diên Niên - Phước Bình. Di tích vụ thảm sát Khánh Giang - Trường Lệ. Di tích vụ thảm sát Bình Hòa. Khu lưu niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Các địa điểm du lịch Bãi biển Sa Huỳnh Bãi biển Mỹ Khê. Đảo Lý Sơn. Sông Trà Khúc. Vịnh Dung Quất. Thác Trắng - Minh Long. Ghềnh Đùn-Ghềnh Yến. Hệ thống bảo tàng tỉnh Quảng Ngãi Bảo tàng tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, trưng bày các di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa, văn hóa các dân tộc tỉnh Quảng Ngãi. Địa chỉ: 99 Lê Trung Đình, Thành phố Quảng Ngãi Bảo tàng chứng tích Sơn Mỹ, trưng bày hình ảnh tội ác chiến tranh của quân đội Hoa Kỳ trong vụ thảm sát Mỹ Lai. Địa chỉ: quốc lộ 24B xã Tịnh Khê, Sơn Tịnh Bảo tàng đội du kích Ba Tơ, trưng bày hình ảnh liên quan đến đội du kích Ba Tơ 11/03/1945, văn hóa dân tộc H're; quốc lộ 24A, thị trấn Ba Tơ, Ba Tơ Bảo tàng chiến thắng Vạn Tường, có khuôn viên rộng nhất tỉnh; trưng bày hình ảnh liên quan đến chiến thắng Vạn Tường, trong nhà và khu ngoài trời là xác xe tăng của giặc; hệ thống địa đạo và hào; Địa chỉ: xã Bình Hải, Bình Sơn Bảo tàng cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi, trưng bày hình ảnh liên quan đến đến cuộc khởi nghĩa Trà Bồng ngày 28 tháng 8 năm 1959, và đồng khởi Bến Tre năm 1960, văn hóa dân tộc Kor; thị trấn Trà Xuân, Trà Bồng Phòng trưng bày Bệnh viện đa khoa Đặng Thùy Trâm, trưng bày hình ảnh các dụng cụ y tế phục vụ chữa trị và chăm sóc sức khỏe nhân dân và bộ đội quân khu V trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, về Đặng Thùy Trâm. Địa chỉ: xã Phổ Cường, Đức Phổ Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh (quy mô quốc gia đang xây dựng). Địa chỉ: Gò Ma Vương, xã Phổ Thạnh, Đức Phổ Danh mục di tích lịch sử - văn hóa hạng quốc gia Khu chứng tích Sơn Mỹ: Thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh. Quyết định số 54 - VHTT/QĐ ngày 29.4.1979. Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ: TT Ba Tơ, xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ. Quyết định số 92 ngày 10.7.1980. Chiến thắng Vạn Tường: xã Bình Hải, huyện Bình Sơn. Quyết định 147 ngày 24.12.1982. Mộ và đền thờ Bùi Tá Hán: phường Quảng Phú, Tp Quảng Ngãi. Quyết định số 168 ngày 02.3.1990. Thắng cảnh Núi Thiên Ấn và mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng: xã Tịnh Ấn Đông, TT Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh. Quyết định số 168 ngày 02.3.1990. Chiến thắng Ba Gia: xã Tịnh Sơn, Tịnh Bình, Tịnh Đông, huyện Sơn Tịnh. Quyết định số 866 ngày 20.5.1991. Khởi nghĩa Trà Bồng: xã Trà Hiệp, Trà Sơn, Trà Lâm, Trà Thọ, TT Trà Xuân, huyện Trà Bồng. Quyết định số 2307 ngày 30.12.1991. Vụ thảm sát Bình Hoà: xã Bình Hoà, huyện Bình Sơn. Quyết định số 866 ngày 20.5.1991. Địa đạo Đàm Toái: xã Bình Châu, huyện Bình Sơn. Quyết định số 2307 ngày 30.12.1991. Chiến thắng Đình Cương: xã Hành Thiện, Hành Đức, Hành Phước, huyện Nghĩa Hành. Quyết định số 43 - VH/QĐ ngày 07.01.1993. Vụ Thảm sát Khánh Giang-Trường Lệ: xã Hành Tín, huyện Nghĩa Hành. Quyết định số 43 - VH/QĐ ngày 07.01.1993. Kiến trúc nghệ thuật Chùa Ông: xã Nghĩa Hoà, huyện Tư Nghĩa. Quyết định số 43-VH/QĐ ngày 07.01.1993. Thắng cảnh Núi Phú Thọ và Cổ lũy cô thôn: xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa. Quyết định số 43-VH/QĐ ngày 07.01.1993. Di tích kiến trúc Thành Châu Sa: xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh. Quyết định số 152 - QĐ/BT ngày 25.01.1994. Vụ Thảm sát Diên Niên - Phước Bình: xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh. Quyết định số 295 ngày 12.02.1994. Thắng cảnh Chùa Hang: xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn. Quyết định số 921 ngày 20.7.1994. Địa điểm Đài Tiếng nói Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp (Đình Thọ Lộc): xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh. Quyết định số 921, ngày 20.7.1994. Trụ sở Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ (1946-1949): TT Chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành. Quyết định số 3211 ngày 12.12.1994. Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình làng An Hải: xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn. Quyết định số 985-QĐ/VH ngày 7.5.1997. Địa điểm Huyện Đường Đức Phổ: TT Đức Phổ, huyện Đức Phổ. Quyết định số 985 ngày 7.5.1997. Mộ và nhà thờ Trần Cẩm: xã Đức Chánh, Đức Thạnh, Đức Tân, huyện Mộ Đức. Quyết định số 1543 ngày 7.5.1997. Văn hóa Sa Huỳnh: xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ. Quyết định số 3457 ngày 5.11.1997. Chùa Diệu Giác: xã Bình Trung, huyện Bình Sơn. Quyết định số 06 ngày 13.4.2000. Khu lưu niệm Bác Phạm Văn Đồng: xã Đức Tân, huyện Mộ Đức. Quyết định số 27/QĐ-BVHTT Bộ Văn hóa Thông tin ngày 21.2.2006. Âm linh tự và mộ các chiến sĩ trên huyện đảo Lý Sơn, An Vĩnh, Lý Sơn 11.09.2007. Di tích kiến trúc Trường lũy Quảng Ngãi, thuộc các huyện Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi theo quyết định số: 800/QĐ-BVHTTDL ngày 9 tháng 3 năm 2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Di tích lịch sử Mộ và Đền thờ Huỳnh Công Thiệu, xã Phổ Hòa, Phổ Ninh, Phổ Minh, huyện Đức Phổ theo quyết định số 1210/QĐ-BVHTTDL ngày 29 tháng 3 năm 2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Di tích lịch sử Đình An Vĩnh, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn theo quyết định số 1451/QĐ-BVHTTDL ngày 18 tháng 4 năm 2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn theo quyết định số 1524/QĐ-BVHTTDL ngày 23 tháng 4 năm 2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Di tích lịch sử Điện Trường Bà, thị trấn Trà Xuân, huyện Trà Bồng theo quyết định số 1388/QĐ-BVHTTDL ngày 09 tháng 5 năm 2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Lễ hội Điện Trường Bà, thị trấn Trà Xuân, huyện Trà Bồng theo quyết định số 1852/QĐ-BVHTTDL ngày 08/5/2017 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Quy mô ngành du lịch Giai đoạn 2016 – 2019, tổng lượt khách đến tỉnh đạt trên 3,6 triệu lượt, trong đó, khách quốc tế đạt 315 nghìn lượt; tổng doanh thu du lịch đạt 3.400 tỷ đồng. Năm 2019, giải quyết việc làm cho 13.500 lao động, trong đó có 4.500 lao động trực tiếp. Năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên tổng lượng khách du lịch đến tỉnh chỉ khoảng 453 nghìn lượt, trong đó khách quốc tế hơn 9.000 lượt. Tổng doanh thu du lịch đạt 504 tỷ đồng; giải quyết việc làm cho khoảng 8.700 lao động, trong đó có 2.800 lao động trực tiếp. Chú thích
Chùa Thiếu Lâm (chữ Hán: 少林寺; bính âm Hán ngữ: Shàolínsì; phiên âm Hán-Việt: Thiếu Lâm tự; dịch nghĩa: "chùa trong rừng gần đỉnh Thiếu Thất") là một ngôi chùa tại Tung Sơn, thành phố cấp huyện Đăng Phong, địa cấp thị Trịnh Châu, Hà Nam, Trung Quốc, nổi tiếng từ lâu nhờ mối liên hệ với Phật giáo Thiền tông và võ thuật. Là cái nôi của Thiền tông Trung Hoa, có lẽ nó là một cơ sở Phật giáo nổi tiếng nhất đối với phương Tây. Tuy nhiên, võ thuật của Thiếu Lâm tự lại được biết đến nhiều nhất đối với người Á Đông, chùa Thiếu Lâm với võ phái Thiếu Lâm được xem là nguồn gốc các phái võ Trung Quốc hiện nay, từng có câu thành ngữ nói về điều đó: "Thiên hạ công phu xuất Thiếu Lâm" (mọi công phu võ thuật trong thiên hạ đều khởi phát từ Thiếu Lâm). Lịch sử Theo "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645) của Đạo Tuyên, chùa Thiếu Lâm ban đầu được Hiếu Văn Đế của nhà Bắc Ngụy xây dựng ở phía bắc núi Thiếu Thất, đỉnh phía tây của Tung Sơn, một trong các ngọn núi linh thiêng của Trung Quốc cho nhà sư Bạt Đà, người đã thuyết giảng Bộ kinh Phật giáo ở Trung Quốc trong vòng ba thập kỷ. Dương Huyễn Chi, trong "Lạc Dương già lam ký" (洛陽伽藍記; 547), và Lý Hiền (李賢), trong "Minh nhất thổng chí (明一統志; 1461), cũng công nhận vị trí và thời đại của ngôi chùa như Đạo Tuyên. Quyển "Gia Khánh trùng tu nhất thống chí" (嘉慶重修一統志; 1843) viết rằng ngôi chùa ở tỉnh Hà Nam, được xây dựng vào năm Thái Hòa (太和) thứ 20 nhà Bắc Ngụy (tức năm 497). Ngôi chùa bị hủy diệt và trùng tu vài lần, trở thành một trong những ngôi chùa xưa nhất của Trung Quốc. Có lẽ người nổi tiếng nhất có liên hệ với chùa Thiếu Lâm là Bồ đề đạt ma. Ông là một nhà sư được cho là từ Ba Tư hoặc Nam Ấn Độ sang Trung Quốc vào thế kỉ thứ 5 hay thứ 6 để truyền bá Phật giáo. Trường phái Phật giáo do Bồ-đề-đạt-ma lập ra ở Thiếu Lâm trở thành nền tảng cho Thiền tông sau này (cả hai từ Zen hay 禪 "thiền" đều bắt nguồn từ dhyana trong tiếng Phạn, nghĩa là thiền). Sau khi vào Thiếu Lâm tự, truyền thuyết kể rằng Bồ-đề-đạt-ma thấy các nhà sư không có hình thể mạnh khỏe cho thiền định và họ thường ngủ gục trong khi thiền. Chuyện kể rằng Bồ-đề-đạt-ma ngồi thiền quay mặt vào tường trong một hang đá cạnh chùa trong chín năm, sau đó ông giới thiệu một hệ thống các bài tập thể dục được cho là thập bát La-hán chưởng hay là các bài tập co giãn cơ bắp kinh điển Đạt-ma. Dần dần những động tác này phát triển thành võ thuật. Theo truyền thống, các nhà sư Thiếu Lâm phát triển kỹ năng võ thuật để phòng thủ sự tấn công của kẻ địch, như là một phương tiện giữ gìn sức khỏe, và như là một kỉ luật về tinh thần và thể chất. Sự hệ thống hóa võ thuật bởi các nhà sư có lẽ bắt đầu với những viên quan võ trong quân đội về hưu và đi tu tại đó. Tu viện là một nơi ở ẩn, không giống như là trong chiến trường, do vậy những người đó có thể trao đổi võ thuật và hoàn thiện các miếng võ đó. Tiếng tăm về quân sự của chùa bắt đầu vào đầu đời nhà Đường (618–907). Tấm bia của Thiếu Lâm tự năm 728 miêu tả chuyện các nhà sư chiến đấu giúp cho vị hoàng đế tương lai là Lý Thế Dân chống lại đối thủ của ông là Vương Thế Sung. Khi lên ngôi, vị vua biết ơn và cho mở rộng khuôn viên chùa và cho phép một số nhà sư tiếp tục việc huấn luyện quân sự. Võ công của Thiếu Lâm tự đạt đến đỉnh cao vào đời nhà Minh (1368–1644), khi vài trăm nhà sư Thiếu Lâm được phong hàm như trong quân đội và đích thân họ chỉ huy các chiến dịch chống lại quân nổi loạn và quân cướp từ Nhật Bản. Vào thời điểm này, các nhà sư Thiếu Lâm đã phát triển môn võ Thiếu Lâm với phong cách riêng biệt. Ngôi chùa nguyên thủy vẫn tồn tại sau nhiều lần bị cướp phá và được xây dựng lại. Vào 1928, tướng Thạch Hữu Tam thuộc hạ của Tưởng Giới Thạch phóng hỏa đốt chùa, thiêu hủy đi nhiều văn thư vô giá trong thư viện chùa, một số sảnh đường, và làm hư hại nặng tấm bia đã nói đến ở trên. Cách mạng Văn hóa Trung Quốc thanh trừng tất cả các nhà sư và các tài liệu Phật giáo tồn tại trong khuôn viên chùa, để chùa hoang tàn trong nhiều năm. Sau thành công vang dội của bộ phim Thiếu Lâm Tự do Lý Liên Kiệt đóng vai chính vào năm 1982, chùa được Nhà nước Trung Quốc cho xây dựng lại và trở thành địa điểm du lịch chính thức. Các nhóm võ thuật trên khắp thế giới đã quyên góp để bảo trì chùa và các khuôn viên quanh đó, và sau đó được ghi danh trên những viên đá có khắc chữ gần lối vào chùa. Người ta cho rằng chùa Thiếu Lâm bị phá hủy nhiều nhất là bởi quân đội Mãn Châu nhà Thanh. Tuy nhiên, có lẽ điều đó là không chính xác và chỉ là ngụy tạo. Thực tế, Khang Hi, hoàng đế thứ hai của nhà Thanh, là một người hâm mộ chùa Thiếu Lâm ở Hà Nam đến mức ông đã khắc chữ trên đá ở phía trên cổng chính của chùa mà cho đến ngày nay vẫn còn. Câu chuyện về nhà Thanh phá hủy chùa Thiếu Lâm có thể là nói về chùa Nam Thiếu Lâm, mà Từ Kha (Xu Ke 徐珂), trong tác phẩm Thanh Bại Lỗi Sao (Qing bai lei chao 清碑類鈔) (1917), cho là ở tỉnh Phúc Kiến. Một số sử sách khác còn nói rằng có 3 ngôi chùa Nam Thiếu Lâm trong khu vực này: Nam Thiếu Lâm Tự Bồ Điền Phúc Kiến, Nam Thiếu Lâm Tự Phúc Thanh Phúc Châu Phúc Kiến, Nam Thiếu Lâm Tự Toàn Châu (Tuyền Châu) Phúc Kiến. Một đại hội Đạt-ma được tổ chức trong hai ngày 19 và 20 tháng 8 năm 1999, tại chùa Thiếu Lâm, Tung Sơn, Trung Quốc, đã phong hòa thượng Thích Vĩnh Tín (Shi Yong Shin 奭永信) làm phương trượng. Ông là người kế nhiệm thứ mười ba của hòa thượng phương trượng Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ (Xue-ting Fu-yu 雪庭福裕). Vào tháng 3 năm 2006, tổng thống Nga Putin đã trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến thăm chùa Thiếu Lâm. Võ Thiếu Lâm
Bài này viết về một loại vũ khí, với những nghĩa khác xem tại Bazooka (định hướng) Bazooka tên gọi chung của một loại súng chống tăng không giật với các đặc điểm: Thân dài, có hình ống, tính di động cao, đặt lên vai khi bắn, bắn ra rocket và mục tiêu là các vật thể kiên cố (xe tăng, công sự, tàu thuyền nhỏ, thậm chí cả máy bay). Bazooka nổi tiếng nhờ được sử dụng suốt từ Thế chiến 2 cho tới tận Chiến tranh Việt Nam. Từ "bazooka" được cho là bắt nguồn từ chữ "bazoo" trong tiếng Anh, là từ lóng chỉ "cái miệng". Từ "bazooka" xuất hiện đầu tiên từ cuốn tiểu thuyết năm 1909 The Swoop, or how Clarence Saving England của PG Wodehouse.I shouldn't 'arf wonder, from the look of him, if he wasn't the 'aughty kind of a feller who'd cleave you to the bazooka for tuppence with his bloomin' falchion. Sử dụng Loại Bazooka ban đầu có cỡ nòng 2,36 inch (cỡ nòng 60mm) là loại được sử dụng phổ biến trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Súng bazooka đã bị thay bởi M72 LAW (Light anti-tank weapon - Vũ khí chống tăng hạng nhẹ) trong Chiến tranh Việt Nam. Đến thập niên 2000, quân đội Mỹ đã không còn sử dụng Bazooka, tuy nhiên nó vẫn được sử dụng tại một số cuộc chiến tại châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Tại Việt Nam Trong kháng chiến chống Pháp, kỹ sư Trần Đại Nghĩa của Việt Nam đã tìm cách tự chế tạo súng Bazooka bằng các lò rèn thủ công để trang bị cho bộ đội Việt Nam. Tháng 9/1946, kỹ sư Phạm Quang Lễ - một trí thức Việt kiều về nước, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho ông phụ trách Cục Quân giới với lời dặn: “Chú về phải lo ngay việc chế tạo vũ khí cho sự nghiệp kháng chiến của Nhân dân ta”. Và ngày 27/10/1946, Chủ tịch trực tiếp giao nhiệm vụ cho kỹ sư Phạm Quang Lễ lên xưởng Giang Tiên nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu Bazooka 60mm của Mỹ Tháng 11/1946, xưởng Giang Tiên đã sản xuất thử nghiệm 1 khẩu súng và 50 viên đạn Bazoka, bắn thử nhưng đạn không xuyên do chất lượng thuốc nổ không đảm bảo. Ngày 5/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao cho Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục Quân giới (tiền thân Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) và đặt tên mới cho ông là Trần Đại Nghĩa (để giữ bí mật danh tính cho ông và cho gia đình, họ hàng ở miền Nam) Sau một số lần cải tiến, thử nghiệm các kiểu pha chế thuốc nổ, cuối cùng súng bazooka do Việt Nam chế tạo đã thử nghiệm thành công vào đầu tháng 3/1947. Ngày 5/3/1947, trong trận Trúc Sơn - Chùa Trầm, bằng 3 súng Bazooka và 10 quả đạn vừa xuất xưởng, bộ đội Việt Nam đã bắn cháy 2 xe tăng Pháp, bẻ gãy cuộc hành quân của địch. Từ đó, nhiều xưởng quân khí Việt Nam chuyên sản xuất Bazoka để trang bị cho bộ đội, riêng xưởng K3 thuộc Đặc khu Hà Nội, cuối năm 1947 đã sản xuất được hàng chục khẩu súng và 300 viên đạn Bazoka/tháng. Xưởng XC của Khu 3 từ mẫu Bazoka 60mm đã nghiên cứu chế tạo được Bazooka cỡ 73mm để đánh ca nô, tàu chiến trên sông.. Những cải tiến Súng bắn tên lửa, M1A1 "Bazooka" Ra mắt lần đầu tiên vào tháng 6 năm 1942. Phiên bản A1 được cải tiến với một hệ thống điểm hỏa điện tử. Súng bắn tên lửa, M9 "Bazooka" Cải tiến hiện đại, thay thế loại M1A1 năm 1943. Súng bắn tên lửa, M9A1 "Bazooka" Đã được cải tiến để mang vác dễ dàng hơn, được trang bị cho đặc kích dù Hoa Kỳ từ cuối Thế chiến thứ 2 đến hết Chiến tranh Triều Tiên. Bộ phận ắc quy gây cháy. Súng bắn tên lửa, M20A1 "Super Bazooka" Nòng lớn hơn với loại 3,5 inch (89 mm). Có thể xuyên qua vỏ thép dày 200 mm. Mở rộng tầm bắn đến 150 m. Được đưa vào sử dụng tại Chiến tranh Triều Tiên Súng bắn tên lửa, M20A1B1 "Super Bazooka" Phiên bản có trọng lượng nhẹ với nòng súng làm bằng nhôm và các vật liệu đơn giản khác. Dùng bổ sung cho M20A1. Súng bắn tên lửa, M25 "Three Shot Bazooka" Có thể bắn 3 phát cùng lúc. Những loại đặc biệt M1A1 Dài: 54 in (137 cm) Cỡ nòng: 60 mm (2,36 in) Khối lượng: 15 lb (6,8 kg) Đầu đạn: M6A1 shaped charge (3,5 lb, 1.59 kg) Tầm bắn: Tối đa: 400 yard. Hiệu quả: 150 yard. Số người sử dụng: 2, người điều khiển và người nạp đạn M9A1 Chiều dài: 61 in (1.550 mm) Cỡ nòng: 60 mm (2,36 in) Khối lượng: 15,9 lb Đầu đạn: M6A3/C shaped charge (3.5 lb, 1.587 kg) Tầm bắn Tối đa: 400–500 yard (350–450 m) Hiệu quả: 120 yard (110 m) Số người điều khiển: 2, người bắn và người nạp đạn (M9) hoặc tự bắn và nạp đạn (M9A1). M20A1/A1B1 Chiều dài (khi lắp ráp): 60 in (1524 mm) Cỡ nòng: 89 mm (3,5 in) Khối lượng (cả đạn): M20A1: 14 lb (6,4 kg); M20A1B1: 13 lb (5,9 kg) Đầu đạn: M28A2 HEAT (9 lb) hay T127E3/M30 WP (8,96 lb) Tầm bắn Tối đa: 900 yd (823 m). Hiệu quả (tại chỗ/di chuyển): 300 yd (275 m)/200 yd (185 m). Số người điều khiển: 2, người bắn và người nạp đạn. Các nước sử dụng : Super Bazooka, sau này thay thế bằng AT4. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : RL-83., Super Bazooka mua từ Pakistan năm 1971. : RL-83. : Super Bazooka. : Bazooka và Super Bazooka. : Bazooka và Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka trong Sự kiện Vịnh Con Lơn, lực lượng thân Mỹ Brigade 2506 sử dụng loại Bazooka 2.36 in để chống lại đoàn xe tăng T34 của Fidel Castro. : Super Bazooka. : Bazooka và Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. Iraq: Super Bazooka. : M20A1 : M20A1 và biến thể của RL-83. : JGSDF sử dụng super bazookas, sau này được thay thế bằng mẫu súng không giật Carl Gustaf 8.4 cm. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka M20. : M9A1 và M20 Super Bazooka. : Thu giữ những khẩu M1A1 của quân Đồng Minh rồi nghiên cứu thành khẩu 6 cm Raketenpanzerbüchse 788. : M9A1 được Quân đội Hà Lan sử dụng trong một thời gian ngắn với tên gọi Raketwerper 2,36 inch. Nó phục vụ từ đầu những năm 1950 đến cuối những năm 1960 với Landmacht như một vũ khí huấn luyện, với Troepenmacht ở Suriname (TRIS, lực lượng quân đội ở Surinam, một phần của Landmacht), và Nederlands Detachement Verenigde Naties (N.D.V.N.) , Dutch Detachment United Nations) năm 1950–1951 trong Chiến tranh Triều Tiên. Trong Chiến tranh Triều Tiên, khẩu bazooka 2,36 inch đã được thay thế bằng khẩu M20 3,5 inch. Mặc dù nó đã thay thế M9A1 vào năm 1951 bằng N.D.V.N. Loại vũ khí này không được đưa vào Landmacht cho đến năm 1954. M20 và M20B1 sau đó được thay thế bằng LAW 66 mm vào năm 1968, nhưng những khẩu Bazooka vẫn đang nằm trong kho cho quân dự bị, động viên và những người khác sử dụng không ưu tiên cho đến năm 1989. : Super Bazooka M20. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Một số lượng lớn Bazooka 2,36 inch và 3,5 inch đã bị Đảng Cộng sản Trung Quốc thu giữ trong Nội chiến Trung Quốc và Chiến tranh Triều Tiên. Trung Quốc cũng đã sao chép phiên bản 3.5-inch thành khẩu Type 51 với cỡ nòng 90 mm. Type 51 có thể bắn đạn của mẫu 3,5 inch (tức là 90 mm), nhưng Super Bazooka 3,5 inch lại không thể sử dụng đạn của Type 51. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Super Bazooka. : Bazooka, Super Bazooka. : Trong Chiến tranh Triều Tiên, KPA sử dụng súng chống tăng M20 Super Bazooka tịch thu được của đối phương và bản sao của nó do Trung Quốc sản xuất mang tên Type 51. Súng dài 1.524 mm, cỡ nòng 89 mm, tầm bắn hiệu quả 150 m, sức xuyên thép 200 mm.
Nguyễn Thiếp (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô, thủ đô mới của Vương triều Tây Sơn. Thân thế và sự nghiệp Ông vốn có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, sau vì kiêng húy vua chúa nên đổi là Thiếp. Ngoài ra, ông còn có rất nhiều tên tự hay tên hiệu, do ông tự đặt hoặc do người đương thời xưng tặng, chẳng hạn như: Khải Xuyên (có sách chép là Khải Chuyên), Hạnh Am, Điên ẩn, Cuồng ẩn, Lạp Phong cư sĩ, Hầu Lục Niên, Lam Hồng dị nhân, Lục Niên tiên sinh, La Giang phu tử... Riêng Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung) gọi ông là La Sơn phu tử, La Sơn tiên sinh. Thủy tổ của ông là Nguyễn Hợp, quê ở Cương Gián, Nghi Xuân, trấn Nghệ An. Cụ Nguyễn Hợp có hai người con trai: con trai cả Nguyễn Khai và con trai thứ Nguyễn Hội. Con trai cả Nguyễn Khai lấy vợ lẽ ở làng Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, sinh con cháu rồi lập chi họ Nguyễn ở xã Nguyệt Ao (hay Áo, còn gọi là Nguyệt Úc), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang (nay là xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Đến đời bố ông là Quản lĩnh Nguyễn Quang Trạch, mẹ là người họ Nguyễn cùng làng, Nguyễn Thiếp ra đời tại làng này. Ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão (1723), Nguyễn Thiếp ra đời và được hấp thu vốn văn hóa đầu tiên từ mẹ. Ông ham học từ nhỏ. Lúc nhỏ, ông và ba anh em trai nhờ mẹ chăm sóc và chú là Tiến sĩ Nguyễn Hành rèn dạy nên đều học giỏi. Ông là người ham đọc sách từ nhỏ. Năm 19 tuổi (khi ấy Nguyễn Hành đang làm Hiến sát sứ Thái Nguyên), ông ra đó học, rồi được chú gửi cho bạn thân là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (cha của thi hào Nguyễn Du) dạy dỗ thêm. Tuy nhiên, chưa được một năm thì Nguyễn Hành đột ngột mất ở lỵ sở, Nguyễn Thiếp phải tự tìm đường về Hà Nội. Đến Đông Anh thì ông ốm nặng, may có người giúp đỡ nên thoát chết nhưng lại mắc di chứng tâm thần. Khi bệnh phát, đầu óc ông hoang mang, không biết làm gì cả. Dù bị chứng tâm thần, Nguyễn Thiếp vẫn tự đấu tranh tư tưởng, kiềm chế được bệnh và chủ động trong vấn đề học tập. Năm 1743, ông dự thi Hương ở Nghệ An đỗ thủ khoa, nhưng không ở lại dự thi Hội mà đi ở ẩn. Năm Mậu Thìn (1748), ông ra Bắc dự thi Hội nhưng chỉ vào đến tam trường (kỳ 3). Sau đó ông vào Bố Chính dạy học. Năm Bính Tuất (1756), lúc này đã 33 tuổi, Nguyễn Thiếp được triều đình mời ra làm chức Huấn đạo (chức quan trông coi việc học trong một huyện) ở Anh Đô (phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Ở đó 6 năm, ông được đổi làm Tri huyện Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An). Năm Mậu Tý (1768), Nguyễn Thiếp từ chức, trở về lập trại Bùi Phong dưới chân núi Thiên Nhẫn (Nam Đàn, Nghệ An) để dạy học. Năm 1775, quân Trịnh chiếm Phú Xuân, Trần Văn Kỷ ra Thăng Long để thi Hội. Khi Trần Văn Kỷ hỏi Nguyễn Nghiễm, một bậc nguyên lão khả kính về nhân tài của Hoan châu thì được trả lời: "Đạo học sâu xa thì Lạp Phong Cư Sỹ, văn phong phép tắc thì Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, còn thiếu niên đa tài đa nghệ chỉ có Nguyễn Huy Tự". Nhân vật mà "đạo học sâu xa", có danh hiệu Lạp Phong Cư Sỹ chính là Nguyễn Thiếp. Năm 1780, chúa Trịnh Sâm mời ông ra Thăng Long. Gia phả họ Nguyễn ghi rõ ý định của Trịnh Sâm bấy giờ là lật đổ nhà Lê, nhưng ông cương quyết can ngăn. Nhưng chúa Trịnh không nghe. Nguyễn Thiếp chán nản xin cáo từ mà không nhận bất cứ chức tước hay bổng lộc nào. Lúc này Nguyễn Thiếp đã 60 tuổi, trở về trường cũ trong núi sâu và tiếp tục dạy học, nghiên cứu học thuật. Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt họ Trịnh. Khi về đến Phú Xuân, Nguyễn Huệ viết thư cùng lễ vật ra Nghệ An mời Nguyễn Thiếp về Phú Xuân giúp mình. Nguyễn Thiếp đã khéo léo từ chối. Ông đưa ra 3 lý do để trả lời Nguyễn Huệ, tự nhận mình là một thần tử nhà Lê, tuổi cao, tài hèn sức mọn, không thể giúp gì được. Tháng 8 năm 1787, Nguyễn Huệ lại cử quan Lưu thủ là Nguyễn Văn Phương và Binh bộ Thị lang Lê Tài ra Nghệ An dâng thư mời Nguyễn Thiếp. Lần này Nguyễn Thiếp cũng khiêm nhường từ chối. Lần thứ 3, ngày 13 tháng 9 năm 1787, Nguyễn Huệ sai quan Thượng thư Bộ hình Hồ Công Thuyên dâng thư mời Nguyễn Thiếp. Nguyễn Thiếp vẫn thoái thác không đi. Tháng 4 năm Mậu Thân (1788), trên đường ra Thăng Long trừ Vũ Văn Nhậm, khi đến đất Nghệ An, Nguyễn Huệ đã cử Cẩn Tín hầu Nguyễn Quang Đại mang thư đến mời Nguyễn Thiếp đến hội kiến. Lời thư rất tha thiết, nên ông đành xuống núi nhưng vẫn chưa chịu ra giúp. Hai người rất tâm đầu ý hợp, bàn luận sôi nổi. Cuộc hội kiến tưởng chừng như không dứt. Cuối năm 1788, sau khi lên ngôi Hoàng đế tại núi Bân (Huế), vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc, đến Nghệ An nghỉ binh, nhà vua lại triệu Nguyễn Thiếp đến hỏi kế sách đánh đuổi quân Thanh xâm lược. Trong buổi hội kiến lần này, vua Quang Trung hỏi Nguyễn Thiếp: "Hay tin vua Lê Chiêu Thống sang nhà Thanh cầu lụy, vua Thanh cho quân sang đánh, trẫm sắp đem quân ra chống cự, mưu đánh và giữ nước được hay thua, Phu tử nghĩ thế nào?". Nguyễn Thiếp trả lời: "Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã, quân Thanh thì ở xa tới mà lòng bọn tướng soái thì huênh hoang tự đắc, chúng không cần biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, binh lương và trận chiến sẽ xảy ra như thế nào, còn quân lính thì phân vân không biết là sang đánh hay đến giữ theo sự khẩn khoản của vua Lê... Số quân của Hoàng đế kéo từ miền trong ra chưa đủ để chống đối với quân giặc, mà trở lại chiêu mộ thêm binh thì thời gian không cho phép. Vậy Hoàng đế phải tuyển mộ ngay quân lính ở đất Thanh Nghệ, vì nơi đây là đất thượng võ xưa nay, anh hùng nhiều, mà hào kiệt cũng nhiều". Khi vua Quang Trung hỏi chiến thuật đánh quân Thanh, Nguyễn Thiếp trả lời: "Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được". Diễn biến của trận quyết chiến với quân Thanh quả đúng như dự kiến thiên tài của vua Quang Trung cũng như nhận định chính xác của Nguyễn Thiếp. Sau đại thắng vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung về đến Nghệ An lại mời Nguyễn Thiếp đến bàn quốc sự. Trong bức thư gửi Nguyễn Thiếp, vua Quang Trung thổ lộ: "Trẫm ba lần xa giá Bắc thành, Phu tử đã chịu ra bàn chuyện thiên hạ. Người xưa bảo rằng: Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ. Lời Phu tử hẳn có thế thật". Sau khi Quang Trung đánh đuổi giặc Thanh, Nguyễn Thiếp trở thành một trong những vị học giả được vua tin cậy nhất. Vua biết ông không thích tham gia chính sự nên chỉ nhờ giải quyết những việc có tính chất học thuật và đặc biệt giao hẳn cho ông việc tổ chức nền giáo dục mới. Ngay tại khoa thi Hương đầu tiên dưới triều đại Quang Trung được tổ chức ở Nghệ An vào năm 1789, Nguyễn Thiếp được cử làm Đề điệu kiêm Chánh Chủ khảo. Ông khuyên nhà vua hòa hoãn với nhà Thanh để tập trung xây dựng đất nước trở thành một quốc gia cường thịnh. Tuy nhiên sau khi giúp vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp lại về núi Thiên Nhẫn mà không chịu ở Phú Xuân. Năm 1791, vua Quang Trung lại cho mời ông vào Phú Xuân để bàn việc nước. Vì cảm thái độ chân tình ấy, nên lần này ông đã nhận lời (trước đó ông đã từ chối 3 lần). Đến gặp, ông đã dâng lên vua Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề: Một là "Quân đức" (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước); hai là "Dân tâm" (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục lòng người), và ba là "Học pháp" (đại ý khuyên vua chăm lo việc giáo dục). Tuy là ba, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy quan niệm "dân là gốc nước" làm cơ sở. Nguyễn Thiếp viết: "Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên". Những lời tấu ấy được nhà vua nghe theo. Ngày 20 tháng 8 năm 1791, nhà vua ban chiếu lập "Sùng chính Thư viện" ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi, và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là Thi kinh giải âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa. Tháng 9 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột băng hà, sự nghiệp của Nguyễn Thiếp đành dở dang. Năm Tân Dậu (1801), vua Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung) có mời ông vào Phú Xuân để hỏi việc nước. Đang ở nơi ấy, thì kinh thành mất vào tay chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau là vua Gia Long). Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về trại Bùi Phong. Ngày 6 tháng 2 năm 1804 (Quý Hợi), danh sĩ Nguyễn Thiếp không bệnh mà mất, thọ 81 tuổi, và được an táng tại nơi ông ở ẩn. Lăng mộ của cụ Nguyễn Thiếp đến nay còn được bảo vệ nguyên vẹn và là một trong số những ngôi mộ có phong thủy đẹp nhất Xứ Nghệ, được Bộ Văn hoá xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1994. Tác phẩm Tác phẩm của Nguyễn Thiếp gồm có: La Sơn tiên sinh thi tập: có hơn 100 bài, có tựa của tác giả (theo Phan Huy Chú). Trần Văn Giáp cho biết bản này hiện đã không còn tìm thấy, và theo ông thì nó còn có tên là Hạnh Am thi cảo. Trong cuốn La Sơn phu tử của GS. Hoàng Xuân Hãn có công bố quyển này (gồm 84 bài thơ chữ Hán, có phụ chép một số câu đối, thơ Nôm và các chiếu biểu, do một người vô danh sưu tầm được), và theo như giáo sư nói là "không chắc còn nguyên bản". Hạnh Am di văn: gồm một số bài văn của Nguyễn Thiếp phúc đáp, cáo từ, trần tình, tạ ơn, v.v...gửi vua Quang Trung. Hiện bản này có trong Thư viện Khoa học xã hội, ký hiệu VHb. 212. Ngoài ra, theo Giáo sư Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), thì ông còn có: Hạnh Am ký (Ghi chép của Hạnh Am, 1782), Thích Hiên ký (Ghi chép ở Thích Hiên, 1786), bài viết đề ở gia phả, và đề tựa Thạch Động thi tập của Phạm Nguyễn Du... Nhận xét (sơ lược) Nhà nghèo, mẹ già, con đông nhưng ông không muốn ra làm quan để kiếm chút bổng lộc mà chỉ thích ở ẩn. Tuy nhiên, đọc Hạnh Am thi thảo, bên cạnh những bài ca ngợi thú ẩn dật, vẫn thấy tấm lòng của ông gắn bó với đời, với quê hương, và than thở cho cảnh suy vi của thế thái nhân tình... Nhìn chung, thơ ông giản dị, mộc mạc, được Phan Huy Chú khen là "thơ đều tao nhã thanh thoát, lý thú thung dung, thực là lời nói của người có đức, các tao nhân ngâm khách (khác) không thể sánh được" (Văn tịch chí). Thông tin liên quan Nền nhà Sùng chính Thư viện hiện còn lưu tại núi Bùi Phong với ngổn ngang gạch xây, đá ong... Di tích còn lại duy nhất là bức tường gạch có khoét hình nguyệt. Ở đó, có thể nhìn ngắm Lục Niên thành (tòa thành của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống Minh) và đập Lục Niên xanh trong. Bên cạnh phế tích, là khu mộ của Nguyễn Thiếp và bà chính thất họ Đặng (song táng) đã được xếp hạng là "di tích cấp Quốc gia". >Sau ngày đỗ đại khoa (Tiến sĩ - 1898) Nguyễn Văn Trình có đến nhà thờ Nguyễn Thiếp (ở xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) cúng tặng câu đối: 六 年 夫 子 興 中 國 三 世 曾 孫 拜 外 phiên âm: Lục Niên phu tử hưng trung quốc Tam thế tằng tôn bái ngoại gia Phỏng dịch: Phu tử sáu năm chấn hưng đất nước Cháu chắt ba đời kính bái ngoại gia Tên ông được đặt cho con đường tại TPHCM và Hà Nội, nhưng hiện nay đang bị viết sai thành Nguyễn Thiệp. Dòng họ Nguyễn làng Cương Gián Thủy tổ Nguyễn Hợp, Khởi tổ Nguyễn Khai, Khải tổ Nguyễn Hội đều là tổ tiên của La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp... Sách tham khảo Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập 3). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992. Nguyễn Lộc, mục từ "Nguyễn Thiếp" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003. Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (tập 2). Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1967. Chú thích Quan lại nhà Tây Sơn Nhà giáo Việt Nam thời Lê trung hưng Nhà giáo Việt Nam thời Tây Sơn Nhà giáo Việt Nam thời Nguyễn Người Hà Tĩnh Sinh năm 1723 Mất năm 1804 Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Lê Văn Thiêm (1918-1991) là tiến sĩ toán học đầu tiên của Việt Nam, giáo sư toán học và là một trong số các nhà khoa học tiêu biểu nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông nghiên cứu chủ yếu về lý thuyết các hàm phân hình, diện Riemann và một số vấn đề về toán học ứng dụng. Lê Văn Thiêm được chính phủ Việt Nam phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 vào năm 1996 và Huân chương Độc lập hạng nhất về những công trình toán học đặc biệt xuất sắc. Tiểu sử Ông sinh ngày 29 tháng 3 năm 1918 tại xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Năm 1939, ông thi đỗ thứ nhì trong kỳ thi kết thúc lớp P.C.B (Lý - Hoá - Sinh) và được cấp học bổng sang Pháp du học tại trường đại học sư phạm Paris (école Normale Supérieure). Học tập và nghiên cứu tại châu Âu Người ta đã phải mất rất nhiều công sức tìm hiểu mới có thể tìm tư liệu về GS Lê Văn Thiêm giai đoạn 1943-1946, nhưng lại không có nhiều thông tin về thời kỳ 1946-1949. Nhờ vào hai Giáo sư H. Esnault và E. Viehweg từ Đại học tổng hợp Essen, Đức, mới biết được thời gian GS Lê Văn Thiêm ở Đức. Ông tốt nghiệp Thạc sĩ năm 1943 tại Paris, sau đó ông sang làm luận án Tiến sĩ tại Đại học Göttingen (Đức) với học bổng của Quỹ Alexander von Humboldt dưới sự hướng dẫn của nhà toán học Hans Wittich. Luận án Tiến sĩ Toán học của ông về giải tích phức được bảo vệ thành công năm 1945 tại Đại học Göttingen với hồ sơ bảo vệ số Math.Nat.Prom. 0728. Tên của luận án là "Über die Bestimmung des Typus einfach zusammenhängender offener Riemannscher Flächen", tạm dịch: "Về việc xác định kiểu của một diện Riemann mở đơn liên". Buổi bảo vệ được tổ chức vào ngày 4/4/1945, sau đó bằng tiến sĩ được trao vào ngày 8/4/1946 với điểm đánh giá trung bình: Giỏi. Ông được xem là người Việt Nam đầu tiên có bằng Tiến sĩ Toán học. Ông tiếp tục bảo vệ luận án Tiến sĩ Quốc gia ở Pháp năm 1949 tại Đại học Paris 11 với luận văn có nhan đề là "Sur le problème d'inversion dans la théorie de la distribution des valeurs des fonctions méromorphes", tạm dịch: "Về bài toán ngược trong lý thuyết phân phối giá trị các hàm phân hình". Ông có một thời gian làm việc cùng với GS. Rolf Herman Nevanlinna tại Đại học Zurich, Thụy Sĩ cho tới năm 1949. Về nước Năm 1949, theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, GS. Lê Văn Thiêm từ bỏ địa vị khoa học của mình ở Zurich để về nước tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu giành độc lập cho dân tộc. Ông đã trở về nước qua đường bay Paris - Băng Cốc, rồi từ Băng Cốc bằng đường bộ qua Campuchia về rừng U Minh, khu 9 miền Nam tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác tại Sở Giáo dục Nam Bộ từ ngày 19 tháng 12 năm 1949. Trong thời gian công tác ở khu 9, Lê Văn Thiêm đã được GS. Hoàng Xuân Nhị giới thiệu vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Một Việt kiều, mới về nước có 4 tháng, đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản, đây là điều hiếm thấy. Sau thắng lợi vang dội của chiến dịch Biên giới năm 1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẩn trương chuẩn bị lực lượng cán bộ khoa học cho việc kiến thiết đất nước sau ngày toàn thắng. Tháng 7.1950, Đề án giáo dục được thông qua nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu của thời kỳ cách mạng mới. Từ năm học 1950 - 1951, trong điều kiện khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từng bước hình thành ba trung tâm đại học: trung tâm Việt Bắc gồm các trường: Đại học Y, Ban quân dược, Cao đẳng Công chính, Cao đẳng Mỹ thuật; trung tâm Thanh - Nghệ với hai phân hiệu Khoa học Xã hội và Khoa học Tự nhiên; Khu học xá Trung ương (đặt nhờ tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc) đào tạo cán bộ khoa học và giáo viên trung học. Năm 1951, Lê Văn Thiêm được Chính phủ điều động từ Nam Bộ ra Việt Bắc để nhận nhiệm vụ mới. Ông đã phải lội bộ 6 tháng theo đường rừng để ra đến Việt Bắc. Ông được giao nhiệm vụ xây dựng Trường Khoa học Cơ bản và Trường Sư phạm Cao cấp, được cử giữ chức vụ Hiệu trưởng của hai trường này và giảng dạy môn Cơ học lý thuyết. (khi đó có tên là Đại học Sư phạm Khoa học) và Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội (khi đó có tên là Đại học Khoa học Cơ bản) (1951-1954). Ông là Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học, chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Việt Nam và tổng biên tập đầu tiên của hai tạp chí toán học Việt Nam là tạp chí "Acta Mathematica Vietnamica" và "Vietnam Journal of Mathematics". Ông giữ vị trí đại diện toàn quyền của Việt Nam tại Viện Liên hợp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna, Liên Xô (1956 – 1980). Ông mất ngày 3 tháng 7 năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu khoa học Giáo sư Lê Văn Thiêm là một tài năng toán học xuất sắc, là người có công đầu đặt nền móng xây dựng và phát triển nền toán học Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của ông, Viện Toán học đã trở thành một trung tâm toán học được thế giới biết đến của Việt Nam. Ông là một trong những người đầu tiên giải được bài toán ngược của lý thuyết phân phối giá trị hàm phân hình, hiện nay trở thành kết quả kinh điển trong lý thuyết này. GS. Lê Văn Thiêm có đóng góp lớn trong việc thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế giữa các nhà toán học Việt Nam và các nhà toán học thế giới. Ông đã đưa Hội Toán học Việt Nam tham gia vào Hội Toán học quốc tế với tư cách là thành viên chính thức, đưa Viện Toán học tham gia vào Trung tâm Toán học quốc tế Banach (Ba Lan). Nhờ mối quan hệ tốt và uy tín khoa học của ông mà nhiều nhà toán học có tên tuổi trên thế giới như Laurent Schwartz, Alexander Grothendieck, Stephen Smale và Chomsky (Mỹ)... đã sang Việt Nam và nhiệt tình giúp đỡ, cộng tác với các nhà toán học Việt Nam. Năm 1963, nghiên cứu công trình về ứng dụng hàm biến phức trong lý thuyết nổ, vận dụng phương pháp Lavrentiev, giáo sư Thiêm cùng các học trò tham gia giải quyết thành công một số vấn đề thực tiễn ở Việt Nam như: Tính toán nổ mìn buồng mỏ đá Núi Voi lấy đá phục vụ xây dựng khu gang thép Thái Nguyên (1964) Phối hợp với Cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng lập bảng tính toán nổ mìn làm đường (1966) Phối hợp với Viện Thiết kế Bộ Giao thông Vận tải tính toán nổ mìn định hướng để tiến hành nạo vét kênh Nhà Lê từ Thanh Hoá đến Hà Tĩnh (1966 – 1967) Ông đã ứng dụng hàm biến phức sang các lĩnh vực khác như: lý thuyết đàn hồi, chuyển động của chất lỏng nhớt. Kết hợp nghiên cứu lý thuyết với ứng dụng, Lê Văn Thiêm đề xuất một phương pháp độc đáo sử dụng nguyên lý thác triển đối xứng của hàm giải tích để tìm nghiệm tường minh cho bài toán thấm trong môi trường không đồng chất. Công trình này được đánh giá cao, được đưa vào cuốn sách chuyên khảo "The Theory of Groundwater Movement" (Lý thuyết chuyển động nước ngầm) của nữ Viện sĩ người Nga P.Ya.Polubarinova Kochina, xuất bản ở Moskva năm 1977. Ông đã cùng với các cộng sự ở Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam dùng toán học để góp phần giải quyết các vấn đề như: Tính toán nước thấm và chế độ dòng chảy cho các đập thủy điện Hòa Bình, Vĩnh Sơn Tính toán chất lượng nước cho công trình thủy điện Trị An Ông đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996. Các công trình Toán học Ông cùng với Phạm Tỉnh Quát được xem là những người Việt Nam đầu tiên có công bố quốc tế về Toán học hiện đại. Các công trình sắp theo thứ tự thời gian đó là Le-Van, Thiem Beitrag zum Typenproblem der Riemannschen Flächen. (German) Comment. Math. Helv. 20, (1947). 270–287.  Thiem, Le Van Le degré de ramification d'une surface de Riemann et la croissance de la caractéristique de la fonction uniformisante. (French) C. R. Acad. Sci. Paris 228,(1949). 1192–1195. Thiem, Le Van Un problème de type généralisé. (French) C. R. Acad. Sci. Paris 228, (1949). 1270–1272.  Thiem, Le-Van Über das Umkehrproblem der Wertverteilungslehre. (German) Comment. Math. Helv. 23, (1949). 26–49. Thiem, Le Van Sur un problème d'inversion dans la théorie des fonctions méromorphes. (French) Ann. Sci. École Norm. Sup. (3) 67, (1950). 51–98. Le Van Thʹem On the type of Riemann surfaces defined by the linear substitution group. (Russian) Sibirsk. Mat. Ž. 5 (1964) 853–857. Lê Van Thiêm Sur un problème d'infiltration à travers un sol à deux couches.(French) Acta Sci. Vietnam. 1 (1964) 3–9. Lê Van Thiêm Sur l'existence d'un potentiel automorphe borné. (French) Acta Sci. Vietnam. 2 (1965) 1–4. Lê Văn Thiêm; Hoàng Đình Dung; Ngô Văn Lu'ọ'c Les fonctions-analytiques et le mouvement des liquides visqueux à symétrie axiale. Acta Sci. Vietnam. 9/10 (1974), 24–33. Lê Văn Thiêm; Hoàng Đình Dung Ecoulement plan des fluides visqueux en régime d'Oseen. (French) Acta Math. Vietnam. 2 (1977) 23-33. Lê Văn Thiêm; Hô Van Hoà Sur certaines relations entre les coefficients binômiaux. (French) Acta Math. Vietnam. 3 (1978), no. 2, 29–34. Lê Văn Thiêm; Hô Van Hoà Sur certaines sommes binomiales. (French) Acta Math. Vietnam. 5 (1980), no. 1, 178–179 (1981). Lê Văn Thiêm On an expression for the velocity component in the Oseen regime.(Vietnamese) Tạp chí Toán học 9 (1981), no. 2, 10–16. Lê Văn Thiêm Sur la vitesse d'écoulement plan en régime d'Oseen. (French) [Velocity of Oseen plane flow] Acta Math. Vietnam. 6 (1981), no. 1, 95–100 (1982). Ông chủ biên nhiều sách về toán học. Trong đó có 2 cuốn sách chuyên khảo: Một số vấn đề toán học trong lý thuyết đàn hồi (1970) và Một số vấn đề toán học chất lỏng nhớt (1970). Vinh danh Giải thưởng Lê Văn Thiêm của Hội Toán học Việt Nam dành cho những người nghiên cứu, giảng dạy toán và học sinh giỏi toán xuất sắc ở Việt Nam được trao hàng năm. Năm 2007, UBND thành phố Hà Nội có quyết định đặt tên phố Lê Văn Thiêm nối từ đường Lê Văn Lương cắt ngang qua phố Ngụy Như Kon Tum đến phố Nguyễn Huy Tưởng. Lê Văn Thiêm là nhà Toán học Việt Nam đương đại đầu tiên được đặt tên đường. Trước đây đã có hai đường mang tên Lương Thế Vinh và Vũ Hữu là hai nhà Toán học từ thế kỷ XV ở Việt Nam được đặt ở Hà Nội. Hai tuyến đường mang tên hai nhà toán học trên nằm trên phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm và phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân, rất gần với tuyến đường đặt tên ông ở phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân. Lê Văn Thiêm cũng là tên của trường Trung học cơ sở ở thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, tiền thân là trường năng khiếu thị xã Hà Tĩnh. Ngôi trường luôn là lá cờ đầu trong công tác thi đua dạy và học khối THCS trong toàn tỉnh.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (viết tắt là BCHTW hoặc BCHTƯ) là cơ quan lãnh đạo thường trực cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, bầu ra bởi Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức 5 năm một lần. BCHTW hiện tại là khóa XIII. Theo thủ tục chính thức thì BCHTW bầu ra người đứng đầu là Tổng Bí thư và các thành viên khác trong Bộ Chính trị. Thông thường, BCHTW tổ chức họp Hội nghị từ hai tới ba lần một năm. Các thành viên của BCHTW được gọi là Ủy viên Trung ương Đảng, số lượng do từng lần Đại hội quyết định. Năm 1976 sau Đại hội IV thì số ủy viên là 101 người. Đến Đại hội VIII thì số ủy viên tăng lên 170. Đại hội khóa X bầu ra 160 ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự khuyết. Đến Đại hội XI (2011) gồm 175 ủy viên chính thức và 25 ủy viên dự khuyết. Đại hội XII (2016) bầu ra 180 ủy viên chính thức và 20 ủy viên dự khuyết. Con số này được duy trì ở Đại hội XIII (2021). Nhiệm vụ Tổ chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc; quyết định những chủ trương, chính sách về đối nội, đối ngoại, công tác quần chúng và công tác xây dựng đảng; chuẩn bị Đại hội Đại biểu toàn quốc nhiệm kỳ tiếp theo, Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường (nếu có). Bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí thư trong số Ủy viên Bộ Chính trị; thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số Ủy viên Ban Bí thư do BCHTW bầu trong số Ủy viên BCHTW và một số Ủy viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công; bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương; bầu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương trong số Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Quyết định số lượng Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư và Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Bỏ phiếu tín nhiệm Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư giữa nhiệm kỳ. Quyết định một số vấn đề nhân sự khác theo thẩm quyền như cho thôi chức Ủy viên Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Triệu tập Đại hội Đại biểu toàn quốc thường lệ 5 năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm. Khi Ban Chấp hành Trung ương xét thấy cần hoặc khi có hơn một nửa số cấp Ủy trực thuộc yêu cầu thì BCHTW triệu tập Đại hội Đại biểu toàn quốc bất thường. BCHTW có thẩm quyền giới thiệu người ra ứng cử Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ để Quốc hội thảo luận và phê chuẩn , tham gia ý kiến về nhân sự Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội và các thành viên Chính phủ. Theo Điều lệ Đảng thì BCHTW quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả Ủy viên BCHTW, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị. Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý nhưng không phải là Ủy viên BCHTW. Bộ Chính trị có thẩm quyền kỷ luật khiển trách, cảnh cáo Ủy viên BCHTW vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Trong trường hợp cách chức hoặc khai trừ, Bộ Chính trị báo cáo BCHTW xem xét, quyết định. Điều lệ Đảng sửa đổi năm 2011 có quy định mới mở rộng quyền BCHTW "căn cứ tình hình thực tế quyết định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới". Theo quy định hiện hành thì BCHTW có quyền xem xét về vấn đề Hiến pháp, trước khi Quốc hội thông qua. Phương thức làm việc Phiên họp thường kỳ của BCHTW được gọi Hội nghị Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương làm việc theo chương trình toàn khóa và hàng năm (điều chỉnh khi cần thiết). Ban Chấp hành Trung ương họp thường lệ 6 tháng một lần. Khi Bộ Chính trị thấy cần thiết hoặc khi có trên một nửa số Ủy viên BCHTW đề nghị thì Bộ Chính trị quyết định triệu tập Hội nghị Trung ương bất thường. Chủ tọa các Hội nghị Trung ương là những Ủy viên Bộ Chính trị đảm nhiệm các chức danh: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Thành viên Các Ủy viên BCHTW thường gồm các quan chức cấp cao trong bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Những chức vụ được liệt kê đảm bảo là "chức vụ khi được bầu" và "tiếp tục giữ chức vụ đó". BCHTW xem xét việc chuyển Ủy viên BCHTW dự khuyết có đủ điều kiện để thay thế Ủy viên Trung ương chính thức khi khuyết. Quyền hạn của các Ủy viên BCHTW theo quy định của Đảng, bao gồm tham gia quyết định các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền BCHTW, và các quyền khác. Các Ủy viên dự khuyết không có quyền biểu quyết. Tại kỳ họp 6 CHTW khóa XI đã bàn và quyết nghị quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, với các tiêu chuẩn được đặt ra với Ủy viên BCHTW, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Theo quy định hiện hành thì hàng năm, sẽ lấy phiếu tín nhiệm các thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, với đối tượng ghi phiếu tín nhiệm là các Ủy viên BCHTW.. Trách nhiệm và nhiệm vụ Tham gia các tiểu ban, các Hội đồng tư vấn của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; có trách nhiệm xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong địa phương và ngành phụ trách. Đề xuất với BCHTW cụ thể hóa đường lối của Đảng, trước hết là trong các lĩnh vực công tác được phân công, quán triệt các quyết định của Trung ương trong đơn vị. Các Ủy viên Trung ương công tác trong các cơ quan nhà nước có trách nhiệm lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng; khi giải quyết công việc, không lấy danh nghĩa thay mặt Trung ương, trừ trường hợp được Trung ương ủy nhiệm. Chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ Đảng viên, công dân,... Báo cáo với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công và xin ý kiến về những chủ trương, chính sách lớn. Chủ động báo cáo và đề xuất những vấn đề quan tâm với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và BCHTW Có quyền được thông tin, chất vấn hoạt động của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cá nhân Ủy viên Trung ương khác và phải được trả lời. Có quyền ứng cử, đề cử vào Bộ Chính trị, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, vào các chức vụ Tổng Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương và xin rút khỏiBCCHHTTW, các cơ quan lãnh đạo và chức danh trên. Cơ quan tham mưu giúp việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng có các cơ quan tham mưu giúp việc là: Văn phòng Trung ương Đảng Ban Tổ chức Trung ương Ban Tuyên giáo Trung ương Ban Dân vận Trung ương Ban Đối ngoại Trung ương Ban Kinh tế Trung ương Ban Nội chính Trung ương Ban Bảo vệ, Chăm sóc Sức khỏe Cán bộ Trung ương Ủy ban Kiểm tra Trung ương Hội đồng Lý luận Trung ương Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Hiện có bốn cơ quan đào tạo cán bộ, nghiên cứu, báo chí, xuất bản. Về mặt tổ chức, các cơ quan này tương đương với các Ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Báo Nhân dân Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Tạp chí Cộng sản Các Đảng ủy cơ quan trực thuộc Quân ủy Trung ương Đảng ủy Công an Trung ương Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc trung ương Ban Chấp hành Trung ương trước Đại hội lần thứ nhất của Đảng Ban Chấp hành Trung ương lâm thời thành lập sau Hội nghị thành lập đảng tháng 2 năm 1930 có: Trịnh Đình Cửu (Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam), Nguyễn Hới, Trần Văn Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Phạm Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt, Lưu Lập Đạo (bổ sung), sau đến tháng 7 bổ sung thêm Trần Phú. Ít lâu sau hội nghị trên, Trịnh Đình Cửu xin rút khỏi Ban Chấp hành Trung ương lâm thời để nhận công tác ở Xử Ủy Bắc Kỳ. Một số bị Pháp bắt sau đó (Nguyễn Hới, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lầu, sau Nguyễn Hới hi sinh). Xứ Ủy Nam Kỳ cử Nguyễn Trọng Nhã và Ngô Đức Trì tham gia Ban Chấp hành TW lâm thời. Sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất tháng 10 năm 1930, Ban Chấp hành Trung ương gồm 6 Ủy viên: Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, Trần Văn Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao. Tổng Bí thư: Trần Phú. Phong trào nổi dậy 1930-1931, nổi bật là Xô-viết Nghệ Tĩnh bị Pháp đàn áp. Tổ chức của đảng bị tan vỡ, kể cả Ban Chấp hành TW, Trần Phú, Trần Văn Lan, Nguyễn Phong Sắc... hi sinh. Cuối năm 1931, Lê Hồng Phong trở về Trung Quốc bắt liên lạc với cán bộ Việt Nam ở nước ngoài như: Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ... mục đích lập lại Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng và thảo chương trình hành động của Đảng. Tháng 3 năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài được thành lập gồm có Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Dựt do Lê Hồng Phong làm Bí thư. Sau đó còn có thêm các người khác như Phùng Chí Kiên. Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng trước Đại hội I có chức năng như là Ban chấp hành Trung ương Lâm thời và được Quốc tế cộng sản công nhận, quy định rõ chức năng nhiệm vụ. Chú thích
Laura Lane Welch Bush (sinh ngày 4 tháng 11 năm 1946) là vợ của cựu Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush, và là Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ từ 2001 đến 2009. Từ lúc còn niên thiếu, Laura đã thích đọc sách. Sau khi tốt nghiệp Đại học Southern Methodist năm 1968 với văn bằng Cử nhân Giáo dục và Đại học Texas tại Austin với học vị Thạc sĩ Khoa học Thư viện, cô lần lượt đảm nhận công việc giáo viên lớp hai, sau đó là thủ thư. Năm 1977, Laura gặp George Walker Bush và kết hôn trong năm sau. Họ có hai cô con gái sinh đôi. Sau khi kết hôn, Laura Bush bắt đầu tham gia các hoạt động chính trị. Bà vận động cho chồng khi ông tranh cử (nhưng thất bại) vào Quốc hội Hoa Kỳ năm 1978. Trong cương vị Đệ Nhất Phu nhân Texas, Bush khởi xướng nhiều đề án trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và xóa mù chữ. Năm 1999, bà tích cực vận động cho chồng trong cuộc đua vào Nhà Trắng, nổi bật nhất là bài diễn văn thu hút sự chú ý của công luận bà đọc trước Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 2000. Laura Bush trở thành Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ sau khi chồng bà đánh bại ứng cử viên Đảng Dân chủ Al Gore trong cuộc bầu cử có kết quả sít sao năm 2000. Là một trong những Đệ Nhất Phu nhân được yêu thích nhất, Laura Bush hoạt động tích cực trong các lĩnh vực bà đặc biệt quan tâm: giáo dục và xóa mù chữ. Từ năm 2001, bà tổ chức Lễ hội Sách Quốc gia nhằm khuyến khích giáo dục trên quy mô toàn cầu. Qua các tổ chức The Heart Truth và Susan G. Komen for the Cure, bà vận động cho các đề án giáo dục sức khỏe cho phụ nữ. Trong những chuyến công du hải ngoại, bà thường tập chú vào các vấn đề như HIV/AIDS và bệnh sốt rét. Tuổi trẻ Laura Lane Welch chào đời tại Midland, Tiểu bang Texas, là con duy nhất của Harold Bruce Welch (1912-1995) và Jenna Louise Hawkins (sinh năm 1919). Từ một người xây dựng nhà ở, cha của Laura trở thành một nhà kinh doanh bất động sản thành công, trong khi mẹ cô đảm nhiệm công việc kế toán cho doanh nghiệp của chồng. Từ khi còn bé, Laura được cha mẹ khuyến khích đọc sách, dần dà hình thành thói quen yêu thích sách. Cô kể lại, "Tôi học biết từ mẹ tôi tầm quan trọng của thói quen đọc sách. Từ khi còn bé, mẹ vẫn thường đọc truyện cho tôi nghe. Từ đó tôi thích sách và thường xuyên tới thư viện. Đến hè, tôi thường dành cả buổi chiều đọc sách trong thư viện. Tôi thích quyển Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên, Little Women, và các quyển khác... Thói quen đọc sách sẽ đem đến cho bạn niềm vui thú suốt cuộc đời." Laura nhập học Trường Tiểu học James Bowie, rồi các trường trung học San Jacinto Junior và Midland Lee tại Midland. Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1964, cô theo học Đại học Southern Methodist ở Dallas, và ra trường năm 1968 với văn bằng Cử nhân Khoa học chuyên ngành Giáo dục. Năm 1963, Laura dính líu vào một tai nạn xe hơi khi xe cô đâm vào một chiếc xe khác làm thiệt mạng Michael Dutton Douglas, một bạn học cùng lớp. Theo hồ sơ lưu trữ của Midland, không ai say rượu khi điều khiển phương tiên giao thông, và cũng không có ai bị truy tố. Theo người phát ngôn của Bush, "Đây là một tai nạn thương tâm ảnh hưởng sâu sắc đến các gia đình và mọi người liên quan, kể cả cộng đồng nói chung. Cho đến nay, bà Bush vẫn giữ im lặng về vụ việc này." Sinh viên, Giáo viên, Thủ thư Năm 1968, Welch đậu bằng Cử nhân Khoa học chuyên ngành Giáo dục tại Đại học Southern Methodist ở Dallas. Sau khi tốt nghiệp, Welch đến dạy tại Trường Tiểu học Longfellow thuộc Khu Học chính Độc lập Dallas cho đến năm 1969. Sau đó, cô dành ba năm dạy học tại Trường Tiểu học John F. Kennedy ở Houston, cho đến năm 1972. Năm 1973, Welch nhận học vị Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học Thư viện tại Đại học Texas tại Austin. Sau đó, cô đảm nhiệm vị trí thủ thư tại Chi nhánh Kashmere Gardens của Thư viện Công Houston cho đến năm 1974, khi cô trở về Austin. Ở đây cô nhận nhiệm vụ thủ thư cho Khu Học chính Độc lập Austin, Trường Tiểu học Dawson cho đến năm 1977. Khi nhắc đến kinh nghiệm làm việc với một nhóm trẻ em trong năm 2003, Bush nói, "Từng là cô giáo rồi thủ thư, tôi học biết tầm quan trọng của thói quen đọc sách trong nhà trường và trong cuộc sống." Hôn nhân và Gia đình Laura Welch và Georg W. Bush gặp nhau năm 1977 khi họ cùng đến dự một bữa tiệc thịt nướng ngoài trời (barbecue) tại sân sau nhà của một cặp vợ chồng là bạn của cả hai người. Sau ba tháng tìm hiểu, ngày 5 tháng 11 năm 1977, Welch và Bush tổ chức hôn lễ tại một nhà thờ thuộc Giáo hội Giám Lý Hiệp nhất ở Midland, đây cũng là nơi Welch đã chịu lễ báp têm. Năm 1981, Laura Bush sinh đôi hai cô con gái, Barbara và Jenna. Năm 2000, cả hai đều tốt nghiệp trung học rồi theo học Đại học Yale và Đại học Texas tại Austin năm 2004. George W. Bush nói rằng chính Laura đã giúp ông đi đến quyết định bỏ rượu trong năm 1986. Bush cũng tin rằng bà là người có nhiều ảnh hưởng trong nỗ lực ổn định cuộc sống riêng tư của ông. Theo Jane Simms Podesta, phóng viên tạp chí People, "Bà là hậu phương vững chắc của ông. Bà là ảnh hưởng tốt đẹp trên tâm tính ông. Tôi nghĩ rằng, bằng nhiều phương cách, bà đã xây dựng ông trở nên con người như ngày hôm nay." Dù phải bận rộn chăm sóc con, Laura Bush vẫn tham gia, như là một thiện nguyện viên, một số tổ chức như Bạn của Thư viện Công Midland, Ban Quản trị Đội Thiếu nhi Midland, Ban Quản trị Bạn của Thư viện Công Dallas, Hiệp hội Phụ huynh Học sinh và Giáo viên Trường Tiểu học Preston Hollow, Ban Quản trị Thành viên Cộng đồng Ban Bảo vệ Trẻ em. Mỗi năm vài lần, Laura cùng chồng trở về lãnh địa rộng lớn của gia tộc, Gia trang Bush. Tọa lạc ở Kennebunkport, tiểu bang Maine, gia trang là nơi họp mặt thường xuyên của Gia tộc Bush từ gần 100 năm qua. Đệ Nhất Phu nhân Texas Laura Bush trở nên Đệ Nhất Phu nhân Texas từ năm 1995 đến năm 2000, khi chồng bà đắc cử Thống đốc tiểu bang Texas. Khi được hỏi có quan tâm đến chính trị không, bà trả lời, "Nó không thu hút tôi." Suốt thời gian lưu trú ở Dinh Thống đốc Texas, bà không đứng ra tổ chức một sự kiện chính thức nào. Tuy nhiên, trong cương vị Đệ Nhất Phu nhân, Laura Bush hoạt động tích cực cho phúc lợi của phụ nữ và trẻ em trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và xóa mù chữ. Qua Lễ hội Sách Texas, bà gây quỹ cho các thư viện, thành lập Đề án Xoá mù chữ Gia đình của Đệ Nhất Phu nhân, khuyến khích các gia đình cùng đọc sách với nhau. Bà thành lập các chương trình Adopt-a-Caseworker nhằm hỗ trợ cho Dịch vụ Bảo vệ Trẻ em. Laura Bush cũng sử dụng vị thế của mình để vận động công luận quan tâm đến các căn bệnh Alzheimer và ung thư vú. Đến giữa năm 1999, bà đồng ý để chồng ra tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ, dù bảo cho ông biết bà chưa bao giờ mơ thấy ông làm điều này. Diễn văn Laura Bush trình bày trước đại biểu về dự Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 2000 đã biến bà thành một nhân vật được chú ý bởi công luận toàn quốc. Tháng 12 năm 2000, sau khi có kết quả chung cuộc cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, chồng bà từ nhiệm thống đốc bang Texas để chuẩn bị cho lễ nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 2001, thời điểm Laura Bush trở nên Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ. Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ Trong cương vị Đệ Nhất Phu nhân, Laura Bush hoạt động tích cực trong các lĩnh vực giáo dục và sức khoẻ phụ nữ, cả trong và ngoài nước. Các sáng kiến quan trọng của bà đều liên quan đến giáo dục và sức khỏe phụ nữ. Giáo dục và Trẻ em Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Bush cho biết bà đặc biệt quan tâm đến các vấn đề giáo dục, trong đó có việc tuyển dụng giáo viên giỏi để bảo đảm rằng trẻ em sẽ tiếp nhận một nền giáo dục chất lượng cao. Bà cũng chú trọng đến sự phát triển của trẻ trong giai đoạn đầu đời. Năm 2001, nhắm đến mục tiêu cổ xúy thói quen đọc sách và giáo dục, bà cộng tác với Thư viện Quốc hội khởi xướng Lễ hội Sách Quốc gia được tổ chức hằng năm, và Đề án Quốc ca nhằm phát huy tinh thần ái quốc trong học đường. Ngay sau sự kiện 11 tháng 9, Laura Bush bày tỏ sự quan tâm dành cho trẻ em trên khắp nước Mỹ, Chúng ta cần biết chắc rằng trẻ em đang được an toàn ngay trong nhà mình và trong trường học. Chúng ta cần biết chắc rằng có nhiều người yêu thương chúng và chăm sóc chúng, và rằng dù có những kẻ xấu trên khắp thế giới thì số người tốt còn đông đảo hơn nhiều." Ngày hôm sau, bà viết những bức thư mở gởi đến các gia đình Mỹ, đặc biệt là cho học sinh trung tiểu học. Bà quan tâm đến việc làm giảm nhẹ hiệu ứng cảm xúc của vụ tấn công tác động đến trẻ em nhất là khi những hình ảnh kinh hoàng xuất hiện nhiều lần trên truyền hình. Vào dịp kỷ niêm một năm sự kiện 11/9, bà khuyên các phụ huynh nên đọc truyện cho trẻ, hoặc thắp nến để tưởng niệm, nhưng "đừng để trẻ xem những hình ảnh về sự kiện 11 tháng 9 khi quý vị biết rằng chúng sẽ được chiếu trên truyền hình nhiều lần - hình ảnh máy bay đâm thẳng vào tòa nhà hoặc hình ảnh những cao ốc đang đổ xuống." Đến cuối nhiệm kỳ, Laura Bush được Liên Hợp Quốc vinh danh khi tổ chức quốc tế này đề cử bà làm đại sứ cho Thập niên Xóa mù chữ Liên Hợp Quốc. Trong cương vị này, bà cho biết sẽ chủ tọa Hội nghị Xóa mù chữ Toàn cầu, được tổ chức vào tháng 9 năm 2006 nhằm khuyến khích những nỗ lực bền bỉ vận động cho công cuộc xóa mù chữ và quảng bá những hoạt động thành công trong nỗ lực này. Một trong những động lực thúc đẩy Bush phối hợp tổ chức hội nghị là những ích lợi trẻ em ở những nước nghèo thụ hưởng sau khi được xóa mù chữ mà bà từng chứng kiến trong những chuyến du hành hải ngoại. Sức khỏe Phụ nữ Một lĩnh vực khác mà Laura Bush tham gia tích cực là các vấn đề liên quan đến sức khỏe và phúc lợi cho phụ nữ. Bà thành lập tổ chức Women's Health and Wellness Initiative cũng như tham dự vào hai chiến dịch chính của tổ chức này. Lần đầu tiên bà đến với cuộc vận động của The Heart Truth là vào năm 2003. Đây là một tổ chức trực thuộc Viện Tim Phổi và Huyết học Quốc gia. Mục tiêu của chiến dịch là nâng cao nhận thức về bệnh tim mạch ở phụ nữ và phương pháp phòng tránh. Việc bà nhận làm đại sứ danh dự cho chương trình đã dẫn đến những nỗ lực của chính phủ liên bang kêu gọi phụ nữ quan tâm đến những nguy cơ của bệnh tim mạch. Bush nhận xét về căn bệnh, "Giống nhiều phụ nữ khác, tôi vẫn nghĩ rằng bệnh tim mạch là bệnh của nam giới, bệnh ung thư mới là điều chúng ta nên quan tâm nhiều nhất. Nhưng trên đất nước chúng ta, bệnh tim mạch giết chết nhiều phụ nữ hơn tất cả bệnh ung thư cộng lại. Đối với căn bệnh này thì giáo dục sức khỏe, phương pháp phòng tránh, và ngay cả một bộ trang phục màu đỏ cũng có thể cứu được nhiều mạng sống." Bà đi khắp đất nước để chuyện trò với những phụ nữ đang hoặc từng mắc bệnh tim mạch. Tháng 5 năm 2005 tại Trung tâm Nghệ thuật Trình diễn John F. Kennedy, cùng với cựu Đệ Nhất Phu nhân Nancy Reagan, Bush trao tặng bộ sưu tập trang phục đỏ của các Đệ Nhất Phu nhân. Đây là cuộc triển lãm các bộ trang phục màu đỏ của các Đệ Nhất Phu nhân Lady Bird Johnson, Betty Ford, Rosalynn Carter, Nancy Reagan, Barbara Bush, Hillary Clinton và Laura Bush, là cơ hội cho các Đệ Nhất Phu nhân qua các thời kỳ khác nhau đóng góp vào nỗ lực nâng cao ý thức cộng đồng đối với bệnh tim mạch ở phụ nữ. Mẹ của Bush, Jenna Welch, ở tuổi 78 bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, và Laura Bush hoạt động tích cực giúp phòng tránh căn bệnh này bằng cách tham gia tổ chức Susan G. Komen for the Cure. Bà nhận xét, "Chỉ vài năm trước đây thôi, bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú nghĩa là ít có cơ hội để phục hồi. Nhưng nhờ những nỗ lực của Tổ chức Komen…ngày càng có nhiều phụ nữ và nam giới đang hiệp lực chống chọi với bệnh ung thư vú và cố vượt qua nghịch cảnh. Bà sử dụng vị thế của mình để tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế cho Tổ chức Komen qua the Partnership for Breast Cancer Awareness and Research of the Americas, một đề án nhằm nối kết các chuyên gia từ Hoa Kỳ, Brasil, Costa Rica và México. Tháng 10 năm 2001, Laura Bush là nhân vật đầu tiên không phải tổng thống đã đọc bài diễn văn tổng thống trên sóng phát thanh. Bà sử dụng cơ hội này để nói về hoàn cảnh của phụ nữ tại Afghanistan trong lúc quân đội Mỹ chiếm đóng đất nước này, bà phát biểu, "Áp chế phụ nữ là mục tiêu trọng tâm của bọn khủng bố." Tháng 5 năm 2002, bà đọc một bài diễn văn gởi đến nhân dân Afghanistan trên Đài Phát thanh Tự do, đặt ở Praha, Cộng hoà Czech. Uy tín và Phong cách Laura Bush rất được lòng dân. Trong tháng 1 năm 2006, một cuộc thăm dò dư luận của USA Today/CBS/Gallup chỉ ra rằng có đến 82% người dân Mỹ ủng hộ bà, và chỉ có 13% tỏ ý bất bình, đưa tên bà vào danh sách các Đệ Nhất Phu nhân được yêu thích nhất. Cựu Thư ký Báo chí Nhà Trắng Ari Fleischer nhận xét, "Tại nhiều nơi trên khắp nước, bà ngày càng được yêu thích và được chào đón nồng hậu hơn tổng thống...Trong những cuộc đua mà các ứng viên ôn hòa đối diện với những khó khăn lớn nhất thì Laura Bush là người thích hợp nhất [để hỗ trợ họ]." Theo những chỉ số của các cuộc khảo sát dư luận, uy tín của Laura Bush tiếp tục dâng cao. Trong năm 2006, không đồng ý với Chris Wallace của kênh truyền hình Fox News khi được hỏi tại sao người dân Mỹ bắt đầu đánh mất niềm tin nơi Tổng thống Bush, Laura Bush trả lời, "Tôi không nghĩ như thế. Tôi thực sự không tin tưởng các cuộc thăm dò dư luận. Tôi đã đi khắp đất nước, gặp gỡ nhiều người, tôi chứng kiến phản ứng của họ đối với chồng tôi, đối với tôi. Hiện đang có nhiều thách thức căng thẳng tại Hoa Kỳ...Tất cả quyết định Tổng thống đưa ra cho từng thách thức này đều khó khăn. Chúng là những quyết định khó khăn. Tất nhiên sẽ có người không hài lòng về hệ quả của những quyết định ấy. Nhưng tôi nghĩ người dân biết rằng Tổng thống đang làm điều mà ông tin là đúng cho Hoa Kỳ, rằng ông đang làm điều mà ông nghĩ ông có bổn phận phải làm cho nhân dân Hoa Kỳ, nhất là đối với cuộc chiến chống khủng bố, rằng ông đang cố bảo vệ họ...Khi những chỉ số thăm dò dư luận về ông ở mức cao thì chúng không được đưa lên trang nhất." Tạp chí People, tờ Washington Post và các báo khác đã đánh giá cao Laura Bush về tính trang nhã và khả năng cảm thụ trong thời trang của bà, được thể hiện trong lễ nhậm chức tổng thống lần thứ hai vào tháng 1 năm 2005. Khi ấy bà mặc áo dài vải cashmire trắng đồng bộ với chiếc áo khoác được Oscar de la Renta thiết kế. Ngay sau đó là những buổi lễ hội, trang phục của Laura Bush là áo dài màu nhạt viền ren đính pha lê, tay dài với khăn choàng màu xanh bạc. Chiếc áo dài lụa mềm này cũng được thiết kế bởi de la Renta. Theo nhận xét của tờ Washington Post, "Nó khiến bà trông lộng lẫy và quyến rũ." Công du Suốt trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Bush, Laura quan tâm nhiều hơn đến lãnh vực ngoại giao. Bà đi đến nhiều nước trong tư cách đại diện cho Hoa Kỳ. Trong cương vị Đệ Nhất Phu nhân, bà đã thực hiện năm chuyến công du thiện chí đến châu Phi. Dù mục đích chính của các chuyến đi là nâng cao nhận thức về HIV/AIDS và bệnh sốt rét, Bush cũng nhấn mạnh đến nhu cầu giáo dục và cung ứng nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ. Bà cũng có nhiều chuyến công du đến các quốc gia khác nhằm vận động và tìm kiếm sự hậu thuẫn cho Kế hoạch Khẩn cấp Chữa trị AIDS của Tổng thống Bush, trong đó có Zambia (2007), Mozambique (2007), Mali (2007), Mali (2007), Senegal (2007), và Haiti (2008). Trong chuyến thăm Myanmar vào giữa năm 2007, Bush lên tiếng ủng hộ phong trào dân chủ, cũng như kêu gọi binh sĩ và dân quân Miến Điện tránh sử dụng bạo lực. Đến tháng 10, bà đến Trung Đông trong nỗ lực cải thiện hình ảnh nước Mỹ bằng cách đánh động sự quan tâm của công chúng đối với sức khỏe phụ nữ, nhất là căn bệnh ung thư vú. Miêu tả chuyến đi là một thành công, bà nói những định kiến từ hai phía đã bị phá vỡ. Quan điểm về Chính sách Bush là thành viên Đảng Cộng hòa từ khi bà kết hôn. Nhìn chung, bà theo đuổi các quan điểm truyền thống. Trong năm 2000, khi được hỏi về quyền phá thai Bush nói rằng bà không nghĩ là cần phải đảo ngược vụ án Roe v. Wade, cũng không bình phẩm gì về việc phụ nữ có quyền phá thai hay không. Tuy nhiên, bà tin rằng đất nước cần làm "mọi điều có thể để hạn chế số vụ phá thai, rồi hạ thấp con số này bằng những phương cách như nói chuyện với giới trẻ về trách nhiệm, tuyên truyền các biện pháp kiêng cữ, mở các lớp học về kiêng cữ tại trường học, nhà thờ, và Trường Chúa Nhật." Năm 2006, trả lời trong một cuộc phỏng vấn đề cập đến Tu chính án Liên bang về Hôn nhân, Bush kêu gọi các nhà lãnh đạo dân cử chớ nên chính trị hóa vấn đề hôn nhân đồng tính, "Hiển nhiên là không nên sử dụng nó như là một công cụ vận động tranh cử. Đây là một vấn đề nhạy cảm...rất nhạy cảm. Ngày 12 tháng 7 năm 2005, khi đang công du ở Nam Phi, Laura Bush đề nghị chồng chọn một phụ nữ khác vào vị trí đang khuyết tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ do quyết định nghỉ hưu của nữ thẩm phán Sandra O’ Connor. Ngày 2 tháng 10, trong một bữa ăn tối tại Nhà Trắng với Laura, Tổng thống Bush đã yêu cầu Harriet Miers thế chỗ O’ Connor. Đến cuối tháng, khi những chỉ trích dữ dội nhắm vào Miers, Laura Bush tỏ dấu hoài nghi rằng đằng sau sự chống đối là những định kiến về giới tính. Năm 2004, Laura Bush được tạp chí Forbes chọn là người phụ nữ quyền thế thứ nhì ở Hoa Kỳ, và đứng thứ tư trong danh sách các phụ nữ có nhiều quyền lực nhất thế giới, với nhận xét, "Bush là bàn tay quyền lực ở hậu trường Nhà Trắng. Tổng thống thường nhắc đến bà như là sức mạnh quan trọng nhất hướng dẫn ông trong cuộc sống. Ông cũng cho rằng chính Đệ Nhất Phu nhân đã giúp thay đổi ông, đặt ông vào con đường dẫn đến Nhà Trắng." Chú thích
Đinh Xuân Lâm (4 tháng 2 năm 1925 – 25 tháng 1 năm 2017) là một trong những người góp công đầu xây dựng Bộ môn Lịch sử cận – hiện đại Việt Nam, phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam khóa IV, Chủ tịch Hội đồng khoa học Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam. Ông là một trong "tứ trụ" của nền sử học Việt Nam (Lâm, Lê, Tấn, Vượng). Tiểu sử Ông sinh tại xã Sơn Tân (nay là xã Tân Mỹ Hà), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình quan lại nhà Nguyễn. Từ nhỏ ông theo song thân ra sinh sống và trưởng thành ở Thanh Hóa (cha ông là Tri huyện Yên Định), gắn bó với mảnh đất này như quê hương thứ hai của mình. Sau khi đỗ thành chung, ông học Trường Quốc học Huế và tốt nghiệp tú tài toàn phần ban Triết học văn chương. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, ông là một trong những thầy giáo trung học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1954, ông được chuyển thẳng lên năm thứ 2 Đại học Sư phạm Văn khoa, đồng môn với Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng. Tốt nghiệp thủ khoa xuất sắc, ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy Khoa Lịch sử Đại học Tổng hợp Hà Nội. Dưới sự dìu dắt của thầy Trần Văn Giàu, ông đã góp công đầu xây dựng Bộ môn Lịch sử cận – hiện đại Việt Nam. Tại đây ông đã nghiên cứu và biên soạn các giáo trình như Lịch sử Việt Nam 1897 – 1914 (1957), Hoàng Hoa Thám và phong trào nông dân Yên Thế (1958), Lịch sử Việt Nam cận đại (1959 – 1961). Giáo sư Lâm đã hướng dẫn thành công hơn 30 luận án tiến sĩ trong và ngoài nước, tác giả của hơn 200 công trình nghiên cứu khoa học. Ông mất ngày 25 tháng 1 năm 2017 tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi. Phong tặng Ông được phong học hàm Phó giáo sư năm 1980 và Giáo sư năm 1984, ngành Sử học. Cùng với Giáo sư Nguyễn Lân, ông là một trong hai người ngành Sử đầu tiên được Nhà nước Việt Nam tôn vinh phong tặng Nhà giáo Nhân dân và được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất. Tác phẩm Giáo sư Đinh Xuân Lâm đã viết và đứng tên hơn 370 bài báo, 7 đề tài nghiên cứu khoa học và 90 đầu sách. Một số tác phẩm của ông là: Bộ sách Đại cương lịch sử Việt Nam (Đinh Xuân Lâm chủ biên) Chuyên đề Đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp tại Đông Dương Lịch sử Việt Nam 1897 – 1914" (1957) Hoàng Hoa Thám và phong trào nông dân Yên Thế (1958) Lịch sử Việt Nam cận đại (1959 - 1961) Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục;Danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh Lê Hồng Phong – Người cộng sản kiên cườngNguyễn Văn Cừ – Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Cách mạng Việt Nam; Đảng Cộng sản Việt Nam – những trang sử vẻ vang;Tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập Dân tộc và Chủ nghĩa – Xã hội; Phan Bội Châu (1867 – 1940) con người và sự nghiệp/ Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Trần Ngọc Vương. - H.: Trường ĐHKHXH & NV, 1997. - 406 tr.; 20.5 cm. Làng khoa bảng Tả Thanh Oai (2013)
Tù nhân là người đang bị giam giữ tại một nhà tù. Thường các tù nhân bị giam giữ sau khi bị kết án tù giam. Ngoài ra còn có các loại tù nhân: Tù nhân chiến tranh Tù nhân chính trị, người bị giam giữ do quan điểm chính trị Tù nhân lương tâm
Đại hội Đại biểu toàn quốc là đại hội then chốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập thường lệ 5 năm 1 lần, theo Điều lệ là "cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng". Đại biểu dự đại hội gồm các Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu. Đại biểu chính thức dự Đại hội đại biểu toàn quốc gồm các Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và Đại biểu do Đại hội cấp dưới bầu; Đại biểu dự Đại hội phải được Đại hội thẩm tra tư cách và biểu quyết công nhận. Đại hội Đại biểu toàn quốc bất thường có thể được triệu tập khi Ban Chấp hành Trung ương thấy cần hoặc khi có hơn một nửa số Cấp ủy trực thuộc yêu cầu. Đại biểu dự Đại hội bất thường là các Uỷ viên Trung ương đương nhiệm, đại biểu đã dự Đại hội đại biểu toàn quốc đầu nhiệm kỳ, đủ tư cách. Ở các cấp, cơ quan lãnh đạo cao nhất là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên, với đại biểu tham dự gồm các ủy viên ban chấp hành cấp triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu. Một số kỳ có Đại hội trù bị họp kín một số ngày giải quyết các công việc quan trọng, còn Đại hội chính thức hay có đại biểu quốc tế tham dự, họp công khai. Các Đại hội gần đây bỏ thể lệ này, thường chỉ họp trù bị một ngày để chuẩn bị công việc Đại hội chính. Thông thường, Tổng Bí thư sẽ đọc Báo cáo chính trị tổng kết nhiệm kỳ. Nhiệm vụ Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ vừa qua; Quyết định đường lối, chính sách của Đảng nhiệm kỳ tới; Bầu Ban Chấp hành Trung ương; Số lượng Ủy viên Trung ương chính thức và Ủy viên Trung ương dự khuyết do Đại hội quyết định; Bổ sung, sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần. Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc
Barca có thể có các nghĩa: Barca (Barqa) là một tỉnh và thành phố của đế quốc Byzantine ở Bắc Phi thời Trung Cổ, nằm ở bờ biển phía của Libya ngày nay. Barca, Soria, một đô thị trong tỉnh Soria, Castile-La Mancha, Tây Ban Nha. Barça cũng là tên gọi khác của F.C. Barcelona, một câu lạc bộ thể thao ở Barcelona, Catalonia, Tây Ban Nha với các bộ phận thuộc nhiều môn thể thao khác nhau.
Lê Thanh Lan, tên thánh: Maria Lê Thanh Lan (28 tháng 12 năm 1956 – 3 tháng 6 năm 2001), được biết đến với nghệ danh Ngọc Lan, là một ca sĩ hải ngoại nổi tiếng. Không chỉ với giọng hát, cô còn được khán giả đặc biệt yêu mến vì khuôn mặt khả ái và tính cách nhút nhát, khiêm tốn của mình. Tiểu sử Ngọc Lan tên thật là Lê Thanh Lan, sinh ngày 28 tháng 12 năm 1956 tại Nha Trang (cô còn được gọi chung với tên Thánh là Maria Lê Thanh Lan). Ngọc Lan là người con thứ năm trong số 8 người con trong một gia đình khá giả, cha của cô, ông Lê Đức Mậu, từng phục vụ trong Binh Chủng Truyền Tin của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Khi còn ở Việt Nam, cô đã đến với âm nhạc qua nhạc sĩ Lê Hoàng Long, từng học nhạc và biểu diễn trong một số dịp tại Nha Trang. Cô đã từng theo học ở trường Lý Thường Kiệt, ngoại ô Sài Gòn. Sự nghiệp Khởi nghiệp Năm 1980, Ngọc Lan đến Hoa Kỳ và định cư tại Minnesota. Hai năm sau, Ngọc Lan thực sự bắt đầu sự nghiệp ca hát ở California. Cô lấy nghệ danh Ngọc Lan vì tên thật Thanh Lan trùng với ca sĩ Thanh Lan đã nổi tiếng. Với sự giới thiệu của ca sĩ Duy Quang, cô đã hát tại một số quán cà phê nhạc và các buổi biểu diễn. Trong những buổi đầu đi hát với mục đích kiếm tiền phụ giúp gia đình và trang trải việc học hành, cô đã từng có ý định bỏ nghề để về phụ gia đình bán hamburger vì cô cảm thấy thanh quản của cô không cho phép cô hát quá nhiều. Nhưng được sự khích lệ của người thân và bạn bè, cô tiếp tục con đường ca hát và gặt được nhiều thành công ngoài mong đợi. Đỉnh cao của sự nghiệp Với chất giọng ngọt ngào, trữ tình, man mác nỗi buồn, Ngọc Lan nhanh chóng được khán giả biết đến và đã được các trung tâm nổi tiếng mời thu âm như trung tâm băng nhạc Dạ Lan, trung tâm Giáng Ngọc, và xuất hiện thường xuyên tại các vũ trường, phòng trà... Đặc biệt sau khi cộng tác với trung tâm nhạc MayQ Productions và được trung tâm này thực hiện riêng hai chương trình video đặc biệt Ngọc Lan 1: Như em đã yêu anh (1989) và Ngọc Lan 2: Mặt trời bên kia mùa hạ (1991) bởi đạo diễn Đặng Trần Thức thì Ngọc Lan đã đạt được đỉnh cao trong sự nghiệp âm nhạc. Hai cuốn video trên cho đến nay vẫn được đánh giá là hai cuốn video rất có giá trị về mặt nghệ thuật được dành riêng cho một nghệ sĩ. Sự thành công ngoài sức tưởng tượng của Ngọc Lan được giới chuyên môn nhận định là do tên tuổi của cô xuất hiện vào những năm tháng mà nền âm nhạc hải ngoại đang "khát" ca sĩ và những tiếng hát mới, sự xuất hiện của cô với việc lựa chọn đúng dòng nhạc Tình ca - dòng nhạc mà trong thời kỳ này rất được ưa chuộng bên cạnh những tiếng hát đã thành công với những loại nhạc này từ trước năm 1975 như Khánh Hà, Tuấn Ngọc, Duy Quang.... cũng góp phần dẫn tới sự thành công của cô. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận được tài năng và chất giọng thiên phú của cô mới chính là yếu tố đưa tên tuổi của cô bay xa hơn trên bầu trời âm nhạc. Thành công nối tiếp thành công, sau đó cuối thập niên 80 đầu 90, cô nhận lời mời của trung tâm Asia tham gia trong CD 15 Liên khúc Tình Yêu cùng với 2 tiếng hát khác cũng đang được mến mộ lúc bấy giờ là Trung Hành và Kiều Nga, CD này đã mở ra thời kỳ của phong trào liên khúc và được ưa chuộng không riêng gì tại hải ngoại mà còn lan về tận ở Việt Nam, được ghi nhận là một trong những CD Liên khúc có số bán cao nhất trong lịch sử của trung tâm này. Qua CD này, tên tuổi Ngọc Lan ngày càng nổi tiếng. Đồng thời trong thời gian này, cô cũng đã được mời đi lưu diễn liên tục, khắp nơi và đã trở thành nữ ca sĩ Top của liên tiếp 4 năm kể từ năm 1987 trong làng ca nhạc của cộng đồng người Việt trên khắp năm châu. Đáng kể như là chuyến lưu diễn 3 đêm rất thành công của cô tại Sydney và Melbourne, Úc năm 1990. Báo Chiêu Dương (Úc) đã đăng ngày 14 tháng 9 năm 1990 như sau: {{cquote|Qua 3 đêm trình diễn tại Sydney và Melbourne, 2 thành phố lớn nhất của Úc Châu, nữ ca sĩ Ngọc Lan đã thành công rực rỡ. Tất cả các show đều đông nghẹt khán giả, hơn 400 khán giả đã phải ra về vì hết vé tại Bankstown Town Hall (Sydney). Tại Melbourne, hơn 1500 khán giả đã phải đứng để xem Ngọc Lan trình diễn. Hơn 300 khán giả phải ra về vì Hall không còn sức chứa! Có thể nói nữ ca sĩ tài sắc vẹn toàn Ngọc Lan đã làm nên "lịch sử" vì hơn 8 năm nay, từ lúc có các chương trình ca nhạc tại Úc Châu, đây là Show đông đảo khán giả nhất đã dành cho nữ ca sĩ Ngọc Lan. Những đóa hồng tươi xinh xắn mà Ngọc Lan liên tiếp đón nhận từ khán giả đã nói lên tất cả sự thành công vượt bực của chương trình "Đêm Ngọc Lan"[...]Sau 3 đêm liên tiếp thành công rực rỡ tại Sydney và Melbourne, thể theo lời yêu cầu của nhiều vị khán giả chưa xem được các đêm trình diễn vừa qua vì hết vé, nữ ca sĩ số 1 Ngọc Lan quyết định ở lại Úc Châu thêm một tuần lễ để trình diễn đêm: Dạ Vũ Ngọc Lan Giã Từ Úc Châu|}} Năm 1992, là năm đánh dấu sự thu hình trực tiếp đầu tiên của Ngọc Lan trên sân khấu ca nhạc trong chương trình Hollywood Night 1 với ca khúc Mưa trên biển vắng vào ngày 10 tháng 3 năm 1992, cũng trong dịp này, cô đã dành cho MC Nam Lộc buổi phỏng vấn chính thức đầu tiên. Ngọc Lan có sự cộng tác gắn bó với những chương trình của Hollywood Night, điều này làm nhiều người lầm tưởng cô có hùn vốn với trung tâm này. Sự cộng tác vẫn diễn ra liên tục và đều đặn cho tới khi cô giã từ sự nghiệp để lùi về bóng tối, nên có thể nói tên tuổi của Ngọc Lan đã gắn liền với những chương trình Hollywood Night. Ngọc Lan được yêu thích qua nhiều nhạc phẩm nước ngoài lời Việt, như Mưa trên biển vắng (cô cho đây là ca khúc đã đưa cô đến gần với khán giả), Dòng sông tuổi nhỏ (La Maritza)... Cô cũng trình bày nhiều ca khúc tiếng Pháp như Viens m'embrasser, Poupée de cire, poupée de son, Les valses de vienne, những nhạc phẩm của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Đức Huy... Cô hát ở rất nhiều thể loại nhạc và dòng nhạc. Theo một số người sưu tầm nhạc, cô đã trình bày trên 800 ca khúc và trên 40 video clip. Sự hạn chế quay video thu hình được chính cô giải thích là do bản tính nhút nhát của mình trước ống kính. Sự hạn chế xuất hiện Sau đó Ngọc Lan đột ngột không xuất hiện nữa vào năm 1993 và tạo nên nhiều tin đồn. Năm 1994 cô xuất hiện trở lại trong một số chương trình, cùng năm đó, trong chương trình đánh dấu sự trở lại của cô mang tên "Ngọc Lan và Thính Giả thương yêu" tại Anaheim với kết quả thành công mỹ mãn, tuy nhiên sau buổi ca nhạc đó, khán giả cũng nhận ra rằng cô có phần nào suy sụp tinh thần và tiếng hát của cô không còn linh động như xưa. Nguyên nhân có lẽ là do bệnh tình và sự qua đời đột ngột của người chị gái trước đó không lâu. Năm 1994 cũng là một năm cô kết hôn với nhạc sĩ Kevin Khoa. Và từ đó trở đi, cô vẫn tiếp tục sinh hoạt văn nghệ nhưng không còn mạnh mẽ như những năm đầu thập niên 90 khi mà tên tuổi cô được rất nhiều người biết đến vì sức khỏe không cho phép. Trong năm 1996, trong lần thu hình trong cuốn video 12: Việt Nam Niềm Nhớ cho trung tâm Asia tại Toronto để trình bày nhạc phẩm "Con Đường Tôi Về" của nhạc sĩ Lê Tín Hương, trước hàng ngàn khán giả, Ngọc Lan phải có người nắm tay đưa lên sân khấu, dù bị hạn chế tầm nhìn nhưng cô vẫn cố gắng lột tả trọn vẹn ca khúc này với hình ảnh khó quên khi cô quỳ giữa sân khấu vào lúc cuối phần trình diễn. Và trong thời gian đó, Ngọc Lan thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện trong các băng video cho các trung tâm ca nhạc như Hollywood Nights, Asia nhưng hầu hết là các clip quay ngoại cảnh thay vì trên sân khấu. Giã từ sự nghiệp Năm 1998, Ngọc Lan xuất hiện lần cuối cùng trong dịp thu hình quay ngoại cảnh cho Asia cuốn Video 18: Nhớ Sài Gòn, trong cuốn video này, Ngọc Lan đã cắt đi kiểu tóc uốn xoăn đặc trưng mà thay vào đó là kiểu tóc tém cùng gương mặt mệt mỏi, đượm buồn của mình trong ca khúc Khóc một dòng sông của Đức Huy. Đây là video ca nhạc cuối cùng của cô với trung tâm Asia. Sau đó không lâu, trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình tại Nam California phát hình vào ngày 10 tháng 3 năm 1998, Ngọc Lan và phu quân Kelvin Khoa đã dành cho MC Nam Lộc và Thụy Trinh một cuộc nói chuyện thân tình để giải tỏa những thắc mắc và lời đồn đại về tình trạng bệnh tình của cô từ giới thưởng ngoạn, tai hại nhất là vụ trung tâm băng nhạc Diễm xưa đưa tin về việc ca sĩ hải ngoại Ngọc Lan đã qua đời trước đó. Và đây cũng là lần cuối cùng cô xuất hiện trước khán giả, sau đó cô giã từ sân khấu, lùi hẳn vào trong bóng tối vì bệnh tình cô ngày càng trầm trọng. Qua đời Sau một thời gian dài bị chứng bệnh đa xơ cứng hành hạ và thị lực bị hạn chế, Ngọc Lan đã từ trần vào lúc 8 giờ 25 sáng ngày 3 tháng 6 năm 2001 tại bệnh viện Vencor, Huntington Beach, California. Đám tang của cô được rất đông đảo người ái mộ tham dự và được cho là đám tang dành cho một nghệ sĩ có nhiều người tham dự nhất vào thời điểm đó. Và ít lâu sau, ít nhất đã có 6 ca khúc đã được viết lên để tưởng niệm người nữ ca sĩ tài sắc này như Nhật Ngân với Tiếng hát mong manh, Trần Trịnh với Gãy cành thiên hương, Trần Thiện Thanh với Huyền thoại Ngọc Lan, Ngọc Trọng với Bài cho tình ta, Hùng Quân với Còn đâu tiếng hát ru đời nhưng được biết đến nhiều hơn cả là ca khúc Vĩnh biệt một loài hoa của nhạc sĩ Anh Bằng. Trong bài hát đó có những câu sau:Người con gái ấy mang tên loài hoa.Mắt biếc suối trong, mi cong ngọc ngàLoài hoa yêu ấy, bây giờ đã xa, bây giờ đã xa... ...Ngọc Lan! Ngọc Lan! Sao nỡ ra đi vội vàng.Ôi! Tiếng kinh đêm cầu hồn, như tiếng ai ca thật buồn.Ngọc Lan! Ngọc Lan! Vĩnh viễn buông tay phận người.Thôi hết trăm năm đọa đầy.Một nấm mồ yên đời đời... Tưởng nhớ Trong Video Paris By Night 60: Thất Tình (2001), MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên đã chia buồn về sự ra đi của Ngọc Lan và MC Nguyễn Ngọc Ngạn đã đọc bốn câu thơ của nhà văn Nguyên Nghĩa trong tuần báo Tự Do của Canada để chia buồn với khán thính giả. Trong Video ASIA 34: 20th Anniversary ASIA (2001), có sử dụng lại tiếng hát và hình ảnh Ngọc Lan trong phần trình diễn Liên khúc Tình Yêu cùng với Trung Hành, Kiều Nga đúng như MC Nam Lộc chia sẻ “bộ 3 Asia” sau 20 năm. Trong Video ASIA 46: Hành trình 30 năm (2005), ca sĩ Y Phương và Thanh Trúc đã hóa trang thành Ngọc Lan để trình bày hai ca khúc trước đây được cô trình bày rất thành công là "Lại gần hôn em" và "Johnny, Johnny". Trong Video ASIA 51: Tình khúc sau cuộc chiến / Nhạc vàng 30 năm (2006), có mời Trần Thăng, giám đốc Trung tâm Mây Productions chia sẻ cảm nghĩ và duyên cơ khi được gặp và cộng tác với Ngọc Lan. Sau đó, nữ ca sĩ Lâm Thúy Vân đã trình bày lại ca khúc "Mưa trên biển vắng" cùng với tiếng hát và hình ảnh của Ngọc Lan hiện ra phía sau trên màn ảnh. Ngày 26 tháng 3 năm 2010, để kỷ niệm 9 năm Ngọc Lan ra đi, trung tâm Asia đã cho phát hành bộ DVD "Tiếng hát Ngọc Lan - Như là kỷ niệm: Con đường tôi về" Trong cuốn Paris By Night 100: 27 năm một chặng đường (2010) của Trung tâm Thúy Nga, trong phần "Tưởng niệm những nghệ sĩ đã từng cộng tác với trung tâm" cũng có hình ảnh của Ngọc Lan, sau đó MC Nguyễn Ngọc Ngạn đã sử dụng hai câu thơ thất ngôn Mỹ nhân tự cổ như danh tướng / Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu (dịch nghĩa: Người đẹp từ xưa như các bậc danh tướng / Không muốn thiên hạ thấy mình lúc về già'') để ngụ ý nói về Ngọc Lan. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2015, để kỷ niệm 14 năm ngày Ngọc Lan ra đi, tờ báo Nghệ sĩ của MC Trần Quốc Bảo có dành số đặc biệt để đăng tải những cảm nghĩ, kỷ niệm của các nghệ sĩ từng cộng tác với Ngọc Lan. Nam ca sĩ Don Hồ từng dành nhiều bài viết của mình trên blog cá nhân cũng như Facebook của mình để chia sẻ những kỷ niệm về Ngọc Lan - người mà anh luôn kính trọng và xem là thần tượng, từ những ngày cô đã giúp đỡ anh khi bước chân vào nghề ca hát, cũng như một vài chi tiết về cuộc sống đời thường của cô trong những năm tháng cô bị bệnh tật hành hạ và rút lui vào bóng tối. Trong cuốn Paris By Night 126: Hành trình 35 năm (2018), có một phần tưởng niệm những nghệ sĩ đã từng cộng tác đóng góp cho Trung tâm Thúy Nga, trong đó có hình ảnh của nữ ca sĩ Ngọc Lan Trong cuốn Paris By Night 128: Hành trình 35 năm (phần 3) (2019), ca sĩ trẻ Ngọc Hương tái hiện lại hình ảnh Ngọc Lan trên sân khấu và thể hiện ca khúc "Cho em quên tuổi ngọc". Ảnh hưởng Ngọc Lan được cho là một trong những ca sĩ thành công và nổi tiếng nhất của nền âm nhạc Việt Nam sau năm 1975. Phong cách và lối trình diễn của cô không chỉ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng giới thưởng ngoạn mà còn góp phần ảnh hưởng đến các tiếng hát thuộc thế hệ trẻ sau này như Minh Tuyết, Y Phương, Lâm Thúy Vân. Các tiết mục trình diễn trên sân khấu Trung tâm Mây Trung tâm Thuý Nga - Paris By Night Trung tâm Asia
Cồn Mang là một dải đá và là một điểm nghỉ mát thuộc thôn Tràng Vỹ, xã Trà Cổ, huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Đây cũng là điểm đầu tiên của bãi biển Trà Cổ dài 17 km, điểm cuối của bãi biển này là Mũi Ngọc. Cát ở Cồn Mang trắng, mịn được bồi tự nhiên do tác động của sóng và dòng biển ven bờ. Sau các cồn cát, cao chừng 3–4 m, là các dải rừng phi lao chắn gió, giữ cát. Gần Cồn Mang còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn chưa hề bị xâm phạm. Xung quanh nơi này cũng có nhà thờ, đình và chùa Trà Cổ. Giao thông Các đường giao thông đến Cồn Mang bao gồm đường biển và đường bộ. Trên đường biển, có canô hoặc phổ biến hơn là tàu cánh ngầm xuất phát từ Bãi Cháy, Quảng Ninh (khoảng 132 km) hoặc từ Hải Phòng (khoảng 206 km). Đường bộ mất thời gian hơn vì đường đèo khá ngoằn ngoèo nhưng phong cảnh khác với trên biển.
Tây Sơn có thể là: Địa danh Việt Nam Huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định Phường Tây Sơn, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai Phường Tây Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình Phường Tây Sơn, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai Thị trấn Tây Sơn, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh Xã Tây Sơn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An Xã Tây Sơn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình Huyện cũ Tây Sơn thuộc tỉnh Phú Khánh; nay tương ứng với các huyện Sơn Hòa và Sông Hinh thuộc tỉnh Phú Yên. Xã cũ Tây Sơn thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; nay là một phần thị trấn Tiền Hải. Trung Quốc Quận Tây Sơn, thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Khác Nhà Tây Sơn, một triều đại của lịch sử Việt Nam. Võ học Tây Sơn, dòng võ thuộc miền đất võ Bình Định.
Quân ủy Trung ương là cơ quan lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội nhân dân Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam, có nhiệm vụ nghiên cứu đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; kế hoạch phòng thủ đất nước; phương hướng và biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân; cơ chế lãnh đạo của đảng với Quân đội nhân dân Việt Nam. Quân ủy Trung ương có trách nhiệm phối hợp và hướng dẫn các cấp uỷ trực thuộc Trung ương thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về quân sự, quốc phòng. Quân uỷ Trung ương trực tiếp lãnh đạo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh. Thông qua các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, Quân uỷ Trung ương bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Quân ủy Trung ương thực hiện chế độ quyết định tập thể đối với vấn đề lớn như chủ trương, chương trình, kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các biện pháp xây dựng quân đội, quyết định các vấn đề về công tác cán bộ trong quân đội. Quân uỷ Trung ương chỉ đạo Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và thông qua Tổng cục Chính trị chỉ đạo các Đảng bộ và hệ thống chính uỷ, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị nhằm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Lịch sử Để lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt lực lượng vũ trang nhân dân, tháng 1 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Quân ủy. Tên gọi qua các thời kỳ: • Tháng 1 năm 1946, thành lập Trung ương Quân ủy. • Tháng 10 năm 1948, bãi bỏ Trung ương Quân ủy. Thành lập Tổng Chính ủy • Tháng 5 năm 1952, thiết lập lại Tổng Quân ủy • Tháng 1 năm 1961 đổi tên thành Quân ủy Trung ương • Ngày 15-12-1982, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07/NQ-TW Về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội, trong đó quy định: bỏ hệ thống cấp ủy đảng từ Quân ủy Trung ương đến cấp trên cơ sở; thành lập Hội đồng quân sự và Hội đồng chính trị • Ngày 04-7-1985, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 27/NQ-TW Về việc khôi phục lại hệ thống tổ chức đảng trong toàn quân từ Đảng ủy Quân sự Trung ương đến cơ sở • Năm 2011, đổi tên thành Quân ủy Trung ương Tổ chức Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân ủy Trung ương do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ định, bao gồm một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam công tác trong quân đội và một số ủy viên trung ương Đảng công tác ngoài quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Hiện nay, đứng đầu Quân ủy Trung ương là Bí thư Quân ủy Trung ương do Tổng Bí thư kiêm nhiệm. Phó Bí thư Quân ủy Trung ương do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm nhiệm; Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương thường gồm có: Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tổng tham mưu trưởng; Ủy viên Quân ủy Trung ương thường gồm các Ủy viên Trung ương Đảng chính thức hoặc dự khuyết công tác trong quân đội. Quân ủy Trung ương có các cơ quan trực thuộc sau: Văn phòng Quân ủy Trung ương - Văn phòng Bộ Quốc phòng Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương Quân ủy Trung ương (2025–2030) Quân ủy Trung ương (2020–2025) Ngày 17/6/2021, tại trụ sở Bộ Quốc phòng đã diễn ra Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ nhất khóa XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025. Tại phiên họp, ông Võ Văn Thưởng, Thường trực Ban Bí thư, đã công bố quyết định của Bộ Chính trị, khóa XIII chỉ định các nhân sự tham gia Quân ủy Trung ương, nhiệm kỳ 2020–2025 gồm 25 người. Tháng 7/2021, Thượng tướng Trần Quang Phương được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội; Tháng 9/2021, Trung tướng Trần Hồng Minh được Bộ Chính trị chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng, cả 2 ông lần lượt thôi tham gia Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2020-2025. Quân ủy Trung ương (2015–2020) Ngày 10/5/2016, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng, đã diễn ra lễ công bố Quyết định số 186-QĐ/TW ngày 29/4/2016 của Bộ Chính trị chỉ định Quân ủy Trung ương, Thường vụ Quân ủy Trung ương và các chức danh Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, nhiệm kỳ 2015-2020. Theo Quyết định này, Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2015–2020 gồm 23 thành viên; ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư giữ chức Bí thư Quân ủy Trung ương; Đại tướng Ngô Xuân Lịch giữ chức Phó Bí thư Quân ủy Trung ương. Quân ủy Trung ương (2010–2015) Danh sách cuối cùng trước khi hết nhiệm kỳ: Đảng ủy Quân sự Trung ương (2005–2010) Danh sách cuối cùng trước khi hết nhiệm kỳ: Đảng ủy Quân sự Trung ương (2000–2005) Danh sách cuối cùng trước khi hết nhiệm kỳ: Đảng ủy Quân sự Trung ương (1995–2000) Bí thư qua các thời kỳ Xem thêm: Bí thư Quân ủy Trung ương Phó Bí thư qua các thời kỳ Xem thêm: Phó Bí thư Quân ủy Trung ương
Đan Phượng là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. Đan Phượng (丹鳳) theo nghĩa gốc Hán có nghĩa là chim phượng đỏ. Địa lý Đan Phượng nằm ở phía tây bắc trung tâm thành phố Hà Nội, tại khoảng giữa của trục đường quốc lộ 32 từ trung tâm Hà Nội đi Sơn Tây, cách trung tâm thành phố khoảng 20km. Phía đông giáp huyện Đông Anh (với ranh giới là sông Hồng) và quận Bắc Từ Liêm Phía nam giáp huyện Hoài Đức Phía tây giáp huyện Phúc Thọ với ranh giới là sông Đáy Phía bắc giáp huyện Mê Linh với ranh giới là sông Hồng. Huyện Đan Phượng có Quốc lộ 32 chạy qua khoảng 4 Km, nếu đi từ phía Hà Nội lên Sơn Tây đến Km 16+500 là ngã Tư Trôi (thuộc huyện Hoài Đức) rẽ phải khoảng 300m là đến huyện Đan Phượng theo tỉnh lộ 422. So với các quận, huyện của thủ đô Hà Nội, Đan Phượng có ít đơn vị hành chính và diện tích tự nhiên thuộc loại nhỏ, nhưng xét về mảng văn hóa giáo dục lại rất phong phú. Tất cả các trường Tiểu học trong huyện đã đạt chuẩn Quốc gia, có những xã đông dân cư khoảng 19.000 người như ở Tân Hội, 25.000 người như ở Tân Lập, hơn 10.000 người như ở thị trấn Phùng, Hồng Hà, Phương Đình,...) Địa hình Huyện Đan Phượng là huyện có hệ thống sông Hồng, sông Đáy chảy qua. Xưa kia là ngã ba sông (sông Hồng, sông Nhuệ, sông Đáy) nên địa hình của huyện tương đối bằng phẳng, chủ yếu là đất phù sa. Chiều cao trung bình từ 6-8m. Dân số năm 2019 là 174.501 người. 5% dân số theo đạo Thiên Chúa. Lịch sử Huyện được đặt từ thời Trần, thuộc xứ Đoài, đến thời Minh chiếm đóng thì huyện tên là Đan Sơn thuộc châu Từ Liêm, phủ Giao Châu. Sang thời Hậu Lê huyện lệ về phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Năm 1831, vua Minh Mạng điều chỉnh địa giới hành chính và thành lập các tỉnh mới. Huyện đựợc tách ra thành huyện riêng vào năm 1832 vẫn thuộc phủ Quốc Oai. Năm 1904, Đan Phựợng được nhập về phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Sau cách mạng tháng Tám (1945), cấp phủ bị bãi bỏ, nên từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 3 năm 1947 sáp nhập xã Cối Sơn (Tân Lập, Tân Hội) và Hạ Trì (Liên Hà, Liên Trung) thuộc huyện Từ Liêm thành huyện Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Đông. Từ tháng 3 năm 1947, 4 huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Trì, Thanh Oai và thị xã Hà Đông được cắt chuyển về thành phố Hà Nội theo quyết định của Khu II (Khi sự kiện 19 tháng 12 năm 1946 nổ ra, Mặt trận Hà Nội được sáp nhập vào Khu II. Từ ngày 1 tháng 11 năm 1948, Khu 2 đặt quyền trực thuộc của Liên khu 3, nhưng đến tháng 5 năm 1949 thì khu Hà Nội lại được tách ra để thành lập Mặt trận Hà Nội độc lập, trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Tình trạng này được duy trì cho đến sau năm 1954, khi đấy gọi là Khu Hà Nội). Từ ngày 12 tháng 3 năm 1947 đến tháng 5 năm 1948, huyện Đan Phượng được gộp vào liên quận huyện IV - Hoài Đức và Đan Phượng (theo công văn số: 038/KCT, ngày 13 tháng 3 năm 1947), UBK- Khu XI của Bộ chỉ huy Chiến khu XI). Tháng 5 năm 1947, Trung ương quyết định tách ba tỉnh Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây ra khỏi Khu II, thành lập Khu XI. Tháng 5 năm 1948 đến tháng 10 năm 1948, Khu XI được Trung ương quyết định giải thể Khu XI và thành lập tỉnh Lưỡng Hà (Hà Đông - Hà Nội) thuộc Liên khu III. Lúc này, liên quận huyện IV - Hoài Đức và Đan Phượng được tách ra thành huyện Liên Bắc. Đan Phượng thuộc huyện Liên Bắc - tỉnh Lưỡng Hà. Từ tháng 10 năm 1948 đến tháng 3 năm 1954: Khu uỷ III tách Lưỡng Hà thành 2 tỉnh: Hà Đông, Hà Nội, và do vậy, lúc này, Đan Phượng thuộc huyện Liên Bắc tỉnh Hà Đông. Tháng 12 năm 1952, phần lớn địa bàn Đan Phượng thuộc bắc Liên Bắc do Ban cán sự bắc Liên Bắc nắm, ranh giới là đường quốc lộ 11A (32) để việc chỉ đạo phong trào kháng chiến được sâu sát, kịp thời hơn. Tháng 4 năm 1954, huyện Đan Phượng được tái lập và thuộc tỉnh Sơn Tây quản lý theo quyết định của Liên khu uỷ III. Tháng 8 năm 1954, huyện Đan Phượng được Liên khu uỷ III cắt chuyển trả lại cho tỉnh Hà Đông. Ngày 20 tháng 4 năm 1961, 5 xã thuộc huyện Đan Phượng là Tân Dân (Thượng Cát), Tân Tiến (Liên Mạc), Trần Phú (Phú Diễn), Trung Kiên (Tây Tựu) và Minh Khai được cắt chuyển về huyện Từ Liêm (Hà Nội) theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 2 (Khóa II) (nay là địa bàn các phường Thượng Cát, Liên Mạc, Phú Diễn, Phúc Diễn, Tây Tựu, Minh Khai thuộc quận Bắc Từ Liêm). Ngày 21 tháng 4 năm 1965, huyện Đan Phượng thuộc quyền quản lý của tỉnh mới Hà Tây. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, huyện Đan Phượng là một trong 24 đơn vị hành chính của tỉnh Hà Sơn Bình, gồm thị trấn Phùng và 15 xã: Đan Phượng, Đồng Tháp, Hạ Mỗ, Hồng Hà, Liên Hà, Liên Hồng, Liên Trung, Phương Đình, Song Phượng, Tân Hội, Tân Lập, Thọ An, Thọ Xuân, Thượng Mỗ, Trung Châu. Từ ngày 29 tháng 12 năm 1978 đến ngày 12 tháng 8 năm 1991, huyện Đan Phượng được cắt chuyển về thành phố Hà Nội theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 4 (khoá VI) vào cuối tháng 12 năm 1978. Từ ngày 12 tháng 8 năm 1991 đến ngày 29 tháng 5 năm 2008, huyện Đan Phượng là một trong 14 đơn vị hành chính của tỉnh Hà Tây theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 9 (khoá VIII) vào ngày 12 tháng 8 năm 1991. Ngày 8 tháng 4 năm 2002, mở rộng thị trấn Phùng trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích, dân số của hai xã Đan Phượng và Song Phượng. Ngày 1 tháng 8 năm 2008, giải thể tỉnh Hà Tây cũ, huyện Đan Phượng thuộc thành phố Hà Nội theo Nghị quyết 15-NQ/QH ngày 29 tháng 5 năm 2008. Hành chính Huyện Đan Phượng có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Phùng (huyện lỵ) và 15 xã: Đan Phượng, Đồng Tháp, Hạ Mỗ, Hồng Hà, Liên Hà, Liên Hồng, Liên Trung, Phương Đình, Song Phượng, Tân Hội, Tân Lập, Thọ An, Thọ Xuân, Thượng Mỗ, Trung Châu. Các đơn vị hành chính cơ sở cấp xã, thôn, cụm dân cư 1. Thị trấn Phùng 6 phố, thôn: Phan Đình Phùng, Phùng Hưng, Phượng Trì, Nguyễn Thái Học, Tây Sơn, Thụy Ứng 2. Đan Phượng (Phùng) 3 thôn: Đại Phùng, Đoài Khê, Đông Khê 3. Đồng Tháp (Liên Hợp) 5 thôn: Bãi Tháp, Bãi Thuỵ, Đại Thần, Đồng Lạc, Thọ Vực 4. Hạ Mỗ (Hồng Thái) 2 thôn: Hạ Mỗ,Trúng Đích 5. Hồng Hà 4 thôn: Bá Dương Nội, Bá Dương Thị (Bá), Bồng Lai, Tiên Tân (Bến Tiên) 6. Liên Hà 3 thôn: Đoài, Quý, Thượng 7. Liên Hồng 4 thôn: Đông Lai, Hữu Cước, Thượng Trì, Tổ 8. Liên Trung 2 thôn: Hạ Trì, Trung 9. Phương Đình (Liên Minh) 8 thôn: Cổ Ngoã, Địch Trong, Địch Trung, Địch Đình, Địch Thượng, Ích Vịnh, La Thạch, Phương Mạc 10. Song Phượng 4 thôn, xóm: Tháp Thượng, Thu Quế, Thuận Thượng, Thống Nhất 11. Tân Hội 4 thôn: Thượng Hội, Thuý Hội, Phan Long (Sơn), Vĩnh Kỳ 12. Tân Lập 4 thôn: Đan Hội, Hạ Hội, Hạnh Đàn, Ngọc Kiệu (Tên chung: Kẻ Gối hay Tổng Gối) và 4 tổ dân phố Tân Tây Đô. 13. Thọ An 3 thôn: An Thanh (Tây Sơn), Thanh Điềm (Bắc Hà), Thọ Lão (Đông Hải) 14. Thọ Xuân 4 thôn: Tiến Bộ, Thống Nhất, Chiến Thắng, Hoà Bình 15. Thượng Mỗ (Hồng Phong) 3 thôn: Thượng Mỗ, Thượng Bãi, Phùng Hưng 16. Trung Châu 8 thôn: Chu Phan, Hưu Trưng, Nại Yên (Nại Xá, Yên Châu), Phương Lang (Phương Nội), Phương Ngoại, Trung Hà làng, Vạn Vĩ, Văn Môn. Văn hóa Nghệ thuật Huyện là cái nôi của các loại hình nghệ thuật dân gian trong đó có Hát ca trù ở xã Thượng Mỗ, Vật truyền thống ở xã Hồng Hà, Thổi cơm thi ở hội Dầy, hát Chèo tàu ở hội Gối (Tân Hội), hát chèo bè trên sông của dân chài Vạn Vĩ, hội thả diều ở Bá Giang, bơi trải ở Đồng Tháp, rước cây bông ở Trung Hà… Danh nhân Huyện có 15 tiến sĩ có tên trong văn bia tại Văn miếu Quốc tử giám và nhiều danh nhân tiêu biểu như: Thi Sách chồng bà Trưng Trắc Tô Hiến Thành đại thần hai triều vua Lý, được phong Vương dù không phải tôn thất Văn Dĩ Thành thủ lĩnh khởi nghĩa chống quân Minh, xuất hiện trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Danh Dự danh thần triều Lê Trung Hưng Quang Dũng nổi tiếng với tác phẩm "Tây Tiến", người làng Phượng Trì (nay thuộc thị trấn Phùng) Đỗ Bá Tỵ, Đại tướng QĐNDVN, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội nước Việt Nam Nghệ sĩ nhân dân Thương Huyền Di tích lịch sử Đình Đại Phùng ở xã Đan Phượng là di tích quốc gia đặc biệt. Đình thờ tướng Vũ Hùng có công giúp vua đánh giặc phương Bắc, được dân làng phong thánh Đình Bá Dương (Hồng Hà, Đan Phượng ) thờ tướng Nguyễn Cả, tham gia dẹp 12 sứ quân với lễ hội thả diều nổi tiếng Miếu Đinh Nguyên (xã Thọ An) Đình Ích Vịnh (xã Phương Đình) Đền Nhã Lang (xã Hạ Mỗ) Chùa Báo Ân (Làng Trúng Đích-Hạ Mỗ) Chùa Liên Trung (xã Liên Trung Đình chùa Phương Mạc (xã Phương Đình) Miếu Voi Phục (xã Tân Hội) Lăng Văn Sơn (xã Tân Hội) Đền Bà Sa Lãng (xã Liên Hà) Đền Văn Hiến - Thờ Thái úy Phụ chính Tô Hiến Thành (xã Hạ Mỗ) Đình Vạn Xuân (xã Hạ Mỗ) Chùa Hải Giác (xã Hạ Mỗ) Đền Chi Trỉ (xã Hạ Mỗ) Chùa Già Lê (xã Hồng Hà) Miếu Xương Rồng (xã Liên Hồng) Đền thờ Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải - DTLS cấp tỉnh, thành phố (xã Thọ An) Đình Thọ Lão (xã Thọ Xuân) thờ tứ vị đại vương thời Trần, đã được cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Chùa Đình Giá (cụm di tích Chùa Đôi Hồi - Đền Tam Phủ) - DTLS văn hóa & cách mạng cấp Quốc Gia (xã Song Phượng) Đặc sản Đậu Phụ làng Trúng Đích-Hạ Mỗ Nem Phùng [[Rượu Nếp Bá giang],đậu phụ nhự Bá giang] [Ca dao:"Giò Chèm,rượu Bá, nem Phùng.Ai chưa thưởng thức xin đừng khoe sang"] [Ca dao:"Rượu Nếp,đậu nhự Bá giang.Ai chưa thưởng thức, khoe sang xin đừng!" Các danh hiệu Huyện anh hùng lực lượng vũ trang. Huyện Anh hùng Lao động. Huyện Nông thôn mới đầu tiên của Thủ đô Hà Nội. Các cá nhân được truy tặng, phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 1. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Phan Xích (tức Nguyễn Thạc Rương): nguyên chỉ huy trưởng huyện đội Liên Bắc, giặc Pháp tôn là hùm xám Liên Bắc. 2. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Lê Thao (Xã Hạ Mỗ). 3. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Hoàng Thị Lê (Thôn Thượng Trì, Xã Liên Hồng). 4. Anh hùng Hoàng Hữu Chuyên (chống Trung Quốc năm 1979) Hạ tầng giao thông Hiện nay, trên địa bàn huyện đã hình thành khu đô thị Tân Tây Đô (thuộc xã Tân Lập), khu nhà ở Tân Lập cũng như khu đô thị Vinhome Wonder Park (đang xây dựng ở xã Tân Hội và Liên Trung). Ngoài ra còn có khu đô thị sinh thái The Phoenix (thuộc xã Đan Phượng) và các siêu thị. Các dự án hạ tầng giao thông đã được quyết định đầu tư như: đường Vành đai 4, đường Tây Thăng Long Các dự án đường sắt đô thị đi qua địa bàn huyện (dự kiến) là các tuyến số 3 (Trôi - Nhổn - Yên Sở), tuyến số 4 (Liên Hà - Bắc Thăng Long). Tuyến tàu điện một ray (monorail) Liên Hà - Tân Lập - An Khánh (huyện Đan Phượng và Hoài Đức) Hệ thống xe buýt Điểm đầu cuối và trung chuyển Tân Lập (29) Thọ An (162) Phùng (66, 67) Các tuyến xe buýt hoạt động: Các tuyến đường phố Hồng Thái Lý Phục Man Ô Diên Phùng Phượng Trì Song Phượng Tân Hội Tân Lập Thụy Ứng Văn Sơn Vạn Xuân (một đoạn quốc lộ 32 đi qua ngã tư Tân Lập) Nguyễn Thái Học Tây Sơn Làng nghề Là một huyện gần trung tâm Hà Nội dân cư đông đúc rất thuận lợi cho việc tiêu thụ các sản phẩm từ nông nghiệp cũng như hình thành các làng nghề, nhóm nghề như mộc nội thất, chế biến thực phẩm, tiêu thụ nông sản, trồng hoa... Khu vực đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung nhiều làng nghề. Các làng nghề truyền thống thường tập trung ở các tỉnh thành như Hà Nội, Nam Định, Hà Tây cũ, Thái Bình. Còn các làng nghề và làng có nghề lại thường tập trung ở Hà Nội, Hà Tây cũ, bắc Hưng Yên, nam Vĩnh Phúc, Nam Định. Nghề phụ thường thì tập trung ở khu vực ven đô thị lớn, nơi mật độ dân cư cao hay các đầu mối giao thông thuận lợi. Đan Phượng là huyện nhỏ nhưng hội tụ đầy đủ các yếu tố trên nên cũng có khá nhiều làng nghề truyền thống, làng nghề, làng có nghề và nghề phụ như: Làng nghề chế biến lâm sản thôn Thượng (Liên Trung) Làng nghề kẹo lạc Tháp Thượng (Song Phượng) Làng nghề mộc thôn Đoài (Liên Hà) Nghề làm giò chả Thượng Hội (Tân Hội) Làng nghề đậu phụ Trúng Đích (Hạ Mỗ) Chăn nuôi bò sữa La Thạch (Phương Đình) Làng có nghề mộc thôn Quý (Liên Hà) Làng nghề chế biến lâm sản thôn Hạ (Liên Trung) Làm giá đỗ, bán rau, lá chuối ở Trung Châu) Làng nghề rèn Thúy Hội (Tân Hội) Trồng hoa ở Hạ Mỗ và lân cận Làng nghề nấu rượu, đậu phụ Bá Nội (Hồng Hà) Làng xuất ngoại, có nghề mộc ở Tân Hội Làng nghề mộc và đồ mộc Thượng Thôn (Liên Hà). Chú thích
Diệp Minh Tuyền (1941 - 1997) là một nhà thơ nhưng hầu hết lại được biết như là một nhạc sĩ Việt Nam. Hầu hết các sáng tác của ông thuộc dòng nhạc đỏ, được biết tới nhiều hơn cả là bài Hát mãi khúc quân hành, nhưng Diệp Minh Tuyền còn là tác giả của ca khúc Tình cờ, một ca khúc trữ tình được giới trẻ yêu thích. Tiểu sử Diệp Minh Tuyền sinh ngày 18 tháng 8 năm 1941 tại thành phố Mỹ Tho (lúc bấy giờ gọi là thị xã Mỹ Tho thuộc tỉnh Mỹ Tho), trong một gia đình trí thức yêu nước. Cha ông từng là thủ lĩnh của Thanh niên tỉnh Mỹ Tho thời kháng chiến chống Pháp. Năm 6 tuổi, Diệp Minh Tuyền theo cha mẹ tản cư lên Sài Gòn. Mê nhạc từ nhỏ, ngày bé ông được mẹ dạy chơi đàn mandolin. Năm 1950, Diệp Minh Tuyền theo mẹ vào chiến khu Đồng Tháp Mười và đã tham gia biểu diễn trong các cuộc văn nghệ của đơn vị mẹ ông. Từ thời kỳ đó, ông bắt đầu ảnh hưởng bởi những ca khúc kháng chiến của các nhạc sĩ như Văn Cao, Lưu Hữu Phước... Năm 1952, Diệp Minh Tuyền theo cha về Phân liên khu miền Tây ở rừng U Minh. Ông theo học tại trường tiểu học kháng chiến xã Biển Bạch và tham gia đội văn nghệ của nhà trường. Ông cũng tham gia phụ việc làm nhân viên ấn loát thuộc Phòng Chính trị Bộ tư lệnh miền Tây Nam Bộ. Cũng ở đây, Diệp Minh Tuyền có được gặp gỡ nghệ sĩ Quốc Hương. Năm 1954 Diệp Minh Tuyền tập kết ra Bắc. Ông học ở trường học sinh miền Nam và tham gia ban văn nghệ trường Học sinh miền Nam số 14, một ban văn nghệ khá nổi tiếng ở Hải Phòng. Thời gian này ông viết ca khúc đầu tay Em bé miền Nam, rồi tiếp theo đến Chiều Hạ Long. Mặc dù dự định thi vào trường Âm nhạc Việt Nam, nhưng nghe lời của cha, năm 1961 ông thi vào Đại học Tổng hợp Văn. Ông tiếp tục chơi nhạc và làm thơ, năm 1962, bài thơ đầu tiên của ông được đăng trên số Xuân của báo Phụ nữ. Từ 1965 đến 1968, ông về làm việc ở tổ lý luận phê bình Viện Văn học Việt Nam. Thơ của ông được nhiều người phổ nhạc như bài "Con đường có lá me bay", "Mùa chim én bay" (được Hoàng Hiệp phổ nhạc), "Màu cờ tôi yêu" (được Phạm Tuyên phổ nhạc)... Ông đã xuất bản được 6 tập thơ. Sau năm 1975, Diệp Minh Tuyền công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1978, ca khúc Tình biển của ông được nhiều người biết đến qua tiếng hát Nhã Phương. Khi chiến tranh Tây Nam bùng nổ năm 1979, Diệp Minh Tuyền viết Bài ca tạm biệt, tiếp theo Bài ca người lính, Nếu em là bờ xa, Bài ca thành phố ban chiều, Giã từ cành phượng vĩ... Và đặc biệt là Hát mãi khúc quân hành được giải Nhất cuộc thi viết về lực lượng vũ trang năm 1984. Khoảng cuối thập niên 1990, ca khúc Tình cờ của ông được giới trẻ yêu thích qua tiếng hát ca sĩ Phương Thanh. Diệp Minh Tuyền từng giữ chức Phó Tổng thư ký Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh kiêm Tổng biên tập Tạp chí Sóng nhạc. Ông còn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Ông còn được nhiều giải thưởng âm nhạc của Thành phố Hồ Chí Minh và là tác giả nhiều bài phê bình âm nhạc, văn hoá. Ông mất ngày 21 tháng 11 năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh do bị tai biến mạch máu não. Một số tác phẩm Tuyển tập thơ Mùa nước nổi - 1972 -Nhà xuất bản Giải phóng. Đêm châu Thổ - 1976 - Nhà xuất bản Văn học Giải phóng Ngây thơ - 1979. Con đường có lá me bay - 1987 - Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh Hòa âm đỏ - 1998 - Nhà xuất bản Văn học. Tuyển tập nhạc 6 bài hát Diệp Minh Tuyền - 1986 - Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh Cánh hoa lưu ly - 1993 Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 11 ca khúc Diệp Minh Tuyền - 1996 Dihavina. Album nhạc Cánh hoa lưu ly - 1995 - Bến Thành Audio-video. Chỉ một mình em - 1996 - Dihavina. Nhạc thiếu nhi Chi chi chành chành Đi xe lửa Nhà trẻ của em Vuốt nổ Hạt gạo con ai? (thơ Trần Mạnh Hảo)