text
stringlengths 82
354k
|
---|
Nizam (tiếng Ả Rập: نظام / niẓām; tiếng Tamil: நிசாம்) là tước hiệu của những người cai trị Nhà nước Hyderabad và các nhà nước bán tự trị khác ở tiểu lục địa Ấn Độ.
Dưới thời Đế quốc Mogul, đây là một tước hiệu quân sự, được các hoàng đế Mogul bổ nhiệm để quản lý các lãnh thổ bán tự trị, càng về sau này các Nizam càng có nhiều quyền lực hơn và tước hiệu được kế thừa dưới hình thức cha truyền con nối, nó tương tự như chức quan Tiết độ sứ cuối thời Nhà Đường ở Trung Quốc, từ một viên tướng canh giữ những vùng trọng yếu trở thành một lãnh chúa cai quản một vùng và tước hiệu được cha truyền con nối.
Sau khi Đế chế Mogul xụp đổ, người Anh tiến hành thực dân hoá Ấn Độ và vẫn duy trì các phiên quốc do các gia tộc bản địa cai trị trước đó, trong đó phiên quốc lớn nhất là Hyderabad của Triều đại Asaf Jahi, và người cai trị của nó lấy tước hiệu là Nizam và là phiên quốc duy nhất trong 565 phiên quốc của Ấn Độ thuộc Anh sử dụng tước hiệu Nizam. Những nhà cai trị các phiên quốc ở Ấn Độ, dù lấy tước hiệu là gì, họ đều được gọi chung là thân vương hoặc hoàng thân trong tiếng Anh.
Vị Nizam cuối cùng có chủ quyền trong lịch sử Ấn Độ chính là Mir Osman Ali Khan, Nizam thứ VII của xứ Hyderabad, được xem là một trong những người giàu nhất thế giới ở mọi thời đại. |
Roberta là con gái duy nhất và là người con cuối cùng của María Eulalia của Tây Ban Nha (con gái của Isabel II và Francisco de Asís của Tây Ban Nha) và Antonio María của Orléans (con trai của María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha và Antoine của Pháp).
Trước khi Roberta chào đời, bác dâu của Vương tôn nữ, Nhiếp chính hậu Maria Christina Henriette đã thay mặt cho con trai Alfonso XIII của Tây Ban Nha ban sắc lệnh rằng bất kỳ người con nào của María Eulalia của Tây Ban Nha đều sẽ là Infante/Infanta của Tây Ban Nha và được hưởng quyền lợi tương xứng.
Ngày 12 tháng 3 năm 1890, tại Madrid lúc 7 giờ 15 phút sáng, Roberta đã được sinh ra nhưng đã qua đời vì ngạt thở.
Hai ngày sau, Roberta được chôn cất tại Panteón de los Infantes của Tu viện El Escorial, trong phòng mộ thứ sáu thuộc lăng mộ trẻ sơ sinh với dòng văn bia sau :INFANS FEMINA, ELISABETH II, NEPOS |
María del Pilar của Bayern và Tây Ban Nha
María del Pilar của Bayern và Tây Ban Nha hay María del Pilar de Baviera y Borbón (Madrid, 15 tháng 9 năm 1912 - Madrid, 9 tháng 5 năm 1918 ) là người con út của Ferdinand của Bayern và María Teresa Isabel của Tây Ban Nha. Theo sắc lệnh của người cậu là Alfonso XII của Tây Ban Nha, María del Pilar được phong là Infanta của Tây Ban Nha.
María del Pilar là người con út của Ferdinand của Bayern và María Teresa Isabel của Tây Ban Nha. Theo dòng cha, María del Pilar là cháu nội của Ludwig Ferdinand của Bavaria và María de la Paz của Tây Ban Nha, con gái của Isabel II của Tây Ban Nha; Theo dòng mẹ, María del Pilar là cháu gái của Alfonso XII của Tây Ban Nha, con trai của Isabel II, và Maria Christina Henriette của Áo. Thông qua gia phả thì cha mẹ của Pilar là chị em họ. Trước khi Vương tôn nữ chào đời, Alfonso XII đã ra sắc lệnh tuyên bố rằng các con của chị gái María Teresa sinh ra đều sẽ là Infante/Infanta của Tây Ban Nha và được hưởng các đặc quyền tương ứng.
Mẹ của María del Pilar, María Teresa đã qua đời tám ngày sau khi sinh Vương tôn nữ, giống như chị gáiMaría de las Mercedes cũng đã qua đời tám năm trước sau khi sinh. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1912, Vương tôn nữ được rửa tội cách kín đáo vì mẹ vừa qua đời. Cha mẹ đỡ đầu của Vương tôn nữ là Nhiếp chính Vương tử Leitpold của Bayern, và Aldegunde Auguste của Bayern, Thái Công tước phu nhân xứ Modena, đại diện bởi ông bà nội là Ludwig Ferdinand của Bayern và María de la Paz của Tây Ban Nha. María del Pilar chủ yếu sống trong dinh thự mà cha sở hữu ở Cuesta de la Vega, gần Cung điện Oriente ở Madrid. Vương tôn nữ có ba anh chị tên là Luis Alfonso, José Eugenio và María de las Mercedes.
Năm 1914, cha của María del Pilar tái hôn với María Luisa de Silva y Fernández de Henestrosa, người được Thái hậu Maria Christina phong thành Nữ Công tước xứ Talavera de la Reina và cùng tước hiệu Infanta vào năm 1927 nhân ngày cưới.
María del Pilar qua đời vì bệnh viêm màng não tại Madrid, vào ngày 9 tháng 5 năm 1918, khi chưa tròn sáu tuổi. Vương tôn nữ được chôn cất tại Panteón de Infantes trong Tu viện El Escorial. |
Namekata Hisashi ( (Hành Phương Thượng Sử), Namekata Hisashi) sinh ngày 30 tháng 12, 1973 (Chiêu Hòa thứ 48) tại TP Hirosaki, Aomori là một kỳ thủ shogi chuyên nghiệp đạt cấp độ Cửu đẳng người Nhật Bản. Kể từ năm 2023, ông là một giám đốc không thường trực của Liên đoàn Shogi Nhật Bản.
Khi còn học lớp 6 tiểu học, Namekata đã giành hạng 3 chung cuộc tại Tiểu học Danh Nhân chiến lần thứ 10. Người vô địch giải đấu đó là Nozuki Hirotaka (hiện là Bát đẳng). Ngoài ra, Kimura Kazuki (hiện là Cửu đẳng) cũng góp mặt tại vòng Tứ kết.
Để nghiên cứu Shogi, vào năm 12 tuổi, sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông đã một mình chuyển đến Tokyo. Khi học trung học cơ sở, ông thường bị chế giễu và bắt nạt do các giáo viên và các bạn ký túc xá của ông không biết về việc ông đã là thành viên của Trường đào tạo kỳ thủ. Do đó, khi còn học trung học, ông thường nói rằng "Việc bỏ học trung học có vẻ rất ngầu". Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đã tiếp tục học trung học phổ thông ở đó, tuy nhiên ông đã bỏ học chỉ sau 3 tháng.
Vào năm 1993, khi mới 19 tuổi, ông đã thăng lên Tứ đẳng và trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Khi đó, trong một buổi phỏng vấn với giới truyền thông, Namekata đã nói rằng: "Tôi muốn đánh bại Habu và có vợ đẹp".
Sau khi lên chuyên.
Ngay sau khi lên chuyên, tại giải đấu đầu tiên của mình, Long Vương chiến kỳ 7 (mùa giải 1993-94), Namekata đã chiến thắng tổ 6 và tiến vào vòng Chung kết. Mặc dù ông là đại diện của tổ 6 nhưng ông đã chiến thắng trước kỳ thủ vừa giành danh hiệu năm trước là Gōda Masataka tại tứ kết. Cũng tại đây, Namekata đã lần lượt đánh bại nhiều kỳ thủ khác cũng tranh quyền khiêu chiến Satō Yasumitsu Long Vương như Fukaura Kōichi, Moriuchi Toshiyuki, Minami Yoshikazu, và Yonenaga Kunio. Cuối cùng, đối thủ của ông tại loạt 3 ván Xác định Khiêu chiến giả là Habu Yoshiharu. Ở đó, Namekata đã chịu thất bại 0-2. Trùng hợp thay, ở kỳ đó, Habu đã giành danh hiệu Long Vương và trở thành Lục quán. Ngoài ra, tại Vương Tọa chiến kỳ 43, ông đã chiến thắng 6 ván liên tiếp để đi từ vòng Sơ loại thứ Nhất đến vòng Chung kết, nơi ông bị loại từ vòng 1.
Ở tổ 5 Long Vương chiến kỳ 8 (mùa giải 1994-95), Namekata đã một lần nữa đánh bại Gōda Masataka tại chung kết tổ để chiến thắng tổ 5 và thăng lên Ngũ đẳng do chiến thắng tổ tại Long Vương chiến 2 kỳ liên tiếp. Đây cũng là mùa giải đầu tiên mà điều kiện thăng đẳng này được áp dụng, và sau Namekata, chỉ có Kimura Kazuki được thăng đẳng theo điều kiện này. Namekata giành được 1 trận thắng tại vòng Chung kết.
Vào năm 1995, ông đã vô địch Giải Shogi nhanh dành cho các kỳ thủ mới được phát trực tiếp. Cũng trong mùa giải 1995, ông đã nhận giải Tân binh của năm tại kỳ Đại Thưởng năm đó. Ở Vương Vị chiến kỳ 37, Namekata lần đầu tiên vào đến vòng Xác định Khiêu chiến giả, tuy nhiên ông đã bị loại với thành tích 3 thắng - 2 thua.
Trong mùa giải 1996, ở Long Vương chiến kỳ 9, ông đã vượt qua trận tranh hạng 3 của tổ 4 và thăng lên tổ 3. Vào năm sau đó, ở tổ 3, ông đã chiến thắng tổ và thăng lên tổ 2 (tuy nhiên ông đã không thi đấu tốt sau đó và phải trở về tổ 3).
Ở mùa giải 1998, tại Thuận Vị chiến kỳ 57, Namekata đã toàn thắng 10 ván và thăng lên hạng C1 với vị trí thứ 1 chung cuộc. Ở Kỳ Thánh chiến kỳ 70, với 8 ván thắng liên tiếp, ông đã vào đến top 4 của vòng Chung kết. Tại Vương Vị chiến kỳ 40, ông đã lọt vào vòng Xác định Khiêu chiến giả lần thứ 2 và xếp thứ nhì Hồng tổ với thành tích 4 thắng - 1 thua và trụ lại vòng này (tuy nhiên ông đã bị loại ở kỳ sau).
Trong mùa giải 1999, Namekata đã trở lại tổ 2 tại Long Vương chiến kỳ 12, và tại kỳ 13, ông đã chiến thắng ván tranh hạng 3 và lần đầu tiên thăng lên tổ 1.
Trong mùa giải 2000, tại Thuận Vị chiến kỳ 59, ông xếp hạng 2 chung cuộc ở hạng C1 với thành tích 8 thắng - 2 thua, qua đó thăng lên hạng B2.
Tại Giải Shogi nhanh dành cho các kỳ thủ mới của mùa giải 2001, ông đã thua Fukaura Kōichi tại chung kết và về nhì.
Trong mùa giải 2003, ở hạng B2 Thuận Vị chiến kỳ 62, ông xếp thứ 2 chung cuộc với thành tích 8 thắng - 2 thua, qua đó thăng lên hạng B1. Ngoài ra, ở Tân Nhân Vương chiến kỳ 34, ông đã vào đến chung kết nhưng lại để thua Tamura Kōsuke 1-2 ở loạt 3 ván và về nhì.
Tại hạng B1 Thuận Vị chiến của mùa giải 2004, trong ván đấu trước Nakagawa Daisuke Thất đẳng, sau 2 lần bế tắc và lặp lại nước đi, Namekata và Nakagawa đã phải đấu lại 2 ván kéo dài tổng cộng 23 tiếng (từ 10 giờ sáng đến 9 giờ sáng ngày hôm sau) trong tình trạng thiếu ngủ. Sau cùng, ông đã thắng ván đó. Cùng năm đó, ông đã vào đến vòng Xác định Khiêu chiến giả của Vương Tướng chiến kỳ 55 và bị loại với thành tích 2 thắng - 4 thua. Ở Long Vương chiến kỳ 19, ông thua 2 ván liên tiếp ở tổ 1 và bị giáng xuống tổ 2.
Ở mùa giải 2006, Namekata đã về thứ 2 tại hạng B1 Thuận Vị chiến và được thăng lên hạng A vào tháng 4 năm 2007. Tuy nhiên, tại kỳ đầu tiên ở hạng A, ông đã thi đấu không tốt và về cuối với thành tích 1 thắng - 8 thua và trở lại hạng B1. Tuy nhiên, vào ngày 9 tháng 2 năm 2008, Namekata đã vô địch Cúp Asahi mở rộng mới thành lập, chức vô địch một giải đấu không danh hiệu đầu tiên của ông. Namekata đạt được thành tích này không lâu sau khi bị giáng khỏi hạng A.
Ở mùa giải 2008, tại Long Vương chiến kỳ 21, ông đã chịu 2 ván thua liên tiếp và bị giáng xuống tổ 3. Tuy nhiên, ở kỳ sau đó (kỳ 22), Namekata đã thành công thăng trở lại tổ 2.
Vào ngày 10 tháng 1 năm 2013, với chiến thắng ở vòng 11 hạng B1 Thuận Vị chiến kỳ 71, Namekata đã thành công giành suất thăng lên hạng A sớm 2 ván. Sau ván thắng trước Maruyama Tadahisa Cửu đẳng, ông đã được kỳ vọng sẽ làm nên lịch sử với thành tích 12 ván thắng liên tiếp. Tuy nhiên, ở ván cuối, ông đã phải chịu thua trước Kubo Toshiaki Cửu đẳng và kết thúc mùa Thuận Vị với thành tích 11 thắng - 1 thua.
Vào ngày 29 tháng 5 năm 2013, tại ván Xác định Khiêu chiến giả của Vương Vị chiến kỳ 54, Namekata đã vượt qua Satō Yasumitsu Cửu đẳng và đạt được ước mơ lớn nhất của ông - khiêu chiến một danh hiệu lần đầu tiên. Ông đã chịu thất bại 1-4 trước Habu Yoshiharu Vương Vị (và cũng bị loại khỏi vòng Xác định Khiêu chiến giả ở mùa giải kế tiếp).
Namekata đã kết thúc hạng A Thuận Vị chiến kỳ 73 với Thuận Vị 2 và thành tích 6 thắng - 3 thua, bằng với Watanabe Akira (Thuận Vị 3), Kubo Toshiaki (Thuận Vị 7), và Hirose Akihito (Thuận Vị 9). Ở ván cuối cùng, ông đã gặp Kubo, người vừa đánh bại Watanabe và Hirose và chiến thắng sau 150 nước đi, qua đó giúp ông giành quyền khiêu chiến Habu Yoshiharu Danh Nhân lần đầu tiên. Ông đã chịu thất bại 1-4 trong loạt tranh ngôi.
Tại Cúp NHK lần thứ 64 (mùa giải 2014), đối thủ của ông ở bán kết là Hashimoto Takanori. Khi Hashimoto phải chịu áp lực byoyomi và đang trong thế cờ bất lợi, anh đã phạm luật Hai Tốt. Khi đó, Namekata đã nhận ra điều này trước và ôm đầu bối rối, làm cho Hashimoto bất ngờ. Sau đó, ông đã thua Moriuchi Toshiyuki ở chung kết và về nhì. Tại Long Vương chiến kỳ 27, Namekata đã chiến thắng tổ 2 và trở lại tổ 1 (tuy nhiên ông chịu 2 ván thua ở mùa giải sau đó và tiếp tục bị giáng xuống tổ 2).
Tại vòng 2 của Cúp JT lần thứ 36, ván đấu giữa Namekata và Watanabe Akira vào ngày 5 tháng 9 năm 2015 đã kết thúc bằng bế tắc sau 297 nước đi, một kỷ lục mới của giải đấu này và cũng là ván đấu bế tắc đầu tiên tại Cúp JT (Namekata đã thua ván đấu lại ngay sau đó). Namekata cũng đã tiến vào vòng Xác định Khiêu chiến giả của Vương Vị chiến kỳ 57, tuy nhiên ông đã bị loại với thành tích 3 thắng - 2 thua. Ông cũng đã vào đến top 4 của giải đấu mới - Duệ Vương chiến.
Vào ngày 29 tháng 1 năm 2018, với chiến thắng trước Murayama Yasuaki Thất đẳng tại vòng Sơ loại thứ Hai của Kỳ Thánh chiến kỳ 89, ông trở thành kỳ thủ thứ 52 đạt được thành tích 600 ván thắng chính thức và nhận Giải thưởng Vinh dự Shogi.
Vào ngày 3 tháng 3 năm 2018, sau khi thua Inaba Akira Bát đẳng, ông đã bị giáng khỏi hạng A Thuận Vị chiến với thành tích 3 thắng - 7 thua sau 5 kỳ liên tiếp trụ lại đây. Tại Long Vương chiến kỳ 30, ông cũng chịu 2 thất bại và bị giáng xuống tổ 3. Tại Duệ Vương chiến kỳ 3, ông vẫn thi đấu tốt và tiến đến top 4.
Trong mùa giải 2019, tại hạng B1 Thuận Vị chiến kỳ 78, với thành tích 8 thắng - 4 thua, ông xếp thứ 3 chung cuộc và bỏ lỡ một cơ hội trở lại hạng A. Thành tích thi đấu của ông trong mùa giải sau đó bị đảo lại - ông kết thúc mùa Thuận Vị với thành tích 4 thắng - 8 thua, xếp thứ 11 chung cuộc và bị giáng xuống hạng B2.
Namekata là một người chơi Cư Phi Xa nổi tiếng với lối đánh chày cối.
"Chi tiết về hạng/tổ của kỳ thủ vui lòng xem các bài Thuận Vị Chiến và Long Vương Chiến." |
Xa lộ Liên tiểu bang 40 ở Tennessee
Interstate 40 (I-40) là một phần của Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang có chiều dài từ Barstow, California, đến Wilmington, North Carolina. Xa lộ này chạy qua tiểu bang Tennessee từ tây sang đông, từ sông Mississippi tại ranh giới với Arkansas đến dãy núi Blue Ridge ở ranh giới North Carolina. Với chiều dài , phần xa lộ chạy qua Tennessee của xa lộ I-40 là phần dài nhất qua 8 tiểu bang mà xa lộ này chạy qua, và đây là xa lộ liên tiểu bang dài nhất của tiểu bang Tennessee.
I-40 chạy qua 3 thàng phố lớn nhất Tennessee Memphis, Nashville, vàd Knoxville và cung cấp đường tiếp cận cho vườn quốc gia Great Smoky Mountains, vườn quốc gia có khách tham quan nhiều nhất ở Hoa Kỳ. |
Hoa hậu Hoàn vũ 2024
Hoa hậu Hoàn vũ 2024 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 73 được tổ chức ở Mexico. Hoa hậu Hoàn vũ 2023 Sheynnis Palacios đến từ Nicaragua sẽ trao lại vương miện cho người kế nhiệm vào cuối đêm chung kết.
Thông tin cuộc thi.
Lựa chọn thí sinh.
Vào tháng 9 năm 2023, trong buổi trình diễn của Tanner Fletcher tại Tuần lễ thời trang New York, Hoa hậu Hoàn vũ 2022 R'Bonney Gabriel tiết lộ rằng Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ đã đưa ra quyết định xóa bỏ giới hạn độ tuổi đối với các thí sinh trên 18 tuổi, việc này sẽ được thực hiện bắt đầu từ năm 2024. Trước sự thay đổi này, cuộc thi đã hạn chế sự tham gia của phụ nữ trong độ tuổi từ 18–28 vào năm diễn ra cuộc thi, trừ những trường hợp đặc biệt.
Thí sinh tham gia.
6 thí sinh xác nhận sẽ tham gia cuộc thi:
- Jia Qi được chỉ định tham dự làm đại diện tại cuộc thi năm nay. Cô đăng quang "Hoa hậu Hoàn vũ Trung Quốc 2023" và theo kế hoạch sẽ tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2023. Tuy nhiên do gặp trục trặc về thủ tục cấp visa nên cô đã bỏ lỡ nhiều hoạt động của cuộc thi và cuối cùng không thể tranh tài ở mùa giải năm nay.
- Maya Turdalieva được chỉ định làm đại diện tại cuộc thi năm nay. Cô đăng quang "Hoa hậu Kyrgyzstan 2023" và theo kế hoạch sẽ tham dự ấn bản năm ngoái nhưng đã phải rút lui sau đó vì lý do cá nhân.
- Nominzul Zandangiin được chỉ định làm đại diện tại cuộc thi năm nay. Cô đăng quang "Hoa hậu Hoàn vũ Mông Cổ 2023" và theo kế hoạch sẽ tham dự ấn bản năm ngoái nhưng đã phải rút lui sau đó vì lý do cá nhân. Cô được thay thế bởi Á hậu 2 Hoa hậu Hoàn vũ Mông Cổ 2023 Namuunzul Batmagnai. |
Pak Doo-ik (Chosungul: 박두익; Hanja: 朴斗翼; sinh ngày 17 tháng 12 năm 1936) là một cựu cầu thủ bóng đá người Triều Tiên. Ông là một trong những thành viên của đội tuyển Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 1966 tại Anh, ghi được 1 bàn thắng, loại đội tuyển Ý tại vòng bảng.
Sự nghiệp thi đấu.
Pak Doo-ik sinh ra ở Bình Nhưỡng. Ông đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1966 ở Anh, ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Ý trên sận vận động Ayresome Park, Middlesbrough, một trận đấu sau này được chuyển thể thành phim "The Game of their Lives" của đạo diễn người Anh Daniel Gordon.
Kết quả này vẫn được coi là một trong những thất bại bất ngờ từ trước đến nay của giải đấu, với việc Ý - đội đồng giữ kỷ lục hai chức vô địch thế giới lúc bấy giờ - được nhiều người kỳ vọng sẽ không gặp khó khăn gì trong việc đánh bại Triều Tiên, đội mới có lần đầu tham dự giải đấu.
Được xếp chung bảng với Ý, Chile và Liên Xô, Triều Tiên thi đấu tại Middlesbrough trong suốt giải đấu, thi đấu các trận đấu của họ trên sân vận động Ayresome Park. Sau thất bại 0-3 trước Liên Xô, màn thể hiện quả cảm và tinh thần của họ trong trận hòa 1-1 trước Chile đã chiếm được cảm tình của người dân địa phương. Chiến thắng bất ngờ của họ trước tuyển Ý hùng mạnh càng củng cố thêm sự nổi tiếng của họ trong thị trấn. Pak, phát biểu vào năm 2002 trong chuyến trở lại Middlesbrough cùng với các thành viên còn sống của đội tuyển Triều Tiên năm 1966, nhớ lại rằng "Đó là ngày tôi học được rằng bóng đá không chỉ có chiến thắng. Tôi học được rằng chơi bóng đá có thể cải thiện quan hệ ngoại giao và thúc đẩy hòa bình."
Sau chiến thắng, Pak, lúc đó là hạ sĩ trong Quân đội Nhân dân Triều Tiên, được thăng cấp trung sĩ.
Một vé xem trận đấu ban đầu được trưng bày cùng với các hiện vật lịch sử bóng đá khác ở bảo tàng FIFA World Football Museum ở Zürich.
Mặc dù Triều Tiên đã dẫn trước 3–0, nhưng cuối cùng vẫn để thua Bồ Đào Nha 3–5 trong trận tứ kết diễn ra tại sân vận động Goodison Park, họ vẫn được 3.000 người hâm mộ từ Middlesbrough đến cổ vũ. Những người này đã thực hiện cuộc hành trình từ bờ biển này sang bờ biển khác dài 150 dặm để hỗ trợ họ. Pak và các đồng đội của anh đã ghi dấu ấn tại một thị trấn, một khu vực và ghi tên mình vào văn hóa dân gian của World Cup.
Sau chức vô địch, Pak rời quân đội, giã từ bóng đá và trở thành huấn luyện viên thể dục dụng cụ. Một truyền thuyết đô thị của Ý tồn tại trên các phương tiện thông tin đại chúng cho rằng Pak là một nha sĩ, mặc dù thực tế không phải vậy.
Sân vận động Ayresome Park bị phá bỏ vào năm 1997 và một khu nhà ở được xây dựng trên địa điểm này. Để tôn vinh bàn thắng nổi tiếng, trong khu vườn phía trước của một ngôi nhà mới, người ta đã đặt vĩnh viễn các dấu giày bóng đá bằng gang trên mặt đất, tại vị trí chính xác của chân Pak Doo-ik khi ông ghi bàn vào lưới Ý bằng cú sút từ rìa vòng cấm.
Trong cuộc rước đuốc trước Thế vận hội Mùa hè 2008 ở Bình Nhưỡng, ông là người đầu tiên cầm ngọn đuốc.
"Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng đầu tiên của Bắc Triều Tiên, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Pak Doo-ik." |
Thả rông ngực hay còn gọi là thả rông vòng 1 là hành vi không mặc áo ngực ở phụ nữ, đó là thói quen hàng ngày hoặc là trào lưu một số giai đoạn, thả rông ngực cũng có xu hướng liên quan thời trang. Thả rông ngực ở một số nước được đề cập liên quan chủ nghĩa nữ quyền, trong hành động thả rông được khuyến khích.
Từ nguyên và hành vi.
"Thả rông" trong tiếng Việt có thể xuất phát từ "thả rông", một hình thức chăn nuôi gia súc. Trâu, bò, dê cừu sẽ được người chủ chăn thả tự do ở một khu vực có cỏ. Từ ngữ thể hiện sự không ràng buộc. Thực tế, “thả rông” không phải là một từ mà là một kết hợp tự do với hai thành tố “thả” và “rông”, theo đó “thả” là động từ với một trong các nghĩa là “không giữ lại một chỗ nữa mà để cho được tự do hoạt động” (trái với "nhốt"). Còn “rông” là một tính từ, có nghĩa chỉ “tình trạng buông thả, không bị ràng buộc, có thể đi lung tung khắp nơi”.
Thả rông ngực có thể bao gồm trường hợp chung nhất là không mặc áo ngực, nghĩa là không nhất thiết phô bày hoàn toàn mà chỉ là không có lớp áo ngực bên trong trang phục, nhưng thả rông ngực cũng bao gồm ngực trần. Khi đối sánh với chủ đề về hành vi này trong Thế giới tiếng Anh "thả rông ngực" với trường hợp chung nhất "không áo ngực" tương ứng khái niệm ', và trường hợp hẹp hơn mà nó bao gồm trong đó là "ngực trần", tương đương khái niệm '.
Thả rông ngực xuất phát từ sở thích, thói quen của phụ nữ, nhiều người cảm thấy không mặc áo ngực thì thoải mái hơn.
Áo ngực hiện đại có nguồn gốc từ phương Tây, ở các nước phương Đông ngày trước phụ nữ dùng áo yếm để làm áo lót. Chúng có vai trò như áo ngực. Trong sinh hoạt hằng ngày, áo ngoài có thể cởi bỏ và phụ nữ chỉ mặc áo yếm. Cách mặc đó xem áo yếm như các kiểu áo chứ không quá mức phân định rạch ròi áo trong áo ngoài. Việc mặc áo yếm khi gặp người ngoài gia đình bị hạn chế. Do đó, khán giả thường nhầm lẫn cho rằng nữ diễn viên thả rông khi họ xem một số bộ phim cổ trang.
Các vấn đề liên quan thả rông ngực.
Theo nhà khoa học thể thao Jean-Denis Rouillon, việc không mặc áo ngực giúp vú phát triển mô cơ nhiều hơn và săn chắc hơn. Núm vú của phụ nữ không mặc áo ngực cao hơn phụ nữ mặc áo ngực trung bình 7mm. Theo tiến sĩ Stafford Broumand, bác sĩ phẫu thuật tại Trung tâm Y tế Mount Sinai, Hoa Kỳ cho biết không mặc áo ngực sẽ làm tăng sản xuất collagen và độ đàn hồi, cải thiện sự phát triển ngực.
Thả rông trong nhiều hoạt động thường ngày cũng bị đánh giá có thể có hại cho ngực. Chẳng hạn dao động mạnh khi vận động, như chạy bộ. Thả rông hầu hết thời gian trong ngày mà không mặc áo ngực lâu ngày ngực sẽ bị xệ, mau lão hóa. Các ảnh hưởng nặng nề này thường xảy ra với phụ nữ có ngực to.
Nhiều chuyên gia cho rằng khi ngủ không mặc áo ngực sẽ tốt cho sức khỏe hơn. Theo bác sĩ Seth Rankin ở phòng khám London Doctors Clinic, nước Anh, giải thích việc mặc áo ngực khi ngủ hạn chế dòng chảy của bạch huyết xung quanh vú và nách, cản trở quá trình phát thải các chất độc hại khỏi cơ thể. Theo bác sĩ Rankin, giáo sư Kefah Mokbel từ Bệnh viện The Princess Grace thì việc mặc áo ngực chật khi ngủ sẽ làm giảm lưu lượng máu cùng hoạt động dẫn lưu bạch huyết từ đó có thể gây viêm mạn tính và phù.
Một cuộc khảo sát đã cho thấy 80% phụ nữ mặc áo ngực không phù hợp và có thói quen mặc chúng tới 10 tiếng/ngày. Điều này khiến nguy cơ mắc các bệnh về vú gấp đôi so với phụ nữ có thời gian mặc áo ngực trong ngày với ít giờ hơn.
Cái đẹp và khiêu gợi.
Justin O'Shea, giám đốc sáng tạo của nhà tạo mẫu MyTheresa cho rằng "thả rông" sẽ làm bộc lộ cái đẹp hình thể của người phụ nữ.
Thả rông ngực trong đời sống hằng ngày được đánh giá là hành vi khêu gợi đàn ông ở nữ giới, hoặc hành vi cho thấy yếu tố ngoại tình, do đó được xem là hành vi "hư hỏng".
Các hot girl muốn đạt được mục đích nổi tiếng nhanh chóng thường dùng các yếu tố như "thả rông" trên mạng xã hội để thu hút sự chú ý. Vào năm 2013, Bà Tưng không ngần ngại lên các kênh truyền hình hay mạng xã hội trong chiếc áo mỏng không mặc áo ngực, để lộ cả núm vú hoặc kiểu áo hở hang lộ một phần ngực. Một số nghệ sĩ đã sử dụng yếu tố "thả rông" để thu hút truyền thông nhằm mục đích đánh bóng danh tiếng, như Can Lộ Lộ của showbiz Trung Quốc.
Yếu tố khêu gợi đã được lợi dụng câu khách, như một chương trình thời sự của một đài truyền hình ở Albani được dẫn chương trình bởi một nữ MC luôn thả rông ngực khi lên sóng.
Các người mẫu trình diễn thời trang trên sàn catwalk rất phổ biến hành vi "ngực được thả rông". Các nhà tạo mẫu thời trang cho rằng không mặc áo ngực thì sẽ không ảnh hưởng đến thiết kế của trang phục khi trình diễn, chẳng hạn tránh vết hằn quần áo. Tại một số quốc gia vẫn còn nhiều tính bảo thủ như Việt Nam việc người mẫu thả rông ngực thường bị đánh giá nặng nề. Trong các tuần lễ thời trang tại Paris năm 2015, các kiểu quần áo hở ngực trở nên phổ biến, các kiểu áo được thiết kế để làm hở ngực một phần hoặc hoàn toàn một bên. Các người mẫu nữ cho rằng không mặc áo ngực là xu hướng thời trang mới. Các kiểu quần áo có đường xẻ ngực sâu, crop top, suit không cài cúc, trang phục trong suốt là các kiểu mốt thời trang được ưa thích.
Thả rông ngực hay không mặc áo ngực sẽ thúc đẩy lĩnh vực thời trang phát triển các kiểu quần áo không cần áo ngực nhưng vẫn hỗ trợ ngực và làm đẹp cho người phụ nữ. Điều này đe dọa sự tồn tại các hãng nội y nhưng lại thúc đẩy phát triển các nhãn hàng quần áo khác. Do đó tạo ra một xu thế thời trang liên quan ngực thả rông.
Vào năm 2017, một quán nước tại Lâm Đồng đã sử dụng "thả rông ngực" thành một chiêu thức câu khách. Nhân ngày "National No Bra Day" (Ngày thế giới không mặc áo ngực) vào ngày 13 tháng 10, quán nước đã áp dụng chương trình "No bra no pay", giảm giá 100% đồ uống cho khách nữ không mặc áo ngực. Các quán nước tại Tp.Hồ Chí Minh cũng dùng cách tương tự, giảm giá 50% đồ uống cho phái nữ không mặc áo ngực khi đến quán.
Vấn đề xã hội và pháp lý.
Nhiều phụ nữ cho rằng thả rông ngực là quyền cá nhân của phụ nữ, được tự do phô bày cơ thể mà không phải lo sự phán xét của người khác. Tại một số nước trên thế giới, như Việt Nam, thả ngực rông là một vấn đề tế nhị nhưng hầu như chỉ là vấn đề gia đình và xã hội thông thường. Trong thế giới phương Tây các hành vi này đã không dừng lại như một vấn đề xã hội mà đã phát triển thành các phong trào xã hội - chính trị như tự do lộ ngực, tự do núm vú và một số ngày đã trở thành sự kiện thường niên, như Go Topless Day.
Tại Mỹ vào năm 1992, chính quyền thành phố New York ở miền Đông nước này thông qua một phán quyết cho phép để ngực trần nơi công cộng miễn sao không gây rối trật tự công cộng. Sở Cảnh sát New York đã xác nhận cảnh sát không được lập biên bản hay bất kỳ hình thức trừng phạt nào liên quan việc để ngực trần. Vào tháng 7 năm 2015, tại Canada, ba phụ nữ cởi trần đạp xe đạp dạo phố đã bị cảnh sát bắt. Vào tháng 8 sau đó, hằng trăm phụ nữ của thành phố khu vực Waterloo, tỉnh Ontario đã biểu tình đòi quyền thả rông bằng việc ngực trần.
Tháng 12 năm 2012, người mẫu Võ Hoàng Yến bị Sở Văn hóa - Thể thao Du lịch TP.HCM triệu tập vì mặc đồ thả rông ngực trong chương trình thời trang "Đam mê và hội tụ". Người mẫu này đã ăn mặc khác so với chương trình được thẩm định và được cho phép. Việc thả rông bị xem là trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam.
Vào tháng 9 năm 2020, tại Pháp bùng nổ các cuộc tranh luận trên truyền thông và mạng xã hội về việc để ngực trần. Một số vụ xảy ra tại bãi biển và tranh cãi bắt đầu khi các phụ nữ chống đối yêu cầu che ngực của cảnh sát. Các nhà chức trách đã xác nhận rằng không có quy định nào cấm để ngực trần. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Pháp là Gérald Darmanin, đã lên tiếng trên Twitter bảo vệ quyền phụ nữ được mặc hay không mặc áo ngực tùy ý.
Trong Thế giới Hồi giáo, phụ nữ phải tuân thủ việc ăn mặc vô cùng nghiêm khắc, kín đáo, bao gồm cả khăn trùm đầu trong trang phục Hồi giáo. Điều này được xem là quy tắc xã hội, là đạo đức căn bản của mọi công dân. Vào tháng 7 năm 2019, một cô gái Iran bị bắt vì không mặc áo ngực, sau khi trình bày vấn đề sức khỏe của bản thân do bệnh u xơ nang, việc dùng thuốc khiến cô đau đớn vùng ngực. Cảnh sát bắt cô phải viết cam kết không tái phạm trước khi được thả tự do.
Tại Đức, các chủ sử dụng lao động của các công ty được phép sa thải nhân viên nữ không tuân thủ các yêu cầu về trang phục, bao gồm việc không được để ngực trần khi đi làm. |
Tikka (phát âm [ ]) là một món nướng với nguyên liệu chính bao gồm thịt (không sương) hoặc khoai cắt khối, bắt nguồn từ thời Babylon. Từ 'tikka' được ghi lại từ thời Đế Quốc Mogul. Thịt/khoai ướp với da ua và nhiều gia vị rồi nướng trong lò tandoor. Món Tikka rất phổ biến khắp Ấn Độ và cả ở nhiều quốc gia như Vương Quốc Anh.
Nguồn gốc món Tikka không rõ ràng. Công thức chung các món thịt nấu chín ướp nhiều gia vị và trộn trong nước sốt có từ năm 1700 trước Công nguyên được tìm thấy trên các bảng chữ hình nêm gần Babylon, được ghi nhận là của người Sumer. Người Mughul gọi món "thịt nấu chín không xương" là Tikka rồi sau đó du truyền tới Ấn Độ.
Tikka có nhiều biến thể khác nhau đề phục vụ tất cả thực khách mặn và chay. Món Tikka được biết là "món nướng Ấn Độ có thịt hoặc khoai cắt khối ướp với da ua và hỗn hợp nhiều gia vị".
Tikka bao gồm thịt không xương hoặc khoai hoặc phô mai cắt khối, ướp với da ua và gia vị, xiên que rồi nướng trong lò tandoor để thức ăn nóng và khô. |
Murayama Yasuaki ( (Thôn Sơn Từ Minh), Murayama Yasuaki) sinh ngày 9 tháng 5, 1984 (Chiêu Hòa thứ 59) tại TP Hino, Tokyo là một kỳ thủ shogi chuyên nghiệp đạt cấp độ Bát đẳng người Nhật Bản.
Vào năm 1995, khi đang học lớp 5 tiểu học tại Trường tiểu học số 3 của Hino, Murayama đã vô địch Tiểu học sinh Danh Nhân chiến và gia nhập Trường đào tạo Kỳ thủ.
Sau 2 năm và 4 kỳ tại Trường đào tạo kỳ thủ, vào mùa thu năm 2003, Murayama đã thăng lên Tứ đẳng và trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Không lâu sau đó, anh đã trở nên nổi bật với thành tích vượt qua vòng Sơ loại tại Giải Vô địch Asahi mở rộng lần thứ 23 vào mùa giải 2004 để tiến vào vòng chung kết. Ngoài ra, ở mùa giải 2005 sau đó, tại Vương Tọa chiến kỳ 53, anh đã thắng 6 ván liên tiếp trước những kỳ thủ lão làng như Matsuo Ayumu, Hashimoto Takanori, Akutsu Chikara, và Shima Akira và chỉ còn cách một bước để tiến vào vòng Chung kết khi chịu thua Senzaki Manabu ở chung kết của vòng Sơ loại thứ Hai.
Trong mùa giải 2006, Murayama về nhì tổ 6 Long Vương chiến kỳ 19 và được thăng lên tổ 5.
Trong mùa giải 2007, anh có vô địch một giải không danh hiệu lần đầu tiên khi vô địch Tân Nhân Vương chiến kỳ 38. Ngoài ra, tại hạng C2 của Thuận Vị chiến kỳ 66, Murayama thắng liền 9 ván sau 1 ván thua đầu tiên và xếp thứ nhất chung cuộc để được thăng lên hạng C1 sau 4 kỳ ở hạng C2. Cũng trong mùa giải này, anh chiến thắng hạng mục Tỷ lệ thắng cao nhất (36 thắng - 10 thua, tỷ lệ 0,783) tại kỳ Đại Thưởng.
Trong mùa giải 2010, Murayama chiến thắng tổ 4 Long Vương chiến kỳ 23 và tham gia vòng Chung kết lần đầu tiên (và bị loại ngay ván đầu tiên).
Trong mùa giải 2011, Murayama đã tiến vào vòng Xác định Khiêu chiến giả của Vương Vị chiến kỳ 52. Cho đến vòng 4, anh vẫn chưa để thua ván nào và đã chiến thắng cả những kỳ thủ kỳ cựu như Satō Yasumitsu và Miura Hiroyuki. Tại vòng 5 - vòng cuối cùng, anh đã để thua Habu Yoshiharu (đã thua 1 ván) và thua ván playoff giữa hai người sau đó, bỏ lỡ cơ hội tiến vào ván Xác định Khiêu chiến giả. Tuy nhiên anh vẫn thành công trụ lại vòng Xác định Khiêu chiến giả, giai đoạn nổi tiếng là dễ bị loại. Ở kỳ 53 sau đó, với thành tích 2 thắng - 3 thua, Murayama đã bị loại khỏi vòng Xác định Khiêu chiến giả. Anh đã trở loại và vượt qua vòng Sơ loại tại kỳ 54, qua đó thành công tham gia vòng Xác định Khiêu chiến giả Vương Vị chiến 3 kỳ liên tiếp. Tuy nhiên Murayama đã bị loại khi chỉ thắng được 1 ván trước Sasaki Makoto.
Tại hạng C1 Thuận Vị chiến kỳ 71 (kỳ thứ 5 của Murayama ở hạng này), trừ ván thua ở vòng 8 trước Kanai Kōta, anh toàn thắng các ván còn lại, xếp thứ 2 chung cuộc sau Inaba Akira và thăng lên hạng B2. Ở kỳ sau đó, anh làm điều tương tự, xếp thứ 2 sau Satō Amahiko và thăng lên hạng B1. Do thăng lên hạng B1 Thuận Vị chiến, anh cũng được thăng lên Thất đẳng.
Vào năm 2015, tại Điện Vương chiến kỳ cuối cùng, đối thủ của anh ở ván 4 là máy tính Ponanza. Bản thân anh đã ứng cử tham gia ván đấu này, tuy nhiên anh đã thua cuộc do thế cờ chuyển xấu.
Trong mùa giải 2015, trong Cúp NHK được phát trực tiếp trên truyền hình, Murayama lần lượt vượt qua Yashiro Wataru (kỳ thủ lần đầu tiên tham gia) ở vòng 1, Sugai Tatsuya ở vòng 2, đương kim vô địch Moriuchi Toshiyuki ở vòng 3, Toyoshima Masayuki ở tứ kết, Hirose Akihito ở bán kết, và cuối cùng là Chida Shōta ở chung kết để vô địch giải đấu này lần đầu tiên. Tuy nhiên, ở hạng B1 Thuận Vị chiến kỳ 74, anh xếp thứ 12 chung cuộc với thành tích 3 thắng - 9 thua và bị giáng trở lại hạng B2.
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2017, tại chung kết Cúp Asahi mở rộng lần thứ 10 giữa Murayama và Yashiro Wataru, tình thế ở tàn cuộc đã chuyển từ rối loạn thành thế cờ bất lợi cho Murayama và anh đã thua cuộc và về nhì giải đấu.
Tại Long Vương chiến kỳ 30 (mùa giải 2017), Murayama đã chiến thắng tổ 3 và trở lại vòng Chung kết sau 7 năm. Anh đã đánh bại Satō Yasumitsu (nhì tổ 2) trước khi chịu thua Habu Yoshiharu (nhì tổ 1).
Trong mùa giải 2018, Murayama đã trở lại vòng Xác định Khiêu chiến giả của Vương Vị chiến sau 5 năm tại kỳ 59. Với thành tích 3 thắng - 2 thua, anh đã bị loại một lần nữa.
Murayama là một người chơi Cư Phi Xa. Anh nổi tiếng vì nghiên cứu khai cuộc rất sâu. Khi Murayama Satoshi, người cùng họ với anh, còn sống, có câu nói rằng "Hãy nghe lời Murayama (Satoshi) khi nói về tàn cuộc". Dựa trên câu nói này, Murayama Yasuaki cũng được biết đến qua câu nói "Hãy nghe lời Murayama (Yasuaki) khi nói về khai cuộc".
Trong giới Shogi chuyên nghiệp, cùng với Watanabe Akira và Tobe Makoto, Murayama Yasuaki là một trong "Ba con quạ" nổi tiếng vì sự thẳng thắn.
Khi nói chuyện riêng, Murayama thường được gọi theo âm đọc on'yomi của tên riêng mình, Jimei. Trên một buổi phát sóng trực tiếp trên kênh truyền hình Niconico, anh cũng tự giới thiệu mình là "Jimeko Nữ lưu Thất cấp".
Murayama tổ chức lễ thành hôn vào năm 2014, khi đã 30 tuổi. Có nhiều kỳ thủ chuyên nghiệp tới dự lễ thành hôn của anh.
Trong mùa giải 2016, Murayama giảng dạy trên kênh NHK trong một loạt bài giảng được đặt tên "Những kỹ thuật khai cuộc nên biết".
Trong mùa giải 2019, anh chuyển từ Kantō đến Kansai để tìm một môi trường tốt hơn để giúp anh thăng lên hạng A và khiêu chiến Danh Nhân. Cùng với đó, anh đã có 10 buổi luyện tập với "Hội Habu" của Habu Yoshiharu, Kimura Kazuki, và Matsuo Ayumu, và với hội nghiên cứu của Fujii Takeshi, Namekata Hisashi, và Satō Amahiko (giải thế cuối năm 2018). |
Lala (từ lóng tiếng Trung)
Lala () là một từ lóng không mang tính xúc phạm trong tiếng Trung Quốc để chỉ những người đồng tính nữ hoặc một người phụ nữ có ham muốn với người cùng giới. Thuật ngữ được cộng đồng LGBT+ ở Trung Quốc đại lục sử dụng chủ yếu, mặc dù từ này có nguồn gốc từ thuật ngữ Đài Loan dành cho đồng tính nữ, lazi (). Bắt đầu từ cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, cộng đồng lala bắt đầu hình thành ở các khu vực thành thị của Trung Quốc, như Bắc Kinh và Thượng Hải, họ tìm đến các quán bar và phòng chat trực tuyến để kết nối với nhau.
Năm 2005, một nhóm lala trẻ ở Bắc Kinh đã thành lập "Les+ Magazine", tạp chí đầu tiên và duy nhất của Trung Quốc dành cho phụ nữ queer. Bất chấp những hạn chế pháp lý ở Trung Quốc về vấn đề LGBT, "Les+ Magazine" vẫn có người đăng ký ở tất cả 23 tỉnh của Trung Quốc cũng như ở một số quốc gia khác. Slogan in trên số đầu tiên thể hiện sự kỳ vọng của họ đối với cuộc sống: "Khi đêm đen qua đi, hãy nắm lấy tay người, hãy bước đi đầy tự hào dưới ánh mặt trời, hãy cứ thản nhiên và hạnh phúc sống cuộc đời của chúng ta!"在黑夜之後﹐握着你的手﹐在陽光下驕傲地走﹐坦然happy地過我們的生活!Năm 2012, Lucetta Yip Lo Kam, giảng viên tại Đại học Baptist Hồng Kông (HKBU), đã xuất bản cuốn sách "Shanghai Lalas: Female Tongzhi" "Communities and Politics in Urban China" (tạm dịch: Những cô Lala Thượng Hải: Cộng đồng và chính trị của đồng tính nữ ở thành thị Trung Quốc). Chuyên khảo của Kam gồm các cuộc phỏng vấn với 25 đồng tính nữ lala người Trung Quốc, song tính nữ và chuyển giới nữ sống ở Thượng Hải, hầu hết là phụ nữ trong độ tuổi 20 đến từ khu vực thành thị.
Thuật ngữ lazi lần đầu đi vào ngữ vựng của Trung Quốc đại lục thông qua cuốn tiểu thuyết "Nhật ký Cá sấu" (1994) của nhà văn Đài Loan Khâu Diệu Tân, câu chuyện có nội dung xoay quanh nhân vật chính tên là La Tử (Lazi). Tác phẩm viết về đề tài đồng tính nói chung và đồng tính nữ nói riêng đậm chất hiện sinh và cũng gần như là tự truyện của tác giả.
Ảnh hưởng văn hóa của cuốn tiểu thuyết của Khâu Diệu Tân đã nhanh chóng hình thành và từ lazi đi vào ngữ vựng Đài Loan như một từ lóng chỉ "đồng tính nữ". Thuật ngữ này nhanh chóng lan sang tiếng Trung Quốc đại lục, sau đó phát triển thành từ lala, cho đến nay vẫn là thuật ngữ ưa thích đối với những ai ở Trung Quốc xác định mình là người đồng tính nữ. |
Phổ hồng ngoại (hay quang phổ hồng ngoại, tiếng Anh: "Infrared Spectroscopy", viết tắt là "phổ" "IR") là phép đo sự tương tác của bức xạ hồng ngoại với vật chất bằng hiện tượng hấp thụ, phát xạ hoặc phản xạ. Phổ IR được sử dụng để nghiên cứu và xác định hóa chất hoặc nhóm chức ở dạng rắn, lỏng hoặc khí. Phổ IR còn dùng để mô tả các đặc tính của vật liệu mới hoặc xác định, xác minh các mẫu đã biết và chưa biết. Phương pháp hoặc kỹ thuật phổ hồng ngoại được thực hiện bằng một dụng cụ gọi là máy phổ hồng ngoại (hoặc máy đo quang phổ). Phổ hồng ngoại có thể được hiển thị dưới dạng biểu đồ có trục tung là độ hấp thụ quang (hoặc độ truyền quang) cho bức xạ hồng ngoại và trục hoành là tần số, số sóng hoặc bước sóng. Đơn vị điển hình của số sóng trong phổ IR là cm−1. Đơn vị của bước sóng phổ IR thường được tính bằng micromet (trước đây gọi là "microns"), ký hiệu μm, có mối tương quan nghịch đảo đến số sóng. Một dụng cụ thí nghiệm phổ biến sử dụng kỹ thuật này là máy quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR).
Bức xạ hồng ngoại của phổ điện từ thường được chia thành ba vùng; hồng ngoại gần, hồng ngoại sóng trung và hồng ngoại xa, được đặt tên theo mối quan hệ của phổ hồng ngoại với phổ khả kiến. Bức xạ hồng ngoại liên quan đến phần phổ điện từ nằm giữa vùng khả kiến và vùng vi sóng có bước sóng nằm trong vùng: vùng hồng ngoại gần: 14290 – 4000 cm−1 và hồng ngoại xa: 700 – 200 cm−1. Vùng phổ có ý nghĩa quan trọng nhất là vùng giữa 4000 và 400 cm−1.
Phân tử được cấu tạo từ các nguyên tử liên kết với nhau bằng các liên kết hóa học. Chuyển động của các nguyên tử liên kết hóa học với nhau tương tự dao động không ngừng của các hòn bi liên kết với nhau bằng các lò xo. Chuyển động của chúng có thể coi là kết quả cộng lại của các dao động kéo căng và nén. Nếu giữ chặt một hòn bi thì chuyển động của hòn bi còn lại theo mô hình dao động điều hòa (dao động tử)
Với phân tử có nhiều nguyên tử (có nhiều liên kết), dùng mô hình các hòn bi gắn trên các lò xò, mỗi nguyên tử có thể coi như một hòn bi treo trên các lò xò, dao động của nó có thể theo 3 hướng x, y, z trong không gian, những dao động như vậy gọi là dao động cơ bản hay dao động riêng.
Tổng số dao động riêng của phân tử có N nguyên tử là 3N – 5 đối với phân tử thẳng (phân tử tuyến tính, "linear molecules") và 3N – 6 đối với phân tử không thẳng (phân tử phi tuyến tính, "nonlinear molecules"). Ví dụ, carbon dioxide (CO2) là phân tử có hình đường thẳng có 3 × 3 – 5 = 4 dao động riêng, trong khi phân tử nước (H2O) có hình góc (tức là không thẳng), chỉ có 3 × 3 – 6 = 3 dao động riêng.
Khi phân tử bị kích thích có thể xảy ra quá trình dao động và quay đồng thời, năng lượng tương ứng của trạng thái dao động quay của phân tử được tính như tổng năng lượng dao động E ("vibration") và năng lượng quay E ("rotation").
Các dao động riêng của phân tử có thể được kích thích bởi các bức xạ điện từ nhưng sự kích thích này có tính lựa chọn: Chỉ các dao động nào làm thay đổi momen lưỡng cực μ của phân tử mới bị kích thích bởi bức xạ hồng ngoại.
Các nguyên tử trong nhóm CH2 X2, thường được tìm thấy trong các hợp chất hữu cơ và trong đó X có thể đại diện cho bất kỳ nguyên tử nào khác, có thể dao động theo chín cách khác nhau. 6 trong số các dao động này chỉ liên quan đến nhóm CH2:
Dao động hóa trị (Stretching vibration) là những dao động làm thay đổi chiều dài liên kết của các nguyên tử trong phân tử nhưng không làm thay đổi góc liên kết. Dao động biến dạng (Bending vibration) là những dao động làm thay đổi góc liên kết nhưng không làm thay đổi chiều dài liên kết của các nguyên tử trong phân tử. Các cấu trúc phân tử không có hai nhóm thế X sẽ có ít loại dao động hơn. Ví dụ, trong phân tử nước, không tồn tại các dao động rocking, wagging, và twisting vì những kiểu chuyển động này của nguyên tử H thể hiện chuyển động quay đơn giản của toàn bộ phân tử chứ không phải là các dao động bên trong nguyên tử H. Thật vậy, phân tử H2O không thẳng sẽ có 3 × 3 – 6 = 3 dao động riêng, gồm 2 dao động hóa trị (đối xứng, bất đối xứng) và 1 dao động biến dạng, cả 3 có các mức năng lượng khác nhau. Trong trường hợp các phân tử phức tạp hơn, dao động ngoài mặt phẳng (out-of-plane) (γ) có thể xuất hiện.
Hình minh họa trên không thể hiện sự "giật lùi" (recoil) của các nguyên tử C, mặc dù thực tế là tồn tại nhằm cân bằng chuyển động tổng thể của phân tử, nhưng chuyển động này nhỏ hơn nhiều so với chuyển động của các nguyên tử H có khối lượng nhẹ hơn.
Phổ hồng ngoại trong thực tế.
Quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (Fourier transform infrared spectroscopy, FTIR spectroscopy) là một kỹ thuật đo lường cho phép người ta ghi lại phổ hồng ngoại. Ánh sáng hồng ngoại được dẫn qua giao thoa kế và sau đó đi qua mẫu vật(hoặc ngược lại). Một tấm gương chuyển động bên trong thiết bị làm thay đổi sự phân bố ánh sáng hồng ngoại đi qua giao thoa kế. Tín hiệu được ghi trực tiếp, được gọi là "giao thoa kế", biểu thị ánh sáng phát ra như một hàm của vị trí gương. Một kỹ thuật xử lý dữ liệu được gọi là biến đổi Fourier, biến dữ liệu thô này thành kết quả mong muốn (phổ của mẫu vật): ánh sáng phát ra dưới dạng hàm của bước sóng hồng ngoại (hoặc số sóng). Phổ của mẫu luôn được so sánh với phổ tham chiếu.
Kính hiển vi hồng ngoại.
Có nhiều loại kính hiển vi hồng ngoại ("infrared microscopy") khác nhau, gồm các loại IR của kính hiển vi nhiễu xạ phụ ("sub-diffraction microscopy") như IR NSOM, kính hiển vi quang nhiệt ("photothermal microspectroscopy"), Nano-FTIR và phổ hồng ngoại dựa trên kính hiển vi lực nguyên tử ("atomic force microscope based infrared spectroscopy", AFM-IR).
Các phương pháp khác trong quang phổ dao động phân tử.
Gần đây, EELS độ phân giải cao (HREELS) đã nổi lên như một kỹ thuật thực hiện quang phổ dao động trong kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM).
Quang phổ hồng ngoại thường được sử dụng để xác định cấu tạo hóa học vì các nhóm chức tạo nên các dải đặc trưng cả về cường độ và vị trí (tần số). Vị trí của các dải này được tóm tắt trong các bảng tương quan như dưới đây.
Máy quang phổ thường được có hai vùng.
Trong vùng nhóm chức có từ một đến vài đỉnh (trough) cho mỗi nhóm chức.
Trong vùng fingerprint có nhiều đỉnh tạo thành một mẫu phức tạp, được ví như "dấu vân tay" để xác định hợp chất.
Richard McLean Badger công bố quy tắc Badger này vào năm 1934, cho rằng trong thực nghiệm, độ bền của liên kết (xét về hằng số lực) tương quan với độ dài liên kết. Nghĩa là, độ bền liên kết tăng dẫn đến sự rút ngắn độ dài liên kết tương ứng và ngược lại.
Phổ hồng ngoại là một kỹ thuật đơn giản và đáng tin cậy được sử dụng rộng rãi trong cả hóa học hữu cơ và vô cơ, trong nghiên cứu và công nghiệp. Trong nghiên cứu xúc tác, đây là một công cụ rất hữu ích để mô tả đặc tính của chất xúc tác, cũng như để phát hiện các chất trung gian phản ứng và sản phẩm trong quá trình phản ứng có xúc tác. Phổ IR được sử dụng để kiểm soát chất lượng, đo lường động ("dynamic measurement") và giám sát, chẳng hạn như đo nồng độ CO2 trong thời gian dài trong nhà kính bằng máy phân tích khí hồng ngoại.
Phổ IR cũng được sử dụng trong phân tích pháp y trong cả vụ án hình sự và dân sự, ví dụ như trong việc xác định giáng hóa polymer. Phổ IR có thể được sử dụng để xác định nồng độ cồn trong máu của lái xe nghi sử dụng rượu bia.
Quang phổ hồng ngoại đã được sử dụng thành công trong phân tích và xác định sắc tố trong tranh và các công trình nghệ thuật như các bản thảo chiếu sáng ("Illuminated manuscript").
Phổ IR ứng dụng mạnh mẽ trong lĩnh vực vi điện tử bán dẫn: ví dụ, phổ IR có thể được áp dụng cho các chất bán dẫn như silic, gali arsenide, gali nitride, kẽm selenide, silic vô định hình, silic nitride,
Một ứng dụng quan trọng khác của phổ IR là công nghiệp thực phẩm để đo nồng độ của các hợp chất khác nhau trong sản phẩm.
Phổ IR cũng được sử dụng trong các thiết bị phát hiện rò rỉ khí như DP-IR và EyeCGA. Những thiết bị này phát hiện rò rỉ khí hydrocarbon trong quá trình vận chuyển khí tự nhiên và dầu thô.
Tháng 2 năm 2014, NASA đã công bố một cơ sở dữ liệu được nâng cấp dựa trên phổ IR, để theo dõi các hydrocacbon thơm đa vòng (PAH) trong vũ trụ. Theo các nhà khoa học, hơn 20% lượng carbon trong vũ trụ có thể liên quan đến hydrocacbon thơm đa vòng (theo thuyết Thế giới PAH thì đây là nguyên liệu khởi đầu hình thành sự sống). PAH dường như đã được hình thành ngay sau Vụ nổ lớn, lan rộng khắp vũ trụ và có liên quan đến các ngôi sao và hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời mới.
Phổ IR là một phương pháp phân tích quan trọng trong quá trình tái chế nhựa thải sinh hoạt và là phương pháp tách biệt tiện lợi để phân loại nhựa thuộc các loại polyme khác nhau (PET, HDPE...).
Các phát triển khác bao gồm máy phổ IR thu nhỏ được liên kết với cơ sở dữ liệu đám mây và phù hợp cho mục đích sử dụng cá nhân hàng ngày, và chip quang phổ NIR được "nhúng" ("embedded") trong điện thoại thông minh và các thiết bị khác nhau.
Các danh pháp tiếng Việt trong bài viết này dựa trên tài liệu: |
Sao cực là một ngôi sao có thể nhìn thấy được gần như thẳng hàng với trục quay của một thiên thể; nghĩa là một ngôi sao có vị trí biểu kiến gần với một trong các thiên cực của thiên thể đó. Trên Trái Đất, một sao cực sẽ nằm ngay trên đầu khi nhìn từ Bắc Cực hoặc Nam Cực. Sao cực gần thiên cực bắc được gọi là sao Bắc Cực, sao cực gần thiên cực nam được gọi là sao Nam Cực.
Vào thời cổ đại, sao Kochab (Beta Ursae Minoris) ở gần thiên cực bắc hơn Polaris. Mặc dù không có ngôi sao nào có thể nhìn thấy bằng mắt thường ở gần thiên cực bắc vào thời điểm đó, trung điểm giữa Polaris và Kochab khá gần với cực và có vẻ như toàn bộ chòm sao Tiểu Hùng (trong thời cổ đại được gọi là Cynosura (tiếng Hy Lạp Κυνόσουρα "đuôi chó")) đã được người Phoenicia sử dụng để xác định hướng bắc.
Polaris được mô tả là ἀειφανής (phiên âm là "aeiphanes"), có nghĩa là "luôn ở phía trên đường chân trời", "luôn tỏa sáng", bởi Stobaeus vào thế kỷ thứ 5, khi nó vẫn còn cách thiên cực bắc khoảng 8°. Trong Vishnu Puranas, Polaris được nhân cách hóa với cái tên "Dhruva" ("bất động, cố định").
Cái tên "stella polaris" được đặt ra vào thời Phục Hưng, mặc dù vào thời điểm đó, người ta đã nhận ra rằng Polaris cách thiên cực vài độ; Gemma Frisius vào năm 1547 đã xác định Polaris cách thiên cực 3°8'.
Sao Bắc Cực là tên gọi cho ngôi sao nằm gần thiên cực trên thiên cầu bắc. Ngôi sao phù hợp nhất hiện nay là sao Polaris (Alpha Ursae Minoris) trong chòm sao Tiểu Hùng.
Sao Bắc Cực trong lịch sử đã được các nhà thám hiểm, hàng hải, người đi rừng sử dụng để xác định vĩ độ của họ trên Trái Đất. Từ một điểm bất kỳ trên bán cầu bắc, giá trị của góc từ đường chân trời tới sao Bắc Cực (cao độ của nó) là bằng vĩ độ của người quan sát trên Trái Đất. Ví dụ, người quan sát nhìn thấy sao Bắc Cực nằm cách chân trời 30°, thì người quan sát đang có mặt tại vĩ độ 30°.
Polaris có cấp sao biểu kiến là 1,97. Khoảng năm 3.000 trước Công Nguyên, sao Thuban trong chòm sao Thiên Long nằm gần thiên cực bắc nên được coi là sao Bắc Cực. Với cấp sao biểu kiến là 3,67, sao Bắc Cực khi đó mờ hơn sao Bắc Cực ngày nay khoảng năm lần. Sao Chức Nữ trong chòm sao Thiên Cầm sẽ trở thành sao Bắc Cực vào khoảng năm 14.000. |
Khâu Diệu Tân sinh ngày 29 tháng 5 năm 1969 tại thành phố Chương Hoá, phía tây đảo Đài Loan. Khâu Diệu Tân lớn lên theo học tại trường Trung học phổ thông Đệ nhất Nữ sinh Đài Bắc, sau đó là tốt nghiệp ngành Tâm lý học tại Đại học Quốc lập Đài Loan vào năm 1991. Chị từng làm công việc tham vấn và sau đó làm phóng viên cho tuần báo "The Journalist". Năm 1994, chị chuyển đến Paris sinh sống để tiếp tục học lên ngành Tâm lý học lâm sàng và Nữ luận tại Đại học Paris VIII, học tập với nhà triết học Hélène Cixous.
Khi ở Paris, chị đạo diễn một bộ phim dài ba mươi phút tên "Ghost Carnival", và không lâu sau đó tự vẫn ở tuổi hai mươi sáu. Đa phần những tin đồn nói rằng chị tự đâm mình bằng một con dao bếp.
Lối viết của Khâu Diệu Tân có ảnh hưởng từ cấu trúc phi trần thuật của dòng phim avant-garde và phim thể nghiệm cũng như chủ nghĩa hiện đại trong văn học châu Âu và Nhật Bản. Tiểu thuyết của chị sử dụng thủ pháp ekphrasis (nghệ thuật miêu tả tác phẩm hình ảnh bằng lời) và chứa đựng những góc máy điện ảnh như một kiểu đối thoại với điện ảnh nghệ thuật châu Âu, trong đó có ám chỉ tới các đạo diễn như Andrei Tarkovsky, Theo Angelopoulos, Derek Jarman, và Jean-Luc Godard. Trong thời gian ở Paris, chị đã đạo diễn bộ phim ngắn "Ghost Carnival". Các tác phẩm của chị với tư cách nhà làm phim hiện đang nằm trong bộ sưu tập thuộc Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, New York.
"Nhật ký Cá sấu" là tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Khâu Diệu Tân. Qua tiểu thuyết này chị được truy tặng giải thưởng China Times Literature Award năm 1995. Biệt danh của nhân vật chính, La Tử ("lazi"), được dùng làm thuật ngữ lóng cho "người đồng tính nữ" trong văn hóa Đài Loan. "Nhật ký Cá sấu" xuất bản năm 1994, giữa lúc truyền thông Đài Loan đang điên cuồng xoay quanh vấn đề đồng tính nữ. Vào năm 1993, phóng viên của một đài truyền hình đã trà trộn vào quay lén một quán bar đồng tính nữ rồi phát tán trên truyền hình, khiến nhiều nạn nhân bị gia đình và xã hội phát hiện, một trong những nạn nhân ở đó đã tự sát vì áp lực xã hội khi cô bị "công khai" bất đắc dĩ. Bên cạnh đó còn có sự kiện tháng 7 năm 1994 khi hai nữ sinh tự sát bằng khí than trong nhà vệ sinh khách sạn, truyền thông cho rằng bi kịch xảy ra vì hai nữ sinh này là đồng tính nữ. Có tin đồn rằng hai cô gái tự sát là cặp đôi đồng tính học cùng trường trung học ưu tú mà Khâu Diệu Tân từng theo học. Thế nên, "Nhật ký Cá sấu" xuất hiện vào thời điểm đầy thử thách đối với cộng đồng người đồng tính Đài Loan, và theo lời của nhà văn người Đài Loan Hong Ling: "Vào mùa hè oi bức năm 1994, cuối cùng cũng đã xuất hiện, một con cá sấu mà không thể ngó lơ sự tồn tại của nó trên nền văn học ảm đạm và cằn cỗi của Đài Loan. Với tác phẩm này, tiếng nói của những người đồng tính nữ Đài Loan đã thực sự thể hiện được sức mạnh, cả trong chính cuốn tiểu thuyết lẫn trong tiếp nhận của độc giả đối với nó." Cùng với tác phẩm cuối cùng của Khâu Diệu Tân trước khi qua đời, "Di thư từ Montmartre", "Nhật ký Cá sấu" đã được nhiều người mô tả là "một tác phẩm kinh điển sùng bái".
"Di thư từ Montmartre" là một cuốn tiểu thuyết thể thư tín (epistolary novel) bao gồm 20 lá thư có thể đọc theo bất kỳ thứ tự nào dựa trên khái niệm về tính bất định (indeterminacy) trong âm nhạc. Nhân vật Zoe với hai mươi lá thư được gửi cho Nhứ, người tình ở Đài Bắc, và Vĩnh, một người bạn tâm giao ở Tokyo, kèm theo những miêu tả về cuộc sống thường nhật ở Paris, về trường lớp, điện ảnh, những dự định cho tương lai, trăn trở suy nghĩ về sự tồn tại hay bản chất giới tính. Tác phẩm được cho là viết trong khoảng từ ngày 27 tháng 4 năm 1995 đến ngày 17 tháng 6 năm 1995, khoảng một tuần trước khi tác giả tự sát, những bức thư bắt đầu bằng lời đề tặng: "Dành cho chú thỏ con đã chết và bản thân tôi, sẽ sớm chết."
Năm 2007, một bộ nhật ký của Khâu Diệu Tân gồm hai tập đã được xuất bản di cảo.
Khâu Diệu Tân được công nhận là quốc bảo văn chương và là biểu tượng cho văn hóa phản kháng, đồng thời còn được mô tả như một "tử đạo" của phong trào đấu tranh cho quyền lợi của cộng đồng LGBT ở Đài Loan. Những tác phẩm của chị được dùng trong giảng dạy trong nhiều trường trung học và đại học ở quốc gia này và những tác phẩm ấy còn trở thành "hình mẫu văn chương cho nhiều nhà văn khao khát".
Cuốn sách "Xoá Đi Nỗi Buồn" () của được viết để tưởng nhớ Khâu Diệu Tân. Nhà văn Đài Loan Li Kotomi chia sẻ rằng "Nhật ký Cá sấu" là nguồn cảm hứng sâu đậm cho cuốn tiểu thuyết "Solo Dance" năm 2017 của cô. Ocean Vương chọn trích một câu trong "Di thư từ Montmartre" làm đề từ cho cuốn tiểu thuyết "Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian".
Nhà nghiên cứu Fran Martin, chuyên nghiên cứu về lý thuyết Queer trong Hán học, đã viết rằng:
Năm 2017, cuộc đời và sự nghiệp của chị được làm thành một bộ phim tài liệu do Đài Truyền hình Hồng Kông sản xuất và được Evans Chan làm đạo diễn. |
RIM-101 là một dự án phát triển tên lửa phòng không trên tàu chiến của Hải quân Mỹ. Việc phát triển được tiến hành trong những năm đầu 1970s, với cơ sở là từ tên lửa RIM-7 Sea Sparrow, đã bị hủy bỏ ngay trước khi công việc thiết kế chi tiết được tiến hành.
Phát triển và hủy bỏ.
Đầu những năm 1970s, Hải quân Mỹ bắt đầu một chương trình phát triển tên lửa phòng không thế hệ mới trên tàu chiến để chống mục tiêu là máy bay và tên lửa. Định danh của tên lửa là ZRIM-101A vào năm 1973.
Tên lửa RIM-101 được dự kiến sẽ được phóng từ ống phóng, sử dụng một lượng nổ nhỏ để tạo lực đẩy tên lửa khỏi ống phóng, trước khi động cơ nhiên liệu rắn của tên lửa được kích hoạt. Tên lửa được phát triển dựa trên SAM FIM-43 Redeye. Giai đoạn bay hành trình tên lửa dẫn đường bằng radar bán chủ động, sử dụng radar băng tần I, trong khi giai đoạn tiếp cận mục tiêu sử dụng đầu dò hồng ngoại. Tuy nhiên dự án RIM-101 đã bị hủy bỏ trước khi tiến hành thiết kế và phát triển, không có nguyên mẫu nào được chế tạo.
Giới phân tích cho rằng RIM-101 được phát triển từ tên lửa RIM-7 Sea Sparrow với các tính năng cao cấp, và nó sẽ đi vào trang bị trong Hải quân Mỹ với tên gọi Basic Point Defense Missile System. Trong khi nguyên mẫu RIM-7 không trùng khớp với thông số của RIM-101, thì phiên bản tiên tiến hơn là RIM-7E có sự trùng khớp về tính năng và mốc thời gian phát triển, trong khi phiên bản RIM-7F được phát triển sau khi chương trình RIM-101 bị hủy bỏ. |
Viên kim cương Jacob
Viên kim cương Jacob, còn được gọi là Viên kim cương Hoàng gia hoặc Victoria, là một viên kim cương không màu đến từ các mỏ kim cương Golconda, Ấn Độ được xếp hạng là viên kim cương được đánh bóng lớn thứ 5 trên thế giới. Nizam cuối cùng của Nhà nước Hyderabad là Mir Osman Ali Khan, đã tìm thấy viên kim cương ở mũi giày của cha mình (Mahboob Ali Khan) tại Cung điện Chowmahalla và sử dụng nó làm vật chặn giấy trong một thời gian dài. Nó được Chính phủ Ấn Độ mua với giá ước tính 13 triệu USD vào năm 1995. Nó được cắt theo hình chữ nhật, có 58 mặt và có kích thước dài 39,5 mm (1,56 in), rộng 29,25 mm (1,152 in) và sâu 22,5 milimét (0,89 in). Viên kim cương nặng 184,75 carat (36,90 g). Hiện tại, nó được lưu giữ tại kho tiền của Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ ở Mumbai. Là một phần của triển lãm bộ trang sức của Nizam năm 2001 và 2007, Viên kim cương Jacob là điểm thu hút lớn tại Bảo tàng Salar Jung, Hyderabad.
Trước khi được gửi đến châu Âu để cắt, viên kim cương thô ban đầu được cho là nặng hơn 400 carat (80 g).
Viên kim cương được Alexander Malcolm Jacob rao bán vào năm 1891, và từ đó viên kim cương được đặt tên Jacob. Nó được dâng cho Mahboob Ali Khan (vị Nizam thứ VI của Nhà nước Hyderabad). Ban đầu, Nizam không quan tâm đến viên kim cương và chỉ đưa ra mức giá 40 lakh (4 triệu rupee) cho nó. Nizam được yêu cầu đặt cọc một cách thiện chí nếu ông thực hiện giao dịch. Những người thợ cắt đá quý ở châu Âu không thích lời đề nghị này nhưng buộc phải ra tòa khi họ không biết số tiền đặt cọc của Nizam. Cuối cùng, Nizam đã được trao viên kim cương với gần một nửa mức giá mà chính Nizam đề nghị ban đầu, 23 lakh (2,3 triệu rupee, khoảng 50.000 USD theo tỷ giá năm 2005) khi vụ việc được giải quyết. Vỡ mộng trước quá trình này và lúc đó ông xem viên kim cương là không may mắn, Nizam đã bọc nó trong vải và giấu nó đi.
Vài năm sau cái chết của cha mình, Nizam thứ VII là Mir Osman Ali Khan, đã tìm thấy viên kim cương Jacob ở mũi giày của cha mình tại Cung điện Chowmahalla, và bản thân ông đã sử dụng nó làm đồ chặn giấy trong một thời gian dài cho đến khi giá trị thực sự của viên kim cương được nhận ra. Sau đó, gia đình Nizam muốn bán viên kim cương Jacob cùng với những đồ trang sức khác, nhưng Chính phủ Ấn Độ đã ngăn chặn việc mua bán với lý do những viên đá quý này là báu vật quốc gia không thể bán cho người nước ngoài.
Sau nhiều vụ kiện tụng, viên kim cương đã được Chính phủ Ấn Độ mua từ quỹ tín thác của Nizam với giá ước tính khoảng 13 triệu USD vào năm 1995, cùng với các viên ngọc khác của Nizam, và được cất giữ tại kho tiền của Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ ở Mumbai. Viên kim cương Jacob cùng với đồ trang sức của Nizam được truyền lại bởi con cháu của ông bao gồm Himayat Ali Mirza và Mukaffam Jah.
Được trưng bày như một phần của triển lãm đồ trang sức của nizam năm 2001 và 2007, viên kim cương Jacob là một điểm thu hút lớn tại Bảo tàng Salar Jung, Hyderabad.
Vụ kiện liên quan đến việc bán viên kim cương Jacob.
Việc bán viên kim cương Jacob cho Mir Mahbub Ali Khan, Nizam thứ VI xứ Hyderabad, được coi là một trong những người giàu nhất thế giới lúc đó, đã hủy hoại Jacob. Anh ta bị đưa ra xét xử vì tội lừa đảo và chỉ được trắng án sau một phiên tòa kéo dài tại Tòa án Tối cao Calcutta. Jacob không thể lấy được số tiền của mình vì tòa án không có thẩm quyền đối với các Phiên quốc bản địa Ấn Độ. Cũng không có cơ chế nào để lấy lại viên kim cương. Cuộc tranh cãi về việc bán hàng đã khiến Jacob mất đi khách hàng của mình. Chi phí pháp lý và tình trạng vỡ nợ của các nhà cai trị phiên quốc khác đã khiến ông bị phá sản, sau đó Jacob rời Simla đến Bombay vào cuối năm 1901. |
Lý Thị Luyến (sinh 2000) là một vận động viên bóng chuyền nữ Việt Nam.
Quá trình thi đấu.
Lý Thị Luyến sinh tháng 12 năm 2000 ở Văn Giang, Hưng Yên trong một gia đình thuần nông. Thuở nhỏ, do sợ bị bạn bè bắt nạt vì quá cao, nên bố mẹ cô đã sửa ngày sinh của cô thành tháng 1 năm 1999, gần 2 tuổi so với tuổi thật, đây được xem là trường hợp "độc nhất vô nhị" ở "làng thể thao". Năm 2014, Lý Thị Luyến được Đội bóng chuyền nữ Hà Nội phát hiện vào năm 13 tuổi, trong một lần cả đội đi ăn cưới. Khi đó cô đã cao khoảng 1m76 gần 1m80, hơn cả khá nhiều vận động viên Việt Nam khi đó.
Năm 2017, cô cùng cả đội được chuyển giao cho Câu lạc bộ Hóa chất Đức Giang và bắt đầu được thi đấu ngay tại mùa giải năm đó. Tại Giải bóng vô địch quốc gia năm 2020, cô được huấn luyện viên Nguyễn Hữu Hà tin tưởng, trao nhiều cơ hội, cùng toàn đội giành được Huy chương bạc. Trong ba năm liên tiếp 2020, 2021, 2022, Hóa chất Đức Giang chỉ giành được ngôi Á quân tại Giải bóng chuyền vô địch quốc gia Việt Nam.
Cuối năm 2022, cô cùng các đồng đội vô địch giải bóng chuyền Cúp Cát Bà - Amatina. Đầu năm 2023, đội của cô vô địch cúp Hoa Lư - Bình Điền và cúp Hùng Vương. Đến tháng 7, Hóa chất Đức Giang dừng bước ở chung kết SEALECT Cup 2023 (Thái Lan).
Đội tuyển quốc gia.
Năm 2021, cô có tên trong danh sách sơ bộ Đội tuyển bóng chuyển nữ quốc gia chuẩn bị cho SEA Games 31 nhưng bị loại vào phút chót. Năm 2022, cô mới có tên trong danh sách chính thức của Đội tuyển quốc gia tham dự AVC Cup 2022.
Năm 2023, dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Nguyễn Tuấn Kiệt, cô và các đồng đội chiến thắng trận chung kết để vô địch AVC Challenge Cup 2023.
Cuộc sống cá nhân.
Bạn trai của cô tên là Ngọc Lâm, cao 1m80. Năm 2023, cô được câu lạc bộ Hóa chất Đức Giang thưởng một căn hộ chung cư vì những đóng góp cho câu lạc bộ và thành tích xuất sắc ở Đội tuyển. |
Cung điện Chowmahalla hay Chowmahallat (tiếng Hindi: चौमोहल्ला पैलेस; tiếng Tamil: சௌமகல்லா அரண்மனை; tiếng Teguru: చౌమహల్లా పాలస్) là cung điện của các Nizam cai trị Nhà nước Hyderabad nằm ở Thành phố Hyderabad, Telangana, Ấn Độ ngày nay. Đây là nơi cư trú của các thành viên thuộc triều đại Asaf Jahi (1720-1948) và là nơi ở chính thức của Nizam xứ Hyderabad trong thời kỳ trị vì của họ, ngoại trừ vị Nizam cuối cùng là Mir Osman Ali Khan, ông ấy ở tại Cung điện Vua Kothi cho đến lúc qua đời. Hiện tại cung điện được chuyển đổi thành bảo tàng nhưng quyền sở hữu vẫn thuộc về gia đình Nizam.
Các cung điện được xây dựng tại vị trí của các công trình trước đó của triều đại Qutb Shahi và triều đại Asaf Jahi gần Charminar. Việc xây dựng cung điện như ngày nay được Nizam Ali Khan Asaf Jah II bắt đầu vào năm 1769. Ông ra lệnh xây dựng 4 cung điện để lấy lại danh pháp "Chau Mahalla". Từ chār hay chahār, và biến thể của nó chow, có nghĩa là "bốn" và từ mahal có nghĩa là "cung điện" trong tiếng Urdu, tiếng Hindi và tiếng Ba Tư.
Trong khi Salabat Jung bắt đầu xây dựng vào năm 1750, nó đã được hoàn thành vào thời Asaf Jah V, trong khoảng thời gian từ 1857 đến 1869.
Cung điện độc đáo vì kiến trúc và sự sang trọng của nó. Việc xây dựng cung điện bắt đầu vào cuối thế kỷ XVIII và qua nhiều thập kỷ, sự tổng hợp của nhiều phong cách kiến trúc và ảnh hưởng đã xuất hiện. Cung điện bao gồm hai sân cũng như Khilwat (Sảnh Darbar) lớn, đài phun nước và khu vườn.[8] Cung điện ban đầu có diện tích 45 mẫu Anh (180.000 m2), nhưng ngày nay chỉ còn lại 12 mẫu Anh (49.000 m2). The palace originally covered , but only remain today. |
Cung điện Vua Kothi
Cung điện Vua Kothi (tiếng Hindi: किंग कोठी पैलेस; tiếng Marathi: किंग कोठी पॅलेस; tiếng Telugu: కింగ్ కోఠి ప్యాలెస్) hay Cung điện Nazri Bagh là cung điện hoàng gia ở Hyderabad, Telangana, Ấn Độ ngày nay. Nó là được vị Nizam thứ VII là Mir Osman Ali Khan, làm nơi cư trú, trong khi đó các vị Nizam khác lại cư trú tại Cung điện Chowmahalla rộng lớn và nguy nga hơn. Cung điện được mua bởi cha của Nizam VII là Mahboob Ali Khan, người có sở thích mua những ngôi nhà có kiến trúc đặc biệt.
Nguồn gốc tên gọi.
Ban đầu, cung điện vĩ đại này thuộc sở hữu của một quý tộc là Kamal Khan, người có tên viết tắt 'KK' được in trên tất cả đồ nội thất, cửa ra vào, bát đĩa, cửa sổ và thậm chí cả trên lưới sắt của cung điện. Vị Nizam thứ VI rất muốn mua cung điện nhưng những chữ cái đầu in đậm khiến ông có chút không hài lòng. Một cận thần của Nizam đã nghĩ ra một giải pháp tuyệt vời. Ông gợi ý rằng vì một ngôi nhà trong tiếng Urdu được gọi là "Kothi" và vì nó sẽ là Cung điện của Nhà vua nên nó có thể được đổi tên thành "King Kothi" để biện minh cho những chữ cái đầu. Nizam hài lòng và tiếp tục mua cung điện. Vì vậy cái tên Vua Kothi đã ra đời.
Cung điện được Kamal Khan xây dựng và bán cho Nizam thứ VI khi ông bày tỏ mong muốn sở hữu nó. Con trai của Nizam VI là Mir Osman Ali Khan (Nizam VII tương lai) đã chuyển đến cung điện khi mới 13 tuổi. Sau khi lên ngôi năm 1911, ông tiếp tục ở lại cung điện và không chuyển đến Cung điện Chowmahalla nơi cha ông và các vị Nizam đời trước sống.
Trong cung điện rộng lớn, nhiều loại đồ vật đắt tiền được cất giữ trong những rương thép, được buộc chặt bằng ổ khóa do Anh sản xuất. Cung điện có ba tòa nhà chính, được chia thành hai nhóm. Nó cũng có một thư viện khổng lồ được Nizam VII sử dụng.
Nửa phía đông, hiện do Bệnh viện chính phủ bang chiếm giữ, được Nizam sử dụng cho các mục đích chính thức và nghi lễ. Nửa phía tây, hiện đã có tường bao quanh, có các tòa nhà dân cư chính được gọi là Nazri Bagh hoặc Mubarak Mansion và vẫn thuộc sở hữu của con cháu Nizam.
Lối vào chính của Nazri Bagh luôn có rèm che phủ nên nó được gọi là "cổng purdah". Khi Nizam đi ra khỏi cung điện, tấm purdah được dỡ bỏ để báo hiệu nhà vua không có ở cung điện. Cánh cổng được canh gác bởi Trung đoàn Maisaram, cảnh sát và Quân đội Sarf-e-Khas mang giáo. Nizam sống ở đây cho đến khi qua đời vào năm 1967. |
Nghị quyết ES-10/21 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
Nghị quyết số ES-10/21 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc là một nghị quyết được thông qua tại phiên họp đặc biệt khẩn cấp lần thứ 10 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về chiến tranh Israel–Hamas 2023.
Nghị quyết yêu cầu thực hiện ngừng bắn nhân đạo và chấm dứt chiến sự "lập tức, bền vững", lên án "mọi hành động bạo lực chống lại thường dân Palestine và Israel" và "yêu cầu các bên lập tức tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ theo luật quốc tế".
Nghị quyết được Jordan trình trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc sau khi bốn nghị quyết yêu cầu đình chiến, ngừng bắn nhân đạo đều bị Hội đồng Bảo an bác bỏ. Nghị quyết được Đại hội đồng thông qua với 121 phiếu thuận, 14 phiếu chống, 44 phiếu trắng.
Ngày 17 tháng 10 năm 2023, đại diện của Nga trình một nghị quyết yêu cầu tiếp tế nhân đạo, sơ tán thường dân Palestine một cách an toàn và thả con tin trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Biểu quyết cho kết quả bốn phiếu tán thành, bốn phiếu không tán thành và sáu phiếu trắng nên nghị quyết không được thông qua. Ngày 18 tháng 10, đại điện của Brasil trình một nghị quyết yêu cầu ngừng bắn nhằm tạo điều kiện viện trợ nhân đạo và thẳng thắn lên án hành động của Hamas chống lại Israel nhưng bị đại diện của Hoa Kỳ phủ quyết do "không đề cập quyền tự vệ của Israel".
Nghị quyết số ES-10/21 được Jordan trình trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (LHQ) thay mặt một nhóm những nước Ả Rập sau khi bốn nghị quyết yêu cầu đình chiến, ngừng bắn nhân đạo đều bị Hội đồng Bảo an bác bỏ. 21 nước Ả Rập khác tham gia soạn dự thảo nghị quyết. 47 nước ủng hộ trình nghị quyết trước Đại hội đồng.
Đại diện của Canada đề nghị bổ sung lên án Hamas, lên án việc bắt giữ con tin và yêu cầu các con tin được "an toàn và đối xử nhân đạo" vào nghị quyết. Tuy đa số thành viên LHQ ủng hộ đề nghị của Canada nhưng chỉ 88 thành viên bỏ phiếu tán thành trong khi 55 thành viên bỏ phiếu không tán thành, 23 thành viên bỏ phiếu trắng, không đạt được đa số hai phần ba cần thiết.
Ngày 25 tháng 10, Tổng Thư ký LHQ António Guterres có bài phát biểu kêu gọi ngừng bắn và cho rằng cuộc tấn công của Hamas "không có lửa làm sao có khói" nên phải được đặt trong bối cảnh cuộc "chiếm đóng ngột ngạt" 56 năm của Israel đối với người Palestine. Ông khẳng định, "cái khổ của người Palestine không thể biện minh cho cuộc tấn công kinh khủng của Hamas. Và cuộc tấn công kinh khủng đó không thể biện minh cho sự trừng phạt tập thể người Palestine". Israel tuyên bố sẽ cấm đại diện của LHQ nhập cảnh Israel nhằm "dạy họ một bài học" và yêu cầu Tổng Thư ký từ chức.
Kết quả biểu quyết.
Kết quả biểu quyết ban đầu là 120 phiếu tán thành do nút biểu quyết của đại diện Iraq bị lỗi kỹ thuật.
Tờ báo "The Guardian" đưa tin Hoa Kỳ và Israel bị cô lập tại LHQ sau khi chỉ 12 nước bỏ phiếu không tán thành nghị quyết mà một nửa là các nước quần đảo Thái Bình Dương. Gilad Erdan, đại diện Israel tại LHQ, lên án nghị quyết và cho rằng LHQ "chẳng còn một miếng chính danh hoặc tính thời sự". Linda Thomas-Greenfield, đại diện Hoa Kỳ tại LHQ, lên án nghị quyết là "một sự sỉ nhục". Phái đoàn Hoa Kỳ chỉ trích nghị quyết là "có thiếu sót nghiêm trọng". Olof Skoog, Quan sát viên Thường trực của Liên minh châu Âu, lấy làm tiếc việc nghị quyết Hội đồng Bảo an LHQ bị một số thành viên thường trực phủ quyết. Đại diện của Nhà nước Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ, Qatar, Syria, Ghana, Pháp, Nga, Iran và Ai Cập ủng hộ nghị quyết. Brian Christopher Manley Wallace, đại diện Jamaica, kêu gọi các bên chấm dứt xung đột. Joaquín Alberto Pérez Ayestarán, đại diện Venezuela, yêu cầu Israel tuân thủ luật quốc tế. Phái đoàn Thụy Sĩ bỏ phiếu tán thành nghị quyết vì nhu cầu viện trợ nhân đạo cho người dân Gaza. Tarek Ladeb, đại sứ Tunisia tại LHQ, cho biết phái đoàn Tunisia bỏ phiếu trắng vì nghị quyết không lên án tội ác chiến tranh, tội diệt chủng của quân Israel.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Israel Eli Cohen tuyên bố trên Twitter rằng Israel "dứt khoát bác bỏ" nghị quyết và "sẽ tiêu diệt Hamas giống như cách thế giới đã tiêu diệt Đức Quốc Xã và ISIS". Séc bỏ phiếu không tán thành vì nghị quyết không lên án hành động của Hamas, không công nhận quyền tự vệ của Israel và không yêu cầu thả con tin. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Séc Jana Černochová tuyên bố Séc nên rời khỏi LHQ nhưng bị Thủ tướng Petr Fiala, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Jan Lipavský và những thành viên nội các khác chỉ trích.
Sở dĩ Philippines và Úc bỏ phiếu trắng, mặc dù ủng hộ nhiều điểm trong dự thảo nghị quyết, là vì nghị quyết không lên án cuộc tấn công của Hamas vào ngày 7 tháng 10.
Hamas tuyên bố ủng hộ nghị quyết và yêu cầu thực hiện ngay nghị quyết. Mohd Na'im Mokhta, bộ trưởng tôn giáo Malaysia, cho rằng nghị quyết sẽ giúp thực hiện ngừng bắn và cung cấp viện trợ nhân đạo cho người Palestine, đặc biệt là người dân Gaza. Trong một tuyên bố khác, Bộ Ngoại giao Malaysia cho biết chính phủ Malaysia ủng hộ nghị quyết. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao tạm quyền Pakistan Jalil Abbas Jilani kêu gọi cộng đồng quốc tế gây sức ép cho Israel phải tôn trọng "nghị quyết LHQ yêu cầu ngừng bắn ngay lập tức ở Gaza". Một tuyên bố chung của Đảng Cộng sản Ấn Độ (Chủ nghĩa Marx) và Đảng Cộng sản Ấn Độ lên án việc Ấn Độ bỏ phiếu trắng là phủ nhận sự ủng hộ của Ấn Độ đối với quyền tự quyết của dân tộc Palestine và lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Cựu thủ tướng Fiji Frank Bainimarama chỉ trích phiếu chống của Fiji là trái với "vai trò giữ gìn hòa bình lâu năm" của Fiji. Nghị viện Ả Rập ủng hộ nghị quyết và yêu cầu thực hiện "những biện pháp nghiêm túc" để gây sức ép cho Israel tuân thủ nghị quyết. |
Tổ khúc dàn nhạc số 2 cung Si thứ, BWV 1067
Tổ khúc cho dàn nhạc số 2 cung Si thứ, BWV 1067 là một trong bốn tổ khúc của nhà soạn nhạc Johann Sebastian Bach. Tổ khúc này mở đầu bằng Ouverture, một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Pháp. Tiếp sau đó là một số chương nhạc mang tên của những điệu khiêu vũ cũng có nguồn gốc từ Pháp như Rondeau, hay Bourée và Menuet, vốn là những điệu nhảy hoàng gia tại triều đình Louis XIV. Sarabande là một điệu nhảy nhanh có nguồn gốc từ Tây Ban Nha hoặc Tân Thế giới nhưng cũng xuất hiện trong tổ khúc này dưới tốc độ chậm hơn, mang đặc trưng phong cách Pháp. Polonaise, một thể loại âm nhạc dân gian bắt nguồn từ một điệu múa dân gian của Ba Lan được Bach cách tân từ một bài hát dân ca. Tổ khúc kết thúc với Badinerie, là một chương ngắn gọn, nhưng mang nặng tính kỹ thuật, cũng là một trong những giai điệu nổi tiếng trên thế giới tới ngày nay và có sức ảnh hưởng lớn nhất của Bach.
Về khía cạnh phong cách sáng tác, giống như bản sonata cho sáo flute trước đó của ông, tổ khúc cho dàn nhạc số 2 này có thể là một sự tái sử dụng lại chất liệu sáng tác từ thời kỳ mà nhà soạn nhạc ở Köthen. Theo một số nhận định, tác phẩm đã chứa đựng "một vài sự tinh tế" trong kỹ thuật sáng tác bậc thầy, đồng thời dù thuấn nhầm phong cách Pháp nhưng trong đó Bach đã xây dựng một nền tảng tinh thần dân tộc quê hương Đức vững chắc.
Tổ khúc số 2 của Bach bắt nguồn từ một phần các bản thảo viết tay mà ông viết trước đó cho sáo flute và viola ở Leipzig từ khoảng năm 1738–39. Đây là tổ khúc duy nhất trong số 4 tổ khúc của nhà soạn nhạc được viết ở một giọng thứ. Bản tổng phổ của tác phẩm hiện nay đã bị thất lạc, nhưng phân phổ các bè nhạc từ giai đoạn 1738–39 thì vẫn còn tổn tại và hiện bảo quản ở Thư viện Berlin. Thời kì này, Bach tiếp quản Collegium Musicum một lần nữa vào năm 1739 sau hai năm tạm nghỉ và ông sẽ dự định thực hiện công việc này cho các buổi hòa nhạc tại quán cà phê thường trực mà mình làm việc ở Leipzig. Theo nhận định, tổ khúc thứ hai của Bach chứa đựng "một vài sự tinh tế" trong kỹ thuật sáng tác bậc thầy, bao gồm canon nhiều bè được thể hiện trong của tất cả các nhạc cụ ở cuối phần Ouverture và các canon giữa giọng cao và bè trầm trong một số chương. Chương Sarabande thậm chí còn có quy định nghiêm ngặt về canon năm bè, điều này khiến một số nhà nghiên cứu âm nhạc chỉ đặt công trình nghiên cứu tìm hiểu âm nhạc vào cuối thời kỳ mà Bach ở Leipzig. Gustav Mahler đã chuyển soạn các chương nhạc của tổ khúc dàn nhạc số 2 và 3 của Bach cho dàn nhạc giao hưởng, đàn harpsichord và đàn organ. 2 bộ tổ khúc đã được biểu diễn nhiều lần trong chuyến lưu diễn đầu tiên của Mahler với New York Philharmonic, trong đó Mahler biểu diễn đàn harpsichord còn Harry Jepson chơi đàn organ.
Về mặt phong cách sáng tác, giống như bản sonata cho sáo flute trước đó của Bach, tổ khúc cho dàn nhạc số 2 này có thể là một sự viết lại chất liệu sáng tác từ thời kỳ ở Köthen trước đó của nhà soạn nhạc. Chính xác điều gì cấu thành nên dàn nhạc của Bach đã là một vấn đề tranh luận kể từ khi nhà âm nhạc học Joshua Rifkin lần đầu tiên trình bày lập luận trong một bài giảng năm 1981 rằng Bach biểu diễn phần lớn âm nhạc của mình bằng một bè hoặc một nhạc cụ.
Dù thuấn nhầm phong cách Pháp nhưng phần sáo độc tấu mang lại cho tác phẩm quy mô không kém một bản concerto độc tấu phong cách Ý, mà trong đó Bach đã xây dựng một nền tảng tinh thần dân tộc Đức vững chắc.
Phiên bản trước đó cung La thứ.
Joshua Rifkin đã cho rằng dựa trên phân tích chuyên sâu về các bản thảo đầu tiên có chữ ký của từng phân phổ, tác phẩm này đã dựa trên một phiên bản khác trước đó viết ở cung La thứ, trong đó nhạc cụ độc tấu là violin chứ không phải sáo. Rifkin nói lời giải thích tốt nhất cho việc các nốt nhạc không đúng khi ghi chép trong các phân phổ còn sót lại là do chúng đã được sao chép từ một bản mẫu có toàn bộ giai điệu ở âm vực thấp hơn. Theo đó, phần độc tấu này bị thấp hơn âm vực tối thiểu từ trước đến nay Bach đã viết cho bất kỳ phần sáo nào (sáo flute Bach thường gọi là "flauto traverso" hoặc sáo "traversière"). Rifkin lập luận rằng thực chất với âm vực này thì violin là nhạc cụ khả dĩ nhất chứ không phải sáo, và ông nhấn mạnh rằng khi viết từ "Traversiere" trong phần solo, Bach dường như đã cách điệu chữ T từ chữ "V trước đó", cho thấy rằng ban đầu nhà soạn nhạc có ý định viết từ "violin". Hơn nữa, Rifkin cũng không quên nhắc những đoạn nhạc trong tác phẩm có thể khai thác kỹ thuật âm sắc từ violin, ngoài ra có khả năng Bach đã lấy cảm hứng để viết tổ khúc từ một tác phẩm tương tự của người anh em họ đời thứ hai của ông là Johann Bernhard Bach. Nghệ sĩ sáo flute Steven Zohn chấp nhận lập luận này rằng có một phiên bản trước đó ở cung La thứ, nhưng ông cho rằng rằng phần gốc có thể biểu diễn được trên sáo cũng như cả violin.
Nghệ sĩ kèn oboe đã lập luận chi tiết rằng nhạc cụ độc tấu trong phiên bản La thứ gốc bị thất lạc lại là kèn oboe, và ông này đã thu âm lại để phục dựng bản gốc giả định đó trên một chiếc kèn oboe Baroque. Lập luận mà ông đưa ra để phản bác đàn violin là: phạm vi của phần bè độc tấu đó bị "hạn chế một cách kỳ lạ", "gần như tránh hoàn toàn dây sol" và nói rằng phần độc tấu violin đôi khi sẽ có cao độ thấp hơn bè violin I, đó là điều lấn cấn, hầu như chưa từng có tiền lệ trong các nhạc cho violin độc tấu. Ngược lại, “âm vực chính xác là âm vực của kèn oboe", việc viết nhạc cho oboe độc tấu đôi khi có âm vực thấp hơn violin I là cách làm điển hình của thời kì Baroque, vì oboe "nghe vẫn lọt tai", và "những hình âm tượng tự được tìm thấy trong nhiều tác phẩm oboe vào thời kỳ đó."
Tổ khúc được viết cho sáo độc tấu, violin I, violin II, viola và bè trầm liên tục (do Harpsichord đảm nhiệm). Tổ khúc gồm 7 chương với 6 điệu nhảy khác nhau:
Tổ khúc được mở đầu bằng Ouverture với gần 220 ô nhịp, một thuật ngữ tiếng Pháp biểu thị nguồn cảm hứng tiềm ẩn của chương. Phần mở đầu được viết ở nhịp formula_1 , trong khi ở phần fugal được đánh số nhịp là formula_2; cuối cùng phần kết được viết với tiêu đề "Lentement" dưới nhịp . Chương này chỉ sử bè sáo dộc tấu và cho violin I diễn tấu y hệt, đồng thời phát triển bản nhạc dựa trên sự mô phỏng giữa chính sáo và bè trầm. Chủ đề fugato trong phần sau được đặc trưng bởi một kỹ thuật nảy đặc trưng (ngày nay chủ yếu được chơi dưới tên gọi staccato). Chương nhạc được biểu diễn trong phần trình bày thông qua tất cả các bè trước khi đoạn kết đầu tiên để sáo thể hiện như một nhạc cụ độc tấu. Trong hầu hết các đoạn độc tấu rất dài, bè trầm liên tục làm nổi bật chủ đề fugue một cách rõ ràng, điều này đảm bảo sự gắn kết chủ đề chặt chẽ. Ở đoạn cuối, Bach viết trở lại theo nhịp điệu rải rác ở phần đầu để khẳng định rõ ràng chủ đề của chương nhạc và truyền tải nó qua tất cả các nhạc cụ đàn dây theo kiểu đối âm. Sự kết hợp giữa phần mở đầu chậm, trang trọng và phần Allegro nhanh nhẹn ở cuối bắt nguồn từ các Ouverture mang đậm phong cách Pháp của Jean-Baptiste Lully, vị nhạc sĩ đã sử dụng chúng để mở đầu các vở opera và ballet của mình. Việc đưa một cây sáo độc tấu vào phần nhạc cụ cho phép Bach kết hợp các yếu tố của hình thức concerto vào phần fugal của Ouverture, với các bè dây thực hiện phức điệu nghiêm khắc và các đoạn hòa tấu do sáo dẫn dắt biểu thị tiến trình hòa âm của chương.
Được viết dưới tiêu đề chép tay là "Rondeaux" bởi Bach với nhịp formula_1, gồm 54 ô nhịp. Trình tự các điệu nhảy của những chương tiếp theo được thông qua Rondeau đầu tiên. Điều này giúp chèn các đoạn tương phản giữa các lần lặp lại của chủ đề, thường nhấn mạnh vào bè đệm (tức không phải sáo độc tấu).
Được viết ở nhịp với 32 ô nhịp , trong đó có một canon ở nhịp thứ 12 giữa sáo độc tấu cộng thêm violin I và bè trầm. Sarabande vốn là một điệu nhảy nhanh có nguồn gốc từ Tây Ban Nha hoặc Tân Thế giới, trong tổ khúc này lại chỉ xuất hiện dưới tốc độ chậm hơn mang phong cách Pháp.
Phân thành Bourrée I (24 ô nhịp) và Bourée II (13 ô nhip), viết dưới nhịp formula_1 . Chương nhạc này có mối liên kết chặt chẽ với nhịp điệu của điệu Bourrée nguyên bản nhưng dường như có sự khác biệt so với phong cách của người Pháp. Bach điểm một vài đường nét mang phong cách Ý trong Bourrée II với các âm tô điểm trong giai điệu và hòa âm giữa độc tấu sáo và dàn nhạc dây đệm, trong khi với Bourrée I ông sử dụng bè trầm trì tục. Những đường nét của điệu nhảy Bourrée cổ nguyên bản chỉ còn tìm thấy trong các tiết tấu đảo phách.
Chương Polonaise viết ở nhịp gồm 12 ô nhịp, phần Double gồm 14 ô nhịp. Điệu Polonaise trong tổ khúc này là sự cách điệu của bài hát dân ca Ba Lan "Wezmę ja kontusz" (tạm dịch là "Tôi sẽ cầm lấy chiếc áo choàng quý tộc của mình"). Phần sáo được ghi chú là "Moderato e staccato" và bè violin I là “lentement” (chậm).
Được viết ở nhịp , gồm 24 ô nhịp. Violin I bắt chước hoàn toàn giai điệu và tiết tấu của sáo.
Badinerie là chương cuối cùng trong tổ khúc với 40 ô nhịp. Badinerie trong tiếng Pháp có ý nghĩa là "vui đùa", là tên gọi chỉ một loại tiểu phẩm mang tính khiêu vũ, vui vẻ và nhanh ở nhịp hai phách. Ở thế kỷ 18, badinerie được dùng như một chương nhạc trong tổ khúc. Đôi khi chương nhạc còn được đánh vần là "Battinerie" trong các bản thảo viết tay của ông. Hầu hết các ấn bản hiện đại của tổ khúc số 2 cũng đã đặt tiêu đề badinerie cho một chương nhạc mang không khí kết thúc. Tuy nhiên, tất cả các bản sao viết tay từ thế kỷ 18 còn tồn tại, bao gồm cả phần nhạc viết tay cho sáo, chính Bach đã gọi nó là "Battinerie". Đối với cách viết này, một số người tỏ ra nghi ngờ rằng Bach đã chơi chữ bằng từ tiếng Pháp badinerie (một trò giải trí thú vị) với từ tiếng Pháp "batterie" (đánh nhau hoặc ẩu đả).
Mặc dù tên gọi "Badinerie" không phổ biến, nhưng từ tương đương với nó trong tiếng Ý là "scherzo" lại được sử dụng với tần suất nhiều hơn. Bản thân Bach cũng đã từng viết chương 6 với tiêu đề scherzo trong Partita cung La thứ cho đàn phím, BWV 827. Cũng tương tự ở tổ khúc dàn nhạc cung Si thứ, đây là một chương nhạc có nhịp bắt đầu trên một nét nhạc tươi sáng. Việc hai chương nhạc này có đặc điểm giống nhau đến mức một nghiên cứu cho thấy Bach đã coi "baderine" và scherzo" là tương đương nhau.
Tuy nhiên nhạc công đàn harpsichord sẽ đọc từ dòng nhạc của cello và diễn tấu các nốt bằng tay trái và tự điền vào hợp âm bằng tay phải. Chương nhạc được viết ở hình thức hai đoạn đơn theo nhịp nhanh chóng, mang tính chất "trong sáng, vui tươi". Xuyên suốt chương nhạc, hai chủ đề kết hợp đối nghịch nhau trong tính chất "đánh nhau nghịch ngợm", và bè trầm với bè dây cao (do violin I) cũng diễn tấu với tính "đùa nghịch" cùng sáo độc tấu. Violin II và viola chỉ có vai trò đệm hòa âm với những tiết nhạc ít sự chuyển động hơn. Bach cũng sử dụng nhiều sự tương phản âm để tạo ra những biến đổi về cường độ âm nhạc. Đoạn 1 viết ở giọng Si thứ, trong khi đoạn 2 viết ở giọng Rê trưởng, sau đó trở lại Si thứ để về đúng điệu thức của bài. Thông thường để có bản nhạc đầy đủ và hoàn chỉnh hơn, các nhà soạn thường yêu cầu lặp lại từng đoạn với hình thức 2 đoạn đơn và bản Badinerie này cũng không phải ngoại lệ.
Nhận xét về điệu thức, một cuốn sách đưa ra ý kiến tuy viết ở giọng thứ nhưng với nhịp điệu, tiết tấu nhanh và bản thân tiêu đề của chương nhạc đã khiến nó "khó mà liên tưởng được tới nỗi buồn". Theo một nhận định khác, tác phẩm này là một ví dụ điển hình về phong cách âm nhạc cổ điển của thời kì Baroque với việc sử dụng nhiều nốt hoa mĩ và các nốt láy rền.
Bản Baderine của Bach được xem là một trong những ví dụ nổi tiếng nhất về vũ điệu này. Chương nhạc này cũng thường xuyên được giới thiệu trong các buổi hoà nhạc và thu âm, thể hiện được vị thế mang tính biểu tượng trong âm nhạc Baroque. Một cuốn sách giáo khoa âm nhạc đã dành ra hơn 10 trang để phân tích về sáng tác này của Bach. Những bản badinerine về sau cũng xuất hiện trong các tác phẩm tiếng Pháp của và Telemann với nhịp độ nhanh. Bản Badinerie của Bach đã trở thành một tác phẩm trình diễn cho những nghệ sĩ thổi sáo độc tấu vì tốc độ nhanh và độ khó. Thậm chí, bản nhạc thường được biểu diễn bởi những nghệ sĩ đáo điêu luyện và còn được chuyển soạn cho cả các nhạc cụ kèn đồng như trumpet, thậm chí cả guitar cổ điển và guitar điện với mục đích kiểm tra tốc độ nhanh nhạy ngón tay của người biểu diễn. Bản nhạc này có đầy đủ tiêu đề ngụ ý về sự vui vẻ "nhẹ nhàng và sống động", điều này khiến tác phẩm cũng trở nên phổ biến với những người chuyển soạn nhạc Jazz. Bản chuyển soạn cho guitar cổ điển và dàn nhạc thính phòng của John Williams và cũng được xem là một trong những bản nhạc chuyển soạn "thú vị nhất".
Theo một cuốn sách nhận định, Bach luôn đau đáu và có niềm đam mê sáng tác mãnh liệt với những tác phẩm âm nhạc hình thức lớn và đồ sộ, chính vì lẽ đó mà ông thường được coi là một người đàn ông "nghiêm khắc, không có thời gian với những cuộc đùa vui". Nhưng bản badinerie của ông là một ví dụ cho thấy điều ngược lại. Ngoài ra, độ khó về mặt kỹ thuật của các tác phẩm do các nhà soạn nhạc thời Baroque đã đặt ra nghi vấn về mức độ điêu luyện trong biểu diễn giữa thời xưa và hiện đại. Bản badinerie của Bach cùng các tác phẩm của ông, kể cả những nhà soạn nhạc khác đã được mang ra thảo luận và đối chiếu. Kết quả cho thấy các nhạc sĩ hàng đầu từ nhiều thế kỷ trước đã thành thạo trong việc biểu diễn các kỹ thuật chơi nhạc cụ không kém các nghệ sĩ bậc thầy ngày nay.
Trong văn hoá đại chúng.
Badinerie còn được sử dụng trong nhiều tác phẩm âm nhạc và điện ảnh khác nhau nhằm tăng thêm "cảm giác sống động và sang trọng" cho nhạc nền. Trong nhiều năm vào những năm 1980 và đầu những năm 1990, chương nhạc này là nhạc hiệu cho các chương trình buổi sáng của kênh truyền hình ở Vương quốc Anh. Một tờ báo cũng đã đưa tin trong một chương trình nghệ thuật "Quarantine Sessions", hai nghệ sĩ thổi sáo cùng nghệ sĩ cello đến từ Nhà hát Opera Quốc gia Hy Lạp và Dàn nhạc Giao hưởng Đài phát thanh Hy Lạp đã biểu diễn chương badinerie của Bach trong một bãi đỗ xe.
Chủ đề âm nhạc của tác phẩm này xuất hiện nhiều trong các chương trình phát thanh và truyền hình, thậm chí là nhạc chuông điện thoại và nằm trong tâm trí của nhiều người. Bản nhạc đã xuất hiện trong bộ phim hài . Nữ ca sĩ người Do Thái đã sử dụng giai điệu của Badinerie này để chuyển soạn thành ca khúc mang phong cách âm nhạc Di Gan và nhạc Jazz mang tên "No baby" của mình. |
Oikawa Takuma ( (Cập Xuyên Thác Mã), Oikawa Takuma) sinh ngày 6 tháng 5, 1987 (Chiêu Hòa thứ 62) tại thôn Matsubuchi, huyện Kitakatsushika, tỉnh Saitama là một kỳ thủ shogi chuyên nghiệp đạt cấp độ Thất đẳng người Nhật Bản.
Oikawa sinh ra tại Matsubuchi, Kitakatsushika và lớn lên tại TP Tokorozawa. Anh đã tốt nghiệp trung học phổ thông và Đại học Tokyo Denki. Vợ của anh là Nữ lưu kỳ sĩ Ueda Hatsumi Nữ lưu Tứ đẳng.
"Chi tiết về hạng/tổ của kỳ thủ vui lòng xem các bài Thuận Vị Chiến và Long Vương Chiến." |
Cách Hamas dùng lá chắn sống
Theo NATO, Liên Hợp Quốc (UN), Liên minh Châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Israel, và một số quốc gia châu Âu khác, Hamas và các nhóm chiến binh Palestine khác đã chủ đích sử dụng dân thường ở Gaza làm lá chắn sống. Chiến thuật này gồm việc phóng rocket, đặt cơ sở hạ tầng quân sự trong khu dân cư, và giao tranh với Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) từ hoặc gần các khu vực dân cư và thương mại. Theo thời gian, Hamas liên tục tuyên bố rằng thương vong dân thường là có chủ đích và mang mục đích chiến lược.
Các cáo buộc sử dụng lá chắn sống bởi các phe Palestine, trong đó có Hamas, đã xuất hiện trong các xung đột ở Gaza năm 2008 và 2014, cũng như trong cuộc chiến tranh Israel–Hamas năm 2023. Trong cuộc chiến năm 2023, Israel đã đưa ra bằng chứng cho rằng Hamas đã đặt một số phần của hệ thống mạng lưới chỉ huuy và đường hầm quân sự dưới cơ sở hạ tầng dân sự, trong đó có Bệnh viện Al-Shifa ở Gaza City, và lưu trữ vũ khí dưới Bệnh viện Al-Rantisi. Những báo cáo này đã được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ xác nhận. Trong chiến tranh, Hamas được cho là đã cố gắng ngăn chặn người Palestine sơ tán khỏi các khu vực chiến sự, kêu gọi họ ở lại nơi họ đang ở.
Theo một bài báo được Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Chiến lược NATO công bố, việc sử dụng chiến thuật lá chắn sống của các nhóm như Hamas lợi dụng mục tiêu của Israel là giảm thiểu thương vong dân thường và sự nhạy cảm của dư luận phương Tây. Chiến thuật này cho phép Hamas hoặc buộc tội Israel gây ra tội ác chiến tranh nếu xảy ra thương vong cho dân thường, hoặc bảo vệ tài sản của mình và tiếp tục các chiến dịch nếu IDF hạn chế phản ứng quân sự. Cách tiếp cận này làmột ví dụ cho 'chiến tranh pháp lý', sử dụng các nền tảng pháp lý và công chúng để thách thức một đối thủ.
Chiến tranh Gaza 2008-2009.
Trong một phân tích sau chiến tranh về cuộc xung đột, Tổ chức Ân xá Quốc tế tuyên bố: "Ngược lại với những cáo buộc lặp đi lặp lại của các quan chức Israel về việc sử dụng 'tấm khiên nhân sự', Amnesty International không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy Hamas hoặc các chiến binh Palestine khác đã hướng dẫn việc di chuyển của dân thường để che chắn các mục tiêu quân sự khỏi các cuộc tấn công. Không có bằng chứng nào cho thấy Hamas hoặc các nhóm vũ trang khác buộc cư dân ở lại trong hoặc xung quanh các tòa nhà được sử dụng bởi chiến binh, cũng không có bằng chứng nào cho thấy các chiến binh ngăn cản cư dân rời khỏi các tòa nhà hoặc khu vực đã bị quân phiến quân chiếm đóng."
Chiến tranh Gaza 2014.
Nhiều báo cáo trong Chiến tranh Gaza năm 2014 cho biết Hamas đã sử dụng lá chắn sống. Navi Pillay, Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc, cáo buộc các binh sĩ Hamas vi phạm luật nhân quyền quốc tế khi "đặt rocket trong trường học và bệnh viện, thậm chí phóng các rocket này từ các khu vực đông dân cư". Liên minh Châu Âu lên án Hamas, đặc biệt lên án "việc kêu gọi người dân Gaza tự mình làm lá chắn sống". Trong một cuộc phỏng vấn tháng 9 năm 2014, một quan chức Hamas đã thừa nhận với Associated Press rằng nhóm này đã phóng rocket vào Israel từ các khu vực dân cư. Ông gọi việc này là "sai lầm", nhưng cho biết nhóm ít lựa chọn do tình trạng đông đúc của Dải Gaza và thiếu các khu vực mở. Ông phủ nhận cáo buộc rocket đã được phóng "từ các trường học hoặc bệnh viện trong khi thực tế chúng đã được phóng ở cách 200 hoặc 300 mét (yard)". Trong một cuộc phỏng vấn năm 2014, nhà lãnh đạo chính trị của Hamas, Khaled Mashal, nói với một phóng viên CNN rằng nhóm không sử dụng dân chúng của mình làm lá chắn sống.
Năm 2014, các nhà báo của The Guardian phát hiện "những người đàn ông có vũ trang" bên trong một bệnh viện, và đưa tin "các lãnh đạo cao cấp của Hamas" được nhìn thấy bên trong một bệnh viện khác.
Trong cuộc phỏng vấn với người tị nạn Gaza, các phóng viên của The Independent và The Guardian kết luận rằng việc Hamas bắt buộc dân thường ở lại các khu vực đang bị tấn công mặc dù họ không muốn là không có thật; nhiều người tị nạn cho biết họ từ chối chú ý đến cảnh báo của IDF vì ngay cả những khu vực mà Israel đã tuyên bố an toàn cho người tị nạn cũng đã bị lực lượng này bắn pháo . Biên tập viên Trung Đông của BBC, Jeremy Bowen, cũng nói rằng ông "không thấy bằng chứng nào về việc Hamas sử dụng người Palestine làm lá chắn sống". Một tài liệu của Tổ chức Ân xá Quốc tế (ngày 25 tháng 7 năm 2014) khẳng định họ "chưa có bằng chứng vào thời điểm này cho thấy dân thường Palestine đã bị sử dụng một cách chủ tâm bởi Hamas hoặc các nhóm vũ trang Palestine khác trong thời kỳ xung đột hiện tại để 'che chắn' các địa điểm cụ thể hoặc nhân sự, thiết bị quân sự khỏi cuộc tấn công của Israel". Đánh giá của Tổ chức Ân xá Quốc tế là luật nhân quyền quốc tế đã quy định rõ ràng rằng "ngay cả khi các quan chức hoặc chiến binh của Hamas hoặc các nhóm vũ trang Palestine liên quan đến các phe khác đã thực sự hướng dẫn dân thường ở lại một địa điểm cụ thể để che chắn mục tiêu quân sự khỏi các cuộc tấn công, tất cả các nghĩa vụ của Israel để bảo vệ những dân thường này vẫn áp dụng". Tuy nhiên, tổ chức nhân quyền vẫn phát hiện rằng các phe Palestine, giống như trong các xung đột trước, tiếp tục phóng các cuộc tấn công từ khu vực dân cư.
Người phát ngôn bằng tiếng Ả Rập của Hamas, Sami Abu Zuhri trên kênh truyền hình Al-Aqsa của Hamas vào ngày 8 tháng 7 năm 2014 đã kêu gọi người dân Gaza ở lại trong những khu vực đang bị Israel nã đạn, khiến Israel và các quốc gia khác, ví dụ như Liên minh Châu Âu, buộc tội Hamas kêu gọi người dân tình nguyện làm "lá chắn sống". Tuy nhiên đối với Tổ chức Ân xá Quốc tế cuộc kêu gọi của Hamas có thể đã "có động cơ là mong muốn tránh sự hoảng loạn tiếp theo" trong dân thường, khi xem xét cả tình trạng thiếu nơi trú ẩn ở Gaza và việc một số dân dân chú ý đến cảnh báo của IDF đã trở thành nạn nhân của các cuộc tấn công của Israel.
Trong suốt cuộc chiến, Israel cũng đã làm hư hại cho các bệnh viện, cáo buộc rằng chúng đang giấu "tên lửa". Một nhóm nhà báo Phần Lan của tờ Helsingin Sanomat làm việc tại bệnh viện Gaza Al-Shifa báo cáo thấy rocket được phóng từ gần bệnh viện Al-Shifa. Tuy nhiên, hai bác sĩ Na Uy đã làm việc tại bệnh viện này suốt nhiều thập kỷ đã phủ nhận sự hiện diện của binh sĩ gần đó, cho hay người có vũ trang cuối cùng họ thấy gần tòa nhà là một bác sĩ Israel trong thời kỳ Intifada đầu tiên. Bản tin Washington Post mô tả bệnh viện Al-Shifa là "trụ sở thực tế cho các nhà lãnh đạo Hamas, có thể nhìn thấy họ trong các hành lang và văn phòng". Nick Casey của The Wall Street Journal đăng một bức ảnh trên Twitter của một quan chức Hamas sử dụng bệnh viện Al-Shifa để phỏng vấn truyền thông, nhưng sau đó đã xóa tweet đó. Nhà báo Pháp-Palestinian Radjaa Abu Dagg tuyên bố đã bị một thành viên Hamas có vũ trang thẩm vấn bên trong Bệnh viện Al-Shifa và bắt rời Gaza.
Cùng tổ chức này lại khẳng định rằng "có đủ bằng chứng để chỉ ra rằng, không tuân thủ theo quy tắc của IDF, binh sĩ Israel đã sử dụng dân thườngvà trẻ em Palestine như lá chắn sống để tự bảo vệ" bằng cách đưa người Palestine đến những ngôi nhà nơi các binh sĩ khác đang ẩn nấp và khuyến khích họ đầu hàng.
Năm 2015, The Washington Post nói rằng một báo cáo của Ân xá Quốc tế lên án các dân quân Palestine đã cất trữ vũ khí và phóng rocket từ các công trình dân sự và báo cáo rằng việc phóng các cuộc tấn công và lưu trữ rocket "gần các khu vực nơi hàng trăm dân dụ tị nạn". Báo cáo nói rằng "bằng chứng cho thấy rằng các nhóm vũ trang Palestine đã phóng rocket và đạn cối từ khu vực dân cư trong thời kỳ xung đột tháng 7/8 năm 2014, và rằng ít nhất trên một số dịp, các đạn đạo đã được phóng gần các công trình dân sự…các khu vực quan trọng trong 365km2 lãnh thổ không phải là khu dân cư, và thực hiện chiến tranh hoặc phóng vũ khí từ những khu vực này mang lại nguy cơ thấp hơn về nguy hiểm cho dân dụ Palestine… các nhóm vũ trang Palestine đã lưu trữ rocket và vật liệu quân sự khác trong các công trình và cơ sở dân sự, bao gồm các trường học của Liên Hợp Quốc, trong suốt thời kỳ xung đột… việc lưu trữ vật liệu quân sự trong các công trình dân sự hoặc thực hiện các cuộc tấn công từ khu vực gần các công trình dân sự, vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện mọi biện pháp khả thi để bảo vệ dân thường khỏi hậu quả của các cuộc tấn công. Nhưng chúng không nhất thiết là vi phạm cụ thể về việc sử dụng 'lá chắn sống' theo luật nhân quyền quốc tế, điều này bao gồm "sử dụng sự hiện diện (hoặc di chuyển) của dân thường hoặc những người được bảo vệ khác để làm cho một số điểm hoặc khu vực (hoặc lực lượng quân sự) tránh khỏi các hoạt động quân sự".Theo Philip Luther, Giám đốc Chương trình Trung Đông và Bắc Phi tại Ân xá Quốc tế, "bằng chứng cho thấy một rocket được phóng bởi một nhóm vũ trang Palestine có thể đã khiến 13 người dân Palestine thiệt mạng nêu rõ rằng những loại vũ khí không phân biệt ai cả này và hậu quả kinh khủng của việc sử dụng chúng". Ông cũng tuyên bố rằng "tác động tàn khốc của các cuộc tấn công của Israel đối với người dân Palestine trong thời kỳ xung đột là không thể phủ nhận, nhưng vi phạm của một bên trong một xung đột không bao giờ có thể biện hộ cho các vi phạm của đối phương".
Năm 2019, một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Chiến lược NATO nói rằng Hamas "đã sử dụng lá chắn sống trong các xung đột với Israel từ năm 2007".
Chiến tranh Israel-Hamas 2023.
Trong chiến tranh giữa Israel và Hamas năm 2023, Israel tuyên bố Hamas đã đặt một số phần của hệ thống đường hầm quân sự và mạng lưới chỉ huy một cách chiến lược dưới cơ sở hạ tầng dân sự, bao gồm Bệnh viện al-Shifa ở Gaza. Bằng chứng video từ cuộc thẩm vấn hai thành viên của cánh vũ trang của Hamas có vẻ hỗ trợ khẳng định rằng binh sĩ Hamas đang sử dụng các bệnh viện như một phương tiện để bảo vệ khỏi các cuộc tấn công của IDF.
Ngày 13 tháng 11 năm 2023, người phát ngôn IDF Daniel Hagari trình bày bằng chứng trước các nhà báo, chỉ ra sự hiện diện của cơ sở hạ tầng của Hamas tại Bệnh viện Al-Rantisi, một bệnh viện nhi ở Gaza. Bằng chứng này bao gồm một video giới thiệu về chất nổ, áo đánh bom tự sát và một chiếc xe máy được cho là sử dụng trong các cuộc tấn công vào ngày 7 tháng 10, tất cả đều được giấu trong một tầng hầm. Ngoài ra, Hagari trình bày đoạn video về một giếng sâu có thang, mà ông cho rằng là lối vào của một đường hầm nằm kế bên một trường học và một bệnh viện. Ông mô tả đường hầm này là một "đường hầm khủng bố," nhấn mạnh việc sử dụng nó cho mục đích quân đội.
Bằng chứng được IDF thu thập cho thấy Hamas đã sử dụng các tòa nhà trường học để lưu trữ vật liệu quân sự như tên lửa, tên lửa chống tăng, bộ phát, và súng tự động. Các kho vật liệu quân sự này được tìm thấy gần với các phòng học đang hoạt động, cho thấy một chiến lược cố ý sử dụng cấu trúc dân sự làm lá chắn sống.
Người phát ngôn Hội đồng An ninh Quốc gia của Nhà Trắng, John Kirby, xác nhận rằng ông có thông tin tình báo cho thấy Hamas đang sử dụng Bệnh viện Shifa ở Thành phố Gaza cho mục đích quân sự, có thể là để lưu trữ vũ khí và cũng để giam người bị bắt giữ. Cố vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan cho biết "bạn có thể thấy ngay từ báo cáo nguồn mở rằng Hamas sử dụng bệnh viện, cùng với nhiều cơ sở dân sự khác, để điều khiển chỉ huy, để lưu trữ vũ khí, để ẩn mì, cả về mặt lịch sử và trong xung đột này". Theo một quan chức Mỹ khác, "Hamas có một căn cứ chỉ huy dưới Bệnh viện Al-Shifa, sử dụng nhiên liệu vốn dành cho bệnh viện và binh sĩ của họ thường xuyên tập trung trong và xung quanh [đó]."
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền kêu gọi Hamas bảo vệ dân thường dưới sự kiểm soát của họ và không sử dụng họ như "lá chắn sống".
Truyền thông đưa tin.
David Leonhard và Lauren Jackson của tờ New York Times viết "Hamas đã giấu nhiều vũ khí dưới các bệnh viện, trường học và đền thờ để Israel phải đối mặt với việc sát hại dân thườ, hoà mình vào dân thường". Những cách làm này theo David French "đồng nghĩa với việc Hamas chịu trách nhiệm về nhiều cái chết của dân thường". Theo French, "việc cố ý đặt nguồn lực quân sự gần dân thường và chiến binh giả dạng làm dân thường đều vi phạm luật chiến tranh." Theo một bản tin khác của New York Times, "Hamas đã sử dụng dân thường làm lá chắn sống và đặt các hầm ngầm, kho vũ khí và nơi phóng tên lửa dưới hoặc gần các trường học, đền thờ và bệnh viện".
Chuyên gia quân sự DW Frank Ledwidge nói rằng "nó đã được mô tả... như 'kiến thức thông thường' rằng nhiều trụ sở [của Hamas] đặt dưới các bệnh việ[với] cổng vào và ra ở những nơi như đền thờ hoặc trường họ[hoặc thậm chí là] cơ sở của Liên Hợp Quố".
John Spencer nói rằng "[Hamas đã] xây nhiều cổng vào và ra và đường hầm dưới các địa điểm được bảo vệ như bệnh viện, trường học, đền thờ, bởi nó hạn chế việc sử dụng vũ lực mà IDF có thể thực hiện mà không cần thông ".
Theo Daphne Richemond-Barak, giáo sư nghiên cứu chống khủng bố tại Đại học Reichman và tác giả của cuốn sách năm 2017 "Chiến tranh ngầm", binh sĩ Hamas hoạt động dưới Bệnh viện Al-Shifa nhận được "mức bảo vệ cao nhất theo luật chiến tranh", cũng như "cơ hội duy nhất để hoạt động ngoài tầm của máy bay không người lái, GPS và các công nghệ thu thập thông tin tình báo khác". Cô cho biết "ở Gaza, các đường hầm được đào trong những ngôi nhà của dân thường, chạy dưới toàn bộ khu dân cư và dẫn vào các khu vực có dân ở bên trong I, và tạo điều kiện di chuyển và hoạt động mà không được phát hiện."
Avi Issacharoff nói rằng binh sĩ Hamas đang "ở dưới những ngôi nhà và khu dân cư của Thành phố Gaza, hy vọng rằng Israel sẽ không tấn công họ vì họ đang ẩn sau lá chắn sống, và nếu Israel tấn công những khu dân cư đó, nó sẽ giết nhiều dân thường, và toàn bộ thế giới sẽ buộc tội Israel về tội ác chiến tranh". "Điều đáng buồn", Issacharoff nói, "là Hamas không quan tâm đến những người dân của họ" và mục tiêu "không chỉ là giết người Israel mà còn là nhiều thương vong dân thường Palestine [càng nhiều càng tốt]".
Khi đi cùng với một đơn vị IDF, phóng viên Paul Nuki chứng kiến "súng và súng cối bắn từ Bệnh viện Indonesia", lúc đó dường như đã được trống rỗng và chỉ được sử dụng bởi Hamas.
Theo Ronny Linder của Haaretz, "bằng chứng từ khi bắt đầu chiến tranh cho thấy rằng Al-Shifa đã trở thành trung tâm chỉ huy chính cho hoạt động của lãnh đạo Hamas". Viết về phí tổn nhân mạng của chiến tranh, chuyên gia quốc phòng Amos Harel bình luận rằng "những người đã dành 15 năm xây dựng một hệ thống chiến đấu ngầm dưới những ngôi nhà của hai triệu con người nên phải chịu trách nhiệm cho điều nà, hoặc họ đơn giản là không quan tâm."
Trong cuộc phỏng vấn với CNN, Wesley Clark cho biết Hamas đã "cách cố ý [và] một cách đầy ý đồ đặt tài sản quý giá nhất của mình trong một bệnh việ". Ông thêm rằng "H".
Cộng đồng quốc tế.
Chiến tranh Israel-Hamas 2023.
Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tuyên bố rằng Hamas đang sử dụng người dân Palestine vô tội làm lá chắn sống và nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ họ. Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, Antony Blinken, kêu gọi Hamas ngừng sử dụng dân thường làm lá chắn sống. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres cũng tuyên bố rằng Hamas và các phái Palestine khác đã sử dụng dân thường như khiên nhân sự.
Trong cuộc họp Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về Trung Đông diễn ra vào ngày 24 tháng 10 năm 2023, Bộ trưởng Quốc phòng Anh, Tom Tugendhat, khẳng định: "Chúng ta biết rằng Hamas đang sử dụng người dân Palestine vô tội làm lá chắn sống; họ đã hòa mình trong cộng đồng dân thường." Bộ trưởng Ngoại giao Đức, Annalena Baerbock, nói: “Chúng ta không được lừa dối bởi chiến lược của Hamas”, và nhấn mạnh “việc sử dụng phụ nữ và trẻ em ở Gaza làm lá chắn sống, và việc giấu vũ khí dưới siêu thị, các tòa nhà chung cư, và thậm chí là bệnh viện.” Philippe Kridelka, Jean Asselborn và Sergiy Kyslytsya, đại diện cho Bỉ, Luxembourg và Ukraina, lần lượt, cũng bày tỏ sự lên án về việc Hamas sử dụng dân thường làm lá chắn sống.
Ngày 13 tháng 11 năm 2023, 27 quốc gia trong Liên minh Châu Âu đã cùng nhau lên án Hamas vì việc sử dụng bệnh viện và dân thường làm lá chắn sống.
Phản ứng của Hamas.
Trong chiến tranh Israel–Hamas năm 2023, quan chức của Hamas, Mousa Abu Marzook, tuyên bố rằng những đường hầm do Hamas xây dựng được xây để bảo vệ và che chở binh sĩ của Hamas, không phải dân thường. Ông cũng tuyên bố rằng trách nhiệm bảo vệ dân thường ở Gaza nằm trong tay của Liên Hợp Quốc và Israel. |
Đầu dò hồng ngoại
Đầu dò hồng ngoại hay Infrared homing là một hệ thống dẫn đường dành cho tên lửa trong đó sử dụng bộ phận thu ánh sáng hồng ngoại infrared (IR) phát ra từ mục tiêu và theo dấu mục tiêu nhờ tín hiệu này. Tên lửa mà sử dụng đầu dò hồng ngoại thường được gọi là "đầu dò nhiệt" do bức xạ hồng ngoại được phát ra chủ yếu là từ các vật thể nóng. Nhiều vật phát ra bức xạ hồng ngoại như con người, động cơ, máy bay bức xạ ra nhiệt do đó đặc biệt phát xạ nhiều bức xạ hồng ngoại so với môi trường xung quanh.
Đầu dò hồng ngoại là một loại đầu dò thụ động, khác với radar, nó không phát ra bất kỳ bức xạ nào khi làm việc. Điều này giúp chúng rất phù hợp cho việc tấn công bất ngờ trong quá trình cận chiến hoặc ở tầm xa hơn khi được sử dụng kết hợp với forward looking infrared. Đầu dò nhiệt đặc biệt có độ hiệu quả cao: 90% tổng số trận không chiến thất bại của Không quân Mỹ tỏng vòng hơn 25 năm qua là do tên lửa trang bị đầu dò hồng ngoại gây ra. Tuy nhiên, chúng cũng dễ bị đánh lửa, cách phổ biến nhất là máy bay đối phương thả nhiễu pháo sáng phía sau, làm tạo ra một nguồn bức xạ hồng ngoại "giả mục tiêu". Cách này chỉ thực hiện được khi phi công được cảnh báo về bị tên lửa tấn công và có thể triển khai pháo sáng kịp thời. Các đầu dò hồng ngoại hiện đại ngày nay có khả năng chống lại phương pháp này do có khả năng phân biệt pháo sáng do máy bay thả xuống và máy bay mục tiêu, cải thiện đáng kể độ hiệu quả của tên lửa.
Thiết bị hồng ngoại đầu tiên đã được phát minh vào trước Thế chiến 2. Trong chiến tranh, các kỹ sư Đức đã làm việc trên các tên lửa đầu dò hồng ngoại và ngòi nổ cận đích nhưng không kịp hoàn thiện nó trước khi chiến tranh kết thúc. Nguyên mẫu tên lửa hồng ngoại đầu tiên chỉ thực sự trở thành hiện thực khi ra đời phương pháp quét hình côn và ống chân không thu nhỏ. Hệ thống chống máy bay bằng tìm kiếm hồng ngoại bắt đầu được quan tâm nghiêm túc vào cuối những năm 1940s, nhưng công nghệ điện tử và tên lửa phòng không vẫn còn quá mới mẻ nên phải đến những năm giữa 1950s thì nguyên mẫu đầu tiên mới đi vào hoạt động. Những nguyên mẫu đầu dò hồng ngoại thế hệ đầu có phạm vi sử dụng rất hẹp và có tỉ lệ đánh chặn rất thấp trong chiến đấu thực tế những năm 1960s. Thế hệ tiếp theo được phát triển vào những năm 1970s và 1980s đã cải thiện đáng kể tính năng và độ hiệu quả của đầu dò. Những mẫu tên lửa đời mới phát triển những năm 1990s thậm chí có khả năng tấn công mục tiêu bên ngoài trường nhìn của đầu dò, và thậm chí có khả năng tấn công phương tiện mặt đất.
Đầu dò hồng ngoại còn có khả năng điều khiển theo phương pháp semi-automatic command to line of sight (SACLOS). Khi bắn tên lửa, đầu dò sẽ được gắn trên bệ phóng và nhân viên vận hành sẽ liên tục hướng đầu dò về phía mục tiêu bằng phương pháp thủ công, thường là sử dụng một ống phóng đại nhỏ. Đầu dò sẽ không theo dõi mục tiêu, mà lúc này nó sẽ theo dõi tên lửa, hỗ trợ bởi pháo sáng giúp tạo ra một tín hiệu đủ mạnh giúp đầu dò dễ dàng bắt bám vào tên lửa. Một tín hiệu điều khiển sẽ được đưa ra và gửi đến tên lửa thông qua tín hiệu vô tuyến, dẫn tên lửa đến tâm ngắm của nhân viên vận hành, cũng chính là vị trí của mục tiêu. Hệ thống SACLOS cũng được sử dụng trong cả tên lửa chống tăng và tên lửa không đối đất, và nhiều loại tên lửa khác.
Lực lượng Không quâ Mỹ và NATO quy định tên gọi của tên lửa hồng ngoại là Fox Two.
Lịch sử ra đời.
Các nghiên cứu ban đầu.
Khả năng sản sinh ra electrons khi bức xạ hồng ngoại va vào một tấm chì sulfide PbS đã được phát hiện bởi học giả người Ấn Độ Jagadish Chandra Bose vào năm 1901. Vào thời điểm đó, phát hiện này có rất ít ứng dụng thực tế. Năm 1917, Theodore Case, trong quá trình nghiên cứu của mình về cái gọi là Movietone sound system, đã tìm ra rằng một lượng hỗn hợp thallium và sulfur có độ nhạy với bức xạ hồng ngoại tốt hơn, nhưng không ổn định về mặt sinh điện và chỉ được sử dụng hạn chế như là trong máy dò. Tuy nhiên, Hải quân Mỹ đã sử dụng hệ thống này để bảo mật thông tin liên lạc.
Năm 1930, các nhà khoa học tìm ra bộ nhân quang hợp chất Ag–O–Cs (silver–oxygen–caesium) cung cấp khả năng phát hiện bức xạ hồng ngoại IR lần đầu có ứng dụng thực tiễn, kết hợp chúng với lớp galena tạo thành photocathode. Nhờ có lớp galena khuếch đại tín hiệu bức xạ, mà bộ nhân quang điện có thể sản sinh đủ dòng điện để phát hiện được các bức xạ nhiệt ở khoảng cách xa. Điều này đã thúc đẩy việc phát triển sâu hơn ở nhiều quốc gia, nổi bật là tại Anh và Đức, nơi mà chúng được coi như là phương pháp để phát hiện máy bay ném bom ban đêm từ xa.
Tại Anh, việc nghiên cứu được tiến hành tại Phòng thí nghiệm Cavendish, tuy nhiên do radar có khả năng phát hiện tốt hơn vào thời điểm đó nên việc nghiên cứu chuyển hướng sang radar. Tuy vậy, Frederick Lindemann, một thành viên của Tizard Committee, vẫn dành thời gian nghiên cứu bức xạ hồng ngoại và Vô hình trung đã cản trở công việc nghiên cứu radar của Ủy ban, sau đó Ủy ban này bị giải thể và thành lập lại nhưng không có Lindemann, thay vào vị trí của ông là chuyên gia vô tuyến nổi tiếng Edward Victor Appleton.
Tại Đức, việc nghiên cứu được tiến hành trong những năm 1930s mà không được sự hỗ trợ giống như người Anh. Các nghiên cứu về hồng ngoại được thực hiện chủ yếu bởi Edgar Kutzscher tại trường Đại học Berlin phối hợp với AEG. Đến năm 1940 các nhà nghiên cứu đã phát triển thành công một giải pháp: một thiết bị có tên "Spanner Anlage" (đại để là "Peeping Tom system") gồm Đèn nhân quang điện phía trước phi công, và một đèn rọi cỡ lớn được lắp kính lọc cho phép giới hạn cự ly phát sáng trong tầm bức xạ hồng ngoại. Đèn sẽ cung cấp đủ ánh sáng để nhìn rõ mục tiêu ở cự ly gần. Thiết bị "Spanner Anlage" được trang bị trên một số lượng nhỏ máy bay tiêm kích ban đêm Messerschmitt Bf 110 và Dornier Do 17. Các thiết bị này phần lớn là vô dụng trong thực tiễn và phi công phàn nàn rằng mục tiêu chỉ có thể nhìn rõ ở khoảng cách , ở khoảng cách này thì dùng mắt thường phi công cũng nhìn thấy được mục tiêu. Chỉ có 15 thiết bị được chế tạo và được loại bỏ khi hệ thống radar của Không quân Đức có những cải tiến đáng kể trong năm 1942.
AEG cũng làm việc trên một hệ thống tương tự lắp trên xe tăng, trong suốt chiến tranh đã phát triển nhiều mẫu khác nhau, với FG 1250 được chế tạo hạn chế từ năm 1943. Đỉnh cao là thiết bị ống ngắm nhìn đêm Zielgerät 1229 "Vampir" được lắp trên súng trường tấn công StG 44 để chiến đấu trong đêm.
Giai đoạn sau chiến tranh.
Sau khi Thế chiến kết thúc, những bí mật trong phát triển đầu dò hồng ngoại của người Đức đã dần lộ rõ. Phần lớn các nghiên cứu của người Đức dựa trên cảm biến PbS. Một trong số các hệ thống như vậy cũng được phát triển bởi Không lực Lục quân Hoa Kỳ USAAF, được biết đến với mật danh "Sun Tracker", được phát triển làm hệ thống dẫn đường cho tên lửa đạn đạo liên lục địa. Các thử nghiệm trên hệ thống này đã dẫn đến vụ tai nạn 1948 Lake Mead Boeing B-29 crash.
Chương trình MX-798 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ được trao cho công ty Hughes Aircraft vào năm 1946 nhằm phát triển một loại tên lửa bám mục tiêu bằng đầu dò hồng ngoại. Bản thiết kế sử dụng đầu dò mắt lưới đơn giản và hệ thống chủ động để điều khiển động tác chúc ngẩng của tên lửa trong khi bay. Thiết kế này nhanh chóng được thay đổi thành MX-904 năm sau đó, dựa trên yêu cầu về phiên bản có tốc độ siêu âm. Ở giai đoạn này ý tưởng thiết kế là một vũ khí phòng thủ có thể bắn từ ống phóng gắn ở phía sau đuôi máy bay ném bom. Tháng Tư năm 1949, dự án phát triển tên lửa Firebird bị ngừng lại, và dự án MX-904 chuyển thành vũ khí phóng về phía trước máy bay chiến đấu. Nguyên mẫu thử nghiệm lần đầu vào năm 1949, với định danh AAM-A-2 (Air-to-air Missile, Air force, model 2) và tên gọi Falcon. Phiên bản đầu dò IR và dẫn đường bằng radar bán chủ động (SARH) đi vào trang bị năm 1956 với tên gọi AIM-4 Falcon vào năm 1962. Tên lửa Falcon có độ hiệu quả thấp do không có đầu đạn ngòi nổ cận đích, chỉ đạt tỉ lệ 9% tiêu diệt mục tiêu trong số 54 lần phóng tên lửa trong khuôn khổ Chiến dịch Sấm Rền trong Chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên phần lớn các lần phóng tên lửa là trong đối đầu trực diện chứ không phải nhắm vào đuôi máy bay, khác với tất cả các tên lửa không đối không khác của Không quân Mỹ.
Phát triển song song với chương trình MX-798, kỹ sư William B. McLean bắt đầu nghiên cứu về ý tưởng thiết kế tương tự tại Naval Ordnance Test Station, nay là Naval Air Weapons Station China Lake. Ông dành ra ba năm để cân nhắc các thiết kế khác nhau, và lựa chọn thiết kế tên lửa đơn giản hơn tên lửa Falcon. Để thử nghiệm, nhóm của ông đã gắn đầu dò hồng ngoại lên rocket Zuni 5-inch mới giới thiệu khi đó. Wally Schirra đã đến thăm phòng thí nghiệm và đã trực tiếp thấy đầu dò của tên lửa nhìn theo xì gà của mình. Tên lửa được đặt tên là Sidewinder, một loài rắn bản địa có bản năng săn mồi theo bức xạ nhiệt. Tên lửa Sidewinder bắt đầu được trang bị từ năm 1957 và được sử dụng tại Việt Nam, và nó đã chứng tỏ nó có khả năng tốt hơn tên lửa Falcon: phiên bản B đạt tỉ lệ bắn hạ đối phương 14% tỏng khi phiên bản tầm xa D có tỉ lệ 19%. Do có giá thành thấp, độ hiệu quả cao nên tên lửa Sidewinder đã được Hải quân Mỹ lựa chọn.
Ngoài Mỹ, Anh cũng phát triển tên lửa đầu dò hồng ngoại, tên là de Havilland Firestreak. Việc phát triển bắt đầu với OR.1056 Red Hawk, nhưng tên lửa tỏ ra quá tiên tiến so với thời kỳ đó, và vào năm 1951 một loại tên lửa sửa đổi được đưa ra với mã hiệu OR.1117 Blue Jay. Với thiết kế là một loại tên lửa chống máy bay ném bom, Blue Jay lớn hơn nặng hơn và bay nhanh hơn các loại tên lửa cùng thời của Mỹ nhưng có tầm bắn tương đương. Tên lửa sử dụng đầu dò tiên tiến hơn, sử dụng PbTe và đầu dò được làm lạnh đến −180 °C (−292.0 °F) bằng ammonia khan giúp cải thiện hiệu suất tên lửa. Một điểm khác biệt khác là tên lửa có đầu dạng hình nón có nhiều mặt, sau khi người ta phát hiện ra rằng băng sẽ tích tụ trên chóp mũi tên lửa hình bán cầu truyền thống. Việc thử nghiệm diễn ra vào năm 1955 và tên lửa bắt đầu phục vụ trong Không quân Hoàng gia Anh từ tháng Tám năm 1958.
Dự án tên lửa hồng ngoại R.510 của Pháp bắt đầu muộn hơn khi việc thử nghiệm được tiến hành vào năm 1957, sau đó được thay bằng phiên bản dẫn đường bằng radar R.511. Cả hai loại đều không hiệu quả lắm khi chỉ có tầm bắn ngắn, khoảng 3 km. Sau đó chúng được thay thế bởi tên lửa R.530, vào năm 1962.
Liên Xô đưa ra thiết kế tên lửa đầu dò hồng ngoại đầu tiên của mình Vympel K-13 vào năm 1961. Bản thân loại tên lửa này được phát triển dựa theo thiết kế đảo ngược từ tên lửa Sidewinder của Mỹ, mà Liên Xô có được sau khi nó bị mắc vào cánh của một máy bay Mig-17 của Trung Quốc trong Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Tên lửa K-13 đã được xuất khẩu rộng rãi và đối đầu với chính tên lửa Sidewinder trên chiến trường Việt Nam, nhưng nó bị cho là không đáng tin cậy, với hệ thống dẫn đường và ngòi nổ liên tục gặp trục trặc.
Các thiết kế về sau.
Do màn thể hiện tồi tệ của các phiên bản Sidewinder đời đầu tại Việt Nam, quân đội Mỹ đã nỗ lực để cải tiến tên lửa. Đồng thời các phi công được huấn luyện để không bắn tên lửa ngay khi nghe âm thanh đã khóa mục tiêu và có thể phóng tên lửa mà sẽ di chuyển đến vị trí lý tưởng hơn để bắn tên lửa, và có thể tiếp tục hướng theo tên lửa sau khi phóng đi, đồng thời các nhà thiết kế tiếp tục phát triển để tên lửa Sidewinder có thể bắn từ các vị trí bất lợi. Ở Anh điều này đã dẫn đến dự án SRAAM, nhưng chỉ dường ở bước thử nghiệm. Hai chương trình AIM-82 và AIM-95 Agile, cũng có số phận tương tự.
Các thiết kế nhằm tạo ra đầu dò thế hệ mới bắt đầu từ những năm 1970s và đã dẫn đến sự ra đời của nhiều loại tên lửa tiên tiến. Cải tiến lớn được thực hiện trên Sidewinder, thay thế một đầu dò hồng ngoại đủ nhạy để bắt mục tiêu từ mọi góc độ. Điều này kết hợp với cách quét mới đã giúp loại bỏ các trường hợp tên lửa bị nhầm lẫn mục tiêu với nguồn bức xạ từ mặt trời phản chiếu từ các đám mây. Một số lượng nhỏ tên lửa phiên bản L đã được chế tạo và chuyển giao cho Anh trước khi diễn ra Chiến tranh Falkland, với tỉ lệ tiêu diệt mục tiêu 82%, các trường hợp bắn trượt là do máy bay đối phương bay ra ngoài phạm vi của tên lửa. Máy bay tiêm kích của Argentine được trang bị tên lửa Sidewinder B và R.550 Magic, chỉ có khả năng bắn từ phía sau mục tiêu, nhưng phi công Anh luôn tránh điều này bằng cách bay thẳng vào máy bay của Argentine. Phiên bản L hiệu quả đến mức máy bay tiêm kích phải trang bị bổ sung pháo sáng, dẫn đến một vài điều chỉnh để phiên bản L có thể phân biệt mục tiêu với pháo sáng. Phiên bản Sidewinder L và M đã trở thành xương sống trong lực lượng không quân phương Tây trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Trong khi đó, Liên Xô cũng đạt được bước tiến lớn với tên lửa R-73, thay thế tên lửa K-13 với những cải tiến đáng kể. Tên lửa có khả năng tấn công các mục tiêu hoàn toàn nằm ngoài trường nhìn của đầu dò, sau khi phóng đi, tên lửa sẽ tự định hướng do bệ phóng chỉ định và sẽ khóa mục tiêu sau khi phóng. Kết hợp với kính ngắm gắn trên mũ phi công, tên lửa được điều khiển và ngắm bắn mục tiêu mà không cần thiết phải hướng máy bay mẹ về phía mục tiêu trước khi phóng. Đây là cải tiến mang lại sự vượt trội đáng kể tỏng không chiến và gây ra nhiều lo ngại cho các nước phương Tây.
Câu trả lời của phương Tây cho tên lửa R-73 là tên lửa ASRAAM, do các nước châu Âu hợp lực phát triển với thiết bị tìm kiếm hình ảnh. Mỹ cũng sử dụng ASRAAM làm tên lửa tầm ngắn mới của mình. Tuy nhiên, ASRAAM sớm gặp phải sự chậm trễ khó khắc phục khi xảy ra mâu thuẫn giữa các nước tham gia phát triển. Cuối cùng, Mỹ rút lui khỏi chương trình phát triển, thay vào đó đã sử dụng đầu dò mới của ASRAAM trên một phiên bản mới của Sidewinder là AIM-9X. ASRAAM trong khi đó cuối cùng đã được một số nước châu Âu trang bị và công nghệ tương tự cũng được áp dụng trên tên lửa PL-10 của Trung Quốc và tên lửa Python-5 của Israel.
Dựa trên nguyên lý tương tự như nguyên mẫu tên lửa Sidewinder, năm 1955, hãng Convair bắt đầu nghiên cứu tên lửa phòng không mang vác FIM-43 Redeye. Hệ thống bắt đầu đi vào thử nghiệm năm 1961, thiết kế sơ bộ có hiệu suất kém và ngay sau đó công ty đã phải tiến hành cải tiến lớn. Đến tận năm 1968 phiên bản Block III mới được đưa vào chế tạo.
Liên Xô bắt đầu phát triển hai loại vũ khí gần như giống nhau vào năm 1964, Strela-1 và Strela-2. Việc phát triển diễn ra rất thuận lợi, với việc hệ thống 9K32 Strela-2 được trang bị vào năm 1968 sau chỉ vài năm phát triển so với tên lửa Redeye. Ban đầu là một thiết kế cạnh tranh nhưng sau đó 9K31 Strela-1 đã được tăng kích thướng lên nhiều để phù hợp cho việc lắp đặt trên xe thiết giáp, và cũng đi vào trang bị trong cùng một thời điểm với Strela-2. Người Anh phát triển tên lửa vác vai Blowpipe vào năm 1975, nưn dầu dò được đặc trên ống phóng thay vì trên tên lửa. Đầu dò hồng ngoại theo dõi cả tên lửa và mục tiêu và sẽ gửi lệnh hiệu chỉnh lái tên lửa vào mục tiêu thông qua tín hiệu radio. Các vũ khí phòng không vác vai đời đầu không có độ hiệu quả cao, với việc tên lửa Blowpipe đa phần thất bại trong các tình huống sử dụng, còn tên lửa Redeye tốt hơn một chút. Strela-2 có màn thể hiện tốt nhất và đã ghi nhận nhiều chiến công tại Trung đông và Việt Nam.
Một chương trình nâng cấp được thực hiện trên tên lửa Redeye bắt đầu từ năm 1967, dẫn đến phiên bản Redeye II. Việc thử nghiệm chỉ được bắt đầu vào năm 1975 và được chuyển giao cho quân đội từ năm 1978 với tên gọi FIM-92 Stinger. Tên lửa tiếp tục được nâng cấp đầu dò trên phiên bản B vào năm 1983, và một vài điều chỉnh bổ sung được thực hiện sau đó. Tên lửa Stinger đã thể hiện trong cuộc chiến Liên Xô-Afghanistan, với tỉ lệ 79% bắn hạ máy bay trực thăng Liên Xô. Liên Xô cũng cải tiến Strela 2 dẫn đến sự ra đời của 9K34 Strela-3 vào năm 1974, và phiên bản tần số kép cải tiến vượt trội 9K38 Igla năm 1983, và Igla-S năm 2004.
Kiểu đầu dò hồng ngoại.
Các đầu dò hồng ngoại ban đầu có khả năng phát hiện bức xạ hổng ngoại ngắn hơn, ví dụ bước sóng 4,2 micro mét của dòng khí carbon dioxide xả ra từ động cơ phản lực. Điều này khiến đầu dò kiểu này chỉ có thể phát hiện được mục tiêu ở phía sau đuôi. Điều này rất hạn chế trong không chiến do máy bay đối phương cơ động liên tục, ngoài tầm phát hiện hoặc động cơ máy bay đối phương bị che bởi mây và khuất khỏi tầm nhìn của đầu dò tên lửa. Những tên lửa trang bị đầu dò hồng ngoại thời kỳ đầu có độ nhạy lớn nhất với bức xạ hồng ngoại từ 3 đến 5 micro mét, người ta còn gọi đầu dò kiểu này là đầu dò hồng ngoại "đơn sắc" ("single-color)". Điều này dẫn đến việc phát triển loại đầu dò hồng ngoại nhạy cảm với cả dòng khí thải từ động cơ và dải bước sóng dài hơn từ 8 đến 13 micro mét, bước sóng này ít bị hập thụ bởi khí quyển và cho phép phát hiện cả bức xạ từ thân vỏ máy bay. Điều này cho phép tên lửa có thể tấn công từ mọi hướng. Hệ thống đầu dò hiện đại kết hợp với máy dò được gọi là hệ thống dò hồng ngoại "hai màu" ("two-color)".
Các đầu dò đa hướng yêu cầu sẽ phải được làm mát để cho phép nó có đủ độ nhạy cần thiết để phát hiện bức xạ từ trước và cạnh máy bay. Nhiệt nền từ bản thân cảm biến và nhiệt ở cửa số cảm biến do ma sát với không khí, sẽ có thể làm yếu đi bức xạ từ mục tiêu. Các tên lửa không đối không hiện đại như AIM-9M Sidewinder và Stinger sử dụng khí nén như argon để làm lạnh cảm biến để có khả năng khóa mục tiêu tầm xa từ mọi hướng. (Phiên bản tên lửa AIM-9J và tên lửa hồng ngoại đời đầu R-60 sử dụng bơm nhiệt điện hiệu ứng peltier).
Biện pháp đối phó.
Có hai cách chính để đối phó với tên lửa hồng ngoại là sử dụng pháo sáng và bộ gây nhiễu hồng ngoại. |
Acid cyclamic là hợp chất có công thức C6H13NO3S.
Hợp chất này có số E là "E952". Acid cyclamic chủ yếu được sử dụng làm chất xúc tác trong sản xuất sơn và nhựa, đồng thời làm thuốc thử dùng trong phòng thí nghiệm.
Muối natri và calci của acid cyclamic được sử dụng làm chất thay thế đường dưới tên cyclamat. |
Nguyễn Đình Bắc (sinh ngày 19 tháng 8 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh cho câu lạc bộ Quảng Nam và đội tuyển quốc gia Việt Nam.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Nguyễn Đình Bắc từng là học viên của lò đào tạo Sông Lam Nghệ An, nhưng phải rời đội vì thể hình không tốt. Năm 2020, Đình Bắc trở lại với bóng đá và gia nhập đội trẻ của Quảng Nam.
Đến giữa mùa giải 2022, Nguyễn Đình Bắc được câu lạc bộ Quảng Nam đôn lên đội một để thi đấu giải Hạng Nhất. Vào mùa giải sau đó, mùa 2023, Đình Bắc đã để lại dấu ấn lớn với 7 bàn thắng và 8 pha kiến tạo trong 13 lần ra sân, góp công lớn giúp Quảng Nam trở lại sân chơi cao nhất của bóng đá Việt Nam. Đồng thời, anh cũng đạt danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất giải Hạng Nhất Quốc gia 2023.
Sự nghiệp quốc tế.
Năm 2022, Nguyễn Đình Bắc cùng U-19 Việt Nam giành huy chương đồng U-19 Đông Nam Á 2022. Năm 2023, Đình Bắc được điền tên vào danh sách tham dự U-20 châu Á 2023 của U-20 Việt Nam.
Đội tuyển quốc gia.
Nguyễn Đình Bắc có trận ra mắt đội tuyển quốc gia Việt Nam trong trận thua 0–2 trước Trung Quốc vào ngày 10 tháng 10 năm 2023. Ngày 16 tháng 11 năm 2023, Đình Bắc có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển, ấn định chiến thắng 2–0 của đội tuyển trước Philippines trong trận ra quân của tuyển Việt Nam tại chiến dịch vòng loại World Cup 2026.
"Tính đến ngày 29 tháng 10 năm 2023"
"Tính đến ngày 16 tháng 11 năm 2023" |
Tên miền tokyo là tên miền cấp cao nhất (TLD) của thành phố Tokyo trong Hệ thống phân giải tên miền của Internet. Vào ngày 13 tháng 11 năm 2013, ICANN và đã ký kết một thỏa thuận về việc , theo đó GMO Registry sẽ vận hành tokyo TLD.
Giống như các tên miền cấp cao nhất khác, TLD tokyo có thể được đăng ký bởi những người sống bên ngoài Tokyo.
Ngoài tên miền .tokyo đại diện cho thành phố Tokyo thì còn hai tên miền khác là .nagoya và .yokohama lần lượt đại diện cho hai thành phố là Nagoya và Yokohama. |
Hokuriku Broadcasting Co., Ltd. (北陸放送株式会社, Hokuriku Hōsō Kabushiki-gaisha, viết tắt: MRO) là mạng truyền hình địa phương Nhật Bản có trụ sở tại thành phố Kanazawa, Ishikawa. Thành lập vào ngày 24 tháng 12 năm 1951. MRO là thành viên liên kết với mạng truyền hình Japan News Network. |
Công ty quân sự tư nhân
Công ty quân sự tư nhân (PMC) hoặc công ty quân sự và an ninh tư nhân (PMSC) là một công ty tư nhân cung cấp dịch vụ chiến đấu vũ trang hoặc an ninh để thu lợi tài chính.
Các dịch vụ và kiến thức chuyên môn do PMC cung cấp thường tương tự như dịch vụ của an ninh chính phủ, quân đội hoặc cảnh sát nhưng thường ở quy mô nhỏ hơn. PMC thường cung cấp dịch vụ đào tạo hoặc bổ sung cho lực lượng vũ trang chính thức phục vụ chính phủ, nhưng họ cũng có thể được các công ty tư nhân thuê để cung cấp vệ sĩ cho nhân viên chủ chốt hoặc bảo vệ cơ sở của công ty, đặc biệt là ở các vùng lãnh thổ thù địch. Tuy nhiên, các nhà thầu sử dụng lực lượng vũ trang trong vùng chiến sự có thể bị coi là chiến binh bất hợp pháp dựa trên khái niệm được nêu trong Công ước Geneva và được nêu rõ ràng trong Đạo luật Ủy ban Quân sự Hoa Kỳ năm 2006.
Ngoài việc bảo vệ các công ty, họ còn bảo vệ các quan chức và các cơ quan chính phủ. Các công ty quân sự tư nhân thực hiện nhiều nhiệm vụ và công việc. Một số ví dụ bao gồm việc bảo vệ chặt chẽ cho Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai và lái máy bay trinh sát và trực thăng như một phần của Kế hoạch Colombia. Theo nghiên cứu năm 2003, ngành công nghiệp này kiếm về hơn 100 tỷ USD mỗi năm. |
Dieter Nohlen (sinh ngày 6 tháng 11 năm 1939) là nhà chính trị học và viện sĩ người Đức. Ông hiện giữ chức vụ Giáo sư danh dự về Chính trị học tại Khoa Kinh tế học và Xã hội học của Đại học Heidelberg. Ông cũng xuất bản nhiều ấn phẩm viết về hệ thống bầu cử và phát triển chính trị. Ở Đức, Nohlen được nhiều độc giả biết đến nhờ các bộ bách khoa toàn thư và cẩm nang về chính trị học. Một số tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều thứ tiếng như tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, đặc biệt ở các nước Mỹ Latinh.
Sách do Nohlen xuất bản bao gồm: |
OJ 287 là một vật thể BL Lacertae cách Trái Đất 5 tỷ năm ánh sáng đã tạo ra các optical outburst gần như định kỳ cách đây khoảng 120 năm, xuất hiện trên các photographic plate từ năm 1891. Được thấy trên các photographic plate ít nhất là từ năm 1887, OJ 287 lần đầu tiên được phát hiện ở bước sóng vô tuyến trong quá trình khảo sát bầu trời trong chương trình Ohio Sky Survey. OJ 287 là một hệ lỗ đen đôi siêu khối lượng (supermassive black hole binary (SMBHB)).
Quỹ đạo của lỗ đen nhỏ hơn đang phân rã (decay) do sự phát xạ bức xạ hấp dẫn và dự kiến nó sẽ hợp nhất với lỗ đen lớn hơn trong khoảng 10.000 năm nữa. |
Medovik ( (medovik), từ мёд/мед — 'mật ong') là một loại bánh phổ biến tại các quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Các nguyên liệu dễ nhận dạng của món ăn này là mật ong, smetana (kem chua) hay sữa đặc.
Đây là món tráng miệng được biết đến với sự cầu kỳ và công phu trong việc chế biến. Nó bao gồm nhiều lớp bánh bông lan với nhân kem và thường được phủ bằng các loại hạt hoặc vụn làm từ bánh còn sót lại. Trong khi các lớp mỏng cứng lại ngay sau khi lấy ra khỏi lò, độ ẩm của nhân sẽ được làm mềm lại theo thời gian. Có rất nhiều công thức và biến thể của món bánh này, nhưng nguyên liệu chính vẫn là mật ong, tạo nên hương vị thơm ngon đặc trưng.
Theo truyền thống của nước Nga, chiếc bánh này được tạo ra vào thế kỷ 19 ở Đế quốc Nga bởi một đầu bếp trẻ người đã tìm cách gây ấn tượng với Yelizaveta Alekseevna, vợ của Hoàng đế Aleksandr I. Bà không thể ăn được mật ong, và bất kỳ món ăn nào làm từ mật ong đều khiến bà phát điên. Tuy nhiên, một ngày nọ, một thợ làm bánh kẹo trẻ tuổi mới vào bếp của Hoàng gia không biết thái hậu không thích, và anh đã nướng một chiếc bánh mới với mật ong và kem chua. Ngạc nhiên thay, không hề biết đến mật ong, Yelizaveta ngay lập tức yêu thích chiếc bánh này.
Mặc dù vậy, các sách dạy nấu ăn truyền thống của Nga "ít hoặc không đề cập đến" bánh medovik.#đổi Medovik đã trở nên phổ biến rộng rãi tại Liên Xô. Ngày nay, có rất nhiều biến thể của medovik: với sữa đặc, kem bơ hoặc sữa trứng.
Medovik cũng khá phổ biến ở các nước Đông và Trung Âu khác. Medovnik của Cộng hòa Séc và Miodownik của Ba Lan là hai trong số đó. Ở Bulgaria, Medovik được biết đến với tên French Village Cake. Bánh medivnyk của Ukraina được làm ra nhưng không có kem. |
Đạo luật Độc lập Litva
Đạo luật Độc lập Litva () là văn kiện tuyên bố khôi phục quyền độc lập của Litva dưới một chính thể dân chủ, thủ đô là Vilnius. Đạo luật được Hội đồng Litva nhất trí thông qua vào ngày 16 tháng 2 năm 1918 với chữ ký của tất cả 20 thành viên. Đạo luật là thành quả của quá trình đấu tranh giành độc lập của Litva, được thể hiện trong những đạo luật như đạo luật của Hội nghị Vilnius và Đạo luật ngày 8 tháng 1. Đạo luật được thông qua trong bối cảnh Đế quốc Đức gây sức ép cho Litva liên minh với Đức chống lại Đế quốc Nga và đang đóng quân tại Litva.
Chính quyền Đức cấm xuất bản, lưu hành Đạo luật Độc lập và tiếp tục chiếm đóng Litva. Tình hình thay đổi sau khi Đức bị đánh bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất vào mùa thu năm 1918. Hội đồng Litva giành quyền kiểm soát lãnh thổ Litva và thành lập Nội các Litva đầu tiên vào tháng 11 năm 1918. Litva phát động kháng chiến nhằm bảo vệ nền độc lập non trẻ.
Đạo luật Độc lập Litva là cơ sở pháp lý của nhà nước Litva độc lập và xác lập những nguyên tắc hiến pháp cơ bản của các bản hiến pháp của Litva. Khi Litva tuyên bố li khai khỏi Liên Xô vào năm 1990, phong trào độc lập viện dẫn Đạo luật Độc lập Litva để lập luận rằng vì Đạo luật Độc lập chưa bao giờ mất hiệu lực pháp lý nên Litva chỉ đang khôi phục nền độc lập được xác lập vào năm 1918.
Bối cảnh lịch sử.
Nhà nước Litva đầu tiên được xác lập vào năm 1253 khi Mindaugas đăng quang Vua Litva.
Sau khi Ba Lan bị Áo, Nga và Phổ phân chia lần thứ ba vào năm 1795, Litva bị sáp nhập vào Đế quốc Nga. Từ thế kỷ 19, cả Litva và Ba Lan bắt đầu đấu tranh giành độc lập từ Nga. Litva tham gia nổi loạn chống lại Nga trong cuộc Khởi nghĩa tháng Mười một vào năm 1830 và cuộc Khởi nghĩa tháng Một vào năm 1863 nhưng đều thất bại. Thời cơ đến khi Nga và Đức suy yếu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Từ năm 1915, Đức chiếm đóng lãnh thổ phía tây của Đế quốc Nga. Sau Cách mạng Nga năm 1917, Đức dự định thành lập một mạng lưới những nước bù nhìn dọc Trung Âu làm vùng đệm giữa Đức và Nga. Đức cho phép tiến hành Hội nghị Vilnius với hy vọng Litva sẽ tuyên bố li khai khỏi Nga và liên minh với Đức. Tuy nhiên, chiến lược của Đức phản tác dụng: Hội nghị Vilnius thông qua một đạo luật tuyên bố sẽ thành lập một nhà nước Litva độc lập và ra yêu sách rằng Đức phải công nhận Litva thì Litva mới liên minh với Đức. Ngày 21 tháng 9 năm 1917, Hội nghị Vilnius bầu ra Hội đồng Litva gồm 20 thành viên với nhiệm vụ thực hiện đạo luật này. Chính quyền Đức cấm xuất bản, lưu hành đạo luật của Hội nghị Vilnius nhưng cho phép Hội đồng Litva tiến hành công việc. Hội nghị Vilnius cũng quyết nghị sẽ thành lập một quốc hội lập hiến "do tất cả cư dân của Litva bầu ra theo các nguyên tắc dân chủ".
Quá trình soạn thảo Đạo luật Độc lập.
Đạo luật ngày 11 tháng 12.
Đạo luật ngày 11 tháng 12 là văn kiện thứ hai trong tiến trình soạn thảo Đạo luật Độc lập. Bộ Ngoại giao Đức soạn bản thảo đầu tiên vào ngày 1 tháng 12 theo yêu cầu của Thủ tướng Đức Georg von Hertling. Phủ thủ tướng tiếp tục sửa đổi bản thảo chung với một phái đoàn của Hội đồng Litva, gồm , , , , và . Sau khi thảo luận, hai bên thỏa hiệp về nội dung của văn kiện. Kurt von Lersner, đại diện của Đức, yêu cầu tất cả thành viên của Hội đồng Litva ký tên vào đạo luật.
Ngày 11 tháng 12, Hội đồng Litva mở phiên họp về bản thảo đạo luật. Đạo luật được thông qua với 15 thành viên biểu quyết tán thành, ba thành viên biểu quyết không tán thành, một thành viên biểu quyết trắng và một thành viên vắng mặt. Chưa xác định được liệu tất cả thành viên của Hội đồng Litva có ký tên vào đạo luật hay không. Nguyên văn của đạo luật bằng tiếng Đức và không có một bản dịch chính thức sang tiếng Litva. Đại khái Đạo luật ngày 11 tháng 12 tuyên bố Litva là một nước độc lập nhưng yêu cầu chính phủ Đức bảo hộ và đề nghị thành lập một "liên minh vững chắc và lâu dài" giữa Litva và Đức. Người dân Litva phản đối đạo luật của Hội đồng Litva vì cho rằng Hội đồng Litva đã vượt thẩm quyền: đạo luật tháng 9 của Hội nghị Vilnius đã xác định chỉ quốc hội lập hiến mới được quyết định về những vấn đề quan trọng của đất nước nhưng Đạo luật ngày 11 tháng 12 lại quy định Litva sẽ ký các điều ước về quân sự, vận chuyển, hải quan và tiền tệ với Đức.
Đạo luật ngày 8 tháng 1.
Khi Đức và Nga bắt đầu hòa đàm vào năm 1918, chính phủ Đức yêu cầu đại diện của Litva soạn thảo hai thông tri: thông tri gửi Nga sẽ tuyên bố cắt đứt quan hệ với Nga nhưng không đề cập việc liên minh với Đức; thông tri gửi Đức sẽ nhắc lại Đạo luật ngày 11 tháng 12. Hội đồng Litva quyết định sửa lại Đạo luật ngày 11 tháng 12. Trong phần đầu tiên, Hội đồng Litva bổ sung yêu cầu triệu tập quốc hội lập hiến và xác định nhà nước Litva sẽ có một chính thể dân chủ, vốn đã được Hội nghị Vilnius quyết định nhưng không được thêm vào Đạo luật ngày 11 tháng 12. Phần thứ hai về việc thành lập "một liên minh vững chắc và lâu dài với Đức" bị lược bỏ. Hội đồng Litva thông qua thông tri vào ngày 8 tháng 1 năm 1918, cùng ngày Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson tuyên bố Mười bốn Điểm. Về nội dung thì Đạo luật ngày 8 tháng 1 là tiền thân của Đạo luật Độc lập.
Tuy nhiên, chính quyền quân quản Đức bác bỏ những điều sửa đổi của Hội đồng Litva. Ngày 26 tháng 1, Hội đồng Litva buộc phải thông qua hai thông tri theo yêu cầu của Đức dựa vào Đạo luật ngày 11 tháng 12. Bốn thành viên của Hội đồng Litva – , , và – từ chức vì phản đối việc Hội đồng Litva nhượng bộ trước yêu sách của Đức. Chủ tịch Hội đồng Litva Litva Antanas Smetona cũng từ chức mặc dù ủng hộ Đạo luật ngày 11 tháng 12. Jonas Basanavičius được bầu làm chủ tịch mới.
Đạo luật Độc lập.
Đức từ chối công nhận quyền độc lập của Litva và không mời phái đoàn Litva tham gia ý kiến về Hòa ước Brest-Litovsk giữa Liên minh Trung tâm và Nga Xô viết. Trong phiên họp chung duy nhất giữa Hội đồng Litva và đại diện của Đức, bên Đức nêu rõ Hội đồng Litva chỉ có quyền tư vấn cho Đức mà không được quyết định việc gì. Phe chủ trương độc lập trong Hội đồng Litva thắng thế và bắt đầu vận động mời lại những cựu thành viên, sửa lại những đạo luật trước của Hội đồng Litva theo hướng độc lập hoàn toàn.
Bốn cựu thành viên yêu cầu Hội đồng Litva căn cứ vào Đạo luật ngày 8 tháng 1 và lược bỏ việc liên minh với Đức trong dự thảo đạo luật. Sau một vài tuần tranh luận sôi nổi, dự thảo đạo luật được hoàn thành vào 10 giờ sáng ngày 15 tháng 2, gồm nội dung của Đạo luật ngày 8 tháng 1 được nhuận sắc, lời tuyên bố bố và lời thông tri được soạn vào ngày 1 tháng 2. Lời tuyên bố và lời thông tri không có giá trị pháp lý và không thay đổi ý nghĩa của văn kiện. 12:30 chiều ngày 16 tháng 2 năm 1918, cả 20 thành viên Hội đồng Litva tập họp tại số 30 đường Didžioji ở Vilnius. Hội đồng Litva nhất trí thông qua phần đầu tiên gồm hai đoạn văn. Phần thứ hai, bốn cựu thành viên phản đối hai chữ "sau cùng" trong cách diễn đạt nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội lập hiến ("... "nền tảng của Nhà nước Litva và quan hệ của Nhà nước Litva với những nước khác sẽ do Quốc hội lập hiến quyết định sau cùng" ..."), lo ngại rằng Hội đồng Litva sẽ lấy nó làm cớ để soán đoạt quyền hạn của Quốc hội lập hiến. Đa số thành viên cho rằng hai chữ đó chỉ thể hiện các quyết định của Quốc hội lập hiến là cuối cùng. Toàn thể Hội đồng Litva nhất trí thông qua Đạo luật Độc lập nhưng không tranh thủ được sự ủng hộ hoàn toàn của bốn cựu thành viên.
Quá trình soạn thảo Đạo luật Độc lập.
"Ghi chú: màu của các ô tương ứng với màu của các dòng ở trên."
Đạo luật Độc lập được chuyển đến các đảng trong Nghị viện Đế quốc Đức. Ngày 18 tháng 2, toàn văn Đạo luật được đăng trên các tờ báo Đức, bao gồm "Das Neue Litauen", "Vossische Zeitung", "#đổi " và "Kreuzzeitung". Một bản dịch tiếng Litva được chuẩn bị để đăng trên các tờ báo Litva, nhất là "Lietuvos aaidas", là cơ quan ngôn luận của Hội đồng Litva do Antanas Smetona thành lập. Tuy chính quyền Đức cấm xuất bản Đạo luật Độc lập và tịch thu phần lớn số báo, Petras Klimas, tổng biên tập tờ báo, giấu được 60 bản.
Ngày 3 tháng 3 năm 1918, Đức và Nga Xô viết ký Hòa ước Brest-Litovsk. Đức tuyên bố các nước Baltic đều thuộc vùng ảnh hưởng của Đức và Nga tuyên bố từ bỏ mọi quyền lợi đối với vùng Baltic. Ngày 23 tháng 3, Đức công nhận quyền độc lập của Litva căn cứ vào Đạo luật ngày 11 tháng 12. Tuy nhiên, thực tế là Hội đồng Litva vẫn bị gây trở ngại trong việc thành lập chính quyền. Tình hình thay đổi sau khi Đức bị đánh bại vào mùa thu năm 1918 và trải qua Cách mạng Đức. Ngày 2 tháng 11, Hội đồng Litva thông qua hiến pháp lâm thời đầu tiên và giao chính quyền cho một ủy ban thường trực gồm ba người. Augustinas Voldemaras được mời thành lập Nội các Litva đầu tiên. Phải mất một vài năm Litva mới được quốc tế công nhận hoàn toàn. Hoa Kỳ công nhận quyền độc lập của Litva vào ngày 28 tháng 7 năm 1922.
Đạo luật Độc lập.
Bản gốc của Đạo luật Độc lập được giao cho Jonas Basanavičius cất giữ và không được trưng bày công khai; sự tồn tại của bản gốc được đề cập lần đầu tiên trong báo chí vào năm 1933. Bản sao của Đạo luật Độc lập được lưu trữ tại kho lưu trữ của tổng thống. Sau khi Litva bị Liên Xô xâm lược vào ngày 15 tháng 6 năm 1940, bản sao bị thất lạc. Cả hai bản gốc và bản sao đều bị thất lạc sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 2006, một nhóm kỹ sư dò tìm trong tường nhà của Petras Vileišis phát hiện hai bản sao từ năm 1928 và năm 1933. Bản sao năm 1928 gần giống với bản gốc của Đạo luật Độc lập do giữ nguyên những lỗi chính tả trong bản gốc và có phông nền "nhiễu", còn bản sao năm 1933 thì đã được "nhuận sắc".
Năm 2017, doanh nhân người Litva Darius Mockus tuyên bố sẽ tặng 1 triệu Euro cho bất cứ ai tìm được bản gốc của Đạo luật Độc lập và chuyển giao cho Nhà nước Litva trước ngày 16 tháng 2 năm 2018, là ngày kỷ niệm 100 năm độc lập Litva. Ngày 29 tháng 3 năm 2017, Liudas Mažylis, giáo sư Đại học Vytautas Magnus, tuyên bố đã tìm được bản gốc viết tay bằng tiếng Litva của Đạo luật Độc lập, có chữ ký của cả 20 thành viên Hội đồng Litva, bản tiếng Đức và Đạo luật ngày 11 tháng 12 năm 1917 với chữ ký của 19 thành viên trong Cục Lưu trữ Chính trị Bộ Ngoại giao Đức tại Berlin. Ngày hôm sau, Đức xác nhận nguồn gốc của ba văn bản. Ngày 7 tháng 10 năm 2018, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Litva Linas Linkevičius và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Sigmar Gabriel ký kết một thỏa thuận quy định bản gốc của Đạo luật Độc lập sẽ được trưng bày tại nơi ký Đạo luật Độc lập trong thời hạn 5 năm. Ngày 22 tháng 12 năm 2017, một nhóm chuyên gia từ Trung tâm Pháp y Cảnh sát Litva xác nhận chữ viết của bản viết tay thuộc về Jurgis Šaulys, một trong những người ký Đạo luật Độc lập. Trong cùng ngày, nhà sử học Darius Antanavičius công bố phát hiện một bản khác trong Văn khố Tông tòa Vatican gửi Tòa Thánh, được viết bằng tiếng Đức và có chữ ký của Antanas Smetona, Jonas Vileišis, Jurgis Šaulys và Justinas Staugaitis.
Những người ký Đạo luật Độc lập.
Hầu hết những người ký Đạo luật Độc lập đều tiếp tục tham gia chính trị, đời sống văn hóa của Litva. Jonas Vileišis trúng cử vào quốc hội Litva và là thị trưởng của Kaunas, thủ đô lâm thời của Litva. Saliamonas Banaitis hoạt động trong lĩnh vực tài chính và thành lập một vài ngân hàng. Antanas Smetona và Aleksandras Stulginskis về sau trở thành tổng thống của Litva. Jonas Basanavičius, chủ tịch Hội đồng Litva, quay trở lại nghiên cứu về văn hóa, truyền thống dân gian Litva. Năm người qua đời trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra; ba người qua đời khi Litva bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Những người từ chối di cư sau khi Litva bị Liên Xô chiếm đóng đều bị bắt làm tù chính trị.
Aleksandras Stulginskis và Petras Klimas bị chính quyền Liên Xô đày ra Siberia nhưng sống sót và trở về Litva. Pranas Dovydaitis và Vladas Mironas cũng bị đày ra Siberia và qua đời trong tù. Kazys Bizauskas biến mất trên đường đến một nhà tù Liên Xô tại Minsk vào mùa hè năm 1941; khả năng là ông đã bị bắn chết cùng với những tù nhân khác. Donatas Malinauskas bị trục xuất ra Nga vào ngày 14 tháng 6 năm 1941 trong vụ trục xuất tháng Sáu.
Một vài người ký Đạo luật Độc lập di cư sau khi Litva bị Liên Xô chiếm đóng. Jurgis Šaulys và Kazimieras Steponas Šaulys qua đời tại Thụy Sĩ. Antanas Smetona, Mykolas Biržiška và Steponas Kairys định cư ở Hoa Kỳ và được mai táng ở đó.
Đạo luật Độc lập Litva tuyên bố "tái lập" () nhà nước Litva trên cơ sở kế thừa nhà nước Đại công quốc Litva trong lịch sử, khác với đạo luật của Hội nghị Vilnius tuyên bố thành lập () một nhà nước Litva. Tuy nhiên, nhà nước Litva mới chỉ bao gồm những lãnh thổ thuộc dân tộc Litva (ngoại trừ vùng Vilnius có đa số là người Ba Lan) và có một chính thể dân chủ. Đạo luật tuyên bố chấm dứt quan hệ giữa Litva và Đức, Nga và Ba Lan, là ba nước có mưu đồ đối với lãnh thổ Litva. Tuy không đề cập trực tiếp nhưng Đạo luật Độc lập từ bỏ việc khôi phục Liên bang Ba Lan và Litva.
Đạo luật Độc lập là cơ sở pháp lý của nhà nước Litva đương đại trong giai đoạn giữa hai thế chiến và từ năm 1990. Đạo luật Độc lập là một yếu tố then chốt của nỗ lực li khai khỏi Liên Xô vào năm 1990. Đạo luật Tái thiết lập Nhà nước Litva tuyên bố:
Đạo luật Độc lập Litva và Đạo luật Tái thiết lập Nhà nước Litva là văn kiện quan trọng nhất của Litva trong thế kỷ 20.
Ngày 16 tháng 2 là một ngày lễ chính thức của Litva. Lễ kỷ niệm vào năm 2014 có những hoạt động như đặt hoa tại phần mộ của những người ký Đạo luật Độc lập trong Nghĩa trang Rasos, trao tặng Giải thưởng Văn hóa và Nghệ thuật Quốc gia Litva, lễ thượng cờ ba nước Baltic tại Quảng trưởng Daukantas, các buổi hòa nhạc tại Quảng trường Thánh đường và khán phòng của Hiệp hội Giao hưởng Quốc gia Litva và lễ thắp 16 ngọn lửa dọc Đại lộ Gediminas.
Năm 1992, Litva thành lập Giải Jonas Basanavičius để tặng những công trình xuất sắc trong lĩnh vực dân tộc học và văn hóa, được xét và công bố 5 năm một lần. |
Gonzalo Damián Abrego (sinh ngày 7 tháng 1 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B, cho mượn từ Godoy Cruz.
Sự nghiệp thi đấu.
Abrego gia nhập học viện của câu lạc bộ Godoy Cruz ở tuổi 14, sau một thời gian ngắn với Deportivo Maipú. Diego Martínez đôn anh lên đội một vào năm 2020, khi anh ban đầu xuất hiện với tư cách là cầu thủ dự bị không được sử dụng trong trận thua trước River Plate và Rosario Central tại Cúp Diego Armando Maradona ở đầu tháng 11. Abrego có trận ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 28 tháng 11 trong trận đấu với Banfield, kết thúc với tỷ số hòa 0-0.
Cho mượn tại Cremonese.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, Cremonese đã thông báo việc ký hợp đồng với Abrego theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải, với tùy chọn mua trong tương lai.
"Tính đến 31 tháng 7 năm 2023" |
Tên miền nagoya là tên miền cấp cao nhất (TLD) của thành phố Nagoya trong Hệ thống phân giải tên miền của Internet. Vào ngày 20 tháng 2 năm 2014, ICANN và đã ký kết một thỏa thuận về việc , theo đó GMO Registry sẽ vận hành nagoya TLD.
Giống như các tên miền cấp cao nhất khác, TLD nagoya có thể được đăng ký bởi những người sống bên ngoài Nagoya.
Ngoài tên miền .nagoya đại diện cho thành phố Nagoya thì còn hai tên miền khác là .tokyo và .yokohama lần lượt đại diện cho hai thành phố là Tokyo và Yokohama. |
Bralette là một loại bra không có gọng, được thiết kế chủ yếu với mục đích thoải mái. Bralette cũng thỉnh thoảng được mặc như áo ngoài, và cũng được thiết kế làm áo trong cho các thiếu nữ đang phát triển ngực. Kích cỡ của bralette cũng có phần khác biệt so với một chiếc áo ngực thông thường: Thay vì kích thước chu vi thân mình và kích thước bầu vú, các cỡ size quần áo thông thường được sử dụng làm thước đo (S-XL hoặc có thể lớn hơn).
Mức độ phổ thông đại chúng.
Vào khoảng thập niên 2010 và đầu thập niên 2020, bralette và các loại áo ngực mềm mại bắt đầu trở nên nổi tiếng, với sự từ bỏ các loại bra có gọng và miếng mút. Một số thương hiệu như Victoria's Secret đã thất bại trong việc theo đuổi xu thế này và điều chỉnh; kết quả là doanh thu của họ sụt giảm nghiêm trọng. Năm 2017, doanh số bán ra của các loại áo ngực nâng sụt giảm tới 45% trong khi tại Marks Spencer, doanh số của các loại áo ngực không gọng tăng lên tới 40%. Một số đã cho rằng mức độ phổ biến thượng tôn của bralette là do chuyển dịch tiêu điểm sang "cơ thể khỏe mạnh, thể thao và tự tại", hơn là "vì ánh mắt của đàn ông".
Bralette cũng trở nên nổi tiếng trong thời kỳ dịch COVID-19 bởi sự chú trọng vào yếu tố thoải mái trong khi làm việc tại gia.
Kathryn Newton từng mặc một chiếc bralette hai mảnh midriff baring mang phong cách nữ sinh với một chiếc váy ngắn cạp thấp, để lộ rốn tại San Diego Comic-Con năm 2022. |
Tên miền nagoya là tên miền cấp cao nhất (TLD) của thành phố Yokohama trong Hệ thống phân giải tên miền của Internet. Vào ngày 20 tháng 2 năm 2014, ICANN và đã ký kết một thỏa thuận về việc , theo đó GMO Registry sẽ vận hành yokohama TLD.
Giống như các tên miền cấp cao nhất khác, TLD yokohama có thể được đăng ký bởi những người sống bên ngoài Yokohama.
Ngoài tên miền .yokohama đại diện cho thành phố Yokohama thì còn hai tên miền khác là .tokyo và .nagoya lần lượt đại diện cho hai thành phố là Tokyo và Nagoya. |
Acid metatartaric là một phụ gia thực phẩm. Về mặt hóa học, đây là một loại lacton polymer có thành phần thay đổi và trọng lượng phân tử khác nhau thu được thông qua phản ứng khử nước bằng cách đun nóng tartaric acid.
Acid metatartaric là một phụ gia thực phẩm, có số E là E353 và được phân loại là chất điều chỉnh độ acid. Chất được thêm vào rượu vang để ngăn chặn kali hydro tartrat và calci tartrat kết tủa. |
Phật giáo và Kitô giáo
Từng có sự liên hệ giữa Phật giáo và thế giới Địa Trung Hải vào thời kỳ tiền Kitô giáo. Có ghi chép cho rằng vua A-dục của Ấn Độ đã sai phái các nhà truyền giáo đi rao giảng Phật giáo tại các nước Syria, Ai Cập và Hy Lạp từ năm 250 TCN. Giữa hai tôn giáo này có một số khác biệt đáng kể, chẳng hạn như Kitô giáo là một tôn giáo độc thần còn Phật giáo thì nghiêng về thuyết phi hữu thần (thiếu niềm tin về sự tồn tại của Chúa, của một đấng tạo hóa hoặc các vị thần) và do đó trở nên đối nghịch với giáo huấn về Thiên Chúa trong Kitô giáo, cũng như ân điển trong Kitô giáo là đối nghịch với quan điểm bác bỏ sự giao thoa giữa ân điển và nghiệp trong Phật giáo Theravada.
Một số Kitô hữu Do Thái đã biết đến Phật giáo, vốn được thực hành ở cả Hy Lạp và Đế quốc La Mã trong thời kỳ tiền Kitô giáo. Phần lớn các nhà nghiên cứu Kitô giáo hiện đại bác bỏ tất cả các cơ sở lịch sử về việc Chúa Giê-su đi rao giảng ở Ấn Độ hoặc Tây Tạng và coi một số ý kiến gán ghép tương đồng là hành vi nhằm khuếch đại sự giống nhau. Tuy nhiên, tại Phương Đông, tính nguyên hợp giữa Phật giáo và Cảnh giáo (Giáo hội Ba Tư) được lan truyền khắp Con đường Tơ lụa vào thời đại Cổ điển và Trung Cổ, thể đặc biệt rõ nét ở nơi Giáo hội Ba Tư Trung Cổ ở Trung Quốc với bằng chứng là Kinh điển Cảnh giáo (còn gọi là Khế kinh Giê-su). |
Trong ngành may mặc, tất lưới (Tiếng Anh: fishnet) là một loại tất dài với mắt đan mở hình thoi; nó thường xuyên được sử dụng làm chất liệu cho quần tất, quần bó, găng tay, hoặc bodystocking. Tất lưới đa dạng về màu sắc, mặc dù màu đen matte thường được dùng làm màu truyền thống nhất. Tất lưới thường được chiêm ngưỡng trên chân hoặc tay qua phong cách thời trang goth và punk, nhưng chúng cũng được thấy trên những bộ cánh thông thường như một điểm nhấn thời trang. Tương tự như nội y, tất lưới được đón nhận như một loại phụ kiện mang tính gợi tình và thông thường gây liên tưởng tới những hoạt động giải trí người lớn. Tất lưới được sử dụng nhiều nhất làm đồ lót, và cũng như cách mà nó định hình đường cong cơ thể qua màn lưới bó sát cơ thể, nó tạo điểm nhấn cho cơ bắp của người mặc.
Một ứng dụng thiết thực hơn của tất lưới đó là tính bó sát của nó trong các hoạt động thể thao thời tiết lạnh ngoài trời, bao gồm leo trèo, săn bắn, câu cá, trượt tuyết, và leo núi. Trong bối cảnh này, tất lưới thường được đan từ sợi polypropylene, len merino, hoặc nylon, và chúng cung cấp một số những lợi ích nhất , vượt trội so với cách thức đắp lớp đan khắng khít thông thường. Các tiện ích này liên quan tơi việc có một lượng lớn không gian trống trong cấu trúc sợi tất lưới, cô lập không khí để tạo ra sự ấm áp trong điều kiện mát mẻ, và cho phép lưu thông hơi ẩm một cách thông thoáng từ bề mặt da sang các lớp bên ngoài, giảm thiểu tối đa thất thoát nhiệt.
Trong thập niên 1920, tất lưới xuất hiện như một sản phẩm thay thế thịnh hành tại Hoa Kỳ và được phụ nữ ưa chuộng, ví dụ như trong giới showgirl, phần lớn bởi sự thật là tất lưới cho phép khoe thân nhiều hơn các loại quần tất và tất dài đương thời.
Tất lưới về sau nổi bật như một xu hướng thời trang tất yếu trong thời kỳ hậu thế chiến trong giới pin-up và print-porn với các nữ người mẫu nhưu Bettie Page, Jane Russell và Marilyn Monroe, thường xuyên xuất hiện trong bộ cánh với tất lưới.
Trong các thập niên 1970 và 1980, thời trang phản văn hóa punk, bao gồm tất lưới, thường được mặc với các vết rách lớn, toác hoác trên tất stocking hoặc rách rưới, như một sự liên tưởng tới BDSM. |
Tòng nam tước (tiếng Anh: "Baronet"; hoặc ; viết tắt Bart hoặc Bt) hoặc tương đương với nữ, Tòng nữ nam tước (tiếng Anh: "baronetess"; , , hoặc ; viết tắt Btss), là người nắm giữ tước vị nam tước, một tước hiệu cha truyền con nối do Vương quyền Anh trao tặng. Danh hiệu Tòng nam tước được nhắc đến từ thế kỷ XIV; tuy nhiên, theo cách sử dụng nghĩa hiện tại, nó được James I của Anh tạo ra vào năm 1611 như một phương tiện gây quỹ cho vương quyền.
Tòng nam tước là tước hiệu cha truyền con nối duy nhất của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland không phải là quý tộc, ngoại trừ Hiệp sĩ đen của người Anh-Ireland, Hiệp sĩ trắng và Hiệp sĩ xanh (trong đó hiện nay chỉ có Hiệp sĩ xanh còn tồn tại). Nam tước được gọi là "Sir" (cũng giống như những người nắm giữ tước hiệp sĩ) hoặc "Dame" trong trường hợp là nữ giữ tước hiệu, nhưng xếp trên tất cả các hiệp sĩ và quý bà theo thứ tự ưu tiên, ngoại trừ Dòng Garter, Dòng Thistle, và Dòng Thistle hiện không còn hoạt động. Tòng nam tước thường được coi là thuộc về tầng lớp quý tộc thấp hơn, mặc dù William Thoms tuyên bố rằng:
Chất lượng chính xác của phẩm giá này vẫn chưa được xác định đầy đủ, một số coi nó là người đứng đầu các quý tộc trẻ, trong khi những người khác lại xếp Tòng nam tước là cấp thấp nhất trong số các quý tộc lớn, bởi vì danh dự của họ tương tự như của giới quý tộc cao, vừa được kế thừa tước vị vừa được tạo ra và trao bởi vương quyền.
Việc so sánh Tòng nam tước với các tước hiệu và cấp bậc khác ở lục địa châu Âu tương đối khó khăn, do hệ thống thừa kế nguyên thủy của Anh và vì các tuyên bố về chế độ nam tước phải được chứng minh; hiện nay Danh sách Tòng nam tước chính thức được Bộ Tư pháp giám sát. Trên thực tế, điều này có nghĩa là các Đẳng cấp quý tộc và Tòng nam tước ở Vương quốc Anh bao gồm khoảng 1.200 gia đình (một số người ngang hàng được bổ nhiệm trong Viện Quý tộc cũng là Tòng nam tước), chiếm ít hơn, khoảng 0,01% số gia đình ở Vương quốc Anh.
Trong các Đẳng cấp quý tộc ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland hiện tại bao gồm 5 tước vị, xếp từ cao xuống thấp gồm có: Công tước (Duke), Hầu tước (Marquess), Bá tước (Earl), Tử tước (Viscount) và Nam tước (Baron). Dù trong hệ thống quý tộc Anh có Nam tước, nhưng có thể hiểu đó là Chánh Nam tước (Baron) để phân biệt với Tòng Nam tước (Baronet), trong đó, Chánh Nam tước thì được xếp vào Đẳng cấp quý tộc, nhưng Tòng Nam tước thì không.
Trong số 1.245 Tòng nam tước hiện tại, có 254 người hiện là thành viên của Viện Quý tộc. Tòng nam tước lâu đời nhất tính theo ngày thành lập thuộc về gia tộc Bacon, họ được thụ phong tước hiệu từ 1611 thuộc Tòng nam tước Anh, người nắm giữ hiện tại là Ngài Nicholas Bacon, Tòng nam tước thứ 14. |
Trường đua Las Vegas
Trường đua Las Vegas là một trường đua đường phố nằm ở Las Vegas, tiểu bang Nevada, Hoa Kỳ. Trường đua này là nơi đăng cai giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas vào ngày 18 tháng 11 năm 2023 trong khuôn khổ giải đua xe Công thức 1 2023. Trường đua này có chiều dài 6,201 km được thiết kế bởi Carsten Tilke, con trai của nhà thiết kế trường đua người Đức Hermann Tilke, được khởi công vào tháng 3 năm 2022 và khánh thành vào ngày 16 tháng 11 năm 2023. Nó chạy qua Dải Las Vegas cùng với nhiều địa điểm khác trong Las Vegas.
Trường đua Las Vegas được thiết kế để kết hợp một phần của (được biết đến rộng rãi với tên gọi Dải Las Vegas). Những chiếc xe đi qua một số địa danh của Las Vegas được chiếu sáng vào ban đêm. Thành phố đã cấp phép cho Công thức 1 sử dụng những con đường cần thiết cho giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas trong mười năm. Khi chặng đua được công bố tổ chức vào tháng 3 năm 2021, trường đua có 14 khúc cua. Sau đó, bố trí đó đã được sửa đổi với việc bổ sung một góc nghiêng và vì vậy, số khúc cua được tăng lên 17. Trường đua được thiết kế bởi Carsten Tilke, con trai của nhà thiết kế trường đua nổi tiếng người Đức Hermann Tilke.
Trường đua Las Vegas có tổng chiều dài 6,003 km, có chiều rộng 12 đến 15 m, bao gồm 17 khúc cua và một đường thẳng dài 1,9 km.
Trường đua bắt đầu từ một bãi đỗ xe không sử dụng. Bãi đỗ xe này đã được Công thức 1 mua lại với giá 240 triệu USD và được chuyển đổi thành tòa nhà gara, khu tay đua và các cơ sở cố định. Khúc cua đầu tiên có hình dạng của một trâm cặp tóc. Sau đó, đường đua rẽ hơi sang trái rồi rẽ nhanh sang phải, chuyển từ đường đua cố định sang đường thường. Sau hai khúc cua nhanh này là một đường thẳng 800 m trên Koval Lane và một khúc cua chậm 90 độ bên tay phải cùng với một khúc cua dài bên trái chạy dọc theo quả cầu MSG Sphere Arena mới trước khi đi qua khúc cua trái-phải rồi rẽ trái nhanh hơn một chút vào Đại lộ Sands. Sau đó, đường đua đi qua hai góc cua rất nhanh trên Đại lộ Sands trước khi rẽ trái chậm vào Đại lộ Las Vegas, hay còn được gọi là Dải Las Vegas. Đây là một đoạn đường bằng phẳng dài 1,18 dặm (1,9 km) với hai đường thẳng và một khúc cua rẽ trái một chút đi qua một số khách sạn và sòng bạc nổi tiếng nhất Las Vegas. Sau đó, đường đua đi qua một loạt các góc cua hẹp và chậm vào Đại lộ Harmon, đi thẳng nửa dặm rồi rẽ tay trái rất nhanh để hoàn thành đường đua và quay trở lại đường đua cố định qua các khu gara và làn pit.
Tốc độ tối đa được ghi nhận trên một chiếc xe Công thức 1 là 350,5 km/h, được lập ở cuối Dải Las Vegas vào cuối năm 2023.
Các kỷ lục thời gian được lập tại trường đua.
Dưới đây là các kỷ lục thời gian nhanh nhất của các giải đua được tổ chức ở trường đua Las Vegas: |
Breiðamerkurjökull ([ˈpreiːðaˌmɛr̥kʏrˌjœːkʏtl̥]#đổi ) là một nhánh sông băng thuộc sông băng Vatnajökull và sông băng piedmont tại phía nam của Vườn quốc gia Vatnajökull ở Iceland. Nổi lên như một phần "lưỡi" của Vatnajökull, nó kết thúc ở một đầm phá nhỏ, được gọi là Jökulsárlón. Theo thời gian, nó đang dần bị phá vỡ.
Khi các tảng băng trôi tách ra khỏi sông băng, chúng trôi chậm đến cửa đầm và cuối cùng hòa vào đại dương. Chúng được cho là trôi nổi trong đầm nước sâu trong 5 năm với độ sâu khoảng 300m và có diện tích 17 km². Nó nằm gần đường vành đai cho đến 35 năm trước, trước khi rút lui nhanh chóng và hình thành đầm Jökulsárlón. Sông băng Breiðamerkurfjall [ˈpreiːðaˌmɛr̥kʏrˌfjatl̥] cao 752m được bao bọc bởi các sông băng Breiðamerkurjökull và Fjallsjökull [ˈfjalsˌjœːkʏtl̥] trước khi quá trình trôi dạt bắt đầu và hình thành nên Breiðárlón [ˈpreiːðˌaurˌlouːn], nhưng không gây được ấn tượng bằng đầm Jökulsárlón.
Phần lưỡi của sông băng Breiðamerkurjökull là điểm thu hút lớn đối với khách du lịch. Các nhà điều hành tour tổ chức các chuyến tham quan bằng xe trượt tuyết và xe jeep để tham quan sông băng dọc theo tảng băng trôi quanh co có đầm phá Jökulsárlón. Trạm cơ sở cho các chuyến tham quan là Jöklasel [ˈjœhklaˌsɛːl̥], được tiếp cận từ Höfn, còn được gọi là băng tải du lịch. Khi đi bộ trên bờ, bạn có thể nhìn thấy những khối băng trôi lớn bị cô lập trên những bãi biển đầy cát.
Địa điểm này đã được sử dụng trong nhiều bộ phim và quảng cáo. Breiðamerkurjökull đã được sử dụng trong phim "" như một sự thay thế cho Siberia.
Lịch sử ra đời.
Những người đầu tiên đến Iceland vào khoảng năm 900 sau Công nguyên, khi rìa lưỡi của sông băng Breiðamerkurjökull cách vị trí hiện tại khoảng về phía bắc. Trong thời kỳ băng hà nhỏ từ năm 1600 đến năm 1900, với nhiệt độ mát hơn, sông băng đã chạm mốc khoảng tính từ bờ biển tại Sông Jokulsa. Kể từ năm 1890, nước đã rút tổng cộng . Với nhiệt độ tăng cao trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến năm 1965, những thay đổi bắt đầu xảy ra ở lưỡi của Breiðamerkurjökull. Vào năm 1933 hoặc 1934, một hồ sông băng hoặc đầm phá được hình thành ở vùng trũng còn sót lại ở nơi từng có sông băng rút lui. Kể từ đó, hồ có tên Jökulsárlón ngày càng lớn hơn khi chúng tiếp tục rút lui. Năm 1975, Jökulsárlón có diện tích khoảng ; năm 1998, diện tích của nơi đây gần ; và đến năm 2004, nó đã tăng lên . Đến năm 2010, hồ sâu khoảng ở vị trí mõm sông băng trước đây. Băng hà tích tụ lộ ra cả hai bên mặt nước. Phần lưỡi nổi trong hồ và hòa vào nước, tạo ra băng sơn trôi với các kích thước khác nhau.
Bản chất phức tạp của sự dâng lên hoặc rút lui của băng hà đã được theo dõi trong vài thập kỷ qua. Một nghiên cứu của D. Evans, đăng trên tạp chí Geography Review năm 2002, là bản báo cáo về việc giám sát Breiðamerkurjökull từ năm 1903 đến năm 1998. Thùy phía đông và thùy trung tâm của Breiðamerkurjökull rút lui với tốc độ trung bình chậm hơn (28m mỗi năm) trong khoảng thời gian từ năm 1980 đến 1998 so với các giai đoạn trước khi tốc độ rút lui cao tới 50m mỗi năm trong thùy phía đông và 67m mỗi năm ở thùy trung tâm. Sự rút lui của thùy phía tây đồng đều hơn, trung bình khoảng 30m mỗi năm, ngoại trừ giai đoạn từ năm 1945–1965 khi tốc độ rút lui trung bình là 62m mỗi năm.
Theo một nghiên cứu khác, một vách đá được che phủ bởi thùy Breiðamerkurjökull của sông băng Vatnajökull lớn hơn đã được hình thành thành các bậc thang và rào chắn, bao bọc bởi các đầm phá, trên bờ biển phía đông. Ở phía bắc, sông hoặc đầm Jökulsá bắt nguồn từ Breiðamerkurjökull có lối thoát ra biển và hình thành các rào cản bằng sỏi cát và mặt trước sông băng đã rút đi 3 km trong giai đoạn các năm 1945, 1965 và 1998. |
Biểu tượng văn hóa
Biểu tượng văn hóa ("Cultural icon") hay hình ảnh văn hóa hoặc hình tượng văn hóa là một nhân vật hoặc một hiện vật được các thành viên trong nền văn hóa nhất định xác định là đại diện cho nền văn hóa đó. Nhìn chung, các nước trên thế giới đều có biểu tượng của họ và những biểu tượng ấy được nhiều người trên thế giới biết đến, trở thành một trong những “quy ước”, định danh quốc tế, và ngay đứa trẻ bắt đầu đi học đã được trang bị những kiến thức về biểu tượng của đất nước mình, chẵng hạn như nước Pháp là gà Gô-loa, tháp Eiffel; nước Úc là hình tượng con chuột túi hoặc chòm sao năm ngôi; nước Mỹ có tượng Nữ thần tự do, Vương quốc Anh là Sư tử hoặc đồng hồ Big Ben, Canada là lá cây phong, Trung Quốc là Vạn lý trường thành, Ai Cập là Kim tự tháp, Nhật Bản là núi Phú Sĩ, New Zealand cho biểu tượng của nước là con chim kiwi và lá dương xỉ bạc.
Quá trình nhận dạng mang tính chủ quan và các ""biểu tượng" hay "hình tượng" được đánh giá theo mức độ chúng có thể được coi là biểu tượng đích thực của nền văn hóa đó. Khi các nhân vật cảm nhận một biểu tượng văn hóa, họ liên hệ nó với nhận thức chung của họ về bản sắc văn hóa được đại diện. Các biểu tượng văn hóa cũng có thể được xác định là sự thể hiện đích thực các hoạt động của nền văn hóa này đối với nền văn hóa khác. Trong văn hóa đại chúng thì thuật ngữ "mang tính biểu tượng" được sử dụng để mô tả nhiều loại người, địa điểm và sự vật. Một số nhà bình luận cho rằng từ "mang tính biểu tượng"" đã bị lạm dụng quá mức. Biểu tượng tôn giáo cũng có thể trở thành biểu tượng văn hóa trong các xã hội nơi tôn giáo và văn hóa gắn bó sâu sắc, chẳng hạn như hình ảnh đại diện Madonna trong các xã hội có truyền thống Công giáo bám rễ.
Biểu tượng là bất cứ cái gì mang một ý nghĩa cụ thể được các thành viên của một cộng đồng người nhận biết. Âm thanh, đồ vật, hình ảnh, hành động của con người và cả những ký tự của trang viết này đều là biểu tượng văn hóa. Biểu tượng văn hóa thay đổi theo thời gian và cũng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Gật đầu ở Việt Nam đều được hiểu là đồng ý nhưng ở Bulgaria nó lại có nghĩa là không. Ý nghĩa tượng trưng là nền tảng của mọi nền văn hóa, nó tạo cơ sở thực tế cho những cá nhân trải nghiệm trong các tình huống xã hội và làm cuộc sống trở nên có ý nghĩa. Tuy vậy trong cuộc sống hàng ngày, các thành viên thường không nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của biểu tượng do chúng đã trở nên quá quen thuộc.
Khi thâm nhập vào một nền văn hóa khác, với những biểu tượng văn hóa khác người ta có thể thấy sức mạnh của biểu tượng văn hóa. Nếu sự khác biệt đủ lớn, người thâm nhập có thể bị một cú sốc văn hóa. Trong mọi nền văn hóa, con người đều sắp xếp biểu tượng thành ngôn ngữ, đó là hệ thống các ký hiệu có ý nghĩa chuẩn giúp cho các thành viên trong xã hội có thể truyền đạt được với nhau . Ngôn ngữ có ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, mọi nền văn hóa đều có ngôn ngữ nói nhưng không phải tất cả đều có ngôn ngữ viết. Ở những nền văn hóa có cả hai loại ngôn ngữ thì ngôn ngữ nói cũng khác với ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất để chuyển giao văn hóa, làm cho văn hóa có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ngôn ngữ cũng là nền tảng cho trí tưởng tượng của con người do nó được liên kết bởi các ký hiệu một cách gần như vô hạn. Điều đó giúp cho con người có khả năng thay thế được những nhận thức thông thường về thế giới tạo tiền đề cho sự sáng tạo. Ngôn ngữ quan trọng đến mức Edward Sapir và học trò của ông là Benjamin Whorf đã đưa ra giả thuyết (gọi là "Giả thuyết Sapir-Whorf") rằng con người có thể khái niệm hóa thế giới chỉ thông qua ngôn ngữ nên ngôn ngữ đi trước suy nghĩ . Ngôn ngữ ảnh hưởng đến những cảm nhận, suy nghĩ của con người về thế giới đồng thời truyền đạt cho cá nhân những chuẩn tắc, giá trị, sự chấp nhận quan trọng nhất của một nền văn hóa. Chính vì thế, việc du nhập một ngôn ngữ mới vào một xã hội trở thành vấn đề nhạy cảm tại nhiều nơi trên thế giới và là tiêu điểm của các cuộc tranh luận về vấn đề xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội, ngôn ngữ cũng biến đổi: nhiều từ ngữ mất đi, nhiều từ ngữ mới xuất hiện (ví dụ máy tính điện tử ra đời làm xuất hiện những từ ngữ như "bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên", "byte"...).
Theo "Tạp chí Truyền thông Canada" thì văn học hàn lâm đã mô tả tất cả những điều sau đây là "biểu tượng văn hóa": Shakespeare, Oprah Winfrey, Batman, An-na tóc hoe, cao bồi, nữ ca sĩ nhạc pop thập niên 1960, hình tượng con ngựa, Las Vegas, thư viện, búp bê Barbie, DNA, và New York Yankees
Một cuộc khảo sát dựa trên trang web được thực hiện vào năm 2006 cho phép công chúng đưa ra ý tưởng của họ về các biểu tượng quốc gia của nước Anh, và kết quả cho thấy nhiều loại biểu tượng khác nhau gắn liền với quan điểm của người Anh về văn hóa Anh, ví dụ là xe buýt hai tầng màu đỏ AEC Routemaster ở Luân Đôn, rồi buồng điện thoại sơn đỏ được xem là biểu tượng văn hóa Anh quốc, Chicago Tribune coi là Taylor Swift một trong những biểu tượng văn hóa Mỹ.
Búp bê Matryoshka (Lật đật Nga) được quốc tế coi là biểu tượng văn hóa của Nga. Ở Liên Xô trước đây, biểu tượng búa liềm và các bức tượng của Vladimir Lenin là biểu tượng quốc gia của Liên Xô, nay thay vào đó đại diện cho những biểu tượng văn hóa nổi bật nhất của đất nước. Các biểu tượng quốc gia có thể trở thành mục tiêu cho những người chống đối hoặc chỉ trích một chế độ, chẳng hạn như đám đông phá hủy tượng Lênin ở Đông Âu sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ hoặc người ta thường đốt cờ Mỹ để phản đối hành động của Mỹ ở nước ngoài. Các giá trị, chuẩn mực và lý tưởng được đại diện bởi một biểu tượng văn hóa khác nhau giữa những người đăng ký nó và rộng hơn nữa là những người có thể hiểu các biểu tượng văn hóa là biểu tượng cho những giá trị hoàn toàn khác nhau, như bánh táo là một biểu tượng văn hóa của Hoa Kỳ, nhưng ý nghĩa của nó khác nhau giữa những người Mỹ. |
Rachata Hampanont (tiếng Thái: รชตะ หัมพานนท์), thường được biết đến với biệt danh Jam (tiếng Thái: แจม), là một diễn viên, ca sĩ, người mẫu Thái Lan. Anh hiện là nghệ sĩ trực thuộc Đài One 31. Một số tác phẩm nổi bật mà anh tham gia gồm: "Mộng Hồ Điệp", "Wayla Kammathep (Yêu nhầm chị dâu)", "Laws of Attraction (Luật hấp dẫn)"...
Jam sinh ra và lớn lên tại tỉnh Udon Thani, Thái Lan. Do bố mẹ Jam ly hôn từ lúc anh còn nhỏ, thời niên thiếu anh sống cùng ông bà nội. Anh từng theo học tại các trường Ban Na Kham Noi (tiểu học), Namsom Pittayakom (trung học), sau đó tốt nghiệp Cử nhân chuyên ngành guitar tại Khoa Giáo dục nghệ thuật tự do, Đại học Loei Rajabhat.
Trước khi trở thành nghệ sĩ của Đài One 31, Jam từng làm nhiều ngành nghề khác nhau như giáo viên âm nhạc tại trường Nong Bua Pittayakarn, người mẫu, diễn viên đóng quảng cáo, MV, diễn viên quần chú
Năm 2017, anh trở thành "Mister Grand International Thailand 2017", đại diện Thái Lan tham dự cuộc thi Mister Grand International 2017 tại Philippines và giành danh hiệu "Á Vương 1". Anh cũng là Mister Grand đầu tiên của Thái Lan.
Năm 2019, Jam tham gia chương trình "Người ấy là ai (phiên bản Thái)" do Đài One 31 sản xuất. Sau chương trình, phía đài đã liên hệ và mời anh ký hợp đồng chính thức. Từ năm 2020 tới nay, Jam chính thức trở thành nghệ sĩ do Đài One 31 quản lý. |
Lấy vân tay canvas
Lấy vân tay canvas () là một trong những kỹ thuật lấy vân tay trình duyệt dùng để theo dõi người dùng trên mạng, cho phép các website định danh và theo dõi người truy cập bằng cách sử dụng phần tử canvas của HTML5 thay vì cookie trình duyệt hoặc những dữ liệu tương tự. Kỹ thuật này đã nhận được sự chú ý rộng rãi của giới truyền thông sau khi được các nhà nghiên cứu từ Đại học Princeton và Đại học KU Leuven mô tả trong bài nghiên cứu "The Web never forgets" của họ.
Kỹ thuật lấy vân tay canvas hoạt động bằng cách khai thác phần tử canvas của HTML5. Theo như Acar và những nhà nghiên cứu khác mô tả:
Sự thay đổi bộ xử lý đồ hoạ (GPU) hoặc driver đồ hoạ có thể làm thay đổi vân tay. Vân tay có thể được lưu trữ và chia sẻ với các đối tác quảng cáo để định danh người dùng khi họ truy cập các website liên kết với những đối tác này. Hồ sơ về người dùng có thể được tạo ra từ hoạt động duyệt web của họ, cho phép các nhà quảng cáo hướng quảng cáo thích hợp đến họ dựa theo dữ liệu về nhân khẩu học và sở thích đã tiên đoán trước.
Vào tháng 1 năm 2022, các nhà nghiên cứu đã mở rộng kỹ thuật này để tạo vân tay dựa trên các đặc điểm về hiệu suất của phần cứng xử lý đồ họa, với tên gọi #đổi .
Vì vân tay chủ yếu được tạo dựa trên các yếu tố như trình duyệt, hệ điều hành và phần cứng xử lý đồ họa, có thể xảy ra trường hợp trùng định danh. Trong một nghiên cứu quy mô nhỏ với 294 người tham gia của Amazon Mechanical Turk, một entropy mức độ 5,7 bit đã được ghi nhận. Các tác giả của nghiên cứu này gợi ý rằng có thể ghi nhận thêm nhiều entropy khi triển khai trên thực tế và với nhiều mẫu phần mềm và phần cứng được sử dụng để tạo vân tay. Mặc dù không đủ để định danh người dùng cá nhân một cách độc nhất, vân tay canvas có thể được dùng kết hợp với các nguồn entropy khác để tạo ra định danh duy nhất cho mỗi người dùng. Kỹ thuật lấy vân tay canvas được khẳng định sẽ lấy vân tay GPU hiệu quả, vì vậy entropy của kỹ thuật này "trực giao" với entropy của các kỹ thuật lấy vân tay trình duyệt trước đó, ví dụ như các kỹ thuật dựa trên độ phân giải màn hình và mức độ hỗ trợ JavaScript của trình duyệt.
Việc định danh người dùng với tỉ lệ trùng lặp thấp hơn đáng kể là khả thi với kỹ thuật #đổi . Được công bố vào năm 2022, kỹ thuật này đã được chứng minh là sẽ tăng thời gian theo dõi của vân tay định danh cá nhân lên đến 67% khi được sử dụng để cải tiến các phương pháp định danh khác.
Vào tháng 5 năm 2012, Keaton Mowery và Hovav Shacham – hai nhà nghiên cứu từ Đại học California, San Diego, đã viết một bài nghiên cứu có tên "Pixel Perfect: Fingerprinting Canvas in HTML5" mô tả cách mà HTML5 canvas có thể được sử dụng để tạo ra vân tay số của người dùng web.
Công ty công nghệ social bookmarking AddThis đã bắt đầu thử nghiệm kỹ thuật lấy vân tay canvas vào đầu năm 2014 như một phương pháp thay thế tiềm năng cho cookie. 5% trong số 100.000 website hàng đầu đã sử dụng kỹ thuật lấy vân tay canvas khi thử nghiệm được triển khai. Theo CEO của AddThis, Richard Harris, công ty chỉ sử dụng dữ liệu thu thập từ những thử nghiệm này để tiến hành nghiên cứu nội bộ. Người dùng có thể cài đặt một cookie từ chối tham gia trên bất kỳ máy tính nào để ngăn chặn việc bị theo dõi bởi AddThis qua kỹ thuật lấy vân tay canvas.
Một nhà phát triển phần mềm đã cung cấp thông tin cho Forbes, cho biết các phương pháp lấy vân tay thiết bị đã được sử dụng cho mục đích ngăn chặn truy cập trái phép vào các hệ thống từ lâu trước khi nó được sử dụng để theo dõi người dùng mà không có sự đồng ý của họ.
Đến năm 2014, kỹ thuật này đã trở nên phổ biến trên nhiều website và được sử dụng bởi ít nhất mười hai nhà cung cấp quảng cáo trực tuyến và theo dõi người dùng có tiếng.
Vào năm 2022, kỹ thuật lấy vân tay canvas đã được mở rộng đáng kể bằng cách xem xét đến cả những sự khác biệt nhỏ giữa các thành phần giống nhau ("identical units") trên cùng một mẫu GPU. Những sự khác biệt này bắt nguồn từ quy trình sản xuất, làm cho các thành phần ở các bản sao giống nhau trở nên khác biệt theo thời gian một cách tất định.
Giảm thiểu tác động.
Tài liệu tham khảo của Tor Project đề cập rằng "Sau plugin và thông tin do các plugin cung cấp, chúng tôi tin rằng HTML5 Canvas là mối đe dọa lớn nhất về việc lấy vân tay mà hiện nay các trình duyệt đang phải đối mặt." Trình duyệt Tor thông báo cho người dùng về các lần đọc canvas và cung cấp tùy chọn trả về dữ liệu hình ảnh trắng để ngăn chặn việc lấy vân tay. Tuy nhiên, trình duyệt Tor hiện không thể phân biệt giữa việc sử dụng phần tử canvas hợp lệ và việc cố gắng lấy vân tay, do đó, cảnh báo của nó không thể được xem là bằng chứng về ý định của một website nhằm định danh và theo dõi người truy cập. Các tiện ích mở rộng trình duyệt như Privacy Badger, DoNotTrackMe, hoặc Adblock Plus khi được thiết lập thủ công với danh sách EasyPrivacy có khả năng chặn các tracker mạng quảng cáo của bên thứ ba và có thể được cấu hình để chặn việc lấy vân tay canvas, miễn là tracker đó được cung cấp bởi một máy chủ bên thứ ba (không phải do website đang truy cập triển khai). Tiện ích mở rộng trình duyệt "Canvas Defender" có thể giả mạo vân tay canvas.
Dự án trình duyệt LibreWolf bao gồm công nghệ để chặn truy cập vào HTML5 canvas theo mặc định, chỉ cho phép trong các trường hợp được người dùng phê duyệt. |
Nhà trại ("Farmhouse") hay nhà vườn hay gia trang là một tòa nhà đóng vai trò là khu trú chính trong khung cảnh đồng quê nông thôn hoặc ở trang trại trong môi trường nông nghiệp. Trong lịch sử, các gia trang thường được kết hợp với không gian dành cho các loài vật được gọi là nhà kho hay trại súc vật. Các trang trại khác có thể được kết nối với một hoặc nhiều chuồng trại, được xây dựng để tạo thành sân vườn trong hoặc mỗi tòa nhà trang trại tách biệt với nhau. Nhà kiểu Bresse (Ferme bressane) là một loại trang trại được tìm thấy ở vùng Bresse nước Pháp và có đặc điểm là có chiều dài, tường gạch và mái gỗ. Nhà Mas là một trang trại truyền thống độc đáo của Provence và Miền Nam nước Pháp. Ở Mỹ có kiến trúc "Ranch" (còn được gọi là American Ranch, California Ranch, Rambler, hay Rancher) là một phong cách kiến trúc nội địa có nguồn gốc từ Hoa Kỳ. Các phong trào bảo tồn đã bắt đầu ở một số khu dân cư trong trang trại, sự hồi sinh này được so sánh với phong cách ngôi nhà khác như nhà gỗ trong thế kỷ XX
Trong lịch sử có ba loại nhà trang trại chính ở Đức, nhiều loại còn tồn tại cho đến ngày nay. "Niedersachsenhaus" (nhà Hạ Saxony) được tìm thấy chủ yếu ở Đồng bằng Bắc Đức, nhưng cũng có ở phần lớn Hà Lan. Đó là một công trình kiến trúc lớn với mái rộng được hỗ trợ bằng hai đến bốn hàng cột bên trong. Cánh cửa chuồng lớn ở đầu hồi mở ra một đại sảnh rộng rãi, hay còn gọi là "Deele", với các chuồng trại và chuồng gia súc ở hai bên và chỗ ở ở cuối, lối vào từ bên cạnh và mái nhà được hỗ trợ bằng các bức tường gò bó bên ngoài. Sau đó, kiểu "Mitteldeutsches Haus" này được mở rộng thành hai tòa nhà trở lên xung quanh một sân trang trại hình chữ nhật, thường có tầng thứ hai. Ngôi nhà Nam Đức được tìm thấy ở miền nam nước Đức và có hai biến thể chính, nhà Swabian hoặc ngôi nhà Rừng Đen và trang trại Bavarian. Một ngôi nhà tên là Casa Colonica ở Ý là một kiểu trang trại nơi cư dân làm việc ở đồng áng nhưng không sở hữu trang trại. Gia trang Ta' Tabibu và Gia trang Ta' Xindi là hai nhà trang trại điển hình ở Maltađược xây dựng bằng cách sử dụng vật liệu Đá vôi. Trong tiếng Malta một trang trại được gọi là "Razzett" |
Tục thờ lửa ("Fire worship") là việc thờ cúng lửa hoặc thần thánh hóa ngọn lửa được biết đến trong nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Lửa đã là một phần quan trọng trong văn hóa loài người kể từ thời kỳ đồ đá cũ, những hình ảnh người cổ xưa nhảy múa xung quanh ngọn lửa như là một trong những hình thái tôn giáo sơ khai. Các quan niệm tôn giáo hoặc thuyết vật linh liên quan đến yếu tố "lửa" (hỏa) được cho là có nguồn gốc từ thời kỳ tiền nhân loại sơ khai như vậy. Về mặt khảo cổ học, bằng chứng về việc thờ cúng lửa và nghi thức hỏa táng của người Ấn-Iran được tìm thấy ở quá trình chuyển đổi từ văn hóa Sintashta sang văn hóa Andronovo vào khoảng năm 1500 TCN. Thờ lửa phổ biến trong tôn giáo Vệ Đà và tôn giáo Iran cổ đại, trong khi hỏa táng trở nên phổ biến trong Ấn Độ giáo, nó lại bị cấm trong Bái hỏa giáo ("Zoroastrianism"). Bằng chứng về việc thờ cúng lửa cũng đã được tìm thấy tại các địa điểm ở Thung lũng Indus ở Kalibangan và Lothal.
Trong ngôn ngữ Ấn-Âu, có hai khái niệm liên quan đến lửa, thứ nhất là khái niệm về một loại sinh vật sống được gọi là "Agni" (hỏa) mà tiếng Anh gọi là "Ignite" từ tiếng Latin "ignis", tiếng Ba Lan là "ogień" và tiếng Nga là "Ogon" và một loại vô tri mà tiếng Anh đọc là "fire" (lửa), tiếng Hy Lạp là "pyr", tiếng Phạn là "Pu", sự khác biệt tương tự cũng tồn tại đối với dạng nước. Trong các câu chuyện kể của Kinh thánh tiếng Do Thái, Đức Chúa trời Gia Vệ (Yahweh) thường giao tiếp bằng lửa, chẳng hạn như qua bụi gai cháy trong truyện kể tại Sách Xuất hành và cột lửa dẫn đường cho dân Y-sơ-ra-ên. Ngọn Lửa Thánh trong Nhà thờ Mộ Thánh ở Jerusalem trong Cơ đốc giáo đã được ghi chép liên tục kể từ năm 1106 sau Công Nguyên. Lửa thường được sử dụng làm biểu tượng hoặc dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Chúa trong Cơ Đốc giáo và vì nó được cho là một sự sáng tạo cùng với nước và các yếu tố khác. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu được tả lại là người mang lửa đến cho trái đất, Chúa Thánh Linh đôi khi được gọi là "cái lưỡi lửa". Trong Kitô giáo, việc thờ lửa được bảo tồn thông qua những ngọn nến thánh lễ.
Trong Hỏa giáo, ngọn lửa được coi là đại diện của sự thuần khiết và là biểu tượng của lẽ phải và sự thật. Ngày nay tín điều này được giải thích là do lửa khi cháy ngày càng bốc cao và bản thân nó không thể bị vấy bẩn. Sadeh và Chaharshanbe Suri đều là những lễ hội liên quan đến lửa được tổ chức trên khắp Đại Ba Tư và bắt nguồn từ khi đạo Hỏa giáo (Zoroastrianism) vẫn còn là tôn giáo chiếm ưu thế trong khu vực. Tuy nhiên, Bái hỏa giáo đôi khi bị mô tả sai là một tôn giáo thờ lửa, trong khi đó là một đức tin độc thần với Ahura Mazda là nhân vật trung tâm và vũ trụ học nhị nguyên về thiện và ác. Ngọn lửa chỉ đơn giản là đại diện cho trí tuệ tâm linh và sự thuần khiết, nhưng không được tôn thờ. Trong Lịch sử tôn giáo Vệ Đà truyền thống của Ấn Độ giáo thì ngọn lửa là yếu tố trung tâm trong nghi lễ Yajna, với "lửa" Agni, đóng vai trò trung gian giữa người thờ phượng và các vị thần khác. Các khái niệm liên quan là nghi lễ Agnihotra, lời kêu gọi đặc tính chữa bệnh của lửa; nghi lễ Agnicayana, tức là dọn một bàn thờ lửa cho Agni; và Agnistoma là một trong bảy Somayajna. Trong Vaishnava truyền thống của Ấn Độ giáo, Agni được coi là ngôn ngữ của Vishnu, do đó coi tất cả các vật hiến tế dâng lên bất kỳ vị thần nào cuối cùng đều là vật hiến tế cho Vishnu. |
Thần Marduk (chữ nêm tượng hình: 𒀭𒀫𒌓; tiếng Sumer: "Amar utu.k" nghĩa là "con bê của mặt trời"; hay là "con bò của thần Mặt trời"/Merōdaḵ/Mərōḏaḵ trong tiếng Do Thái, và "con bò của Utu" gắn với tục thờ bò của cư dân vùng Trung Đông) là một vị thần có nguồn gốc từ vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) cổ đại và vị thần bảo trợ của thành phố Babylon, theo truyền thuyết huyền kỳ thì thần Marduk là người cuối cùng đã lên nắm quyền trong Thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Tại thành phố Babylon thì thần Marduk được thờ trong đền thờ Esagila. Biểu tượng của vị thần này là chiếc thuổng và vị thần này có sự gắn kết với Mušḫuššu. Vào Thiên niên kỷ thứ nhất TCN, thần Marduk dần dà đã trở nên gắn liền về mặt chiêm tinh học với vai trò tượng trưng bản mệnh cho hành tinh Sao Mộc.
Vì các nguồn tài liệu liên quan đến Marduk trong thời kỳ đầu rất thưa thớt nên vai trò ban đầu của Marduk vẫn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, vì Marduk xuất hiện trong danh sách Abu Salabikh chỉ ra mối liên hệ có thể có với thế giới ngầm, nên tác giả Johandi cho rằng Marduk có thể là một vị thần có liên hệ với thế giới ngầm, tương tự, tác giả Oshima gần đây đề xuất rằng Marduk ban đầu có thể đóng vai trò tương tự như vị thần Nergal, điều này thậm chí có thể giải thích tại sao biểu đồ được sử dụng trong các văn bản Hittite để viết tên của vị thần Šanta vốn là nhân vật có bản chất tương tự như Nergal. Sử thi Enuma Elish, thường được cho là được sáng tác vào thời kỳ Isin II, đã kể lể khá chi tiết về việc Marduk lên nắm quyền với tư cách là vua của các vị thần. Có những điểm tương đồng giữa "Sử thi Sáng tạo và thần thoại Anzu" cũng như các truyền thống khác liên quan đến Ninurta. Phiến đá định mệnh là vật chủ chốt trong cả hai câu chuyện thần thoại và Marduk sử dụng nhiều vũ khí giống như Ninurta.
Theo Sử thi ghi lại những thành tựu huy hoàng của vị Thần Marduk của người Assyria. Ông đã dẫn dắt các vị Thần mới đại diện cho trật tự mới, chiến đấu chống lại các thủy Thần cũ và quái vật do Yutiamat lãnh đạo. Cuối cùng, quân của Thần Marduk đã chiến thắng và đối thủ Yutiamat đã bị giết trong trận chiến. Marduk đã sử dụng thân thể của Yutiamat để tạo ra trời, đất, mặt trời, mặt trăng và hai con sông quan trọng nhất ở đồng bằng Lưỡng Hà là Tigris và Euphrates. Sitchin, tác giả của Biên niên sử Trái đất, có một cách giải thích rất độc đáo về Thần thoại sáng thế này. Ông tin rằng Thần Madruk có thể tương ứng với một hành tinh lang thang Nibiru và Yutiamat tương ứng với hành tinh thứ 5 đã biến mất trong hệ mặt trời. Chiến thắng của Marduk trước Yutiamat là một ghi chép cổ về sự thay đổi lớn trong hệ Mặt trời.
Theo thần thoại sáng thế cổ đại, Marduk là một trong những người con trai của Ea (được gọi là Enki trong thần thoại Sumer). Cha của anh, Ea và các anh chị em của anh, là con đẻ của hai thế lực nước, Apsu, vị thần của nước ngọt và Tiamat, vị thần rắn biển độc tài và là hiện thân của biển cả nguyên thủy, từ đó các vị thần được tạo ra. Sau một thời gian, Apsu cảm thấy mệt mỏi với những đứa con của mình và định giết chúng. Tuy nhiên, Ea đã nghĩ ra một kế hoạch để thoát khỏi Apsu, dụ cha anh ngủ và giết anh ta. Từ phần còn lại của Apsu, Enki đã tạo ra trái đất. Tuy nhiên, Tiamat vô cùng tức giận trước cái chết của Apsu và tuyên chiến với các con của bà. Bà ta đã chiến thắng trong mọi trận chiến cho đến khi Marduk bước tới. Anh ta đề nghị giết Tiamat với điều kiện các vị thần khác phải tuyên bố ông ta là vua. Marduk đã thành công trong lời hứa của mình, giết Tiamat bằng một mũi tên chẻ đôi bà ra ra làm hai. Ông ta đã tạo ra thiên đường từ xác chết của bà ấy và hoàn thành việc tạo ra trái đất do Enki bắt đầu với các dòng sông Tigris và Euphrates chảy ra từ mỗi con mắt của Tiamat. |
Vụ rò rỉ khí ga Surat 2022
Ngày 6 tháng 2 năm 2022, ít nhất 6 người đã thiệt mạng và 22 người khác bị thương tật bởi rò rỉ khí gas từ một bình chứa trong một khu công nghiệp tại Sachin, Surat, Gujarat, Ấn Độ.
Vụ việc và cứu trợ.
Khoảng 4:25 sáng, giờ IST vào ngày 6 tháng 2 năm 2022, khí gas bị rò rỉ từ một bình chứa đặt tại công ty GIDC ở Sachin, một khu công nghiệp. Báo cáo đã ghi nhận lại rằng, người điều hành bình chứa đã thải một cách trái phép chất thải hóa học xuống đường ống cống, gây ra nạn rò rỉ khí gas. Người này đã trốn khỏi hiện trường. Các công nhân đang ngủ nghỉ tại một xưởng dệt may gần đó và ngoài trời đã chịu ảnh hưởng. Họ bất tỉnh khi hít phải hơi gas rò rỉ và được đưa tới bệnh viện New Civil Hospital tại Surat. Ít nhất 6 người đã thiệt mạng và 22 người phải nhập viện. Hai con chó hoang cũng bị thiệt mạng. Đội cứu hỏa khu vực đã ra tay khóa bình chứa lại. Chất hóa học bị rò rỉ được nhận diện là natri đithionit.#đổi Mọi người trong khu vực đã được sơ tán như một biện pháp phòng ngừa.
Chính quyền Gujarat đã bỏ ra một khoản phí "ex gratia" là #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
4 lakh () trong khi chủ xưởng dệt may, nơi mà những người công nhân này làm việc, đã bỏ ra #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
2 lakh () cho thân quyến của mỗi nạn nhân thiệt mạng.
Điều tra ban đầu đã hé lộ ra rằng, hóa chất được mua lại từ Hikal Ltd, một nhà máy dược phẩm từ Taloja ở Maharashtra với bối cảnh nguyên do là bán lại nó cho một công ty khác và sau đó thải nó một cách bất hợp pháp ở Surat bởi kẻ bị tố cáo. Phía bên FIR cũng đã ghi nhận là kháng nghị lại giám đốc quản lý của Hikal Ltd và một số quan chức khác. 11 người sau đó đã bị bắt bởi cảnh sát quốc gia. Về sau, vụ việc được chuyển giao sang phân nhánh tội phạm, theo đó đã bắt giữ 13 người vào tháng 4 năm 2022 và 5 người khác đã bỏ trốn.
Tòa án Xanh Quốc gia National Green Tribunal (NGT) đã ban hành một bản lưu ý tới Ban quản lý ô nhiễm Gujarat. Phía bên NGT cũng thành lập nên 9 thành viên hội đồng nhằm điều tra vụ việc. Báo cáo từ hội đồng đã được chấp thuận vào tháng 3 năm 2023. |
Thảm họa mỏ than Hōjō
Thảm họa mỏ Mitsubishi Hōjō xảy ra ngày 15 tháng 12 năm 1914 tại Kyushu, Nhật Bản. Một vụ nổ khí ga tại mỏ than Hōjō (Hojyo) đã cướp đi sinh mạng của 687 người. Đây là vụ thảm họa mỏ tồi tệ nhất trong lịch sử Nhật Bản.
Các chi tiết về mỏ.
Mitsubishi chính thức mở cửa mỏ Hōjō vào năm 1908. Đây là chiếc mỏ thứ 7 trong mạng lưới các mỏ khai thác tinh vi được biết đến qua tên gọi ruộng than Mitsubishi Chikuho. Cở sở khai thác là một mỏ trục, tiên phong trong việc khai khoáng trục với độ sâu cao tại Nhật Bản và là một trong các mỏ khai khoáng rất sâu đương thời, có những đoạn sâu tới 90 mét.
Ngày 15 tháng 12 năm 1914, bụi than và khí metan hòa trộn lẫn nhau trong không khí cho tới lúc một tia lửa điện bất chợt nào đó đã kích cháy một vụ nổ khổng lồ. Vụ nổ đánh bật lồng của trục mỏ, thường được dùng để chuyên chở công nhân mỏ vào và ra khỏi mỏ, bay ra khỏi trục mỏ.
Sau vụ nổ, các chủ quản của mỏ khai thác đã cắt hàng trăm quả cam và ném chúng xuống dưới mỏ, nghĩ rằng chất chua citrat sẽ trung hòa khí ga độc hại. Khi đội cứu hộ leo xuống dưới mỏ, họ "mỗi người ngậm một miếng cam mùa hè trong mồm và chỉ thở bằng mũi mà thôi" với cùng niềm tin như vậy. Không lâu sau, trong khi ngăn ngừa đám cháy khỏi lan ra cả hầm mỏ và phá hủy nguồn than quý giá, cửa hầm mỏ đã được khóa chặt và niêm đóng lại để dập tắt đám cháy nhưng kết quả là điều này cũng giết chết bất cứ ai còn sống sót sau vụ nổ đầu tiên dưới hầm. Cũng như tại hầu hết các mỏ khai khoáng khác tại Nhật Bản, vợ chồng cùng làm việc với nhau và một ước tính đã chỉ ra 20% trong số các nạn nhân thiệt mạng là phụ nữ.
Lượng thiệt mạng theo khu vực hầm mỏ.
Lượng thiệt mạng theo vị trí khu vực hầm mỏ.
Ghi chép lịch sử. |
Kỵ sĩ đoàn (Chivalric order) là một đoàn hội kỵ sĩ, được thành lập từ các đoàn hội quân sự Công giáo trong các cuộc Thập tự chinh (khoảng 1099–1291), đồng thời kết hợp với các khái niệm về tinh thần kỵ sĩ thời Trung cổ.
Từ thế kỷ 15, các kỵ sĩ đoàn thường là đoàn hội của các vương triều, bắt đầu được thiết lập theo kiểu lịch sự và có thể được tạo ra một cách đặc biệt. Các kỵ sĩ đoàn thường được coi là một hiệp hội nhưng chỉ mang tính biểu tượng. Các thể chế sau này đã tạo ra các danh hiệu khen thưởng thời hiện đại cho các quốc gia có chủ quyền. |
Đạo đức kinh doanh của người Do Thái
Đạo đức kinh doanh của người Do Thái ("Jewish business ethics") là một hình thức đạo đức Do Thái được áp dụng để xem xét điều chỉnh các vấn đề đạo đức nảy sinh trong môi trường kinh doanh hay đạo đức kinh doanh. Theo truyền thống, người Do Thái được dạy dỗ cách kinh doanh một cách trung thực và đạo đức. Nền tảng đạo đức kinh doanh của người Do Thái được ghi nhận trong Kinh Torah với hơn 100 "Mitzvot" liên quan đến "Kashrut" (sự hợp quy) về tiền bạc của một người, trên thực tế, còn nhiều hơn nữa so với luật lệ "Kashrut" trong việc ăn uống. Do đó, chủ đề đạo đức kinh doanh nhận được sự quan tâm có chiều sâu trong văn học Rabbinic, cả từ quan điểm đạo đức ("phong trào Mussar") và quan điểm pháp lý ("Halakha").
Sức hút tổng quát mà đạo đức kinh doanh được xem xét trong tư tưởng của người Do Thái được minh họa bằng câu nói được trích dẫn nhiều lần tại Talmud Shabbat rằng trong Kiếp sau, khi ngày phán xét đến thì câu hỏi "đầu tiên" được cật vấn là ""liệu bạn có trung thực trong kinh doanh không"?". Tương tự, hình phạt phải nhận đối với hành vi kinh doanh không trung thực được coi là nghiêm khắc hơn các loại tội lỗi khác. Các tổ chức bao gồm Đại học Harvard, cao đẳng Brooklyn College, và Học viện Do Thái Rohr đều có các khóa học giảng dạy về "Đạo đức kinh doanh của người Do Thái" cho sinh viên và các chuyên gia. Trong văn hóa Do Thái thì người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất. Kinh Talmud viết: "Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi được", dân Do Thái chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, cùng nhau làm giàu nơi xứ người.
Đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc, rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có. Max Weber viết: “"Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có"”. Cựu Ước có chép: “"Vàng ở xứ này rất quý"” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ Abraham, khiến ông này “"có rất nhiều súc vật, vàng bạc"” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu như Jacob, Saul, David đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, tài năng, lập công và trở thành lãnh đạo, vua chúa.
Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác, nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người nghèo nên cộng đồng Do Thái hay giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ. Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận vì người giàu có trách nhiệm không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Người Do Thái dù sống lưu vong các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi. Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh như:
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái, họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và dân họ, họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan như tiệm cầm đồ và cho vay lãi nặng là sáng tạo độc đáo của người Do Thái, sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào. Người Do Thái có bản năng kiếm tiền và làm cho tiền đẻ ra tiền, chính là thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay. Sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị đập phá. Người Đức có câu ngạn ngữ “"Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành."” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái. |
Sheynnis Alondra Cornejo Palacios (sinh ngày 30 tháng 5 năm 2000) là một người mẫu người Nicaragua, cô đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ 2023 và trở thành người Nicaragua đầu tiên giành được danh hiệu Hoa hậu Hoàn vũ.
Trước đó, cô đã đăng quang Hoa hậu Thế giới Nicaragua 2020 và đại diện cho Nicaragua tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2021 ở San Juan, Puerto Rico vào ngày 16 tháng 3 năm 2022 nơi cô đã lọt vào Top 40 chung cuộc. Năm 2023, cô tiếp tục đăng quang Hoa hậu Nicaragua 2023 và giành quyền tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2023 được tổ chức tại El Salvador.
Palacios sinh ngày 31 tháng 5 năm 2000 tại Managua, Nicaragua. Cô học tại Đại học Trung Mỹ và theo đuổi bằng cấp về truyền thông đại chúng. Đồng thời, cô cũng chơi bóng chuyền cho trường đại học.
Các cuộc thi sắc đẹp.
Hoa hậu Thiếu niên Nicaragua 2016.
Cuộc thi sắc đẹp đầu tiên của Palacios là vào năm 2016 khi cô giành chiến thắng trong cuộc thi Hoa hậu Thiếu niên Nicaragua 2016.
Hoa hậu Thiếu niên Hoàn vũ 2017.
Với tư cách là Hoa hậu Thiếu niên Nicaragua 2016, Palacios đại diện cho đất nước của mình tại Hoa hậu Thiếu niên Hoàn vũ 2017, tại Managua, Nicaragua, nơi cô lọt vào Top 10.
Hoa hậu Thế giới Nicaragua 2020.
Ngày 16 tháng 5 năm 2020, cô đại diện thủ đô Managua tại Hoa hậu Thế giới Nicaragua, Palacios đã đăng quang với ngôi vị cao nhất.
Hoa hậu Thế giới 2021.
Giữa đại dịch COVID-19, cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2020 đã bị hủy bỏ. Năm 2022, tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2021, Palacios đã đại diện cho đất nước của mình. Palacios lọt vào Top 40 chung cuộc, Hoa hậu là Karolina Bielawska đến từ Ba Lan.
Reinado Internacional del Café 2022.
Palacios đã không tham gia cuộc thi Reinado Internacional del Café 2022 vì cô ấy có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19. Tình trạng tương tự cũng xảy ra với đại diện của Philippines, Puerto Rico và Cộng hòa Dominica khi một tuần sau, đại diện của Cuba, Hong Kong và Guatemala rút lui khỏi cuộc thi.
Hoa hậu Nicaragua 2023.
Palacios được công bố là một trong những thí sinh của Hoa hậu Nicaragua 2023. Vào ngày 5 tháng 8 năm 2023, Palacios đã giành được danh hiệu Hoa hậu Nicaragua 2023.
Hoa hậu Hoàn vũ 2023.
Với danh hiệu Hoa hậu Nicaragua 2023, Palacios đã giành được quyền đại diện cho Nicaragua tại Hoa hậu Hoàn vũ 2023 được tổ chức tại San Salvador, El Salvador vào ngày 18 tháng 11 năm 2023. Vào đêm chung kết của cuộc thi, Palacios đã giành được ngôi vị cao nhất và trở thành người Nicaragua đầu tiên đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ và là người thứ hai tại khu vực Trung Mỹ đăng quang sau Justine Pasek, Hoa hậu Hoàn vũ 2002 đến từ Panama. |
Triết học Do Thái
Triết học Do Thái ("Jewish philosophy") hay Triết lý Do Thái (tiếng Do Thái: פילוסופיה יהודית) bao gồm toàn bộ triết lý, triết học được người Do Thái thực hành hoặc liên quan đến tôn giáo Do Thái giáo. Cho đến thời kỳ "Haskalah" (Khai sáng của người Do Thái) và sự giải phóng của người Do Thái hiện đại thì triết học Do Thái bận tâm đến những nỗ lực dung hòa những ý tưởng mới mạch lạc với truyền thống Do Thái giáo Rabbinic, do đó tổ chức những ý tưởng mới nổi không nhất thiết phải là người Do Thái trong khuôn khổ học thuật và thế giới quan duy nhất của người Do Thái. Với sự chấp nhận của họ vào xã hội hiện đại, những người Do Thái với nền giáo dục thế tục đã chấp nhận hoặc phát triển những triết lý hoàn toàn mới để đáp ứng nhu cầu của thế giới nơi họ hiện đang sống. Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại thì Philo đã cố gắng kết hợp và hài hòa triết học Hy Lạp và Do Thái thông qua câu chuyện ngụ ngôn, điều mà ông học được từ nhà chú giải Do Thái và Chủ nghĩa khắc kỷ. Ngày nay, Chủ nghĩa duy lý đã tái xuất hiện như một quan điểm phổ biến của người Do Thái.
Triết lý Do Thái cổ đại được thể hiện trong kinh thánh. Theo Giáo sư Israel Efros, các nguyên tắc của triết học Do Thái bắt đầu từ chính kinh thánh, nơi có thể tìm thấy nền tảng của niềm tin độc thần của người Do Thái, chẳng hạn như niềm tin vào một vị thần, sự tách biệt giữa thần và thế giới và thiên nhiên (ngược lại với Thuyết phiếm thần) và sự sáng tạo ra thế giới. Các tác phẩm Kinh thánh khác gắn liền với triết học là Thi thiên chứa đựng những lời mời gọi ngưỡng mộ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời qua các tác phẩm của Ngài; từ điều này, một số học giả cho rằng, Do Thái giáo chứa đựng một dòng chảy triết học ngầm và Truyền đạo thường được coi là tác phẩm triết học đích thực duy nhất trong Kinh thánh tiếng Do Thái; tác giả của nó tìm cách hiểu vị trí của con người trên thế giới và ý nghĩa cuộc sống.
Trong kỷ nguyên Hy Lạp, Do Thái giáo Hy Lạp mong muốn kết hợp truyền thống tôn giáo Do Thái với các yếu tố văn hóa và triết học Hy Lạp. Nhà triết học Philo đã sử dụng câu chuyện ngụ ngôn triết học để cố gắng kết hợp và hài hòa triết học Hy Lạp với triết học Do Thái. Công việc của ông cố gắng kết hợp Plato và Moses thành một hệ thống triết học. Ông đã phát triển một cách tiếp cận ngụ ngôn trong việc giải thích kinh thánh (kinh thánh), trái ngược với các cách tiếp cận giải thích theo nghĩa đen (lỗi thời). Những Chú giải ngụ ngôn của ông rất quan trọng đối với một số Giáo phụ Cơ đốc giáo và một số học giả cho rằng khái niệm của ông về Logos là nguyên tắc sáng tạo của Chúa đã ảnh hưởng sớm đến Christology (Kitô học là môn học ""nghiên cứu về Chúa Kitô"). Tuy nhiên, các học giả khác phủ nhận ảnh hưởng trực tiếp nhưng nói rằng cả Philo và Cơ đốc giáo sơ khai đều vay mượn từ một nguồn chung.
Sự tái khám phá thời trung cổ về triết học Hy Lạp cổ đại trong số Geonim của các tu viện Babylon thế kỷ thứ 10 đã đưa triết học duy lý vào đạo Do Thái Tanakh-Talmud. Triết lý nói chung là cạnh tranh với Kabbalah. Cả hai trường phái sẽ trở thành một phần của văn học Do Thái cổ điển, mặc dù sự thoái trào của chủ nghĩa duy lý mang tính học thuật trùng hợp với các sự kiện lịch sử thu hút người Do Thái đến với cách tiếp cận Kabbalistic. Đối với người Do Thái Ashkenazi, sự giải phóng và tiếp xúc với tư tưởng thế tục từ thế kỷ XVIII trở đi đã thay đổi cách nhìn nhận về triết học. Các cộng đồng người Do Thái Ashkenazi và người Do Thái Sephardi sau này có nhiều tương tác trái chiều với văn hóa thế tục hơn ở Tây Âu. Trong những phản ứng khác nhau đối với tính hiện đại, các ý tưởng triết học Do Thái đã được phát triển trên phạm vi phong trào tôn giáo Do Thái mới nổi. Những sự phát triển này có thể được coi là sự tiếp nối hoặc phá vỡ quy chuẩn của triết học của những giáo sĩ Do Thái thời Trung cổ, cũng như các khía cạnh biện chứng lịch sử khác của tư tưởng Do Thái, và dẫn đến thái độ đa dạng của người Do Thái đương thời đối với các phương pháp triết học.
Triết học của người Do Thái trong Thời hiện đại được thể hiện qua các triết gia, chủ yếu ở châu Âu, chẳng hạn như Baruch Spinoza người sáng lập Chủ nghĩa Spinoza, tác phẩm của ông bao gồm Chủ nghĩa duy lý hiện đại và phê phán Kinh thánh và đặt nền móng cho Thời đại Khai sáng vào thế kỷ XVIII Những đóng góp của ông đã giúp ông được công nhận là một trong những nhà tư tưởng quan trọng nhất của triết học phương Tây cùng những người khác là Isaac Orobio de Castro, Tzvi Ashkenazi, David Nieto, Isaac Cardoso, Jacob Abendana, Uriel da Costa, Francisco Sanches và Moses Almosnino. Một kỷ nguyên mới bắt đầu vào thế kỷ XVIII với tư tưởng của Moses Mendelssohn. Mendelssohn được mô tả là "Moses thứ ba", người bắt đầu một kỷ nguyên mới trong Do Thái giáo, cũng giống như các kỷ nguyên mới bắt đầu với nhà tiên tri Moses và với nhà tiên tri Moses Maimonides. Mendelssohn là một triết gia Người Do Thái gốc Đức, người có ý tưởng về sự phục hưng của người Do Thái châu Âu, tác phẩm Haskalah (Sự khai sáng của người Do Thái) mang ơn những ý tưởng của ông. Ông được coi là cha đẻ của đạo Do Thái cải cách, mặc dù những người phát ngôn của Cải cách đã "chống lại việc coi ông là người cha tinh thần của họ"".
Nhà triết học Pháp và là nhà bình luận Talmud Emmanuel Levinas, người có cách tiếp cận phát triển từ truyền thống hiện tượng học trong triết học, cũng được mô tả là một người Do Thái vốn là người theo chủ nghĩa hiện sinh. Chủ nghĩa duy lý Do Thái đương đại thường dựa trên những ý tưởng gắn liền với các triết gia thời trung cổ như Maimonides và các nhà duy lý Do Thái hiện đại như Hermann Cohen là một triết gia Kant mới người Đức gốc Do Thái, người đã chuyển sang nghiên cứu các chủ đề Do Thái vào cuối sự nghiệp của mình vào đầu thế kỷ XX, tiếp thu những ý tưởng của Maimonides, sau đó Mỹ, Steven Schwarzschild tiếp tục di sản của Cohen. Một nhà duy lý Do Thái đương đại nổi bật khác là Lenn Goodman, người hoạt động dựa trên truyền thống triết học duy lý Do Thái thời trung cổ. Một giáo sĩ Do Thái theo trường phái Do Thái giáo bảo thủ là Alan Mittleman của Chủng viện thần học Do Thái và Elliot N. Dorff của Đại học Do Thái Mỹ cũng thấy mình đã đi theo truyền thống duy lý, cũng như David Novak của Đại học Toronto. Các triết gia ở Israel thời hiện đại theo truyền thống duy lý bao gồm David Hartman và Moshe Halbertal.
Một số nhà thông thái triết lý Do Thái được biết đến trong thế giới phương Tây gồm: |
Lịch sử Do Thái
Lịch sử Do Thái ("Jewish history") là lịch sử của người Do Thái và quốc gia của người Do Thái (nay là Israel), lịch sử Do Thái giáo và lịch sử văn hóa Do Thái, triết học Do Thái khi những nhân tố này phát triển và tương tác với các dân tộc, tôn giáo và nền văn hóa khác. Người Do Thái có nguồn gốc từ người Israel cổ đại và Người Do Thái thuộc Lịch sử của Israel và Giu-đa cổ đại, hai vương quốc có liên quan xuất hiện ở Levant trong Thời đại đồ sắt. Mặc dù đề cập sớm nhất về người Israel được ghi khắc trên Tấm bia Merneptah vào khoảng năm 1213–1203 trước Công nguyên, văn học tôn giáo kể về câu chuyện của người Israel ít nhất là từ xa xưa đến tận năm 1500 năm trước Công Nguyên. Vương quốc Israel rơi vào tay Đế quốc Tân Assyria vào khoảng năm 720 trước Công nguyên và Vương quốc Judah đến Đế quốc Tân Babylon vào năm 586 TCN. Một phần dân số Judea đã bị đày đến Babylon. Các sự kiện lịch sử tiếp theo như sự giam cầm của người Assyria và sự giam cầm của người Babylon được coi là đại diện cho sự khởi đầu của Cộng đồng người Do Thái. Người Do Thái được đề cập đến rất nhiều trong Kinh Thánh, đặc biệt là kinh Cựu Ước đã mô tả tỉ mỉ về nguồn gốc, thân thế, lịch sử của họ.
Việc khôi phục lại thông tin về nguồn gốc của người Do Thái rất là khó khăn và phức tạp. Những dữ liệu tiền sử và dân tộc học của người Do Thái có liên quan chặt chẽ với ngành khảo cổ học, sinh học, và các bản ghi chép lịch sử, cũng như các tài liệu tôn giáo và những tài liệu thần thoại. Nhóm dân tộc sơ khai nguyên thủy mà người Do Thái ban đầu có nguồn gốc với tổ tiên của họ là một liên minh của các bộ lạc nói ngữ hệ Semetic (Xê-mít) thời kỳ đồ sắt được gọi là người Israel sống ở khu vực nằm trong một phần của miền đất Canaan trong thời kỳ bộ lạc và thời kỳ chánh thể. Các nghiên cứu di truyền về người Do Thái cho thấy hầu hết đa số người Do Thái trên toàn thế giới đều có một di sản di truyền phổ biến có chung tổ tiên nguồn gốc từ Trung Đông, và kết quả cho thấy sự giống nhau nhiều nhất giữa người Do Thái với các giống dân của vùng Trăng lưỡi liềm Màu mỡ.
Những người Do Thái hiện đại xuất thân từ Vương quốc Judah ở miền nam Israel, là các bộ lạc của chi tộc Judah và chi tộc Benjamin kể từ khi mười bộ lạc phía Bắc bị tuyệt diệt sau khi họ bị bắt giam ở Assyria. Theo bản tường thuật Kinh Thánh Hebrew, tổ tiên của người Do Thái được truy ra là có nguồn gốc từ các bậc tổ phụ trong Kinh thánh như Abraham (sau này được xem là tổ phụ của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham), con trai của Abraham là Isaac, con trai của Isaac là Jacob, và các mẫu phụ như Sarah, Rebecca, Leah và Rachel, những người này đã sống ở Canaan. Mười hai bộ lạc (chi tộc) được mô tả là con cháu hậu duệ thuộc dòng dõi của mười hai người con trai của Jacob. Jacob và gia đình ông di cư đến Ai Cập cổ đại sau khi được chính tay Pharaoh mời đến sống cùng với con của ông là Joseph. Dòng dõi con cháu hậu duệ của các bậc tổ phụ sau này trở thành những người nô lệ cho đến khi giai đoạn xuất hành được Moses dẫn dắt. Joshua là người thừa kết vai trò lãnh đạo dân tộc Do Thái sau khi Moses qua đời. Joshua là người đã chỉ huy người Israel xâm chiếm vùng đất của người Canaan.
Phần lớn các nhà khảo cổ học hiện đại đã loại bỏ tính lịch sử của bài tường thuật đầy tính sử thi trong cuốn Kinh Thánh này vì bài tường thuật này đã được dựng tạo thành một câu chuyện kể thần thoại mang đậm khí phách dân tộc đầy cảm hứng của người Israel. Tuy nhiên, người Israel và nền văn hóa của họ, theo các tài liệu khảo cổ học hiện đại chứng minh rằng, họ đã không hề xâm chiếm được vùng đất của người Canaan bằng vũ lực, nhưng thay vào đó thì người Israel đã tách ra khỏi giống dân Canaan và tạo ra sự khác biệt văn hoá thông qua việc phát triển một bản sắc riêng biệt là tín ngưỡng độc thần và sau này là tôn giáo độc thần, đức tin tập trung vào sùng thờ Yahweh là một trong những vị thần cổ đại của dân Canaan (được liên hệ với tục thờ bò cổ xưa). Sự tiền triển của niềm tin nhiệt thành với Gia-Vệ (Yahweh), cùng với một số thực hành văn hoá, niềm tin đã dần dần làm cho nhóm dân tộc Israel khác biệt về bản sắc đủ để tách khỏi những người Canaan khác.
Nguồn gốc của người Do Thái theo truyền thống là vào khoảng 1800 TCN với những câu chuyện ghi lại trong Kinh Thánh về sự ra đời của đạo Do Thái. Tấm bia Merneptah, có niên đại vào khoảng 1200 TCN, là một trong những tài liệu khảo cổ xưa nhất của người Do Thái sinh sống trong vùng đất Israel, nơi Do Thái giáo, tôn giáo độc thần đầu tiên được phát triển. Theo những câu chuyện chép lại trong Kinh Thánh, người Do Thái hưởng thụ những giai đoạn tự chủ đầu tiên dưới những quan tòa từ Othniel cho tới Samson, sau đó vào khoảng năm 1000 TCN, vua David thiết lập Jerusalem như là kinh đô của Vương quốc Israel và Judah Thống nhất và từ đó cai quản Mười hai chi tộc Israel. Theo lịch sử thì người Do Thái bắt nguồn từ một nhóm dân tộc và cũng là một nhóm tôn giáo ở Trung Đông trong thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên, ở một phần của vùng Levant được gọi là mảnh đất của Israel.
Tấm bia Merneptah khẳng định sự tồn tại của một dân tộc được gọi là Israel nằm ở đâu đó trong vùng Canaan từ khoảng thế kỷ thứ XIII trước công nguyên (cuối thời đại đồ đồng). Người Israel phát triển từ nhóm dân ở Canaanite, củng cố các tổ chức của họ với sự xuất hiện của Vương quốc Israel và Vương triều Judah. Một số người cho rằng các dân tộc định cư ở vùng Canaan này kết hợp với các nhóm du mục di cư đến được gọi là người Hebrew.. Mặc dù một vài nguồn chi tiết đề cập đến các giai đoạn lưu vong, kinh nghiệm cuộc sống vong quốc của người Do Thái, từ chế độ nô lệ Ai Cập cổ đại đối với người Levant, đến sự đóng chiếm của người Assyria và chế độ lưu đày, cho đến sự chiếm đóng của người Babylonian và sự trục xuất, cho đến sự cai trị của Vương quốc Seleukos, tiếp theo là sư độ hộ của đế quốc La Mã và sự tha hương viễn xứ, và các mối quan hệ lịch sử giữa người Do Thái với quê hương của họ sau đó, trở thành đặc điểm chính của lịch sử, bản sắc và ký ức của người Do Thái.
Vào năm 970 TCN, con của vua David là vua Solomon trở thành vua của Israel. Trong vòng mười năm, Solomon bắt đầu xây dựng Đền thờ thiêng liêng được biết đến như là "Đền thờ Đầu tiên". Khi Solomon chết (khoảng 930 TCN), mười chi tộc phía bắc tách ra để thành lập Vương quốc Israel. Vào năm 722 TCN người xứ Assyria chinh phục vương quốc Israel và làm người Israel phải sống lưu vong, bắt đầu một cộng đồng hải ngoại. Vào thời đại di chuyển và du hành khá hạn chế, người Do Thái trở thành những người dân tỵ nạn đầu tiên và dễ bị để ý. Giai đoạn Đền Thờ thứ nhất kết thúc vào khoảng 586 trước Công Nguyên, khi vua nước Babylon là Nebuchadnezzar II thân chinh đốc suất đại binh phạt Vương quốc Judah và phá hủy Đền thờ Do Thái. Ông ta cướp bóc sạch sành sanh các kho báu trong đền thờ, và còn đày ải nhiều người Do Thái. Những người Do Thái khác từ đó cũng phải đi tha hương để định cư ở nơi khác. Vào năm 538 trước Công Nguyên, vua Belshazzar khi đang dự yến tiệc ở kinh thành Babylon thì bỗng thấy có bàn tay người hiện ra viết một dòng chữ lên tường thành, vội triệu tiên tri Daniel vào hỏi thì ông giải nghĩa dòng chữ, rằng Thiên Chúa đã phán quyết Đế quốc Babylon đã đến hồi diệt vong. Quả nhiên, vua nước Ba Tư thân chinh điều động binh mã tinh nhuệ phạt nước Babylon và lật đổ Belshazzar, tiêu diệt luôn cả Đế quốc của ông ta. Sau thắng lợi vang dội này, Cyrus Đại đế liền ban bố thánh chỉ:
Không những dân Do Thái mà tất cả các dân tộc tù đày trong Đế quốc Babylon đều được vua Cyrus Đại Đế ban bố tự do cho trở về cố hương. Khác xa các vua Ai Cập và Babylon trước đây, ông là vị vua anh minh, nhân đạo và có ngự bút viết: "Trẫm đã quy tụ tất cả các dân tộc đó và Trẫm cho phép họ được về quê hương của chính họ". Theo huấn lệnh của nhà vua, quan Tổng đốc tỉnh Judah là Sheshbazzar - người có dòng dõi vua David - dẫn nhóm người Do Thái đầu tiên trở về thành Jerusalem. Hai năm sau, tức năm 536 trước Công Nguyên, người cháu của David là Zerubabbel dẫn thêm một nhóm người Do Thái thứ hai trở về cố hương, chấm dứt kiếp tù đày của họ. Trở về, trước cảnh hoang tàn của thành Jerusalem họ hết mực đau buồn. Kể từ triều đại Cyrus Đại Đế, dân Do Thái cũng xuất hiện ở Iran. Ông cũng ban của cải và vật liệu xây dựng đền thờ cho vị quan Tổng đốc này. Từ năm 538 TCN cho đến năm 535 TCN, quan Tổng đốc Zerubabbel đã dẫn dắt nhóm người Do Thái đầu tiên về quê hương. Với chính sách tự do tôn giáo, triều đình Cyrus Đại Đế còn bỏ ra tiền của ngân khố quốc gia Ba Tư giúp nhân dân Do Thái xây dựng lại đền thờ.
Việc xây dựng Đền thờ thứ hai, được hoàn thành vào năm 516 TCN dưới triều vua Darius Đại Đế 70 năm sau khi Đền thờ Thứ nhất bị phá hủy. Khi Alexander Đại Đế chinh phục Đế quốc Ba Tư, vùng đất Israel rơi vào quyền cai trị của người Hy Lạp cổ (Hellenistic Greek), cuối cùng lại mất vào tay Vương quốc Ptolemaios rồi lại mất vào tay Vương quốc Seleukos. Triều đình Seleukos cố gắng cải tạo lại Jerusalem khi một thành phố theo văn minh Hy Lạp trở thành người đứng đầu sau khởi nghĩa Maqabim thành công năm 168 TCN lãnh đạo bởi tu sỹ Mattathias cùng với 5 người con trai của ông chống lại Antiochus Epiphanes, và họ thành lập Vương quốc Hasmoneus năm 152 TCN với Jerusalem một lần nữa là kinh đô của vương quốc. Vương quốc Hasmoneus kéo dài trên một trăm năm, nhưng sau đó khi Đế quốc La Mã trở nên hùng mạnh hơn họ đưa Herod lên làm vua chư hầu người Do Thái. Vương quốc của vua Herod cũng kéo dài trên một trăm năm. Bị người Do Thái đánh bại trong cuộc khởi nghĩa Do Thái thứ nhất năm 70, cuộc chiến tranh Do Thái - La Mã đầu tiên và cuộc khởi nghĩa Bar Kokhba năm 135 đã đóng góp đáng kể vào số lượng và địa lý của cộng đồng Do Thái ở nước ngoài, do một phần lớn dân số Do Thái của vùng đất Israel bị trục xuất rồi bị bán làm nô lệ trong toàn Đế quốc La Mã.
Kể từ khởi nghĩa Bar Kokhba thất bại, những người Do Thái đã sống tha hương trên mọi miền đất nước của thế giới (kể cả tại Việt Nam), chủ yếu là ở châu Âu và vùng Trung Đông mở rộng, trải qua nhiều sự ngược đãi, đàn áp, nghèo đói, và ngay cả diệt chủng (xem: chủ nghĩa bài Do Thái, Holocaust), với thỉnh thoảng một vài giai đoạn phát triển hưng thịnh về văn hóa, kinh tế, và tài sản cá nhân ở nhiều nơi khác nhau (chẳng hạn như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Ba Lan và Hoa Kỳ). Dù sống trong cảnh lưu vong và tha hương nhưng cộng đồng người Do Thái vẫn có thế mạnh về kinh doanh buôn bán với tài năng nghệ thuật kinh doanh cũng như triết lý kinh doanh của người Do Thái, đạo đức kinh doanh của người Do Thái. Người Do Thái đã trải qua một lịch sử lâu dài bị đàn áp và thảm sát trên nhiều vùng đất khác nhau; dân số và phân bố dân cư của họ thay đổi qua nhiều thế kỷ, một phần do xu hướng bài Do Thái có thể được thúc đẩy bởi tình cảm tiêu cực đối với người Do Thái có pha lẫn sự đố kỵ về những thành công của người Do Thái trong kinh doanh so với dân bản xứ.
Số lượng người Do Thái trên khắp thế giới đã đạt đỉnh là 16,7 triệu người trước Thế Chiến thứ Hai, chiếm khoảng 0,7% tổng dân số thế giới vào thời điểm đó, nhưng khoảng 6 triệu người Do Thái đã bị tàn sát có hệ thống trong suốt nạn diệt chủng Do Thái. Sau đó, dân số tăng nhẹ trở lại, và vào năm 2014, theo North American Jewish Data Bank, ước tính có khoảng 14,2 triệu người Do Thái, chiếm gần 0,2% tổng dân số thế giới (khoảng một trong 514 người là người Do thái). Dựa theo báo cáo, khoảng 44% trong số tất cả người Do Thái sống ở Israel (6,3 triệu), và 40% người Do Thái ở Hoa Kỳ (5,7 triệu), phần lớn số người Do Thái còn lại sống ở châu Âu (1,4 triệu) và Canada (0,4 triệu). Những con số này bao gồm tất cả những người tự xác định là người Do Thái trong một nghiên cứu xã hội nhân khẩu học hoặc đã được xác định là như vậy bởi một người trả lời trong cùng một hộ gia đình. Tuy nhiên, số liệu chính xác của người Do Thái trên toàn thế giới rất khó đo lường. Ngoài các vấn đề về phương pháp thống kê, các tranh chấp giữa các yếu tố nhân dạng theo luật Do Thái Halakha, thế tục, chính trị, và tổ tiên liên quan đến người Do Thái và ai là một người Do Thái cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến con số thống kê tùy thuộc vào nguồn gốc.
Cho đến cuối thế kỷ XVIII, từ Do Thái và theo đạo Do Thái được xem là đồng nghĩa trong thực tế, và đạo Do Thái là yếu tố chính thống nhất người Do Thái mặc dù mức độ theo đạo đó có khác nhau. Trong thời kỳ của chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế, một vị vua nổi tiếng của Vương quốc Phổ là Friedrich II Đại Đế đã tiến hành khoan dung tôn giáo và gia tăng quyền lợi của cộng đồng Do Thái. Vào năm 1750, ông ra Thánh chỉ phán rằng người Do Thái được quyền làm chủ các trường học, giáo đường và nhà nguyện của họ. Theo sau Thời đại Khai sáng và thời đại Haskalah tương ứng theo truyền thống Do Thái, một sự thay đổi dần dần đã diễn ra mà qua đó nhiều người Do Thái cho mình là thành viên của nước Do Thái là khái niệm khác biệt với theo đạo Do Thái. Israel là quốc gia duy nhất nơi mà người Do Thái chiếm đa số. Nhà nước Israel hiện đại được thành lập như một nhà nước Do Thái và tự định nghĩa bản sắc của nó trong bản Tuyên bố Độc lập và Luật Cơ bản. Luật về Sự trở lại của quốc gia Israel trao quyền công dân cho bất kỳ người Do Thái nào yêu cầu quốc tịch Israel..
Những làn sóng di cư của người Do Thái đến Hoa Kỳ và những quốc gia khác vào cuối thế kỷ XIX, và sự ra đời của Chủ nghĩa phục quốc Do Thái và các sự kiện tiếp theo sau đó, bao gồm các cuộc tàn sát người Do Thái ở Nga, những vụ thảm sát người Do Thái Châu Âu trong nạn diệt chủng người Do thái Holocaust, và sự hồi sinh của nhà nước Israel, cuộc di dân Do Thái sau đó từ các vùng đất của các quốc gia Ả Rập, tất cả đều dẫn đến những thay đổi đáng kể tác động đến các trung tâm dân cư tập trung nhiều người Do Thái trên toàn thế giới vào cuối thế kỷ XX. Thành phần di truyền của các nhóm người Do Thái khác nhau cho thấy người Do Thái có chung một cụm gien di truyền từ 4.000 năm nay, đó là một dấu hiệu về nguồn gốc tổ tiên chung của họ. Mặc dù các nhóm người Do Thái sinh sống tách biệt nhau lâu dài, các cộng đồng Do Thái vẫn duy trì các đặc điểm chung trong văn hoá, truyền thống và ngôn ngữ.
Lịch sử hiện đại của người Do Thái gắn với chủ nghĩa quốc Do Thái (chủ nghĩa Xi-ôn hay chủ nghĩa Xi-ôn-nít) là một hình thức của chủ nghĩa dân tộc của người Do Thái và văn hóa Do Thái ủng hộ một nhà nước quốc gia Do Thái trong lãnh thổ được xác định là vùng đất Israel. Chủ nghĩa Zion ủng hộ người Do Thái phát huy bản sắc Do Thái của họ và chống lại sự đồng hóa người Do Thái vào các xã hội khác và đã ủng hộ việc trở lại của người Do Thái Israel như là cách cho người Do Thái được giải thoát khỏi sự phân biệt đối xử chống người Do Thái, trục xuất và bức hại đã xảy ra trong các xã hội khác. Từ khi thành lập Nhà nước Israel, phong trào phục quốc Do Thái vẫn tiếp tục chủ yếu để ủng hộ sự lấn át lãnh thổ của người Do Thái như là trường hợp đối với Palestine. Các ý kiến phê phán chủ nghĩa Zion được xem như là một phong trào chủ nghĩa bài Do Thái ("Chống chủ nghĩa Xê-mít").
Sau gần hai thiên niên kỷ của sự tồn tại của cộng đồng người Do Thái mà không có một nhà nước quốc gia, phong trào phục quốc Do Thái được thành lập vào cuối thế kỷ 19, chủ yếu từ những người Do Thái Ashkenazi đối với chủ nghĩa bài Do Thái ngày một gia tăng ở châu Âu, được minh chứng bằng các vụ Dreyfus ở Pháp và những cuộc tàn sát chống lại người Do Thái ở Đế quốc Nga. Phong trào chính trị được chính thức thành lập bởi ký giả Áo-Hung Theodor Herzl vào năm 1897 sau khi xuất bản cuốn sách có tựa ""., phong trào tìm cách khuyến khích di cư người Do Thái đến các Palestine thuộc Ottoman. Từ lâu, các cộng đồng người Do Thái đã phát triển ở các nước châu Âu, và Hoa Kỳ, nhưng họ không bao giờ để mất bản sắc Do Thái của họ. Cuối thế kỷ XIX do chủ nghĩa bài Do Thái đã dẫn đến phong trào gọi là chủ nghĩa Zion. Phong trào này kêu gọi người Do Thái trở về Palestine vùng xung quanh Jerusalem, được coi là quê hương tinh thần của họ. Lãnh thổ Palestine là một phần của đế quốc Ottoman, trong bốn thế kỷ qua đã được hầu hết các dân tộc người Ả Rập đến định cư (người Palestin). Từ những năm 1930, làn sóng di dân Do Thái tăng lên nhanh chóng khi những người Do Thái chạy trốn khủng bố của Đức quốc xã, gây ra sự xung đột dai dẳng giữa người Ả Rập định cư và người Do Thái nhập cư.
Năm 1939, khi nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai, thì Avraham Stern có quan điểm chính chiến tranh mang lại cơ hội để đạt được mục đích dân tộc, và phải bắt tay với phe nào mang lại nhiều lợi ích nhất. Những người ủng hộ Stern thành lập Lehi (gọi là nhóm Stern). Ngay từ đầu, họ đã tin rằng Do Thái là một quốc gia chiến binh, và đề nghị Anh giúp thành lập nhà nước Do Thái ngay lập tức để đổi lấy hỗ trợ. Chính phủ Anh từ chối vì tiềm năng lợi dụng Lehi trong chiến tranh là không lớn. Trước sự từ chối hợp tác, Stern càng khẳng định định đề của mình, coi Anh là kẻ thù và bắt tay với bên nào giúp mình được nhiều nhất. Ông kết nối đàm phán với Đức, Liên Xô và Ý. Năm 1942, Stern bị tình báo Anh sát hại, đàm phán quốc tế của Lehi liền mất hiệu quả. Các hoạt động chỉ còn bó lại vào việc tấn công đơn lẻ vào đại diện và binh lính Anh bằng hình thức khủng bố. Năm 1944, Lehi hoạt động bên ngoài Palestine. Đến tháng 11, Lehi thực hiện cuộc tấn công lớn nhất, hạ thủ Huân tước Moyne ở Cairo.
Hệ quả là an ninh Anh cùng với Haganah nỗ lực săn tìm loại bỏ hoặc bắt giữ các thành phần chủ chốt của Irgun và Lehi. Năm 1945, Lehi sáp nhập vào Phong trào Kháng chiến Do Thái, tổ chức này cũng nổi tiếng với vụ ám sát nhà hòa giải của Liên Hợp Quốc Bá tước Folke Bernadotte tại Jerusalem ngày 17 tháng 9 năm 1948.. Folke Bernadotte bị ám sát ở Jerusalem vào năm 1948 bởi các nhóm dân quân phục quốc Do Thái Lehi trong khi theo đuổi nhiệm vụ. Một thành viên Lehi sau này trở thành Thủ tướng Israel Yitzhak Shamir, Yitzhak Shamir chính là một lãnh đạo của nhóm bán quân sự Do Thái giáo Lehi. Tháng 5 năm 1948, Lehi giải thể, từ đó khai sinh đảng chính trị "Reshimat HaLohmim" (Danh sách chiến binh). Đảng này tham gia tranh cử năm 1949 và giành được 1 ghế, nhưng sau đó không còn hoạt động nữa.. Sau này vụ thảm sát Deir Yassin khi khoảng 120 chiến binh của những nhóm bán quân sự Irgun và Lehi thuộc Chủ nghĩa phục quốc Do Thái tấn công vào Deir Yassin, một ngôi làng của người Palestine gần Jerusalem với dân số khoảng 600 người mà phe cánh tả Israel để cáo buộc nhóm Irgun và Lehi đã làm ô danh Israel do việc vi phạm nguyên tắc sự trong sạch của vũ khí của người Do Thái. |
Điều này rồi cũng qua đi
"Điều này rồi cũng qua đi" (, ) là một câu ngạn ngữ Ba Tư được dịch ra và sử dụng trong nhiều ngôn ngữ khác nhau.#đổi Nó phản ảnh về bản chất tạm thời, hữu hạn, hoặc tính phù du của thân phận con người - rằng chẳng có điều gì xấu xa, tốt đẹp, hoặc những khoảnh khắc trong cuộc đời là mãi trường tồn. Cảm nhận chung nhất thường được bày tỏ thông qua văn học thông thái xuyên suốt lịch sử cũng như các nền văn hóa, nhưng cụm từ cụ thể này dường như phát nguyên từ một số bản ghi chép của các nhà thơ Sufi Ba Tư thời trung cổ.
Nó được biết đến tại thế giới phương Tây chủ yếu qua một câu chuyện ngụ ngôn Ba Tư được kể lại từ thế kỷ 19 bởi nhà thơ người Anh Edward FitzGerald:
CON DẤU CỦA SOLOMON.
Quốc vương Sultan hỏi xin Solomon một câu khẩu hiệu Signet, rằng nóbr
"ĐIỀU NÀY RỒI CŨNG QUA ĐI."
Nó cũng được gợi nhấn một cách đáng chú ý trong bài phát biểu của Abraham Lincoln trước khi ông trở thành Tổng thống thứ mười sáu của Hoa Kỳ.
Một đoạn trích Anh ngữ của cụm từ này cũng xuất hiện vào năm 1848:
Nó cũng được sử dụng vào năm 1852, trong một câu chuyện ngụ ngôn mang tên "Dấu ấn của Solomon" của nhà thơ người Anh Edward FitzGerald. Theo đó, một vị quốc vương sultan hỏi xin vua Solomon một câu nói luôn đúng dù cho thuận lợi hoặc khó khăn; Solomon trả lời: "Điều này rồi cũng qua đi". Vào ngày 30 tháng 9 năm 1859, Abraham Lincoln kể lại một câu chuyện tương tự:
Nguồn gốc của ngụ ngôn.
Câu chuyện ngụ ngôn do FitzGerald kể lại có thể bắt nguồn từ nửa đầu thế kỷ 19, xuất hiện trên các báo chí Hoa Kỳ sớm nhất là từ năm 1839. Nó thường liên quan đến một "quốc vương phương Đông" vô danh. Nguồn gốc của nó bắt nguồn từ các tác phẩm của các nhà thơ Sufi Ba Tư, chẳng hạn như Rumi, Sanai và Attar của Nishapur. Attar ghi chép lại câu chuyện ngụ ngôn về một vị vua quyền lực, tập họp các nhà thông thái lại để tạo ra một chiếc nhẫn có thể khiến ông vui khi buồn. Sau khi cân nhắc, các nhà hiền triết trao cho ông một chiếc nhẫn giản đơn có khắc dòng chữ Ba Tư "Điều này rồi cũng sẽ qua", mang lại hiệu nghiệm như mong muốn.
Câu chuyện này cũng từng xuất hiện trong văn hóa dân gian Do Thái. Nhiều phiên bản của câu chuyện đã được Cơ quan Lưu trữ Văn hóa Dân gian Israel tại Đại học Haifa ghi chép lại. Văn hóa dân gian Do Thái thường xem Solomon là vị vua bị khiêm nhường hóa bởi câu ngạn ngữ này, hoặc là người truyền đạt nó cho người khác.
Trong một số phiên bản, cụm từ này thậm chí còn được đơn giản hóa hơn nữa, xuất hiện dưới dạng từ viết tắt, chỉ có các chữ cái tiếng Do Thái gimel, zayin và yodh, bắt đầu bởi các từ "Gam zeh ya'avor" (, "gam zeh yaavor"), "điều này rồi cũng sẽ qua." |
Lexus LM (viết tắt của "Luxury Mover") là một mẫu minivan hạng sang được sản xuất bởi Lexus, thương hiệu con của tập đoàn Toyota. Ra mắt năm 2019 với tư cách là mẫu minivan đầu tiên của hãng, từ đó đến nay LM đã trải qua hai thế hệ và chia sẻ nhiều điểm tương đồng với Toyota Alphard cùng Vellfire. Thế hệ đầu tiên của xe kéo dài từ năm 2020 đến 2023, cung cấp các cấu hình gồm bảy hoặc bốn chỗ, cùng với đó là tùy chọn động cơ xăng và hybrid. Kể từ thế hệ thứ hai, LM chỉ còn duy nhất phiên bản hybrid và có sẵn ba tùy chọn ghế ngồi gồm bốn, sáu và bảy chỗ ngồi.
Thế hệ thứ nhất (AH30; 2019).
LM thế hệ đầu tiên ra mắt vào ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại Triển lãm Công nghiệp Ô tô Quốc tế Thượng Hải, sau đó chào sân tại thị trường Trung Quốc vào ngày 20 tháng 2 năm 2020. So với người anh em Alphard thế hệ thứ ba thì LM có chiều dài nhỉnh hơn một chút, cụ thể là . Ngoài ra, xe còn có kết cấu mới và cứng cáp hơn, cùng với đó là những bộ phận cách âm bổ sung như cửa sổ hai lớp. Xe có sẵn hai cấu hình chỗ ngồi, trong đó bản 7 chỗ dựa trên Alphard Executive Lounge và bản 4 chỗ mang tên "Emperor Suite" phát triển từ Alphard Royal Lounge. LM cũng được trang bị hệ thống treo kiểu mới với công nghệ Swing Valve.
LM thế hệ đầu tiên đã có mặt tại Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, cùng với các thị trường Đông Nam Á như Indonesia, Thái Lan, Philippines, Malaysia, và Việt Nam. Mặc dù được sản xuất tại Nhật Bản, nhưng LM lại không được phân phối tại nơi này.
LM có hai tùy chọn động cơ, bao gồm hybrid 4 xi-lanh 2.5 lít 2AR-FXE đối với LM 300h và loại V6 3.5 lít, hút khí tự nhiên và phun xăng trực tiếp "2GR-FKS" trên mẫu LM 350.
Thế hệ thứ hai (AW10; 2023).
LM thế hệ thứ hai chính thức được giới thiệu vào ngày 18 tháng 4 năm 2023 tại Triển lãm ô tô Thượng Hải. Phiên bản này khác xa so với dòng Alphard/Vellfire với kiểu thân và mẫu mã riêng biệt. Xe được bán độc quyền dưới dạng hybrid, không còn phiên bản chạy xăng như trước nữa.
Mẫu xe này khoác lên mình bộ tản nhiệt kiểu mới với hoa văn hình lục giác, thay thế cho lưới tản nhiệt hình con suốt cỡ lớn đặc trưng trên đời cũ, trong khi logo Lexus thì được dời từ bên trong lưới tản nhiệt lên vị trí mui xe. Nhìn chung, khung gầm của xe được tinh chỉnh tăng độ cứng thêm 50% nhờ việc lắp thanh giằng mới trên giá đỡ bộ tản nhiệt và sàn phía sau, kết cấu thanh truyền thẳng và gia cố trụ một phần tư. Keo kết cấu cũng được sử dụng cho thân trên và sàn xe, có tác dụng hấp thụ xung lực giúp giảm rung lắc khi đứng yên và di chuyển. Lần đầu tiên trên một chiếc xe Lexus, LM được trang bị hệ thống "Hỗ trợ Điều hòa Phía sau", trong đó tích hợp các tính năng như điều chỉnh điều hòa không khí, rèm che nắng, hệ thống chiếu sáng, vị trí ghế ngồ, xe còn trang bị bệ tì tay có thể sưởi ấm và ghế ngồi có phần ngả đệm đỡ chân ottoman, cùng với đó là màn hình rộng 48 inch đặt ở khoang sau.
Thế hệ thứ hai của LM gồm hai phiên bản là 350h và 500h, sử dụng hệ dẫn động bốn bánh bằng điện Direct4 của Lexus. Xe có sẵn ba cấu hình ghế ngồi gồm 4, 6 hoặc 7 chỗ, cùng với bốn tùy chọn màu ngoại thất: Đen, Trắng, Be và Đỏ. Với thế hệ này, Lexus đã mở rộng quy mô khi cho ra mắt sản phẩm tại hơn 60 quốc gia, trong đó châu Âu và Nhật Bản là những thị trường lần đầu phân phối. Tuy nhiên, xe sẽ không được bán tại khu vực Bắc Mỹ.
LM chính thức lên sàn thị trường Nhật Bản vào giữa tháng 10 năm 2023 với một phiên bản duy nhất là Executive 500h. Xe có bốn tùy chọn màu ngoại thất (Sonic Quartz, Sonic Titanium, Graphite Black Glass Flakes và Sonic Agate) cùng hai màu nội thất (Solis White viền Satin Copper và Black viền Satin Silver). Các đợt lái thử LM dự kiến sẽ bắt đầu vào tháng 1 năm 2024. Hai phiên bản 6 và 7 chỗ sẽ có mặt ngay sau đó.
Tương tự như hầu hết các mẫu xe Lexus và Toyota xuất hiện tại Nhật Bản, LM nhận được bộ bodykit từ thương hiệu Modellista thuộc Toyota. Gói phụ kiện bao gồm cánh trước, cánh gió sau, ốp hông, một chi tiết trang trí mạ crôm cho trước và sau, cùng với các bộ phận trang trí bên hông ở phần đầu xe trước bộ lọc gió. Lazang hợp kim 19 inch là bộ phận cuối cùng cho phần ngoại thất, trong khi một panel sơn mài thì được lắp vào vách ngăn bên trong để hoàn thiện gói độ cho xe.
LM chính thức ra mắt tại Trung Quốc vào tháng 8 năm 2023, sau đó trình làng tại Ấn Độ vào tháng 8 năm 2023 và bắt đầu nhận đặt cọc vào ngày 24 tháng 8. LM gia nhập thị trường Thái Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 2023 với các phiên bản Executive 7 chỗ và Executive 4 chỗ. Đối với thị trường châu Âu, xe đã có mặt tại Tây Ban Nha vào cuối tháng 5 năm 2023. Vào quý 3 năm 2023, LM được mở bán tại Vương quốc Anh với hai biến thể 4 và 7 chỗ ngồi. Ở Úc, xe dự kiến sẽ có mặt vào quý 4 năm 2023 và mở bán vào năm 2024. Vào tháng 6 năm 2023, LM đã được chấp thuận dựa trên các cơ sở pháp lý để phân phối tại quốc gia này.
LM thế hệ thứ hai chia sẻ chung động cơ với nhiều mẫu xe sử dụng khung gầm GA-K, đơn cử như động cơ A25A-FXS và T24A-FTS. LM 350h có công suất , còn phiên bản LM 500h thì mạnh hơn khi sản sinh công suất . |
Các dân tộc nói tiếng Semit cổ đại
Các dân tộc nói tiếng Semit cổ đại ("Ancient Semitic-speaking peoples") là những người nói thứ ngôn ngữ Semit (Xê-mít) từng sống khắp Cận Đông cổ đại và Bắc Phi trong thời cổ đại, bao gồm vùng Levant, Lưỡng Hà (Mesopotamia), Bán đảo Ả Rập và Carthage từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên cho đến hết thời cổ đại, với một số, chẳng hạn như người Assyria, Mandaea, người Ả Rập , Arameans, Người Samari và người Do Thái có tính liên tục cho đến ngày nay. Cần phân biệt nội hàm của các giống dân nói thứ tiếng Semit cổ xưa với thuật ngữ "người Semit" (phát âm tiếng Việt như là "người Xê-mít") là một thuật ngữ cho một nhóm dân tộc, văn hóa hoặc chủng tộc nói hoặc nói các ngôn ngữ Semit. Có một số địa điểm được đề xuất là nơi có thể phát tích nguồn gốc của các dân tộc nói tiếng Semitic là vùng Lưỡng Hà, Levant, Đông Địa Trung Hải, Eritrea và Ethiopia.
Thứ tiếng của dân tộc nói tiếng Semit cổ đại thường được chia thành ba nhánh: ngôn ngữ Semit miền Đông, ngôn ngữ Semit miền Trung và ngôn ngữ Semiti miền Nam. Ngôn ngữ Semiti nguyên thủy có thể được sử dụng lần đầu tiên vào đầu thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên ở Tây Á, và các dạng ngôn ngữ Semiti cổ xưa nhất được chứng thực có niên đại từ đầu đến giữa thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên (Thời kỳ đồ đồng sớm). Những người nói tiếng Semit miền Đông bao gồm những cư dân của Đế quốc Akkad, Ebla, Assyria, Babylon, hai dân tộc sau cuối cùng đã chuyển sang Đông Aramaic và có lẽ là Dilmun. Tiếng Semit miền Trung sau này đã kết hợp ngôn ngữ Semit Tây Bắc và tiếng Ả Rập. Những người nói ngôn ngữ Semitic Tây Bắc là người Canaan (bao gồm người Phoenicia, người Punic, người Amorite (người A-mo-rít), Edomites, Moabites và người Hebrew), người Arameans và cư dân Ugarit. Các dân tộc nói tiếng Semit miền Nam bao gồm những người nói ngôn ngữ Ả Rập Nam hiện đại và Nhóm ngôn ngữ Semit Ethiopia.
Vùng Bán đảo Ả Rập và Bắc Phi cũng được xem là nơi phát tích những giống dân nói tiếng Xê-mít cổ xưa. Một quan điểm phổ biến cho rằng các ngôn ngữ Semiti có nguồn gốc từ Levant vào khoảng năm 3800 trước Công nguyên, và sau đó cũng được du nhập vào Sừng Châu Phi vào khoảng năm 800 trước Công nguyên từ phía nam bán đảo Ả Rập và đến Bắc Phi và miền nam Tây Ban Nha với sự hình thành thành bang Carthage cổ đại vào thế kỷ thứ chín trước Công nguyên và Cádiz vào thế kỷ thứ mười trước Công nguyên. Vì hầu hết những bộ tộc du cư ở vùng Cận Đông cổ đại nói tiếng Semiti nhưng không hẳn tất cả các giống dân nói tiếng Semitic đều du cư, do đó trong quá trình nghiên cứu vẫn có nhiều ý kiến phân tích khác nhau.
Nhiều nỗ lực đã bỏ ra để tìm mối tương quan giữa một hoặc nhiều cuộc di cư sắc tộc lớn vào thời sơ sử với một cuộc xâm chiếm của người Semite, nhưng các ý kiến của các học giả về vấn đề này phân tán nhiều. Khu vực mà các dân tộc nói tiếng Semiti trong những thời đại lịch sử ban đầu bao gồm bán đảo Ả Rập và các vùng xáp nhập phía bắc: sa mạc Syria, Syria-Palestine và một phần của Lưỡng Hà. Theo học thuyết cổ điển, mọi người Semit xuất thân là những bộ tộc du cư sống trong phần trung tâm của khu vực này. Vào những khoảng thời gian khác nhau những nhóm người họ rời sa mạc Syria-Ả Rập để định cư trong những khu vực ngoại vi, hầu hết thuộc Lưỡng Hà và Syria-Palestine. Họ gồm những giống dân: |
Edgar Bernhardt (tiếng Nga: Эдгар Бернхардт; sinh ngày 30 tháng 3 năm 1986) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Kyrgyzstan - Đức hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Preußen Espelkamp tại Westfalenliga 1.
Bernhardt được sinh ra vào ngày 30 tháng 3 năm 1986 tại Novopavlovka, Liên Xô, nay là Kyrgyzstan.
Sự nghiệp thi đấu.
Ở Đức và Hà Lan.
Bernhardt ra mắt chuyên nghiệp tại Eerste Divisie cho FC Emmen vào ngày 10 tháng 8 năm 2007, khi anh vào sân thay người ở phút thứ 55 trong trận đấu với Go Ahead Eagles. Anh trở lại VfL Osnabrück vào ngày 30 tháng 6 năm 2008 và ký hợp đồng với đội bóng vào ngày 8 tháng 6 năm 2009, trong trận gặp Wuppertaler SV.
Vào ngày 28 tháng 5 năm 2019, Bernhardt gia nhập câu lạc bộ Kedah tại Giải bóng đá Vô địch quốc gia Malaysia. Anh kết thúc mùa giải với 2 bàn thắng và 8 đường kiến tạo sau 20 lần ra sân.
Vào tháng 12 năm 2019, Bernhardt chuyển tới câu lạc bộ Abahani Limited Dhaka tại Giải bóng đá Ngoại hạng Bangladesh.
Vào ngày 1 tháng 8 năm 2020, Dordoi Bishkek thông báo về việc ký hợp đồng với Bernhardt có thời hạn đến hết mùa giải 2020. Vào ngày 16 tháng 1 năm 2021, Dordoi Bishkek xác nhận sự ra đi của Bernhardt sau khi hết hạn hợp đồng. Bernhardt trở lại Dordoi Bishkek vào ngày 19 tháng 7 năm 2021, sau sáu tháng gắn bó với câu lạc bộ Andijon tại Giải bóng đá ngoại hạng Uzbekistan.
Sự nghiệp quốc tế.
Bernhardt được gọi lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Kyrgyzstan dưới thời huấn luyện viên Aleksandr Krestinin chuẩn bị cho 2 trận đấu tại Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 gặp Bangladesh và Úc. Anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên trong trận ra mắt gặp Bangladesh bằng một quả phạt đền, giúp đội nhà giành chiến thắng 3–1 tại Dhaka.
Bernhardt có hộ chiếu quốc tịch Đức, Kyrgyzstan và Nga. Anh được sinh ra ở Kyrgyzstan, nhưng chuyển đến Stemwede, Đức cùng gia đình khi còn nhỏ.
"Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 15 tháng 6 năm 2021"
"Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng đầu tiên của Kyrgyzstan, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Bernhardt." |
Đinh Nhật Tân (1836–1887), tự Học Tiêu, hiệu Đông Bích chủ nhân, là quan viên, nhà thơ thời Nguyễn, một trong những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Đồng Thông trong phong trào Cần vương.
Đinh Nhật Tân sinh năm 1836 ở thôn Thư Phủ, xã Lương Điền, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An), thuộc dòng dõi Quốc công Đinh Thế Truyền ở Hoa Lư (Ninh Bình). Sách "Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Hương Khê" (2008) chép rằng ông xuất thân nhà nghèo, cùng thôn với Nguyễn Xuân Ôn, mồ côi cha mẹ từ năm 16 tuổi và phải ở nhờ nhà chị gái để có tiền ăn học. Thông tin trên còn tồn nghi, khi Nguyễn Xuân Ôn là người chòm Cồn Sắt thuộc làng Văn Hiến hoặc làng Quần Phương (tên Nôm là làng Cồn Sắt), đều cùng xã Diễn Thái.
Năm 1870, ông đỗ Cử nhân dưới thời vua Tự Đức (một số nguồn ghi là năm 1871 hoặc 1878). Năm 1875, ông làm chức Hậu bổ ở tỉnh Nam Định, rồi chuyển làm Nhiếp biện ấn vụ huyện Chân Ninh (nay là huyện Trực Ninh, Nam Định). Ba năm sau, ông thăng chức Đồng tri phủ lĩnh Tri huyện huyện Nam Chân (nay là huyện Nam Trực, Nam Định). Nhờ tính cách cương trực, thanh liêm, cùng với việc ứng phó tốt với nạn hạn hán, sâu bệnh trong huyện, ông được đại thần Vũ Trọng Bình đề cử. Năm 1881, ông được bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử đạo Yên Định.
Năm 1883, ông giữ chức Hải Phòng tham biện, đóng giữ đồn Lỗ Châu ở cửa biển Thuận An (Thừa Thiên Huế). Khi quân Pháp tấn công, ông cùng quân lính trong đồn chống trả quyết liệt nhưng không tránh khỏi thất bại. Triều đình đầu hàng, ông bỏ quan về quê.
Năm 1885, vua Hàm Nghi ban chiếu Cần vương. Đinh Nhật Tân hưởng ứng lời mời của Nguyễn Xuân Ôn, cùng với Nguyễn Nguyên Thành, Lê Doãn Nhã, Trần Quang Diệm tổ chức lễ tế cờ ở vườn Mới (Diễn Thái), tuyên bố khởi nghĩa chống Pháp. Đinh Nhật Tân được phong làm Tham biện An Tĩnh sự vụ, hàm Hồng lô tự thiếu khanh.
Cuối tháng 7 năm 1887, thủ lĩnh Nguyễn Xuân Ôn bị thực dân Pháp bắt, Đinh Nhật Tân bệnh nặng và mất trong quân sau đó một tháng.
Trong các cháu của của Đinh Nhật Tân, có Đinh Viết Lễ, Đinh Nhật Toản đỗ Tú tài, Đinh Viết Hòe đỗ Cử nhân.
Tác phẩm của ông chỉ còn lại ba bài thơ "Tự thuật", "Tại kinh cảm tác" và "Bính Tuất tiết đề vịnh" được in trong "Tổng tập văn học Việt Nam".
Tên của ông được đặt cho một con đường ở thành phố Vinh (Nghệ An) và quận Cẩm Lệ (Đà Nẵng). |
Văn hóa Do Thái
Văn hóa Do Thái ("Jewish culture") là văn hóa của người Do Thái từ khi hình thành từ thời cổ đại cho đến thời đại hiện nay. Bản thân Do Thái giáo không phải là một tôn giáo dựa trên đức tin, mà là một thuyết chính thống ("Orthopraxy") và là tôn giáo dân tộc liên quan đến hành động, thực hành và bản sắc văn hóa. Văn hóa Do Thái bao gồm nhiều khía cạnh, bao gồm tôn giáo và thế giới quan của người Do Thái, văn học Do Thái, triết học Do Thái, truyền thông và điện ảnh, nghệ thuật và kiến trúc, ẩm thực Do Thái và trang phục truyền thống, quan điểm về giới tính, hôn nhân, gia đình, phong tục và lối sống xã hội, âm nhạc và khiêu vũ. Một số yếu tố của văn hóa Do Thái đến từ Do Thái giáo, những yếu tố khác đến từ sự tương tác của người Do Thái với dân cư bản xứ sở tại, và những yếu tố khác vẫn đến từ động lực văn hóa và xã hội bên trong của cộng đồng.
Hệ giá trị văn hóa Do Thái có thể quy về năm đặc trưng nổi bật gồm Tính cộng đồng dân tộc và sự tôn trọng cá nhân; Niềm tin mạnh mẽ; Bản lĩnh và nghị lực kiên trì; Tinh thần Chutzpah (táo bạo); Tính thông minh, sáng tạo, coi trọng tiền bạc, tài sản và làm giàu. Năm đặc trưng này đủ cho phép khu biệt dân tộc Do Thái với tất cả các dân tộc khác. Bất chấp việc người Do Thái từng bị xua đuổi ở châu Âu trong gần hai nghìn năm, họ không chỉ duy trì và phát triển bản sắc dân tộc mà trí tuệ của người Do Thái còn góp phần tạo nên nền tảng đạo đức xã hội phương Tây, định hình tư tưởng triết học và thế giới quan trong xã hội này, và là nguồn tư tưởng sáng tạo và sau tất cả những biến cố lớn của lịch sử, dân tộc Do Thái đều đạt được những thành tựu khiến cả thế giới ngưỡng mộ, người Do Thái không chỉ duy trì được tôn giáo, văn hóa, nòi giống, bản sắc của mình mà còn có sự ảnh hưởng to lớn trong cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đóng góp vào sự tiếng bộ chung của nhân loại trên mọi lĩnh vực.
Trước thế kỷ XVIII, tôn giáo thống trị hầu như mọi khía cạnh của đời sống người Do Thái và truyền tải văn hóa. Kể từ khi thế tục hóa xuất hiện, nền văn hóa Do Thái hoàn toàn thế tục cũng xuất hiện tương tự. Tác giả Constantin Măciucă viết về sự tồn tại của "tinh thần Do Thái khác biệt nhưng không biệt lập" thấm vào văn hóa của những người Do Thái nói tiếng Yiddish. Gary Tobin, người đứng đầu Viện nghiên cứu cộng đồng và người Do Thái, nói về văn hóa truyền thống của người Do Thái: "Sự phân đôi giữa tôn giáo và văn hóa không thực sự tồn tại. Mọi thuộc tính tôn giáo đều chứa đầy nét văn hóa; mọi hành vi văn hóa đều hàm chứa đầy tính tôn giáo. Bản thân các giáo đường Do Thái là trung tâm văn hóa Do Thái. Rốt cuộc, cuộc sống thực sự là gì? Thức ăn, các mối quan hệ, sự làm giàu. Cuộc sống của người Do Thái cũng vậy. Rất nhiều truyền thống của chúng ta vốn chứa đựng những khía cạnh của văn hóa. Hãy nhìn vào Passover Seder - về cơ bản nó là một rạp hát tuyệt vời. Nền giáo dục Do Thái và tôn giáo thiếu văn hóa không thú vị bằng".
Yakov Malkin, Giáo sư về Thẩm mỹ và Hùng biện tại Đại học Tel Aviv đồng thời là người sáng lập và giám đốc học thuật của Trường Cao đẳng Meitar dành cho Do Thái giáo là Văn hóa ở Jerusalem, viết rằng: Ngày nay, rất nhiều người Do Thái thế tục tham gia vào các hoạt động văn hóa của người Do Thái, chẳng hạn như kỷ niệm các ngày lễ của người Do Thái như lễ hội lịch sử và thiên nhiên, thấm nhuần nội dung và hình thức mới hoặc ghi dấu các sự kiện trong vòng đời như ngày sinh, lễ bar/bat mitzvah, hôn nhân, và than khóc theo kiểu thế tục. Họ cùng nhau nghiên cứu các chủ đề liên quan đến văn hóa Do Thái và mối quan hệ của nó với các nền văn hóa khác, trong Havurot, các hiệp hội văn hóa và giáo đường thế tục, đồng thời họ tham gia vào các hoạt động chính trị và công cộng được điều phối theo các phong trào Do Thái thế tục, chẳng hạn như phong trào trước đây để giải phóng người Do Thái ở Liên Xô và các phong trào chống lại nạn tàn sát, phân biệt đối xử và ép buộc tôn giáo. Giáo dục thế tục nhân văn của người Do Thái khắc sâu các giá trị đạo đức phổ quát thông qua văn học cổ điển của người Do Thái và thế giới cũng như thông qua các tổ chức thay đổi xã hội mong muốn lý tưởng công lý và bác ái.
Bí quyết sự thông minh, sáng tạo vượt trội của người Do Thái nằm ở ba hoạt động rất được coi trọng là đọc sách, giáo dục Do Thái và làm theo Kinh Torah. Dù lưu lạc ở đâu, người Do Thái cũng đều có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn hẳn người bản địa. Với người Do Thái, đọc sách không chỉ là một thói quen mà là một phẩm chất đạo đức tốt đẹp cần có của con người. Hình ảnh phổ biến của người Do Thái, từ trẻ em đến cụ già là luôn cầm quyển sách trên tay. Họ coi sách là “kho vàng” khơi dậy sức sáng tạo và khả năng tư duy để rồi từ đó hình thành nên trí tuệ được họ xem thứ quý hơn cả tiền bạc và của cải. Sách Talmud là Kinh Torah truyền khẩu, được xem là nơi khởi nguồn của trí tuệ Do Thái, là kim chỉ nam cho lối sống của người Do Thái. Theo truyền thống của người Do Thái, những cuốn sách phải được đặt ở đầu giường để tôn kính sách và cũng để đọc sách thường xuyên hơn để ở cuối giường là một hành động bất kính. Người Do Thái là dân tộc duy nhất trên thế giới không có người mù chữ xuất phát từ văn hóa đọc sách và truyền thống giáo dục gia đình. Nhờ có truyền thống đọc sách, dân tộc Do Thái đã sản sinh ra hơn 30% chủ nhân của giải thưởng Nobel.
Người Do Thái chăn nuôi du mục coi trọng cá nhân và đồng thời có tính cộng đồng dân tộc rất mạnh. Ở người Do Thái, nó được củng cố bởi tính cộng đồng dân tộc. Tính cộng đồng dân tộc cùng với việc coi trọng vai trò cá nhân đã giúp cho người Do Thái có đủ sức mạnh để kiên trì vượt qua sự đối xử phân biệt, sự bức hại của các nước láng giềng, sự hủy diệt của những đạo quân xâm lăng và của các quốc gia nơi họ sống lưu vong. Từ khi tái lập quốc năm 1948, người Do Thái ở Israel đã tạo dựng nên những Kibboutz là một cộng đồng gồm vài trăm người sống chung trong một làng theo ba nguyên tắc cơ bản: làm việc chung, ăn uống và tiêu pha chung. Mọi người trong Kibboutz đều bình đẳng. Người chỉ huy do Hội nghị Kibboutz bầu ra, làm việc theo nhiệm kỳ, luân phiên nhau, làm việc với hiệu quả cao, không có hiện tượng lạm dụng địa vị để tham nhũng. Sự thành công của các Kibboutz chính là sản phẩm của tính cộng đồng dân tộc cùng với sự tôn trọng vai trò cá nhân.
Bên cạnh đó, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc và họ còn có đạo đức kinh doanh của người Do Thái. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có. Coi trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái, là phương tiện để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc, và hoàn cảnh ấy khiến người Do Thái sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Khi mang thai, bên cạnh việc lựa chọn đồ ăn rất kỹ lưỡng, các bà mẹ Do Thái thường nghe nhạc, chơi đàn, hát và làm toán đến khi sinh con. Họ tin rằng quá trình thai giáo này sẽ giúp bé trở nên thông minh. Trí thông minh chỉ có được nhờ rèn luyện qua tư duy phản biện, và tốt hơn là tranh luận. Sau này, khi Israel tuyên bố trở thành quốc gia độc lập, chiến sự vẫn không hề chấm dứt. Để xây dựng quân đội hiệu quả, người Israel được rèn luyện tinh thần Rosh gadol - tuân lệnh nhưng theo cách sáng tạo, nỗ lực và luôn luôn thách thức lãnh đạo, tư duy rosh gadol - dám chịu trách nhiệm, tuân lệnh cấp trên nhưng cũng không ngại đưa ra ý kiến phán xét cực đoan.
Trong tiếng Do Thái thì “Chutzpah” có nghĩa là táo bạo, cả gan, khi dùng trong cụm từ “Tinh thần chutzpah” thì nó được hiểu là lòng dũng cảm, khí phách, nhiệt huyết, ham hiểu biết, sáng tạo không ngừng, và được xem là một phẩm chất đặc trưng của người Do Thái. Tinh thần Chutzpah là sáng tạo một cách dũng cảm, học hỏi từ thất bại, “thất bại thông minh”. Một nghiên cứu năm 2006 của Đại học Harvard cho thấy, những doanh nhân từng thất bại sẽ có cơ hội thành công cao hơn 20% ở lần khởi nghiệp tiếp theo. Israel được xem là môi trường tốt nhất ở Trung Đông và là một trong những nơi tốt nhất trên thế giới để khởi nghiệp, kể cả khi doanh nghiệp cũ bị phá sản. Hiện nay, bàn về phép màu kinh tế Israel, nhiều học giả Do Thái cho rằng, tính dám mạo hiểm của người nhập cư đóng một vai trò quan trọng. Tinh thần Chutzpah là cơ sở của tính dám mạo hiểm - một phẩm chất quan trọng của dân du mục mà người Do Thái là điển hình. Ở Israel, tính mạo hiểm là động lực cho các mô hình thử nghiệm. Nhờ tinh thần Chutzpah, người Do Thái đã đạt được những thành tựu vượt trội trong nhiều lĩnh vực.
Triết lý Do Thái cổ đại được thể hiện trong kinh thánh. Theo Giáo sư Israel Efros, các nguyên tắc của triết học Do Thái bắt đầu từ chính kinh thánh, nơi có thể tìm thấy nền tảng của niềm tin độc thần của người Do Thái, chẳng hạn như niềm tin vào một vị thần, sự tách biệt giữa thần và thế giới và thiên nhiên (ngược lại với Thuyết phiếm thần) và sự sáng tạo ra thế giới. Các tác phẩm Kinh thánh khác gắn liền với triết học là Thi thiên chứa đựng những lời mời gọi ngưỡng mộ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời qua các tác phẩm của Ngài; từ điều này, một số học giả cho rằng, Do Thái giáo chứa đựng một dòng chảy triết học ngầm và Truyền đạo thường được coi là tác phẩm triết học đích thực duy nhất trong Kinh thánh tiếng Do Thái; tác giả của nó tìm cách hiểu vị trí của con người trên thế giới và ý nghĩa cuộc sống.
Trong kỷ nguyên Hy Lạp, Do Thái giáo Hy Lạp mong muốn kết hợp truyền thống tôn giáo Do Thái với các yếu tố văn hóa và triết học Hy Lạp. Nhà triết học Philo đã sử dụng câu chuyện ngụ ngôn triết học để cố gắng kết hợp và hài hòa triết học Hy Lạp với triết học Do Thái. Công việc của ông cố gắng kết hợp Plato và Moses thành một hệ thống triết học. Ông đã phát triển một cách tiếp cận ngụ ngôn trong việc giải thích kinh thánh (kinh thánh), trái ngược với các cách tiếp cận giải thích theo nghĩa đen (lỗi thời). Những Chú giải ngụ ngôn của ông rất quan trọng đối với một số Giáo phụ Cơ đốc giáo và một số học giả cho rằng khái niệm của ông về Logos là nguyên tắc sáng tạo của Chúa đã ảnh hưởng sớm đến Christology (Kitô học là môn học ""nghiên cứu về Chúa Kitô"). Tuy nhiên, các học giả khác phủ nhận ảnh hưởng trực tiếp nhưng nói rằng cả Philo và Cơ đốc giáo sơ khai đều vay mượn từ một nguồn chung.
Triết học của người Do Thái trong Thời hiện đại được thể hiện qua các triết gia, chủ yếu ở châu Âu, chẳng hạn như Baruch Spinoza người sáng lập Chủ nghĩa Spinoza, tác phẩm của ông bao gồm Chủ nghĩa duy lý hiện đại và phê phán Kinh thánh và đặt nền móng cho Thời đại Khai sáng vào thế kỷ XVIII Những đóng góp của ông đã giúp ông được công nhận là một trong những nhà tư tưởng quan trọng nhất của triết học phương Tây cùng những người khác là Isaac Orobio de Castro, Tzvi Ashkenazi, David Nieto, Isaac Cardoso, Jacob Abendana, Uriel da Costa, Francisco Sanches và Moses Almosnino. Một kỷ nguyên mới bắt đầu vào thế kỷ XVIII với tư tưởng của Moses Mendelssohn. Mendelssohn được mô tả là "Moses thứ ba", người bắt đầu một kỷ nguyên mới trong Do Thái giáo, cũng giống như các kỷ nguyên mới bắt đầu với nhà tiên tri Moses và với nhà tiên tri Moses Maimonides. Mendelssohn là một triết gia Người Do Thái gốc Đức, người có ý tưởng về sự phục hưng của người Do Thái châu Âu, tác phẩm Haskalah (Sự khai sáng của người Do Thái) mang ơn những ý tưởng của ông. Ông được coi là cha đẻ của đạo Do Thái cải cách, mặc dù những người phát ngôn của Cải cách đã "chống lại việc coi ông là người cha tinh thần của họ"". |
Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới
Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới ("The Greatest Salesman in the World") là một cuốn sách của tác giả Og Mandino có nội dung hướng dẫn triết lý về nghệ thuật bán hàng và thành công. Cuốn sách kể câu chuyện về Hafid một cậu bé chăn lạc đà nghèo với hành trình có được một cuộc sống sung túc. Cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 1968 và được nhà xuất bản Bantam tái bản vào năm 1983. Một ấn bản bìa cứng được Buccaneer Books ấn bản vào tháng 6 năm 1993. Năm 1970, Viện Động lực Thành công đã mua bản quyền sản xuất bản ghi âm. Cho đến nay, cuốn sách "Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới" đã được dịch ra 25 ngôn ngữ và đã bán hơn 50 triệu bản, trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều doanh nhân và truyền lửa cho hàng triệu người.
Nếu làm theo cấu trúc đọc gợi ý của Og Mandino sẽ mất khoảng 10 tháng để đọc hết cuốn sách. Hướng dẫn cách nghiên cứu là đọc Cuộn I (Chương 8) ba lần một ngày trong ba mươi ngày liên tục. Chỉ sau khi hoàn thành ba mươi ngày đọc Cuộn I, người đọc mới nên tiếp tục Cuộn II (Chương 9) cho đến đến Cuộn X (Chương 17), hãy đọc cuốn sách này thật chậm, sẽ cảm thấy nhẹ nhõm và trở nên thông suốt, nhận ra con đường dẫn đến thành công bằng cách lắng nghe sự khôn ngoan bên trong bản thân của mình. Thông điệp chính của cuốn sách là ""làm ngay bây giờ". Khi đánh dấu Cuộn IX, "Tôi sẽ hành động ngay bây giờ" được viết 18 lần. Diễn viên Matthew McConaughey cho rằng cuốn sách này đã thay đổi cuộc đời anh ấy.
Cuốn sách có viết "Bạn không được tạo ra để sống một cuộc sống nhàn rỗi. Bạn không thể ăn từ bình minh đến hoàng hôn, không thể chỉ mãi uống rượu, chơi đùa hay làm tình. Công việc không phải là kẻ thù của bạn mà là bằng hữu của bạn. Nếu bạn bị cấm lao động, bạn sẽ khuỵu gối và cầu xin một cái chết thật nhanh"". Tác phẩm tái bản là phần tiếp theo của cuốn sách bán chạy nhất năm 1967 của Mandino, xuất bản năm 1988 và lấy bối cảnh muộn hơn phần đầu tiên bốn mươi năm khi nhân vật chính Hafid đang trong tâm trạng đau buồn, thương tiếc sự ra đi của người vợ Lisha. Câu chuyện bắt đầu từ những năm Hafid sống ẩn dật, khi một giấc mơ thuyết phục anh nhìn thấy một người lạ xuất hiện trước cửa nhà anh và kéo Hafid nghỉ hưu để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mới, một chuyến tham quan diễn thuyết để soi sáng cho những người khác về các nguyên lý trong Mười cuộn giấy da dê ("The Ten Scrolls").
Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
"Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới" kể về câu chuyện của Hafid, một cậu bé trông lạc đà nghèo khó ở Jerusalem thời cổ đại. Xuất thân là một cậu nhóc trông lạc đà cho đoàn buôn của Pathros, nhưng với quyết tâm đổi đời, muốn cải thiện vị trí của mình trong cuộc sống, Hafid luôn nuôi ước mơ được trở thành người bán hàng. Cậu tin chỉ như thế mình mới có cơ hội trở nên giàu có và thành công. Giống như nhiều người theo đuổi đam mê khác, trong suốt hành trình ấy đôi lúc Hafid đã nghĩ đến việc quay trở về với công việc chăn lạc đà, kiếm những đồng xu lẻ sống qua ngày. Biết bao nhiêu mối suy tư nghi ngờ, thương tiếc bản thân đã nảy ra trong tâm trí và bủa vây lấy cậu, nhưng với ý chí và quyết tâm, cuối cùng Hafid cũng trở thành người bán hàng tài năng nhất lúc bấy giờ.
Qua hàng loạt thử thách mà Pathros đưa ra, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Pathros đã trao lại cho Hafit một chiếc rương bên trong có mười cuộn giấy da cùng 100 ta-lăng vàng. Chính mười cuộn giấy này đã giúp cậu chinh phục được ước mơ cũng như là bài học kinh nghiệm cho những người học kinh doanh, muốn trở thành một người bán hàng vĩ đại. Bí mật đã làm nên thành công chính là những nguyên tắc được một thương nhân giàu có và thành công truyền lại và Hafid đã giữ kỹ trong 10 cuộn giấy da dê trong suốt hơn ba thập kỉ qua. Với Hafid, những thứ giản dị này còn quý hơn cả kim cương. Nhờ áp dụng những nguyên tắc trong cuộn giấy da đó mà Hafid được mệnh danh là "Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới". |
Augustine "Og" Mandino II (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1923 – mất ngày 3 tháng 9 năm 1996) là một tác giả và nhân viên bán hàng người Mỹ gốc Ý. Ông là tác giá cuốn sách bán chạy nhất có tựa đề "Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới" (The Greatest Salesman in the World). Cuốn sách này của ông đã bán được hơn 50 triệu bản và được dịch sang hơn 25 thứ tiếng. Ông còn là Chủ tịch tạp chí "Thành công không giới hạn" ("Success Unlimited") mãi cho đến năm 1976 và được đề cử vào Đại sảnh Danh vọng Diễn giả ("Speaker Hall of Fame") của Hiệp hội Diễn giả Quốc gia ("National Speakers Association").
Theo Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 1930, Mandino sinh ra ở Natick, Massachusetts vào ngày 12 tháng 12 năm 1923, với cha mẹ là Silvio Mandino và Margaret Mandino. Ông được đặt tên là Augustine theo tên ông nội người Ý của ông. Og Mandino từng là biên tập viên của tờ báo thời trung học và dự định theo học trường báo chí của Đại học Missouri. Năm 1940, trước khi ông vào đại học, mẹ ông qua đời vì một cơn đau tim nặng. Ông quyết định làm việc trong một nhà máy giấy cho đến năm 1942. Sau đó, ông gia nhập Quân đoàn Không quân Hoa Kỳ nơi ông trở thành một sĩ quan quân đội và một lính ném bom. Ông đã bay 30 phi vụ làm nhiệm vụ ném bom trên nước Đức trên máy bay B-24 Liberator trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự, Mandino trở thành nhân viên bán bảo hiểm. Một buổi sáng tháng 11 lạnh giá ở Cleveland, ông đã tính đến việc tự tử. Nhưng khi sắp xếp một số cuốn sách trong thư viện, các tập sách tự lực, sách về thành công và động lực đã thu hút sự chú ý của ông ấy. Og Mandino chọn một số tựa sách mang đến bàn và bắt đầu đọc. Sau chuyến thăm thư viện này, ông còn ghé thăm nhiều thư viện khác trên khắp nước Mỹ. Ông đọc hàng trăm cuốn sách bàn về thành công, một trò tiêu khiển giúp ông giảm bớt chứng nghiện rượu. Trong một lần vào thư viện ở Concord, New Hampshire, ông tìm thấy Cuốn sách kinh điển của W. Clement Stone có tựa đề "Thành công nhờ thái độ tinh thần tích cực" (Success Through a Positive Mental Attitude) là cuốn sách đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời Mandino.
Thông tin tiểu sử của tác giả với cuốn sách này chỉ ra rằng ông Clement Stone chính là chủ sở hữu của Công ty bảo hiểm phức hợp. Mandino quyết định đảm nhận vị trí bán hàng tại công ty khi mới độ tuổi 32 tuổi. Trong vòng một năm, Mandino được thăng chức làm giám đốc bán hàng và phá kỷ lục bán hàng. Một cuốn sách nhỏ mà ông ấy viết liên quan đến việc bán hàng ở các thị trường nông thôn đã giúp ông ấy có được một công việc viết quảng cáo và một vị trí trên tạp chí Thành công không giới hạn của W. Clement Stone. Đến năm 1966, Og Mandino là Biên tập viên điều hành của tạp chí và giúp biên tập tuyển tập các bài báo từ tạp chí, "Kho báu thành công không giới hạn" (A Treasury of Success Unlimited). Sau cùng, Mandino cũng đã trở thành một nhà văn và diễn giả thành công. Các tác phẩm của ông được lấy cảm hứng từ Kinh thánh và chịu ảnh hưởng từ Napoleon Hill, W. Clement Stone và Emmet Fox. Ông được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Diễn giả của Hiệp hội Diễn giả Quốc gia. |
Igor Rostislavovich Shafarevich (; sinh ngày 3 tháng 6 năm 1923 – mất ngày 19 tháng 2 năm 2017) là nhà toán học Liên Xô và Nga có cống hiến cho hai nhánh lý thuyết số đại số và hình học đại số. Ngoài toán học ra, ông còn viết sách và các bài báo phê bình chủ nghĩa xã hội và các cuốn khác được mô tả có thái độ bài Do thái.
Từ lúc sớm, Shafarevich đã có những cống hiến nền tảng cho nhiều phần của toán học bao gồm lý thuyết số đại số, hình học đại số và hình học đại số số học. Cụ thể hơn, trong lý thuyết số đại số, định lý Shafarevich–Weil mở rộng ánh xạ đảo nhau và giao hoán cho trường hợp các nhóm Galois, các nhóm này là mở rộng tâm của nhóm Abel bằng các nhóm hữu hạn.
Shafarevich là nhà toán học tìm ra công thức hoàn toàn độc lập cho xếp cặp Hilbert, là khởi đầu của nghiên cứu các công thức hiện trong lý thuyết số. Một kết quả nổi tiếng khác (và vẫn còn chút chưa hoàn thành) là định lý Shafarevich trên các nhóm Galois giải được, cho thấy mọi nhóm hữu hạn và giải được có thể xem là nhóm Galois trên các số hữu tỉ.
Một phát triển khác là định lý Golod–Shafarevich trên các tháp của mở rộng không phân nhánh của trường số.
Shafarevich và trường ông đã đóng góp to lớn cho nghiên cứu hình học đại số của các mặt phẳng. Ông bắt đầu buổi chuyên khảo nổi tiếng ở Moscow về phân loại các mặt đại số nâng cấp cách xử lý hình học song hữu tỉ quanh 1960 và là người chịu trách nhiệm lớn cho giới thiệu ban đầu của hướng tiếp cận bằng các lược đồ cho hình học đại số trong trường Liên Xô. Nghiên cứu của ông trong số học của các đường cong elliptic dẫn ông tới (độc lập với nhà toán học John Tate), giới thiệu của nhóm có liên hệ với các đường cong elliptic trên trường số, nay gọi là nhóm Tate–Shafarevich (thường được gọi ngắn đi là 'Sha', là được ký hiệu là 'Ш', là chữ Kirin đầu tiên trong phần họ của ông).
Ông góp phần cho công thức Grothendieck–Ogg–Shafarevich và tiêu chuẩn Néron–Ogg–Shafarevich.
Cùng với cựu sinh viên Ilya Piatetski-Shapiro, ông chứng minh một phiên bản của định lý Torelli cho các mặt K3.
Ông đề ra giả thuyết Shafarevich, hỏi về tính hữu hạn của tập các đa tạp Abel trên trường số cố định số chiều và một tập cho trước của các nguyên tố có rút gọn xấu. Giả thuyết này được chứng minh bởi Gerd Faltings và là bước đệm trong bài chứng minh của Faltings cho giả thuyết Mordell.
Ông từng là thành viên của viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Serbia trong các khoa Toán, Vật Lý và Khoa học Trái đất.
Trong 1960, ông được bầu làm thành viên của viện Khoa học Leopoldina của Đức. Trong 1981, ông được bầu làm thành viên nước ngoài của Hiệp hội Hoàng gia.
Trong 2017, Shafarevich được tặng huy chương vàng Leonhard Euler bởi viện Khoa Học Nga.
Chính trị Liên Xô.
Shafarevich nảy sinh mâu thuẫn với chính quyền Liên Xô vào đầu năm 1950 nhưng được bảo vệ bởi Ivan Petrovsky, hiệu trưởng của đại học Moscow. Ông thuộc nhóm các người bất đồng chính kiến chịu ảnh hưởng bởi Pochvennichestvo và theo đạo thống giáo đông phương. Shafarevich xuất bản cuốn "The Socialist Phenomenon" (bản Pháp năm 1975, bản tiếng Anh năm 1980), được chú thích bởi Aleksandr Solzhenitsyn khi nói chuyện với đại học Harvard vào năm 1978.
Trong những năm 1970, Shafarevich, cùng với Valery Chalidze, Grigori Podyapolski và Andrei Tverdokhlebov, trở thành một trong các nhà nghiên cứu nhân quyền của Andrei Sakharov và do đó phải rời đại học Moscow. Shafarevich phản đối can thiệp chính trị trong các trường đại học.
Cuốn "The Socialist Phenomenon" của Shafarevich, được xuất bản ở Mỹ bởi Harper Row vào 1980, phân tích nhiều ví dụ của chủ nghĩa xã hội kể từ thời đồ đá cho đến những dị giáo thời trung cổ và nhiều tư tưởng hiện đại và quốc gia theo chủ nghĩa xã hội. Từ những ví dụ này, ông cho rằng tất cả các nguyên lý cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều được dẫn xuất từ động cơ đàn áp chủ nghĩa cá nhân. "The Socialist Phenomenon" bao gồm ba thành phần chính:
Shafarevich tranh luận rằng chủ nghĩa xã hội cổ đại (như của Mesopotamia và Egypt) chưa theo đúng tư tưởng, bởi tư tưởng chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ phản ứng với sự nổi dậy của chủ nghĩa cá nhân trong thời trục tâm. Ông so sánh ánh nhìn của Thomas More ("Utopia") và của Tommaso Campanella ("City of the Sun") về những gì đã biết về đế chế Inca và kết luận rằng có nhiều điểm tương đồng. Ông cho rằng chúng ta trở thành người qua mối quan hệ với Chúa và lập luận rằng chủ nghĩa xã hội về căn bản là hư vô và không nhận thức được rằng bản thân đang bị thúc đẩy bởi bản năng của cái chết. Ông kết luận rằng ta có lựa chọn theo đuổi cái chết hoặc cuộc sống.
Góc nhìn tôn giáo.
Shafarevich theo đạo Chính thống Nga và kết hợp góc nhìn neo-Platonic về Chính thống Đông Phương vào cách hiểu của ông về quan hệ giữa toán học và tôn giáo.
Trong cuộc trò chuyện với viện Hàn lâm Khoa học Göttingen khi nhận giải thưởng, Shafarevich trình bày góc nhìn của mình về mối quan hệ giữa toán học và tôn giáo. Ông để ý rằng nhiều phát hiện trong toán học, chẳng hạn như hình học phi Euclid, gợi ý rằng toán học thuần túy phản ánh thực tế khách quan, chứ không phải một tập các định nghĩa thông dụng hay hình thức. Ông cho rằng sự phát triển toán học không có hướng hay có hệ thống. Bởi để có đoàn kết và có hướng, toán học cần phải có mục tiêu, mục tiêu này có thể là áp dụng thực tiễn hoặc là dùng Chúa làm nguồn cho hướng phát triển. Shafarevich theo ý sau hơn, bởi toán học thuần túy không cần phải thúc đẩy bởi các áp dụng thực tiễn.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
"Comedy" (喜劇, Kigeki) là một bài hát được thu âm bởi ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nhật Gen Hoshino. Bài hát được phát hành thông qua Speedstar Records vào ngày 8 tháng 4 năm 2022 và được dùng làm bài hát chủ đề kết thúc cho mùa đầu tiên của bộ anime "Spy × Family". Bài hát cũng xuất hiện trong Series Soundwave của Fortnite. Bài hát đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Japan Hot 100 và vị trí thứ 127 trên bảng xếp hạng "Billboard" Global 200.
Bối cảnh và phát hành.
Vào ngày 17 tháng 3 năm 2022, trang web chính thức của "Spy × Family" đã thông báo rằng Gen Hoshino sẽ trình bày ca khúc chủ đề kết thúc cho bộ anime này với bài hát "Comedy", được khởi chiếu vào ngày 9 tháng 4 năm 2022. Nó được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số tại Nhật Bản vào ngày 8 tháng 4 năm 2022, thông qua Speedstar Records. Bài hát cũng được giới thiệu trên Soundwave Series của Fortnite trong 72 giờ, bắt đầu từ ngày 9 tháng 6 năm 2022.
Sáng tác và lời bài hát.
Nó được sáng tác và viết bởi Gen Hoshino cho anime "Spy × Family", với ý tưởng về gia đình đồng thời ý thức được ý nghĩa gia đình mà câu chuyện có. Hoshino nói về bài hát: “Tôi viết bài hát này khi đang nghĩ về “gia đình” của Loid, Yor và Anya trong "Spy × Family" và ý nghĩa của từ “gia đình”. “Khi tôi nghe bài hát hoàn chỉnh, tôi cảm thấy bài hát rất phù hợp với mùa ấm áp sắp tới khi cây cối tươi tốt, trăm hoa đua nở”.
Video âm nhạc cho bài hát "Comedy" được phát hành vào ngày 5 tháng 5 năm 2022 và do MESS làm đạo diễn. Bài hát mô tả hình thức của một 'gia đình' nào đó, trong đó Hoshino và những sinh vật bí ẩn sống cùng nhau và tiếp tục cuộc sống hàng ngày của họ. |
Nút giao thông Guri
templatestyles src="Infobox road/" /#đổi
Nút giao thông Guri (Tiếng Hàn: 구리 나들목, 구리IC) còn được gọi là Guri IC là nút giao thông số 10 của Đường cao tốc vành đai 1 vùng thủ đô Seoul nằm ở Inchang-dong, Guri-si, Gyeonggi-do. Vì nó tạo thành một nút giao thông ba cấp với Đường cao tốc đô thị Bukbu nên rất thuận tiện để tiếp cận Namyangju-si, Yangpyeong-gun, Guri-si và Jungnang-gu, Seoul.
Nó được thiết kế và xây dựng theo cấu trúc giao nhau lập thể với Đường cao tốc đô thị Bukbu, nhưng ngay sau khi mở cửa vào năm 1992, Đường cao tốc đô thị Bukbu vẫn chưa được khai thông nên đã xử lý lượng giao thông bằng phương thức giao nhau phẳng giữa quốc lộ 43 và hình chữ T.
Thông tin cấu trúc.
Đây là nút giao thông ba chiều kiểu cỏ ba lá có đường dốc trực tiếp và đoạn đường nối chạy từ hướng Uijeongbu trên Đường cao tốc vành đai 1 vùng thủ đô Seoul đến hướng Guri trên Quốc lộ 43 được kết nối trực tiếp. |
Katharina của Württemberg (tên đầy đủ: "Friederike Katharina Sophie Dorothea"; 21 tháng 2 năm 1783 – 29 tháng 11 năm 1835) còn gọi là Katharine Sophie Friederike Dorothea , là Vương hậu của Westphalia thông qua cuộc hôn nhân với Jérôme Bonaparte, Quốc vương Westphalia từ năm 1807 đến năm 1813.
Katharina sinh vào ngày 21 tháng 2 năm 1783, tại Sankt-Petersburg, Đế quốc Nga, là con của Friedrich I của Württemberg và Auguste Karoline xứ Braunschweig-Wolfenbüttel, chị gái của Caroline xứ Braunschweig-Wolfenbüttel và là cháu gái gọi cậu của George III của Liên hiệp Anh. Mẹ của Katharina đã qua đời khi Vương nữ mới 5 tuổi và sau cái chết của mẹ, cha của Katharina tái hôn với Charlotte Augusta của Liên hiệp Anh, Vương nữ Vương thất, con gái lớn của George III của Liên hiệp Anh và Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz, do đó Charlotte Augusta cũng là em họ của Auguste Karoline và là dì họ của Katharina.
Năm 1803, Württemberg liên minh với Pháp dưới thời Hoàng đế Napoléon I, và một trong những điều khoản của hiệp ước là cuộc hôn nhân giữa Katharina với Jérôme, em trai của Napoléon. Đám cưới được tổ chức bốn năm sau, vào ngày 22 tháng 8 năm 1807, tại Cung điện Vương thất Fontainebleau ở Pháp.
Sau khi kết hôn, Katharina trở thành Vương hậu của Vương quốc Westphalia. Được biết, Katharina và Jérôme có mối quan hệ bền chặt và có một cuộc hôn nhân hạnh phúc và khắng khít với nhau. Tuy nhiên, Jérôme không phải là người chồng chung thủy và có nhiều nhân tình, trong đó có mối quan hệ kéo dài 3 năm với Diana Rabe von Pappenheim, nhưng Katharina lại chọn cách nhắm mắt làm ngơ.
Khi vương quốc Westphalia bị giải thể vào năm 1813, Katharina theo Jérome đến Pháp. Trong chiến tranh, Katharina và Désirée Clary đã trú ẩn cùng Julie Clary tại Mortefontaine, và khi quân đồng minh chiếm Paris, họ trú ẩn tại nhà của Desirée Clary ở thủ đô.
Sau sự sụp đổ của Đế chế Napoléon vào năm 1814, Friedrich I mong con gái sẽ rời khỏi Jérome như Maria Ludovica của Áo đã làm với Napoléon, nhưng thay vào đó Katharina lại theo chồng đi đày đến Trieste ở vùng Ý thuộc Áo.
Trong thời kỳ Triều đại Một trăm ngày năm 1815, Katharina đã giúp Jérome trốn thoát và đoàn tụ Napoléon, và hậu quả là bị trục xuất đến Württemberg và bị quản thúc tại gia. Sau thất bại của Napoléon, Katharina và chồng đều cùng bị quản thúc.
Katharina và Jerome cuối cùng đã được thả ra và cùng nhau trải qua phần đời còn lại ở Trieste và Thụy Sĩ, dưới cái tên Thân vương phi và Thân vương xứ Montfort. Vào tháng 11 năm 1835, Katharina qua đời ở Lausanne, Thụy Sĩ.
Katharina và Jérôme có ba người con:
Tư liệu liên quan tới |
Pauline của Württemberg (tên đầy đủ: "Pauline Olga Helene Emma"; 19 tháng 12 năm 1877 – 7 tháng 5 năm 1965) là người con duy nhất của Wilhelm II của Württemberg và Marie xứ Waldeck và Pyrmont sống đến tuổi trưởng thành. Pauline là vợ của Wilhelm Friedrich, Thân vương xứ Wied, và đã làm việc nhiều năm với tư cách là giám đốc khu vực của Hội chữ thập đỏ Đức ở miền Tây nước Đức.
Những năm đầu đời.
Pauline sinh ra tại Stuttgart thuộc Vương quốc Württemberg, là con gái lớn của Wilhelm II của Württemberg (1848–1921) và Marie xứ Waldeck và Pyrmont (1857–1882). Pauline trở thành người con duy nhất sống qua tuổi trưởng thành của hai người khi em trai Ulrich và em gái chết non đều đã qua đời.
Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Pauline bị truy tố vì tội che giấu, kể từ tháng 10 năm 1945, một cặp đôi quan trọng của Đức Quốc xã bởi tòa án quân sự Hoa Kỳ. Vương nữ đã thú nhận cố tình che giấu Gertrud Scholtz-Klink và chồng là cựu Thiếu tướng SS August Heissmayer. Vương nữ biết Scholtz-Klink là người đứng đầu các tổ chức phụ nữ của Đức Quốc xã nhưng phủ nhận rằng mình biết về tước vị quân đội của Heissmayer.
Pauline được tại ngoại nhưng dự kiến sẽ bị xét xử vào tháng 3 năm 1948. Vương nữ nói rằng mình biết Gettrud Scholtz-Klink trong khoảng thời gian cả hai đều đứng đầu các tổ chức quan trọng dưới thời Đức Quốc xã, Vương nữ khẳng định rằng khi đó bản thân từng là giám đốc của Hội Chữ thập Đỏ Đức của Hessen, Nassau, Rhineland và Westphalia.
Vợ chồng Scholtz-Klink cho người Pháp biết rằng họ đã yêu cầu sự giúp đỡ của Pauline vào năm 1945 và Pauline đã sắp xếp cho họ ở lại Bebenhausen một cách kín đáo, nơi hai vợ chồng bị chính quyền Đồng minh bắt giữ.
Hôn nhân và gia đình.
Pauline kết hôn vào ngày 29 tháng 10 năm 1898 tại Stuttgart với Friedrich I xứ Wied (1872–1945), con trai của Wilhelm I xứ Wied và Marie của Hà Lan, một người phụ nữ cực kỳ giàu có. Anh trai của chồng Pauline là Wilhelm I xứ Albania, và Pauline cũng là chị họ của nữ vương Wilhelmina của Hà Lan.
Hai vợ chồng có 2 người con:
Thông qua con trai Dietrich, Pauline là bà nội của Otto Hermann Maximilien xứ Wied (1929–2008), Ulrich xứ Wied (1931–2010), và Thierry Louis-Eugène xứ Wied (1938–2001). Ulrich kết hôn với Ilke Fischer vào năm 1968 và có con là Ulrich xứ Wied (sinh năm 1970), người kết hôn với Clarissa Elizabeth Makepeace-Massingham (sinh năm 1971) vào năm 2000; và Marie xứ Wied (sinh năm 1973), người kết hôn với Công tước Friedrich xứ Württemberg (1961–2018), con trai cả của Carl xứ Württemberg và là người thừa kế Vương tộc Württemberg vào năm 1993. Công tước Friedrich qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi vào năm 2018 và tang lễ của Friedrich có sự tham dự của Vua Quốc vương Philippe và Vương hậu Mathilde của Bỉ, Thân vương Hans-Adam II xứ Liechtenstein và Phiên địa Bá tước Bernhard xứ Baden (bấy giờ là Thế tử xứ Baden). |
Frances Vorne (30 tháng 5 năm 1920 – 8 tháng 8 năm 1990) là một người mẫu Mỹ. Trong Thế chiến thứ hai, cô được biết đến với cái tên "The Shape".
Vorne lớn lên ở New York. Cô có thể nói và đọc trôi chảy tiếng Nga và tiếng Ukraine. Trong cuốn sách của Brett Kiser, tựa đề "The Pin-Up Girls of World War II", tác giả này đã viết rằng Vorne là một cô gái "đơn giản" và "khiêm tốn" đáng kinh ngạc, chưa bao giờ uống rượu, chưa bao giờ đến câu lạc bộ đêm, và tránh chuyện đi chơi về muộn.
Trong Thế chiến thứ hai, Vorne nổi tiếng với tư cách là người mẫu sắc đẹp (pin-up model). Năm 1944, một người bạn quân nhân của cô trở về nhà sau chiến tranh đã đưa cho cô một mảnh rách ten ben từ một chiếc dù Đức. Nó đủ để làm một "bộ đồ tắm kiệm vải" ("abbreviated bathing suit"). Một bức ảnh chụp Vorne mặc bộ đồ bơi vải dù (parachute-turned-swimsuit) này đã xuất hiện trên các ấn phẩm của Quân đội Mỹ và sau đó được đăng "trong hơn nửa triệu địa điểm được phép ghim đồ vật trong doanh trại và bất cứ nơi nào mà những người lính chiến của chúng ta tình cờ có mặt". Tác giả Brett Kiser đã mô tả tác động của bức ảnh:
Vô số binh lính đã ghim bức ảnh ghim nổi tiếng nhất của Frances ... Bức ảnh không chỉ được cá nhân Frances yêu thích mà còn là một trong những bức ảnh ghim được săn lùng nhiều nhất trong những năm chiến tranh.
Theo một tài khoản do Central Press đăng tải, các phi công Mỹ ở Thái Bình Dương đã lên kế hoạch thả những bức ảnh của Vorne cho lính Nhật với dòng chữ: "Ăn hết tim của chúng bây ... Đây là những gì chúng tao đang chiến đấu". Bức ảnh trở nên nổi tiếng đến mức nó được cho là đã giành được một hợp đồng làm phim cho Vorne. Sau khi bức ảnh xuất hiện trên tờ "Daily Mirror" của London, Bộ Thông tin Anh đã xin phép sử dụng nó để "kích thích tinh thần của Lục quân và Hải quân Anh".
Vào tháng 1 năm 1945, tạp chí "Time" đã viết rằng Vorne "kết thúc năm 1944 với một lời tuyên bố danh dự có lẽ là điều tốt nhất mà các đơn vị chiến đấu tuyệt vọng vượt qua: chiếc vương miện là Cô gái Sắc đẹp của năm" (Pin-Up Girl of the Year).
Năm 1945, Vorne xuất hiện trong "Water Follies of 1945", một buổi biểu diễn nước (water show) tại Nhà hát ngoài trời Flushing Meadow. Theo quảng bá cho chương trình, cô xuất hiện trong "bộ đồ tắm thủy tinh". Nhà báo Earl Wilson đã viết rằng bộ đồ tắm thủy tinh của Vorne "đủ dẻo để bơi vào" và "trong suốt", yêu cầu người dùng phải mặc áo lót và quần lót nhỏ bên dưới kính.
Năm 1946, Vorne xuất hiện trong một bộ phim đặt hàng qua thư có tựa đề "Swim Suit Revue", cô xuất hiện trong cả bộ đồ tắm dù nổi tiếng và bộ đồ "kiểu tã lót". |
Tổng đài Phát thanh Truyền hình Trung ương
Tổng đài Phát thanh Truyền hình Trung ương () còn được gọi là Đài Tiếng nói Trung Quốc, là công ty truyền thông nhà nước về phương tiện phát thanh và truyền hình ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tổng đài được thành lập vào ngày 21 tháng 3 năm 2018, là sự hợp nhất của tất cả các doanh nghiệp truyền thông nhà nước bao gồm Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc, Đài Phát thanh Nhân dân Trung ương và Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc. Tổng đài Phát thanh Truyền hình Trung ương chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tuyên truyền Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Vào ngày 21 tháng 3 năm 2018, Chính phủ Trung Quốc thông báo là Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc, Đài Phát thanh Nhân dân Trung ương và Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc đã chính thức được đổi tên thành Tổng đài Phát thanh Truyền hình Trung ương, sau phiên họp đầu tiên của Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc khóa XIII. Cùng ngày, Thận Hải Hùng chính thức được bổ nhiệm giữ chức Đài trưởng Tổng đài Quảng Điện.
Trong cuộc cải cách đảng và chính phủ năm 2018 ở Trung Quốc, CMG được thành lập để hoạt động như một công ty cổ phần hợp nhất của các dịch vụ phát thanh và truyền hình quốc gia và quốc tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Vào năm 2020, một số tài sản của CMG, đặc biệt là Đài Truyền hình Quốc tế Trung Quốc và Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc, đã được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ định là phái đoàn ngoại giao. |
Rokas Zubovas (sinh ngày 31 tháng 7 năm 1966) là một nghệ sĩ dương cầm người Litva.
Khi còn là sinh viên tại Học viện Âm nhạc Litva, Zubovas đã giành chiến thắng trong cuộc thi Čiurlionis lần thứ VI, ngang điểm với nghệ sĩ piano người Moldova Ina Chatipova. Ông tiếp tục học ở Thụy Sĩ và Hoa Kỳ, và trở thành giáo viên tại Khoa Âm nhạc của Đại học Saint Xavier của Chicago từ năm 1994. 6 năm sau, ông trở về Litva và trở thành giảng viên tại Học viện Âm nhạc Litva. Ông được biết đến với sự cống hiến cho âm nhạc của Mikalojus K. Čiurlionis, ông cố của ông. Trong bộ phim tiểu sử "Laiškai Sofija" (Thư gửi Sofija), ông đã thủ vai Čiurlionis.
Vợ của ông là Sonata Zuboviene, cũng là một nghệ sĩ dương cầm. |
Jake O'Brien (cầu thủ bóng đá)
Jake O'Brien (sinh ngày 15 tháng 5 năm 2001) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ireland hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Lyon tại Ligue 1.
Sinh ra tại Hạt Cork, O'Brien lớn lên ở Youghal, và tuối thơ của anh gắn liền với môn đấm bốc và bóng gậy cong hurling, giành chức vô địch quốc gia ở cấp độ U-14.
Sự nghiệp thi đấu.
O'Brien thi đấu cho câu lạc bộ Cork City trước khi chuyển đến câu lạc bộ Crystal Palace tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh theo dạng cho mượn vào tháng 2 năm 2021, và chuyển đến câu lạc bộ vào tháng 8 năm 2021. Anh ra sân cho đội U-23, bao gồm cả EFL Trophy. Anh chuyển đến Swindon Town theo dạng cho mượn vào tháng 1 năm 2022, ra sân 21 lần.
Cho mượn tại Molenbeek.
Vào tháng 8 năm 2022, O'Brien được cho mượn tại câu lạc bộ RWD Molenbeek, cùng với đồng đội Luke Plange. RWD Molenbeek đủ điều kiện tham gia trận play-off thăng hạng Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ ngay mùa đầu tiên với đội bóng, hơn 1 điểm so với Beveren khi giải chỉ còn 2 trận đấu. O'Brie giành được danh hiệu đầu tiên trong sự nghiệp khi Molenbeek vô địch giải đấu.
Vào tháng 8 năm 2023, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ Lyon tại Ligue 1, ra mắt cho đội bóng trong trận thua 0-2 trước Reims vào ngày 1 tháng 10 năm 2023. Vì vậy, anh trở thành cầu thủ người Ireland đầu tiên thi đấu tại Ligue 1 kể từ năm 2000.
Sự nghiệp quốc tế.
Anh từng đại diện cho Ireland ở cấp độ U-21, ra sân 11 lần từ năm 2021 đến 2022.
"Tính đến 12 tháng 11 năm 2023" |
Chu Văn Chính (chữ Hán: 朱文正 ? - 1360),ông là một nhân vật quân sự cuối thời nhà Nguyên và là thành viên của hoàng tộc nhà Minh. Cha ông là Nam Xương Vương Chu Hưng Long (chữ Hán : 朱興隆; 1344] và là anh trai của Chu Nguyên Chương, và vợ ông, Tạ Thúy Anh, là em gái của vợ Từ Đạt, Tạ Thúy Nga.
Thân thế và sự nghiệp.
Cha của Chu Văn Chính, Chu Hưng Long, là anh cả của Chu Nguyên Chương, ông chết sớm trong nạn đói ở Hoài Bắc vào năm Chí Chính thứ tư (1344). Do nạn đói nghiêm trọng, vợ của Chu Hưng Long là Vương rời bỏ gia đình đi cùng với con trai Chu Văn Chính, sau đó bà được biết em trai của chồng mình là Chu Nguyên Chương đã gia nhập Quân Khăn Đỏ và dẫn quân đánh chiếm Trừ Châu nên hai mẹ con lên đường để tìm nơi ẩn náu với Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương nuôi Chu Văn Chính như con ruột của mình, vì Chu Văn Chính dũng cảm và giỏi chiến đấu nên đã cùng quân vượt sông và bắt được Kim Lăng. Sau khi được thăng chức vì nhiều lần lập công trong quân sự, Chu Nguyên Chương hỏi: "Cháu muốn làm quan chức gì?" Văn Chính trả lời: "Chú tôi đã có thành tựu lớn như vậy, há tôi không vinh hiển. Làm sao có thể phục chúng khi ban chức tước cho thân tộc trước !" Chu Nguyên Chương khi nghe điều này rất vui và càng yêu cháu mình hơn.
Năm Chí Chính thứ 23 (1363), khi Chu Nguyên Chương còn là Ngô Vương, ông bổ nhiệm Chu Văn Chính làm Đô đốc tổng lĩnh quân sự trong và ngoài nước. Sau đó Giang Tây được thành lập, Hồng Đô (nay là Nam Xương) trấn thủ, phía tây nam Bình Hàn, không có quan đại thần nào không có xương bằng thịt có thể canh giữ được. Trần Hữu Lượng dẫn 60 vạn quân đến bao vây Hồng Đô nhằm mục đích chiếm được vì Hồng Đô làm bàn đạp chiếm Ứng Thiên Phủ (tức Kim Lăng). Chu Văn Chính đã đẩy lui nhiều đợt tiến công của Trần Hữu Lượng và cầm cự được 85 ngày cho đến khi Chu Nguyên Chương đích thân dẫn quân đến giúp đỡ, Trần Hữu Lượng mới rút lui về hồ Bà Dương để đối đầu với Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương cũng cắt đứt nguồn vận lương cho Trần Hữu Lượng, và Hữu Lượng bị đánh bại. Sau đó Hà Văn Huy và những tướng khác được cử đi tấn công nơi khác.
Chu Văn Chính đã giành được công lớn khi bảo vệ được Giang Tây. Tuy nhiên sau khi Chu Nguyên Chương trở về kinh đô, ông đã hào phóng ban thưởng cho Thường Ngộ Xuân, Liêu Vĩnh Trung và các quan chức khác bằng vàng và lụa. Chu Văn Chính có công nhưng không được khen thưởng, tức giận mất bình tĩnh, sai tướng lĩnh đi cướp vợ con. Lý Nhân Băng được điều đến điều tra sự việc và phát hiện sự kiêu ngạo ngông cuồng của Chu Văn Chính dẫn đến Chu Nguyên Chương đã cử sứ giả đến trách mắng. Chu Văn Chính sợ hãi, và Lý Nhân Băng mật báo rằng Chu Văn Chính có ý định khác.
Chu Nguyên Chương lập tức đi thuyền vào phủ và triệu Chu Văn Chính đến. Chu Văn Chính vội vàng chạy ra đón, Chu Nguyên Chương mấy lần nói: "Ngươi định làm gì?" Sau đó áp giải Văn Chính về Kim Lăng, Mã hoàng hậu thuyết phục nói: "Đứa trẻ này chỉ có cá tính mạnh mẽ thôi, không có gì khác. " Ông bị cách chức và quản thúc tại gia ở Đồng Thành. Không lâu sau, ông qua đời.
Vào năm Hồng Vũ thứ ba (1370), Chu Nguyên Chương phong cho Chu Thủ Khiêm, con trai 8 tuổi của Chu Văn Chính, Tĩnh Giang Vương, ấp phong về Quế Lâm; ông là vị vua chư hầu duy nhất của nhà Minh không phải là một hậu duệ của Chu Nguyên Chương. |
Viêm xoang khí áp
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Viêm xoang khí áp hay còn gọi là chấn thương khí áp ở xoang hoặc nén xoang là tình trạng viêm đau và đôi khi chảy máu màng của các khoang xoang cạnh mũi, thường là xoang trán. Nguyên nhân là do sự chênh lệch áp suất không khí bên trong và bên ngoài khoang.
Thông thường, chấn thương khí áp xoang là do nhiễm trùng đường hô hấp trên hoặc do dị ứng. Người bị ảnh hưởng sẽ cảm thấy đau mặt hoặc đau đầu đột ngột dữ dội khi máy bay hạ cánh. Nếu chênh lệch áp suất giữa xoang và môi trường xung quanh không được cân bằng, cơn đau có thể trở nên nghiêm trọng và gây mất khả năng vận động.
Sự chênh lệch áp suất làm cho niêm mạc xoang bị sưng lên và chảy máu dưới niêm mạc dẫn đến khó khăn hơn trong việc thông khí cho xoang, đặc biệt nếu các lỗ này bị tổn thương. Sau cùng, chất lỏng hoặc máu sẽ lấp đầy khoảng trống.
Trong hầu hết các trường hợp chấn thương khí áp xoang, đau khu trú ở vùng trán là triệu chứng nổi bật. Lý giải là do cơn đau bắt nguồn từ xoang trán, nằm phía trên xương trán. Ít gặp hơn là đau lan đến vùng thái dương, chẩm hoặc vùng sau nhãn cầu. Chảy máu cam hoặc tiết dịch huyết thanh từ mũi có thể xảy ra. Các triệu chứng thần kinh có thể ảnh hưởng đến dây thần kinh sọ thứ năm lân cận và đặc biệt là dây thần kinh dưới ổ mắt.
Bệnh lý của chấn thương khí áp xoang liên quan trực tiếp đến định luật Boyle, rằng thể tích của một khối khí tỷ lệ nghịch với áp suất tác dụng lên nó, khi nhiệt độ là không đổi: formula_1 .
Hai loại chấn thương khí áp cấp tính được quan sát thấy đó là: nén và nén ngược.
Thợ lặn, phi công và người đi máy bay có nguy cơ cao bị chấn thương khí áp xoang do sự thay đổi nhanh chóng về áp suất mà họ gặp phải. Chấn thương khí áp xoang tương đối dễ chẩn đoán khi nó được trình bày cho bác sĩ ngay sau khi tiếp xúc với những thay đổi áp suất môi trường. Tuy nhiên, chấn thương khí áp xoang có thể khó chẩn đoán hơn nếu bệnh nhân không cung cấp tiền sử tiếp xúc với những thay đổi áp suất môi trường. Ví dụ, nếu một bệnh nhân có biểu hiện đau mặt và nghẹt mũi nhưng không đề cập đến việc gần đây họ đã lặn biển hoặc đi máy bay, bác sĩ có thể không coi chấn thương khí áp xoang là một chẩn đoán có thể xảy ra. Ngoài ra, nếu bác sĩ tập trung vào các nguyên nhân có thể khác gây ra các triệu chứng của bệnh nhân, chẳng hạn như dị ứng hoặc nhiễm trùng xoang, họ có thể bỏ qua khả năng chấn thương khí áp xoang.
Weissman xác định ba cấp độ chấn thương khí áp xoang theo triệu chứng học:
Trong những trường hợp nhẹ, chấn thương khí áp xoang có thể được điều trị tại chỗ bằng thuốc thông mũi và thuốc giảm đau. Tuy nhiên, trong những trường hợp nặng hoặc những trường hợp không đáp ứng với điều trị tại chỗ, phẫu thuật nội soi mũi xoang () có thể cần thiết. Phương pháp điều trị này đã cho thấy kết quả tốt ở những phi công bị chấn thương khí áp xoang tái phát. Phẫu thuật có sự hỗ trợ của máy tính (CAS) là một kỹ thuật mới hơn có thể được sử dụng để hỗ trợ lập kế hoạch và thực hiện FESS. CAS sử dụng máy tính để tạo ra mô hình ba chiều về hệ thống xoang của bệnh nhân. Nhìn chung, FESS và CAS là những phương pháp điều trị hiệu quả cho chấn thương khí áp xoang. Các phương thức này có thể giúp cải thiện việc hút nghẹt và thông khí cho xoang, đồng thời cũng có thể làm giảm nguy cơ biến chứng.
Viêm xoang khí áp đã được biết đến từ thời kỳ đầu phát triển của y học hàng không. Tuy nhiên, trong Thế chiến thứ hai, vấn đề này lần đầu tiên nhận được sự quan tâm nghiêm túc và sinh bệnh học của căn bệnh này được hiểu là do tiếp xúc với các chuyến bay ở độ cao lớn. Sự thay đổi độ cao nhanh chóng kèm theo những thay đổi về áp suất xung quanh khiến phi hành đoàn phải đối mặt với số đợt chấn thương khí áp xoang ngày càng tăng. |
Trung tâm Văn hóa Thâm Quyến
Trung tâm Văn hóa Thâm Quyến bao gồm Phòng Hòa nhạc Thâm Quyến và Thư viện Thâm Quyến và tọa lạc ở quận Phúc Điền, thành phố Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Công trình này do kiến trúc sư người Nhật Isozaki Arata thiết kế. Phòng hòa nhạc kiểu vườn nho có sức chứa 1800 người và được khai trương vào năm 2007.
Trung tâm này nằm liền kề với thư viện Thâm Quyến và gần Trung tâm Hành chính Thâm Quyến và ga tàu điện ngầm tuyến số 3 Cung Thiếu nhi (少年宫). Đây là một trong hai địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc chính ở Thâm Quyến, địa điểm còn lại là Trung tâm Văn hóa Nam Sơn ().
Lễ hội Âm nhạc Quốc tế Vành đai và Con đường đã được khai mạc tại phòng hòa nhạc Thâm Quyến vào năm 2019. Trong lễ hội âm nhạc kéo dài ba tuần, một số buổi hòa nhạc đã được tổ chức quanh thành phố, bao gồm cả tại phòng hòa nhạc này.
Các phòng hòa nhạc khác ở Thâm Quyến bao gồm Nhà hát Bảo Lợi Thâm Quyến (Nam Sơn) (). |
Phòng Hòa nhạc Thâm Quyến
Phòng Hòa nhạc Thâm Quyến là phòng hòa nhạc ở quận Phúc Điền, thành phố Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Chính quyền thành phố Thâm Quyến đã tài trợ cho công trình này. Gần 160.000 người đã tham dự buổi biểu diễn ở đó vào năm 2017.
Isozaki Arata và Associated đã xây dựng công trình này vào năm 2008. |
Thảm sát Kfar Aza
Ngày 07 tháng 10 năm 2023, khoảng 70 chiến binh của lực lượng Hamas tràn vào và tấn công vùng Kfar Aza, một kibbutz của Israel cách dải Gaza khoảng 3 km, giết hại hàng loạt người dân vô tội và bắt cóc nhiều người đưa về Gaza làm con tin.
Trước khi bị tấn công, Kfar Aza có dân số vào khoảng 400, và phải mất tới hai tuần sau đó thì lực lượng phòng vệ Israel mới tải kiểm soát được vùng này.
Vụ thảm sát quy mô lớn này bị lên án bởi sự tàn bạo của bên thực hiện, khi đã thực hiện giết hại dân thường theo những cách dã man như chặt đầu, phanh thây, và thiêu sống. Một vài nguồn tin từ Israel cho biết họ cũng đã tìm thấy xác các trẻ em bị phanh thây.
Sáng 07 tháng 10 năm 2023, khoảng 70 tay súng vũ trang của Hamas phá hàng rào và đột nhập Kfar Aza. Sau khi tràn vào, bắt đầu tại một điểm cách dải Gaza khoảng 3 km, các tay súng này bắt đầu nổ súng bắn thẳng vào thường dân Kfar Aza. Trong số nhiều gia đình và trẻ em ở khu vực này, 52 người đã bị giết hại.
Sau khi giết hại toàn bộ lực lượng dân quân Kfar Aza nhờ lợi thế áp đảo về số lượng, Hamas mở rộng cuộc tấn công qua tất cả các hướng. Những tay súng này tràn vào nhà dân thường, giết hết tất cả những ai có trong nhà, sau đó đốt luôn nhà họ. Khi lực lượng Israel tìm tới, họ phát hiện ra những xác người may mắn không bị thiêu thì hai tay cũng bị trói chặt.
Sau đó, trước khi rút lui, các tay súng Hamas đã bắt cóc nhiều người về Gaza làm con tin. Trong số con tin này có cả phụ nữ, trẻ em, và người cao tuổi.
Tướng Israel Itai Veruv lên án vụ thảm sát, coi đây là một hành động khủng bố.
Sau cuộc tấn công, Nhóm đổ bộ hàng không của Đơn vị đặc nhiệm 71 của Israel đã được điều động tới đánh trả và tái chiếm Kfar Aza.
Ba ngày sau, ngày 10 tháng 10 năm 2023, báo chí được tiếp cận và đưa tin hiện trường. Hamas sau đó cũng tung ra video của cuộc tấn công.
Thiệt hại về nhân mạng.
Theo BBC, đa số nạn nhân đều chết ngay trong giờ đầu tiên của vụ tấn công. Cho tới ngày 10 tháng 10 năm 2023, những người lính Israel vẫn còn tiếp tục tìm kiếm các phần xác nạn nhân trong khu vực. Một người lính tại hiện trường cho biết anh thấy những xác người bị chặt đầu, nhiều xác khác bị phanh thây hoặc bị thiêu cháy, trong đó có cả xác trẻ em.
Các cáo buộc về việc chặt đầu.
Báo i24NEWS đã phỏng vấn một thành viên của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) nằm trong đội cứu hộ. Anh cho biết bản thân cùng đồng đội đã tìm thấy xác của 40 trẻ em, một vài trong số đó không còn đầu. Sau đó, kênh CBS News đã phỏng vấn ông Yossi Landau, quản lý cấp cao của tổ chức cứu hộ khẩn cấp ZAKA, ông cho hay rằng cả xác trẻ sơ sinh và xác trẻ em đều được tìm thấy, bên cạnh của những xác người trưởng thành đã bị phanh thây. Ông cũng xác nhận với báo Sky News rằng 80% các thi thể tại Kfar Aza và Be'eri có dấu hiệu cho thấy các nạn nhân bị tra tấn trước khi bị giết hại.
Người phát ngôn của thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu sau đó đưa ra tuyên bố cho thấy có trẻ sơ sinh bị chặt đầu, sau đó tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden cũng đã xác nhận với báo chí rằng ông đã nhìn thấy các bằng chứng từ hình chụp hiện trường. Tuy nhiên, ngay sau đó Nhà Trắng xác nhận lại là những hình ảnh mà tổng thống Biden đã thấy là hình ảnh từ báo chí, và từ phát ngôn của thủ tướng Israel Netanyahu.
Lực lượng phòng vệ Israel thông tin với báo Business Insider rằng họ sẽ dừng các hoạt động điều tra, để thể hiện sự tôn trọng với những người đã khuất. Sau đó, văn phòng của thủ tướng Netanyahu công khai các hình ảnh của thi thể trẻ sơ sinh. Các nhà điều tra tội phạm nói họ đã thấy các bằng chứng rõ ràng cho thấy dân thường bị chặt đầu, tuy nhiên rất khó để xác minh được là Hamas chặt đầu các nạn nhân trước hay sau khi giết hại họ, và rằng cũng có khả năng là việc thi thể bị mất đầu là do bị mảnh văng cắt khi bị các tay súng Hamas bắn bằng súng phóng lựu.
Nạn nhân sống sót.
Ông Ziv Stahl, chủ tịch tổ chức nhân quyền Yesh Din, cũng là một nạn nhân trong cuộc thảm sát, đã kêu gọi không thực hiện trả đũa qua một bài viết trên trang Haaretz, với lập luận rằng "Việc đánh bom Gaza mà không phân biệt mục tiêu quân sự với những thường dân không liên quan tới những tội ác này không thể nào là một giải pháp hợp lý".
Một người khác sống sót sau cuộc thảm sát là Avidor Schwartzman kể lại về việc anh cùng vợ và con gái một tuổi đã ẩn náu trong phòng an toàn trong suốt hơn 20 tiếng cho tới khi được những người lính Israel cứu."Thân xác la liệt khắp nơi. Xác chết khắp mọi nơi. Chúng tôi thấy mảnh đất thiên đường bé nhỏ của chúng tôi bị đốt phá – bị thiêu rụi và máu loang khắp nơi." |
Số, ký hiệu hoặc chữ viết tắt của tuyến đường là ký hiệu nhận dạng bằng số (hoặc chữ và số) được cơ quan quản lý đường cao tốc gán cho một đoạn đường cụ thể để phân biệt với các tuyến đường khác và, trong nhiều trường hợp, cũng để biểu thị phân loại của nó (ví dụ: đường cao tốc, tuyến đường chính, đường khu vực, ), vị trí địa lý chung (trong hệ thống đánh số vùng) và/hoặc hướng (bắc-nam v. đông-tây). Các số được chọn chỉ có thể được sử dụng cho mục đích quản trị nội bộ; tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, chúng cũng được hiển thị trên biển báo bên đường và được chỉ định trên bản đồ.
Chữ cái thường được sử dụng trong ký hiệu đường để biểu thị loại đường. Trong lớp như vậy, các đường được phân biệt với nhau bằng số đường. Cách sử dụng những kí tự như vậy tùy thuộc vào quốc gia hoặc khu vực pháp lý chính trị khác có chứa và kiểm soát con đường. Ví dụ: trong số các đường cao tốc A1, đường ở Tây Ban Nha có dấu gạch nối giữa A và 1 (Autovia A-1) trong khi ở Đức, Autobahn 1 được viết là A 1, với khoảng cách giữa A và 1. Ở Argentina có là các số 0 giữa A và 1 (Autopista A001).
Chữ viết tắt đơn.
"A" có thể có nghĩa là "đường cao tốc" ở một số quốc gia (ví dụ: Autoroute ở Pháp hoặc Autostrada ở Ý hay Autobahn ở Đức), thường là đường lớn nhất và chất lượng cao nhất trong nước. Chúng cũng được sử dụng cho các con đường chính ở Vương quốc Anh. Nó cũng có nghĩa là con đường có ý nghĩa quốc gia ở Úc và Vương quốc Anh.
"B" ở Vương quốc Anh là đường phân phối có mật độ giao thông thấp hơn đường trục chính hoặc đường A. Ở một số bang của Úc, đường B là đường có tầm quan trọng cấp bang.
"C" có thể có nghĩa là quận ở Hoa Kỳ và có nghĩa là tuyến đường kết nối hai địa điểm ở Victoria, Tasmania hoặc Lãnh thổ Bắc Úc.
"D" có thể có nghĩa là "départementale" ở Pháp hoặc "dálnice" ở Séc và "diaľnica" ở Slovakia (=đường dài, dálka=đường dài).
"E" có thể có nghĩa là đường "Châu Âu" hoặc "Đường cao tốc" ở Zimbabwe.
"G" có thể được sử dụng cho quốc lộ hoặc đường cao tốc ở Trung Quốc.
"H" có thể có nghĩa là "Xa lộ Hawaii" ở Hoa Kỳ.
"I" có thể có nghĩa là "Liên bang" ở Hoa Kỳ.
"K" có thể được sử dụng cho đường cao tốc tiểu bang ở Kansas ở Hoa Kỳ hoặc Kreissstraße ở Đức.
"L" có thể có nghĩa là tuyến đường "địa phương" ở Ireland hoặc Landesstraße ở Đức.
"M" được sử dụng cho đường cao tốc ở Vương quốc Anh, Ireland và Úc, các tuyến đường đô thị ở Nam Phi, đường đô thị ở Bồ Đào Nha và cũng được sử dụng cho đường cao tốc tiểu bang ở Michigan, Hoa Kỳ.
"N" có thể có nghĩa là đường "quốc gia" hoặc đường cao tốc tiểu bang ở Nebraska.
"O" có thể có nghĩa là "Otoyol" ở Thổ Nhĩ Kỳ.
"R" có thể có nghĩa là tuyến đường "khu vực" ở Nam Phi, Ireland, Bồ Đào Nha và Ukraina hoặc đường vành đai, "rychlostní silniceů ở Séc hoặc "rýchlostná cesta" ở Slovakia ("rychlost" = vận tốc).
"S" có thể có nghĩa là đường cao tốc ở Áo ("Schnellstraße") và Ba Lan ("droga ekspresowa") hoặc "Shengdao/Tỉnh lộ" ở Trung Quốc.
"T" ở Malaysia là đường ở Terrengganu; ở một số vùng của Hoa Kỳ, là đường thị trấn; Ở Estonia, T là tiền tố chính thức cho các tuyến đường quốc gia; đường "lãnh thổ" ở Ukraina; ở Ý được sử dụng cho các đường hầm (traforo) khi được phân loại riêng, như Đường hầm Great St Bernard.
"U" có thể có nghĩa là đường "chưa được phân loại"; cũng được sử dụng trên các tuyến đường ở bang Utah ở Hoa Kỳ.
"X" có thể có nghĩa là "Xiandao/Xa lộ quận" ở Trung Quốc.
"Y" có thể có nghĩa là "Xiangdao/Xa lộ thị trấn" ở Trung Quốc.
Nhiều chữ cái viết tắt.
AP: Autopista de peaje (đường cao tốc có thu phí) ở Tây Ban Nha.
BAB: Bundesautobahn (đường cao tốc liên bang) ở Đức, chỉ dùng trong văn bản, thông thường là A.
BR: Đường cao tốc liên bang Brasil.
CH/CR: Quốc lộ, Tuyến đường hoặc Đường bộ của Quận ở Hoa Kỳ hoặc Canada và các quốc gia khác.
CT: cao tốc (cao tốc) ở Việt Nam.
DJ: trống județean (đường quận) ở Romania.
DK: droga krajowa (quốc lộ) ở Ba Lan.
DN: Drum național (quốc lộ) ở Romania.
DW: droga wojewódzka (tỉnh lộ/tỉnh lộ) ở Ba Lan.
Fv: Fylkesvei (đường quận) ở Na Uy.
IC: Itinerário bổ sung (tuyến bổ sung) ở Bồ Đào Nha.
NH: Được dùng để chỉ mạng lưới Quốc lộ ở Ấn Độ. Cũng được sử dụng để chỉ đường cao tốc tiểu bang ở bang New Hampshire của Hoa Kỳ.
SH/SR: Quốc lộ, Tuyến đường hoặc Đường bộ ở New Zealand hoặc Hoa Kỳ.
TH/TR: Đường cao tốc, tuyến đường hoặc đường bộ thị trấn ở Hoa Kỳ.
US: Đường cao tốc được đánh số ở Hoa Kỳ.
USBR: Tuyến đường xe đạp Hoa Kỳ.
Tiền tố số La Mã.
I: đường cấp 1 ở Séc và Slovakia (đường nhà nước), đường cấp 1 ở Bulgaria.
II: đường hạng hai ở Séc và Slovakia (đường khu vực), đường hạng hai ở Bulgaria.
III: Đường cấp ba ở Séc và Slovakia (đường huyện, thuộc sở hữu của các vùng), đường cấp ba ở Bulgaria.
Trong khi ở Séc và Slovakia, số La Mã được theo sau bởi dấu gạch chéo, thì Bulgaria sử dụng dấu gạch nối.
Hệ thống đường bộ.
Tùy thuộc vào quốc gia, chữ cái được gán cho một con đường có thể là một phần của hệ thống phân loại đường, là cách viết tắt của một loại đường, đặc biệt là bằng tiếng nước ngoài hoặc đề cập đến hệ thống phân vùng địa lý, chẳng hạn như Hệ thống Đường cao tốc Phát triển Appalachian, hệ thống đường cao tốc quận của California, Iowa và Michigan ở Hoa Kỳ.
Hệ thống quốc tế.
AH trong Mạng lưới Đường cao tốc Châu Á.
CA-: đường cao tốc một phần của mạng lưới đường cao tốc Trung Mỹ.
E trong mạng lưới đường bộ quốc tế ở châu Âu.
EV: các tuyến đi xe đạp đường dài trong mạng lưới EuroVelo của Châu Âu.
TAH: đường cao tốc là một phần của mạng lưới đường cao tốc xuyên châu Phi.
Vương quốc Anh có hai phương án đánh số đường, một cho Vương quốc Anh và một cho Bắc Ireland. Cả hai sơ đồ đều tuân theo các nguyên tắc giống nhau, nhưng các con số độc lập và cùng một số đường có thể trùng lặp giữa hai sơ đồ.#đổi
Đường A, B, không đánh số và không phân loại.
Tại Vương quốc Anh, số đường bao gồm một số có tối đa 4 chữ số, bắt đầu bằng các chữ cái A hoặc B. Con đường chính từ Luân Đôn đến Edinburgh được chỉ định là A1 vào năm 1921; chữ "A" biểu thị đường "trục" hoặc đường "chính" giữa các thị trấn và thành phố trong vùng. Ở Vương quốc Anh, các đường A1, A2, A3, A4, A5 và A6 tỏa ra từ Luân Đôn hoặc gần đó (theo chiều kim đồng hồ) đến các điểm xung quanh bờ biển. Một số đường A hoặc các đoạn của đường A là đường đôi, không phải đường cao tốc hoàn chỉnh; một số đoạn được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường cao tốc được ký hiệu theo mẫu A1(M). Đường B là đường nhỏ; chúng có thể kết nối các thị trấn và làng mạc nhỏ hoặc cung cấp một tuyến đường thay thế cho các con đường lớn. Đường không được phân loại, không được đánh số, được gọi không chính thức là đường C, là những con đường nhỏ hơn thường nối đường chưa được phân loại với đường A và B. Đường không được phân loại là đường dành cho giao thông địa phương; 60% đường ở Vương quốc Anh chưa được phân loại, và 200.000 dặm đường B, không được đánh số và chưa được phân loại chiếm 87% tổng chiều dài đường ở Vương quốc Anh.
Tất cả các con đường được phân loại ở Anh và xứ Wales bắt đầu trong vùng giữa A1 và A2 đều bắt đầu bằng hình 1 (ví dụ: A137, B1412), , A8 và A9 tỏa ra từ Edinburgh. Các khu vực không được sử dụng ở Bắc Ireland.
Đường cao tốc được phân loại là "đường đặc biệt" và được đánh số theo cách tương tự nhưng không giống hệt nhau. Đường cao tốc là loại M hoặc loại nâng cấp từ đường A, loại A(M). Đường cao tốc loại M được dán nhãn dưới dạng Mx, là loại đường cao tốc cao hơn và đường A(M) được dán nhãn dưới dạng Ax(M), trong đó x là tên gọi của đường, tùy thuộc vào khu vực. Ví dụ: M25 là Đường cao tốc vành đai Luân Đôn và A1(M) là đường đôi A1 được nâng cấp.
Một hệ thống tương tự được sử dụng ở nhiều nước châu Âu khác (ví dụ: Tây Ban Nha và Bỉ).
Tại Hoa Kỳ, đường cao tốc được đánh số thuộc về một trong ba hệ thống tuyến đường được đánh số trở lên, tùy thuộc vào tiểu bang. Có hai hệ thống đánh số tuyến đường cấp quốc gia, Hệ thống Quốc lộ Hoa Kỳ cũ hơn được đưa ra vào những năm 1920 và Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang mới hơn bắt đầu vào những năm 1950. Ngoài ra, mỗi tiểu bang ở Hoa Kỳ đều duy trì một bộ đường cao tốc được đánh số riêng. Một số bang còn có các hệ thống khác, hệ thống đường cao tốc quận được đánh số hoặc đường cao tốc cấp tiểu bang. Một số thành phố cũng có đường cao tốc được đánh số; ví dụ: thành phố Charlotte, North Carolina, duy trì Tuyến đường Charlotte 4.
Hệ thống Xa lộ Hoa Kỳ, được biểu thị bằng banner màu trắng với các số màu đen, dựa trên lưới đánh số, với các tuyến đường lẻ thường chạy theo hướng bắc-nam và các tuyến đường chẵn chạy theo hướng đông-tây. Các tuyến đường chính có số có một hoặc hai chữ số và được bổ sung bởi các tuyến đường thúc đẩy thêm chữ số hàng trăm vào tuyến đường chính của chúng. Các tuyến đường tăng dần từ đông sang tây và từ bắc xuống nam, chẳng hạn như Quốc lộ Hoa Kỳ 1 đi theo đường rơi của Bờ biển Đại Tây Dương, trong khi Quốc lộ Hoa Kỳ 101 cũng đi theo đường bờ biển Thái Bình Dương. Tương tự như vậy, Quốc lộ 2 của Hoa Kỳ chạy gần biên giới Canada, trong khi Quốc lộ Hoa Kỳ 98 chạy dọc theo Bờ biển vùng Vịnh. Các tuyến đường xuyên quốc gia chính kết thúc bằng số "1" hoặc "0". Ví dụ: Quốc lộ Hoa Kỳ 20 là tuyến đường chạy dài hơn 3.000 dặm (4.800 km) từ Boston, Massachusetts đến Newport, Oregon, trong khi Quốc lộ Hoa Kỳ 41 trải dài khắp đất nước từ Miami, Florida đến Bán đảo Thượng Michigan. Các tuyến đường như Quốc lộ Hoa Kỳ 141 và Quốc lộ Hoa Kỳ 441 tách ra khỏi Quốc lộ Hoa Kỳ 41. Tuyến đường Hoa Kỳ 66, được gọi là "Con đường Mẹ", là một tiêu chuẩn văn hóa đã truyền cảm hứng cho văn học, bài hát và các phương tiện truyền thông khác từ khi nó được thành lập vào năm 1926 cho đến khi nó bị thay thế bởi các đoạn của Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang. Các phần của con đường đã được chỉ định là "Tuyến đường lịch sử 66".
Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang, được biểu thị bằng banner màu đỏ và xanh lam với các số màu trắng, là một hệ thống gồm toàn đường cao tốc (không giống như Hệ thống Xa lộ Hoa Kỳ, chủ yếu là các con đường không có dải phân cách). Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang cũng dựa trên một mạng lưới, với các tuyến đường đông-tây mang số chẵn và các tuyến đường bắc-nam mang số lẻ. Tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn với Hệ thống Xa lộ Hoa Kỳ trước đây, các Xa lộ Liên tiểu bang được đánh số theo hướng ngược lại, sao cho số tuyến đường thấp nhất là ở phía nam và phía tây, còn số cao nhất là ở phía bắc và phía đông. Các tuyến đường chính kết thúc bằng số "0" hoặc "5"; ví dụ, Xa lộ Liên tiểu bang 10 trải dài khắp đất nước từ Jacksonville, Florida đến Santa Monica, California, trong khi Xa lộ Liên tiểu bang 35 đi từ biên giới Mexico đến Ngũ Hồ. Giống như Xa lộ Hoa Kỳ, các tuyến đường phụ được đánh số bằng cách thêm chữ số hàng trăm vào tuyến đường chính. Do số lượng lớn các tuyến đường này, các số có ba chữ số có thể được lặp lại trong hệ thống, nhưng là duy nhất cho mỗi trạng thái. Ngoài ra, tính chẵn lẻ của chữ số hàng trăm cho biết bản chất của tuyến đường nhánh: các chữ số hàng trăm lẻ như Xa lộ Liên tiểu bang 393 chỉ kết nối với hệ thống ở một đầu (tạo thành "các đoạn đường gai"), trong khi chữ số hàng trăm chẵn như Xa lộ Liên tiểu bang 440 biểu thị rằng đường cao tốc kết nối đến một Xa lộ Liên tiểu bang khác ở cả hai đầu (tạo thành các đường vòng).
Hệ thống đánh số đường cao tốc của các bang rất khác nhau giữa các bang. Mỗi tiểu bang quyết định cách đánh số các tuyến đường riêng của mình. Một số duy trì các hệ thống tương tự như hệ thống quốc lộ, dựa trên mạng lưới. Những con số khác đánh số đường cao tốc theo khu vực, với số lượng tương tự xảy ra trong cùng khu vực của bang. Vẫn còn những bang khác không có hệ thống rõ ràng, không có kết nối giữa vị trí của tuyến đường và số của nó.
Ngoài số, số tuyến đường còn sử dụng các chữ cái có hậu tố và biểu ngữ gắn ở đầu biển báo để chỉ ra các tuyến đường thay thế đến đường cao tốc chính. Ví dụ: Quốc lộ Hoa Kỳ 1A là tên được đặt cho nhiều đường cao tốc là các tuyến đường cũ hơn của Quốc lộ Hoa Kỳ 1 hoặc cung cấp tuyến đường thay thế xung quanh hoặc xuyên qua một thành phố dọc theo tuyến đường của Quốc lộ Hoa Kỳ 1. Banner đôi khi được sử dụng để chỉ ra các tuyến đường thay thế. Những từ như "Alternate" (tuyến thay thế), "Business" (xa lộ thương mại) hoặc "Bypass" (đuờng tránh) có thể được thêm vào biển báo để biểu thị tình huống như vậy.
Hệ thống QL, TL, HL Việt Nam.
Các chữ viết tắt sau đây xuất hiện trên biển chỉ dẫn và cột km:
cao tốc (đường cao tốc)
tỉnh lộ hoặc đường tỉnh
hương lộ hoặc huyện lộ
Hệ thống đánh số đường (tiếng Anh), bao trùm hầu hết các quốc gia
Giải thích số đường của Anh (tiếng Anh)#đổi |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Shamrock Shake là một loại sữa lắc với hương vị bạc hà được bán ra tại một số nhà hàng McDonald's ở Hoa Kỳ, Canada và Cộng hòa Ireland vào tháng 3, nhân dịp kỷ niệm Ngày thánh Patriciô.
Nguồn gốc xuất xứ.
Shamrock Shake được giới thiệu lần đầu vào năm 1970. Rogers Merchandising ở Chicago đã tạo nên sự rung chuyển cho thức uống này. Ban đầu, nó có hương vị chanh xanh/chanh vàng với kem vani, nước quả chanh xanh/chanh vàng và xi-rô vani. Đến năm 1973, món sữa lắc này chỉ đơn thuần là sinh tố vani có màu xanh lá cây, loại bỏ nước quả chanh xanh hoặc vàng. Ngày nay, nó có hương vị bạc hà.
Shamrock Shake cũng được bán tại một số cửa hàng ở Mỹ, Canada và Ireland trong tháng 2 và tháng 3.
Trong những năm 1980, McDonald's đã sử dụng nhân vật Uncle O'Grimacey (họ hàng của Grimace) để quảng bá Shamrock Shake. McDonald's kể từ đó đã loại bỏ nhân vật đó khỏi dòng linh vật của họ.
Năm 1980, McDonald's giới thiệu Shamrock Sundae bao gồm kem vani phủ xi-rô Shamrock màu xanh bạc hà. Sản phẩm đã bị ngừng sản xuất sau một năm do doanh thu thấp. |
Trần Đạo Minh (tiếng Trung: 陈道明; Phiên âm: "Chén Dào Míng"; sinh ngày 26 tháng 4 năm 1955) là một nam diễn viên người Trung Quốc, ông từng xuất hiện trong nhiều tác phẩm nổi bật bao gồm cả phim điện ảnh và phim truyền hình.
Trần Đạo Minh đã tốt nghiệp Học viện Hý kịch Trung ương tại Trung Hoa đại lục. Vai diễn đáng chú ý đầu tiên của ông là Thanh Tốn Đế Ái Tân Giác La Phổ Nghi (ông vua cuối cùng của Trung Hoa) trong bộ phim truyền hình năm 1984 "Mạt Đại Hoàng Đế" (末代皇帝).
Năm 1990, ông đóng vai chính trong bộ phim "Vi Thành" (围城) của CCTV, một bộ phim thu hút sự chú ý của cả nước vào năm 1990 và khẳng định vị thế của Trần Đạo Minh là một trong những diễn viên nổi tiếng nhất Trung Quốc.
Năm 2000, ông được trao giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và giải Kim Kê cho vai diễn trong bộ phim lịch sử "Ngã Đích 1919" (我的1919) của Hoàng Kiến Trung, kể về việc ký kết Hiệp ước Versailles.
Trần Đạo Minh được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới với vai diễn Tần vương Chính (sau này trở thành Tần Thủy Hoàng) trong bộ phim Anh hùng năm 2002, do Trương Nghệ Mưu đạo diễn; cũng như vai người thám tử cảnh sát chìm cứng cỏi trong "Vô Gian Đạo III" (无间道III).
Năm 2014, Trần Đạo Minh đóng vai chính trong bộ phim "Quy Lai" (归来) của Trương Nghệ Mưu cùng với Củng Lợi.
Năm 1982, Trần Đạo Minh kết hôn với Đỗ Hiến, cựu phát thanh viên của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc, người bị buộc phải từ chức vì bày tỏ sự cảm thông (mặc đồ đen và nói chậm) khi cô đưa tin về cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn vào ngày 4 tháng 6 năm 1989. Con gái của hai người, Trần Cách, sinh năm 1985. |
Minh Tiến (nghệ sĩ)
Minh Tiến (1932 - 30 tháng 9, 2006), tên khai sinh là Đỗ Vĩnh Tiến là một biên đạo múa, đại tá, nghệ sĩ nhân dân người Việt Nam, ông đã biên đạo hàng trăm tác phẩm múa lớn nhỏ, trong đó nhiều tác phẩm đề cao công cuộc kháng chiến cứu nước.
Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tiểu sử và sự nghiệp.
Tên đầy đủ của ông là Đỗ Vĩnh Tiến, nhiều thông tin và báo ghi là Đỗ Minh Tiến, sinh năm 1932 tại xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông xuất thân từ một gia đình cố nông không nhà, không ruộng. Thủa nhỏ từng đi chăn trâu, đi ở rồi cùng gia đình phiêu dạt lên vùng núi Lạng Sơn. Đầu năm 1945, phong trào cách mạng ở Thất Khê, Lạng Sơn lên cao, ông tham gia cách mạng, làm liên lạc, trinh sát, chuyển công văn và nắm tình hình địch để truyền tin cho Ban chỉ huy giải phóng quân Thất Khê.
Toàn quốc kháng chiến, ông gia nhập tổ múa Đội văn công Đại đoàn 351. Tháng 3 năm 1954, Đội đi phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Đêm 12 tháng 3, Minh Tiến cùng Đội biểu diễn chương trình nghệ thuật phục vụ 2 cán bộ chỉ huy và 5 pháo thủ tại căn hầm số 2 của Đại đội pháo 105 ly. Đây là đơn vị nhận nhiệm vụ đặc biệt bắn mở đầu chiến dịch nên khẩu đội được ưu tiên xem văn công trước giờ nổ súng.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông cùng Đội văn công 351 về tiếp quản Thủ đô, sau đó ông được bổ sung vào Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị.
Cuối tháng 7 năm 1957, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị được cử sang Liên Xô tham dự Đại hội Liên hoan Thanh niên - Sinh viên thế giới lần thứ VI (Festival Moskva VI). Lần đầu tiên dự thi quốc tế với hai tác phẩm múa: "Múa sạp" và "Mùa hoa ban nở", Đoàn Việt Nam đã chinh phục Ban Giám khảo và đông đảo người xem bởi những nét độc đáo của vũ điệu dân gian, âm nhạc và đạo cụ. Cả hai điệu múa đều được tặng giải Vàng, trong đó Đội trưởng múa Minh Tiến, lúc này ông 25 tuổi là đồng tác giả của "Múa sạp" và tác giả độc lập của múa "Mùa hoa ban nở". Sau thành công của Đại hội, Đoàn nghệ thuật Việt Nam đi biểu diễn trên đất nước Liên Xô. Điệu múa "Mùa hoa ban nở" được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt và yêu cầu biểu diễn lại hai lần. Xưởng phim Mạc Tư Khoa mời quay phim điệu múa này và phát sóng truyền hình phục vụ người dân Xô Viết.
Tháng 1 năm 2006, kỷ niệm 65 năm ngày Bác Hồ về nước (28/1/1941), tại khuôn viên tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở thị xã Cao Bằng, kịch múa sử thi "Ngược dòng lịch sử" (do ông làm tổng đạo diễn) quy tụ hơn 100 diễn viên đã được trình diễn, được đánh giá là một công trình văn hóa lớn về đề tài chiến tranh và cách mạng, một tác phẩm nghệ thuật múa đặc sắc đầy ý nghĩa lịch sử. 46 năm sau kịch múa "Ngọn lửa Nghệ Tĩnh", sự ra đời của kịch múa sử thi "Ngược dòng lịch sử" là trang sử vàng chói lọi được ghi lại bằng ngôn ngữ nghệ thuật múa và âm nhạc. Lần đầu tiên trong lịch sử nghệ thuật múa Việt Nam, hình tượng Bác Hồ rất sống động và truyền cảm đến người xem niềm xúc động bồi hồi bởi những động tác của ngôn ngữ nghệ thuật múa và diễn xuất nội tâm, chân thật của các diễn viên.
Bên cạnh đó, sự nghiệp nghệ thuật của ông còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm múa nổi tiếng như: Múa "Mùa hoa ban nở" được biểu diễn ở nhiều nước các châu lục: Châu Á, Châu Phi, Châu Âu, Mỹ Latinh, đã trở thành điệu múa kinh điển trong kho tàng nghệ thuật múa Việt Nam; Múa "Xòe hoa", Huy chương Vàng quốc tế Berlin năm 1973, được Đoàn Ca múa quân đội Đức biểu diễn tại Đức và Việt Nam; Tổ khúc giao hưởng múa "Bão lửa Thăng Long" được Giải thưởng Nhà nước năm 2001; Múa "Mùa xuân bão táp", Huy chương Vàng quốc tế Berlin năm 1973, được truyền hình khắp châu Âu; Múa "Ba chị em", Huy chương Vàng quốc tế Berlin năm 1973; Màn múa hát "Giải phóng miền Nam", Huy chương Vàng quốc tế Berlin năm 1973; Kịch múa "Cánh chim biên giới" có kỷ lục diễn hơn 500 đêm.
Trong sự nghiệp cách mạng và nghệ thuật, ông được tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huy chương Quân kỳ Quyết thắng, Huy chương Vì sự nghiệp Văn hóa - Nghệ thuật Việt Nam, Huy chương Vì sự nghiệp múa Việt Nam. Ông đạt kỷ lục cao nhất Việt Nam các giải thưởng lớn về tác phẩm múa với 5 Huy chương Vàng quốc tế, 20 Huy chương Vàng trong nước.
Năm 1984, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, năm 1997 được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.
Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật với chùm 3 tác phẩm, trong đó tác phẩm múa "Mùa hoa ban nở" được ghi vào từ điển Bách khoa toàn thư Nghệ thuật sân khấu thế giới năm 1964 và tên tuổi tác giả được ghi trong Từ điển Bách khoa Nghệ thuật múa thế giới năm 1972, được Nhà hát Hàn lâm quốc gia về múa dân gian của Đức chọn làm tiết mục trình diễn chính thức. Ông được phong hàm Đại tá và tên tuổi, sự nghiệp của ông được ghi trong Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam.
Giữa năm 2006, ông hoàn thành kịch bản tác phẩm kịch múa lịch sử "Người mẹ sông Hồng", được Thành phố Hà Nội phê duyệt cho triển khai dàn dựng, hướng tới kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Chỉ vài tháng sau, ông lâm trọng bệnh.
Ngày 30 tháng 9 năm 2006, ông qua đời, hưởng thọ 74 tuổi. |
Trà hoa vàng Văn Lang
Trà hoa vàng Văn Lang (danh pháp khoa học: Camellia vanlangensis V.D. Luong V.T. Pham) là một loài thực vật nằm trong chi Chè (Camellia L.), thuộc họ Chè (Theaceae). Loài này được phát hiện ra từ năm 2021, sau một thời gian nghiên cứu, phân tích các đặc điểm mới được mô tả khoa học lần đầu tiên vào năm 2023. Trà hoa vàng Văn Lang được tìm thấy trong rừng lá rộng thường xanh nguyên sinh xen lẫn với tre nứa ở độ cao khoảng 800 m ở huyện Lang Chánh và huyện Như Xuân của tỉnh Thanh Hóa.
Trà hoa vàng Văn Lang là loài cây thường xanh, thân gỗ, cao 5-8 m, đường kính tại gốc khoảng 15 cm, tán lá thưa và rộng. Vỏ cây màu xanh lục đậm với các mảng trắng xám lớn. Cành non có đường kính khoảng 0.5 cm, màu đỏ, sau chuyển sang màu xanh lục đậm, có lông tơ (tomentose) thưa thớt. Chồi đầu nhỏ, hình nón, có đường kính khoảng 0,3 cm, bề mặt bên ngoài phủ lông trắng.
Lá có cuống dày, cong, dài khoảng 15-19 mm, đường kính 4-5 mm, màu đỏ và có lông khi còn non, chuyển sang màu xanh lục đậm và thưa thớt tomentose khi già. Phiến lá mỏng, hình elip thuôn dài, dài 25-33 cm, rộng 7.5-12.5 cm. Mặt trên nhẵn, bóng và màu xanh lục đậm. Mặt dưới màu lục nhạt, thưa thớt tomentose. Đỉnh lá nhọn. Gốc hình tim, có nhiều nếp gấp; mép nguyên đến hơi có răng cưa, hơi lộn ngược. Gân phụ không chạm đến mép, rõ ràng trên cả hai mặt, mặt trên lõm, mặt dưới nổi rõ; gân giữa màu đỏ và có lông ở mặt dưới khi còn non, chuyển sang màu vàng xanh và thưa thớt tomentose khi già; gân phụ khoảng 16-22 đôi.
Nụ hoa có màu vàng tươi, hình elip, dài khoảng 3,5 cm và đường kính 2,5 cm.
Hoa mọc đơn lẻ, ở đầu cành, hình chén, đường kính 5-8 cm, màu vàng kim. Cuống hoa dài khoảng 1 cm, đường kính 0,3 cm, có lá bắc và đài hoa bao phủ, nhẵn. Lá bắc 5-6, đôi khi khô khi còn nụ, bền, kích thước và hình dạng thay đổi, hình gần tròn, hình tam giác, hình trứng, hình elip rộng. Lá bắc nhỏ nhất dài khoảng 0,6 cm và rộng 0,7 cm, lá bắc lớn nhất dài 3,2 cm và rộng 1,0 cm. Màu xanh đậm đến xanh nhạt, cam hoặc cam đỏ, lõm, mặt trên gần như nhẵn ngoại trừ phần gốc, mặt dưới thưa thớt có lông tơ.
Nhị hoa có 130-150 nhị, 5 vòng xoáy. Chỉ nhị dài 25-37 mm, đường kính khoảng 0.6 mm. Các chỉ nhị bên ngoài hợp nhất ở gốc thành ống dài 19-23 mm từ gốc. Bao phấn dài 2.6-4.0 mm, rộng 1 mm, màu vàng kim.
Bầu nhụy có 3-5 ngăn, hình nón, có góc cạnh, dài 3.6-4.6 mm, đường kính 4.0-5.5 mm. Vòi nhụy 3-5, rời từ gốc, dài 25-28 mm.
Quả nang hình gần cầu, đường kính 4-5 cm, bề mặt sần sùi, 5 gân rõ ràng, lõm ở đỉnh. Có một hạt trong mỗi ngăn, hạt hình gần cầu hoặc hình cầu tam giác, đường kính 2-2.3 cm, gần như nhẵn, màu nâu đậm, nhẵn.
Phân bố và sinh thái.
Loài "Camellia vanlangensis" được tìm thấy trong một khu rừng lá rộng thường xanh nguyên sinh xen lẫn với tre bị ảnh hưởng nặng nề ở độ cao khoảng 800 mét tại các huyện Lang Chánh và Nhu Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Loài này ra hoa từ tháng 10 đến tháng 12 và kết trái từ tháng 12 đến tháng 8 của năm sau.
Hiện tại, "Camellia vanlangensis" được biết đến từ hai quần thể ở tỉnh Thanh Hóa. Một trong số đó là ở huyện Lang Chánh, nơi các mẫu vật điển hình được thu thập. Quần thể còn lại được người dân địa phương ghi nhận ở huyện Nhu Xuân. Môi trường sống của loài này không thuộc bất kỳ khu bảo tồn nào và bị đe dọa nghiêm trọng bởi quá trình canh tác, khai thác gỗ, đốt củ(2019) - IUCN, phạm vi xuất hiện (EOO) của loài này nhỏ hơn 1 km2 và diện tích chiếm hữu (AOO) là 8.000 km2, thuộc loài cực kỳ nguy cấp (CR) với B1ab (i-iv) + B2ab (i-iv)
Trà hoa vàng Văn Lang và hai loài gần gũi.
Loài Trà hoa vàng mới này rất giống với "Camellia impressinervis" và "C. calcicola" ở những nhánh non và cuống lá có lông mịn, kích thước hoa gần như giống nhau, lá bắc và lá đài lớn và nhiều, và số lượng lông nhụy nhiều. Tuy nhiên, loài mới có thể phân biệt với "C. impressinervis" qua những đặc điểm sau: gốc lá hình tim (so với tròn đến tròn tù), mép lá nguyên hoặc hơi có răng cưa (so với có răng cưa mạnh), số mạch lá phụ nhiều hơn (16–22 so với 9–11 cặp), lá đài dài hơn (3,5–4.3 so với 0,1–1,0 cm), ít lông mịn ở bề mặt dưới của lá đài (so với không lông ở cả hai bên), và quả nang lớn hơn (4–5 so với 3 cm). Trong khi đó, loài mới cũng có thể phân biệt với C. calcicola qua bề mặt dưới của lá ít lông mịn (so với không lông ở mặt trên và có lông ở mặt dưới), mép lá nguyên hoặc hơi có răng cưa (so với có răng cưa), lá đài dài hơn (3,5–4.3 so với 0,9–1,4 cm), bề mặt dưới của lá đài ít lông mịn (so với có lông ở cả hai bên), không lông ở cả hai bên của cánh hoa (so với có lông ở cả hai bên), cánh hoa lớn hơn (2,8–4,3 × 1,8–3,1 so với 0,9–1,4 × 0,7–1,0 cm), cánh hoa không lông (so với có lông ở phần cơ bản của nhụy nội), bầu nhụy không lông (so với có lông), và thụ tinh không lông (so với có lông ở phần dưới). |
Kính hiển vi dập tắt cưỡng bức
Kính hiển vi dập tắt cưỡng bức ("Stimulated emission depletion microscopy", STED microscopy) là một phương pháp tạo ảnh hiển vi siêu phân giải, dựa trên kỹ thuật kính hiển vi đồng tiêu huỳnh quang với việc sử dụng hai xung ánh sáng laser với một xung kích thích phân tử phát quang, trong khi xung còn lại dập tắt trạng thái kích thích của phân tử phát quang bằng cách bắt nó phát xạ cưỡng bức. Cách thức này cho phép tạo ra hình ảnh siêu phân giải bằng cách vô hiệu hóa có chọn lọc các diện tích phát huỳnh quang, giảm thiểu diện tích chiếu sáng tại tiêu điểm, và do đó tăng cường độ phân giải, vượt qua giới hạn phân giải của các thiết bị sử dụng sóng ánh sáng.
STED được phát triển bởi Stefan W. Hell và Jan Wichmann vào năm 1994, và lần đầu tiên được chứng minh bằng thực nghiệm bởi Hell và Thomas Klar vào năm 1999 với độ phân giải 35 nm. Stefan Hell đã được trao giải Nobel Hóa học năm 2014 cho sự phát triển của thiết bị này. Trên thực tế, ý tưởng về STED đã được V.A. Okhonin (Viện Lý sinh, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Chi nhánh Siberia, Krasnoyarsk) đưa ra từ năm 1986 với một phát minh sáng chế được đăng ký ở Liên Xô. Khi xây dựng STED vào năm 1994, Hell và Wichmann đã hoàn toàn không biết tới bằng phát minh của Okhonin.
Trong các thiết bị hiển vi quang học sử dụng ánh sáng và thấu kính, độ phân giải của ảnh ghi nhận được bị giới hạn bởi giới hạn nhiễu xạ do Ernst Abbe xác định vào năm 1873:
Trong đó, formula_2 là bước sóng, formula_3 là số khẩu độ được xác định bởi tích chiết suất của môi trường và sin của góc ánh sáng tới thấu kính (formula_4).
Các thiết bị kính hiển vi đồng tiêu quét huỳnh quang cũng không nằm ngoài giới hạn này khi ảnh tạo ra từ các ánh sáng huỳnh quang phát ra từ mẫu vật khi có ánh sáng kích thích cũng có tính chất này.
Để vượt qua giới hạn này, STED xử dụng hai xung ánh sáng (laser), với một xung (có bước sóng ngắn) sẽ kích thích mẫu vật, còn xung thứ hai (được làm chậm hơn xung đầu tiên một khoảng thời gian nhất định) sẽ có tác dụng dập tắt các cường độ phát xạ nền xung quanh điểm phát huỳnh quang, từ đó tạo ra một điểm phát huỳnh quang có kích thước nhỏ hơn.
Quá trình vật lý trong thiết bị STED.
Một thiết bị STED được xây dựng dựa trên kinh hiển vi đồng tiêu quét huỳnh quang, tức là dùng một chùm sáng laser có bước sóng ngắn quét trên mẫu vật và ghi nhận ánh sáng huỳnh quang phát ra từ mẫu (được nhuộm) để tạo ảnh. Điểm khác biệt lớn nhất so với kính hiển vi đồng tiêu huỳnh quang là sự có mặt của xung laser thứ hai (xung dập tắt - STED).
Xung STED có bước sóng dài hơn được đồng bộ với xung kích thích, tức là làm trễ pha so với xung kích thích, bằng một đĩa làm trễ pha. Xung thứ hai có tác dụng làm "đông cứng" các phân tử huỳnh quang (dập tắt sự phát xạ) ở rìa ngoài của chùm tia kích thích, ngoại trừ các phân tử nằm ở vùng trung tâm. Vì thế, kích thước khu vực phát huỳnh quang sẽ trở nên nhỏ hơn và tạo nên độ phân giải vượt qua giới hạn nhiễu xạ của Abbe.
Trong trường hợp này, giới hạn phân giải mới của thiết bị sẽ là giới hạn Abbe mở rộng:
Trong đó, formula_6 là cường độ của hốc phát xạ quang học, formula_7 là cường độ của bức xạ cưỡng bức, và tỉ số hai cường độ này formula_8 là hệ số bão hòa. Theo công thức này, giới hạn phân giải mới sẽ có độ lớn nhỏ hơn so với giới hạn nhiễu xạ Abbe.
Với độ phân giải vượt trội so với các thiết bị hiển vi quang học truyền thống, STED là thiết bị được ứng dụng mạnh mẽ trong các nghiên cứu về y, sinh học, tương tự như việc sử dụng các kính hiển vi đồng tiêu huỳnh quang. Các thiết bị STED thương phẩm có thể cho độ phân giải xung quanh 50 nm. |
Thảm sát nhạc hội Re'im
Ngày 07 tháng 10 năm 2023, nhóm thánh chiến Hồi Giáo Hamas phát động một cuộc xâm lược vào Israel từ Dải Gaza, giết hại 364 thường dân, làm bị thương một số lượng lớn thường dân khác, và bắt ít nhất 40 con tin tại đại nhạc hội ngoài trời "Supernova Sukkot Gathering", khi đám đông đang mừng Lễ Lều Tạm gần khu vực Re'im. Vụ giết người hàng loạt này là một phần của chuỗi tấn công của Hamas vào ngày 07 tháng 10, bao gồm các vụ tấn công vào dân thường Israel tại Netiv HaAsara, Be'eri, Kfar Aza, Nir Oz, Holit, và là nguyên nhân của cuộc chiến tranh 2023 giữa Israel và Hamas.
Khoảng 6 giờ 30 phút sáng, người dân Israel nhìn thấy tên lửa lao tới từ phía Gaza. Vào khoảng 7 giờ sáng, còi báo không kích rền vang, dòng người dự lễ hội nhận ra rằng họ phải nhanh chóng tìm gấp nơi trú ẩn. Sau đó, các tay súng Hamas tràn vào khu vực trên các xe mô tô, xe bán tải và dù lượn gắn động cơ. Các tay súng này bao vây khu vực lễ hội và xả súng thẳng vào người dân dự lễ, kể cả những người tại đó lẫn những người xung quanh cố chạy khỏi vụ tấn công. Những người may mắn trốn thoát sau đó cũng bị truy lùng và giết hại trong các hầm trú bom, bụi cây, hoặc tòa nhà gần đó. Những ai chạy ra được đường lớn cũng bị kẹt lại vì Hamas cũng xả súng vào các phương tiện di chuyển trên đường gây kẹt xe diện rộng. Những người bị thương trên đường không chạy được phải bò lết ra khỏi đám xả súng sau đó cũng bị các tay súng Hamas truy diệt.
Các chi tiết về vị trí giam giữ và tình trạng của các con tin vẫn chưa được công bố ra công chúng. Vụ thảm sát tại Re'im là vụ tấn công khủng bố lớn nhất, và cũng là vụ giết hại nhiều thường dân nhất trong lịch sử Israel.
Các hoạt động lễ hội trước vụ thảm sát.
Supernova Sukkot Gathering là một lễ hội âm nhạc dài một tuần lễ bắt đầu vào ngày 6 tháng 10 năm 2023, được tổ chức bởi Nova (còn được gọi là Tribe of Nova).. Nhạc hội này lẽ ra có thể diễn ra an toàn ở phía Nam Israel, nhưng sau đó ban tổ chức gặp vấn đề về khâu chuẩn bị nên chỉ hai ngày trước cuộc thảm sát, họ quyết định dời vị trí tổ chức về phía tây sa mạc Negev, khoảng 5 km tính từ biên giới Gaza-Israel, gần Re'im. Lịch trình của nhạc hội trùng với hai ngày lễ lớn của người Do Thái là Lễ Trại Tạm và Lễ Mừng Kinh Thánh Torah.
Có khoảng 3500 người Israel khắp nơi đổ về lễ hội với mục đích tôn vinh "tình bạn, tình yêu và tự do vô tận", đa số họ có tuổi đời từ 20-40. Trước số lượng người lớn như vậy, cảnh sát địa phương đã được điều động tới để cùng lực lượng bảo vệ đảm bảo an ninh.
Cuộc tấn công của Hamas.
Đại nhạc hội là một trong những mục tiêu đầu tiên của các tay súng Hamas vào sáng mồng 7 tháng 10 năm 2023. Các lực lượng điều tra của Israel nhận định rằng Hamas không hề có ý định tấn công đại nhạc hội từ trước, mà chỉ là tấn công ngẫu nhiên vì thấy đông người, bởi vì nhạc hội này theo kế hoạch ban đầu chỉ kéo dài tới thứ Sáu ngày 6 tháng 10, và việc ban tổ chức quyết định mở thêm một ngày thứ Bảy (7 tháng 10) chỉ được thông cáo báo chí vào tứ Tư tuần trước diễn ra sự kiện. Một chứng nhân cho biết sau khi cắt đường dây điện, một nhóm khoảng 50 tay súng Hamas ào đến trên các xe van và bắn liên tục vào mọi hướng, sau đó khoảng 6 giờ 30, một vài tay súng khác bay tới bằng dù lượn và cũng bắt đầu xả súng.
Đám đông lập tức nhận ra mối nguy, họ hoảng loạn chạy trốn, Hamas không buông tha và tiếp tục truy đuổi họ bằng xe jeep, một số tay súng khác chặn đường ngăn không cho đám đông trốn chạy. Địa hình xung quanh nhạc hội quá trống trải và ít nơi để trú ẩn, dân thường bất lực chạy trốn vào các bụi cây ven đường, nhưng sau đó Hamas cũng truy lùng tới cùng và tàn sát họ. Trong số đó chỉ số ít người may mắn thoát chết sau khi trốn vào các tòa nhà. Vụ thảm sát diễn ra giữa tiếng rền còi báo động không kích, vì lực lượng Hamas ở Gaza lúc đó cũng đồng thời phóng hàng trăm tên lửa vào Israel. Xe cộ cháy nổ khắp mọi nơi trên đường.
Trong số những người dự nhạc hội bị Hamas bắt, những người may mắn sống được thì bị bắt về Gaza làm con tin. Hamas đã tung video về cảnh bắt con tin lên mạng xã hội. Trong số đó có cả những người nước ngoài mang quốc tịch Đức, Anh, B
Không chỉ dừng ở thảm sát, các tay súng Hamas còn hãm hiếp, sau đó giết luôn các nữ du khách đến đại nhạc hội. Thậm chí có người còn bị hãm hiếp tập thể. Người đó sau đó cũng bị giết. Theo báo Haaretz, các nhân viên cơ quan ứng cứu ZAKA đã thấy nhiều phụ nữ ở hiện trường bị Hamas lột hết áo quần, cắt bỏ bộ phận sinh dục, số khác thì bị xích phần thân dưới.
Thiệt hại về nhân mạng.
Các hình ảnh chụp được từ hiện trường vụ thảm sát cho thấy hàng chục thi thể nằm lại trên hiện trường, một vài trong số đó đã bị Hamas thiêu. Cơ quan hỗ trợ cấp cứu tình nguyện ZAKA của Israel cho biết họ đếm được ít nhất 260 thi thể nằm la liệt trong khuôn viên nhạc hội.
Vào ngày 17 tháng 11, cảnh sát địa phương đưa ra con số cuối cùng là 364 người bị giết hại, trong đó có 17 cảnh sát. Ban tổ chức nhạc hội cũng đều đã chết trong cuộc thảm sát này. Ngoài ra, 40 người đã bị bắt cóc mang qua Gaza.
Các cuộc điều tra.
Ngày 14 tháng 10, 2023, chính phủ Đức xác nhận 8 công dân của họ đang bị giam giữ tại Gaza và mở một cuộc điều tra với đối tượng chủ thể là các tay súng Hamas, với các tội danh "hoạt động cho tổ chức khủng bố nước ngoài, bắt giữ con tin và giết người".
Theo các báo cáo công chúng vào ngày 17 tháng 11, cảnh sát sau khi điều tra và thẩm vấn, xác nhận là Hamas không tổ chức cuộc thảm sát từ đầu, mà chỉ vô tình đi ngang qua và nổ súng.
Phản ứng và dư luận.
Hamas lúc đầu thông báo là những tay súng của tổ chức này giết thường dân vì nghĩ các nạn nhân là "những người lính Israel", nhưng sau đó Hamas thay đổi thái độ và đổ lỗi cho người dân Gaza, rằng vụ thảm sát là do thường dân Gaza gây ra sau khi Hamas chiếm được khu vực. Sau đó, Hamas lại đổi ý và tuyên bố rằng không có cuộc thảm sát nào diễn ra ở nhạc hội trên.
Về phía chính quyền Palestine (PA), chính quyền này đã gửi điện tới các chính phủ khác, và cả Liên Hợp Quốc để phủ nhận việc Hamas đã thảm sát dân thường Israel. Chính quyền Palestine tuyên bố rằng chính các máy bay trực thăng của Israel đã đánh bom thường dân của họ.
Phẫn nộ trước cuộc thảm sát, Israel tuyên chiến chính thức với Hamas, cuộc chiến bắt đầu bằng Chiến dịch Gươm Sắt. |
Mayuko Kawakita (河北 麻友子, Kawakita Mayuko, sinh ngày 28 tháng 11 năm 1991) là một nữ diễn viên, người mẫu người Nhật Bản/Mỹ, được biết đến với vai diễn Rena trong "", chương trình truyền hình "Hirunandesu!" trên Nippon Television, và "Sekai no Hatemade Itte Q!". Cô là người chiến thắng năm 2003 của Cuộc thi Japan Bishōjo Contest, một cuộc thi sắc đẹp do Oscar Promotion tổ chức.
Vào tháng 1 năm 2022, Kawakita kết hôn với một người không phải người nổi tiếng, tên không được tiết lộ. Cô thông báo trên trang cá nhân rằng cô đã sinh con gái đầu lòng vào ngày 12 tháng 4 năm 2023. |
Hiệp sĩ Kerry (tiếng Ireland: "Ridire Chiarraí"), còn được gọi là Hiệp sĩ xanh, là một trong ba hiệp sĩ cha truyền con nối Norman ở Ireland, tất cả đều tồn tại ở Ireland từ thời phong kiến. Hai dòng hiệp sĩ còn lại là Hiệp sĩ trắng (họ cố định là Fitzgibbon), không hoạt động từ thế kỷ XIX, và Hiệp sĩ Glin (Hiệp sĩ đen), không hoạt động từ năm 2011. Cả ba đều thuộc về triều đại FitzGerald thường được gọi là Geraldines, được tạo ra bởi Bá tước xứ Desmond trao cho bà con của họ.
Maurice Buidhe FitzJohn, Hiệp sĩ thứ nhất của Kerry, là con trai ngoài giá thú của John FitzGerald, Nam tước Desmond thứ nhất (mất năm 1261 trong Trận Callann), con trai của Thomas FitzMaurice, Lãnh chúa OConnello, con trai của Maurice FitzGerald, Lãnh chúa của Lanstephan, con trai của Vương nữ Nest Ferch Rhys xứ Deheubarth và Gerald de Windsor. |
Raytheon Missiles Defense (RMD) là một trong số công ty thành viên của Tập đoàn công nghệ Raytheon. Công ty có trụ sở đặt tại Tucson, Arizona, chủ tịch hiện tại là Wes Kremer. Các mảng kinh doanh của công ty bao gồm sản xuất các thiết bị quân sự công nghệ cao, bao gồm hệ thống phòng không, tên lửa, vũ khí chính xác, radar cũng như hệ thống chỉ huy và quản lý chiến trường.
Các sản phẩm của công ty bao gồm: |
Bắt cóc con tin Israel trong các cuộc xung đột
Bắt cóc con tin Israel là một hiện tượng phổ biến trong các cuộc xung đột giữa Israel và nhiều thành phần chống Do Thái, cũng như trong xung đột với Palestine. Các cuộc bắt cóc khiến Israel phải phát triển kế hoạch ứng phó với đối phương, từ cứng rắn bằng hành động quân sự tới đàm phán và thông qua trung gian.
Thảm sát München là tên gọi thường được gán cho vụ tấn công xảy ra tại Thế vận hội Mùa hè 1972 ở München, Bayern, phía nam Tây Đức, khi 11 thành viên đội tuyển Olympic Israel bị bắt làm con tin và cuối cùng bị giết hại, cùng với một sĩ quan Đức, bởi nhóm tháng Chín Đen Palestine. Ngay sau khi cuộc khủng hoảng diễn ra, những kẻ bắt con tin đã yêu cầu thả 234 tù nhân bị giam giữ trong các nhà tù tại Israel, và thả những người sáng lập (Andreas Baader và Ulrike Meinhof) phái Hồng quân Đức, những người bị giam giữ trong nhà tù của Đức.
Sau hơn một tuần diễn ra theo kế hoạch, Thế vận hội trở thành địa điểm của một vụ tấn công khủng bố. Các đối tượng, cải trang thành vận động viên và sử dụng chìa khóa đánh cắp, đã hành động vào rạng sáng ngày 5/9. Tám tay súng người Palestine đã vượt qua hàng rào và đột kích vào Làng Olympic, hướng đến khu nhà ở của đội Israel tại 31 Connollystrasse.
Khi bước vào căn hộ số 1, nhóm tay súng đối mặtvới Yossef Gutfreund, trọng tài đấu vật, và Moshe Weinberg, huấn luyện viên đấu vật. Gutfreund nhanh chóng chạy đi để cảnh báo các vận động viên về sự xâm nhập, trong khi Weinberg đối mặt với những kẻ tấn công. Tuy nhiên, những tay súng đã bắn Weinberg và cưỡng chế anh bằng súng, sau đó đưa anh đến phòng huấn luyện viên và các vận động viên Israel còn lại.
Sau đó, nhóm tay súng đã rút lui khỏi căn hộ, đưa theo 9 con tin, bao gồm cả vận động viên và huấn luyện viên người Israel. Ladany, một người sống sót từ trại tập trung Berger-Belsen, bị đánh thức. Ông nhảy ra khỏi ban công tầng hai của mình, vụt tới khu ở của các vận động viên Mỹ, và đánh thức huấn luyện viên người Mỹ Bill Bowerman, đồng thời thông báo về vụ tấn công.
Sau khi giữ kín 9 con tin, một chuỗi cuộc đàm phán kéo dài đã diễn ra giữa nhóm tay súng và chính quyền Tây Đức.
Thủ tướng Israel thời điểm đó, bà Golda Meir, đã quả quyết tuyên bố rằng, trong mọi tình huống, chính phủ Israel sẽ không bao giờ đáp ứng đòi hỏi của nhóm khủng bố. Bà Meir đã ban lệnh cho lực lượng đặc nhiệm thuộc Cơ quan Tình báo Israel (Mosad) để chuẩn bị sẵn sàng thực hiện hoạt động giải cứu con tin.
Tuy nhiên, chính phủ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Đức Willy Brandt đã từ chối cho Mosad thực hiện hành động trực tiếp, với lý do rằng việc này sẽ vi phạm hiến pháp của nước Đức. Do đó, Israel chỉ cử Giám đốc Mosad Zamir và một chuyên gia đàm phán về tình hình con tin để bay đến Đức và tham gia xử lý tình trạng khẩn cấp ở Munich.
Các cuộc đàm phán đến cuối ngày hôm đó nằm trong kế hoạch của Đức nhằm đánh lừa nhóm khủng bố để giải cứu con tin. Dù có một số lo ngại về khả năng thành công, các lực lượng Đức vẫn tiến hành giải cứu con tin.
Trong loạt bắn đầu tiên, 3 kẻ khủng bố đã bị tiêu diệt, tuy nhiên, những tên còn lại vẫn sống sót. Dưới sự hỗ trợ của hai đồng phạm, một kẻ khủng bố đã rời khỏi chiếc trực thăng đầu tiên trước khi ném một quả lựu đạn vào đó, lấy mạng cả 4 con tin đang bị trói bên trong.
Một kẻ khác tiếp tục bắn súng máy vào chiếc trực thăng thứ hai, đồng thời giết chết toàn bộ 5 con tin còn lại. Chiến dịch giải cứu con tin đã thất bại hoàn toàn.
Cuối cùng, có tổng cộng 17 người đã đặt mạng trong sự kiện này, trong đó có một cảnh sát Đức, 11 vận động viên và huấn luyện viên Israel, cùng với 5 kẻ khủng bố.
Vào lúc hơn 8 giờ ngày 27/6/1976, chiếc máy bay Airbus số 139 của hãng hàng không Pháp, với 245 hành khách, đã bị hai tên không tặc (một nam và một nữ) đe dọa bắt đầu hành trình điều hướng về Nam Phi. Máy bay đã hạ cánh tại sân bay Benghazi (Lybia) để tiếp dầu. Sau đó, nó tiếp tục cất cánh, có đích đến tiếp theo là sân bay Entebbe, Uganda.
Tại đây, một nhóm tay không tặc đã thả 148 người không phải là công dân Israel, giữ lại chỉ những con tin Israel và đưa ra yêu sách đòi thả 53 tù nhân người Palestine đang bị giam giữ tại Israel cùng với 4 quốc gia khác. Tổng thống Uganda, Idi Admin, người ủng hộ Palestine, đã triển khai lực lượng quân sự quanh sân bay để bảo vệ nhóm không tặc.
Ở Israel, các chuyên gia quân sự đang cố gắng phân tích những thông tin ít ỏi mà họ có. Ehud Barak, một nhân vật đã tham gia nhiều sứ mệnh quan trọng trước đây, được giao nhiệm vụ lên kế hoạch giải cứu.Ban đầu, quan chức quân sự Israel nghĩ rằng chỉ có 4 tên không tặc là kẻ đối đầu duy nhất của họ. Nhưng sau đó, họ nhận ra rằng sân bay Entebbe không phải là một đích ngẫu nhiên, và chính quyền Uganda có thể đang bảo vệ nhóm không tặc này.
Thông qua các kênh liên lạc, người Israel nhận thức rằng việc đàm phán với lực lượng khủng bố để giải cứu con tin là không khả thi, vì họ giữ lập trường không nhượng bộ và tên khủng bố cũng không có ý định thay đổi. Tuy nhiên, Israel quyết định tiến hành cuộc đàm phán nhằm kéo dài thời gian, đồng thời chuẩn bị cho một cuộc giải cứu.
Cuối cùng, quyết định sử dụng máy bay vận tải C-130 để tiến hành một cuộc tập kích bất ngờ đã được đưa ra. Vào chiều ngày 4/7/1976, hơn 200 lính đặc nhiệm Israel đã cất cánh đến sân bay Entebbe. Sử dụng bóng tối của đêm, đội đặc nhiệm Israel đã thực hiện hạ cánh xuống đường băng tại sân bay Entebbe. Một cuộc đụng độ quyết liệt đã nảy sinh giữa quân đội Israel và lực lượng Uganda bị đánh động. Các đội đặc nhiệm, được giao nhiệm vụ thả lẻ xuống các vị trí khác nhau, buộc phải tham gia chiến.
Israel đã thành công trong việc ngăn chặn nhóm không tặc có cơ hội hại con tin. Đội đặc nhiệm đã tiến vào tòa nhà nơi nhóm không tặc giữ con tin và tiêu diệt toàn bộ đối tượng.
Sau khi kết thúc chiến dịch, 4 kẻ khủng bố và ít nhất 20 binh sĩ Uganda đã bị tiêu diệt. Tuy nhiên, đội trưởng Netanyahu và ba con tin khác đã thiệt mạng do bị đạn bắn trúng. Các con tin đã được chuyển lên các máy bay Hercules đang chờ sẵn và cất cánh về Nairobi. Toàn bộ cuộc đột kích chỉ diễn ra trong khoảng 30 phút. Trong số 102 con tin được giải cứu, có 3 người đã thiệt mạng và 10 người khác bị thương. Một số lính Israel, trang bị xe thiết giáp hạng nhẹ, đã tuần tra quanh sân bay Entebbe của Uganda và phá hủy khoảng 11 chiếc tiêm kích MiG-17 của Không quân Uganda để ngăn chặn sự truy đuổi.
Trong cuộc đột kích giải cứu con tin dũng cảm này, chỉ có một lính Israel thiệt mạng, đó là Trung tá Yonatan "Yoni" Netanyahu, anh trai ruột của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu. Ngoài ra, còn có 5 lính Israel khác bị thương nhẹ. Phía Uganda, có tổng cộng 45 binh lính đã thiệt mạng, 11 máy bay MiG-17 bị phá hủy tại sân bay. Tất cả 7 kẻ khủng bố đều đã bị tiêu diệt.
Gilad Shalit, sinh ngày 28 tháng 8 năm 1986, là một cựu quân nhân của Lực lượng phòng vệ Israel (IDF) mang quốc tịch Pháp và Israel. Anh bị bắt giữ vào ngày 25 tháng 6 năm 2006 bởi quân đội Hamas trong một cuộc càn quét vượt biên giới ở Israel, gần điểm cắt Kerem Shalom. Sau đó, Shalit bị giữ làm con tin ở một địa điểm bí mật ở Dải Gaza của Hamas cho đến ngày 11 tháng 10 năm 2011.
Vào rạng sáng ngày 25-6-2006, các chiến binh thuộc Lữ đoàn Ad-Din al-Qassam Izz và Army of Islam, thuộc Palestine, đã thực hiện cuộc tấn công vượt biên giới Israel từ Dải Gaza thông qua một đường hầm dưới lòng đất gần Kerem Shalom. Họ tấn công một vị trí của quân đội Israel, gây tử vong cho 2 binh sĩ Israel và làm bị thương 2 binh sĩ khác (ngoại trừ Shalit).
Trong cuộc tấn công, 2 chiến binh Palestine cũng đã bị tiêu diệt. Gilad Shalit, sau khi bị gãy tay trái và nhận một vết thương nhẹ ở vai, đã bị bắt và đưa qua đường hầm vào Gaza. Ngay sau đó, nhóm bắt cóc xác nhận việc bắt giữ Shalit.
Shalit sau đó bị giữ làm con tin tại một địa điểm bí mật ở Dải Gaza thuộc quyền kiểm soát của Hamas. Hamas đưa ra điều kiện để thả Shalit, đòi hỏi sự trao đổi với trẻ em và phụ nữ người Palestine đang bị giam giữ bởi Israel.
Một cuộc xung đột giữa Israel và Hamas kéo dài 5 tháng mà vẫn không dẫn tới việc thả tự do cho Shalit. Để phóng thích Shalit, Hamas yêu cầu thả tất cả trẻ em vị thành niên và tù binh nữ người Palestine đang bị Israel giam giữ.
Sau 5 năm 4 tháng kể từ khi Shalit bị bắt cóc, vào ngày 11 tháng 10 năm 2011, Israel và Hamas đạt được thỏa thuận về việc giải cứu Gilad Shalit. Thủ tướng Israel Netanyahu đã tổ chức một cuộc họp nội các đặc biệt để chấp thuận thỏa thuận này. Đức và Ai Cập đóng vai trò trung gian hòa giải trong quá trình thỏa thuận, được ký kết tại Cairo.
Theo thỏa thuận, sự trả tự do của Gilad Shalit được đổi lại với việc thả 1.027 tù binh đang bị Israel giữ, trong đó có 280 người đang chịu án chung thân vì lập kế hoạch và tham gia các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào các mục tiêu của Israel.
Ngày 18-10-2011, Trung sĩ Gilad Shalit đã được chuyển giao tới biên giới Rafah giữa Gaza và Ai Cập. 477 tù nhân Palestine đã được thả tại biên giới Kerem Shalom giữa Israel và Ai Cập, cách biên giới Rafah 10 phút lái xe. 550 tù nhân Palestine còn lại được thả trong đợt sau. Shalit đã được chuyển giao cho phía Ai Cập, với sự chứng kiến của các đại diện Israel. Khi việc phóng thích Shalit được xác nhận, Israel đã thả 27 tù nhân nữ.
Chiến tranh Hamas-Israel 2023.
Ngày 7 tháng 10 năm 2023, trong khuôn khổ Chiến dịch Cơn lũ Al-Aqsa tại Israel ở đầu cuộc chiến tranh Israel–Hamas năm 2023, các binh sĩ Palestine (do Hamas lãnh đạo) đã bắt giữ khoảng 250 người và đưa họ vào Dải Gaza. Trong số này, 5 người đã được phóng thích cho đến thời điểm hiện tại.
Các binh sĩ Palestine đã bắt cóc 30 trẻ em, người già, phụ nữ mang thai, Ngoài công dân Israel, gần một nửa số con tin bao gồm những người có quốc tịch kép và người nước ngoài. Tỷ lệ chính xác binh sĩ và dân thường trong số con tin chưa được biết rõ. Các con tin có thể đang bị giữ tại các địa điểm khác nhau trong Dải Gaza.
Hamas đã đề xuất phóng thích tất cả con tin để đổ ilấy việc Israel thả tất cả tù nhân Palestine, một ý kiến được một số gia đình Israel ủng hộ. Nhiều quốc gia đã tham gia trong đàm phán giữa Israel và Hamas, với Qatar đứng đầu.
Theo các tuyên bố của Hamas và Jihad Hồi giáo Palestine, khoảng 200 binh sĩ và dân thường đã bị bắt giữ hoặc bắt cóc trong cuộc tấn công vào cộng đồng ven biển Gaza. Thiếu tướng Daniel Hagari, người phát ngôn của IDF, báo cáo vào ngày 7 tháng 10 rằng các sĩ quan quân sự nằm trong số những người bị bắt giữ. Israel xác nhận danh tính của 203 người bị bắt, trong đó có 30 trẻ em, trong khi người phát ngôn ở Gaza cho biết họ đang giữ khoảng 200 người, ước tính rằng 50 người khác được giữ bởi các phe khác. IDF cho biết họ bắt được "sổ tay" do Hamas làm để hướng dẫn các binh sĩ của mình; những sổ tay này hướng dẫn cách "giết những người khó nhằn" và sử dụng phần còn lại làm lá chắn sống.
Một số con tin đến từ Pháp, Đức, Nga, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Ít nhất 17 công dân Thái Lan làm việc trong các nhà kính ven biển Gaza cũng đã bị bắt cóc. Nepal xác nhận bảy công dân của họ, là sinh viên đại học, đã bị bắt cóc ở Herzliya và thêm mười người Nepal tại Alumim cũng đã bị bắt cóc. Ít nhất một công dân Philippines cũng đã bị bắt cóc.
Một đoạn video mô tả ít nhất 64 người bị bắt cóc. Phân tích video từ The Washington Post cho thấy một số con tin đã bị hành quyết sau khi bị bắt giữ. Nữ sinh Israel Noa Argamani, người tham gia lễ hội âm nhạc gần Re'im, bị bắt cóc khi đang ở cùng bạn trai là Avinathan Or. Họ đã bị quay lại trong quá trình bị các chiến binh đưa đến Gaza, sau khi những tin nhắn WhatsApp mà họ gửi để tìm sự giúp đỡ từ nơi trú ẩn của họ từ 8:10 sáng đã bị lộ. Đoạn video cho thấy Argamani bị đưa đi trên một chiếc xe máy và vươn tay ra hướng Or, người bị đưa đi bởi những người bắt giữ trên đường đi bộ.
Hamas đã đưa ra một thỏa thuận được gọi là "mọi người đổi lấy mọi người" hoặc "tất cả đổi lấy tất cả" — phóng thích tất cả con tin đang bị giữ tại Gaza để đổi lấy việc Israel phóng thích hàng nghìn người Palestine đang bị giam giữ trong các nhà tù Israel. Một số gia đình Israel đã phát biểu ủng hộ cho thỏa thuận như vậy.
Vào ngày 8 tháng 11, các nguồn tin của Hamas cho biết Hamas có thể phóng thích 10-15 con tin để đổi lấy một lệnh tạm ngừng nhân đạo kéo dài ba ngày. Ngày 9 tháng 11, Benjamin Netanyahu được cho là đã từ chối sự trao đổi như vậy. Vào ngày 13 tháng 11, đã có thông tin cho biết Hamas đã thông báo cho các trung gian Qatar rằng nhóm này sẵn sàng phóng thích đến 70 con tin là phụ nữ và trẻ em đang bị giữ tại Gaza để đổi lấy một ngừng bắn kéo dài 5 ngày và việc phóng thích 275 phụ nữ và trẻ em đang bị giữ bởi Israel.
Các tổ chức nhân quyền, tổ chức quốc tế và gia đình của những người bị giữ làm con tin đã kêu gọi sự phóng thích ngay lập tức cho các con tin. Vào tối Chủ Nhật, ngày 8 tháng 10, các gia đình của những người bị bắt cóc và mất tích đã tổ chức một cuộc họp báo, đòi hỏi chính phủ mở cuộc đàm phán liên tục với gia đình và thực hiện một chiến dịch để đưa những người mất tích về nhà, bổ nhiệm một người để duy trì liên lạc liên tục với gia đình, liền kề việc kêu gọi sự tham gia ngay lập tức của Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan, Thái tử Mohammed bin Salman của Ả Rập Xê Út và Tổng thống Ai Cập Abdel Fattah el-Sisi, để phóng thích những người bị giữ. Chính phủ đã bổ nhiệm Gal Hirsch chịu trách nhiệm về vấn đề này.
Ngày 25 tháng 10 năm 2023, Thủ tướng và Bộ trưởng Ngoại giao Qatar Mohammed bin Abdulrahman bin Jassim Al Thani tuyên bố rằng đã có một số tiến triển trong các đàm phán về con tin. Cùng ngày đó, Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới Tedros Adhanom Ghebreyesus đã gặp gỡ với Diễn đàn Gia đình Con tin và Bị mất tích và nói: "Những người bắt giữ cần ngay lập tức cung cấp thông tin về dấu hiệu sự sống, bằng chứng về việc chăm sóc sức khỏe và phóng thích ngay lập tức, trên cơ sở nhân đạo và y tế, của tất cả những người bị bắt cóc." |
Chụp lén dưới váy
Chụp lén dưới váy (tiếng Anh: "Upskirt", "upskirting" hay "upskirt photography") là hành vi chụp những bức ảnh chụp lén dưới váy hoặc vải quấn của một người, chụp ảnh vùng háng, đồ lót và đôi khi là cơ quan sinh dục. "Upskirt" là một bức ảnh, video hoặc hình minh họa kết hợp một bức ảnh như vậy, mặc dù có thể được sử dụng để chỉ bộ phận ở bên trong váy, thuật ngữ này thường chỉ đến phần bên dưới váy, và trong tình trạng người bị chụp đang mặc váy hớ hênh.
Hành vi chụp ảnh này được coi là một hình thức ái vật hoặc thị dâm và có bản chất tương tự như các ảnh chụp nhìn soi mói thân thể người khác. Vấn đề đạo đức và pháp lý liên quan đến chụp ảnh lén dưới váy là một trong những yêu cầu hợp lý về quyền riêng tư, bao gồm quyền riêng tư ở nơi công cộng. Ở một số quốc gia, việc chụp lén dưới váy mà không có sự cho phép là một hành vi phạm tội hình sự. |
Vi Thảo tên đầy đủ là Đặng Trần Vi Thảo, là nữ ca sĩ nhạc nhẹ Việt Nam, cô được biết đến khi là thí sinh cuộc thi Sao Mai điểm hẹn mùa đầu tiên.
Đặng Trần Vi Thảo sinh ngày 17 tháng 10 năm 1981 tại Nam Phước, Duy Xuyên, Quảng Nam, là chị cả trong gia đình. Vi Thảo kết hôn với Hoàng Vũ, một bầu show, họ có một con trai nhưng cuộc hôn nhân chỉ kéo dài hai năm vì Hoàng Vũ có những bê bối tình cảm.
Từ khi học cấp 3, tài năng ca hát của Vi Thảo được bộc lộ khi cô hát "Bài ca không quên" trước toàn trường. Vi Thảo bắt đầu được biết đến tại Quảng Nam khi liên tục giành được giải thưởng như Huy chương vàng Liên hoan Tiếng hát Học sinh, sinh viên Quảng Nam 1997, Huy chương bạc Giọng hát hay Đà Nẵng 1998, Huy chương vàng Liên hoan Tiếng hát miền Trung và Tây Nguyên 1998. Dù gia đình mong muốn cô thi vào Đại học Khoa học xã hội và nhân văn nhưng năm 1999, Vi Thảo thi đậu khóa Opera của Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, lúc này cô đã có khoảng 15 giải thưởng, một tháng sau khi nhập học, cô đăng ký thi Tiếng hát Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và đoạt giải 4. Sau cuộc thi, Vi Thảo ký hợp đồng biểu diễn dài 2 năm với Đoàn nghệ thuật Quân khu 7. Năm 2001, cuộc thi Tiếng hát Truyền hình đổi tên thành Sao Mai, Vi Thảo tiếp tục đăng ký thi và lầm nhẵ đạt hạng 4. Cô tốt nghiệp Nhạc viện năm 2002. Trong năm 2002, Vi Thảo cùng Đoàn nghệ thuật Quân khu 7 biểu diễn phục vụ cho sư đoàn 5 ở Tây Ninh; Vi Thảo đã tham dự Liên hoan Tiếng hát Truyền hình Tây Ninh và đoạt giải Nhất. Với kết quả này, Vi Thảo là thí sinh đại diện của tỉnh Tây Ninh dự thi vòng chung kết Sao Mai 2003. Vi Thảo và Ngọc Khuê là hai thí sinh của Sao Mai 2003 được đặc cách vào vòng chung kết Sao Mai điểm hẹn 2004.
Sau cuộc thi Sao Mai, Vi Thảo theo đuổi dòng nhạc tiền chiến và cho ra mắt album đầu tay "Yêu và mơ" năm 2006.
Tháng năm 6 2012, Vi Thảo tiếp tục sự nghiệqua dòng nhạc bolero với album "Vol.2 Tàu đêm năm cũ." Album nhanh chóng bị thu hồi vì có các ca khúc chưa được cấp phép lưu hành và phổ biến tại Việt Nam là "Tàu đêm năm cũ" và "Hoa nở về đêm". Album do Bến Thành Audio sản xuất, Nhà xuất bản Âm nhạc cấp phép và Phương Nam Phim phát hành. Trước đó, giữa năm 2011, Bến Thành Audio đã trình Cục Nghệ thuật Biểu diễn kiểm duyệt và được thông qua vào tháng 11 năm 2011, nhưng khi phát hành một số cơ quan chức năng không đồng thuận khiến album buộc phải bị thu hồi. Sau sự việc này, Vi Tháo vẫn tiếp tục cho album tiếp theo.
Tháng 8 năm 2015, Vi Thảo phát hành album "Vol.3 – Chuyến tàu hoàng hôn", trong đó ca khúc "Chuyến tàu hoàng hôn" được Vi Thảo xin cấp phép từ năm 2012, nhưng mất 3 năm mới được thông qua. Năm 2017, Vi Thảo tham gia gameshow Tình Bolero hoan ca và giành giải 3 cùng Quang Minh. Vi Thảo và một số lượng khán giả đã bất bình với kết quả này, cô tuyên bố về sau sẽ không tham gia bất cứ gameshow nào. |
Uchida Rio (内田 理央, Uchida Rio, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1991 tại Hachiōji, Tokyo, Nhật Bản) là một nữ diễn viên và thần tượng áo tắm người Nhật Bản có liên kết với LesPros Entertainment. Cô được biết đến nhiều nhất với vai Kiriko Shijima, nữ anh hùng chính của bộ phim "Kamen Rider Drive" trong loạt phim "Kamen Rider".
Uchida debut vào tháng 4 năm 2010. Vào tháng 6 năm 2010, cô được chọn tham gia "NTV Transgenic 2010". Vào tháng 9 năm 2010, Uchida là thành viên của đơn vị văn phòng không được chứng nhận "BLTravel Fan Event Bust Tour" của "Beautiful Lady Television's" được thành lập sau LesPros Entertainment. Vào ngày 27 tháng 11 năm 2013, cô được chọn làm thành viên tuyển chọn của văn phòng LesPros Entertainment đã chứng nhận sự kiện Vol.1 sẽ được tổ chức vào ngày 25 tháng 1 năm 2014. Vào ngày 21 tháng 3 năm 2014, Uchida được chọn vào thành viên chính thức tốt nghiệp khóa một của khóa học công ty rạp hát Matsumoto Kazumi. Từ tháng 10 năm 2014, cô đóng vai chính trong bộ phim tokusatsu "Kamen Rider Drive" của TV Asahi với vai nữ chính, Kiriko Shijima. |
Trạm Vostok (tiếng Nga: ста́нцияВосто́к, phát âm là [ˈstant͡sɨjə vɐˈstok], có nghĩa là "Trạm phía Đông") là một trạm nghiên cứu của Nga ở vùng đất Princess Elizabeth Land, Nam Cực. Được thành lập bởi Liên Xô vào năm 1957, trạm nằm ở Cực lạnh phía nam, với nhiệt độ tự nhiên được đo thấp nhất trên Trái đất là −89.2 °C (−128,6 °F). Nghiên cứu bao gồm khoan lõi băng và từ kế. Vostok (tiếng Nga đại diện cho 'phía đông') được đặt theo tên của "Vostok", con tàu dẫn đầu của Đoàn thám hiểm Nam Cực đầu tiên của Nga do Fabian von Bellingshausen chỉ huy.
Trạm nghiên cứu Vostok có cự ly khoảng 1301 km từ cực nam địa lý, ở giữa tấm băng Nam Cực.
Vostok tọa lạc gần phía nam cực bất khả tiếp cận và cực địa từ trường, khiến nó trở thành một trong những nơi tối ưu để quan sát những thay đổi trong từ trường của Trái đất. Các nghiên cứu khác bao do nhật xạ, địa vật lý, y học và khí hậu học.
Trạm nằm độ cao 3488 m trên mực nước biển và là một trong những trạm nghiên cứu được thành lập biệt lập nhất trên lục địa Nam Cực. Trạm được cung cấp từ trạm Mirny trên bờ biển Nam Cực. Trạm thường tiếp đón 30 nhà khoa học và kỹ sư vào mùa hè. Vào mùa đông, số lượng giảm xuống còn 15 người. |
Giả thuyết Oppermann là bài toán chưa giải trong toán học về sự phân phối của các số nguyên tố. Nó có quan hệ gần gũi nhưng mạnh hơn giả thuyết Legendre, giả thuyết Andrica, và giả thuyết Brocard. Nó được đặt tên theo nhà toán học Đan Mạch Ludvig Oppermann, người đề xuất nó trong bài giảng chưa xuất bản trong tháng 3 năm 1877.
Giả thuyết phát biểu rằng, cho mọi số nguyên "x" 1, tồn tại ít nhất một số nguyên tố nằm giữa
"x"("x" − 1) và "x"2,
và một số nguyên tố khác nằm giữa
"x"2 và "x"("x" + 1).
Sử dụng hàm đếm số nguyên tố, ta cũng có thể phát biểu rằng giá trị hàm tại từng điểm mút của khoảng phải khác nhau Nghĩa là:
"π"("x"2 − x) "π"("x"2) "π"("x"2 + "x") for "x" 1
trong đó "π"("x") đếm số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng "x".
Nếu giả thuyết, thì khoảng cách giữa hai số nguyên tố sẽ có cấp
Điều này có nghĩa rằng sẽ có ít nhất hai số nguyên tố nằm giữa "x"2 và ("x" + 1)2 (một trong khoảng "x"2 tới "x"("x" + 1) và cái còn lại trong khoảng "x"("x" + 1) tới ("x" + 1)2), mạnh hơn giả thuyết Legendre rằng có ít nhất một số nguyên tố trong khoảng này. Bởi có ít nhất một số không phải nguyên tố giữa hai số nguyên tố lẻ nên đồng thời cũng suy ra giả thuyết Brocard rằng có ít nhất bốn số nguyên tố nằm giữa bình phương của hai số nguyên tố lẻ. Đồng thời, nó cũng suy ra rằng khoảng cách lớn nhất có thể giữa hai số nguyên tố liên tiếp phải tỷ lệ với hai lần của bình phương của hai số đó, giống với phát biểu của giả thuyết Andrica.
Giả thuyết cũng đồng thời sẽ chỉ ra rằng sẽ có ít nhất một số nguyên tố nằm trong mỗi góc quay một phần tử của đường xoắn Ulam.
Kể cả khi "x" bé, số số nguyên tố trong các khoảng của giá thuyết vẫn lớn hơn 1, cho thấy khả năng cao rằng giả thuyết đúng. Tuy nhiên, #đổi , giả thuyết Oppermann vẫn chưa được chứng minh. |
AIM-54 Phoenix là một loại tên lửa không đối không tầm xa, dẫn đường bằng radar của quân đội Mỹ, nó được mang trên máy bay tiêm kích hạng nặng Grumman F-14 Tomcat theo chùm 6 tên lửa.
Tên lửa Phoenix là loại tên lửa không đối không tầm xa duy nhất của Mỹ. Sự kết hợp của tên lửa AIM-54 và hệ thống điều khiển radar AN/AWG-9 trên F-14 Tomcat khiến nó trở thành tên lửa đầu tiên có khả năng tấn công tự động nhiều mục tiêu. Khi phóng tên lửa, phi công sử dụng tên hiệu "Fox Three".
Tên lửa AIM-54 cùng với F-14 Tomcat được Iran và Hải quân Hoa Kỳ sử dụng. Quân đội Mỹ đã ngừng sử dụng AIM-54 Phoenix từ năm 2004 và F-14 từ năm 2006. Chúng được thay thế bởi tên lửa không đối không AIM-120 AMRAAM, trang bị trên F/A-18 Hornet và F/A-18E/F Super Hornet với AIM-120D, phải đến phiên bản mới nhất của tên lửa AMRAAM mới đạt đến tầm bắn tối đa của Phoenix.
Tên lửa AIM-54 đã được sử dụng 62 lần trong không chiến, tất cả là từ Không quân Iran trong chiến tranh Iran-Iraq. Sau khi F-14 bị rút khỏi trang bị của Hải quân Mỹ, AIM-54 chỉ còn trong biên chế của Không quân Iran.
Từ năm 1951, Hải quân Mỹ đã phải nghĩ cách đối phó với nguy cơ từ máy bay ném bom Tupolev Tu-4K 'Bull' có khả năng mang tên lửa chống tàu hoặc bom hạt nhân.
Cuối cùng, trong giai đoạn đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, nỗi lo sợ của Hải quân Mỹ đã được nhân lên gấp bội do sự xuất hiện các phi đội máy bay ném bom Tu-16 Badger và Tu-22M Backfire được trang bị tên lửa hành trình tầm xa, bay bám mặt biển, tốc độ cao, mang được đầu đạn hạt nhân và có khả năng chống lại các biện pháp đối phó điện tử. Những tên lửa này có khả năng tấn công bão hòa hệ thống phòng thủ của hạm đội Hải quân Hoa Kỳ và đe dọa các nhóm tàu sân bay.
Hải quân Hoa Kỳ khi đó cần một máy bay đánh chặn có phạm vi hoạt động xa, thời gian trên không lớn để bảo vệ các nhóm tác chiến tàu sân bay. Douglas F6D Missileer được Douglas đề xuất cho vai trò này và đánh chặn các mối đe dọa từ xa khỏi hạm đội tàu sân bay. Vũ khí đánh chặn dự kiến sẽ là Bendix AAM-N-10 Eagle, một oại tên lửa không đối không có tầm bắn xa chưa từng có khi so sánh với AIM-7 Sparrow. Tên lửa sẽ hoạt động ựa trên radar Westinghouse AN/APQ-81. Dự án tên lửa tuy nhiên đã bị hủy bỏ vào tháng Mười hai năm 1960.
Đầu những năm 1960, Hải quân Hoa Kỳ đã tiếp tục nỗ lực tìm giải pháp phòng thủ mới với việc sử dụng F-111B, cùng với đó là phải thiết kế một loại tên lửa mới. Cùng lúc đó, USAF đã Hủy bỏ dự án chế tạo máy bay đánh chặn tốc độ cao cất cánh từ mặt đất North American XF-108 Rapier và Lockheed YF-12, và bỏ dở dự án phát triển tên lửa AIM-47 Falcon khi ấy đang trong giai đoạn phát triển đến mức tương đối hoàn thiện, chỉ thiếu đi nền tảng phóng hiệu quả.
Tên lửa AIM-54 Phoenix, vốn được phát triển dành cho phi đội F-111B, có khung thân với bốn cánh vây hình chữ thập, là phiên bản thu nhỏ của AIM-47.
Chương trình F-111B bị hủy bỏ vào năm 1968. Hệ thống vũ khí là tên lửa AIM-54, cùng với radar AWG-9, đã được tích hợp sang dự án máy bay đánh chặn mới của Hải quân Mỹ, dự án VFX, mà sau này là máy bay tiêm kích hạng nặng F-14 Tomcat.
AIM-54 Phoenix cũng được sử dụng trên máy bay ném bom Avro Vulcan của Không quân Hoàng gia Anh. Việc này dẫn đến sửa đổi lớn đối với hệ thống radar của Vulcan.
Vào năm 1977, các tên lửa Phoenix đã được nâng cấp đáng kể lên phiên bản AIM-54C, giúp đối phó tốt hơn với các mối đe dọa tiềm tàng từ máy bay chiến đấu chống tàu và tên lửa hành trình chống tàu, nâng cấp khả năng lập trình lại bộ nhớ.
Sử dụng trong chiến đấu và so sánh với các hệ thống vũ khí khác.
Tổ hợp vũ khí AIM-54/AWG-9 có khả năng theo dõi nhiều mục tiêu đồng thời (tới 24 mục tiêu) và phóng đồng thời tới 6 đạn tên lửa, tên lửa với khối lượng được trang bị đầu đạn thông thường.
Khi trang bị đủ 6 tên lửa AIM-54 lên F-14 sẽ đi kèm với các ray phóng tên lửa nặng hơn , gấp hai lần trọng lượng của tên lửa Sparrows, vượt quá tải trọng quay về cho phép (cũng sẽ bao gồm lượng nhiên liệu đủ cho quá trình cơ động). Do đó, việc mang sáu tên lửa Phoenix đồng nghĩa với cần phải bỏ ít nhất một vài tên lửa Phoenix nếu không được sử dụng. Trang bị thường thấy nhất là hai tên lửa Phoenix kế hợp với ba tên lửa AIM-7 Sparrow và hai tên lửa AIM-9 Sidewinder.
Hầu hết các máy bay khác của quân đội Mỹ đều sử dụng tên lửa tầm trung dẫn đường bằng radar bán chủ động AIM-7 Sparrow nhỏ hơn. Dẫn đường bằng radar bán chủ động đồng nghĩa với máy bay sẽ không thể tìm kiếm mục tiêu khác khi phải liên tục chiếu sáng mục tiêu cho tên lửa Sparrow, dẫn đến làm giảm khả năng nhận biết tình huống.
Radar của F-14 Tomcat có khả năng theo dõi tới 24 mục tiêu trong chế độ vừa bám mục tiêu vừa quét mục tiêu khác (track-while-scan), với radar AWG-9 có khả năng chọn ra sáu mục tiêu nguy hiểm nhất cho tên lửa. Phi công hoặc sĩ quan đánh chặn radar (radar intercept officer (RIO)) sẽ phóng tên lửa sau khi các thông số đánh chặn cho phép. Phi công phóng tên lửa nhưng radar sẽ vẫn tiếp tục tìm kiếm mục tiêu mới, dẫn đến duy tri nhận thức tình huống về không gian chiến đấu.
F-14 có khả năng chia sẻ thông tin với máy bay cảnh báo sớm E-2C Hawkeye qua đường kết nối Link 4. Hệ thống trao đổi dữ liệu Link 4A được giới thiệu trong chiến dịch Lá chắn sa mạc năm 1990, cho phép F-14 có khả năng liên kết dữ liệu với các máy bay chiến đấu khác, nâng cao hơn nữa khả năng nhận thức chiến trường. Phiên bản F-14D còn đi vào trang bị với JTIDS giúp phi công nhận thức tình huống tốt hơn nữa.
Chế độ dẫn đường.
Tên lửa Phoenix có nhiều chế độ dẫn đường và nó đạt được tầm bay xa bằng cách cập nhật giữa hành trình từ radar AWG-9 trên F-14A/B radar (Radar APG-71 trên F-14D) khi nó bay hành trình ở độ cao và ở tốc độ gần Mach 5. Tên lửa bay hành trình ở độ cao này nhằm tối đa hóa tầm hoạt động do lực cản không khí giảm. Khi cách mục tiêu khoảng , nó sẽ bật radar của mình để tự dẫn đường ở pha cuối. Phạm vi giao chiến tối thiển là khoảng ; ở cự ly này, việc chiếu rọi bằng radar trên tên lửa sẽ bắt đầu ngay khi phóng tên lửa.
– Islamic Republic of Iran Air Force
– United States Navy: Loại biên từ năm 2004
Đặc tính kỹ thuật.
Đặc tính kỹ thuật của tên lửa: |
Hiển Khánh Vương () là cha của Lý Thái Tổ. Có rất ít thông tin về ông, vì ông không không được ghi chép nhiều trong lịch sử. Ngay cả tên thật của ông vẫn còn là một bí ẩn.
Dòng dõi họ nội của Lý Thái Tổ không được ghi chép lại trong chính sử của Việt Nam, chỉ biết cha ông là người gốc Phúc Kiến. "Mộng Khê bút đàm" của Thẩm Quát cũng ghi lại rằng Lý Thái Tổ vốn là người gốc Phúc Kiến.
Theo truyền thuyết, Lý Thái Tổ không có cha. Mẹ ông là người họ Phạm, mang thai và sau đó sinh Lý Thái Tổ tại chùa Cổ Pháp. Lý Khánh Văn (李慶文), là vị sư trụ trì chùa, đã nhận nuôi ông và đặt tên là Lý Công Uẩn.
Sau khi Lý Công Uẩn trở thành vua, ông đã truy tôn cha mình là Hiển Khánh vương (顯慶王).
Nghiên cứu hiện đại.
Nhà sử học Trung Quốc Lý Thái Sơn (李泰山) đã phát hiện ra một ghi chép trong gia phả của gia tộc họ Lý ở An Hải, Phúc Kiến về cha của Lý Công Uẩn là Lý Thuần An (, 9 tháng 10 năm 921 – 29 tháng 11 năm 999#đổi ). Các tư liệu lịch sử đều không thống nhất trong việc liệu mẹ của Lý Công Uẩn là Phạm Thị Ngà đã sinh ông ở Phúc Kiến hay Giao Chỉ.
Lý Thuần An được cho là con trai cả trong gia đình có hai anh em trai. Bố của ông là Lý Tung. Sau khi Lý Tung bị vu oan và bị xử tử vào năm 948 dưới thời nhà Hậu Hán, Lý Thuần An đã trốn tới Tuyền Châu và chịu sự quản thúc của Lưu Tùng Hiệu.
Ông sau đó tới sống tại trấn An Hải, Tuyền Châu và giữ chức "thuỷ lục chuyển vận sứ" (水陸轉運使). Một thời gian sau, ông từ chức, và tới Giao Chỉ (ngày nay là Việt Nam), Chăm Pa và Đế quốc Khmer bằng đường biển để buôn bán. Ông có một vài người con, trong đó có Lý Công Uẩn, sau này trở thành hoàng đế sáng lập của nhà Lý. |
Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2023
Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2023 (tên chính thức là Formula 1 Etihad Airways Abu Dhabi Grand Prix 2023) là một chặng đua Công thức 1 dự kiến được tổ chức vào ngày 26 tháng 11 năm 2023 tại trường đua Yas Marina, Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và là chặng đua thứ 22 và cuối cùng của giải đua xe Công thức 1 2023.
Bảng xếp hạng trước cuộc đua.
Sau giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (273 điểm) và Lewis Hamilton (232 điểm) với 549 điểm. Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua trước Mercedes (392 điểm) và Ferrari (388 điểm) với 822 điểm.
Lựa chọn bộ lốp.
Nhà cung cấp lốp xe Pirelli sẽ cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này.
Trong buổi tập đầu tiên, chín đội sẽ thay thế một trong những tay đua chính của đội với một tay đua dự bị của đội: Théo Pourchaire sẽ thay thế Chu Quán Vũ tại Alfa Romeo, Jack Doohan thay thế Esteban Ocon tại Alpine, Felipe Drugovich thay thế Fernando Alonso tại Aston Martin, Robert Shwartzman thay thế Charles Leclerc tại Ferrari, Oliver Bearman thay thế Nico Hülkenberg tại Haas, Pato O'Ward thay thế Lando Norris tại McLaren, Frederik Vesti thay thế Lewis Hamilton tại Mercedes, Jake Dennis và Isack Hadjar thay thế Max Verstappen và Sergio Pérez tại Red Bull Racing và Zak O'Sullivan thay thế Alexander Albon tại Williams. Ngoài ra, đây sẽ là lần đầu tiên Dennis và O'Sullivan tham gia một buổi tập Công thức 1. Sau khi buổi tập đầu tiên kết thúc, George Russell đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:26,072 phút trước Drugovich và Daniel Ricciardo.
Trong buổi tập thứ hai, Leclerc đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:24,809 phút trước Norris và Verstappen.
Trong buổi tập thứ ba, Russell đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:24,418 phút trước Norris và Piastri.
Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, Carlos Sainz Jr., cả hai tay đua Alfa Romeo và Logan Sargeant bị loại.
Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của vòng phân hạng (Q3). Verstappen là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, Hamilton, Ocon, Lance Stroll, Albon và Ricciardo bị loại.
Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua chính được xác định sẵn. Verstappen giành vị trí pole với thời gian nhanh nhất là 1:23,445 phút trước Leclerc và Piastri.
Sau khi bắt đầu cuộc đua, Leclerc đã thách thức Verstappen để giành vị trí dẫn đầu tại khúc cua đầu tiên, nhưng Verstappen cuối cùng vẫn giữ được vị trí đầu tiên của mình. Verstappen từ từ tạo ra khoảng cách giữa mình và Leclerc khiến Leclerc phải cầm chân cả hai tay đua McLaren ở phía sau. Sau đó trong cuộc đua, tất cả các tay đua xuất phát với bộ lốp trung bình đều vào làn pit để đổi lốp ngoại trừ Yuki Tsunoda, người đã dẫn đầu cuộc đua một vài vòng cho đến vào làn pit ở vòng đua thứ 23. Russell tiếp tục giữ vững vị trí thứ ba sau Leclerc. Trong mười vòng đua cuối cùng, Pérez đấu với Lando Norris để giành vị trí thứ tư. Cả hai đã va chạm với nhau và Pérez sau đó nhận một án phạt năm giây vì gây ra vụ va chạm này.
Leclerc đang chạy thoải mái ở vị trí thứ hai nhưng vị trí thứ ba của Russell và vị trí thứ chín của Lewis Hamilton đủ để giúp Mercedes dẫn trước Ferrari ba điểm trên bảng xếp hạng các đội đua. Mặc dù Carlos Sainz đang chạy ở vị trí thứ 10 vào thời điểm đó, nhưng anh ấy chỉ đổi lốp một lần và cuối cùng, anh sẽ đổi lốp một lần nữa khiến anh văng ra ngoài các vị trí tính điểm. Khi cuộc đua sắp kết thúc, Pérez đã vượt qua Russell nhưng Russell tiếp tục duy trì khoảng cách dưới năm giây để giữ vị trí thứ ba sau khi án phạt của Pérez được áp dụng. Leclerc cố tình giảm tốc để Pérez vượt qua và cuối cùng để về đích ở vị trí thứ hai, cùng với hy vọng đẩy Russell khỏi vị trí thứ ba. Tuy nhiên, Russell vẫn cố gắng bám sát Leclerc đủ gần và chính thức về đích ở vị trí thứ ba sau khi án phạt của Pérez được áp dụng.
Cuối cùng thì Verstappen giành chiến thắng cuộc đua này trước Leclerc và Russell. Mặc dù Pérez về đích ở vị trí thứ hai, anh bị tụt xuống vị trí thứ tư vì án phạt năm giây sau vụ va chạm với Norris. Các tay đua còn lại ghi điểm tại cuộc đua này là Pérez, Norris, Piastri, Alonso, Tsunoda, Hamilton và Stroll. |
Shalwar kameez hay Salwar kameez, là một loại trang phục kết hợp truyền thống được mặc bởi phụ nữ và ở một số vùng được nam giới mặc, ở Nam Á và Trung Á
"Salvar" là loại quần rộng rãi giống như đồ ngủ. Chân rộng ở phía trên và hẹp ở mắt cá chân. Kameez là một chiếc áo sơ mi hoặc áo dài, thường có cổ kiểu phương Tây; tuy nhiên, đối với trang phục dành cho nữ, thuật ngữ này hiện được áp dụng một cách lỏng lẻo cho kurta không cổ hoặc có cổ đứng. Kameez cũng có thể được mặc cùng với đồ ngủ để tạo sự thoải mái hoặc thời trang. Một số kiểu kameez có đường may bên hông (được gọi là "chaak"), để hở bên dưới vòng eo, giúp người mặc tự do di chuyển hơn. |
Hương Giang (nghệ sĩ ưu tú)
Hương Giang (sinh ngày 9 tháng 9 năm 1976) là thượng tá, ca sĩ người Việt Nam, được phong tặng Nghệ sĩ ưu tú năm 2016. Hiện nay, cô là giảng viên thanh nhạc tại trường Đại học Văn hoá - Nghệ thuật Quân đội.
Hương Giang, tên thật là Nguyễn Thị Hương Giang, sinh trong một gia đình có truyền thống hoạt động nghệ thuật ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông bà nội của cô lập gánh hát từ sớm để phục vụ nhân dân và bộ đội. Chú ruột của cô là nhạc sĩ An Thuyên. Gia đình cô có 9 anh chị em, trong đó anh cả là Nghệ sĩ nhân dân An Phúc, một nghệ sĩ chèo nổi tiếng.
Cô theo học thanh nhạc tại Trường Văn hóa Nghệ thuật Quân đội từ năm 1994 đến năm 1997. Sau khi tốt nghiệp, cô tình nguyện về công tác tại Đoàn nghệ thuật Quân khu 9 và gắn bó với đơn vị này trong 6 năm. Năm 2003, cô tiếp tục theo học tại trường Đại học Văn hoá - Nghệ thuật Quân đội và tốt nghiệp năm 2008. Sau khi ra trường, cô chuyển sang công tác tại Nhà hát Quân đội. Tại đây, cô tiếp tục được rèn luyện và phát triển tài năng ca hát, đồng thời tham gia biểu diễn nhiều chương trình nghệ thuật lớn của Bộ Quốc phòng và Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 2014, cô được bổ nhiệm làm giảng viên Thanh nhạc tại trường Đại học Văn hoá - Nghệ thuật Quân đội.
Tháng 6 năm 2023, Cô kết hôn với nhà báo Vương Xuân Nguyên. |
Dẫn đường bằng radar chủ động
Active radar homing (ARH) hay còn gọi là Dẫn đường bằng radar chủ động là một phương pháp điều khiển tên lửa mà tên lửa bản thân nó có lắp bộ phận phát/thu tín hiệu radar (đối lập với dẫn đường bằng radar bán chủ động, mà chỉ có bộ phận thu tín hiệu và các thiết bị điện tử cần thiết để tìm và theo dõi mục tiêu tự động. Mã hiệu của NATO cho loại tên lửa này khi phóng là "fox three".
Tên lửa mang đầu dò radar chủ động có hai ưu điểm chính:
Dẫn đường radar bị động.
Nhiều tên lửa có dẫn đường radar bị động có thêm khả năng sau: nếu như mục tiêu sử dụng nhiễu noise, tên lửa sẽ được dẫn đường đến mục tiêu bằng cách hướng thẳng vào nguồn phát nhiễu một cách bị động (home-on-jam).
Tên lửa dẫn đường bằng radar chủ động thường sử dụng thêm nhiều phương pháp dẫn đường khác. Trong pha cuối tiếp cận mục tiêu tên lửa sử dụng đầu dẫn đường bằng radar chủ động do bộ phận thu/phát tín hiệu radar phải đủ nhỏ để lắp vừa trong tên lửa và radar được cấp điện từ pin, do đó, có ERP thấp, tầm của tên lửa bị giới hạn. Để khắc phục điều này, phần lớn các tên lửa sử dụng kết hợp điều khiển bằng lệnh với hệ thống định vị tuyến tính (inertial navigation system-INS) giúp tên lửa bay vào tiếp cận mục tiêu đủ gần để có thể tự phát hiện và bắt mục tiêu. Do đó tên lửa cần phải cập nhật dữ liệu dẫn đường cập nhật thông qua datalink từ máy bay mẹ cho đến khi tiếp cận được mục tiêu, trong trường hợp mục tiêu liên tục cơ động, tên lửa có khả năng bay đến vị trí đã định nhưng mục tiêu đã không còn ở vị trí đó. Đôi khi nền tảng phóng (đặc biệt là từ máy bay tiêm kích) sẽ gặp nguy hiểm khi phải giữ liên tục điều khiển tên lửa cho đến khi nó có thể tự hoạt động. Có thể sử dụng một máy bay khác dẫn đường cho tên lửa tiếp cận mục tiêu thay vì máy bay mang phóng tên lửa, ví dụ như sử dụng máy bay chiến đấu khác hoặc có thể là máy bay cảnh báo sớm.
Phần lớn các tên lửa chống tàu sử dụng dẫn đường bằng radar chủ động giai đoạn cuối.
Các tên lửa ARH chống mục tiêu mặt đất hoặc mặt biển sử dụng dẫn đường sóng milimet. |
Subsets and Splits