text
stringlengths
0
512k
École polytechnique (Trường Bách khoa Paris), hay còn được nhắc đến với tên X, là một trong những grande école nổi tiếng nhất Pháp và người dân Pháp coi đây là trường đào tạo kĩ sư nổi tiếng nhất tại Pháp. Trước 1976, trường tọa lạc tại khu khu phố La Tinh ở trung tâm Paris. Sau đó, vì lý do cần mở rộng, trường đã được chuyển đến Palaiseau nằm ở ngoại ô phía Nam Paris. Khẩu hiệu của trường Polytechnique là Pour la Patrie, les Sciences et la Gloire (nghĩa là "Vì quốc gia, khoa học và vinh quang") do Napoléon Bonaparte khởi xướng. Mục đích truyền thống của các sinh viên Polytechnique (polytechniciens) là trở thành nhân lực cấp cao của chính phủ Pháp & các tập đoàn công nghiệp hàng đầu của quốc gia và mục đích này vẫn còn được tiếp tục cho đến ngày nay. Ví dụ 16 sinh viên đứng đầu sẽ được lựa chọn trở thành Corps de Mines, là chương trình đào tạo nhân lực cấp cao hàng đầu của nhà nước Pháp. Trường liên kết với 3 trường nổi tiếng hàng đầu Pháp: ENSTA Bretagne, ENSTA ParisTech và ISAE SUPAERO (Institut Supérieur de l’Aéronautique et de l’Espace). Địa vị Trường Polytechnique được quản lý trực tiếp bởi Bộ Quốc phòng Pháp. Cho dù ngày nay trường không còn là một học viện quốc phòng, nhưng các truyền thống quân đội vẫn được tiếp nối. Trước hết, đứng đầu trường là một vị tướng, thêm vào đó, các vị trí điều hành, quản trị, thể thao đều do các nhân sự trong quân đội đảm nhiệm. Tất cả các sinh viên, kể cả sinh viên nữ, đều phải trải qua một kì huấn luyện quân sự trước khi bắt đầu khóa học kĩ sư. Bản thân họ cũng là các sĩ quan dự bị. Về sau tính chất quân sự của trường ngày càng giảm đi, trên thực tế, rất ít sinh viên tốt nghiệp tiếp tục theo đuổi nghiệp binh. Vào những dịp lễ lớn như ngày Quốc khánh Pháp (ngày 14 tháng 7), các sinh viên của Polytechnique tham gia lễ duyệt binh trên đại lộ Champs-Élysées trong bộ đồng phục quân đội truyền thống nổi tiếng của trường. Sinh viên trường Polytechnique thường nằm trong đơn vị duyệt binh thứ 2, chỉ sau duy nhất đơn vị khách mời của chính phủ Pháp. Lịch sử 1794: Trường École centrale des travaux publics được thành lập bởi Lazare Carnot và Gaspard Monge trong cuộc Cách mạng Pháp. Một năm sau trường đổi tên thành École Polytechnique 1805: Hoàng đế Napoléon Bonaparte đặt trường tại Montagne Sainte-Geneviève, trong khu Quartier Latin nổi tiếng tại trung tâm Paris, hoạt động như một Học viện quân sự quốc gia. Chính vua đã đặt ra cho trường khẩu hiệu Pour la Patrie, les Sciences et la Gloire ("Vì Tổ quốc, khoa học và vinh quang"). 1814: Các sinh viên ra mặt trận phòng thủ Paris chống lại quân Phổ xâm lược. 1830: 50 sinh viên tham gia Cách mạng tháng Bảy 1914 - 1918: Sinh viên sơ tán vì chiến tranh và trường được biến thành bệnh viện. Hơn 200 sinh viên bị thiệt mạng 1939 - 1945: trường được sơ tán đến Lyon trong vùng tự do. Hơn 400 sinh viên bị chết trong Thế chiến thứ II 1972: Sinh viên nữ đầu tiên được nhận vào trường 1976: Trường chuyển đến Palaiseau (cách Paris khoảng 25 km) 1994: Lễ kỉ niệm 200 thành lập trường bởi Tổng thống François Mitterrand 2000: Chương trình học được thay đổi thành 4 năm Hoạt động Trường Polytechnique bao gồm cả đào tạo đại học và sau đại học. Trường có các khu nghiên cứu trên các lĩnh vực khoa học khác nhau như vật lý, toán, tin học, kinh tế, hóa học, sinh học... hầu hết hợp tác với các viện nghiên cứu quốc gia như Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (Centre National de la Recherche Scientifique - CNRS). Ngoài ra, trường còn có rất nhiều giáo sư, tiến sĩ, nghiên cứu sinh từ khắp nơi tham gia làm việc tạo nên một môi trường học tập nghiên cứu trình độ cao. Chương trình học tập Giới thiệu Chương trình học của trường khác so với các chương trình đại học bình thường. Tuy vẫn được nhắc đến như đào tạo đại học, nhưng trên thực tế chương trình học luôn vượt khá xa so với chương trình đại học khoa học bình thường. Sau 3 năm học, sinh viên được trao bằng tốt nghiệp tương đương với Master năm nhất của Pháp. Thêm vào đó, chương trình học thường rất rộng, sinh viên thường tiếp cận các môn học nằm ngoài chuyên ngành của mình. Triết lý "rộng hơn sâu" đã gây nên rất nhiều tranh cãi từ nhiều năm nay, nhưng điều này đã làm nên tính đặc trưng của chương trình học Polytechnique. Thực tế cho thấy, sinh viên sau khi tốt nghiệp đa số có một nền tảng khoa học cơ bản rất chắc chắn giúp họ dễ dàng đào sâu vào bất cứ chuyên ngành nào trong thời gian ngắn hơn nhiều so với một sinh viên đại học bình thường. Trong môi trường làm việc, các nhà tuyển dụng đặc biệt ưu tiên sinh viên Polytechnique do tin rằng với kĩ năng này, các "polytechnicien" có thể tiến xa trong bất kì công việc nào. Ngoài khoa học, các sinh viên phải theo học một môn thể thao bắt buộc, từ các môn đại chúng như bóng đá, bơi lội... cho đến những môn cao cấp như quần vợt, golf, đánh kiếm... Thể thao chính là đặc tính giúp gắn kết các sinh viên với nhau. Thường các sinh viên học cùng môn thể thao được sắp xếp ở cùng một khu vực. Thi tuyển Cuộc thi tuyển vào trường Polytechnique là một kì thi tuyển đặc biệt khó khăn. Sinh viên cần học ít nhất 2 năm "dự bị" (préparatoire) sau khi tốt nghiệp phổ thông. Các trường dự bị nổi tiếng như Lycée Louis-Le-Grand hay the Lycée Henri-IV. Cuộc thi tuyển bao gồm 1 tuần thi viết các môn toán, vật lý, hóa học, văn học, triết học và tiếp sau đó là kì thi nói. Khoảng 400 sinh viên Pháp được lựa chọn mỗi khóa. Sinh viên nước ngoài từng theo khóa học dự bị như sinh viên Pháp cũng phải trải qua một kì thi tương tự (gọi là EV1, thường là các sinh viên đến từ các nước dùng tiếng Pháp). Các sinh viên nước ngoài khác có thể được nhận thông qua một kì thi tuyển nhẹ hơn (gọi là EV2, bao gồm một bài thi trắc nghiệm toán nhiều câu hỏi về nhiều phần khác nhau của toán đại cương như Đại số tuyến tính, Giải tích, Phương trình vi phân, Xác suất,..., tiếp đó các thí sinh trải qua 3 bài thi vấn đáp về Toán, Vật lý đại cương và bài hiểu biết tổng hợp. Mỗi bài thi có 30 phút chuẩn bị và 45 phút trình bày). Trong một khóa học có khoảng 100 sinh viên nước ngoài, hầu hết đến từ Brasil, Việt Nam, Trung Quốc, Iran, Nga và România. Trước năm 2004, cộng đồng sinh viên Việt Nam ở X khá đông, mỗi năm có khoảng hơn 10 sinh viên, nhưng trong 3 năm nay mỗi chỉ có khoảng 5,6 sinh viên Việt Nam thi đỗ. Trong khi đó lượng sinh viên Trung Quốc tăng khá mạnh từ 4,5 hai năm trước tăng lên khoảng 20 năm 2007. Để tìm hiểu thêm về kì thi tuyển, tham khảo website của trường . Hồ sơ đăng ký vào khoảng tháng 8 hàng năm. Chương trình học Khóa học đại học trước đây kéo dài trong 3 năm, trong đó có 1 năm nghĩa vụ quân sự, 1 năm "chương trình chung" và 1 năm học chuyên ngành (majeurs). Đến khóa X2000, chương trình đã được sửa đổi thành 4 năm, trong đó năm cuối sinh viên có 2 lựa chọn: theo học năm 4 tại một trường đại học thứ hai tại Pháp hay nước ngoài (và sẽ có bằng của cả hai trường) hoặc theo học một chương trình Master. Phần lớn sinh viên lựa chọn con đường thứ nhất. Khóa học bắt đầu bằng 8 tháng học quân sự. Trước đây khóa học này kéo dài 12 tháng và bắt buộc cho tất cả sinh viên Pháp. Sau này do việc bãi bỏ nghĩa vụ quân sự bắt buộc tại Pháp, khóa học này được chuyển thành "đào tạo quân sự và con người" và trở nên nhẹ nhàng hơn. Các sinh viên quốc tịch Pháp tập trung học tháng đầu tiên trong một trung tâm quân sự tại Barcelonette. Kết thúc tháng học, sinh viên được điều vào các dịch vụ dân sự hay quân sự như Hải quân, Không quân, Cảnh sát. Năm tháng cuối cùng từng sinh viên sẽ ở lại trong một đơn vị quân sự như bộ binh, pháo binh, hải quân... Trong thời gian các sinh viên Pháp thực hiện khóa học quân sự, các sinh viên nước ngoài theo các khóa thực tập dân sự. Các sinh viên không thuộc cộng đồng Pháp ngữ được theo học một khóa học ngôn ngữ. Sau khóa học quân sự là năm học chung tronc commun. Trước đây kì học chung này rất vất vả do sinh viên phải học tất cả các môn học định sẵn. Kể từ X2000, tronc commun được giảm nhẹ đi đáng kể và được bắt đầu ngay sau khi khóa học quân sự kết thúc. Trong vòng 4 tháng, các sinh viên được học những môn nền tảng như giải tích Hilbert, toán xác suất, vật lý lượng tử, tin học nền tảng và kinh tế. Ngoài ra còn có các môn xã hội và một môn thể thao bắt buộc. Từ năm thứ 3, sinh viên phải chọn 2 majeurs, hay là chuyên ngành sâu. Kết thúc chuyên ngành, mỗi sinh viên tiếp tục thực hiện một thực tập chuyên ngành kéo dài ít nhất 3 tháng trong một trung tâm nghiên cứu, trường đại học hay công ty. Đến năm 4, trừ các sinh viên theo chương trình Corps, mỗi sinh viên lựa chọn hoặc một chương trình Master, hoặc là một chương trình chuyên ngành tại một trường đại học chuyên ngành (Mines, Ponts, ENSAE, Télécom, ENS, HEC Paris...). Lý do chính của việc học chuyên ngành năm cuối tại một trường khác là do trong 3 năm học Polytechnique, các sinh viên được chú trọng nhiều đến phương pháp luận hơn là kiến thức chuyên môn thực sự cần cho một kỹ sư. Do đó, năm học chuyên ngành sẽ giúp cho họ hoàn thiện sẵn sàng bước vào môi trường làm việc. Xếp hạng Sinh viên được xếp hạng sau khi hoàn tất khóa học tại trường. Đối với sinh viên quốc tịch Pháp, thứ hạng rất quan trọng vì nó liên hệ trực tiếp đến chương trình đào tạo nhân lực quốc gia (Corps), bao gồm các chương trình tinh tú như Corps de Mines, "Corps de Ponts". Vào năm cuối, các chương trình Corps được giới thiệu và sinh viên có thể đăng ký nếu họ có thứ hạng đủ cao. Nếu một sinh viên đủ tiêu chuẩn mà không muốn tham gia, sinh viên có thứ hạng cao nhất trong danh sách chờ sẽ được gọi thay thế. Kể từ khóa X2000, tính quan trọng của bảng xếp hạng đã được giảm đi nhiều. Trừ chương trình Corps, các trường đại học nơi các polytechnicien theo học năm cuối thường dựa vào transcript để đánh giá họ. Học phí Sinh viên Pháp không phải đóng học phí khi học tại trường. Họ còn được nhận lương như một sĩ quan dự bị. Thông qua Hội sinh viên của trường (Caisse des élèves hay KES) các sinh viên Pháp đóng một phần lương của mình để trợ giúp chi phí cho các sinh viên nước ngoài, chủ yếu là các sinh viên không có học bổng tài trợ. Thông thường, không có điều khoản cam kết về tài chính khi học tại Polytechnique. Tuy nhiên, các sinh viên Pháp theo những chương trình đào tạo nhân lực quốc gia (Corps) phải cam kết làm việc ít nhất 10 năm trong các dịch vụ công sau khi tốt nghiệp. Nếu sinh viên không hoàn thành khoảng thời gian cam kết thì phải bồi hoàn học phí đào tạo. Trường hợp này xảy ra khi một cựu sinh viên đang là Corps và muốn làm việc cho một công ty tư nhân. Khi đó anh ta thường yêu cầu công ty bồi hoàn chi phí cho nhà nước trước khi vào làm việc. Đào tạo sau đại học Trường Polytechnique tổ chức nhiều chương trình đào tạo Master bằng cách liên kết với các trường khác như École Normale Supérieure, Université Paris-Sud 11... Đề tài học khá đa dạng trong các ngành khoa học tự nhiên. Chương trình này không đòi hỏi phải tốt nghiệp Polytechnique, cho dù các sinh viên trường được ưu ái trước hết. Trường cũng có chương trình đào tạo tiến sĩ cho các sinh viên đã có bằng Master hay tương đương. Cựu sinh viên Các cựu sinh viên của trường Polytechnique được gọi là "X", cùng với khóa học của họ. Ví dụ như X1987 để gọi những cựu sinh viên Polytechnique khóa 1987. Danh sách một số cựu X nổi tiếng (trong rất nhiều người nổi tiếng): Phi hành gia: Jean-François Clervoy (X1978) Philippe Perrin (X1982) Các nhà công nghiệp và CEOs: Claude Bébéar (X1935): cựu CEO của Axa, được xem như là Bố già về kinh doanh của Pháp Jean-Marie Messier (X1976): cựu CEO của Vivendi Universal, tập đoàn truyền thông số 1 của Pháp Carlos Ghosn (X1974): CEO của Nissan và Renault Serge Dassault (X1946): CEO của Dassault Group Denis Ranque (X1970): CEO của Thales Group Michel Pébereau (X1961): CEO của BNP Paribas Conrad de Schlumberger (X1898): một trong anh em nhà Schlumberger, thành lập Société de Prospection Électrique, sau này trở thành Schlumberger Limited André Citroën (X1898): sáng lập Citroën Corporation Marc Fleury: sáng lập JBoss Inc. Các tổng thống và chính trị gia: Valéry Giscard d'Estaing (X1944): cựu tổng thống Pháp từ 1974 đến 1981 Marie François Sadi Carnot (X1857): cựu tổng thống Pháp từ 1932 đến 1940 Albert Lebrun (X1890): cựu tổng thống Pháp từ 1887 đến 1894 Francis Mer (X1959): cựu Bộ trưởng Tài chính Các sĩ quan quân đội: Honoré d'Estienne d'Orves (X1921) Alfred Dreyfus (X1878) Jean-Baptiste Eugène Estienne (X1879): "Cha đẻ" của xe tăng Jules Brunet (X1857) nhân vật gây cảm hứng cho bộ phim The Last Samurai Denfert-Rochereau (X1842) René Cogny (X1925) tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Kỳ 1953-1954, một trong những người có trách nhiệm trong thất bại của Pháp ở trận Điện Biên Phủ Bốn vị thống chế chỉ huy quân đội Pháp trong Thế chiến thứ nhất: Émile Fayolle (X1873) Ferdinand Foch (X1871) Joseph Joffre (X1869) Joseph Maunoury (X1867) Các nhà khoa học nổi tiếng: Benoît Mandelbrot (X1944): khám phá nguyên lý 'fractals' Louis Leprince-Ringuet (X1920) André Lévêque (X1919): Corps trường Mines, nhà khoa học Henri Poincaré (X1873): nhà phát minh trước thời đại về thuyết tương đối và thuyết hỗn độn Henri Becquerel (X1872) Henri-Louis le Chatelier (X1869) Urbain Le Verrier (X1831): thiên văn học, một trong những người đã tìm ra được Sao Hải Vương qua tính toán và quan sát quỹ đạo của Sao Thiên Vương Emile Clapeyron (X1816) Auguste Comte (X1814) Michel Chasles (X1812) Gustave Coriolis (X1808) Augustin Louis Cauchy (X1805) Augustin Fresnel (X1804) André-Marie Ampère (X1803) François Arago (X1803) Claude-Louis Navier (X1802) Siméon-Denis Poisson (X1798) Joseph-Louis Gay-Lussac (X1797) Étienne-Louis Malus (X1795) Jean-Baptiste Biot (X1794) Các người khác: Fulgence Bienvenüe (X1870): Cha đẻ của hệ thống tàu điện ngầm Paris Cựu sinh viên Việt Nam: Hoàng Xuân Hãn (X1930) Nguyễn Văn Xuân (X1912) Sinh viên Việt Nam Sinh viên Việt Nam đầu tiên ở trường bách khoa Paris là ông Nguyễn Văn Xuân, X1912. Năm 1972, bà Tạ Thu Thủy ghi dấu ấn là người phụ nữ đầu tiên thủ khoa đầu vào của Polytechnique. Bố bà bị đuổi khỏi trường vì tham gia hoạt động chống Pháp, sau đó gia đình bà ở lại Paris và ủng hộ hoạt động chống sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam. Bà nhập tịch Pháp năm 1981. Từ năm 1995, các sinh viên đến từ Việt Nam được tuyển chọn qua kì thi dành cho sinh viên nước ngoài EV2, một số khác theo học các lớp chuẩn bị tại Pháp rồi thi đỗ vào trường trong kỳ thi tuyển sinh (concours) cùng với sinh viên Pháp. Nhiều trong số các sinh viên Việt Nam học tại đây đã từng đoạt huy chương trong các kì thi Olympic toán, lý quốc tế. Sinh viên nước ngoài không được xếp hạng cùng sinh viên Pháp, tuy nhiên khóa X1997, sinh viên Ngô Đắc Tuấn có thứ hạng tương đương với người thủ khoa của khóa.
Cảng Cái Lân là một cảng nước sâu thuộc cụm cảng Hòn Gai tỉnh Quảng Ninh, đang được xây dựng và mở rộng thành một trong những cảng lớn nhất Việt Nam. Quá trình xây dựng và phát triển Tháng 7-1996 Cảng Cái Lân được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đầu tư Năm 1997 Đưa vào khai thác bến số 1 Tháng 4-2004 Đưa vào khai thác bến 5, 6, 7 Năm 2010 Khởi công xây dựng bến 2, 3, 4 Khả năng lưu thông và tiếp nhận Độ sâu luồng tại mức thuỷ triều bằng 0: -10 m. Vùng quay trở: 350 m. Kích cỡ tàu có thể tiếp nhận: 5.500 TEU (hàng container) và 85.000 DWT giảm tải (hàng rời). Độ cao tĩnh không của cầu Bãi Cháy tại điểm thủy triều bằng 0: 55,6 m. Cơ sở hạ tầng Cảng gồm 8 cầu tàu, 2 bến bốc xếp container và 2 bến nghiêng; Kho có diện tích 10.000 m², bãi chứa hàng có diện tích 17.000 m²; Thiết bị bốc dỡ: 1 cẩu 20 tấn, 2 cẩu 30 tấn, 2 cẩu 50 tấn di động, 3 cẩu 70 tấn và một số cẩu di động từ 8 đến 10 tấn khác; Khả năng cập tàu: Tàu từ 1 đến 5 vạn tấn có thể cặp bến; Khả năng xếp dỡ: từ 5 đến 8 triệu tấn/năm. Ghi nhận Cuối tháng 6-2013, CICT là Cảng đầu tiên của miền Bắc được Hải quan Hoa Kỳ cấp chứng chỉ CT PAT (tiêu chuẩn về an ninh, an toàn), chứng chỉ cho phép hàng hoá xuất từ CICT trực tiếp đi Mỹ. Bến số 2,3,4 Cảng Cái Lân được lựa chọn là một trong 30 công trình tiêu biểu được UBND tỉnh Quảng Ninh gắn biển chào mừng 50 năm ngày thành lập tỉnh, Xếp hạng 46 trong bảng đánh giá về hiệu quả hoạt động của 351 cảng container trên toàn cầu do Ngân hàng Thế giới (WB) và IHS Markit vừa thực hiện năm 2021
Thiệu Trị (chữ Hán: 紹治 16 tháng 6 năm 1807 – 4 tháng 11 năm 1847), húy là Nguyễn Phúc Dung (阮福曧), sau cải thành Nguyễn Phúc Miên Tông (阮福綿宗), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn nước Đại Nam. Ông kế vị vua cha là Minh Mạng, trị vì từ năm 1841 đến khi qua đời, tổng cộng gần 7 năm, được truy tôn miếu hiệu là Hiến Tổ (憲祖), thụy hiệu Thiệu Thiên Chương Hoàng Đế (紹天章皇帝). Trong thời gian trị vì ông chỉ sử dụng một niên hiệu là Thiệu Trị nên thường được gọi theo tên này. Thiệu Trị được sử sách mô tả là một hoàng đế thông minh, tận tụy chăm lo việc nước, uyên bác Nho học, yêu thích thơ ca. Nhưng Thiệu Trị không đưa ra cải cách gì mới, chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự... từ thời Minh Mạng. Khi Thiệu Trị lên ngôi, chính sách bành trướng của Minh Mạng đã khiến lãnh thổ Đại Nam đạt đến mức rộng nhất trong lịch sử. Đại Nam đô hộ vùng đông nam Chân Lạp, đặt ra Trấn Tây Thành nhưng sự hà khắc của quan quân Việt đã gây nên sự căm phẫn và nổi dậy liên miên của người Chân Lạp, chi phí quân sự khiến quốc khố ngày càng cạn kiệt. Thiệu Trị phải xuống lệnh rút quân khỏi Trấn Tây Thành. Liên quân Xiêm La-Chân Lạp nhân đó đánh phá biên giới Tây Nam, Thiệu Trị sai nhiều tướng giỏi như Lê Văn Đức, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn,... mang quân chống lại. Quân Đại Nam đánh bại Xiêm La rồi truy kích vào đất Chân Lạp, nhưng đất Trấn Ninh thì đã bị Xiêm La chiếm mất. Năm 1845, Đại Nam và Xiêm La ký hòa ước chia nhau quyền bảo hộ Chân Lạp, vùng biên phía Tây cuối cùng đã được tạm yên, nhưng cũng từ đây quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt bị dừng lại, lãnh thổ Đại Nam cũng bị thu hẹp khá nhiều so với thời Minh Mạng. Sau khi kết thúc chiến tranh với Xiêm La, Thiệu Trị phải đương đầu với mối đe dọa xâm lược càng lúc càng gia tăng từ Pháp. Đỉnh điểm là trận cửa biển Đà Nẵng (1847) khi quân thuyền Pháp bắn chìm 5 chiếc thuyền đồng của thủy quân Đại Nam. Thất bại này khiến hoàng đế hết sức tức giận và lo lắng, nhưng cho đến khi chết, Thiệu Trị và quần thần vẫn không thể tìm ra phương sách hợp lý để đối phó. 10 năm sau cái chết của Thiệu Trị (1858), Pháp nổ súng xâm lược Đại Nam, mở đầu thời kỳ Việt Nam bị Pháp đô hộ. Thân thế Vua Thiệu Trị có húy là Dung, sau khi vua Minh Mạng lập ra bài Đế hệ thi thì ông được đổi tên thành Miên Tông, khi lên ngôi lại đổi thành Nguyễn Phúc Tuyền. Ông sinh ngày 11 tháng 5 (âm lịch) năm Đinh Mão (1807), là Đích trưởng tử của vua Minh Mạng, mẹ là Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa. Mới 13 ngày sau khi sinh hạ Miên Tông, bà Hồ Thị Hoa qua đời, Miên Tông được Hoàng tổ mẫu là Nhân Tuyên Hoàng thái hậu đích thân chăm sóc và nuôi dưỡng. Những năm đầu Minh Mạng, hoàng trưởng tử Miên Tông được xuất các và đến Chí Thiện đường để học tập. Năm thứ 11 (1830), ông được vua cha phong làm Trường Khánh công. Năm 1837, ông kiêm nhiếp chức Tôn nhân phủ Tả tôn chính trông coi các việc trong hoàng thất.Theo sách "Quốc sử di biên" chép lại, khi Thiệu Trị chưa lên ngôi nhưng trong câu đối của ông đã báo trước về địa vị của người đứng đầu thiên hạ nay mai. Một hôm Thánh tổ ra câu đối "Long vi vạn vật chi linh, biến hóa phi đằng mặc trắc (nghĩa là: Rồng thiêng hơn vạn vật, biến hóa bay nhảy khôn lường)".Nghe xong Trường Khánh đối lại "Thiên nãi nhất nguyên chi khí, khôi hiệu phú đảo vô ngân (nghĩa là: Trời là khí nhất nguyên, rộng lớn che trùm tất cả)". Thánh tổ nghe xong vô cùng làm lạ, quý trọng lắm. Trong câu đối trên, Trường Khánh thể hiện được tầm nhìn lớn, bao quát thiên hạ Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), vua cho đúc các con thú bằng vàng để ban thưởng cho các hoàng thân anh em, các hoàng tử công và hoàng tử chưa được phong tước. Trường Khánh công được ban cho một con voi bằng vàng nặng 21 lạng và một con rồng có cánh bằng vàng nặng 7 lạng. Trị vì Khi vua Minh Mạng qua đời, Nguyễn Phúc Miên Tông được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng 1 năm Tân Sửu (tức 11 tháng 2 năm 1841) ở điện Thái Hòa, vừa đúng 34 tuổi. Phần nhiều sử sách nhận định vua Thiệu Trị là một người hiền hòa, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua cha. Mọi định chế pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa và binh bị đều được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị chỉ áp dụng theo các định lệ của vua cha, ít có sự cải cách, thay đổi gì mới. Quan lại lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp ra sức phò tá. Tuy nhiên, cũng nên hiểu rằng những cuộc chiến tranh, nổi dậy thời Thiệu Trị đa phần là do hậu quả từ thời vua Minh Mạng để lại. Văn chương Thiệu Trị cũng nổi tiếng là một vị vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là 2 bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (Cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Cả hai bài không trình bày theo lối thường mà viết thành 5 vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có một số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một "trận đồ bát quái", vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó. Hiện nay các nhà ngôn ngữ, học giả đã tìm ra được 128 cách đọc. Nam Kỳ Trong năm đầu tiên khi Thiệu Trị lên ngôi, đất Nam Kỳ liên tục nổi lên các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình. Đa số đều là các cuộc nổi dậy của người dân tộc Khmer. Nguyên nhân đều do chính sách đồng hóa và cai trị hà khắc từ thời Minh Mạng để lại. Năm 1841, Lâm Sâm khởi binh ở Phú Lạc Hóa (nay là Vĩnh Long và Trà Vinh), Sơn Tốt và Trần Lâm nổi dậy ở Ba Xuyên (nay là Sóc Trăng), dân Khmer ở Thất Sơn nổi loạn với sự trợ giúp của quân Chân Lạp và Xiêm La. Triều đình phải vất vả cử binh đi dẹp loạn, tới cuối năm 1842 mới tạm bình định đất Nam Kỳ. Chân Lạp Không như vua cha Minh Mạng, Thiệu Trị ít có tham vọng về mở rộng lãnh thổ và khuếch trương thanh thế. Năm 1841, Thiệu Trị vừa lên ngôi, thấy tình hình Chân Lạp bất ổn, dân Chân Lạp chống đối quan lại Đại Nam cai trị, còn đất Nam Kỳ liên tiếp có nổi loạn. Nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự xin bỏ đất Trấn Tây Thành, rút quân về giữ An Giang, Vua Thiệu Trị liền nghe theo, truyền cho tướng quân trấn thủ Trấn Tây là Trương Minh Giảng rút quân về. Ngoài ra, Thiệu Trị cũng cho bỏ luôn phủ Quảng Biên và huyện Khai Biên (nay thuộc tỉnh Kampot và Sihanoukville). Nước Cao Miên được lập lại, vua mới là Sá Ong Giun (Ang Duong, em trai của vua cũ Nặc Chăn - Ang Chan II) làm Cao Miên quốc vương, cháu gái là Ngọc Vân (Ang Mey - con gái Ang Chan II) làm Cao Miên quận chúa. Nước Xiêm hùng mạnh thay thế Đại Nam để bảo hộ nước Cao Miên. Việc làm này cũng đánh dấu sự từ bỏ tham vọng sáp nhập phần lãnh thổ phía Đông Chân Lạp vào bản đồ Đại Nam. Trương Minh Giảng vì việc này mà quá uất ức nên đã sinh bệnh, qua đời khi vừa rút binh về tới An Giang. Thiệu Trị nhân đó lại giáng thêm tội cho Trương Minh Giảng. Nước Xiêm và Chân Lạp nhân đó tiếp tục gây hấn, xúi giục người dân tộc nổi loạn trong phần đất Nam Kỳ. Năm 1842, quân Xiêm nhân cơ hội Nam Kỳ có loạn, tiến đến tận Vĩnh Tế để phá rối Đại Nam, dẫn đến cuộc chiến Việt - Xiêm lần tiếp theo. Đến tận năm 1845, sau khi quân Đại Nam tiến công truy đuổi quân Xiêm ngược lên lãnh thổ Cao Miên, hai nước Việt - Xiêm mới ký hòa ước, chấp nhận cùng bảo hộ nước Cao Miên. Nước Pháp và đạo Thiên Chúa Từ khi Thiệu Trị lên ngôi thì việc cấm đạo Thiên Chúa bớt đi, nhưng triều đình vẫn không có cảm tình với Thiên Chúa giáo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế. Có người báo tin đó cho Trung tá Pháp là Favin Lévêque coi tàu Héroïne. Trung tá Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ 5, Ất Tỵ 1845, có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Đà Nẵng đón Giám mục ra. Năm Đinh Mùi 1847, khi người Pháp biết rằng ở Huế không còn giáo sĩ bị giam nữa, mới sai Đại tá De Lapierre và Trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới. Khi hai bên còn đang thương nghị về việc này thì quan nước Pháp thấy thuyền của Đại Nam đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân đắp đồn lũy, nghĩ rằng có âm mưu bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ chạy ra biển. Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận, có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Những sự kiện này mở đầu "đường lối ngoại giao pháo hạm" của thực dân Pháp, báo hiệu trước những hành động xâm lược về sau này. Một vài tháng sau Thiệu Trị lâm bệnh nặng. Qua đời Theo sử nhà Nguyễn, con trai trưởng của ông là Nguyễn Phúc Hồng Bảo, một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành. Vì vậy khi gọi các quan Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào trăn trối, Thiệu Trị để di chiếu truyền ngôi cho con thứ là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. Hồng Bảo được tin đem binh vào, nhưng bị quan Phạm Thế Lịch giữ lại. Một mình Hồng Bảo vào lạy lục vua cha Thiệu Trị, nhưng ông quay mặt đi không trả lời. Hồng Bảo bị Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa vào hậu cung và giữ ở đó. Thiệu Trị qua đời vào ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, tức 4 tháng 11 năm 1847, hưởng thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến Tổ (憲祖). Thụy hiệu của ông là Thiệu Thiên Long Vận Chí Thiện Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đoán Văn Trị Vũ Công Thánh Triết Chương Hoàng đế (紹天隆運至善純孝寬明睿斷文治武功聖哲章皇帝). Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu. Lăng của ông là Xương Lăng, tọa lạc tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Gia quyến Hậu cung Dưới đây liệt kê những vị hậu phi đã sinh con cho vua Thiệu Trị. Ngoài ra, nhà vua còn nhiều thứ phi và cung nhân không được liệt kê trong Thế phả. Bài vị của những vị phi tần vô tự được thờ ở một gian trong Xương Lăng, tẩm lăng của vua Thiệu Trị. Hậu duệ Vua Thiệu Trị có 64 người con, gồm 29 hoàng tử và 35 công chúa. Hoàng tử. Hoàng nữ
Cảng Hải Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, lớn thứ 2 ở Việt Nam sau cảng Sài Gòn và lớn nhất miền Bắc, là cửa ngõ quốc tế của Việt Nam nằm tại ba quận Hồng Bàng, Ngô Quyền và Hải An, bên cạnh đó cụm cảng Lạch Huyện đang được hoàn thiện sẽ mang một tầm vóc mới cho cảng biển Hải Phòng. Lịch sử Cảng Hải Phòng được người Pháp xây dựng năm 1874, là nơi được sử dụng để đổ bộ và tiếp tế cho quân đội viễn chinh. Sau đó, thương cảng này được nối liền với Vân Nam, Trung Quốc bằng đường xe lửa. Đến năm 1939, cảng này thực hiện 23% khối lượng vận chuyển xuất nhập khẩu của xứ Đông Dương. Ngày 21 tháng 3 năm 1956, Cảng Hải Phòng là một xí nghiệp do Ngành vận tải thủy phụ trách và quản lý. Ngày 10 tháng 7 năm 1965, Cảng Hải Phòng là xí nghiệp trực thuộc Cục vận tải đường biển. Ngày 28 tháng 11 năm 1978, Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng cục đường biển. Ngày 29 tháng 4 năm 1995, Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Ngày 12 tháng 10 năm 2007, Cảng Hải Phòng chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty TNHH Một thành viên Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Ngày 1 tháng 7 năm 2014, Cảng Hải Phòng chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần. Thông số kỹ thuật Cảng Hải Phòng hiện nay bao gồm các khu bến cảng chính sau: Cảng Vật Cách: Xây dựng năm 1965, ban đầu là những dạng mố cầu, có diện tích mặt bến 8x8 mét,cảng có 5 mố cầu bố trí cần trục ôtô để bốc than và một số loại hàng khác từ sà lan có trọng tải từ 100 đến 200 tấn. Cảng Hải Phòng (khu cảng chính, hay còn gọi là Bến Hoàng Diệu, trước gọi là Bến Sáu Kho) trên sông Cấm: cảng container nội địa, cảng bốc xếp và vận chuyển hàng hóa rời, chủ yếu phục vụ nội địa. Khu cảng này có 11 cầu tàu, độ sâu trước bến là -8,4 mét; hệ thống kho rộng 31320 mét vuông; hệ thống bãi rộng 163 nghìn mét vuông. Cảng Hải Phòng (khu bến Chùa Vẽ) trên sông Cấm: cảng container chuyên dụng, có 5 cầu tàu, hệ thống bãi rộng 179 nghìn mét vuông. Khu bến Đình Vũ và Nam Đình Vũ: có thể tiếp nhận tàu trọng tải 10 nghìn - 20 nghìn DWT Cảng gồm 8 cầu tàu bê tông cốt thép, 2 cầu đang xây dựng trong đó có 1 bến nghiêng; Kho có diện tích 70.232 m², bãi chứa hàng có diện tích 39.000 m²; Thiết bị bốc dỡ: có cẩu cố định và di động 10 - 50 - 70 tấn, có xe nâng, hạ hàng, băng chuyển tải và cẩu xếp dỡ công ten nơ; Độ sâu trung bình của mực nước là 7 m; Có đường sắt vào các cầu tàu số 8 - 9 - 10 - 11. Khả năng xếp dỡ: từ 3,5 đến 4,5 triệu tấn/năm. Đang tăng cường khả năng xếp dỡ hàng hóa và công ten nơ lên 7 triệu tấn/năm. Khu bến sông Cấm: 5.000 - 10.000 DWT Khu bến Diêm Điền (huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình): 1.000 - 2.000 DWT Cảng Thủy sản Cảng Đoạn Xá Cảng Tân Vũ: có độ sâu cốt luồng là -7,3 mét, độ sâu trước bến là -10,3 mét, tiếp nhận được tàu 20.000 DWT, hiện có 2 cầu tàu dành cho làm hàng container (khi xây hoàn thành, sẽ có thêm 1 cầu tàu dành cho làm hàng container và 2 cầu tàu dành cho làm hàng rời). Cảng Hải An: Hiện có 1 cầu tàu dành cho làm hàng container Cảng Lạch Huyện (đang xây dựng). Trong đó bến số 1 và số 2 đã hoàn thiện và đón thành công tàu Wan Hai 805 có trọng tải 132.000 DWT (12.000 TEU) Quy hoạch Hiện chính phủ Việt Nam đang có kế hoạch nâng cấp cụm cảng Hải Phòng. Khu bến Lạch Huyện sẽ được xây dựng làm cảng tổng hợp và cảng container. Đây sẽ là khu bến chính của cảng Hải Phòng có năng lực tiếp nhận tàu trên 100.000 DWT vào làm hàng. Khu bến Đình Vũ sẽ được nạo vét, cải tạo để có thể tiếp nhận được tàu 20.000 đến 30.000 DWT. Ngoài ra, còn có bến Nam Đồ Sơn chuyên dùng cho an ninh quốc phòng. Các cảng ở Hải Phòng Cũng ở Hải Phòng, ngoài các cảng trên, còn có hơn 40 bến cảng khác với các chức năng khác nhau, như vận tải chất hóa lỏng (xăng, dầu, khí đốt), bến cảng đóng tàu, bến cho tàu vận tải đường sông nhỏ có trọng tải 1-2 tấn ("tàu chuột"). Các cảng này do nhiều công ty khác nhau quản lý và khai thác.
Sân bay Gia Lâm là sân bay cấp II, thuộc phường Phúc Đồng, quận Long Biên, cách trung tâm thành phố Hà Nội 8 km. Vào năm 2022, sân bay Gia Lâm được lựa chọn để tổ chức Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam lần đầu tiên. Đặc tính kỹ thuật Chiều dài đường cất hạ cánh: chính 2.000 m; phụ: 1.200m Chiều rộng đường cất hạ cánh: chính 45 m, phụ 20m Kích thước đường lăn chính: 1.450x20 (m) Kết cấu đường cất hạ cánh: bê tông xi măng - bê tông nhựa Sân đỗ máy bay: 2 chiếc Sân chứa máy bay: 20 chiếc Đặc điểm khai thác Đây là sân bay chính của Hà Nội trước năm 1975. Sau năm 1975, sân bay này đã được thay thế bằng Sân bay Quốc tế Nội Bài. Hiện nay, sân bay Gia Lâm dành cho hoạt động bay huấn luyện và bay taxi phục vụ các chuyến du lịch bằng máy bay trực thăng. Định hướng phát triển Cục Hàng không Việt Nam cho biết, đang quy hoạch sân bay Gia Lâm. Đến sau năm 2015, sân bay này sẽ thành ga hàng không giá rẻ để đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường. Tuy nhiên, vào năm 2020, Nhà nước đã bãi bỏ việc này.
Ngô Văn Sở (chữ Hán: 吳文楚, ? - 1795), còn có tên là Ngô Hồng Chấn, Ngô Văn Tàng, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Thân thế và sự nghiệp Ông sinh trưởng tại làng Bình Thạnh, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Tổ tiên ông là người ở Trảo Nha, huyện Thiên Lộc (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) di cư vào huyện Tây Sơn lúc nào chưa rõ. Ông nội là Ngô Mãnh đã từng làm quan đến chức Đô thống thời Trương Phúc Loan, trấn đóng nơi địa đầu Linh Giang và Trường Dục. Cha ông là Ngô Văn Diễn, giữ chức Khinh xạ Vệ úy triều Lê – Trịnh, trấn giữ đất Quảng Nam (Có tài liệu nói mẹ ông tên là Nguyễn Thị Mỹ nhưng không rõ người quê gốc ở đâu). Ngô Văn Diễn có bốn con trai là Ngô Văn Sở, Ngô Văn Trị, Ngô Văn Ngữ và Ngô Văn Dần. Con cháu Ngô Văn Ngữ hiện ở phường Nhơn Bình, TP Quy Nhơn. Ngô Văn Sở và Ngô Văn Ngữ được thờ ở ngôi nhà khi xưa các ông sống tại nơi nói trên. Còn con cháu 3 vị khác đều trốn chạy khỏi quê hoặc không sống ở quê trước khi nhà Tây Sơn sụp đổ năm 1801 (Phả hệ họ Ngô Việt Nam). Do tính cương trực, Ngô Mãnh không chịu luồn cúi nên bị Trương Phúc Loan tìm cách hãm hại, vu cho tội thông đồng với Chúa Trịnh, bị tước thu binh quyền, tịch thu gia sản và phải tội lưu đày. Ngô Mãnh trốn thoát cảnh ngục tù, một thân cùng cháu nhỏ là Ngô Văn Sở không dám về quê, đành cải danh là Đặng Hải Siêu và Đặng Sơn Điêu vào Nam, lưu lạc lên Tây Sơn. Trên đường đi, Hải Siêu lâm bệnh, nên ông cháu xin nương nhờ nơi vườn nhà Bùi công ở thôn Xuân Hòa. Bùi công nuôi dưỡng tử tế. Một hôm, vào nửa đêm, nhà Bùi công bị cướp, Ngô Mãnh ra tay cứu trợ, đánh tan bọn cướp. Bùi công ân cần thăm hỏi, Hải Siêu đem tất cả sự thật ra giãi bày. Từ đó, ông trở thành thầy dạy võ cho bà Bùi Thị Xuân con gái Bùi công. Ngô Văn Sở cũng học cùng, tức bạn đồng môn với Bùi Thị Xuân. Sau ba năm ẩn náu tại Bùi gia trang, Ngô Mãnh bị bạo bệnh qua đời. Ngô Văn Sở buồn rầu xin giã biệt Bùi công đi xuống hạt Quy Nhơn và định cư tại Bình Thạnh, Tuy Viễn (Tuy Phước). Gian lao với phong trào Tây Sơn Năm 1771, ba anh em Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cùng khởi binh, Ngô Văn Sở đến đầu quân ngay từ buổi đầu. Năm 1773, Ngô Văn Sở được cử làm Chinh nam Đại tướng quân cùng Lê Văn Lộc, Lê Văn Hưng vào đánh chiếm ba phủ Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận. Mặt tây được hai Vua Thủy, Hỏa yểm hộ, binh Tây Sơn cứ thẳng tiến vào Nam. Đi tới đâu được hoan nghênh tới đó, và lấy ba thành dễ dàng như trở bàn tay. Tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền bị giết, và Nguyễn Khoa Kiên bị bắt sống. Đại thắng, Ngô Văn Sở kéo binh về, để Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Hưng ở lại trấn giữ. Năm 1775, ông lại theo Nguyễn Huệ và rồi cùng đánh tan hơn hai vạn quân Nguyễn do tướng Tống Phúc Hiệp ở Phú Yên. Kể từ lúc ấy, Ngô Văn Sở trở thành một trong những tướng lĩnh cao cấp của Bộ chỉ huy quân Tây Sơn. Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng đế, phong Ngô Văn Sở chức Đại Tư mã. Lúc Nguyễn Huệ ra đánh Thuận Hóa đem theo Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo làm Tham tán quân vụ để chia bớt binh quyền. Năm 1782, Trịnh Sâm chết, hai con là Trịnh Khải và Trịnh Cán tranh nhau làm chúa. Trịnh Khải giết Hoàng Đình Bảo, người phụ tá của Trịnh Cán (còn nhỏ), giành lấy ngôi chúa. Thủ hạ của Đình Bảo là Nguyễn Hữu Chỉnh chạy vào nam đầu hàng Tây Sơn. Tháng 3 năm 1786, dân Bắc Hà bị nạn đói, giá gạo tăng vọt, thây chết nằm liền nhau. Trịnh Khải hạ lệnh ai nộp của sẽ trao cho quan chức, nhưng không ai hưởng ứng, bèn dùng sắc lệnh bắt ức nhà giàu để lấy tiền chia ra phát chẩn. Nhận thấy thời cơ đánh Bắc Hà, Nguyễn Huệ đề nghị Nguyễn Nhạc đánh ra bắc nhưng Nguyễn Nhạc ngần ngại chưa quyết. Sang tháng 4 năm đó, Phạm Ngô Cầu sai sứ là Nguyễn Phú Như vào Quy Nhơn mượn tiếng trao đổi vấn đề biên giới, nhưng thực ra muốn dò tình hình Tây Sơn. Phú Như vốn có quen biết với Nguyễn Hữu Chỉnh, bèn mang tình hình Thuận Hóa nói lại. Hữu Chỉnh bèn xin Nguyễn Nhạc ra quân đánh Thuận Hóa. Lúc đó Nguyễn Nhạc mới quyết định. Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy các cánh quân thủy bộ, Vũ Văn Nhậm làm Tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu quân đô đốc, Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị thủy quân. Ngô Văn Sở cũng đi theo. Sau đó theo Nguyễn Huệ vượt sông Gianh đánh ra Bắc Hà (1786). Năm 1787, Ngô Văn Sở cùng Tiết chế Vũ Văn Nhậm ra diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, đánh chiếm Thăng Long. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô lưu vong. Sau khi diệt Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lập Lê Duy Cẩn (hay Cận) làm Giám quốc. Cựu thần nhà Lê không người nào theo. Vũ Văn Nhậm chuyên quyền. Ngô Văn Sở bèn làm mật tấu cùng Bắc Bình Vương (tức Nguyễn Huệ). Nguyễn Huệ hay tin lập tức truyền lệnh xuất sư, đem quân ra Bắc lần thứ hai. Đi suốt ngày đêm, hơn 10 ngày đến Thăng Long. Diệt Vũ Văn Nhậm (1788). Đại Tư mã Ngô Văn Sở nắm giữ chính quyền, thống lĩnh quân đội, được giao trọng trách trông coi 11 trấn Bắc Hà. Đô đốc Võ Văn Dũng, Nội hầu Phan Văn Lân, Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Hộ bộ Trần Thuận Ngôn, Học sĩ Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đều theo Ngô Văn Sở giữ Thăng Long. Theo sách "Đại Nam chính biên liệt truyện", trước khi về lại Phú Xuân, trong buổi trao quyền cho Ngô Văn Sở, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ đã nói: "Sở và Lân là nanh vuốt của ta. Dụng và Ngôn là lòng dạ của ta. Nhậm là bề tôi mới của ta. Nay ta lấy cái việc quân vụ và quốc chính của 11 trấn Bắc Hà ủy thác cho. Ta thuận cho theo tiện nghi mà làm việc, phải hội đồng thương nghị với nhau, chớ vì cũ mới mà xa nhau". Năm 1788, vua Lê Chiêu Thống dẫn nhiều vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy vào xâm lược Việt Nam. Ngô Văn Sở làm kế hoãn binh sai người đến dinh họ Tôn cầu hòa. Lời đề nghị bị bác khước. Quân Tây Sơn do Đại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm, cho gọi binh các trấn Kinh Bắc, Thái Nguyên, Hải Dương, Sơn Tây về hội tại Bắc Thành trấn Sơn Nam rồi chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) cố thủ, đồng thời cho Nguyễn Văn Tuyết về Phú Xuân cáo cấp. Được tin cấp báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (21 tháng 12 năm 1788) Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngay sau khi làm lễ đăng quang tại núi Bân (Phú Xuân), nhà vua trực tiếp mang đại quân ra Bắc để đánh đuổi quân xâm lược. Ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân (1789), đại binh vua Quang Trung đến Tam Điệp. Ngô Văn Sở ra chịu tội, Quang Trung biết là mưu của Ngô Thời Nhậm, nên bỏ qua. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân được lệnh đem tiền quân tiến về Thăng Long. Trong chiến dịch phản công này, Đại Tư mã Ngô Văn Sở được ở bên cạnh vua Quang Trung để cùng chỉ huy đạo quân chủ lực đánh vào hai thành trì quan trọng của đối phương, đó là Hà Hồi và Ngọc Hồi. Nhờ lập nhiều công lao, nên khi xét thưởng ông được nhà vua phong tới tước Ích Quốc công. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở lại Thăng Long, tổng thống việc quân quốc. Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích phụ trách việc giao thiệp với Trung Hoa. Tháng 1 năm 1790, Ngô Văn Sở lãnh giao nhiệm vụ dẫn đầu phái đoàn 100 người đưa giả vương Phạm Công Trị sang Yên Kinh nhà Thanh dự lễ Bát tuần đại thọ vua Càn Long. Khi về nước ông được phong Thủy sư Đô đốc. Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi (tức Cảnh Thịnh). Ngô Văn Sở được triệu hồi về Phú Xuân. Bùi Đắc Tuyên được Ngô Văn Sở ủng hộ, nên được trọng đãi. Vua Cảnh Thịnh lên ngôi tấn phong chức Đại Đổng lý, tước Quận công (Chấn Quận công), coi sóc cả việc quân và dân ở Bắc Hà. Trong sách Tây Sơn Lương tướng ngoại truyện có đoạn chép về ông như sau: "Ngô Văn Sở làm quan không cầu danh lợi, tiếng tăm, lúc nào cũng muốn tránh quyền thế. Thường ngày, ông yêu kính quân tử mà vẫn giữ lòng thương xót tiểu nhân. Ông cùng với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân đều là danh tướng, được người đương thời gọi là Tứ kiệt". Do nhà vua còn nhỏ, quyền hành nhanh chóng rơi vào tay người cậu vua là Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Kể từ đó, triều đình Tây Sơn sinh ra lục đục mãi. Theo tài liệu của các giáo sĩ phương Tây có mặt tại Phú Xuân lúc bấy giờ thì Bùi Đắc Tuyên muốn lật đổ vua Cảnh Thịnh, thanh trừng các công thần Tây Sơn để đưa con mình là Bùi Đắc Trụ lên làm vua. Năm 1793, Nguyễn Ánh đem quân đánh Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc cầu cứu ra triều đình Phú Xuân. Quang Toản sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng đem 17.000 quân và 80 thớt voi vào cứu, quân Nguyễn Ánh rút lui. Tuy Ngô Văn Sở can ngăn nhưng Phạm Công Hưng vẫn chiếm cứ kho tàng, giải giáp quân đội của vua Thái Đức. Lúc đó Nguyễn Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin đất phong của con mình là Nguyễn Văn Bảo bị chiếm mất thì uất quá thổ huyết mà qua đời. Quang Toản an trí Nguyễn Văn Bảo ra huyện Phù Ly, phế làm Hiếu công và cai quản toàn bộ đất đai của dòng trưởng. Không ngăn cản được việc cướp chính quyền của Phạm Công Hưng, nhưng Ngô Văn Sở đã can thiệp cho các quan văn võ đại thần của vua Thái Đức khỏi bị hại. Lớp xin được cáo quan về làng, lớp thuận quy phục Cảnh Thịnh thì bị phân tán đi các nơi xa. Sau đó Ngô Văn Sở lại trở về Phú Xuân. Năm 1794, xảy ra vụ án Lê Văn Hưng. Để hãm hại Hưng, Đắc Tuyên tâu vua cử Hưng mang quân vào đánh chiếm Phú Yên. Sau chiến thắng, Lê Văn Hưng về Phú Xuân báo tiệp thì bị Bùi Đắc Tuyên tấu xàm là Lê Văn Hưng chưa có lệnh vua đã rút, ý muốn tạo phản. Cảnh Thịnh vì còn nhỏ tuổi ra lệnh giết hại ông dù đã được Ngô Văn Sở và Trần Văn Kỷ can ngăn. Nội bộ lục đục, bị dìm chết Năm 1795, Đắc Tuyên gọi Vũ Văn Dũng ở Bắc Hà về Phú Xuân, và cho Ngô Văn Sở ra thay. Vũ Văn Dũng về đến trạm Hoàng Giang thì gặp Trần Văn Kỷ bị Bùi Đắc Tuyên đày ở đó. Kỷ nói với Dũng rằng: Thái sư chuyên quyền tác oai tác phúc, sẽ là điều bất lợi cho xã tắc; nếu không sớm trừ đi, sau này hối cũng không kịp. Nghe lời bàn của Trần Văn Kỷ, Đại Đô đốc Võ Văn Dũng gấp rút dẫn quân về Phú Xuân, bí mật phối hợp với Nguyễn Văn Huấn, Phạm Công Hưng vây bắt Bùi Đắc Tuyên ngay ở cung của vua Cảnh Thịnh. Cho rằng Ngô Văn Sở là người cùng phe cánh với Đắc Tuyên, Vũ Văn Dũng cho làm chiếu lệnh giả ra Thăng Long bắt Ngô Văn Sở giải về Phú Xuân. Ngô Văn Sở và hai cha con Bùi Đắc Tuyên bị nhốt vào cũi sắt, đem xuống sông Hương dìm chết. Đó là năm 1795. Theo danh sĩ Nguyễn Trọng Trì (1854-1922) thì Ngô Văn Sở không phải là người có nhiều tham vọng. Cho nên ông tự nguyện đi theo Bùi Đắc Tuyên hay bị viên Thái sư này gán ép (để tạo thanh thế), hoặc bị tướng Võ Văn Dũng vu oan (nhằm loại trừ một thế lực), cần phải tìm hiểu thêm. Nhận xét Năm 1788, sau khi Vũ Văn Nhậm bị giết chết, Ngô Văn Sở được giao nhiệm cai quản Bắc Hà. Trong buổi trao quyền, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã tuyên bố rằng: (Ngô Văn) Sở và (Phan Văn) Lân đều là nanh vuốt của ta. Điều này cho thấy tài năng của ông và sự tin cậy của cấp trên đối với ông. Trong sách Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Trì cũng có đoạn chép về Ngô Văn Sở như sau: Ngô Văn Sở làm quan không cầu danh lợi tiếng tăm, lúc nào cũng muốn tránh quyền thế. Thường ngày, (ông) yêu kính quân tử mà vẫn giữ lòng thương xót tiểu nhân. Ông cùng với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân đều là danh tướng, được người đương thời gọi là Tứ kiệt. Trùng tên Cùng thời với ông có tướng Ngô Văn Sở quê ở Gia Định gốc Thừa Thiên, từng theo quân Tây Sơn làm đến chức Đô úy, sau đầu hàng chúa Nguyễn, năm Kỷ Mùi (1799) theo Võ Tánh trấn giữ thành Bình Định. Sách Đại Nam Liệt truyện viết về tướng Ngô Văn Sở này như sau: Vợ của tướng Ngô Văn Sở người Gia Định là bà Nguyễn Thị Đích, sinh được 1 con gái và 2 con trai: bà Ngô Thị Chính là con gái đầu lòng, hai người em trai tên Thắng và Thọ. Do trùng tên, Đại Tư mã Ngô Văn Sở thường bị hiểu lầm là cha của Tuệ Khiết Hiền phi Ngô Thị Chính - một phi tần nổi tiếng của vua Minh Mạng. Trong văn hoá đại chúng
Nguyễn Cung Tông (chữ Hán: 阮恭宗 23 tháng 2 năm 1852 – 6 tháng 10 năm 1883), tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân (阮福膺禛), là vị hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Nguyễn. Ông lên ngôi vua ngày 19 tháng 7 năm 1883 nhưng tại vị chỉ được ba ngày, ngắn nhất trong số 13 vị hoàng đế của triều Nguyễn, được vua Thành Thái truy tôn miếu hiệu là Cung Tông (恭宗), thụy hiệu là Huệ Hoàng đế (惠皇帝). Dục Đức là tên gọi khi ông còn ở Dục Đức Đường. Thân thế và cuộc sống ban đầu Dục Đức sinh ngày 23 tháng 2 năm 1852 tại Huế. Có nguồn ghi ông sinh 4 tháng 1 năm Quý Sửu (tức 11 tháng 2 năm 1853). Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (con trai thứ tư của vua Thiệu Trị) và bà Trần Thị Nga, có tự là Ưng Ái (膺) (sử không lưu lại húy). Năm 1869, khi được 17 tuổi, ông được bác ruột là vua Tự Đức chọn làm con nuôi (vì lúc nhỏ bị bệnh đậu mùa nên vua Tự Đức không có con) và ban tên tự Ưng Chân (膺禛), đồng thời cho ra ở Dục Đức đường (育德堂) và giao cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên trông nom dạy bảo. Năm 1883 ông được phong làm Thụy Quốc công (瑞國公). Sử sách còn nêu nguyên do ông phải đổi tên vì Nguyễn Phúc Hồng Y sinh ra ông, tên Ái không có bộ thị, nên Tự Đức nhận ông làm con, đổi là Nguyễn Phúc Ưng Chân, tên này có bộ thị (xem thêm bài Đế hệ thi). Trong thời gian này, ông có quan hệ chặt chẽ với người Pháp, khi đó đang xâm lược Việt Nam. Năm 1881, vào thời điểm Pháp rục rịch tấn công miền bắc, ông từng cho chuyển nhiều tài liệu quan trọng về việc nước cho Trú sứ Pháp là Rheinart. Vị vua ba ngày Ngày 15 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức lâm trọng bệnh, đưa di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, và dùng Trần Tiễn Thành làm Phụ chánh Đại thần, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết làm Đồng Phụ chánh Đại thần. Nhưng trong di chiếu có đoạn phê bình tính nết của tự quân như sau: ... Ưng Chân tuy từ lâu nay đã trưởng thành nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Mà nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây". Các quan Phụ chính Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dâng sớ lên vua Tự Đức xin bỏ mấy đoạn có liên quan đến tính nết xấu của tự quân và câu "chưa chắc đã đảm đương được việc lớn" nhưng vua Tự Đức từ chối, vì cho rằng viết như thế để tự quân biết kiểm điểm và tu tỉnh. Vào giờ Thìn (11-13 h) ngày 19 tháng 7 năm 1883, Tự Đức qua đời ở điện Càn Thành, Ưng Chân khóc lạy tờ cố mệnh ở điện Cần Chánh, sau đó vào điện Hoàng Phước chịu tang. Trước kia, Tự Đức còn sinh tiền không yêu quý Ưng Chân, thường kiếm cớ bắt lỗi, quở mắng, ngược lại thương yêu người con nuôi thứ 3 là Ưng Đăng (sau là Hoàng đế Kiến Phúc). Nguyễn Văn Tường thấy vậy, nghĩ rằng thế nào Ưng Đăng cũng được chọn nối ngôi, nên khinh thường Ưng Chân ra mặt, không ngờ tờ di chiếu lại viết như thế, khiến trong lòng Tường chẳng được yên, và Tôn Thất Thuyết cũng không bằng lòng với tự quân. Gặp lúc Tự quân đem nhiều người thân cận vào làm hộ vệ trong điện Hoàng Phước và các sở Quang Minh, những người này tự do ra vào cung điện, trong khi các tờ tâu trình khẩn cấp, cơ mật từ các viên đại thần các tỉnh dâng lên để trong điện một đêm vẫn chưa giao ra. Lại trong khi làm lễ cúng tiên đế mà tự quân vẫn mặc áo sắc lục cũ, hoặc sai chế ngay các đồ dùng riêng, đều là những hành động bị cấm trong thời gian để tang. Hai viên phó Phụ chánh thấy vậy càng thêm ganh ghét. Tường mật bàn với Thuyết rằng: Tiên đế đã bảo vua nối ngôi chưa chắc đương nổi việc lớn, lại giao cho ngôi lớn. Nay bắt đầu, cử động đã như thế, huống chi là ngày sau ư? Đó là việc lo riêng cho chúng ta. Thuyết vốn ỷ mình cầm quân đội trong tay, cũng có mưu đồ phế lập, mới đáp: Cứ như lời chiếu thì mưu tính là vì Xã tắc, bất đắc dĩ mà làm việc nhỏ như Y Doãn, Hoắc Quang, cũng là chí của Tiên đế. Tự quân cho rằng trong di chiếu có đoạn nói không tốt về mình, không muốn đọc cho mọi người nghe thấy, mới triệu ba viên Phụ chính vào bàn việc bỏ đoạn ấy đi, nói rằng:Vua là bậc đứng đầu trăm họ, phải là người có đạo đức đứng đầu, di chiếu của Tiên đế vì lo trăm họ, nên có lời răn bảo nghiêm khắc như trên. Ngày nay việc nước khó khăn, quan hệ ngoại giao căng thẳng, nếu để di chiếu lan truyền thì quân Pháp sẽ tìm cớ gây rối, mà các lân bang cũng xem thường, với tình hình như vậy, đình thần giải quyết ra sao. Và đề nghị xóa phần di chiếu đó. Trần Tiễn Thành bằng lòng, hai viên còn lại cũng giả vờ đồng ý. Vì thế Tự quân tự tay xóa bỏ đoạn ấy trong tờ di chiếu, lại dặn riêng với Trần Tiễn Thành cách hành xử lúc tuyên đọc di chiếu. Đến hôm đọc di chiếu, Trần Tiễn Thành khi đến đoạn ấy thì đọc lướt và nhỏ tiếng, không ai nghe thấy cả. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết khi đó mới giở trò lật mặt, giả bộ làm ra vẻ quái lạ, rồi chất vấn vua nối ngôi sao dám giấu bớt di chiếu của Tiên đế, thật là bậy bạ vô cùng, lại vặn hỏi Tiễn Thành. Tiễn Thành biết rằng đã bị đánh lừa, mới đáp rằng mình bị chứng khan tiếng, đọc đến đoạn ấy thì hết hơi. Tường và Thuyết không chịu, lập tức sai quân cấm vệ bắt giữ 10 người hộ vệ của vua nối ngôi đứng đầu là Nguyễn Như Khuê, giam vào ngục, rồi cho Tham tri Nguyễn Trọng Hợp lấy di chiếu đọc lại. Sau đó họp các hoàng thân và các quan ở Tả vu, nói về tội lỗi của Ưng Chân, và xin lập vua khác. Trần Tiễn Thành muốn can ngăn, nhưng Tôn Thất Thuyết quát rằng:Ông cũng có tội to, còn muốn nói gì nữa.Khi đó trong cả triều chỉ có quan Ngự sử là Phan Đình Phùng lên tiếng phản đối, vị lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê trong phong trào Cần Vương sau này liền bị bắt giam vào ngục.Tôn Thất Bình, sách đã dẫn, trang 116 - 117. Trần Tiễn Thành và các hoàng thân đều khiếp sợ, không dám làm trái và cùng ký tên vào tờ hạch tội, tâu xin ý chỉ của Thái hoàng Thái hậu (Từ Dụ) truất bỏ đi. Tờ hạch tội buộc cho vua Dục Đức bốn tội lớn: Muốn sửa di chiếu của vua cha: Ở đây Tự quân là con nuôi của Tự Đức, coi Tự Đức là "Dưỡng phụ" chứ không phải "phụ hoàng". Nhưng Tự Đức đã có di chiếu, Dục Đức lại coi Tự Đức như vua cha của mình. Tự Đức mất để lại di chiếu. Dục Đức thấy di chiếu còn thừa một đoạn nên cắt bớt đoạn đó. Có đại tang mà mặc áo màu: Ở đây là lúc Tự Đức mất đi, các quan mặc áo tang để đi tang lễ Tự Đức. Dục Đức khi có tang lễ lại mặc áo màu, cởi áo long bào ra để an táng Tự Đức. Tự tiện đưa một giáo sĩ vào Hoàng thành: Ở đây muốn nói Dục Đức nghe tin có một giáo sĩ, sai người đưa giáo sĩ ấy vào. Thái hậu Từ Dụ thấy vậy kinh sợ, nhưng Dục Đức lệnh giáo sĩ phải ở lại. Thông dâm với nhiều cung nữ của vua cha: Ở đây ý nói Tự Đức có 300 cung nữ. Sau khi nhận được sự đồng ý của Thái hoàng Thái hậu, hai quan Phụ chính liền ra chỉ phế truất ông vào ngày 23 tháng 7 năm 1883, giáng làm Thụy quốc công như trước, và giam vua Dục Đức ở nơi ở cũ là Dục Đức đường, rồi viện Thái y, và cuối cùng là Ngục thất trong Kinh thành Huế. Kết cục Phế đế Nguyễn Văn Tường muốn lập Ưng Đăng lên làm vua, nhưng Tôn Thất Thuyết nắm quân đội trong tay, lập em của Tự Đức là Lãng quốc công Hồng Dật lên ngôi, với niên hiệu là Hiệp Hòa, lúc này Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết bàn nhau việc trừ khử Tự quân (tức Dục Đức, lúc đó đang bị giam ở viện Thái y), mới dời ông qua nhà ngục phủ Thừa Thiên và cho canh giữ cẩn mật, lại bắt các con của ông về quản thúc ở quê mẹ: hai hoàng tử thứ 7 (tức vua Thành Thái sau này) và thứ 9 theo mẹ là bà Vương phi Phan Thị Điều về xã Phú Lương, Hoàng tử thứ 10 theo mẹ là bà Nguyễn thị về xã Phú Xuân, còn Hoàng tử thứ 11 vẫn đang trong bụng mẹ. Các con của ông nguyên trong tên có bộ Sơn (山) đều phải đổi theo bộ Thạch (石). Hai người mật báo với quan cai ngục không cho Tự quân ăn uống gì nữa. Giờ Thìn (7-9h) ngày 6 tháng 10 năm 1883 ông qua đời vì bị bỏ đói, hưởng dương 32 tuổi. Người cai ngục khai rằng ông tuyệt thực mà chết, và đem di hài an táng ở cánh đồng xứ Tứ Tây, xã An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, sau được gọi là An Lăng. Tuy nhiên, theo sử gia Phạm Văn Sơn, thì đang khi vua Dục Đức hết sức đau đớn vì đói khát, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã sai người giết vua bằng thuốc độc vì sợ để lâu sẽ sinh biến. Vì chỉ làm vua được mấy ngày chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức chỉ là tên gọi nơi ở Dục Đức đường. Khi ông mất, có hai người lính bó thi thể ông trong chiếu rách, mang chôn. Thế nhưng đến đầu làng An Cựu, ngoại thành Huế thì xác vua rơi xuống bên khe nước nông. Tin rằng đây là nơi yên nghỉ do vua tự chọn, người ta chỉ chôn cất ông qua loa cho xong việc. Lâu ngày, ngôi mộ gần như trở thành phần đất bằng do không ai chăm sóc. Có lần, một người ăn mày đói chết, gục ngay trên mộ vua, dân nơi đó không biết vua Dục Đức đã nằm tại đó nên chôn người ăn mày ngay trên mộ vua. Sau này, khi vua Thành Thái lên ngôi, ông lần theo dấu vết và lời kể lại để tìm mộ vua cha. Thế nhưng khi đào lên, người ta thấy ở đó có tới hai bộ hài cốt, vậy là vua đành cho người ta lấp đất lại, xây nơi đó thành An Lăng. Năm 1886 dưới triều vua Đồng Khánh, ông được truy phong là Thụy Nguyên quận vương, thụy là Trang Cung. Năm 1889, Đồng Khánh băng hà, con của Dục Đức là Bửu Lân được lập lên ngôi, tức Hoàng đế Thành Thái. Vua mới cho lập miếu Hoàng khảo (hay Tân miếu) trong kinh thành để thờ cúng Dục Đức. Năm 1892, Thành Thái truy tôn cha mình là Cung Huệ Hoàng đế (恭惠皇帝). Lăng của Dục Đức là An Lăng, tại làng An Cựu, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1897, đổi Tân miếu thành miếu Cung Tông, năm 1899 cho xây điện thờ ở An Lăng, gọi là điện Long Ân. Năm 1901, vua Thành Thái truy thụy cho cha mình là Khoan Nhân Duệ Triết Tĩnh Minh Huệ Hoàng đế (寬仁睿哲靜明惠皇帝), miếu hiệu là Cung Tông (恭宗). Gia quyến Thê thiếp Vua Dục Đức được ghi nhận là có 8 bà vợ, nhưng sử sách chỉ nhắc nhiều đến bà Phan Thị Điều, là mẹ của vua Thành Thái và Tuyên Hóa vương Bửu Tán. Những bà còn lại không rõ tên. Phan Thị Điều (8 tháng 9 năm 1855 – 27 tháng 12 năm 1906), con gái của Phù Quốc công Phan Đình Bình, người Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Khi vua Dục Đức bị phế truất, bà và hai con phải về quê sống. Vua Thành Thái lên ngôi mới đón mẹ và các hoàng đệ vào cung. Sau khi mất, bà được truy phong làm Từ Minh Huệ Hoàng hậu (慈明惠皇后). Hậu duệ Vua Dục Đức có 11 hoàng tử và 8 hoàng nữHoàng tộc lược biên, sđd, tr.27. Ngoại trừ hoàng tử Thành Thái và Bửu Tán, những người con còn lại của vua Dục Đức đều không rõ mẹ. {| class="wikitable" style="text-align:center" ! width="1%" |Số thứ tự ! width="15%" |Tước hiệu ! width="8%" |Thụy hiệu ! width="15%" |Tên ! width="15%" |Sinh mất ! width="15%" |Mẹ ! width="15%" | Bộ tự ! Ghi chú |- | colspan="7" align="center" |Hoàng tử |- | 1 || || | Nguyễn Phúc Bửu Cương(阮福寶岡) | tảo thương || || || |- | 2 || || | Nguyễn Phúc Bửu Thị(阮福寶𡾼) | tảo thương || || || |- | 3 || || | Nguyễn Phúc Bửu Mỹ(阮福寶嵋) | Tảo thương || || || |- | 4 || || | Nguyễn Phúc Bửu Nga(阮福寶峨) | Tảo thương || || || |- | 5 || || | Nguyễn Phúc Bửu Nghi(阮福寶𡹠) | Tảo thương || || || |- | 6 || || | Nguyễn Phúc Bửu Côn(阮福寶崑) | Tảo thương || || || |- | 7 | Thành Thái (成泰)Hoài Trạch công (懷澤公) | | Nguyễn Phúc Bửu Lân(阮福寶嶙) | 14 tháng 3 năm 1879 – 20 tháng 3 năm 1954 | Từ Minh Huệ Hoàng hậu |Ngọc (玉) | style="text-align:left" | Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn. |- | 8 || || | Nguyễn Phúc Bửu Chuẩn(阮福寶𡹐) | Tảo thương || || || |- | 9 | Tuyên Hóa vương(宣化王) | Đoan Cung(端恭) | Nguyễn Phúc Bửu Tán (hoặc Toản, Thiện)(阮福寶巑) | 1882 – 8 tháng 5 năm 1941 | Từ Minh Huệ Hoàng hậu |Thủ (手) | style="text-align:left" | Ông nội của hai nhạc sĩ Bảo Chấn và Bảo Phúc. |- | 10 | Hoài Ân vương(懷恩王) | | Nguyễn Phúc Bửu Kiêm (hoặc Khiêm, Liêm)(阮福寶嵰) | 1884 – 5 tháng 8 năm 1940 | không rõ |Đầu (亠) | style="text-align:left" | Được cử sang Tây du học. |- | 11 | Mỹ Hóa công(美化公) | Cung Túc(恭肅) | Nguyễn Phúc Bửu Lũy (hoặc Lỗi)(阮福寶𡾊) | 1885 – 1902 | không rõ |Tỷ''' (比) | style="text-align:left" | Mất sớm.Em họ là công tôn Bửu Giới (sau đổi tên thành Vĩnh Tỳ) lo việc thờ tự. |- Thư mục Tôn Thất Cổn (1943), Hoàng tộc lược biên Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục chính biên tập 8, Nhà Xuất bản Giáo dục, bản điện tử. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục chính biên tập 9, Nhà Xuất bản Giáo dục, bản điện tử. Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu (Cao Xuân Dục chủ biên, 1908), bản điện tử. Trần Trọng Kim (1968), Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Tân Việt. Phan Thuận An (1994), Kiến trúc cố đô Huế, Nhà Xuất bản Thuận Hóa. Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc (1995), Nguyễn Phúc Tộc thế phả, Nhà Xuất bản Thuận Hóa. Nguyễn Khắc Thuần (1995), Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục. Tôn Thất Bình (2006), Kể chuyện chín chúa mười ba vua triều Nguyễn, Nhà xuất bản Trẻ. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quỳnh (1999), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', Nhà Xuất bản Giáo dục Chú thích Sinh năm 1852 Mất năm 1884 Người Huế Vua nhà Nguyễn Vua Việt Nam bị giết
Nguyễn Giản Tông (chữ Hán:阮簡宗; 12 tháng 2 năm 1869 – 31 tháng 7 năm 1884), tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Đăng (阮福膺登), là vị hoàng đế thứ bảy của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1883, tại vị được 8 tháng thì qua đời, được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Giản Tông (簡宗), thuỵ hiệu Nghị Hoàng Đế (毅皇帝), ông dùng niên hiệu là Kiến Phúc (建福) nên còn được gọi là Kiến Phúc Đế (建福帝). Dưới thời vua Kiến Phúc, vào ngày 6 tháng 6 năm 1884, triều đình Huế đã kí với thực dân Pháp bản Hòa ước Giáp Thân (Hòa ước Patenôtre), có chỉnh lý một số điều so với bản Hòa ước Quý Mùi nhưng về cơ bản vẫn công nhận sự "bảo hộ" của Pháp đối với đất nước Việt Nam. Vua Kiến Phúc chỉ làm vua được 8 tháng, và trở thành vị quân chủ yểu mệnh nhất của triều đại nhà Nguyễn, khi băng hà chỉ vừa 15 tuổi. Cái chết của ông liên hệ mật thiết đến dưỡng mẫu Học phi Nguyễn Văn Thị Hương và Phụ chánh Đại thần Nguyễn Văn Tường. Thời trẻ Kiến Phúc sinh vào ngày 2 tháng giêng năm Kỷ Tỵ (12 tháng 2 năm 1869) tại Huế, là con thứ ba của Kiên quốc công Nguyễn Phúc Hồng Cai (em ruột vua Tự Đức, sau tôn là Thuần Nghị Kiên Thái vương) và bà phủ thiếp Bùi Thị Thanh. Húy của ông là Nguyễn Phúc Ưng Đăng (阮福膺登), lên ngôi lấy tên là Nguyễn Phúc Hạo (阮福昊), tự Dưỡng Thiện. Vì bác ruột của Ưng Đăng tức vua Tự Đức không thể có con, nên đã nhận ba người cháu làm con nuôi: Nguyễn Phúc Ưng Ái (sau là vua Dục Đức), Nguyễn Phúc Ưng Kỷ và Nguyễn Phúc Ưng Đăng, trong đó Ưng Kỷ (sau là vua Đồng Khánh) và Ưng Đăng là anh em ruột, đều là con của Kiên quốc công và phủ thiếp họ Bùi. Theo Quốc triều sử toát yếu thì Ưng Đăng được vua Tự Đức truyền đem vào cung, giao cho bà Học phi Nguyễn Văn Thị Hương nuôi dạy từ lúc mới 2 tuổi. Sách Đại Nam thực lục ghi nhận về tính cách của ông: Vua từ thuở nhỏ đã hiểu biết sớm, ôn hòa, yên lặng, sạch sẽ, cẩn thận lời nói và việc làm. Khi hầu cơm, khi thăm hỏi kính cẩn giữ phận làm con. Ngày thường chỉ ưa thích sách vở, thơ văn. Trong số ba người con nuôi, vua Tự Đức yêu mến Ưng Đăng nhất. Mùa thu năm 1882, ông được cho ra ở nhà đọc sách ở bên tả Duyệt Thị đường, gọi là Dưỡng Thiện đường. Về sau những lúc rảnh, vua lại sai đem các chương tấu ở các nha thuộc các bộ mà cắt nghĩa giảng giải để ông tập xem cho quen. Ngày 19 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức mất, di chúc cho sung Ưng Đăng làm hoàng tử thứ ba, đổi tên là Ưng Hỗ, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên không thể lập làm người kế vị, mà người được chọn là Ưng Chân (tức Dục Đức). Di chiếu có đoạn nói về Ưng Đăng: Ưng Đăng tính thận trọng dễ bảo, hầu hạ sớm hôm cẩn thận, chưa có khuyết điểm gì, nhưng tuổi còn thơ bé, học chưa thông; đương lúc khó khăn này chưa chắc đã am hiểu công việc, nên trẫm đành bỏ tình riêng mà theo mưu nghiệp lớn... Được lập lên ngôi Tuy nhiên Dục Đức chỉ ở ngôi được ba ngày thì đã bị các quan Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết phế truất. Hoàng tử Ưng Hỗ bị chuyển ra ở quán quan xá ngoài Cửu vụ khiêm. Em trai vua Tự Đức là Hồng Dật được lập lên ngôi, tức là vua Hiệp Hòa. Ngày 29 tháng 11 năm đó, vua Hiệp Hòa mưu giết các quan Phụ chánh Đại thần thất bại và sau đó bị họ xử tử. Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết họp các quan đại thần, tôn lập Ưng Hỗ lên ngôi. Ông từ chối rằng: Ta còn non trẻ, sợ không kham nổi công việc. Hai người lại tâu rằng: Đó là ý của Tiên đế, nay là mệnh trời, xin nghĩ lấy tôn miếu xã tắc làm trọng. Rốt cục ông bị bắt phải nhận lời. Ngày 2 tháng 12 năm 1883, vua mặc áo thêu con mãng đến điện Cần Chính, lạy nhận tỷ ngọc ấn vàng truyền quốc. Vì khi đó mũ cửu long, áo bào vàng và đai ngọc chế chưa xong, đến nỗi không mặc áo bào, tấn tôn đã 3 ngày rồi cũng vẫn mặc áo thêu con mãng, và lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Khi ấy, ông mới 15 tuổi, và mọi việc trong triều đều do hai quan Phụ chính quyết định. Tình hình ở Bắc Kì Lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ, lực lượng của Hoàng Kế Viêm, Trương Quang Đản hãy còn phối hợp với quân nhà Thanh, kình chống với quân Pháp. Viên Khâm sứ Pháp ở Huế lấy điều đó ra trách cứ, khiến triều đình có dụ truyền cho hai viên tướng ấy phải về Kinh. Nhân nhượng như vậy, nhưng ít lâu sau quân Pháp vẫn tiến đánh và chiếm đoạt các tỉnh là Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa và Tuyên Quang. Bảo hộ của Pháp Ngày 18 tháng 4 (âm lịch) năm Giáp Thân (1884), Pháp ký kết hòa ước Thiên Tân (còn gọi là Hòa ước Fournier) với nhà Thanh. Đại lược rằng triều Thanh thuận rút quân đóng ở Bắc Kỳ về, và từ đấy về sau họ để cho nước Pháp được tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam. Thắng thế, ngày 13 tháng 5 (âm lịch) năm đó (tức ngày 6 tháng 6 năm 1884), đại diện Pháp Jules Patenôtre ký tờ hòa ước mới với triều đình nhà Nguyễn. Đó là Hòa ước Giáp Thân (1884), công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước Việt ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Hoàng đế yểu mệnh Đang khi đất nước rối ren như thế, thì vua Kiến Phúc mất vào ngày 10 tháng 6 (âm lịch) năm Giáp Thân (31 tháng 7 năm 1884), hưởng dương 15 tuổi. Miếu hiệu của ông là Giản Tông (簡宗), thụy hiệu là Thiệu Đức Chí Hiếu Uyên Duệ Nghị Hoàng đế (绍德止孝渊睿毅皇帝). Lăng của Kiến Phúc là Bồi Lăng (陪陵), ở phía trái Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân Thượng, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Kiến Phúc mất, đáng lẽ ra con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là ông Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (Chánh Mông) - cũng là anh ruột của nhà vua, lên nối ngôi. Tuy nhiên bà Hoàng thái phi mẹ nuôi của ông khi vời các hoàng thân gồm Miên Định, Hồng Hưu cùng đại thần Phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Phạm Thận Duật vào trong cung; đã truyền lại di chúc nhường ngôi cho Công tử Ưng Lịch (con thứ 5 của Hồng Cai song không được Tự Đức nhận làm con nuôi chính thức), lên nối ngôi. Theo Trần Trọng Kim, hai ông Tường và Thuyết sợ lập người lớn tuổi, mình dễ mất quyền, nên mới bỏ qua ông hoàng Chánh Mông mà lập Công tử Ưng Lịch mới 12 tuổi. Đó chính là vua Hàm Nghi. Và "di chúc" của Kiến Phúc thực tế là lời từ miệng của bà Hoàng thái phi, chưa rõ thật sự vua Kiến Phúc có di chúc như thế hay không. Nghi vấn Sử nhà Nguyễn chép Kiến Phúc mất vì bệnh. Viên Khâm sứ Pháp Rheinart cũng cho rằng nhà vua mất vì bệnh. Ông kể:"...Cái chết của Đế [Kiến Phúc] là một cái chết tự nhiên [mort naturelle], nhưng nó đã đến một cách quá bất ngờ làm cho mọi người kinh ngạc. Đứa trẻ đáng thương đã làm vua một cách miễn cưỡng: cậu sống trong sự kinh hoàng, luôn luôn lo sợ bị một số phận như người tiền nhiệm, buồn bực, trầm mặc, trốn tránh mọi người. Trong một thời gian khá lâu cậu không dậy nổi, tôi không biết cậu có thể đứng lên mà không cần người đỡ không, từ lúc bị bệnh, nghĩa là từ ba tháng nay..." Tuy nhiên, có lời đồn rằng nhà vua chết là do Nguyễn Văn Tường đầu độc. Sách Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam kể:"Nguyên bà Học phi Nguyễn thị (vợ vua Tự Đức) là mẹ nuôi của Kiến Phúc, tư tình với Nguyễn Văn Tường. Nhân một hôm vua bệnh, ông Tường vào thăm có trò chuyện riêng với bà, vua nghe thấy. Ông Tường thấy có thể nguy hiểm liền xuống Thái y viện bốc một thang thuốc dâng vua uống, ngày hôm sau thì vua mất..."'' Ngoài ra, còn có một số giả thuyết như sau: - Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường giết vua Kiến Phúc, tôn một vị vua nhỏ tuổi hơn để dễ việc nắm trọn quyền bính. - Hai Phụ chính trên cho rằng Hòa ước Giáp Thân (1884) là bất bình đẳng, nếu vua Kiến Phúc không còn nữa thì "hiệp ước sẽ mất hết hiệu lực". - Vua Kiến Phúc và phe phái của ông tư thông với Khâm sứ Pháp ở Huế, làm trở ngại công việc chống Pháp của hai Phụ chính.
Đồng Khánh Đế (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Thị (阮福膺豉) và Nguyễn Phúc Ưng Đường (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy tên là Nguyễn Phúc Biện (阮福昪), là vị hoàng đế thứ chín của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, tại vị từ năm 1885 đến 1889. Đồng Khánh nguyên là con nuôi của vua Tự Đức. Năm 1885, sau khi triều đình Huế bị thất bại trước quân đội Pháp trong trận Kinh thành Huế, vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết bỏ chạy ra Quảng Trị, người Pháp đã lập ông lên làm vua, lập ra chính quyền Nam triều dưới sự Bảo hộ của Pháp. Trong thời gian trị vì của ông, thực dân Pháp bắt đầu những công việc đầu tiên để thiết lập nền đô hộ kéo dài hơn 60 năm ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, trong khi triều đình Huế chọn lối ngoại giao hòa hoãn, tránh gây xích mích với người Pháp, đồng thời tranh thủ xây dựng và quản trị nội bộ. Đồng Khánh Đế chủ trương tiếp thu nền văn minh Pháp, dùng các mặt hàng Tây phương, cách tân và áp dụng các chính sách để nội địa hóa quản trị trong nước. Ông từng được người Pháp trao tặng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh. Đầu năm 1889, Đồng Khánh nhuốm bệnh nặng và qua đời khi còn khá trẻ, chỉ trị vì được 4 năm, miếu hiệu là Cảnh Tông (景宗). Kế nhiệm ông là vua Thành Thái. Xuất thân Đồng Khánh sinh ngày 12 tháng 1 năm Giáp Tý, tức ngày 19 tháng 2 năm 1864 tại Huế. Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (阮福膺祺), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Biện (阮福昪). Ngoài ra ông còn có tên gọi là Chánh Mông do vào năm 1882, vua Tự Đức đã lệnh xây cho ông ngôi nhà học gọi là Chánh Mông đường (正蒙堂). Ông là con trai cả của Kiên quốc công Nguyễn Phúc Hồng Cai (sau tôn phong làm Thuần Nghị Kiên Thái vương, hoàng tử thứ 26 của vua Thiệu Trị) với bà Chánh phi Bùi Thị Thanh, tên khai sinh là Nguyễn Phúc Ưng Thị. Vì bác của ông là vua Tự Đức mắc bệnh không thể có con nên buộc lòng phải chọn ra các trẻ trong tông thất làm con nuôi để dự phòng sau này có người kế vị. Năm 1865, Ưng Thị mới có hai tuổi được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Nhất giai Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc dạy bảo, đổi tên thành Ưng Đường (về sau khi lên ngôi dùng tên trong kim sách là Biện). Ngày 11 tháng 1 năm 1883, vua Tự Đức phong cho ông làm Hoàng tử, Kiên Giang quận công. Trong số các con của Kiên Thái vương sau này có tới ba người được làm vua, là Đồng Khánh, Kiến Phúc và Hàm Nghi, vì thế có câu rằng: Một nhà sanh đặng ba vua Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài. Tuy nhiên ông dường như không được Tự Đức đánh giá cao mà ngược lại, trong số ba người con nuôi, Tự Đức thương quý nhất là Ưng Đăng (Kiến Phúc), vị hoàng tử này cũng là em ruột của Ưng Thị. Trong tờ di chúc, nhà vua nhắc về ông như sau Ưng Kỷ người yếu hay ốm, có tâm tật, học chưa thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương theo lời phải, sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được. Ngày 19 tháng 7 năm 1883 (16 tháng 6 âm lịch), vua Tự Đức băng hà ở tuổi 54. Mặc dù có ý trao lại hoàng vị cho Ưng Đăng, tuy nhiên ở trong tình thế người Pháp đang đe dọa xâm lược, việc nước gặp nhiều khó khăn, nên phải chọn Ưng Chân làm người kế vị. Tuy nhiên Ưng Chân (vua Dục Đức) vừa lên ngôi được ba ngày thì đã bị các Phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết phế truất và hại chết. Liên tiếp hai vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc được lập lên ngôi rồi cũng đều bị quyền thần bức hại trong khi tình hình chiến sự ngày càng bất lợi. Sau Hòa ước Quý Mùi, ngày 25 tháng 8 năm 1883, Việt Nam chính thức bị đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Ngày 19 tháng 7 năm 1883 (16 tháng 6 âm lịch), vua Tự Đức băng hà ở tuổi 54. Mặc dù có ý trao lại hoàng vị cho Ưng Đăng, tuy nhiên ở trong tình thế người Pháp đang đe dọa xâm lược, việc nước gặp nhiều khó khăn, nên phải chọn Ưng Chân làm người kế vị. Tuy nhiên Ưng Chân (vua Dục Đức) vừa lên ngôi được ba ngày thì đã bị các Phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết phế truất và hại chết. Liên tiếp hai vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc được lập lên ngôi rồi cũng đều bị quyền thần bức hại trong khi tình hình chiến sự ngày càng bất lợi. Sau Hòa ước Quý Mùi, ngày 25 tháng 8 năm 1883, Việt Nam chính thức bị đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Ngày 31 tháng 7 năm 1884, vua Kiến Phúc qua đời. Đáng lý khi đó phải tôn hoàng tử còn lại là Ưng Thị lên ngôi, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nhìn thấy không thuận mắt, vì thế lại lập người em cùng cha khác mẹ của ông tên là Ưng Lịch lên ngôi, tức là vua Hàm Nghi. Cùng năm đó, Kiên Giang quận công được lệnh đi tế Thanh Minh, nhưng trở về chậm trễ mà bị giáng xuống tước Kiên Giang hầu. Chấp chính Được lập lên ngôi Đêm ngày 4 rạng sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết cho quân tấn công vào tòa Khâm sứ Pháp và đồn Mang Cá, nhưng thất bại. Quân Pháp phản công đánh vào Đại Nội, hai quan phụ chính vội vã đưa vua Hàm Nghi cùng Tam cung chạy ra Quảng Trị. Hoàng tử Chánh Mông cũng đi theo nhà vua chạy loạn. Nguyễn Văn Tường ở lại kinh thành, bàn với người Pháp đón Tam cung về triều, tuy nhiên nhà vua và Tôn Thất Thuyết vẫn còn ở lại Tân Sở để kháng chiến. Vì thế de Courcy và Nguyễn Văn Tường dùng chú của Tự Đức là Thọ Xuân vương Nguyễn Phúc Miên Định (75 tuổi), hiện là người có uy tín cao nhất và đứng đầu phủ Tông nhơn, làm Giám quốc, trong lúc chờ Hàm Nghi về triều. Ngày 17 tháng 7, hai bà Thái hậu về kinh, lệnh cho các quan tìm đón Hoàng tử Chánh Mông đưa về ở tạm trong phủ Tĩnh Giang quận công. Pháp mượn danh nghĩa Thái hậu, hạ lệnh các quan và sĩ phu trở về, nhưng không có nhiều người hưởng ứng. Ngày 28 tháng 7, Tổng đốc Hải Ninh Nguyễn Hữu Độ được mời về triều, và người Pháp lấy cớ Nguyễn Văn Tường không đón được Hàm Nghi, kết tội ông ta cùng với Tôn Thất Thuyết là "cậy quyền uy hiếp trong ngoài, gây mầm họa chiến tranh, dẫn tới cơn đại biến loạn, tội lớn không sao kể xiết". Sau đó, Pháp cho thuyền chở Văn Tường đến Gia Định, sau chở gồm cả Phạm Thận Duật, Lê Đính (cha Tôn Thất Thuyết) ra thuộc địa Tahiti; Thận Duật trong khi đi đường bị ốm chết ở trên tàu, buông xác xuống biển... Nguyễn Hữu Độ thương lượng với phía Pháp và xin ý chỉ Lưỡng cung, để phế truất vua Hàm Nghi và lập hoàng tử Chánh Mông lên ngôi. Ngày 19 tháng 9 năm 1885, Ưng Đường phải thân hành sang bên Khâm sứ Trung kỳ của người Pháp. Sau đó đến giờ Tị, ông làm lễ lên ngôi ở điện Thái Hòa, được tôn làm Hoàng đế, lấy niên hiệu là Đồng Khánh (同慶), với ý nghĩa "Cùng chung niềm vui''. Lễ rước vua mới từ Phu Văn Lâu vào điện Càn Thành do de Courcy và Champeaux dẫn đầu. Dọc đường rước vua đi qua có lính Pháp bồng súng và lính Việt vác gươm giáo đứng bảo vệ. Sau ngày lên ngôi, ông gửi quốc thư sang Pháp để "cảm tạ" và hứa sẽ giữ tình giao hảo giữa hai nước, đồng thời còn phong cho de Courcy tước Bảo hộ Quận vương, de Champeaux là Bảo quốc công. Tuy Đồng Khánh đã lên ngôi nhưng vẫn chưa đặt niên hiệu mới, tất cả công văn, giấy tờ đều dùng niên hiệu Hàm Nghi, quần thần nghị bàn rồi xin ý chỉ của Thái hậu, dùng ngay niên hiệu Đồng Khánh không cần đợi đến sang năm. Từ tháng 10 âm lịch trở đi gọi là năm Đồng Khánh Ất Dậu, và từ Tết Nguyên Đán năm sau (Bính Tuất 1886) lấy làm năm Đồng Khánh nguyên niên, cho hợp với lòng người. Nội trị Theo gia phả dòng họ Nguyễn Phúc, dưới thời Đồng Khánh, triều đình gặp cảnh túng thiếu vì thực dân Pháp vơ vét và phần lớn tiền trong phủ khố đã bị Tôn Thất Thuyết đưa ra Quảng Trị. Vua cùng bộ máy đã cố gắng đưa ra những cải cách và hỗ trợ nhằm khôi phục nền kinh tế bị phá hủy, đồng thời xây dựng và tái thiết văn hóa và giáo dục. Tuy nhiên, tình cảnh trong nước lúc đó nhiều biến động và loạn lạc khiến một phần các chính sách bị ảnh hưởng. Theo hịch Cần vương của vua Hàm Nghi, khắp các nơi trong nam ngoài bắc nổi dậy chống Pháp. Có bài ca dao nói về hoàn cảnh thời đó: Ngẫm xem thế sự mà rầu, Ở giữa Đồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi. Để ổn định lại vấn đề nội trị trong nước, Tháng 8 âm lịch năm Hàm Nghi nguyên niên (1885), Vua phong Nguyễn Hữu Độ làm Cố mệnh Lương thần, Thái tử Thái sư, Đại Học sĩ điện Cần Chánh, Đại thần Viện Cơ mật, Kinh lược sứ Bắc Kỳ,... tước Vĩnh Lại bá, dùng Phan Đình Bình là Cố mệnh Lương thần, Hiệp tá Đại Học sĩ, Đại Học sĩ điện Văn Minh, Tả quốc Huân thần, Thượng thư bộ Lại, Tổng tài Quốc sử quán... tước Phù Nghĩa tử. Việc tôn phong Ngày 20 tháng 8 năm 1885, nhà vua cùng đình thần quyết định tước bỏ huy hiệu Hoàng thái phi của bà Nguyễn Văn Thị Hương (mẹ nuôi của vua Kiến Phúc), gọi là Học phi như trước, vì lý do rằng việc tấn tôn Thái phi là do ý quyền thần chứ không phải là di mệnh của tiền vương (Tự Đức). Mùa xuân năm 1886, gia cấp cho dưỡng mẫu là bà Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm lương bổng hằng năm 300 quan tiền, 700 phương gạo và quần áo mặc vào mùa xuân cùng mùa đông. Bấy giờ có người đề nghị phong tặng thêm cho bà Thiện phi, nhưng đình thần lấy lí do "nước không thể có hai mối" mà từ chối, cũng không truy tặng thêm cho phụ thân bà là Nguyễn Đình Tân. Cùng khi đó lại tôn phong cho cha ruột là Kiên quốc công làm Ôn Nghị Kiên vương, đến năm 1888 lại tặng là Hoàng thúc phụ Thuần Nghị Kiên Thái vương, lăng gọi là Thiên Thành cục, tại Thiên Hoàng Long sơn; gọi sinh mẫu là bà quả phụ Vương phi Bùi Thị Thanh là Hoàng thúc mẫu Kiên Thái vương phi. Lại cấp lộc điền 18 mẫu ở xã Thanh Đàm, phủ Thừa Thiên trong sổ bạ tên Nguyễn Văn Tường cho hai người con của Kiên Thái vương. Truy tặng cha mẹ của Vương phi theo lệ ngoại thích giảm xuống một bậc, và phong cho các anh em ruột là Công tử Ưng Phong làm Kiên huyện hầu, Công nữ Tú Lộc làm An Nghĩa huyện chúa. Tháng 11 âm lịch năm đó có các sao dữ là sao Thái Bạch và sao Chổi hiện ra, vua quở trách Giám thần Cao Chính Thuyết vì cớ biết điềm lành dữ mà e ngại không nói ra. Cũng trong thời gian đó, vua mệnh cho các đại thần ở Viện tập lãm kiểm duyệt và sớm đưa đi in khắc các sách vở trước tác của Hoàng khảo (Tự Đức). Mùa thu năm 1887, lại có lệnh thu thập 3 tập văn thơ thánh chế của vua Tự Đức. Tháng 5 năm 1888, Quốc Tử giám đã thu thập sao chép Tự Đức Thánh chế tam thi tập, vua ngự chế bài Bạt phụ vào cuối mỗi tập. Trong tông thất, năm 1885, vua chuẩn cho khôi phục tước hàm cho những người trong tông thất từng mắc lỗi (Tuy Lý công Miên Trinh, Triệu Phong quận công Miên Triện, Hải Ninh quận công Miên Tranh, Kỳ Phong quận công Hồng Đĩnh, Tuy Lý huyện công Hồng Tu). Cử nhân Công Tôn Ưng Phương được phục hồi nguyên ngạch, Thị độc Học sĩ, Tham tá các vụ Hồng Sâm được phục hồi chức cũ, đổi phong Đồng Xuân công chúa Gia Đốc là công chúa Phục Lễ. Truy tặng Thụy quốc công (vua Dục Đức) làm Thụy Nguyên quận vương, chuẩn cho lập đền thờ, cấp ruộng tế tự 12 mẫu ở xã Triều Sơn. Khi đó tể thần Phan Đình Bình, vốn là cha vợ của vua Dục Đức, cùng Nguyễn Hữu Độ xảy ra xung đột và Hữu Độ mật cáo rằng Phan Đình Bình có ý muốn lập cháu ngoại mình là hoàng tôn Bửu Lân làm vua, lại lúc đi công cán ở Quảng Bình tỏ ra nghe ngóng chần chừ, và tự tiện mang đồ của vua về nhà cùng nhiều tội khác. Quần thần xin an trí Đình Bình ra phủ Thừa Thiên. Đồng Khánh đang trong cơn giận dữ, đem Phan Đình Bình vào tội chết, tước hết chức tước tài sản. Ít lâu sau đó ông ta chết ở trong ngục. Năm 1888, dùng Nguyễn Thuật làm Tả trực Tuyên úy, rồi Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lại, Hiệp biện Đại Học sĩ gia hàm Thái tử Thiếu bảo, Tổng đốc tỉnh Thanh Hóa. Ngày 11 tháng 12 năm đó, quan đầu triều là Nguyễn Hữu Độ mất., cho Nguyễn Trọng Hợp làm Đại Học sĩ điện Văn Minh, Hoàng Hữu Thường làm Thự tá hiệp Đại Học sĩ. Hai người đều dâng sớ từ chối, vua không theo Việc miễn giảm thuế Để khôi phục nền kinh tế bị tổn hại nặng nề, Vua ra nhiều chỉ dụ để xử lý các vấn đề cấp thiết nhằm hỗ trợ khôi phục Thủ công nghiệp, kiểm soát giá cả, phát chẩn và trợ giúp các địa phương. Phủ thần tấu rằng sau vụ kinh thành thất thủ, dân các xã làm nghề dệt bỏ nghề rất nhiều, nên xin cho các dịp lễ trong năm sau tạm bãi việc chế vải lụa, nhà vua thuận cho tạm hoãn một hai tháng. Đầu năm 1886, giá gạo ở phủ Thừa Thiên đắt đỏ, vua chuẩn cho trích 5 vạn hộc gạo trong kho ra bán cho dân với giá mỗi hộc 1 đồng bạc, hoặc 6 quan tiền (năm sau lại có tương tự xảy ra và triều đình Huế trích 2 vạn phương gạo giao cho Phủ thần Hội đồng cùng phái bộ bán giảm giá cho dân mỗi phương 8 quan). Vì tỉnh thành Quảng Nam và Bình Định bị giặc cướp đốt phá, triều đình cho trích tiền và gạo trong kho ra chẩn cấp cho dân theo từng thứ hạng. Tháng 4, chiếu miễn thuế năm trước và khoản nợ còn thiếu cho dân ở Hà Tĩnh, thuế còn thiếu năm ngoái cho tỉnh Quảng Bình và miễn nửa thuế vụ hè thu năm trước cho phủ Thừa Thiên. Tháng 6, mệnh cho tỉnh Quảng Trị xem xét trong số tù nhân mà những ai già yếu, bệnh tật mà xét lỗi có thể khoan giảm thì tha cho về. Năm 1887, tỉnh Khánh Hòa bị lụt, dân đói, chuyển 3000 phương gạo chứa ở cửa Đà Nẵng đến chu cấp cho dân. Lại giảm 4/10 thuế thân năm trước, 3/10 thuế sản vật và toàn bộ thuế ruộng đất vụ hè cho tỉnh Thanh Hóa vì địa phương này bị phỉ gây hại nặng nề. Các tỉnh Bắc Ninh, Thanh Hà, Hải Dương gặp thiên tai, chuẩn cho điều hòa miễn giảm thuế ở các nơi. Mùa thu năm đó, chuẩn cấp cho 148 hộ dân Nghệ An bị hỏa hoạn và miễn thuế 2 năm cho tỉnh Bình Định và Phú Yên vì các nơi này bị phỉ quấy rối. Tháng 11 - 12, năm 1888, tỉnh Thanh Hóa dâng sớ nói vùng thượng du liên tiếp bị phỉ quấy rối và nạn hổ báo làm hại dân chúng, xin miễn các khoản cúng nạp và thuế sản vật còn thiếu, vua y cho. Cùng năm ấy, khách người Thanh Trần Quang Hanh ở Vĩnh Yên xin được mở sòng bạc chịu nộp thuế ở Nghĩa An, Nam Nghĩa, Bình Phú thuộc phủ Thừa Thiên, bộ Hộ đã bàn bạc và có ý cho phép. Nhưng Nguyễn Hữu Độ dâng sớ kể về các tệ hại của nạn cờ bạc, nên xin nghiêm cấm, vua chuẩn theo lời tâu đó. Về văn hóa và giáo dục Tháng 8, bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục được hoàn thành, mệnh tỉnh Hà Nội in ra 100 bản cho vua ngự coi. Tháng 9, vì trường thi Nam Định bị tàn phá do chiến tranh, nên chuẩn cho sĩ tử Nam Định thi chung với sĩ tử Hà Nội. Vì có sự biến khiến các trường phải nhiều lần đình thi, nay số sĩ tử rất đông, nhà vua cho tăng ngạch lấy đỗ (mỗi trường 10 Cử nhân và 30 Tú tài). Mùa hạ năm 1888, cho trường Bình Định thi chung tại Thừa Thiên, Thanh Hóa thi với Nghệ An và Ninh Bình thi chung với Hà Nam. Tháng 5 năm 1887, Đồng Khánh ra chỉ soạn bộ Dư địa chí, gồm 25 tập chép tay ghi lại địa lý các tỉnh trong cả nước (chỉ gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ). Năm 1888, triều đình tuyển chọn 25 người con em các quan viên từ 15 đến 22 tuổi, cấp cho học bổng mỗi người 100 đồng và đưa sang châu Âu du học. Vua Đồng Khánh có làm một bài thơ Thánh chế tỏ ý dạy bảo quan lại phải chăm lo hoàn thành chức phận, chia sẻ niềm lo lắng trước tình thế khó khăn. Mùa đông năm 1888, Viện Cơ mật tâu rằng đối với những văn bản khẩn cấp phải dâng lên trong đêm thì niêm phong kín lưu ở Viện lưu trát rồi mới dâng lên. Khi có công văn gửi đi thì xin đóng dấu ngự niêm hoặc tín phong ở bên ngoài rồi giao cho Viện thuộc dán kín rồi gửi đi. Vua không ưng theo. Việc nội cung Đồng Khánh Đế là một vị vua có một quan điểm cứng rắn về việc nội cung khi ông đưa ra tiêu chuẩn cao cho các cung phi, hoàng tử, công chúa, cung nhân và thị nữ. Vua đưa ra nhiều chỉ dụ, chỉ thị và các trừng phạt nghiêm khắc cho những người vi phạm. Vào cuối năm 1885, trong nội bộ hoàng tộc xảy ra hai sự kiện. Vụ thứ nhất là công tử Hồng Hải đánh nhau với con Phò mã Nguyễn Văn Toán tên là Ước. Anh của Hồng Hải là Hồng Sanh dẫn 3 tên lính Phú Lãng Sa bắt tên Ước rồi bỏ trốn. Phủ Tôn nhân chiếu theo điều lệ về "tội đánh nhau" phạt Hồng Hải 30 roi, tư bổng 3 tháng, tên Ước khi nào bắt được sẽ đánh 20 roi để trừng trị. Vua lấy cớ hoàng thân phạm tội, chiếu theo "tội không được làm" phạt Hồng Hải 80 roi, tước bổng 2 năm, và giao tên Ước cho phủ Thừa Thiên định đoạt. Vụ thứ hai là vào tháng 10 âm lịch, đồ thờ ở 5 tòa điện bị mất. Phủ Tôn nhân chuẩn bị làm tội người coi giữ Tôn Thất Úy, Tôn Thất Lã. Viện Cơ mật lấy lý do loạn lạc nên các quan trông nom khó tránh khỏi sơ suất, xin giảm nhẹ tội cho họ. Vua cho rằng để làm gương thì không thể không trừng phạt, và cách chức hai người này. Trước kia Đồng Khánh chưa lên ngôi đã nạp người con gái của Nguyễn Diệm là Nguyễn thị làm Phủ thiếp, đó chính là bà vợ nguyên phối nhưng bà lại mất sớm. Mùa đông năm 1886 tặng là Nghĩa tần, thân phụ bà Nghĩa tần là Hậu quân Đô thống Nguyễn Diễm truy thăng hàm Thái tử Thiếu bảo. Sau khi vua đăng cơ, chuẩn theo trình tâu của Viện Cơ mật và bộ Lễ, tấn phong cho các bà phủ thiếp của mình gồm 5 người vào chức vị: Trần Đăng Thị Đồng làm Quan phi, Phan Văn thị làm Giai phi, Hồ Văn thị làm Chánh tần, Nguyễn Văn thị làm Nghi tần, Trần Văn thị làm Dự tần; chuẩn sung vào quản 6 Thượng viện là Thượng nghi, Thượng trân, Thượng phục, Thượng y, Thượng diên, Thượng nô. Riêng Giai phi được ban quan Nhiếp Lục viện (tức trông coi các việc trong nội cung). Chuẩn phong Mai Văn thị làm Tiệp dư, Nguyễn Văn thị làm Quý nhân, Nguyễn Hữu thị làm Mĩ nhân, Trịnh Văn thị làm Tài nhân và Mai thị làm Tài nhân vị nhập lưu. Ngày 16 tháng 2 năm 1886 ông tuyển con gái của Huân thần Nguyễn Hữu Độ là Nguyễn Hữu Thị Nhàn (1870 - 1936) làm Chánh cung (Hoàng quý phi), ban Kim bài (chiều ngang khắc chữ: "Đồng Khánh sắc tứ", chiều dọc khắc chữ "Kiêm nhiếp lục viện"). Ông Hữu Độ dâng sớ từ chối, nhưng triều đình không theo. Tháng 2 âm lịch năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), nhà vua xuống dụ quở mắng các bà trong nội cung là "cam tâm vứt bỏ ân huệ, mỗi ngày một thêm lười biếng, để lại chúng cần thực thêm phí phạm", sau đó tùy theo hạnh kiểm từng người mà giáng xuống có thứ bậc: Quan phi Trần Đăng thị lời nói, cử chỉ thô tục không biết sửa đổi bị giáng làm Tùy tần, Chính tần Hồ Văn thị chơi bời lêu lổng không lo việc công bị giáng làm Mĩ nhân, Nghi tần Nguyễn Văn thị thô bạo tham lam đố kị đủ cả nên bị xử nặng giáng làm Tài nhân; Tài nhân Trịnh Văn thị, Nguyễn Hữu thị khinh nhờn thành thói bị giáng làm Cung nhân. Riêng phần Giai phi đã qua răn dạy mà biết hối lỗi nên được dung thứ. Đối với Hoàng quý phi trông coi việc nội cung mà để bọn ấy vô lễ thái quá, về tình có thể rộng lượng xét cho nhưng phải nhắc nhở nghiêm khắc. Đến tháng 12 cùng năm, có việc cung nhân Nguyễn Thị Điền lấy trộm áo ngự, theo luật thời Minh Mạng phải khép vào tội chém đầu bêu giữa chợ. Các quan trong Nội các xin bãi việc bêu đều. Vua truyền giảm tội thành xử treo cổ, thi hành ngay lập tức. Liền sau đó bà Giai phi Phan Văn thị vì cớ giữ đồ đạc mà không cẩn thận, để thất thoát và giả bệnh trốn tránh... bị giáng xuống làm Mỹ nhân. Mùa xuân năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), biên soạn Ngọc điệp tôn phả, lấy Thượng thư bộ Lễ Đoàn Văn Hội, Thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Phiên sung làm Chánh, Phó Tổng tài. Đối với phong trào Cần vương Bấy giờ ở Tân Sở, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương chống Pháp, đất nước lúc đó có tới hai vua. Mùa hạ năm 1886, ngày 17 tháng 6, xa giá khởi hành từ kinh đô bắt đầu chuyến đi với mục đích chiêu dụ phong trào, dựng hành tại ở Châu Thị, cho soạn tờ Sắc dụ để bảo các sĩ phu chống Pháp nếu biết "hối lỗi", "quy thuận" thì vẫn sẽ được cho giữ nguyên chức cũ, mà nếu vua Hàm Nghi thuận về sẽ ban cho tước công, cấp bổng lộc hậu hĩnh, đồ dùng cho xài theo kiểu vua chúa... Ngày 4 tháng 9, Ngài ngồi tàu từ cửa Nhật Lệ mà về kinh đô. Ngài tự nhận xét về chuyến đi không thành công của mình như sau: Trẫm hồi loan bình yên, các quan lạy mừng là theo lễ đấy. Nhưng từ Quảng Trị trở ra Bắc, các tướng giặc chưa bắt làm tội hết, chưa chắc hết thảy sớm yên, chưa biết công hay tội thế nào? Không đời nào tôi có thể tin rằng Hà Tĩnh, Quảng Bình trung thành với tôi, vì hai tỉnh ấy có nhiều sĩ phu quá! Năm 1887, vua Đồng Khánh lại cử Hoàng Tá Viêm, một cựu thần có uy tín, làm An Hữu Kinh lý Đại thần, ra Quảng Bình phủ dụ phe kháng chiến một lần nữa. Chiếu thư của ông nói rõ: nếu vua Hàm Nghi thuận về sẽ phong làm Tổng trấn Thanh Nghệ, hậu đãi bổng lộc; Tôn Thất Thuyết nếu chịu quy phục sẽ xóa tội cũ cho về làm ruộng, bọn Trương Văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Thư, Lê Mô Khởi, Nguyễn Nguyên Thành, Phan Trọng Mưu... vẫn được giữ nguyên hàm. Các ông Trần Xuân Soạn, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Đình Phùng nếu quay đầu cũng sẽ khoan giảm tội mà bố trí cho các chức hàm khác. Kết quả không có ai chịu theo hàng, và Hoàng Tá Viêm được lệnh về triều vào tháng 12 năm đó. Cuối năm 1888, nhờ có nội gián Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc mà người Pháp vây bắt được vua Hàm Nghi. Triều đình Huế đã biết tin, sai quan lại Thừa Thiên và bộ binh ra đón rước về Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị kích động nên quyết định đày Hàm Nghi ra Algérie ở Bắc Phi. Trong tình thế đó, Vua yêu cầu Toàn quyền Pháp Étienne Antione Guillaume Richaud trợ cấp mỗi năm cho vua Hàm Nghi (quận công Ưng Lịch) mỗi năm 4.981 đồng bạc - một khoản tiền rất lớn ở thời điểm đó, và cho thêm một người hầu cận với lương mỗi năm 299 đồng. Từ đó các cuộc kháng chiến ở Bắc và Trung Bộ lần lượt bị đàn áp hoặc phải đầu hàng. Phong trào Cần vương suy yếu dần, nhưng còn kéo dài đến năm 1896 mới dứt hẳn. Quan hệ với người Pháp Vua Đồng Khánh là người theo chủ trương ôn hòa với người Pháp, sách của Trần Trọng Kim viết: "Đồng Khánh tính tình hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người Pháp". Sau khi đăng cơ, vua Đồng Khánh gửi thư cho chính phủ Pháp đáp lễ và cam kết giữ mối bang giao hai nước. Chính phủ Pháp trao tặng cho ông Huân chương Bắc Đẩu bội tinh hạng Nhất, đồng thời "trả lại" 2 điện Hiếu Tư, Long An và Quốc sử quán bị chiếm giữ trước đó; "giao trả" 20.000 lạng bạc (2.000 thoi, mỗi thoi 10 lạng) và 20.000 quan tiền đồng, chuẩn cho cung tiến trong Nội cung 10.000 lạng bạc, 10.000 quan tiền;lưỡng cung Thái hậu cung 10.000 lạng bạc, 10.000 quan tiền . Tuy nhiên về thực chất, kho tàng vẫn người Pháp canh giữ, chỉ theo điều khoản mà tới kì hạn mà trích ra cho hoàng gia mà thôi. Toàn quyền Pháp thảo ra ba điều lệ đưa cho Viện Cơ mật gồm: Điều lệ cấm chuyên chở súng ống đạn dược (Chỉ những quan Pháp và thương nhân có giấy ủy quyền của công sứ mới được phép chở binh khí vào nước ta, nhưng phải khai trình rõ ràng. Những người làm trái sẽ bị trị tội theo pháp luật, vũ khí ấy sẽ bị sung vào kho). Điều lệ nhà nước có quyền lấy ruộng tư sung vào ruộng công nếu việc đó cần cho lợi ích chung (những việc vì lợi ích nhà nước mà lấn vào ruộng tư của nhà nào, nếu có chỉ ý của triều đình và Toàn quyền Pháp, thì ruộng đó phải sung công và được đền bù bằng tiền). Điều lệ về quyền chức Kinh lược Bắc Kỳ (thay mặt nhà vua ở Bắc Kỳ). Tháng 11 năm 1885, ông hạ lệnh đặt ra 8 lá cờ Bảo hộ để phát cho Lục bộ cùng Viện Cơ mật, Ti Hành nhơn để treo trong các ngày lễ tết và ngày Quốc khánh Pháp. Lá cờ bảo hộ có nền vàng, ở góc trái trên cao là hình quốc kỳ Pháp, sách Đại Nam thực lục Chính biên mô tả như sau: "Mẫu cờ (chia làm 4 phần): 3 phần dùng sắc vàng, trong đó một phần phía trên ở chỗ gần mặt trên trục, 1 phần 3 dùng sắc xanh, trắng, đỏ; giao cho các địa phương tuân theo mà làm". Ngày 14 tháng 3 năm 1886, triều đình Huế và Pháp thiết kế ra một loại huân chương dành tặng thưởng cho các viên chức có công, được gọi là "ordre impérial du Dragon d'Annam" (Long bội tinh), phỏng theo mô hình Bắc đẩu bội tinh của Pháp. Tổng sứ Bắc Trung kỳ Paul Bert là người đầu tiên được vua Đồng Khánh ban thưởng Long bội tinh hạng nhất năm 1886. Theo Đại Nam thực lục, vào cuối năm 1887, theo đề nghị của chính phủ bảo hộ Pháp, 191 quan viên người Pháp và 21 quan viên người Việt được trao huân chương này. Lúc bấy giờ Nguyễn Hữu Độ được cử ra Bắc Kì gặp Thống tướng của Pháp de Courcy thương lượng về các khoản cấp dành cho triều đình Huế ở Bắc Kì mỗi năm, cụ thể như sau: Chi phí hằng năm tăng thêm số tiền và gạo, mỗi năm khoản 1 triệu quan. Ngạch lính ở Kinh 1000 người, các tỉnh từ 300 đến 400, 500, súng ống 2000 khẩu. Các khoản thuế chợ, thuế đò và các mặt hàng đồng, tơ sợi, rượu... vẫn do người Đại Nam lãnh trưng. Vấn đề lương giáo do triều đình quản lý. Việc thay đổi và bổ dụng các quan do bản quốc tâu chuẩn định đoạt. Mùa xuân năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), Nguyễn Hữu Độ về Huế. Mùa hạ cùng năm, chuẩn cho mở trường dạy tiếng Pháp, lấy Diệp Văn Cương làm Chưởng giáo, Nguyễn Hữu Mẫn làm Trợ giáo, cho con em quan lại, binh lính và dân chúng được nộp tiền mà vô học, đến cuối năm Viện Cơ mật làm cuộc sát hạch, tuyển những người ưu tú làm Hành nhân, cấp lương bổng cho việc học chữ và học việc. Mùa đông năm 1887, người Pháp tiến hành đào cảng từ nước Pháp đến Tân Thế giới, muốn thuê 1500 dân phu ở nước ta và nước Thanh. Vua và Triều đình nhận thấy đường sá xa xôi, nhọc tới sức dân, nên không đồng ý. Ít lâu sau đó, công trình xưởng thợ Hải Vân ở người Pháp xin bắt dân phu và định khi khởi công sẽ bắt thêm 2500 - 3000 người nữa. Viện thần xin tư cho phủ Quảng Trị, Quảng Nam theo đó bắt dân phu ứng dịch, còn về khoản tăng thì sẽ tính sau. Vua đáp lại rằng người dân đang gặp nạn đói và thời tiết rét mướt, áo quần không có mà lại bắt đi phu, người ta sẽ oán thán. Ngày 8 tháng 11 năm 1887, de Courcy chết. Vua sai Hoài Đức công Nguyễn Phúc Miên Lâm và Thượng thư bộ Lễ Chu Đình Kế ra Bắc phùng viếng, thăm hỏi, cấp 500 đồng bạc để đúc tượng đồng của De Courcy. Tháng 3 năm 1888, Toàn quyền Đông Dương Ernest Constans yết kiến vua ở điện Thái Hòa dâng trình quốc thư, Đồng Khánh cũng viết thư phúc đáp. Ngày 17 tháng 10 năm 1887, Tổng thống Pháp Marie François Sadi Carnot ra sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương với thuộc địa Nam Kỳ, bán thuộc địa bán bảo hộ Bắc Kỳ cùng hai xứ bảo hộ Trung Kỳ và Campuchia đều đặt dưới 1 viên quan Toàn quyền Đông Dương người Pháp. Ngày 3 tháng 10 năm 1888, triều đình Huế bị Pháp ép phải cắt nhượng năm xã của huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam nằm bên tả ngạn sông Hàn làm "nhượng địa" Tourane (sau gọi là Đà Nẵng). Hà Nội và Hải Phòng cũng chung số phận như vậy, và 3 khu vực này trở thành 3 thuộc địa chính thức. Tính cách và sinh hoạt thường ngày Năm 1886, Trương Vĩnh Ký được người Pháp đưa về Huế để làm việc, và được yết kiến với vua Đồng Khánh. Trong một lá thư viết tại Huế đề ngày 24 tháng 4 năm 1886, Trương Vĩnh Ký đã thuật lại về Hoàng đế như sau: Vua Đồng Khánh, nay được 23 tuổi, con của hoàng tử Kiến quốc Công – con trai Thiệu Trị anh cả cùng mẹ khác cha (?) với Kiến Phúc, là người nối ngôi từ tháng 8 năm 1885, đồng thời cũng là anh em cùng cha khác mẹ với người em thứ Hàm Nghi. Tự Đức không có con, nên đã nuôi dạy Đồng Khánh trong Nội cung hai năm coi như hoàng dưỡng tử, và được ban tước như đã từng ban cho Dục Đức – con của hoàng tử Kiến Thoại Vương và Kiến Phước, để sau này truyền ngôi. Nhà vua đương kim được người em Kiến Phước thương yêu trìu mến, một tính cách trái ngược với những gì thường xảy ra trong các hoàng gia Á châu. Khi Kiến Phước dạo chơi, người anh cả âu yếm bồng em trong tay, hoặc đi kèm hai bên Kiến Phước. Suốt thời trẻ, Đồng Khánh ở trong một dinh thất đặc biệt gọi là Chánh Mông đường, vùi đầu vào viêc học tập (để đạt đến) cái danh vọng của xứ An Nam. Ngày đêm ông hoàng miệt mài đọc sách, tranh thủ tiếp thu chữ nghĩa một cách chăm chỉ tại thư phòng. Nhờ thế, ông tỏ ra thông hiểu triết học, lịch sử và văn chương Viễn Đông, giỏi hơn một nhà nho trung bình. Ông chỉ có một cách nghỉ ngơi giải trí duy nhất là tập cưỡi ngựa. Ông cũng được Tự Đức quan tâm chăm sóc, mỗi tháng ba lần nhà vua cho phép Đồng Khánh vào Nội các để nghị luận về kinh truyện cổ điển, tập làm tấu chương, để sau này tham gia tu chỉnh điển chương, chính sự. Trong các cuộc hội họp của Nội các, ông hoàng nổi bật do sự mẫn tiệp đánh giá đúng người đúng việc của ông. Ông hoàng trẻ này dường như không hề có tham vọng ngai vàng, nên chẳng quan tâm đến những xung đột giữa các triều thần và những lạm dụng quyền hành cần phải kiềm chế, mà chỉ giữ thái độ vô tư, chẳng bận lòng về những mối cừu hận giữa các phe phái. Sống giữa lòng dân tộc, ông hoàng có thể có những quan sát cá nhân để lượng định tình trạng khốn khổ của dân chúng. Về phần phẩm hạnh, ông hoàng giữ ý tứ giữa các anh em cũng như các đấng sinh thành, mối hòa đồng mà Khổng Tử đã khuyến dạy. Ông hoàng trẻ này có vẻ thông tuệ và nhã nhặn, dễ dàng thích nghi với những tập tục ngoại lai xét ra ưu việt hơn những lề thói của người bản xứ. Đồng Khánh là vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn chấp nhận sự bảo hộ của Pháp ở Việt Nam. Được tiếp xúc với nền văn minh Tây phương, ông uống rượu Bordeaux, uống sữa hộp và thích dùng các hàng hóa đồ chơi của Pháp chế tạo. Ông còn ban các món ấy cho các hoàng thân, phi tần, cung nữ... Tháng 1 năm 1886, theo đề nghị của người Pháp, vua Đồng Khánh đã cho phép thợ ảnh chụp mình. Bức ảnh vua Đồng Khánh sau đó được rửa làm 2 bản, một gửi về Pháp quốc, một nhà vua giữ lại. Từ thời vua Tự Đức trở về trước, do những quan điểm riêng mà các vị vua nhà Nguyễn đều không chấp nhận việc chụp ảnh này. Như vậy có thể coi Đồng Khánh là vị vua đầu tiên cho phép thợ ảnh chụp ảnh mình. Trong sinh hoạt thường ngày, nhà vua hay chú ý đến ngoại diện, thường chăm sóc trang điểm. F. Baille kể lại trong bài " Les Annamite " như sau: Hàng ngày, một toán cung phi được chọn trong tất cả đẳng cấp phục dịch đức vua. Ba mươi người chia nhau canh gác xung quanh hậu cung của ngài, năm nàng luôn ở bên cạnh ngài, luân phiên săn sóc, trang điểm cho ngài. Các nàng thay quần áo cho ngài, chải chuốt bộ móng tay dài hơn ngón tay, thoa dầu thơm, vấn khăn lụa vòng quanh đầu ngài. Sau cùng chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt xung quanh ngài sao cho thật hoàn hảo, năm cung phi này cũng kiêm lo hầu cơm nước cho đức vua. Theo Kể chuyện các vua Nguyễn, vua Đồng Khánh thích xem hát bội. Nhà vua đặt tên cho các cung phi sủng ái của mình theo các vị thuốc bắc trong vở hát đặc biệt yêu thích "Vạn Bửu trình tường" như: Đại Hoàng, Nhân Sâm, Cam Thảo... Qua đời và việc kế vị Vì biết rằng mình không thể sống lâu, vua Đồng Khánh rất thích đọc các sách về kinh dịch, bói toán, tìm hiểu những điều huyền bí. Khi còn là hoàng tử, vì muốn biết khi nào được lên ngôi và trị vì như thế nào, nhà vua đã cầu xin Thánh Mẫu Thiên Y A Na ở đền Ngọc Trản cho biết và nữ thần đã đoán đúng ngày vua lên ngôi. Tháng 3 năm 1886, nhà vua cho đổi đền nữ thần Ngọc Trản thành điện Huệ Nam (có nghĩa là ban ân cho nước Nam). Nhà vua tự nhận là đồ đệ của Thánh Mẫu và gọi bà là "chị", lại sắc cho bộ Công treo biển ngạch treo ở điện, bộ Lễ mỗi năm hai kỳ (mùa Xuân và mùa Thu) phải cử một vị quan đại diện triều đình đến nơi để dâng đồ lễ... Cuối năm 1888, Đồng Khánh mắc một bệnh lạ, mà các bộ sử của nhà Nguyễn đều không ghi rõ là căn bệnh gì. Ông không ăn uống gì được, thỉnh thoảng lên cơn sốt, nhức nhối trong người và thường mơ thấy ác mộng. Các quan ngự y không ai chữa được, kẻ thì bị cách chức, người bị bỏ ngục. Tổng Trú sứ Rheinart gợi ý nhà vua nhờ tới bác sĩ Pháp, và ông Cotte đang ở cửa Thuận An được triệu vào cung, nhưng việc chẩn trị cũng không có kết quả. Trong báo cáo gửi cho Toàn quyền Đông Dương, Rheinart mô tả về bệnh tình của Đồng Khánh như sau: Sáng ngày 27, tôi cho đi hỏi tin tức Nhà vua và được trả lời rằng đêm trước tình hình rất tệ. Nhà vua đã nôn, nấc và đã bất tỉnh trong nhiều giờ, rất đáng lo và sợ một vụ đầu độc luôn đáng ngờ trong chốn đầy mưu mô ở triều đình, tôi năn nỉ để một trong các bác sĩ của chúng ta khám bệnh cho Nhà vua. Những sự vận động đầu tiên đã không thể đạt mục đích, vì các thành kiến quá nặng nề không dễ để người ta nhường bước. Cuối cùng, khoảng 2 giờ, người ta báo cho tôi rằng Nhà vua đã muốn ăn một chút cơm và lại mệt ngay sau đó và rằng Nhà vua đã chấp nhận sự chăm sóc của chúng ta... Trong cuốn Souvenir d’Annam (1886-1890) của Baille - nguyên Công sứ Pháp tại Huế, xuất bản ngay trong năm 1890 cũng có chi tiết nói về chuyện này, dịch ra tiếng Việt như sau: Các thầy thuốc An Nam đã hết phương chữa trị. Cáu giận, nhà vua đã thẳng tay sa thải họ, trừng phạt họ, sai tống giam họ và tuyên bố sẵn sàng chấp nhận những lời tư vấn của một bác sĩ Pháp. Tuy sức khỏe suy yếu nhưng Đồng Khánh vẫn gắng gượng xử lý việc triều chính, lệnh các nơi dâng tấu vẫn theo lệ thường. Các quan trong triều xin đình chỉ việc dâng sớ để nhà vua giữ gìn sức khỏe, ông đáp rằng: Việc nước còn nhiều quan hệ khẩn yếu, trẫm lấy làm lo, nên không thể không cố gắng. Sau gần 2 tuần nhuốm bệnh, đến ngày 26 tháng 1 năm 1889, bệnh trở nặng. Ngày 28 tháng 1 năm 1889 (âm lịch ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý), lúc 8 giờ tối, Đồng Khánh băng hà ở điện Càn Thành, hưởng dương 24 tuổi, trị vì được 3 năm. Theo một số người thuật lại, nhà vua phát bệnh là vì ám ảnh bởi cái chết của Phan Đình Bình trước đó. Căn cứ báo cáo ngày 30 tháng 1 năm 1889, nhà vua đã "qua đời vì cơn sốt rét ác tính và mọi ý nghĩ về cái chết bất đắc kỳ tử có lẽ phải dẹp bỏ, vì những biểu hiện quan sát được không cho phép đặt giả thiết rằng nhà vua là nạn nhân của một vụ đầu độc hình sự". Vì các con của ông tuổi đều còn nhỏ chưa có nối ngôi được, các quan kéo nhau đến hỏi ý kiến của Tổng sứ Trung Bắc kỳ Pierre Paul Rheinart. Bấy giờ Phan Đình Bình bị chết, con gái ông là bà Vương phi Phan Thị Điều cùng con trai tức Hoàng tử Bửu Lân bị đưa đi quản thúc ở nhà Trấn Vũ phía đông kinh thành. Khi đó, thông ngôn Diệp Văn Cương là em rể của Dục Đức cố tình dịch sai lời nói của Khâm sứ Rheinart, để giúp Bửu Lân lên ngôi vua, tức là vua Thành Thái. Ngày 15 tháng 2, triều đình rước quan tài vua Đồng Khánh tới điện Phụng An. Ngày 16 tháng 1 làm lễ thành phục. Ngày 25 tháng 1, đặt thụy hiệu là Hoằng Liệt Thông Thiết Mẫn Huệ Thuần Hoàng Đế (弘烈聰哲敏惠純皇帝), miếu hiệu là Cảnh Tông (景宗). Vua Đồng Khánh có sáu người con trai, nhưng chỉ có Hoàng trưởng tử là Bửu Đảo sống qua tuổi trưởng thành. Năm 1916, Bửu Đảo mới được lập lên ngôi, tức là vua Khải Định. Truy thụy cho vua cha là Phối Thiên Minh Vận Hiếu Đức Nhân Vũ Vĩ Công Hoằng Liệt Thông Thiết Mẫn Huệ Thuần Hoàng Đế (配天明運孝德仁武偉功弘烈聰哲敏惠純皇帝), miếu hiệu là Cảnh Tông (景宗). Đánh giá, di sản Đánh giá Vua Đồng Khánh là vị vua gây nhiều tranh cãi với nhiều góc nhìn nhận khác nhau của mỗi một chế độ. Trong con mắt các nhà Sử học theo quan điểm chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Vua là một ông vua xu nịnh người Pháp trong khi theo chính sử chép của Sử quan nhà Nguyễn cũng như các nhà Sử học như Trần Trọng Kim và các nhà Sử học theo chế độ Việt Nam Cộng Hòa, Vua được đánh giá là một vị vua sáng suốt, thông minh, vì nước, vì dân, ngặt vì tình thế và thọ mệnh không dài mà sự nghiệp của Vua cũng như vận mệnh của một Quốc gia còn nhiều điều phải tiếc nuối. Theo sử quan nhà Nguyễn: Vua là người sáng suốt, quả cảm, cương quyết, lanh lợi, để chí về trung hưng, mọi người đương có hy vọng như Tuyên vương nhà Chu, thế mà không được sống lâu, không thành được việc lớn, đáng tiếc thay! Cảnh Tông Thuần Hoàng đế, tư chất hơn bậc thượng triết; vận hội gặp buổi trung hưng, khôi phục ngôi cao, cả nhận mệnh lớn, kính trời đất, làm lễ Nam Giao; theo tổ tiên giữ hiến chương cũ. Phụng thờ Hoàng Thái hậu, hiếu thảo một lòng, đối xử với họ hàng, ơn ban khắp cả; lấy lễ độ đối đãi bề tôi, dùng khoan hòa trị yên dân chúng, thân ra chiến trận, công võ hiển dương; sửa lệ bang giao, lân hiếu càng hậu; xem tờ can gián, nêu thưởng kẻ trung ngôn; nghe giảng kinh diên, biết rộng đạo hiền thánh. Yêu dân chăm việc; trị ngục hoãn hình, cùng là mở rộng khoa thi, gia ơn cho sĩ tử; tha số thuế thiếu, để vỗ yên nhân dân; gặp khánh tiết thì ban ân, cứ đầu xuân là thưởng khắp. Trước 1975, tên vua được đặt cho một đại lộ tại Sài Gòn, nay là đường Trần Hưng Đạo tại Quận 5 cũng như hai trường phổ thông nổi tiếng tại Hà Nội và Huế - Trường Nữ sinh Đồng Khánh nhằm vinh danh ông Một trong những công trạng lớn nhất của vua Đồng Khánh khi ở ngai vàng là đòi lại kho báu của triều đình Nhà Nguyễn bị Pháp cướp đi sau khi Kinh thành Huế thất thủ. Chính phủ Pháp đồng ý trao trả lại 1/2 số vàng bạc và báu vật cướp được. Triều đình Huế yêu cầu người Pháp ưu tiên trả lại ấn triện, sách vàng và những đồ thờ tự bằng vàng bạc mang tính quốc bảo, vì thế mà hiện nay, Việt Nam vẫn còn giữ lại được khá nguyên vẹn các bảo vật của triều Nguyễn Về phía Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tiến sĩ Phan Viết Dũng đánh giá Đồng Khánh là một ông vua bù nhìn vì quyền lợi của mình mà luồn cúi với người Pháp, bán rẻ quyền lợi của dân tộc. Về chủ trương chiêu dụ của Đồng Khánh đối với phong trào Cần Vương, tác giả cho rằng: Chủ trương phủ dụ của Đồng Khánh là chiêu bài xảo trá, âm mưu nhanh chóng tiêu diệt lực lượng Cần Vương hòng dập tắt phong trào yêu nước của nhân dân chống thực dân Pháp và triều đình thân Pháp để củng cố một vương triều vì lợi ích của ông vua bù nhìn. Với chủ trương này ông vua bù nhìn Đồng Khánh ngày càng bộc lộ bản chất nhu nhược, thần phục ách đô hộ của thực dân Pháp để lại một vết nhơ trong lịch sử. Hầu hết các sử sách của Việt Nam sau 1945 thường đánh giá ông như một ông vua phản động, thân Pháp, vì quyền lợi của riêng mình mà cam tâm làm bù nhìn, tay sai cho ngoại bang. Di sản Lăng của Đồng Khánh là Tư Lăng (思陵), tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, phía Tây núi Khiêm sơn, cách Khiêm lăng 500m và cách kinh thành 6,5 km về phía Nam. Ông được thờ tại Tả Tam Án ở Thế Miếu và Tả Tam Án điện Phụng Tiên trong Đại Nội kinh thành Huế. Vốn là khi ông qua đời, vì kinh tế kiệt quệ nên vua Thành Thái đã lấy điện Trung Tư vừa xây xong đổi thành điện Ngưng Hy để thờ tiên vương, và an táng ông trên đồi Hộ Thuận cách đó 300m về phía Tây và đặt tên khu vực này là Tư lăng. Đến năm 1916, vua Khải Định cho tu sửa điện Ngưng Hy gồm một chánh tịch và một tiền tịch, các công trình phụ trợ có Tả, Hữu Phối điện ở phía trước, Tả, Hữu Tùng viện và Kiều gia ở phía sau. Khu vực lăng mộ được Âu hóa hoàn toàn hơn với Bi đình là theo kiểu kiến trúc romance pha trộn đường nét Á Đông. Tại Paris, ngày 24 tháng 11 năm 2010, một bức tranh của vua Hàm Nghi được tìm thấy và được đem bán đấu giá. Qua một cuộc bán đấu giá khác của Sotheby, một bức tranh vẽ "Đại nội Huế" cũng đã được bán. Đây có thể là tác phẩm của vua Đồng Khánh, với bút danh ký trên tác phẩm là Ưng Mông. Như vậy, về mặt niên đại, vua Đồng Khánh đã vẽ tranh cách ngày nay ít nhất 127 năm, trước vua Hàm Nghi. Vua Hàm Nghi chỉ bắt đầu đi vào hội họa sau khi ông từ Alger sang Paris và được xem một cuộc triển lãm hội họa của Gauguin (1899), tức là đúng mười năm sau khi vua Đồng Khánh mất. Ở Sài Gòn trước năm 1975 có một đại lộ được đặt tên Đồng Khánh. Đến năm 1976 đổi tên là đường Trần Hưng Đạo B, nay thuộc địa bàn quận 5. Niên hiệu Đồng Khánh còn được dùng để đặt tên cho một số ngôi trường ở Việt Nam: Trường Nữ sinh Đồng Khánh tại Hà Nội, nay là Trường Trung học Cơ sở Trưng Vương. Trường Nữ sinh Đồng Khánh tại Huế, nay là Trường Trung học Phổ thông Hai Bà Trưng. Trường được thành lập vào năm 1917 với sự hiện diện của vua Khải Định và các quan chức Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ. Đây là ngôi trường nữ đầu tiên và duy nhất dành cho nữ sinh cả 13 tỉnh Trung Kỳ thời đó. Gia quyến Cha: Nguyễn Phúc Hồng Cai (阮福洪侅), truy phong Thuần Nghị Kiên Thái vương (純毅堅太王). Mẹ: Bùi Thị Thanh (裴氏清), truy phong Thuần Nghị Kiên Thái Vương phi (純毅堅太王妃). Hậu phi Hậu duệ Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả, vua Đồng Khánh có 6 hoàng tử và 4 hoàng nữ. Hoàng tộc lược biên của dòng họ Nguyễn Phúc lại chép rằng, vua có đến 6 hoàng nữ, song không kể tên của họ: Bà Trần Lệ Xuân, tức Madame Nhu, Đệ nhất Phu nhân của chính quyền Việt Nam Cộng hòa từ 1955 đến 1963, là cháu gọi vua Đồng Khánh bằng ông cố (bà Thân Thị Nam Trân mẹ bà Nhu là cháu gọi vua Đồng Khánh là ông ngoại). Chú thích Xem các trang: Lịch sử triều Nguyễn - Chín chúa, mười ba vua - 143 năm vương triều Nguyễn (1802-1945) Danh sách nguồn Tôn Thất Bình (1993), Đời sống cung đình triều Nguyễn, Nhà Xuất bản Thuận Hóa. Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu (Cao Xuân Dục chủ biên, 1908), bản điện tử. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục chính biên tập 8, Nhà Xuất bản Giáo dục, bản điện tử. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục chính biên tập 9, Nhà Xuất bản Giáo dục, bản điện tử. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam thực lục chính biên - Đệ lục kỷ I (1885 - 1886), Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc (1995), Nguyễn Phúc Tộc thế phả, Nhà Xuất bản Thuận Hóa. Nguyễn Khắc Thuần (1995), Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục, bản điện tử. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện tập 4, Nhà Xuất bản Thuận Hóa. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đồng Khánh Khải Định chính yếu, Nhà Xuất bản Thời đại. Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục. Phạm Văn Sơn (1962), Việt sử tân biên, quyển 5 (tập 5 thượng), Tác giả giữ bản quyền. Phạm Văn Sơn (1962), Việt sử tân biên, quyển 6 (tập 5 hạ), Tác giả giữ bản quyền. McAleavy, H., Black Flags in Vietnam: The Story of a Chinese Intervention (New York, 1968). Thomazi, A., La conquête de l'Indochine (Paris, 1934). Tôn Thất Cổn (1943), Hoàng tộc lược biên, Nhà Xuất bản Nguyễn Phước. Trần Quỳnh Cư, Trần Việt Quỳnh (2006), Các đời vua chúa nhà Nguyễn: Chín chúa, Mười ba vua, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, 2006. Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2). Nhà Xuất bản Giáo dục, 2006. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130). 2016. Đặng Việt Thủy, Đặng Thành Trung (2008), 54 vị hoàng đế Việt Nam, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2005), Các triều đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Thanh niên. PGS Lê Trung Vũ, PGS Lê Hồng Lý, Lễ hội Việt Nam, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin. Vua Việt Nam Vua nhà Nguyễn Người Huế Sinh năm 1864 Mất năm 1889 Phong trào Cần vương
Nguyễn Phúc Thăng có thể là: Nguyễn Phúc Thăng, con trai của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Tên húy của vua Hiệp Hòa sau khi lên ngôi.
Tcl hay TCL (viết tắt từ Tool Command Language) là một ngôn ngữ thông dịch mạnh mẽ và dễ sử dụng. Nó có thể chạy trên nhiều hệ điều hành khác nhau. Tcl được Giáo sư John Ousterhout của Đại học California tại Berkeley xây dựng vào năm 1988, đầu tiên từ ý tưởng xây dựng một ngôn ngữ thông dịch hiệu quả, và sau đó là bộ thư viện kèm theo có thể tái sử dụng trong các chương trình sau này. Mục tiêu chính của Tcl là một embedded command language (ngôn ngữ lệnh nhúng được) thể hiện ở 3 nội dung sau: Ngôn ngữ có thể mở rộng được: mỗi chương trình đều có thể bổ sung các đặc điểm vào ngôn ngữ một cách tự nhiên như chính thư viện vốn có của ngôn ngữ. Ngôn ngữ phải đơn giản và có tính tổng quát, do đó có thể làm việc với nhiều chương trình mà không làm giới hạn tính năng của chúng. Ngôn ngữ có tính gắn kết giữa các phần mở rộng khác nhau trong một chương trình. Tcl được ứng dụng trong các lĩnh vực từ trên máy tính cá nhân cho đến các ứng dụng mạng, quản trị, kiểm tra. Mở rộng Các gói mở rộng (package) của Tcl bao gồm: Expect: là gói được Don Libes viết bằng ngôn ngữ Tcl vào đầu năm 1990. Khi sử dụng cùng với gói Expect, Tcl trở thành một công cụ để kiểm tra các ứng dụng chạy trên console (cửa sổ dòng lệnh). Tk: là gói mở rộng để xây dựng giao diện người dùng đồ họa (GUI) với ngôn ngữ Tcl. Tk được Ousterhout bắt đầu viết vào năm 1988 và đến 1990 thì có nhiều tính năng sử dụng được. Bộ Tk hiện giờ không chỉ hoạt động trong Tcl mà còn được cặp với các ngôn ngữ khác (dưới dạng các bindings) như Perl/Tk với ngôn ngữ Perl và Tkinter với ngôn ngữ Python.
AP có thể chỉ đến: Associated Press, hãng thông tấn Mỹ Perôxít axêtôn, chất nổ Chương trình Advanced Placement, chương trình thi bài trung học của College Board Andhra Pradesh, bang ở miền nam Ấn Độ AP, chữ viết tắt bưu điện của Quân đội Hoa Kỳ ở miền Thái Bình Dương Au pair: chỉ việc sang nước ngoài sống trong gia đình người bản xứ như một thành viên, với mục đích học tập, trao đổi ngôn ngữ và văn hóa Danh sách các từ kết hợp từ hai chữ cái
TCL có thể là một trong các nghĩa sau đây: Tcl là tên một loại ngôn ngữ thông dịch. TCL Corporation là tên một công ty điện - điện tử của Ma Cao.
Định luật 2 nhiệt động lực học hay nguyên lý thứ hai của nhiệt động lực học là một trong 4 định luật cơ bản của nhiệt động lực học. Nó liên quan đến tính không thể đảo ngược của một quá trình nhiệt động lực học và đề ra khái niệm entropy do nhà vật lý học người Phổ là Rudolf Clausius phát hiện ra. Lịch sử Từ thế kỉ 18, các nhà khoa học đã biết đến hai quá trình đặc biệt mà nó chi phối toàn bộ vũ trụ đó là quá trình thuận nghịch và bất thuận nghịch. Quá trình thuận nghịch là quá trình mà vật chất tiến tới hậu quả (kết quả) sau đó lại có thể quay về nguyên nhân, rồi lại tiến tới mãi mãi, lặp đi lặp lại vô hạn khiến cho sinh vật không bao giờ già đi, vật chất không bao giờ bị hủy hoại hay bị lão hóa và trở thành vĩnh cửu, không thể phá hủy. Theo lý thuyết thì điều này có vẻ hơi hoang đường, phi thực tế như sự xuất hiện của lý thuyết về động cơ vĩnh cửu vậy. Quá trình bất thuận nghịch là một quá trình nghịch đảo của quá trình thuận nghịch, đây là quá trình mà sự vật sự việc luôn đi từ quá khứ đến hiện tại mà không đi ngược lại, quá trình này đồng nghĩa với sự tự phá hủy, hủy hoại của vật chất: con người thì ngày càng già đi, máy móc thì hoạt động ngày càng yếu đi, kim loại bị ăn mòn bị rỉ sét,...Cả hai quá trình này đều có liên quan đến một thứ đó là nhiệt. Trong bốn nguyên tố cơ bản của thế giới cổ đại thì có lẽ lửa là nguyên tố có tính chất kì lạ nhất, vừa phát sáng lại vừa tỏa nhiệt, ngọn lửa lại có thể chuyển động linh hoạt, nói chung bản chất của lửa là nhiệt, nhiệt có thể tạo thành bằng cách thực hiện công hay truyền nhiệt. Bản chất của vũ trụ là nhiệt, không một vật thể nào trong vũ trụ không chịu sự chi phối của nhiệt nói cách khác mọi vật đều có ma sát không nhiều thì ít mà ma sát lại sinh ra nhiệt. Thực ra trước khi Clausius ra đời thì một kĩ sư người Pháp tên là Sadi Carnot đã hoàn thành một tác phẩm là những suy tư về động lực của nhiệt. Đây là tác phẩm đánh dấu sự quan tâm của các nhà vật lý thời đó về nhiệt. Ngày 2/1/1882, Rudolf Clausius ra đời đánh dấu một thời kì mới của nhiệt, nguyên lý này phát biểu rằng entropy của một hệ kín chỉ có hai khả năng, hoặc là tăng lên, hoặc giữ nguyên. Từ đó dẫn đến định luật là không thể chuyển từ trạng thái mất trật tự sang trạng thái trật tự nếu không có sự can thiệp từ bên ngoài. Một số cách phát biểu khác là: Một hệ lớn và không trao đổi năng lượng với môi trường sẽ có entropy luôn tăng hoặc không đổi theo thời gian. Mọi dẫn truyền hoặc biến đổi năng lượng đều làm tăng entropy của vũ trụ. Để cho một quá trình xảy ra một cách tự phát thì nó phải làm tăng entropy của vũ trụ. Vì entropy là mức độ hỗn loạn của hệ, định luật này nói rằng vũ trụ sẽ ngày càng "hỗn loạn" hơn. Cơ học thống kê đã chứng minh rằng định luật này là một định lý, đúng cho hệ lớn và trong thời gian dài. Đối với hệ nhỏ và thời gian ngắn, có thể có thay đổi ngẫu nhiên không tuân thủ định luật này. Nói cách khác, không như định luật 1, các định luật vật lý chi phối thế giới vi mô chỉ tuân theo định luật 2 một cách gián tiếp và có tính thống kê. Ngược lại, định luật 2 khá độc lập so với các tính chất của các định luật đó, bởi lẽ nó chỉ thể hiện khi người ta trình bày các định luật đó một cách giản lược hóa và ở quy mô nhỏ.
Sông Danube (hay Đa-nuýp trong tiếng Việt) là sông dài thứ hai ở châu Âu (sau sông Volga ở Nga). Sông bắt nguồn từ vùng Rừng Đen của Đức, là hợp lưu của hai dòng sông Brigach và Breg. Lưu vực sông Danube được tính từ vùng Donaueschingen là điểm hai con sông được nhắc tới ở trên gặp nhau. Sông dài 2850 km, chảy qua nhiều nước Trung và Đông Âu và đổ vào Biển Đen. Từ nguyên Danube là một tên sông trong tiếng Âu Cổ bắt nguồn từ *dānu của tiếng Ấn-Âu nguyên thủy. Các tên sông chung gốc khác là Dunaj, Dzvina/Daugava, Don, Donets, Dnieper, Dniestr, Dysna và Tana/Deatnu. Trong tiếng Phạn Vệ Đà, dānu có nghĩa là "chất lỏng, giọt sương" và dānuja có nghĩa là "sinh ra từ dānu" hoặc "sinh ra từ giọt sương". Trong tiếng Avesta, từ tương tự có nghĩa là "sông". Trong Rigveda, nữ thần Danu là mẹ của Vrtra, "một con rồng chặn sông". Người Phần Lan gọi dòng Danube là Tonava, rất có thể có nguồn gốc từ tên con sông trong tiếng Đức là Donau. Tên tiếng Sámi của con sông là Deatnu, nghĩa là "Sông lớn". Dānu trong tiếng Scythia cổ có lẽ là danh từ chung chỉ các con sông: Dnieper và Dniestr, Danapris và Danastius, được cho là hậu duệ của lần lượt hai từ tiếng Scythia *dānu apara "sông xa" và *dānu nazdya- "sông gần". Con sông này được người Hy Lạp cổ đại gọi là () vay ​​mượn từ tiếng Daco-Thracia có nghĩa là 'mạnh mẽ, nhanh chóng', có lẽ bắt nguồn từ tên cổ là Dniester (Danaster trong tiếng Latinh, Tiras trong tiếng Hy Lạp) và tương tự như từ turos 'nhanh chóng' trong tiếng Iran và iṣiras (इषिरस्) 'nhanh chóng' trong tiếng Phạn, đều có gốc từ tiếng Ấn-Âu nguyên thủy (PIE) là *isro-, *sreu 'chảy'. Vào thời Trung cổ, Tiras trong tiếng Hy Lạp được mượn sang tiếng Ý thành Tyrlo và lan sang ngữ hệ Turk thành Tyrla, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục ảnh hưởng sang tiếng Rumani thành Turlă. Con sông được gọi là Matoas trong tiếng Thraco-Phrygia, nghĩa là "kẻ mang lại may mắn". Trong tiếng Latinh, sông Danube được biết đến với nhiều tên khác nhau là Danubius, Danuvius, Ister hoặc Hister. Tên Latinh của con sông là giống đực, cũng như tất cả các tên Slav của nó, ngoại trừ tiếng Slovene (tên sông Rhine cũng là giống đực trong tiếng Latinh, hầu hết các ngôn ngữ Slav, và cả trong tiếng Đức). Donau trong tiếng Đức (Tiếng Đức cận đại Donaw, Tonaw, tiếng Đức Thượng trung kỳ Tuonowe) là giống cái, vì chứa hậu tố -ouwe "đất ngập nước". Tên con sông trong tiếng Rumani là Dunărea, khác với các ngôn ngữ xung quang do nó là giống cái. Ngữ pháp này chắc chắn không được kế thừa từ tiếng Latinh, mặc dù tiếng Rumani là một ngôn ngữ thuộc nhóm Rôman. Để giải thích sự biệt lập này, các nhà ngôn học cho rằng tên tiếng Rumani của con sông có nguồn gốc từ tiếng Thracia *Donaris. Căn tố Ấn-Âu nguyên thủy của cái tên này cõ lẽ liên quan với tiền tố "don-"/"dan-" tiếng Iran, còn hậu tố giả định -aris xuất hiện trong tên cổ của sông Ialomița, Naparis, và con sông Miliare được Jordanes nhắc tới trong tác phẩm Getica. Gábor Vékony cho rằng giả thuyết này không hợp lý, bởi vì người Hy Lạp đã mượn Istros từ người Thracia bản địa. Ông đề xuất rằng tên Rumani của dòng sông là từ mượn của một ngôn ngữ Turk (tiếng Cuman hoặc tiếng Pecheneg). Tên hiện đại của sông Danube ở châu Âu lần lượt là: Donau (tiếng Đức), Danube (tiếng Anh, tiếng Pháp) Dunaj (tiếng Slovakia), Duna (tiếng Hungary), Dunav (tiếng Croatia), Дунав (Serbia và Bulgaria), Dunărea (tiếng România), Дунай (tiếng Ukraina), Danuvius (tiếng Latinh), Tuna (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Địa lý Sông Danube chảy qua các nước theo thứ tự: Đức, Áo, Slovakia, Hungary, Croatia, Serbia, Bulgaria, România, Moldova và Ukraina. Các phụ lưu chính của sông Danube theo thứ tự từ nguồn đến cửa sông: Iller - Lech - Regen (đổ vào sông Danube tại Regensburg) - Isar - Inn (nhập dòng tại Passau) - Enns - Morava - Leitha - Váh (nhập dòng tại Komárno) - Hron - Ipel - Sió - Drava - Vuka - Tisza - Sava (nhập dòng tại Belgrade) - Tamiš - Velika Morava - Caraş - Jiu - Iskar - Olt - Vedea - Argeş - Ialomiţa - Siret - Prut. Phần nước Đức Sông Danube bắt nguồn cách Donaueschingen 1,4 Km về phía đông durch do hai sông Brigach và Breg nhập lại. Ở nước Đức từ nguồn sông Breg cho tới biên giới Đức-Áo là một đoạn dài 618 Kilometer; coi như là một đoạn sông dài thứ tư ở Đức. Những thành phố lớn nhất nằm dọc theo dòng sông là Tuttlingen, Ulm, Neu-Ulm, Neuburg an der Danube, Ingolstadt, Regensburg, Straubing và Passau (theo thứ tự dòng nước chảy). Những phụ lưu quan trọng bên hữu ngạn là Iller tại Neu-Ulm, Lech tại Marxheim (phía tây của Donauwörth), Isar tại Deggendorf và cuối cùng tại Passau là sông Inn; hữu ngạn là sông Donauwörth tại Wörnitz, sau Kelheim là sông Altmühl và sau cùng tại Regensburg sông Naab và sông Regen. Những kiến trúc quan trọng dọc theo dòng sông là nhà dòng Erzabtei Beuron, lâu đài Fürstenschloss của dòng họ Hohenzollern tại Sigmaringen, nhà thờ Gotik Münster zu Ulm với cái tháp nhà thờ cao nhất thế giới (161,53 m), tại eo Weltenburger Enge nhà dòng Abtei Weltenburg và Befreiungshalle tại Kelheim. Kế đó là cầu đá Steinerne Brücke và nhà thờ Dom St. Peter tại Regensburg cũng như tượng đài Walhalla tại Donaustauf. Đồng bằng châu thổ sông Danube Châu thổ sông Danube là một di sản thế giới từ năm 1991. Các vùng đất ngập nước của nó (theo danh sách các vùng đất ngập nước quan trọng trên thế giới Ramsar) là nơi cư trú và dừng chân của nhiều loài chim di cư, bao gồm các loài có nguy cơ bị đe dọa như Phalacrocorax pygmaeus. Châu thổ là nơi cư trú của hơn 300 loài chim cũng như 45 loài cá nước ngọt. Châu thổ sông Danube (tiếng Romania: Delta Dunării phát âm [ˈdelta ˈdunərij]; tiếng Ukraina: Дельта Дунаю, Del'ta Dunaju) là đồng bằng châu thổ sông lớn thứ 2 ở châu Âu sau đồng bằng châu thổ sông Volga và là nơi được bảo tồn tốt nhất trên lục địa. Phần lớn của châu thổ này nằm trên lãnh thổ Romania (quận Tulcea), trong khi phần phía bắc, thuộc bờ trái của nhánh Chilia thì nằm trên lãnh thổ Ukraina (tỉnh Odessa). Diện tích bề mặt khoảng 4152 km², trong đó 3446 km² thuộc Romani. Nếu kể cả các đầm phá của Razim-Sinoe (1015 km² trong đó có 865 km² mặt nước), nằm ở phía nam của đồng bằng, nhưng có mối quan hệ về địa lý và sinh thái, thì tổng diện tích của châu thổ lên đến 5165 km². Hợp tác quốc tế Sinh thái và môi trường Tổ chức quốc tế về bảo vệ sông Danube (ICPDR) là một tổ chức bao gồm 14 quốc gia và cùng lãnh thổ (Đức, Áo, cộng hòa Séc, Slovakia, Slovenia, Hungary, Croatia, Bosnia và Herzegovina, Serbia, Bulgary, Romani, Moldova, Montenegro và Ukraina) và EU. Tổ chức này được thành lập năm 1998 để quản lý tòa bộ lưu vực sông Danube, bao gồm các chi lưu và các tài nguyên nước ngầm. Mục tiêu của tổ chức này là thực hiện công ước về bảo vệ sông Danube bằng cách thúc đẩy và điều phối việc quản lý nguồn nước một cách cân bằng và bền vững, bao gồm bảo tồn, cải thiện và sử dụng hợp lý tài nguyên nước và thực hiện chỉ thị khung về nước của EU. Giao thông thủy Ủy ban Danube quan tâm đến dự duy trì và phát triển các điều kiện giao thông trên sông. Ủy ban này được 7 quốc gia có ranh giới với sông này thành lập năm 1948. Các thành viên tham gia gồm Áo, Bulgary, Croatia, Đức, Hungary, Moldova, Slovakia, Romani, Nga, Ukraina, và Serbia, và hội họp định kỳ 2 lần mỗi năm.
Thần thoại Bắc Âu bao gồm tôn giáo và tín ngưỡng thời kỳ tiền Kitô giáo, cùng với các truyền thuyết của cư dân vùng Scandinavia, kể cả những người định cư trên đảo Iceland - nơi tìm thấy nhiều tư liệu viết của thần thoại Bắc Âu. Dị bản nổi tiếng của thần thoại Bắc Âu là thần thoại các dân tộc German vốn hình thành từ thần thoại các dân tộc Ấn-Âu tồn tại trước đó. Tôn giáo các dân tộc Bắc Âu không dựa trên một "sự thật" được truyền trực tiếp từ thần thánh đến con người (tuy cũng có những câu chuyện người trần được thần thánh viếng thăm) và không có những văn bản chính quy như Kinh Thánh của Kitô giáo hay kinh Qur'an của Hồi giáo. Thần thoại Bắc Âu được truyền miệng dưới dạng những bài thơ dài. Việc lưu truyền tôn giáo Bắc Âu diễn ra mạnh nhất vào thời Viking. Người ta tìm hiểu về thần thoại Bắc Âu chủ yếu qua các sử thi Edda và các văn bản ghi chép trong thời Kitô giáo mở rộng về khu vực Scandinavia. Thần thoại Bắc Âu có ảnh hưởng lớn đến các tác phẩm văn học nghệ thuật. Trong các quán rượu của người Viking có những nghệ sĩ kể cho mọi người nghe về câu chuyện này bằng giọng hát của họ và đó là phong tục truyền miệng Nguồn gốc Thần thoại Bắc Âu tồn tại chủ yếu bằng con đường truyền miệng, do đó nó bị thất truyền một phần lớn. Tuy nhiên, không phải tất cả đều bị mất đi nhờ vào các ghi chép của các học giả Ki-tô giáo, đặc biệt là các Edda và tác phẩm Heimskringla của Snorri Sturluson - người tin rằng các vị thần thời kỳ tiền Ki-tô giáo không phải là quỷ dữ. Một tác phẩm đáng chú ý khác là Gesta Danorum của Saxo Grammaticus. Do đa phần các tư liệu còn sót lại về tôn giáo của người Bắc Âu cổ là do những người theo Kitô giáo viết, các vị thần Bắc Âu trong tác phẩm này bị sửa đổi nhiều, và biến thành "người" chứ không phải là "thần". Đặc biệt Saxo Grammaticus viết về các vị thần Bắc Âu như "bọn lừa đảo và mọi rợ". Ông ta viết bằng tiếng Latin, chối bỏ ngôn ngữ của cha ông mình, "Grammaticus" là tên Latin do ông tự đặt cho mình. Saxo cho Odin và Thor là những kẻ đã "mượn hơi" các vị thần trong thần thoại La Mã như Jupiter và Mercury để được nổi tiếng. Edda bằng văn xuôi được viết vào đầu thế kỷ 13 bởi Snorri Sturluson, một nhà thơ, nhà lãnh đạo và nhà ngoại giao ở Iceland. Nó chủ yếu được coi là sổ tay cho các nhà thơ mới vào nghề. Edda bằng văn xuôi bao gồm những chú giải về các hình tượng truyền thống thường được dùng trong thơ ca. Nhờ tác phẩm này, những mẫu chuyện rời rạc trong thần thoại Bắc Âu được kể lại một cách hệ thống và liên tục. Edda bằng thơ được cho là xuất hiện 50 năm sau Edda bằng văn xuôi. Nó gồm 29 bài thơ dài, trong đó 11 bài nói về các vị thần, số còn lại là về các anh hùng trong thần thoại như Sigurd của dòng họ Volsung (Siegfried trong trường ca Nibelungenlied của Đức). Dù các học giả thường cho rằng nó được sáng tác sau Edda bằng văn xuôi, văn phong và thể thơ của tác phẩm chứng tỏ các bài thơ trong đó đã được sáng tác khá lâu trước khi bản viết tay của chúng ra đời. Ngoài các tài liệu trên còn có các bản khắc chữ Rune như các bản khắc trên bảng đá ở Rök và tấm bùa Kvinneby cũng là nguồn khảo cứu quý giá. Ngoài ra còn có các bản khắc và hình vẽ thể hiện các cảnh trong thần thoại Bắc Âu như chuyến đi câu của Thor, các cảnh từ trường ca Volsunga, Odin và Sleipnir, Odin bị Fenrir nuốt chửng, Hyrrokkin đến dự đám tang của Balder. Thần thoại Bắc Âu có thể tạm chia thành hai phần là thần thoại các vị thần và trường ca anh hùng. Thần thoại các vị thần Voluspa: khởi nguyên và kết thúc của thế giới Số phận của toàn vũ trụ được mô tả trong Völuspá (Lời tiên tri) - một trong những bài thơ đáng chú ý nhất trong Edda bằng thơ. Trong Völuspá, Odin gọi hồn của một Volva (nữ tiên tri) để hỏi về quá khứ và tương lai của thế giới. Vị nữ tiên tri hỏi lại Odin liệu ông có thật sự muốn biết điều đó không. Odin nhấn mạnh rằng với vai trò vua của các vị thần, ông cần có những hiểu biết đó. Cuối cùng, vị nữ tiên tri cho Odin biết những bí mật của quá khứ và tương lai rồi chìm trở lại vào bóng tối. Quá trình hình thành thế giới Trong thần thoại Bắc Âu tồn tại một cái vực thẳm (tương tự như Chaos trong thần thoại Hy Lạp) vô hạn được gọi là Ginnungagap. Ginnungagap tồn tại giữa hai khu vực trái ngược nhau, ở phương Bắc thì lạnh lẽo bao phủ có tên gọi là Niflheim hay vùng đất băng giá. Từ Niflheim có một cái giếng được gọi là Hvergelmir từ đó chảy ra 11 dòng sông là Svöl, Gunnthrá, Fjörn, Fimbulthul, Slid, Hrid, Sylgr, Ylgr, Vid, Leiptr và Gjoll (dòng sông chảy gần nhất với Hel và có cây cầu Gjallarbru bắc qua), các con sông ấy được gọi chung là Élivágar (sông băng). Còn ở phương Nam lại là vùng lúc nào cũng rực lửa gọi là Muspellsheim hay là vùng đất tiêu điều được cai trị bởi tộc người khổng lồ Surtr. Khi ngọn lửa của Múspellsheim làm tan chảy băng giá của Niflheim, dòng băng tan ấy chảy vào Ginnunga-gap hòa vào Élivágar tạo nên sinh vật đầu tiên của vũ trụ: người khổng lồ Ymir hay Aurgelmir. Từ mồ hôi dưới nách của Ymir lại sản sinh ra đôi nam nữ khổng lồ và từ đó sinh ra loài khổng lồ băng giá. Sương muối tiếp tục tan chảy tạo nên con bò khổng lồ Audhumla. Ymir uống sữa bò để tồn tại và phát triển nòi giống. Audhumla tiếp tục ăn bằng cách liếm tảng băng muối. Một hôm, khi con bò Auðhumla đang liếm băng thì tảng băng đó lộ ra mái tóc, ngày thứ hai lộ ra cái đầu còn ngày thứ ba sinh ra toàn vẹn cơ thể. Từ đó lại sản sinh ra thần Búri. Búri sinh ra người con trai tên là Borr. Borr kết hôn cùng với Bestla - con gái người khổng lồ Bolthorn và sinh ra ba người con là Odin, Vili và Ve.Càng ngày Ymir càng to lớn và độc ác nên ba anh em Odin, Vili và Ve quyết định giết Ymir. Dòng máu chảy ra từ Ymir tạo ra đại hồng thủy nhấn chìm bọn khồng lồ chỉ trừ vợ chồng Bergelmir thoát nạn nhờ con thuyền. Con cháu của Bergelmir ngày càng thù ghét các vị thần Aesir. Người khổng lồ hay người Jotuns hay được biết dưới cái tên gọi: Thursar, Hrímthursar, Risar, Bergrisar hay Troll đều là những kẻ độc ác. Từ xác của Ymir mọc ra cây tần bì Yggdrasill và các vị thần bắt đầu xây dựng thế giới: máu của Ymir tạo thành biển và hồ, sọ tạo thành vòm trời (được bốn người lùn Nordri, Sudri, Austri và Vestri chống giữ ở bốn phương), óc trở thành mây, xương tạo thành núi, những con giòi trong cái xác chết tạo thành người lùn (kẻ chuyên sống dưới mặt đất có quan hệ mật thiết với người khổng lồ). Thần Odin bắt đứa con trai của Bergelmir biến nó thành một con đại bàng và đặt nó tại nơi tận cùng của biển cả. Đôi cánh vỗ của con đại bàng này tạo ra gió và các con sóng biển. Không dừng tại đó, ba người con của Borr còn tạo ra mặt trời, mặt trăng và các vì sao từ tia lửa của Múspelheimr. Họ đặt mặt trời và mặt trăng lên hai cỗ xe riêng biệt. Cỗ xe mặt trời được hai con ngựa là Avrak và Alvsin kéo, phía trước mặt trời là tấm khiên Svalin (có nghĩa là khiên làm mát, giúp bảo vệ Trái Đất khỏi sức nóng của Mặt Trời). Đường đi của Mặt Trời vẫn thường được biết tới dưới cái tên Alfrodull (vinh quang của người Elf). Những đứa con của Mundifari đã đặt tên cho con gái là Sól (Sun) - vợ của Glenr - và con trai là Máni (Moon). Để trừng phạt sự bất kính ấy các Æsir đã bắt Sól lái cỗ xe mặt trời còn Máni cưỡi cỗ xe mặt trăng. Một hôm Máni bắt được hai đứa trẻ mặt đất đang trên đường mang nước giếng Byrgir trở về cùng với bình đất nung và cây sào của chúng. Tên của chúng là Bil và Hjuki, con của Vidfinn. Kể từ đó chúng luôn đi theo Máni trên suốt chuyến xe của chàng. Một mụ khổng lồ đã sinh ra một bầy ma sói trong đó có hai con tên là Skoll và Hati không ngừng truy đuổi anh em Sól và Máni hòng ăn thịt họ. Bởi thế anh em luôn hối hả trên bầu trời. Khi con sói đến gần mặt trăng thì nó gây nên hiện tượng nguyệt thực (tương tự như gấu ăn trăng) hoặc đến gần mặt trời thì gây ra hiện tượng nhật thực. Cuối cùng Skoll cũng đuổi kịp Sól và Hati cũng bắt được Máni. Cả hai anh em đều bị con sói ăn thịt. Sự hình thành và phát triển của con người Được chia thành hai niên đại: trước Ragnarok và sau Ragnarok. Ngay sau khi Odin, Villi và Ve khai thiên lập địa, họ đã tạo ra con người đầu tiên từ những cây gỗ trên bãi biển: người nam Askr (từ cây thân bì) và người nữ Embla (từ thân cây du). Odin ban cho loài người hơi thở và linh hồn. Vili cho cảm xúc và nhận thức còn Ve cho giác quan và ngoại hình. Loài người sống ở vùng đất giữa đại nguyên mênh mông gọi là Midgard (Trung Địa). Tộc Jotnar thường xuyên quấy phá con người nên các vị thần dựng những ngọn núi khổng lồ từ lông mày của Ymir để ngăn cách giống khổng lồ với loài người. Heimdall kết hôn với Edda sinh ra Þæll. Þæll lấy Thir sinh ra con cháu,sau này mang thân phận nô lệ. Lấy Amma sinh ra Karl, Karl lớn lên rồi lấy Snor sinh ra hậu duệ là tầng lớp nông dân và thợ thủ công. Heimdall kết hôn với Móðir sinh ra Jarl. Jarl và Erna (con của Hersi) là thủy tổ của giai cấp quý tộc. Con người và thần thánh đã sống chung với nhau đến thời kỳ Ragnarok. Sau khi giết được Freyr, tên khổng lồ độc ác Sutr đã phóng hỏa đốt cháy thế giới. Con người bị giết sạch chỉ trừ cặp vợ chồng Lif và Lifþrasir đã sống sót qua ngày tận thế bằng cách trốn trong rừng Hoddmimis holt, ăn sương sớm để sống sót. Con cháu của Lif và Lifthrasir sinh sôi nảy nở trở lại và quay trở về Midgard. Con người và thần thánh sống chung với nhau, mở ra kỷ nguyên thứ hai hòa bình và tràn ngập hạnh phúc. Vũ trụ quan Trong thần thoại Bắc Âu, Trái Đất là một dĩa dẹt đặt trên cành của cây thế giới Yggdrasil. Asgard, nơi các vị thần sinh sống, nằm ở trung tâm đĩa. Con đường duy nhất dẫn đến Asgard là cầu vồng Bifröst. Các người khổng lồ sống ở Jotunheim (nghĩa là "vùng đất của người khổng lồ"). Người chết đến một nơi lạnh lẽo và tối tăm gọi là Niflheim do Hel, con gái của Loki, cai trị. Đâu đó ở phương nam là vùng Muspelheim rực lửa, nơi các người khổng lồ lửa sinh sống. Các vùng đất siêu nhiên khác là Álfheim - vương quốc của người Elf trắng, Svartálfaheim (hay Nidavellir) - vương quốc của người lùn. Giữa Asgard và Niflheim là Midgard (hay Middle-earth), nơi con người sinh sống.Còn Valhalla là nơi các chiến binh đến sau khi tử trận. Tính đối lập là một thành phần quan trọng trong quan điểm về vũ trụ của thần thoại Bắc Âu. Ví dụ thế giới được hình thành từ băng và lửa. Nguồn gốc tên gọi Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là Yggdrasil là từ ghép của ygg (khủng khiếp) và drasil (ngựa). Yggr là một trong các biệt danh của Odinnên nghĩa của Yggdrasil được cho là "con ngựa của Odin", ám chỉ chín ngày Odin tự treo mình lên cây này để đổi lấy chữ rune. Thơ ca cổ Bắc Âu đôi khi gọi giá treo cổ là "con ngựa của kẻ chết treo". Một giả thuyết khác cho rằng Yggdrasil có nghĩa là "con ngựa khủng khiếp", tức là không liên quan gì tới Odin. Fjolsvinnsmál, một bài thơ trong Edda bằng thơ gọi cây thế giới là Mimameidr (cây của Mimir). Yggdrasil có thể coi là đồng nhất với Lérað, cái cây có cành lá vươn tận Valhalla và là nguồn thức ăn cho con dê Heiðrún và con hươu Eikþyrnir. Theo Edda Trong Edda, Yggdrasil được miêu tả là có ba rễ: một qua Asgard, một qua Jötunheim và một qua Hel. Phía dưới rễ qua Asgard là giếng nước Urd(Urðabrunnr - còn gọi là "Giếng số phận"). Ở đó có ba nữ thần số mệnh (còn gọi là các Norn), những người không chịu ảnh hưởng của bất kỳ ai kể cả các thần linh. Những nữ thần này hàng ngày lấy nước từ giếng Urd để tưới cho Yggdrasil giữ nó mãi xanh tươi. Dưới rễ qua Jötunheim là dòng suối (có nơi cho là giếng nước) của Mímir (Mímisbrunnr - còn gọi là "Suối, hay giếng, tri thức") và dưới rễ qua Hel là giếng Hvergelmir (có nghĩa là "cái chảo sôi"). Odin vì muốn uống được nước suối này mà phải đánh đổi bằng một con mắt của mình. Một con gà trống khổng lồ (hoặc một con chim ưng) tên là Vidofnir đậu trên ngọn của Yggdrasil. Con rồng Níðhöggr gặm phần rễ đi qua Niflheim của nó. Con sóc Ratatosk di chuyển liên tục giữa Vidofnir và Nídhoggr để kể lại những lời xúc phạm lẫn nhau của chúng. Ngoài ra còn có bốn con hươu gặm vỏ của Yggdrasil tên là Duneyrr, Durathror, Dvalin và Dainn. Cái tên Yggdrasil nếu được hiểu là "con ngựa của Odin" được cho là gắn với sự hy sinh của Odin được kể lại trong phần Hávamál của Edda bằng thơ (dù cái cây mà Odin tự treo mình không được nói rõ là Yggdrasil). Chín thế giới Ở trung tâm vũ trụ là cây tần bì Yggdrasil có các rễ nối liền chín thế giới lại với nhau. Một rễ nối tới Múspellsheim, một rễ nối tới Niflheim, một rễ nối tới Vanaheimr (vùng đất của các vị thần Vanir), một rễ nối tới Ásgard (vùng đất của các vị thần Æsir). Ngoài ra còn có các thế giới Áflheim (vùng đất của yêu tinh ánh sáng), Svartálfaheimr (vùng đất của yêu tinh bóng tối), Nidavellir (thế giới của người lùn), Jotunheim (vùng đất của người khổng lồ). Giữa Asgard và Midgard được nối bởi cây cầu vồng lửa Bifröst. Múspellsheim Múspellsheimr là một trong chín thế giới của Yggdrasil, nơi đây lúc nào cũng rực lửa, nóng bức. Nơi đây là nơi trú ngụ của loài khổng lồ lửa được cầm đầu bởi tên Surtr. Vùng đất này nằm ở phía Nam ở tầng thứ hai đối lập với vùng đất Niflheim. Khi Ragnarok đến, Surtr làm gãy cây cầu Biforst và dùng lửa thiêu cháy thế giới. Tên Surtr giết chết thần Freyr nhưng lại bị tiêu diệt dưới tay thần Thor. Màu sắc biểu tượng cho Múspellsheim là màu đỏ. Niflheim Niflheimr là một trong chín thế giới, được biết đến với tên là vùng đất băng giá nguyên thủy. Helheimr Khi Hel sinh ra (con của Loki), Odin đã trục xuất nữ thần xuống vùng đất này để cai quản người chết vì tuổi già và bệnh tật. Helheimr có tên khác là Níflhel. Các vong hồn sau khi rời bỏ cuộc sống sẽ băng qua Gjallarbrú ("cầu có vái che vàng") do Modgud canh giữ. Họ còn phải đi qua hang Gnipahellir phủ bởi máu, được canh giữ bởi con chó Garmr. Cuối cuộc hành trình, các vong hồn đến trình diện trước sảnh Eljudnir để nhận phán quyết từ Hel. Vanaheim Vanaheimr là một trong ba thế giới trên thiên đường, trong tiếng Bắc Âu cổ là "vùng đất của các vị thần Vanir". Vanir còn được gọi là Vindheimr (vùng đất của gió). Đây là nơi trú ngụ của các vị thần Vanir - thần bảo trợ cho sự phì nhiêu, giàu có, trí tuệ và tài tiên tri. Nơi này yên bình và sung túc. Thần Njörðr sẽ trở về sau Ragnarök bắt đầu. Vanaheim tượng trưng cho thế giới của nước với biểu tượng là những cơn gió nhẹ mang lại sự sống từ phía Tây. Các thần Vanaheim còn được gọi là thần chết, do đó Vanaheimr - thủy giới nằm ở phái Tây có thể được liên tưởng tới chuyến viễn du cuối cùng. Màu sắc biểu tượng cho vùng đất này là xanh lục, xanh lam sẫm, nâu và vàng bóng pha sắc đỏ. Chương I của Yngling Saga có nhắc đến Vananheimr nằm ở phía Đông sông Don nước Nga. Chương XV của cuốn sách này còn nhắc đến việc nhà vua Sveigðir đã kết hôn với người phụ nữ ở Vanaland, và họ có con trai là Vanalandi (người từ vùng đất của Vanir). Asgard Trung tâm Asgard là cánh đồng Idavoll, nơi các Aesir họp bàn những việc quan trọng. Các nam thần họp ở điện Gladsheim và các nữ thần ở điện Vingólf. Họ cũng gặp nhau hàng ngày ở suối vận mệnh Urd bên dưới Yggdrasil. Ngai vàng Lidskjalf của thần Odin được đặt trên điện Valaskjalf Xung quanh Asgard là một bức tường vững chắc do một người khổng lồ tên là Hrimthurs xây dựng. Cách duy nhất để lên Asgard là đi qua cầu vồng Bifröst. Quầng đỏ của cầu vồng thật ra là lửa để ngăn những người khổng lồ băng vượt qua. Trách nhiệm gác lối vào Asgard được giao cho thần Heimdall. Ngoài hai điện chung là Gladsheim và Vingolf, mỗi vị thần có nơi ở riêng của mình. Mười hai toà cung điện được xây lên cho mỗi vị thần xuất chúng. Thần Heimdall sống trong một cung điện tên là Himinbiorg ở gần cây cầu Bifröst. Lãnh địa của thần Thor tên là Thrudvangar và tòa chính điện gọi là Bilskirnir. Thần Balder và vợ, nữ thần rừng Nanna xinh đẹp sống ở cung điện Breidablik trong khi thần Forseti có cung điện Glitnir, nơi thần làm nhiệm vụ phán xử những tranh chấp của cả thần linh và con người. Nữ thần Freyja sở hữu một cung điện lộng lẫy tên là Folkvang. Cha nữ thần là thần gió Njord, sống trong điện Noatun bên bờ biển và ngôi nhà của thần Freyr, anh của nữ thần Freyja, tên là Alfheim. Nữ thần Frigg, vợ thần Odin, có cung điện riêng tên là Fensalir. Riêng thần tối cao Odin sống trong điện Valaskjaff có mái bằng bạc. Tuy nhiên, nơi nổi tiếng nhất của Asgard là cung điện Valhalla thuộc sở hữu của Odin. Các vị anh hùng tử vong trong chiến trận được triệu tập về nơi này. Valhalla Valhalla (tiếng Bắc Âu cổ: Valhöll, nghĩa là "cung điện của những người tử trận") là một trong những lâu đài của Odin trong thần thoại Bắc Âu, nơi ở của những chiến sĩ hy sinh một cách anh dũng ngoài mặt trận (gọi là các Einherjar). Một nữa chiến sĩ tử trận được đưa về đây, số còn lại được chào đón ở vùng đất Folkvang của nữ thần Freyja. Họ được Bragi chào đón và được các Valkyrie đưa về Valhalla. Cổng chính của Valhalla có tên là Valgrind được miêu tả trong phần Grímnismál của sử thi Edda như là "cánh cổng thiêng" và "không ai biết nó được khóa như thế nào". Ngoài ra cung điện này còn có năm trăm bốn mươi cửa và có phòng đủ rộng để tám trăm chiến binh dàn hàng ngang. Tường của Valhalla kết bằng giáo, mái lợp bằng khiên và chỗ ngồi làm bằng những tấm giáp che ngực. Người ta nói rằng có đủ chỗ cho tất cả các chiến binh được chọn. Hằng ngày, những vị anh hùng tử trận, những người sẽ chiến đấu cạnh các vị thần trong trận chiến cuối cùng Ragnarök, tập trận trên các cánh đồng của Asgard. Tối đến họ yến tiệc ở Valhalla với lợn rừng quay và mead (một loại rượu làm từ mật ong). Những người không đến Valhalla phải về Hel, xứ sở của người chết thuộc âm cung Niflheim hoặc một số nơi khác. Ví dụ những người chết ở biển sẽ được đưa về lâu đài của Aesir dưới đáy biển. Theo Grimnismál, Valhalla nằm ở vùng đất Gladsheim, từ đây tỏa ánh sáng vàng rực rỡ. Trên mái của cung điện có dê Heidrun và hươu đực Eikthyrnir đều gặm lá cây Laerad, từ sừng hươu Eikthyrnir, những những giọt nước xuống Hvergelmir, trở thành mọi nguồn của con suối. Còn từ bầu sữa của Heidrun chảy ra món rượu mật ong khác là thức uống ở Valhalla. Ngoài ra còn có gà trống Salgofinir, tiếng gáy của nó dùng để đánh thức các tử sĩ Einherjar. Trước cửa Valhalla có một cây khác là cây Glasir với tán lá bằng vàng. Một con sói treo ở cửa tây và một con đại bàng bay lượn trên thánh điện. Ban ngày họ thức dậy để rèn luyện khả năng chiến trận của mình. Đêm đến họ mọi vết thương sẽ lành lại và các tử sĩ sẽ dùng bữa tối do các tiên nữ Valkyrie phục vụ. Món thứ nhất là rượu mật ong từ con dê Heidrun. Món thứ hai được Andhrimir - đầu bếp của các vị thần - làm trong chiếc vại Eldhrimnir từ thịt lợn rừng Saehrimnir. Con lợn ấy sẽ tự hồi sinh vào sáng hôm sau để chuẩn bị cho ngày kế tiếp. Odin không bao giờ ăn thức ăn dâng lên mình mà dành cho hai con sói của thần là Geri và Freki. Midgard Các chủng tộc Thần thánh Có ba "thị tộc" thần thánh trong thần thoại Bắc Âu là Aesir (Æsir), Vanir và Jotunheim (trong bài viết này gọi là người khổng lồ). Sự khác biệt giữa hai thị tộc Æsir và Vanir (được gọi chung là thần) chỉ là tương đối. Giữa hai thị tộc thần thánh này từng xảy ra chiến tranh mà phần thắng thuộc về phe Æsir. Nhưng họ đã chấp nhận dàn hòa để cùng nhau cai trị thế giới và để giữ hòa bình, hai bên trao đổi con tin và đã có những cuộc hôn nhân giữa các thành viên của hai thị tộc. Một số vị thần thuộc về cả hai nơi. Một số học giả suy đoán rằng câu chuyện này phản ánh quá trình các thần linh của người Ấn-Âu xâm lăng chiếm ưu thế so với các thần linh của người bản địa. Tuy nhiên đây chỉ là một giả thuyết. Có những người cho rằng sự phân biệt Æsir/Vanir chỉ là phiên bản Bắc Âu của hệ thống thần thánh của các dân tộc Ấn-Âu, giống như sự phân biệt giữa các vị thần trên đỉnh Olympus với các Titan trong thần thoại Hy Lạp. Aesir Æsir thường là các vị thần chiến tranh (Sigtívar) hay thần chiến trận(Valtívar). Các Aesir sống ở Asgard. Các nam thần Aesir là Các nữ thần Æsir là Vanir Vanir là thần tộc tượng trưng cho sự phì nhiêu và hòa bình. Các Vanir thường là các thần của mùa màng, biển và sự sung túc. Bên cạnh các Aesir đại diện cho sức mạnh và chiến tranh, các Vanir được coi là những vị thần đem lại của cải, bảo hộ cho hòa bình và hạnh phúc và cùng với các Aesir, duy trì trật tự và ổn định. Họ có hiểu biết sâu rộng về pháp thuật nên có thể tiên đoán tương lai. Freyja được coi là người dạy pháp thuật cho các Aesir. Cộng đồng Vanir cho phép người cùng gia đình, thậm chí anh chị em ruột kết hôn với nhau - điều mà thị tộc Aesir ngăn cấm. Freyr và Freyja là con của Njord (Njǫrðr) với em ruột mình. Có thể là các sử thi Edda coi các Vanir đồng nhất với người Elf (tiếng Bắc Âu cổ gọi là Alfar) khi trong các Edda hai cụm từ "Aesir và Vanir" và "Aesir và Alfar" được dùng thay thế lẫn nhau để chỉ "tất cả các vị thần". Cả Vanir và Alfar đều đem lại sự sung túc. Sự khác nhau trong tên gọi có thể chỉ địa vị khác nhau giữa họ. Người Elf chỉ là những phúc thần có vai trò nhỏ bé trong khi Vanir là một thị tộc lớn có nhiều ảnh hưởng. Thần Freyr được coi là thủ lĩnh của người Elf (tòa điện nơi Freyr sinh sống có tên là Álfheim nghĩa là "ngôi nhà của người Elf"). Người Bắc Âu cổ tin rằng các Vanir ban cho họ những hiểu biết về thiên văn học. Thần gió Njord đã đem kiến thức về Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì sao (thể hiện trong các bản khắc chữ rune và những hình vẽ trong hang động) lưu truyền khắp vùng Scandinavia. Dù còn nhiều tranh cãi, người ta tin rằng những hiểu biết này giúp người đi biển và các người Viking sau này vượt qua những vùng biển rộng. Ngoài ra các Vanir còn am tường nghề y và ma thuật. Một số vị thần Vanir Chiến tranh giữa thị tộc Aesir và Vanir Nguyên nhân Mọi việc bắt nguồn từ Gullveig đến thăm Asgard, nàng ta rất thích vàng và suốt ngày chỉ nói về vàng khiến cho các thần Aesir cảm thấy rất phiền phức. Để khỏi phải nghe, họ đưa nàng tới cung điện của Odin rồi trói nàng lại rồi đâm lại nhiều nhát bằng giáo. Họ thiêu nàng ta ba lần mà Gullveig vẫn hồi sinh. Các thần Vanir hết sức tức giận khi nghe cách thị tộc Aesir đối xử với Gullveig, họ đòi thần tộc Aesir phải cho họ địa vị ngang bằng với nhóm thần Aesir. Các vị thần Aesir không những không đồng ý mà còn gây chiến. Kết quả Cả hai bên đánh nhau trong vòng mười năm không phân thắng bại nên đành phải giảng hòa, các thần Aesir chấp nhận yêu cầu từ thần tộc Vanir. Cả hai giảng hòa bằng cách nhổ nước bọt vào một cái bình. Từ cái bình đó sinh ra thần Kvasir. Cuối cùng là họ trao đổi con tin với nhau để đảm bảo hai bên giữ hòa bình. Các vị thần khác Ngoài các vị thần chủ yếu ở trên còn có thần phụ (hay tiểu thần) cũng góp phần vào công việc cai quản thế giới cũng như có liên hệ với con người. Một số còn được thờ phượng và xem như là thần bảo hộ. Búri và Borr Búri là vị thần được sinh ra từ con bò Audhumla khi nó liếm băng. Thần lấy người khổng lồ sinh ra Borr. Borr kết hôn với người khổng lồ Bestla (con gái của Bothorn) sinh ra ba người con là Odin, Vé và Vili. Một số vị tiểu thần Người có năng lực nhất trong đám tiểu thần Fornjot và dòng dõi của ông ta. Theo Edda, Fornjot có ba người con trai là Ler, Logi cai quản lửa và Kari cai quản gió. Kari sinh ra đứa con trai tên là Jokul - thần băng - hay Frosti - thần sương. Snjo - thần tuyết - là con trai của Kari. Mặt khác Snjo sinh ra bốn người con là Thorri (sương đen), Fonn (núi băng vĩnh cửu), Drifa (ụ tuyết) và Mjoll (bão tuyết). Ægir Thần Ler (được biết đến với tên Aegir, còn có tên khác là Hlér hoặc Gymir) là vị thần biển. Snorri cho rằng thần sinh sống lâu đài dưới biển gần đảo Læsø ở vùng biển Kattegat. Lúc đầu thần không có thiện cảm với tộc Aesir. Tuy nhiên bằng tính tình nóng nảy và hung dữ của Thor, Aegir buộc phải mở tiệc chiêu đãi các vị thần Aesir vào mùa đông mỗi năm, đổi lại ông cũng nhận được sự tiếp đón nồng hậu và hiếu khách khi đến vùng đất Asgard. Tuy khi nỗi hận thù thần Thor dâng lên vì đã vênh váo ra lệnh cho mình, thần ấp ủ kế hoạch trả thù đó là bắt Thor phải tìm chiếc vại đủ lớn để ủ rượu về cho mọi người. Và thần chỉ rõ chỉ có tên khổng lồ Hymir (tức cha dượng của Tyr) mới có. Thần Thor phải vượt qua bao nhiêu thử thách nguy hiểm mới mang được về được. Người hầu của Aegir là Fimafeng (bị Loki giết) và Eldir. Ran Ran là nữ thần bão biển và vợ của Aegir, thần thường làm đắm thuyền bè gom những thủy thủ chết đuối (do chỉ có những người nào bị giết bởi gươm giáo mới được về Valhalla còn Hellheim thì chỉ nhận những người chết do tuổi tác và bệnh tật) và đem họ về lâu đài và chăm sóc. Aegir và Rán sinh ra chín người con gái, họ được gọi chung là sóng biển, luôn mặc váy trắng và mang khăn che mặt. Tên của họ lần lượt là Bára hay Dröfn: "sóng lớn cuộn" hoặc "biển nổi bọt" Blóðughadda "mái tóc máu, màu của sóng sau trận hải chiến" Bylgja "sóng cồn" Dúfa "sóng nhồi" Hefring "sóng tràn" Himinglæva "sóng phản chiếu ánh sáng bầu trời" Hrönn "sóng cường" Kólga "sóng lặng" Unnr hay Uðr "sóng" Nótt và Dagr Nótt là nữ thần khổng lồ, thần là con gái của người khổng lồ Norvi. Nước da của Nótt đen nhẻm như dòng tộc của mình. Nàng kết hôn với Naglfari sinh ra đứa con trai tên là Aud. Sau đó lấy Anar và sinh ra Jord. Cuối cùng nàng lấy Delling của thị tộc Æsir sinh ra Dagr, kế thừa nét đẹp và tỏa sáng của thị tộc cha mình.Odin ban cho nàng chiếc xe ngựa của đêm do con ngựa có tên là Rimfaxi hay Fjorsvartnir. Sương sớm phủ trên mặt đất lúc ban mai do chính giọt nước từ bờm nó chảy ra. Dagr là con trai của Nótt và Delling, cai quản ban ngày. Thần cưỡi con ngựa là Skinfaxi, cả ánh sáng từ khắp nơi được tỏa ra từ chiếc bớm của nó. Hai mẹ con Nótt và Dagr luân phiên cưỡi cỗ xe của mình đi vòng quanh thế giới. Các nữ thần Norn Norn là các nữ thần vận mệnh, cai quản số mệnh của con người và thần thánh. Có rất nhiều Norn nhưng chỉ có ba vị thần thường được đề cập đến là Urd, Verdandi và Skuld. Họ sống dưới gốc cây Yggdrasil.Nhiệm vụ của họ là hàng ngày trông nom và dùng nước từ giếng Urd, nơi có hai con thiên nga thường xuyên lui tới để tưới cho cây Yggdrasil xanh tươi. Theo Gylfaginning, Snorri cho rằng các nữ thần sống trong cung điện gần giếng nước Urd, nơi những nhánh cây Yggdrasil nhỏ nước xuống trong lành và là nơi các vị thần thường tụ họp. Thần nắm giữ quyền năng to lớn: cai quản những quy luật bất biến của vũ trụ. Mỗi khi đứa trẻ sinh ra thì sẽ có các Norn quy định vận mệnh của nó, không một ai có thể sống lâu hơn thời gian mà các Norn quy định. Thần thường xe sợi chỉ vàng, quyết định vận mệnh của con người từ lúc sinh ra, trưởng thành cho đến khi chết đi. Chiều dài của sợi chỉ sau khi kết thúc một lượt quay cũng là "chiều dài" cuộc đời của một con người. Trong khi hai cô chị ngồi cuộn chỉ vào trục quay thì cô em Skuld lại tháo tung cuộn chỉ của mình ra, vì thế loài người không ai có thể biết trước vận mệnh của mình. Con người tuyệt đối không chết trước ngày mà ba nữ thần đã định sẵn. Thần Odin và các vị thần ở Asgard thường đến hỏi ba chị em họ về tương lai của mình cũng như tương lai của thế giới. Vì ngoại hình thì ba chị em Norn được miêu tả giống với ba giai đoạn phát triển của con người. Verdandi là một thiếu nữ trẻ và xinh đẹp nhất trong ba người, Skuld là một người phụ nữ trưởng thành và Urd là một bà lão già nua. Hel Hel là nữ thần chết, cai quản âm phủ Helheim. Ả ta là con gái của Loki với nữ khổng lồ Angrboða., chị của sói Fenrir và đại mãng xà Midgard là Jörmungandr. Hel là một mụ phù thủy kinh tởm. Lúc nhỏ ả ta được nuôi tại lâu đài của Angrboda ở Jotunheimr. Nhưng nhận thấy được hậu quả khủng khiếp khi để Hel sống chung với thị tộc man rợ của mình, Odin đã trục xuất mụ về Niflheim. Niflheim chỉ tiếp nhận những người chết do tuổi tác và bệnh tật.Theo Snorri miêu tả, thì Hel có nửa thân màu đen, nửa còn lại bình thường. Còn thần thoại Bắc Âu tả Hel nửa thân trên là phụ nữ với đôi mắt lạnh lùng giống như người chết, nửa thân dưới thì lở loét ghê rợn đến nỗi ngay cả những vị thần cũng không dám nhìn vào mặt Hel, còn người bình thường vô phúc nhìn thấy ả thì ngay lập tức máu đông lại và chết ngay lập tức. Trong thế giới người chết, Hel ngồi trên một chiếc ngai đáng sợ được trang trí bằng đầu lâu, xương cốt và rắn rết. Phía trước mặt ả là "quyển sổ thiên mệnh" hay "quyển sổ của thế giới người chết", mỗi khi có một người trần hay một vị thần nào lìa bỏ cõi đời xuống địa ngục, quyển sổ sẽ hiện lên tên cũng như lai lịch, việc làm cũng như tội trạng của họ khi còn sống. Nhờ quyển sổ ấy mà Hel có thể cai quản được vô số linh hồn cũng như giao việc làm thích đáng cho họ ở chốn địa ngục lạnh lẽo, buồn thảm này. "Quyển sổ thiên mệnh" không có số trang cố định, khi hết trang nó sẽ tự động thêm một trang mới vào khi có một linh hồn rời bỏ chốn dương gian. Trước khi Ragnarok nổ ra, người trần sẽ bước vào thời đại suy tàn, chiến tranh xảy ra liên miên, đạo đức con người trở nên đồi bại, nhân luân không còn và lúc ấy thế giới người chết của Hel bỗng trở nên sinh động và đông đúc lạ thường, "quyển sổ thiên mệnh" với số trang dày chưa từng có tiếp nhận liên tục các linh hồn tội lỗi nơi trần thế. Lúc ấy, Hel, nữ hoàng của địa phủ, ngồi sau tấm màn "bất hạnh" của mình (chỉ mở để Hel gặp và phán xử các oan hồn người chết) đang nở một nụ cười man rợ ghê người. Ả cười cho sự phồn vinh của vương quốc mà ả cai trị cũng như để mở đầu cho một cuộc chiến khủng khiếp sắp sửa xảy ra, cuộc chiến Ragnarok. Cổng vào Niflheim nằm ở tít trên phương Bắc lạnh giá được canh gác bởi chó săn Garmr xiềng xích trong hang Gnipahellir.Hel sống ở Helheim mà cụ thể là trong cung điện tên là Eljudnir. Hel có một chiếc đĩa gọi là "đói", con dao là "khan hiếm" và cái giường là "bệnh".Hel có người hầu cận là Ganglati và người hầu gái là Ganglot. Thỉnh thoảng, mụ ta thăm dương thế bằng con ngựa ba chân của mình. Đi đến đâu, Hel cũng gieo rắc bệnh tật, điềm bất hạnh đến đó. Sumarr và Vetr Sumarr và Vetr là hình tượng thần thánh hóa của mùa hè và mùa đông, mùa hè trong thần thoại Bắc Âu. Trong Edda thơ, họ xuất hiện trong Vafþrúðnismál và trong Edda văn xuôi thì phần Gylfaginning. Theo Edda, Sumarr là con của Svásudr còn Vetr là con của Vindsvalr hoặc Vindjóni, cả hai sẽ tồn tại cho đến hoàng hôn của chư thần. Tộc Iotnar Các Æsir và Vanir thường rất thù địch với bộ tộc Iotnar (số ít là Iotunn hay Jotuns, trong tiếng Anh cổ là Eotenas hay Entas). Bộ tộc này giống như các Titan và Gigantos trong thần thoại Hy Lạp và thường được gọi là người khổng lồ tuy cũng có người gọi họ là quỷ. Tuy nhiên, các Aesir có tổ tiên là người của Iotnar và có thành viên của cả Aesir lẫn Vanir kết hôn với họ. Tên một số người khổng lồ được nhắc đến trong sử thi Edda. Người khổng lồ thường được coi như hiện thân của các sức mạnh tự nhiên. Có hai loại người khổng lồ là người khổng lồ băng và người khổng lồ lửa. Ngoài ra còn có người Elf và người lùn. Vai trò của họ trong thần thoại Bắc Âu không rõ. Họ thường được cho là đồng minh của các vị thần Aesir-Vanir. Tiên nữ Valkyrie Tiên nữ Valkyrie là những nữ thần (nữ thiên thần) là những nữ thần phục vụ Odin trong việc đưa các chiến binh tử trận (Einherjar) hoặc những ai chết anh dũng dưới lưỡi giáo mác. Họ có chút tương đồng như nữ thần Kères trong thần thoại Hy Lạp nhưng không kinh khủng như vậy. Nữ thần Valkyrie như người quyết định sống chết trong chiến trường, được quyền chọn chiến sĩ nào làm Einherjar. Nếu ai được chọn làm Einherjar thì chắc chắn họ sẽ chết trong chiến trận. Trong Gylfaginning, Snorri có đề cập Họ là những Valkyrie:họ được Odin phái tới chiến trườnghọ định trước kẻ tử trận và người chiến thắng trong vinh quang.Gunnr và Róta cũng Norn trẻ tuổi nhấtcô ấy được gọi là Skuldđến bất cứ nơi đâu và rước kẻ tử trận và phân định cuộc chiến.Tại điện Valhalla, họ sẽ hầu rượu cho các Einherjar mỗi buổi tối. Bất kì người thiếu nữ nào đã trở thành Valkyrie sẽ mãi mãi có được sự bất tử và không bao giờ bị tổn thương nếu họ tuân theo mệnh lệnh của các vị thần và luôn là một trinh nữ.Valkyrie thường mặc áo giáp, đội mũ sắt có trang trí sừng hoặc cánh, cưỡi ngựa và cầm theo khiên giáo. Các Valkyrie còn có tên gọi khác là trinh nữ chiến trận, trinh nữ hầu rượu... Họ còn có tên là trinh nữ thiên nga bởi vì họ mặc những bộ áo làm từ lông thiên nga và mang các chiến sĩ bay lên trời. Khi xuống trần gian Midgard, các Valkyrie hóa thân thành những con thiên nga, tìm những ngọn suối đẹp để tắm. Truyền thuyết kể rằng những giọt nước rơi ra từ bờm ngựa của Valkyrie sẽ làm cho đất đai màu mỡ, tươi tốt còn ánh sáng phát ra từ thanh kiếm hay áo giáp đã tạo nên ánh sáng huyền ảo trên bầu trời đêm. Và ánh sáng đó chính là cực quang. Theo khổ thơ XXX trong Völuspá, một volva kể với Odin Sá hon valkyrjur vítt um komnar, görvar at ríða til Goðþjóðar. Skuld helt skildi, en Skögul önnur, Gunnr, Hildr, Göndul ok Geirskögul. tạm dịch là Cô ta thấy các valkyrieđến từ một nơi xa và rộngsẵn sàng để đi đếntới Goðþjóðar.Skuld cầm khiênvà người khác là SkogulGunr, Hildr, Gondulvà Geirskogul.Trong bài thơ Grímnismál, khi Odin (đang cải trang thành Grímnir) đang bị bị tra tấn, đói cồn cào và khát cháy cổ họng, nói rằng Agnar thần mong ước các Valkyrie là Hrist và Mist "mang cho thần một cốc nước". Trong đoạn khác, Odin nói ra thêm mười một valkyrie nữa: "hãy mang bia rượu tới einherjar"; đó là Skeggjöld, Skögul, Hildr, Þrúðr, Hlökk, Herfjötur, Göll, Geirahöð, Randgríð, Ráðgríð và Reginleif. Trong Skáldskaparmál, đã liệt kê thêm 29 tiên nữ Valkyrie: Hrist, Mist, Herja, Hlokk, Geiravor, Goll, Hjorthrimul, Gudr, Herfjotra, Skuld, Geronul, Skogul, Randgnid, Rádgrídr, Gondul, Svipul, Geirskogul, Hildr, Skeggold, Hrund, Geirdriful, Randgridr, Thrúdr, Reginleif, Sveid, Thogn, Hjalmthimul, Thrima và Skalmold. Nổi tiếng nhất trong số đó là Brynhild xuất hiện trong bài thơ Sigrdrifumál. Einherjar Einherjar hay tử sĩ là những linh hồn của những chiến sĩ hi sinh anh dũng trong các chiến trận, được các tiên nữ Valkyrie lựa chọn mang về Asgard. Một nửa trong số đó được mang tới sống tại thánh điện Valhalla của thiên đế Odin, số còn lại được chuyển về vùng đất Folkvang, lãnh địa của nữ thần Freyja. Chỉ có những kẻ xuất sắc nhất, mới được chọn để trở thành Einherjar. Theo truyền thuyết, các chiến binh được chọn trở thành Einherjar sẽ tỏa ra trên mình một ánh sáng hoàng kim mà chỉ có Valkyrie mới thấy được. Einherjar sẽ tụ họp hàng ngày ở điện Valhalla. Ban ngày họ được đánh thức dậy nhờ tiếng gáy của gà trống Salgofinir và rèn luyện khả năng chiến trận của mình. Đêm đến họ mọi vết thương sẽ lành lại và các tử sĩ sẽ dùng bữa tối do các tiên nữ Valkyrie phục vụ. Món thứ nhất là rượu mật ong từ con dê Heidrun. Trong Grímnismál thì, món thứ hai được Andhrimir - đầu bếp của các vị thần - làm trong chiếc vại Eldhrimnir từ thịt lợn rừng Saehrimnir. Con lợn ấy sẽ tự hồi sinh vào sáng hôm sau để chuẩn bị cho ngày kế tiếp. Odin thường xuyên dự tiệc cùng họ. Đôi khi một vài Einherjar cừ khôi được thần Heimdallr cử xuống Midgard hoặc Jotunheimr để chiến đấu với bọn khổng lồ, nhưng họ không được phép tiếp xúc với người sống. Trong bài thơ Vafþrúðnismál, khi Odin tranh tài cùng với tên khổng lồ thông thái Vafþrúðnir bằng tên khác là Gagnráðr, ngài đã hỏi "những kẻ nào đã chiến đấu trong cung điện hàng ngày?". Bằng sự khôn ngoan của mình,Vafþrúðnir đã đối đápNhững Einheriar chiến đấu trong thánh điện của Odin hàng ngày;họ chọn chết trận và trở về từ chiến trường,họ ngồi gần nhau hơn trong sự hòa bình, đoàn kết.Trong chương XX thuộc tập Gylfaginning, Odin còn có tên gọi khác là Valföðr (Bắc Âu cổ nghĩa là "Cha của kẻ tử trận"), Những ai kể từ khi ngã xuống dưới thanh gươm giáo, sẽ trở thành người con nuôi của đấng Odin.Do đó trong chiến trận, người ta thường hay ném giáo về phía quân thù và hô lớn: "Hãy về với Odin đi." tức là tế những chiến binh cho thần Odin. Việc tuyển quân cứ thế tiếp diễn đến ngày mạt thế, khi nghe tiếng tù và Gjarllarhorn vang lên, báo hiệu Ragnarok bắt đầu. Họ sẽ cầm gươm đao và sát cánh chiến đấu cùng các vị thần tại cánh đồng Vígríðr chống lại khổng lồ. Một số sử gia còn cho rằng những kẻ chết trong chiến tranh xâm lược sẽ đi đến Valhalla còn những ai hi sinh trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ quê hương mình thì sẽ được rước về lãnh địa Folkvang. Vǫlva Vǫlva (völva, số nhiều vǫlvur hay völur) là tên gọi dành cho phù thủy, ngôn sứ hay tiên tri của người Bắc Âu cổ. Volva còn có tên gọi khác là fjölkunning hiểu biết nhiều) vì họ biết sử dụng cả seiðr, spá và galdr. Seidr là loại phép thuật được nữ thần Freyja mang từ Vanaheimr truyền bá cho các vị thần Æsir. Nguồn gốc và bản chất seidr khá mơ hồ đó có thể là thần chú hoặc khiêu vũ theo vòng tròn. Seidr được cho là liên hệ với tình dục. Cả nam (seidmadr) và nữ (seidkona) đều có thể thực hiện được, nhưng hầu hết loại phép thuật thường được nữ giới sử dụng. Odin là nam thần duy nhất thực hiện loại ma thuật này và bị Loki gán cho là thiếu nam tính (ergi). Eiriks saga rauða có đề cập đến cách thức vận dụng của seidr do Thorbjǫrg thực hiện, bao gồm tụng niệm và cầu nguyện để kết nối với thế giới linh hồn. Theo Yngling saga của Snorri thì seidr bao gồm cả tiên tri và phép điều khiển. Truyện dân gian (Saga) về người anh hùng huyền thoại cho biết seidkona mang áo choàng màu đen trên tay cầm một con quay sợi. Người nào bị con quay chạm vào má ba lần thì mất trí nhớ. Hai phép thuật còn lại là spá (tiên tri/ dự ngôn) và galdr (thần chú hoặc chú ngữ). Freyja có thể được coi là "nữ hoàng" volva, là vì Freia thành thạo về phép thuật nhất trong số các chư thần. Ngoài là thần tình yêu, sắc đẹp và sự phì nhiêu, Freyja còn là nữ thần chiến trận do đó các volva muốn lặp lại những gì mà Freyja đã làm với Asgard lên chiến tranh của người trần ở thế giới Trung Địa. Nhiều nữ quý tộc muốn đại diện cho Freyja tại Midgard cũng sử dụng một số công cụ để điều khiển chiến trận lúc các cuộc xung đột nổ ra. Một trong những nữ volva nổi tiếng nhất là Heidr - tái sinh sau khi nữ thần Gullveig thuộc thần tộc Vanir bị thị tộc Asgard giết. Elf Quái vật Các sinh vật khác Dís Dís ("nữ thần" trong tiếng Bắc Âu cổ, số nhiều là disir) là tên gọi các tiểu nữ thần, linh hồn và hồn ma trong thần thoại Bắc Âu. Disir thường liên quan tới số phận con người, ban cho điều lành hoặc gây ra điềm dữ cho con người. Các disir có quyền năng bảo vệ mái ấm gia đình, mùa màng hoặc có thể trợ giúp người thai phụ lúc lâm bồn. Disir có thể phù trợ cho một người, nhóm người hoặc một địa danh nào đó. Vai trò của disir trong các saga cổ không khác mấy Norn, Fylgja và Valkyrie. Trong một số bài thơ trong Edda thơ như Hamðísmal hoặc Grimnísmál, disir được dùng để chỉ các Norns. Cũng như Norns và Valkyrie, dís thường xuất hiện ở dạng số nhiều. Theo bài thơ Guðrúnarkviða I trong Edda thơ, 19 nữ Valkyrie được gọi bằng tên chung là Herjans Disir (những disir của Oðin). Tuy mang danh hiệu "nữ thần" nhưng địa vị lại thấp hơn các nữ Ásynjur. Nữ thần Freyja còn có một cái tên khác là Vanadis (dis của thần Vanir). Ngoài Freia, Snorri còn kể ra Öndurdis (dis giày tuyết), để chỉ tới Skadi. Các disir được thờ phục bằng các phong tục hiến tế đặc biệt (disablot), do các tín nữ cử hành. Dísblót được cử hành vào cuối thu, đầu mùa đông. Hamingjur và Fylgja Hamingjur Hamingjur (hay còn gọi là thần hộ mệnh) có sức mạnh siêu thường và thường xuất hiện với hình tượng những nàng tiên vô hình luôn theo sát theo con người và dẫn dắt họ. Mỗi người có một thần hộ mệnh riêng đem lại may mắn của mình, người ta có thể cho người khác mượn thần hộ mệnh khi muốn chấp nhận một điều bất hạnh, rủi ro nào đó. Fylgja Fylgja (số nhiều là Fylgjur; hay còn gọi là ngân tùy) là một sinh vật, tạo vật siêu nhiên trong thần thoại Bắc Âu cổ, được trao nhiệm vụ là đi theo cùng với mỗi người từ lúc lọt lòng đến khi giã từ ánh sáng mặt trời. Fylgja gắn liền với vận mệnh, số phận của mỗi người, có thể coi chúng là bản sao của mỗi người. Chúng có thể được coi là linh vật hộ mệnh, mỗi người có một hoặc nhiều linh vật hộ mệnh. Fylgja có hình dạng là một con vật, thường là con cái. Hình dạng của chúng thường ứng với tính cách của chủ nhân: đấng anh hùng có gấu, bò tót làm linh vật, còn kẻ tiểu nhân, xảo trá có cáo đại diện... Fylgja thường vô hình với con người hoặc chỉ xuất hiện trong những giấc mơ. Chúng có thể giúp tự vệ hoặc tấn công kẻ thù. Vì là linh vật hộ mệnh nên có ích và mang lại may mắn, đồng thời chúng còn đại diện cho cái chết. Nếu fylgja hiện hình trước mặt chủ nhân thì cảnh báo người đó đang gặp hiểm nguy hoặc đang cận kề cái chết, đặc biệt là khi fylgja cưỡi một con ngựa xám hoặc được nó mời về nhà. Khi người đó chết thì nó sẽ được chuyển qua phù hộ cho các thành viên khác trong gia đình của kẻ đó. Draugr và Haugbui Draugr (số nhiều draugar) là một trong những sinh vật khủng khiếp nhất ở thần thoại Bắc Âu. Về bản chất chúng đã chết, nhưng không phải mà hồn ma mà là những xác thịt có khả năng di chuyển (hay xác sống, tương đương với thuật ngữ trong tiếng Anh là Zombie). Không giống như Fylgja, chúng gieo rắc nỗi sợ hại cho loài người. Ngoại hình của draugr thường ở trạng thái phân hủy nên có mùi hôi thối đặc trưng. Một số người cho rằng đôi mắt của chúng lóe ra những ta sáng kinh rợn. Ngoài khả năng di chuyển và sức khỏe phi thường, chúng còn có thể sử dụng các loại ma thuật như biến hình, thay đổi thời tiết, tiên tri... Tương tự như ma cà rồng, draugr thường hoạt động về đêm nhưng nguy hiểm hơn là ánh sáng mặt trời không gây tổn thương cho draugr. Bất cứ người nào sống hà tiện, tham lam hoặc xấu tính có thể trở thành draugr. Đặc điểm nhận biết một người sẽ biến thành dragur là xác thế không nằm mà đứng hoặc ngồi. Sự hiện diện của chúng có thể được phát hiện nhờ ánh sáng mạnh như lân quang phát ra từ ngôi mô của chúng, tạo thành ranh giới ngăn cách giữa nơi dương thế với cõi âm gian. Draugr có khi vô hại hoặc có khi có hại. Chúng vô hại ở chỗ chỉ nằm yên dưới mộ, và canh giữ tài sản, của cải được mai táng cùng với chúng. Draugr trở thành sinh vật khủng bố loài người và sinh vật khi rời khỏi mộ của mình mà tấn công sinh vật sống hoặc quay về nhà cũ để đòi lại tài sản mà chúng cho là thuộc quyền sở hữu của nó. Draugr có thể biến hóa thành đám khói rồi luồn lách qua khe đá rời khỏi mặt đất mà hiện về dương thế. Chúng tấn công con người và động vật bằng cách giết chết sinh vật đó hoặc tra tấn tâm hồn họ. Vũ khí chẳng thể giết chết được chúng nên việc tiêu diệt draugr vô cùng khó khăn. Để diệt chết chúng chỉ có cách lôi draugr trở về ngôi mộ của nó và chặt đầu nó rồi đặt cái đầu lên mông của chúng rồi hỏa thiêu, cuối cùng lấy tro tàn rắc xuống biển. Trong văn hóa Bắc Âu cổ, có một sinh vật tương tự như draugr là haugbui - xác chết sống dưới mộ. Tuy nhiên haugbui không thể tự rời khỏi ngôi mộ của nó và chỉ tấn công những kẻ xâm phạm lãnh thổ của nó. Các truyền thuyết Ragnarok Tương lai trong tín ngưỡng Bắc Âu khá u tối. Lực lượng bóng tối và hỗn loạn sẽ vượt qua các vị thần đại diện cho trật tự. Loki và các con sẽ vượt ra khỏi xiềng xích. Người chết từ Niflheim trở lại dương thế tấn công người sống. Heimdall, vị thần đứng gác ở cổng Asgard sẽ triệu tập lực lượng nhà trời bằng một hồi tù và. Sau đó nổ ra cuộc chiến giữa hỗn độn và trật tự (vẫn được biết tới với cái tên Ragnarok). Định mệnh của các vị thần là thất bại trong trận chiến này. Họ biết rõ điều đó nên sẽ tập hợp những chiến binh giỏi nhất, các Einherjar, để chiến đấu bên cạnh mình. Nhưng cuối cùng họ cũng phải bất lực nhìn thế giới chìm trở lại vào bóng tối. Các vị thần và trật tự do họ tạo ra sẽ bị tiêu diệt. Bản thân Odin sẽ bị Fenrir nuốt chửng. Tuy nhiên, sẽ còn một vài vị thần và con người sống sót để xây dựng một thế giới mới. Các học giả vẫn đang tranh cãi xem đây có phải là dấu hiệu của những ảnh hưởng từ Ki-tô giáo hay không. Nếu không, quan điểm ngày tận thế của Voluspa có thể phản ánh thế giới quan Ấn-Âu cổ. Trường ca anh hùng Bên cạnh những câu chuyện về các vị thần linh, thần thoại Bắc Âu cũng kể về các vị vua và anh hùng người trần thế. Những câu chuyện này phản ánh quá trình hình thành các bộ tộc và quốc gia Bắc Âu. Một số học giả cho rằng những câu chuyện này dựa trên những sự kiện có thật và có thể coi chúng như một nguồn nghiên cứu lịch sử vùng Scandinavia. Wayland Wayland là một trong ba con trai (Slagfinn, Egil) là con trai của vua xứ Phần Lan.
Nước mắm Phan Thiết là tên gọi chung các loại nước mắm xuất xứ từ Phan Thiết, một địa phương có nghề làm nước mắm truyền thống. Lịch sử Nước mắm Phan Thiết thuộc loại "lão làng" và đã có mặt ở hầu hết tại các thị trường trong nước. Nước mắm Phan Thiết đã có từ thời Phan Thiết có tên là Tổng Đức Thắng (1809). Những nhà làm nước mắm khi đó đã làm được nhiều nước mắm và bán ở Đàng Ngoài. Đến đầu thế kỷ 20, nước mắm Phan Thiết đã có một nhãn hiệu nổi tiếng là nước mắm Liên Thành, được bán rộng rãi trong Nam ngoài Trung. Về mặt thương hiệu, từ năm 2007, tên gọi này đã được luật hoá khi Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đăng ký bảo hộ vô thời hạn trên lãnh thổ Việt Nam để chứng nhận xuất xứ cho các loại nước mắm được chế biến theo đúng tiêu chuẩn chất lượng và An toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) trong địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, ngoài Việt Nam, trước đó 8 năm, từ ngày 1 tháng 6 năm 1999 một công ty tên là Kim Seng, trụ sở tại California (Mỹ) đã đăng ký thương hiệu "nước mắm nhỉ thượng hạng Phan Thiết" tại Văn phòng bản quyền sáng chế và nhãn hiệu thương mại Hoa Kỳ . Nguyên liệu Nước mắm Phan Thiết chủ yếu được làm từ cá cơm và nhiều loài các khác tùy vào mỗi lần tàu về và muối hạt. Có nhiều loại cá cơm như cá cơm sọc tiêu, cơm than, cơm đỏ, sọc phấn, phấn chì, cơm lép... nhưng ngon nhất là cá cơm than và sọc tiêu. Cá cơm, xuất hiện từ tháng tư cho đến tháng tám âm lịch, là loại cá nhỏ, con to chỉ bằng ngón tay út hay bằng chiếc đũa, nhưng phân rã thành mắm nhanh, nên thời gian thành nước mắm cũng ngắn. Tuy nhiên, nhiều nhà làm nước mắm lâu năm cho biết chất lượng còn phụ thuộc vào thời gian đánh bắt cá, nhất là cá tháng tám, con nào cũng đều béo mập thì nước mắm mới ngon và đạt độ đạm cao nhất. Cách chế biến Chế biến trong thùng lều Nước mắm ủ trong thùng (giống cách làm của nước mắm Phú Quốc): Người ta dùng loại thùng gỗ hình trụ gọi là thùng lều, cao 2 - 2,5 m, đường kính 1,5 – 2 m, dung tích từ 2.5-8 m3 để muối cá. Sở dĩ người ta phải dùng loại gỗ mềm như bằng lăng, mít, bờ lời để làm thùng là vì khi "niền" lại bằng dây song, chạy quanh mặt ngoài thân thùng, các mảnh gỗ được siết chặt vào nhau, không còn khe hở. Cá cơm đánh bắt về được chọn lựa kỹ, bỏ những con to hay nhỏ quá hoặc không tươi. Cá được đem vào muối không cần rửa lại vì trước khi đem lên bờ, cá đã được rửa bằng nước biển. Khi muối tỷ lệ thường dùng là 10 cá 4 muối, hay 3 cá 1 muối . Hai thành phần đó trộn chung cho thật đều mà không để nát, gọi là chượp. Sau khi cho chượp vào đầy thùng lều thì phủ lên cá kè đã được kết lại như tấm chiếu, rải một lớp muối lên trên rồi cài vỉ tre trên mặt và xếp đá đè xuống. Sau 2-4 ngày người ta mở nút lù có cụm lọc ở đáy thùng lều tháo dịch cá chảy ra. Dịch này gọi là nước bổi, do các enzymes trong ruột cá giúp thủy phân phần nội tạng cá mà thành. Nước bổi có thành phần đạm, nhưng có mùi tanh, chưa ăn được, thường được lọc bỏ váng bẩn để làm nước châm vào các thùng chượp đã chín nhằm tăng độ đạm. Sau khi nước bổi rút, chượp trong thùng xẹp xuống và bắt đầu quá trình thủy phân chính. Tác nhân chính của quá trình này là một loại vi khuẩn kỵ khí thì cần thời gian từ 8-18 tháng thì mới thủy phân xong thân cá. Khi quá trình này hoàn thành, tức chượp chín, thì nước mắm hình thành trong suốt với màu từ vàng rơm tới nâu đỏ cánh gián (tuỳ theo từng mẻ cá) không còn mùi tanh mà có mùi thơm đặc trưng. Nước nhất được rút từ thùng lều được gọi là nước mắm nhỉ - hoàn toàn từ thân cá thủy phân mà thành. Sau khi đã rút nước nhỉ, người ta đổ nước châm vào để rút tiếp nước hai gọi là nước mắm ngang. Mỗi lần rút, độ đạm càng giảm, nên để có sản phẩm có độ đạm đồng nhất bán ra thị trường, người ta phải đấu trộn các loại nước mắm có độ đạm khác nhau. Chế biến trong lu Đây là phương pháp làm nước mắm phổ biến ở Phan Thiết, đặc biệt là trong các cơ sở nhỏ. Cách ướp chượp, tỷ lệ cá và muối, vẫn theo cách dùng thùng lều. Điểm khác biệt là chượp ướp trong lu và lu được đậy kín phơi ngoài trời thay vì để trong nhà như thùng lều. Bằng cách này, nhiệt độ trong lu thường cao hơn, chượp mau chín hơn. Độ đạm của nước mắm Độ đạm dinh dưỡng Quá trình thủy phân của chượp thường đi song song với quá trình phân huỷ của các vi khuẩn gây thối, vì thế, thành phần đạm của nước mắm bao gồm 2 sản phẩm của 2 quá trình đó, tức là đạm dinh dưỡng và đạm urê (tức đạm thối). Tỷ lệ đạm dinh dưỡng trong nước mắm càng cao, thì nước mắm càng ngon. Tỷ lệ trung bình ở các loại nước mắm ngon chiếm khoảng 60-70% đạm tổng. Tuy nhiên, theo luật định, độ đạm mà nhà sản xuất khai báo trên bao bì chỉ là đạm tổng, không phải là đạm dinh dưỡng. Nước mắm cao đạm Bằng phương pháp ủ chượp - kéo rút thông thường, nước mắm nhất - tức nước nhỉ - chỉ có độ đạm khoảng 28-30oN. Để có nước mắm nhỉ cao đạm từ 35-37 độ, một mặt người ta phải chọn được cá tốt, tỷ lệ thịt cao, tươi ngon, một mặt khác phải rút kiệt nước bổi để giảm lượng nước có trong thùng chượp. Để đưa độ đạm cao hơn, người ta phải đôn đạm. Phương pháp này thường sử dụng nước hoa cà (nước mắm chưa ngấu) có độ đạm khoảng 22-28o làm nước châm để kéo rút lần lượt qua nhiều thùng lều liên tiếp, mỗi một thùng sẽ làm tăng vài độ đạm. Tuy nhiên, độ đạm kỷ lục có thể đạt được cho đến hiện nay chỉ là 42-43o và chỉ có một số rất ít doanh nghiệp nước mắm ở Phan Thiết có thể làm được. Khác biệt Khác biệt chung nhất, dễ nhận thấy nhất của nước mắm Phan Thiết so với nước mắm Phú Quốc và các vùng khác là màu vàng rơm (nếu nguyên liệu là cá cơm) hay màu nâu nhạt (cá nục), trong sánh, có mùi thơm nồng và vị ngọt đậm do đạm cao . Khác biệt đó của nước mắm Phan Thiết được giải thích vì quá trình ủ chượp dưới trời nắng và gió - nhiệt độ trung bình cao, độ ẩm thấp tác động tích cực đến cơ chế lên men - điều mà khó có địa phương nào được ưu đãi như vùng cực Nam Trung bộ. Ngay trong làng nghề nước mắm ở Phan Thiết, cũng có 3 khu vực sản xuất nước mắm ít nhiều khác nhau: Khu vực phường Thanh Hải: Chủ yếu là các hàm hộ (nhà làm nước mắm) nhỏ, sản phẩm nước mắm vừa mặn, có màu cánh gián đẹp (nhưng để lâu dễ bị xuống màu), độ đạm trung bình. Tại đây còn sản xuất ra các sản phẩm gốc mắm như: mắm nêm, mắm tôm, mắm ruốc... Khu chế biến nước mắm Phú Hài: Đây là khu vực sản xuất quy mô tương đối lớn, sản phẩm nước mắm có độ mặn truyền thống. Khu vực phường Hàm Tiến-Mũi Né: nước mắm tại khu vực này có thể nói là tốt nhất vì nguyên liệu làm từ cá cơm và không có phụ gia. Tuy nhiên, sản phẩm sản xuất ra rất hạn chế. Chú thích
Hàm Nghi (chữ Hán: 咸宜 3 tháng 8 năm 1871 – 14 tháng 1 năm 1944), thụy hiệu Xuất Đế (出帝), tên thật Nguyễn Phúc Ưng Lịch (阮福膺𧰡), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Là em trai của vua Kiến Phúc, năm 1884 Hàm Nghi được các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát chiếu Cần Vương chống thực dân Pháp. Nhân danh ông, Tôn Thất Thuyết đã phát động phong trào Cần Vương, kêu gọi văn thân, nghĩa sĩ giúp vua, giúp nước. Phong trào này kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie) và qua đời tại đây năm 1944 vì bệnh ung thư dạ dày. Do áp lực của Pháp nên nhà Nguyễn không lập miếu hiệu cho ông. Ngày nay, lịch sử Việt Nam xem ông cùng với các vua chống Pháp gồm Thành Thái, Duy Tân là ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc. Xuất thân Hàm Nghi húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Minh. Ông là con thứ năm của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi, tức 3 tháng 8 năm 1871 (có tài liệu ghi ông sinh ngày 22 tháng 7 năm 1872) tại Huế. Ông là em ruột của vua Kiến Phúc (Ưng Đăng) và vua Đồng Khánh (Chánh Mông hay Ưng Kỷ). Sau khi vua Tự Đức qua đời vào tháng 7 năm 1883, mặc dù các Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nắm trọn quyền hành trong việc phế bỏ vua này truất ngôi vua khác nhưng lại rất bị động trong việc tìm người trong Hoàng gia có cùng chí hướng để đưa lên ngôi. Trước thời Hàm Nghi, cả ba vua Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc đều lần lượt đi ngược lại đường lối của phái chủ chiến hoặc bị mất sớm, trở thành những phần tử không thể không bị loại bỏ khỏi triều chính đang rối ren. Vua Kiến Phúc đột ngột qua đời trong lúc tình hình đang có lợi cho phái chủ chiến trong triều đình Huế. Sau khi nhà vua mất, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ lên ngôi, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết sợ lập một vị vua lớn tuổi sẽ mất quyền hành và hai ông chủ trương dứt khoát lựa chọn bằng được một vị vua ủng hộ lập trường chống Pháp nên đã chọn Ưng Lịch. Đây là một người có đủ tư cách về dòng dõi, nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của kinh thành làm vẩn đục tinh thần tự tôn dân tộc và quan trọng hơn hết là hai ông có thể định hướng nhà vua về đại cuộc của đất nước một cách dễ dàng. Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn, dân dã với mẹ ruột chứ không được nuôi dạy tử tế như hai người anh ruột ở trong cung. Khi thấy sứ giả đến đón, cậu bé Ưng Lịch hoảng sợ và không dám nhận áo mũ người ta dâng lên. Sáng ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân, tức ngày 2 tháng 8 năm 1884, Ưng Lịch được dìu đi giữa hai hàng thị vệ, tiến vào điện Thái Hòa để làm lễ lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó Ưng Lịch mới 13 tuổi. Người ta nói rằng Hàm Nghi được lên nối ngôi theo di chúc của vua Kiến Phúc trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế, Hàm Nghi được phái chủ chiến lập lên ngôi. Nhân vật cầm đầu phái chủ chiến là Tôn Thất Thuyết - Phụ chính đại thần đồng thời là Thượng thư bộ Binh. Thời gian tại kinh thành Huế Tháng 7-1884, sau khi vua Kiến Phúc đột ngột qua đời, triều đình tôn Hàm Nghi lên ngôi. Khâm sứ Pierre Paul Rheinart thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự tiện lập vua, không hỏi ý kiến đúng như đã giao kết nên gửi quân vào Huế bắt Triều đình nhà Nguyễn phải xin phép. Rheinart gửi công hàm cho triều đình Huế rằng: Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phải làm tờ xin phép bằng chữ Nôm nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng chữ Hán. Hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Công việc đầu tiên mà vua Hàm Nghi phải thủ vai, dưới sự hướng dẫn của Tôn Thất Thuyết là tổ chức đón phái đoàn Pháp từ Tòa Khâm sứ ở bờ Nam sông Hương sang điện Thái Hòa làm lễ tôn vương cho nhà vua. Đây là thắng lợi mà phe chủ chiến của triều đình Huế đã đạt được trong việc bảo vệ ngai vàng của Hàm Nghi; còn đối với người Pháp thì sau những yêu sách, đòi hỏi bất thành, họ đành phải nhân nhượng để tránh thêm những rắc rối mới bằng cách chấp nhận một sự việc đã rồi. Lúc 9 giờ sáng ngày 17 tháng 8 năm 1884, phái đoàn Pháp gồm Đại tá Guerrier, Khâm sứ Rheinart, Thuyền trưởng Wallarrmé cùng 185 sĩ quan binh lính kéo sang Hoàng thành Huế. Guerrier buộc triều đình Huế phải để toàn bộ quân Pháp tiến vào Ngọ Môn bằng lối giữa, là lối chỉ dành cho vua đi, nhưng Tôn Thất Thuyết nhất định cự tuyệt. Cuối cùng chỉ có 3 sứ giả được vào cổng chính, còn lại các thành phần khác thì đi cổng hai bên. Cả triều đình Huế và phái đoàn Pháp đều mang tâm trạng không vừa lòng nhau, nhưng buổi lễ thọ phong cuối cùng cũng kết thúc êm thấm. Lúc phái đoàn Pháp cáo từ, Tôn Thất Thuyết đã ngầm cho quân lính đóng cửa chính ở Ngọ Môn lại nên đoàn Pháp phải theo hai lối cửa bên để về. Nhìn nhận về sự kiện này, Marcel Gaultier đã viết: Năm sau 1885, Thống tướng de Courcy được Chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng de Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của mình, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bậc tướng lĩnh là đi cửa chánh cho đúng nghi thức triều đình, nhưng de Courcy nhất định không chịu. Phong trào Cần Vương Đêm 22 rạng 23 tháng 5 âm lịch (tức đêm ngày 5 rạng ngày 6 tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh mạn vua mình như vậy, nên quyết định ra tay trước: đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Đến sáng thì quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn thua chạy, rời bỏ Kinh thành Huế. Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao chiến trong đêm và mời vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi đã thảng thốt nói: "Ta có đánh nhau với ai mô mà phải chạy". Vua Hàm Nghi ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va đập nhiều lần vào thành kiệu rất đau, sau cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng cho lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi tới thành Quảng Trị để lánh nạn. Chiều ngày 6 tháng 7 thì cả đoàn mới tới Quảng Trị. Nhưng sau đó ông lại ra trình diện với quân Pháp. Tướng de Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường hai tháng phải tìm cách để rước vua về. Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước vua về nhưng Tôn Thất Thuyết cản thư không cho vua biết. Hết hạn hai tháng, cả gia đình Nguyễn Văn Tường bị de Courcy đày ra Côn Đảo, sau đó đưa tới đảo Tahiti ở Thái Bình Dương. Một thời gian sau Nguyễn Văn Tường qua đời, xác được đưa về Việt Nam. Ngày 9 tháng 7, dưới áp lực của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi đành từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở. Hàm Nghi ở Tân Sở rồi về vùng xã xa của 2 huyện Minh Hóa và Tuyên Hóa, Quảng Bình. Vua Hàm Nghi đã phải chịu nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn vàn thiếu thốn, bệnh tật, đói khát và sự hiểm nguy về tính mạng luôn đe dọa. Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần Vương kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng bào các địa phương từ Quảng Trị qua tới đất Lào cũng như trong vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình đã cho Hàm Nghi thấy được vai trò của bản thân mình nên nhà vua đã không còn cảm thấy bị cưỡng ép như trước. "Nhà vua bị những gian lao mà luyện thành người nhẫn nại và đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên". Dân chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà vua đã hai lần xuống dụ Cần vương trong đó có một lần gửi thư cầu viện cho Tổng đốc Vân-Quý của triều Mãn Thanh và rất nhiều chỉ dụ khác tới các quan lại, lãnh tụ của phong trào chống Pháp. Tên của ông ta đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia... Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hạnh.<ref>Ch. Gosselin. L' Empire de l' Annam. Paris, Perrin et Cie, p. 239, 237.</ref> Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, vua anh Đồng Khánh và 3 bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành. Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người. Tại căn cứ địa lãnh đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết cử con là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo vệ, cùng Đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp trong vùng. Tháng 9 năm 1888, suất đội Nguyễn Đình Tình phản bội ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá. Nguyễn Đình Tình lại dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc tình nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm khuya 26 tháng 9 năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Khi đó, ông mới 17 tuổi, chống Pháp được ba năm. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng: "Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây". Từ đêm hôm đó ở bờ khe Tá Bào, huyện Tuyên Hóa (nay là huyện Minh Hóa) tỉnh Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang vua Hàm Nghi về các đồn Thanh Lạng, Đồng Ca rồi sang Quảng Khê và đến đồn Thuận Bài vào chiều ngày 14 tháng 11 năm 1888. Quân Pháp tổ chức chào đón vua rất long trọng nhưng vua đã tỏ ra không hiểu, không nhận mình là Hàm Nghi. Viên Trung úy chỉ huy quân đội Bonnefoy đã chuyển bức thư của Tôn Thất Đàm gửi cho vua Hàm Nghi xem nhưng nhà vua ném lá thư xuống bàn và làm như không có can hệ gì đến mình. Viên Đề đốc Thanh Thủy là Nguyễn Hữu Viết được Pháp cử tới để thăm hỏi và nhận mặt thì nhà vua giả như không hay biết. Nhưng khi người Pháp đem thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua vô tình đứng dậy vái chào. Đến lúc đó thì người Pháp mới yên trí đó là vua Hàm Nghi. Từ Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm Nghi qua Bố Trạch rồi vào Đồng Hới và tới cửa Thuận An ngày 22 tháng 11 năm 1888. Lúc này, triều đình Huế đã biết tin Hàm Nghi bị bắt, vua Đồng Khánh sai quan lại Thừa Thiên và bộ Binh ra đón để đưa về Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị kích động khi thấy mặt vị vua kháng chiến nên đã báo cho Viện Cơ mật rằng vua Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về kinh e có điều bất tiện, cần phải đưa đi tĩnh dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực người Pháp đã có quyết định dứt khoát với vị vua kháng chiến này là đày sang xứ Algérie ở Bắc Phi. Rheinart đã báo cho ông biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt. Nghe vậy, vua Hàm Nghi đáp: "Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa", rồi ông cáo từ về phòng riêng. Sau khi bị truất, cựu hoàng được chính thức gọi là Quận công Ưng Lịch. Bị Pháp lưu đày Vào 4 giờ sáng ngày 25 tháng 11 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi vào Lăng Cô. Trước phút rời xa quê hương, nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm xúc vì nỗi niềm riêng và vận nước nên đã òa khóc. Từ Sài Gòn, ngày 13 tháng 12 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống chiếc tàu mang tên "Biên Hòa" vượt đại dương đi Bắc Phi. Do không quen đi trên biển, nhà vua bị say sóng liên miên nhưng vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán thán. Chiều chủ nhật, 13 tháng 1 năm 1889, Hàm Nghi đến thủ đô Alger của Algérie (tiếng Việt gọi là A Lợi Tư). Lúc này ông vừa bước qua tuổi 18. Mười ngày đầu, Hàm Nghi tạm trú tại L'hôtel de la Régence (Tòa Nhiếp chính). Sau đó, ông được chuyển về ở Villa des Pins (Biệt thự Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách Alger 5 cây số. Ngày 24 tháng 1, Toàn quyền Tirman của Algérie tiếp kiến và mời Hàm Nghi ăn cơm gia đình. Ít ngày sau, qua Toàn quyền Tirman, cựu hoàng nhận được tin mẹ là bà Phan Thị Nhàn (vợ thứ của Kiên Thái vương) đã mất vào ngày 21 tháng 1 năm 1889 tại Huế. Trong mười tháng tiếp đó, Hàm Nghi nhất định không chịu học tiếng Pháp vì ông cho đó là thứ tiếng của dân tộc xâm lược nước mình và vẫn dùng khăn lượt, áo ngũ thân theo nếp cũ ở quê hương. Mọi việc giao thiệp đều qua thông ngôn Trần Bình Thanh. Nhưng về sau, thấy người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên từ tháng 11 năm 1889 ông bắt đầu học tiếng Pháp. Vài năm sau, Hàm Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp rất giỏi. Hàm Nghi cũng giao du cùng những trí thức Pháp nổi tiếng. Năm 1899, ông có sang thăm Paris và đến xem một triển lãm của danh họa Paul Gauguin, về sau khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu ảnh hưởng bởi phong cách của Gauguin. Hơn 100 năm sau, bức tranh Déclin du jour (Chiều tà) của cựu hoàng phát hiện được dưới nghệ danh Xuân Tử khi bán đấu giá ở Paris ngày 24 tháng 11 năm 2010 đã bán được với giá 8.800 euro. Đời tư Năm 1904, Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1884, mất năm 1974), con gái của ông Laloe Chánh án tòa Thượng phẩm Alger. Đám cưới của họ trở thành một sự kiện văn hóa của Thủ đô Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có ba người con: Công chúa Như Mai sinh năm 1905 (mất năm 1999). Công chúa Như Lý (hoặc Như Luân) sinh năm 1908 (mất năm 2005). Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910 (mất năm 1990). Công chúa Như Mai tốt nghiệp Kỹ sư Canh nông. Công chúa Như Luân tốt nghiệp Tiến sĩ Y khoa và lập gia đình với Công tước François Barthomivat de la Besse. Ngày 14 tháng 1 năm 1944, Hàm Nghi qua đời vì bệnh ung thư dạ dày tại biệt thự Gia Long, thủ đô Alger. Ông được chôn cất ở Thonac (quận Sarlat-la-Canéda), vùng Nouvelle-Aquitaine, nước Pháp. Trên mộ của vua Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất năm 1944. Ông ra đi mang theo nỗi hờn vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong tâm trí. Vinh danh Vì có tư tưởng chống Pháp, vua Hàm Nghi, cùng với các vua Thành Thái, Duy Tân, được xem là 3 vị vua yêu nước của Việt Nam thời Pháp thuộc. Đến thời điểm tháng 5 năm 2014, hài cốt vua Hàm Nghi ở làng Thonac (Pháp). Năm 2009, bài vị và di ảnh vua Hàm Nghi được hội đồng Nguyễn Phúc tộc đưa về thờ tại Thế Tổ Miếu (Hoàng thành Huế). Niên hiệu của ông (Hàm Nghi) được đặt cho một con đường trung tâm ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại Hà Nội có đường Hàm Nghi thuộc phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm. Tại thành phố Hải Phòng có đường Hàm Nghi ở phường Trại Chuối, quận Hồng Bàng. Tại Đà Nẵng có đường Hàm Nghi ở quận Thanh Khê. Tại thành phố Huế có đường Hàm Nghi ở phường Phước Vĩnh. Tại thành phố Móng Cái, phố Hàm Nghi kéo dài từ phố Duy Tân đến phố Trần Nhật Duật. Tại thành phố Thanh Hoá đường Hàm Nghi kéo dài suốt trục đường chính của phường Đông Hương. Và tất cả các tỉnh thành đều có tên đường Hàm Nghi. Năm 1955, trường Trung học Thành Nội được dời về trường Quốc Tử Giám triều Nguyễn ở Huế và đổi tên thành trường Trung học Hàm Nghi. Trường bị giải thể năm 1975 để rồi 30 năm sau vào ngày 4 tháng 9 năm 2005 ngôi trường này chính thức được khai giảng trở lại với sự đóng góp rất lớn của cựu học sinh Trường Hàm Nghi trước 1975. Tại thành phố Đà Nẵng có trường Tiểu học Hàm Nghi và tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh có trường Trung học Hàm Nghi. Thành phố Huế cũng có trường Trung học Hàm Nghi. Chú thích
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", theo Điều 2, Hiến pháp 2013. Đây là sự kết hợp của hai kiểu nhà nước: nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền. Bản chất Nhà nước mang bản chất giai cấp, là tổ chức để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Cho đến nay đã có các kiểu Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở: Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước Việt Nam thông qua quyết định các chủ trương, đường lối và thông qua việc đưa đảng viên của mình vào nắm giữ các chức danh quan trọng của Nhà nước. Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội. Cũng là Nhà nước pháp quyền, nên Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang các bản chất chung của Nhà nước pháp quyền, đó là: Các cơ quan Nhà nước được thiết kế, hoạt động trên cơ sở pháp luật. Bản thân Nhà nước đặt mình trong khuôn khổ pháp luật. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 có quy định rõ địa vị pháp lý, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước bao gồm Quốc hội (chương V Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội Việt Nam), Chủ tịch nước (chương VI Hiến pháp), Chính phủ (chương VII Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ), Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (chương VIII Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân), Chính quyền địa phương (chương IX Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân),Hội đồng bầu cử quốc gia và kiểm toán nhà nước. Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, ban quản lý các khu kinh tế, thì có các Nghị định của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của họ. Các bản chất khác của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: Dân chủ tập trung Không có sự phân chia giữa 3 ngành lập pháp, hành pháp, và tư pháp, mà là sự thống nhất, phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền này. Là Nhà nước đơn nhất và tập quyền: Ở Việt Nam chỉ có một Hiến pháp chung. Các địa phương không có quyền lập hiến và lập pháp mà ban hành các VBQPPL theo luật định. Ngoài ra, theo Hiến pháp, Nhà nước Việt Nam còn có bản chất sau: "Nhà nước của dân, do dân và vì dân". Chức năng Chức năng đối nội Chức năng kinh tế Chức năng chính trị Chức năng xã hội Chức năng đối ngoại Chức năng bảo vệ đất nước Tổ chức Nhà nước trung ương Nhà nước Việt Nam là hệ thống có 4 cơ quan. Đó là Cơ quan quyền lực hay còn gọi là các cơ quan đại diện (lập pháp): bao gồm Quốc hội ở cấp trung ương và Hội đồng nhân dân các cấp địa phương do nhân dân trực tiếp bầu ra và thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Cơ quan hành chính (hành pháp): bao gồm Chính phủ ở cấp trung ương và Ủy ban nhân dân các cấp địa phương do cơ quan quyền lực tương ứng bầu ra. Cơ quan xét xử (tư pháp): bao gồm Tòa án nhân dân tối cao ở cấp trung ương và Tòa án nhân dân các cấp địa phương. Cơ quan kiểm sát (công tố): bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở cấp trung ương và Viện kiểm sát nhân dân các cấp địa phương. Dưới đây là Sơ đồ tổ chức của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2016: Quốc hội Quốc hội Việt Nam theo mô hình đơn viện và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội Việt Nam có 3 nhiệm vụ chính: Lập hiến, Lập pháp. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước. Quyết định vấn đề chiến tranh hay hòa bình. Quyết định trưng cầu dân ý. Thành phần nhân sự của cơ quan này là các đại biểu, do cử tri Việt Nam bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu được bầu chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước, có nhiệm kỳ 5 năm. Hiện nay, Quốc hội có 499 đại biểu. Đứng đầu Quốc hội Việt Nam là Chủ tịch Quốc hội do các đại biểu bầu ra. Hiện nay Chủ tịch Quốc hội là ông Vương Đình Huệ. Chính phủ Chính phủ Việt Nam là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của quốc hội. Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội và Chủ tịch nước. Chính phủ phải chấp hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước Chính phủ Việt Nam được thành lập trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội mỗi khóa và có nhiệm kỳ là 5 năm. Đứng đầu Chính phủ Việt Nam là Thủ tướng. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Chủ tịch nước đề cử và Quốc hội phê chuẩn. Các Phó thủ tướng do Thủ tướng chỉ định. Các thành viên Chính phủ do Chủ tịch nước chỉ định theo đề xuất của Thủ tướng Chính phủ và được Quốc hội phê chuẩn. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ là ông Phạm Minh Chính. Tòa án nhân dân tối cao Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam là cơ quan xét xử nhà nước cao nhất và có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: Hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án Giám đốc việc xét xử của các Tòa án các cấp; giám đốc việc xét xử của Tòa án đặc biệt và các Tòa án khác, trừ trường hợp có quy định khác khi thành lập các Tòa án đó Trình Quốc hội dự án luật và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh theo quy định của pháp luật Đứng đầu Tòa án nhân dân tối cao là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề cử và Quốc hội phê chuẩn. Hiện nay,Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là ông Nguyễn Hòa Bình. Viện kiểm sát nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan kiểm sát và công tố nhà nước cao nhất. Viện kiểm sát có thẩm quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp: Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Đứng đầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo Hiến pháp. Hiện nay, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là ông Lê Minh Trí. Chủ tịch nước Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam và thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Chủ tịch nước hiện nay là ông Võ Văn Thưởng. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội với nhiệm kỳ 5 năm. Chủ tịch nước có các quyền hạn như sau: Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ. Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát Nhân dân tối cao. Quyết định đặc xá. Quyết định các chính sách đối nội và đối ngoại của Chính phủ. Có quyền triệu tập, tham dự và đồng thời là chủ tọa các phiên họp của Chính phủ. Có quyền triệu tập các tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang nhân dân để thảo luận, nghe báo cáo các vấn đề về quốc phòng, an ninh. Có quyền bác bỏ các văn bản của Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ trái với Hiến pháp và pháp luật. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước. Quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam. Tổng Tư lệnh lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và An ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương Trưởng ban Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; quyết định chủ trương, định hướng về cơ chế, chính sách, giải pháp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ cải cách tư pháp. Yêu cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng và đảng ủy trực thuộc Trung ương cung cấp thông tin, tham gia ý kiến đối với các văn bản về lĩnh vực tư pháp và báo cáo kết quả việc triển khai thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, kết luận về lĩnh vực cải cách tư pháp của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại Khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước Tổ chức Nhà nước tại địa phương Việt Nam theo chế độ đơn nhất, các chính quyền địa phương phụ thuộc vào chính quyền trung ương. Hiện nay có 3 cấp địa phương là cấp tỉnh (tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện (thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận và huyện) và cấp xã (xã, phường và thị trấn). Tại mỗi cấp có các cơ quan tương ứng là Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Hội đồng nhân dân Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực tại cấp tỉnh, huyện và xã. Đại biểu HĐND do cử tri khu vực đó bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm. Đứng đầu HĐND là Chủ tịch HĐND do các đại biểu bầu ra. Ủy ban nhân dân Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính tại cấp tỉnh, huyện và xã. Đứng đầu UBND là Chủ tịch UBND do Hội đồng Nhân dân cấp đó bầu ra. Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử tại cấp tỉnh và huyện. Đứng đầu TAND là Chánh án do Chánh án Tối cao bổ nhiệm. Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan kiểm sát và công tố tại cấp tỉnh và huyện. Đứng đầu Viện kiểm sát là Viện trưởng do Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao bổ nhiệm. Đánh giá Bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay thể hiện được sự hiệu quả tương đối trong công tác quản lý cũng như vận hành đất nước. Tuy nhiên, còn một số tồn tại như: cồng kềnh, yếu kém và trì trệ ở tại một số địa phương cũng như các cơ quan bộ. Bên cạnh đó, bộ máy hành chính có quá nhiều ban bệ, thứ trưởng, vụ trưởng, nhiều cấp phó. Theo quy định, mỗi bộ chỉ được có tối đa 4 thứ trưởng, nhưng các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương đều có lúc có tới 10 thứ trưởng.
Đỗ Nhuận có thể là: Đỗ Nhuận, nhạc sĩ sống vào thế kỷ 20 tại Việt Nam Đỗ Nhuận, quan nhà Hậu Lê sống vào khoảng thế kỷ 14 đến thế kỷ 15 trong lịch sử Việt Nam
Tôn Thất Thuyết (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự Đàm Phu (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông làm quan đầu triều trong giai đoạn Việt Nam lâm nguy: bên ngoài thì bị quân Pháp xâm chiếm, bên trong thì vua Nguyễn nhu nhược bất tài, trong khi ông luôn chủ trương phải chiến đấu đến cùng để bảo vệ đất nước. Ông là người đã phế lập các vua Dục Đức, Hiệp Hoà và Kiến Phúc trong một thời gian ngắn do những ông vua này quá bất tài hoặc có ý đầu hàng Pháp, gây nên một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng bên trong hoàng tộc, cho tới khi Hàm Nghi (một vị vua có dũng khí chống Pháp) được ông hỗ trợ lên ngôi. Khi thất bại trong một cuộc binh biến chống Pháp năm 1885, Tôn Thất Thuyết đã phò tá vua Hàm Nghi đi Quảng Trị, tổ chức nghĩa quân chống Pháp, và chính ông nhân danh Hàm Nghi đã ra chiếu Cần Vương, bản chiếu thư nổi tiếng kêu gọi nhân dân Việt Nam yêu nước đứng lên chống Pháp. Toàn bộ gia đình 3 đời của ông cũng tham gia kháng chiến và phần lớn đã hy sinh vì nước, được sử sách và nhân dân ca ngợi là "Toàn gia ái quốc". Xuất thân Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29 tháng 3 năm Kỷ Hợi, tức 12 tháng 5 năm 1839 tại làng Phú Mộng, bên bờ sông Bạch Yến cạnh Kinh thành Thuận Hóa, nay thuộc thôn Phú Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế. Ông là con thứ hai của Đề đốc Tôn Thất Đính và bà Văn Thị Thu, cũng là cháu 5 đời của Hiền vương Nguyễn Phúc Tần. Sự nghiệp Thời vua Tự Đức Năm 30 tuổi (1869), Tôn Thất Thuyết giữ chức Án sát tỉnh Hải Dương. Đến tháng 7 năm 1870, được sung làm Biện lý Bộ hộ rồi sau đó (tháng 11) chuyển sang chức Tán tương giúp Tổng thống quân vụ đại thần Hoàng Tá Viêm "dẹp loạn" ở các tỉnh phía Bắc. Sau chiến dịch này, Tôn Thất thuyết được phong chức "Quang lộc tự khanh" và làm Tán lý quân thứ Thái Nguyên. Kể từ đây, ông chuyên hoạt động quân sự và nổi tiếng dần qua các cuộc giao tranh với những cánh quân chống lại triều đình Huế. Tháng 12 năm 1870, ông chỉ huy đánh dẹp nhóm Đặng Chí Hùng ở Thái Nguyên. Tháng 3 năm 1872, ông cùng Trương Văn Để đánh tan quân Tàu Ô ở Hải Dương, giết chết Hoàng Tề. Tháng 8 năm 1872, ông đánh thắng toán giặc Khách ở Quảng Yên. Tháng 12 năm 1873, ông cùng Hoàng Tá Viêm phục binh tại Cầu Giấy, Hà Nội giết chết viên chỉ huy quân sự trong đợt Pháp đánh miền Bắc lần thứ nhất là đại úy Francis Garnier. Ông muốn thừa thắng tấn công địch nhưng triều đình sai ông triệt binh về Sơn Tây. Tôn Thất Thuyết liền cự tuyệt, buộc triều đình phải cử người đến bàn bạc, ông mới chịu lui binh. Tháng 3/1874 vẫn là Tham tán Đại thần nhưng Tôn Thất Thuyết được phong là Hữu tham tri Bộ binh, tước Vệ Chính Nam. Một tháng sau, ông giữ chức tuần vũ tỉnh Sơn Tây kiêm tham tán Đại thần. Tháng 7 năm 1874, ông cùng Hoàng Tá Viêm đàn áp 2 cuộc nổi dậy của hai sĩ phu Trần Tuấn và Đặng Như Mai. Tháng 3 năm 1875, ông dập tắt được khởi nghĩa ở Cổ Loa, Đông Anh, bắt chém thủ lĩnh trận. Tháng 6 năm 1875, bức hàng nhóm Dương Đình Tín ở Thái Nguyên. Tháng 9 năm 1875, bắt sống được tướng quân Cờ vàng là Hoàng Sùng Anh ở Thái Nguyên.... Với hàng loạt công lao như vậy nên Tôn Thất thuyết được vua Tự Đức cho thăng tiến nhanh. Tháng 3 năm 1872, ông được bổ làm Bố chính tỉnh Hải Dương. Năm 1873 làm Tham tán Đại thần hàm Thị lang Bộ binh, rồi lên thự Tham tri Bộ binh. Tháng 3 năm 1874 vẫn là Tham tán Đại thần nhưng Tôn Thất Thuyết được phong là Hữu tham tri Bộ binh, tước Vệ Chính Nam. Tháng 4 năm 1874, ông giữ chức Tuần Vũ tỉnh Sơn Tây kiêm Tham tán Đại thần. Tháng 3 năm 1875 ông là Tổng đốc Ninh-Thái kiêm Tổng đốc các việc quân Ninh-Thái-Lạng-Bằng. Đến tháng 10 năm 1875 lại được bổ làm Hiệp đốc quân vụ Đại thần, chức tước gần ngang với Tổng thống quân vụ Đại thần Hoàng Kế Viêm. Với thắng lợi vào năm 1881, Tôn Thất Thuyết được phong chức Thượng thư Bộ binh và sang tháng 2 năm 1882 ông kiêm thêm chức Hải phòng sứ Kinh thành Huế. Năm 1883, Tôn Thất Thuyết chính lãnh chức Thượng thư Bộ binh và sau đó được cử vào Cơ Mật Viện vào tháng 6 năm 1883. Vào tháng 10 năm 1875, khi ông đang làm Tổng đốc Ninh-Thái, phái viên Pháp ở Hà Nội đã đề nghị triều đình Huế phải thay người, vua Tự Đức đã bổ ông đi chỗ khác. Từ năm 1876, Tôn Thất Thuyết thường lâm bệnh, muốn thôi đảm đương việc quân và dâng sớ lên vua Tự Đức bày tỏ ý muốn đi tu. Ngày 19 tháng 7 năm 1883, Tự Đức đã triệu tập một số đại để chứng kiến việc ký di chúc truyền ngôi cho Hoàng tử Ưng Chân, đồng thời phong cho Tôn Thất Thuyết làm Đệ tam Phụ chính đại thần sau Trần Tiễn Thành và Nguyễn Văn Tường để giúp cho Ưng Chân kế vị ngôi vua vào tháng 7 năm 1883. Theo nhận xét của vua Tự Đức, Tôn Thất Thuyết "có tài dụng võ, nhưng thiếu lương thiện, không trung thực và hay trốn trách nhiệm. Học hành kém, không nhất quán, nhát gan, đa nghi, dễ làm mất lòng người khác. Hắn phải học nhiều thêm để trở thành một người quân tử" , nhưng vua Tự Đức cũng khen ông là “tướng có uy vũ”, “tài trí đáng khen”, “không phải là cuồng dũng như Ông Ích Khiêm, ít học như Trương Văn Để, cho nên Lê Tuấn cũng từng khen là biết lễ”. Vậy nên lúc sắp mất, Tự Đức vẫn tin tưởng trao trọng trách Phụ chính Đại thần cho ông. Thời vua Dục Đức, vua Hiệp Hòa Chỉ sau ít ngày giữ chức Phụ chính đại thần, Tôn Thất Thuyết đã cùng Nguyễn Văn Tường phế lập vua Dục Đức để đưa Hiệp Hòa lên ngôi. Vua Dục Đức bị giam vào ngục cho đến chết. Từ lúc về Huế tham dự triều chính, đặc biệt là sau ngày vua Tự Đức mất, Tôn Thất Thuyết đã nỗ lực biến triều đình Huế thành trung tâm đầu não chống Pháp. Sáng ngày 20/3/1883, hơn 1.000 quân Pháp đổ bộ và chiếm được cửa Thuận An. Nghe tin Thuận An thất thủ, vua Hiệp Hòa phải cử người đến xin người Pháp đình chiến và buộc các tướng lĩnh rút lui và nhổ các vật cản trên sông Hương. Quyết định nghị hòa của vua Hiệp Hòa tạo ra sự bất mãn trong hàng ngũ quan quân chủ chiến, nhưng họ đành bất lực. Tôn Thất Thuyết phản ứng bằng cách đem cờ và ngự bài binh sự trả lại cho nhà vua, còn Ông Ích Khiêm thì hậm hực rút quân bản bộ (chừng 700 người). Hiệp ước Harmand được vua Hiệp Hòa phê chuẩn ngày 25/8/1883, gồm 27 điều khoản công nhận người Pháp có quyền bảo hộ lãnh thổ và kiểm soát về mặt ngoại giao của triều đình. Đây được coi là văn bản đầu hàng chính thức của nhà Nguyễn và Việt Nam chính thức bị thực dân Pháp đô hộ. Vua Hiệp Hòa còn nghe theo Khâm sứ De Champeaux, cử người ra Bắc để triệu hồi các võ tướng đang trấn giữ ở nơi đó về kinh. Những việc làm mang tính đầu hàng Pháp của nhà vua đã khiến nhiều người thêm phẫn nộ. Các tướng như Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản, Ngô Tất Ninh... đều không tuân lệnh vua và đều ở lại để cùng nhân dân tiếp tục kháng Pháp. Tháng 8/1883, Tôn Thất Thuyết được thăng chức Điện tiền tướng quân, Hiệp biện Đại học sỹ, tước Vệ Chính bá. Nhưng do phản đối Hiệp ước Harmand, ông đã bị Hiệp Hoà đổi sang làm thượng thư bộ Lễ rồi thượng thư bộ Lại. Do không chấp nhận chủ trương đầu hàng người Pháp của vua Hiệp Hòa, ông đã cùng các đại thần tiếp tục phế bỏ và bức tử vua Hiệp Hòa vào cuối tháng 11 năm đó, rồi lập người con nuôi khác của vua Tự Đức là Kiến Phúc lên ngôi. Ông giữ lại chức thượng thư bộ Binh. Vua Kiến Phúc lên ngôi ngày 2/12/1883, tạo điều kiện cho phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết đứng đầu củng cố thế lực, tăng cường lực lượng quân sự ở các tỉnh và kinh đô, cũng như củng cố hệ thống sơn phòng ở các tỉnh miền Trung và các tỉnh phía Bắc. Trong triều đình Huế, tất cả những quan từng có quan hệ mật thiết với Pháp đều bị ông tìm cách trừ bỏ. Nhưng ông phải nhẫn nhịn để Kiến Phúc ký Hòa ước Giáp Thân (6 tháng 6 năm 1884) vì cần có thêm thời gian củng cố lực lượng. Vào đầu tháng 8 năm 1884, sau khi vua Kiến Phúc lâm bệnh băng hà, việc đưa Hàm Nghi lên ngôi cũng xuất phát từ mục tiêu của Tôn Thất Thuyết nhằm hướng triều đình theo chủ trương chống Pháp. Đến lúc Hàm Nghi lên ngôi, Tôn Thất Thuyết mới thực sự kiểm soát triều đình đã không còn thực quyền nhằm tháo gỡ những ràng buộc mà người Pháp đang thiết lập lên An Nam. Người Pháp cũng đã công nhận "triều đình An Nam đã biểu dương một thái độ không hèn" và "thái độ ấy do Hội đồng Phụ chính đề ra". Từ đó, Tôn Thất Thuyết trở thành đối tượng cần thanh trừng hàng đầu của người Pháp. Thời vua Hàm Nghi Dưới thời vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết thực sự trở thành cái gai mà người Pháp muốn nhổ ngay lập tức. Đầu tháng 1 năm 1884, Tôn Thất Thuyết lập đội quân Phấn Nghĩa và giao cho Trần Xuân Soạn trực tiếp chỉ huy để sẵn sàng ứng phó khi có sự cố. Ngày 2/7/1885, tướng Pháp là De Cuorcy đã mang 3 đại đội bộ binh, 1 phân đội lính bộ truy kích, 1 đội kèn, tổng cộng 19 sỹ quan, 1.024 lính và 2 tàu chiến đến cảng Thuận An - Huế. Ngày 3/7/1885, De Courcy yêu cầu hội kiến với các Thượng thư của Triều đình Huế và Cơ Mật viện để bàn chi tiết lễ chuyển giao hiệp ước Patenôtre, đồng thời nhân cơ hội này để bắt Tôn Thất Thuyết. Nhưng âm mưu của De Courcy bị lộ, Tôn Thất Thuyết cáo ốm không có mặt. Do âm mưu bắt Tôn Thất Thuyết không thành, De Courcy liền đưa yêu sách là đòi triều đình Huế nội trong ba ngày phải nộp tiền chiến phí. Sự khiêu khích của Pháp đối với triều đình Hàm Nghi đã đến cực điểm. Phong trào Cần Vương Trong tình thế luôn bị thực dân Pháp muốn loại bỏ, không thể ngồi khoanh tay nhìn đất nước chịu nhục, ông đã ra tay trước để giành thế chủ động bằng cuộc tấn công Pháp tại Huế vào đêm 4 tháng 7 năm 1885, khi quân Pháp đang mở tiệc chiêu đãi thì Tôn Thất Thuyết cho quân đánh úp vào trại lính và của Tòa Khâm sứ Pháp. Ông bí mật chia quân doanh làm hai đạo, một đạo do Tôn Thất Lệ, em ruột ông chỉ huy vượt sông Hương đánh úp Tòa Sứ Pháp, còn ông sẽ chỉ huy đạo thứ hai đánh úp doanh trại Pháp ở trấn Bình Đài (Mang Cá). Một giờ sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh nổ súng vào Trấn Bình Đài. Quân Pháp ở Bình Đài phút đầu vô cùng hoảng hốt, nhưng sau đó củng cố lại được và cố thủ đợi trời sáng. Đạo quân Tôn Thất Lệ tấn công Tòa Sứ, đánh nhau giáp lá cà với địch. Quân Pháp tập trung toàn bộ lực lượng để bảo vệ kho đạn và bưu điện. De Courcy khẩn thiết xin viện binh từ ngoài Hải Phòng vào. Đến gần sáng, quân Pháp củng cố được đội ngũ và phản kích trở lại, đánh vào Thành nội. 9 giờ sáng ngày 5/7/1885, Hoàng thành thất thủ. Chiếm được Kinh thành, quân Pháp ra sức đốt phá, cướp bóc, bắn giết. Tất cả các của quý trong Hoàng cung đều bị vét sạch, trụ sở Bộ Binh và Bộ Lại của Tôn Thất Thuyết bị đốt phá tan hoang. Hữu quân đô thống Hồ Văn Hiến và Nguyễn Văn Tường rước vua Hàm Nghi rút ra khỏi kinh thành ở cửa Tây Nam. Hậu quân bảo vệ xa giá là Tôn Thất Thuyết, quân hộ tống xa giá gặp bộ phận đón của Tôn Thất Lệ ở Trường Thi (La Chữ) tổng cộng có hơn 100 người. Sau đó ông đã đưa Hàm Nghi ra Sơn Phòng Quảng Trị, thay mặt vua hạ chiếu Cần Vương. Lời chiếu nhấn mạnh "người giàu đóng góp tiền của, người mạnh khoẻ đóng góp sức lực, người can đảm đóng góp cánh tay, để lấy lại đất nước trong tay quân xâm lược". Hai con trai của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cũng đều là chỉ huy trong phong trào Cần Vương. Cha mẹ, anh em, vợ và con rể của ông cũng tham gia góp sức cho phong trào. Người Pháp treo giải 2000 lạng bạc cho ai nộp đầu Tôn Thất Thuyết và ai bắt được vua Hàm Nghi thì được thưởng 500 lạng bạc. Mặc cho ba bà Thái hậu và nhiều quan lại kêu gọi đầu hàng và quay về triều đình, Tôn Thất Thuyết vẫn tuyên bố: "Về Huế là tự mình đưa chân vào cho ngục thất, mà người cầm chìa khoá là quân Pháp. Thừa nhận Hiệp ước 1884 là dâng nước Nam cho kẻ địch. Đành rằng hoà bình là quý, nhưng không lo khôi phục sẽ mang tiếng là đã bỏ giang sơn của tiền triều dày công gây dựng và còn có tội với hậu thế" Sau khi giúp vua Hàm Nghi xây dựng căn cứ lãnh đạo phong trào kháng Pháp, nhận thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch, vào tháng 2 năm 1886, Tôn Thất Thuyết đã để cho hai con trai là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm tiếp tục phò tá Hàm Nghi chống Pháp, còn mình cùng với Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiều tìm đường cầu viện, vượt Hà Tĩnh rồi Nghệ An, đến tháng 3 năm 1886 ông tới Thanh Hoá. Ông dừng chân tại Cẩm Thủy một thời gian và cùng Trần Xuân Soạn và em ruột Tôn Thất Hàm thảo luận về kế hoạch khởi nghĩa rồi phân Soạn ở lại lo phát triển phong trào. Sau đó ông đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân hội kiến Cầm Bá Thước và ở lại đó cho đến ngày 22 tháng 4 năm 1886. Từ đấy ông qua thượng lưu sông Mã, đến châu Quan Hóa để gặp tù trưởng người Mường là Hà Văn Mao. Điểm dừng chân lâu nhất của ông là vào tháng 6 năm 1886 tại nhà tù trưởng người Thái là Đèo Văn Trị, bởi lẽ lúc này ông mắc bệnh rất nặng, không thể tiếp tục đi được. Ông tiếp tục lên đường đi Vân Nam và đến Quảng Đông vào tháng 2 năm 1887. Ông chủ trương cầu viện nhà Thanh giúp Việt Nam đánh thực dân Pháp. Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt vì thuộc hạ Trương Quang Ngọc phản bội, Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm đều chết khi đang hộ vệ nhà vua. Nhưng cuộc cầu viện bất thành, ông đành tìm các bạn lưu vong như Nguyễn Thiện Thuật, cố gắng liên lạc với phong trào trong nước. Hoạt động tại Trung Quốc Lúc này tại Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị dập tắt, căn cứ của Trần Xuân Soạn bị mất, nên ông Soạn đã vượt biên sang Trung Quốc gặp ông Thuyết tại Quảng Đông. Việc cầu viện nhà Thanh của Tôn Thất Thuyết bất thành, nhưng nhờ vào tình cảm cá nhân của một số quan lại Mãn Thanh chống Pháp nên Tôn Thất Thuyết đã cùng các đồng sự của ông tổ chức liên lạc với các cuộc chống Pháp bên trong nước, mua sắm vũ khí, đạn dược mang về cho nghĩa quân. Tôn Thất Thuyết đã tổ chức đường dây liên lạc với các cuộc khởi nghĩa bên trong nước, quyên góp, chiêu mộ binh dũng. Trâu bò, lúa gạo từ Việt Nam được chuyển sang Trung Quốc và đổi lấy vũ khí đưa về cho nghĩa quân. Hoạt động của Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn ở Quảng Đông rầm rộ đến nỗi quan lại Việt Nam thuộc tỉnh Lạng Sơn hay biết. Tháng 9/1888, tỉnh Lạng Sơn báo cáo về triều đình Đồng Khánh rằng: “Lê Thuyết (tức Tôn Thất Thuyết)và Trần Xuân Soạn, lẻn đến một dải Liên Thành, Bằng Tường nước Thanh nhập bọn với Lương Tuấn Tú và bọn Hoàng Văn Tường thuộc khách tỉnh ấy, cùng nhau tụ họp”, “Lê Thuyết ở nước Trung Hoa, giả làm quan nước Thanh, chiêu mộ binh dũng...”. Việc tiếp tế này duy trì mãi đến năm 1894 thì kết thúc do biên giới Việt - Trung bị khoá. Tống Duy Tân sau khi thất bại ở Thanh Hóa đã sang Quảng Đông gặp ông, nhưng năm 1888 ông lại cử Tống Duy Tân về xây dựng căn cứ chống Pháp ở Hùng Lĩnh. Năm 1889, Tôn Thất Thuyết cử người về Hà Tĩnh và phong cho Phan Đình Phùng làm Bình Trung tướng quân. Hầu hết các tướng lĩnh vùng Đông Bắc và Bắc Kỳ đều có sự liên lạc với Tôn Thất Thuyết. Ông đã tổ chức nhiều hoạt động chống Pháp ở vùng Đông Triều liên tục trong những năm 1891 - 1892. Những năm 1892 - 1895, do bị mất liên lạc trong nước, ông đã xây dựng nhiều toán quân có vũ trang mà chủ yếu là người Hoa và dân tộc thiểu số. Tháng 6 năm 1892, ông đã chỉ đạo cho Lương Phúc đưa quân xâm nhập tổng Hoành Mô thuộc Móng Cái, phát tuyên ngôn dưới danh nghĩa Hàm Nghi để đánh Pháp. Đầu năm 1893, ông đã chỉ đạo cho Vũ Thái Hà tiến vào Bình Hồ cũng thuộc Móng Cái để tấn công Pháp cũng dưới danh nghĩa Cần Vương. Tháng 3 năm 1895, ông cho một đạo quân tiến đánh Cao Bằng, chiếm vùng Lục Khu nhưng bị Pháp đẩy lui. Từ năm 1895, chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, biên giới Việt - Trung bị kiểm soát chặt chẽ, người Pháp yêu cầu nhà Mãn Thanh quản thúc Tôn Thất Thuyết, theo dõi Lưu Vĩnh Phúc nên các hoạt động của ông chấm dứt. Ông bị cấm túc, không được ra khỏi nơi cư trú. Triều đình Mãn Thanh cấp cho ông khoản trợ cấp hàng tháng 60 lạng bạc để hưu trí. Trong những năm cuối đời, ông thường có cơn điên dại và thường múa gươm chém vào những tảng đá trong vườn. Tính khí thất thường của ông trong những năm này khiến những người theo ông dần bỏ về Việt Nam hết. Trong những năm này, do cô quạnh, ông tái giá với một bà góa người Trung Quốc năm 1899. Nhân dân vùng Long Châu, Quảng Đông, Trung Quốc gọi ông là "Đả thạch lão" ("Ông già chém đá"). Ông mất tại Trung Quốc vào ngày 22 tháng 9 năm 1913. Khi ông mất, đại thần nhà Thanh là Lý Căn Nguyên ở Bắc Kinh xót thương ông trung liệt, đã cho xây mộ và dựng bia ông ở Thiên Quang. Nhân sĩ Quảng Châu có câu đối điếu ông: Thù Tây bất cộng đái thiên, vạn cổ anh hồn quy Tượng Quận Hộ giá biệt tầm tỉnh địa, thiên niên tàn cốt kí Long Châu (Thù Tây chẳng đội trời chung, muôn thuở anh hồn về quận Tượng Giúp chúa riêng tìm cõi thác, nghìn năm xương nát gởi Long Châu) Toàn gia yêu nước Gia sản của ông bị tịch biên, gia đình ly tán, còn Tôn Thất Thuyết bị treo làm phần thưởng: nếu ai bắt sống được sẽ thưởng 1.000 lượng bạc, nếu chém chết thì cũng được 800 lượng bạc. Cha ông là Tôn Thất Đính bị bắt tại Quảng Bình khi đang tìm đường theo vua Hàm Nghi, bị đày đi Côn Đảo và mất ngày 5 tháng 7 năm 1893. Mẹ ông là Văn Thị Thu theo hộ giá vua Hàm Nghi đến cùng, nhưng do khí độc rừng rú nên đã chết tại Mường Bò, Hà Tĩnh vào ngày 19 tháng 9 năm 1887. Vợ ông là Lê Thị Thanh cũng theo chồng phò vua, bất chấp khó khăn gian khổ và đã chết tại núi rừng Hà Tĩnh vào ngày 26 tháng 9 năm 1885. Em ruột là Tham biện Sơn phòng Tôn Thất Lệ đã cầm đầu cánh quân tấn công tòa Khâm sứ đêm 5 tháng 7, sau đó hộ giá vua Hàm Nghi và đã hy sinh trong trận đánh ở Mai Lĩnh, Quảng Trị để bảo vệ cho vua chạy thoát. Người em Tôn Thất Hàm, tri huyện Nông Cống cũng đã tích cực tham gia phong trào Cần Vương và đã tuyệt thực chết khi bị bắt đưa vào Đà Nẵng. Người con Tôn Thất Tiệp, cùng tuổi với vua Hàm Nghi đã hy sinh thân mình để bảo vệ vua tại núi rừng Tuyên Hóa. (theo gia phả của nhà cụ Tôn Thất Thuyết thì con trai Tôn Thất Tiệp chứ không phải là Thiệp, và Tôn Thất Đàm chứ không phải là Đạm) Con trai trưởng Tôn Thất Đàm, trụ cột của "triều đình Hàm Nghi" kháng chiến, đã thắt cổ tự tử khi biết tin vua bị bắt sau khi gửi một bài biểu cho vua Hàm Nghi tạ tội đã không bảo vệ được ngài. Con trai Tôn Thất Hoàng bị bắt ở Cam Lộ, Quảng Trị và bị đày lên Lao Bảo, ở đó cho đến chết. Con trai thứ chín Tôn Thất Trọng lúc mới 8 tuổi đã bị Pháp bắt cùng với thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương Quảng Bình là Nguyễn Phạm Tuân (tháng 4 năm 1887) và về sau lại hưởng ứng phong trào Đông Du và mất tích ở nước ngoài. Cha vợ của Tôn Thất Thuyết là Tán tương Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy, chiến đấu đến cùng và khi thất thế đã chạy sang Trung Quốc cùng ông hoạt động. Con rể là Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền cũng tham gia cách mạng. Ông cưới con gái của Tôn Thất Thuyết khi còn chưa đến 20 tuổi, đỗ Hoàng giáp năm 1892, rồi được bổ nhiệm làm việc trong Quốc sử quán. Sau đó ông được cử làm đốc học ở Ninh Bình, rồi Nam Định. Năm 1907, khi Pháp phế truất vua Thành Thái, ông từ quan rồi trốn sang Nhật theo Phan Bội Châu và hoàng thân Cường Để. Như vậy phần lớn gia đình ông đều hy sinh vì nước: Cha Tôn Thất Đính bị lưu đày, mẹ và vợ ông mất nơi rừng núi, hai em trai ông Tôn Thất Hàm, Tôn Thất Lệ cùng hai con ông là Đàm và Tiệp đều anh dũng hi sinh, mấy người con trai thứ và con rể ông là Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền cũng bôn ba ở nước ngoài lo chống Pháp. Gia đình Tôn Thất Thuyết đã được người đời xưng tặng là "Toàn gia yêu nước" Đánh giá Có nhiều đánh giá trái ngược liên quan đến cuộc đời của Tôn Thất Thuyết, xuất phát từ quan điểm của mỗi giai đoạn lịch sử. Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp căm ghét nỗ lực kháng chiến của Tôn Thất Thuyết nên sách báo thời đó chủ yếu là phê phán ông: Nguyễn Nhược Thị, theo quan điểm trung quân của Nho giáo, thì xem việc bỏ Dục Đức, phế Hiệp Hoà, lập Kiến Phúc, tôn Hàm Nghi của Tôn Thất Thuyết là hành động của kẻ "quên lời sách xưa", "chẳng giữ đạo trung", "vì thân", "quyền thần sâu hiểm" Trần Trọng Kim, viết theo quan điểm của thực dân Pháp, thì xem thái độ né tránh tướng de Courcy ở Toà Khâm sứ của Tôn Thất Thuyết là nhát gan và cuộc tấn công Huế sáng ngày 7 tháng 5 năm 1885 ở Kinh thành Huế là "làm loạn". Phan Trần Chúc, cũng viết theo quan điểm của thực dân Pháp, thì xem Tôn Thất Thuyết như người độc đoán hiếu sát, gần như mất nhân tính. Ch. Gosselin (học giả Pháp cuối thế kỷ 19) thì xếp ông vào loại thù địch, kém thức thời và xem việc ông đi Trung Hoa tìm cầu viện là hành vi đào ngũ. Tuy thế, trong bài "Vè Thất thủ kinh đô" được dân gian lưu truyền suốt thời Pháp thuộc, một tác giả ẩn danh đã đứng trên quan điểm của nhân dân Việt Nam, bác bỏ phê phán trong sách báo thực dân Pháp và đề cao Tôn Thất Thuyết như một anh hùng chống ngoại xâm: Nước ta quan Tướng anh hùng Bách quan văn võ cũng không ai tày Người có ngọc vẹt cầm tay, Đạn vàng Tây bắn ba ngày không nao! Tài hay văn vũ lược thao, Khí khái, nhâm độn ra vào rất thông. Bốn bề cự chiến giao công, Tây phiên nói thực anh hùng nước Nam! Một số quan chức Pháp thời đó coi Tôn Thất Thuyết là kẻ thù, nhưng trên tinh thần thượng võ nhà binh thì lại tôn trọng khí phách của ông: “Lòng yêu nước của Tôn Thất Thuyết không chấp nhận một sự thoả hiệp nào. Ông ta xem các quan lại chủ hoà như kẻ thù của dân tộc... Tuy nhiên, dù cho sự đánh giá ông của những người cùng thời thiên vị như thế nào, một đạo đức lớn đã bộc lộ rõ rệt trong mọi hoàn cảnh của đời ông: đó là sự gắn bó kỳ lạ của ông đối với Tổ quốc” Thời đó trong dân gian có câu vè nói về 4 vị tướng chống Pháp: "Nước Nam có bốn anh hùng / Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu!" Bàn luận về đôi câu này, PGS. TS. Đỗ Bang viết: "Sau ngày kinh đô thất thủ, phe thân Pháp và tay sai nắm quyền, các vị này thất thế bị rơi vào thế đối lập chống lại triều đình... Danh dự của các ông bị bôi nhọ, xuyên tạc ngay tại Huế... bia miệng độc ác và nghịch lý nhất là khi đem sự nghiệp của các ông ra làm điều giễu cợt...". Đối với những nhà nghiên cứu lịch sử sau năm 1954, khi nước Việt Nam đã đánh đuổi được thực dân Pháp, thì Tôn Thất Thuyết được ca ngợi là anh hùng dân tộc. Trên tinh thần ca ngợi chủ nghĩa yêu nước chống ngoại xâm, giới sử học đánh giá cao nhân cách Tôn Thất Thuyết, trân trọng tấm lòng yêu nước nhiệt thành của ông, ca ngợi sự kiên trì chống Pháp và tận trung với vua Hàm Nghi của ông. Vua Hàm Nghi xuống dụ Cần Vương kêu gọi sĩ phu yêu nước giúp vua đánh giặc, về mặt danh nghĩa là dụ của vua Hàm Nghi, nhưng ai cũng biết tinh thần linh hồn của cuộc chiến đấu và cả việc khởi thảo dụ Cần Vương là do Tôn Thất Thuyết Việc Tôn Thất Thuyết 2 lần phế vua Nguyễn chỉ trong một thời gian ngắn cũng được giới sử học ngày nay phân tích lại. Ở thời kỳ đó thì đây bị coi là hành vi bất trung, nhưng xét kỹ ra thì đó là "bất trung với vua nhưng tận trung với nước", bởi nếu không làm thế thì nhà Nguyễn sẽ chỉ có một vị vua nhu nhược, cam nguyện phục tùng Pháp như Dục Đức, Hiệp Hòa, chứ không thể tìm ra vị vua có chí hướng kháng chiến như Hàm Nghi để hiệu triệu toàn dân chống Pháp. Việc Tôn Thất Thuyết phế vua bị sách vở của thực dân Pháp và nhà Nguyễn mô tả là do ông có tham vọng cá nhân, "quyền thần sâu hiểm". Sự mô tả mang tính bôi nhọ đó rõ ràng là phi lý, bởi nếu muốn giành quyền lợi của bản thân thì Tôn Thất Thuyết chỉ cần làm một việc đơn giản: cộng tác với thực dân Pháp để cùng khống chế vua Nguyễn và triều đình, rồi sau đó chỉ việc ở Huế hưởng phú quý với sự bảo trợ của Pháp, chứ ông không cần phải mạo hiểm đứng lên chống Pháp, rồi lại phải đưa vua Hàm Nghi bôn tẩu nơi núi rừng, chịu bao gian khổ để rồi cuối cùng cả 3 đời trong gia đình ông đều hy sinh Tuy nhiên một số sai lầm của ông cũng được phân tích: không huy động nhân dân trong cuộc tấn công quân Pháp ở Huế ngày 5 tháng 7 năm 1885, ảo tưởng việc nhà Thanh sẽ giúp Việt Nam chống Pháp, hoạt động đàn áp khởi nghĩa nông dân của ông trong khoảng 10 năm trước khi về Huế cũng khiến ông bị mất đi một phần sự ủng hộ tại địa phương. Theo TS Nguyễn Quang Trung Tiến, Khoa Lịch sử Trường Đại học khoa học Huế, Tôn Thất Thuyết có những tính cách đặc biệt nên khiến người khác có những hiểu lầm: “Theo ghi chép qua các tư liệu lịch sử Tôn Thất Thuyết là người ít nói, nhưng cương quyết, khẳng khái, thích lời ngay thẳng không ưa xu nịnh. Ông có sự quả quyết đôi lúc hơi tàn nhẫn liên quan đến việc trừng trị đối phương. Ngay cả những người trong cung cũng ngại ông. Tuy nhiên, ở cương vị là một vị tướng đem quân đi dẹp các nhóm nổi dậy và ăn cướp hãm hại dân chúng thì không thể nhân nhượng, nhu mì được” Ngày nay tại Việt Nam có hàng trăm đường phố ở khắp các địa phương được đặt theo tên ông để ca ngợi. Phủ thờ Tôn Thất Thuyết vốn là Phủ thờ của dòng họ, được Tôn Thất Thuyết cho xây dựng khoảng năm Tự Đức thứ 19 (1866). Sau ngày Tôn Thất Thuyết mất dòng họ lấy Phủ này làm nơi thờ ông. Di tích Phủ thờ Tôn Thất Thuyết được Nhà nước Việt Nam công nhận là di tích quốc gia ngày 19/10/1994 theo Quyết định số 2754/QĐ-BT. Chú thích
Văn hóa Hòa Bình được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30 tháng 1 năm 1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời kỳ đá cũ đến thời kỳ đá mới. Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Nhưng thời gian gần đây, hoạt động của các nhà khảo cổ học trong suốt từ năm 1975 lại đây đã cho thấy một hướng mới về quan niệm khác về thời đại cũng như không gian của Văn hóa Hòa Bình.Đây là 1 nền văn hoá đã khởi nguồn cho văn minh người Việt mà lan truyền và ảnh hưởng lên xứ phía Bắc. Cơ sở tổng quát Văn hóa Hòa Bình thuộc thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên), trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả phía xứ vùng Đông Nam Á và Nam Trung Quốc. Dựa vào các di chỉ tìm thấy và niên đại của chúng, các nhà khảo cổ chia Văn hóa Hòa Bình thành ba thời kỳ nối tiếp nhau: Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là Di chỉ Thẩm Khương (32.100 ± 150 trước Công Nguyên), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngườm (23.100 ± 300 TCN). Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi Di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TCN). Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I). Lịch sử khám phá Năm 1923, bà Madeleine Colani cùng những người hướng dẫn địa phương khám phá ra một số lượng rất lớn di cốt người và dụng cụ bằng đá, trong một hang đá vôi thuộc tỉnh Hòa Bình. Trong mấy năm liền sau đó, bà liên tục khám phá thêm mười hai hang động trong vùng Hòa Bình, khai quật được một số lượng di vật hiếm thấy. Sau khi phân tích chúng và so sánh liên hệ với đồ đá tìm thấy trong vùng núi Bắc Sơn, bà đề nghị xem toàn thể những di vật đặc biệt bằng đá cuội, với đặc điểm là chỉ được đẽo ở lưỡi hay rìa, là của cùng một nền văn hóa, Văn hóa Hòa Bình hay Hoabinhien. Thời gian kể từ khi phát hiện các dụng cụ bằng đá và bằng xương tại di chỉ thuộc tỉnh Hòa Bình, các nhà khảo cổ còn phát hiện ở rất nhiều địa điểm khắp các quốc gia trong vùng như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Sumatra... cũng có những di tích có các công cụ cùng một ký thuật chế tác. Người ta còn tìm thấy các dụng cụ bằng đá cùng một văn hóa sinh sống ở những nơi xa hơn như Nhật Bản, Đài Loan, Australia... Tại hội nghị "60 năm sau Hoabinhian" tổ chức tại Hà Nội, các nhà khảo cổ học thống nhất quan điểm về thuật ngữ Văn hóa Hòa Bình được xem như một khái niệm để chỉ một nền văn hóa có cùng một kỹ thuật chế tác mà không xem như là nguồn gốc. Các di vật Văn hóa Hòa Bình Tại Việt Nam, hiện có trên 130 địa điểm thuộc nền Văn hóa Hòa Bình, trong đó trên một nửa do các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện trong khoảng thời gian từ 1966-1980. Riêng tỉnh Hòa Bình có 72 di chỉ đã được phát hiện và nghiên cứu. Vào thời kỳ đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học thực sự chưa khám phá đủ số lượng cần thiết và nhiều địa điểm chưa được khám phá, dựa trên các dụng cụ thô sơ chỉ đẽo một mặt nên việc đánh giá các di vật này chưa được chính xác với tầm quan trọng của Văn hóa Hòa Bình. Nhưng đến thập niên 1960 các khám phá khảo cổ gây sự chú ý các nhà khảo cổ học thế giới tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, các đảo nam Thái Bình Dương khiến các nhà tiền sử học đặt lại vấn đề người tiền sử tại Đông Nam Á. Trước hết, nhà khảo cổ người Úc Gorman tìm thấy tại hang Ma (Spirit Cave) ở Thái Lan những dấu hiệu cho thấy người thuộc văn hóa Hòa Bình đã bắt đầu trồng trọt bầu bí sớm hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới, từ cỡ hơn 11 ngàn năm trước. Những năm gần đây, các nhà khảo cổ học đã có những khám phá mang tính đột phá khi quan niệm mới về sự tiện dụng trong vùng Đông Nam Á nhiệt đới cổ xưa không cần hoàn toàn dựa vào các công cụ sinh hoạt và kiếm ăn bằng đá cuội, khi quan sát các bộ lạc còn sót lại và bị biệt lập tại các đảo trong quần đảo Indonesia và tập quán dùng đồ tre, nứa, và các loại mũi tên tẩm độc để săn bắn các con thú lớn, cũng như tập tục ăn sò, ốc biển, ốc nước ngọt, các loại cá sẵn có trong các làn nước ấm. Luận điểm so sánh với các dụng cụ khác ở phương Tây đang được nhiều nhà khoa học xem xét lại. Các di vật chính của thời kỳ Văn hóa Hòa Bình chính (niên đại sớm 12.000 năm cách ngày nay) tại tỉnh Hòa Bình và các tỉnh từ Quảng Bình đến Thái Nguyên là các dụng cụ bằng đá cuội ghè đẽo một mặt, hoặc chỉ phần lưỡi; các mảnh gốm không có hình thù do kỹ thuật nung chưa đạt nhiệt độ cao, đây là di tích đồ gốm xưa nhất của cư dân Văn hóa Hòa Bình cho đến nay đã tìm thấy; các dụng cụ đào bới có cán tra, các vòng trang sức bằng vỏ ốc. Thời kỳ này các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy di cốt người ở vài địa điểm. Di chỉ muộn của Văn hóa Hòa Bình được tìm thấy ở Bắc Sơn (niên đại sớm 5.000 TCN, thuộc Lạng Sơn). Các dụng cụ bằng đá ở đây đã có một trình độ chế tác cao hơn nhiều, lưỡi đá đã được mài sắc, khảo cổ học gọi là "rìu Bắc Sơn". Đồ gốm đã có tiến bộ, kỹ thuật được làm thủ công, cư dân ở đây nặn các dải đất dài, rồi cuộn tròn từ đáy lên miệng và miết kín khe hở, nung gốm bằng chất củi đốt xung quanh. Đồ trang sức bằng đất nung có dùi lỗ và xâu thành chuỗi. Đánh giá Các bằng chứng ngày càng nhiều về một nền văn minh Đông Nam Á đã làm lung lay nhiều thuyết tiền cổ đứng vững nhiều thập kỷ của thế kỷ 20. Người tiên phong trong việc đề xuất hướng mới cho nguồn gốc loài người là Wilhelm G. Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii. Năm 1967, Solheim II cho công bố trên nhiều tài liệu nói về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau... Sau Solheim II, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hồng Kông, Higham ở New Zealand, Pookajorn ở Thái Lan đều thống nhất quan điểm, vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á - Nam Đảo. Và mới đây, Stephen Oppenheimer còn đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh phương Tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đã đến vùng Lưỡng Hà - Trung Đông, mang theo kinh nghiệm trồng trọt, làm đồ gồm và sự tích Đại hồng thủy. Năm 2017, Người Hoà Bình được cho là những nhân tố còn sống xót sau đại sự kiện Đại hồng thuỷ ở cuối kỷ Younger Dryas. Atlantis được xác định là nằm trên tiểu lục địa Sundaland. Chú ý rằng những đánh giá này chưa có cập nhật những thành tựu mới từ cuối thế kỷ 20 đến nay, trong đó có nghiên cứu sinh học phân tử, cho ra bằng chứng mới xác định loài người hình thành từ Châu Phi và phát tán ra khắp thế giới (Out-of-Africa). Nghiên cứu về gen gần đây cho thấy người Việt có thể có nguồn gốc từ Châu Phi. Kết quả nghiên cứu ủng hộ giả thuyết tổ tiên người Việt đã di cư từ châu Phi từ 200.000 năm trước, khoảng 40.000 - 60.000 năm trước đã đến cư trú tại Việt Nam, sau đó tiếp tục di cư lên các nước Đông Á. Kết luận
Vua Việt Nam (chữ Nôm:𤤰越南) là quân chủ của nước Việt Nam độc lập tự chủ từ thời dựng nước đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử mà vua Việt Nam có thể mang tước hiệu khác nhau. Ở trong nước, tước hiệu tự xưng cao nhất là Hoàng đế và thấp hơn là Quốc vương hoặc Quận vương. Khái quát Trong huyền sử, khái niệm vua Việt Nam đã thấy ghi chép từ thời Hồng Bàng (các Hùng Vương với nước Văn Lang), nhưng còn nhiều điểm nghi vấn mơ hồ chưa thể khẳng định rõ ràng. Sau đó, An Dương vương cướp ngôi họ Hùng lập ra nhà Thục với nước Âu Lạc rồi họ Triệu (Triệu Đà) lấy nước của nhà Thục. Thế nhưng, Hồng Bàng thị là dòng dõi Thần Nông thị, Thục Phán An Dương vương là hậu duệ Khai Minh thị còn Triệu Đà cũng là người Hán... Như vậy, những triều đại sơ khai đều có sự nghi vấn gây tranh cãi. Trong ngàn năm Bắc thuộc từng trỗi dậy những chính quyền nhưng thời gian tồn tại chưa được bao lâu đã bị dẹp yên, sự nghiệp chưa ổn định lâu dài nên chưa thể cấu thành triều đại. Từ khi họ Khúc giành lấy quyền tự chủ cho đến hết loạn 12 sứ quân, danh nghĩa Việt Nam vẫn chỉ là một phiên trấn của Trung Quốc với cái tên Tĩnh Hải quân, các nhà lãnh đạo Việt Nam thời tự chủ chỉ ở mức Tiết độ sứ cả trong nước và ngoại giao, đến lúc Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán mới tự xưng Vương. Bắt đầu từ đấy, vua Việt Nam mới chính thức được xác định, tuy nhiên, nhà Ngô vẫn chưa đặt quốc hiệu. Bấy giờ bên Trung Quốc cũng đang loạn to, chính quyền trung ương còn mải lo đánh dẹp nên chưa thể nhòm ngó xuống mạn cực nam, chỉ có nước Nam Hán kế cận thỉnh thoảng xung đột mà thôi. Đến thời nhà Đinh, đối với thần dân trong nước, các vua người Việt đã xưng hoàng đế và đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, gặp lúc nhà Tống cũng mới chấm dứt cục diện Ngũ đại Thập quốc nên sai sứ sang sắc phong vua Đinh làm Giao Chỉ quận vương, từ đó nền quân chủ Việt Nam mới được xác lập. Sau các cuộc tấn công thất bại của nhà Tống, Trung Quốc đã phải công nhận quyền lực của người Việt ở Thăng Long. Nước Việt được xem như một dạng chư hầu đặc biệt mà Trung Quốc không thể sáp nhập bằng vũ lực; nhưng ngược lại, người Việt cũng phải công nhận Trung Quốc là một nước lớn, về phương diện ngoại giao phải chịu lép nhường thần quyền con trời, mạng trời cao hơn cho vua Trung Quốc, tuy vua Việt vẫn có quyền xưng là con trời và vâng mệnh trời cai trị dân đối với dân nước Việt. Vua Việt Nam tự ví mình với Mặt Trời như vua Trung Quốc. Từ đây, mô hình chính trị Trung Hoa đã được Việt hóa và phát triển để khẳng định ngai vua ở Thăng Long là ngai vàng của Hoàng đế nước Nam trị vì "Đế quốc phương Nam" theo mệnh trời. Hệ thống triều đình của các vua nước Việt cũng tương tự các triều đình của vua chúa Trung Quốc, các nghi thức và danh phận của các vị quan cũng tương tự như quan lại Trung Quốc. Các vị vua nước Việt đã sử dụng rất nhiều nghi thức, biểu tượng chỉ dành riêng cho vua Trung Quốc như áo long bào màu vàng có rồng năm móng, giường long sàng, ngôi cửu ngũ, khi chết thì dùng từ "băng hà" và xây lăng có đường hầm dẫn xuống huyệt. Các vua nước Việt được chính thức dùng các nghi thức đặc biệt nhạy cảm với vua Trung Quốc như thờ trời, tế trời ở đàn Nam Giao, được quyền cai quản các thần linh ở nước Việt, được quyền phong chức tước cho các thánh, thần, sông núi ở nước Việt, có lẽ chỉ ngoại trừ vua Đồng Khánh là vị vua Việt Nam duy nhất chịu làm em của một nữ thần mà thôi...; có vua Việt Nam còn mượn cớ đau chân để khỏi quỳ gối trước chiếu chỉ của vua Trung Quốc để chứng tỏ mình không phải là cấp dưới của vua Trung Quốc. Tóm lại, các vị vua của Việt Nam là các vị vua thực sự như các vua Trung Quốc. Các vua Việt Nam đã dùng gần như đầy đủ các nghi thức thần quyền quân chủ dành riêng cho vua chúa Trung Quốc, chỉ có cái khác duy nhất là quyền lực thần quyền này không được phép áp đặt lên dân Trung Quốc, ngược lại, quyền lực thần quyền của vua chúa Trung Quốc cũng không áp đặt được lên vua quan và dân nước Việt, các quan của triều đình Việt Nam thì chỉ tuân lệnh và trung thành với vua Việt Nam mà thôi. Thiên mệnh của vua Trung Quốc chỉ kéo dài đến biên giới Việt – Trung. Theo ý thức thần quyền của hai chế độ quân chủ thì biên giới này do Trời vạch sẵn và được Trời cũng như các thần bảo vệ. Cả hai nước đều ý thức được tầm quan trọng của đường biên giới này trong việc duy trì quyền lực giữa hai nước và đã giữ được sự cố định truyền thống của nó trong một thời gian rất dài trong lịch sử. Quan hệ triều cống với Trung Quốc được coi là lựa chọn thay thế duy nhất cho đối đầu, chiến tranh hoặc cấm vận kinh tế với giá rẻ nhất. Vì vậy các triều đại phong kiến Việt Nam trên danh nghĩa vẫn là một phiên thuộc của các triều đại phong kiến Trung Quốc, hầu hết các vị vua Việt Nam lên ngôi đều phải chịu sắc phong của Trung Quốc; hoặc phải để vua Trung Quốc hợp thức hóa vương vị và thần quyền của mình như vua Quang Trung. Vào lúc loạn lạc thay đổi triều đại ở Việt Nam là cơ hội tốt để các triều đại quân chủ và phong kiến phương Bắc mượn cớ giúp vua triều trước, không chịu sắc phong cho vua mới hoặc đem quân qua can thiệp nhằm chiếm đóng và đô hộ lâu dài nước Việt như thời nhà Minh, nhà Thanh. Một số vua khác chỉ trị vì trên danh nghĩa, quyền lực thực sự lại nằm trong tay các vị chúa hoặc các đại thần và phe cánh, hầu hết các vị vua đều được biết bằng miếu hiệu hoặc thụy hiệu và tôn hiệu vắn tắt, những trường hợp vị quân chủ chỉ đặt một niên hiệu trong thời gian tại vị thì sẽ được biết đến bằng niên hiệu. Có những vị vua tuy thực tế cầm quyền nhưng sau thất bại cho nên không được các sử gia phong kiến công nhận, vì theo quan điểm thời đó họ chỉ là phản tặc hoặc nghịch thần, do đó họ chỉ được gọi theo tước hiệu khi chưa lên ngôi, tước hiệu sau khi bị mất ngôi hoặc gọi thẳng tên huý. Đối với Trung Quốc thì vua Việt Nam có tước hiệu là: Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ: thời họ Khúc, họ Dương, họ Kiều và nhà Ngô. Giao Chỉ quận vương: thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và giai đoạn đầu nhà Lý. An Nam quốc vương: giai đoạn cuối nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê sơ, giai đoạn sau nhà Lê trung hưng và nhà Nguyễn Tây Sơn. Quyền thự An Nam quốc sự: giai đoạn đầu thời Hậu Lê. An Nam Đô thống sứ: thời nhà Mạc và giai đoạn đầu nhà Lê trung hưng (khi triều đại này đã khôi phục Thăng Long). Việt Nam quốc vương: giai đoạn đầu nhà Nguyễn. Sau đây là danh sách vị vua Việt Nam từ khi hình thành nhà nước đến hết thời kỳ quân chủ. Trong danh sách này, ngoài những vị vua còn liệt kê một số nhân vật không phải vua nhưng đã nắm giữ thực quyền cai trị tối cao lãnh đạo đất nước như: các vị Tiết độ sứ thời tự chủ, các chúa Trịnh và chúa Nguyễn thời Lê trung hưng... Những vị vua tự xưng, dù chế độ chưa thực sự ổn định nhưng do chống ngoại xâm nên cũng bỏ qua sự trung lập mà đưa vào để tôn vinh sự chính thống và độc lập dân tộc: Thời kỳ nguyên sử Hồng Bàng Kỷ Hồng Bàng hiện vẫn còn gây tranh cãi về tính chính xác và thời điểm xuất hiện. Do đó giai đoạn này được xem có tính hư ảo nhiều hơn. Nhà Thục (257–208 TCN, hoặc 207–179 TCN) Nhà Triệu (204–111 TCN) Nhà Triệu là triều đại đầu tiên được xác nhận hoàn toàn về tính lịch sử, . Hiện trường hợp này vẫn còn đang tranh cãi, đa phần thư tịch cổ đều tính từ khi nhà Hán diệt nước Nam Việt là thời Bắc thuộc, tuy nhiên gần đây có sách lại tính từ khi Triệu Đà diệt nước Âu Lạc đã bắt đầu thời Bắc thuộc. Vì người Trung Quốc cũng không coi chính thể này là triều đại của họ mà chỉ chép phụ vào phần liệt truyện, cho nên tạm thời vẫn liệt kê ở đây như một triều đại nối tiếp hợp pháp của Việt Nam như nhà Nguyên và nhà Thanh ở Trung Quốc. Bắc thuộc lần I, II và III Trưng Nữ Vương (40–43) Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ngắn ngủi chưa kịp ổn định đã bị diệt vong, tuy nhiên vì do phụ nữ lãnh đạo, hơn nữa lại chống ngoại xâm nên cũng được sử sách đưa vào thành một triều đại của Việt Nam. Nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương (544–603) Theo các thư tịch cổ Trung Quốc (Lương thư, Trần thư và Nam sử) và Việt Nam (trước thời Lê sơ) thì Lý Bí bị Trần Bá Tiên đánh bại và nhà Tiền Lý chấm dứt, nước Vạn Xuân vẫn thuộc nhà Lương và nhà Trần nối tiếp quản lý, sau này Lý Phật Tử nổi dậy chống nhà Tùy là chính quyền khác nhưng tự xưng nối tiếp Lý Bí ngày trước nên gọi là Hậu Lý. Đến khi Ngô Sĩ Liên viết Đại Việt sử ký toàn thư đã cóp nhặt trong dã sử để bổ sung thêm Triệu Việt Vương và Đào Lang Vương, Triệu Việt Vương được Lý Bí truyền ngôi trong hoàn cảnh sắp mất ở động Khuất Lão còn Đào Lang Vương bất phục cũng tự lập nước Dã Năng riêng, như vậy nhà nước Vạn Xuân lúc đó bị phân liệt, đến khi Lý Phật Tử đánh bại Triệu Việt Vương mới thu giang sơn về một mối. Do sau triều đại này bị mất về tay nhà Tùy nên Triệu Việt Vương được các sử gia đời sau công nhận là vua chính thống vì ông còn có công đánh đuổi quân Lương, nếu nhà Hậu Lý tồn tại thêm vài đời nữa mà người viết sử thuộc triều đại đó thì Lý Thiên Bảo sẽ được công nhận là chính thống nối tiếp Lý Bí còn Triệu Việt Vương sẽ thành kẻ tiếm quyền kiểu như Dương Tam Kha xen kẽ giữa nhà Tiền Ngô và Ngô hay Dương Nhật Lễ thay thế nhà Trần mà thôi. Họ Mai (713–723) Chính quyền họ Mai cũng là cuộc khởi nghĩa chưa kịp ổn định, sử sách chỉ ghi chép vài dòng sơ sài nhưng vì tôn vinh vấn đề chống ngoại xâm nên cũng được liệt vào danh sách vua Việt Nam. Họ Phùng (766–791) Thời kỳ tự chủ lần thứ nhất Họ Khúc (905–923) hoặc (905–930) Thời kỳ tự chủ lần thứ hai Họ Dương (931–937) Họ Kiều (937–938) Thời kỳ độc lập Chống Bắc thuộc lần IV Thực ra nhà Hậu Trần là một cuộc khởi nghĩa thất bại, chưa ổn định chỉ mang tính chất cục bộ nhưng do đề cao việc chống giặc ngoại xâm cho nên sử sách bỏ qua sự trung lập mà vẫn xem như một triều đại. Khởi nghĩa Lam Sơn (1418–1427) Thời kỳ tái độc lập Thời kỳ chia cắt Niên biểu Lê Trung hưng - Chúa Trịnh - Chúa Nguyễn Thời kỳ tái thống nhất và Pháp thuộc cho đến khi chế độ phong kiến sụp đổ Thái thượng hoàng Thái thượng hoàng có nghĩa là vua cha bề trên, có trường hợp chỉ gọi là thượng hoàng để có nghĩa rộng hơn (vua bề trên). Tùy từng hoàn cảnh lịch sử, thực quyền của thượng hoàng khác nhau. Thượng hoàng có thể giao toàn quyền cho vua hoặc vẫn nắm quyền chi phối việc triều chính; hoặc có thể thượng hoàng chỉ mang danh nghĩa, có những vị không ở ngôi vua ngày nào nhưng do có con làm vua nên cũng được tôn xưng là Thái thượng hoàng. Đối với các vị chúa, khi nhường ngôi sẽ được tôn xưng là Thái thượng vương. Thông thường, thượng hoàng là cha vua, nhưng có các trường hợp không phải như vậy: Thượng hoàng Trần Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Duệ Tông, Duệ Tông mất lại lập cháu gọi bằng bác là Phế Đế; Thượng hoàng Mạc Thái Tổ truyền ngôi cho con là Thái Tông, Thái Tông mất sớm lại lập cháu nội là Hiến Tông; Thượng hoàng Lê Ý Tông là chú của vua Lê Hiển Tông. Ngoài 7 Thượng hoàng nhà Trần từ Trần Thừa tới Nghệ Tông cùng Hồ Quý Ly, Mạc Thái Tổ, các Thượng hoàng còn lại trong lịch sử Việt Nam đều không tự nguyện làm Thượng hoàng mà do sự sắp đặt của quyền thần trong triều. Trong lịch sử Việt Nam, duy nhất có trường hợp Thái thượng hoàng, vua, Thái thượng vương và chúa cùng tồn tại trong khoảng 20 năm giai đoạn Cảnh Hưng cuối thời Hậu Lê. Đó là: Thái thượng hoàng Lê Ý Tông (1740–1759), vua Lê Hiển Tông (1740–1786), Thái thượng vương Trịnh Dụ Tổ (1740–1762) và chúa Trịnh Nghị Tổ (1740–1767). Quê hương và kinh đô các triều đại Những chính thể tự trị và ly khai Ngoài những triều đại chính thống, trong lịch sử Việt Nam còn xuất hiện những chính quyền tự chủ và tự lập. Họ là những triều đại không chính thức, có khi chỉ là 1 viên quan địa phương nổi lên hình thành thế lực cát cứ, hoặc là những người dân thường dựng cờ khởi nghĩa, thậm chí là các vương tôn hoàng thân quốc thích tranh chấp ngai vàng trong hoàng tộc nên tạo phản. Vì chính quyền của họ chưa thực sự vững mạnh hoặc chưa đủ điều kiện để thiết lập nên triều đại nên họ chỉ bị coi là giặc cỏ, là quân phiệt cát cứ, hay là quyền thần thế tập nhưng sự tồn tại của họ cũng là một nhân tố không thể thiếu trong dòng chảy lịch sử. Cũng có người đã xưng đế xưng vương đặt ra quốc hiệu, cũng có kẻ xưng công hầu khanh tướng, có người mới chỉ làm thủ lĩnh một vùng nhưng trên thực tế họ ít nhiều đã nắm quyền hành cai quản đất nước hoặc những khu vực địa lý nhất định chẳng khác gì một vương quốc độc lập. Ngoài ra còn có những khu vực tự trị của dân tộc thiểu số do các lãnh chúa người bản xứ cai trị, tuy danh nghĩa là thuần phục triều đình trung ương nhưng trên thực tế họ cũng có bộ máy cai trị và luật lệ riêng. Vua các quốc gia cổ Ngoài những triều đại của người Kinh ra, trên dải đất Việt Nam hiện tại còn tồn tại nhiều quốc gia cổ đại do người dân tộc thiểu số sáng lập ra như các triều đại Chăm Pa: Hồ Tôn Tinh, Việt Thường thị, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, Panduranga-Chăm Pa, Thuận Thành trấn. Các tiểu quốc của người thiểu số ở Tây Nguyên: Thủy Xá - Hỏa Xá, Tiểu quốc J'rai, Tiểu quốc Mạ, Tiểu quốc Adham... Những quốc gia này cũng có vị trí rất quan trọng trên vũ đài chính trị, và họ cũng tranh đấu với các triều đại người Việt suốt hàng ngàn năm, cuối cùng họ bị đồng hóa. Họ có nền văn hóa và bản sắc dân tộc riêng không ảnh hưởng gì đến nền văn minh Trung Hoa, bởi lãnh thổ của họ đã hoàn toàn thuộc về Việt Nam nên vua của họ cũng cần được xem là một phần lịch sử Việt Nam. Rất tiếc, ngoại trừ vương quốc Chăm Pa, các tiểu quốc khác do sử liệu không nhiều nên thông tin về các vị vua hầu như không có nên không thể lập danh sách riêng. Ngoài ra còn có trường hợp Phù Nam và Thủy Chân Lạp ở Nam Bộ nhưng vùng đó chỉ là một phần lãnh thổ của hai đế chế này, do đó không hẳn vua của hai chính thể đó là vua Việt Nam mà chỉ có mối liên đới nhất định mà thôi.
Mắt người là một cơ quan đáp ứng với ánh sáng và có nhiều chức năng khác nhau. Là một cơ quan cảm giác, mắt ở lớp thú tạo ra một điều kiện cần của thị giác. Các tế bào que và nón trong võng mạc cho phép sự cảm nhận ánh sáng và khả năng nhìn có ý thức bao gồm phân biệt màu sắc và cảm nhận về chiều sâu. Mắt người có thể phân biệt 10 triệu màu khác nhau và nhiều khả năng là có thể nhận biết một photon đơn lẻ.Giống như mắt của các loài thú khác, các tế bào hạch thần kinh nhạy sáng không tạo ảnh ở võng mạc mắt người nhận tín hiệu ánh sáng để điều chỉnh kích thước đồng tử, sự điều tiết và kiềm chế hoócmôn melatonin và sự đồng bộ của đồng hồ sinh học cơ thể Mắt người là một phần của não hình thành từ tuần thứ ba của phôi kỳ dưới dạng hai túi thị nguyên thủy, phát triển và lồi dần ra phía trước tạo thành võng mạc, thủy tinh thể và các thành phần hoàn chỉnh khác. Con người có khả năng dùng mắt để liên hệ, trao đổi thông tin với nhau thay lời nói. Trong văn học, mắt thường được gọi là cửa sổ tâm hồn. Mô tả cơ thể học [[Tập tin:Eyesection.gif|nhỏ|350px|Cấu tạo giải phẫu học của mắt người: Chú thích: Ciliary: Cơ mắt, Muscle: Đường mật, Fibers: Sợi, Retina: Giác mạc, Vitreous Hurnor, Central pit: Võng mạc, Aqueous Humor: Hố trung tâm, Iris: Thủy dịch, Crystalline: Kết tinh, Lens: Ống kính, Blind Spot: Phao mù (điểm mù), Human Eye Section view: Thần kinh thị giác, Optic Nerve: Mống mắt. (Blind Spot là điểm mù)]]Mắt người nằm trong hai lỗ hốc hai bên sống mũi, trên có gò lông mày và trán, dưới giáp xương má. Màng mạc bọc xương của hốc mắt nối tiếp bên sau với màng cứng của não, bọc theo dai dây thần kinh thị giác. Bên ngoài có hai mí mắt khi nhắm lại che kín hốc mắt. Mí trên có lông mi dài cong, lông mi của mí dưới ít hơn và ngắn hơn. Bên trong hốc mắt có các tuyến nước mắt, các bắp thịt di chuyển mắt, trong cùng là các mô mỡ chêm đệm không cho mắt bị kéo vào phía sau bởi các bắp thịt. Tròng mắt là một hình cầu, lớp củng mạc phía ngoài, màu trắng đục (tròng trắng), phía trước bọc bởi một lớp trong gọi là kết mạc. Giác mạc nối tiếp củng mạc lồi ra phía trước, trong suốt để lộ phía trong cầu mắt, tạo thành tròng đen. Bên sau giác mạc theo thứ tự từ ngoài vào trong là khối lỏng thủy dịch, vòng cơ mi (con ngươi), thủy tinh thể nằm trong trung tâm phía sau cơ mi, khối lỏng dịch thủy tinh, và sau cùng, lót phía trong cầu mắt là võng mạc, nơi ánh sáng tác động lên nhiều đầu dây thần kinh hình nón và hình gậy. Những dây thần kinh tụ lại tại một điểm ra phía sau cầu mắt theo dây thần kinh thị giác vào não. Vì điểm này của võng mạc không có dầu thần kinh đón nhận ánh sáng nên gọi là điểm mù. Ánh sáng đi qua thủy tinh thể hội tụ rõ nhất tại hoàng điểm (điểm vàng) trên võng mạc. Cầu mắt di động nhờ sức kéo của 6 bắp thịt: 4 cơ trực - trên, dưới, ngoài, trong; 2 cơ chéo - trên và dưới. Hai cơ trực ngoài và trực trong chỉ đơn giản quay ra ngoài vào trong. Cơ trực trên quay cầu lên và chếch vào trong một chút, cơ chéo dưới, quay lên và ra ngoài một chút. Hai cơ này có tác động chung là đưa hướng nhìn lên (tác động ngoài-trong bị khử nhau). Tương tự, cơ trực dưới quay cầu xuống vào trong một chút, cơ chéo trên quay xuống và ra ngoài một chút. Hai cơ có tác động chung là nhìn xuống (Khi xét nghiệm hai cơ trực trên và dưới nên bảo bệnh nhân nhìn vào trong một chút để tránh tác động của hai cơ chéo. Tương tự, khi xét nghiệm hai cơ chéo trên và dưới nên bảo bệnh nhân nhìn ra ngoài một chút để tránh tác động của hai cơ trực). Vật lý quang học thị giác Hệ thống thần kinh thị giác Phản xạ của mắt Một số phản xạ của mắt dùng trong xét nghiệm lâm sàng:Phản xạ ánh sáng - khi chiếu ánh sáng vào mắt, con ngươi thu nhỏ lại. Vòng phản xạ: ánh sáng chiếu vào bộ phận nhận sáng, chạy theo dây thần kinh thị giác (thần kinh sọ 2) vào nhân pretectal trong não giữa - sau đó chạy tắt (không qua trung tâm thị giác) vào nhân Edinger-Westphal - tiếp theo chạy trở ra dây thần kinh vận nhãn chung (thần kinh sọ 3), vào hạch thần kinh mi, chuyền vào làm co cơ mi - thu nhỏ con ngươi. Xem hoạt hình Phản xạ điều tiết - khi nhìn theo vật từ xa đến gần, con ngươi thu nhỏ lại và thủy tinh thể dày lên tăng đo hội tụ.Phản xạ mi' - khi dùng bông gòn chạm nhẹ vào củng mạc, mi nhắm lại. Các biểu hiện ở mắt trong chẩn đoán lâm sàng Giang mai - Con ngươi Argyll Robertson - ngươi nhỏ, còn phản xạ điều tiết nhưng mất phản xạ ánh sáng - do giang mai não bộ. Rối loạn giáp trạng - tăng giáp làm mắt lộ, mí trên nhắm chậm; giảm giáp làm rụng phần ba lông mày bên ngoài, húp hai mí Bệnh Wilson - vòng Kayser-Fleischer do chất đồng đọng trong màng Descemet của giác mạc Vàng da - củng mạc ngả vàng rõ trước khi vàng da Thiếu hồng cầu - kết mạc nhợt nhạt Rối loạn mỡ máu - ban vàng quanh mắt Hội chứng Horner - mí trên sụp, con ngươi nhỏ Nháy mắt - Hiện tượng mắt mỏi, mắt yếu hoặc điềm báo vận mệnh Các bệnh về mắt Lé mắt Cận thị Viễn thị Mắt lão Mắt hột Mụt lẹo Cườm thủy tinh thể mắt Tăng nhãn áp Glôcôm Bệnh võng mạc Viêm giác mạc Quáng gà Loạn thị Mù màu Khiếm thị Chẩn học bằng Mống mắt Khoa học mống mắt (tiếng Anh: Iridology'') là ngành chẩn đoán chưa được y học công nhận, chẩn đoán bệnh dựa theo thay đổi về hình thái, màu sắc của mống mắt. Y sĩ ngành này chỉ chẩn khám nhưng không chữa trị, thường nhờ điều trị do y sĩ các ngành khác như y học tự nhiên. Y sĩ mống mắt hành nghề tại châu Âu, Anh quốc nhiều hơn tại Hoa Kỳ.
Tôn Thất Tiệp (chữ Hán: 尊室詥, 1870-1888) là con trai thứ của Tôn Thất Thuyết. Cùng anh trai Tôn Thất Đàm, ông là một trong những chỉ huy của phong trào Cần Vương.. (theo gia phả nhà cụ Tôn Thất Thuyết thì hai con trai của ông là Tôn Thất Tiệp và Tôn Thất Đàm chứ không phải là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm) Ngày 4 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết cho quân đánh úp vào trại lính và Tòa Khâm sứ Pháp nhưng thất bại. Vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết chạy ra thành Quảng Trị, sau đó lên Sơn Phòng Tân Sở rồi về vùng Tuyên Hóa, Quảng Bình. Tại Tân Sở vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương. Tôn Thất Đàm cùng Tôn Thất Thiệp được cha giao cho nhiệm vụ bảo vệ vua Hàm Nghi. Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị một thuộc hạ là Trương Quang Ngọc làm phản đem quân tới bắt. Tôn Thất Tiệp bảo vệ vua và bị giết chết trước mặt vua Hàm Nghi ngày 1 tháng 11 cùng năm tại Tuyên Hóa. Khi đó ông mới 18 tuổi. Tại Hà Nội, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh có những con đường được mang tên ông.
Tôn Thất Đàm (1864 – 1888) là một trong những người chỉ huy của phong trào Cần Vương (1885 - 1896), với mục đích giúp vua cứu nước, khôi phục lại chế độ phong kiến Việt Nam. Thân thế Tôn Thất Đàm quê ở xã Xuân Long, thành phố Huế, là con trai trưởng của Tôn Thất Thuyết, anh trai của Tôn Thất Tiệp. Cuộc đời Ngày 4 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết cho quân đánh úp vào đồn Mang Cá và Tòa Khâm sứ Pháp nhưng thất bại. Vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết chạy ra thành Quảng Trị, sau đó lên Sơn Phòng Tân Sở rồi về vùng Tuyên Hoá, Quảng Bình. Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương. Tôn Thất Đàm nhận chức Khâm sai Chưởng lý quân vụ đại thần, thay cha điều hành triều đình Hàm Nghi. Ông cùng Tôn Thất Tiệp được cha giao cho nhiệm vụ bảo vệ vua Hàm Nghi trong khoảng thời gian từ tháng 2 năm 1886 đến tháng 10 năm 1888. Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị thuộc hạ cũ là Trương Quang Ngọc dẫn theo bọn Nguyễn Định Trình, Cao Viết Lượng gồm hơn hai mươi tên tới bắt. Tôn Thất Tiệp bảo vệ vua và bị giết chết. Tôn Thất Đàm đã tự sát vào ngày 15 tháng 11 năm 1888 khi hay tin vua Hàm Nghi bị lọt vào tay quân Pháp. Có nguồn cho rằng khi vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Đàm đang đóng quân ở Hà Tĩnh. Nghe tin, ông viết cho Hàm Nghi một bức thư tạ tội đã không bảo vệ được vua. Và một bức thư cho Thiếu tá Dabat, đóng ở đồn Thuận Bài xin cho thủ hạ ra đầu thú về làm ăn. Sau đó ông thắt cổ tự vẫn ở chùa Vàng Liêu (Hương Khê, Hà Tĩnh). Tưởng nhớ Tên ông được đặt cho các con đường ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, Nam Định. Tuy nhiên, con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh bị ghi sai thành Tôn Thất Đạm. Phố Tôn Thất Đàm (Ba Đình, Hà Nội) là nơi đặt trụ sở Bộ Ngoại giao Việt Nam. Trên đường Tôn Thất Đạm (phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) có một tòa chung cư cổ được xây từ năm 1886, cùng một ngôi chợ thường được người dân gọi là "chợ quê" hay "chợ nhà giàu". Bên lề Năm 2018, căn nhà của ông được phục dựng trong Bảo tàng nhà Việt ở Điện Bàn, Quảng Nam. Chú thích Người Thừa Thiên Huế Quan lại nhà Nguyễn Võ tướng nhà Nguyễn Thủ lĩnh quân sự phong trào Cần Vương Đàm, Tôn Thất
Lê Quý Đôn (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu (允厚), hiệu Quế Đường (桂堂), là vị quan thời Lê trung hưng, cũng là nhà thơ và được mệnh danh là "nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến". Ở thế kỷ 18, các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có những bộ óc bách khoa, Lê Quý Đôn với học vấn uyên bác của mình đã trở thành người "tổng hợp" mọi tri thức của thời đại. Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị mối mọt ăn mất. Thân thế và sự nghiệp Ông sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2 tháng 8 năm 1726) tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721) và làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Ông Lê Trọng Thứ sinh năm 1694 và có hiệu là Trúc Am. Tổ tiên vốn là họ Lý ở huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc. Vì tránh nạn nên gia đình ông dời về ở xã Vị Dương (nay là huyện Thái Thụy, Thái Bình). Về sau gia đình ông lại đến ngụ cư ở xã Diên Hà, huyện Hưng Hà cùng tỉnh. Mẹ Lê Quý Đôn tên Trương Thị Ích, là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu. Ba lần đỗ đầu Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn là người ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là "thần đồng". Năm lên 5 tuổi, ông đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi. Năm 12 tuổi, ông đã học "khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử". Năm Kỷ Mùi, ông theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Năm 1743 (Quý Hợi, đời vua Lê Hiển Tông), ông dự thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 18 tuổi. Sau khi đỗ Giải nguyên năm 1743, vì không muốn trùng tên với Nguyễn Danh Phương (1690 - 1751), một thủ lĩnh nông dân đang nổi lên chống triều đình, nên ông đã đổi tên là Lê Quý Đôn. Sau đó, ông cưới bà Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Bà là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718). Tuy đỗ đầu khoa thi Hương, nhưng thi Hội mấy lần ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm (1743-1752). Sách Đại Việt thông sử (còn gọi là "Lê triều thông sử") được ông làm trong giai đoạn này (Kỷ Tỵ, 1749).52), ông lại dự thi Hội, và lần này thì đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, ông đỗ luôn Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên nên kể như cả ba lần thi ông đều đỗ đầu. Làm quan Sau khi đỗ đại khoa, năm Quý Dậu (1753), Lê Quý Đôn được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754). Năm Bính Tý (1756), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác "6, 7 viên quan ăn hối lộ". Tháng 5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ Chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên). Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa... rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất. Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này ông viết Quần thư khảo biện. Đi sứ nhà Thanh Năm Kỷ Mão (1759), vua Lê Ý Tông mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Trần Huy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc) báo tang và nộp cống (1760). Trên đường sang Yên Kinh (nay là Bắc Kinh), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của Đại Việt là "di quan, di mục" (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối, từ đấy họ mới gọi là "An Nam cống sứ". Việc đáng kể nữa trong chuyến đi sứ này đó là ông đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến thăm. Đặc biệt, khi đến làm lễ ở điện Hồng Lô, Lê Quý Đôn gặp đoàn sứ thần Triều Tiên do Hồng Khải Hi (洪启禧 - 홍계희) đứng đầu (còn có Triệu Vinh Tiến 趙榮進 và Lý Huy Trung 李徽中). Sau đó, ông đã làm thơ với họ và cho họ xem ba tác phẩm của mình là Thánh mô hiền phạm lục, Quần thư khảo biện và Tiêu Tương bách vịnh. Tài văn chương và ứng đáp của ông làm cho họ "phải tôn trọng", "phải khen ngợi". Một trong số các bài thơ Lê Quý Đôn giao lưu với các sứ thần Triều Tiên: Biên soạn sách Trở về nước (Nhâm Ngọ, 1762), ông được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các để duyệt kỹ sách vở, Ngô Thì Sĩ giữ chức Chính tự. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết rằng: Bổ dụng Nguyễn Bá Lân và Lê Quý Đôn sung làm học sĩ trong Bí thư các, để duyệt kỷ sách vở, chọn người có văn học là bọn Ngô Thì Sĩ sung giữ chức chính tự trong các. Năm Quý Mùi (1763), ông viết Bắc sứ thông lục. Trong khoảng thời gian 10 năm (1763-1772), Lê Quý Đôn nhiều lần được cử coi thi Hội. Năm Giáp Thân (1764), ông dâng sớ xin thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ "đã quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật", nhưng không được chúa nghe. Cũng trong năm đó, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương (Ất Dậu, 1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu. Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục viết rằng: Tháng 6, mùa hạ. Lê Quý Đôn, tham chính Hải Dương bị bãi. Từ khi sang sứ nhà Thanh trở về nước, rồi bổ làm tham chính Hải Dương, Quý Đôn tự giãi bày chín tội, nhưng thực ra là tự kể công lao của mình. Theo Phan Huy Chú, lời sớ đại khái rằng: "Tấm thân từng đi muôn dặm còn sống về được, lại gặp cảnh vợ chết, con thơ phiêu bạt chỗ giang hồ, thần thực không thích làm quan nữa, xin cho về làng". Được chấp thuận, ông trở về quê "đóng cửa, viết sách". Cũng theo Phan Huy Chú, năm 1760, cha vợ ông Đôn là Lê Hữu Kiều mất. Năm sau (1761), vợ ông Đôn là Lê Thị Trang (sinh năm 1733) cũng mất vì bệnh lao khi chưa đầy 30 tuổi, và đã có sáu con. Theo nhà nghiên cứu Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý Đôn từ quan là vì thấy nhà chúa mỗi ngày thêm sa đà vào các việc vui chơi, muốn bổ ông đi trấn cõi ngoài để không còn phải nghe những lời can ngăn của ông, chứ không hẳn là vì nỗi buồn riêng về vợ con. Đầu năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi. Nghe theo lời tâu của Nguyễn Bá Lân, chúa cho triệu Lê Quý Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám, lên vua Lê Hiển Tông đọc. Tháng 9 năm đó, ông được cử làm Tán lý quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu) đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa. Năm Mậu Tý (1768), ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh. Năm Kỷ Sửu (1769), ông dâng khải xin lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa. Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ kiêm Thiêm đô Ngự sử. Mùa thu năm ấy, ông và Đoàn Nguyễn Thục nhận lệnh đi khám duyệt hộ khẩu ở xứ Thanh Hóa. Xong việc trở về, ông tâu xin tha bớt các thuế thổ sản, thủy sản cho các huyện và thuế thân còn thiếu. Chúa Trịnh liền giao cho triều đình bàn và thi hành. Ít lâu sau, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại. Khi lãnh trọng trách này, ông có tâu trình lên bốn điều, được chúa khen ngợi, đó là: Sửa đổi đường lối bổ quan. Sửa đổi chức vụ các quan. Sửa đổi thuế khóa nhà nước. Sửa đổi phong tục của dân. Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục viết rằng: "Trước kia, Quý Đôn làm phó đô ngự sử, thường dùng số bạc đút lót trong khi xét kiện để dâng chúa Trịnh, bèn được thăng chức Hữu thị lang bộ Hộ. Đến nay, nhân khi khám xét hạt Thanh Hoa trở về, lại dâng hơn một ngàn lạng bạc đã ăn của đút, nên do chức Hữu thị lang bộ Hộ thăng lên chức này." Năm Nhâm Thìn (1772), ông được cử đi điều tra về tình hình thống khổ của nhân dân và những việc nhũng lạm của quan lại ở Lạng Sơn. Năm Quý Tỵ (1773) đại hạn, nhân đó ông tâu trình 5 điều, đại lược nói: "Phương pháp của cổ nhân đem lại khí hòa, dẹp tai biến, cốt lấy lễ mà cầu phúc của thần, lấy đức mà khoan sức dân". Chúa nghe theo, bổ ông làm Bồi tụng (Phó Tể tướng), giữ việc dân chính, kiêm quản cơ Hữu hùng, tước Dĩnh Thành hầu. Trong năm này, ông viết Vân đài loại ngữ. Tháng 5, năm 1773, chúa Trịnh Sâm hạ lệnh cho Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Phương Đĩnh và Lê Quý Đôn làm lại sổ hộ tịch, Quý Đôn kê cứu tra xét quá nghiêm khắc, nhân dân đều nghiến răng căm hờn, họ làm thư nặc danh dán ở cửa phủ chúa Trịnh xin bãi bỏ Quý Đôn đi mà dùng Ngũ Phúc, lời lẽ trong thư rất là khích thiết. Nhân đây, Trịnh Sâm thay đổi mệnh lệnh, cho Ngũ Phúc cùng Quý Đôn đều giữ công việc đôn đốc làm sổ. Ngũ Phúc xin thi hành theo điều lệ đời Cảnh Trị, đại để có nơi tăng, có nơi giảm, có nơi bình bổ vẫn như cũ. Số dân đinh hơi kém với ngạch đinh năm Bảo Thái, dân cũng cho là thuận tiện. Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1774), chúa Trịnh Sâm thân chinh mang quân đánh Thuận Hóa, Lê Quý Đôn được cử giữ chức Lưu thủ ở Thăng Long. Đầu năm Ất Mùi (1775), tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm được Thuận Hóa. Tháng 2 năm đó, chúa Trịnh trở về kinh, rồi thăng ông làm Tả thị lang bộ Lại kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Cũng trong năm đó xảy ra vụ Lê Quý Kiệt (con Lê Quý Đôn) đổi quyển thi với Đinh Thì Trung. Bị phát giác, cả hai đều bị tội. Vì là đại thần, Lê Quý Đôn được miễn nghị. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính Biên, quyển thứ 44, tờ 27 và tờ 28) chép: "Quý Kiệt con Quý Đôn. Kỳ đệ tứ khoa thi [thi Hội] này, Quý Kiệt cùng Đinh [Thì] Trung đổi quyển cho nhau để làm bài. Việc bị lộ, Đinh [Thì] Trung phải tội lưu đi Yên Quảng, Quý Kiệt phải trở về làm dân. Đinh [Thì] Trung nhân phát giác bức thư riêng của Quý Kiệt và cáo tố là do Quý Đôn chủ sự. Trịnh Sâm lấy cớ Quý Đôn là bậc đại thần, bỏ đi không xét, mà luận thêm tội Quý Kiệt, bắt giam cấm ở ngục ở cửa Đông". Năm Bính Thân (1776), chúa Trịnh Sâm đặt ty trấn phủ ở Thuận Hóa. Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ, để cùng với Đốc suất kiêm Trấn phủ Bùi Thế Đạt tìm cách chống lại quân Tây Sơn. Tại đây, ông soạn bộ Phủ biên tạp lục. Ít lâu sau, ông được triệu về làm Thị lang bộ Hộ kiêm chức Đô ngự sử. Năm Mậu Tuất (1778), ông được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang võ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho ông làm Tả hiệu điểm, quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa), tước Nghĩa Phái hầu. Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quý Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức. Tháng 7, năm 1779, thổ tù Hoàng Văn Đồng làm phản, triều đình sai Nguyễn Lệ, Nguyễn Phan đi đánh, Văn Đồng xin hàng. Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép rằng:"Văn Đồng cáo tố rõ tình trạng sách nhiễu của Quý Đôn và Xuân Hán. Lệ đem việc này tâu về triều, bọn Quý Đôn đều can tội, phải giáng chức". Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ chức Tổng tài Quốc sử quán. Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm qua đời, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Chỉ vài tháng sau, quân tam phủ nổi loạn giết chết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ (vợ chúa Trịnh Sâm, mẹ Trịnh Cán), lập Trịnh Khải làm chúa. Nhớ lại hiềm riêng, Nguyễn Khản nói với chúa Trịnh Khải giáng chức Lê Quý Đôn. Đầu năm Quý Mão (1783), ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư bộ Công. Qua đời Trong bối cảnh kiêu binh gây rối, triều chính rối ren, nhân dân đói khổ,... Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về quê mẹ là làng Nguyễn Xá (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để chữa trị, nhưng không khỏi. Ông mất ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11 tháng 6 năm 1784), lúc 58 tuổi. Thương tiếc, chúa Trịnh Tông (tức Trịnh Khải) đã đề nghị với vua Lê Hiển Tông cho bãi triều ba ngày, cử Bùi Huy Bích làm chủ lễ tang, đồng thời cho truy tặng Lê Quý Đôn hàm Công bộ Thượng thư. Đến khi vua Lê Chiêu Thống nắm quyền chính, ông được gia tặng tước Dĩnh quận công. Con cái Ông có bốn con trai: Lê Quý Kiệt, Lê Quý Châu, Lê Quý Tá và Lê Quý Nghị. Tác phẩm Theo GS. Dương Quảng Hàm, Lê Quý Đôn thật là một nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tuy tác phẩm của ông đã thất lạc ít nhiều nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một kho tài liệu để khảo cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt... Có thể chia các tác phẩm chữ Hán của ông ra làm năm loại như sau: 1. Các sách bàn giảng về kinh, truyện Dịch kinh phu thuyết (Lời bàn nông nổi về Kinh Dịch), gồm 6 quyển. Thư kinh diễn nghĩa (Giảng nghĩa Kinh Thư), gồm 3 quyển, đã được khắc in, có tựa của tác giả đề năm 1772. Xuân thu lược luận (Bàn tóm lược về Kinh Xuân Thu). 2. Các sách khảo cứu về cổ thư Quần thư khảo biện (Xét bàn các sách), gồm 4 quyển, đã khắc in, có tựa của tác giả (đề năm 1757), của Chu Bội Liên (người nhà Thanh) và của Hồng Hải Hi (sứ Triều Tiên đề năm 1761). Thánh mô hiền phạm lục (Chép về mẫu mực của các bậc thánh hiền), gồm 12 quyển, có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hi đề năm 1761. Vân Đài loại ngữ (Lời nói, chia ra từng loại, ở nơi đọc sách), gồm 4 quyển, viết năm 1773. Sách chia làm 9 mục, mỗi mục lại chia làm nhiều điều. Trong mỗi mục, tác giả trích dẫn các sách Trung Hoa (cổ thư, ngoại thư) nhiều quyển hiếm có, rồi lấy ý riêng của mình mà bàn. Xem sách này thì biết tác giả đã xem rộng đọc nhiều. 3. Các sách sưu tập thi văn Toàn Việt thi lục (Chép đủ thơ nước Việt), gồm 20 quyển (theo Phan Huy Chú), nhưng hiện còn 15 quyển. Sách do ông phụng chỉ biên tập, dâng lên vua Lê Hiển Tông xem năm 1768. Trong sách sưu tập thơ của các thi gia Việt Nam từ đời Lý đến đời Hậu Lê... Đây là một quyển sách quý để khảo cứu về tiểu sử và tác phẩm của các thi gia. Hoàng Việt văn hải (Bể văn ở nước Việt của nhà vua), là sách sưu tập các bài văn hay. 4. Các sách khảo về sử ký địa lý Đại Việt thông sử (còn gọi là "Lê triều thông sử"), gồm 30 quyển (theo Phan Huy Chú), viết năm 1749. Đây là bộ sử được viết theo thể kỷ truyện (chỉ có phần Bản kỷ là chép theo lối biên niên) chép từ thời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến vua Lê Cung Hoàng (theo Phàm lệ của tác giả). Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn truyền lại mấy phần là: Đế kỷ (2 quyển), chép từ năm Lê Lợi khởi nghĩa (1418) đến năm ông mất (1433). Nghệ văn chí (1 quyển), chép về sách vở văn chương. Liệt truyện (11 quyển), chép về các Hậu phi, Hoàng tử, Danh thần (đời vua Lê Thái Tổ) và Nghịch thần (từ cuối đời nhà Trần đến nhà Mạc). Đại Việt sử ký tục biên (Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Vũ Miên hợp soạn). Bắc sứ thông lục (Chép đủ việc khi đi sứ sang Trung Quốc), 4 quyển, làm năm 1763. Trong sách ghi chép các công văn, thư từ, núi sông, đường sá, chuyện trò, đối ứng trong khi đi sứ (1760-1762). Phủ biên tạp lục (chép lẫn lộn về chính trị cõi biên thùy), gồm 6 quyển, làm khi tác giả được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ ở phủ Thuận Hóa (1776). Trong sách biên chép khá tường tận xã hội xứ Đàng Trong (nhất là xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam) ở thế kỷ 18. Kiến văn tiểu lục (Chép vặt những điều thấy nghe), gồm 12 quyển, có tựa của tác giả đề năm 1777. Đây là tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Trong sách, tác giả đã đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đường sá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở... Âm chất văn chú, gồm 2 quyển, đã khắc in, chép các bài huấn chú của các nhà ở Trung Quốc, có kèm theo lời đính chính của tác giả. Lịch đại danh thần ngôn hành lục, gồm 2 quyển, chép công việc của các danh thần các triều. 5. Thơ văn Liên châu thi tập, gồm 4 quyển, chép thơ của Lê Quý Đôn cùng các thi gia khác, và những bài trả lời của các thi sĩ nhà Thanh và Cao Ly làm khi ông đi sứ sang Trung Quốc. Quế Đường thi tập (Tập thơ Quế Đường), gồm 4 quyển Quế Đường văn tập (tập văn Quế Đường), gồm 3 quyển. Về văn Nôm, hiện nay chỉ còn: Bài thơ thất ngôn bát cú "Rắn đầu biếng học". Bài kinh nghĩa: "Vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử" (Mày về nhà chồng phải kính răn, chớ trái ý chồng). Bài văn sách hỏi về câu "Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công tô điểm má hồng răn đen". Bài kinh nghĩa: "Mẹ ơi con muốn lấy chồng". Bài "khải" viết bằng văn xuôi chép trong Bắc sứ thông lục. Tuy nhiên trừ bài "khải" ra, theo PGS. Nguyễn Thạch Giang, các bài Nôm còn lại đều không chắc là của ông. Nhận xét Lê Quý Đôn là một "nhà bác học ham đọc, ham biết và ham viết", là "một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên bác và đa dạng". Điều đó đã được nhà sử học Phan Huy Chú nói đến từ những năm đầu của thế kỷ 19, trích: "Ông có tư chất khác đời, thông minh hơn người mà (vẫn) giữ tính nết thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển sách. Bình sinh (ông) làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng trên đời. Văn thơ ông làm ra gọi là Quế đường tập có mấy quyển" (trong "Nhân vật chí") "Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia" (trong "Văn tịch chí"). Xét góc cạnh khác, theo Giáo sư Văn Tân thuộc Viện Sử học (Việt Nam), Lê Quý Đôn còn là: Một nhà trí thức muốn có những cải cách trong xã hội Việt Nam. Một nhà chính trị quan tâm đến nhân dân, gần gũi nhân dân, và hiểu những mong muốn của nhân dân. Một nhà trí thức có tư tưởng tự tôn và tự hào dân tộc. Tuy nhiên, là một nho sĩ trung thành với họ Trịnh, và ý hệ thức của Lê Quý Đôn là ý thức hệ của giai cấp phong kiến hồi thế kỷ 18, nên trong đời ông, ông đã từng đi đánh dẹp các đội quân nổi dậy chống lại triều đình Lê-Trịnh. Giai thoại văn học Có một số giai thoại kể về Lê Quý Đôn, đáng chú ý có chuyện Rắn đầu biếng học: Người ta kể rằng, một hôm, Tiến sĩ Vũ Công Trấn đến thăm Tiến sĩ Lê Phú Thứ là người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1724 (sau đổi là Lê Trọng Thứ). Nghe con bạn là Lê Quý Đôn còn trẻ mà đã hay chữ nên ông Trấn lấy đầu đề "Rắn đầu biếng học" để thử tài. Ít phút sau, Lê Quý Đôn đã làm xong bài thơ dưới đây: Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!Rắn đầu biếng học lẽ không tha Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,Nay thét mai gầm rát cổ cha. Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,Lằn lưng cam chịu vết roi da.Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!Bài thơ đúng vần, đúng luật, rất hợp đầu đề, mà ý tứ lại cao kỳ. Đặc biệt, mỗi câu có tên một loài "rắn". Các công trình gắn liền với tên tuổi của Lê Quý Đôn Tên Lê Quý Đôn được dùng để đặt tên cho nhiều trường học, nhiều đường phố ở khắp nước Việt Nam như: Trường Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn ở Hà Nội Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh Trường THPT Lê Quý Đôn − TP Cẩm Phả, Quảng Ninh Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Điện Biên Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Lai Châu Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Quảng Trị Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Đà Nẵng Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Bình Định Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Khánh Hòa Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Ninh Thuận Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Bà Rịa - Vũng Tàu Trường THPT Lê Quý Đôn - Hải Phòng Trường THPT Lê Quý Đôn - Tp Tam Kỳ, Quảng Nam Trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Tĩnh Trường THPT Lê Quý Đôn - Thái Bình Trường THPT Lê Quý Đôn - Hòa Bình Trường THPT Lê Quý Đôn - Tp Biên Hòa, Đồng Nai Trường THPT Lê Quý Đôn - quận Đống Đa, Hà Nội Trường THPT Lê Quý Đôn - quận Hà Đông, Hà Nội Trường THCS Lê Quý Đôn - quận Cầu Giấy, Hà Nội Trường THCS Lê Quý Đôn - Tp Vị Thanh, Hậu Giang Trường THPT Lê Quý Đôn - Tx Ngã Bảy, Hậu Giang Trường THPT Lê Quý Đôn - Long An Trường THPT Lê Quý Đôn - Đắk Nông Trường THPT Lê Quý Đôn - Bắc Ninh Trường THCS Lê Quý Đôn - Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh Trường THCS Lê Quý Đôn - Tp Bắc Giang, Bắc Giang Trường THCS Lê Quý Đôn - Hải Dương Trường THCS Lê Quý Đôn - Tp Sóc Trăng, Sóc Trăng Trường THCS Lê Quý Đôn - Lào Cai Trường THCS Lê Quý Đôn - huyện Ý Yên, Nam Định Trường THCS Lê Quý Đôn - huyện Mộc Châu, Sơn La Trường THCS Lê Quý Đôn, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, Tp Mỹ Tho, Tiền Giang Phố Lê Quý Đôn ở TP Uông Bí Phố Lê Quý Đôn ở TP Hạ Long Phố Lê Quý Đôn ở TX Quảng Yên Phố Lê Quý Đôn, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Phố Lê Quý Đôn, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Phố Lê Quý Đôn, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Trường THPT Lê Quý Đôn - Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk Trường THPT Lê Quý Đôn, Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh Trường TH Lê Quý Đôn, huyện Đăk Tô, Kon Tum Trường TH Lê Quý Đôn, quận Long Biên, TP Hà Nội Xem thêm Lê Hiển Tông Chúa Trịnh Nạn kiêu binh Quan hệ Việt Nam - Bán đảo Triều Tiên Sách tham khảo Chú thích Chú giải Đọc thêm Quốc Sử quan triều Nguyễn. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục. Nhà xuất bản Giáo dục - Hà Nội, 1998. Nguyễn Lộc, mục từ "Lê Quý Đôn" trong Từ điển Văn học (bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới, 2004. Nguyễn Đăng Thục (1992). Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập 6, phần "Tiểu sử Lê Quý Đôn"). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1992. Nguyễn Thạch Giang (chủ biên). Văn học thế kỷ 18. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2004. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
Duy Tân (chữ Hán: 維新 19 tháng 9 năm 1900 – 26 tháng 12 năm 1945), tên khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, ở ngôi từ năm 1907 đến năm 1916, sau vua Thành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp. Năm 1916, lúc ở châu Âu có cuộc Đại chiến, ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân dự định khởi nghĩa. Tuy nhiên, dự định bại lộ và Duy Tân bị bắt ngày 6 tháng 5 và đến ngày 3 tháng 11 năm 1916 ông bị đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) ông gia nhập quân Đồng Minh chống phát xít Đức. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông tử nạn trong vụ tai nạn máy bay ở Cộng hòa Trung Phi, khi ông mới 45 tuổi. Ngày 28 tháng 3 năm 1987, thi hài ông được đưa từ M'Baiki, Cộng hòa Trung Phi về Việt Nam, rồi đưa về an táng tại Lăng Dục Đức, Huế cạnh lăng mộ vua cha Thành Thái. Ông không có miếu hiệu. Xuất thân Vua Duy Tân tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Hoảng (阮福晃) sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý, tức 19 tháng 9 năm 1900 tại Huế. Ông là con thứ 8 của vua Thành Thái và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định. Vua Thành Thái có nhiều con trai, đáng lẽ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng người Pháp sợ một vị vua trưởng thành khó sai khiến nên họ muốn tìm chọn một người nhỏ tuổi. Khi Khâm sứ Fernand Ernest Lévecque cầm danh sách các hoàng tử con vua Thành Thái vào hoàng cung chọn vua, lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San. Triều đình cho người đi tìm thì thấy Vĩnh San đang trốn dưới gầm giường, mặt mày lem luốc. Khi tra hỏi thì Vĩnh San nói: "Ta đang tìm con dế vừa mới xổng". Vì sợ bị quở phạt, người lính đi tìm Vĩnh San không đưa ông đi tắm rửa mà đưa thẳng ra trình diện quan Pháp. Người Pháp trông thấy đồng ý ngay vì họ thấy Vĩnh San có vẻ nhút nhát và đần độn. Triều đình thấy vua quá nhỏ nên xin tăng thêm một tuổi thành 8. Họ cũng đặt niên hiệu cho Vĩnh San là Duy Tân, như muốn hướng tới sự nghiệp không thành của vua Thành Thái. Trị vì Lên ngôi vua Ngày 5 tháng 9 năm 1907, Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân. Và chỉ một ngày sau lễ đăng cơ, Duy Tân đã đổi khác. Một nhà báo Pháp đã thuật lại: "...Un jour de trône a complètement changé la figure d'un enfant de 8 ans". (Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám) Để kiểm soát vua Duy Tân, người Pháp cho lập một phụ chính gồm sáu đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp. Một tiến sĩ sinh học là Ebérhard được đưa đến để dạy học cho vua Duy Tân, theo nhiều người thì đó chỉ là hành động kiểm soát. Khoảng năm 1912, Khâm sứ Georges Marie Joseph Mahé mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào lăng Vua Tự Đức và đào xới lung tung trong Đại Nội để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ. Duy Tân ra lệnh đóng cửa cung không tiếp ai. Tòa Khâm sứ Pháp làm áp lực với nhà vua thì Duy Tân đe dọa sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng Toàn quyền Albert Pierre Sarraut từ Hà Nội phải vào giải quyết vua Duy Tân mới cho mở Hoàng thành. Năm vua Duy Tân 13 tuổi, ông xem lại những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký. Nhà vua cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau nên một hôm giữa triều đình, nhà vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre). Nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó. Năm 15 tuổi, vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân vua sẽ cầm qua trình với Tòa Khâm sứ nhưng các đại thần sợ người Pháp giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái hậu để nhờ bà can gián nhà vua. Từ đó không những nhà vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình. Dự định khởi nghĩa với Việt Nam Quang phục Hội Việt Nam Quang phục Hội được Phan Bội Châu thành lập từ 1912. Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang phục Hội quyết định móc nối. Hai lãnh đạo của hội là Trần Cao Vân và Thái Phiên bỏ tiền vận động người tài xế riêng của vua Duy Tân xin thôi việc. Thay vào đó là Phạm Hữu Khánh, một thành viên của Hội. Tháng 4 năm 1916, khi vua Duy Tân ra bãi tắm Cửa Tùng nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh có đưa cho vua một bức thư của hai lãnh tụ Trần Cao Vân và Thái Phiên. Duy Tân đọc thư và muốn gặp hai người này. Ngày hôm sau, ba người cùng đến câu cá ở Hậu hồ, vua Duy Tân đồng ý cùng tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa dự định được tổ chức vào 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5. Nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang phục Hội ở Quảng Ngãi là Võ An đã làm lộ tin. Chiều ngày 2 tháng 5, công sứ Pháp ở Quảng Ngãi là de Taste mật điện với Khâm sứ Trung kỳ biết tin. Nghe tin, khâm sứ Charles ra lệnh thu súng ở các trại lính người Việt cất vào kho và cấm trại không cho một người lính Việt nào ra ngoài. Đêm 2 tháng 5, Trần Cao Vân và Thái Phiên đưa thuyền đến bến Thương Bạc đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang theo lối thường dân đi cùng hai người hộ vệ là Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ tới làng Hà Trung, lên nhà một hội viên Việt Nam Quang phục Hội để chờ giờ phát lệnh bằng súng thần công ở Huế. Nhưng chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu lệnh, biết đã thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1916, họ bị bắt. Khâm sứ tại Huế Charles và Toàn quyền thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông không đồng ý: Pháp bắt triều đình Huế phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án. Trần Cao Vân khi đó bị giam trong ngục, nhờ được người đưa tin cho Hồ Đắc Trung xin được lãnh hết tội và xin tha cho vua. Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 người Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu. Bốn người bị xử chém ở An Hòa. Vua Duy Tân bị đày đi đảo La Réunion ở Ấn Độ Dương cùng với vua cha Thành Thái vào năm 1916. Lưu đày Sang đảo La Réunion Ngày 3 tháng 11 năm 1916, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu). Đến ngày 20 tháng 11 họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia đình cựu hoàng sống trong một căn nhà thuê lại một người dân ở thành phố Saint-Denis. Ông sống giản dị trong căn nhà nhỏ, ăn mặc và sinh hoạt cũng giản dị như bao người dân bình thường khác ở đảo. Duy Tân bất bình với cha Thành Thái vì không hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình. Duy Tân ghi tên học về vô tuyến điện và mở tiệm Radio - Laboratoire bán hàng sửa chữa máy. Đồng thời, ông thi tú tài ở trường Trung học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ, luật học. Duy Tân ít quan hệ với người Pháp, chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông tham gia hội yêu nhạc, học cưỡi ngựa và thắng nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Bài Variations sur une lyre briée (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion năm 1924. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân. Trong bài Destin tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân đăng trong Revue France-Asie, năm 1970, tác giả E.P Thébault, một bạn thân của Duy Tân, ghi rằng: chỉ một lần – một lần mà thôi – trong bức thơ ngày 5 tháng 6 năm 1936 gởi cho Marius Moutet, Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Duy Tân gợi lại cuộc biến động 1916 và nói về vai trò của ông trong vụ ấy để xin phép qua trú ngụ bên Pháp". Trong nhiều bức thư khác gởi cho Chính phủ Pháp từ 1936 cho đến 1940, để xin phục vụ trong Quân đội Pháp, ông không đả động đến vụ mưu loạn tại Việt Nam. Tất cả đơn đều bị bác vì Bộ Thuộc địa phê trong tờ lý lịch cá nhân của Duy Tân (được giải mật sau này): "...parait difficile à acheter, extrêmement indépendant... intrigue pour quitter la Réunion et rétablissement trône d'Annam..." (Có vẻ khó mua chuộc, rất độc lập, mưu đồ rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam...). Tham gia Quân đội Pháp Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Charles de Gaulle kêu gọi chống Đức Quốc xã. Sự việc nước Pháp bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đầu hàng phát xít Đức và sau đó lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở Anh trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của Cựu hoàng. Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình. Tuy "nước Pháp tự do" và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp, Duy Tân hưởng ứng và bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho Lực lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo Chính phủ Vichy) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông phục vụ ba tháng với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng Legentilhomme và Đại tá Alain de Boissieu. Duy Tân nhờ Thống đốc La Réunion là A. Capagory (1942 - 1947) can thiệp cho ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của tướng Catroux với cấp bậc binh nhì. Một thời gian sau ông được thăng lên Chuẩn úy rồi sang châu Âu. Ngày 5 tháng 5 năm 1945, có lệnh đưa Chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở Paris. Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 khi Đức đã đầu hàng ngày 8 tháng 5. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ Tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (9ème DIC) đóng ở vùng Schwarzwald (Forêt Noire), Đức. Duy Tân cho rằng người Pháp sẽ đưa ông trở lại ngai vàng và hai bên sẽ lập một loạt thỏa hiệp được hai chính phủ thông qua. Ngày 29 tháng 8 năm 1945, trên đài phát thanh Radio-Tananarive, ông kêu gọi đất nước hợp tác với nước Pháp qua mối quan hệ hữu nghị với chủ trương một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và tạm thời ủy thác cho Pháp bộ Ngoại giao và Quốc phòng. Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hóa những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: Thiếu úy từ 5 tháng 12 năm 1942, Trung úy từ 5 tháng 12 năm 1943, Đại úy tháng 12 năm 1944 và Thiếu tá ngày 25 tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm Đông Dương của Pháp. Gặp Charles de Gaulle và chuẩn bị về Việt Nam Ngày 14 tháng 12 năm 1945, Charles de Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi ký chiến tranh, tướng de Gaulle ghi: Trong tác phẩm Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952 sử gia Philippe de Villers nhận xét: Một bạn thân của Duy Tân là E.P Thébault kể lại trong bài Destin tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân: Trong hồi ký Bên giòng lịch sử 1940-1965, linh mục Cao Văn Luận ghi lại rằng mùa đông 1944 và đầu năm 1945, cùng với một số du học sinh Việt và Việt kiều, ông có tiếp xúc ba lần với Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích: Duy Tân đã từng tâm sự: Tử nạn Ngày 24 tháng 12 năm 1945, Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, Cộng hòa Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá hoa tiêu, hai trung úy phụ tá, hai quân nhân (trong đó có vua Duy Tân) và bốn thường dân. Theo nhiều người thì đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong Destin tragique d’un Empereur d’Annam, E.P Thébault viết: Ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M'Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại An Lăng, Huế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4 năm 1987. Sau Cách mạng tháng Tám, có phố Duy Tân ở Hà Nội, nhưng sau đổi lại. Một nhóm chính trị ít nhiều có khuynh hướng dân chủ xã hội theo Duy Tân. Bên cách mạng lúc đó xem ông là người từng có lập trường yêu nước nhưng rồi làm việc cho Pháp. Vinh danh Ở Sài Gòn thời Việt Nam Cộng hòa, đường Garcerie cũ thời Pháp thuộc được đổi tên là đường Duy Tân. Đây là con đường với hai hàng cây lớn, chạy ngang Trường Đại học Kiến trúc và Đại học Luật khoa có tiếng là thơ mộng nên được nhắc trong bản nhạc "Trả lại em yêu" của Phạm Duy. Tuy nhiên vào năm 1985, đường Duy Tân bị đổi tên thành đường Phạm Ngọc Thạch. Ngày 5 tháng 12 năm 1992, tại thành phố Saint-Denis (đảo La Réunion) đã khánh thành một đại lộ và một cầu mang tên ông: Đại lộ và Cầu Vĩnh San. Ở Việt Nam, năm 2010 phố Duy Tân được đặt tên tại phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Năm 2013 tại thành phố Móng Cái, tên ông được đặt cho phố kéo dài từ phố Hàm Nghi đến đường Đoan Tĩnh. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình tên ông được đặt cho con đường kéo dài từ đường Trần Hưng Đạo đến đường Phạm Văn Đồng ở phường Nam Lý. Tại Đà Nẵng, đường Duy Tân nối từ Ngã tư Quân đoàn đến đường Nguyễn Văn Linh, có đi qua Quân khu 5, Sân bay Quốc tế Đà Nẵng. Tại Đà Nẵng còn có Trường Đại học Duy Tân (đại học tư thục). Giai thoại Một lần nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên (hàng năm ông hay ra đây nghỉ mát), tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Duy Tân vừa rửa vừa hỏi: "Khi tay dơ thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa?" Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua Duy Tân nói tiếp: "Nước dơ thì phải lấy máu mà rửa, hiểu không?" Một lần khác vua Duy Tân ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu. Thượng thư Nguyễn Hữu Bài cùng đi. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vị hoàng đế trẻ bèn ra câu đối: "Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần." Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài đối lại: "Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó." Nghe đồn Duy Tân phê Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số mạng. Nhà vua còn bảo: "Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới có ý nghĩa!" Gia quyến Khi sang đảo La Réunion, Duy Tân có đem theo Hoàng phi Mai Thị Vàng, nhưng được 2 năm bà xin về Việt Nam vì không chịu được khí hậu ở đó. Thời gian ở La Réunion, ông có chung sống với 3 người vợ ngoài giá thú, vì Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly hôn. Những người con của ông với các người vợ gốc châu Âu đều mang họ mẹ và được rửa tội theo lễ nghi Công giáo. Một tài liệu viết các con ông đều không nói được tiếng Việt và có ít quan hệ với cựu hoàng Thành Thái. Duy Tân cũng không khuyến khích các con học tiếng Việt và tìm hiểu về Việt Nam. Đến năm 1946, tòa án thành phố Saint-Denis đồng ý cho các con của Duy Tân mang họ ông. Andrée Maillot và Armand Viale vẫn giữ họ cũ của mình. 5 người Suzy, Georges, Claude, Roger và Andrée đổi thành Georges Vĩnh San, Claude Vĩnh San v.v... Các bà vợ và con cái: Diệu phi Mai Thị Vàng (妙妃枚氏鐄), kết hôn ngày 16 tháng 1 năm 1916. Khi đi lưu đày theo chồng bà có mang 3 tháng và bị sẩy thai. Năm 1925, cựu hoàng có gửi cho Hội đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn ly dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà Vàng đi lấy chồng khác, lúc này bà 27 tuổi. Nhưng bà Vàng một lòng thủ tiết cho đến cuối đời và thường ngâm: Gìn vàng giữ ngọc cho hay,Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời. hay Đá dù nát, "Vàng" chẳng phai,Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh. Bà Marie Anne Viale, sinh năm 1890. Có một con trai: Armand Viale sinh 1919. Bà Fernande Antier, sinh năm 1913, cưới năm 1928. Có tám người con, 4 trai 4 gái đều mang họ Vĩnh San: Thérèse Vinh-San sinh 1928 (mất sớm). Rita Suzy Georgette Vinh-San sinh ngày 6 tháng 9 năm 1929. Solange sinh 1930 (mất sớm). Guy Georges Vĩnh San (Nguyễn Phúc Bảo Ngọc) sinh ngày 31 tháng 1 năm 1933. Yves Claude Vĩnh San (Nguyễn Phúc Bảo Vàng) sinh ngày 8 tháng 4 năm 1934. Joseph Roger Vĩnh San (Nguyễn Phúc Bảo Quý) sinh ngày 17 tháng 4 năm 1938. Ginette sinh 1940 (mất sớm). André (mất sớm). Bà Ernestine Yvette Maillot, sinh năm 1924. Có một con gái: Andrée Maillot sinh 1945 mất 2011. Trong các hoàng tử của vua Duy Tân có hoàng tử Bảo Ngọc (Guy Georges Vĩnh San), sinh ngày 31 tháng 1 năm 1933 có bốn con Patrick Vĩnh San, Chantal Vĩnh San, Annick Vĩnh San và Pascale Vĩnh San, thường xuyên tham gia các hoạt động và nghi lễ của nhà Nguyễn cùng với vợ là bà Monique. Một người con khác là Hoàng tử Bảo Vàng (tên đầy đủ là Yves Claude Vĩnh San, sinh ra tại Saint-Denis, đảo Réunion ngày 8 tháng 4 năm 1934). Hoàng tử Bảo Vàng cưới Jessy Tarby và họ có mười con (7 trai và 3 gái): Yves Vĩnh San, Patrick Vĩnh San, Johnny Vĩnh San, Jerry Vĩnh San, Thierry Vĩnh San, Stéphanie Vĩnh San, Cyril Vĩnh San, Didier Vĩnh San, Marie-Claude Vĩnh San, Marilyn Vĩnh San và Doris Vĩnh San. Vào năm 1987, ông đưa di hài vua cha về Việt Nam để an táng tại lăng Dục Đức (ông nội của Duy Tân). Cùng với Hoàng tử Bảo Thắng, ông là lãnh đạo của Đại Nam Long tinh Viện. Mục đích của hội này không liên quan đến chính trị Việt Nam và vai trò của hoàng tộc dưới sự lãnh đạo của thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long là các hoạt động nhân đạo, giáo dục, và văn hóa cho người Việt Nam. Một người con khác là Hoàng tử Bảo Quý (Joseph Roger Vĩnh San), đang sống cùng vợ là bà Lebreton Marguerite tại Nha Trang, Khánh Hòa Chú thích Có tài liệu ghi ông sinh 14 tháng 8 năm 1899. Hoàng Trọng Thược. Hồ sơ vua Duy Tân, nhà xuất bản Thanh Hương, California, Mỹ. 1994.
Viện Toán học là cơ quan nghiên cứu chuyên sâu cơ bản về toán học trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST). Viện được thành lập năm 1969 theo Nghị định số 25/CP của Chính phủ ngày 5 tháng 2 năm 1969. Nhiệm vụ của Viện Toán học là nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực toán học, hợp tác nghiên cứu khoa học với các Viện khác ở trong nước và quốc tế. Từ khi thành lập đến nay, Viện luôn chú trọng nghiên cứu những vấn đề toán học ứng dụng. Nhiệm vụ thứ ba của Viện là luôn luôn cộng tác với các Viện chuyên ngành khác trong việc ứng dụng toán học vào quản lý và phát triển sản xuất. Viện cũng rất quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy toán học ở bậc cao. Trung tâm đào tạo của Viện thành lập năm 1994 với mục đích đào tạo các tài năng nghiên cứu trẻ trong lĩnh vực toán học. Tổ chức Viện Hội đồng khoa học Ban lãnh đạo Viện trưởng: GS. TSKH. Phùng Hồ Hải Phó Viện trưởng: PGS. TS. Đoàn Trung Cường, PGS. TSKH. Đoàn Thái Sơn. Các phòng, ban chuyên môn Phòng Đại số Phòng Lý thuyết số Phòng Hình học và Tô-pô Phòng Giải tích toán học Phòng Phương trình vi phân Phòng Xác suất và Thống kê toán học Phòng Cơ sở toán học cho máy tính Phòng Tối ưu hóa và điều khiển Phòng Giải tích số và Khoa học máy tính Trung tâm đào tạo sau đại học Các Viện trưởng qua từng thời kì Giáo sư Lê Văn Thiêm (1975 - 1980) Giáo sư Hoàng Tụy (1980 -1990); Giáo sư, TSKH Phạm Hữu Sách (1991-1995) Giáo sư, TSKH Trần Đức Vân (1996-2000) Giáo sư, TSKH Hà Huy Khoái (2001 - 2007) Giáo sư, TSKH Ngô Việt Trung (2007 - 2013) Giáo sư, TSKH Lê Tuấn Hoa (2013 - 2017) Giáo sư, TSKH Phùng Hồ Hải (2017 - nay)
Henrik Larsson (sinh ngày 20 tháng 9 năm 1971) là một cựu cầu thủ bóng đá người Thụy Điển. Anh là huyền thoại của câu lạc bộ Celtic khi ghi 242 bàn thắng trong 315 trận cho đội bóng giàu truyền thống của Scotland, xếp thứ 3 trong danh sách những chân sút vĩ đại nhất của Celtic sau Bobby Lennox (242) và Jimmy McGrory (468). Anh là được coi là người hùng trong trận chung kết Chung kết UEFA Champions League 2006 giữa FC Barcelona và Arsenal. Các câu lạc bộ đã và đang thi đấu 1991-1992: Hogaborgs BK 1992-1993: Helsingborgs IF 1993-1997: Feyenoord Rotterdam 1997-2004: Celtic F.C. 2004-2006: FC Barcelona 2006: Helsingborgs IF 2007: Manchester United (cho mượn) "Tổng:" Thành tích Đội tuyển Thụy Điển Tính đến trước World Cup 2006, Henrik đã 78 lần khoác áo đội tuyển Thụy Điển và ghi được 28 bàn thắng. Huy chương đồng World Cup 1994 Câu lạc bộ UEFA Champions League: 2006 Cúp bóng đá Hà Lan: 1994 và 1995 Vô địch Scotland: 1998, 2001, 2002 và 2004 Cúp bóng đá Scotland: 2001, 2004 Cúp Liên đoàn bóng đá Scotland: 1998, 2001 Vô địch Tây Ban Nha: 2005, 2006 Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha: 2006 Giải bóng đá ngoại hạng Anh: 2007 Danh hiệu cá nhân Chiếc giày vàng châu Âu năm 2001 với 35 bàn thắng Quả bóng vàng Thụy Điển: 1998 và 2004 Cầu thủ xuất sắc nhất Scotland do các cầu thủ bầu chọn: 1999 và 2001 Cầu thủ xuất sắc nhất Scotland do các nhà báo bầu chọn: 1999 và 2001 Cầu thủ xuất sắc nhất trong 50 năm của Thuỵ Điển do UEFA bình chọn: 2003 Thống kê |- |1989||rowspan="3"|Högaborg||||21||1||colspan="2"|–||colspan="2"|–||colspan="2"|–||21||1 |- |1990||||21||7||colspan="2"|–||colspan="2"|–||colspan="2"|–||21||7 |- |1991||||22||15||colspan="2"|–||colspan="2"|–||colspan="2"|–||22||15 |- |1992||rowspan="2"|Helsingborg||Div I Södra||31||34||colspan="2"|–||colspan="2"|–||colspan="2"|–||31||34 |- |1993||Allsvenskan||25||16||5||1||colspan="2"|–||colspan="2"|–||30||17 |- |1993–94||rowspan="4"|Feyenoord||rowspan="4"|Eredivisie||15||1||12||5||colspan="2"|–||colspan="2"|–||27||6 |- |1994–95||23||8||9||1||colspan="2"|–||6||7||38||16 |- |1995–96||32||10||4||1||colspan="2"|–||7||1||43||12 |- |1996–97||31||7||4||0||colspan="2"|–||6||1||41||8 |- |1997–98||rowspan="7"|Celtic||Premier Division||35||16||4||0||5||3||2||0||46||19 |- |1998–99||rowspan="6"|Premier League||35||29||5||5||0||0||8||4||48||38 |- |1999–2000||9||7||0||0||0||0||4||5||13||12 |- |2000–01||37||35||6||9||2||5||5||4||50||53 |- |2001–02||33||29||3||2||1||0||10||4||47||35 |- |2002–03||35||28||2||2||2||2||12||12||52||44 |- |2003–04||37||30||5||5||1||0||15||5||58||40 |- |2004–05||rowspan="2"|Barcelona||rowspan="2"|La Liga||12||3||0||0||colspan="2"|–||4||1||16||4 |- |2005–06||28||10||4||4||colspan="2"|–||10||1||42||15 |- |2006||Helsingborg||Allsvenskan||15||8||5||4||colspan="2"|–||colspan="2"|–||20||12 |- |2006–07||Manchester United||Premier League||7||1||4||1||0||0||2||1||13||3 |- |2007||rowspan="3"|Helsingborg||rowspan="3"|Allsvenskan||22||9||1||0||colspan="2"|–||9||9||32||18 |- |2008||27||14||1||0||colspan="2"|–||2||0||30||14 |- |2009||20||7||1||0||colspan="2"|–||4||3||22||10 |- |2006–07||Manchester United (mượn)||Premier League||7||1||4||1||0||0||2||1||13||3 |- |2012||Råå||Allsvenskan||1||0||colspan="2"|–||colspan="2"|–||colspan="2"|–||1||0 |- |2013||Högaborg||Allsvenskan||2||0||colspan="2"|–||colspan="2"|–||colspan="2"|–||2||0 204||111||13||5||colspan="2"|–||15||12||239||128 101||26||29||7||colspan="2"|–||19||9||149||42 221||174||25||23||11||10||56||34||313||242 40||13||4||4||colspan="2"|–||14||2||58||19 7||1||4||1||0||0||2||1||13||3 576||325||75||40||11||10||106||59||768||434 |- |1993||2||1 |- |1994||14||5 |- |1995||6||0 |- |1996||6||1 |- |1997||2||0 |- |1998||7||1 |- |1999||9||2 |- |2000||8||2 |- |2001||10||9 |- |2002||8||3 |- |2003||1||0 |- |2004||9||8 |- |2005||5||2 |- |2006||6||2 |- |2007||0||0 |- |2008||9||1 |- |2009||4||0 |- !Total||106||37 |} Sự nghiệp Chú thích
Hội Toán học Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam Mathematicial Society - viết tắt: VMS) là một cộng đồng về nghiên cứu toán học ở Việt Nam. Được thành lập vào ngày 15 tháng 8 năm 1966 bởi giáo sư Lê Văn Thiêm, tới nay hội đã có gần 1000 thành viên. Hội Toán học Việt Nam cũng là đơn vị chủ quản của Giải thưởng Lê Văn Thiêm - giải thưởng nhằm vinh danh các cá nhân có sự đóng góp lớn cho ngành toán học Việt Nam. Lãnh đạo Hội Toán học hiện nay Lãnh đạo Hội nhiệm kì 2023-2028: Chủ tịch: GS.TSKH. Vũ Hoàng Linh, Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG HN. Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký: Các phó chủ tịch: GS.TS. Nguyễn Hữu Dư, nguyên GĐ ĐH Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán, trường ĐHKHTN, ĐHQG HN PGS.TS. Đinh Thanh Đức, Phó Hiệu trưởng trường ĐH Qui Nhơn GS.TSKH. Phùng Hồ Hải, Viện trưởng Viện Toán học, Viện Hàn lâm KH và CN VN GS. TSKH. Phạm Thế Long, nguyên Giám đốc Học viện Kỹ thuật quân sự GS.TSKH. Đỗ Đức Thái Trưởng Khoa Toán Tin, trường Đại học Sư phạm Hà Nội GS.TS. Đặng Đức Trọng, nguyên trưởng Khoa Toán Tin, trường ĐHKHTN, ĐHQG TP Hồ Chí Minh Phó tổng thư ký: TS. Đoàn Trung Cường, Phó Viện trưởng Viện Toán học, Viện Hàn lâm KH và CN VN Lãnh đạo Hội Toán học các khoá trước Khóa 1 (1966 – 1988) Chủ tịch sáng lập: Giáo sư Lê Văn Thiêm Tổng thư ký: Giáo sư Hoàng Tụy Các phó chủ tích: Giáo sư Nguyễn Thúc Hào Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn Khóa 2 (1988 – 1994) Chủ tịch: Giáo sư Nguyễn Đình Trí Tổng thư ký: Giáo sư Đỗ Long Vân Khóa 3 (1994 – 1999) và khoá 4 (1999 – 2004) Chủ tịch: Giáo sư Đỗ Long Vân Tổng thư ký: Giáo sư Phạm Thế Long Khoá 5 (2004 – 2008) Chủ tịch: Giáo sư Phạm Thế Long Tổng thư ký: Giáo sư Lê Tuấn Hoa Khóa 6 (2008 – 2013) Chủ tịch: Giáo sư Lê Tuấn Hoa Tổng thư ký: Giáo sư Nguyễn Hữu Dư Khóa 7 (2013 – 2018) Chủ tịch: Giáo sư Nguyễn Hữu Dư Tổng thư ký: Giáo sư Phùng Hồ Hải Khóa 7 (2013 – 2018) Chủ tịch: Giáo sư Ngô Việt Trung Tổng thư ký: Giáo sư Vũ Hoàng Linh Chú thích
World Cup thường được dùng để nói đến FIFA World Cup. World Cup cũng có thể chỉ: Điền kinh Cúp điền kinh liên lục địa (IAAF Continental Cup) Bóng rổ Giải vô địch bóng rổ thế giới (FIBA Basketball World Cup) Cricket Giải vô địch cricket thế giới (Cricket World Cup) Bóng đá Giải vô địch bóng đá thế giới (FIFA World Cup) Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới (FIFA U-20 World Cup) Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới (FIFA U-17 World Cup) Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ (FIFA Club World Cup) Giải vô địch bóng đá nữ thế giới (FIFA Women's World Cup) Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới (FIFA U-20 Women's World Cup) Giải vô địch bóng đá nữ U-17 thế giới (FIFA U-17 Women's World Cup) Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới (FIFA Futsal World Cup) Giải vô địch bóng đá thế giới ConIFA (CONIFA World Football Cup) (các đội tuyển quốc gia không thuộc FIFA) Viva World Cup (các đội tuyển quốc gia không thuộc FIFA, không còn tồn tại) Quần vợt Davis Cup (đội nam) Fed Cup (đội nữ) Hopman Cup (đội nam-nữ) Thể thao và trò chơi trên bàn Cúp cờ vua thế giới (Chess World Cup) Bóng chuyền Cúp bóng chuyền nam thế giới (FIVB Volleyball Men's World Cup) Cúp bóng chuyền nữ thế giới (FIVB Volleyball Women's World Cup) Thuật ngữ thể thao
Bari có thể là: Nguyên tố hóa học Bari, ký hiệu là Ba, số thứ tự 56 trong bảng tuần hoàn Thành phố Bari thuộc vùng Puglia, Ý
Phân kỳ có thể là: Toán tử phân kỳ trong giải tích véctơ Tính chất đối lập với hội tụ trong Chuỗi phân kỳ Giới hạn phân kỳ Chùm tia phân kỳ Thấu kính phân kỳ Gương phân kỳ Phân chia các giai đoạn sử học
Nhà Thương hay nhà thương có thể chỉ đến: Bệnh viện, nơi để chữa những người bị ốm hay bị thương Nhà Thương, triều đại đầu tiên có dấu tích trong lịch sử Trung Quốc
Sơn Hà là một huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Địa lý Huyện Sơn Hà nằm ở phía tây của tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Tư Nghĩa và huyện Minh Long Phía tây giáp huyện Sơn Tây Phía nam giáp huyện Ba Tơ và huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum Phía bắc giáp huyện Trà Bồng và huyện Sơn Tịnh. Huyện Sơn Hà có diện tích 750,31 km², dân số là 75.000 người, bao gồm các dân tộc: Kinh, H're, Ca Dong, Xơ Đăng Hành chính Huyện Sơn Hà có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Di Lăng (huyện lỵ) và 13 xã: Sơn Ba, Sơn Bao, Sơn Cao, Sơn Giang, Sơn Hạ, Sơn Hải, Sơn Kỳ, Sơn Linh, Sơn Nham, Sơn Thành, Sơn Thượng, Sơn Thủy, Sơn Trung. Lịch sử Sau năm 1975, huyện Sơn Hà thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 17 xã: Sơn Ba, Sơn Bao, Sơn Bua, Sơn Cao, Sơn Dung, Sơn Giang, Sơn Hạ, Sơn Kỳ, Sơn Lăng, Sơn Linh, Sơn Mùa, Sơn Nham, Sơn Tân, Sơn Thành, Sơn Thượng, Sơn Thủy và Sơn Tinh. Ngày 24 tháng 3 năm 1979, sáp nhập xã Sơn Bua và xã Sơn Mùa thành xã Sơn Mùa. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Sơn Hà thuộc tỉnh Quảng Ngãi, gồm 16 xã: Sơn Hạ, Sơn Thành, Sơn Nham, Sơn Cao, Sơn Linh, Sơn Giang, Sơn Thủy, Sơn Kỳ, Sơn Ba, Sơn Bao, Sơn Thượng, Sơn Lăng, Sơn Tinh, Sơn Dung, Sơn Mùa và Sơn Tân. Ngày 6 tháng 8 năm 1994, tách 4 xã: Sơn Tinh, Sơn Dung, Sơn Mùa và Sơn Tân để tái lập huyện Sơn Tây. Huyện Sơn Hà còn lại 12 xã: Sơn Hạ, Sơn Thành, Sơn Nham, Sơn Cao, Sơn Linh, Sơn Giang, Sơn Thủy, Sơn Kỳ, Sơn Ba, Sơn Bao, Sơn Thượng và Sơn Lăng. Ngày 30 tháng 12 năm 1997: Chia xã Sơn Lăng thành thị trấn Di Lăng và xã Sơn Trung Chia xã Sơn Thủy thành 2 xã: Sơn Thủy và Sơn Hải. Huyện Sơn Hà có 1 thị trấn và 13 xã như hiện nay. Kinh tế Kinh tế chủ yếu mang tính chất thuần nông. Trong những năm gần đây, trồng rừng và chăn nuôi là thế mạnh của huyện. Hiện nay, trên địa bàn huyện có Nhà máy Mì Sơn Hải (Nhà máy chế biến sắn) đang hoạt động tạo đầu ra cho nông sản của các dân tộc thiểu số. Hiện tại đang có thêm nhà máy cây keo lai ở xã Sơn Hạ. Du lịch Thạch Bích tà dương, còn gọi là Núi Đá Vách có độ cao 1.095 m là một trong 12 thắng cảnh nổi tiếng của Quảng Ngãi. Đập và hồ Thạch Nham là những địa chỉ du lịch khá nổi tiếng nằm ở địa phận xã Sơn Nham. Ngoài ra còn có Suối Tầm Linh thuộc xã Sơn Linh đây cũng là một khu du lịch sinh thái.
Trong vật lý học, bức xạ hay phát xạ là sự lan tỏa hoặc truyền dẫn năng lượng dưới dạng sóng hoặc hạt qua không gian hoặc qua môi trường vật chất. Bức xạ bao gồm: Bức xạ điện từ: sóng radio, vi sóng, hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy được, tử ngoại, tia gamma,... Bức xạ hạt: bức xạ alpha, bức xạ beta,... Bức xạ âm thanh: sóng siêu âm, sóng âm thanh, sóng địa chấn,... Bức xạ hấp dẫn: bức xạ dưới dạng sóng hấp dẫn. Bức xạ thường được phân loại là ion hóa hoặc không ion hóa tùy thuộc vào năng lượng của các hạt bức xạ. Bức xạ ion hóa mang hơn 10 eV, đủ để ion hóa các nguyên tử, phân tử và phá vỡ các liên kết hóa học. Một nguồn phổ biến của bức xạ ion hóa là các vật liệu phóng xạ phát ra bức xạ α, β hoặc γ, tương ứng với hạt nhân heli, electron hoặc positron và photon. Các nguồn khác bao gồm tia X từ chụp X-quang trong y tế, muon, meson, positron, neutron và các hạt khác cấu thành các tia vũ trụ thứ cấp, vốn được tạo ra sau khi các tia vũ trụ sơ cấp tương tác với bầu khí quyển của Trái Đất. Bức xạ ion hóa Bức xạ với năng lượng đủ lớn có thể làm ion hóa các nguyên tử; nghĩa là nó có thể "đánh bật" các electron ra khỏi nguyên tử, tạo ra các ion. Bởi vì các tế bào sống, hay quan trọng hơn là DNA trong các tế bào đó có thể bị tổn hại do quá trình ion hóa này, nên việc tiếp xúc với bức xạ ion hóa sẽ làm tăng nguy cơ ung thư.
Nghĩa Hành là một huyện trung du thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Địa lý Phía bắc giáp huyện Tư Nghĩa Phía nam giáp huyện Ba Tơ và thị xã Đức Phổ Phía tây giáp huyện Minh Long Phía đông giáp huyện Mộ Đức và Tư Nghĩa. Địa hình trung dung chuyển tiếp từ vùng núi phía Tây đến đồng bằng ở phía Đông. Đồi gò thấp và thoải cao từ 25-200 m. Sông Vệ chảy qua huyện với chiều dài khoảng 30 km, sông Phước Giang khoảng 20 km. Đường tỉnh 627 qua suốt chiều dọc huyện, 14 tuyến đường huyện dài 74 km. Đường xe lửa Bắc Nam qua địa phận huyện hai đoạn ngắn. Diện tích: 234,12 km² Dân số: 100.444 người. Mật độ 429 người/km² (năm 2006) Dân tộc: Kinh (Việt), H're, Ca Dong. Hành chính Huyện Nghĩa Hành có 12 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Chợ Chùa (huyện lỵ) và 11 xã: Hành Đức, Hành Dũng, Hành Minh, Hành Nhân, Hành Phước, Hành Thiện, Hành Thịnh, Hành Thuận, Hành Tín Đông, Hành Tín Tây, Hành Trung. Thôn của các xã: - Xã Hành Minh có 4 thôn: Long Bàn Nam, Long Bàn Bắc, Tình Phú Nam, Tình Phú Bắc. - Xã Hành Đức có 5 thôn: Kỳ Thọ Nam 1, Kỳ Thọ Nam 2, Kỳ Thọ Bắc, Phú Châu, thôn Xuân Vinh. - Xã Hành Trung có 4 thôn: Hiệp Phổ Nam, Hiệp Phổ Bắc, Hiệp Phổ Trung, Hiệp Phổ Tây. - Xã Hành Phước có 9 thôn: Hòa Vinh, Đề An, Thuận Hòa, An Chỉ Đông, An Chỉ Tây, Hòa Mỹ, Vinh Thọ, Hòa Sơn, Hòa Thọ. - Xã Hành Thuận có 7 thôn: Đại An Đông 1, Đại An Đông 2, Đại An Tây 1, Đại An Tây 2, Phúc Minh, Phú Định, Xuân An. - Xã Hành Dũng có 7 thôn: Kim Thành Hạ, Trung Mỹ, An Hòa, An Sơn, An Phước, An Định, An Tân. - Xã Hành Nhân có 8 thôn: Đồng Vinh, Kim Thành Thượng, Đông Trúc Lâm, Tân Thành, Bình Thành, Nghĩa Lâm, Phước Lâm, Tân Lập. - Xã Hành Tín Tây có 9 thôn: Phú Khương, Phú Thọ, Long Bình, Tân Phú 1, Tân Phú 2, Tân Hòa, Đồng Miếu, Trũng Kè 1, Trũng Kè 2. - Xã Hành Tín Đông có 7 thôn: Thiên Xuân, Nguyên Hòa, Đồng Giữa, Nhơn Lộc 1, Nhơn Lộc 2, Khánh Giang, Trường Lệ. - Xã Hành Thiện có 7 thôn: Bàn Thới, Ngọc Sơn (Theo chính sách mới thì Ủy ban Nhân dân xã Hành Thiện đã hợp nhất thôn Ngọc Dạ và thôn Mễ Sơn lại với nhau, cái tên Ngọc Sơn là hình thức ghép chữ giữa chữ "Ngọc" trong "Ngọc Dạ" và chữ "Sơn" trong "Mễ Sơn"), Vạn Xuân 1, Vạn Xuân 2, Phú Lâm Đông, Phú Lâm Tây. - Xã Hành Thịnh có 11 thôn: An Ba, Châu Me, châu Mỹ, Xuân Ba, Mỹ Hưng, Đồng Xuân, Ba Bình, Xuân Đình, Thuận Hòa, Hòa Huân, Xuân Hòa. Thị trấn Chợ Chùa có 6 tổ dân phố: Phú Vinh Đông, Phú Vinh Tây, Phú Vinh Trung, Phú Bình Tây, Phú Bình Đông, Phú Bình Trung. Thị trấn Chợ Chùa cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 9 km về phía tây nam. Nghĩa Hành là huyện đầu tiên ở tỉnh Quảng Ngãi đạt được danh hiệu "Huyện Nông thôn mới". Giao thông Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Quảng Ngãi – Hoài Nhơn đi qua đang được xây dựng. Lịch sử Nghĩa Hành là một phần đất của huyện Nghĩa Giang. Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), tháng 6, vua Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành vừa chiếm lại đặt đạo Thừa tuyên Quảng Nam. Đạo Thừa tuyên này là một trong số 13 đạo Thừa tuyên trong nước, thống lãnh 3 phủ, 9 huyện trong đó có phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: Bình Dương (sau đổi thành Bình Sơn), Mộ Hoa (đời Thiệu Trị đổi Mộ Đức) và Nghĩa Giang. Địa danh "Nghĩa Hành" xuất hiện lần đầu tiên vào năm Thành Thái thứ 2 (1890), tỉnh Quảng Nghĩa ngoài 3 huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa và Mộ Đức thuộc phủ Tư Nghĩa, thực dân Pháp còn đặt thêm 3 châu: Sơn Tịnh, Nghĩa Hành, Đức Phổ thuộc Nghĩa Định Sơn Phòng. Đất Nghĩa Giang được sáp nhập vào Tư Nghĩa và Nghĩa Hành. Một số giả thuyết về phong trào Tây Sơn trên đất Nghĩa Hành. Sau năm 1975, huyện được sáp nhập với huyện Minh Long thành huyện Nghĩa Minh thuộc tỉnh Nghĩa Bình. Ngày 24 tháng 8 năm 1981, huyện Nghĩa Hành được tái lập, ban đầu gồm 8 xã: Hành Đức, Hành Dũng, Hành Minh, Hành Phước, Hành Thiện, Hành Thịnh, Hành Thuận và Hành Tín. Ngày 19 tháng 2 năm 1986: Chia xã Hành Thuận thành 2 đơn vị hành chính: xã Hành Thuận và thị trấn Chợ Chùa Chia xã Hành Dũng thành 2 xã: Hành Dũng và Hành Nhân Chia xã Hành Đức thành 2 xã: Hành Đức và Hành Trung. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Hành thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 30 tháng 12 năm 1997, chia xã Hành Tín thành hai xã: Hành Tín Đông và Hành Tín Tây. Huyện Nghĩa Hành có 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay. Một số nhân vật lịch sử: Lê Khiết - tức Lê Tựu Khiết (Hành Thịnh), Nguyễn Công Phương (Hành Phước), Võ Duy Ninh (Hành Thuận), Nguyễn Văn Được (Hành Tín)... Kinh tế Thuần nông. Thế mạnh của huyện là sản xuất hoa màu và cây kiểng. Du lịch Di tích vụ thảm sát Khánh Giang - Trường Lệ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng. Đình An Định là di tích kiến trúc cổ nhất trong các đình lầng còn tồn tại ở Quảng Ngãi đã được xếp hạng di tích quốc gia. Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng đã qua đời tại huyện và được chôn cất trên Núi Thiên Ấn. Làng Việt cổ dưới chân núi Dâu. Thắng cảnh Suối Chí với diện tích rộng khoảng 15 ha, nằm cách Thành phố Quảng Ngãi 24 km về phía Nam, thuộc địa bàn thôn Khánh Giang và Trường Lệ, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Đây được xem là một thắng cảnh đẹp của huyện Nghĩa Hành nói riêng và của tỉnh Quảng Ngãi nói chung, có giá trị rất lớn trong phát triển kinh tế xã hội, nhất là phát triển du lịch sinh thái. Suối Chí nằm ẩn mình dưới khu rừng nguyên sinh, tổng diện tích của khu rừng 1.012ha, nhân dân nơi đây thường gọi khu rừng này là rừng Cộng đồng vì toàn bộ khu rừng này đã được giao cho 350 hộ dân thuộc hai thôn Khánh Giang và Trường Lệ, xã Hành Tín Đông quản lý. Chú thích
Thành Đồ Bàn hay Vijaya (tiếng Phạn विजय, nghĩa Việt: Thắng lợi), còn gọi là thành cổ Chà Bàn (Trà Bàn) là kinh đô của Chăm Pa, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn và cách thành phố Quy Nhơn (tỉnh Bình Định, Việt Nam) 27 km về hướng Tây Bắc. Trong thời kỳ Chăm Pa có quốc hiệu là Chiêm Thành. Vijaya đồng thời cũng là tên gọi của một trong các tiểu quốc của Chăm Pa, tiểu quốc Vijaya. Lịch sử Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Chăm Pa lánh nạn vào phương Nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay. Ở phía Nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, người Việt rút lui khỏi vùng đất phía bắc, Harivarman II đã lấy lại và dời đô về kinh đô cũ Indrapura, tuy nhiên tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Chăm Pa tới nhà Tống (Trung Quốc) vào năm 1005. Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ năm 1145 đến năm 1149 và từ năm 1190 đến năm 1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần (Đại Việt), Nguyên Mông tấn công Vijaya vào năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 (nhà Lý), 1252, 1312, 1377 (nhà Trần), 1403 (nhà Hồ), 1446, 1471 (nhà Lê). Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê (Đại Việt) cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Chăm Pa mất hoàn toàn miền Bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông. Thời gian biểu Năm 982, triều đại vua Yangpuku Vijaya (tiếng Hán Việt là Ngô Nhật Hoan ?), thành Đồ Bàn được xây dựng. Đây là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chăm Pa và các vua Chăm đã đóng ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15. Năm 1377, trong trận Đồ Bàn, vua Trần Duệ Tông đem 120.000 quân bộ, thủy đánh thành Đồ Bàn bị Chế Bồng Nga đánh bại, Trần Duệ Tông tử trận. Năm 1403, Hồ Hán Thương sai tướng đem 200.000 lính vây đánh thành Đồ Bàn ngót hai tháng trời, nhưng bị quân Chiêm Thành phản công quyết liệt, phải rút quân về nước. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đem một đoàn lục, thủy quân hùng mạnh sang đánh Chăm Pa. Sau khi chiếm được, Lê Thánh Tông ra lệnh phá hủy thành Đồ Bàn. Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng Đế nhà Tây Sơn, đóng đô ở đây, nên còn gọi là thành Hoàng Đế, ông cho mở rộng về phía Đông, xây dựng nhiều công trình lớn. Năm 1799, thành bị quân Nguyễn Ánh chiếm, đổi gọi là thành Bình Định. Ngày nay, thành Hoàng Đế là một trong những di tích giá trị, quan trọng trong nghiên cứu lịch sử quân sự và khảo cổ học. Đặc điểm Vijaya nằm tại vị trí mà hiện nay là xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Cách Quốc lộ 1 khoảng 2 km, toàn thể kinh thành nằm trên một vùng đất cao so với các cánh đồng xung quanh Theo ghi chép trong Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Đoan, viên thông ngôn của Trịnh Hòa (người nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya khoảng năm 1413 thì kinh đô Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả như sau: Đi theo hướng tây nam một trăm lý thì sẽ tới kinh thành nơi nhà vua ngự, người ngoại quốc gọi là "Chiêm Thành". Kinh thành có lũy bằng đá bao quanh, ra vào qua bốn cổng, có lính canh gác. Điện vua thì cao và rộng, phần mái ở trên lợp ngói nhỏ hình thuẫn; bốn bức tường bao quanh có đắp trang trí công phu bằng gạch và hồ, rất gọn ghẽ. Các cánh cửa được làm bằng gỗ cứng, chạm trổ hình thù dã thú và cầm súc. Nhà cửa dân cư trong thành lợp mái tranh, chiều cao mái hiên (tính từ mặt đất) không quá ba "thước", ra vào phải khom lưng cúi đầu, ai cao quá thì thật là bực mình Vijaya là kinh đô của Chăm Pa trong 5 thế kỷ, từ năm 999 đến năm 1471. Trong khoảng thời gian này, các triều vua Chăm cho xây dựng rất nhiều công trình ở kinh đô, nay còn lại là tám ngôi tháp. Qua các cuộc xung đột với Đại Việt, Champa mất dần các trấn phía bắc: Indrapura, Amaravati rồi đến năm 1471 thì chính Vijaya bị quân của vua Lê Thánh Tông vây hãm. Quân nhà Lê hạ được sau khi giao tranh đẫm máu. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì quân Việt bắt sống hơn 30.000 người Chiêm, trong đó có vua Trà Toàn còn 40.000 lính Chiêm tử trận. Đồ Bàn từ đó bị bỏ hoang. Mãi đến cuối thế kỷ 18, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc mới ra lệnh xây dựng Thành Hoàng Đế trên nền cũ thành Vijaya cũ để làm kinh đô. Năm 1799 quân chúa Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm thành Hoàng Đế và đổi tên là Thành Bình Định. Sang triều Gia Long năm 1816, nhà vua cho phá bỏ thành Bình Định và chuyển thủ phủ về Quy Nhơn. Hiện nay dấu tích của vương triều Chăm Pa tại Vijaya còn lại là đôi sư tử bằng đá, chạm trổ theo phong cách nghệ thuật Bình Định vào thế kỷ 12-14. Ngoài ra có ngôi Tháp Cánh Tiên, một trong các phong cách nghệ thuật các tháp Chăm. Di tích Đồ Bàn hiện nay không còn mấy ngoài tường lũy bằng đá ong, ngoài là hào cạn. Trong thành vẫn còn lối đi lát đá hoa cương, một thửa giếng vuông, tượng voi đá, và bên cửa hậu là gò Thập Tháp. Đặc biệt có ngôi tháp Cánh Tiên cao gần 20 mét, góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, voi đá và nhiều tượng quái vật. Kiến trúc tháp này được coi là tiêu biểu cho phong cách Bình Định có niên đại nửa sau thế kỷ 11 sang đầu thế kỷ 12, thuộc triều vua Harivarman IV (1074-1081) và Harivarman V (1113-1139). Phía Bắc thành có Chùa Thập Tháp Di Đà (được xây trên nền của mười tháp Chăm cổ); phía Nam thành có chùa Nhạn Tháp, đều là những ngôi chùa cổ. Khu vực Đồ Bàn nói chung còn giữ được nhiều di tích liên quan đến văn hóa Chăm Pa và phong trào Tây Sơn như lăng Võ Tánh, lăng Ngô Tùng Châu, cổng thành cũ. Trong lăng còn chiếc lầu bát giác cổ kính, trong lầu còn tấm bia đá khắc công tích của Ngô Tùng Châu và Võ Tánh (năm 1800). Bia bằng đá trắng, chịu nhiều gió bụi thời gian đến nay đã mòn cả những chữ Hán khắc trên đó. Hiện nay Phường Đập Đá nằm ngay bên ngoài thành. Di tích xung quanh Thành Bình Định Tháp Hưng Thạnh Tháp Dương Long tháp Bánh Ít Tháp Cánh Tiên Núi Bà (Bình Định)
Sông La là một phụ lưu của sông Lam, dài 12,5 km chảy qua huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Sông La là hợp lưu của hai sông Ngàn Phố (từ Hương Sơn đồ về) và sông Ngàn Sâu (từ Hương Khê và Vũ Quang) tại bến Tam Soa (Linh Cảm, Đức Thọ). Đến lượt nó lại hợp lưu với sông Cả (từ Nghệ An chảy sang) tạo thành dòng sông Lam nằm giữa 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Sông La là một dòng sông rất đẹp, có phong cảnh nên thơ và là nguồn cảm ứng sáng tạo cho nhiều nhạc sĩ. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: Sông La có hai nguồn: Một nguồn từ động Thâm Nguyên (tức Ngàn Sâu) ở núi Khai Trương (tức núi Giăng Màn) châu Quy Hợp tỉnh Hà Tĩnh (đạo Hà Tĩnh xứ Nghệ xưa), chảy về Đông đến xã Chu Lễ, hợp với sông Tiêm, đến xã Bào Khê gặp sông Trúc, qua sông Cửu Khúc đến xã Vụ Quang thì hội với sông Ác (tức sông Ngàn Trươi), đến xã Đỗ Xá thì gặp sông Ngàn Phố. Nguồn kia là sông La Hà bắt đầu từ ngọn Cốt Đột núi Giăng Màn, chảy về phía Đông gọi là sông Ngàn Phố đến Đỗ Xá hợp với sông La. Sông La chảy đến xã Bùi Xá thì chia ra một nhánh chảy vào sông Minh, chảy tiếp về Đông đến xã Tường Xá thì đổ vào sông Lam. Các bài hát về sông La: Người con gái sông La của nhạc sĩ Doãn Nho; Gái sông La của nhạc sĩ Lê Hàm; Gửi sông La mẹ hiền của Thu Hiền và Lê Việt Hòa; Một mình với sông La của nhạc sĩ Tân Huyền; Sông La ngày về, sáng tác: Nhạc sĩ Quốc Việt. Gửi về sông La, sáng tác: Nhà thơ Tạ Thăng Hùng
Chim cổ rắn là các loài chim trong họ Anhingidae, bộ Chim điên (trước đây xếp trong bộ Bồ nông). Hiện nay còn tồn tại tổng cộng 4 loài trong một chi duy nhất, một trong số đó hiện đang ở tình trạng gần bị đe dọa tuyệt chủng. Chúng được gọi là chim cổ rắn là do chúng có cổ dài và mảnh dẻ, tạo ra bề ngoài tương tự như những con rắn khi chúng bơi với phần thân chìm dưới mặt nước. Miêu tả Chim cổ rắn là các loài chim lớn. Con trống có bộ lông màu đen hay nâu sẫm, mào mọc thẳng đứng trên đầu và mỏ lớn hơn của con mái. Chim mái có bộ lông nhạt màu hơn, đặc biệt là trên cổ và các phần dưới. Cả chim trống và chim mái có các chấm màu xám trên các lông vai dài và các lông vũ của mặt trên các cánh. Mỏ nhọn có các gờ răng cưa. Các chân chim cổ rắn có màng bơi, ngắn và ở gần phần cuối của thân. Bộ lông của chúng có thể thấm nước, tương tự như của chim cốc nên chúng phải rũ cánh để làm khô sau khi bơi lặn. Các tiếng kêu của chúng bao gồm các tiếng kêu ríu rít hay rất huyên náo khi chúng bay hoặc đậu. Trong mùa động dục, các con trưởng thành đôi khi có tiếng huýt gió như quạ kêu. Phân bố Chim cổ rắn sinh sống ở khu vực vòng quanh xích đạo, trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Chúng sống trong môi trường nước ngọt hoặc lợ và có thể tìm thấy trong các hồ, sông, đầm lầy, cửa sông, vịnh, phá và các cánh rừng đước ngập nước. Chúng có xu hướng tụ tập thành bầy đôi khi tới 100 con nhưng lại có đặc tính chiếm cứ lãnh thổ khá cao khi vào mùa sinh sản. Phần lớn là sống tĩnh tại và không di cư, tuy nhiên các quần thể lớn có thể có hiện tượng di cư. Thức ăn Thức ăn chủ yếu của chim cổ rắn là cá có kích thước trung bình. Chúng dùng các mỏ nhọn của mình để xiên con mồi khi chúng lặn xuống dưới nước. Chúng có thể phóng mỏ của chúng về phía trước tương tự một mũi giáo. Chúng cũng ăn cả các động vật lưỡng cư như ếch và sa giông, các loài động vật bò sát như rắn và rùa cũng như các động vật không xương sống như côn trùng, tôm tép và các động vật thân mềm khác. Các loài chim này dùng chân của chúng để di chuyển dưới nước, đuổi theo và phục kích con mồi. Sau đó chúng đâm vào con mồi, chẳng hạn cá, để đem nó lên trên bề mặt nước, tung nó trong không gian để bắt và nuốt. Sinh sản Chim cổ rắn là động vật có quan hệ tình dục kiểu một vợ-một chồng và chúng cặp đôi trong mùa sinh sản. Chúng có nhiều kiểu thể hiện khả năng để tìm kiếm bạn tình, bao gồm việc các con trống khoe mã để hấp dẫn con mái, các thể hiện chào mừng giữa con trống với con mái và các thể hiện liên kết cặp giữa các cặp. Trong mùa sinh sản, các túi nhỏ dưới cổ chúng đổi từ màu hồng hay vàng sang màu đen và phần da trên mặt chuyển từ màu vàng hay vàng-lục sang màu xanh thổ. Thông thường chúng giao phối và sinh sản theo từng bầy. Sinh sản có thể diễn ra thành mùa hoặc quanh năm và thay đổi theo khu vực địa lý. Tổ của chúng được làm từ các cành cây non và được xây trên các ngọn cây hay trong các đám lau sậy, thường gần mặt nước. Ổ trứng có từ 2-6 trứng (thông thường khoảng 4) với vỏ màu lục nhạt, được ấp trong khoảng 25 - 30 ngày. Trứng nở không đồng thời. Cả chim bố và chim mẹ cùng chăm sóc các con và con non thuộc loại không tự kiếm mồi sớm được. Chúng đạt độ tuổi trưởng thành sau khoảng 2 năm. Nói chung chim cổ rắn có thể sống khoảng 9 năm. Phân loại Họ chim này có quan hệ họ hàng rất gần với các họ khác trong bộ Bồ nông (Pelecaniformes). Hiện nay, nói chung người ta công nhận có 4 loài còn sinh tồn trong cùng một chi với danh pháp khoa học Anhinga. Chim cổ rắn phương đông là loài cận mức nguy hiểm. Sự phá hủy môi trường sinh sống cùng với các sự can thiệp khác của con người là những nguyên nhân chính làm cho số lượng của loài này bị suy giảm. Các loài còn sinh tồn Anhinga anhinga: Chim cổ rắn châu Mỹ Anhinga melanogaster: Điên điển phương Đông, chim cổ rắn phương đông Anhinga rufa: Chim cổ rắn châu Phi Anhinga novaehollandiae: Chim cổ rắn Úc Các "loài" tuyệt chủng được biết đến nhờ các bộ xương ở Mauritius và Australia đã được đặt tên khoa học là Anhinga nana (chim cổ rắn Mauritius) và Anhinga parvus, nhưng chúng đã bị xác định sai lầm các bộ xương của chim cốc đuôi dài (Phalacrocorax africanus) và chim cốc nhỏ có mào (Phalacrocorax melanoleucos), một cách tương ứng (Olson, 1975). Tuy nhiên, trong trường hợp đầu tiên, chúng có thể thuộc về một phân loài đã tuyệt chủng, có thể tạm được gọi là Phalacrocorax africanus nanus (chim cốc Mauritius lùn) - trớ trêu thay, do nanus/nana có nghĩa là "lùn" nhưng các bộ phận còn sót lại của nó lại lớn hơn những phần tương ứng của những con chim cốc đuôi dài phân bổ rất gần về mặt địa lý. Hóa thạch Có một lượng khá lớn các loài và các chi tiền sử chỉ tìm thấy từ các hóa thạch (chủ yếu là trong kỷ đệ Tam); trong số đó được đặt tên một cách thích hợp là Macranhinga, Meganhinga và Giganhinga, đại diện cho những con chim cổ rắn rất lớn và không biết bay. Các loài tiền sửa của Anhinga được cho là phân bố trong các điều kiện khí hậu giống ngày nay, phân bố từ châu Âu trong Miocene ẩm hơn và nóng hơn. Dòng nhỏ hơn đã sống sót trong hơn 20 triệu năm. Các bằng chứng hóa thạch loài cho thấy chúng tập trung quan xích đạo, với loài trẻ hơn phân bố về phía đông của châu Mỹ, Hadley cell có vẻ là yếu tố chính giúp chi này vượt qua nguy cơ tuyệt chủng và sống sót: Anhinga subvolans (Brodkorb, 1956) (Miocene sớm, Thomas Farm, USA) – trước đây thuộc Phalacrocorax Anhinga cf. grandis (Miocene giữa ở Colombia –? Pliocene muộn ở Trung-Nam Nam Mỹ) Anhinga sp. (Sajóvölgyi Miocene giữa ở Mátraszõlõs, Hungary) – A. pannonica? "Anhinga" fraileyi Campbell, 1996 (Miocene muộn–? Pliocene sớm ở Trung-Nam Nam Mỹ) – có thể thuộc Macranhinga Anhinga pannonica Lambrecht, 1916 (Miocene muộn ở Trung Âu? và Tunisia, Đông Phi, Pakistan và Thái Lan –? Sahabi Pliocene sớm ở Libya) Anhinga minuta Alvarenga & Guilherme, 2003 (Solimões Miocene muộn/Pliocene sớm ở trung-nam Nam Mỹ) Anhinga grandis Martin & Mengel, 1975 (Miocene muộn –? Pliocene muộn ở Hoa Kỳ) Anhinga malagurala Mackness, 1995 (Allingham Early Pliocene of Charters Towers, Australia) Anhinga sp. (Early Pliocene of Bone Valley, USA) – A. beckeri? Anhinga hadarensis Brodkorb & Mourer-Chauviré, 1982 (Pliocene muộn/Pleistocene sớm ở Đông Phi) Anhinga beckeri Emslie, 1998 (Early – Late Pleistocene of SE USA) Protoplotus, một chi phalacrocoraciform nhỏ trong Paleogene ở Sumatra, từng được xem là một nhóm chim cổ rắn nguyên thủy. Tuy nhiên, nó cũng được xếp thành họ riêng (Protoplotidae) và có thể là một nhánh cơ bản của Sulae và/hoặc gần với tổ tiên chung của cormorants và chim cổ rắn.
Angela Isadora Duncan (26 tháng 5 năm 1877 hoặc 27 tháng 5 năm 1878 – 14 tháng 9 năm 1927) là một vũ công và biên đạo múa người Mỹ. Bà cũng là người tiên phong cho múa đương đại. Sinh ra và lớn lên ở California, bà sống và múa ở Châu Âu, Mỹ và Liên Xô từ năm 22 tuổi đến khi qua đời ở tuổi 50 khi khăn choàng của bà bị cuốn vào một chiếc bánh xe khi đang đi du lịch ở Nice, Pháp. Đầu đời Isadora Duncan sinh ra tại San Francisco, là đứa con út của Joseph Charles Duncan (1819–1898), một nhân viên ngân hàng, kỹ sư khai thác mỏ và Mary Isadora Gray (1849–1922). Các anh trai của bà là Augustin Duncan và Raymond Duncan; chị gái bà, Elizabeth Duncan, cũng là một vũ công. Sau khi Isadora ra đời không lâu, cha bà bị phát hiện dùng tiền từ hai ngân hàng mà ông giúp thành lập cho mục đích các nhân. Tuy không phải ở tù, nhưng mẹ của bà (tức giận vì chồng không chung thủy và vụ bê bối) đã ly hôn, và gia đình rơi vào cảnh nghèo đói. Joseph Duncan, cùng với bà vợ thứ ba và cô con gái của họ, qua đời vào năm 1898 khi tàu hơi nước SS Mohegan mà họ đi mắc cạn ngoài khơi Cornwall. Sau vụ ly hôn, mẹ của Isadora chuyển tới sống với gia đình ở Oakland, California, tại đây bà trở thành thợ may và giáo viên dạy piano. Isadora đi học từ năm sáu tới mười tuổi, nhưng bà bỏ học vì thấy đây là một môi trường gò bó. Bà và ba anh chị kiếm tiền bằng cách dạy múa cho trẻ con ở địa phương. Sự nghiệp Triết lý và kỹ thuật Đời sống cá nhân Con cái Các mối quan hệ Cuộc sống về sau Cái chết Vào đêm ngày 14 tháng 9 năm 1927 ở Nice, Pháp, Duncan là hành khác của một xe ô tô Amilcar CGSS của , một thợ máy người Pháp-Ý. Bà quàng một chiếc khăn lụa dài vẽ tay bởi nghệ sĩ người Nga Roman Chatov, một món quà từ người bạn Mary Desti. Desti, người tiễn Duncan, đã bảo bà mặc một chiếc áo choàng khi đi xe mui trần vì trời lạnh, nhưng bà chỉ đồng ý đeo khăn quàng. Khi họ khởi hành, bà nói với Desti và những người đồng hành, "" ("Tạm biệt, bạn tôi. Tôi đi đến vinh quang đây!"); nhưng theo tiểu thuyết gia người Mỹ Glenway Wescott, Desti sau này bảo với ông lời tạm biệt thực sự của Duncan là ("Tôi khởi hành tới tình yêu đây"). Desti khá xấu hổ về điều này, bởi lời tạm biệt gợi ý rằng Duncan và Falchetto có thể sẽ hẹn hò ở khách sạn của bà. Chiếc khăn quàng của bà cuốn vào chiếc bánh xe đang chạy, kéo bà ra khỏi chiếc xe mui trần và làm gãy cỏo bà. Desti cho biết bà đã cảnh cáo Duncan về chiếc khăn quàng gần như sau khi chiếc xe rời đi. Desti đưa Duncan tới bệnh viện, nơi bà được tuyên bố là đã qua đời. Khi qua đời, Duncan là một công dân Liên Xô. Di nguyện của bà là được trở thành người Liên Xô đầu tiên được chứng thực di chúc tại Hoa Kỳ. Duncan được hỏa táng, tro cốt của bà được đặt cạnh tro cốt các con mình tại Nghĩa trang Père-Lachaise ở Paris. Trên bia mộ của bà có khắc dòng chữ École du Ballet de l'Opéra de Paris ("Trường Ba Lê của Nhà hát Opera Paris"). Di sản Nếu như các trường dạy múa của Duncan ở Châu Âu không tồn tại được lâu, bà đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ba lê hiện đại và phong cách múa của bà vẫn còn được lưu truyền dưới sự chỉ dẫn của Maria-Theresa Duncan, Anna Duncan, và Irma Duncan, ba trong số sáu cô con gái nuôi. Quá trình nhận nuôi chưa bao giờ được xác minh, nhưng cả sáu người đã đổi họ sang Duncan. Thông qua chị gái mình, Elizabeth, phương pháp của Duncan được tiếp nhận bởi Jarmila Jeřábková từ Praha nơi di sản của bà vẫn còn tồn tại. Khi Nhà hát Champs-Élysées được xây dựng, Duncan được nhà điêu khắc Antoine Bourdelle chạm khắc trên bức phù điêu thấp ngoài cổng vào. Bà cũng có mặt trong tranh tường của Maurice Denis vẽ chín vị muse trong khán phòng. Anna, Lisa, Theresa và Irma, các học sinh của ngôi trường đầu tiên của Isadora Duncan, đã mang tính thẩm mỹ và sư phạm trong điệu múa của Isadora tới New York và Paris. Kỹ thuật múa của Duncan cũng được lưu truyền bằng sự thành lập của Tổ chức Di sản Isadora Duncan, sáng lập Mignon Garland (người được dạy múa bởi Anna và Irma Duncan). Garland hâm mộ Duncan đến nỗi về sau bà sống trong tòa nhà được dựng lên cùng địa chỉ với nơi Duncan từng ở, với một tấm bảng kỷ niệm gần lối vào vẫn còn tồn tại . Garland cũng đã yêu cầu được San Francisco đặt tên lại con hẻm Adelaide Place thành Isadora Duncan Lane. Trong y khoa, Hội chứng Isadora Duncan chỉ tới những tai nạn do những phụ kiện quanh cổ bị cuốn vào bánh xe hoặc máy móc. Thư viện ảnh
Họ Chim điên (danh pháp khoa học: Sulidae) là một họ chim bao gồm 9-10 loài chim điên. Chúng là các loài chim biển sống ven bờ có kích thước từ trung bình tới lớn, có hoạt động săn bắt mồi (cá) bằng cách lao mình xuống nước. Tên gọi chim điên được dịch từ tiếng Pháp fou (kẻ điên). Các loài trong họ này hay được coi là đồng chi trong các nguồn cũ, đặt tất cả trong chi Sula. Trong tiếng Anh, chúng được chia thành hai nhóm với tên gọi là booby (dùng cho chim điên) và gannet (dùng cho ó biển). Phân loại
Chim điêu trong tiếng Việt có thể là tên gọi của: Diều hâu: (các chi Accipiter, Micronisus, Melierax, Urotriorchis và Megatriorchis trong phân họ Accipitrinae thuộc họ Accipitridae. Kên kên Cựu thế giới: (các chi Gypaetus, Gyps, Torgos, Aegypius, Neophron, Gypohierax, Necrosyrtes trong họ Accipitridae. Các tác phẩm Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ của nhà văn người Trung Quốc Kim Dung có đề cập tới các loại chim điêu, có lẽ là thuộc về các chi này. Kên kên Tân thế giới và kên kên khoang cổ: (các chi Cathartes, Coragyps, Gymnogyps, Sarcorhamphus, Vultur trong họ Cathartidae). Họ Kền kền Tân thế giới Kền kền Tân thế giới Động vật ăn xác chết
Học viện Kỹ thuật Quân sự ( – MTA), hay còn gọi là Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn, là trường đại học trọng điểm quốc gia đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sự chỉ đạo nghiệp vụ của Bộ giáo dục và Đào tạo. Học viện có nhiệm vụ đào tạo cán bộ kỹ thuật, chỉ huy tham mưu kỹ thuật có trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ cho quân đội. Đồng thời, Học viện có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học công nghệ quân sự, kết hợp nghiên cứu với triển khai ứng dụng, chuyển giao công nghệ với sản xuất và thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Trụ sở và các chi nhánh Tổng diện tích mặt bằng các chi nhánh và trụ sở chính của Học viện Kỹ thuật Quân sự là hơn 50ha. Các cơ sở của Học viện: Cơ sở 1: Trụ sở chính (khu A), số 236 đường Hoàng Quốc Việt, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Là nơi làm việc của Ban giám đốc, các cơ quan chức năng, các Khoa, Viện, Trung tâm nghiên cứu và cũng là nơi sinh hoạt, rèn luyện, học tập, nghiên cứu khoa học của đối tượng học viên, sinh viên đào tạo đại học và sau đại học. Cơ sở 2: Khu B, đường Kiều Mai, phường Phương Canh, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội: Gồm Ký túc xá, Giảng đường, Khu thể thao, Nhà ăn; Xưởng Chế thử/Trung tâm Công nghệ; Trung tâm dạy nghề lái xe; Hệ đào tạo Sau đại học; Cơ sở 3: Đại diện phía Nam tại số 71 Cộng Hòa, phường 4, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; điện thoại: 069 662 644; Gồm cơ quan đại điện và đào tạo sau đại học tại phía Nam. Cơ sở 4: Trung tâm Huấn luyện 125 Vĩnh Phúc, đường Nguyễn Văn Linh, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (10 ha): Gồm các Xưởng thực hành, thực tập và là nơi sinh hoạt, rèn luyện, học tập của các đối tương đào tạo liên thông, chuyển cấp, văn bằng 2 và các lớp đào tạo ngắn hạn. Cơ sở 5: Khu Hòa Lạc tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội (23ha): Trung tâm nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ Hòa Lạc; Trường bắn Thử nghiệm vũ khí; Khu huấn luyện dã ngoại, Khu hậu cần... Cơ sở 6: Khu Kim Chung, Kim Nỗ, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội là Khu nghiên cứu khoa học quân sự, huấn luyện, đào tạo. Cơ sở 7: tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (5,0 ha). Tổng quan Học viện Kỹ thuật quân sự là đại học nghiên cứu (Research University), được tổ chức theo mô hình trường đại học kỹ thuật tổng hợp, vừa đào tạo và nghiên cứu ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại vào thiết kế, chế tạo, sản xuất và khai thác sử dụng vũ khí, khí tài, trang thiết bị và phương tiện kỹ thuật quân sự, cũng như phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhà khoa học Hơn 1300 cán bộ với hơn 900 giảng viên, trong đó: gần 100 giảng viên được phong học hàm Giáo sư, Phó giáo sư; gần 500 cán bộ đạt học vị Tiến sĩ Khoa học và Tiến sĩ chuyên ngành; 50 nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và Nhà giáo Ưu tú. Cơ sở vật chất Tổng diện tích mặt bằng của Trụ sở chính tại 236 - Hoàng Quốc Việt và các chi nhánh khác: hơn 50 hecta. Hệ thống các giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm,khu giáo dục thể chất, ký túc xá...; các trang thiết bị nghiên cứu và giảng dạy hiện đại, đồng bộ phù hợp với chương trình đào tạo Học viện đang áp dụng, cụ thể: hơn 200 giảng đường, phòng đào tạo từ xa, phòng thí nghiệm, sân vận động, bể bơi... Thư viện với trên 2000 m2 sử dụng với 76.000 đầu sách, cơ sở vật chất, thiết bị hạ tầng thông tin trang bị đồng bộ, có hệ thống phòng đọc, phòng tra cứu Internet. Hệ thống thư viện điện tử với nhiều cơ sở dữ liệu giáo trình,tài liệu, máy chủ và máy trạm khai thác dữ liệu trực tuyến trên Internet… Hợp tác Trường đã tổ chức đào tạo liên kết với các trường đại học trong và ngoài nước: Đại học Kỹ thuật Quốc gia Moskva Bauman, Đại học Bách khoa Saint Petersburg, Đại học Công nghê Thông tin Cơ khí và Quang học Saint Petersburg, Đại học Hàng không Moskva (Liên bang Nga); Học viện Phòng vệ Nhật Bản, Trường Đại học Điện tử Truyền thông Tokyo (Nhật Bản); Đại học Quốc dân Hàn Quốc; (Hàn Quốc); Đại học Quốc phòng Brno (Cộng hòa Séc); Đại học New South Wales/Học viện Quốc phòng Australia (UNSW@ADFA); Học viện Kỹ thuật Quân sự Munich (Đức)và một số Học viện Quân sự của Liên bang Nga, Pháp, Đức, Bugari, Ba Lan,...Đại học Thanh Hoa, Đại học Khoa học và công nghệ Nam Kinh (Trung Quốc), Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc Hà Nội, Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội,... đồng thời Trường còn gửi cán bộ đi đào tạo tại Anh, Ôtraylia, Nhật Bản, Séc, Đức,... Tính đến năm 2015, Học viện có quan hệ hợp tác với trên 50 trường đại học trên thế giới. Lịch sử hình thành và phát triển Ngày 08/08/1966 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 146-CP thành lập Phân hiệu II Đại học Bách Khoa. Ngày 28/10/1966, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ công bố quyết định thành lập Phân Hiệu II Đại học Bách Khoa đồng thời khai giảng khóa đào tạo 1 tại Thủ đô Hà Nội. Từ đó tới nay, ngày 28/10 hàng năm trở thành ngày truyền thống của Nhà trường. Ngày 18/6/1968, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 88-CP chuyển "Phân hiệu II Đại học Bách khoa" thuộc Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp thành "Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự" thuộc Bộ Quốc phòng. Ngày 15/12/1981, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Học viện Kỹ thuật Quân sự trên cơ sở trường Đại học Kỹ thuật Quân sự. Ngày 06/5/1991: Thủ tướng Chính phủ quyết định cho Học viện Kỹ thuật Quân sự được sử dụng tên dân sự Trường Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn với 2 nhiệm vụ đào tạo quân sự và dân sự. Ngày 31/1/2008, Học viện Kỹ thuật Quân sự được Chính phủ quyết định đưa vào danh sách 15 trường đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam. Lãnh đạo hiện nay Năm 2006, thực hiện chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong Quân đội. Theo đó Đảng bộ trong Học viện Kỹ thuật quân sự bao gồm: Đảng bộ Học viện Kỹ thuật quân sự là cao nhất; Đảng bộ các Khoa đào tạo, Viện nghiên cứu, Trung tâm nghiên cứu, các Hệ quản lý học viên trực thuộc Học viện Kỹ thuật quân sự; Chi bộ thuộc các Phòng, Ban, Bộ môn, các đơn vị cơ sở. Đào tạo Đại học Thời gian đào tạo là 5 năm, mỗi năm 2 học kỳ. Đào tạo về Các môn học khối kiến thức cơ bản, Các môn học khối cơ sở ngành và chuyên ngành, Các môn học khối kiến thức chuyên ngành theo hướng đào tạo, Khối kiến thức về Khoa học xã hội - Nhân văn và Giáo dục quốc phòng. Hệ quân sự: Hiện nay, Học viện đào tạo 45 chuyên ngành quân sự thuộc các ngành/lĩnh vực: Điện tử truyền thông; Điện-Điện tử; Điều khiển và Tự động hóa; Kỹ thuật máy tính; Khoa học máy tính; Hệ thống thông tin; Mạng máy tính; Công nghệ phần mềm; An ninh, An toàn thông tin; Công nghệ thông tin; Toán-Tin học; Địa-Tin học; Hàng không vũ trụ; Cơ khí; Vũ khí; Động lực; Xây dựng; Công trình giao thông;; Hóa học; Vật liệu; Môi trường; Cơ - Điện tử; Quang học và Quang - Điện tử;... Hệ dân sự: Hiện nay, Học viện đào tạo 21 chuyên ngành dân sự: công nghệ thông tin; khoa học máy tính; hệ thống thông tin; công nghệ phần mềm; truyền thông và mạng máy tính; an toàn thông tin; công nghệ hóa học, kỹ thuật môi trường; kỹ thuật điện - điện tử; điều khiển công nghiệp; tự động hóa; điện tử viễn thông; điện tử y sinh; cơ điện tử; kỹ thuật hàng không; kỹ thuật hệ thống sản xuất; cơ kỹ thuật; kỹ thuật thủy khí; kỹ thuật nhiệt lạnh; kỹ thuật thiết kế; chế tạo máy; gia công áp lực; kỹ thuật ô tô; máy xây dựng; xây dựng dân dụng và công nghiệp; cầu đường bộ;... Đến năm 2019, theo đề án chủ truơng mới của Bộ Quốc phòng, Học viện dừng tuyển sinh và đào tạo khối dân sự. Thạc sĩ Danh sách ngành đào tạo trình độ thạc sĩ: 18 ngành Tiến sĩ Danh sách ngành đào tạo trình độ tiến sĩ: 15 ngành Cơ cấu tổ chức Khối Khoa, Viện, Trung tâm Các Phòng, Ban chức năng Đơn vị quản lý học viên Đơn vị trực thuộc khác Trung tâm Toán ứng dụng; Trung tâm Vật lý kỹ thuật; Trung tâm Kỹ thuật hóa học; Trung tâm Cơ khí động lực và dạy nghề xe cơ giới; Công ty đầu tư và phát triển công nghệ AIC Hợp tác quốc tế về đào tạo và nghiên cứu Ngày 27/02/2014, Học viện KTQS phối hợp với Cục Đối ngoại đã long trọng tiếp đón và làm việc với GS. Ryosei Kokubun - Hiệu trưởng Trường Đại học Phòng vệ Nhật Bản. Ngày 06/03/2014 Giáo sư Chang Nien Yin thuộc Trường Đại học Colorado (Hoa Kỳ), đến giảng dạy, trao đổi chuyên môn trong lĩnh vực địa kỹ thuật công trình và đề xuất mô hình đào tạo sau đại học đồng hướng dẫn của Học viện Kỹ thuật Quân sự và Trường Đại học Colorado (University of Colorado Denver). Tháng 9/2013, Học viện Kỹ thuật sự đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép đào tạo 02 chương trình tiên tiến (CTTT): "Hệ thống điều khiển các thiết bị bay" hợp tác với trường Đại học Kỹ thuật Quốc gia Moskva Bauman và "Điều khiển và Tin học trong các hệ thống kỹ thuật" hợp tác với trường Đại học Bách khoa Saint Petersburg Khen thưởng Huân chương Hồ Chí Minh (2011) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (2005) Huân chương Độc lập hạng Nhất (2001), hạng Ba (1991), hạng Nhì (2016) Huân chương Quân công hạng Nhất (1984, 1996) Huân chương Lao động hạng Ba (1969, 2021) Huân chương Chiến công hạng Nhất (2003), hạng Nhì (1979), hạng Ba (1974). Huân chương Ăng co hạng Nhì của Nhà nước Campuchia (1982) Huân chương Độc lập hạng Nhất của Nhà nước Lào (2004) Hiệu trưởng, Giám đốc qua các thời kỳ Chính ủy qua các thời kỳ 1966-1968, Vũ Toàn 1968-1976, Đặng Quốc Bảo, Thiếu tướng (1974) 1976-1977, Trần Đình Cửu, Thiếu tướng (1980) 1977-1979, Hoàng Phương, Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1982) Trịnh Đình Thắng, Thiếu tướng Nguyễn Văn Tốn, Thiếu tướng 2002-2008, Hoàng Khánh Hưng, Trung tướng (2007), nguyên Chính ủy Binh chủng Công binh (1995-2002) 2008-2012, Vũ Văn Luận, Thiếu tướng (2007), Trung tướng (2011), nguyên Cục trưởng Cục Cán bộ, Tổng cục Chính trị 2012-2016, Trần Tấn Hùng, Trung tướng (2014) 2016-2022, Cao Minh Tiến, Trung tướng 2022-nay, Trần Văn Thưởng,Thiếu tướng (2021) nguyên Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 1 Một số giảng viên Lê Văn Chiểu- Thiếu tướng, Phó giáo sư - nguyên giảng viên, nguyên Phó hiệu trưởng, cựu sinh viên khóa 1951-1957 Đại học Tổng hợp Kỹ thuật Moskva mang tên Bauman, người Việt Nam đầu tiên sang Liên bang Nga học về chế tạo vũ khí, Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ; Đoàn Mạnh Giao- Đại tá, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nguyên giảng viên; Vũ Quốc Hùng- Đại tá, Tiến sĩ, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IX, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Đảng, nguyên giảng viên, bí thư Đảng ủy Khoa; Nguyễn Quỳ: Giáo sư, Tiến sĩ hóa học- nguyên giảng viên, Giám đốc Học viện KTQS Nguyễn Hoa Thịnh: Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Sức bền vật liệu, nguyên giảng viên Khoa Cơ khí, nguyên Giám đốc Học viện KTQS Nguyễn Xuân Anh- Đại tá, Giáo sư, Tiến sĩ kỹ thuật, giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005, nguyên giảng viên, chủ nhiệm khoa Vũ khí; Cựu Học viên tiêu biểu Cựu Sinh viên tiêu biểu
Chim điên là một nhóm gồm các loài chim biển thuộc chi Sula. họ Chim điên (Sulidae). Tên gọi này được dịch từ tiếng Pháp fou (kẻ điên), được người Pháp dùng để gọi các loài chim trong họ này. Trong tiếng Anh chúng được chia thành 2 nhóm: 1 nhóm gồm 6 loài được gọi là booby, 3 loài còn lại được gọi là gannet (ó biển). Tên gọi booby, có lẽ có nguồn gốc từ một từ lóng trong tiếng Tây Ban Nha là bubi, có nghĩa là kẻ ngớ ngẩn, do các con chim hiền lành này có thói quen đậu trên boong hay mạn tàu thuyền và rất dễ bị bắt để ăn thịt. Năm trong sáu loài chim điên thuộc về chi Sula, với loài thứ sáu gần đây đã được đặt trong một chi riêng là Papasula, trong khi ba loài chim điên còn lại (gannet) thường được đặt trong chi Morus; nhưng nhiều học giả cho rằng cả chín loài nói trên đây cần được coi là cùng giống và vẫn thuộc về chi Sula. Chim điên là các loài chim lớn (69–86 cm) với các cánh dài và nhọn cũng như có mỏ dài. Chúng săn bắt cá bằng cách lao mình từ một độ cao nhất định vào trong nước biển và truy kích con mồi của nó dưới nước. Chúng có các túi chứa khí ở phần mặt dưới lớp da cổ có tác dụng làm lớp đệm cho các tác động của nước khi chúng lao xuống mặt nước. Chúng là các loài chim sống thành bầy trên các hòn đảo và ven bờ biển, thông thường đẻ 1 hay nhiều trứng có vỏ màu xanh đá phấn trên mặt đất hay đôi khi trong các tổ trên cây. Các loài Sula dactylatra: chim điên mặt xanh Sula granti: chim điên Nazca Sula leucogaster: chim điên bụng trắng Sula nebouxii: chim điên chân xanh Sula sula: chim điên chân đỏ Sula variegata: chim điên Peru Phát sinh chủng loại Sơ đồ phát sinh chủng loại của chi Sula. Các loài ở Việt Nam Ở Việt Nam đã phát hiện được 3 loài: chim điên chân đỏ (ở quần đảo Hoàng Sa), chim điên mặt xanh (ở Nam Bộ) và chim điên bụng trắng (ở Cửa Việt và quần đảo Hoàng Sa).
Tổ hợp lồi là tổ hợp tuyến tính của các điểm dữ liệu (mà các điểm này có thể là các vector hay là các giá trị vô hướng), trong đó tất cả các hệ số đều là số không âm và có tổng bằng 1. Nó được gọi là "tổ hợp lồi", vì tất cả các tổ hợp lồi có thể có (ứng với các điểm cụ thể cho trước) đều nằm trong bao lồi của các điểm đó. Thật ra, tập hợp tất cả các tổ hợp lồi tạo ra bao lồi. Một trường hợp đặc biệt là: nếu chỉ có hai điểm dữ liệu, khi đó giá trị của điểm mới (hình thành bằng cách lấy tổ hợp lồi của hai điểm ban đầu) sẽ nằm trên đoạn thẳng nối hai điểm đó. Các cấu trúc liên quan Theo định nghĩa,trung bình trọng số chính là tổ hợp lồi. Tổ hợp affine cũng giống tổ hợp lồi, nhưng các hệ số không cần thiết phải là số không âm. Do đó khái niệm tổ hợp affine có thể dùng cho cả không gian vector phức và thực. (Trong khi đó, tổ hợp lồi chỉ dùng cho không gian vector thực)
Viện Hóa học là một viện khoa học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (trước là Viện Khoa học Việt Nam rồi Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia). Viện được thành lập ngày 16 tháng 9 năm 1978 theo Quyết định số 230/CP của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chức năng nhiệm vụ Nghiên cứu cơ bản các lĩnh vực: Hóa vô cơ, Hóa hữu cơ, Hóa Polyme, Hóa lý, Hóa phân tích, Hóa học các hợp chất thiên nhiên, Hóa sinh, Hóa môi trường, Điện hóa và Công nghệ hóa học. Nghiên cứu ứng dụng và triển khai vào thực tế. Đào tạo sau đại học (Thạc sĩ và Tiến sĩ). Hợp tác nghiên cứu khoa học, triển khai và đào tạo với các cơ sở, viện nghiên cứu và trường đại học trong và ngoài nước. Các Viện trưởng qua các thời kỳ Hồ Sỹ Thoảng (1978-1988) Quách Đăng Triều (1988-1992) Đặng Vũ Minh (1992-2002) Trần Văn Sung (2002-2009) Nguyễn Văn Tuyến (2009-2022)
Thuật ngữ diều hâu hay chim ưng hoặc chim cắt dùng để chỉ tới các loài chim săn mồi trong một trên ba ngữ cảnh sau: Một cách chặt chẽ, nó dùng để chỉ tới bất kỳ loài nào trong các chi Accipiter, Micronisus, Melierax, Urotriorchis và Megatriorchis. Chi phổ biến Accipiter bao gồm cả ó, cắt, cắt vuốt sắc và nhiều loài khác. Chúng chủ yếu là các loài chim sống tại các khu vực miền rừng và đi săn mồi bằng cách lao đột ngột xuống từ chỗ nấp kín đáo. Thông thường chúng có đuôi dài và thị lực rất sắc bén. Một cách nói chung, để chỉ các loài chim có kích thước từ nhỏ tới trung bình thuộc về họ Accipitridae, họ bao gồm cả diều hâu thực thụ, ưng (chi Accipiter) cũng như các loài chim khác như đại bàng, diều, diều mướp, ó buteo và kền kền Cựu thế giới. Một cách lỏng lẻo, để chỉ gần như bất kỳ loài chim săn mồi nào. Tên gọi thông thường của các loài chim này tại các khu vực khác nhau trên thế giới thường sử dụng từ diều hâu, ưng, cắt một cách lỏng lẻo. Ví dụ, tại Bắc Mỹ, ó buteo (Buteo) thông thường chỉ gọi là "hawk" (diều hâu, chim cắt, chim ưng). Các loài diều hâu thực thụ, ưng tạo thành phân họ Accipitrinae và phần lớn nằm trong chi Accipiter. Vào tháng 2 năm 2005, nhà khoa học người Canada, tiến sĩ Louis Lefebvre thông báo phương pháp đo IQ của chim chóc theo sự sáng tạo của chúng trong thói quen ăn uống. Diều hâu đã được coi là một trong những loài chim thông minh nhất trên cơ sở của thang đo này. Người ta còn cho rằng diều hâu có thị lực rất tốt, đạt tới 20/2, vào khoảng 8 lần sắc bén hơn những người có thị lực tốt. Các loài Phân họ Accipitrinae: Chi Accipiter Accipiter albogularis: Ó ác là Accipiter badius: Ưng xám Accipiter bicolor: Diều hâu khoang Accipiter brachyurus: Cắt New Britain Accipiter brevipes: Cắt Levant Accipiter butleri: Cắt Nicobar Accipiter castanilius: Cắt sườn hạt dẻ Accipiter chionogaster: Diều hâu ngực trắng Accipiter cirrocephalus: Cắt cổ áo Accipiter collaris: Diều hâu bán cổ áo Accipiter cooperii: Diều hâu Cooper Accipiter erythrauchen: Cắt cổ nâu đỏ Accipiter erythronemius: Diều hâu chân hung Accipiter erythropus: Cắt đùi đỏ Accipiter fasciatus: Ó nâu Accipiter francesii: Ó Pháp Accipiter gentilis: Ó ngỗng Accipiter griseiceps: Ó Sulawesi Accipiter gularis: Cắt Nhật Bản Accipiter gundlachi: Diều hâu Gundlach Accipiter haplochrous: Ó bụng trắng Accipiter henicogrammus: Ó Molucca Accipiter henstii: Ó Henst Accipiter imitator: Bồ cắt giả Accipiter luteoschistaceus: Cắt đá phiến Accipiter madagascariensis: Cắt Madagascar Accipiter melanochlamys: Ó choàng đen Accipiter melanoleucus: Ó đen Accipiter meyerianus: Ó Meyer Accipiter minullus: Cắt bé Accipiter nanus: Cắt nhỏ Accipiter nisus: Cắt hỏa mai hay bồ cắt Accipiter novaehollandiae: Ó xám Accipiter ovampensis: Cắt Ovampo Accipiter poliocephalus: Ó đầu xám Accipiter poliogaster: Ó bụng xám Accipiter princeps: Ó New Britain Accipiter rhodogaster: Cắt ngực màu rượu vang Accipiter rufitorques: Ó Fiji Accipiter rufiventris: Cắt ngực hung Accipiter soloensis: Ó Trung Quốc Accipiter striatus: Diều hâu vuốt sắc Accipiter superciliosus: Diều hâu nhỏ Accipiter tachiro: Ó châu Phi Accipiter toussenelii: Ó ngực đỏ Accipiter trinotatus: Ó đuôi đốm Accipiter trivirgatus: Ó mào Accipiter ventralis: Diều hâu ngực phẳng Accipiter virgatus: Ưng bụng hung Chi Micronisus Micronisus gabar: Ó Gabar Chi Melierax Melierax canorus: Ó nhạt hót trầm bổng Melierax metabates: Ó sẫm hót trầm bổng Melierax poliopterus: Ó phương đông hót trầm bổng Chi Urotriorchis Urotriorchis macrourus: Diều hâu đuôi dài Chi Erythrotriorchis Erythrotriorchis buergersi: Ó vai hạt dẻ Erythrotriorchis radiatus: Ó đỏ Chi Megatriorchis Megatriorchis doriae: Ó Doria Chú thích
Trong hình học, bao lồi của một hình là tập hợp lồi nhỏ nhất chứa hình đó. Bao lồi có thể được định nghĩa là giao của tất cả tập lồi chứa một tập con cho trước của một không gian Euclid, hoặc là tập hợp gồm tất cả tổ hợp lồi của các điểm trong tập con đó. Đối với một tập con bị chặn của mặt phẳng, bao lồi có thể được minh họa thành một hình bao bởi một dây đàn hồi kéo dãn xung quanh tập con đó. Bao lồi của tập mở là bao lồi mở, và bao lồi của tập compact là bao lồi compact. Mỗi tập lồi compact đều là bao lồi của các điểm cực biên của nó. Toán tử bao lồi là một ví dụ về toán tử đóng, và một antimatroid có thể được biểu diễn bằng cách áp dụng toán tử đóng này cho tập hợp hữu hạn các điểm. Các bài toán thuật toán về việc tìm bao lồi của một tập hợp hữu hạn các điểm trong mặt phẳng hoặc các không gian Euclid ít chiều khác và bài toán đối ngẫu về các nửa không gian giao nhau đều là những vấn đề cơ bản của hình học tính toán. Chúng có thể được giải trong thời gian đối với tập hợp điểm hai chiều hoặc ba chiều, và trong thời gian bằng với độ phức tạp thời gian trong trường hợp tệ nhất được cho bởi định lý cận trên ở không gian nhiều chiều hơn. Cùng với tập hợp điểm hữu hạn, bao lồi cũng đã được nghiên cứu đối với đa giác đơn, chuyển động Brown, đường cong ghềnh và trên đồ thị của hàm. Bao lồi được ứng dụng rộng rãi trong toán học, thống kê, tối ưu hóa tổ hợp, kinh tế, mô hình hóa hình học và tập tính học. Một số cấu trúc liên quan đến nó bao gồm bao lồi trực giao, lớp lồi, chỏm lồi, tam giác đạc Delaunay và sơ đồ Voronoi. Định nghĩa Một tập hợp các điểm trên một không gian Euclid được gọi là tập lồi nếu nó chứa các đoạn thẳng nối từng cặp điểm của nó. Bao lồi của một tập cho trước có thể được định nghĩa là Tập lồi nhỏ nhất chứa Giao của tất cả các tập lồi chứa Tập hợp tất cả tổ hợp lồi của các điểm trong Hợp của tất cả đơn hình với các đỉnh thuộc . Với tập bị chặn trong mặt phẳng Euclid mà các điểm trong tập đó không tạo thành đường thẳng thì đường biên của bao lồi là đường cong Jordan với chu vi nhỏ nhất chứa . Có thể tưởng tượng rằng ta kéo dãn một dây đàn hồi để nó bao quanh toàn bộ tập rồi thả dây ra để nó co lại đến mức tối đa; khi đó, dây bao lại tập lồi của . Cách hiểu này không thể mở rộng được ngay cho không gian nhiều chiều hơn: với một tập hợp hữu hạn các điểm trong không gian ba chiều, một lân cận của một cây bao trùm của các điểm này bao lại chúng với diện tích bề mặt nhỏ tùy ý và nhỏ hơn diện tích bề mặt của bao lồi. Tuy nhiên, trong không gian nhiều chiều, một số dạng của bài toán vật cản về việc tìm một bề mặt năng lượng thấp nhất nằm trên một hình cho trước có thể có bao lồi là nghiệm của chúng. Với các đối tượng trong không gian ba chiều, định nghĩa đầu tiên phát biểu rằng bao lồi là vùng giới hạn lồi nhỏ nhất của các đối tượng đó. Định nghĩa qua giao của các tập lồi có thể được mở rộng cho hình học phi Euclid, và định nghĩa qua tổ hợp lồi có thể được mở rộng từ không gian Euclid sang không gian vectơ thực hoặc không gian afin bất kỳ; bao lồi cũng có thể được khái quát hóa theo một cách trừu tượng hơn sang matroid định hướng. Quan hệ giữa các định nghĩa Định nghĩa đầu tiên không hiển nhiên đúng: vì sao phải tồn tại một tập lồi nhỏ nhất chứa với mọi ? Tuy nhiên, định nghĩa thứ hai (giao của tất cả các tập lồi chứa ) lại mang tính rạch ròi hơn. Theo đó, bao lồi là tập con của mỗi tập lồi khác chứa , vì có trong các tập được giao. Do đó, nó chính là tập lồi nhỏ nhất chứa . Vì vậy, hai định nghĩa đầu tiên là tương đương nhau. Mỗi tập lồi chứa phải chứa tất cả tổ hợp lồi của các điểm trong (theo giả thiết rằng nó là tập lồi), nên tập hợp tất cả các tổ hợp lồi này có trong giao của tất cả các tập lồi chứa . Ngược lại, tập hợp tất cả các tổ hợp lồi cũng là một tập lồi chứa nên nó cũng chứa giao của tất cả các tập lồi chứa , và do đó định nghĩa thứ hai và thứ ba là hai định nghĩa tương đương. Thực tế, theo định lý Carathéodory, nếu là tập con của một không gian Euclid chiều, mỗi tổ hợp lồi của một số hữu hạn các điểm trong cũng là một tổ hợp lồi của nhiều nhất điểm trong . Tập hợp các tổ hợp lồi của một bộ gồm điểm là một đơn hình; trong mặt phẳng nó là một tam giác và trong không gian ba chiều nó là một tứ diện. Vì vậy, mỗi tổ hợp lồi của các điểm trong đều thuộc một đơn hình có các đỉnh thuộc , nên định nghĩa thứ ba và thứ tư là hai định nghĩa tương đương. Bao trên và bao dưới Ở hai chiều, bao lồi đôi khi được chia thành hai phần là bao trên và bao dưới, kéo dài giữa các điểm ngoài cùng bên trái và bên phải của bao đó. Tổng quát hơn, đối với bao lồi trong bất kỳ không gian nhiều chiều nào, có thể chia đường biên của bao đó thành các điểm mặt trên (những điểm mà theo đó một tia hướng lên không giao với bao), điểm mặt dưới và điểm cực biên. Với bao ba chiều, các phần mặt trên và mặt dưới của đường biên tạo thành những đĩa tôpô. Tính chất tôpô Bao đóng và bao mở Bao lồi đóng của một tập hợp là tập đóng của bao lồi, và bao lồi mở là phần trong (hoặc, trong một số tài liệu, phần trong tương đối) của bao lồi. Bao lồi đóng của là giao của tất cả các nửa không gian đóng chứa . Nếu bao lồi của đã là một tập đóng (xảy ra chẳng hạn khi là một tập hữu hạn hoặc, tổng quát hơn, là một tập compact) thì nó bằng bao lồi đóng đó. Tuy nhiên, giao của các nửa không gian đóng là tập đóng, nên khi một bao lồi không phải là bao lồi đóng thì nó không thể biểu diễn được theo cách này. Nếu bao lồi mở của một tập hợp là bao lồi chiều thì mỗi điểm trong bao đó thuộc một bao lồi mở gồm nhiều nhất điểm thuộc tập . Tập hợp các đỉnh của một hình vuông, khối bát diện đều, hoặc khối đa diện chéo trong không gian nhiều chiều là những ví dụ về trường hợp cần đúng điểm. Sự bảo toàn tính chất tôpô Về mặt tôpô, bao lồi của một tập mở luôn luôn là bao lồi mở, và bao lồi của một tập compact luôn luôn là bao lồi compact. Tuy nhiên, có một số tập đóng có bao lồi không phải là bao lồi đóng. Chẳng hạn, tập đóng (tập hợp các điểm thuộc hoặc nằm phía trên đường cong phù thủy Agnesi) có bao lồi là nửa mặt phẳng trên mở. Tính compact của bao lồi của tập compact trong không gian Euclid với số chiều hữu hạn được khái quát hóa bằng định lý Krein–Smulian, theo đó bao lồi đóng của một tập con compact yếu trong một không gian Banach (một tập con có tính compact dưới dạng tôpô yếu) là bao lồi compact yếu. Điểm cực biên Một điểm cực biên của một tập lồi là một điểm trong tập hợp không nằm trên một đoạn thẳng giữa hai điểm khác trong cùng tập hợp đó. Đối với một bao lồi, mỗi điểm cực biên đều phải thuộc tập đã cho, vì ngược lại nó không thể tạo thành một tổ hợp lồi gồm các điểm đã cho. Theo định lý Krein–Milman, mỗi tập lồi compact trong một không gian Euclid (hoặc, tổng quát hơn, trong một không gian vectơ tôpô lồi địa phương) là bao lồi của các điểm cực biên của nó. Tuy nhiên, định lý này có thể không đúng đối với các tập lồi không compact; ví dụ, toàn bộ mặt phẳng Euclid và quả cầu đơn vị mở đều có tính lồi, nhưng chúng không có điểm cực biên nào. Lý thuyết Choquet mở rộng định lý này từ tổ hợp lồi hữu hạn của các điểm cực biên sang tổ hợp vô hạn trong các không gian tổng quát hơn. Tính chất hình học và đại số Toán tử đóng Toán tử bao lồi có các tính chất đặc trưng của một toán tử đóng: Bao lồi của một tập bất kỳ là một tập cha của . Với hai tập hợp và sao cho thì bao lồi của là tập con của bao lồi của . Với mọi tập hợp , bao lồi của bao lồi của bằng bao lồi của . Khi được áp dụng cho một tập hợp hữu hạn các điểm, đó chính là toán tử đóng của một antimatroid, cụ thể là antimatroid bao của tập hợp đó. Mỗi antimatroid đều có thể được biểu diễn theo cách này bằng bao lồi của các điểm trong một không gian Euclid với số chiều đủ lớn. Tổng Minkowski Các phép toán dựng bao lồi và tính tổng Minkowski giao hoán lẫn nhau vì tổng Minkowski của bao lồi của các tập hợp có cùng kết quả với bao lồi của tổng Minkowski của các tập hợp đó. Kết luận này là một bước để chứng minh định lý Shapley–Folkman giới hạn khoảng cách giữa một tổng Minkowski và bao lồi của nó. Đối ngẫu xạ ảnh Phép đối ngẫu xạ ảnh để dựng bao lồi của một tập hợp hữu hạn các điểm chính là phép dựng giao của một họ gồm các nửa không gian đóng chứa điểm gốc (hoặc một điểm bất kỳ xác định). Trường hợp đặc biệt Tập hợp điểm hữu hạn Bao lồi của một tập hợp điểm hữu hạn tạo thành một đa giác lồi khi , hoặc tổng quát hơn là một đa diện lồi trong . Mỗi điểm cực biên của bao đó được gọi là đỉnh, và (theo định lý Krein–Milman) mỗi đa diện lồi đều là bao lồi của các đỉnh của nó. Nó chính là đa diện lồi duy nhất có các đỉnh thuộc và bao hết toàn bộ . Với tập hợp các điểm ở vị trí tổng quát, bao lồi là một đa diện đơn hình. Theo định lý cận trên, số mặt của bao lồi của điểm trong không gian Euclid chiều là . Đặc biệt, ở hai chiều và ba chiều, số mặt lớn nhất của bao lồi tuyến tính theo . Đa giác đơn Bao lồi của một đa giác đơn bao quanh đa giác đã cho và được nó chia thành nhiều vùng, trong đó có một vùng là chính đa giác đó. Các vùng còn lại, giới hạn bởi một chuỗi đa giác của đa giác và một cạnh của bao lồi, được gọi là rãnh (pocket). Thực hiện lặp lại phân tích này với mỗi rãnh một cách đệ quy thì một biểu diễn phân cấp của đa giác đã cho được tạo thành và được gọi là cây sai phân lồi (convex differences tree) của đa giác đó. Chiếu lại một rãnh qua cạnh bao lồi của nó làm mở rộng đa giác đơn này thành một đa giác mới với chu vi không đổi và diện tích lớn hơn, và định lý Erdős–Nagy phát biểu rằng quá trình mở rộng này sẽ chấm dứt sau một số hữu hạn bước. Chuyển động Brown Đường cong do chuyển động Brown tạo ra trong mặt phẳng, tại bất kỳ thời điểm cố định nào, có xác suất là 1 để có bao lồi mà đường biên tạo thành một đường cong khả vi liên tục. Tuy nhiên, với một góc thỏa mãn , sẽ có những thời điểm trong chuyển động Brown mà trong đó một chất điểm chạm vào đường biên của bao lồi tại một đỉnh của góc . Số chiều Hausdorff của tập hợp những thời điểm đặc biệt như thế là (với xác suất cao). Đường cong trong không gian Đối với bao lồi của một đường cong trong không gian hoặc một tập hợp hữu hạn các đường cong không gian ở vị trí tổng quát trong không gian ba chiều, các phần của đường biên cách ra khỏi những đường cong này là các bề mặt xiên và khai triển được. Một số ví dụ bao gồm oloid, bao lồi của hai đường tròn trong các mặt phẳng vuông góc, trong đó mỗi đường tròn đều đi qua tâm của đường tròn còn lại; sphericon, bao lồi của hai nửa đường tròn đồng tâm trong các mặt phẳng vuông góc; và D-form, các hình lồi có được từ định lý Alexandrov đối với một mặt phẳng được tạo thành bằng cách dán hai tập lồi phẳng cùng chu vi lại với nhau. Hàm toán học Bao lồi hoặc bao lồi dưới của một hàm trong một không gian vectơ thực là hàm có trên đồ thị là bao lồi dưới của trên đồ thị của . Nó là hàm lồi cực đại duy nhất bị chặn trên bởi . Định nghĩa này có thể được mở rộng cho bao lồi của một tập hợp các hàm (có được từ bao lồi của hợp của các trên đồ thị, hoặc từ giá trị nhỏ nhất theo từng điểm của chúng) và, ở dạng này, có tính đối ngẫu với phép toán liên hợp lồi. Tính toán Trong hình học tính toán, có một số thuật toán để tính bao lồi của một tập hợp hữu hạn các điểm và các đối tượng hình học khác. Ở đây "tính bao lồi" có nghĩa là xây dựng một cấu trúc dữ liệu rõ ràng và hiệu quả để biểu diễn hình lồi cần tìm. Các dạng biểu diễn đầu ra đã được xét đối với bao lồi của tập hợp điểm bao gồm một hệ bất phương trình bậc nhất mô tả các mặt của bao, một đồ thị vô hướng của các mặt đó (kể cả các mặt liền kề), hoặc toàn bộ dàn mặt của bao đó. Ở hai chiều, có một cách đơn giản hơn là liệt kê các điểm là đỉnh trong cấp cyclic của chúng quanh bao này. Với bao lồi hai chiều hoặc ba chiều, độ phức tạp tính toán của các thuật toán tương ứng thường được đo theo số điểm đầu vào và số điểm trong bao lồi , có thể nhỏ hơn đáng kể so với . Đối với bao trong không gian nhiều chiều thì số mặt của các chiều khác cũng có thể được quan tâm khi phân tích thuật toán. Quét Graham có thể tính bao lồi của điểm trong mặt phẳng trong thời gian . Với các điểm ở hai và ba chiều, có một số thuật toán nhạy cảm đầu ra phức tạp hơn có thể tính được bao lồi trong thời gian , trong đó có thuật toán Chan và thuật toán Kirkpatrick–Seidel. Với số chiều , thời gian để tính bao lồi là , bằng với độ phức tạp đầu ra trong trường hợp tệ nhất của bài toán. Bao lồi của một đa giác đơn trong mặt phẳng có thể được dựng trong thời gian tuyến tính. Các cấu trúc dữ liệu bao lồi động có thể được dùng để theo dõi bao lồi của một tập hợp điểm khi thêm vào hoặc xóa đi các điểm trong tập hợp, và các cấu trúc bao lồi điểm chuyển động có thể giúp theo dõi bao lồi đối với các điểm chuyển động liên tục. Dựng bao lồi cũng là công cụ cho một số thuật toán hình học tính toán khác, chẳng hạn như thuật toán thước cặp quay dùng để tính chiều dài và đường kính của một tập hợp điểm. Các cấu trúc liên quan Một số hình khác có thể được xác định từ một tập hợp các điểm theo cách tương tự như với bao lồi, có thể là tập cha nhỏ nhất với tính chất nhất định, là giao của tất cả các hình chứa các điểm đó từ một họ các hình cho trước, hoặc là hợp của tất cả tổ hợp của các điểm với dạng nhất định. Ví dụ: Bao afin là không gian con afin nhỏ nhất của một không gian Euclid chứa một tập hợp cho trước, hoặc là hợp của tất cả tổ hợp afin của các điểm trong tập hợp đó. Bao tuyến tính là không gian con tuyến tính nhỏ nhất của một không gian vectơ chứa một tập hợp cho trước, hoặc là hợp của tất cả tổ hợp tuyến tính của các điểm trong tập hợp đó. Bao conic hoặc bao dương của một tập con của một không gian vectơ là tập hợp tất cả tổ hợp dương của các điểm trong tập con đó. Bao trực quan của một đối tượng ba chiều, đối với một tập hợp điểm nhìn, chứa các điểm sao cho mỗi tia từ một điểm nhìn đi qua đều cắt đối tượng đó. Một cách tương đương, nó là giao của các mặt nón (không lồi) được tạo bởi các đường biên của đối tượng đối với mỗi điểm nhìn. Trong tái cấu trúc 3D, nó là hình lớn nhất có thể có các đường biên giống nhau từ các điểm nhìn cho trước. Bao tròn hoặc bao alpha của một tập con của mặt phẳng là giao của tất cả các đĩa với bán kính cho trước là chứa tập con đó. Bao lồi tương đối của một tập con của một đa giác đơn hai chiều là giao của tất cả các tập cha lồi tương đối, trong đó một tập hợp nằm trong đa giác đó là tập lồi tương đối nếu nó chứa đường trắc địa giữa hai điểm bất kỳ của nó. Bao lồi trực giao là giao của tất cả các tập cha lồi trực giao được nối lại với nhau, trong đó một tập hợp được gọi là tập lồi trực giao nếu nó chứa tất cả các đoạn thẳng song song với trục tọa độ nối từng cặp điểm có trong nó. Bao lồi trực giao là một trường hợp đặc biệt của một dạng cấu trúc tổng quát hơn, bao siêu lồi, vốn có thể được xem là không gian mêtric đơn ánh nhỏ nhất chứa các điểm của một không gian mêtric cho trước. Bao lồi chỉnh hình là một dạng khái quát hóa của các khái niệm tương tự sang đa tạp giải tích phức, có được do nó là giao của các tập mức con của các hàm chỉnh hình chứa một tập hợp cho trước. Tam giác đạc Delaunay của một tập hợp điểm và dạng đối ngẫu của nó, sơ đồ Voronoi, đều có liên quan đến bao lồi: tam giác đạc Delaunay của một tập hợp điểm trên có thể được xem là hình chiếu của một bao lồi trên . Các hình alpha của một tập hợp điểm hữu hạn cho một họ gồm các đối tượng hình học (không lồi) lồng nhau mô tả hình dạng của một tập hợp điểm tại các cấp độ chi tiết khác nhau. Mỗi hình alpha đều là hợp của một số điểm trong tam giác đạc Delaunay, được chọn bằng cách so sánh bán kính đường tròn ngoại tiếp của chúng với tham số alpha. Chính tập hợp điểm đó tạo thành một điểm cuối của họ các hình đó, và bao lồi của nó tạo thành điểm cuối còn lại. Lớp lồi của một tập hợp điểm là một họ gồm đa giác lồi lồng nhau, trong đó đa giác ngoài cùng là bao lồi, với các lớp bên trong được dựng một cách đệ quy từ các điểm không phải là đỉnh của bao lồi đó. Chỏm lồi của một đa giác là đa giác lồi lớn nhất được chứa trong nó. Nó có thể được tìm trong thời gian đa thức, nhưng số mũ của thuật toán rất cao. Ứng dụng Bao lồi được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Trong toán học, bao lồi được dùng để nghiên cứu đa thức, giá trị riêng của ma trận, phần tử đơn nguyên đơn vị và một số định lý liên quan đến bao lồi trong hình học rời rạc. Trong thống kê chuẩn mạnh, bao lồi là đường viền ngoài cùng của độ sâu Tukey, là một phần quan trọng của biểu đồ túi minh họa dữ liệu hai chiều, và được dùng để xác định tập nguy cơ của các quy tắc ra quyết định ngẫu nhiên. Bao lồi của vectơ chỉ thị của nghiệm cho các bài toán tổ hợp là nội dung trọng tâm trong tối ưu hóa tổ hợp và tổ hợp đa diện. Trong kinh tế học, bao lồi có thể được dùng để áp dụng các phương pháp về tính lồi trong kinh tế cho các thị trường không lồi. Trong mô hình hóa hình học, đặc tính bao lồi đường cong Bézier hỗ trợ tìm các giao điểm của chúng, và bao lồi là một phần không thể thiếu trong việc đo thân tàu. Và trong nghiên cứu về tập tính của động vật, bao lồi xuất hiện trong một định nghĩa thường dùng về phạm vi chỗ ở. Toán học Đa giác Newton của đa thức đơn biến và đa diện Newton của đa thức đa biến là bao lồi của các điểm được suy ra từ số mũ của các hạng tử trong đa thức, và có thể được dùng để phân tích tính tiệm cận của đa thức và giá trị của nghiệm của đa thức đó. Bao lồi và đa thức cũng có liên hệ với nhau trong định lý Gauss–Lucas, theo đó mọi nghiệm của đạo hàm của một đa thức đều nằm trong bao lồi của các nghiệm của đa thức đó. Trong lý thuyết phổ, miền số của một ma trận chuẩn tắc là bao lồi của các giá trị riêng của nó. Định lý Russo–Dye mô tả bao lồi của các phần tử đơn nguyên đơn vị trong một C*-đại số. Trong hình học rời rạc, định lý Radon và định lý Tverberg có liên quan đến sự tồn tại phân hoạch của các tập hợp điểm thành các tập con với bao lồi giao nhau. Định nghĩa tập lồi là tập hợp chứa tất cả các đoạn thẳng nối các điểm của nó và bao lồi là giao của tất cả các tập cha lồi đều áp dụng được cho không gian hyperbol và không gian Euclid. Tuy nhiên, trong không gian hyperbol, còn có thể xét đến bao lồi của tập hợp điểm lý tưởng gồm những điểm không thuộc chính không gian hyperbol mà chỉ nằm trong đường biên của một mô hình không gian đó. Đường biên của bao lồi của các điểm lý tưởng của không gian hyperbol ba chiều là tương tự với bề mặt xiên trong không gian Euclid, và các tính chất mêtric của chúng đóng vai trò quan trọng trong giả thuyết hình học hóa trong tôpô ít chiều. Bao lồi hyperbol cũng được dùng khi tính tam giác đạc chính tắc của đa tạp hyperbol, hay xác định xem hai nút thắt có bằng nhau hay không.
Henry James (15 tháng 4 năm 1843 – 28 tháng 2 năm 1916) là tác giả và nhà phê bình văn học Mỹ, là con trai của Henry James Sr. và em trai của nhà triết học và nhà tâm lý học William James. Ông sống phần nhiều cuộc đời ở châu Âu và trở thành là một công dân Anh không lâu trước khì chết. Ông được biết chủ yếu với những cuốn tiểu thuyết, những truyện ngắn mới lạ dựa trên những chủ đề về ý thức. Quyển Charles W. Eliot của ông đã đoạt Giải Pulitzer cho tác phẩm Tiểu sử và Tự truyện năm 1931. James đóng góp đáng kể vào phê bình tiểu thuyết những điều hư cấu, đặc biệt ông nhấn mạnh cho tự do nhất có thể được trong việc trình bày tầm nhìn ra thế giới. Tác phẩm Truyện ngắn, truyện vừa A Tragedy of Error (1864) The Story of a Year (Chuyện của một năm, 1865) A Landscape Painter (1866) A Day of Days (Một ngày của các ngày, 1866) My Friend Bingham (1867) Poor Richard (1867) The Story of a Masterpiece (1868) A Most Extraordinary Case (1868) A Problem (Một vấn đề, 1868) De Grey: A Romance (1868) Osborne's Revenge (1868) The Romance of Certain Old Clothes (1868) A Light Man (1869) Gabrielle de Bergerac (1869) Travelling Companions (1870) A Passionate Pilgrim (1871) truyện vừa At Isella (1871) Master Eustace (1871) Guest's Confession (1872) The Madonna of the Future (1873) The Sweetheart of M. Briseux (1873) The Last of the Valerii (1874) Madame de Mauves (1874) truyện vừa Adina (story)|Adina (1874) Professor Fargo (1874) Eugene Pickering (1874) Benvolio (1875) Crawford's Consistency (1876) The Ghostly Rental (1876) Four Meetings (Bốn cuộc gặp gỡ, 1877) Rose-Agathe (1878, tên khác là Théodolinde) Daisy Miller (1878) truyện vừa Longstaff's Marriage (1878) An International Episode (1878) The Pension Beaurepas (1879) A Diary of a Man of Fifty (Nhật ký của một người đàn ông ở tuổi 50, 1879) A Bundle of Letters (1879) The Point of View (1882) The Siege of London (1883) Impressions of a Cousin (1883) Lady Barberina (Quý cô Barberina, 1884) Pandora (1884) The Author of Beltraffio (1884) Georgina's Reasons (1884) A New England Winter (1884) The Path of Duty (1884) Mrs. Temperly (1887) Louisa Pallant (1888) The Aspern Papers (1888) truyện vừa The Liar (1888) The Modern Warning (1888, tên xuất bản là The Two Countries) A London Life (1888) truyện vừa The Patagonia (1888) The Lesson of the Master (1888) truyện vừa The Solution (1888) The Pupil (1891) Brooksmith (1891) The Marriages (1891) The Chaperon (1891) Sir Edmund Orme (Ông Edmund Orme, 1891) Nona Vincent (1892) The Real Thing (Những thứ chân thật, 1892) The Private Life (1892) Lord Beaupré (1892) The Visits (1892) Sir Dominick Ferrand (Ông Dominick Ferrand, 1892) Greville Fane (1892) Collaboration (1892) Owen Wingrave (1892) The Wheel of Time (1892) The Middle Years (1893) The Death of the Lion (Cái chết của sư tử, 1894) The Coxon Fund (1894) The Next Time (Thời gian tới, 1895) Glasses (Những mảnh kính, 1896) The Altar of the Dead (1895) The Figure in the Carpet (1896) The Way It Came (1896, cũng xuất bản với tên là The Friends of the Friends) The Turn of the Screw (1898) truyện vừa Covering End (1898) In the Cage (1898) truyện vừa John Delavoy (1898) The Given Case (1898) Europe (Châu Âu, 1899) The Great Condition (1899) The Real Right Thing (1899) Paste (1899) The Great Good Place (1900) Maud-Evelyn (1900) Miss Gunton of Poughkeepsie (1900) The Tree of Knowledge (Cây trí tuệ, 1900) The Abasement of the Northmores (1900) The Third Person (Người thứ ba, 1900) The Special Type (1900) The Tone of Time (1900) Broken Wings (1900) The Two Faces (Hai khuôn mặt, 1900) Mrs. Medwin (Quý bà Medwin, 1901) The Beldonald Holbein (1901) The Story in It (1902) Flickerbridge (1902) The Birthplace (Nơi sinh, 1903) The Beast in the Jungle (Con thú trong rừng, 1903) truyện vừa The Papers (Những mẩu giấy, 1903) Fordham Castle (Lâu đài Fordham, 1904) Julia Bride (1908) The Jolly Corner (1908) The Velvet Glove (1909) Mora Montravers (1909) Crapy Cornelia (1909) The Bench of Desolation (1909) A Round of Visits (1910) Tiểu thuyết Watch and Ward (1871) Roderick Hudson (1875) The American (Người Mỹ, 1877) The Europeans (Những người châu Âu, 1878) Confidence (Sự tự tin, 1879) Washington Square (Quảng trường Washington, 1880) The Portrait of a Lady (Chân dung của một quý bà, 1881) The Bostonians (Những người Boston, 1886) The Princess Casamassima (Công chúa Casamassima, 1886) The Reverberator (1888) The Tragic Muse (1890) The Other House (Ngôi nhà khác, 1896) The Spoils of Poynton (1897) What Maisie Knew (1897) The Awkward Age (1899) The Sacred Fount (1901) The Wings of the Dove (Đôi cánh chim câu, 1902) The Ambassadors (Những vị đại sứ, 1903) The Golden Bowl (Chiếc bát vàng, 1904) 2 tập The Outcry (1911) The Ivory Tower (chưa hoàn thành, 1917) The Sense of the Past (chưa hoàn thành, 1917) Thể loại khác Transatlantic Sketches (1875) French Poets and Novelists (Những nhà thơ và nhà tiểu thuyết Pháp, 1878) phê bình văn học Hawthorne (1879) phê bình văn học Portraits of Places (1883) A Little Tour in France (Một chuyến đi nhỏ ở Pháp, 1884) du kí Partial Portraits (1888) phê bình văn học Essays in London and Elsewhere (Tiểu luận ở London và những nơi khác, 1893) tiểu luận phê bình Picture and Text (Hình ảnh và văn bản, 1893) tập tiểu luận Terminations (Những sự hủy diệt, 1893) Theatricals (Sân khấu, 1894) tập 2 vở kịch Theatricals: Second Series (Sân khấu: tập 2, 1895) tập 2 vở kịch Guy Domville (1895) kịch The Soft Side (1900) William Wetmore Story and His Friends (William Wetmore Story và những người bạn, 1903) tiểu sử William Wetmore Story The Better Sort (1903) English Hours (1905) du kí The American Scene (1907) du kí Views and Reviews (1908) Italian Hours (1909) du kí A Small Boy and Others (Một cậu trai nhỏ và những điều khác, 1913) tự truyện Notes on Novelists (Ghi chú về tiểu thuyết, 1914) phê bình văn học Notes of a Son and Brother (1914) tự truyện The Middle Years (Những năm trung niên, 1917) tự truyện dang dở Within the Rim (1918) Travelling Companions (1919) A Most Unholy Trade (1925) The Art of the Novel: Critical Prefaces (1934)
Phật Đản (chữ Nho 佛誕 - nghĩa là ngày sinh của đức Phật) hay là Vesak (, Devanagari: वैशाख, Sinhala: වෙසක් පෝය) là ngày kỷ niệm Phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni năm 624 TCN, diễn ra vào ngày 8 tháng 4 âm lịch hoặc 15 tháng 4 hàng năm, tùy theo quốc gia. Theo truyền thống Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Hán truyền, ngày này chỉ là ngày kỷ niệm ngày sinh của đức Phật Thích Ca; tuy nhiên, theo Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Tạng truyền thì ngày này là ngày Tam hiệp (kỷ niệm Phật đản, Phật thành đạo và Phật nhập Niết-bàn). Ngày lễ Phật Đản, hay lễ Vesak, Tam Hiệp, được kỷ niệm vào các ngày khác nhau tùy theo quốc gia. Một số quốc gia với đa số Phật tử chịu ảnh hưởng Bắc tông (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam) thường tổ chức ngày lễ Phật đản vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Các quốc gia theo Nam tông thường tổ chức vào ngày trăng tròn trong tháng 4 âm lịch hay là ngày trăng tròn trong tháng 5 dương lịch. Có những năm có 2 ngày trăng tròn trong tháng 5 dương lịch như năm 2007, có nơi tổ chức ngày Vesak vào ngày trăng tròn đầu tiên (ngày 1 tháng 5) trong khi tại nơi khác lại kỷ niệm vào ngày trăng tròn thứ 2 (ngày 31 tháng 5). Cách tính kỷ nguyên Phật lịch tại các quốc gia theo truyền thống Nam tông cũng khác nhau, nên năm Phật lịch có thể cách nhau một năm. Lịch sử Phật Đản là ngày lễ trọng đại được tổ chức hằng năm bởi cả hai truyền thống Nam tông và Bắc tông. Ngày nay người ta thường biết đến Phật Đản qua tên gọi Vesak. Từ Vesak chính là từ ngữ thuộc ngôn ngữ Sinhalese cho các biến thể tiếng Pali, "Visakha". Visakha / Vaisakha là tên của tháng thứ hai của lịch Ấn Độ, ngày lễ vào tháng vesākha theo lịch Ấn Độ giáo, tương ứng vào khoảng tháng 4, tháng 5 dương lịch. Tại Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và các nước láng giềng Đông Nam Á theo truyền thống Thượng tọa bộ, lễ Phật đản được tổ chức vào ngày trăng tròn trong tháng Vaisakha của lịch Phật giáo và lịch Hindu, mà thường rơi vào tháng 4 hoặc tháng 5 của lịch Gregoria phương Tây. Lễ hội được gọi là Visakah Puja (lễ hội Visakah) hay là Buddha Purnima, Phật Purnima (बुद्ध पूर्णिमा), Purnima nghĩa là ngày trăng tròn trong tiếng Phạn hay là Buddha Jayanti, Phật Jayanti, với Jayanti có nghĩa là sinh nhật ở Nepal và Tiếng Hindi. Thái Lan gọi là Visakha Bucha; Indonesia gọi là Waisak; Tây Tạng gọi là Saga Daw; Lào gọi là Vixakha Bouxa và Myanmar (Miến Điện) gọi là Ka-sone-la-pyae (nghĩa là Ngày rằm tháng Kasone, cũng là tháng thứ hai trong lịch Myanmar). Tại Đại hội Phật giáo Thế giới lần đầu tiên diễn ra tại Colombo, Sri Lanka, 25 tháng 5 đến 8 tháng 6 năm 1950, các phái đoàn đến từ 26 quốc gia là thành viên đã thống nhất ngày Phật đản quốc tế là ngày rằm tháng Tư âm lịch. Ngày 15 tháng 12 năm 1999, theo đề nghị của 34 quốc gia, để tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu nghị của Đức Phật, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại phiên họp thứ 54, mục 174 của chương trình nghị sự đã chính thức công nhận Đại lễ Vesak là một lễ hội văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên Hợp Quốc, những hoạt động kỷ niệm sẽ được diễn ra hàng năm tại trụ sở và các trung tâm của Liên Hợp Quốc trên thế giới từ năm 2000 trở đi, được tổ chức vào ngày trăng tròn đầu tiên của tháng 5 dương lịch. Ý nghĩa và tầm quan trọng Phật Đản là ngày nghỉ lễ quốc gia tại nhiều quốc gia châu Á như Bhutan, Thái Lan, Nepal, Sri Lanka, Malaysia, Miến Điện, Mông Cổ, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Campuchia, Lào... Tại Việt Nam, ngày này không phải là ngày nghỉ lễ được công nhận chính thức; tuy nhiên, ngày lễ này vẫn có ảnh hưởng quan trọng trong xã hội với tỷ lệ lớn dân cư chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo. Vào ngày lễ, Phật tử thường vinh danh Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng (qua các hình thức như dâng cúng, tặng hoa, đến nghe thuyết giảng), và thực hành ăn chay và giữ Ngũ giới, Tứ vô lượng tâm (từ bi hỷ xả), thực hành bố thí và làm việc từ thiện, tặng quà, tiền cho những người yếu kém trong cộng đồng. Kỷ niệm Vesākha cũng có nghĩa là làm những nỗ lực đặc biệt để mang lại hạnh phúc, niềm vui cho những người bất hạnh như người già cao niên, người khuyết tật và người bệnh, chia sẻ niềm vui và hòa bình với mọi người. Ở một số quốc gia, đặc biệt là Sri Lanka, hai ngày được dành cho việc cử hành Vesākha, việc bán rượu và thịt thường bị cấm và tất cả các cửa hàng rượu, bia và lò giết mổ phải đóng cửa do nghị định của chính phủ. Chim, côn trùng và thú vật được phóng sinh như là một "hành động mang tính biểu tượng của sự giải thoát", của sự trả tự do cho những người bị giam cầm, bị bỏ tù, bị tra tấn trái với ý muốn của họ. Tại Ấn Độ, Nepal, người dân thường mặc áo trắng khi lên các tịnh xá và ăn chay. Tại hầu hết các quốc gia châu Á đều có diễu hành xe hoa và nghi lễ tụng niệm, tại Hàn Quốc có lễ hội đèn hoa sen (연등회, Yeondeunghoe) rất lớn. Cử hành ngày lễ Tại Bhutan Tại Bhutan, Phật nhập Niết bàn là một ngày lễ quốc gia và cũng được tổ chức với tên gọi Saga Dawa vào ngày thứ 15 của Saga Dawa (tháng thứ tư của lịch Tây Tạng). Việc quan sát tháng thánh bắt đầu từ ngày 1 của Saga Dawa, Tháng Vesak mà đỉnh điểm là vào ngày 15 trăng tròn của tháng với các lễ kỷ niệm ba sự kiện thánh trong cuộc đời của Đức Phật; sinh, giác ngộ và Chết (Mahaparinirvana). Xuyên suốt Tháng lễ Saga Dawa Vesak, các hoạt động đạo đức và luân lý đạo đức diễn ra trong gia đình, chùa chiền, tu viện và những nơi công cộng. Những người sùng đạo và tín đồ tuân thủ các bữa ăn chay nghiêm ngặt trong suốt tháng Saga Dawa và tránh tiêu thụ bất kỳ thực phẩm không phải là đồ ăn chay nào. Ngày lễ Phật nhập niết bàn cũng chứng kiến ​​các tín đồ đến thăm tu viện để cầu nguyện và thắp đèn bơ. Mọi người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau mặc quốc phục của họ và đến các tu viện để nhận được sự ban phước từ vị thần hộ mệnh của họ. Tại Ấn Độ Lễ Phật Đản được tổ chức ở Ấn Độ, đặc biệt là ở Sikkim, Ladakh, Arunachal Pradesh, Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), các nơi khác nhau tại Bắc Bengal như Kalimpong, Darjeeling, Kurseong, và Maharashtra (nơi có 73% tín đồ Phật giáo Ấn Độ) và các nơi khác của Ấn Độ theo lịch Ấn Độ. Người Phật tử đi đến Tịnh xá và ở lại lâu hơn các ngày thường, nghe toàn bộ kinh Phật giáo dài. Họ mặc trang phục thường là màu trắng tinh khiết và ăn chay. Kheer, một loại cháo ngọt thường được phục vụ để nhớ lại câu chuyện của Sujata, một cô gái trẻ đã dâng Đức Phật một bát cháo sữa. Mặc dù thường gọi là "Phật Đản", nhưng ngày này đã trở thành ngày Tam Hợp, kỷ niệm Đản sinh, giác ngộ (nirvāna) và ngày nhập Niết bàn (Parinirvāna) của Đức Phật theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravada). Tại Ấn Độ, Nepal và các nước láng giềng Đông Nam Á theo Phật giáo Nguyên thủy, lễ Vesak/Purnima nguyên thủy được tổ chức vào ngày trăng tròn của tháng Vaisakha của lịch Phật giáo và lịch Hindu, mà thường rơi vào tháng 4 hoặc tháng 5 của lịch Gregorian phương Tây. Lễ hội được gọi là Phật Purnima (बुद्ध पूर्णिमा), Purnima nghĩa là ngày trăng tròn trong tiếng Phạn. Ngày lễ cũng được gọi là Phật Jayanti, với Jayanti có nghĩa là sinh nhật ở Nepal và Tiếng Hindi. Gần đây, tại Nepal, Ấn Độ, Sri Lanka, ngày Vesak/Purnima chính được tổ chức vào ngày trăng tròn trong tháng 5 dương lịch. Tại Nepal Đại lễ Phật đản, thường được biết đến ở Nepal là "Phật Jayanti" (sinh nhật Đức Phật) được tổ chức rộng rãi trên khắp cả nước, chủ yếu là tại Lumbini (Lâm-tì-ni) - nơi sinh của Đức Phật - và tại chùa Swayambhu - ngôi chùa linh thiêng của Phật giáo, còn được gọi là "Chùa Khỉ". Cánh cửa chính của Swayambhu chỉ được mở vào ngày này, do đó, mọi người từ khắp thung lũng Kathmandu và hàng ngàn khách hành hương từ nhiều nơi trên thế giới đến với nhau để mừng Phật đản tại nơi Đức Phật sinh ra, Lumbini. Tại Nepal, Đức Phật được tôn thờ bởi tất cả các nhóm tôn giáo, do đó "Phật Jayanti" được đánh dấu bằng một ngày nghỉ lễ quốc gia. Người ta tặng thực phẩm và quần áo cho những người nghèo và cũng cung cấp hỗ trợ tài chính cho các tu viện và trường học, nơi Phật giáo được dạy và thực hành. Tại Myanmar Tại Myanmar, ngày Vesak cũng gọi là ngày của Kason. Kason là tháng thứ 2 trong 12 tháng theo lịch Myanmar. Đây là tháng nóng nhất trong năm. Nên trong khuôn khổ lễ hội Vesak, người dân nơi đây, với lòng thành kính, đặt những chậu nước tinh khiết trên đầu đội đến những tự viện tưới xuống cây Bồ-đề. Họ tưới cây Bồ-đề để cảm ơn giống cây này đã che chở đức Thế Tôn trong những ngày thiền định trước khi chứng đạo và ước nguyện năng lực giải thoát luôn trưởng dưỡng trong họ. Tại Sri Lanka Tại Sri Lanka, Phật giáo là quốc giáo. Thời gian lễ hội Vesak, người dân được nghỉ lễ. Gần đây, lễ Vesak được tổ chức vào ngày trăng tròn trong tháng 5 dương lịch và kéo dài 1 tuần. Ngoài những buổi lễ tụng kinh và cầu nguyện mang tính tôn giáo, lễ hội Vesak còn có nhiều chương trình mang tính lễ hội dân gian. Trong những ngày lễ hội, việc bán rượu và thịt thường bị cấm, tất cả quán bia rượu và lò giết mổ phải đóng cửa. Người dân nước này phóng sanh một số lượng lớn thú vật, chim, cá… Việc bố thí ("Dana") cũng được xem rất trọng, họ thường đến thăm và phát quà cho trẻ mồ côi và người già neo đơn cũng như lập những quầy cung cấp miễn phí thức ăn uống cho khách qua đường. Người dân thường mặc áo trắng và đi đến đền thờ, tu viện và tham gia vào các nghi lễ truyền thống tại đó, nhiều người ở lại đền thờ cả ngày và thực hành Bát giới. Hầu hết tư gia Phật tử đều trang trí cờ Phật giáo, lồng đèn và đèn nến… Những nơi công cộng diễn ra nhiều chương trình lễ hội. Trong đó chương trình rước và diễn hành xá-lợi gây ấn tượng và tạo nên xúc cảm nhất đối với người tham dự. Xá-lợi Phật được tôn trí trên lưng những chú voi được trang điểm lộng lẫy với sắc màu mang phong cách Nam Á, theo sau là hàng ngàn Phật tử, diễn hành khắp những đường phố. Tại Indonesia Ngày lễ quan trọng và truyền thống này được tổ chức khắp Indonesia, được gọi là ngày Waisak và là ngày nghỉ lễ quốc gia mỗi năm, chính thức kể từ năm 1983, được tổ chức vào ngày rằm tháng 4 âm lịch. Tại đền Borobudur (Ba La Phù Đồ), hàng ngàn nhà sư Phật giáo sẽ hội tụ với nhau để tụng các câu thần chú và câu kinh trong một nghi lễ gọi là "Pradaksina". Các nhà sư kỷ niệm ngày đặc biệt với việc hứng nước thánh (tượng trưng cho sự khiêm tốn) và vận chuyển ngọn lửa (tượng trưng cho ánh sáng và giác ngộ) từ vị trí này đến vị trí khác. Các nhà sư cũng tham gia vào nghi lễ "Pindapata", nơi họ nhận được từ thiện và cúng dường từ người dân Indonesia. Tại Thái Lan, Lào, Campuchia Thái Lan là quốc gia Phật giáo đã 5 lần tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc. Vesak Day cũng được gọi là Visaka Bochea Day tại Campuchia và Vixakha Bouxa Day tại Lào. Tại Lào, trong thời gian lễ hội Vesak, khí trời nóng bức và không mưa, người ta thường bắn pháo hoa với ước nguyện sẽ có mưa. Tại Trung Hoa Tại Trung Quốc, Phật giáo đã có mặt gần 2000 năm. Phật giáo từng là tư tưởng chủ đạo cho chính quyền và người dân trong một số triều đại. Lễ Phật đản được tổ chức từ thời Tam Quốc, đã ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội qua nhiều giai đoạn lịch sử. Nhưng ngày nay Phật giáo không còn ảnh hưởng nhiều trong xã hội Trung Quốc, từ khi theo xã hội chủ nghĩa. Người dân chỉ còn biết đến Phật giáo như là một tôn giáo lo ma chay, cúng kiếng, võ thuật… Lễ Phật đản chỉ có thể được tổ chức trong khuôn viên tự viện và ít được xã hội quan tâm. Tại Đài Loan Phật giáo Đài Loan có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống thường nhật của người dân tại lãnh thổ Đài Loan. Từ năm 1999, ngày Phật Đản đã là một ngày nghỉ lễ quốc gia ở Đài Loan, được tổ chức hàng năm vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5 và trùng với Ngày của Mẹ. Nghi lễ thường bắt đầu với điệu nhảy truyền thống và hát ca khúc Phật giáo. Một bức tượng của Đức Phật - kèm theo âm nhạc - được rước vào địa điểm và buổi lễ bắt đầu với phần dâng cúng năm vật là hoa, trái cây, hương, thực phẩm và đèn cho Đức Phật. Tại Nhật Bản Tại Nhật Bản, Phật giáo truyền đến từ cuối thế kỷ thứ VI và là tôn giáo chính trong giai đoạn trung và đầu cận đại. Ngày nay, vai trò của tôn giáo ít ảnh hưởng mạnh đến đời sống thường ngày ở Nhật Bản. Lễ Phật đản thường gắn liền với Lễ hội Hoa Anh đào, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi tự viện và trong quần chúng Phật tử. Như một kết quả của thời Minh Trị Duy Tân, Nhật Bản đã thông qua lịch Gregorian thay âm lịch của Trung Quốc từ năm 1873. Trong nhiều ngôi chùa Nhật Bản, ngày Đức Phật sinh được tổ chức vào ngày 8 tháng 4 dương lịch, và ít khi theo những ngày âm lịch của Trung Quốc. Tại Hàn Quốc Tại Hàn Quốc, ngày Phật đản là ngày lễ quốc gia. Ngày này được gọi là 석가 탄신일 (Seokga tansinil), có nghĩa là "Phật đản" hoặc 부처님 오신 날 (Bucheonim osin nal) có nghĩa là "ngày Đức Phật đến", bây giờ đã phát triển thành một trong những lễ hội văn hóa lớn nhất của quốc gia. Lễ hội Phật đản diễn ra tại nhiều nơi công cộng, và trên những đường phố. Trưng bày và diễn hành lồng đèn là một trong những chương trình ấn tượng và gây nhiều xúc cảm nhất. Lễ hội đèn lồng (연등회, Yeon Deung Hoe) thường kéo dài 1 tuần cho đến ngày chính thức Phật đản. Riêng tại thủ đô Seoul, ước tính có khoảng trên 100.000 lồng đèn với nhiều hình dáng và màu sắc đã được trưng bày và biểu diễn trên những đường phố, và dự đoán sẽ có khoảng 300.000 lượt người trong và ngoài nước tham dự lễ hội này. Lễ hội đèn lồng này được ghi vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể của UNESCO từ năm 2020 và được công nhận là Tài sản Văn hóa Phi vật thể của Hàn Quốc từ năm 2012. Vào ngày Đức Phật ra đời, nhiều ngôi chùa cung cấp bữa ăn miễn phí và trà cho tất cả du khách. Tại Việt Nam Lễ Phật đản được công nhận là một ngày nghỉ lễ chính thức tại miền Nam Việt Nam bắt đầu từ năm 1958 do chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa của chính thể Việt Nam Cộng hòa thông qua, vào ngày này thường có diễu hành xe hoa trên đường phố. Khi Việt Nam thống nhất sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam năm 1975, thì ngày này không còn là ngày lễ quốc gia. Ngày lễ này ngày càng được Phật giáo Việt Nam tổ chức long trọng trên cả nước với nhiều hoạt động phong phú như diễu hành, rước xe hoa, văn nghệ mừng sự ra đời của Đức Phật và các hoạt động từ thiện khác. Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc - Vesak đã được tổ chức tại Việt Nam vào các năm 2008, 2014, 2019. Trước đây, ở Việt Nam thường tổ chức lễ Phật đản vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, nhưng những năm gần đây, theo văn bản của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam lễ được tổ chức từ 8 đến 15 tháng 4 (âm lịch), lễ chính vào ngày 15 tháng 4 âm lịch. Những năm gần đây, ngày Phật Đản được coi là một ngày lễ hội quan trọng, thu hút sự tham gia không chỉ của Phật tử mà còn là của người dân trên mọi miền của Việt Nam. Ngày này cũng nhận nhiều sự quan tâm của chính quyền, thực tế mọi buổi lễ Phật đản chung của các huyện đều có sự tham gia của chủ tịch huyện và các chuyến thăm của chủ tịch mặt trận Tổ quốc, sự hỗ trợ kinh phí trong công tác tổ chức Phật đản. Ngoài ra vào ngày này các tổ chức từ thiện của Phật giáo thường tổ chức các hoạt động thăm hỏi những người khó khăn, trẻ em cơ nhỡ tại các nhà tình thương, những người già neo đơn không nơi nương tựa. Đây chính là điều quan trọng nhất của Đạo Phật trong việc xây dựng Đạo của sự Từ Bi. Lịch Tại Indonesia, Thái Lan, ngày Vesak được tổ chức vào ngày 14 hoặc ngày 15 tháng 4 âm lịch; tại Sri Lanka, Nepal, Ấn Độ, ngày Phật Đản được tổ chức vào ngày trăng tròn trong tháng 5 dương lịch; tại Trung Hoa,Việt Nam, Hàn Quốc là ngày 8 tháng 4 âm lịch; tại Nhật Bản là ngày 8 tháng 4 dương lịch. Tương ứng với dương lịch: PL = Phật lịch, AL = Âm lịch, DL = Dương lịch. Chú thích
Nguyễn Phúc Tuấn có thể là tên của một trong những người sau: Nguyễn Phúc Tuấn, con trai của chúa Nguyễn Phúc Khoát, được truy tặng chức Cai đội. Nguyễn Phúc Tuấn, hoàng tử thứ ba của vua Gia Long, mẹ là Chiêu dung Lâm Thức, 12 tuổi thì mất. Tên húy của vua Khải Định sau khi lên ngôi.
Khải Định Đế (chữ Hán: 啓定帝; 8 tháng 10 năm 1885 – 6 tháng 11 năm 1925), tên khai sinh Nguyễn Phúc Bửu Đảo (阮福寶嶹), là vị hoàng đế thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông được truy tôn miếu hiệu là Hoằng Tông (弘宗). Khải Định bị đánh giá là một vị vua nhu nhược trước Pháp, không quan tâm chính sự mà chỉ ham chơi bời, cờ bạc, ăn tiêu xa xỉ. Ông tự sáng chế ra những bộ y phục mới cho mình và cho cả quan hộ vệ. Ông còn rất chuộng trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y phục hoàng tộc truyền thống. Do vậy, ông thường bị đả kích bởi báo chí và các phong trào yêu nước Việt Nam đương thời. Thân thế Vua Khải Định có tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Đảo (阮福寶嶹), khi lên ngôi lấy ngự danh là Nguyễn Phúc Tuấn (阮福晙), là con trưởng của vua Đồng Khánh, mẹ là Dương Thị Thục. Ông sinh vào ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu, tức 8 tháng 10 năm 1885, tại kinh thành Huế. Năm 1889, vua Đồng Khánh mất, Bửu Đảo còn nhỏ tuổi nên không được kế vị (người kế vị là Bửu Lân niên hiệu Thành Thái). Nǎm 1906, Bửu Đảo được phong là Phụng Hóa công (奉化公). Ông là người mê cờ bạc, thường xuyên bị thua, có khi phải cầm bán cả những đồ dùng và những người hầu hạ. Bửu Đảo còn bắt vợ mình, là Trương Như Thị Tịnh con gái của quan đại thần Trương Như Cương, về xin tiền bố mẹ gán nợ để đánh bạc tiếp. Việc Bửu Đảo lên ngôi cũng không hoàn toàn suôn sẻ. Sau khi buộc tội hoàng đế Duy Tân, người Pháp đã có ý muốn xóa bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam nhưng các triều thần, đặc biệt là Thượng thư Nguyễn Hữu Bài không chịu nên Pháp phải chiều theo ý. Ngày 18 tháng 5 năm 1916, Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định (啓定). Trị vì Dưới thời vua Khải Định, triều đình Huế không có xích mích với Pháp. Mọi việc đều do Tòa Khâm sứ định đoạt. Vua Khải Định cũng kết thân với Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles và gửi gắm con mình là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy cho vợ chồng Khâm sứ. Ngày 20 tháng 5 năm 1922, vua Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một vị vua triều Nguyễn ra nước ngoài. Chuyến công du của vua Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm phản đối ông. Phan Châu Trinh đã gửi một bức thư dài trách vua Khải Định 7 tội, thường gọi là Thư thất điều hay Thất điều trần. Trong bức thư đó, Phan Châu Trinh chỉ gọi tên húy là Bửu Đảo chứ không gọi vua Khải Định, và trách Khải Định tội "ăn mặc lố lăng". Trong thư chỉ ra 7 tội sau: Một là tội tự tôn quân quyền Hai là tội thưởng phạt không công bình Ba là chuộng sự quỳ lạy Bốn là tội xa xỉ vô đạo Năm là tội phục sức không đúng phép tắc Sáu là du hạnh vô độ Bảy là tội Pháp du ám muội (đi Pháp với mục đích không chính đáng) Tại Pháp, trên tờ báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc có một loạt bài chế giễu Khải Định trong đó có truyện ngắn Vi hành và còn viết vở kịch Con rồng tre, diễn ở ngoại ô Paris. Tháng 9 năm 1924, từ Pháp về, vua Khải Định còn lo tổ chức lễ tứ tuần đại khánh rất lớn và tốn kém, bắt nhân dân khắp nơi gửi quà mừng. Sau lễ mừng thọ, ngân sách Nam triều kiệt quệ, vua Khải Định cho tǎng thêm 30% thuế điền. Ngô Đức Kế đã làm bài thơ liên châu (4 bài liên tiếp) để đả kích, trong đó có một bài như sau: Ai về địa phủ hỏi Gia Long, Khải Định thằng này phải cháu ông? Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ, Trǎm gia ba chục khổ nhà nông. Mới rồi ngoài Bắc tai liền đến, Nǎm ngoái sang Tây ỉa vãi cùng? Bảo hộ trau rồi nên tượng gỗ, Vua thời còn đó, nước thời không! Khải Định cũng không được lòng dân chúng. Ở Huế nhân dân đã truyền tụng câu ca dao phổ biến về Khải Định: Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây, Nghề này thì lấy ông này tiên sư! Khải Định có xây cất nhiều công trình, trong đó nổi tiếng nhất chính là lăng của ông. Lăng vua Khải Định khác hẳn các lǎng tẩm xưa nay và đã trở thành vấn đề thảo luận của nhiều người, cả dư luận chung và trong giới chuyên môn kiến trúc. Nhiều người chê lăng vua Khải Định có kiến trúc lai căng, nhưng lại có ý kiến cho là độc đáo và khác lạ. Vua Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu tức 6 tháng 11 năm 1925, thọ 41 tuổi. Lăng của vua Khải Định tên chữ là Ứng Lăng 應陵, tại làng Châu Chữ, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Gia đình Vua Khải Định có tất cả 12 bà vợ. Vua Khải Định đối xử tốt với các bà vợ của mình và ông vẫn có được con trai nối dõi. Hậu duệ: Tuy vua Khải Định có 12 bà vợ nhưng chỉ có duy nhất một người con là: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (1913 -1997), tức hoàng đế Bảo Đại, mẹ là Nhất giai Hậu phi Hoàng Thị Cúc Hậu Phi Thế phả
Bạch Liêu (chữ Hán: 白遼, một số tài liệu ghi là Bạch Liên) sinh năm 1236 quê ở làng Yên Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) nay là xã Mã Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, mất năm 1315. Ông là người thông minh nhớ lâu, đọc sách ngàn dòng một mạch. Ông đỗ trạng nguyên năm Thiệu Long thứ 9 (1266) đời vua Trần Thánh Tông, là vị tổ khai khoa của xứ Nghệ, nhưng không ra làm quan. Ông ở lại làm môn khách giúp Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải trấn Nghệ An. Với tư cách là một quân sư, ông đã giúp Trần Quang Khải thảo ra kế hoạch về tuyển quân và dự trữ lương thực, củng cố biên giới phía Nam (gọi là Biến pháp tam chương) góp phần quan trọng trong việc đánh thắng quân Nguyên Mông. Ông được cử theo đoàn sứ bộ sang nhà Nguyên, bằng trí tuệ uyên bác và tài ngoại giao, ông đã góp phần thiết lập quan hệ ngoại giao hoà hiếu giữa 2 nước. Khi tuổi đã cao, ông về quê mở trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Ông thọ 79 tuổi, được an táng tại quê nhà. Ông được vua phong cho làm Phúc thần, hiệu là Đương Cảnh thành hoàng Đại Vương. Sau đó, hậu duệ di cư vào trấn Nghệ An (núi Thành) xã Hưng Phú - huyện Hưng Nguyên, đã dời mộ ông vào đồng Phù Quang, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc. Hậu duệ Bạch Liêu có Bạch Tiến An vào Quảng Ngãi, có cháu xa đời là Bạch Văn Vĩnh, thủ lĩnh phong trào Cần Vương ở Quảng Ngãi, bị Pháp chém tại bến Tam Thương ngày 15 tháng Giêng năm Bính Thân (27/2/1896). Cháu nội Bạch Văn Vĩnh là Bác sỹ Bạch Quang Minh (Bạch Ngẫu), làm việc tại Viện Nghiên cứu Đông y, một thời nổi tiếng ở Hà Nội cuối thế kỷ XX. Chắt Bạch Văn Vĩnh là cựu Đạo diễn VTV4 Bạch Tố Uyên. Nhờ có công với đất nước, ông đã được các triều Lê, Nguyễn sắc phong Thần mộ. Hiện Đền thờ Trạng nguyên Bạch Liêu tại xã Hưng Phú - huyện Hưng Nguyên - tỉnh Nghệ An, đã được Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia, theo quyết định số 2015/VH-QĐ ngày 16 tháng 12 năm 1993. Chú thích
Bạch Liên có thể là: Chùa Bạch Liên ở xã Trác Văn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam Trạng nguyên Bạch Liêu đời Trần Bạch Liên giáo bên Trung Hoa Bạch Liên nữ sĩ Nguyễn Thị Thanh, chị ruột chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
Nguyễn Văn Tường (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Với các tài liệu Đại Nam thực lục chính biên và Quốc triều hương khoa lục, người đời sau nhận thấy: Trần Tiễn Thành và Quốc sử quán ghi chép: Vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), tại trường thi Thừa Thiên, có một sĩ tử người Quảng Trị, đã thi đỗ tú tài, nhưng bị phát hiện tên trùng với quốc tính. Dưới triều Minh Mạng đã có sắc dụ, ai mang họ Nguyễn mà tên kép có lót chữ Phước (Phúc), thì phải đổi chữ lót ấy. Nhưng sĩ tử họ Nguyễn, tên Phước Tường này lại không chịu đổi. Do đó, người tú tài tân khoa phải bị gạch tên trong danh sách trúng tuyển và đồng thời bị tội đồ (đày nơi gần) một năm. Về kì thi hương vào năm Tự Đức thứ 3 (1850), sự cố chữ "Phúc" lại được Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép như sau: "Nguyễn Văn Tường, người xã An Cư, huyện Đăng Xương [Triệu Phong - chua thêm], tỉnh Quảng Trị. Nguyên tên là Nguyễn Phước Tường; vì tên trùng với quốc tính, không chịu đổi, nên bị đi đày; hết hạn lại được phục hàm cử nhân". Năm ấy đức Minh Mạng đi tuần du Quảng Trị, có đem Tường Khánh Công (tức vua Thiệu Trị sau này) đi theo. Ở hành cung Quảng Trị, thấy một người con gái đẹp đi ngang, gọi vào "dùng", sau đó Công theo phụ hoàng trở lại Huế, không ngờ người con gái ấy có thai và đã sinh ra Nguyễn Văn Tường. Khi sinh còn, bà mẹ đã nói sự thật, nên Nguyễn Văn Tường lấy họ vua để đi thi. Như vậy, có thể lần thứ hai này, Nguyễn Văn Tường chỉ bị "nhắc lại" án cũ, hồi ông mới 18 tuổi (1842). Hành trạng chính trị 1850–1868 Sau khi đậu cử nhân (1850), dự thi hội, đạt đủ phân số điểm để được bổ nhiệm, ông vào huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, nhận chức huấn đạo (phụ trách việc dạy và học). 1853, huyện Thành Hóa, thuộc tỉnh Quảng Trị được thành lập. Ông được bổ làm tri huyện ở đó cho đến 9 năm sau. Thành Hóa là một nơi xung yếu, "hậu lộ của kinh đô", chỉ những người được tin cậy mới được giao trọng trách, nhất là trong thời điểm Pháp đã tấn công Đà Nẵng, Gia Định, kích động nội phản ở Bắc Kỳ, sứ bộ Phan Thanh Giản ký kết Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Tại đây, ông đã xây dựng được một căn cứ địa tốt cho Huế. Ông lại chứng tỏ là một người rất có tâm và tài trong việc đoàn kết người Thượng với người Kinh. Năm 1862, ông vào kinh đô Huế giữ chức biện lý Bộ Binh, rồi vào Quảng Nam làm án sát. Năm 1864, vì cần có vị quan giỏi để điều hành "điểm nóng" mâu thuẫn lương - giáo, ông được chuyển đổi làm phủ doãn kinh đô (tỉnh Thừa Thiên và đạo Quảng Trị). Năm 1866, vì cuộc khởi nghĩa Chày vôi nổ ra trong phạm vi quản lý, ông bị cách chức. Từ 1866 đến 1868, Nguyễn Văn Tường trở lại huyện Thành Hóa, với chức trách bang biện (tham mưu), tiếp tục xây dựng căn cứ địa Thành Hóa (Tân Sở về sau). Trong hai năm này, ông lại được cấp ấn quan phòng với quyền được trực tiếp tâu lên vua những việc thực thi cụ thể cùng những kiến nghị rộng lớn. Cũng trong năm Đinh Mão 1867, mặc dù đang ở huyện Thành Hóa, ông vẫn được triều đình và vua Tự Đức điều động vào sứ bộ để vô Gia Định đàm phán với Pháp. Đặc biệt, năm sau, khi sứ bộ dự định đi Paris, ông có viết một bản tấu nổi tiếng, thể hiện tư tưởng "phòng thủ chủ chiến" (thủ để chiến), đồng thời phê phán "ảo tưởng hòa nghị" (tháng 3 âm lịch, Mậu Thìn 1868). Thương thuyết với nhà Thanh (1868–1873) Từ tháng 7 âm lịch, cũng năm Mậu Thìn (1868) ấy, Nguyễn Văn Tường với chức tán tương quân thứ, đứng vào hàng ngũ các quan tướng chỉ huy 3 đạo quân hùng hậu nhất của triều Nguyễn, tiến ra Bắc tiễu phỉ (nội phản, nhất là tàn quân Thái bình thiên quốc toan xưng hùng xưng bá ở biên giới Đại Nam, mặc dù triều đình đã hết sức phủ dụ). Suốt 5 năm trời, ông là một quan văn cầm gươm từng trải trận mạc trên vùng núi phía Bắc, đồng thời là một nhà ngoại giao trong nhiệm vụ thương thuyết, phối hợp tiễu phỉ với quân binh nhà Thanh. Đây cũng là thời đoạn các quân thứ Đại Nam thu phục được Lưu Vĩnh Phúc (chủ tướng quân Cờ Đen) để tiêu diệt quân Cờ Vàng, Cờ Trắng và để chống Pháp. Hòa ước Giáp Tuất (1874) Việc tiễu phỉ ở phía Bắc không thể dứt điểm được, Pháp lại dùng thủ đoạn "buôn bán" vũ khí cho bọn phỉ để nuôi dưỡng chúng, nhằm làm tiêu hao sinh lực quân Đại Nam và ý chí của triều đình. Vì vậy, 1873, ông được điều động vào phái bộ, do Lê Tuấn làm chánh sứ, vô Gia Định thương lượng với thực dân Pháp. Cuộc đàm phán kéo dài, bởi triều đình và sứ bộ Đại Nam không chịu nhân nhượng Pháp, mặc dù tại Gia Định lúc ấy, không chỉ có Pháp mà còn có các đại diện của nhiều nước thực dân châu Âu và cố đạo Thiên Chúa giáo (Pháp và Tây Ban Nha). Tướng Pháp Dupré cử Francis Garnier ra quấy nhiễu Bắc Kỳ để làm sức ép. Thành Hà Nội cùng các thành tỉnh lân cận bị thất thủ. Nguyễn Tri Phương tử tiết. Tuy quân của Lưu Vĩnh Phúc chém được Francis Garnier, nhưng tình thế buộc triều đình phải nhân nhượng. Nguyễn Văn Tường ra Bắc Kỳ thu hồi xong bốn tỉnh, lại phải vào Gia Định để cùng Lê Tuấn, Nguyễn Tăng Doãn tiếp tục bàn định các điều khoản, cuối cùng phải đành chấp nhận Hòa ước Giáp Tuất (1874) và một thương ước khác. Trọng thần tại triều đình (1874–1883) Năm 1874, ông giữ chức Thượng thư Bộ Hình kiêm Thương bạc đại thần tại kinh đô Huế. Không lâu sau ông được bổ sung vào Viện cơ mật. Từ thời điểm này, Nguyễn Văn Tường là một trọng thần tại triều. Chức vụ ông giữ lâu nhất là Thượng thư Bộ Hộ, quản lý Thương bạc viện (cơ quan ngoại giao và ngoại thương). Ông còn là người có công cải cách thuế ruộng đất, để thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài về chiều sâu, thiên về tầng lớp nông dân nghèo. Phụ chính đại thần (1883–1885) Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, trong tình hình Bắc Kỳ đang bị thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Mặc dù Henri Rivière cũng bị giết chết trong một trận đánh do Hoàng Tá Viêm làm tổng chỉ huy, Lưu Vĩnh Phúc trực tiếp cầm quân, các tỉnh Bắc Kỳ vẫn chưa thu hồi được, kinh đô Huế lại đứng trước nguy cơ bị tấn công. Và thật sự Thuận An, cửa ngõ của kinh đô, đã bị thất thủ, không lâu sau ngày vua Tự Đức mất. Do đó, cùng với Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường lần lượt lập rồi phế bỏ 2 vua Dục Đức, Hiệp Hòa (với lý do: một thân Pháp, "tả đạo"; một cấu kết với Pháp qua De Champeaux), nhằm mục đích đưa lên ngai vàng một vị vua yêu nước, quyết chiến với thực dân Pháp. Bấy giờ, quân Thanh đã sang đất Bắc Kỳ để phối hợp đánh Pháp, theo những lần thương nghị giữa Nguyễn Văn Tường, đại diện triều đình Đại Nam, và Đường Đình Canh, đại diện triều đình Đại Thanh (Trung Hoa), từ năm 1881. Nhưng trong thực tế, quân binh nhà Thanh lại mưu mô quy phục Lưu Vĩnh Phúc nhằm mục đích cùng Pháp chia đôi Bắc Kỳ ("Bắc Kỳ mỏ" và "Bắc Kỳ gạo"), lấy sông Hồng làm ranh giới. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thực hiện kế sách quân sự "tọa sơn quan song hổ đấu", thúc đẩy chiến tranh giữa Pháp và Hoa nổ ra, còn triều đình Huế đứng vào thế trung lập. Nhưng triều đình nhà Thanh lại ký Hòa ước Thiên Tân với Pháp, cô lập hoàn toàn triều đình Huế. Triều đình Huế bị bắt buộc phải ký Hòa ước Giáp Thân (còn gọi là Hòa ước Patenôtre, 1884). Trong tình thế ấy, hai vị phụ chính đại thần vẫn cố gắng tiếp tục thúc đẩy chiến tranh Pháp - Hoa tiếp diễn, nhằm làm suy yếu lực lượng cả Pháp lẫn Hoa và tranh thủ thời gian để xây dựng cơ sở cho phong trào Cần Vương. Một loạt sơn phòng được củng cố, xây dựng, gồm cả "hậu lộ kinh đô", Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị). Đích thân Nguyễn Văn Tường chỉ đạo xây dựng "kinh đô kháng chiến" hoặc "kinh đô tị địa" này. Vua Kiến Phúc lại không may mắc bệnh, băng hà. Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép khá kĩ lưỡng như sau: {{cquote|Vua không khỏe, tháng tư trước, ngọc thể vi hoà, đình thần đã xin vua tĩnh dưỡng, và chia nhau đi cầu đảo các linh từ; sau đó đã khỏe, nhưng chưa được bình phục như cũ; đến ngày mồng 7 tháng này, ngày kỷ mão, mới ngự điện Văn Minh, chịu lễ chầu mừng, ban thưởng lụa hoa cho các bầy tôi có sai bậc, rồi sau lại không được khỏe. Thái y tiến thuốc, không thấy công hiệu. Ngày mồng 10, nhâm ngọ, bệnh kịch; giờ ngọ hôm ấy vua mất ở chính điện Kiền Thành. Hoàng thái phi bèn vời bọn Tôn nhân phủ Miên Định, phụ chính phủ thân đại thần Hồng Hưu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Hộ bộ thượng thư Phạm Thận Duật, truyền bảo hoàng đế di chúc rằng: Hoàng đế đức mỏng, có em là Ưng Lịch có học có hạnh, hoàng đế như có mất đi, truyền bảo tôn nhân phụ chính nên lấy Ưng Lịch vào nối ngôi lớn, để phụng tôn miếu; lại đại lễ tiên hoàng đế chưa xong, và lấy của dùng chưa sẵn, vậy hợp thành tang lễ châm chước làm được 4, 5 phần mà thôi, chớ cầu thể lệ. Bấy giờ, Miên Định công và phụ chính thân đại thần truyền lệnh cho biết. Tôn nhân phủ, văn võ đình thần bèn hợp từ tâu lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu; hoàng thái hậu rước công tử Ưng Lịch (là con thứ 5 Kiên Thái vương Hồng Hợi, biện phụng vương ấy), vào nhà tang xưng là tự quân, phàm việc tâu xin tuân hành; chọn ngày lành làm lễ tấn tôn (đó là vua Hàm Nghi)...}} Ngày 12 tháng 6 âm lịch, năm Quý Mùi (1884), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cùng Tôn nhân phủ, đình thần lập vua Hàm Nghi lên ngôi. Hai vị phụ chính cùng các thành viên nhóm chủ chiến (Trần Xuân Soạn, Trương Văn Để...) đã có một vị minh quân để tiếp tục đương đầu với Pháp cũng như với bộ phận khá lớn giáo dân Thiên Chúa giáo được cho là bị các cố đạo phỉnh gạt, cầm súng, đào hào, tiếp tế lương thực cho Pháp. Chính phủ Pháp quyết thực hiện xâm lược toàn bộ Đại Nam. De Courcy được cử sang với mục đích hoàn tất việc chiếm trọn Bắc Kỳ và bắt đầu tấn công chiếm cứ kinh đô Huế. Câu nói của De Courcy, hầu như ai cũng biết, "cần phải giải quyết việc này ở Huế"; và ông ta đã vạch kế hoạch bắt sống hoặc tiêu diệt nhóm chủ chiến triều đình Huế, đứng đầu là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Cuộc kinh đô quật khởi và bị thất thủ (ngày 5 tháng 7 năm 1885) Ngày 23 tháng 5 âm lịch, Ất Dậu (khuya ngày 4 tháng 7, bước sang ngày 5 tháng 7 năm 1885), tuy thi hành kế sách "không biết gì", nhưng thực sự ông cùng Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc tấn công một cách bất ngờ vào Sứ quán Pháp bên kia sông Hương và doanh trại Pháp tại Mang Cá (Huế), nhưng thất bại. Thực chất đó chỉ là đòn đánh trước để giành thế thượng phong, mặc dù biết rằng De Courcy cố dùng kế khích tướng, ép buộc quân Đại Nam phải tấn công trước (Đại Nam tấn công trước thì không nước nào trách được việc Pháp vi phạm các hòa ước). Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi và Tam cung (thái hoàng thái hậu Từ Dũ, Trung phi Vũ thị, Học phi Nguyễn thị) ra khỏi kinh thành; trong khi đó, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn vẫn cố kìm giữ sự tấn công của Pháp. Trần Xuân Soạn là vị tướng can trường, ông có nhiệm vụ rút quân cuối cùng. Theo dự kiến mà nhóm chủ chiến đã vạch ra trong trường hợp kinh đô thất thủ (phương án 2), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lúc ấy liền quyết định đưa vua ra thành Quảng Trị, rồi sẽ đưa lên Tân Sở (tại huyện Thành Hóa, tức là Cam Lộ) để tránh đạn quân xâm lược Pháp, đồng thời phát Dụ Cần vương. Trong lúc đó, một mặt được lệnh của bà Từ Dũ và vua Hàm Nghi, mặt khác là thực hiện phương án 2, ngăn cản Pháp truy kích xa giá, thực thi kế sách "kẻ ở người đi" (đàm và đánh), nên ông đã quay lại điều đình với Pháp. Nguyễn Văn Tường đã nhờ giám mục Caspar (có tên tiếng Việt là Lộc) của giáo đường Kim Long đưa sang Sứ quán để gặp tướng De Courcy (qua môi giới Caspar cũng là cách mà vào năm 1883, khi Thuận An thất thủ, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp đã thực hiện trong việc "cầu hòa"). Sau khi De Courcy buộc Nguyễn Văn Tường ban bố một vài lệnh lạc "hòa hảo giữa hai nước Việt - Pháp", ông ta lại ra thời hạn cho Nguyễn Văn Tường: trong vòng hai tháng phải tìm cách để đưa vua Hàm Nghi và Tam cung về. Nguyễn Văn Tường phái Phạm Hữu Dụng cầm sớ ra Quảng Trị, tâu xin rước vua về, nhưng Tôn Thất Thuyết cản sớ không cho vua biết. Tôn Thất Thuyết dặn Phạm Hữu Dụng: Nguyễn Văn Tường cố gắng thương thuyết với Pháp 2 điều là Pháp không được tiếp tục bức hiếp và phía ta cũng nên "đoàn kết" với Pháp. Nếu được như thế, mới có thể rước vua Hàm Nghi về lại kinh đô. Nguyễn Văn Tường lại viết sớ vấn an Tam cung, và đệ trình về việc Tam cung tạm về Khiêm lăng (lăng Tự Đức) trong khi chờ vụ việc được giải quyết. Về việc Tôn Thất Thuyết cản Phạm Hữu Dụng trực tiếp dâng sớ lên vua Hàm Nghi và cũng không cho vua biết: Đây có thể là một khía cạnh mâu thuẫn trong sách lược mà hai vị phụ chính đã bàn với nhau, và chắc hẳn đúng hơn là do tình huống mới nảy sinh, nên đó chỉ là một "động tác giả", để thực hiện thủ thuật "hai mặt", nhằm đối phó với Pháp. Nhưng ngay sau đó, bằng sự liên lạc mật, họ lại nhất trí vẫn duy trì kế sách "kẻ ở người đi". Từ Tân Sở, Dụ Cần vương chính thức và duy nhất được ban bố, cùng thời điểm vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết gửi về Huế một bản sắc dụ cho Nguyễn Văn Tường. Mật dụ của vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về Nguyễn Văn Tường, cùng một ngày phát Dụ Cần vương, 2 tháng 6 năm Ất Dậu (13 tháng 6 năm 1885): Sau đó ít hôm, vào ngày 7 tháng 5 năm Ất Dậu (18 tháng 7 năm 1885), vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) lại từ Tân Sở gửi một mật dụ về Huế cho hoàng tộc: Trong hai tháng đó, Nguyễn Văn Tường hoàn toàn bị Pháp quản thúc ngay tại Sở Thương bạc, do một trung đội lính viễn chinh thuộc Pháp canh giữ, sĩ quan Schmitz chỉ huy. Tất cả mọi sắc dụ ký tên thái hoàng thái hậu Từ Dũ đều do Miên Định (chú ruột vua Tự Đức, hiện giữ chức nhiếp chính giám quốc) bàn bạc, thông qua và Nguyễn Nhược Thị Bích (tác giả Hạnh Thục ca) chấp bút. Tuy ở trong thế bị quản thúc nghiêm ngặt, Nguyễn Văn Tường vẫn đấu tranh hết sức gay gắt với nhóm người "đón gió xoay buồm", trực diện là với Nguyễn Hữu Độ (người đã có ý theo Pháp từ 1873—theo ghi chép đã xuất bản của Jean Dupuis và theo Đại Nam thực lục chính biên), trong việc phong chức hàm cho ông ta với quyền hạn "phó vương" tại Bắc Kỳ, thành lập Nha Kinh lược tại đấy, mà thực chất là mất hẳn Bắc Kỳ vào tay Pháp và các cố đạo như Puginier. Trong khi đó, phong trào "Cần vương, bình Tây, sát tả đạo" đã bùng nổ ra khắp cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh tả kì (phía trái cửa ngõ vào kinh đô, tức là phía Nam). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính Nguyễn Văn Tường đã lãnh nhiệm vụ chỉ đạo tổng quát ở miền đất ấy, trong khi Tôn Thất Thuyết phụ trách các tỉnh hữu kì (phía Bắc) (xem cáo thị khi giặc Pháp bắt Nguyễn Văn Tường bên dưới). Lưu đày và cái chết nơi biệt xứ (1885–1886) Hết hạn hai tháng, đúng vào ngày 27 tháng 7 Ất Dậu (5 tháng 9 năm 1885), Pháp ra lệnh bắt Nguyễn Văn Tường. De Courcy chỉ thị De Champeaux công khai cáo thị khắp nước. Quốc sử quán ghi nhận như sau: Không những người Pháp ở Gia Định đổ một loại hóa chất gây cháy bỏng vào miệng Nguyễn Văn Tường, khi tra tấn (để khỏi la hét, gào rú), De Courcy còn đánh điện tín cho Caffort, chúa đảo Côn Đảo: "Tầm quan trọng của những tù nhân chính trị này đòi hỏi họ phải được giám sát nghiêm ngặt với bất cứ giá nào"; trong đó, Nguyễn Văn Tường là "kẻ thù nguy hiểm nhất" đối với Pháp. Khi ông và hai người bạn tù của ông đã bị giam giữ tại Côn Đảo, chính phủ Pháp lại chuẩn bị lưu đày họ tận Tahiti; bấy giờ, triều Đồng Khánh, dưới sự chỉ đạo của De Courcy, đã "xử án vắng mặt" nhóm chủ chiến triều đình Huế, với nội dung chính là hành trạng của họ từ ngày 5 tháng 7 đến 5 tháng 9 năm 1885. Bản án chung thẩm ấy được xét xử, công bố vào tháng 8 âm lịch Ất Dậu (tháng 9 năm 1885): Lúc khoảng 4 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 7 năm 1886, tại Papeete, một làng trên quần đảo thuộc địa Tahiti của Pháp, Nguyễn Văn Tường mất vì bệnh ung thư cổ họng. Sau một vài tháng quàn giữ, di thể ông được Tôn Thất Đính đưa về Đại Nam. Trước tác Một số văn bản tài liệu Lúc sinh thời, ông nổi tiếng là người sắc sảo, cả quyết và mưu trí. Trong khi làm quan, ông đã dâng lên vua nhiều tấu sớ. Hầu hết các tài liệu này đã được vua Tự Đức đích thân phê duyệt, và được các quan lưu giữ tại các nha môn, bộ, viện và tại Quốc sử quán. Số di cảo này đã được Nhóm Tư liệu Hán - Nôm lịch sử cận đại Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh và nhóm giảng viên Đại học Sư phạm Huế sưu tầm, dịch thuật. Nam Kỳ tấu nghị (chưa xuất bản toàn bộ, chỉ mới ấn hành từng phần) Bắc Kỳ tấu nghị (chưa xuất bản, chỉ mới ấn hành từng phần) Thương bạc viện phúc (chưa xuất bản, chỉ mới ấn hành từng phần) Văn thư thương thuyết Nhà Thanh viện binh tiễu phỉ. Sáng tác thơ ca Nguyễn Văn Tường còn có một tâm hồn thơ ca và những bài thơ giàu cảm xúc, đầy trách nhiệm trước vận nước. Nhưng đa số thơ được Nguyễn Văn Tường sáng tác, hiện còn lại, chủ yếu là trong 5 năm tiễu phỉ ở núi rừng phía Bắc và một vài tỉnh gần kề với Lạng Sơn: Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) - Thơ - Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng, gồm các sáng tác văn vần (khoảng 5 cặp câu đối và trên 60 bài thơ chữ Hán) người đời sau sưu tầm được, tạm đặt tên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường thi tập hoặc Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường thi tập Thông tin thêm Chỉ trích của Phan Bội Châu Phan Bội Châu, nhà đề xướng phong trào Đông du, đã ghi nhận được nguồn dư luận đương thời đối với việc làm mà ông cho là bán nước của ông Tường và bà Thái hậu Từ Dụ và ông đã công phẫn trình bày trong cuốn "Việt Nam vong quốc sử", công khai gọi ông Tường là gian tặc Nguyên văn: 國中有太后范氏愚而貪, 爲嗣德翼宗之生母, 干預朝政, 翼宗事事稟求太后乃行, 阮文詳即以法人所餌之重賂, 結母后心, 昏婆姦賊, 表裏弄權, 癲倒國政, 陷害正人君子, 或則橫被刀斧, 或則黜削歸里: Xét lại Vào ngày 3 tháng 6 năm 2007, Hội Khoa học Lịch sử của tỉnh Thừa Thiên-Huế đã đưa ra đề nghị "Tặng bia cho các nhân vật lịch sử" để ghi nhận công lao của các nhân vật lịch sử tại Việt Nam, trong số đó có Nguyễn Văn Tường. Theo thông tin từ trang web của tỉnh Quảng Trị: Chú thích Đọc thêm Trần Xuân An, "Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)", truyện – sử ký – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nhà xuất bản. Văn Nghệ TP. HCM., 2004. Trần Xuân An, "Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), một người trung nghĩa", khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003, Nhà xuất bản. Thanh Niên, 9-2006. Trần Xuân An, "Tiểu sử biên niên phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa thực dân Pháp" (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001, Nhà xuất bản. Thanh Niên, 9-2006. Trần Xuân An, "Thơ Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng", (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003, Nhà xuất bản. Thanh Niên, 2008. Nhiều tác giả - PGS.TS. Đỗ Bang (chủ biên), "Nguyễn Văn Tường (1824-1886), cuộc đời và lời giải"'', Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế và Nhà xuất bản. Văn hóa liên kết xuất bản, 2007. Đại học sĩ triều Nguyễn Nhà ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn Nhiếp chính Việt Nam Phong trào Cần Vương Người Quảng Trị Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn Công tước nhà Nguyễn
Nguyễn Khánh có thể là: Nguyễn Khánh, đại thần nhà Lý, mưu đồ lật đổ Lý Thái Tông năm 1035, bị vua phát hiện và sai hành hình. Nguyễn Khánh, Quốc trưởng, Thủ tướng, Đại tướng của Việt Nam Cộng hòa. Nguyễn Khánh, Phó Thủ tướng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Mạc Thái Tổ (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541) tên húy là Mạc Đăng Dung (莫登庸), là nhà chính trị, hoàng đế sáng lập ra triều Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện đánh dẹp các thế lực cát cứ, chống đối triều đình, loại bỏ ảnh hưởng của những người ủng hộ nhà Lê, thành lập nhà Mạc và chống lại những lực lượng trung thành với nhà Lê ở Thanh Hóa. Mạc Đăng Dung bước vào đường quan lộ sau khi thi đậu Võ trạng nguyên trong cuộc thi tuyển võ sĩ tại Giảng Võ đường ở Thăng Long dưới triều Lê Uy Mục, rồi được sung quân Túc vệ vác lọng theo hầu vua. Trong khoảng 20 năm, từ một võ quan cấp thấp dưới thời Lê Uy Mục, nhờ tài thao lược và mưu trí, Đăng Dung đã lần lượt được phong chức Đô Chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ (hàm chính tam phẩm) ở tuổi 25, rồi tước bá (Vũ Xuyên bá), hầu (Vũ Xuyên hầu), công (Minh quận công rồi Nhân quốc công), vương (An Hưng vương) thời Lê Cung Hoàng. Và trong khoảng thời gian chưa đầy 30 năm, Đăng Dung đã trở thành vua. Với vai trò là người lập ra triều Mạc, ông lần lượt làm vua, thái thượng hoàng, cũng như quyền nhiếp chính khi con trai cả kế ngôi của ông là Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) đột ngột qua đời. Xuất thân hàn vi, lập thân bằng đường binh nghiệp, Đăng Dung là người có công đầu trong việc tạo lập lại thế ổn định của xã hội cũng như chính trường Đại Việt sau hơn 20 năm hỗn loạn đầu thế kỷ XVI. Những sử thần của nhà Lê trung hưng hay nhà Lê–Trịnh (cũng là những người đã biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư bản bổ sung ở thế kỷ 17) luôn đánh giá tiêu cực triều Mạc (đặc biệt là với người sáng lập ra triều đại này), bao gồm cả học giả danh tiếng Lê Quý Đôn. Tuy nhiên do ít nhiều vẫn phải tôn trọng tính khách quan trong việc chép sử chuyên nghiệp nên những sử thần của nhà Lê–Trịnh đã không dám loại bỏ những tường thuật khi Đăng Dung phế ngôi nhà Lê rằng "bấy giờ thần dân trong nước đều theo Mạc Đăng Dung, đến đón vào kinh sư", hay "lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô" (Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn). Điều này cho thấy Đăng Dung có sức thu phục nhân tâm cao hơn nhiều so với phản ứng của dân chúng Thăng Long khi Hồ Quý Ly phế ngôi nhà Trần. Đại bộ phận dân chúng Bắc Hà, trong đó đặc biệt là thành Thăng Long có phản ứng tích cực với cuộc đổi ngôi do ông thực hiện. Những người ở vùng khác (đặc biệt ở vùng Thanh–Nghệ, nơi phát tích nhà Lê) có thể phản đối cuộc đổi ngôi này, nhưng đại bộ phận dân chúng vùng Bắc Hà (dân kinh lộ hay dân trung châu theo cách gọi của người vùng Thanh–Nghệ) có thể đã quá chán nản với sự rối ren trong gần 20 năm cuối thời Lê sơ nên không có sự chống đối đáng kể nào với cuộc giành ngôi của Đăng Dung dù trong lòng có thể vẫn tiếc nuối một triều đại nhiều công tích do Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông góp công dựng nên. Tuy nhiên việc đối xử tàn nhẫn với nhà Hậu Lê, việc xin cắt đất cầu hòa, và việc nhận chức An Nam đô thống ti sứ do nhà Minh ban cho (tức là tự hạ thấp chủ quyền dân tộc, coi Đại Việt như một tỉnh của Trung Quốc), đã khiến Mạc Đăng Dung trở thành tâm điểm chỉ trích của các sử gia, tri thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Việc Mạc Đăng Dung đối xử tàn nhẫn với nhà Hậu Lê (giết cả 3 mẹ con vua Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng và Trịnh thái hậu, sát hại nhiều vị quan trung thành với nhà Hậu Lê) cũng làm tăng thêm sự oán hận của những người vẫn nhớ về nhà Hậu Lê, gián tiếp giúp cho Nguyễn Kim tập hợp lực lượng, xây dựng nhà Lê trung hưng với khẩu hiệu "phù Lê diệt Mạc". Khi bị sát hại, Trịnh Thái hậu đã khấn xin Trời cao trừng phạt kẻ nghịch tặc: "Đăng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, ngày sau con cháu nó cũng lại bị như thế". Chỉ 65 năm sau thì lời khấn ứng nghiệm: nhà Mạc bị nhà Lê trung hưng tiêu diệt, con cháu họ Mạc bị quân nhà Lê truy sát để báo mối thù giết vua cướp ngôi, trở thành một vương triều yểu mệnh. Quan điểm phê phán Mạc Đăng Dung ở Việt Nam đã có sự thay đổi qua những giai đoạn lịch sử khác nhau. Kể từ đầu thời Nhà Nguyễn cho đến thập kỷ đầu thế kỷ XXI, những nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa như Nguyễn Văn Siêu, Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Trần Quốc Vượng, Trần Khuê, Trần Lâm Biền, Vũ Khiêu, Văn Tạo, Đinh Khắc Thuân, Phan Đăng Nhật, Trần Thị Vinh là những người đi đầu trong việc đánh giá lại vai trò lịch sử của Mạc Đăng Dung theo hướng cởi mở khách quan hơn thời Lê-Trịnh... Qua những kết quả nghiên cứu trong các lĩnh vực như chính trị, kinh tế (như các hoạt động sản xuất, thương mại), văn hóa - tư tưởng, văn học - nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo - tín ngưỡng... đã cho thấy sự ra đời của nhà Mạc và những động thái chính trị - quân sự của Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) là phù hợp với bối cảnh khách quan lúc bấy giờ, khi nhà Hậu Lê đã suy sụp không còn trị nước được nữa. Thân thế và giáo dục Mạc Đăng Dung sinh giờ Ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão (tức ngày 22 tháng 12 năm 1483) thời vua Lê Thánh Tông, người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử: Cụ tổ 7 đời của Mạc Đăng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Lưỡng quốc Trạng nguyên thời Trần, quê ở Chí Linh, Hải Dương, làm quan đến chức Nhập nội Hành khiển Thượng thư môn hạ tả Bộc xạ kiêm Trung thư lệnh, Tri quân dân trọng sự, làm quan thanh liêm, tiếng tăm lừng lẫy cả nước. Mạc Đĩnh Chi sinh ra Mạc Dao làm quan Tư hình đại phu, Mạc Dao sinh bốn con là Mạc Địch, Mạc Thoan, Mạc Thúy, Mạc Viễn, người nào cũng có tài năng, sức lực. Nhà Minh xâm lược Đại Ngu, họ Mạc tất cả đều theo nhà Minh, đem quân hàng giặc, dâng địa đồ cho giặc, lại dẫn đường cho giặc, bắt được Hồ Hán Thương ở núi Cao Vọng. Nhà Minh đều cho làm quan, phong tước. Sau đó Mạc Thúy gặp quân Minh dâng sớ xin nhập Đại Ngu thành quận huyện của Trung Quốc. Mạc Thúy sinh ra Mạc Tung, dời đến huyện Thanh Hà. Lúc ấy Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh, nghiêm trị ngụy quan (những quan lại người Việt cộng tác với quân Minh). Mạc Tung không dám ra làm quan, ẩn náu nơi thôn xóm. Mạc Tung sinh ra Mạc Bình, dời đến Nghi Dương, Mạc Bình sinh ra Mạc Hịch, ba đời này đều không hiển đạt. Mạc Hịch lấy người con gái họ Đặng trong làng, sinh ra con trưởng là Mạc Đăng Dung, hai con thứ tên Đốc và Quyết. Mạc Đăng Dung thời trẻ nhà nghèo, làm nghề đánh cá, lớn lên dưới thời vua Lê Uy Mục có tuyển võ sĩ, Đăng Dung dự thi môn đánh vật, trúng Đô lực sĩ xuất thân, được sung vào đội túc vệ, giữ việc cầm dù theo xe vua. Theo sách của Viện Sử học Việt Nam, họ đã dùng sách Công Dư tiệp ký, cuốn sách mang tính truyền kỳ không phải chính sử, để kết luận rằng Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi mà Mạc Đĩnh Chi lại là cháu 5 đời của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích thời Lý Nhân Tông (1086), tức là Mạc Đăng Dung là cháu 11 đời của Mạc Hiển Tích. Gốc gác họ Mạc từ Cơ Chất Khiết - hậu huệ nhà Chu bên Trung Quốc. Sau khi nhà Chu mất, Cơ Chất Khiết làm quan cho nhà Hán, được ban họ Mạc và phong ở Trịnh ấp. Sau này con cháu di cư xuống phía nam rồi tới Đại Việt. Một tích khác, theo sử gia Việt Nam Trần Quốc Vượng, người làm trong Viện Sử học Việt Nam, theo sách đã dẫn, Mạc Đăng Dung là dòng dõi người tộc Đãn ở ven biển từ Phúc Kiến (Trung Quốc) trở xuống, đã Việt hóa ở phương Nam, phỏng đoán rằng gia phả thực của họ Mạc còn chôn trong mộ và họ Mạc là người Đãn man. Mạc Đăng Dung nhận mình là con cháu Mạc Đĩnh Chi chỉ là "thấy người sang bắt quàng làm họ", những nghiên cứu của giáo sư Vượng còn nhiều ý kiến tranh cãi. Sự nghiệp Triều vua Lê Uy Mục Năm 1504 vua triều Lê sơ Lê Hiến Tông chết, nhà vua được sử gia Vũ Quỳnh cho là bậc vua hiền, giữ vững cơ đồ, chẳng may chết sớm. Người con thứ lên thay, tức vua Lê Túc Tông cũng mất một năm sau đó, thọ 17 tuổi. Túc Tông mất, người anh lên thay, tức vua Lê Uy Mục. Vua Uy Mục nghiện rượu, hoang dâm, thích ra oai, để cho họ ngoại hoành hành, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, cơ đồ Nhà Lê đi xuống từ đây. Mạc Đăng Dung là người có sức khỏe. Thời trẻ, ông nhà nghèo làm nghề đánh cá. Thời Lê Uy Mục tổ chức thi tuyển dũng sĩ, Mạc Đăng Dung đã trúng Đô lực sĩ xuất thân (còn được gọi là Võ trạng nguyên), được sung vào đội quân Túc vệ cầm dù theo vua. Trong hàng ngũ võ quan Nhà Lê, theo sử gia Lê Quý Đôn, Mạc Đăng Dung tỏ ra là người thật thà ngay thẳng. Năm 1508 ở tuổi 25, Mạc Đăng Dung được giao chức Đô Chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ (trật chánh tam phẩm). Thời bấy giờ, vua Uy Mục để cho họ ngoại lộng hành, lòng dân căm phẫn; lại nghi kị các quan, các tôn thất, nhiều người tự lo cho thân mình, muốn nổi loạn. Năm 1509, vua xua đuổi người tôn thất và công thần về xứ Thanh Hóa, viên tướng Nguyễn Văn Lang đem quân ba phủ khởi binh ở Tây Đô, giữ cửa biển Thần Phù. Người cháu của Lê Thánh Tông, Giản Tu công Lê Oanh bị bắt, trốn ra, chạy đến Thanh Hóa được Nguyễn Văn Lang phò lập làm minh chủ. Quân của Lê Oanh từ Thanh Hóa tiến ra Thăng Long, vua Uy Mục bị thua, uống thuốc độc tự tử, Lê Oanh lên ngôi tức vua Lê Tương Dực. Sử sách không chép gì về Mạc Đăng Dung trong thời gian này. Triều vua Lê Tương Dực Vua Tương Dực lên ngôi, ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt, song chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, nhiều nơi dấy binh làm loạn, dẫn tới sự suy vong của Nhà Lê sơ. Năm 1511 Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên bá, bây giờ các thuật sĩ, hào kiệt nói với vua rằng phương đông có sắc khí thiên tử. Vua Lê Tương Dực sai đại thần Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ ra Đồ Sơn, Hải Phòng, tức quê của Mạc Đăng Dung trấn yểm. Đăng Dung đi trong chuyến đó mà không ai biết. Thời gian này có năm gặp hạn hán, đói to, các cuộc nổi dậy chống lại triều đình như của Trần Tuân, Nguyễn Nghiễm... liên tiếp xảy ra, triều đình phải vất vả đánh dẹp. Năm 1516, Trần Cảo khởi nghĩa ở Quỳnh Lâm, đem quân chiếm kinh thành. Đích thân vua Tương Dực cầm quân, đánh bại Trần Cảo, Cảo phải chạy về Ngọc Sơn. Viên tướng Trịnh Duy Sản trước kia có mâu thuẫn với nhà vua, nay dùng mưu giết vua Lê Tương Dực ở cửa nhà Thái Học. Cùng năm đó, Trịnh Duy Sản cùng các huân cựu đại thần lập người con mới 14 tuổi của Cẩm Giang vương Lê Sùng tên Lê Y lên ngôi tức vua Lê Chiêu Tông. Triều vua Lê Chiêu Tông Theo lời bàn của sử thần, thời vua Lê Chiêu Tông, bên ngoài giặc giã nổi lên, bên trong quyền thần chém giết lẫn nhau, kinh sư đẫm máu. Năm 1517 người hai thế lực đương thời họ Thủy Chú (Trịnh) và họ Tống Sơn (Nguyễn) là Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy đánh lẫn nhau, Trịnh Tuy phải chạy về Lôi Dương, Thanh Hóa. Một thế lực khác là Trần Chân lại tìm cách đánh Nguyễn Hoằng Dụ, khiến Dụ phải tìm cách về Thanh Hóa, từ nay chỉ có Trần Chân làm phụ chính trong triều. Mạc Đăng Dung lúc ấy trấn thủ Sơn Nam, Trần Chân viết thư khuyên Đăng Dung chặn lại, Đăng Dung không nỡ. Nguyễn Hoằng Dụ viết tờ thư và bài thơ gửi cho Đăng Dung, Đăng Dung án binh bất động, Hoằng Dụ chạy thoát về Tống Sơn, Thanh Hóa. Thời ấy có Cù Khắc Xương, Trần Khắc Xương mượn đạo Thiên vũ, Thiên bồng mê hoặc dân, Mạc Đăng Dung dâng sớ xin trị tội, lại hạch một số viên quan mê tín tà thuyết. Nhà vua nghe theo, giết những người ấy. Thiệu quốc công Lê Quảng Độ hàng phe nổi dậy Trần Cảo, Mạc Đăng Dung cũng dâng sớ khuyên nhà vua đem chém vì tội bất trung, vua cũng nghe theo. Từ đấy, nhà vua tin Mạc Đăng Dung là người trung trực, càng thêm ân sủng. Năm 1518, Mạc Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên hầu, ra trấn thủ Hải Dương. Tại đây Đăng Dung thu thập hương binh, chỉnh đốn quân ngũ, quân số ngày càng đông. Sau khi đánh đuổi được hai thế lực Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy, quyền thế của Trần Chân ngày càng lớn. Mạc Đăng Dung cũng phải sợ, liền dạm hỏi con gái Trần Chân cho con trai mình là Mạc Đăng Doanh. Bấy giờ, các đại thần bàn mưu với nhà vua, dụ Trần Chân vào cung, sai lực sĩ bắt, Trần Chân chạy đến cổng thành bị người giữ cửa bắt chém đi. Các thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc mang quân đánh kinh đô báo thù. Vua Chiêu Tông không chống nổi, đang đêm phải bỏ chạy sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm để tránh. Giúp vua Chiêu Tông đánh dẹp các thế lực chống triều đình Trịnh Tuy lúc này cầm 1 vạn binh, đóng ở xứ Sơn Nam, nghe tin vua chạy ra ngoài, quân lính tan vỡ cả. Quân của Nguyễn Kính, Nguyễn Áng tha hồ cướp bóc, kinh sư thành chỗ săn bắn, đánh cá. Chiêu Tông gọi Nguyễn Hoằng Dụ lúc này đang ở Thanh Hóa ra đánh Nguyễn Kính, nhưng Hoằng Dụ lưỡng lự không đi. Lê Chiêu Tông bèn triệu Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu, rồi sai người đi dụ Nguyễn Kính, nhưng Nguyễn Kính lại càng hoành hành, đóng quân không rút. Mạc Đăng Dung từ Hải Dương về yết kiến vua, đóng thủy quân ở sông Nhị Hà, cho rằng chỗ nhà vua ở là Súc Ý đường hơi, xin vua chuyển về dinh Bồ Đề để tiện theo hầu. Lại sai đi dụ hàng thủ hạ của Trần Chân, những người này nói phải giết những kẻ gièm pha trước kia, rồi sẽ hàng. Vua Chiêu Tông làm theo, nhưng họ đều không hàng, mà càng rông rỡ hoàng hoành, đóng quân không rút. Đăng Dung lại xin nhà vua chuyển nơi ở, hai viên quan can ngăn, Đăng Dung đều cho người giết chết. Theo sách Đại Việt thông sử, lúc này Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, nên nảy ý đồ khác. Ông mượn thế của quân địch để giết hết đại thần, chặt vây cánh của vua Lê Chiêu Tông. Bèn lập ra kế đi dụ quân địch, rồi mạo lời họ, ép triều đình giết chết Đoan quận công Ngô Bính, Thọ quận công Trịnh Hựu và Chử Khải. Lúc này, Trịnh Tuy và các tướng ở Sơn Tây mưu lập người con của Tĩnh Tu công Lộc lên làm vua, sau nửa năm phế, lại lập Lê Do lên. Vua Chiêu Tông lại mời Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Trịnh Tuy, Nguyễn Áng, Nguyễn Kính ở Sơn Tây, Hoằng Dụ đem quân ra cùng với Đăng Dung đi đánh, quân Hoằng Dụ thua to, chết rất nhiều, Hoằng Dụ lại lui quân về Thanh Hóa. Từ đây Mạc Đăng Dung thống lĩnh quân thủy bộ. Tháng 7 năm 1519, Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thủy bộ vây Lê Do ở Từ Liêm, rồi phá đê cho nước vỡ vào quân Lê Do. Do và Nguyễn Sư chạy đến Ninh Sơn, bị Đăng Dung bắt được, giải về giết chết. Trịnh Tuy bỏ chạy về Thanh Hóa. Các tướng Sơn Tây là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc đều xin hàng Mạc Đăng Dung. Chiêu Tông phong Mạc Đăng Dung làm Minh quận công. Ông một mình nhân cầm quân dẹp loạn mà từ đó nắm hết quyền bính, vua hồi Kinh sư, việc thiên hạ tạm yên. Năm 1520, Đăng Dung được vua sai làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh, lấy Phạm Gia Mô làm Tán lý quân vụ. Năm sau, lại được phong làm Nhân quốc công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo, tháng 7 lại gia phong Đăng Dung làm Thái phó. Năm 1521, sau khi đánh lui được Trịnh Tuy vào Thanh Hóa, Mạc Đăng Dung nắm quyền điều hành triều chính Nhà Lê. Đăng Dung mang quân đánh lực lượng của Trần Cung ở Lạng Nguyên. Trần Cung bại trận, bỏ chạy vào châu Thất Nguyên. Mạc Đăng Dung điều quân tuần tiễu truy nã và bắt được Trần Cung, bị giải về kinh thành giết chết. Lúc này quyền thế của Mạc Đăng Dung rất lớn, kiểm soát toàn bộ triều đình. Ông gây dựng phe cánh gồm thông gia Phạm Gia Mô làm Thượng thư Bộ Lễ, em rể là Quỳnh khê hầu Vũ Hộ làm Hữu đô đốc trấn thủ Sơn Tây; ngoài ra còn có các Thượng thư Trình Chí Sâm và Nguyễn Thì Ung ngả theo ông. Mạc Đăng Dung lại tiến vua một mỹ nhân, giả danh là con gái, vào làm cung tần để dò la tin tức, lại sai em là Mạc Quyết giữ đạo binh Túc vệ, con trai Đăng Doanh giữ điện Kim Quang. Năm 1522, Lê Bá Hiếu nổi dậy chống triều đình ở vùng Đông Ngàn, Gia Lâm. Mạc Đăng Dung lại mang quân đi đánh dẹp được. Mạc Đăng Dung lập nhiều công lớn, dẹp được nhiều lực lượng chống đối triều đình nên quyền lực của ông càng lớn. Sử gia Lê Quý Đôn viết rằng: "công danh ngày càng thịnh, triều đình ai cũng phục". Khi đó Mạc Đăng Dung đi bộ thì lọng phượng giát vàng, đi thủy thì thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm không kiêng sợ gì. Ông giết thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh Sơn bá Nguyễn Thọ và Đàm Cử vốn là những người trung thành với Lê Chiêu Tông. Vua Lê Chiêu Tông rời kinh sư, hiệu triệu thiên hạ hỏi tội Đăng Dung Trước sự lớn mạnh của thế lực Mạc Đăng Dung, vua và các cựu thần Nhà Lê không bằng lòng, nhưng bất lực. Nghe theo lời một số cận thần trung thành, đêm 27 tháng 7 năm 1522, Chiêu Tông rời kinh thành chạy sang Sơn Tây hiệu triệu bốn phương hỏi tội Mạc Đăng Dung. Ngay ngày hôm sau, Mạc Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc đem quân đuổi theo, trận chiến xảy ra, Hoàng Duy Nhạc tử trận. Trong tình huống kinh thành trống vắng, vua không còn ở Kinh sư, Mạc Đăng Dung đã bàn với các đại thần tạm thời lập Hoàng đệ Xuân (Lê Cung Hoàng) làm vua. Ngày 1 tháng 8 năm 1522, Đăng Dung và một số triều thần Nhà Lê cùng tôn Hoàng đệ Xuân lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thống Nguyên năm thứ 1. Chiêu Tông sai người triệu Vũ Hộ đến giúp, nhưng Vũ Hộ lại mang 3000 quân ngả theo Mạc Đăng Dung. Bấy giờ, các xứ Tây, Nam, Bắc đều theo Lê Chiêu Tông. Mạc Đăng Dung chia các dinh thủy, bộ đánh vào các xứ ở bến Đông Hà, Chiêu Tông sai Lại Thúc Mậu, Nguyễn Dư Hoan, Nguyễn Định, Đàm Khắc Nhượng dàn trận chống giữ và cầm cự, bị Đăng Dung đánh bại. Trịnh Tuy từ Thanh Hóa ra cứu Lê Chiêu Tông. Nghe lời gièm pha, Tuy mang xa giá chạy vào Thanh Hóa, không liên kết với các tướng quanh kinh thành đang giúp Chiêu Tông, do đó lực lượng ủng hộ Chiêu Tông nhiều người giải tán. Bấy giờ, trong một nước có hai vua, vua Lê Chiêu Tông ở Thanh Hóa đại diện cho lực lượng cựu thần Nhà Lê do Trịnh Tuy cầm đầu và Lê Cung Hoàng ngự tại dinh Bồ Đề, mọi việc do Mạc Đăng Dung sắp xếp và đối phó. Sau khi đàn áp một số lực lượng nổi dậy, thế lực Mạc Đăng Dung vô cùng mạnh mẽ, kiểm soát và làm chủ vùng Kinh Bắc, quan lại và quân dân đến quy phục ngày một đông. Năm 1523, Mạc Đăng Dung sai em là Mạc Quyết cùng Vũ Hộ và Vũ Như Quế mang quân đánh Lê Chiêu Tông và Trịnh Tuy ở Thanh Hóa. Cùng lúc, ông nhân danh vua mới Lê Cung Hoàng tuyên bố phế truất Chiêu Tông làm Đà Dương vương. Năm 1524, Mạc Đăng Dung nắm chức Bình Chương quân quốc trọng sự, Thái phó, tước Nhân quốc công. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung tiến đánh Trịnh Tuy ở đầu nguồn Thanh Hóa. Trịnh Tuy thất thế rồi qua đời, Chiêu Tông bị bắt giải về Kinh sư. Sau đó Mạc Đăng Dung tiếp tục đánh dẹp các lực lượng trung thành với Lê Chiêu Tông do các tướng Giang Văn Dụ, Hà Phi Chuẩn đứng đầu. Ông tiêu diệt các tướng chống đối. Các lực lượng chống đối đều bị dẹp, mọi quyền lực đều thuộc về Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lui về Cổ Trai nhưng vẫn chế ngự triều chính. Ngày 18 tháng 12 năm 1526, Mạc Đăng Dung sai Phạm Kim Bảng bí mật giết Chiêu Tông ở chỗ bị giam lỏng là phường Đông Hà. Lên ngôi vua, thành lập Nhà Mạc Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, gia thêm cửu tích. Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại kinh đô ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi. Sử gia Lê Quý Đôn chép: "lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô". Ngày 15 tháng 6 năm 1527 Đông các Đại học sĩ Nguyễn Văn Thái soạn tờ chiếu, nội dung như sau: "Nghĩ Thái Tổ ta, thừa thời cách mệnh, có được thiên hạ, các vua truyền nhau, nối giữ cơ đồ, là do mệnh trời lòng người cùng hợp, cùng ứng nên mới được thế. Cuối đời Hồng Thuận, gặp nhiều tai hoạ, Trần Cảo đầu têu gây mầm loạn ly, Trịnh Tuy giả trá lập kế phản nghịch. Lòng người đã lìa, mệnh trời không giúp. Khi ấy thiên hạ đã không phải là của nhà ta. Ta không có đức, lạm giữ ngôi trời, việc gánh vác không kham nổi. Mệnh trời lòng người đều theo về người có đức. Xét Thái sư An Hưng vương Mạc Đăng Dung nhà ngươi, bẩm tính thông minh, sáng suốt, có tài lược văn võ. Bên ngoài đánh dẹp bốn phương, các nơi đều phục tùng; bên trong coi sóc trăm quan, mọi việc đều tốt đẹp. Công to đức lớn, trời cho người theo. Nay ta cân nhắc lẽ phải, nên nhường ngôi cho. Hãy gắng sửa đức lớn, giữ mãi mệnh trời để ức triệu dân lành được yên vui. Mong kính theo đó." Lúc bấy giờ rất nhiều quan lại tử tiết để phản đối nhà Mạc giết vua cướp ngôi, từ đó thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh "phù Lê diệt Mạc". Bấy giờ triều thần có Lại bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ Vũ Duệ, Lại bộ Thượng thư Ngô Hoán, Thị thư viện Hàn lâm Nguyễn Mẫn Đốc, quan Đô ngự sử là Nguyễn Văn Vận, quan Hàn lâm hiệu lý là Nguyễn Thái Bạt, quan Lễ bộ Thượng thư là Lê Tuấn Mậu, quan Lại bộ Thượng thư là Đàm Thận Huy, quan Tham chính sứ là Nguyễn Duy Tường, quan Quan sát sứ là Nguyễn Tự Cường, tước Bình Hồ bá là Nghiêm Bá Ký, quan Đô ngự sử là Lại Kim Bảng, Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Thiệu Tri, quan Phó Đô ngự sử là Nguyễn Hữu Nghiêm, quan Lễ bộ tả Thị lang là Lê Vô Cương đều là người khoa giáp; có người thì khởi binh phù Lê thất bại và bị giết, có người thì theo vua Lê không kịp, nhảy xuống sông mà chết, người thì quay đầu về Lam Sơn bái lạy rồi tự tử. Sau này, khi dẹp xong nhà Mạc, nhà Lê được trung hưng lại, vua Lê Huyền Tông và triều đình bàn luận công lao, truy phong tước phúc thần cho 13 vị trung thần tiết nghĩa vì nước hy sinh này, trong đó xếp ông Vũ Duệ đứng đầu trong số 13 người. Mạc Đăng Dung lên ngôi, tức là vua Mạc Thái Tổ, chính thức lập ra Nhà Mạc. Nhà Lê truyền được 100 năm đến đây kết thúc, nhưng công đức vua Lê Thái Tổ và vua Lê Thánh Tông làm cho nhiều người vẫn không quên nhà Lê, cho nên dù Mạc Đăng Dung có cướp được ngôi cũng không được lâu bền. Chẳng bao lâu, khắp nơi nổi lên những đội quân "phù Lê diệt Mạc" muốn diệt trừ Mạc Đăng Dung để khôi phục nhà Lê. Thành lập nhà Mạc Chính trị - Kinh tế Ngày 15 tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung xưng Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là năm Minh Đức thứ nhất; phế truất vua Cung Hoàng làm Cung vương, giam cùng Thái hậu. Vài tháng sau Mạc Đăng Dung ép cả hai phải tự tử, khi chết rồi Đăng Dung sai người mang xác phơi ở quán Bắc Sứ, sau đem chôn ở lăng. Vào tháng 6, Đăng Dung vào kinh thành, ngự nơi chính điện, tế trời ở đàn Nam giao, dựng tôn miếu, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, lập cung điện ở Cổ Trai; truy tôn miếu hiệu, xây dựng mộ phần cho tổ tiên họ Mạc. Lập con trai là Mạc Đăng Doanh làm Thái tử, phong em trai là Quyết làm Tín vương, truy phong em trai là Đốc làm Từ vương, 3 em gái đều phong công chúa, lấy ngày sinh nhật của mình làm ngày Càn Ninh khánh tiết. Đăng Dung dựng thêm một ngôi điện để ở, gọi là điện Phúc Huy, tại phía tây điện Hưng Quốc ở Dương Kinh, phong cho một người tôn thất họ Mạc làm Tĩnh quốc công, trung quan Nguyễn Thế Ân làm Ly quốc công để giúp rập. Năm 1528, Mạc Đăng Dung muốn đổi tiền làm chính lệnh mới, bèn sai đúc tiền Thông Bảo theo cách đúc tiền cũ, nhưng phần nhiều không thành. Sau lại đúc các loại tiền gián pha kẽm và sắt ban hành các xứ trong nước để thông dụng. Lấy Nguyễn Quốc Hiến làm Phò mã Đô úy Thái bảo Lâm quốc công, ban cho họ Mạc; Mạc Quốc Trinh làm Thái sư Lâm quốc công, Mạc Đình Khoa làm Tả đô đốc Khiêm quận công, Thiếu bảo Thông quận công Nguyễn Thì Ung, Lai quận công Trần Phỉ, Thuần Khê hầu Khuất Quỳnh Cửu... gồm 56 người đều được thăng trật, ban tước có thứ bậc khác nhau. Tháng 10, 1528, Đăng Dung cho là sau khi bình yên, chế độ dần dần lỏng lẻo, ý muốn đổi thay chấn chỉnh lại, liền sai bề tôi là Nguyễn Quốc Hiến bàn định binh chế, điền chế, lộc chế và đặt bốn vệ Hưng quốc, Chiêu vũ, Cảm y, Kim ngô, năm phủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu ty, tên quan và số lại viên, số người, số lính của các nha môn, phỏng theo quan chế triều trước. Lấy quân trấn giữ xứ Hải Dương cho lệ thuộc vào vệ Hưng quốc, quân trấn giữ xứ Sơn Nam lệ thuộc vào vệ Chiêu vũ, quân trấn xứ Sơn Tây lệ thuộc vào vệ Cẩm y, quân trấn xứ Kinh Bắc lệ thuộc vào vệ Kim ngô. Phân bổ các ty, mỗi ty đặt 1 viên Chỉ huy sứ, 1 viên Chỉ huy đồng tri, 1 viên Chỉ huy thiêm sự, 10 viên Trung hiệu, 1100 Trung sĩ, chia thành 22 phiên để túc trực. Nếu có công lao thì bổ lên chức Thiên hộ, Thống chế, Quản lĩnh, Trung úy. Mỗi vệ đặt 1 viên Thư ký, dùng hạng Ký lục xuất thân khi trước, như là bổ các chức thủ lĩnh mục dân. Còn các Trung sĩ thì theo lệ chia phiên, mỗi phiên thành 5 giáp, mỗi giáp đặt một viên Giáp thủ, quan bản ty chọn lấy hạng trung hiệu người nào đích đáng thì làm bản đưa lên để thăng bổ. Đăng Dung lại mở khoa thi cử nhân, lấy Đỗ Tông và 27 người trúng tuyển. Mùa đông năm 1529, Mạc Đăng Dung đã làm vua được 3 năm, tự thấy mình tuổi già, bèn truyền ngôi cho con trưởng Đăng Doanh, tự xưng là Thái thượng hoàng, ra ở điện Trường Quang, coi nghề đánh cá là thú ngao du tự lạc. Theo sử gia Lê Quý Đôn, Đăng Dung về Cổ Trai ở là để trấn giữ nơi căn bản, làm ngoại viện cho con nhưng vẫn quyết định những việc trọng đại. Đăng Doanh lên làm Hoàng đế, dựng cung điện nguy nga cho cha ở, mỗi tháng vào ngày 8, 22 dẫn bá quan tới triều yết. Đến năm 1532, lại mở khoa thi, lấy đỗ Nguyễn Thiến, Bùi Vinh, Ngô Sơn Khoái... tổng cộng 27 người tất cả. Năm 1535 mở khoa thi, lấy đỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng cộng 32 người. Năm 1538 mở khoa thi, lấy đỗ Giáp Hải tổng cộng 36 người. Ra lệnh cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi. Ai vi phạm thì cho phép ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên. Nhà Hậu Lê khôi phục chống Mạc Lúc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, thần dân thất vọng, cả nước hoang mang, Đăng Dung sợ lòng người nhớ vua cũ, để lại sinh biến, nên phải tuân giữ pháp độ của Nhà Lê, không dám thay đổi, phủ dụ thần dân, trấn áp lòng người, che bịt mắt tai họ. Lại lập mưu tìm con cháu các nhà thế gia công thần, nhưng những người ấy vẫn nhớ về nhà Lê, phần nhiều chạy vào rừng núi, phần ẩn náu không chịu ra, kẻ tụ tập làm cướp, kẻ ra nước ngoài làm quan. Năm 1530, cháu ngoại họ Lê tên Lê Ý khởi binh ở Thanh Hóa chống lại họ Mạc, quân số vài vạn người, Mạc Đăng Dung tự thân cầm vài vạn quân thủy bộ giao chiến với Lê Ý ở sông Mã, quân Đăng Dung thường thua luôn, đành dẫn quân về, để Mạc Quốc Trinh ở lại chống giữ. Sau đó Mạc Đăng Doanh từ kinh sư dẫn quân vào, giao chiến với Lê Ý, lại bị đánh bại, dẫn quân trở về. Sau những chiến thắng, Lê Ý chủ quan, quân ít lương hết, đội ngũ rời rạc, Mạc Quốc Trinh nghe tin báo liền dẫn quân tinh nhuệ tập kích, bắt sống Lê Ý về kinh sư sai ngựa xé xác. Lê Ý thất bại nhưng thổ tù các nơi vẫn không quy phục Nhà Mạc, Nguyễn Kim đóng ở Ai Lao, anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chiếm cứ xứ Thái Nguyên; Vũ Văn Uyên chiếm xứ Tuyên Quang, các tướng này đều danh nghĩa phục quốc. Suốt một dải ven núi các xứ Thanh, Nghệ, Tuyên, Hưng đều không theo họ Mạc. Năm 1531, viên Bích Khê hầu Lê Công Uyên, người huyện Lôi Dương, cháu của công thần thời vua Lê Thái Tổ là Lê Văn Linh, khởi binh đánh vào cửa Chu Tước, bị thua phải chạy vào Thanh Hóa. Đăng Dung phát binh diệt trừ, Lê Công Uyên bị giết, xứ Thanh Hóa, Nghệ An binh hỏa liên miên, nhân dân lưu tán, vườn ruộng bỏ hoang. Ở Ai Lao, con nhà dòng dõi công thần Nguyễn Đức Trung từ thời vua Lê Thái Tổ là An Thành hầu Nguyễn Kim, con của Nguyễn Hoằng Dụ và cháu của Nguyễn Văn Lang lập con của Lê Chiêu Tông tên Lê Ninh lên làm hoàng đế, khôi phục nhà Lê. Mùa hạ năm 1537, tướng nhà Mạc là Tây An hầu Lê Phi Thừa cai quản bảy huyện Thanh Hoa, thu vét chỗ đinh tam ti mà sang Ai Lao quy thuận nhà Lê. Năm 1539, Trang Tông dùng con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm làm Dực quốc công, cùng Trịnh Công Năng và Lại Thế Vinh cùng xuất quân đánh Mạc. Đăng Dung mang quân đến đánh, bị thua to. Đến năm 1540 Mạc Đăng Doanh chết, Đăng Dung trở về Thăng Long, dựng cháu nội là Phúc Hải lên nối ngôi. Mùa xuân năm 1542, vua Lê Trang Tông đích thân làm tướng ra đánh Thanh Hoa, dùng quận Thụy Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống. Nguyễn Kim dẫn quân đi trước, tấn công Thanh - Nghệ, nhiều người hưởng ứng theo, thanh thế rất lẫy lừng. Ngoại giao với Nhà Minh Việc cắt đất lần thứ nhất Sau khi lên ngôi được 1 năm, tức năm 1528, Mạc Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với Nhà Minh với nội dung là con cháu họ Lê không còn ai thừa tự nữa, dặn cho đại thần họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng. Vua Minh không tin, sai người dò la tin tức, ngầm lập con cháu họ Lê lên. Mạc Đăng Dung sai người trả lời bằng lời lẽ văn hoa, đem nhiều vàng bạc đút lót. Đến khi sứ giả Nhà Minh về, mật tâu với vua Minh là con cháu Nhà Lê đã hết, đã ủy thác cho họ Mạc, người trong nước đều theo phục cả. Vua Minh mắng sứ giả, Đăng Dung sợ vua Minh hỏi tội liền lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng, bạc cùng châu báu vật lạ. Vua Minh nhận, từ đó Bắc Nam thông hiếu đi lại. Về việc cắt đất lần thứ hai Năm 1529, bề tôi cũ của triều Lê là Trịnh Ngung, Trịnh Ngang sang Nhà Minh tố cáo với Nhà Minh việc họ Mạc. Mạc Đăng Dung đem nhiều vàng bạc đút lót để phá; việc không thành, hai anh em chết ở Trung Quốc. Năm 1533, An Thành hầu Nguyễn Kim lập vua Lê Trang Tông ở Ai Lao, sai Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Nhà Minh, Duy Liêu tâu rằng, Mạc Đăng Dung tiếm loạn, chiếm kinh thành ngăn trở đường đi nên từ lâu bỏ việc cống. Vua Minh hay tin, bèn sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Binh bộ Thượng thư Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung thì thưởng cho quan tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất nhân dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết. Năm 1536, Nguyễn Kim lại sai Trịnh Viên sang Nhà Minh tâu trình. Năm 1538, triều Mạc sai Nguyễn Văn Thái sang Nhà Minh dâng biểu xin hàng và xin được phân xử. Theo Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược: Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua Nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao thiệp với nước kia thì thường là người ta mượn tiếng "vị nghĩa" mà làm những việc "vị lợi" mà thôi. Năm 1540, Mạc Đăng Doanh chết, Mạc Đăng Dung lập cháu Phúc Hải lên nối ngôi. Mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai Văn Minh và Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh. Tướng Nhà Minh bèn xin với vua Minh ban cho lịch, cho ấn chương và bảo ông giữ cẩn thận để quyết định sau. Năm 1541, Nhà Minh phong làm An Nam đô thống ty sứ, cho ấn bạc, vẫn cho thế tập. Còn 13 lộ cứ để tên cũ, đều lập phủ ty, đặt các chức như Tuyên phủ, Đồng tri, Phó sứ và Thiêm sự, cho chức Đô thống sứ được cai quản, điều khiển và phải triều cống. Qua đời Sau khi lên biên giới để cắt đất trở về, ngày 22 tháng 8 năm 1541, vua Mạc Thái Tổ băng hà. Trước khi băng hà ông có để lại di chúc dựng đàn chay cúng Phật và khuyên Mạc Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng. Gia quyến Cha: Mạc Hịch Mẹ: Đặng Thị Hiếu Con cái Hoàng thái tử Mạc Đăng Doanh Hoàng tử Mạc Chính Trung Hoàng tử Mạc Phục Sơn Hoàng tử Mạc Nhân Phú Hoàng tử Mạc Quang Khải Hoàng tử Mạc Nhân Quảng Hoàng tử Mạc Đại Độ Công chúa Mạc Ngọc Thọ Công chúa Mạc Ngọc Châu Công chúa Mạc Ngọc Quang Công chúa Mạc Ngọc Tư Nhận định Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, những sử quan biên soạn sách đã không chép triều Mạc thành một kỷ như nhiều triều đại khác mà chỉ gọi là phần phụ. Theo sử quan Đăng Bính nhận định: "Lúc bấy giờ, kẻ quyền gian thế lớn, bọn thần hạ khác lòng, thiên tử bị cô lập ở trên, cả triều không một ai có thể ủy thác được, muốn không sụp đổ, có thể được không? Rốt cuộc xảy ra mối hoạ cho Quang Thiệu, Thống Nguyên, bức hiếp lòng người, dối vua đến gò hoang, cướp lấy thiên hạ của triều Lê, tiếm xưng vị hiệu, vào ở nhà vàng, đủ vành giảo quyệt. Lấy một xó đất Hải Dương gọi là Dương Kinh, tự tiện phế bỏ lăng tẩm của Lê triều, chém giết con cháu các công thần đời trước. Xét những việc làm của nó, không khác gì Tào Tháo. Đáng đau xót biết chừng nào!" Đến thế kỷ XVIII, các sử quan Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, khi soạn sách Đại Việt thông sử, Lịch triều hiến chương loại chí, Kiến văn tiểu lục, với những phần như Quan chức chí, Khoa cử,... đều không coi triều Mạc là một triều đại chính thức. Họ đều không chép gì quan chế, khoa cử,... triều Mạc trong sách, coi như triều Mạc không tồn tại. Lê Quý Đôn trong phần Nhân vật chí, viết phần về các nhân vật Nhà Mạc là "Nghịch thần truyện", gọi Nhà Mạc là Nguỵ Mạc; Phan Huy Chú trong phần Nhân vật chí gọi là phần Sự tích nhà Nhuận Mạc (Nhuận tức là thừa). Chữ Nhuận mà các sử quan dùng để ghi Nhuận Mạc, tức là Nhuần, là cái phụ thuộc, như tháng nhuần, ngày nhuần. Từ này lấy trong sách Lễ ký, Dĩ tứ thời thành tuế dĩ vi nhuận nguyệt, nghĩa là lấy những ngày thừa trong một thời gian để làm ra tháng nhuần. Như thế có thể hiểu nhuần là chắp vá không chính thức. Địa điểm nơi mà Mạc Đăng Dung lên biên giới cắt đất cho quan Nhà Minh sau được gọi là Thành Thụ hàng, đến năm 1790 nhà ngoại giao Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm đi sứ sang Trung Quốc qua đây đã làm bài thơ Thành thụ hàng: Lối qua Mạc Phủ tới Bằng Tường,Thành Thụ hàng xưa, dấu cố cương.Núi tựa Lạng Sơn, dòng suối ít,Mốc nêu hạ Thạch, dặm đường trường.Tuyết bay tàn pháo, đồn canh khắp,Sấm chuyển guồng xe, bến nước vang.Đô thống xin hàng, trò khốn nạn,Nghìn năm bán nước tiếng Nghi Dương. Đến thế kỷ XX, những nhân vật người Nghệ An, Hà Tĩnh như Trần Trọng Kim hoặc Phan Bội Châu đã phê phán nặng lời việc Mạc Đăng Dung cắt đất, quỳ lạy quan Nhà Minh. Theo Trần Trọng Kim viết trong Việt Nam sử lược: "Mạc Đăng Dung đã làm tôi Nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ-cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh-giá cho trọn-vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú-quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm-sỉ. Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang-sơn Nhà Lê, dẫu có mượn được thế Nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một cái cơ-nghiệp dựng lên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền-chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được". Phan Bội Châu trong sách Việt Nam vong quốc sử đã cho rằng Mạc Đăng Dung với tội trạng cắt đất, nhận Đại Việt làm quận huyện Trung Quốc thì đáng phải chém. Theo học giả Đào Duy Anh chép trong sách địa lý Đất nước Việt Nam qua các đời: Châu Vĩnh An - chép rằng Lý Thái Tổ đổi trấn Triều Dương làm châu Vĩnh An; châu Vĩnh An đời Lê Thánh Tông có trấn Ngọc Sơn. Chúng ta biết rằng sử chép Mạc Đăng Dung nộp sáu động thuộc châu Vĩnh An, trấn Yên Bang cho Nhà Minh. Có lẽ châu Vĩnh An đời Hồng Đức còn gồm cả miền đông huyện Móng Cái và một dải đất ở phía bắc tương đương với 6 động Mạc Đăng Dung cắt cho Nhà Minh và đến thời Lê Trung hưng thì châu Vĩnh An có lẽ vì việc cắt đất của Nhà Mạc đã bị thu hẹp lại chỉ còn dải đất phía đông huyện Móng Cái, từ địa giới Đông Hưng của Trung Quốc đến Mũi Ngọc và các đảo ở phía tây nam. Theo K.W. Taylor, một sử gia người Mĩ, đã có cuộc xung đột giữa hai trung tâm quyền lực là vùng Đông Kinh tức Hà Nội ngày nay và vùng Thanh Hóa - Nghệ An. Thời Nhà Hồ, việc Hồ Quý Ly, người Thanh Hóa cướp ngôi Nhà Trần đã dẫn tới người Kinh lộ đã ủng hộ Nhà Minh, như gia đình Mạc Thúy - ông tổ của Mạc Đăng Dung đã theo hàng Nhà Minh. Sau hơn 100 năm, Đông Kinh lại hỗn loạn. Nhân vật tái lập trật tự ở Đông Kinh, Mạc Đăng Dung, là thành viên trong cùng gia đình họ Mạc mà từng ủng hộ Nhà Minh một thế kỷ trước. Ông tập hợp nhóm cận thần mở rộng cửa cho các gia đình Đông Kinh và thành công trong việc huy động sự ủng hộ địa phương. Một chi tiết quan trọng nhưng ít được nhắc tới là Đông Kinh đã trung thành sâu sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ XVI và Đông Kinh đã cứng rắn chống lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào cuối thế kỷ này.Ý kiến nhận định của các sử gia thời hiện đại Từ những năm thập kỷ 70, các sử gia hiện đại Việt Nam đã phê phán hành động của Mạc Đăng Dung rất kịch liệt, nhưng những năm sau đó, những người ở miền Bắc Việt Nam như Nguyễn Văn Siêu (Hà Nội), Lê Văn Hoè (Hà Đông), Phạm Văn Sơn (Hà Nội), Trần Quốc Vượng (Hà Tây), Trần Gia Phụng, Trần Khuê, Trần Lâm Biền, Vũ Khiêu, Văn Tạo, Đinh Khắc Thuân, Nguyễn Gia Kiểng, Phan Đăng Nhật, Trần Thị Vinh đã có tiếng nói đối lập với các tri thức ở Nghệ An khi cho rằng đất mà Mạc Đăng Dung cắt là đất khống hoặc đất ấy vốn của vua Lê Thái Tổ chiếm nay trả lại, và hành động của Mạc Đăng Dung là để mang lại hòa bình cho đất nước. Những ý kiến ấy được lược trích dưới đây: Các bộ chính sử thời phong kiến của Việt Nam do các triều đại đối địch với Nhà Mạc biên soạn như Toàn thư (do nhà Lê-Trịnh sai biên soạn bổ sung ở thế kỷ XVII), Cương mục (do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn ở thế kỷ XIX) đều viết về hai sự kiện Mạc Đăng Dung cắt đất cho Nhà Minh. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Năm 1528, cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận". Trong Cương mục cũng đặt vấn đề nghi ngờ về sự việc năm 1528 mà Toàn thư đã chép. Các sử gia ngày nay xác định rõ rằng hai châu Quy Hóa và Thuận An đã mất sang tay Nhà Tống từ thời Nhà Lý, do hai thủ lĩnh Nùng Trí Hội và Nùng Trí Cao nộp cho Tống. Trong sách Phương Đình Dư Địa chí, học giả Nguyễn Văn Siêu đầu thời Nguyễn ở thế kỷ XIX, sau khi khảo cứu các sách địa lý Trung Quốc và Việt Nam, đã kết luận: "Mấy động Như Tích thuộc châu Vĩnh An mới có từ niên hiệu Thuận Thiên. Nhà Mạc trả lại cho Nhà Minh đất cũ đã lấn, không phải là cắt đất để đút lót vậy". Các sử gia ngày nay có quan điểm thống nhất với Nguyễn Văn Siêu. Về "nghi án" dâng đất cho ngoại bang của Mạc Đăng Dung, Trần Khuê ("Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Vương triều Mạc", 1991) cũng có những phân tích chi tiết:Tác giả Đại Việt sử ký toàn thư (do nhà Lê-Trịnh biên soạn bổ sung ở thế kỷ XVII) coi Nhà Mạc là "ngụy triều" nên không thèm chép riêng thành một kỷ và gọi một cách khinh bỉ là "Mạc thị". Lê Quý Đôn thì xếp tất cả các vua Mạc vào loại "nghịch thần". Sử quán triều Nguyễn thì càng khe khắt, khỏi bàn. Sử gia Trần Trọng Kim thì mạt sát hết lời... Tất nhiên khi chép về sự kiện vua quan Nhà Nguyễn lần lượt cắt đất ba tỉnh miền Đông, rồi ba tỉnh miền Tây Nam kỳ, rồi đầu hàng và dâng cả đất nước Đại Nam cho xâm lược Pháp, thì sử gia Trần Trọng Kim lại chuyển giọng khác.Sử gia coi đó không phải là chuyện "phản quốc" và "vô liêm sỉ"… mà là chuyện có thể thông cảm được. Vua Tự Đức vẫn là một đấng anh quân đáng kính phục vì dẫu sao ngài vẫn là một ông vua hay chữ và lại rất có hiếu với mẹ ngài.Khen, chê là thẩm quyền của các sử gia. Điều tôi muốn bàn ở đây là vấn đề sự thật lịch sử. Không cần thiết phải bênh vực cho vua Mạc hay bất cứ thứ vua chúa nào. Nhưng khi thấy sự thật lịch sử bị bóp méo hoặc xuyên tạc thì cần đính chính.Về chuyện cắt đất cho Nhà Minh, tác giả Đại Việt sử ký toàn thư có ghi hai lần....Như thế là tác giả Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép rằng Mạc Đăng Dung nộp cho Nhà Minh 6 động của châu Vĩnh An. Còn Trần Trọng Kim thì chép là Mạc Đăng Dung "xin dâng đất 5 động: là động Tê Phù, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát, động La Phù và đất Khâm Châu".Thế là không rõ căn cứ vào tư liệu, văn bản nào mà sử gia Trần Trọng Kim bớt đi một động (An Lương) chép sai tên một động (Cổ Sâm thành Cổ Xung) và đặc biệt là thêm ra một châu (châu Khâm). Chưa cần phải kiểm tra, khảo cứu gì cũng lập lức thấy ngay sử gia Trần Trọng Kim đã bịa thêm ra cái gọi là "Khâm Châu". Khâm Châu là đất thuộc Trung Quốc từ trước đời Nhà Tống và đến đời Minh, và đến tận ngày nay nó vẫn là đất của Trung Quốc; làm sao Mạc Đăng Dung lại có thể cắt đất dâng nộp phần đất không phải của nước mình?Về hai châu Quy Thuận cũng thế, học giả Đào Duy Anh đã chứng minh rằng tác giả Đại Việt sử ký toàn thư nhầm. Đó là hai châu của Trung Quốc.Đào Duy Anh đã khảo chứng và chú giải như sau: "Minh sử quyển 321 chỉ chép: (Cướp ngôi rồi) qua một năm thì (Mạc Đăng Dung) sai sứ sang cống, đến thành Lạng Sơn bị đánh mà trở về chứ không chép việc Đăng Dung dâng đất hai châu Quy Thuận để tạ tội. Vả chăng hai châu Quy Thuận thì Nhà Tống đã chiếm từ thời Lý nước ta rồi.Hai châu Quy Thuận là châu Quy Hóa và châu Thuận An. Trung Quốc địa danh đại từ điển nói rằng châu Quy Hóa đời Tống trị sở ở tại huyện Nghi Sơn tỉnh Quảng Tây. Nhà Tống đặt châu ấy với đất Vật Dương do Nùng Trí Hội nộp. Châu Thuận An thì Nhà Tống đặt ở đất Vật Ác do Nùng Tôn Đản nộp, và các đất Lôi Hỏa, Kế Thành, Ôn Nhuận. Hai châu ấy về sau trở thành châu Quy Thuận tỉnh Quảng Tây"....Còn sử gia Trần Trọng Kim thì vừa xuyên tạc, vừa buông lời mạt sát Nhà Mạc một cách thiếu thận trọng.Nếu Mạc Đăng Dung có mắc tội thì không phải là cái tội "cắt đất mà dâng cho người" mà "tội" của Mạc Đăng Dung là đã xâm lấn đất của người rồi không giữ nổi lại phải đem nộp trả lại đất đã lấn. Điều đáng buồn là những điều chép sai ngoa trong sử sách như vậy cứ được truyền thấm vào tim óc hết thế hệ này đến thế hệ khác và đáng sợ hơn nữa nó lại thấm cả vào ngòi bút của mấy nhà biên soạn sử của ta dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban KHXH Việt Nam.Nhà nghiên cứu Huệ Thiên trong bài viết "Mạc Đăng Dung có dâng đất cho Nhà Minh hay không?" :Xưa nay sử chép rằng Thái Tổ Nhà Mạc là Mạc Đăng Dung đã cắt đất Đại Việt dâng cho Nhà Minh để bảo vệ ngôi báu, lưu lại tiếng xấu muôn đời. Sự thật có phải hoàn toàn đúng như thế không và nếu không thì điều ngoa truyền này bắt đầu từ đâu và với ai?...Đến năm Chính Hòa thứ 18 (1697) đời Lê Hi Tông, Trịnh Căn (1633-1709) lại sai Lê Hi (1646-1702) tổ chức hiệu đính công trình của nhóm Phạm Công Trứ và chép thêm phần bản kỷ tục biên từ đời Lê Huyền Tông (1662-1671) đến hết đời Lê Gia Tông (1671-1675) để đưa khắc ván in mà "ban bố cho thiên hạ". Phần chép thêm của Đại Việt sử ký toàn thư gồm 24 quyển. Đây chính là bộ Đại Việt toàn thư mà chúng ta đang sử dụng hiện nay....Bằng quan điểm chính thống đến mức cực đoan, Phạm Công Trứ không những đã kiệt liệt lên án hành động "tiếm ngôi" của Mạc Đăng Dung mà còn không ngần ngại dùng cả thủ đoạn xuyên tạc sự thật để bôi nhọ nhân vật đã sáng lập ra Nhà Mạc nữa. Chứng cứ về sự xuyên tạc đó là đã hai lần ĐVSKTT chép việc Mạc Đăng Dung dâng đất cho Nhà Minh.Lần đầu tiên bộ sử này ghi: "Năm Mậu Tí (1528) Mạc tiếm hiệu Minh Đức thứ 2 (…) Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với Nhà Minh rằng là họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng. Nhà Minh không tin (…) Đăng Dung sợ Nhà Minh đem quân sang hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai hình người bằng vàng bạc cũng là châu báu của lạ, vật lạ, Nhà Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại" (ĐVSKTT, Tập IV –trang 121 - 122).Việc ghi chép này hoàn toàn sai sự thật. Quy, Thuận chính là Châu Quy Hóa và Châu Thuận An. Hai châu này thuộc về Trung Hoa vào thời Nhà Tống từ những năm 60 của thế kỷ XI....Lần thứ hai mà ĐVSKTT ghi chép về việc "dâng đất" của Mạc Đăng Dung là như sau: "Canh Tí (1540) Mạc Đại Chính năm thứ 11 (…) mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung (…) dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Lim Lạc, Cổ Sâm, Liêu Cát, An Lương, La Phù của Châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc, lệ vào Khâm Châu…"(ĐVSKTT, tập IV, trang 131-132). Đây là tư liệu chính mà các sách lịch sử về sau của ta luôn nhắc đến để kết tội Mạc Đăng Dung. Trước hết cần nói rõ là số lượng và tên gọi các động ghi trong các sách có chỗ đại đồng tiểu dị. Chẳng hạn Lê Thành Khôi thì căn cứ vào ĐVSKTT mà chép là 6 động, nhưng lại ghi Cổ Sâm thành Cổ Xung (Le Viet Nam Histore etcin lisation, Leseditions deminuít, Paris, 1955, P.263); Trần Trọng Kim chỉ chép 5 động - không có An Lương (Việt Nam), Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Phan Quang và Nguyễn Cảnh Minh thì ghi 5 động là: Tư Lẫm, Kim Lạc, Cổ Sâm, Liêu Cát và La Phù (sđd-92, tập 1, Hà Nội, 1971, trang 75). Thực ra, sự việc chỉ liên quan đến 4 động là Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù và có chăng thì chỉ việc Mạc Đăng Dung trả đất chứ không hề có việc Mạc Đăng Dung dâng đất của Đại Việt cho Nhà Minh. Sự thực bốn động nêu trên đều thuộc trấn Như Tích vốn là đất Trung Hoai ít nhất từ đời Tống. Trấn này nằm cách Khâm Châu (Quảng Đông) 160 dặm về phía tây và cách Châu Vĩnh An của Đại Việt 20 dặm. Đây là một vùng núi cao, địa thế hiểm trở. Đầu đời Tống các động này dã đặt các chức động trưởng để trông coi và sang đời Minh, niên hiệu Hồng Vũ năm đầu (1368), vua Minh lại đặt chức Tuần ti ở Như Tích để thống lĩnh các động này một cách chặt chẽ hơn. Như đã trình bày về hai châu Quy, Thuận, các động trưởng dọc biên giới Việt - Trung thường tùy theo tình hình thực tế mà thay đổi thái độ thần phục đối với Trung Hoa hoặc Đại Việt....Vậy là ngay một số ghi chép trong ĐVSKTT như đã trích dẫn trên cũng đủ cho thấy hoàn toàn không có chuyện Mạc Đăng Dung cắt đất của Đại Việt để dâng cho Nhà Minh. Có chăng chỉ là các sử thần Lê-Trịnh vì mục đích chính trị đã xuyên tạc sự thật lịch sử để hạ nhục Nhà Mạc mà thôi.Trong bài "Sách lược ngoại giao của Nhà Mạc" (Tạp chí Cửa biển, số 75/2004), tác giả Ngô Đăng Lợi đã trích dẫn sách "Khâm Châu chí" của Trung Quốc cho rằng: "Bảy động Chiêm Lăng, Thi La, Tư Lặc, Liêu Cát, Cổ Lâm, Tư Sẫm, La Phù (tức là những xứ đất dọc biên giới Việt – Trung mà Nhà Minh đòi Nhà Mạc phải trả lại) nguyên là đất quận Thi La, Chiêm Lãng, Như Tích đời Tuyên Đức Nhà Minh, bọn Hoàng Kim Quảng, trưởng động Tư Lẫm làm phản chiếm cứ Tư Lẫm, La Phù, Cổ Sâm, Liêu Cát, nhân đó uy hiếp cả động Tư Lặc cùng tuần ty kênh Phật Đào gồm 9 thôn, đăng dài hơn 200 dặm phụ về nước An Nam…" Về vấn đề quy thuận Cũng theo Toàn thư:[năm] 1540... tháng 11, Mạc Đăng Dung... qua trấn Nam Quan... phủ phục trước Mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước... dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu... Lại sai bọn... mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh (Sử ký) nhưng về việc này có mâu thuẫn với sách Khâm Châu chí của Nhà Thanh và Quảng Yên sách. Về sự việc cắt đất này, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Việc cắt đất bị nhiều sử gia về sau lên án gay gắt, nhưng cũng có ý kiến cho rằng ông làm thế là khôn khéo nhất, vì cùng một lúc không thể chia sẻ lực lượng ra để chống lại hai thế lực: Nhà Minh ở phía bắc, liên minh Lê - Nguyễn ở phía nam.Nhiều tác giả, sách đã dẫn, tr. 93. Trên thực tế, điều này (dù có hay không) đã ngăn không cho Nhà Minh đem quân vào Đại Việt và kể từ sau khi ông mất thì cháu ông, Mạc Phúc Hải vẫn là người có toàn quyền tối cao điều hành đất nước từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra. Về sự kiện này, GS Trần Quốc Vượng cho rằng:Hành động "đầu hàng" của Nhà Mạc do Minh sử chép là một sự phóng đại để khoe khoang, hành động ấy vua Lê sau này cũng lặp lại gần nguyên xi thì lại không bị sử gia Nhà Lê nêu lên để phê phán. Đó (việc làm của vua Mạc) chẳng qua là một hành động "tượng trưng" (quàng dây lụa vào cổ, không phải là tự trói), một sự "nhún mình" (cũng có thể nói là hơi quá đáng) của một nước nhỏ đối với nước lớn trong điều kiện tương quan chính trị ngày xưa (và nên nhớ lúc ấy Mạc Đăng Dung đã thôi ngôi vua được 10 năm rồi và là một ông già sắp chết (từ Nam quan trở về được mấy tháng thì ông qua đời), ông già này gánh nhục cho con, cho cháu và cho cả nước mà cứ bị mang tiếng mãi!). Tất cả ứng xử của Mạc với Minh cũng chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao hằng xuyên của Việt nhỏ Hoa lớn "thần phục giả vờ, độc lập thực sự" (Vassalité fidive, Indépendance réelle). Mà thực sự ở thời Mạc không có bóng một tên xâm lược nào trên đất nước ta, quan bảo hộ, dù hình thức như chức "Đạt lỗ hoa xích" ở Thăng Long triều Trần cũng không. Thế tại sao người này thì khen là khôn khéo, người khác lại chê là hèn hạ?Tác giả Trần Gia Phụng trong bài viết: "Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử" có đoạn bình luận xác đáng về sự kiện đầu hàng Nhà Minh của Mạc Thái Tổ:"Năm 1533,... Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn 10 người đi đường biển từ Chiêm Thành theo thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu Nhà Minh xuất quân đánh Nhà Mạc. Năm 1536 một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên yêu cầu Nhà Minh đánh họ Mạc.Hành động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa đến kết quả cụ thể là Nhà Minh cử Cừu Loan làm Tổng đốc, Mao Bá Ôn làm Tán lý quân vụ đem 20 vạn binh mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại, trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã lên làm Thái thượng hoàng, như cố giáo sư Trần Quốc Vượng đánh giá Mạc Đăng Dung đành chấp nhận "đầu hàng giả vờ để giành độc lập thực sự" cho đất nước và chấp nhận hy sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục của Mạc Thái Tổ,... Đại Việt trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng trong thực tế vẫn độc lập một phương được Nhà Minh công nhận phong ấn tín,5 đời vua Mạc trị vì 65 năm (1527-1592) ở Thăng Long, vẫn cai trị đất đai từ Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng Nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng này, Mạc Đăng Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng Hàn Tín khi nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia sẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lúc đó đã là ông già 60 tuổi rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541."Đi xa hơn nữa, tác giả còn so sánh hành động này của Mạc Đăng Dung với vua Lê sau ngày trung hưng về Thăng Long: ...(Theo Việt sử Thông giám cương mục) "sau khi trở về Thăng Long, năm 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn của Nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện Nhà Minh khám xét, nhưng quan Nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá không được gặp quan Nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên một lần nữa mới được hội kiến. Sự kiện nầy chẳng khá gì hơn việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540..."Vai trò, ảnh hưởng và di sản trong tiến trình lịch sử Mạc Đăng Dung là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Việt Nam. Đứng trên quan điểm bảo thủ của Nho giáo, người ta có lý do để phê phán Mạc Đăng Dung bởi vì ông là đại thần của nhà Lê nhưng lại soán ngôi của họ Lê, dòng họ đã để lại những dấn ấn sau đậm với lịch sử Việt Nam từ thời Lê Thái Tổ (Lê Lợi) cho tới Lê Thánh Tông. Tuy nhiên nhìn nhận một cách công bằng nếu chính trường Đại Việt đầu thế kỷ 16 không xuất hiện họ Mạc thì họ Nguyễn và họ Trịnh đã thâu tóm quyền lực sớm hơn chứ không phải đợi tới cuối thế kỷ đó. Từ sau thời Lê Túc Tông,nhà Lê đã suy yếu . Từ những thế kỷ 17 cho tới cuối thế kỷ 18, họ Trịnh và họ Nguyễn mới là những người cai trị có thực quyền trên dải dất Việt Nam trong khi quyền lực họ Lê ngày một bị lấn át. Những nhân vật kiểu như Mạc Đăng Dung (hay Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly) thường xuất hiện trong lịch sử Trung Hoa hơn là Việt Nam. Sử sách triều Lê-Trịnh và triều Nguyễn vốn là đối nghịch với Nhà Mạc nên sau này luôn lên án Mạc Đăng Dung là "thoán nghịch" hay "nghịch thần" đồng thời coi Nhà Mạc là "ngụy triều" nhưng cũng phải ghi lại một thực tế hoàn cảnh lịch sử khi vua Lê đã suy thoái với những "vua quỷ, vua lợn", các thế lực tranh giành, chiến tranh liên miên... Nên khi Mạc Đăng Dung lên ngôi là "bấy giờ thần dân trong nước phần nhiều đều theo Mạc Đăng Dung, đến đón vào kinh sư" (Đại Việt sử ký toàn thư, tr. 118) hay "lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô" (Đại Việt thông sử, tr. 264). Nhưng dù có khen chê hay định đoạt công tội của Mạc Đăng Dung thì người ta cũng phải thừa nhận ông là một người có tài thao lược, trí dũng hơn người (chỉ trong khoảng 10 năm đã dẹp yên hầu hết các cuộc nổi loạn của nhiều phe phái, thế lực cát cứ khắp nước), là một tay anh hùng lập thân trong thời đại loạn như Đinh Tiên Hoàng thuở trước (xuất thân hàn vi từ tay không mà dựng nên đế nghiệp), một chính khách khôn ngoan, hành xử linh hoạt, kiên nhẫn chờ thời, biết mình biết người, là người có sức thu phục nhân tâm lớn (thu phục đại bộ phận lòng dân trong nước, chiêu nạp dưới trướng nhiều tướng lĩnh có tài và trung thành như Nguyễn Kính, Vũ Hộ, Phạm Tử Nghi...). Lời di chúc nổi tiếng của thân vương Mạc Ngọc Liễn có thể xem là bằng chứng lịch sử đáng tin nhất cho chiến lược tồn vong của Nhà Mạc: quyền lợi dòng họ - gia tộc là quan trọng nhưng vẫn phải đặt sau địa vị tối cao của quyền lợi quốc gia - dân tộc.<ref>Trước khi mất, Phò mã Đô úy Thái phó Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn đã đưa thư khuyên Mạc Kính Cung (vua Nhà Mạc thời hậu kỳ) rằng: Nay khí vận Nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng.GS Trần Gia Phụng ("Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử") có những lời bình luận: Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn, nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc. Điểm quan trọng nhất là con cháu Nhà Mạc đã không kêu nài van xin người Minh đem quan sang đánh nước ta giống như Nhà Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu Nhà Minh can thiệp cho họ về sinh sống đất Cao Bằng. Chính họ đã góp công phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn kết kinh-thượng và biến Cao Bằng thành một vùng biên giới vững chắc để chống lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy không rực rỡ như đường về phương nam của Chúa Nguyễn, nhưng sử sách cũng không thể quên tuyên dương họ Mạc.Trần Khuê ("Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và vương triều Mạc", 1991) cũng bình luận: Giá như mọi thứ Mạt Trần, Mạt Lê, Mạt Nguyễn… đều biết suy nghĩ như thế! Và chẳng lẽ một lời nói đẹp như vậy không đáng được nhắc lại để con cháu chúng ta ngẫm nghĩ hay sao? Và chẳng lẽ những lời nói đẹp tương tự đã vang lên dưới các triều vua Mạc lại không đáng được khen. Tổng kết lại một cách khách quan và công bằng, trong tất cả những nhân vật lịch sử ít nhiều nuôi tham vọng đế vương của chính trường Đại Việt ở thế kỷ XVI (bao gồm cả Lê Do, Lê Chiêu Tông, Trần Cảo, Trần Cung, Trần Tuân, Trần Chân, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng, Trịnh Duy Đại, Trịnh Duy Sản, Trịnh Tuy, Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng), Mạc Đăng Dung là gương mặt có sự hội tụ 2 yếu tố quan trọng một cách rõ rệt hơn cả: "tài", và "thời". Đánh giá Là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 16 (đặc biệt về mặt chính trị và quân sự), một thế kỷ nhiều biến động mang tầm ảnh hưởng chưa từng có trước đó trong lịch sử dân tộc, mà ông vừa là một nhân chứng vừa là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên chúng. Mạc Đăng Dung là một viên tướng tài nhiều công trạng, đồng thời là một chính khách khôn ngoan, hành xử linh hoạt ở vào một thời kỳ mà chính quyền và xã hội Đại Việt trên 20 năm cuối thời Lê sơ rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng cùng với 14 năm đầu tiên đầy thử thách của triều Mạc do ông sáng lập. Dù hành trạng cuộc đời và sự nghiệp có những điểm tương đồng với người đã sáng lập lên nhà Hậu Lý là Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) nhưng việc lập lên nhà Mạc của Mạc Đăng Dung vào năm 1527 đã phải đối mặt với những sự chống đối lớn hơn rất nhiều so với khi nhà Lý ra đời năm 1009. Các nhà sử học hiện đại phần lớn thống nhất quan điểm ở một nguyên do cho sự khác biệt trên là bởi Phật giáo giữ vị thế độc tôn trong xã hội Đại Việt từ đầu thế kỷ 11 nhưng đến thời nhà Hậu Lê thì đã bị mất hoàn toàn vị thế này vào tay Nho giáo (đặc biệt là Tống Nho). Những tư tưởng trung quân ái quốc của Tống Nho đã bám rễ sâu vào ý thức của một bộ phận lớn Nho sĩ, trí thức Đại Việt cho tới đầu thế kỷ 16 là một nguyên nhân chính chống lại sự ra đời của nhà Mạc. Từ một người xuất thân hàn vi, trở thành lính Túc vệ và cuối cùng thành một hoàng đế, đó là cả một quá trình không phải chỉ do may mắn. Để có được những bước tiến nhanh chóng ấy, ngoài tài thao lược phải có ít nhiều may mắn do thời cuộc đưa lại. Trong trường hợp này, có thể nói Mạc Đăng Dung là người "lập thân trong thời loạn". Điểm lại nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc đời chính trị của Mạc Đăng Dung đã cho thấy ông là một chính khách hành xử nhiều toan tính, linh hoạt trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Điều quan trọng là hầu hết những toan tính đó không chỉ vì lợi ích cá nhân (hay gia tộc) trước mắt mà hướng tới đại cục lâu dài. Nó cũng cho thấy ông có khả năng giành được quyền lực và sử dụng quyền lực với tính linh động cao, biết khi nào cần cương khi nào cần nhu, khi nào cần tiến khi nào cần lùi. Về mặt linh hoạt trong cách hành xử, ông đã cho thấy mình không hề so với người đồng hương xứ Đông là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một vài sự kiện có thể xem là minh chứng tiêu biểu cho nhận định trên: Sự kiện Mạc Đăng Dung chủ động kết nối thông gia với Trần Chân, một thế lực đang lên đương thời; Sự kiện Mạc Đăng Dung hai lần tha chết, không truy sát Nguyễn Hoằng Dụ (vốn có quan hệ họ hàng gần với cha của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim), mở đường sống cho Hoằng Dụ rút về Thanh Hóa; Sự kiện ông chủ động tạm lui về quê nhà Cổ Trai khi đang ở đỉnh cao quyền lực (giai đoạn 1525-1527), để quan sát tình hình và tránh những lời gièm pha chuyên quyền sau khi liên tục được vua Nhà Lê gia tăng chức tước bởi công lao dẹp loạn, giữ ổn định chính sự trong nhiều năm; Sự kiện ông chọn thời điểm thích hợp để phế ngôi Nhà Lê sơ (như những cuộc thanh trừng cuối thời Lý và Trần), sau khi đã dành nhiều năm nghe ngóng lòng dân và thu phục nhân tâm; Sự kiện ông cởi mở trưng dụng hiền tài và thu dụng đội ngũ Nho sĩ - trí thức cựu triều Lê sơ một cách rộng lượng, đồng thời không vội vàng thay đổi những thể chế đã được định hình dưới thời thịnh trị của Nhà Lê sơ, vì thế phần nào tránh được vết xe đổ của Hồ Quý Ly và Nhà Hồ hơn một thế kỷ trước; Sự kiện ông chỉ giữ ngôi vua có 3 năm, rồi theo kế sách thời Trần mà chủ động nhường ngôi cho con trưởng Mạc Đăng Doanh (Mạc Thái Tông), sau đó lui về Dương Kinh (Cổ Trai) quê nhà nhưng vẫn quán xuyến hầu hết những việc hệ trọng quốc gia cho tới tận khi mất với vai trò của một Thái thượng hoàng; Sự kiện ông buộc phải sử dụng "khổ nhục kế" (xin trá hàng và dâng đất khống) trước đạo quân xâm lược Nhà Minh do nhà Lê Trung hưng cầu viện, khi đang ở vào tình thế lưỡng đầu thọ địch, thù trong giặc ngoài (cộng thêm một bất lợi lớn là việc Mạc Thái Tông vừa qua đời đột ngột, con nối ngôi là Hiến tông Mạc Phúc Hải vẫn còn nhỏ tuổi). Là một triều đại đối địch hoàn toàn với quyền lợi của các dòng họ Lê-Trịnh-Nguyễn (vốn cùng phát tích từ xứ Thanh) của Nhà Lê Trung Hưng và cả Nhà Nguyễn về sau, bởi vậy sau khi Nhà Mạc thất thủ (1592), sự nghiệp cũng như vai trò lịch sử của Mạc Đăng Dung và triều Mạc (trong đó bao gồm cả những nhân vật tên tuổi là trung thần của Nhà Mạc như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Mạc Ngọc Liễn...) không tránh được cái nhìn tiêu cực của đại bộ phận những sử gia, học giả dưới thời cai trị của các dòng họ Lê-Trịnh rồi họ Nguyễn trong nhiều thế kỷ. Tác giả Đại Việt sử ký toàn thư (do nhà Lê-Trịnh sai biên soạn bổ sung ở thế kỷ XVII) coi Nhà Mạc là "ngụy triều" nên không thèm chép riêng thành một kỷ và gọi một cách khinh bỉ là "Mạc thị". Học giả kiêm sử gia danh tiếng thời Lê-Trịnh ở thế kỷ XVIII là Lê Quý Đôn thì xếp tất cả các vua Mạc vào loại "nghịch thần". Sử gia thời Nhà Nguyễn cũng có quan điểm gần như tương đồng với thời Lê-Trịnh khi viết về Mạc Đăng Dung và Nhà Mạc. Hầu hết ghi chép lịch sử còn lưu lại của những sử gia, học giả các triều đại đối địch kể trên về triều Mạc chủ yếu là mang tính hình thức, không mấy khi nhắc tới những thành tựu nổi bật của Nhà Mạc trong nhiều lĩnh vực quan trọng như an ninh - quốc phòng, chính trị, kinh tế, văn hóa - tư tưởng, văn học - nghệ thuật, tôn giáo - tín ngưỡng... Những cái nhìn theo hướng như vậy cũng được phần lớn giới nghiên cứu hiện đại ở Việt Nam duy trì cho tới giai đoạn cuối thập niên 1980. Đại bộ phận sử gia, học giả Việt Nam từ thời Lê trung hưng (1533), qua thời Nguyễn cho tới trước thời kỳ Đổi Mới, một mặt thường phủ nhận vai trò tích cực đối với lịch sử dân tộc của Mạc Đăng Dung và triều Mạc, một mặt luôn nhấn mạnh những hành vi được xem là tội như giết vua, cướp ngôi, đầu hàng, cắt đất cho ngoại bang. Những đại diện tiêu biểu cho cách nhìn nhận này là Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Đinh Xuân Lâm, Trần Thị Băng Thanh... Nhưng đến thời cận đại cũng có những quan điểm có thể xem là đồng tình của giới nghiên cứu đối với những phương án hành xử gây nhiều tranh cãi nhưng "phù hợp với tình thế lịch sử đương thời và phục vụ cho lợi ích chung dân tộc về lâu dài" của Mạc Đăng Dung. Tiêu biểu cho cách nhìn này có Nguyễn Văn Siêu, Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Trần Quốc Vượng, Trần Gia Phụng, Trần Khuê, Trần Lâm Biền, Vũ Khiêu, Văn Tạo, Đinh Khắc Thuân, Nguyễn Gia Kiểng, Phan Đăng Nhật, Trần Thị Vinh. Xét về nhiều mặt, đánh giá về Mạc Đăng Dung phức tạp hơn hẳn so với những nhân vật lịch sử gây tranh cãi khác như Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly. Nó bị chi phối bởi một vấn đề gần như vĩnh cửu trong lịch sử: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam (bao gồm cả lịch sử chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc). Trong con mắt chính thống của người Việt nói chung thì Mạc Đăng Duy tuy giỏi ứng biến và bảo toàn được nền độc lập tự chủ của nước Việt nhưng đã làm mất thể diện quốc gia một cách nghiêm trọng, khi tự trói mình đến quỳ lạy trước quân Minh. Thậm chí về mặt này, một người bị mang tiếng cướp ngôi khác như Hồ Quý Ly còn nhận được chút ít ngợi ca vì đã dám đánh trả quân Minh. Xét cả thời kỳ làm quan lẫn giai đoạn làm vua, Hồ Quý Ly về khả năng ứng biến với những hoàn cảnh khó lường dù là thua kém hơn hẳn Mạc Đăng Dung, nhưng về mặt hình ảnh thì ông ta lại có được cảm tình của nhiều người Việt bởi một chủ trương đã gần như in sâu vào tiềm thức Việt: đánh luôn vẻ vang hơn hòa, và phải đánh giặc trong bất cứ hoàn cảnh nào dù có gặp thất bại chung cược như trường hợp Nhà Hồ. Đã có một giả thuyết lịch sử được đặt ra là nếu Mạc Đăng Dung xuất quân và chiến thắng oanh liệt trước đạo quân xâm lược Nhà Minh trên chiến trường thì "tội cướp ngôi" của ông có thể sẽ gần như được tâm thức chung người Việt "bỏ dần vào quên lãng" như trường hợp Lê Hoàn (Lê Đại Hành) và Trần Thủ Độ. Quan điểm của các nhà nghiên cứu về công và tội của Mạc Đăng Dung Thời Lê Trung hưng (1533–1789), đặc biệt trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, sử sách chỉ để lại đôi dòng mang tính "tích cực" về Mạc Đăng Dung và thời Mạc như trường hợp của Phạm Đình Hổ. Tuy nhiên sang thời Nhà Nguyễn, những nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa dần định hình một hướng nghiên cứu mới mang tích khách quan hơn về Nhà Mạc (dù vẫn cơ bản coi Mạc Đăng Dung là tiếm ngôi). Cụm từ Ngụy Mạc phổ biến từ thời Lê-Trịnh được hạn chế sử dụng hơn dưới thời Nguyễn trong các văn tự còn lưu lại. Những học giả mà đánh giá của họ (về Mạc Đăng Dung) được trích dẫn dưới đây thuộc những thời kỳ lịch sử khác nhau, quan điểm chính trị khác nhau. Trong số này có những người theo Hán học, người theo Tây học, người theo đường lối cộng sản và cả những người không theo hoặc chống lại đường lối cộng sản, những người sống tại Việt Nam và cả những người định cư tại hải ngoại. Trong số những nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại, học giả nổi tiếng cả về Cựu học và Tân học Trần Trọng Kim có lẽ là người chỉ trích Mạc Đăng Dung kịch liệt hơn cả: Học giả, nhà sử học Lê Văn Hòe (1911-1968), bút danh Vân Hạc, được xem là người đi đầu trong hướng đánh giá mang nhiều tính lý trí, khách quan lịch sử về sự nghiệp của Mạc Đăng Dung. Nó càng đặc biệt bởi được viết ra từ suy nghĩ của một nhà nghiên cứu mang họ Lê, dòng họ đã mất ngôi vua về tay họ Mạc: Nhà sử học Phạm Văn Sơn có nhiều quan điểm đồng tình với học giả Lê Văn Hòe: GS Trần Quốc Vượng: GS Vũ Khiêu (nguyên Viện trưởng đầu tiên của Viện Xã hội học Việt Nam): GS Văn Tạo (Viện Sử học): PGS Trần Thị Vinh (Viện Sử học): Trần Khuê (Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm): TS Đinh Khắc Thuân (Viện Nghiên cứu Hán Nôm): GS TSKH Phan Đăng Nhật (Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian): So sánh phương án hành xử với quân xâm lược Nhà Minh của Mạc Đăng Dung và Lê Lợi, nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Đăng Lợi viết: Học giả kiêm sử gia nổi tiếng đầu thời Nhà Nguyễn là Phan Huy Chú cũng có nhận xét tương đồng: Ghi nhận về nhà Mạc Từ những kết quả nghiên cứu mới trong ngành sử học và văn hóa Việt Nam khởi đầu từ những năm cuối thập niên 1980 nhằm đánh giá lại một cách thực sự khách quan và công bằng những đóng góp trên nhiều lĩnh vực của triều Mạc đối với lịch sử dân tộc, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Phạm Quang Nghị đã ký Quyết định số 24/2002/QĐ-BVHTT ngày 17-9-2002, công nhận Từ đường họ Mạc ở Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định quy hoạch 10,5 ha đất tại xã Ngũ Đoan (đất phát tích Nhà Mạc và khu vực Dương Kinh xưa của vương triều Mạc) để xây dựng Khu tưởng niệm Vương triều Mạc và các Vua Nhà Mạc. Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ cũng có quyết định đưa công trình này vào danh mục các công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, bởi lịch sử vương triều Mạc là một phần không thể thiếu của lịch sử Thăng Long-Hà Nội. Sau một thời gian dài lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân và các nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa, sáng ngày 25 tháng 8 năm 2015, UBND Quận Cầu Giấy, Hà Nội đã chính thức tổ chức lễ gắn biển phố mang tên hai vị vua đầu triều Mạc là Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) theo Nghị quyết số 02/2015/NQ-HĐND ngày 06/7/2015 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội và Quyết định số 3517/QĐ-UBND ngày 27/7/2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội về việc đặt tên và điều chỉnh độ dài một số đường phố trên địa bàn Thủ đô. Trước đó, tên hai vị vua Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông đã được đặt cho tên đường phố ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Cụ thể, Mạc Đăng Dung được đặt tên đường ở 9 tỉnh, thành phố như: thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng; huyện An Phú, Thành phố Hồ Chí Minh… Mạc Đăng Doanh được đặt tên đường ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng và thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vai trò lịch sử của Dương Kinh thời Mạc Sau khi lên ngôi, Mạc Thái Tổ chỉ làm vua 3 năm rồi nhường ngôi cho con trưởng là Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh), còn mình về quê hương Cổ Trai làm Thái thượng hoàng và cho xây dựng kinh đô thứ hai là Dương Kinh. Trong nhiều đợt khảo cổ gần đây, tại khu vực thôn Cổ Trai xuất lộ những di vật thời Mạc như thành lũy, hệ thống hào nước, gốm sứ hoa màu lam, đồ sành, đồ đá, đất nung với những nét hoa văn mang phong cách nghệ thuật điển hình của thế kỷ XVI. Ở đây, tại chùa Phúc Linh vẫn còn lại những thành bậc đá kích thước lớn, trang trí cầu kỳ, bố cục tương tự các thành bậc ở điện Lam Kinh và Kính Thiên thời Lê sơ. Điêu khắc đá thời Mạc tại Dương Kinh có nhiều đề tài chưa từng được thấy tại các nơi khác như tượng Nghê đồng, Quan Âm tọa sơn, Quan Âm Nam Hải, Quan Âm nghìn tay nghìn mắt và bộ tượng Tam Thế. Theo sử sách, nhằm thực hiện chính sách cải cách kinh tế nông nghiệp, mở mang công thương nghiệp, sản xuất hàng hóa, xây dựng nền kinh tế hướng ra biển, ngoài kinh thành Thăng Long, Mạc Thái Tổ còn tạo dựng sự sầm uất ở Cổ Trai quê hương ông và Dương Kinh, kinh đô thứ hai có vị thế gần biển, sông với nhiều ngả nối liền phố Hiến, Thăng Long. Để Dương Kinh trở thành đô thị ven biển xứ Đông, Nhà Mạc cho xây dựng một số thương cảng trên bến dưới thuyền làm nơi giao lưu hàng hóa trong và ngoài nước, từng bước đưa Dương Kinh xưa trở thành đô thị đầu tiên của Hải Phòng, đô thị ven biển đầu tiên của người Việt. GS Trần Quốc Vượng và một số nhà nghiên cứu từng nhận định rằng, cho tới trước thế kỷ XVII, tầm nhìn hướng biển mang tính kinh tế của Nhà Mạc (hay cụ thể là của người đã sáng lập ra triều Mạc, tức Mạc Đăng Dung và những vua kế nghiệp ông) là vừa có tầm xa và rộng hơn nhiều so với tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam đã tồn tại trước đó. Định Nam đao (đại long đao của Mạc Thái Tổ) Tại Khu tưởng niệm Vương triều Mạc tại xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng (nơi là trung tâm của Dương Kinh thời Mạc ở thế kỷ XVI) hiện đang lưu giữ một thanh đao mà con cháu họ Mạc cho là của Mạc Thái Tổ, và được gọi tên là Định Nam đao. Tên gọi "Định Nam đao" (đao Nam Định) là do con cháu họ Mạc đặt cho thanh đao này, xuất phát từ việc thanh đao này được khai quật tại tỉnh Nam Định năm 1938. Các thông tin về chiều dài, trọng lượng hiện tại, trọng lượng ước tính lúc ban đầu… của Định Nam đao được mô tả lần đầu năm 1986 bởi nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Quang. Theo ông Lê Xuân Quang, thanh đao dài 2,55 mét, nặng 25,6 kg (theo phán đoán, khi còn mới, thanh long đao có thể nặng đến 30 kg). Đến năm 2019, nhóm chuyên gia của Viện Khảo cổ học Việt Nam đã đo đạc cẩn thận thanh đao này để phục vụ việc lập hồ sơ công nhận bảo vật quốc gia cho thanh Định Nam đao. Họ đã công bố thông tin mô tả chi tiết có sự khác biệt lớn so với thông tin của ông Lê Xuân Quang. Theo đó, thanh đao chỉ nặng tổng cộng 12,8 kg (ước tính trọng lượng khi mới sử dụng khoảng 15 kg), và có tổng chiều dài là 239 cm. Đồng thời, với việc phân tích thành phần hợp kim làm ra khâu đao, và đánh giá về hình dạng đầu rồng của khâu đao, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã đưa ra nhận định niên đại của thanh đao rất có thể vào khoảng thế kỷ 17-18, như vậy nó không thể là thanh đao của Mạc Thái Tổ, mà chỉ là một thanh đao được chế tác sau này và được họ Mạc thờ cúng như vật tượng trưng cho binh nghiệp của Mạc Thái Tổ. Đến năm 2020, thanh đao này đã được công nhận là một bảo vật quốc gia của Việt Nam. Hồ sơ đề nghị công nhận bảo vật quốc gia cho thanh đao này đã ghi nhận thông tin về chiều dài và trọng lượng của thanh đao này như mô tả của Viện Khảo cổ học Việt Nam. Vì vậy, các thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang được xem là không chính xác, và theo đó các ý kiến đánh giá về niên đại cũng như tính thực chiến của thanh đao này dựa trên thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang (đưa ra trước năm 2019) cũng là không chính xác. Theo nhận định của nhóm chuyên gia Viện Khảo cổ học Việt Nam năm 2019, thanh đao này có các yếu tố để nó có thể được dùng trên chiến trận, và chủ yếu được dùng trên lưng ngựa. Chẳng hạn, chiều dài của thanh đao này (239 cm) là dài hơn loại đao mà các võ sư hiện nay sử dụng để biểu diễn võ thuật đánh bộ dài (chỉ khoảng 170 cm - 180 cm). Do đó, thanh đao này chỉ có thể dùng để đánh trên lưng ngựa. Khi giao chiến, tầm với của đao là khoảng 200 cm và tối đa là khoảng 300 cm khi nghiêng hoặc nhoài người. Chuôi đao được đúc đặc để cân bằng với phần lưỡi đao, nên người sử dụng có thể dùng chuôi đao để đánh tứ phía. Tiết diện cán hình bầu dục giúp việc cầm nắm đao vững chắc, và không bị lật xoay lưỡi đao nếu như cán tiết diện hình tròn. Với tổng trọng lượng ước tính 15 kg và điểm cân bằng trọng lượng cách chuôi đao 107 cm phù hợp với cách đánh đao trên ngựa. Trọng lượng trung bình chia đôi còn 7,5 kg, đủ nặng để ra đòn chém bổ uy lực và thu đao đánh bằng cán. Gia quyến và hậu duệ Theo các tác giả bộ sách "Hợp biên thế phả họ Mạc’’ (Nhà Xuất bản Văn hóa Dân tộc, 2001) cho biết: Từ cuối thế kỷ XVI (tức sau khi triều Mạc bị mất, vua cuối cùng Nhà Mạc tại kinh đô Thăng Long là Mạc Mậu Hợp bị Trịnh Tùng giết chết vào năm 1592) đến nửa cuối thế kỷ XVII (năm 1677), họ Mạc cát cứ ở Cao Bằng cũng bị nhà Lê trung hưng đánh dẹp, triệt hạ. Do mang mối thù giết vua cướp ngôi nên quân nhà Lê ra sức truy sát con cháu họ Mạc. Những hậu duệ họ Mạc phải di chuyển nhiều nơi, và thay tên đổi họ thành nhiều họ khác để trốn thoát. Theo thống kê của Ban Liên lạc họ Mạc Hà Nội, vào năm 1999, thì con cháu họ Mạc ngày nay có 37 họ với 368 chi ở 25 tỉnh, thành phố. Ngoài ra còn nhiều con cháu họ Mạc hiện nay đang sinh sống ở nước ngoài như: Pháp, Mỹ, Canada, Trung Quốc… Từ một họ đổi ra 37 họ (có thể thống kê chưa đầy đủ), nhưng tên họ mới vẫn có những mật mã, những thông điệp để con cháu sau này vẫn biết tới nguồn gốc tổ tiên, như tên họ mới vẫn giữ bộ "Thảo đầu" (艹) trong họ Mạc (莫) như: họ Phạm (范), Hoàng (黄), Phan (藩), Tô (蘇), Lều…; nếu theo họ mẹ, họ bố nuôi thì giữ tên đệm (Đăng trong tên Mạc Đăng Dung) như: Lê Đăng, Đào Đăng, Nguyễn Đăng, Phan Đăng…, về sau có thể đổi là Phúc, là Đình để khỏi bị truy tích…, ngoại trừ theo tên đất như họ Thái v.v… để hậu duệ biết mà tìm nhau, hỗ trợ nhau, phát huy truyền thống của tổ tiên. Mạc Thái Tổ cũng là tổ tiên bên họ ngoại của các đời chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Phúc Lan trở đi (bao gồm cả hoàng tộc nhà Nguyễn tính từ Nguyễn Ánh) thông qua quan hệ hôn phối giữa Nguyễn Phúc Nguyên (con trai của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng) và Mạc Thị Giai (con gái của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là cháu gái của Mạc Thái Tông).
Vành nhật hoa (hay nhật miện; tiếng Anh: stellar corona) là lớp ngoài cùng của bầu khí quyển sao. Vành nhật hoa bao gồm plasma. Nhật hoa của Mặt Trời nằm phía trên chromosphere và kéo dài hàng triệu km ra ngoài vũ trụ. Nó dễ nhìn thấy nhất trong nhật thực toàn phần, nhưng nó cũng có thể được quan sát bằng coronagraph. Các phép đo quang phổ cho thấy quá trình ion hóa mạnh trong vành nhật hoa và nhiệt độ plasma vượt quá 1.000.000 kelvin, nóng hơn nhiều so với bề mặt của Mặt Trời, được gọi là quang quyển. Đặc điểm vật lý Nhật hoa của Mặt Trời nóng hơn nhiều so với bề mặt của Mặt Trời: nhiệt độ trung bình của quang quyển là khoảng 5.800 kelvin, so với nhiệt độ từ 1 đến 3 triệu kelvin của vành nhật hoa. Độ dày đặc của vành nhật hoa bằng 10−12 lần so với quang quyển, do đó tạo ra lượng ánh sáng khả kiến ​​bằng khoảng một phần triệu. Nhật hoa được ngăn cách với quang quyển bởi chromosphere tương đối nông. Cơ chế chính xác mà nhật hoa được làm nóng vẫn là chủ đề của một số cuộc tranh luận. Nguyên nhân Hầu hết ánh sáng Mặt Trời được tán xạ về phía Trái Đất trong nhật thực toàn phần là bởi các electron tự do trong vành nhật hoa. Các electron tự do bị bật ra khỏi các nguyên tử hydro bởi các vụ va chạm. Từ độ sáng của ánh sáng Mặt Trời bị tán xạ, có thể tính được mật độ của electron và của các proton trong vành nhật hoa. Với một phần điển hình của vành nhật hoa, mật độ khí có thể đạt 10−6 mật độ quang quyển, mật độ giảm dần ở phía ngoài. Một phần khác của bức xạ từ vành nhật hoa là sự phát xạ, ở những bước sóng xác định, từ các nguyên tử bị ion hóa cao độ, như các ion sắt mất 8 đến 12 electron. Các nguyên tử bị ion hóa cao như vậy là do nhiệt độ của vành nhật hoa cao hơn 106 K. Gần như tất cả hydro đều bị ion hóa ở nhiệt độ này. Ở nhiệt độ này, hầu hết các photon phát xạ là tia X. Bởi vậy hình ảnh của vành nhật hoa có thể thu được bằng cách sử dụng một camera tia X. Vì tia X không xuyên qua khí quyển Trái Đất nên camera tia X phải được đặt trong vũ trụ. Ghi chú Đọc thêm Thorsten Dambeck: Seething Cauldron in the Suns's Furnace, MaxPlanckResearch, 2/2008, p. 28–33 B. N. Dwivedi and A. K. Srivastava Coronal heating by Alfvén waves CURRENT 296 SCIENCE, VOL. 98, NO. 3, 10 FEBRUARY 2010, pp. 295–296
Mắt là cơ quan của hệ thống thị giác. Cơ quan này cung cấp cho sinh vật sống tầm nhìn, khả năng tiếp nhận và xử lý chi tiết hình ảnh, cũng như cho phép một số chức năng phản ứng ảnh độc lập với tầm nhìn. Mắt phát hiện ánh sáng và chuyển đổi nó thành các xung điện hóa học trong tế bào thần kinh. Ở các sinh vật bậc cao, mắt là một hệ thống quang học phức tạp, thu thập ánh sáng từ môi trường xung quanh, điều chỉnh cường độ của nó thông qua một màng chắn, tập trung nó thông qua một cụm thấu kính có thể điều chỉnh để tạo thành một hình ảnh, chuyển đổi hình ảnh này thành một tập hợp các tín hiệu điện và truyền các tín hiệu này đến não thông qua các con đường thần kinh phức tạp kết nối mắt thông qua dây thần kinh thị giác với vỏ thị giác và các khu vực khác của não. Đôi mắt với sức mạnh phân giải đã có mười dạng cơ bản khác nhau và 96% các loài động vật sở hữu một hệ thống quang học phức tạp. Mắt xử lý hình ảnh có trong động vật thân mềm, hợp âm và động vật chân đốt. "Đôi mắt" đơn giản nhất, chẳng hạn như những con mắt trong vi sinh vật, không làm gì khác ngoài việc phát hiện xem môi trường xung quanh là sáng hay tối, điều này đủ cho sự nhận dạng và điều hòa của nhịp sinh học. Với các đôi mắt phức tạp hơn, các tế bào hạch nhạy cảm võng mạc gửi tín hiệu dọc theo đường võng mạc đến nhân trên chéo để điều chỉnh sinh học và đến khu vực trước sinh để kiểm soát phản xạ ánh sáng đồng tử. Tổng quan Mắt phức tạp có thể phân biệt hình dạng và màu sắc. Các lĩnh vực thị giác của nhiều sinh vật, đặc biệt là động vật ăn thịt, liên quan đến các khu vực lớn của tầm nhìn hai mắt để cải thiện nhận thức về độ sâu. Ở các sinh vật khác, mắt được đặt để tối đa hóa tầm nhìn, chẳng hạn như ở thỏ và ngựa, có tầm nhìn một mắt. Mắt nguyên sinh đầu tiên tiến hóa giữa các loài động vật về thời điểm xảy ra vụ nổ Cambri. Tổ tiên chung cuối cùng của động vật sở hữu bộ công cụ sinh hóa cần thiết cho thị lực, và đôi mắt tiên tiến hơn đã tiến hóa ở 96% các loài động vật ở sáu trong số ~ 35 phyla chính. Ở hầu hết các động vật có xương sống và một số động vật thân mềm, mắt hoạt động bằng cách cho phép ánh sáng đi vào và chiếu lên một bảng tế bào nhạy cảm với ánh sáng, được gọi là võng mạc, ở phía sau mắt. Các tế bào hình nón (cho màu sắc) và các tế bào hình que (cho độ tương phản ánh sáng yếu) trong võng mạc phát hiện và chuyển đổi ánh sáng thành tín hiệu thần kinh để nhìn. Các tín hiệu thị giác sau đó được truyền đến não thông qua dây thần kinh thị giác. Đôi mắt như vậy thường có hình cầu, chứa đầy một chất giống như gel trong suốt được gọi là hài hước thủy tinh thể, với một thấu kính hội tụ và thường là mống mắt; sự thư giãn hoặc thắt chặt các cơ xung quanh mống mắt làm thay đổi kích thước của con ngươi, từ đó điều chỉnh lượng ánh sáng đi vào mắt, và giảm quang sai khi có đủ ánh sáng. Mắt của hầu hết các loài chân, cá, động vật lưỡng cư và rắn có hình dạng thấu kính cố định và tầm nhìn tập trung đạt được bằng cách quan sát ống kính ống kính tương tự như cách máy ảnh lấy nét. Mắt đa hợp được tìm thấy trong số các động vật chân đốt và bao gồm nhiều khía cạnh đơn giản, tùy thuộc vào chi tiết giải phẫu, có thể cho một hình ảnh pixel hoặc nhiều hình ảnh trên mỗi mắt. Mỗi cảm biến có ống kính và tế bào cảm quang riêng. Một số mắt có tới 28.000 cảm biến như vậy, được sắp xếp theo hình lục giác và có thể cho tầm nhìn 360° đầy đủ. Mắt hợp chất rất nhạy cảm với chuyển động. Một số động vật chân đốt, bao gồm nhiều loài trong bộ Strepsiptera, có đôi mắt chỉ gồm một vài khía cạnh, mỗi mặt có một võng mạc có khả năng tạo ra một hình ảnh, tạo ra tầm nhìn. Với mỗi mắt nhìn một thứ khác nhau, một hình ảnh hợp nhất từ tất cả các mắt được tạo ra trong não, cung cấp những hình ảnh có độ phân giải cao rất khác nhau. Sở hữu tầm nhìn màu sắc siêu nhạy chi tiết, tôm Mantis đã được báo cáo là có hệ thống thị giác màu phức tạp nhất thế giới. Trilobites, hiện đã tuyệt chủng, có đôi mắt ghép độc đáo. Chúng đã sử dụng các tinh thể canxit trong suốt để tạo thành thấu kính cho mắt. Trong đó, chúng khác với hầu hết các loài động vật chân đốt khác, có đôi mắt mềm mại. Số lượng ống kính trong một mắt như vậy khác nhau; tuy nhiên, một số trilobites chỉ có một và một số có hàng ngàn thấu kính ở một mắt. Trái ngược với mắt ghép, mắt đơn là mắt có một thấu kính. Ví dụ, nhện nhảy có một cặp mắt đơn giản lớn với trường nhìn hẹp, được hỗ trợ bởi một loạt các mắt khác, nhỏ hơn cho tầm nhìn ngoại vi. Một số ấu trùng côn trùng, như sâu bướm, có một loại mắt đơn giản khác nhau thường chỉ cung cấp hình ảnh thô, nhưng (như trong ấu trùng bọ cánh cứng) có thể có khả năng phân giải 4 độ vòng cung, nhạy cảm với phân cực và có khả năng tăng độ nhạy tuyệt đối của nó vào ban đêm theo hệ số từ 1.000 trở lên. Một số mắt đơn giản nhất, được gọi là ocelli, có thể được tìm thấy ở động vật như một số loài ốc, mà thực sự không thể "nhìn thấy" theo nghĩa thông thường. Chúng có các tế bào nhạy sáng, nhưng không có ống kính và không có phương tiện nào khác để chiếu hình ảnh lên các tế bào này. Họ có thể phân biệt giữa ánh sáng và bóng tối, nhưng không còn nữa. Điều này cho phép ốc sên tránh ánh nắng trực tiếp. Trong các sinh vật sống gần các lỗ thông hơi dưới biển sâu, mắt ghép đã được đơn giản hóa và thích nghi với ánh sáng hồng ngoại được tạo ra bởi các lỗ thông hơi nóng bằng cách này, sinh vật có mắt này có thể phát hiện ra suối nước nóng và tránh bị đun sôi. Phân loại mắt Trong giới động vật có nhiều loại mắt. Ở nhiều loài, chỉ có các tế bào thần kinh nhạy sáng để cảm nhận mức độ sáng tối của môi trường, nhưng không thu được hình ảnh hai chiều hay 3 chiều của môi trường. Ở sên, các tế bào thần kinh nhạy sáng được nằm sâu hơn trong hốc, tạo nên cảm giác về hướng tới của ánh sáng. Ở ốc anh vũ, có sự tiến hoá mạnh hơn khi các tế bào nằm nhạy sáng trải thành võng mạc nằm sau một lỗ nhỏ, giúp tạo ra hình ảnh hai chiều của không gian xung quanh theo cơ chế máy ảnh đục lỗ. Các loài côn trùng thường có mắt đa hợp chứa các ống dẫn ánh sáng đến từng tế bào thần kinh nhạy sáng; tạo ra mảng ảnh. Mỗi ống dẫn sáng có một thấu kính và (các) tế bào nhạy sáng độc lập. Lượng ống dẫn sáng trong một mắt đa hợp có thể lên tới hàng chục nghìn, xếp cạnh nhau theo cấu trúc lục giác, tạo ra hình ảnh chứa toàn bộ không gian xung quanh. Các mắt đa hợp rất nhạy cảm với chuyển động. Ở một số loài, mối ống dẫn sáng có nhiều tế bào nhạy sáng đủ để tạo ra hình ảnh riêng. Các động vật có dây sống và một số loài nhuyễn thể hội tụ hình ảnh xung quanh bằng thấu kính lên một võng mạc chứa các đầu dây thần kinh nhạy cảm với ánh sáng. Các tín hiệu thần kinh từ võng mạc được đưa về não xử lý và tái dựng hình ảnh môi trường. Cá, rắn và một số loài lưỡng cư có thấu kính có hình dạng cố định; việc điều khiển hội tụ ảnh xa gần được thực hiện bằng cách di chuyển thấu kính ra xa hay lại gần võng mạc. Các loài khác điều khiển hội tụ ảnh bằng cách làm biến dạng thấu kính. Lượng ánh sáng thu thập có thể được điều khiển bằng đóng mở đồng tử. Kiểu sắp xếp dây thần kinh cũng khác nhau tuỳ loài, khiến cho mắt động vật có vú có điểm mù, còn mắt bạch tuộc thì không. Mắt đa hợp Đa số các mắt đa hợp được tìm thấy trên các loài chân khớp như côn trùng hay giáp xác. Mỗi mắt đa hợp có hình cầu, được chia làm từ hàng chục đến hàng nghìn múi. Mỗi múi có đường dẫn ánh sáng từ một hướng riêng, qua các thấu kính riêng, tới các tế bào nhạy sáng nằm bên trong, có thể phân biệt được độ sáng tối và đôi khi cả màu sắc hay độ phân cực của ánh sáng. Hình ảnh thu nhận bởi bộ não của các loài chân khớp này được tổng hợp từ các tín hiệu đơn lẻ đến từ các múi, tương ứng với từng hướng nhìn đơn lẻ. Nhược điểm của mắt đa hợp so với mắt đơn là, do không có một thấu kính trung tâm hay võng mạc trung tâm với khả năng điều chỉnh độ hội tụ, việc ghép hình từ các ống dẫn sáng đơn lẻ tạo nên hình ảnh có độ phân giải hai chiều thấp. Tuy nhiên, ưu điểm của mắt đa hợp là quan sát được toàn bộ không gian mà không cần di chuyển đầu hay thay đổi cơ học trong mắt, khiến việc theo dõi các di chuyển nhanh rất dễ dàng, thông qua cảm nhận thay đổi cường độ sáng giữa các ống dẫn tương ứng với các hướng khác nhau. Các ống dẫn có hướng này cũng đôi khi giúp quan sát tốt độ phân cực ánh sáng. Bản thân mắt đa hợp được chia làm hai loại chính và các phân loại nhỏ, cùng với một số ngoại lệ, tuỳ thuộc vào cơ chế quang học trong tạo ảnh (phản xạ, khúc xạ hay hấp thụ), và cơ chế xử lý tín hiệu của não. Mắt đơn Các mắt đơn thường có cấu trúc là tạo hình ảnh hai chiều của không gian xung quanh lên một võng mạc chứa các tế bào thần kinh nhạy sáng, thông qua hiện tượng khúc xạ qua thấu kính hội tụ. Việc tạo ảnh trên võng mạc chứa hàng triệu đến hàng trăm triệu tế bào thần kinh, thay vì hàng nghìn ống dẫn như ở mắt đa hợp, làm tăng đáng kể độ phân giải của ảnh hai chiều thu được. Hơn nữa, ảnh thu được có độ sâu, tức là có thông tin ba chiều, tập trung vào các vật thể xa hay gần nhờ vào sự thay đổi sự hội tụ của thấu kính. Mắt của các loài động vật có dây sống tiến hóa khá độc lập với mắt của mực hay bạch tuộc, và hội tụ về một cơ chế hoạt động khá giống nhau. Mắt người Mắt bạch tuộc Chú thích
Phụng Dương Công chúa (chữ Hán: 奉陽公主; 1244 - 1291) là một nữ quý tộc, một Công chúa nhà Trần. Tuy có danh vị Công chúa nhưng bà không phải là một hoàng nữ mà được Trần Thái Tông nhận nuôi, sau được phong làm Công chúa và gả cho con trai thứ hai của ông, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Tiểu sử Theo "Phụng Dương Công chúa thần đạo bi", một trong những thông tin cổ duy nhất còn sót lại về lai lịch Công chúa, thì bà là con gái của Tướng quốc Thái sư (không rõ tên) và Tuệ Chân phu nhân (không rõ lai lịch). Văn bia không hề ghi rõ tên bà là gì, và cũng không đề cập trực tiếp tên cha bà mà chỉ ghi Tướng quốc Thái sư. Theo nhiều suy đoán ban đầu, vị "Thái sư" này là Trần Thủ Độ, và nhận định Phụng Dương thuộc hàng cô của Trần Quang Khải. Thế nhưng khi tra xét lại, Trần Thủ Độ vào lúc qua đời đã truy phong làm Vương, truy tước ["Thượng phụ Thái sư"], và tuy ông sinh thời từng là Thái sư nhưng có tước danh khác hẳn (là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư và Thống quốc thái sư). Xét trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, các kỷ thời đại Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông có đề cập đến Khâm Thiên đại vương Trần Nhật Hiệu, em út cùng mẹ của Trần Thái Tông, sinh thời là Thái úy, sau khi chết (năm 1269) thì được truy tặng là ["Tướng quốc Thái sư"], hoàn toàn khớp với chức danh của văn bia. Như vậy cha Phụng Dương Công chúa theo lý mà nói nên thì là Trần Nhật Hiệu hơn là Trần Thủ Độ. Như vậy thì Phụng Dương Công chúa là em họ Trần Quang Khải. Từ nhỏ, bà đã nổi tiếng thông minh và rất mực hiền hậu, được Trần Thái Tông đem về cung nhận làm con nuôi, cho phong hiệu Phụng Dương Công chúa. Từ đó Phụng Dương sống trong cung như một hoàng nữ. Gả cho Chiêu Minh vương Khi trưởng thành, bà được gả cho Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải với nghi lễ dành cho hoàng nữ. Nhưng khi đó, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải lại đang say mê một người thiếp nên lạnh nhạt với bà. Biết chuyện, Trần Nhật Hiệu và Tuệ Chân phu nhân từng nổi giận và tính bề đòi bà về lại nhà, nhưng bà kiên quyết từ chối vì cho rằng đó là đạo vợ chồng. Đương khi ấy, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải có nhiều thê thiếp, nhưng danh nghĩa chỉ có Phụng Dương Công chúa là chính thất. Theo văn bia ghi nhận, Phụng Dương Công chúa đối xử với các thê thiếp của chồng hết sức bao dung. Bà cũng quán xuyến công việc, quản lý tiền bạc cho chồng khiến Trần Quang Khải hết sức hài lòng. Cùng với Linh Từ Quốc mẫu, bà là một phụ nữ quý tộc tiêu biểu của nhà Trần và được các sử gia ghi chép lại. Mùa đông năm Giáp Thân (1284), quân Nguyên sang đánh Đại Việt, Chiêu Minh vương xuống thuyền đi lánh giặc, nửa đêm trong thuyền xảy ra hoả hoạn. Lúc ấy Chiêu Minh vương đương ngủ, Công chúa ngờ là giặc đã tới nơi, đánh thức chồng dậy, đưa cho cái lá chắn và lấy mình che cho ông. Từ đó, bà rất được tán dương. Bà hay có lòng nhân từ bác ái, không so sánh suy bì đích thứ, người nào có một chút công lao, thì biểu dương trước mặt Chiêu Minh vương; người nào mắc lỗi thì ghé tai bảo nhỏ, ỉm đi cái lỗi đó. Người đời xem đó là tấm lòng không ghen ghét đố kỵ của bà. Đối với người trong họ, bà thường hay nâng đỡ, nhưng với những người bất tài thì chỉ ban của cải chứ không cho chức gì cả. Cuối đời, Trần Quang Khải về nghỉ ở trang riêng tại phủ Thiên Trường, bà cũng theo ông về đấy. Khoảng năm Tân Mão (1291), ngày 22 tháng 3, Phụng Dương Công chúa qua đời ở Thiên Trường, hưởng thọ 47 tuổi. Thôn Độc Lập, phủ Thiên Trường là nơi chôn cất của Công chúa. Ngày 11 tháng 4 năm Hưng Long nguyên niên (1293), là ngày chôn cất. Người chủ tang Công chúa là con trai thứ của bà Văn Túc vương, đến xin bài minh đem chôn cùng. Bàn về những điều sở đắc của Thượng tướng Thái sư, để làm bài minh là Thiếu bảo Đinh Củng Viên. Nội dung bài minh ấy: Làm thiện tất hưởng phúc chừ ấy lẽ thường tình,Có lòng nhân ắt thọ chừ trời sao không linh? Sống làm người hiền hạnh chừ chết sẽ lưu danh,Làm dâu cửa nhà tướng chừ đời khen phúc lành. Thôn tên là Độc Lập chừ nơi đặt mộ xanh,Văn chẳng xánh Hàn quân chừ dám làm bài minh. Nhân cách bà được chính Thái sư Trần Quang Khải đánh giá: "Làm điều thiện, nói điều nhân, sống nết na, chết lưu danh, vượng phu ích tử". Hậu duệ Theo "Gia phả Trần tộc Nguyên Thiên Nghệ Tĩnh" do tác giả Trần Thanh San biên soạn năm 2001, và cũng theo nội dung của văn bia, thì Trần Quang Khải và Phụng Dương Công chúa có bảy người con, 4 trai và 3 gái. Tuy nhiên văn bia thực tế lại liệt kê có sự mâu thuẫn. Người con trai trưởng mất sớm. Phụng Dương xót con nên nhận Quan nội hầu Quốc công (không rõ là ai) làm con nuôi. Văn Túc vương Trần Đạo Tái, lấy Bảo Tư Công chúa là con của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Vũ Túc vương (không rõ tên), lấy Bảo Châu Công chúa, con gái thứ ba của Trần Thánh Tông. Quỳnh Huy Công chúa, con gái cả, húy Thụy Hữu, hai lần gả chồng đều không hòa hợp. Mất sớm. Quỳnh Tư Công chúa, húy Thụy Nhu, lấy Kiểm hiệu Thái úy Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp, con trai thứ của Thánh Tông. Mất sớm. Quỳnh Bảo Công chúa, huý Thuỵ Ân, lấy Nhân Quốc vương (không rõ tên) là con trai trưởng của Tĩnh Quốc đại vương. Quỳnh Thái Công chúa, húy Thụy Tư, làm vợ kế của Kiểm hiệu Thái úy. Cháu của hai người tính cả nội ngoại là 13 người, trai 7 gái 6, đó là từ những người con dòng dõi đích xuất của Chiêu Minh vương Quang Khải. Trong đó Chân Từ Công chúa, không rõ tên, lấy con trai của Phán thủ Thượng vị Vũ Ninh hầu, tên là Chiểu. Thái sư Trần Quang Khải và Công chúa Phụng Dương được thờ tại đình làng Cao Đài, Hội được tổ chức ngày 22 tháng 3 âm lịch (là ngày giỗ bà Phụng Dương) hàng năm ở làng Cao Đài, xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Real Club Deportivo Español, S. A. D. (tên chính thức, Real Club Deportivo Espanyol de Barcelona, S. A. D.),, hay đơn giản là RCD Espanyol, là câu lạc bộ bóng đá ở thành phố Barcelona, xứ Catalan, Tây Ban Nha. Sân vận động Từ năm 1923 đến năm 1997, Espanyol thi đấu các trận đấu trên sân nhà của đội tại Sân vận động Sarrià thuộc quận Sarrià-Sant Gervasi của Barcelona. Năm 1997, đội chuyển đến Sân vận động Olympic Lluís Companys ở Montjuïc. Từ đầu mùa giải 2009–10, Espanyol chuyển đến Sân vận động RCDE (còn được gọi là Sân vận động Cornellà-El Prat) giữa Cornellà de Llobregat và El Prat de Llobregat. Danh hiệu Copa del Rey Vô địch (4): 1929,1940,2000,2006 Segunda División Vô địch (1): 1993-94,2020-21 Đội hình hiện tại Reserve team Out on loan Retired numbers 21 Daniel Jarque (posthumous honour) (2002–09) Starting from 2018–19, Marc Roca would wear the number of 21. Players with most appearances Competitive, professional matches only. As of ngày 14 tháng 4 năm 2018 1Includes Copa del Rey data only from 1943-1944 to 1975-1976, and since 1992-1993. Chú thích
Eo biển là đường biển tự nhiên dài và hẹp nằm ở giữa hai khoảng đất, thường là hai lục địa nối liền hai vùng biển với nhau. Nhiều eo biển rất quan trọng về mặt kinh tế. Eo biển có thể nằm trên những tuyến vận tải biển quan trọng, và có nhiều cuộc chiến đã nổ ra để giành quyền kiểm soát eo biển. Nhiều kênh đào đã được xây dựng để nối hai vùng biển với nhau. Những eo biển nổi tiếng Eo biển Bering nối liền Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, phân cách Châu Á và Bắc Mỹ. Eo biển Gibraltar nối Địa Trung Hải với Đại Tây Dương, phân cách Châu Âu và Châu Phi. Eo biển Malacca nối Biển Đông với Ấn Độ Dương.
Eo biển Malacca (phiên âm tiếng Việt: Ma-lắc-ca) là eo biển nằm giữa bán đảo Mã Lai và đảo Sumatra, nối Biển Đông và Ấn Độ Dương. Eo biển có tọa độ là 1,43° vĩ Bắc và 102,89° kinh Đông. Eo biển này có chiều dài 805 km (500 dặm Anh) và nơi hẹp nhất chỉ rộng 1,2 km. Vai trò kinh tế của eo biển Eo biển Malacca nằm trên tuyến giao thông cực kì quan trọng, vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy từ Châu Âu, Châu Phi, Nam Á, Trung Đông đi Đông Nam Á, Đông Á. Đây là nơi chiếm 1/4 lượng giao thông hàng hải thế giới hàng năm. Mỗi năm có khoảng 50 nghìn tàu thuyền qua lại, bao gồm tàu chở dầu, tàu chở container, tàu đánh cá. Trong năm 2003, khoảng 11 triệu thùng dầu (1.700.000 m³) được vận chuyển qua đây mỗi ngày, chủ yếu cung cấp cho Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Kinh tế Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc phụ thuộc nhiều vào tuyến đường biển này. Một nửa số tàu chở nhiên liệu của ba nước trên đi qua đây. Những vụ khủng bố và cướp biển Do tầm quan trọng của nó cho nên các tàu thuyền qua lại nơi đây từ lâu đã trở thành mục tiêu của các vụ tấn công cướp biển cũng như các vụ khủng bố. Theo thống kê, eo biển Malacca chiếm tới 1/3 các vụ cướp biển trên thế giới. Số lượng các vụ cướp tăng gấp ba lần trong ba thập kỷ qua. Trong năm 1994 xảy ra 25 vụ tấn công thì đến năm 2000 đã có 220 vụ tấn công được ghi nhận. Những tên cướp biển chủ yếu là những người dân Indonesia bị bần cùng hoá sau khủng hoảng tài chính năm 1997, hoặc là những phiến quân của tỉnh Aceh (Indonesia), nằm ở phía Bắc eo biển. Chúng có xu hướng cướp các tàu thuyền cỡ nhỏ hay bắt giữ các thủy thủ đoàn để đòi tiền chuộc.
Eo biển Mozambique là một trong những eo biển dài nhất thế giới, có chiều dài khoảng 1670 km. Eo biển này nằm giữa Đông Nam lục địa Châu Phi và Madagasca. Có chiều rộng trung bình là 450 km, chỗ rộng nhất ở phía Bắc rộng 960 km. Điểm sâu nhất 3.533 m, chỉ thua eo biển Drake (Passage). Eo biển Mozambique là con đường biển quan trọng giữa Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương.
Bộ Ưng (danh pháp khoa học: Accipitriformes) là một bộ chim ăn thịt bao gồm phần lớn các loài chim săn mồi ban ngày như diều hâu, đại bàng, kền kền và nhiều loài khác nữa, với tổng cộng khoảng 263 loài. Bộ Ưng và bộ Cắt Trong quá khứ người ta có xu hướng thường gộp tất cả các loài chim săn mồi với các loài trong họ Cắt (Falconidae), bao gồm các loài chim cắt và caracara) vào bộ Cắt (Falconiformes). Khi tất cả các loài chim ăn thịt săn mồi ban ngày được coi như là một bộ duy nhất, thì bộ Cắt nghĩa rộng (Falconiformes sensu lato) bao gồm khoảng 329 loài. Tuy nhiên, một số tác giả vẫn nghi ngờ về tính đơn ngành của bộ Cắt nghĩa rộng và công nhận sự tồn tại của bộ Ưng. Nếu các loài chim cắt và các đồng minh của chúng được cho là đủ khác biệt để tách riêng như một bộ độc lập, thì bộ Cắt nghĩa hẹp (Falconiformes sensu stricto) chỉ bao gồm khoảng 66 loài chim cắt trong họ Cắt (Falconidae), còn các họ còn lại trở thành một phần của bộ Ưng (Accipitriformes). Nghiên cứu DNA gần đây chỉ ra rằng các loài cắt không có quan hệ họ hàng gần với các loài chim săn mồi còn lại, thay vì thế chúng có quan hệ họ hàng gần với các loài vẹt (Psittaciformes) và sẻ (Passeriformes), trong khi các họ Pandionidae và Sagittariidae là có quan hệ họ hàng gần nhất với họ Accipitridae, và chúng tạo thành một nhánh đơn ngành. Kể từ đó sự tách ra (nhưng không phải là vị trí của cắt cận kề với vẹt và sẻ) đã được các tổ chức có uy tín về điểu học như Ủy ban Phân loại Nam Mỹ (SACC), Ủy ban Phân loại Bắc Mỹ (NACC) trực thuộc Hiệp hội các nhà điểu học châu Mỹ (AOU) và Đại hội Điểu học Quốc tế (IOC) công nhận. Đề xuất dựa trên DNA cũng như các phân loại của NACC và IOC gộp các loài kền kền Tân thế giới vào bộ Accipitriformes. Cách tiếp cận này được tuân theo trong bài này. Phân loại của SACC tách kền kền Tân thế giới thành bộ riêng gọi là Cathartiformes. Vị trí phân loại của kền kền Tân thế giới đã từng không rõ ràng kể từ đầu thập niên 1990, với một số học giả từng đặt kền kền Tân thế giới trong bộ Ciconiiformes; trên cơ sở một số chứng cứ nghiên cứu phân tử, hình thái và hành vi cho thấy chúng có quan hệ họ hàng gần gũi với các loài cò hơn là với họ Accipitridae. Phân loại Các loài ưng biển có nhiều điểm tương tự như họ Accipitridae và thông thường cũng hay được coi như là các thành viên của họ này. Tuy vậy, do chúng cũng có nhiều điểm khác biệt rõ ràng, nên người ta cũng đặt nó trong một họ riêng là họ Pandionidae. Họ Cathartidae: Kền kền Tân thế giới. Có thể tách thành bộ riêng (Cathartiformes). 5 chi và 7 loài. Họ Pandionidae: Ưng biển, ó cá. 1 chi, 1-2 loài. Pandion cristatus được tách ra từ P. haliaetus (theo Wink và ctv. 2004, Christidis & Boles 2008 thì là 3-4 loài), hiện tại IOC công nhận 2 loài, nhưng BirdLife International (2011) lại không công nhận. Họ Accipitridae: Ưng, diều hâu, đại bàng, ó buteo, kền kền Cựu thế giới, diều, diều mướp và các đồng minh (cắt-không thực thụ). 65-70 chi và 253 loài. Họ Sagittariidae: Diều ăn rắn. 1 chi, 1 loài. †Horusornithidae Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài trong phạm vi bộ Ưng dưới đây vẽ theo Ericson và ctv. (2006), Hackett và ctv. (2008). Đặc trưng Các loài trong bộ Accipitriformes được biết đến từ Trung Eocen (chi có lẽ là cơ sở Masillaraptor từ mỏ đá Messel) và thông thường có mỏ hình móc cong sắc nhọn với da gốc mỏ (khối mềm) trên bề mặt đầu gần lưng, nơi chứa lỗ mũi. Các cánh của chúng dài và khá rộng, phù hợp cho kiểu bay liệng, với 4–6 lông cánh sơ cấp có khía phía ngoài. Accipitriformes có các chân khỏe và bàn chân với các móng vuốt của chim ăn thịt và một vuốt sau mọc ngược. Gần như tất cả các loài trong bộ Accipitriformes đều là chim ăn thịt, săn mồi trong thời gian ban ngày hay vào lúc chạng vạng. Chúng có tuổi thọ cao và phần lớn có tốc độ sinh sản chậm. Chim non có giai đoạn lớn rất nhanh kéo dài, tiếp theo là 3–8 tuần được chim bố mẹ chăm sóc tại tổ sau lần tập bay đầu tiên, và 1 tới 3 năm để thuần thục về mặt sinh dục. Chim trống và mái có kích thước khác biệt rõ nét và đôi khi chim mái to và nặng hơn chim trống tới 2 lần. Dị hình giới tính này đôi khi lên tới cực điểm ở các loài chuyên ăn thịt chim, chẳng hạn như ở các loài ưng thuộc chi Accipiter, và gần như không thấy có khác biệt ở các loài kền kền (Aegypiinae). Nói chung chúng có kiểu quan hệ một vợ một chồng (đơn phối ngẫu), mặc dù khi một con chết đi thì con còn lại có thể tìm kiếm bạn tình mới. Bộ Accipitriformes thuộc về số các bộ có sự đa dạng nhất về kích thước, từ nhỏ như các loài chim ưng nhỏ cho tới lớn như các loài kền kền Cựu thế giới, còn thần ưng Andes (Vultur gryphus) là loài chim to lớn nhất còn sinh tồn, nếu như họ Cathartidae được gộp trong bộ này. Chú thích
Lê Uy Mục (chữ Hán: 黎威穆; 5 tháng 5 năm 1488 – 20 tháng 1 năm 1510), đôi khi còn gọi là Mẫn Lệ công (愍厲公), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian trị vì của mình, ông chỉ dùng một niên hiệu là Đoan Khánh. Ông được xem là một vị hoàng đế tàn bạo và hoang dâm, nổi tiếng là một bạo chúa, người đời gọi là Quỷ vương (鬼王). Ông được sử gia đánh giá là hôn quân trong lịch sử nhà Hậu Lê nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung. Thời đại của ông đánh dấu giai đoạn chuyển thịnh thành suy của vương triều nhà Hậu Lê. Lê Uy Mục không chăm lo chính sự, hằng đêm đều cùng các cung nhân uống rượu, khi say thì giết chết tất cả bọn họ. Triều chính thời ông trị vì rơi vào tay ngoại thích và bọn hoạn quan, khiến cung đình bị nhơ nhuốc. Ông một tay dần giết hại các đại thần như Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật, chèn ép Nguyễn Văn Lang khiến ông này phải chạy đi, vì tất cả đều không thuận lập Uy Mục sau khi Lê Hiến Tông qua đời. Đã vậy, ông còn nghi kị tông thất, giết cả anh em cha chú của mình, từ quần thần đến thân thuộc đều lo sợ, càng quyết tâm phản loạn. Năm 1509, em họ Lê Uy Mục là Giản Tu công Lê Oanh liên kết với đại thần Nghĩa quận công Nguyễn Văn Lang phất cờ nổi dậy ở Tây Đô (Thanh Hóa), dẫn binh tới Đông Kinh, đánh bại tất cả các đạo quân do Lê Uy Mục gửi đến. Lê Oanh vào kinh thành, phế truất và bắt giam Uy Mục. Cuối cùng, Uy Mục phải uống thuốc độc tự sát, xác của ông bị đem nhét vào súng thần công để bắn cho tan nát. Thiếu thời Lê Uy Mục có tên húy là Lê Tuấn (黎濬), còn có tên là Lê Huyên (黎諠) hay Lê Nghị (黎誼), là con trai thứ hai của Lê Hiến Tông, mẹ là Chiêu Nhân Duệ Hoàng hậu Nguyễn Thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, Bắc Giang. Ông cũng là anh thứ của vua Lê Túc Tông. Lê Hiến Tông có sáu người con trai: con cả là An vương Lê Tuân (安王黎洵) do Mai Quý phi sinh; con thứ 2 là Uy Mục đế Lê Tuấn; con thứ 3 là Lê Thuần (Lê Túc Tông) do Trang Thuận Duệ Hoàng hậu sinh; con thứ 4 là Thông vương Lê Dung (通王黎溶) do Bùi Quý phi sinh ra; con thứ 5 là Minh vương Lê Trị (明王黎治) và cuối cùng là Tư vương Lê Dưỡng (思王黎瀁). Chiêu Nhân Hoàng hậu sinh thời thân phận hèn kém, bị Trường Lạc Hoàng hậu (hoàng hậu của vua Lê Thánh Tông) xem thường. Ngày 5 tháng 5, năm Hồng Đức thứ 19 (1488), giờ Tỵ, bà sinh ra ông rồi qua đời do băng huyết, ông được giao cho Nguyễn Kính phi nuôi nấng. Kính phi không có con, xem ông như con đẻ và hết lòng chăm sóc. Lê Túc Tông mất sớm sau sáu tháng tại vị, để lại di chiếu truyền ngôi cho anh thứ Lê Tuấn. Tuy nhiên, Huy Gia Thái hoàng thái hậu không chịu lập ông lên ngôi, mà muốn truyền ngôi cho người trong hoàng tộc là Lã Côi vương. Nguyễn Kính phi cùng đại thần Nguyễn Nhữ Vy bày mưu lừa Thái hoàng thái hậu ra khỏi thành đón Lã Côi vương, sau đó đóng cửa thành và nhanh chóng sắp xếp đưa được ông lên ngôi. Thái hoàng thái hậu quay về thấy vậy thì không vui, bà cho rằng mẹ ông là người thấp hèn, nên ông cũng sẽ chẳng ra gì, điều này khiến Lê Tuấn oán hận Thái hoàng thái hậu. Ngày 18 tháng 12 năm 1504 âm lịch (tức ngày 22 tháng 1 năm 1505 dương lịch), Lê Tuấn lên ngôi, tự xưng làm Quỳnh Đô động chủ (瓊都洞主), đặt niên hiệu là Đoan Khánh (端慶), đại xá thiên hạ. Cai trị Ngày 22 tháng 3, năm Đoan Khánh thứ nhất (1505), Thái hoàng thái hậu đột ngột qua đời, hưởng thọ 65 tuổi. Uy Mục từ lâu đã mang lòng oán hận Thái hoàng thái hậu, cho rằng bà đã thường xuyên xúc phạm, nhục mạ mẹ ruột của mình, nên khi vừa lên ngôi, đã ngầm sai bọn thân tín đánh thuốc độc giết chết bà ta. Để che giấu tội giết bà nội, ông vờ ban bố nghỉ chầu bảy ngày để chịu tang, dâng thụy hiệu cho bà để tỏ lòng kính trọng. Ngày 5 tháng 6 cũng năm ấy, ông giết quan Lễ bộ Thượng thư là Đàm Văn Lễ và quan Đô Ngự sử là Nguyễn Quang Bật. Trước đây khi Hiến Tông mất, Nguyễn Kính phi đã mang vàng lụa đến tặng Văn Lễ và Quang Bật để họ lập con mình lên ngôi. Tuy nhiên, hai người này đã không chịu lập Uy Mục mà quyết chí lập Túc Tông theo di chiếu của tiên đế, do đó ông căm giận lắm. Để trừ khử bọn họ, Uy Mục dùng mưu của hai gian thần Khương Chủng và Nguyễn Nhữ Vi, biếm chức hai người xuống làm Thừa tuyên sứ ở Quảng Nam và bắt họ vào đó nhận việc. Khi họ đến con sông lớn ở huyện Chân Phúc, ông sai một toán quân đuổi theo bắt phải tự tử. Hai người khi sắp gieo mình xuống nước đã ngâm thơ quốc ngữ rồi mới tuẫn tiết. Sau này các đình thần trong bụng ai cũng biết là hai người chết không đáng tội, liền can gián ông, ông bèn đổ tội cho Nguyễn Nhữ Vi rồi cho hành quyết y. Riêng Khương Chủng do vừa là đồng hương vừa là người trong phe cánh cũ của mẹ ruột hoàng đế nên được tha. Tháng giêng năm 1507, khi sang Đại Việt để sách phong cho Lê Uy Mục làm An Nam Quốc vương (安南國王), phó sứ thần của nhà Minh là Hứa Thiên Tích (許天錫) trông thấy tướng mạo hoàng đế, đã làm thơ gọi ông là Quỷ vương (鬼王): An Nam tứ bách vận vưu trường Thiên ý như hà giáng quỷ vương? (Vận An Nam còn dài bốn trăm năm Ý trời sao lại sinh ra vua quỷ?) Ông từ khi lên ngôi không chăm lo chính sự, chỉ ham rượu chè, gái đẹp, thích giết người, đêm nào cũng cùng với cung nhân uống rượu vô độ rồi hành lạc, đến khi say thì giết đi. Tính vốn ưa vũ dũng, Uy Mục từng sai quản tượng và giám ngự mã đánh nhau làm trò mua vui ngay trong cung điện. Trong một lần đi tế đàn Nam Giao trở về, Lê Uy Mục cưỡi voi vào cửa Đông Hoa, sai các Ti và quân các Vệ trong Ngũ Phủ đem voi công đến cho vua tuyển chọn. Sau đó, vua lại sai các trấn chọn voi đem về kinh đô để chọn lựa thêm một lần nữa, cốt sao đủ đặt hai Ti là Ngự Tượng và Ngự Mã. Vua cho bọn quân sĩ ở ti Ngự Tượng đội mũ màu thủy ngân, trên vẽ hoa hồng quỳ. Mỗi ngày, vua sai hai tên giám quân đấu sức với nhau. Hai tên cầm gậy đánh nhau từ cửa Thanh Dương đến ngoài cửa Thái Miếu. Ông xem việc đánh nhau của hai ngự giám quân mà lấy làm thích thú, ban thưởng tiền lụa cho họ. Dưới thời Uy Mục, quyền hành trong triều rơi vào tay họ ngoại của hoàng đế. Bấy giờ, họ ngoại của ông có đến ba phe cánh, cánh phía đông là làng Hoa Lăng (quê của mẹ nuôi ông là Kính phi), cánh phía tây là làng Nhân Mục (quê của vợ ông là Trần Hoàng hậu), và cánh phía bắc là làng Phù Chẩn (quê của mẹ đẻ ông là Chiêu Nhân Duệ Hoàng hậu). Được sự hậu thuẫn của hoàng đế, ba phe cánh này đều chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân, kẻ thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của, mọi thứ súc vật, hoa màu của dân, chúng đều cướp đoạt cả, nhà nào có đồ lạ, vật quý, chúng đánh dấu chữ vào và đòi lấy. Muôn dân ta oán mà hoàng đế vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ. Tháng 8 năm 1509, Uy Mục ra lệnh cho giết hết những người Chiêm bị bắt làm gia nô trong điền trang của các thế gia, công thần. Trước đây, ông nội của ông là vua Lê Thánh Tông khi thân chinh đánh Chiêm Thành đã bắt được em Trà Toàn là Trà Toại và vợ con ông ta đem về Đại Việt, cho an trí ở ngoài cửa Bảo Khánh gần 30 năm. Đến thời Cảnh Thống, Trà Toại đã chết, con ông là Trà Phúc mang trộm hài cốt của cha trốn về nước. Đến nay, những nô lệ người Chiêm ở điền trang của các thế gia, công thần thấy vậy cũng tìm cách đào thoát về nước. Nghi người Chiêm làm loạn, Uy Mục hạ lệnh giết các gia nô người Chiêm còn lại trong các điền trang đến gần hết, chỉ còn mỗi bọn người Chiêm do Chế Mạn cầm đầu bỏ trốn thành công, về sau bọn họ đã tham gia cuộc binh biến lật đổ ông. Để gia cố và duy trì quyền lực, Uy Mục xua đuổi người tông thất và công thần về xứ Thanh Hoa và giết các nữ sử nội thần người Chiêm. Bấy giờ bọn ngoại thích của ông là Khương Chủng và Nguyễn Bá Thắng tự tiện làm oai làm phúc, quyền thế nghiêng lệch trong triều ngoài trấn, dân chúng không dám cất tay động chân. Nhà pháp thuật bị cấm làm phù chú, đạo sĩ thờ đạo phải cắt tóc không được để dài. Do vậy, các phố xá, hàng chợ nhà nào thờ tiên sư đều phải cất giấu đi. Sau này, đám ngoại thích khác của hoàng đế là Thừa Giáo, Thừa Nghiệp đi đường, quan viên và dân chúng trông thấy chúng từ xa đã phải chạy trốn đi, đợi chúng đi qua rồi mới dám ra. Người thân tín của Uy Mục là Nguyễn Đình Khoa ngầm sai người đến Thừa Hiến phủ huyện các xứ trong nước, tới cả dân gian, cưỡng bắt những con gái chưa chồng, làm khốn khổ nhân dân, khắp cả nước dần mất hết hy vọng. Các bá quan người nào ngày trước không lập Uy Mục, thì đều bị ông thanh trừng để trả thù. Uy Mục còn ngầm sai Nguyễn Đình Khoa dò xét cả 26 thân vương là các chú và anh em bên họ nội của ông. Trong đó, Kinh vương Lê Kiện là chú đã chạy trốn không biết đi đâu, chỉ có Giản Tu công Lê Oanh là con của Kiến vương Lê Tân, chú ruột của hoàng đế, thì bị bắt giam vào ngục nhưng sau đó trốn thoát được. Do vậy, mọi người đều cảm thấy nguy đến thân mình, càng nghĩ đến việc nổi loạn. Bị lật đổ Sự tàn bạo quá đáng của Uy Mục đã gây nên một làn sóng bất bình trong dân chúng và trong hàng ngũ quan lại, tông thất, dòng dõi họ Lê. Bấy giờ, thân thích của Trường Lạc Hoàng thái hậu là Nguyễn Văn Lang cũng là một trong số người bị triều đình đuổi về quê quán. Đại thần tông thất là Nghi quận công Lê Năng Can, vì bất đắc chí, có bài thơ gửi cho Nguyễn Văn Lang và khuyên ông nổi dậy giết bọn ác đảng. Văn Lang là người thông thao lược, giỏi binh pháp, khéo xem xét thiên thời. Ông đem bọn nô lệ người Chiêm đã ra hàng là Chế Mạn cùng các tướng Vũ Bá, Vũ Tiếp và người ba phủ nổi dậy ở thành Tây Đô, đem quân giữ ở cửa biển Thần Phù. Cũng thời điểm đó, Lê Uy Mục liên tục bắt giam, giết hại người tông thất. Trong số các thân vương họ Lê bị triều đình bắt giam, Giản Tu công Lê Oanh đã đút tiền cho người canh ngục mới được thả ra, trốn về Tây Đô (Thanh Hóa), được Nguyễn Văn Lang lập làm minh chủ để khởi binh nổi dậy chống lại Uy Mục đế. Lương Đắc Bằng được lệnh viết hịch kêu gọi bá quan hưởng ứng, cụ thể là: (Gò Hoa Cương: Tức đá hoa cương. Tống Huy Tông thích hoa đẹp, đá lạ, bắt dân đem về, thuyền ghe đầy sông Hoài về Biện Kinh tạo nên cái gò đầy đá hoa cương.) Ngoài ra, phe Giản Tu công Lê Oanh cũng có bài hịch như sau: Ngày 8 tháng 11 năm 1509, Giản Tu công giả xưng là Cẩm Giang Vương Lê Sùng (黎漴), tức anh trai ông. Từ Tây Đô, ông đưa quân cả thủy lẫn bộ tiến về Đông Kinh (Hà Nội). Thủy quân tiến đến núi Thiên Kiện. Uy Mục dùng hai chiếc thuyền nhẹ Hà Thanh và Hải Thanh đi đến chùa Bảo trên núi Thiên Kiện, bắt được một viên tướng thủy quân của Giản Tu công và giết được 20 binh sĩ đem xác về ngoài cửa Đông Hoa. Uy Mục cho tướng là Lê Vũ làm Tán lý cũng nhiều người khác đem cấm quân và quan quân thuộc các vệ Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền đi chống giữ nhưng đều bị phe Lê Oanh đánh bại. Đến ngày 23 tháng 11, Uy Mục quyết định bắt giết anh em của Giản Tu công Lê Oanh bao gồm Lê Sùng và cả mẹ ông ta là Trịnh Thị Tuyên, sau đó lệnh cho Lê Vũ mang thủ cấp của Lê Sùng ra chiến trường, giơ cho quân Lê Oanh xem, hòng uy hiếp tinh thần họ. Lê Vũ nói: Đây là cái đầu của Cẩm Giang vương, chúng bay còn nói láo làm gì? Tuy nhiên, quân của Giản Tu công không những không mất sĩ khí, lại tiến đánh hăng hơn. Lê Vũ bị quân Lê Oanh bao vây ở trận Đồng Lạc. Lê Oanh dụ hàng nhưng Lê Vũ vẫn một mực không chịu khuất phục nên bị giết. Trận này, quân của Uy Mục thua to, các tướng khác của ông như Dương Trực Nguyên, Phạm Thịnh, Trần Năng cũng tử trận ở Châu Cầu. Ngày 26, các đạo quân của Lê Oanh đều tiến sát Đông Kinh. Uy Mục đế vì cần thêm quân để chống giữ mới lấy vàng bạc ban cho bọn tội nhân bị giam ở ty Ngũ hình mỗi người 3 quan, rồi sai đi đánh quân Lê Oanh. Những tù nhân vốn oán hận sự bạo ngược của hoàng đế nên khi nhận được tiền đều bỏ trốn về nhà. Uy Mục sợ hãi lại vội vã chọn người đi gọi quân các trấn Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Băng; bắt mỗi trấn lấy 5.000 thổ binh đến cứu viện. Nhưng khi họ còn chưa đem quân tới, thì đại quân của Lê Oanh đã áp sát vào thành, nhiều người bỏ chạy thoát thân. Tướng trấn thủ kinh thành là Lê Quảng Độ (黎廣度) phản Uy Mục theo Giản Tu công, xin làm nội ứng cho quân nổi dậy. Ông ta cùng với Lê Oanh người trong kẻ ngoài thông tin với nhau, lại cho bắn súng làm hiệu, dựng gậy làm cờ, chặt cây làm binh khí giả đánh lẫn nhau làm cho các quân kinh hãi, buộc Uy Mục phải chạy lên phía Bắc. Cuối cùng kinh thành thất thủ, Uy Mục sợ hãi trốn vào phường Nhật Chiêu. Hoàng hậu Trần Thị Tùng của ông cũng trốn ra đến xã Hồng Mai, náu ở nhà dân rồi treo cổ tự sát ở miếu chùa. Giản Tu công tiến vào chiếm Đông Kinh, nghe tin mẹ và anh em mình đều đã bị Uy Mục xử tử, sai quan sửa việc tang và làm lễ chôn cất. Đến ngày 28, trong lúc đang chạy trốn, Uy Mục bị một vệ sĩ cũ của mình bắt được đem nộp cho Giản Tu công và bị giam vào cửa Lệ Cảnh. Nhận thấy đã đường cùng, ngày 1 tháng 12 năm 1509 âm lịch (tức ngày 20 tháng 1 năm 1510 dương lịch), Lê Uy Mục uống thuốc độc tự vẫn. Giản Tu công Lê Oanh căm hận Uy Mục giết hại tàn nhẫn gia đình mình, chưa nguôi giận, sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng, rồi bắn cho nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng ở quê mẹ ruột ông tại làng Phù Chẩn (nay là xã Phù Chẩn, thị xã Từ Sơn, thành phố Bắc Ninh) . Giản Tu công tự lập làm vua, tức Lê Tương Dực. Lê Uy Mục ở ngôi được 5 năm, thọ 22 tuổi. Ban đầu, Lê Tương Dực giáng ông xuống làm Mẫn Lệ công (愍厲公). Sau này khi Lê Chiêu Tông lên ngôi mới đặt tên thụy cho ông là Uy Mục đế (威穆帝). Gia quyến Cha: Lê Hiến Tông Lê Tranh. Mẹ: Mẹ đẻ: Chiêu Nhân Duệ Hoàng hậu Nguyễn thị (昭仁睿皇后阮氏), người phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Vừa sinh ra Uy Mục thì qua đời. Mẹ nuôi: Kính phi Nguyễn thị (敬妃阮氏), người làng Hoa Lăng, huyện Thủy Đường. Nuôi nấng Uy Mục đến khi trưởng thành và giúp ông đoạt được hoàng vị, sau dòng họ của bà làm loạn triều đình. Hậu cung: Hậu duệ: Nhận định Sau khi lật đổ Uy Mục, Lê Oanh sai các quan tướng dâng biểu trần tình với nhà Minh. Lời biểu có đoạn lên án Lê Uy Mục như sau: "Đoan Khánh Lê Tuấn tập phong tước vương đã được 4 năm, tin dùng phe cánh họ mẹ là bọn Khương Chủng, Nguyễn Bá Tuấn, ngang tàn bạo ngược, đảo lộ triều cương, tàn sát họ hàng, giết ngầm tổ mẫu, người trong nước điêu linh, dân không chịu đựng nổi. Bọn Chủng, Thắng quyền át trong ngoài, ác đảng ngày càng lan rộng, mưu cướp quyền nước." Theo sách Hồng Thuận Trị bình bảo phạm: "Đời Đoan Khánh, bọn hoạn quan thọc vào chính sự, kẻ ngoại thích mặc sức chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ cương rối loạn, nông tang tiêu tàn mất nghiệp, phong tục ngày một suy đồi, thực rất đáng thương tâm. Huống chi, lại tàn sát người cốt nhục, hãm hại kẻ bề tôi, những việc làm như vậy thì muốn không bị diệt vong có được không?" Còn sách Hồng Thuận Trung hưng ký của Nguyễn Dục cũng ghi nhận: "Mẫn Lệ công thất đức, bọn Chủng, Thắng chuyên quyền. Thừa Nghiệp là thằng nhãi chăn trâu mà kiêm coi cả phủ Tông nhân; Tử Mô là đứa trẻ bán cá lại trông giữ hết quân Túc vệ. Tiến dùng bè lũ sài lang, đua mở rộng đường hối lộ. Xây phủ đệ thì rừng núi các xứ Thái Nguyên, Tuyên Quang không còn cây để lấp nguồn dục vọng, đòi mắm muối thì sông biển các vùng Nghệ An, Yên Bang không còn cá mà nhét miệng đói thèm. Gươm Thái A trở ngược, đồ thần khí lung lay, tai dị sinh luôn, hạ dân ta oán, bị diệt vong là đáng lắm rồi." Sử thần triều Lê cũng đưa ra những lời bàn:
Lê Tương Dực (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là Lê Oanh (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước Đại Việt. Ông cai trị từ năm 1509 đến năm 1516 với niên hiệu Hồng Thuận (洪順), ở ngôi tổng cộng 7 năm. Khi mới lên ngôi, Lê Tương Dực tỏ ra là vị vua siêng năng, hăng hái cải cách nền chính trị đang trên đà suy thoái với mong muốn chấn hưng lại vương triều sau 5 năm bị suy đồi dưới thời Uy Mục, giai đoạn đầu cai trị của ông thường gọi là Hồng Thuận trung hưng (洪順中興). Nhưng không lâu sau, ông lại buông lỏng chính sự, ăn chơi trụy lạc, cuối cùng bị gian thần hại chết và từ đó dẫn tới thời kỳ loạn lạc cuối triều Lê Sơ. Lê Oanh là cháu nội của Lê Thánh Tông và theo vai vế là em họ của Lê Uy Mục. Năm 1509, khi bị Lê Uy Mục bắt giam, ông vượt ngục trốn vào Thanh Hóa, cùng đại thần Nguyễn Văn Lang nổi quân ba phủ khởi nghĩa, quyết lật đổ Lê Uy Mục. Quân khởi nghĩa tiến ra Đông Kinh, đánh bại và giết chết Uy Mục. Lê Oanh tự lập làm vua, buổi đầu có một số cố gắng chỉnh đốn triều chính, sửa sang giáo dục, khôi phục văn miếu, biên chép sử sách. Nhưng chẳng bao lâu sau ông lại sa đọa như Uy Mục trước đây. Đặc biệt, năm 1516, Tương Dực sai Vũ Như Tô xây dựng cung điện 100 nóc, lại xây công trình quy mô lớn là Cửu Trùng đài, làm nhiều cung điện quy mô hơn xung quanh. Cũng vì vậy, tài nguyên đất nước dần suy kiệt, người lao động bị sai đi xây dựng đến kiệt sức, tạo mầm mống cho nhiều cuộc nổi loạn xảy ra, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của Trần Tuân (1511) và Trần Cảo (1516) khiến nhà vua và các tướng phải đánh dẹp rất vất vả. Năm 1516, Nguyên quận công Trịnh Duy Sản bàn mưu Thái sư Lê Quảng Độ và Thượng thư Trình Chí Sâm, đang đêm đem quân vào kinh sư giết chết Hồng Thuận đế. Trịnh Duy Sản giáng Hồng Thuận làm Linh Ẩn vương (靈隱王) rồi lập tông thất Lê Y (黎椅) lên thay, tức Lê Chiêu Tông. Ít lâu sau, Trịnh Duy Sản đi đánh Trần Cảo thì tử trận, Chiêu Tông mới xuống chiếu truy tôn Linh Ẩn vương là Tương Dực đế (襄翼帝). Thân thế Ông tên húy là Lê Oanh (黎瀠), còn có tên là Lê Trừu (黎晭), là cháu nội của Lê Thánh Tông, con trai thứ hai của Kiến vương Lê Tân và bà Trịnh Thị Tuyên, người làng Thủy Chú, huyện Lôi Dương (tức Thọ Xuân, Thanh Hóa). Kiến vương Lê Tân có bốn người con trai, đều do Trịnh Phu nhân sinh ra: con cả là Lê Sùng (黎漴) được phong Cẩm Giang vương (錦江王), con thứ 2 chính là Lê Oanh; con thứ 3 là Lê Vinh (黎濴) được phong Tĩnh Lượng công (靖亮公) và con út là Lê Quyên (黎娟) do còn nhỏ nên chưa được phong. Dưới thời Lê Hiến Tông, ông được phong làm Giản Tu công (簡修公). Lật đổ Lê Uy Mục Vua Lê Uy Mục từ khi lên ngôi chỉ ăn chơi sa đọa, lại có tính hung bạo nên các tông thất, thân vương họ Lê vô cùng bất bình. Do nghĩ rằng những người này đang mưu phản, vua thường cho người bắt giam, tra khảo, giết hại nhiều anh em chú bác bên họ nội của mình, lại dung túng cho ngoại thích chuyên quyền. Bản thân Lê Oanh khi đó là em họ của Uy Mục cũng bị tống vào ngục. Do muốn chạy thoát ra ngoài, ông đem của cải đút lót cho người cai ngục. Người cai ngục được tiền, liền thả cho ông chạy thoát. Lê Oanh một mình chạy trốn vào thành Tây Đô mà không kịp báo tin cho mẹ, anh em mình. Đến khi chạy đến được cửa biển Thần Phù, Lê Oanh được đại thần thất sủng là Nguyễn Văn Lang ra đón rước, rồi được tôn lên làm minh chủ. Ông cùng Nguyễn Văn Lang và những người khác như Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm, Nguyễn Bá Tuấn, Lê Tung, Nguyễn Thì Ung dấy binh khởi nghĩa chống lại Lê Uy Mục. Để chiêu dụ các đại thần và các quan, Lê Oanh sai Lương Đắc Bằng viết hịch rằng: Ngày 8 tháng 11 năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh khởi binh tiến quân thủy bộ từ thành Tây Đô. Thủy quân tiến đến núi Thiên Kiện. Uy Mục đế dùng hai chiếc thuyền nhẹ Hà Thanh và Hải Thanh đi đến chùa Bảo trên núi Thiên Kiện, bắt được một viên tướng thủy quân của Giản Tu công và giết được 20 binh sĩ đem xác về ngoài cửa Đông Hoa. Uy Mục cho Lê Vũ làm Tán lý cũng nhiều người khác đem cấm quân và quan quân thuộc các vệ Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền đi chống giữ nhưng bị Lê Oanh đánh bại. Ngày 23 tháng 11 cùng năm, các anh em trai của ông là Cẩm Giang vương Lê Sùng (黎漴), Tĩnh Lượng công Lê Vinh (黎濴), Lê Quyên (黎娟) cùng Trịnh Phu nhân (mẹ Lê Oanh) và phò mã Nguyễn Kính (阮敬) đều bị Uy Mục bắt giết. Tuy vậy, quân của ông vẫn dùng cờ chiêu an của Cẩm Giang vương (錦江王) để dụ Lê Vũ về hàng. Lê Vũ mới đem đầu Cẩm Giang vương ra trước trận, giơ lên cho xem và nói: Đây là cái đầu của Cẩm Giang vương, chúng bay còn nói láo làm gì? Nói rồi, Vũ mới cưỡi voi chỉ huy binh sĩ tiến đánh đến xứ Đồng Lạc. Quân của Lê Oanh không mất sĩ khi, đánh tan được đạo quân của Lê Vũ và bắt sống được ông. Lê Oanh dụ hàng nhưng Vũ vẫn một mực không chịu khuất phục nên giết luôn Vũ. Trận này, quân của Uy Mục đại bại, các tướng triều đình như Dương Trực Nguyên, Phạm Thịnh, Trần Năng cũng bị chết ở Châu Cầu. Ngày 26 năm ấy, các dinh quân của Lê Oanh đều tiến đến các xứ Bảo Đà, Nhân Mục, Hồng Mia, Thiêu Thân ở ngay sát Đông Kinh. Uy Mục đế vì cần thêm quân để chống giữ mới lấy vàng bạc tiền của ban cho bọn tội nhân bị giam ở ty Ngũ hình mỗi người 3 quan, rồi sai đi đánh quân Lê Oanh. Tù nhân nhận được tiền, không những không đi đánh mà người nào người nấy đều bỏ về nhà. Uy Mục Đế sợ hãi lại vội vã chọn người đi gọi quân các xứ. Những người này đi chưa đến nơi thì đại quân của Lê Oanh đã áp sát vào kinh thành, nhiều người bỏ chạy thoát thân. Tướng trấn thủ Đông Kinh là Lê Quảng Độ (黎廣度) muốn quy thuận Giản Tu công, đã bí mật làm nội ứng cho ông. Hai bên người trong kẻ ngoài thông tin với nhau, lại cho bắn súng làm hiệu, dựng gậy làm cờ, chặt cây làm binh khí giả đánh lộn lẫn nhau cho các quân kinh hãi, rồi mới ép Uy Mục chạy lên phía Bắc. Giản Tu công Lê Oanh sau khi đem quân vào thành Đông Kinh nghe tin gia quyến đều bị hại, liền sai quan sửa việc tang và làm lễ chôn cất. Ngày 28 năm ấy, Uy Mục chạy tới phường Nhật Chiêu thì bị một vệ sĩ cũ bắt được, nộp cho Giản Tu công. Ông cho giết tên vệ sĩ vì tội bất trung, rồi đem giam Uy Mục ở cửa Lệ Cảnh. Ngày 1 tháng 12, Uy Mục thấy đường cùng nên đã uống thuốc độc tự tử. Giản Tu công Lê Oanh vì căm hận việc Uy Mục sát hại gia quyến mình rất thảm khốc, nên sai người để xác Uy Mục vào miệng súng thần công, rồi bắn cho nổ tan xác. Ngày 4 tháng 12 cùng năm ấy (tức ngày 23 tháng 1 năm 1510 âm lịch), Giản Tu công Lê Oanh tự lập làm Hoàng đế, tức Lê Tương Dực, lấy niên hiệu là Hồng Thuận (洪順). Ông lấy ngày sinh làm Thiên Bảo thánh tiết (天保聖節), tự xưng là Nhân Hải Động chủ (仁海洞主). Trị vì Hưng trị Vừa khi lên ngôi, Tương Dực đã trọng thưởng các công thần. Ông ra chỉ ban thưởng như sau: Nguyễn Văn Lang từ Nghĩa quận công (義郡公) lên làm Nghĩa quốc công (義國公); Lê Quảng Độ từ Thiệu quận công (紹郡公) lên làm Thiệu quốc công (紹國公); Lê Phụ (黎輔) từ Lượng quận công (諒郡公) lên làm Lượng quốc công (諒國公); Lê Bá Lân (黎伯璘) từ Uy quận công (威郡公) lên làm Uy quốc công (威國公); Trịnh Duy Đại (鄭維岱) từ Hộ bộ Thượng thư lên làm Văn quận công (文郡公); Trịnh Hựu (鄭侑) từ Thụy Dương hầu (瑞陽侯) lên làm Thọ quận công (壽郡公); Lê Mậu Chiêu (黎荗昭) từ Phò mã Đô úy lên làm Diên quận công (延郡公); Nguyễn Hoằng Dụ được ban làm An Hòa hầu (安和侯); Trịnh Duy Sản làm Mỹ Huệ hầu (美惠侯); Nguyễn Bá Tuấn (阮伯俊) từ Tổng binh chiêm sự Thanh Hóa thành Lễ bộ Thượng thư, tước Do Lễ bá (由禮伯); Lê Tung từ Thanh Hóa Thừa tuyên sứ thành Lại bộ Thượng thư, tước Đôn Thư bá (敦書伯); Nguyễn Thì Ung (阮時雍) từ Thanh Hóa Tham chính thành Ngự sử đài Đô ngự sử, tước Lương Văn bá (良文伯); Đàm Thận Huy (譚慎徽) được phong Hình bộ Thượng thư, Hàn lâm viện Thị độc, chưởng quản Hàn lâm viện; Lương Đắc Bằng (梁得朋) được làm Lại bộ tả Thị lang. Ngay sau đó Tương Dực cho bàn đặt quan Đề lĩnh, có các chức Chưởng đề lĩnh, Đồng đề lĩnh và Phó đề lĩnh, trông nom việc quân ở bốn mặt thành, chức trách là tuần phòng ở Kinh sư, canh phòng các nơi, tìm bắt kẻ gian. Trong những năm đầu cầm quyền, Tương Dực cũng có vài đóng góp thể hiện sự cố gắng vực dậy đất nước đã suy tàn, nhất là trong lĩnh vực khoa cử. Năm 1511, ông tổ chức kỳ thi Hội, đến kỳ thi Đình thì ông đích thân ra đề văn hỏi về đạo trị quốc. Đến năm 1514, các kỳ thi này tiếp tục được tổ chức, và vua đã thân hành ngự điện ra đầu bài văn sách hỏi về nhân tài. Tương Dực cũng cho trùng tu Quốc Tử Giám, dựng lại bia tiến sĩ tỏ rõ sự khuyến khích hiền tài. Đông các Đại học sĩ Đỗ Nhạc đã soạn bài ký ở Quốc Tử giám ca ngợi công đức của Tương Dực Đế: Hoàng đế thông minh xứng đáng bậc chí tôn, sáng suốt làm gương cả nước, khôi phục quy mô xây dựng cơ nghiệp của Thái Tổ Cao Hoàng, mở rộng nền móng văn giáo thịnh trị của Thánh Tông Thuần Hoàng. Sáng vầng sao Khuê, ngang trời dọc đất thì có tập Bảo thiên thanh hạ; mở gương trị giáo mẫu mực xưa nay thì có tập Quang thiên thanh hạ. Thánh học ngày càng cao minh, thánh đức ngày càng thuần túy. Hơn nữa, đến nhà Thái Học hỏi về đạo trị nước, ra nơi điện đình thi chọn bọn học trò, then máy cổ võ lại càng chu đáo lắm. Đã sai quan trùng tu Quốc tử giám và làm mới nhà bia, lại nghĩ tới hai khoa Ất Sửu, Mậu Thìn chưa có dựng bia, liền sai quan khắc bia soạn ký để dựng lên. Như vậy có thể thấy được cái ý tôn sùng đạo học, khuyến khích hiền tài sâu sắc dường nào!Việc thuế má thời bấy giờ cũng như mấy triều trước, nhưng không biết rõ tiền tài sản vật đồng niên thu được những gì. Đến đời Tương Dực thấy sử chép rằng trước thì thuế vàng thuế bạc đồng niên thu được: Vàng mười, thứ tốt gọi là "kiêm kim" 480 lượng; Vàng mười 2.883 lượng; Bạc 4.930 lượng. Nay, Tương Dực định lệ đổi lại mỗi năm thu được: Vàng mười thứ "kiêm kim" 449 lượng; Vàng mười 2.901 lượng; Bạc 6.125 lượng. Những vàng bạc đó nộp vào kho để cho hoàng gia tiêu dùng. Còn cách thu nộp thế nào cũng không rõ. Năm 1510, Lê Tương Dực sai Binh bộ Thượng thư, Quốc tử giám Tư nghiệp kiêm Sử quan Đô tổng đài Vũ Quỳnh soạn bộ Đại Việt thông giám thông khảo, gọi tắt là Đại Việt thông giám hay Việt giám thông khảo. Đại Việt thông giám chép theo lối biên niên các triều đại, gồm 26 quyển, chia thành Ngoại kỷ, chép từ thời Hồng Bàng đến hết nhà Ngô, và Bản kỷ, từ thời Đinh Tiên Hoàng đến khi Lê Thái Tổ bình định thiên hạ. Nhà vua còn sai Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu tri kinh diên sự Lê Tung soạn bài tổng luận về bộ sử ấy. Theo sĩ phu thời Nguyễn Phan Huy Chú, bộ sách này được Lê Nại đánh giá là quy mô và đúng với kinh, trúng với sử. Cũng trong thời Tương Dực, Vũ Quỳnh soạn sách Tứ triều bản kỷ (四朝本紀) chép biên niên bốn triều vua Lê Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông và Uy Mục. Rất có thể đây là tài liệu quan trọng mà sau này nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để hoàn tất biên soạn Đại Việt Sử ký Toàn thư. Ngày 27 tháng 4 năm 1511, ông ban sách Trị bình bảo phạm cho cả nước, gồm 50 điều khuyên răn, nhắc nhở từ quan lại đến dân chúng phải biết giữ lòng trung lương với hoàng đế, làm những điều có ích cho xã hội, giữ lẽ công bằng, học tập siêng năng, có trách nhiệm với công việc, đồng thời nghiêm trị với những trường hợp vi phạm. Ông cũng chủ trương ban hành giáo hoá, thận trọng hình phạt để lấy được lòng dân, với mục đích đổi mới chính trị, yên ổn xã tắc, khắc phục những tệ nạn do thời Đoan Khánh gây ra. Nội loạn Trần Tuân Ngày 11 tháng 11 năm 1511, người làng Quang Bị, huyện Bất Bạt là Trần Tuân nổi loạn ở vùng Sơn Tây. Bấy giờ, nhân dân các phố xá ở kinh thành náo động, đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Hoàng đế sai Hộ bộ hữu Thị lang Lê Đĩnh Chi, cùng các quan khoa, đài đi khám xét các phố xá hàng chợ, xem người nào còn nhà ở, người nào vợ con đã về quê quán, ra lệnh cấm rất nghiêm ngặt, xử tội rất nặng những người đã cho vợ con về quê quán, dân chúng khó bề nhấc chân động tay. Những người đã để vợ con về quê, thì phần nhiều đem người khác đến, nói dối là vợ con mình để đợi sai quan tới khám xét. Đến đây, lại sai xá nhân đến tận nhà các đại thần và văn thần xem thực hư ra sao, thì thấy vợ con của 5 người là bọn Lê Đĩnh Chi, Nguyễn Tông Thốc, Nguyễn Lý Quang và Hàn lâm Kiểm thảo Ngô Tuy, Giám sát Ngự sử Trần Húc đều về nguyên quán. Hoàng đế sai giết bọn Đĩnh Chi ở ngã ba phường Đông Hà, vì bọn Đĩnh Chi làm quan đi khám xét mà vợ con lại trốn về quê trước, cho nên xử tội. Tương Dực sai Mỹ Huệ hầu Trịnh Duy Sản chỉ huy quan quân đi đánh Trần Tuân. Bấy giờ, quân của Tuân đã bức sát đến huyện Từ Liêm (Quốc Oai), quan quân bại trận, lui về đóng ở các xứ Đông Ngạc, Nhật Chiêu. Thế quân của Tuân rất mạnh, muốn bức sát kinh thành. Nghĩa quốc công Nguyễn Văn Lang sai quân 6 vệ Điện tiền kéo thuyền Tiểu Thiên Quang xuống sông, định đưa hoàng đế ngự về Thanh Hóa, giữ nơi hiểm yếu rồi gọi hết bọn thợ của các sở ở Công bộ và thợ thường ban, bày kỵ binh ở xứ Đông Hà để giữ. Đến đêm, bọn họ hoảng sợ trốn về cả. Tương Dực sai Minh Luân bá Lê Niệm, Tổng Thái giám Lê Văn Huy và 2 người khoa văn học sinh đem lực sĩ của hai ty Hải Thanh và Hà Thanh chèo hai chiếc thuyền nhẹ ra xứ Từ Liêm để dò xét tình hình quân giặc. Niệm đến chợ An Giang trước thấy phố xá bị thiêu trụi, quan quân đã bại trận rút về, vượt sông vào xã Quả Hối. Niệm lại chạy về, vào điện tâu trước mặt Tương Dực. Bấy giờ, Duy Sản bị giặc đánh bại, thủ hạ chỉ còn hơn 30 người, xé áo làm hiệu, thề cùng nhau đánh giặc. Giờ Dậu, Duy Sản thình lình xuất hiện, đột nhập vào dinh của Tuân, thấy Tuân mặc áo đỏ ngồi trên giường uống rượu, liền dùng giáo đâm chết Tuân, bè đảng của Tuân đều tan chạy cả. Bấy giờ quân lính của Tuân đóng ở chỗ khác, không biết là Tuân đã chết, vẫn cứ đóng quân như trước. Ngày 20, Tương Dực làm lễ tấu cáo ở Thái Miếu, rồi sai Nguyễn Văn Lang đem tướng sĩ, voi ngựa của các doanh đi đánh. Bấy giờ, Duy Sản đã giết Trần Tuân, liền thừa thế bắn ba tiếng súng, các quân đánh trống hò reo tiến vào, đánh tan quân giặc, đuổi theo đến các xã Thuỵ Hương, Quả Động, Đông Ngạc, đâm chết rất nhiều tên địch. Sau này vua định công ban thưởng, ban phong Trịnh Duy Sản là Nguyên quận công (原郡公), những người đi theo Duy Sản đâm chết được nhiều giặc đều được trao chức đô chỉ huy đồng tri. Suy trị Năm 1513, hoàng đế Đại Minh là Vũ Tông sai chánh sứ Trần Nhược Thủy và phó sứ Phan Huy Tăng (潘希曾) sang Đại Việt để sắc phong Tương Dực làm An Nam quốc vương (安南國王). Đến khi trông thấy ông, Huy Tăng nói với người đồng hành Nhược Thủy rằng: "Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu" (安南國王貌羙而身傾性好滛乃諸王也乱亡不久矣), nên từ đấy có lời dị gọi ông là Trư vương (豬王). Đến khi đoàn sứ giả về, Tương Dực tặng biếu rất hậu. Nhược Thủy và Hy Tăng không nhận. Ông có bài thơ họa lại tiễn sứ thần về nước. Lời nói của sứ thần Đại Minh như báo hiệu cho nghiệp trị nước của Tương Dực sẽ sớm lụi tàn. Những năm về sau, ông chểnh mảng chính sự, chỉ lo xây cất nhà cửa, lâu đài, chơi bời xa xỉ trụy lạc. Tháng 5 năm 1514, nghe lời gièm pha của Hiệu úy Hữu Vĩnh, Tương Dực giết chết 15 vương công họ tông thất, cho gọi các cung nhân cũ của Lê Uy Mục vào cung để thông dâm. Cùng tháng đó, vua sai đắp thành bao sông Tô Lịch để làm điện Tường Quang. Năm 1516, hoàng đế cho đắp thành rộng cả ngàn trượng chắn ngang sông Tô Lịch. Để thể hiện uy quyền đế vương, ông sai một người thợ là Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, rồi lại xây Cửu Trùng đài. Quân dân làm trong mấy năm trời không xong, hao tổn tiền của, sức lực, khiến nhiều người chết. Từ khi bỏ bê việc nước, vua chỉ ngày ngày du ngoạn Hồ Tây, lại nghĩ ra nhiều trò tiêu khiển quái lạ. Thói trụy lạc của Tương Dực ngày càng lộ rõ khi ông từng ra lệnh làm thuyền chiến thật trang hoàng lộng lẫy để đi ngao du trên Hồ Tây, rồi còn bắt các cung nữ trần truồng, tay cầm cái chèo đánh nhịp làm đại nhạc để hoàng đế thưởng sắc. Mô tả về sự sa đọa của Tương Dực, sách Đại Việt sử ký toàn thư đã chép: Các cuộc nổi loạn Việc Lê Tương Dực bỏ mặc việc triều chính khiến nhà Lê càng lún sâu vào con đường suy vong; kinh tế, nông nghiệp của đất nước trở nên tiêu điều. Vào tháng 5 năm 1512, nhiều nơi ở Đại Việt liên tiếp xảy ra nạn đói nghiêm trọng do hạn hán và mất mùa. Do đó, những năm dưới thời Hồng Thuận thường xuyên xảy ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, khiến triều đình phải đánh dẹp vô cùng vất vả. Tháng giêng năm 1512, Nguyễn Nghiêm nổi loạn vùng Sơn Tây và Hưng Hóa nhưng nhanh chóng bị tướng Đỗ Nhạc đánh dẹp. Đến tháng 4 năm đó, Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Minh Triệt làm loạn ở vùng Nghệ An. Vua sai Khang quận công Trần Nghi và Đông các hiệu thư Trần Dực đi đánh. Vào đến địa phận Nghệ An, quân triều đình bị quân phản loạn phục kích cả hai mặt. Quan quân vượt xa biển, bị sóng gió đánh vỡ thuyền, toàn quân bị chết đuối. Nghi và Dực cũng chết chìm ngoài biển. Quân phản loạn tiến đến Lôi Dương. Tháng 5, vua sai Trịnh Duy Sản chỉ huy quan quân, và Đỗ Nhạc làm Tán lý quân vụ đến Thanh Hoa, Nghệ An đánh dẹp quân giặc, chém đầu Lê Minh Triệt đưa về Kinh sư bêu ở phường Đông Tân; bắt sống được Hy và Hưng đóng cũi giải về Kinh sư rồi giết. Tháng 1 năm 1515, Thuỵ quận công Ngô Bính và Nguyên quận công Trịnh Duy Sản được cử làm Đô tướng, Ngự sử đài thiêm đô ngự sử Nguyễn Khiêm Bính được cử làm Tán lý quân vụ đi đánh cuộc khởi nghĩa Phùng Chương ở vùng núi Tam Đảo. Phùng Chương thua chạy. Tháng 10 năm 1515, Đặng Hân và Lê Hất làm loạn ở vùng huyện Ngọc Sơn, Thanh Hoa. Ngày 27 tháng đó, vua sai tướng thống lãnh binh sĩ, lấy Đỗ Nhạc làm Tán lý quân vụ đi đàn áp cuộc nổi loạn. Ngày 23 tháng giêng năm 1516, Trần Công Ninh nổi loạn ở xứ đò Hối, huyện Yên Lãng. Ngày 23, vua sai Đông các đại Đỗ Nhạc trấn giữ Kinh thành, vua đích thân đem các đại thần văn võ và đô đốc năm phủ đi theo. Quân ra cửa Bắc Thần, vua ngự ở hành tại bên sông Nhị Hà, ra lệnh cho các tướng qua sông tiến đánh, phá tan quân giặc, giết được rất nhiều tên địch. Bị hại Tháng 4 năm Hồng Thuận thứ 8 (1516), nước Đại Việt xảy ra một cuộc nổi loạn lớn đánh dấu sự sụp đổ của triều đại Lê Tương Dực. Ở huyện Thủy Đường (Hải Phòng), một người là Trần Cảo (hay còn gọi là Trần Cao), thấy sấm nói rằng ở phương đông có thiên tử khí, bèn tụ tập được nhiều người chiếm lấy đất Hải Dương, Thủy Đường, Đông Triều, rồi tự xưng là vua Đế Thích giáng sinh. Trần Cảo thành lập quân đội, người đi theo đến hàng vạn. Trần Cảo đem quân về đóng ở đất Bồ Đề, bên kia sông Nhị Hà, định sang lấy kinh đô Đông Kinh. Tương Dực đích thân xuất chinh đi đánh giặc, ngự ở trên điện ra lệnh điều động các tướng. Sau đó quân triều đình sang đánh, buộc Trần Cảo phải lui về đóng ở Trâu Sơn, thuộc phủ Từ Sơn. Tương Dực sai An Hòa hầu là Nguyễn Hoằng Dụ sang đóng quân ở Bồ Đề để tiếp tục chống giữ. Nguyên quận công là Trịnh Duy Sản, trước có công đi đánh dẹp Trần Tuân, do nhiều lần can gián trái ý Tương Dực, từng bị vua sai đem đánh bằng roi, nên sinh lòng thù hận. Duy Sản bất mãn mưu với Thái sư Lê Quảng Độ và Trình Trí Sâm để giết vua rồi lập người khác, sửa sang binh giới ở bến Thái Cực, nói dối là đi đánh giặc. Đêm ngày 6 tháng 4, hồi canh hai, Duy Sản đem hơn 3000 người ở các vệ Kim ngô và Hộ vệ tiến vào cửa Bắc Thần. Tương Dực nghe tin ấy, ngờ là có giặc đến, bèn lên ngựa chạy ra ngoài cửa Bảo Khánh. Ngày mồng 7, mờ mờ sáng, có Thừa chỉ Nguyễn Vũ theo hoàng đế đi tắt qua cửa nhà Thái Học. Đến hồ Chu Tước, phường Bích Câu, hoàng đế gặp Duy Sản, vẫn không hay biết gì, liền hỏi: "Giặc ở phương nào?". Duy Sản không trả lời, quay đi nhìn chỗ khác rồi cười ầm lên. Hoàng đế ngờ ngợ, quất ngựa chạy về phía tây. Duy Sản sai võ sĩ là tên Hạnh cầm giáo đuổi theo, đâm ông ngã ngựa rồi giết chết. Nguyễn Vũ cũng bị giết theo. Duy Sản sai người đem xác Tương Dực về quán Bắc Sứ, khâm liệm rồi đem thiêu. Khâm Đức Hoàng hậu cũng nhảy vào lửa tự thiêu. Quân sĩ đem hai quan tài về chôn ở huyện Ngự Thiên (nay là thị trấn Hưng Nhân xã Tân Lễ huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Lê Tương Dực ở ngôi được 7 năm, thọ 21 tuổi. Ban đầu Trịnh Duy Sản giáng hoàng đế xuống làm Linh Ẩn Vương (靈隱王). Sau này Lê Chiêu Tông lên ngôi, cải thụy hiệu cho ông là Tương Dực Đế (襄翼帝), mộ phần được cải thành Nguyên Lăng (元陵). Gia quyến Cha: Kiến vương Lê Tân, về sau truy tôn làm Đức Tông Kiến Hoàng đế (德宗建皇帝). Mẹ: Trịnh Thị Tuyên, cháu gái Dương Vũ công thần Ngọc quận công Trịnh Khắc Phục. Năm 1509, bà cùng các anh em Tương Dực bị Uy Mục giết chết. Tương Dực truy tôn bà làm Huy Từ Kiến Hoàng hậu (徽慈建皇后). Hậu cung: Hậu duệ: Lê Tương Dực có 3 hoàng nữ do Khâm Đức Hoàng hậu Nguyễn Thị Đạo sinh ra: Nhận định Đại Việt Sử ký Toàn thư có một số nhận định về Lê Tương Dực: Mặc dù được xem là một hôn quân khét tiếng thời Lê sơ bên cạnh Lê Uy Mục, Lê Tương Dực cũng được xem là một nhà cai trị quyết đoán và có năng lực. Những việc làm có ích, đáng khen ngợi của Tương Dực, nhất là giai đoạn đầu làm vua có thể kể đến như đề cao sự hiếu nghĩa, luôn chủ động trong đối ngoại với nhà Minh và với các quốc gia ở phương Nam và phía Tây là Champa và Ai Lao. Vua đặc biệt rất cứng rắn trong việc giữ gìn nội trị, sai quân đánh dẹp, thậm chí có lần còn thân chinh chỉ huy việc bình định phản loạn, khôi phục lại ổn định địa phương. Vai trò duy trì an ninh quốc gia của Tương Dực càng được thể hiện rõ sau khi ông bị hại, khi nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra, và các tướng lĩnh triều đình cũng quay sang đánh giết lẫn nhau, khiến nhà Lê sơ trải qua cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài cho đến khi sụp đổ năm 1527. Ngoài ra ông cũng giải quyết ruộng đất cho nông dân; phân định rõ ràng các loại thuế và để khuyến khích việc nông tang, có lần vua còn tự mình cày ruộng tịch điền. Về xây dựng kiến trúc, sử sách chê rằng Lê Tương Dực làm quá nhiều việc thảo mộc, nhưng không thể phủ nhận những công trình ấy đều có quy mô hoành tráng và vĩ đại, thể hiện tài năng của người thợ nước Việt. Tuy nhiên, ông lại sớm thỏa mãn với những thành tựu đã đạt được để rồi sớm sa vào lối sống hưởng lạc, phóng túng, không chủ trương "khoan thư sức dân" mà lại thích xây dựng nhiều công trình to lớn làm tổn hao ngân khố, bóc lột sức dân đến tận xương tủy dẫn đến cơ nghiệp sụp đổ. Ngoài ra do bị coi là người háo sắc, dâm dật nên cuối cùng Lê Tương Dực còn phải mang biệt danh đầy tai tiếng là "vua lợn''". Lê Tương Dực được xem là vị hoàng đế có thực quyền cuối cùng của nhà Hậu Lê, vì Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng cũng như các vị hoàng đế thời Lê Trung Hưng sau này chỉ còn là những con rối trong tay của các quyền thần, bao gồm cả chúa Trịnh. Vì thế, cái chết của ông đã đánh dấu sự suy yếu của chế độ phong kiến tập quyền trong lịch sử Việt Nam.
Lê Quý Đôn (1726–1784) là một vị quan dưới triều Lê Trung hưng, đồng thời là một nhà thơ, nhà bác học. Tên ông được đặt cho nhiều trường học ở nhiều tỉnh thành khác nhau tại Việt Nam: Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn: tên của 9 trường chuyên ở các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Quảng Trị, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hậu Giang Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn: tên gọi khác của Học viện Kỹ thuật Quân sự Khác Lê Quý Đôn (HQ-286): một thuyền buồm được dùng làm tàu huấn luyện của Hải quân Nhân dân Việt Nam
Chim cắt trong nghĩa rộng còn được dùng để gọi nhiều loài chim ăn thịt không thuộc chi này. Chi Cắt (danh pháp khoa học: Falco) là một chi chim săn mồi bao gồm khoảng 40 loài được phân bố rộng khắp ở tất cả các lục địa trên thế giới trừ Nam Cực. Tổng quan Các loài chim này có các cánh mỏng và nhọn, điều này cho phép chúng có thể lao xuống với tốc độ rất cao. Vì thế trong dân gian mới có câu "Nhanh như cắt". Chim cắt Peregrine là loài chim nhanh nhất trên Trái Đất, được cho là có thể đạt tốc độ lao xuống cao tới 320 km/h (200 mph). Tuy nhiên, tùy theo kích thước của từng loài cụ thể mà có lúc thì người ta gọi là ưng, lúc thì là cắt. Các loài chim cắt khác còn có ưng miền bắc, ưng Nam Á và cắt lưng xám. Một số loài chim cắt thực thụ có kích thước nhỏ và ăn côn trùng, với các cánh dài và hẹp được gọi là chim cắt nhỏ, và một số loài cắt luôn bay lượn khi săn các loài động vật gặm nhấm nhỏ cần có gió nhẹ để có thể bay lượn. Kích thước các loài chim cắt thay đổi nhiều, từ Cắt Seychelles (chiều dài 20 cm, cân nặng khoảng 80 gram) tới Cắt Bắc Cực (chiều dài 50–65 cm, khối lượng 1–2 kg). Kích thước của chim cắt trống thông thường nhỏ hơn chim cắt mái khoảng 30%. Các loài chim cắt thực thụ là một phần của họ Falconidae, trong đó còn bao gồm cả caracara (cắt Trung-Nam Mỹ), các loài cắt rừng Nam Mỹ và chim cắt nhỏ (các chi Spiziapteryx và Microhierax). Trong cuốn sách Book of St Albans, được in lần đầu tiên năm 1486, thường được coi là của Juliana Berners, thì tại châu Âu thời trung cổ, người ta chia ra thành 15 đẳng cấp trong việc sử dụng các loại chim săn mồi để đi săn của các thợ săn, trong đó các quý tộc có phẩm tước từ bá tước tới công tước hay các vị quân vương (nhưng không phải hoàng đế) được dùng các loại chim trong họ Cắt thực thụ này. Từ bá tước tới công tước được sử dụng cắt Peregrine, quân vương dùng ưng miền bắc và hoàng đế dùng đại bàng. Tuy nhiên, danh sách đó có thể không có độ tin cậy cao, do một số loài chim săn mồi là quá nhỏ để có thể đi săn được các con thú lớn hoặc vào thời điểm đó người ta phải nhập khẩu và chúng là quá đắt để các quý tộc có địa vị thấp hơn có thể có được. Người ta có câu đi săn bằng chim ưng, nhưng nói một cách khoa học thì nó không hoàn toàn đúng. Các loài Khoảng 37-39 loài, phân bố hầu khắp trên toàn thế giới. Falco novaeseelandiae: Cắt New Zealand Falco vespertinus: Cắt chân đỏ Falco amurensis: Cắt Amur Falco zoniventris: Cắt Ấn Độ Dương Falco ardosiaceus: Cắt xám châu Phi Falco dickinsoni: Cắt Dickinson Falco naumanni: Cắt nhỏ Falco rupicoloides: Cắt mắt trắng Falco alopex: Cắt cáo Falco punctatus: Cắt Mauritius Falco araeus: Cắt Seychelles Falco newtoni: Cắt Madagascar Falco rupicolus: Cắt núi đá (đôi khi được coi như là 1 phân loài của Cắt lưng hung) Falco tinnunculus: Cắt lưng hung Falco moluccensis: Cắt đốm Falco cenchroides: Cắt Nankeen Falco sparverius: Cắt Mỹ Falco femoralis: Cắt Aplomado Falco columbarius: Cắt lưng xám Falco chicquera: Cắt cổ đỏ Falco rufigularis: Cắt dơi Falco deiroleucus: Cắt ngực cam Falco longipennis: Cắt nhỏ Australia Falco severus: Cắt bụng hung Falco fasciinucha: Cắt Taita Falco eleonorae: Cắt Eleonora Falco concolor: Cắt bồ hóng Falco subbuteo: Cắt Trung Quốc Falco cuvierii: Cắt nhỏ châu Phi Falco berigora: Cắt nâu Falco hypoleucos: Cắt xám Falco mexicanus: Cắt thảo nguyên Falco peregrinus: Cắt lớn Falco pelegrinoides: Cắt Canary Falco subniger: Cắt đen Falco jugger: Cắt Ấn Độ Falco rusticolus: Cắt Bắc Cực (Cắt kên kên, ưng miền bắc) Falco biarmicus: Cắt Lanner Falco cherrug: Cắt Saker Falco buboisi: Cắt Réunion (tuyệt chủng) Ý nghĩa biểu tượng Trong ngôn ngữ của chúng ta, chim cắt là biểu tượng của tính quá quắt, tính tham tàn giống như phần lớn những con chim cùng loài, có móng vuốt cong nhọn, chim cắt cái khỏe và nhanh nhẹn hơn con đực, vì vậy giống chim này cũng là biểu tượng của cặp vợ chồng trong đó người vợ nắm quyền, ta cũng nhớ là theo phong tục thời xưa, cho con chim cắt đậu trên nắm tay là dấu hiệu của bậc quý phái, bậc tao nhân mặc khách. Là giống chim săn mồi và hung ác, chim cắt cũng thường được dùng để chỉ dương vật. Trung Quốc Ở Trung Hoa cổ xưa, chim cắt là hóa thân của bồ câu rừng xám, nó báo hiệu mùa thu, vừa là mùa săn bắn vừa là mùa sống ẩn dật. Theo Kim Thư, chim cắt còn cùng với rùa đã dạy cho ông Cổn (Kouen) cách đắp đê để trị thủy. Ai Cập, Hy Lạp và La Mã Ở Ai Cập con chim cắt là con chim của thần Horus (thần đầu diều hâu), như vậy nó là biểu tượng của Mặt Trời. Cũng như diều hâu, chim cắt tượng trưng cho quyền năng của Thái dương. Người Hy Lạp và người La Mã cũng coi chim cắt là hình ảnh của Mặt Trời (Grar, Masr). Chú thích
Sân bay Kép là sân bay quân sự thuộc địa phận xã Hương Lạc, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Sân bay Kép là một sân bay quân sự quan trọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam và sau đó là của Việt Nam trong cuộc chiến tranh với Trung Quốc năm 1979. Kép được xác định là một khu vực phòng thủ chiến lược. Trong thời kỳ này toàn bộ Bộ Tư lệnh quân đoàn 2 - Quân đoàn chiến lược hùng mạnh nhất của Việt Nam đã đặt Trung tâm chỉ huy tại đây. Khu vực này được ví như một lá chắn phòng không cho Hà Nội từ phía Đông và phía Bắc với các trung đoàn pháo cao xạ và các trung đoàn tên lửa phòng không Volga. Thông số kỹ thuật Chiều dài đường cất hạ cánh: +chính 2.200 m, phụ 1.700 m Chiều rộng đường cất hạ cánh: +chính 45 m, phụ 18 m Kích thước đường lăn chính: 2.400x14 m Kết cấu đường hạ, cất cánh: bê tông xi măng và bê tông nhựa Sân đỗ máy bay: 3 khu Số máy bay thường trực chiến đấu: 10 chiếc Máy bay chiến đấu chính: Sukhoi Su-30MK2 Sức chứa máy bay: 12 chiếc Hướng phát triển: kéo dài đường cất hạ cánh từ 1.500 đến 2.000 m.
Falco có thể là: Chim Falco (chi): Chi Cắt Người Falco (nhạc sĩ): nghệ danh của ca/nhạc sĩ người Áo Johann (Hans) Hölzel. Họ người Ý
Trong đồ họa máy vi tính, BMP, còn được biết đến với tên tiếng Anh khác là Windows bitmap, là một định dạng tập tin hình ảnh khá phổ biến. Các tập tin đồ họa lưu dưới dạng BMP thường có đuôi là .BMP hoặc .DIB (Device Independent Bitmap). Các thuộc tính tiêu biểu của một tập tin ảnh BMP (cũng như file ảnh nói chung) là số bit trên mỗi điểm ảnh (bit per pixel), thường được ký hiệu bởi n. Một ảnh BMP n-bit có màu. Giá trị n càng lớn thì ảnh càng có nhiều màu, và càng rõ nét hơn. Giá trị tiêu biểu của n là 1 (ảnh đen trắng), 4 (ảnh 16 màu), 8 (ảnh 256 màu), 16 (ảnh 65536 màu) và 24 (ảnh 16 triệu màu). Ảnh BMP 24-bit có chất lượng hình ảnh trung thực nhất. chiều cao của ảnh (height), cho bởi điểm ảnh (pixel). chiều rộng của ảnh (width), cho bởi điểm ảnh. Cấu trúc tập tin ảnh BMP bao gồm 4 phần Bitmap Header (14 bytes): giúp nhận dạng tập tin bitmap. Bitmap Information (40 bytes): lưu một số thông tin chi tiết giúp hiển thị ảnh. Color Palette (x/8 bytes), x là số màu của ảnh: định nghĩa các màu sẽ được sử dụng trong ảnh. Bitmap Data: lưu dữ liệu ảnh. Đặc điểm nổi bật nhất của định dạng BMP là tập tin hình ảnh thường không được nén bằng bất kỳ thuật toán nào. Khi lưu ảnh, các điểm ảnh được ghi trực tiếp vào tập tin - một điểm ảnh sẽ được mô tả bởi một hay nhiều byte tùy thuộc vào giá trị n của ảnh. Do đó, một hình ảnh lưu dưới dạng BMP thường có kích cỡ rất lớn, gấp nhiều lần so với các ảnh được nén (chẳng hạn GIF, JPEG hay PNG). Định dạng BMP được hỗ trợ bởi hầu hết các phần mềm đồ họa chạy trên Windows, và cả một số ứng dụng chạy trên MS-DOS. Ngay từ Windows 3.1, Microsoft đã cho ra đời phần mềm PaintBrush, một phần mềm hỗ trợ vẽ hình ảnh đơn giản và lưu hình ảnh được vẽ dưới dạng BMP 16 hay 256 màu. Tuy nhiên, do kích thước tập tin ảnh BMP quá lớn, định dạng BMP không phù hợp để trao đổi hình ảnh qua mạng Internet (do hạn chế về tốc độ truyền dữ liệu). Do đó, các trang web thường sử dụng ảnh dạng GIF, JPEG hay PNG. Các định dạng này hỗ trợ các thuật toán nén hình ảnh, vì vậy có thể giảm bớt kích cỡ của ảnh.
Loan mắt nhung là một bộ phim điện ảnh Việt Nam Cộng hòa năm 1970 của đạo diễn Lê Dân, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Thụy Long sáng tác năm 1967. Bộ phim từng bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa kiểm duyệt, nhưng cuối cùng lại đoạt giải Văn học Nghệ thuật dành cho "Phim truyện hay nhất" năm 1970. Bộ phim phản ánh, phê phán lối sống của một bộ phận thanh niên miền Nam trước 1975. Nguyễn Thụy Long đã sống một thời gian dài cùng giới du đãng và vũ nữ để viết được truyện này. Nội dung Loan, với biệt hiệu là "Loan mắt nhung" (Huỳnh Thanh Trà) là một thanh niên lương thiện bị hoàn cảnh xã hội đưa đẩy trở thành du đãng nổi tiếng. Vì cuộc sống khốn khổ, Loan phải đương đầu để sinh tồn rồi trở thành một đàn anh trong giới dao búa. Khi còn lương thiện, Loan đã có mối tình rất đẹp với một cô gái tên Xuân (NSƯT Thanh Nga). Vào với giang hồ, Loan gặp Dung (NSND Kim Xuân). Loan đã thực hiện nhiều phi vụ lớn, ăn cướp, buôn lậu... nhưng anh vẫn mong có một ngày trở về cuộc sống lương thiện. Sau đó, Loan gặp lại Xuân trong tình cảnh éo le, khi Xuân bị bọn xấu hãm hại và giết chết. Quá đau khổ, Loan nổi loạn giết hết bọn du đãng, giang hồ rồi ra đầu thú chính quyền. Phân vai Huỳnh Thanh Trà vai Loan mắt nhung NSƯT Thanh Nga vai Xuân Ngọc Phu vai Thanh NSND Kim Xuân vai Dung Thiên Trang vai Minh Nguyên Hạnh vai Tài Woòng Hậu trường Phim có nhiều cảnh ăn chơi, sinh hoạt vũ trường của Sài Gòn trước 1975. Vai Thanh Italy do Ngọc Phu thể hiện được đánh giá là vai diễn nổi bật nhất trong phim. Huỳnh Thanh Trà trong vai Loan Mắt Nhung, vốn là một diễn viên kịch nói. Ca khúc chính trong phim Loan mắt nhung là của nhạc sĩ Huỳnh Anh.
Lê Hiến Tông (chữ Hán: 黎憲宗 6 tháng 9 năm 1461 – 24 tháng 6 năm 1504) là vị hoàng đế thứ sáu của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông cai trị từ ngày 9 tháng 3 năm 1497 đến khi qua đời, tổng cộng 7 năm với niên hiệu là Cảnh Thống. Các bộ sử biên niên Đại Việt như Đại Việt Sử ký Toàn thư mô tả ông là người kế nghiệp xứng đáng của cha mình, vị vua lớn Lê Thánh Tông. Trong 7 năm trị vì, ông đã thành công trong việc duy trì nền pháp chế mà Thánh Tông đã đặt ra cũng như sự thịnh trị của Đại Việt. Lê Hiến Tông mến chuộng văn học, tiết kiệm tiêu dùng, thận trọng hình phạt và luôn gần gũi bề tôi. Ông cũng chăm lo giáo dục, nông nghiệp, thủy lợi, cải thiện đời sống nhân dân và củng cố sức mạnh quân đội. Lê Hiến Tông chỉ ở ngôi được 7 năm rồi băng hà vào tháng 6 năm 1504, thọ 44 tuổi. Điều này cùng với cái chết của người nối ngôi ông là Lê Túc Tông chỉ 6 tháng sau đó đã đánh dấu sự chấm dứt giai đoạn hùng mạnh của nước Đại Việt thời Lê. Thiếu thời Lê Hiến Tông có tên khai sinh là Lê Tranh (黎鏳), có nguồn ghi tên ông là Sanh (檉) hoặc Huy (暉), sinh ngày 10 tháng 8 âm lịch (6 tháng 9 dương lịch) năm Tân Tỵ (1461), tại đế đô Đông Kinh. Ông là đích trưởng tử của Lê Thánh Tông, mẹ là Huy Gia Thuần Hoàng hậu Nguyễn Hằng, con gái thứ hai của Trình quốc công Nguyễn Đức Trung. Trước đây, Thánh Tông chưa có con nối, Quang Thục Hoàng thái hậu đã từng cầu đảo, sai Đức Trung đến cầu ở am Từ Công núi Phật Tích, chiêm bao thấy đến trước mặt thượng đế cầu hoàng tự. Thượng đế phán: Cho sao Thiên Lộc làm con Nguyễn thị. Nói rồi cho ẵm đến ngồi ở trước. Bấy giờ, Huy Gia Hoàng hậu ở Vĩnh Ninh cung, tức thì có mang. Đến khi đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống, bay vào trong phòng, một lát sau thì sinh ra ông. Tháng 3, năm Quang Thuận thứ 3 (1462), ông được Thánh Tông sách lập làm Hoàng thái tử. Mẹ ông lúc đó đang rất được sủng ái, nên hoàng đế dành cho ông rất nhiều yêu mến. Ông được miêu tả là có dáng vẻ thiên tử, mũi cao, mặt rồng, thần thái trang nghiêm, tươi đẹp khác thường, rất được Thánh Tông yêu quý. Năm Hồng Đức thứ 28 (1497), tháng giêng, Lê Thánh Tông qua đời, Thái tử Lê Tranh lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Cảnh Thống (景統), đại xá thiên hạ, lấy ngày sinh làm Thiên Thọ thánh tiết, tự xưng là Thượng Dương động chủ (上陽洞主). Lúc lên ngôi, nhà vua đã 37 tuổi. Sự nghiệp Lê Hiến Tông được mô tả là một vị hoàng đế thông minh, nhân từ và ôn hòa. Thường sau khi bãi triều, Hiến Tông ra ngồi nói chuyện với các bá quan và sĩ đại phu, hỏi han về việc hay dở, được mất của chính sự, dùng lời nói dịu dàng, nét mặt tươi vui để dẫn dắt cho họ nói ra. Cho nên vua biết rõ tình người bên dưới, gạt bỏ sự che đậy giấu giếm. Bề tôi có lỗi lầm gì, ông khuyên bảo, quở trách nhẹ nhàng, chứ không gắt mắng hay đánh roi làm nhục bao giờ. Ông luôn biết cách sắp đặt công việc nên nhàn hạ ung dung, chưa bao giờ to tiếng, giận dữ mà thiên hạ đều răm rắp tuân theo. Hoàng đế thường nói rằng: Ông là người chú trọng chăm sóc bảo vệ đê điều, đào sông, khai ngòi, đắp đường, trông coi việc nông trang làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm v.v... Ông cũng chú ý đến việc giáo dục quan lại chống thói quan liêu và tham nhũng. Những việc chính trị đều theo như đời Hồng Đức chứ không thay đổi gì cả. Hiến Tông sai sứ đi khắp bốn phương, truy xét những người nghèo túng, già yếu còn trong quân ngũ thì thải cho về, những người chịu thuế khoá và phục dịch công trình quá nặng thì giảm nhẹ cho; tha những kẻ lầm lỡ, xét rõ người oan khuất, bổ dùng kẻ mất chức, khen thưởng người có công; tha nợ thuế, nới hình phạt, nêu gương người tiết nghĩa, giúp đỡ kẻ côi cút, người đói nghèo, cất nhắc người liêm khiết, tiến cử bậc hiền tài, trong ngoài ai cũng thoả lòng. Thời Hiến Tông, ở Nghệ An và Thuận Hoá, có bọn trộm cướp nổi lên, quận bên cạnh đánh dẹp không yên được. Thay vì đem quân trấn áp, Hiến Tông ra sắc lệnh cho quan có trách nhiệm, triệt bỏ hết toán lính đi tiễu bắt, chiêu an phủ dụ cho bọn chúng tự ra thú tội, trở lại nghề nghiệp cũ. Tháng 12 năm Kỷ Mùi (1499), nhà Minh sai hai đoàn sứ, đoàn thứ nhất do Từ Ngọc dẫn đầu sang làm lễ viếng Lê Thánh Tông và đoàn sứ thứ 2 do Lương Trừ, Vương Chuẩn mang sắc phong cho Lê Hiến Tông làm An Nam Quốc vương (安南國王). Đến khi cáo từ, Lương Trừ nói với Đông các đại học sỹ Bùi Nhân của nhà Lê rằng: “Hôm nay được thấy quốc vương tuổi đã lớn, thực là tướng thánh nhân, thực là tướng trường thọ, quả là phúc lớn của sinh linh phương Nam. Sao mà học rộng và ứng tiếp mọi việc nhanh chóng, mẫn tiệp đến thế”. Ông còn đích thân xem sổ tiền thóc của Hộ tào dâng lên và hỏi các quan tả hữu, biết được tình trạng dự trữ của nhà nước và tư nhân. Từ đấy lại càng để ý đến việc nông tang, tự tay viết sắc lệnh sai các quan thừa hiến, phủ, huyện đi tuần hành khuyên bảo nhân dân đắp đê điều, đào ngòi lạch, khơi bờ ruộng, để phòng hạn, lụt. Lại sai triều thần đi kiểm tra, xem xét những việc đó. Mỗi xã đặt một người xã trưởng hay thôn trưởng chuyên trông nom việc nông tang, lại đem xã quân và nông trưởng đi đốc thúc. Quan bên ngoài ai có việc về Kinh và sứ của triều đình từ ngoài trở về, vua đều cho gọi vào hỏi về mùa màng được hay mất, trăm họ sướng khổ ra sao. Còn lính ở thợ đến phiên thì cứ theo lệ trước, tháng 6, tháng 10 chia một nửa về làm ruộng. Ngày 16 tháng 3, năm 1498, Hiến Tông có chiếu quy định rằng các quan trong ngoài, người nào không có con mà nuôi con nuôi, đều chiếu theo chức phẩm, cho được tập ấm bổ quan như con đẻ. Ngày 22 tháng 8, năm 1498, Hiến Tông ra sắc dụ cho Hình bộ, Đình uý ty và các quan xét xử án kiện trong ngoài rằng: ''Việc dùng hình ngục quan hệ tới sinh mệnh của dân, sử dụng đạo thì dân thoả lòng, xử trái đạo thì dân chịu hại. Cho nên lời Tượng của Kinh Dịch rất răn việc chậm xử án, Kinh Thư rất xem trọng việc xét trong tù. Thế thì, trong việc tra xét, xử án, há có thể được phép trì hoãn sao! Kể từ nay về sau, Hình bộ, Đình uý ty và các quan xét xử án kiện trong ngoài, hễ thấy những án nào còn nghi ngờ, khó xử, cũng đều phải theo đúng kỳ hạn mà xét xử cho xong. Nếu có ai dám để chậm trễ quá kỳ hạn, thì đến cuối mỗi năm, quan phụ trách cùng Hình bộ, Đề hình giám sát ngự sử, Thanh hình hiến sát sứ ty phải kiểm tra tâu hặc lên để trị tội theo pháp luật. Nếu lấy tình riêng dung túng, không biết tra xét tâu lên, thì cho người có việc kêu lên, đường quan ngự sử đài và thể sát xá nhân xét thực làm bản tâu lên để trị tội. Các quan kể trên không chịu làm đúng lý thì cho người bị hại tâu rõ thực tình sẽ trị tội họ theo luật pháp. Ngày 24 tháng 5 năm 1501, vua xuống chiếu cho phép xã nào có người nghèo túng, không kể là có ruộng công, ruộng tư hay không, xã trưởng phải làm tờ khai cam đoan trước, quan phủ, huyện khám xét lại, rồi khai vào hạng nghèo túng, cho phép miễn tuyển trong các kỳ tuyển tráng đinh hàng năm. Lê Hiến Tông cũng tiếp tục duy trì và đưa ra nhiều chính sách khuyến khích và phát triển giáo dục, vốn đã phát triển cực thịnh từ thời Hồng Đức. Ngày 25 tháng 12 năm 1501, ông ra sắc chỉ quy định chi tiết các thể lệ thi Hương cho các tỉnh. Ngoài ra nhằm đảm bảo chất lượng tuyển chọn nhân tài, vua cũng sai các viên giám quan khám xét trường thi, tìm xét mọi dấu vết, xem có chỗ nào cất dấu Thi, Thư và các tài liệu khác. Đến khi các sĩ tử vào trường thi, thì phải khám xét kỹ từ ngoài cửa. Nếu thấy người nào sao chép văn bài mang theo, hoặc là người nào đi thi hộ thì phải bắt ngay người đó đưa ra xét hỏi. Người vi phạm như hạng nói trên bị sung làm quân bản phủ ba năm, suốt đời không được vào trường thi nữa. Đến tháng 2 năm 1502, Hiến Tông cho tổ chức thi Hội các cử nhân trong nước, đích thân ông ra đầu bài văn sách hỏi về đế vương trị thiên hạ. Qua đời Tháng 4 năm Giáp Tý (1504), Lê Hiến Tông ngự về Lam Sơn bái yết tổ tiên. Khi xa giá về cung, nhà vua bất ngờ bị ốm. Theo các sử gia, thói ham nữ sắc trong thời gian này đã khiến bệnh tình của ông không được cải thiện mà trở nên trầm trọng hơn, dẫn đến cái chết chỉ một tháng sau đó. Đến ngày 24 tháng 5 âm lịch (24 tháng 6 dương lịch), Hiến Tông lâm bệnh nặng và băng hà tại điện Đồ Trị, thọ 44 tuổi. Con trai thứ ba của ông là Thái tử Lê Thuần lên nối ngôi, tức Lê Túc Tông. Ông được dâng miếu hiệu là Hiến Tông (憲宗), thụy hiệu là Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm Thành Chương Hiếu Duệ Hoàng Đế (體天凝道懋德至仁昭文紹武宣哲欽聖彰孝睿皇帝). Người đời sau gọi là Hiến Tông Duệ hoàng đế (憲宗睿皇帝) hay Duệ Hoàng (睿皇). Đánh giá Gia quyến Thân phụ: Lê Thánh Tông Lê Tư Thành. Thân mẫu: Huy Gia Thuần Hoàng hậu Nguyễn thị (徽嘉淳皇后阮氏; 1441 - 1505). Hậu duệ: Theo Lê triều ngọc phả: Vua Lê Hiến Tông có 5 trai, 10 gái. 5 con trai: Trưởng tử An vương Cẩm (Lê Tuân), thứ 2: Uy Mục đế (Lê Tuấn), thứ 3 Túc Tông đế (Lê Thuần), thứ 4 Minh Vương Tuyền, thứ 5 Thông vương (Lê Dung). Trong đó 10 con gái không chép tên.
Lê Túc Tông (chữ Hán: 黎肅宗 6 tháng 9 năm 1488 – 12 tháng 1 năm 1505) là vị hoàng đế thứ bảy của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Túc Tông chỉ giữ ngôi trong vòng 6 tháng; từ ngày 17 tháng 7 năm 1504 đến khi mất ngày 12 tháng 1 năm 1505 và chỉ dùng một niên hiệu là Thái Trinh. Lê Túc Tông tên thật là Lê Thuần (黎㵮), là con trai thứ ba, đồng thời là đích tử của Lê Hiến Tông; vì thông minh, hiếu học nên được vua cha lập làm Hoàng thái tử dù không phải con trưởng. Tháng 7 năm 1504, sau khi Lê Hiến Tông mất, Lê Thuần lên ngôi Hoàng đế. Theo bộ sử biên niên của nhà Lê, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Lê Túc Tông gần gũi với người hiền, thích điều thiện và là vị vua giỏi giữ cơ nghiệp thái bình. Trong thời gian tại vị, ông cũng đã dẹp yên cuộc nổi loạn của Đoàn Thế Nùng ở Cao Bằng. Tháng 12 năm 1504, Lê Túc Tông đột ngột bệnh nặng. Do không có con nối dõi, ông chỉ định người anh thứ hai của mình là Lê Tuấn lên nối ngôi, tức vua Lê Uy Mục. Ngày 12 tháng 1 năm 1505, Túc Tông băng hà chỉ sau 6 tháng trị vì. Lê Túc Tông là vị vua cuối cùng trong giai đoạn thịnh trị của triều Lê sơ, vì sau khi ông qua đời, nước Đại Việt bắt đầu suy yếu do sự sa đoạ và tàn ác của người anh Lê Uy Mục. Thiếu thời Lê Túc Tông tên là Lê Thuần (黎㵮) sinh ngày 1 tháng 8 âm lịch (6 tháng 9 dương lịch) năm Mậu Thân (1488), là con trai thứ ba nhưng là đích tử của Lê Hiến Tông (Lê Tranh), mẹ là Trang Thuận Hoàng hậu Nguyễn Hoàn, quê ở Bình Lăng, Thiên Thi, Hưng Yên. Lúc Lê Thuần được sinh ra thì vua cha Hiến Tông vẫn còn là thái tử, còn ông nội Lê Thuần là Lê Thánh Tông đang giữ ngôi Hoàng đế. Năm 1497, Lê Thánh Tông qua đời, thái tử Lê Tranh lên kế vị, tức vua Lê Hiến Tông. Năm 1499, các đại thần như Thái bảo Sùng Khê hầu Lê Vĩnh, Đô Kiểm điểm Cống Xuyên hầu Lê Năng Nhượng dâng bản tâu xin Lê Hiến Tông lập trữ quân. Lê Hiến Tông khi đó có sáu người con trai, trong đó con trưởng là Lê Tuân và con thứ hai là Lê Tuấn. Nhưng nhà vua cho rằng hai người này là không đủ phẩm chất và đức hạnh nên quyết định lập con thứ ba, Lê Thuần, làm trữ quân. Ngày 17 tháng 2 âm lịch cùng năm, Lê Hiến Tông dụ Thái bảo Sùng Khê hầu Lê Vĩnh và Đô Kiểm điểm Cống Xuyên hầu Lê Năng Nhượng: Ngày 6 tháng 12 âm lịch năm Mậu Ngọ (1498), Hoàng đế Lê Hiến Tông sai Thái bảo Đường Khê bá Lê Vĩnh và Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Điện tiền Đô kiểm điểm Ty Đô kiểm điểm Dung Hồ bá Lê Lan đem kim sách và ấn báu lập Lê Thuần làm Hoàng thái tử. Sáu tháng cai trị Ngày 24 tháng 5 âm lịch năm Giáp Tý (1504), Lê Hiến Tông qua đời ở điện Đồ Trị, thọ 44 tuổi. Nhà vua có để lại di chiếu cho Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ và Ngự sử đài Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật phụ tá Thái tử Thuần kế ngôi. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, lúc Hiến Tông mất, các thân vương đua nhau đòi kế ngôi. Mẹ nuôi của Lê Tuấn thậm chí đã đút lót vàng bạc cho Đàm Văn Lễ và Nguyễn Quang Bật để họ cho con mình lên ngôi. Tuy nhiên, Đàm Văn Lễ vẫn cương quyết làm theo di chiếu, bèn đi vào tẩm điện lấy ấn báu truyền quốc mang về nhà, rồi cùng các đại thần lập Thái tử Lê Thuần lên kế vị. Ngày 6 tháng 6 âm lịch (17 tháng 7 dương lịch) năm 1504, các đại thần gồm Trung quân Đô đốc phủ tả Đô đốc Bình Sơn hầu Lê Quảng Độ, Nam quân Đô đốc phủ tả Đô đốc Phò mã Đô úy Lâm Hoài bá Lê Đạt Chiêu và các quan phò mã, các vị quan Ngũ phủ, Lục bộ, Đông các, Hàn lâm viện, Lục tự, Lục khoa đến điện Hoàng Cực rước Lê Thuần lên ngôi Hoàng đế. Nhà vua xưng là Tự Hoàng (嗣皇), lấy niên hiệu là Thái Trinh (泰貞), sử gọi là Lê Túc Tông (黎肅宗). Túc Tông lấy ngày sinh làm Thiên minh Thánh tiết (天明聖節) và làm lễ tế cáo trời đất, tông miếu. Ông cũng tôn bà nội là Trường Lạc Thánh Từ Hoàng thái hậu làm Thái hoàng thái hậu. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư mô tả Lê Túc Tông là một hoàng đế tốt, tuy lên ngôi chưa lâu nhưng đã chăm lo chính sự chu đáo, ra nhiều quyết định có ích giúp cơ nghiệp hoàng triều được bền vững và nhân dân được yên ấm: "Khi vua mới lên ngôi, tha tù nhân, thả cung nữ, ngừng những việc không cần kíp, giảm những việc nặng nhọc, bớt đồ dâng cống, giảm nhẹ lực dịch, dùng bề tôi cũ có công, nắm giữ mọi uy quyền; hạn chế, răn đe thế lực họ ngoại, dốc lòng thương yêu các vị thân vương, mọi việc sửa sang nghiệp lớn, dựng đặt gốc lớn, không điều gì không đến nơi đến chốn. Thần dân trong nước đều chăm chú dõi nhìn chính sự buổi đầu, cho rằng ngày nay lại được trông thấy đời thịnh trị của Thành, Khang, Văn, Cảnh." Thời vua Túc Tông có sự kiện Đoàn Thế Nùng nổi dậy ở Cao Bằng. Tháng 6 âm lịch năm 1504, nhà vua sai quân đi trấn áp. Đoàn Thế Nùng bị bắt giết cùng với hơn 500 thuộc hạ. Tháng 11 âm lịch năm 1504, vua Túc Tông sai sứ sang Trung Quốc cống nạp, báo tang và xin phong vương. Lại bộ Thị lang Đặng Tán, Kiểm thảo Khuất Quỳnh Cửu và Hộ khoa đô Cấp sự trung Lưu Quang Phụ mang cống phẩm; Binh bộ Hữu Thị lang Nguyễn Lân và Giám sát Ngự sử Nguyễn Kính Nghiêm báo tang cho Hiến Tông; Lễ bộ hữu Thị lang Nguyễn Bảo Khuê, Đông các Hiệu thư Trần Viết Lương và Hiệu thư Vũ Châu dâng biểu xin phong vương cho Túc Tông. Qua đời Ngày 8 tháng 11 âm lịch (13 tháng 12 dương lịch) năm 1504, linh cữu Lê Hiến Tông được mai táng ở Dụ Lăng, Lam Kinh (Thanh Hóa ngày nay). Lễ bộ tâu xin soạn văn bia kể công đức của tiên đế. Lê Túc Tông chuẩn tấu, sai nhóm văn thần Nguyễn Nhân Thiếp, Phạm Thịnh và Trình Chí Sâm soạn văn bia. Cùng hôm đó, sức khỏe nhà vua bắt đầu suy sụp. Sau một tháng đau ốm, nhà vua thấy không qua khỏi, lại không có con nối ngôi. Ngày 6 tháng 12 âm lịch năm 1504 (10 tháng 1 dương lịch năm 1505), Túc Tông dụ cho các đại thần Bình Sơn hầu Lê Quảng Độ, Cống Xuyên bá Lê Năng Nhượng cùng các quan văn võ: Ngày 7 tháng 12 âm lịch năm 1504 (11 tháng 1 dương lịch năm 1505), bệnh của Túc Tông trở nặng. Hôm sau, ngày 8 tháng 12 âm lịch năm 1504, Túc Tông qua đời tại điện Hoàng Cực, hưởng dương 17 tuổi, có di chiếu cho triều đình để tang theo quy chế cổ. Ngày 18 tháng 12 âm lịch năm 1504 (22 tháng 1 dương lịch năm 1505), các đại thần đến điện Hương Minh đón con thứ hai của Lê Hiến Tông là Lê Tuấn lên ngôi, tức Hoàng đế Lê Uy Mục. Bấy giờ, Lễ bộ hữu Thị lang Nguyễn Bảo Khuê đang trên đường đi sứ nhà Minh để cầu phong cho Túc Tông nhưng chưa qua cửa ải. Triều đình lại sửa đổi tờ biểu cầu phong khác giao cho Bảo Khuê mang đi. Ngày 16 tháng 2 âm lịch (21 tháng 3 dương lịch) năm 1505, triều đình dâng miếu hiệu cho ông là Túc Tông (肅宗) và thụy hiệu là Chiêu Nghĩa Hiển Nhân Ôn Cung Uyên Mặc Đôn Hiếu Doãn Cung Khâm Hoàng Đế (昭義顯仁溫恭淵默惇孝允恭欽皇帝). Đời sau gọi ông là Túc Tông Khâm Hoàng đế (肅宗欽皇帝), Khâm Hoàng (欽皇) hay Tự Hoàng Thuần (嗣皇㵮). Tháng 3 âm lịch năm 1505, linh cữu Túc Tông được đưa về Lam Kinh, an táng ở Kính Lăng (敬陵). Lễ quan xin dựng văn bia kể công đức Túc Tông. Vua Uy Mục nghe theo, sai các văn thần Đàm Văn Lễ, Nguyễn Nhân Thiếp, Phạm Thịnh, Trình Chí Sâm soạn văn bia Kính Lăng. Khi Lê Túc Tông lên ngôi vào tháng 6 âm lịch năm 1504, có tuyên bố sang năm sau sẽ đổi niên hiệu là Thái Trinh. Tuy nhiên, vị hoàng đế trẻ mất ngày 8 tháng 12 âm lịch năm 1504, nghĩa là trước khi năm Giáp Tý (1504) kết thúc (ngày 30 tháng 12 của năm âm lịch 1504 rơi vào ngày 3 tháng 2 năm 1505 dương lịch). Do vậy, niên hiệu được sử dụng trên thực tế trong suốt thời trị vì của Túc Tông vẫn là Cảnh Thống, niên hiệu của tiên đế Lê Hiến Tông. Đến ngày đầu năm Ất Sửu (1505) (tức ngày 4 tháng 2 năm 1505 dương lịch), Lê Uy Mục mới chính thức đổi niên hiệu thành Đoan Khánh. Nhận định Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư có nhận xét tích cực về Lê Túc Tông: Sử quan triều Mạc là Tống Lệnh Vọng cũng ghi nhận: Chú thích
Eo biển Gibraltar (tiếng Ả Rập: مضيق جبل طارق; tiếng Tây Ban Nha: Estrecho de Gibraltar; tiếng Anh: Strait of Gibraltar) là một eo biển hẹp nối liền Địa Trung Hải với Đại Tây Dương và tách Gibraltar và bán đảo thuộc Tây Ban Nha ở châu Âu khỏi Morocco và Ceuta (Tây Ban Nha) ở châu Phi. Cái tên bắt nguồn từ Rock of Gibraltar, tiếng Ả Rập: Jebel Tariq (nghĩa là "Núi Tariq" ) được đạt theo tên của vị tướng Hồi giáo người Berber là Tariq ibn Ziyad. Nó cũng được biết dưới cái tên eo biển Gibraltar, ruột của Gibraltar (mặc dù là cách gọi cổ xưa) , STROG (Strait Of Gibraltar) mà NATO sử dụng , và Bab Al Maghrib (tiếng Ả Rập: باب المغرب), "Cánh cổng phía Tây". Vào thời Trung cổ, người Hồi giáo gọi nó là Al-Zuqaq, "The Passage", người La Mã gọi nó là Fretum Gatitanum (Eo biển Cadiz), và trong thời cổ đại nó được gọi là " những cây cột của Hercules " (tiếng Hy Lạp: αἱ Ἡράκλειοι στῆλαι). Châu Âu và châu Phi cách nhau 7,7 hải lý (14.3 km; 8.9 mi) tại điểm hẹp nhất của eo biển. Độ sâu của eo biển trong khoảng 300 và 900 mét (160 và 490 fathoms; 980 và 2,950 ft) Phà đi qua giữa hai lục địa mỗi ngày chỉ trong 35 phút. Phía eo biển Tây Ban Nha được bảo vệ dưới Công viên Tự nhiên El Estrecho. Lịch sử Eo biển này được hình thành từ cách đây 6 triệu năm về trước. Bằng chứng về nơi cư trú đầu tiên của con người trong khu vực của người Neanderthal có từ 125.000 năm trước. Người ta tin rằng eo biển Gibraltar có thể là một trong những tiền đồn cuối cùng của người Neanderthal trên thế giới, với bằng chứng về sự hiện diện của họ ở đó có niên đại gần 24.000 năm trước .Bằng chứng khảo cổ về cư dân Homo sapiens của khu vực bắt nguồn từ 40.000 năm trước. Khoảng cách tương đối ngắn giữa hai bờ đã đóng vai trò là điểm giao cắt nhanh chóng cho các nhóm và nền văn minh khác nhau trong suốt lịch sử, bao gồm cả người Carthage chống lại Rome, người La Mã đi giữa các tỉnh của Hispania và Mauritania, Vandals đột kích vào phía nam từ Germania qua Tây Rome và vào Bắc Châu Phi vào thế kỷ thứ 5, người Moors và người Berber ở thế kỷ thứ 8 thế kỷ thứ 11, và Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16. Bắt đầu từ năm 1492, eo biển bắt đầu đóng một vai trò văn hóa nhất định trong vai trò là rào cản chống lại sự chinh phục qua eo biển và dòng chảy văn hóa và ngôn ngữ sẽ tự nhiên đi theo một cuộc chinh phục như vậy. Vào năm đó, chính phủ Hồi giáo cuối cùng ở phía bắc eo biển đã bị một lực lượng Tây Ban Nha lật đổ. Kể từ đó, các eo biển đã thúc đẩy sự phát triển của hai nền văn hóa rất khác biệt và đa dạng ở hai bên eo biển sau khi chia sẻ nhiều nền văn hóa giống nhau và mức độ khoan dung hơn trong hơn 300 năm từ thế kỷ thứ 8 đến đầu thế kỷ 13. Ở phía bắc, văn hóa Kitô giáo châu Âu vẫn chiếm ưu thế kể từ khi trục xuất quốc vương Hồi giáo cuối cùng vào năm 1492, cùng với ngôn ngữ Tây Ban Nha, trong khi ở phía nam, Hồi giáo-Ả Rập / Địa Trung Hải đã chiếm ưu thế kể từ khi đạo Hồi lan rộng vào Bắc Phi vào những năm 700, cùng với tiếng Ả Rập. Trong 500 năm qua, sự không khoan dung về tôn giáo và văn hóa, hơn cả rào cản du lịch nhỏ mà eo biển hiện nay, đã trở thành một tác nhân thực thi mạnh mẽ của sự tách biệt văn hóa tồn tại giữa hai nhóm này. Vùng đất nhỏ của Anh ở thành phố Gibraltar trình bày một nhóm văn hóa thứ ba được tìm thấy ở eo biển. Vùng đất này được thành lập lần đầu tiên vào năm 1704 và từ đó được Anh sử dụng để hoạt động như một sự bảo đảm cho việc kiểm soát các tuyến đường biển vào và ra khỏi Địa Trung Hải. Sau cuộc đảo chính của Tây Ban Nha vào tháng 7 năm 1936, Hải quân Cộng hòa Tây Ban Nha đã cố gắng phong tỏa Eo biển Gibraltar để cản trở việc vận chuyển quân đội của Châu Phi từ Ma-rốc Tây Ban Nha đến Bán đảo Tây Ban Nha. Vào ngày 5 tháng 8 năm 1936, Convoy de la victoria đã có thể đưa ít nhất 2.500 người qua eo biển, phá vỡ sự phong tỏa của phe cộng hòa. Vị trí Ở phía bắc của eo biển này là Tây Ban Nha và Gibraltar, còn ở phần phía nam là Maroc và Ceuta, phần lãnh thổ hải ngoại của Tây Ban Nha ở Bắc Phi. Đường ranh giới này còn được biết đến với cái tên cổ xưa là Những cây cột của Hécquyn. Có tên gọi này là vì theo thần thoại Hy Lạp, dũng sĩ Hécquyn trên đường đi lập kỳ công thứ 10 trong số 12 kỳ công phi thường của mình đã đến đại dương mênh mông nhưng lại gặp phải quả núi khổng lồ bít kín lấy biển. Hécquyn bèn dùng sức lực ghê gớm của mình xẻ núi, thông suốt biển bên trong và bên ngoài, bên phía đông và bên phía tây. Trong khi xẻ núi, Hécquyn khuân đá xếp sang hai bên đá chồng lên nhau như hai câu cột khổng lồ. Eo biển này có một vai trò rất quan trọng, là một con đường cực kỳ quan trọng để tàu thuyền đi từ Địa Trung Hải ra Đại Tây Dương và ngược lại. Mọi tàu thuyền đi qua nơi đây đều có thể được giám sát từ Núi Gibraltar.
Núi Gibraltar hay còn gọi là Cây cột của Hécquyn là một ngọn núi ở Gibraltar nằm ở cực tây nam châu Âu tại bán đảo Iberia. Nó có đỉnh cao 426 m (1.396 feet). Nguồn gốc tên gọi Có tên gọi này là vì theo thần thoại Hy Lạp, dũng sĩ Hécquyn trên đường đi lập kỳ công thứ 10 trong số 12 kỳ công phi thường của mình đã đến đại dương mênh mông nhưng lại gặp phải quả núi khổng lồ bít kín lấy biển. Hécquyn bèn dùng sức lực ghê gớm của mình xẻ núi, thông suốt biển bên trong và bên ngoài, bên phía đông và bên phía tây. Trong khi xẻ núi, Hécquyn khuân đá xếp sang hai bên đá chồng lên nhau như hai cây cột khổng lồ.
Eo biển Dover hay eo biển Calais (tiếng Anh: Strait of Dover hay Dover Strait; tiếng Pháp: Pas de Calais (IPA: )) là khúc hẹp nhất của eo biển Manche giữa Anh và Pháp. Đây là nơi gần lục địa châu Âu nhất của nước Anh. Khoảng cách gần nhất là từ Nam Foreland, 33,1 km (20.6 miles) nằm phía đông bắc của Dover ở hạ Kent, Anh, tới Cap Gris Nez, một vịnh gần Calais, một tỉnh của Pas-de-Calais, Pháp. Giữa 2 điểm này cũng là tuyến đường được ưa chuộng nhất của những người muốn bơi qua eo biển Manche. Vào một ngày đẹp trời, người ta có thể nhìn thấy bờ biển bên kia, từ Anh sang Pháp và ngược lại. Nổi tiếng nhất là cảnh vách đá trắng của Dover nhìn từ bờ biển Pháp.
Eo biển Đài Loan, hay eo biển Formosa, là một eo biển rộng khoảng chia tách đảo Đài Loan (của Trung Hoa Dân Quốc) với Trung Quốc đại lục (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa). Eo biển là một phần của Biển Đông và tiếp nối với biển Hoa Đông ở phía bắc. Điểm hẹp nhất rộng .
Eo biển Florida là một eo biển nằm giữa Hoa Kỳ và đảo quốc Cuba. Eo biển nằm ở cực đông nam đại lục Hoa Kỳ, nối vịnh Mexico với Đại Tây Dương. Eo biển dài khoảng 180 km từ Florida Keys ở phía bắc đến Cuba và Bahamas ở phía nam và đông nam. Người đầu tiên ghi nhận về eo biển này là nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Juan Ponce de León vào năm 1513.
Danh sách eo biển là liệt kê các eo biển đã được biết đến và đặt tên trên thế giới. xem thêm: :Thể loại:Eo biển A Eo biển Agattu - Aleutians Eo biển Akashi - Nhật Bản Eo biển Amchitka - Aleutians Eo biển Anegada - Quần đảo Virgin và Anguilla Arthur Kill - giữa Đảo Staten và New Jersey B Bab-el-Mandeb - nối Biển Đỏ với Ấn Độ Dương Eo biển Balabac - giữa Palawan, Philippines vàBorneo Eo biển Baltiysk - giữa vịnh Vistula và Vịnh Gdansk Eo biển Bass - giữa lục địa Australia và Tasmania Eo biển Belle Isle - giữa Newfoundland và đại lụcCanada Eo biển Bêring -phân cách Châu Á và Bắc Mỹ Eo biển Bransfield - nằm giữa Quần đảo Nam Shetland và Antarctic Peninsula Eo Bohol - còn gọi là eo biển Cebu, nằm giữa Bohol và Cebu ở Philippines Eo biển Bonifacio - giữa Corse và Sardegna Eo biển Bosporus - giữa Châu Âu và Châu Á. Eo biển Storebælt - Đan Mạch C eo biển Cabot - nằm giữa Newfoundland và Đảo Cape Breton eo biển Canso - nằm giữa đảo Cape Breton và Nova Scotia eo biển Carquinez - nối Vịnh San Pablo và vịnh Suisun, California eo biển Chatham - nằm giữa đảo Chichagof và đảo Admiralty, Alaska eo biển Clarence - nằm giữa Prince of Wales Island và Alaska eo biển Cook - nằm giữa North Island và South Island of New Zealand Cổng Vàng - giữa mũi Marin, California và San Francisco, California eo biển Cá Heo - giữa Tây Bắc Territories và đảo Victoria eo biển Cửa lục - nằm giữa Hạ Long và Bãi Cháy của Việt Nam D eo biển Dampier - giữa Tân Anh đảo Dài eo biển Danish - giữa bán đảo Scandinavia vàJutland eo biển Dardanelles -giữa Châu Âu và Châu Á eo biển Davis -giữa Đảo Baffin và Greenland eo biển Đan Mạch -giữa Greenland vàBăng Đảo eo biển sông Detroit - giữa Lake St. Clair và Lake Erie eo biển Dover hay Pas de Calais - (Kênh Anh) eo biển Drake -giữa Nam Mỹ và Châu Nam Cực Eo biển Đài Loan giữa đảo Đài Loan và Trung Hoa đại lục. E Sông Đông - giữa Manhattan và Long Island Kênh Anh - giữa Anh và Pháp F eo biển Florida - giữa Florida và Cuba eo biển Foveaux - giữa Đảo Nam và đảo Stewart, New Zealand eo biển Fury và Hecla - giữa đảo Baffin và Melville Peninsula, Canada G eo biển Georgia - giữa đảo Vancouver và British Columbia eo biển Gibranta - giữa châu Âu và châu Phi. eo biển Guadeloupe - bắc Guadeloupe, Tây Ấn H eo biển Hecate - đảo nữ hoàng Charlotte và British Columbia eo biển Honguedo - giữa đảo Anticosti và Gaspé Peninsula ở Quebec eo biển Hormuz - giữa bán đảo A rập và Iran eo biển Hoyo - Nhật Bản eo biển Hudson - đảo Baffin và Quebec J eo biển Johor - giữa Singapore và Johor, Malaysia K eo biển Kalmar - giữa Öland vàSmåland eo biển Kanmon - giữa Honshu vàKyushu eo biển Kara eo biển Karimata - giữa Sumatra và Borneo eo biển Kerch -giữa Krym và Nga Kill Van Kull - giữa đảo Staten và Bayonne, New Jersey eo biển Kitan - Nhật Bản eo biển Kwangtung Kênh Bắc - nằm giữa Bắc Ireland và Scotland L eo biển La Perouse (hay Soya) - giữa Sakhalin và Nhật Bản eo biển Lancaster Little Belt - Đan Mạch eo biển Lombok eo biển Luzon - Giữa Đài Loan và đảo Luzon, Philippines M eo biển Mackinac - nằm giữa Michigan's Upper và Lower Peninsulas eo biển Magellan - nằm giữa Nam Mỹ và Tierra del Fuego eo biển Makassar - nằm giữa Borneo và Sulawesi eo biển Malacca -nằm giữa Malaysia và Sumatra eo biển đảo Mare eo biển Martinique - nằm giữa Dominica và Martinique eo biển McClure - đảo Melville và đảo Ngân hàng eo biển Menai - nằm giữa Anglesey và xứ Wales eo biển Messina - nằm giữa Sicilia và Ý eo biển Mindoro - nằm giữa Mindoro và Palawan ở Philippines eo biển Mona - nằm giữa Hispaniola và Puerto Rico eo biển Myeongnyang - nằm giữa đảo Jindo và Hàn Quốc eo biển Miệng Rồng (Boca del Dragón) - giữa Trinidad và Venezuela Eo biển Miyako - Nhật Bản N eo biển Nares - nằm giữa đảo Ellesmere và Bắc Greenland và nối vịnh Baffin với biển Lincoln / the Arctic Sea. The Narrows - nằm giữa đảo Staten và Brooklyn ở Thành phố New York eo biển Naruto - Nhật Bản eo biển Northumberland - nằm giữa đảo công tước Edward và New Brunswick/Nova Scotia O Oresund - giữa Đan Mạch và Thụy Điển eo biển Otranto - giữa Ý và Albania P eo biển Palk - giữa Ấn Độ và Sri Lanka eo biển Pease ertuis d'Antioche - ở Đại Tây Dương, gần Pháp Q eo biển Quỳnh Châu - giữa đảo Hải Nam và Quảng Đông, Trung Quốc S eo biển San Bernardino - nằm giữa Luzon và Samar, Philippines eo biển San Juanico - nằm giữa Samar vàLeyte, Philippines eo biển Serpent's Mouth (Boca del Serpiente) - nằm giữa Trinidad và Venezuela eo biển Shelikof - nằm giữa Alaska và đảo Kodiak eo biển Shimonoseki eo biển Sicilia - nằm giữa Sicilia và Châu Phi eo biển Singapore - nằm giữa Singapore và Indonesia (Sumatra) eo biển Smith eo biển Sumba - nằm giữa Flores và Sumba, Indonesia eo biển Sunda - nằm giữa Sumatra và đảo Java eo biển Surigao - nằm giữa Leyte và Mindanao, Philippines eo biển Soya Strait - T eo biển Tablas - nằm giữa Mindoro và Panay, Philippines eo biển Tanon - nằm giữa Negros và Cebu, Philippines eo biển Tartary - Sakhalin eo biển Tiran - nằm giữa Sinai peninsula và Ả Rập Xê Út eo biển Torres - nằm giữa New Guinea và Australia eo biển Tsugaru - nằm giữa Hokkaido và Honshu eo biển Tsushima - nằm giữa đảo Iki và Korean Peninsula V eo biển Vitiaz - eo biển New Guinea và New Britain W eo biển Windward - giữa Cuba và Hispaniola Y eo biển Yucatan - giữa México và Cuba
Trong y học, võ thuật và dưỡng sinh, đan điền là một vài trung tâm khí lực hay huyệt đạo trên cơ thể người. Nghiên cứu về Đan Điền được dùng ban đầu trong Đạo giáo. Tuy nhiên vì có nhiều môn phái, sách vở khác nhau nên thuật ngữ "đan điền" có thể được dùng không nhất quán bởi các môn phái khác nhau. Trong cơ thể người có ba bộ vị được gọi là đan điền: Thượng đan điền: Trùng với huyệt Ấn đường (giữa 2 chân mày) còn gọi là "Đan Điền thần". Trung đan điền: Trùng với huyệt Đản trung (chính giữa đường nối 2 đầu ti, cắt ngang đường dọc theo xương ức) còn gọi là "Đan Điền khí". (Ren Mai.16 ~.21) Hạ đan điền: Còn gọi là "Đan Điền tinh", vị trí bắt đầu ngang với huyệt Khí hải (nằm trong khoảng trên đường chính trung, dưới rốn 1,5 thốn - khoảng 3 cm) và huyệt Mệnh môn (tại cột sống, ngang với thắt lưng). Khi Đan Điền được chủ động kích hoạt, bộ vị của nó hoàn toàn nằm ở giữa và phía trên bụng dưới. Có môn phái thì nói nó nằm trên huyệt Thần khuyết (rốn). (Ren Mai.3 ~.12) Đan điền, từ Hán Việt có nghĩa là "ruộng trồng đan dược", là nơi khí lực dễ tập trung hay có thể tập trung khí lực nhiều nhất, mạnh nhất. Vì vậy tùy theo môn phái và tùy theo mục đích sử dụng mà có các dị biệt về huyệt đạo.
{{Thông tin nghệ sĩ | tên = Huỳnh Anh | tên gốc = | nền = nhạc sĩ | hình = Huynh Anh.jpeg | kích thước hình = | chú thích hình = | nghệ danh = | tên khai sinh = | ngày sinh = | nơi sinh = Cần Thơ, Nam Kỳ, Đông Dương thuộc Pháp | ngày mất = | nơi mất = San Francisco, California, Hoa Kỳ | quốc tịch = | dân tộc = Kinh | nghề nghiệp = Nhạc sĩ, Nhạc công | bố mẹ = | vợ = | chồng = | con = | đào tạo = | học vấn = | lĩnh vực hoạt động = | giai đoạn sáng tác âm nhạc = | đào tạo âm nhạc = | thể loại âm nhạc = Nhạc vàng | nhạc cụ = Trống | công ty quản lý = | hãng đĩa = | hợp tác với = | thành viên của = | ca khúc = {{hlist|Mưa rừng|Kiếp cầm ca|Rừng lá thay chưa|Tình chỉ đẹp}} | giải thưởng âm nhạc = | website âm nhạc = | ảnh hưởng bởi = | ảnh hưởng tới = | chữ ký = | website = }} Huỳnh Anh (2 tháng 1 năm 1932 - 13 tháng 12 năm 2013) là nhạc sĩ kiêm nhạc công nổi tiếng trước năm 1975. của Việt Nam Cộng hòa Ông là tác giả của một số ca khúc được nhiều người biết đến như Mưa rừng, Kiếp cầm ca, Rừng lá thay chưa. Tiểu sử Huỳnh Anh sinh ngày 2 tháng 1 năm 1932 tại Cần Thơ, là con trai của nghệ sĩ Sáu Tửng, một người chơi đàn kìm nổi tiếng của nền cải lương miền Nam. Năm 1947, Huỳnh Anh chính thức bước vào con đường âm nhạc với vai trò một tay trống trong một ban nhạc tại thành phố Đà Lạt. Từ đó cho tới năm 1957, ông là nhạc công cho những đoàn cải lương, các phòng trà ca nhạc với các ban nhạc Philippines. Huỳnh Anh chơi được nhiều nhạc cụ, từ guitar, piano cho tới kèn, percussion. Năm 1957, ông trở thành trưởng ban nhạc và là một tay trống lừng lẫy trình diễn ở nhiều phòng trà, vũ trường của Sài Gòn. Năm 1975, Huỳnh Anh rời Việt Nam sang tỵ nạn bên Mỹ ở San Francisco, California. Năm 2004, Huỳnh Anh cùng với Nguyễn Hiền và Song Ngọc được trung tâm Thúy Nga vinh danh trong chương trình Paris By Night 74 - Hoa Bướm Ngày Xưa. Ông mất hồi 15 giờ ngày 13 tháng 12 năm 2013 tại San Francisco, California. Sự nghiệp sáng tác Nhạc phẩm đầu tiên của Huỳnh Anh là Em gắng chờ, xuất bản vào năm 1956. Tiếp theo đến những ca khúc khác được nhiều người biết tới như Lạnh trọn đêm mưa, Kiếp cầm ca và Mưa rừng sáng tác cho các vở cải lương. Theo lời của Huỳnh Anh, Kiếp cầm ca ông sáng tác để tặng nghệ sĩ Thanh Nga. Huỳnh Anh còn có một nhạc phẩm Thuở ấy có em nổi tiếng qua tiếng hát của Sĩ Phú. Ông cũng sáng tác nhạc phim như ca khúc Loan Mắt Nhung cho bộ phim cùng tên năm 1970 có sự tham gia diễn xuất của Thanh Nga và Sa mạc tuổi trẻ cho phim Điệu ru nước mắt. Ông còn có bút danh khác là Thủy Tiên được ông ký tên trong 2 ca khúc Tình chỉ đẹp và Tình yêu đầu đời. Khi sang hải ngoại, bài Rừng lá thay chưa phổ thơ Hoàng Ngọc Ẩn của ông cũng được phổ biến rộng rãi. Nhầm lẫn Có hai bài hát với tên Ngày mai đám cưới người ta. Một bài là của Huỳnh Anh và một bài là của Giao Tiên. Bài hát Tình chỉ đẹp'' của Huỳnh Anh bị nhầm là của Vinh Sử. Tác phẩm Biển đêm Biết nói gì đây (Huỳnh Anh - Huyền Thanh) (1966) Buổi chiều lá rụng Có một chiều (Huỳnh Anh - Huỳnh Hiếu) Đàn trong đêm vắng (1957) Đêm mộng Đời tôi chỉ một người (1964) Em gắng chờ (1956) Gió núi mưa rừng (Mưa rừng 2) (1973) Gửi về bên ấy (thơ Trần Quốc Lịch) Hoa trắng thôi cài trên áo tím (thơ Kiên Giang) (1962) Huyền sử ca Khung trời tưởng nhớ Kiếp cầm ca (1964) Lá úa chiều thu (1963) Lạnh trọn đêm mưa (1973) Loan Mắt Nhung (1970) Men rượu ly bôi Mùa thu không còn nữa Mưa rừng (1961) Mừng nắng xuân về Một ngày xa lắm (thơ Thanh Nga) Ngày đó em đi (lời Hùng Cường) Ngày mai đám cưới người ta Những bước chân hoang Nếu anh về (Huỳnh Anh - Y Vân) Nếu ta đừng quen nhau (1963) Phấn lá men rừng (1964) Rừng lá thay chưa (thơ Hoàng Ngọc Ẩn) Sa mạc tuổi trẻ Thành phố sương mù Thuở ấy có em (1965) Tiếng ru ngàn đời Tìm đâu phút ban đầu (1961) Tình chỉ đẹp Tình muộn Tình yêu đầu đời (1970) Chú thích Nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa Nhạc sĩ nhạc vàng Người Cần Thơ Người Mỹ gốc Việt Huỳnh Anh
Huỳnh Anh có thể là: Tên người Huỳnh Anh, nhạc sĩ, tác giả của những ca khúc Mưa rừng, Kiếp cầm ca, Rừng lá thay chưa. Huỳnh Anh, Thiếu tướng công tác trong ngành tình báo Công an Nhân dân Việt Nam. Huỳnh Anh, diễn viên Huỳnh Anh, soạn giả, tác giả của các vở cải lương Cung đàn nào cho em, Trăng soi dòng Bảo Định. Sinh học Huỳnh anh hay dây huỳnh, dây công chúa (danh pháp khoa học: Allamanda cathartica L.) là loài cây cảnh thuộc chi Allamanda.
Rạch Giá là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Địa lý Thành phố Rạch Giá nằm ở trung tâm tỉnh Kiên Giang, có vị trí địa lý: Phía đông và phía nam giáp huyện Châu Thành Phía tây giáp vịnh Thái Lan Phía bắc giáp huyện Hòn Đất và huyện Tân Hiệp. Thành phố có diện tích 105,86 km², dân số năm 2020 là 228.416 người, mật độ dân số đạt 2.158 người/km². Thành phố Rạch Giá có trung tâm đô thị nằm trải dài bên bờ Đông vịnh Thái Lan với 20 km đường bờ biển, chiếm 1/10 chiều dài bờ biển của tỉnh Kiên Giang. Được bao quanh bởi sông Kiên ở phía Bắc và Đông Bắc, sông Cái Lớn ở phía Nam. Rạch Giá cách Thành phố Hồ Chí Minh 245 km về hướng Tây Nam, cách Cần Thơ 116 km về hướng Tây và cửa khẩu quốc tế Hà Tiên 95 km về hướng Đông Nam. Điều kiện tự nhiên Do đặc điểm về điều kiện địa lý và tự nhiên, Vịnh Thái Lan – Rạch Giá là một miền biển trù phú, được biết đến xưa nay với kinh tế rất phong phú, đa dạng. Đó là thương mại-dịch vụ và du lịch, khai thác và chế biến hải sản. Rạch Giá cung cấp cho nhiều nơi trong nước và xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Rạch Giá, tuy không có bãi cát, không có đảo, nhưng nếu du khách đến Rạch Giá bằng đường bộ, sau những cảnh quang mênh mông của ruộng lúa phì nhiêu ở các vùng phụ cận, du khách sẽ cảm nhận được hương vị của biển. Vị trí thích hợp là dọc theo tuyến ven biển thuộc khu lấn biển 420 ha và khu 16 để ngắm nhìn ra biển vào buổi chiều sẽ thấy mặt trời hoàng hôn đỏ rực về phía biển Tây. Xa xa lô nhô những đảo lớn nhỏ ẩn hiện trên nền xanh của biển. Những tàu đánh cá lướt sóng chập chùng. Những vạt cây rừng của vùng ngập mặn xanh ngát ven bờ… Tất cả hòa trộn nên cảnh sắc “Hoàng hôn biển Tây” thơ mộng và quang cảnh đặc trưng của Rạch Giá trong quần thể vùng đất Biển – Đảo Kiên Giang. Kênh rạch và sông ngòi Trong thành phố không có sông lớn, chỉ có các kênh đào như: Kênh Rạch Giá - Long Xuyên (kênh Thoại Hà): nối liền thành phố Rạch Giá với thành phố Long Xuyên, phần thuộc Kiên Giang dài 30 km. Từ một con rạch tự nhiên, được đào vét mở rộng thành kênh vào năm 1818. Kênh Cái Sắn (kênh Rạch Sỏi đi Vàm Cống): dài 54 km, đưa nước từ sông Hậu đến kênh Ông Hiển đổ ra cửa Rạch Sỏi, phần thuộc Kiên Giang dài 28 km. Kênh Cái Sắn là hệ thống thuỷ lợi đảm bảo năng suất và sản lượng cao cho vùng lúa lớn thuộc ba huyện Tân Hiệp, Giồng Riềng và Châu Thành. Kênh cũng là trục giao thông thuỷ đi các tỉnh lân cận và Thành phố Hồ Chí Minh. Kênh Ông Hiển: dài 18 km từ Rạch Giá đến sông Cái Bé, rộng 30 m, sâu từ 2 đến 3 m. Kênh Rạch Giá - Hà Tiên: dài 80 km, nối liền thành phố Rạch Giá đến thành phố Hà Tiên, rộng từ 20 đến 30 m, sâu 3 m. Hai bên kênh có nhiều kênh đào, rạch ăn thông ra biển như các kênh Ba Hòn, Vàm Rầy, Lình Huỳnh, Vàm Răng,... Ngoài các kênh nói trên, còn có nhiều rạch tự nhiên và kênh nhỏ như rạch Giồng, rạch Vàm Trư, rạch Tà Mưa, rạch Tà Keo, rạch Đường Trâu, rạch Tắc Ráng, kênh Đòn Dông, kênh Cống Đôi,... Các kênh rạch lớn nhỏ trên địa bàn thành phố chi phối lẫn nhau về mực nước và lưu lượng. Nó vừa chịu tác động thủy văn của sông Hậu, vừa chịu ảnh hưởng thủy triều của vịnh Rạch Giá. Địa hình, địa chất và thổ nhưỡng Địa hình của thành phố bằng phẳng, có độ cao từ 1m đến 2m so với mặt biển theo hướng thấp dần từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam. Cấu trúc địa chất của Rạch Giá theo dạng trầm tích đệ tứ, cách đây hàng chục ngàn năm do nguồn địa thành bởi nền đá mẹ tại chỗ và do thủy thành bởi phù sa lắng đọng. Về địa chất, công trình mới sơ bộ thăm dò cho thấy địa tầng có cấu tạo sét pha cát ở độ cao từ 0,5m đến 60m. Nước ngầm trong lòng đất hình thành do nhiều nguồn khác nhau nên có chỗ mặn, chỗ chua lợ, cũng có chỗ nước ngọt cách mặt đất vài ba mét. Các loại đất ở Rạch Giá do ở sát bờ biển và thuộc khu vực tứ giác Long Xuyên nên vừa chịu mặn lại vừa phèn. Đất mặn chiếm đến 6,231 km2 trong toàn bộ diện tích tự nhiên của thành phố, thuộc các phường Vĩnh Quang, Vĩnh Lạc, An Hoà và Rạch Sỏi. Hàm lượng muối trong đất có đến 0,3% vào mùa khô, song đến mùa mưa thì giảm đi 1/2 nên có thể tận dụng nước mưa để canh tác lúa hai vụ và trồng cây ngắn ngày. Đất mặn chua nhiều chiếm diện tích tương đương với đất mặn, phân bố chủ yếu ở phường Vĩnh Thanh, Vĩnh Thông và Vĩnh Hiệp. Loại đất này có độ phì khá cao nhưng lại bị nhiễm mặn và nhiều phèn. Độ pH nhỏ hơn 4, năng suất cây trồng thấp. Muốn cải tạo đất, đòi hỏi phải giải quyết nhiều khâu kĩ thuật như phải có nước ngọt để tháo chua, có giống cây trồng thích hợp... Đất mặn chua ít chiếm diện tích nhỏ (khoảng 1,3km2) phân bố rải rác ở các phường. Đất này có độ chua từ vừa đến ít, độ pH lớn hơn 4,5, là loại đất khá thuần phục. Hàng năm nếu đủ nước từ tháng 5 đến tháng 10 thì đất có khả năng canh tác tốt, trở thành vùng sản xuất lúa cao sản. Khí hậu Hành chính Thành phố Rạch Giá có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc gồm 11 phường: An Bình, An Hòa, Rạch Sỏi, Vĩnh Bảo, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Lợi, Vĩnh Quang, Vĩnh Thanh, Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Thông và xã Phi Thông. Lịch sử Nguồn gốc tên gọi Rạch Giá Về tên gọi Rạch Giá có một số giả thuyết: Một số ý kiến cho rằng Rạch Giá là do đọc chệch từ tiếng Khmer Kramuon Sar (sáp trắng) mà ra, tuy nhiên sự biến âm này thiếu tính thuyết phục. Ngày nay, người Khmer vẫn gọi thành phố Rạch Giá là “ក្រមួនស” Kramuonsa. Các ý kiến khác thì cho rằng tên Rạch Giá có từ thời chúa Nguyễn, khi ấy ở đây có rất nhiều cây giá bên bờ rạch, đất rộng và hoang vu, dân cư thưa thớt, đa số là người Khmer và người Việt. Giả thuyết này hợp lý và đáng tin cậy. Trong tiếng Trung Quốc, Rạch Giá được ghi là 迪石. Theo John Crawfurd, các thương nhân người Hoa phiên âm Rạch Giá thành Tek-sia. Trong tiếng Mân Nam Phúc Kiến, 迪石 đọc là Tek-sia. Lịch sử Thành phố có bề dày lịch sử khai phá hơn 300 năm, trong khi vị trí hiện nay của Rạch Giá từng là cảng thị sầm uất của quốc gia Phù Nam thuộc nền văn hóa Óc Eo tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII, phân định từ di chỉ Nền Chùa (Takev) được khai quật năm 1944 của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret. Giai đoạn thế kỷ XVII - giữa thế kỷ XIX Địa danh Rạch Giá được nhắc đến lần đầu tiên trong chính sử Việt Nam là ở cuốn Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, trong đó có đoạn " Hà Tiên vốn là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mường Khảm, tiếng Tàu gọi là Phương Thành. Ban đầu có người tên là Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn (nhưng mãi đến năm Khang Hy thứ 19, vùng Quảng Đông mới bình định xong). Mạc Cửu không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt của nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm bạc nên bỗng trở thành giàu có. Từ đó ông chiêu mộ dân Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kỳ (hay Trũng Kè, Lũng Cả -réam), Cần Bột (Cần Vọt - Kampôt), Hương Úc (Vũng Thơm - Kompong Som), Giá Khê (Rạch Giá), Cà Mau lập thành bảy xã thôn." Theo sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 3) thì "Năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau ". Như vậy địa danh Rạch Giá đã xuất hiện ít nhất từ cuối thế kỉ 17. Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập ra huyện Kiên Giang, đặt trấn lỵ tại đây. Trong Đại Nam nhất thống chí, mục “Thành Trì” có ghi: “Huyện não (đồn canh của huyện) Kiên Giang mặt trước dài 19 trượng 2 thước, bề ngang dài 12 trượng 6 thước, ở địa phận xã Vân Tập, vào năm Thiệu Trị nguyên niên (1841). Chợ Sái Phu, ở huyện Kiên Giang, tục danh là chợ Rạch Giá, phố xá liền lạc, ghe buôn đến đậu đông đảo.”. Từ vùng đất rộng người thưa, Rạch Giá là nơi cộng cư của người Việt, Hoa và Khmer, nhưng chiếm đa số là người Việt và Khmer. Trước đời Gia Long, dân chúng đã chọn lựa vài gò cao ven các sông rạch để cư trú. Từ làng chài nhỏ ven cửa sông, Rạch Giá dần phồn thịnh hơn nhờ buôn bán lúa gạo và thương mại sung túc. Vào TK XVII, tức thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, vùng Rạch Giá nay là một trong 7 đơn vị hành chính thuộc Trấn Hà Tiên xưa. Thời Pháp thuộc Sau khi chiếm được Vĩnh Long và Hà Tiên, năm 1867, Pháp bắt đầu tiến đến Rạch Giá. Ngày 18 tháng 8 năm 1867, Pháp đặt hạt thanh tra Rạch Giá do đổi tên từ hạt thanh tra Kiên Giang. Ngày 16 tháng 6 năm 1869, Nguyễn Trung Trực khởi nghĩa ở đây, giết gần như toàn bộ quân lính và viên chức người Pháp. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, Pháp tách vùng Cà Mau ra khỏi Rạch Giá. Ngày 18 tháng 12 năm 1871, Pháp lại nhập Cà Mau vào Rạch Giá. Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, đổi hạt thanh tra thành hạt tham biện, các thôn thành các làng. Ngày 12 tháng 8 năm 1888, hạt tham biện Rạch Giá bị giải thể, nhập vào hạt Long Xuyên. Ngày 27 tháng 12 năm 1892, Pháp tái lập hạt Rạch Giá với 4 tổng. Ngày 26 tháng 1 năm 1894, chính quyền thực dân Pháp hợp nhất 4 làng Vĩnh Lạc, Vĩnh Hòa, Thanh Lương và Vân Tập thành một làng mới lấy tên là làng Vĩnh Thanh Vân, đồng thời vẫn là nơi đặt lỵ sở của hạt tham biện Rạch Giá như trước đó. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi hạt tham biện Rạch Giá thành tỉnh Rạch Giá. Ngày 25 tháng 5 năm 1900, lập tổng Kiên Tường, tổng Thanh Bình. Ngày 31 tháng 12 năm 1907, lập thêm tổng An Ninh và tổng Thanh Biên. Ngày 6 tháng 1 năm 1916, lập thêm tổng Thanh Tuyên, tổng Thanh Yên. Ngày 18 tháng 12 năm 1929, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị xã hỗn hợp Rạch Giá trên cơ sở cải biến khu đô thị Rạch Giá, trụ sở tại làng Vĩnh Thanh Vân dưới quyền một viên Thị trưởng và một Hội đồng thị xã. Ngày 16 tháng 1 năm 1930, Pháp chia địa bàn thị xã Rạch Giá thành 5 khu vực để đánh thuế. Ngày 30 tháng 4 năm 1934, Pháp nâng thị xã lên thành phố và chia thành 3 khu phố. Giai đoạn 1956-1976 Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận là Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành lập tỉnh Kiên Giang. Tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang đặt tại Rạch Giá và vẫn giữ nguyên tên là "Rạch Giá", về mặt hành chánh thuộc xã Vĩnh Thanh Vân thuộc quận Kiên Thành. Sau năm 1956, thị xã Rạch Giá bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn xã Vĩnh Thanh Vân thuộc quận Kiên Thành của tỉnh Kiên Giang. Ngày 20 tháng 11 năm 1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập thị xã Rạch Giá, là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang. Thị xã Rạch Giá được tái lập trên cơ sở các xã Vĩnh Thanh Vân và An Hòa cùng thuộc quận Kiên Thành trước đó. Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Rạch Giá và tỉnh Kiên Giang là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Ngày 07 tháng 6 năm 1971, thị xã Rạch Giá có 6 khu phố trực thuộc là: Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Thanh, Vĩnh Lạc, Vĩnh Hiệp, An Hoà, Phó Cơ Điều. Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn giữ nguyên tên gọi tỉnh Rạch Giá; đồng thời duy trì thị xã Rạch Giá trực thuộc tỉnh Rạch Giá từ năm 1956 cho đến năm 1976. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Rạch Giá như trước đó cho đến đầu năm 1976. Lúc này thị xã Rạch Giá vẫn giữ vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Rạch Giá. Từ năm 1976 đến nay Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định tái lập tỉnh Kiên Giang. Tỉnh lỵ là thị xã Rạch Giá, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Thị xã Rạch Giá lúc này gồm 5 phường: An Hòa, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Thanh và Vĩnh Thanh Vân. Ngày 27 tháng 9 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 107-HĐBT về việc phân vạch địa giới một số xã, phường của huyện Châu Thành và thị xã Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang như sau: Tách xã Phi Thông của huyện Châu Thành để sáp nhập vào thị xã Rạch Giá cùng tỉnh. Chia phường Vĩnh Thanh Vân thành 2 phường: Vĩnh Thanh Vân và Vĩnh Hòa. Chia phường Vĩnh Lạc thành 3 phường: Vĩnh Lạc, Vĩnh Bảo và An Lạc. Chia phường An Hoà thành phường An Bình và xã An Hòa. Chia phường Vĩnh Thanh thành phường Vĩnh Thanh và 2 xã: Vĩnh Trung, Vĩnh Quang. Chia phường Vĩnh Hiệp thành 2 xã: Vĩnh Thông và Vĩnh Hiệp. Ngày 25 tháng 4 năm 1988, thành lập thêm phường Rạch Sỏi trên cơ sở thị trấn Rạch Sỏi của huyện Châu Thành; giải thể phường An Lạc và 2 xã Vĩnh Quang, Vĩnh Trung để thành lập phường Nguyễn Trung Trực; chuyển 3 xã An Hòa, Vĩnh Hiệp và Vĩnh Thông thành 3 phường có tên tương ứng. Ngày 31 tháng 5 năm 1991, sáp nhập phường An Bình vào phường An Hòa; sáp nhập phường Vĩnh Bảo vào phường Vĩnh Lạc; sáp nhập phường Vĩnh Hòa vào phường Nguyễn Trung Trực và sáp nhập phường Vĩnh Thông vào phường Vĩnh Hiệp. Thị xã Rạch Giá còn 7 phường. Ngày 24 tháng 4 năm 1993, sáp nhập phường Nguyễn Trung Trực vào phường Vĩnh Thanh. Thị xã Rạch Giá lúc này gồm có 6 phường: An Hòa, Rạch Sỏi, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Thanh, Vĩnh Thanh Vân và xã Phi Thông. Ngày 18 tháng 3 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 23-CP về việc thành lập phường Vĩnh Thông thuộc thị xã Rạch Giá trên cơ sở 1.518,56 ha diện tích tự nhiên và 7.151 nhân khẩu của xã Phi Thông. Ngày 14 tháng 11 năm 2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 84/2001/NĐ-CP về việc thành lập các xã, phường thuộc thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang như sau: Thành lập phường Vĩnh Quang thuộc thị xã Rạch Giá trên cơ sở 1.064,8 ha diện tích tự nhiên và 18.449 nhân khẩu của phường Vĩnh Thanh. Thành lập phường Vĩnh Lợi thuộc thị xã Rạch Giá trên cơ sở 398,4 ha diện tích tự nhiên và 7.659 nhân khẩu của phường Rạch Sỏi. Ngày 11 tháng 2 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 10/2003/NĐ-CP về việc thành lập phường Vĩnh Bảo thuộc thị xã Rạch Giá trên cơ sở 77,38 ha diện tích tự nhiên và 17.789 nhân khẩu của phường Vĩnh Lạc. Ngày 8 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 11/2004/NĐ-CP về việc thành lập phường An Bình thuộc thị xã Rạch Giá trên cơ sở 479,75 ha diện tích tự nhiên và 13.794 nhân khẩu của phường An Hòa. Tháng 10 năm 2004, thị xã Rạch Giá được công nhận là đô thị loại 3. Cuối năm 2004, thị xã Rạch Giá bao gồm 11 phường: An Bình, An Hòa, Rạch Sỏi, Vĩnh Bảo, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Lợi, Vĩnh Quang, Vĩnh Thanh, Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Thông và xã Phi Thông. Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 97/2005/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Rạch Giá. Thành phố Rạch Giá có 9775,42 ha diện tích tự nhiên và 205.660 nhân khẩu, bao gồm 12 đơn vị hành chính trực thuộc, các phường: Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Thanh, Vĩnh Lạc, Vĩnh Bảo, Vĩnh Lợi, Vĩnh Quang, An Hòa, An Bình, Rạch Sỏi, Vĩnh Thông, Vĩnh Hiệp và xã Phi Thông. Ngày 18 tháng 2 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 268/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Rạch Giá là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Kinh tế - xã hội Rạch Giá là đô thị kinh tế biển, bao gồm dịch vụ, thương mại và đánh bắt thủy hải sản. Thành phố biển miền Tây Nam này ngày càng có nhiều người biết đến hơn là bởi Rạch Giá đang sở hữu khu đô thị lấn biển đầu tiên và lớn nhất Việt Nam. Tháng 5 năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã cho khởi công tuyến tránh TP Rạch Giá dài 20 km, hiện tại đã hoàn thành. Đây là dự án thành phần của tuyến hành lang ven biển Tây nối Việt Nam với Campuchia và Thái Lan nhằm gắn kết và đẩy mạnh phát triển các thành phố ven Vịnh Thái Lan gồm Pattaya - Sihanouk ville - Hà Tiên. Do những lợi thế tự nhiên lẫn nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và dân thành phố Rạch Giá mà trong suốt thời gian 15 năm qua kể từ khi Rạch Giá được công nhận là thành phố vào năm 2005 luôn giữ mức tăng trưởng kinh tế từ 14 - 15%/ năm. Cụ thể như: Tốc độ tăng trưởng bình quân (2005-2010) tăng 14,38%; thu nhập bình quân đầu người từ 870 USD (12,334 triệu đồng) năm 2005 lên 1.637 USD (30,908 triệu đồng); thu ngân sách thành phố năm 2010 đạt 304 tỷ đồng, tăng 1,78 lần so năm 2005, cơ cấu kinh tế chuyển dịch khá nhanh và đúng hướng; các ngành thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP là 68,71%, công nghiệp-xây dựng 18,69%, nông nghiệp-hải sản 12,60%. Năm 2008 - 2013, Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Rạch Giá đạt 15.07%, tổng sản phẩm GDP năm 2013 ở mức 4.700 tỷ đồng (theo giá cố định 1994), tăng gần 16% so với cùng kỳ, thu nhập bình quân đầu người 44.6 triệu đồng/năm. Cơ cấu GDP chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng các ngành dịch vụ chiếm 72,48%, công nghiệp-xây dựng chiếm 16,71%, nông-lâm-thủy sản 10,81%. Năm 2012 thành phố phối hợp với các nhà đầu tư đưa vào khai thác Siêu thị Metro, chợ Vĩnh Thanh 2, chợ Nguyễn Thoại Hầu. Đặc biệt năm qua thành phố phối hợp với các sở ngành tỉnh, nhà đầu tư tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong giải tỏa, bồi thường để triển khai các công trình trọng điểm như: Tuyến tránh Rạch Giá, các cầu trung tâm lấn biển, khu dân cư Phan Thị Ràng...với tổng vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng. Đến cuối măm 2013, tỷ lệ hộ nghèo của thành phố còn 1,2%. Trong giai đoạn 2010 - 2015, Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm đạt 15,1%, tăng 0,85% so nhiệm kỳ trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ từ 69,52% năm 2010 lên 78,46% năm 2015, giảm công nghiệp - xây dựng từ 17,74% năm 2010 còn 13,45%, nông nghiệp từ 12,74% năm 2010 còn 8,09%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 25.244 tỷ đồng và tăng 3,15 lần. Theo báo cáo của cụ thể của Cục thống kê Kiên Giang ngày 20/8/2015 thì - Ngành dịch vụ: Được xác định là ngành chủ lực và thế mạnh, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP của Thành phố. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội hàng năm đạt 19.739 tỷ đồng và tăng bình quân 23%/năm, tăng 2,28 lần so 5 năm trước. Hệ thống chợ, siêu thị được đầu tư xây dựng, nâng cấp và khai thác có hiệu quả, cơ bản đáp ứng nhu cầu mua, bán của nhân dân, giữ vai trò là đầu mối giao thương hàng hóa với các nơi trong và ngoài tỉnh, trong đó riêng hệ thống siêu thị có Co.op Mart Rạch Sỏi và Rạch Giá, Metro (Megamart), City Mart. Các loại hình dịch vụ phát triển mạnh về số lượng, quy mô và nâng cao chất lượng phục vụ, bình quân hàng năm thu hút 1,4 triệu lượt khách du lịch. - Công nghiệp - xây dựng: Giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 3.700 tỷ đồng, tăng bình quân 8,5%/năm, tăng 1,18 lần so năm 2010. Các ngành đạt mức tăng trưởng khá như: Công nghiệp chế biến nông-thủy sản; cơ khí; đóng, sửa tàu thuyền; sản xuất nước mắm; công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng; thủ công mỹ nghệ. Bằng nhiều nguồn vốn đã tập trung đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm và hệ thống điện trung thế, hạ thế và giao thông liên tỉnh, giao thông trong nội ô Thành phố. - Nông nghiệp: Sản lượng lúa bình quân hàng năm đạt 72 ngàn tấn, giá trị sản xuất đất nông nghiệp đạt 76,11 triệu đồng/ha/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm 416,8 tỷ đồng, tăng 5%/năm. Giá trị sản xuất thủy - hải sản bình quân hàng năm 3.457 tỷ đồng, tăng 7,39%/năm; sản lượng khai thác hải sản bình quân đạt 198,56 ngàn tấn/năm, tăng 1,26 lần; tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản bình quân hằng năm đạt 796 tấn, tăng 1,68 lần so với năm 2010. Tập trung lãnh đạo chỉ đạo tổ chức thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, đến năm 2015 xã Phi Thông được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, tăng 1,16 lần so với nhiệm kỳ trước. Quan tâm củng cố kiện toàn, nâng lên chất lượng hoạt động kinh tế tập thể; hợp tác nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả; liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp để bao tiêu các mặt hàng nông, hải sản. - Tổng thu ngân sách 5 năm được 2.845 tỷ đồng, đạt 115% chỉ tiêu tỉnh giao, tăng 2,2 lần, bình quân tăng 15%/năm. Chi ngân sách 5 năm 2.427 tỷ đồng, tăng 2,7 lần so, bình quân tăng 17%/năm. Hệ quả là thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 69,51 triệu đồng (tương đương 3.278 USD), gấp 2,3 lần so năm 2010, cao gấp gần 1,6 lần mức thu nhập bình quân đầu người toàn quốc năm 2015 (tương đương 2.058 USD). Qua 5 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và Nghị quyết Đại hội X của Đảng bộ, thành phố Rạch Giá đã đạt được những thành tựu quan trọng, kinh tế tiếp tục ổn định và phát triển, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt so Nghị quyết Đại hội. Năm 2016, Rạch giá đón nhận nhiều nguồn đầu tư với hàng loạt những dự án lớn như khu lấn biển tây bắc, đảo nhân tạo Phú Gia, trung tâm thương mại Vincom Plaza... Ngoài ra, các công trình hạ tầng như trường học, bệnh viện liên tục được triển khai tại đây. Hiện nay, thành phố đang triển khai đầu tư xây dựng, hoàn thiện khu đô thị Phú Cường và đảo Phú Gia nằm tại khu vực phía Nam thành phố. Dự kiến trong năm 2019, thành phố sẽ quyết định đầu tư xây dựng thêm khu lấn biển Trần Quang Khải và đảo nhân tạo Phú Quý thuộc khu đô thị lấn biển Tây Nam Rạch Sỏi. Các dự án lấn biển khu đô thị ở đây sẽ giúp cho Rạch Giá trở thành một đô thị hạt nhân quan trọng của tỉnh và là thành phố đầu tiên ở Việt Nam đang sở hữu dải công viên bờ biển cảnh quan dài nhất khu vực. Trong nhiệm kỳ 2020-2025, lãnh đạo của thành phố Rạch Giá nhấn mạnh rằng sẽ cố gắng phấn đấu để sớm đưa thành phố trở thành đô thị loại I. Giáo dục Hiện nay, trên địa bàn thành phố Rạch Giá có tổng cộng 7 trường THPT. Trong đó, có một trường THPT chuyên là trường THPT chuyên Huỳnh Mẫn Đạt (phường Vĩnh Lạc). Ngoài ra còn 6 trường THPT khác: Trường THPT Phó Cơ Điều (phường An Hòa) Trường THPT Võ Văn Kiệt (phường An Hòa) Trường THPT Nguyễn Hùng Sơn (phường Rạch Sỏi) Trường THPT iSCHOOL Rạch Giá (phường Vĩnh Lạc) Trường THPT Nguyễn Trung Trực (phường Vĩnh Thanh) Trường THPT Ngô Sĩ Liên (xã Phi Thông) Cũng theo đó, hiện tại, toàn thành phố đã có 4 trường cao đẳng Kiên Giang: Trường Cao đẳng Y tế (14 Phạm Ngọc Thạch, P Vĩnh Thanh) Trường Cao đẳng Nghề (Nguyễn Trung Trực, P An Hoà) Trường Cao đẳng Kiên Giang (425 Mạc Cửu, P Vĩnh Thanh) Trường Cao đẳng Sư phạm (449 Nguyễn Chí Thanh, P. Rạch Sỏi) Với sự xây dựng nhiều nhiều trường học như vậy đã phần nào to lớn giúp xóa nạn mù chữ trên địa bàn thành phố nói riêng và toàn tỉnh Kiên Giang nói chung. Quy hoạch đô thị Từ những năm 1997, Rạch Giá đã bắt đầu mở rộng và phát triển đô thị quy mô lớn. Khu Trung tâm Thương mại Rạch Giá, khu đô thị lấn biển Rạch Giá được tiến hành vào những năm 1997 đã tạo tiền đề cho công tác quy hoạch đô thị bài bản và hiện đại. Hệ quả đến hôm nay, Rạch Giá có được những khu dân cư quy hoạch hợp lý, những tuyến phố thương mại tập trung sầm uất. Đồng thời, Rạch Giá được đánh giá là thành phố trực thuộc tỉnh có sức mạnh tổng hợp thuộc top đầu của các trung tâm hàng đầu ở miền Tây. Rạch Giá là một trong những thành phố đông dân nhất Tây Nam Bộ cũng như cả nước. Công tác quy hoạch và phát triển mở rộng Rạch Giá đã bắt đầu hoạt động từ 1997 đến nay, với hoạt động đáng chú ý là khởi công khu đô thị Lấn biển Rạch Giá vào tháng 12 năm 1997. Rạch Giá đã tranh thủ được nhiều nguồn vốn phát triển trên các lĩnh vực, từ vốn của khối kinh tế tư nhân cho đến vốn trung ương, từ hạ tầng đô thị cho đến công nghiệp dịch vụ. Rạch Giá hiện có khá nhiều công trường, các hoạt động kinh tế và các khu vui chơi. Rạch Giá ban đầu chỉ là một vùng đất ẩm thấp nhỏ hẹp, sình lầy. Do quá trình bồi tụ của phù sa sông cùng với những dự án lấn biển thành công từ thế kỷ trước đến nay đã mở rộng đáng kể diện tích cũng như thay đổi bộ mặt thành phố. Theo Ban Quản lý dự án lấn biển Kiên Giang, hiện khu vực vịnh Rạch Giá thuộc TP. Rạch Giá đã hình thành 2 khu lấn biển với tổng diện tích khoảng 520 ha. Trong số này, dự án lấn biển Rạch Giá được chính thức khởi công xây dựng từ năm 1999 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ với tổng diện tích 420 ha, khu Tây Bắc gần 100 ha (khởi công năm 2015) và khu vực bãi bồi tự nhiên 16 ha. Chỉ riêng dự án lấn biển Rạch Giá đã giải quyết đất ở cho 60.000 người dân cùng với việc xây dựng các công trình công ích xã hội, khu hành chính cấp tỉnh, quảng trường, bệnh viện, trường học,… Công ty Cổ phần Đầu tư Phú Cường là đơn vị đầu tiên được tỉnh Kiên Giang bàn giao khoảng 160 ha đất trong dự án biển Rạch Giá để xây dựng khu đô thị mới với cơ sở hạ tầng đồng bộ như khu nhà ở, nhà phố, biệt thự hướng biển cao cấp, công viên cây xanh, khu khách sạn từ 3 - 5 sao, khu resort nghỉ dưỡng dọc bờ biển, khu vui chơi giải trí với những trò chơi hiện đại, hấp dẫn phục vụ cư dân địa phương và khách du lịch,… Trong khi đó, khu lấn biển Tây Bắc đã được chủ đầu tư là doanh nghiệp tư nhân ở địa phương cho xây dựng các công trình công cộng, trung tâm thương mại, dịch vụ du lịch, cao ốc văn phòng, nhà ở thương mại, nhất là tái định cư cho hộ dân đang sinh sống tại các khu nhà ở tạm bợ ven bờ sông, kênh rạch nội ô TP. Rạch Giá. Cùng với đó là hệ thống giao thông, vỉa hè, bờ kè lấn biển; hệ thống thoát nước mưa, nước thải, khu xử lý nước thải, hệ thống chiếu sáng công cộng, công viên và cây xanh. Mới đây, nhằm quản lý xây dựng khu vực bờ biển TP. Rạch Giá ổn định dài hạn, UBND tỉnh Kiên Giang đã tạm dừng cấp phép đầu tư cho các dự án lấn biển mở rộng tiếp theo của các nhà đầu tư. Được chọn thí điểm quy hoạch đô thị xanh bởi Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc Ngày 7/7, Bộ Xây dựng và Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) đã phối hợp tổ chức khởi động dự án Hỗ trợ kỹ thuật Quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam (GDSS). Tham dự buổi lễ có Thứ trưởng Bộ Xây dựng Phan Thị Mỹ Linh và Trưởng đại diện KOICA tại Việt Nam Chang Jae Yun. Dự án GDSS đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án tại Quyết định số 984/QĐ-TTg ngày 01/6/2016. Chính phủ Hàn Quốc sẽ cung cấp khoản viện trợ không hoàn lại cho dự án 6,5 triệu USD (6,955 tỷ Won). Chính phủ Việt Nam sẽ cung cấp một khoản vốn đối ứng từ ngân sách đủ để trang trải các chi phí theo quy định của Việt Nam. Hai đô thị được lựa chọn áp dụng thí điểm là khu đô thị Yên Bình (tỉnh Thái Nguyên) và TP. Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang). Để đạt được các mục tiêu trên, các bên sẽ hợp tác thực hiện các nhiệm vụ: Xây dựng bộ chỉ số đánh giá về đô thị xanh, phát triển Hệ thống Hỗ trợ Quyết định trong Quy hoạch Đô thị Xanh (GDSS) và đề xuất khung pháp lý về quy hoạch đô thị xanh cho Bộ Xây dựng Việt Nam; Xây dựng hệ thống GDSS cho đô thị Yên Bình (TP. Rạch Giá); Đề xuất các phương án quy hoạch đô thị xanh cho Yên Bình, Rạch Giá thông qua việc áp dụng GDSS. Dự án cũng đồng thời thực hiện các khóa đào tạo cho cán bộ Việt Nam về quy hoạch đô thị xanh; Cung cấp phần mềm, trang thiết bị và vật tư trong phạm vi dự án. Giải thưởng "Quản lý phát triển đô thị xuất sắc" Ngày 25/ 4/2019, Ban Tổ chức Giải thưởng Quy hoạch đô thị quốc gia lần thứ nhất năm 2019 đã thông báo kết quả Giải thưởng Quy hoạch đô thị quốc gia lần thứ nhất năm 2019: Ủy ban nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là đơn vị đã đạt giải thưởng thuộc thể loại “Quản lý phát triển đô thị xuất sắc”. Theo nhận định của ban tổ chức Giải thưởng quy hoạch đô thị quốc gia lần thứ nhất thì Rạch Giá cùng ba thành phố vừa và nhỏ khác (Hội An, Sa Đéc và Buôn Ma Thuột) có đồ án quy hoạch xây dựng đô thị và quản lý phát triển đô thị tốt hơn các đô thị hàng đầu như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Văn hoá - du lịch Rạch Giá chính là nơi có nhiều cảnh quan và tiềm năng sông nước biển đảo, lại có sức hút mạnh mẽ đối với thực khách phương xa khi đến thăm thành phố. Người Việt, Hoa và Khmer là những con người ấy đã dựng xây, thành tạo nên một nền văn hóa đặc sắc đậm đà bản sắc dân tộc mà người đời thường gọi là văn minh xứ Rạch Giá, cùng vô số đền đài, chùa chiền và hàng trăm công trình thờ tự nổi tiếng khắp vùng Nam Bộ. Mặc dù là vùng xa xôi của tổ quốc, nhưng đất Rạch Giá không hề vắng bóng những anh hùng dân tộc, hết lòng chặt dạ vì dân vì nước, mà điển hình là Nguyễn Trung Trực đã đền nợ nước khi tuổi chưa đầy ba mươi. Cho đến hôm nay, Lễ tế Anh hùng Dân tộc Nguyễn Trung Trực vẫn được tổ chức trang trọng vào các ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch. Đây là lễ hội lớn nhất và có sức thu hút mạnh nhất ở Rạch Giá. Có thể coi đây là 1 sản phẩm du lịch rất đáng giá và mang lại nhiều giá trị. Ngày nay, lễ hội được tổ chức ngày một trang nghiêm với các hoạt động tế lễ đẹp mắt và văn minh. Vào dịp lễ hội tháng Tám hàng năm, dân thập phương đổ về Rạch Giá rất đông. Nhiều nhà hảo tâm, và cả người bình dân đã đóng góp tiền của, công sức, cơm gạo để làm cơm thết đãi du khách. Người ta nô nức đi "ăn cơm đình", đó là bát cơm tình nghĩa, bát cơm của người Rạch Giá thết đãi du khách phương xa đã không ngại đường sá xa xôi đến đây dự lễ. Di tích lịch sử Di tích đã được xếp hạng Đình thần Nguyễn Trung Trực Chùa Tam Bảo Đình thần Vĩnh Hoà Mộ Huỳnh Mẫn Đạt Chùa Phật Lớn (Rạch Giá) Chùa Láng Cát Bảo tàng Kiên Giang Chùa Quan Đế Chùa Bà Thiên Hậu Chùa Ông Bổn Chùa Phổ Minh Di tích chưa được xếp hạng Cổng Tam quan. Di tích này được coi là "cổng làng" và là biểu tượng chính thức của thành phố Rạch Giá. Đình phó cơ Nguyễn Hiền Điều Mộ hội đồng Suông Miếu Bắc Đế Thiên Hậu Cung So với các đô thị khác trong vùng và cả nước, đô thị Rạch Giá có một kho tàng văn hóa độc đáo. Đó là sự dung hợp của các tộc người, các nền văn hóa lớn, chủ yếu từ Kinh, Hoa, Khơ Me. Biểu hiện của sự đa dạng và giao lưu văn hóa thể hiện ở các kiến trúc đình, chùa, các công trình thờ tự. Nếu biết khai thác và có định hướng phát triển hợp lý, những di tích văn hóa này đang là một sức hút rất lớn của thành phố Rạch Giá. Giao thông Rạch Giá có nhiều lợi thế về giao thông đường thủy, đường biển, đường bộ và đường hàng không nhằm kết nối với các trung tâm lớn trong nước và khu vực Đông Nam Á,... Về đường bộ, hiện đã hình thành được tuyến đường vành đai phía đông và hệ thống đường kết hợp đê biển phía tây. Các đại lộ lớn được thiết kế rộng rãi và mỹ quan bao gồm các đại lộ 3/2, đại lộ Lạc Hồng, đại lộ Trần Phú, đại lộ Trần Quang Khải, đại lộ Phan Thị Ràng. Cùng với đường Nguyễn Trung Trực, đường Lâm Quang Ky, đường Tôn Đức Thắng, tất cả làm nên mạng lưới giao thông xương sống của Rạch Giá. Hiện tại tại Rạch Giá có 2 bến xe lớn: bến xe Rạch Giá và bến xe tỉnh Kiên Giang. Năm 2013, bến xe Rạch Giá đã chuyển chức năng giao thông liên tỉnh cho bến xe tỉnh Kiên Giang tại huyện Châu Thành Mạng lưới giao thông xe buýt có khá sớm, từ Rạch Giá người ta có thể đi xe buýt theo 4 chuyến đến các huyện khác. Hiện tại, Cảng hàng không Rạch Giá (Trước đây gọi là sân bay Rạch Sỏi) là sân bay duy nhất ở Rạch Giá với các chuyến bay của Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam đi 2 chiều đến cả Thành phố Hồ Chí Minh và Phú Quốc. Thành phố Rạch Giá có 2 bến tàu khách lớn là bến tàu du lịch Rạch Giá hay bến tàu Phú Quốc và bến tàu Rạch Mẽo. Tàu cao tốc là lựa chọn ít tốn kém hơn cho những ai muốn ra đảo Phú Quốc hay huyện Kiên Hải. Ngoài ra còn bến tàu Rạch Mẽo, chủ yếu vận chuyển hành khách và hàng hóa đi Miệt Thứ - U Minh Thượng. Tên đường của Rạch Giá trước năm 1975 Chú thích
Kansas (phát âm như là Ken-dợtx) là tiểu bang ở miền Trung Tây Hoa Kỳ. Tiểu bang này được đặt tên theo sông Kansas chảy qua tiểu bang, và tên của sông bắt nguồn từ tiếng Sioux Kansa có nghĩa là "dân tộc của gió nam". Kansas là trung tâm địa lý của đất liền Hoa Kỳ. Địa lý Kansas giáp với Nebraska về phía bắc, Missouri về phía đông, Oklahoma về phía nam, và Colorado về phía tây. Nó nằm cách đều Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Trung tâm đo đạc của Bắc Mỹ nằm thuộc Quận Osborne. Chỗ này được sử dụng làm vị trí tham khảo cho các bản đồ được vẽ bởi chính phủ. Trung tâm địa lý của các tiểu bang đất liền thuộc về Quận Smith gần Lebanon, Kansas, và trung tâm địa lý của Kansas ở thuộc Quận Barton. Vì nó là tiểu bang trung tâm của Liên bang, việc xếp Kansas vào một miền địa lý chuẩn trong quốc gia hơi khó, nhưng nó thường được coi là một tiểu bang Trung Tây. Đôi khi phần tây nam của tiểu bang được bao gồm vào miền Tây Nam Hoa Kỳ, tại ngày xưa có lúc khi vùng đó thuộc Tây Ban Nha, México, rồi Cộng hòa Texas, trong khi những vùng khác của Kansas không phải vậy. Tiểu bang này được chia thành 105 quận và có 628 thành phố. Kansas là một trong sáu tiểu bang thuộc Dải Biên giới. Địa hình Vì Kansas nằm trên đồng bằng Great Plains ở giữa Hoa Kỳ, nó thường có đất bằng phẳng hay nhấp nhô, và trên quy mô rộng lớn, nó gần như bằng phẳng hoàn toàn – thực sự bằng hơn một bánh kếp! Độ cao của nó kéo dài từ 208 mét (684 foot) bên cạnh bờ sông Verdigris tại Coffeyville ở Quận Montgomery, tới 1.231 m (4.039 foot) tại Núi Hướng dương (Mount Sunflower) ở Quận Wallace. Sông Missouri phân chia gần 120 kilômét (75 dặm) của ranh giới đông bắc của tiểu bang. Sông Kansas bắt đầu ở chỗ mà sông Đồi khói (Smoky Hill River) và sông Cộng hòa (Republican River) nối liền ở Junction City (Thành phố Junction), và nó nối với sông Missouri tại Thành phố Kansas (Kansas City), sau khi chảy 240 km (150 dặm) qua miền đông bắc của tiểu bang. Sông Arkansas bắt đầu ở Colorado và chảy theo đường quanh co dài gần 800 km (500 dặm) qua ba phần tư của tiểu bang. Nó và các nhánh sông – sông Tiểu Arkansas, sông Walnut, nhánh sông Bò (Cow Creek), sông Cimarron, sông Verdigris, và sông Neosho – là hệ thống thoát nước của miền nam tiểu bang. Các sông quan trọng kia là sông Saline và sông Solomon, các nhánh của sông Đồi khói; sông Xanh Lớn (Big Blue River), sông Delaware, và sông Wakarusa (ba con sông này chảy vào sông Kansas); và sông Marais des Cygnes, một nhánh của sông Missouri. Các công viên quốc gia Các vùng thực thuộc Dịch vụ Vườn Quốc gia (NPS) bao gồm: Khu lưu niệm Quốc gia Brown kiện Ủy ban Giáo dục (Brown v. Board Of Education National Historic Site) tại Topeka Đường mòn lịch sử Quốc gia California Khu lưu niệm Quốc gia Fort Larned tại Larned Khu lưu niệm Quốc gia Fort Scott Đường mòn lịch sử Quốc gia Lewis và Clark Khu lưu niệm Quốc gia Nicodemus tại Nicodemus Đường mòn lịch sử Quốc gia Oregon Đường mòn lịch sử Quốc gia Pony Express (bưu chính tốc hành bằng ngựa) Đường mòn lịch sử Quốc gia Santa Fe Khu vực cấm săn Đồng cỏ Tallgrass (Tallgrass Prairie National Preserve) gần Thành phố Strong (Strong City) Các thành phố quan trọng Theo đạo luật tiểu bang, các thành phố được phân loại thành ba cấp, tính theo dân số "theo bất cứ thống kê dân số nào". Những thành phố cấp ba có ít hơn 5.000 người, nhưng nếu thành phố đạt được dân số hơn 2.000 người, nó có thể dành cấp hai. Cấp hai có hạn chế chỉ bao gồm những thành phố ít hơn 25.000 người, và khi tới 15.000 người, những thành phố cấp hai có thể được cấp một. Các thành phố cấp một và hai không trực thuộc thị trấn nào. Lịch sử Ngày xưa có nhiều dân cư thổ dân đi săn con trâu, vùng Kansas được người Mỹ trắng đến ở vào thập niên 1850. Bắt đầu từ năm 1854, các người theo chủ nghĩa giải phóng nô lệ và các người ủng hộ chế độ nô lệ vội vàng tràn vào tiểu bang để biểu quyết vụ Kansas được trở thành tiểu bang tự do (cấm nô lệ) hay không. Được gọi Kansas chảy máu (tiếng Anh: Bleeding Kansas), nó trở thành lò lửa bạo lực và hỗn độn hễ khi những lực lượng ủng hộ và chống chế độ nô lệ gặp nhau. Năm 1861, Kansas được gia nhập Liên bang là tiểu bang tự do. Sau Nội chiến Mỹ, Kansas mở mang do nhập cư tràn vào từng đợt và làm đồng cỏ thành đất chăn nuôi thành công. Ngày nay Kansas là một trong những tiểu bang thành công nhất về nông nghiệp, dẫn đầu nước về sản xuất lúa mì. Chú thích
Độn Giáp là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Độn giáp, Lục nhâm đại độn). Có sách thêm hai chữ "Kỳ Môn" ở trước và có tên gọi là Kỳ Môn Độn giáp. Độn Giáp là môn tính toán căn cứ vào sự tiêu trưởng của Âm Dương để đặt ra những nguyên tắc và định lý quyết đoán sự diễn tiến cát hung của sự vật. Trong tam thức, nếu như Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất thì Độn Giáp, lại thiên về Địa, nó nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý, phong thủy đối với con người. Nguyên tắc Độn Giáp là môn dự đoán, phát sinh từ Dịch học, ứng dụng dịch lý. Độn Giáp là hệ thức thời gian theo Can Chi tương ứng với các thuộc tính của Tiết khí, theo một chu kỳ tính theo năm (tháng) hoặc Nguyên, Hội, Vận v.v... mà mỗi vị trí thời gian Can Chi phản ánh một quá trình phát sinh, phát triển và kết quả của sự vật, hiện tượng, con người. Nói đến Độn Giáp là nói đến Tiết khí được lượng hoá qua độ mạnh yếu của khí Âm Dương bằng hằng số của Dịch học gọi là Cục. Trong mười Thiên can thì ba nhóm Thiên can Ất, Bính, Đinh được gọi là Tam Kỳ, sáu nhóm Thiên can Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý được gọi là Lục Nghi. Can giáp được ẩn đi nên gọi là Độn Giáp. Tam kỳ tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và tinh tú. (tam kỳ: Nhật kỳ, nguyệt kỳ, tinh kỳ; Lục nghi: là 6 nghi, mỗi nghi 05 ngày, Lục nghi có nghĩa là 30 ngày) Nhật kỳ: là ngày, là mặt trời sáng sủa - Ất kỳ; Nguyệt kỳ: là tháng, là mặt trăng đỏ sáng - Bính kỳ; Tinh kỳ: là giờ, là sao, là vi cấp của 60 giờ trong một nghi 5 ngày (5 x 12 giờ), chi phối bởi 28 vì sao, gọi là Nhị Thập Bát tú, còn gọi là Đinh kỳ; Mỗi Tiết trời có 03 nghi = 15 ngày. Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Tám cửa gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Đỗ Môn, Cảnh Môn, Tử Môn, Kinh Môn và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Đồ. Tên các cửa trong Bát Trận Đồ là Thiên Môn, Địa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Điểu Môn và Xà Môn. Bát Trận Đồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Đất đối với con người ta. Kỳ Môn Độn Giáp: có nghĩa là Giáp trốn ở Mậu, bởi lẽ hai địa chi Hợi và Tí của can Giáp ở Tiết Lập Đông Tiểu Tuyết, Đại Tuyết, Đông chí. Khởi tính năm Giáp Tí ở Thiên can Mậu, nó độn trốn ở can Mậu; Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên; Thượng nguyên (ngươn): 1864-1923; Trung nguyên: 1924-1983; Hạ nguyên: 1984-2043 và 2044 trở lại Thượng nguyên. Độn giáp được hình thành trên cơ sở bài toán Tổ Hợp Tuyến tính của 10 Can 12 Chi của: (Năm, Tháng, Tiết, Lục nghi, Tam kỳ của Tiên thiên bát quái, Hậu thiên bát quái, cửu cung (Hư, Sinh, Thương, Đổ, Cảnh Tử, Kinh, Khai, Trung ngũ cung); 28 sao (Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ, Đẫu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tuy, Sâm, Tỉnh, Quỹ, Liểu, Tinh, Trương, Diệc, Chẩn): Tính bằng giờ theo gọi theo can chi, và sao (y như tính thời gian bằng giờ, phút, giây)... Muốn hiểu và hành được môn này, bạn phải thuộc bài thơ theo đây: Hưu Môn hung bạo hà phương Lợi; Sinh giả An Hòa, vạn sự thanh; Thương môn đại bại sự nan hành; Đổ thị tiêu diêu, chí khả thành; Cảnh môn hỹ lạc, tâm trung hảo; Tử giả khôn vong, phá tán tranh; Kinh môn tiền hung giai hậu kiết; Khai thời vạn sự cộng ngươn hanh. Bấm độn theo 8 cửa, còn phải thông thạo ngày giờ mình bấm độn, để tính làm một việc ở một thời gian thích hợp, tốt lành nào đó; Cần phải biết từ tháng Giêng đến tháng 12, phối hợp theo can và chi, phối hợp theo Tiết khí, xem rõ trong lục nghi, và tam kỳ, có can chi gì khắc hoặc thuận để phối hợp ra thời điểm, và các phương án dự phòng. Bát Môn Đại Độn, cũng như Lục Nhâm Đại Độn (6 cách tính độn số), bạn có thể ứng dụng vào phong thủy, đất đai, nhà cửa, tuổi tác ứng nghiệm để sử dụng được. Rất chi tiết, đòi hỏi người muốn học và hành môn này, tâm phải thật thanh tịnh, vô nguyện, các số liệu vi cấp của đại độn cho phép thấy (Tuệ giác) nhiều điều khó nói hết được. Hiện nay có nhiều trường phái độn giáp được phát triển ở Trung Hoa Đại lục và Đài Loan. Phổ biến nhất là thời gia kỳ môn học, sau đó là niên gia kỳ môn học, nguyệt gia kỳ môn học, nhật gia kỳ môn học... Đối tượng dự trắc Kỳ Môn Độn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm.Kỳ Môn Độn Giáp được ứng dụng trong việc lựa chọn thời gian, hướng bày binh, xuất quân, cầu tài, cầu danh, yết kiến quý nhân, xuất hành, khai trương, động thổ, xây cất, tìm người cưới gả … Trước đây, Độn giáp ứng dụng vào quân sự là chủ yếu. Ngày nay độn giáp có thể ứng dụng trong các hoạt động mang tính cạnh tranh, thi đua, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh. Ngoài ra độn giáp còn là công cụ quan trọng trong tính toán địa lý "tam hợp" điều này cũng nói lên sự liên quan mật thiết giữa độn giáp với yếu tố "Địa" trong hệ thống tam tài Thiên - Nhân - Địa. Cách lập hệ thức độn giáp Muốn lập Hệ thức Độn giáp, phải có: Biết năm, tháng, ngày, giờ để tính can chi, xét can ngày để tính được nguyên nào: - Can Giáp Kỷ gia với Tý Ngọ Mão Dậu là Thượng nguyên - Can Giáp Kỷ gia với Dần Thân Tỵ Hợi là Trung nguyên - Can Giáp Kỷ gia với Thìn Tuất Sửu Mùi là Hạ nguyên Rồi tra tiết khí trong năm, qua đó tính được âm hay dương độn và mấy cục (xem bảng). Ví dụ xem giờ Giáp Tí, ngày Giáp Tí, tháng Mậu Dần năm Ất Dậu (sau giao thừa Tết Ất Dậu, 09/02/2005): Ngày xem Giáp Tí thuộc thượng nguyên, tiết Lập xuân, nên có Dương độn 8 cục. Lập được bảng Lục nghi, Tam kỳ: ) Giờ là Giáp Tí, xác định Trực phù là Thiên Nhậm, Trực sử là cửa Sinh. Lập công thức Độn giáp là Thiên Nhậm / 8 và Sinh môn / 8. Sau đó an và phân tích vị trí các cửa, các sao và các thần, trên cơ sở Dịch lý, Dịch số tiến hành phân tích và đoán giải. Cách xét đoán một hệ thức độn giáp Có nhiều cách xét đoán một hệ thức độn giáp như: xem tổng quát, xem thân thế và vận hạn của một người, xem từng sự việc, xem theo cách bói Dịch, xem về các cách dụng binh và xem các cách đặc biệt... Tổng quát: Là xét vế can của giờ xem. Lối coi này được dùng khi cần coi cấp tốc các việc bất thường xảy ra như nghe một hung tin, bị máy mắt trước khi xuất hành hay trước khi việc gì nghi ngờ mà không tuỳ thuộc nơi mình. Người coi căn cứ giờ ra thuộc can nào (Ất, Bính Đinh…) và căn cứ các sao thuộc vòng cửu tinh, Trực phù lạc vào cung nào mà có phương án đoán giải. Thân thế và vận hạn của một người: Là cách lập lá số độn giáp rồi xét mệnh chủ, nghi kỳ, xét bản mệnh…. Cách xem này tương tự như xem Tử vi, Tử bình, Bát tự Hà Lạc… Từng sự việc: Là dự báo về từng sự việc cụ thể như thời tiết (xem mưa hay tạnh ráo), xem gia trạch cát hung, xem thi cử, xem có thăng chức hay bị đổi đi, hôn nhân, bệnh tật, kiện tụng… Theo cách bói Dịch: Là căn cứ hệ thức độn giáp, qui về một quẻ Dịch, nạp giáp cho quẻ, an hào thế và hào ứng, an lục thân, lục thú… rồI tiến hành xét đoán như Bói Dịch. Ngoài ra còn có xem về các cách dụng binh (phân chia chủ khách, bát tướng lâm Bát môn) và xem về các cách đặc biệt của hệ thức độn giáp.
Các dây thần kinh sọ là các dây thần kinh tách ra trực tiếp từ não, đối lập với các dây thần kinh gai tách ra từ tủy gai. Ở người từ trước đến giờ được cho là có tổng cộng 12 đôi dây thần kinh sọ, tuy nhiên theo một số tác giả còn tồn tại thêm một cặp dây thần kinh nữa được đánh số 0. Ba cặp đầu tiên (gồm cả dây 0) tách ra từ đại não, mười cặp còn lại tách ra từ thân não. Các dây thần kinh sọ đa số đều thuộc hệ thần kinh ngoại biên (HTKNB), ngoại trừ dây sọ II (dây thần kinh thị giác thật ra không phải là một dây thần kinh thực sự mà là một đường thần kinh của gian não dẫn đến võng mạc; cả dây thần kinh thị giác và võng mạc do đó đều là một phần của hệ thần kinh trung ương (HTKTW). Sợi trục của 12 dây thần kinh còn lại kéo dài ra khỏi não bộ và do đó được coi là thuộc HTKNB. Các dây thần kinh sọ xác định hai loại nguyên ủy: Nguyên ủy thật là nơi phát xuất ra dây thần kinh (một nhân xám trung ương nếu là vận động, một hạch ngoại biên nếu là cảm giác) và nguyên ủy hư là nơi các dây thần kinh chui vào hoặc thoát ra ở mặt ngoài não và thân não. Các dây thần kinh sọ ở những động vật có xương sống khác Các loài động vật có nước ối khác (các loài động vật bốn chân không kể lưỡng cư) có các dây thần kinh sọ tương tự như ở người. Ở các động vật đẻ trứng dưới nước (cá và lưỡng cư). Ngược lại, dây XI và XII không tồn tại như vậy, dây XI tích hợp vào dây X và dây XII được thay thế bởi một số lượng khác nhau các dây thần kinh sống tách từ các đoạn đốt sống hợp lại vào vùng chẩm; dây XI và XII chỉ bắt đầu trở thành các dây thần kinh riêng lẻ ở tổ tiên của các loài động vật có nước ối. Danh sách các dây thần kinh sọ
Bức xạ vũ trụ hay tia vũ trụ là chùm tia các hạt photon hoặc hạt nhân nguyên tử có năng lượng cao phóng vào khí quyển Trái Đất từ không gian (bức xạ sơ cấp) và bức xạ thứ cấp được sinh ra do các hạt đó tương tác với các hạt nhân nguyên tử trong khí quyển với thành phần gồm hầu hết là các hạt cơ bản. Bức xạ vũ trụ sơ cấp đẳng hướng trong không gian và không đổi theo thời gian. Bức xạ vũ trụ có tính sát thương mạnh.
Hán Triệu (tiếng Trung giản thể: 汉赵, phồn thể 漢趙, bính âm: Hànzhào) 304-329 là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn (265-316), đầu nhà Đông Tấn (316-420). Nước này có hai tên gọi, là Hán (漢) được Lưu Uyên (劉淵) tuyên bố năm 304 và Lưu Diệu (劉曜) đổi thành Triệu (趙) năm 319, sử sách gọi là Tiền Triệu (前趙) để phân biệt với Hậu Triệu (後趙). (Lý do gọi là Tiền Triệu là khi đó một viên tướng có thế lực là Thạch Lặc (石勒) đã tách ra để thành lập nhà nước riêng của mình năm 319, ông này cũng đặt tên gọi cho quốc gia của mình là Triệu, và vì thế nhà nước của Thạch Lặc được gọi là Hậu Triệu. Tiểu quốc này cũng có nhiều tên gọi khác như: Hung Nô Hán(匈奴漢), Hồ Hán(胡漢) hoặc Bắc Hán(北漢) - Tuy nhiên danh hiệu này hiếm khi được sử dụng vì nó dễ bị nhầm lẫn với triều đại Bắc Hán trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Tên gọi Do cả hai quốc gia này (Hán của Lưu Uyên và Triệu của Lưu Diệu) đều được những người Hung Nô đã Hán hóa một phần, thuộc dòng họ Lưu cai trị, nên một số học giả Trung Quốc thường kết hợp cả hai nhà nước này thành một nhà nước duy nhất là Hán Triệu. Nhiều văn bản phương Tây coi đây là hai nhà nước riêng biệt; trong khi những văn bản khác gọi nước Hán này là Bắc Hán (北漢), một tên gọi hiện nay được dùng để chỉ Nhà nước Bắc Hán (951-979) trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Tuy nhiên, việc coi đây như là hai nhà nước tách biệt cần được coi là sai lầm hoàn toàn, bởi vì khi Lưu Diệu đổi tên từ Hán thành Triệu năm 319, ông coi nhà nước của mình như là sự tiếp nối từ thời kỳ mà Lưu Uyên lập ra nó năm 304; mặc dù ông không công nhận mối liên hệ với nhà Hán trước đó và tuyên bố tổ tiên là từ một thiền vu vĩ đại của người Hung Nô là Mặc Đốn (冒顿). Hình thành Vào thập niên 280, một lượng lớn (khoảng 400.000) người Hung Nô chăn nuôi gia súc sinh sống tại khu vực Sa mạc Ordos (Ngạc Nhĩ Đa Tư) và Tịnh Châu (并州), đơn vị hành chính bao gồm các khu vực ngày nay của toàn bộ tỉnh Sơn Tây, tây nam Nội Mông Cổ và đông Thiểm Tây, sau khi Tào Tháo dời họ tới đây và chia họ ra thành "ngũ bộ" (五部). Những người Hung Nô này dường như cuối cùng đã thay đổi cách sống du canh du cư trên thảo nguyên sang việc chăn nuôi gia súc và ở một mức độ nhất định là làm nông nghiệp. Sự Hán hóa là rõ ràng, đặc biệt trong tầng lớp quý tộc; Lưu Uyên, thủ lĩnh cha truyền con nối của "Tả bộ" (左部) đã được học hành tại Lạc Dương, Kinh đô nhà Tấn, và rất giỏi văn học, lịch sử, chiến lược và chiến thuật quân sự Trung Hoa - sự tinh thông của một người hoàn hảo theo ý nghĩa kinh điển. Người ta còn cho rằng nhà Tấn đã có ý định giao cho Lưu Uyên làm chỉ huy lực lượng đi chinh phục các tàn dư nhà Đông Ngô; nhưng sau đó đã không dùng do ông là người Hung Nô. Tuy nhiên, trong số các thủ lĩnh của người Hung Nô, bao gồm cả Lưu Uyên, ý nghĩ về sự tách rời ra khỏi Trung Quốc luôn luôn được ghi nhớ. Phần lớn những người chăn nuôi gia súc vẫn giữ được các kỹ năng cưỡi ngựa và khả năng đánh trận. Sự bất mãn chống lại nhà Tấn và vị trí thấp kém của họ luôn nhắc nhở họ càng tìm kiếm một quốc gia tự trị của người Hung Nô. Điều này được thể hiện trong câu nói của một trong số các thủ lĩnh "kể từ khi nhà Hán sụp đổ, nhà Ngụy và nhà Tấn đã nối tiếp nhau. Mặc dù Thiền vu của chúng ta [Hung Nô] đã có danh phận cha truyền con nối, nhưng không có một chỗ đứng trên lãnh thổ có chủ quyền". Các diễn biến trong Loạn bát vương cuối cùng đã có lợi cho người Hung Nô. Lưu Uyên đã thu được nhiều lợi ích từ một Thành Đô Vương (Tư Mã Dĩnh) đã tuyệt vọng, người bị đánh bại tại căn cứ Nghiệp Thành (鄴城) để tập hợp được khoảng 50.000 chiến binh Hung Nô. Sau đó Lưu Uyên tự xưng "Hán Vương", một tước hiệu đã được Lưu Bang (người sáng lập ra nhà Hán) dùng hàng thế kỷ trước đó - một sự chấp nhận có tính toán về nhà Hán đã sụp đổ từ trước đó rất lâu, dựa trên các cuộc hôn nhân hỗn hợp thời kỳ đầu của các thiền vu Hung Nô và các công chúa nhà Hán, để tranh thủ lực lượng tấn công những kẻ tiếm ngôi (nhà Ngụy và nhà Tấn). Lưu Uyên hy vọng là địa vị pháp lý chính thống như vậy sẽ giúp ông có được sự ủng hộ của các quý tộc Trung Hoa. Các động cơ chính trị của ông cũng góp phần giải thích việc chấp nhận và áp dụng hệ tư tưởng-chính trị của đẳng cấp quý tộc Trung Hoa. Diệt Tây Tấn Tuy nhiên, sự tuyên bố như vậy vẫn chỉ là danh nghĩa - các cố gắng trận mạc của Lưu Uyên cuối cùng đã vượt quá kế hoạch chính thống ban đầu của ông. Nhà nước Hán của ông đã thu được sự ủng hộ của một số thủ lĩnh các bộ lạc phi Hán như người Tiên Ti và người Đê và một số lực lượng lục lâm thảo khấu, bao gồm cả lực lượng của cựu nô lệ Thạch Lặc người Yết. Tuy nhiên, Bộ lạc Thác Bạt (拓拔) láng giềng (là những người Tiên Ti du canh du cư hùng mạnh tại Nội Mông Cổ ngày nay và miền Bắc Sơn Tây), dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh của họ là Thác Bạt Y Lư đã xâm phạm vào khu vực sinh sống của người Hung Nô của Nhà nước Hán mới này. Một nhà nước Hung Nô hùng mạnh có thể là vật cản trở hy vọng của người Thác Bạt trong việc di cư vào khu vực này. Về một phía, người Thác Bạt có được sự giúp đỡ của nhà Tấn tại khu vực Bình để phản công chống lại nhà nước Hán. Ở bên kia là kỵ binh Hung Nô, rất thành công trong việc cướp bóc mọi nơi, nhưng đã thất bại trong việc chiếm thành Tấn Dương (晉陽 - thành phố Thái Nguyên, thủ phủ tỉnh Sơn Tây ngày nay), thủ phủ khu vực Bính, mặc dù tướng giữ thành Tư Mã Đằng đã bỏ chạy vào khu vực Đồng bằng Hoa Bắc và để lại một sự hỗn loạn. Tướng giữ thành mới là Lưu Côn, đã chấn chỉnh lại việc giữ thành và lợi dụng mâu thuẫn giữ người Thác Bạt và Hung Nô để kiếm lợi. Lòng trung thành của người Thác Bạt đã được tưởng thưởng - Năm địa khu đã được thưởng cho Thác Bạt Ỷ Lư vào năm 310 và ông cũng được phong vương tại đất Đại. Khu vực xung quanh Tấn Dương còn nằm trong tay nhà Tấn cho đến tận khi Thác Bạt Ỷ Lư chết năm 316 và bị hạ sau một cuộc phản công thảm khốc. Lưu Côn bỏ chạy nhưng sau đó bị thủ lĩnh của người Tiên Ti Đoàn Thất Đạn sát hại. Năm 310, Lưu Uyên chết, Lưu Thông lên thay, tiếp tục tấn công Tây Tấn. Năm 311, quân Hung Nô đánh bại quân nhà Tấn trên chiến trường và từ mọi ngả kéo về kinh đô Lạc Dương. Các mãnh tướng Thạch Lặc, Lưu Diệu, Hô Diên Yến đánh hạ được Lạc Dương, giết 3 vạn quân Tấn, bắt sống Tấn Hoài Đế. Năm 313, Hoài Đế bị làm nhục và tử hình. Triều thần nhà Tấn lập Tư Mã Nghiệp làm Tấn Mẫn Đế tại Trường An, nhưng tới năm 316, Lưu Thông lại điều binh đánh chiếm Trường An, bắt gọn Mẫn Đế. Mẫn Đế cũng không tránh khỏi số phận như Hoài Đế, bị làm nhục và bị giết. Tan rã Tất cả những người cai trị Nhà nước Hán Triệu đều tự xưng "Hoàng đế". Các vua Hán Triệu nói chung là những người thông minh và ăn nói lưu loát, nhưng thiếu sự kiềm chế và thể hiện sự tàn độc thái quá trên chiến trường. Điển hình cho tính cách này là Lưu Thông (劉聰, tức Chiêu Vũ Đế nhà Hán Triệu) (310-318), là người có khả năng thấy được các kế hoạch chiến lược tốt từ những điều xấu, nhưng buông thả trong rượu và phụ nữ, và kiểu cách cư xử thất thường của ông thường dẫn đến cái chết của những quan chức trung thực nhất. Vì thế Hán Triệu là quốc gia không bao giờ thể hiện hết được tiềm năng của mình - nhà nước này có nhiều tướng lĩnh tài năng và quân đội hùng mạnh khi được sử dụng hợp lý, nhưng chưa bao giờ kết thúc được các cuộc chinh phục mà các vị vua đã đề ra và cuối cùng đã rơi vào tay viên tướng cũ Thạch Lặc. Mặc dù theo biên niên sử thì Hán Triệu không phải là mạnh nhất trong số 16 quốc gia, nhưng quân đội của nhà nước này đã cướp phá các kinh đô nhà Tây Tấn tại Lạc Dương năm 311 và Trường An năm 316. Quan lại và Hoàng tộc nhà Tây Tấn phải dời đến Kiến Khang, nằm ở phía đông Lạc Dương và Trường An và thành lập nên nhà Đông Tấn, dưới quyền Tư Mã Duệ, sau này trở thành Tấn Nguyên Đế. Năm 318, Lưu Thông chết. Lưu Xán (Hán Ấn Đế) và Hoàng tộc tại Lâm Phần đã bị lật đổ và tử hình trong một vụ chính biến cung đình do Cách Chuẩn cầm đầu. Nhưng sau đó chính Chuẩn lại bị Thạch Lặc và Lưu Diệu trừ khử. Lưu Diệu, trong vai trò của Hoàng tử kế vị, đã lên ngôi và đổi tên Quốc gia thành Triệu. Nhà nước Hán Triệu kéo dài đến năm 329 khi Thạch Lặc đánh bại Lưu Diệu tại trận chiến trên sông Lạc. Lưu Diệu bị bắt sống và tử hình; các con ông không chống nổi các trận chiến kế tiếp. Nước Hán Triệu tồn tại được 25 năm, có tất cả sáu vua. Các vị vua Hán Triệu Lưu ý: Lưu Hy là người kế vị của Lưu Diệu, là người lên nắm quyền khi Lưu Diệu bị bại trận trước Vua nhà Hậu Triệu Thạch Lặc bắt sống, nhưng không bao giờ có niên hiệu, miếu hiệu và thụy hiệu.
Sân bay Rạch Giá nằm ở phường Vĩnh Lợi, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam, thuộc sự quản lý của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam-CTCP (ACV). Vị trí địa lý Cảng hàng không Rạch Giá thuộc địa phận phường Vĩnh Lợi, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, ở cách trung tâm thành phố Rạch Giá 7 km về phía Nam, cách chợ Rạch Sỏi 1 km về phía đông; phía đông và phía Tây nam Cảng hàng không là ruộng lúa ao hồ, phía Bắc giáp quốc lộ 80 (đường Cách mạng tháng Tám). Lịch sử Sân bay được thực dân Pháp xây dựng từ những năm 50 thế kỉ trước khi trở lại chiếm đóng Nam Bộ. Chức năng chính của sân bay lúc bấy giờ là đảm bảo liên lạc hành chính giữa Sài Gòn và miền Tây Nam bộ. Đầu năm 1960, Mỹ tiếp tục hoàn chỉnh xây dựng Cảng hàng không Rạch Giá thành một trong những căn cứ của Hàng không dân dụng, sử dụng chính cho mục đích quân sự với tổng diện tích là 489.200m2, đường hạ cất cánh dài 1170m x 30m, đường lăn vuông góc với đường hạ cất cánh dài 85m x 15m, sân đậu rộng 5.500m2, nhà ga có diện tích 60m2. Thời gian đầu sau giải phóng, Cảng hàng không phục vụ chủ yếu cho hoạt động về nông nghiệp, vận chuyển cho các nông trường Mỹ Lâm; Bình Sơn 1, 2, 3 vận chuyển bởi các loại máy bay như DC3, AN2, LI 14. Năm 1979, diện tích Cảng hàng không được mở rộng thành 32.875m2. Ngày 10/5/2021, sân bay phối hợp với Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Kiên Giang và các đơn vị liên quan tổ chức tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho toàn thể cán bộ, nhân viên và các đơn vị đang hoạt động tại Cảng. Hạ tầng kỹ thuật Đường cất hạ cánh (CHC): Cảng hàng không Rạch Giá có 01 đường CHC, có hướng địa lý 078° - 258°; cửa ra, vào 08/26; kích thước 1.500m x 30m; mặt đường phủ bê tông nhựa; Lề đường CHC có kích thước: 1.500m x 25m; Hai dải hãm phanh đầu bằng bê tông nhựa, kích thước: 46m x 47m; Bảo hiểm đầu CHC 08: 90m x 90m; Bảo hiểm đầu CHC 26: 90m x 90m; Dải bảo hiểm hai bên sườn đường CHC: 1.500m x 80m; Tọa độ đầu thềm đường CHC (theo hệ WGS-84): Đầu 08 (mức cao 1,73m): . Đầu 26 (mức cao 1,60m): . Độ dốc trung bình đường CHC là 0,02% và độ dốc ngang là 1,5%. Đường lăn: Cảng hàng không Rạch Giá có 01 đường lăn vuông góc với đường CHC, nối đường CHC với sân đỗ tàu bay; kích thước 85m x 15m; mặt đường phủ bê tông nhựa, sức chịu tải: 21,5 tấn; lề bảo hiểm rộng 14m. Sân đậu tàu bay: Cảng hàng không Rạch Giá có 01 sân đậu tàu bay bằng bê tông nhựa, kích thước 200m x 76m, bảo đảm 04 vị trí đỗ cho tàu bay; sức chịu tải 21,5 tấn. Nhà ga hành khách: Nhà ga Cảng hàng không Rạch Giá có diện tích 52,4m x 47,7m = 2.502m2, gồm 02 tầng: Tầng 1: Bao gồm ga đi, ga đến, phòng VIP, phòng kế hoạch bay, phòng hành lý thất lạc, khu vực làm thủ tục, khu vực kiểm tra an ninh, khu vực bán hàng; Tầng 2: Bao gồm khu vực cách ly (phòng chờ), phòng hút thuốc, phòng họp và khu vực vệ sinh. Công suất hiện tại Năm 2005, phục vụ 36.744 lượt hành khách đi đến. Năm 2006, phục vụ 38.000 lượt hành khách đi đến. Năm 2007, phục vụ 40.000 lượt hành khách đi đến. Định hướng phát triển Theo Quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể Cảng hàng không Rạch Giá - Tỉnh Kiên Giang giai đoạn đến 2015, định hướng đến 2025 của Bộ Giao thông vận tải, Cảng Hàng không Rạch Giá đến năm 2015 sẽ là cảng hàng không cấp 3C (theo mã chuẩn của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế ICAO) và sân bay quân sự cấp II, đảm bảo tiếp nhận các loại máy bay như ATR-72, Forker 70, Embraer E195 và tương đương; Kéo dài đường hạ cất cánh đạt kích thước 1900m x 30m; Mở rộng sân đỗ có diện tích 11.500m² và xây mới nhà ga hành khách công suất 200 hành khách/giờ cao điểm. Lượng hành khách tiếp nhận là 200.000 lượt hành khách/năm. Tuyến bay
Thành Hán (tiếng Trung: giản thể 成汉; phồn thể: 成漢; bính âm: Chénghàn) (304-347) là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ Thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tấn (265-420) tại Trung Quốc. Nó bao gồm hai quốc gia, là Thành (成) được Lý Hùng (李雄) dựng lên năm 304 và Hán (汉) do Lý Thọ (李壽) dựng lên năm 338. Do cả hai tiểu quốc này đều do họ Lý của người Đê (氐) cai trị, nên các học giả Trung Hoa thường coi chúng là một và gọi là Thành Hán. Các văn bản phương Tây thường coi chúng là các quốc gia riêng biệt. Việc này còn gây tranh cãi - do khi Lý Thọ tự lập làm vua năm 338, ông không biết rằng ngai vàng của ông được hưởng là từ dòng trực hệ của Lý Hùng và vì thế, khi thờ phụng Lý Hùng, ông vẫn để tượng ông này trong miếu riêng. Tuy nhiên, con của Lý Thọ là Lý Thế (李勢) lại biết rằng các vị vua tiền nhiệm là tổ tiên của mình. Thành Hán là vương quốc được thành lập sớm nhất trong số 16 vương quốc của giai đoạn lịch sử này. Tất cả các vị vua của Thành Hán đều tự xưng "Hoàng đế". Năm thành lập Thành Hán nói chung được chấp nhận là 304. Tuy nhiên, Lý Đặc đã công bố niên hiệu mới năm 303 và việc đặt niên hiệu được một số học giả Trung Quốc cho là biểu tượng của nhà nước mới. Tuy nhiên, cùng thời gian đó, Lý Đặc lại không tự đặt một danh hiệu vua chúa nào cho chính mình. Năm 347, Đại tướng Hoàn Ôn nhà Đông Tấn đem quân tấn công Thành Hán, tiêu diệt nước này. Các vị vua Thành Hán
Hoàng Văn Hoan (1905–1991), tên khai sinh là Hoàng Ngọc Ân, là một chính trị gia của Việt Nam, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Quốc hội Việt Nam. Năm 1976, khi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng xấu đi, ông bị thất sủng vì quan điểm thân Trung Quốc. Năm 1979, ông đào tẩu sang Trung Quốc qua ngả Pakistan và họp báo ủng hộ cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam năm 1979. Ông đã biện hộ cho cuộc tấn công của Trung Quốc, đổ lỗi trách nhiệm chiến tranh là do chính sách của Lê Duẩn, mà ông tuyên bố là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử và việc chiếm đóng Campuchia. Ông bị chính quyền Việt Nam kết án tử hình vắng mặt. Ông sống ở Bắc Kinh, Trung Quốc cho đến khi mất năm 1991. Tiểu sử Hoàng Văn Hoan sinh trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông học tiểu học tại quê nhà, sau đó tham gia hoạt động cách mạng lúc 19 tuổi. Năm 1926, ông dự lớp huấn luyện chính trị do Hồ Chí Minh chủ trì tại Quảng Châu. Năm 1928, Hoàng Văn Hoan hoạt động cách mạng ở Thái Lan, gia nhập Đảng Cộng sản Xiêm (1930) và năm 1934 được cử làm Ủy viên Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Xiêm (gọi tắt là Xiêm ủy). Năm 1936, Hoàng Văn Hoan tham gia lập Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (bấy giờ gọi tắt là Đồng minh Hội hoặc Việt Minh) ở Nam Kinh. Năm 1941, ông được phái đi Long Châu lập Biện sự xứ của Đồng Minh Hội ở Long Châu, rồi lại về Tịnh Tây, cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Thiết Hùng, Cao Hồng Lĩnh và một số người trong nước ra công khai hoạt động với danh nghĩa Việt Minh, mới được thành lập trong nước. Tháng 5 năm 1941, ông về Pác Bó tham gia Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ tám và được chỉ định làm Ủy viên Tổng bộ Việt Minh. Đầu năm 1945, tại hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào (Tuyên Quang), Hoàng Văn Hoan được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bí thư Khu giải phóng Việt Bắc. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông làm thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chính trị viên Vệ quốc quân toàn quốc. Năm 1946, Hoàng Văn Hoan được cử làm Bí thư Khu ủy, Đại biểu Chính phủ Trung ương và Chủ nhiệm Việt Minh tại Liên khu 4. Theo Sắc lệnh SL53 ngày 24 tháng 4 năm 1946, ông thay Hoàng Đạo Thúy làm Cục trưởng Cục Chính trị cho tới cuối năm đó. Từ năm 1950 đến năm 1957, Hoàng Văn Hoan làm Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc kiêm Đại sứ tại Triều Tiên và Mông Cổ. Năm 1951, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và từ năm 1956 đến năm 1976 là Ủy viên Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa I (1958) Hoàng Văn Hoan được bầu làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đồng thời làm Chủ nhiệm Ủy ban dự thảo Pháp luật Quốc hội. Ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội cho đến năm 1979. Năm 1961, ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội một thời gian ngắn, rồi giữ chức Trưởng ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng, Trưởng ban pháp chế Trung ương Đảng, đồng thời phụ trách chỉ đạo Ban CP 38 về công tác Lào, Campuchia. Sau năm 1975, sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam về vấn đề Campuchia và chủ quyền tại Hoàng Sa đã không thể hàn gắn, Hoàng Văn Hoan cho đó là "âm mưu biến Việt Nam thành một nước bá chủ ở Đông Dương và ở Đông Nam Á" của Lê Duẩn, và làm cho Hoàng Văn Hoan không thể đóng vai trò trung gian thành công. Sự ủng hộ của ông với Trung Quốc nay bị xem là nguy hiểm về an ninh. Năm 1976, Hoàng Văn Hoan vì thế bị cho ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng vì không còn được Bộ Chính trị tín nhiệm nữa. Năm 1979, trong một chuyến đi sang Đông Đức chữa bệnh, ông đã bỏ trốn tại Sân bay quốc tế Jinnah, Karachi, Pakistan ngày 11 tháng 6 năm 1979 rồi sang Trung Quốc. Đó là thời điểm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc căng thẳng và chiến tranh biên giới Việt-Trung vừa xảy ra hồi đầu năm. Tại Bắc Kinh, ông dự họp báo ủng hộ cuộc tấn công của Trung Quốc, tuyên bố chính quyền Việt Nam đã đối xử với người Việt gốc Hoa còn "tệ hơn cả cách Hitler đối xử với người Do Thái". Sau sự kiện bỏ trốn, ông bị Việt Nam kết án tử hình vắng mặt và trở thành biểu tượng của sự phản bội, đài báo Việt Nam so sánh ông với Lê Chiêu Thống. Năm 1988, ông xuất bản hồi ký Giọt nước trong biển cả. Hoàng Văn Hoan mất tại Bắc Kinh năm 1991. Trung Quốc tổ chức lễ tang cấp nhà nước dành cho ông, thi hài được chôn tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, nơi chôn cất của các quan chức cao cấp của Trung Quốc. Theo di chúc, 1/3 tro hài cốt của ông để tại Bát Bảo Sơn, 1/3 tro hài cốt rắc xuống đầu nguồn sông Hồng ở Côn Minh, 1/3 tro hài cốt của ông đã được chuyển về quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Gia đình Con trai trưởng của ông là Hoàng Nhật Tân (1926-2014) - bút danh Hoàng Thanh Đạm, là nhà nghiên cứu sử học, và dịch giả, dịch một số cuốn tiêu biểu như Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu, và Bàn về khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau, được Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản năm 2004... Chú thích
Nghĩa Lộ là một thị xã thuộc tỉnh Yên Bái, Việt Nam. Địa lý Vị trí địa lý Thị xã Nghĩa Lộ nằm ở phía Tây Nam tỉnh Yên Bái, cách thành phố Yên Bái 84 km theo quốc lộ 37 và cách thủ đô Hà Nội 190 km theo quốc lộ 32. Thị xã bao trùm toàn bộ cánh đồng lớn thứ hai của miền núi Tây Bắc Bộ: cánh đồng Mường Lò; có vị trí địa lý: Phía đông và phía bắc giáp huyện Văn Chấn Phía tây và phía nam giáp huyện Trạm Tấu. Thị xã Nghĩa Lộ có diện tích 107,78 km², dân số năm 2019 là 68.206 người, mật độ dân số đạt 633 người/km². Diện tích và dân số Có 12 dân tộc anh em cùng sinh sống trên mảnh đất này, nhiều nhất là người Thái và người Kinh (44%), còn lại là các dân tộc Tày, Mường, Nùng... Điều kiện tự nhiên Đây là vùng khí hậu ôn hoà, địa hình tương đối bằng phẳng, tài nguyên nước có trữ lượng lớn. Nghĩa Lộ nằm trong vùng đất cổ thuộc cấu tạo địa chất Indonixit với hệ thống kiến tạo địa máng mang đậm nét của vùng Tây Bắc Việt Nam. Nằm ở trung tâm vùng lòng chảo Mường Lò rộng lớn, thị xã có địa hình tương đối bằng phẳng, theo hướng nghiêng từ Tây sang  Đông, từ Nam lên Bắc, độ cao trung bình 250m so với mặt biển, xung quanh là những dãy núi cao bao bọc. Vị trí địa lý và địa hình đó đã tạo ra cho Nghĩa Lộ các yếu tố khí hậu mang đặc trưng của tiểu vùng khí hậu Tây Bắc, trong năm có 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình của cả năm là 22,5 °C, trong đó tháng trung bình cao nhất là 27,4 °C, trung bình tháng thấp nhất là 16,4 °C. Là địa phương có số giờ nắng cả năm hơn 1700 giờ, cao hơn các nơi khác trong tỉnh. Lượng bức xạ nhiệt luôn dương tạo ra các sinh khối lớn thuận tiện cho sự phát triển của cây lúa và các loại cây hoa quả có hạt như nhãn, vải.... Với lượng mưa trung bình một năm từ 1400mm-1600mm, là nơi có lượng mưa thấp so với một số địa phương trong tỉnh. Mưa lớn tập trung vào các tháng 5, 8; mưa nhỏ, lượng mưa không đáng kể tập trung vào tháng 11, 12. Là khu vực nằm sâu trong nội địa, độ ẩm Nghĩa Lộ thường thấp hơn so với một số nơi trong tỉnh. Độ ẩm tương đối 84% rất thích hợp phát triển cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả. Nguồn tài nguyên đất của thị xã Nghĩa Lộ mang đặc trung địa hình bồn địa, được kiến tạo bồi đắp bằng vật liệu rửa trôi. Với tầng mùn tương đối, tầng dày phong hóa lớn, độ dốc nhỏ đã tạo nên một vùng trọng điểm cây lương thực mà chủ yếu là cây lúa của tỉnh. Trong tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích nhóm đất nông nghiệp chiếm 2.069,9ha, trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 1.297,4ha, đất lâm nghiệp chiếm 725,05ha; nhóm đất phi nông nghiệp 587,33 ha, đất chưa sử dụng 333,51ha. Khoáng sản của thị xã Nghĩa Lộ nhìn chung nghèo nàn. Hiện tại, chưa tìm thấy ở địa phương một điểm mỏ nào ngoài nhóm vật liệt xây dựng như đất pha sét để sản xuất gạch và cát, đá, sỏi được khai thác ở ven ngòi, ven suối. Trên một diện tích hẹp, song chế độ thủy văn ở đây khá phong phú. Bao quanh là Ngòi Thia, Ngòi Nung, Suối Đôi. Ngòi Thia là một phụ lưu cấp I lớn nhất của sông Hồng, bắt nguồn từ vùng núi Trạm Tấu với chiều dài 165 km, đoạn chảy qua thị xã khoảng 5 km. Độ cao bình quân của lưu vực Ngòi Thia tới 907 m, độ chênh lệch lưu lượng giữa mùa lũ và mùa cạn lên tới 480 lần. Đây là yếu tố gây bất lợi cho khai thác tiềm năng nước mặt của Ngòi Thia ở những nơi có nó đi qua. Trong mùa mưa lũ thường gây thiệt hại cho sản xuất, đời sống của nhân dân ven ngòi. Tuy nhiên, cùng với tài nguyên nước ngầm, hệ thống ngòi suối là nơi cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt. Các yếu tố về địa hình, khí hậu, tài nguyên đất, thủy văn... đã tạo điều kiện thuận lợi cho thị xã phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên những mặt trái của nó cũng có những ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất và đời sống sinh hoạt. Hành chính Thị xã Nghĩa Lộ có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 4 phường: Cầu Thia, Pú Trạng, Tân An, Trung Tâm và 10 xã: Hạnh Sơn, Nghĩa An, Nghĩa Lộ, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc, Phúc Sơn, Phù Nham, Sơn A, Thanh Lương, Thạch Lương. Lịch sử Trong suốt chiều dài lịch sử, thị xã Nghĩa Lộ ngày nay đã trải qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính. Thời Hùng Vương dựng nước, mảnh đất này là một trong những địa bàn cư trú quan trọng của cư dân Lạc Việt, vùng đất nằm trong lãnh thổ của Nhà nước Văn Lang. Thời Tam Quốc, Nhà Ngô thống trị nước ta, Nghĩa Lộ thuộc địa phận quận Tân Hưng, sang đời nhà Tấn đổi thành quận Tân Xương. Khi nhà Tùy xâm chiếm nước ta, đời Khai Hoàng, Nghĩa Lộ thuộc huyện An Nhân, quận Giao chỉ. Thời nhà Lý (1009), Nghĩa Lộ thuộc trại Quy Hóa. Đến thời nhà Trần thuộc châu Quy Hóa, trấn Thiên Hưng. Đầu thế kỷ XIX – thời nhà Nguyễn – Nghĩa Lộ là tên gọi của một sách (sách Nghĩa Lộ) thuộc châu Văn Chấn, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Thời thuộc Pháp (1886) mảnh đất này thuộc hạt Nghĩa Lộ, trực thuộc Đạo quan binh thứ tư miền thượng du Bắc Kỳ. Ngày 11 tháng 4 năm 1900, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Yên Bái. Nghĩa Lộ là một xã thuộc tổng Phù Nham, huyện Văn Chấn. Đến năm 1907, tổng Nghĩa Lộ được lập trên cơ sở xã Nghĩa Lộ và một số xã lân cận thuộc tổng Hạnh Sơn – Phù Nham. Trước Cách mạng tháng Tám có phố Nghĩa Lộ trong xã Nghĩa Lộ thuộc huyện Văn Chấn. sau năm 1952, phố Nghĩa Lộ đổi thành thị trấn Nghĩa Lộ trực thuộc châu Văn Chấn Ngày 13 tháng 5 năm 1955, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh 231/SL, chuyển các huyện Văn Chấn, Than Uyên, Phong Thổ thuộc khu tự trị Thái - Mèo (tháng 10 – 1962 khu tự trị Thái - Mèo đổi tên thành Khu tự trị Tây Bắc). Ngày 27 tháng 10 năm 1962, tại kỳ hợp thứ 5, Quốc hội khóa II đã ra Nghị Quyết thành lập tỉnh Nghĩa Lộ, lập lại các tỉnh Sơn La, Lai Châu. Thị trấn Nghĩa Lộ lúc đó trực thuộc huyện Văn Chấn tỉnh Nghĩa Lộ. Năm 1963, thị trấn Nghĩa Lộ trực thuộc tỉnh Nghĩa Lộ. Thị xã Nghĩa Lộ được thành lập vào ngày 8 tháng 10 năm 1971 theo Quyết định số 190-CP của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở thị trấn Nghĩa Lộ và một số bản của 3 xã Nghĩa An, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc của huyện Văn Chấn. Thị xã Nghĩa Lộ khi ấy là tỉnh lỵ tỉnh Nghĩa Lộ. Trước đó ngày 8 tháng 3 năm 1967, thị trấn nông trường Nghĩa Lộ được thành lập ở huyện Văn Chấn. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa V ra quyết định hợp nhất ba tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ, Lào Cai (trừ huyện Bắc Yên và Phù Yên) thành một tỉnh mới lấy tên là tỉnh Hoàng Liên Sơn. Thị xã Nghĩa Lộ lúc này là thị xã trực thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn. Ngày 4 tháng 3 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 56/CP sáp nhập thị xã Nghĩa Lộ với huyện Văn Chấn thành một đơn vị hành chính lấy tên là huyện Văn Chấn. Thị xã Nghĩa Lộ chuyển thành thị trấn Nghĩa Lộ, thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Các tiểu khu IV, V, VI sáp nhập vào các xã Nghĩa An, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc thuộc huyện Văn Chấn. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII đã quyết định chia tỉnh Hoàng Liên Sơn thành 2 tỉnh là Yên Bái và Lào Cai. Nghĩa Lộ thời kỳ này trực thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Ngày 15 tháng 5 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định 31-CP về việc thành lập thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái với diện tích tự nhiên là 878,5 ha và 15.925 người, bao gồm 4 đơn vị hành chính trực thuộc là các phường: Pú Trạng, Tân An, Trung Tâm và Cầu Thia. Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2003/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính mở rộng thị xã Nghĩa Lộ trên cơ sở chuyển 3 xã: Nghĩa An, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc thuộc huyện Văn Chấn về thị xã Nghĩa Lộ quản lý. Sau khi điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính, thị xã Nghĩa Lộ có 2.970 ha diện tích tự nhiên và 40.310 người với 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 4 phường và 3 xã. Đến cuối năm 2019, thị xã Nghĩa Lộ có diện tích 30,31 km², dân số là 31.188 người, mật độ dân số đạt 1.029 người/km², gồm 4 phường: Trung Tâm, Tân An, Cầu Thia, Pú Trạng và 3 xã: Nghĩa An, Nghĩa Phúc, Nghĩa Lợi. Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 871/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Yên Bái (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó: Chuyển 77,47 km² diện tích tự nhiên và 37.018 người của huyện Văn Chấn (gồm thị trấn nông trường Nghĩa Lộ và 6 xã: Phù Nham, Sơn A, Hạnh Sơn, Phúc Sơn, Thanh Lương, Thạch Lương) về thị xã Nghĩa Lộ quản lý. Giải thể thị trấn nông trường Nghĩa Lộ để thành lập xã Nghĩa Lộ. Sau khi điều chỉnh, thị xã Nghĩa Lộ có diện tích 107,78 km², dân số là 68.206 người với 14 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 4 phường: Cầu Thia, Pú Trạng, Tân An, Trung Tâm và 10 xã: Hạnh Sơn, Nghĩa An, Nghĩa Lộ, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc, Phúc Sơn, Phù Nham, Sơn A, Thanh Lương, Thạch Lương. Văn hóa - du lịch Thị xã Nghĩa Lộ nổi tiếng với hoa ban, gạo Mường Lò, xôi ngũ sắc, thổ cẩm, Ngòi Thia và đặc biệt là điệu xòe Thái uyển chuyển. Chợ văn hóa Mường Lò và mạng lưới thương mại dịch vụ đã làm cho Nghĩa Lộ trở thành trung tâm kinh tế xã hội của các địa phương nằm ở phía tây tỉnh Yên Bái. Di tích Di tích Căng và đồn Nghĩa Lộ thuộc phường Pú Trạng, thị xã Nghĩa Lộ. Nơi đây lưu giữ tư liệu về thực dân Pháp giam giữ người tù. Trong đó có sự kiện 9 chiến sĩ vượt ngục bị giết, rồi bị chôn chung. Nơi đây là chứng tích của chiến thắng đồn Nghĩa Lộ, bắt sống toàn bộ ban tham mưu và quan lính đồn trú của Pháp vào ngày 18 tháng 10 năm 1952 góp phần giải phóng Tây Bắc. Di tích Căng và đồn Nghĩa Lộ được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1996. Du lịch Về phía bắc của lòng chảo Mương Lò thơ mộng, có một dòng suối lớn. Mùa nước lớn lòng suối rộng tới cả trăm mét. Đó là suối Thia. Tiếng địa phương, Thia nghĩa là nước mắt. Dân địa phương kể rằng, từ ngày xưa đã lâu lắm rồi, có một cô gái yêu một chàng trai miền xuôi, khi chàng trai về xuôi không trở lại, cô gái ngồi khóc một mình, khóc mãi, khóc mãi, nước mắt chảy thành dòng suối còn đến nay. Không biết có phải ngẫu nhiên không, cách cầu Thia chừng 50 m về phía nam, trên đường từ Nghĩa Lộ ra suối Thia còn có ngòi Bùa! Bài hát hay được các cô gái Mường Lò-Nghĩa Lộ hát nhất là bài "Anh có vào Nghĩa Lộ...", nhạc Trọng Loan phổ thơ Hoàng Hạnh: Chiều mùa thu, nắng vàng như mậtKhi đã nghe đèo Ách, cửa Nhì Khi đã nghe tiếng rừng gió hútAnh có vào Nghĩa Lộ với em không? Mường Lò cũng nổi tiếng với đội Xòe ở bản Thanh Lương. Đêm hội xòe, bên cạnh những hũ rượu, dưới ánh trăng rực rỡ, các cô gái Thái trong trang phục dân tộc ngay hội, áo chẽn trắng, hàng khuy bạc trên thắt lưng thổ cẩm xanh lục, váy dài thướt tha, vừa cầm tay các chàng trai nhảy xung quanh đống lửa vừa hát mời Đêm Mường Lò, trăng lên dần, chiêng trống bập bùng,Vào đây anh, cầm tay em, múa xòe cùng em, xòe cùng em... Đừng để em cô đơn một mình... Còn lời mời rượu thực đằm thắm, khó chối từĐừng sợ say, đây đôi tay ngà, chén em dâng đầy và chia tay trong cảnh bịn rịn ''Mai xa rồi, trăng Mường Lò, anh mang về theo... Mường Lò còn nổi tiếng với suối nước nóng, vào buổi tối, khách du lịch và dân địa phương đến tắm như trẩy hội. Khách du lịch thì vào nhà tắm dịch vụ, còn thanh niên nam nữ địa phương thì tắm tự do ngoài trời. Mường Lò cũng có chè tuyết, hái từ những cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi trên núi Suối Giàng với độ cao trên 1000m.
Bình Xuyên có thể là: Việt Nam Huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc Xã Bình Xuyên, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương Địa danh cũ Bình Xuyên tại Sài Gòn trước đây, nay tương ứng với khu vực Rạch Ông thuộc địa bàn Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh Lực lượng Bộ đội Bình Xuyên: một lực lượng quân sự tồn tại trong những năm 1945-1955 ở miền Nam Việt Nam. Trung Quốc Quận Bình Xuyên của tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.
Lê Đại Hành (10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005) là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê nước Đại Cồ Việt, trị vì nước Đại Cồ Việt trong 24 năm. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Khi còn thiếu thời ông làm quan cho nhà Đinh dưới thời Đinh Tiên Hoàng, đến chức Thập đạo tướng quân. Năm 979, viên quan Đỗ Thích giết vua Đinh Tiên Hoàng và người con Đinh Liễn, người con thứ tên Đinh Toàn nối ngôi lúc 6 tuổi, Lê Đại Hành làm Nhiếp chính, xưng là Phó vương, nắm đại quyền triều đình. Nhà Tống lấy cớ Lê Đại Hành chuyên quyền để phát binh xâm lược Đại Cồ Việt (thực ra đây chỉ là cái cớ, còn thực tế chiếu phát binh của vua Tống cho thấy nhà Tống muốn khôi phục sự cai trị của mình lên nước Việt giống như thời nhà Đường). Trước tình thế đó, Đại tướng quân Phạm Cự Lạng đem binh sĩ vào cung làm binh biến, buộc Thái hậu họ Dương (tức mẹ Đinh Toàn) trao long cổn cho Phó vương Lê Hoàn. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn tự mình làm tướng đánh tan quân Tống, chém tướng Hầu Nhân Bảo, bắt sống tướng Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư, giúp cho Đại Cồ Việt thanh bình, bảo toàn được nền độc lập của đất nước. Hiện nay, có giả thuyết cho rằng Lê Hoàn là chủ mưu vụ ám sát vua Đinh Tiên Hoàng để giành ngôi vua. Giả thuyết này đúng sai không rõ vì không có bằng chứng, nhưng việc Lê Hoàn là một vị vua giỏi và có nhiều đóng góp cho đất nước là điều không thể phủ nhận. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn thu được nhiều thành tích nổi bật trong việc cai trị, như việc phát triển nông nghiệp, mở trường học, tuyển dụng nhân tài và đánh bại Chiêm Thành, đánh dẹp các tộc người ở biên giới, khiến họ phải quy phục triều đình. Vì vậy, ông vẫn được sử sách đánh giá là một minh quân có công trong việc xây dựng đất nước và được nhân dân ca ngợi. Ông là nhạc phụ của Hoàng đế Lý Thái Tổ, ông ngoại của Hoàng đế Lý Thái Tông. Thân thế Đại Hành Hoàng đế húy là Lê Hoàn, sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (10 tháng 8 năm 941), cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng thị, quê hương của ông ở đâu vẫn còn đang là vấn đề gây tranh cãi (xem phần tranh cãi về quê hương Lê Đại Hành). Câu chuyện ông được sinh ra có nhuốm màu truyền thuyết. Khi mới có thai, mẹ ông chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã sinh ra Lê Hoàn Trong thôn có viên quan án là Lê Đột trông thấy lấy làm lạ, nói: "Tư cách đứa trẻ này, người thường không sánh được", bèn nhận làm con nuôi, chăm sóc dạy dỗ, không khác gì con đẻ. Có đêm mùa đông trời rét, Lê Hoàn úp cối mà ngủ. Đêm ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên quan lén đến xem, thì thấy con rồng vàng che ấp bên trên, vì thế lại càng thêm quý trọng Lê Hoàn. Sự nghiệp Lớn lên, Lê Hoàn theo giúp Nam Việt vương Đinh Liễn, tính tình phóng khoáng, có chí lớn. Sứ quân Đinh Bộ Lĩnh khen là người trí dũng, chắc thế nào cũng làm được việc, bèn giao cho cai quản 1 nghìn quân sĩ. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tức vua Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo. Đinh Đế lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ Sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi. Tháng 10 năm 979, Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn ở sân cung. Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền cùng Lê Hoàn rước Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi hoàng đế và tôn mẹ Đinh Toàn là Dương Vân Nga làm Hoàng thái hậu. Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi khi mới 6 tuổi, Lê Hoàn làm nhiếp chính đảm đương việc nước, xưng là Phó vương. Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Hạp nghi ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về Hoa Lư giết Lê Hoàn. Lê Hoàn chỉnh đốn quân lữ, đánh nhau với Đinh Điền, Nguyễn Bặc ở Tây Đô, Đinh Điền, Nguyễn Bặc bỏ chạy, đem quân thủy ra đánh. Lê Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền chiến, chém Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc đóng cũi đưa về kinh sư, sau đem chém. Phạm Hạp được tin, mất khí thế, chạy về làng Cát Lợi ở Bắc Giang. Lê Hoàn đuổi theo, bắt sống Phạm Hạp mang về kinh sư. Nhà Tống xuất binh Tháng 6 năm 980, Tri châu Ung của nhà Tống là Thái thường Bác sĩ Hầu Nhân Bảo dâng thư khuyên hoàng đế Tống Thái Tông nên lựa thời cơ nước Nam rối ren, vua còn nhỏ, đem quân chinh phạt. Vua Tống nghe theo. Tháng 7 năm 980, nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao châu lục lộ thủy lộ Chuyển vận sứ, Lan Lãng đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng, Bất tác sứ Hác Thủ Tuấn, Yên bi khổ sứ Trần Khâm Tộ, Tả giám môn tướng quân Thôi Lượng làm Ung Châu Lộ binh mã Bộ thư, Ninh Châu Thứ sử Lưu Trừng, Quân khi khố Phó sứ Giả Thực, Cung phụng quan Cáp môn chi hậu Vương Soạn làm Quảng Châu Lộ binh mã Đô bộ thư, họp quân cả bốn hướng, hẹn ngày cùng sang chinh phạt nước Nam. Lên ngôi vua Nhận tin quân Tống chuẩn bị xâm lược, Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi chiến đấu, lấy người Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người: "Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn". Quân sĩ đều hô vạn tuế. Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó ông lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu (980), giáng phong Đinh Toàn làm Vệ vương. Lê Hoàn còn truy phong cha làm Trường Hưng vương và mẹ họ Đặng làm Hoàng thái hậu. Chiến tranh với Bắc Tống (981) Ngoại giao Tháng 8 năm 980, vua Tống xuống chiếu đem quân xâm lược Đại Cồ Việt, sai Lư Đa Tốn mang thư sang. Tháng 10 cùng năm, vua Lê Hoàn sắp phát binh, sai Nha hiệu là Giang Cự Vọng, Vương Thiệu Tộ đưa thư sang Tống giả làm thư Vệ vương Đinh Toàn thỉnh cầu Lê Hoàn nối ngôi cha, ban cho mệnh lệnh chính thức; ý muốn hoãn binh nhà Tống. Nhà Tống sai Trương Tông Quyền mang thư trả lời rằng: Họ Đinh truyền nối ba đời, trẫm muốn cho Toàn làm thống soái, khanh làm phó. Nếu Toàn tướng tài chẳng có, vẫn còn trẻ con, thì nên bảo cả mẹ con cùng thân thuộc sang quy phụ. Đợi khi bọn họ vào chầu ắt sẽ có điển lễ ưu đãi và sẽ trao cờ tiết cho khanh. Nay có hai đường, khanh nên chọn một. Vua Lê Hoàn không nghe. Nhà Tống liền thảo chiếu chỉ chinh phạt Đại Cồ Việt, nội dung lời chiếu chỉ như sau: Thanh giáo và oai linh của nước nhà vang khắp cả mọi nơi, gần đây đất Diên Chỉ (chỉ Đại Cồ Việt) chưa sáp nhập vào địa đồ Trung-Quốc, chúng ở một phương, gần nơi Ngũ Lĩnh. Từ cuối đời Đường rối loạn, chia sẻ đất đai, rồi chúng làm ra một nước tiếm ngụy, ở xa thanh giáo thành ra phong tục như đứa mù đứa điếc. Kịp khi Phiên-Ngung đã bình định, mới ban cho chính sóc mà tuân hành, tuy đã phục tùng chịu làm phiên thuộc, nhưng cứ tu luyện binh lính, có ý quật cường. Lễ thờ phụng nước trên, lẽ nào như thế? Vậy ta bất đắc dĩ phải trị tội gian ngụy để cứu dân, phải cử binh qua đánh để khai hóa xứ mọi rợ; nay cho bọn Tôn Toàn Hưng xuất quân qua đánh. Diễn biến Nhà Tống dùng Lan Châu Đoàn luyện sứ là Tôn Toàn Hưng, Bát tắc sứ là Thích Hậu, Tả Giám môn vệ Đại tướng quân là Thôi Lượng làm chức Lục lộ Binh mã Tổng quản, từ đường Ung Châu tiến quân; Ninh Châu Thứ sử là Lưu Trừng, Án bí Khố sứ là Giả Thực, Cung phụng Quan Các môn Chi hậu là Vương Soạn làm chức Thủy quân Binh mã Tổng quản do đường Quảng Châu tiến quân. Lại dùng Ngọ Xương Duệ làm chức Tri Giao châu Hành doanh Thông tục. Hầu Nhân Bảo chỉ huy.Nhóm Toàn Hưng từ giã; vua nhà Tống là Thái Tông lại hạ chiếu cho dẫn tiến, khiến Lương Quýnh thiết tiệc ở vườn Ngọc Tân để tống tiễn. Mùa thu năm 980, quân Tống khởi hành; tháng 12 năm 980, quân Tống phá được hơn 1 vạn quân Đại Cồ Việt. Mùa xuân, tháng 2 năm 981, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua Lê Hoàn đích thân làm tướng, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Chi Lăng. Sách Việt sử tiêu án chép: Vua tự làm tướng ra chống đánh, sai sĩ tốt cắm gỗ, đầu bịt sắt để ngăn cửa sông. Vua Lê Hoàn đã cho xây dựng một tòa thành có tên là Bình Lỗ để chống quân Tống. (Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn có nhắc đến thành này trong lời dặn lúc ông sắp mất: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế dựng nước, hoàng đế nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống...") Mùa hạ năm 981, quân Tống giao chiến với quân Việt, quân Tống chém được hơn 1000 người, bắt được hơn 200 thuyền chiến. Phạm Cự Lạng xin Lê Hoàn rút quân tại Ba Bộ. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hầu Nhân Bảo cùng đạo tiền quân tiến sâu vào, bị thất bại luôn. Cánh quân Tôn Toàn Hưng do đường thủy và đường bộ tới làng Đa-La, không gặp Hầu Nhân Bảo, bèn trở về Ba Bộ. Vua Lê Hoàn sai quân sĩ trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo, đem chém. Sách Việt sử tiêu án chép: sai người trá hàng, bắt được Nhân Bảo. Sách An Nam chí lược chép: Lê Hoàn giả đầu hàng để dụ địch, Nhân – Bữu bèn trúng kế mà bị hại. Trần Khâm Tộ nghe tin quân thủy thua trận, dẫn quân về. Vua Lê Hoàn thừa thắng đuổi đánh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng; bắt sống đại tướng là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đưa về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên. Sau chiến tranh Sau chiến tranh, nước Việt an bình, bầy tôi dâng tôn hiệu cho vua Lê Hoàn là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng Đế. Vua sai sứ sang nhà Tống cống các đồ thổ sản và dâng biểu tạ lỗi. Giang Nam Chuyển vận sứ của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem việc Nhân Bảo thua chết tâu lên. Vua Tống xuống chiếu rút quân về, sai sứ quở trách bọn Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn. Trừng ốm chết, Soạn bị giết ở Ung Châu, Tôn Toàn Hưng cũng bị giết bêu ở chợ. Chiến tranh với Chiêm Thành Khi người Việt nội thuộc triều đình ở Trung nguyên thì ở phía Nam, người Chiêm Thành đã sớm xây dựng được một quốc gia độc lập tự chủ từ năm 192. Sinh sống ở các thung lũng Nam Trung Bộ hẹp và nhỏ, vương quốc Chiêm Thành có thế mạnh về hàng hải và các ngành nghề thủ công, nhưng lại thiếu những miền châu thổ rộng lớn. Bởi vậy, từ khi lập nước, Chiêm Thành liên tục tiến hành các hoạt động quân sự với Đại Cồ Việt. Năm 803, vua Chiêm sai viên tướng Senapati Par đem quân xâm phạm An Nam, vây hãm phía nam quận Cửu Chân. Năm 979, quân Chiêm được Ngô Nhật Khánh dẫn đường, tổ chức lực lượng thủy quân hùng hậu tiến đánh Hoa Lư theo đường biển, nhưng bị tan vỡ vì gặp bão ở cửa biển Thần Phù. Năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Canh và Từ Mục đi sứ Chiêm Thành bị vua Chiêm là Bê Mi Thuế (Paramesvaravarman) bắt giữ. Lê Hoàn tức giận, sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to. Bắt sống được quân sĩ nhiều vô kể, cùng là tài nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư. Tống sử cho biết Lê Hoàn đã sai sứ dâng 93 tù binh Chiêm Thành cho vua Tống nhằm chứng tỏ thực lực của Đại Cồ Việt. Khi nhà vua đi đánh Chiêm, qua núi Đồng Cổ đến sông Bà Hòa, đường núi hiểm trở khó đi, bèn sai đào hải cảng mới, đào xong, công và tư đều tiện lợi. Cũng theo Tống sử, năm 990, Lê Hoàn lại đem quân đánh vào châu Địa Lý (Chiêm Thành), bắt được nhiều quân dân và tịch thu nhiều của cải. Đến các năm 995 và 997, quân Chiêm kéo sang đánh phá biên giới Đại Cồ Việt, Lê Hoàn phải cho quân đánh đuổi. Chính quyền Triều nhà Đinh, vua Đinh Bộ Lĩnh chia nước làm mười đạo; Lê Hoàn lập ra nhà Tiền Lê, đổi mười đạo làm lộ, phủ, châu. Hiện không rõ các tên hiệu và vị trí của các lộ, phủ châu như thế nào, sử cũ vẫn dùng các tên châu cũ do nhà Đường xâm lược nước Việt đặt ra. Lê Hoàn vẫn đóng đô ở thành Hoa Lư, theo sách Cương mục Hoa Lư là sơn phận hai xã Uy Viễn và Uy Tế, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; theo sách An Nam chí lược Hoa Lư ở huyện Lê Bình, nay là huyện Gia Viễn. Lê Hoàn lên ngôi năm đầu, đặt các chức quan Thái sư, Thái úy, Tổng quản, Đô chỉ huy sứ. Nhà vua phong quân sư người Tống là Hồng Hiến làm Thái sư, Phạm Cự Lạng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại Tổng quản tri quân dân, Đinh Thừa Chính làm Nha nội Đô Chỉ huy sứ. Về việc quân sự, năm 986 đặt binh Túc vệ, gọi là Thân quân, trên trán đều thích chữ Thiên Tử Quân, về sau lệ cấm quân thích chữ ở trán, bụng, đùi bắt đầu từ đây. Năm 988, định ngũ quân, chia tướng hiệu làm hai ban. Lê Hoàn phong cho các con ra các trấn địa phương; năm 989 phong cho Thái tử Thâu làm Kình Thiên Đại vương ở kinh đô Hoa Lư; con thứ hai tên Ngân Tích làm Đông Thành vương, theo suy đoán của Đào Duy Anh có lẽ cho đất ở phía đông kinh thành; con thứ ba tên Việt làm Nam Phong vương. Năm 991 phong cho con thứ tư tên Đinh làm Ngự Man vương, đóng ở Phong Châu; cho con thứ sáu là Cân làm Ngự Man vương, đóng ở trại Phù Lan (nay là xã Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương). Năm 992 phong cho con thứ năm là Đĩnh làm Khai Minh vương, đóng ở Đằng Châu (Hưng Yên ngày nay); cho con thứ bảy là Tung làm Định phiên vương, đóng ở thành Tử Dinh trên sông Ngũ Huyện - con sông chảy qua các huyện Yên Lãng, Kim Anh, Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du vào sông Cầu; cho con thứ tám là Tương làm Phó vương, đóng ở sông Đỗ Động, tức sông Nhuệ; cho con thứ chín là Kính làm Trung Quốc vương, đóng ở Càn Đà, huyện Liên Mạt, nay là Tiên Lữ, Hưng Yên. Năm 994 phong cho con thứ mười hai tên Mang làm Nam Quốc vương, đóng ở châu Vũ Lang, thuộc Thanh Hóa. Năm 995 phong cho con thứ mười một tên Đề làm Hành Quân vương, đóng ở châu Cổ Lãm, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh, cho con nuôi là Phù Đới vương, đóng ở Phù Đới hương, thuộc Hải Dương. Quân sự Ngoài các chiến thắng quân sự đối với nhà Tống, nước Chiêm, Lê Hoàn còn phải đối phó với các cuộc phản loạn trong nước và nhà vua thực hiện nhiều cuộc chinh phạt nhằm mở mang bờ cõi. Năm 989, vua Lê Hoàn sai viên Quảng giáo là Dương Tiến Lộc đi thu thuế ở châu Hoan, châu Ái; Tiến Lộc làm phản, đem người hai châu ấy xin theo về với Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Lê Hoàn nghe tin, đem quân đánh châu Hoan, Ái đuổi bắt được Dương Tiến Lộc và giết người hai châu ấy không biết bao nhiều người mà kể. Năm 995, vua Lê Hoàn cho quân vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu (nước Tống), đánh phá cư dân, cướp bóc lương thực, rồi bỏ đi. Mùa hạ cùng năm, vua Lê Hoàn lại dẫn 5.000 binh Tô Châu vào cướp Lộc-Châu, thuộc huyện của Ung Châu, giao chiến với quân Tống do Tuần kiểm Dương Văn Kiệt chỉ huy, sau đó phải trở về. Năm 996, vua Lê Hoàn đem quân đi đánh được bốn động Đại, Phát, Đan, Ba ở Ma Hoàng. Tháng 7, năm 996 vua Lê Hoàn thân đi đánh quân làm phản ở Đỗ Động Giang, bắt được đồ đảng đem về kinh sư. Năm 999, vua Lê Hoàn thân đi đánh Hà Động..., tất cả 49 động và phá được động Nhật Tắc, châu Định Biên. Từ đó các châu động đều quy phục. Năm 1000, Lê Hoàn xuống chiếu đi đánh người ở châu Phong là Trịnh Hàng, Trường Lệ, Đan Trường Ôn, khiến cho nhóm người này phải chạy vào vùng núi Tản Viên. Năm 1001, Lê Hoàn thân đi đánh quân Cử Long. Quân Cử Long thấy vua Lê Hoàn, giương cung nhắm bắn thì tên rơi, lại giương cung thì dây đứt, tự lấy làm sợ mà rút lui. Vua Lê Hoàn bèn đi thuyền vào Cùng Giang để đuổi. Quân Cử Long bày trận hai bên bờ chống lại, quan quân bị hãm ở giữa sông, vua cũ nhà Đinh là Vệ vương Toàn trúng tên chết tại trận. Vua Lê Hoàn kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh, quân Cử Long tan vỡ. Năm 1003, vua Lê Hoàn đi Hoan Châu, vét kinh Đa Cái thẳng đến Tư Củng trường ở Ái châu. Người Đa Cái làm phản, chém đầu để rao. Kinh tế Lê Đại Hành khi cai trị đã cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước. Ông là vị vua mở đầu cho lễ Tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Mở đầu cho một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp. Mùa xuân năm 987, vua Lê Hoàn lần đầu cày ruộng Tịch điền ở núi Đọi được một hũ nhỏ vàng; lại cày ở núi Bàn Hải được một hũ nhỏ bạc, nhân đó đặt tên là ruộng Kim Ngân. Năm 1003, vua Lê Hoàn đi Hoan Châu, vét kinh Đa Cái thông thẳng đến Tư Củng trường ở Ái châu. Lê Đại Hành cũng là vị vua đầu tiên tổ chức đào sông. Công trình đào sông Nhà Lê (hiện được nối liền 4 tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và là một di tích lịch sử) do Lê Hoàn khởi dựng là con đường giao thông thủy nội địa đầu tiên của Việt Nam. Sự nghiệp mở đầu vĩ đại đó đã trở thành phương châm hành động của các thời Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn sau này. Từ con sông đào do Lê Hoàn khai phá trên đất Thanh Hóa, đến thời Lý, Trần sông đào đã xuất hiện ở đồng bằng Bắc Bộ đến Thanh-Nghệ-Tĩnh. Đến thời Lê đã rộng khắp dải miền Trung Bộ và đến thời Nguyễn thì sông đào có mặt ở khắp mọi miền Việt Nam. Ngoại giao Theo Phan Huy Chú, nước Việt ở cõi Nam nuôi dân dựng nước có quy mô riêng, bên trong xưng đế, bên ngoài xưng vương, vẫn chịu phong hiệu của Trung Quốc. Năm 980, vua Tống sai Lư Tập đi sứ Đại Cồ Việt, lúc này Lê Hoàn đã nắm quyền bính, đã đại diện cho Đinh Toàn để đứng ra tiếp sứ, tiến cống châu báu, đồng thời gửi biểu nói rằng triều đình đã tự nguyện tôn Lê Hoàn lên làm vua. Nhưng vua Tống không chịu đòi Đinh Phế Đế nắm giữ cai trị đất Giao Chỉ, hoặc 2 mẹ con họ Đinh đến chầu Thiên triều thì Lê Hoàn sẽ được nắm quyền cai trị. Lê Hoàn không nghe, hai bên đánh nhau, nhà Tống thua; để giảng hòa Lê Hoàn vẫn sai sứ giả sang Trung Quốc thông hiếu. Vua Tống sai sứ sang phong cho Lê Hoàn lần lượt các chức như Đặc Tiến, Giao Chỉ quận vương, Nam Bình vương kiêm trị trung. Tháng 10 âm lịch năm 986, Lê Hoàn trao trả các tướng Tống bị bắt năm 981 là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân về nước. Về nghi thức tiếp đãi sứ giả, năm 987 nhà Tống sai Lý Giác sang Đại Cồ Việt. Khi Giác đến chùa Sách Giang, vua Lê Hoàn sai Thiền sư Đỗ Pháp Thuận giả làm người chèo đò ra đón. Lý Giác vốn hay văn thơ, ngâm một bài thơ, nhà sư cũng họa theo, Giác lấy làm lạ. Khi ra về, Lý Giác làm thơ có ý khen Lê Hoàn như vua Tống, Lê Hoàn khen ý tốt, cho rất hậu, lại sai người làm thơ tặng sứ giả. Năm 990, nhà Tống sai người sang sách phong, Lê Hoàn sai người đem thủy quân đi đón. Bây giờ sứ thần sang phong cũng giản dị nên nhà vua coi thường, sự đón tiếp làm ra vẻ sơ sài, kiêu ngạo. Nơi sứ quán, đồ cung tiếp không đầy đủ. Khi sứ sắp đến, Lê Hoàn mới làm gian nhà lợp tranh đề chữ Mao kính dịch, nghĩa là trạm qua đường lợp cỏ tranh. Đến khi Lê Hoàn ra đón ngoài thành thì quân dung lộng lẫy, cờ đàn bay khắp nơi. Vua cùng với sứ giả giong cương ngựa cùng đi. Đến cửa điện Minh Đức, Lê Hoàn nhận tờ chế đặt trên điện, không lạy, nói khéo rằng do đánh nhau với quân Man nên bị ngã ngựa, đau chân. Hôm sau lại bày trò vui tiếp sứ giả, nhân đấy nói sứ giả: đường sá xa xôi, núi sông hiểm trở, sau này nếu có thư tín gì về việc nước, thì nên giao cho đầu biên giới, khỏi phiền sứ quân đến đây. Sứ thần về tâu lại, vua Tống nghe theo. Bài thơ Nam quốc sơn hà Theo sách Lĩnh Nam chích quái: Năm Thiên Phúc nguyên niên hiệu vua Lê Đại Hành, Tống Thái Tổ sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cất quân xâm lược nước Nam. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau ở sông Đồ Lỗ. Vua Lê Đại Hành mộng thấy hai anh thần nhân ở trên sông vái mà nói rằng họ là Trương Hống, Trương Hát xưa theo Triệu Việt Vương; nay xin cùng nhà vua đánh giặc để cứu sinh linh. Vua Lê Đại Hành tỉnh dậy liền đốt hương khấn cầu thần giúp. Đêm ấy thấy một người dẫn đoàn âm binh áo trắng và một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía Bắc sông Như Nguyệt mà lại cùng xông vào trại quân Tống mà đánh. Quân Tống kinh hoàng, thần nhân tàng hình trên không, lớn tiếng ngâm rằng: "Nam quốc sơn hà Nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khan thủ bại hư" Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau chạy tan, đại bại mà về. Vua Lê Đại Hành trở về ăn mừng, truy phong cho hai vị thần nhân, một là Tinh Mẫn Đại vương lập miếu thờ tại ngã ba sông Long Nhãn, hai là Khước Mẫn Đại vương lập miếu thờ ở ngã ba sông Nguyệt. PGS TS Trần Bá Chí cũng khẳng định: Nam quốc sơn hà là bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra đời sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà là ở thời Vua Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị đã vững vàng, an định. Cái chết Mùa xuân, ngày 8 tháng 3 âm lịch năm Ất Tỵ (18 tháng 4 năm 1005), Lê Hoàn mất ở điện Trường Xuân, gọi là Đại Hành Hoàng Đế, sau nhân đó dùng làm miếu hiệu mà không đổi, triều đình chôn ở sơn lăng châu Trường Yên. Lê Long Việt, Đông Thành vương, Trung Quốc vương, Khai Minh vương là những người con ông, tranh ngôi tám tháng khiến nước không có chủ. Nhận định Sử gia Lê Văn Hưu nhận định: {{cquote| Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được. Có người hỏi: Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn.|||Đại Việt sử ký}} Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: Sử gia Ngô Thì Sĩ nhận định: Về vua Lê Đại Hành, sử nhà Tống dẫn lời Tống Cảo, người đi sứ sang Đại Cồ Việt đã từng gặp Lê Hoàn mô tả ông là "con người mắt lé" nhưng "hung hãn" và "có chí vác cả núi ngăn cả bể".Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Sđd. trang 166. Theo Phan Huy Chú nhận định trong Lịch triều hiến chương loại chí: Lê Đại Hành là một vị vua mà "Sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn vinh hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự của nước, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển lựa quân ngũ... có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo lắng". Theo Việt giám thông khảo tổng luận, Lê Tung bàn rằng: Lê Đại Hành tin dùng, lắng nghe sự cố vấn của các thiền sư Phật giáo như Vạn Hạnh, Khuông Việt và Đỗ Pháp Thuận. Những cao tăng này đã hỗ trợ tích cực cho ông trong các hoạt động chính trị, quân sự và ngoại giao.Thiền Uyển tập anh, nhiều soạn giả, dịch giả: Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga, Quyển hạ, sư KHUÔNG VIỆT phần: Đại sư Khuông Việt Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng: "Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự. Tiếc rằng không sớm chọn con nối, khiến cho con cái tranh nhau bên trong, dẫn đến mất ngôi". Theo sách An Nam chí lược, trước khi sai quân đánh Đại Việt, vua Tống Thái Tông đã ra lời chiếu như sau: Thanh-giáo và oai linh của nước nhà vang khắp cả mọi nơi, gần đây đất Diên-Chỉ chưa sáp nhập vào địa-đồ Trung-Quốc, chúng ở một phương, gần nơi Ngũ-Lĩnh. Từ cuối đời Đường rối loạn, chia sẻ đất đai, rồi chúng làm ra một nước tiếm ngụy, ở xa thanh-giáo thành ra phong-tục như đứa mù đứa điếc. Kịp khi Phiên-Ngung đã bình-định, mới ban cho Chính-Sóc mà tuân hành, tuy đã phục tùng chịu làm phiên thuộc, nhưng cứ tu luyện binh lính, có ý quật cường. Lễ thờ phụng nước trên, lẽ nào như thế? Vậy ta bất đắc dĩ phải trị tội gian ngụy để cứu dân, phải cử binh qua đánh để khai hóa xứ mọi rợ; nay cho bọn Tôn-Toàn-Hưng xuất quân qua đánh.Văn bản này đã xác nhận chính quyền nhà Tống chưa thực sự sáp nhập Đại Việt vào lãnh thổ Trung Quốc và Đại Việt có phong tục riêng biệt. Về tên "Đại Hành" Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi vua mới mất mà chưa được đặt thụy hiệu thì được gọi là Đại Hành Hoàng đế. Do vua nối ngôi là Lê Ngọa Triều đã không đặt thụy hiệu nên "Đại Hành Hoàng đế" đã trở thành thụy hiệu của Lê Hoàn. Sử gia Lê Văn Hưu viết: Hiện nay nhiều ý kiến nghiêng về giải thích "đại hành" là một chuyến đi lớn. Có sách khác lại giải thích "đại hành" là đức hạnh lớn (hành và hạnh viết cùng một chữ 行, âm cổ đọc như nhau). Theo Tạ Chí Đại Trường trong sách Sơ thảo bài sử khác cho Việt Nam:Sơ thảo bài sử khác cho Việt NamCác vua Ngô, Đinh chết đi chẳng có thụy hiệu, miếu hiệu gì cả, sử quan về sau đành gọi là "chúa, vua đầu tiên" (Ngô Tiên Chủ, Tiên Hoàng Đế); còn Lê Hoàn chết đi, xác để đó chờ con cái tranh giành nên tạm gọi là "ông vua chưa chôn" (Đại Hành/Hạnh Hoàng Đế) rồi trở thành miếu hiệu vĩnh viễn cho sử Việt. Nghi vấn về quê hương Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (tức ngày 10 tháng 8 năm 941).Sách Việt sử lược cũng cho biết ông sinh ngày Rằm tháng 7 âm lịch nhưng năm sinh chép là năm Thiên Phúc thứ nhất, tức năm 936. Việt sử tiêu án chép năm Thiên Phúc thứ sáu đời nhà Tấn. Về quê hương Lê Hoàn, vấn đề mà Ngô Thì Sĩ đặt ra từ thế kỷ XVIII, được thảo luận nhiều lần dưới thời nhà Nguyễn, nhưng các nhà sử học vẫn chưa đưa ra được kết luận nơi đâu trong ba nơi: Ninh Bình, Thanh Hóa hay Hà Nam là quê hương của ông. Năm 1981, tại hội thảo khoa học "Lê Hoàn và 1000 năm chiến thắng giặc Tống xâm lược", nhiều vấn đề chung về thế kỷ X, về quê hương, thân thế, sự nghiệp của ông bước đầu được giải quyết. Đến năm 2005, tại hội thảo "1000 năm Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn", trải qua một chặng đường đổi mới của sử học, nhiều vấn đề về quê hương của Lê Hoàn được đào sâu và nhìn nhận lại theo chiều hướng thoáng rộng hơn. Tựu trung có các ý kiến sau: Trường Châu (Ninh Bình)Việt sử lược viết từ thời Trần ghi là: "Đại Hành vương húy là Hoàn, họ Lê, người Trường Châu". Trường Châu là vùng đất kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình. PGS TS Trần Bá Chí trước từng viết rất công phu về quê hương, dòng dõi Lê Đại Hành cho rằng ông người Ái Châu (Thanh Hóa), thì tại hội thảo 2005 cũng khẳng định rằng quê gốc ông là Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Các nhà nghiên cứu Mai Khánh (Bảo tàng Hà Nam) và TS Vũ Văn Quân đồng ý rằng Lê Hoàn là người Trường Châu nhưng cho rằng Trường Châu khi đó bao gồm cả Ninh Bình và Hà Nam. Thần tích một số đền thờ ở Hà Nam và Ninh Bình cũng khẳng định Lê Hoàn quê gốc Ninh Bình. Cũng giống các vị vua khác khi mất được hậu thế đưa về quê nhà, lăng mộ Lê Đại Hành đã được táng ở sơn lăng Trường Yên. Ái Châu (Thanh Hóa) Đại Việt Sử ký Toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí ghi: "Vua họ Lê, tên húy là Hoàn, người Ái Châu". Sách "Các triều đại Việt Nam" còn cho rằng mẹ Lê Hoàn là Đặng Thị Sen chứ không gọi là Đặng thị. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc thời Trần, mục Lê nhị thế gia chép: "Lê Hoàn, người Ái Châu, có chí lược, được lòng quân sĩ". Website chính thức của tỉnh Thanh Hóa cũng khẳng định Lê Hoàn là người quê hương mình. Đại Nam nhất thống chí chép: "Miếu Lê Đại Hành Hoàng đế ở xã Trung Lập, huyện Thụy Nguyên, chỗ này là nền nhà cũ của tiên tổ nhà vua". Mục tỉnh Hà Nội chép "mộ tổ Lê Đại Hành ở bên miếu xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm". Sách Việt sử tiêu án, soạn giả Ngô Thì Sĩ chép: Vua Lê, tên Hoàn, người châu Ái, làm vua 24 năm, hưởng thọ 65 tuổi. Bảo Thái (Hà Nam) Đại Việt sử ký tiền biên ghi: "Xét thấy Lê Đại Hành Hoàng đế người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm chứ không phải Ái Châu, sử cũ chép nhầm". Cuốn Việt Nam sử lược, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều ghi: "Lê Hoàn quê ở làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm". Nhà sử học Trần Quốc Vượng cho rằng Lê Hoàn sinh ở Thanh Liêm, Hà Nam và theo ông, Thanh Hóa chỉ có thể là quê ngoại hay quê cha nuôi Lê Hoàn. Lịch sử Hà Nam Ninh cũng đã nhận định: "Lê Hoàn quê nội ở Thanh Liêm (Hà Nam), quê ngoại ở Kẻ Sập (Thanh Hóa). Tuy sinh ở đất Ái Châu nhưng ông chỉ sống ở đấy hơn 10 năm, sau trở về Thanh Liêm". Giáo sư Lê Văn Lan cũng cho rằng Lê Hoàn "là đứa trẻ mồ côi ở làng Kẻ Sập - quê ngoại, chàng trai nghèo ở miền Bảo Thái quê nội". Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, sau khi điểm lại một số nhận định của các cuốn sử cũ đã nêu quan điểm: Thanh Liêm là nguyên quán của cha mẹ. Ái Châu là chỗ ở của cha nuôi, mỗi quyển chép theo một nghĩa. Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, phần ghi về lăng mộ ở huyện Thanh Liêm chép: "Mộ tổ Lê Đại Hành ở bên miếu xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm. Sử cũ cũng nhắc tới Trần Bình Trọng quê ở xã Thanh Liêm là hậu duệ của Lê Hoàn. Vị danh tướng thời Trần này được ban quốc tính vì có nhiều công trạng. Website chính thức của tỉnh Hà Nam cũng khẳng định Lê Hoàn là người quê hương mình. Ý kiến dung hòa Thần tích Lê Hoàn tại lăng vua Lê, làng Ứng Liêm (Hà Nam) giải thích có vẻ "hợp tình, hợp lý" tất cả những vấn đề khúc mắc về quê quán, xuất thân của Lê Hoàn. Thần tích cho biết ông sinh ra ở xã Trường Yên, Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ông nội là Lê Lộc và bà nội là Cao Thị Phương; cha là Lê Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết. Nhà nghèo nên đã về xã Ninh Thái, Thanh Liêm, Hà Nam làm nghề chài lưới, đơm đó bắt cá. Ngày mùng 10 tháng 1 năm Nhâm Dần âm lịch (tức ngày 29 tháng 1 năm 942) sinh ra ông. Năm lên 7 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải làm con nuôi quan án châu Ái (Thanh Hóa). Tại Hội thảo Khoa học quốc gia "Lê Hoàn - Quê hương và sự nghiệp" được tổ chức ngày 06/09/2016 tại Hà Nam, phát biểu kết luận hội thảo, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê khẳng định: Thông qua những tư liệu lịch sử, cơ sở khoa học có thể khẳng định Hà Nam chính là quê gốc của Lê Hoàn. Các nhà sử học cho rằng vấn đề quê hương Lê Hoàn ở đâu không quan trọng bằng điều dễ nhận thấy là cả Ninh Bình, Thanh Hóa và Hà Nam đều là những miền quê gắn bó mật thiết với cuộc đời và sự nghiệp của vị vua này. Dựa trên các tư liệu chính sử và tư liệu lưu tại các địa phương, đã minh chứng cụ thể về quê gốc, nơi sinh và dựng nghiệp của Lê Hoàn tại các địa danh tại Bảo Thái (Hà Nam), Thọ Xuân (Thanh Hóa) và Trường Châu (Ninh Bình). Kết luận Với vai trò là Chủ tọa Hội thảo "Lê Hoàn - Quê hương và sự nghiệp" ngày 06/8/2016, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê - Nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã phát biểu tổng kết: Sử sách chép Lê Hoàn người Trường Châu (Ninh Bình) hay Ái Châu (Thanh Hóa) hay Bảo Thái (Hà Nam), mỗi ý kiến đều có những căn cứ nhất định, nhưng chỉ qui về một địa phương là không rõ ràng và xác đáng. Trường Châu (Ninh Bình) là nơi ông nội của Lê Hoàn là Lê Lộc cùng vợ là Cao Thị Khương đã từng sinh sống và từ đó chuyển đến Bảo Thái lập nghiệp. Không rõ quê gốc của Lê Lộc ở đâu, nhưng ông có sống ở Trường Châu trong một thời gian trước khi tới Bảo Thái. Bảo Thái (Hà Nam) là nơi định cư của Lê Lộc, ông nội của Lê Hoàn. Tại đây Lê Lộc sinh ra Lê Hiền là cha của Lê Hoàn. Bảo Thái là quê hương hai đời (không trọn vẹn) của Lê Hoàn, có thể coi là quê tổ của Lê Hoàn. Đại Nam nhất thống chí cũng coi "mộ tổ của Lê Đại Hành" ở Bảo Thái. Ái Châu (Thanh Hóa) là nơi Lê Hoàn sinh ra. Lê Hiền và vợ là Đặng Thị Khiết chuyển vào Trung Lập, huyện Thọ Xuân, từ đây sinh ra Lê Hoàn, sau được viên Quan sát họ Lê nhận làm con nuôi. Đây là nơi sinh của Lê Hoàn và quê hương của cha nuôi. Đền thờ Tính đến năm 2014, các nhà nghiên cứu đã thống kê được hơn 51 nơi thờ Lê Đại Hành (trong đó có 19 nơi thờ riêng, 5 nơi phối thờ với bà Đô Hồ phu nhân; 5 nơi phối thờ với Thái hậu Dương Vân Nga và 22 nơi thờ với các vị thần khác). Ninh Bình là tỉnh có nhiều di tích thờ Lê Hoàn nhất với 15 nơi; tiếp theo là Thái Bình với 10 nơi; Hà Nội có 10 nơi, Nam Định 4 nơi, Hà Nam 3 nơi; Hải Dương, Thanh Hóa 2 nơi, các tỉnh Hưng Yên, Hải Phòng, Phú Thọ đã tìm thấy một nơi thờ. Ninh Bình là vùng đất kinh đô của đất nước dưới thời Lê Hoàn, các đền thờ thường tập trung nhiều ở khu di tích Cố đô Hoa Lư như đền Vua Lê Đại Hành và đình Yên Thành ở Cố đô Hoa Lư, đình Trung Trữ ở Ninh Giang (Hoa Lư), di tích chùa Đẩu Long, đền Đồng Bến (thành phố Ninh Bình). Khu vực phía nam Ninh Bình là nơi vua đánh Tống và dẹp Chiêm đi qua nên có rất nhiều nơi thờ như đền Thượng Ngọc Lâm ở xã Yên Lâm, đền Vua Lê ở xã Yên Thắng, đình Từ Đường, đình Quảng Công ở xã Yên Thái (Yên Mô); các đền ở xã Khánh Ninh và đền Nội thị Lân ở thị trấn Yên Ninh (Yên Khánh); đình làng Yên Lâm ở xã Lai Thành và Miếu Dỹ Ninh xã Hồi Ninh (Kim Sơn);... Thái Bình là nơi diễn ra một số trận đánh của Lê Hoàn khi còn là tướng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, đặc biệt là chiến trận với các sứ quân Phạm Bạch Hổ, Lã Đường ở Hưng Yên, đồng thời vùng đất này cũng nằm trên đường hành quân từ kinh đô Hoa Lư ra các chiến trường Lục Đầu Giang, Chi Lăng và Bạch Đằng. Điều này có thể giải thích cho việc nhân dân quanh khu vực này thờ cúng Lê Hoàn, đặc biệt là vùng đất thuộc hai tổng Xích Bích và Ỷ Đôn xưa. Các nơi thờ tiêu biểu như di tích đình và đền Vua Lê Đại Hành ở các xã Chi Lăng, xã Đông Đô; xã Bắc Sơn, xã Tây Đô, xã Hòa Bình (huyện Hưng Hà); xã Thái Thịnh (huyện Thái Thụy); xã Quỳnh Sơn, xã Quỳnh Giao, xã Quỳnh Khê, xã Quỳnh Ngọc, xã Quỳnh Trang (huyện Quỳnh Phụ); xã Minh Tân (huyện Đông Hưng);... Các đền thờ ở khu vực Hà Nội thường ở ven sông Nhuệ, trong đó Hà Đông 3 nơi, Thanh Trì 3 nơi (ở xã Tả Thanh Oai và Hữu Hòa), Sơn Tây 2 nơi, Thường Tín 1 nơi (đình An Lãng - xã Văn Tự) và Ứng Hòa một nơi (ở Đình Thanh Dương xã Đồng Tiến). Đình Trung Kính Hạ thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy cũng thờ Vua Lê Đại Hành. Khu di tích đình, chùa, miếu của khu Mộ Chu Hạ, phường Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ thờ Lê Đại Hành và 2 bà hoàng hậu. Đây là nơi rất xa kinh đô Hoa Lư so với các di tích khác thờ Lê Hoàn. Hà Nam có đền Lăng ở xã Liêm Cần quê hương là nơi thờ Lê Hoàn. Ông cũng được thờ ở đình Cẩm Du, xã Thanh Lưu và đình Ứng Liêm, xã Thanh Hà. Cả ba di tích đều thuộc huyện Thanh Liêm. Thanh Hóa có đền thờ Lê Hoàn ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, Thọ Xuân được cho là quê hương của người và đền Vua Lê Đại Hành ở chân dãy núi Tam Điệp, thuộc xã Nga Giáp, Nga Sơn, thuộc khu vực cửa biển Thần Phù xưa mà ở bên Ninh Bình cũng có nhiều đền thờ Lê Hoàn. Các thần tích, thần sắc tại Hải Dương, Hải Phòng - nơi diễn ra trận Bạch Đằng năm 981 cho thấy các tướng của ông được thờ ở rất nhiều nơi và trong thần tích, thần sắc của họ có mô tả lại những chiến công của Lê Hoàn tại khu vực này. Đền Vua Lê Đại Hành ở Hải Dương được xây dựng tại xã An Lạc, huyện Chí Linh và đình Mạc Động xã Liên Mạc, Thanh Hà cũng thờ Lê Hoàn. Tại thị trấn Minh Đức (Thủy Nguyên, Hải Phòng) cũng có đền riêng thờ Vua Lê Đại Hành. Đền được xây dựng ngay tại khu vực núi đá Tràng Kênh, ngã ba sông Bạch Đằng, nơi diễn ra đại thắng mùa xuân 981. Gia đình Lê Đại Hành có 5 hoàng hậu gồm Đại Thắng Minh Hoàng hậu, Phụng Càn Chí Lý Hoàng hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng hậu, Trịnh Quắc Hoàng hậu và Phạm Hoàng hậu. Sử cũng chép một người vợ khác của ông, sinh cho ông ít nhất 2 người con, Lê Long Việt và Lê Long Đĩnh. Sách Việt sử lược chép là sơ hầu di nữ (初侯姨女), Đại Việt sử ký toàn thư chép là chi hậu diệu nữ (祇候妙女). Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục Chính biên chép bà là con gái quan Chi hậu tên là Diệu, không rõ họ là gì. Về sau bà được con trai là Long Đĩnh truy tôn hiệu Hưng Quốc Quảng Thánh Hoàng thái hậu. Lê Đại Hành có 13 người con, 11 người con trai, 1 người con gái, 1 người con nuôi. 11 người con trai và cả con trai nuôi đều được phong vương: Lê Long Thâu làm Kình Thiên đại vương (phong năm 989), từng tham gia chiến tranh Việt - Tống 981, được Lê Đại Hành phong làm Thái tử. Tuy nhiên, đến năm 1000 thì mất. Lê Long Tích làm Đông Thành vương (phong năm 989), sau khi Lê Đại Hành mất, Lê Long Tích cùng các em tranh ngôi với Lê Long Việt. Song thua chạy đến Thạch Hà thì bị dân ở đây giết chết. Lê Long Việt làm Nam Phong vương (phong năm 989), sau là vua Lê Trung Tông. Sau 3 ngày ở ngôi vua thì bị Lê Long Đĩnh ám hại năm 1005. Lê Long Đinh làm Ngự Man vương (phong năm 991), đóng ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Lê Long Đĩnh làm Khai Minh vương (phong năm 992), đóng ở Đằng Châu (nay thuộc Hưng Yên), sau là vua Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế. Lê Long Cân làm Ngự Bắc vương (phong năm 991), đóng ở Phù Lan, sau là Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Hưng. Hiện nay thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Lê Long Tung làm Định Phiên vương (phong năm 993), đóng ở Tư Doanh, Ngũ Huyện Giang (Cổ Loa, Hà Nội). Lê Long Tương làm Phó vương (phong năm 993), đóng ở Đỗ Động Giang (nay thuộc tây nam Hà Nội). Lê Long Kính làm Trung Quốc vương (phong năm 993), đóng ở Càn Đà, Mạt Liên (nay thuộc Hải Dương), sau bị giết năm 1005. Lê Long Mang làm Nam Quốc vương (phong năm 994), đóng ở Vũ Lung (nay thuộc Thanh Hóa). Lê Long Đề (Minh Đề) làm Hành Quân vương (phong năm 995), đóng ở Bắc Ngạn, Cổ Lãm (nay thuộc Bắc Ninh). Con nuôi Dương Hy Liễn làm Phù Đái vương (phong năm 995), đóng ở Phù Đái (nay thuộc Hải Phòng). Lê Thị Phất Ngân: Hoàng hậu của vua Lý Thái Tổ, mẹ của Lý Thái Tông, được Lý Thái Tông phong là Linh Hiển Hoàng thái hậu. Niên hiệu Giữa năm 1005, Lê Đại Hành mất. Ông ở ngôi tất cả 26 năm, thọ 65 tuổi. Trong 26 năm làm vua, ông đặt 3 niên hiệu: Thiên Phúc (980 - 988) Hưng Thống (989 - 993) Ứng Thiên (994 - 1005) Trong văn hóa đại chúng Ngày nay các tên Lê Đại Hành hay Lê Hoàn được đặt cho nhiều đường phố và trường học tại Việt Nam, đặc biệt, tên ông cũng là của một phường ở quận Hai Bà Trưng. Hà Nội. Điện ảnh
Đỗ Thích (chữ Hán: 杜釋; ?-979) là một quan viên thời nhà Đinh. Ông được ghi nhận trong chính sử Việt Nam là người đã ám sát vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn, dẫn sự kết thúc của nhà Đinh, mở đầu nhà Tiền Lê, cũng như gây ra cái cớ cho việc xâm lược Đại Cồ Việt bất thành của nhà Tống. Mô tả trong chính sử Sách Đại Việt sử lược, tài liệu lịch sử sớm nhất được cho là soạn thời nhà Trần, đề cập sự kiện "Đỗ Thích giết vua" vắn tắt như sau: {{cquote| Mùa đông, tháng Mười một [năm Kỷ Mão 979], ban đêm vua [Đinh Tiên Hoàng] ngự tiệc thì bị Phúc hầu hoằng Đỗ Thích giết, giết luôn cả Việt vương Liễn. |}} Sách Đại Việt sử ký toàn thư soạn thời nhà Lê cũng mô tả tương tự: Nguyên do Đỗ Thích giết vua, các tài liệu lịch sử thời phong kiến đều chép khi Đỗ Thích còn làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, từ đó nảy ra ý định giết vua. Tuy nhiên, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị sát hại, triều thần đều truy lùng kẻ giết vua. Đỗ Thích phải trèo lên nằm trong máng nước ở trong cung suốt ba ngày liền chịu đói khát. Khi trời đổ mưa, Đỗ Thích thò tay hứng nước mà uống, cung nữ nhìn thấy nên đi báo. Định Quốc công Nguyễn Bặc sai người bắt xuống và đem đi chém. Theo học giả Đào Duy Anh, khi bắt được Đỗ Thích, Nguyễn Bặc cho đem chém rồi đập tan xương và cắt thịt chia cho nhân dân bắt họ phải ăn. Sau khi Đỗ Thích chết, triều thần tôn lập Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi, sử gọi là Đinh đế Toàn. Tuy nhiên, triều đình rơi cuộc tranh giành quyền lực giữa Thập đạo tướng quân Lê Hoàn và các đại thần khác Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp. Cuối cùng, với sự ủng hộ của Phạm Cự Lượng và Thái hậu, Lê Hoàn giành được phần thắng, giết được cả Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp, không lâu sau tự lập làm vua, sử gọi là Đại Hành hoàng đế, mở ra triều đại mà về sau gọi là nhà Tiền Lê. Nghi án lịch sử Cả Đại Việt sử lược lẫn Đại Việt sử ký toàn thư đều không ghi chép gì về thân thế của Đỗ Thích. Riêng sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục soạn thời nhà Nguyễn có chú dựa theo dã lục rằng Đỗ Thích là người Đại Đê, huyện Thiên Bản (nay thuộc xã Đại An, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Sách Đại Việt sử lược chép là "Phúc hầu hoằng (福侯宏) Đỗ Thích", còn Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục thì chép là "Chi hậu nội nhân (秪候内人) Đỗ Thích". Theo các nhà nghiên cứu, Đỗ Thích có thể là một hoạn quan hoặc thị vệ phục dịch trong cung. Sách Đại Việt sử lược lẫn Đại Việt sử ký toàn thư đều ghi chép việc xuất hiện lời sấm tiên đoán việc Đỗ Thích giết vua vào năm Thái Bình thứ 5. Tuy nhiên, gần đây, một số nhà nghiên cứu lịch sử đưa ra giả thuyết: Đỗ Thích không phải là thủ phạm giết vua. Theo nhà giáo Hoàng Đạo Thúy và một số nhà nghiên cứu hiện nay, Đỗ Thích không thể làm chuyện này. Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh. So với Thích, trong triều có các bạn của vua Đinh như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ... đều nắm trọng quyền, đủ cả văn lẫn võ. Vì vậy ông không thể mơ tưởng việc sẽ khuất phục được các đại thần nhà Đinh để ngồi yên trên ngai vàng. Trong cuốn "Chính sách khuyến nông dưới thời Minh Mạng". Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội 1996, trang 33 và 34 ghi là: "Những người viết sử xưa đơn giản hóa sự cố này: chỉ bởi một giấc mơ hão huyền mà Đỗ Thích trở thành tên sát nhân. Đằng sau Đỗ Thích còn ai không? Tại sao khi Lê Hoàn thế chân thì quân Tống lại can thiệp". Cũng theo trang 57, 58 sách trên: "Lê Hoàn giành được thế nhiếp chính đã cùng thuộc hạ mưu sự chiếm ngôi. Nếu không có công chống Tống vào năm Tân Tỵ (981) thì Lê Hoàn đã phạm tội bất trung và lịch sử vẫn giữ nguyên nghi án"Gia phả họ Đỗ ở Đại Đê, huyện Vụ Bản và sự tích đền Thảo Mã (tức đền Gạo ở xã Thanh Bình, huyện Thanh Liêm, Hà Nam) có nói tới việc Đỗ Thích có công cõng Đinh Tiên Hoàng chạy trốn khi ông bị Nam Tấn Vương đuổi. Sử liệu đầu tiên đề cập giả thuyết “Lê Hoàn mưu sát Đinh Bộ Lĩnh” là ghi chép của Thẩm Quát trong Mộng khê bút đàm'' được viết vào năm 1093 - sớm hơn Toàn thư 400 đến 600 năm. Bộ sử này ghi như sau: “thổ nhân Lê Uy giết Liễn tự lập”. Lê Uy tức Lê Hoàn. Trong văn hoá đại chúng Chú thích
Hoàng Tụy (7 tháng 12 năm 1927 – 14 tháng 7 năm 2019) là một giáo sư, nhà toán học tiêu biểu của Việt Nam. Cùng với Giáo sư Lê Văn Thiêm, ông là một trong hai người tiên phong trong việc xây dựng ngành Toán học của Việt Nam. Hoàng Tụy được coi là cha đẻ của lĩnh vực Tối ưu hóa toàn cục (Global Optimization) trong Toán học ứng dụng. Không chỉ là một nhà toán học, Hoàng Tụy cũng có nhiều đóng góp cho giáo dục Việt Nam. Ông cũng là sáng lập viên Viện Nghiên cứu Phát triển IDS mà ông là Chủ tịch Hội đồng Viện. Hoàng Tụy quyết định gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1950. Tiểu sử Ông sinh ngày 17 tháng 12 năm 1927 tại làng Xuân Đài, xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, Quảng Nam, là cháu nội của cụ Hoàng Văn Bảng, đỗ Cử nhân và từng giữ chức Án sát sứ nhiều tỉnh như: Quảng Ngãi, Quảng Bình, Quảng Nam, Hà Tĩnh. Cụ Hoàng Văn Bảng chính là em ruột của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu. Cha của ông là ông Hoàng Kỵ, từng làm quan dưới thời Duy Tân, Khải Định, được thăng chức Thị Giảng học sĩ. Các anh em ông có bảy người đỗ đạt thì 5 người làm giáo sư đại học như Hoàng Phê (ngôn ngữ học), Hoàng Quý (vật lý), Hoàng Kiệt (mỹ thuật), Hoàng Tụy và Hoàng Chúng (toán học)… Tuy vậy, năm ông lên 4 tuổi thì cha qua đời. Cha làm quan thanh liêm, nên gia đình túng bấn lại đông anh em nên tuổi thơ của ông rất vất vả, tuy nhiên đều giữ nếp nhà trong việc học hành. Giỏi văn học Pháp, nhưng ngay từ thời trung học, Hoàng Tụy đã bộc lộ thiên hướng toán học. "Nhảy cóc" hai lớp, là thí sinh tự do, tháng 5 năm 1946, ông đỗ kỳ thi tú tài phần một và 4 tháng sau đó, đỗ đầu tú tài toàn phần ban toán tại Huế. Ông theo học Đại học Khoa học ở Hà Nội nhưng bỏ dở. Sau đó ông được mời dạy toán tại trường trung học Lê Khiết ở Liên khu V. Trong khoảng thời gian này, biên thư xin giáo sư Nguyễn Thúc Hào - người thầy ông từng theo học tại Trường Quốc học Huế - tài liệu để tự học. Đến cuối khoá, ông xin dự kỳ thi tốt nghiệp... "từ xa"! Giáo sư Nguyễn Thúc Hào bèn xin phép Bộ được gửi đề thi niêm phong từ Nam Đàn vào cho Sở Giáo dục Liên khu V. Sở mở kỳ thi riêng, chỉ cho 2 thí sinh, trong đó có Hoàng Tuỵ, xong, thu bài làm, bỏ vào phong bì dán kín, gắn xi, rồi gửi ra Hội đồng chấm thi ở Liên khu IV. Biên bản kỳ thi được gửi ra Việt Bắc cho Bộ kiểm tra, công nhận kết quả, rồi mới cấp chứng chỉ tốt nghiệp cho thí sinh. Anh sinh viên dòng dõi danh nho đất Quảng Hoàng Tuỵ đã đỗ, còn người thí sinh kia, cùng dự thi, thì bị trượt. Năm 1951, ông theo học Trường khoa học cơ bản do Lê Văn Thiêm phụ trách. Năm 1954, Hoàng Tụy bắt đầu dạy toán tại trường Đại học Khoa học, sau là Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tháng 3 năm 1959, Hoàng Tụy trở thành một trong hai người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ khoa học toán – lý tại Đại học Lomonosov tại Moskva, dưới sự hướng dẫn của nhà toán học Nga Dmitrii Evgenevich Menshov. Từ năm 1961 đến 1968 ông là Chủ nhiệm Khoa Toán của Đại học Tổng hợp Hà Nội; là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam từ năm 1980 đến 1989. Năm 1964, ông đã phát minh ra phương pháp "lát cắt Tụy" (Tuy's cut) và được coi là cột mốc đầu tiên đánh dấu sự ra đời của một chuyên ngành toán học mới: Lý thuyết tối ưu toàn cục (global optimization). Vào tháng 8 năm 1997, Viện Công nghệ Linköping (Thụy Điển) đã tổ chức một hội thảo quốc tế với chủ đề "Tìm tối ưu từ địa phương đến toàn cục", được tổ chức để tôn vinh Giáo sư Hoàng Tụy, "người đã có công trình tiên phong trong lĩnh vực tối ưu toàn cục và quy hoạch toán học tổng quát" và nhân dịp giáo sư tròn 70 tuổi. Ngày 27 tháng 9 năm 2007, ông cùng 9 nhà nghiên cứu độc lập tên tuổi khác là: Nguyễn Quang A, Phạm Chi Lan, Lê Đăng Doanh, Chu Hảo, Tương Lai, Phan Huy Lê, Trần Đức Nguyên, Trần Việt Phương thành lập Viện Nghiên cứu Phát triển IDS mà ông là Chủ tịch Hội đồng Viện. Viện IDS với tư cách một tổ chức độc lập, vừa là tổ chức mở, phi vụ lợi chuyên nghiên cứu các vấn đề liên quan đến các chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội. Tháng 12 năm 2007, một hội nghị quốc tế về "Quy hoạch không lồi" đã được tổ chức ở Rouen, Pháp để ghi nhận những đóng góp tiên phong của GS Hoàng Tuỵ cho lĩnh vực này nói riêng và cho ngành Tối ưu Toàn cục nói chung nhân dịp ông tròn 80 tuổi. Trong những năm của thế kỉ 21, GS Hoàng Tuỵ đã có một số bài viết phê phán, góp ý thẳng thắn về sự yếu kém, lạc hậu và tiêu cực trong ngành giáo dục Việt Nam cũng như tham gia nhiều hội nghị tham luận về cải cách giáo dục. Tháng 9 năm 2011, Giáo sư Hoàng Tụy vinh dự là người đầu tiên nhận được giải thưởng Constantin Caratheodory do Đại hội Quốc tế Tối ưu Toàn cục đề xướng cho những đóng góp tiên phong và nền tảng của ông trong lĩnh vực này. Ông qua đời ngày 14 tháng 7 năm 2019 tại Hà Nội. Một số công trình khoa học Trên 100 công trình đăng trên các tạp chí có uy tín quốc tế về nhiều lĩnh vực khác nhau của toán học như: Quy hoạch toán học, Tối ưu toàn cục, Lý thuyết điểm bất động, Định lý minimax, Lý thuyết các bài toán cực trị, Quy hoạch lõm,... Năm 1996, ông cùng Giáo sư Hiroshi Konno và nhà toán học trẻ Phan Thiên Thạch viết chung cuốn sách chuyên khảo nhan đề Optimization on Low Rank Nonconvex Structures (Tối ưu hóa trên những cấu trúc không lồi dạng thấp) dày 472 trang, đang được Kluwer Academic Publishers in đồng thời ở nhiều nơi. Một cuốn sách khác, bộ Convex Analysis and Global Optimization, một giáo trình nghiên cứu trong ngành tối ưu toàn cục, cũng được nhà xuất bản nói trên in ở Mỹ và châu Âu trong năm 1997. Ông là tổng biên tập của 2 tạp chí toán học tại Việt Nam (1980–1990), ủy viên ban biên tập của 3 tạp chí toán học quốc tế. Danh dự, giải thưởng Tiến sĩ danh dự trường Đại học Linköping, Thụy Điển (1995). Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996). Giải thưởng Phan Châu Trinh (2010) Giải thưởng Constantin Carathéodory (2011) Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng (2015) Chính kiến Ngày 9.12.2015 ông cùng với 126 người khác, trong đó có các nhân vật tên tuổi như Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, TS Nguyễn Quang A, GS Hoàng Tụy, GS Nguyễn Đình Cống, GS Chu Hảo, GS Tương Lai, Huỳnh Tấn Mẫm, Hồ Ngọc Nhuận, GS Trần Văn Thọ, GS Nguyễn Đăng Hưng, Đại sứ Nguyễn Trung, GS Phạm Xuân Yêm..., đã gửi một bức thư ngỏ đến Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, các đại biểu dự Đại hội lần thứ XII và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Bức thư đề nghị "đổi tên đảng (không gọi là Đảng Cộng sản); đổi tên nước (không gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa); trả lại tự do cho những người khác chính kiến đang bị giam giữ; chấm dứt sự trấn áp và ngăn chặn nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ theo Hiến pháp" đồng thời nêu ý kiến "Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin". Chú thích