text
stringlengths
82
354k
Hòn Đá Lẻ là một hòn đảo nhỏ nằm trong quần đảo Hòn Khoai, thuộc xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Đây là vị trí "Điểm A2" của Đường cơ sở trên biển của Việt Nam. Tọa độ Hòn Đá Lẻ là 08˚22'8" vĩ độ Bắc - 104˚52'4" kinh độ Đông. Hòn Đá Lẻ cũng được một số tài liệu ghi nhận là điểm cực nam của Việt Nam, nhưng điểm cực nam tính trên thông số vĩ độ chính xác thì đảo An Bang mới chính là điểm cực nam. Vị trí Hòn Đá Lẻ cách đảo Hòn Khoai 7,7 km về phía đông nam. Đảo chỉ là một cụm đá đen trơ trọi dài khoảng 125 m, rộng nhất 34 m và cao nhất khoảng 7 m. Địa hình lỏm chỏm với nhiều ao nước, chúng ngập khi thủy triều lên. Phần tây nam của đảo cao nhất, phần đông bắc thì trũng. Chân các vách đá bám đầy sò biển. Xung quanh đảo là các rạn san hô, loài cua đá là loài chủ yếu sống trên đảo, đảo cũng là nơi nhiều loài chim biển trú ngụ. Đây là đảo quân sự, do đồn biên phòng 700 – Hòn Khoai quản lý. Đảo là khu vực hạn chế, chỉ có ngư dân địa phương mới được phép tiếp cận, thường họ đánh bắt cá tại vùng nước xung quanh và neo thuyền khi có gió bão. Toàn cảnh hòn đảo nằm trong tầm quan sát của hệ thống radar của trạm radar 595, Trung đoàn 551, Vùng 5 Hải quân. Trạm đóng trên điểm cao nhất của Hòn Khoai. Cho đến tháng 5 năm 2023, Hòn Đá Lẻ không có cột mốc bia chủ quyền và mốc tọa độ quốc gia. Công trình chỉ bắt đầu xây dựng vào cuối tháng 5, sau vài tháng đã hoàn thành. Sau khi công trình cột mốc bia chủ quyền và mốc tọa độ quốc gia xây xong, vào ngày 28 tháng 10 năm 2023, đoàn công tác Tỉnh ủy, UBND tỉnh Cà Mau gồm Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh là Nguyễn Tiến Hải và Phó chủ tịch UBND tỉnh là Lâm Văn Bi cùng nhiều lãnh đạo các địa phương, đơn vị ra đảo để chào cờ.
Parrot OS là một bản phân phối Linux dựa trên Debian tập trung vào bảo mật, quyền riêng tư và lập trình. Parrot dựa trên Debian nhánh "ổn định" với nhân Linux 6.1. Nó tuân theo một mô hình phát triển "Rolling release". Môi trường desktop mặc định là MATE và trình quản lý hiển thị là LightDM. Hệ thống được chứng nhận để chạy trên các thiết bị có RAM tối thiểu là 256 MB và phù hợp với cả kiến trúc bộ xử lý 32-bit (i386) và 64-bit (X86-64). Hơn nữa, dự án có sẵn cho kiến trúc ARMv7 (Cấu trúc ARM). Vào tháng 6 năm 2017, nhóm Parrot thông báo họ đang xem xét thay đổi từ Debian sang Devuan, chủ yếu là do vấn đề với systemd. Kể từ ngày 21 tháng 1 năm 2019, nhóm Parrot đã bắt đầu ngừng phát triển ISO 32-bit (i386) của họ. Vào tháng 8 năm 2020, Parrot OS chính thức hỗ trợ môi trường destkop Xfce. Parrot có nhiều phiên bản dựa trên Debian, với nhiều môi trường desktop khác nhau. Parrot OS Home Edition là phiên bản cơ sở của Parrot được thiết kế để sử dụng hàng ngày và hướng đến những người dùng thông thường cần một hệ thống "nhẹ" trên máy tính xách tay hoặc máy trạm của họ. Việc phân phối rất hữu ích cho công việc hàng ngày. Parrot OS Home Edition cũng bao gồm các chương trình trò chuyện riêng tư với mọi người, mã hóa tài liệu hoặc duyệt Internet ẩn danh. Hệ thống này cũng có thể được sử dụng làm điểm khởi đầu để xây dựng một hệ thống với bộ công cụ bảo mật tùy chỉnh. Parrot OS Security Edition được thiết kế để kiểm tra thâm nhập, đánh giá và giảm thiểu lỗ hổng, pháp y máy tính và duyệt web ẩn danh. Parrot ARM là bản phát hành Parrot nhẹ dành cho các hệ thống embedded. Nó hiện có sẵn cho các thiết bị Raspberry Pi. Parrot Architect IoT không được cài đặt sẵn. Cài đặt bất kỳ phần mềm và môi trường desktop nào với phiên bản này. Công cụ Parrot OS. Có nhiều công cụ trong Parrot OS được thiết kế đặc biệt cho các nhà nghiên cứu bảo mật và có liên quan đến kiểm tra thâm nhập. Một vài trong số chúng được liệt kê dưới đây, bạn có thể tìm thấy nhiều hơn trên trang web chính thức. Onion Share là một tiện ích mã nguồn mở có thể được sử dụng để chia sẻ các tệp có kích thước bất kỳ qua mạng Tor một cách an toàn và ẩn danh. Sau đó, Onion Share tạo một URL ngẫu nhiên dài mà người nhận có thể sử dụng để tải tệp xuống qua mạng Tor bằng trình duyệt Tor. AnonSurf là một tiện ích giúp giao tiếp của hệ điều hành đi qua Tor hoặc các mạng ẩn danh khác. Theo Parrot, AnonSurf bảo mật trình duyệt web của bạn và ẩn danh IP của bạn.
Chặng đua MotoGP Pháp 2022 Chặng đua MotoGP Pháp 2022 là chặng đua thứ 7 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 13/05/2022 đến ngày 15/05/2022 ở trường đua Bugatti. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Enea Bastianini của đội đua Gresini. Kết quả phân hạng thể thức MotoGP.
Ahmed Hassan al-Bakr () (1 tháng 7 năm 1914 - 4 tháng 10 năm 1982) Ông là tổng thống thứ tư của Cộng hòa Iraq từ ngày 17 tháng 7 năm 1968 đến ngày 16 tháng 7 năm 1979. Ông là thành viên lãnh đạo của Đảng Baath. Ông cũng từng giữ chức Thủ tướng Iraq trong thời gian từ ngày 8 tháng 2 năm 1963 đến ngày 18 tháng 11 năm 1963. Al-Bakr xuất hiện lần đầu tiên sau Cách mạng 14 tháng 7 lật đổ chế độ quân chủ. Sau đó, Al-Bakr trở thành người đứng đầu bộ phận quân sự của chi nhánh Đảng Ba'ath ở Iraq. Thông qua văn phòng này, ông đã tuyển dụng các thành viên cho Đảng Baath. Cho đến khi Thủ tướng Abdul Karim Qasim bị lật đổ trong cuộc đảo chính tháng Hai; Al-Bakr được bổ nhiệm làm Thủ tướng, sau đó là Phó Tổng thống Iraq trong chính phủ liên minh. Chính phủ đầu tiên của ông tồn tại chưa đầy một năm và bị lật đổ vào tháng 11 năm 1963. Al-Bakr trở lại nắm quyền trong một cuộc đảo chính quân sự do phe Baathist lãnh đạo, do Ahmed Hassan Al-Bakr lãnh đạo, vào ngày 17 tháng 7 năm 1968, đưa ông lên làm tổng thống của nước cộng hòa. al-Bakr dần mất quyền lực vào tay Saddam vào những năm 1970, khi Saddam củng cố vị trí của mình trong đảng và nhà nước thông qua các cơ quan an ninh. Năm 1979, Al-Bakr từ chức mọi chức vụ công. Ông mất năm 1982 vì những lý do không được công bố.
Muhammad Najib Ar-Ruba'i () (Cũng đánh vần là "Al-Rubai") (1904–1965) là tổng thống đầu tiên của Iraq (Chủ tịch Hội đồng Chủ quyền), từ ngày 14 tháng 7 năm 1958 đến ngày 8 tháng 2 năm 1963. Cùng với Abd al-Karim Qasim, ông là một trong những người lãnh đạo Cách mạng 14 tháng 7 lật đổ chế độ quân chủ Iraq. Trong khi Qasim trở thành thủ tướng và nắm giữ phần lớn quyền lực thì Ar-Ruba'i được bầu làm nguyên thủ quốc gia với chức danh Chủ tịch Hội đồng Chủ quyền. Năm 1963, chính phủ bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính khác do Abd as-Salam Arif lãnh đạo. Ar-Ruba'i đã phải rút lui khỏi chính trường. Ông mất năm 1965.
Gisela của Áo (tiếng Đức: "Gisela von Österreich"; 12 tháng 7 năm 1856 – 27 tháng 7 năm 1932) là con gái của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern và là Vương phi Bayern thông qua hôn nhân với Leopold của Bayern. Hoàng nữ sinh vào ngày 12 tháng 7 năm 1856, là người con thứ hai của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern và được đặt tên là Gisella Louise Marie, trong đó cái tên Gisella được đặt theo tên của Gisela xứ Bayern, Vương hậu Hungary và là vợ của István I, Quốc vương Công giáo đầu tiên của Hungary. Mẹ đỡ đầu của Gisela là bà ngoại Ludovika Wilhelmine của Bayern, đại diện bởi bà nội là Sophie Friederike của Bayern. Dù được đặt tên là Gisella, nhưng Nữ Đại vương công thường chỉ viết tên mình với một chữ L. Giống như chị gái là Sophie Friederike và em trai là Thái tử Rudolf, Gisela được nuôi dưỡng bởi bà nội của là Sophie Friderike của Bayern. Với bản tính điềm tĩnh giống bố, Gisela luôn giữ thái độ dè dặt với mẹ. Gisela có một mối quan hệ rất thân thiết với em trai và việc tự tử của Rudolf đã ảnh hưởng rất nhiều đến Hoàng nữ. Hoàng đế Franz Joseph I có thói quen thu thập một số vật dụng cá nhân của gia đình, chẳng hạn như đôi giày đầu tiên mà mỗi đứa con của của Hoàng đế từng mang. Trong số những vật kỷ niệm này có một bài thơ do Gisela khi còn nhỏ viết cho Franz Joeph I vào một dịp Giáng sinh; bài thơ được cho là vật quý giá nhất trong bộ sưu tập. Gisela cũng thường vẽ tranh trong những năm cuối đời. Hôn nhân và gia đình. Ngày 20 tháng 4 năm 1873, ở tuổi 16, Gisela kết hôn với Leopold của Bayern ở Viên. Leopold là con trai của Vương tử Nhiếp chính Luitpold của Bayern và Auguste Ferdinande của Áo, do đó Leopold là anh họ của Gisela . Leopold ban đầu phải lòng Amalie xứ Sachsen-Coburg và Gotha, người mà em trai của Hoàng hậu Elisabeth, Maximilian Emanuel xứ Bayern dự định kết hôn. Do đó, Hoàng hậu đã sắp xếp một cuộc gặp gỡ giữa Leopold và Gisela tại Cung điện Gödöllő, và Lepold biết rằng bản thân không thể từ chối lời đề nghị của Elisabeth. Theo một bức thư gửi mẹ được viết năm 1872, Hoàng đế Franz Josesh I mong muốn một cuộc hôn nhân giữa con gái và Vương tôn họ Wittelsbach, vì lúc đó có rất ít Vương tử Công giáo. Có vẻ như Franz Joseph I cảm thấy phải đảm bảo ứng cử viên khả thi duy nhất mà Hoàng đế có thể giao phó Gisela (người mà anh ấy gọi là "cô gái yêu dấu của chúng tôi" trong các nghi thức đám cưới) để chăm sóc. Leopold đã nhận được số tiền hồi môn khổng lồ lên tới nửa triệu đồng guilders.. Mẹ của Gisela vẫn vắng mặt trong lễ mừng đám cưới. Đôi vợ chồng trẻ được gia đình chồng chào đón tại München và sống tại dinh thự Palais Leopold ở Schwabing. Palais được đổi tên thành "Giselastraße" để vinh danh Gisela vào năm 1873. Một năm sau đám cưới, Gisela hạ sinh đứa con đầu lòng và Hoàng hậu Elisabeth cũng có mặt trong lễ rửa tội. Gisela và Leopold có tổng cộng bốn người con: Công việc từ thiện và Thế chiến thứ nhất. Đặc biệt là sau cái chết của em trai là Thái tử Rudolf, Gisela đã tích cực tham gia vào nhiều vấn đề xã hội và chính trị, thành lập các tổ chức từ thiện để hỗ trợ người nghèo, người mù và người điếc và đóng vai trò tích cực trong các tổ chức này. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nữ Đại vương công đã điều hành một bệnh viện quân đội ở Palais của mình trong khi chồng là Leopold đảm nhiệm vị trí nguyên soái ở mặt trận phía đông. Năm 1918, khi Cách mạng Đức nổ ra, nhiều người trong gia đình của Gisela đã chạy trốn khỏi thành phố, nhưng Gisela vẫn ở lại và tham gia cuộc bầu cử năm 1919 cho Quốc hội Weimar, nơi phụ nữ trên 20 tuổi lần đầu tiên được phép bỏ phiếu. Gisela được quý trọng đến mức thường được biết đến với cái tên "Thiên thần tốt lành từ Viên". Hoàng nữ là người bảo trợ cho Giselabahn (một tàu hỏa chạy từ Salzburg đến Tirol), tàu hơi nước có mái chèo vẫn đang hoạt động tên "Gisela" trên Hồ Traunsee và Trường cấp hai Gisela Gymnasium ở München. Thời kỳ góa phụ và qua đời. Gisela và chồng tổ chức lễ kỷ niệm đám cưới vàng vào năm 1923. Leopold qua đời năm 1930 và Gisela cũng qua đời sau đó 2 năm ở tuổi 76 tại München vào ngày 27 tháng 7 năm 1932. Gisela được chôn cất bên cạnh Leopold tại "Colombarium" ở Nhà thờ Thánh Michael , München. Gisela đã nhận được các huân chương sau:
Marie Valerie của Áo Marie Valerie của Áo (tiếng Đức: "Marie Valerie von Österreich"; 22 tháng 4 năm 1868 – 6 tháng 9 năm 1924) là con út của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. Nữ Đại vương công thường được gọi là Valerie. Ngày 31 tháng 7 năm 1890, Marie Valerie kết hôn với Franz Salvator của Áo; cuộc hôn nhân đã gây ra rạn nứt giữa Hoàng nữ và các anh chị vì lẽ ra cuộc hôn nhân của hai vợ chồng phải mang lại lợi ích chính trị, trong khi Marie Valerie, với sự cho phép của Hoàng hậu Elisabeth, lại kết hôn vì tình yêu. Những năm đầu đời. Marie Valerie Mathilde Amalie sinh ngày 22 tháng 4 năm 1868 tại Buda, Hungary, là người con út của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. Nữ Đại vương hai người chị gái là Sophie Friederike và Gisela và một anh trai là Rudolf. Người chị cả của Marie Valerie, Sophie Friederike đã qua đời khi Hoàng nữ được sinh ra. Elisabeth đặc biệt gắn bó với Valerie, người được sinh ra mười năm kể từ đứa con thứ ba của cặp vợ chồng chào đời, và là người con duy nhất Elisabeth được phép tự nuôi nấng trong khi ba người con lớn đã bị tách khỏi mẹ từ bé và được bà nội là Sophie Friederike của Bayern nuôi dưỡng. Bà Đại vương công Sophie đã viết thư cho mẹ của Elisabeth cũng như là em gái là Ludovika Wilhelmine của Bayern rằng "Sisi hoàn toàn đắm chìm bởi tình yêu và sự quan tâm mà con bé dành cho thiên thần nhỏ quá đỗi đáng yêu này". Marie Valerie là người con cưng của Elisabeth và bị một số cận thần gọi một cách chua chát là "die Einzige" ("người duy nhất") vì Elisabeth dành sự quan tâm đến Hoàng nữ hơn các anh chị. Valerie yêu mẹ nhưng theo nhật ký của Nữ Đại vương công thì Marie Valerie thường cảm thấy xấu hổ và choáng ngợp trước sự quan tâm đặc biệt của Elisabeth đối với mình, đặc biệt là khi Hoàng nữ là người khiêm tốn và thực tế. Một biệt danh khác của Valerie là "đứa trẻ Hungary", vì sự ra đời của Hoàng nữ là sự nhượng bộ của Elisabeth, người không thích sự thân mật thể xác và mang thai, để đổi lấy sự hòa hảo của Franz Joseph I với Hungary, phần lãnh thổ mà Hoàng hậu yêu mến nhất của Đế quốc Áo. Tiến trình này lên đến đỉnh điểm khi hai vợ chồng cùng đăng quang tại Buda vào ngày 8 tháng 6 năm 1867 với tư cách là Quốc vương và Vương hậu Hungary và Marie Valerie được sinh ra khoảng hơn chín tháng sau đó. Elisabeth cố tình chọn Hungary làm nơi chào đời của con gái; không có đứa trẻ vương thất nào được sinh ra ở Hungary trong nhiều thế kỷ qua. Nếu Valerie là con trai thì sẽ được là Stephan theo tên của István I, Quốc vương và Thánh bảo trợ của Hungary. Theo nhà sử học Brigitte Hamann, nếu một con trai được hạ sinh bởi Vương hậu Hungary trong lâu đài ở Budapest sẽ làm tăng khả năng một ngày nào đó đứa trẻ đó sẽ trở thành Quốc vương Hungary và tách Hungary ra khỏi đế quốc Áo. Do đó, triều đình Viên đã vô cùng nhẹ nhõm khi Valerie là con gái. Những tin đồn ác ý bắt đầu lan truyền rằng Valerie thực chất là con gái của Gyula Andrássy, thủ tướng Hungary và là bạn của Hoàng hậu Elisabeth. Những điều này kéo dài suốt tuổi thơ của Valerie và khiến Nữ Đại vương công tổn thương sâu sắc. Tuy nhiên, về ngoại hình thì Valerie giống Franz Joseph I hơn bất kỳ anh chị nào của mình, thậm chí sự giống nhau còn rõ ràng hơn khi Valerie trưởng thành, do đó những lời đồn cũng không còn nữa. Do những lời đồn này, Valerie có sự ác cảm suốt đời đối với bất cứ điều gì liên quan đến Hungary và càng trở nên trầm trọng hơn khi Elisabeth nhất quyết chỉ nói chuyện với con gái bằng tiếng Hungary. Marie Valerie rất vui vẻ khi được phép nói tiếng Đức với cha, người mà Nữ Đại vương công kính trọng. Ngoài ra, Marie Valerie còn thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Ý. Hoàng nữ thích viết kịch và làm thơ, đồng thời là một nghệ sĩ nghiệp dư tài năng, đặc biệt thích vẽ hoa. Valerie là người ủng hộ nhiệt thành cho nhà hát Burgtheater ở Viên và thường cố gắng tham dự các buổi biểu diễn ở đây nhiều nhất có thể. Tại Bad Ischl vào ngày 31 tháng 7 năm 1890, Valerie kết hôn với người em họ là Franz Salvator. Hai người gặp gỡ nhau vào năm 1886 tại một vũ hội, nhưng Valerie đã đợi vài năm để chắc chắn rằng tình cảm của mình dành cho Franz Salvator đủ mạnh mẽ để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Nhiều người trong triều đình hy vọng rằng Hoàng nữ sẽ kết hôn với một người như Thái tử Sachsen, Thái tử Bồ Đào Nha hay Vương tôn Alfons của Bayern khi Valerie tán tỉnh Alfons. Tuy nhiên, Hoàng hậu Elisabeth tuyên bố rằng Valerie sẽ được phép kết hôn ngay cả với một người quét ống khói nếu Valerie mong muốn (một điều trái ngược với hai người con Gisela và Rudolf khi cả hai đều phải kết hôn vì lợi ích của hoàng triều). Valerie đã chọn Franz Salvator, một vị Đại vương công Áo thuộc nhánh Toscana của Hoàng thất Áo, người không có nhiều tài sản, và Elisabeth, như đã hứa, ủng hộ quyết định của của cô con gái cưng. Điều này đã gây ra rạn nứt sâu sắc giữa Valerie và các anh chị trong một thời gian, nhưng cuối cùng Rudolf đã hòa giải với em gái khi Valerie và Franz đính hôn vào Giáng sinh năm 1888. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Valerie và vợ của Rudolf là Stéphanie của Bỉ vẫn lạnh nhạt ngay cả sau Rudolf qua đời. Nghi lễ từ bỏ quyền thừa kế của Marie Valerie đối với ngai vàng Áo, một điều cần thiết để cuộc hôn nhân được tiến hành, diễn ra vào ngày 16 tháng 7 năm 1890 tại Hermesvilla. Đám cưới hoành tráng của cặp đôi trẻ diễn ra tại nhà thờ giáo xứ Bad Ischl vào ngày 31 tháng 7. Buổi lễ được tiến hành bởi Giám mục Linz, Franz Maria Doppelbauer. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng mới cưới hưởng tuần trăng mật ở Ý, Thụy Sĩ và Bayern. Marie Valerie và Franz Salvator có 10 người con: Cuộc sống sau này. Lúc đầu, Valerie và Franz sống tại Schloss Lichtenegg. Ngày 11 tháng 6 năm 1895, cặp đôi đã mua Lâu đài Wallsee trên sông Danube từ Alfred xứ Sachsen-Coburg và Gotha và đã cải tạo hoàn toàn lâu đài. Khi việc cải tạo hoàn tất, một buổi lễ đánh dấu việc hai vợ chồng chuyển đến cung điện mới được tổ chức vào ngày 4 tháng 9 năm 1897. Đã có một lễ mừng lớn cho sự kiện này ở Wallsee do sự yêu mến mà Valerie có được ở nơi đây. Marie Valarie được biết đến cũng như được mến mộ vì sự hào phóng của mình đối với các nỗ lực từ thiện ở địa phương. Năm 1900, Hoàng nữ trở thành người bảo trợ của Hội Chữ thập đỏ, nơi Valerie thành lập các bệnh viện và quyên góp được số tiền đáng kể; Marie Valerie cũng là người bảo trợ của bảy tổ chức từ thiện khác nhau. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nữ Đại vương công đã tạo ra một doanh trại y tế ngay trong lâu đài và giúp chăm sóc những người bị thương. Marie Valerie còn là một người Công giáo sùng đạo và dành nhiều thời gian ủng hộ các tổ chức từ thiện tôn giáo và được mọi người biết đến với biệt danh "Thiên thần xứ Waldsee". Valerie bị ảnh hưởng nặng nề bởi vụ tự sát của anh trai Rudolf vào ngày 30 tháng 1 năm 1889 và vụ ám sát mẹ vào tháng 9 năm 1898. Marie và chị gái Gisela là chỗ dựa tinh thần chính cho cha họ sau những thảm kịch này. Cùng với những thị tùng của Elisabeth, Valerie cũng sắp xếp di sản văn học và thư từ của mẹ. Trong nhật ký của mình, Valerie ghi nhận rằng sự lạnh nhạt của cha mẹ chỉ được cải thiện trong vài năm cuối đời của Elisabeth. Valerie cũng cảm thấy rằng việc chăm sóc người cha già của mình, Hoàng đế Franz Joseph I, là một "khổ ải". Mặc dù cuộc hôn nhân của Valerie và Franz lúc đầu rất hòa hợp nhưng dần dần phai nhạt theo năm tháng. Franz Salvator có rất nhiều mối tình ngoài luồng, trong đó là với vũ công Stephanie Richter, người sau này được mệnh danh là "Thân vương phi điệp viên của Hitler" vì các hoạt động gián điệp trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1914, Stephanie sinh cho Franz một đứa con trai tên Franz Joseph và được Franz Salvator thừa nhận là của mình khi Valerie vẫn còn sống. Valerie đối mặt với những chuyện này một cách kiên cường và chỉ bày tỏ trong nhật ký của mình. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Valerie chính thức công nhận sự kết thúc của chế độ quân chủ Habsburg và ký các văn bản từ bỏ mọi quyền thừa kế đối với bản thân và con cháu của mình, do đó Valerie được phép giữ lại nhà cửa và tài sản của mình. Marie Valerie qua đời tại Lâu đài Wallsee vào ngày 6 tháng 9 năm 1924 vì lymphoma. Không lâu trước khi qua đời, chị gái Gisela của Valerie đã viết trong một lá thư rằng: "Ta phải nói thêm rằng ta đã nhìn thấy Valerie - hoàn toàn tỉnh táo, hoàn toàn nhận thức được tình trạng của con bé và rất nhiệt thành chấp nhận, thậm chí vui vẻ chờ đợi sự ra đi sắp xảy đến với con bé, đến nỗi ta tin rằng sẽ có một sự hồi phục bất ngờ sẽ khiến cho em ta thất vọng." Marie Valerie được chôn cất trong hầm mộ phía sau bàn thờ cao tại nhà thờ giáo xứ ở Sindelburg, Áo. Hàng ngàn người đã theo sau quan tài cho tới khi đến nơi an nghỉ của Hoàng nữ. Ngày 28 tháng 4 năm 1934, mười năm sau khi của Valerie qua đời, Franz tái hôn với Freiin (tước hiệu tương ứng với Nam tước) Melanie von Riesenfels. Đây là một cuộc hôn nhân bất đăng đối; đám cưới diễn ra ở Viên. Cặp đôi gặp nhau sau cái chết của Valerie tại nhà của Melanie, Cung điện Seisenegg, nơi Melanie sống cùng hai chị gái Maria Anna và Johanna. Sau đám cưới, cặp đôi sống tại Seisenegg. Franz Salvator qua đời vào ngày 20 tháng 4 năm 1939 tại Viên. Cây cầu Mária Valéria nối thị trấn Esztergom của Hungary và thị trấn Štúrovo (bấy giờ tên là Parkány) của Slovakia qua sông Danube được khánh thành vào năm 1895, được đặt theo tên của Marie Valerie. Marie Valerie nhận được những huân chương sau: The Hungarian Princess: Marie Valerie
Hội đồng Chỉ huy Cách mạng Hội đồng Chỉ huy Cách mạng () Đây là cơ quan ra quyết định cuối cùng ở Iraq nằm dưới sự cai trị của Đảng Ba'ath. Ông thực thi quyền lập pháp và hành pháp trong nước, và tổng thống và phó tổng thống được lựa chọn bởi đa số 2/3 số thành viên Hội đồng. Hội đồng này được thành lập sau cuộc đảo chính quân sự ngày 17 tháng 7 năm 1968. Chủ tịch đầu tiên của nó là Ahmed Hassan al-Bakr từ năm 1968 đến năm 1979, khi cấp phó của ông, Saddam Hussein, đảm nhận chức chủ tịch Hội đồng cho đến năm 2003. Chủ tịch của nó giữ chức vụ Tổng thống Cộng hòa Iraq. Trong thời gian làm tổng thống, Saddam Hussein là Chủ tịch Hội đồng Chỉ huy Cách mạng, Thủ tướng và Tổng thống nước Cộng hòa. Cho đến khi hội đồng bị giải tán vào năm 2003 khi chế độ Baathist sụp đổ.
Điều khoản cho phép Điều khoản cho phép ("Enabling clause") được thông qua vào năm 1979, như một phần của Vòng đàm phán Tokyo thuộc Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), nhằm cho phép các ưu đãi thương mại nhắm vào các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất, nếu không sẽ vi phạm Điều I của GATT. Mục 2(a) cung cấp cơ sở pháp lý để gia hạn Hệ thống ưu đãi tổng quát (GSP) vượt quá 10 năm ban đầu. Trên thực tế, nó đã mang lại hiệu lực vĩnh viễn cho GSP. Điều khoản cho phép cho phép các nước phát triển phân biệt giữa các loại đối tác thương mại khác nhau (đặc biệt là giữa các nước phát triển, đang phát triển và kém phát triển nhất), nếu không sẽ vi phạm Điều I của GATT quy định rằng không có bên ký kết GATT nào phải bị đối xử tệ hơn bất kỳ bên nào khác (điều này được gọi là nguyên tắc đối xử tối huệ quốc). Về cơ bản, điều này cho phép các nước phát triển dành ưu đãi cho các nước nghèo hơn, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất. Mục 2(c) cho phép các nước đang phát triển tham gia vào các hiệp định thương mại ưu đãi không đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt được nêu trong Điều XXIV của GATT đối với các hiệp định thương mại tự do khu vực. Nó cho phép các nước đang phát triển tham gia vào các hiệp định có thể không có đi có lại] hoặc chỉ bao gồm một phạm vi sản phẩm rất hạn chế (nếu không sẽ vi phạm GATT).
Máng trượt nước ("Water slide") hay còn gọi là đường trượt nước, hay cầu trượt nước là loại cầu trượt được thiết kế để sử dụng giải trí trong các công viên nước. Các đường trượt khác nhau về phương pháp sử dụng và kích thước. Một số máng trượt yêu cầu người chơi phải ngồi trực tiếp trên cầu trượt hoặc trên một tấm bè hoặc ống được thiết kế để chơi trò chơi. Một máng trượt nước điển hình sử dụng hệ thống máy bơm để bơm nước lên trên, sau đó nước sẽ chảy xối xả xuống bề mặt. Nước làm giảm ma sát nên các thanh trượt di chuyển xuống cầu trượt rất nhanh tạo cảm giác thích thú. Các đường trượt nước chạy vào bể bơi (thường gọi là bể ngâm) hoặc một đường trượt dài. Nhân viên cứu hộ thường túc trực ở phía trên và phía dưới cầu trượt để nếu người chơi bị thương thì họ sẽ được xử lý và điều trị ngay lập tức. Đường trượt nước dài nhất thế giới được lắp đặt tạm thời ở Waimauku, New Zealand vào tháng 2 năm 2013, công trình này được thiết kế xây dựng với tổng chiều dài đạt 650m, trong đó có 550m hoạt động bình thường. Những người thiết kế nó tuyên bố người nắm giữ kỷ lục trước đó có chiều dài chỉ đạt đến 350m. Sau đó, máng trượt này được chuyển đến Công viên hành động ở Vernon, New Jersey. Đường trượt nước tại Buena Vista Lodge ở Costa Rica là một đường trượt nước dài 400m trong đó người chơi ngồi trực tiếp trên đường trượt, với một ống bên trong bao quanh phần thân trên để đảm bảo an toàn. Tàu lượn nước dài nhất dành cho nhiều người là ở "Mammoth at Holiday World" với chiều dài 1763 bộ tại Holiday World ở Santa Claus, Indiana. "The Longest" là đường trượt nước cố định bằng ống dành cho một hành khách nằm ở Selangor, Malaysia, du khách đến điểm tham quan bằng hệ thống cáp treo và đi xuống cầu trượt trong khoảng 4 phút trong khi di chuyển qua 1111m qua khu rừng tuyệt đẹp.
Sự cân bằng yếu tố Sản xuất - Giá cả Sự cân bằng yếu tố Sản xuất - Giá cả hay Điều hòa giá cả yếu tố sản xuất là một lý thuyết kinh tế được Paul A. Samuelson (1948) đưa ra, cho rằng giá cả của các yếu tố sản xuất giống nhau, chẳng hạn như mức lương hoặc tiền thuê vốn, sẽ được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia do thương mại quốc tế hàng hóa. Lý thuyết này giả định rằng có hai loại hàng hóa và hai yếu tố sản xuất, chẳng hạn như vốn và lao động. Các giả định quan trọng khác của lý thuyết là mỗi quốc gia đều phải đối mặt với cùng mức giá hàng hóa, do thương mại hàng hóa tự do, sử dụng cùng một công nghệ để sản xuất và sản xuất cả hai loại hàng hóa. Điều quan trọng là những giả định này dẫn đến việc giá cả yếu tố được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia mà không cần di chuyển yếu tố, chẳng hạn như di cư lao động hoặc dòng vốn. Một tóm tắt đơn giản về lý thuyết này là khi giá cả của hàng hóa đầu ra được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia khi họ chuyển sang thương mại tự do, thì giá cả của các yếu tố (vốn và lao động) cũng sẽ được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia. Yếu tố nào nhận được giá thấp nhất trước khi hai quốc gia tích hợp kinh tế và thực sự trở thành một thị trường sẽ có xu hướng trở nên đắt hơn so với các yếu tố khác trong nền kinh tế, trong khi những yếu tố có giá cao nhất sẽ có xu hướng trở nên rẻ hơn. Trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận cho một yếu tố sản xuất phụ thuộc vào giá trị của năng suất biên của nó. Năng suất biên của một yếu tố, như lao động, phụ thuộc vào lượng lao động đang được sử dụng cũng như lượng vốn. Khi lượng lao động tăng trong một ngành, năng suất biên của lao động sẽ giảm. Khi lượng vốn tăng, năng suất biên của lao động sẽ tăng. Cuối cùng, giá trị của năng suất phụ thuộc vào giá đầu ra của hàng hóa trên thị trường. Một ví dụ thường được trích dẫn về điều hòa giá cả yếu tố là tiền lương. Khi hai quốc gia ký kết hiệp định thương mại tự do, mức lương cho các công việc tương tự ở cả hai quốc gia có xu hướng gần ngang bằng nhau. Kết quả này lần đầu tiên được chứng minh bằng toán học như một kết quả của các giả định của mô hình Heckscher–Ohlin. Nói một cách đơn giản, lý thuyết cho rằng khi giá cả của hàng hóa đầu ra được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia khi họ chuyển sang thương mại tự do, thì giá cả của các yếu tố đầu vào (vốn và lao động) cũng sẽ được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia. Lý thuyết này được Abba Lerner khám phá độc lập vào năm 1933 nhưng được công bố muộn hơn vào năm 1952. "Biểu đồ Lerner" vẫn là một công cụ phân tích quan trọng trong giảng dạy lý thuyết thương mại quốc tế.
Joseph Saidu Momoh, OOR, OBE (26 tháng 1 năm 1937 - 3 tháng 8 năm 2003) là thiếu tướng quân đội và chính trị gia Sierra Leone, từng đảm nhiệm ghế Tổng thống thứ hai trong lịch sử quốc gia này từ tháng 11 năm 1985 đến 29 tháng 4 năm 1992. Momoh là người Limba và hoạt động dân sự một thời gian ngắn trước khi tòng quân năm 1956. Sau khi Siaka Stevens lên nắm quyền, Momoh được giữ chức chỉ huy năm 1971, thăng thiếu tướng năm 1983 và trở thành tổng thư ký Đảng Đại hội toàn dân là đảng hợp pháp duy nhất tại Sierra Leone năm 1985. Cuối năm 1985, Stevens nghỉ hưu, Momoh là ứng viên duy nhất và đắc cử tổng thống. Ông thừa hưởng nền kinh tế đang sa sút và đã có những cải thiện đáng kể trong việc chống tham nhũng. Về đối ngoại, Momoh đặt quan hệ tích cực với Hoa Kỳ và Anh. Năm 1991, nhóm phiến quân Mặt trận Liên minh Cách mạng (RUF) kích động nội chiến để lật đổ Momoh. Cuối năm 1991, ông đưa ra hiến pháp mới cho phép đa đảng. Năm 1992, Valentine Strasser lãnh đạo đảo chính lật đổ ông. Momoh chạy sang lưu vong tại Guinée và qua đời vào năm 2003, một năm sau khi kết thúc nội chiến. Joseph Saidu Momoh sinh ngày 26 tháng 1 năm 1937 trong một gia đình người Limba theo Cơ Đốc giáo tại Binkolo, Quận Bombali, Tỉnh Bắc của Sierra Leone thuộc Anh. Đầu thập niên 1940, gia đình chuyển đến Freetown, rồi sống ở Wilberforce. Năm 1951-1955, Momoh theo học Đại học Giám lý Tây Phi. Là người khỏe mạnh, ông rất thích chơi thể thao như quần vợt, bóng rổ và bóng chuyền. Ông từng thi đấu bóng đá cho Young Stars FC tại Makeni và Blackpool FC. Ông cũng hoàn thành chương trình tại Trường Thư ký Chính phủ, Viện Kỹ thuật. Hoạt động dân sự. Năm 1956, Momoh làm thư ký cấp ba trong cơ quan dân sự Sierra Leone cho đến năm 1958 thì nghỉ để nhập ngũ. Năm 1958, Momoh khởi đầu binh nghiệp là binh nhì Lực lượng Biên phòng Hoàng gia Tây Phi (RWAFF). Ông được đào luyện tại Trường Đào tạo Sĩ quan Chính quy ở Ghana và Học viện Huấn luyện Quân sự Nigeria. Sau đó, Momoh đến Anh học tại Trường Bộ binh ở Hythe và Trường Sĩ quan Mons ở Aldershot. Năm 1963, Momoh được thăng thiếu úy Quân lực Hoàng gia Sierra Leone, rồi lên thiếu tá chỉ huy Trại Moa, Kailahun. Năm 1969, Momoh thăng trung tá, chỉ huy Tiểu đoàn 1. Năm 1970, ông mang quân hàm Đại tá. Năm 1971, sau khi Chuẩn tướng John Amadu Bangura đảo chính bất thành, tổng thống Siaka Stevens bổ nhiệm Momoh làm tư lệnh phó rồi chính thức làm tư lệnh vào tháng 11. Năm 1974, Momoh là Quốc vụ khanh nội các. Năm 1983, ông được thăng thiếu tướng. Tổng thống Sierra Leone. Năm 1985, Momoh là tổng thư ký lãnh đạo Đảng Đại hội toàn dân (APC). Ông là ứng viên duy nhất trong trưng cầu dân ý bầu tổng thống ngày 8 tháng 10 và đắc cử tổng thống. Ông là tổng thống thứ hai của Sierra Leone từ 28 tháng 11 năm 1985 đến 29 tháng 4 năm 1992. Thừa hưởng hệ thống tham nhũng tràn lan, Momoh đã có những bước tiến lớn để khắc phục loại bỏ. Các nhà quan sát quốc tế đánh giá nỗ lực của ông coi như thành công. Điều này giúp ông hình thành quan hệ tốt đẹp với Thủ tướng Anh Margaret Thatcher và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, góp phần đưa Sierra Leone thoát khỏi tình trạng bất ổn đã diễn ra phần lớn thập niên 1970 và 1980. Cả hai nhà lãnh đạo đều tăng cường viện trợ và hợp tác với chính quyền Momoh suốt năm 1987 và đầu năm 1988. Vụ xét xử phản quốc năm 1987. Ngày 23 tháng 3 năm 1987, sau khi đột kích một căn hộ ở Freetown và phát hiện kho vũ khí có cả súng phóng tên lửa, cảnh sát báo cáo về một nhóm đang âm mưu ám sát Momoh và tiến hành đảo chính. Tổng thanh tra Cảnh sát Sierra Leone James Bambay Kamara lập tức lệnh bắt giữ Phó Tổng thống thứ nhất Francis Minah, G.M.T. Kaikai, Jamil Sahid Mohamed và 15 đối tượng khác. Minah là bạn thân của Momoh nhưng tổng thống không muốn phản đối Karama nên không can thiệp vào vụ này. Tháng 10 năm 1987, sau phiên tòa xử tội phản quốc kéo dài 5 tháng, bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết có tội. Cựu Phó Tổng thống thứ nhất và 17 người khác bị kết tội phản quốc chịu án tử hình. Jamil Sahid Mohamed trốn sang Liban lưu vong. Chính Momoh ký lệnh hành quyết. Một nhóm quan sát viên quốc tế từ Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Algérie và Hàn Quốc đều đồng tình với bản án cho rằng không có động cơ chính trị bên trong. Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991. Dưới sự lãnh đạo của Momoh, Sierra Leone gia nhập liên minh các nước phản đối Saddam Hussein chiếm Kuwait. Năm 1989, Nir Guaz của Tập đoàn khoáng sản SCIPA, Israel đến Sierra Leone. Momoh ưu ái cho SCIPA khi họ đưa ra các khoản vay và tạo điều kiện cho Sierra Leone tham gia đàm phán với Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Đêm Giáng sinh năm 1989, Momoh cho bắt giữ Guaz, buộc tội phá hoại kinh tế và trục xuất khỏi Sierra Leone.{ Tháng 9 năm 1991, Nội chiến Sierra Leone bùng nổ, Momoh đưa ra hiến pháp mới hủy bỏ chế độ độc đảng từ năm 1978 để thiết lập nền dân chủ đa đảng, đồng thời đóng vai trò lớn xóa bỏ chủ nghĩa bộ tộc cục bộ.Thủ tướng Anh John Major và Tổng thống Mỹ George HW Bush lên tiếng chúc mừng và tuyên bố đây là "những bước quan trọng hướng tới dân chủ hóa" và "các bước tiến thiết yếu". Momoh cho biết John Major là "người bạn thực sự của Sierra Leone" còn gọi George HW Bush là một "nhà lãnh đạo vĩ đại của thế giới". Đảo chính quân sự. Ngày 29 tháng 4 năm 1992, binh lính dưới quyền Đại úy Valentine Strasser thông báo đảo chính quân sự trên đài phát thanh. Momoh trốn sang Guinée xin tị nạn chính trị. Lưu vong và qua đời. Tổng thống Guinée Lansana Conté cho Momoh tị nạn chính trị. Ông sống trong một biệt thự tại Nongo Tadi, Conakry đến khi qua đời ngày 2 tháng 8 năm 2003, thọ 66 tuổi. Năm 1971, Momoh nhận Huân chương Đế quốc Anh. Năm 1974, tổng thống Siaka Stevens trao tặng Huân chương Rokel cho Momoh. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Sierra Leone: Huân chương Roke (1974) Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Anh: Huân chương Đế quốc Anh (1971)
Matteo Lovato (sinh ngày 14 tháng 2 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A. Sự nghiệp thi đấu. Lovato trải qua những năm đầu ở đội trẻ của Padova trước khi chuyển đến đội U-17 của Genoa ở tuổi 16, nơi anh ra sân 18 lần và ghi được hai bàn thắng. Tuy nhiên, Lovato không tham gia đội Primavera của Genoa; anh trở lại Padova theo dạng cho mượn vào tháng 1 năm 2018. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2019, Lovato có trận ra mắt Serie C cho Padova dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Salvatore Sullo, với tư cách là cầu thủ đá chính trong chiến thắng 3–1 trên sân khách trước Virtus Verona. Anh sẽ ở lại câu lạc bộ trong nửa đầu mùa giải 2019–20 và có 18 lần ra sân trên mọi đấu trường. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2020, Hellas Verona thông báo mua lại Lovato với mức phí được báo cáo là €500.000. Anh có trận ra mắt Serie A cho câu lạc bộ vào ngày 18 tháng 7 năm 2020 dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Ivan Jurić khi vào sân thay người cho Koray Günter trong trận hòa 1-1 trên sân nhà trước Atalanta. Mùa giải tiếp theo, Lovato được tung vào đội hình xuất phát sau khi Marash Kumbulla rời đội bóng. Anh đã ra sân tổng cộng 24 lần cho Verona, giúp câu lạc bộ cán đích ở vị trí thứ 10. Vào ngày 31 tháng 7 năm 2021, Lovato ký bản hợp đồng thời hạn 4 năm với câu lạc bộ Atalanta, với mức phí được báo cáo là 8 triệu euro cộng với 3 triệu euro tiền thưởng. Cho mượn tại Cagliari. Vào ngày 3 tháng 1 năm 2022, Lovato gia nhập Cagliari dưới dạng cho mượn đến cuối mùa giải 2021–22. Lovato gia nhập câu lạc bộ Salernitana tại Serie A vào ngày 6 tháng 7 năm 2022 theo bản hợp đồng 5 năm, như một phần của thỏa thuận Éderson chuyển sang câu lạc bộ khác. Sự nghiệp quốc tế. Vào ngày 12 tháng 11 năm 2020, Lovato ra mắt quốc tế cho đội tuyển U-21 Ý, khi ra sân ngay từ đấu trong trận thắng 2–1 trước Iceland tại Vòng loại Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2021 diễn ra ở Reykjavík. "Tính đến 22 tháng 5 năm 2022"
James Francis (Jacobo Francisco) Fitz-James Stuart, Công tước thứ 2 xứ Berwick, Công tước thứ 2 xứ Liria và Xérica (Saint-Germain-en-Laye, Vương quốc Pháp, ngày 21 tháng 10 năm 1696 – Napoli, Ý, ngày 2 tháng 6 năm 1738) là một người theo chủ nghĩa Jacobite và là một quý tộc Anh và quý tộc Tây Ban Nha. Cha của ông là James FitzJames, Công tước thứ nhất xứ Berwick, con hoang hoàng gia của Vua James II, vì thế, trên thực tế, James Francis là đời thứ 2 thuộc hoàng tộc Nhà Stuart cai trị Vương quốc Anh, Ireland và Scotland. Ông gọi hai Nữ vương Mary II của Anh và Anne I của Anh là cô. Ông thừa kế các tước hiệu trong giới quý tộc Jacobite và Tây Ban Nha sau cái chết của cha ông trong trận chiến năm 1734 tại Philippsburg, trong Chiến tranh Kế vị Ba Lan. Ông cũng là Công tước xứ Veragua và xứ la Vega và là Hầu tước của bốn tước hiệu khác sau cuộc hôn nhân với nữ thừa kế Tây Ban Nha vào năm 1716. Tước hiệu đầy đủ của ông là Công tước thứ 2 xứ Berwick, Bá tước thứ 2 xứ Tinmouth, Nam tước Bosworth thứ 2, Công tước thứ 2 xứ Liria và Xerica, Grandee của Tây Ban Nha hạng nhất (từ 1716), Hiệp sĩ của Huân chương Lông cừu vàng (từ ngày 29 tháng 9 năm 1714), đồng thời là người nắm giữ một số tước hiệu bá tước khác.
Bản sắc dân tộc Bản sắc dân tộc ("National identity") là bản sắc hoặc ý thức bản thân của một cá nhân thuộc về một hoặc nhiều nhà nước hoặc một hoặc nhiều quốc gia, dân tộc. Đó là ý thức về "một quốc gia như một tổng thể gắn kết, hiển hiện qua những truyền thống, văn hóa và ngôn ngữ đặc biệt". Bản sắc dân tộc có thể đề cập đến cảm giác chủ quan mà một người chia sẻ với một nhóm người về một quốc gia, bất kể tình trạng công dân hợp pháp của một người. Bản sắc dân tộc được nhìn dưới góc độ tâm lý học là ""nhận thức về sự khác biệt", là "cảm giác và sự thừa nhận về 'chúng tôi' và 'họ". Bản sắc dân tộc cũng bao gồm yếu tố dân số nói chung và cộng đồng hải ngoại của các quốc gia và xã hội đa sắc tộc có ý thức chung về bản sắc chung giống hệt với bản sắc của một quốc gia trong khi được tạo thành từ một số nhóm dân tộc cấu phần. Với tư cách là một hiện tượng tập thể, bản sắc dân tộc có thể nảy sinh như là kết quả trực tiếp của sự hiện diện của các yếu tố từ "điểm chung"" (thống nhất trong đa dạng) trong đời sống hàng ngày của người dân như biểu tượng dân tộc, ngôn ngữ, lịch sử dân tộc, ý thức dân tộc và các hiện vật văn hóa. Theo luật pháp quốc tế, thuật ngữ bản sắc dân tộc, liên quan đến các quốc gia, có thể hoán đổi với thuật ngữ bản sắc quốc gia hoặc bản sắc chủ quyền quốc gia đó. Bản sắc của một quốc gia theo định nghĩa có liên quan đến tên Hiến pháp của quốc gia được sử dụng làm nhận dạng pháp lý trong quan hệ quốc tế và là một yếu tố thiết yếu của tư cách pháp nhân quốc tế của quốc gia đó. Bản sắc chủ quyền của quốc gia cũng đại diện cho mẫu số chung để xác định văn hóa hoặc bản sắc văn hóa quốc gia và theo Luật quốc tế, bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài vào bản sắc văn hóa hoặc tín ngưỡng văn hóa và truyền thống dường như đều không được chấp nhận. Bất kỳ sự tước đoạt hoặc can thiệp, đồng hóa bên ngoài nào đối với bản sắc văn hóa dân tộc đều có vẻ vi phạm các quyền cơ bản của con người. Sự thể hiện bản sắc dân tộc của một người được nhìn dưới góc độ tích cực là lòng yêu nước được đặc trưng bằng niềm tự hào dân tộc và cảm xúc tích cực về tình yêu quê hương đất nước. Biểu hiện cực đoan của bản sắc dân tộc là chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến chủ nghĩa Sô vanh, ám chỉ niềm tin vững chắc vào tính ưu việt của đất nước và lòng trung thành tột độ đối với đất nước của mình.
Công tước xứ Berwick Công tước xứ Berwick (/ˈbɛrɪk/) (tiếng Anh: "Duke of Berwick"; tiếng Tây Ban Nha: "Duque de Berwick") là một tước hiệu được tạo ra trong Đẳng cấp quý tộc Anh vào ngày 19 tháng 3 năm 1687 và được trao cho James FitzJames, con trai ngoài giá thú của Vua James II và Arabella Churchill. Tên của tước hiệu đề cập đến thị trấn Berwick-upon-Tweed ở Anh, gần biên giới với Scotland. Các tước vị Nam tước Bosworth và Bá tước xứ Tinmouth được tạo ra cùng lúc và chúng là tước hiệu phụ. Vì là người theo phái Jacobite nên Công tước thứ nhất đã không nhận được Lệnh triệu tập để đảm nhận vị trí của mình trong Viện Quý tộc sau năm 1695, và do đó, tước hiệu này từ lâu đã được coi là không hoạt động. Tuy nhiên, vì việc tạo ra nó không được coi là một phần của quý tộc Jacobite bất hợp pháp và không có Lệnh bổ nhiệm nào được Quốc hội ban hành cho Công tước (mặc dù nó dành cho chính Công tước), danh hiệu này vẫn được một số người coi là tồn tại về mặt lý thuyết, mặc dù không hoạt động trong Đẳng cấp quý tộc Anh và có thể được những người thừa kế hợp pháp là nam giới yêu cầu được khôi phục. Kể từ ngày 13 tháng 12 năm 1707, khi Felipe V của Tây Ban Nha xác nhận tước hiệu ở đất nước của mình và phong tước Grandee cho Công tước thứ nhất xứ Berwick, công tước cũng là tước hiệu thuộc giới quý tộc Tây Ban Nha. Tuy nhiên, không giống như tước vị ở Anh, tước hiệu Tây Ban Nha tuân theo quy tắc về quyền thừa kế tuyệt đối, cho phép phụ nữ kế vị nếu là con đầu lòng. Do đó, sau cái chết của Công tước Berwick thứ 10 vào tháng 9 năm 1953, người chỉ có một cô con gái, quyền kế vị đã chia thành hai dòng riêng biệt. Tại thời điểm này, tước vị Anh được kế thừa bởi cháu trai của Công tước thứ 10, Don Fernando Fitz-James Stuart y Saavedra, Công tước thứ 19 xứ Peñaranda (1922–1971), và sau đó là con trai của Fernando Don Jacobo Fitz-James Stuart y Gómez, Công tước thứ 20 xứ Peñaranda (sinh năm 1947), người trở thành Công tước xứ Berwick thứ 12 vào năm 1971. Người thừa kế của Công tước là em trai của Công tước thứ 12 Don Luis Fitz-James Stuart y Gómez, Hầu tước thứ 14 xứ Valderrábano (sinh năm 1950). Theo luật ở Vương quốc Anh về quyền thừa kế nam giới, vì Jacobo và anh trai Luis không có con trai, nên người ta cho rằng tước hiệu quý tộc ở Anh đã bị bãi bỏ. Ngược lại, vào năm 1953, tước hiệu Tây Ban Nha được kế thừa bởi con gái duy nhất của Công tước thứ 10 là Doña Cayetana Fitz-James Stuart, Nữ công tước thứ 18 xứ Alba (1926-2014), người vốn là Nữ công tước thứ 11 xứ Berwick. Khi bà qua đời vào năm 2014, con trai bà là Don Carlos Fitz-James Stuart, Công tước thứ 19 xứ Alba (sinh năm 1948) đã kế vị tước hiệu. Người thừa kế rõ ràng của công tước là con trai cả của ông là Don Fernando Fitz-James Stuart, Công tước thứ 17 xứ Huéscar (sinh năm 1990).
Vận động viên nam môn Polo Jacobo Fitz-James Stuart y Falcó, Công tước thứ 17 xứ Alba, Công tước thứ 10 xứ Berwick, GE (17 tháng 10 năm 1878 – 24 tháng 9 năm 1953) là một quý tộc, nhà ngoại giao, chính trị gia, nhà sưu tập nghệ thuật người Tây Ban Nha, và từng là vận động viên đại diện cho Tây Ban Nha tại Thế vận hội Olympic và đạt huy chương bạc. Ông là một trong những quý tộc quan trọng nhất trong thời đại của mình và nắm giữ nhiều tước hiệu quý tộc khác nhau, bao gồm công tước xứ Alba de Tormes và Berwick, Bá tước xứ Lemos, Lerín, Montijo và Hầu tước xứ Carpio. Ông được trao Huân chương Lông cừu vàng của Tây Ban Nha vào năm 1926. Jacobo là bá tước đời thứ 10 của xứ Berwick, một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh được lập ra để trao cho người con hoang hoàng gia của Vua James II là James FitzJames, có nghĩa là Jacobo là hậu duệ trực hệ của Vương tộc Stuart. Ông không có con trai và chỉ có một người con gái duy nhất, vì thế, theo luật của Vương quốc Anh tước hiệu Công tước xứ Berwick thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh sẽ bị thu hồi, trong khi đó, theo luật của Tây Ban Nha, nữ giới có thể kế thừa các tước hiệu quý tộc Tây Ban Nha. Ông là bạn thân và họ hàng của Vương thất Anh, vì thế ông là một trong những khách mời chính trong đám cưới của Nữ vương Elizabeth II vào năm 1947.
Doña Isabel Moctezuma (tên khai sinh: Tecuichpoch Ichcaxochitzin; 1509/1510 – 1550/1551) là con gái của Hoàng đế Aztec Moctezuma II. Bà là vợ của Atlixcatzin, một tlacateccatl, sau trở thành vợ của các hoàng đế Aztec là Cuitláhuac và Cuauhtémoc, và cũng là Hoàng hậu cuối cùng của Aztec. Sau khi Tây Ban Nha chinh phục Đế quốc Aztec, Doña Isabel được công nhận là người thừa kế hợp pháp của cựu hoàng đế Moctezuma và trở thành một trong những quý tộc Mexico bản địa được cấp quy chế "encomienda". Trong số người thân của cô có thể kể đến người em gái cùng cha khác mẹ Marina (hoặc Leonor) Moctezuma, và Juan Sánchez, một thống đốc bản địa ở Oaxaca. Doña Isabel đã kết hôn với một tlacateccatl, hai hoàng đế Aztec và ba người Tây Ban Nha, và trở thành goá phụ 5 lần. Bà có một cô con gái ngoài giá thú mà bà từ chối thừa nhận, đó là Leonor Cortés Moctezuma, với một Chinh phục tướng quân là Hernán Cortés. Các con trai của Doña Isabel đã thành lập một dòng dõi quý tộc Tây Ban Nha. Tước hiệu Công tước xứ Moctezuma de Tultengo trong giới quý tộc Tây Ban Nha vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay là hậu duệ của em trai bà. Người ta ước tính rằng, chỉ tính riêng ở Tây Ban Nha, Isabel có 2000 con cháu. Gia đình và những cuộc hôn nhân sớm. Mẹ của Doña Isabel là Công chúa Teotlalco và tên khai sinh của bà là Tecuich(po)tzin, được dịch là "con gái của lãnh chúa" ở Nahuatl. Teotlalco là vợ chính thất của Moctezuma và do đó, trong số các con gái của Moctezuma, Tecuichpotzin có vị trí ưu tiên. Khi còn nhỏ, Tecuichpotzin đã kết hôn với Atlixcatzin, người qua đời vào năm 1520. Sau khi cha cô bị giết bởi chính người dân của ông (hoặc người Tây Ban Nha), cô nhanh chóng kết hôn với người chú của mình là Cuitláhuac, người trở thành hoàng đế sau cái chết của Moctezuma. Cuitláhuac chết vì bệnh đậu mùa chỉ sau 80 ngày cai trị. Cuauhtémoc trở thành hoàng đế và kết hôn với Tecuichpotzin. Cô chỉ khoảng 11 hoặc 12 tuổi vào thời điểm kết hôn lần thứ 3. Doña Isabel và cuộc chinh phục Tenochtitlan. Hernán Cortés và những người Tây Ban Nha khác tiến vào Tenochtitlan vào ngày 8 tháng 11 năm 1519. Trong vài tháng, họ sống trong cung điện của Moctezuma. Vào một thời điểm nào đó trong thời gian lưu trú ở đó, họ đã bắt hoàng đế làm con tin. Người Aztec nổi dậy và trục xuất Cortés cùng quân đội của ông ta khỏi Tenochtitlan (La Noche Triste, ngày 30 tháng 6 năm 1520). Tuy nhiên, Tecuichpotzin đã bị người Tây Ban Nha bỏ lại ở thành phố. Các nhà lãnh đạo Aztec nhanh chóng gả cô cho Cuitláhuac, hoàng đế mới, và sau khi ông qua đời vì bệnh đậu mùa, cô đã được gả cho Cuauhtémoc. Cortés quay trở lại vào năm 1521 cùng với một nhóm lớn người Tây Ban Nha và đồng minh người da đỏ, hầu hết đến từ Tlaxcala, để tấn công Tenochtitlan. Người Aztec, với quân số và tinh thần suy kiệt do dịch bệnh đậu mùa, đã bị đánh bại. Cuauhtémoc và triều đình của ông đã cố gắng chạy trốn khỏi Tenochtitlan bằng thuyền, nhưng họ đã bị người Tây Ban Nha bắt giữ. Khi đầu hàng, Cuauhtémoc yêu cầu người Tây Ban Nha tôn trọng các phu nhân trong triều đình của ông, trong đó có người vợ trẻ Tecuichpotzin. Năm 1525, Cortés xử tử Cuauhtemoc và Tecuichpotzin góa chồng lần thứ ba. Cải đạo sang Cơ đốc giáo và liên minh triều đại đến Tây Ban Nha. Cortés coi Tecuichpotzin như một biểu tượng cho điều mà ông muốn miêu tả là sự liên tục cai trị giữa người Aztec và người Tây Ban Nha. Cô được hướng dẫn về Cơ đốc giáo, cải sang đạo này, có lẽ là vào năm 1526, và được rửa tội với tên thánh là Isabel, cái tên mà sau này cô được biết đến. Mọi dấu hiệu đều cho thấy Doña Isabel, cựu công chúa Aztec Tecuichpotzin, rất sùng bái tôn giáo mới của mình. Cô hào phóng quyên góp cho các tu sĩ dòng Augustinô, đến mức người ta yêu cầu cô dừng lại. Việc giáo dục của Isabel với tư cách là một Cơ đốc nhân không bao gồm việc dạy cô đọc và cô vẫn mù chữ. Cortés đã sắp xếp cuộc hôn nhân của Doña Isabel với người đồng nghiệp thân thiết của ông là Alonso de Grado vào tháng 6 năm 1526. Một phần của cuộc hôn nhân này là việc trao đặc quyền "encomienda" cho Doña Isabel. Encomienda bao gồm thành phố Tacuba (khoảng 8 km2 hoặc 5 dặm vuông) về phía Tây Tenochtitlan (nay gọi là Thành phố México) và là encomienda lớn nhất ở Thung lũng Mexico, một dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng mà Cortés dành cho Isabel. Encomienda của Doña Isabel đã tồn tại trong nhiều thế kỷ. Chính phủ Tây Ban Nha và sau đó là Mexico đã trả chủ quyền sở hữu dưới hình thức trợ cấp cho con cháu của Doña Isabel cho đến năm 1933 và Bá tước xứ Miravalle, hậu duệ của Moctezuma, vẫn còn tồn tại ở Tây Ban Nha. Về chế độ nô lệ. Sự phản đối chế độ nô lệ của cô gần đây đã trở thành một chủ đề được quan tâm. Bản thân Isabel là một chủ nô nổi tiếng, như truyền thống của dòng dõi cô, nhưng cô đã giải phóng tất cả nô lệ của mình trước khi qua đời. Vào tháng 7 năm 1526, Cortés trao cho Alonso de Grado, chồng của Isabel, vị trí "Visitador Real" - một kiểm toán viên lưu động có thẩm quyền thực thi quyền tư pháp và hành pháp nhân danh vương quyền - của Tân Tây Ban Nha. De Grado được giao nhiệm vụ cụ thể là đến thăm tất cả các thành phố và làng mạc, để "tìm hiểu về quá trình Cơ đốc hóa và đảm bảo rằng các luật đối xử tốt với người da đỏ - "Luật Burgos" - đều được tôn trọng. Ông ta phải truy tố và trừng phạt chế độ nô lệ bất hợp pháp. Ông ta tập trung vào việc nô lệ bất hợp pháp người bản xứ, cũng như các tranh chấp giữa các công chức Tây Ban Nha và chính quyền địa phương - bản xứ, và ông có thẻ bắt giam bất kỳ người Tây Ban Nha nào phản đối mình". Alonso qua đời khi đang thực hiện nhiệm vụ này. Isabel có mối liên hệ chặt chẽ với luật mới thông qua chồng cô. Người ta cho rằng ban đầu bà không hài lòng với những nỗ lực của người Tây Ban Nha nhằm áp đặt các giới hạn trong quyền sở hữu và đối xử với nô lệ. Bất chấp việc cơ quan luật pháp ngày càng cố gắng hạn chế hoặc dập tắt chế độ nô lệ bản địa ở Tân Tây Ban Nha mà chồng bà bị buộc tội thi hành. Với tư cách là quý tộc bản địa, bà có đặc quyền giữ lại những nô lệ mà bà sở hữu trước cuộc chinh phục và đối xử với họ "theo cách của mình". bà thậm chí còn bị hạn chế quyền lực trong việc điều chỉnh các quy tắc ở vùng đất theo đặc quyền encomienda của mình. Bà đã sử dụng đặc quyền này và sở hữu một số lượng lớn nô lệ bản địa trong suốt cuộc đời mình. Tuy nhiên, đến cuối đời, bà đã giải phóng tất cả họ, bà cũng đảm bảo rằng họ được cung cấp phương tiện để sinh sống khi được tự do, điều này đã được ghi rõ trong di chúc. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi quan điểm này là không chắc chắn, nhưng đã đặt cơ sở cho việc miêu tả gần đây về bà như một "nhà hoạt động" chống chế độ nô lệ và là người mẹ của nền độc lập bản địa trong một số lĩnh vực tư tưởng. "Tôi muốn, và tôi ra lệnh, và đó là ý chí của tôi, rằng tất cả nô lệ của tôi, đàn ông và phụ nữ người châu Mỹ bản địa, sinh ra từ vùng đất này, những người mà Juan Cano, chồng tôi và tôi coi là của riêng mình, trong phạm vi quyền của tôi đối với họ, sẽ thoát khỏi thân phận làm nô lệ, và với tư cách là những người tự do, họ sẽ làm những gì họ muốn, vì tôi không coi họ là nô lệ; vì vậy nếu họ là (nô lệ), tôi sẽ và ra lệnh cho họ được tự do". Cortés và hai cuộc hôn nhân cuối. Doña Isabel được mô tả là "một phụ nữ rất xinh đẹp đối với một người bản địa". Người chồng thứ tư của bà, Alonso de Grado, sớm qua đời và lúc đó Isabel chỉ mới khoảng 17 tuổi, góa bụa lần thứ tư. Cortés đưa cô về nhà mình và cô nhanh chóng có thai. Sau đó ông ta nhanh chóng gả cô cho một cộng sự khác của mình là Pedro Gallego de Andrade, và đứa trẻ được đặt tên là Leonor Cortés Moctezuma chào đời vài tháng sau đó (Isabel cũng có một người em cùng cha khác mẹ tên là Marina hoặc Leonor Moctezuma). Theo các nguồn tin của Tây Ban Nha, bà từ chối nhận đứa trẻ và được giao cho Juan Gutiérrez de Altamirano, một cộng sự thân cận khác của Cortés, chăm sóc. Tuy nhiên, Cortés đã chấp nhận đứa trẻ là con của mình và đảm bảo rằng cô bé được nuôi dưỡng tốt và nhận được tài sản thừa kế từ tài sản của ông và Doña Isabel. Cuộc hôn nhân của Isabel với Gallego sinh ra một đứa con trai, đó là Juan de Andrade Gallego Moctezuma, sinh năm 1530. Tuy nhiên, Gallego qua đời ngay sau đó. Năm 1532, bà kết hôn với người chồng thứ 6 là Juan Cano de Saavedra, người có ba con trai và hai con gái: Pedro, Gonzalo, Juan, Isabel và Catalina Cano de Moctezuma. Isabel và Catalina trở thành nữ tu tại tu viện đầu tiên ở châu Mỹ, El Convento de la Conception de la Madre de Dios. Cả hai cô con gái đều được giáo dục tốt, có lẽ cả hai con trai của bà cũng vậy. Qua đời và thừa kế. Doña Isabel qua đời vào năm 1550 hoặc 1551. Tài sản của bà để lại là rất lớn, không chỉ bao gồm lãnh địa thuộc đặc quyền "encomienda" mà còn cả tài sản cá nhân mà bà có được trong các cuộc hôn nhân với 3 người chồng Tây Ban Nha. Trước những cuộc hôn nhân đó, bà từng là một công chúa Aztec không sở hữu gì ngoại trừ cái địa vị hoàng gia nổi bật của mình. bà quyết định trả tự do cho những nô lệ da đỏ của mình, 1/5 tài sản được trao cho Giáo hội Công giáo, và tất cả các khoản nợ tồn đọng của bà, bao gồm cả tiền lương nợ người hầu, phải được thanh toán. Bà đã mua đồ trang sức và những món đồ xa xỉ khác và yêu cầu tặng nhiều món đồ này cho con gái mình, đồng thời bán tài sản còn lại và một phần ba số tiền thu được sẽ thuộc về con gái bà. Theo nguyện vọng trước khi qua đời, 20% tài sản của bà sẽ được Cortés trao cho Leonor, đứa con ngoài giá thú của bà. Đây rõ ràng là của hồi môn vì Leonor đã kết hôn hoặc sắp kết hôn với Juan de Tolosa ở Zacatecas. Isabel để lại phần lớn số đất đai thuộc đặc quyền encomienda của mình cho người con trai cả, Juan de Andrade, nhưng việc thừa kế encomienda của ông đã bị tranh chấp bởi người chồng cuối của bà là Juan Cano, và Diego Arias de Sotelo, con rể của Leonor (Mariana) Moctezuma, người mà ông ấy tuyên bố là người thừa kế thực sự của Moctezuma. Kết quả sau nhiều năm kiện tụng là yêu sách của Arias de Sotelo đã bị bác bỏ, và đất Tacuba bị chia đôi giữa Cano và Andrade. Các hậu duệ hiện tại. Dòng dõi quý tộc Tây Ban Nha có nguồn gốc từ Isabel đến từ con trai của bà là Juan de Andrade. Các con trai của bà, Pedro và Gonzalo Cano, đã trở thành những công dân nổi tiếng của Thành phố México. Con trai của bà, Juan Cano Moctezuma, kết hôn với một gia đình nổi tiếng ở Cáceres, Tây Ban Nha, nơi Palacio de Toledo-Moctezuma vẫn còn tồn tại. Người chồng cuối cùng của Isabel là Juan Cano, qua đời ở Seville vào năm 1572. Dòng dõi mestizo bắt nguồn từ Isabel và chị gái của bà đã lan rộng ra giới quý tộc Tây Ban Nha. Vì giới quý tộc bản địa đã cải đạo được người Tây Ban Nha coi là quý tộc Tây Ban Nha nên dòng máu của giới quý tộc Aztec rất được tôn trọng và có cơ hôn phối với các dòng dõi của quý tộc Tây Ban Nha. Con cháu của Isabel và Leonor nhanh chóng kết hôn với những gia đình quan trọng nhất của Extremadura, một trong những khu vực giàu có nhất của Tây Ban Nha vào thời điểm đó. Người ta ước tính rằng Isabel có 2000 hậu duệ ngày nay chỉ riêng ở Tây Ban Nha. Những tuyên bố về quyền quý tộc của bá tước xứ Miravalle, bá tước xứ La Enrejada, công tước xứ Ahumada, công tước xứ Abrantes, và công tước xứ Monctezuma đến trực tiếp từ bà và em gái bà. Isabel là tổ tiên của Rosario Nadal, vợ của Kyril, Thân vương xứ Preslav, Carlos Fitz-James Stuart, Công tước thứ 19 xứ Alba, Marie-Liesse Claude Anne Rolande de Rohan-Chabot, vợ của Henri, Bá tước xứ Paris và Ignacio de Medina y Fernández de Córdoba, Công tước xứ Segorbe thứ 19, chồng của Công chúa Maria da Glória, Công tước phu nhân xứ Segorbe, vợ cũ của Alexander, Thái tử Nam Tư. Người ta biết rất ít về Doña Isabel, ngoài một số sự thật về cuộc đời bà. Isabel dường như đã thực hiện thành công quá trình chuyển đổi từ công chúa Aztec sang doña Tây Ban Nha. Con cháu của bà là ví dụ nổi bật nhất về khái niệm Mestizo - sự kết hợp giữa tổ tiên người Tây Ban Nha và người Mexico bản địa - điều đó sẽ là đặc trưng cho tương lai của Mexico. Người Tây Ban Nha mong muốn khắc sâu vào tâm trí người dân bản địa "định hướng kinh tế, tôn giáo và văn hóa của Tây Ban Nha." Isabel, dù là do tự nguyện hay ép buộc, thì cũng đã là một thành công lớn đầu tiên trong quá trình đồng hóa của người Tây Ban Nha và người Mexico bản địa.
Bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa 1961 Bầu cử tổng thống được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 9 tháng 4 năm 1961. Kết quả là chiến thắng thuộc về Ngô Đình Diệm với 89% phiếu bầu. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa 1971 Bầu cử tổng thống được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 2 tháng 10 năm 1971. Sau khi hai ứng cử viên đối lập Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ từ bỏ việc tranh cử, Tổng thống đương nhiệm Nguyễn Văn Thiệu là ứng cử viên duy nhất, nhận được 100% phiếu bầu. Chiến thắng của Thiệu trong cuộc bầu cử này chính thức đánh dấu nhiệm kỳ thứ hai của ông. Đây là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bầu cử Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ 1935 Bầu cử Hội đồng Thuộc địa được tổ chức tại Nam Kỳ vào ngày 3 tháng 3 năm 1935. Hệ thống bầu cử. 24 thành viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ bao gồm 10 thành viên do công dân Pháp bầu ra, 10 thành viên do người Việt Nam được xếp vào diện Pháp tịch bầu ra, 2 người do Phòng Thương mại và 2 người do Phòng Nông nghiệp bầu ra. Trong số cử tri Việt Nam, nhóm "La Lutte" nhận được 17% số phiếu bầu, dù họ không giành được ghế nào.
Bầu cử Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ 1939 Bầu cử Hội đồng Thuộc địa được tổ chức tại Nam Kỳ vào ngày 16 tháng 4 năm 1939. Hệ thống bầu cử. 24 thành viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ bao gồm 10 thành viên do công dân Pháp bầu ra, 10 thành viên do người Việt Nam được xếp vào diện Pháp tịch bầu ra, 2 người do Phòng Thương mại và 2 người do Phòng Nông nghiệp bầu ra. Trong số cử tri Việt Nam, ba ứng cử viên theo chủ nghĩa Trotsky gồm Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch và Phan Văn Hùm nhận được khoảng 80% phiếu bầu; Đảng Lập hiến thân Pháp nhận được 15% phiếu bầu và các ứng cử viên theo chủ nghĩa Stalin được 1% phiếu bầu. Sự thất bại của chủ nghĩa Stalin dẫn đến Đảng Cộng sản Đông Dương bị chia rẽ, Dương Bạch Mai tiếp tục lãnh đạo phe chính thức của đảng và Nguyễn Văn Tạo hướng tới ly khai.
Cảnh quan Đá phiến của Tây Bắc Wales Cảnh quan Đá phiến của Tây Bắc Wales là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2021. Nó minh họa sự thay đổi mà ngành công nghiệp khai thác đá phiến mang lại trong cảnh quan nông thôn truyền thống ở khu vực núi và thung lũng của Snowdonia. Di sản này trải dài từ đỉnh núi đến bờ biển, tận dụng và vượt qua các thách thức nhờ các quy trình công nghiệp quy mô lớn do các chủ đất và nhà đầu tư vốn thực hiện, định hình lại cảnh quan nông nghiệp thành một trung tâm công nghiệp sản xuất đá phiến trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp (1780-1914). Di sản bao gồm 6 thành phần là các mỏ đá và khu mỏ còn sót lại, các địa điểm khảo cổ liên quan đến chế biến công nghiệp đá phiến, các khu định cư lịch sử, bao gồm cả khu dân cư, di tích, các khu vườn lịch sử, nhà nông thôn, bến cảng cũng như hệ thống đường sắt và đường bộ và các thành tố khác có liên quan còn sót lại. Di sản này có ý nghĩa quốc tế không chỉ đối với việc xuất khẩu đá phiến mà còn xuất khẩu công nghệ và công nhân lành nghề từ những năm 1780 đến đầu thế kỷ 20. Nó trở thành thành hình mẫu cho các mỏ đá phiến khác ở các nơi khác trên thế giới và là một ví dụ quan trọng, đáng chú ý về sự trao đổi vật liệu, công nghệ và giá trị con người. Các thành phần chính của Di sản thế giới Cảnh quan Đá phiến của Tây Bắc Wales bao gồm:
Các pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking Các pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking hay các pháo đài kiểu Trelleborg là dạng thành lũy vòng tròn có thiết kế đặc biệt được xây dựng ở Scandinavia trong Thời đại Viking. Các pháo đài có hình tròn với bốn cổng và đường đi tại bốn hướng. Hiện tại có 7 pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking được biết đến nằm tại Đan Mạch và Scania, Thụy Điển. Nhiều trong số chúng có từ thời kỳ trị vì của Harald Blåtand của Đan Mạch (khoảng năm 980). Mục đích chính xác của chúng hiện vẫn còn đang là chủ đề tranh luận. Loại công sự này lần đầu được phát hiện tại Trelleborg ở phía tây thị trấn Slagelse trên đảo Sjælland, được khai quật vào những năm 1936–1941. Theo truyền thống, cái tên "trelleborg" được dịch và giải thích là "một pháo đài được xây dựng bởi nô lệ" vì trong tiếng Bắc Âu cổ "thrall" có nghĩa là nô lệ (ngày nay là "Træl" trong tiếng Đan Mạch và "träl" trong tiếng Thụy Điển]]) và "borg" có nghĩa là pháo đài hoặc thành phố. Từ "trel" cũng là một cách giải thích hợp lý và liên quan đến các cọc gỗ, bao phủ cả hai mặt của bức tường tròn bảo vệ. Khoảng năm 974, vua Viking Đan Mạch Harald Bluetooth đã mất quyền kiểm soát Danevirke và một phần Nam Jutland vào tay người Saxon. Toàn bộ tổ hợp công sự, cầu và đường xây dựng vào khoảng năm 980 được một số người cho là công trình của Harald và là một phần của hệ thống phòng thủ lớn hơn nhiều. Các công sự có thiết kế tương tự cùng thời kỳ đã được tìm thấy xung quanh các thị trấn cổ khác ở Scandinavia, chẳng hạn như ở Aarhus nhưng chúng không có hình tròn hoàn hảo của các pháo đài vòng tròn độc lập. Hầu hết các pháo đài đều có niên đại từ thời trị vì của Harald Bluetooth, kéo dài từ khoảng năm 958 cho đến 986. Tuy nhiên, pháo đài ở Borgeby đã có niên đại khoảng năm 1000, mặc dù ngày tháng chính xác vẫn chưa được xác định, nhưng có thể nó cũng được xây dựng như một phần trong nỗ lực củng cố công sự của ông. Tuy nhiên, mục đích chính xác của pháo đài vẫn chưa được biết. Một số nhà sử học cho rằng chúng hoạt động như doanh trại quân đội hoặc nơi huấn luyện của Svend Tveskæg. Nhưng nhiều khả năng chúng được dự định làm thành trì phòng thủ dọc theo các điểm thương mại chiến lược hoặc như là tiền đồn hành chính của quốc gia mới hình thành. Søren Sindbæk đã đưa ra giả thuyết rằng, các pháo đài cho phép người dân địa phương trú ẩn trong các thành lũy để chống lại kẻ thù trong khi chờ đợi sự hỗ trợ từ các lực lượng thiện chiến từ xa; điều này có nghĩa là các pháo đài đã giúp Harald Bluetooth kiểm soát lãnh thổ rộng lớn và gửi quân đội của ông đến mà không lo chúng sẽ bị chinh phục hoặc cướp bóc. Những người khác tranh luận về việc liệu pháo đài là công trình phòng thủ, thành trì quân sự hay chủ yếu phục vụ như doanh trại, cũng như ý nghĩa về kinh tế, tôn giáo và biểu tượng của nó. Nhiều pháo đài đã bị bỏ hoang vào cuối Thời đại Viking trong khi số khác được bao bọc bởi các khu định cư khác, chẳng hạn như Nonnebakken hiện nằm bên dưới Odense và Trelleborgen thuộc thành phố Trelleborg của Thụy Điển, số khác dần rơi vào quên lãng. Việc tái khám phá những địa điểm này bắt đầu vào những năm 1930 với việc khai quật Trelleborg ở Đan Mạch. Kể từ đó, tổng cộng bảy địa điểm đã được chính thức công nhận là pháo đài vòng tròn của người Viking. Địa điểm thứ 8 có thể là tại Helsingborg đã được đề xuất vào năm 2009 sau các cuộc khai quật khảo cổ từ năm 1987. Pháo đài vòng tròn Helsingborg có thể là pháo đài lớn nhất trong số đó, với đường kính 270 mét. Một địa điểm khác ở Rygge cũng được đề xuất nhưng chưa được xác nhận. Năm 2023, 5 pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking của Đan Mạch đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. "'Đã được xác thực"
How the Snake Lost Its Legs How the Snake Lost Its Legs: Curious Tales from the Frontier of Evo-Devo là một cuốn sách năm 2014 về sinh học phát triển tiến hóa của Lewis I. Held, Jr.. Tựa đề quyển sách có mục đích bày tỏ sự kính trọng đối với cuốn sách "Just So Stories" của Rudyard Kipling. Tuy nhiên, những "câu chuyện" này hoàn toàn mang tính khoa học, giải thích quá trình phát triển của hàng loạt đặc điểm của động vật một cách chi tiết ở cấp độ phân tử. Cuốn sách được các nhà sinh vật học khác ngưỡng mộ vì tính chính xác và dễ tiếp cận. Lewis Irving Held, Jr. là giáo sư sinh học phát triển tại Đại học Công nghệ Texas. Phòng thí nghiệm của ông được biết đến với nghiên cứu về công trình hình thành mô hình phôi ruồi giấm. Các cuốn sách của ông về sinh học phát triển tiến hóa (SHPTTH) bao gồm "Imaginal Discs: The Genetic and Cellular Logic of Pattern Formation" (2002), "Quirks of Human Anatomy: An Evo-Devo Look at the Human Body" (2009) và "Deep Homology? Uncanny Similarities of Humans and Flies Uncovered by Evo-Devo" (2017). Theo quan điểm của Held, "Quirks", "Snake" và "Deep Homology" tạo thành một bộ ba ấn bản về SHPTTH. "How the Snake Lost Its Legs" có vẻ được tổ chức thành sáu chương, nhưng thực tế là thành ba phần. Chương đầu tiên có mục đích giới thiệu và tổng quan. Bốn chương tiếp theo truyền tải cái mà Held gọi là "các khía cạnh sâu sắc hơn của SHPTTH" với "nhiều sự thật rùng rợn" để nhai đi nhai lại và "nhiều bài học khó" để tiêu hóa. Chương thứ sáu cung cấp một "món ăn ngon hơn" ("tastier treats"). Chương đầu tiên giới thiệu về "động vật đối xứng hai bên đầu tiên", nhánh urbilaterian sống cách đây khoảng 600 triệu năm. Held gọi phát hiện về cơ thể của mọi động vật đối xứng đều hai bên được định hình bởi cùng một bộ gen, là "khám phá vĩ đại nhất của SHPTTH". Nhóm động vật đó bao gồm giun tròn, giun đốt, thân mềm và da gai, cũng như các ngành khác. Ông giải thích, bằng các sơ đồ chi tiết về sự phát triển của động vật chân khớp và có dây sống kèm một văn bản ngắn gọn, được trích dẫn phong phú nhưng mang tính đàm thoại, về cách tạo ra sự đối xứng đó. Bốn chương tiếp theo là về ruồi, bướm ngày, rắn và báo săn. Mỗi phần bao gồm ba đến tám phần được đặt tên theo phong cách "Just So Stories" của Rudyard Kipling, với các tiêu đề như "How the butterfly got its spots" ("Làm sao mà con bướm có đốm") hay "How the snake elongated its body" ("Làm thế nào con rắn kéo dài cơ thể của nó"). Dù vậy, có một số phần sử dụng câu hỏi "Why?" thay vì "How?", như là "Why the fly twirls his penis" ("Vì sao con ruồi lại xoay dương vật") (nó quay trong quá trình phát triển phôi dưới sự kiểm soát của các gen khác nhau). Trong các chương này, Held giải thích cơ chế SHPTTH, hoàn chỉnh với các giải thích về cách thức những gen như hox, hedgehog và engrailed tác động đến hình thành cơ thể. Phần thứ ba là chương duy nhất truyền tải nội dung "An evo-devo bestiary" ("Bản tóm tắt SHPTTH"), một danh sách dài các câu chuyện, chẳng hạn như "How the turtle got its shell", "How the vampire bat reinvented running", "How the quetzal got its crest" ("Làm thế nào con nuốc có mào") và "How the firefly got its flashlight". Đây chỉ là những cái tên "Just So", vì mỗi mẩu câu hỏi đều được kèm trích dẫn đáng tin cậy với nghiên cứu gần đấy, chứ không phải ý tưởng hay thay đổi của tác giả. Bởi đến thời điểm này, người đọc đã được giới thiệu các yếu tố cốt lõi của bộ gen SHPTTH ("Evo-devo gene toolkit"), vậy nên Held trình bày mỗi phần ngắn gọn, 50 câu chuyện trong 32 trang và mang tính kỹ thuật tối thiểu: ông thảo luận về những gì hệ thống SHPTTH đạt được trong cấu trúc, cơ quan, sinh thái học và hành vi của mỗi loài động vật. Văn bản chính có kèm bảng chú giải thuật ngữ chính xác và chỉ mục kỹ lưỡng. Các thuật ngữ được in đậm trong văn bản như một tính năng hữu ích. Trong khi đó, bảng thuật ngữ, giống như văn bản chính, được trích dẫn cho các tài liệu nghiên cứu chính làm cơ sở cho cuốn sách. Do đó, cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan rộng rãi về SHPTTH, kèm theo hướng dẫn về cách đọc sâu hơn về bất kỳ khía cạnh nào đã được lựa chọn. Cuốn sách được Nhà xuất bản Đại học Cambridge xuất bản dưới dạng bìa mềm vào năm 2014 (ISBN ). Văn bản chính dài 148 trang, bảng thuật ngữ SHPTTH dài 8 trang và hơn 2500 tài liệu tham khảo chiếm 122 trang. Cuốn sách được minh họa bằng sơ đồ đơn sắc, hình vẽ và ảnh trong văn bản và 8 trang ảnh màu. Held đã vẽ các sơ đồ và hình vẽ. Nhà phân loại học Marc Srour viết rằng Held phải được khen ngợi vì không đơn giản hóa quá mức SHPTTH, bởi, "Kết hợp nghiên cứu di truyền và phát triển chính xác với hệ thống phát sinh chủng loại và suy luận tương đồng có thể hiểu là việc đơn giản hóa toàn bộ vấn đề cho độc giả bình dân, và việc này cực kỳ khó khăn." Srour đặt cuốn sách ngang hàng với cuốn "Endless Forms Most Beautiful" của Stephen Jay Gould và Sean B. Carroll như một cách giới thiệu SHPTTH. Ông viết rằng Held đã "cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc, dễ đọc về SHPTTH và tất cả các câu hỏi mà nó có thể trả lời, từ quan trọng, đến hấp dẫn, đến những sự thật kỳ lạ/thú vị mà bạn có thể đọc lại bất cứ khi nào bạn đang ở quán rượu. Những người không phải là nhà sinh học và người bình thường có thể tiếp thu được, và cuốn sách hữu ích cho giáo viên, sinh viên đại học và... nhà nghiên cứu." Nhà sinh học tiến hóa Larry Flammer "cảnh báo" người đọc rằng khi họ nhìn vào những bức tranh hoặc nghiên cứu sơ đồ của Held, they, họ "sẽ bị thu hút bởi những chú thích ngập cả trang và cũng có thể bị thu hút bởi nỗ lực thực sự hiểu chuyện gì đang xảy ra. Các sơ đồ thực sự giúp ích rất nhiều để làm được điều này." Flammer cũng lưu ý rằng nhiều "điểm mấu chốt của quá trình tiến hóa, sâu sắc hơn chỉ là chọn lọc tự nhiên" được trình bày trong cuốn sách, tiết lộ "chính xác cơ chế di truyền/sinh lý nào đang được chọn lọc ". Nhà sinh học phân tử Arnaud Martin nhận xét rằng, "Khi còn nhỏ, tất cả chúng ta đều đặt câu hỏi "Làm thế nào" và "Tại sao" về các đặc điểm của động vật, và nếu bạn đang đọc điều này thì thực tế rất có thể tính tò mò tương tự vẫn còn đang cháy bỏng trong bạn. Giọng điệu của "How the Snake Lost its Legs" bắt nguồn từ cuốn "Just So Stories" nổi tiếng của Rudyard Kipling bằng cách kích thích sự tò mò với công thức "How the leopard/elephant/camel got its spots/trunk/hump". Khả năng lôi cuốn trí tưởng tượng của người đọc của Held được sánh ngang với sự tinh quái trong những "" của Kipling". Nhưng người đọc "cũng được khuyến khích ngoại suy từ những nguyên tắc chung bằng cách liên tục nhắc nhở rằng động vật sử dụng một bộ gen phát triển được bảo toàn để xây dựng cơ thể của chúng." Martin nhận thấy SHPTTH hấp dẫn, "vốn dĩ đầy màu sắc và được đặt đúng chỗ để hoàn thành mục tiêu kép của huyền thoại nguồn gốc ("etiological myths"): giải thích nguồn gốc và nguyên nhân, đồng thời khuấy động trí tưởng tượng và sự kính sợ. Nhìn chung, tác phẩm mới nhất của Lewis Held Jr. rất phù hợp với vị trí đó và tỏa sáng, nhờ khả năng mở rộng các khái niệm thiết yếu và công việc thực nghiệm với đủ khả năng hùng biện mạnh mẽ. Hầu hết độc giả có nền tảng mỏng về sinh học có thể tiếp cận được", mặc dù không phù hợp với "lớp [đại học] như "Quirks of Human Anatomy" của Held".
Cao đẳng nữ sinh Cao đẳng nữ sinh ("Women's college") trong giáo dục bậc đại học là các cơ sở đào tạo và cấp bằng đại học, cử nhân (thường là các trường cao đẳng nghệ thuật tự do và giáo dục các môn khai phóng) nơi số lượng sinh viên chỉ bao gồm hoặc hầu như chỉ có các bạn nữ. Một số trường cao đẳng nữ sinh nhận sinh viên nam vào các trường theo các chương trình đào tạo sau đại học hoặc với số lượng nhỏ hơn vào các chương trình đại học, nhưng tất cả đều phục vụ chủ yếu là dành cho sinh viên nữ. Trường cao đẳng dành cho nữ sinh sẽ cung cấp chương trình giảng dạy độc quyền hoặc chủ yếu, trong khi trường thục nữ dành cho các em cháu nữ hoặc nữ sinh và các chương trình của trường thục nữ tập trung vào việc dạy cho phụ nữ trẻ những cách ứng xử xã hội, tập trung vào các nét công dung, phép xã giao, lễ nghi, nghi thức, phép tắc văn hóa của tầng lớp thượng lưu như một sự chuẩn bị cho việc bước vào xã hội. Thuật ngữ "trường thục nữ" đôi khi được sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích để mô tả một số trường cao đẳng dành cho nữ. Ở các trường thục nữ thì học thuật nếu được giảng dạy là thứ yếu, với các môn học tập thứ cấp, có thể bao gồm một khóa học chuyên sâu hoặc chương trình một năm. Một số trường cao đẳng này có thể đã bắt đầu như những trường đang hoàn thiện nhưng đã tự chuyển đổi thành các tổ chức học thuật nghệ thuật tự do nghiêm ngặt, chẳng hạn như Finch College. Tương tự như vậy, trường trung học mang tên Trường Nữ sinh Porter được thành lập với tên gọi Trường Nữ sinh Porter dành cho các Thiếu nữ vào năm 1843, bây giờ nó nhấn mạnh vào một chương trình giảng dạy học thuật. Một trường đại học dành cho nữ chưa bao giờ tự mô tả mình là trường thục nữ hay "trường dạy cư xử" có thể mắc phải sự hiểu sai. Trong suốt lịch sử 114 năm của trường đại học nữ Sweet Briar, sinh viên và cựu sinh viên đã phản đối việc gọi đây là trường học thục nữ. Tuy nhiên, đặc điểm của trường học kết thúc vẫn tồn tại và có thể góp phần làm giảm số lượng tuyển sinh, eo hẹp tài chính và trường này gần như phải đóng cửa vào năm 2015. Sự liên thông liên tục của các trường cao đẳng nữ sinh đã bị đặt câu hỏi. Trong khi cách đây 50 năm có 240 trường cao đẳng nữ ở Hoa Kỳ thì hiện nay chỉ còn lại khoảng 40 trường. Theo lời của một giáo viên tại Trường Cao đẳng Radcliffe College (một trường cao đẳng nữ đã sáp nhập với Đại học Harvard): "Nếu các trường cao đẳng nữ sinh trở nên không cần thiết, nếu các trường cao đẳng nữ sinh trở nên không còn phù hợp, thì đó là một dấu hiệu cho sự thành công của [nữ giới] chúng tôi". Trong lịch sử thì Mary Astell ủng hộ quan điểm cho rằng phụ nữ cũng có lý trí như nam giới và xứng đáng được giáo dục. Được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1694 bài viết "Đề xuất nghiêm túc dành cho các quý cô vì sự tiến bộ của lợi ích thực sự và lớn nhất của họ" trình bày một kế hoạch cho một trường đại học toàn nữ, nơi phụ nữ có thể theo đuổi một cuộc sống trí tuệ. Trường đại học đầu tiên hiện thực hóa một phần kế hoạch của Astell là Whitelands College, một trường cao đẳng đào tạo giáo viên nữ được thành lập vào năm 1841 bởi Hiệp hội Quốc gia của Giáo hội Anh và từ năm 2004 là một phần của Đại học Roehampton. Tiếp theo Whitelands là hai trường cao đẳng ở Luân Đôn là Queen's College vào năm 1848 và Bedford College vào năm 1849. Queen's College phát triển thành trường công lập dành cho nữ sinh và Bedford College trở thành một phần của Đại học Luân Đôn trước khi sáp nhập với một trường cao đẳng nữ khác. Trường cao đẳng nữ đầu tiên ở Cambridge, Girton, mở cửa vào năm 1869 ban đầu ở Hitchin, tuyên bố là trường cao đẳng nội trú đầu tiên ở Anh cung cấp giáo dục cấp bằng cho nữ giới Somerville và Lady Margaret Hall ở Oxford mở cửa vào năm 1879. Dưới đây là danh sách các trường cao đẳng nữ sinh bao gồm nhưng không đầy đủ các trường được lập ra trước đây, mà nay đã bị sát nhập (hiện tại và lịch sử): Liên hiệp các trường cao đẳng nữ sinh ("Women's College Coalition") tại Mỹ được thành lập vào năm 1972 và tự nhận là một "hiệp hội các trường cao đẳng và đại học dành cho nữ sinh theo chương trình hai và bốn năm, mô hình đối tác công và tư, liên kết tôn giáo và thế tục", các thành viên của Liên hiệp với các trường cao đẳng, đại học dành cho nữ sinh gồm:
Chặng đua MotoGP Ý 2022 Chặng đua MotoGP Ý 2022 là chặng đua thứ 8 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 27/05/2022 đến ngày 29/05/2022 ở trường đua Mugello, Ý. Tay đua giành chiến thắng là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati. Kết quả phân hạng thể thức MotoGP.
ATP Finals 2023 (còn được biết đến với Nitto ATP Finals 2023 vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nam thi đấu trên mặt sân cứng trong nhà tại Pala Alpitour ở Turin, Ý, từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 11 năm 2023. Đây là giải đấu kết thúc mùa giải dành cho các tay vợt đơn và đội đôi có thứ hạng cao nhất trong ATP Tour 2023. Đây là lần thứ 54 giải đấu được tổ chức (49 ở nội dung đôi), và là lần thứ ba Turin đăng cai giải đấu cuối năm ATP Tour. Vòng bảng ATP Finals thi đấu vòng tròn tính điểm, với 8 tay vợt/đội được chia thành 2 bảng, mỗi bảng 4 tay vợt/đội thi đấu với 3 tay vợt/đội khác trong bảng. 8 hạt giống được sắp xếp theo Bảng xếp hạng Pepperstone ATP và Bảng xếp hạng Đội đôi ATP vào Thứ Hai sau giải đấu ATP Tour cuối cùng trong năm. Tất cả các trận đấu đơn, bao gồm cả trận chung kết, diễn ra theo thể thức đánh ba thắng hai với loạt tie-breaks (7 điểm) được áp dụng ở mọi set bao gồm cả set ba. Tất cả các trận đấu đôi thi đấu 2 set (không điểm ad) và một loạt Tie-break (10 điểm). Khi quyết định vị trí trong một bảng, các tiêu chí sau được áp dụng, theo thứ tự: Tiêu chí 4–6 chỉ được áp dụng trong trường hợp 3 tay vợt đồng hạng; nếu một trong những tiêu chí này quyết định được tay vợt thắng và tay vợt thua, 2 tay vợt còn lại được xếp hạng theo kết quả đối đầu. 2 vị trí đầu mỗi bảng vào vòng bán kết, với tay vợt/đội đứng nhất mỗi bảng thi đấu với tay vợt/đội đứng nhì ở bảng khác. Tay vợt/đội thắng ở vòng bán kết sau đó vào trận chung kết. 8 tay vợt tham dự giải đấu, với 2 tay vợt thay thế. Các tay vợt có suất tham dự theo thứ tự ưu tiên sau: Trong trường hợp có tổng số hơn 8 tay vợt, tay vợt thấp hơn trong thứ tự lựa chọn là tay vợt thay thế. Nếu cần thay thế thêm, các tay vợt sẽ được lựa chọn bởi ATP. Bảng xếp hạng tạm thời được công bố hàng tuần với tên "ATP Race to Turin", trùng với bảng xếp hạng ATP kéo dài 52 tuần vào ngày lựa chọn. Điểm từ các giải Grand Slam, ATP Tour, United Cup, ATP Challenger Tour và ITF Tour. Các tay vợt có tổng số điểm từ 19 giải đấu, thường bao gồm: 8 đội tham dự giải đấu, với một đội thay thế. 8 đội tham dự có suất theo thứ tự ưu tiên như nội dung đơn. Đội thay thế được tham dự cho bất kỳ đội không được chấp nhận theo thứ tự lựa chọn, sau đó đội không được chấp nhận có xếp hạng cao nhất, và sau đó đội được chọn bởi ATP. Điểm được tính trong các giải đấu tương tư như nội dung đơn. Tuy nhiên, đối với các đội Đôi không có giải đấu cam kết, vì vậy các đội dựa trên kết quả của bất kỳ 19 giải đấu có điểm cao nhất trong ATP Tour. Nội dung đơn của giải đấu năm 2023 có ba tay vợt số 1, ba nhà vô địch và hai nhà á quân Grand Slam. 8 tay vợt được chia thành 2 bảng. Nội dung đôi của giải đấu năm 2023 có sáu nhà vô địch Grand Slam, sáu tay vợt số 1 và 1 đội á quân Grand Slam. 8 đội được chia thành 2 bảng. Thành tích đối đầu. Dưới đây là thành tích đối đầu của các tay vợt trước khi tham dự giải đấu. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Novak Djokovic đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Jannik Sinner, 6–3, 6–3 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Rajeev Ram / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Joe Salisbury đánh bại #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Marcel Granollers / #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Horacio Zeballos, 6–3, 6–4
Brachypterois serrulifer là một loài cá biển thuộc chi "Brachypterois" trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1938. Từ định danh "serrulifer" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "serrula" (“răng cưa”) và "fero" (“mang theo”), hàm ý đề cập đến những hàng gai nhỏ trên đỉnh đầu của loài cá này, đặc trưng của chi cá mù làn này. "B. serrulifer" trước đây được cho là đồng nghĩa của "Brachypterois serrulata", nhưng sau này đã được tách thành một loại hợp lệ. "B. serrulata" thực sự chỉ giới hạn ở Tây Bắc Thái Bình Dương. "B. serrulifer" có phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ và vịnh Ba Tư về phía đông đến Philippines và biển Timor, ngược lên phía bắc đến tỉnh Kōchi (Nam Nhật Bản), xa nhất ở phía nam đến Madagascar và Bắc Úc, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 360 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "B. serrulifer" là 15,5 cm. Có gai ở sống giữa bên của hàm trên ở cá thể trên 6 cm. Đầu và thân màu nâu phớt hồng, lưng sẫm màu hơn. Một đốm đen lớn cỡ ổ mắt trên nắp mang. Có 5 dải màu nâu đỏ đến nâu trên đầu, 5 dải sọc dọc màu tương tự hoặc sẫm mờ ở hai bên thân. Vây lưng có một đốm lớn màu đỏ sẫm đến nâu lan rộng từ khoảng giữa gai thứ 6 và 9; khoảng 4–5 hàng chấm đỏ trên phần tia mềm. Vây hậu môn có khoảng 5 đường chấm đỏ sẫm. Vây ngực màu nâu sẫm, với khoảng 6–8 sọc mảnh màu đỏ sẫm. Vây bụng sẫm hơn ở rìa, cũng có khoảng 5–8 sọc mảnh, đỏ sẫm. Màng vây đuôi trong mờ với dải viền rìa đỏ sẫm (hơi dày hơn ở cá thể nhỏ) với khoảng 20–60 chấm nhỏ màu đỏ sẫm hoặc nâu, kể cả trên tia vây đuôi. Mắt màu vàng óng; mống mắt xanh lam đậm. Các mẫu vật được thu thập từ Ấn Độ Dương có số lượng đốm trên vây đuôi tương đối ít hơn nhưng lại có kích thước lớn hơn so với các mẫu vật ở Thái Bình Dương. Vì không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào giữa hai quần thể này nên đây được coi là các biến thể địa lý của "B. serrulifer". Ở "B. serrulata", cá đực thường có số gai nhiều hơn trên các bờ hàm dưới, và ngạnh sau tuyến lệ phát triển hơn. "B. serrulifer" nhiều khả năng cũng có các đặc điểm dị hình giới tính tương tự như vậy. Số gai ở vây lưng: 12–13; Số tia vây ở vây lưng: 9–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 4–5; Số tia vây ngực: 15–17. Một nghiên cứu phân tích chất trong dạ dày cho thấy "B. serrulifer" ăn các loài tôm và cá nhỏ. Một báo cáo về sinh học sinh sản của "B. serrulata" tại bờ biển Visakhapatnam (bờ đông Ấn Độ) có lẽ là nhầm lẫn với "B. serrulifer", do chưa có ghi nhận của "B. serrulata" tại Ấn. Theo đó, "B. serrulifer" sinh sản quanh năm, nhưng đạt đỉnh điểm vào tháng 1 và tháng 2. Thuần thục sinh dục được ước tính là 10,8 cm (chiều dài tổng) đối với cá cái.
Đua rùa ("Turtle racing") là một trò chơi trong đó những người tham gia thường đặt những con rùa vào giữa vòng tròn và quan sát chúng đi vòng quanh cho đến khi một trong số chúng vượt ra khỏi vòng tròn. Ban đầu được phổ biến như một trò chơi trẻ em tại các hội chợ và buổi dã ngoại của quận ở miền Trung Hoa Kỳ, kể từ đó nó đã phát triển về phạm vi và mức độ phổ biến và các biến thể khác của sự kiện đã được tổ chức. Rùa thường được phân biệt bằng số được sơn hoặc dán trên mai rùa. Nhiều tổ chức tranh đấu cho quyền động vật cho rằng đây là hành vi tàn ác với động vật. PETA đưa ra yêu cầu giải pháp thay thế là trò đua vịt cao su để không gây ra tính tàn ác từ những cuộc đua này. Có một số biến thể của môn đua rùa. Trong khi cuộc đua rùa thường diễn ra trên đất liền, cuộc đua rùa đôi khi cũng diễn ra trong hồ bơi. Một số cuộc đua bắt đầu bằng việc rùa đua từ vị trí xuất phát và kết thúc khi chúng về đích được chỉ định. Các cuộc đua ngoài trời thỉnh thoảng bắt đầu rùa ở một nơi đầy nắng gần khu vực bóng mát và rùa tự nhiên chạy vào chỗ có bóng râm. Các cuộc đua khác bắt đầu bằng việc tất cả các chú rùa được đặt vào giữa một vòng tròn lớn, người đầu tiên vượt ra ngoài vòng tròn được coi là con chiến thắng. Trong một số trường hợp, một chiếc nắp lớn được đặt lên trên những con rùa trước cuộc đua và cuộc đua bắt đầu khi nhấc chiếc nắp ra. Một số sự kiện khác thì người ta dùng rùa giả thay cho rùa sống. Rùa giả được thả nổi từ điểm xuất phát ở hạ lưu hoặc xuống một dãy cầu thang để đến điểm vạch đích kết thúc.
Andreas Kristoffer Jungdal (sinh ngày 22 tháng 2 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đan Mạch hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sinh ra tại Singapore, anh thi đấu cho các đội trẻ của Đan Mạch. Sự nghiệp thi đấu. Jungdal được sinh ra ở Singapore, nơi cha anh làm việc cho Tập đoàn Lego. Gia đình anh trở về Đan Mạch và anh bắt đầu chơi bóng khi mới 5 tuổi cho Skibet IF ở Vejle, trước khi gia nhập câu lạc bộ chính của thị trấn, Vejle Boldklub vào năm 2013. Vào ngày 16 tháng 7 năm 2019, Jungdal gia nhập đội trẻ của A.C. Milan. Anh có tên trong danh sách thi đấu của đội một lần đầu tiên vào ngày 26 tháng 10 năm 2020 với tư cách là cầu thủ dự bị trong trận hòa 3–3 trên sân nhà trước Roma tại Serie A. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2021, anh gia hạn hợp đồng với Milan đến năm 2024. Vào cuối năm 2021, anh phải ngồi ngoài vì bệnh thận, nhưng đã bình phục hoàn toàn vào đầu năm 2022. Cho mượn tại Rheindorf Altach. Ngày 10 tháng 1 năm 2023, anh gia nhập câu lạc bộ Rheindorf Altach tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo theo dạng cho mượn có thời hạn 6 tháng đến cuối mùa giải, kèm theo tùy chọn ký hợp đồng vĩnh viễn. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, Jungdal ký hợp đồng với câu lạc bộ mới xuống hạng Serie B, Cremonese theo dạng chuyển nhượng tự do. Anh ra mắt cho đội bóng vào ngày 31 tháng 10, trong chiến thắng 2-1 trước Cittadella tại Coppa Italia. Phong cách thi đấu. Jungdal được miêu tả là một thủ môn "bùng nổ" với khả năng phát động tốt từ phía sau. Anh đã được giới truyền thông so sánh đồng đội Mike Maignan về phong cách chơi bóng. Sự nghiệp quốc tế. Jungdal có thể đại diện cho cả Singapore lẫn Đan Mạch vì đó là nơi anh được sinh ra và cha mẹ anh đều đến từ đó. Năm 2018, anh được triệu tập lên đội tuyển U-17 Đan Mạch.
Dragon Ball GT (Tiếng Nhật:ドラゴンボール GT ,Hepburn: "Doragon Bōru Jī Tī" ) là loạt anime truyền hình của Nhật Bản được phát trên đài truyền hình Fuji TV vào ngày 2 tháng 2 năm 1996 và tiếp tục phát đến ngày 19 tháng 11 năm 1997. Gồm 64 tập,là một phần ngoại truyện được nhường quyền từ tác phẩm "Dragon Ball" của Toriyama Akira. phần cốt truyện và nhân vật được thực hiện bởi Toriyama nhưng chỉ ở một số tập,phần lớp các tập đều là do Nhóm người trong tập thể Toei Animation làm ra,không giống như Dragon Ball và Dragon Ball Z , Dragon Ball GT không chuyển thể từ manga mà là phần phim độc quyền nối Tiếp cốt truyện của Dragon Ball Z .Dragon Ball GT lấy bối cảnh sau 10 năm sau khi Goku nhận Uub tức hiện thân con người của Majin Buu làm học trò của mình, Goku bị biến trở thành một đứa trẻ bởi đại vương Pilaf và tham gia vào cuộc hành trình tìm kiếm ngọc rồng khắp vũ trụ nhằm trở lại hình dáng ban đầu. Mùa 1: Black Star Dragon Ball Saga (1-16). Đã năm năm trôi qua kể từ khi Goku tham gia hành trình huấn luyện cùng Uub. Khi Uub, lúc này 15 tuổi, đang trải qua kỳ thi cuối cùng trong quá trình đào tạo sau khi nhận được lời dạy của Goku, nhóm của Pilaf biết được sự tồn tại của một viên ngọc rồng mới và bước vào ngôi đền. Shenron khổng lồ xuất hiện từ "Viên ngọc rồng tối thượng" màu đen và đúng lúc tưởng chừng như tham vọng của băng đảng Pilaf sẽ thành hiện thực thì Goku xuất hiện, còn Shenron, người hiểu nhầm lời của Pilaf, đã biến Goku thành một đứa trẻ. Hơn nữa, những viên ngọc rồng tối thượng đã đáp ứng mong muốn của họ sẽ bay vào không gian, nhưng hóa ra nếu chúng không được thu thập và quay trở lại vị trí ban đầu trong vòng một năm, Trái đất sẽ nổ tung. Goku khởi hành vào không gian cùng Pan và Trunks để thu thập các viên ngọc rồng. Mùa 2: Baby Saga (17-40). Goku và những người bạn cố gắng thoát khỏi sự tấn công dữ dội của Tướng Rild, người điều khiển M2, nhưng Trunks tiết lộ tham vọng mới của mình. Đó là sự tồn tại của một "đứa bé" được tạo ra bởi Tiến sĩ Mu, nhà khoa học vĩ đại nhất vũ trụ. Mặc dù anh đã có thể chống lại chúng một lần nhưng anh không may trốn thoát do các tế bào Tufuru chiếm hữu Mu. Baby xuất hiện trên Trái đất và lần lượt chiếm lấy cơ thể của Gohan, Goten và Vegeta, tẩy não tất cả người Trái đất và bạn bè ngoại trừ Goku, Pan, Mr. Satan , Buu và Uub, và cuộc trả thù của anh ta chống lại người Saiyan Goku cuối cùng đã trở lại Trái đất, nhưng ngay cả Super Saiyan 3 cũng không thể sánh được với Super Baby, người đã hấp thụ sức mạnh Saiyan. Baby đánh cắp viên ngọc rồng tối thượng từ Goku và những người bạn của anh ấy rồi sử dụng nó để hồi sinh Hành tinh Tsufuru. Tức giận vì điều này, Uub trở thành Super Uub, người đồng hóa với ông Buu (trước đây là Majin Buu), và phản công bằng một tia sáng chết người. Trong khi đó, Goku trốn thoát khỏi Không gian Sugoroku, tái sinh chiếc đuôi của mình ở Vương quốc Kaioshin và đứng trên Hành tinh Tsufuru. Anh ta từng mất lý trí và biến thành một con vượn lớn và nổi cơn thịnh nộ, nhưng khi bị Pan ngăn lại, anh ta biến thành Super Saiyan 4. Baby cũng trở thành một con vượn lớn và đối đầu với Goku. Trong lúc đó, anh chia sẻ sức mạnh Saiyan của mình với Gohan và những người bạn của anh, những người đã lấy lại được sự tỉnh táo và áp đảo Great Ape Baby. Anh ta trở thành một chàng trai trẻ và đẩy lùi Baby đang chạy trốn bằng làn sóng Kamehameha gấp 10 lần. Tuy nhiên, do những viên ngọc rồng tối thượng đã được Baby sử dụng và rải rác khắp vũ trụ nên số phận Trái đất phát nổ là điều không thể tránh khỏi. Goku trở thành Super Saiyan 4 và sử dụng dịch chuyển tức thời để di chuyển mọi sinh vật trên Trái đất đến Hành tinh Tsufuru, nhưng Piccolo đã cung cấp cho Goku đủ năng lượng để dịch chuyển tức thời một lần nữa, chia sẻ số phận của mình với Trái đất và viên ngọc rồng tối thượng là... Nó trở thành một hòn đá . Sau đó, Trái đất được hồi sinh và hòa bình được lập lại nhờ các viên ngọc rồng từ Hành tinh Namek. Mùa 3: Super Android 17 Saga (41-47). Hòa bình trở lại trong một thời gian ngắn, nhưng ở sâu trong địa ngục, nhà khoa học vĩ đại nhất Trái đất, Tiến sĩ Gero và Muu hợp tác để âm mưu trả thù Goku bằng Android 17 . Do phản ứng cộng hưởng giữa "Số 17 mới" được hoàn thành với sự hợp tác của Gero và Mu và Số 17 của thế giới này, thế giới bên kia (địa ngục) và thế giới này (thế giới này) được kết nối với nhau, và Những kẻ thù mạnh mẽ và những kẻ phản diện từng bị Goku và những người khác đánh bại đều được hồi sinh. Goku tiến vào Địa ngục nơi Cell và Frieza đang chờ đợi, nhưng hóa ra đó lại là một cái bẫy do Gero và những người khác giăng ra. Trong khi đó, ở thế giới nơi Trunks, Vegeta và các chiến binh khác đối đầu với những kẻ phản diện của Địa ngục, hai người 17 tuổi kết hợp để tạo ra Android tối thượng, Super 17, người lần lượt đánh bại các chiến binh của thế giới này. Goku chiến đấu chống lại Cell và Frieza nhưng không thể trốn thoát và với sự giúp đỡ của Piccolo và Dende, anh quay trở lại thế giới này và đối đầu với Siêu số 17. Ngay cả Super Saiyan 4 cũng không thể sánh được với Super No. 17, người hấp thụ năng lượng và tăng sức mạnh cho bản thân, nhưng Super Saiyan 4 đã chiến đấu trở lại để trả thù cho Krillin. Goku sau đó phát hiện ra rằng mình không có khả năng tự vệ khi hấp thụ năng lượng và đánh bại Siêu số 17 bằng một loạt đòn tấn công của Ryuken và Kamehameha. Mùa 4: Shadow Dragon Saga (48-64). Những viên ngọc rồng mà Goku và những người bạn thu thập được để đối phó với số 17 sau chiến tranh đã có một vết nứt. Khi anh cố gắng gọi Shenron trong lúc đang lo lắng, "Rồng khói đen" độc ác xuất hiện cùng với tiếng ầm ầm. Rồng Khói Đen phớt lờ mong muốn của Goku và chia thành bảy "con rồng ác" sống rải rác khắp thế giới. Goku và những người bạn của mình tìm ra nhiều điểm yếu khác nhau trước con rồng độc ác, kẻ thao túng các thế lực tự nhiên như lửa, gió và điện, đồng thời cố gắng tiêu diệt toàn bộ thế giới bằng năng lượng tiêu cực và đánh bại chúng lần lượt. Sau trận chiến khốc liệt với Ichisei Ryu, kẻ âm mưu hủy diệt Trái đất, Goku và những người bạn của mình phải phó mặc cho sức mạnh to lớn của Super Issei Ryu, kẻ đã bắt được sáu viên ngọc rồng. Ngay khi tình hình có vẻ như đang rơi vào tình thế tuyệt vọng, Goku, người được cho là đã chết, đứng dậy và năng lượng từ khắp vũ trụ tập trung xung quanh anh ta. Super Ultra Genkidama đã hoàn thành đã tiêu diệt Issei Ryu trong chớp mắt. Khi hòa bình trở lại và những người bạn của Goku chạy đến chỗ anh ta, người đã cạn kiệt sức mạnh, Shenron đột nhiên xuất hiện từ những viên ngọc rồng được hồi sinh và nói với mọi người, ``Chúng ta không thể để họ sử dụng những viên ngọc rồng nữa." Goku, người sống sót nhờ sức mạnh của Shenron, đã thực hiện ước nguyện cuối cùng của mình là hồi sinh mọi người, sau đó Shenron rời đi trước mặt mọi người cùng với Goku trên tàu.
Biểu tượng quả táo Biểu tượng quả táo (ở đây là quả táo tây hay quả bôm) xuất hiện trong nhiều truyền thống tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống, chúng thường được coi là một loại trái cây thần bí hoặc trái cấm. Một trong những vấn đề về việc xác định trái táo trong tôn giáo, thần thoại và truyện dân gian là vào cuối thế kỷ XVII, cụm từ "quả táo" đã được sử dụng như một thuật ngữ chung cho tất cả các loại trái cây trừ quả mọng, nhưng bao gồm cả quả hạch. Thuật ngữ này thậm chí có thể được mở rộng cho cả cây mật ong ("Cecidia"), vì chúng được cho là có nguồn gốc thực vật (táo sồi), khi cà chua được du nhập vào châu Âu, chúng được gọi là ""táo tình yêu". Trong một tác phẩm tiếng Anh cổ, dưa chuột được gọi là "Eorþæppla" (nghĩa đen là "táo đất"), giống như trong tiếng Pháp, tiếng Hà Lan, tiếng Do Thái, tiếng Afrikaans, tiếng Ba Tư và tiếng Đức Thụy Sĩ cũng như một số phương ngữ tiếng Đức khác, các từ dành cho khoai tây có nghĩa là "đất"-táo". Trong một số ngôn ngữ, cam được gọi là "táo vàng" hoặc "táo Trung Quốc". Datura được gọi là "táo gai"". Các học giả Robert Gordon Wasson, Carl Ruck và Clark Heinrich viết rằng quả táo thần thoại là một sự thay thế mang tính biểu tượng cho nấm Amanita muscaria (hoặc nấm bay) có nguồn gốc từ thực vật. Mối liên hệ của nó với kiến thức là sự ám chỉ đến các trạng thái mặc khải được mô tả từ một số pháp sư và người sử dụng nấm ảo giác Đôi khi các nghệ sĩ sẽ sử dụng quả táo, cũng như các biểu tượng tôn giáo khác, cho dù nhằm mục đích mỉa mai hay như một yếu tố cổ điển của từ vựng biểu tượng. Vì vậy, nghệ thuật thế tục cũng sử dụng quả táo làm biểu tượng của tình yêu và tình dục. Nó thường là một thuộc tính liên quan đến những vị thần sao Kim người được cho là đang nắm giữ quả táo kỳ diệu này. Mặc dù trái cấm trong Vườn Địa Đàng (Vườn Eden) trong Sách Sáng Thế không được xác định một cách cụ thể, nhưng truyền thống đại chúng của Cơ Đốc giáo cho rằng quả táo tây chính là trái cấm mà Eva đã dụ dỗ Adam cùng xơi với cô ta. Nguồn gốc nhận dạng rộng rãi một loại trái cây chưa được biết đến ở Trung Đông vào thời Kinh thánh đã được tìm thấy qua sự nhầm lẫn giữa các từ tiếng Latinh "mālum" ("quả táo") và "mălum" ("quả ác quỷ"), các từ này được viết theo kiểu thông thường là "malum" (quả táo). Cái cây mọc ra trái cấm được gọi là ""cây biết điều thiện và điều ác" trong Sáng thế ký 2:17 và trong tiếng Latinh "thiện và ác"" có nghĩa là "bonum et malum" (vô tình nhầm lẫn thành cây táo). Các họa sĩ trong thời kỳ Phục Hưng có thể đã bị ảnh hưởng từ câu chuyện về những quả táo vàng trong vườn Hesperides. Kết quả là trong câu chuyện của Adam và Eve, quả táo trở thành biểu tượng cho tri thức, sự bất tử, sự cám dỗ, sự sa ngã của con người vào tội lỗi và chính tội lỗi. Thanh quản trong cổ họng của con người đã được gọi là "quả táo của Adam" vì một quan niệm cho rằng nó được tạo ra bởi miếng trái cấm còn lại kẹt trong cổ họng của Adam. Quả táo là biểu tượng của sự quyến rũ thể xác tình dục, chúng đã được sử dụng để ám chỉ tình dục của con người có thể theo một cách mỉa mai (ăn trái cấm). Ở châu Âu đã có nhiều bức họa phẩm về quả táo, trong đó hình ảnh quả táo được đồng nhất hoặc thể hiện là trái cấm trong bối cảnh Vườn địa đàng nơi Adam và Eva đang khỏa thân ăn táo, thấp thoáng có con rắn độc xảo quyệt xúi bẩy điều xấu này. Trong thần thoại Hy Lạp, câu chuyện mười hai kỳ công của Heracles kể rằng anh hùng Hy Lạp Heracles (Héc-quyn) được ra lệnh đi đến Khu vườn của Hesperides để hái những quả táo vàng trên Cây Sự sống mọc giữa vườn. Trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần Atalanta đã chạy thi trong một cuộc đua trước tất cả những người cầu hôn mình, nhằm cố gắng né tránh việc kết hôn. Cô ấy đánh bại tất cả trừ Hippomenes (còn được gọi là Melanion, một cái tên có thể bắt nguồn từ "melon" – "dưa", từ tiếng Hy Lạp cho cả ""táo" và trái cây nói chung) anh ta đã đánh bại cô ấy bằng sự xảo quyệt chứ không phải tốc độ. Hippomenes biết rằng mình không thể chiến thắng trong một cuộc đua công bằng nên đã sử dụng ba quả táo vàng (quà tặng của nữ thần tình yêu Aphrodite) để đánh lạc hướng Atalanta. Phải mất cả ba quả táo và cả tốc độ của mình, nhưng Hippomenes cuối cùng đã thành công, anh giành chiến thắng trong cuộc đua và cưới được Atalanta. Câu chuyện khác về Nữ thần bất hòa của Hy Lạp là Eris, trở nên bất bình sau khi cô không được mời đến đám cưới của Peleus với Thetis Để trả đũa, bà ta ném một quả táo vàng Bất hòa có khắc chữ Kallisti (Καλλίστη/"Kalliste", đôi khi được phiên âm là "Kallisti", nghĩa là "Dành cho người đẹp nhất"") vào tiệc cưới. Ba nữ thần giành quả táo là Hera, Athena, và Aphrodite, cuối cùng thì Paris của thành Troia đã được chấm để chọn người nhận quả táo. Sau khi Paris bị cả Hera và Athena mua chuộc, Aphrodite đã cám dỗ anh ta với người phụ nữ xinh đẹp nhất thế giới là Helen của Sparta. Paris đã trao tặng quả táo cho Aphrodite, do đó gián tiếp gây ra Chiến tranh thành Troia. Do đó, ở Hy Lạp cổ đại, quả táo được coi là vật linh thiêng của thần Aphrodite. Ném một quả táo vào ai đó là để tuyên bố một cách tượng trưng tình yêu của một người, và tương tự, nắm bắt quả táo là để thể hiện một cách tượng trưng sự chấp nhận của một người đối với tình yêu đó. Một bài thơ được cho là của Platon có nội dung sau: Trong thần thoại Bắc Âu, nữ thần Iðunn được miêu tả trong sách giáo khoa cổ "Prose Edda" (được viết vào thế kỷ 13 bởi tác giả Snorri Sturluson) là người cung cấp những quả táo cho các vị thần mang lại cho họ sự trẻ trung vĩnh cửu. Học giả người Anh H. R. Ellis Davidson liên hệ quả táo với các hoạt động tôn giáo trong Pagan giáo Đức mà từ đó Pagan giáo Bắc Âu phát triển. Bà cho biết những xô đựng táo đã được tìm thấy trong khu chôn cất thuyền Oseberg ở Na Uy, trái cây và quả hạch (Iðunn từng được mô tả biến thành một loại hạt trong "Skáldskaparmál") đã được tìm thấy trong những ngôi mộ xưa nhất của người German ở Anh và các nơi khác trên lục địa châu Âu, chúng có thể mang một ý nghĩa tượng trưng, và ở tây nam nước Anh các loại hạt được xem là biểu tượng sinh nở Ellis Davidson ghi nhận mối liên hệ giữa táo và Vanir, một bộ tộc thần tiên trong thần thoại Bắc Âu có liên quan đến khả năng sinh sản, trong đó dẫn một ví dụ về Skírnir, sứ giả của thần Freyr, đã ban cho nàng Gerðr xinh đẹp 11 "quả táo vàng" để tán tỉnh nàng giúp thần. Nội dung này nằm trong Khổ 19 và 20 của "Skírnismál". Davidson cũng lưu ý thêm về mối liên hệ giữa khả năng sinh sản và những quả táo trong thần thoại Bắc Âu trong chương 2 của "Völsunga saga": sau khi vua Rerir cầu nguyện Odin để có con, nữ hoàng các vị thần Frigg đã gửi cho ông một quả táo, sứ giả của Frigg (trong lốt một con quạ) thả quả táo vào lòng ông khi ông đang ngồi trên đỉnh gò đất của một ngôi mộ. Việc ăn táo của vợ Rerir dẫn đến việc mang thai sáu năm và sinh (bằng mổ đẻ) ra một đứa con trai – anh hùng Völsung. Hơn nữa, Ellis Davidson cho biết cụm từ khá khó hiểu mang tên "Táo của Hel" được sử dụng trong một bài thơ có từ thế kỷ 11 của skald (nhà thơ của thơ truyền thống Bắc Âu) là Thorbiorn Brúnarson. Bà nói rằng điều này có thể ngụ ý rằng quả táo được Brúnarson coi là thức ăn của người chết. Hơn nữa, Ellis Davidson ghi rằng nữ thần Nehalennia của Đức đôi khi được miêu tả với những quả táo và những điều tương tự khác thường thấy trong những câu chuyện cổ của người Ireland. Davidson khẳng định trong khi việc trồng táo ở Bắc Âu kéo dài ít nhất là từ thời Đế chế La Mã và việc trồng đã du nhập đến châu Âu từ Cận Đông, các giống táo bản địa mọc ở Bắc Âu đều nhỏ và có vị đắng. Davidson kết luận rằng trong diện mạo Iðunn "chúng ta phải có một hình ảnh phản chiếu lờ mờ của một biểu tượng cũ: đó là nữ thần hộ mệnh của trái cây ban sự sống của thế giới bên kia". Trong câu chuyện cổ tích Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn có chi tiết về quả táo bị tẩm độc, Theo học giới, các biểu tượng trọng yếu trong truyện "Công chúa Bạch Tuyết" lần lượt là quả táo độc, khi mà mụ gì ghẻ mưu hại màng Bạch Tuyết lần chót, bà ta đóng giả làm một mụ nhà quê. Mụ tặng cho Bạch Tuyết một "quả táo đỏ au", nàng vừa cắn miếng đã lịm đi. Các chú lùn về thì không kịp nữa. Câu tục ngữ ""Một quả táo mỗi ngày giúp tránh xa bác sĩ", đề cập đến những lợi ích sức khỏe được cho là nhờ ăn quả này, câu tục ngữ này đã bắt nguồn từ xứ Wales vào thế kỷ 19, nơi cụm từ ban đầu là "Ăn một quả táo khi đi ngủ, và bạn sẽ khiến cho bác sĩ không kiếm được bánh mì của mình". Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cụm từ phát triển thành "một quả táo mỗi ngày, không cần trả tiền bác sĩ" và "một quả táo mỗi ngày sẽ đuổi bác sĩ đi"; cụm từ thường được sử dụng hiện nay được ghi lại lần đầu tiên vào năm 1922. Logo đầu tiên của Apple Inc. được Ron Wayne thiết kế miêu tả cảnh nhà bác học Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo, logo này gần như ngay lập tức được thay thế bằng "Rainbow Apple"" (quả táo cầu vòng) của Rob Janoff là hình bóng một quả táo màu cầu vồng quen thuộc hiện nay với một vết cắn nham nhở Vào ngày 27 tháng 8 năm 1999, Apple chính thức loại bỏ tông màu cầu vồng và bắt đầu sử dụng các logo đơn sắc gần như giống hệt về hình dạng với phiên bản cầu vồng trước đó. Câu khẩu hiệu đầu tiên của Apple, ""Byte into an Apple"" (Cắn một quả táo), được ra đời vào cuối những năm 1970.. Buổi trình diễn thời trang Pucca Xuân/Hè 2011 được lấy cảm hứng từ nàng Bạch Tuyết và người mẹ kế độc ác của nàng, Nữ hoàng. Người mẫu mở màn, Stella Maxwell, mặc đồ Lolita-esque Bạch Tuyết thời hiện đại trong bộ áo hoody, váy ngắn và giày cao gót. Do đi đôi giày cao chót vót, cô đã bị ngã trên sàn catwalk và làm rơi quả táo đỏ đang mang theo..
Brachypterois curvispina là một loài cá biển thuộc chi "Brachypterois" trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2013. Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "curvus" (“cong”) và "spina" (“gai, ngạnh”), hàm ý đề cập đến ngạnh sau tuyến lệ uốn cong lên trên ở cá trưởng thành của loài này. "B. curvispina" hiện chỉ được biết đến ở bờ biển phía bắc và đông bắc của bang Queensland (Úc), từ eo biển Torres về phía nam đến rạn san hô Swain và quần đảo Capricorn, được thu thập ở độ sâu 32–130 m. Ghi nhận của "B. curvispina" tại bờ biển Visakhapatnam (phía đông Ấn Độ) là nhầm lẫn với "Brachypterois serrulifer". Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "B. curvispina" là 12,6 cm. Ngạnh sau tuyến lệ uốn cong lên trên ở cá thể trưởng thành. Đầu và thân màu đỏ, lưng sẫm màu hơn. Một đốm đen lớn cỡ ổ mắt trên nắp mang. Có 5 dải màu nâu đỏ trên đầu, 5 dải sọc dọc màu nâu ở hai bên thân. Có nhiều chấm đỏ trên phần tia mềm tạo thành hàng. Vây hậu môn có khoảng 6 hàng chấm đỏ tương tự. Vây ngực sẫm nâu, với khoảng 6 hàng chấm màu trắng kem trên các tia. Vây bụng trắng hồng, có khoảng 8 dải nâu sẫm. Màng vây đuôi trong mờ, với khoảng 60 chấm nhỏ màu đỏ sẫm trên các tia. Mắt màu vàng sẫm; mống mắt đen. Số gai ở vây lưng: 13–14; Số tia vây ở vây lưng: 8–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 5; Số tia vây ngực: 14–16.
I Went Too Far "I Went Too Far" là đĩa đơn thứ mười do Aurora phát hành và là đĩa đơn thứ sáu trong album "All My Demons Greeting Me as a Friend". Bài hát được viết bởi Aurora, Odd Martin Skålnes và Magnus Skylstad và được sản xuất bởi Magnus Skylstad, Odd Martin Skålnes và Jeremy Wheatley. Ngày 5 tháng 7 năm 2016 bài hát chính thức được phát hành trên toàn thế giới. Bản phối lại bài hát của DJ người Mỹ MK được phát hành vào ngày 15 tháng 7 năm 2016. Bối cảnh và bài hát. Bài hát được mô tả là một bài hát mang hơi hướng disco pop và synth-pop. Aurora bắt đầu viết bài hát này khi cô lên chín. Cô giải thích với The 405 : "Đó là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của việc không hy sinh bản thân vì tình yêu của người khác. Có quá nhiều người có xu hướng duy trì các mối quan hệ mà họ phải chịu đựng sự lạm dụng bằng lời nói và thể xác. Đó là một vấn đề rất lớn cần được nhận thức." Trong một cuộc phỏng vấn với BBC Radio 1, cô nói: "Đôi khi chúng ta đi quá xa để có được sự chấp thuận và tình yêu của người khác, khi chúng ta thực sự chỉ nên học cách yêu bản thân mình và thế là đủ." "Khi tôi 9 tuổi, tôi đã viết phần lớn bài hát này. Tôi đã chứng kiến ​​một người dũng cảm và tốt bụng không đòi hỏi sự tôn trọng và tình yêu mà họ đáng được có. Lớn lên, tôi nhận ra những điều này xảy ra xung quanh chúng ta. Và chúng ta cần học cách đối xử tốt với bản thân và yêu cầu được đối xử đúng mực. Tất cả chúng ta đều có cơ hội "leo lên bậc thang"." Video âm nhạc của bài hát được phát hành vào ngày 5 tháng 7 năm 2016. Video do Arni Kinski làm đạo diễn và được quay ở Iceland. Ghi công và đóng góp. Phần ghi công được phỏng theo album của bài hát.
Vườn quốc gia Altyn-Emel Vườn quốc gia Altyn-Emel (, "Altynemel saiabağy" ; Nga: , "Altyn-Emel' Natsional'nyy Park") là một vườn quốc gia ở Almaty, Kazakhstan. Được thành lập vào năm 1996 với diện tích khoảng , vườn quốc gia này nằm giữa khu vực sông Ili và dãy núi Aktau, gần hồ chứa Kapchagay với địa hình chủ yếu là sa mạc và núi đá lởm chởm. Vườn quốc gia nằm trong thung lũng sông Ili được thành lập vào ngày 10 tháng 4 năm 1996 nhằm bảo tồn sinh thái tự nhiên cũng như các di tích khảo cổ và lịch sử nơi đây. Nó bao gồm hai phần chính: đồng bằng tiếp giáp bờ phải sông Ili và các ngọn núi của dãy Dzungarian Alatau, Altyn-Emel. Trên vùng đồng bằng còn có nhiều khối núi nhỏ. Trên lãnh thổ của vườn quốc gia, các trầm tích thuộc kỷ Than đá cách đây 300 triệu năm và kỷ Permi đã được xác định, trong khi các trầm tích cổ xưa nhất được xác định là kỷ Silur. Những ngọn núi của công viên chủ yếu được tạo thành từ đá Đại Cổ sinh có niên đại từ 200 đến 400 triệu năm tuổi. Nằm trong vườn quốc gia là khu Nghĩa địa Besshatyr là một di tích lịch sử của người Saka. Các gò mộ có niên đại từ thời đồ sắt (thế kỷ 7-6 trước Công nguyên) và được xây dựng bởi những người du mục trên thảo nguyên Trung Á. Các đồ vật được tìm thấy trong các ngôi mộ bao gồm đồ trang trí mạ vàng, đồ trang sức và đồ dùng bằng vàng, vũ khí và áo giáp. Một đặc điểm nổi bật khác của khu vực là dãy núi Aktau là nó còn được gọi là "núi mặt trăng" do màu sắc đặc biệt của nó. Khí hậu và hệ sinh thái. Khí hậu của vườn quốc gia là Khí hậu lục địa ẩm theo Phân loại khí hậu Köppen. Khí hậu này được đặc trưng bởi sự chênh lệch nhiệt độ theo mùa lớn và mùa hè ấm áp (ít nhất bốn tháng trong năm có nhiệt độ trung bình trên , nhưng không có tháng nào có nhiệt độ trung bình trên ). Nó nằm trong vùng sinh thái thảo nguyên khô hạn đồi thấp dưới chân núi Thiên Sơn. Vườn quốc gia là nơi bảo tồn các loài động thực vật quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Hệ thực vật của nó bao gồm 1.800 loài thực vật, trong đó có 69 loài quý hiếm. Ngoài ra, 56 loài động vật trong vườn quốc gia được coi là quý hiếm, bao gồm cừu Argali, lừa hoang Mông Cổ, linh dương bướu giáp. Không tính côn trùng và cá, ít nhất 260 loài động vật sinh sống ở Altyn-Emel. Có những loài lưỡng cư có nguy cơ tuyệt chủng bao gồm cóc Mông Cổ, hạc đen, đại bàng hoàng đế phương Đông. Trong số 78 loài động vật có vú, có 11 loài được ghi vào Sách đỏ Kazakhstan, đáng chú ý có chồn sồi, chồn hôi châu Âu, rái cá, mèo manul, lừa hoang, linh dương, dơi muỗi phương Đông, hươu Đại Hạ, linh miêu, gấu nâu Thiên Sơn. Thực vật đáng chú ý có thể kể đến táo dại Tân Cương.
Binh biến Kerensky – Krasnov Binh biến Kerensky – Krasnov là âm mưu của Aleksandr Kerensky nhằm đảo ngược Cách mạng Tháng Mười và giành lại chính quyền từ tay Đảng Bolshevik mà trước đó đã lật đổ ông ta ở Petrograd. Sự kiện này xảy ra vào giữa ngày 8 và 13 tháng 11 năm 1917 [lịch cũ 26 và 31 tháng 10]. Sau Cách mạng Tháng Mười, Kerensky tẩu thoát khỏi Petrograd, thành phố mà đã thất thủ trước lực lượng Xô viết Petrograd do Đảng Bolshevik lãnh đạo, và nướng náu ở Pskov, sở chỉ huy Phương diện quân Bắc. Tại đây, với sự giúp đỡ của Tướng Pyotr Krasnov, Kerensky đã chiêu mộ thành công 700 lính Cossack hòng tái chiếm thủ đô. Ở Petrograd, những thành phần thù địch Cách mạng Tháng Mười cũng đã mưu toan nổi dậy, dự định phối hợp với kế hoạch tiến quân về thủ đô của Kerensky. Phe Xô viết nhanh chóng thiết lập phòng tuyến trên các ngọn đồi nằm về phía nam thành phố và đợi chờ cuộc tiến công sắp tới của Kerensky. Đụng độ trên Cao điểm Pulkovo đã kết thúc với cuộc triệt thoái của lực lượng Cossack và sự thất bại của binh biến Junker; Kerensky tháo chạy sau cuộc đàm phán giữa hai bên tham chiến vì ông ta lo sợ bị binh sĩ bán đứng và giao nộp cho phe Xô viết. Sau khi tẩu thoát khỏi Petrograd trong Cách mạng Tháng Mười, Aleksandr Kerensky lên đường tìm kiếm binh lính ủng hộ ông chiếm lại thủ đô và không gặp may cho tới khi dừng chân tại Pskov vào 9 giờ sáng ngày 7 tháng 11 [lịch cũ ngày 25 tháng 10]. Tại thị trấn Gatchina trước đó, Kerensky đã suýt bị bắt bởi binh sĩ đồn trú thân Bolshevik. Pskov bấy giờ là bản doanh của Phương diện quân Bắc dưới quyền Tướng Cheremisov. Tại đây, Kerensky gặp Tướng Pyotr Krasnov, tư lệnh Quân đoàn Kỵ binh 3, người mà trước đó từng tham gia chính biến Kornilov. Kerensky và Krasnov hiệp thương với nhau, tính đem quân về tái chiếm thủ đô mặc cho sự ngờ vực của chính ủy về lòng trung thành của một số binh sĩ thù Kerensky. Krasnov, vốn là người bảo hoàng và không có thiện cảm với Kerensky, vẫn tin tưởng rằng đông đảo binh sĩ của ông sẽ ủng hộ Kerensky chống lại Đảng Bolshevik.
Nước Cam Lồ (chữ Phạn: अमृत, "Amṛta"; chữ Hán: 甘露; bính âm: "gānlù") là một từ tiếng Phạn có nghĩa là "bất tử" là một khái niệm trung tâm trong tôn giáo Ấn Độ và thường được nhắc đến trong các thư tịch cổ Ấn Độ như một thứ thuốc trường sinh. Lần xuất hiện đầu tiên của nó là trong Rigveda, nơi nó được coi là một trong một số từ đồng nghĩa với nước thánh "Soma" vốn là thức uống của thiên thần Deva. Nước Cam Lồ (Amrita) đóng một vai trò quan trọng được ghi nhận trong Samudra manthan (truyền thuyết Khuấy động biển sữa) và là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa các vị thần và Asura nhằm tranh giành nước Cam Lồ (Amrita) ngõ hầu để có được sự bất tử. Amrita có ý nghĩa khác nhau trong các tôn giáo Ấn Độ khác nhau. Từ "Amrit" cũng là tên gọi chung của người theo đạo Sikh và Hindu, trong khi dạng nữ tính của nó là "Amritā". Amrita có cùng nguồn gốc và có nhiều điểm tương đồng với Ambrosia; cả hai đều có nguồn gốc từ một thần thoại Ấn-Âu nguyên thủy. Amrta mà nghĩa gốc là bất tử. Amrta là hình thức tỉnh lược của "Amrta-rasa" có nghĩa là "trường sinh tửu" hay "bất tử lộ" có nghĩa là "rượu trường sinh". Trong thần thoại Ấn Độ thì Amrta là một thứ rượu sữa có quyền năng kỳ bí được tạo ra khi các vị thần hoặc các con quỷ đánh cho biển sữa dậy lên (truyền thuyết Khuấy động biển sữa/Samudra manthan). Amrta thường được so sánh với chất Ambrosia (Ambroisie) là thức ăn của các vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Trong kinh điển Phật giáo hay trong văn hòa thờ cúng đạo Phật co hình tượng Bồ Tát Quan Thế Âm tay trái cầm bình "ngọc Thanh tịnh" chứa bình nước Cam Lồ, tay phải cầm nhành "Thùy Dương Liễu" (nhành dương liễu), dùng nhành nhành dương liễu phẩy nước phổ độ chúng sinh trần thế. Cam Lồ là âm xưa của Cam Lộ theo nghĩa đen thì "cam" là mật ngọt còn "lộ" là "sương" nghĩa là một thứ “"sương mật làm mát dịu lòng người"”. Trong Phật giáo thì thứ dung dịch Amrta gọi là A-Mật-Rị-Đa (阿密哩多), A-Mật-Lật-Đa (阿蜜㗚哆) ý dịch là bất tử (不死) hay "Bất tử dịch" (不死液, "mật bất tử") hay "Thiên tửu" (天酒, rượu trời) là loại thuốc huyền diệu bất tử, "rượu linh" trên trời. Đức Phật được gọi là "Amata Santam" trong Kinh điển Pali. Trong Kinh Amata, Đức Phật khuyên các tu sĩ nên an trú với bốn Satipaṭṭhana: "Này các tỳ khưu, hãy an trụ với tâm an trụ vững chắc trong bốn niệm xứ này. Đừng để cái bất tử bị lạc vào các vị". Phật giáo Trung Quốc mô tả Amrita (甘露/gānlù/Cam Lồ) là thứ thánh thủy gia trì được tạo ra nhờ công đức trì chú. Trong kinh Phệ Đà (Veda) có nói rằng "rượu Tô-Ma" là loại mà các vị thần thường hay uống, khi uống nó vào có thể không già, không chết, vị của nó ngọt như mật, cho nên gọi là "Cam Lồ". Người ta còn lấy Cam Lồ để ví cho pháp vị nhiệm mầu của Phật pháp, có thể trưởng dưỡng thân tâm của chúng sanh. Trong Mật giáo gọi nước quán đảnh của hai bộ Bất Nhị Chơn Ngôn là "Bất tử Cam Lồ" (不死甘露). Trong Chú Duy Ma Kinh (注維摩經, Taishō 38, 395) quyển 7 có đoạn rằng: “"Chư Thiên dĩ chủng chủng danh dược trữ hải trung, dĩ bảo sơn ma chi, linh thành cam lồ, thực chi đắc tiên, danh bất tử dược" (諸天以種種名藥著海中、以寳山摩之、令成甘露、食之得仙、名不死藥, "Các vị trời dùng nhiều loại thuốc hay đỗ vào trung biển, lấy núi báu mài với thuốc ấy, khiến thành Cam Lồ, ăn nó vào thành tiên, gọi là thuốc bất tử"”), hay “"Thiên thực vi Cam Lồ vị dã, thực chi trường thọ, toại hiệu vi bất tử thực dã"" (天食爲甘露味也、食之長壽、遂號爲不死食也, "Thức ăn của trời có vị Cam Lồ, ăn vào thì sống lâu, ấy mới gọi là thức ăn bất tử")”. Trong Vô Lượng Thọ Kinh (Taishō 12, 271) quyển thượng cũng có cho biết rằng: “"Bát công đức thủy, trạm nhiên doanh mãn, thanh tịnh hương khiết, vị như Cam Lồ" (八功德水、湛然盈滿、清淨香潔、味如甘露, "Nước có tám thứ công đức vốn vắng lặng, đầy đủ, trong sạch, thơm tinh khiết, mùi vị của nó như Cam Lồ")”. Tại Giang Thiên Thiền Tự (江天禪寺) ở Trấn Giang, Giang Tô thuộc Trung Quốc có hai câu đối tương truyền do vua Mãn Thanh Càn Long ban tặng là: “"Cam Lồ thường lưu công đức hải, hương vân diêu ánh Phổ Đà Sơn" (甘露常流功德海、香雲遙映普陀山, "Cam Lồ thường chảy công đức biển, mây hương xa sáng Phổ Đà Sơn")”. Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毘尼日用切要, Taishō No. 1115) quyển 1 có bài kệ Tẩy Bát (洗鉢, Rửa chén) có liên quan đến Cam Lồ như: “"Dĩ thử tẩy bát thủy, như thiên Cam Lồ vị, thí dữ chư quỷ thần, tất giai hoạch bão mãn. Án, ma-hưu-ra-tất-tá-ha" (以此洗鉢水、如天甘露味、施與諸鬼神、悉皆獲飽滿、唵、摩休囉悉莎訶, "lấy nước rửa bát này, như vị Cam Lồ trời, ban cho các quỷ thần, tất đều được no đủ. Án, ma-hưu ra-tất-tá-ha").”
ATP Finals 2023 - Đơn Novak Djokovic là đương kim vô địch. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. † Theo quy định của ATP, trận đấu Tsitsipas bỏ cuộc trước Rune được tính là một trận thua trắng 2 set trong việc xác định xếp hạng vòng bảng.
ATP Finals 2023 - Đôi Rajeev Ram và Joe Salisbury là đương kim vô địch. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sony Pictures Imageworks Inc. là một xưởng phim hoạt hình máy tính và hiệu ứng hình ảnh của Canada có trụ sở chính tại Vancouver, British Columbia và Montréal, Québec, cùng một văn phòng thuộc Sony Pictures Studios ở Thành phố Culver, California. Sony Pictures Imageworks là một đơn vị của Sony Pictures Motion Picture Group trực thuộc Sony Pictures Entertainment. Công ty đã được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ công nhận giải Oscar cho tác phẩm "Người Nhện 2" và phim ngắn hoạt hình máy tính "The ChubbChubbs!", cũng như nhận được nhiều đề cử cho các tác phẩm khác của hãng. Sony Pictures Imageworks đã đảm nhận phần hiệu ứng hình ảnh cho nhiều bộ phim; trong đó có "Cá mập siêu bạo chúa", "" và "Người Nhện xa nhà". Hãng cũng cung cấp dịch vụ cho một số bộ phim của đạo diễn Robert Zemeckis, bao gồm "Contact", "Cast Away", "The Polar Express" và "Beowulf". Kể từ khi thành lập công ty chị em Sony Pictures Animation vào năm 2002, Sony Pictures Imageworks đã tiếp tục sản xuất hoạt hình cho gần như tất cả các bộ phim của Sony Pictures Animation, bao gồm "Mùa săn", "Surf's Up", "", và các phim thuộc thương hiệu "Cơn mưa thịt viên", "Xì Trum" và "Khách sạn huyền bí", cùng với phim hoạt hình cho các hãng phim khác như "Giáng sinh phiêu lưu ký" cho Aardman Animations (đồng sản xuất với SPA), "Tiểu đội cò bay" và "Chân Nhỏ, bạn ở đâu?" cho Warner Animation Group, "Phim Angry Birds" và "Phim Angry Birds 2" cho Rovio Animation (đồng sản xuất với SPA và Rovio), "Vươn tới cung trăng" cho Netflix và Pearl Studio, và "Quái vật biển khơi" cho Netflix Animation. Sony Pictures Imageworks được thành lập vào năm 1992 với năm nhân viên sử dụng máy tính để lên kế hoạch cho những cảnh phim phức tạp trong những tác phẩm người đóng. Nằm trong tòa nhà TriStar trước đây, tác phẩm đầu tiên của họ là bản hình ảnh hóa trước cho bộ phim "Striking Distance" năm 1993. Để lấp đầy khoảng trống giữa các đầu việc VFX, Sony Pictures Imageworks quyết định tham gia vào lĩnh vực kinh doanh hoạt hình vốn đem lại lợi nhuận cao hơn. Nỗ lực hoạt họa độc lập đầu tiên của hãng là phim ngắn "The ChubbChubbs!" do Eric Armstrong đạo diễn. Năm 2002, tác phẩm này đoạt giải Oscar cho Phim hoạt hình ngắn xuất sắc nhất. "Early Bloomer", phát hành năm 2003, là phim ngắn thứ hai của công ty và ban đầu được thực hiện như một bài tập viết kịch bản phân cảnh. Sony Pictures Imageworks hoàn thành dự án phim điện ảnh hoạt hình đầu tiên vào năm 2006 với tác phẩm "Mùa săn" – trong đó phần sản xuất được thực hiện bởi công ty chị em Sony Pictures Animation. Năm 2007, Sony Pictures Imageworks mua lại xưởng kỹ xảo FrameFlow của Ấn Độ để tận dụng chi phí lao động thấp hơn. Xưởng này sau đó được đổi tên thành Imageworks India, một cơ sở hiện đại được mở tại Chennai một năm sau đó. Để thúc đẩy việc miễn giảm thuế tại New Mexico cũng như tận dụng nguồn nhân tài, một cơ sở sản xuất vệ tinh đã được mở vào năm 2007 tại Albuquerque, trở thành cơ sở sản xuất hậu kỳ lớn nhất ở bang này. Năm 2010, Sony Pictures Imageworks mở một xưởng sản xuất ở Vancouver, British Columbia để tận dụng nguồn nhân tài địa phương và các ưu đãi cho sản xuất điện ảnh từ chính phủ. Hai năm sau, hãng phim đã tăng gấp đôi cơ sở vật chất ở Vancouver. Đồng thời, xưởng phim Albuquerque bị đóng cửa do trợ cấp của New Mexico giảm và khó thu hút các nghệ sĩ chuyển đến đó. Đầu năm 2014, như một phần trong động thái cắt giảm chi phí của Sony, SPI đã chuyển một phần đội ngũ công nghệ của hãng từ trụ sở chính ở Thành phố Culver đến Vancouver. Đến tháng 5 năm 2014, toàn bộ trụ sở chính và hoạt động sản xuất đã được chuyển đến Vancouver, chỉ còn lại một văn phòng nhỏ ở Thành phố Culver. Đồng thời, SPI đóng cửa xưởng phim ở Ấn Độ, sa thải khoảng 100 nhân sự. Một năm sau, hơn 700 nghệ sĩ chuyển đến trụ sở mới rộng 74.000 foot vuông ở Vancouver.
Tina Datta (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1991 tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ) là một nữ diễn viên và người mẫu tham gia các bộ phim truyền hình bằng tiếng Hindi. Cô được biết đến qua vai diễn Ichcha trong bộ phim "Con của người hầu gái" và giúp cô nhận về giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại lễ trao . Cô cũng tham gia mùa thứ 7 của chương trình "" và mùa thứ 16 của chương trình "Bigg Boss". Tiểu sử và đời tư. Tina Datta sinh ngày 27 tháng 11 năm 1991 tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ có cha là Madhumita Datta và mẹ là Tapan Datta. Ngoài ra, cô còn có một người anh trai tên là Debraj Datta. Cô cũng là người đam mê bộ môn yoga và pilates. Trong thời gian Ấn Độ phong tỏa do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, cô quyết định chuyển sang tập yoga. Ngoài ra, cô còn thành thạo múa cột và kickboxing. Những vai diễn đầu tay (1996–2008). Tina Datta có vai chính đầu tay từ lúc lên 5 tuổi khi cô tham gia bộ phim "Sister Nivedita". Vài năm sau, cô có vai chính đầu tay với tư cách là một diễn viên nhí khi cô tham gia bộ phim bằng tiếng Bengal mang tên "Pita Maata Santan". Cô từng đóng một số bộ phim truyền hình bằng tiếng Bengal, trong đó có bộ phim "Khela". Cô từng tham gia bộ phim "Chokher Bali" của đạo diễn Rituparno Ghosh và đóng chung với Aishwarya Rai. Cô cũng từng vào vai diễn Lalita thời trẻ trong bộ phim điện ảnh "Parineeta". Để vào vai diễn trong bộ phim này, cô từng đi thử vai ở Kolkata và được đạo diễn Pradeep Sarkar đánh giá là phù hợp với vai diễn này. Năm 2008, cô vào vai Kumkum Roy Choudhary trong bộ phim thần thoại bằng tiếng Bengal mang tên "Durga". Đỉnh cao trong sự nghiệp và sự ghi nhận trong diễn xuất (2009–2021). Từ năm 2009 đến năm 2015, cô vào vai Ichcha Bundela và Meethi Bundela, đóng chung với Nandish Sandhu và Mrunal Jain trong bộ phim "Con của người hầu gái". Diễn xuất của cô trong phim được hoan nghênh rộng rãi và đã giúp cô mang về Giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất phim truyện truyền hình tại . Năm 2016, cô tham gia mùa thứ 7 của chương trình truyền hình thực tế "" và kết thúc ở vị trí thứ 12. Từ năm 2017 đến năm 2018, cô vào vai nữ thần Dhamini trong bộ phim thần thoại "Karmaphal Daata Shani". Từ năm 2018 đến năm 2019, cô vào vai Jhanvi Mourya và Kundani Roy trong bộ phim lãng mạn huyền bí mang tên "Daayan". Năm 2020, cô vào vai Ketki Maheshwari trong bộ phim chiếu mạng thuộc thể loại hình sự mang tên "Naxalbari" và đóng chung với Rajeev Khandelwal. Tạp chí Indian Today đã nhận xét rằng: "Tina Datta đã mang một luồng gió mới vào nhân vật Ketki, một dịch giả làm việc cho các cơ quan chính phủ". Vai diễn này đã giúp cô giành được giải thưởng Diễn viên có vai chính đầu tay xuất sắc nhất phim chiếu mạng của Giải thưởng Danh vọng Toàn cầu. Năm 2021, cô tham gia bộ phim ca nhạc đầu tay qua bài hát bằng tiếng Bengal mang tên "Durga Maa Elo Re" qua phần trình bày của Mika Singh. "Bigg Boss" và một số công việc khác (2022–nay). Từ năm 2022 đến năm 2023, cô tham gia mùa thứ 16 của chương trình truyền hình thực tế "Bigg Boss" trên kênh Colors TV. Cô kết thúc chương trình với vị trí thứ 8 sau 119 ngày ở trong ngôi nhà chung của chương trình. Cô cũng là thí sinh được trả lương cao thứ nhì trong chương trình. Năm 2023, cô vào vai Surili Ahuja Banerjee trong bộ phim "Hum Rahe Na Rahe Hum" phát sóng trên kênh Sony TV và đóng chung với Jay Bhanushali. Sự nổi tiếng trong giới truyền thông. Tina Datta từng được tạp chí "The Times of India" xếp hạng thứ 19 trong "Danh sách những người phụ nữ được khao khát nhất" vào năm 2019. Vào năm 2023, cô là người mẫu trình diễn cho Shivayu tại "Tuần lễ thời trang cao cấp Jaipur và Eunoia" và cũng tham gia "Tuần lễ thời trang Pune Times".
Hoa hậu Quốc tế 2024 Hoa hậu Quốc tế 2024 là cuộc thi Hoa hậu Quốc tế lần thứ 62, diễn ra tại Tokyo, Nhật Bản. Hoa hậu Quốc tế 2023 Andrea Rubio đến từ Venezuela sẽ trao lại vương miện cho người kế nhiệm vào cuối đêm chung kết. Thí sinh tham gia. 5 thí sinh đã được xác nhận:
Cốc thánh (tiếng Anh: "Chalice", tiếng La-tinh: "Calix", vay mượn từ tiếng Hy Lạp là: κύλιξ, "kylix" nghĩa là cốc) hay còn gọi là ly bầu ("Goblet") là một chiếc cốc có chân dùng để đựng đồ uống, thường là rượu. Trong thực hành tôn giáo, cốc thánh hay "ly thánh" thường được dùng để uống trong buổi Thánh lễ hoặc có thể mang một ý nghĩa tượng trưng nhất định. Khi khai mạc các buổi thờ phượng theo thuyết Nhất vị luận, nhiều giáo đoàn thắp ngọn lửa bên trong ly thánh. Chén thánh lửa là biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất của dòng Nhất vị luận và các hiệp hội của dòng thuyết này, cốc thánh là biểu tượng của sự tranh đấu tự do tôn giáo khỏi sự áp đặt giáo lý dưới hệ thống cấp bậc; ngọn lửa được hiểu như một đài tưởng niệm những người đã hy sinh mạng sống của mình vì tự do tôn giáo trong suốt lịch sử, chiếc cốc rực lửa giống như một cây thánh giá, tượng trưng cho nguồn gốc Cơ Đốc giáo. Theo truyền thống Kitô giáo, thì Chén thánh là chiếc bình cốc mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong Bữa Tiệc Ly để rót rượu. Các văn bản Tân Ước không đề cập đến chiếc cốc ngoại trừ trong bối cảnh Bữa Tiệc Ly. Vào thời La Mã cổ đại thì cốc có đế chân ("calix") là một bình uống nước bao gồm một cái bát cố định trên một giá đỡ và được sử dụng phổ biến trong các bữa tiệc. Trong Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương, Chính thống giáo Cổ Đông phương, Anh giáo, Giáo hội Luther và một số giáo phái Cơ Đốc giáo khác, thì ly thánh là một chiếc cốc đứng dùng để đựng rượu bí tích trong Thánh Thể (còn được gọi là Bữa tối của Chúa hoặc Rước lễ). Cốc thánh thường được làm bằng kim loại quý, và đôi khi chúng được tráng men và đính đồ trang sức, đá quý. Chiếc cốc vàng tượng trưng cho gia đình và truyền thống. Ly thánh được coi là một trong những vật linh thiêng nhất trong việc thờ phượng phụng vụ của Cơ đốc giáo và nó thường được làm phép trước khi sử dụng. Trong Giáo hội Công giáo La Mã và một số Giáo hội Công giáo Anh, theo phong tục, một chén thánh được thánh hiến bằng cách được xức dầu cùng với dầu thánh hiến, và việc thánh hiến này chỉ có thể được thực hiện dưới tay giám mục hoặc tu viện trưởng (chỉ được sử dụng trong tu viện của chính mình cai quản).
Các hoang mạc lạnh giá của Turan Các hoang mạc lạnh giá của Turan là di sản xuyên quốc gia ở khu vực lịch sử Turan thuộc ba quốc gia Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2023. Nó trải dài từ Biển Caspi ở phía tây cho đến các dãy núi cao của Trung Á ở phía đông. Di sản này bao gồm 14 địa điểm riêng lẻ nằm trong các khu vực được bảo vệ. Đặc trưng của khu vực này là sự biến động nhiệt độ khắc nghiệt, với mùa đông cực kỳ lạnh giá và mùa hè rất nóng. Sự biến động của gió, lượng mưa, mạch nước ngầm và nhiệt độ đã tạo ra nhiều loại hoang mạc khác nhau: từ các hoang mạc cát, đất sét, thạch cao và đá cũng như các chảo muối. Trong môi trường khắc nghiệt nhưng một hệ động thực vật đa dạng đã phát triển và thích nghi qua quá trình tiến hóa để thích ứng với điều kiện khí hậu. Các hoang mạc là nơi sinh trưởng của nhiều loài thực vật đặc hữu, nhiều loài côn trùng, bò sát, lưỡng cư và chim sinh sản. Chúng cũng là nơi dừng chân quan trọng của các loài chim di cư. Các hoang mạc của Turan cũng là nơi trú ẩn của các loài động vật có vú có nguy cơ tuyệt chủng như linh dương bướu giáp, linh dương Saiga và cừu núi Trung Á, báo tuyết, inh cẩu vằn, và kền kền Ai Cập. Các khu rừng cây "Saxaul" trong khu vực là nơi hấp thụ khí cacbonic quan trọng có ý nghĩa toàn cầu. Đây cũng là nơi diễn ra quá trình diễn thế sinh thái khi có hoang mạc trẻ nhất thế giới, sa mạc Aralkum xuất hiện từ năm 1960 trên khu vực đáy biển từng là biển Aral. Dưới đây là 14 phần tạo thành di sản thế giới Các hoang mạc lạnh giá của Turan:
Rượu bí tích ("Sacramental wine") hay rượu hiệp lễ hoặc rượu thánh hiến là rượu thu được từ nho và dùng để cử hành "Bí tích Thánh Thể" (còn được gọi là Bữa Tiệc Ly hoặc Tiệc Thánh, cùng với các tên khác). Rượu bí tích thường được uống sau khi ăn xong bánh Thánh trong một buỗi lễ Thánh. Vốn dĩ tục uống rượu nho là phổ biến ở vùng Địa Trung Hải thời cổ đại, nghi lễ dâng rượu cúng này cũng mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, chẳng hạn như sự mầu nhiệm về bản tính nhân loại và tính thánh thiêng của Chúa Kitô, sự hiệp nhất của Chúa với Giáo hội, và máu của Chúa và nước dịch thân thể chảy từ cạnh mạng sườn Chúa Kitô khi Chúa bị một tên lính La Mã thọc sườn chết. Trong Nghi thức Byzantine của Giáo hội Chính thống Đông phương và một số Giáo hội Công giáo Đông phương, phương pháp thông thường là dùng thìa đưa cho người nhấp một ngụm rượu thánh cùng với một phần bánh thánh đã được truyền phép để trong chén Thánh. Rượu được sử dụng trong các lễ kỷ niệm sớm nhất của Bữa tối của Chúa. Sứ đồ Phao-lô viết trong 1 Cô-rinh-tô 10:16: "Chén chúc lành mà chúng ta chúc tụng không phải là sự hiệp thông của máu Chúa Kitô hay sao? Và cái bánh chúng ta bẻ chẳng phải là dự phần vào Mình Chúa hay sao? Vì chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một tấm bánh, một thân thể, tất cả đều cùng chia một tấm bánh Thánh". Trong thời kỳ Giáo hội sơ khai, cả giáo sĩ và giáo dân đều nhận rượu thánh hiến bằng cách uống từ chén thánh, sau khi nhận một phần bánh thánh hiến. Do nhiều yếu tố, bao gồm cả khó khăn trong việc lấy rượu vang ở các quốc gia Bắc Âu (nơi có khí hậu không phù hợp với nghề trồng nho), việc uống rượu từ chén thánh phần lớn bị hạn chế ở phương Tây đối với linh mục đang cử hành, trong khi những người khác chỉ rước lễ dưới hình bánh. Điều này cũng làm giảm tầm quan trọng mang tính biểu tượng của việc chọn loại rượu vang đỏ. Phần lớn các nhà thờ phụng vụ, chẳng hạn như Nhà thờ Công giáo và Nhà thờ Chính thống Đông phương đều yêu cầu rượu bí tích phải là rượu nho nguyên chất. Các nhà thờ Cơ đốc giáo khác, chẳng hạn như Nhà thờ Giám lý, không chấp nhận việc uống rượu và thay thế nước ép nho bằng rượu vang. Trong Kitô giáo phương Tây, rượu vang trắng đôi khi cũng được sử dụng mà thực tế là để tránh vết bẩn trên khăn trải bàn thờ.
Công tước Moctezuma de Tultengo Công tước xứ Moctezuma de Tultengo (tiếng Tây Ban Nha: "Duque de Moctezuma de Tultengo") là tước hiệu cha truyền con nối của giới quý tộc Tây Ban Nha được nắm giữ bởi dòng dõi hậu duệ của Hoàng đế Moctezuma II ("Tlatoani" thứ 9, hoặc người cai trị Tenochtitlan), thông qua con trai của ông là Pedro de Moctezuma Tlacahuepan (ông là em trai cùng cha khác mẹ của Isabel Moctezuma). Kể từ năm 1766, tước hiệu này gắn liền với "Grandeza de España", là một vinh dự cao nhất trong giới quý tộc Tây Ban Nha. Con trai thứ 2 của Diego Luis, bá tước thứ 3 xứ Moctezuma là José Sarmiento de Valladares từng giữ chức Phó vương Tân Tây Ban Nha từ năm 1696 đến 1701, và được phong Công tước xứ Atrisco. Tước hiệu ban đầu là Bá tước xứ Moctezuma, được Vua Felipe IV của Tây Ban Nha trao cho Pedro Tesifón Moctezuma de la Cueva, Tử tước xứ Ilucán thứ nhất, Lãnh chúa xứ Tula và Peza, một Hiệp sĩ dòng Santiago và là chắc trai của Hoàng đế Aztec Moctezuma II thông qua con trai ông là Pedro de Moctezuma Tlacahuepan và cháu trai Diego Luis Moctezuma (Ihuitl Temoc), cha của Pedro Tesifón Moctezuma de la Cueva, người đã đến Tây Ban Nha. Carlos II của Tây Ban Nha sau đó đã trao cho người thứ hai tước hiệu "de Tultengo", ám chỉ một thị trấn ở bang Hidalgo của Mexico ngày nay, một phần tài sản thừa kế của con trai Moctezuma là Pedro. Tất cả những người nắm giữ tước vị tiếp theo từ 1635-1865 đều sử dụng tước hiệu "Bá tước xứ Moctezuma de Tultengo" cho đến khi de Tultengo được thăng cấp Công tước. Tước hiệu Công tước xứ Moctezuma (không bao gồm 'de Tultengo') được trao cho Antonio María Marcilla de Teruel-Moctezuma y Navarro, Bá tước thứ 14 xứ Moctezuma de Tultengo và Hầu tước thứ 11 xứ Tenebrón vào ngày 11 tháng 10 năm 1865 bởi Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha. Người giữ tước hiệu hiện tại là Juan José Marcilla de Teruel-Moctezuma y Valcárcel, Công tước thứ 6 xứ Moctezuma de Tultengo. Cha của ông đã đảm nhận tước hiệu này và được vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha phong lại tước vị "de Tultengo" vào năm 1992.
Ngày dự sinh hay ngày dự kiến sinh (tiếng Anh: "estimated date of delivery (EDD)", "expected date of confinement", "estimated due date" hay "due date") là một thuật ngữ mô tả ngày sinh con dự kiến của phụ nữ mang thai. Thai kỳ bình thường kéo dài từ 38 đến 42 tuần. Khoảng 4% trẻ được sinh đúng vào ngày dự sinh. Phương pháp ước tính. Việc ước tính ngày dự sinh về cơ bản tuân theo hai bước: Ước tính tuổi thai. Theo , các phương pháp chính để tính tuổi thai là: Ước tính tuổi thai lúc sinh. Thời điểm sinh con trung bình xảy ra ở tuổi thai 280 ngày (40 tuần), do đó nó thường được sử dụng làm ước tính tiêu chuẩn cho từng lần mang thai. Tuy nhiên, thời lượng thay thế cũng như các phương pháp cá nhân hóa hơn cũng đã được đề xuất. Trong mọi trường hợp, có sự khác biệt đáng kể giữa từng người mang thai. Vì những khoảng thời gian mang thai này chỉ là ước tính trung bình nên sẽ hữu ích nếu coi thời gian sinh con là một khoảng ngày thay vì là một "ngày dự sinh" duy nhất. Giá trị trung vị chỉ đơn thuần là một hướng dẫn cho ngày mà một nửa số ca sinh sớm hơn và một nửa số ca sinh muộn hơn. Các ca sinh hiếm khi xảy ra "vào" ngày dự sinh, mà tập trung "vào" khoảng ngày dự sinh. Một nghiên cứu về các trường hợp sinh một con thành công ở Hoa Kỳ đã đưa ra kết quả rằng thời điểm sinh con có độ lệch chuẩn là 14 ngày khi tuổi thai được ước tính bằng siêu âm ba tháng đầu, và là 16 ngày khi ước tính trực tiếp theo kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Quy tắc Naegele (tiếng Anh: "Naegele's rule") là một cách tiêu chuẩn để tính ngày dự sinh khi giả sử tuổi thai là 280 ngày lúc sinh con. Quy tắc này ước tính ngày dự sinh bằng cách cộng thêm một năm, trừ đi ba tháng và cộng thêm bảy ngày vào thời gian gốc của tuổi thai. Kết quả tính ra là khoảng 280 ngày (40 tuần) kể từ khi bắt đầu kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Một phương pháp khác là cộng thêm 9 tháng 7 ngày vào ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng. Quy tắc Naegele được đặt theo tên Franz Karl Naegele, bác sĩ sản khoa người Đức, người đã nghĩ ra quy tắc này. Naegele sinh ngày 12 tháng 7 năm 1778 tại Düsseldorf, Đức. Năm 1806, Naegele trở thành giáo sư bình thường và giám đốc bệnh viện ở Heidelberg. Cuốn "Lehrbuch der Geburtshilfe" của ông, xuất bản năm 1830 dành cho các nữ hộ sinh, đã có 14 lần xuất bản thành công. Dưới đây là công thức tính Ngày dự sinh ước tính bằng quy tắc Naegele:br "KCC + 7 ngày + 9 tháng dương lịch = Ngày dự sinh" KCC = 8 tháng 5 năm 2020 +1 năm = ngày 8 tháng 5 năm 2021 −3 tháng = 8 tháng 2 năm 2021 +7 ngày = 15 tháng 2 năm 2021 280 ngày kể từ KCC được xác định bằng cách kiểm tra ngày trong tuần của kỳ kinh nguyệt cuối cùng và có điều chỉnh ngày tính toán để trùng với ngày trong tuần. Như ở ví dụ trên, ngày 8 tháng 5 năm 2020 là thứ Sáu. Ngày tính toán theo công thức (15 tháng 2) là thứ Hai. Khi điều chỉnh sang thứ Sáu gần nhất sẽ là ngày 12 tháng 2, tức là đúng 280 ngày từ ngày 8 tháng 5. Phương pháp tính toán này không phải lúc nào cũng cho kết quả là 280 ngày, vì không phải tất cả các tháng theo lịch đều có cùng độ dài. Ngoài ra, nó không tính đến năm nhuận. Ứng dụng di động. Các ứng dụng trên thiết bị di động về cơ bản luôn đưa ra các ước tính nhất quán so với nhau và chính xác cho năm nhuận, trong khi bánh xe thai kỳ làm bằng giấy có thể chênh lệch 7 ngày và thường không chính xác cho năm nhuận.
María del Rosario Nadal y Fuster de Puigdórfila (sinh ngày 22 tháng 10 năm 1968), còn được gọi là Thân vương phi xứ Preslav, bà là một nhà tư vấn, giám đốc nghệ thuật và cựu người mẫu người Tây Ban Nha. Từng là nàng thơ của Valentino, bà làm cố vấn độc lập cho các nhà sưu tập nghệ thuật tư nhân và giữ chức phó giám đốc của Colección Jumex. Bà là thành viên cấp cao của Gia đình hoàng gia Bulgaria với tư cách là người vợ của Kyril, Thân vương xứ Preslav, người mà bà đã ly thân vào năm 2009. Rosario là thành viên của gia đình Bá tước xứ Olocau, thuộc giới quý tộc Tây Ban Nha lâu đời ở Palma de Mallorca, và họ là hậu duệ của hoàng đế Aztec Moctezuma II thông qua con gái của ông là Isabel Moctezuma.
Brachypterois là một chi cá biển thuộc phân họ Scorpaeninae trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1938 bởi Henry Weed Fowler. Tên chi được ghép bởi "brakhús" (βραχύς trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa là “thấp, ngắn”) và "Pterois" (một chi cá mù làn), hàm ý đề cập đến các loài trong chi này giống với "Pterois" nhưng có gai vây lưng ngắn hơn. Chi "Brachypterois" được H. W. Fowler lập ra khi ông mô tả "B. serrulifer" lần đầu vào năm 1938, khi đó là loài duy nhất trong chi này. Trước đó, được Richardson đã mô tả "Sebastes serrulatus" vào năm 1846. Loài này được chuyển sang chi "Brachypterois" (tức "B. serrulata"), và một số nhà ngư học sau này đã hạ "B. serrulifer" xuống làm đồng nghĩa của "B. serrulata". Tuy nhiên, một nghiên cứu thực địa khảo sát các mẫu vật thuộc "Brachypterois" trên khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được xuất bản vào năm 2013 đã chỉ ra tính hợp lệ của "B. serrulifer" và "B. serrulata", đồng thời xuất hiện thêm một loài mới trong chi này.
Onkar Singh Kalkat là nghiên cứu sinh sau đại học về kinh tế tại Đại học Delhi. Ông gia nhập Quân đội Ấn Độ thuộc Anh ở tuổi 24 và theo học tại Trường Cao đẳng Tham mưu Quân chủng Quốc phòng. Ông đã tham gia các chiến dịch ở cả Đông Bắc Ấn Độ lẫn Miến Điện trong khoảng thời gian từ 1938–45, cũng như ở Jammu và Kashmir vào năm 1947 và sau đó là năm 1971, khi ông là chỉ huy của Sư đoàn bộ binh số 14, chỉ huy việc tái chiếm 32 đồn bốt từ tay người Pakistan. Sau đó, ông làm việc với tư cách người hướng dẫn rồi lên Chỉ huy tại Trường Cao đẳng Chiến đấu, Mhow. Ông quyết định nghỉ hưu tự nguyện ở tuổi 54 vào năm 1972. Trong hai năm sau khi nghỉ hưu, ông là Giám đốc Tình báo Quân sự trong Ban Thư ký Nội các, Chính phủ Ấn Độ, làm việc trong Ban Nghiên cứu và Phân tích (RAW). Kế hoạch xâm lược của Pakistan. Vào thời điểm Ấn Độ bị chia cắt, Kalkat là Thiếu tướng Lữ đoàn của Lữ đoàn biên giới Bannu, thuộc Pakistan ngày nay, dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng C. P. Murry, một sĩ quan người Anh; họ là những người đang chờ đợi để quay trở lại Ấn Độ và Anh. Sau đó vào tháng 8 năm 1947, Kalkat tình cờ biết được thông tin liên quan đến cuộc xâm lược Kashmir của Pakistan mang tên Chiến dịch Gulmarg, sẽ bắt đầu vào tháng 10. Kalkat được ủy quyền mở thư cho Chuẩn tướng CP Murry khi ông vắng mặt. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1947, Kalkat mở một lá thư như vậy từ Tướng Frank Walter Messervy và thấy bản đính kèm kế hoạch cho Chiến dịch Gulmarg. Kalkat đã thông báo cho Chuẩn tướng Murry về bức thư, người này lại bảo ông không được nói cho ai biết về thông tin ở Pakistan vì nó có thể khiến ông bị sát hại. Tuy nhiên, ngay sau đó, Kalkat bị Quân đội Pakistan quản thúc tại gia vì nghi ngờ có chuyện gì đó. Kalkat trốn thoát khỏi những kẻ bắt giữ, rời khỏi Mir Ali Mirali, đến Ambala ở Punjab thuộc Ấn Độ và vào ngày 18 tháng 10 năm 1947, ông đi đến Delhi trên một chuyến tàu chở hàng. Ngày hôm sau, ông gặp các quan chức quân sự cấp cao bao gồm Chuẩn tướng Kalwant Singh, Đại tá P. N. Thapar (lúc đó là Giám đốc Tác chiến Quân sự) và Bộ trưởng Quốc phòng Sardar Baldev Singh, kể họ nghe những gì ông biết về cuộc tấn công sắp xảy ra. Nhưng không ai coi Thiếu tướng Kalkat đủ nghiêm túc để hành động và "ban giám đốc tình báo do người Anh điều hành không để ý đến điều đó". Vào thời điểm đó, "cuộc xâm lược sắp xảy ra" đã được báo cáo từ nhiều nơi. Trước khi rời Pakistan, Thiếu tướng Kalkat, với sự giúp đỡ của những người bạn Hồi giáo và Quận ủy quận Mianwali, đã đưa gia đình rời khỏi Pakistan và đến Ấn Độ. Trong khi Thiếu tướng Kalkat đang tìm kiếm gia đình ở Đông Punjab thì Chiến dịch Gulmarg bắt đầu. Khi đó, chính quyền Ấn Độ đã nhận ra sai lầm của mình. Thiếu tướng Kalkat được truy tìm ngay trong ngày 24 tháng 10. Ông được đưa đến gặp Thủ tướng Nehru, và thủ tướng đã hét vào mặt mọi người vì không coi trọng một sĩ quan ở vị trí có trách nhiệm: Năm 1983, Kalkat viết cuốn sách có tựa đề "Far-flung Frontiers" (#đổi : "Những vùng biên cương xa xôi"), trong đó ông mô tả những trải nghiệm của mình. Lời tựa của cuốn sách được viết bởi Thống chế Sam Manekshaw, khi đó là Chuẩn tướng, người đồng ý với lời kể của Kalkat. Cuốn tự truyện này đã được coi là một trong những tự truyện quân sự "có ý nghĩa" nhất được viết ở Ấn Độ, "xét về giá trị quân sự và phạm vi mà nó bao trùm".
Siaka Probyn Stevens (24 tháng 8 năm 1905 – 29 tháng 5 năm 1988) là nhà lãnh đạo Sierra Leone năm 1967-1985, trong đó giữ chức Thủ tướng năm 1967-1971 và là Tổng thống năm 1971-1985. Sự lãnh đạo của Stevens nổi bật với kiểu cha truyền con nối cùng sự bê tha, củng cố quyền lực bằng tham nhũng và bóc lột. Stevens và Đảng Đại hội toàn dân (APC) giành chiến thắng trong tổng tuyển cử Sierra Leone năm 1967 sít sao trước Thủ tướng đương nhiệm Sir Albert Margai của Đảng Nhân dân Sierra Leone (SLPP). Tháng 4 năm 1971, Stevens biến Sierra Leone thành nước cộng hòa và trở thành tổng thống một ngày sau khi hiến pháp được Quốc hội Sierra Leone phê chuẩn. Dù thường được coi là tổng thống Sierra Leone đầu tiên, nhưng Tổng thống hợp hiến đầu tiên chính là chánh án Christopher Okoro Cole chỉ sau một ngày tuyên thệ đã từ chức mở đường cho Stevens. Stevens từng là Chủ tịch Tổ chức châu Phi Thống nhất (OAU) từ ngày 1 tháng 7 năm 1980 đến ngày 24 tháng 6 năm 1981, và đi tiên phong trong việc thành lập Liên minh sông Mano bao gồm Sierra Leone, Liberia và Guinée trong mối quan tâm chung về kinh tế. Ngày 28 tháng 11 năm 1985. Stevens nghỉ hưu khi hết nhiệm kỳ. Sau khi gây áp lực loại bỏ những nhân vật tiềm năng khác, ông chọn Chỉ huy Quân lực Sierra Leone Thiếu tướng Joseph Saidu Momoh kế nhiệm mình. Ông qua đời ngày 29 tháng 5 năm 1988 tại Freetown. Siaka Probyn Stevens sinh ngày 24 tháng 8 năm 1905 tại Moyamba, Quận Moyamba, Tỉnh Nam của Sierra Leone thuộc Anh với cha là người Limba còn mẹ thuộc tộc Mende. Stevens chủ yếu lớn lên tại Freetown. Học xong tiểu học, Stevens học trung học tại Học viện Albert ở Freetown, rồi gia nhập cảnh sát. Năm 1923-1930, ông được thăng Trung sĩ hạng nhất và Huấn luyện viên súng trường. Năm 1931-1946, Stevens làm việc xây dựng tuyến đường sắt của Công ty Phát triển Sierra Leone (DELCO), nối Cảng Pepel với các mỏ quặng sắt tại Marampa. Năm 1943, ông đồng sáng lập Liên đoàn Công nhân Mỏ Thống nhất. Đến năm 1946, ông vào Hội đồng Bảo hộ để đại diện cho quyền lợi của công nhân. Năm 1947, Stevens học quan hệ lao động tại Cao đẳng Ruskin. Sự nghiệp chính trị. Năm 1951, Stevens đồng sáng lập Đảng Nhân dân Sierra Leone (SLPP) và được bầu vào Hội đồng Lập pháp. Bất đồng với ban lãnh đạo SLPP, Stevens từ bỏ và đồng sáng lập Đảng Nhân dân Quốc gia (PNP) để giữ chức tổng thư ký và phó lãnh đạo đầu tiên. Năm 1959, ông đến Luân Đôn tham gia đàm phán độc lập. Sau đó, Stevens phát động Phong trào bầu cử trước độc lập (EBIM). Trong bầu cử ngày 17 tháng 3 năm 1967, APC giành chiến thắng sít sao. Stevens được làm Thủ tướng nhưng bị bắt chỉ vài phút sau khi nhậm chức khi nổ ra đảo chính quân sự. Ngày 26 tháng 4 năm 1968, sau thời gian ngắn quân đội nắm quyền, Stevens tái đảm Thủ tướng. Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Hạ viện phê chuẩn hiến pháp cộng hòa. Chánh án Christopher Okoro Cole trở thành toàn quyền lâm thời cuối tháng 3 trong giai đoạn chấm dứt nền quân chủ. Ngày 19 tháng 4 khi nền cộng hòa chính thức ra đời, Cole trở thành tổng thống trong hai ngày rồi từ chức để Stevens thế chỗ nắm quyền hành pháp và lập pháp. Năm 1973, cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên theo hiến pháp mới được tổ chức. Bạo lực đã làm hỏng tiến trình bầu cử cũng như SLPP tẩy chay và trao tất cả 85 ghế Hạ viện cho APC. Tháng 3 năm 1976, Stevens được bầu lại làm Tổng thống mà không bị Hạ viện phản đối. Sorie Ibrahim Koroma làm phó tổng thống trong suốt giai đoạn Stevens nắm quyền. Cho đến hết thập niên 1970, Stevens tiếp tục củng cố quyền lực, đỉnh điểm là trưng cầu dân ý năm 1978 về hiến pháp mới nhằm tạo ra chế độ độc đảng cho APC, dù cho đã như vậy từ khi bắt đầu nền cộng hòa. Ngày 12 tháng 6 ghi nhận 97,1% cử tri bỏ phiếu cho hiến pháp độc đảng mới, số liệu cao đến mức khó tin cho thấy chỉ có thể là gian lận. Các quan sát đồng thuận rằng chính phủ đã thao túng kết quả. Ngay cả những khu vực mà SLPP chiếm ưu thế mà tỷ lệ ủng hộ độc đảng vẫn rất cao. Sau bầu cử, tất cả thành viên phe đối lập trong Hạ viện buộc phải tham gia APC của Stevens nếu không sẽ mất ghế. Hai năm sau khi được bầu lại với nhiệm kỳ 5 năm, Stevens tuyên thệ thêm nhiệm kỳ 7 năm. Ông còn được biết đến với cái tên "Pa Shaki" ("Cha già dân tộc"). Tổng thống Stevens giữ chức Chủ tịch Tổ chức châu Phi Thống nhất (OAU) từ ngày 1 tháng 7 năm 1980 đến ngày 24 tháng 6 năm 1981. Ông cũng thiết kế và thành lập Liên minh sông Mano gồm Sierra Leone, Liberia và Guinée về vấn đề kinh tế. Stevens kiêm thêm Bộ trưởng Bộ Tài chính từ tháng 12 năm 1981 đến đầu năm 1982. Chế độ Stevens đầy tham nhũng và áp bức. Nhiều đối thủ một số từng là cộng sự thân cận đã bị bỏ tù và giết hại. Đơn vị An ninh Nội bộ được thành lập để trở thành biệt đội tử thần của Stevens. Stevens thể hiện tinh thần độc tài sâu sắc, thường xuyên ban bố trình trạng khẩn cấp và hành quyết nhiều kẻ thù chính trị. Stevens cũng hết sức sai lầm trong quản lý kinh tế. Ông và thân tín ăn cướp tài nguyên đất nước đến mức không thể cung cấp một cách cơ bản cho người dân. Hệ thống giáo dục coi như không có. Dù đã nghỉ hưu khi Nội chiến Sierra Leone nổ ra năm 1991, nhưng chính do các tác động của các chính sách chính trị, xã hội và kinh tế của Stevens đã góp phần vào nguyên nhân chiến tranh. Siaka Stevens đã tiếp cận các nước cộng sản như Bắc Triều Tiên, Cuba và Trung Quốc, khiến phương Tây cảnh giác. Tuy vậy, ông thân thiện với Anh trong nhiều vấn đề chính sách đối ngoại. Stevens giám sát quá trình chuyển đổi Sierra Leone từ chế độ Quân chủ lập hiến với Nữ hoàng Elizabeth II là Nữ hoàng Sierra Leone sang hình thức chính phủ cộng hòa. Ông vẫn luôn "thẳng thắn ủng hộ Anh" và không ủng hộ bất cứ hình thức thù địch nào đối với Vương quốc Anh hay hoàng gia. Stevens cho biết ở ngoài châu Phi, Anh sẽ vẫn là người bạn tốt nhất và chân thành nhất của Sierra Leone. Ông tự hào về vai trò tích cực Anh trong lịch sử Sierra Leone. Tên đệm của ông là "Probyn" lấy theo thống đốc Anh Leslie Probyn cai trị Sierra Leone năm 1904 -1910. Ngày 28 tháng 11 năm 1985, Stevens mãn nhiệm nghỉ hưu. Ngày 29 tháng 5 năm 1988, Stevens qua đời tại Freetown.
Khu bảo tồn thiên nhiên Bereketli Garagum Khu bảo tồn thiên nhiên Bereketli Garagum () là khu bảo tồn thiên nhiên ("Zapovednik") nằm ở phía nam hoang mạc Karakum, tỉnh Ahal, Turkmenistan. Được thành lập vào năm 2013, nó có diện tích 87.000 hecta với mục đích nhằm cải thiện hơn nữa việc bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái độc đáo và tài nguyên thiên nhiên của hoang mạc Karakum. Khu bảo tồn đã được UNESCO công nhận từ năm 2023 như là một phần của Di sản thế giới Các hoang mạc lạnh giá của Turan. Tổ chức Sáng kiến Hoang mạc Trung Á đang thực hiện một dự án nhằm mở rộng ranh giới của khu bảo tồn, nhằm cung cấp điều kiện sống tốt hơn cho các loài động vật móng guốc hoang dã di cư ra ngoài khu bảo tồn đến những hồ tưới tiêu.
Khu bảo tồn thiên nhiên Gaplaňgyr Khu bảo tồn thiên nhiên Gaplaňgyr hay Kaplankyr là một khu bảo tồn thiên nhiên ("zapovednik") nằm ở tỉnh Daşoguz, phía bắc Turkmenistan. Được thành lập vào năm 1979 với diện tích 2822 km², đây là nơi bảo vệ và phục hồi hệ động thực vật bản địa của Turkmenistan. Khu vực nằm trên Cao nguyên Gaplaňgyr ở mũi phía nam của Cao nguyên Ustyurt gần biên giới với Kazakhstan và Uzbekistan. Khu bảo tồn có 26 loài động vật có vú, 147 loài chim và 918 loài thực vật bậc cao. Các loài đáng chú ý gồm Linh dương gazelle, cừu núi Ustyurt, lửng mật, và đặc biệt là quần thể linh dương Saiga di cư đến đây vào mùa đông. Khu bảo tồn thiên nhiên Gaplaňgyr bao gồm hai khu bảo tồn nhỏ hơn là Sarygamyş và Şasenem. Sarygamyş được thành lập vào năm 1980 bảo tồn hệ sinh thái ven hồ Sarygamysh, nơi bảo vệ các loài chim di trú và sinh sản của linh dương. Şasenem được thành lập vào năm 1984 là nơi trú ẩn và sinh sản quan trọng của loài lừa hoang Turkmenia.
Hình tượng thực vật trong đời sống văn hóa Hình tượng thực vật trong đời sống và văn hóa của con người đóng nhiều vai trò quan trọng trong suốt thời kỳ lịch sử tồn tại của loài người. Việc sử dụng các loài thực vật của con người bao gồm cả những ứng dụng thiết yếu, căn bản cho đời sống của con người như làm thực phẩm, quần áo, thuốc men và những ứng dụng mang tính biểu tượng như trong nghệ thuật, thần thoại và văn học. Việc cung cấp nguồn lương thực thiết yếu thông qua nông nghiệp là nền tảng của nền văn minh (chẵng hạn như nền văn minh lúa nước và nền văn minh lúa khô). Nghiên cứu về việc sử dụng thực vật của người bản địa là thực vật học dân tộc, trong khi thực vật học kinh tế tập trung vào các giống cây trồng hiện đại. Thực vật được sử dụng trong y học (thảo mộc), cung cấp nhiều loại thảo dược từ xa xưa cho đến nay để cứu sống biết bao nhiêu sinh mạng của con người và là nguyên liệu cho nhiều sản phẩm công nghiệp bao gồm đồ gỗ và giấy cũng như nhiều loại hóa chất để phục vụ cho cuộc sống ngày càng tiện nghi của con người. Thực vật mang lại niềm vui cho hàng triệu người thông qua việc làm vườn, nghệ thuật cắm hoa (với thông điệp về ngôn ngữ của các loài hoa), trồng cây kiểng. Trong nghệ thuật, thần thoại, tôn giáo, văn học và điện ảnh, thực vật đóng vai trò quan trọng, tượng trưng cho các chủ đề như khả năng sinh sản, phát triển, sự thuần khiết và tái sinh là những chủ đề của văn hóa. Trong kiến trúc và nghệ thuật trang trí, thực vật cung cấp nhiều chủ đề, chẳng hạn như hoa văn theo phong cách Ả Rập Hồi giáo và các hình thức hoa Acanthus được chạm khắc trên các đầu cột theo trật tự cổ điển của Corinth. Con người phụ thuộc vào thực vật, cây cối để lấy thức ăn, trực tiếp hoặc làm thức ăn cho súc vật, ngay từ thời xa xưa, với hình thái săn bắt và hái lượm thì những sản vật từ thực vật (trái cây, quả mọng, lá, rễ, củ quả, hạt) đã nuôi sống những người tiền sử. Nông nghiệp với ngành trồng trọt liên quan đến việc sản xuất cây lương thực và có đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của các nền văn minh thế giới. Nông nghiệp bao gồm nông học cho cây trồng, làm vườn trong rau và vườn cây ăn trái, và lâm nghiệp lấy gỗ. Khoảng 7.000 loài thực vật đã được dùng làm thực phẩm, mặc dù hầu hết thực phẩm ngày nay chỉ có nguồn gốc từ 30 loài. Các cây lương thực chính bao gồm ngũ cốc như gạo và lúa mì, các loại rễ và củ có tinh bột như sắn và khoai tây, và các sản vật khác như các loại đậu (chẳng hạn như đậu ván và đậu đỏ) được gọi chung là hoa màu, hoa lợi. Dầu thực vật như dầu ô liu cung cấp lipid, trong khi trái cây và rau đóng góp vitamin và khoáng chất vào chế độ ăn của con người, chưa kể đến là sữa thực vật. Cây trồng làm cây công nghiệp là nguồn cung cấp nhiều loại sản phẩm được sử dụng trong sản xuất, đôi khi với cường độ cao đến mức có nguy cơ gây hại cho môi trường. Hàng trăm loại thuốc có nguồn gốc từ thực vật, cả hai loại thuốc truyền thống được sử dụng trong thảo dược. Độc dược từ thực vật bao gồm atropine, ricin, Conium và curare, mặc dù nhiều loại trong số này cũng có công dụng làm thuốc. Trong văn hóa, các loài thực vật chiếm lĩnh vị trí quan trọng. Cây lúa nước là cây lương thực chính của nhiều cư dân và hình thành nên cả một nền văn minh lúa nước, cây lúa mì hình thành nên cả nền văn hóa của các nước châu Âu, Trung Đông, Trung Á, chúng được tôn vinh đến mức khi mà sản phẩm của chúng sẽ làm ra bánh Thánh được xem là mình Chúa trong Cơ Đốc giáo, rồi nghi thức bánh mì và muối là một nghi thức trọng thị trong văn hóa Nga. Lúa gạo và lúa mì cũng như ngũ cốc còn cho ra sản phẩm rượu và bia và đã ăn sâu trong văn hóa, cũng cách tương tự vậy, thực vật cho ra sản phẩm thuốc lá, ma túy mà con người mãi bị cột trói khó cai được. Cây bắp (ngô) và khoai tây góp phần tạo dựng nên nền văn minh của người da đỏ ở châu Mỹ và nay chúng cũng phổ biến trên khắp thế giới. Quả táo là trái cây được tiêu thụ nhiều, chúng ảnh hưởng trong văn hóa với biểu tượng quả táo. Những trái nho cho ra rượu vang và được xem là máu của Chúa thông qua nghi thức dâng rượu bí tích. Thời hiện đại ngày nay, cà phê cho ra các sản phẩm của nó cung cấp cho con người và hình thành nên cả phong cách văn hóa cà phê thời hiện đại. Các loài cây cối nổi bật trong thần thoại, tôn giáo vì tượng trưng cho khả năng sinh sản, sinh sôi, bất tử (cây sự sống) và tái sinh, điều huyền diệu (cây thiêng, cây ước nguyện). Trong thần thoại Latvia, Austras koks là một cái cây mọc từ lúc Mặt trời hiện trên bầu trời, cây Yggdrasil là Cây thế giới của Thần thoại Bắc Âu mà thần Odin được treo trên đó. Thần thoại Hy Lạp đề cập đến nhiều loại cây và hoa chẵng hạn như cây Lotus có quả gây buồn ngủ dễ chịu, trong khi thảo mộc Moly là một loại thảo dược thần kỳ được Homer nhắc đến trong "Odyssey" với rễ đen và hoa trắng, biểu tượng nổi tiếng còn là Vòng nguyệt quế. "Tabernanthe iboga" được sử dụng làm chất gây ảo giác ở Gabon trong các nghi lễ nhập môn. Cây ma thuật còn xuất hiện trong thần thoại Serbia với loại cây raskovnik ví như chìa khóa vạn năng. Trong biểu tượng Phật giáo, cả hoa sen và Cội Bồ-đề đều có ý nghĩa quan trọng. Hoa sen là một trong Ashtamangala (gồm cả Phật giáo, Jainism và Ấn Độ giáo), đại diện cho sự thanh tịnh của cơ thể, lời nói và tâm trí, trôi nổi trên vùng nước bùn của chấp trước và ham muốn dục vọng. Cây bồ đề là cây thiêng mà Đức Phật đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề.
Grandee (tiếng Tây Ban Nha: "Grande de España") là một tước hiệu quý tộc chính thức được phong cho một số quý tộc Tây Ban Nha. Những người nắm giữ phẩm giá này được hưởng những đặc quyền tương tự như của quý tộc Pháp trong "Ancien Régime", mặc dù ở cả hai quốc gia Tây Ban Nhà và Pháp, họ đều không có vai trò chính trị hiến pháp quan trọng mà Viện Quý tộc trao cho Đẳng cấp quý tộc Anh, Đẳng cấp quý tộc Đại Anh và Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh. Tuy nhiên, một "Grandee Tây Ban Nha" được hưởng những đặc quyền xã hội lớn hơn so với những quyền lực tương tự khác ở châu Âu. Ngoại trừ Công tước xứ Fernandina, tất cả các Công tước Tây Ban Nha đều tự động được gắn vào "Grandeeship", tuy nhiên chỉ có một số hầu tước, bá tước, tử tước, nam tước và lãnh chúa nhận được vinh dự này. Một quý tộc có thể là Grandee của Tây Ban Nha nhiều lần, vì các Grandeeship được gắn liền, ngoại trừ một số trường hợp, với một tước hiệu chứ không phải một cá nhân. Những Grandee như vậy với nhiều hơn một tước hiệu, đáng chú ý bao gồm Nữ công tước xứ Medinaceli hiện tại và Công tước xứ Alba, lần lượt là Grandee 10 và 9 lần. Tất cả con trai và con gái của "Infante" cũng là Grandee. Theo Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1876, có hiệu lực đầy đủ cho đến năm 1923, các Grandee của Tây Ban Nha cũng có thể là thượng nghị sĩ "por derecho propio" ("theo quyền riêng của họ"), cùng với các tổng giám mục và các cấp bậc quân sự hàng đầu. Tính đến năm 2018, Grandeeship có tổng cộng 417 trong số 2.942 tước hiệu còn tồn tại ở Tây Ban Nha (khoảng 14%) trong đó có 153 Công tước, 142 Hầu tước, 108 Bá tước, 2 Tử tước, 2 Nam tước, 3 Lãnh chúa và 7 Đại quý tộc cha truyền con nối không có tước hiệu kèm theo. tàu Grandeeship. Mặc dù mất đặc quyền pháp lý cuối cùng vào năm 1984, khi quyền sở hữu hộ chiếu ngoại giao và quyền miễn trừ bị thu hồi đối với tất cả các Grandees của Tây Ban Nha, họ vẫn được hưởng một số đặc quyền nghi lễ nhất định. Tất cả các Grandee đều có quyền được bảo vệ trước sự hiện diện của Vua Tây Ban Nha, cũng như được ông gọi là primo (anh em họ), một đặc quyền bắt nguồn từ thế kỷ XVI, khi hầu hết các Grandee đều là họ hàng gần của quân chủ. Bên ngoài Tây Ban Nha, thuật ngữ này có thể đề cập đến những người khác có vị trí cao quý, có thể so sánh được, gần đồng nghĩa với ông trùm; trước đây là một cấp bậc quý tộc cao (đặc biệt là khi nó mang lại một ghế trong quốc hội cho người nắm giữ). Bằng cách mở rộng, thuật ngữ này có thể đề cập một cách không chính thức đến bất kỳ cá nhân quan trọng nào có địa vị cao, đặc biệt là những người giàu có, cư trú lâu năm trong một khu vực. Ở Vương quốc Anh, thuật ngữ này hiện đang được sử dụng một cách không chính thức đối với các thành viên có ảnh hưởng và lâu năm của Đảng Bảo thủ, Công Đảng Anh và Đảng Dân chủ Tự do, và có ý nghĩa cụ thể hơn trong quá khứ.
Công tước xứ Alba Công tước xứ Alba de Tormes (tiếng Tây Ban Nha: "Duque de Alba de Tormes"), thường được gọi là Công tước xứ Alba, là một tước hiệu của giới quý tộc Tây Ban Nha đi kèm với phẩm giá của "Grandee Tây Ban Nha". Năm 1472, tước hiệu Bá tước Alba de Tormes, do García Álvarez de Toledo kế thừa, được Vua Henry IV của Castile nâng lên thành Công tước xứ Alba de Tormes. Từ năm 1802, tước vị Công tước xứ Alba được thừa kế bởi Carlos Miguel Fitz-James Stuart, theo quyền của mẹ là María Cayetana de Silva, Nữ công tước thứ 13 xứ Alba. Cha của ông là Jacobo Fitz-James Stuart, Công tước thứ 5 xứ Liria và Jérica, có tổ tiên trực hệ là James FitzJames, Công tước thứ nhất xứ Berwick, vốn là con hoang hoàng gia của vua Charles II của Anh.
Nữ thân vương Victoria Elisabeth von Hohenlohe-Langenburg, Nữ công tước thứ 20 xứ Medinaceli, GE (sinh ngày 17 tháng 3 năm 1997) là một nữ quý tộc Tây Ban Nha. Nắm giữ 43 tước hiệu được công nhận chính thức trong giới quý tộc Tây Ban Nha, hiện cô là quý tộc sở hữu nhiều tước hiệu nhất trên thế giới, trong đó có 10 tước hiệu thuộc Grandee Tây Ban Nha. Người giữ kỷ lục này trước đó là Cayetana Fitz-James Stuart, Nữ công tước thứ 18 xứ Alba (1926-2014), với hơn 50 tước hiệu quý tộc, trong đó có 14 tước hiệu gắn liền với Grandee, theo "Sách Kỷ lục Guinness", bà là quý tộc có nhiều tước hiệu nhất trên thế giới. Là thành viên của Nhà Hohenlohe, cô là con lớn của Thân vương Marco xứ Hohenlohe-Langenburg, Công tước xứ Medinaceli thứ 19. Em trai của cô là Thân vương Alexander Gonzalo xứ Hohenlohe-Langenburg, là Công tước xư Ciudad Real thứ 14, Hầu tước xứ Navahermosa thứ 13, và là người đứng đầu của Hoàng gia Hohenlohe-Langenburg. Cô sinh ra ở Málaga vào ngày 17 tháng 3 năm 1997, là con đầu lòng của Sandra Schmidt-Polex, một người Đức, và Thân vương Marco xứ Hohenlohe-Langenburg, một quý tộc Tây Ban Nha gốc Đức. Victoria nói được 3 thứ tiếng và lớn lên ở Munich, Đức, trước khi chuyển đến Madrid để học quan hệ quốc tế tại Đại học IE. Bà nội của cô là Ana Luisa de Medina, Nữ hầu tước xứ Navahermosa, Nữ bá tước xứ Ofalia, qua đời năm 2012. Victoria kế thừa tước vị bá tước của bà ngoại vào năm 2016, trong khi em trai cô thừa kế tước vị còn lại. Sau cái chết của cha cô vào năm 2016 (người đứng đầu gia tộc Medinaceli từ năm 2014), cô trở thành người thừa kế 42 tước vị quý tộc liên quan đến Nhà Medinaceli. Từ năm 2017, bà đã được Bộ Tư pháp Tây Ban Nha xác nhận là người nắm giữ 5 công tước, 15 hầu tước, 18 bá tước (với một "adelantazgo") và 4 tử tước. Với 43 tước hiệu, cô là quý tộc có nhiều danh hiệu nhất ở Tây Ban Nha và trên thế giới. Cô ấy nắm giữ 10 grandeeship. Hôn nhân và hậu duệ. Cô đính hôn vào tháng 5 năm 2023 với bạn trai Maxime Corneille Iribarren, người gốc Argentina và Pháp. Đám cưới của họ diễn ra vào ngày 14 tháng 10 năm 2023 tại Nhà thờ San Miguel (Jerez de la Frontera).
Hohenlohe-Langenburg (]) là một Bá quốc của Đức và sau này là Thân vương quốc trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Nó nằm ở phía Đông Bắc bang Baden-Württemberg, Đức hiện nay, xung quanh Langenburg. Kể từ thời trung cổ, nhà nước nhỏ bé này được cai trị bởi triều đại Hohenlohe, và kể từ năm 1764, bá tước được nâng lên địa vị Thân vương đế chế La Mã Thần thánh, cho đến năm 1806. Gia tộc Hohenlohe-Langenburg vẫn sở hữu Lâu đài Langenburg cho đến ngày nay. Thân vương nữ Victoria Elisabeth, con trưởng của Thân vương Marco xứ Hohenlohe-Langenburg hiện đang nắm giữ 43 tước vị ở Tây Ban Nha và là quý tộc sở hữu nhiều tước vị nhất thế giới. Vì theo luật Salic của Đức, tước vị chỉ được kế thừa bởi nam giới nên tước Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg và quyền đứng đầu vương tộc Hohenlohe thuộc về em trai của Victoria Elisabeth là Alexander Gonzalo xứ Hohenlohe-Langenburg, hiện cũng đang giữ tước hiệu Công tước xứ Ciudad Real thứ 14 của Tây Ban Nha. Hậu duệ của các bá tước và thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg có mối quan hệ huyết thống với nhiều vương tộc cai trị ở khắp châu Âu. Trong đó vị bá tước đầu tiên của xứ Hohenlohe-Langenburg là Philip Ernest là con trai của Wolfgang, Bá tước xứ Hohenlohe-Weikersheim và vợ Magdalena xứ Nassau-Dillenburg, em gái của Willem Trầm lặng - người sáng lập Vương tộc Oranje-Nassau, tổ tiên của các vị quân chủ Hà Lan hiện tại; Vương hậu Adelheid của Anh là vợ của Vua William IV của Anh có thân mẫu là một Thân vương nữ của Hohenlohe; Ernst I, Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg kết hôn với Feodora xứ Leiningen, chị cùng mẹ khác cha với Nữ hoàng Victoria của Anh; Ernst II, Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg kết hôn với Thân vương nữ Alexandra xứ Sachsen-Coburg và Gotha, cháu gái của Nữ hoàng Victoria; Gottfried, Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg, kết hôn với Vương nữ Margarita của Hy Lạp và Đan Mạch, cô là con gái lớn của Andreas của Hy Lạp và Đan Mạch và vợ ông là Alice xứ Battenberg, đồng thời là em gái của Philip, Công tước xứ Edinburgh, chồng của Nữ vương Elizabeth II của Anh.
Ngữ pháp tiếng Hungary Ngữ pháp tiếng Hungary là tập hợp các quy tắc sử dụng của tiếng Hungary, một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ural được nói chủ yếu ở Hungary và các nước lân cận. Nhìn chung, tiếng Hungary là một ngôn ngữ chắp dính, trong đó các yếu tố ngữ nghĩa và ngữ pháp được điều chỉnh chủ yếu bằng hệ thống phụ tố mà ở đây chủ yếu là hậu tố thay vì bằng các hình vị biệt lập. Các phụ tố này đều tuân theo các quy tắc hài hòa nguyên âm nghiêm ngặt. Động từ chia theo tính xác định, thì, trạng, ngôi và số. Danh từ có thể biến tố theo 18 cách, mỗi cách nói chung tương ứng với một giới từ trong các ngôn ngữ đơn lập. Tiếng Hungary là một ngôn ngữ đề-thuyết, tức là trật tự từ chủ yếu phụ thuộc vào việc đâu là thông tin chính, thông tin phụ, thông tin đã biết và thông tin chưa biết, thay vì phụ thuộc vào quan hệ ngữ pháp/ngữ nghĩa giữa chúng. Câu thông thường có trật tự từ chủ-động-tân, tuy nhiên nhiều khi người nói có thể lược chủ ngữ không quan trọng mà câu vẫn đúng ngữ pháp. Trong một câu, thông tin được nhấn mạnh là thông tin (một từ hoặc một danh ngữ) đứng ngay trước động từ đã chia. Có bốn thành phần trong một câu: chủ đề (còn gọi là đề), thông tin chính (còn gọi là thuyết), động từ và phần còn lại. Trong đó, phần thuyết chỉ có thể chứa một danh từ hoặc một danh ngữ. Chức năng nhấn mạnh. Sử dụng các trật tự từ khác nhau để biểu đạt cùng một ý có thể thể hiện các sắc thái nhấn mạnh khác nhau. Ví dụ như câu "János tegnap elvitt két könyvet Péternek." (Hôm qua János đã mang hai quyển sách tới cho Péter) dùng các từ/ngữ là "János" ("János", cách chủ ngữ), "tegnap" ("hôm qua"), "elvitt" ("mang", thì quá khứ), "két könyvet" ("hai quyển sách", cách tân ngữ trực tiếp) và "Péternek" ("Péter", cách tân ngữ gián tiếp): Lưu ý rằng khi phần thuyết có trong câu mà động từ ("elvitt") là động từ có tiền tố thì tiền tố phải tách ra đặt sau đuôi động từ ("vitt el"). Làm như vậy để phân biệt khi chỉ có một danh ngữ đứng trước động từ: danh ngữ đó là đề khi động từ không tách và là thuyết khi động từ bị tách. Tiếng Hungary là một ngôn ngữ chắp dính; thông tin ngữ pháp chủ yếu được truyền đạt bằng hậu tố: "trên bàn" = "asztalon, "lúc 5 giờ" = "öt órakor. Cá biệt có một tiền tố, đó là "leg-" chỉ so sánh hơn nhất.
Dino Baggio (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1971) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự. Trong suốt sự nghiệp của mình, anh đã chơi cho một số câu lạc bộ Ý và giành được UEFA Cup 3 lần, hai lần cùng Parma và một lần cùng Juventus. Anh cũng có một thời gian thi đấu ở Anh với Blackburn Rovers. Ở cấp độ quốc tế, anh đã có 60 lần khoác áo đội tuyển Ý từ năm 1991 đến 1999, ghi được 7 bàn thắng và là thành viên của đội tuyển đã vào đến trận chung kết World Cup 1994; sau đó anh cũng đại diện cho Ý tham dự Euro 1996 và World Cup 1998. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sự nghiệp ban đầu. Baggio gia nhập hệ thống đào tạo trẻ của Torino khi mới 13 tuổi và ra mắt Serie A ở tuổi 19. Anh trở thành thành viên thường xuyên của đội hình xuất phát và nổi lên như một tiền vệ phòng ngự ngoan cường, chăm chỉ, ổn định và đa năng. Tại Torino, anh đã giành chức vô địch Serie B 1989–90, tiếp theo là Mitropa Cup 1991. Anh được cho mượn đến Inter Milan ở tuổi 20 vào năm 1991 cho mùa giải 1991–92, ra sân 27 lần và ghi được 1 bàn thắng. Vươn lên đỉnh cao: Juventus. Vào cuối mùa giải 1991–92, Juventus đã mua tiền vệ trẻ đầy triển vọng này với giá 10 tỷ Lire Ý, và trong thời gian thi đấu cho câu lạc bộ, Dino Baggio đã chơi cùng với người đồng đội không liên quan Roberto Baggio trong hai mùa giải, hình thành một tình bạn đáng chú ý; Dino thường được gọi là "Baggio 2" hoặc "Baggio khác" trong những năm đầu sự nghiệp, để phân biệt hai cầu thủ, vì anh trẻ hơn và ban đầu ít được biết đến hơn. Tuy nhiên, vì Dino Baggio trước đây đã chơi cho Torino, đối thủ cùng thành phố, nên người hâm mộ Juventus ban đầu không hài lòng với thương vụ này. Tuy nhiên, lối chơi chắc chắn và ổn định của anh đã sớm chinh phục họ, và anh nhanh chóng trở thành trụ cột ở hàng tiền vệ của Juventus, giành chức vô địch UEFA Cup vào năm 1993, ghi được 3 bàn thắng qua 2 lượt trận chung kết; một trong những bàn thắng của anh đến ở trận lượt đi, trong khi hai bàn thắng còn lại đến ở trận lượt về. Anh cũng giúp Juventus đứng thứ 2 ở Serie A trong mùa giải 1993–94. Thành công trong nước và quốc tế: Parma. Sau những màn trình diễn của Baggio tại World Cup 1994 và cùng Juventus, Parma đã cố gắng chiêu mộ tiền vệ này. Baggio ban đầu từ chối lời đề nghị của Parma, tuyên bố ý định ở lại Juventus. Vào thời điểm đó, Juventus sẵn sàng đề nghị Parma một tiền đạo trẻ tên là Alessandro Del Piero thay vì Baggio, để giữ lại tiền vệ phòng ngự của họ; Parma đã chấp nhận lời đề nghị, nhưng trước khi thương vụ được hoàn tất, Dino Baggio đã thay đổi suy nghĩ và quyết định chuyển đến Parma. Del Piero ở lại Juventus, và mùa giải sau đó, anh đã có một bước đột phá với câu lạc bộ, sau này trở thành huyền thoại của câu lạc bộ. Baggio chuyển đến Parma vào đầu mùa giải 1994–95 với giá 14 tỷ Lire. Trong mùa giải đầu tiên với câu lạc bộ mới dưới thời Nevio Scala, anh đã ngay lập tức giành được UEFA Cup, lần thứ hai trong sự nghiệp, ghi một bàn thắng ở mỗi lượt trận chung kết năm 1995 gặp lại đội bóng cũ Juventus, nâng tổng số bàn thắng của anh ở trận chung kết UEFA Cup lên 5 bàn. Anh cũng vào đến trận chung kết Coppa Italia mùa giải đó, nhưng thua chính đội bóng cũ của mình, đồng thời cũng suýt chút nữa giành được chức vô địch Serie A trước đội bóng cũ, một lần nữa, kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3. Mặc dù gặt hái được thành công ở châu Âu dưới thời Malesani, nhưng Parma đã không thể giành chức vô địch Serie A trong những năm này, với thành tích tốt nhất của họ là ở mùa giải 1996–97, khi họ xếp thứ 2 dưới thời HLV Carlo Ancelotti. Trong trận đấu thuộc UEFA Cup 1998–99, Baggio đã bị thương ở đầu do một con dao được ném bởi một người hâm mộ Wisła Kraków ở Kraków, khiến Wisła bị cấm tham dự cúp châu Âu trong một năm. Anh ấy đã tiếp tục giành chức vô địch UEFA Cup thứ ba của mình trong mùa giải đó, trước Olympique Marseille, cũng vô địch Coppa Italia trước Fiorentina, theo sau là Supercoppa Italiana 1999 trước nhà vô địch Serie A 1998–99 Milan. Baggio ở lại Parma cho đến cuối mùa giải 1999–2000, giúp câu lạc bộ cán đích ở vị trí thứ 4 và suýt chút nữa giành được một suất tham dự UEFA Champions League sau thất bại ở vòng play-off trước Inter. Trong mùa giải cuối cùng của anh ấy với câu lạc bộ, anh ấy cũng trở nên nổi tiếng vì một sự cố đặc biệt trong trận đấu trên sân nhà gặp lại đội bóng cũ Juventus vào ngày 9 tháng 1 năm 2000. Baggio đã phạm lỗi với Gianluca Zambrotta và trọng tài Stefano Farina đã rút thẻ đỏ trực tiếp gây tranh cãi đối với anh. Để phản đối, Baggio đã làm "dấu hiệu tiền nong" về phía trọng tài và sau đó nhổ nước bọt xuống đất gần Farina. Baggio đã bị chỉ trích vì hành vi của mình và bị cấm thi đấu hai trận, ngoài việc bị câu lạc bộ phạt 20 triệu lire, vì hành động này. Anh cũng bị Luciano Nizzola, chủ tịch FIGC vào thời điểm đó, ngăn không cho tham gia trận giao hữu của Ý với Thụy Điển vào ngày 23 tháng 2 năm 2000. Sự nghiệp sau này. Tháng 10 năm 2000, Baggio được bán cho Lazio, nhà vô địch Serie A mới đăng quang, với giá 10 tỷ lire Ý, cùng với Nestor Sensini. Roberto Baggio gia nhập Lazio vào tháng 10 năm 2000, sau khi đội bóng giành chức vô địch Serie A. Tuy nhiên, anh ấy không được sử dụng nhiều trong hai mùa giải đầu tiên của mình ở Lazio, và câu lạc bộ cũng không giành được bất kỳ danh hiệu nào. Vào đầu mùa giải 2003–04, Baggio đã đàm phán với Wolverhampton Wanderers về một hợp đồng cho mượn, nhưng các cuộc đàm phán đã thất bại. Sau đó, anh ấy đã đến thử việc với Blackburn Rovers và được câu lạc bộ này ký hợp đồng cho mượn trong một mùa giải vào tháng 9 năm 2003. Anh ra mắt câu lạc bộ với tư cách là cầu thủ dự bị trong trận thua 3-1 trên sân nhà trước Liverpool ở Premier League vào ngày 13 tháng 9, trong khi trận đá chính đầu tiên của anh ấy cho đội bóng diễn ra vào ngày 24 tháng 9, trong trận thua 3-1 trên sân khách trước Gençlerbirliği, ở vòng đầu tiên của UEFA Cup; tháng sau, đội bóng bị loại khỏi giải đấu sau trận hòa 1-1 ở lượt về, trong trận đấu đó Baggio đã vào sân thay người, thay thế cho đồng hương Corrado Grabbi. Huấn luyện viên của Baggio tại Blackburn, Graeme Souness, đã sử dụng anh ở vị trí tiền đạo trong một số trận đấu, tuy nhiên, điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến phong độ của anh. Baggio đã có tổng cộng 9 lần ra sân cho câu lạc bộ, ghi được 1 bàn thắng ở giải đấu trong trận thua 2-1 trước Leeds United. Do phong độ tệ hại trong nửa đầu mùa giải, Souness đã cố gắng để Baggio trở về Ý theo hợp đồng cho mượn đến Ancona, đội bóng mới thăng hạng Serie A vào tháng 1 năm 2004, nhưng cầu thủ này đã từ chối thỏa thuận ban đầu. Sau đó, Lazio đã cho anh ấy mượn đến Ancona. Anh ấy đã có 15 lần ra sân và ghi được 2 bàn thắng, nhưng Ancona đã xếp cuối bảng. Anh ấy vẫn ở lại Lazio trong mùa giải 2004–05, nhưng không có một lần ra sân nào cho câu lạc bộ trong mùa giải đó. Anh ấy đã giải nghệ vào năm 2005 sau một thời gian ngắn chơi cho Triestina, một đội bóng ở Serie B, khi mới 34 tuổi. Vào tháng 2 năm 2008, người ta thông báo rằng Dino Baggio đã quyết định trở lại từ việc giải nghệ và gia nhập câu lạc bộ Terza Categoria Tombolo - một đội bóng gần quê nhà của anh ấy, được huấn luyện bởi huấn luyện viên đầu tiên của anh ấy, Cesare Crivellaro. Sự nghiệp quốc tế. Ở cấp độ trẻ quốc tế, Baggio đã giành chức vô địch U-21 châu Âu 1992 cùng đội tuyển Azzurrini, và trong cùng năm, anh đã tham dự Thế vận hội Mùa hè 1992 ở Barcelona cùng đội tuyển U-23 Ý, dưới sự dẫn dắt của HLV Cesare Maldini. Baggio đã ra mắt đội tuyển Ý cấp cao dưới thời HLV Arrigo Sacchi, vào ngày 21 tháng 12 năm 1991, khi mới 20 tuổi, trong trận thắng 2-0 trước Síp, tại Foggia. Anh ra sân trong trận đấu này cùng với người đồng đội mới ra mắt Demetrio Albertini, người sẽ sát cánh cùng Baggio ở hàng tiền vệ của Ý trong suốt những năm 1990. Vào ngày 24 tháng 2, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Ý, tại Oporto, trong trận đấu với Bồ Đào Nha. Trong chiến dịch vòng loại FIFA World Cup 1994, Baggio đã ghi bàn thắng quyết định vào lưới Bồ Đào Nha, giúp Ý giành vé dự giải đấu. Nhờ đó, anh được HLV Arrigo Sacchi gọi vào đội tuyển Ý tham dự World Cup 1994. Trong kỳ World Cup đầu tiên của mình, anh đã kết hợp với người đồng đội không phải họ hàng Roberto Baggio để giúp Ý lọt vào chung kết World Cup 1994, ghi những bàn thắng quyết định, nhưng cuối cùng đã thất bại trước Brazil trên chấm phạt đền. Dino đã ghi hai bàn thắng trong giải đấu: bàn đầu tiên là cú đánh đầu quyết định mang về chiến thắng, được kiến tạo bởi Giuseppe Signori, trong chiến thắng 1-0 của Ý ở vòng đầu tiên trước Na Uy, và bàn thứ hai là bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2-1 trước Tây Ban Nha ở tứ kết, đến từ một cú sút xa được kiến tạo bởi Roberto Donadoni. Trong trận chung kết, anh bắt đầu trận đấu ở vị trí tiền vệ cùng với Albertini trong sơ đồ 4-4-2 của đội, nhưng sau đó đã bị Alberigo Evani thay ra ở hiệp phụ; sau khi hòa 0-0, trận đấu đã đi đến loạt sút luân lưu và Brazil đã giành chiến thắng, với việc Roberto Baggio, người đồng đội cùng tên của Dino, đã sút hỏng quả phạt đền quyết định. Theo "FIFA.com", sự thiếu hụt các pha tấn công trong trận đấu một phần là do màn trình diễn ấn tượng ở vị trí tiền vệ phòng ngự của Dino Baggio cho Ý, và Dunga và Mauro Silva cho Brazil. Baggio tiếp tục thi đấu cho Ý trong các giải đấu khác trong suốt những năm 1990, chẳng hạn như Euro 1996. Baggio cũng ra sân trong mọi trận đấu cho Ý tại World Cup 1998 dưới thời Cesare Maldini. Ban đầu Baggio có tên trong danh sách 26 cầu thủ tạm thời của Dino Zoff cho Euro 2000 nhưng sau đó lại không có tên trong danh sách cuối cùng. Anh có trận đấu cuối cùng cho Ý vào ngày 13 tháng 11 năm 1999, trong trận thua 3-1 trên sân nhà trước Bỉ trong một trận giao hữu quốc tế. Baggio đã có 60 lần khoác áo và ghi 7 bàn thắng cho đội tuyển quốc gia Ý từ năm 1991 đến 1999. Anh được người hâm mộ Ý nhớ đến là một cầu thủ quốc tế đáng chú ý của thập niên 90 nhờ màn trình diễn tại World Cup, và vì anh đã có thể giành được vị trí tiền vệ chính thức trước nhiều cầu thủ tài năng khác đang ở đỉnh cao phong độ, chẳng hạn như Roberto Di Matteo, Antonio Conte, Roberto Mancini và Gianfranco Zola. Baggio là một tiền vệ phòng ngự đa năng và năng động, với khả năng tắc bóng, tốc độ và khả năng chọn vị trí tuyệt vời; Anh cũng được trời phú cho kỹ thuật vững chắc, tầm nhìn tốt và khả năng phân phối bóng đáng tin cậy, giúp anh có thể đóng góp cho hàng tấn công của đội mình. Baggio được coi là một trong những cầu thủ Ý vĩ đại nhất của thế hệ anh ấy, và là một trong những tiền vệ nhất quán nhất ở Serie A trong những năm 90. Dù chủ yếu hoạt động ở vị trí tiền vệ phòng ngự, nhưng Baggio vẫn có thể đóng góp cho mặt trận tấn công và ghi bàn nhờ khả năng sút xa, đánh đầu và chọn vị trí tốt; Ngoài ra, anh ấy còn có khả năng ghi bàn từ những cú sút xa mạnh mẽ và chính xác, nhờ khả năng dứt điểm của mình, đặc biệt là từ ngoài vòng cấm. Vì có khả năng ghi bàn, anh ấy đôi khi được huấn luyện viên Souness triển khai chơi ở vị trí tiền đạo trong thời gian ở Blackburn. "Danh sách tỷ số và kết quả với tổng số bàn thắng của Ý được liệt kê đầu tiên, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Baggio."
Park Ru-han (; sinh ngày 26 tháng 9 năm 2001), hay Morgan (), là một tuyển thủ Liên Minh Huyền Thoại chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí đường trên cho đội tuyển OKSavingsBank BRION. Park Gi-tae (, là tên trước đây của Morgan) sinh ngày 26 tháng 9 năm 2001 tại Hàn Quốc. Anh bắt đầu sự nghiệp thi đấu Liên Minh Huyền Thoại với đội trẻ Joy Dream của JD Gaming vào ngày 26 tháng 2 năm 2019. Khoảng tháng 12 năm 2022, anh chính thức đổi tên thành Park Ru-han. Trong thời gian thi đấu, anh được các khán giả đặt cho biệt danh là "Ngài", hay "Lord". Ban đầu biệt danh này có ý chế giễu, nhưng theo thời gian tài năng của anh dần được công nhận và biệt danh này lại trở thành lời tán dương. Anh cũng nổi tiếng với vị tướng Renekton khi là một người chơi thể hiện rất tốt với con bài này. Morgan từng sang Việt Nam theo lời mời của Tổng cục du lịch Hàn Quốc. Anh đại diện cho gian hàng của Hàn Quốc tại hội chợ ITE HCMC 2023 và đã thu hút sự quan tâm của nhiều người hâm mộ Việt Nam. Sự nghiệp câu lạc bộ. Ngày 26 tháng 2 năm 2019, Morgan gia nhập đội trẻ Joy Dream của JD Gaming và đã có trận ra mắt trước đối thủ là Lingan E-sports vào hai ngày sau đó. Anh từng có thời điểm được đôn lên đội chính để tham dự NEST 2019 cũng như LPL Mùa hè 2019. Ngày 16 tháng 12 năm 2019, Morgan chuyển sang thi đấu cho Team WE. Tuy nhiên, anh lại không đạt được thành công ở đội tuyển này. Ngày 23 tháng 11 năm 2020, anh về lại Hàn Quốc để gia nhập Hanwha Life Esports. Morgan đã giành được tấm vé tham dự Chung kết thế giới năm ấy sau khi đánh bại Nongshim 3-0 ở vòng loại khu vực. Anh đã gặp lại đối thủ ở LCK là T1 và phải ra về sau thất bại 3 ván không gỡ ở tứ kết. Ngày 1 tháng 12 năm 2021, anh gia nhập Fredit BRION (hiện là OKSavingsBank BRION hay OK BRION). Tuy có thành tích không tốt với đội tuyển mới, anh lại thu hút được nhiều người hâm mộ khi trở thành đề tài bàn tán mỗi khi BRION thi đấu. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia. Trước khi thi đấu chuyên nghiệp, Morgan từng tham dự IeSF Esports World Championship 2018, một giải đấu thể thao điện tử quy mô toàn cầu do IESF tổ chức. Anh đại diện cho Hàn Quốc và đã giành được chức vô địch sau khi đánh bại Ma Cao 3-0 ở trận chung kết.
Hòn Đôi hay còn gọi là hòn Đồi, hay hòn Đầu, là một hòn đảo nhỏ gần bờ biển thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là vị trí Điểm "A7" của Đường cơ sở trên biển của Việt Nam. Phía tây của đảo là Mũi Đôi cực đông trên đất liền của Việt Nam. Đảo cách đất liền tại vị trí ngay Mũi Đôi (thuộc bán đảo Hòn Gốm) khoảng 500 m. Diện tích đảo gần 20 ha (0,195 km2), độ cao lớn nhất 309 m. Tên gọi hòn Đồi là do đảo có nhiều đồi mồi. Môi trường tự nhiên trên đảo hoang sơ gần như nguyên vẹn, bề mặt đảo đầy các khối đá xen lẫn cây bụi. Đảo là nơi rất nhiều chim yến trú ngụ. Trên đỉnh cao nhất của đảo đặt Cột mốc "A7" và mốc tọa độ, hai cột cách nhau 20 m. Năm 2005, Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành Quyết định số 13 xếp hạng Mũi Đôi - Hòn Đôi là danh lam thắng cảnh quốc gia. Vào năm 2014, chính quyền tỉnh Khánh Hòa kêu gọi doanh nghiệp du lịch đầu tư vào Mũi Đôi - Hòn Đầu, khai thác du lịch, tổ chức tham quan, dã ngoại. Đến năm 2019, việc du lịch diễn ra tự phát thiếu đảm bảo an toàn, xảy ra nhiều vụ tai nạn nên Bộ đội biên phòng khu vực lại có văn bản đề nghị hạn chế hoạt động du lịch tại đây. Vụ nghiêm trọng nhất xảy ra vào ngày 22 tháng 9 từ một đoàn sinh viên vừa tốt nghiệp gồm 16 người đến đây tắm biển, 2 trong số đó thiệt mạng và thi thể được tìm thấy vài ngày sau đó. Hiện tại, đảo được Công ty Yến sào Khánh Hòa quản lý để khai thác nguồn lợi yến sào. Đảo là một địa điểm hạn chế đối với khách du lịch.
Trung tâm nghiên cứu Langley LaRC được National Advisory Committee for Aeronautics (NACA) thành lập từ năm 1917, 2 phần 3 tổng số chương trình nghiên cứu được dành cho vấn đề về hàng không, còn lại là các dự án không gian. Các nhà nghiên cứu tại LaRC được phép sử dụng hơn 40 đường hầm gió để nghiên cứu và cải thiện các vấn đề liên quan đến máy bay như cải thiện độ an toàn, hiệu suất, tính hiệu quả của các chuyến bay. Từ năm 1958 đến 1963, khi NASA (chính là hậu thân của NACA) bắt đầu chương trình Mercury, LaRC đã tham gia chương trình với vai trò là trụ sở của Space Task Group. Vào tháng Chín năm 2019, ngay sau khi Clayton P. Turner đã được chỉ định làm giám đốc của Trung tâm NASA Langley.
Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas 2023 Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas 2023 (tên chính thức là Formula 1 Heineken Silver Las Vegas Grand Prix 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 18 tháng 11 năm 2023 tại trường đua Las Vegas ở Paradise, Nevada, Hoa Kỳ, và là chặng đua thứ 21 và áp chót của giải đua xe Công thức 1 2023. Ngoài ra, chặng đua này cũng là phiên bản đầu tiên của giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas. Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas 2023 sẽ là chặng đua Công thức 1 đầu tiên ở Las Vegas kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Caesars Palace 1982. Chặng đua này sẽ diễn ra xung quanh Dải Las Vegas trên một trường đua đường phố hoàn toàn mới. Đây sẽ là chặng đua thứ ba và cuối cùng ở Hoa Kỳ diễn ra vào năm 2023 sau giải đua ô tô Công thức 1 Miami và giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ. Năm 2023 sẽ là năm đầu tiên kể từ năm 1982 ba chặng đua được tổ chức tại Hoa Kỳ trong một mùa giải Công thức 1. Chặng đua sẽ bắt đầu lúc 22:00 giờ địa phương () vào thứ Bảy, ngày 18 tháng 11 năm 2023, nghĩa là chặng đua này sẽ là chặng đua Công thức 1 đầu tiên được tổ chức vào thứ Bảy kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Nam Phi 1985. Đây cũng sẽ là chặng đua Công thức 1 thứ 1100. Các đội đua Red Bull Racing, AlphaTauri, Alfa Romeo, Williams, Alpine và Ferrari sẽ tham gia chặng đua này với màu sơn được thiết kế đặc biệt trên những xe đua của họ. Bảng xếp hạng trước cuộc đua. Sau giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (258 điểm) và Lewis Hamilton (226 điểm) với 524 điểm. Tại bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu Mercedes (382 điểm) và Ferrari (362 điểm) với 782 điểm. Lựa chọn bộ lốp. Nhà cung cấp lốp xe Pirelli sẽ cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này. Buổi tập đầu tiên bị hủy sau 10 phút vì Carlos Sainz Jr. dừng lại trên đường đua do va vào một nắp hố ga trên bề mặt đường đua. Charles Leclerc đứng đầu buổi tập rút ngắn trước Nico Hülkenberg và Kevin Magnussen với thời gian nhanh nhất là 1:40,909 phút. Sau khi va vào nắp hố ga đó, gầm xe của Sainz cũng như của Esteban Ocon bị hư hại nặng. Hơn nữa, thành phần chứa năng lượng trong chiếc xe của Sainz bị hỏng khiến anh phải sử dụng kho năng lượng thứ ba sau khi đã sử dụng hai kho được cho phép. Điều này dẫn đến việc Sainz bị tụt mười vị trí cho cuộc đua. Buổi tập thứ hai được kéo dài từ 60 lên 90 phút và bị trì hoãn hai tiếng rưỡi so với thời gian dự kiến để khắc phục các vấn đề tại buổi tập đầu tiên. Leclerc đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:35,265 phút trước Sainz và Fernando Alonso. Buổi tập thứ ba và cuối cùng bị hủy trước ba phút cuối cùng do Alexander Albon đứng giữ đường do va chạm với rào chắn. Sau khi buổi tập này kết thúc, George Russell đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:34,093 phút trước Oscar Piastri và Logan Sargeant. Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Leclerc là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, cả hai tay đua McLaren, Ocon, Chu Quán Vũ và Yuki Tsunoda bị loại. Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của vòng phân hạng (Q3). Leclerc là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, Lewis Hamilton, Sergio Pérez, Nico Hülkenberg, Lance Stroll và Daniel Ricciardo bị loại. Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua chính được xác định sẵn. Leclerc giành vị trí pole với thời gian nhanh nhất là 1:32,726 phút trước Sainz Jr. và Max Verstappen. Đó là vị trí pole thứ 23 trong sự nghiệp của Leclerc và cũng là vị trí pole đầu tiên của anh tại giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas. Sau khi vòng phân hạng kết thúc, Sainz Jr. bị tụt mười vị trí do sử dụng thành phần chứa năng lượng thứ ba và Stroll bị tụt năm vị trí do vượt trong giai đoạn cờ vàng trong buổi tập thứ ba. Leclerc và Verstappen xuất phát cuộc đua ở hàng xuất phát đầu tiên. Tại vòng đua đầu tiên của cuộc đua, Verstappen ép Leclerc văng rời khỏi đường đua và nhận một án phạt 5 giây vì hành động này. Lando Norris mất lái tại vòng đua thứ ba và chiếc xe của anh văng ra khỏi đường đua khiến anh phải bỏ cuộc. Vụ va chạm này đã kích hoạt giai đoạn xe an toàn. Sau vụ va chạm này, Norris đã đến Trung tâm Y tế Đại học Nam Nevada để kiểm tra phòng ngừa và được xuất viện cùng ngày. Leclerc đã vượt qua Verstappen trên đường đua trước khi Verstappen đọ sức và thực hiện án phạt. Mặc dù Leclerc đã kéo dài thời gian sử dụng bộ lốp đầu tiên của mình, anh chỉ đua được vài vòng trước khi một giai đoạn xe an toàn xuất hiện do một sự cố giữa Russell và Verstappen làm rơi các mảnh vỡ trên đường đua. Chiếc xe an toàn cho phép cả hai tay đua Red Bull và phần lớn phần còn lại của đoàn đua vào làn pit mà không mất thời gian đáng kể. Tại những vòng đua tiếp theo, cả Verstappen lẫn Leclerc đã tranh giành vị trí dẫn đầu trong suốt cuộc đua cùng với Pérez. Verstappen giành chiến thắng trước Leclerc và Pérez sau khi cuộc đua kết thúc. Leclerc về đích ở vị trí thứ hai sau khi vượt qua Pé Hơn nữa, đây cũng chính là chiến thắng đầu tiên của anh tại giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Ocon, Stroll, Sainz Jr., Hamilton, Russell, Alonso và Piastri. Sau khi cuộc đua kết thúc, Russell về đích ở vị trí thứ 4 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 8 sau khi nhận một án phạt 5 giây vì gây ra vụ va chạm với Verstappen.
Hòn Hải là một đảo đá nhỏ xa bờ thuộc quyền quản lý của huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận. Đây là vị trí Điểm "A6" của Đường cơ sở trên biển của Việt Nam. Hòn Hải là điểm xa nhất của đường viền nội thủy của Việt Nam ở vùng nam Biển Đông. Đảo và toàn bộ quần đảo Phú Quý cũng là vị trí chiến lược về mặt quốc phòng của Việt Nam. Hòn Hải còn gọi là hòn Khám, hay tên gọi khác là hòn Hài, do hình dáng giống chiếc hài. Trên hải đồ quốc tế là "Poulo Sapate" ("Sapata, Sepate"). Đảo cách đảo Phú Quý 60 km về phía đông nam, cách Hòn Đồ Lớn 21 km về phía đông. Hòn Hải dài khoảng 130 m, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 60 m, điểm cao nhất là 113 m so với mực nước biển. Đảo hình thành từ dung nham phun trào của núi lửa hàng triệu năm trước, có địa mạo dốc thẳng đứng cả bốn mặt, phần chân đảo phía tây có một vị trí bằng phẳng rộng khoảng 16 m. Trên đảo không cây cối, không nước ngọt, chỉ có một lớp cỏ phủ xanh bề mặt. Đảo là nơi các loài chim biển trú ngụ và sinh sản, như nhạn, hải âu, bồ nông, mòng biể, biển đạt độ sâu 40 m và sâu dần khi ra xa. Năm 1999, Bộ Quốc phòng giao Bộ Tư lệnh công binh khảo sát và xây dựng hạ tầng trên đảo Hòn Hải. Việc xây dựng được thực thi bởi Đoàn công tác của công binh, Đoàn đo đạc biên vẽ hải đồ và nghiên cứu biển thuộc Quân chủng Hải quân. Tháng 3 năm 2002, các công trình cơ sở hạ tầng trên đảo được bắt đầu xây dựng. Cuối năm 2004, trạm hải đăng Hòn Hải xây xong và được chuyển giao cho Công ty bảo đảm Hàng hải khu vực III, nay là Tổng công ty bảo đảm an toàn Hàng hải Nam Trung Bộ thuộc Bộ Giao thông Vận tải quản lý và vận hành. Tháng 5 năm 2005, việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đảo hoàn tất. Trên đảo có 2 ngôi mộ gió của 2 người lính đã thiệt mạng trong quá trình xây dựng. Năm 2012, trạm tiếp sóng của Viettel được xây dựng, các thiết bị chạy bằng dàn pin năng lượng Mặt trời. Vào tháng 6 năm 2017, bia đánh dấu chủ quyền Cột mốc "A6" được xây dựng. Hải đăng Hòn Hải. Hải đăng Hòn Hải cao 10,4 m từ chân tới đỉnh, nằm trên vị trí cao nhất của đảo, 113 m so với mực nước biển. Ngọn hải đăng này có vai trò giúp tàu thuyền trong khu vực biển rộng lớn của Bình Thuận hoạt động. Nó giúp định hướng và xác định vị trí với tầm nhận diện địa lý là 26,5 hải lý vào ban ngày, và tầm chiếu sáng là 24,5 hải lý vào ban đêm. "Địa chất Hòn Hải:"
" Conqueror " là đĩa đơn thứ tám do Aurora phát hành và là đĩa đơn thứ năm trong album "All My Demons Greeting Me as a Friend". Bài hát được viết bởi Aurora, Geir Luedy, Odd Martin Skålnes và Magnus Skylstad và được sản xuất bởi Skålnes, Skylstad và Jeremy Wheatley. Ngày 15/1/2016 bài hát chính thức được phát hành trên toàn thế giới. Bối cảnh và bài hát. "Conqueror" là một bài hát Scandipop, synth-pop, và electropop với " nhịp trống lạch cạch xây dựng nên một đoạn điệp khúc hưng phấn". Aurora viết bài hát này vào năm 2013 cùng với một số thành viên trong ban nhạc của cô. Cô nói: "Bài hát này khá kỳ lạ. Nó có sự tương phản quan trọng với tất cả các bài hát khác trong album của tôi - nó thực sự có một chút vui vẻ! Tôi đã viết nó cùng với một số thành viên ban nhạc của mình vào năm 2013 một lần. Nó chỉ để cho vui thôi, chúng tôi thậm chí còn không biết liệu có điều gì tốt đẹp sẽ xảy ra hay không!" "'Conqueror' nói về một thế giới [mà] gần như đang sụp đổ xung quanh bạn và bạn đang tìm kiếm một kẻ chinh phục để cứu mình. Nhưng bạn đang tìm kiếm kẻ chinh phục ở một người khác, điều mà tôi nghĩ là [điều gì đó] bạn không nên làm vậy. Trước tiên, bạn nên tìm ra kẻ chinh phục trong chính mình và trở thành anh hùng của chính mình. Nếu bạn đứng vững thì bạn sẽ trụ được lâu hơn một chút." Trong bộ phim tài liệu "Once Aurora", cô bày tỏ sự không thích bài hát do nó mang hơi hướng nhạc pop quá mức. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn năm 2021 với NME, cô ấy nói: "Bây giờ tôi thích bài hát hơn nhưng đã không phát trực tiếp nó trong 5 năm. Tôi đã dừng lại sau năm 2016 và nói, 'Tôi sẽ không bao giờ biểu diễn trực tiếp nó nữa. để chơi lại bài hát này – không bao giờ!'" Cô ấy nói, "Khi tôi bắt đầu lưu diễn trở lại, tôi sẽ bắt đầu chơi lại bài hát đó - bởi vì nó rất thú vị. Tôi chỉ cần nghỉ hát 5 năm thôi." Video âm nhạc của bài hát được phát hành vào ngày 16 tháng 2 năm 2016. Video do Kenny McCracken đạo diễn.
Tân Olympus (tiếng Ý: "Nuovo Olimpo") là một bộ phim thuộc thể loại chính kịch lãng mạn năm 2023 được đạo diễn bởi Ferzan Özpetek. Bộ phim này kể về một cặp người đồng tính nam gặp và yêu nhau từ cuối thập niên 1970 ở thủ đô Roma nhưng lại đường đột bị chia cắt vì sự cố không ngờ được. Bộ phim được công chiếu tại lễ hội phim Roma vào ngày 22 tháng 10 năm 2023 và được phát hành trên nền tảng phát video trực tuyến Netflix vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Bối cảnh phim bắt đầu từ năm 1978 và đó cũng là thời điểm còn đang diễn ra Những năm lãnh đạo ở nước Ý. Có một sinh viên ngành y rụt rè tên Pietro đến xem phim tại rạp chiếu phim Tân Olympus ("Nuovo Olimpo") do một người phụ nữ tên Titti quản lý và nơi này còn được những người đồng tính nam sử dụng để làm tụ điểm đi tuần tình dục. Tại đó, anh gặp được một cậu sinh viên học đạo diễn phim tên Enea và hai người nhanh chóng đem lòng yêu nhau từ đó. Enea mời Pietro vào trong nhà vệ sinh để quan hệ tình dục nhưng Pietro lúc đó vẫn còn do dự. Do vậy, Enea kể cho bạn cậu và người tình tên Alice về chuyện đôi bên gặp nhau và cô đưa cho cậu chìa khoá vào căn hộ không có người ở của bà cô. Sang ngày hôm sau, Pietro và Enea gặp nhau ở rạp chiếu phim rồi bọn họ rủ nhau đi quan hệ tình dục tại căn hộ. Họ dành trọn một đêm bên nhau, vun đắp tình cảm cho đôi bên ngày càng sâu đậm hơn và tiếp tục hẹn gặp nhau ở Tân Olympus vào ngày mai. Pietro có bảo Enea rằng anh đã đặt bàn cho họ ở một nhà hàng kiểu "trattoria", nhưng trước tiên anh muốn đi thăm mẹ tại bệnh viện trước. Trong lúc Pietro đi vắng thì có một cuộc biểu tình chống lại chế độ phát xít một cách ngang ngược và hung hăng đang diễn ra bên ngoài rạp chiếu phim. Titti giúp Enea thoát khỏi rạp chiếu phim và kế đến là Enea đi tìm kiếm Pietro, nhưng bất thành. Chính vì cả hai người quên cho số điện thoại hay địa chỉ nhà riêng nên bọn họ chịu cảnh mất liên lạc đối phương. Mười năm sau, vào năm 1988, Enea trở thành đạo diễn nổi tiếng với bộ phim gần đây nhất, bộ phim đó được dựa trên mối tình lãng mạn ngắn ngủi của cậu với Pietro. Trong cùng thời điểm đó, Pietro đã kết hôn với một người đàn bà tên Giulia. Anh và Giulia đến xem phim của Enea và từ đấy anh nhận ra có gì đó tương đồng giữa bộ phim với chính cuộc tình trước đó của anh. Đương nhiên, Giulia cũng trở nên khó hiểu và bắt đầu hoài nghi về phản ứng kỳ lạ của ông chồng mình. Pietro quay trở lại Tân Olympus, nơi ấy không còn được Titti quản lý nữa và cũng đã biến thành một rạp chiếu phim người lớn. Tại đây, anh gặp được Ernesto và cũng là người mà Pietro đã từng gặp từ mười năm trước. Ernesto bảo anh rằng Enea giờ đây đã là một đạo diễn nổi tiếng. Tại một bữa tiệc, Enea gặp một người đàn ông tên Antonio và họ ngay lập tức có tình cảm với nhau. Năm 1993, trong lúc đang trên chuyến tàu đi đến lễ hội phim, Enea, Antonio và Alice đã bất ngờ trước tờ báo công bố rằng Federico Fellini đã qua đời. Riêng Enea thì đã sững sốt hơn vì cậu vô tình chứng kiến được Pietro và Giulia đang ngồi ở con tàu đối diện từ bên ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, con tàu đối diện kia đã rời đi và Pietro thậm chí còn chưa kịp nhìn thấy Enea, ngoại trừ cô vợ Giulia của anh. Pietro khi ấy đã là một bác sĩ nhãn khoa tình cờ xem được buổi phỏng vấn tại lễ hội phim của Enea được chiếu trên tivi ở bệnh viện của anh. Trong lúc đang đi siêu thị mua sắm, Enea gặp lại và hỏi thăm Titti. Bà đã thắc mắc Enea tại sao lại không bao giờ chịu quay trở về rạp chiếu phim và báo cho Enea biết rằng Pietro đã để lại cho cậu một phong thư. Tuy trong bức thư đó có số điện thoại của Pietro nhưng khi Enea gọi điện lại thì không được. Tiếp đến là cảnh bộ phim mà Pietro và Enea đã từng xem cùng nhau tại Tân Olympus đang được công chiếu trên truyền hình, trùng hợp là cả hai người khi ấy cũng đang xem với bạn đời của đôi bên và mỗi người đều đang nhớ tới nhau. Pietro quyết định đi sang Roma để tìm gặp Enea tại một cuộc họp báo. Đến lúc Enea được hỏi về chuyện đạo diễn người Ý đầu tiên công khai xu hướng tính dục thì cậu đã bàn bạc về điều đó, đồng thời tuyên bố Antonio là tình yêu của cả đời mình. Pietro từ đó thất vọng và bỏ đi, nhưng anh không biết rằng Enea vẫn còn đang rung động trước tờ thư ngày xưa và nỗi nhớ nhung đến anh. Cuối cùng là vào năm 2015, Enea khi đó đã đạo diễn đến bộ phim thứ mười bốn. Tại trường quay thì cậu đã gặp sự cố đạo cụ khiến cho bột thuỷ tinh bay vào mắt, đành phải đi cấp cứu nhanh chóng. Duyên thay, cuộc phẫu thuật của Enea lại được chính tay của Pietro đảm nhiệm và anh cũng kinh ngạc khi cuối cùng cũng tận mặt gặp lại Enea sau gần bốn mươi năm xa cách. Phẫu thuật đã thành công và Enea đành phải băng bó vùng mắt của mình trong vòng một tuần lễ để hồi phục. Trong lúc trò chuyện qua lại với đội ngũ điều trị, Enea đã nhận ra được giọng nói của Pietro và năn nỉ anh đến căn hộ của cậu, mà vốn dĩ căn hộ ấy thuộc về người bà của Alice. Họ trao đổi lời nói qua lại, nhưng Pietro đã rời đi trước lúc Enea gỡ băng vùng mắt. Giulia đã trở thành người hâm mộ của Enea đã mời đạo diễn thần tượng của cô đến nhà mình và người chồng Pietro. Enea đã đến và ngạc nhiên trong lòng khi biết được điều cậu nghi ngờ là đúng, vị bác sĩ nhãn khoa mà mình nói chuyện bữa trước không xa lạ gì hơn chính là Pietro. Giulia lúc đó cũng đã chứng minh được chuyện mờ ám của ông chồng mình, sau khi thấy hai người mải mê nhìn nhau không chịu rời. Cô đau khổ sau bữa tối khi biết Pietro chưa bao giờ chịu nhìn mình bằng cách ấy, cái cách mà chồng cô nhìn lấy Enea. Cô đã thúc ép anh đi gặp Enea và anh làm theo, đuổi kịp Enea đang đi bộ trên phố. Pietro yêu cầu với Enea rằng đừng bao giờ quên kỷ niệm của cả hai, Enea đồng ý và mỗi người đã chính thức rời xa nhau theo lối đi riêng. Bộ phim được quay hoàn toàn ở thủ đô Roma, tập trung tại quận 3 và Monte Sacro. Quá trình ghi chụp bắt đầu vào tháng 11 năm 2022. Bộ phim được công chiếu tại lễ hội phim thủ đô Roma vào ngày 22 tháng 10 năm 2023. Nó được phát hành trên nền tảng Netflix vào ngày 1 tháng 11. Đoạn trailer nhá hàng cho bộ phim được công chiếu trong đêm đầu tiên tại Sanremo Music Festival 2023. Trailer chính thức được ra mắt vào ngày 19 tháng 9 năm 2023.
Space Task Group là tên một nhóm các kỹ sư của NASA được thành lập từ năm 1958 có nhiệm vụ quản lý chương trình vũ trụ có người lái của Mỹ. Đứng đầu nhóm khoa học là Robert Gilruth với trụ sở đặt tại Trung tâm nghiên cứu Langley, Hampton, Virginia. STG tham gia điều hành chương trình Mercury và các chương trình vũ trụ sau đó. Năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy đặt ra mục tiêu cho chương trình Apollo sẽ đưa người Mỹ đầu tiên đặt chân lên Mặt trăng và quay trở về Trái Đất, NASA đã quyết định thành lập một tổ chức lớn hơn và thành lập cơ sở mới dành cho các hoạt động của Task Group, và nó đã được chuyển đến Trung tâm bay có người lái (nay là Trung tâm vũ trụ Lyndon B. Johnson), Houston, Texas.
Rừng tràm Tân Tuyến Rừng tràm Tân Tuyến là khu rừng tràm ngập nước ở xã Tân Tuyến, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Tên đầy đủ là Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Tân Tuyến. Trong khu rừng ngập nước này có hệ thống cầu ván gỗ để đi lại, với tổng chiều dài lên đến 5.000 m. Rừng tràm Tân Tuyến thuộc địa bàn xã Tân Tuyến, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, phía Đông giáp ấp Tân An, ấp Tân Đức và kênh 10, phía Tây giáp tiểu khu 30C thuộc ấp Tân Đức, phía Nam giáp kênh 4, phía Bắc giáp Tỉnh lộ 943 và kênh Huệ Đức. Rừng có diện tích 256,39 ha (2,56 km2), được chỉ định là rừng đặc dụng. Địa hình trũng thấp, thổ nhưỡng là đất chua phèn, kém dinh dưỡng, mức độ chua phèn trung bình, về mặt cơ giới là đất thịt pha sét, hàm lượng mùn trung bình. Về thủy văn, kênh rạch chằng chịt khắp khu rừng ngập nước. Môi trường sinh thái của rừng chịu tác động mạnh của lũ từ sông Mê Kông, qua đó rừng nhận nhiều phù sa bồi đắp, độ pH từ 4,5-5,5. Khu rừng là vùng ngập nước với rừng tràm, trảng cỏ, đầm lầy. Theo chức năng, rừng phân làm 3 phân khu: Thực vật gồm 7 quần xã ưu thế tràm, sen, súng, năng ống, cỏ ống, mồm móc, sậy. Cây tràm là loài cây thân gỗ nhiều nhất, diện tích tràm trồng là 7,88 ha, tràm tái sinh là 74,14 ha, trảng cỏ ngập nước theo mùa là 169,73 ha, bờ kênh 4,64 ha. Khu rừng được phân là Khu A, một khu vực rộng hơn được phân là khu B có diện tích 1400 ha, là thao trường diễn tập quân sự của tỉnh An Giang. Năm 2011, UBND tỉnh An Giang ban hành quyết định phê duyệt đề án du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí tại rừng tràm Tân Tuyến. Ngày 6 tháng 11 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành Công văn 1545/TTg-NN xác lập khu rừng tràm Tân Tuyến là khu bảo vệ cảnh quan và bổ sung vào quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam. Ngày 2 tháng 3 năm 2020, UBND tỉnh An Giang ban hành Quyết định 418/QĐ-UBND phê duyệt thành lập Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Tân Tuyến. Ngày 30 tháng 12 năm 2022, UBND tỉnh An Giang thống nhất nội dung trình của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang phối hợp với Trung tâm Truyền thông Tài nguyên và môi trường (thuộc Bộ Tài nguyên và môi trường) tổ chức trồng rừng đặc dụng tại rừng tràm Tân Tuyến. Theo đó, các đơn vị sẽ tiến hành trồng 5 ha tràm nội với mật độ 20.000 cây/ha.
Chữ viết sông Ấn Chữ viết sông Ấn, còn được gọi là chữ Harappa, là một tập hợp các ký tự được tạo ra bởi nền văn minh lưu vực sông Ấn. Hầu hết các bản khắc chứa các ký tự này đều cực kỳ ngắn, gây khó khăn trong việc phản xét liệu các ký tự này có cấu thành một hệ thống chữ viết dùng để ghi chép (các) ngôn ngữ vẫn chưa được xác định của nền văn minh lưu vực sông Ấn hay không. Dù có nhiều cố gắng, 'chữ viết' này chưa được giải mã, nhưng các nỗ lực vẫn đang tiếp diễn. Không có bản chữ khắc song ngữ nào được nhận dạng để giúp giải mã chữ viết, cho thấy không có thay đổi đáng kể theo thời gian. Tuy nhiên, một số cú pháp (nếu đó là những gì có thể được gọi) thay đổi tùy theo vị trí. Ẩn phẩm đầu tiên của một con dấu với các ký tự Harappa là vào năm 1875, trong một bức vẽ của Alexander Cunningham. Đến năm 1992, ước tính có khoảng 4.000 đồ vật được khắc đã được tìm thấy, một số ở xa như Lưỡng Hà, do mối quan hệ sông Ấn–Lưỡng Hà cổ, với hơn 400 ký tự riêng biệt đại diện trên các dòng chữ khắc xác định. Một số học giả, chẳng hạn như G. R. Hunter, S. R. Rao, John Newberry, và Krishna Rao đã lập luận rằng chữ Brahmi có mối liên hệ nào đó với hệ thống sông Ấn. Raymond Allchin phần nào đã hỗ trợ một cách thân trọng khả năng chữ Brahmi ảnh hưởng bởi chữ viết sông Ấn. Một khả năng khác cho sự tiếp nối của truyền thống lưu vực sông Ấn là nằm trong các ký tự phun sơn văn hóa cư thạch tại phía Nam và Trung Ấn Độ (và Sri Lanka), có thể không tạo thành một hệ thống chữ viết ngôn ngữ nhưng có thể có một số điểm trùng lặp với kho ký tự sông Ấn. Các nhà ngôn ngữ học chẳng hạn như Iravatham Mahadevan, Kamil Zvelebil, và Asko Parpola lập luận rằng chữ viết có một mối quan hệ với một ngôn ngữ Dravida. Đến năm 1977, có ít nhất 2,906 đồ vật được khắc với dòng chữ dễ đọc đã được tìm thấy, và đến năm 1992 có tổng cộng xx.4,000 đồ vật được khắc được tìm thấy. Các ký tự sông Ấn chủ yếu được tìm thấy trên các con dấu, đồ gốm, đồng và tấm đồng, dụng cụ, và vũ khí. Phần lớn các ngữ liệu văn bản bao gồm các con dấu, vết in của những con dấu đó và các dấu vẽ phun sơn khắc trên đồ gốm. Các con dấu và vết in của chúng thường nhỏ về kích thước và có thể cầm được, với nhiều con dấu mỗi bên chỉ dài 2–3 cm. Không có ví dụ chữ viết sông Ấn còn sót lại được tìm thấy trên vật liệu hữu cơ dễ hư hỏng như papyrus, giấy, tài liệu, lá, gỗ, hoặc vỏ cây. Thời kỳ Harappa sớm. Các ví dụ ban đầu của chữ viết sông Ấn tìm thấy trên dòng chữ khắc trên đồ gốm và vết in dấu ấn Harappa được khắc trên đất sét có từ #đổi trong thời kỳ Harappa sớm, và nổi lên cùng với các đồ vật được quản lý như con dấu và khối lượng tiêu chuẩn trong giai đoạn Kot Diji của thời kì này. Tuy nhiên, cuộc khai quật ở Harappa đã chứng minh sự khai thác của một số ký tự từ các dấu của đồ gốm và chữ phun sơn thuộc giai đoạn Ravi sớm hơn từ #đổi . Thời kỳ Harappa trung đại. Trong thời kỳ Harappa trung đại, từ #đổi , chuỗi ký tự sông Ấn thường tìm thấy trên các con dấu phẳng, hình chữ nhật cũng như được viết hoặc khắc trên vô số đồ vật khác bao gồm đồ gốm, dụng cụ, bảng, và đồ trang trí. Các ký tự được viết bằng nhiều phương pháp bao gồm chạm khắc, đục đẽo, dập nổi và sơn áp dụng cho các vật liệu đa dạng như terracotta, sa thạch, hoạt thạch, xương, vỏ, đồng, bạc, và vàng. #đổi , Iravatham Mahadevan lưu ý rằng khoảng 90% con dấu chữ sống Ấn và đồ vật được khắc đã phát hiện cho đến nay được tìm thấy tại các địa điểm ở Pakistan dọc theo sông Ấn và phụ lưu của nó, như Mohenjo-daro và Harappa, trong khi các địa điểm khác nằm ở nơi khác chiếm 10% còn lại. Thông thường, động vật như bò, trâu, voi, tê giác và con "kỳ lân" huyền thoại kèm theo dòng chữ trên con dấu, có thể là để giúp những người mù chữ xác định nguồn gốc của một con dấu cụ thể. Thời kỳ Harappa muộn. Thời kỳ Harappa muộn, từ #đổi , theo sau thời kỳ Harappa trung đại được đô thị hóa hơn, và là một thời kỳ phân mảnh và nội địa hóa trước thời đại đồ sắt ở tiểu lục địa Ấn Độ. Các bản khắc được tìm thấy tại các địa điểm gắn liền với các giai đoạn cục bộ của thời kỳ này. Ở Harappa, việc sử dụng chữ viết này phần lớn đã bị chấm dứt khi việc sử dụng các con dấu có khắc chữ chấm dứt khoảng từ #đổi ; tuy nhiên, việc sử dụng chữ viết sông Ấn có thể đã tồn tại lâu hơn ở các khu vực khác như ở Rangpur, Gujarat, cụ thể là dưới hình thức dòng chữ phun sơn được khắc trên đồ gốm. Các con dấu từ giai đoạn Jhukar của thời kỳ Harappa muộn, tập trung ở tỉnh Sindh ngày nay ở Pakistan, thiếu chữ viết sông Ấn, tuy nhiên, một số dòng chữ khắc trên mảnh sành từ giai đoạn này đã được ghi nhận. Cả hai con dấu và mảnh sành mang văn bản chữ viết sông Ấn, đều có từ #đổi , đã được tìm thấy tại các địa điểm gắn liên với văn hóa Daimabad của thời kỳ Harappa muộn, tại Maharashtra ngày nay. Phần lớn các ký tự là tượng hình, mô tả các đồ vật tìm thấy trong thế giới cổ đại nói chung, tìm thấy trong văn hóa Harappa địa phương, hoặc có nguồn gốc từ thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, các ký tự trừu tượng cũng được xác định. Một số ký tự là ký tự ghép giữa các ký tự tượng hình, trong khi các ký tự khác không được biết là xảy ra một cách đơn lập, được biết đến chỉ xảy ra như là thành phần của các ký tự phức tạp hơn. Một số ký tự giống như dấu vạch và thường được hiểu là các số sớm. Các ký tự sông Ấn gán mã ISO 15924 là "Inds". Michael Everson đã gửi một đề xuất hoàn chỉnh về việc mã hóa chữ viết trong mặt phẳng đa ngôn ngữ bổ sung của Unicode vào năm 1999, nhưng đề xuất này chưa được chấp thuận bởi Ban kỹ thuật Unicode. Tính đến tháng 2 năm 2022, Script Encoding Initiative vẫn liệt kê đề xuất trong danh sách các tập lệnh chưa được mã hóa chính thức trong Tiêu chuẩn Unicode (và ISO/IEC 10646). Phông chữ sông ấn là một phông chữ Private Use Areas (PUA) giống như chữ viết sông Ấn. Phông chữ này được thiết kế dựa trên một ngữ liệu biên soạn bởi nhà Sindh học Asko Parpola trong cuốn "Deciphering the Indus Script" của ông. Amar Fayaz Buriro, một kỹ sư ngôn ngữ, và Shabir Kumbhar, một nhà thiết kế phông chữ, được giao nhiệm vụ bởi Quỹ quốc gia dành cho Mohenjo-daro để thiết kế phông chữ này, và họ đã trình bày tại một hội nghị quốc tế về Mohenjo-daro và nền văn học lưu vực sông Ấn vào ngày 8 tháng 2 năm 2017.#đổi
Hội đồng Hòa giải Dân tộc Hội đồng Hòa giải Dân tộc () là tổ chức của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên với mục đích tạo điều kiện cho các chuyến thăm từ Hàn Quốc tới Bắc Triều Tiên. Được thành lập vào ngày 8 tháng 6 năm 1998, chủ tịch là Kim Yong-dae. Chuyến thăm đầu tiên do cơ quan này tổ chức là chuyến thăm năm 2001 tới Núi Kumgang kỷ niệm hội nghị thượng đỉnh Liên Triều năm 2000. Hầu hết các chuyến thăm văn hóa, chính trị và tôn giáo từ Hàn Quốc đều thông qua Hội đồng Hòa giải Dân tộc. Tổ chức này đôi khi được trích dẫn trong các bản tin chính thức của Thông tấn xã Trung ương Triều Tiên.
Cây cối trong thần thoại Cây cối trong thần thoại ("Trees in mythology") có ý nghĩa quan trọng trong nhiều truyền thuyết, thần thoại và huyền kỳ trên toàn thế giới, đồng thời cây cối (chỉ về thực vật thân gỗ) mang những ý nghĩa sâu sắc và thiêng liêng qua nhiều thời đại lịch sử. Con người quan sát sự sinh trưởng và chết đi của cây, cũng như cảnh héo hon, rơi rụng và sự hồi sinh tán lá hàng năm của cây cối nên người ta thường coi chúng là biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở, sự chết và sự tái sinh, đâm chồi nảy lộc. Rừng thường xanh, phần lớn vẫn xanh mướt trong suốt các chu kỳ này, đôi khi được coi là biểu tượng của sự vĩnh cửu, sự bất tử hoặc khả năng sinh sản, từ lẽ đó, con người thời nguyên thủy đã có tục thờ cây cối như là một tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Hình tượng Cây sự sống hay cây thế giới xuất hiện trong nhiều thần thoại như là một thế giới vũ trụ thu nhỏ. Những minh chứng này bao gồm cây đa (banyan) và cây vả thiêng liêng ("Ficus religiosa") trong Ấn Độ giáo, Phật giáo và Kỳ Na giáo, cây biết điều thiện và ác của Do Thái giáo và Kitô giáo. Trong tín ngưỡng dân gian và văn hóa dân gian, cây cối thường được cho là nơi cư ngụ của thần cây, nữ thần cây, thần rừng, sơn thần trong những khu rừng thiêng hay trên núi thiêng. Trong thần thoại và ngoại giáo Đức và thần thoại Đức thì nhũng khóm cây thiêng liêng cũng như Đa thần Celtic dường như đều liên quan đến việc thực hành tín ngưỡng ở khu rừng thiêng, đặc biệt là lùm cây sồi. Tử thu Ai Cập đề cập đến loại cây Ficus sycomorus như một phần của khung cảnh nơi linh hồn của người đã khuất tìm thấy nơi an nghỉ hạnh phúc. Sự hiện diện của cây cối trong thần thoại đôi khi liên quan đến khái niệm cây thiêng và khu rừng thiêng. Cây cối là một thuộc tính của nguyên mẫu "locus amoenus". Ở nhiều nơi trên thế giới, du khách có phong tục treo đồ vật lên cây để thiết lập một mối quan hệ nào đó giữa họ và cây nguyện ước. Trên khắp Châu Âu, cây cối được biết đến là địa điểm hành hương, đi lại theo nghi lễ và là nơi cầu nguyện theo lễ Cơ Đốc giáo. Vòng hoa, ruy băng hoặc giẻ rách được treo để cầu may, niềm tin này hướng đến sự chữa lành hoặc hoặc đơn thuần là ước muốn. Ở Nam Mỹ, Darwin đã ghi nhận lại sự việc một cái cây được tôn vinh bằng nhiều lễ vật (giẻ lau, thịt, xì gà, ); người ta làm lễ cúng cho nó và hiến tế ngựa. Cái cây thế giới với cành vươn lên trời và rễ cắm sâu vào lòng đất, có thể thấy tồn tại trong ba thế giới - mối liên kết giữa trời, đất và âm phủ, thống nhất trên và dưới. Cây thiêng vĩ đại này như một axis mundi, hỗ trợ hoặc nâng đỡ vũ trụ và nuôi dưỡng mối liên kết giữa trời, đất và thế giới ngầm. Trong thần thoại châu Âu, ví dụ nổi tiếng nhất là cái cây Yggdrasil từ thần thoại Bắc Âu. Ngoài ra, còn nhiều cây thiêng khác như Cây sự sống trong Kinh Thánh, Cây Giáng Sinh trong Cơ Đốc giáo, cây Lotus trong thần thoại Hy Lạp, Cội Bồ-đề trong Phật giáo. Ở Trung Quốc có truyền thuyết về cây tiền tài, cây Phù Tang. Ở Việt Nam có truyền thống dựng cây nêu ngày Tết theo truyền thuyết thì cây nêu này sẽ chống lại quỹ dữ, trong lịch sử có cây Chiên Đàn tán rộng là nơi trú ẩn của Quỷ Xương Cuồng. Một số nơi có truyền thuyết về cây ăn thịt người đặc biệt là truyền thuyết đi đường của những thổ dân da đen sống trong những khu rừng rậm và đầm lầy nước đen, cây ăn thịt người là một đặc sản của Madagascar và được người dân bộ tộc Mkodo ở đây tôn thờ như một linh vật đặc biệt.
Cổ phiếu meme (tiếng Anh: Meme stock) là cổ phiếu được các nhà đầu tư bán lẻ ưa chuộng trên phương tiện truyền thông mạng xã hội. Mức độ phổ biến của cổ phiếu meme nói chung dựa trên các meme Internet được chia sẻ giữa các bên giao dịch trên các nền tảng như r/wallstreetbets của Reddit. Những người đầu tư vào những cổ phiếu này thường là những nhà đầu tư trẻ và thiếu kinh nghiệm. Do sự phổ biến của chúng, cổ phiếu meme thường giao dịch ở mức giá cao hơn giá trị ước tính dựa trên phân tích cơ bản, và được biết đến là có tính đầu cơ cực cao và dễ biến động.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tháng 12 năm 2018, Indya Moore công khai là một người đa ái. Indya Moore sinh ra với giới tính chỉ định là nam, lớn lên ở quận The Bronx, New York, là người có gốc Haiti, Dominica, và Puerto Rico. Mẹ của Moore là một điều dưỡng, thường xuyên phải chăm sóc quá nhiều bệnh nhân chuyển giới bị người đời xa lánh, kỳ thị. Bà lo lắng rằng nếu để con mình sống như một người chuyển giới thì sẽ phải chịu đựng những đau khổ như những bệnh nhân mà bà đã gặp. Năm 14 tuổi, Moore đã bỏ nhà tìm đến vì sự kỳ thị chuyển giới đến từ cha mẹ. Moore kể lại vào giai đoạn này, họ đã lưu lạc khắp cả năm quận của thành phố New York, qua nhiều khu nhà ở tập thể và ra toà cũng không ít lần. Moore từng được một người phụ nữ chuyển giới nhận nuôi và dạy họ sử dụng hormone như cách tiếp cận gần hơn với bản dạng giới của mình. Cho tới một ngày nọ, người mẹ nuôi ngừng cung cấp hormone và họ đã phải tìm cách mua trên mạng. Một người lạ đã nhắn tin qua Facebook và nói rằng muốn giúp Moore kiếm tiền để có thể trở thành "phụ nữ thực sự". Moore đã chấp nhận lời đề nghị và vô hình trung vướng vào nhóm buôn bán tình dục, khi đó bản thân Moore cũng không hiểu mại dâm là gì và bản thân cũng bị hành hạ thể xác nhiều. Moore bỏ học vào năm lớp 10 và bắt đầu con đường người mẫu từ năm 15 tuổi. Moore trở thành người mẫu ở tuổi 15 và bắt đầu chụp hình cho Dior và Gucci, bất chấp việc ban đầu ngành thời trang coi họ là một lựa chọn mạo hiểm. Mặc dù Moore đang có những hợp đồng làm người mẫu nhưng họ ngày càng không hài lòng với ngành thời trang và sự chú trọng của nó vào hình ảnh cơ thể. Moore gặp Jose Gutierez Xtravaganza, một nghệ sĩ ballroom, khi đang đóng quần chúng cho bộ phim truyền hình The Get Down. Người này đã khuyến khích họ theo đuổi diễn xuất và gửi Moore tới thử vai cho bộ phim độc lập Saturday Church. Moore được nhận vai nhân vật Dijon và phim được trình chiếu tại Liên hoan phim Tribeca. Đầu năm 2017, Moore sải bước trên sàn của Tuần lễ Thời trang New York và chụp ảnh cho tạp chí "Vogue España". Năm đó, Moore xuất hiện trong video âm nhạc của Katy Perry cho đĩa đơn "Swish Swish" và biểu diễn trực tiếp với Katy Perry trong một tập của Saturday Night Live vào ngày 20 tháng 5 năm 2017, nơi họ được ghi nhận là một thành viên của Nhà Xtravaganza. Loạt phim truyền hình "Pose". Cuối năm 2017, Moore được chọn tham gia Pose, loạt phim truyền hình FX của Ryan Murphy về văn hóa ballroom trong thành phố New York vào cuối những năm 1980. Moore vào vai Angel Evangelista, một người lao động tình dục chuyển giới nữ, gia nhập Nhà Evangelista sau khi rời khỏi Nhà Abundance cùng với người bạn Blanca của cô, do Michaela Jaé Rodriguez thể hiện. Khi làm việc ở , cô gặp Stan, một yuppie do Evan Peters thủ vai, và trở thành tình nhân của anh ta. Loạt phim được khởi chiếu vào ngày 3 tháng 6 năm 2018. Mùa đầu tiên quy tụ dàn diễn viên chuyển giới nhiều nhất từ trước đến nay cho một loạt phim mạng có kịch bản với hơn 50 nhân vật chuyển giới. Indya Moore tiếp tục đảm nhận vai diễn này trong 2 mùa tiếp theo của loạt phim. Những dự án theo sau. Năm 2018, Moore ký hợp đồng với IMG Models và William Morris Endeavour (WME). Moore là hợp đồng đầu tiên của WME được ký kết với một diễn viên chuyển giới. Moore cũng thành lập công ty sản xuất Beetlefruit Media, nơi cung cấp nền tảng cho những câu chuyện cho các nhóm người bị tước quyền bầu cử. Moore đã xuất hiện trong video âm nhạc "Don't Pull Away" năm 2017 của J.View và trong video "Saint" năm 2018 của Blood Orange. Vào tháng 5 năm 2019, Moore trở thành người chuyển giới đầu tiên được xuất hiện trên trang bìa tạp chí Elle phiên bản Hoa Kỳ. Vào tháng 12 năm 2019, Moore thử sức với vai trò lồng tiếng cho nhân vật Shep trong loạt phim hoạt hình "Steven Universe Future". Nhân vật này cũng là người phi nhị nguyên và là người tình của nhân vật Sadie Miller. Moore đã được chọn tham gia bộ phim kinh dị tâm lý , phần tiếp theo của bộ phim "Escape Room" năm 2019. Phim được phát hành vào ngày 16 tháng 7 năm 2021. Moore còn lồng tiếng cho nhân vật Brooklyn, một trong những bạn cùng lớp của Lunella, trong "Moon Girl và Devil Dinosaur." Vào tháng 6 năm 2020, để vinh danh kỷ niệm 50 năm cuộc diễu hành Tự hào LGBTQ đầu tiên, "Queerty" đã nêu tên họ trong số 50 anh hùng "tiên phong quốc gia hướng tới bình đẳng, chấp nhận và nhân phẩm cho tất cả mọi người".
Have Dash I là một chương trình bí mật nhằm phát triển tên lửa không đối không dành cho máy bay tàng hình. Thiết kế sơ bộ được thực hiện bởi Phòng thí nghiệm phát triển vũ khí của Không quân Mỹ từ năm 1985 đến năm 1988 tuy nhiên không phát triển đến mức sản phẩm thử nghiệm. Have Dash II, là một nỗ lực để phát triển một loại tên lửa không đối không tàng hình, được trang bị trên các máy bay đang phát triển trong chương trình Advanced Tactical Fighter – YF-22 và YF-23 – và để thay thế tên lửa AIM-120 AMRAAM. Have Dash II có thiết kế thân composite,mặt cắt tên lửa dạng hình thang, làm giảm diện tích phản xạ radar và giảm sự gia nhiệt trong khi bay siêu thanh ở tốc độ Mach 5. Hình dạng thân tên lửa cũng giúp nó có thể chứa trong khoang vũ khí chìm của máy bay, và bổ sung thêm lực nâng giúp tên lửa có khả năng thao diễn tốt hơn. Nguyên mẫu tên lửa sử dụng động cơ nhiên liệu rắn Mk58 của Rocketdyne, cũng chính là loại sử dụng trên tên lửa AIM-7 Sparrow. Khi đi đến giai đoạn chế tạo hàng loạt, tên lửa được dự kiến sẽ trang bị động cơ ramjet, và có khả năng định vị dựa trên vệ tinh trên toàn hành trình bay, ở pha cuối sẽ sử dụng đầu dò hồng ngoại và đầu dò radar chủ động. Việc thử nghiệm tên lửa dự kiến sẽ diễn ra vào năm 1992; dường như các thử nghiệm đã được tiến hành, với việc tên lửa được cân nhắc thử nghiệm sâu hơn đối với các ý tưởng thiết kế cải tiến. Tuy nhiên, các thử nghiệm về loại tên lửa này vẫn là bí mật và không có báo cáo nào về chương trình phát triển tên lửa tiếp th.
Quý tộc Tây Ban Nha Quý tộc Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: "Nobiliarios de España") là những người sở hữu danh hiệu quý tộc được Bộ Tư pháp Tây Ban Nha xác nhận, cũng như những cá nhân được bổ nhiệm vào một trong ba cấp bậc hiệp sĩ cao nhất của vương quốc, bao gồm: Huân chương Lông cừu vàng, Huân chương Carlos III và Huân chương Công giáo Isabel. Một số quý tộc sở hữu nhiều tước hiệu khác nhau có thể được thừa kế hoặc không, nhưng việc tạo ra và công nhận các tước hiệu về mặt pháp lý là đặc quyền của Vua Tây Ban Nha. Nhiều tước hiệu và gia đình cao quý vẫn tồn tại đã truyền lại tước vị đó từ xa xưa. Một số gia đình quý tộc sử dụng trợ từ "de" cao quý trước tên gia đình của họ, mặc dù điều này nổi bật hơn trước thế kỷ XX. Trong thời kỳ cai trị của "Generalísimo" Francisco Franco, một số tước hiệu cha truyền con nối mới đã được phong cho các cá nhân và các tước hiệu do những người tuyên bố ngai vàng của Castilla phong đã chính thức được công nhận. Bất chấp việc Juan Carlos I lên ngôi Tây Ban Nha vào năm 1975 và phục vị Vương tộc Bourbon. Triều đình hoàng gia gồm các quý tộc nắm giữ các chức vụ và chức vụ trực thuộc Gia đình Hoàng gia vẫn chưa được khôi phục. Những người có quyền sở hữu tước hiệu quý tộc phải chịu thuế, trong khi dưới thời "Ancien Régime" của Tây Ban Nha (cho đến năm 1923) họ được miễn thuế. Vua Juan Carlos tiếp tục phong tước hiệu cho các công dân có thành tích trong các hoạt động công ích, nỗ lực nghệ thuật, thành tích cá nhân, hoạt động từ thiện, Các quý tộc ở Tây Ban Nha được phân cấp tước hiệu tương tự như Quý tộc Anh, Hà Lan, Thụy Điển, Bỉ hiện nay, hay giới quý tộc trước đây ở Đức, Ý, Bồ Đào Nha, gồm 5 cấp bậc chính thức: Công tước, Hầu tước, Bá tước, Tử tước và Nam tước, ngoài ra, ở Tây Ban Nha còn có thêm 2 bậc xếp dưới Nam tước, đó là señor và Hidalgo. Các triều đại Tây Ban Nha còn công nhận một tầng lớp cao quý khác là quý tộc, họ gồm những gia tộc giàu có với sức ảnh hưởng lâu đời, những người này được gọi là quý tộc không tước phong. Những quý tộc cao cấp nhất ở Tây Ban Nha được đính kèm tước hiệu "Grandee" (tiếng Tây Ban Nha: "Grande de España"), tính đến năm 2018, chỉ có 417 trên 2.942 tước hiệu ở Tây Ban Nha được gắn với Grandee.
Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia 1997 Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia 1997 là mùa giải đầu tiên của Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam tổ chức và quản lý. Giải đấu là sự thay thế cho Giải bóng đá A1 toàn quốc với tư cách là giải thi đấu bóng đá cấp câu lạc bộ cao thứ 2 trong hệ thống các giải bóng đá Việt Nam (giải đấu cao nhất là Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia được đổi tên từ Giải bóng đá Các đội mạnh Toàn quốc). Giải khởi tranh vào tháng 4 và kết thúc vào ngày 26 tháng 9 năm 1997. Bảng A (Khu vực miền Bắc). Các trận đấu vòng loại thuộc bảng A đã diễn ra đến ngày 1 tháng 6 năm 1997. Nam Định và Thanh Hóa là các đội đã vượt qua vòng loại. Bảng B (Khu vực miền Trung và Tây Nguyên). Các trận đấu vòng loại thuộc bảng B đã diễn ra đến ngày 1 tháng 6 năm 1997. Bình Định, Đà Nẵng và Cấp nước Đà Nẵng là các đội đã vượt qua vòng loại. Bảng C (Khu vực miền Nam). Các trận đấu vòng loại thuộc bảng C đã diễn ra từ tháng 4 đến ngày 25 tháng 5 năm 1997. 18 đội được chia thành hai nhóm A và B, chọn 4 đội đứng đầu 2 nhóm vào vòng chung kết. Quân khu 7, Cao su Đồng Nai (nhóm A) và Tiền Giang, Kiên Giang (nhóm B) là các đội đã vượt qua vòng loại. Vòng chung kết diễn ra từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 14 tháng 9 năm 1997. 9 đội tham dự được chia thành 3 nhóm, thi đấu vòng tròn một lượt theo quy định không có trận hòa; nếu hòa sẽ tiến hành đá thêm hai hiệp phụ (có áp dụng luật bàn thắng vàng) và loạt sút luân lưu để xác định đội thắng. Ba đội đứng đầu ba bảng cùng một đội nhì bảng có thành tích tốt nhất giành quyền vào bán kết. Các trận đấu của nhóm A diễn ra tại sân vận động Chi Lăng, thành phố Đà Nẵng. Các trận đấu của nhóm B diễn ra tại sân vận động Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Các trận đấu của nhóm C diễn ra tại sân vận động Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Xếp hạng các đội đứng thứ hai. Chỉ một đội nhì bảng giành quyền vào bán kết. Vòng đấu loại trực tiếp. Hai đội thắng trong hai trận bán kết sẽ trực tiếp giành quyền lên thi đấu tại Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia 1998. Tất cả các trận đấu của giai đoạn này diễn ra trên sân vận động Tự Do, Huế. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Christopher Elnathan Okoro Cole, CMG OBE (17 tháng 4 năm 1921 – 1990) là chính khách Sierra Leone. Ông giữ chức Toàn quyền và Tổng thống Sierra Leone trong vòng 1 ngày năm 1971. Năm 1965, Cole nhận Huân chương Đế quốc Anh (OBE) và được giới thiệu nhận Huân chương Thánh Michael và Thánh George năm 1973. Năm 1970, Cole trở thành Chánh án Sierra Leone. Đầu năm 1971, Sierra Leone diễn ra quá trình thay đổi hiến pháp để bãi bỏ chế độ quân chủ đồng thời xác định Thủ tướng Siaka Stevens sẽ trở thành Tổng thống. Cole nhậm chức Toàn quyền lâm thời ngày 31 tháng 3 rồi đã giữ chức quyền tổng thống trong hai ngày. Sau đó, ông trở lại làm Chánh án Tối cao cho đến năm 1978. Cole nghỉ hưu năm 1978. Ông đã kết hôn và có bốn người con.
Rolls-Royce Cullinan là một mẫu SUV hạng sang cỡ lớn được sản xuất bởi Rolls-Royce Motor Cars, đồng thời cũng là chiếc xe đầu tiên sử dụng hệ dẫn động bốn bánh của hãng. Tên gọi của xe được đặt theo Kim cương Cullinan, viên kim cương thô lớn nhất từng được phát hiện trên thế giới. Cullinan được định vị nằm trên dòng Ghost và tầm dưới Phantom trong dải sản phẩm Rolls-Royce, với mức giá khởi điểm tại Hoa Kỳ rơi vào khoảng 325.000 USD (255.000 bảng Anh). Xe được ra mắt vào tháng 5 năm 2018 tại sự kiện Concorso d'Eleganza Villa d'Este ở Ý. Đối với thị trường Hoa Kỳ, Cullinan không được miễn Đạo luật Thuế Năng lượng vì nó được đưa vào phân khúc station wagon thay vì SUV. Vào năm 2015, rộ lên thông tin cho rằng một mẫu xe mới đang được phát triển và dự kiến mang tên gọi Cullinan. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ việc hãng Rolls-Royce muốn cạnh tranh với các đối thủ Bentley và Lamborghini, vốn đã đánh chiếm thị trường SUV từ trước lần lượt với các mẫu Bentayga và Urus. Tại Triển lãm Ô tô Quốc tế Frankfurt 2015, Giám đốc điều hành Torsten Müller-Ötvös cho biết chiếc SUV này sẽ được ra mắt vào năm 2018 và có mặt trên thị trường vào năm 2019. Cái tên "Cullinan" đã được Rolls-Royce chính thức xác nhận vào ngày 13 tháng 2 năm 2018. Nó được lấy cảm hứng từ Cullinan, viên kim cương lớn nhất từng được tìm thấy với khối lượng 3106 carat. Đây cũng chính là mẫu SUV đầu tiên của hãng. Theo chiến lược điện hóa của BMW AG, Rolls-Royce cùng nhiều hãng xe khác, các mẫu xe sử dụng động cơ đốt trong dự kiến sẽ dừng sản xuất vào năm 2030 và thay thế hoàn toàn bằng xe điện. Đến năm 2019, Rolls-Royce Motor Cars tuyên bố rằng mặc dù đã đẩy mạnh sản xuất và tuyển thêm nhân viên, thế nhưng họ vẫn không có đủ nguồn cung để đáp ứng nhu cầu cho những khách hàng trung thành hoặc khách hàng nữ giới và trẻ tuổi. Thiết kế và thử nghiệm. Phần lớn thiết kế ngoại thất của Cullinan đều vay mượn từ Rolls-Royce Phantom thế hệ thứ 8, với điểm nhấn gồm lưới tản nhiệt hình đền Parthenon đặc trưng, cụm đèn pha thông minh sử dụng công nghệ laser cùng hai khe hút gió. Phần nội thất của Cullinan được chế tác tinh xảo từ những chất liệu cao cấp. Ghế ngồi bọc bằng những tấm da bò, được hãng chọn lựa kỹ lưỡng và xử lý bởi các nghệ nhân có tay nghề cao. Gỗ Veneer được chọn làm chất liệu chế tác ở một số chi tiết taplo, tappi cửa. Ngoài ra, xe còn được trang bị nhiều trang bị đặc biệt, nổi bật là hệ thống âm thanh Rolls-Royce Bespoke 18 loa. Khoanh hành lý của xe có thể được sử dụng để phục vụ cho mục đích cắm trại, với những chiếc ghế da được bố trí phía sau. Bên cạnh đó, đây cũng là chiếc Rolls-Royce duy nhất có vách kính ngăn giữa khoang hành lý và khoang hành khách, giúp phân tách hoàn toàn không gian cabin và khoang chứa đồ. Cullinan có nhiều chế độ lái khác nhau, trong đó off-road giúp cho chiếc xe mở mô men xoắn ở mức cực đại. Xe còn có hệ thống treo có thể tăng chiều cao thêm 40 mm khi đang ở chế độ off-road. Giai đoạn thử nghiệm. Giai đoạn thử nghiệm của Cullinan được cho là đã tiến hành vào ngày 2 tháng 1 năm 2016, kể từ đó nó đã được bắt gặp nhiều lần khi đang chạy thử trên môi trường băng tuyết. Những thử nghiệm cuối cùng của xe được thực hiện vào năm 2018 trên nhiều dạng địa hình khác nhau, với sự cộng tác từ kênh truyền hình National Geographic. Thông số kỹ thuật và hiệu suất. Cullinan sử dụng hệ khung gầm không gian Architecture of Luxury được làm hoàn toàn bằng nhôm, vốn xuất hiện lần đầu trên mẫu Phantom VIII. Với vật liệu này, xe sẽ tăng khả năng cách âm cũng như độ cộng hưởng bên trong cabin xe. Cullinan sử dụng trục bánh trước kiểu tay đòn kép, trong khi trục bánh sau có dạng 5 nhánh liên kết. Đồng thời, nó còn được trang bị hệ thống treo khí nén tự động thực hiện hàng triệu phép tính trong mỗi giây nhằm thay đổi hệ thống cân bằng điện tử điều chỉnh giảm xóc. Xe cũng được trang bị các thanh cân bằng chống lật chủ động được kích hoạt bằng điện. Với hệ thống camera âm thanh nổi được tích hợp vào kính lái, Cullinan có thể quét mặt đường và địa hình phía trước, từ đó điều chỉnh hệ thống treo một cách chủ động nhằm cải thiện chất lượng lái. Với tên gọi "The Flagbearer", nó có thể hoạt động khi xe chạy ở tốc độ lên tới . Michael Snell, Giám đốc Marketing khu vực Châu Mỹ của Rolls-Royce Motor Cars cho biết: "Kể cả khi những cải tiến mới được bổ sung trên hệ thống treo và dẫn động của Cullinan, thế nhưng trải nghiệm lái vẫn không bị ảnh hưởng vì chiếc xe vẫn giữ được tính năng "Magic Carpet Ride" trứ danh khi vận hành trên mọi địa hình". Tương tự như chiếc Phantom VIII, Cullinan sử dụng hệ thống lái bốn bánh để cải thiện cả khả năng cơ động ở tốc độ thấp lẫn độ ổn định ở tốc độ cao hơn. Cullinan được trang bị duy nhất động cơ tăng áp kép V12 6,75 lít, cùng với hộp số tự động 8 cấp 8HP ZF. Hệ dẫn động mà Cullinan sử dụng là loại dẫn động bốn bánh toàn thời gian. Black Badge là phiên bản đặc biệt của Cullinan với hiệu suất ấn tượng hơn. Ngoại thất của xe phủ bởi tông màu đen chủ đạo (bao gồm cả logo Spirit of Ecstasy), trong khi phần nội thất chứa các vật liệu được dệt từ sợi carbon. Loại da sử dụng trên xe có màu đen, còn đường coachline bên ngoài thì được sơn trùng theo màu ngoại thất.
Sir Banja Tejan-Sie (7 tháng 8 năm 1917 – 8 tháng 8 năm 2000) là Toàn quyền Sierra Leone và là một trong những người sáng lập Đảng Nhân dân Sierra Leone (SLPP). Ông được Nữ hoàng phong tước hiệp sĩ với Huân chương cao quý nhất - Đại thập tự huân chương Thánh Michael và Thánh George, GCMG. Năm 1967, Sierra Leone bị đảo chính quân sự lật đổ, lập ra Hội đồng Cải chánh Quốc gia. Tejan-Sie trở thành Chánh án Tối cao Pháp viện cho đến năm 1968. Khi khôi phục được quyền kiểm soát dân sự, ông được bổ nhiệm làm Toàn quyền. Năm 1971, khi Sierra Leone trở thành nước Cộng hòa, Tejan-Sie phải sống lưu vong ở Anh cho đến cuối đời.
John Amadu Bangura, CBE (8 tháng 3 năm 1930 – 29 tháng 3 năm 1970) là Chuẩn tướng Sierra Leone, từng giữ chức Tham mưu trưởng Quân lực Sierra Leone năm 1968-1970. Trước đó vào năm 1967, ông là Đại sứ Sierra Leone tại Hoa Kỳ. Ông là quyền Toàn quyền Sierra Leone từ ngày 18 tháng 4 năm 1968 đến ngày 22 tháng 4 năm 1968. Ông đã lãnh đạo đảo chính năm 1968 tái lập thành công chế độ dân sự ở Sierra Leone. Năm 1970, thủ tướng Siaka Stevens cho bắt giữ Bangura và buộc tội âm mưu chống đối. Bangura bị kết án tử hình vì tội phản quốc. Dù cho thực tế chính Bangura đã đưa Stevens lên nắm quyền sau đảo chính năm 1968, nhưng đề nghị khoan hồng của ông đã bị bác bỏ. Ngày 29 tháng 3 năm 1970, nơi xử tử, Bangura khóc vì không tin nổi và từ chối lên giá treo cổ. Ông bị đánh đến chết và xác bị đổ axit đậm đặc lên. Để ngăn dân chúng coi Bangura là người tử đạo, Stevens không cho tiết lộ nơi chôn cất rồi lát đường Kissy lên trên.
Patrick Conteh (? - ?) là chính khách và sĩ quan quân đội Sierra Leone. Từ 18 đến 26 tháng 4 năm 1968, ông là người đứng đầu Sierra Leone trong tư cách Chủ tịch Phong trào Cách mạng Chống tham nhũng. Trong phong trào này, ông liên kết với John Amadu Bangura thực hiện đảo chính lật đổ Andrew Terence Juxon-Smith với lời hứa khôi phục chế độ dân sự. Ngày 18 tháng 4 năm 1968, Conteh trên danh nghĩa đứng đầu đất nước, rồi chuyển lại cho Bangura. Ngày 22 tháng 4, chức vụ Toàn quyền được chuyển giao cho Banja Tejan-Sie. Ngày 26 tháng 4, Conteh trao quyền cho Thủ tướng Siaka Stevens. Không có thông tin gì về Conteh sau đó.
Sinh ra trong một gia đình nông nô ở Gori, Gruzia ngày nay, Geladze kết hôn với thợ vá giày Besarion Jughashvili và có với ông ba đứa con; chỉ duy nhất đứa út, Ioseb, sống tới tuổi trưởng thành. Jughashvili về sau bỏ Geladze, để vợ nuôi dạy con một mình. Vì là người sùng đạo, Geladze mong muốn Ioseb trở thành mục sư, theo đó làm nghề may vá ở Gori để trang trải tiền ăn học cho con trai. Bà định cư ở Gori từ lúc Ioseb theo học Chủng viện Tâm linh Tbilisi tới tận khi ông trở thành lãnh tụ Liên Xô dưới cái tên Iosif Stalin. Những năm về già, Geladze chuyển tới sống ở Tbilisi, thủ phủ Gruzia Xô viết. Tuy Stalin thường viết thư gửi mẹ, ông hiếm khi về thăm bà, với lần cuối là vào năm 1935. Geladze qua đời vào năm 1937 và được chôn cất tại Lăng danh nhân Mtatsminda, Tbilisi. Geladze sinh năm 1856 hoặc 1858 trong một gia đình nông nô theo Kitô giáo Chính thống Gruzia ở Gambareuli, gần Gori. Cha bà, Giorgi (hoặc Glakha) Geladze, thân phận vốn là nông nô của Thái tử Ivane Amilakhvari, từng làm thợ hồ hoặc thợ gốm để kiếm sống. Giorgi mất quanh thời điểm con gái mình chào đời; thân mẫu Melania cố gắng cho Geladze được học đọc và viết, điều mà khá xa xỉ đối với nữ giới thời bấy giờ. Ngoài ra, Geladze còn có hai người anh trai là Giorgi (Gio) và Sandala. Melania cũng qua đời ít lâu sau và những đứa trẻ mồ côi được một người cậu phía ngoại cưu mang đưa về Gori vào năm 1864, thời điểm mà tầng lớp nông nô ở Kavkaz được giải phóng theo chiếu chỉ của Sa hoàng (họ được trả tự do vào năm 1861). Kết hôn và làm mẹ. Thời thiếu nữ, Geladze được miêu tả là "một cô gái da tàn nhang với mái tóc nâu vàng rất hấp dẫn," từng có lần khoe khoang với bạn bè rằng mình "là một cô gái xinh đẹp và được các chàng trai mong mỏi." Geladze lọt vào mắt xanh của Besarion Jughashvili, một anh thợ vá giày địa phương, và hai người họ kết hôn vào năm 1872 hoặc 1874, khi bà mới 16 tuổi. Họ có với nhau ba đứa con, đều là trai, nhưng hai đứa đầu, Mikheil (14–21 tháng 2 năm 1875) và Giorgi (24 tháng 12 năm 1876 – 19 tháng 6 năm 1877), bị chết yểu. Đứa con út, Ioseb, chào đời ngày 6 tháng 12 năm 1878. Trước lúc sinh Ioseb, Geladze đã trở nên sùng đạo, thề nguyện sẽ hành hương đến một nhà thờ ở Geri nếu đứa trẻ đương mang sống sót bình an, lời thề mà bà và Jughashvili đều giữ. Cuộc đời về sau. Trong thời gian Ioseb sinh hoạt ở Tiflis, Geladze vẫn lưu trú tại quê nhà Gori. Rời khỏi Chủng viện vào năm 1899, Ioseb bắt đầu hoạt động cách mạng, lấy bí danh là Iosif Stalin. Ông gặp Geladze lần cuối ở Gori vào năm 1904, sau khi trốn án lưu đày ở Siberia. Bà không nghe thấy tin tức nào nữa từ con trai trong vòng 10 năm tiếp theo, tận khi Cách mạng Nga nổ ra vào năm 1917. Năm 1922, Geladze chuyển tới sống ở Tiflis theo lời khuyên của chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia, sở dĩ vì họ cảm thấy thân mẫu của một nhà lãnh đạo Đảng Bolshevik cần được đãi ngộ tử tế. Họ cấp cho bà một phòng ngủ trong cung điện cũ của Phó vương Kavkaz, và nơi đây cũng được lấy làm trụ sở của Hội đồng Dân ủy địa phương. Lavrentiy Beria, một đồng minh thân cận của Stalin, là người được phân công chăm sóc Geladze; bên cạnh đó, vợ ông ta là Nino cũng thường xuyên qua thăm hỏi sức khỏe. Có thói quen mặc đồ đen ngụ ý mình góa chồng, Geladze thường đi dạo quanh các khu trợ ở Tbilisi dưới con mắt sát sao của lực lượng NKVD do Beria kiểm soát. Stalin hiếm khi về thăm mẹ khi ông lên nắm quyền: trong cuộc phỏng vấn với H. R. Knickerbocker của tờ "New York Evening Post" vào năm 1930, Geladze nói rằng Stalin mới chỉ về thăm bà hai dịp vào năm 1921 và 1926, và bà cũng mới chỉ lên Moksva có một lần nhưng "không thích nơi đó." Hai mẹ con giữ liên lạc với nhau bằng thư tín, song tần suất trao đổi giảm dần sau vụ tự vẫn của người vợ hai của Stalin, Nadezhda Alliluyeva, vào năm 1932. Hiện chỉ có 18 bức thư Stalin gửi mẹ được lưu trữ và duy nhất một bức thư Geladze gửi con trai còn tồn tại. Con cái Stalin đã có dịp về thăm bà nội chúng vào năm 1935; do rào cản ngôn ngữ giữa hai thế hệ, Vasily và Svetlana không hiểu tiếng Gruzia còn Geledze không hiểu tiếng Nga, nên anh trai cùng cha khác mẹ Yakov phải phiên dịch hội thoại. Hay tin thân mẫu ngã bệnh, Stalin về thăm bà lần cuối vào ngày 17 tháng 10 năm 1935. Theo hồi ký chưa được công bố của bác sĩ riêng của Geladze, trong một cuộc hội thoại giữa hai người, Stalin đã nói rằng: "Mẹ ơi, mẹ có nhớ Sa hoàng của chúng ta không? Con giờ đây cũng giống Sa hoàng rồi đó," rồi Geladze trả lời: "Con làm linh mục thì tốt hơn đấy." Cũng theo nguồn này, Stalin hỏi tiếp rằng: "Tại sao mẹ cứ muốn con trở thành linh mục vậy?", và Geledze đáp: "Ta thấy họ làm việc ít mà lại sống đủ đầy. Họ cũng được người đời kính trọng. Vậy nên ta nghĩ rằng sẽ không có công việc nào phù hợp hơn cho một người đàn ông, và ta sẽ cảm thấy tự hào khi được làm mẹ của một linh mục. Nhưng ta cũng phải thú nhận, ngay cả điều đó ta cũng đã đoán sai." Ba ngày sau, Geladze được phỏng vấn bởi tờ "Pravda" rồi đăng thành bài trong số ra ngày 23 tháng 10, về sau còn đi kèm với một bài kể chi tiết chuyến viếng thăm của Stalin trong số ra ngày 27 tháng 10. Tuy không có phản ứng gì với số thứ nhất, Stalin lại tỏ ra không hài lòng với số thứ hai. Geladze qua đời vào ngày 4 tháng 6 năm 1937; nguyên nhân cái chết được cho là suy tim. Bận bịu với cuộc Đại Thanh trừng cán bộ cộng sản và hàng ngũ sĩ quan Hồng quân, cụ thể là với việc bắt giữ và tra hỏi Mikhail Tukhachevsky, Stalin không dự đám tang mẹ. Beria được cử đi thay thế, với vòng hoa ghi dòng chữ "Gửi mẹ kính yêu, từ con trai của mẹ Iosif Jughashvili (Stalin)" trong cả hai thứ tiếng Gruzia và Nga. Stalin yêu cầu chôn cất mẹ tại Lăng danh nhân Mtatsminda nhìn bao quát Tbilisi, nơi yên nghỉ của rất nhiều danh nhân lịch sử Gruzia. Trong những năm gần đây, đã có bàn tán về việc cải táng thi hài Geladze về quê nhà ở Gori; theo đó, Phó Thị trưởng Tbilisi đã phát biểu vào năm 2017 rằng "không có chỗ cho mẹ của Stalin ở Mtatsminda", tuy nhiên thì phương án đó vẫn chưa được thực thi và mộ phần của Geladze vẫn là một trong những điểm tham quan hút khách nhất của toàn bộ quần thể Lăng.
Andrew Terence Juxon-Smith (30 tháng 11 năm 1931 – 1996) là chuẩn tướng quân đội và chính khách người Creole ở Sierra Leone. Từ ngày 27 tháng 3 năm 1967 đến ngày 18 tháng 4 năm 1968, ông là Chủ tịch Hội đồng Cải chánh Quốc gia và quyền Toàn quyền, tương đương với người đứng đầu Sierra Leonea. Ông còn là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tháng 4 năm 1968, John Amadu Bangura tổ chức lật đổ ông và trao quyền cho Siaka Stevens. Về sau, Juxon-Smith chuyển đến Hoa Kỳ và qua đời tại Stapleton, New York. Cuộc đời của Juxon-Smith là chủ đề của phim tài liệu ngắn "A Forgotten Past" do Andreas Hadjipateras đạo diễn năm 2018. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước
Những mảnh ghép cảm xúc 2 Những mảnh ghép cảm xúc 2 (tên tiếng Anh: Inside Out 2) là bộ phim hoạt hình máy tính thuộc thể loại phim dành cho tuổi mới lớn của Hoa Kỳ ra mắt năm 2024 được sản xuất bởi Pixar Animation Studios và phân phối bởi Walt Disney Studios Motion Pictures. Đây là phần hậu truyện của bộ phim "Những mảnh ghép cảm xúc" (2015) và đồng thời cũng là bộ phim đạo diễn đầu tay của Kelsey Mann, được sản xuất bởi Mark Nielsen với kịch bản do Meg LeFauve chấp bút. Phim còn có sự tham gia lồng tiếng trở lại của Amy Poehler, Phyllis Smith và Lewis Black trong các vai diễn cũ, bên cạnh những cái tên mới như Tony Hale, Liza Lapira và Maya Hawke. "Những mảnh ghép cảm xúc 2" được công bố lần đầu vào tháng 9 năm 2022 tại sự kiện D23 Expo, với sự tham gia của Mann, Nielsen và LeFauve lần lượt trong các vai trò đạo diễn, sản xuất và biên kịch, trong khi Poehler cũng tiết lộ rằng cô cũng sẽ trở lại với vai diễn cũ của mình. Phần phim này sẽ sử dụng ý tưởng "từ 5 đến 27 cảm xúc" của Pete Docter trong phần phim đầu để Mann giới thiệu nó trong quá trình sản xuất nhằm tận dụng để xây dựng một thế giới "trung thực". "Những mảnh ghép cảm xúc 2" được dự kiến sẽ công chiếu tại các rạp phim Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6, 2024. Đạo diễn của "Những mảnh ghép cảm xúc" (2015), Pete Docter đã nảy mầm những ý tưởng cho phần tiếp theo của bộ phim trong khi các đề cử của phần phim gốc được công bố tại Giải Oscar lần thứ 88 vào tháng 1, 2016. Pixar cũng chính thức xác nhận về việc phát triển phần phim hậu truyện này trong khuôn khổ của sự kiện D23 Expo vào tháng 9 năm 2022 bằng việc Amy Poehler tiến lên sân khấu để thảo luận về bộ phim bên cạnh Docter. Kelsey Mann sau đó cũng thông báo sẽ ngồi vào vị trí đạo diễn của phim (và đây cũng trở thành bộ phim điện ảnh dài đầu tiên của anh sau bộ phim ngắn "Party Central" năm 2013) với Mark Nielsen sẽ đảm nhận vai trò sản xuất, trong khi Meg LeFauve được xác nhận sẽ trở lại vai trò biên kịch của phim từ phần phim đầu. Để xây dựng một thế giới "trung thực", Mann đã sử dụng ý tưởng "từ 5 đến 27 cảm xúc" trong phần phim đầu của Docter để giới thiệu nó trong quá trình sản xuất. Poehler đã chấp nhận hợp đồng giá trị 5 triệu Đô la Mỹ kèm theo những khoản lợi nhuận thưởng béo bở để trở lại với vai diễn Vui Vẻ của mình. Sau những bất đồng về tiền lương, Mindy Kaling và Bill Hader đã từ chối trở lại vai diễn của họ từ phần phim trước là Chán Ghét và Sợ Hãi; họ và phần còn lại của các diễn viên trở lại từ phần đầu được cho là đã được đề nghị mức lương 100,000 Đô la Mỹ mỗi người, tương đương với 2% lương của Poehler. Vào ngày 9 tháng 11, 2023, một phân đoạn teaser trailer quảng cáo ngắn được công chiếu đã xác nhận rằng Tony Hale và Liza Lapira sẽ thay thế Hader và Kaling lần lượt trong hai vai diễn là Sợ Hãi và Chán Ghét, trong khi Maya Hawke sẽ tham gia lồng tiếng một vai diễn cảm xúc mới đó là Lo Âu. "Những mảnh ghép cảm xúc 2" được dự kiến sẽ công chiếu tại các rạp Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6, 2024. Một đoạn teaser trailer ngắn cũng như áp phích của phim đã được công bố vào ngày 9 tháng 11 năm 2023. James Withbrook từ tờ "Gizmodo" và Rotem Rusak của trang "Inverse" đã nhấn mạnh về sự xuất hiện của ba cảm xúc khác trong áp phích bao gồm: Xấu Hổ, Chán Nản và Ghen Tỵ. Đoạn quảng cáo đã đạt được cột mốc 157 triệu lượt xem trong 24 giờ đầu ở tất cả các nền tảng phương tiện truyền thông mạng xã hội—bao gồm 78 triệu lượt xem từ TikTok— và chính thức trở thành đoạn phim hoạt hình quảng cáo được xem nhiều nhất trong lịch sử của Disney.
Albert Polge (1909–?) là một cựu cầu thủ bóng đá người Pháp gốc Việt. Ông được xem là người gốc Việt đầu tiên thi đấu tại Giải Bóng đá Vô địch Quốc gia Pháp và Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp. Albert Polge sinh ngày 29 tháng 11 năm 1909 tại Hòn Gai, Liên bang Đông Dương. Cha ông là con lai Pháp-Việt, mẹ ông là người Việt, quê ở Hà Đông. Thuở nhỏ, ông được mẹ đặt tên là Kinh. Ông sinh sống và đi học ở Quảng Ninh đến năm 10 tuổi thì mẹ mất, ông phải theo cha sang quê hương của ông nội là thành phố Nimes. Năm 1928, ông theo học tại trường Cao đẳng Kỹ nghệ tại Aix-en-Provence. Ông tốt nghiệp với tấm bằng kỹ sư. Polge thường xuyên chơi bóng tại trường học và sớm bộc lộ năng khiếu của mình. Ấn tượng với tài năng của ông, một tuyển trạch viên của SC Nimes đã ngỏ ý mời ông về thử việc và kí hợp đồng chuyên nghiệp, lúc đó Polge chỉ mới 19 tuổi. Ông được đôn lên đội một vào mùa giải 1930-1931 và thi đấu tại Ligue 1 từ năm 1932 đến năm 1934. Năm 1933, Polge được triệu tập vào Đội tuyển quốc gia Pháp và thi đấu 3 trận giao hữu với xứ Wales, Bỉ và Tiệp Khắc. Ông không ghi được bàn nào nhưng có 1 đường kiến tạo trong trận hoà 1-1 với xứ Wales. Năm 1934, Albert Polge chuyển qua AS Saint-Étienne và thi đấu tại giải hạng 2 của bóng đá Pháp lúc bấy giờ. Theo số liệu thống kê còn được lưu trữ, ông ra sân 56 trận và ghi 18 bàn trong 2 mùa thi đấu tại đây. Sau hai mùa giải tại Saint-Étienne, ông tiếp tục chơi bóng nghiệp dư ở Paris (US Métro và RC Paris), nơi ông làm việc cho Paris Métro. Trong cuộc phỏng vấn với tờ Công luận báo vào năm 1937, Polge đã bày tỏ ước muốn được trở về quê hương Việt Nam:Tôi là người Việt Nam, tôi vẫn ước mong được trở qua thăm những chỗ hồi nhỏ kỷ niệm của tôi, và nếu có một ê-kíp đá banh nào ở Pháp qua Đông Dương, tôi sẽ chẳng để lỡ cơ hội đi cho biết trình độ banh tròn ở Á Đông.Trong sự kiện giải phóng Nimes năm 1944, Albert Polge cùng vợ là Marcelle Polge bị buộc tội cộng tác với Đức Quốc xã để chống lại nước Pháp. Phiên toà được diễn ra ngày 23 tháng 9 năm 1944, Marcelle bị tuyên án tử, Albert Polge bị tuyên là gián điệp dù ông đã phủ nhận mối quan hệ của mình với Gestapo. Năm 1951, Polge được ân xá. Tờ "La Gazette provençale" ngày 8 tháng 5 năm 1951 cho biết ông đã chơi một trận bóng giao hữu vào năm 1951 tại Avignon.
Besarion Ivanes dze Jughashvili (#đổi – 25 tháng 8 năm 1909) là thân phụ của Iosif Stalin. Sinh thành trong một gia đình nông nô ở Didi Lilo, Gruzia, ông chuyển tới Tbilisi từ khi còn rất bé và hành nghề đóng giày trong một công xưởng để kiếm sống. Jughashvili được mời mở một tiệm giày riêng ở Gori, nơi ông kết hôn với Ekaterine Geladze và có với bà ba đứa con; trong đó chỉ đứa út, Ioseb, sống đến tuổi trường thành. Từng được coi là một người đàn ông "khôn khéo và kiêu hãnh", tiệm của Jughashvili không may phá sản và ông bắt đầu nghiện rượu nặng, về sau bỏ nhà ra đi và trở lại Tbilisi vào năm 1884 để tiếp tục đóng giày cho công xưởng cũ. Không có nhiều thông tin về quãng đời từ đó trở đi của Jughashvili, chỉ biết ông qua đời vào năm 1909 vì bệnh xơ gan. Gia cảnh và cuộc đời kỳ thủy. Có rất ít thông tin về gia đình của Besarion Jughashvili. Ông nội Besarion, Zaza Jughashvili (sinh #đổi ), đã chứng kiến cuộc nổi dậy Mtiuleti 1804 chống Nga tại miền đông Gruzia (Kartli-Kakheti), khu vực mới nằm dưới ách đô hộ của Đế quốc Nga kể từ năm 1801. Zaza có lẽ gốc gác là người Ossetia; hai nhà sử học Simon Sebag Montefiore và Ronald Grigor Suny đều cho rằng nguyên quán của vị này là Geri, gần Nam Ossetia hiện đại, tuy không có bằng chứng vững chãi ủng hộ điều này. Zaza sống sót qua cuộc biến loạn và tản cư tới Didi Lilo, một ngôi làng cách thủ phủ Tiflis (nay là Tbilisi) . Ông làm nông nô cho Hoàng thân Badur Machabeli, trông nom vườn nho của vị này. Tại đây, ông đẻ một đứa con tên là Vano, sau Vano đẻ thêm cho ông hai người cháu là Giorgi và Besarion (sinh ra k. 1850). Vano mất khi còn khá trẻ, có lẽ trước thời điểm sinh nhật lần thứ 50. Con trai ông, Giorgi, làm chủ một tửu quán nhưng không may bị thổ phỉ giết. Không còn người thân, Jughashvili chuyển lên Tiflis và làm thuê cho xưởng đóng giày G. G. Adelkhanov. Tuy không được học hành tử tế, Jughashvili biết đọc, khá bất thường khi so với công nhân Gruzia đương thời, ngoài ra còn biết nhiều ngôn ngữ: rất có thể ông đã học tiếng Armenia, tiếng Azerbaijan và tiếng Nga tại Tiflis, bên cạnh tiếng Gruzia mẹ đẻ. Khoảng năm 1870 ông được mời đi Gori, cách Tiflis khoảng , và làm giày cho binh lính Nga đóng tại đó. Gori là một thị trấn nhỏ với khoảng 7.000 cư dân, phần lớn là dân Armenia, cùng một lượng lớn dân Gruzia, cũng như một bộ phận dân Nga, Abkhaz và Ossetia. Năm 1871, Gori nổi lên như một thị trấn tối quan trọng sau khi tuyến đường sắt Ngoại Kavkaz thông với Tiflis và Poti, một cảng thị xuất khẩu dầu lớn. Quãng đời tại Gori. Jughashvili lập một tiệm đóng giày trong Khu người Nga tại Gori, gần doanh trại đóng quân. Năm 1872 hoặc 1874, ông cưới cô thôn nữ Ekaterine (Keke) Geladze khi đó tầm 16 tuổi. Keke, "một cô gái da tàn nhang với mái tóc nâu vàng rất hấp dẫn," xuất thân từ ngôi làng Gambareuli gần Gori, di cư tới đây từ thuở ấu thơ sau khi thân phụ mất. Họ có với nhau ba đứa con, đều là trai, song hai đứa đầu, Mikheil (sinh 14 tháng 2 năm 1875) và Giorgi (sinh 24 tháng 12 năm 1876), lần lượt chết yểu. Con trai thứ ba và cuối cùng, Ioseb, chào đời ngày 6 tháng 12 năm 1878. Suny viết rằng, sau cái chết của Mikheil, Jughashvili bắt đầu nghiện rượu nặng và tình trạng này càng trở nên trầm trọng hơn sau cái chết của Giorgi, đẩy hôn nhân vợ chồng đến bờ tan vỡ. Kotkin cũng gợi ý rằng các lời đồn về sự bất thủy chung của Keke đã khiến ông rất đau lòng, đặc biệt là sau khi Ioseb chào đời. Tuy nhiên, Kotkin nhận định rằng "Keke có lẳng lơ hoặc huống hồ là chung chạ hay không thì không rõ," và rằng "ta thiếu thốn bằng chứng vững chãi về các mối quan hệ bất chính khả dĩ của người mẹ tương lai của Stalin," và cho rằng Jughashvili có lẽ là người bố thật. Tiệm của Jughashvili ban đầu khá thành công; ông thuê tới 10 thợ bạn và thợ học nghề lúc làm ăn khấm khá. Gia đình họ nhờ đó mà có mức sống khá giả; một người thợ học nghề về sau kể lại rằng anh ta thường xuyên trông thấy bơ trong nhà họ, một cao lương mỹ vị mà không phải người Gruzia nào lúc bấy giờ cũng được thưởng thức (song Kotkin lại viết rằng gia đình họ sống đơn sơ hơn, dùng bữa với các món Gruzia truyền thống như lobio, lavash, và badrijani nigvzit). Tuy nhiên, tình trạng nghiện rượu của Jughashvili, trầm trọng thêm bởi tục trả rượu thay tiền của dân buôn Gruzia, đã gây phương hại đến đời sống gia đình và sự nghiệp của ông. Isaac Deutscher cho rằng Jughashvili cảm thấy tự ti khi không "làm chủ được chính mình" như kỳ vọng và điều này có lẽ đã khiến ông tìm tới rượu để giải sầu. Robert Service cũng phảng phất ý tưởng tương tự, cho rằng do không thích ứng được với thị trường giày châu Âu thời thượng lúc bấy giờ và tiếp tục đóng giày Gruzia truyền thống, cộng thêm đồn đại về quan hệ bất chính của vợ, đã khiến Jughashvili cảm thấy bất lực. Thường những lúc say xỉn, Jughashvili trở nên bạo lực, rồi đánh Keke (người cũng hay đánh trả) và Ioseb. Hai vợ chồng có lúc mâu thuẫn nơi chốn công cộng và Jughashvili bị miệng tiếng đặt biệt danh là "Beso Điên." Sự nghiệp làm ăn của Jughashvili do vậy bị ảnh hưởng nặng nề và ông rốt cuộc sạt nghiệp. Gia đình họ mất nhà và phải tá túc chỗ người quen, di chuyển liên tiếp tới chín địa chỉ khác nhau trong vài năm tới. Cuộc đời về sau và cái chết. Năm 1884, Jughashvili rời bỏ gia đình và chuyển lên Tiflis. Ông làm việc lại trong công xưởng Adelkhanov, thường xuyên gửi tiền về cho Keke, cầu mong hòa giải xung đột nhưng mọi nỗ lực làm vậy đều bất thành. Jughashvili đã rất tức giận khi Keke cho Ioseb lên trường, sở dĩ vì ông muốn con trai nối nghiệp mình và trở thành một thợ đóng giày. Năm 1890, Ioseb bị đâm trọng thương bởi một cỗ xe ngựa phaeton. Jughashvili quay về Gori để đưa con trai lên Tiflis chữa bệnh. Sau khi Ioseb hồi phục, Jughashvili sắp xếp cho cậu thực tập đóng giày ở xưởng Adelkhanov. Keke quyết liệt phản đối điều này và sử dụng các mối quan hệ trong giáo hội để bắt Ioseb về Gori, tiếp tục tu dưỡng nghiệp linh mục. Sự biến này cũng đánh dấu lần tiếp xúc trực tiếp cuối cùng giữa Jughasvhili với con trai hoặc vợ, vì ngay sau đó ông bắt đầu hạn chế liên lạc và cắt hỗ trợ tài chính cho hai mẹ con. Ít lâu sau khi Ioseb rời Tiflis, Jughashvili dường như không làm việc cho xưởng Adelkhanov nữa. Ông đóng giày một thời gian cho một quầy hàng tại khu chợ phiên Armenia ở Tiflis và không có nhiều thông tin về các hoạt động sau đó của ông. Ông vẫn giữ liên lạc với Ioseb, thỉnh thoảng gửi cho cậu các đôi giày do ông làm thủ công. Jughashvili còn có một vai trò cuối cùng trong cuộc đời của con trai: vào tháng 1 năm 1900, Ioseb bị bắt giữ lần đầu tiên dựa trên cáo buộc nợ thuế nông nô của cha mình ở Didi Lilo, mặc dù Jughashvili không còn sống ở đây nữa. Không rõ vì sao Ioseb bị bắt thay vì Jughashvili, người mà vẫn đang lưu trú ở Tiflis; Kotkin cho rằng đây là nước cờ của cảnh sát nhằm cảnh cáo Stalin vì các hoạt động cách mạng của ông trong thời kỳ này. Tháng 8 năm 1909, Jughashvili nhập viện Mikhailovsky ở Tiflis với đủ loại bệnh trong người: lao, viêm đại tràng và viêm phổi mạn tính. Ông từ trần vào ngày 12 tháng 8 năm 1909; nguyên nhân cái chết được khai là xơ gan. Chỉ duy nhất một đồng nghiệp đóng giày dự đám tang của Jughashvili và thi hài ông được an táng tại một nghĩa địa vô danh ở Telavi. Vị trí chính xác của nấm mộ không được xác định mãi tới tận năm 1972, khi nguyên Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Gruzia là Kandid Charkviani dẫn đầu nỗ lực tìm lại và đánh dấu phần mộ; tuy nhiên không rõ là hài cốt Jughashvili còn nằm bên dưới hay không. Trước đó, Charkviani đã dốc sức tìm kiếm ảnh chân dung của Jughashvili, có dịp mang hàng đống ảnh tới chỗ Stalin để ông ta nhận mặt; tuy nhiên, sau một hồi xem xét, Stalin không nhận ra ảnh nào là ảnh cha mình. Hiện chỉ có duy nhất một chân dung được cho là thuộc về Jughasvhili, song thật hay giả thì vẫn chưa thể xác định.
Apple M2 series là một hệ thống trên một vi mạch (SoC) dựa trên ARM được Apple Inc. thiết kế làm bộ xử lý trung tâm (CPU) và bộ xử lý đồ họa (GPU) cho máy tính để bàn, máy tính xách tay Mac và máy tính bảng iPad Pro của hãng. Đây là thế hệ thứ hai sử dụng cấu ​​trúc ARM dành cho máy tính Mac của Apple sau khi chuyển từ Intel Core sang Apple silicon và là dòng chip kế nhiệm Apple M1. Apple đã công bố dòng chip M2 vào ngày 6 tháng 6 năm 2022, tại WWDC, cùng với các mẫu MacBook Air và MacBook Pro 13 inch sử dụng M2. Dòng M2 được sản xuất bằng quy trình N5P "Công nghệ 5 nanomet nâng cao" của TSMC và chứa 20 tỷ bóng bán dẫn, tăng 25% so với M1. Apple tuyên bố cải tiến CPU của mình tăng 18% và cải tiến GPU lên tới 35% so với M1. Kế tiếp M2 là các chip M2 Pro và M2 Max, dòng chip tập trung vào người dùng cùng với các tác vụ chuyên nghiệp và được ra mắt vào tháng 1 năm 2023. M2 Max là phiên bản mạnh mẽ hơn của M2 Pro, với nhiều lõi GPU và hơn cũng như chip lớn hơn. Apple đã giới thiệu M2 Ultra vào tháng 6 năm 2023, là sự kết hợp hai chip M2 Max vào làm một con chip duy nhất. M2 sử dụng 6.400 trong cấu hình được chia sẻ bởi tất cả các thành phần của bộ xử lý. Các chip SoC và RAM được gắn với nhau theo thiết kế . Có sẵn các cấu hình 8 GB, 16 GB và 24 GB. M2 có bus bộ nhớ 128 bit với băng thông #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. và M2 Pro, M2 Max và M2 Ultra có tốc độ lần lượt khoảng #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Bảng bên dưới hiển thị các biến thể SoC khác nhau dựa trên vi kiến trúc "Avalanche" và "Blizzard".
Henry Josiah Lightfoot Boston Sir Henry Josiah Lightfoot Boston, GCMG (19 tháng 8 năm 1898 – 14 tháng 12 năm 1969) là nhà ngoại giao và chính khách Sierra Leone. Ông là Toàn quyền bản địa (người Creole) đầu tiên của quốc gia này. Lightfoot Boston từng là Chủ tịch Quốc hội Sierra Leone năm 1957-1962 và là Toàn quyền Sierra Leone từ ngày 7 tháng 7 năm 1962 đến ngày 26 tháng 3 năm 1967. Ông bị Chuẩn tướng Andrew Juxon-Smith đảo chính lật đổ. Phố Lightfoot Boston ở Freetown được đặt tên để vinh danh ông. Hình ảnh Lightfoot Boston được khắc họa trên đồng 50 leone do Ngân hàng Sierra Leone phát hành.
Special atomic demolition munition Special Atomic Demolition Munition (SADM), hay còn có tên ký hiệu XM129, XM159 Atomic Demolition Charges, bom B54 là một hệ thống kích nổ vũ khí hạt nhân cá nhân mang vác (atomic demolition munition (ADM)) được triển khai bởi quân đội Mỹ từ những năm 1960s đến những năm 1980s nhưng chưa từng được sử dụng trong thực tế. Lịch sử và thiết kế. Vào thời điểm loại vũ khí này được phát triển, quân đội Mỹ đang có trong trang bị loại vũ khí kích nổ hạt nhân Atomic Demolition Munition (ADM) là T-4 Atomic Demolition Munition. Việc triển khai loại vũ khí này đòi hỏi 4 người, mỗi người sẽ mang một thành phần của vũ khí, nặng . Việc phát triển bắt đầu từ tháng Sáu năm 1960 và nguyên mẫu Mark 54 Mod 0 (B54-0) được đưa vào sản xuất tháng 4 năm 1963. Việc sản xuất phiên bản B54 Mod 1 SADM bắt đầu vào tháng Tám năm 1964. Vũ khí có đường kính , dài , và trọng lượng . Vũ khí bao gồm đầu đạn, ngòi nổ và hệ thống kích nổ với đồng hồ cài đặt giờ nổ, vỏ được hàn kín. Thân vũ khí được chế tạo bằng nhôm và sợi thủy tinh đúc, đồng thời có lớp cách nhiệt bằng cao su xốp giữa đầu đạn và vỏ. Đồng hồ hẹn giờ được phủ lớp tritium-phosphor hát sáng trong bóng tối. Vũ khí cũng có thể được cài đặt ở dưới mặt nước với bộ phận điều khiển gắn ngoài. Bom B54 Mod 2 bắt đầu được sản xuất từ tháng Sáu năm 1965. Vũ khí này có kích thước tương đương với phiên bản trước đó nhưng có trọng lượng là . Đương lượng nổ của vũ khí là khoảng từ . Vũ khí ADM có khả năng được sử dụng trong các chiến dịch phòng thủ và tấn công. Với chiến dịch tấn công, hệ thống vũ khí ADM được mô tả là có thể sử dụng để cải thiện tình hình ở cánh và phía sau đơn vị quân phòng thủ, chuẩn bị phản công. Sử dụng trong phòng thủ. Hướng dẫn sử dụng ADM cũng mô tả vũ khí này có khả năng sử dụng trong các chiến dịch công binh. Các mục tiêu khả dĩ là cầu, đập, kênh, đường băng, đường tay tàu hỏa, các cơ sở công nghiệp và các nhà máy điện.
Ted Taylor (nhà vật lý) Theodore Brewster "Ted" Taylor (1925 – 2004) la nha vật lý lý thuyết người Mỹ, ông la người đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực năng lượng hạt nhân. Ông có trình độ học vấn cao, bao gồm bằng tiến sĩ vật lý lý thuyết cua trường Cornell University. Thành tựu nổi bật nhất của ông trong lĩnh vực thiết kế vũ khí hạt nhân là những phát triển bom hạt nhân cỡ nhỏ tại Phòng thi nghiệm Los Alamos, New Mexico. Mặc dù Taylor không được biết đến nhiều trong đại chúng, nhưng ông đã thực hiện nhiều cột môc trong phát triển vũ khí nhiệt hạch, gồm có cả việc thiết kế vũ khí nhiệt hạch cỡ nhỏ nhất, mạnh nhất, và hiệu quả nhất từng được Hoa Kỳ thử nghiệm. Về sau này, sự nghiệp của ông tập trung vào năng lượng nguyên tử thay vì phát triển vũ khí nguyên tử, trong đó có những đóng góp của ông cho việc phát triển lò phản ứng hạt nhân trong Project Orion, và quan điểm chống sử dụng vũ khí hạt nhân.
Shivani Desai (sinh ngày 13 tháng 2 năm 1986 tại Nagaon, Assam, Ấn Độ), nổi tiếng với nghệ danh Rashami Desai, là một nữ diễn viên điện ảnh và truyền hình người Ấn Độ tham gia các bộ phim bằng tiếng Hindi. Cô được biết đến qua vai diễn Tapasya Thakur trong bộ phim "Con của người hầu gái", Shorvori Bhattacharya trong bộ phim "Đẻ mướn" và Shakala trong phần 4 của bộ phim "Tình người kiếp rắn". Rashami Desai, tên khai sinh là Shivani Desai, sinh ngày 13 tháng 2 năm 1986 tại Nagaon, Assam, Ấn Độ. Cô là người gốc Gurajat. Cô lớn lên ở Mumbai, học tập và làm việc tại đây. Cô có bằng tốt nghiệp ngành Du lịch và Lữ hành tại Trường Cao đẳng Thương mại và Kinh tế Narsee Monjee, Mumbai. Vai chính đầu tay trong bộ phim điện ảnh (2002–2006). Rashami Desai có vai chính đầu tay trong bộ phim bằng tiếng Assam mang tên "Kanyadaan" vào năm 2002. Cô có tác phẩm Bollywood đầu tay trong bộ phim thuộc thể loại lãng mạn, kinh dị mang tên "Yeh Lamhe Judaai Ke" và đóng chung với Shah Rukh Khan cùng Raveena Tandon. Năm 2005, cô có tác phẩm bằng tiếng Hindi đầu tay khi vào vai Naina trong bộ phim "Shabnam Mausi" và đóng chung với Ashutosh Rana và Vijay Raaz. Sau đó, cô nổi tiếng trong ngành công nghiệp điện ảnh bằng tiếng Bhojpur khi cô đóng nhiều vai diễn trong các bộ phim như "Balma Bada Nadaan" và "Gabbar Singh". Năm 2005, cô vào vai chính trong bộ phim "Kab Hoi Gauna Hammar", bộ phim này đã giành được Giải thưởng Quốc gia cho bộ phim điện ảnh hay nhất bằng tiếng Bhojpur. Vai chính đầu tay trong bộ phim truyền hình và sự đột phá trong diễn xuất (2006–2008). Cô có vai chính đầu tay trong bộ phim truyền hình khi cô vào vai Nữ hoàng Mandodari bộ phim thần thoại "Ravaan" và đóng chung với Jay Soni. Năm 2007, cô tham gia bộ phim bằng tiếng Anh mang tên "Sambar Salsa". Năm 2008, cô có bước đột phá lớn trong sự nghiệp khi cô vào 2 vai diễn Nikki Shrivastav và Pari Rai Choudhary trong bộ phim "Pari Hoon Main". Cô cũng vào vai Priya trong bộ phim kinh dị "S" và đóng chung với Manish Paul. Thành công nhờ vai diễn trong bộ phim "Con của người hầu gái" (2009–2016). Năm 2009, cô vào vai Tiến sỹ Meher Datta bộ phim "Meet Mila De Rabba" và đóng chung với Surilie Gautam cùng Piyush Sahdev. Cùng năm đó, cô vào vai Tapasya Thakur trong bộ phim "Con của người hầu gái" và đóng chung với Tina Datta và Nandish Sandhu. Vai diễn này đã giúp cô giành được cho các hạng mục "Nữ diễn viên xuất sắc nhất" và "Nữ diễn viên vào vai phản diện xuất sắc nhất". Cô cũng là thành viên của đội "Massakalli Girls" trong mùa 2 của chương trình truyền hình thực tế "Zara Nachke Dikha" và giành ngôi vị quán quân của chương trình. Năm 2012, cô tham gia mùa 5 của chương trình truyền hình thực tế "Jhalak Dikhhla Jaa" và giành ngôi vị á quân của chương trình. Năm 2013, cô vào vai Natkhat Sali trong bộ phim hài "Nautanki: The Comedy Theatre". Năm 2014, cô vào vai hai nhân vật có niềm tin mù quáng và đại diện cho những người phụ nữ bị tra tấn trong chính gia đình của mình trong các tập phim của "Savdhaan India" và "Đội đặc nhiệm CID". Năm 2015, cô tham gia mùa 6 của chương trình truyền hình thực tế "". Cô đã bị loại ở tuần 5 của chương trình, tuy nhiên cô bất ngờ quay trở lại chương trình khi được trao một suất ưu tiên. Cô tiếp tục bị loại trước đêm chung kết của chương trình cùng với Sana Khan. Sau đó cô tham dự mùa 7 của chương trình truyền hình thực tế "Nach Baliye" cùng với Nandish Sandhu và giành ngôi vị á quân của chương trình. Tháng 10 năm 2015, cô vào vai một cô gái câm điếc trong MV ca nhạc "Teri Ek Hassi" do nam ca sĩ Jubin Nautiyal thể hiện và đóng chung với người chồng cũ Nandish Sandhu. Năm 2016, cô vào vai phản diện Preeti trong bộ phim siêu nhiên "Adhuri Kahaani Hamari". Cô cũng tham gia mùa 2 của chương trình truyền hình thực tế "Box Cricket League". Cô cũng tham gia MV ca nhạc "Sajna Ve" do Monali Thakur, Dilip Soni thể hiện và đóng chung với Salman Yusuff Khan. Cô cũng tham gia chương trình hài thực tế "Mazaak Mazaak Mein" do hãng Balaji Telefilms sản xuất. Cô cũng tham gia bộ phim "Rare Dare Six-X" và đóng chung với Rituparna Sengupta cùng Shweta Tiwari. Thành công nhờ vai diễn trong bộ phim "Đẻ mướn" và một số vai diễn khác (2017–2020). Năm 2017, cô vào vai Shorvari Bhanushali trong bộ phim "Đẻ mướn" và đóng chung với Siddharth Shukla cùng Jasmin Bhasin, được chuyển thể từ bộ phim truyền hình năm 2001 "Chori Chori Chupke Chupke". Vai diễn này đã giúp cô giành được đề cử Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại lễ trao Giải Cánh hoa Vàng 2017. Vào cùng năm đó, cô có tác phẩm bằng tiếng Gurajat đầu tay khi cô tham gia bộ phim điện ảnh thuộc thể loại lãng mạn, kinh dị mang tên "Superstar" và đóng chung với Dhruvin Shah. Năm 2019, cô vào vai chính trong loạt phim hài "Chalo Saaf Karein". Đây là bộ phim do Bộ Nước uống và Vệ sinh phối hợp với Doordarshan sản xuất. Cuối năm 2019, cô tham gia mùa thứ 13 của chương trình truyền hình thực tế "Bigg Boss" và giành ngôi vị á quân 3 chung cuộc. Năm 2020, cô vào vai Shakala trong phần 4 của bộ phim siêu nhiên nổi tiếng "Tình người kiếp rắn" và đóng chung với Nia Sharma, Anita Hassanandani cùng Vijayendra Kumeria. Cô cũng vào vai Sania trong bộ phim ngắn "Tamas" và đóng chung với Adhvik Mahajan; tham gia chương trình truyền hình thực tế "Ladies vs Gentleman" do Ritesh Deshmukh và Genelia D'Souza làm người dẫn chương trình. Vào tháng 12 năm 2020, cô tham gia bộ phim ca nhạc lấy cảm hứng từ vũ đạo của Palash Muchhal mang tên "Ab Kya Jaan Legi Meri" do Palash Muchhal và Amit Mishra thể hiện; và đóng chung với Shaheer Sheikh và Sana Saeed. Mở rộng chuyên môn (2021–nay). Năm 2021, cô có vai diễn đầu tay trong bộ phim chiếu mạng khi cô tham gia bộ phim chiếu mạng hình sự "Tandoor" và đóng chung với Tanuj Virwani. Vào tháng 5 năm 2021, có thông báo cho rằng Rashami Desai sẽ hợp tác với nam ca sĩ Rahul Vaidya để cover bài hát. Vào tháng 9 năm 2021, cô tham gia bộ phim ca nhạc "Subhan Allah" của Altamash Faradi. Vào cuối năm, cô tiếp tục hợp tác với Rahul Vaidya ra mắt một bộ phim ca nhạc mang tên "Zindagi Khafa Khafa." Vào tháng 11 năm 2021, cô trở lại trong mùa thứ 15 của chương trình "Bigg Boss" với một suất ưu tiên và giành ngôi vị á quân 5 của chương trình. Tháng 3 năm 2022, cô tham gia 3 bộ phim ca nhạc bao gồm "Qatilana", "Biraj Mein Jhoom" và "Tere Pind". Năm 2022, cô vào vai diễn khách mời trong bộ phim "Nữ thần rắn báo thù". Vào tháng 4 năm 2022, cô hợp tác với Neha Bhasin để ra mắt bộ phim ca nhạc mang tên "Parwah". Tháng 5 năm 2023, cô tham gia bộ phim bằng tiếng Hindi mang tên "Mission Laila" và đóng chung với Rajpal Yadav. Cô cũng tham gia bộ phim ngắn "Hisaab Barabar" và đóng chung với R. Madhavan. Cô cũng tham gia tác phẩm thứ hai bằng tiếng Gurajat mang tên "Mom Tane Nai Samjay", đóng chung với Amar Upadhyay và được ghi hình tại Luân Đôn. Cô có vai chính đầu tay trong bộ phim hài lãng mạn bằng tiếng Punjab mang tên "Chambe Di Booti" và đóng chung với Nav Bajwa. Cô cũng tham gia bộ phim bằng tiếng Hindi mang tên "Idiots" và đóng chung với Urvashi Rautela. Ngày 12 tháng 2 năm 2011, cô kết hôn với nam diễn viên Nandish Sandhu tại Ghaziabad. Năm 2014, cả hai người ly thân và vào năm 2015, cặp đôi đệ đơn ly hôn sau gần 4 năm chung sống với nhau. Cuộc hôn nhân giữa hai người chấm dứt vào tháng 3 năm 2016. Năm 2018, cô hẹn hò với Arhaan Khan, cả hai người đều tham dự mùa thứ 13 của chương trình "Bigg Boss", Arhaan đã cầu hôn Desai và cô chấp nhận lời cầu hôn. Tuy nhiên, sau đó, Salman Khan tiết lộ Arhaan đã kết hôn trước đây và đã có một người con mà anh vẫn giữ bí mật cho Desai. Năm 2020, sau khi rời khỏi ngôi nhà chung của chương trình "Bigg Boss", cô và Arhaan Khan chia tay nhau sau 2 năm hẹn hò. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Acid hypophosphorơ (HPA), hay acid phosphinic, là một acid oxo của phosphor và là một chất khử mạnh có công thức phân tử H3PO2. Đây là một hợp chất có nhiệt độ nóng chảy thấp, không màu, hòa tan trong nước, dioxan và alcohol. Công thức phân tử của acid này thường được viết là H3PO2, nhưng cách viết mang tính mô tả hơn là HOP(O)H2, làm nổi bật tính monoprotic (các acid monoprotic có khả năng "tặng" một proton trong quá trình phân ly; các acid polyprotic có khả năng "tặng" nhiều proton) của nó. Muối của acid này được gọi là hypophosphit.
Kim cương Golconda (tiếng Tamil: கோல்கொண்டா வைரம்; tiếng Teluru: గోల్కొండ వజ్రాలు) được khai thác ở vùng đồng bằng Godavari thuộc các bang Andhra Pradesh và Telangana, Ấn Độ ngày nay. Pháo đài Golconda ở phía Tây của thành phố Hyderabad ngày nay, là thủ phủ của Hồi quốc Golconda và trở thành một trung tâm quan trọng để nâng cao, chế biến và buôn bán kim cương. Kim cương Golconda được phân loại thuộc nhóm IIa, được hình thành từ carbon nguyên chất, không chứa nitơ và có kích thước lớn với độ trong suốt cao. Chúng thường được mô tả như những viên kim cương có chất lượng tốt nhất, khiến chúng trở nên nổi tiếng nhất trong lịch sử. Từ "Kim cương Golconda" ("Golconda diamond") đã trở thành biểu tượng của những viên kim cương có chất lượng số một, không thể so sánh được. Trong 2.000 năm, kim cương Golconda là loại kim cương tốt duy nhất được chết tác. Do khai thác quá mức trong nhiều thế kỷ, sản lượng của chúng đã cạn kiệt kể từ năm 1830, và các nhà nghiên cứu đá quý cũng như thương nhân đã phân loại kim cương Golconda là đồ cổ, hiếm và quý. Những viên kim cương Golconda nổi tiếng thế giới bao gồm Koh-i-Noor không màu, Viên kim cương Nassak, Viên kim cương Hope màu xanh, Idol's Eye, Daria-i-Noor màu hồng, Viên kim cương Regent màu trắng, Viên kim cương Dresden Green và Orlov không màu, cũng như những viên kim cương hiện đã thất lạc khác, như Viên kim cương Florentine Yellow, Akbar Shah, Nizam và Viên kim cương Great Mogul. Ngành công nghiệp kim cương Golconda đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ XVI-XVIII khi có 23 mỏ được khai thác, với hơn 30.000 người làm việc cùng lúc tại một mỏ, trong đó Mỏ Kollur hoạt động tích cực nhất. Sản lượng từ tất cả các mỏ ở Golconda ước tính khoảng 10.000.000 carat (2,0 tấn). Vào năm 2015, Đại học Osmania và Cơ quan Khảo sát Địa chất Ấn Độ đã hợp tác để khám phá ra các địa điểm tiềm năng mới để khai thác kim cương trong khu vực, mặc dù việc khai thác vẫn chưa bắt đầu vào năm 2022. Một số huyền thoại văn học được lấy cảm hứng từ những viên kim cương đến từ Golconda; chúng bao gồm thung lũng kim cương của Sinbad, truyền thuyết về đá quý của Marco Polo và chủ đề của bài giảng đầy cảm hứng "Acres of Diamonds" của Russell Conwell. Theo truyền thuyết dân gian, một số viên kim cương Golconda bị nguyền rủa; những thứ này mang lại may mắn cho chủ nhân của chúng hoặc sở hữu sức mạnh thần bí trong khi những thứ khác được đeo như bùa hộ mệnh. Vào năm 2013, viên kim cương Princie từ Đồ trang sức của Nizam xứ Hyderabad đã được bán đấu giá và thu về 39,3 triệu USD - mức đấu giá cao nhất được ghi nhận đối với một viên Kim cương từ Golconda và đạt kỷ lục thế giới với giá 1,1 triệu USD cho mỗi carat. Năm 2019, trong Vụ trộm Green Vault, viên kim cương trắng Dresden có nguồn gốc từ Golconda đã bị đánh cắp cùng với số trang sức ước tính tổng giá trị vào khoảng 1 tỷ euro. Tuy nhiên, trong những năm sau vụ trộm, ước tính chính xác hơn cho thấy tổng giá trị của những món đồ bị đánh cắp vào khoảng 113 triệu euro. Sự giàu có của các nhà cai trị ở Phiên vương quốc Hyderabad dưới thời Ấn Độ thuộc Anh đều đến từ việc buôn bán kim cương ở vùng mỏ Golconda, trong đó, vị Nizam cuối cùng của Hyderabad là Mir Osman Ali Khan được Tạp chí Time ghi nhận là người giàu nhất thế giới vào năm 1937, tài sản của ông ước tính bằng 2% GDP của Hoa Kỳ vào thời điểm đó. Trong thế kỷ XVIII, Phiên vương quốc Hyderabad cũng là nhà cung cấp kim cương duy nhất cho thị trường toàn cầu.
Simeon Tochukwu Nwankwo (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1992), hay còn được gọi đơn giản là Simy, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A. Simy là cầu thủ bóng đá châu Phi duy nhất từng là vua phá lưới ở một giải đấu chuyên nghiệp Ý (cụ thể là Serie B mùa giải 2019–20). Với 66 bàn thắng trên mọi đấu trường, anh là cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử câu lạc bộ Crotone. Simy cũng là cầu thủ bóng đá châu Phi duy nhất, cùng với Samuel Eto'o ở mùa giải 2010–11, đã ghi được 20 bàn thắng trong một mùa giải ở Serie A, đạt được thành tích ở mùa giải 2020–21. Sự nghiệp thi đấu. Vào tháng 7 năm 2016, Simy đã ký hợp đồng với Crotone, tân binh của Serie A. Anh đã ghi bảy bàn trong mùa giải 2017–18, đồng hạng với Ante Budimir để đứng thứ hai cho câu lạc bộ và chỉ kém vua phá lưới Marcello Trotta một bàn. Điều này bao gồm một cú ngả bàn đèn đáng nhớ trong trận hòa 1-1 trước Juventus vào ngày 19 tháng 4 năm 2018. Tuy vậy, Crotone bị xuống hạng vào cuối mùa. Mặc dù câu lạc bộ đã phải vật lộn để cán đích ở vị trí thứ 12 trong lần trở lại Serie B, Simy đã có thể tìm lại phong độ của mình và có mùa giải tốt nhất kể từ khi chuyển đến Ý, đứng đầu trong đội bóng và đứng thứ sáu chung cuộc về số bàn thắng với 14 bàn. Anh đã làm tốt nhất điều này trong mùa giải 2019–20, đứng đầu Serie B với 20 bàn thắng và giúp đội của anh giành quyền trở lại giải đấu hàng đầu Ý. Simy lại tiếp tục đạt phong độ cao trong mùa giải 2020–21, ghi 20 bàn thắng ở giải quốc nội, nhưng điều này không đủ để ngăn Crotone xuống hạng sau một mùa giải duy nhất. Vào ngày 19 tháng 8 năm 2021, Simy chuyển đến Salernitana theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải. Vào ngày 9 tháng 1 năm 2022, Simy được Salernitana ký hợp đồng với mức phí 3,5 triệu euro. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, anh được cho câu lạc bộ Parma tại Serie B mượn cho phần còn lại của mùa giải với một tùy chọn mua. Cho mượn tại Benevento. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2022, Simy chuyển đến câu lạc bộ Benevento tại Serie B lúc bấy giờ, dưới dạng cho mượn kèm theo tùy chọn mua. Sự nghiệp quốc tế. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2018, Simy được gọi lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria dưới thời huấn luyện viên Gernot Rohr để chuẩn bị cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 tại Nga. Ba ngày sau, anh có trận ra mắt quốc tế trong trận hòa 1-1 trước đội tuyển CHDC Congo. Vào tháng 6, anh có tên trong danh sách 23 cầu thủ của Nigeria tham dự World Cup. Anh ra sân lần đầu tại giải đấu trong trận gặp Croatia, nơi anh vào sân thay người ở hiệp hai khi Nigeria bị dẫn trước 2–0. Anh cũng vào sân thay người trong trận thua 2–1 trước Argentina. Simy là con cả trong gia đình có ba người con. Anh trai là một nhà vật lý trị liệu, còn em gái là một y tá, và cả hai là một cặp song sinh. Simy và vợ anh theo đạo Công giáo và có một người con. Simy đã trở thành chủ đề lạm dụng chủng tộc trên mạng xã hội trong thời gian ở Crotone, bao gồm cả mong muốn rằng con trai ông 'sẽ chết vì ung thư tuyến tụy'. Về quan điểm chống phân biệt chủng tộc, thị trưởng Crotone, Vincenzo Voce, đã trao quyền công dân danh dự của thành phố cho con trai của Nwankwo vào ngày 27 tháng 3 năm 2021. "Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 26 tháng 2 năm 2023" "Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 26 tháng 6 năm 2018"
Sigma Octantis, cũng được viết là σ Octantis, viết tắt là Sigma Oct hoặc σ Oct, là một ngôi sao trong chòm sao Nam Cực. Ngôi sao này tạo thành sao cực của Nam Bán cầu. Với tên chính thức là Polaris Australis (), Sigma Octantis nằm cách thiên cực nam của Nam Bán cầu hơn 1 độ một chút, nằm ở hướng gần như đối diện với Polaris trên thiên cầu. Cách Trái Đất 294 năm ánh sáng, Sigma Octantis được phân loại là một sao gần mức khổng lồ loại F0 IV (đôi khi được phân loại là F0 III). Sigma Octantis có cấp sao biểu kiến là 5,47, nhưng hơi biến quang và được phân loại là sao biến quang Delta Scuti. Đây là ngôi sao mờ nhất được thể hiện trên quốc kỳ của bất cứ quốc gia nào có biểu trưng ngôi sao (Sigma Octantis được thể hiện trên quốc kỳ của Brasil). "σ Octantis" (được Latinh hóa tên gọi thành "Sigma Octantis") là tên gọi của ngôi sao này theo định danh Bayer. Là sao cực của Nam Bán cầu, tên "Polaris Australis" của ngôi sao này được áp dụng lần đầu tiên vào những năm 1700. Năm 2016, Liên đoàn Thiên văn Quốc tế (IAU) đã thành lập Working Group on Star Names (WGSN) để lập danh mục và tiêu chuẩn hóa tên riêng cho các ngôi sao. WGSN đã phê duyệt tên "Polaris Australis" cho ngôi sao này vào ngày 5 tháng 9 năm 2017 và hiện tại nó đã được đưa vào Danh sách tên sao được IAU phê duyệt (List of IAU-approved Star Names). Với quang phổ F0 IV (đôi khi được phân loại là F0 III), Sigma Octantis dường như là một sao gần mức khổng lồ. Các mô hình tiến hóa cho rằng nó đang ở giai đoạn cuối của dãy chính với độ tuổi khoảng 900 triệu năm. Sigma Octantis đã giãn nở phần nào với bán kính bằng 4,4 bán kính Mặt Trời và phát ra lượng bức xạ điện từ gấp 44 lần Mặt Trời từ quang cầu của nó ở nhiệt độ hiệu dụng là 7.415 ± 252 K. Sigma Octantis là một sao biến quang Delta Scuti, cấp sao của nó thay đổi khoảng 0,03 cứ sau 2,33 giờ. Sigma Octantis được cho là chỉ biến động ở chế độ bình thường. Sigma Octantis không có sao đồng hành nào được phát hiện. Sigma Octantis là sao Nam Cực ở thời điểm hiện tại, cũng như Polaris là sao Bắc Cực ở thời điểm hiện tại. Đường di chuyển quanh thiên cực của Sigma Octantis là nhỏ hơn so với đường di chuyển của các ngôi sao ở xa thiên cực hơn. Sao càng gần thiên cực thì đường di chuyển quanh thiên cực của sao đó càng nhỏ, do đó đối với người quan sát ở Nam Bán cầu, Sigma Octantis gần như bất động và tất cả các ngôi sao khác trên bầu trời bán cầu nam dường như đều quay xung quanh nó. Là một phần của "một nửa hình lục giác" nhỏ (small "half hexagon"), Sigma Octantis cách thiên cực nam hơn 1 độ một chút và thiên cực nam đang di chuyển ra xa nó do tiến động của điểm phân. Với cấp sao biểu kiến là +5,47, Sigma Octantis hầu như không thể nhìn thấy bằng mắt thường, khiến nó không thể được sử dụng để định hướng, đặc biệt là khi so sánh với Polaris sáng hơn và dễ phát hiện hơn nhiều. Vì vậy, chòm sao Nam Thập Tự thường được ưu tiên sử dụng để xác định vị trí của thiên cực nam. Khi vị trí gần đúng của Sigma Octantis đã được xác định, bằng cách xác định các ngôi sao chính trong chòm sao Nam Cực hoặc sử dụng phương pháp Southern Cross, nó có thể được xác định chắc chắn bằng cách sử dụng khoảnh sao: Sigma, Chi, Tau, và Upsilon Octantis đều là các ngôi sao có cấp sao khoảng 5,6 và tạo thành hình thang đặc biệt. Trong đo đạc thiên văn. Sigma Octantis được sử dụng làm tham chiếu để đo cấp sao của các ngôi sao ở Nam Bán cầu trong danh mục 1908 Revised Harvard Photometry. Sao Bắc Cực và Lambda Ursae Minoris được sử dụng cho các ngôi sao ở Bắc Bán cầu. Sigma Octantis là ngôi sao mờ nhất được thể hiện trên quốc kỳ của một quốc gia. Nó xuất hiện trên quốc kỳ của Brasil, tượng trưng cho quận liên bang Brasil.
Vòng đấu loại trực tiếp UEFA Champions League 2023–24 bắt đầu vào ngày 13 tháng 2 với vòng 16 đội và kết thúc vào ngày 1 tháng 6 năm 2024 với trận chung kết tại Sân vận động Wembley ở London, Anh để xác định nhà vô địch của UEFA Champions League 2023–24. Có tổng cộng 16 đội thi đấu ở vòng đấu loại trực tiếp. Thời gian là CET/CEST, do UEFA liệt kê (giờ địa phương, nếu khác nhau thì nằm trong ngoặc đơn). Các đội lọt vào. Vòng đấu loại trực tiếp bao gồm 16 đội lọt vào với tư cách là đội nhất và nhì của mỗi bảng trong số tám bảng ở vòng bảng. section begin=Qualified teams / section end=Qualified teams / Mỗi cặp đấu ở vòng đấu loại trực tiếp, ngoại trừ trận chung kết, được diễn ra qua hai lượt trận với mỗi đội thi đấu một lượt tại sân nhà. Đội nào ghi được tổng số bàn thắng nhiều hơn qua hai lượt trận đi tiếp vào vòng tiếp theo. Nếu tổng tỉ số bằng nhau thì 30 phút của hiệp phụ được diễn ra (luật bàn thắng sân khách không được áp dụng). Nếu tỉ số vẫn bằng nhau tại thời điểm cuối hiệp phụ, đội thắng được quyết định bằng loạt sút luân lưu. Ở trận chung kết, nơi diễn ra một trận duy nhất, nếu tỉ số hòa sau thời gian thi đấu chính thức, hiệp phụ được diễn ra, sau đó là loạt sút luân lưu nếu tỉ số vẫn hòa. Cơ chế của lễ bốc thăm cho mỗi vòng như sau: Đối với vòng tứ kết và bán kết, các đội từ cùng thành phố không được xếp lịch để thi đấu tại sân nhà vào cùng ngày hoặc vào các ngày liên tiếp do công tác hậu cần và kiểm soát đám đông. Để tránh xung đột lịch thi đấu như vậy, nếu hai đội được bốc thăm để thi đấu tại sân nhà trong cùng lượt trận, thứ tự các lượt trận của cặp đấu liên quan đến đội có thứ hạng trong nước thấp hơn ở mùa giải vòng loại được đảo ngược so với lần bốc thăm ban đầu. Lễ bốc thăm cho vòng 16 đội được tổ chức vào ngày 18 tháng 12 năm =R16 / Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 13, 14, 20 và 21 tháng 2, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 5, 6, 12 và 13 tháng 3 năm 2024. Lễ bốc thăm cho vòng tứ kết được tổ chức vào ngày 15 tháng 3 năm 2024. Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 9 và 10 tháng 4, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 16 và 17 tháng 4 năm =QF / Lễ bốc thăm cho vòng bán kết được tổ chức vào ngày 15 tháng 3 năm 2024, sau khi bốc thăm tứ kết. Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 30 tháng 4 và 1 tháng 5, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 7 và 8 tháng 5 năm =SF / Trận chung kết được diễn ra vào ngày 1 tháng 6 năm 2024 tại Sân vận động Wembley ở London. Một lượt bốc thăm được tổ chức vào ngày 15 tháng 3 năm 2024, sau khi bốc thăm tứ kết và bán kết để xác định đội "nhà" vì mục đích hành chính.
Thư viện Thâm Quyến Thư viện Thâm Quyến () là hệ thống thư viện công cộng của thành phố Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Thư viện chính là một phần trực thuộc Trung tâm Văn hóa Thâm Quyến ở quận Phúc Điền. Thư viện chính tọa lạc trên một tòa nhà rộng trên khu đất rộng . Tiền thân là Thư viện huyện Bảo An. ính đến năm 2016[ [cập nhật]], có 627 thư viện công cộng ở Thâm Quyến. Cơ sở trước đó được mở vào năm 1986 tại khu vực phía tây bắc của Công viên Lychee sau khi bắt đầu xây dựng vào năm 1983. Năm 2009, chính quyền thành phố đã cho khởi đầu chương trình nền tảng thư viện mang tên "Thành phố Thư viện".
Công viên Tapgol (Tiếng Hàn: 탑골공원, Hanja: 塔-公園) trước đây là Công viên Pagoda, là một công viên nằm ở Jongno 2-ga, Jongno-gu, Seoul, Hàn Quốc có diện tích . Nó còn được gọi là Công viên Tapgol vì nó có một tòa tháp hình khúc xương. Công viên trước đây được gọi là Công viên Pagoda cho đến ngày 28 tháng 5 năm 1992. Công viên Tapgol, được chỉ định là Di tích lịch sử số 354, là công viên đô thị đầu tiên của Hàn Quốc và là địa điểm diễn ra Phong trào ngày 1 tháng 3 chống lại ách thống trị của thực dân Nhật Bản vào năm 1919. Ban đầu nó được gọi là Công viên Pagoda và có diện tích là 15,051 m². Ga Jongno 3(sam)-ga, nơi gặp nhau của các Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1, 3 và 5, và Ga Jonggak trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 ở gần đó và Trung tâm nhạc cụ Nakwon nằm gần đó. Đây là công viên đầu tiên được thành lập tại Seoul, và là công viên đầu tiên được thành lập tại Hàn Quốc dành cho người Hàn Quốc. Công viên này từng là địa điểm của ngôi chùa Phật giáo Wongaksa thế kỷ 15. Từ "tap" nghĩa là "chùa", và công viên được đặt tên theo chùa Wongaksa, một ngôi chùa bằng đá 10 tầng (Quốc bảo số 2) nằm trong công viên. Nó đã không trở thành một công viên cho đến năm 1897, khi nó được tổ chức như một khu vườn theo đề xuất của John McLeavy Brown, một cố vấn người Ireland cho Vua Gojong. Một trong những di tích trong công viên là Đài tưởng niệm Wongaksa được xây dựng vào năm 1471 để ghi lại ngày thành lập (ngôi chùa) Wongaksa vào năm 1465. Mặt trước là dòng chữ do Kim Suon sáng tác với lối thư pháp do Seong Im thực hiện. Ở mặt sau có dòng chữ do Seo Geo Jeong sáng tác với nét chữ thư pháp do Jeong Nam Jong thực hiện. Đế hình con rùa được làm từ đá granit và thân được cắt từ đá cẩm thạch. Tượng đài có chiều rộng 1,3 mét/4,3 feet và cao 4,9 mét/16,2 feet. Hai con rồng đan xen được chạm khắc công phu bay lên trời cầm một viên ngọc Phật giáo nằm trên đỉnh tượng đài. Tượng đài Wongaksa là Kho báu số 2. Công viên Tapgol có ý nghĩa lịch sử quan trọng vì là nơi bắt nguồn của Phong trào ngày 1 tháng 3 năm 1919, một phần quan trọng của phong trào độc lập của Hàn Quốc và là địa điểm đầu tiên để đọc Tuyên ngôn Độc lập. Có một số bức tượng phù điêu tượng trưng cho các anh hùng dân tộc Hàn Quốc, cũng như một tượng đài về phong trào độc lập.