text
stringlengths 82
354k
|
---|
Montenegro tại Thế vận hội
Montenegro lần đầu tiên tham dự Thế vận hội như một quốc gia độc lập vào năm 2008, tại Olympic Bắc Kinh. Trước đó, các vận động viên (VĐV) Montenegro thi đấu theo đoàn Serbia và Montenegro vào năm 2004 trước đó nữa là đoàn thể thao Nam Tư.
Ủy ban Olympic quốc gia của Montenegro là Ủy ban Olympic Montenegro. Ủy ban này được thành lập năm 2006 và được công nhận bởi Ủy ban Olympic Quốc tế năm 2007.
VĐV giành huy chương.
Tính đến ngày 11 tháng 08 năm 2012, Montenegro giành được huy chương Olympic đầu tiên với tư cách một quốc gia độc lập, với một huy chương bạc môn bóng ném nội dung nữ.
Trước Thế vận hội năm 2012, một vài VĐV đến từ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Montenegro và Cộng hòa Montenegro cũng từng giành được huy chương Olympic ở năm môn thi đấu nhưng thuộc các đoàn Nam Tư và Serbia và Montenegro. |
Hoa Kỳ cấm vận Cuba
Lệnh cấm Hoa Kỳ đối với Cuba hạn chế các doanh nghiệp Mĩ và các doanh nghiệp có hoạt động thương mại tại Hoa Kỳ tiến hành thương mại với các lợi ích của Cuba. Đây là lệnh cấm vận thương mại lâu dài nhất trong lịch sử hiện đại. Hoa Kỳ lần đầu tiên áp đặt lệnh cấm vận bán vũ khí cho Cuba vào ngày 14 tháng 03 năm 1958, dưới chế độ Fulgencio Batista. Một lần nữa vào ngày 19 tháng 10 năm 1960 (gần hai năm sau cuộc Cách mạng Cuba dẫn đến việc lật đổ chế độ Batista), Hoa Kỳ đặt lệnh cấm vận xuất khẩu sang Cuba ngoại trừ thực phẩm và thuốc sau khi Cuba quốc hữu hóa các nhà máy lọc dầu của Cuba do Hoa Kỳ làm chủ mà không được bồi thường. Vào ngày 07 tháng 02 năm 1962, lệnh cấm vận được mở rộng để bao gồm hầu hết các mặt hàng xuất khẩu. Lệnh cấm vận không cấm buôn bán thực phẩm và vật tư nhân đạo.
Tính đến năm 2018, lệnh cấm vận được thực thi chủ yếu thông qua 6 đạo luật gồm: Đạo luật Giao dịch với Kẻ thù (1917), Đạo luật Hỗ trợ Nước ngoài (1961), Quy định Kiểm soát Tài sản Cuba (1963), Đạo luật Dân chủ Cuba (1992), Đạo luật Helms–Burton (1996) và Đạo luật Cải cách Trừng phạt Thương mại và Tăng cường xuất khẩu (2000). Mục đích đã nêu của Đạo luật Dân chủ Cuba năm 1992 là duy trì các lệnh trừng phạt đối với Cuba miễn là chính phủ Cuba từ chối tiến tới "dân chủ hóa và tôn trọng nhân quyền hơn". Đạo luật Helms-Burton tiếp tục hạn chế công dân Hoa Kỳ kinh doanh ở hoặc với Cuba, và bắt buộc hạn chế việc cung cấp hỗ trợ công hoặc tư cho bất kỳ chính phủ kế nhiệm nào ở Havana trừ khi và cho đến khi có những tuyên bố chống lại chính phủ Cuba. Năm 1999, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã mở rộng lệnh cấm vận thương mại bằng cách không cho phép các công ty con nước ngoài của các công ty Hoa Kỳ buôn bán với Cuba. Năm 2000, Clinton cho phép bán thực phẩm và các hỗ trợ nhân đạo cho Cuba.
Ở Cuba, lệnh cấm vận được gọi là el bloqueo (cuộc phong tỏa), mặc dù Hoa Kỳ không có phong tỏa hải quân nào đối với đất nước này kể từ Cuộc Khủng hoảng Tên lửa Cuba năm 1962. Chính phủ Cuba thường xuyên đổ lỗi cho việc Mỹ "phong tỏa" các vấn đề kinh tế của Cuba. Hoa Kỳ đã đe dọa sẽ ngừng viện trợ tài chính cho các nước khác nếu họ buôn bán các mặt hàng phi lương thực với Cuba. Tuy nhiên, do lệnh cấm vận không được quốc tế ủng hộ phổ biến và các quốc gia khác không thuộc thẩm quyền của luật pháp Hoa Kỳ, các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm ngăn cản các đồng minh của mình giao dịch với Cuba đã không thành công. Những nỗ lực của Hoa Kỳ để làm như vậy đã bị Đại hội đồng Liên hợp quốc lên án là một biện pháp ngoài lãnh thổ đi ngược lại "quyền bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của họ và tự do thương mại và hàng hải là điều quan trọng nhất đối với việc tiến hành các công việc quốc tế ".
Biểu quyết của Liên Hợp Quốc năm 2009.
Ngày 28 tháng 10 năm 2009, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc lại biểu quyết với hầu hết các nước thành viên thúc giục Hoa Kỳ hãy bãi bỏ việc phong tỏa kinh tế chống lại Cuba từ gần nửa thế kỷ nay. Cuộc biểu quyết của Liên Hợp Quốc trở thành một nghi thức hàng năm giữa lúc có vài hòa dịu trong các quan hệ của Hoa Kỳ với hòn đảo do Đảng Cộng sản Cuba lãnh đạo.
Đại Hội đồng thông qua một nghị quyết không có hiệu lực ràng buộc - với 187 phiếu thuận, ba phiếu chống và hai nước không bỏ phiếu - cho năm thứ 18 liên tiếp, phản ánh sự chống đối của thế giới về nỗ lực từ lâu nay của Washington nhằm cô lập La Habana. Israel và đảo quốc Palau nhỏ bé ở Thái Bình Dương biểu quyết cùng với Hoa Kỳ chống lại nghị quyết, trong khi quần đảo Marshall và Micronesia không bỏ phiếu.
Lần lượt, các đại biểu trên thế giới lên tiếng chống đối vụ phong tỏa, gọi đó là một sai lầm tàn nhẫn đi ngược với luật quốc tế và chỉ thành công trong việc làm hại cho người dân thường Cuba, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Chính phủ của Tổng thống Barack Obama thực hiện vài biện pháp để giảm bớt sự thù nghịch với Cuba, mặc dù Washington vẫn không tiến tới việc bãi bỏ cấm vận mậu dịch. "Cuộc phong tỏa kinh tế đã không đáp ứng và sẽ không đáp ứng được mục tiêu của nó là khuất phục lòng yêu nước của người dân Cuba, nhưng nó gây ra những thiếu thốn, nó giới hạn tiềm năng phát triển của chúng tôi và gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế của chúng tôi," Ngoại trưởng Cuba Bruno Rodriguez nói trước Đại Hội đồng.
Obama nói rằng ông muốn thay đổi những quan hệ có tính cách thù nghịch ít lâu sau cuộc cách mạng của Fidel Castro vào năm 1959 đã lái Cuba về phía cộng sản. Fidel Castro rời khỏi chức vụ chủ tịch vào năm 2008 vì bệnh tật và được thay thế bởi người em của ông, Raul Castro. Nhưng Obama nói rằng cuộc phong tỏa từ 47 năm vẫn được duy trì cho tới khi Cuba cải thiện nhân quyền và phóng thích các tù nhân chính trị. Susan Rice, đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc, nói nghị quyết Liên Hợp Quốc không phản ánh những "thực tế hiện nay" ở Cuba. "Đã đến lúc tổ chức này công nhận tình hình hiện nay ở Cuba và khuyến khích sự tiến bộ hướng tới thay đổi thực sự," bà Rice nói trước Đại Hội đồng.
Trong một dấu hiệu cho thấy các quan hệ đang cải thiện, ông Obama bãi bỏ các giới hạn việc người Mỹ gốc Cuba di chuyển và gửi tiền tới Cuba, và khởi xướng những cuộc nói chuyện với Cuba về di trú và dịch vụ thư từ - nhằm tái lập dịch vụ bưu chính trực tiếp giữa Cuba và Hoa Kỳ đã bị đình chỉ từ tháng 08 năm 1963. "Đây là những bước quan trọng và chúng tôi hy vọng có thể là điểm khởi đầu cho việc thay đổi thêm," bà Rice nói. |
Catalina của Castilla, Thân vương xứ Asturias
Catalina của Castilla (tiếng Castilia/Tây Ban Nha: "Catalina de Castilla"; 5 tháng 10 năm 1422 - 17 tháng 9 năm 1424) là Thân vương xứ Asturias với tư cách là người thừa kế lâm thời của ngai vàng Castilla trong suốt cuộc đời.
Catalina sinh ngày 5 tháng 10 năm 1422 tại Illescas, Toledo, là con đầu lòng của Juan II của Castilla và María của Aragón. Catalina được đặt tên theo cô và bà nội là Catalina của Castilla, Nữ công tước Villena và Catherine của Lancaster. Ngay khi sinh ra, Catalina đã trở thành nữ thừa kế lâm thời của ngai vàng Castilla. Infanta được chính thức công nhận là người kế vị ngai vàng của Vương quốc và tuyên thệ nhậm chức Thân vương xứ Asturias vào ngày 1 tháng 1 năm 1423 bởi Quốc hội Toledo.
Tuy nhiên, Catalina không sống đủ lâu để kế vị cha trở thành Nữ vương Castilla. Vương nữ qua đời ở Madrigal de las Altas Torres vào ngày 17 tháng 9 năm 1424. Em gái của Catalina, Infanta Leonor đã thay thế chị gái trở thành Nữ Thân vương xứ Asturias. Catalina được chôn cất tại Cartuja de Miraflores, cùng với cha và mẹ kế là Isabel của Bồ Đào Nha. |
Leonor của Castilla, Thân vương xứ Asturias
Leonor của Castilla (tiếng Castilia/Tây Ban Nha: "Leonor de Castilla"; 10 tháng 9 năm 1423 – 22 tháng 8 năm 1425) là Thân vương xứ Asturias với tư cách là người thừa kế lâm thời của Vương quyền Castilla trong một khoảng thời gian ngắn từ năm 1424 cho đến năm 1425.
Leonor là con gái thứ hai của Juan II của Castilla và María của Aragón. Chị gái của Leonor là Catalina, Nữ Thân vương xứ Asturias, qua đời bảy ngày sau sinh nhật đầu tiên của Leonor. Vì vậy, đứa trẻ một tuổi Leonor đã trở thành người thừa kế lâm thời của Castilla. Juan II đã công nhận Leonor là người kế vị vương quốc cũng như là Thân vương xứ Asturias bởi Cortes of Valladolid ngay sau đám tang của chị gái. Tân Thân vương xứ Asturias đã nhận được sự cam kết trung thành trước sự chứng kiến của Juan II tại Thành phố Burgos.
Leonor chỉ giữ tước hiệu Thân vương xứ Asturias chỉ trong hai tháng. Vào ngày 5 tháng 1 năm 1425, do sự ra đời của người em trai, Quốc vương tương lai Enrique IV của Castilla, Leonor không còn là trữ quân và chỉ còn là một Infanta . Leonor qua đời cùng năm gần tu viện Cistercian ở La Espina. |
Từ cuối thập kỷ 2010, Cheonan City FC cùng với CLB Cheongju FC đã trở thành một trong những đội bóng tham gia K3 League với nhiều hy vọng tiến lên hạng đấu chuyên nghiệp nhất, K League 2. Cheongju FC đã liên tục đối mặt với khó khăn trong việc đảm bảo nguồn tài chính ổn định để tham gia K League.
Vào tháng 6 năm 2021, "Đạo luật Quản lý và Hỗ trợ Bóng đá Chuyên nghiệp" cho Cheonan đã được thông qua tại Hội đồng Thành phố Cheonan. Điều này đặt ra kế hoạch cho Cheonan City FC gia nhập K League vào năm 2022 và tham gia K League 2 vào năm 2023. Theo Đạo luật này, Thành phố Cheonan đã cam kết đóng góp hàng năm 5 tỷ Won trong vòng 5 năm, tổng cộng 250 tỷ KRW, để duy trì hoạt động của đội bóng, trong đó 10 tỷ KRW được thu về từ nguồn thu chính của CLB. Lưu ý rằng số tiền 25 tỷ KRW cho mùa giải K3 League năm 2022 đã được tính vào trong số này.
Vào tháng 10 năm 2022, Kimpo FC đã thông báo kế hoạch tham gia K League 2 từ mùa giải 2022. Trong ngày 22 tháng 10 năm 2021, Cheonan City FC đã tiến hành cuộc họp hội đồng lần thứ 2 trong năm 2021 để điều chỉnh các điều khoản liên quan đến thay đổi tên, điều lệ và quy định về đội ngũ quản lý, cầu thủ và hoạt động đào tạo thanh thiếu niên của CLB, tất cả đều tuân theo các yêu cầu về giấy phép CLB K League.
Vào tháng 6 năm 2023, Cheonan City FC đã dự kiến nộp đơn tham gia K League, và vào ngày 30 tháng 6 năm 2022, họ đã nộp đơn tham gia K League cho mùa giải 2023. Vào ngày 30 tháng 8 năm 2022, việc gia nhập K League của Cheonan đã được xem là đã được quyết định, với sự chấp thuận cuối cùng dự kiến diễn ra trong cuộc họp chung vào tháng 1 năm 2023, vì giống như trường hợp của Kimpo FC, sự tham gia đã trở nên không thể tránh khỏi.
Đội hình hiện tại.
Tính đến ngày 24 Tháng Bảy 2023 |
Cây thiêng ("Sacred tree") là cây được coi là có sự linh thiêng, đáng được tôn kính, sùng bái về mặt tinh thần. Những cây cối như vậy xuất hiện xuyên suốt lịch sử thế giới ở nhiều nền văn hóa khác nhau, bao gồm thần thoại Hindu cổ đại, thần thoại Hy Lạp, thần thoại Celtic và thần thoại Đức. Chúng cũng tiếp tục có ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa đương đại ở những nơi như Nhật Bản (Shinboku), Hàn Quốc (Dangsan namu), Ấn Độ (Cội Bồ-đề) và Philippines, cùng nhiều quốc gia khác. Những cây thiêng được gọi là "shinboku" là một phần ăn sâu vào nền văn hóa Nhật Bản vốn luôn coi mình là sự hợp nhất với thiên nhiên thay vì tách biệt khỏi thiên nhiên do đó, họ thừa nhận sự thiêng liêng của cây cối, đá, núi non, rừng rậm và các yếu tố đã là một chủ đề tương đối ổn định trong văn hóa Nhật Bản trong hàng nghìn năm.
Tục thờ cây cối là một phần cốt lõi của các tôn giáo bao gồm các khía cạnh của thuyết vật linh là yếu tố cốt lõi trong niềm tin của những tín nhân, đó là niềm tin thân thiện với môi trường rằng cây cối, rừng, sông, núi, nguồn nước có sinh lực và cần phải được bảo tồn và sử dụng một cách bền vững. Một ví dụ về tầm quan trọng của cây thiêng trong văn hóa đô thị đương đại là cây long não 700 năm tuổi mọc ở giữa ga Kayashima. Người dân địa phương phản đối việc di chuyển cây khi nhà ga phải mở rộng nên nhà ga đã được xây dựng xung quanh nó. Cây đa thiêng ("Banyan") là Quốc thụ của Ấn Độ, và Cội Bồ-đề mà người ta cho rằng Đức Phật đã thiền định ở Bồ Đề Đạo Tràng ("Bodh Gaya") cũng được tôn kính là cây linh thiêng. Cây thiêng đôi khi được trồng trong các khu rừng thiêng, trong đó cũng có thể có các loại cây khác nhau xen kẽ.
Trong Cơ Đốc giáo thì nhiều loại cây cối trong thiên nhiên và trong khu vườn thiêng được coi là thánh thiêng, chẵng hạn như cây sự sống ở vườn Địa đàng. Ngoài ra, nhiều người theo đạo Cơ Đốc cũng áp dụng tập tục tôn kính cây thường xanh trong các lễ hội mùa đông vào tháng 12. Đây là một thực tế thường thấy do người ta tin rằng cây thường xanh sống lâu và sẽ bị đốn hạ để trang trí (cây Giáng sinh). Cuối cùng tập tục này đã trở thành một phần của lễ Giáng sinh của Cơ đốc giáo. Đáng chú ý nhất là Gethsemane, địa điểm nơi Chúa Giêsu bị phản bội dưới tay của Judas Iscariot theo kinh thánh. Do đó, khu vườn đã trở thành một địa điểm hành hương. Các vị Thánh Công giáo gắn liền với những cây và địa điểm cụ thể cũng trở thành địa điểm hành hương trong Kitô giáo sơ khai. |
Chặng đua MotoGP Argentina 2022
Chặng đua MotoGP Argentina 2022 là chặng đua thứ ba của mùa giải MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 02/04/2022 đến ngày 03/04/2022 ở trường đua Termas de Rio Hondo.
Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Aleix Espargaro của đội đua Aprilia. Đây là chiến thắng thể thức MotoGP đầu tiên của Espargaro. |
Jōmon Sugi (縄文杉, Jōmon Sugi) là một cây "liễu sam" (tuyết tùng Nhật Bản) ở Yakushima, được công nhận là di sản thế giới UNESCO tại Nhật Bản. Đây là cây lâu đời nhất và lớn nhất trong số các cây liễu sam lâu đời trên đảo và được ước tính có độ tuổi từ 2.170 đến 7.200 năm tuổi. Các ước tính khác về tuổi của cây bao gồm "ít nhất 5.000 năm tuổi", "hơn 6.000 năm", hay "lên tới 7.000 năm tuổi". Tên của cây liên quan đến thời kỳ Jōmon thuộc thời tiền sử Nhật Bản.
Jōmon Sugi nằm ở hướng bắc đỉnh Miyanoura-dake, đỉnh cao nhất trên núi Yakushima ở độ cao . Việc phát hiện ra cây vào năm 1968 đã "châm ngòi cho những động thái bảo vệ rừng" ở Yakushima và thúc đẩy ngành du lịch của hòn đảo, lĩnh vực mà hiện nay chiếm hơn một nửa nền kinh tế của đảo.
Thông qua Đường bộ Kusugawa (phía đông Miyanoura) và Đường mòn Arakawa (bắt đầu từ Đập Arakawa) có thể đến Jōmon Sugi, nhưng cần phải mất thời gian đi bộ lên núi từ 4 đến 5 giờ từ con đường gần nhất để đến được chỗ của cây. Sau khi Yakushima được chỉ định là Di sản Thế giới vào năm 1993, chính quyền địa phương đã hạn chế quyền tiếp cận cây, và cây chỉ được nhìn qua một đài quan sát cách vị trí khoảng .
Cây có chiều cao và chu vi thân cây . Với thể tích khoảng , Jōmon Sugi là cây lá kim lớn nhất ở Nhật Bản. Quá trình xác định niên đại bằng vòng cây do các nhà khoa học Nhật Bản thực hiện trên cành cây cho thấy cái cây đã ít nhất 2.000 năm tuổi. Trong cuốn "Remarkable Trees of the World" (2002), nhà trồng trọt Thomas Pakenham mô tả Jōmon Sugi là "một cây khổng lồ hung dữ, mọc lên từ mặt đất xốp giống đá hơn là gỗ, cánh tay cơ bắp to lớn của nó vươn lên trên cả đám cây tuyết tùng non chằng chịt và cây long não".
Vào năm 2005, một số kẻ phá hoại đã tước một mảnh vỏ khỏi cây, có kích thước khoảng .
Vào tháng 4 năm 2009, Jōmon Sugi của Yakushima đã hợp tác với cây Tāne Mahuta của Rừng Waipoua ở New Zealand qua buổi lễ ký tên và đóng dấu quan hệ hợp tác môi trường quốc tế. |
Cô bé nhìn mưa
Cô bé nhìn mưa là cuốn sách hồi ký của Giáo sư Đặng Thị Hạnh. Cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 2008, sau đó được tái bản vào năm 2021 và đựoc giải B giải thưởng sách quốc gia năm 2022.
Giáo sư Đặng Thị Hạnh là con gái của Giáo sư Đặng Thai Mai. "Cô bé nhìn mưa là hồi ức về cuộc sống của bà và gia đình, một gia đình trí thức lớn, trong bối cảnh những biến động của lịch sử Việt Nam gần suốt thế kỷ XX.
Cuốn sách cũng ghi lại những ký ức của Đặng Thị Hạnh về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp. |
Thiên thần Moroni (phát âm như là "Mô-Rô-Ni") là một vị thiên thần trong Mặc Môn giáo mà Joseph Smith là người sáng lập phong trào Thánh hữu Ngày sau cho biết đã đến thăm ông ta nhiều lần, lần đầu là vào ngày 21 tháng 9 năm 1823. Theo Joseph Smith thì thiên thần Moroni đã người bảo vệ những chiếc đĩa vàng được chôn gần nhà ông Smith ở phía tây New York mà Các Thánh Hữu Ngày Sau tin rằng đó là nguồn gốc của sách Mặc Môn. Là một nhân vật quan trọng trong thần học của phong trào Thánh Hữu Ngày Sau, thiên thần Moroni nổi bật về kiến trúc và nghệ thuật. Ngoài Smith, Ba Nhân Chứng và một số nhân chứng khác cũng có lời chứng rằng họ đã nhìn thấy thiên thần Moroni trong khải tượng vào năm 1829.
Thiên thần Moroni được những tín nhân của giáo hội Các Thánh Hữu Ngày Sau cho là cùng một người với nhà tiên tri-chiến binh trong sách Mặc Môn tên là Mô Rô Ni, người cuối cùng viết lên các bảng khắc bằng vàng. Theo Sách Mặc Môn, thiên thần Moroni là một chiến binh thời tiền Colombia, người đã chôn cất các bảng khắc bằng vàng. Sau khi chết, anh trở thành thiên thần được giao nhiệm vụ hướng đạo Smith đến địa điểm được chỉ định vào những năm 1820. Theo Joseph Smith thì sau đó ông đã trả lại những tấm bảng vàng cho Moroni sau khi chúng được dịch sang tiếng Anh và tính đến năm 1838, thì thiên thần Moroni vẫn là chủ sở hữu những tấm bảng này.
Có sự mâu thuẫn nhau về tên của vị thiên thần này. Ban đầu, Smith chỉ gọi là ""một thiên thần" mà không xác định được tên. Vì vậy, trong một lá thư năm 1831 của Lucy Mack Smith gửi cho anh trai mình, cô ấy thảo luận về Moroni là người đã chôn những chiếc đĩa vàng, nhưng không xác định anh ta là "thánh thiên thần" vô danh đã cho Smith phương tiện để dịch những ngôn ngữ thiêng liêng từ chiếc đĩa vàng sang tiếng Anh. Trong một diễn biến lịch sử vào năm 1832, Smith nói rằng ông đã được "một thiên thần của Chúa"" đến thăm, người đã đề cập đến nhà tiên tri "Moroni" trong Sách Mặc Môn là người cuối cùng khắc các tấm vàng; tuy nhiên, lời kể của Smith không cho biết liệu thiên thần có ám chỉ "chính mình" là Moroni hay không. Smith đã xác định vị thiên thần này chính là Moroni vào năm 1835, trong khi chuẩn bị ấn bản đầu tiên của Giáo Lý và Giao Ước, trong đó ông chỉ ra một số thiên thần sẽ đến thế gian sau Ngày Tái Lâm và uống rượu bí tích với chính mình và Oliver Cowdery. Trong số các thiên sứ đó, tín điều mặc khải liệt kê ""Mô Rô Ni, người mà ta đã gửi đến cho ngươi để tiết lộ sách Mặc Môn, chứa đựng phúc âm trọn vẹn vĩnh viễn của ta; người mà ta đã trao cho những chìa khóa của biên sử về cây gậy của Épraim". Vào khoảng thời gian này, Cowdery đang viết lịch sử về Smith, trong đó ông xác định thiên thần là nhà tiên tri Mô Rô Ni trong sách Mặc Môn.
Trong một trong những câu chuyện của Smith, ông mô tả thiên thần Moroni là một "thiên thần ánh sáng", người "mặc một chiếc áo choàng rộng có màu trắng tinh tế nhất. Đó là một màu trắng vượt xa bất cứ thứ gì trần thế mà tôi từng thấ"”. Theo chị gái của Smith là Katharine Smith Salisbury thì vị thiên thần này ""mặc trang phục màu trắng, trắng hơn bất cứ thứ gì Joseph từng thấy trong đời và có một chiếc thắt lưng quanh eo. Anh ấy nhìn thấy bàn tay và cổ tay của mình, và chúng thuần khiết và trắng trẻo"". Smith kể rằng vào đêm ngày 21 tháng 9 năm 1823, thiên thần Moroni hiện đến với ông và kể cho ông nghe về những bảng khắc bằng vàng được chôn trong một hộp đá cách nhà Smith vài dặm. Smith nói rằng chính thiên thần đó đã đến thăm anh nhiều lần trong suốt sáu năm tiếp theo, Smith cũng nói rằng thiên thần đã đến thăm ông để lấy lại các bảng khắc vàng sau khi Smith dịch xong một phần chữ viết trên các bảng khắc trong sách Mặc Môn.
Ngoài Smith, một số người khác theo đạo Mặc Môn thời kỳ đầu cho biết họ đã nhìn thấy thiên thần Moroni và làm chứng cho điều này. Ba Nhân Chứng cho biết họ đã nhìn thấy thiên thần vào năm 1829 là Oliver Cowdery, David Whitmer và Martin Harris. Những tín nhân Mặc Môn đầu tiên khác có thể đã nói rằng họ đã nhìn thấy thiên thần Moroni bao gồm những nhân vật có tên sau đây: |
Aiga Mizuki (, Aiga Mizuki 28 tháng 6 năm 2000 –) là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti Bambi Promotion.
Tháng 10/2019 cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng MOODYZ. Khẩu hiệu của cô là "Beppin Cute". Các nữ diễn viên cô yêu thích là Nanasawa Mia, Hatsukawa Minami, Hashimoto Arina, Amatsuka Moe và Asuka Kirara.
Tháng 8/2022, cô chuyển hãng phim độc quyền sang SOD Create. Cô đã trở thành nữ diễn viên tự do từ năm 2023. |
Pussy (nước tăng lực)
Pussy là nước uống tăng lực có ga được sản xuất bởi Pussy Drinks Ltd ở Anh. Đồ uống và thương hiệu này được Jonnie Shearer tạo ra vào khoảng Giáng sinh năm 2004. Vào tháng 4 năm 2013, chiến dịch quảng cáo cho Pussy đã bị Cơ quan Tiêu chuẩn Quảng cáo (Advertising Standards Authority) ở Anh cấm vì có nội dung khiêu dâm.
Pussy được sản xuất với thành phần nước có ga, đường, nước ép nho và hỗn hợp các loại thảo mộc cùng trái cây khác. Hàm lượng caffeine của nó đến từ guarana. Pussy được quảng cáo là "100% tự nhiên" do nó không chứa chất phụ gia nhân tạo.
Shearer nảy ra ý tưởng về nước tăng lực tự nhiên sau khi ông rời trường đại học vào năm 2004. Lấy cảm hứng từ thương hiệu Virgin của Tập đoàn Virgin, Shearer quyết định đặt tên cho thức uống của mình là Pussy.
Shearer thành lập công ty vào năm 2006 và bắt đầu tiếp thị Pussy vào năm 2007. Ban đầu Shearer điều hành công ty từ phòng ngủ của mình và tự mình giao đồ uống đến các câu lạc bộ và quán bar. Đến mùa hè năm 2011, Pussy đã được bán tại 3000 cửa hàng ở Anh, bao gồm cả Tesco và Selfridges, đồng thời xuất khẩu sang 18 quốc gia, với doanh số lên tới 200.000 lon mỗi tháng. Đến tháng 4 năm 2012, doanh số bán nước tăng lực Pussy đã tăng lên 500.000 một tháng.
Ngày nay, công ty tạo ra doanh thu xấp xỉ 14,6 triệu đô la (12,0 triệu bảng Anh) và sử dụng 94 lao động.
Vào mùa đông năm 2012, Pussy Drinks Ltd bắt đầu chiến dịch quảng cáo ở Anh với hai kiểu áp phích được sử dụng trên bảng quảng cáo và xe kéo. Quảng cáo đầu tiên có từ "Pussy" bằng chữ in thường lớn phía trên cụm từ "Đồ uống nguyên chất, vấn đề là ở tâm trí của bạn." ("The drink's pure, it's your mind that's the problem.") với hình ảnh một cái lon ở bên phải. Quảng cáo thứ hai có từ "Outrageous" bằng chữ kích thước lớn phía trên cụm từ "Một loại nước tăng lực thực sự có vị ngon" ("An energy drink that actually tastes good.") với hình ảnh một cái lon ở bên trái.
Cơ quan Tiêu chuẩn Quảng cáo ASA (Advertising Standards Authority) đã nhận được 156 khiếu nại về các áp phích trong đó có sáu vấn đề được xem xét. ASA chấp nhận rằng mọi người sẽ coi từ "pussy" là một thuật ngữ lóng để chỉ âm hộ. ASA chỉ ra rằng Pussy Drinks Ltd đã nhận thức ý nghĩa kép và sử dụng nó trong áp phích đầu tiên, đề cập đến ý nghĩa thứ cấp không "thuần túy" và là một "vấn đề". Vì vậy, áp phích đã bị coi là khiêu dâm và xúc phạm. ASA cũng ra phán quyết rằng trẻ em lớn tuổi hơn sẽ nhận thức được ý nghĩa kép, áp phích không phù hợp để đặt ở nơi trẻ em có thể nhìn thấy. Nhiều lời phàn nàn về tấm áp phích thứ hai tương tự tấm áp phích thứ nhất rằng chúng không được phép, cũng như những lời phàn nàn rằng tấm áp phích đầu tiên xúc phạm những người theo đạo. Hai trong số các vấn đề đã được giữ nguyên và ASA đã cấm áp phích đầu tiên.
Pussy Drinks Ltd đã phản ứng bằng cách tuyên bố sử dụng Từ điển tiếng Anh Oxford (Oxford English Dictionary) của từ "pussy" và tên thương hiệu không bị ảnh hưởng bởi âm hộ. Họ giả vờ vô tội và đặt câu hỏi tại sao mọi người lại hiểu ý nghĩa thô tục của từ này. Họ cũng hỏi tại sao những người theo đạo lại cảm thấy bị xúc phạm trong khi người Ai Cập cổ đại tôn thờ mèo. Richard Branson so sánh việc ASA cấm áp phích quảng cáo Pussy với lệnh cấm Sex Pistols vào những năm 1970, cho rằng lệnh cấm sẽ làm tăng mức độ hiển thị và mức độ bán hàng của thương hiệu, một quá trình được gọi là hiệu ứng Streisand.
Kể từ năm 2009, Pussy đã được quảng bá bởi nhà vô địch Superbike Thế giới (World Superbike Championship) hai lần là Troy Corser. Quảng cáo đồ uống thường sẽ xuất hiện trên mũ đội đầu của ông. |
10 Minutes (bài hát của Lee Hyori)
"10 Minutes" là đĩa đơn đầu tay của ca sĩ Hàn Quốc Lee Hyori trong album phòng thu đầu tay "S", được phát hành thông qua DSP Media và CJ EM vào ngày 13 tháng 8 năm 2003. Đây là một ca khúc hip hop và dance được viết bởi nhạc sĩ MayBee và do Kim Do-hyun phụ trách sản xuất. Sau khi phát hành, bài hát đã trở thành một hit thương mại ở Hàn Quốc, thúc đẩy nhiều xu hướng âm nhạc và thời trang vào thời điểm đó. Sự nổi tiếng của ca khúc đã kiến tạo cho cái mà giới truyền thông Hàn Quốc gọi là "Hội chứng Hyori".
Video âm nhạc đi kèm ca khúc "10 Minutes" do Seo Hyun-seung làm đạo diễn. Ban đầu MV bị SBS cấm phát sóng vì cho rằng vũ đạo quá khiêu dâm. Lee đã quảng bá bài hát qua các buổi biểu diễn trực tiếp trên nhiều chương trình âm nhạc Hàn Quốc trong suốt tháng 8 và tháng 9, bao gồm "Music Camp" và "Inkigayo". Bài hát đã nhận được nhiều giải thưởng tại các lễ trao giải cuối năm, bao gồm Video âm nhạc được yêu thích nhất tại Liên hoan video âm nhạc Mnet 2003 và Giải thưởng Lớn tại Giải thưởng âm nhạc KBS hàng năm.
Lee nổi tiếng ở Hàn Quốc với tư cách là thành viên của nhóm nhạc nữ Fin.K.L do DSP Media quản lý. Nhóm đã phát hành album phòng thu cuối cùng "Eternity" vào tháng 3 năm 2002; đĩa hát đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng album hàng tháng của MIAK và bán được hơn 250.000 bản. Từ năm 2003, các thành viên bắt đầu tách ra hoạt động cá nhân, do đó khiến các hoạt động chung của nhóm tạm thời bị gián đoạn. Lee Hyori bắt đầu sự nghiệp solo với việc phát hành album phòng thu đầu tay "S", trong đó có đĩa đơn chính "10 Minutes".
Bài hát được MayBee sáng tác và Kim Do-hyun sản xuất. "10 Minutes" là một bản nhạc hip hop và dance truyền tải một cách trữ tình cách Lee có thể quyến rũ một người đàn ông trong mười phút.
Video âm nhạc đi kèm bài hát được đạo diễn bởi Seo Hyun-seung, người sau này trở thành giám đốc chính cho các nghệ sĩ trực thuộc YG Entertainment. Tuy nhiên sau khi phát hành MV, đài SBS đã cấm phát sóng công khai do có những động tác nhảy giống động tác tình dục, bị đánh giá là không phù hợp trên truyền hình. Một phiên bản chỉnh sửa lại của video, với các cảnh nhạy cảm bị cắt bỏ, đã sớm được gửi về nhà đài để cho lên sóng. MV bài hát vẫn được đón nhận nồng nhiệt: trong một cuộc khảo sát trên internet xếp hạng 100 video âm nhạc Hàn Quốc hay nhất do MTV Korea thực hiện vào tháng 7 năm 2004, "10 Minutes" xếp ở vị trí thứ ba.
Biểu diễn trực tiếp.
Sau khi phát hành, để quảng bá "10 Minutes" và "S", Lee đã xuất hiện tại nhiều buổi hòa nhạc trực tiếp và các chương trình âm nhạc hàng tuần. Vào ngày 16 tháng 8, Lee có buổi biểu diễn đầu tiên với tư cách nghệ sĩ solo kể từ Fin.KL trình diễn tại Star Ting Concert năm 2003, tại đây cô biểu diễn "10 Minutes" và "One Two Three N'Four", bất chấp một trục trặc trong quá trình thu âm. Ngày hôm sau, cô xuất hiện lần đầu trên sóng trực tiếp, ra mắt cả hai bài hát trong chương trình âm nhạc "Inkigayo"; cô tiếp tục quảng bá bài hát trên các chương trình âm nhạc khác nhau trong suốt tháng 8 và tháng 9. Vào ngày 27 tháng 11, Lee biểu diễn trực tiếp bài hát tại Liên hoan video âm nhạc Mnet 2003. Tại đây cô là nghệ sĩ được đề cử nhiều nhất trong đêm. Tại Lễ hội âm nhạc Mnet Km năm 2008, Lee và nhóm nhạc nam Big Bang đã cùng nhau biểu diễn liên khúc các bài hát của họ, trong đó có các phần của "10 Minutes".
"10 Minutes" đã giành được nhiều giải thưởng, bao gồm daesang "Video âm nhạc được yêu thích nhất" tại Liên hoan video âm nhạc Mnet 2003 và Giải thưởng Lớn tại Giải thưởng âm nhạc KBS hàng năm. Ngoài ra, ca khúc còn nhận về ba giải bonsang tại KBS, Mnet và Giải Đĩa Vàng lần thứ 18.
Tác động văn hóa.
Màn ra mắt solo của Lee với "10 Minutes" đã được truyền thông Hàn ghi nhận là dấu ấn cho sự chuyển đổi chính của cô sang hình ảnh khiêu gợi. "The Korea Herald" ghi nhận rằng ca khúc đã dẫn đến một làn sóng quan tâm được gọi là "Hội chứng Hyori", khiến cô được mệnh danh là "nữ hoàng gợi cảm của K-pop". Viết về ảnh hưởng của "Hội chứng Hyori" trong ngành giải trí, một biên tập viên của "Beautytap" cho biết: "những hình ảnh tán tỉnh của các nhóm nhạc nữ K-pop ngày nay phần lớn có thể được cho là do Hyori đã vượt qua các giới hạn [...] Hyori diện những bộ trang phục gợi cảm, nhảy khiêu khích trong các video của cô và dường như không ngại vượt qua giới hạn của những gì được coi là 'sự hấp dẫn giới tính có thể chấp nhận được' vào thời điểm đó ở Hàn Quốc." Một phóng viên của hãng truyền thông "Star News" đã viết rằng kể từ "10 Minutes" năm 2003, Lee đã tạo ra sự bùng nổ trong ngành giải trí đối với phụ nữ ở mọi lứa tuổi và trở thành người tạo ra xu hướng trong thế giới thời trang Hàn Quốc.
Xuất hiện trên trang nhất các tờ báo 891 lần kể từ sau khi phát hành "10 Minutes", Lee đã lập Kỷ lục Guinness Thế giới vào thời điểm đó về số lần xuất hiện trên trang nhất báo nhiều nhất. Năm 2007, "The Korea Times" đã vinh danh Lee là một trong 10 người phụ nữ có ảnh hưởng trong bối cảnh văn hóa kể từ năm 1950, cho biết "hội chứng Lee Hyori lan rộng khắp đất nước" sau khi phát hành "10 Minutes", khiến cô trở thành một biểu tượng thời trang và là nữ ca sĩ được trả lương cao nhất Hàn Quốc vào thời điểm đó. "Marie Claire" đã đưa bài hát này vào danh sách 35 bài hát K-pop thiết yếu của họ, viết rằng "ca khúc nổi tiếng đến mức năm 2003 được truyền thông Hàn Quốc đặt biệt danh là 'Năm của Hyori'." Trong một hội đồng gồm 35 nhà phê bình âm nhạc do Seoul Shinmun và Melon tổ chức, "10 Minutes" được xếp hạng thứ 16 trong số những bài hát K-pop hay nhất mọi thời đại. Nhà phê bình âm nhạc Subtle nói rằng bài hát đã mang lại ảnh hưởng lớn đến các thần tượng nữ, và điều này vẫn thể hiện nhiều năm sau khi bài hát ra mắt lần đầu. |
Rừng tràm Mỹ Phước
Rừng tràm Mỹ Phước hay Khu bảo tồn loài – sinh cảnh rừng tràm Mỹ Phước là khu rừng có diện tích lớn nhất tỉnh Sóc Trăng. Đây là nơi duy nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long có sinh cảnh giao thoa giữa rừng tràm và rừng dừa nước. Trong khu rừng tràm này có khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng của lực lượng cách mạng Việt Nam.
Rừng nằm ở xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Rừng có chiều rộng trung bình 3 km, dài nhất 10 km, diện tích bao phủ khoảng 28 km2. Rừng tràm có tuổi cây trên 70 năm và được bảo vệ nghiêm ngặt. Đến năm 2023, Sở Tài nguyên và Môi trường cùng với chính quyền địa phương tại Sóc Trăng trao đổi, thảo luận về 2 phương án phân khu chức năng, gồm:
Sinh cảnh và sinh vật.
Rừng tràm Mỹ Phước có 4 sinh cảnh:
Thực vật có 127 loài. Động vật có 8 loài thú, 70 loài chim, 15 loài lưỡng cư và bò sát, 25 loài cá, 81 loài côn trù: cốc đế, cầy hương, cầy giông Tây Nguyên, mèo cá và rái cá thường.
Từ tháng 9 năm 1947, khu rừng đã được quân Giải phóng sử dụng làm nơi ẩn nấp, là căn cứ trong hai cuộc chiến tranh chống lại Pháp và Mỹ. Tháng 1 năm 1968, căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng từ xã Gia Hòa, huyện Mỹ Xuyên được dời về đây. Các cơ sở trải rộng hơn 100 ha với rừng cây rậm rạp và kênh rạch chằng chịt. Đây là bàn đạp tấn công quân đối phương (Mỹ và Việt Nam Cộng hòa) tại Châu Thành, Sóc Trăng, Ngã Năm, Thạnh Trị. Quân Giải phóng bị quân đối phương phong tỏa bằng 4 đồn: Cái Trầu, Mỹ Phước, Tam Sóc và Xẻo Lý. Họ thường xuyên pháo kích và oanh tạc vào đây.
Từ sau năm 1975, khu rừng đã được giao cho Lâm trường Mỹ Phước bảo vệ và khai thác. Năm 1990, hồ sơ di tích lịch sử được lập, một số biển báo, biển chỉ dẫn tại các khu căn cứ được áp dụng.
Ngày 11 tháng 6 năm 1992, Khu Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng tại rừng tràm Mỹ Phước được Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia tại Quyết định số 734/QĐ. Được gọi là Di tích lịch sử khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng.
Năm 2019, Rừng tràm Mỹ Phước được quy hoạch thành Khu bảo tồn loài - sinh cảnh rừng tràm Mỹ Phước, 615 loài sinh vật được thống kê, nhiều hơn thống kê năm 2012 khoảng 300 loài.
Rừng tràm Mỹ Phước là khu vực được người dân địa phương khai thác các loại rau xanh, như đọt choại, năng bộp, bồn bồ(chi Súng có hoa màu lam). Rừng còn cung cấp dừa nước để làm thực phẩm, lá dừa nước để lợp nhà. Người dân cũng khai thác mật ong rừng, các loại cây thảo mộc làm thuốc. Các vùng nước cung cấp thủy sản. |
Cưa Gigli là một loại cưa dây được bác sĩ phẫu thuật sử dụng để cắt xương. Cưa Gigli chủ yếu được sử dụng để cắt cụt chi. Xương của chi cần được cắt gọn gàng ngang mức mỏm cụt.
Bác sĩ sản khoa người Ý Leonardo Gigli là người phát minh ra loại cưa này để đơn giản hóa việc thực hiện phẫu thuật cắt xương mu (cắt xương vệ) ở những ca chuyển dạ ngừng tiến triển.
Bộ phim kinh dị "Saw X" (2023) có nhắc đến dụng cụ phẫu thuật này. |
Đấu tranh Dân chủ Tháng Sáu
Đấu tranh Dân chủ Tháng Sáu (tiếng Hàn: ), còn gọi là Phong trào Dân chủ Tháng Sáu hay Khởi nghĩa Tháng Sáu, là một phong trào ủng hộ dân chủ toàn quốc tại Hàn Quốc, với các cuộc biểu tình quần chúng từ ngày 10 đến ngày 29 tháng 6 năm 1987. Các cuộc biểu tình buộc chính phủ cầm quyền phải tổ chức bầu cử tổng thống trực tiếp và tiến hành các cải cách dân chủ khác, dẫn đến việc thành lập nền Cộng hòa thứ sáu, tức chính phủ Hàn Quốc ngày nay.
Vào ngày 10 tháng 6, chế độ quân sự của Tổng thống Chun Doo-hwan tuyên bố lựa chọn Roh Tae-woo làm tổng thống tiếp theo. Việc chỉ định công khai người kế nhiệm Chun Doo-hwan được cho là sự xúc phạm cuối cùng đối với quá trình sửa đổi hiến pháp Hàn Quốc luôn bị trì hoãn, vốn dĩ sẽ cho phép bầu cử trực tiếp tổng thống. Mặc dù việc sinh viên và các nhóm khác tiến hành biểu tình nhằm áp lực lên chế độ đã diễn ra một thời gian, nhưng thông báo cuối cùng này gây ra những cuộc biểu tình lớn và có hiệu quả.
Do không muốn sử dụng bạo lực trước Thế vận hội năm 1988 tại Seoul (thu hút sự chú ý lớn trên toàn thế giới), và tin rằng Roh Tae-woo có thể giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh vì có sự chia rẽ trong phe đối lập, Chun Doo-hwan và Roh Tae-woo nhanh chóng đáp ứng các yêu cầu chính là bầu cử tổng thống trực tiếp và khôi phục các quyền tự do dân sự. Mặc dù Roh Tae-woo được bầu hợp pháp làm tổng thống vào tháng 12 năm đó, việc củng cố một chế độ dân chủ tự do tại Hàn Quốc đã được tiến hành.
Bầu cử tổng thống gián tiếp.
Kể từ khi Tổng thống Park Chung-hee cho thực thi Hiến pháp Yushin vào năm 1972, các tổng thống Hàn Quốc được bầu gián tiếp bởi Hội nghị Thống nhất Quốc gia, là một đại cử tri đoàn. Hệ thống này vẫn tồn tại ngay cả sau khi Park Chung-hee bị ám sát và Choi Kyu-hah lên thay thế; Choi sau đó cũng bị Chun Doo-hwan thay thế trong vòng vài tháng sau trong Cuộc đảo chính ngày 12 tháng 12. Vì đại cử tri đoàn nói chung do chính chế độ tự tay lựa chọn, nên họ không đại diện cho bất kỳ hình thức kiểm tra dân chủ nào đối với quyền lực của tổng thống.
Chun Doo-hwan tìm cách nâng cao vị thế của mình trong nước và quốc tế bằng cách tạo ra một vẻ ngoài dân chủ đại diện, ông cho tiến hành tổ chức bầu cử quốc hội vào năm 1985. Mặc dù đảng cầm quyền chỉ mất vài ghế, nhưng kết quả này là một chiến thắng lớn về mặt tinh thần cho phe đối lập, do Kim Dae-jung và Kim Young-sam lãnh đạo. Yêu cầu chính của phe đối lập là bầu cử tổng thống trực tiếp, và Chun Doo-hwan tìm cách ngăn chặn điều này bằng cách bắt đầu một chiến dịch làm chậm trễ và trì hoãn. Để đối phó với làn sóng phản đối của công chúng vào tháng 2 năm 1986, Chun Doo-hwan đồng ý cho phép quốc hội tranh luận về việc thay đổi hiến pháp. Mặc dù một ủy ban quốc hội đã tranh luận về nhiều đề xuất khác nhau trong nhiều tháng, nhưng đến ngày 13 tháng 4 năm 1987, Chun Doo-hwan đình chỉ luôn cả ủy ban này cho đến sau Thế vận hội, với lý do cần phải có "đoàn kết dân tộc" trước đại hội. Hành động này làm gia tăng tình trạng bất ổn và tình cảm chống chính phủ, đặc biệt là khi cư dân ở nhiều khu vực của Seoul như Mok-dong phải di dời để nhường chỗ cho các cơ sở hạ tầng đã được quy hoạch, nhưng Chun Doo-hwan vẫn tiếp tục chương trình của mình để đưa Roh Tae-woo làm người kế nhiệm. Trong khi đó, tình cảm chống chính phủ ngày càng gia tăng trong công chúng; một cuộc khảo sát vào tháng 5 năm 1987 về "tầng lớp trung lưu" đăng trên "Hankook Ilbo" cho thấy 85,7% số người được hỏi cảm thấy rằng họ "mong muốn bảo vệ nhân quyền nhiều hơn, ngay cả khi phải trả giá bằng tăng trưởng kinh tế".
Trong suốt thời kỳ này, phong trào lao động, các sinh viên đại học và các nhà thờ cụ thể đã tham gia vào một liên minh hỗ trợ lẫn nhau nhằm gây áp lực ngày càng tăng lên chế độ. Điều này đã huy động một bộ phận xã hội dân sự, cùng với phe đối lập chính trị, họ sau đó hình thành nên cốt lõi của cuộc phản kháng đại chúng trong các sự kiện có tính quyết định vào tháng 6.
Phong trào sinh viên và cái chết của Park Jong-chul.
Trong thập niên 1980, nhiều nhà hoạt động sinh viên trong các trường đại học đấu tranh chống lại chế độ độc tài của Chun Doo-hwan sau khởi nghĩa Gwangju năm 1980. Chủ nghĩa cấp tiến sinh viên trở nên đặc biệt phổ biến trong những năm trước năm 1987, với 469.000 sinh viên tham gia biểu tình vào năm 1985. Vào ngày 23 tháng 5 năm 1985, sinh viên chiếm giữ trung tâm văn hóa của Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ (USIS) tại Seoul, yêu cầu một lời xin lỗi do cáo buộc Hoa Kỳ đồng lõa với hành động của chính phủ Hàn Quốc tại Gwangju, cũng như chấm dứt hỗ trợ cho chính phủ Chun Doo-hwan. Vụ việc và phiên tòa sau đó được giới truyền thông khắp cả nước chú ý đáng kể, cũng như có những nỗ lực bắt chước các hành động này. Ngày 3 tháng 5, các cuộc tuần hành sinh viên tại Incheon nhắm vào các văn phòng của cả Đảng Công lý Dân chủ cầm quyền cũng như phe đối lập là Đảng Dân chủ Hàn Quốc mới được chính thức công nhận, do không khí căng thẳng về lập trường thỏa hiệp của phe đối lập đối với chính phủ.
Vào ngày 13 tháng 1 năm 1987, nhà hoạt động Park Jong-chul, chủ tịch hội sinh viên khoa ngôn ngữ học của Đại học Quốc gia Seoul, bị cảnh sát bắt giữ. Trong khi bị thẩm vấn, Park từ chối thú nhận nơi ở của một trong những nhà hoạt động cùng mình. Trong quá trình thẩm vấn, chính quyền dùng kỹ thuật tấn nước để tra tấn anh, khiến anh chết do ngạt thở vào ngày 14 tháng 1. Vào ngày 7 tháng 2, các cuộc tuần hành phản đối được tổ chức để tưởng nhớ anh và xảy ra các cuộc đụng độ với cảnh sát trên khắp đất nước. Vào ngày 3 tháng 3, tức nhân dịp 49 ngày sau khi Park mất, các nhóm Phật giáo hợp tác với phe đối lập và cho phép chùa Jogyesa ở Seoul được sử dụng làm căn cứ cho các cuộc tụ họp trên toàn quốc.
Thông tin xung quanh cái chết của Park Jong-chol ban đầu bị che giấu, tuy nhiên Hiệp hội Tư pháp Linh mục Công giáo (CPAJ) tiết lộ chi tiết cho công chúng, bao gồm cả việc chính quyền cố tình che đậy vào dịp Lễ tưởng niệm các nạn nhân của vụ thảm sát Gwangju vào ngày 18 tháng 5, điều này càng thổi bùng thêm tình cảm của công chúng. Vào ngày 23 tháng 5, một cuộc họp của các nhóm đối lập được tổ chức, và thông báo rằng họ sẽ tổ chức các cuộc tuần hành đại chúng vào ngày 10 tháng 6. Liên minh này lấy tên là Liên minh Quốc gia vì một Hiến pháp Dân chủ, hay Guk-bon.
Cái chết của Lee Han-yeol.
Vào ngày 9 tháng 6, các nhóm sinh viên trên toàn quốc xuống hiện trường và huy động tại các trường sở trên khắp cả nước để chuẩn bị cho cuộc biểu tình rầm rộ theo kế hoạch vào ngày 10 tháng 6. Vào lúc 2 giờ chiều, sinh viên Lee Han-yeol của Đại học Yonsei bị thương nặng khi một lựu đạn hơi cay xuyên qua hộp sọ của anh. Một bức ảnh được lan truyền rộng rãi ghi lại cảnh anh bị thương và được một bạn học đưa đi. Trong tình trạng nguy kịch, anh nhanh chóng trở thành một biểu tượng của các cuộc biểu tình tiếp theo trong những tuần sau đó. Cuối cùng anh qua đời vì vết thương vào ngày 5 tháng 7, sau khi chế độ đồng ý với yêu cầu của người dân. Hơn 1,6 triệu người dân tham dự tang lễ quốc gia của anh, được tổ chức vào ngày 9 tháng 7. Anh được chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia 18 tháng 5.
Các cuộc tuần hành chính.
Hiến pháp năm 1980 giới hạn tổng thống chỉ có một nhiệm kỳ bảy năm. Mặc dù có thể gia hạn nhiệm kỳ thông qua sửa đổi hiến pháp, nhưng về mặt pháp lý thì điều đó sẽ không áp dụng cho tổng thống đương nhiệm, do vậy trên thực tế loại trừ Chun Doo-hwan khỏi chức vụ sau năm 1987. Tuy nhiên, hiến pháp vẫn trao quyền cho văn phòng tổng thống một số quyền lợi đáng kể, và hoạt động chính trị liên tục bị đàn áp.
Việc đề cử Roh Tae-woo làm người kế nhiệm Chun Doo-hwan được lên kế hoạch vào ngày 10 tháng 6, cùng ngày diễn ra các cuộc biểu tình theo lịch trình. Khi ngày đó đến gần, chính quyền thực hiện các biện pháp để trấn áp những người bất đồng chính kiến. Thủ lĩnh sinh viên Đại học Hàn Quốc Lee In-young bị bắt vào ngày 2 tháng 6. Vào ngày 8 tháng 6, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp tuyên bố phủ đầu rằng các hành động được lên kế hoạch là tụ tập bất hợp pháp, và Guk-bon là một "tổ chức lật đổ". Gần 5.000 người bất đồng chính kiến bị bắt trong các cuộc đột kích trong đêm, và 700 thủ lĩnh phe đối lập bị quản thúc tại gia. Đảng Công lý Dân chủ tập hợp tại nơi diễn ra lễ đề cử Roh Tae-woo, buổi lễ khai mạc lúc 6 giờ chiều ngày 10 tháng 6 tại sân thi đấu trong nhà Jamsil tại Seoul. Khi sinh viên đến Tòa thị chính Seoul gần đó, cảnh sát ngay lập tức bắt đầu tấn công. Bất chấp nỗ lực của cảnh sát, Cuộc biểu tình toàn quốc chống lại việc che đậy và cái chết do tra tấn của Park Jong-chul và để bãi bỏ Hiến pháp () được tổ chức thành công tại 18 thành phố trên cả nước. Các vụ đụng độ bạo lực nổ ra giữa cảnh sát và người biểu tình trên khắp Seoul. Nhiều người lái xe bày tỏ phản đối với chính phủ bằng cách bấm còi hàng loạt. Trận đấu bóng đá giữa Hàn Quốc và Ai Cập bị hủy sau khi một lượng lớn hơi cay của cảnh sát bao trùm sân thi đấu. Tổng cộng có 3.831 người bị bắt giữ.
Tối hôm đó, sinh viên tại Seoul chạy trốn cảnh sát bằng cách tiến vào Nhà thờ lớn Myeongdong, địa điểm này đã trở thành một trung tâm lớn của phe đối lập tôn giáo đối với chế độ độc tài. Sau khi không thể rời đi do bị cảnh sát phong tỏa, họ bắt đầu toạ kháng bên trong tòa nhà. Hồng y Kim Su-hwan thông báo rằng các linh mục sẵn sàng ra tiền tuyến để ngăn chặn cảnh sát xông vào tòa nhà. Nhà thờ trở thành tâm điểm và diễn đàn công cộng cho những người biểu tình, thu hút một lượng lớn sự hỗ trợ từ bên ngoài. Vào ngày 11 tháng 6, một nghìn sinh viên cố gắng vào nhà thờ để tham gia chiếm đóng nhưng bị cảnh sát chống bạo động chặn lại. Cuộc toạ kháng kết thúc vào ngày 15 tháng 6, sau khi chính phủ tuyên bố sẽ không trừng phạt những người chiếm đóng nếu họ rời khỏi nhà thờ vào ngày này. Do thành công rời khỏi tòa nhà mà không bị bắt, việc chiếm đóng được cho là một chiến thắng và khuyến khích phong trào. Cùng ngày khi cuộc toạ kháng kết thúc, ước tính có khoảng 60.000 sinh viên biểu tình tại 45 trường trên cả nước.
Các cuộc biểu tình từ ngày 10 tháng 6 trở đi khác với các cuộc biểu tình trước đó trong cùng năm do có mức độ tham gia đông đảo. Trong khi các cuộc biểu tình ban đầu do các nhóm đối lập và sinh viên thúc đẩy, thì các cuộc biểu tình tháng 6 chứng kiến sự tham gia ngày càng tăng từ các thành phần dân chúng khác, bao trùm mọi tầng lớp xã hội. Công nhân cổ cồn trắng ném cuộn giấy vệ sinh từ các văn phòng, vỗ tay và bày tỏ ủng hộ. Những nhân viên văn phòng tham gia biểu tình được mệnh danh là "lữ đoàn cà vạt" vì đồng phục công sở của họ. Các cuộc biểu tình cũng lan rộng đến các thành phố mà công chúng từng ít có bất đồng quan điểm, chẳng hạn như Daejeon.
Vào ngày 18 tháng 6, "Cuộc biểu tình toàn quốc về việc xóa bỏ lựu đạn hơi cay" (tiếng Hàn: ) khiến 1,5 triệu người xuống đường. Viết cho "New York Times", Clyde Haberman mô tả cảnh sát "[mất] quyền kiểm soát đường phố" vào ngày này. Tại Busan, trung tâm thành phố xung quanh bùng binh Seomyeon bị lấp đầy với 300.000 người biểu tình, buộc cảnh sát phải từ bỏ việc bắn hơi cay. Các cuộc biểu tình liên quan được tổ chức tại 247 địa điểm ở 16 thành phố trên toàn quốc. Đêm đó, một người biểu tình là Lee Tae-chun bị thương nặng tại Busan sau khi rơi từ cầu vượt do cảnh sát thả hơi cay vào cấu trúc này. Vào ngày 19 tháng 6, Quyền Thủ tướng Lee Han-key đe dọa "các biện pháp phi thông thường" trong một bài phát biểu trên truyền hình nếu các cuộc biểu tình không chấm dứt. Cùng ngày, Chun Doo-hwan ra lệnh huy động quân đội, nhưng lo sợ vụ thảm sát Gwangju bạo lực sẽ tái diễn nên ông hủy bỏ lệnh trong vòng vài giờ.
Vào ngày 21 tháng 6, 40 nhà lãnh đạo Guk-bon đề xuất một danh sách bốn yêu cầu lên chính phủ. Họ yêu cầu hủy bỏ biện pháp đình chỉ cải cách hiến pháp ngày 13 tháng 4, trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm, đảm bảo các quyền lợi về tự do hội họp, tuần hành, và báo chí, đồng thời chấm dứt việc cảnh sát sử dụng hơi cay. Một ngày biểu tình toàn quốc nữa sẽ được tổ chức nếu những yêu cầu này không được đáp ứng trước ngày 26 tháng 6. Khi chính phủ từ chối thỏa hiệp, "Đại tuần hành hòa bình toàn quốc" (tiếng Hàn: ) được tổ chức; hơn 1 triệu người tham gia tại các thành phố trên khắp Hàn Quốc, nhiều hơn gấp ba lần số người tham gia biểu tình vào ngày 10 tháng 6. 100.000 cảnh sát chống bạo động được triển khai trên toàn quốc để chặn các điểm biểu tình, nhưng điều này không đủ để ngăn chặn các cuộc biểu tình. Gwangju chứng kiến các cuộc biểu tình lớn nhất kể từ Cuộc khởi nghĩa năm 1980, và dân thường đông áp đảo cảnh sát đến mức họ có thể thực hiện thành công các cuộc tụ họp ôn hòa tại Suwon, Mokpo và Yeosu. Vào ngày này, hơn 3.469 vụ bắt giữ được báo cáo trên toàn quốc.
Cuối cùng, Roh Tae-woo ban hành Tuyên bố 29 tháng 6, chấp nhận yêu cầu của người biểu tình bằng cách hứa sửa đổi Hiến pháp và trả tự do cho các tù nhân chính trị, bao gồm cả lãnh đạo phe đối lập Kim Dae-jung, người bị quản thúc tại gia kể từ khi ông trở về nước vào năm 1985 sau thời gian sống lưu vong. Tuyên bố này được Tổng thống Chun Doo-hwan chính thức phê chuẩn hai ngày sau đó.
Cuộc đấu tranh lao động lớn năm 1987.
Trước năm 1987, các phong trào lao động tại Hàn Quốc từ lâu đã đóng vai trò quan trọng trong các phong trào đối lập chống lại chế độ độc tài quân sự của đất nước. Vai trò của họ vào tháng 6 năm 1987 tiếp tục khuyến khích họ và cho phép họ củng cố vị thế của mình. Sau Cuộc nổi dậy Dân chủ Tháng Sáu, Công đoàn động cơ Hyundai được thành lập tại Ulsan vào ngày 5 tháng 7. Nhiều công nhân trên cả nước bắt đầu thành lập công đoàn và thực hiện các hành động nhằm yêu cầu các điều kiện tốt hơn bằng cách đình công. Trong vòng một năm, 4.000 công đoàn mới đại diện cho khoảng 700.000 công nhân được thành lập và số thành viên công đoàn tăng từ 1,06 triệu năm 1986 lên 1,98 triệu vào năm 1990. Công nhân Daewoo Lee Suk-kyu thiệt mạng sau khi bị đánh
bằng một hộp hơi cay vào ngày 22 tháng 8, và công nhân Hyundai chiếm giữ Tòa thị chính Ulsan vào ngày 2 tháng 9. Vào ngày 29 tháng 9, chính phủ tuyên bố sẽ thực hiện các bước để đưa người lao động thành "tầng lớp trung lưu". Tổng cộng có 3.492 vụ tranh chấp lao động được chính phủ ghi nhận trong khoảng thời gian từ ngày 29 tháng 6 đến ngày 15 tháng 9, với trung bình là 44 "hành động công nghiệp" diễn ra mỗi ngày trong giai đoạn này.
Sửa đổi Hiến pháp.
Sau Tuyên bố ngày 29 tháng 6, quá trình sửa đổi hiến pháp bắt đầu một cách nghiêm túc. Vào ngày 12 tháng 10, dự luật hiến pháp được thông qua và được phê chuẩn trong trưng cầu dân ý công chúng được tổ chức vào ngày 28 tháng 10, với 94,4% phiếu bầu ủng hộ của cử tri. Hiến pháp mới chính thức có hiệu lực vào ngày 25 tháng 2 năm 1988, khi Roh Tae-woo nhậm chức tổng thống.
Hiến pháp thứ 10 tăng cường quyền công dân. Các quyền tự nhiên và pháp lý được quy định rõ ràng, bầu cử tổng thống trực tiếp được thực hiện và quyền lực của tổng thống bị giảm bớt sang cho Quốc hội Hàn Quốc.
Bầu cử dân chủ.
Roh Tae-woo vẫn được đề cử làm ứng cử viên tổng thống của Đảng Công lý Dân chủ vào ngày 10 tháng 6. Roh Tae-woo có đủ sự ủng hộ hợp pháp trong cử tri Hàn Quốc để cạnh tranh trong cuộc bầu cử vào tháng 12 năm 1987. Vị thế của ông được cải thiện đáng kể do phe đối lập bị chia rẽ, như Kim Dae-jung và Kim Young-sam không thể đoàn kết, hoặc thậm chí về việc ủng hộ hệ thống bỏ phiếu hai vòng.
Hai tuần trước cuộc bầu cử tổng thống, Chuyến bay 858 của Korean Air phát nổ khi đang bay đến Bangkok. Tiết lộ về âm mưu của Triều Tiên nhằm vào chiếc máy bay, và việc một trong những đặc vụ chịu trách nhiệm về vụ tấn công là Kim Hyon-hui đến Seoul chỉ một ngày trước cuộc bầu cử đã tạo ra một môi trường có lợi cho Roh Tae-woo. Các tài liệu được giải mật sau đó xác nhận rằng chính phủ của Chun Doo-hwan đã cố tình tìm cách khai thác các sự kiện để thu lợi ích về chính trị, bao gồm cả việc đảm bảo rằng Kim Hyon-hui sẽ bị dẫn độ trước cuộc bầu cử.
Cuộc bầu cử cuối cùng diễn ra vào ngày 16 tháng 12. Roh Tae-woo được bầu làm tổng thống, nhận được 36,6% phiếu bầu, với tỷ lệ cử tri đi bầu là 89,2%. Phiếu của phe đối lập bị phân chia giữa Kim Young-nam được 28%, và Kim Dae-jung nhận được 27%. Cuộc bầu cử này đánh dấu sự khởi đầu của nền Cộng hòa thứ sáu.
Trong văn hoá đại chúng.
Một phân đoạn của bộ phim "Kẹo bạc hà" 박하사탕 năm 1999, kể về 20 năm lịch sử Hàn Quốc, có lấy bối cảnh các sự kiện năm 1987, khi nhân vật chính đang làm cảnh sát.
Năm 2009, Choi Kyu-sok xuất bản "100°C", một tiểu thuyết đồ họa dựa trên các sự kiện của Cuộc nổi dậy tháng Sáu. Bản dịch tiếng Anh được University of Hawaiʻi Press phát hành vào năm 2023.
Năm 2017, bộ phim do Jang Joon-hwan đạo diễn đã mô tả cách thức cái chết của Park Jong-chul đã châm ngòi cho một chuỗi sự kiện dẫn đến cuộc nổi dậy quần chúng vào tháng 6.""
Bộ phim truyền hình "Snowdrop" năm 2021, phát sóng trên JTBC, mô tả một câu chuyện hư cấu lấy bối cảnh theo Đấu tranh Tháng Sáu. Bộ phim gây ra tranh cãi lớn, bao gồm việc rút nhà tài trợ và kêu gọi hủy chiếu. Phim bị buộc tội chủ nghĩa phủ định lịch sử do nhân vật nam chính là một đặc vụ Triều Tiên đóng giả là một nhà hoạt động sinh viên; điều này đã lặp lại những cáo buộc của chính phủ Chun Doo-hwan chống lại phong trào đối lập. Phim cũng bị cáo buộc tôn vinh hành động của Cơ quan Kế hoạch An ninh Quốc gia. |
Bão và áp thấp nhiệt đới tại Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia Đông Nam Á, là quốc gia nằm ở cực Đông của lục địa Đông Nam Á. Việt Nam giáp biển Đông nên khả năng xuất hiện các xoáy thuận nhiệt đới ngày càng gia tăng. Bão nhiệt đới ở quốc gia này được coi là một phần của mùa bão khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và do đó, bão ở đây được gọi là typhoon trong tiếng Anh
Về mặt khí hậu, ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương , hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng phát triển trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 11. Các cơn bão ảnh hưởng đến khu vực này tương đối phổ biến, hầu hết các cơn bão này xuất hiện từ giữa năm. Mùa bão nhiệt đới hoạt động mạnh nhất ở Việt Nam là năm 2017, cơ quan khí tượng theo dõi 16 cơn bão. Bài viết này bao gồm bất kỳ cơn bão nhiệt đới đáng chú ý có cường độ bất kỳ đã ảnh hưởng đến Việt Nam.
Việt Nam ghi nhận mùa bão từ đầu tháng 6 đến hết tháng 11, với trung bình mỗi năm có từ 4 đến 6 cơn bão đổ bộ vào đất nước. Bất kỳ cơn bão nhiệt đới nào ở đây đều được theo dõi và phát tin bởi Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia (NCHMF), đây là cơ quan khí tượng chính thức của quốc gia và được thành lập vào tháng 1 năm 2003. NCHMF theo dõi một cơn bão nếu nó đi vào phạm vi khu vực giám sát của cơ quan. nằm trong Biển Đông về phía tây 120°Đ và phía bắc 5°N . Bất kỳ cơn bão nào đi vào hoặc hình thành khu vực này đều được đánh số và được đặt theo thứ tự xuất hiện của nó trên biển Đông ví dụ như Bão số 1. "Bão" có nguồn gốc từ "暴', có nghĩa là hung dữ, bạo lực hoặc hung ác, nhưng trong tiếng Việt bản địa có nghĩa là "bão".
Một nghiên cứu để điều tra về mối tương quan giữa lượng mưa và xoáy thuận nhiệt đới trong mùa El Niño và La Niña, và cho thấy rằng có sự gia tăng lượng mưa và xoáy thuận nhiệt đới trong mùa La Niña.
Quy định về cảnh báo bão.
Tin bão gần Biển Đông.
Tin bão gần Biển Đông được ban hành khi bão hoạt động ở ngoài Biển Đông và có khả năng di chuyển vào Biển Đông trong 48 giờ tới.
Tin bão trên Biển Đông.
Tin bão trên Biển Đông được ban hành khi bão hoạt động trên Biển Đông và có một trong các điều kiện sau:
Tin bão gần bờ.
Tin bão gần bờ được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:
Tin bão khẩn cấp.
Tin bão khẩn cấp được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:
Tin bão trên đất liền.
Tin bão trên đất liền được ban hành khi có một trong các điều kện sau:
Tin cuối cùng về cơn bão.
Tin cuối cùng về cơn bão được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:
Theo Quyết định 18/2021/QĐ-TTg quy định về dự báo, cảnh báo, truyền tin thiên tai và cấp độ rủi ro thiên tai do Thủ tướng Chính phủ ban hành,: |
Thôi miên cao tốc
Thôi miên cao tốc hay thôi miên trên đường là trạng thái thay đổi của ý thức ("altered mental state", ASC), trong đó người lái ô tô có thể di chuyển một quãng đường dài, phản ứng với các sự kiện bên ngoài một cách an toàn và chính xác nhưng không nhớ mình đã làm như vậy một cách có ý thức. Ở trạng thái này, tâm trí có ý thức của người lái xe hoàn toàn tập trung vào nơi khác, trong khi dường như vẫn đang xử lý thông tin cần thiết để lái xe an toàn. Thôi miên cao tốc là biểu hiện tâm thần của quá trình tự động hóa.
Lịch sử thuật ngữ.
Khái niệm này lần đầu tiên được mô tả trong một bài báo năm 1921 đề cập đến hiện tượng "thôi miên trên đường" ("road hypnotism"): lái xe trong trạng thái tựa như nhập định trong khi nhìn chằm chằm vào một điểm cố định. Một nghiên cứu năm 1929, "Ngủ với đôi mắt mở" ("Sleeping with the Eyes Open") của Walter Miles, cũng đề cập đến chủ đề này, cho thấy rằng người lái xe có thể ngủ khi mắt vẫn mở và tiếp tục lái. Vào thập niên 1950, hiện tượng này đã được sử dụng để lý giải những vụ tai nạn ô tô không giải thích được. Thuật ngữ "thôi miên cao tốc" lần đầu được đề cập bởi giáo sư Griffith Wynne Williams vào năm 1963.
Thôi miên xa lộ là một trạng thái hay xuất hiện trong lúc lái xe, đặc biệt là khi cảnh vật đơn điệu hoặc những con đường thường xuyên lặp đi lặp lại và quen thuộc (chẳng hạn như cảnh đường hầm hoặc đường cao tốc). Các biểu hiện cụ thể của thôi miên cao tốc là mất trí nhớ thoáng qua, thôi miên, ảo giác, giảm cảnh giác, không tập trung và ở trong trạng thái lái xe bất tỉnh. Trong trường hợp này, mặc dù người lái xe vẫn có thể duy trì trạng thái lái xe bình thường, tốc độ phản ứng sẽ chậm hơn đáng kể. Đặc biệt là trong các đường hầm và đường cao tốc, những nơi có cảnh vật đơn điệu vừa làm thôi miên cao tốc, vừa là địa điểm mà ô tô thường di chuyển với tốc độ cao. Khi tai nạn xảy ra thì thường nghiêm trọng.
Phân biệt với các khái niệm khác.
Thôi miên cao tốc là một trạng thái có xu hướng xuất hiện trong một môi trường đơn điệu hoặc quen thuộc và dễ xảy ra, tăng cường, duy trì, chuyển giao và biến mất thường xuyên trong một khoảng thời gian, thôi miên cao tốc về cơ bản khác với việc "mệt mỏi lái xe" và "mất tập trung khi lái xe":
So sánh các khái niệm.
So với "mệt mỏi lái xe", thôi miên cao tốc ít nghiêm trọng hơn và xảy ra nhiều lần trong một khoảng thời gian. Khi người lái xe ở trong trạng thái thôi miên cao tốc, họ thường không nhận thấy rằng mình đang ở trạng thái thôi miên cao tốc một cách chủ quan, tức là đang trong trạng thái lái xe vô thức. Khi người lái xe hết thôi miên cao tốc, họ chuyển sang trạng thái tỉnh táo đáng kể. Mặc dù người lái xe có thể không nhớ những gì đã xảy ra với họ khi thôi miên cao tốc, nhưng họ có một ký ức rõ ràng về việc gần đây đã trải qua trạng thái "choáng váng". "Mệt mỏi lái xe" thường khiến tài xế cảm thấy mệt mỏi chủ quan. Một khi xuất hiện, mệt mỏi sẽ ở trạng thái dai dẳng, và người lái xe cần có biện pháp thích hợp để khắc phục nó trước khi "sụp đổ" vì mệt.
So với việc "mất tập trung khi lái xe", thôi miên cao tốc tương tự như mất tập trung nhận thức, trong đó sự chú ý của người lái xe không tập trung vào nhiệm vụ chính là lái xe. Điểm khác biệt là khi người lái xe bị thôi miên cao tốc, người đó vẫn đang thực hiện nhiệm vụ chính là lái xe. Còn trong trạng thái "mất tập trung" nhận thức, người lái xe đang thực hiện các hành động phụ tương ứng không liên quan gì đến việc lái xe.
Yếu tố ảnh hưởng.
Tình trạng thôi miên cao tốc bị ảnh hưởng bởi chính nhiệm vụ lái xe và môi trường đường đi (quá đơn điệu, quen thuộc, nhạt nhẽo và lặp đi lặp lại), vì vậy đây là một hiện tượng đột ngột xảy ra trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện nay chưa thể xác định chính xác về trạng thái thôi miên cao tốc và thiếu khung lý thuyết có giá trị và các giải pháp kỹ thuật áp dụng từ góc độ hệ thống con người - phương tiện - môi trường.
Để tránh hiện tượng như bị thôi miên này, hầu hết các cao tốc được thiết kế hạn chế tối đa các đường thẳng dài. Tại Việt Nam, Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 5729/2012 về đường cao tốc quy định không nên thiết kế các đoạn tuyến thẳng trên đường cao tốc dài quá 4 km và thay các đoạn thẳng quá dài bằng các đường vòng có góc chuyển hướng nhỏ với bán kính lớn (5-15 m) để chống đơn điệu và lóa mắt do pha đèn về ban đêm.
Tại Queensland, Úc, sau quyết định dỡ bỏ các trạm dừng chân cho tái xế chạy đường dài do các vi phạm quy định an toàn và sức khỏe, chính phủ Queensland đã lắp đặt các biển báo đố vui nhằm giúp tài xế chú ý đường đi, thảo luận cùng người trên xe và chờ biển báo tiếp theo mở gợi ý và đáp án, giảm thiểu khả năng chán nản và ngủ gật. |
Các nhà nghiên cứu có thể đã tìm ra phương pháp mới để đối phó HIV, đó chính là ức chế một loại enzym HIV được gọi là "enzym chỉnh hợp", nhà nghiên cứu đang thí nghiệm một loại thuốc mới, loại thuốc này có thể ức chế enzym chỉnh hợp, thông qua thí nghiệm trên thân khỉ, phát hiện loại thuốc này có thể kiểm soát được sự lây nhiễm của bệnh HIV/AIDS.
Enzym chỉnh hợp của HIV-1 là enzym thiết yếu cho quá trình nhân đôi của virus phiên mã ngược, nó thúc đẩy DNA của virus chỉnh hợp vào trong DNA nhiễm sắc thể của túc chủ để quá trình nhân đôi diễn ra nhanh hơn, nhưng mà trong tế bào con người không có chất tương tự, do đó trở thành mục tiêu giàu sức hấp dẫn và hợp lí cho việc chữa trị bệnh HIV/AIDS.
Có rất nhiều chất ức chế enzym chỉnh hợp của HIV-1 được giám định, trong đó một số hợp chất cho thấy hoạt tính ức chế có chọn lọc enzym chỉnh hợp HIV-1 và ngăn cản hoặc đứt gãy giữa chừng quá trình nhân đôi virus, và hai loại chất ức chế có ảnh hưởng nhất là hợp chất vòng thơm polyhydroxy chứa catechol và hợp chất aryl β-diketo acid được báo cáo gần đây.
Các loại hợp chất khác nhau của thuốc mới kháng HIV, bao gồm dẫn xuất Benzimidazole, Nucleoside, Polypeptide, hợp chất vòng thơm thay thế hydroxy và hợp chất diketo
Chỉnh hợp virus (chữ Anh: "viral integration"), gọi tắt chỉnh hợp, là danh từ sinh học, chỉ quá trình virus đem vật liệu di truyền (DNA hoặc RNA) của bản thân nó ghép vào trong nhiễm sắc thể của tế bào túc chủ, những vật liệu di truyền này có thể dựa vào sự sao chép của tế bào túc chủ mà sao chép. Chỉnh hợp virus thường hay thông qua enzym chỉnh hợp để hoàn thành.
Chỉnh hợp virus có thể chia thành ba loại: chỉnh hợp cưỡng ép, chỉnh hợp ngẫu nhiên và phần tử virus nội sinh.
Chỉnh hợp cưỡng ép.
Nếu chỉnh hợp virus là sự kiện cần thiết phải xảy ra trong quá trình nhân đôi virus, thì phương thức chỉnh hợp này được gọi là chỉnh hợp cưỡng ép. Virus chọn dùng phương thức chỉnh hợp này bao gồm virus thuộc họ "Retroviridae" (họ Virus phiên mã ngược), họ "Pseudoviridae" (họ Virus giả) và họ "Metaviridae" (họ Virus chuyển vị) cùng với một số virus thuộc họ "Myoviridae" (họ Thể phệ khuẩn có đuôi cơ bắp) và họ "Siphoviridae" (họ Thể phệ khuẩn có đuôi dài). Những virus này trong quá trình truyền nhiễm tế bào túc chủ, sự chỉnh hợp của vật liệu di truyền sẽ khiến cho bộ gen của virus vĩnh viễn ghép vào trong nhiễm sắc thể của tế bào túc chủ. Sự chỉnh hợp virus của họ "Retroviridae" về sau gọi là "provirus" (nguyên virus, ), sự chỉnh hợp virus làm truyền nhiễm tế bào sinh vật nhân sơ về sau gọi là "prophage" (nguyên thể phệ khuẩn, ).
Chỉnh hợp ngẫu nhiên.
Chỉnh hợp ngẫu nhiên chỉ sự chỉnh hợp của virus hoàn toàn không cần thiết trong quá trình nhân đôi virus. Tuy nhiên, sau chỉnh hợp sẽ mang đến một số lợi ích cho virus hoặc tế bào túc chủ. Virus có thể tiến hành truyền nhiễm không triệu chứng (tiềm ẩn) một khoảng thời gian dài trong tế bào túc chủ, đồng thời tế bào túc chủ cũng có thể thu được một số tính trạng hữu ích. Rất nhiều độc tố vi khuẩn chính là do prophage sản sinh sau khi chỉnh hợp.
Phần tử virus nội sinh.
Có một số virus thông qua cơ hội ngẫu nhiên và hiếm thấy mà chỉnh hợp vào trong nhiễm sắc thể của tế bào túc chủ, sau đó lưu tồn trong bộ gen của túc chủ sau khi đã từng trải một khoảng thời gian rất dài, gọi là virus nội sinh. Loại hình virus nội sinh đã biết bao gồm:
Quá trình chỉnh hợp virus.
Quá trình chỉnh hợp virus vô cùng phức tạp. Lấy virus phiên mã ngược như HIV (virus suy giảm miễn dịch ở người) làm ví dụ, quá trình chỉnh hợp có thể khái quát thành 6 bước trọng yếu:
Nghiên cứu chất ức chế.
Chất ức chế enzym chỉnh hợp HIV-1 do các nhà khoa học thuộc Công ty Merck Co. khai mở phát triển, tháng 3 năm 2003 bắt đầu đi vào nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 1 ở Hoa Kì và Bỉ, đối tượng là tình nguyện viên chưa từng bị truyền nhiễm HIV. Nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 1 là giai đoạn đầu tiên nhất của thí nghiệm trên cơ thể người, mục đích chủ yếu là đánh giá tính an toàn, tính dung nạp và động lực học dược vật (mức độ chuyển hoá thuốc trong máu) của thuốc nghiên cứu. Theo tiến sĩ y học Jeffrey Chodakewitz - phó Chủ tịch Ban Nghiên cứu lâm sàng vaccine và Bệnh tật truyền nhiễm thuộc Công ty Merck Co., Hoa Kì, nói rằng cho đến nay, có số ít tình nguyện viên khoẻ mạnh (không đến 70 người) đã tham dự nghiên cứu, họ về tổng thể dung nạp tốt đối với thuốc. Ông chú ý đến số liệu tiền lâm sàng hiện tại ủng hộ liều lượng mỗi ngày hai lần, giả sử tất cả nghiên cứu đều tiến hành thuận lợi, vẫn cần nghiên cứu thông qua lâm sàng để xác định liều lượng uống thuốc thích hợp.
Một bài nghiên cứu đăng tải trên tạp chí Science vào ngày 8 tháng 7 năm 2004 chỉ ra, báo cáo của công ty Merck nói rằng, khi khỉ bị HIV truyền nhiễm thời kì đầu dùng loại thuốc này, đã đóng vai trò bảo vệ rõ rệt đối với loài khỉ, do đó loọi thuốc này được gọi là chất ức chế enzym chỉnh hợp, thuốc cũng có hiệu quả đối với người bệnh nặng. Công ty Merck Co. còn đang nghiên cứu một vài chất ức chế enzym chỉnh hợp, họ dùng một số tình nguyện viên tiến hành thí nghiệm, để tiện xác định loại thuốc này có an toàn không, có đủ tác dụng ức chế đối với virus lọc hay không. |
Làng tre Phú An
Làng tre Phú An là khu bảo tồn tre lớn nhất và đầu tiên của Việt Nam. Tên đầy đủ là Khu Bảo tàng sinh thái tre và bảo tồn thực vật Phú An.
Làng tre Phú An cách TP. Hồ Chí Minh khoảng 42 km và cách TP. Thủ Dầu Một khoảng 11 km, vị trí nằm tại số 124, đường 744, xã Phú An, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Khu bảo tồn tre có diện tích 10,0 ha, với 300 mẩu, gồm 17 giống tre, trúc, nứa, chiếm khoảng 90% giống tre Việt Nam, nhiều giống quý như phyllostachys, bambusa, teinostachyum, mai ống, vàng sọc, tre vuông, mạy muồi, luồng, vầu, trúc Cao Bằng, tre mét, hó
Làng tre về chức năng được chia làm 2 khu vực: khu vực bảo tồn và khu nghiên cứu. Địa hình của khu được tạo thành gò đất đối với các giống vùng cao và thấp trũng với các giống sống ở vùng sông nước. Hệ thống nước tưới tiêu được thiết kế bởi kỹ sư người Pháp Jacques Gurgand theo phương pháp tưới nhỏ giọt.
Dự án được hình thành dựa trên ý tưởng khoa học của Tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh, giảng viên Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia TP. HCM từ năm 1999. Năm 2003, Dự án Khu bảo tàng sinh thái tre và bảo tồn thực vật Phú An (Làng tre Phú An) ra đời. Dự án là chương trình hợp tác giữa UBND tỉnh Bình Dương, vùng Rhône - Alpes (Pháp), Vườn thiên nhiên Pilat (Pháp) và Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TP. HCM. Chính quyền vùng Rhône - Alpes đã tài trợ 600.000 euro, chính quyền tỉnh Bình Dương đã cấp 10 ha đất cho bà Hạnh.
Khu được xây dựng năm 2004 và vào năm 2008 đưa vào khai thác du lịch. Năm 2016, Làng tre Phú An được công nhận là thành viên của Hiệp hội các Vườn thực vật nói tiếng Pháp. Vào tháng 9 năm 2022, Hội tre Thế giới chọn Làng tre Phú An là nơi tổ chức Hội thảo Tre thế giới lần thứ tư. Theo một thống kê tính đến năm 2021, Làng tre Phú An hàng năm đón hơn 30.000 lượt khách đến để tham quan và nghiên cứu.
Năm 2010, Làng tre Phú An nhận Giải thưởng Xích đạo (Equator Prize) của Liên hợp quốc về đa dạng sinh học, phục vụ cho phát triển cộng đồng, ứng phó với biến đổi khí hậu. |
Khâu B-Lynch hay thủ thuật B-Lynch là một dạng khâu phâu thuật trong sản khoa. Thủ thuật này được sử dụng để chèn ép tử cung khi tử cung bị đờ gây nên chảy máu sau đẻ (băng huyết sau sinh). Bác sĩ ngoại sản phụ khoa thuộc Bệnh viện Đa khoa Milton Keynes, Milton Keynes, Buckinghamshire, Anh, ông Christopher B-Lynch là người phát triển thủ thuật. Bác sĩ B-Lynch sinh năm 1947 tại Sierra Leone, tên khai sinh là Christopher Balogun-Lynch.
Thủ thuật này được mô tả lần đầu vào năm 1997, có thể ngăn chặn chảy máu sau đẻ mà không cần phẫu thuật vùng chậu và có khả năng bảo tồn cơ quan sinh dục. Đây được coi là "hình thức tiếp cận phẫu thuật tốt nhất để kiểm soát chảy mái sau đẻ do đờ tử cung vì nó giúp bảo tồn tính toàn vẹn về mặt giải phẫu của tử cung."
Trong thủ thuật này, chỉ khâu tự tiêu được sử dụng tại chỗ, không cần cắt chỉ và thường không gây ra vấn đề gì cho việc mang thai sau này.
Theo nghiên cứu hồi cứu tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, Việt Nam (từ 2018 đến 2020) trên 78 sản phụ bị chảy máu sau đẻ sử dụng khâu B-Lynch, tỷ lệ thành công giữ được tử cung ở những bệnh nhân khâu B-Lynch đạt 97,4%, không có trường hợp nào gặp biến chứng gần sau khâu Blynch. |
Giếng thánh ("Holy well") hay Suối thiêng ("Sacred spring") là những cái giếng, dòng suối hoặc ao nước nhỏ mà được người ta tôn kính trong bối cảnh Cơ Đốc giáo hoặc Ngoại giáo ("Pagan") hoặc đôi khi là cả hai. Nước thánh múc từ giếng thánh thường được cho là có khả năng chữa bệnh nhờ sự hiện diện thần thánh của thần hộ mệnh hoặc vị thánh Cơ Đốc giáo. Thường có những truyền thuyết địa phương gắn liền với các vị thánh, ví dụ như trong truyền thuyết Cơ đốc giáo, nước ở đây thường được cho là do một vị thánh hành động khiến cho nước trong nguồn chảy ra. Giếng thánh cũng thường là nơi tổ chức nghi lễ và hành hương, là nơi người ta cầu nguyện và để lại đồ cúng. Giếng thánh dưới nhiều hình thức khác nhau xuất hiện ở nhiều nền văn hóa, môi trường tôn giáo và thời kỳ lịch sử khác nhau đến mức dường như việc tôn kính nguồn nước là một bản năng phổ biến của con người.
Có nhiều bằng chứng về tầm quan trọng của giếng và suối thiêng ở La Mã và thời kỳ cận La Mã, không chỉ ở các khu phức hợp đền thờ như Bath (Somerset), Chedworth (Gloucestershire) và Blunsdon Ridge (Wiltshire) có con suối chữa bệnh, nhưng có nhiều địa điểm nhỏ hơn có những cái các giếng và trục nghi lễ được dùng các nghi lễ phụ tôn giáo. Ở các vùng Celtic thì những dải vải thường được buộc vào cây ước nguyện ở cạnh giếng thánh, được gọi là giếng Clootie. Giếng Thánh Bernard tại Stockbridge gần Edinburgh đã có năm từ 1800.
Trong tiếng Anh thì thuật ngữ "Haeligewielle" có nguồn gốc từ một địa danh Anglo-Saxon gắn liền với các dòng suối cụ thể trong một cảnh quan việc sử dụng hiện tại của cụm từ này đã phát sinh thông qua các học giả văn hóa dân gian, các nhà nghiên cứu đồ cổ và các nhà văn khác khái quát từ những "Giếng thánh" thực tế đó, còn tồn tại cho đến kỷ nguyên thời hiện đại, ngoài ra thì thuật ngữ "hố thánh" ("Holy-hole") đôi khi cũng được sử dụng. Cơ đốc giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các giếng thánh ở Châu Âu và Trung Đông. Vì chúng có mối liên hệ chặt chẽ với việc sùng bái các vị thánh, nhiều giếng ở các quốc gia chuyển đổi sang hình thức Tin lành của Cơ đốc giáo đã không còn được sử dụng, Giếng Thánh tại Walsingham (Norfolk) vốn là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc hành hương đến đền thờ Đức Trinh Nữ Maria trong làng, đã biến mất hoàn toàn. |
Joseph Denis Irwin (sinh ngày 31 tháng 10 năm 1965) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp và người dẫn chương trình truyền hình thể thao người Ireland.
Khi còn là cầu thủ, ông chơi ở vị trí hậu vệ cánh từ năm 1983 đến năm 2004. Irwin được biết đến nhiều nhất với thời gian dài thi đấu thành công tại Manchester United , nơi ông khẳng định mình là một trong những cầu thủ quan trọng nhất trong đội Manchester United đã giành được nhiều chức vô địch quốc nội. Ông được Alex Ferguson coi là bản hợp đồng vĩ đại nhất từ trước đến nay của ông. Trước đó trong sự nghiệp của mình, anh ấy đã chơi cho Leeds United và sau đó là Oldham Athletic , và kết thúc sự nghiệp của mình với hai năm thi đấu tại Wolverhampton Wanderers , câu lạc bộ mà ông ấy ủng hộ khi còn nhỏ.
Irwin đã khoác áo Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Ireland 56 lần, ghi 4 bàn và góp mặt cùng đội tuyển lọt vào vòng hai (vòng 16 đội) tại FIFA World Cup 1994 . Irwin là cầu thủ bóng đá người Ireland thành công nhất trong lịch sử, kỷ lục mà anh chia sẻ với cầu thủ đồng hương của Manchester United là Roy Keane , khi đã giành được 19 danh hiệu trong sự nghiệp.
"Tỷ số của Cộng hòa Ireland được liệt kê đầu tiên, cột tỷ số biểu thị tỷ số sau mỗi bàn thắng của Irwin" |
Quốc kỳ Uganda (tiếng Luganda: "Bendera ya Uganda") được thông qua vào ngày 9 tháng 10 năm 1962, ngày Uganda giành được độc lập khỏi Đế quốc Anh. Lá cờ bao gồm sáu dải ngang rộng bằng nhau có thứ tự màu đen (trên cùng), vàng, đỏ, đen, vàng và đỏ. Ở giữa lá cờ có một vòng tròn màu trắng với biểu tượng quốc gia, sếu vương miện xám ("Balearica regulorum"), quay mặt về phía kéo cờ.
Trong thời kỳ thuộc địa, người Anh sử dụng Cờ hiệu hàng hải của Anh đã xóa phù hiệu thuộc địa, theo quy định năm 1865. Buganda, vương quốc dân tộc lớn nhất ở thuộc địa Uganda, có cờ riêng. Tuy nhiên, để tránh việc thiên vị một khu vực thuộc địa hơn bất kỳ khu vực nào khác, chính quyền thuộc địa Anh đã chọn biểu tượng con sếu để sử dụng trên Cờ hiệu hàng hải và các biểu ngữ chính thức khác.
Khi Đảng Dân chủ nắm quyền cai trị đất nước, họ đã đề xuất thiết kế quốc kỳ có các sọc dọc màu xanh lục-xanh lam-xanh lục, ngăn cách bằng các sọc vàng hẹp hơn và ở giữa có hình một con sếu màu vàng. Sau khi đảng này thất bại trong cuộc bầu cử quốc gia vào ngày 25 tháng 4 năm 1962, đảng mới được bầu, Đại hội Nhân dân Uganda (UPC), bác bỏ thiết kế cũ và đề xuất thiết kế khác, tức là loại hiện tại. Nó dựa trên cờ UPC, một lá cờ ba màu có các sọc ngang màu đỏ, vàng và đen. Chính quyền Anh đã chấp thuận quốc kỳ mới trước khi đất nước giành được độc lập. Lá cờ được thiết kế bởi C. Todd, Giáo sư người Mỹ thuật tại Đại học Makerere. Ông cũng thiết kế Quốc huy Uganda và nhiều biểu tượng khác mà ông đã đăng ký với Trường Cao đẳng Vũ khí ở Luân Đôn.
Các đặc điểm trên quốc kỳ Uganda.
Ba màu đại diện cho các nhóm dân tộc ở châu Phi (đen), bình minh châu Phi (vàng) và tình anh em châu Phi (màu đỏ là màu của máu, qua đó tất cả người châu Phi được kết nối với nhau). Sếu vương miện xám được coi là biểu tượng vì bản chất hiền lành và cũng là huy hiệu quân sự của binh lính Uganda suốt thời kỳ cai trị của Đế quốc Anh. Chân sếu giơ lên tượng trưng cho tinh thần tiến lên phía trước của đất nước.
Các lá cờ khác. |
Con nợ là một chủ thể pháp lý (người pháp lý) có nghĩa vụ phải trả tiền cho một chủ thể khác. Chủ thể này có thể là cá nhân, công ty, chính phủ, doanh nghiệp hoặc tổ chức pháp lý khác. Bên đối tác được gọi là chủ nợ. Nếu X vay tiền ngân hàng, X là bên nợ và ngân hàng là bên chủ nợ. Nếu X gửi tiền vào ngân hàng, X là bên chủ nợ và ngân hàng là bên nợ.
Không trả nợ không phải là tội phạm, trừ một số trường hợp phá sản nhất định. Bên nợ có thể chọn trả nợ theo bất kỳ thứ tự ưu tiên nào họ chọn. Tuy nhiên, nếu một người không trả nợ, họ đã vi phạm hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa họ và chủ nợ. Nói chung, hầu hết các thỏa thuận trả nợ tiêu dùng bằng miệng và văn bản đều có thể thực thi được. |
Trốn nợ hay còn gọi bùng nợ, quỵt nợ là hành vi cố tình tìm cách né tránh các nỗ lực thu hồi nợ của chủ nợ. Ở mức độ cơ bản, điều này bao gồm việc từ chối trả lời điện thoại, lọc cuộc gọi hoặc bỏ qua các cuộc gọi từ chủ nợ, bỏ qua các thông báo được gửi qua thư, các thông báo nhắc nhở thanh toán hoặc thông báo về việc khởi kiện.
Ở những trường hợp phức tạp hơn, điều này bao gồm việc lừa dối chủ nợ tin rằng con nợ không cư trú tại địa điểm mà chủ nợ đang cố gắng liên hệ. Chuyển nhà mà không thông báo cho chủ nợ, thay đổi số điện thoại, địa chỉ email, hoặc sử dụng tên giả. Tẩu tán tài sản để tránh trả nợ, bán tài sản hoặc chuyển tài sản cho người khác. |
Tắm nước đá ("Ice bath") hoặc đôi khi gọi là Ngâm nước lạnh ("Cold-water immersion") hoặc Trị liệu bằng nước lạnh ("Cold therapy") là một chế độ luyện tập thường diễn ra sau một thời gian tập luyện cường độ cao trong thể thao theo phương pháp này thì người ta sẽ ngâm một phần đáng kể thân thể trong bồn tắm nước đá, hay nước băng giá (gọi là tắm băng) hoặc nước đá trong một khoảng thời gian giới hạn. Mặc dù nó ngày càng trở nên phổ biến và được các vận động viên ở nhiều môn thể thao khác nhau chấp nhận nhưng phương pháp này đang gây tranh cãi bởi nó có nguy cơ gây ra hạ thân nhiệt, có khả năng bị sốc dẫn đến đột tử. Tắm nước đá tồn tại như một hoạt động bên ngoài thế giới thể thao và tập thể dục.
Nhiều vận động viên đã ngâm mình trong nước lạnh sau khi tập luyện cường độ cao với niềm tin rằng nó giúp cơ thể mau phục hồi, tuy nhiên, các quá trình vật lý bên trong thân thể vẫn chưa được hiểu rõ và vẫn khó nắm bắt, bằng chứng ủng hộ việc ngâm mình trong nước lạnh như một phần của chế độ luyện tập thể thao vẫn chưa có kết luận thuyết phục với một số nghiên cứu cho thấy một số lợi ích nhẹ như giảm tổn thương và khó chịu ở cơ và giảm bớt chứng đau nhức cơ bắp khởi phát muộn với các nghiên cứu khác cho thấy rằng ngâm mình trong nước lạnh có thể làm chậm sự phát triển của cơ bắp và cản trở chế độ tập luyện tổng quát. Năm 2014 rộ lên phong trào thử thách Dội nước đá lên đầu ("Ice Bucket Challenge").
Tắm đá có nguồn gốc trước đây được sử dụng để chống lại sự tiếp xúc với nhiệt độ cực cao ở một số nền văn hóa như người Maya ở Yucatan đã sử dụng phương pháp “"tắm nước đá [và] tắm nước đá"” như một “"phương pháp điều trị say nắng"”, sắc dân này phân loại các đối tượng và quá trình trong cuộc sống của họ có liên quan đến sức khỏe là “"nóng"” và “"lạnh"” và luôn cố gắng cân bằng cả hai. Trong bối cảnh này, sự cần thiết và số liệu thống kê về việc tắm nước đá không còn phù hợp nữa, vì việc thực hành này đúng hơn là một “"sự thích nghi hành vi"” đối với những người bản địa này. Mặc dù những lợi ích về mặt thể chất của việc tắm nước đá được coi là không đáng để mạo hiểm nhưng vẫn có nhiều người tin rằng việc tập luyện này cực kỳ có lợi cho sức khỏe tinh thần của một người, tắm nước đá thực sự không cần thiết nhưng có thể có tác động cực kỳ tích cực đối với một số người và không được bỏ qua như một cơ chế cải thiện sức khỏe tâm thần của một người. |
Chương trình Máy bay tiêm kích chiến thuật tiên tiến-Advanced Tactical Fighter (ATF) là một chương trình phát triển của Không quân Hoa Kỳ nhằm phát triển máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không thế hệ mới nhằm đối phó lại các tiêm kích thế hệ mới của Liên Xô là Sukhoi Su-27 và Mikoyan MiG-29 vào những năm 1980s, máy bay cảnh báo sớm Beriev A-50 (AWACS), và các hệ thống phòng không của đối phương. Lockheed và Northrop được lựa chọn để phát triển YF-22 và YF-23 vào năm 1986. Những máy bay này được đánh giá vào năm 1991 và thiết kế của Lockheed đã được lựa chọn để phát triển ở mức toàn diện, và sau đó YF-22 trở thành F-22 Raptor.
Vào năm 1981, Không quân Mỹ bắt đầu đưa ra yêu cầu về loại máy bay chiếm ưu thế trên không mới để thay thế cho F-15 Eagle. Tháng Năm năm 1981 bản yêu cầu thiết kế sơ bộ-request for information (RFI) cho loại máy bay tiêm kích chiến thuật tiên tiến Advanced Tactical Fighter (ATF) đã được Cơ quan hệ thống hàng không (Aeronautical Systems Division (ASD)) của Không quân Hoa Kỳ đưa ra, tiếp theo là bản yêu cầu kỹ thuật cho động cơ của máy bay thế hệ mới vào tháng Sáu. Các bản thiết kế nhanh chóng được các nhà thầu quốc phòng đưa ra. Điểm chung trong các thiết kế là tàng hình, STOL và khả năng bay hành trình siêu âm. Các nhà thiết kế hình dung ra rằng máy bay thế hệ mới sẽ kết hợp các công nghệ mới nổi là hợp kim và vật liệu composite tiên tiến, hệ thống điều khiển bay bằng dây tiên tiến, hệ thống động cơ công suất cao hơn và có công nghệ tàng hình.
Tháng Chín năm 1983, các nghiên cứu đã đưa ra bảy mẫu khung máy bay để tiếp tục đánh giá. Cuối năm 1984, yêu cầu kỹ thuật dành cho ATF đã đặt ra máy bay tiêm kích mới phải có mức trọng lượng cất cánh khoảng , bán kính thực hiện nhiệm vụ , có khả năng bay hành trình tốc độ siêu âm Mach 1,4–1,5 và có khả năng sử dụng đường băng chỉ . Yêu cầu đề xuất đối với động cơ máy bay tiên tiến (Joint Advanced Fighter Engine (JAFE))được đưa ra vào tháng 5 năm 1983. Pratt Whitney và General Electric dành được hợp đồng phát triển động cơ mới, và nguyên mẫu đã được chế tạo vào tháng Chín năm 1983.
Yêu cầu đề xuất-request for proposals (RFP) cho loại tiêm kích mới được đưa ra vào tháng Chín năm 1985. RFP sẽ có một số thay đổi sau khi đưa ra lần đầu tiên; tháng Mười hai năm 1985, các yêu cầu về khả năng tàng hình của loại máy bay mới đã tăng lên đáng kể và vào tháng 5 năm 1986, Không quân Mỹ đã thay đổi RFP để đưa ra lựa chọn cuối cùng sẽ được áp đặt lên nguyên mẫu bay thử. Ngoài ra, Hải quân Mỹ, sau khi tiến hành chương trình máy bay tiêm kích Hải quân tiên tiến-Navalized Advanced Tactical Fighter (NATF), đã đưa ra tuyên bố Hải quân Mỹ sẽ sử dụng phiên bản Hải quân của chương trình ATF để thay thế cho F-14 Tomcat. Tháng Bảy năm 1986, đề xuất thiết kế được đưa ra bởi Boeing, General Dynamics, Lockheed, Northrop, McDonnell Douglas. Hai nhà thầu Lockheed và Northrop đã được lựa chọn vào tháng Mười năm 1986 để bước vào giai đoạn trình diễn thử nghiệm trong vòng 50 tháng, kết quả là sự ra đời của hai nguyên mẫu YF-22 và YF-23. Theo thỏa thuận giữa Lockheed, General Dynamics, và Boeing, các công ty sẽ cùng nhau phát triển thiết kế máy bay mới, dù cho thiết kế của hãng nào được chọn. Northrop và McDonnell Douglas cũng đồng ý với cách làm trên.
Cả hai nhà thầu đều quan tấm đến nghiên cứu về hiệu suất và tính kinh tế trình bày chúng trong các đánh giá yêu cầu hệ thống SRR với Không quân Mỹ. Điều này giúp USAF điều chỉnh lại RFP cho phù hợp và giảm chi phí trong khi vẫn đủ đảm bảo yêu cầu vận hành đề ra. Do các trọng lượng tăng thêm gồm vòi phun lực đẩy vecto và các hệ thống liên quan trên máy bay thử nghiệm F-15 S/MTD, Không quân Mỹ đã thay đổi yêu cầu về đường băng lên và loại bỏ động cơ phụ cuối năm 1987. Ngoài ra để giảm giá thành, radar nhìn cạnh bên cũng được loại bỏ và bộ tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại (IRST) đã giảm từ mức chắc chắn trang bị thành mục tiêu trang bị Trang bị ghế phóng cũng được hạ cấp từ thiết kế mới xuống ghế phóng ACES II của McDonnell Douglas. Bất chấp những nỗ lực của các kỹ sư để hạn chế trọng lượng của máy bay, ước tính tổng trọng lượng cất cánh đã tăng từ lên , đã khiến lực đẩy động cơ phải tăng từ lên .
Hai động cơ đã được trang bị cho hai nguyên mẫu thử nghiệm tính năng: một với động cơ General Electric YF120 và chiếc còn lại sử dụng động cơ Pratt Whitney YF119. Nguyên mẫu chiếc YF-23 thực hiện chuyến bay đầu vào ngày 27 tháng Tám năm 1990 còn nguyên mẫu YF-22 lần đầu cất cánh vào ngày 29 tháng Chín năm 1990. Các chuyến bay thử nghiệm đã được thực hiện ngay sau đó và bổ sung thêm mỗi loại một nguyên mẫu cuối tháng Mười năm 1990. Chiếc YF-23 đầu tiên trang bị động cơ của Pratt Whitney có chuyến bay hành trình ở tốc độ siêu âm Mach 1,43 ngày 18 tháng Chín năm 1990 và chiếc YF-23 trang bị động cơ của General Electric đạt tới tốc độ Mach 1,71 vào ngày 29 tháng Mười một năm 1990. YF-22 trang bị động cơ GE đạt vận tốc hành trình siêu âm Mach 1,58. Việc bay thử nghiệm được tiếp tục cho đến tháng Mười hai năm 1990. Sau khi đã tiến hành bay thử nghiệm, các nhà thầu gửi bản đề xuất cho việc chế tạo ATF.
Lựa chọn máy bay thế hệ mới.
Sau khi việc bay thử nghiệm của hai mẫu máy bay hoàn tất, Không quân Mỹ đã đưa ra quyết định sẽ lựa chọn Lockheed YF-22 cùng với động cơ Pratt Whitney là mẫu máy bay chiến thắng trong cuộc cạnh tranh máy bay thế hệ mới, và sẽ được đưa vào phát triển và sản xuất hàng loạt vào ngày 23 tháng Tư năm 1991. Trong khi cả hai nguyên mẫu đều đạt những yêu cầu đề ra, nguyên mẫu YF-23cos mức độ tàng hình cao hơn và bay nhanh hơn nhưng YF-22 lại linh hoạt hơn.
Đội ngũ thiết kế của Lockheed đã dành được hợp đồng phát triển và chế tạo máy bay tiêm kích tàng hình thế hệ mới vào tháng Tám năm 1991 August 1991. Nguyên mẫu YF-22 đã được phát triển và trở thành F-22 Raptor, bay lần đầu vào tháng Chín năm 1997 và bắt đầu trang bị tháng Mười hai năm 2005. Thiết kế của Northrop YF-23 sau đó được công ty sửa đổi thành thiết kế máy bay ném bom, nhưng đề xuất vẫn chưa trở thành hiện thực. |
Quốc kỳ Cộng hòa Trung Phi
Quốc kỳ Cộng hòa Trung Phi (; ) được chính thức phê chuẩn vào năm 1958. Thiết kế cờ giữ nguyên đến nay, với bốn sọc ngang màu xanh lam, trắng, xanh lá cây và màu vàng và một dải dọc màu đỏ. Có một ngôi sao năm cánh màu vàng ở góc trên bên trái.
Thiết kế bao gồm bốn sọc ngang, một sọc dọc và một ngôi sao năm cánh màu vàng ở góc trên bên trái. Màu sắc được chọn tượng trưng cho nước Pháp (xanh dương và trắng) và châu Phi (xanh lá cây và vàng) với sọc dọc màu đỏ kết nối cả hai với hàm ý kêu gọi sự thống nhất và sự tôn trọng mà người châu Âu và châu Phi nên dành cho nhau. Ngôi sao màu vàng đại diện cho sự độc lập, cũng như là biểu tượng của tính thống nhất, tiến bộ và khoan dung của người châu Phi. Hiến pháp của Cộng hòa Trung Phi mô tả lá quốc kỳ là "bốn dải ngang có kích thước bằng nhau có màu xanh lam, trắng, xanh lá cây và vàng, được ngăn vuông góc ở giữa bằng một dải màu đỏ có kích thước tương tự, và có một ngôi sao năm cánh màu vàng ở góc trên bên trái."
Quốc kỳ Cộng hòa Trung Phi do Barthélemy Boganda thiết kế, người sau này trở thành tổng thống đầu tiên của nước này. Ban đầu nó được dự định là lá cờ của Hợp chủng quốc Châu Phi Latinh ("United States of Latin Africa"), do ông đề xuất vào năm 1957. Lá cờ được Hội đồng Lập pháp Ubangi-Shari phê chuẩn vào ngày 1 tháng 12 năm 1958. Vào thời điểm nó được công bố, Boganda tuyên bố trước Hội đồng Lập pháp quốc gia rằng "Những màu sắc đó tượng trưng cho bốn vùng lãnh thổ cấu thành Châu Phi Xích Đạo thuộc Pháp, nhưng cũng là những người soi đường cho chúng tôi, Chính quốc Pháp, xuất phát từ trái tim tôi. Sọc đỏ cắt ngang bốn màu là biểu tượng cho máu của chúng tôi. Tương tự như những gì chúng tôi đã làm khi nước Pháp gặp nguy hiểm, chúng tôi cũng sẽ đổ máu vì Châu Phi và để bảo vệ Cộng hòa Trung Phi, thành viên của Cộng đồng Pháp."
Tổng thống Jean-Bédel Bokassa đã xem xét việc thay thế lá cờ vào năm 1976, sau khi ông chuyển sang Hồi giáo dưới ảnh hưởng của nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi. Đề xuất là thay đổi hoàn toàn lá cờ để làm nổi bật hình lưỡi liềm và ngôi sao. Tuy nhiên, đề xuất này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, vì vài tháng sau Đế quốc Trung Phi được thành lập dưới thời Bokassa, với tư cách là Hoàng đế Bokassa I. Ngày 4 tháng 12 cùng năm, một Hiến pháp mô tả cả biểu tượng để Hoàng đế sử dụng cho mục đích cá nhân và lá cờ hiện tại được tái sử dụng làm quốc kỳ của Đế quốc. Cờ Hoàng đế có màu xanh lục nhạt, với một con đại bàng màu vàng được đặt trên một ngôi sao vàng 20 cánh ở giữa, lấy cảm hứng từ con đại bàng trên cờ Hoàng đế Napoleon I.
Lá quốc kỳ vẫn được giữ nguyên sau khi Đế quốc Trung Phi sụp đổ. |
Sách Abraham ("Book of Abraham") là văn bản tôn giáo của giáo phái Mặc Môn giáo gồm một tập hợp các tác phẩm được cho là từ một số cuộn giấy cói Ai Cập được phát hiện vào đầu thế kỷ XIX trong chuyến thám hiểm khảo cổ của Antonio Lebolo. Các thành viên của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô (Giáo hội LDS) đã mua các cuộn giấy từ một cuộc triển lãm về xác ướp và du hành vào ngày 3 tháng 7 năm 1835, để được Joseph Smith dịch sang tiếng Anh Theo Smith, cuốn sách này là ""bản dịch của một số ghi chép cổ... có ý là tác phẩm của Abraham khi ông ở Ai Cập, được gọi là Sách của Abraham, do chính tay ông viết trên giấy cói". Smith cho biết cuộn giấy cói này mô tả cuộc sống ban đầu của Abraham (vị tổ phụ của người Do Thái và người Ả rập) và chuyến du hành của ông đến Canaan và Ai Cập cũng như tầm nhìn của ông về vũ trụ và sự sáng tạo ra vũ trụ.
Các tín nhân của Hội Thánh Hữu Ngày Sau tin rằng tác phẩm này là kinh thánh được thần linh soi dẫn, được xuất bản như một phần của cuốn Trân châu Vô giá (Pearl of Great Price) từ năm 1880. Do đó, cuốn Sách Abraham tạo thành nền tảng giáo lý cho Giáo hội LDS và các giáo phái theo trào lưu chính thống Mặc Môn giáo, mặc dù các nhóm khác, chẳng hạn như Cộng đồng của Chúa Kitô không coi đó là một văn bản thánh thư có ngôn ngữ thiêng liêng. Cuốn sách chứa đựng một số học thuyết độc nhất của đạo Mặc Môn chẳng hạn như ý tưởng rằng Chúa đã tổ chức ra các yếu tố vĩnh cửu để tạo ra vũ trụ (thay vì tạo ra nó từ hư vô - "Creatio ex nihilo"), tiềm năng tôn vinh loài người, tiền kiếp về sự tồn tại trước khi chết, đẳng cấp thứ nhất và thứ hai, và sự đa dạng của các vị thần.
Cuốn sách Abraham bằng giấy cói này được cho là đã bị thất lạc trong trận hỏa hoạn lớn ở Chicago năm 1871. Tuy nhiên, vào năm 1966, một số mảnh giấy cói đã được tìm thấy trong kho lưu trữ của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York và trong kho lưu trữ của Giáo hội LDS. Hiện nay chúng được gọi là Giấy cói Joseph Smith. Sau khi được các nhà Ai Cập học chuyên nghiệp kiểm tra (kể cả những văn bản Mặc Môn và những nơi khác), những mẩu giấy này được xác định là một văn tự biên chép về tang lễ của người Ai Cập, bao gồm ghi chép về hơi thở của Hôr#đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
(كتاب التنفس) và "Quyển sách của cái chết" (gọi là Tử thư Ai Cập), cùng những văn bản khác. Mặc dù một số nhà biện hộ Mặc Môn bảo vệ tính xác thực của Sách Áp-ra-ham, nhưng không có học giả nào khác coi đó là một văn bản cổ xưa. Sau này nhiều nhà nghiên cứu đã đặt nghi vấn về tính xác thực của văn bản này và việc biên dịch có chủ ý của Joseph Smith.
Hệ thống chữ viết Ai Cập cổ đại từng là chủ đề hấp dẫn trong nhiều thế kỷ, thu hút sự chú ý của các học giả muốn tìm hiểu các ký hiệu. Khi Bia đá Rosetta một di tích cổ được phát hiện vào năm 1799, có cùng thông điệp được viết bằng tiếng Ai Cập cổ đại và bảng chữ cái Hy Lạp, cho phép hiểu biết toàn diện lần đầu tiên về người Ai Cập cổ đại trong thời hiện đại. Tuy nhiên, vào thời điểm Smith bắt đầu nỗ lực thì tấm bia đá Rosetta vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Phải đến những năm 1850 mới có sự đồng thuận rộng rãi về mặt học thuật về cách dịch chữ viết Ai Cập cổ đại. Từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1835, Smith bắt đầu "dịch bảng chữ cái sang Sách của Áp-ra-ham và sắp xếp ngữ pháp của ngôn ngữ Ai Cập như người xưa đã thực hành" Khi làm vậy, Smith đã hợp tác chặt chẽ với Cowdery và Phelps..
Kết quả của nỗ lực dịch thuật này là một bộ sưu tập các tài liệu và bản thảo mà ngày nay được gọi là các giấy tờ của người Ai Cập ở Kirtland. Một trong những bản thảo này là một cuốn sách đóng bìa có tựa đề đơn giản là "Ngữ pháp A[l]phabet của Ngôn ngữ Ai Cập", trong đó có những diễn giải của Smith về các chữ tượng hình Ai Cập. Phần đầu tiên của cuốn sách tập trung gần như hoàn toàn vào việc giải mã các ký tự Ai Cập và phần thứ hai đề cập đến một dạng thiên văn học được cho là do người Ai Cập cổ đại thực hiện. Phần lớn nội dung trong cuốn sách không phải do Smith viết mà là do một người ghi chép ghi lại những gì Smith đã nói. Bản thảo "Bảng chữ cái tiếng Ai Cập"" đặc biệt quan trọng vì nó minh họa cách Smith cố gắng dịch giấy cói. Đầu tiên, các ký tự trên giấy cói được phiên âm sang phía bên trái của cuốn sách. Tiếp theo, một giả thuyết về âm thanh của các biểu tượng đã được nghĩ ra. Cuối cùng, một cách giải thích bằng tiếng Anh của biểu tượng đã được nêu lên. Bản dịch giấy cói tiếp theo của Smith có dạng năm "cấp độ" giải thích, mỗi cấp độ đại diện cho một cấp độ giải thích sâu sắc hơn và phức tạp hơn.
Khi dịch cuốn sách, Smith đã viết chính tả, còn Phelps, Warren Parrish và Frederick G. Williams đóng vai trò là người ghi chép. Những lời kể của nhân chứng về cách dịch giấy cói rất ít và mơ hồ. Warren Parish, người thư ký biên chép của Joseph Smith vào thời điểm dịch thuật đã viết vào năm 1838 sau khi ông rời giáo hội: "Tôi đã ở bên cạnh ông ấy và viết ra bản dịch chữ tượng hình Ai Cập [sic] như ông ấy tuyên bố đã nhận được nó từ nguồn cảm hứng trực tiếp từ Thiên đường". Wilford Woodruff và Parley P. Pratt đã tiết lộ trực tiếp rằng Urim và Thummim đã được sử dụng làm công cụ để dịch cuốn sách này. Một người không phải là thành viên của giáo hội đã nhìn thấy các xác ướp ở Kirtland đã nói về tình trạng của giấy cói và quá trình dịch thuật: Những hồ sơ này đã bị xé ra do được lấy ra khỏi cuộn thuốc ướp xác chứa chúng, và một số phần đã bị mất hoàn toàn nhưng Smith phải dịch toàn bộ bằng nguồn cảm hứng thiêng liêng, và những gì đã bị mất mát, giống như giấc mơ của Nebuchadnezzar, cũng có thể được giải thích như những gì đã bị mất sẽ được bảo tồn.
Sách Áp-ra-ham kể câu chuyện về cuộc đời của Áp-ra-ham, du hành đến Ca-na-an và Ai Cập, cũng như khải tượng mà ông nhận được liên quan đến vũ trụ, một sự tồn tại trước khi chết và sự sáng tạo thế giới. Mặc dù bối cảnh nước Mỹ thế kỷ XIX xung quanh bản dịch giấy cói của Smith đầy rẫy tính chất Ai Cập, bản thân Sách Áp-ra-ham không hàm chứa những từ ngữ phổ biến gắn liền với Ai Cập cổ đại, chẳng hạn như xác ướp hoặc kim tự tháp và nội dung của nó thay vào đó "phát triển từ Kinh thánh". Gần một nửa nội dung trong Sách Áp-ra-ham cho thấy sự phụ thuộc vào Sách Sáng thế Phiên bản vua James. Smith giải thích những điểm tương đồng bằng cách lập luận rằng khi Moses viết Sáng thế ký, ông đã sử dụng Sách Áp-ra-ham làm hướng dẫn, tóm tắt và cô đọng ở những chỗ ông thấy phù hợp. Như vậy, vì Môi-se đang nhớ lại cuộc đời của Áp-ra-ham nên phiên bản của ông ở ngôi thứ ba, trong khi Sách Áp-ra-ham, được viết bởi tác giả chính của nó, được sáng tác ở ngôi thứ nhất.
Kể từ khi được xuất bản vào năm 1842, Sách Áp-ra-ham đã là nguồn gây tranh cãi. Các nhà Ai Cập học không theo đạo Mặc Môn, bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX đã không đồng ý với lời giải thích của Joseph Smith về các bản văn. Họ cũng khẳng định rằng những phần giấy cói bị hư hỏng đã được tái tạo lại không chính xác. Năm 1912, cuốn sách "Joseph Smith, Jr., As a Translator" được xuất bản, chứa đựng những lời bác bỏ các bản dịch của Smith. Những người phản bác bao gồm Archibald Sayce, Flinders Petrie, James Henry Breasted, Arthur Cruttenden Mace, John Punnett Peters, C. Mercer, Eduard Meyer và Friedrich Wilhelm von Bissing. Cuộc tranh cãi ngày càng gia tăng vào cuối những năm 1960 khi các phần của cuộn giấy cói Joseph Smith được tìm thấy. Bản dịch giấy cói của cả các nhà Ai Cập học Mặc Môn và không theo Mặc Môn không khớp với văn bản của Sách Áp-ra-ham như được Joseph Smith dịch có chủ đích. Thật vậy, văn bản được phiên âm từ giấy cói và bản sao được phục hồi được xuất bản trong Sách Áp-ra-ham không có tài liệu tham khảo trực tiếp nào về lịch sử hoặc văn bản về Áp-ra-ham
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
./ref và tên của Áp-ra-ham không xuất hiện ở bất cứ đâu trong giấy cói hoặc bản tái tạo.
Edward Ashment lưu ý rằng: Dấu hiệu mà Smith đồng nhất với Abraham [...] không gì khác hơn là phiên bản chữ tượng của [...] chữ 'w' trong tiếng Ai Cập. Nó không có mối quan hệ về mặt ngữ âm hoặc ngữ nghĩa với Smith's] 'À-broam
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
."/. Nhà Ai Cập học tại Đại học Chicago Robert K.Ritner đã kết luận vào năm 2014 rằng nguồn gốc của Sách Áp-ra-ham bị Joseph Smith hiểu sai và dịch sai và những giấy cói khác là những tài liệu tang lễ phổ biến của người Ai Cập như Quyển sách của cái chết. Các bản thảo gốc của Sách Áp-ra-ham đã được Jerald Tanner quay vi phim (chiếu chi tiết) vào năm 1966, cho thấy các phần của Giấy cói Joseph Smith và các bản dịch có mục đích của chúng thành Sách Áp-ra-ham. Ritner kết luận, trái ngược với quan điểm của LDS, do các vi phim được xuất bản trước khi phát hiện lại cuộn giấy cói Joseph Smith, rằng không đúng khi nói rằng không có lời kể nhân chứng nào về bản dịch còn sót lại, rằng Sách Áp-ra-ham là "được xác nhận là một phát minh có lẽ có ý nghĩa tốt nhưng sai lầm của Joseph Smith" và "mặc dù nó không xác thực như một câu chuyện lịch sử chân thực, Sách Áp-ra-ham vẫn là một bằng chứng có giá trị về lịch sử tôn giáo thời kỳ đầu của Hoa Kỳ và việc sử dụng các văn bản cổ như nguồn thông tin đức tin và suy đoán tôn giáo hiện đại". |
Minakami (みなかみ町, Minakami-machi) là thị trấn thuộc huyện Tone, tỉnh Gunma. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2023, dân số ước tính thị trấn là 17.195 người và mật độ dân số là 22 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 781,08 km2.
Thị trấn Minakami có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen: "Dfa") với mùa hạ ấm áp và mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình là 6,8°C. Lượng mưa trung bình là 1.864 mm. Nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 8 với nhiệt độ là 18,6°C và thấp nhất vào tháng 1 với nhiệt độ -5,2°C.
Theo dữ liệu điều tra dân số Nhật Bản, dân số thị trấn Minakami giảm dần kể từ năm 1970. |
Chặng đua MotoGP Americas 2022
Chặng đua MotoGP Americas 2022 là chặng đua thứ tư của mùa giải MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 8/4/2022 đến ngày 10/4/2022 ở trường đua COTA, Texas, Mỹ. Tay đua giành chiến thắng là Enea Bastianini của đội đua Gresini Racing.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP. |
Nhật Bản 2–2 Iraq (Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1994)
Trận đấu giữa hai đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản và Iraq, nằm trong khuôn khổ lượt trận cuối cùng của vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1994 khu vực châu Á, đã diễn ra vào ngày 28 tháng 10 năm 1993 trên sân vận động Al-Ahly ở thủ đô Doha, Qatar. Trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 2–2 cho cả hai đội.
Trước trận đấu, Nhật Bản đang dẫn đầu trong số 6 đội tuyển tham dự và nắm nhiều lợi thế trong cuộc chạy đua giành vé tới World Cup. Một chiến thắng ở lượt trận cuối cùng sẽ giúp cho Nhật Bản giành quyền tham dự giải đấu lần đầu tiên trong lịch sử, và họ đã ở rất gần với mục tiêu đó khi dẫn trước đối thủ 2–1 cho đến phút thứ 90 của trận đấu. Tuy nhiên, bàn thắng ngay phút bù giờ đầu tiên của Iraq đã làm tiêu tan mọi hy vọng của các "Chiến binh Samurai Xanh", khiến họ bị đẩy xuống vị trí thứ ba trong bảng đấu và để mất vé tham dự World Cup vào tay đối thủ truyền kiếp Hàn Quốc.
Việc không thể vượt qua vòng loại World Cup cùng với những diễn biến kịch tính trên sân đã gây ra sự thất vọng lớn cho người hâm mộ Nhật Bản. Kể từ khi bóng đá Nhật Bản bắt đầu có những thay đổi vượt bậc, nhất là từ sau chức vô địch Asian Cup 1992 trên sân nhà, đội tuyển quốc gia nước này chưa bao giờ tiến gần đến World Cup như tại thời điểm ấy. Mặc dù sau đó Nhật Bản đã lọt vào đến bảy vòng chung kết World Cup liên tiếp (trong đó có một lần đồng đăng cai), trận đấu ở Doha vẫn còn được nhắc đến như một ký ức cay đắng không thể quên trong lịch sử bóng đá Nhật Bản. Trong khi người Nhật gọi trận đấu này là "Bi kịch ở Doha" (, ) thì đối với Hàn Quốc, vì đội tuyển bóng đá quốc gia của nước này chỉ có thể vượt qua vòng loại vào phút cuối, đây được coi là một "Phép màu ở Doha" (_, ). Cho đến nay, đây là lần cuối cùng Nhật Bản không vượt qua vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới.
Sáu đội tuyển (Nhật Bản, Hàn Quốc, Ả Rập Xê Út, Iraq, Iran và CHDCND Triều Tiên) tranh tài ở vòng loại cuối cùng của khu vực châu Á để tranh hai suất tham dự World Cup 1994 tại Hoa Kỳ. Các đội thi đấu với nhau theo thể thức vòng tròn một lượt tại Doha (Qatar) trong các ngày từ 15 đến 28 tháng 10 năm 1993. Vào thời điểm đó, mỗi trận thắng chỉ được tính 2 điểm, trận hòa tính 1 điểm và trận thua không có điểm. Sau bốn lượt đấu, bảng xếp hạng tạm thời như sau:
Nhật Bản khởi đầu chiến dịch không thực sự tốt khi hòa trận đầu tiên không bàn thắng trước Ả Rập Xê Út và thua trận thứ hai 1–2 trước Iran, rơi xuống nhóm cuối bảng vào thời điểm này. Sau đó, các nhà đương kim vô địch châu Á đã có chiến thắng đầu tiên trước Triều Tiên với tỷ số 3–0. Đến lượt trận thứ tư, Nhật Bản đã giành chiến thắng tối thiểu trước Hàn Quốc nhờ bàn thắng duy nhất của Kazuyoshi Miura để vượt mặt chính đối thủ và giành ngôi đầu bảng.
Ở chiều ngược lại, Iraq đã để thua ngược Triều Tiên 2–3 trong trận mở màn, với việc một cầu thủ của họ bị đuổi khỏi sân; sau trận đấu, Hiệp hội bóng đá Iraq đã thay huấn luyện viên. Trong trận đấu thứ hai với Hàn Quốc, dưới sự dẫn dắt của Ammo Baba, họ đã dẫn trước ở phút 86 và hòa 2–2. Đội tiếp tục thắng Iran 2–1 ở trận thứ ba và hòa 1–1 trước Ả Rập Xê Út ở trận thứ tư.
Dù khoảng cách giữa vị trí thứ 1 và thứ 5 chỉ là 1 điểm và chỉ có Triều Tiên đã chắc chắn bị loại, nhưng Nhật Bản vẫn có thể giành quyền vào vòng chung kết nếu giành chiến thắng mà không cần quan tâm các kết quả khác. Trên lý thuyết, Nhật Bản vẫn sẽ vượt qua vòng loại nếu như kết thúc với một trận hòa trong khi Hàn Quốc hoặc Ả Rập Xê Út không thể thắng ở trận đấu cuối và Iran không đánh bại Ả Rập Xê Út với cách biệt quá 4 bàn.
Trận đấu được tổ chức vào ngày 28 tháng 10 năm 1993, cùng thời điểm diễn ra hai trận đấu còn lại của lượt trận thứ năm tại các địa điểm khác ở Doha (Hàn Quốc gặp Triều Tiên và Ả Rập Xê Út gặp Iran).
Nhật Bản mở tỷ số nhờ bàn thắng của Kazuyoshi Miura, nhưng Radhi Shenaishil của Iraq đã ghi bàn gỡ hòa ngay trước khi hiệp một kết thúc. Nhật Bản sau đó lại vươn lên dẫn trước do công của Masashi Nakayama. Tỷ số 2–1 được giữ nguyên khi trận đấu bước sang phút thứ 90.
Các trận đấu khác đã kết thúc sớm vào trước đó, với việc Hàn Quốc đánh bại Triều Tiên 3–0 và Ả Rập Xê Út đánh bại Iran 4–3. Điều này có nghĩa là Nhật Bản sẽ phải giữ vững tỷ số nếu muốn được tham dự World Cup, trong khi các kết quả tổng hợp sẽ loại đội tuyển Hàn Quốc. Tuy nhiên, ngay khi trận đấu mới bước vào thời gian bù giờ, Jaffar Omran đã ghi bàn từ một quả phạt góc, ấn định tỷ số 2–2. Trọng tài thổi còi kết thúc trận đấu ngay sau đó, loại cả hai đội.
Sau lượt trận cuối cùng, xếp hạng chung cuộc của các đội như sau:
Ả Rập Xê Út giành vị trí dẫn đầu với chiến thắng 4–3 trước Iran. Nhật Bản và Hàn Quốc đồng điểm, nhưng với hiệu số bàn thắng bại tốt hơn sau chiến thắng 3 bàn trước Triều Tiên, Hàn Quốc đã xếp trên.
Hàn Quốc đã hòa trong các trận đấu trước đó với Iraq (2–2) và Ả Rập Xê Út (1–1) và thua một trận trước chính đối thủ cạnh tranh trực tiếp Nhật Bản (0–1). Nếu Nhật Bản thắng trận này trước Iraq, Hàn Quốc sẽ bị loại ngay cả khi đã giành chiến thắng trước Triều Tiên. Nhưng với việc Nhật Bản và Iraq hòa nhau ở phút cuối, Hàn Quốc đã vượt qua vòng loại và trận đấu được truyền thông Hàn Quốc gọi là một "phép màu".
Huấn luyện viên người Hà Lan Hans Ooft đã bị sa thải vài tuần sau trận đấu. việc bị loại khỏi giải đấu đã chấm dứt khát vọng vô địch World Cup của phần lớn đội bóng, trong đó có những cái tên nổi bật như tiền vệ Ruy Ramos và tiền đạo Kazuyoshi Miura (vua phá lưới vòng loại FIFA World Cup 1994). Chỉ có hai cầu thủ Nhật Bản xuất hiện trong trận đấu, Nakayama và Masami Ihara, tiếp tục góp mặt trong đội hình tham dự World Cup 1998.
Sau khi bỏ lỡ giải đấu năm 1994, Nhật Bản cuối cùng đã có thể vượt qua vòng loại của World Cup 1998, trước khi đăng cai World Cup 2002 cùng với Hàn Quốc. Hàn Quốc đã đánh bại Bồ Đào Nha, Ý và Tây Ban Nha một cách ngoạn mục và kết thúc ở vị trí thứ 4 chung cuộc trong khi Nhật Bản bị loại ở vòng 16 đội. Đây là lần đầu tiên cả hai đội lọt vào vòng loại trực tiếp.
Họ cũng đủ điều kiện tham dự mọi kỳ FIFA World Cup kể từ đó, lọt vào vòng 16 đội trong ba kỳ: năm 2010, 2018 và 2022 . Trong những lần đó, Nhật Bản đều bị loại một cách đầy kịch tính. Họ thua Paraguay vào năm 2010 trong loạt sút luân lưu, và sau đó thua Bỉ với tỷ số 3–2 vào năm 2018 khi để thủng lưới ở phút bù giờ thứ tư dù dẫn trước 2–0 cho đến phút 69. Năm 2022, Nhật Bản lại bị loại ở vòng 16 đội, lần này dẫn trước đối thủ Croatia nhưng lại rơi vào loạt sút luân lưu sau khi hòa 1–1.
Đối với Iraq, thất bại này chỉ là một phần của cơn khát World Cup lớn hơn nhiều. So với thành công ngày càng tăng bên phía Nhật Bản, Iraq đã nhiều lần bỏ lỡ cơ hội giành quyền tham dự World Cup; họ mới chỉ có một lần vượt qua vòng loại năm 1986 . Ngoài ra, xung đột đảng phái và bất ổn nội bộ đã ngăn Iraq đạt được vị thế cao hơn trong nền bóng đá châu Á. Cũng kể từ trận đấu đó, Iraq chưa bao giờ đánh bại Nhật Bản trong một trận đấu dù là giao hữu hay các giải đấu lớn kể từ năm 1982, lần cuối cùng họ giành chiến thắng. Iraq cũng trải qua chuỗi trận thua Nhật Bản sau trận đấu này, bắt đầu bằng thất bại 1–4 ở Cúp bóng đá châu Á 2000 (là trận thắng đầu tiên của Nhật Bản trước Iraq), và chấm dứt khi Iraq cầm hòa Nhật Bản 1-1 năm 2017.
Nhật Bản ở vòng loại tại địa điểm trung lập.
Bắt đầu từ vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998, AFC sử dụng thể thức thi đấu vòng tròn tính điểm sân nhà và sân khách cho vòng loại cuối cùng, thay cho thể thức một địa điểm vào năm 1993. Tuy nhiên, trong hai chiến dịch vòng loại World Cup kế tiếp, Nhật Bản đã quyết định số phận của mình trong các trận đấu tại sân trung lập.
Năm 1997, Nhật Bản và Iran đứng thứ hai trong các bảng đấu vòng loại của World Cup 1998 và gặp nhau trong trận tranh hạng ba vào ngày 16 tháng 11 năm 1997 tại Johor Bahru, Malaysia. Trận đấu sẽ quyết định suất dự World Cup thứ ba và cuối cùng cho các đội châu Á và đội thua sẽ gặp đại diện của châu Đại Dương là Australia trong hai lượt trận play-off. Không giống như trận đấu bốn năm trước, Nhật Bản tụt lại phía sau trong hiệp hai, nhưng ghi bàn gỡ hòa muộn và cuối cùng giành chiến thắng 3–2 bằng bàn thắng vàng trong hiệp phụ, qua đó giành được tấm vé đến Pháp. Trận đấu này đã được biết đến với cái tên "Niềm vui ở Johor Baru" (ジョホール・バルの歓喜, Johōru Baru no kanki) trong mối liên kết với Bi kịch ở Doha.
Vào ngày 8 tháng 6 năm 2005, Nhật Bản đánh bại Triều Tiên 2–0 để giành quyền tham dự World Cup 2006 tại Đức. Mặc dù trận đấu này được tính là trận đấu trên sân nhà của Triều Tiên nhưng nó đã được chuyển đến Băng Cốc, Thái Lan và được tổ chức trên sân không khán giả như một hình phạt cho hành vi bạo lực của cổ động viên trong một trận đấu trước đó được tổ chức ở Bình Nhưỡng. |
Đài Bắc Trung Hoa tại Thế vận hội
Đài Loan, tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc (THDQ), thi đấu với tên gọi "Đài Bắc Trung Hoa" (TPE) tại Thế vận hội kể từ năm 1984. Các vận động viên (VĐV) thi đấu dưới lá Hiệu kỳ Đài Bắc Trung Hoa thay vì cờ của THDQ; và trong bất kỳ lễ trao huy chương nào, Quốc kỳ ca của THDQ được xướng lên thay cho Quốc ca của THDQ.
Các VĐV Đài Loan đã giành được huy chương Olympic đầu tiên vào năm 1960 và huy chương vàng đầu tiên vào năm 2004, đồng thời đoạt được nhiều huy chương nhất tại đại hội năm 2020.
Quá trình được công nhận tại Thế vận hội.
Các thông tin được trình bày sau đây liên quan đến các tên gọi khác nhau và các sự kiện chính liên quan đến việc công nhận đoàn thể thao THDQ (ROC): |
Hoàng Phủ Mật (; 215 – 282), tự là Sĩ An (士安), tên hồi nhỏ là Hoàng Phủ Tịnh (皇甫靜) là học giả, thầy thuốc, ẩn sĩ sống vào thời Tam Quốc và Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
Hoàng Phủ Mật quê ở huyện Triều Na, quận An Định, Ung Châu, là chắt của danh tướng Hoàng Phủ Tung thời Đông Hán. Ông nội là Hoàng Phủ Thúc Hiến (皇甫叔獻), làm Huyện lệnh Bá Lăng, còn cha là Hoàng Phủ Thúc Hầu (皇甫叔侯), được cử Hiếu liêm. Hoàng Phủ Mật thuở nhỏ mất mẹ, được quá kế cho chú ruột làm con thừa tự, nên phải chuyển đến sống ở huyện Tân An.
Cho đến năm hai mươi tuổi, sử sách ghi rằng Hoàng Phủ Mật không thích học tập, suốt ngày lêu lổng, hít hàn thực tán, bị mọi người cho là mắc bệnh. Người thím họ Nhâm lấy "Hiếu kinh" và tích #đổi khuyên nhủ, từ ấy Mật mới tỉnh ngộ, từ bỏ thói xấu, ngày đêm đọc sách. Nhà Mật nghèo khó, phải tự mình ra đồng, dù thế vẫn luôn mang theo sách để đọc, nhờ đó mà tổng kết được kiến thức của trăm nhà, kể cả khi mắc bệnh thấp khớp thì tay vẫn không rời sách. Nhiều người khuyên Mật tu dưỡng danh vọng, mở rộng quan hệ, từ đó kiếm lấy công danh phú quý, nhưng Mật khẳng khái phản bác, chỉ vùi đầu vào sách vở đến mức quên ăn quên tắm, bị người đương thời gọi là Thư dâm (書淫; con nghiện sách). Năm 248, Hoàng Phủ Mật từng mơ thấy Đại tướng quân Tào Sảng bị tru di.
Năm 40 tuổi, con ruột của người chú đã thành niên, mẹ kế đã qua đời, Mật bị trả về dòng cũ, một mình về quê tiếp tục nghiên cứu. Thái thú Ngụy quận cử Mật làm Hiếu liêm, mời làm Thượng kế duyện, bị Mật từ chối. Năm 263, Tướng quốc Tư Mã Chiêu trưng tịch Mật vào phủ, cũng bị từ chối. Tấn Vũ đế lên ngôi, nhiều lần muốn mời Mật vào triều mà không được. Hoàng Phủ Mật dâng biểu lên Vũ đế hỏi mượn sách, Vũ đế cho cả một xe sách đến, Mật dù có bệnh nhưng vẫn nghiền ngẫm từng câu chữ. Dù vậy, đến năm Hàm Ninh (275–280), Tấn Vũ đế dùng các chức Thái tử Trung thứ tử, Nghị lang, Trước tác lang để vời, Tư Lệ Hiệu úy Lưu Nghị lại vời làm Công tào, nhưng chung quy vẫn bị từ chối.
Năm 282, Hoàng Phủ Mật mất ở quê nhà, thọ 68 tuổi. Trong các học trò của Hoàng Phủ Mật có #đổi , Trương Quỹ, Ngưu Tống (牛綜), Tịch Thuần (席純) làm quan cho nhà Tấn, đều để lại tiếng tốt.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Hoàng Phủ Mật là ba danh tác y học "Tố vấn", "Châm kinh" (針經) tức "Linh khu kinh", "Minh đường khổng huyết châm cứu trị yếu" (明堂孔穴針灸治要), về sau được tổng hợp thành tác phẩm "Hoàng Đế tam bộ châm cứu giáp ất kinh" (黃帝三部鍼灸甲乙經) gồm 10 quyển, đến thời Nam Bắc triều được biên tập lại thành 12 quyển.
Ngoài ra Hoàng Phủ Mật còn viết tiểu thuyết "Huyền Yến xuân thu" (玄晏春秋), nay đã thất truyền, các tác phẩm sử học "Đế vương thế kỷ", "Cao sĩ truyện", "Dật sĩ truyện" (逸士傳), "Liệt nữ truyện", "Niên lịch" (年历)... được đánh giá cao khi đã bổ sung nhiều tư liệu quý giá.
Năm 2014, bộ phim "#đổi " phát sóng, với diễn viên Trần Hạo Dân vào vai Hoàng Phủ Mật. |
Ai Cập cổ đại dưới góc nhìn phương Tây
Ai Cập cổ đại dưới góc nhìn của thế giới phương Tây ("Ancient Egypt in the Western imagination") là một hình ảnh huyền bí thông qua truyền thống văn hóa Hy Lạp và Do Thái. Đất nước Ai Cập vốn đã cổ xưa đối với người ngoài, và ý tưởng về Ai Cập ít nhất vẫn tiếp tục có ảnh hưởng trong lịch sử tư tưởng như chính bản thân Ai Cập xét ở góc độ lịch sử thực tế. Tất cả văn hóa Ai Cập đã được trao truyền sang văn hóa La Mã và văn hóa châu Âu hậu La Mã thông qua lăng kính của các quan niệm Hy Lạp hóa về nó, cho đến khi Jean-François Champollion giải mã chữ tượng hình Ai Cập vào những năm 1820 khiến các văn tự Ai Cập trở nên dễ đọc để cuối cùng cho phép hiểu Ai Cập là chính bản thân người Ai Cập họ đã hiểu điều đó.
Sau thời cổ đại, hình ảnh Cựu Ước về Ai Cập là vùng đất nô lệ của người Do Thái chiếm ưu thế và hình tượng "Pharaoh" trở thành từ đồng nghĩa với chế độ chuyên quyền và áp bức trong thế kỷ XIX. Tuy nhiên, tư duy Khai sáng và những khám phá thuộc địa vào cuối thế kỷ XVIII đã làm mới mối quan tâm đến Ai Cập cổ đại vừa là hình mẫu vừa là sự thay thế độc lạ cho văn hóa phương Tây, đặc biệt là nguồn gốc của trường phái Lãng tử Romantic trong kiến trúc cổ điển hóa. Mặc dù sự chiếm đóng của thực dân phương Tây đến Ai Cập đã phá hủy một phần quan trọng các di sản lịch sử quốc gia, nhưng vẫn có một số người ngoại quốc đã để lại những dấu ấn tích cực hơn. Lấy ví dụ như Napoleon, ông đã chỉnh lý lại những nghiên cứu hàng đầu về Ai Cập học khi ông mua chúng từ khoảng 150 nhà khoa học và họa sĩ để học hỏi cùng với tài liệu lịch sử tự nhiên về Ai Cập, được phát hành trong chuỗi ấn phẩm "Description de l'Égypte" (Diện mạo Ai Cập).
Văn hóa và các công trình kiến trúc của Ai Cập cổ đại đã để lại một di sản lâu dài cho thế giới, như sự thờ cúng nữ thần Isis đã trở nên phổ biến vào thời đế quốc La Mã, các cột tháp tưởng niệm và các di tích khác đã được vận chuyển đến Rome. Người La Mã cũng nhập khẩu vật liệu xây dựng từ Ai Cập để xây dựng nên các kiến trúc mang phong cách Ai Cập. Những nhà sử học đầu tiên như Herodotus, Strabo và Diodorus Siculus đều nghiên cứu và viết các tác phẩm về vùng đất, mà người La Mã coi là một vùng đất huyền bí. Trong suốt thời Trung Cổ và Phục Hưng, nền văn hóa đa thần của người Ai Cập vốn đã suy tàn sau khi Kitô giáo nổi lên và sau này là Hồi giáo, lại luôn nhận được sự quan tâm trong các tác phẩm của các học giả thời Trung Cổ như Dhul-Nun al-Misri và al-Maqrizi. Trong các thế kỷ XVII và XVIII, khách bộ hành và khách du lịch châu Âu đã mang về các cổ vật và viết nên những câu truyện ngắn về các cuộc hành trình của họ, điều này đã tạo nên một làn sóng Egyptomania trên khắp châu Âu. Làn sóng mới này khiến cho các nhà sưu tập đổ xô đến Ai Cập, họ đã mua, chiếm đoạt và được tặng nhiều cổ vật quan trọng.
Trong tác phẩm "Lịch sử"-Quyển II, nhà sử học Herodotus đã đưa ra một mô tả chi tiết nếu có màu sắc và giàu trí tưởng tượng có chọn lọc về Ai Cập cổ đại. Ông ca ngợi việc nông dân bảo tồn lịch sử thông qua truyền khẩu và lòng mộ đạo của người Ai Cập. Ông liệt kê nhiều loài động vật mà Ai Cập là quê hương của chúng, bao gồm phượng hoàng và Con rắn có lông, đồng thời đưa ra những mô tả không chính xác về hà mã và rắn có sừng. Herodotus khá chỉ trích những câu chuyện mà ông nghe được từ các thầy tế (II,123), nhưng sau này Diodorus Siculus, người đã đến thăm Ai Cập thời Hy Lạp hóa vào thế kỷ 1 trước Công nguyên, đã ghi nhận những gì ông được các linh mục kể: rằng nhiều người Hy Lạp nổi tiếng với các triết gia đã nghiên cứu ở Ai Cập.
Cả Plutarch và Diogenes Laërtius (thế kỷ thứ III) đều đề cập rằng Thales đã học ở Ai Cập, trong khi không có thông tin thực sự nào được biết về Thales từ thời của ông. Iamblichus của Chalcis vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên bẩm báo rằng Pythagoras đã học ở Ai Cập trong 22 năm. Từ những thư tịch cổ điển đã phát triển như vậy, một Ai Cập huyền thoại nổi lên như quê hương của Tôn giáo, Trí tuệ, Triết học và Khoa học. Đối với người La Mã, một Ai Cập đã bị lôi kéo vào lĩnh vực kinh tế và chính trị của La Mã vẫn là nguồn gốc của những điều huyền diệu với hệ động vật độc lạ của sông Nile được thể hiện trong Bức khảm sông Nile của Palestrina nổi tiếng, và các biểu tượng La Mã hóa đã được phát triển cho "Bộ ba Alexander" gồm Isis, những người đã phát triển một lượng người theo La Mã rộng rãi, Harpocrates, "thần im lặng", và chủ nghĩa đồng bộ của Ptolemaic của Serapis.
Ai Cập đã được nhắc đến 611 lần trong Kinh Thánh từ và . Thông qua Thánh kinh Bản Bảy Mươi, qua đó hầu hết những người theo đạo Cơ đốc đều biết đến Kinh thánh tiếng Do Thái, được ủy quyền ở Alexandria, nó được ghi nhớ, với sự tô điểm rằng mặc dù bảy mươi học giả đã thiết lập để nghiên cứu các văn tự này một cách độc lập, nhưng một cách kỳ diệu là mỗi người đã đến được đích với cùng một bản dịch.
Họa phẩm về Moses ở Ai Cập
Sau cuộc chinh phục của người Hồi giáo ở Ai Cập vào thế kỷ thứ VII thì phương Tây đã mất liên lạc trực tiếp với Ai Cập và văn hóa của nước này. Ở thời Trung cổ Châu Âu, Ai Cập được miêu tả chủ yếu bằng hình ảnh minh họa và giải thích các câu chuyện trong Kinh thánh. Những hình minh họa này thường khá huyền ảo, vì hình tượng và phong cách của nghệ thuật Ai Cập cổ đại, kiến trúc Ai Cập cổ đại và trang phục phần lớn chưa được biết đến ở phương Tây. Bối cảnh đầy kịch tính của Sự kiện tìm thấy Moses, Ôn dịch ở Ai Cập, Sự chia cắt Biển Đỏ và câu chuyện về Joseph ở Ai Cập, và từ Tân Ước với sự kiện trốn sang Ai Cập thường được tìm thấy trong bản thảo thời Trung cổ. Kinh thánh thông diễn học có bản chất chủ yếu là thần học và ít liên quan đến việc điều tra lịch sử. Trong suốt thời Trung cổ, "Mummia" nếu là hàng thật, được làm bằng cách đập xác ướp, là sản phẩm tiêu chuẩn của các cửa hàng bàu thuốc.
Trong thời kỳ Phục hưng học giả Dòng Tên người Đức Athanasius Kircher đã đưa ra một "giải mã" mang tính ngụ ngôn về chữ tượng hình mà qua đó Ai Cập được coi là nguồn gốc của thuyết thần bí hoặc huyền bí trí tuệ. Trong giới giả kim, uy tín của "người Ai Cập" ngày càng tăng. Tuy nhiên, một số học giả vẫn hoài nghi vào thế kỷ 16, Isaac Casaubon đã xác định rằng "Corpus Hermeticum" của Hermes Trismegistus vĩ đại thực ra là một tác phẩm của Hy Lạp vào khoảng thế kỷ thứ 4 CN (mặc dù tác phẩm của Casaubon là cũng bị Ralph Cudworth chỉ trích).
Họa phẩm tìm thấy Moses
Đầu thế kỷ XVIII, tác giả Jean Terrasson đã viết tác phẩm "Cuộc đời của Sethos" là một tác phẩm hư cấu, đưa ra ý niệm về những bí ẩn của Ai Cập. Hòa trong bầu không khí quan tâm đến cổ vật, nhiều người nảy sinh cảm giác rằng kiến thức cổ xưa bằng cách nào đó đã được thể hiện trong các di tích và truyền thuyết của Ai Cập. Hình ảnh Ai Cập đã tràn ngập Hội Tam điểm của Châu Âu vào thời đó và hình ảnh của nó, chẳng hạn như con mắt trên kim tự tháp. Đồng thời, Đại ấn Hoa Kỳ (1782) cũng xuất hiện trên Tiền giấy 1 đô la Mỹ cũng có hình ảnh Kim tự tháp Ai Cập với con mắt Thiên Nhãn mà thuyết âm mưu cho rằng có liên hệ đến hội kín bí ẩn Illuminati.
Có những tài liệu tham khảo về người Ai Cập trong tác phẩm có chủ đề Tam điểm như "Die Zauberflöte" (The Magic Flute, 1791) của Mozart), và cuốn "Thamos" còn dang dỡ chưa hoàn thành trước đó của ông. Sự hồi sinh của sự tò mò về thế giới Cổ đại, được nhìn thấy qua các tài liệu viết, đã thúc đẩy việc xuất bản một bộ sưu tập các văn bản Hy Lạp được tập hợp trong Hậu Cổ đại, được xuất bản dưới dạng kho tác phẩm của Hermes Trismegistus. Nhưng những tàn tích đổ nát đôi khi xuất hiện trong các bức tranh của tập phim Nghỉ ngơi trên chuyến bay đến Ai Cập luôn mang đặc điểm của người La Mã. Cùng với chủ nghĩa lịch sử là những hư cấu đầu tiên lấy bối cảnh ở Ai Cập của trí tưởng tượng. Đại văn hào William Shakespeare với các tác phẩm "Antony và Cleopatra" lấy bối cảnh một phần ở Alexandria, nhưng các nhân vật chính của nó đều cao quý và phổ quát và Shakespeare không quan tâm đến việc gợi lên bản sắc địa phương.
Cơ sở lý luận cho trường phái "Egyptomania" dựa trên một khái niệm tương tự: Người phương Tây nhìn theo các họa tiết Ai Cập cổ đại vì bản thân Ai Cập cổ đại về bản chất đã rất lôi cuốn. Người Ai Cập từng coi tôn giáo và chính phủ của họ là vĩnh cửu, họ được ủng hộ trong suy nghĩ này bởi khía cạnh lâu dài của các di tích công cộng vĩ đại tồn tại mãi mãi và dường như chống lại tác động của thời gian. Các nhà lập pháp của họ đã đánh giá rằng ấn tượng đạo đức này sẽ góp phần vào sự ổn định của đế chế của họ.
Văn hóa Chủ nghĩa lãng mạn bao trùm mọi địa phương một cách kỳ lạ, và sự trỗi dậy của nó trong trí tưởng tượng đại chúng trùng hợp với chiến dịch thất bại ở Ai Cập của Napoleon và sự khởi đầu của Ai Cập học hiện đại, bắt đầu rất giống một doanh nghiệp cạnh tranh giữa Anh và Pháp. Thomas Rowlandson đã châm biếm cơn sốt Ai Cập cổ đại sau cuộc xâm lược của Napoléon vào Ai Cập năm 1806. Một "Trận chiến sông Nile" hiện đại khó có thể không khơi dậy sự tò mò mới về Ai Cập ngoài nhân vật nữ hoàng Cleopatra. Cùng lúc đó, lá bài Tarot đã được một người Pháp Antoine Court de Gebelin làm cho chú ý đến châu Âu như một chìa khóa được cho là chìa khóa cho kiến thức huyền bí về Ai Cập. Tất cả điều này đã làm nảy sinh ra "Ai Cập" và bài tarot huyền bí.
Một Ai Cập huyền thoại này rất khó khăn, nhưng không phải là không thể hòa hợp với giải mã chữ tượng hình năm 1824 của Jean-François Champollion. Những dòng chữ mà một thế kỷ trước được cho là chứa đựng trí tuệ huyền bí, hóa ra không gì khác hơn là tên và tước hiệu hoàng gia, các nghi thức tang lễ, những câu chuyện khoe khoang về các chiến dịch quân sự, mặc dù vẫn còn một phần mù mờ có thể phù hợp với tầm nhìn thần bí. Sự bùng nổ kiến thức mới về tôn giáo, trí tuệ và triết học thực tế của Ai Cập đã được hiểu rộng rãi là phơi bày hình ảnh thần thoại về Ai Cập như một ảo ảnh do trí tưởng tượng của người Hy Lạp và người phương Tây tạo ra. Trong nghệ thuật, sự phát triển của Chủ nghĩa phương Đông và khả năng du hành ngày càng tăng đã tạo ra một số lượng lớn các bức vẽ với mức độ chính xác khác nhau. Vào cuối thế kỷ XIX, phong cách trang trí kỳ lạ và được nghiên cứu kỹ lưỡng thường chiếm ưu thế trong việc mô tả cả phong cảnh và hình người, dù cổ xưa hay hiện đại.
Ở cấp độ phổ biến nhất của thế kỷ XIX là toàn bộ Ai Cập cổ đại đã bị thu gọn trong trí tưởng tượng của người châu Âu thành những chủ đề như sông Nile, Kim tự tháp Ai Cập và Nhân sư Ai Cập trong bối cảnh cát sa mạc bao la, được đặc trưng ở cấp độ văn học hơn trong tác phẩm "Ozymandias" (1818) của nhà thơ người Anh Percy Bysshe Shelley. Kiến trúc Phục hưng Ai Cập đã mở rộng kho tàng thiết kế cổ điển được khám phá của trường phái Tân cổ điển và mở rộng vốn từ vựng về trang trí có thể được sử dụng. Sự nổi tiếng về tục sùng bái người chết của dân Ai Cập đã truyền cảm hứng cho các chủ đề Phục hưng của người Ai Cập lần đầu tiên được sử dụng ở Nghĩa trang Highgate, một nghĩa trang gần Luân Đôn được mở cửa vào năm 1839 do một công ty do nhà thiết kế-doanh nhân Stephen Geary (1797–1854) thành lập, các đặc điểm kiến trúc của nó, bao gồm Hầm mộ Gothic cũng như Đại lộ Ai Cập, một lần nữa đã được công chúng chú ý hơn nữa do công của James Stevens Curl
Ai Cập cổ đại đã là nguồn cảm hứng và bối cảnh cho tác phẩm opera trang nghiêm của nhà soạn nhạc người Ý Giuseppe Verdi năm 1871 có tựa đề "Aida" và được ủy quyền cho Khedive Âu hóa để ra mắt lần đầu vào Cairo. Năm 1895, nhà văn Ba Lan là Bolesław Prus đã hoàn thành tiểu thuyết lịch sử duy nhất của mình, "Pharaoh", một nghiên cứu về cơ chế của quyền lực chính trị được mô tả trong bối cảnh sụp đổ của Vương triều thứ Hai Mươi của Ai Cập và Tân Vương quốc Ai Cập. Đồng thời, đây là một trong những tác phẩm tái hiện văn học hấp dẫn nhất về cuộc sống ở mọi cấp độ của xã hội Ai Cập cổ đại. Năm 1966, cuốn tiểu thuyết được chuyển thể thành phim truyện của Ba Lan.
Họa phẩm về Ai Cập
Năm 1912, với việc phát hiện một tảng đá vôi được sơn màu được bảo quản tốt Bức tượng bán thân Nefertiti được khai quật từ xưởng điêu khắc của nó gần thành phố hoàng gia Amarna đã làm dấy lên sự quan tâm đến Ai Cập cổ đại. Bức tượng bán thân này hiện đang ở Bảo tàng Ai Cập của Berlin, trở nên nổi tiếng qua phương tiện nhiếp ảnh và là một trong những tác phẩm điêu khắc Ai Cập cổ đại được sao chép nhiều nhất, với đặc điểm nổi bật của hoàng hậu Nefertiti có ảnh hưởng đáng chú ý đến nghệ thuật điêu khắc mới về tiêu chuẩn lý tưởng về vẻ đẹp phụ nữ trong thế kỷ XX. Việc phát hiện ra ngôi mộ còn nguyên vẹn của Pharaoh Tutankhamun vào năm 1922 đã làm sống lại mối quan tâm của công chúng đối với Ai Cập cổ đại, những hiện vật từ kho báu của ngôi mộ đã ảnh hưởng đến văn hóa đại chúng bao gồm cả thời trang và thiết kế Art-Deco.
Khám phá này cũng dẫn đến ý tưởng và được quảng bá từ những tờ báo lá cải về một Lời nguyền của các Pharaoh được cho là đã dẫn đến cái chết sớm của những người bước vào lăng mộ. Những tuyên bố này đã bị Howard Carter bác bỏ, ông gọi chúng là sự mê tín ngu ngốc và tommy-rot. Một nghiên cứu gần đây hơn của James Randi cho thấy các thành viên đoàn thám hiểm bước vào lăng mộ đã chết ở độ tuổi trung bình là 73, cao hơn một chút so với tuổi thọ của tầng lớp xã hội của họ vào thời điểm đó. Ý tưởng về ""lời nguyền của xác ướp" đã truyền cảm hứng cho các bộ phim như "The Mummy" với sự tham gia của Boris Karloff đã phổ biến ý tưởng về các xác ướp Ai Cập cổ đại hồi sinh thành quái vật. Truyện ngắn năm 1924 của Agatha Christie có tựa đề "Cuộc phiêu lưu vào lăng mộ Ai Cập của thám tự Poirot" cũng đề cập đến những cái chết bí ẩn trong một cuộc khai quật.
Mô tả của Hollywood về Ai Cập cổ đại là tác nhân chính tạo nên hình ảnh Ai Cập giả tưởng trong văn hóa hiện đại. Cảnh tượng điện ảnh của Ai Cập lên đến đỉnh điểm trong các phân cảnh Cecil B. deMille với bộ phim "The Ten Commandments" (1956) và Jeanne Crain thủ vai Nefertiti trong bộ phim "Queen of the Nile"" ("Nữ hoàng sông Nin") của Cinecittà Ý sản xuất năm 1961 và sụp đổ với sự thất bại của Richard Burton và Elizabeth Taylor trong "Cleopatra" (1963). Năm 1978, Pharaoh Ai Cập Tutankhamun được tưởng nhớ trong bài hát "King Tut" của diễn viên hài người Mỹ Steve Martin và vào năm 1986, các tư thế trong một số tác phẩm tranh tường của Ai Cập đã được gợi lên trong bài hát "Dạo bước cùng người Ai Cập" của The Bangles. Bảo tàng Nghệ thuật Thủ đô đã phục hồi Đền Dendur trong khu vực trưng bày riêng của mình vào năm 1978. Năm 1989, Bảo tàng Louvre đã xây dựng kim tự tháp bằng kính của riêng mình và vào năm 1993, tại Thung lũng Las Vegas với Khách sạn Luxor của Las Vegas đã khai trương với ngôi mộ bản sao của Tutankhamun. Một loạt tiểu thuyết bán chạy nhất của tác giả và nhà Ai Cập học người Pháp Christian Jacq được lấy cảm hứng từ cuộc đời của Pharaoh Ramses II ("Đại đế").
Nữ hoàng Ai Cập
Nữ hoàng Ai Cập (mặc đồ Âu)
Bên cạnh đó, sự vĩ đại khó tin của hệ thống các Kim tự tháp Ai Cập cổ đại đã khiến người phương Tây nảy sinh ra giả thuyết về việc Kim tự tháp chính là công trình của người ngoài hành tinh. Tác giả Von Däniken cho biết rằng Ai Cập cổ đại với các công trình kiến trúc vĩ đại của phức hợp kim tự tháp Giza như Đại kim tự tháp Giza và Đại Nhân sư Giza, đã trở thành một công trình "tuyệt vời, được làm sẵn" mà nền văn minh này sản sinh ra một cách đột ngột và không có sự chuyển đổi và phát triển. Những người ủng hộ thuyết phi hành gia cổ đại cho rằng những địa điểm như kim tự tháp Giza thay vào đó được xây dựng do người ngoài hành tinh. Tuy nhiên, bằng chứng khảo cổ học không chỉ chứng minh quỹ đạo văn hóa lâu dài của Ai Cập thời tiền sử mà còn chứng minh quá trình phát triển mà người Ai Cập cổ đại đã trải qua.
Những ngôi mộ của người Ai Cập bắt đầu bằng việc những người lãnh đạo quan trọng của các ngôi làng được chôn cất trong nền đá và được bao phủ bằng những ụ đất. Cuối cùng, các Pharaoh đầu tiên có những ngôi mộ được bao phủ bởi các cấu trúc hình vuông, gạch bùn, một tầng được gọi là mastabas và kim tự tháp bậc được phát triển từ nhiều mastabas được xếp chồng lên nhau trong một cấu trúc. Điều này dẫn đến việc xây dựng Kim tự tháp bậc thang của pharaoh Djoser tại Saqqara, được biết đến từ các ghi chép là được xây dựng dưới bàn tay của những kiến trúc sư và cố vấn Ai Cập cổ đại Imhotep. Chính pharaoh Sneferu là người đã chuyển kim tự tháp của mình từ dạng bậc thang thành kim tự tháp thực sự giống như các kim tự tháp nổi tiếng ở Giza. Một tư liệu giấy cói giống như nhật ký được lưu giữ từ một quan chức tên là thanh tra Merer cũng đã được phát hiện có ghi chép về việc xây dựng Đại Kim Tự Tháp.
Loạt phim ngắn của HBO có tựa đề "Rome" có một số tập lấy bối cảnh ở Ai Cập Hy Lạp-La Mã. Những công trình tái tạo trung thực của một triều đình "Ai Cập cổ đại" (trái ngược với nền văn hóa "Hy Lạp hóa" đúng đắn về mặt lịch sử) được xây dựng trong studio Cinecittà ở Rome. Bộ truyện mô tả những câu chuyện được dàn dựng hóa về mối quan hệ giữa Cleopatra, Ptolemy XIII, Julius Caesar và Mark Antony. Cleopatra do Lyndsey Marshal thủ vai và phần lớn phần thứ hai được dành riêng cho các sự kiện dẫn đến vụ tự sát nổi tiếng của Cleopatra và người tình của bà là Mark Antony vào năm 30 trước Công nguyên. "La Reine Soleil" là một bộ phim hoạt hình năm 2007 của Philippe Leclerc, có các nhân vật Akhenaten, Tutankhaten (sau này là Tutankhamun), Akhesa (Ankhesenepaten, sau này là Ankhesenamun), Nefertiti và Horemheb trong một cuộc đấu tranh phức tạp giữa các tư tế của Amun chống lại thuyết độc thần không khoan dung của Akhenaten.
Ca sĩ người Mỹ Katy Perry phát hành bài hát "Dark Horse" vào năm 2013 và cốt truyện của video âm nhạc cho bài hát đã được thiết lập từ Memphis cổ đại. Video có nhiều biểu tượng Ai Cập cổ đại và nhiều chi tiết trong đó chính xác về mặt lịch sử mặc dù không được tham khảo bất kỳ các nhà Ai Cập học nào trong quá trình sản xuất video. Kiểu trang điểm ngọc lam mà Katy Perry mặc trong video có lẽ đã được sử dụng ở Ai Cập cổ đại, chiếc váy cô mặc có kiểu dáng tương tự như trang phục Graeco-La Mã được mặc bởi các quý tộc như Cleopatra, video có tính năng Con mắt của Horus một biểu tượng quyền năng ở Ai Cập cổ đại và những bức tranh đằng sau ngai vàng mà Katy Perry ngồi trên dường như được tạo ra dựa trên những ví dụ có thật từ các ngôi mộ Ai Cập cổ đại. Album năm 2017, ambum "20s A Difficult Age" của nghệ sĩ thu âm Marcus Orelias, một trong những bài hát có tựa đề "Aset" (cách viết ban đầu của tên "Isis"). Video âm nhạc do đạo diễn Luis Montoya chỉ đạo có chữ tượng hình của Isis trong thẻ bài. |
Trivante Vicent Stewart (sinh ngày 22 tháng 3 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Jamaica hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Jamaica.
Sự nghiệp thi đấu.
Stewart bắt đầu sự nghiệp của mình với DB Basovak ở quê hương Spanish Town, trước khi tiếp tục chơi bóng tại Trường Trung học Innswood và Trường Trung học Charlie Smith, trường mà anh thi đấu tại Manning Cup.
UWI, Molynes United và Mount Pleasant.
Anh bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với UWI, trước khi chuyển đến Molynes United vào năm 2022. Giữa mùa giải 2022, anh chuyển đến Mount Pleasant, nơi anh phát triển mạnh mẽ, ghi 5 bàn trong 4 trận đầu tiên cho câu lạc bộ.
Vào ngày 17 tháng 8 năm 2023, Stewart chính thức gia nhập câu lạc bộ Salernitana theo bản hợp đồng kéo dài 3 năm, kèm theo một lựa chọn bổ sung. Anh trở thành cầu thủ Jamaica thứ ba từng chơi ở Serie A, đồng thời là người đầu tiên tham gia giải đấu này từ giải quốc nội.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 2023, Trivante có trận ra mắt cho Salernitana, khi vào sân thay người ở phút 79 trong trận gặp Inter Milan. Tuy vậy, Salernitana để thua 0-4, khi một mình Lautaro Martínez lập một cú poker sau khi vào sân thay người.
Màn trình diễn của anh tại JPL đã giúp anh được gọi triệu tập lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Jamaica.
"Tính đến 25 tháng 3 năm 2023".
"Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 25 tháng 3 năm 2023." |
Địa lý Sao Hỏa
Địa lý Sao Hỏa là một lĩnh vực con của khoa học hành tinh, chuyên phân định và mô tả đặc điểm địa lý của các vùng của Sao Hỏa. Địa lý Sao Hỏa giống địa lý tự nhiên ở Trái Đất, chủ yếu nghiên cứu về sự phân bố các đặc điểm tự nhiên của Sao Hỏa và lập bản đồ chúng. Bản đồ chi tiết gần đây nhất về Sao Hỏa được NASA công bố vào ngày 16 tháng 4 năm 2023.
Những quan sát chi tiết đầu tiên về Sao Hỏa được thực hiện bằng kính thiên văn ở Trái Đất. Những lần quan sát thường được thực hiện khi Sao Hỏa đạt vị trí xung đối, khi hành tinh này ở gần Trái Đất nhất và do đó chúng ta có thể nhìn thấy nó dễ nhất. Đáng chú ý hơn, Sao Hỏa sẽ đạt vị trí xung đối cận nhật (gần Trái Đất nhất và gần Mặt Trời nhất) vào khoảng 16 năm một lần.
Tháng 9 năm 1877, Sao Hỏa đạt vị trí xung đối với Trái Đất vào ngày 5 tháng 9, nhà thiên văn học người Ý Giovanni Schiaparelli công bố bản đồ chi tiết đầu tiên về Sao Hỏa. Bản đồ này gây chú ý vì có các đặc điểm mà ông gọi là "canali" ("con kênh"), sau này các nhà khoa học chứng minh được đó là ảo ảnh quang học. Những "canali" này được miêu tả là những đường thẳng chạy dài trên bề mặt Sao Hỏa, ông đặt tên cho chúng theo những con sông nổi tiếng trên Trái Đất. Thuật ngữ của ông thường bị dịch sai thành "canal" (kênh đào), và do đó đã gây ra những tranh cãi về kênh đào ở Sao Hỏa.
Sau những quan sát đầu tiên này, người ta tin rằng từ lâu Sao Hỏa đã có biển và thảm thực vật lớn. Mãi cho đến khi chương trình Mariner của NASA đưa tàu vũ trụ ghé thăm hành tinh này vào những năm 1960, chúng ta mới biết rằng sự thật không phải như vậy. Nhiều bản đồ Sao Hỏa được công bố bằng dữ liệu thu thập được từ các chương trình này, nhưng phải đến khi chương trình Mars Global Surveyor bắt đầu vào năm 1996 và kết thúc vào cuối năm 2006 thì chúng ta mới có được tấm bản đồ hoàn chỉnh và cực kỳ chi tiết.
Lập bản đồ Sao Hỏa.
Bản đồ học là môn nghệ thuật, khoa học và công nghệ của việc lập bản đồ. Ở Trái Đất, chúng ta có nhiều kỹ thuật để chuyển đổi bề mặt cong 2D thành mặt phẳng 2D, tạo điều kiện cho việc lập bản đồ. Để tạo điều kiện thuận lợi như vậy cho Sao Hỏa, các phép chiếu, hệ tọa độ, và mốc đo lường cần phải thiết lập. Hiện nay, Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ xác lập 30 tứ giác cho bề mặt Sao Hỏa, được trình bày bên dưới đây.
Ở Trái Đất, mốc độ cao bằng 0 dựa trên mực nước biển ("geoid"). Tuy nhiên, vì Sao Hỏa không có đại dương và do đó không có mực nước biển, nên rất thuận tiện để xác định mốc độ cao bằng 0 tùy ý để lập bản đồ bề mặt, mốc này được gọi là "areoid".
Mốc độ cao của Sao Hỏa ban đầu được xác định theo áp suất khí quyển không đổi. Từ sứ mệnh Mariner 9 cho đến năm 2001, áp suất này được chọn là 610,5 Pa (6,105 mbar), trên cơ sở rằng dưới áp suất này, nước lỏng không bao giờ có thể ổn định (tức là điểm ba của nước ở áp suất này). Giá trị này chỉ bằng 0,6% áp suất ở mực nước biển của Trái Đất. Lưu ý rằng việc lựa chọn giá trị này không có nghĩa là nước ở dạng lỏng tồn tại dưới độ cao này, chỉ là nó có thể có nhiệt độ vượt quá 273,16 K (0,01 độ C, 32,018 độ F).
Năm 2001, dữ liệu của (tạm dịch: Thiết bị đo độ cao bằng laser từ quỹ đạo Sao Hỏa) đã đặt một quy ước mới về mốc độ cao bằng 0, được định nghĩa là bề mặt đẳng thế có giá trị trung bình tại xích đạo bằng bán kính trung bình của hành tinh.
Đường xích đạo của Sao Hỏa được xác định bởi trục quay của nó, nhưng vị trí kinh tuyến gốc của hành tinh này được xác định theo quy ước như kinh tuyến gốc của Trái Đất, bằng cách chọn một điểm tùy ý mà các nhà thiên văn học sau này đều đồng thuận. Các nhà thiên văn học người Đức, Wilhelm Beer và Johann Heinrich Mädler đã chọn một đặc điểm hình tròn nhỏ ở Sinus Meridiani ("Vịnh Kinh tuyến") làm điểm tham chiếu khi họ tạo ra bản đồ có hệ thống đầu tiên về các đặc điểm của Sao Hỏa vào năm 1830–1832. Năm 1877, nhà thiên văn học người Ý Giovanni Schiaparelli chấp nhận đề xuất kia khi ông bắt đầu nghiên cứu lập bản đồ Sao Hỏa của riêng mình. Năm 1909, những người tạo ra lịch thiên văn quyết định thay vì không xét đến đường tưởng tượng này thì họ chấp nhận nó, rồi đưa vào bản đồ sao và các bản hướng dẫn quan sát bầu trời lúc đó.
Năm 1972, sau khi tàu vũ trụ Mariner chụp nhiều hình ảnh mênh mông của Sao Hỏa, nhóm trắc địa và lập bản đồ của sứ mệnh Mariner 9 đề xuất lấy kinh tuyến gốc là đường đi qua tâm của hố va chạm nhỏ tên là Airy-0 có đường kính khoảng 500 m, nằm ở Sinus Meridiani, chạy dọc theo đường kinh tuyến đề xuất của Beer và Mädler, do đó xác định được kinh độ 0,0° với sai số 0,001°.
Khi các kỹ thuật đo phóng xạ giúp đo đạc và định vị các vật thể trên bề mặt Sao Hỏa chính xác hơn, tâm của một hố va chạm rộng 500 m được coi là không đủ chính xác để có một phép đo chính xác. Do đó, Hiệp hội Thiên văn Quốc tế đề xuất đặt kinh độ của tàu đổ bộ Viking 1 – nơi có dữ liệu theo dõi bằng phép đo phóng xạ – là kinh độ chuẩn 47,95137° Tây. Định nghĩa này giúp củng cố vị trí tâm của hố va chạm Airy-0 ở đúng kinh độ 0.
Xét trên toàn bộ hành tinh, địa hình của Sao Hỏa thay đổi đáng kể và không có một kiểu địa hình đặc trưng nào nổi bật hơn cả. Tuy vậy, địa hình của Sao Hỏa chia thành hai kiểu địa hình khác nhau rất đáng chú ý: các vùng đồng bằng phía bắc bị san phẳng bởi dòng chảy dung nham, ngược lại với các vùng cao nguyên phía nam với đầy những hố va chạm. Do đó, bề mặt Sao Hỏa khi nhìn từ Trái Đất được chia thành hai khu vực tương phản nhau. Các đồng bằng nhạt màu hơn bị bụi, cát giàu oxit sắt bao phủ, tạo nên màu đỏ đặc trưng và từng được xem là các phần "lục địa", nổi bật có Arabia Terra (vùng đất cao Arabia) hay Amazonis Planitia (đồng bằng Amazonis). Trong khi đó, những vùng tối hơn thường được xem là biển nên có tên là Mare Erythraeum (biển Erythraean), Mare Sirenum (biển Sirenum) và Aurorae Sinus (vịnh Aurorae). Vùng tối lớn nhất nhìn thấy được từ Trái Đất là Syrtis Major Planum (cao nguyên Syrtis Major).
Núi lửa Olympus Mons cao 22 km so với vùng đồng bằng núi lửa xung quanh và là ngọn núi cao nhất từng được biết đến trên bất kỳ hành tinh nào trong Hệ Mặt Trời. Ngọn núi này nằm trong một vùng cao địa rộng lớn tên là Tharsis, nơi đây còn có nhiều ngọn núi lửa lớn khác.
Vùng Tharsis của Sao Hỏa còn có hệ thống hẻm núi lớn nhất Hệ Mặt Trời là Valles Marineris (Thung lũng Mariner, đặt theo tên chương trình Mariner) dài 4.000 km và sâu 7 km. Sao Hỏa có rất nhiều hố va chạm, lớn nhất trong số này là đồng bằng Hellas.
Sao Hỏa có hai chỏm băng vĩnh viễn ở cực, chỏm phía Bắc nằm ở Planum Boreum và chỏm phía Nam ở Planum Australe.
Sự chênh lệch giữa điểm cao nhất và điểm thấp nhất của Sao Hỏa là gần 30 km (từ đỉnh Olympus Mons ở độ cao 21,2 km đến hố va chạm Badwater ở đáy đồng bằng Hellas thấp hơn 8,2 km so với mốc chuẩn). Để so sánh, sự chênh lệch giữa điểm cao nhất và điểm thấp nhất của Trái Đất (đỉnh Everest và rãnh Mariana) chỉ là 19,7 km. So sánh theo tỷ lệ với bán kính khác nhau của hai hành tinh, ta thấy Sao Hỏa gồ ghề hơn Trái Đất gần gấp ba lần.
Hiệp hội Thiên văn Quốc tế chịu trách nhiệm đặt tên cho các đặc điểm tự nhiên của Sao Hỏa.
Sự phân đôi địa hình.
Khi quan sát địa hình Sao Hỏa, ta sẽ thấy sự phân đôi giữa bán cầu Bắc và Nam. Trong khi Bán cầu Bắc bằng phẳng, có ít hố va chạm và nằm dưới mức độ cao bằng 0; thì Bán cầu Nam là vùng núi và cao nguyên, hầu hết có độ cao trên 0. Hai bán cầu có độ cao chênh nhau từ 1 km đến 3 km.
Ranh giới ngăn cách hai khu vực này được các nhà địa chất quan tâm rất nhiều. Tại đây có kiểu địa hình gồ ghề rất đặc trưng. Kiểu địa hình này có các núi mặt bàn, núi đỉnh tròn, thung lũng nền phẳng có tường thẳng đứng cao khoảng hơn một km. Xung quanh các ngọn núi là những dốc đá thoải, dưới chân dốc có rất nhiều đất đá vụn, cho thấy đó có thể từng là những dòng sông băng.
Các đặc điểm thú vị khác có thể kể đến như những thung lũng sông lớn và những kênh nước cũng gây ra sự chia đôi địa hình này.Các vùng đất thấp phía Bắc chiếm khoảng một phần ba bề mặt Sao Hỏa và vùng này tương đối bằng phẳng, thỉnh thoảng có các hố va chạm. Hai phần ba bề mặt còn lại của Sao Hỏa là vùng cao nguyên phía Nam. Sự khác biệt về độ cao giữa các bán cầu là rất lớn. Do mật độ của những hố va chạm, các nhà khoa học tin rằng bán cầu Nam có tuổi đời lâu hơn so với vùng đồng bằng phía Bắc. Phần lớn vùng cao nguyên phía Nam bị thiên thạch va chạm có niên đại từ kỷ nguyên Noachian.
Nhiều giả thuyết được đưa ra để giải thích sự khác biệt này của hai bán cầu. Ba giả thuyết được chấp nhận phổ biến nhất là một vụ va chạm lớn, nhiều vụ va chạm, và các quá trình nội sinh như đối lưu lớp phủ. Cả hai giả thuyết về va chạm đều nói về các quá trình có thể xảy ra trước khi thiên thạch ngừng tấn công vào hành tinh này, ngụ ý rằng sự phân đôi địa hình Sao Hỏa có nguồn gốc từ rất sớm trong lịch sử của hành tinh.
Giả thuyết về vụ va chạm lớn được đề xuất vào đầu thập niên 1980, lúc ấy khiến nhiều người hoài nghi do hình dạng không hướng tâm (hình elip) của khu vực va chạm. Tuy nhiên, một nghiên cứu năm 2008 đã củng cố giả thuyết này. Nhóm nghiên cứu dùng dữ liệu địa chất và tìm thấy bằng chứng của một vật thể lớn đã va vào Sao Hỏa ở góc xấp xỉ 45 độ. Bằng chứng này bổ sung các phân tích về tính chất hóa học của đá trên Sao Hỏa, về sự trồi lên của vật chất ở lớp phủ sau vụ va chạm.
Đặt tên trong quá khứ.
Johann Heinrich Mädler và Wilhelm Beer lập bản đồ Mặt Trăng từ những năm 1830, và họ cũng là những nhà địa lý Sao Hỏa đầu tiên. Họ bắt đầu xác lập một lần và mãi mãi hầu hết các đặc điểm của Sao Hỏa và xác định chu kỳ quay của hành tinh. Năm 1840, Mädler tổng hợp dữ liệu của 10 năm quan sát và vẽ được bản đồ Sao Hỏa đầu tiên trên thế giới. Thay vì đặt tên cho các đặc điểm địa lý trên bản đồ, Beer và Mädler chỉ đơn giản đặt tên cho chúng bằng các chữ cái; Vịnh Meridian (Sinus Meridiani) được gọi là "a".
Trong khoảng 20 năm tiếp theo khi các thiết bị được cải tiến và số lượng người quan sát cũng tăng lên, nhiều đặc điểm khác nhau của Sao Hỏa đã được đặt tên. Solis Lacus được gọi là "Oculus" (Con mắt) và Syrtis Major thường được gọi là "Biển đồng hồ cát" hay "Bọ cạp". Năm 1858, nhà thiên văn học Dòng Tên Angelo Secchi đặt tên cho Syrtis Major là "Atlantic Canale" (Kênh Đại Tây Dương). Secchi nhìn nhận khu vực này "dường như đóng vai trò của Đại Tây Dương trên Trái Đất khi ngăn cách Cựu Thế giới với Tân Thế giới", đây là lần đầu tiên từ "canale" của tiếng Ý được đặt cho Sao Hỏa.
Năm 1867, Richard Anthony Proctor vẽ bản đồ Sao Hỏa. Ông dựa trên những bản vẽ trước đó của linh mục William Rutter Dawes vào năm 1865 và biến tác phẩm của mình thành bức vẽ đẹp nhất lúc bấy giờ. Proctor giải thích hệ thống tên gọi của mình: "Tôi đặt tên các đặc điểm địa lý của Sao Hỏa theo tên những nhà quan sát đã nghiên cứu các đặc điểm địa lý đó." Dưới đây là một số tên được ông đặt cho, cùng với những cái tên do Schiaparelli đặt trong bản đồ Sao Hỏa xuất bản từ năm 1877 đến năm 1886 của ông. Tên do Schiaparelli đặt thường được sử dụng và là những cái tên được sử dụng đến ngày nay.
Cách đặt tên của Proctor thường bị chỉ trích, chủ yếu vì ông vinh danh quá nhiều các nhà thiên văn học người Anh, cũng như vì ông đặt một tên nhiều hơn một lần. Cá biệt, cái tên Dawes xuất hiện đến 6 lần (Đại dương Dawes, Lục địa Dawes, Biển Dawes, Eo biển Dawes, Đảo Dawes và Vịnh Dawes Forked). Mặc dù vậy, những cái tên này vẫn là nền tảng để các nhà thiên văn học sau này đặt tên tốt hơn dựa vào đặc điểm địa lý.
Đặt tên ở hiện tại.
Ngày nay, tên các đặc điểm địa lý của Sao Hỏa có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhưng tên của các đặc điểm lớn chủ yếu bắt nguồn từ các bản đồ Sao Hỏa do nhà thiên văn học người Ý Giovanni Schiaparelli lập vào năm 1886. Schiaparelli đặt tên cho các đặc điểm lớn của Sao Hỏa chủ yếu bằng tên lấy từ thần thoại Hy Lạp và thỉnh thoảng là từ Kinh thánh. Nhiều đặc điểm lớn của Sao Hỏa vẫn giữ lại tên cũ nhưng được thay đổi tên của kiểu địa hình để phù hợp với các kiến thức mới, chẳng hạn Nix Olympica (vùng tuyết Olympus) được đổi thành Olympus Mons (núi Olympus).
Các hố va chạm lớn trên Sao Hỏa được đặt theo tên các nhà khoa học và nhà văn khoa học viễn tưởng có sức ảnh hưởng; những hố nhỏ hơn được đặt tên theo các thị trấn, thành phố của Trái Đất.
Nhiều dạng địa hình khác nhau do Mars Exploration Rovers khám phá được đặt tên tạm hoặc tên định danh để xác định chúng trong khi chương trình diễn ra. |
Marie Luise của Phổ
Marie Luise của Phổ, thường gọi là Luise của Phổ (tiếng Đức: "Marie Luise Anna von Preußen"; 1 tháng 3 năm 1829, Berlin – 10 tháng 5 năm 1901, Frankfurt am Main) là Vương tôn nữ Phổ thuộc Vương tộc Hohenzollern và là cháu gái của Frederick William III của Phổ.
Những năm đầu đời.
Maria Luise Anna là người con thứ hai và là con gái lớn của Vương tử Carl của Phổ và Đại Công nữ Marie xứ Sachsen-Weimar-Eisenach. Ông nội của Luise là Friedrich Wilhelm III của Phổ.
Đã có những cuộc đàm phán thất bại về cuộc hôn nhân giữa Marie Luise và Karl XV của Thụy Điển. Vào ngày 27 tháng 6 năm 1854, Luise kết hôn với Alexis I xứ Hessen-Philippsthal-Barchfeld tại Cung điện Charlottenburg. Cuộc hôn nhân không có con và kết thúc bằng cuộc ly hôn vào ngày 6 tháng 3 năm 1861. |
Maria Anna của Phổ
Maria Anna Friederike của Phổ, thường gọi là Anna của Phổ (tiếng Đức: "Maria Anna Friederike von Preußen"; 17 tháng 5 năm 1836 – 12 tháng 6 năm 1918) là Vương tôn nữ Phổ thuộc Vương tộc Hohenzollern và là cháu gái của Friedrich Wilhelm III của Phổ.
Những năm đầu đời.
Maria Anna Friederike là người con út trong ba người con của Vương tử Carl của Phổ và Đại Công nữ Marie xứ Sachsen-Weimar-Eisenach.
Là một Vương tôn nữ trẻ đẹp, Maria Anna là đối tượng được nhiều người chú ý trong triều đình. Vào mùa đông năm 1852, Hoàng đế trẻ Franz Joseph I của Áo đã gặp Anna ở Berlin và đã đem lòng yêu cũng như muốn cầu hôn Anna. Mẹ của Franz Joseph I, Đại vương công phu nhân Sophie của Áo, đã viết thư cho chị gái Vương hậu Elisabeth của Phổ đề cập đến "niềm hạnh phúc đến với con trai em như một giấc mơ thoáng qua và để lại ấn tượng sâu đậm trong trái tim nó - và than ôi - mạnh mẽ và sâu sắc hơn nhiều so với những gì em đã nghĩ". Tuy nhiên, vào thời điểm đó Anna đã đính hôn, và điều phức tạp hơn là các chính khách Phổ phản đối mạnh mẽ việc liên minh với Áo. Mẹ của Franz Joseph I đã hỏi rằng "liệu có hy vọng nào rằng cuộc hôn nhân buồn bã mà họ đang áp đặt lên thiếu nữ Anna quyến rũ này và đẩy Anna vào cảnh không còn chút triển vọng hạnh phúc nào có thể bị ngăn cản hay không," nhưng vô ích.
Hôn nhân và hậu duệ.
Ngày 26 tháng 5 năm 1853, Anna kết hôn với Friedrich Wilhelm xứ Hesse-Kassel tại Cung điện Charlottenburg ở Berlin. Anna là vợ thứ hai của Friedrich Wilhelm, người chín năm trước đã trải qua cái chết đau thương vì sinh nở của người vợ đầu dấu yêu là Aleksandra Nikolayevna của Nga. Friedrich Wilhelm không bao giờ vượt qua được mất mát này, diễn ra chưa đầy một năm sau đám cưới của Friedrich Wilhelm với Aleksandra. Quả như Sophie dự đoán, Friedrich và Anna có mối quan hệ hòa nhã nhưng lại xa cách về mặt tình cảm. Dù vậy, hai vợ chồng có với nhau sáu người con:
Con gái của Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh là Victoria, Vương nữ Vương thất, người đã kết hôn với anh họ của Anna là Friderich, Hoàng đế tương lai của Đức, đã viết về Anna như sau:
Ở một khía cạnh khác, Anna là một người phụ nữ rất thông tuệ, từng chủ trì một hội trường cung đình gồm các nghệ sĩ và nhạc sĩ xuất sắc, bao gồm Johannes Brahms, Clara Schumann, Anton Rubinstein và Julius Stockhausen. Anna cũng là một nghệ sĩ piano được đào tạo bài bản với khả năng tuyệt vời dưới sự dạy bảo của Theodor Kullak. Brahms đã dành tặng bản Ngũ tấu piano của mình cho Anna vào năm 1865.
Năm 1901, Maria Anna đã cải đạo sang Công giáo, điều này dẫn đến những rắc rối về chính trị. Anna còn là nhân vật của một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của Franz Xaver Winterhalter, trong đó Vương tôn nữ mặc một chiếc váy dài bằng vải tuyn trên lụa hồng.
Góa phụ và cải đạo sang Công giáo.
Vương tôn nữ Maria Anna lần lượt phải chịu nhiều biến cố trong cuộc sống khiến cho Anna hướng lòng nhiều hơn đến tôn giáo. Năm 1882, cô con gái 10 tuổi Marie Polyxene của Anna qua đời vì bị viêm tủy xương; năm 1884, chồng của Anna qua đời vì mộ căn bệnh dạ dày nghiêm trọng; năm 1886, người con rể Leopold xứ Anhalt qua đời và vào năm 1888, người con trai cả Friedrich Wilhelm qua đời trong một chuyến đi biển từ Batavia đến Singapore.
Qua đời và an táng.
Maria Anna dành những năm cuối đời tại Frankfurt và qua đời tại đây vào ngày 12 tháng 6 năm 1918 khi đã 82 tuổi. Giáo hoàng Biển Đức XV đã ban lời chúc lành cho Anna. Ngày 17 tháng 6, Maria Anna được an táng tại Nhà thờ Thánh Anton, nơi mà Vương tôn nữ đã quyên góp ủng hộ và là nơi Anna thường đến cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ. Giám mục Limburg là Augustinus Kilian đã cử hành lễ cầu siêu cho Anna. Buổi lễ có sự góp mặt của Nữ vương Wilhelmina của Hà Lan và nhiều thành viên của các vương thất khác nhau. Quan tài của Anna được đưa đến Fulda bằng tàu hỏa và Vương tôn nữ được chôn cất ở Thánh đường Fulda theo yêu cầu của Anna, trước Bàn thờ Thánh Anna, gần mộ của Thánh Boniface. Dòng chữ Latin trên mộ phần của Anna ghi rằng:
Tư liệu liên quan tới |
Kristen Rogheh Ghodsee (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1970) là một nhà dân tộc chí người Mỹ giữ học hàm Giáo sư Khoa Nghiên cứu Đông Âu và Nga tại Đại học Pennsylvania. Bà được biết đến chủ yếu vì các công trình liên quan đến Bulgaria hậu cộng sản, cũng như các đóng góp cho ngành nghiên cứu giới tính hậu xã hội chủ nghĩa.
Đóng góp học thuật.
Hoài niệm đỏ, nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, và chủ nghĩa tân tự do.
Năm 2004, Ghodsee xuất bản một trong những bài luận đầu tiên phân tích về bình diện giới tính của hiện tượng hoài niệm cộng sản ở Đông Âu. Ngay từ những năm 1990, rất nhiều học giả đã để ý đến hiện tượng "Ostalgie" ở Đông Đức và cái mà gọi là hoài niệm Nam Tư ở những quốc gia hậu thân của CHXHCN Nam Tư. Các công trình sớm về nỗi hoài niệm cộng sản tập trung vào các bình diện tiêu dùng và coi đó là giai đoạn cần thiết để dân chúng Đông Âu hậu cộng sản vượt qua quá khứ của đất nước họ. Trái lại, khái niệm "hoài niệm đỏ" của Ghodsee cân nhắc về vấn đề những người đàn ông và phụ nữ đã đương đầu thế nào với sự mất mát các lợi thế vật chất mà họ được hưởng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Thay vì nuối tiếc những kỷ niệm cũ, hoài niệm đỏ tạo thành cơ sở của một phê phán về các biến động chính trị và kinh tế đặc trưng của thời kỳ hậu xã hội chủ nghĩa.
Theo Ghodsee, Tổ chức Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản là một tổ chức bảo thủ chống cộng, luôn tìm cách quy chụp chủ nghĩa cộng sản với các vụ giết hại, chẳng hạn như việc họ dựng các biển quảng cáo ở Quảng trường Thời đại với các khẩu hiệu tuyên truyền như "100 năm, 100 triệu người bị giết" và "Chủ nghĩa Cộng sản giết người." Ghodsee cho rằng tổ chức này, cùng nhiều tổ chức bảo thủ khác ở Đông Âu, tìm mọi cách để thể chế hóa trình thuật "Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản" như một lý thuyết diệt chủng kép, hay nói cách khác là sự đánh đồng giữa Holocaust của Đức Quốc xã (dựa trên chủng tộc) và các cuộc bức hại dưới chế độ cộng sản (dựa trên giai cấp). Ghodsee lập luận rằng con số 100 triệu hoàn toàn vô lý vì họ trích dẫn nó từ tác phẩm "Sách đen chủ nghĩa cộng sản" của Stéphane Courtois. Bà cũng cho rằng nỗ lực tẩy trắng lịch sử cộng sản của các tổ chức bảo thủ chống cộng đang được tăng cường, nhất là vào thời điểm khủng hoảng tài chính 2007–08, và đây có thể coi là một phản ứng của giới tinh hoa kinh tế chính trị nhằm chống lại sự trỗi dậy của cánh tả trong bối cảnh bất bình đẳng kinh tế lên cao ở cả phương Đông lẫn phương Tây như là hậu quả của chủ nghĩa tư bản tân tự do. Ghodsee cho rằng các thành tựu giáo dục, nữ quyền và an ninh xã hội dưới các chế độ cộng sản thường bị ém đi, theo đó các diễn ngôn liên quan đến chủ nghĩa cộng sản thường bị định hướng sang các tội ác của Stalin và thuyết diệt chủng kép. |
Hong Min-gi (; sinh ngày 5 tháng 10 năm 1992), còn được gọi là MadLife (), là một streamer, bình luận viên và cựu tuyển thủ Liên Minh Huyền Thoại chuyên nghiệp người Hàn Quốc. Trong khoảng thời gian còn thi đấu, MadLife đã nổi danh toàn cầu với hai vị tướng Thresh, Blitzcrank và được xem là "một trong những người chơi hỗ trợ xuất sắc nhất thế giới". Anh còn là á quân trong màu áo Azubu Frost.
Sự nghiệp thi đấu.
MadLife bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp từ mùa 2 khi anh chơi cho MiG Frost, một đội tuyển ở Hàn Quốc. Đội sau đó đã đổi sang nhà tài trợ mới là Azubu vào giữa năm 2012 và đổi tên thành Azubu Frost. MadLife cùng đồng đội đã giành được tấm vé vào chơi sau khi toàn thắng 3 ván trước CLG Europe. Azubu Frost sau đó đã tiến được đến trận chung kết và để thua trước đối thủ là Taipei Assassins, kết thúc giải đấu ở vị trí á quân.MadLife đã ở lại Azubu Frost sau mùa 2 và tiếp tục chơi cho các đội kế thừa của nó sau này. Anh đã thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế qua màn thể hiện hai vị tướng Thresh và Blitzcrank ở CJ Entus. Năm 2016, MadLife thông báo chia tay Hàn Quốc để ký hợp đồng với một đội challenger ở Bắc Mỹ là Gold Coin United. Tuy vậy, anh đã không thể bay sang Hoa Kỳ trong vài tuần đầu của giải đấu do vấn đề visa. Sau hai thất bại liên tiếp để giành vé chơi tại LCS NA, MadLife đã rời Gold Coin United vào tháng 11 năm 2017. Khi về lại Hàn Quốc vào đầu năm 2018, anh đã nhận được nhiều lời đề nghị từ các đội quốc nội cũng như Trung Quốc, Châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ. Anh đã từ chối tất cả và thay vào đó tập trung vào sự nghiệp streamer của mình. MadLife sau đó đã thông báo từ giã sự nghiệp thi đấu vào ngày 19 tháng 6 năm 2018. |
Danh sách vùng đất của Sao Hỏa
Danh sách dưới đây liệt kê các vùng đất của Sao Hỏa theo quy tắc đặt tên của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU). Các vùng đất này có thể là planitia hoặc planum tùy thuộc vào độ cao. Trong tiếng Việt, "planitia" được dịch là bình nguyên (vùng đất thấp) và "planum" được dịch là cao nguyên (vùng đất cao), phân biệt với "terra" được dịch là cao địa (vùng đất rộng lớn ở trên cao).
Planitia (số nhiều: planitiae) trong tiếng Latin có nghĩa là đồng bằng. Theo thuật ngữ miêu tả của IAU thì đây là những đồng bằng ở thấp.
Planum (số nhiều: plana) trong tiếng Latin có nghĩa là cao nguyên. Theo thuật ngữ miêu tả của IAU thì đây là những cao nguyên và những đồng bằng ở cao. |
Hiệu ứng Matilda là một hiện tượng phân biệt đối xử giới trong công tác khoa học, trong đó những đóng góp của phụ nữ trong khoa học bị đánh giá thấp hoặc được quy cho nam giới. Khái niệm được lấy tên theo Matilda Joslyn Gage (1826 – 1898), một và theo chủ nghĩa bãi nô. Bà là người đầu tiên mô tả hiện tượng này trong tiểu luận "Women as Inventor" (xuất bản lần đầu dưới dạng truyền đơn vào năm 1870 và in lại trên tạp chí American North Review vào năm 1883). Thuật ngữ Hiệu ứng Matilda – "Matilda effect" được nhà sử học khoa học tạo ra trong một nghiên cứu xuất bản vào năm 1993.
Hiệu ứng Matilda là mặt trái của Hiệu ứng Matthew, một hiện tượng khi một nhà khoa học lỗi lạc thường nhận được nhiều công lao hơn một nhà nghiên cứu tương đối ít tên tuổi, kể cả khi công trình của họ có điểm tương đồng.
Năm 1969, lúc Margaret Rossiter 24 tuổi, khi đó còn là một học viên sau đại học ngành lịch sử khoa học tại Yale, đã nhận ra rằng các nhà khoa học nữ thường bị gạt ra ngoài lề và những đóng góp của họ không được đánh giá cao như những đồng nghiệp nam. Trong một buổi trò chuyện giữa một nhóm giáo sư và sinh viên, Rossiter đã hỏi các giáo sư rằng liệu đã từng có nhà khoa học nữ nào chưa. Câu trả lời rất rõ ràng: "Không. Không bao giờ. Không có." và thậm chí họ còn cho rằng Marie Curie, người hai lần đoạt giải Nobel, chỉ là trợ lý cho chồng bà. Rossiter đã không nói gì, bà cho rằng đề tài này với họ sẽ không có sự chấp nhận. Về sau Margaret Rossiter đã dành một thập kỷ thu thập tư liệu và cho ra mắt công trình khoa học "Women Scientists in America, Struggles and Strategies to 1940" (1982), "khai quật" lại những cuộc đời bị chôn vùi của nhiều nhà khoa học nữ đi trước. Đây là tác phẩm được cho là một nỗ lực tiên phong và đồng thời có tính cách mạng cho việc ghi nhận sự hiện diện của những tri thức nữ trong quá khứ và tương lai.
Trong bài báo "The Matthew/Matilda Effect in Science" (1993), Rossiter giải thích lý do chọn cái tên Matilda cho hiện tượng nhức nhối này vì Matilda Gage là người đã nhận thức được, cũng như lên án, khuynh hướng đàn ông cấm phụ nữ gặt hái thành quả từ công sức khó nhọc của chính họ, và trên thực tế nhận thấy rằng phụ nữ làm càng nhiều thì đàn ông xung quanh người phụ nữ càng được hưởng lợi và người phụ nữ càng ít được công nhận." Và bà Matilda cho tới ngày nay (tức thời điểm xuất bản) vẫn chưa được biết đến, thế nên chính bà là sự hiện thân thích hợp cho hiện tượng này.
Vào ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại Đại học Toulouse của Pháp, một con hẻm Matilda được khánh thành với phương châm "vì vị trí xứng đáng của phụ nữ trong khoa học".
Hiệp hội các nhà nghiên cứu và công nghệ phụ nữ Tây Ban Nha (AMIT) đã tạo ra một phong trào mang tên "#NomoreMatildas" để tôn vinh Matilda Joslyn Gage. Mục tiêu của chiến dịch là thúc đẩy số lượng phụ nữ tham gia khoa học ngay từ khi còn nhỏ, xóa bỏ những định kiến giới.
Từ việc phân tích hơn một nghìn ấn phẩm khoa học từ năm 1991 đến năm 2005, Silvia Knobloch-Westerwick và Carroll J. Glynn đã chứng minh rằng các nhà khoa học nam thường xuyên trích dẫn các xuất bản của tác giả nam hơn các xuất bản của tác giả nữ.
Năm 2012, hai nhà nghiên nữ cứu từ Đại học Radboud Nijmegen, Marieke van den Brink và Yvonne Benschop, đã chỉ ra rằng ở Hà Lan giới tính của ứng viên cho vị trí giảng dạy ảnh hưởng đến đánh giá lên họ. Các trường hợp tương tự được mô tả trong một nghiên cứu của Ý cũng được chứng thực bởi các nghiên cứu ở Tây Ban Nha. Mặt khác, một số nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt giữa số trích dẫn và ảnh hưởng của các bài báo của tác giả nam và của tác giả nữ.
Fabienne Crettaz von Roten, một nhà nghiên cứu nữ khác người Thuỵ Sĩ, chỉ ra rằng các bên truyền thông đại chúng mời những nhà khoa học nam lên sóng thường xuyên hơn so với những đồng nghiệp nữ của họ.
Theo Lincoln và cộng sự trong một nghiên cứu năm 2012 ở Hoa Kỳ, "mặc dù nhìn chung sự phân biệt giới tính công khai đang tiếp tục giảm trong xã hội Mỹ", "phụ nữ vẫn tiếp tục gặp thiệt thòi trong việc nhận các trao giải và giải thưởng khoa học, đặc biệt là cho công tác nghiên cứu."
Quan điểm chuyên gia.
Theo chia sẻ kinh nghiệm của PGS.TS Nguyễn Phương Thảo (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bệnh truyền nhiễm, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) năm 2023, bên cạnh lý do "xây tổ ấm", "vị trí đòi hỏi sức khoẻ", định kiến "phụ nữ tham vọng", thì chính sách, đãi ngộ thấp ở nữ giới so với đồng nghiệp nam chính là rào cản lớn nhất cho họ khi hoạt động khoa học và công nghệ. Dù phụ nữ có công tác khoa học, giảng dạy, hướng dẫn nhiều không kém đồng nghiệp nam, nhưng họ vẫn có những thiệt thòi trên nhiều phương diện, đặc biệt là tư cách tác giả chính, lương bổng, thu nhập. Ở nữ giới nói chung và nhà khoa học nữ nói riêng thường cảm thấy bị đối xử bất công, coi thường và không được tôn trọng trong công việc. |
Pempheris oualensis là một loài cá biển thuộc chi "Pempheris" trong họ Cá bánh lái. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1831.
Từ định danh "oualensis" được đặt theo tên gọi của đảo Oulan, nay gọi là Kosrae, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–"ensis": hậu tố Latinh biểu thị nơi chốn).
"P. oualensis" có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, được ghi nhận từ biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài đến về phía đông đến quần đảo Line, quần đảo Marquises và đảo Ducie, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ogasawara và quần đảo Ryukyu, giới hạn phía nam đến Nam Phi, Úc (gồm cả đảo Lord Howe) và đảo Rapa Iti.
"P. oualensis" cũng được ghi nhận dọc theo vùng biển Việt Nam, như cù lao Chàm (Quảng Nam), đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), Ninh Thuận, hòn Cau (Bình Thuận), cũng bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
"P. oualensis" sống trong các đầm phá nước trong và trên rạn san hô ngoài khơi, khá phổ biến dọc theo mào rạn, độ sâu đến ít nhất là 36 m.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "P. oualensis" là 22 cm.
Số gai ở vây lưng: 6; Số tia vây ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 36–45; Số tia vây ngực: 16–19. |
KHB hay Higashinippon Broadcasting Co.,Ltd. (株式会社東日本放送, Kabushiki-gaisha Higashinippon Hōsō) là mạng truyền hình địa phương Nhật Bản có trụ sở tại thành phố Sendai, tỉnh Miyagi. Thành lập vào ngày 30 tháng 10 năm 1974. KHB là thành viên liên kết với mạng truyền hình All-Nippon News Network. |
Matilda Joslyn Gage (nhũ danh Joslyn; 24 tháng 3 năm 1826 – 18 tháng 3 năm 1898) là một nhà văn và nhà hoạt động xã hội người Mỹ. Bà chủ yếu được biết đến nhờ những đóng góp cho quyền bầu cử của phụ nữ ở Hoa Kỳ, quyền của người Mỹ bản địa, chủ nghĩa bãi nô (chấm dứt chế độ nô lệ) và tư tưởng tự do trong tín ngưỡng và tôn giáo. Tên của bà được đặt cho hiệu ứng Matilda, mô tả xu hướng từ chối công nhận hoặc đánh giá thấp những đóng góp của phụ nữ trong khoa học. Bà đã ảnh hưởng đến con rể L. Frank Baum, tác giả cuốn "Phù thủy xứ Oz".
Bà là diễn giả trẻ nhất tại Công ước Quốc gia về Quyền Phụ nữ năm 1852, được tổ chức tại Syracuse, New York. Bà là một công dân và một diễn giả không biết mệt mỏi, đồng thời đã đóng góp nhiều bài báo cho báo chí, được coi là "một trong những nhà văn khoa học, dũng cảm và logic nhất trong thời đại của bà". Cùng với Susan B Anthony và Elizabeth Cady Stanton, Gage đã giúp thành lập Hiệp hội quyền bầu cử Phụ nữ Quốc gia ("National Woman Suffrage Association") vào năm 1869. Trong thời gian 1878–1881, bà xuất bản và biên tập tờ "National Citizen", một tờ báo đề cao sự nghiệp của phụ nữ. Cùng với Elizabeth Cady Stanton và Susan B. Anthony, bà đã đi đầu trong phong trào đấu tranh vì quyền bầu cử trong nhiều năm và cộng tác với họ để viết "Lịch sử về quyền bầu cử của phụ nữ" (1881–1887). Bà là tác giả của cuốn "Giáo lý về Quyền của Phụ nữ" (1868); "Người phụ nữ là nhà phát minh" (1870); "Ai đã lên kế hoạch cho Chiến dịch Tennessee" (1880); và "Phụ nữ, Giáo hội và Nhà nước" (1893).
Trong nhiều năm, bà đã liên kết với Hiệp hội quyền bầu cử phụ nữ quốc gia, nhưng khi quan điểm của bà về quyền bầu cử và nữ quyền trở nên quá cấp tiến đối với nhiều thành viên, bà đã thành lập "Liên minh Tự do Quốc gia của Phụ nữ", với mục tiêu là: Khẳng định quyền tự nhiên của phụ nữ để tự quản; chỉ ra nguyên nhân chậm trễ trong việc ghi nhận yêu cầu của mình; bảo vệ các nguyên tắc tự do dân sự và tôn giáo; khơi dậy dư luận về nguy cơ hợp nhất giữa nhà thờ và nhà nước thông qua việc sửa đổi hiến pháp, đồng thời tố cáo học thuyết về sự thấp kém của phụ nữ. Bà giữ chức chủ tịch của liên minh này từ khi thành lập vào năm 1890 cho đến khi qua đời ở Chicago vào năm 1898. |
Kim Linh thánh mẫu
Kim Linh thánh mẫu (Tiếng Trung Giản Thể: 金灵圣母; Tiếng Trung Phồn Thể: 金靈聖母; Bính Âm Hán Ngữ: "Jīnlíng Shèngmǔ"; là 'Thánh mẫu (của) Kim Linh') là một nhân vật trong tiểu thuyết Trung Quốc thế kỷ 16 "Phong Thần Diễn Nghĩa" còn được gọi là "Lễ Tấn Phong Của Các Vị Thần".
Trong "Phong Thần Diễn Nghĩa" , Kim Linh thánh mẫu là một trong bốn đệ tử chính của Thông Thiên Giáo Chủ , được cho là mạnh mẽ hơn mười hai vị kim tiên bất tử của Xiển Giáo. Kim Linh thánh mẫu có hai đệ tử: Văn Trọng và Dư Nguyên .
Trong Trận chiến tại Vạn Tiên Trận, cô đã đánh chết Công chúa Long Cát và Hồng Cẩm , đồng thời 1 mình đối đầu với ba vị đại tiên của Xiển Giáo : Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn , Phổ Hiền Chân Nhân và Từ Hàng Đạo Nhân . Mặc dù cô đã giành chiến thắng trong trận chiến chống lại 3 đại tiên, nhưng cuối cùng cô lại phải chịu chết dưới tay của Nhiên Đăng Đạo Nhân đánh lén với Xâu Chuỗi Định Hải Châu.
Bà được bổ nhiệm làm Thần của Bảng Phong Thần, người đứng đầu Ðẩu Bộ Chánh Thần (紫薇之尊), người có 84.000 ngôi sao và linh hồn dưới sự chỉ huy của cô. Địa vị của cô ấy rất quan trọng và có địa vị cao trên thiên đàng. Cô phụ trách Đẩu Bộ, cư trú tại vùng Đẩu Bộ và giữ vị trí cao nhất trong những nơi ở Chu Thiên. Trong những giáo lý bí truyền của Đạo giáo, cô ấy được coi là giống như .
Kim Linh thánh mẫu là một trong những vị thần chính ở làng Lang Phường ở Hải Đông . Cô được tôn sùng là nữ thần sinh sản trong ngôi làng này và trang phục của cô được trang trí bằng vô số nhân vật. Các học giả coi những nhân vật này là biểu tượng rõ ràng về khả năng sinh sản, biểu thị lời cầu nguyện của cộng đồng cho cuộc sống sung túc, thịnh vượng. |
Lyman Frank Baum (; 15 tháng 5 năm 1856 – 6 tháng 5 năm 1919) là một tác giả nổi tiếng người Mỹ với những tác phẩm khoa học giả tưởng dành cho trẻ em, nổi tiếng nhất là tác phẩm "Phù thủy xứ Oz". Ngoài 14 cuốn sách của xứ Oz, Baum còn viết 41 cuốn tiểu thuyết khác (không bao gồm 4 cuốn tiểu thuyết thất lạc, chưa được xuất bản), 83 truyện ngắn, hơn 200 bài thơ và ít nhất 42 kịch bản. Ông đã nỗ lực rất nhiều để đưa tác phẩm của mình lên sân khấu và màn ảnh; bản chuyển thể năm 1939 của cuốn sách đầu tiên của xứ Oz đã trở thành một bước ngoặt của điện ảnh thế kỷ XX.
Sinh ra và lớn lên ở ngoại ô thành phố New York, Baum chuyển về miền Tây sau một thời gian không thành công với tư cách là nhà sản xuất và nhà viết kịch sân khấu. Ông và vợ mở một cửa hàng ở Nam Dakota, bản thân ông thì trở thành biên tập và xuất bản một tờ báo. Sau đó, họ chuyển đến Chicago, nơi ông làm phóng viên báo và xuất bản văn học thiếu nhi, ra mắt cuốn sách xứ Oz đầu tiên vào năm 1900. Trong khi tiếp tục viết lách, trong số các dự án cuối cùng của mình, ông đã tìm cách thành lập một xưởng phim tập trung vào sản xuất phim thiếu nhi ở Los Angeles, California.
Các tác phẩm của ông đã dự đoán trước những ứng dụng phổ biến sau này như tivi, thực tế tăng cường, máy tính xách tay ("The Master Key"), điện thoại không dây ("Tik-Tok xứ Oz"), phụ nữ làm các công việc có tính rủi ro cao và nặng nhọc ("Sách Chim xanh"), và sự phổ biến của quảng cáo quần áo ("Các cháu gái của dì Jane tại nơi làm việc").
Mẹ vợ của ông là nhà hoạt động xã hội người Mỹ Matilda Joslyn Gage, và tư tưởng của bà được cho là đã ảnh hưởng đến ông khá nhiều. |
Thủ tướng Nhà nước Palestine
Thủ tướng Nhà nước Palestine (tiếng Ả Rập: رئيس وزراء دولة فلسطين), là người đứng đầu Chính phủ Nhà nước Palestine, một quốc gia không được công nhận rộng rãi ở Tây Á. Thủ tướng Nhà nước Palestine được bổ nhiệm bởi Tổng thống Nhà nước Palestine.
Hiện nay, người đang giữ chức vụ Thủ tướng Nhà nước Palestine là ông Mohammad Shtayyeh, một chuyên gia kinh tế và thành viên Ban chấp hành trung ương đảng Fatah.
Theo Hiến pháp Palestine năm 2003, quyền hạn của Thủ tướng Nhà nước Palestine bao gồm:
1. Chủ trì các cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng Palestine và đề xuất các chính sách, chiến lược, kế hoạch và dự án quốc gia.
2. Giám sát việc thực hiện các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng và các nghị quyết của Hội đồng Quốc gia Palestine.
3. Đề xuất các bộ trưởng và các cơ quan ngang bộ cho Tổng thống để bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm.
4. Ký các hiệp định quốc tế và các văn bản pháp lý khác theo sự ủy quyền của Tổng thống.
5. Báo cáo về hoạt động của chính phủ trước Hội đồng Quốc gia Palestine và Hội đồng Lập pháp Palestine. |
Áo tắm trong văn hóa đại chúng
Áo tắm trong văn hóa đại chúng ("Bikini in popular culture") đề cập đến hình ảnh của Bikini trong văn hóa đại chúng trên toàn cầu. Bộ đồ tắm Bikini hiện đại xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1946 và kể từ đó nó đã trở thành một phần của văn hóa đại chúng ngày nay. Đây là một trong những bộ áo tắm dành cho phụ nữ được ăn mặc rộng rãi nhất, được sử dụng để bơi lội và ăn bận trong nhiều bối cảnh khác. Ngày nay, bikini xuất hiện trong các cuộc thi sắc đẹp, phim ảnh, tạp chí, âm nhạc, văn học, truyện tranh, trò chơi điện tử và các loại hình giải trí khác. Bất chấp việc có nhiều trang phục hở hang quyến rũ hơn, việc làm người mẫu bikini vẫn được ưa chuộng và vẫn có thể gây ra nhiều tranh cãi. Việc miêu tả bikini trong văn hóa đại chúng ở một mức độ rộng lớn đã khiến xã hội phương Tây chấp nhận nó nói chung. Năm 1960, bài hát nhạc pop "Itsy Bitsy Teenie Weenie Yellow Polkadot Bikini" của Brian Hyland đã truyền cảm hứng cho làn sóng mua sắm bikini.
Bộ bikini trắng được Ursula Andress mặc khi vào vai Honey Ryder trong bộ phim James Bond năm 1962 có tựa đề "Dr. No" được coi là một trong những người mặc bikini nổi tiếng nhất mọi thời đại. Đến năm 1963 thì bộ phim "Beach Party" với sự tham gia của Annette Funicello và Frankie Avalon đã dẫn đầu một làn sóng phim đưa bikini trở thành biểu tượng của văn hóa đại chúng. Tạp chí "Playboy" lần đầu tiên xuất hiện hình bikini trên trang bìa vào năm 1962. Tạp chí thể thao Sports Illustrated Sweater Issue ra mắt hai năm sau đó. Sự nổi tiếng ngày càng tăng này còn nhờ sự xuất hiện của nó trong các bộ phim đương đại như "How to Stuff a Wild Bikini" có sự góp mặt của Annette Funicello và "One Million Years B.C." - Một triệu năm trước Công nguyên (1966) có sự góp mặt của Raquel Welch. Bộ bikini lông thú của Raquel Welch trong phim One Million Years B.C. đã trở thành khoảnh khắc nổi tiếng trong lịch sử điện ảnh. Các minh tinh Hollywood như Marilyn Monroe, Jayne Mansfield, Gina Lollobrigida và Jane Russell càng giúp cho bikini ngày càng trở nên phổ cập. Các áp phích ghim của Monroe và Mansfield, Hayworth, Bardot và Raquel Welch được phân phối trên khắp toàn cầu đã góp phần đáng kể vào sự phổ biến của bikini trong xã hội.
Cuộc thi sắc đẹp.
Những cuộc thi áo tắm là một hình thức giải trí dành cho người lớn trong đó những nữ thí sinh cạnh tranh phô diễn với nhau trong trang phục bikini với tư cách là cuộc thi sắc đẹp (phần thi áo tắm) và những cuộc thi này có thể diễn ra trong các quán bar, hộp đêm, vũ trường, câu lạc bộ thoát y, trên bãi biển và tại các cuộc thi sắc đẹp, cũng như trong thời gian tạm dừng các trận đấu quyền anh hoặc đấu vật và tại các đợt triển lãm ô tô. Các cuộc thi thể hình cũng có thể có các phần thi bikini. Việc phụ nữ mặc bikini tại các cuộc thi áo tắm ngày càng trở nên phổ biến hơn. Các cuộc thi bikini cũng có thể diễn ra qua Internet từ những phụ nữ gửi ảnh mình mặc bikini. Các cuộc thi bikini có thể được tổ chức hoặc tài trợ bởi các công ty liên quan nhằm mục đích tiếp thị hoặc nhằm tìm kiếm và thu hút tài năng mới để quảng bá sản phẩm của họ.
Một số thí sinh thi bikini phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực, nâng môi. Các cuộc thi bikini vẫn có thể gây tranh cãi ở một số nơi trên thế giới. Khi Mariyah Moten tham gia cuộc thi Hoa hậu Bikini hoàn vũ ở Bắc Hải, Trung Quốc năm 2006 cô là cô gái Pakistan đầu tiên tham gia cuộc thi bikini gây ra sự phẫn nộ ở quê nhà. Cô cũng trở thành người tham gia được chụp ảnh nhiều nhất trong cuộc thi và giành danh hiệu Người đẹp nhất trong Truyền thông/Hoa hậu báo chí. Một năm sau cô là Á hậu 2 trong cuộc thi Hoa hậu Quốc tế Châu Á và Hoa hậu Thế giới Châu Á và được xuất hiện trên trang bìa cuốn lịch "Những cô gái Nam Á gợi cảm" (Sexy South Asian Girls) năm 2007.
10 hình tượng áo tắm trong văn hóa đại chúng
Micheline Bernardini là người mẫu áo tắm đầu tiên (1946)br
Annette Funicello và "Beach Party" (1960s)br
Bộ bikini trắng của Ursula Andress (1962)br
Tạp chí thể thao Sports Illustrated (1964)br
Bộ bikini đồng của Công chúa Leia trong "Return of the Jedi" (1983)br
The Bộ áo tắm đồng phục của đội Olympic bóng chuyền bãi biển (1996)br
Miss America ra mắt phần thi áo tắm (1997)
Loạt phim "kinh điển" được American International Pictures (AIP) sản xuất và lần lượt được nhiều hãng phim khác phóng tác. AIP đã sản xuất một loạt bảy bộ phim về bãi biển như "Beach Party" (1963), "Muscle Beach Party" (1963), "Bikini Beach" (1964), "Pajama Party" (1964), "Beach Blanket Bingo" (1965), "How to Stuff a Wild Bikini" (1965), and "The Ghost in the Invisible Bikini" (1966). Một tập phim năm 2001 của loạt phim truyền hình Sabrina – Cô phù thủy nhỏ ("Beach Blanket Bizarro") thì Avalon và Funicello đóng vai chính trong "Back to the Beach" vào năm 1987 của hãng Paramount Pictures đã thể hiện vai trò ban đầu và sự nghiệp tiếp theo của họ. Kelly Killoren Bensimon đã viết trong "The Bikini Book" rằng: "Tất cả thực sự là về Annette Funicello. Nếu cô gái nhà bên cạnh muốn mặc bikini thì mọi người đều muốn mặc bikini. Chúng tôi không muốn trở thành một Bond girl xấu. Tất cả chúng tôi đều thực sự muốn trở thành một cô gái tốt". Tuy nhiên, khi Annette Funicello được chọn tham gia bộ phim bãi biển đầu tiên của cô ấy là "Beach Party" (1963) thì Walt Disney đã giữ hợp đồng với cô ấy nhất quyết yêu cầu cô ấy chỉ mặc đồ tắm khiêm tốn và che rốn để giữ gìn tính cách trong lành của mình, mặc dù cô là người duy nhất trong số rất nhiều phụ nữ trẻ trong phim không để lộ rốn.
Trong bộ phim năm 1962 có tựa đề "Dr. No", Cô nàng tóc vàng ("Bond girl") do Ursula Andress thủ vai xuất hiện từ biển với bộ Bikini trắng của Ursula Andress được coi là một trong những cảnh đáng nhớ nhất trong loạt phim điệp viên Anh. Bộ bikini trắng đó được mô tả là "thời khắc quyết định quá trình tự do hóa chủ nghĩa khêu gợi trên màn ảnh của những năm sáu mươi". Nó được coi là một trong những bộ bikini quan trọng nhất trong lịch sử khi doanh số bán bộ bikini hai mảnh tăng vọt sau sự xuất hiện của Andress trong Dr. NO. Kênh 4 tuyên bố đây là khoảnh khắc bikini đỉnh cao trong lịch sử điện ảnh Kênh Virgin Media xếp thứ chín trong top 10 và đứng đầu trong Bond girl, "The Herald" (Glasgow) đánh giá cảnh này là hay nhất từ trước đến nay dựa trên một cuộc thăm dò. Đài BBC nhận xét tằng ""Phong cách mang tính biểu tượng đến mức nó được lặp lại 40 năm sau bởi Halle Berry trong bộ phim điệp viên Bond Die Another Day (Hẹn chết vào ngày khác)". Trong một cuộc khảo sát với 1000 phụ nữ nhân kỷ niệm 60 năm bikini, Andress trong bộ bikini trắng được bình chọn là "Nữ thần bikini tối thượng".
Nữ diễn viên Raquel Welch khi vào vai nữ chính đã mặc bộ bikini lông thú trong phim "One Million Years B.C." (1966) đã khiến cô ấy trở thành một cô gái nổi bật ngay lập tức. Welch được giới thiệu trong quảng cáo của studio là "người mặc bộ bikini đầu tiên của nhân loại"" và bộ bikini sau đó được mô tả là "diện mạo dứt khoát của những năm 1960". Cô ấy đã được quảng bá một cách chiến lược để nâng cao giá trị của bộ phim bằng cách lặp lại mình mẫu "Raquel Welch trong bộ bikini lông thú" năm lần trong đoạn giới thiệu, khiến nó trở thành lý do để xem phim. Vai diễn mặc bikini lông thú của cô đã đưa Raquel Welch trở thành biểu tượng thời trang và bức ảnh cô mặc bikini đã trở thành áp phích quảng cáo pinup bán chạy nhất. Một tác giả cho biết: “"Mặc dù trong phim chỉ có ba câu thoại nhưng vóc dáng quyến rũ trong bộ bikini lông thú đã khiến cô trở thành ngôi sao và là cô gái trong mơ của hàng triệu khán giả trẻ"”.
Trong bộ phim năm 1983 có tựa đề "Return of the Jedi", nữ chính Công chúa Leia (do Carrie Fisher thủ vai) mặc bộ bikini kim loại vốn là trang phục nữ nô lệ thường được các fan nữ bắt chước tại các hội nghị "Chiến tranh giữa các vì sao". Bộ bikini dây kim loại bao gồm một chiếc áo yếm có hoa văn bằng đồng với đường viền cổ cong, khoét sâu được buộc chặt phía sau cổ và lưng bằng dây. Phần dưới của quần lót có các tấm đồng ở háng phía trước và phía sau được che một phần bằng lụa đỏ khố. Leia đi bốt da cao, buộc tóc để buộc bím tóc đuôi ngựa của cô xõa qua vai phải, hai chiếc vòng tay và một chiếc khăn quấn tay hình con rắn. Cô ấy cũng đeo một sợi dây chuyền và cổ áo (BDSM) mà sẽ trói cô ấy kiểu Bondage (BDSM) với kẻ bắt giữ cô ấy là Jabba the Hutt thứ mà cô ấy đã dùng để giết anh ta. Bộ trang phục được làm bằng đồng thau và gây khó chịu đến mức nữ diễn viên Carrie Fisher đã mô tả nó là "thứ mà các siêu mẫu cuối cùng sẽ mặc trong vòng địa ngục thứ bảy". Trang phục nữ nô lệ Leia đã được nâng lên thành biểu tượng văn hóa đại chúng, tạo ra nhiều trò giả mạo và nhại lại (bao gồm cả tập "Những người bạn", "The One with the Princess Leia Fantasy").
Kể từ năm 1964 khi tạp chí "Sports Illustrated" đã xuất bản số áo tắm hàng năm có hình người mẫu thời trang mặc bikini trên trang bìa và trong phần hình ảnh (Photo-essay) các vấn đề đã trở thành một biểu tượng văn hóa. Đối với số đầu tiên "Số báo áo tắm minh họa thể thao", biên tập viên tạp chí Andre Laguerre đã nhờ phóng viên thời trang Jule Campbell giúp tìm người mẫu Cô ấy đã tìm thấy người mẫu thời trang gốc Berlin Babette March và giới thiệu cô ấy trên trang bìa, mặc bộ bikini màu trắng bơi lội cưỡi trên những con sóng ở Cozumel, Mexico. "Vấn đề áo tắm" hàng năm có sự góp mặt của những người mẫu thời trang mặc đồ bơi ở những địa phương xa lạ. Sự hòa nhập được coi là tiêu chuẩn để chấm điểm các siêu mẫu. Năm 2006, tạp chí "Maxim" đã tung ra bộ bikini Polyvinyl chloridel-mesh rộng 33m trong sa mạc phía nam Nevada, Hoa Kỳ có Eva Longoria từ chương trình "Những bà nội trợ kiểu Mỹ" (Desperate Housewives) mà tuyên bố rằng nó có thể được nhìn thấy từ ngoài không gian.
Hầu hết các nghệ sĩ đều miêu tả Red Sonja, một nhân vật Truyện tranh Marvel được Roy Thomas và Barry Windsor-Smith tạo ra thường xuyên lui tới với truyện Conan the Barbarian và được xếp hạng đầu tiên trong danh sách "100 phụ nữ quyến rũ nhất trong truyện tranh" của Comics Buyer's Guide mặc một bộ trang phục áo giáp vảy ngắn củn cỡn giống bikini, thường đi bốt và đeo găng tay. Ghita của Alizarr là một nhân vật khác được Frank Thorne tạo ra sau khi anh ấy ngừng làm dự án Red Sonja của Marvel Comics, được thu hút cả trong và vẻ bề ngoài của cô ấy với bộ bikini bọc thép trong tiểu thuyết đồ họa "chỉ dành cho người lớn" có tên "Ghita of Alizarr" Eros Comix được xuất bản.
Darna, một nhân vật được nhà văn Mars Ravelo và nghệ sĩ Nestor Redondo tạo ra cho nhà xuất bản Filipino Comics Mango Comics, luôn mặc một biến thể cổ điển của cô ấy trang phục bikini màu đỏ với một ngôi sao vàng trên mỗi chiếc mũ yếm. Rulah, Jungle Goddess, một nhân vật truyện tranh được Matt Baker thiết kế cho Fox Feature Syndicate, mặc một bộ bikini làm từ da của một con hươu cao cổ đã chết. Kiani, một nhân vật phụ của "Fathom", một bộ truyện tranh do họa sĩ Michael Turner tạo ra cho Aspen Comics theo truyền thống được xem chỉ mặc bộ bikini có trang trí bằng rạn san hô.
Tác giả và họa sĩ truyện tranh Mike Grell đã thiết kế nhân vật Shadow Lass trong bộ truyện Legion of Heroes ("Binh đoàn Lê dương của những Anh hùng") mặc một bộ bikini đen bóng làm trang phục cho DC Comics. Trong thời gian mình làm lãnh đạo, một nhân vật khác của Legion là Saturn Girl đã mặc một bộ bikini màu hồng làm trang phục của mình và cô ấy tiếp tục mặc trang phục này cho đến năm 1982. Nhà văn-nghệ sĩ Budd Root đã tạo ra Cavewoman cho Basement Comics một hình tượng khêu gợi Cô gái rừng rậm với đôi chân trần trong bộ bikini da rắn.
Có nhiều cuốn sách phi hư cấu có chủ đề về bikini, chẳng hạn như:
Hướng dẫn về cơ thể bikini bao gồm:
Ngoài ra còn có những tác phẩm hư cấu như:
Khi Jayne Mansfield và chồng cô ấy Miklós Hargitay đi lưu diễn cho các buổi biểu diễn trên sân khấu, báo chí viết rằng Mansfield đã thuyết phục người dân nông thôn rằng cô ấy sở hữu nhiều bikini hơn bất kỳ ai. Kathryn Wexler của thời báo "The Miami Herald" đã viết: "Ban đầu như chúng ta biết, có Jayne Mansfield. Ở đây, cô ấy mặc bộ bikini họa tiết da báo hoặc sọc, hít thở không khí để khoe cơ thể nổi bật của mình như một tài sản". Bộ bikini da báo của cô ấy vẫn là một trong những mẫu thời trang đầu tiên. Nữ diễn viên/người mẫu Phoebe Price mặc bộ bikini nữ nô lệ của Công chúa Leia tại San Diego Comic-Con International năm 2010. Liana K, người đồng chủ trì người Canada của "Ed Red's Night Party" và người hóa trang cosplay nổi tiếng đã ra mắt trong trang phục Công chúa Trang phục nữ nô lệ của Leia sự kiện Calgary Comic Entertainment Expo 2008.
Tại Việt Nam, hãng hàng không VietJetAir đã tổ chức cuộc thi bikini trên chuyến bay đầu tiên vào tháng 12 năm 2011, và khi một video về màn trình diễn trở thành hit trên YouTube, hãng hàng không này đã bị Cục Hàng không Dân dụng nước này phạt vào tháng 8 năm 2012 cho quy định hàng không địa phương. Go-go Dances biểu diễn như một vũ công theo điệu nhạc nhanh, tràn đầy năng lượng, phổ biến được thuê để giải trí cho đám đông ở những nơi như quán bar, hộp đêm và vũ trường theo cách kích thích tình dục trong khi mặc rất ít quần áo, thường là bikini. Bikini bar tương tự như các cơ sở go-go bar (một loại Câu lạc bộ giải trí, vũ trường, hộp đêm) và múa thoát y ngoại trừ vú và vùng sinh dục của người biểu diễn nữ hoặc các vũ công thoát y thường được che chắn trong suốt thời gian họ biểu diễn. "Twin Peaks" là một chuỗi quán bar thể thao và nhà hàng (nhà hàng vú) có trụ sở tại Dallas, Texas, được biết đến với việc các nữ tiếp viên mặc đồng phục hở hang như Cleavaage và midriff để lộ áo kẻ sọc đỏ (đôi khi là bikini đen) và quần đùi ngắn bằng kaki. |
Sữa hữu cơ ("Organic milk") là thuật ngữ dùng để chỉ một số sản phẩm sữa được chăn nuôi gia súc lấy sữa theo phương pháp nông nghiệp hữu cơ. Về mặt tổng quát pháp lý, việc sử dụng thuật ngữ "hữu cơ" hoặc tương đương như "sinh học" hoặc "sinh thái" trên bất kỳ sản phẩm nào đều do cơ quan quản lý thực phẩm quy định. Nhìn chung, các quy định này quy định rằng vật nuôi phải được phép chăn thả, được cho ăn thức ăn gia súc hoặc thức ăn hỗn hợp được chứng nhận hữu cơ, không được điều trị bằng hầu hết các loại thuốc (bao gồm hormone tăng trưởng bò) và nói chung phải được đối xử nhân đạo với động vật. Có nhiều trở ngại trong việc đưa ra kết luận chắc chắn về lợi ích về an toàn thực phẩm hoặc an toàn về sức khỏe có thể có được từ việc tiêu thụ sữa hữu cơ hoặc sữa thông thường, bao gồm cả việc thiếu các nghiên cứu lâm sàng dài hạn.
Các nghiên cứu hiện có đã đưa ra những kết luận trái ngược nhau về sự khác biệt tuyệt đối về hàm lượng chất dinh dưỡng giữa sữa hữu cơ và sữa được sản xuất thông thường, chẳng hạn như hàm lượng protein hoặc axit béo. Sức thuyết phục của bằng chứng sẵn có không ủng hộ quan điểm rằng có bất kỳ ý nghĩa lâm sàng liên quan nào giữa sữa hữu cơ và sữa được sản xuất thông thường, về mặt dinh dưỡng hoặc độ an toàn. Về hương vị thì có một đánh giá lưu ý rằng một số người tiêu dùng thích hương vị của sữa hữu cơ, trong khi những người khác thì không, và cho rằng lượng xử lý nhiệt có thể là một yếu tố quan trọng trong việc xác định hương vị của sữa. Một số phương pháp xử lý nhất định, chẳng hạn như xử lý siêu nhiệt được các nhà sản xuất sữa sử dụng, có thể mang lại cho sản phẩm sữa này hương hạt dẻ nhè nhẹ. Nhìn chung, kết quả thử nghiệm hương vị là ""không rõ ràng" về việc sữa hữu cơ hay sữa thông thường được ưa chuộng hơn.
Đối với kiến thức khoa học về lợi ích sức khỏe và an toàn từ chế độ ăn thực phẩm hữu cơ, một số yếu tố hạn chế khả năng khi nói rằng chế độ ăn như vậy có lợi hoặc có hại cho sức khỏe. Phân tích tổng hợp năm 2012 lưu ý rằng "chưa có nghiên cứu dài hạn nào về kết quả sức khỏe của người dân chủ yếu tiêu thụ thực phẩm hữu cơ so với thực phẩm được sản xuất thông thường để kiểm soát các yếu tố kinh tế xã hội; những nghiên cứu như vậy sẽ rất tốn kém khi thực hiện". Một phân tích tổng hợp năm 2009 đã lưu ý rằng có rất ít nghiên cứu xem xét kết quả trực tiếp về sức khỏe con người. Những khó khăn trong việc đo lường chính xác và có ý nghĩa sự khác biệt về mặt hóa học giữa sữa hữu cơ và sữa thông thường khiến việc ngoại suy các khuyến nghị về sức khỏe chỉ dựa trên phân tích hóa học trở nên khó khăn. Các tác giả của phân tích tổng hợp năm 2012 cuối cùng đã kết luận rằng đánh giá "đã xác định được bằng chứng hạn chế về tính ưu việt của thực phẩm hữu cơ. Bằng chứng không cho thấy lợi ích sức khỏe rõ rệt từ việc tiêu thụ thực phẩm hữu cơ so với thực phẩm thông thường"". |
Thực phẩm tự nhiên
Thực phẩm tự nhiên ("Natural food") hay còn gọi là thực phẩm hoàn toàn tự nhiên ("All-natural food") là các thuật ngữ trong quá trình dán nhãn thực phẩm và hoạt động tiếp thị với nhiều định nghĩa, thường ám chỉ các loại thực phẩm không phải được sản xuất bằng cách chế biến theo kiểu công nghiệp. Ở một số quốc gia như Vương quốc Anh, thuật ngữ "tự nhiên" được định nghĩa và quản lý, ở những nước khác, chẳng hạn như Hoa Kỳ, thuật ngữ "tự nhiên" không được áp dụng cho nhãn thực phẩm, mặc dù Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ có quy định về việc ghi nhãn hữu cơ. Thuật ngữ này được cho là để mô tả các loại thực phẩm có thành phần bên trong thực phẩm chưa qua chế biến.
Trong khi hầu hết các loại thực phẩm đều có nguồn gốc từ các sản phẩm tự nhiên của thực vật và động vật thì thực phẩm tự nhiên thường được coi là thực phẩm không đã chế biến hoặc không chứa bất kỳ phụ gia thực phẩm nào hoặc không chứa các chất phụ gia cụ thể như hormone, chất kháng sinh, chất làm ngọt, chất tạo màu, chất bảo quản, phụ gia hoặc hương liệu ban đầu không có trong thực phẩm. Trên thực tế, có khá nhiều người (63%) khi được khảo sát đã thể hiện sự ưa thích đối với các sản phẩm được dán nhãn "tự nhiên" so với các sản phẩm không có nhãn hiệu, dựa trên niềm tin chung (86% người tiêu dùng được thăm dò) rằng thuật ngữ "tự nhiên" chỉ ra rằng thực phẩm không chứa bất kỳ thành phần nhân tạo nào. Thuật ngữ này bị sử dụng sai mục đích trên nhãn mác và trong các quảng cáo. Quy tắc "Codex Alimentarius" của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) không công nhận thuật ngữ "thực phẩm tự nhiên" nhưng có tiêu chuẩn cho thực phẩm hữu cơ. |
Nhẫn ma thuật ("Magic ring") là một món đồ trang sức thần thoại, dân gian hoặc hư cấu, thường là chiếc nhẫn đeo trên ngón tay, được cho là có đặc tính huyền diệu hoặc sức mạnh siêu nhiên. Chiếc nhẫn ma thuật xuất hiện thường xuyên trong truyện giả tưởng và cổ tích. Những chiếc nhẫn ma thuật được tìm thấy trong văn hóa dân gian của mọi quốc gia nơi có thói quen đeo nhẫn. Một số chiếc nhẫn ma thuật có thể ban cho người đeo nhiều khả năng khác nhau bao gồm khả năng tàng hình và sự hộ mệnh bất tử. Những người khác có thể ban những điều ước hoặc bùa chú như tình yêu và hạnh phúc không bao giờ kết thúc. Những câu chuyện ban đầu về những chiếc nhẫn ma thuật có từ thời cổ đại. Triết gia Plato trong cuốn sách thứ hai của Nền Cộng hòa, kể một câu chuyện về Ring of Gyges được ban phép tàng hình cho chủ nhân của nó.
Đôi khi, những chiếc nhẫn ma thuật có thể bị nguyền rủa, chẳng hạn như chiếc nhẫn thần thoại được Sigurð thâu thập từ kho báu của con rồng Fáfnir trong thần thoại Bắc Âu hoặc chiếc nhẫn hư cấu xuất hiện trong loạt phim Chúa tể của những chiếc nhẫn (). Tuy nhiên, thường xuyên hơn, chúng được coi là năng lượng tốt hoặc như một công cụ trung lập có giá trị phụ thuộc vào người đeo. Nhẫn đeo trên tay là một sự lựa chọn thuận tiện cho một vật phẩm ma thuật, nó là vật trang trí, đặc biệt và thường độc đáo, một vật phẩm thường được đeo, có hình dạng thường có đặc tính thần bí (hình tròn), có thể mang một viên đá bị mê hoặc và thường được đeo. trên một ngón tay, có thể dễ dàng chiếu vào mục tiêu. James George Frazer trong một nghiên cứu về ma thuật và mê tín trong tác phẩm "The Golden Bough" đã suy đoán về tác dụng mà những chiếc nhẫn có thể mang lại trong "tâm trí nguyên thủy", như một vật phẩm ngăn chặn linh hồn rời khỏi trái đất và cơ thể và ngăn chặn ma quỷ xâm nhập do đó, một chiếc nhẫn ma thuật có thể mang lại sự bất tử bằng cách ngăn chặn sự ra đi của linh hồn và ngăn cản sự xâm nhập của bất kỳ phép thuật có hại nào có thể nhắm vào người đeo. |
Haruna Hana (, Haruna Hana 8 tháng 11 năm 1988 –) là một nữ diễn viên khiêu dâm và cựu thần tượng áo tắm người Nhật Bản.
Vào khoảng năm hai cấp hai, ngực của cô bắt đầu phát triển cũng như chiều cao. Cỡ ngực tại thời điểm này của cô là khoảng Cup C-D. Sau khi làm lễ tân tại một nhà khách, cô đã tham gia ngành giải trí vào khoảng tháng 12/2008 do người quen giới thiệu. Sau đó, cô đã tham gia Giải thưởng Thần tượng áo tắm Nhật Bản lần thứ hai, và từ tháng 12/2009 đến tháng 5/2010, cô đã xuất hiện với tư cách là người mẫu số 4 trong dự án hàng loạt "Lớp học Yoga áo tắm dành cho nhân viên văn phòng" của Gekkan Charger.
1/7/2010, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng MUTEKI, và sau đó cô đã chuyển sang hãng phim S1 vào tháng 12. Tháng 4/2012, cô trở thành thành viên nhóm Ebisu Muscats của TV Tokyo. Cô đã đeo kính trong lần xuất hiện đầu tiên, tuy nhiên đã không đeo chúng kể từ đó. Vào tháng 9/2014, cô đã chuyển hãng phim sang Tameike Gorō. 20/11/2016, của hàng trực tuyến của nhãn hiệu "Runawer" do cô làm chủ sẽ được mở.
Trong thời gian làm thần tượng áo tắm, và từ khi ra mắt ngành phim khiêu dâm đến khi hoạt động độc lập, cô được biết đến nhờ ngực lớn và đường cong trên thân hình, tuy nhiên kể từ những năm 2020, khi cô bắt đầu xuất hiện nhiều hơn trong các phim với vai phụ nữ già dặn, cô bắt đầu thể hiện thân hình mập mạp, hoang dã và bộ ngực săn chắc của mình. |
Paratha (tiếng Ấn Độ: पर, hoặc परा+स्थः, hay स्थित) là một loại bánh mì dẹt có nguồn gốc từ Nam Á, loại bánh mì này có nguồn gốc lâu đời theo những thư tịch ghi chép sớm nhất về Paratha được đề cập trong văn tự tiếng Phạn đầu thời trung cổ từ Karnataka, Ấn Độ sau đó phổ biến khắp các quốc gia hiện đại Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan, Nepal, Bangladesh, Maldives, Afghanistan, Myanmar, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Mauritius, Fiji, Guyana , Suriname và Trinidad và Tobago trong đó lúa mì là loại lương thực truyền thống chủ yếu. Công thức chế biến các loại lúa mì nhồi khác nhau (được mô tả là Paratha) được nhắc đến trong "Manasollasa" - một bộ bách khoa toàn thư tiếng Phạn do Someshvara III biên soạn vào thế kỷ XII.
Bánh mì "Paratha" là sự kết hợp của các từ "parat" và "atta", nghĩa đen là các lớp bột đã nấu chín. Các cách viết và tên thay thế bao gồm "parantha", "parauntha", "prontha", "parontay", "paronthi" (trong tiếng Punjabi), "porota" (trong trong tiếng Bengali), "paratha" (trong trong tiếng Odia, Urdu , Hindi), "porotta" (trong tiếng Malayalam, trông tiếng Tamil), "palata" (trong tiếng Miến Điện), "porotha" (bằng trong tiếng Assamese), "forota" (bằng tiếng Sylheti), "farata" (ở Mauritius và Maldives), "prata" (ở Đông Nam Á), "paratha", "roti" (ở Khối thịnh vượng chung Caribe) và Roti Canai ở Malaysia. Tác giả O'Brien (2003) cho rằng sẽ không đúng khi nói rằng Paratha là từ trong tiếng Punjabi đã được phổ biến ở Delhi sau sự phân chia Ấn Độ năm 1947 vì thuật ngữ Punjabi đã phổ biến ở Delhi trước đó.
Paratha là một trong những loại bánh mì dẹt không men phổ biến nhất ở tiểu lục địa Ấn Độ, nó được làm bằng bột nguyên cám nghiền mịn (atta) từ bột lúa mì và/hoặc bột mì trắng (Maida), đôi khi với trứng hoặc ghee. Bánh mì Paratha thông thường dày hơn và chắc hơn so với chapati/roti vì chúng được xếp lớp bằng cách phủ một lớp bơ sữa trâu hoặc dầu và gấp lại nhiều lần, giống như phương pháp được sử dụng cho bánh phồng hoặc bánh mì, với bột nhiều lớp và kết quả là có độ đặc sệt. Paratha có thể nhồi nhiều loại nguyên liệu và được chế biến theo nhiều kiểu chế biến khác nhau, theo truyền thống tùy thuộc vào vùng xuất xứ và có thể không xài kỹ thuật gấp bột. Để đạt được kiểu bột nhiều lớp cho các món paratha đơn giản, tồn tại một số kỹ thuật truyền thống khác nhau thì phải phết dầu lên chiếc bánh đã cán mỏng, gấp qua lại như quạt giấy và cuộn dải thành hình tròn trước khi cán phẳng, đem nướng trên tava và/hoặc chiên sơ. Một phương pháp khác là cắt một hình tròn bột từ tâm đến chu vi dọc theo bán kính của nó, bôi dầu vào bột và bắt đầu cán từ mép cắt để tạo thành hình nón, sau đó ép thành hình đĩa và cán mỏng. Phương pháp bôi dầu và gấp bột nhiều lần như trong bánh phồng của phương Tây cũng thường có cách làm kiểu này, và phương pháp này được kết hợp với các kiểu gấp tạo ra các hình dạng truyền thống của những chiếc Paratha đã hoàn thành. |
Hero MotoCorp là một công ty đa quốc gia của Ấn Độ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các loại xe máy và xe tay ga có trụ sở chính tại New Dehli. Công ty hiện là một trong những nhà sản xuất xe hai bánh lớn nhất trên thế giới và chiếm khoảng 46% thị phần trong ngành công nghiệp sản xuất xe hai bánh của Ấn Độ. ính đến ngày 27 năm 2021[ [cập nhật]], giá trị vốn hóa thị trường của công ty đạt 59,600 karor.
Hero Honda được thành lập vào năm 1984 sau sự hợp tác liên doanh giữa Hero Cycle của Ấn Độ và Honda của Nhật Bản. Vào tháng 6 năm 2012, Hero MotoCorp đã phê duyệt đề xuất sáp nhập chi nhánh của Hero Investment Pvt. Ltd. vào nhà sản xuất ô tô. Quyết định này được đưa ra khoảng 18 tháng sau khi công ty tách khỏi Hero Honda.
Các vốn đầu tư cổ phiếu.
Vào tháng 7 năm 2013, Hero MotoCorp đã mua lại 49.2% cổ phần của Erik Buell Racing, một công ty sản xuất mô tô thể thao có trụ sở chính tại East Troy, Wisconsin, Hoa Kỳ.
Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2014, công ty có khoảng 6,782 người lao động (trong đó số lao động là nữ chiếm tỷ lệ khoảng 1.1%). Tại thời điểm đó, công ty có khoảng 13.800 nhân viên tạm thời. Tỷ lệ nhân viên nghỉ việc của công ty đạt 5.1% trong báo cáo tài chính các năm 2012–2013. |
Danh sách tứ giác của Sao Hỏa
Bề mặt của Sao Hỏa được Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) chia thành 30 tứ giác. Mỗi tứ giác là một vùng có phạm vi vĩ độ và kinh độ được xác định. Các tứ giác được đặt tên theo các đặc điểm địa hình albedo nổi bật tại tứ giác tương ứng, được đánh số từ 1 đến 30 với tiền tố "MC" ("Mars Chart") chạy theo chiều từ bắc xuống nam và từ tây sang đông.
Các tứ giác có hình chữ nhật trên bản đồ phép chiếu hình trụ, nhưng vì bề mặt của Sao Hỏa cong theo hình cầu của hành tinh, nên hình dạng của các tứ giác trong thực tế là hình tứ giác Saccheri. 16 tứ giác ở xích đạo là nhỏ nhất với diện tích bề mặt mỗi phần là 4.500.000 km2, trong khi 12 tứ giác ở vĩ độ trung bình có diện tích 4.900.000 km2. Hai tứ giác ở cực là lớn nhất với diện tích bề mặt là 6.800.000 km2.
Năm 1972, chương trình "Mariner 9" của NASA gửi về hàng ngàn bức ảnh, chụp bao phủ hơn 80% bề mặt Sao Hỏa. Năm đó và năm tiếp theo, Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA đã hợp tác với chương trình nghiên cứu địa chất thiên văn của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) để tổng hợp ảnh chụp của Mariner thành bản đồ chi tiết đầu tiên về Sao Hỏa. Để tổ chức và chia nhỏ công việc này, USGS đã chia bề mặt hành tinh thành 30 tứ giác, mỗi tứ giác được đặt tên theo đặc điểm địa hình albedo nổi bật tại khu vực tương ứng, và giao các nhà địa chất tại USGS và các trường đại học ở Mỹ để lập bản đồ và nghiên cứu từng tứ giác đó.
Các chương trình thăm dò Sao Hỏa sau này tạo ra nhiều bản đồ ngày càng chính xác, Liên đoàn Thiên văn Quốc tế đặt tên cho các tứ giác này theo những đặc điểm bề mặt và địa chất tương ứng. Những cái tên này cũng được lấy từ các đặc điểm địa hình albedo nổi bật, do vậy đôi khi trùng với tên các tứ giác do USGS đặt.
Các bản đồ dưới đây được dựng từ dữ liệu của (tạm dịch: Thiết bị đo độ cao bằng laser từ quỹ đạo Sao Hỏa) của tàu Mars Global Surveyor. Các vùng màu đỏ là vùng cao hơn so với các vùng màu xanh. Bản đồ các tứ giác ở xích đạo dùng phép chiếu Mercator, bản đồ các tứ giác ở vĩ độ trung bình dùng phép chiếu hình nón đồng góc Lambert, bản đồ các tứ giác ở hai cực dùng phép chiếu lập thể cực. |
Elisabeth của Sachsen (tiếng Đức: Elisabeth von Sachsen; 4 tháng 2 năm 1830 – 14 tháng 8 năm 1912) là Vương nữ Sachsen và là vợ của Ferdinando của Sardegna, con trai thứ hai của Quốc vương Carlo Alberto I của Sardegna. Elisabeth còn là mẹ của Vương hậu Margherita của Ý.
Elisabeth sinh vào ngày 22 tháng 4 năm 1830 ở Dresden, thủ đô của Vương quốc Sachsen, là con gái thứ hai và là người con thứ ba của Johann I của Sachsen và Amalie Auguste của Bayern. Thông qua cha, Elisabeth là cháu nội của Maximilian Maria của Sachsen và Carolina xứ Parma. Thông qua mẹ, Elisabeth là cháu ngoại của Maximilian I của Bayern và Karoline xứ Baden.
Hôn nhân và hậu duệ.
Ngày 22 tháng 4 năm 1850, Elisabeth kết hôn Vương tử Ferdinando của Sardegna, Công tước thứ 1 xứ Genova, con trai thứ hai của Carl Alberto I của Sardegna và Maria Theresia Franziska của Áo tại Nhà thờ Dresden. Cuộc hôn nhân của Elisabeth và Ferdinando là một cuộc hôn nhân sắp đặt và được cho là không có tình yêu.
Hai vợ chồng có hai người con:
Ngày 10 tháng 2 năm 1855, Ferdinando qua đời ở Torino, khiến cho Elisabeth trở thành góa phụ ở độ tuổi 25.
Trước khi năm ở góa thứ hai kết thúc, Elisabeth đã tái hôn vào ngày 4 tháng 10 năm 1856 với người hầu phòng Niccolò Bernoud, Hầu tước xứ Rapallo. Hai người kết hôn bí mật trước khi Elisabeth kết thúc thời gian để tang. Hành động này đã khiến anh chồng của Elisabeth là Vittorio Emanuele II của Ý tức giận đến mức ra lệnh trục xuất Elisabeth và không cho phép Elisabeth gặp hai đứa con của mình. Tuy nhiên, sau đó ba mẹ con đã được đoàn tụ.
Năm 1882, người chồng thứ hai của Elisabeth tự sát. Trước đó đã có những lời đàm tiếu trong triều đình thường ám chỉ rằng cuộc hôn nhân của hai người không hạnh phúc, và việc Niccolò Bernoud tự sát đã châm thêm dầu cho những lời đồn này. Elisabeth không có con từ cuộc hôn nhân thứ hai.
Elisabeth gặp phải một cơn xuất huyết vào năm 1910, khiến sức khỏe của Elisabeth nhanh chóng suy giảm. Ngày 14 tháng 8 năm 1912, Elisabeth qua đời tại Piemonte thuộc Vương quốc Ý. |
Anna Maria của Sachsen
Anna Maria của Sachsen (Tên đầy đủ: "Anna Maria Maximiliane Stephania Karoline Johanna Luisa Xaveria Nepomucena Aloysia Benedicta von Sachsen"; sinh ngày 4 tháng 1 năm 1836 tại Dresden, Vương quốc Sachsen; mất ngày 10 tháng 2 năm 1859 tại Napoli, Vương quốc Hai Sicilie ) là con thứ bảy và là con gái lớn thứ tư của Johann I của Sachsen và Amalie Auguste của Bayern và là em gái của Albert của Sachsen và Georg của Sachsen. Anna Maria qua đời không lâu trước khi chồng có thể kế vị cha trở thành Đại công tước xứ Toscana.
Maria Anna sinh vào ngày 4 tháng 1 năm 1836 ở Dresden, thủ đô của Vương quốc Sachsen, là con gái thứ tư và là người con thứ bảy của Johann I của Sachsen và Amalie Auguste của Bayern. Thông qua cha, Elisabeth là cháu nội của Maximilian Maria của Sachsen và Carolina xứ Parma. Thông qua mẹ, Elisabeth là cháu ngoại của Maximilian I của Bayern và Karoline xứ Baden.
Hôn nhân và hậu duệ.
Anna Maria kết hôn với Ferdinando của Áo (Ferdinando IV xứ Toscana tương lai), con trai cả của Leopoldo II xứ Toscana và Maria Antonia của Hai Sicilie, vào ngày 24 tháng 11 năm 1856 tại Dresden. Anna Maria và Ferdinando có với nhau hai con: |
Apple M3 series là một hệ thống trên một vi mạch (SoC) dựa trên ARM được Apple Inc. thiết kế làm bộ xử lý trung tâm (CPU) và bộ xử lý đồ họa (GPU) cho máy tính để bàn và máy tính xách tay Mac của hãng. Đây là thế hệ thứ ba sử dụng cấu trúc ARM dành cho máy tính Mac của Apple sau khi chuyển từ Intel Core sang Apple silicon và là dòng chip kế nhiệm Apple M2. Apple đã công bố M3 vào ngày 30 tháng 10 năm 2023, tại sự kiện trực tuyến Nhanh dựng tóc gáy (Scary Fast) theo chủ đề Halloween, cùng với các mẫu iMac và MacBook Pro sử dụng M3.
Dòng M3 là thiết kế 3 nm đầu tiên của Apple dành cho máy tính để bàn và máy tính xách tay. Nó được sản xuất bởi TSMC.
GPU được thiết kế lại bao gồm các tính năng như Bộ nhớ đệm động, dò tia tốc độ cao bằng phần cứng và Đổ bóng dạng lưới.
Công nghệ Bộ nhớ đệm động phân bổ bộ nhớ cục bộ theo thời gian thực. Không giống như các phương pháp thông thường, Bộ nhớ đệm động đảm bảo rằng chỉ sử dụng lượng bộ nhớ chính xác cần thiết cho một tác vụ, từ đó tối ưu hóa việc sử dụng bộ nhớ và có khả năng nâng cao hiệu năng cũng như hiệu suất. Điều này đặc biệt có lợi cho các tác vụ đòi hỏi nhiều đến đồ họa, trong đó việc phân bổ bộ nhớ động có thể rất quan trọng.
Kiến trúc bộ nhớ hợp nhất của M3 có RAM lên tới 24 GB, M3 Pro lên tới 36 GB và M3 Max lên tới 128 GB. Giống như thế hệ M2, SoC M3 sử dụng SDRAM LPDDR5 6.400 . Giống như các SoC dòng M trước đây, nó đóng vai trò vừa là RAM vừa là RAM video.
M3 Pro và M3 Max 14 nhân có băng thông bộ nhớ thấp hơn lần lượt là M1/M2 Pro và M1/M2 Max. M3 Pro có bus bộ nhớ 192 bit trong đó M1 và M2 Pro có bus 256 bit, dẫn đến băng thông chỉ 150 GB/giây so với 200 GB/giây của các dòng tiền nhiệm. M3 Max 14 nhân có băng thông 300 GB/giây so với 400 GB/giây cho tất cả các mẫu M1 và M2 Max, trong khi đó M3 Max 16 nhân có cùng mức băng thông 400 GB/giây như các mẫu M1 và M2 Max trước đó.
Các tính năng khác.
Chip M3 series hỗ trợ giải mã AV1.
Apple đặc biệt nhắm đến mục tiêu khối lượng công việc và phát triển của AI, cả với Neural Engine và với bộ nhớ tối đa tăng lên (128 GB) của M3 Max, cho phép các mô hình AI có số lượng tham số cao.
Bảng dưới đây hiển thị các biến thể SoC khác nhau. |
Vịnh Avacha (vịnh ven bờ)
Vịnh Avacha () là một vịnh ven bờ ở Thái Bình Dương nằm tại bờ đông nam của bán đảo Kamchatka. Vịnh có chiều dài 24 km, chiều rộng 3 km với độ sâu tối đa là 26 m.
Sông Avacha chảy vào vịnh này. Trên bờ vịnh là thành phố cảng Petropavlovsk-Kamchatsky và thị trấn đã đóng cửa tên Vilyuchinsk. Vịnh Avacha là cửa ngõ giao thông chính của vùng Kamchatka. Vịnh bị đóng băng vào mùa đông.
Vịnh được phát hiện lần đầu tiên bởi nhà hàng hải người Đan Mạch là Vitus Bering vào năm 1729. Nó được khảo sát và lập bản đồ bởi thuyền trưởng Mikhail Tebenkov của hải quân hoàng gia Nga vào thập niên 1830.
Vịnh Avacha là nơi diễn ra vụ các sinh vật ở vùng đáy nước chết hàng loạt vào tháng 9–tháng 10 năm 2020.
Vịnh Avacha là một trong những vịnh lớn nhất thế giới. Nó có thể chứa vừa bất kỳ con tàu nào trên Trái Đất. Vịnh này nằm bên trong một vịnh lớn hơn là vịnh biển Avacha. Tổng diện tích của vịnh là 215 km². Các con sông chính chảy vào vịnh là sông Avacha và sông Paratunka. Đây là nơi đóng quân của hạm đội Thái Bình Dương Nga. |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Olympic-ro (Tiếng Hàn: 올림픽로, Hanja: 올림픽路) là con đường nối Khu liên hợp thể thao Seoul ở Jamsil 2-dong, Songpa-gu, Seoul đến Di tích khu dân cư thời tiền sử ở Amsa 2-dong, Gangdong-gu. Từ Khu liên hợp thể thao Seoul đến Giao lộ Seonsa, nó tương ứng với Tuyến đường thành phố Seoul số 90.
Các điểm dừng chính.
Đầu phía nam cầu Gwangjin - Công viên Cheonho-dong - Ga Amsa - Giao lộ Seonsa - Trường tiểu học Seoul Seonsa - Di tích khu dân cư thời tiền sử Amsa-dong |
Chiến tranh giành độc lập Venezuela
Chiến tranh giành độc lập Venezuela (, 1810–1823) là một trong những cuộc Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ XIX, khi các phong trào độc lập ở Nam Mỹ tiến hành một cuộc nội chiến đòi ly khai và chống lại sự thống nhất khỏi Đế chế Tây Ban Nha, hành động táo bạo sau những rắc rối của Tây Ban Nha trong Chiến tranh Napoleon.
Khủng hoàng Tây Ban Nha.
Tháng 7 năm 1807, Pháp tuyên chiến với Bồ Đào Nha nhằm trừng phạt các hành động được xem là chống lại Pháp: mở cửa giao thương với Anh, cho Hải quân Anh sử dụng cảng Lisbon, từ chối tham gia liên minh Lục địa. Vua Carlos IV Tây Ban Nha và Hoàng đế Napoléon Bonaparte Pháp đã bí mật ký Hiệp ước Fontainebleau ngày 27 tháng 10 năm 1807, nhằm phân chia lãnh thổ Bồ Đào Nha. Theo Hiệp ước, quân đội Pháp sẽ đưa quân đi qua lãnh thổ Tây Ban Nha để tiến đánh Bồ Đào Nha. Ngày 30 tháng 11 năm 1807, quân Pháp chiếm được Lisbon, Hoàng gia Bồ Đào Nha trốn thoát sang thuộc địa Brazil. Bồ Đào Nha chính thức bị chia làm 3 phần cho Pháp, Tây Ban Nha và Công quốc Parma.
Đầu năm 1808, các sư đoàn Pháp tiến quân chiếm đóng một số thành phố dọc biên giới Pháp-Tây Ban Nha của Tây Ban Nha. Tây Ban Nha yêu cầu giải thích nhưng với kết quả bế tắc đã rút quân của mình từ Bồ Đào Nha về nước. Tháng 3 năm 1808, Sự kiện Aranjuez nổ ra giữa phe ủng hộ Manuel de Godoy và phe nổi loạn ủng hộ Fernando, kết quả phe ủng hộ Fernando giành chiến thắng buộc Thủ tướng Godoy từ chức và Vua Carlos IV thoái vị đồng thời đưa Fernando VII lên ngôi. Napoléon vờ giải quyết sự xung đột bằng cách đưa quân vào Madrid trên danh nghĩa trung gian và mời vua Carlos IV và vua Fernando VII đến Bayonne, Pháp. Tại đây Napoléon đã buộc cả hai phải từ bỏ ngai vàng và trao lại cho chính mình, sau đó phong anh trai mình là Joseph I làm vua Tây Ban Nha.
Để chống đối lại sự cai trị của người Pháp, một số chính quyền (junta) các tỉnh đã kêu gọi thành lập chính quyền trung ương. Sau các cuộc đàm phám giữa Hội đồng Castile và chính quyền, vốn ban đầu ủng hộ Joseph I, đã thành lập Hội đồng chính quyền và Trung ương Tối cao Tây Ban Nha và Ấn Độ () ngày 25 tháng 9 năm 1808, tuyên thệ trung thành với ngôi vua Fernando VII. Từ cuối năm 1809, trước những thất bại nặng nề trên mặt trận quân sự, Hội đồng chính quyền và Trung ương Tối cao tuyến bố giải thể ngày 29 tháng 1 năm 1810 và thành lập Hội đồng Nhiếp chính Tây Ban Nha và Ấn Độ.
Cách mạng năm 1810.
Khủng hoảng chính trị ở chính mẫu quốc đã tạo ra khoảng trống quyền lực ở các thuộc địa Châu Mỹ của Tây Ban Nha. Đã có nhiều âm mưu thiết lập chính quyền tự trị thuộc địa riêng, nhưng Hội đồng Chính quyền và Trung ương Tối cao vẫn là cơ quan duy trì quyền hợp pháp.
Sau những thất bại quân sự trước quân Pháp năm 1810, đã có một số tin đồn về việc Tây Ban Nha đã thất trận lan truyền tới các thuộc địa. Hầu hết người Châu Mỹ gốc Tây Ban Nha không có lý do gì để công nhận một chính quyền yếu kém đang bị người Pháp đe dọa chiếm giữ bất cứ lúc nào, và nỗ lực thành lập các chính quyền địa phương để bảo vệ nền độc lập khỏi Pháp. Tối ngày 18 tháng 4 năm 1810, "cabildo" (hội đồng hành chính thuộc địa) bao gồm chủ yếu là các "mantuano" (tầng lớp thượng lưu tại địa phương) đã triệu tập một cuộc họp bất thường để thảo luận về tình hình Caracas với Thống đốc Venezuela Vicente Emparan. "Cabildo" đề xuất thành lập mội hội đồng quản lý địa phương độc lập khỏi Hội đồng Nhiếp chính, Emparan đã từ chối đề xuất. Ngày 19 tháng 4, "cabildo" đã kích động dân chúng phế truất Emparan và các chức sắc hoàng gia khác, đồng thời cũng thành lập Hội đồng Duy trì Tối cao Ngôi vua Fernando VII (còn được gọi Hội đồng Tối cao Caracas).
Ngày 20 tháng 4, hai đồng Chủ tịch ("alcalde") Hội đồng Tối cao Caracas là José de las Llamozas và Martín Tovar Ponte đã gửi tuyên bố tới các tỉnh khác trong Venezuela, tuyên bố báo cáo về cách mạng và khuyến khích các tỉnh khác tham gia vào Hội đồng. Tất cả các tỉnh đều tham gia, ngoại trừ các tỉnh Coro (trước thuộc tỉnh Venezuela tự tách ra tuyên bố trung thành Ngôi vua), tỉnh Maracaibo và Guayana, những tỉnh này tuyên bố trung thành với Hội đồng Nhiếp chính.
Thành lập Đệ nhất Cộng hòa.
Mặc dù mục tiêu chính thức Hội đồng Tối cao Caracas là bảo vệ lãnh thổ khỏi một cuộc xâm lược có thể xảy ra từ Pháp, ban đầu Hội đồng Tối cao ủng hộ "Ngôi vua Fernando VII", nhưng sau đó một số thành viên nhem nhóm ý tưởng biến Venezuela hoàn toàn độc lập, Francisco de Miranda, một người Venezuela xa xứ lâu năm, và Simón Bolívar, một quý tộc địa phương trẻ tuổi. Để biến ý tưởng thành hiện thực, Hội đồng Tối cao Caracas cử các đại diện ngoại giao đến Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, thành lập các chức vụ nhà nước và kêu gọi bầu cử quốc hội. Ngoài ra, Hội đồng còn thực hiện các biện pháp mang tính cách mạng khác, chẳng hạn như đại biểu người gốc châu Phi, bãi bỏ buôn bán nô lệ (nhưng không phải chế độ nô lệ), và tự do báo chí và thương mại.
Vào ngày 2 tháng 3 năm 1811, Đại hội đồng Venezuela (Quốc hội) được thành lập, thay thế Hội đồng Tối cao Caracas. Vào ngày 5 tháng 7 cùng năm, Quốc hội phê chuẩn nền độc lập với 43 phiếu ủng hộ và 1 phiếu chống, tuyên ngôn độc lập chính thức được thông qua, bắt đầu nền Cộng hòa đầu tiên.
Các chiến dịch quân sự nhằm đưa các tỉnh trung thành Hội đồng Nhiếp chính diễn ra:
Chiến dịch diễn ra từ tháng 10 năm 1810 đến tháng 5 năm 1811, quân viễn chính Caracas do Francisco Rodríguez del Toro chỉ huy dẫn khoảng gần 5000 quân tiến vào Coro. Phe Bảo hoàng do Fernando Miyares và José Ceballos chỉ huy, lần lượt là thống đốc Coro và Maracaibo, có khoảng 2000 quân.
Phe Ái quốc lần lượt giành chiến thắng sau một loạt các Trận Aguanegra (4/11), Pedregal (14/11), Aribanaches (15/11) và vào ngày 28 tháng 11 quân Caracas tấn công Coro. Vào ngày 30 tháng 11, Trận Sabaneta bắt đầu, phe Ái quốc giành chiến thắng, và Trận Guedequis, nơi Fernando Miyares giành chiến thắng. Quân Caracas đang tiến hành chiến dịch rất thuận lợi cho đến khi có tin quân tiếp viện từ Maracaibo đang đến. Trước nguy cơ bị bao vây, Francisco Rodríguez del Toro đã rút lui.
Ngay sau khi tuyên ngôn độc lập ở Caracas được lan tới thành phố Valencia, người dân trong thành phố đã tuyên bố nổi dậy và chiếm doanh trại chống lại Phe Ái quốc. Phe Ái quốc đã cử một quân đoàn viễn chinh do Francisco Rodríguez del Toro chỉ huy nhưng đã phải dừng bước sau khi gặp phải kháng cự ở Mariara. Francisco de Miranda được cử thay thế Toro làm chỉ huy quân viễn chinh. Miranda tiến quân vòng quanh Hồ Valenica và sau nhiều trận đánh, đã đến được thành phố Valencia. Được phòng thủ vững chắc, thành phố đã chống lại nhiều cuộc tấn công từ phe Ái quốc nhưng cuối cùng đã đầu hàng vào ngày 13 tháng 8.
Sau khi tỉnh Guayana, cũng như tỉnh Coro, không công nhận Hội đồng Tối cao Caracas, một đội quân khoảng 2,000 người từ Caracas và các tỉnh được cử đến tỉnh Guayana để chiếm và đánh bại lực lượng bảo hoàng. Sau một số trận đánh giành chiến thắng từ hải quân cộng hòa và đặt thành phố Angostura vào vòng vây, nhưng việc hải quân cộng hòa bị phá hủy nặng nề trong Trận hải chiến Sorondo (26/03/1812) buộc quân cộng hòa phải vượt sông Orinoco rút lui và kết thúc chiến dịch.
Domingo Monteverde, Đề đốc Venezuela, bắt đầu cuộc tái chiếm Venezuela bằng việc đổ bộ 150 người vào thành phố Coro. Tại đó, Monteverde đã gia tăng hàng ngũ bằng cách bổ sung những người trong thành phố ủng hộ bảo hoàng, chống cộng hòa và trung thành với Ngôi vua. Từ Coro, Monteverde hành quân cùng 400 người đến Siquisique, nơi ông tập hợp lực lượng với những người theo ủng hộ bảo hoàng là Juan de los Reyes Vargas và Andrés Torellas. Ngày 7 tháng 4 năm 1812, Monteverde chiếm Barquisimeto mà không gặp phải sự kháng cự nào, và vào ngày 25 tháng 4 ông đã có mặt ở San Carlos. Monteverde đối đầu với Francisco de Miranda trên đèo La Cabrera, nơi giao tranh ác liệt không vượt qua được cho đến khi ông vượt qua được thung lũng Aragua. Miranda rút lui về La Victoria, một thành phố được Miranda củng cố để tạo ra một hệ thống phòng thủ phù hợp chống lại quân Monteverde, người đã hai lần tấn công thành phố này nhưng không thành công. Sau khi Puerto Cabello (dưới sự chỉ huy của Simón Bolívar) rơi vào tay phe bảo hoàng, các cuộc đào ngũ liên tục và những thất bại nặng nề trước quân Monteverde, Miranda buộc phải ký một Văn kiện đầu hàng ở San Mateo vào ngày 25 tháng 7 năm 1812, chấm dứt Đệ nhất Cộng hòa Venezuela.
Đệ nhị Cộng hòa.
Với sự sụp đổ Đệ nhất Cộng hòa trước quân đội Monteverde, Simón Bolívar sống lưu vong, tới Curaçao và sau đó từ đó đến Các tỉnh thống nhất Tân Granada, nơi đã tuyên bố độc lập khỏi Tây Ban Nha khi đó.
Tại Cartagena, Bolívar viết một bản tuyên ngôn có tựa đề "Hồi ký gửi tới các công dân Tân Granada bởi một người gốc Caracas", trong đó Bolívar tóm tắt những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại nền Cộng hòa thứ nhất, tình hình mà người Mỹ gốc Tây Ban Nha đang gặp phải và đưa ra quan điểm của ổng về tương lai khu vực.
Sau khi viết tuyên ngôn, Bolivar đã yêu cầu Đại hội Tân Granada cho ông gia nhập quân đội và được thăng cấp Chuẩn tướng, được giao một đơn vị đồn trú mà ông sẽ thực hiện Chiến dịch Thần diệu.
Chiến dịch phía Đông.
Santiago Mariño cùng với 45 người sống lưu vong ở Trinidad đã gặp nhau vào ngày 11 tháng 1 năm 1813, trên đảo Chacachacare để xác định các bước tiếp theo cho tương lai Venezuela. Tại đây tất cả ký ban hành Đạo luật Chacachacare, trong đó chỉ định Santiago Mariño làm chỉ huy quân viễn chinh nhằm tái lập nền cộng hòa. Sau đó các thành viên đoàn viễn chinh lên đường đến Guiria, thực hiện chiến dịch phía Đông.
Nhóm viễn chinh chia làm hai nhóm: nhóm thứ nhất do Mariño chỉ huy và nhóm thứ hai do José Francisco Bermúdez chỉ huy. Ngày 13 tháng năm 1813, quân Mariño tấn công kiểu biệt kích vào Güiria,
Đội quân của Mariño tấn công Güiria vào ngày 13 tháng 1 bằng một cuộc tấn công kiểu biệt kích, quân Bermúdez đi theo hướng Cumaná và chiếm Irapa trên đường đi vào ngày 15 tháng 1. Francisco Cerveriz cố gắng tái chiếm Irapa nhưng bị đánh bại và rút lui về Yaguaraparo. Anh trai của Bermúdez, José Bernardo, dẫn đầu một đội quân về phía nam chiếm Maturín vào ngày 2 tháng 2.
Sau khi biết tin, Monteverde bắt đầu từ La Guaira với khoảng 550 người tiến về phía đông. Vào ngày 25 tháng 5, ông cố gắng chiếm Maturín nhưng bị Manuel Piar đánh bại trong Trận Alto de Los Godos. Đây là một trong những nỗ lực phe bảo hoàng nhằm chiếm lấy Venezuela và điều đáng chú ý là có sự tham gia phụ nữ trong trận chiến, chẳng hạn như Juana Ramírez "La Avanzadora".
Sau nhiều nỗ lực không thành công, Monteverde giao các hoạt động ở phía đông cho Chuẩn tướng Juan Manuel Cajigal và tiến về Caracas qua Barcelona để cố gắng ngăn chặn bước tiến quân Bolivar ở phía tây. Vào ngày 3 tháng 8, Mariño tiến vào Cumaná và vào ngày 19 tới Barcelona.
Chiến dịch Thần diệu.
Chiến dịch Thần diệu do Simón Bolívar chỉ huy, ông đã dẫn quân từ Tân Granada tái chiếm Venezuela.
Vào ngày 8 tháng 1 năm 1813, Bolívar chiếm thành phố Ocaña (thành phố quan trọng thứ hai ở Norte de Santander, sau Cúcuta) sau khi để lại một lối đi tự do ở Magdalena Medio, nhờ đó tạo ra một con đường đi lại giữa Bogotá và Cartagena.
Vào ngày 16 tháng 2, Bolívar lên đường đến Cúcuta vì lực lượng bảo hoàng do Ramón Correa chỉ huy truy kích. Trên đường đến Cúcuta, Bolívar đã đánh bại một lực lượng bảo hoàng đang chặn tại La Aguada. Vào ngày 28 tháng 2, tại Cúcuta đã nổ ra trận đánh giữa tướng Correa và Bolívar, trận chiến kéo dài trong 4 tiếng, quân bảo hoàng bị thiệt hại và phải rút lui. Thành phố Cúcuta được trao quyền độc lập khỏi quân bảo hoàng.
Bolívar đã yêu cầu sự giúp đỡ từ chính quyền Tân Granada thông qua Tuyên ngôn Cartagena, tuyên ngôn được chấp thuận ông được thực hiện những hành động quân sự tại Tân Granada.
Ngay sau khi nhận được sự ủy quyền từ chính quyền Tân Granada, vào ngày 14 tháng 5 năm 1813, Bolívar bắt đầu tiến quân về Venezuela. Đoàn viễn chinh gồm hai sư đoàn, Đại tá Atanasio Girardot chỉ huy đội tiên phong và Đại tá José Félix Ribas chỉ huy đội hậu cần. Các lực lượng này hành quân dọc theo tuyến đường San Cristóbal - La Grita - Mérida - Trujillo.
Sau đó, trước khi chỉ huy quân bảo hoàng Manuel Cañas rút lui về Carache, Girardot cùng đội quân tiên phong tiến vào Carache vào buổi chiều ngày 17 tháng 6. Vào buổi tối, chỉ huy quân bảo hoàng từ bỏ phòng tuyến mà mình chiếm giữ và đưa quân lên điểm cao Agua de Obispos. Vào ngày 18 tháng 6, cuộc đối đầu giữa lực lượng Girardot và Cañas đã diễn ra, kết quả quân Girardot đã giành chiến thắng và loại bỏ những đội quân có thể cản trở bước tiến quân Bolivar, đang ở tại thành phố Trujillo ngày 14 tháng 6. Tại Trujillo, Bolivar ra lệnh cho Ribas hành quân càng nhanh càng tốt từ Mérida về phía Boconó, với mục đích tạo yếu tố bất ngờ. Trong khi đó Girardot được lệnh rút lui về Trujillo.
Vào rạng sáng ngày 2 tháng 7 năm 1813, tại vùng đất hoang Niquitao (Boconó, Bang Trujillo) lực lượng Ái quốc tiếp cận quân Tây Ban Nha. Lúc 9 giờ sáng José Félix Ribas chỉ huy lực lượng Ái quốc tại đây, quan sát trang thiết bị phòng thủ quân Tây Ban Nha, xây dựng kế hoạch tác chiến. Khi gần đến gần quân Tây Ban Nha, Ribas ra lệnh cho binh lính ở trung quân, do Thiếu tá Rafael Urdaneta chỉ huy, nổ súng vào các vị trí quân Tây Ban Nha. Kết hợp với lệnh này, cánh phải đội trưởng José María Ortega thực hiện cuộc tấn công vào cánh trái quân Tây Ban Nha.
Cuộc tấn công khiến phe bảo hoàng phải rút khỏi phòng tuyến và chuyển sang một phòng tuyến quan trọng hơn. Cuộc tấn công quân Ái quốc tiếp tục trong ba giờ nữa nhưng không có kết quả rõ ràng ngoài việc chiếm một số vị trí không quan trọng. Bất ngờ Ribas ra lệnh cho kỵ binh hành quân tấn công hậu quân Tây Ban Nha.
Quân Tây Ban Nha bị đánh bại, bỏ chạy tán loạn. Lực lượng Ái quốc đã bắt 445 người quân bảo hoàng làm tù binh, thu được 450 khẩu súng trường, 60 thanh kiếm, 160 phát đại bác và một lượng lớn đạn dược. Tây Ban Nha thất bại nặng nề đến mức chủ huy bảo hoàng José Marti phải trốn thoát với sáu lính đồng hành. Đây là trận chiến đầu tiên mà đại tá Ribas giành chiến thắng. Sau trận chiến này, lực lượng Ái quốc tiếp tục hành quân tiến về đô thành Caracas.
Trận chiến nổ ra ngày 22 tháng 7 năm 1813 giữa phe Ái quốc do José Félix Ribas và Jacinto Lara chỉ huy đã đánh bại phe Bảo hoàng do Francisco Oberto chỉ huy. Oberto đã lựa chọn đồng bằng Los Horcones (bang Lara ngày nay) chiếm các vị trí quan trọng chờ quân Ribas. Đây là một trận chiến nhanh chóng và quyết tâm, khiến Ribas trở thành bậc thầy về pháo binh và giành chiến thắng với vọn vẻn hơn 500 quân. Quân Oberto với quân số đông hơn gấp đôi bị đánh bại, phe Ái quốc thu giữ được nhiều vũ khi trang thiết bị, bắt sống hơn 300 tù binh.
Với việc khải hoàn tiến vào Caracas vào ngày 6 tháng 8 năm 1813, phe Ái quốc đã hoàn thành Chiến dịch Thần diệu sau khi giành được những chiến thắng vĩ đại trước phe bảo hoàng, Bolívar được tuyên bố là Anh hùng giải phóng Venezuela và nền Cộng hòa thứ hai được khôi phục. Tuy nhiên việc giải phóng hoàn toàn Venezuela mới chỉ là bước đầu.
Thành lập Đệ nhị Cộng hòa.
Ngay sau khi tiến vào Caracas, vào ngày 7 tháng 8 năm 1813, Bolívar tuyên bố thành lập nên Cộng hòa thứ hai. Tuyên bố này diễn ra sau sự thất bại phe bảo hoàng do Domingo Monteverde chỉ huy trước Bolívar trong Chiến dịch Thần diệu ở phía tây và Santiago Mariño trong chiến dịch phía đông. Tuy nền Cộng hòa được tái lập nhưng vẫn còn những nhóm thân bảo hoàng rải rác khắp Venezuela. Theo ước tính chính thức từ những người cách mạng vào ngày 11 tháng 1 năm 1814, có 2,200 người thân bảo hoàng ở tỉnh Coro do Carlos Miguel Salomón lãnh đạo, 500 người ở San Felipe do José de Milliet lãnh đạo, 1,500 người ở Apure dp José Antonio Yáñez và Sebastián de la Calzada lãnh đạo, và 2,000 ở Calabozo do José Tomás Boves lãnh đạo, ngoài ra còn các thành phố Maracaibo và Puerto Cabello. Điều kỳ lạ là Boves và Yáñez chưa bao giờ hợp lực. Rõ ràng, mỗi bên đều thích hoạt động độc lập: Boves ở vùng đồng bằng Calabozo (tỉnh Caracas) và Yáñez ở tỉnh Barinas.
Nền cộng hòa kết thúc vào năm 1814, sau một loạt thất bại dưới tay José Tomás Boves.
Cuộc hành quân miền Trung, miền Tây Venezuela và miền nam Caracas.
Bolivar một lần nữa mở các cuộc hành quân chống lại các cuộc tấn công quân Tây Ban Nha vốn đang lan rộng ra khắp đất nước. Từ Caracas, ông cử trung tá Tomás Montilla đến vùng đồng bằng Calabozo đang bị quân Tây Ban Nha do José Tomás Boves chiếm đóng và Vicente Campo Elías áp sát thung lũng Tuy để bình định nơi có một cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đang diễn ra.
Ngày 21 tháng 9 năm 1813, Boves đã đánh bại đội quân tiền phương của Montilla trong cuộc bao vây Santa Catalina và tiến vào Calabozo mà không gặp phải sự phản kháng nào. Tại thung lũng Tuy, Elías đến Ocumare del Tuy vào ngày 26 tháng 8 và trong một thời gian ngắn đã bình định được khu vực, sau đó Elías đưa quân trở về về Caracas. Tại đô thành, Elías nhận được lệnh đến Calabozo để hỗ trợ Montilla, kết quả đánh bại Boves ở Mosquiteros vào ngày 14 tháng 10. Boves trốn thoát cùng Francisco Morales và chỉ 17 người đi theo.
Bolivar đến Valencia cùng với đội quân Rafael Urdaneta, nơi ông tập trung quân và chia chúng thành 3 đội hình: đội hình đầu tiên do Garcia de Sena chỉ huy đến Barquisimeto chống lại Reyes Vargas người da đỏ, đội hình thứ hai do Atanasio Girardot chỉ huy đến Puerto Cabello bằng đường qua Aguas Calientes và đội hình thứ ba do Rafael Urdaneta cũng đến Puerto Cabello nhưng bằng đường qua San Esteban. Sena giành chiến thắng Reyes Vargas ở Cerritos Blancos trong khi ở Puerto Cabello thì Urdaneta và Girardot chiếm các pháo đài Vigía Alta và Vigía Baja cũng như thị trấn xung quanh.
Monteverde nhận được quân tiếp viện từ Tây Ban Nha và mở cuộc tấn công vào Valencia. Bolívar chuẩn bị quân chặn đánh Monteverde ở Naguanagua; vào ngày 30 tháng 9, Bolívar đánh bại Monteverde trong trận Bárbula và một lần nữa ngày 3 tháng 10 trong trận Las Trincheras. Monteverde, bị thương nặng và quân đội bị tiêu diệt, buộc rút lui về Puerto Cabello; Bolívar quay trở lại Caracas sau khi chỉ đạo Urdaneta chống lại Coro.
Các cuộc hành quân Bolívar tại miền Tây.
Chuẩn tướng José Ceballos rời Coro vào ngày 23 tháng 9 để nhận quân tiếp viện, bổ sung thêm 1300 người. Sự di chuyển này khiến cuộc tấn công của Urdaneta, đang ở Galemotal chờ quân tiếp viện, không có tác dụng. Bolívar đưa đến đây một tiểu đoàn và hai đại đội đến từ ngày 7 đến ngày 8 tháng 11.
Ceballos tấn công thành công Barquisimeto vào ngày 10 tháng 11, trong khi Đại tá Salomón rời Puerto Cabello và tiến về Valencia qua Vigirima-Guacara nhưng bị đẩy lùi sau một trận giao tranh kéo dài vào các ngày 23, 24 và 25 tháng 11 và quay trở lại Puerto Cabello. Chiến thắng đã giúp Bolívar khai thông con đường di chuyển đến San Carlos, nơi ông tập trung quân và tổ chức quân đội thành 4 sư đoàn.
Bolívar tiến về Araure với một đội quân 5,000 người, trong thành phố có Ceballos đến từ Barquisimeto và Yanez đến từ Apure. Vào ngày 5 tháng 12, Bolívar đánh bại họ trong trận Araure sau đó ông quay trở lại Caracas.
Sau chiến thắng tại Araure, Urdaneta rời Guanare và García de Sena đến Barinas. Từ đó, Tướng Urdaneta tiếp tục hành quân về phía Barquisimeto theo hướng Coro, để bình định tỉnh Coro. Vào ngày 15 tháng 1 năm 1814, ông đánh bại Reyes Vargas người da đỏ ở Baragua sau một trận chiến ngắn nhưng ông phải quay trở lại Barinas để giúp García de Sena đang bị Yáñez, Puy và Remigio Ramos bao vây. Urdaneta không đến kịp nên García de Sena đã bỏ Barinas. Khi Barinas bị mất, Urdaneta quay sang Ospino, sau đã củng cố và đưa Đại tá José María Rodríguez làm chỉ huy chiến trường trong khi ông đến Barquisimeto để tìm quân tiếp viện. Khi ở Barquisimeto, Urdaneta cử tiểu đoàn "Valencia" đến Ospino vào ngày 2 tháng 2, vào thời điểm Yáñez đang bao vây trận chiến. Trận chiến ngay lập tức nổ ra, phe bảo hoàng bị đánh bại và Yáñez bị giết.
Vicente Campo Elías chống lại José Tomás Boves tấn công.
Trong khi Bolivar đánh bại Jose Ceballos tại Araure (ngày 5 tháng 12), Jose Tomás Boves tiến về Calabozo và trong cuộc vây hãm San Marcos đã đánh bại Đại tá Pedro Aldao vào ngày 8 tháng 12 năm 1813. Phe Ái quốc rút lui về Flores. Vicente Campo Elias ở San Juan de los Morros với 1,500 lính bộ binh, 300 kỵ binh và 2 khẩu pháo, và khi biết được bước tiến quân Boves, Elias rút lui đến khe núi La Puerta, gần San Juan de los Morros. Vào ngày 3 tháng 2 năm 1814, Boves tấn công và đánh bại phe Ái quốc. Elias, cùng với tàn quân rút lui về La Cabrera.
José Tomás Boves tiến vào thung lũng Tuy và Aragua.
Boves thoát khỏi mọi sự kháng cự, nhờ chiến thắng tại La Puerta (ngày 3 tháng 2), Boves phân bổ lực lượng thành 3 đội hình: đội hình đầu tiên (Francisco Tomás Morales), hành quân đến Caracas qua La Victoria; đội thứ hai (Francisco Rosete), cũng lấy Caracas làm mục tiêu và sẽ hành quân qua thung lũng Tuy; đội hình thứ ba là lực lượng dự bị ở Villa de Cura, dưới sự chỉ huy Boves. Những cuộc hành quân này dẫn tới Tướng José Félix Ribas cũng thực hiện hành quân chống lại Boves ở La Victoria, Charallave và Ocumare; và Tướng Simón Bolívar ở San Mateo. Ribas được huy động từ Caracas với một đội quân khoảng 1,500 người và đồng thời đã tổ chức phòng thủ ở La Victoria. Vào ngày 12 tháng 2, đội hình Morales tấn công quân Ribas, cuộc tấn công đã bị đẩy lùi và gần như bị tiêu diệt sau sự kháng cự phe Ái quốc. Ribas quay trở lại Caracas và từ đó hành quân đến thung lũng Tuy, nơi ông đánh bại quân Rosete trong các trận chiến Charallave (20 tháng 2) và Ocumare (20 tháng 3). Đồng thời với những trận đánh này, Bolívar đã đẩy lui thành công Boves trước các vị trí gần San Mateo (28/2 và 25/3).
Quân đội miền Đông hỗ trợ Quân đội Simón Bolívar.
Quân đội miền Đông (4,300 người) bắt đầu hành quân về phía trung tâm Venezuela từ ngày 17 đến ngày 26 tháng 1 năm 1814. Quân đội được tổ chức thành 4 đội hình: bên phải, đại tá Manuel Valdés; ở giữa là đại tá José Francisco Bermúdez; bên trái, đại tá Agustín Arrioja; dự bị, trung tá Manuel Isava; và một lữ đoàn pháo binh. Vào ngày 23 tháng 3, những đội quân này tập trung tại Camatagua, sau khi giành chiến thắng ở Cabruta, Tucupido, Agua Negra, các thị trấn Orituco và những nơi khác. Vào ngày 27, Santiago Mariño tiếp tục cuộc hành quân đến phòng tuyến được hình thành bởi khe núi Bocachica, nơi ông chiếm giữ các vị trí. Tại đây, ông bị quân José Tomás Boves, đến từ Villa de Cura, tấn công. Phe Ái quốc giành chiên thắng. Chỉ huy phe Bảo hoàng, bị truy đuổi bởi một đội quân do Bolívar cử đến, đã rút lui qua Güigüe về phía Valencia và từ đó hướng tới vùng đồng bằng Calabozo, qua Tocuyito và El Pao.
Sau trận Ospino (ngày 2 tháng 2 năm 1814), Urdaneta quay trở lại Barquisimeto, sẵn sàng tăng cường lực lượng cho cuộc tái chiếm Barinas, nhưng ông phải hủy bỏ do phải cử khoảng 700 người đến San Mateo theo yêu cầu của Bolivar. Urdaneta vẫn ở Barquisimeto với khoảng 650 người, trong đó ông phải tham chiến chống lại quân đội Chuẩn tướng José Ceballos, đang đe dọa chiếm Carora và Đại tá Sebastián de la Calzada đang chiếm Guanare. Ceballos tiến quân về phía Barquisimeto, trong khi Calzada tiến về phía San Carlos. Urdaneta cố gắng kháng cự ở Barquisimeto, nhưng bị lực lượng phe Bảo hoàng vượt trội tấn công trực diện, ông phải rút lui về phía San Carlos và sau đó đến Valencia, nơi ông nhận được lệnh bảo vệ vị trí. Vào ngày 28 tháng 3, quân Ceballos và quân Calzada xuất hiện trước Valencia, với 4,000 người và bao vây thành phố, cuộc bao vây duy trì cho đến ngày 3 tháng 4, khi tàn quân Boves đến sau khi trốn thoát khỏi Bocachica và thông báo cho Ceballos về trận chiến mà mình phải hứng chịu bởi Bolivar. Ceballos rút lui về San Carlos và Boves về Calabozo. Chiều cùng ngày, Bolivar và Montilla tiến vào Valencia cùng một số quân.
Tại Valencia, Bolivar tổ chức một sư đoàn gồm 2.800 người và do Tướng Santiago Mariño chỉ huy; Mariño đã đưa quân đến El Tinaco, theo dõi Ceballos đang ở San Carlos. Cùng lúc đó Bolivar lên đường đến Puerto Cabello cùng với 2 tiểu đoàn. Từ Tinaco, Mariño tiếp tục đến San Carlos, nhưng trước khi đến thành phố này, vào ngày 16 tháng 4, Mariño chạm trán với quân Ceballos, cả hai bên đã triển khai trận chiến ở thảo nguyên Arao (Trận Arao). Sau trận chiến, Ceballos đánh bại Mariño, phe Bảo hoàng giành chiến thắng. Vào ngày 19 tháng 4, khi Bolivar chuẩn bị mở cuộc tấn công vào Puerto Cabello, ông nhận được tin Mariño thất bại nên rút lui về Valencia, nơi ông tập trung quân lại.
Chiến dịch Carabobo thứ nhất.
Thống chế Juan Manuel Cajigal, được bổ nhiệm làm Đề đốc Venezuela, ông rời Coro với một đoàn quân hướng về Valencia. Kế hoạch của ông là tiếp tục phòng thủ, chờ đợi quân José Tomás Boves xuất hiện, ở thung lũng Aragua. Ngày 16 tháng 5 Bolivar rời Valencia với 4 sư đoàn (Jose Francisco Bermudez, Manuel Valdes, Florence Palacios và Leandro Palacios); vào ngày 17 tháng 5, quân hai bên quan sát thấy nhau và chuẩn bị hình thành trận chiến. Quân cộng hòa tiến hành tấn công nhưng Cajigal né tránh. Vào ngày 20 tháng 5, chỉ huy phe bảo hoàng rút lui về hướng San Carlos. Bolivar quay trở lại Valencia, để chuẩn bị tấn công quân Boves, nhưng được thông báo rằng Cajigal đã đảm nhận các vị trí ở thảo nguyên Carabobo, ông quyết định tiếp tục các hoạt động chống lại chỉ huy phe bảo hoàng này. Vào ngày 26, Bolivar rời Valencia với 5 sư đoàn (Bermudez, Valdés, Florencio Palacios, Diego Jalon và Leandro Palacios), với tất cả kỵ binh sẵn có, pháo binh do Đại tá Antonio Freites chỉ huy. Vào ngày 28 tháng 5, quân cộng hòa (5,000 người) tấn công phe bảo hoàng (6,000 người) và gây thất bại nặng nề cho phe bảo hoàng. Tướng Rafael Urdaneta chịu trách nhiệm truy kích tàn quân bảo hoàng. Bolivar quay trở lại Valencia cùng với đội hình còn lại.
José Tomás Boves chuẩn bị tấn công.
Từ thảo nguyên Carabobo, Santiago Mariño hành quân đến thung lũng Aragua và từ đó đến Villa de Cura, để đối đầu với Boves, ông có khoảng 3000 người. Từ Villa de Cura ông tiếp tục đến La Puerta, nơi ông chiếm các vị trí vào ngày 14 tháng 6 (1814). Vào ngày 15 Bolivar đến và vài giờ sau, vị trí này bị Boves tấn công với 3,800 quân chia thành 3 đội hình. Sau 2 giờ chiến đấu, các vị trí này bị phe Bảo hoàng chiếm (Trận La Puerta lần thứ hai). Quân Ái quốc tổn thất nặng nề, khoảng 4,000 quân thương vong. Bolivar phải rút lui về La Victoria và từ đó tới Caracas. Về phần mình, Boves đến Valencia, thành phố mà ông đã bao vây và sau khi chiếm được, ông hành quân đến Caracas.
Cuộc hành quân Miền Đông.
Sau trận La Puerta lần thứ hai, với tổn thất nặng nề, Bolívar không thể đối mặt với bất kỳ cuộc tấn công nào của quân Boves, ông cho rút quân vào ngày 7 tháng 7 năm 1814 đến khu vực Miền Đông (Di tản về phía Đông), theo sau là một đội quân bảo hoàng do Chuẩn tướng Morales chỉ huy truy đuổi. Sau 23 ngày hành quân, Bolívar đến Barcelona và từ đó đi đến thị trấn Aragua de Barcelona, nơi ông bị quân Morales đánh bại vào ngày 17 tháng 8 (Trận Aragua de Barcelona. Trận chiến này là trận đầu tiên trong một loạt trận chiến, qua đó phe bảo hoàng đã tiêu diệt tất cả sức mạnh chiến đấu phe Ái quốc và bằng cách này phe bảo hoàng đã tái lập quyền kiểm soát chính trị và quân sự Venezuela, quyết định sự sụp đổ nền Cộng hòa thứ hai. Cuộc hành quân phía đông lên đến đỉnh điểm là trận Úrica (ngày 5 tháng 12 năm 1814), mặc dù quân bảo hoàng giành chiến thắng nhưng Boves bỏ mạng, và trận Maturín lần thứ năm (ngày 11 tháng 12 năm 1814) trận phe bảo hoàng cũng chiến thắng.
Rafael Urdaneta rút lui.
Urdaneta đang truy đuổi những kẻ bại trận và trên đường đi, ông phải thu thập gia súc và kiếm nguồn cung cấp cho quân đội. Urdaneta đang ở Barquisimeto khi biết về Bolivar thất bại tại La Puerta, Valencia thất thủ và cuộc di cư về phía Đông. Không thể đến trợ giúp Bolivar, ông quyết định rút lui về Tân Granada, qua dãy Andes, quân Sebastian de la Calzada thực hiện một chiến dịch truy đuổi liên tục quân Urdaneta. Vào cuối tháng 9 năm 1814, Urdaneta cùng quân của mình đến thành phố Cúcuta.
Cộng hòa thứ hai sụp đổ.
Nền Cộng hòa thứ hai bắt đầu suy tàn sau những cuộc giao tranh không ngừng và sự mất đoàn kết giữa các hạt nhân cộng hòa ở Caracas và Cumaná. Sau thất bại trong Trận Maturín lần thứ năm theo đó phe Ái quốc bị đánh bại, được coi là sự kết thúc Đệ nhị Cộng hòa Venezuela. |
Những kỷ nguyên của Taylor Swift
Những kỷ nguyên của Taylor Swift (tiếng Anh: Taylor Swift: The Eras Tour) là một bộ phim hòa nhạc năm 2023 được sản xuất bởi ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift. Do Sam Wrench đạo diễn, bộ phim ghi lại The Eras Tour, chuyến lưu diễn hòa nhạc mà Swift tổ chức vào năm 2023 và 2024. Để phát hành bộ phim, Swift đã đạt được một thỏa thuận phân phối chưa từng có tiền lệ với AMC Theatres và Cinemark Theatres sau khi việc thương lượng với các hãng phim lớn bất thành.
"Những kỷ nguyên của Taylor Swift" được ghi hình vào tháng 8 năm 2023 tại ba buổi diễn của The Eras Tour ở Sân vận động SoFi, Inglewood, California với kinh phí 10–20 triệu đô-la Mỹ sau khi việc sản xuất bộ phim được SAG-AFTRA chấp thuận trong bối cảnh cuộc đình công năm 2023 của hiệp hội này. Taylor Swift công bố việc phát hành bộ phim vào cuối tháng 8, gây bất ngờ cho các hãng phim và khiến một số bộ phim vốn được lên lịch khởi chiếu vào hoặc gần ngày 13 tháng 10 thay đổi ngày phát hành. Chiến lược phân phối chưa từng có tiền lệ của bộ phim đã trở thành một chủ đề tranh luận trong giới truyền thông; nhiều nhà báo và người làm trong ngành đã khen ngợi việc Taylor Swift bỏ qua các hãng phim để trực tiếp hợp tác với các rạp, và nhận xét rằng bộ phim đi ngược lại với mô hình phát hành phim "nhà sản xuất–nhà phân phối–hãng chiếu phim" truyền thống.
"Những kỷ nguyên của Taylor Swift" được công chiếu tại The Grove, Los Angeles vào ngày 11 tháng 10 năm 2023, và được phát hành tại các rạp trên toàn thế giới vào ngày 13 tháng 10. Bộ phim đã phá kỷ lục doanh thu đặt trước vé trong ngày đầu tiên tại Mỹ với con số 37 triệu đô-la, và đạt tổng doanh thu đặt trước vé là hơn 100 triệu đô-la Mỹ trên toàn thế giới. "Những kỷ nguyên của Taylor Swift" là bộ phim hòa nhạc có doanh thu cao nhất mọi thời đại, với doanh thu hơn 231 triệu đô-la Mỹ. Bộ phim cũng được giới phê bình đánh giá cao.
"Những kỷ nguyên của Taylor Swift" là phiên bản điện ảnh của The Eras Tour, chuyến lưu diễn hòa nhạc thứ sáu của ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift. Bao gồm 10 phần khác nhau đại diện cho 10 kỷ nguyên trong sự nghiệp âm nhạc của Swift, bộ phim ghi lại màn trình diễn của hầu hết các bài hát mà Swift đã biểu diễn trong The Eras Tour, trừ một số bài hát được lược bỏ để gói gọn buổi hòa nhạc dài ba tiếng rưỡi vào một bộ phim có thời lượng ngắn gọn hơn.
Phân phối và bán vé.
Bố mẹ của Swift đã đính thân thỏa thuận bản phác thảo các điều khoản với Adam Aron, CEO của AMC Theatres. Tại Mỹ, AMC đồng ý đóng vai trò vừa là nhà phân phối, vừa là hãng chiếu phim cho "Những kỷ nguyên của Taylor Swift", một nước đi chưa từng có tiền lệ trong lịch sử ngành công nghiệp điện ảnh Mỹ. Hãng cũng đồng ý là sẽ chiếu ít nhất bốn suất mỗi ngày từ thứ Năm đến Chủ Nhật hàng tuần trong suốt khoảng thời gian phim được chiếu rạp. Giá vé của các suất chiếu tiêu chuẩn được định sẵn là 19,89 đô-la cho người lớn, xuất phát từ tên album thu âm lại sắp phát hành của Swift là "1989 (Taylor's Version)", và 13,13 đô-la cho trẻ em và người cao tuổi, có lẽ xuất phát từ con số may mắn của Swift, đó là 13. Bộ phim cũng được phát hành ở các định dạng IMAX và Dolby Cinema. Lường trước được nhu cầu mua vé cao mà bộ phim sẽ nhận được sau vụ tranh cãi liên quan đến Ticketmaster, AMC đã nâng cấp hệ thống bán vé của mình để đáp ứng lượng truy cập cao gấp năm lần ban đầu, đồng thời tạm dừng bán vé hầu hết các bộ phim khác đang được chiếu. Mặc dù vậy, ứng dụng di động của AMC vẫn gặp sự cố ngay sau khi vé được mở bán, và khách hàng phải xếp hàng để truy cập trang web của hãng. Chỉ trong vài giờ, doanh thu vé đặt trước của bộ phim vượt mốc 10 triệu đô-la, một thành tích được các nhà phân tích doanh thu phòng vé so sánh với các bộ phim của Marvel. Lượng tìm kiếm từ khóa "AMC" trên mạng Internet tăng gấp hơn 100 lần, và giá cổ phiếu của AMC thì tăng 9,2%. Theo Bloomberg News, tin tức về thành tích bán vé của bộ phim đã "làm tăng giá cổ phiếu ở cả hai bờ Đại Tây Dương".
Theo một số nguồn tin, các điều khoản liên quan đến việc phân phối bộ phim được quyết định bởi Swift thay vì AMC. Mô hình giá cố định và việc không áp dụng các chương trình khách hàng thân thiết được xem là rất không chính thống và vi phạm các chuẩn mực của ngành. Không hãng chiếu phim hay nhà phân phối nào khác ngoài AMC và Cinemark biết đến kế hoạch phát hành bộ phim cho đến khi Swift đưa ra thông báo; việc này đã gây bức xúc cho các nhà lãnh đạo bởi các hãng phân phối được kỳ vọng là sẽ thông báo cho nhau biết lịch phát hành của mình trên tinh thần thiện chí. Theo "Insider", vì Sắc lệnh Paramount "đã hết hiệu lực vào năm 2020", thỏa thuận phân phối này là hoàn toàn hợp pháp. Theo nhà báo Matthew Belloni của "Puck", Swift và bố mẹ cô đã quyết định đàm phán trực tiếp với Aron và Cinemark sau khi bị quá trình thương lượng với các hãng phim lớn "gây thất vọng". Theo thỏa thuận này, 43% lợi nhuận phòng vé sẽ thuộc về các rạp, còn Swift và bộ phận phân phối của AMC sẽ chia nhau 57% còn lại. Ngoài ra, các rạp sẽ được chiếu bộ phim trong khoảng thời gian tối đa là 26 tuần, mặc dù Swift vẫn được bán quyền phát sóng cho các dịch vụ phát video trực tuyến sau khi bộ phim chiếu rạp được 13 tuần. Theo tờ "Financial Times", Trafalgar Releasing chịu trách nhiệm phân phối bộ phim ở thị trường quốc tế và đang tiến hành đàm phán để phát hành bộ phim tại Trung Quốc. "The Hollywood Reporter" đưa tin vào cuối tháng 10 rằng "gần như dịch vụ phát video trực tuyến lớn nào" cũng đang cố gắng giành được quyền phát sóng "Những kỷ nguyên của Taylor Swift" sau khi phim dừng chiếu tại rạp.
Nhiều bộ phim đã thay đổi ngày phát hành để tránh phải cạnh tranh với "Những kỷ nguyên của Taylor Swift". Sau khi bộ phim được công bố, hashtag "#Exorswift" trở thành xu hướng trên các mạng xã hội, bởi lúc đó "Những kỷ nguyên của Taylor Swift" có cùng ngày phát hành với "", một bộ phim kinh dị siêu nhiên, giống như điều đã xảy ra trong hiện tượng "Barbenheimer" xuất phát từ hai bộ phim "Barbie" (2023) và "Oppenheimer" (2023) hồi đầu năm. Universal Pictures và Blumhouse Productions đã dời ngày phát hành của "Quỷ ám: Tín đồ", ban đầu vào thứ Sáu ngày 13, lên sớm hơn một tuần, một quyết định được IndieWire phỏng đoán là đã rất tốn kém khi xét đến chiến dịch quảng bá đắt đỏ của "Quỷ ám: Tín đồ". Paramount Pictures và Apple Studios cũng đã hủy kế hoạch chiếu sớm bộ phim "Vầng trăng máu" của đạo diễn Martin Scorsese trong hai tuần trước khi bộ phim được phát hành rộng rãi vào ngày 20 tháng 10.
templatestyles src="Template:Table alignment/" /
Tại Mỹ, "Những kỷ nguyên của Taylor Swift" đạt doanh thu 2,8 triệu đô-la từ các suất chiếu sớm vào ngày thứ Năm ở 2.700 rạp. Trong ngày đầu tiên, bộ phim đạt doanh thu 39 triệu đô-la (bao gồm cả các suất chiếu sớm), thành tích cao thứ hai từ trước đến nay đối với một bộ phim được phát hành vào tháng 10, chỉ thua "Joker" (2019) 300.000 đô-la, và thành tích cao nhất đối với một bộ phim hòa nhạc. Trong tuần đầu tiên, bộ phim đạt doanh thu 92,8 triệu đô-la, thành tích cao thứ hai mọi thời đại đối với một bộ phim được phát hành vào tháng 10, sau "Joker" (96,2 triệu). Đây cũng là thành tích doanh thu trong dịp cuối tuần đầu tiên cao nhất từ trước đến nay đối với một bộ phim hòa nhạc, đồng thời bộ phim cũng vượt qua "" (73 triệu đô-la) để trở thành bộ phim hòa nhạc có doanh thu cao nhất mọi thời đại tại Mỹ; 26% doanh thu đến từ các suất chiếu IMAX, và 60% doanh thu đến từ các vé được đặt trước. Hệ thống rạp của AMC chiếm 40,5% doanh thu, so với con số trung bình là 22-25%. Trong dịp cuối tuần thứ hai, "Những kỷ nguyên của Taylor Swift" vượt qua bộ phim "Vầng trăng máu" vừa được phát hành để tiếp tục chiếm vị trí thứ nhất với doanh thu 33,2 triệu đô-la và trở thành bộ phim hòa nhạc đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng doanh thu phòng vé trong hai tuần liên tiếp. Bộ phim lần lượt đạt doanh thu 15,4 triệu đô-la và 13,5 đô-la trong các dịp cuối tuần thứ ba và thứ tư, và cả hai lần đều xếp vị trí thứ hai sau "Năm đêm kinh hoàng".
Ở các rạp quốc tế, "Những kỷ nguyên của Taylor Swift" đạt doanh thu 30,7 triệu đô-la trong tuần đầu tiên, nâng tổng doanh thu tuần đầu tiên của bộ phim lên con số 123,5 triệu đô-la. Bộ phim đứng đầu bảng xếp hạng doanh thu phòng vé tại Vương quốc Anh và Ireland với thành tích là 1 triệu bảng Anh. Tại Ấn Độ, bộ phim bán được hơn 85.000 vé trong tuần đầu tiên—phá kỷ lục đối với phim hòa nhạc ở quốc gia này. |
Áo ngực có gọng
Áo ngực có gọng (, , hoặc ) là một loại áo lót sử dụng một vành mỏng hình bán nguyệt bằng vật liệu cứng, được lắp bên trong vải áo lót để giúp nâng, tách, định hình và nâng đỡ ngực của người phụ nữ. Gọng có thể được làm bằng kim loại, nhựa hoặc nhựa cây. Nó được may thành khung bao bọc ngực và nằm dưới mỗi cúp áo, từ giữa rốn đến phần dưới nách người mặc. Nhiều thiết kế áo lót khác nhau kết hợp gọng, bao gồm áo ngực có gọng, áo ngực demi, áo ngực cho con bú và các mặt hàng quần áo khác có tích hợp áo ngực, chẳng hạn như áo top, váy và đồ bơi.
Khái niệm về 'gọng' có thể bắt nguồn từ một bằng sáng chế vào năm 1893. Sáng chế đó mô tả một thiết bị nâng đỡ ngực sử dụng một vành cứng phía dưới ngực để tạo nên sự ổn định. Áo ngực có gọng hiện đại được thiết kế vào những năm 1930 và trở nên phổ biến rộng rãi vào những năm 1950. Tính đến năm 2005, áo ngực có gọng là phân khúc lớn nhất và phát triển nhanh nhất trên thị trường áo ngực. Áo ngực không có gọng được gọi là áo ngực cúp mềm.
Áo ngực có gọng đôi khi gây nên tình trạng đau ngực, viêm tuyến vú và dị ứng kim loại. Trong một số trường hợp hiếm hoi, phụ nữ mặc áo ngực có gọng phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn khi áo ngực của họ kích hoạt máy dò kim loại tại các trạm kiểm soát an ninh ở sân bay hoặc nhà tù. Một số trường hợp đã được ghi nhận về việc gọng áo làm chệch hướng một viên đạn hoặc làm chệch hướng vũ khí khác găm vào ngực người phụ nữ.
Kiểu áo tiền thân của áo ngực có gọng xuất hiện ít nhất vào khoảng năm 1893, khi một người dân New York tên là Marie Tucek được cấp bằng sáng chế "gọng nâng ngực" (). Gọng nâng ngực được mô tả là một sản phẩm sửa đổi của áo ngực và rất giống với một chiếc áo lót nâng ngực hiện nay. Nó bao gồm một gọng kim loại, bìa cứng hoặc vật liệu cứng khác được tạo hình vừa khít với phần bên dưới bộ ngực, theo đường viền của ngực. Phần vật liệu cứng được bọc lại bằng lụa, vải hoặc vật liệu áo khác, và được may rộng ra lên phía bên trên gọng nâng ngực để tạo thành một chiếc túi mang cho mỗi bên ngực. Gọng nâng uốn cong quanh thân kéo dài đến gần nách, được giữ cố định và điều chỉnh sao cho vừa khít dây đeo vai vắt ngang lưng, tạo thành hình chữ X. Gọng được nối lại với nhau bằng chốt móc và mắt (móc cài áo lót).
Bắt đầu từ thập niên 1930, áo ngực có gọng nổi lên và thịnh hành ở Hoa Kỳ. Helene Pons đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1931 cho thiết kế áo lót tích hợp một "vành rộng có đầu mở" () nằm phẳng phiu trên ngực, bao quanh phần thân dưới và hai bên của mỗi bầu vú. Năm 1932, một bằng sáng chế có một vành nhỏ hình chữ U được sử dụng giữa hai bầu ngực để giữ hai bầu ngực tách rời nhau. Năm 1938, một bằng sáng chế được cấp cho Pauline Boris về một "gọng nâng ngực", sử dụng các vành bao quanh hoàn toàn mỗi bên ngực. Năm 1940, Walter Emmett Williams được cấp bằng sáng chế cho một khung dây, có hình dạng giống như mạng nhện, nâng ngực bằng cách bao quanh và che phủ từng bên ngực. Mặc dù sự phát triển của áo ngực có gọng bắt đầu từ những năm 1930, mãi cho đến thập niên 1950 sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc và kim loại được sử dụng trong đời sống thông thường thì nó mới được phổ biến rộng rãi.
Vào thập niên 1940, Howard Hughes đã thiết kế một chiếc áo lót có gọng cho Jane Russell để làm nổi bật bộ ngực của cô trong bộ phim "The Outlaw". Theo Russell, thiết bị "lố bịch" này gây đau đớn nên cô đã âm thầm mặc áo lót của bản thân trong suốt bộ phim. Chiếc áo lót do Howard Hughes thiết kế hiện đang trưng bày trong bảo tàng Hollywood.
Với sự phổ biến và sử dụng rộng rãi của áo ngực có gọng bắt đầu từ thập niên 1950, gọng đã được tích hợp vào nhiều thiết kế áo ngực và áo ngực có gọng được tích hợp vào các mặt hàng quần áo khác. Đến năm 1990, Norma Kamali đã tích hợp áo lót có gọng vào cả đồ bơi một mảnh và hai mảnh (bikini). Scott Lucretia đã được cấp bằng sáng chế cho một kiểu áo ngực có gọng lót vào năm 1989.
Tại Vương quốc Anh, áo ngực có gọng chiếm 60% thị trường áo ngực ở vào năm 2000 và 70% vào năm 2005. Năm 2001, tại Mỹ, 500 triệu chiếc áo ngực đã được bán ra, trong đó khoảng 70% (350 triệu) là áo ngực có gọng. Cho đến năm 2005, áo ngực có gọng là phân khúc phát triển nhanh nhất trên thị trường áo ngực.
Áo ngực có gọng được thiết kế với một "gọng dưới", "gọng áo ngực" hay "gọng" hình bán nguyệt được gắn vào viền dây bao quanh đáy và hai bên của mỗi cúp áo ngực. Một đầu hoặc một phần đầu của gọng áo nằm ở sát phần phía trước, ngay giữa áo ngực, đầu còn lại nằm sát lỗ khoét tay áo. Gọng có thể được làm bằng kim loại hoặc nhựa đúc; hầu hết là kim loại. Gọng nhựa chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường vì nó không cung cấp khả năng nâng đỡ ngực và không có độ cứng tương tự như gọng kim loại. Gọng kim loại là một vành kim loại mỏng, thường được bọc nylon ở cả hai đầu. Kim loại được dùng làm vành bao gồm thép và niken titan, một hợp kim có khả năng ghi nhớ hình dạng (). Theo nhà sản xuất gọng áo S S Industries ở New York, nơi cung cấp gọng cho các nhà sản xuất áo ngực như Bali, Playtex, Vanity Fair, Victoria's Secret, Warner's và các nhãn hiệu áo ngực khác, khoảng 70% phụ nữ mặc áo ngực có gọng thép.
Do gọng áo có thể làm rách vải nên hầu hết phụ nữ đều giặt áo ngực có gọng bằng tay hoặc giặt bằng máy theo chế độ giặt nhẹ nhàng. Túi giặt áo ngực, thường là túi lưới có khóa kéo, cũng được dùng để bảo vệ áo ngực và ngăn gọng áo ngực tách ra khỏi áo ngực trong quá trình giặt bằng máy.
Bằng sáng chế thế kỷ 21.
Năm 2002, S S Industries đã được cấp bằng sáng chế cho thiết kế gọng bao gồm một vành nhựa cong có lò xo ở một hoặc cả hai đầu. Lò xo được thiết kế để giữ cho gọng không tuột khỏi áo ngực. Năm 2008, Scott Dutton ở xứ Wales đã phát minh ra "Bra Angel", một thiết bị đơn giản để chỉnh lại áo ngực khi gọng tuột ra khỏi viền áo. Đây là một cái vòng chụp nhựa một đầu dùng đeo lên cổ, một đầu có ngạnh vừa khít với phần cuối của gọng áo, sau đó nhét chúng trở lại vào áo ngực trong khi vẫn giữ cố định gọng bằng ngạnh.
Áo ngực có gọng có thể chà xát và véo ngực, gây kích ứng da và đau ngực, dây áo ngực bị mòn có thể lòi ra khỏi vải và làm xước hoặc cắt da. Khi vải của áo ngực bị tưa để lộ phần gọng, da tiếp xúc với niken và các kim loại khác từ gọng có thể gây viêm da tiếp xúc ở một số phụ nữ.
Ảnh hưởng đến tiết sữa.
Áo ngực có gọng giống như các loại quần áo bó sát khác, chúng có thể góp phần gây tắc ống dẫn sữa ở người đang cho con bú. Kích cỡ bộ ngực dao động khi mang thai gây ra một vấn đề khác. Do áo lót có gọng rất cứng nên chúng không dễ dàng thích ứng với sự thay đổi về kích thước ngực, nên một chiếc áo ngực không vừa vặn sẽ không nâng đỡ ngực đúng cách, thậm chí có thể gây khó chịu cũng như đau đớn. Trong vài ngày sau khi phẫu thuật cắt bỏ vú, hoặc trong thời gian vú còn mềm nhũn, phụ nữ được khuyên không nên mặc áo lót có gọng.
Sử dụng như máy khử rung tim.
Việc sử dụng máy khử rung tim ngoài tự động trên bệnh nhân mặc áo ngực có gọng kim loại có thể gây bỏng, do đó người sử dụng máy trước tiên phải cởi áo ngực bệnh nhân. Trong mùa giải năm 2007 của chương trình truyền hình "MythBusters", họ đã thử nghiệm khả năng bị bỏng do sử dụng máy khử rung tim trên một bệnh nhân đang mặc áo ngực có gọng và kết luận rằng mặc dù việc bỏng có thể xảy ra nhưng trừ khi dây kim loại bị lộ ra ngoài và bàn là phẳng của máy khử rung tim đặt quá gần với nó.
Một báo cáo y tế đã ghi nhận rằng việc mặc áo ngực có gọng ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là Đông Phi, có thể dẫn đến bệnh Myosis ở vú do ruồi Tumbu ("Cordylobia anthropophaga") gây ra. Trứng và ấu trùng của loài ruồi này bám vào quần áo, đặc biệt là dọc theo chiều dài gọng kim loại của áo ngực có gọng, và chúng chỉ có thể bị tiêu diệt bằng cách dùng nhiệt bàn ủi. Người ta hầu như không thể ủi được áo ngực có gọng truyền thống để đạt được nhiệt lượng cần thiết nhằm tiêu diệt ấu trùng bám dọc theo gọng áo.
Vấn đề pháp lý.
Cục Quản lý An ninh Vận tải Hoa Kỳ (TSA) khuyến cáo phụ nữ không nên mặc áo ngực có gọng vì chúng có thể kích hoạt máy dò kim loại. Hầu hết hành khách nữ mặc áo ngực có gọng đều không gặp phải bất kỳ vấn đề gì, điều này phụ thuộc vào chất liệu gọng áo của người mặc.
An ninh giao thông.
Vào Chủ nhật ngày 24 tháng 8 năm 2008, nhà làm phim Nancy Kates đã kích hoạt máy dò kim loại trong quá trình kiểm tra an ninh. Cô phản đối khi người đại diện cố gắng vỗ nhẹ vào ngực cô. Cô cho biết cô đã nói với người đại diện: "'Ông không thể coi tôi như một ả tội phạm chỉ vì tôi mặc áo lót được." ("'You can't treat me as a criminal for wearing a bra.") Một giám sát viên của TSA đã nói với cô rằng cô phải chấp nhận khám xét trong phòng riêng hoặc không được bay. Kates đề nghị cởi bỏ áo ngực ra và TSA đã chấp nhận. Cô vào nhà vệ sinh, cởi áo ngực rồi bước vào sân bay trong tình trạng không mặc áo ngực để kiểm tra an ninh. Cô cho biết một người giám sát đã nói với cô rằng áo ngực có gọng là nguyên nhân hàng đầu khiến máy dò kim loại báo động sai.
Vào tháng 8 năm 2010, Cathy Bossi – người sống sót sau căn bệnh ung thư, vốn là một tiếp viên hàng không đang làm nhiệm vụ của US Airways đi qua khu vực kiểm tra an ninh tại Sân bay quốc tế Charlotte Douglas trên đường tới chuyến bay tiếp theo của cô ấy. Do có liên quan đến yếu tố bức xạ nên cô miễn cưỡng đi qua máy quét toàn thân. Cô nói: "Nhân viên an ninh TSA bảo tôi đặt giấy ID (giấy tờ tùy thân) lên phía sau lưng của tôi", "Khi tôi ra khỏi khu vực máy quét, người đại diện của họ nói rằng do vấn đề giấy ID nên tôi phải đến khu vực kiểm tra cá nhân." Thời gian kiểm tra đó cô mô tả lại rằng đó là một cuộc khám xét có tính "hung hăng", nhân viên kiểm tra an ninh đã buộc cô phải tháo rời và cho họ xem bộ ngực giả của cô. Hành động của các đặc vụ này đã vi phạm nguyên tắc của TSA, trong đó nêu rõ rằng các đặc vụ không cần chạm vào hoặc kiểm tra bộ phận giả đã được phẫu thuật cắt bỏ vú.
Vào tháng 10 năm 2010, một nhân viên của CNN là Rosemary Fitzpatrick đã bị khám xét cá nhân sau khi chiếc áo ngực có gọng của cô kích hoạt máy dò kim loại. Nhân viên an ninh TSA đã áp dụng một phương pháp "kiểm tra trượt tay" ("hand-sliding inspection"), trong đó người này "lướt tay quanh ngực, trên bụng, mông và đùi trong, và thậm chí chạm vào những vùng kín nhất của cô." Fitzpatrick cho biết cô đã khóc khi trải qua quá trình đó. "Tôi cảm thấy bất lực, tôi cảm thấy bị xâm phạm và bị sỉ nhục."
Để phản hồi các vấn nạn này, Triumph International, một công ty Thụy Sĩ, đã tung ra "Frequent Flyer Bra" ("Áo ngực bay thường xuyên") vào cuối năm 2001. Chiếc áo ngực này sử dụng móc cài không phải kim loại và dây gọng làm bằng nhựa thay vì kim loại để đảm bảo không kích hoạt máy dò kim loại. Loại áo ngực này không phân phối ở Hoa Kỳ. Đến năm 2004, một phát ngôn viên của Canada đặt câu hỏi không biết liệu chúng có còn được sản xuất hay không.
Quy định tại cơ sở cải tạo.
Một số cơ sở cải tạo tù nhân, như Nhà tù Bang San Quentin, yêu cầu người thăm viếng tù nhân phải tháo áo ngực và gỡ gọng áo hoặc tạm thời sử dụng áo ngực cúp mềm do tổ chức cung cấp trước khi được phép vào thăm tù nhân. Điều này dẫn đến kết quả những người thăm tù nhân có thể bối rối và sửng sốt. Các cơ sở khác yêu cầu phụ nữ cởi áo ngực có gọng trong nhà vệ sinh, đi qua máy dò kim loại và quay lại nhà vệ sinh để mặc lại áo ngực.
Vào tháng 6 năm 2010, luật sư Britney Horstman đã bị cấm đến thăm thân chủ của cô tại Trung tâm giam giữ Liên bang ở Miami, Florida khi chiếc áo ngực có gọng của cô kích hoạt máy dò kim loại. Mặc dù cô đã nhắc nhở những người bảo vệ về một bản ghi nhớ của trung tâm giam giữ cho phép các nữ luật sư mặc áo ngực có gọng khi đến thăm tù nhân thân chủ, nhưng các bảo vệ đã từ chối cho cô vào. Bản ghi nhớ đó tồn tại là kết quả của một thỏa thuận được thương lượng bởi Văn phòng Luật sư công Liên bang, cơ quan đại diện cho các tù nhân bị giam giữ tại nhà tù này trước khi xét xử. Thỏa thuận đó cho phép nữ luật sư vào thăm tù nhân nếu áo ngực có gọng của nữ luật sư đó bị máy dò kim loại phát hiện. Horstman cởi áo ngực trong nhà vệ sinh và quay lại trạm kiểm soát an ninh trong tình trạng không mặc áo ngực, nhưng sau đó lại bị từ chối vì không đáp ứng quy định về trang phục của cơ sở. Horstman trước đó đã mặc áo ngực có gọng vào nhà tù mà không gặp vấn đề gì. Sau đó, quản giáo Linda McGrew hứa rằng vụ việc sẽ không xảy ra lần nữa.
Tai nạn và tấn công.
Gọng áo ngực trong một số trường hợp đã giúp làm chệch hướng đạn hoặc các vật thể khác, cứu sống người mặc chúng.
Năm 1996, một cô gái bị đâm vào lan can, theo nhân viên bệnh viện thì gọng áo ngực có lẽ đã cứu sống cô gái đó bằng cách làm chệch hướng của vật có mũi nhọn đâm vào vùng tim của cô. Đã có nhiều trường hợp đạn bắn ra bị làm chệch hướng bởi gọng áo ngực phụ nữ, hoặc làm chuyển hướng vị trí viên đạn khỏi tim, nhờ vậy giúp họ không bị tổn hại hoàn toàn. Vào năm 2004, một sự cố như vậy xảy ra khi một thành viên của Ghetto Boys bắn phát súng trúng vào gọng kim loại hẹp trong áo ngực của Helen Kelly, kết quả là viên đạn bay lạc chệch khỏi tim cô. Năm 2008, trong một vụ cướp, một nạn nhân nữ đã thoát chết dù bị kẻ tấn công đâm vào ngực do con dao của hắn bị mắc vào gọng áo ngực của nạn nhân. |
Gibraltar Chronicle là một tờ báo quốc gia được xuất bản ở Gibraltar từ năm 1801. Nó trở thành nhật báo vào năm 1821. Đây là tờ nhật báo lâu đời nhất ở Gibraltar và là tờ báo tiếng Anh lâu đời thứ hai trên thế giới được in liên tục. Các văn phòng biên tập của nó ở Watergate House, và các tác phẩm in ấn ở khu công nghiệp New Harbors. |
Nữ tướng cướp (tựa tiếng Anh: "Gangsta Girls") là bộ phim điện ảnh chính kịch của Việt Nam sản xuất năm 2004, do Hãng phim Thiên Ngân sản xuất, được đạo diễn kiêm biên kịch bởi Lê Hoàng, diễn viên chính Mỹ Duyên, Bằng Lăng. Đây là bộ phim điện ảnh đầu tiên của ca sĩ Lam Trường.
Hai chị em Thu và Hồng là nữ giang hồ lừa đảo chuyên nghiệp, họ thường lừa gạt tình và tiền của đàn ông. Mọi chuyện thay đổi khi hai cô bắt cóc Hùng, một ông chủ giàu có, để tống tiền. Nhưng trong thời gian giam giữ, giữa Thu và Hùng phát sinh sự đồng cảm, Thu lại có tình cảm với Hùng. Cô trái lệnh của Hồng, khi chặt ngón tay của mình thay vì của Hùng.
Sau phi vụ, Hồng cuỗm hết phần của Thu và bỏ trốn. Hồng chưa kịp cao chạy xa bay đã bị một tên lừa đảo khác hãm hiếp và cướp sạch tiền. Hồng quay về tìm Thu. Trong lúc gọi điện chào tạm biệt Hùng, Thu bị nạn nhân ở đầu phim phát giác và báo công an. Khi công an truy vết đến được khách sạn nơi Thu và Hồng lẩn trốn, Hồng uống thuốc độc tự sát. Thu và Hùng sau này đến với nhau.
"Nữ tướng cướp" có kinh phí hơn 2 tỉ đồng, với mức cát-xê dành cho đạo diễn (Lê Hoàng) là 150 triệu đồng. "Nữ tướng cướp" dự định được bấm máy từ ngày 1 tháng 6 năm 2004 sau đó thay đổi lịch đến ngày 5 tháng 9 năm 2004, quay tại phim trường Hãng phim trẻ. Ban đầu, có tin đồn ca sĩ Phương Thanh sẽ đảm nhận vai nữ chính. Kịch bản ban đầu có 4 vai nữ chính. Cuối cùng trong số 40 diễn viên tham gia casting, diễn viên Mỹ Duyên và người mẫu Bằng Lăng đã được chọn cho hai nhân vật chính.
Bộ phim đã hoàn tất các cảnh quay cuối cùng tại Mũi Né, vào tháng 10 năm 2004.
Phần nhạc phim do nhạc sĩ Đức Trí đảm nhận biên soạn với cát-xê 100 triệu VNĐ, mức chi phí kỷ lục cho khâu âm nhạc của điện ảnh Việt Nam cho đến khi bị "Giải cứu thần chết" phá vỡ. Ca khúc nhạc phim "Ước mơ trong đời" do Hồ Quỳnh Hương và "Tựa như ánh sao" do Phan Đinh Tùng thể hiện.
Hình ảnh trong phim do nhà quay phim Đinh Anh Dũng thực hiện dù trước đấy ông được biết đến với vai trò quay các MV. Ngay từ những ngày đầu bấm máy, Lê Hoàng và Đinh Anh Dũng đã hài lòng với các thước phim của mình, đó là cảnh nhân vật Hùng tỉnh dậy và nhận ra mình bị bắt cóc. Lê Hoàng cho rằng "Nữ tướng cướp" là bộ phim được làm theo kiểu "không giống ai, không giống với bất kỳ phim nào và mang phong cách của một mình Lê Hoàng [ông]".
Bộ phim được công chiếu vào dịp Tết Nguyên đán 2005. Trong tháng 5 năm 2005, Hãng phim Thiên Ngân tiếp tục trình chiếu "Nữ tướng cướp" dưới hình thức khuyến mãi cho khán giả, người mua vé sẽ nhận được phiếu rút thăm với cơ may nhận được chuyến đi Hollywood.
Ngày 3 tháng 5 năm 2005, Hãng phim Thiên Ngân đã phát hành VCD và DVD phim "Nữ tướng cướp". Riêng bản DVD có kèm phụ đề tiếng Anh và tiếng Việt, cùng với trailer, poster độc quyền và MV hai ca khúc chủ đề phim do ca sĩ Hồ Quỳnh Hương, Phan Đinh Tùng thể hiện. DVD này được thực hiện tại Hồng Kông và Singapore theo tiêu chuẩn quốc tế với hệ NTSC phù hợp mọi vùng trên thế giới.
Bộ phim bị nhận xét là có nhiều điểm ngây ngô, vô lý nhưng khả năng diễn xuất của hai nữ chính, của nam phụ và cả phần âm nhạc đã cứu vớt cả bộ phim.
Trong tuần đầu ra rạp, bộ phim đã sinh lời cho nhà sản xuất khi thu về hơn 3 tỉ đồng, giá vé của bộ phim thời điểm đó rơi vào khoảng 20.000 đến 30.000 VNĐ. |
The Amazing Digital Circus
The Amazing Digital Circus (còn gọi là Amazing Digital Circus hoặc TADC) (tạm dịch: Rạp xiếc kỹ thuật số kỳ diệu) là một bộ phim hoạt hình được sản xuất bởi Gooseworx và phát hành bởi Glitch Productions . Phim đã được đăng tập thử nghiệm trên YouTube vào ngày 13/10/2023 trên kênh YouTube của nhà phát hành Glitch Productions. Tập thử nghiệm của phim đã đạt hơn 100 triệu lượt xem chỉ sau 1 tháng và đang tiếp tục gia tăng.
Một cô gái 25 tuổi bị mắc kẹt vào thế giới kỹ thuật số sau khi vô tình đeo một chiếc kính thực tế ảo. Cô bị đưa đến một rạp xiếc kỳ lạ, nơi có những sinh vật kỳ lạ trong rạp xiếc - đúng hơn là những người cũng đã bị mắc kẹt trong thế giới ảo này. Do đã bị quên tên, cô được Caine, chủ của rạp xiếc đặt tên là Pomni. Sau đó, Pomni cùng những người khác đã trải qua một thử thách, đúng hơn là một trò chơi của Caine để giúp mọi người tránh trở nên mất trí…
"The Amazing Digital Circus" có nguồn gốc từ một trong ba quảng cáo chiêu hàng được trình bày cho Glitch Productions bởi nhà làm phim hoạt hình YouTube Gooseworx, người mà công ty đã liên hệ để tạo ra một chương trình thí điểm sau thành công của bộ phim hoạt hình ngắn "Little Runmo" của Gooseworx. Nguồn cảm hứng cho chương trình bao gồm truyện ngắn "I Have No Mouth, I Must Scream" và loạt phim hoạt hình CGI của Nhật Bản "Popee the Performer".
Phong cách nghệ thuật của chương trình được lấy cảm hứng từ CGI và trò chơi máy tính từ những năm 1990 và đầu những năm 2000, với sản phẩm cuối cùng được Gooseworx mô tả là "phiên bản nhuốm màu hoa hồng (Rosy retrospection: hồi tưởng lạc quan)" của hoạt hình 3D thời kỳ đầu. Quá trình tiền sản xuất bắt đầu vào giữa năm 2022 và hoàn chỉnh vào cuối năm đó. Các nhân vật được tạo mô hình và hoạt hình trong Maya, sau đó các mô hình và hoạt ảnh được xuất sang Unreal Engine để hiển thị lần cuối.
Jasmine Yang, tổng giám đốc của Glitch Productions, cho biết không có kế hoạch đưa bộ phim lên các nền tảng phát trực tuyến ngoài YouTube. Trong một bài đăng kỷ niệm tập thử nghiệm đạt 100 triệu lượt xem, Glitch xác nhận việc sản xuất các tập ngoài thử nghiệm.
The pilot (tên tập đầu tiên) của "The Amazing Digital Circus" đã trở thành một video lan truyền trên YouTube, thu hút hơn 100 triệu lượt xem trong một tháng và thu được hơn bốn triệu lượt thích. Bộ phim được các nhà phê bình khen ngợi về chất lượng hoạt hình và chiều sâu của các nhân vật: Jamie Lang của Cartoon Brew đã mô tả những câu chuyện cười trong bộ phim là "có tính thời gian hoàn hảo theo từng khung hình", với khiếu hài hước "trưởng thành". Phần hoạt hình được Justin Guerrero khen ngợi là "tuyệt vời và giàu cảm xúc"; Lang cũng khen ngợi nó vì tính thẩm mỹ cổ điển đầy màu sắc. Jade King của "TheGamer" khen ngợi nó vì đã tạo ra "sự mở rộng các nhân vật sâu sắc hơn mức mà một tập phim có thể gợi lên"; ông nhận xét về việc đưa nó vào văn hóa internet với việc tạo ra các tác phẩm nghệ thuật và meme dành cho người hâm mộ "The Amazing Digital Circus", cho rằng nó có khả năng trở nên phổ biến hơn khi phát hành các tập tiếp theo. |
Maria Antonia Josepha của Áo
Maria Antonia Josepha Benedicta Rosalia Petronella của Áo (tiếng Đức: "Maria Antonia Josepha von Österreich"; tiếng Tây Ban Nha: "María Antonia Josefa de Austria"; tiếng Anh: "Maria Antonia Josepha of Austria"; 18 tháng 1 năm 1669 – 24 tháng 12 năm 1692) là Tuyển hầu phu nhân xứ Bayern với tư cách là vợ của Maximilian II Emanuel xứ Bayern. Maria Antonia là con gái lớn và là đứa con duy nhất sống sót của Leopold I của Thánh chế La Mã và người vợ đầu tiên Margarita Teresa của Tây Ban Nha. Maria Antonia Josepha trở thành người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha của người cậu Carlos II của Tây Ban Nha từ năm 1673 cho đến khi qua đời.
Những năm đầu đời.
Maria Antonia Josepha của Áo sinh ngày 18 tháng 1 năm 1669 tại Viên, Đại công quốc Áo, Đế chế La Mã Thần thánh. Maria Antonia là người con thứ hai của Leopold I của Thánh chế La Mã và Margarita Teresa của Tây Ban Nha. Người anh duy nhất của Maria Antonia đã qua đời khi Hoàng nữ được sinh ra. Maria Antonia còn có 2 người em cùng mẹ đã qua đời từ khi còn nhỏ và 12 người em khác mẹ, trong đó có 8 người sống đến tuổi trưởng thành.
Maria Antonia có hệ số cận huyết cao nhất trong Vương tộc Habsburg là 0,3053: cha của Maria Antonia là cậu của Margarita Teresa, mẹ của Hoàng nữ và ông bà ngoại của Maria Antonia cũng là bác bên ngoại và cháu gái.
Từ khi còn nhỏ, Maria Antonia đã là một người thông minh và có học thức và có chung niềm đam mê âm nhạc như cha mẹ của mình.
Quốc vương Habsburg cuối cùng của Tây Ban Nha là Carlos II không có con do bị dị tật và bệnh tật nghiêm trọng. Theo luật kế vị ở Tây Ban Nha, Maria Antonia sẽ có quyền thừa kế ngai vàng nếu Nữ Đại vương công sống đủ lâu vì Maria Antonia Josepha là người con duy nhất còn sống của Hoàng hậu Margarita Teresa, chị gái của Carlos II. Trong thời thơ ấu của Hoàng nữ, đã có quyết định rằng Maria Antonia sẽ kết hôn với Carlos II nhưng kế hoạch không thành công do hoàn cảnh chính trị.
Do đó, Maria Antonia Josepha trở thành ứng cử viên để kết hôn với Vittorio Amadeo II của Sardegna, Công tước xứ Savoia nhưng những dự định này cũng không thành.
Tuyển hầu phu nhân xứ Bayern.
Ngày 15 tháng 7 năm 1865, tại Viên, Maria Antonia kết hôn với Maximilian II Emanuel xứ Bayern. Cuộc hôn nhân với một nữ thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, đối với Thái hậu Maria Anna của Tây Ban Nha, đã đưa Vương tộc Wittelsbach ở Bayern đến gần với ngai vàng Tây Ban Nha hôn nhánh Habsburg cai trị Áo. Sự trung thành với Vương triều Tây Ban Nha của Maria Anna hướng về hậu duệ của con gái Margarita Teresa là Maria Antonia cùng gia đình của cháu ngoại. Điều này khiến cho Maria Anna ở thế đối nghịch với em trai Leopold I, người mong muốn con trai của mình được kế vị ngai vàng hơn. Bản thân Maximilian kết hôn với Maria Antonia với hy vọng có thể có được ngai vàng Tây Ban Nha thông qua quyền kế vị của Maria Antonia. Cuộc hôn nhân của hai người rất không hạnh phúc, vì Maximilian có tính hướng ngoại trong khi Maria Antonia là người hướng nội và nghiêm tú cũng như là cả hai có rất ít điểm chung. Maria Antonia được cho là đã rất phiền lòng vì sự không chung thủy của Maximilian II. Khi Maximilian II được bổ nhiệm làm thống đốc của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha và rời đến Bruxelles cùng với tình nhân là Nữ bá tước xứ Canozza, Maria Antonia đã đến gặp cha ở Viên để sinh con, và nhiều người cho rằng Bà Tuyển hầu không có ý định quay lại với Maximilian. Maria Antonia qua đời năm 1962 vì bị nhiễm trùng hậu sản sau khi sinh người con trai là Joseph Ferdinand xứ Bayern.
Trong theo ý nguyện trước lúc lâm chung, Maria Antonia Josepha đã từ bỏ quyền thừa kế của mình và hậu duệ đối với Vương quyền Tây Ban Nha, nhằm ngăn chặn chồng mình có được ngai vàng Tây Ban Nha và tuyên bố rằng tài sản của mình sẽ được kế thừa bởi con trai, và nếu con trai qua đời thì tài sản sẽ được thừa kế bởi Hoàng đế Leopold I và người thân của Maria Antonia. Dù đã từ bỏ quyền thừa kế của con trai, Joseph Ferdinand vẫn là người thừa kế lâm thời của Vương quyền Tây Ban Nha cho đến khi qua đời. |
Maria Magdalena Josepha của Áo
Maria Magdalena của Áo (tên đầy đủ: Maria Magdalena Josepha Antonia Gabriela ; 26 tháng 3 năm 1689 – 1 tháng 5 năm 1743) là thống đốc xứ Tirol và là con gái của Leopold I của Thánh chế La Mã và người vợ thứ ba Eleonore Magdalene xứ Pfalz.
Maria Magdalena sinh ra tại Cung điện Hofburg ở Viên, là người con thứ chín của Leopold I của Thánh chế La Mã và Eleonore Magdalene xứ Pfalz. Không lâu trước Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, đã có nghi vấn về việc tân vương Felipe V của Tây Ban Nha sẽ kết hôn với Nữ Đại vương công, nhưng Louis XIV của Pháp đã phản đối cuộc hôn nhân vì lý do chính trị, và lý do chính thức được đưa ra là: không có Nữ Đại vương công nào khiến cháu trai của Quốc vương Pháp ứng ý. Năm 1708, chị gái của Maria Magdalena là Maria Anna kết hôn với João V của Bồ Đào Nha; kế hoạch cho sự kết hợp thứ hai giữa Áo và Bồ Đào Nha đã được thảo luận khi Maria Magdalena được ngỏ ý trở thành vợ của Vương tử Francisco của Bồ Đào Nha, Công tước xứ Beja, em trai của João V. Các cuộc thảo luận đã thất bại trong giai đoạn đầu và do đó, cả Maria Magdalena và Francisco đều qua đời mà không lập gia đình. Một lần nữa sau chiến tranh, câu hỏi về việc Maria Magdalena có trở thành Vương hậu Tây Ban Nha để thay thế Luisa Maria của Savoia đã qua đời đã được đặt ra. Tuy nhiên, dự định này đã không thành vì Felipe V đã tái hôn với Elisabetta Farnese.
Sau khi những dự tính hỏi cưới Maria Magdalena không thành, Nữ Đại vương công sống đời ẩn dật, không lập gia đình và qua đời mà không có con cháu. Maria Magdalena có mối quan hệ thân thiết với cháu gái Maria Theresia, con gái của anh trai là Hoàng đế Karl VI và cũng như với em gái của Maria Theresia là Maria Anna. Maria Magdalena qua đời vì bệnh viêm phổi ở tuổi 54 và được chôn cất tại Hầm mộ Hoàng gia ở Viên. |
Chặng đua MotoGP Bồ Đào Nha 2022
Chặng đua MotoGP Bồ Đào Nha 2022 là chặng đua thứ 5 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 22/04/2022 đến ngày 24/04/2022 ở trường đua Algarve, Bồ Đào Nha. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Fabio Quartararo của đội đua Yamaha.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP. |
Trong Phật giáo, Vedanā (tiếng Pali, Sanskit: वेदना, tiếng Việt: thọ) là một thuật ngữ cổ đại, được dịch theo ý nghĩa truyền thống là "cảm xúc" hoặc là "cảm giác". Một cách tổng quát, cảm thọ ám chỉ cho các cảm giác dễ chịu, cảm giác không dễ chịu, và cảm giác trung tính. Những cảm giác trên xuất hiện khi mà các cơ quan cảm thọ của chúng ta có sự tương tác với các đối tượng của các giác quan cùng với thức tương ứng.
Cảm thọ được xác định trong phương pháp giảng dạy của Đức Phật như sau:
Trong ngữ cảnh của mười hai liên kết trong Duyên Khởi, sự tham ái và sự giữ chặt đối với các cảm thọ sẽ dẫn đến sự đau khổ. Một cách tương hỗ nhau, sự nhận thức một cách tập trung và sự thấu hiểu một cách xuyên suốt về cảm thọ có thể dẫn đến sự giác ngộ và sự chấm dứt các nguyên nhân gây ra sự đau khổ.
Nina van Gorkom states:
All feelings have the function of "experiencing the taste, the flavour of an object" ("Atthasālinī", I, Part IV, Chapter I, 109). The "Atthasālinī" uses a simile in order to illustrate that feeling experiences the taste of an object and that citta and the other cetasikas which arise together with feeling experience the taste only partially. A cook who has prepared a meal for the king merely tests the food and then offers it to the king who enjoys the taste of it:
, being lord, expert, and master, eats whatever he likes, even so the mere testing of the food by the cook is like the partial enjoyment of the object by the remaining dhammas (the citta and the other cetasikas), and as the cook tests a portion of the food, so the remaining dhammas enjoy a portion of the object, and as the king, being lord, expert and master, eats the meal according to his pleasure, so feeling, being lord, expert and master, enjoys the taste of the object, and therefore it is said that enjoyment or experience is its function.
Sensations are defined as impressions.
In terms of support, there are six sensations resulting from
Chögyam Trungpa Rinpoche writes:
"In case [] 'feeling' is not quite our ordinary notion of feeling. It is not the feeling we take so seriously as, for instance, when we say, 'He hurt my feelings.' This kind of feeling that we take so seriously belongs to the fourth and fifth skandhas of concept and consciousness."
Three modes, six classes.
Two, three, five, six, 18, 36, 108 kinds.
In a few discourses, a multitude of kinds of vedana are alluded to ranging from two to 108, as follows:
* three kinds: pleasant, painful, neutral
* six kinds: one for each sense faculty (eye, ear, nose, tongue, body, mind)
* 36 kinds: the aforementioned 18 kinds of feeling for the householder and the aforementioned 18 kinds for the renunciate
* 108 kinds: the aforementioned 36 kinds for the past, for the present and for the future
Các bản dịch tương đương.
Một số bản dịch cho thuật ngữ Vedana bao gồm: |
Phùng Sĩ Tấn (sinh năm 1966) là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thượng tướng. Ông hiện là Bí thư Đảng ủy Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp.
Phùng Sĩ Tấn sinh ngày 25 tháng 8 năm 1966 tại phường Hùng Vương, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.
Từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 316. Giai đoạn 2013 - 2015, ông là Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 6 năm 2015, ông là Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2. Từ tháng 8 năm 2016, ông phụ trách Tư lệnh Quân khu 2 và trở thành Tư lệnh Quân khu 2 vào cuối năm 2016. Tháng 9 năm 2019, ông được bổ nhiệm là Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. |
Northrop Corporation là một tập đoàn sản xuất máy bay của Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1939 cho đến khi sáp nhập với Grumman tạo thành Northrop Grumman năm 1994. Công ty nổi tiếng với thiết kế cánh bay, được áp dụng trong máy bay ném bom tàng hình B-2 Spirit.
Lịch sử ra đời.
Jack Northrop thành lập ba công ty mang tên mình. Công ty đầu tiên là Avion Corporation thành lập năm 1928, sau đó được United Aircraft and Transport Corporation mua lại và đổi tên thành "Northrop Aircraft Corporation" (sau đó trở thành một phần của Boeing). Công ty chuyển đến hoạt động ở Kansas từ năm 1931, do đó Jack, cùng với Donald Douglas, thành lập "Northrop Corporation" tại El Segundo, California, và đã cho ra đời nhiều mẫu máy bay thành công như máy bay chở khách Northrop Gamma và Northrop Delta. Tuy nhiên, tình hình nhân công khó khăn đã dẫn đến tập đoàn bị phá sản vào năm 1937, và nhà máy sản xuất trở thành Bộ phận El Segundo trực thuộc Douglas Aircraft Company.
Northrop cố gắng theo đuổi việc thành lập công ty của riêng mình, năm 1939 ông đã thành lập "Northrop Corporation" gần Hawthorne, California. Tập đoàn nằm trong 100 công ty của Hoa Kỳ có tổng giá trị gói thầu vũ khí lớn nhất trong chiến tranh thế giới 2. Trong đó, tập đoàn đã phát triển và chế tạo máy bay ném bom ban đêm P-61 Black Widow, máy bay ném bom thử nghiệm cánh bay B-35 và YB-49, máy bay đánh chặn F-89 Scorpion, tên lửa hành trình liên lục địa SM-62 Snark, và máy bay phản lực chiến đấu F-5 Freedom Fighter (và cả phiên bản huấn luyện là chiếc T-38 Talon rất thành công).
Máy bay tiêm kích F-5 là một mẫu máy bay rất thành công đến mức Northrop đã dành phần lớn những năm 1970s và 1980s để nỗ lực phát triển thêm với một mẫu thiết kế hạng nhẹ tương tự. Đầu tiên là chiếc N-300, với việc trang bị động cơ mới khỏe hơn nhiều và đưa cánh lên vị trí cao hơn giúp tăng dự trữ vũ khí và do đó tăng cường hỏa lực cho máy bay. Chiến đấu cơ N-300 là sự phát triển xa hơn của chiếc P-530 với việc trang bị động cơ lớn hơn, bổ sung thêm một lượng nhỏ "đường vòng" (turbofan) để cải thiện khả năng làm lạnh khí và cho phép khoang động cơ nhẹ hơn, cũng như bổ sung thêm bề mặt cánh. Mẫu P-530 đồng thời cũng được trang bị radar và các hệ thống khác tối quan trọng cho một mẫu tiêm kích hiện đại. Khi chương trình máy bay tiêm kích hạng nhẹ được đưa ra, chiếc P-530 đã bị loại bỏ phần lớn trang bị và trở thành mẫu máy bay P-600, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của YF-17 Cobra, mà đã bị thất bại trong cuộc cạnh tranh với General Dynamics F-16 Fighting Falcon.
Tuy nhiên, McDonnell Douglas đã giúp sửa đổi YF-17 Cobra và phát triển nó thành McDonnell Douglas F/A-18 Hornet để trở thành máy bay tiêm kích hạng nhẹ cho Hải quân Mỹ. Northrop dự định sẽ bán phiên bản thông thường F-18L, nhưng phiên bản F-18A vẫn có lượng bán hàng lớn hơn, đã dẫn đến cuộc kiện cáo dài giữa hai công ty. Northrop tiếp tục chế tạo nhiều khung thân của F-18 và các hệ thống khác sau thời gian này, nhưng đồng thời cũng quay trở về với thiết kế nguyên bản của chiếc F-5 cùng với động cơ mới, từ đó phát triển thành chiếc F-20 Tigershark như là một loại máy bay giá rẻ. Mẫu máy bay này thu hút ít sự chú ý trên thị trường, và dự án sau đó đã bị hủy bỏ.
Dựa trên kinh nghiệm với thiết kế cánh bay, công ty đã phát triển mẫu máy bay ném bom tàng hình B-2 Spirit những năm 1990s.
Năm 1994, do mất hợp đồng chế tạo Advanced Tactical Fighter vào tay Lockheed Corporation và bị loại khỏi chương trình Joint Strike Fighter competition, công ty đã tiến hành mua lại công ty Grumman và thành lập Northrop Grumman. |
Theo sách Mặc Môn thì người Nê Phi (Nephites) là một trong bốn nhóm người đã định cư ở châu Mỹ cổ đại cùng với người Lamanites (người La Man), Jaredites (người Gia Rết) và Mulekites (người Mơ Léc). Thuật ngữ người Nê Phi được sử dụng xuyên suốt trong sách Mặc Môn để tả về các truyền thống tôn giáo, chính trị và văn hóa của nhóm người định cư. Dân Nê Phi được mô tả là một nhóm người có nguồn gốc từ hoặc có liên hệ với Nê Phi là con trai của tiên tri Lê Hi (Lehi) người đã rời Jerusalem theo sự thúc gọi của Đức Chúa Trời vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên đến xứ Phong Phú và cùng gia đình ông di cư đến Tây Bán Cầu và đến châu Mỹ vào khoảng năm 589 trước Công nguyên. Sách Mặc Môn chép rằng người Nê Phi ban đầu là những người công bình nhưng cuối cùng "đã rơi vào trạng thái vô tín và vô cùng độc ác" và bị dân La Man (Lamanite) tuyệt diệt vào khoảng năm 385 sau Công nguyên.
Sự tồn tại của người Nê Phi là một phần của hệ thống tín ngưỡng Mặc Môn giáo. Một số học giả của Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô (Giáo hội LDS) tuyên bố rằng tổ tiên của người Nê Phi đã định cư ở đâu đó ở Trung Mỹ ngày nay sau khi họ rời Jerusalem. Hệ thống tổ chức của Mặc Môn là Quỹ Nghiên cứu Cổ đại và Nghiên cứu Mặc Môn ("Foundation for Ancient Research and Mormon Studies"-"FARMS"), một bộ phận của Đại học Brigham Young thuộc sở hữu và điều hành từ Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau Của Chúa Giê Su Ky Tô đã thực hiện nghiên cứu khảo cổ học sâu rộng trong khu vực và các ấn phẩm về chủ đề này cũng như các vấn đề khác, các chủ đề về lịch sử được FARMS phát hành các ấn phẩm thường xuyên về cùng chủ đề để minh chứng và biện luận cho các luận thuyết về lịch sử châu Mỹ trong sách Mặc Môn.
Theo sách Mặc Môn tại phần Sách Nê-phi thứ nhất về Truyện ký về Lê Hi và vợ ông là Sa Ri A cùng bốn người con trai của ông có tên như sau (bắt đầu từ người con trưởng): La Man, Lê Mu Ên, Sam, và Nê Phi. Chúa báo trước cho Lê Hi biết ông phải rời khỏi xứ Giê Ru Sa Lem vì ông đã tiên tri cho dân chúng biết về sự bất chính của họ và họ tìm cách trừ diệt mạng sống của ông. Ông cùng gia đình hành trình ba ngày trong vùng hoang dã và trú tạm tại xứ Phong Phú. Nê Phi đem các anh mình trở lại xứ Giê Ru Sa Lem để tìm biên sử của người Do Thái. Truyện ký về những nỗi thống khổ của họ. Họ lấy các con gái của Ích Ma Ên làm vợ. Họ đem gia đình đi vào vùng hoang dã. Những sự đau đớn và những nỗi thống khổ của họ trong vùng hoang dã. Lộ trình của họ đưa họ đến bên bờ đại dương. Họ đặt tên nơi ấy là xứ Phong Phú.
Các chương 1–2 kể về Am Ma Rôn, một vị tiên tri của dân Nê Phi, căn dặn Mặc Môn lúc nào và phải đi đâu để lấy các bảng khắc. Ngoài ra, các trận chiến lớn cũng bắt đầu, và Ba Người Nê Phi bị cất đi khỏi vì sự tà ác của dân chúng. Các chương 3–4 kể về Mặc Môn kêu gọi dân chúng hối cải, nhưng họ không còn chút tình cảm nào, và chưa từng có một sự tà ác lớn lao như vậy trước kia trong dân Y Sơ Ra Ên. Các chương 5–6 ghi lại những trận chiến cuối cùng giữa dân Nê Phi và dân La Man. Mặc Môn bị giết chết cùng với hầu hết dân tộc Nê Phi. Trong Chương 7, trước khi ông qua đời, Mặc Môn kêu gọi dân chúng—lúc đó và trong tương lai—phải hối cải. Các chương 8–9 ghi chép rằng cuối cùng chỉ có con trai của Mặc Môn là Mô Rô Ni còn sống sót.
Trong Sách Mặc Môn, vị tiên tri và nhà truyền giáo vĩ đại người Nê Phi. Con trai lớn của Hê La Man (HLMan 3:21). Được chỉ định làm trưởng phán quan (HLMan 3:37), Ông và em ông là Lê Hi đã cải đạo nhiều người La Man về với phúc âm (HLMan 5:18–19). Một vị tiên tri người Nê Phi, là tướng nguyên soái, và người lưu giữ biên sử trong Sách Mặc Môn. Ông sống vào khoảng năm 311–385 sau T.C. (MMôn 1:2, 6; 6:5–6; 8:2–3). Ông là một vị lãnh đạo quân sự trong hầu hết cuộc đời của ông, bắt đầu khi ông mới 15 tuổi (MMôn 2:1–2; 3:8–12; 5:1; 8:2–3). Am Ma Rôn căn dặn Mặc Môn phải tự chuẩn bị để nhận lấy các biên sử và đảm trách việc lưu giữ (MMôn 1:2–5; 2:17–18). Sau khi ghi chép lịch sử của đời ông, Mặc Môn đã tóm lược các bảng khắc lớn của Nê Phi lên trên các bảng khắc của Mặc Môn. Về sau ông đã giao biên sử thiêng liêng này cho con trai của ông là Mô Rô Ni. Các bảng khắc này là một phần của biên sử mà Joseph Smith đã phiên dịch ra Sách Mặc Môn.
Cả Viện Smithsonian và Hiệp hội Địa lý Quốc gia đã đưa ra tuyên bố rằng họ không thấy bằng chứng nào chứng minh sách Mặc Môn là một tài liệu lịch sử. Năm 1996, Viện Smithsonian đã đưa ra một tuyên bố nhằm giải quyết những tuyên bố được đưa ra trong sách Mặc Môn bằng cách tuyên bố rằng cuốn sách này chủ yếu là một văn bản tôn giáo và các nhà khảo cổ học cộng tác với Viện Smithsonian nhận thấy "không có mối liên hệ trực tiếp nào giữa khảo cổ học của Tân Thế giới và chủ đề này" như những câu chuyện trong cuốn sách. Tuyên bố năm 1996 của Viện Smithsonian còn nói thêm rằng có bằng chứng di truyền cho thấy Người Mỹ bản địa có quan hệ gần gũi với các dân tộc ở Châu Á và bằng chứng khảo cổ học đó cho thấy rằng người Mỹ bản địa đã di cư từ Châu Á qua một cây cầu đất bắc qua eo biển Bering vào thời tiền sử. Tuyên bố nói rằng không có bằng chứng đáng tin cậy nào về mối liên hệ giữa các dân tộc Ai Cập cổ đại hoặc người Do Thái và những dân tộc bản địa ở Tân Thế giới, như được kể ra trong những lời văn của Sách Mặc Môn. Tuyên bố được đưa ra để đáp lại những báo cáo cho rằng Viện Smithsonian đã được sử dụng nhận định không đúng cách để tạo tín nhiệm cho những tuyên bố của những người muốn ủng hộ các sự kiện diễn ra theo sách Mặc Môn. |
Đại thảm sát chuột ở Hà Nội
Cuộc đại thảm sát chuột ở Hà Nội (Chữ Nôm: 局摻刹𤝞於河內; tiếng Pháp: "Massacre des rats de Hanoï") diễn ra vào năm 1902, ở Hà Nội khi chính quyền Pháp cố gắng kiểm soát số lượng chuột trong thành phố bằng cách săn tìm chúng. Vì họ cảm thấy mình chưa đạt được đủ chỉ tiêu và do các cuộc đình công nên họ đã lập ra một chương trình tiền thưởng, trả phần thưởng 1 cent cho mỗi con chuột giết được. Để nhận tiền thưởng, mọi người cần phải cung cấp cái đuôi bị cắt ra từ một con chuột. Tuy nhiên, các quan chức bắt đầu chú ý đến chuột không đuôi ở Hà Nội. Những người bắt chuột ở Việt Nam đã bắt, cắt đuôi rồi thả lại chuột xuống cống để tạo ra nhiều chuột hơn.
Cuộc đại thảm sát chuột ở Hà Nội xảy ra giữa cuộc đại dịch hạch thứ ba, chỉ vài năm sau khi bác sĩ và nhà vi khuẩn học người Thụy Sĩ gốc Pháp Alexandre Yersin phát hiện mối quan hệ giữa sự lây lan của đại dịch với loài gặm nhấm.
Ngày nay, sự kiện này thường được dùng làm ví dụ cho sự khuyến khích sai ngược (""), thường được gọi là "Hiệu ứng Rắn hổ mang" ("Cobra Effect"). Nhà sử học hậu thế người Mỹ Michael G. Vann cho rằng ví dụ về rắn hổ mang ở Raj thuộc Anh không thể chứng minh được, nhưng trường hợp chuột ở Việt Nam có thể chứng minh được, nên thuật ngữ này nên được đổi thành "Hiệu ứng chuột" ("Rat Effect").
Kế hoạch của Pháp ở Hà Nội.
Pháp chính thức nắm quyền kiểm soát và chiếm đóng Hà Nội vào năm 1882, sau khi Hòa ước Giáp Tuất năm 1874 sụp đổ. Tuy nhiên, khu vực Bắc Kỳ vẫn chưa được bình định hoàn toàn cho đến tận cuối năm 1896. Pháp xâm lược Đông Dương (nay là Việt Nam, Campuchia và Lào) trong nhiều giai đoạn để có thể tiếp cận cửa sau với sự giàu có của Trung Quốc thông qua thị trường của nó. Đặc biệt, Pháp đã tìm thấy một tuyến đường sông dẫn đến tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, vào thời điểm đó được gọi là "El Dorado bằng lụa thay vì vàng".
Trước khi thành lập chính quyền bảo hộ Bắc Kỳ của Pháp, thành phố Hà Nội là một tổ hợp gồm 36 phố phường, mỗi khu phố lại có một nghề thủ công cụ thể, cũng như một số đền chùa trải khắp khu định cư. Hơn nữa, thành phố Hà Nội còn sở hữu một hệ thống thành quách và pháo đài được xây dựng vào năm 1803 (một năm sau khi hoàng đế Gia Long thành lập triều Nguyễn) với sự hỗ trợ của các kỹ sư quân sự người Pháp được đào tạo tại Vauban. Tuy nhiên, Pháp coi Hà Nội là một tổ hợp làng quê bẩn thỉu, tồi tàn, xiêu vẹo. Vì vậy, họ đã tìm cách biến nó thành một thành phố kiểu Pháp, xứng đáng là trụ sở của một trong những thuộc địa của Đế quốc thực dân Pháp. Quá trình này bắt đầu với sự xuất hiện của các nhà thống sứ người Pháp vào những năm 1880, cụ thể là Paul Bert vào năm 1886, thực sự đã khởi đầu cho quá trình "Pháp hóa" ("Francization") thành phố. Các khu vực rộng lớn của Hà Nội, bao gồm hầu hết thành cổ và nhiều đền chùa, đã bị phá bỏ để nhường chỗ cho các tòa nhà mới kiểu Pháp sẽ trở thành cốt lõi của thành phố mới. Đáng chú ý nhất trong số những công trình xây dựng mới này là Nhà thờ Lớn Hà Nội và Nhà thương Đồn Thủy.
Năm 1897, Paul Doumer được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Dương sau một thời gian ngắn giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp (1895–1896), khi ông cố gắng áp dụng thuế thu nhập nhưng không thành công. Dưới sự lãnh đạo của ông, Hà Nội cũ được thay một bộ mặt mới hoàn toàn, và quá trình chuyển đổi diễn ra hết sức nhanh chóng. Khi Doumer lên kế hoạch biến Hà Nội thành thủ đô mới của Liên bang Đông Dương, ông nhấn mạnh rằng thành phố này cũng phải đáp ứng được bộ mặt đó. Để thực hiện kế hoạch, một dinh thự mới làm nơi ở của Toàn quyền Đông Dương đã được xây dựng (nay là Phủ Chủ tịch). Phần lớn Hà Nội đã được giải tỏa để nhường chỗ cho nội thành kiểu Pháp mới với những đại lộ rộng rãi rợp bóng cây, những biệt thự kiểu Pháp và những khu vườn được chăm sóc cẩn thận. Khu vực mới này được gọi là "Khu phố Pháp" ("Quartier Européen", nay là quận Ba Đình), bởi một số du khách mô tả nó là "một Paris ở bên kia thế giới". Khu vực này của thành phố tương phản rõ rệt với "Khu phố bản địa" ("Quartier indigène") chật chội, chật hẹp và hỗn loạn, là nơi cư trú của cả người An Nam bản địa và người Hán.
Năm 1902, thủ đô của Liên bang Đông Dương được chuyển từ Sài Gòn, Nam Kỳ (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) ra Hà Nội, và được giữ nguyên như vậy cho đến năm 1945. Khi Paul Doumer đến Hà Nội, ông đã triển khai một số dự án cơ sở hạ tầng lớn, chẳng hạn như cầu Paul Doumer (nay là Cầu Long Biên) bắc qua sông Hồng rộng , và Grand Palais d'Expositions được xây dựng cho Triển lãm Hà Nội năm 1903. Mục đích của những hoạt động này là biến Hà Nội thành nơi thể hiện sứ mệnh văn minh hóa của Pháp ở Đông Dương và cung cấp cho thành phố mạng lưới điện đầu tiên ở châu Á.
Nhiệm vụ y tế công cộng của Pháp và hệ thống xử lý nước thải.
Trong số các dự án lớn theo lệnh của Paul Doumer có dự án xây dựng một hệ thống thoát nước ngầm khổng lồ, vừa là biểu tượng cho sự hiện đại của Pháp, vừa giữ cho "Khu phố Pháp" sạch chất thải của con người. Vì nhà vệ sinh được coi là "dấu hiệu của nền văn minh" nên Doumer muốn có nhà vệ sinh có thể xả nước trong mọi cung điện của Pháp. Vào thời điểm Paul Doumer rời đi vào tháng 3 năm 1902, hơn 19 km đường cống đã được xây dựng bên dưới Hà Nội, phần lớn tập trung bên dưới "Khu phố Pháp". Một phần nhỏ hơn của hệ thống thoát nước cũng được xây bên dưới "Khu phố bản địa" của thành phố. Hệ thống thoát nước mới đã giúp chống lại bệnh tả, một căn bệnh do lực lượng viễn chinh Pháp mang từ Algérie sang Hà Nội.
Hệ thống nước thải lớn mới này cũng kéo theo một vấn đề mới mà người Pháp chưa lường trước được, đó là chuột. Trong cống, chuột không có thiên địch tự nhiên nào, và khi đói chúng có thể dễ dàng đột nhập thẳng vào những căn hộ sang trọng nhất thành phố qua "đường cao tốc" ẩn sâu dưới bước chân con người. Điều này gây ra mối lo ngại lớn cho người Pháp cả vì lý do vệ sinh và sự bùng phát của bệnh dịch hạch thể hạch (hay "Cái Chết Đen"). Chỉ vài năm trước đó, tức năm 1894, nhà vi khuẩn học Alexandre Yersin phát hiện ra vi khuẩn "Yersinia pestis", và đồng nghiệp của ông là Paul-Louis Simond phát hiện mối liên hệ giữa loài vi khuẩn này với bọ chét tìm thấy trên gặm nhấm. Vì những hiểu biết mới về cách chuột gây ra bệnh dịch hạch, thực dân Pháp trở nên rất quan tâm đến tình hình và nhanh chóng muốn khắc phục tình trạng này.
""Nếu công nghiệp hóa thay đổi thế giới loài người, nó cũng tạo ra những cơ hội mới cho những người hàng xóm đầy lông của họ. Việc mở rộng các thành phố và mạng lưới thương mại đường dài đã mang đến cho chuột những môi trường sống mới và những cách thức mới để di chuyển xa hơn nhiều so với khả năng của chúng, chỉ bằng đôi chân nhỏ bé mập mạp của mình. Đối với con người, những thay đổi công nghệ này đã dẫn đến bùng nổ dân số. Tôi không chắc liệu chúng ta sinh sản như chuột hay chúng sinh sản như con người. Chúng ta không thể biết chính xác số lượng chuột, nhưng các ước tính khoa học chỉ ra rằng những loài gặm nhấm này hiện đông hơn con người, lên tới vài tỷ con. Tôi thấy thật thú vị khi con người trải qua thời kỳ bùng nổ dân số chưa từng có từ năm 1800 đến nay, thì chuột, loài mà hầu hết mọi người coi là loài gây hại, đã gia tăng số lượng do hậu quả trực tiếp từ hành động của con người.""
Michael G. Vann tại "The Great Hanoi Rat Hunt: A Conversation with Michael G. Vann" (20 tháng 8 năm 2020) - "The Made in China Journal".
Đại dịch đương thời.
Đại dịch hạch thứ ba bắt đầu vào năm 1855 tại Vân Nam, Trung Quốc, khoảng thời nhà Thanh. Đợt dịch hạch này lan đến tất cả các lục địa có người sinh sống, và cuối cùng giết chết hơn 12 triệu người ở Ấn Độ và Trung Quốc (và có lẽ hơn 15 triệu người trên toàn thế giới). Trong đó, ít nhất 10 triệu người Ấn Độ thiệt mạng, khiến nó trở thành một trong những đại dịch nguy hiểm nhất trong lịch sử.
Năm 1898, Paul-Louis Simond ở thành phố Karachi, Sind, Ấn Độ. Tại đây, mặc dù nguồn lực hạn chế, ông vẫn có thể chứng minh rằng bọ chét truyền vi khuẩn "Yersinia pestis", tác nhân gây bệnh dịch hạch thể hạch, từ chuột sang chuột và từ chuột sang người.
Đại dịch hạch lần thứ ba xảy ra cùng thời điểm với lúc Pháp cải tạo Hà Nội. Từ Vân Nam, nó lan tới Quảng Châu và sau đó đến Hồng Kông. Bệnh dịch hạch sau đó lan từ Hồng Kông đến Raj thuộc Anh. Quân đội Hoa Kỳ đã đưa nó đến Manila trong cuộc xâm lược Philippines, một phần ở chiến trường châu Á của Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha. Năm 1899, nó tấn công Cộng hòa Hawaii, và chính quyền thành phố Honolulu (thủ đô) quyết định thiêu hủy Phố người Hoa. Trước khi bệnh dịch hạch tràn vào thành phố San Francisco của Hoa Kỳ, chính quyền thành phố đã quyết định ban hành chính sách phong tỏa Phố người Hoa. Trong quá trình cách ly, chính quyền thành phố đã thảo luận về việc ban hành "Giải pháp Honolulu" để ngăn chặn căn bệnh này ảnh hưởng đến phần còn lại của thành phố.
Tình hình toàn cầu trở nên nghiêm trọng đối với Hà Nội khi người Pháp báo cáo về sự xâm nhập của chuột ở Khu phố Pháp. Chuột nâu ở Hà Nội có vẻ như đến từ các tàu Trung Quốc, nơi đại dịch bắt đầu. Loài chuột xâm lấn này nhanh chóng phát hiện ra rằng hệ thống cống rãnh mới là một hệ sinh thái lý tưởng và nhanh chóng chiếm lĩnh cơ sở hạ tầng đô thị của Hà Nội. Nhiều báo cáo cho thấy người dân đã phát hiện chuột trèo lên đường ống thoát nước và sau đó thậm chí ra khỏi nhà vệ sinh trong những ngôi nhà Pháp. Nỗi lo sợ về những con mèo mang bệnh dịch do ăn chuột đã tạo ra sự hoảng loạn trong giới y tế, buộc họ phải chấm dứt sự lây nhiễm của chuột trước khi thành phố "vỡ trận".
Nhu cầu lụa suy yếu khi Pháp hoàn thành tuyến đường sắt giữa Côn Minh, Vân Nam và Hà Nội, nhưng lại mở ra một thị trường mới cho thuốc phiện. Vân Nam là vùng sản xuất thuốc phiện lớn, và Pháp muốn tận dụng tuyến Vân Nam – Hải Phòng để cung hàng cho tô giới Pháp ở Thượng Hải. Paul Paul Doumer biến Liên bang Đông Dương thành một "quốc gia ma túy" ("narco-state") và nâng doanh thu của Đông Dương từ liên tục thua lỗ lên có lãi. Nhưng điều này cũng làm cho thuộc địa này phụ thuộc kinh tế lẫn nhau với Đế quốc Trung Hoa. Theo đó, hàng hóa Trung Quốc, thương nhân Trung Quốc và người lao động Trung Quốc trở thành "máu sống" của Liên bang Đông Dương. Do Liên bang quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, thực dân Pháp thường tuyên bố rằng cả họ và người bản xứ đều không chịu trách nhiệm về nó vì người Trung Quốc đã kiểm soát có hiệu quả mọi chuyện, trong khi những người khác gọi người Trung Quốc theo một cách tiêu cực là "người Do Thái ở châu Á".
Suốt thời Đệ Nhị Đế chế Pháp của Napoléon III, Pháp là một quốc gia kỹ trị độc tài. Nhưng sau khi Đệ Nhị Đế chế sụp đổ, Đệ Tam Cộng hòa mới đi theo chủ nghĩa tiến bộ, và các nhà kỹ trị, vốn có quyền tự do kiểm soát trong Đế chế, đã thất vọng trước những ràng buộc dân chủ mới đặt ra cho họ. Nhiều nhà kỹ trị trong số này đã bị Đế quốc thực dân Pháp lôi kéo và cho phép họ có thể tham gia vào các thử nghiệm xã hội rộng rãi mà không sợ bị phản đối hoặc dư luận tiêu cực, bởi họ có thể sử dụng quân đội để thực thi chính sách của mình. Ở Hà Nội, điều này dẫn tới một sự đổi mới toàn diện của thành phố dựa trên sự hiện đại của Pháp.
"Khu phố Pháp" nằm ngay cạnh 36 phố phường Hà Nội. Mà trong quan điểm của Pháp, 36 phố phường là nơi cũ kỹ và bẩn thỉu. "Khu phố bản địa" có nhiều ao hồ, đường đi chủ yếu là đường đất, khi trời mưa thì lầy lội, nhà cửa tồi tàn, hầu hết là lợp tranh. Ngược lại, "Khu phố Pháp" có đường rộng, cây xanh và những biệt thự rộng lớn màu trắng. Khoảng 90% dân số Hà Nội sống ở "Khu phố bản địa" chỉ chiếm 1/3 diện tích bề mặt, trong khi "Khu phố Pháp" và một quận hành chính và quân sự ở phía tây chỉ có 10% dân số thành phố, nhưng lại chiếm tới 2/3 diện tích. Điều này biến Hà Nội trở thành một "thành phố kép thuộc địa" điển hình, nơi tầng lớp thượng lưu thuộc địa được hưởng lối sống sang trọng rộng rãi, trong khi người dân bản địa thuộc địa lại sống trong các khu ổ chuột chật chội có từ trước khi bị thuộc địa hóa.
Trong thời kỳ đầu Pháp cai trị Liên bang Đông Dương, các quan chức thuộc địa hầu như không biết gì về những căn bệnh nhiệt đới mà họ sắp gặp phải. Khi dịch bệnh đậu mùa, tiêu chảy, bệnh Dengue, giang , họ chẳng thể làm gì khác ngoài dựng lên rào cản giữa họ và người bản xứ. Người Pháp coi đế quốc thực dân của họ là "Sứ mệnh khai hóa văn minh" và coi việc cải tạo đô thị Hà Nội là một hành động để "chống lại dịch bệnh".
Trong những năm 1890, Hà Nội được trang bị hệ thống thoát nước hiện đại sử dụng công nghệ mới nhất và có hệ thống nước ngọt riêng. Việc tiếp cận các nguồn tài nguyên này được phân chia khá chặt chẽ giữa các chủng tộc, vì hệ thống chỉ phục vụ các khu vực người da trắng, trong khi rất ít người châu Á thực sự được tiếp cận những lợi ích từ cơ sở hạ tầng đô thị mới của thành phố. Trong khi các biệt thự kiểu Pháp mới xây có cả hệ thống nước sinh hoạt và nhà vệ sinh xả nước hiện đại, hầu hết cư dân người Việt và người Hoa trong thành phố cư trú trong "Khu phố bản địa" phải lấy nước từ các đài phun nước công cộng. Chất thải của con người thường thấy trong các đài phun nước công cộng này được những người thu gom đất đêm loại bỏ trước bình minh. Thay vì hệ thống cống rãnh phù hợp, "Khu phố bản địa" chỉ có hệ thống ống máng.
Ngày 8 tháng 1 năm 1902, Yersin được Toàn quyền Đông Dương, tổng thống tương lai của Pháp, Paul Doumer, bổ nhiệm làm Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao đẳng Y khoa Đông Dương. Yersin, cũng như một số chuyên gia y tế khác ở Hà Nội, lo ngại về bệnh dịch hạch đến từ miền nam Trung Quốc trên các tuyến tàu hơi nước mới được thành lập.
Vì nguồn gốc của bệnh dịch hạch là ở Vân Nam, người Pháp đã phỉ báng Trung Quốc và người Trung Quốc.
Kế hoạch ban đầu.
Khi bắt đầu chiến dịch vào tháng 4 năm 1902, Toàn quyền Đông Dương đã thuê những người Việt Nam chuyên bắt chuột. Những người này sẽ xuống cống để săn chuột và được trả tiền cho mỗi con chuột mà họ diệt được.
"Người ta phải đi vào hệ thống cống rãnh tối tăm và chật chội, tìm đường đi qua chất thải của con người ở nhiều dạng phân hủy khác nhau và săn lùng một loài động vật hoang dã tương đối hung dữ có thể mang bọ chét mắc bệnh dịch hạch hoặc các bệnh truyền nhiễm khác. Điều này thậm chí còn không đề cập đến sự tồn tại có thể xảy ra của nhiều loài động vật nguy hiểm khác, chẳng hạn như rắn, nhện và các sinh vật khác, khiến tác giả nổi da gà vì lo lắng."
Vào tuần cuối cùng của tháng 4, có tin những người bắt chuột đã giết được 7.985 con chuột. Các "sát thủ" tiếp tục tích lũy kinh nghiệm trong tháng 5, đẩy số chuột chết lên đến hơn 4.000 con mỗi ngày. Đến cuối tháng 5, con số thậm chí còn cao hơn. Chỉ riêng trong ngày 30 tháng 5, họ báo cáo đã giết được 15.041 con chuột. Vào tháng 6, số lượng chuột giết hàng ngày lên tới 10.000, đỉnh điểm là ngày 21 tháng 6 với 20.112 con. Sự thành công của những người bắt chuột chuyên nghiệp này ngay lập tức giúp giảm số ca tử vong do các bệnh do gặm nhấm gây ra. Mặc dù báo cáo cho thấy số lượng chuột bị giết rất cao, người Pháp nhận ra rằng các dịch vụ kiểm soát sinh vật gây hại chuyên nghiệp không làm giảm số lượng chuột vì chuột có thể sinh sản nhanh chóng, vì vậy họ đã tìm kiếm các biện pháp thay thế để thử và giảm bớt số lượng chuột trong thành phố.
Những người được thuê để săn chuột trong cống bắt đầu không hài lòng với tình cảnh của họ. Họ thấy môi trường làm việc phức tạp và nguy hiểm của mình bị bao phủ bởi đủ loại rác thải, phân người, ô uế và phải đối phó với những động vật nguy hiểm như rắn và rết, trong khi tiền công lại quá thấp so với công sức họ đã bỏ ra. Tháng 7 năm 1902, Tiến sĩ Serez báo cáo với cấp trên rằng ông đang gặp rắc rối với người dân địa phương trong chiến dịch diệt chuột, khi họ bắt đầu đình công yêu cầu tăng lương. Theo "VNEconomics", Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn tuyên bố rằng vào năm 1904, chính quyền đã tăng hoa hồng cho mỗi con chuột bị giết lên 4 xu. Nguyễn Văn Tuấn ghi chú thêm rằng trong chiến dịch, tổng cộng 55.000.000 con chuột được báo cáo là đã bị thủ tiêu.
Trong khi Đế quốc thực dân Pháp tự coi mình là một chính quyền kỹ trị hiện đại và quản lý các thuộc địa của mình dựa trên việc lưu trữ hồ sơ và thống kê cứng nhắc cũng như một kho dữ liệu khổng lồ, dữ liệu do các nhà kỹ trị thu thập thường không đáng tin cậy. Tất cả dữ liệu do người Pháp thu thập từ số liệu dân số của thành phố, số ca bệnh dịch hạch cho đến số chuột chết hàng ngày chỉ là những dự đoán tốt nhất. Vì vậy, số lượng chuột bị giết được báo cáo có thể không phản ánh số lượng chuột thực tế bị giết.
Vì "Khu phố Pháp" thường được coi là "khu vực văn minh của Hà Nội" với các khu dân cư sạch sẽ, cuộc săn lùng này cũng gây ra những tác động xã hội tiêu cực đối với cư dân ở đây. Theo báo cáo của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 9 tháng 6, cư dân Pháp liên tục gặp phải những kẻ bắt chuột bản địa chui lên từ vô số hố ga ở "Khu phố Pháp", trên người phủ đầy rác rưởi. Ngoài ra, việc những người này mang theo hàng trăm xác chuột chết đẫm máu và bốc mùi hôi thối khiến nhiều người dân lên tiếng phàn nàn về hoạt động này.
Khi chính quyền Pháp nhận thấy rằng quá trình tiêu diệt chuột diễn ra không đủ nhanh, họ chuyển sang Kế hoạch B và kêu gọi tất cả người dân tham gia diệt chuột. Phần thưởng được đưa ra là 1 xu cho mỗi con chuột. Dân thường chỉ phải nộp cái đuôi chuột cho văn phòng thành phố vì Pháp không muốn bị quá tải bởi xác chuột. Pháp cho rằng đây là một ý tưởng hay vì họ đã có chính sách khuyến khích tinh thần khởi nghiệp ở Việt Nam. Ban đầu, kế hoạch mới dường như có hiệu quả bởi đuôi chuột liên tục được chuyển về. Nhưng sau đó, một hậu quả không lường trước đã xuất hiện. Những người Việt được thuê để giết chuột sớm nhận ra rằng việc săn chuột lại ít có khả năng nhận được phần thưởng trong tương lai. Suy cho cùng, họ cần lũ chuột sinh sản nhiều chuột có đuôi hơn vì chúng sẽ trở thành nguồn thu nhập trong tương lai.
Người Pháp nhanh chóng phát hiện những con chuột không đuôi còn sống chạy loanh quanh. Những người săn chuột đã cắt bỏ đuôi của chúng rồi thả chúng trốn thoát để chúng có thể sinh sản và tạo ra nhiều con chuột có đuôi hơn, để rồi sau đó lặp lại quá trình này. Hơn nữa, cũng có thông tin cho rằng một số người Việt Nam cố tình buôn lậu chuột từ nước ngoài vào thành phố. "Giọt nước tràn ly" khi các thanh tra y tế Pháp phát hiện những trang trại nuôi chuột mọc lên ở ngoại ô Hà Nội. Việc nuôi chuột lấy đuôi biến nơi đây thành một "nhà máy sinh đuôi". Vì các chính sách của Pháp đã không đạt được mục tiêu, mà trên thực tế còn khiến vấn đề chuột trở nên tồi tệ hơn ở Hà Nội, họ đã hủy bỏ chương trình tiền thưởng.
Sau khi chiến dịch kết thúc thất bại, lũ chuột giờ đây đông đảo hơn bao giờ hết, tiếp tục nô đùa bên dưới thành phố và người Pháp đành cam chịu sống chung với chúng.
Cựu Toàn quyền Paul Doumer muốn tổ chức Triển lãm Hà Nội (triển lãm quốc tế về thuộc địa) như một dịp để phô trương Hà Nội là một thành phố văn minh và vệ sinh, coi đây là một thắng lợi của chính phủ Pháp. Triển lãm Hà Nội kéo dài từ năm 1902 đến năm 1903, và trong thời gian diễn ra, hàng hóa từ khắp nơi trên thế giới đổ về Hà Nội. Điều này làm tăng thêm gánh nặng bệnh tật cho Hà Nội, vì chuột ngoại lai mang mầm bệnh di chuyển cùng với hàng hóa. Đến năm 1903, có 159 người nhiễm bệnh dịch hạch, trong đó có 110 người chết. Phần lớn nạn nhân là người Việt bản địa, chỉ có 6 thực dân Pháp nhiễm bệnh, trong đó 2 người đã tử vong. Một trong những nguyên nhân khiến số người Việt Nam tử vong cao hơn là vì họ giữ bí mật về người nhà bị bệnh, vì họ sợ nếu chính quyền biết được sẽ đến kiểm tra, can thiệp.
Bệnh dịch hạch tiếp tục lan rộng trong những năm tiếp theo. Năm 1906, một trận dịch bùng phát ở Bắc Kỳ đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế khu vực. Do tác động của suy thoái kinh tế do dịch bệnh, rất nhiều người dân vùng nông thôn Bắc Kỳ đã di cư ra Hà Nội, nơi họ trở thành người ăn xin vô gia cư. Trong những năm 1906–1908, các quan chức y tế Pháp ghi nhận chính thức 263 trường hợp tử vong do bệnh dịch hạch. Do đó, chính quyền đã quyết định thực hiện các biện pháp chống dịch khác và kiểm soát vệ sinh chặt chẽ hơn tại 36 phố phường của "Khu phố bản địa". Chính quyền Pháp nhận ra rằng họ chỉ có thể ngăn chặn đại dịch thông qua các biện pháp y tế công cộng mạnh tay và thường mang tính xâm lấn nhằm ngăn chặn nó lây lan thêm, sau khi dịch đã được xác định. Các biện pháp này bao gồm cách ly người bệnh trong các nhà nghỉ, thiêu hủy đồ đạc và thường là nhà của những người bị phát hiện nhiễm bệnh, đồng thời tịch thu xác chết. Những biện pháp chặt chẽ hơn này đã thành công trong việc giảm sự lan rộng bệnh dịch trong thành phố. Người Pháp tiếp tục thực thi các biện pháp này sau đại dịch, vì người bản xứ không có thói quen vệ sinh cá nhân mà người Pháp mong muốn họ có được. Điều này phản ánh nền chính trị chủng tộc vào thời đó, vì thái độ tương tự tồn tại ở những nơi như Cộng hòa Nam Phi, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Hồng Kông. Tuy nhiên, những biện pháp này không được phổ biến lắm, mà còn khiến người dân địa phương tức giận.
Năm 1998, chính quyền Việt Nam quyết định đóng cửa các nhà hàng bán thịt mèo, được quảng cáo là "thịt tiểu hổ", vì họ cho rằng nếu số lượng mèo giảm, chuột sẽ xâm chiếm ruộng lúa. Điều này thể hiện tâm lý tương tự như người Pháp gần một thế kỷ trước đó. |
Lê Hoài Bắc (sinh ngày 21 tháng 3 năm 1963) là một Giáo sư, Tiến sĩ ngành Công nghệ thông tin chuyên nghiên cứu về các lĩnh vực như máy học, trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu. Không chỉ là tác giả của nhiều bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí, kỷ yếu khoa học trong và ngoài nước, ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách giáo trình cho ngành công nghệ thông tin. Ông được bổ nhiệm chức danh Giáo sư vào năm 2019 và được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2020.
Lê Hoài Bắc sinh ngày 21 tháng 3 năm 1963, quê quán tại xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1984, ông bắt đầu công việc giảng dạy tại khoa Toán, Trường Đại học Quy Nhơn. Sau khi hoàn thành bằng Đại học chuyên ngành Toán học tại Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn, ông chuyển công tác vào thành phố Hồ Chí Minh và tiếp tục giảng dạy tại Trường Đại học Tổng hợp vào năm 1991. Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu, ông đã hoàn thành bằng Thạc sĩ chuyên ngành Tin học tại Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội vào tháng 3 năm 1993. Năm 1996, ông chuyển công tác sang khoa Công nghệ thông tin của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian công tác, ông đã tiếp tục nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ ngành Toán học, chuyên ngành Đảm bảo toán học cho máy tính và hệ thống tính toán vào tháng 6 năm 2000. Đến nay, ông đã là Trưởng bộ môn Khoa học máy tính, Phó Trưởng khoa Công nghệ Thông tin của trường.
Năm 2017, 8 hội đồng khoa học ngành trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật được thành lập bao gồm: Toán học, Khoa học thông tin và Máy tính, Vật lý, Hóa học, các Khoa học Trái Đất và môi trường, Sinh học và Nông nghiệp, Cơ học, Y sinh – Dược học. Trong đó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoài Bắc là 1 trong 9 thành viên của Hội đồng Khoa học ngành Khoa học thông tin và Máy tính. Năm 2020, ông được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Cũng trong năm này, thành phố Hồ Chí Minh ra mắt Hội đồng tư vấn chương trình ứng dụng trí tuệ nhân tạo, giáo sư Lê Hoài Bắc là 1 trong 18 thành viên của hội đồng. Ông hiện là thành viên hội đồng giáo sư ngành Công nghệ thông tin, cũng là một trong 10 giáo sư đầu tiên của ngành. |
George Somers (24 tháng 4 năm 1554 – 9 tháng 11 năm 1610) là một truyền trưởng của đội tàu tư nhân, đô đốc hải quân và là anh hùng của Hải quân Hoàng gia Anh, được phong tước hiệp sĩ vì thành tích của mình và là Đô đốc của Công ty Virginia ở Luân Đôn. Ông đã đạt được danh tiếng khi tham gia đoàn thám hiểm do Ngài Amyas Preston dẫn đầu đã cướp bóc Caracas và Santa Ana de Coro vào năm 1595, trong Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha (1585–1604) không được tuyên bố. Ngày nay ông được nhớ đến với tư cách là người sáng lập thuộc địa Bermuda của Anh, nơi này còn được gọi là Quần đảo Somers.
Somers sinh ra ở Lyme Regis, Dorset vào năm 1554, là con trai của John Somers và vợ. Ngay từ khi còn trẻ, ông đã trở thành một thủy thủ nổi tiếng lành nghề và sở hữu ít nhất một con tàu, "Julian", có cảng quê hương là Lyme Regis. Chuyến phiêu lưu đầu tiên của Somers là chỉ huy con tàu "Flibcote", cùng với ba tàu khác trong Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha (1585–1604) không được công bố, trong một cuộc đột kích vào Tây Ban Nha; ông đã mang về nhà những chiến lợi phẩm trị giá hơn 8.000 bảng Anh. |
Minh Tâm (nghệ sĩ)
Minh Tâm có tên đầy đủ Nguyễn Minh Tâm (1931 – 2019) là nam nghệ sĩ thiết kế âm thanh, tiếng động của điện ảnh Việt Nam, ông tham gia sản xuất hơn 2000 tác phẩm từ điện ảnh, phim dài tập đến các phim tài liệu; ông cũng tham gia đóng vai quần chúng trong một vài bộ phim. Ông được mệnh danh là "ông vua tiếng động" đất Bắc.
Minh Tâm có tên đầy đủ là Nguyễn Minh Tâm, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1931 trong một gia đình tiểu thương tại Trát Cầu, Thường Tín, Hà Nội.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, sau khi hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ của lần đi bầu cử đầu tiên, ông đã sáng tác ca khúc "Đuốc gươm thiêng". Minh Tâm đã đưa ca khúc đến chỗ Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và cổ động Trần Huy Liệu để giới thiệu bài hát. Ngay sau đó Minh Tâm được yêu cầu cùng dàn nhạc của nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên tập ngay để hát chào mừng Quốc hội. Buổi biểu diễn được tổ chức tại khu Đông Dương học xá – Đại học Bách khoa. Tại đây Minh Tâm được gặp trực tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Minh Tâm sau này nhập ngũ vào Trung đoàn 52, tham gia mặt trận Tây Tiến trong Chiến tranh Đông Dương, rồi cùng đoàn quân chiến thắng trở về tiếp quản Thủ đô năm 1954. Thời kỳ công tác tại Xưởng phim truyện Việt Nam, ban đầu ông là diễn viên lồng tiếng, cho đến khi Xưởng phim thiếu người làm tiếng động, ông được nhắm phụ trách công việc này. Sau thời gian học nghề từ nghệ sĩ Ngô Nam, năm 1970, Minh Tâm chính thức làm bắt đầu với công việc tạo tiếng động. Ông tham gia tạo tiếng động cho bộ phim đầu tiên của điện ảnh Việt Nam "Chung một dòng sông" và các phim điện ảnh Việt Nam kinh điển khác như "Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Đêm hội Long Trì, Đến hẹn lại lên"... Minh Tâm đã được gọi là "Vua tiếng động", ngoài việc có quá ít người theo đuổi lĩnh vực này, còn bởi ông là người đam mê và rất sáng tạo.
Không được học trường lớp bài bản, ông một mình trong buồng tối tự hình dung, mày mò và tìm cách tạo ra những âm thanh sao cho khớp với hình trên phim nhất. Thời gian đầu, ông căng thẳng đến mức cảm thấy bị ức chế.
Từ những năm 1990, khi Minh Tâm về hưu cũng là thời điểm phim truyền hình nở rộ, ông bắt đầu biên soạn tài liệu về lồng tiếng, tiếng động cho phim. Ông giảng dạy nghệ thuật làm tiếng động cho các Đài Truyền hình trong nước, Nguyễn Mạnh Kiên và NSƯT Minh Thu là hai học trò xuất sắc của ông. Sau khi về hưu, nghệ sĩ Minh Tâm vẫn tiếp tục tạo tiếng động cho nhiều bộ phim khác cho đến khoảng năm 2011. Tính đến năm 2001, ông đã tạo tiếng động cho hơn 2000 tác phẩm.
Qua đời và di sản.
Nghệ sĩ Minh Tâm qua đời ngày 5 tháng 11 năm 2019 vì tuổi cao sức yếu. Cô con gái của ông – nghệ sĩ Minh Thu sau này đã theo nghề tiếng động vì ngưỡng mộ bố. Ban đầu ông không đồng ý để con nối nghiệp mình vì lo con gái theo nghề này sẽ vất vả. Nhưng đến năm 1985, khi sang Liên Xô làm tiếng động cho bộ phim "Tọa độ chết" do Samven Gasparov đạo diễn, nghệ sĩ Minh Tâm chứng kiến bộ phim có tới 4 người phụ nữ tham gia làm tiếng động, ông thay đổi định kiến, đồng ý để cô con gái mình theo nghề.
Ngày 1 tháng 11 năm 1991, ông viết lá thư 3 trang gửi lên Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, lúc đó là ông Trần Hoàn. Trong thư ông đề nghị nên cho thành lập khoa “Nghệ thuật âm thanh” trong trường đại học Sân khấu điện ảnh. Cùng ngày, ông nhận được công văn thông báo đã chuyển thư của ông cho Cục Điện ảnh xem xét. Qua 3 đời cục trưởng nhưng chưa ai quan tâm tới những đề xuất của “ông vua tiếng động”.
Nghệ sĩ Minh Tâm tham gia tạo âm thanh / tiếng động cho hơn 2000 tác phẩm thuộc nhiều định dạng khác nhau: phim điện ảnh, phim dài tập, phim tài liệ |
Người La Man ("Lamanites") là một trong bốn dân tộc cổ xưa cùng với dân Gia Rết (Jaredites), Mơ Lếch (Mulekites) và người Nê Phi (Nephites) được mô tả là đã định cư ở châu Mỹ cổ đại ("xứ Phong Phú") vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Điều này đã được ghi chép theo sách Mặc Môn, một văn bản thiêng liêng của phong trào Thánh Hữu Ngày Sau. Dân La Man cũng đóng một vai trò trong những lời tiên tri và mặc khải của Giáo Lý và Giao Ước, một văn bản thiêng liêng khác trong phong trào Thánh Hữu Ngày Sau. Trong câu chuyện của sách Mặc Môn, dân La Man bắt đầu là đối thủ tàn ác của dân Nê Phi công chính hơn, nhưng khi nền văn minh Nê Phi trở nên suy đồi, nó mất đi ân huệ thiêng liêng và bị dân La Man tuyệt diệt. Các tín nhân Thánh Hữu Ngày Sau trong lịch sử đã liên hệ người La Man với các nền văn hóa Người Mỹ bản địa ngày nay.
Ngày nay, nhiều tín nhân Thánh Hữu Ngày sau vẫn coi người Polynesia và người bản địa ở Châu Mỹ khác là người La Man. Một bài báo trên tạp chí Giáo hội năm 1971 tuyên bố rằng người La Man bao gồm người da đỏ ở khắp châu Mỹ cũng như cư dân các đảo ở Thái Bình Dương. Phần giới thiệu không chính thống về ấn bản Sách Mặc Môn của Giáo hội LDS năm 1981 nói rằng "người La Man là tổ tiên chính của người Mỹ da đỏ". Cách diễn đạt đã được thay đổi trong ấn bản Doubleday năm 2006 và các ấn bản tiếp theo do Giáo hội LDS xuất bản, chỉ nói rõ rằng người La Man "là một trong những tổ tiên của người Mỹ da đỏ". Trong Sách Mặc Môn, người Lan Man được mô tả là có làn ""da đen" để phân biệt họ với người Nê Phi. Sự thay đổi màu da này thường được nhắc đến cùng với lời nguyền của Chúa đối với con cháu của La Man vì sự độc ác và sa đọa của họ.
Theo Sách Mặc Môn thì có một nhóm các hộ gia đình của Lê Hi (Lehi), được mô tả là một nhà tiên tri Do Thái giàu có; gia đình Ishmael và Zoram đã di cư từ Trung Đông đến Châu Mỹ (xứ Phong Phú) bằng thuyền vượt biển vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Một thời gian sau khi Lê-hi chết ở châu Mỹ, con trai của Lê Hi là Nê Phi lo ngại rằng các anh của ông là Laman và Lê Mu Ên đang âm mưu giết ông và vì vậy ông đã âm mưu giết cả gia đình ông và những người theo ông rời đi và đi vào vùng hoang dã. Những người đi theo Nê Phi tự gọi mình là "người Nê Phi" và gọi những người khác là "dân La Man"" lấy theo tên La Man là người anh cả của Nê Phi. Sau khi hai nhóm tách ra khỏi nhau, dân La Man phản loạn đã bị nguyền rủa và "bị khai trừ khỏi sự hiện diện của Chúa". Sau khi hai nhóm gây chiến trong nhiều thế kỷ, câu chuyện kể rằng Chúa Giê Su Ky Tô đã hiện đến với dân Nê Phi và dân La Man ngay chính hơn, là những người mà đến lúc đó đã cải đạo với số lượng lớn sang sự công chính trước mặt Chúa.
Ngay sau chuyến viếng thăm của Chúa Giê Su thì dân La Man và dân Nê Phi đã hợp nhất thành một quốc gia và cùng tồn tại trong hòa bình trong suốt hai thế kỷ. Sách Mặc Môn kể lại thêm: ""Không có kẻ cướp hay kẻ giết người, cũng không có người La Man, cũng không có bất kỳ người thuộc tầng lớp nào; nhưng họ là một, con cái của Đấng Ky Tô, và những người thừa kế vương quốc của Thượng Đế". Tuy nhiên, đến 84 năm sau khi Đấng Christ giáng lâm thì đã có "một bộ phận nhỏ dân chúng đã phản nghịch giáo hội"" lại bắt đầu tự gọi mình là người La Man. Những người ở lại một lần nữa được xác định là người Nê Phi, nhưng cả hai nhóm đều được cho là đã rơi vào tình trạng bội giáo. Sách Mặc Môn kể lại một loạt trận chiến lớn trong hai thế kỷ, kết thúc bằng sự kiện dân La Man tuyệt diệt dân Nê Phi.
Về mặt lịch sử, người Mặc Môn đã xác định người La Man chính là tổ tiên của người da đỏ Bắc Mỹ:53. Một số ấn phẩm của giáo phái lớn nhất trong phong trào Thánh Hữu Ngày Sau-The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints (Giáo hội LDS) đã chấp nhận quan điểm này. Những người Mặc Môn thời kỳ đầu mong đợi một số lượng lớn người da đỏ Mỹ bản địa cải đạo sẽ đổ về Zion:79. Sau khi điều này không xảy ra, khái niệm người La Man bắt đầu mở rộng để chỉ về tất cả người dân bản địa châu Mỹ, rồi sau khi một số lượng lớn người Polynesia cải đạo, khái niệm này đã mở rộng để bao hàm cả những người Polynesia:135. Lời tường thuật trong kinh thánh về Hagoth đã được sử dụng để biện minh cho mối liên hệ này. Sự tồn tại của một quốc gia La Man không nhận được sự đồng trợ nào từ khoa học chính thống hoặc khảo cổ học. Các nghiên cứu di truyền chỉ ra rằng người Mỹ bản địa có liên quan đến những giống dân hiện tại ở Mông Cổ, Siberia và vùng lân cận ở Viễn Đông, còn và người Polynesia thì lại đến từ Đông Nam Á. Có ý kiến coi người La Man là một bộ tộc nhỏ trong số nhiều bộ tộc ở Châu Mỹ cổ đại, phần còn lại không được thảo luận trong sách Mặc Môn; hoặc một bộ tộc kết hôn với người Mỹ bản địa; hoặc một bộ tộc có nguồn gốc từ những người châu Á hiện đại từ tổ tiên du mục chung nhưng đã tách ra trước khi Lê Hi rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
Một vị tiên tri người La Man trong Sách Mặc Môn được Chúa sai đi thuyết giảng và cảnh cáo dân Nê Phi ngay trước khi Đấng Cứu Rỗi giáng sinh. Sa Mu Ên nói tiên tri về những điềm triệu liên quan đến sự giáng sinh và cái chết của Chúa Giê Su Ky Tô và về sự hủy diệt của dân Nê Phi (HLMan 13–16). Dân La Man tuân giữ các giáo lệnh của Thượng Đế. Họ trở nên ngay chính hơn dân Nê Phi. Sa Mu Ên bắt đầu giảng dạy dân La Man. Ông không bao giờ được nghe nói đến nữa giữa dân Nê Phi. Các con trai của Mô Si A giảng dạy phúc âm cho dân La Man. Hàng ngàn người dân La Man hối cải và gia nhập giáo hội (An Ma 23:4–5). Những người dân La Man mà gia nhập giáo hội tự gọi mình là dân An Ti-Nê Phi-Lê Hi, hay dân của Am Môn. Họ là những người dân tốt và siêng năng (An Ma 23:17–18; An Ma 27:26). Dòng dõi của Nê Phi (dân Nê Phi) và dòng dõi của các anh của ông (dân La Man) trở thành hai dân tộc văn minh (Нифайн үр удам (Нифайчууд) болон ах нарынх нь үр удам (Леменчүүд) агуу үндэстэн болов).
Những người dân La Man mà không hối cải tức giận dân của Am Môn và chuẩn bị đánh họ (An Ma 24:1–2). Dân của Am Môn biết rằng những người dân La Man tà ác sẽ đến giết họ nhưng quyết định không đánh trả lại. Họ hối cải việc giết người (An Ma 24:5–6). Họ chôn sâu vũ khí trong lòng đất và hứa với Thượng Đế rằng họ sẽ không bao giờ giết người nữa (An Ma 24:17–18). Khi dân La Man tà ác đến và bắt đầu chém giết họ, họ cúi đầu xuống đất và cầu nguyện (An Ma 24:21). Khi thấy rằng dân của Am Môn không chống trả lại, nhiều người dân La Man tà ác ngừng chém giết họ (An Ma 24:23–24). Dân La Man hối hận vì đã giết người. Họ liệng khí giới mình xuống và gia nhập với dân Am Môn. Họ không tranh chiến nữa (An Ma 24:24–27). Nhiều người dân La Man nữa đến giết dân của Am Môn. Họ vẫn không chống trả và nhiều người đã bị giết chết (An Ma 27:2–3).
Theo Hê La Man 4–6 Một đạo quân Nê Phi ly khai và dân La Man đánh chiếm tất cả các vùng đất phía nam của dân Nê Phi, kể cả Gia Ra Hem La. Dân Nê Phi trở nên yếu đuối vì sự tà ác của họ. Nê Phi trao ghế xét xử cho Kê Giô Ram. Nê Phi và Lê Hi nhớ những lời của cha họ, Hê La Man, và họ hiến thân mình cho việc thuyết giảng phúc âm. Nhiều người ly khai đã hối cải và trở lại với dân Nê Phi. Sau khi Chúa bảo vệ Nê Phi và Lê Hi trong tù một cách kỳ diệu, đa số dân La Man được cải đạo và trả lại những vùng đất mà họ đã chiếm đóng cho dân Nê Phi. Trong một thời kỳ thịnh vượng, bọn cướp Ga Đi An Tôn gia tăng gấp bội. Nhiều người dân Nê Phi tham gia vào sự tà ác của chúng, dẫn đến sự thối nát của chính quyền Nê Phi. Hê La Man 13–16 Sa Mu Ên người La Man cảnh báo dân Nê Phi phải hối cải, nói tiên tri về cuộc hủy diệt cuối cùng của họ và báo trước điềm triệu kèm theo sự giáng sinh và cái chết của Chúa Giê Su Ky Tô. Những ai tin lời của ông đều chịu phép báp têm. Tuy nhiên, đa số dân chúng khước từ Sa Mu Ên và gạt bỏ những điềm triệu cũng như những điều kỳ diệu đã được ban cho. |
Trưng cầu dân ý chính phủ Nga 1993
Một cuộc trưng cầu dân ý gồm bốn phần đã được tổ chức tại Nga vào ngày 25 tháng 4 năm 1993. Cử tri được hỏi về mức độ tín nhiệm đối với Tổng thống Boris Yeltsin, sự ủng hộ đối với các chính sách kinh tế xã hội của chính phủ và bầu cử sớm cho cả tổng thống và nghị viện. Cuộc trưng cầu dân ý được khởi xướng bởi Đại hội Đại biểu Nhân dân, trong đó quy định rằng Yeltsin sẽ cần phải có được 50% cử tri, thay vì 50% số phiếu hợp lệ.
Ba trong số bốn câu hỏi - tín nhiệm đối với Yeltsin, ủng hộ các chính sách kinh tế xã hội của chính phủ và bầu cử sớm cho Đại hội Đại biểu Nhân dân - đã được đa số cử tri tham gia chấp thuận, trong khi cử tri bác bỏ đề xuất tổ chức bầu cử tổng thống sớm. Tuy nhiên, đề xuất bầu cử sớm cho Đại hội đại biểu nhân dân đã thất bại do số cử tri tối thiểu cần thiết là 50% tổng số cử tri đã đăng ký không thỏa mãn.
Bốn câu hỏi là: |
Vào ngày 15 tháng 9 năm 2014, hoạt động kinh doanh đã bị đình chỉ do việc xây dựng ngầm khu vực trung tâm thành phố Gangneung sau khi xây dựng Tuyến Gyeonggang, nhưng hoạt động kinh doanh đã tiếp tục trở lại khi khai trương Tuyến Gangneung KTX vào ngày 22 tháng 12 năm 2017 và tuyến tàu Yeongdong Mugunghwa tạm thời dừng ở ga Jeongdongjin và cũng hoạt động trở lại vào ngày 18 tháng 7 năm 2018. Việc xử lý hàng hóa được chuyển đến Ga Anin và Ga Okgye. Nó chịu trách nhiệm về điểm dừng bắt đầu và kết thúc của chuyến tàu Mugunghwa khởi hành từ Cheongnyangni, Dongdaegu, Bujeon và Busan, nhưng vì chuyến tàu được rút ngắn đến ga Donghae từ ngày 2 tháng 3 năm 2020 nên giờ đây nó sẽ chuyển sang tàu đưa đón Mugunghwa và Nuri giữa Donghae và Gangneung và dừng ở Nuri. Tuyến Donghae Bukbu dự kiến sẽ được kéo dài từ ga này vào tháng 12 năm 2027. |
Người Gia Rết ("Jaredites") là một trong bốn dân tộc cùng với người Nê Phi, người La Man (Lamanites) và người Mu-Lếc (Mulekites) mà những tín nhân của Mặc Môn giáo (Giáo hội Thánh Hữu Ngày sau) tin rằng đã định cư ở châu Mỹ cổ đại. Sách Mặc Môn (chủ yếu là Sách Ê The/Book of Ether) mô tả dân Gia Rết là hậu duệ của Gia Rết (Jared) và anh trai ông, những người sống vào thời con người ta xây Tháp Babel. Theo Sách Mặc Môn thì họ vượt đại dương trên những chiếc thuyền độc đáo và xây dựng một nền văn minh cổ xưa ở Mỹ. Việc sách Ether đề cập đến "dải đất hẹp" đã khiến một số người kết luận rằng nền văn minh này có thể kéo dài từ Trung Tây Hoa Kỳ đến miền Đông Hoa Kỳ như New York, nơi hóa thạch của voi ma mút cổ đại đã được phát hiện rất nhiều và nhiều loài vật khác. Các tài liệu của người Mỹ bản địa mô tả Niagara là dải đất hẹp dịch theo nghĩa đen là "cái cổ". Những người khác tranh luận về một vị trí vẫn ở phía bắc nhưng gần ""dẻo đất" hơn ở Trung Mỹ hoặc Mexico. Khảo cổ học chính thống không tìm thấy bằng chứng nào về sự tồn tại của người Gia Rết hoặc bất kỳ nhóm nào trong ba nhóm còn lại ở châu Mỹ.
Ngoài Sách Ê The, thì cách Mặc Môn kể rằng Coriantumr đã được Mulekites tìm thấy. Dân Nê Phi sau đó chạm trán với dân Mulek và dạy họ ngôn ngữ Nê Phi. Những người Mulekite nói với họ rằng Coriantumr đã chết khoảng chín tháng sau khi anh ta đến sống với họ. Nhà tiên tri người Nê Phi, Vua Mosiah I đã có thể dịch một tảng đá lớn có khắc những câu chuyện về Cô Ri An Tum Rơ. Một biên sử khác trên hai mươi bốn bảng khắc, được phát hiện bởi người dân của Vua Limhi, được Vua Nê Phi Mosiah II phiên dịch. Một bản tường thuật tóm tắt về các biên sử của dân Gia Rết sau này được Mô Rô Ni đưa vào làm Sách Ê The theo Sách Mặc Môn. Theo Sách Mặc Môn, dân Gia Rết là hậu duệ của Jared, anh trai ông, gia đình trực hệ và bạn bè của họ (Joseph Smith sau này xác định anh trai của Jared là Mahonri Moriancumer).
Vào thời điểm loài người xây Tháp Babel, khi ngôn ngữ của tất cả các quốc gia bị lộn tùng phèo, Chúa đã làm theo mong muốn của Jared để cho ngôn ngữ của tộc người của Jared không hề bị thay đổi. Người dân cũng được ban tặng một vùng đất hứa. Chúa đã hướng dẫn dân chúng băng qua vùng hoang dã và cuối cùng được hướng dẫn vượt biển trên những chiếc “"thuyền"” làm bằng những cái bình đã được niêm phong, kín nước và có thể bị sóng cuốn đi mà không bị chìm, dưỡng khí được lấy từ bên ngoài tàu khi cần thiết, trong suốt hành trình thì họ cũng mang theo thú vật và thức ăn. Hải trình chuyến đi kỳ diệu được ghi nhận là 344 ngày. Trong số những thứ khác mà họ mang theo trong chuyến hành trình của mình có ong mật, ngoài ra, họ còn mang theo hạt giống.
Sách Mặc Môn kể rằng ông Gia Rết này đã đi với anh mình và gia đình họ, cùng vài người khác nữa và gia đình họ ra khỏi ngọn tháp vĩ đại vào lúc Chúa làm lộn xộn tiếng nói của dân chúng, anh của Gia Rết cầu xin Chúa, và Chúa động lòng thương hại Gia Rết vậy nên không làm lộn xộn tiếng nói của Gia Rết. Gia Rết lại bảo anh mình rằng: "Anh hãy đi cầu vấn Chúa xem Ngài có đuổi chúng ta ra khỏi xứ này không? Và nếu Ngài sẽ đuổi chúng ta ra khỏi xứ này, thì kêu cầu Ngài xem chúng ta phải đi về đâu. Và biết đâu Chúa chẳng đưa chúng ta đến một vùng đất chọn lọc hơn hết thảy mọi vùng đất khác trên thế gian này? Và nếu điều ấy sẽ như vậy, thì chúng ta hãy trung thành với Chúa, để chúng ta có thể nhận đất ấy làm đất thừa hưởng". Và chuyện rằng anh của Gia Rết kêu cầu Chúa đúng theo những lời do miệng Gia Rết nói ra.
Chúa nghe lời kêu cầu của anh của Gia Rết, và động lòng thương hại ông và phán bảo rằng: "Hãy đi gom góp các đàn gia súc của ngươi lại, cả con đực lẫn con cái, đủ loại; và luôn cả các hạt giống trồng dưới đất, đủ loại; cùng gia đình ngươi, em ngươi là Gia Rết và gia đình hắn, và luôn cả bạn bè ngươi, gia đình họ; và bạn bè của Gia Rết và gia đình họ; Và khi làm xong việc này, ngươi hãy đi dẫn đầu và đưa họ đến thung lũng ở hướng bắc. Và nơi đó ta sẽ gặp ngươi, và ta sẽ đi trước dẫn đường cho ngươi tới một vùng đất chọn lọc hơn hết thảy mọi vùng đất khác trên thế gian này. Và ở đấy ta sẽ ban phước cho ngươi và cho dòng dõi của ngươi, và ta sẽ gây dựng từ dòng dõi của ngươi, dòng dõi của em ngươi, và dòng dõi của những người đi theo ngươi thành một dân tộc vĩ đại. Và sau này sẽ không có một dân tộc nào vĩ đại hơn dân mà ta sẽ gây dựng lên từ dòng dõi của ngươi, trên khắp mặt đất này. Và đó là việc ta sẽ làm cho ngươi vì ngươi đã cầu khẩn ta trong bấy lâu nay". Dân Gia Rết chuẩn bị cuộc hành trình đến đất hứa. Đó là một vùng đất chọn lọc, là nơi con người phải phục vụ Đấng Ky Tô.
Chúa nói chuyện với anh của Gia Rết trong ba tiếng đồng hồ. Họ đóng thuyền—Chúa bảo anh của Gia Rết đề nghị cách làm cho các chiếc thuyền có ánh sáng. Và chuyện rằng, Gia Rết cùng với anh mình, và gia đình họ, cùng bạn bè của anh em Gia Rết và gia đình họ đi xuống thung lũng hướng bắc (và tên của thung lũng này là Nim Rốt, gọi theo tên người thợ săn cường tráng), cùng với các đàn gia súc mà họ đã gom góp lại, cả con đực lẫn con cái, đủ loại. Và họ còn giăng bẫy để bắt chim trời; và họ cũng làm một cái bình để đựng các loại cá đem theo. Và họ cũng đem theo những con Đe Sê Rét (deseret), tức là một loài ong mật; như vậy là họ đem theo các đàn ong, và đủ mọi thứ khác có trên mặt đất, cùng đủ các loại hạt giống. Và chuyện rằng, khi họ đã xuống tới thung lũng Nim Rốt, Chúa giáng xuống nói chuyện với anh của Gia Rết. Ngài ở trong một đám mây, và anh của Gia Rết không trông thấy Ngài.
Và Chúa phán rằng: "Ngươi hãy đi đóng những chiếc thuyền theo như kiểu mà từ trước tới nay ngươi vẫn thường làm", anh của Gia Rết và nhóm người của ông ta bắt tay vào việc. Họ cùng nhau đóng những chiếc thuyền theo kiểu họ đã làm theo lời chỉ dẫn của Chúa. Những chiếc thuyền ấy nhỏ và nhẹ trên mặt nước, nó nhẹ nhàng như một con chim trên mặt nước. Và những chiếc thuyền ấy được đóng theo một cách thức mà nó rất khít khao, đến độ nó có thể chứa đựng được nước, chẳng khác chi một cái đĩa; và đáy thuyền cũng rất kín, chẳng khác chi một cái đĩa, và hai bên mạn thuyền cũng kín như một cái đĩa; còn mũi thuyền thì nhọn; và mui thuyền cũng đóng khít khao như một cái đĩa; và chiều dài của thuyền bằng chiều dài một thân cây; và cửa thuyền, khi đóng lại thì kín mít như một cái đĩa. Và chuyện rằng, anh của Gia Rết kêu cầu Chúa mà rằng: "Hỡi Chúa, con đã hoàn thành công việc Ngài truyền lệnh cho con. Con đã đóng xong những chiếc thuyền theo như Ngài đã chỉ dẫn con. Và này, thưa Chúa, trong thuyền không có ánh sáng, vậy chúng con biết làm sao mà lái? Và hơn nữa chúng con sẽ chết vì trong thuyền chúng con không thể thở được, trừ phần không khí có sẵn trong thuyền; vậy nên chúng con sẽ phải chết".
Và Chúa phán cùng anh của Gia Rết rằng: "Này, ngươi hãy khoét một cái lỗ ở trên mui thuyền và ở dưới đáy thuyền; và khi nào thiếu không khí thở ngươi hãy mở cái lỗ đó ra để cho không khí lọt vào, và nếu nước tràn vào các ngươi, này, các ngươi hãy đóng cái lỗ đó lại để khỏi bị chết vì nước ngập". Và chuyện rằng, anh của Gia Rết đã làm như vậy, theo như Chúa đã truyền lệnh. Rồi ông lại kêu cầu Chúa nữa mà rằng: "Thưa Chúa, này, con đã làm đúng theo như Ngài đã truyền lệnh cho con. Con đã sửa soạn sẵn sàng thuyền cho dân con, nhưng này, trong thuyền không có ánh sáng. Này, thưa Chúa, Ngài chịu để cho chúng con phải vượt biển cả trong bóng tối sao?". Và Chúa phán cùng anh của Gia Rết rằng: "Ngươi muốn ta làm gì cho các ngươi có ánh sáng trong thuyền? Vì này, các ngươi không thể làm cửa sổ được, vì như vậy cửa sổ sẽ bị vỡ ra từng mảnh; và các ngươi cũng không thể đem lửa theo được, vì các ngươi không thể đi bằng ánh sáng của lửa được".
Chúa truyền lệnh cho họ phải đi vào vùng hoang dã, phải, vào vùng chưa bao giờ có người đặt chân tới. Và chuyện rằng, Chúa đi trước dẫn đường cho họ, và nói chuyện với họ khi Ngài đứng trong đám mây, và chỉ đường cho họ biết phải đi về lối nào, họ đã hành trình trong vùng hoang dã và đã đóng những chiếc thuyền, trên những thuyền đó họ đã vượt qua nhiều mặt nước, và họ luôn luôn được bàn tay của Chúa chỉ dẫn. Và Chúa không muốn họ dừng lại trong vùng hoang dã bên kia bờ biển, mà Ngài muốn họ vẫn tiếp tục đi mãi cho tới đất hứa, là vùng đất chọn lọc hơn hết thảy mọi vùng đất khác, đó là vùng đất Đức Chúa Trời đã dành cho dân tộc ngay chính. Và trong cơn thịnh nộ, Ngài đã thề với anh của Gia Rết rằng, từ nay cho đến mãi mãi về sau, bất cứ ai chiếm hữu đất hứa này đều phải phục vụ Ngài là Thượng Đế chân thật và duy nhất, bằng không họ sẽ bị quét sạch khi cơn thịnh nộ tràn đầy của Ngài đổ lên họ.
Anh của Gia Rết (bấy giờ số thuyền đóng xong là tám chiếc) đi lên ngọn núi mà họ gọi là Se Lem, vì nó quá cao. Ông nấu chảy một tảng đá và đúc ra mười sáu viên đá nhỏ. Những viên đá này trắng và trong ngần như thủy tinh. Rồi ông cầm những viên đá ấy đi lên đỉnh núi mà kêu cầu Chúa. Sau khi Chúa sửa soạn xong những viên đá do anh của Gia Rết đem lên núi, anh của Gia Rết đã xuống núi và đem những viên đá ấy để trong các chiếc thuyền đóng xong. Mỗi mũi thuyền một viên đá. Và này, các viên đá ấy chiếu sáng trong thuyền. Và như vậy là Chúa đã khiến cho những viên đá ấy chiếu lên trong bóng tối để đem ánh sáng lại cho đàn ông, đàn bà và trẻ con, ngõ hầu họ khỏi phải vượt qua biển cả trong bóng tối. Sau khi họ sửa soạn xong tất cả các loại thực phẩm để có thể sống được trên mặt biển, và luôn cả thực phẩm cho các đàn gia súc và các bầy thú của họ và bất cứ loại súc vật hay chim muông nào mà họ có thể mang theo được—và chuyện rằng, sau khi đã làm xong các việc này, họ bèn lên thuyền hay tàu rồi tiến ra khơi, và phó mặc mạng sống mình cho Chúa, Thượng Đế của họ.
Đức Chúa Trời khiến cho một trận cuồng phong nổi lên trên mặt biển, và thổi về hướng đất hứa, như vậy là họ bị sóng vỗ và gió đưa đi, có nhiều lần họ bị chìm sâu dưới lòng biển vì những đợt sóng cao như núi chụp lên thuyền họ, và cả các trận bão tố khủng khiếp do các cuồng phong gây nên, những khi họ bị chìm sâu xuống lòng biển, thì nước biển chẳng làm hại họ được, vì thuyền của họ đóng kín mít như một cái dĩa, và nó kín mít chẳng khác chi chiếc tàu của Nô Ê ngày xưa vậy nên, mỗi khi họ bị nước bao phủ thì họ lại khẩn cầu Chúa, và Ngài lại đem họ lên mặt nước trở lại, khi họ lênh đênh trên mặt biển thì gió không ngớt thổi họ hướng về đất hứa, và cứ thế họ được gió thổi đưa đi, và cứ thế họ trôi giạt đi; và không một con thủy quái nào làm vỡ thuyền họ được, ngay cả cá voi cũng không làm hại họ được; và họ luôn luôn có ánh sáng, dù khi thuyền ở trên mặt nước hay ở dưới mặt nước. Và cứ thế họ trôi giạt đi ròng rã ba trăm bốn mươi bốn ngày trên mặt biển. Và họ đến được bờ biển đất hứa. Và khi vừa đặt chân lên bờ biển đất hứa, họ liền cúi rạp sát mặt đất, và biết hạ mình trước mặt Chúa, và rơi lụy vì sung sướng trước mặt Chúa, họ tiến lên mặt đất và bắt đầu canh tác đất đai.
Việc vượt đại dương không được nêu rõ trong Sách Mặc Môn. Hugh Nibley trong tác phẩm "There were Jaredites" và "The World of the Jaredites" lập luận cho rằng vùng biển này chính là Thái Bình Dương nhưng Milton R. Hunter lại lập luận cho rằng vùng biển này chính là Đại Tây Dương. Vị trí của nền văn minh Jared cũng không được chỉ rõ trong sách Mặc Môn ngoại trừ việc nó nằm ở phía bắc của một vùng đất hẹp ở nơi được người Nê Phi gọi là "Vùng đất phía Bắc". Vị trí ở Tân Thế giới của dân Gia Rết và dân Nê Phi là một chủ đề gây bất đồng giữa Người Mặc Môn, và Joseph Smith cho biết rằng dân Gia Rết đã đến “"vùng đất bên hồ của Châu Mỹ"” và rằng "dân Nê P, hiện bao trùm cả Trung Mỹ, với tất cả các thành phố có thể tìm thấy"".
Một số tín nhân đầu tiên của Giáo hội Thánh Hữu Ngày Sau, bao gồm cả Sứ Đồ Parley P. Pratt tin rằng dân Gia Rết là hậu duệ của Ham dựa trên nguồn gốc của nhóm dân sống gần Tháp Babel và cuộc di cư ban đầu vào thung lũng Nimrod, khu vực gắn liền với con cháu của Ham. Một số tín hữu Mặc Môn đã nghiên cứu và đã tranh luận về những điểm tương đồng đáng kể giữa dân Gia Rết và người Olmec, một học giả khẳng định rằng những ghi chép của người Aztec của một nhà sử học người Mỹ bản địa cổ đại là Fernando de Alva Cortés Ixtlilxochitl đã viết về một nhóm người đến từ tòa tháp lớn đến Mesoamerica. Ixtlilxochitl viết rằng người dân sống ở một khu vực ở phía bắc của vùng đất, dọc theo Bờ biển vùng Vịnh Mexico. Các nhà nghiên cứu LDS khác, chẳng hạn như W. Vincent Coon, chỉ ra những truyền thuyết bản địa và cho rằng những người nhập cư sớm nhất đến Trung Mỹ đã di cư bằng đường bộ và thuyền từ "Bắc Mỹ". Phyllis Carol Olive so sánh nền văn minh Jaredite với các nền văn hóa cổ xưa của vùng Ngũ Đại Hồ (Great Lakes). |
Giuseppe Desa còn được biết đến với tên Thánh Giuse Cupertino (tiếng Anh: "Joseph of Cupertino", tiếng Ý: "Giuseppe da Copertino"; 17 tháng 6 năm 1603 – 18 tháng 9 năm 1663) là một linh mục, nhà thần bí và tu sĩ Công giáo người Ý dòng Anh Em Hèn Mọn Viện Tu (tiếng Anh: "The Order of Friars Minor Conventual", viết tắt: O.F.M.Conv.). Ông được Giáo hội Công giáo Roma tôn kính là một vị thánh, lễ kính vào ngày 18 tháng 9 hàng năm.
Ông được biết đến là một người trì độn và đãng trí, khả năng học tập yếu kém và bị người khác khinh miệt. Sau một thời gian sống với các tu sĩ dòng Anh Em Hèn Mọn, làm công việc chăn nuôi gia súc cho nhà dòng, ông đã được gia nhập dòng Viện Tu (một nhánh của dòng Phan Sinh) vì đã gây ấn tượng với các tu sĩ với lối sống khiêm nhường và thánh thiện. Ông được học tập để trở thành một linh mục dù việc học đối với ông thật khó khăn. Nhiều kỳ ngộ kì diệu đã xảy đến giúp cho ông vượt qua các kì thi. Năm 1628, ông được thụ phong linh mục.
Ông nổi tiếng với phép lạ bay lơ lửng trên không lúc cầu nguyện và thường trải qua trạng thái xuất thần trong suốt cuộc đời. Trong cuộc điều tra để lập hồ sơ phong thánh, người ta ghi nhận có đến 70 lần ông bay bổng trên không. |
Topmodell (Hungary), Mùa 1
Topmodell là mùa đầu tiên của Topmodell được dựa trên "America's Next Top Model" của Tyra Banks. Chương trình được chiếu trên Viasat 3 từ tháng 10 tới tháng 12 năm 2006.
Siêu mẫu Vámosi Viktória là host của chương trình, nhưng đã rời đi trước chung kết do mâu thuẫn với các nhà sản xuất. Chính vì thế vào đêm chung kết cô được thay thế bởi siêu mẫu Epres Panni.
Trong mùa giải này, khán giả sẽ có cơ hội bỏ phiếu cho một trong 10 cô gái đã bị loại trước đó để được quay lại cho đêm chung kết sau mỗi tập phát sóng. Sau khi top 3 là Rónaszéki Anna, Lattmann Judit Nagy Réka được lựa chọn, khán giả đã chọn Papp Valentina, người đã bị loại ở tập 8, quay trở lại cuộc thi.
Điểm đến quốc tế của mùa này là Frankfurt, Johannesburg, Cape Town và Maputo dành cho top 6.
Người chiến thắng trong cuộc thi là Nagy Réka, 18 tuổi từ Eger. Với các giải thưởng, cô giành được:
"(Độ tuổi tính từ ngày dự thi)"
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Từ hơn 7800 cô gái đăng kí dự thi, 30 thí sinh bán kết từ khắp cả nước được đưa đến khách sạn Hilton cho vòng casting cuối cùng là buổi phỏng vấn với ban giám khảo cùng với những giám khảo khách mời là Kajdi Csaba, Szabó Patrícia và Tűzes Tamás. Sau khi ban giám khảo cân nhắc, Patrícia đã công bố ra 13 thí sinh được chọn và sẽ bước vào cuộc thi.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
13 cô gái đã được đưa đến ngôi nhà chung của mình. Ngày hôm sau, họ đã bị những anh bộ đội đánh thức dậy sớm và dẫn tới một trại quân đội cho một buổi huấn luyện thể lực trong quân đội. Sau đó, họ phải tự thay đồ mới và trang điểm cho mình vì họ sẽ có một buổi trình diễn thời trang trước một đại đội lính.
Ngày hôm sau, họ đã được đến Flashback Photo Studio cho buổi chụp hình đầu tiên của mình trong áo trắng và đồ jean cho ảnh mở đầu của chương trình. Vào buổi đánh giá đầu tiên ngày tiếp theo, Judit là người được gọi tên đầu tiên còn Mónika là thí sinh đầu tiên bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
12 cô gái còn lại đã có buổi chụp hình tiếp theo theo phong cách Điệp viên 007, họ sẽ phải hóa thân thành những cô gái phụ tá cho James Bond và toàn thân họ sẽ được vẽ sơn lên người cùng vũ khí. Sau đó, 4 người mẫu nam đến ngôi nhà chung của họ và họ đã có một bữa tiệc qua đêm.
Ngày hôm sau, trước khi bắt đầu buổi đánh giá, các cô gái đã được yêu cầu phải tự thiết kế một bộ đồ cho mình. Vào buổi đánh giá, Anna là người được gọi tên đầu tiên còn Annamária là thí sinh tiếp theo bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
11 cô gái còn lại được đưa đến tiệm salon Hairclub của Herczeg Csaba Tűzes Tamás để nhận diện mạo mới của mình. Sau đó, họ đã có một buổi học catwalk dưới sự hướng dẫn của Éva Seres. Ngày hôm sau, các cô gái đã có buổi chụp hình tiếp theo của họ thân mật với 1 trong 4 người mẫu nam. Sau đó, họ được đưa đến một bãi biển ở Siófok cho một buổi trình diễn thời trang với mắt kính trước mặt công chúng.
Ngày tiếp theo, các cô gái đã được yêu cầu phải ăn mặc như chuẩn bị cho một cuộc hẹn hò. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Rikk Ágnes, Judit là người được gọi tên đầu tiên còn Xénia là thí sinh tiếp theo bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
10 cô gái còn lại đã có một buổi học thể dục nhịp điệu và thể lực dưới sự hướng dẫn của Czanik Balázs. Sau đó, họ đã có một buổi học ứng xử với Anita Tornóczky và buổi chụp hình tiếp theo của họ trên đường phố, hóa thân thành một con ma cà rồng quyến rũ trong đồ lót. Họ sau đó đã có một buổi trình diễn thời trang sưu tập Thu-Đông 2006-2007 của Bori Tóth.
Ngày hôm sau, họ đã có một cuộc gặp với bác sĩ nha khoa Balsai Tamás Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Szabó Patrícia, Réka là người được gọi tên đầu tiên còn Eszter là thí sinh tiếp theo bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
9 cô gái còn lại đã có buổi chụp hình tiếp theo, họ phải tạo dáng với trang sức và cố gắng thể hiện cảm xúc qua một bức ảnh chân dung. Sau đó, họ đã có một buổi tối khiêu vũ trong hộp đêm.
Ngày hôm sau, họ đã có một bài kiểm tra IQ từ Mensa HungarIQa. Sau đó, họ đã có một buổi học catwalk với stylish Eli van Poeyer và một buổi học bóng rổ. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Eli van Poeyer, Réka là người được gọi tên đầu tiên còn Anita là thí sinh tiếp theo bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
8 cô gái còn lại đã có một buổi học đấm bốc với huấn luyện viên Szasó Pál. Sau đó, họ đã được Rikk Ágnes tặng cho mỗi người 1 hộp trang điểm và ngay lập tức họ đã được di chuyển tới Balatonpart và khi đến nơi, họ đã được gặp Illés Alexandra, người sẽ trang điểm cho họ cho buổi chụp hình tiếp theo trên thuyền ngay giữa hồ Balaton. Họ sau đó đã có một buổi chụp hình chân dung cho hộ chiếu của mình.
Ngày hôm sau, họ đã có một buổi học chèo thuyền dưới sự hướng dẫn của Kolonics György và Horváth Péter và các cô gái sau đó được phép gọi điện về nhà. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Maróy Krisztina, Titanilla là người được gọi tên đầu tiên còn Kata là thí sinh tiếp theo bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
7 cô gái còn lại đã có một buổi nói chuyện với nhà tâm lý học Végh József. Sau đó, Fruzsina nhận được bất ngờ khi gia đình cô đến thăm và tổ chức sinh nhật cho mình. Ngày hôm sau, họ đã có một cuộc gặp với bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Mihály Sashegyi để thắc mắc về cơ thể mình. Sau đó, họ được đưa tới một khu rừng cho buổi chụp hình tiếp theo theo phong cách bảy tội lỗi chết người, trong khi phải tạo dáng bên trong một chiếc quan tài đặt dưới lòng đất.
Ngày tiếp theo, họ đã có một lớp học diễn xuất với diễn viên Bicskey Lukács, Vào buổi đánh giá, Réka là người được gọi tên đầu tiên còn Valentina là thí sinh tiếp theo bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
6 cô gái còn lại háo hức thu dọn đồ đạc khi biết rằng họ sẽ được bay tới nước ngoài. Ngày hôm sau, họ đã đến Sân bay quốc tế Ferenc Liszt Budapest từ sáng sớm và bay tới Frankfurt. Sau khi tới nơi, họ đã có một buổi casting tại 2 nơi: quản lí người mẫu "East-West Models" và một cửa hàng thời trang. Ngày tiếp theo, họ đã có một buổi tham quan thành phố, trước khi quay lại Sân bay quốc tế Frankfurt và nhận được bất ngờ là họ sẽ bay tới Johannesburg. Sau khi tới nơi, các cô gái đã tham quan thành phố và di chuyển vào khu nghỉ dưỡng của mình, trước khi Angéla, Anna Fruzsina được chọn để quay quảng cáo cho khu nghỉ dưỡng họ ở.
Ngày hôm sau, họ đã có một buổi tham quan trong vườn quốc gia Kruger. Sau đó, họ đã được biết rằng mình sẽ được tới Maputo và đã có một buổi thử đồ của nhà thiết kế Marinella Bononcini sau khi tới nơi. Ngày kế tiếp, họ được đưa tới một bãi biển cho buổi chụp hình tiếp theo trong thiết kế của Marinella Bononcini. Sau đó, họ quay về Johannesburg và nhận được một tin nhắn từ Viktoria và ban giám khảo thông qua màn hình. Kết quả là Viktoria thông báo rằng là sẽ không có ai bị loại lần này.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
6 cô gái còn lại được bay tới Cape Town và đã có một buổi casting với Justin Miccoli từ "3D Model Agency". Sau đó, họ đã có một buổi tối cuối cùng ở thành phố trước khi quay về Budapest vào ngày mai. Ngày tiếp theo, họ đã có buổi chụp hình chân dung hóa thân thành một quý bà sang trọng cùng với những con vật như chim, bò sát hay với nhện.
Ngày hôm sau, nhà báo Győrik Ferenc ngay lập tức phỏng vấn các cô gái khi họ vừa mới thức dậy. Sau đó, họ đã có một buổi thử trang phục của nhà thiết kế Tamás Náray và ông không hài lòng với bất kỳ cô gái nào. Quay về ngôi nhà chung, các cô gái được yêu cầu phải phối đồ và trang điểm lẫn nhau. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Petra Bezzeg, Judit là người được gọi tên đầu tiên còn Angéla là thí sinh tiếp theo bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
5 cô gái còn lại được đưa tới một ngôi nhà hoang cho buổi chụp hình tiếp theo hóa thân thành người có siêu năng lực. Sau đó, họ đã chia nhau ra khi Anna, Fruzsina Judit có một buổi thư giãn trong thẩm mỹ viện của Sulyok Róbert còn Réka Titanilla có một buổi chăm sóc da từ Kati Kalcsú. Quay về ngôi nhà chung, Anna nhận được bất ngờ khi bạn trai cô đến thăm, trước khi các cô gái đã có một buổi tối trong quán bar.
Ngày hôm sau, họ đã được thư giãn tại một tiệm spa, trước khi có buổi chụp hình thứ hai và họ đã bộc lộ những cảm xúc khác nhau một cách tự nhiên trong bức ảnh chân dung trắng đen. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Rakk Ágnes và Szabó Patrícia, Réka là người được gọi tên đầu tiên còn Titanilla là thí sinh tiếp theo bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
4 cô gái còn lại đã có buổi chụp hình cho trang biên tập của tạp chí "Maxima". Ngày hôm sau, họ đã cùng Viktória đi xem một buổi trình diễn thời trang của nhà thiết kế Tamás Náray. Ngày tiếp theo, họ được đưa tới quán bar Buddha Beach và gặp lại 9 cô gái bị loại trước đó cho một buổi họp báo về chương trình, khi họ sẽ được các nhà báo chụp hình và kết thúc bằng một buổi trình diễn thời trang cho Philip Russel. Sau đó, họ đã có một bữa tối với 2 siêu mẫu Cseh Myra và Epres Panni.
Ngày hôm sau, các cô gái được đưa đến một khu mua sắm cho buổi chụp hình cuối cùng hóa thân thành những người mẹ thời trang cùng với con của mình. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Kajdi Csaba, Anna là người được gọi tên đầu tiên còn Fruzsina là thí sinh cuối cùng bị loại.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vào đêm chung kết trực tiếp, 10 thí sinh bị loại đã mở đầu chương trình bằng buổi trình diễn thời trang trong áo trắng và quần jean. Sau 11 tuần bỏ phiếu cho 10 cô gái bị loại trước đó của khán giả, Valentina là người sẽ được thi đấu cùng với top 3 trong đêm chung kết với 18% tổng số phiếu bầu. Sau đó, video về cuộc sống của 3 cô gái chung cuộc được trình chiếu, cùng với sự xuất hiện của họ.
Top 4 sau đó đã có buổi trình diễn thời trang trong đồ bó và kết quả là Judit là người đầu tiên bị loại. Top 3 sau đó thi đấu tiếp bằng buổi trình diễn thời trang trong đồ lót và cánh thiên thần lấy cảm hứng từ Victoria's Secret và buổi trình diễn thời trang trong váy cưới với chú rể nhí, và kết quả là Valentina đã bị loại phần thi này. Anna và Réka đã có một buổi trình diễn thời trang cuối cùng trong trang phục dạo phố với việc dắt chó đi dạo cùng với tất cả các cô gái bị loại trong váy đen và mắt kính đen. Cuối cùng, Réka chính là quán quân của cuộc thi.
Thí sinh bị loại
Thí sinh chiến thắng cuộc thi |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Khách sạn và sòng bạc Excalibur là một khách sạn sòng bạc nằm trên Dải Las Vegas ở Paradise, Nevada, Hoa Kỳ. Nó được xây dựng vào năm 1990 và thuộc sở hữu của Vici Properties và được điều hành bởi MGM Resorts International. Các tiện nghi của khách sạn bao gồm sòng bạc rộng 92.389 foot vuông (8.583,2 mét vuông), khách sạn 28 tầng với 3.981 phòng và nhiều nhà hàng khác nhau.
Khu nghỉ dưỡng trị giá 290 triệu đô la được phát triển bởi Circus Circus Enterprises. Chủ đề lâu đài được hình thành bởi người sáng lập công ty William Bennett, và khu nghỉ dưỡng được thiết kế bởi Veldon Simpson. Bennett và nhóm thiết kế đã đi du lịch đến các lâu đài khắp châu Âu để tìm cảm hứng. Việc xây dựng bắt đầu vào tháng 10 năm 1988 và khu nghỉ dưỡng được khai trương vào ngày 19 tháng 6 năm 1990. Đây là khách sạn lớn nhất thế giới cho đến khi MGM Grand gần đó khai trương vào năm 1993.
Khu nghỉ dưỡng Excalibur chiếm diện tích khoảng 50 mẫu Anh (20 ha), nằm dọc theo Dải Las Vegas tại góc tây nam của giao lộ Tropicana - Las Vegas Boulevard. Khu đất này từng được đề xuất là địa điểm của Xanadu, một khu nghỉ dưỡng 1.730 phòng được công bố vào năm 1975. Xanadu không bao giờ được xây dựng, vì các nhà phát triển của nó không thể bảo đảm một thỏa thuận với quận về cơ sở hạ tầng cống rãnh.
Circus Circus Enterprises đã mua mảnh đất trống vào tháng 5 năm 1988, và một tháng sau đó đã công bố kế hoạch xây dựng một khu nghỉ dưỡng theo chủ đề lâu đài trên mảnh đất này. Công ty đã tổ chức một cuộc thi quốc tế để xác định tên của khu nghỉ dưỡng mới. Hơn 180.000 bài dự thi đã được gửi về, và cái tên chiến thắng, "Excalibur", đã được chọn trong hơn 33.000 tên. Nó được đặt theo tên thanh kiếm Excalibur thần thoại của Vua Arthur.
Lễ khởi công xây dựng Excalibur diễn ra vào ngày 7 tháng 10 năm 1988. Marnell Corrao Associates là tổng thầu xây dựng. Khu nghỉ dưỡng trị giá 290 triệu đô la đã khai trương vào ngày 19 tháng 6 năm 1990, đón tiếp 30.000 du khách vào ngày đầu tiên hoạt động. Excalibur là một trong những khu nghỉ dưỡng giải trí lớn mới được mở trên Strip, tiếp tục xu hướng bắt đầu từ Mirage vào năm 1989.
Vào ngày 21 tháng 3 năm 2003, Josh Ford đến từ Los Angeles đã trúng giải Jackpot Megabucks lớn nhất cho đến nay với số tiền 39,7 triệu đô la Mỹ tại Excalibur.
Circus Circus Enterprises đã trở thành Mandalay Resort Group vào năm 1999, và quyền sở hữu Excalibur đã được chuyển cho MGM Mirage vào năm 2005, sau khi công ty này mua lại công ty. Chủ sở hữu mới của khu nghỉ dưỡng sau đó được đổi tên thành MGM Resorts International vào năm 2010. Quyền sở hữu Excalibur, cùng với nhiều tài sản MGM khác, đã được chuyển cho MGM Growth Properties vào năm 2016, trong khi MGM Resorts tiếp tục vận hành nó theo thỏa thuận thuê. Vici Properties đã mua lại MGM Growth, bao gồm Excalibur, vào năm 2022.
Chủ đề lâu đài thời trung cổ được hình thành bởi người sáng lập Circus Circus William Bennett, và khu nghỉ dưỡng do Veldon Simpson thiết kế. Bennett đã nghiên cứu các bản vẽ lâu đài cổ và ông cùng Simpson đã đến thăm các địa điểm lâu đài ở Anh và Đức để lấy cảm hứng thiết kế. Thiết kế Excalibur của Simpson đặc biệt được lấy cảm hứng từ Lâu đài Neuschwanstein ở Đức. Các chuyên gia về nhãn hiệu đã được thuê để tránh sao chép các thiết kế lâu đài tại Disneyland và Disney World. Kiến trúc thời trung cổ của Excalibur bao gồm các tháp pháo bằng đá, hào nước và cầu rút.
Tập đoàn Yates-Silverman đã chịu trách nhiệm thiết kế nội thất của khách sạn Excalibur. Tập đoàn đã tiến hành nghiên cứu thư viện về các lâu đài và cũng đến thăm các tòa nhà như vậy ở châu Âu, ngoài các xưởng phim. Theo Michael Erickson, giám đốc thiết kế tại Yates-Silverman: "Về cơ bản, chúng tôi đang tìm kiếm cùng một cấp độ thiết kế mà bạn có thể tìm thấy trong phim. Nếu bạn thiết kế các phòng theo cách chúng thực sự trông giống như trong thời kỳ truyền thống, chúng sẽ tối tăm, ảm đạm và bẩn thỉu. Bạn phải lãng mạn hóa nó một chút và thực hiện một cách tiếp cận sân khấu hơn."
Khách sạn Excalibur có 3.981 phòng, được phân bổ trên bốn tòa tháp 28 tầng được xây dựng theo hình vuông. Khu nghỉ dưỡng ban đầu được khai trương với 4.032 phòng, trở thành khách sạn lớn nhất thế giới. Kỷ lục này đã bị đánh bại bởi việc khai trương MGM Grand, nằm đối diện Excalibur vào năm 1993. Một dự án cải tạo khách sạn bắt đầu vào năm 2006 và dự kiến hoàn thành sau bốn năm. Theo phản hồi của khách, dự án nhiều giai đoạn đã loại bỏ các yếu tố theo chủ đề lâu đài khỏi các phòng để ủng hộ một thiết kế khiêm tốn.
Sòng bạc Excalibur có diện tích 92.389 foot vuông (8.583,2 mét vuông). Sòng bạc được khai trương với 2.630 máy đánh bạc, và hơn 100 trò chơi trên bàn. Năm 2008, Excalibur đã loại bỏ các nhân viên chia bài trực tiếp và thay thế họ bằng các bàn tự động do Pokertek sản xuất, thông qua một thỏa thuận kéo dài 10 tháng. Các bàn mới chủ yếu thu hút khách hàng trả ít hơn và những người mới bắt đầu, khiến khu nghỉ dưỡng phải đưa bài poker trực tiếp trở lại, được những người chơi có kinh nghiệm và những người sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn ưa chuộng.
Khi khai trương, Bennett đã mô tả Excalibur là một nâng cấp từ khu nghỉ dưỡng Circus Circus ở Las Vegas, trong khi vẫn nhắm mục tiêu đến cùng một nhóm nhân khẩu gia đình. Những điểm thu hút thân thiện với gia đình bao gồm một khu trò chơi điện tử, một khu chợ trung tâm theo chủ đề thời trung cổ trong nhà và các trò chơi mô phỏng chuyển động diễn ra trong hai nhà hát, mỗi nhà hát có sức chứa 48 người.
Phía nam của Excalibur là hai tài sản khác của MGM, Luxor và Mandalay Bay. Ba khu nghỉ dưỡng này được kết nối với nhau qua hệ thống xe điện Mandalay Bay. Trong ba khu nghỉ dưỡng này, Excalibur được coi là khu nghỉ dưỡng ngân sách thấp hơn.
Khi khai trương, Excalibur có 17 nhà hàng. Năm 1997, khu nghỉ dưỡng đã thêm Steakhouse at Camelot, sau này sẽ trở thành người chiến thắng giải thưởng Zagat. Vào thời điểm đó, nó cũng bao gồm buffet lớn thứ hai ở Las Vegas, có sức chứa hơn 1.300 người. Năm 1998, Excalibur đã công bố hợp tác với World Championship Wrestling để mở một nhà hàng theo chủ đề đấu vật tại khu nghỉ dưỡng. WCW Nitro Grill trị giá 2 triệu đô la đã mở cửa vào tháng 5 năm 1999 và hoạt động trong 16 tháng, có sự xuất hiện thường xuyên của các đô vật chuyên nghiệp trong thời gian đó.
Vào năm 2007, Dick's Last Resort đã mở một địa điểm rộng 11.000 foot vuông (1.000 m2) tại Excalibur. Nhóm nhạc Lynyrd Skynyrd cũng sẽ cấp phép sử dụng tên của mình cho một nhà hàng mới tại khu nghỉ dưỡng. Lynyrd Skynyrd BBQ Beer đã khai trương vào tháng 12 năm 2011, cùng với American Burger Works, cả hai đều do cùng một công ty quản lý. Hai nhà hàng đã hoạt động trong chín tháng, cuối cùng đóng cửa do các vấn đề tài chính.
Buca di Beppo đã khai trương tại Excalibur vào năm 2011. Một năm sau, khu nghỉ dưỡng đã ra mắt khu ẩm thực Castle Walk, nơi giới thiệu một số quán ăn không có mặt trên Strip. Với diện tích 20.000 foot vuông (1.900 m2), đây là một trong những khu ẩm thực lớn nhất trên Strip. Vì Excalibur có thỏa thuận độc quyền với Pepsi nên khu ẩm thực có một trong số ít cửa hàng McDonald's trên thế giới bán loại đồ uống nhẹ này thay vì đối thủ cạnh tranh Coca-Cola. McDonald's cuối cùng đã đóng cửa vào năm 2016.
Johnny Rockets đã khai trương vào năm 2014, chiếm không gian trước đây do American Burger Works sử dụng. Cũng trong năm đó, khu nghỉ dưỡng đã hoàn thành việc cải tạo quầy buffet trị giá 6 triệu đô la, có sức chứa 610 người. Fatburger đã khai trương địa điểm đầu tiên trên Strip vào năm 2022, tại Excalibur.
Giải trí trực tiếp.
Các chương trình thời trung cổ.
Kể từ khi khai trương, Excalibur đã có hai chương trình theo chủ đề thời trung cổ, cả hai đều diễn ra trong nhà hát ăn tối 900 chỗ ngồi. Đấu kiếm là một phần đặc trưng của cả hai chương trình. Các buổi biểu diễn diễn ra trong một đấu trường bằng đất, và các bữa ăn được phục vụ theo phong cách thời trung cổ, không có dụng cụ ăn uống.
Chương trình gốc, "King Arthur's Tournament", có sự tham gia của 45 diễn viên và 15 con ngựa khi ra mắt. Chương trình đã đóng cửa vào tháng 1 năm 1999, sau khoảng 5.600 buổi biểu diễn. Nó được thay thế một tháng sau bởi một phiên bản được cải tiến được gọi là Tournament of Kings. Hơn 2 triệu đô la đã được chi để nâng cấp chương trình và cải tạo đấu trường. Cả hai chương trình đều được tạo ra bởi nhà sản xuất người Pháp Peter Jackson, người đã qua đời ngay trước khi Tournament of Kings ra mắt. Con trai của ông, Patrick Jackson, đã tiếp quản vị trí sản xuất.
Tournament of Kings kết hợp các hiệu ứng pháo hoa và các pha nguy hiểm khác nhau, bao gồm đấu kiếm. Tính đến năm 2008, dàn diễn viên bao gồm tối đa 38 người và 11 con ngựa. Chương trình có tổng cộng 30 con ngựa, được nuôi trong một cơ sở có điều hòa không khí phía sau khu nghỉ dưỡng. Tính đến năm 2010, đây là chương trình duy nhất ở Las Vegas có sự tham gia của ngựa. King Arthur's Tournament có sự tham gia của những người cưỡi ngựa nữ, mặc dù phải đến năm 2014, Tournament of Kings mới giới thiệu người cưỡi ngựa nữ đầu tiên của mình.
Tournament of Kings là chương trình ăn tối được nhiều gia đình yêu thích. Đây là chương trình ăn tối kéo dài nhất ở Dải Las Vegas, và cũng là một trong những chương trình lâu đời nhất nói chung. Excalibur là nhà nhập khẩu Cornish game hen lớn nhất trên thế giới, đã phục vụ 6,7 triệu con gà con qua chương trình từ khi mở cửa ban đầu vào năm 1990 đến năm 2018.
Vào năm 1993, khu nghỉ dưỡng đã ra mắt một con rồng hoạt hình ba tầng. Buổi biểu diễn diễn ra ở lối vào hào nước và được biểu diễn hàng giờ mỗi đêm. Con rồng phun lửa được tạo ra bởi công ty AVG Inc của Alvaro Villa, và phải mất chín tháng để xây dựng. Trước đó, người ta đã từng xem xét một con rồng sáu tầng. Các hiệu ứng rồng và Merlin nói chung được coi là không ấn tượng. Vào năm 2002 và 2003, độc giả của Las Vegas Review-Journal đã bình chọn chương trình là điểm thu hút tệ nhất của thành phố. Chương trình kết thúc vào khoảng năm 2003, mặc dù con rồng vẫn còn nguyên vẹn, ẩn bên dưới cây cầu kéo.
Các chương trình khác.
Thunder from Down Under đã khai trương tại khu nghỉ dưỡng vào tháng 7 năm 2002 và là buổi biểu diễn nam tính dài nhất ở Las Vegas. Kể từ năm 2011, "địa điểm Thunder from Down Under" cũng đã đăng cai tổ chức "The Australian Bee Gees Show" , một sự tri ân dành cho nhóm nhạc Bee Gees đầu tiên. Địa điểm ban đầu có thể chứa 375 người. Nó đã được cải tạo vào năm 2019 và được đặt tên là Thunderland Showroom, với sức chứa được mở rộng lên 425 người. Ảo thuật gia Hans Klok bắt đầu biểu diễn trong không gian đó vào cuối năm đó, chia sẻ nó với Thunder from Down Under và chương trình Bee Gees. Giữa đại dịch COVID-19, Klok đã rời khỏi khu nghỉ dưỡng vào năm 2020, vì anh cảm thấy rằng các hạn chế liên quan đến đại dịch sẽ cản trở doanh thu. Ảo thuật gia Mac King đã thay thế vị trí của anh vào năm 2021, đóng vai chính trong một chương trình ảo thuật hài hước.
Các chương trình khác tại khu nghỉ mát bao gồm Royal Lipizzaner Stallions, một nhóm ngựa Lipizzaner đã thực hiện nhiều động tác khác nhau cho khán giả trong những năm 1990. Catch a Rising Star, một chuỗi câu lạc bộ hài kịch, đã mở một địa điểm tại Excalibur vào năm 2001, hoạt động ở đó trong gần ba năm. Câu lạc bộ được bổ sung để đáp ứng phản hồi của khách. Louie Anderson cũng đã thực hiện các hành động hài kịch trong phòng trưng bày của khu nghỉ mát, bắt đầu từ năm 2006. Anh đã giải trí ở đó cho đến năm 2010.
Fuerza Bruta, một chương trình có sự tham gia của các nghệ sĩ xiếc, đã khai mạc vào tháng 3 năm 2019. Nó được thực hiện trong một lều dựng tại chỗ rộng 3.800 foot vuông (350 mét vuông), với sức chứa đứng là 950 người. Chương trình được ký cho một đợt chạy sáu tháng, nhưng đã kết thúc một tháng sau khi ra mắt, do doanh thu bán vé kém; mỗi buổi biểu diễn chỉ có trung bình 50 khách.
Trong văn hóa đại chúng.
Vào năm 2003 và 2004, Excalibur đã được sử dụng làm địa điểm quay cho chương trình truyền hình Fear Factor. Trò chơi điện tử "" năm 2004 có các khu nghỉ dưỡng hư cấu dựa trên những khu nghỉ dưỡng nằm dọc theo Strip, bao gồm một khu nghỉ dưỡng theo chủ đề lâu đài được mô phỏng theo Excalibur. |
Danh sách cầu thủ tham dự Giải vô địch bóng ném nam thế giới 2023
Tại Giải vô địch bóng ném nam thế giới 2023, các đội phải đăng ký tối thiểu là 18 cầu thủ, trong đó có 2 thủ môn.
"Tuổi, câu lạc bộ, số trận đấu và số bàn thắng sẽ được cập nhật cho đến ngày 11 tháng 1 năm 2023."
22 cầu thủ được triệu tây vào ngày 12 tháng 12 năm 2022. Danh sách giảm xuống còn 19 cầu thủ vào ngày 30 tháng 12 năm 2022.
Head coach: Jordi Ribera
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 31 tháng 12 năm 2020.
Huấn luyện viên trưởng: Zoran Roganović
20 cầu thủ được triệu tập vào ngày 27 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
23 cầu thủ được triệu tập vào ngày 22 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
20 cầu thủ được triệu tập vào ngày 30 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu. Danh sách được công bố vào ngày 11 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Guillaume Gille
22 cầu thủ được triệu tập vào ngày 22 tháng 12 năm 2022. Danh sách cuối cùng được công bố vào ngày 7 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Patryk Rombel
Ả Rập Xê Út.
21 cầu thủ được triệu tập vào ngày 27 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 10 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Uroš Zorman
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 13 tháng 12 năm 2022. Vào ngày 30 tháng 12, Karl Wallinius đã bỏ lỡ giải đấu sau một chấn thương ở đầu gối và anh được thay thế bởi Olle Forsell Schefvert.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 21 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Marcus Oliveira
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 15 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 31 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Nicolás Guerra
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 23 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Guðmundur Guðmundsson
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 2 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Paulo Pereira
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 5 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
20 cầu thủ được triệu tập vào ngày 25 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 23 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
23 cầu thủ được triệu tập vào ngày 1 tháng 8 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 30 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 2 tháng 1 năm 2023 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Rabah Gherbi
20 cầu thủ được triệu tập vào ngày 12 tháng 12 năm 2023. Danh sách rút gọn được công bố vào ngày 13 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Jonas Wille
23 cầu thủ được triệu tập vào ngày 14 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Kiril Lazarov
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 1 tháng 1 năm 2023 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Guillermo Milano
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 12 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
21 cầu thủ được triệu tập vào ngày 30 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Hrvoje Horvat
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 28 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Noureddine Bouhaddioui
24 cầu thủ được triệu tập vào ngày 5 tháng 1 năm 2023 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 19 tháng 12 năm 2022. Vào ngày 16 tháng 1 năm 2023, Michael Damgaard gia nhập đội tuyển. 7 ngày sau, Niclas Kirkeløkke chính thức gia nhập vào đội tuyển.
Huấn luyện viên trưởng: Nikolaj Jacobsen
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 15 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
24 cầu thủ được triệu tập vào ngày 31 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 9 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Toàn quyền Phần Lan
Phần Lan thuộc Thụy Điển.
Từ cuối thế kỷ 16, sau khi bãi bỏ Công quốc Phần Lan cùng các đặc quyền phong kiến có liên quan, quốc vương Thụy Điển thỉnh thoảng ban phần lớn hoặc toàn cõi Phần Lan cho một quan Toàn quyền. Vị này được bổ nhiệm cách đặc biệt và giải quyết các vấn đề của Phần Lan ít nhiều theo phán đoán tốt nhất của mình. Nổi tiếng nhất trong số các quan Toàn quyền Phần Lan thuộc Thụy Điển là bá tước Per Brahe. Thời kỳ ông làm quan Toàn quyền được người Phần Lan nhắc đến cách ví von là “thời còn bá tước” () khi có chuyện gì tốt đẹp xảy ra vào đúng thời điểm. |
Cúp Nhà vua Tây Ban Nha 2023–24
Cúp Nhà vua Tây Ban Nha 2023–24 (tiếng Tây Ban Nha: Copa del Rey) là giải đấu thứ 122 của Copa del Rey (bao gồm cả 2 mùa giải có hai phiên bản đối thủ được chơi). Đội vô địch sẽ được đảm bảo một suất tham dự vòng đấu UEFA Europa League 2024–25. Cả đội vô địch và á quân sẽ đủ điều kiện tham dự Siêu cúp Tây Ban Nha 2024–25 gồm 4 đội.
Real Madrid là đương kim vô địch sau khi đánh bại Osasuna ở trận chung kết mùa giải trước. Trận chung kết năm nay sẽ được tổ chức tại sân vận động La Cartuja ở Sevilla vào ngày 6 tháng 4 năm 2024.
Trên khắp Tây Ban Nha, thời gian thi đấu tính đến ngày 28 tháng 10 năm 2023 và từ ngày 27 tháng 3 năm 2024 là giờ mùa hè Trung Âu CEST (UTC+2). Thời gian vào những ngày tạm thời ("mùa đông") là CET (UTC+1, giờ chuẩn Trung Âu). Các trận đấu diễn ra ở Quần đảo Canary sử dụng múi giờ Tây Âu WET (UTC±00:00).
Các đội được chia thành bốn nhóm theo tiêu chí địa lý.
Vòng đầu tiên được thi đấu bởi 110 trong số 115 đội đủ điều kiện (trừ 4 đội tham dự Supercopa de España 2023–24 và nhà vô địch Primera RFEF). 10 đội chiến thắng ở vòng sơ loại trước thi đấu với 10 đội từ La Liga. 4 đội vào bán kết Copa Federación thi đấu với 4 đội còn lại ở La Liga, và 2 đội cuối cùng ở La Liga thi đấu với 2 đội đến từ Tercera RFEF. 6 đội cuối cùng của Tercera RFEF thi đấu với 6 đội từ Segunda División. 14 đội cuối cùng ở Segunda División thi đấu với 14 đội từ Segunda RFEF. Sau đó, 18 đội từ Segunda RFEF thi đấu với 18 đội từ Primera RFEF. Cuối cùng, 2 đội ở Segunda RFEF thi đấu với nhau.
Tổng cộng có 55 trận đấu được diễn ra từ ngày 31 tháng 10 đến ngày 2 tháng 11 năm 2023, có hai trận đấu bị hoãn phải thi đấu vào ngày 8 và 14 tháng 11.
Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 17 tháng 10 năm 2023. Các đội được chia thành bảy nhóm:
Vòng thứ hai sẽ có 56 đội thi đấu, nhà vô địch Primera RFEF bước vào vòng này. 3 đội Tercera RFEF thi đấu với 3 đội đến từ La Liga. 11 đội Segunda RFEF thi đấu với 11 đội đến từ La Liga, và đội cuối cùng ở La Liga thi đấu với 1 đội đến từ Primera RFEF. 9 đội cuối cùng của Primera RFEF thi đấu với 9 đội từ Segunda División. Cuối cùng, 8 đội từ Segunda División thi đấu với nhau.
Tổng cộng có 28 trận đấu sẽ diễn ra từ ngày 22 tháng 11 đến ngày 7 tháng 12.
Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 15 tháng 11 năm 2023. Các đội được chia thành 5 nhóm:
Lễ bốc thăm sẽ được tổ chức vào ngày 12 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở RFEF ở Las Rozas. Bốn đội tham dự Supercopa de España 2023–24 sẽ được bốc thăm cùng với các đội từ hạng thấp nhất. Các đội còn lại từ hạng thấp nhất sẽ gặp các đội còn lại của La Liga. Các trận đấu sẽ diễn ra trên sân của các đội có thứ hạng thấp hơn. Tổng cộng có 16 trận đấu sẽ diễn ra vào ngày 6 và 7 tháng 1 năm 2024. |
Lời Thông sáng ("Word of Wisdom") là tên gọi thông thường của một tiết thứ 1833 trong cuốn Giáo Lý và Giao Ước vốn là một cuốn sách được nhiều giáo hội trong phong trào Thánh hữu Ngày sau coi là một văn bản thiêng liêng. Phần này xác định niềm tin về một số loại ma túy nhất định mà các tín nhân Mặc Môn giáo phải kiêng kị, các thành phần dinh dưỡng nói chung và lời khuyên nên ăn thịt một cách không quá độ. Sách Giáo Lý và Giao Ước cũng đưa ra những lời hứa cho những người tuân theo sự hướng dẫn của Lời Thông sáng này. Lời Thông sáng nghiêm cấm rõ ràng việc dùng rượu, thuốc lá, trà và cà phê (với trà và cà phê được dán nhãn là "đồ uống nóng") và sử dụng ma túy để giải trí, đồng thời khuyến khích các tín nhân thực hành chế độ ăn lành mạnh như ăn uống bổ dưỡng, ăn thịt không quá độ, tập thể dục thường xuyên, vệ sinh cá nhân đúng cách và nghỉ ngơi đầy đủ. Việc tuân thủ Lời Thông sáng là cần thiết trong Giáo hội LDS để trở thành tín nhân Mặc Môn và tham gia vào các công việc khác nhau của nhà thờ Mặc Môn.
Luật sức khỏe được Chúa mặc khải vì lợi ích thể chất và thuộc linh của các Thánh hữu (GLGƯ 89). Luật pháp này đã trở nên thường được gọi là Lời Thông sáng. Chúa luôn dạy bảo các tín đồ của Ngài về các nguyên tắc sức khỏe. Chúa đã mặc khải cho Joseph Smith biết loại thực phẩm nào nên ăn và loại nào nên tránh, cùng với lời hứa về những phước lành vật chất và thuộc linh cho những ai biết tuân theo Lời Thông sáng
Sự tuân theo Lời Thông sáng mang lại những phước lành vật chất và thuộc linh (GLGƯ 89:18–21).
Các nhà lãnh đạo Giáo hội LDS dạy rằng việc tiêu thụ bất kỳ loại rượu nào, kể cả bia, đều vi phạm Lời Thông sáng, tuy nhiên, rượu vang đã được sử dụng trong phép bí tích, và "đồ uống nhẹ" (bia) ban đầu được cho phép. Trong Giáo hội LDS, các tín nhân không được phép hút thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả hút thuốc, nhai thuốc hoặc sử dụng thuốc lá điện tử. Điều này cũng áp dụng cho bất kỳ việc sử dụng các chất nicotine dưới bất kỳ hình thức nào. Giáo hội LDS cấm trà và cà phê, như được giải thích từ việc đề cập đến "đồ uống nóng" trong kinh thánh, người ta cũng dạy rằng đồ uống nóng hay không không quan trọng. Nhìn chung, người ta cho rằng không có lệnh cấm uống trà thảo mộc, cà phê thay thế như Pero và Postum, sô cô la nóng, đồ uống từ mạch nha như Ovaltine và Milo hoặc nước nóng.
Đồ uống nóng được làm rõ trong sổ tay của Giáo hội LDS: Cách giải thích chính thức duy nhất về ""đồ uống nóng" (GLGƯ 89:9) trong Lời Thông sáng là lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo Giáo hội thời kỳ đầu rằng thuật ngữ "đồ uống nóng"" có nghĩa là trà và cà phê. Vào năm 1842, anh trai của Smith Hyrum, Phụ Tá Chủ Tịch của Giáo Hội và tộc trưởng chủ tọa của Giáo Hội, đã đưa ra một cách giải thích về quy định của Lời Thông Sáng về việc cấm “"đồ uống nóng"”: Và một lần nữa "đồ uống nóng không dành cho cơ thể hay cái bụng; có nhiều người thắc mắc điều này có nghĩa là gì; cho dù nó có đề cập đến trà, cà phê hay không. Tôi nói nó đề cập đến trà và cà phê. Theo một cuốn sách được viết bởi nhà truyền giáo và nhà thánh ca LDS Joel H. Johnson vào năm 1881, Joseph Smith đã chia sẻ cách giải thích của Hyrum: Tôi hiểu rằng một số người đang bào chữa cho việc sử dụng trà và cà phê, bởi vì Chúa chỉ nói “"đồ uống nóng"” trong sự mặc khải của Lời Thông sáng. Trà và cà phê là những gì Chúa muốn nói khi Ngài đã nói "đồ uống nóng". |
Lưu Quý An (21 tháng 2 năm 1940 – 19 tháng 11 năm 1953) là một liệt sĩ thiếu niên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Anh được mệnh danh là "Kim Đồng của tỉnh Vĩnh Phúc", là một trong số ít các thiếu niên được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Lưu Quý An sinh ngày 21 tháng 2 năm 1940 tại xã Tiền Phong, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (hiện nay đã sát nhập vào thành phố Hà Nội), trong một gia đình nghèo khó có 7 người con. Vì hoàn cảnh gia đình, Lưu Quý An phải đi làm con nuôi cho gia đình bà Nguyễn Thị Từ, một gia đình có truyền thống tham gia cách mạng. Từ năm 10 tuổi, anh đã cùng chị gái là Lưu Thị Màu và anh rể Ngô Văn Lợi tham gia vào các hoạt động đào hầm ngầm, nuôi giấu cán bộ cách mạng. Anh gia nhập đội du kích của xã, tham gia vào cuộc chiến tranh Đông Dương chống lại thực dân Pháp. Trở thành đội viên trẻ tuổi nhất trong đội, Lưu Quý An được tin tưởng giao nhiệm vụ liên lạc cho bộ đội địa phương. Trong hai năm 1952–1953, Lưu Quý An liên tục tham gia vào các trận chống càn của quân dân địa phương, lập được nhiều thành tích.
Ngày 19 tháng 11 năm 1953, quân đội Pháp huy động một tiểu đoàn bộ binh có xe tăng hộ tống hướng từ xã Phúc Yên tiến về hướng xã Tiền Phong để tiến hành một trận càn. Lưu Quý An được giao nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh từ cấp trên đến các mặt trận. Trên đường thực hiện nhiệm vụ, Lưu Quý An bị bắn gãy một cánh tay. Mặc dù bị thương, anh vẫn cố dùng lựu đạn kìm chân quân Pháp để các du kích rút ra khỏi vòng vây, tổ chức phản công. Sau khi bị khép vòng vây, cắt đứt mọi đường lui, Lưu Quý An đã dùng quả lựu đạn cuối cùng để diệt 3 người lính Âu–Phi, và bị quân Pháp xả súng vào người. Anh hy sinh khi chỉ mới 13 tuổi.
Sau khi hy sinh, Lưu Quý An được truy tặng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất và được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tặng thẻ Đoàn viên danh dự. Tháng 7 năm 1965, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh khi về thăm xã Tiền Phong đã viết vào cuốn sổ lưu niệm dòng chữ "Chúng ta tự hào về những thành tích kháng chiến của nhân dân xã Tiền Phong anh hùng và Lưu Quý An đúng là một Kim Đồng của tỉnh Vĩnh Phúc". Ngày 31 tháng 7 năm 1998, Lưu Quý An được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Hiện nay, tên anh được đặt cho một trường tiểu học tại thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, được đặt cho một số con phố ở tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Lào Cai. |
Phức cảm thượng đẳng
Phức cảm thượng đẳng hay phức cảm vượt trội () là một thuật ngữ được chuyên gia tâm thần học Alfred Adler (1870-1937) đặt ra vào đầu những năm 1900 như một phần của trường phái tâm lý học cá nhân của ông.
Phức cảm thượng đẳng là một cơ chế phòng vệ phát triển theo thời gian với mục đích giúp một cá nhân vượt qua cảm giác thấp kém. Những người mang phức cảm này thường tỏ ra kiêu kỳ, ngạo mạn và coi thường người khác. Họ còn có thể có thái độ hống hách, ra oai hay thậm chí hung hăng với người khác.
Trong cách sử dụng hằng ngày, thuật ngữ "phức cảm thượng đẳng" được dùng để chỉ sự đánh giá quá cao về bản thân.
Alfred Adler là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ phức cảm thượng đẳng. Ông cho rằng phức cảm thượng đẳng về cơ bản bắt nguồn từ nhu cầu vượt qua cảm giác thấp kém tiềm ẩn: phức cảm tự ti. Qua các công trình nghiên cứu của mình, Adler kết hợp các biểu hiện của phức cảm thượng đẳng và phức cảm tự ti như một cặp nguyên nhân và kết quả. Các tác phẩm của ông về chủ đề này gồm "Understanding Human Nature" (1927), và "Superiority and Social Interest: A Collection of Later Writings", một bộ sưu tập 21 bài luận của Adler được xuất bản vào năm 1964, sau khi ông qua đời.
Adler phân biệt giữa sự cố gắng bình thường để đạt được điều gì đó với những phức cảm thượng đẳng, trong đó phức cảm thượng đẳng là những nỗ lực để bù đắp cảm giác tự ti. Ông đề cập rằng những người có phức cảm tự ti phát triển phức cảm thượng đẳng để vượt qua những trở ngại do phức cảm tự ti mang lại, chủ yếu bằng cách thổi phồng sự quan trọng của bản thân trong ý thức bằng một cách nào đó. Những mơ tưởng về chủ nghĩa anh hùng và giả định sai lầm về sự thành công đã giúp Adler khám phá ra bản chất của những nỗ lực như vậy.
Khi Adler cân nhắc những gì ông đề cập trong tác phẩm của mình về việc cố gắng vươn lên về tính thượng đẳng hay vượt trội liệu có phải là một bản chất chung của con người, ông cho rằng những người có sức khoẻ tâm thần bình thường không cố gắng để thể hiện sự vượt trội của mình cho người khác xem, mà để đạt được tham vọng và sự thành công cá nhân qua công việc. Ngược lại, những người có phức cảm thượng đẳng thực sự bị mê hoặc bởi những hoang tưởng tự cao và ước mơ về uy thế bất biến. |
María Amalia của Orléans
María Amalia của Tây Ban Nha, María Amalia của Orléans hay María Amalia de Orleans y Borbón (tên đầy đủ: María Amalia Luisa Enriqueta tháng 8 năm 1851 – 9 tháng 11 năm 1870) là Infanta của Tây Ban Nha, con gái của Antoine của Pháp, Công tước xứ Montpensier và María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha. María Amalia là cháu nội của Louis Philippe I của Pháp và là cháu ngoại của Fernando VII của Tây Ban Nha.
María Amalia là người con thứ hai của Antoine của Pháp, Công tước xứ Montpensier và María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha. Cha của María Amalia là con trai út của Louis Philippe I của Pháp và Maria Amalia của Napoli và Sicilia, còn mẹ của María Amalia là con gái út của Fernando VII của Tây Ban Nha và Maria Cristina của Hai Sicilie. Vương tôn nữ có chín anh chị em nhưng chỉ có bốn người sống đến tuổi trưởng thành. Trước khi Vương tôn nữ chào đời, Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha, đã ban sắc lệnh rằng cấc con của em gái María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha sẽ được phong là Infante của Tây Ban Nha.
Sau Cuộc Cách mạng Pháp năm 1848 đã lật đổ ông nội của Vương tôn nữ là Louis-Philippe I của Pháp, cha mẹ của María Amelia đã định cư ở Sevilla.
María Amalia sinh ngày 28 tháng 8 năm 1851 tại Cung điện San Telmo. Trước khi chào đời, bác gái của María Amalia là Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha đã ra sắc lệnh rằng các con của em gái María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha, bất kể là con trai hay con gái thì đều sẽ được ban tước hiệu Infante của Tây Ban Nha. Vào cuối tháng 9 năm 1851, María Amalia được tham dự một buổi lễ tôn giáo chính thức với sự tham gia của cha mẹ cùng các nhà chức trách chính trị và tôn giáo trong thành phố.
Giống như các anh chị em, María Amalia được giáo dục tại Cung điện San Telmo. Vương tôn nữ cũng có những chuyến đi đến Vương quốc Anh và Pháp trong khoảng thời gian này. María Amalia dành phần lớn cuộc đời mình trong cung điện của gia đình, thích chơi piano và cũng như hội họa, một thiên phú của Vương tôn nữ.
Sau cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1868, María Amalia cùng gia đình chuyển đến Lisboa, nơi cha của Vương tôn nữ có mối quan hệ thân thiết với Vương thất Bồ Đào Nha. Đã có dự tính về một cuộc hôn nhân giữa María Amalia và Augusto của Bồ Đào Nha nhưng không thành. Nguyên nhân được cho là vì María Amalia đã yêu người anh họ Ferdinand của Orleans, Công tước xứ Alençon, nhưng cuối cùng Vương tôn nữ cũng không kết hôn với Ferdinand.
Sau khi phải sống lưu vong ở Lisboa, gia đình của María Amalia phải chuyển đến Pháp và định cư tại Château de Randan ở Auvergne. Gia đình của Vương tôn nữ trở lại Tây Ban Nha vào năm 1870 và định cư ở Sevilla.
Không lâu sau khi trở về Tây Ban Nha, María Amalia bị ốm nặng. Ngày 9 tháng 11 năm 1870, Vương tôn nữ qua đời tại Cung điện San Telmo ở tuổi 19 và được chôn cất tại Tu viện Vương thất San Lorenzo de El Escorial. |
María Cristina của Orléans
María Cristina của Tây Ban Nha, María Cristina của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón (tên đầy đủ: "María Cristina Francisca de Paula Antonieta" ; 29 tháng 10 năm 1852 – 28 tháng 4 năm 1879) là con gái của Antoine của Orléans, Công tước xứ Montpensier, con trai của Louis Philippe I của Pháp, và María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha, con gái út của Fernando VII của Tây Ban Nha. María Cristina lớn lên ở Sevilla và vì có quan hệ gần gũi với Vương thất Tây Ban Nha, María Cristina các anh chị em đã được phong tặng tước hiệu hiệu Infante và Infanta của Tây Ban Nha. María Cristina qua đời ở tuổi 26 vì bệnh lao.
María Cristina sinh ra ở Sevilla, một thành phố mà cha mẹ của Vương tôn nữ buộc phải sống để tránh xa mọi âm mưu trong triều đình của Isabel II của Tây Ban Nha, chị gái của mẹ Vương tôn nữ. María Cristina là con gái thứ ba trong mười người con của Antoine của Pháp mà María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha nhưng trong số họ chỉ có bốn người sống qua thời thơ ấu, ngoài Maria Cristina là: María Isabel, María Amalia, María de las Mercedes và Antonio María. Vương tôn nữ được rửa tội và đặt tên là "María Cristina Francisca de Paula Antonietta", theo tên của hai người cha mẹ đỡ đầu là Francisco de Paula của Tây Ban Nha, Công tước xứ Cadiz (ông chú) và Maria Cristina của Hai Sicilie (bà ngoại).
Năm 1878, em gái kém tám tuổi của María Cristina là María de las Mercedes của Tây Ban Nha kết hôn với người anh họ Alfonso XII của Tây Ban Nha. Cuộc hôn nhân giữa Mercedes và Alfonso XII là vì tình yêu chứ không mang tính chính trị được tôn vinh vì tình yêu chứ không phải vì lý do chính trị, sẽ giúp hàn gắn khoảng cách cá nhân giữa Isabel II và em gái María Luisa Fernanda, mẹ của Cristina. Hạnh phúc của hai vợ chồng và của cả gia đình tan vỡ chỉ sau một khoảng thời gian ngắn khi Mercedes qua đời vì bệnh sốt phát ban.
Cái chết của Vương hậu đã khiến Vương thất chìm trong nỗi đau buồn sâu sắc; Alfonso XII đặc biệt đau lòng khi trở thành quan phu ở độ tuổi 20 tuổi, nhưng vì không có người thừa kế nên Quốc vương sớm phải tái hôn. Alfonso XII đã ngỏ ý hỏi cưới với María Cristina và Vương tôn nữ đã đồng ý, nhưng sau đó Cristina mắc phải bệnh lao và qua đời ở độ tuổi 26 vào ngày 28 tháng 4 năm 1879 tại Sevilla. Chỉ bốn tháng sau đó, chị họ của María Cristina là María del Pilar của Tây Ban Nha cũng qua đời. Vương tôn nữ được chôn cất tại Panteón de los Infantes thuộc Tu viện San Lorenzo của El Escorial . Alfonso XII sau đó tái hôn vào ngày 28 tháng 11 cùng năm với Maria Christina Henriette của Áo và có ba đứa con với Nữ Đại vương công là María de las Mercedes, được đặt theo tên của chị gái của María Cristina, María Teresa Isabel, và Alfonso XIII, Quốc vương Tây Ban Nha. |
'Abd ul-Ralam Mohammed 'Arif Aljumaily ("#đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
") (14 tháng 4 năm 1916 - 24 tháng 8 năm 2007) Tổng thống thứ ba của Cộng hòa Iraq. Ông giữ chức tổng thống từ ngày 16 tháng 4 năm 1966 đến ngày 17 tháng 7 năm 1968.
Sau khi anh trai ông, Tổng thống Abdul Salam Arif, thiệt mạng trong một vụ tai nạn trực thăng, Hội đồng Chủ quyền đã chọn ông làm Tổng thống nước Cộng hòa. Ông trở thành tổng thống thứ ba của Iraq và là tổng thống thứ ba sau khi tuyên bố thành lập nền cộng hòa.
Ông bị buộc từ chức trong cuộc đảo chính do Đảng Ba'ath lãnh đạo tháng 7 năm 1968. Đổi lại, ông yêu cầu đảm bảo an toàn cho ông và con trai ông, một sĩ quan quân đội.
Tổng thống Abdul Rahman qua đời lúc 5 giờ sáng thứ Sáu, ngày 24 tháng 8 năm 2007 tại thủ đô Amman của Jordan, nơi ông cư trú vào năm 2004. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Liệt sĩ Quân đội Iraq ở thành phố Mafraq, nơi một lễ chôn cất ông đã được tổ chức để phù hợp với vị trí cựu tổng thống của Cộng hòa Iraq. |
Brachypterois serrulata là một loài cá biển thuộc chi "Brachypterois" trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1846.
Từ định danh "serrulata" là giảm nghĩa của "serra", trong tiếng Latinh có nghĩa là “cái cưa”, ở đây mang nghĩa là “răng cưa nhỏ”, hàm ý đề cập đến đỉnh đầu của loài cá này có các gai nhỏ và mảnh thay vì các hàng gai lớn hay thấy ở các loài "Sebastes" khác (chi gốc của loài này ở thời điểm đó).
"B. serrulata" trước đây được cho là có phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nhưng qua nghiên cứu thực địa và kiểm tra các mẫu vật thì loài này chỉ có phạm vi giới hạn ở Tây Bắc Thái Bình Dương, từ tỉnh Kōchi phía nam Nhật Bản trải dài đến Biển Đông, xa nhất ở phía nam đến quần đảo Natuna, phía tây đến vịnh Thái Lan (nhầm lẫn với "Brachypterois serrulifer").
Ngoài vịnh Nha Trang, "B. serrulata" còn được ghi nhận tại vịnh Hạ Long và cửa Đại (sông Thu Bồn) trong vùng biển Việt Nam.
"B. serrulata" ưa sống trên nền đáy bùn hoặc cát, được tìm thấy ở độ sâu khoảng 40–100 m.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "B. serrulata" là 15 cm.
Thường không có gai ở sống giữa bên của hàm trên, có khi xuất hiện 1–3 gai ở cá lớn ( 8 cm). Đầu và thân màu hồng nhạt đến nâu đỏ, lưng sẫm màu hơn. Một đốm đen lớn cỡ ổ mắt trên nắp mang. Có 5 dải màu đỏ sẫm đến đen trên đầu, 5 dải sọc dọc màu đen hoặc sẫm mờ ở hai bên thân. Vây lưng có một đốm lớn màu đỏ sẫm đến đen lan rộng từ khoảng giữa gai thứ 6 và 9; khoảng 4–5 hàng chấm đỏ trên phần tia mềm. Vây hậu môn có khoảng 6–8 đường chấm đỏ sẫm. Vây ngực sẫm màu hơn ở phần biên, với khoảng 6–10 sọc mảnh màu đỏ sẫm. Vây bụng có khoảng 6–7 sọc mảnh màu đỏ sẫm đến đen. Màng vây đuôi trong mờ với dải viền rìa đỏ sẫm (hơi dày hơn ở cá thể nhỏ) với rất nhiều chấm nhỏ (khoảng 60–110) màu đỏ sẫm, kể cả trên tia vây đuôi. Mắt màu vàng óng; mống mắt xanh lam đậm.
Ở "B. serrulata", cá đực thường có số gai nhiều hơn trên các bờ hàm dưới, và ngạnh sau tuyến lệ phát triển hơn. Nhiều khả năng hai loài "Brachypterois" còn lại cũng mang các đặc điểm dị hình giới tính tương tự như "B. serrulata". Ngoài ra, mẫu vật "B. serrulata" thu thập từ quần đảo Natuna và vịnh Thái Lan có chiều dài đầu cũng như chiều dài của mỗi tia dài nhất ở các vây đều lớn hơn so với mẫu vật từ các vị trí còn lại. Vì không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào khác nên đây được coi là các biến thể địa lý của "B. serrulata".
Số gai ở vây lưng: 12–14; Số tia vây ở vây lưng: 9–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 4–6; Số tia vây ngực: 14–16.
Một nghiên cứu phân tích chất trong dạ dày cho thấy "B. serrulata" ăn các loài tôm và cua nhỏ. Mùa sinh sản diễn ra trong khoảng tháng 7 đến tháng 9. |
Dương Văn Mạnh (1930 – Tháng 4 năm 1946) là một liệt sĩ thiếu niên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Anh là một trong số ít các thiếu niên được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Dương Văn Mạnh sinh năm 1930 tại ấp Tây, xã Long Phước, thị xã Bà Rịa thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau khi hoàn thành bậc tiểu học ở quê nhà, anh lên Sài Gòn theo học trường trung học Lê Bá Cang. Tại trường, anh đã được kết nạp vào tổ chức thanh niên tiền phong. Năm 14 tuổi, Dương Văn Mạnh đã trở thành một liên lạc viên đảm nhiệm việc liên lạc giữa cơ sở cách mạng ở Sài Gòn và Bà Rịa. Sau ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp chiếm đóng Sài Gòn - Gia Định, đàn áp các phong trào cách mạng của học sinh, sinh viên, Dương Văn Mạnh trở lại Bà Rịa và tiếp tục hoạt động trong đội ngũ du kích xã. Thời gian này, anh thường xuyên tổ chức, tham gia các chương trình văn nghệ tuyên truyền, phong trào bình dân học vụ.
Tháng 2 năm 1946, quân Pháp tái chiếm Bà Rịa, dùng lực lượng bộ binh kết hợp với cơ giới để đánh chiếm các khu vực Long Phước, Long Điền, Đất Đỏ. Ngày 9 tháng 3 năm 1946, Đội du kích Quang Trung (tiền thân của lực lượng vũ trang tỉnh sau này) được thành lập tại xã Long Phước, trong đó Dương Văn Mạnh mới 16 tuổi là thành viên trẻ tuổi nhất. Một tháng sau khi thành lập, đội được chia thành hai tiểu đội, phân biệt đóng tại Long Phước và Long Tân. Dương Văn Mạnh đảm nhiệm việc liên lạc của đội.
Trong một lần thực hiện nhiệm vụ giao thư của đội trưởng đội du kích là Hoàng Tiêu cho tiểu đội đang đóng ở xã Long Phước, Dương Văn Mạnh bị hai người lính Lê dương phục kích bắt được. Không chỉ thành công tiêu hủy bức thư trước khi bị phát hiện, anh còn vững vàng chống chọi các cuộc tra tấn, tra khảo của quân lính sau khi bị bắt về đòn. Tra tấn liên tiếp nhiều ngày nhưng không thể khuất phục người cách mạng nhỏ tuổi, quân Lê dương duyết định xử bắn anh ngay sau trận tra tấn dã man cuối cùng. Khi ấy anh chỉ vừa 16 tuổi.
Ngày 23 tháng 7 năm 1997, Dương Văn Mạnh được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày nay, tên anh được dùng để đặt cho một trường trung học cơ sở và một công viên ở Bà Rịa – Vũng Tàu. |
Microsoft Solitaire là một trò chơi máy tính có trong hệ điều hành Windows, dựa trên trò chơi bài cùng tên, còn được gọi là Klondike. Phiên bản gốc được lập trình bởi Wes Cherry và các lá bài được thiết kế bởi Susan Kare.
Microsoft đã đưa trò chơi này vào dòng sản phẩm Windows của họ kể từ Windows 3.0, bắt đầu từ năm 1990. Trò chơi được phát triển vào mùa hè năm 1988 bởi thực tập sinh Wes Cherry. Bộ bài được thiết kế bởi Susan Kare, người tiên phong của Macintosh. Phiên bản của Cherry bao gồm một boss key có thể chuyển trò chơi sang bảng tính Microsoft Excel giả, nhưng sau đó đã bị xóa khỏi bản phát hành cuối cùng.
Microsoft dự định Solitaire "làm dịu những người bị hệ điều hành đe dọa" và vào thời điểm mà nhiều người dùng vẫn chưa quen với giao diện đồ họa người dùng, nó tỏ ra hữu ích trong việc giúp họ làm quen với việc sử dụng chuột, chẳng hạn như thao tác kéo và thả, kỹ thuật cần thiết để di chuyển lá bài.
Theo thống kê của Microsoft, Solitaire là một trong ba chương trình Windows được sử dụng nhiều nhất và FreeCell đứng thứ bảy, trước Microsoft Word và Microsoft Excel. Năng suất kinh doanh bị giảm do nhân viên chơi "Solitaire" đã trở thành mối lo ngại chung kể từ khi nó trở thành tiêu chuẩn trên Microsoft Windows.
Vào tháng 10 năm 2012, cùng với việc phát hành hệ điều hành Windows 8, Microsoft đã phát hành phiên bản Solitaire mới có tên Microsoft Solitaire Collection. Phiên bản này, trò chơi được thiết kế bởi Microsoft Studios, với thiết kế hình ảnh do William Bredbeck chỉ đạo và Arkadium phát triển, được hỗ trợ quảng cáo và giới thiệu nhiều tính năng mới cho trò chơi. Giống như bản phát hành ban đầu của trò chơi, William Bredbeck được trích dẫn nói "Một trong những mục đích của thiết kế lại là giới thiệu cho người dùng những thay đổi mới được tích hợp trong hệ điều hành Windows 8 mới". Thiết kế này vẫn được sử dụng cho đến Windows 11.
Microsoft Solitaire đã kỷ niệm 25 năm ra mắt vào ngày 18 tháng 5 năm 2015. Để kỷ niệm sự kiện này, Microsoft đã tổ chức giải đấu Solitaire trong khuôn viên Microsoft và phát sóng sự kiện chính trên Twitch.
Năm 2019, Bảo tàng Trò chơi Quốc gia Strong đã đưa Microsoft Solitaire vào Đại sảnh Danh vọng Trò chơi Điện tử Thế giới.
Theo Microsoft, vào dịp kỷ niệm 30 năm ra mắt vào năm 2020, ước tính trò chơi vẫn có 35 triệu người chơi hoạt động hàng tháng và hơn 100 triệu lượt chơi hàng ngày.
Khi thắng cuộc, các lá bài sẽ rơi ra khỏi từng chồng và bật ra khỏi màn hình. Màn hình "chiến thắng" này được coi là một yếu tố nguyên mẫu sẽ trở nên phổ biến trong các trò chơi thông thường, so với việc sử dụng "Ode to Joy" để chiến thắng một cấp độ Peggle và khiến Solitaire trở thành một trong những trò chơi điện tử thông thường đầu tiên như vậy.
Kể từ Windows 3.0, Solitaire cho phép chọn thiết kế ở mặt sau của các lá bài, chọn rút một hoặc ba lá bài từ bộ bài cùng một lúc, chuyển đổi giữa tính điểm Vegas và tính điểm Tiêu chuẩn, đồng thời vô hiệu hóa hoàn toàn việc tính điểm. Trò chơi cũng có thể được tính giờ để có thêm điểm nếu trò chơi thắng. Có một mánh gian lận sẽ cho phép rút từng lá bài một khi 'rút ba' được đặt.
Trong Windows 2000 và các phiên bản Solitaire mới hơn, việc nhấp chuột phải vào không gian mở sẽ tự động di chuyển các thẻ có sẵn đến bốn nền ở góc trên bên phải, như trong FreeCell. Nếu con trỏ chuột ở trên một lá bài, một cú nhấp chuột phải sẽ chỉ di chuyển lá bài đó về nền của nó, miễn là đó là một nước đi có thể thực hiện được. Nhấp đúp chuột trái cũng sẽ di chuyển thẻ về nền phù hợp.
Cho đến phiên bản Windows XP, mặt sau của lá bài là tác phẩm gốc do Susan Kare thiết kế và nhiều mặt sau là hoạt ảnh.
Phiên bản Windows Vista và Windows 7 của trò chơi lưu số liệu thống kê về số ván đã chơi, tỉ lệ phần trăm thắng và chuỗi thắng, đồng thời cho phép người dùng lưu các trò chơi chưa hoàn thành và chọn các thiết kế lá bài gồm nhiều kiểu khác nhau. |
Chiến tranh Kế vị Ba Lan
Chiến tranh Kế vị Ba Lan (tiếng Ba Lan: "Wojna o sukcesję polską"; tiếng Anh: "War of the Polish Succession"; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội chiến Ba Lan tranh giành quyền kế vị ngai vàng sau sự qua đời của Vua August II, mà các cường quốc châu Âu khác đã thúc đẩy và mở rộng cuộc xung đột để theo đuổi quyền lợi quốc gia của riêng họ. Vương quốc Pháp và Tây Ban Nha, hai cường quốc đều nằm dưới vương quyền Nhà Bourbon, đã cố gắng kiểm tra sức mạnh của Quân chủ Habsburg ở Tây Âu, Vương quốc Phổ cũng vậy, trong khi Tuyển hầu xứ Sachsen và Đế quốc Nga huy động để hỗ trợ người chiến thắng cuối cùng. Cuộc giao tranh ở Ba Lan dẫn đến việc Augustus III lên ngôi vua, được Nga và Sachsen ủng hộ, ngoài ra còn được Habsburg ủng hộ về mặt chính trị.
Các chiến dịch quân sự và trận đánh lớn của cuộc chiến xảy ra bên ngoài Ba Lan. Quân Bourbon, được hỗ trợ bởi Charles Emmanuel III của Sardinia, đã tiến đánh các lãnh thổ Habsburg bị cô lập. Tại Rheinland, Pháp đã chiếm thành công Công quốc Lorraine, và ở Bán đảo Ý thì Tây Ban Nha giành lại quyền kiểm soát các Vương quốc Napoli và Vương quốc Sicilia đã mất trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, trong khi việc giành được lãnh thổ ở miền Bắc Bán đảo Ý bị hạn chế mặc dù có chiến dịch đẫm máu. Việc Vương quốc Đại Anh không sẵn lòng hỗ trợ Quân chủ Habsburg, điều này chứng tỏ sự yếu kém của Liên minh Anh-Áo.
Mặc dù đạt được hòa bình sơ bộ vào năm 1735, chiến tranh chính thức kết thúc với Hiệp ước Viên (1738), trong đó Augustus III được xác nhận là vua Ba Lan và đối thủ của ông là cựu vương Stanisław Leszczyński được trao Công quốc Lorraine và Công quốc Bar, khi đó cả hai đều là thái ấp của Đế quốc La Mã Thần thánh. Francis Stephen, Công tước xứ Lorraine, được trao Đại công quốc Toscana để đền bù cho việc từ bỏ lãnh thổ Lorraine. Công quốc Parma rơi vào tay của người Habsburg, trong khi Charles của Parma chiếm lấy vương miện của 2 vương quốc Napoli và Sicilia. Hầu hết các lãnh thổ giành được đều thuộc về người Nhà Bourbon, vì các Công quốc Lorraine và Bar từ chỗ là thái ấp của Đế chế La Mã Thần thánh trở thành thái ấp của Vương quốc Pháp, trong khi người Bourbon Tây Ban Nha giành được hai vương quốc Napoli và Sicilia ở Nam Bán đảo Ý. Về phần mình, Nhà Habsburg đã nhận lại được hai công quốc Ý, mặc dù Parma sẽ sớm quay trở lại quyền kiểm soát của Bourbon. Toscana sẽ do Habsburg nắm giữ cho đến thời Napoléon.
Chiến tranh tỏ ra là một thảm họa đối với nền độc lập của Ba Lan, đồng thời tái khẳng định rằng các vấn đề của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, bao gồm cả việc bầu chọn Nhà vua, sẽ do các cường quốc khác của Châu Âu kiểm soát. Sau August III, sẽ chỉ còn một vị vua nữa của Ba Lan là Stanisław August Poniatowski, bản thân là bù nhìn của người Nga, và cuối cùng Ba Lan sẽ bị các nước láng giềng chia cắt và không còn tồn tại như một quốc gia có chủ quyền vào cuối thế kỷ XVIII. Ba Lan cũng từ bỏ các yêu sách đối với Livonia và từ bỏ kiểm soát trực tiếp Công quốc Courland và Semigallia, mặc dù vẫn là một thái ấp của Ba Lan nhưng không được sáp nhập vào Ba Lan và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nga và chỉ kết thúc với sự sụp đổ của Đế quốc Nga vào năm 1917.
Sau cái chết của Sigismund II Augustus vào năm 1572, Vua Ba Lan đã được bầu chọn bởi "Szlachta", một cơ quan gồm có giới quý tộc Ba Lan, trong một cuộc bầu cử được gọi đặc biệt là Sejm. Quyền lực hoàng gia ngày càng bị hạn chế bởi Sejm, cơ quan lập pháp của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Đổi lại, Sejm thường bị tê liệt bởi "Liberum Veto", quyền của bất kỳ thành viên nào trong việc ngăn chặn các quyết định của nó. Các nước láng giềng của Ba Lan thường ảnh hưởng đến Sejm và đến đầu thế kỷ XVIII, hệ thống dân chủ đã suy yêu.
Năm 1697, Augustus II lên ngôi vua, được Áo và Nga hậu thuẫn. Bị Stanisław Leszczyński phế truất vào năm 1705, bốn năm sau ông quay trở lại và Stanisław trốn sang Pháp, nơi con gái ông là Marie Leszczyńska kết hôn với Vua Louis XV vào năm 1725. Augustus đã thất bại trong nỗ lực giành lại vương miện Ba Lan cho con trai ông là Augustus III, dẫn đến một cuộc tranh giành ngai vàng khi ông qua đời năm 1733. Trong Hiệp ước Ba đại bàng đen bí mật năm 1732, Nga, Áo và Phổ đã đồng ý phản đối cuộc bầu cử của Stanislaus hoặc Augustus III và thay vào đó ủng hộ Manuel của Bồ Đào Nha.
Tranh chấp xảy ra cùng lúc với sự tan rã của Liên minh Anh-Pháp, vốn đã thống trị châu Âu từ năm 1714. Thỏa thuận tại Utrecht nhằm đảm bảo Pháp và Tây Ban Nha vẫn tách biệt, có nghĩa là bất chấp mối quan hệ huyết thống chặt chẽ giữa Vua Louis XV của Pháp và chú Felipe V của Tây Ban Nha, hai nước là đối thủ trong Chiến của Liên minh Bộ tứ năm 1718 đến 1720. Khi Hồng y Fleury trở thành Thủ tướng Pháp vào năm 1726, ông đã tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ hơn với Tây Ban Nha, nhờ sự ra đời của Vương tử Louis, Dauphin của Pháp vào năm 1729, điều này dường như đảm bảo rằng 2 quốc gia Pháp và Tây Ban Nha vẫn sẽ vẫn tách biệt dù đều được cai trị bởi người Nhà Bourbon.
Fleury ủng hộ Stanisław, hy vọng làm suy yếu Áo và bảo vệ Công quốc Lorraine, một lãnh thổ chiến lược bị Pháp chiếm đóng trong phần lớn thế kỷ trước. Công tước hiện tại là Francis Stephen dự kiến sẽ kết hôn với người thừa kế của Hoàng đế Karl VI của Thánh chế La Mã là Maria Theresa, khiến người Pháp cảm thấy nguy hiểm. Đồng thời, Felipe V của Tây Ban Nha muốn giành lại các lãnh thổ ở Bán đảo Ý đã được nhượng cho Áo vào năm 1714, dẫn đến "Pacte de Famille" năm 1733 giữa Pháp và Tây Ban Nha.
Cái chết của Augustus II.
Augustus II qua đời vào ngày 1 tháng 2 năm 1733. Trong suốt mùa xuân và mùa hè năm 1733, Vương quốc Pháp bắt đầu xây dựng lực lượng dọc theo biên giới phía Bắc và phía Đông của mình, trong khi Hoàng đế của Thánh chế La Mã tập trung quân đội ở biên giới Ba Lan, giảm bớt các đồn trú ở Công quốc Milan. Trong khi Thân vương Eugene xứ Savoy đã khuyến nghị với hoàng đế một kế hoạch hiếu chiến hơn nhầm chống lại các hành động tiềm tàng của Pháp ở thung lũng Rhein và miền Bắc Bán đảo Ý.
Hầu tước de Monti, đại sứ Pháp tại Warsaw, đã thuyết phục 2 gia tộc đối địch Potocki và Czartoryski đoàn kết lại đứng đằng sau để ủng hộ Stanisław. Teodor Andrzej Potocki, Giáo trưởng Ba Lan và interrex sau cái chết của Augustus, đã thực hiện một cuộc triệu tập vào tháng 3 năm 1733. Các đại biểu tham dự đã thông qua một nghị quyết cấm người nước ngoài ứng cử để vào vị trí vua Ba Lan; điều này rõ ràng sẽ loại trừ cả Emmanuel của Bồ Đào Nha và con trai của Augustus II là Frederick August II, Tuyển hầu xứ Sachsen.
Frederick August đã đàm phán các thỏa thuận với Áo và Nga vào tháng 7 năm 1733. Để đổi lấy sự hỗ trợ của Nga, ông đồng ý từ bỏ mọi yêu sách còn lại của Ba Lan đối với Livonia, và hứa với Nữ hoàng Anna của Nga về việc lựa chọn người kế vị Công quốc Courland và Semigallia, một thái ấp của Ba Lan (trong đó bà từng là nữ công tước đất này trước khi lên ngôi Nữ hoàng Nga), nếu không thì sẽ nằm dưới sự cai trị trực tiếp của Ba Lan sau cái chết của công tước hiện tại là Ferdinand Kettler, người không để lại người thừa kế. Với Hoàng đế La Mã Thần thánh, ông hứa sẽ công nhận Lệnh trừng phạt thực dụng năm 1713, một tài liệu được thiết kế để đảm bảo quyền thừa kế ngai vàng của Áo cho Maria Theresa, con cả của Karl VI.
Vào tháng 8, giới quý tộc Ba Lan đã tập trung cho cuộc bầu cử Sejm. Vào ngày 11 tháng 8, 30.000 quân Nga dưới sự chỉ huy của Thống chế Peter Lacy đã tiến vào Ba Lan nhằm gây ảnh hưởng đến quyết định của Sejm. Vào ngày 4 tháng 9, Pháp công khai tuyên bố ủng hộ Leszczyński, người được bầu làm vua bởi một Sejm gồm 12.000 đại biểu vào ngày 12 tháng 9. Một nhóm quý tộc, dẫn đầu bởi các quý tộc người Litva trong đó có Công tước Michał Serwacy Wiśniowiecki (cựu đại tể tướng Litva được Augustus II đề cử), vượt sông Vistula dưới sự bảo vệ của quân Nga. Nhóm này, với số lượng khoảng 3.000 người, đã bầu Frederick August II làm Vua Ba Lan với vương hiệu Augustus III vào ngày 5 tháng 10. Mặc dù thực tế rằng nhóm này chỉ là thiểu số, Nga và Áo, có ý định duy trì ảnh hưởng của họ ở Ba Lan, nên đã công nhận Augustus là vua.
Vào ngày 10 tháng 10, Pháp tuyên chiến với Áo và Sachsen. Vua Louis XV sau đó được chú của ông là Vua Felipe V của Tây Ban Nha hỗ trợ, với hy vọng đảm bảo các lãnh thổ ở Ý cho các con trai của mình với người vợ thứ hai là Elisabeth Farnese. Cụ thể, ông hy vọng có thể bảo đảm Công quốc Mantua cho con trai lớn là Vương tử Don Carlos, người đã là Công tước xứ Parma và có kỳ vọng về Đại công quốc Toscana, cũng như Vương quốc Napoli và Sicilia cho con trai nhỏ là Vương tử Don Felipe. Hai vị vua Bourbon cũng nhận được sự hỗ trợ quân sự từ Charles Emmanuel III của Sardinia, cũng hy vọng đảm bảo lợi ích từ các Công quốc Milan và Mantua của Áo.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Subsets and Splits