text
stringlengths
82
354k
Chặng đua MotoGP Nhật Bản 2022 Chặng đua MotoGP Nhật Bản 2022 là chặng đua thứ 16 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 23/09/2022 đến ngày 25/09/2022 ở trường đua Motegi, Nhật Bản. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Jack Miller của đội đua Ducati Corse. Kết quả đua chính thể thức MotoGP.
Mạng Truyền hình Toàn cầu Trung Quốc Mạng Truyền hình Toàn cầu Trung Quốc (CGTN) là một trong ba nhánh của Tổng đài Phát thanh Truyền hình Trung ương do nhà nước quản lý và bộ phận quốc tế của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV). Có trụ sở tại Bắc Kinh, CGTN phát sóng tin tức với nhiều ngôn ngữ. CGTN nằm dưới sự quản lý của Bộ Tuyên truyền Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các cơ quan truyền thông, các nhóm vận động nhà báo và những người khác đã cáo buộc CGTN thay mặt chính phủ Trung Quốc phát sóng tuyên truyền và phản thông tin cùng những lời bức ="reuters/australian-broadcaster"/ref
Track-via-missile hay TVM là phương pháp dẫn đường cho tên lửa kết hợp cả phương pháp dẫn đường bằng radar bán chủ động (SARH) và dẫn đường qua lệnh vô tuyến. Điều này giúp tránh gặp vấn đề đối với độ chính xác ở giai đoạn cuối thường gặp ở tên lửa điều khiển qua vô tuyến, đặc biệt khi dẫn đường cho tên lửa ở tầm xa. Nó được sử dụng trong đa số tên lửa Đất đối không tầm xa bao gồm cả MIM-104 Patriot. Dẫn đường theo lệnh điều khiển có ưu điểm là hầu hết các thiết bị điều khiển tên lửa đều nằm ở bệ phóng tên lửa, nơi mà kích thước và trọng lượng đều không quan trọng. Trong những hệ thống này, radar đảm nhận nhiệm vụ dẫn đường cho tên lửa nằm ở dưới mặt đất/trên tàu mà không có một hệ thống dẫn đường độc lập. Thông thường hai radar sẽ được sử dụng, một sử dụng để theo dõi mục tiêu và radar còn lại được sử dụng để theo dõi tên lửa, do đó chúng được điều khiển một cách độc lập và tách biệt với nhau. Một máy tính sau đó có nhiệm vụ tính toán vị trí và tốc độ của mục tiêu và tên lửa đánh chặn và tính toán điểm đánh chặn. Một máy tính khác sẽ tính toán dữ liệu điều khiển đầu vào để điều khiển tên lửa bay tới điểm đánh chặn và gửi các tín hiệu hiệu chỉnh đường bay cho tên lửa thông qua tín hiệu bức xạ vô tuyến, hệ thống cũng sử dụng radar theo dõi tên lửa làm radar truyền tín hiệu vô tuyến. Do hệ thống có kết cấu chế tạo đơn giản, nên nó được sử dụng trên đa số các tên lửa đất đối không thời kỳ đầu. Tuy nhiên nó có những điểm hạn chế lớn, nhất là ở tên lửa có tầm bắn xa. Tín hiệu bức xạ sẽ tỏa rộng ra theo khoảng cách từ đài radar, tương tự như ánh sáng từ đèn flash, thông thường góc tỏa là 5 độ. Nghĩa là ở khoảng cách xa, vị trí mục tiêu sẽ giới hạn trong một khu vực rộng tới vài km. Một vài kỹ thuật mã hóa tín hiệu có thể làm hẹp tia bức xạ radar xuống còn góc tỏa là 0,1 độ, nhưng ở tầm xa, thì độ chính xác vẫn chỉ đạt đến vài trăm mét. Do có độ chính xác không cao nên tên lửa phòng không tầm xa đời đầu như MIM-14 Nike Hercules phải sử dụng đầu đạn rất lớn hoặc đầu đạn hạt nhân để đảm bảo tiêu diệt mục tiêu. Vấn đề này có thể tránh được trong phương pháp dẫn đường radar bán chủ động (SARH). Trong các hệ thống tên lửa dẫn đường bằng pp SARH, trạm radar mặt đất vẫn sẽ luôn rọi mục tiêu bằng sóng bức xạ, nhưng tên lửa sẽ thu những tín hiệu phản xạ từ mục tiêu. Bức xạ phản xạ từ mục tiêu có dạng giống như hình côn, nhưng xuất phát từ mục tiêu. Bộ thu tín hiệu trên tên lửa sẽ dựa vào tín hiệu bức xạ này để lái tên lửa vào mục tiêu, cường độ tín hiệu càng mạnh khi càng gần mục tiêu nên sẽ càng chính xác khi tên lửa bay gần về mục tiêu. Có một vài vấn đề nhỏ khiến cho tên lửa chỉ có độ chính xác lớn nhất (đối với các thế hệ tên lửa SARH thế hệ đầu) là vài chục mét, nhưng độ chính xác của tên lửa sẽ không phụ thuộc vào khoảng cách đến mục tiêu. Đồng nghĩa với tên lửa mang đầu dò radar bán chủ động sẽ có kích thước đầu đạn bé hơn nhiều trong khi độ hiệu quả vẫn tương đương, nhưng tên lửa cũng sẽ đắt hơn do phải bổ sung các thiết bị điện tử. Nhược điểm của phương pháp SARH là tín hiệu từ trạm radar mặt đất phải chứa một số mã hóa bổ sung để tên lửa có thể xác định được hướng của mục tiêu trong tín hiệu hình nón mà nó thu được. Để khắc phục điều này thì tên lửa sẽ sử dụng radar chiếu xạ mục tiêu riêng biệt. Trong cả hai trường hợp, tên lửa phòng không cần tách biệt mỗi radar điều khiển một tên lửa, nghĩa là hệ thống sẽ chỉ có thể điều khiển được số tên lửa đồng thời bằng với số lượng radar điều khiển. Trong môi trường phóng nhiều tên lửa phòng không cùng lúc, đặc biệt là tàu chiến đối mặt với đòn tấn công đồng thời từ nhiều tên lửa chống tàu, có thể khiến hệ thống phòng không bị quá tải. Về lý thuyết, tên lửa có thể được bổ sung các thiết bị điện tử để cho phép nó tiếp tục bắt bám tín hiệu gián đoạn và do đó cho phép một đài radar duy nhất có thể điều khiển được nhiều tên lửa, nhưng các thiết bị điện tử những năm 1950 và 1960 đảm nhận được điều này rất đắt đỏ và cồng kềnh, thậm chí hệ thống điều khiển thường thiếu đi khả năng này. Đây là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng nhất là đối với Hải quân Mỹ và Hải quân Hoàng gia Anh. Track-via-missile kết hợp cả hai khái niệm này để loại bỏ nhược điểm của chúng. Giống như trong SARH, bộ thu được đặt trên tên lửa và độ chính xác càng tăng lên khi nó tiếp cận mục tiêu. Thay vì xử lý tín hiệu cục bộ, tín hiệu sẽ được phát lại trên tần số khác và được thu nhận bởi bộ thu tín hiệu trên bệ phóng. Bệ phóng sau đó sẽ so sánh tín hiệu nó gửi đi với tín hiệu nhận lại từ tên lửa, và qua so sánh sẽ tính được vị trí tương đối của mục tiêu so với tên lửa. Nhưng vì trạm radar mặt đất biết vị trí thô của mục tiêu, và chi tiết của tín hiệu ban đầu nó gửi đi, nên nó không cần tín hiệu phải liên tục và do đó không yêu cầu một radar chiếu xạ riêng. Sau khi tính toán, những cập nhật về vị trí sẽ được gửi lên tên lửa và điều khiển tên lửa nhờ data link. TVM đã giải quyết bài toán độ chính xác cho tên lửa dẫn đường bằng lệnh điều khiển radio, nhưng không giải quyết được bài toán bắt buộc phải có đài radar riêng. Về lý thuyết, tên lửa có thể được bổ sung các thiết bị điện tử để cho phép nó tiếp tục bắt bám tín hiệu gián đoạn và do đó cho phép một đài radar duy nhất có thể điều khiển được nhiều tên lửa, nhưng các thiết bị điện tử những năm 1950 và 1960 đảm nhận được điều này rất đắt đỏ và cồng kềnh. Việc tập trung chúng tại bệ phóng khiến dễ xử lý vấn đề hơn, đặc biệt là sau khi transistor cấp độ quân sự ra đời vào cuối những năm 1950. Điều này dẫn đến Hải quân Mỹ phát triển tên lửa RIM-50 Typhon cùng với bạn đồng hành là radar AN/SPG-59, là một radar PESA có khả năng điều khiển một loạt phóng tên lửa cùng lúc. Các vấn đề trong quá trình phát triển đã dẫn đến việc chương trình bị hủy bỏ. Một ưu điểm khác của dẫn đường track-via-missile là không cần radar theo dõi mục tiêu, không cần dấu hiệu nhận biết mục tiêu nào đang bị theo dõi. Điều này giúp đơn giản hóa nhiệm vụ của các bộ thu cảnh báo sớm radar vốn chỉ báo mục tiêu nguy hiểm từ đó đưa ra biện pháp đánh trả, nhưng trong trường hợp của TVM tín hiệu radar tím kiếm là tất cả những gì mà ta cần và nó không thay đổi khi tên lửa được phóng đi. Trạm radar điều khiển dưới mặt đất cũng có thể sẽ tiếp nhận bức xạ radar phản xạ từ mục tiêu và kết hợp hai nguồn thông tin để tạo ra lộ trình đánh chặn. Điều này giúp tăng khả năng đối phó với đối kháng điện tử ECM. TVM cũng có một số nhược điểm. Ví dụ là liên kết dữ liệu có thể bị kẹt. Ngoài ra, TVM đòi hỏi đài radar trên mặt đất phải hoạt động liên tục dẫn đến chúng dễ trở thành mục tiêu của tên lửa chống radar. Một nhược điểm khác so với dẫn đường bằng radar chủ động là tên lửa TVM phải dựa vào radar mặt đất để điều khiển, vì vậy nếu mục tiêu tạo được chướng ngại giữa tên lửa và radar mặt đất (ví dụ như một ngọn đồi) hoặc mục tiêu bay vượt ra khỏi phạm vi theo dõi của radar thì tên lửa sẽ không thể phát hiện bức xạ từ mục tiêu do đó không thể tiếp tục đánh chặn mục tiêu. Hầu hết các loại tên lửa phòng không tầm xa hiện nay đều sử dụng kỹ thuật track-via-missile như:
HEC Paris Innovation Entrepreneurship Center HEC Paris Innovation Entrepreneurship Center là một trung tâm được thành lập để thúc đẩy Đổi mới và Khởi nghiệp tại HEC Paris. Trung tâm là một phần của Station F và nằm ở cả Paris và Jouy-en-Josas. Khoảng 500 sinh viên đang theo học các lớp học với ba bằng cấp ("Master of Science X-HEC Entrepreneurs" ; "Master of Science in Innovation and Entrepreneurship" và "Executive Master of Science in Innovation an Entrepreneurship") trong năm học. Trung tâm làm việc với Institut polytechnique de Paris (cụ thể hơn là Trường Bách khoa Paris) và Coursera. Các khóa học được giảng dạy tại trung tâm bao gồm Sáng tạo, Doanh nhân toàn cầu, Tiếp thị Doanh nhân, Sáng tạo doanh nghiệp mới, Tài chính mạo hiểm, Bán hàng doanh nghiệp và Doanh nhân xã hội. Trung tâm có một số chương trình dành cho sinh viên đại học và sau đại học cũng như dành cho giảng viên để thúc đẩy khái niệm khởi nghiệp. Một số sáng kiến mà trung tâm khởi động đã nâng cao nhận thức về tinh thần kinh doanh và đổi mới trong cả cộng đồng Jouy-en-Josas và trên toàn quốc.
Chiến dịch Thunderstorm là mật danh cho hoạt động của Quân đội Singapore nhằm ngăn chặn dân tị nạn chạy trốn khỏi Việt Nam Cộng hòa sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975. Hoàng Căn Thành đảm nhận việc giám sát chiến dịch này. Sau khi Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số lượng lớn người dân miền Nam Việt Nam bắt đầu chạy trốn khỏi nước mình vì sợ bị đàn áp làm dấy lên làn sóng thuyền nhân Việt Nam. Ngày 2 tháng 5 năm 1975, làn sóng tị nạn đầu tiên gồm 300 người đến vùng biển Singapore trên tàu "Trường Hải". Tổng cộng có tới 8.355 người tị nạn được cho là đã vào vùng biển Singapore trong thời gian này cho đến ngày 14 tháng 5 năm 1975. Trong lúc đấy, Chiến dịch Thunderstorm được MINDEF triển khai, khiến Singapore trở thành một trong những quốc gia đầu tiên ngăn chặn người tị nạn vào bờ biển của mình. Chiến dịch này có sự tham gia của Không quân Cộng hòa Singapore, Hải quân Cộng hòa Singapore, Quân đội Singapore và Cảnh sát Bảo vệ Bờ biển lúc bấy giờ (nay là Cảnh sát biển Singapore) cũng như nhiều cơ quan và cơ quan chính phủ khác nhau. Mục tiêu chính của chiến dịch này là ngăn chặn, cách ly và phòng ngừa người tị nạn tiến vào và lưu trú tại Singapore. Hải quân Cộng hòa Singapore và Cảnh sát biển Singapore được giao nhiệm vụ ngăn chặn và giam giữ tất cả các tàu tị nạn vừa đặt chân đến Singapore. Những khu vực kiểm dịch đã được thiết lập dọc theo các bãi biển của Marine Parade và Bệnh viện dã chiến SAF được triển khai đến Bedok Jetty nhằm cung cấp dịch vụ sơ cứu và các dịch vụ y tế thiết yếu khác. Hải quân bèn cử toán kỹ thuật viên và kỹ sư đến kiểm tra và sửa chữa đoàn tàu tị nạn. Thực phẩm, nước uống, dầu đốt và các vật dụng khác được cung cấp để đảm bảo tàu khởi hành. Một số vũ khí cũng bị tịch thu từ các thuyền tị nạn.
Chiến dịch New Arrivals Chiến dịch New Arrivals (29 tháng 4 – 16 tháng 9 năm 1975) là công cuộc tái định cư 130.000 người tị nạn Việt Nam từ các khu vực tổ chức trên quần đảo Thái Bình Dương đến Hoa Kỳ. Sau cuộc di tản của người dân Việt Nam Cộng hòa trong ngày Sài Gòn thất thủ, Chiến dịch New Life và Babylift vào cuối thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, dân tị nạn được chuyển đến Hoa Kỳ để bắt đầu quá trình hòa nhập và tái định cư vào xã hội Mỹ. 251 chuyến bay C-141 và C-130 cùng 349 chuyến bay thương mại đã vận chuyển dân tị nạn đến các trại trên khắp nước Mỹ. Các trại này bao gồm Trại Pendleton, California (mở cửa ngày 29 tháng 4), Fort Chaffee, Arkansas (mở cửa ngày 2 tháng 5), Căn cứ Không quân Eglin, Florida (mở cửa ngày 4 tháng 5) và Fort Indiantown Gap, Pennsylvania (mở cửa ngày 28 tháng 5). Chiến dịch này đã giúp di dời, hỗ trợ và che chở dân tị nạn cho đến khi các cơ quan dân sự có thể tái định cư họ.
Didier Lamkel Zé (sinh ngày 17 tháng 9 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Cameroon hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Hatayspor tại Süper Lig. Sự nghiệp thi đấu. Sau khi gia nhập học viện của câu lạc bộ Lille từ câu lạc bộ L'École de Football Brasseries du Cameroun (EFBC) tại quê nhà, Lamkel Zé thăng tiến qua các đội trẻ của mình. Vào mùa hè năm 2016, anh chuyển đến Chamois Niortais và kết thúc ở đội 1. Lamkel Zé ra mắt tại Ligue 2 vào ngày 29 tháng 7 năm 2016, trong trận hòa 0–0 trước RC Lens, khi vào sân thay cho Romain Grange ở những phút cuối trận. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho riêng mình ở tuần kế tiếp, bàn gỡ hòa trong trận hòa 1-1 với Stade Lavallois. Vào ngày 24 tháng 7 năm 2018, Lamkel Zé gia nhập câu lạc bộ Antwerp tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ theo bản hợp đồng bốn năm với tùy chọn năm thứ 5. Vào tháng 12 năm 2020, Lamkel Zé được cho là sẽ chuyển đến câu lạc bộ Panathinaikos tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp để tái hợp với huấn luyện viên László Bölöni. Không nhận được sự đồng ý từ câu lạc bộ, vào đầu tháng 1 năm 2021, Lamkel Zé đến sân tập của đội bóng trong áo đấu của Anderlecht, kình địch của Antwerp. Vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, sau sự phẫn nộ của người hâm mộ, Lamkel Zé đã đích thân xin lỗi trên trang Twitter chính thức của Antwerp. Cho mượn tại Dunajská Streda. Vào ngày 6 tháng 9 năm 2021, Lamkel Zé ký hợp đồng cho mượn một năm với câu lạc bộ Dunajská Streda tại Giải vô địch quốc gia Slovakia. Cho mượn tại Khimki. Vào ngày 7 tháng 2 năm 2022, Lamkel Zé gia nhập câu lạc bộ Khimki tại Giải bóng đá Ngoại hạng Nga theo dạng cho mượn. Tuy nhiên, hợp đồng cho mượn bị chấm dứt sớm do Nga xâm lược Ukraina. Cho mượn tại Metz. Theo các quy định đặc biệt do FIFA đưa ra do chiến tranh, các cầu thủ người nước ngoài đang thi đấu tại Nga được phép ký hợp đồng ngắn hạn với các câu lạc bộ khác sau khi kỳ chuyển nhượng kết thúc. Vì vậy, ngày 1 tháng 4 năm 2022, Lamkel Zé chuyển đến Metz dưới dạng cho mượn theo những điều kiện đó. Vào ngày 23 tháng 8 năm 2022, Lamkel Zé ký hợp đồng 3 năm với câu lạc bộ Kortrijk. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2023, anh ký bản hợp đồng kéo dài 2 năm với câu lạc bộ Hatayspor tại Süper Lig. "Tính đến 22 tháng 5 năm 2022"
Charles D. Seeberger (14 tháng 5 năm 1857 – 13 tháng 9 năm 1931) là nhà phát minh người Mỹ. Năm 1899, ông gia nhập Công ty Thang máy Otis. Sự hợp tác giữa Seeberger và Otis đã giúp sản xuất ra loại thang cuốn kiểu bậc thang đầu tiên được sử dụng cho mục đích công cộng và đem ra lắp đặt tại Triển lãm Paris năm 1900, giúp phát minh này giành được giải nhất. Seeberger cuối cùng đành phải bán quyền sáng chế của mình cho hãng Otis vào năm 1910.
Lớp (lý thuyết tập hợp) Trong lý thuyết tập hợp và các ứng dụng của nó quanh toán học, lớp là họ của các tập (và đôi khi trên cả các đối tượng toán học khác) và được định nghĩa rõ ràng bằng một tính chất mà tất cả các phần tử của nó đều có. Lớp hoạt động giống họ tập hợp nhưng được định nghĩa khác đi để tránh nghịch lý Russell (xem ). Định nghĩa chuẩn xác của "lớp" phụ thuộc vào ngữ cảnh của nền tảng. Khi làm việc với lý thuyết tập hợp Zermelo–Fraenkel, thuật ngữ của lớp không có hình thức, trong khi trong các lý thuyết tập hợp khác, chẳng hạn như trong lý thuyết tập hợp von Neumann–Bernays–Gödel, có tiên đề của "lớp chân chính", tức là các thực thể không phải phần tử của những thực thể khác. Lớp mà không phải tập hợp (chưa có hình thức trong Zermelo–Fraenkel) được gọi là lớp chân chính, và lớp đồng thời là tập hợp đôi khi được gọi là lớp nhỏ (hay lớp bé). Ví dụ chẳng hạn, lớp tất cả số thứ tự, và lớp tất cả các tập hợp là lớp chân chính trong nhiều hệ hình thức. Trong lý thuyết tập hợp của Quine, thuật ngữ "lớp sơ đẳng" được dùng thay vì "lớp chân chính" để nhấn mạnh rằng trong hệ thống mà ông đang xét, một số lớp không thể là phần tử, và do đó là phần tử cuối trong bất kỳ xích liên thuộc mà chúng thuộc về. Ngoài lý thuyết tập hợp, từ "lớp" đôi khi được dùng cùng nghĩa với "tập hợp". Cách dùng này bắt nguồn từ giai đoạn lịch sử mà các lớp và các tập hợp chưa được phân biệt như trong ngày nay. Nhiều thảo luận về "lớp" trong thế kỷ 19 và trước đó thực ra đang nhắc tới tập hợp, hoặc do không xét tới việc một số lớp có thể không phải là tập hợp, Họ tất cả các cấu trúc đại số của một kiểu cho trước thường sẽ là lớp chân chính. Các ví dụ bao gồm lớp của tất cả các nhóm, lớp của tất cả các không gian vectơ, và nhiều ví dụ khác. Trong lý thuyết phạm trù, một phạm trù mà các vật lập thành lớp chân chính (hay có họ các cấu xạ lập thành lớp chân chính) được gọi là phạm trù lớn. Số surreal là lớp chân chính của các đối tượng sở hữu tính chất của trường. Trong lý thuyết tập hợp, nhiều họ tập hợp được phát hiện là lớp chân chính. Các ví dụ bao gồm lớp các tập hợp, lớp các số thứ tự và lớp các số lực lượng. Một cách để chứng minh lớp là lớp chân chính đó là đặt nó trong song ánh với lớp tất cả các số thứ tự. Phương pháp này được sử dụng trong bài chứng minh không có dàn tự do đầy đủ trên ba hay nhiều hơn số phần tử sinh. Các nghịch lý trong lý thuyết tập hợp có thể giả thích bằng cách giả dụng ngầm nhưng mâu thuẫn rằng "tất cả các lớp đều là tập hợp". Với nền tảng vững chắc, các nghịch lý thay vì đó gợi ý rằng có các bài chứng minh rằng một số lớp là lớp chân chính (tức chúng không phải tập hợp). Ví dụ, nghịch lý Russell đề xuất chứng minh lớp tất cả các tập hợp không chứa chính nó là lớp chân chính, nghịch lý Burali-Forti thì cho rằng lớp tất cả các số thứ tự là lớp chân chính. Các nghịch lý không xuất hiện với lớp vì không có lớp chứa lớp. Bởi ngược lại, chẳng hạn ta có thể định nghĩa lớp của các lớp không chứa chính nó, dẫn đến nghịch lý Russell cho các lớp. Mặt khác, một kết tụ ("conglomerate"), có thể chứa các lớp chân chính, song "lý thuyết" của các kết tụ vẫn còn chưa được xác định tốt. Lớp trong lý thuyết tập hợp hình thức. Lý thuyết tập hợp ZF không hình thức hoá thuật ngữ lớp, nên mỗi công thức chứa lớp phải được rút gọn cú pháp về công thức không chứa lớp. Ví dụ, ta có thể rút gọn câu formula_1 thành formula_2. Về ngữ pháp, trong ngôn ngữ meta, các lớp có thể mô tả là các lớp tương đương của công thức logic: Nếu formula_3 là cấu trúc diễn giải ZF, thì ngôn ngữ đối tượng "công thức xây dựng lớp" formula_4 được diễn giải trong formula_3 bằng họ các phần tử trong miền của formula_3 sao cho formula_7 thoả mãn; do đó lớp có thể coi là tập tất cả các vị từ tương đương với formula_8 (bao gồm cả formula_8). Cụ thể, ta có thể đồng nhất "lớp tất cả các tập hợp" với tập tất cả các vị từ tương đương với formula_10 Bởi lớp không có hình thức trong ZF, các tiên đề của ZF không áp dụng trực tiếp cho lớp. Tuy nhiên, nếu giả định trước số thứ tự không đạt được formula_11 thì tập các hạng nhỏ hơn lập thành mô hình của ZF (tức vũ trụ Grothendieck), và các tập con của nó có thể coi là "lớp". Trong ZF, khái niệm của hàm số có thể tổng quát hoá cho các lớp. Hàm của lớp không phải hàm số như thông thường, bởi nó không phải tập hợp;thay vì đó, nó là công thức formula_12 với tính chất cho bất kỳ tập formula_13, không có nhiều hơn một tập hợp formula_14 sao cho cặp formula_15 thoả mãn formula_16 Ví dụ, hàm lớp ánh xạ các tập hợp sang kế tiếp của nó có thể biểu diễn bằng công thức formula_17 Ý cặp được sắp formula_15 thoả mãn formula_19 có thể thay bằng formula_20 Một hướng tiếp cận khác lấy từ các tiên đề von Neumann–Bernays–Gödel (NBG); lớp được coi là các vật cơ bản trong lý thuyết này, và tập hợp được định nghĩa là lớp là phần tử của một số lớp khác.Tuy nhiên, tiên đề tồn tại lớp trong NBG được giới hạn sao cho chúng chỉ định lượng trên các tập hợp, thay vì trên toàn bộ các lớp. Điều này dẫn tới NBG là mở rộng bảo toàn của ZF. Lý thuyết Morse–Kelley cũng coi lớp là các vật cơ bản như NBG, nhưng cho phép định lượng trên các lớp chân chính trong tiên đề tồn tại lớp. Điều này khiến cho MK mạnh hơn nghiêm ngặt so với NBG và ZF. Trong các lý thuyết tập hợp khác, chẳng hạn như nền tảng mới hay lý thuyết của các nửa tập hợp, khái niệm "lớp chân chính" vẫn có ý nghĩa (không phải mọi lớp là tập hợp) nhưng tiêu chuẩn để là tập hợp chưa được đóng khi xét tập con. Lấy ví dụ như các lý thuyết tập hợp đi kèm tập phổ dụng có lớp chân chính là lớp con của tập hợp.
Chặng đua MotoGP Valencia 2022 Chặng đua MotoGP Valencia 2022 là chặng đua thứ 20, cũng là chặng đua cuối cùng của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 04/11/2022 đến ngày 06/11/2022 ở trường đua Ricardo Tormo, Tây Ban Nha. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Alex Rins của đội đua Suzuki. Francesco Bagnaia chính thức đoạt chức vô địch mùa giải đua xe MotoGP 2022 sau khi về đích ở vị trí thứ 9.
Tiếng Kalašma là một ngôn ngữ đã thất truyền thuộc ngữ tộc Tiểu Á. Ngôn ngữ này được sử dụng vào cuối thời đại đồ đồng ở Kalašma, một khu vực nằm trên rìa phía Tây Bắc của Đế quốc Hitti (thuộc khu vực xung quanh tỉnh Bolu của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Julius-Maximilians-Universität Würzburg đã công bố các phát hiện về tiếng Kalašma vào năm 2023 dựa trên phiến đất sét khai quật tại Hattusa (hiện nằm trong kho lưu trữ Bogazköy). Phần giới thiệu bằng tiếng Hitti của ngôn ngữ này mô tả nó như "ngôn ngữ của vùng đất Kalašma". Vào thời điểm công bố, các văn bản trên phiến đá vẫn chưa được giải mã. Phân loại nhóm ngôn ngữ của tiếng Kalašma vẫn chưa rõ ràng, có thể thuộc nhóm Luwi. Bản dịch của các văn bản sẽ được công bố khi quá trình giải mã hoàn tất (Dự kiến vào năm 2024).
Bá tước xứ Desmond Bá tước xứ Desmond (tiếng Ireland: "Iarla Dheasumhan" có nghĩa là Bá tước xứ Nam Munster) là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Ireland đã được tạo ra 4 lần kể từ năm 1329. Tước hiệu này lần đầu tiên được trao cho Maurice FitzGerald, Nam tước Desmond thứ 4, một lãnh chúa Hiberno-Norman ở Tây Nam Ireland và nó được con cháu của ông nắm giữ cho đến năm 1583 khi họ nổi dậy chống lại Vương quyền Anh trong Cuộc nổi dậy Desmond. Sau hai lần tái lập tước hiệu này trong thời gian ngắn vào đầu những năm 1600, tước hiệu Bá tước xứ Desmond đã được gia tộc Feilding ở Warwickshire, Anh nắm giữ từ năm 1628. Người nắm giữ hiện tại là Alexander Feilding, Bá tước thứ 12 xứ Denbigh và Bá tước thứ 11 xứ Desmond (tạo ra lần thứ 4).
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Daehak-ro (Tiếng Hàn: 대학로, Hanja: 大學路) là con đường nối 82-1 Jongno 5-ga (Giao lộ Jongno 5-ga), Jongno-gu, Seoul đến 56 Hyehwa-dong (Vòng xoay Hyehwa-dong). Nó còn dùng để chỉ những con phố sinh hoạt văn hóa nghệ thuật ở khu vực xung quanh. Đoạn từ Nút giao thông Jongno 5-ga đến Nút giao Ihwa có 4 làn xe, đoạn từ Nút giao thông Ihwa đến Vòng xoay Hyehwa-dong có 6 làn xe ở cả hai hướng. Nó được đặt tên như vậy vì trước đây trường Cao đẳng Nghệ thuật Tự do của Đại học Quốc gia Seoul nằm trên con đường này.
Ekaterine "Kato" Svimonis asuli Svanidze (2 tháng 4 năm 1885 – 22 tháng 11 năm 1907) là vợ đầu của Iosif Vissarionovich Stalin và mẹ đẻ của đứa con trai trưởng Iakob Jughashvili của ông. Nguyên quán ở Racha, miền tây Gruzia, Svanidze chuyển lên Tiflis cùng với anh chị em trong nhà và làm nghề may vá ở đây. Em trai cô, Aleksandre, là một người thân tín của Stalin, khi đó vẫn đang dùng cái tên khai sinh Ioseb Jughashvili. Năm 1905, Aleksandre làm mối cho Svanidze và Stalin; vào năm 1906, hai người làm đám cưới. Cô sinh đứa con đầu lòng Iakob cho Stalin một vài tháng sau và cặp vợ chồng chuyển tới Baku để tránh các vụ bắt bớ của chính quyền Sa hoàng. Svanidze không may ngã bệnh do thời tiết nơi đây và phải trở về Tiflis vào năm 1907, song qua đời ít lâu sau vì typhus hoặc lao phổi. Cái chết của cô đã tác động rất lớn đến Stalin, người mà vốn rất quan tâm đến vợ. Ông bỏ mặc Iakob cho gia đình bên ngoại nuôi nấng và hiếm khi về thăm con, dốc hết tâm lực cho cách mạng. Ekaterine Svanidze sinh ra ở Baji, một ngôi làng nhỏ tại Racha, Gruzia, khi đó thuộc Tỉnh Kutais bên trong Đế quốc Nga. Cha cô là Svimon, một công nhân đường sắt và địa chủ; mẹ cô là Sepora, hậu duệ của một gia đình tiểu quý tộc Gruzia. Cô lớn lên cùng người chị gái Aleksandra (Sashiko; k. 1878–1936), cô em gái Maria (Mariko; 1888–1942), và cậu em trai Aleksandre (Alyosha; 1886–1941). Thiếu thời ở Tiflis. Trong khi bố mẹ họ chuyển đi Kutaisi, bốn chị em nhà Svanidze chuyển lên Tiflis (nay là Tbilisi) và sống chung trong một căn nhà trên Quảng trường Erivan (nay là Quảng trường Tự do) phía sau trụ sở Quân khu Nam Kavkaz. Alyosha là thành viên chi nhánh Gruzia của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (Bolshevik) và là thân tín của Ioseb Jughashvili (sau này lấy tên Iosif Stalin). Ba chị em nhà Svanidze làm thuê cho một thủ công xưởng thuộc sở hữu của thợ may người Pháp, Bà Hervieu. Tại đây, họ may vá quân trang phục cho giới sĩ quan quân đội và các phu nhân của họ. Người chị cả Sashiko về sau cưới Mikheil Monaselidze, một đảng viên Bolshevik khác, quen Jughashvili từ hồi còn học ở Chủng viện Tâm linh Tbilisi. Năm 1905, Alyosha mời Jughashvili về sống chung cùng ba chị gái và anh rể của ông. Vì thủ công xưởng thường được ghé thăm bởi khách hàng thượng lưu của ba chị em Svanidze, cộng với vị trí trung tâm của nó trong thủ phủ, nơi đây lý tưởng để trốn tránh cảnh sát. Monaselidze sau này kể lại: "Chỗ chúng tới vượt trên sự nghi ngờ của cảnh sát. Trong khi những anh bạn của tôi đang làm những việc phi pháp trong một căn phòng nào đó, thì vợ tôi đang ướm thử quần áo cho các bà phu nhân tướng quân ở phòng bên." Nhiều khả năng Jughashvili mới gặp gỡ Svanidze tại thời điểm này, song cũng có thể là trước đó vì ông cũng từng lẩn trốn trong nhà bố mẹ cô. Jughashvili không lâu sau nảy sinh tình cảm với Svanidze; ông về sau có kể cho con gái khác mẹ Svetlana rằng, Svanidze "rất ngọt ngào và xinh đẹp: cô ấy làm tan chảy trái tim ta." Theo Iremashvili, bản thân Svanidze "ngước nhìn [Jughashvili] 'như một á thần' nhưng cô hiểu anh ta. Cô bị hút hồn bởi [Jughashvili], và mê hoặc trước những ý tưởng của anh ta." Theo bình chú của Montefiore, Svanidze là một người phụ nữ rất có học thức và năng lực. Trên thực tế, cô tham gia chủ động vào phong trào Bolshevik, tổ chức gây quỹ cho Đảng Dân chủ Xã hội và cứu giúp các nhà cách mạng bị thương. Mùa hè năm 1906, Svanidze và Jughashvili quyết định tiến tới hôn sự. Lúc bấy giờ, cô mới mang thai được ít lâu; không rõ Svanidze có biết mình bụng mang dạ chửa từ trước hay không, tuy nhiên thì nhà sử học Stephen Kotkin cho rằng đây là lý do hai người muốn đám cưới. Giống thân mẫu Jughashvili, Keke Geladze, Svanidze rất sùng đạo và muốn tổ chức đám cưới theo nghi lễ tôn giáo trong nhà thờ; Jughashvili đồng ý mặc dù bản thân vô thần. Việc tìm kiếm một linh mục cử hành lễ cưới gặp nhiều trở ngại, sở dĩ vì Jughashvili sử dụng giấy tờ mạo danh "Galiashvili". Monaselidze rốt cuộc tìm được một linh mục tên là Kita Tkhinvaleli, kỳ thủy cũng là bạn của Jughashvili tại Chủng viện. Tuy nhiên, Tkhinvaleli chỉ đồng ý nếu làm vào buổi đêm. Lễ cưới theo đó được khai mạc vào lúc 2 giờ đêm ngày 16 tháng 7 năm 1906 trong một nhà thờ kế bên nơi ở của Svanidze. Bữa đêm nhẹ được tổ chức để thiết đãi mười vị khách dự tiệc; tiền bối Bolshevik của Jughashvili, Mikhail Grigoryevich Tskhakaya, có mặt tại đây và đảm nhận danh hiệu tamada của bữa tiệc (người nâng cốc chúc rượu trong các buổi lễ ở Gruzia). Jughashvili không mời mẹ đến và cũng chẳng báo trước cho bà về hôn sự. Sau đám cưới, một sĩ quan cảnh sát có ghé vào ngôi nhà nhưng nhanh chóng rời đi sau khi được Jughashvili hối lộ. Mặc dù luật pháp quy định phải khai nhận hôn phối trên hộ chiếu nội địa, Svanidze không tuân thủ, bề ngoài là để bảo vệ Jughashvili, người mà đang nằm trong diện theo dõi của Okhrana, lực lượng cảnh sát mật của Sa hoàng. Cô tiếp tục hỗ trợ các hoạt động của Đảng Bolshevik, tiếp nhận một liên lạc viên từ Moskva vào tháng 11 năm 1906. Người này hóa ra là điệp viên hai mang của chính quyền và sau khi hắn ta rời đi, Svanidze và anh họ của cô, Spiridon Dvali, bị bắt giữ vào ngày 13 tháng 11. Svanidze bị cầm cố cùng Dvali với tội danh âm mưu chế tạo bom, lĩnh án tử. Sau sáu tuần tù ngục, Svanidze được phóng thích vì lý do sức khỏe (mang thai bốn tháng) và nhờ sự giúp đỡ của các khách hàng thượng lưu của Sashiko; Dvali cũng nhận ân giảm. Tuy nhiên, Svandize không được phép về nhà mà phải tá túc nhà cảnh sát trưởng hai tháng. Jughashvili thỉnh thoảng thăm cô trong khoảng thời gian này vì viên sĩ quan không biết mặt ông. Ngày 18 tháng 3 năm 1907, Svanidze sinh Iakob trong sự có mặt của Jughashvili và bà Geledze. Jughashvili tiếp tục hoạt động cách mạng sau khi Yakov chào đời, hiếm khi chơi đùa với con và gọi nó bằng biệt danh thân mật là "Patsan" (nhóc con). Vài tháng sau, Jughashvili tham gia vào vụ cướp nhà băng Tiflis trứ danh. Gia đình Jughashvili do vậy phải chuyển tới Baku để tránh bị bắt. Họ thuê một "căn nhà Tartar với cái trần thấp nằm trên bán đảo Bailov" ngoại ô gần bờ biển. Svanidze cố gắng kiếm việc, nhưng vì phải trông con nhỏ nên chuyện này coi như không thành. Ngã bệnh và qua đời. Jughashvili thường xuyên vắng nhà, để Svanidze một mình ở chốn đất khách quê người. Căng thẳng vì lo nghĩ cho chồng, cũng như từ sự cô đơn và khí hậu ấm nồm, đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của Svanidze. Gia đình khuyên cô quay về Racha, nơi khí hậu ôn hòa hơn, để giữ sức và ở cạnh người thân, nhưng cô nhất quyết không chịu bỏ chồng. Tới tháng 10, tình trạng sức khỏe của Svanidze đã càng trở xấu; Jughashvili lo đến độ phải đưa vợ về Tiflis, nhưng ông nhanh chóng phải quay lại Baku. Trên chuyến hành trình dài 13 tiếng đồng hồ về Gruzia, Svanidze uống phải nước bẩn và có lẽ bị nhiễm typhus. Tại Tiflis, cô biểu hiện chứng xuất huyết đường ruột. Jughashvili có về thăm vợ một lần, nhưng chỉ ba tuần sau khi ông rời Tiflis thì vào ngày 22 tháng 11 năm 1907, Svanidze qua đời. Cái chết của Svanidze được thông cáo trên tờ "Tsqaro" (წყარო, "Nguồn cội"), và một tang lễ đã được cử hành vào lúc 9 giờ sáng ngày 25 tháng 11 tại cùng nhà thờ nơi cô kết hôn với Jughashvili. Svanidze sau đó được chôn cất tại một nghĩa trang ở quận Kukia của Tiflis. Theo đảng viên Menshevik người Gruzia Ioseb Iremashvili, Jughashvili đã rất quẫn trí trước cái chết của vợ, và có lẽ đã nói tại tang lễ rằng: "Sinh vật này làm nhu mềm trái tim sỏi đá của tôi. Cô ấy đã chết và theo đó chết hết những tình cảm còn lại trong tôi cho nhân loại." Jughashvili về sau cũng từng nói với một người bạn gái rằng, ông "tràn ngập khổ đau đến nỗi các đồng chí [của ông] đã phải tước súng [của ông] đi." Trong lúc phủ cát lên quách, Jughashvili được cho là đã gieo thân mình xuống mộ, nhưng bị những người quanh đó kéo lên. Tuy vậy, Jughashvili không thể nán lại do đang bị truy dấu bởi mật vụ Okhrana. Ông nhanh chóng rời Tiflis và quay lại Baku, bỏ mặc đứa con Iakob 8 tháng tuổi cho họ hàng bên ngoại nuôi. Jughashvili sẽ không trở về thăm con trong nhiều năm tới. Những sự kiện về sau. Iakob dành 14 năm tuổi thơ dưới sự che chở của nhà Svanidze. Cậu được đưa lên Moskva vào năm 1921 để sống với cha. Đây là một trải nghiệm khó khăn đối với Iakob chỉ biết nói tiếng Gruzia mà không hiểu tiếng Nga, thêm vào đó thì người cha cũng không quan tâm mấy đến cậu. Các thành viên khác trong gia đình Svanidze cũng chuyển lên Moskva, và Jughashvili, bấy giờ đã lấy tên Iosif Stalin, cũng thi thoảng ghé thăm họ. Alyosha Svanidze, em trai Ekaterine, cưới nữ ca sĩ opera Maria Anisimovna Korona và thăng tiến trong hàng ngũ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Mariko Svanidze, em gái Ekaterine, cũng chuyển lên Moskva sống và làm thư ký cho Abel Enukidze. Năm 1937, trong cuộc Đại Thanh trừng, Mariko bị bắt giữ cùng với Enukidze, người mà lĩnh án tử hình không lâu sau. Năm 1938, Stalin hạ lệnh bắt giữ Alyosha và vợ ông. Alyosha bị ép phải khai nhận là gián điệp của Đức nhưng ngoan cố chối bỏ. Ông bị tử hình vào năm 1941, trong khi Mariko và Maria bị xử bắn vào năm 1942. Người chị cả của Kato là Sashiko đã qua đời vì ung thư trước cuộc Đại Thanh trừng nên không gặp kết cục như những người em. Con trai của Alyosha và Maria, Ivan Svanidze, về sau cưới con gái duy nhất của Stalin, Svetlana Alliluyeva. Ivan đâm đơn ly hôn vợ vào năm 1959.
Jean-Clair Dimitri Roger Todibo (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Nice tại Ligue 1 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp. Sự nghiệp câu lạc bộ. Todibo gia nhập Toulouse vào năm 2016 từ FC Les Lilas. Anh ra mắt tại Ligue 1 vào ngày 19 tháng 8 năm 2018 trước đối thủ Bordeaux tại trận Derby de la Garonne và chơi 89 phút trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà. Vào ngày 1 tháng 9, anh bị đuổi khỏi sân ở phút thứ 26 trong chiến thắng 2-1 trước Guingamp. Anh chơi 10 trận cho câu lạc bộ và ghi một bàn trong suốt mùa giải 2018-19, ghi bàn gỡ hòa muộn vào ngày 30 tháng 9 trong trận hòa 1-1 trước Rennes. Vào ngày 8 tháng 1 năm 2019, Todibo đã đạt được thỏa thuận với Barcelona. Theo đó, anh gia nhập đội theo dạng chuyển nhượng tự do vào tháng 7 năm 2019 khi hợp đồng của anh với Toulouse sắp hết hạn. Tuy nhiên, đội bóng Tây Ban Nha đã thúc đẩy vụ chuyển nhượng này và anh gia nhập câu lạc bộ vào ngày 31 tháng 1 năm 2019. Anh trở thành cầu thủ Pháp thứ 22 ký hợp đồng với Barcelona và được trao chiếc áo số 6. Vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, Todibo được câu lạc bộ Bundesliga Schalke 04 mượn đến cuối mùa giải với tùy chọn mua với giá 25 triệu euro cộng thêm 5 triệu euro cho các chi phí phụ. Vào tháng 3, Todibo được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Schalke do người hâm mộ bình chọn. Vào ngày 5 tháng 10 năm 2020, Todibo gia nhập câu lạc bộ Primeira Liga Benfica theo dạng cho mượn một năm với tùy chọn mua với giá 20 triệu euro. Vào ngày 1 tháng 2 năm 2021, Todibo quay trở lại Ligue 1 để gia nhập câu lạc bộ Nice theo dạng cho mượn với tùy chọn mua sau khi hợp đồng cho mượn của anh bị Barcelona và Benfica chấm dứt. Vào ngày 27 tháng 6, câu lạc bộ đã thực hiện thương vụ này vĩnh viễn khi họ trả 8,5 triệu euro đi kèm với 7 triệu euro biến phí cho Barcelona. Barcelona cũng bảo lưu quyền hưởng một tỷ lệ phần trăm trong số tiền bán anh trong tương lai. Vào ngày 18 tháng 9 năm 2022, anh bị đuổi khỏi sân trong trận đấu với Angers sau chín giây và anh chính thức lập kỷ lục thời gian nhận thẻ đỏ nhanh nhất trong lịch sử Ligue 1. Sự nghiệp quốc tế. Todibo có trận ra mắt quốc tế cho đội U-20 Pháp vào ngày 16 tháng 11 năm 2018 trong trận hòa giao hữu 1-1 với Thụy Sĩ ở Cartagena, Tây Ban Nha. Vào tháng 3 năm 2023, anh lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển quốc gia Pháp để tham dự các trận đấu vòng loại UEFA Euro 2024 với Hà Lan và Cộng hòa Ireland. Todibo ra mắt tuyển Pháp trong trận giao hữu trước Đức vào ngày 12 tháng 9 năm 2023. Anh ra mắt cho Pháp tại một giải đấu tại trận chiến thắng kỷ lục 14–0 của Pháp trước Gibraltar vào ngày 18 tháng 11. "Tính đến 11 tháng 8 năm 2023" "Tính đến 18 tháng 11 năm 2023"
Dawid Jung (sinh ngày 17 tháng 1 năm 1980 tại Kłecko) - một ca sĩ opera Ba Lan, nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học và sân khấu, nhà xuất bản, nhà nghiên cứu và sáng tạo văn hóa, nhà sử học, nhân viên bảo tàng, nhà thiết kế các tuyến văn hóa. Ông là giám đốc Bảo tàng Đại lý Organs Ba Lan và là biên tập viên chính của tạp chí văn hóa toàn quốc: "Zeszyty Poetyckie". Đã nhận được nhiều giải thưởng và phần thưởng quốc gia uy tín như: Huy chương Juliusz Słowacki (2009), Huy chương Nghệ thuật Trẻ (người đoạt giải đầu tiên trong lĩnh vực văn học là Stanisław Barańczak) (2014), Huy chương Thiên niên kỷ Hội nghị Gniezno (2014), Giải Thưởng Nhà báo Trẻ (được trao bởi Hội Nhà báo Ba Lan) (2016), Giải thưởng Magellan (2016), Giải thưởng Bolesław Leśmian (2017), Huân chương danh dự "Dành cho Văn hóa Ba Lan" (2018), Giải thưởng Văn học và Lịch sử Identitas (2019), Huy chương Thiếu niên Lạc quan (2019), Huy chương "Người Bảo trợ của Di sản Quốc gia" (2020), Huân chương Thánh Gioan Phaolô II (2021), Huân chương Sĩ quan (Hạng I) của Huy chương Đen Ba Lan (2021), Huy chương Thế kỷ của Độc lập Thu được (2022), Huân chương "Đặc biệt cho Hội Nhà văn Ba Lan" (2023) và những giải thưởng khác. Từ năm 2023, ông là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Ba Lan tại Poznań
Aleix Espargaro, sinh năm 1989, là một tay đua mô tô người Tây Ban Nha. Aleix Espargaro đã từng nhiều lần giành chiến thắng thể thức đua xe MotoGP. Năm 2023 anh thi đấu cho đội đua Aprilia Racing. Aleix Espargaro có một người em trai cũng đang thi đấu MotoGP là Pol Espargaro. Aleix Espargaro thi đấu chuyên nghiệp từ năm 2004 và chuyển lên thi đấu MotoGP từ năm 2009. Nhưng phải đến năm 2022 Aleix Espargaro mới giành được chiến thắng MotoGP đầu tiên trong sự nghiệp, ở chặng đua MotoGP Argentina 2022. Đó cũng là chiến thắng MotoGP đầu tiên của đội đua Aprilia. Mùa giải MotoGP 2022 cũng là mùa giải mà Aleix Espargaro giành được kết quả tốt nhất trong sự nghiệp với vị trí thứ 4 chung cuộc. Năm 2023 Aleix Espargaro tiếp tục thi đấu cho đội đua Aprilia. Anh giành thêm 2 chiến thắng nữa ở các chặng đua ở Anh và Catalunya.
Alpha Richard Diounkou Tecagne (sinh ngày 10 tháng 10 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Larnaca, theo dạng cho mượn từ Granada tại La Liga. Sự nghiệp thi đấu. Diounkou bắt đầu chơi bóng ở học viện trẻ của Son Cladera lúc 6 tuổi, trước khi chuyển đến học viện của Mallorca ở tuổi 14. Anh chuyển đến học viện Manchester City vào tháng 1 năm 2016. Anh được đôn lên đội dự bị của đội bóng, trước khi chuyển đến Granada vào ngày 31 tháng 8 năm 2021. Anh gia nhập câu lạc bộ San Fernando dưới dạng cho mượn trong nửa đầu mùa giải 2021–22. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, anh gia nhập Barcelona B cho phần còn lại của mùa giải. Cho mượn tại Larnaca. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2023, Diounkou được cho mượn tại câu lạc bộ Larnaca trong một năm. Sự nghiệp quốc tế. Diounkou sinh ra ở Sénégal và chuyển đến Tây Ban Nha khi còn trẻ. Anh đại diện cho đội tuyển U-17 Tây Ban Nha tại Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu 2018. Anh chuyển sang đại diện cho U-20 Sénégal tại Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2019. Diounkou được triệu tập lên đội tuyển Sénégal vào tháng 5 năm 2022 để chuẩn bị cho các trận đấu tại Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2023.
Bàn thắng đẹp nhất tháng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam Bàn thắng đẹp nhất tháng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam là giải thưởng bóng đá được trao cho những cầu thủ đã ghi bàn thắng đẹp nhất trong mỗi tháng của mùa giải tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam. Người chiến thắng được quyết định thông qua sự bình chọn của ban tổ chức giải và của các phóng viên đại diện cho các cơ quan báo chí, truyền thông. Trong giai đoạn 2006 đến 2021, giải thưởng được xác định dựa trên kết quả bầu chọn của khán giả qua tin nhắn điện thoại hoặc bình chọn trực tuyến. Giải thưởng được giới thiệu lần đầu vào mùa giải 1999–2000, nằm trong hệ thống các giải thưởng bầu chọn hàng tháng của Liên đoàn bóng đá Việt Nam (cùng với các giải thưởng khác cho thủ môn, hậu vệ, cầu thủ và huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng) tại hai giải đấu là giải vô địch quốc gia và Cúp Quốc gia. Trong những mùa giải từ 2003 đến 2005, giải thưởng này không nằm trong hệ thống các giải thưởng tháng; riêng mùa giải 2007 không tổ chức trao các giải thưởng tháng. Kể từ mùa giải 2023, giải thưởng Bàn thắng đẹp nhất tháng được tài trợ bởi tập đoàn Casper Việt Nam. Danh sách đoạt giải. Trong 3 mùa giải đầu tiên, do giải thưởng Bàn thắng đẹp nhất tháng được xét chung với giải Cúp Quốc gia, nên chỉ có giải thưởng của những tháng diễn ra trong thời gian giải vô địch quốc gia được tổ chức được đưa vào danh sách này. Danh sách cũng bao gồm các giải thưởng của mùa giải 2021 bị hủy bỏ giữa chừng.
Nút giao thông khác mức Nút giao thông khác mức (tiếng Anh: "interchange") trong giao thông đường bộ là một loại nút giao thông sử dụng phân mức để dòng lưu thông trên đường này không xung đột trực tiếp với dòng lưu thông trên đường khác. Trong thiết kế nút giao khác mức, các loại cầu vượt, các đường nhánh chuyển làn hay được sử dụng. Có các loại nút giao thông khác mức bốn chiều, ba chiều, hai chiều và một chiều. Nút giao đường cao tốc. Một loại nút giao thông nối một đường cao tốc với một công trình khác, với các đường khác hoặc với một trạm dừng nghỉ đường cao tốc. Các nút giao thông thường (nhưng không phải luôn luôn) được đánh số theo thứ tự hoặc theo khoảng cách từ một điểm cuối của tuyến đường ("điểm bắt đầu" của tuyến đường). Hiệp hội Quan chức Giao thông và Xa lộ Tiểu bang Mỹ (AASHTO) định nghĩa nút giao thông là "một hệ thống đường kết nối với nhau kết hợp với một hoặc nhiều tầng cung cấp sự di chuyển của giao thông giữa hai hoặc nhiều đường hoặc đường cao tốc ở các cấp độ khác nhau." Nút giao hệ thống. Một nút giao kết nối nhiều đường cao tốc. Nút giao dịch vụ. Một nút giao kết nối đường chính với đường cấp thấp hơn, chẳng hạn như đường trục chính hoặc đường gom. Đường chính là đường cao tốc trong nút giao thông dịch vụ, trong khi đường giao nhau là đường cấp thấp hơn thường bao gồm các nút giao thông đồng mức hoặc bùng binh, có thể vượt qua hoặc bên dưới đường chính. Nút giao hoàn thiện. Một nút giao mà tất cả các hướng di chuyển có thể có giữa các đường cao tốc có thể được thực hiện. Nút giao chưa hoàn thiện. Một giao lộ thiếu ít nhất một hướng di chuyển giữa các đường cao tốc. Một đoạn đường ngắn cho phép các phương tiện đi vào hoặc ra khỏi đường cao tốc. Phương tiện đi vào đang đi vào đường cao tốc qua đoạn đường nối vào hoặc đoạn đường vào, trong khi phương tiện đi ra đang rời khỏi đường cao tốc thông qua đoạn đường nối ngoài hoặc đoạn đường ra. Đường nối định hướng. Một đoạn đường cong về hướng di chuyển mong muốn; tức là đoạn đường rẽ trái đi ra từ phía bên trái của đường (lối ra bên trái). Đường nối bán định hướng. Đoạn đường nối thoát ra theo hướng ngược lại với hướng di chuyển mong muốn, sau đó rẽ về hướng mong muốn. Hầu hết các chuyển động rẽ trái được cung cấp bởi đoạn đường nối bán định hướng đi ra bên phải, thay vì đi ra từ bên trái. Một tình huống không mong muốn khi giao thông vào và ra khỏi đường cao tốc phải băng qua đường trong một khoảng cách giới hạn. Khái niệm đường cao tốc có kiểm soát ra vào được phát triển vào những năm 1920 và 1930 ở Ý, Đức, Hoa Kỳ và Canada. Ban đầu, những con đường này có nút giao cùng mức dọc theo chiều dài của chúng. Các nút giao thông đã được phát triển để cung cấp khả năng tiếp cận giữa các đường cao tốc mới này và các đường phố có lượng người qua lại đông đúc. Đường Bronx River Parkway và Long Island Motor Parkway là những con đường đầu tiên có đường được phân mức. Kỹ sư Arthur Hale của bang Maryland đã nộp bằng sáng chế cho thiết kế nút giao thông dạng hoa thị vào ngày 24 tháng 5 năm 1915, mặc dù công trình đường bộ mang tính khái niệm chưa được thực hiện cho đến khi một nút giao thông dạng hoa thị được mở vào ngày 15 tháng 12 năm 1929 tại Woodbridge, New Jersey, nối liền Tuyến đường New Jersey 25 và Tuyến đường New Jersey 4 (nay là Tuyến Hoa Kỳ 1/9 và Tuyến New Jersey 35). Nó được thiết kế bởi công ty kỹ thuật Rudolph và Delano ở Philadelphia, dựa trên thiết kế được đăng trên một tạp chí của Argentina.
MICA, viết tắt của Missile d'Interception, de Combat et d'Auto-défense (#đổi ) là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn/trung hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết của quân đội Pháp do MBDA sản xuất. Nó được thiết kế phóng từ cả trên không và từ các ống phóng tên lửa thẳng đứng trên tàu chiến. Tên lửa được trang bị động cơ điều khiển vectơ lực đẩy. Tên lửa được phát triển từ năm 1982 bởi Matra. Đưa vào thử nghiệm lần đầu từ năm 1991, tên lửa được đưa vào trang bị đầy đủ năm 1996 để trang bị trên máy bay tiêm kích Dassault Rafale và Mirage 2000. Nó được phát triển và thay thế cho tên lửa Super 530 trong vai trò đánh chặn và tên lửa Magic II trong không chiến quần vòng. Vào ngày 11 tháng 6 năm 2007, một tên lửa MICA được phóng từ máy bay tiêm kích Rafale đã thể hiện thành công khả năng bay qua vai của mình bằng cách tiêu diệt mục tiêu phía sau máy bay phóng. Mục tiêu được chỉ định bởi một máy bay khác và tọa độ được truyền đi bởi Link 16. Đặc tính kỹ thuật. Có hai phiên bản tên lửa MICA; MICA RF có đầu dò radar chủ động trong khi phiên bản MICA IR có đầu dò hồng ngoại. Cả hai đầu dò đều được thiết kế để đối phó với ra các biện pháp đối phó như pháo sáng gây nhiễu và mồi nhử. Bộ điều khiển vectơ lực đẩy được trang bị cho động cơ tên lửa giúp tăng tính linh hoạt của tên lửa. Tên lửa có khả năng khóa sau khi phóng (LOAL), nghĩa là nó có khả năng tấn công các mục tiêu bên ngoài trường nhìn của đầu dò tên lửa. Được trang bị trên Rafale, MICA IR có thể cung cấp hình ảnh hồng ngoại cho hệ thống xử lý dữ liệu trung tâm, do đó nó có thể hoạt động như một cảm biến bổ sung. MICA cũng được triển khai từ bệ phóng mặt đất, như là một tên lửa đất đối không tầm ngắn, phiên bản này có tên gọi VL MICA. Tên lửa được phóng từ ống phóng hộp đặt trên xe tải, và phiên bản Hải quân, VL MICA-M, được phóng đi từ giếng phóng thẳng đứng. Các tàu hộ tống không đủ lớn để trang bị hệ thống tên lửa Aster lớn và đắt tiền là những khách hàng tiềm năng nhất của VL MICA-M. Tên lửa VL MICA có tầm hoạt động được quảng cáo là 20 km. Từ 0 đến 7 km MICA có khả năng cơ động là 50 g, tuy nhiên khi bay được 12 km thì khả năng cơ động này giảm xuống còn 30 g do tên lửa bị mất năng lượng. Không quân Ai Cập: MICA EM/IR trang bị trên máy bay Rafale, cơ số 150 tên lửa. Hải quân Pháp: sử dụng trên máy bay tiêm kích Rafale M và tàu ngầm lớp Barracuda. * 100 tên lửa mua từ năm 2000 (nhận hàng năm 2003-04) * 100 tên lửa mua năm 2003 Không quân Ấn Độ: 200 tên lửa MICA-IR và 1000 tên lửa MICA-RF được tích hợp trên Mirage-2000 và Rafale. Không quân Ấn Độ đã thử nghiệm thành công phóng tên lửa MICA từ máy bay tiêm kích Sukhoi Su-30MKI. Royal Moroccan Air Force, 150 tên lửa đặt hàng từ năm 2005 Qatar Emiri Air Force, 100 tên lửa MICA-EM đặt hàng từ năm 1994, hơn 150 tên lửa MICA-IR và 150 tên lửa MICA-EM đặt mua năm 2015 Không quân Trung hoa Dân quốc: 960 tên lửa đi kèm với máy bay Mirage 2000-5 của Không quân Đài Loan. Viện Khoa học và Công nghệ Trung Sơn đã được giao nhiệm vụ cải tiến tên lửa từ năm 2016. United Arab Emirates Air Force: đặt hàng 500 tên lửa cho Mirage 2000 vào năm 1998 Botswana Ground Force: có 1 khẩu đội tên lửa VL MICA được mua từ năm 2016, cùng với 50 tên lửa. Royal Moroccan Army: 4 khẩu đội VL MICA.,200 tên lửa mua từ năm 2020 Royal Army of Oman VL MICA (đặt hàng từ năm 2009, chuyển giao từ năm 2012 cùng với 50 tên lửa) Saudi Arabia National Guard Air Defence: VL-MICA.#đổi , 5 khẩu đội đặt hàng từ 2013 với 250 tên lửa. Royal Thai Army: 1 khẩu đội VL MICA, 50 tên lửa mua từ 2016 VL MICA-M trang bị trên 4 tàu hộ tống lớp Gowind (16 VLS), 75 tên lửa. VL-MICA-M trang bị trên 4 tàu hộ tống MEKO-A200-EN mỗi tàu trang bị 32 × VLS cho MBDA MICA-NG cùng với 200 tên lửa. 75 tên lửa được mua thêm. Indian Navy: trang bị trên tàu ngầm lớp Kalvari. Royal Navy of Oman Republic of Singapore Navy United Arab Emirates Navy
Núi Thủng (tiếng Tày: "Phja Piót") là một ngọn núi nhỏ ở Cao Bằng, nằm trong Công viên địa chất Non nước Cao Bằng. Ngọn núi này có một cái hang lớn tên là "Phia Lông" xuyên qua thân núi, khiến cho ánh sáng Mặt trời khi chiếu vào núi từ bên kia có thể thấy được khi nhìn ở vị trí đối diện. Do đó, nó còn được gọi là núi Mắt Thần. Trong tiếng Tày, tên núi "Phja Piót" nghĩa là "cái núi bị thủng một lỗ, dùi xuyên qua như để gió lùa thông thống bên nọ sang bên kia". Núi Thủng nằm tại xóm Bản Danh, xã Quốc Toản, huyện Quảng Hoà. Núi nằm về phía bắc Thành phố Cao Bằng. Theo đường Quốc lộ 3 khoảng 20 km đến đèo Mã Phục, sau đó rẽ vào Tỉnh lộ 205, chạy khoảng 10 km theo tỉnh lộ này rồi nối tiếp một con đường nhỏ hơn là đến núi Thủng. Núi nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh hồ Thang Hen, một quần thể 36 hồ nước liên thông nhau, đan xen với núi. Quần thể chủ yếu thuộc xã Cao Chương, huyện Trùng Khánh và xã Quốc Toản, huyện Quảng Hòa. Núi Thủng còn có các tên gọi khác là Mắt Thần Núi, núi Mắt Thần, núi Mắt Rồng. Núi Thủng là ngọn núi đá vôi cao khoảng 100 m, nằm giữa một thung lũng cạnh hồ Nậm Trá. Hang xuyên qua lòng núi chỗ rộng nhất có đường kính là 50 m, cao 45 m. Bao phủ núi là rừng cây, nghiến là loài cây phổ biến trong lòng hang núi. Mưa trên vùng núi kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8. Đặc điểm thủy lưu khu vực là các dòng chảy bề mặt là các con suối và các dòng chảy ngầm, nước có thể dâng và rút rất nhanh. Theo các nhà địa chất, núi là một hang khô, có tuổi hình thành hơn 300 triệu năm trước. Sau đó, do vận động kiến tạo mà hang được nâng lên. Các vận động này cũng nâng các khu vực xung quanh tạo thành các khối núi dạng tháp và dạng nón đan xen các hồ nước ở độ cao chung 650–700 m. Núi Thủng nằm trong một khu vực núi-hồ Thang Hen vào năm 2016 được Viện Khoa học Địa chất Khoáng sản thuộc Bộ Tài nguyên Môi trường đánh giá "di sản địa chất có giá trị và ý nghĩa quốc tế". Do 36 hồ nước trong khu vực có cơ chế "khi đầy khi vơi", là hiện tượng hiếm gặp ở các vùng karst trên thế giới. Núi đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Danh lam thắng cảnh quốc gia theo Quyết định số 1988/QĐ-BVHTTDL ngày 29/6/2021. Dân địa phương là người Tày, họ sống ở xóm Bản Danh gần núi. Khu định cư này đã có từ rất xa xưa. Đời sống người dân chủ yếu bằng nông nghiệp và buôn bán khoai lang, bắp, rau củ, cá tươ, gồm trâu, bò, ngựa. Vào mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 8, lòng hồ Nậm Trá nước dồi dào, mặt nước có thể rộng lên đến 15 ha, người dân địa phương dùng bè mảng, thuyền nan ra hồ giăng lưới đánh bắt cá. Họ cũng chuyên chở khách du lịch "phượt" để lấy tiền công, cũng như buôn bán hàng hóa cho khách. Các núi thủng khác. Núi Thủng không phải là ngọn núi duy nhất trong khu vực có dạng thủng xuyên qua núi, còn nhiều ngọn núi khác trong cùng khu vực có tình trạng địa chất và hình dạng tương tự. Tuy nhiên đến nay chúng vẫn chưa được khám phá đầy đủ.
Bầu cử Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa 1956 Bầu cử Quốc hội Lập hiến được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 4 tháng 3 năm 1956. Tổng cộng có 431 ứng cử viên tranh cử 123 ghế từ tất cả 5 chính đảng thân chính phủ đã đăng ký, trong đó 11 người được bầu là phái độc lập thân chính phủ. Edward Miller lưu ý rằng cuộc bầu cử tương đối tự do và công bằng so với cuộc trưng cầu dân ý Quốc gia Việt Nam năm 1955, vì các ứng cử viên độc lập và đối lập được phép tranh cử các ghế và mở những cuộc vận động đối lập. Tuy vậy, tài liệu tranh cử phải được sàng lọc và chính phủ được phép đình chỉ các ứng cử viên này do họ có mối liên hệ với Việt Minh và những nhóm nổi dậy khác. Hai dân biểu không được đảm nhận chức trách do vi phạm bầu cử, khiến tổng số dân biểu trúng cử là 121 người. Ngày 26 tháng 10 năm 1956, cơ quan này được chuyển đổi thành Quốc hội sau khi bản hiến pháp mới có hiệu lực. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bầu cử Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa 1966 Bầu cử Quốc hội Lập hiến được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 11 tháng 9 năm 1966. Tổng cộng có 532 ứng cử viên tranh cử 117 ghế. Quốc hội đã soạn thảo và phê chuẩn bản hiến pháp mới sẽ được ban hành vào năm sau. Hệ thống bầu cử. Hệ thống bầu cử sử dụng 44 tỉnh miền Nam Việt Nam làm đơn vị bầu cử. Mỗi tỉnh là một đơn vị bầu cử, ngoại trừ thủ đô Sài Gòn được chia thành ba đơn vị bầu cử và tỉnh Gia Định được chia thành hai đơn vị bầu cử. Tỉnh nào bầu nhiều hơn một thành viên sử dụng cơ chế đại diện tỷ lệ với số ghế được phân bổ theo phương pháp d'Hondt, trong lúc những tỉnh chỉ bầu một thành viên thì áp dụng cơ chế bầu cử theo đa số. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bầu cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa 1959 Bầu cử Quốc hội được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 30 tháng 8 năm 1959, mang lại chiến thắng áp đảo cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính thể miền Nam. Chế độ này đã giành được tất cả, trừ hai trong số 123 ghế trong Quốc hội, do 5 chính đảng thân chính phủ và các ứng cử viên độc lập thân chính phủ nắm giữ. Cuộc bầu cử cho phép tự do hóa phần nào về quyền tự do ngôn luận, nhưng chế độ Diệm vẫn tiếp tục duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với quá trình bầu cử. Bất chấp những nỗ lực đáng kể trong việc ngăn chặn một số ít ứng cử viên đối lập ra ứng cử trong cuộc bầu cử thông qua việc sử dụng binh sĩ quân đội đến nhét đầy thùng phiếu để ủng hộ các ứng cử viên thân chính phủ, hai ứng cử viên độc lập của phe đối lập đã đắc cử – Phan Quang Đán và Phan Khắc Sửu. Tuy nhiên, trong phiên khai mạc Quốc hội đầu tiên, Đán và một đại biểu độc lập khác là Nguyễn Trân không được phép tham dự và bị bắt và buộc tội gian lận bầu cử. Cuộc bầu cử này nói chung theo một báo cáo năm 1966 của CIA mô tả là "bẩn thỉu và gian lận công khai nhất" trong tất cả các cuộc bầu cử ở Việt Nam Cộng hòa. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị với Diệm nên tổ chức hội nghị tham vấn trước bầu cử. Việc này được thực hiện vào tháng 5 và tháng 6 năm 1956, tháng 7 năm 1957, tháng 5 năm 1958 và một lần nữa vào tháng 7 năm 1959. Lời đề nghị về cuộc đàm phán giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, trên cơ sở "tổng tuyển cử tự do bằng lối bỏ phiếu kín". Tất cả những lời đề nghị như vậy đều bị bác bỏ. Diệm từ chối tổ chức cuộc bầu cử theo Điều 7 của Tuyên bố Hiệp định Genève, vì Quốc gia Việt Nam trước đây chưa ký kết Hiệp định Genève – do đó không tuân theo bất kỳ thỏa thuận nào cả. Mỹ hoàn toàn ủng hộ ông. Kết quả của việc từ chối đó, Thượng nghị sĩ Mỹ Ernest Gruening, trong một bài phát biểu trước Thượng viện Hoa Kỳ vào ngày 9 tháng 4 năm 1965 đã nói "Cuộc nội chiến này đã bắt đầ—theo sự thúc giục của chúng ta—từ chối thực hiện điều khoản trong Hiệp định Genève để tổ chức bầu cử thống nhất đất nước Việt Nam". Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Phan Quang Đán được coi là một người theo chủ nghĩa dân tộc chống cộng, một trong những nhân vật chính trị có năng lực nhất trong nước, và được bầu với tỷ lệ 6-1 so với ứng cử viên chính phủ của Diệm. Điều này xảy ra bất chấp 8.000 binh sĩ Lục quân Việt Nam Cộng hòa được chở từ ngoài khu vực bầu cử đến bỏ phiếu. Bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ đại sứ quán Mỹ và Anh, Diệm vẫn kiên quyết rằng Đán sẽ không thể ngồi vào ghế của mình. Khi Quốc hội khai mạc, Đán đã phải đối mặt với cảnh sát và bị bắt giữ khi ông định rời phòng khám của mình để tới tham dự phiên họp. Đán bị buộc tội gian lận bầu cử với lý do được cho là đã cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế miễn phí hòng lôi kéo cử tri ủng hộ mình. Ông cũng chỉ ra rằng nếu đúng như vậy thì ông sẽ tranh cử ở khu vực bầu cử nơi ông hành nghề, nhằm tối đa hóa số lượng bệnh nhân đến chỗ bỏ phiếu của mình.
Bầu cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa 1963 Bầu cử Quốc hội được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 27 tháng 9 năm 1963. Chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã giành được tất cả trừ ba trong số 123 ghế trong Quốc hội. Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng và Đại Việt Tiến bộ Đảng đối lập giành được ba ghế. Vì cuộc bầu cử diễn ra trong thời kỳ khủng hoảng Phật giáo, chính phủ đã cho phép các thành phần đối lập tham gia bầu cử như một trong những nhượng bộ đối với giới lãnh đạo cuộc biểu tình của Phật giáo. Tuy nhiên, do cuộc đảo chính năm 1963, Quốc hội không thể triệu tập phiên khai mạc đầu tiên và bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng giải tán vào ngày 3 tháng 11 năm 1963. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Luca Marini (sinh năm 1997) là một tay đua mô tô người Ý. Luca Marini từng đoạt danh hiệu Á quân giải đua xe Moto2 năm 2020 và nhiều lần lên podium thể thức MotoGP. Năm 2023 Marini thi đấu MotoGP cho đội đua VR46. Luca Marini là em trai cùng mẹ khác cha của Valentino Rossi. Trước năm 2016, Luca Marini tham gia các giải đua trẻ và tham gia đặc cách một vài chặng đua của giải Moto3 và Moto2 nhưng thành tích không quá nổi bật. Luca Marini chính thức thi đấu chuyên nghiệp từ năm 2016 ở giải đua xe Moto2. Kết quả thi đấu của Marini được cải thiện rõ rệt qua mỗi năm. Năm 2018, Marini giành được chiến thắng thể thức Moto2 đầu tiên ở chặng đua Malaysia. Năm 2020, Marini lọt vào nhóm tay đua có thể cạnh tranh danh hiệu vô địch, có thời điểm dẫn đầu bảng tổng sắp. Tuy nhiên ở những chặng đua cuối cùng, Marini lại không có kết quả tốt, để mất chức vô địch vào tay Enea Bastianini. Năm 2021 Luca Marini và Enea Bastianini đều được lên thi đấu thể thức MotoGP và trở thành đồng đội của nhau ở đội đua Avintia Racing. Đây là mùa giải mà Marini thi đấu ổn định, hoàn thành tất cả chặng đua nhưng không có được nhiều kết quả đột phá như đồng đội Bastianini. Đây cũng là mùa giải MotoGP duy nhất mà Marini được thi đấu với người anh trai cùng mẹ khác cha Valentino Rossi, người sẽ giải nghệ sau khi mùa giải 2021 kết thúc. Năm 2022, Valentino Rossi đăng ký cho đội đua VR46 của anh tham gia MotoGP. Luca Marini và Marco Bezzecchi trở thành hai tay đua chính của đội. Ở chặng đua MotoGP Americas 2023 Luca Marini có lần đầu tiên lên podium thể thức MotoGP. Trước đó ở chặng đua Argentina thì Marini cũng có lần đầu tiên đoạt huy chương đồng ở cuộc đua Sprint race.
Ngày Hàng hải Trung Quốc Ngày Hàng hải Trung Quốc () được tổ chức vào ngày 11 tháng 7 năm 2005 đánh dấu chuyến hành trình đầu tiên của Trịnh Hòa. Ngày này đánh dấu kỷ niệm 600 năm hành trình vượt biển của Trịnh Hòa, nhà hàng hải thời Minh (1368–1644) đã thực hiện bảy chuyến thám hiểm hòng thể hiện sức mạnh của Trung Quốc với phần còn lại của thế giới, dưới quyền chỉ huy của Vĩnh Lạc Đế. Những chuyến đi này nhằm mục đích chứng minh cho người dân Trung Quốc thấy rằng kẻ soán vị Chu Đệ mới xứng đáng với ngôi hoàng đế và thần linh đã trao Thiên mệnh cho ông ta. Việc tổ chức lễ kỷ niệm này nhằm tôn vinh cam kết của Trung Quốc đối với Tổ chức Hàng hải Quốc tế mà nước này là thành viên.
Mỗi người đều có những bí mật Mỗi người đều có những bí mật (Tiếng Hàn Quốc: 누구나 비밀은 있다; RR: "Nuguna bimireun itda") là một phim điện ảnh Hàn Quốc thuộc thể loại hài lãng mạn. Các diễn viên thủ vai chính là Lee Byung-hun, Choi Ji-woo, Kim Hyo-jin và Chu Sang-mi. Phim được phân loại thuộc thể loại dành cho người trên 18 tuổi vì có một số cảnh làm tình. Phim lọt vào một số đề cử giải thưởng như giải Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh năm 2004, Giải thưởng Điện ảnh Hàn Quốc năm 2004.. với doanh thu gần 5 triệu USD ở các phòng vé Nhật Bản. Phim mở đầu với cảnh Han Mi-yeong (Kim Hyo-jin thủ vai) chia tay bạn trai của mình vì cho rằng anh này quá nhàm chán. Han Mi-yeong sau đó gặp Choi Su-Hyeon (Lee Byung-hun đóng) trong một buổi biểu diễn và nhanh chóng si mê Su-Hyeon vì cách tán tỉnh đầy lãng mạn của anh này. Mi-yeong đưa Su-Hyeon về ra mắt gia đình mình và anh anh chóng được cả gia đình Mi-yeong quý mến. Song song với cuộc tình với Mi-yeong, Su-Hyeon đã bí mật quyến rũ cả hai người chị khác của cô là Han Seon-yeong (do Choi Ji-woo đóng vai), người lúc này là một "con mọt sách" đang theo học thạc sĩ ở một trường đại học, và Han Ji-yeong (Chu sang-mi đóng vai), chị cả của Mi-yeong, một phụ nữ đã có chồng nhưng thiếu thốn tình dục vì chồng bỏ bê. Phim chia thành ba phân cảnh mô tả cách Choi Su-hyeon lần lượt tán tỉnh ba chị em Mi-yeong nhưng chính là cùng một khoảng thời gian. Đoạn kết phim Choi Su-hyeon và Han Mi-yeong kết hôn (trong sự chấp nhận của hai cô chị), nhưng ngay khi đám cưới được diễn ra, Mi-yeong dùng dằng định hủy hôn vì day dứt trong thời gian cặp kè với Su-hyeon, cô đã có lần cắm sừng anh, qua đêm với người yêu cũ. Su-hyeon tỏ ra cao thượng chấp nhận việc này với cô vì với anh mọi người trong đời đều có những bí mật riêng.
Rolex Shanghai Masters 2023 - Đơn Hubert Hurkacz là nhà vô địch, đánh bại Andrey Rublev trong trận chung kết, 6–3, 3–6, 7–6(10–8). Đây là danh hiệu đơn Masters 1000 thứ 2 của Hurkacz. Daniil Medvedev là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 3 trước Sebastian Korda. Tất cả các hạt giống được miễn vào vòng 2. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. "Nhấn vào số hạt giống của một vận động viên để tới phần kết quả của họ." section begin=Finals /#đổi section end=Finals / Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
AAM-N-10 Eagle là một tên lửa không đối không tầm xa do Bendix Corporation phát triển cho Hải quân Hoa Kỳ. Tên lửa được dự kiến trang bị cho máy bay tiêm kích Douglas F6D Missileer trên tàu sân bay Mỹ. Chương trình phát triển đã bị hủy bỏ trước khi đến giai đoạn thử nghiệm nhưng các bài học thu được trong quá trình phát triển tên lửa này đã được sử dụng để phát triển tên lửa tầm xa AIM-54 Phoenix. Giai đoạn thiết kế và phát triển ban đầu. Việc phát triển tên lửa AAM-N-10 được bắt đầu vào năm 1957 với khái niệm máy bay phòng thủ trên hạm tàu của Hải quân Mỹ: đó là máy bay chiến đấu đánh chặn cận âm, hoạt động lâu dài, trang bị radar mạnh và có tên lửa có tầm bắn rất xa, có khả năng bắn hạ máy bay đối phương ở cự ly cách xa tàu sân bay nhất có thể. Vào năm 1958, công ty Douglas Aircraft được trao hợp đồng phát triển máy bay đánh chặn F6D-1, còn công ty Bendix Corporation nhận hợp đồng phát triển tên lửa AAM-N-10 Eagle. Eagle có thiết kế thông thường giống với các loại tên lửa không đối không hạng nặng vào thời điểm đó, với aspect ratio rất nhỏ, cánh gần như có dạng tam giác với sải cánh chạy dọc chiều dài thân tên lửa dài , và có tầng đẩy khởi tốc có thể tháo rời cho phép tên lửa tăng tốc đột ngột khi rời bệ phóng. Khung tên lửa được chế tạo theo hợp đồng giữa Bendix và Grumman Aircraft; Aerojet trở thành nhà thầu phụ để chế tạo động cơ tên lửa AAM-N-10. Tầng đẩy khởi tốc sẽ cung cấp lực đẩy giúp tên lửa tăng tốc lên tốc độ hành trình Mach 3,5; sau đó động cơ chính của tên lửa sẽ tăng tốc dần tên lửa lên tốc độ bay hành trình Mach 4,5. Tên lửa mang đầu đạn nổ mạnh tiêu chuẩn và có thể trang bị đầu đạn hạt nhân W42 (vốn được trang bị cho tên lửa phòng không MIM-23 HAWK). Tên lửa Eagle sử dụng dẫn đường bằng lệnh vô tuyến điện ở pha giữa, với tín hiệu từ máy bay được truyền đến tên lửa để giúp tên lửa đi đúng hướng. Khi đến gần mục tiêu, tên lửa chuyển sang chế độ dẫn đường bằng radar chủ động, radar trang bị trên tên lửa này được chế tạo dựa trên radar AN/DPN-53 trang bị trên tên lửa phòng không CIM-10 Bomarc, do có sự tương tự về cấu hình bay đánh chặn mục tiêu. Tên lửa có khả năng tấn công từ cự ly tới ; radar AN/APQ-81 chỉ có tầm phát hiện mục tiêu , tuy nhiên máy bay tiêm kích có thể được máy bay cảnh báo sớm trên không hướng dẫn tới mục tiêu, phóng tên lửa đến khu vực mục tiêu, nhiệm vụ điều khiển tên lửa ở pha cuối sẽ do hệ thống dẫn đường thứ cấp home-on-jam đảm nhiệm. Vào năm 1960, một máy bay cường kích hạng trung Douglas A3D Skywarrior đã được sửa đổi để trở thành nền tảng thử nghiệm cho radar APQ-81 và tên lửa AAM-N-10, máy bay sau khi sửa đổi có một chiếc mũi lớn để chứa radar, dẫn đến biệt danh của nó là "Snoopy". Tuy nhiên do lo ngại về vấn đề chi phí và về tính khả thi của khái niệm máy bay tiêm kích phòng thủ hạm đội, chương trình phát triển tên lửa Eagle đã bị hủy bỏ vào tháng 12 năm 1961, trước khi bất kỳ mẫu thử nào được chế tạo. Dù bị hủy bỏ, nhưng chương trình phát triển tên lửa Eagle đã giúp các kỹ sư tích lũy kinh nghiệm để phát triển tên lửa AAM-N-11 (sau này là AIM-54) Phoenix, được trang bị trên máy bay tiêm kích General Dynamics–Grumman F-111B và Grumman F-14 Tomcat.
Anatoliy Volodymyrovych Trubin (; sinh ngày 1 tháng 8 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Benfica tại Primeira Liga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina. Sự nghiệp câu lạc bộ. Trubin sinh ra ở Donetsk và bắt đầu sự nghiệp cầu thủ trẻ của mình tại Azovstal-2 Mariupol. Anh gia nhập học viện của Shakhtar Donetsk vào năm 2014. Vào tháng 2 năm 2019, anh bắt đầu tập luyện cùng đội một và được gọi lên đội hình ra sân chính của Shakhtar tại trận đấu UEFA Europa League gặp Eintracht Frankfurt. Anh ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 26 tháng 5 và giữ sạch lưới trong chiến thắng 4–0 trước Mariupol tại trận này. Trubin đã có bước đột phá trong mùa giải 2020–21 sau khi anh thay thế huyền thoại câu lạc bộ Andriy Pyatov trong đội hình ra sân. Anh ra sân 30 lần trong mùa giải này. Đồng thời, anh cũng ra mắt tại Champions League tại trận chiến thắng 3–2 trên sân khách trước Real Madrid vào ngày 21 tháng 10 năm 2020 cùng với hai trận giữ sạch lưới trước Inter Milan. Hơn nữa, anh được người hâm mộ Shakthar công nhận là cầu thủ xuất sắc nhất của Shakhtar mùa giải này. Vào ngày 23 tháng 2 năm 2023, Trubin được mệnh danh là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu sau khi anh thực hiện ba pha cứu thua trong loạt sút luân lưu để giúp Shakhtar tiến tới vòng 16 trong trận lượt về vòng play-off UEFA Europa League sau khi Shakhtar hòa 3–3 với Rennes. Anh ra sân 28 tại giải vô địch quốc gia và giữ sạch lưới 14 lần để giúp Shakhtar giành chức vô địch. Vào tháng 7 năm 2023, khi hợp đồng của Trubin với Shakhtar chỉ còn một năm, Shakhtar đã đàm phán với Inter Milan về khả năng chuyển nhượng anh để thay thế André Onana, người vừa rời Inter để chuyển sang Manchester United. Tuy nhiên, cuộc đàm phán giữa hai câu lạc bộ đã đổ vỡ sau khi Inter không đáp ứng được mức giá mà Shakhtar yêu cầu. Trong khi đó, Trubin công khai yêu cầu rời câu lạc bộ. Ngay sau đó, Benfica bày tỏ sự quan tâm đến việc có được sự phục vụ của Trubin khi hai câu lạc bộ tiến hành đàm phán. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, Trubin gia nhập câu lạc bộ Primeira Liga Benfica sau khi ký hợp đồng có thời hạn đến năm 2028 với một vụ chuyển nhượng trị giá 10 triệu euro cộng với 1 triệu euro tùy theo mục tiêu, với Shakhtar Donetsk cũng được hưởng 40% lợi nhuận bán trong tương lai. Tại những trận đầu tiên của mùa giải, Trubin vẫn là phương án dự phòng cho Samuel Soares, người đã thay thế vị trí của Odysseas Vlachodimos sau khi Vlachodimos rời câu lạc bộ và chuyển đến Nottingham Forest. Trubin ra mắt vào ngày 16 tháng 9 tại Primeira Liga tại trận chiến thắng 2-1 trên sân khách trước Vizela. Sau trận đấu, huấn luyện viện của đội, Roger Schmidt, nói rằng ông đã cho Soares chơi một vài trận trong khi Trubin thích nghi với đội và có được sự tự tin. Sự nghiệp quốc tế. Trubin từng thi đấu cho các đội tuyển bóng đá trẻ Ukraine ở các cấp độ U-16, U-17, U-18, U-19 và U-21 với tổng số 31 lần ra sân. Anh được Andrey Shevchenko triệu tập vào đội tuyển quốc gia vào ngày 5 tháng 3 năm 2021 để tham dự vòng loại FIFA World Cup 2022 gặp Pháp, Phần Lan và Kazakhstan. Anh ra mắt đội tuyển quốc gia vào ngày 31 tháng 3 trong trận đấu vòng loại World Cup gặp Kazakhstan. Trubin được đưa vào đội tuyển tham dự Euro 2020. Sau khi kết thúc với tư cách là một trong những đội đứng thứ ba có thành tích tốt nhất, Ukraine cuối cùng đã bị Anh loại ở tứ kết vào ngày 3 tháng 7 sau khi thất bại 0-4 tại Sân vận động Olimpico ở Rome. "Tính đến 12 tháng 11 năm 2023" "Tính đến 20 tháng 11 năm 2023"
Fabio Di Giannantonio (sinh năm 1998) là một tay đua mô tô người Ý. Fabio Di Giannantonio từng giành chức Á quân giải đua xe Moto3 năm 2018 và từng giành chiến thắng chặng ở giải đua xe MotoGP. Năm 2023 Fabio Di Giannantonio thi đấu MotoGP cho đội đua Gresini Racing. Trong khoảng thời gian thi đấu Moto3 (2015-2018), Fabio Di Giannantonio giành được 2 chiến thắng chặng. Kết quả tốt nhất là chức Á quân mùa giải 2018, sau Jorge Martin. Từ năm 2019 đến 2021, Fabio Di Giannantonio chuyển lên thi đấu thể thức Moto2, anh giành được 1 chiến thắng chặng nữa ở chặng đua Jerez 2021. Năm 2022, Fabio Di Giannantonio được đội đua Gresini đăng ký thi đấu thể thức MotoGP. Anh bất ngờ giành được vị trí xuất phát đầu tiên ở chặng đua sân nhà Italia. Năm 2023, Fabio Di Giannantonio lần đầu lên podium MotoGP ở chặng đua GP Úc, sau đó tiếp tục có lần đầu tiên chiến thắng đua chính MotoGP ở chặng đua Qatar.
Petr Fiala (]; sinh ngày 1 tháng 9 năm 1964) là một chính trị gia và nhà khoa học chính trị người Séc, là thủ tướng Cộng hòa Séc kể từ tháng 11 năm 2021 và lãnh đạo của Đảng Dân chủ Công dân (ODS ) kể từ năm 2014. Trước đây ông từng giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Thanh niên và Thể thao từ năm 2012 đến năm 2013. Trước khi tham gia chính trị, ông là hiệu trưởng của Đại học Masaryk. Ông là một người có quan điểm bảo thủ, ông có quan điểm hoài nghi châu Âu nhẹ, và nói rằng ông phản đối "chủ nghĩa cực đoan chính trị" và "chủ nghĩa dân túy". Ông phản đối hôn nhân đồng giới như ông đã nói trong cuốn sách của mình. Nhiều công ty có trụ sở tại Séc đã yêu cầu Fiala chấp thuận hôn nhân LGBT.
Marco Bezzecchi (sinh năm 1998) là một tay đua mô tô chuyên nghiệp người Ý. Marco Bezzecchi từng nhiều lần chiến thắng chặng đua MotoGP. Năm 2023, Bezzecchi thi đấu MotoGP cho đội đua VR46. Trong quãng thời gian thi đấu Moto3 (2015-2018), thành tích tốt nhất của Marco Bezzecchi là vị trí thứ 3 chung cuộc ở mùa giải Moto3 2018. Mùa giải này anh giành được 3 chiến thắng chặng ở Argentina, Áo và Nhật Bản. Từ năm 2019 đến năm 2021 Marco Bezzecchi thi đấu ở giải đua xe Moto2. Năm 2020 anh gia nhập đội đua VR46 và giành được chiến thắng Moto2 đầu tiên ở chặng đua Styria sau khi Jorge Martin bị phạt lỗi chạy ra ngoài đường đua. Năm 2022 Bezzecchi xếp thứ 3 toàn mùa giải, anh giành thêm một chiến thắng nữa ở Styria. Năm 2022, đội đua VR46 đăng ký tham gia MotoGP, đã chọn Marco Bezzecchi và Luca Marini làm hai tay đua chính thức. Ở chặng đua TT Assen 2022, Bezzecchi trở thành tay đua mang về podium MotoGP đầu tiên cho đội đua VR46. Đến chặng đua Thái Lan, Bezzecchi xuất sắc giành được vị trí xuất phát đầu tiên ở cuộc đua chính. Năm 2023 Marco Bezzecchi là một trong những bất ngờ lớn nhất của mùa giải. Sau khi lên podium ở chặng đua mở màn ở Bồ Đào Nha, thì ở chặng đua thứ hai của mùa giải ở Argentina, Bezzecchi đã có lần đầu tiên trong sự nghiệp giành chiến thắng thể thức MotoGP. Đây cũng là chiến thắng MotoGP đầu tiên của đội đua VR46.
Solange Dekker (sinh ngày 15 tháng 3 năm 1996) là một hoa hậu, người mẫu chuyển giới người Hà Lan, cô đã chiến thắng cuộc thi Hoa hậu Chuyển giới Hà Lan 2023 và đã đăng quang Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế 2023. Cô là người Hà Lan đầu tiên đăng quang và cũng là đại diện đầu tiên đến từ Châu Âu chiến thắng cuộc thi. Cô chiến thắng cuộc thi Hoa hậu Chuyển giới Hà Lan 2023 và đại diện đầu tiên của Hà Lan đến với đấu trường sắc đẹp Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế. Solange Dekker bắt đầu sự nghiệp thi hoa hậu khi tham gia cuộc thi Miss Trans Star International 2019 được tổ chức tại Barcelona , ​​​​Tây Ban Nha. Sự quyết tâm và trí tuệ của cô đã đưa cô trở thành một trong những người lọt vào vòng chung kết cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Hà Lan và nhận được giải thưởng Người đẹp Truyền thông. Cô cũng từng tham gia cuộc thi Hoa hậu Sắc đẹp Noord Holland, một cuộc thi khu vực được tổ chức trên toàn quốc.
Genesis GV80 () là một mẫu SUV crossover hạng sang cỡ trung được sản xuất bởi Genesis, thương hiệu con thuộc tập đoàn H="C/D"/ref Với tên mã "JX1", đây là mẫu SUV đầu tiên của hãng nhằm cạnh tranh với các đối thủ cùng phân khúc đến từ châu Âu. Mang tên mã "JX1", những hình ảnh đầu tiên của GV80 đã rò rỉ ra bên ngoài vào tháng 10 năm 2019, sau đó xe chính thức ra mắt vào tháng giêng năm sau với tư cách là mẫu SUV đầu tiên của thương hiệu Genesis. Đây là nỗ lực hợp tác giữa các đội ngũ thiết kế của Genesis ở Hàn Quốc, Châu Âu và Hoa Kỳ. GV80 sử dụng hệ dẫn động cầu sau kiểu mới, đồng thời các chi tiết trên thân xe như cửa, cửa hậu và mui đều được làm từ nhôm nhẹ. Xe nổi bật với lưới tản nhiệt lớn dạng năm cạnh, có bốn đèn pha dẹt nằm ngang. Hãng xe Hàn cho biết, thiết kế phần đầu xe được lấy cảm hứng từ chính logo của hãng. Về mặt tiện nghi, GV80 được trang bị Ga tự động thông minh sử dụng định vị (ASCC), Hỗ trợ đỗ xe thông minh từ xa, chìa khóa kỹ thuật số NFC, camera quan sát xung quanh (AVM), bộ mâm 22 inch, ghế bọc da Nappa với họa tiết quả trám, màn hình thông tin giải trí 14,5 inch tích hợp công nghệ nhận dạng chữ viết tay và dẫn đường thực tế ảo, 21 hệ thống loa Lexicon, rèm cửa chỉnh điện cũng như hàng ghế thứ hai và thứ ba do người lái điều khiển. Hệ thống an toàn của xe gồm có 10 túi khí, Hỗ trợ chống va chạm phía trước, Hỗ trợ đỗ xe an toàn, Tính năng cảnh báo tài xế tập trung, Tránh va chạm trong vùng điểm mù, Hệ thống đèn pha tự động và Hỗ trợ giữ làn đường (LKAS). GV80 được cung cấp ba tùy chọn động cơ khác nhau, đầu tiên là động cơ tăng áp 2.5 lít sản sinh công suất , tiếp theo là tăng áp 3.5 lít cho ra công suất , cuối cùng là loại tăng áp diesel 3.0 lít có công suất , chỉ được phân phối tại một số thị trường nhất định. Lượng phát thải CO2 khuyến nghị của xe là khoảng , và lần lượt đối với các tùy chọn động cơ xăng 2.5 L, xăng 3.5 L và diesel 3.0 L. Mục tiêu của châu Âu đối với lượng phát thải CO2 trên các dòng xe con dự định đạt mức vào năm 2020. Mức tiêu thụ nguyên liệu kết hợp của GV80 rơi vào khoảng từ (xăng 2.5 L), (xăng 2.5 L), và (diesel). Những nét phát thảo đầu tiên về GV80 đã được thể hiện qua bản concept cùng tên trình làng tại Triển lãm Ô tô Quốc tế New York vào năm 2017. GV80 Concept là dự án đầu tiên mà thiết kế trưởng Luc Donckerwolke thực hiện tại Genesis sau khi ông rời khỏi Bentley. Bản concept này được trang bị hệ dẫn động điện và sử dụng pin nhiên liệu để vận hành. Vào năm 2021, Hyundai đã cho hoãn lại những dự án phát triển xe chạy hydro. Bản nâng cấp 2023. Bản nâng cấp của GV80 được giới thiệu vào ngày 27 tháng 9 năm 2023 và bắt đầu mở bán tại Hàn Quốc vào ngày 11 tháng 10 năm 2023. Những chi tiết trên xe như đèn pha, lưới tản nhiệt, mâm xe, hệ thống điều hòa và bảng điều khiển trung tâm đều được thiết kế lại. Màn hình OLED 27 inch đời mới thay thế cho cụm đồng hồ 12,3 inch và màn hình thông tin giải trí 14,5 inch trên đời cũ, đồng thời còn có màn hình cảm ứng kép 14,6 inch đặt ở hàng ghế sau. Hệ thống âm thanh trên xe cũng được đổi từ Lexicon sang Bang Olufsen. GV80 Coupe ra mắt thế giới vào ngày 27 tháng 9 năm 2023 và mở bán tại Hàn Quốc vào ngày 11 tháng 10 năm 2023. Mẫu xe này thừa hưởng những đặc điểm từ bản nâng cấp của chiếc GV80, trong đó có những thay đổi nổi bật như phần mái theo phong cách coupe, cản trước và lưới tản nhiệt được thiết kế lại, vô lăng theo kiểu phẳng đáy cũng như các chi tiết trang trí nội thất làm từ sợi carbon. GV80 Coupe cũng có thể nhận được cấu hình động cơ tăng áp 3.5 lít sản sinh công suất cao hơn do bổ sung thêm hệ thống siêu nạp điện 48V. Vào ngày 30 tháng 8 năm 2021, GV80 chính thức lộ diện với sự thay đổi về đời phiên bản. GV80 2022 bổ sung thêm cấu hình 6 chỗ ngồi với ghế độc lập ở hàng ghế thứ hai. Bên cạnh đó, Genesis cũng nâng cấp kẹp phanh monoblock bánh trước đối với tùy chọn động cơ xăng 2.5 turbo và diesel 3.0. Ngoài ra, hãng còn bổ sung thêm kẹp phanh màu đồng cho bản máy xăng 3.5 turbo. Ngoài các thay đổi trên, xe còn được bổ sung thêm màu nội thất và ngoại thất mới. Về ngoại thất, GV80 có thêm màu sơn Mauna Red và Barossa Burgundy (mờ hoặc bóng). Còn với phần nội thất, xe có thêm tuỳ chọn hai màu Urban Brown và Vanilla Beige. Tại Hoa Kỳ, GV80 được ra mắt vào tháng 11 năm 2020. Mẫu xe sử dụng hệ dẫn động cầu sau dành cho các mức tùy chọn Standard, Advanced và Prestige, đồng thời trang bị động cơ tăng áp 2.5 lít. Bên cạnh đó, hãng xe cũng cung cấp hệ dẫn động bốn bánh với động cơ tăng áp kép 3.5 lít có sẵn trên các tùy chọn AWD Standard, AWD Advanced, AWD Advanced+ và AWD Prestige. Vào tháng 6 năm 2020, Hyundai Motor đã tạm ngưng việc giao các mẫu GV80 chạy diesel vì có vấn đề về rung lắc động cơ do tích tụ carbon. Vào tháng 9 năm 2020, tập đoàn tiếp tục triệu hồi 8.783 chiếc GV80 vì lỗi chết máy. Kể từ khi mẫu xe này ra mắt vào tháng 1 thì đã có 8 đợt triệu hồi được thực hiện, 4 trong số đó liên quan đến động cơ. Tháng 4 năm 2021, một đợt triệu hồi khác được áp dụng đối với hai mẫu xe G80 và GV80 tại Hoa Kỳ do nguy cơ rò rỉ nhiên liệu.
Bão Sanba (Sanba: tên quốc tế, tên tại Việt Nam: bão số 5, số hiệu JTWC: 16W) là một cơn bão nhiệt đới yếu nhưng gây ra những tác động đáng kể cho Việt Nam và Trung Quốc. Đây là cơn bão thứ 16 trong mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương năm 2023 và là cơn bão thứ năm trên biển Đông trong năm. Tiền thân của bão là một vùng áp thấp hình thành vào ngày 13 tháng 10, nối với một dải hội tụ nhiệt đới cùng với các hình thế khí tượng khác đã gây ra tác động đáng kể cho Việt Nam như đợt mưa lớn trên diện rộng tại miền Trung Việt Nam, khiến lần đầu tiên Việt Nam ban hành cảnh báo rủi ro thiên tai cấp 4 và gây mưa giông gió mạnh trên biển làm chìm 2 tàu đánh bắt thuỷ hải sản, khiến 3 người chết và 13 người mất tích. Vùng áp thấp đó đã mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới vào ngày 17 tháng 10 và mạnh lên thành bão Sanba vào ngày hôm sau trên vùng biển phía Đông của Việt Nam. Bão sau đó tiếp tục di chuyển sâu hơn vào vịnh Bắc Bộ và ảnh hưởng đến Trung Quốc. Tại Trung Quốc mưa rất to, lũ lụt, ngập úng và gió mạnh đã được ghi nhận tại nhiều nơi. Bão khiến 4 người chết và gây ra thiệt hại tài sản gần 800 triệu USD tại Trung Quốc. Bão tan hoàn toàn vào tối ngày 20 tháng 10 do không khí lạnh kèm theo các điều kiện bất lợi khác. Lịch sử khí tượng. Vào ngày 13 tháng 10, vùng áp thấp hình thành ở biển Đông phía tây Philippines, được nối với một dải hội tụ nhiệt đới. Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp thuộc Hoa Kì (JTWC) ban hành Cảnh báo Hình thành Xoáy thuận nhiệt đới (TCFA) lúc 22:00 UTC (05:00 giờ Việt Nam) về vùng áp thấp, gán số hiệu 99W khi hệ thống di chuyển đến vùng biển gần bờ biển Việt Nam, phân tích hệ thống nằm trong môi trường thuận lợi như nhiệt độ nước biển ấm (28-29 oC), dòng phân kì hướng cực mạnh, đứt gió vừa phải. Sáng ngày 17, Cục Khí tượng Nhật Bản (JMA) cho biết áp thấp mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới. Chỉ khoảng vài giờ sau, cơ quan khí tượng của Việt Nam là Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia (NCHMF) cho biết vùng áp thấp đã mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới, cho biết rằng nó đang ở trên vùng biển phía Tây Nam quần đảo Hoàng Sa. JTWC và NMC (Trung tâm Khí tượng Quốc gia - một cơ quan khí tượng của Trung Quốc) cũng nâng cấp hệ thống lên thành áp thấp nhiệt đới vào chiều tối cùng ngày, JTWC gán cho hệ thống số hiệu 16W. Hình ảnh vệ tinh hồng ngoại mô tả một CDO (vùng mây dày đặc ở trung tâm) đang che khuất sự lưu thông của áp thấp nhiệt đới có tổ chức kém. Trưa ngày 18, NCHMF nâng cấp áp thấp nhiệt đới thành bão, gọi là "bão số 5", ước tính rằng sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 8 khi nó đang ở trên khu vực biển Quảng Trị-Quảng Nam, dự báo bão sẽ di chuyển về phía Bắc và hướng đến vịnh Bắc Bộ. Chiều ngày 18, JMA cũng nâng cấp áp thấp nhiệt đới thành bão nhiệt đới, đặt tên là Sanba, dự báo rằng bão sẽ di chuyển lên phía Bắc trong một vài ngày tới tương tự như NCHMF. JTWC và NMC cũng ước tính rằng hệ thống mạnh lên thành bão nhiệt đới vào cùng thời gian đó. Một dòng phân kì mạnh mẽ ở phía Nam bắt đầu ảnh hưởng đáng kể đến cơn bão sau khi các đám mây ở tầng trên và tầng giữa bị tách rời. Bão đổ bộ vào đảo Hải Nam vào trưa ngày 19 tháng 10, NMC khi đó ước tính bão có sức gió cấp 8. Sanba tăng tốc độ di chuyển theo hướng Bắc Đông Bắc và di chuyển sâu hơn vào vịnh Bắc Bộ, bão đã tận dụng điều kiện môi trường khá thuận lợi với nhiệt độ nước biển ấm, các đỉnh mây đã nhô cao rải rác theo hướng xuyên tâm. Vào khoảng tối ngày 19 đến rạng sáng ngày 20, khi bão đi sâu vào vịnh Bắc Bộ và tiến gần đến bờ biển tỉnh Quảng Tây, NCHMF phân tích rằng bão mạnh lên cấp 8-9 giật cấp 11 và dự báo bão di chuyển theo hướng Bắc sau đó đổi hướng di chuyển về phía Nam, còn NMC phân tích rằng bão mạnh lên thành bão cấp 10. Hệ thống bắt đầu đổi hướng về hướng nam và suy yếu dần từ ngày 20 do điều kiện không thuận lợi như tương tác với đất liền, không khí lạnh, khô và gió đứt mạnh. NCHMF và JTWC cho biết bão đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới lúc trưa chiều ngày 20. Vài giờ sau đó, NMC cũng cho rằng bão suy yếu thành áp thấp nhiệt đới. JMA cũng hạ cấp hệ thống thành áp thấp nhiệt đới vào tối cùng ngày và ngừng đưa ra khuyến cáo về hệ thống. Đêm ngày 20 tháng 10, NCHMF phát tin cuối cùng về hệ thống cho biết áp thấp nhiệt đới suy yếu thành vùng áp thấp, gần như cùng lúc NMC đưa ra thông điệp cuối cùng và dừng đánh số hệ thống.Áp thấp tiếp tục suy yếu và tan biến, JTWC ban hành bản tin cảnh báo cuối cùng lúc rạng sáng ngày 21 tháng 10. Chuẩn bị và ảnh hưởng. Tiền thân của bão Sanba là vùng áp thấp nối với dải hội tụ nhiệt đới gây mưa giông, lốc xoáy và sóng mạnh trên biển Đông làm chìm 2 tàu Việt Nam đánh bắt hải sản ở phía Bắc Đông Bắc của quần đảo Trường Sa. Sau khi 2 vụ chìm tàu cá xảy ra, lực lượng tìm kiếm cứu nạn đã được huy động để tìm kiếm các nạn nhân của 2 vụ chìm tàu. Lực lượng tìm kiếm đã dừng việc tìm kiếm nạn nhân vào ngày 23 tháng 10. Có tổng cộng 3 người thiệt mạng và 13 người mất tích. Tổ hợp trên cùng với không khí lạnh và gió Đông từ biển thổi vào cũng gây mưa to trên đất liền miền Trung Việt Nam, nhiều nơi ghi nhận lượng mưa từ 120-175 mm trong 8 giờ. Cảnh báo rủi ro thiên tai cấp 4 đã được ban hành đối với Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng, đây lần đầu tiên Việt Nam cảnh báo rủi ro thiên tại cấp 4 do mưa lớn. Sau khi vùng áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão, NCHMF đã phát "tin bão khẩn cấp" do có những lo ngại về việc bão sẽ tác động đến đất liền, nhưng sau đó cảnh báo khẩn cấp đã được huỷ khi cơn bão bắt đầu suy yếu và không còn khả năng tác động đáng kể đến Việt Nam. Ảnh hưởng của bão tại các vùng phía Bắc nói chung không đáng chú ý, chỉ có đảo Bạch Long Vĩ đã ghi nhận gió mạnh cấp 6. Tại Hải Nam, vào ngày 18 tháng 10 thành phố Tam Á phát cảnh báo ứng phó khẩn cấp cấp III về phòng chống lũ lụt và gió, các trường mẫu giáo, nhà trẻ trong thành phố tạm dừng hoạt động nửa ngày vào chiều cùng ngày, việc tham quan danh lam thắng cảnh cũng bị dừng lại. Thành phố Hải Khẩu đã đưa ra biện pháp ứng phó khẩn cấp cấp độ IV để phòng chống lũ lụt và gió. Vào lúc 17:30 giờ địa phương, Tổng cục Quốc phòng tỉnh Hải Nam đã nâng cấp mức độ ứng phó khẩn cấp phòng chống lũ lụt từ cấp độ IV lên cấp độ III. Cảng biển Hải Khẩu, cảng Xiuying và cảng đường sắt phía Nam tạm dừng khai thác từ lúc 4 giờ ngày 19 tháng 10 và dự kiến ​​việc tạm dừng sẽ tiếp tục cho đến ngày 20 tháng 10. Nhiều nơi trên đảo chịu những cơn gió giật mạnh phổ biến từ cấp 7-9, gió giật mạnh 31 m/s (cấp 11) ở một hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Lượng mưa trong 4 ngày tại đảo Hải Nam phổ biến từ 100–300 mm, cao nhất là 333,2 mm được ghi nhận tại một địa điểm thuộc thành phố Vạn Ninh. Ở Quảng Tây, vào ngày 18 tháng 10, Trụ sở Phòng chống lũ lụt và cứu trợ hạn hán Quảng Tây đã phát động ứng phó khẩn cấp cấp IV về phòng chống lũ lụt và bão. Trên đất liền và vùng biển ngoài khơi Quảng Tây (nằm trong vịnh Bắc Bộ) đã ghi nhận một số nơi có lượng mưa từ 400–600 mm, có nơi cao hơn nữa và gió mạnh trên cấp 8. Một cơn gió mạnh trung bình 33,3 m/s (cấp 12) đã được ghi nhận tại một giàn khoan dầu không rõ độ cao ở ngoài khơi, thuộc Khu điều hành Dầu khí Uy Châu. Tại thị trấn Kiều Cảng thuộc quận Ngân Hải, thành phố Bắc Hải, trạm khí tượng Yaping ghi nhận lượng mưa trong 24h lên tới 780,3 mm, một kỉ lục tại Quảng Tây. Ảnh hưởng từ mưa lớn khiến nhiều đoạn đường ở nhiều nơi bị ngập úng khiến nhiều người bị mắc kẹt và có nhiều chiến dịch cứu hộ giải cứu người mắc kẹt. Một xe cơ giới được tài xế điều khiển ở một thị trấn thuộc huyện Bác Bạch bị mắc kẹt khi đi qua cây cầu bị ngập sâu hơn 30 cm, có 4 người trong xe và đã được giải cứu. Một ngôi làng ở huyện Bác Bạch bị cô lập, bị cắt nguồn nước sạch và cắt điện, lực lượng cứu hộ cùng các thiết bị cần thiết đã tiếp cận và cung cấp những nhu yếu phẩm cần thiết cho hơn 100 hộ gia đình bị mắc kẹt. Hơn 30 người bị mắc kẹt dọc đường ở huyện Lục Xuyên cũng được giải cứu. Ngoài ra, do ảnh hưởng của bão ở vùng biển ngoài khơi, một tàu chở hàng Trung Quốc gặp nguy hiểm tại vùng biển vịnh Bắc Bộ, phía Tây đảo Vi Châu, con tàu cùng với 5 thuyền viên đã được giải cứu khỏi nguy hiểm. Còn tại Quảng Đông, cấp độ báo động ứng phó khẩn cấp và kiểm soát lũ lụt ở thành phố Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông được nâng lên cấp II, ở Mậu Danh được nâng lên cấp III. Do ảnh hưởng của bão, nhiều nơi tại Trạm Giang và Mậu Danh đã hứng chịu những cơn mưa lớn, trung bình các địa điểm lượng mưa trên 200 mm trong 24 giờ, có nơi lên tới hơn 400 mm trong 24 giờ. Lượng mưa trong 1 giờ cao nhất ghi nhận tại Mậu Danh lên tới lên tới 158,5 mm tại một địa điểm thuộc quận Mậu Nam, là giá trị kỉ lục lịch sử của thành phố này. Các trường học ở quận Xích Khảm, Hà Sơn, Ma Chương, Pha Đầu và một số nơi khác của thành phố Trạm Giang đã cho học sinh nghỉ học vào ngày 19 tháng 10. Thành phố Mậu Danh cũng đã yêu cầu các trường học, nhà trẻ ở một số nơi tạm dừng hoạt động. Một số con đường ở thành phố Trạm Giang bị ngập nặng, nhiều người già và trẻ em bị mắc kẹt. Lũ lụt và mực nước vượt mức cảnh báo cũng xảy ra ở thượng nguồn sông Luoding và một số đoạn sông khác. Hồ chứa Cao Châu đã tiến hành xả lũ do mực nước tại hồ chứa cao vượt giới hạn cho phép. Tại Hồng Kông và Ma Cao, do ảnh hưởng của Sanba (kể cả tiền thân của bão), kết hợp với gió mùa Đông Bắc, hai đặc khu này có mưa ở mức vừa phải, có gió mạnh và thời tiết mát mẻ. Thống kê tại toàn vùng bị ảnh hưởng do bão, có 4 người chết, hơn 2 triệu người bị ảnh hưởng, hơn 300 ngôi nhà bị sập, diện tích hoa màu bị thiệt hại là 138.700 ha, tổng thiệt hại tài sản lên tới 5,82 tỷ Nhân dân tệ (798 triệu USD).
Tosanoides annepatrice là một loài cá biển thuộc chi "Tosanoides" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2018. Từ định danh được đặt theo tên của bà Anne Patrice Greene, là mẹ của tác giả thứ hai Brian D. Greene, người đã thu thập tất cả các mẫu vật của loài cá này, cũng như để ghi nhận sự hỗ trợ và động viên mà bà đã dành cho hành trình khám phá các rạn san hô sâu ở Micronesia của con trai mình. Phân bố và môi trường sống. "T. annepatrice" mới chỉ được ghi nhận ở quốc đảo Palau và đảo Pohnpei (Liên bang Micronesia), nhưng có lẽ sẽ được tìm thấy trên khắp Micronesia. "T. annepatrice" được quan sát và thu thập dọc theo các rạn san hô dốc ở độ sâu khoảng 115–150 m. Tổng chiều dài cơ thể lớn nhất đươc ghi nhận ở "T. annepatrice" là 10,4 cm (chiều dàu chuẩn của mẫu vật này là gần 6,9 cm). Cá đực: đầu và thân màu đỏ hồng, bụng vàng tươi. Đầu có thêm 4 sọc chéo màu vàng tươi, riêng sọc thứ ba nối tiếp với sọc đỏ tươi trên thân có viền màu cánh sen, trở lại màu vàng ở giữa gốc vây đuôi. Vây lưng có dải vàng rất dày ở giữa, bao quanh với viền màu cánh sen. Vây hậu môn có màu vàng ở trước, chuyển sang màu cánh sen ở sau. Vây bụng màu vàng, ngoại trừ hai tia cuối màu cánh sen. Mắt màu hồng tím với một vòng vàng quanh đồng tử. Cá cái và cá con: màu vàng với các vệt gợn sóng màu đỏ gần như thẳng đứng dọc theo mép vảy cá. Vây hậu môn màu cánh sen ở trước, chuyển sang màu tím ở sau, có vệt màu vàng lục giữa vây. Vây bụng màu cánh sen. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16–17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 33–34. Qua khảo sát thực địa, hầu hết các cá thể "T. annepatrice" sống thành nhóm hậu cung gồm một con đực với một vài con cái và con non.
Cymothoe là một chi bướm thuộc phân họ Limenitidinae. Chi này phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi, nơi các loài được tìm thấy chủ yếu trong môi trường sống trong rừng, chủ yếu ở rừng Guinea ở Tây Phi và rừng Congo. Đây là những loài bướm có kích thước từ trung bình đến lớn (sải cánh 40–70 mm) thường có màu sắc khá sặc sỡ. Các loài trong chi này có nhiều màu sắc và hoa văn khác nhau. Trong số đáng chú ý nhất là một số loài có mặt trên có màu đỏ tươi hoặc cam. Một nhóm khác phần lớn có màu vàng nhạt; một số khác có màu vàng son đậm và nâu sô-cô-la hoặc trắng tinh. Ấu trùng ăn nhiều loại cây bụi và cây khác nhau. Các chi cây chủ được ghi nhận bao gồm "Rawsonia" và "Kiggelaria" (Achariaceae), "Fernandoa" và "Kigelia" (Bignoniaceae), "Vismia" (Hypericaceae), "Dovyalis" (Salicaceae) và "Rinorea" (Violaceae). Những con trưởng thành dành phần lớn thời gian trong tán cây nhưng cũng tìm kiếm những điểm có ánh nắng giữa các cây và ăn thực vật mục nát trên nền rừng. Các loai trong chi này biểu hiện sự lưỡng hình giới tính. Các cá thể cũng có thể khác nhau trong cùng một loài, đặc biệt là con cái. Ví dụ, con cái của "C. caenis" rất đa dạng đến mức các nhà phân loại đã mô tả 20 dạng loài khác nhau dựa trên sự khác biệt của chúng. Chi chị em là "Harma". Loài điển hình của chi này là "Cymothoe althea". Xác định các nhóm loài là một cách thuận tiện để phân chia các chi được xác định rõ ràng với một số lượng lớn các loài được công nhận. Các loài "Cymothoe" được sắp xếp thành các tập hợp được gọi là "nhóm loài" nhưng (không phải siêu loài mà là một sự phân loại theo ngoại hình không chính thức). Đây có thể là hoặc không thể là các nhánh. Khi các nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử tiếp tục, các dòng dõi đủ khác biệt để đảm bảo một mức độ công nhận chính thức nào đó trở nên rõ ràng và các nhóm mới được đề xuất, nhưng việc xếp hạng nhất quán vẫn là một vấn đề. Có khoảng 75 loài được biết đến. Được liệt kê theo thứ tự bảng chữ cái trong các nhóm loài:
Mariner 1, được chế tạo để thực hiện chuyến flyby Sao Kim đầu tiên thực hiện bởi Mỹ, là tàu vũ trụ đầu tiên trong chương trình "Mariner" liên hành tinh của NASA. Được phát triển bởi Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực và ra mắt vào mùa hè năm 1962, thiết kế của "Mariner 1" (và "Mariner 2") được dựa trên tàu thăm dò Mặt Trăng "Ranger". "Mariner 1" đã thực hiện một loạt thí nghiệm nhằm xác định nhiệt độ của Sao Kim cũng như đo từ trường và đo các hạt tích điện ở gần Sao Kim và ở không gian liên hành tinh. "Mariner 1" được phóng vào ngày 22 tháng 7 năm 1962 bằng tên lửa Atlas-Agena từ Cape Canaveral's Pad 12. Ngay sau khi cất cánh, lỗi liên lạc giữa tên lửa và hệ thống dẫn đường trên mặt đất đã khiến tên lửa chệch hướng.
Planum Australe (Latin: "đồng bằng phía nam") là đồng bằng cực nam của Sao Hỏa. Nó kéo dài ở phía nam khoảng 75°N và tập trung ở #đổi . Địa chất của khu vực này dự tính được khám phá bởi cuộc thám hiểm Mars Polar Lander - một sứ mệnh thất bại của NASA, tàu đã mất liên lạc khi đi vào bầu khí quyển Sao Hỏa. Vào tháng 7 năm 2018, các nhà khoa học đã báo cáo phát hiện về một hồ nước lỏng dưới băng trên Sao Hỏa dựa trên các nghiên cứu radar MARSIS, hồ nằm bên dưới chỏm băng cực nam và kéo dài sang một bên khoảng , đây là khu vực có nước ổn định đầu tiên được biết đến trên hành tinh này. Một phần Planum Australe được bao phủ bởi chỏm băng vùng cực vĩnh cửu bao gồm nước đóng băng và carbon dioxide dày khoảng 3 km. Một lớp băng theo mùa hình thành bên trên lớp băng vĩnh cửu trong mùa đông trên Sao Hỏa, kéo dài từ 60°N về phía nam. Vào mùa đông, nó dày khoảng 1 mét. Có thể diện tích chỏm băng này sẽ bị thu hẹp lại do biến đổi khí hậu. Tuy vậy những tuyên bố về sự nóng lên toàn cầu trên toàn Sao Hỏa dựa trên hình ảnh lại bỏ qua dữ liệu nhiệt độ và bộ dữ liệu toàn cầu của hành tinh này. Dữ liệu từ tàu vũ trụ và dữ liệu vi sóng cho thấy nhiệt độ trung bình toàn cầu cao nhất là ổn định, và có thể đang nguội đi. Năm 1966, Leighton và Murray đề xuất rằng vùng cực của Sao Hỏa cung cấp lượng CO2 lớn hơn nhiều so với trữ lượng trong bầu khí quyển. Tuy nhiên hiện nay người ta cho rằng cả hai vùng cực đều được cấu tạo chủ yếu từ nước đóng băng. Cả hai cực đều có lớp phủ CO2 theo mùa mỏng, trong khi cực nam có lớp phủ CO2 tồn dư vĩnh cửu, dày khoảng 8 đến 10 mét nằm trên mặt nước đóng băng. Kết luận rằng phần lớn băng là nước dựa vào lập luận rằng CO2 không đủ chắc về mặt cơ học để làm cho chỏm băng dày 3 km ổn định trong thời gian dài. Bằng chứng gần đây từ radar xuyên băng SHARAD đã cho thấy lượng băng CO2 khổng lồ dưới bề mặt xấp xỉ bằng 80% khí quyển hiện tại, hay 4–5 mbar, được lưu trữ ở Planum Australe. Dữ liệu từ Mars Express của ESA cho thấy chỏm băng có ba phần chính. Phần phản chiếu mạnh nhất của chỏm băng chiếm khoảng 85% băng khô và 15% băng nước. Phần thứ hai, nơi chỏm băng tạo thành những sườn dốc ở vùng rìa với đồng bằng xung quanh, hầu như chỉ có băng nước. Cuối cùng, chỏm băng được bao quanh bởi các tầng đất đóng băng vĩnh cửu kéo dài hàng chục km tính từ các vách đá về phía bắc. Trung tâm của chỏm băng vĩnh cửu không nằm ở vĩ độ 90°N chính xác của cực nam mà nằm lệch sang khoảng 150 km về phía bắc. Sự hiện diện của hai hố va chạm lớn ở bán cầu tây – Hellas Planitia và Argyre Planitia – tạo ra một khu vực áp suất thấp bất động trên chỏm băng vĩnh cửu. Thời tiết điển hình tại đây là kiểu thời tiết tạo ra tuyết trắng mịn có suất phản chiếu cao. Điều này trái ngược với băng đen hình thành ở phần phía đông của vùng cực, nơi có ít tuyết. Mạch nước phun trên Sao Hỏa. Quá trình đóng băng và tan băng theo mùa ở chỏm băng phía nam dẫn đến sự hình thành các kênh xuyên tâm giống như mạng nhện được ánh sáng mặt trời phản chiếu trên lớp băng dày 1 mét. Về sau, CO2 thăng hoa (và có thể cả nước) làm tăng áp suất bên trong chúng, tạo ra các vụ phun trào giống như mạch nước phun của chất lỏng lạnh thường trộn lẫn với cát hoặc bùn bazan sẫm màu. Quá trình này diễn ra nhanh chóng, được quan sát thấy xảy ra trong khoảng thời gian vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng, một tốc độ tăng trưởng khá bất thường về mặt địa chất – đặc biệt là đối với Sao Hỏa. Tàu đổ bộ Mars Geyser Hopper thực hiện một sứ mệnh tìm hiểu sẽ điều tra các mạch nước phun của Sao Hỏa. Vào tháng 9 năm 2020, các nhà khoa học xác nhận sự tồn tại của một số hồ nước mặn lớn dưới lớp băng ở vùng cực nam của Sao Hỏa. Theo một trong những nhà nghiên cứu cho biết, "Chúng tôi đã xác định được cùng một khối nước [như đã đề xuất trước đó trong phát hiện sơ bộ ban đầu], nhưng chúng tôi cũng tìm thấy ba khối nước khác xung quanh khối nước chí"
Planum Boreum (Latin: "đồng bằng phía bắc") là đồng bằng cực bắc trên Sao Hỏa. Nó mở rộng về phía bắc từ khoảng vĩ độ 80°B và tập trung ở #đổi . Bao quanh đồng bằng vùng cực cao là một đồng bằng đất thấp bằng phẳng và không có gì đặc biệt chiếm ưu thế ở bán cầu bắc tên là Vastitas Borealis, kéo dài khoảng 1500 km về phía nam. Đặc điểm chính của Planum Boreum là một khe nứt, hay hẻm núi kích thước lớn có tên là Chasma Boreale nằm ở ngay chỏm băng vùng cực. Nó rộng tới và có các vách đá cao tới . Trong khi đó, hẻm núi Grand Canyon có độ sâu khoảng ở một số vị trí và dài nhưng chỉ rộng tối đa . Chasma Boreale cắt xuyên qua các trầm tích và băng ở vùng cực, tương tự lớp băng hiện diện ở Greenland. Planum Boreum tiếp giáp với Vastitas Borealis ở phía tây Chasma Boreale, tại một vách đá không đồng đều có tên Rupes Tenuis. Vách đá này đạt độ cao lên tới 1 km. Ở những nơi khác, chỗ tiếp giáp là một tập hợp các "mesas" (núi biệt lập có đỉnh bằng phẳng) và máng. Planum Boreum được bao quanh bởi những cánh đồng cồn cát rộng lớn trải dài từ 75°B đến 85°B. Những cánh đồng cồn cát này được đặt tên là Olympia Undae, Abalos Undae, Siton Undae và Hyperboreae Undae. Olympia Undae là lớn nhất, có vĩ độ từ 100°Đ đến 240°Đ. Abalos Undae bao phủ từ 261°Đ đến 280°Đ và Hyperboreale Undae trải dài từ 311°Đ đến 341°Đ. Planum Boreum là nơi có chỏm băng vĩnh cửu bao gồm chủ yếu là băng nước (với lớp băng carbon dioxide dày 1 m trong mùa đông). Nó có thể tích 1,2 triệu km3 và có diện tích gấp 1,5 lần diện tích của Texas. Nó có bán kính 600 km. Độ sâu tối đa của chỏm địa hình là 3 km. Các rãnh xoắn ốc ở chỏm băng được hình thành bởi gió katabatic cuốn bay lớp băng bề mặt bị xói mòn từ các phía đối diện với xích đạo của các rãnh băng, chúng có thể được hỗ trợ bởi quá trình thăng hoa, sau đó được tái lắng đọng trên các sườn dốc hướng về cực lạnh hơn. Các máng địa hình gần như vuông góc với hướng gió, và bị dịch chuyển bởi hiệu ứng Coriolis dẫn đến dạng xoắn ốc. Theo thời gian, các máng dần dần dịch chuyển về phía cực; các máng trung tâm đã dịch chuyển khoảng 65 km trong 2 triệu năm qua. Chasma Boreale với đặc điểm giống như hẻm núi có tuổi đời lâu hơn so với các máng và ngược lại được xếp song song với hướng gió. Thành phần ở lớp bề mặt của chỏm băng phía bắc vào giữa mùa xuân (sau khi tích tụ băng khô theo mùa trong mùa đông) đã được nghiên cứu từ quỹ đạo. Các mép ngoài của chỏm băng bị nhiễm bụi (0,15% trọng lượng) và chúng chủ yếu là nước đá. Khi di chuyển về phía cực, hàm lượng băng trên bề mặt giảm đi và được thay thế bằng băng khô. Độ tinh khiết của băng cũng tăng lên. Ở địa điểm cực, băng theo mùa trên bề mặt chủ yếu bao gồm băng khô nguyên chất với hàm lượng bụi ít và 30 phần triệu nước đá. Tàu đổ bộ Phoenix được phóng vào năm 2007 đã đến Sao Hỏa vào tháng 5 năm 2008 và hạ cánh thành công xuống vùng Vastitas Borealis của hành tinh này vào ngày 25 tháng 5 năm 2008. Chỏm cực bắc của Sao Hỏa đã được Geoffrey A. Landis đề xuất làm địa điểm hạ cánh cho chuyến thám hiểm Sao Hỏa của con người. Hiện tượng tái diễn. Vào tháng 2 năm 2008, HiRISE đã ghi lại được bốn trận tuyết lở đang diễn ra ở một vách đá cao . Đám mây vật chất mịn có chiều ngang và kéo dài tính từ chân vách đá. Các lớp màu đỏ được biết đến là đá giàu nước đá trong khi các lớp màu trắng là sương giá carbon dioxide theo mùa. Vụ lở được cho là bắt nguồn từ lớp đỏ nằm trên cùng. Các quan sát tiếp theo được lên kế hoạch để mô tả bản chất của các mảnh vụn sạt lở. Đám mây hình khuyên lặp lại. Một đám mây hình bánh rán cỡ lớn xuất hiện ở vùng cực Bắc của Sao Hỏa vào cùng thời điểm mỗi Năm Sao Hỏa và có cùng kích thước. Nó hình thành vào buổi sáng, tiêu tan vào buổi chiều. Đường kính ngoài của đám mây là khoảng và vùng mắt đám mây là . Đám mây được cho là bao gồm nước-băng, nên nó có màu trắng, không giống như những cơn bão bụi thông thường hơn. Đám mây trông giống như một cơn bão xoáy, tương tự như bão cuồng phong, nhưng nó không quay. Đám mây xuất hiện vào mùa hè phía bắc và ở vĩ độ cao. Điều này theo suy đoán là do điều kiện khí hậu độc đáo gần cực bắc. Những cơn bão giống lốc xoáy lần đầu tiên được phát hiện trong chương trình lập bản đồ quỹ đạo của tàu Viking, nhưng đám mây hình khuyên phía bắc lớn hơn gần ba lần. Đám mây cũng đã được phát hiện bởi nhiều tàu thăm dò và kính viễn vọng khác nhau, bao gồm cả Hubble và Mars Global Surveyor. Khi Kính viễn vọng Không gian Hubble quan sát đám mây này vào năm 1999, người ta cho rằng nó là một cơn bão xoáy. Đường kính được đo là khoảng , và có một "mắt" với đường kính .
Teyonah Parris ( ; sinh ngày 22 tháng 9 năm 1987) là nữ diễn viên người Mỹ, sau khi tốt nghiệp trường âm nhạc Juilliard, cô bắt đầu tham gia diễn xuất từ năm 2010. Những vai diễn nổi bật đầu tiên của cô là Dawn Chambers trong phim truyền hình "Mad Men" (2012–2015, đài AMC) và vai chính trong phim điện ảnh "Dear White People" (2014). Sau đó, Parris tiếp tục tham gia các phim khác như "Empire" (2014), "Chi-Raq" (2015) và "If Beale Street Could Talk" (2018). Năm 2021, Parris thủ vai chính trong phim kinh dị "Candyman" và vai siêu anh hùng Monica Rambeau trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Năm 2010, Teyonah có vai diễn truyền hình đầu tay với một vai khách mời trong phim "The Good Wife". Năm 2012, cô thủ vai phụ Dawn Chambers trong sê-ri "Mad Men" của đài AMC. Nữ diễn viên được biết tới nhiều hơn khi tham gia phim điện ảnh "Dear White People" năm 2014, cùng năm, cô đóng vai chính trong sê-ri truyền hình "Survivor's Remorse". Năm 2015, Parris tham gia phim chính kịch "Chi-Raq" của đạo diễn Spike Lee và giành được một đề cử giải NAACP (giải nghệ thuật do Hiệp hội Quốc gia vì Sự Tiến bộ của Người Da màu Hoa Kỳ tổ chức) ở hạng mục Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc cho phim này. Tháng 9 năm 2022, Parris và chồng cô là James cho biết cả hai sắp có con. Họ sinh con gái đầu lòng đầu năm 2023.
Chân Lạp phong thổ ký Chân Lạp phong thổ ký (), tức "Ký sự về Campuchia: Địa lý và Con người," là một quyển sách viết vào thời nhà Nguyên bởi Chu Đạt Quan (周達觀), người đã ghé thăm Đế quốc Angkor năm 1296-1297. Ký sự này của Chu Đạt Quan là một sử liệu vô cùng quý giá vì nó là tư liệu duy nhất còn sót lại mà trong đó người ta ghi lại cuộc sống thường ngày ở Đế quốc Khmer. Tư liệu tương tự chỉ còn được tìm thấy trên các bức tường của ngôi đền Angkor Wat. Nguyên tác tại Trung Quốc. Cuốn sách của Chu Đạt Quan kể về Campuchia. Ông đã đến thăm đất nước này với tư cách là thành viên của phái đoàn ngoại giao chính thức do Temür Khan (tức Nguyên Thành Tông) cử đến vào năm 1296 để ban hành một sắc lệnh của triều đình. Không rõ khi nào nó được hoàn thành, nhưng nó được viết trong vòng 15 năm sau khi Chu trở về Trung Quốc vào năm 1297. Tuy nhiên, tác phẩm còn tồn tại đến ngày nay được cho là một phiên bản rút gọn, có lẽ chỉ chiếm khoảng một phần ba kích thước ban đầu. Một người mê sách ở thế kỷ 17, Tiền Tằng (Qian Zeng 錢曾), đã ghi nhận sự tồn tại của hai phiên bản của tác phẩm, một phiên bản thời nhà Nguyên, phiên bản còn lại nằm trong tuyển tập thời nhà Minh có tên là "Cổ Kim Thuyết Hải" (古今說海, "Gu Jin Shuo Hai" ). Phiên bản nhà Minh được mô tả là "lộn xộn và lung tung, thiếu sáu hoặc bảy trên mười phần, hầu như không cấu thành một cuốn sách". Bản gốc của triều đại nhà Nguyên không còn tồn tại, và các phiên bản còn sót lại dường như chủ yếu dựa trên phiên bản rút gọn của nhà Minh. Nội dung từ cuốn sách đã được sưu tầm trong nhiều tuyển tập khác. Các đoạn trích được đưa ra trong một tuyển tập dài "Thuyết Phu" (說郛, "Shuo fu"), trong phiên bản thứ hai được xuất bản vào đầu triều đại nhà Thanh. Văn bản bị cắt bớt cũng được đưa ra trong "Cổ Kim Dật Sử" (古今逸史, "Gu jin yi shi" ) từ triều đại nhà Minh, và văn bản tương tự này đã được sử dụng trong các bộ sưu tập khác. Phiên bản tiếng Trung hiện đại chính của cuốn sách là phiên bản có chú thích, được nhà khảo cổ (Hạ Nại) biên soạn từ các biến thể của văn bản được tìm thấy trong 13 lần xuất bản, hoàn thành năm 1980 và xuất bản năm 2000. Tác phẩm được viết bằng Văn ngôn; tuy nhiên, đôi khi có những từ và cấu trúc câu dường như bị ảnh hưởng bởi phương ngữ Ôn Châu của Chu Đạt Quan. Ký sự của Chu lần đầu tiên được dịch sang tiếng Pháp vào năm 1819 bởi Jean-Pierre Abel-Rémusat nhưng nó không có nhiều tác động. Nội dung của cuốn sách được tìm thấy trong tuyển tập "Cổ Kim Thuyết Hải" sau đó được Paul Pelliot dịch lại sang tiếng Pháp vào năm 1902, và bản dịch này sau đó được Pelliot sửa đổi một phần và tái bản sau khi di cảo vào năm 1951. Tuy nhiên, Pelliot đã chết trước khi ông có thể hoàn thành những ghi chú toàn diện mà ông đã lên kế hoạch cho tập ký sự của Chu. Bản dịch của Pelliot được đánh giá cao và nó là nền tảng cho nhiều bản dịch sau này sang các ngôn ngữ khác, chẳng hạn như bản dịch tiếng Anh của J. Gilman d'Arcy Paul năm 1967 và Michael Smithies năm 2001. Năm 1971, nó được dịch sang tiếng Khmer bởi Ly Theam Teng . Tại Việt Nam, năm 1973, tác giả Lê Hương xuất bản sách Chân Lạp phong thổ ký tại Sài Gòn qua nhà xuất bản Kỷ Nguyên Mới. Lê Hương cho biết ông dịch thẳng từ bản gốc văn ngôn và có tham khảo bản của Pelliot. Ngoài ra còn có bản dịch tiếng Thái cuốn Chân Lạp phong thổ ký của Chaloem Yongbunkiat năm 1967, được Matichon Press tái bản năm 2014. Năm 2007, nhà ngôn ngữ học Hán ngữ Peter Harris, thành viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược New Zealand, đã hoàn thành bản dịch trực tiếp đầu tiên từ tiếng Trung văn ngôn sang tiếng Anh hiện đại, sửa nhiều lỗi trong các bản dịch tiếng Anh trước đó, với tựa đề mới "A Record of Cambodia: the Land and Its People" . Harris đã làm việc ở Campuchia trong nhiều năm và đưa vào những bức ảnh và bản đồ hiện đại liên quan trực tiếp đến lời kể ban đầu của Chu. Cuốn sách mô tả về thành phố Yasodharapura, tức thủ đô Angkor của Đế quốc Khmer, cũng như cuộc sống và nghi thức hàng ngày trong cung điện. Nó mô tả các phong tục và tập tục tôn giáo khác nhau của đất nước, vai trò của phụ nữ và nô lệ, thương mại và cuộc sống thành thị, nông nghiệp và các khía cạnh khác của xã hội ở Angkor, cũng như sự hiện diện của người Trung Quốc ở Campuchia và cuộc chiến với người Xiêm. Ngoài ra còn có các mô tả về hệ thực vật và động vật của khu vực, thực phẩm cũng như những câu chuyện khác thường. Những mô tả trong cuốn sách nhìn chung được coi là chính xác, nhưng cũng có những sai sót, ví dụ như những người sùng đạo Hindu ở địa phương đã bị Chu mô tả sai theo thuật ngữ Trung Quốc là Nho giáo hoặc Đạo giáo, và các phép đo chiều dài và khoảng cách được sử dụng thường ít chính xác. Nhà ở của người Khmer: Lễ xuất cung của vua Indravarman III: Trang phục của nhà vua: Trang phục của người dân: Về sản xuất tơ lụa: Về phụ nữ Angkor: Về thuộc quận (các đơn vị hành chính): Học giả Hứa Triệu Lâm (許肇琳) cho rằng quận Trĩ Côn (雉棍) chính là một cách ghi âm khác của Sài Gòn (西貢 Tây Cống) bên cạnh các chữ Sài Côn (柴棍 - theo kiểu Việt Nam), Đề Ngạn (堤岸 - theo kiểu Quảng Đông), Trạch Côn (宅棍 - theo kiểu Triều Châu, Phúc Kiến). Lời kể của Chu rất hữu ích trong việc xác định rằng tháng 1 theo lịch Khmer là "kia-to", gọi là . Không có văn khắc Khmer nào sử dụng cách đánh số tháng, nhưng trong ba hệ thống được sử dụng sau này ở Thái Lan, Karttika được gọi là tháng 1 ở một số vùng của Lanna và đôi khi cũng được đánh số như vậy ở Lào. Mặt khác, năm mới theo thiên văn bắt đầu vào tháng 6 (Caitra). Phương trình này được xác nhận khi Chu Đạt Quan nói rằng ông không hiểu tại sao họ chỉ xen kẽ vào tháng 9. Trên thang đo đang được sử dụng ở đây, tháng thứ 9 là Ashadha, tháng nhuận duy nhất ở Thái Lan và Lào . (Ashadha được biết đến nhiều hơn với cái tên 'tháng 8' vì đó là ngày tương đương ở miền Nam (Bangkok). Việc sử dụng Ashadha ở Campuchia làm tháng nhuận duy nhất không được chứng thực một cách an toàn cho đến những năm 1620 sau Công Nguyên khi một năm (Saka 1539; IMA số 9) được cho là có Ashadha thứ 2 khi hệ thống cũ không có thêm một tháng trong năm đó. Các bản khắc từ năm 1296 đến năm 1617 sau Công nguyên rất chắp vá, nhưng những bản ghi còn tồn tại từ phần đầu tiên của khoảng thời gian này dường như ủng hộ hệ thống tính toán cũ hơn, cho thấy rằng những người cung cấp thông tin cho Chu Daguan vào thời điểm ông đến thăm chỉ là thiểu số.
Tosanoides aphrodite là một loài cá biển thuộc chi "Tosanoides" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2018. Từ định danh được đặt theo tên của Aphrodite, nữ thần tình yêu và sắc đẹp của Hy Lạp cổ đại, vì kiểu hình của loài cá này đã thu hút các nhà ngư học, cũng như vẻ đẹp của Aphrodite đã mê hoặc các vị thần Hy Lạp. Phân bố và môi trường sống. "T. aphrodite" mới chỉ được biết đến ở quần đảo São Pedro và São Paulo (ngoài khơi Brasil), cũng là loài "Tosanoides" đầu tiên được ghi nhận ở Đại Tây Dương. "T. aphrodite" được phát hiện ở độ sâu từ 100 đến 130 m khi các tác giả lặn có máy thở, và một quan sát duy nhất ở độ sâu 260 m từ tàu lặn. Tổng chiều dài cơ thể lớn nhất đươc ghi nhận ở "T. aphrodite" là 8,7 cm (chiều dàu chuẩn của mẫu vật này là gần 6 cm). Cá đực: đầu và thân màu đỏ hồng, sẫm hơn ở lưng, bụng trắng. Hai sọc vàng tươi và hồng cánh sen xen kẽ từ đầu kéo dài đến cuống đuôi, đứt đoạn thành hàng các đốm ở thân sau. Mắt vàng có viền trên và dưới màu hồng tươi. Mõm và vùng trước mắt có màu vàng tươi với một sọc mỏng màu hồng kéo dài ngược lên đến gần gốc vây lưng. Vảy cá ở phần dưới đầu và thân dưới có viền vàng óng. Vây lưng và vây hậu môn vàng, có viền màu hồng tía. Vây bụng vàng, viền trước màu hồng. Vây đuôi lõm sâu, màu vàng ở trước (kèm các vệt hồng tím) và hồng ở sau, tia sợi ở thùy trên và dưới màu vàng. Vây ngực màu vàng, trong mờ. Cá cái và cá con: màu đỏ cam, sẫm hơn ở lưng. Sọc mỏng ở mõm có màu đỏ kéo dài ngược lên đến gần gốc vây lưng. Cũng có hai sọc vàng và đỏ xen kẽ kéo dài từ đầu đến cuống đuôi. Mắt vàng lục có viền trên và dưới màu tím. Vảy cá trên thân có màu đỏ. Vây lưng chủ yếu có màu vàng, các tia màu cam với đốm màu đỏ sẫm bao phủ 3 gai lưng đầu tiên. Vây hậu môn cũng màu vàng với các tia màu cam, có thêm viền cam bao quanh. Vây bụng màu vàng với viền trước màu đỏ tía. Vây đuôi màu vàng với viền màu hồng cam, có các sọc thẳng hình mắt xích. Vây ngực màu cam, trong mờ. Số gai ở vây lưng: 10 (gai cuối dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 15–16 (tia thứ 7 dài nhất); Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 (tia thứ 7 dài nhất); Số tia vây ngực: 14–15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 32–35. Qua khảo sát thực địa, "T. aphrodite" sinh sống trong các kẽ hở trên các rạn đá.
Tosanoides bennetti là một loài cá biển thuộc chi "Tosanoides" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2019. Từ định danh được đặt theo tên của Timothy Bennett (sinh năm 1960), thợ lặn người Úc và nhà sưu tập cá cảnh biển, người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này. "T. bennetti" mới chỉ được biết đến ở phía tây bắc rạn san hô Holmes trên biển San Hô (cách Cairns khoảng 220 km về phía đông), được tìm thấy trên rạn san hô ở độ sâu đến 150 m. Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "T. bennetti" là 5 cm. Cá đực: màu hồng tía với 4 dải sọc xiên màu vàng trên đầu và thân, riêng 2 dải giữa là các vệt đốm lớn ghép lại. Vây lưng có dải vàng ở giữa, dọc theo chiều dài vây, bao quanh bởi dải màu hồng tía ở rìa và gốc vây. Phần vây gần rìa của vây hậu môn và vây bụng có màu vàng, còn lại màu hồng tía như thân. Vây đuôi cũng màu hồng tía với một đốm lớn màu vàng ở ngay trung tâm của thùy dưới. Cá cái: màu hồng tía, chuyển sang màu vàng nhạt hơn ở thân sau, cuống đuôi và phần lớn vây đuôi. Có một sọc vàng băng ngang các gai vây hậu môn. Vây bụng màu vàng với mép trước màu hồng. Vây lưng cũng màu hồng tía, có một đốm màu nâu vàng bao phủ 3 gai đầu tiên. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 12–14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 29–33.
Raphael Dwamena (12 tháng 9 năm 1995 – 11 tháng 11 năm 2023) là một cố cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ghana thi đấu ở vị trí tiền đạo. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sinh ra ở Nkawkaw, Dwamena thi đấu và tập luyện với Red Bull Ghana tại Giải đấu Quốc tế ở Croix, Pháp. Năm 2013, Dwamena giúp đội U-17 giành huy chương bạc và được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu. Trước khi trở về Ghana, Dwamena và đồng đội của anh, David Atanga, lần đầu đến Áo để thử việc tại Red Bull Salzburg. Dwamena gia nhập đội trẻ Salzburg vào tháng 1 năm 2014, và ngay lập tức trở thành cầu thủ chủ chốt của đội U-18. Trong một giải đấu vào tháng 6, anh đã ghi bảy bàn sau bốn trận. Dù Salzburg chỉ về đích ở vị trí thứ ba nhưng anh đã giành được Chiếc giày vàng. Vào tháng 7 năm 2014, Dwamena được thăng hạng lên FC Liefering. Anh ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 18 tháng 7 ở phút thứ 82 trong chiến thắng 3–0 trước Hartberg và được thay ra cho Nikola Dovedan. Anh là một trong sáu cầu thủ Liefering ra mắt chuyên nghiệp vào ngày hôm đó. Anh đã chơi thêm một trận nữa trong mùa giải đó. Trong mùa giải 2015–16, Dwamena có trận đá chính đầu tiên cho Liefering vào ngày 21 tháng 8 trong trận gặp Wiener Neustadt. Anh đã chơi 90 phút thay cho Smail Prevljak. Vào ngày 18 tháng 9, trong trận đá chính thứ năm liên tiếp, anh đã ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên trong chiến thắng 4–1 trước Austria Klagenfurt. Dwamena đã có nửa mùa giải thành công với Austria Lustenau sau khi ghi 18 bàn sau 20 trận trước khi chuyển đến FC Zürich. Raphael Dwamena hoàn tất vụ chuyển nhượng đến FC Zürich vào ngày 27 tháng 1 năm 2017. Anh đã tạo ra tầm ảnh hưởng tại đội bóng mới bằng việc ghi 12 bàn sau 18 trận và đồng thời giúp Zürich thăng hạng lên Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ. Trong trận ra mắt giải đấu, Dwamena đã ghi hai bàn vào lưới Grasshoppers. Vào ngày 21 tháng 8 năm 2017, Zürich đã đồng ý mức phí với câu lạc bộ Brighton Hove Albion tại Premier League cho vụ chuyển nhượng của Dwamena. Anh chuẩn bị gia nhập Brighton với điều kiện phải vượt qua cuộc kiểm tra y tế, xin giấy phép lao động và giấy phép quốc tế. Thế nhưng, thỏa thuận này thất bại sau khi Dwamena không vượt qua cuộc kiểm tra y tế do bệnh tim. Levante và cho mượn tại Zaragoza. Vào ngày 7 tháng 8 năm 2018, Dwamena ký hợp đồng 4 năm với Levante UD tại La Liga. Ngày 16 tháng 7 sau đó, anh được cho mượn tại Real Zaragoza trong vòng một năm. Vào tháng 10 năm 2019, sau khi tiến hành các cuộc kiểm tra về tình trạng tim của anh, các bác sĩ đã khuyến nghị anh nên giải nghệ bóng đá. Anh quay trở lại với máy khử rung tim cấy ghép vào tháng 1 năm 2020. Vào ngày 20 tháng 8 năm 2020, Dwamena chuyển đến Vejle Boldklub tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Đan Mạch. Anh đã ghi bàn trong trận ra mắt ở Superliga khi Vejle thua 4–2 trước AGF. Anh đã bị rút khỏi các hoạt động của đội bóng sau khi phát hiện các biến chứng về bệnh tim của anh trước trận gặp AaB. Vào thời điểm đó, anh đã có 5 lần ra sân cho câu lạc bộ và ghi hai bàn. Do tình trạng tim và một số tình trạng đáng lo ngại, Vejle xác nhận vào ngày 26 tháng 10 năm 2020 rằng anh không thể thi đấu trong một thời gian. Vào tháng 11 năm 2020, giám đốc thể thao của câu lạc bộ tuyên bố rằng Dwamena đã chơi trận cuối cùng cho câu lạc bộ. Quay trở lại Áo. Vào ngày 25 tháng 6 năm 2021, Dwamena trở lại Áo và ký hợp đồng hai năm với Blau-Weiß Linz. Vào ngày 28 tháng 10 năm 2021, anh ngã gục trên sân trong trận đấu ở Cúp bóng đá Áo với TSV Hartberg. Anh đã hồi phục trong bệnh viện và sự nghiệp của anh ở Áo kết thúc. Vào tháng 9 năm 2022, Dwamena trở lại bóng đá bằng việc ký hợp đồng với đội hạng năm Thụy Sĩ, BSC Old Boys. Vào ngày 3 tháng 9 năm 2022, anh ghi bàn trong trận ra mắt, chiến thắng 2-1 trước FC Regensdorf. Vào tháng 12 năm 2022, Dwamena gia nhập Egnatia Rrogozhinë với tư cách là cầu thủ tự do. Anh đã ký hợp đồng một năm rưỡi và sau đó được gia hạn thành 2 năm. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2023, Dwamena ghi hai bàn thắng đầu tiên ở các giải đấu châu Âu, ghi một cú đúp cho Egnatia trong trận hòa 4-4 với FC Ararat-Armenia tại UEFA Europa Conference League. Sự nghiệp quốc tế. Dwamena không chơi cho các đội tuyển trẻ quốc gia Ghana. Anh được gọi vào đội tuyển quốc gia trong danh sách sơ bộ 30 cầu thủ tham dự Cúp bóng đá châu Phi 2017 nhưng đã bị loại khỏi đội hình 23 cầu thủ. Dwamena ra mắt quốc tế vào ngày 11 tháng 6 năm 2017, trong trận đấu tại vòng loại Cúp bóng đá châu Phi gặp Ethiopia, nơi anh ghi một cú đúp để đánh dấu kỷ nguyên mới của các cầu thủ trẻ được đưa lên đội tuyển quốc gia. Dwamena được chẩn đoán mắc chứng rối loạn nhịp thất vào năm 2017. Vào tháng 1 năm 2020, khi còn thi đấu cho Levante UD, anh đã được cấy máy khử rung tim cấy ghép (ICD) thông qua phẫu thuật, giúp câu lạc bộ của anh có thể theo dõi trái tim của anh trong các trận đấu. Vào tháng 10 năm 2020, ICD cho thấy những giá trị được coi là quá cao và kết quả là câu lạc bộ của anh vào thời điểm đó, Vejle Boldklub, đã rút anh khỏi các hoạt động của đội. Vào tháng 10 năm 2021, trong trận đấu giữa Blau-Weiss Linz với Hartberg tại Cúp bóng đá Áo, Dwamena ngã gục trên sân do bị sốc bởi ICD và nhanh chóng ổn định. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2023, Dwamena bị ngừng tim và ngã gục trên sân ở phút thứ 23 của trận đấu tại vòng 13 giữa Egnatia và Partizani tại Kategoria Superiore. Anh sau đó qua đời trên đường đến Bệnh viện Kavajë, ở tuổi 28. Tất cả các sự kiện thể thao ở Albania đều bị hoãn hoặc hủy sau cái chết của anh. Bác sĩ tim mạch của anh tiết lộ rằng ông đã quyết định loại bỏ ICD một năm trước.
Gái già xì tin Gái già xì tin là một bộ phim truyền hình nhiều tập sản xuất bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam) do Trần Quang Vinh làm đạo diễn. Phim được sản xuất năm 2013, gồm 20 tập, bắt đầu phát sóng từ ngày 8 tháng 12 năm 2013 trên VTV6. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Thu Thủy. "Gái già xì tin" xoay quanh nhân vật Dương (do Phương Oanh đóng vai), một phóng viên bị coi là ế chồng luôn bị bố mẹ tìm mọi cách mai mối để lấy chồng. Cô được tổng biên tập tờ báo nơi cô làm việc giới thiệu làm quen với Định (Chí Nhân đóng vai), một kỹ sư xây dựng, người mà cô đã vô tình có ấn tượng mạnh khi tiếp xúc ở một resort mà anh thiết kế trước đó. Tình cờ, hai người lại là hàng xóm trong khu chung cư mà Dương đang sống với hai cửa nhà cạnh nhau. Cũng vì thế Dương cũng vô tình làm quen với Quân (do Anh Dũng đóng), người được biết tới là cháu gọi Định bằng chú. Quân là một anh chàng con nhà giàu ham chơi bi-a và luôn bám theo chòng ghẹo Dương, gọi cô là "nhái bén". Rồi Dương và Định yêu nhau, trong khi Quân cũng thầm yêu Dương nhưng không thể ngỏ lời vì không tranh chấp với chú mình, nhưng cũng vì thế mà Dương vô tình vướng vào những rắc rối từ thù hận bên trong gia đình Định - Quân. Định có mâu thuẫn lớn với cha đẻ mình, ông Vũ (do NSUT Trần Đức đóng vài), một chủ thầu xây dựng lớn vì những bí mật xấu xa mà ông từng làm trước đây. Anh trai của Định từng kết hôn với Diễm (do NSND Minh Hòa đóng vai), nhưng đã bị chính bố chồng mình, ông Vũ cưỡng hiếp và sinh ra Quân. Bí mật bị vỡ lở, anh trai Định đã đau khổ và chết vì tai nạn, còn Định ghê tởm cha mình và ly khai khỏi gia đình. Quân lớn lên không biết điều này và luôn gọi ông Vũ là ông nội. Ông Vũ đã dùng mọi thủ đoạn để ép Định quay trở lại công ty gia đình nhằm tiếp quản cơ nghiệp của ông, nhưng Diễm không tán thành tạo nên mâu thuẫn lớn. Tranh cãi giữa ba người, ông Vũ, Diễm và Định khiến Quân biết được bí mật về thân thế mình. Anh đã đau khổ lao vào rượu chè và được Dương cố gắng kéo anh trở lại. Định nhầm tưởng Dương cũng yêu Quân, và mặc cảm tội lỗi vì mình làm lộ bí mật cuộc đời của em mình (Quân), anh chia tay Dương để hai người đến với nhau dù anh và Dương đã chuẩn bị đính hôn. Tuy nhiên, dự định này của Định không thành và Quân và Định sau đó đều bỏ đi nước ngoài làm việc. Dương đau khổ vì mối tình tan vỡ, nhưng sau đó vài năm lại vô tình cứu ông Vũ bị đột quỵ giữa đường. Cô đã tìm cách liên lạc với cả hai anh em Quân, Định và kéo họ quay trở lại Hà Nội vì ông Vũ có nguy cơ mất. Hai anh em trở lại, lần đầu nhận nhau là anh em, cùng làm rõ chuyện tư tình với Dương ngày xưa khiến Định hối hận trở lại xin lỗi Dương và xin được nối lại tình cảm. Kết phim, cả hai anh em đều tha thứ cho ông Vũ, Định và Dương cũng đến với nhau và làm đám cưới. Ca khúc trong phim. Bài hát trong phim là ca khúc "Sẽ nói yêu anh" do ca sĩ Trần Nhật Thủy thể hiện.
Bell Aircraft Corporation là một nhà sản xuất máy bay của Hoa Kỳ, đã từng chế tạo nhiều loại máy bay chiến đấu trong Chiến tranh thế giới 2, nổi tiếng nhất là chiếc Bell X-1, máy bay đầu tiên vượt qua rào cản âm thanh. Công ty cũng phát triển và sản xuất nhiều trực thăng quân sự và dân sự. Bell cũng phát triển hệ thống Reaction Control System cho tàu không gian trong Chương trình Mercury, máy bay North American X-15, và Bell Rocket Belt. Công ty đã được Textron mua lại vào năm 1960, và tiếp tục tồn tại dưới tên gọi Bell Textron.
Ngày Trái Đất Mỉm Cười Ngày Trái Đất Mỉm Cười (tiếng Anh: The Day the Earth Smiled) là một bức ảnh tổng hợp được chụp bởi tàu "Cassini" vào ngày 19 tháng 7 năm 2013. Trong thời gian xảy ra thiên thực, con tàu đã chụp lại bức ảnh về Sao Thổ và các vành đai của nó cũng như Trái Đất và Mặt Trăng như những đốm xanh mờ xa xôi. Tàu Cassini đã hai lần chụp những bức ảnh tương tự như vậy (vào năm 2006 và 2012) trong chín lần bay quanh quỹ đạo Sao Thổ trước đây. Tên gọi bức ảnh cũng đề cập đến các hoạt động liên quan đến sự kiện cũng như bức ảnh ghép được tạo nên từ nó. Được tạo ra bởi nhà khoa học hành tinh Carolyn Porco, lãnh đạo đội hình ảnh của "Cassini", bức ảnh mang hàm ý kêu gọi mọi người trên thế giới hãy suy ngẫm về vị trí của loài người trong vũ trụ để biết trân quý sự sống trên Trái Đất và, vào thời điểm bức ảnh được chụp, để nhìn lên và mỉm cười trong niềm tôn vinh. Bức mosaic cuối cùng được chụp vào ngày 19 tháng 7 và được xử lý tại Phòng Thí nghiệm Trung tâm Hình ảnh Cassini cho các Hoạt động (CICLOPS). Ngày 12 tháng 11 năm 2023, nó được phát hành ra công chúng. Bức ảnh gồm có Trái Đất, Sao Hỏa, Sao Kim và nhiều vệ tinh của Sao Thổ. Một bức ảnh có độ phân giải cao hơn, mô tả Trái Đất và Mặt Trăng như những đốm sáng xa xôi, được chụp bởi camera góc hẹp của "Cassini" và được phát hành không lâu sau đó. Tàu thăm dò "Cassini" đã chụp các bức ảnh về Trái Đất và Mặt Trăng ở khoảng cách hơn một tỉ km vào lúc 21:27 UTC ngày 19 tháng 7 năm 2013. Một số hoạt động đã được lên kế hoạch để chúc mừng dịp này: Những bức ảnh thô từ "Cassini" đã đến được Trái Đất không lâu sau sự kiện. Một số tấm ảnh đã được xử lý (một tấm ảnh độ phân giải cao chụp Trái Đất và Mặt Trăng cùng một phần nhỏ chụp Trái Đất của bức ảnh ghép hoàn thiện) và phát hành ra công chúng chỉ một vài ngày sau đó. Việc xử lý bức ảnh ghép hoàn chỉnh diễn ra tại CICLOPS dưới sự chỉ đạo của Porco trong khoảng hai tháng. Trong vòng 4 giờ, "Cassini" đã phải chụp một khung cảnh rộng . Con tàu đã chụp tổng cộng 323 bức, 141 bức trong số đó được dùng trong bức ảnh ghép. NASA tiết lộ rằng việc tổng hợp ảnh này đã đánh dấu lần đầu tiên bốn hành tinh – Sao Thổ, Trái Đất, Sao Hỏa và Sao Kim – được chụp xuất hiện cùng nhau trong phổ ánh sáng nhìn thấy được bởi tàu "Cassini". Đây cũng là lần đầu tiên nhân loại biết trước bức ảnh của họ sẽ được chụp từ vùng ngoài của Hệ Mặt Trời. Việc NASA chính thức phát hành bức ảnh ghép hoàn chỉnh "Ngày Trái Đất Mỉm Cười" vào ngày 12 tháng 11 năm 2013 đã gây nên tiếng vang trên các cơ quan truyền thông khắp thế giới. Bức ảnh đã xuất hiện trên trang nhất của "Thời báo New York" vào ngày hôm sau. Những nhân vật của công chúng như nhà sản xuất truyền thông Seth MacFarlane cũng ca ngợi tấm ảnh. Bức ảnh ghép còn được giới thiệu bởi Porco, và dành tặng cho nhà thiên văn học quá cố Carl Sagan, tại một buổi lễ ở Thư viện Quốc hội để vinh danh việc nhận được các bài viết của Sagan. Ngoài ra, bức ảnh tổng hợp từ các tấm hình chụp bởi 1600 người nhằm hưởng ứng chiến dịch "Vẫy chào Sao Thổ" của NASA cũng được giới thiệu vào ngày 12 tháng 11.
Tosanoides flavofasciatus là một loài cá biển thuộc chi "Tosanoides" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1980. Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "flavus" ("màu vàng") và "fasciatus" ("có dải"), hàm ý đề cập đến các vệt sọc màu vàng trên cơ thể và vây ở cả hai giới của loài cá này. "T. flavofasciatus" được ghi nhận ở ngoài khơi phía nam Nhật Bản (từ vịnh Sagami và bán đảo Izu đến tỉnh Wakayama), và từ đảo Izu Ōshima đến đảo Chichi-jima (quần đảo Ogasawara); xa hơn ở phía nam, loài này còn được tìm thấy ở sống núi ngầm gần Tonga (tọa độ #đổi ) và Palau. "T. flavofasciatus" được tìm thấy trên các rạn đá viền bờ và sống núi đại dương, độ sâu được ghi nhận trong khoảng 33–157 m. Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "T. flavofasciatus" là 8,4 cm. Cá đực: màu hồng với 4 sọc ngang màu vàng kéo dài từ đầu đến thân sau (sọc thứ 4 băng ngang mắt). Có một đốm đỏ ở phía sau rìa trên của nắp mang. Vây lưng, vây hậu môn, vây bụng và thùy dưới của vây đuôi có một dải sọc vàng. Vây ngực trong suốt. Cá cái: màu đỏ cam, mỗi vảy cá có một đốm vàng (trừ bụng). Một sọc xiên màu vàng từ chóp mõm băng qua mắt đến gốc vây ngực. Vây lưng màu đỏ có các đốm vàng, nửa sau của vây lưng mềm màu vàng nhạt. Vây hậu môn màu hồng có dải vàng gần rìa. Thùy trên của vây đuôi đỏ nhạt, thùy dưới vàng nhạt. Vây bụng màu hồng, có dải vàng. Vây ngực màu hồng, trong mờ. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 13; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 31–32. "T. flavofasciatus" là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh biển. "T. flavofasciatus" lần đầu tiên được xuất khẩu và rao bán ở Hoa Kỳ vào năm 2021 với mức giá lên đến 10.000 USD một con.
Northwest Staging Route hay Tuyến đường vận chuyển tiếp tế Tây Bắc, bao gồm một mạng lưới các đường băng, sân bay, trạm phát sóng được xây dựng tại Alberta, British Columbia, Yukon và Alaska trong World War II. Nó được kéo dài tới Liên Bang Xô Viết với cái tên ALSIB (tuyến vận tải đường không ALaska-SIBerian). Tuyến đường vận tải được bắt đầu xây dựng từ năm 1942 do nhiều nguyên nhân. Ban đầu, nhóm huấn luyện số 517 Không quân vận tải Lục quân Hoa Kỳ (sau chuyển thành Bộ chỉ huy Không quân vận tải) đặt tại sân bay Gore Field (Great Falls Municipal Airport) được lệnh tổ chức một tuyến đường vận tải đường không để viện trợ cho Liên Xô theo tuyến đường bay qua Bắc Canada, Alaska và eo biển Bering để tới Siberia, từ đó tới Mặt trận phía Đông. Ủy ban quốc phòng liên chính phủ Mỹ-Canada đã quyết định xây dựng một chuỗi các sân bay bằng chi phí của Canada giữa thành phố Edmonton và biên giới Alaska-Yukon. Cuối năm 1941, chính phủ Canada đã hoàn thành các bãi đáp máy bay thô sơ. Sau khi chiến tranh nổ ra, các tuyến liên lạc bằng đường biển giữa Mỹ và Alaska bị đe dọa nghiêm trọng và cần phải có các tuyến đường khác. Chuỗi các sân bay được thành lập qua vùng Đài nguyên và rừng rậm ở Tây Bắc Canada đã trở thành một nơi có thể đặt tuyến đường bay xuyên qua và gần như bất khả xâm phạm trước các cuộc tấn công. Nhờ tuyến đường này, Hoa Kỳ sẽ có lợi khi đây sẽ trở thành đường vận chuyển nhu yếu phẩm đến các tiền đồn tại Alaska. Đổi lại, quân đội Mỹ bắt đầu xây dựng Đường cao tốc Alaska. Tuy nhiên việc hỗ trợ Lend-Lease Liên Xô không thể chờ đợi đường cao tốc Alaska được hoàn thành. Trong khi tuyến đường viện trợ qua vùng Caribbean đến Brazil, Nigeria, Egypt và Iran không thể thực hiện được, cũng như việc máy bay không thể bay qua Greenland và Iceland. Do đó cần phải có một tuyến đường vận tải bằng đường hàng không, và sân bay cần được xây dựng. Phần lớn mọi người không biết tới về đường bay lớn từ Hoa Kỳ đến Alaska qua Canada. Các sân bay đã được xây dựng hoặc nâng cấp cứ mỗi kể từ Edmonton, Alberta đến Fairbanks, Alaska Đường cao tốc Alaska, về cơ bản, đã nối các sân bay với nhau. Edmonton trở thành nơi đặt đại bản doan của Không đoàn vận tải Alaska. Máy bay từ Edmonton, Alberta sẽ được đưa đến sân bay Ladd Field, gần Fairbanks, Alaska tại đây các máy bay do Mỹ viện trợ sẽ được bàn giao cho phi công người Liên Xô. Marks Army Airfield, gần Nome, Alaska có vị trí gần Nga hơn 500 dặm nhưng đã bị loại do Mỹ lo ngại nó sẽ trở thành mục tiêu cho máy bay Nhật. Một tuyến đường bắt nguồn từ Căn cứ không quân Great Falls, Montana, nơi các máy bay viện trợ được chuyển từ nhà máy sản xuất tại Nam California. Một tuyến đường khác được thành lập bắt đầu từ Minneapolis, Minnesota, tại đây, sân bay Wold-Chamberlain sẽ sử dụng như là một trạm trung chuyển giữa máy bay sản xuất tại Trung tây nước Mỹ và Đông Bắc nước Mỹ. Tuyến Minneapolis-Edmonton, được sử dụng làm tuyến đường vận chuyển cho đến năm 1943, các hoạt động từ tuyến này được chuyển sang Great Falls. Loại máy bay chiến đấu được viện trợ. Có ba loại máy bay chiến đấu chính được Hoa Kỳ viện trợ cho Liên Xô theo chương trình Lend-Lease. Máy bay chiến đấu được viện trợ là loại Bell P-39 Airacobras, sau đó là phiên bản nâng cấp Bell P-63 Kingcobra, là những loại máy bay ưa thích của Không quân Liên Xô, với rất nhiều chiến công. Phần lớn máy bay P-39 được vận chuyển đến Liên Xô là phiên bản Q. Các máy bay ném bom được viện trợ bao gồm máy bay ném bom hạng nhẹ Douglas A-20 Havoc và hạng trung North American B-25 Mitchell. Các máy bay vận tải như Douglas C-47 Skytrain, cũng được viện trợ với số lượng lớn. Máy bay chiến đấu do hãng Bell sản xuất và máy bay ném bom B-25 Mitchells được chuyển đến Ladd qua tuyến đường bay qua Minneapolis; máy bay C-47 và A-20 thì được chuyển giao qua tuyến Great Falls. Một số loại máy bay khác như máy bay huấn luyện North American AT-6 Texan , North American Curtiss P-40 Warhawk, ba chiếc Republic P-47 Thunderbolts và một chiếc Curtiss C-46 Commando cũng được chuyển giao cho Nga. Máy bay có kèm hướng dẫn vận hành và bảo trì bằng tiếng Nga, cũng như được sơn quốc huy của Không quân Liên Xô. Người Nga thiết lập trung tâm chỉ huy tại sân bay Ladd Field và Nome, tại đây các phi công Liên Xô được huấn luyện để có thể vận hành máy bay và bay chúng về Krasnoyarsk tại Siberia và nhiều sân bay khác tại miền Tây nước Nga. Nhóm phi hành đoàn Liên Xô đầu tiên đến sân bay Nome ngày 14/8/1942. Từ đây họ tiếp tục bay đến sân bay Ladd Field. Cùng với phi công là cả thợ máy và nhân viên dân sự từ Ủy ban mua sắm quốc phòng. Phần lớn các thành viên phi hành đoàn tập trung tại sân bay Ladd, nhóm thứ hai tại sân bay Marks Field. Những máy bay đầu tiên được cung cấp cho Liên Xô là lô gồm mười hai chiếc A-20 Havocs, bay đến sân bay Ladd ngày 3 tháng 9 năm 1942. Những phi công Nga sau năm ngày huấn luyện trên máy bay đã cất cánh từ Nome và bắt đầu hành trình dài đến tiền tuyến Mặt trận phía Đông. Ban đầu USAAF đảm nhiệm vai trò huấn luyện vận hành và sửa chữa máy bay viện trợ trong chương trình Lend-Lease. Sau đó, sau khi có kinh nghiệm vận hành và sửa chữa, người Nga đảm nhận công việc này. Nga cũng kiểm tra tỉ mỉ từng máy bay và loại bỏ những máy bay dù là có vấn đề nào nhỏ nhất. USAAF sau đó sẽ có vai trò sửa chữa những máy bay bị lỗi. Tuyến đường vận tải ALSIB và Northwest Staging Route đồng thời cũng là tuyến đường ngoại giao giữa Washington, D.C. và Moscow. Các nhà ngoại giao, chính khách cấp cao và nhiều quan chức chính phủ đã sử dụng tuyến đường bay này trong chiến tranh. Tổng thống Roosevelt đã định tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh với Stalin tại Fairbanks vào năm 1944, nhưng địa điểm gặp gỡ đã được chuyển đến Yalta, Liên Xô. Đây cũng là tuyến đường mà Nga sử dụng để di chuyển các nhân viên tình váo và các thông tin tình báo được thu thập từ Hoa Kỳ. Các phi công Liên Xô tham gia nhiệm vụ chuyển máy bay viện trợ về nước là những phi công giàu kinh nghiệm, với việc nhận nhiệm vụ vận chuyển máy bay được họ coi là quãng thời gian nghỉ ngơi sau quãng thời gian chiến đấu. Sau khi chiến tranh tại Thái Bình Dương kết thúc, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô dần kết thúc, và hai nước chuẩn bị bước và chiến tranh Lạnh, người Nga rởi khỏi Fairbanks sau khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vào tháng Chín năm 1945. Trong số 7.983 máy bay bay về Nga chỉ có 133 chiếc bị mất do thời tiết và lỗi của phi công. Mười ba phi công Liên Xô hi sinh đã được chôn cất tại nghĩa trang Fort Richardson.
Rừng tràm Tân Lập Rừng tràm Tân Lập là khu vực rừng tràm ngập nước nằm tại xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An. Khu vực đã được sử dụng khai thác du lịch với tên gọi Khu du lịch sinh thái làng nổi Tân Lập hay ngắn gọn là Làng nổi Tân Lập. Vị trí và tự nhiên. Rừng tràm Tân Lập nằm ở trung tâm vùng Đồng Tháp Mười, thuộc địa phận xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An. Vị trí cách thị xã Kiến Tường 8 km về phía đông nam; cách thành phố Tân An hơn 50 km về phía tây bắc chạy theo đường Quốc lộ 62, và gần 40 km theo đường chim bay; cách thành phố Hồ Chí Minh 100 km; cách biên giới với Campuchia 15km. Rừng nằm ngay một bên của Quốc lộ 62, có sông Vàm Cỏ Tây chảy qua. Với diện tích 135,0 ha (1,35 km2) và 500 ha vùng đệm, toàn bộ khu rừng là vùng ngập nước với cảnh quan tự nhiên, bao gồm rừng tràm nguyên sinh, sen – súng, lục bình, và có giống lúa ma điển hình của khu vực. Rừng Tân Lập là nơi quy tụ, trú ngụ của một lượng lớn chim, cò, nhiều loài cá và bò sát. Rạch Rừng xuyên qua khu rừng. Rừng được phân thành nhiều khu chức năng với tổng diện tích khoảng 5 ha: trung tâm giáo dục môi trường, khu bảo tồn tự nhiên, khu di trú động vật hoang dã, khu lâm viên, khu nhà nổi trên cọc, khu công viên, khu bến thuyề"Đảo thuần dưỡng chim" tập trung hàng ngàn giống chim, cò. Lịch sử và hoạt động du lịch. Năm 2003, khu du lịch sinh thái Làng nổi Tân Lập bắt đầu được đầu tư với kinh phí 96 tỉ VND, và được Tổng cục Du lịch giới thiệu, quảng bá, dự kiến 80.000 du khách nội địa và hơn 10.000 du khách quốc tế mỗi năm. Năm 2007, khu được giao cho Sở Thương mại – Du lịch Long An quản lý. Năm 2008, doanh thu trong năm là 2.784.000 đồng, mỗi tháng thu về có 232.000 đồng. Năm 2013, khu được chính quyền giao cho Trung tâm Xúc tiến du lịch, Sở Văn hóa–Thể thao và Du lịch tỉnh. Năm 2014, doanh thu là 24.139.107 đồng, tương đương mỗi tháng thu về khoảng 2 triệu đồng. Trước tình hình du lịch ảm đạm, "báo Lao động" đã gọi tình trạng này là "100 tỉ đồng trôi theo làng nổi". Sau đó, khu được giao cho Công ty TNHH Bất động sản Trần Thái. Năm 2016, chính quyền địa phương giao rừng cho Công ty du lịch Tháp Mười. Khu du lịch sinh thái làng nổi Tân Lập đưa vào hoạt động vào năm 2017, Khu du lịch được đầu tư bởi Công ty du lịch Tháp Mười với số vốn đầu tư gần 325 tỷ VND. Giữa rừng là một khách sạn 8 tầng. Hoạt động du lịch gồm tham quan xuyên rừng trên các tuyến đường đan với bề ngang 1 m dài 5 km, có thuyền kéo cáp dưới nước với tổng chiều dài 3 km. Ngoài ra, khách du lịch có thể chèo thuyền trên các con rạch để tham quan và quan sát từ tháp quan sát cao 38 m. Ngó sen và mật ong rừng được xem là những đặc sản tại đây mà khách được đem về.
Chặng đua MotoGP Qatar 2023 Chặng đua MotoGP Qatar 2023 là chặng đua thứ 19 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 17/11/2023 đến ngày 19/11/2023 ở trường đua Losail, Qatar. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Fabio Di Giannantonio của đội đua Gresini Racing. Đây cũng là chiến thắng thể thức MotoGP đầu tiên của Di Giannantonio. Tay đua giành chiến thắng cuộc đua Sprint race là Jorge Martin của đội đua Pramac. Sau chặng đua, Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 437 điểm.
Xứ Phong Phú ("Bountiful") là tên của hai địa điểm được mô tả trong Sách Mặc Môn vốn là một câu chuyện tôn giáo do Joseph Smith viết vào năm 1829. Vị trí đầu tiên tọa lạc tại Cựu Thế giới, gần Jerusalem và vị trí thứ hai được nằm ở đâu đó tại Châu Mỹ. Trong khi các học giả thế tục và không thuộc LDS coi Sách Mặc Môn là một tác phẩm hư cấu, thì Các Thánh Hữu Ngày Sau xem cuốn sách này như một biên niên sử về người Mỹ bản địa. Theo đó, một số học giả trong Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô đã cố gắng tích hợp các đoạn văn trong thánh thư sách Mặc Môn liên quan đến xứ Phong Phú với các địa điểm thực tế ở Cựu Thế giới và Tân Thế giới. Các tài liệu tham khảo Sách Mặc Môn đã truyền cảm hứng cho những người định cư Mormon đặt tên "Bountiful" (xứ Phong Phú) cho hai thị trấn là Bountiful, Utah và Bountiful, British Columbia. Trong Sách Nê Phi thứ nhất ("Nephi.1") của Sách Mặc Môn, thì Xứ Phong Phú được mô tả là một vùng đất tươi tốt trên bờ biển chứa ""nhiều trái cây và cả mật ong rừng" nơi mà ông Lê Hi và nhóm của ông ta tạm ổn định cuộc sống trước khi đóng tàu vượt biển. Sau khi đóng xong con tàu thì nhóm của Lê Hi khởi hành từ xứ Phong Phú và đi đến Châu Mỹ (cũng là một xứ Phong Phú khác). Sách Nê Phi thứ nhất kể rằng: "Và rồi chúng tôi đến được một vùng đất mà chúng tôi gọi là Phong Phú, vì chỗ ấy có nhiều trái cây và nhiều mật; và tất cả những vật này đã được Chúa chuẩn bị sẵn để chúng tôi khỏi chết. Và chúng tôi trông thấy biển, và chúng tôi gọi biển ấy là Y Rê An Tum (Irreantum), có nghĩa là nhiều mặt nước. Chúng tôi dựng lều cạnh bờ biển; và mặc dầu đã trải qua nhiều khổ cực và gian truân, chúng tôi rất vui sướng khi được đến bên bờ biển; và chúng tôi gọi chỗ ấy là Phong Phú, vì có nhiều trái cây. Sau khi Nê Phi, ở tại đất Phong Phú được nhiều ngày, thì tiếng nói của Chúa lại đến"". Thời xa xưa, biển Ả Rập được gọi bằng tên Latin là "Mare Erythraeum". Nhà nghiên cứu LDS là Lynn M. Hilton chỉ ra điểm giống nhau giữa từ "Irreantum" và "Erythraeum" .. Nhiều học giả và nhà nghiên cứu LDS tin rằng vị trí của xứ Phong Phú có thể tương quan với bất kỳ địa điểm nào trên Oman tại bờ biển phía nam Dhofar trên bán đảo Ả Rập. Những địa điểm đã được rà soát, so sánh, đối chiếu, đánh giá là Wadi Hajr (Yemen), Wadi Masilah (Yemen), Dhalqut (Oman), Rakhyut (Oman), Salalah (Oman), Khor Rori/Wadi Darbat (Oman) và Wadi Sayq/Kohr Kharfot (Oman). Để phù hợp với những đặc điểm được kể ra trong Sách Mặc Môn, Aston gợi ý rằng có 12 yêu cầu khác nhau mà một ứng cử viên khả thi cho việc chỉ định vị trí xứ Phong Phú phải đáp ứng gồm: Sau khi tìm hiểu và đánh giá mọi địa điểm trên bờ biển phía nam Ả Rập có thể đủ tiêu chuẩn gọi là xứ Phong Phú trong truyền thuyết thì Aston kết luận rằng tất cả các địa điểm đều không có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu này, ngoại trừ Wadi Sayq/Khor Kharfot. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khác không đồng ý với quan điểm này và ủng hộ vị trí của Khor Rori cách Salalah khoảng 40 km về phía đông những lập luận và minh chứng rằng trong cùng vùng Salalah với một số địa điểm khác, khả năng sử dụng địa điểm này của Nê Phi có trước những phát hiện khảo cổ sớm nhất về địa điểm này, ngược lại, thì với Kohr Kharfot không thể tiếp cận được, nhiều nhà nghiên cứu LDS hiện cho rằng Khor Rori đáp ứng tốt hơn tất cả 12 điểm chính mà Aston và những người khác đã giải quyết cũng như các khía cạnh bổ sung mà họ không giải quyết được yêu cầu. Sách Mặc Môn đề cập đến một thành phố trên lục địa Châu Mỹ có tên là xứ Phong Phú. Trong cuốn sách này thì nó có ý nghĩa quan trọng vì là nơi Chúa Giêsu được cho là đã đến thăm những người trong nền văn minh theo lời kể trong sách Mặc Môn sau khi ông sống lại. Giống như hầu hết các địa điểm trong Sách Mặc Môn, các học giả thế tục coi xứ Phong Phú Tân Thế giới là hư cấu. Nhà khảo cổ học LDS là John Sorenson tin rằng nó đã tồn tại ở bang Tabasco của Mexico ngày nay. Một quan điểm khác cho rằng xứ Phong Phú ở Bắc Mỹ, trong cái được gọi là lý thuyết vùng đất trung tâm, Nê Phi và hậu thế của ông đã tự lập ở khu vực Iowa, với thành phố chính của họ tên là Zarahemla, được cho là Montrose, Iowa, ngay phía tây qua sông Mississippi từ Nauvoo, Illinois. Những tín nhân mặc môn LDS khác cho rằng vùng đất Tân Thế giới và thành phố Phong Phú không thể ở quá xa vị trí của vùng đất Cumorah được đưa ra trong kinh thánh LDS. Cách giải thích này hiểu rằng Cumorah trong Sách Mặc Môn giống hệt với Cumorah được đề cập trong sách Giáo Lý và Giao Ước.
GREGHEC là một trong những viện hợp tác nghiên cứu lớn nhất trong lĩnh vực kinh tế và quản lý ở Pháp. Viện là một phần của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp và HEC Paris nằm tại Jouy-en-Josas. Khoảng 60 sinh viên đang theo học tại các lớp hệ tiến sĩ. Viện bao gồm 120 khoa. Nghiên cứu của viện chủ yếu tập trung vào kinh tế và khoa học quản lý. Trung tâm có một số chương trình dành cho sinh viên đại học và sau đại học cũng như dành cho giảng viên để giảng dạy các khái niệm về kinh tế. Một số sáng kiến mà trung tâm khởi xướng đã nâng cao nhận thức về kinh tế và quản lý tại Pháp.
Infante của Tây Ban Nha Infante/Infanta của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Infante/Infanta de España) là một tước hiệu được ban cho các con của Quân chủ Tây Ban Nha cũng như cho con cái của người thừa kế ngai vàng là Thân vương xứ Asturias. Đi cùng với tước hiệu Infante danh cho Vương tử và Infanta dành cho Vương nữ là kính xưng bậc Royal Highness (Vương thân Điện hạ). Khác với các chế độ quân chủ châu Âu khác, ở Tây Ban Nha chỉ có người thừa kế được gọi là Prince/Princess (với ý nghĩa là (Nữ) Thân vương) và được phong tước hiệu Thân vương xứ Asturias và các tước hiệu truyền thống khác của người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha. Các Vương tử Vương nữ khác của Quốc vương Tây Ban Nha, cũng như là các con của Thân vương xứ Asturias, theo truyền thống sẽ được hưởng tước hiệu Infante/Infanta của Tây Ban Nha. Trong số các đặc quyền, các Infante và Infanta có quyền được chôn cất tại Pantéon de Infantes ở El Escorial. Theo luật hiện nay, những người con của các Infante và Infanta sẽ được hưởng kính xưng "" ("excelentísimo/a señor(a)") và được liệt vào bậc Grandeza của Tây Ban Nha. Phối ngẫu của hai Vương nữ Margarita và Cristina ( Carlos Zurita y Delgado và Iñaki Urdangarín Liebaert) không được phong là Infante nhưng được hưởng kính xưng "The Most Excellent". Ngoài ra, Carlos Zurita được sử dụng tước hiệu Công tước phu quân xứ Soria miễn là Carlos là phối ngẫu của Margarita hoặc vẫn duy trì tình trạng quan phu. Bên cạnh đó, luật pháp Tây Ban Nha cho phép QUân chủ Tây Ban Nha phong tước hiệu Infante thông qua Sắc lệnh Vương thất nếu họ được coi là xứng đáng. Những trường hợp này sẽ được gọi là Infante de gracia ("Infante bởi ân điển"). Một trường hợp được ân phong là Carlos de Borbón-Dos Sicilias y Borbón-Parma, Công tước xứ Calabria, người đòi ngai vàng Hai Sicilie và là anh họ của Quốc vương Juan Carlos I của Tây Ban Nha. Trong các chế độ quân chủ Tây Ban Nha thời trung cổ, cho dù là Castilla, León, Navarra hay Aragón, tất cả con trai và con gái của các quốc vương, kể cả con đầu lòng, đều chỉ là Infante. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 14, Quốc vương Juan I của Castilla, con trai và người kế vị của Enrique II của Castilla, khi cho con trai đầu lòng là Enrique – Enrique III tương lai – kết hôn với Catherine của Lancaster, cháu ngoại của Pedro I của Castilla đã bị truất ngôi và bị giết chết, đã tạo ra tước hiệu Thân vương xứ Asturias cho hai vợ chồng. Tước hiệu này sau đó được truyền lại cho những người thừa kế kế tiếp, bất kể là nam hay nữ. Khi sinh ra, các con đầu lòng của các vị quân chủ đều là Infante và Infanta như các em của mình, nhưng khi được tuyên bố là người thừa kế trước Quốc hội, những người này sẽ trở thành Thân vương xứ Asturias. Điều tương tự cũng xảy ra ở Navarra, khi Carlos III phong cho cháu trai mình là Vương tôn Carlos, con trai của con gái Blanca và Chuan II của Aragón tương lai tước hiệu Thân vương xứ Viana, với quan điểm rằng tước hiệu này nên được phong cho trữ quân của Vương quyền Navarra. Nhưng khi Navarra bị chinh phục bởi Ferrando II của Aragón vào năm 1512, danh hiệu dành cho trữ quân Navarra cũng được ban cho trữ quân Castilla và Aragón, thậm chí còn cho rằng gia đình Albret bị lưu đày vẫn tiếp tục sử dụng danh hiệu này cho những người thừa kế của họ. Tước hiệu Infante và Infanta được quy định bởi Sắc lệnh Vương thất 1368/1987, ngày 6 tháng 11, về chế độ định danh hiệu, kính xưng và phẩm hạnh của Vương thất và nhiếp chính như sau: Các Infante hiện tại của Tây Ban Nha. Hiện tại chỉ có các Infanta, tức là các Vương nữ. Infante cuối cùng là Carlos María của Tây Ban Nha, Công tước xứ Calabria. Theo luật pháp Tây Ban Nha, Infante của Tây Ban Nha là:
Tosanoides filamentosus là một loài cá biển thuộc chi "Tosanoides" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1953. Tính từ định danh "filamentosus" trong tiếng Latinh mang nghĩa là "có dạng sợi", hàm ý đề cập đến các tia sợi vươn dài ở vây hậu môn và/hoặc ở hai thùy vây đuôi của loài cá này. "T. filamentosus" là một loài đặc hữu của vùng biển ngoài khơi phía nam Nhật Bản. Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "T. filamentosus" là 10 cm. Theo cây phát sinh chủng loại học của Pyle và cộng sự (2018), "Tosanoides annepatrice" có quan hệ gần hơn với "T. filamentosus" dựa trên việc phân tích chuỗi mã vạch DNA ty thể ở hai loài.
Chặng đua MotoGP Malaysia 2023 Chặng đua MotoGP Malaysia 2023 là chặng đua thứ 18 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 10/11/2023 đến ngày 12/11/2023 ở trường đua Sepang, Malaysia. Tay đua giành chiến thắng đua chính thể thức MotoGP là Enea Bastianini của đội đua Ducati Corse. Tay đua giành chiến thắng cuộc đua Sprint race là Alex Marquez của đội đua Gresini Racing. Sau chặng đua, Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 412 điểm.
Wojciech Zubowski (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1979) là một chính khách Ba Lan. Ông lần đầu được bầu làm nghị sĩ Hạ viện Ba Lan vào năm 2011 tại khu vực bầu cử Legnica và tái đắc cử chức vụ này vào năm 2015. Năm 2019, ông tiếp tục được bầu làm nghị sĩ của Hạ viện, khóa 9. Ông là đảng viên của đảng Luật pháp và Công lý. Ông sinh ra ở Wrocław, Ba Lan.
Acid linoleic là một hợp chất hữu cơ có công thức hóa học HOOC(CH2)722)4CH3. Cả hai nhóm anken đều là đồng phân cis-trans. Loại acid béo thỉnh thoảng được ký hiệu là 18:2 (n-6) hoặc 18:2 "cis"-9,12. Muối hay ester tạo thành từ acid này được gọi là linoleate. Acid linoleic là một acid béo omega-6 không bão hòa đa, có dạng chất lỏng không màu, hầu như không tan trong nước nhưng hòa tan trong nhiều dung môi hữu cơ. Nó thường xuất hiện trong tự nhiên dưới dạng triglyceride (ester của glycerin) chứ không phải là acid béo tự do. Đây là một trong hai axit béo thiết yếu đối với con người và là loại cần thiết nhất vì cơ thể phải sử dụng nó làm cơ sở để tạo ra các axit béo khác. Con người phải bổ sung acid linoleic thông qua ăn uống. Từ "linoleic" có nguồn gốc từ tiếng Latinh "linum" "flax" + "oleum" "dầu", phản ánh thực tế rằng nó lần đầu tiên được phân lập từ dầu hạt lanh. Năm 1844, F. Sacc, khi này đang làm việc cho phòng thí nghiệm của Justus von Liebig, đã phân lập được acid linoleic từ dầu hạt lanh. Năm 1886, K. Peters xác định được sự tồn tại của hai liên kết đôi. Năm 1930, G. O. Burr và cộng sự phát hiện vai trò thiết yếu của loại axit béo này trong chế độ ăn uống của con người. Năm 1939, T.P. Hilditch và cộng sự xác định đươc cấu trúc hóa học. Năm 1950, R. A. Raphael và F. Sondheimer tổng hợp được axit béo này. Lợi ích đối với sức khỏe. Tiêu thụ acid linoleic có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, tiểu đường và tử vong sớm. Có bằng chứng thuyết phục cho thấy việc tăng lượng axit linoleic hấp thụ sẽ làm giảm tổng lượng cholesterol trong máu và lipoprotein mật độ thấp. Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ huyên mọi người nên thay thế chất béo bão hòa bằng acid linoleic để giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Acid linoleic có nhiều trong dầu nghệ tây và dầu ngô, chiếm hơn một nửa thành phần của các loại này tính theo khối lượng. Dầu đậu nành, dầu mè và hạnh nhân chứa một lượng trung bình acid linoleic.
Tosanoides obama là một loài cá biển thuộc chi "Tosanoides" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2016. Từ định danh được đặt theo tên của Barack Obama, Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, nhằm ghi nhận những nỗ lực của ông trong công cuộc bảo tồn môi trường sống, đặc biệt là quyết định mở rộng Tượng đài hải dương quốc gia Papahānaumokuākea của ông vài tuần sau khi phát hiện ra loài cá mới này. "T. obama" chỉ được quan sát và thu thập ở độ sâu 90–92 m tại rạn san hô vòng Kure và Pearl và Hermes, do đó được coi là loài đặc hữu của Tây Bắc Hawaii. R. M. Gooding đã liệt kê một cá thể "Tosanoides filamentosus" được kéo lưới ở độ sâu 256–311 m vào khoảng năm 1975–1979 tại núi ngầm Hancock (cách Kure ~360 km về phía tây bắc). Do cá thể này không được lưu giữ nên không thể xác định được đó có phải là "T. filamentosus" không hay là một cá thể "T. obama". Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "T. obama" là 4,3 cm (với tổng chiều dài là gần 6,2 cm). Cá đực: màu hồng, sẫm hơn ở phần lưng và nhạt dần về phía bụng. Mõm và ngược lên mắt màu vàng tươi, với một dải mỏng màu vàng kéo dài ra hai bên gáy. Một dải tương tự kéo dài từ sau mắt băng qua gần hết nắp mang, dải thứ hai từ hàm dưới ngược lên hàm trên, băng qua mắt và nắp mang đến gốc vây ngực. Vây lưng màu hồng, viền màu cánh sen ở rìa, có một đốm tròn lớn ở cuối, bao quanh bởi vệt màu hồng tím ánh xanh lam. Vây hậu môn và vây bụng màu hồng tím. Vây đuôi màu vàng, trong mờ, nhạt hơn với viền màu hồng tím dọc theo rìa của cả hai thùy. Cá cái và cá con: màu hồng phớt vàng, nhạt hơn ở ngực và bụng. Vây lưng màu hồng vàng, không có đốm như cá đực, nhưng có lốm đốm các vệt hồng sẫm, viền màu cánh sen ở rìa. Vây hậu môn và vây bụng màu vàng, hồng hơn ở gai vây bụng. Vây đuôi như cá đực. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 33–34. Theo cây phát sinh chủng loại học của Pyle và cộng sự (2018), "T. obama" có quan hệ gần hơn với "Tosanoides flavofasciatus" dựa trên việc phân tích chuỗi mã vạch DNA ty thể ở hai loài. Qua khảo sát thực địa, "T. obama" sống theo cặp đực-cái hoặc nhóm hậu cung.
Dầu ngô hay dầu bắp () là một loại dầu được chiết xuất từ mầm của cây ngô. Công năng chính của loại dầu này là dùng trong nấu ăn nhờ điểm khói cao khiến đây là một loại dầu rán có giá trị. Đây cũng là nguyên liệu chính để sản xuất một vài loại bơ thực vật. Thường thì dầu ngô rẻ tiền hơn hầu hết các loại dầu thực vật còn lại. Dầu ngô cũng có thể dùng làm diesel sinh học. Trong công nghiệp, dầu này còn được dùng để sản xuất xà phòng, sơn, tẩy chì, chất chống bám bẩn cho các bề mặt kim loại, mực, công nghiệp dệt, nitroglycerin và cả thuốc trừ sâu. Ngành dược phẩm thỉnh thoảng dùng dầu ngô làm chất mang cho các phân tử thuốc.
Dầu đậu nành hay dầu đậu tương () là một loại dầu thực vật được chiết xuất từ hạt của cây đậu tương/đậu nành ("Glycine max"). Đây là một trong những loại dầu ăn phổ dụng nhất thế giới và là loại dầu thực vật phổ biến thứ hai toàn cầu. Trong công nghiệp, dầu đậu nành còn được dùng làm nền cho mực và sơn dầu. Dầu đậu nành chỉ chứa một lượng nhỏ acid cacboxylic béo (khoảng 0,3% khối lượng trong dầu thô và 0,03% trong dầu tinh chế). Thay vào đó, nó chứa este. Sau đây, các thuật ngữ "acid béo" và "acid" là đề cập đến este chứ không phải acid cacboxylic. Trong 100 g dầu đậu nành có 16 g chất béo bão hòa, 23 g chất béo không bão hòa đơn và 58 g chất béo không bão hòa đa. Các acid béo không bão hòa đa chính trong dầu đậu nành là acid α-linolenic (C-18:3), chiếm 7-10%, và acid linoleic (C-18:2), chiếm 51%; cùng với acid béo không bão hòa đơn là acid oleic (C-18:1), chiếm 23%. Dầu đậu nành còn chứa các acid béo bão hòa là acid stearic (C-18:0), 4% và acid palmitic (C-16:0), 10%. Tỷ lệ cao hàm lượng acid béo không bão hòa đa dễ bị oxy hóa chính là mặt hạn chế của dầu đậu nành cho một số mục đích sử dụng nhất định, chẳng hạn như khi dùng làm dầu ăn. Ba công ty gồm Monsanto, DuPont/Bunge Global và Asoyia vào năm 2004 đã giới thiệu loại dầu đậu nành chứa hàm lượng linolenic thấp, tên thương mại là Roundup Ready. Kỹ thuật hydro hóa dầu ăn cũng có thể được sử dụng để giảm độ không bão hòa trong acid linolenic. Sản phẩm thu được từ quá trình này được gọi là dầu đậu nành hydro hóa. Nếu quá trình hydro hóa chỉ diễn ra một phần thì dầu có thể chứa một lượng nhỏ chất béo trans. Chất béo trans cũng thường được đưa vào trong quá trình khử mùi dầu thông thường, mà theo một đánh giá vào năm 2005 thì hàm lượng chất béo trans chiếm 0,4 đến 2,1% trong dầu đã khử mùi. Đậu nành/Đậu tương được người Trung Quốc trồng từ cuối đời nhà Thương, khoảng năm 1000 trước Công nguyên. Sách "Kinh Thi" có một số thi phẩm nhắc đến đậu nành. Ngày nay, Trung Quốc vẫn là nước sản xuất dầu đậu nành nhiều nhất toàn cầu.
Làng chiếu Định Yên Làng chiếu Định Yên là một làng nghề truyền thống chuyên sản xuất các loại chiếu bằng sợi lác tọa lạc tại xã Định Yên, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Nghề dệt chiếu tại làng chiếu Định Yên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2013. Lịch sử hình thành. Tên làng Định Yên (Chữ Hán: 定安) được đặt theo tên một người đàn ông tên Phan Văn An, là người khai khẩn đầu tiên của làng và được phối thờ trong đình thần làng chiếu Định Yên. Để tránh kỵ húy, người dân không gọi làng là Định An mà là Định Yên và dùng cho tới giờ. Trong chữ Hán, hai chữ An và Yên đều được dùng cùng chữ 安. Trong làng có 7 ấp gồm: An Bình, An Hòa, An Khương, An Lạc, An Lợi, An Ninh, An Phong; về sau một số ấp được tách ra lập một làng mới kế cận là làng Định An. Về nghề dệt chiếu, các tài liệu lưu trữ ghi nhận rằng nghề chiếu tại làng chiếu Định Yên đã hình thành từ trên 100 năm trước, có nguồn gốc từ đồng bằng ven biển Bắc Bộ (Thái Bình, Nam Định). Khi vào phương Nam, lưu dân đã mang theo nghề dệt chiếu truyền thống của cha ông. Cụ thể người đầu tiên mang nghề dệt chiếu vào Định Yên là ai thì không được ghi lại. Với địa thế nằm cạnh sông Hậu, vùng Định Yên có nhiều cồn, bãi bồi phù sa để phát triển tốt các loại nguyên liệu là cây bố và cây lác để làm ra sản phẩm. Làng chiếu Định Yên ban đầu dệt chiếu bằng tay, sử dụng các dụng cụ đơn giản với nguồn nguyên liệu ban đầu trồng ở gần làng nhưng về sau là thu mua từ khắp các tỉnh lân cận. Làng Định Yên bán chiếu cho các thương nhân địa phương hoặc đưa ra các chợ gần đó để trao đổi chiếu với các sản phẩm khác. Về sau, làng chiếu Định Yên ngày càng phát triển và đông dân hơn, các cơ sở làm chiếu cũng cũng áp dụng máy móc để năng suất và tiết kiệm thời gian, chi phí. Làng chiếu Định Yên cũng mở rộng thị trường, bán chiếu đi khắp cả Việt Nam và xuất khẩu chiếu sang các nước khác, như là Campuchia. Việc buôn bán nguyên liệu và thành phẩm này chủ yếu dựa trên mô hình mua đi bán lại với các thương nhân địa phương khác, ở khu vực Bến Lác Định Yên và chợ chiếu Định Yên hay còn được gọi là chợ ma Định Yên, do hoạt động bán chiếu thường diễn ra lúc trời chưa sáng. Hiện nay, theo số liệu 2023, làng chiếu Định Yên có khoảng 431 hộ dân theo nghề dệt chiếu. Mỗi năm, làng chiếu Định Yên sản xuất ra khoảng 1,3 triệu sản phẩm chiếu, có doanh số khoảng 80 tỷ đồng. Hiện quy mô sản xuất chiếu không chỉ nằm ở làng Định Yên, mà còn ở cả làng Định An kế cận. Nghề dệt chiếu tại Định Yên. Nghề dệt chiếu ở Định Yên ngành nghề rất nổi tiếng, nên trong ca dao ở đây đã có câu: "Định Yên có vựa chiếu to," "Có chồng xứ Định (Yên) khỏi lo chiếu nằm". Hoạt động dệt chiếu. Đầu tiên người dân lựa chọn nguyên liệu chính để dệt chiếu là cây bố và lác, cùng các loại phẩm màu tự nhiên hoặc hóa học. Nguyên liệu này ban đầu có rất nhiều ở địa phương do địa hình dọc sông Hậu có nhiều gò, đất trống. Về sau phần lớn nguyên liệu được trồng hay nhập từ các vùng khác. Sau khi sơ chế, đóng thành từng bó, người thợ sẽ nhuộm màu thủ công cho sợi lác sao cho màu sắc đạt như mong muốn. Sau khi nhuộm, sợi lác sẽ được đem phơi dưới ánh nắng mặt trời. Nếu phơi đủ nắng, sợi lác sẽ không còn bị ẩm ướt hay quá khô. Mỗi gia đình ở Định Yên ít nhất có một máy làm chiếu, nhà nào sản xuất lớn thì có tới mười mấy máy. Thông thường, 1 chiếc chiếu 1,2m sẽ cần 1,5kg lác thô. Một khung dệt thủ công phải có 2 người thợ, mỗi ngày dệt được trung bình 4 chiếc chiếu. Các loại chiếu thành phẩm thường thấy ở làng Định Yên gồm: chiếu vảy ốc, chiếu bông in, chiếu bông dệt, chiếu con cờ, chiếu cổ, chiếu trắ, ngang với chiếu Năm Căn (Cà Mau) và chiếu Tà Niên (Rạch Giá, Kiên Giang). Chợ ma Định Yên. Việc giao dịch chiếu thành phẩm chủ yếu ở khu vực chợ ma Định Yên, còn được gọi là chợ chợ âm phủ, nằm ở khu vực chợ chiếu Định Yên và Bến Lác Định Yên (hiện nằm ở ấp An Lợi B, xã Định Yên, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Đây là một chợ đêm độc đáo, hoạt động trong khoảng 2 tiếng mỗi đêm. Người dân thường mang chiếu và các đồ dùng mua bán từ nhà đi bộ hoặc chèo thuyền đến chợ để mua bán nguyên liệu và sản phẩm chiếu. Vì thời xưa giao thông khó khăn và việc vận chuyển phụ thuộc nhiều vào thủy triều lên (thường là khuya hôm trước đến ban sáng hôm sau); muốn mua bán được hàng thì nhà chiếu và nhà buôn phải đi từ rất sớm để kịp phiên chợ và con nước. Lâu dần, hoạt động đó hình thành thói quen họp chợ giao dịch ngay khi trời chưa sáng nên gọi là "chợ ma" hay "chợ âm phủ". Trên đường đến chợ, họ thắp đèn dầu hay đuốc lá dừa để thắp sáng. Chợ chiếu Định Yên không chỉ là nơi mua bán sản phẩm chiếu, mà còn là nơi tập trung tàu thuyền từ các địa phương lân cận như như Sa Đéc hay Vĩnh Long, vận chuyển những nguyên liệu phục vụ sản xuất chiếu như bố lác, phẩm màu. Hiện tại chợ chủ yếu hoạt động vào ban ngày, hoạt động chợ ma chỉ chủ yếu được tái hiện vào các dịp lễ hội do chính quyền địa phương tổ chức. Nghề dệt chiếu ở Định Yên ban đầu là một ngành nghề mang lại công ăn việc làm và thu nhập cho mỗi hộ gia đình. Ngoài ra, nghề dệt chiếu còn là nét văn hóa đặc sắc có giá trị cao quý và đặc thù cho địa phương. Năm 2013, làng chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Lê Hi hay Lehi là một nhà tiên tri sống ở Giê Ru Sa Lem (Jerusalem) dưới thời trị vì của vua Sê Đê Kia/Zedekiah (khoảng năm 600 trước Công nguyên) trong mô tả trong sách Mặc Môn. Theo ghi chép trong các Thánh thư của Mặc Môn giáo thì Lê Hi chính là cha của Nê Phi ("Nephi") là tổ tiên của người Nê Phi, Lê Hi cũng là cha của La Man là tổ tiên của người La Man, đây là những dân tộc sinh sống ở châu Mỹ thời Cổ đại theo sách Mặc Môn, như thế, ông Lê Hi đóng vai trò là Tổ phụ của người Mỹ bản địa. Ông cũng được tên cho một thành phố ngày nay Lehi, Utah. Trong văn hóa đại chúng, hình ảnh của Lê Hi cũng đã được miêu tả đang thuyết giảng cho người dân Jerusalem kêu gọi họ mau rời khỏi thành phố, và cảnh ông chào đón các con trai của ông trở về từ Jerusalem, cảnh ông tìm thấy la bàn Liahona, cũng như những lần chiêm bao và khải tượng khác trong suốt cuộc hành trình đã được các nghệ sĩ như Walter Rane, James C. Christensen, Minerva Teichert, J. Kirk Richards, và nhiều tác giả khác khắc họa. Trong Nê Phi thứ nhất (Nephi 1) cuốn đầu tiên của Sách Mặc Môn bắt đầu với một vị tiên tri Lê Hi. Ông cảnh cáo những người tà ác ở Giê Ru Sa Lem phải hối cải, nhưng họ không nghe. Chúa phán bảo Lê Hi phải mang gia đình ông, gồm vợ ông là Sa Ri A và các con trai của ông gồm La Man, Lê Mu Ên, Sam và Nê Phi tiến vào vùng hoang dã. Sau đó, Lê Hi sai các con trai của mình trở lại để lấy thánh thư được viết trên các bảng khắc bằng đồng. Các bảng khắc này ghi lại lịch sử của các tổ tiên của họ và những điều khác mà Chúa đã phán bảo họ viết xuống. Lê Hi gìn giữ cẩn thận các bảng khắc và cũng viết thêm lên trên các bảng khắc bằng kim loại những điều đã xảy ra cho gia đình họ. Chúa ban cho Lê Hi một cái la bàn gọi là Liahona để hướng dẫn gia đình ông ngang qua vùng hoang dã đến miền đất hứa. Lê Hi và gia đình ông đi đến vùng đất hứa mà họ gọi là xứ Phong Phú trên chiếc tàu họ đã đóng. Sau khi Lê Hi và Nê Phi qua đời, những hậu nhân đã biên chép những điều giảng dạy và sự kiện lên trên các bảng khắc. Truyện ký về Lê Hi và vợ ông là Sa Ri A cùng bốn người con trai của ông có tên La Man, Lê Mu Ên, Sam, và Nê Phi. Chúa báo trước cho Lê Hi biết ông phải rời khỏi xứ Giê Ru Sa Lem vì ông đã tiên tri cho dân chúng biết về sự bất chính của họ và họ tìm cách tiêu diệt mạng sống của ông. Ông cùng gia đình hành trình ba ngày trong vùng hoang dã. Truyện ký đã về những nỗi thống khổ của họ khi đem gia đình đi vào vùng hoang dã, với những sự đau đớn và những nỗi thống khổ trong vùng hoang dã. Lộ trình của họ, chuyện họ đến bên bờ đại dương, đặt tên nơi ấy là xứ Phong Phú và vượt đại dương đến đất hứa. Thiên ký thuật Nê Phi thứ nhất viết theo truyện ký của Nê Phi người đã ghi chép biên sử. Nê Phi có thể đã nhận ra những điểm tương đồng giữa cuộc di cư của người Y-sơ-ra-ên và cuộc hành trình của gia đình ông và phản ánh nhận thức đó khi ông viết lịch sử của mình. Khi các con cái của ông biết và hiểu Môi Se với tư cách là vị tiên tri và người lãnh đạo của Cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập, Lê Hi có thể đã sử dụng sự so sánh với Môi Se để giúp họ hiểu được tầm quan trọng của Chúa đối với gia đình họ và những giáo lệnh mà ông đã yêu cầu họ tuân theo. Họ nhận được các giáo lệnh, được Chúa hướng dẫn và được dẫn đến vùng đất hứa. Lê Hi tiên đoán dân Do Thái sẽ bị những người Ba Bi Lôn bắt tù đày. Ông nói trước dân Do Thái về sự hiện đến của Đấng Mê Si là Đấng Cứu Rỗi/Đấng Cứu Chuộc. Lê Hi còn nói về sự xuất hiện của một vị sẽ làm phép báp têm bằng nước cho Đấng Chiên Con của Thượng Đế (Vị Nam Tử của Chúa Cha) tại Bê Tha Ba Ra, bên kia sông Giô Đanh. Lê Hi nói về cái chết và sự phục sinh của Đấng Mê Si. Ông so sánh sự phân tán và sự quy tụ của Y Sơ Ra Ên với cây ô liu, về ân tứ Đức Thánh Linh và sự ngay chính. Và sau khi làm phép báp têm cho Đấng Mê Si bằng nước xong, vị ấy sẽ thừa nhận và làm chứng rằng, mình đã làm phép báp têm cho Chiên Con của Thượng Đế là Đấng sẽ cất bỏ tội lỗi của thế gian. Dòng dõi của Lê Hi sẽ tiếp nhận phúc âm từ Dân Ngoại vào những ngày sau. Sách Mặc Môn có kể về chuyển Lê Hi nằm mơ trông thấy một khải tượng về cây sự sống. Ông ăn trái của cây ấy và mong muốn gia đình mình cũng được ăn trái cây ấy. Ông trông thấy một thanh sắt, một con đường chật và hẹp và một đám sương mù tối đen che kín dân chúng. Sau khi ông đã nói hết những lời diễn tả về giấc mơ hay khải tượng của ông, ông đã thuyết giảng và tiên tri nhiều điều, ông bèn khuyên bảo tùy tòng tuân giữ những lệnh truyền của Chúa. Vào đầu năm thứ nhất của triều đại Sê Đê Kia, vua Giu Đa thì Lê Hi đã sống tại Giê Ru Sa Lem, chính trong năm này có nhiều vị tiên tri đến và nói những lời tiên tri cho dân chúng biết rằng họ phải hối cải, bằng không thì thành phố Giê Ru Sa Lem vĩ đại ắt sẽ bị hủy diệt. Một lần khi đang cầu nguyện thì Lê Hi trông thấy trong khải tượng một cột lửa và được đọc sách tiên tri, tiên báo sự hiện đến của Đấng Mê Si và tiên tri về sự hủy diệt Giê Ru Sa Lem. cụ thể là lúc Lê Hi đi ra ngoài cầu nguyện Chúa, cầu nguyện hết tấm lòng thành của mình cho dân ông. Lúc ông cầu nguyện Chúa thì một cột lửa xuất hiện trên phiến đá trước mặt ông, và ông được nghe thấy rất nhiều chuyện và cũng chính vì những điều nghe thấy đó mà ông đã kinh hãi và run sợ vô cùng. Ông trở về nhà riêng tại Giê Ru Sa Lem và ông nằm vật xuống giường, tâm thần chan hòa Thánh Linh cùng những điều ông vừa mục kích. Và trong khi tâm thần chan hòa Thánh Linh như vậy, ông được đưa vào trong một khải tượng đến độ trông thấy được các tầng trời mở ra, và ông nghĩ là ông đã thấy được Thượng Đế đang ngự trên ngai vàng và nhóm thiên thần bao quanh và đang trong trạng thái ca hát và suy tôn Thượng Đế, ông trông thấy có một vị bước xuống khỏi giữa tầng trời, và ông nhận thấy vầng hào quang của vị đó chói sáng hơn cả ánh sáng mặt trời vào lúc giữa trưa. Và ông còn trông thấy có mười hai vị khác đi theo, và hào quang của các vị này cũng chói sáng hơn cả ánh sáng của các vì sao trên vòm trời. Và tất cả các vị ấy đi xuống và tiến tới mặt đất, và vị đi đầu tiên đến đứng trước mặt ông Lê Hi trao cho ông một cuốn sách và bảo ông hãy đọc, khi ông đọc sách ấy, ông được đầy dẫy Thánh Linh của Chúa. Ông đọc rằng: ""Khốn thay, khốn thay cho Giê Ru Sa Lem, vì ta đã thấy những điều khả ố của mi! rằng thành phố này sẽ bị hủy diệt, và dân cư ngụ trong ấy cũng vậy, nhiều người sẽ bị chết bởi gươm đao, và nhiều người khác sẽ bị bắt đày qua Ba Bi Lôn". Sau khi Chúa cho Lê Hi trông thấy những điều kỳ diệu về sự tàn phá của Giê Ru Sa Lem, thì ông đã đi đến giữa đám đông dân chúng, rồi bắt đầu nói tiên tri và rao truyền cho họ những điều ông đã được nghe thấy. Nhưng người Do Thái đã chế nhạo ông vì những điều mà ông đã làm chứng về họ vì quả thật ông đã làm chứng về sự độc ác và những điều khả ố của họ, ông còn làm chứng rằng, những điều ông nghe thấy và luôn cả những điều ông đọc được trong sách, biểu lộ rõ ràng sự hiện đến của Đấng Mê Si, và luôn cả sự cứu chuộc thế gian. Rồi khi những người Do Thái nghe những điều này họ trở nên tức giận với ông như trước kia họ đã từng tức giận các vị tiên tri thời xưa, là những người mà họ đã từng xua đuổi, ném đá và sát hại, nay họ cũng tìm kiếm mạng sống của ông để họ có thể lấy mạng sống ấy. Ông sợ quá phải bàn mưu cùng gia đình đào tẩu để tránh khỏi kiếp nạn do vạ miệng này. Lê Hi dẫn gia đình đi vào vùng hoang dã gần Biển Đỏ. Họ bỏ lại tài sản của họ. Lê Hi dâng lễ vật hy sinh lên Chúa và dạy bảo các con trai của mình biết tuân giữ các lệnh truyền. La Man và Lê Mu Ên ca thán cha mình. Lê Hi đi vào vùng hoang dã, ông bỏ lại nhà cửa và đất thừa hưởng, cùng vàng bạc và các vật quý báu, và ông chẳng đem theo thứ gì ngoài gia đình mình, và lương thực, cùng các lều vải, rồi ra đi vào vùng hoang dã. Ông đi xuống cạnh vùng ranh giới gần ven Biển Đỏ, sau đó ông hành trình trong vùng hoang dã dọc theo vùng ranh giới gần ven Biển Đỏ hơn và ông đã hành trình trong vùng hoang dã cùng với gia đình gồm Sa Ri A, các La Man, Lê Mu Ên, và Sam. Sau khi ông đã hành trình được ba ngày trong vùng hoang dã, ông dựng lều trong thung lũng bên bờ một dòng sông có nước, ông lập một bàn thờ bằng đá, và dâng lễ vật lên Chúa và tạ ơn Chúa. Ông đặt tên cho sông ấy là La Man. Sông này chảy về Biển Đỏ và thung lũng này nằm ở vùng ranh giới gần cửa sông và được đặt tên là Lê Mu Ên. La Man và Lê Mu Ên có tính ương ngạnh; vì này, họ ca thán cha mình nhiều điều vì ông là người trông thấy các khải tượng và ông đã dẫn họ rời khỏi xứ Giê Ru Sa Lem, bỏ lại đất đai thừa hưởng, và vàng bạc cùng các vật quý báu để vào chết trong chốn hoang dã này. Họ bảo rằng, ông đã làm vậy vì những sự tưởng tượng điên rồ của lòng ông. Họ cũng không tin rằng, Giê Ru Sa Lem lại có thể bị hủy diệt được. Lê Hi đã nói với họ trong thung lũng Lê Mu Ên, bằng một giọng đầy uy lực, nhờ ông được đầy dẫy Thánh Linh, đến nỗi toàn thân họ run lên trước mặt ông, và ông đã khuất phục được họ, khiến họ không thốt lên được lời nào chống đối ông nữa vậy nên họ đã làm theo lời ông truyền dạy. Khi xuất hành tạm trú thì Lê Hi trú trong một lều vải, trong Kinh Thánh, “"tạm trú"” ("sojourn") gắn liền với sự nô lệ hoặc sống dưới sự bảo vệ của người khác. Các con trai của Lê Hi trở về Giê Ru Sa Lem để lấy các bảng khắc bằng đồng. Bà Sa Ri A oán trách ông Lê Hi thì hai người vui mừng khi thấy các con trai mình trở về. Họ dâng của lễ hy sinh. Các bảng khắc bằng đồng chứa đựng các văn tập của Môi Se và các vị tiên tri. Các bảng khắc cho thấy Lê Hi thuộc con cháu Giô Sép. Lê Hi nói tiên tri về dòng dõi của ông và sự bảo tồn các bảng khắc. Lê Hi, đã khám phá ra gia phả của tổ phụ ông. Khi ông xem thấy tất cả những điều này, ông được đầy dẫy Thánh Linh, rồi bắt đầu nói tiên tri về dòng dõi của ông rằng những bảng khắc bằng đồng này sẽ được gửi đi khắp các quốc gia, sắc tộc, sắc ngữ, và dân tộc thuộc dòng dõi của ông, những bảng khắc bằng đồng này sẽ không bao giờ bị tiêu hủy; và cũng không bao giờ bị phai mờ vì thời gian. Các con trai của Lê Hi trở về Giê Ru Sa Lem và chiêu phục được Ích Ma Ên và gia đình của ông đi theo họ trong cuộc hành trình. Lê Hi và nhóm người của ông dâng lễ vật hy sinh và của lễ thiêu. Lê Hi cho biết ông đã mục kích một khải tượng, trong giấc mộng chiêm bao, ông trông thấy một vùng hoang dã âm u tiêu điều, thấy một người đàn ông, vị ấy mặc một cái áo trắng và nhận thấy mình đang đi theo trong một vùng đất hoang âm u tiêu điều trong bóng tối mịt mù nhiều giờ, sau khi cầu nguyện Chúa thì thấy một cánh đồng bát ngát bao la, thấy một cây có trái hấp dẫn làm người ta cảm thấy vui sướng, ông liền bước đến hái một trái ăn, trái cây ấy có một hương vị ngọt ngào hơn hết tất cả những trái cây khác mà đã từng nếm, trái ấy có một màu trắng toát, trắng hơn hết tất cả những màu trắng đã được trông thấy từ trước tới giờ. Khi ăn trái cây ấy, nó làm cho tâm hồn chan hòa một niềm hân hoan cực độ, ông muốn cho cả gia đình mình cũng được nếm trái ấy vì biết rằng đó là một thứ trái cây chấp dẫn hơn hết mọi thứ trái cây khác. Ông thấy một dòng sông có nước chảy xuôi gần bên cây vừa ăn trái, đầu sông cách đó không xa, ở ngay đầu sông thấy Sa Ri A, cùng Sam và Nê Phi đứng ở đó và không biết phải đi đâu, ông ra dấu cho họ và cũng gọi to lên, bảo họ lại và ăn trái cây ấy, đó là trái hấp dẫn hơn hết thảy mọi trái khác, họ đi đến với cha và cũng ăn trái cây ấy. Ông thấy một thanh sắt chạy dài dọc theo bờ sông đến gốc cây cạnh chỗ đang đứng, còn thấy một con đường chật và hẹp chạy xuôi theo thanh sắt đến ngay gốc cây cạnh chỗ đang đứng, và nó còn chạy qua đầu sông đến một cánh đồng bát ngát bao la, rộng như cả một thế giới. Ông còn thấy những đám đông không kể xiết, trong số ấy có nhiều người đang cố sức tiến tới để đi tới con đường dẫn đến cây, họ tiến vào và bắt đầu đi trên con đường dẫn đến cây ấy, có một đám sương mù tối đen nổi lên, tối đen vô cùng đến đỗi những người mới bắt đầu đi vào con đường ấy phải lạc lối khiến họ đi lang thang rồi lạc mất luôn. Còn nhiều người khác đang cố sức tiến tới, họ đến nắm đầu thanh sắt rồi liền bám chặt thanh sắt và cố sức tiến qua đám sương mù tối đen, cho tới khi họ đến được bên cây và ăn trái cây ấy. Và sau khi ăn trái cây ấy xong, họ đưa mắt nhìn quanh, hình như lấy làm hổ thẹn, phía bên kia sông có một tòa nhà rộng lớn vĩ đại đứng lơ lửng như ở trên không cao khỏi mặt đất, trong đó đầy nghẹt những người, cả già trẻ lẫn nam nữ, và lối ăn mặc của họ rất sang trọng, và họ có hành động chế giễu và chỉ trỏ những người vừa đến và đang ăn trái cây ấy. Và sau khi đã nếm trái cây ấy, họ lấy làm hổ thẹn vì thấy những người kia đang chế nhạo mình, và họ đi cạc vào những lối cấm rồi lạc mất luôn, ông thấy các đám đông khác đang cố sức tiến tới trước, và họ đến nắm đầu thanh sắt rồi cố sức tiến tới trước, tay luôn luôn giữ chặt thanh sắt cho tới khi họ đến được bên cây thì rạp mình xuống và ăn trái cây ấy, ông còn trông thấy các đám đông khác đang dò dẫm lần mò đi về phía tòa nhà rộng lớn vĩ đại kia, nhiều người bị chết chìm dưới đáy của dòng sông, và nhiều người khác thì bị xa lạc khỏi tầm mắt, họ đi lang thang trong những con đường xa lạ. Và đông đảo thay nhóm người vào được trong tòa nhà kỳ lạ ấy, và khi vào trong tòa nhà rồi, họ liền lấy tay chỉ trỏ khinh miệt những người khác đang ăn trái cây, tất cả những ai lưu ý đến họ đều sa ngã và lạc lối. Những khải tượng trên được giải thích là xem dòng suối có nước dơ bẩn đã thấy, ngay cả con sông đã nói tới thì đáy sâu của dòng sông đó tức là đáy sâu của ngục giới, đám sương mù tối đen là những cám dỗ của quỷ dữ, làm mù quáng và khiến lòng dạ con cái loài người chai đá, cùng dẫn dắt họ đi vào những con đường rộng, để họ phải bị diệt vong và lạc lối, tòa nhà rộng lớn vĩ đại trông thấy là những ảo ảnh hão huyền và lòng kiêu căng của con cái loài người, và vực thẳm vĩ đại kinh hồn chia cách họ, cây sắt tức là tiếng nói công lý của Thượng Đế Vĩnh Cửu, và Đấng Mê Si là Chiên Con của Thượng Đế mà Đức Thánh Linh làm chứng từ buổi sáng thế cho đến bây giờ. Bình luận về câu chuyện giấc mơ của Lê Hi này thì Corbin T. Volluz là một luật sư Thánh hữu Ngày sau, phản ánh niềm tin chung của các tín nhân rằng khải tượng là "một trong những phần phong phú nhất, linh hoạt nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của lời tiên tri mang tính biểu tượng có trong các tác phẩm tiêu chuẩn thánh thư". Câu chuyện về khải tượng đã được các thành viên của Giáo hội LDS biết đến nhiều và được trích dẫn rộng rãi. “"Roi sắt"” được nhắc đến cụ thể thường đề cập đến kinh thánh hoặc lời của Chúa, nhằm truyền đạt tầm quan trọng của việc tuân theo lời dạy của Chúa. Trong cuốn sách "Câu chuyện về Sách Mặc Môn"" (xuất bản năm 1888), biện giả George Reynolds đã giải thích các trang 2-3 của Codex Boturini chính là đại diện cho giấc mơ của Lê Hi. Theo cách giải thích này, trong nhóm năm người gần cái cây nhất, ba người là Sariah, Sam và Nê Phi đang ăn trái của nó, còn hai người còn lại là Laman và Lemuel từ chối ăn. Xa hơn về phía bên phải, cái chết của Ishmael được mô tả. Ngược lại, cách giải thích chính thống của giới học thuật cho rằng con người và cái cây gãy được minh họa trong các trang này thể hiện sự chia rẽ giữa người Mexico với người Aztec. Nhân vật ngay bên phải thân cây là vị thần Aztec Huitzilopochtli.
Tên của cây cầu, "Yongbi"(龍飛) có nghĩa là sự thăng thiên của rồng lên trời. Nó bắt nguồn từ việc mặt dưới của cây cầu tạo thành một khúc cạn và được cho là nơi rồng bay lên trời vào năm quá khứ. Nó mới được khai trương vào ngày 31 tháng 7 năm 2003 và với việc đóng cửa Cầu vượt Cheonggye, nó đóng vai trò là đường vòng được sử dụng để đi từ phía đông bắc Seoul đến trung tâm thành phố. Ngoài ra, nó nằm ở phía bên phải cầu Seongsu từ nhánh Eungbong-dong nên được kết nối với Seobinggo-ro và Ichon-ro. Ngoài ra, nó cho phép chuyển từ Đường cao tốc Dongbu từ Taereung đến Jamsil đến Cầu Seongsu và cũng cho phép chuyển sang Cầu Hannam, Cầu Banpo và Cầu Dongjak, những nơi không thể đi thẳng từ Gangbyeonbuk-ro tới Ilsan.
Khải tượng ("Vision") hay Sự hiện thấy (tiếng Do Thái: "Châzôwn"; tiếng Hy Lạp: őραμα, "Horama") là điều gì đó được nhìn thấy trong giấc mơ, chiêm bao, mộng mị, khi có hiện tượng xuất thần, xuất hồn hoặc lên đồng đặc biệt là vẻ ngoài siêu nhiên thường truyền tải một sứ điệp mặc khải. Những khải tượng thường rõ ràng hơn giấc mơ, nhưng theo truyền thống thì ít hàm ý tâm lý hơn. Những hình ảnh được cho là xuất phát từ truyền thống tâm linh và có thể cung cấp một lăng kính nhìn vào bản chất và thực tế của con người. Những lời tiên tri hay Dự ngôn thường gắn liền với những khải tượng. Theo Công giáo thì khải tượng hay sự hiện thấy có nghĩa là sự nhìn thấy và nghe thấy những điều Chúa bày tỏ (Mặc khải) cho con người khi người đó đang trong tình trạng tỉnh thức. Evelyn Underhill phân biệt và phân loại ba loại khải tượng: Trong Mặc Môn giáo ở Sách Mặc Môn bắt đầu với một vị tiên tri Lê Hi. Một lần khi đang cầu nguyện thì Lê Hi trông thấy trong khải tượng một cột lửa và được đọc sách tiên tri, tiên báo sự hiện đến của Đấng Mê Si và tiên tri về sự hủy diệt Giê Ru Sa Lem. Và trong khi tâm thần chan hòa Thánh Linh như vậy, ông được đưa vào trong một khải tượng đến độ trông thấy được các tầng trời mở ra, và ông nghĩ là ông đã thấy được Thượng Đế đang ngự trên ngai vàng và nhóm thiên thần bao quanh và đang trong trạng thái ca hát và suy tôn Thượng Đế, ông trông thấy có một vị bước xuống khỏi giữa tầng trời, và ông nhận thấy vầng hào quang của vị đó chói sáng hơn cả ánh sáng mặt trời vào lúc giữa trưa. Và ông còn trông thấy có mười hai vị khác đi theo, và hào quang của các vị này cũng chói sáng hơn cả ánh sáng của các vì sao trên vòm trời. Và tất cả các vị ấy đi xuống và tiến tới mặt đất, và vị đi đầu tiên đến đứng trước mặt ông Lê Hi trao cho ông một cuốn sách và bảo ông hãy đọc, khi ông đọc sách ấy, ông được đầy dẫy Thánh Linh của Chúa. Sau này, Lê Hi cho biết ông đã mục kích một khải tượng, trong giấc mộng chiêm bao, ông trông thấy một vùng hoang dã âm u tiêu điều trong bóng tối mịt mù, một cánh đồng bát ngát bao la, thấy một cây có trái hấp dẫn làm người ta cảm thấy vui sướng, ông liền bước đến hái một trái ăn, trái cây ấy có một hương vị ngọt ngào hơn hết tất cả những trái cây khác mà đã từng nếm, trái ấy có một màu trắng toát, trắng hơn hết tất cả những màu trắng đã được trông thấy từ trước tới giờ. Khi ăn trái cây ấy, nó làm cho tâm hồn chan hòa một niềm hân hoan cực độ. Những khải tượng trên được giải thích là xem dòng suối có nước dơ bẩn, ngay cả con sông đã nói tới thì đáy sâu của dòng sông đó tức là đáy sâu của ngục giới, đám sương mù tối đen là những cám dỗ của quỷ dữ, làm mù quáng và khiến lòng dạ con cái loài người chai đá, cùng dẫn dắt họ đi vào những con đường rộng, để họ phải bị diệt vong và lạc lối, tòa nhà rộng lớn vĩ đại trông thấy là những ảo ảnh hão huyền và lòng kiêu căng của con cái loài người, và vực thẳm vĩ đại kinh hồn chia cách họ, cây sắt tức là tiếng nói công lý của Thượng Đế Vĩnh Cửu và Đấng Mê Si là Chiên Con của Thượng Đế, Đức Thánh Linh.
Nguyễn Minh Quang (cầu thủ bóng đá) Nguyễn Minh Quang (sinh ngày 3 tháng 2 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh hoặc tiền đạo cắm cho câu lạc bộ SHB Đà Nẵng và đội tuyển U-23 Việt Nam. Sự nghiệp câu lạc bộ. Minh Quang bắt đầu chơi bóng từ khi còn trẻ. Năm 2012, tại giải bóng đá U-11 tổ chức ở quê nhà Hà Tĩnh, Minh Quang bộc lộ tiềm năng của mình và được gia nhập đội trẻ Hà Tĩnh ngay sau đó. Anh rời Hà Tĩnh sau 10 năm mà không có trận đấu nào ở đội một do thiếu kỹ năng theo nhận xét của các huấn luyện viên. Năm 2022, Minh Quang gia nhập câu lạc bộ Bình Thuận ở giải hạng Nhì theo dạng cho mượn và cùng đội bóng giành quyền thăng hạng V.League 2. Mùa giải 2023, Minh Quang ghi 8 bàn sau 11 trận ở giải hạng Nhất, giúp đội bóng trụ hạng thành công, đồng thời lọt vào danh sách những cầu thủ ghi bàn tốt nhất giải đấu. Tháng 9 năm 2023, Minh Quang gia nhập SHB Đà Nẵng với bản hợp đồng có thời hạn 2 năm. Sự nghiệp quốc tế. Minh Quang được triệu tập vào đội tuyển U-23 Việt Nam dự giải U23 Đông Nam Á 2023. Anh ghi bàn trong trận mở màn gặp Lào và được vinh danh "Cầu thủ xuất sắc nhất trận".
Bảo vệ rừng ("Forest protection") là một ngành lâm nghiệp liên quan đến việc bảo tồn rừng hoặc cải thiện rừng cũng như phòng ngừa và kiểm soát thiệt hại đối với rừng do các nguyên nhân tự nhiên hoặc do con người gây ra như cháy rừng, loài gây hại và các điều kiện khí hậu bất lợi từ sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Công tác bảo vệ rừng cũng có địa vị pháp lý và thay vì chỉ bảo vệ khỏi những kẻ phá hoại rừng, nó được coi là rộng hơn và bao gồm cả bệnh lý rừng. Do sự nhấn mạnh khác nhau nên tồn tại các phương pháp bảo vệ rừng khác nhau. Ở các nước nói tiếng Đức, việc bảo vệ rừng sẽ tập trung vào các yếu tố sinh học và phi sinh học không liên quan đến tội phạm. Một khu rừng được bảo vệ không giống như một rừng phòng hộ. Những thuật ngữ này có thể gây ra một số nhầm lẫn trong tiếng Anh, mặc dù chúng rõ ràng hơn ở các ngôn ngữ khác. Các hình thức lạm dụng do con người gây ra mà hoạt động bảo vệ rừng tìm cách ngăn chặn, giảm thiểu bao gồm: Một số phương pháp bảo vệ rừng ít thành công hơn đã được thử nghiệm, chẳng hạn như buôn bán gỗ có chứng chỉ với hình thức là "Chứng nhận bảo vệ rừng FSC" (Forest Stewardship Council) là chứng nhận được dùng cho các nhà quản lý rừng hay những nhà sản xuất các sản phẩm từ rừng đảm bảo được tiêu chí về phát triển bền vững, cân bằng được các giá trị bảo vệ môi trường (rừng) với lợi ích xã hội của các bên liên quan (nhà sản xuất, xã hội và người dân địa phương). Đây chính là ví dụ của một chương trình chứng nhận thị trường. Bảo vệ một phần đất nhỏ trong một khu rừng lớn hơn cũng có thể có giá trị hạn chế ví dụ như rừng nhiệt đới có thể chết nếu chúng giảm kích thước, vì chúng phụ thuộc vào vi khí hậu ẩm mà chúng tạo ra. Có một bài báo xuất sắc trên tạp chí National Geographic số tháng 10 liên quan đến rừng gỗ đỏ ở California và nỗ lực của họ trong việc duy trì rừng và rừng nhiệt đới. Có nhiều tranh cãi về tính hiệu quả của các phương pháp bảo vệ rừng. Việc thực thi pháp luật liên quan đến đất rừng được mua còn yếu hoặc không tồn tại ở hầu hết các nơi trên thế giới. Ở Nam Mỹ quê hương của cánh rừng nhiệt đới rộng lớn thì công tác này ngày càng nguy hiểm, các quan chức của Brazilian Cơ quan Môi trường Quốc gia (IBAMA) gần đây đã bị bắn khi đang thực hiện nhiệm vụ thường lệ. ​Ở Việt Nam, công tác bảo vệ rừng được đánh giá là yếu kém, dù chính quyền nước này cũng bày đặt thông qua Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004 nhưng chỉ dừng ở mức hô hào khẩu hiệu, thực tế thì nạn phá rừng ở Việt Nam diễn ra với tốc độ chóng mặt, sự táo tợn của lâm tặc với sự tiếp tay của Kiểm lâm Việt Nam và sự bao che dung dưỡng có tổ chức của các quan chức tham nhũng ở Việt Nam từ trung ương đến địa phương. Một hình thức bảo vệ rừng đơn giản là nhà nước hoặc các tổ chức bảo tồn thu hồi đất để bảo đảm đất hoặc để tái trồng rừng/trồng rừng. Nó cũng có thể có nghĩa là quản lý rừng hoặc chỉ định các khu vực như hồ chứa tự nhiên được dự định để lại cho chính họ. Tuy nhiên, việc chỉ mua một mảnh đất không ngăn được việc nó bị người khác sử dụng cho mục đích săn trộm và khai thác gỗ trái phép. Một cách tốt hơn để bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng già ở vùng sâu vùng xa, là lấy một phần rừng để sinh sống và giám sát đất đã mua. Ngay cả ở Hoa Kỳ, những biện pháp này đôi khi không đủ vì hiện tượng đốt phá có thể đốt cháy một khu rừng thành bình địa, để lại những khu vực bị cháy có thể sử dụng vào mục đích khác. Theo nghịch lý bảo vệ rừng các khu vực được bảo vệ như các khu định cư nông thôn gần các khu bảo tồn tăng trưởng với tốc độ gấp đôi so với những nơi khác. IUCN thực hiện các giao thức như vậy để bảo vệ hơn 670 vùng sinh thái với 46% vùng sinh thái có tỷ lệ rừng bảo vệ dưới 10%. Điều đó có nghĩa là những khu vực này không được giám sát như bình thường và biện pháp bảo vệ không được kích hoạt. Xem xét việc bảo vệ rừng trong các khu vực ưu tiên toàn cầu là không đạt yêu cầu. Một ví dụ được đưa ra là mức bảo vệ trung bình là 8,4% tại các điểm nóng đa dạng sinh học. Các kết quả có tính phù hợp về mặt chính sách đối với mục tiêu của Công ước về Đa dạng sinh học, được xác nhận lại vào năm 2008, nhằm bảo tồn một cách hiệu quả “"ít nhất 10% mỗi loại rừng trên thế giới"”.
Davy Rouyard (sinh ngày 17 tháng 8 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Guadeloupe hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Bordeaux tại Ligue 2, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Guadeloupe. Sự nghiệp thi đấu. Rouyard gia nhập học viện trẻ của Bordeaux vào năm 2014. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2021, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với đội bóng, có thời hạn đến tháng 6 năm 2025. Anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Bordeaux trong trận thua 3–0 tại Cúp bóng đá Pháp trước Brest vào ngày 2 tháng 1 năm 2022. Sự nghiệp quốc tế. Rouyard chọn thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Guadeloupe vào tháng 6 năm 2022.
Ngày Độc lập Phần Lan Hoạt động kỷ niệm. Trong những thập kỷ đầu tiên sau khi giành được độc lập, người Phần Lan kỷ niệm ngày Độc lập thông qua các buổi diễn thuyết mang tính yêu nước và tham dự các thánh lễ đặc biệt tại nhà thờ. Tuy nhiên, không khí ngày Độc lập đã trở nên sống động hơn kể từ thập niên 1970. Các cửa hiệu trang trí cửa sổ với tông màu của lá quốc kỳ, và các tiệm bánh thì cho ra những sản phẩm bánh ngọt được phủ một lớp đường cô màu xanh lam và trắng. Các gia đình Phần Lan có truyền thống đốt hai ngọn nến bên mỗi một chiếc cửa số của nhà mình vào ngày này. Đây là một truyền thống bắt nguồn từ thập niên 1920, khi mà người Phần Lan thường thắp những cây nến bên cửa sổ vào ngày sinh nhật của thi hào Johan Ludvig Runeberg để thể hiện tâm tình phản kháng thầm lặng chống lại sự đô hộ của Đế quốc Nga. Người ta còn tin rằng việc thắp hai ngọn nến từng được dùng để báo hiệu cho những thanh niên người Phần Lan đang trên đường sang Thụy Điển và Đức để được đào tạo thành lính jäger biết rằng ngôi nhà ấy sẵn lòng che chở cho họ và giúp họ thoát khỏi tay mắt của chính phủ Nga. Lễ hội cấp nhà nước. Lễ thượng cờ trên đồi Tähtitorninmäki tại thành phố Helsinki là hoạt động chính thức để khai mạc ngày lễ Độc lập Phần Lan. Sau đó, các giáo sĩ tại nhà thờ chính tòa Helsinki sẽ dâng một thánh lễ và các quan chức sẽ đi viếng thăm đài tưởng niệm chiến sĩ hy sinh trong Chiến tranh thế giới thứ hai.#đổi Hằng năm vào ngày này cũng diễn ra cuộc duyệt binh thường niên của Các lực vũ trang Phần Lan. Đây là một trong những sự kiện nổi bật của lễ Độc lập và được tường thuật trực tiếp trên truyền hình.#đổi Năm 1955, đài truyền hình YLE đã phát sóng lần đầu bộ phim "Người lính vô danh" () được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của tác giả Väinö Linna. Phiên bản 1955 được chiếu đi chiếu lại nhiều lần (trước năm 2000) và đều đặn hàng năm từ năm 2000. Bên cạnh đó, phiên bản 1985 được phát một lần vào năm 1997 và phiên bản 2017 được chiếu lần đầu vào năm 2021. Lễ rước đuốc truyền thống của các bạn sinh viên được tổ chức hằng năm kể từ năm 1951. Hoạt động này thường diễn ra tại những huyện hay thành phố có viện đại học. Trong khuôn khổ của buổi lễ này, các bạn sinh viên cũng đặt vòng hoa tưởng niệm tại các nghĩa trang liệt sĩ. Tư liệu liên quan tới
Phục hồi rừng ("Forest restoration") được định nghĩa là “"các hành động nhằm thiết lập lại các quá trình sinh thái, giúp đẩy nhanh quá trình phục hồi cấu trúc rừng, chức năng sinh thái và mức độ đa dạng sinh học theo hướng điển hình của cực đỉnh diễn thế sinh thái"”, tức là giai đoạn cuối của diễn thế rừng tự nhiên. Đây quá trình thay đổi có trật tự trong một cộng đồng, quần xã (thực vật, động vật) do sinh vật gây ra sự biến dạng của môi trường và kết thúc ở một hệ thống ổn định hoặc trạng thái cực đỉnh ("Climax"). Rừng cao điểm ("Climax forests") là hệ sinh thái rừng tương đối ổn định đã phát triển sinh khối tối đa, độ phức tạp về cấu trúc và sự đa dạng loài có thể "trong giới hạn do khí hậu và đất đai tạo ra và không bị con người tiếp tục làm xáo trộn". Do đó, rừng cao điểm là hệ sinh thái mục tiêu, xác định mục đích cuối cùng của việc phục hồi rừng gắn với bảo vệ rừng. Sự phục hồi rừng tích cực đã được chứng minh là có thể đẩy nhanh quá trình thu hồi, hấp thụ lượng carbon của các khu rừng nhiệt đới do con người biến đổi lên tới 50%. Phục hồi rừng có thể chỉ bao gồm việc bảo vệ thảm thực vật còn sót lại (phòng chống cháy rừng, đuổi các đàn gia súc chăn thả quá mức) hoặc các biện pháp can thiệp tích cực hơn để đẩy nhanh quá trình tái sinh tự nhiên, cũng như trồng cây và/hoặc gieo hạt các loài đặc trưng của hệ sinh thái mục tiêu. Các loài cây được trồng hoặc được khuyến khích trồng là những loài điển hình hoặc mang lại chức năng sinh thái quan trọng trong hệ sinh thái mục tiêu. Vì khí hậu là yếu tố chính quyết định thành phần rừng cao điểm nên biến đổi khí hậu toàn cầu có thể dẫn đến thay đổi mục tiêu phục hồi. Ngoài ra, phải tính đến các tác động tiềm ẩn của biến đổi khí hậu đối với các mục tiêu phục hồi, vì những thay đổi về mô hình nhiệt độ và lượng mưa có thể làm thay đổi thành phần và phân bố của các khu rừng cao điểm (cực đỉnh). Phục hồi rừng là một hình thức tái trồng rừng chuyên biệt, nhưng nó khác với trồng cây thông thường ở chỗ mục tiêu chính của nó là phục hồi đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường. Phục hồi rừng và cảnh quan ("FLR") được định nghĩa là một quá trình nhằm lấy lại chức năng sinh thái và nâng cao phúc lợi của con người khi rừng bị tàn phá hoặc cảnh quan bị suy thoái. FLR được phát triển nhằm ứng phó với tình trạng suy thoái rừng và mất mát, thiệt hại rừng và mất đất ngày càng tăng, dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái. FLR hiệu quả sẽ hỗ trợ đạt được Mục tiêu phát triển bền vững ("Sustainable Development Goals"). Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái của Liên hợp quốc (2021–2030) mang đến cơ hội khôi phục hàng trăm triệu ha rừng bị suy thoái và các hệ sinh thái khác. Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái của Liên hợp quốc 2021–2030 đã được công bố vào tháng 3 năm 2019 nhằm mục đích đẩy nhanh hành động phục hồi hệ sinh thái trên toàn thế giới. Phục hồi hệ sinh thái thành công đòi hỏi sự hiểu biết cơ bản về đặc điểm sinh thái của các loài thành phần, cùng với kiến thức về cách chúng tập hợp, tương tác và hoạt động như một cộng đồng. Phục hồi rừng là một quá trình toàn diện, phụ thuộc vào sự hợp tác giữa nhiều bên liên quan bao gồm cộng đồng dân cư địa phương, cư dân bản xứ, các quan chức chính quyền, chính phủ, tổ chức phi chính phủ (NGO), các nhà khoa học và nhà tài trợ. Thành công về mặt sinh thái của công tác này được đo lường bằng sự gia tăng đa dạng sinh học, tăng sinh khối, năng suất sơ cấp, chất hữu cơ trong đất và khả năng giữ nước, cũng như sự trở lại của các loài quý hiếm và loài chủ chốt đặc trưng của hệ sinh thái mục tiêu. Tuy nhiên, theo FAO, các hoạt động phục hồi phải đối mặt với các rào cản kinh tế, từ việc thiếu nguồn tài trợ quy mô lớn thay mặt chính phủ, cho đến nguồn lực và năng lực kỹ thuật hạn chế của các hộ sản xuất nhỏ lẻ. Các chỉ số thành công về kinh tế bao gồm giá trị của lâm sản và dịch vụ sinh thái được tạo ra (ví dụ như bảo vệ rừng đầu nguồn, lưu trữ carbon), cuối cùng góp phần xóa đói, giảm nghèo. Chi trả cho các dịch vụ sinh thái (PES) và khai thác lâm sản (đi mót, nhặt nhạnh các lâm thổ sản) có thể tạo động lực mạnh mẽ cho người dân địa phương thực hiện các dự án phục hồi rừng vì lợi ích của cộng đồng cũng như lợi ích thiết thân của họ.
Chặng đua MotoGP Thái Lan 2023 Chặng đua MotoGP Thái Lan 2023 là chặng đua thứ 17 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 27/10/2023 đến ngày 29/10/2023 ở trường đua Chang, Thái Lan. Jorge Martin của đội đua Pramac Racing là tay đua giành chiến thắng cả cuộc đua chính thức và cuộc đua Sprint race của thể thức MotoGP. Sau chặng đua Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 389 điểm.
Kim Seung-kyum (tiếng Hàn: ; sinh ngày 12 tháng 4 năm 1963), là một đại tướng Lục quân Hàn Quốc, ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (JCS) từ ngày 5 tháng 7 năm 2022. Trước khi trở thành Chủ tịch JCS, ông là Phó chỉ huy Bộ Tư lệnh Liên hợp Hàn Quốc–Mỹ. Kim Seung-kyum sinh ngày 12 tháng 4 năm 1963 tại Seocheon, tỉnh Nam Chungcheong, trong một gia đình có truyền thống quân sự. Cha ông là trung tá trong quân dự bị. Ông tốt nghiệp trường trung học Osan, ở Seoul. Ông vào Học viện Quân sự Hàn Quốc năm 1982 và tốt nghiệp khóa học năm 1986.
Francesco Camarda (sinh ngày 10 tháng 3 năm 2008) là một tài năng trẻ trong làng bóng đá Ý, hiện đang góp mặt trong đội hình của đội bóng nổi tiếng AC Milan ở giải Serie A. Camarda được sinh ra tại Milan, Italy. Như một đứa trẻ, cậu cũng thể hiện sự quan tâm đối với môn kickboxing. Sự nghiệp câu lạc bộ. Camarda bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình tại Afforese, một trường đào tạo bóng đá ở Milan. Trong thời gian ở Afforese, anh được huấn luyện tại học viện danh tiếng của AC Milan, trước khi chính thức gia nhập đội bóng này vào năm 2015, chỉ sau hơn một năm với Afforese. Trong buổi tập đầu tiên với AC Milan, anh bắt đầu với vai trò là một hậu vệ. Tuy nhiên, sau những pha đi bóng mê đắm và những bàn thắng ấn tượng, anh nhanh chóng được chuyển lên đá ở vị trí tiền đạo. Trong thời gian ở học viện AC Milan, Camarda đã khẳng định bản thân là một chân sút xuất sắc; tại một giải đấu dành cho đội dưới 9 tuổi ở Vienna, Áo, anh bị thay ra do chấn thương khi đội của anh đang đối mặt với đối thủ mạnh Bayern Munich và đang thua 2–0. Anh đã yêu cầu HLV để được trở lại sân và tiếp tục ghi hai bàn thắng và kiến tạo một pha làm bàn trong chiến thắng cuối cùng 3–2. Đây là một khoảnh khắc quan trọng, đánh dấu sự kiên trì và kỹ thuật xuất sắc của Camarda.Sự xuất sắc của anh không giảm sút khi anh tiến bộ qua học viện, vàanh đã ghi được 22 bàn trong 24 trận cho đội U15 của AC Milan, dẫn dắt họ đến danh hiệu Scudetto U15. Cuối cùng, những chiến tích ghi bàn xuất sắc của anh đã thu hút sự chú ý của truyền thông quốc tế, và anh đã được ca ngợi vì đã ghi được 485 bàn trong chỉ 89 trận cho học viện AC Milan, với một trung bình 5,45 bàn mỗi trận..Anh được thử nghiệm cùng đội U19 của AC Milan khi mới 14 tuổi, và đã ghi được hai bàn trong một trận giao hữu giành chiến thắng của đội trước đội Eccellenza Solbiatese. Camarda đã có trận ra mắt tại UEFA Youth League vào ngày 19 tháng 9 năm 2023 trong trận đấu với Newcastle United, nơi anh ghi được hai bàn thắng trong chiến thắng 4–0. Những bàn thắng này đã khiến Camarda trở thành cầu thủ thứ hai trong lịch sử giải đấu ghi được cú đúp và cầu thủ ghi bàn trẻ nhất từng có của Italia ở tuổi 15, 193 ngày, phá vỡ kỷ lục của Fabrizio Caligara là 16 tuổi, 189 ngày. Vào tháng 11 năm 2023, do khủng hoảng chấn thương, HLV AC Milan Stefano Pioli đã gọi Camarda vào đội hình chính cho trận Serie A gặp Fiorentina vào ngày 25 tháng 11 năm 2023; để làm điều này, câu lạc bộ đã phải yêu cầu sự cho phép đặc biệt từ Liên đoàn Bóng đá Italia, vì cầu thủ dưới 16 tuổi thông thường không được phép tham gia vào đội hình chính của một đội bóng Italia. Anh được thay vào sân vào phút thứ 83, từ đó trở thành cầu thủ Serie A trẻ nhất từng có ở tuổi 15, 8 tháng và 15 ngày.
Bảo tồn rừng nhiệt đới Bảo tồn rừng nhiệt đới ("Tropical rainforest conservation") là các biện pháp bảo tồn rừng và bảo vệ rừng đối với các khu rừng nhiệt đới mà trọng tâm ưu tiên là rừng mưa nhiệt đới, bao gồm du lịch sinh thái và các biện pháp phục hồi rừng. Hoạt động tái trồng rừng và khôi phục rừng là những biện pháp phổ biến ở một số khu vực nhất định nhằm cố gắng tăng mật độ rừng nhiệt đới. Thông qua việc tương tác và giao tiếp với người dân địa phương sống trong và xung quanh rừng nhiệt đới, các nhà bảo tồn có thể tìm hiểu thêm về những gì có thể cho phép họ tập trung nỗ lực tốt nhất cho công tác bảo tồn. Điều bắt buộc đối với sự sống trên trái đất là phải bảo tồn rừng nhiệt đới vì cây cối lấy carbon dioxide để cung cấp dưỡng khí oxy nên rừng nhiệt đới chính là lá phổ xanh cho sự sống của hành tinh này. Khoảng một phần tư lượng khí thải nhà kính trên thế giới gia tăng đến từ nạn phá rừng và phá hủy rừng nhiệt đới. Rừng mưa nhiệt đới có tầm quan trọng toàn cầu đối với tính bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học là lá phổi xanh của sự sống trên trái đất và thực tế thì lá phổi xanh này bị đe đọa với tốc độ phá rừng đáng chóng mặt. Mặc dù chúng có thể khác nhau về vị trí và các loài thực vật và động vật sinh sống, nhưng chúng vẫn có tầm quan trọng trên toàn thế giới vì sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ hệ sinh thái. Điều quan trọng là phải xem xét các loài khác nhau và đa dạng sinh học tồn tại ở các loại rừng nhiệt đới khác nhau để thực hiện chính xác các phương pháp bảo tồn. Các nỗ lực nhằm bảo vệ và bảo tồn môi trường sống trong rừng mưa nhiệt đới rất đa dạng và lan rộng nhanh tạo nên phong trào toàn cầu về bảo vệ rừng vì tương lai con em trên hành tinh. Theo Nghị định thư Kyoto, các quốc gia phải giảm 5% lượng khí thải carbon dioxide so với mức năm 1990 trước năm 2012. Các quốc gia có thể đáp ứng mức cắt giảm khí thải bắt buộc bằng cách bù đắp một số lượng khí thải đó theo cách khác là thông qua việc bảo tồn hoặc trồng lại rừng nhiệt đới nên các quốc gia có thể nhận được tài trợ tín dụng từ các định chế tài chính. Việc bảo tồn rừng mưa nhiệt đới bao gồm từ việc bảo tồn môi trường sống chặt chẽ đến việc tìm kiếm những phương pháp quản lý hiệu qua cho những người sống trong các rừng mưa nhiệt đới. Chính sách thế giới cũng đưa vào một chương trình hỗ trợ thị trường gọi là Reducing Emissions from Deforestation và Forest Degradation (REDD) cho các công ty và chính quyền để giảm lượng cacbon thải ra thông qua sự đầu tư tài chính và việc bảo tồn rừng mưa. Barnens Regnskog (rừng nhiệt đới của trẻ em) là một tổ chức phi lợi nhuận của Thụy Điển được thành lập vào năm 1987, dành riêng cho việc huy động vốn để bảo tồn rừng nhiệt đới. Tổ chức từ thiện này hỗ trợ các dự án bảo tồn tại Thái Lan, Guatemala, Belize, Costa Rica và Ecuador và đã góp phần giữ gìn 450 km² rừng nhiệt đới. Hoạt động gây quỹ đã được thực hiện ở Thụy Điển cũng như Đức và Hoa Kỳ. Du lịch sinh thái đang thực hiện các chuyến tham quan đến một khu vực cụ thể nhằm nỗ lực giáo dục công chúng về những môi trường thường bị đe dọa. Đó là một thực tiễn đại diện cho một giải pháp cấp thiết để cứu môi trường sống đang bị đe dọa. Khách du lịch và hướng dẫn viên du lịch thường quyên góp hào phóng cho các nỗ lực bảo tồn ở những khu vực họ ghé thăm, giúp ích rất nhiều cho việc bảo tồn rừng nhiệt đới Amazon. Các chuyên gia đang thảo luận liên tục và thường xuyên với các nhà bảo tồn, các nhà hoạch định chính sách, các chính trị gia và lãnh đạo địa phương về du lịch sinh thái và tác động của nó đối với các hệ sinh thái xung quanh. Du lịch sinh thái có thể góp phần bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học ở các khu rừng nhiệt đới. Rừng mưa Amazon ở Nam Mỹ là một trong những khu rừng nhiệt đới lớn nhất và dày đặc nhất thế giới. Rừng mưa nhiệt đới đang biến mất trên khắp thế giới và ở mức báo động ở Brazil. Kể từ những năm 1980, hơn 153.000 dặm vuông rừng nhiệt đới Amazon đã trở thành nạn nhân của nạn phá rừng. Brazil đã giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trên toàn cầu về cung cấp sản phẩm đậu nành và thịt bò với vùng đất mới được giải phóng mặt bằng. Vùng Amazon dễ dàng tạo thành một trong những khu bảo tồn sinh thái lớn nhất và đa dạng sinh học nhất thế giới, từng là lưu vực rất đa dạng, tươi tốt, hiện đã bị phát quang ở nhiều khu vực để làm ruộng đậu nành và trang trại chăn nuôi gia súc. Khí nhà kính, phần lớn là do tốc độ phá hủy rừng nhiệt đới ở mức đáng báo động, là một trong những nguyên nhân lớn nhất gây ra biến đổi khí hậu ở khu vực Amazon. Hoạt động phá rừng ở một mức độ nào đó đã bị chậm lại nhờ thực hiện các quy định sử dụng đất chặt chẽ hơn và tạo ra khu vực được bảo vệ. Chính phủ Brazil cũng hỗ trợ lập kế hoạch kinh tế và xã hội tốt hơn cho các khu vực cụ thể có những điểm tương đồng đáng kể với các chính sách quốc gia. Chỉ riêng trong năm 2009, Brazil đã thừa nhận một vấn đề và chấp nhận thách thức đặt ra là giảm 36–38% lượng khí thải carbon vào năm 2020 trong nỗ lực giảm lượng khí thải vào không khí. Một số công ty trên toàn thế giới đã tuyên bố công khai rằng họ từ chối mua các sản phẩm có nguồn gốc từ các khu vực rừng nhiệt đới mới được phát quang gần đây. Thịt bò thường đến từ các trang trại nằm trên vùng đất trước đây là rừng nhiệt đới. Điều quan trọng là phải bảo tồn rừng nhiệt đới vì nhiều tài nguyên cho những thứ chúng ta sử dụng hàng ngày đều đến từ rừng nhiệt đới, bao gồm cả cao su làm lốp xe và các loại gia vị như quế và nhiều mặt hàng thông dụng khác.
Tosanoides obama là một chi cá biển thuộc phân họ Anthiadinae trong họ Cá mú. Chi này được lập ra vào năm 1953. Tên chi được ghép từ "Tosana" (một chi khác trong phân họ Anthiadinae) và hậu tố –"oides" ("giống với" trong tiếng Latinh), hàm ý so sánh "Tosanoides" có gai vây lưng thứ nhất dài nhất, thay vì thứ ba như "Tosana", và đường bên uốn cong rõ rệt ngay dưới tia vây lưng mềm cuối cùng. Có 6 loài được ghi nhận trong chi này tính đến hiện tại: Trong 6 loài thì chỉ có "T. aphrodite" được phát hiện ở Đại Tây Dương, còn lại đều được tìm thấy ở Tây Thái Bình Dương. Cả 6 loài đều là những loài dị hình giới tính.
Người tị nạn Palestine Người tị nạn Palestine ("Palestinian refugees") là công dân của nhà nước Palestine và con cháu của họ, những người Palestin ("người Pa-le-xtin") khổ hạnh đã chạy trốn hoặc bị Israel cưỡng bức trục xuất khỏi đất nước Palestine của họ trong suốt cuộc Chiến tranh Palestine 1947–1949 (với sự kiện trục xuất và đào tẩu của người Palestine 1948) và Chiến tranh sáu ngày (dẫn đến cuộc di cư của người Palestine năm 1967). Hầu hết những người tị nạn Palestine sống tập trung chen chúc trong 68 trại tị nạn Palestine trên khắp Jordan, Lebanon, Syria, Bờ Tây và Dải Gaza. Sự tị nạn của người Palestin xuất phát từ chủ nghĩa phục quốc Do Thái ("chủ nghĩa Xi-ôn") trong lịch sử Do Thái khi người Do Thái lưu vong đã tập hợp với sự hậu thuẫn của Mỹ và phương Tây để chiếm lấy và định cư trên lãnh thổ từng là nơi sinh sống của người Palestine trong lịch sử để thành lập nhà nước Israel vào năm 1948. Năm 2019, ước tính hơn 5,6 triệu người tị nạn Palestine đã được đăng ký với Liên Hợp quốc xem xét. Năm 1949, "Cơ quan Cứu trợ và Việc làm của Liên hợp quốc dành cho Người tị nạn Palestine ở Cận Đông" (UNRWA) đã định nghĩa người tị nạn Palestine là để chỉ những người tị nạn Palestine ban đầu cũng như hậu duệ của họ. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của UNRWA chỉ giới hạn đối với những người tị nạn Palestine cư trú tại các khu vực hoạt động của UNRWA tại Lãnh thổ Palestine, Lebanon, Jordan và Syria. Tính đến năm 2019, có hơn 5,6 triệu người Palestine đã đăng ký tị nạn với UNRWA, trong đó hơn 1,5 triệu người sống trong các trại do UNRWA điều hành. Tính đến tháng 1 năm 2015, Dải Gaza có diện tích 365 km2 đã có 8 trại tị nạn UNRWA với 560.964 người tị nạn Palestine và tổng cộng 1.276.929 người tị nạn đã đăng ký được ví von thành nhà tù ngoài trời lớn nhất. Thuật ngữ người tị nạn Palestine không bao gồm người Palestine di tản trong nước, những người đã trở thành công dân Israel hoặc người Do Thái Palestine phải di dời. Theo một số ước tính, có tới 1.050.000–1.380.000 người những người xuất thân từ những người phải di dời ở Palestine bắt buộc không được đăng ký theo quy định của UNRWA hoặc UNHCR. Trong Chiến tranh Palestine 1948, khoảng 700.000 người Ả Rập Palestine hoặc 85% tổng dân số ở vùng đã trở thành Israel chạy trốn hoặc bị trục xuất khỏi nhà của họ, đến Bờ Tây của Jordan, Dải Gaza và tới các quốc gia Lebanon, Cộng hòa Syria và Jordan. Họ và con cháu của họ, những người cũng có quyền đăng ký, được UNWRA hỗ trợ trong 59 trại đã đăng ký, 10 trại trong số đó được thành lập sau Chiến tranh sáu ngày năm 1967 để đối phó với làn sóng người Palestine di dời mới. Người tị nạn Palestine cũng là nhóm người tị nạn bất ổn lâu đời nhất trên thế giới, họ nằm dưới sự quản lý liên tục của các quốc gia Ả Rập sau cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, những nhóm người tị nạn ở Bờ Tây dưới sự quản lý của Israel kể từ Chiến tranh Sáu ngày và chính quyền Palestine kể từ năm 1994, và những người sống ở Dải Gaza thì do Phong trào Kháng chiến Hồi giáo (Hamas) quản lý kể từ năm 2007. Ngày nay, số lượng người tị nạn lớn nhất, hơn 2.000.000 người sống ở Jordan, nơi mà đến năm 2009 đã có hơn 90% người tị nạn Palestine đã đăng ký UNWRA đã có đầy đủ quyền công dân. Con số này hầu như chỉ bao gồm những người Palestine gốc Bờ Tây. Tuy nhiên, kể từ tháng 12 năm 2021, những người Palestine có nguồn gốc từ Dải Gaza cũng vẫn bị giữ trong tình trạng lấp lửng về mặt pháp lý. Vào năm 2021, chính trị gia Jordan là Jawad Anani ước tính rằng khoảng 50% dân số Jordan có nguồn gốc Bờ Tây–Palestine. Khoảng 2.000.000 người tị nạn khác sống ở Bờ Tây và Dải Gaza, dưới sự chiếm đóng và phong tỏa của Israel. Khoảng 500.000 người tị nạn sống ở mỗi nước Syria và Lebanon, mặc dù trong những hoàn cảnh rất khác nhau. Trong khi những người tị nạn Palestine ở Syria vẫn duy trì tình trạng không quốc tịch, Chính phủ Syria đã trao cho họ những quyền kinh tế và xã hội tương tự như công dân Syria họ cũng được nhập ngũ vào Lực lượng vũ trang Syria mặc dù không phải là công dân Syria. Quyền công dân hoặc nơi cư trú hợp pháp ở một số quốc gia sở tại bị từ chối, đáng chú ý nhất là đối với người tị nạn Palestine ở Lebanon, nơi mà việc tiếp nhận người Palestine sẽ làm đảo lộn sự cân bằng mong manh. Đối với bản thân những người tị nạn, những tình huống này có nghĩa là họ bị giảm bớt các quyền: không có quyền bầu cử, quyền sở hữu bị hạn chế và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, cùng nhiều thứ khác. Vào ngày 11 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thảo luận về báo cáo của Bernadotte và thông qua một nghị quyết có nêu "rằng những người tị nạn mong muốn trở về nhà của họ và sống hòa bình với hàng xóm của họ phải được phép làm như vậy vào ngày sớm nhất có thể" và cũng vào ngày 11 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc (UNGA) đã thông qua Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 194 khẳng định quyền trở về của người Palestine về cư trú tại quê nhà của họ trên mảnh đất Palestine. Sự gia tăng của số lượng tị nạn Palestine được thể hiện dưới đây: Số người tị nạn Palestine sống trong khu vực hoạt động đã đăng ký của UNWRA được trình bày dưới đây, gồm cả những người sống trong trại tị nạn và những người sống bên ngoài trại tị nạn: Bảng dưới đây cho thấy số lượng người tị nạn đã đăng ký, những người đã đăng ký khác và những người tị nạn cư trú trong các trại vào năm 2018. Định nghĩa của UNRWA về "Những người đã đăng ký khác" đề cập đến "những người, tại thời điểm đăng ký ban đầu không đáp ứng tất cả các tiêu chí về người tị nạn Palestine của UNRWA, nhưng được xác định là đã phải chịu mất mát và/hoặc khó khăn đáng kể vì những lý do liên quan đến cuộc xung đột năm 1948 ở Palestine", họ cũng bao gồm những người thuộc vào gia đình của những người đã đăng ký khác:
Chặng đua MotoGP Úc 2023 Chặng đua MotoGP Úc 2023 là chặng đua thứ 16 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 20/10/2023 đến ngày 22/10/2023 ở trường đua Phillip Island, Úc. Do thời tiết xấu nên cuộc đua Sprint race đã bị hủy. Cuộc đua chính thể thức MotoGP được dời sang ngày thứ Bảy, người giành được chiến thắng là Johann Zarco của đội đua Pramac Ducati. Đây là chiến thắng thể thức MotoGP đầu tiên trong sự nghiệp của Johann Zarco. Sau chặng đua, Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 366 điểm.
Thuyết toàn thần ("Panentheism", tiếng Hy Lạp: πᾶνἐν) là niềm tin rằng thần thánh giao cắt mọi phần của vũ trụ và quyền năng thần thánh cũng vượt ra ngoài không gian và thời gian và đó là uy quyền tối hậu. Thuật ngữ "Thuyết toàn thần" được triết gia người Đức Karl Krause đặt ra vào năm 1828 để phân biệt các ý tưởng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770–1831) và Friedrich Wilhelm Joseph Schelling (1775–1854) về mối quan hệ giữa Chúa và vũ trụ từ thuyết phiếm thần của Baruch Spinoza, sau khi xem lại kinh điển Ấn Độ giáo. Không giống như thuyết phiếm thần, cho rằng thần thánh và vũ trụ là giống hệt nhau, thuyết toàn thần duy trì sự phân biệt bản thể học giữa thần thánh và phi thần thánh và tầm quan trọng của cả hai. Trong thuyết toàn thần, thì tinh thần phổ quát hiện diện ở khắp mọi nơi, đồng thời mang tính ""sự siêu việt" khi tất cả mọi thứ được tạo ra. Trong khi thuyết phiếm thần khẳng định rằng "tất cả là Chúa"" thì thuyết phiếm thần cũng cho rằng Chúa vĩ đại hơn vũ trụ. Một số phiên bản của thuyết toàn thần cho rằng vũ trụ không gì khác hơn là sự biểu hiện của Chúa hay Thượng đế hay Đấng chí tôn, Đấng tối cao. Ngoài ra, một số hình thức cho thấy vũ trụ được chứa đựng trong Chúa/Đấng Tối cao giống như trong khái niệm Kabbalah của Tzimtzum. Phần lớn triết lý Hindu mang đặc trưng của cả thuyết toàn thần và thuyết phiếm thần. Baruch Spinoza sau đó tuyên bố rằng ""Bất cứ điều gì có đều ở trong Chúa, và không có Chúa thì không gì có thể tồn tại hoặc được hình thành". "Những thứ riêng lẻ không là gì ngoài sự sửa đổi các thuộc tính của Chúa, hoặc các phương thức mà các thuộc tính của Chúa được thể hiện một cách cố định và rõ ràng"". Mặc dù Spinoza được gọi là "nhà tiên tri" và "hoàng tử" của thuyết phiếm thần, trong một lá thư gửi Henry Oldenburg Spinoza nói rằng: "Đối với quan điểm của một số người rằng tôi đồng nhất thần thánh với thiên nhiên (được coi là một loại khối lượng hoặc vật chất hữu hình), họ khá là nhầm rồi". Đối với Spinoza, vũ trụ (vũ trụ) của chúng ta là một chế độ có hai thuộc tính Suy nghĩ và Mở rộng. Chúa có vô số thuộc tính khác không có trong thế giới của chúng ta. Theo triết gia người Đức Karl Jaspers, khi Spinoza viết "Deus sive Natura" (Chúa hay Tự nhiên), Spinoza không có ý nói rằng Chúa và Tự nhiên là những thuật ngữ có thể hoán đổi cho nhau, mà đúng hơn là sự siêu việt của Chúa đã được chứng thực bởi vô số thuộc tính của Ngài , và hai thuộc tính được con người biết đến, đó là Tư tưởng và Mở rộng, biểu thị sự nội tại của Chúa. Hơn nữa, Martial Guéroult đề xuất thuật ngữ ""thuyết toàn thần", thay vì "thuyết phiếm thần"" để mô tả quan điểm của Spinoza về mối quan hệ giữa Chúa và thế giới. Thế giới không phải là Chúa, nhưng theo nghĩa mạnh mẽ, nó ở "trong" Chúa. Tuy nhiên, triết gia người Mỹ và người theo thuyết phiếm thần tự cho mình là Charles Hartshorne gọi triết học của Spinoza là "thuyết phiếm thần cổ điển" và phân biệt triết học của Spinoza với thuyết phiếm thần. Nhận thức về hình ảnh tôn giáo trong các hiện tượng tự nhiên khi người ta nhận thấy mọi người cảm nhận được các hình ảnh có tâm linh hoặc chủ đề hoặc nội dung tôn giáo dưới hình dạng của các hiện tượng tự nhiên. Các hình ảnh được cảm nhận, cho dù là hình ảnh thánh hay có thể là khuôn mặt của các nhân vật tôn giáo nổi tiếng hoặc sự biểu hiện của các biểu tượng tâm linh trong môi trường tự nhiên, hữu cơ hoặc các hiện tượng tự nhiên. Sự xuất hiện hoặc sự kiện của nhận thức có thể thoáng qua hoặc thoáng qua hoặc có thể lâu dài hơn. Hiện tượng này dường như tiếp cận một phổ quát văn hóa và thường có thể đi kèm với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, thuyết vật linh và Bái vật giáo, cùng với các hệ thống tín ngưỡng chính thức hoặc có tổ chức hơn. Trong truyền thống Cơ đốc giáo, nhiều trường hợp được báo cáo liên quan đến hình ảnh của Chúa Giê-su hoặc các nhân vật Cơ đốc giáo khác được nhìn thấy. Hiện tượng ban đầu thuộc loại này là Acheiropoieta: hình ảnh của các biểu tượng Kitô giáo lớn như Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria được cho là được tạo ra bằng các phương tiện siêu nhiên. Từ "Acheropite" xuất phát từ tiếng Hy Lạp "ἀχειροποίητος", có nghĩa là "không được tạo ra bởi bàn tay con người", và thuật ngữ này lần đầu tiên được áp dụng cho Tấm vải liệm Turin và Tấm màn che Veronica. Sau đó, thuật ngữ này được áp dụng rộng rãi hơn cho Simulacrum có tính chất tôn giáo hoặc tâm linh xảy ra trong các hiện tượng tự nhiên, đặc biệt là những hiện tượng được các tín đồ coi là có nguồn gốc kỳ bí huyền diệu. Về mặt khoa học, những hình ảnh kiểu như vậy thường được mô tả là một dạng "Pareidolia". Đây là một nhận thức sai lầm về hình ảnh do những gì được lý thuyết là tâm trí con người quá nhạy cảm với các mẫu nhận thức, đặc biệt là mô hình khuôn mặt con người, trong các hiện tượng ngẫu nhiên khác.
Odontanthias borbonius là một loài cá biển thuộc chi "Odontanthias" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828. Hậu tố –"ius" trong tiếng Latinh có nghĩa là "thuộc về", hàm ý đề cập đến vị trí mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập, đảo Borbon, tên gọi ban đầu của đảo Réunion. "O. borbonius" có phân bố trải rộng trên vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (trừ phần lớn khu vực Trung và Đông Ấn Độ Dương), từ Đông Phi, cũng như Madagascar và các đảo quốc xung quanh, trải dài về phía đông đến Guam và Papua New Guinea, ngược lên phía bắc đến miền nam Nhật Bản (bao gồm cả quần đảo Ogasawara), xa nhất ở phía nam đến Nam Phi. "O. borbonius" được tìm thấy trong khoảng độ sâu từ 70 đến 300 m, và cá đực đơn độc thường được bắt gặp trong và gần hang của cá vây tay. Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở "O. borbonius" là 15 cm. "O. borbonius" có màu đỏ hồng với 9–11 đốm lớn màu vàng nâu ở hai bên thân. Đầu có một dải màu vàng tươi nằm dưới mắt, từ chóp mõm kéo dài đến gốc vây ngực, cũng có một số vệt vàng nâu trên trán và sau mắt. Các vây có màu vàng, trừ chóp gai vây lưng, gai vây hậu môn và gai vây bụng có màu hồng tím. Mống mắt vàng. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8; Số tia vây ngực: 16–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 39–43. "O. borbonius" phổ biến trong ngành buôn bán cá cảnh, đôi khi được bày bán trong các chợ cá.
Tôn giáo thế giới Tôn giáo thế giới ("World religions") hay Tôn giáo toàn cầu là một phạm trù được sử dụng trong ngành nghiên cứu tôn giáo để phân định (ít nhất năm tôn giáo và trong một số trường hợp nhiều hơn) các tôn giáo được coi là đặc biệt lớn, phổ biến rộng rãi trên phạm vi quốc tế hoặc có ảnh hưởng trong sự phát triển của xã hội phương Tây. Các tôn giáo hoàn vũ thế giới bao gồm Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Phật giáo luôn được đưa vào danh sách, được gọi là Ngũ Đại giáo ("Big Five"), trong đó, các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham và các giáo phái của nó có số lượng tín đồ đông đảo nhất. Một số học giả cũng bao gồm các tôn giáo khác, chẳng hạn như Mani giáo ("Minh giáo"), Đạo Sikh, Bahá'í giáo ("Đức tin Bà-hai"), hoặc Hỏa giáo (Bái hỏa giáo) cũng được xếp vào nhóm tôn giáo thế giới. Phạm trù Tôn giáo thế giới thường được đặt cạnh các phạm trù khác, chẳng hạn như tôn giáo bản địa (tín ngưỡng dân gian), tôn giáo thời tiền sử và các phong trào tôn giáo mới cũng được các học giả sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu này. Mô hình tôn giáo thế giới được phát triển ở Vương quốc Anh trong những năm 1960, nơi nó được các học giả hiện tượng học như Ninian Smart làm tiên phong. Phạm trù này được thiết kế để mở rộng việc nghiên cứu tôn giáo ra khỏi sự ảnh hưởng nặng nề vào Cơ đốc giáo bằng cách tính đến các truyền thống tôn giáo lớn khác trên khắp thế giới. Mô hình này thường được các giảng viên sử dụng để hướng dẫn sinh viên đại học nghiên cứu về tôn giáo và cũng là khuôn khổ được các giáo viên phổ thông ở Vương quốc Anh và các quốc gia khác sử dụng. Sự nhấn mạnh của mô hình này vào việc xem các phong trào tôn giáo này như những thực thể riêng biệt và loại trừ lẫn nhau cũng đã có tác động rộng hơn đến việc phân loại tôn giáo—ví dụ như trong các cuộc điều tra dân số—ở cả các nước phương Tây và các nơi khác. Học giả tôn giáo Graham Harvey đã lưu ý rằng các nhóm được xếp vào các danh mục như ""tôn giáo bản địa" được nhiều học giả đối xử ít nghiêm túc hơn so với "tôn giáo thế giới"" "Các tôn giáo bản địa nên nhận được sự đối xử tôn trọng tương tự như cách được coi là phù hợp với Tôn giáo toàn cầu lớn hơn. Kể từ cuối thế kỷ 20, mô hình này đã phải đối mặt với sự chỉ trích của các học giả tôn giáo như Jonathan Z. Smith, một số người trong số họ đã lập luận ủng hộ việc từ bỏ nó. Các nhà phê bình cho rằng mô hình tôn giáo thế giới là không phù hợp vì nó lấy hình thức Tin lành của Cơ đốc giáo làm hình mẫu cho những gì cấu thành nên "tôn giáo", rằng nó gắn liền với các diễn ngôn về tính hiện đại, bao gồm cả các mối quan hệ quyền lực hiện đại; rằng nó khuyến khích sự hiểu biết không phê phán về tôn giáo; và nó đưa ra đánh giá có giá trị về việc tôn giáo nào nên được coi là "chính". Những người khác lập luận rằng nó vẫn hữu ích trong lớp học, miễn là học sinh được biết rằng đó là một phạm trù được xã hội xây dựng. học giả tôn giáo gồm Christopher R. Cotter và David G. Robertson đã mô tả "Mô hình tôn giáo thế giới" là "một cách suy nghĩ cụ thể về các tôn giáo, tổ chức chúng thành một tập hợp các truyền thống riêng biệt với một quan điểm được cho là toàn cầu. Cotter và Robertson lưu ý rằng lịch sử của mô hình tôn giáo thế giới "gắn bó mật thiết" với lịch sử nghiên cứu tôn giáo như một môn học thuật. Nó xuất hiện từ bên trong cách tiếp cận hiện tượng học tôn giáo vốn nhấn mạnh vào việc mô tả hơn là phân tích phê phán.
AAM-N-5 Meteor là tên lửa không đối không thuộc thế hệ đầu tiên của Hải quâ Hoa Kỳ, do Học viện công nghệ Massachusetts và công ty Bell Aircraft phát triển. Ban đầu, các kỹ sư đã phát triển cả hai phiên bản là phóng từ máy bay và phóng từ tàu chiến. Các phiên bản được phóng từ máy bay trên tàu sân bay đã đi đến giai đoạn bay thử nghiệm trước khi dự án này bị hủy bỏ. Vào năm 1950, Hải quân Hoàng gia Anh cũng bày tỏ quan tâm tới việc biến Meteor thành một tên lửa tầm ngắn để bảo vệ tàu chống lại bom lượn và các loại vũ khí tương tự. Họ đã nghiên cứu nó trong dự án Popsy. Khi Hải quân Hoa Kỳ không còn theo đuổi phiên bản phóng từ tàu chiến, dự án Mospy cũng bị dừng lại.
Vị thần thời tiết Vị thần thời tiết ("Weather god") là một vị thần thánh/nữ thần trong thần thoại gắn liền với các hiện tượng thời tiết như sấm sét (Lôi điện thần), chớp giật, mưa (vũ thần), gió (phong thần), lốc xoáy, vòi rồng, bão (tật phong thần), giông tố, tuyết (tuyết thần/雪神). Những vị thần cai quản thời tiết thường xuất hiện trong các tôn giáo đa thần gắn với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, thuyết vật linh (vạn vật hữu linh) đặc biệt là trong các tôn giáo Ấn-Âu cổ đại. Thần bão thường được coi là người cầm được dòng sấm sét và/hoặc tia chớp, tên của một số vị thần sét thực sự có nghĩa đen là "sấm sét". Trong số các ví dụ hiện được liệt kê, các vị thần theo chủ đề bão tố thường được mô tả là nam giới vì có yếu tố mạnh bạo, nhưng cả nam và nữ hoặc các vị thần mưa, gió hoặc thời tiết khác đều được nhắc đến.
Trường Nghệ thuật Tisch của Đại học New York Trường Nghệ thuật Tisch của Đại học New York (thường được gọi là Tisch) là trường giáo dục chuyên ngành biểu diễn, điện ảnh và nghệ thuật truyền thông trực thuộc Đại học New York. Được thành lập vào ngày 17 tháng 8 năm 1965, Tisch là cơ sở đào tạo nghệ sĩ, học giả nghệ thuật và nhà làm phim. Trường được chia thành ba Viện: Nghệ thuật biểu diễn, Truyền thông mới nổi và Điện ảnh Truyền hình. Nhiều chuyên ngành đại học và sau đại học dành cho sinh viên, bao gồm: diễn xuất, khiêu vũ, kịch, nghiên cứu biểu diễn, thiết kế sân khấu và điện ảnh, viết nhạc kịch, nhiếp ảnh, sản xuất nhạc, thiết kế và phát triển trò chơi cũng như nghiên cứu điện ảnh và truyền hình.
Seacat là một loại tên lửa phòng không hạm tàu do Anh phát triển để thay thế cho pháo phòng không Bofors cỡ nòng 40 mm trên tàu chiến Hải quân nước này. Đây là loại tên lửa phòng không đầu tiên trên thế giới được trang bị trên hạm tàu, và được thiết kế để thay thế cho khẩu pháo phòng không Bofor trên các tàu chiến mà yêu cầu sửa đổi tàu ít nhất có thể, đồng thời có khả năng sử dụng chung với hệ thống điều khiển hỏa lực sẵn có. Một hệ thống phòng không tương tự sử dụng trên mặt đất cũng được phát triển với tên gọi là Tigercat. Ban đầu phiên bản GWS.20 phải điều khiển thủ công, do thời gian phát triển và triển khai quá gấp gáp. Một vài phiên bản nâng cấp đã được tiến hành; phiên bản GWS.21 bổ sung radar điều khiển hỏa lực để sử dụng vào ban đêm và trong thời tiết xấu, phiên bản GWS.22 bổ sung chế độ điều khiển tự động SACLOS, và phiên bản cuối cùng GWS.24 có khả năng giao chiến với mục tiêu hoàn toàn tự động. Phiên bản Tigercat đã được đưa vào trang bị trong một thời gian ngắn trước khi Anh đưa vào vận hành tên lửa phòng không Rapier. Trong khi tên lửa phòng không hạm tàu Seacat được trang bị trong biên chế trong khoảng thời gian dài hơn, trước khi bị thay thế bằng tên lửa Sea Wolf cùng với các hệ thống phòng thủ tầm gần hiện đại hơn. Seacat và Tigercat đều là những mẫu thiết kế thành công trên thị trường quốc tế và một số hệ thống vẫn còn hiện đang được sử dụng. Seacat bắt đầu từ các thí nghiệm của công ty Short Brothers nhằm biến tên lửa chống tăng Malkara sang điều khiển vô tuyến tầm ngắn. Điều này dẫn đến những sửa đổi lớn hơn, và cuối cùng nó mang tên là Seacat. Do được phát triển dựa trên vũ khí chống tăng, nên tên lửa Seacat có kích thước nhỏ và tốc độ bay hạn chế, chỉ dưới tốc độ âm thanh. Các kỹ sư cho rằng nó sẽ hữu hiệu trong việc chống lại các máy bay phản lực thế hệ một và thế hệ hai của những năm 1950, tương tự như Hawker Sea Hawk, mà pháo phòng không từ thời thế chiến hai như Bofors 40mm /L60 guns khó có thể đánh chặn thành công. Cái tên "Seacat" được đưa ra trước công chúng lần đầu vào tháng Tư năm 1958 khi Shorts được trao hợp đồng phát triển loại tên lửa đối không tầm gần. Hải quân Anh đã chấp nhận Seacat như một hệ thống phòng không điểm, để thay thế pháo 40/L60 hoặc loại pháo mới hơn khi đó là Bofors 40mm /L70 với đạn pháo trang bị ngòi nổ cận đích. Hệ thống tên lửa cũng sẽ có thể đối đầu với các tên lửa hành trình chống tàu bay chậm, cỡ lớn như Styx, đang được triển khai bởi khối Hiệp ước Warsaw và một số nước đồng minh của Liên Xô. Nó cũng có tác dụng như là một vũ khí để tấn công các tàu thương mại hạng nhẹ và tàu sân bay tấn công nhanh. Tên lửa được trình diễn trong triển lãm hàng không Farnborough năm 1959. Lần thử nghiệm đầu tiên của tên lửa là phóng từ tàu khu trục HMS "Decoy" năm 1961. Tên lửa Seacat là tên lửa có điều khiển phóng từ tàu chiến đầu tiên của Hải quân Vương quốc Anh. Sau đó nó được trang bị cho Hải quân Thụy Điển. Tên lửa Seacat có kích thước nhỏ, bay cận âm, có hai tầng đẩy nhiên liệu rắn. Tên lửa điều khiển bằng bốn cánh lái quét về phía sau, và ổn định bởi bốn vây đuôi nhỏ. Tên lửa được điều khiển bằng lệnh theo đường ngắm "command line-of-sight (CLOS)" thông qua đường truyền radio, theo đó sĩ quan điều khiển sẽ gửi tín hiệu điều khiển thông qua bệ điều khiển từ xa, sao cho tên lửa và mục tiêu cùng nằm trong khe ngắm. Ở một khía cạnh nào đó, nó không khác gì một tên lửa cận âm không điều khiển trong giai đoạn vừa rời bệ phóng. Bệ điều khiển sẽ mất khoảng 7 giây hay sau khi tên lửa bay được quãng đường để xác định và khóa mục tiêu bằng radar và kính ngắm quang học, dẫn đến việc nó không phù hợp cho vai trò phòng không tầm gần. Seacat được đặt trên bệ phóng bốn đạn chạy bằng điện, nhỏ hơn so với các bệ phóng kiểu Mark 5 Twin Bofors và STAAG cũ. Bệ phóng cũng nhẹ hơn, dễ bảo trì và dễ sử dụng hơn. Ban đầu tất cả các tên lửa Seacat đều sử dụng bệ phóng kiêm huấn luyện gồm 4 quả đạn, nặng , nhưng cũng có bệ phóng 3 đạn được phát triển với khối lượng nặng . Cả hai loại đều được nạp đạn thủ công và có ăng ten để điều khiển tên lửa bằng vô tuyến. Tất cả những gì cần thiết để trang bị tên lửa trên tàu chiến là lắp đặt bệ phóng, trang bị dẫn đường và các hệ thống xử lý. Seacat được Hải quân NATO và khối Thịnh vượng chung sử dụng và được xuất khẩu ra các nước khác. Nó cũng được tích hợp với nhiều hệ thống dẫn đường khác như hệ thống HSA của Hà Lan. Viết tắt của - "Guided Weapon System 20" - là nguyên mẫu của tên lửa Seacat. Mục tiêu được tìm kiếm bằng mắt thường với tên lửa được điều khiển thông qua đường truyền vô tuyến, sĩ quan điều khiển điều khiển tên lửa bằng lệnh thông qua cần gạt joystick. Người điều khiển quan sát tên lửa thông qua pháo sáng ở đuôi tên lửa.. GWS-21 là phiên bản Seacat trang bị thêm hệ thống điều khiển hỏa lực tầm gần Close Range Blind Fire (CRBFD) với radar Type 262. Hệ thống này được trang bị trên tàu frigate Type 81, bốn tàu lớp Battle, loạt bốn tàu đầu tiên của lớp County, tàuHMNZS "Otago" và HMNZS "Taranaki", và tàu sân bay HMS "Eagle". GWS-22 là hệ thống Seacat được hỗ trợ bằng hệ thống điều khiển hỏa lực MRS-3 với radar Type 904 và có khả năng ACLOS (Automatic, Command Line-Of-Sight) Seacat. Phiên bản cuối cùng của tên lửa Seacat dành cho Hải quân, phiên bản này sử dụng hệ thống điều khiển Alenia Orion RTN-10X của Ý, với radar Type 912 và được triển khai trên tàu Frigate Type 21. Là phiên bản trên đất liền của tên lửa Seacat. "Hellcat", là phiển bản không đối đất trang bị trên trực thăng Westland Wasp hay Westland Wessex HU.5 giúp chúng đối phó lại với các cuộc tấn công nhanh hoặc mục tiêu mặt nước tốc độ cao, được đưa ra vào cuối những năm 1960. Hai tên lửa được treo trên giá phóng trên trực thăng, với kính ngắm quang học được gắn trên trần cabin. Tên lửa không được bán cho nước ngoài. Tên lửa mục tiêu. "Seacat Target"" là mục tiêu bay sử dụng Seacat, sử dụng để luyện tập các tình huống tấn công bằng tên lửa. Được giới thiệu vào năm 1986, thay cho đầu nổ, nó được trang bị đầu mục tiêu đặc biệt. Tên lửa có khả năng phóng từ bệ phóng tên lửa Seacat.
Back Home Tour là chuyến lưu diễn nhằm quảng bá cho album "Back Home" (2007) của ban nhạc nam Ireland Westlife. Chuyến lưu diễn đi qua Vương quốc Anh, Ireland và New Zealand. Các chương trình bị huỷ bỏ. Một tờ báo ở Na Uy vào ngày 26 tháng 2 có đưa tin buổi biểu diễn của nhóm ở Na Uy ngày 26 tháng 5 đã bị huỷ bỏ do sức ép thời gian và vấn đề đi lại. Tiếp sau đó là những chuyến lưu diễn 25 tháng 5 ở Đan Mạch, 28 tháng 8 ở Đức và 29 tháng 5 ở Hà Lan cũng đã bị huỷ bỏ. Cả hai show diễn ở Nottingham và Cardiff ngày 19 20 tháng 5 đã lần lượt bị huỷ bỏ do Shane and Nicky bị ốm và phải nghỉ ngơi theo lời khuyên của bác sĩ.
Mathys Henri Tel (sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Bayern Munich tại Bundesliga. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sự nghiệp cầu thủ trẻ. Tel bắt đầu sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp của anh tại JS Villiers-le-Bel vào năm 2012. Năm 2016, anh chuyển đến đội trẻ của Paris FC, nơi anh chỉ chơi được một năm. Sau đó, anh còn ký hợp đồng ba năm với hai câu lạc bộ nghiệp dư AS Jeunesse Aubervilliers và Montrouge FC 92. Tel gia nhập Rennes vào năm 2020. Anh ra mắt cho đội vào ngày 15 tháng 8 năm 2021 tại trận hòa 1–1 trước Brest sau khi anh ấy vào sân thay Benjamin Bourigeaud ở phút 85. Cũng tại trận này, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân trong một trận đấu chính thức cho Rennes ở độ tuổi 16 tuổi 110 ngày. Kỷ lục trước đó đã được nắm giữ bởi Eduardo Camavinga. Anh ra mắt đấu trường châu Âu vào tháng sau tại vòng bảng UEFA Europa Conference League trong trận sân nhà 2–2 trước Tottenham Hotspur. Tại trận này, anh vào sân thay cho Serhou Guirassy ở phút 90. 2022–2023: Mùa giải đầu tiên. Vào ngày 26 tháng 7 năm 2022, Tel ký hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ Bayern Munich tại Bundesliga. Bayern đã trả cho Rennes phí chuyển nhượng 20 triệu Euro bao gồm cả 8,5 triệu Euro phụ phí cho vụ chuyển nhượng này. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2022, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Bayern tại trận chiến thắng 5–0 trước Viktoria Köln tại DFB-Pokal. Đồng thời, anh trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất cho câu lạc bộ tại một trận đấu khi mới 17 tuổi 126 ngày. Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga tại trận hòa 2–2 trước Stuttgart vào ngày 10 tháng 9 năm 2022 và anh đồng thời cũng trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất cho câu lạc bộ tại Bundesliga. Vào ngày 2 tháng 9 năm 2023, anh ghi bàn thắng muộn tại chiến thắng 2-1 trên sân khách trước Borussia Mönchengladbach để giúp Bayern chấm dứt chuỗi 5 trận không thắng trước Borussia Mönchenladbach. Vào ngày 20 tháng 9, anh ghi bàn thắng đầu tiên ở Champions League ở phút bù giờ thứ 2 để ấn định chiến thắng 4–3 trước Manchester United. Vào ngày 3 tháng 10, anh ghi bàn ấn định tỷ số 2–1 để giúp Bayern giành chiến thắng trên sân khách trước Copenhagen trong trận đấu thứ hai liên tiếp trong mùa giải tại Champions League. Sự nghiệp quốc tế. Tel là tuyển thủ trẻ Pháp, đặc biệt là cho đội tuyển U-18 quốc gia Pháp kể từ tháng 9 năm 2021, nơi anh đã chứng tỏ mình là một cầu thủ có khả năng ghi nhiều bàn thắng. Vào tháng 5 năm 2022, anh được triệu tập vào đội tuyển U-17 quốc gia Pháp tham dự Giải vô địch U-17 châu Âu 2022 ở Israel. Anh thường xuyên có mặt tại đội hình xuất phát trong suốt giải đấu này và giữ chức vụ đội trưởng ba lần. Anh nổi bật khi ghi ba bàn ở vòng bảng, một bàn vào lưới Ba Lan và một cú đúp vào lưới Bulgaria. Pháp lọt vào chung kết sau khi giành chiến thắng tại loạt sút luân lưu với Bồ Đào Nha với tỷ số 2–2 sau hiệp phụ. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2022, anh đã giành chức vô địch Giải vô địch U-17 châu Âu 2022 cùng đội U-17 Pháp sau khi đánh bại Hà Lan với tỷ số 2–1. Vào tháng 5 năm 2023, Bayern Munich đã không cho phép anh tham dự FIFA U-20 World Cup 2023 cùng đội tuyển U-20 quốc gia Pháp. Phong cách thi đấu. Tel bắt đầu sự nghiệp của mình ở vị trí trung vệ và thể hiện sự linh hoạt đáng chú ý từ rất sớm. Được trang bị khả năng kỹ thuật vượt trội, cường độ thi đấu và sự nhanh nhẹn, Tel có khả năng vượt trội ở hầu hết mọi vị trí trên sân. Đáng chú ý, trong những trận đấu đầu tiên cho cả Rennes và các đội trẻ quốc gia, anh đã thể hiện sự thành thạo ở vị trí tiền vệ cánh, tiền đạo trung tâm và tiền vệ tấn công. Tel sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005 tại Sarcelles, Chính quốc Pháp. Anh là người theo đạo Thiên chúa giáo gốc Guadeloupe. "Tính đến 11 tháng 11 năm 2023"
Juliet là một vệ tinh vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện từ các bức ảnh chụp bởi tàu "Voyager 2" vào ngày 3 tháng 11 năm 1986 và được đặt cho một danh xưng tạm thời là S/1986 U 2. Tên gọi Juliet bắt nguồn từ nhân vật nữ chính trong vở "Romeo và Juliet" của William Shakespeare. Nó còn có tên định danh là Uranus XI. Juliet nằm trong nhóm vệ tinh Portia, gồm có Bianca, Cressida, Desdemona, Portia, Rosalind, Cupid, Belinda và Perdita. Các vệ tinh này có quỹ đạo và tính chất trắc quang tương tự nhau. Ngoài những đặc điểm như quỹ đạo, bán kính 53 km và suất phản chiếu hình học là 0,08, hầu như con người không còn biết gì về vệ tinh này. Trong các bức ảnh chụp của "Voyager 2", Juliet xuất hiện như một vật thể thuôn dài với trục chính hướng về phía Sao Thiên Vương. Tỷ lệ trục của hình dạng phỏng cầu dài của Juliet là 0,5 ± 0,3, một giá trị tương đối lớn. Bề mặt của nó có màu xám. Juliet có thể va chạm với vệ tinh Desdemona trong vòng 100 triệu năm tới.
Chặng đua MotoGP Valencia 2023 Chặng đua MotoGP Valencia 2023 là chặng đua thứ 20, cũng là chặng đua cuối cùng của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 24/11/2023 đến ngày 26/11/2023 ở trường đua Ricardo Tormo, Tây Ban Nha. Tay đua chiến thắng cuộc đua Sprint race là Jorge Martin của đội đua Pramac. Tay đua chiến thắng cuộc đua chính thể thức MotoGP là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse. Bagnaia cũng chính thức lên ngôi vô địch mùa giải MotoGP 2023.
Được thành lập vào năm 2013, G, theo báo cáo của Reuters. G, do các hạn chế pháp lý của chính phủ Trung Quốc đối với tiền điện tử, G G, được ra mắt vào ngày 14 tháng 10 năm 2019. Đây là nền tảng để G, đặt câu hỏi và tham gia các hoạt động phát sóng trực tiếp đầy màu sắc trên G Năm 2019, G, đóng vai trò là quỹ bảo hiểm của nền tảng nhằm cung cấp an toàn bảo đảm cho tài sản của người dùng. G, một phương pháp chứng minh kỹ thuật cho phép người dùng kiểm tra số tiền gửi mà họ nắm giữ trên nền tảng, bao gồm tổng tài sản của họ trên nền tảng. Phương pháp này là sự kết hợp giữa các thuật toán toán học và kiểm toán tài chính dựa trên thuật toán chống hacker. G, phân tích lưu lượng truy cập mạng và phân tích tính năng định tính. Để có được chứng chỉ CER, G, bao gồm tăng cường chương trình săn lỗi nhận thưởng và kiểm tra thử nghiệm xâm nhập. Tháng 8 năm 2020, G, một nền tảng chứng nhận và xếp hạng an ninh mạng xác minh số dư và trách nhiệm pháp lý của các sàn giao dịch tiền điện tử trên toàn thế giới. Gate Ventures là bộ phận đầu tư mạo hiểm của G, được thành lập vào tháng 9 năm 2021. Gate Ventures tập trung vào các khoản đầu tư giai đoạn đầu vào cơ sở hạ tầng, hệ sinh thái và ứng dụng phi tập trung, đồng thời hỗ trợ các công ty khởi nghiệp về tài chính, nguồn lực vận hành và chuyên môn trong ngành. Gate Ventures đã ra mắt quỹ trị giá 100 triệu USD để tài trợ cho các dự án trong ngành. Gate Ventures đã ra mắt thêm quỹ khác trị giá 200 triệu USD vào tháng 11 năm 2022 để hỗ trợ nhiều giao thức layer 1 và layer 2 thay thế. Tháng 1 năm 2021, G, một công cụ tăng tốc khởi nghiệp, nhằm cung cấp cho các doanh nhân sự hỗ trợ trong ngành, các biện pháp thực hành tốt nhất và hỗ trợ nguồn lực. Tháng 10 năm 2022, G Tháng 12 năm 2022, G Gate Group đã hợp tác với Visa để ra mắt thẻ tín dụng tiền điện tử tại một số quốc gia được chọn trong Khu vực Kinh tế Châu Âu vào tháng 3 năm 2023. Năm 2023, G(AML) theo thời gian thực và chống lại nền tảng tài trợ khủng bố (CFT) cho tài sản kỹ thuật số và không gian tiền điện tử. Tháng 8 năm 2023, G, từ đó cải thiện hơn nữa tính bảo mật của hệ thống và tài sản G Tình trạng pháp lý. Gate Group được cấp phép và đăng ký ở một số nước châu Âu, bao gồm: Giấy phép Tài sản tài chính ảo (VFA) loại 4 ở Malta để thực hiện các dịch vụ giám sát và giao dịch tài sản ảo; đăng ký với tư cách là Nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo (VASP) ở Litva; và đăng ký tổ chức từ thiện ở Gibraltar. Để mở rộng sang thị trường Trung Đông, Gate Group đã nhận được giấy phép từ Trung tâm Trao đổi Hàng hóa Đa ngành Dubai (DMCC) để tiến hành giao dịch độc quyền các sản phẩm tiền điện tử tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE). Vào tháng 11 năm 2022, Gate Turkey được thành lập để tập trung phục vụ thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 2022, Hippo Financial Services Limited, một công ty con của Gate Group, đã nhận được giấy phép Nhà cung cấp dịch vụ công ty và ủy thác (TCSP) của Hồng Kông. Sau đó, Gate.HK chính thức được thành lập vào tháng 5 năm 2023. G, bao gồm giao dịch giao ngay và ký quỹ, giao dịch hợp đồng tương lai vĩnh cửu, quyền chọn và dịch vụ giao dịch NFT. Theo Bloomberg, sàn giao dịch của G,88 tỷ USD tính đến tháng 5 năm 2023. G, giao dịch ký quỹ, thanh toán push và dịch vụ chuyển đổi giữa các loại tiền tệ khác nhau, cũng như các sản phẩm như hợp đồng tương lai vĩnh cửu và hợp đồng giao chuyển, quyền chọn và CBBC. Ngoài ra còn có chức năng sao chép giao dịch phù hợp cho người mới sử dụng tiền điện tử, tức là người dùng mới có thể tự động sao chép chiến lược giao dịch của các nhà giao dịch có kinh nghiệm phong phú để tăng tỷ lệ chiến thắng trong giao dịch của mình. Sản phẩm và dịch vụ. Ngoài các dịch vụ tài chính, G, một hệ sinh thái phi tập trung để lưu trữ, phát hành và giao dịch tài sản kỹ thuật số, cũng như Gate Ventures, Gate Grants, Gate Labs, Gate NFT, Wallet S2, MiniApp và GameFi Center. Vào tháng 8 năm 2019, G(GT) trên mạng chính GateChain, sau đó đồng thời phát hành Whitepaper giao thức blockchain HipoSwap vào ngày 14 tháng 9 năm 2020. Vào nửa cuối năm 2021, mạng chính GateChain đã công bố hỗ trợ chính thức cho Máy ảo Ethereum (EVM). GateToken (GT) là token gốc của chuỗi công khai GateChain, được ra mắt vào tháng 8 năm 2019. Nó có thể được sử dụng để thanh toán phí gas cho các giao dịch diễn ra trên mạng. Hệ sinh thái Web3. Gate đã tạo ra một hệ sinh thái Web3 hoàn chỉnh, bao gồm DEX thị trường giao ngay, bộ định tuyến đa chuỗi để trao đổi mã thông báo, thế chấp và lợi nhuận, thị trường NFT và ví Gate. Ví Gate là một ví tổng hợp đa chuỗi, không giám sát, phi tập trung, để người dùng quản lý tài sản trên các chuỗi khác nhau. Tháng 11 năm 2022, G, thúc đẩy hơn việc áp dụng và phổ biến tiền điện tử và Web 3.0.
Làng Hới (tên chính thức Hải Triều, tên cũ Hải Hồ) là một làng nghề dệt chiếu cói tọa lạc ở Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Nghề dệt chiếu làng Hới có ít nhất vào thời Tiền Lê – Lý và phát triển mạnh từ thời Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (1457 - 1531, nhà Hậu Lê). Theo các tư liệu, làng Hới (tên chính thức làng Hải Triều, thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà , Thái Bình) là một làng cổ có lịch sử hình thành từ lâu đời. Chữ Hới và chữ Hải trong tiếng Hán đều dùng cùng một chữ 海 khi viết, nên đa số các tên khác của làng Hới đều có chữ Hải là vậy. Làng Hới nằm ở vị trí gần ngã ba sông, nơi sông Hồng có chi lưu là sông Luộc. Trong sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi thì gọi là "sông Nông Kỳ", một trong ba "kỳ quan" của trấn Sơn Nam thời xưa. Với vị trí thuận lợi trồng nguyên liệu và giao thương, người dân nơi đây đã sớm học được nghề dệt chiếu và phát triển thành làng nghề truyền thống. Từ thế kỷ thứ 15, với việc học hỏi nghề dệt chiếu từ Trung Quốc của trạng nguyên Phạm Đôn Lễ, nghề dệt chiếu ở làng Hới phát triển mạnh và thành một trong những sản phẩm thủ công nổi tiếng của đồng bằng sông Hồng. Về sau, khu vực xung quanh làng Hới đã trở thành một vùng dệt chiếu đông đúc, ví dụ có lúc ở huyện Hưng Nhân cũ có lúc lên tới 20 làng chuyên dệt chiếu. Sách Đại Nam nhất thống chí của Nhà Nguyễn có ghi nhận rằng ""Chiếu trơn xã Thanh Triều, Hải Triều" (làng Hới) "huyện Hưng Nhân sản xuất tốt hơn cả"" , và ở thế kỷ 18 thương gia Nhà Thanh (Trung Quốc) đã qua vùng chiếu làng Hới thu gom chiếu rất nhiều. Năm đầu thế kỷ 19, qua tay các thương gia người Hoa, chiếu cói làng Hới đã được đưa đi Hương Cảng (Hồng Công) và một số nước Châu Âu. Đến thời Pháp thuộc, nhiều người nước ngoài, trong đó đặc biệt là người Hoa, tìm đến đầu tư mở xưởng chiếu cùng với người Việt; nhưng làng Hới vẫn có tiếng nhất trong khu vực sản xuất chiếu ở Thái Bình. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, các xưởng dệt chiếu của người nước ngoài ngưng sản xuất, nghề dệt chiếu tại làng Hới vẫn tiếp tục phát triển do chiếu vẫn là sản phẩm tiêu dùng không thể thiếu của người Việt thời kỳ này. Làng Hới trải qua một thời kỳ suy thoái ở những năm 1955 - 1985, ở thời kỳ bao cấp các thợ dệt chiếu Hới sản xuất chiếu theo mô hình hợp tác xã. Do chính sách sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch được giao tập trung chủ yếu vào số lượng nên chất lượng của chiếu Hới thời kỳ này đã giảm sút đáng kể. Từ 1986 đến 1990, theo chính sách kinh tế chung thay đổi ở thời kỳ Đổi Mới, nghề chiếu ở làng Hới đã từ từ được tái thiết lập và đã trở nên phát triển và mở rộng hơn so với trước đây. Từ thời gian này, không những làng Hới, mà cả các làng khác trong xã Tân Lễ cũng đã trở nên thịnh vượng hơn nhờ vào nghề dệt chiếu. Đến năm 2010, tại làng Hới nói riêng và khu vực sản xuất chiếu lân cận nói chung, giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, cư dân của làng Hới và toàn xã Tân Lễ chủ yếu sống nhờ vào nghề dệt chiếu. Thông thường, trong một năm 12 tháng, các nhà nghề chiếu chỉ tập trung sản xuất với cường độ cao trong khoảng 8 tháng, còn 4 tháng còn lại được dành cho việc sản xuất nông nghiệp. Do đó, nhiều hộ gia đình trong xã vẫn nhận ruộng để trồng lúa, nhưng phần lớn họ thuê lao động từ những người không theo nghề chiếu hoặc từ nơi khác. Năm 2011, toàn vùng huyện Hưng Hà sản xuất hàng năm được khoảng 5,4 triệu chiếu chiếu với khoảng 21 làng nghề dệt chiếu được chính quyền sở tại công nhận. Riêng xã Tân Lễ, trong số 3.500 hộ gia đình toàn xã có tới 80% số hộ sở hữu xưởng sản xuất chiếu với 10/14 thôn là làng nghề dệt chiếu, tổng tiêu thụ mỗi năm lên đến 8000 tấn cói. Thời điểm hiện tại, ngoài dệt chiếu cói, một số hộ trong làng đã và đang sản xuất song song loại chiếu làm bằng sợi nylon. Nghề dệt chiếu làng Hới. Làng Hới có nghề dệt chiếu ở làng Hới nổi tiếng đã đi vào văn học dân gian với câu vè: "Ăn cơm Hom. " Lịch sử phát triển. Với vị trí thuận lợi trồng nguyên liệu và giao thương, người dân nơi đây đã sớm học được nghề dệt chiếu và phát triển thành làng nghề truyền thống, thuyết nói là từ thời Tiền Lê-Lý. Tuy nhiên, ban đầu làng chỉ dệt chiếu bằng phương pháp thủ công dệt bàn dệt đứng, không có ngựa đỡ sợi, cách dệt đơn giản nên sản phẩm không được đẹp và bền. Bước ngoặt quan trọng đưa nghề dệt chiếu Hới lên một tầm cao mới là vào thế kỷ 15 khi Phạm Đôn Lễ, người làng Hới, đỗ khoa thi Trạng nguyên năm 1481 thời vua Lê Thánh Tông, sau được cử đi sứ nhà Minh (Trung Quốc). Tại Quảng Tây, ông Lễ đã tiếp thu và học hỏi thêm những kỹ thuật dệt chiếu nằm tiên tiến hơn trong lĩnh vực dệt chiếu. Sau khi về nước, Phạm Đôn Lễ đã tích cực chia sẻ và truyền dạy và cải tạo quy trình dệt chiếu dân chiếu làng Hới: từ kỹ thuật dệt đứng, làng chuyển sang kỹ thuật dệt nằm, có ngựa đỡ sợi. Chính nhờ việc này, kỹ thuật dệt chiếu của người dân Hới có bước tiến triển lớn. Sản phẩm chiếu ra đời từ đây đẹp và bền hơn rất nhiều, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng và ngày càng được ưa chuộng. Nghề dệt chiếu truyền thống của làng Hới từ đó có dịp phát triển mạnh mẽ, làm nên tên tuổi và trở thành một trong hàng thủ công chuộng dùng trong nhiều lĩnh vực từ sinh hoạt bình thường đến cung đình, lễ hội trong cả nước cho đến ngày nay. Do công lao này, ông Lễ còn được gọi là Trạng Chiếu và tôn vinh thờ cúng như tổ nghề trong làng, và làng Hới cũng là làng nghề chiếu duy nhất có tổ nghề ở Việt Nam. Hoạt động dệt chiếu. Cói và sợi đay là hai nguyên liệu chính để làm chiếu Hới là hai loại cây rất dễ trồng trồng ở những vùng gần sông nước, nơi có nhiều phù sa bồi đắp. Làng Hới nằm giữa hai con sông lớn là sông Hồng và sông Luộc, là khu vực thổ nhưỡng tốt để trồng những loại cây này, đồng thời vị trí này cũng là tiền đề thuận lợi trong việc giao thương mua bán các loại nguyên liệu, phẩm màu dệt chiếu khác. Nguồn cói ở đây trước được trồng chủ yếu tại địa phương, mua từ vùng Thanh Hóa hoặc các huyện lỵ trồng cói lân cận. Hiện tại do nhiều khu vực truyền thống trồng cói đã không còn, cói dùng trong hoạt động sản xuất đang được thu gom từ những vùng xa hơn như là miền Nam Việt Nam. Sau khi thu hoạch hoặc mua về, cói sẽ được chuyển đến quy trình sản xuất chiếu. Để tạo ra một chiếc chiếu hoàn chỉnh, cói phải đi qua nhiều bước, bao gồm việc gặt cói và dựa vào loại chiếu cần tạo, sợi cói và sợi đay sẽ được nhuộm màu phù hợp hoặc để cói trắng, sau đó cói sẽ được phơi khô, làm sạch và tuyển lựa trước khi mang đi dệt. Chiếu cói sau khi đã được dệt xong theo đúng kích thước, sẽ được người thợ cẩn thận cắt bỏ những sợi cói dư thừa, sau đó buộc chặt (hoặc may viền) để đảm bảo độ bền. Tại thời điểm này, chiếu có thể được đưa ra thị trường hoặc được mang đi vẽ hoặc in màu để tăng thêm vẻ đẹp. Chiếu Hới có sự đa dạng về loại hình, bao gồm chiếu cài hoa, chiếu trơn, chiếu sợi xe, trong số đó một số trở thành loại hình chiếu riêng biệt có tên riêng như chiếu Gon, chiếu Nảy. Ngoài ra, các nghệ nhân dệt chiếu nhiều kinh nghiệm nhất thường có thể dệt ra nhiều mẫu hoa văn khác nhau, từ hoa, chữ thọ, chữ lồng đến các họa tiết và hình thù phức tạp khá Chiếu làng Hới nổi tiếng lúc mới sợi mịn trắng ngà, dễ nhìn, hương thơm từ cây cói cùng với kỹ thuật làm biên riêng biệt so với các làng khác và ngoài để nằm, ngồi còn có thể dùng đắp giữ ấm được. Khi sử dụng trong thời gian dài, chiếu chuyển sang màu vàng, độ mềm mại tốt, dễ làm sạch, thoáng đãng, nước thoát nhanh, khô nhanh. Nghề dệt chiếu ở làng Hới ban đầu là dệt thủ công công suất khoảng 1-2 chiếu với hai thợ trong vòng 1 ngày; còn hiện nay có thể tăng lên tới 20 đôi một ngày dưới sự hỗ trợ của các loại máy móc cơ khí dệt chiếu. Hoạt động giao thương. Từ xưa, việc giao thương chiếu của làng Hới chủ yếu qua các chợ ở gần làng. Tại đây, chiếu được thu gom và đi tiêu thụ khắp cả nước. Tương truyền chiếu làng Hới cũng từng là vật phẩm tiến vua khi xưa. Việc mua chiếu Hới ở chợ đã trở thành một nét văn hóa dân gian ở địa phương. Tiêu biểu là hội chiếu làng Hới diễn ra vào khoảng ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch, làng tổ chức lễ hội với nhiều hoạt động, trong đó có cuộc thi dệt chiếu. Đầu mùa xuân, du khách thường mua chiếu như một phong tục cầu may. Sau Tết Nguyên đán, làng tổ chức lễ hội với phiên chợ chiếu xuân. Trong sân đình, có cuộc thi dệt chiếu giữa các giáp. Giải thưởng không chỉ là điềm may đầu năm mà còn là tiếng tăm về tài nghệ và uy tín của từng phường, ảnh hưởng đến uy tín làm nghề. Đến thời Pháp thuộc, việc giao thương được mở rộng hơn, khi chính quyền khi này mở những trung tâm dệt chiếu và thu gom chiếu thành phẩm ở các khu vực lân cận như ở Luật Trung (Kiến Xương), Diêm Điền (Thái Thụy) để đưa đi Hồng Công hoặc châu Âu. Hiện tại, việc trao đổi chiếu vẫn diễn ra ở các chợ hoặc thông qua các đại lý nguyên liệu kiêm tiêu thụ, như thống kê năm 2016, khu vực có 6 đại lý chính đảm nhiệm việc cung cấp nguyên liệu và mua lại sản phẩm từ cả làng. Số lượng chiếu được tiêu thụ trực tiếp tại địa phương không nhiều. Hầu hết chiếu được các đại lý thu mua và phân phối đến nhiều vùng khác trên cả Việt Nam, hay xuất khẩu đi Lào, Campuchia, Thái L Nơi thờ cúng công cộng trong làng. Thống kê đầu thập niên 1930, làng có hai đình, một miếu và hai chùa.
Chặng đua MotoGP Indonesia 2023 Chặng đua MotoGP Indonesia 2023 là chặng đua thứ 15 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 13/10/2023 đến ngày 15/10/2023 ở trường đua Mandalika, Indonesia. Jorge Martin của đội đua Pramac Racing chiến thắng cuộc đua Sprint race để vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 328 điểm. Nhưng một ngày sau đó Martin lại để ngã xe trong cuộc đua chính, còn Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse giành được chiến thắng và giành lại ngôi đầu bảng với 346 điểm.
Odontanthias fuscipinnis là một loài cá biển thuộc chi "Odontanthias" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1901. Từ định danh "fuscipinnis" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "fuscus" ("sẫm màu") và "pinnis" ("vây"), hàm ý đề cập đến màu sẫm ở phần gốc vây lưng và gốc vây đuôi của loài cá này. "O. fuscipinnis" là loài đặc hữu của quần đảo Hawaii và cả đảo Johnston không xa đó. "O. fuscipinnis" thường xuất hiện trên nền đáy cứng có hang hốc, có thể được tìm thấy trong khoảng độ sâu từ 43 đến 260 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "O. fuscipinnis" là 24 cm. Cá có màu vàng cam với các vệt màu cánh sen trên đầu và ngực. Gốc vây lưng và vây đuôi có màu đen. Vây hậu môn, gai vây bụng và hai thùy đuôi có viền màu hồng tím. Vây ngực màu cam. Vây đuôi xẻ thùy, không thon nhọn về hai đầu mà bo tròn như mái chèo. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ ba dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số vảy đường bên: 42–47. "O. fuscipinnis" được đánh bắt trong ngành kinh doanh cá cảnh, đôi khi cũng được bán trong các chợ cá ở Honolulu. Chúng sống tốt trong môi trường bể cá mặc dù môi trường sống tự nhiên là vùng nước sâu.
Các mộ táng Già Da Các mộ táng Già Da (tiếng Hàn: ) là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm 7 khu phức hợp lăng mộ của liên minh Già Da phát triển ở phần phía nam của Bán đảo Triều Tiên có niên đại từ thế kỷ 1 đến cuối thế kỷ 6. Thông qua sự phân bố địa lý và đặc điểm cảnh quan, loại hình chôn cất và đồ chôn cất cùng, các mộ táng chứng thực hệ thống chính trị đặc biệt của liên minh Già Da, trong đó các chính thể tồn tại bình đẳng tự trị trong khi chia sẻ những điểm chung về văn hóa. Sự ra đời của hình thức lăng mộ mới có sự phân cấp phản ánh những thay đổi về cấu trúc mà xã hội Già Da đã trải qua trong suốt lịch sử. Bảy mộ táng là nơi chôn cất các nhà lãnh đạo cao nhất của bảy chính thể Già Da phát triển độc lập tại các địa điểm khác nhau trên khắp phần phía nam của Bán đảo Triều Tiên. Chúng đều nằm trên địa hình cao ở trung tâm của một chính thể là nơi tập trung nhiều mộ táng được xây dựng trong một thời gian dài. Sự phân bố rải rác của các cụm lăng mộ hoành tráng và phức tạp như nhau, biểu hiện của hoạt động chọn lựa và xây dựng các lăng mộ của những người có địa vị cao, chứng tỏ sự tồn tại của nhiều chính thể tự trị và quyền lực ngang nhau dưới ảnh hưởng của cùng một nền văn hóa.
Minna! Esper Dayo! (tiếng Nhật: みんな!エスパーだよ!; tiếng Anh: The Virgin Psychics) là bộ phim khoa học viễn tưởng hài kịch Nhật Bản của đạo diễn Sion Sono sản xuất năm 2015. Đây là phiên bản chuyển thể thứ ba của loạt seinen manga "All Esper Dayo!" được viết và minh họa bởi Kiminori Wakasugi, tiếp nối một bộ phim truyền hình dài tập năm 2013 và một bộ phim truyền hình đặc biệt đầu năm 2015. Phim được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 4 tháng 9 năm 2015.
Eiga Minna! Esper Dayo! Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Lipase lưỡi chịu trách nhiệm cho 30% chất béo được thủy phân trong 20 phút đầu tiên thức ăn được ăn. Lipase lưỡi và lipase dạ dày là hai lipase acid. Loại lipase còn lại - lipase tụy - là lipase kiềm. Lipase acid có đóng góp ít hơn vào quá trình tiêu hóa lipid vì chỉ có thể cắt một acid béo khỏi mỗi phân tử chất béo (tức chỉ có thể tạo diglyceride).