text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Biểu tình tại Việt Nam nói đến các hoạt động biểu tình diễn ra tại Việt Nam trong lịch sử. Do đặc điểm văn hóa, chính trị và tôn giáo, biểu tình ở Việt Nam tùy theo từng thời kỳ và địa phương mà diễn ra với các quy mô và tần suất khác nhau. Hiện nay, ở Việt Nam, báo chí có thể không dùng từ "biểu tình" mà ám chỉ bằng "tập trung đông người" (khiếu kiện), "tụ tập gây rối" (trật tự trị an). Lịch sử. Khi xã hội Việt Nam bắt đầu manh nha ý thức dân chủ từ thời Pháp thuộc trước năm 1945, biểu tình đã bắt đầu diễn ra. Từ khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, cùng với sự chuyển biến từ chế độ phong kiến hà khắc (nơi biểu tình đồng hành với khởi nghĩa của nông dân) sang chế độ của nước bị thực dân, xã hội đã dần dần hình thành các điều kiện để có biểu tình. Xã hội du nhập các tư tưởng tự do của Phương Tây (đặc biệt từ Pháp), theo đó người dân có quyền bày tỏ tư tưởng của mình. Dưới sự bóc lột của Thực Dân Pháp, phẫn nộ vì đất nước bị đô hộ, ảnh hưởng bởi các phong trào như Duy Tân tại Nhật Bản, nhiều các phong trào vận động đã diễn ra. Điển hình như phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Đồng thời các Đảng phái được tự do thành lập, các phong trào đã bắt đầu có tổ chức. Hai cuộc biểu tình tiêu biều nhất trong thời kỳ này là: Biểu tình khởi đầu cho phong trào Xô Viết Nghệ tĩnh do Đảng Cộng sản khởi động kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930 tại ngã ba Bến Thủy, thành phố Vinh. và biểu tình ngày 19/8/1945 do Việt Minh tổ chức tiến tới Cách mạng tháng Tám dành độc lập. Khi Việt Nam giành được độc lập 1945 từ thực dân Pháp, cùng với việc áp dụng chế độ nhà nước Cộng hòa, quyền biểu tình đã được ghi vào hiến pháp và công nhận. Ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 31 công nhận quyên biểu tình của người dân. "Điều thứ 1: Những cuộc biểu tình phải khai trình trước hai mươi bốn giờ với các Ủy ban nhân dân sở tại trong thời kỳ này" .Trong giai đoạn 1954 đến 1975, khi Việt Nam bị chia cắt với hai chế độ xã hội khác nhau. Miền Bắc theo chủ nghĩa xã hội, do điều kiện chiến tranh và xã hội, sau cải cách ruộng đất, chưa có cuộc biểu tình nào được ghi nhận. Ngược lại, tại miền nam, với chế độ Việt Nam Cộng Hòa, người dân được quyền Biểu tình. Các phong trào biểu tình chống chế độ, chống chiến tranh của các tầng lớp Tăng lữ, Sinh viên, trí thức... đã góp phần làm thay đổi xã hội, thay đổi nhận thức của cộng đồng quốc tế về cuộc chiến tranh phi nghĩa. Cuộc biểu tình lớn trong thời kỳ này phải kể tới Biến cố Phật giáo, 1963 làm thay đổi chính trị tại Việt Nam Cộng Hòa năm 1963. Uy tính của chính quyền Ngô Đình Diệm bị suy giảm nghiêm trọng do sự đàn áp các đợt biểu tình của giới Phật giáo, dẫn tới đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hoà ở miền Nam Việt Nam. Nhìn chung, không khí chính trị tại Miền Nam Việt Nam là cởi mở, các cuộc tập hợp lực lượng chống chính quyền Sài Gòn diễn ra khá sôi nổi và phổ biến, nhất là phong trào đô thị. Nhiều cuộc biểu tình là do những người Cộng sản miền Nam Việt Nam cài người tổ chức, chi tiết xem thêm phần Chính trị thuộc Chiến tranh Việt Nam (miền Nam, 1954-1959). Sau năm 1975, Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Dưới chế độ quản lý chặt chẽ của công an, không có đợt biểu tình nào nổ ra. Khi Việt Nam bắt đầu mở cửa cải cách, mức sống của người dân được nâng cao nhưng không có chuyển biến về chính trị, các hoạt động biểu tình không diễn ra quá nhiều. Tiêu biểu là cuộc biểu tình tại tỉnh Thái Bình năm 1997 hay tại Tây Nguyên vào năm 2001. Thực chất một số các phong trào biểu tình có tác động của các yếu tố nước ngoài, gây nên diễn biến hòa bình, đe dọa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Truyền thông e ngại dùng từ "biểu tình" mà thường dùng những từ như "tập trung đông người" (khiếu kiện), "tụ tập gây rổi" (trật tự trị an). Vụ "biểu tình của quần chúng ở Thái Bình" năm 1997 cho thấy có một bước thay đổi về nhận thức. Lúc đầu chỉ thấy tính chất "gây rối" hay "chống đối" chính quyền,về sau này, do các nhà lãnh đạo trung ương dám tiếp cận, sâu sát với thực tế và gần dân nên nhận ra cả hai mặt tiêu cực và tích cực. Cùng với những động thái của Trung Quốc tại Biển Đông, từ năm 2007 một loạt các đợt biểu tình đã diễn ra chống lại những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại biển Đông, kêu gọi lòng yêu nước. Đồng thời một số cuộc biểu tình diễn ra vì kiện cáo đất đai, đặc biệt là do người dân nhiều khu vực bị các chính quyền địa phương lấy đất làm khu công nghiệp hoặc khu đô thị nhưng không được đền bù thỏa đáng nên biểu tình. Tiêu biểu là các cuộc biểu tình tại Tiên Lãng và Văn Giang. Đặc điểm của các cuộc biểu tình gần đây ở Việt Nam là chủ yếu tự phát, không có mục đích tổ chức rõ ràng. Ở Việt Nam không cho phép thành lập Đảng đối lập lại với Đảng Cộng sản, việc hình thành các tổ chức xã hội không chịu sự quản lý của Đảng Cộng sản là không thể. Chính quyền Việt Nam cũng tìm nhiều cách ngăn cản các cuộc biểu tình này đi quá giới hạn, gọi đó có thể gây ảnh hưởng tới quan hệ hữu hảo của Việt Nam với Trung Quốc. Công An tiến hành bắt giữ hàng chục người và sử dụng bạo lực . Việt Nam hiện tại chưa có luật Biểu tình, mặc dù hiến pháp cho phép biểu tình. Điều 25, Hiến pháp 2013 quy định: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật". Đề xuất có Luật Biểu tình đã đưa ra từ lâu, và cũng được khẳng định tính cấp thiết, tuy nhiên dự thảo Luật chưa được thông qua (thời điểm 2012). Do không có Luật quy định, người biểu tình rất dễ bị quy vào tội "tụ tập đông người", "gây rối trật tự công cộng" theo Nghị định 38 của Chính phủ ban hành năm 2005. Một số sự kiện. Biểu tình ở Nghệ An 1956. Ngày 10/11/1956, khoảng 10,000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Nhưng ngay lúc đó, chính quyền đã điều động 2 đại đội chủ lực và một đại đội công an có vũ trang huyện Diên Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra, có tiếng súng và lựu đạn nổ. Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội và công an. Đêm hôm đó, chính quyền đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường, biểu tình bị dập tắt. Biểu tình chống Trung Quốc. Hàng trăm người đã biểu tình ôn hòa ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh hôm chủ nhật ngày 9 tháng 12 năm 2007, phản đối việc Trung Quốc lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa nhằm quản lý quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa. Sau đó, ngày 16/12/2007, biểu tình tiếp tục diễn ra. Công an tiến hành tạm giữ và thẩm vấn 5 người biểu tình. Tháng 6 năm 2011, một loạt các cuộc biểu tình hòa bình chống Trung Quốc diễn ra tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh phản đối hoạt động của Trung Quốc tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam cũng như yêu sách đường chín đoạn của Bắc Kinh tại Biển Đông. Ngày 1/7/2012 và 8/7/2012, tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh lại tiếp tục diễn ra biểu tình chống Trung Quốc. Sáng Chủ nhật ngày 11 tháng 5 năm 2014 tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh đã diễn ra các cuộc biểu tình phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố thuộc Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các vụ biểu tình liên quan đến cưỡng chế đất đai. Vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay là một trong những nguyên nhân chính của khiếu nại và biểu tình là đất đai. Luật Đất đai chưa được sửa đổi các quy định liên quan đến giá đền bù đất đai, nên nhiều chính quyền địa phương có thể thu hồi đất của người dân và đền bù với giá rất thấp theo bảng giá thấp hơn nhiều so với giá thực tế thị trường. Nhiều nơi đền bù với giá rẻ mạt sau đó nhà đầu tư xây khu đô thị hay công nghiệp, bán lại với giá cao hơn nhiều lần. Điều này gây bức xúc cho những người dân bị thu hồi đất làm dự án. Một loạt các vụ biểu tình nhằm mục đích chống lệnh thu hồi đất của chính quyền vì cho rằng giá đền bù không thỏa đáng, điển hình: Tính pháp lý. Tại Việt Nam, quyền biểu tình được ghi trong Hiến pháp tại điều 25, Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 1946 chỉ quy định công dân Việt Nam có quyền tự do tổ chức và hội họp. Nhưng từ Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 và 2013 đều quy định công dân Việt Nam có quyền biểu tình. Ngày 30 tháng 5 năm 2014, dự án luật biểu tình đã được đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của quốc hội, dự kiến được thông qua cuối năm 2015. Tuy vậy, tính đến tháng 6 năm 2018, Dự Luật Biểu tình vẫn chưa được trình lên Quốc hội. Ngày 19 tháng 6 năm 2018, báo Tuổi Trẻ đưa bài viết dẫn phát ngôn của Chủ tịch nước Trần Đại Quang: "Cần luật Biểu tình, sẽ báo cáo Quốc hội ban hành". Sau 3 tiếng đồng hồ, nội dung bài đã được sửa lại, và không còn bất kỳ phát ngôn nào của ông Quang về luật Biểu tình. Người đọc chỉ còn thấy Chủ tịch Quang nói những vụ việc nghiêm trọng xảy ra tại Bình Thuận, TP.Hồ Chí Minh" là do các đối tượng chống đối, kích động, lôi kéo."
1
null
Đất mặn là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh do Nguyễn Tường Phương làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 17h30 hàng ngày bắt đầu từ ngày 2 tháng 7 năm 2012 và kết thúc vào ngày 1 tháng 8 năm 2012 trên kênh HTV9. Nội dung. "Đất mặn" xoay quanh hai nhân vật chính là Ba Mạnh (Thạch Kim Long) và Sáu Trung (Mạnh Hùng) – một thế hệ nông dân Lung Tượng, sẵn sàng hy sinh thân mình vì "Đất". Họ là hai người bạn, hai người đồng chí từng đứng cùng chiến tuyến trong thời chiến: một Ba Mạnh nông dân rất yêu đất, quyết tâm giữ gìn mảnh đất cha ông; một Sáu Trung phóng viên chiến trường gan dạ, trở về làm quan chức nhà nước, nhưng vì danh lợi mà quay lưng với người dân nghèo. Cuộc chiến giữ đất dần dần trở nên gay gắt khi những chủ trương, chính sách mới được đưa ra, kéo người nông dân dần rời xa mảnh đất cha ông của họ để nhường chỗ cho những dự án sân golf, phát triển đô thị. Những toan tính, thù hận len lỏi, chia rẽ người nông dân vốn một thời cùng chung lưng đấu cật trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng dần tăng lên... Diễn viên. Cùng một số diễn viên khác...
1
null
Samuel Lloyd Lacia Milby (sinh năm 1984), nghệ danh là Sam Milby, là một diễn viên, người mẫu, nghệ sĩ ghi âm người Mỹ gốc Philippines. Anh hiện đang làm việc cho hãng phim ABS-CBN và là người dẫn chương trình truyền hình Pinoy Big Brother. Tiểu sử. Milby sinh ngày 23 tháng 5 năm 1984, tại Troy, bang Ohio, Mỹ. Cha anh là người Mỹ còn mẹ anh là người Philippines. Anh là người Mỹ gốc Phillipines. Anh sinh ra và lớn lên ở Mỹ. Đến năm 2005 thì trở về Phillipines để phát triển sự nghiệp. Ban đầu khi đến Phillipine anh làm việc cho một công ty thương mại trước khi tham dự game-show Pinoy Big Brother (một phiên bản show Big Brother). Hiện tại anh là diễn viên, ca sĩ, người dẫn chương trình cho hãng ABS-CBN. Sam Milby đã từng hẹn hò với người mẫu Rosa Avila, con gái của Đại sứ Mỹ Cynthia Avila. Mối quan hệ này kéo dài trong 3 năm. Anh cũng từng là người mẫu cho nhãn hàng kem đánh răng Close-Up và là người mẫu cho Malox. Là một ca sĩ,anh đã phát hành 4 album:"Sam Milby","Love Duets","A Little Too Perfect","Be Mine".Anh được coi là một tài năng trẻ của Philippines.
1
null
"Houdini" là ca khúc của nhóm nhạc indie pop Foster The People trích từ album đầu tay Torches. Được viết bởi trưởng nhóm, Mark Foster, ca khúc được phát hành lần đầu tiên như một đĩa đơn mở rộng chỉ riêng ở Anh vào 1 tháng 4 năm 2011. Sau đó, ca khúc được chọn làm đĩa đơn thứ sáu cho album Torches vào 15 tháng 5 năm 2012. Ca khúc còn xuất hiện trong phần nhạc của trò chơi "SSX" và trong tập "Yes, Then Zero" của bộ phim "Gossip Girl". Biểu diễn thực tế. Ban nhạc biểu diễn "Houdini", cùng với Pumped Up Kicks ở trên "Saturday Night Live" vào 8 tháng 10 năm 2011. Nghệ sĩ saxophone Mĩ Kenny G là khách mới cho phần trình diễn "Houdini". Video âm nhạc. Video âm nhạc cho "Houdini" được công chiếu trên YouTube vào 25 tháng 4 năm 2012. Nội dung video là về việc Foster the People bị đè bẹp bởi giàn ánh sáng rơi xuống trong lúc họ đang diễn tập cho buổi biểu diễn ngày hôm sau. Gã quản lý của họ phát hiện ra và dùng các trợ lý của mình để di chuyển cho chân tay họ hoạt động. Gã thuê một số nhà khoa học tới và biến họ trở thành người máy. John Ducey đóng vai nhân viên y tế trong video này.
1
null
An ca lớn (danh pháp hai phần: Pinguinus impennis) là một loài chim trong họ Alcidae. An ca lớn là một loài an ca lớn, không bay đã bị tuyệt chủng trong giữa thế kỷ 19. Đó là loài an ca hiện đại duy nhất trong chi "Pinguinus", một nhóm các loài chim trước đây là bao gồm một loài an ca khổng lồ nữa có thể bay ở khu vực Đại Tây Dương. Chúng sinh sản trên các hải đảo cô lập, mặt đá có thể dễ dàng tiếp cận đại dương và nguồn thực phẩm cung cấp phong phú, địa điểm sinh sống hiếm có trong tự nhiên cung cấp một nơi sinh sản cho loài an ca lớn. Khi không sinh sản, an ca lớn đã dành thời gian tìm kiếm thức ăn trong các vùng biển Bắc Đại Tây Dương, phân bố xa về phía nam đến Anh và phía bắc Tây Ban Nha thông qua Canada, Greenland, Iceland, quần đảo Faroe, Na Uy, Ireland, và Anh.
1
null
Mòng biển chân vàng (danh pháp hai phần: "Larus michahellis") là một loài chim thuộc họ Laridae. Mòng biển chân vàng là một loài mòng biển lớn của châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi, chỉ gần đây mới được công nhận rộng rãi là một loài riêng biệt. Trước đây nó được coi là phân loài của một trong hai loài là mòng biển Caspi ("L. cachinnans"), hay rộng hơn như là phân loài của mòng biển cá trích châu Âu ("L. argentatus"). Nó được đặt tên để vinh danh nhà động vật học người Đức là Karl Michahelles.
1
null
Mòng biển California (danh pháp hai phần: Larus californicus) là một loài mòng biển thuộc họ Laridae. Con trưởng thành có bề ngoài ing, nhưng có mỏ nhỏ màu vàng với một vòng xuyến màu đen, chân màu vàng, đôi mắt nâu và đầu tròn hơn. Cơ thể chủ yếu là màu trắng có lưng màu xám và đôi cánh trên. Chim chưa trưởng thành cũng có bề ngoài tương tự mòng biển Herring chưa trưởng thành, với bộ lông nâu hơn loài mòng biển mỏ đeo vòng. Chiều dài có thể dao động từ 46 đến 55 cm, sải cánh dài 122–137 cm và khối lượng cơ thể có thể khác nhau từ 430 đến 1.045 g. Phân bố. Môi trường sống sinh sản của chúng là hồ và đầm lầy trong nội địa phía tây Bắc Mỹ từ Northwest Territories, Canada ở phía nam miền đông California và Colorado (Sibley 2000). Họ làm tổ ở các thuộc địa, đôi khi với các loài chim khác. Tổ là một hố nông trên mặt đất được lót bằng thảm thực vật và lông. Con mái thường đẻ 2 hoặc 3 quả trứng. Cả chim cha và chim mẹ cùng nuôi chim non. Chúng là loài di cư, di chuyển tới bờ biển Thái Bình Dương vào mùa đông. Chỉ lúc đó loài chim này thường xuyên được tìm thấy ở miền tây California (Sibley 2000). Những con chim kiếm thức ăn khi đang bay hoặc trong khi bơi lội, đi bộ hoặc lội nước. Chúng chủ yếu ăn côn trùng, cá và trứng. Chúng cũng nhặt rác tại bãi rác hoặc bến tàu. Chúng có thể theo máy cày trong các cánh đồng có côn trùng khuấy động bởi hoạt động này.
1
null
Raspberry Ketone [4-(4-hydroxyphenyl) butan-2-one; RK], là một hợp chất phenol tự nhiên có trong trái mâm xôi đỏ (red raspberry, tên khoa học là Rubus idaeus L.). Raspberry Ketone là hợp chất làm nên mùi hương chủ yếu của mâm xôi đỏ. Trong tự nhiên. Ở thực vật, raspberry ketone được tổng hợp từ coumaroyl-CoA. Mức chiết xuất xeton mâm xôi nguyên chất thường là 1–4 mg mỗi kg quả mâm xôi. Điều chế. Do độ phong phú tự nhiên của raspberry ketone là rất thấp, nó được điều chế về mặt công nghiệp bằng một loạt phương pháp qua các chất trung gian hóa học. Một trong những cách này có thể được thực hiện thông qua phản ứng hydro hóa xúc tác aldon chéo. Trong axeton và hydroxide natri, 4-hydroxybenzaldehyde có thể tạo thành xeton α β-chưa no. Chất này sau đó đi qua phản ứng hydro hóa xúc tác để sản xuất raspberry ketone. Phương pháp này có hiệu suất tới 99%. RK có cấu trúc tương tự như cấu trúc của capsaicin và synephyrine . Ứng dụng. Raspberry Ketone được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất nước hoa, mỹ phẩm và còn được dùng làm một phụ gia tạo mùi trong thực phẩm. Nó là một trong các thành phần tạo hương vị tự nhiên đắt tiền nhất được sử dụng trong công nghiệp thực phẩm. Hợp chất tự nhiên này có thể có giá thành cao tới $20.000 cho mỗi kg.. Năm 1965, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ xếp raspberry ketone vào loại hợp chất công nhận là an toàn (GRAS = Generally Recognised As Safe). Capsaicin và synephrine đã được báo cáo là có tác dụng bẻ gãy mỡ, đốt mỡ ở những con chuột được cho ăn thức ăn có chứa lượng mỡ cao. Khi xem xét ở gốc độ tương đồng về cấu trúc, RK có tác dụng bẻ gãy và giúp đốt mỡ ở những tế bào mỡ. Ngoài ra, khi cho chuột đực dùng RK ở liều cao, người ta đã chứng minh được rằng RK giúp ngăn chặn tăng cân do chế độ ăn quá nhiều chất béo. Ngoài ra, RK còn cho thấy giúp tăng ly giải mỡ trắng . Tác dụng giảm cân và đốt mỡ của RK được cho là do RK có tạo nên tác dụng đối với Adiponectin. Adiponectin là một trong những adipocytokine quan trọng nhất và do mô mỡ tiết ra. Adiponectin có tác dụng điều chỉnh quá trình chuyển hóa của mỡ và đường. Adiponectin đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cân nặng và ổn định nội môi. Nghiên cứu cho thấy thành phần này có liên quan đến bệnh béo phì và các bệnh về chuyển hóa. Khi cơ thể bạn bị béo phì hoặc bị một loại bệnh do rối loạn chuyển hóa gây ra thì nồng độ Adiponectin trong cơ thể sẽ bị giảm Và mục tiêu của các nghiên cứu thuốc và liệu pháp điều trị bệnh béo phì chính là làm sao để tăng hàm lượng adiponectin được tiết ra. Nghiên cứu đã chứng minh rằng: Tế bào mỡ được nuôi cấy 3T3-L1 preadipocytes, sau 4 ngày được điều trị bằng 10μM RK đã cho thấy đã tăng hàm lượng adiponectin được tiết ra và hàm lượng adiponectin trong tế bào. Nhà sản xuất bổ sung dinh dưỡng Andrew Lessman chỉ trích và phản đối các phương tiện truyền thông đã tiếp thị về lợi ích giảm cân của raspberry ketone và mạnh mẽ cảnh báo chống lại việc sử dụng nó.
1
null
Tổ hợp pháo bờ biển di động 130mm A-222 Bereg (; "Bờ biển") là một tổ hợp pháo bờ biển tự hành 130 mm của Nga, được phát triển từ thập niên 1980 và xuất hiện trước công chúng lần đầu vào năm 1993 tại hội chợ vũ khí ở Abu Dhabi. A-222 được thiết kế để tiêu diệt hay chế áp lực lượng chiến đấu mặt biển hay ven biển của đối phương, ngăn chặn hỏa lực tàu chiến đấu đối phương nhắm vào lực lượng chiến đấu ven biển của ta trong tác chiến chống đổ bộ, tác chiến phòng thủ eo biển và vùng ven biển, cũng như bảo vệ tuyến hàng hải và bãi trú đậu ven bờ. Tổ hợp có thể bắn chính xác các mục tiêu đang cơ động trên biển và trên bờ với tốc độ tới 200 hải lý/giờ. Tổ hợp pháo Bereg gồm xe chỉ huy (CPU), một xe phục vụ chiến đấu (MOBD) và 6 xe pháo tự hành (SAU). Tất cả các xe trên đều đặt trên khung gầm của xe việt dã 8x8 nên có tính cơ động rất cao. Pháo AK-130 đặt trên xe bánh lốp 8x8 MAZ-543 và được thiết kế để tiêu diệt các tàu mặt nước, tàu cao tốc cũng như các mục tiêu trên mặt đất. Tốc độ bắn đạt 12 viên/phút. Đặc điểm. Xe chỉ huy. Xe chỉ huy làm nhiệm vụ chỉ huy hỏa lực cho cả tổ hợp, bao gồm các trang thiết bị sau: đài ra-đa trinh sát, tổ hợp trinh sát quang tuyến truyền hình trang bị máy định tầm la-de và kính ngắm xác định mục tiêu, máy tính phần tử bắn kỹ thuật số, thiết bị kiểm tra và đánh giá kết quả xạ kích, thiết bị mô phỏng phần tử dùng huấn luyện kíp chiến đấu, máy phát điện, các thiết bị hỗ trợ chiến đấu và phục vụ kíp chiến đấu. Hệ thống chỉ huy hỏa lực trên xe có khả năng phát hiện và tính toán phần tử bắn trong môi trường nhiễu tích cực và tiêu cực đối với 4 mục tiêu, chỉ huy tổ hợp xạ kích đồng thời 2 mục tiêu trong số đó. Xe pháo tự hành. Xe pháo tự hành có thể bắn điện theo phần tử của xe chỉ huy hoặc bắn theo phần tử do hệ thống ngắm cơ hữu trên xe (kính ngắm cơ quang, máy tính đạn đạo và máy định tầm la-de) cung cấp. Xe có máy nạp đạn bán tự động dùng cho đạn nguyên khối như đạn phá mảnh mang ngòi nổ đế, đạn phòng không mang ngòi chạm nổ, cũng như các loại đạn huấn luyện và đạn diễn tập khác. Xe phục vụ chiến đấu. Các xe phục vụ chiến đấu cung cấp nguồn điện cho xe chỉ huy và các xe pháo tự hành, cung cấp chỗ ăn, ngủ, nghỉ và sơ cứu cho kíp chiến đấu. Việc cấp nguồn điện cho tổ hợp do 2 máy phát đi-e-zen đảm nhiệm với cơ số dầu dự trữ đủ dùng cho 7 ngày.
1
null
2S25 Sprut-SD là pháo chống tăng tự hành, được thiết kế để tiêu diệt các loại xe tăng, các khẩu đội pháo, xe bọc thép chở quân và các loại mục tiêu di động hay cố định, cũng như binh lực và vũ khí của đối phương. Nó được thiết kế dựa trên khung gầm của xe BMD-3. Đây là loại pháo chống tăng tự hành bánh xích, có khả năng lội nước, được trang bị pháo lớn và tổ hợp tên lửa có điều khiển phóng qua nòng, có khả năng cơ động hành trình liên tục tới 500 km mà chưa cần tiếp liệu. Sprut-SD có thiết kế phù hợp với các phương tiện vận chuyển đổ bộ đường không và đường biển, cho phép kíp chiến đấu không cần rời xe ngay cả khi xe thực hành đổ bộ đường không bằng dù. Hệ thống động lực mạnh mẽ giúp loại pháo tự hành này chiến đấu ổn định trên mọi loại địa hình gập ghềnh và trong điều kiện thời tiết nóng ẩm, vừa bơi vừa tác xạ với góc chỉnh tầm hướng pháo tới ±30 độ trong điều kiện biển động tới cấp 3, đồng thời lên xuống tàu đổ bộ đậu ngoài khơi hoặc đang ủi bãi. Xe Sprut-SD được trang bị pháo nòng trơn cỡ 125mm, nạp đạn tự động, có bộ ổn hướng 2 mặt phẳng và 1 súng máy đồng trục. Pháo chính của Sprut-SD có khả năng bắn tất cả các loại đạn pháo tăng cỡ 125mm và đạn tên lửa chống tăng điều khiển bán tự động bám chùm la-de.
1
null
2S31 "Vena" () là một tổ hợp súng cối tự hành 120 mm của Nga. Mã định danh GRAU của tổ hợp này là "2S31". Đây là tổ hợp pháo tự hành mới nhất do Nga thiết kế vào năm 1996 trên cơ sở khung gầm xe chiến đấu bộ binh BMP-3 để biên chế cho các đơn vị bộ binh cơ giới cấp tiểu đoàn có sử dụng xe hỗ trợ hỏa lực BMP-3. Hiện pháo tự hành 2S31 chủ yếu đem chào bán xuất khẩu chứ chưa được trang bị trong lục quân Nga. 2S31 có một khẩu pháo/cối 120 mm 2A60 Nona đặt trên khung gầm của xe chiến đấu bộ binh BMP-3. Nó được phát triển bởi Liên hiệp cổ phần "Nhà máy Motovilikha" (). Xe có thiết kế khoang chứa động cơ và truyền động ở phía sau, khoang lái ở chính giữa phần mũi xe, kế tới là khoang chiến đấu chứa đạn dược ở giữa thân ngay phía dưới tháp pháo. Thân xe và tháp pháo được bọc giáp hàn khối chống được đạn nhọn và mảnh đạn pháo. Kíp xe gồm 4 người: trưởng xe, lái xe, pháo thủ và nạp đạn. Vena được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại. Pháo thủ vận hành một kính ngắm tiềm vọng và một kính ngắm dùng riêng khi bắn thẳng. Vị trí của trưởng xe được bố trí trong tháp pháo nhỏ ngay bên phải pháo chính với góc xoay ngang của tháp pháo nhỏ tới 90º giúp tăng thị trường quan sát. Từ vị trí của mình, trưởng xe dùng kính quan sát riêng và thiết bị phân công xạ kích mục tiêu cho pháo thủ. Hệ thống điều khiển hỏa lực còn tích hợp khả năng dẫn đường và định vị trên bản đồ điện tử. Xe 2S31 được trang bị pháo nòng xoắn 2A80 cỡ 120-mm vốn được phát triển từ pháo 2A51 lắp cho loại pháo tự hành 2S9. Pháo có hệ thống khóa bán tự động, bộ giảm giật và cơ cấu nâng hạ nòng pháo. Điểm khác biệt chính của pháo 2A80 so với thế hệ pháo trước nó là nòng dài hơn, cho phép bắn xa hơn khi sử dụng các loại đạn dùng cho pháo 2A51. Pháo Vena còn có bộ trợ nạp đạn pháo và thổi khói thuốc súng bằng khí nén. Pháo chính có góc nâng từ tà âm 4º tới tà dương 80º đồng bộ với hệ thống kính ngắm và hiệu chỉnh đường đạn tự động. Khi xoay, pháo chính xoay đồng bộ cùng tháp pháo. Pháo tự hành 2S31 có thể nạp đạn thủ công từ cửa mở bọc giáp phía phải thành xe hoặc nạp đạn cơ khí từ cơ số đạn mang theo tới 70 viên gồm các loại đạn nổ mạnh phá mảnh OF-49, OF-51 cỡ 120-mm dùng chung với pháo 2A51. Những loại đạn này được xem là có hiệu quả sát thương tương đương với đạn của các loại pháo có cỡ nòng lớn hơn như 152-mm và 155-mm. Pháo 2A80 cũng có thể sử dụng loại đạn pháo phản lực OF50 với đầu nổ mạnh phá mảnh hoặc đầu nổ liều lõm xuyên giáp dày tới 650mm ở khoảng cách 1.000m, hoặc bắn đạn phát tán mìn cỡ 120mm theo chuẩn Nga hay của các nước NATO, hoặc bắn đạn pháo có điều khiển bằng lade Kitolov-2M. Ngoài pháo chính, xe 2S31 còn được trang bị súng máy PKT 7.62-mm lắp ở vị trí trưởng xe, dùng để diệt bộ binh hoặc máy bay bay thấp, có khả năng bắn 500-600 viên/phút. 2S31 được lắp 2 khối lựu đạn khói ngụy trang 81mm ở phía trước của tháp pháo, có thể tự động phóng đạn tạo màn khói ngụy trang khi xe bị chiếu ngắm la-de. Xe được thiết kế trên khung gầm xe chiến đấu bộ binh bọc thép BMP-3, có động cơ diesel 12 xi-lanh hình chữ V, làm mát bằng chất lỏng kiểu UTD-29, công suất tối đa 500 mã lực. Xe được lắp bộ truyền động thủy tĩnh với bộ điều tiết công suất khi chạy động cơ phụt nước trong chế độ bơi. Xe có bánh xích dẫn động nằm ở phía sau và lắp bộ giảm chấn thủy khí riêng rẽ cho từng bánh lăn chịu lực trong số 6 chiếc bánh lăn đúp chạy dọc mỗi hàng xích. Ngoài ra, các cặp bánh lăn số 1, số 2 và cuối cùng còn được gắn thêm một bộ giảm xóc trợ lực. Xích xe có khổ nhỏ với mắt xích gắn guốc nhựa tổng hợp và có bộ cảm biến căng xích giúp vận hành thiết bị tăng xích cơ điện tử theo lệnh từ buồng lái. Nhờ kế thừa toàn bộ tính năng việt dã siêu hạng của BMP-3, 2S31 vận hành rất tốt trên mọi địa hình. Nó có thể lao dốc tới 60 độ, vượt chướng ngại thẳng đứng cao 0,8m và vượt hào rộng 2,5m. Ngoài ra, nó có khả năng lội nước rất tốt với tốc độ 10 km/h nhờ 2 động cơ phụt. 2S31 được trang bị hệ thống liên lạc hiện đại, thiết bị phòng vệ xạ - sinh - hóa và dập cháy tự động. Xe được trang bị hệ thống định vị và dẫn đường trên bản đồ điện tử, đồng thời có kính hồng ngoại để chạy đêm. Khoang chiến đấu kèm tháp pháo của xe không chỉ phù hợp với khung gầm xe BMP-3 mà còn có thể lắp trên khung gầm xe bọc thép chở quân bánh hơi BTR-80.
1
null
Trần Quang Hải (13 tháng 5 năm 1944 – 28 tháng 12 năm 2021) là một Cố Giáo sư - tiến sĩ Dân tộc nhạc học người Việt Nam. Thân thế. Ông sinh năm 1944, tại Linh Đông, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Ông là hậu duệ đời thứ 5 của nhạc sĩ cung đình Huế, Trần Quang Thọ (1830-1890), đời thứ tư của nhạc sĩ nổi tiếng về đàn tỳ bà, Trần Quang Diệm, đời thứ 3 của nhạc sĩ nổi tiếng về đàn kìm và dây Tố Lan Trần Quang Triều (tự Bảy Triều). Ngoài ra ông còn là trưởng nam của Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà nghiên cứu Văn hóa và Âm nhạc cổ truyền nổi tiếng Trần Văn Khê (1921-2015) và bà Nguyễn Thị Sương (1921-2014), cựu giáo sư Anh văn Trường nữ Trung học Gia Long ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Nam. Sự nghiệp. Chịu ảnh hưởng truyền thống gia đình, ông sớm định hướng theo con đường âm nhạc. Sau khi tốt nghiệp khoa violin tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn, ông sang Pháp tiếp tục học nâng cao về violin.. Ở đó được cố vấn bởi trưởng dàn nhạc giáo sư Yehudi Menuhin ông đổi sang học các loại nhạc cụ dân tộc khác tại các trường đại học: Louvre, Sorbonne (Paris, Pháp), đại học Cambridge (London, Anh). Ông Hải sau đó lấy bằng tiến sĩ âm nhạc dân tộc người Việt tại Pháp, người thứ hai lấy bằng này sau cha của mình. Ông bắt đầu làm việc cho Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học tại Bảo tàng Con người ("Musée de l’Homme") Paris (Pháp) từ năm 1968. Ông đã có những nghiên cứu đặc biệt trong lĩnh vực Dân tộc âm nhạc học như: hát đồng song thanh, phát triển gõ muỗng, phát triển kỹ thuật biểu diễn đàn môi… đang được thế giới quan tâm. Ông cũng là thành viên của Hội đồng Âm nhạc truyền thống quốc tế Ông và vợ là nghệ sĩ Bạch Yến, đã thực hiện hơn 3.000 buổi giới thiệu âm nhạc dân tộc Việt Nam ở 70 nước trên thế giới… Danh hiệu. Ông được tôn xưng danh hiệu "vua muỗng" sau khi chiến thắng tại một cuộc thi gõ muỗng tạo âm nhạc trong khuôn khổ Đại nhạc hội dân nhạc tại Cambridge, Anh vào năm 1967. Tính ra, ông có hơn 60 năm gắn bó với những giai điệu từ muỗng. Ông từng biểu diễn "gõ muỗng" trong hơn 1.500 chương trình biểu diễn, buổi sinh hoạt âm nhạc ở hơn 70 quốc gia, vùng lãnh thổ. Tại Việt Nam, ông được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục người thể hiện tiết tấu - âm thanh đa dạng nhất từ nghệ thuật gõ muỗng.. Ông được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh vì những đóng góp trong nghiên cứu âm nhạc năm 2002. Năm 2012 ông được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục người trình diễn đàn môi tại nhiều quốc gia nhất thế giới. Đời tư. Ông lập gia đình với nữ ca sĩ Bạch Yến ngày 17 tháng 6 năm 1978 tại Paris (Pháp). Trước đó ông có một người con gái riêng tên là Minh Tâm (học nhạc học ở trường đại học Sorbonne, Paris, và từ 2014 hướng về môn ẩm thực. Mới xuất bản sách Nouilles d'Asie, do nhà xuất bản Chêne phát hành tháng 11 năm 2016). Hai ông bà không có con chung.. Qua đời. Ông mất hồi lúc 0h46 phút ngày 30 tháng 12 năm 2021 theo (6h46 phút cùng ngày theo ) tại Limeil-Brévanne, Paris, Pháp. Tang lễ sẽ được cử hành vào chiều ngày 4/1/2022 (miễn phúng điếu) sau đó linh cữu được đưa đi hỏa táng.
1
null
Alsodes là một chi động vật lưỡng cư trong họ Alsodidae, thuộc bộ Anura. Chi này có 19 loài và 25% bị đe dọa hoặc tuyệt chủng. Tên thường gọi: Spiny chest frog (Ếch ngực gai). Khu vực phân bố: Chile và Argentina. Các loài. Tháng 6 năm 2013, chi này có 19 loài:
1
null
Andrias là một chi động vật lưỡng cư trong họ Cryptobranchidae, thuộc bộ Caudata. Chi này có 2 loài và 50% bị đe dọa hoặc tuyệt chủng. Chi này có 3 loài: "A. japonicus" dài 1,44 m và "A. davidianus" dài 1,80 m. Loài cuối "A. scheuchzeri", là hóa thạch duy nhất được biết dù một số người xem nó và "A. davidianus" là đồng nghĩa.
1
null
Corythomantis là một chi động vật lưỡng cư trong họ Nhái bén, thuộc bộ Anura. Trước đây chi này được ghi nhận chỉ có 1 loài và không bị đe dọa tuyệt chủng. Tuy nhiên gần đây, các nhà khoa học đã ghi nhận thêm một thành viên mới trong chi.
1
null
Ecnomiohyla (tên tiếng Anh: fringe-limbed treefrogs hay marvelous frogs) là một chi trong họ Hylidae. Chi này được lập ra năm 2005 sau xem xét lại Hylidae. Mười loài ban đầu trong chi ("E. rabborum" và "E. sukia" được phát hiện sau đó) trước đó được đặt trong "Hyla". Tên "Ecnomiohyla" xuất phát từ tiếng Hy Lạp "ecnomios" ("kỳ lạ" hay "khác thường") và Hylas, bạn của Hercules. Các loài. "Ecnomiohyla" hiện gồm 12 loài, tuy có ý kiến rằng "E. tuberculosa" không thuộc chi này.
1
null
Bufo calamita là một loài cóc thuộc chi "Bufo" bản địa châu Âu. Con trưởng thành dài từ 60–70 mm và có thể được phân biệt với "Bufo bufo" bởi một sọc vàng dọc giữa lưng. Chúng có chân tương đối ngắn. Loài này có tiếng kêu bạn tình rất to và riêng biệt, nhờ một túi kêu nằm dưới cằm con đực. Phân bố. "B. calamita" có mặt ở 17 quốc gia châu Âu. Ở quần đảo Anh, loài này hầu như chỉ có mặt ở vùng ven biển. Đây là loài cóc bản địa duy nhất của Ireland, hiện diện ở bán đảo Dingle và Derrynane tại hạt Kerry và cũng đã được đưa đến hạt Wexford.
1
null
Euphlyctis là một chi động vật lưỡng cư trong họ Dicroglossidae, thuộc bộ Anura. Chi không bị đe dọa tuyệt chủng. Phân bố. Tây nam bán đảo Ả Rập; Pakistan, Afghanistan, Ấn Độ, Nepal, Myanma, Thái Lan, Malaya, Sri Lanka. Tên gọi. Tên gọi phổ biến trong tiếng Anh của các loài ếch này là Five-fingered frog (ếch năm ngón). Phân loại và phát sinh chủng loài. Trước đây được coi là phân chi của chi "Rana". Năm 1985, lần đầu tiên được nâng cấp thành một chi riêng biệt. Kiểu sắp xếp này được nhiều tác giả khác sau này tuân theo. Trên cơ sở dữ liệu trình tự DNA người ta cho rằng "Euphlyctis" (giả định là đơn ngành) là đơn vị phân loại chị em với chi "Hoplobatrachus", với các chi "Fejervarya", "Sphaeroteca", "Nannophrys" và "Limnonectes" tạo thành các mối quan hệ họ hàng xa hơn. Pyron và Wiens (2011) xác nhận tính đơn ngành của "Euphlyctis", cũng như vị trí chị em của nó với "Hoplobatrachus", cũng như ước tính phát sinh chủng loài cho các loài lấy mẫu.
1
null
Limnonectes là một chi động vật lưỡng cư trong họ Dicroglossidae, thuộc bộ Anura. Theo Sách đỏ IUCN năm 2012 thì chi này có 51 loài và 24% bị đe dọa hoặc tuyệt chủng, tuy nhiên, đôi khi một vài loài mới vẫn được mô tả, và tại thời điểm tháng 1 năm 2015 thì AMNH công nhận 65 loài thuộc về chi này. Môi trường sống. Các loài ếch này được tìm thấy trong khu vực Đông và Đông Nam Á, phần lớn chủ yếu thấy gần các con suối trong rừng. Nhiều loài của chi "Limnonectes" có thể chiếm lĩnh cùng một khu vực. Các loài có cơ thể lớn tụm lại thành bầy xung quanh các con sông chảy nhanh, trong khi các loài nhỏ hơn sinh sống trong các bãi lá runghj hay trên các bờ suối. Đảo Sulawesi ở Indonesia là quê hương của ít nhất 15 loài ếch thuộc chi này, nhưng mới chỉ có 4 loài được chính thức mô tả. Vòng đời. Nòng nọc của chi này đã thích nghi với nhiều loại điều kiện. Phần lớn các loài (như "L. blythii" hay "L. macrodon") phát triển bình thường, với nòng nọc bơi tự do để tìm thức ăn, nhưng nòng nọc của "L. laticeps" thì bơi tự do nhưng lại là nội dinh dưỡng, nghĩa là chúng không tìm thức ăn từ bên ngoài mà sống nhờ vào noãn hoàng đã lưu giữ cho tới khi biến thái thành ếch trưởng thành. Trước đây người ta cho rằng "L. limborgi" có sự phát triển trực tiếp (trứng nở thành ếch nhỏ nhưng đã định hình đầy đủ), nhưng các quan sát kỹ càng hơn cho thấy nó có giai đoạn ấu trùng bơi tự do nội dinh dưỡng; và điều này có lẽ cũng đúng với loài có quan hệ họ hàng gần là "L. hascheanus". "L. larvaepartus" là loài ếch duy nhất đã biết tới nay là sinh trực tiếp ra con non ở dạng nòng nọc. Ếch đực thực hiện việc chăm sóc con non sơ sinh.
1
null
Litoria là một chi động vật lưỡng cư thuộc họ Pelodryadidae, thuộc bộ Anura. Chi này có 181 loài và 14% bị đe dọa hoặc tuyệt chủng. Các loài trong chi này bản địa Australia, quần đảo Bismarck, quần đảo Solomon, New Guinea, quần đảo Sunda Nhỏ, quần đảo Maluku và Timor. Các loài. Theo Amphibian Species of the World 5.5:
1
null
Liuixalus là một chi động vật lưỡng cư trong họ Rhacophoridae, thuộc bộ Anura. Các loài. Chi này có 6 loài: Ba loài trong số này có khu vực sinh sống là miền nam Trung Quốc (Hồng Kông, Hải Nam, Quảng Đông, Quảng Tây). Loài "L. calcarius" đặt tên năm 2013 chỉ có ở miền bắc Việt Nam (Cát Bà). Trước đây, loài điển hình của chi này là "Liuixalus romeri" được đặt trong chi "Philautus".
1
null
Ichthyosaura alpestris là một loài động vật lưỡng cư trong họ Salamandridae, thuộc bộ Caudata. Loài này không bị đe dọa tuyệt chủng. Đây là loài bản địa lục địa Châu Âu và du nhập vào Vương quốc Anh và New Zealand. Con trưởng thành có kích thước 7–12 cm và thường có màu xám sẫm đến xanh lam ở lưng và hai bên, với bụng và cổ họng màu cam. Con đực có màu sắc dễ thấy hơn con cái có màu xám xịt, đặc biệt là trong mùa sinh sản. Loài này xuất hiện ở độ cao cũng như ở vùng đất thấp. Chúng sinh sống chủ yếu trong các sinh cảnh rừng trong phần lớn thời gian trong năm, con trưởng thành di cư đến các vũng, ao, hồ hoặc các vùng nước tương tự để sinh sản. Những con đực chào đón những con cái với một màn trình diễn trước khi giao phối. Sau khi thụ tinh, cá cái thường đẻ trứng vào lá cây dưới nước. Ấu trùng dưới nước phát triển lên đến 5 cm trong khoảng ba tháng trước khi biến thái thành những con non trên cạn, trưởng thành thành con trưởng thành vào khoảng ba năm. Ở phạm vi phía nam, loài này đôi khi không chuyển qua quá trình biến thái mà vẫn giữ mang và ở dưới nước như những con trưởng thành biến hình. Ấu trùng và con trưởng thành chủ yếu ăn các động vật không xương sống đa dạng và bản thân chúng trở thành con mồi cho ấu trùng chuồn chuồn, bọ cánh cứng lớn, cá, rắn, chim hoặc động vật có vú. Phân loại học. Loài này trước đây được xếp vào chi "Triturus". García-París et al. đã chia chi "Triturus", và xếp loài này vào chi đơn loài "Mesotriton". Sau đó, "Mesotriton" được cho là tên đồng nghĩa của "Ichthyosaura". Hiện có 10 phân loài của loài này được công nhận: "I. alpestris" là loài duy nhất còn sinh tồn trong chi "Ichthyosaura", ngoài ra còn 1 loài tuyệt chủng là "I. randeckensis", cũng được xem là thuộc chi này.
1
null
Microhyla là một chi động vật lưỡng cư trong họ Microhylidae, thuộc bộ Anura. Chi này có 49 loài. Các loài của chi này phổ biến rộng rãi từ Ryukyu ở Nhật Bản, và khắp Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á (Trung Quốc, Sumatra, Java, Bali, Borneo, Ấn Độ, Sri Lanka...). Các loài. Chi này có các loài : Tại Việt Nam đã phát hiện các loài mới trong thập niên 2000 và 2010:
1
null
Nectophrynoides là một chi trong họ Cóc (Bufonidae). Chi này đặc hữu vùng rừng và đất ngập nước dãy núi Vòng cung Đông của Tanzania. Trừ "N. tornieri", các loài này đều đang bị đe doạ. Các loài chi "Nectophrynoides" thụ tinh trong; cóc cái đẻ ra con non. Cùng "Nimbaphrynoides" (từng nằm trong "Nectophrynoides") và "Limnonectes larvaepartus", đây là một trong số ít ếch nhái không đẻ trứng. Chi "Altiphrynoides" (gồm cả "Spinophrynoides") đẻ trứng cũng từng được đặt trong "Nectophrynoides". Loài. Chi "Nectophrynoides" gồm 13 loài hiện được chấp nhận.
1
null
Necturus là một chi kỳ giông thủy sinh đặc hữu ở miền đông Hoa Kỳ và Canada. Các loài trong chi này thường được gọi là chó nước (waterdog) hay cún bùn (mudpuppy). Cún bùn thông thường ("N. maculosus") có lẽ là loài được biết đến nhiều nhất - một loài lưỡng cư có khe mang, nó thường được mổ xẻ trong các lớp giải phẫu để so sánh. Các loài. Có 7 loài: AmphibiaWeb chỉ liệt kê 5 loài, không công nhận "N. lodingi" và "N. louisianensis" là các loài riêng biệt. Hai loài hóa thạch đã được biết đến, "N. krausei" và một loài chưa được đặt tên, lần lượt được biết đến từ thế Paleocen ở Saskatchewan và từ Florida vào thế Pleistocen.
1
null
Nimbaphrynoides là một chi cóc đơn loài sống trên vùng cao nguyên quanh núi Nimba ở ba nước Tây Phi Guinée, Liberia, và Bờ Biển Ngà. Loài duy nhất là Nimbaphrynoides occidentalis. Cùng "Nectophrynoides", "Eleutherodactylus jasperi", và "Limnonectes larvaepartus", "Nimbaphrynoides" là một trong số ít ếch nhái không đẻ trứng. Phân loại. "Nimbaphrynoides occidentalis" được mô tả lần đầu bởi Fernand Angel dưới tên "Nectophrynoides occidentalis" vào năm 1943. Một loài "Nectophrynoides" nữa tại vùng núi Nimba, "Nectophrynoides liberiensis", được mô tả năm 1979. Hai loài này sau (năm 1987) dời sang chi mới "Nimbaphrynoides". Giữa hai loài có vài khác biệt về màu sắc và "N. liberiensis" có kích thước to lớn hơn so với "N. occidentalis". Song tiếng kêu của chúng tương tự nhau, còn khác biệt di truyền thì chẳng đáng kể. Dựa trên cơ sở này, người ta gộp hai loài làm một. Tuy vậy, khác biệt về kích thước lẫn di truyền vẫn hiển hiện nên "Nimbaphrynoides occidentalis" được chia làm hai phân loài: Sinh sản. Tiếng kêu của con đực ngắn, bé, tương tự tiếng "binh" của kim loại. "N. occidentalis" là loài đẻ con-con cái thụ tinh trong để rồi sinh ra con non bề ngoài hoàn chỉnh nhưng nhỏ bé. Môi trường sống và bảo tồn. "Nimbaphrynoides" sống ở vùng đồng cỏ cao nguyên, độ cao trên mực nước biển. Chúng chịu tác động kém, nên thường sống nơi ít xáo động với đất tơi xốp. Chúng có thể đông đúc ở vài địa phương nhưng các quần thể tách biệt nhau. Vùng chúng sống đang bị việc khai mỏ ảnh hưởng, và chỗ lấy mẫu "Nimbaphrynoides occidentalis liberiensis" trước đây nay là một hố mỏ lộ thiên. Mối đe doạ trước mắt là việc mở rộng khai mỏ cùng sự ảnh hưởng từ người tị nạn. Một bộ phận cá thể sống trong khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt núi Nimba.
1
null
Odorrana là một chi động vật lưỡng cư trong họ Ranidae, thuộc bộ Anura. Theo Sách đỏ IUCN thì chi này có 44 loài và 27% bị đe dọa hoặc tuyệt chủng. Hệ thống học và phân loại học. "Odorrana" có lịch sử phân loại học và hệ thống học lộn xộn. Phần lớn các loài đặt trong chi này ban đầu đã từng được đặt trong chi "Rana". Một số loài từng được coi là thuộc chi "Amolops"hay "Huia" hay tách ra thành chi "Eburana". Các đề xuất cực đoan nhất là gộp "Odorrana" vào chi "Huia". Đầu thế kỷ 21, các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử đã thiết lập được rằng sự lộn xộn hệ thống học là do tiến hóa hội tụ phổ biến giữa "Amolops", "Huia" và "Odorrana", mà trên thực tế đại diện cho các dòng dõi hoàn toàn khác biệt trong Raninae. Điều này dẫn tới sự cần thiết phải có sự thay đổi trong phân loại học, cụ thể là ảnh hưởng tới "Huia". Người ta cũng phát hiện ra rằng "Odorrana" là họ hàng khá gần của "Rana" (bao gồm cả chi "Lithobates" ngày nay) – có lẽ là dòng dõi còn sinh tồn có quan hệ họ hàng gần nhất. Và trong khi không hoàn toàn chắc chắn rằng "Odorrana" trên thực tế có là một chi riêng biệt hay không thì các chứng cứ sẵn có lại chỉ ra rằng điều này có lẽ là đúng như vậy. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng dường như tồn tại một vài nhánh trong phạm vi "Odorrana", mà đôi khi được coi như là các phân chi. Nhưng chỉ ít loài được lấy mẫu xác định trình tự DNA, và tiến hóa hội tụ là nguyên nhân chính chịu trách nhiệm cho các mối quan hệ mờ mịt nếu chỉ đánh giá theo hình thái: Các loài. Theo AMNH thì chi này chứa 58 loài. Chi tiết cụ thể như sau: Tham khảo. [[Thể loại:Odorrana]] [[Thể loại:Động vật lưỡng cư châu Á]]
1
null
Paracrinia là một chi động vật lưỡng cư trong họ Myobatrachidae, thuộc bộ Anura. Chi này có 1 loài và không bị đe dọa tuyệt chủng. Loài này được tìm thấy xung quanh đầm lầy ven biển ở miền đông Úc từ khắp nơi trên Port Macquarie, New South Wales bán đảo Mornington trong Victoria. Loài ếch này đạt đến chiều dài 30 mm. Nó có màu sắc thay đổi từ nâu xám nhẹ đến màu nâu nhạt đến màu đỏ nâu ở trên với một số đốm sẫm màu hơn.
1
null
Pelodytes là một chi động vật lưỡng cư duy nhất trong họ Pelodytidae, thuộc bộ Anura. Chi này có 3 loài và không bị đe dọa tuyệt chủng. Chúng được tìm thấy ở tây nam Châu Âu và Kavkaz. Chi "Pelodytes" gồm những loài ếch những loài ếch nhỏ, da mịn, chiều dài đạt khoảng 5 cm . Chúng được cho là có liên quan chặt chẽ tới Scaphiopodidae và Megophryidae. Không giống như Megophryidae, chúng không dùng màu sắc để ngụy trang, thường là màu xanh lá cây hay nâu.
1
null
Phaeognathus hubrichti (tên thường gọi tiếng Anh: Red Hills salamander) là một loài kỳ giông sống trên cạn tương đối lớn, đạt chiều dài . Toàn thân nó có màu xám hay nâu, chân tương đối ngắn. Đây là loài lưỡng cư biểu tượng của Alabama. Môi trường sống. Phạm vi phân bố của "P. hubrichti" là một dãi đất hẹp trên hai thành hệ địa chất, dài theo hướng đông-tây, rộng 10 đến theo chiều bắc-nam, tại Alabama. Hai thành hệ này thuộc vùng Red Hills kế đồng bằng duyên hải Alabama. Về phía đông dãi đất này là sông Conecuh còn về phía tây là sông Alabama (Jordan và Mount 1975). Loài này sống trong hang hốc trên sườn những hẽm núi mát mẻ, ẩm ướt.
1
null
Polypedates là một chi động vật lưỡng cư trong họ Rhacophoridae, thuộc bộ Anura. Các loài. The following species are recognised in the genus "Polypedates", with new species still being described on a regular basis: The recently described "Polypedates bijui" has now been renamed as "Beddomixalus bijui", the only species in its genus.
1
null
Proteus là vị thần Titan cai trị biển cả cùng với Nereus trước khi bị Poseidon lấn át trong cuộc nổi loạn của Zeus chống lại cha mình. một trong những vị thần mà Homer gọi là "Ông già của biển cả". Một số người gán cho ông ta một lĩnh vực cụ thể gọi ông là thần của "thay đổi lớn khó nắm bắt". Vị thần này có thể tự thay đổi hình dạng của mình.
1
null
Pseudacris là một chi động vật lưỡng cư trong họ Nhái bén, thuộc bộ Anura. Chi này có 15 loài và không bị đe dọa tuyệt chủng. Các loài trong chi này được tìm thấy ở Bắc Mỹ trên cả hai mặt của dãy núi Rocky từ khu vực vịnh San Francisco đến vịnh Mexico. Các loài. Chi này có các loài sau:
1
null
Pseudis là một chi lưỡng cư không đuôi thuộc họ Nhái bén (Hylidae), sinh sống ở Guianas, Colombia, Venezuela, Trinidad, Brazil, Paraguay, đông nam Peru, đông Bolivia, đông bắc Argentina và Uruguay. Các loài "Pseudis" có mặt khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Nam Mỹ, gồm gần toàn bộ phần phía đông Andes ("P. paradoxa" là loài duy nhất xuất hiện ở phía tây Andes). Chúng hay cư ngụ trong những ao nối với vùng đất lầy quanh sông. Hầu hết các loài có mặt ở Brasil, và "P. fusca", "P. tocantins", "P. cardosoi", và "P. bolbodactyla" đặc hữu nước này. Mô tả. Những loài nhái này đã thích ứng với đời sống dưới nước, với mắt lồi hẳn lên, chân sau khỏe và màn chân dài. "Pseudis" sp. nổi bật với nòng nọc rất lớn, dài đến . "Lysapsus", một chi có quan hệ gần, không có nòng nọc lớn và con trưởng thành nhỏ hơn, chỉ chừng so với ở các loài "Pseudis". "Lysapsus" từng bị cho là đồng nghĩa với "Pseudis", nhưng bằng chứng phân tử ủng hộ cho sự tách riêng giữa hai chi. Loài. Có bảy loài trong chi này:
1
null
Pseudobranchus là một chi kỳ giông giống như lươn.Pseudobranchus có mang ngoài suốt tuổi trưởng thành và thiếu chân sau.Pseudobranchus có thể được phân biệt với các thành viên của chi Siren trong họ Sirenidae là ba ngón chân trên mỗi bàn chân chứ không phải là bốn. Như Siren, chúng bị hạn chế ở Đông Nam Hoa Kỳ. Loài. Chi Pseudobranchus bao gồm các loài sau:
1
null
Rheobatrachus là một chi động vật lưỡng cư trong họ Myobatrachidae, thuộc bộ Anura. Chi này có 2 loài và 100% đều đã tuyệt chủng. Chi ếch này là loài bản địa Queensland, Australia, chi này chỉ gồm hai loài. Cả hai loài này đều bị tuyệt chủng vào giữa những năm 1980. Sau khi trứng được thụ tinh, con cái sẽ nuốt chúng. Nòng nọc sẽ phát triển trong dạ dày của ếch mẹ trong ít nhất sáu tuần. Trong khoảng thời gian đó, ếch mẹ sẽ không ăn bất cứ thứ gì cho đến khi ếch con được sinh ra và bắt đầu sinh trưởng ở vùng nước nông. Các nhà khoa học thuộc Đại học New South Wales thông báo vào tháng 3 năm 2013 rằng họ sẽ nhân bản vô tính loài ếch này, trong dự án được gọi là "Dự án Lazarus", lấy trứng ếch từ loài ếch Great Barred, loài ếch họ hàng xa với "Rheobatrachus silus". Các nhà khoa học đã rút nhân của những trứng ếch này và thay thế nó bằng nhân của loài ếch đã tuyệt chủng bằng kỹ thuật chuyển giao hạt nhân Soma-cell (SCNT), cơ sở của việc nhân bản cừu Dolly, và gần đây là nhân bản ra 581 con chuột từ một con chuột ban đầu.
1
null
Scaphiopus là một chi lưỡng cư không đuôi Bắc Mỹ. Chúng khác với các loài cóc "thực sự" (trong Bufonidae) ở chỗ có con ngươi thẳng đứng, thiếu tuyến parotoid, và da khá mịn. Nét nổi bật nhất của chúng là cặp chân sau hình thuổng nhô ra. Đôi chân này giúp chúng dễ dàng đào xuống đất mềm. Danh pháp khoa học của chi cũng có nghĩa là "chân thuổng", hợp từ ' (, ‘thuổng, xẻng’) và ' (, ‘bàn chân, cẳng’). Loài. "Scaphiopus" từng được xếp vào họ Pelobatidae, nhưng nay được đặt trong họ Scaphiopodidae. Có ba loài trong chi "Scaphiopus":
1
null
Givenchy () là một nhãn hiệu thời trang, dầu thơm và mỹ phẩm ở Pháp. Givenchy được thành lập năm 1952 do Hubert de Givenchy và là một thành viên của Chambre Syndicale de la Haute Couture et du Pret-a-Porter. Nó trực thuộc tiệm LVMH và trong năm 1993 có mộ thương số là $176 triệu. Nó sấp hàng thứ nhì sau đơn vị kia của LVMH là Dior. Dưới quyền Hubert de Givenchy, 1952–1995. Khi còn là nhà thiết kế ở Givenchy, Hubert de Givenchy được biết đến do những kiểu trang phục hiện đại và đầy phụ nữ tính. Điều này khiến có nhiều khách hành ưa chuộng đồ Givenchy. Đại sứ nổi tiếng nhât của hiệu là Audrey Hepburn trong những phim như là "Sabrina", "How to Steal a Million" and "Breakfast at Tiffany's". Những khách hàng nổi tiếng khác gồm có các gia đình Guinness, Grimaldi và Kennedy; họ mặc quần áo hiệu Givenchy khi đi đám tang John F. Kennedy. Hubert de Givenchy giải nghệ vào năm 1995.
1
null
Di tích lịch sử Khu vực Rạch Bà Kiểu toạ lạc tại ấp Lũy, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Việt Nam. Lịch sử. Rạch Bà Kiểu là địa điểm ác liệt trong chiến dịch 18 ngày đêm đánh Mỹ của quân dân Phước Lại từ ngày 29 tháng 2 năm 1967 (năm Đinh Mùi). Suốt 18 ngày đêm vất vả chịu nhiều đói rét nhưng anh em du kích Phước Lại vẫn bám trụ kiên cường chiến đấu mặc dù chịu nhiều mất mát hy sinh, quân và dân Phước Lại vẫn vững lòng bám đất bám làng. Đây là trận đánh Mỹ đầu tiên của nhân dân Cần Giuộc nói chung, từ đây anh em du kích hiểu được thực chất tinh thần chiến đấu của Mỹ, để từ đó rút ra phương pháp đánh hay nhất. Sau trận chiến này, riêng xã Phước Lại được tuyên dương 5 dũng sĩ diệt Mỹ, trong đó thành tích Lê Chí A nổi bật nhất. Ý nghĩa lịch sử. Tổng kết cuộc chiến đấu ta tiêu diệt gần 200 tên Mỹ, thu 15 súng, bắn rơi 2 trực thăng. Chiến dịch 18 ngày đêm đánh Mỹ ở Phước Lại năm 1967 là chiến dịch đầu tiên, mở màn cho phong trào đánh Mỹ của quân và dân Cần Giuộc. Thắng lợi này đã tạo cho Đảng bộ và nhân dân Cần Giuộc có kinh nghiệm thực tế đánh Mỹ, thúc đẩy phong trào trong toàn huyện, góp phần tích cực vào thắng lợi của chiến dịch 45 ngày đêm đánh Mỹ ở vùng Hạ Cần Giuộc ngày 6 năm 1967 và thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975. Di tích cấp tỉnh. Ngày 19 tháng 4 năm 1993, UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định số 851/1993/QĐ-UBND xếp hạng Khu vực Rạch Bà Kiểu là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh.
1
null
Lựu pháo D-20 152 mm (Tiếng Nga: 152-мм пушка гаубица Д-20 обр 1955 г) là loại lựu pháo hạng nặng do Liên Xô nghiên cứu thiết kế từ năm 1947 đến năm 1949. Liên Xô bắt đầu tiến hành sản xuất từ năm 1950. NATO nhận được thông tin về nó vào năm 1955 nên họ gọi nó là pháo M-1955. Cục Tên lửa và Pháo binh thuộc Bộ quốc phòng Liên Xô (nay là Liên Bang Nga) (GRAU) đặt tên là 52-P-546. Biến thể nổi tiếng nhất của nó là Lựu pháo kiểu 66 do Trung Quốc sản xuất bất hợp pháp. Lịch sử. D-20 là mẫu lựu pháo đầu tiên của Liên Xô có cỡ nòng lớn cũng như tầm bắn xa của họ lúc bấy giờ. Mẫu lựu pháo cỡ lớn bắt đầu được nghĩ đến từ những khẩu pháo bức kích 152 mm của Quân đội Hoàng gia Anh mà Liên Xô nhận được từ thời thế chiến thứ hai (thông qua chương trình hỗ trợ vũ khí, đạn dược do Anh và Mỹ tiến hành để hỗ trợ Hồng Quân Liên Xô chống quân phát xít Đức). D-20 là mẫu pháo bức kích được thiết kế để thay thế đại bác ML-20 của Liên Xô cũng có cỡ nòng 152 mm dùng từ thời thế chiến thứ hai nhưng nặng nề và có uy lực kém hơn. Liên Xô xếp đại bác D-20 vào nhóm "pháo trung bình" vì sơ tốc đạn của nó vượt quá 600 m/s. D-20 được thiết kế vào năm 1947 và xuất hiện lần đầu năm 1955. Dẫn đầu đoàn thiết kế là nhà thiết kế pháo binh nổi tiếng Fedor Fedorovich Petrov (1902-1978), ông cũng là tác giả của một số loại pháo của Liên Xô thời thế chiến thứ hai. Được chỉ định sản xuất tại Nhà máy sản xuất pháo binh số 9 tại Sverdlovsk (sau này là tại Nhà máy Motovilikha ở Yekaterinburg). Phiên bản tự hành của D-20 là pháo tự hành 2S3 Akatsiya. Nó trở thành pháo 152mm chính yếu của Hồng quân Liên Xô và Khối Hiệp ước Warsaw. Nó được biên chế thành pháo cấp chiến dịch và tăng cường cho các đơn vị bộ binh cấp trung đoàn, các lữ đoàn bộ binh tăng - thiết giáp hỗn hợp. Đặc điểm và hoạt động. Pháo 152mm D-20 khá nặng nề và khó cơ động trên trận địa, nhưng bù lại cho khuyết điểm đó là tầm bắn của nó có thể đạt tới 17,4 km. Pháo D-20 sử dụng chung 1 khung với loại pháo mặt đất nòng dài D-74, được tăng cường 2 bánh xe nhỏ sau chân giá đỡ để có thể di chuyển cơ động hơn và xoay ngang súng dễ dàng hơn. Súng cũng có 1 khiên bảo vệ cho tổ pháo. Nòng pháo ngắn hơn D-74, đường kính lớn hơn, cỡ nòng 152mm và có 1 đầu giảm giật (muzzle brake) 2 lỗ thoát khí thuốc liều phóng. Khi bắn, nòng pháo phóng ra lửa theo đạn như súng phun lửa do sơ tốc đạn nhanh và âm thanh rất đinh tai. Pháo D-20 cũng có hệ thống hãm giật 2 xi-lanh phía trên nòng pháo như D-74 và cả hai loại pháo này đều sử dụng khoá nòng xoắn bắn tự động. Pháo được trang bị hệ thống ngắm khi bắn định hướng (bắn thẳng) cả ban ngày lẫn ban đêm cung cấp cho pháo khả năng chống xe tăng đáng kể. Pháo bắn đạn FRAG-HE, OF-540 với tốc độ bắn có thể đạt tới 5 - 6 phát 1 phút, 1 tiếng có thể bắn tới 65 phát. Pháo có thể kéo bằng xe bọc thép hay xe tải hạng nặng. D-20 được Trung Quốc chế tạo bất hợp pháp với cái tên Type 66 và viện trợ cho các nước khác. Các cuộc chiến đã tham gia. Các cuộc chiến mà D-20 đã tham gia bao gồm:
1
null
Ngã ba mũi tàu là địa điểm tập trung cuộc biểu tình ngày 22 tháng 7 năm 1961 (năm Tân Sửu) của nhân dân huyện Cần Giuộc. Di tích toạ lạc tại xã Trường Bình, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Việt Nam. Tên gọi. Di tích có tên gọi Ngã ba mũi tàu vì nơi đây là giao điểm giữa liên Quốc lộ 50 và hương lộ 15 tạo thành một ngã ba. Sau giải phóng 1975, do yêu cầu phát triển kinh tế của địa phương, khu vực ngã ba được mở rộng thêm hai con lộ mới cắt tại giao điểm một hướng về Trị Yên, xã Tân Kim (nay là khu phố Trị Yên, thị trấn Cần Giuộc), một hướng về ấp Phước Hòa, xã Trường Bình cũ tạo thành một ngã năm. Nhưng tên gọi Ngã ba mũi tàu ngày nay nhân dân vẫn gọi như cũ. Ý nghĩa. Cuộc biểu tình ngày 22 tháng 7 năm 1961 (năm Tân Sửu) tức ngày 1 tháng 9 năm 1961 ở Cần Giuộc là cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất huyện. Lần đầu tiên 20.000 nhân dân đã biểu dương sức mạnh của mình, trong 2 ngày đêm trên toàn huyện gây cho địch hoang mang dao động cuối cùng phải nhượng bộ, tên quận trưởng phải đích thân xin lỗi đồng bào và hứa chấp nhận các yêu sách là: Thắng lợi của cuộc biểu tình đã chứng minh được sự chỉ đạo đúng đắn, tinh thần sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà tiêu biểu là Đảng bộ Cần Giuộc trong việc tập hợp mọi lực lượng cách mạng kết hợp linh hoạt giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang phá vỡ âm mưu "dồn dân lập ấp" của Mỹ – Diệm. Di tích cấp tỉnh. Ngày 19 tháng 4 năm 1993, UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định số 851/1993/QĐ-UBND xếp hạng Khu vực Ngã ba mũi tàu là di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
1
null
FN-F2000 hay FN 2000 là loại súng trường tấn công kiểu băng đạn gắn phía sau (hay Bullpup) được chế tạo bởi tập đoàn vũ khí FN của Bỉ vào năm 2001. Súng được ra mắt lần đầu tiên tại triển lãm IDEX được tổ chức tại Abu Dhabi. Đặc điểm. FN F2000 hơi nặng (3,6 kg), nhưng với tốc độ bắn nhanh và sức công phá lớn khiến nó trở nên rất đáng sợ. Cơ chế kích hoạt và hệ thống an toàn dựa theo FN P90. Nó sử dụng loại đạn 5.56×45mm NATO. FN F2000 hơi bất tiện ở chỗ là không có nút giữ băng đạn giống như M4 Carbine và M16. Vì vậy, các binh sĩ cần trực tiếp dùng tay tháo băng đạn ra. FN F2000 còn có thể gắn thêm súng phóng lựu GL1 khiến nó trở nên đa năng hơn.
1
null
Chùa Thới Bình tọa lạc tại ngã ba vàm Rạch Dừa thuộc ấp Phước Thới, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Việt Nam. Lịch sử. Đây là một trong những ngôi cổ tự ở Long An xuất hiện cùng với quá trình Nam tiến đầy gian khổ của lưu dân người Việt với lòng mộ đạo của phật tử từ một thảo am ban đầu chùa đã phát triển thành một Đại Già lam. Là địa điểm lưu niệm một cao tăng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam: Quốc sư Thích Từ Nhẫn. Chùa Thới Bình còn là một trong những ngôi tam bảo cuối cùng của Việt Nam được triều đình phong kiến sắc tứ. Chùa Thới Bình được thành lập vào đầu thế kỷ XIX và chỉ là một thảo am bằng tre lá. Do tác động của thiên nhiên và con người, chùa nhiều lần bị hư hại, di dời đến địa điểm khác cho đến khi có người hiến đất xây dựng chùa mới hoàn toàn ở ấp Phước Thới, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc và chùa giữ nguyên tên gọi Thới Bình cổ tự cho đến ngày nay. Đến năm 2020, chùa Thới Bình được xây dựng lại với chất liệu chính là gỗ. Ngôi chùa mới uy nghi với 120 cột gỗ. Giá trị văn hóa. Chùa Thới Bình bản thân nó thể hiện những giá trị văn hóa phong phú đặc biệt là văn hóa Phật giáo nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Di tích cấp tỉnh. Ngày 22 tháng 2 năm 1997, UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định số 400/QĐ-UBND xếp hạng Chùa Thới Bình là di tích lịch sử – văn hóa.
1
null
Nàng Bình Khương theo tương truyền là người đã đập đầu vào thành đá thành nhà Hồ để kêu oan và chết cùng chồng. Bà sống vào thời nhà Trần. Sau này, năm 1903 bà được nhà Nguyễn phong cho 4 chữ "Tiết liệu khả phong". Chồng bà là Trần Công Sỹ là người được làm đốc công xây cửa phía đông của thành Tây Đô, nhưng do cứ xây gần xong lại bị sụt lún làm chậm tiến độ nên Hồ Quý Ly nghi ông cố tình tạo phản nên đem giết. Lịch sử. Không rõ về cái chết của Trần Công Sỹ, có giả thuyết cho rằng ông bị chôn vào chân thành hay vùi thân bên chân thành. Sau khi nghe tin chồng chết, biết chồng bị oan nên đã đập đầu vào tường thành cùng chồng. Đến đời vua Đồng Khánh nhà Nguyễn người ta nghe tin đồn về dấu tay và đầu nàng Bình Khương qua 500 năm vẫn còn in rõ trên phiến đá tường thành, nên khách xa gần hiếu kì tìm về đây rất đông. Viên hào lý trong làng Đông Môn lo ngại tiếng đồn ngày càng vang xa sẽ gây nhiều phiền nhiễu nên thuê thợ về đục cả phiến đá đem chôn. Nhưng sau khi đục xong phiến đá ấy, người thợ bỗng nhiên mắc bệnh lạ và chết, rồi viên hào lý cũng lăn đùng ra chết không rõ nguyên nhân. Bấy giờ, Tri phủ Đoàn Thước nghe tin, sai lính tìm bằng được và đào phiến đá đó lên, lắp đúng vào chỗ cũ và khắc dòng chữ "Trần triều Cống Sinh - Bình Khương nương, phu nhân tri thạch" (nghĩa là: Tảng đá này ghi dấu vết của nàng Bình Khương, là nương tử của ông Cống Sinh, triều nhà Trần. Tri phủ lại dựng thêm một phiến đá ở chân thành, nơi xưa kia Cống Sinh bị chôn lấp, trên đó cũng khắc một dòng chữ "Trần triều Cống Sinh - Bình Khương phu quân chi biếm" (nghĩa là: Nơi chôn lấp chồng bà Bình Khương, là Cống Sinh triều Trần. Sau đó nhân dân lập đền thờ bà ngay sát chân thành nhà Hồ về phía đông, ngày nay ở làng Đông Môn, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Các nho sĩ các triều đình phong kiến sau này mượn câu chuyện tình của nàng Bình Khương để làm đề tài sáng tác thơ ca lên án Hồ Quý Ly, mà họ cho là tàn nhẫn, bất nhân, dùng mưu mẹo để cướp ngôi nhà Trần. Một số bài thơ được khắc lên bia dựng ở đền thờ của bà.
1
null
BTR-80 là một loại xe bọc thép chở quân bánh lốp 8x8 do Liên Xô chế tạo. BTR-80 được bắt đầu sản xuất vào năm 1986 và thay thế các loại BTR trước đây như BTR-60 và BTR-70 trong biên chế trang bị của Quân đội Liên Xô. Xe bọc thép chở quân bánh hơi BTR-80 được thiết kế để hỗ trợ hỏa lực và vận chuyển lính chiến đấu được bảo vệ trong lớp giáp nhẹ tới trận địa. Xe có thể bố trí 10 chỗ ngồi cho kíp xe gồm trưởng xe, lái xe và pháo thủ cùng 7 lính chiến đấu thuộc phân đội bộ binh kèm xe. Xe BTR-80 được trang bị động cơ diesel mạnh mẽ và lớp giáp tốt, giúp tăng đáng kể khả năng việt dã và phòng vệ của xe so với các thế hệ xe bọc thép chở quân trước nó. Mô tả. Liên Xô thiết kế BTR-80 dựa trên BTR-70. Nó có một động cơ diesel KamAZ-7403 260 mã lực, tăng áp V-8, làm lạnh bằng nước, đây là một sự cải tiến về động cơ so với các động cơ xăng dùng cho BTR-60 và BTR-70. Phần phía sau xe đã được thiết kế lại để chứa động cơ mới. Thiết bị tiêu chuẩn gồm khối ngắm TNPO, thiết bị ngắm quang học TNP-B và TKN-3 cho lái xe và trưởng xe, thiết bị tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại OU-3GA2M, 6 ống phóng lựu đạn khói 81 mm 902V "Tucha" ngụy trang phía cạnh sau tháp pháo, một đài vô tuyến (R-173 hoặc R-163-50U), hệ thống liên lạc nội bộ và hệ thống bơm phụt. BTR-80 trang bị súng máy KPVT 14,5 mm và súng máy PKT đồng trục 7,62 mm đặt trên cùng tháp pháo. Thực tế chiến đấu đã chứng minh BTR-80 hoạt động cực kỳ hiệu quả trong vùng địa hình đồi núi gập ghềnh, cung cấp hỏa lực hỗ trợ đáng kể cho phân đội bộ binh mang vũ khí nhẹ chuyên chở trong xe. Với ụ súng máy trên tháp pháo có góc tà đạt tới 60 độ và kính ngắm quang học 1PZ-2 kiểu mới, xe có khả năng tiêu diệt cả các mục tiêu trên không. Ngoài ra với thiết kế bánh lốp chống đạn, xe có khả năng vận hành ngay cả khi lốp xe đã bị đạn hoặc mảnh pháo xuyên thủng. Đặc biệt, xe vẫn có khả năng di chuyển khi đã dính mìn chống tăng hay 2 bánh về một phía bị hư hỏng. Phân đội bộ binh kèm xe có thể rời xe dễ dàng ngay cả khi xe đang chạy nhờ thiết kế cửa hông kiểu vỏ sò lớn mở ngược lên trên (phần dưới mở ra tạo thành bậc lên xuống). BTR-80 được coi là khung xe tiêu chuẩn của dòng xe bọc thép bánh hơi đa dụng để phát triển các loại xe khác cho những mục đích khác nhau như trinh sát, chỉ huy - thông tin, tải thương... Trong các cuộc chiến tranh ở Afghanistan, Chechnya, các xe thiết giáp như xe chiến đấu bộ binh (BMP), xe bọc thép chở quân (BTR) đều bộc lộ nhược điểm lớn về khả năng sống còn, không an toàn cho kíp xe và bộ binh ngồi trong xe khi bị vấp mìn và trúng đạn, nên từ chiến tranh Afghanistan đến nay, bộ binh Liên Xô/Nga buộc phải ngồi trên nóc xe để cơ động chứ không dám ngồi trong xe. BTR-80 có thể leo dốc tới 60% và vượt chướng ngại vật thẳng đứng cao 0,5 m. Quốc gia sử dụng. Có trên 5.000 chiếc BTR-80 đang hoạt động trong biên chế quân đội nhiều nước trên thế giới:
1
null
Miếu Bà Ngũ Hành tọa lạc tại chợ Long Thượng, xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Ngôi miếu đã được xếp hạng là "di tích cấp tỉnh" theo quyết định Số 400/QĐ.UB, ký ngày 22 tháng 2 năm 1997. Giải thích tên gọi. Miếu Bà Ngũ Hành thờ Ngũ Hành Nương Nương, là vị thần được thờ rất nhiều ở các đình tại Nam Bộ, giúp cho mưa thuận gió hòa, thịnh vượng. Theo "Tân từ điển Việt Nam" (Nhà xuất bản TP. Hồ chí Minh, 1991): Miếu là cái đền thờ, Ngũ hành là 5 yếu tố vật chất: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ luôn vận động, chuyển dịch. Theo thuyết âm dương ngũ hành, 5 yếu tố trên thuộc âm nên trong dân gian gọi chung là Bà. Ra đời trong công cuộc khai hoang lập làng của cộng đồng địa phương,Miếu Bà Ngũ hành ở xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An thờ 5 vị phúc thần được triều đình sắc phong (năm Duy Tân thứ 8) là: Kim Đức Thánh Phi, Mộc Đức Thánh Phi, Thủy Đức Thánh Phi, Hỏa Đức Thánh Phi, Thổ Đức Thánh Phi. Ngoài ra, trong miếu còn thờ Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, Quan Thánh Đế Quân, các vị Tiền Hiền, Hậu Hiền, Tả Ban, Hữu Ban,… Kiến trúc. Mang kiến trúc của một ngôi đình làng, miếu Bà Ngũ Hành từ khi hình thành đến nay đã là nhu cầu tinh thần của nhân dân ở Cần Giuộc và xung quanh với lễ hội truyền thống mang tên: Lễ vía Ngũ hành Nương Nương, thu hút hàng chục ngàn người.
1
null
"Maschinengewehr" 30, hay MG 30 là súng máy được Đức thiết kế được sử dụng bởi các lực lượng vũ trang trong những năm 1930. Nó cũng đã được sửa đổi để trở thành súng tiêu chuẩn sử dụng trên máy bay của Đức như MG 15 và MG 17. Nó là đáng chú ý nhất là các mẫu thiết kế sau này là MG 34 và MG 42, và do đó nó cũng là một trong những tổ tiên của rất nhiều các loại vũ khí sử dụng rộng rãi vào thế kỷ 21. Lịch sử. Phát triển của MG 30 đã diễn ra dưới sự chỉ đạo của Louis Stange tại tụ sở Sömmerda của Rheinmetall. Tuy nhiên thực tế sản xuất súng máy đã bị cấm ở Đức theo Hiệp ước Versailles, và thiết kế đã bị từ chối bởi Reichswehr. Rheinmetall sau đó đã chuyển sang công ty khác và được cấp giấy phép thiết kế cho Solothurn ở Thụy Sĩ và Steyr-Daimler-Puch ở Áo. Sản xuất ngay sau đó, các lực lượng vũ trang của cả hai nước đã trang bị Solothurn S2-100 và Maschinengewehr Solothurn 1930, hac MG 30.Khoảng 2000-3000 khẩu cũng đã được Hungary mua, và được gọi là 31.M Solothurn Golyoszoro. Thiết kế. Súng được thiết kế làm mát bằng không khí, nạp đạn bằng độ giật, bắn đạn tiêu chuẩn 7.92x57mm Mauser, từ một băng đạn 30 viên lắp vào phía bên trái của vũ khí. Nó sử dụng một vòng khóa, mà nằm ở cuối của phần mở rộng nòng, khóa chốt. Bên trong vòng khóa, có sáu bộ các vấu khóa, sắp xếp như một sợi chỉ bị gián đoạn, kết hợp với lugs cắt ở phía sau của bu lông. Xoay vòng, ổ khóa và mở ra các tia, được điều khiển bởi con lăn gắn trên bên ngoài của vòng. Súng có thiết kế tương đối đơn giản, với hầu hết các vùng có mặt cắt ngang một vòng. MG 30 bắn được cả hai chế độ tự động và bán tự động, với một tốc độ bắn từ 600 đến 800 viên đạn mỗi phút trong chế độ tự động. Nó bao gồm một chân đế gấp, được gắn ở khoảng hai phần ba nòng. Biến thể. Trụ sở Rheinmetall ở Borsig đã sửa đổi thiết kế MG 30 như là một khẩu súng lắp trên máy bay, là khẩu "Flugzeugmaschinengewehr" 15, hay MG 15. Những thay đổi chính là việc sử dụng của hai hộp đạn 75 viên, và loại bỏ báng để sử dụng bên trong các máy bay ném bom. Được tiếp tục chỉnh sửa năm 1936 đã cho ra đời MG 17, bao gồm việc chỉ sử dụng một băng đạn, tăng tỷ lệ bắn lên khoảng 1.200 viên trên phút, và thích hợp cho sử dụng với 1 thiết bị ngắt cho phép bắn qua cánh quạt của máy bay. Năm 1942, súng sử dụng trên máy bay đã tăng lên đáng kể về kích thước, và Không quân Đức đã không còn được coi đạn 7,92 mm là hữu ích.Nhiều bản thiết kế sau đó đã được gửi đến quân đội, và họ bắt đầu một chương trình để sửa đổi chúng thành vũ khí trên mặt đất bằng cách thêm một báng kim loại có chân đế và đơn giản.
1
null
ASU-57 là một loại pháo xung kích hạng nhẹ của Liên Xô, được thiết kế đặc biệt để trang bị cho các đơn vị đổ bộ đường không của Liên Xô. Từ năm 1960 nó được thay thế bởi ASU-85. Lịch sử phát triển. Nhiệm vụ đề ra cho các kỹ sư là thiết kế một pháo xung kích đổ bộ đường không hạng nhẹ với cỡ nòng 57mm hoặc 76mm dành cho các đơn vị đổ bộ đường không. Có hai phòng thiết kế được giao nghiệm vụ này. Đó là phòng thiết kế Astrov (OKB-40) ở Mytishchi và Kravtsev ở Moskva. OKB-40 của Nikolaj Astrov thiết kế ra mẫu ASU-76, dựa trên các thành phần của xe tăng hạng nhẹ T-70 và pháo xung kích SU-76, được trang bị pháo 76 mm D-56T mới. Nhưng ASU-76 lại quá nặng (tới 6 tấn), mặc dù giáp chỉ dày có 3 mm, nên đề án đã bị hủy bỏ. Đội thiết kế của Anatoly Kravtsev cũng đưa ra sản phẩm tương tự có tên là K-73. K-73 trang bị pháo chống tăng 57mm Ch-51 của Charnko và giáp thậm chí còn mỏng hơn cả ASU-76. Đề án này cũng bị xếp vào tủ. Năm 1949, Astrov được yêu cầu tiếp tục đề án của mình, nhưng phải giảm trọng lượng và pháo Ch-51 sẽ làm vũ khí chính thay vì dùng pháo D-56T, nên nó cho khả năng chống tăng tốt hơn. Ob.572 thiết kế lại được phát triển đồng thời với xe kéo pháo hạng nhẹ Ob.561 (AT-P) và được chấp nhận đưa vào sản xuất hàng loạt vào năm 1951 với tên gọi ASU-57, sau khi vượt qua thành công các thử nghiệm khác nhau vào năm 1949. Thiết kế. ASU-57 được thiết kế làm pháo xung hạng nhẹ có thể thả dù từ máy bay vận tải nhờ dù phản lực (PP-128-500 hoặc P-7) cùng với các đơn vị dù. Nó có lớp giáp dày 6mm bằng nhôm, trang bị pháo Ch-51 cỡ nòng 57 mm, đây là một phát triển của pháo ZIS-2 từ Chiến tranh thế giới II, nhưng có một số điểm tương đồng với Ch-26. Từ năm 1954, pháo Ch-51M 57mm cải tiến được trang bị cho ASU-57. Pháo bắn đạn tiêu chuẩn 57x480R của pháo chống tăng ZIS-2 như các loại đạn BR-271 và O-271U, cơ số đạn là 30 viên. Động cơ của ASU-57 lấy từ xe GAZ-M-20 "Pobeda". ASU-57 là một thiết kế thành công, được trang bị cho các sư đoàn dù của Liên Xô trong khoảng 20 năm trước khi bị thay thế bằng ASU-85. Trong biên chế của mỗi sư đoàn dù sẽ có 54 chiếc ASU-57. Một nhược điểm ASU-57 là giáp thân làm từ nhôm mỏng, dù theo lý thuyết là có thể giúp chống lại đạn súng bộ binh (nhưng kém) và không thể chống lại mảnh đạn pháo hay lựu đạn, nên tổ lái dễ bị nguy hiểm, nhất là với việc xe bị hở phía trên (không có giáp trên nóc). Tuy nhiên với các đơn vị dù, những khẩu pháo tự hành như nó lại là vô giá, nó giúp tăng cường hỏa lực cho những người lính ở sau chiến tuyến địch vốn không có hỗ trợ pháo binh. Mỗi xe được trang bị một đài 10 RT-12 và hệ thống liên lạc nội bộ TPU-47. Các phiên bản sản xuất cuối cùng (từ năm 1961) có kính ngắm đêm R-113 và R-120, cũng như TVN-2 cho lái xe.
1
null
Huyện Murovani Kurylivtsi (, chuyển tự: "Murovani Kurylivtsis’kyi raion") là một huyện của tỉnh Vinnytsia thuộc Ukraina. Huyện Murovani Kurylivtsi có diện tích 886 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 32768 người với mật độ 37 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Murovani Kurylivtsi.
1
null
Huyện Volodymyrskyi (, chuyển tự: "Volodymyr-Volynskyis’kyi raion") là một huyện của tỉnh Volyn thuộc Ukraina. Huyện Volodymyrskyi có diện tích 2556,5 km², dân số theo 2020 là 172947 người, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 28241 người với mật độ 27 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Volodymyr.
1
null
Huyện Stara Vyzhivka (, chuyển tự: "Stara Vyzhivkas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Volyn thuộc Ukraina. Huyện Stara Vyzhivka có diện tích 1121 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 34135 người với mật độ 30 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Stara Vyzhivka.
1
null
Huyện Kryvyi Rih (, chuyển tự: "Kryvyi Rihs’kyi raion") là một huyện của tỉnh Dnipropetrovsk thuộc Ukraina. Huyện Kryvyi Rih có diện tích 1347 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 44030 người với mật độ 33 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Kryvyi Rih.
1
null
Huyện Velyka Novosilka (, chuyển tự: "Velyka Novosilkas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Donetsk thuộc Ukraina. Huyện Velyka Novosilka có diện tích 1901 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 49272 người với mật độ 26 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Velyka Novosilka.
1
null
Huyện Pokrovsk (, chuyển tự: "Pokrovsʹks’kyi raion") cho đến năm 2016: Huyện Krasnoarmiisk (, chuyển tự: "Krasnoarmiisks’kyi raion") là một huyện của tỉnh Donetsk thuộc Ukraina. Huyện Krasnoarmiisk có diện tích 1316 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 37384 người với mật độ 28 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Krasnoarmiisk.
1
null
Huyện Lyman (, chuyển tự: "Lymans’kyi raion"), cho đến năm 2016: Huyện Krasnyi Lyman (, chuyển tự: "Krasnyi Lymans’kyi raion") là một huyện của tỉnh Donetsk thuộc Ukraina. Huyện Krasnyi Lyman có diện tích 1018 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 24781 người với mật độ 24 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Lyman.
1
null
Huyện Boykivske (, chuyển tự: "Boykivsʹkyi raion"), trước kia Huyện Telmanove (, chuyển tự: "Telmanoves’kyi raion") là một huyện của tỉnh Donetsk thuộc Ukraina. Huyện Telmanove có diện tích 1340 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 35058 người với mật độ 26 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Boykivske.
1
null
Huyện Zviahelskyi (, chuyển tự: "Zviahelskyi raion") là một huyện của tỉnh Zhytomyr thuộc Ukraina. Huyện Zviahelskyi có diện tích 5256,6 kilômét vuông, dân số theo 2020 là 164177 người, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 52131 người với mật độ 25 người/km². Trung tâm huyện nằm ở Zviahel.
1
null
Huyện Velykyy Bereznyi (, chuyển tự: "Velykyy Bereznyis’kyi raion") là một huyện của tỉnh Zakarpattia thuộc Ukraina. Huyện Velykyy Bereznyi có diện tích 810 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 28016 người với mật độ 35 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Velykyi Bereznyi.
1
null
Huyện Velyka Bilozerka (, chuyển tự: "Velyka Bilozerkas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Zaporizhia thuộc Ukraina. Huyện Velyka Bilozerka có diện tích 469 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 9337 người với mật độ 20 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Velyka Bilozerka.
1
null
Huyện Bila Tserkva (, chuyển tự: "Bila Tserkvas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kiev thuộc Ukraina. Huyện Bila Tserkva có diện tích 1277 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 55536 người với mật độ 43 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Bila Tserkva.
1
null
Huyện Holovanivsk (, chuyển tự: "Holovanivsks’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kirovohrad thuộc Ukraina. Huyện Holovanivsk có diện tích 4244 km², dân số theo 2022 là 122952 người. Dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 36852 người với mật độ 37 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Holovanivsk.
1
null
Huyện Mala Vyska (, chuyển tự: "Mala Vyskas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kirovohrad thuộc Ukraina. Huyện Mala Vyska có diện tích 1248 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 51494 người với mật độ 41 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Mala Vyska.
1
null
Huyện Dovzhansk (, chuyển tự: "Dovzhans’kyi raion") là một huyện của tỉnh Luhansk thuộc Ukraina. Huyện Dovzhansk có diện tích 2139 km², dân số theo 2020 là 207700 người. Dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 14574 người với mật độ 13 người/km2, có diện tích 1132 km². Trung tâm huyện nằm ở Dovzhansk.
1
null
Huyện Stanytsya Luhanska (, chuyển tự: "Stanytsya Luhanskas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Luhansk thuộc Ukraina. Huyện Stanytsya Luhanska có diện tích 1896 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 52762 người với mật độ 28 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Stanytsya Luhanska.
1
null
Huyện Staryi Sambir (, chuyển tự: "Staryi Sambirs’kyi raion") là một huyện của tỉnh Lviv thuộc Ukraina. Huyện Staryi Sambir có diện tích 1245 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 82191 người với mật độ 66 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Staryi Sambir.
1
null
Huyện Kryve Ozero (, chuyển tự: "Kryve Ozeros’kyi raion") là một huyện của tỉnh Mykolaiv thuộc Ukraina. Huyện Kryve Ozero có diện tích 814 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 28494 người với mật độ 35 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Kryve Ozero.
1
null
Huyện Novyi Buh (, chuyển tự: "Novyi Buhs’kyi raion") là một huyện của tỉnh Mykolaiv thuộc Ukraina. Huyện Novyi Buh có diện tích 1243 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 34167 người với mật độ 27 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Novyi Buh.
1
null
Huyện Nova Odesa (, chuyển tự: "Nova Odesas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Mykolaiv thuộc Ukraina. Huyện Nova Odesa có diện tích 1428 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 37385 người với mật độ 26 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Nova Odesa.
1
null
Huyện Velyka Mykhailivka (, chuyển tự: "Velyka Mykhailivkas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Odessa thuộc Ukraina. Huyện Velyka Mykhailivka có diện tích 1436 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 32703 người với mật độ 23 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Velyka Mykhailivka.
1
null
Huyện Okny (, chuyển tự: "Oknys’kyi raion") là một huyện của tỉnh Odessa thuộc Ukraina. Huyện Krasni Okny có diện tích 1013 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 22872 người với mật độ 23 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Okny.
1
null
Huyện Novo Sanzhary (, chuyển tự: "Novo Sanzharys’kyi raion") là một huyện của tỉnh Poltava thuộc Ukraina. Huyện Novo Sanzhary có diện tích 1272 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 39995 người với mật độ 31 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Novi Sanzhary.
1
null
Huyện Velyka Pysarivka (, chuyển tự: "Velyka Pysarivkas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Sumy thuộc Ukraina. Huyện Velyka Pysarivka có diện tích 831 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 26997 người với mật độ 32 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Velyka Pysarivka.
1
null
Huyện Lypova Dolyna (, chuyển tự: "Lypova Dolynas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Sumy thuộc Ukraina. Huyện Lypova Dolyna có diện tích 882 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 23342 người với mật độ 26 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Lypova Dolyna.
1
null
Huyện Velykyi Burluk (, chuyển tự: "Velykyi Burluks’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kharkiv thuộc Ukraina. Huyện Velykyi Burluk có diện tích 1221 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 28155 người với mật độ 23 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Velykyi Burluk.
1
null
ASU-85 (, "xe chiến đấu tự hành đổ bộ đường không") là một loại pháo tự hành đổ bộ đường không do Liên Xô thiết kế vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Từ năm 1959 nó thay thế loại ASU-57 trong biến chế nhưng đến năm 1969 bị xe đổ bộ đường không BMD-1 hiện đại hơn thay thế. Phát triển. Việc phát triển mẫu pháo xung kích mới trang bị cho các lực lượng vũ trang bắt đầu tại phòng thiết kế OKB-40 thuộc Nhà máy chế tạo máy Mytishchi (MMZ), dưới sự giám sát của tổng công trình sư Nikolaj Aleksandrovich Astrov. Mẫu thử Ob'yekt 573 đầu tiên sẵn sàng cho các thử nghiệm tại nhà máy vào nửa cuối năm 1953. Xe đầu tiên được chế tạo trong lô nhỏ gồm 3 chiếc cải tiến được quân đội đánh giá vào năm 1956-1957. Các xe cải tiến được trang bị động cơ diesel 6 xi-lanh mới YaMZ-206V, thay vì dùng động cơ V-6 của PT-76. Năm 1958, bắt đầu sản xuất hàng loạt ASU-85. Tuy nhiên, Bộ quốc phòng vẫn yêu cầu chế tạo thêm một mẫu xe có giáp trên nóc, nên tới tận năm 1961 mới đưa vào sản xuất hàng loạt. Nhưng cấu hình đã lỗi thời và cuối thập niên 1960, VDV trở thành lực lượng chính sử dụng ASU-85. Thiết kế. ASU-85 dựa trên khung gầm của xe tăng PT-76, nhưng không có khả năng lội nước và được lắp động cơ mới. Xe có 3 ngăn: lái xe ở phía trước, khoang chiến đấu ở giữa và khoang động cơ ở phía sau. Vũ khí gồm một pháo D-70 (2A15) 85mm, có nguồn gốc từ pháo chống tăng D-48 của F.F. Petrov. Pháo L/67 có tổng trọng lượng là 1.865 kg, gốc tầm từ -4.50° tới +15°, và quay được sang mỗi bên 15°. D-70 bắn cùng loại đạn với D-48 (3BK-7 HEAT, BR-372 HVAP-T và OF-372 HE), cơ số đạn là 45 viên. Pháo có tầm bắn hiệu dụng là 1150 mét và tầm tối đa 10 km. Ngoài ra còn có súng máy đồng trục SGMT hoặc PKT 7,62 mm với 2000 viên đạn. Cả pháo chính và súng máy đồng trục đều được điều khiển từ kính ngắm TShK-2-79. Khi bắn ban đêm, kính ngắm đếm TPN1-79-11 được dùng, kết hợp với thiết bị dò nguồn sáng hồng ngoại L-2. Hỏa lực gián tiếp được thực hiện với sự trợ giúp của thiết bị ngắm S-71-79 và PG-1. Ngoài ra, trưởng xe còn có các thiết bị quan sát TNPK-20 (ngày) và TKN-1T (đêm). Tất cả các xe ASU-85 đều có một đài vô tuyến R-113 và hệ thống liên lạc nội bộ R-120. Đầu thập niên 1970, một số xe được trang bị súng máy hạng nặng DShK-M 12,7mm với 600 viên đạn. Các xe này có tải trọng chiến đấu giảm xuống chỉ còn 39 viên đạn cho pháo chính và được NATO định danh là ASU-85 M1974. Tên định danh ban đầu là SU-85M hay ASU-85M. ASU-85 cũng có thể được trang bị máy tạo khói BDSh-5. Lịch sử hoạt động. Lực lượng dù Liên Xô sử dụng ASU-85 trong các chiến dịch đổ bộ đường không. Vai trò chính là hỗ trợ bộ binh hoặc tấn công, với khả năng chống tăng hạn chế. Mỗi sư đoàn đổ bộ đường không có một tiểu đoàn pháo xung kích gồm 31 chiếc ASU-85. Sư đoàn đổ bộ đường không Pomeranian 6 Ba Lan () có một số lượng tương đương ASU-85. ASU-85 trang bị cho các đơn vị đổ bổ đường không nhờ việc đưa vào trang bị các loại trực thăng Mi-6 và Mi-10, cũng như các hệ thống dù và tên lửa hãm. NATO quan sát được ASU-85 lần đầu tiên vào năm 1962, và được sử dụng rộng rãi trong các đơn vị đổ bộ đường không của Ba Lan và Liên Xô. Biến thể. Không có các biến thể của ASU-85, nhưng khung gầm của nó được dùng làm khung thân cơ sở cho các thiết kế khác như khung gầm GM-575 của ZSU-23-4 "Shilka" và khung gầm GM-568, GM-578 của xe phóng và xe đài radar 1S91 của tổ hợp 2K12 "Kub".
1
null
Huyện Novo Vodolaha (, chuyển tự: "Novo Vodolahas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kharkiv thuộc Ukraina. Huyện Novo Vodolaha có diện tích 1183 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 40794 người với mật độ 34 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Nova Vodolaha.
1
null
Huyện Velyka Lepetyka (, chuyển tự: "Velyka Lepetykas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kherson thuộc Ukraina. Huyện Velyka Lepetyka có diện tích 1000 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 20660 người với mật độ 21 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Velyka Lepetykha.
1
null
Huyện Velyka Oleksandrivka (, chuyển tự: "Velyka Oleksandrivkas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kherson thuộc Ukraina. Huyện Velyka Oleksandrivka có diện tích 1540 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 31233 người với mật độ 20 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Velyka Oleksandrivka.
1
null
Huyện Verkhnii Rohachyk (, chuyển tự: "Verkhnii Rohachyks’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kherson thuộc Ukraina. Huyện Verkhnii Rohachyk có diện tích 915 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 14290 người với mật độ 16 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Verkhnii Rohachyk.
1
null
Huyện Holo Prystan (, chuyển tự: "Holo Prystans’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kherson thuộc Ukraina. Huyện Holo Prystan có diện tích 3411 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 64785 người với mật độ 19 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Hola Prystan.
1
null
Huyện Nyzhni Sirohozy (, chuyển tự: "Nyzhni Sirohozys’kyi raion") là một huyện của tỉnh Kherson thuộc Ukraina. Huyện Nyzhni Sirohozy có diện tích 1209 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 19697 người với mật độ 16 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Nyzhni Sirohozy.
1
null
Huyện Nova Ushytsia (, chuyển tự: "Nova Ushytsias’kyi raion") là một huyện của tỉnh Khmelnytskyi thuộc Ukraina. Huyện Nova Ushytsia có diện tích 853 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 36478 người với mật độ 43 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Nova Ushytsia.
1
null
Huyện Stara Syniava (, chuyển tự: "Stara Syniavas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Khmelnytskyi thuộc Ukraina. Huyện Stara Syniava có diện tích 662 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 24950 người với mật độ 38 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Stara Syniava.
1
null
Huyện Storozhynets (, chuyển tự: "Storozhynetss’kyi raion", ) là một huyện của tỉnh Chernivtsi thuộc Ukraina. Huyện Storozhynets có diện tích 1160 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 95302 người với mật độ 82 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở Storozhynets.
1
null
Huyện Desna (, chuyển tự: "Desnas’kyi raion") là một huyện của tỉnh Thành phố Kiev thuộc Ukraina. Huyện Desna có diện tích 148 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 336.209 người với mật độ 2272 người/km².. Trung tâm huyện nằm ở ?.
1
null
Dnipro (, chuyển tự: "Dnipros’kyi raion") là một huyện của tỉnh Thành phố Kiev thuộc Ukraina. Huyện Dnipro có diện tích 67 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 331.618 người với mật độ 4.950 người/km². Trung tâm huyện nằm ở ?.
1
null
Huyện Obolon (, chuyển tự: "Obolons’kyi raion") là một huyện của tỉnh Thành phố Kiev thuộc Ukraina. Huyện Obolon có diện tích 110 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 306.173 người với mật độ 2.783 người/km². Trung tâm huyện nằm ở ?.
1
null
Pechersk (, chuyển tự: "Pechersks’kyi raion") là một huyện của tỉnh Thành phố Kiev thuộc Ukraina. Huyện Pechersk có diện tích 20 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 131.127 người với mật độ 6.556 người/km². Trung tâm huyện nằm ở ?.
1
null
Huyện Podil (, chuyển tự: "Podils’kyi raion") là một huyện của tỉnh Thành phố Kiev thuộc Ukraina. Huyện Podil có diện tích 34 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 180424 người với mật độ 5307 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở ?.
1
null
Huyện Sviatoshyn (, chuyển tự: "Sviatoshyns’kyi raion") là một huyện của tỉnh Thành phố Kiev thuộc Ukraina. Huyện Sviatoshyn có diện tích 103 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 315410 người với mật độ 3062 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở ?.
1
null
Huyện Solomyansk (, chuyển tự: "Solomyansks’kyi raion") là một huyện của tỉnh Thành phố Kiev thuộc Ukraina. Huyện Solomyansk có diện tích 40 km², dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 287.801 người với mật độ 7195 người/km². Trung tâm huyện nằm ở ?.
1
null
Huyện Lenin (, chuyển tự: "Lenins’kyi raion") là một huyện của thành phố Sevastopol thuộc Nga. Huyện Lenin có diện tích 19 kilômét vuông, dân số theo điều tra dân số ngày 5 tháng 12 năm 2001 là 110949 người với mật độ 5839 người/km2. Trung tâm huyện nằm ở ?.
1
null
BM-27 Uragan (, 'cuồng phong'; mã định danh GRAU 9P140) là một tổ hợp pháo phản lực bắn loạt tự hành do Liên Xô chế tạo. Nó bắt đầu được trang bị cho Lục quân Liên Xô vào cuối thập niên 1970. Tổ hợp này có khả năng bắn các đạn phản lực 220 mm từ 16 ống phóng đặt trên khung gầm của xe ZIL-135 8x8.
1
null
Du hành thời gian là khái niệm về chuyển động được cho là (chuyển) một người hoặc cơ thể (vật thể) khác từ điểm này đến điểm khác của thời gian theo nghĩa tương tự như chuyển động giữa các điểm khác nhau trong không gian, nói chung bởi một phát minh lý thuyết được gọi là cỗ máy thời gian. Chuyển động có thể diễn ra từ hiện tại (ngược) đến quá khứ hoặc (chuyển tiếp) đến tương lai. Điều này bao gồm cả khoảng nghỉ của thời gian. Du hành thời gian là một phạm trù được công nhận trong triết học và tiểu thuyết viễn tưởng, và có ít sự hỗ trợ của vật lý lý thuyết, thường là lý thuyết về cơ học lượng tử, lý thuyết dây hoặc lỗ sâu. Cuốn tiểu thuyết cỗ máy thời gian của Wells (Cỗ máy thời gian) từ năm 1895 đã góp phần đáng kể vào việc khiến công chúng biết đến khái niệm này. Trước đó, truyện ngắn của Mitchell, "Thời khắc trở lại" (Chiếc đồng hồ đã đi lùi) từ năm 1881, mô tả 1 thời khắc, bằng một cách nào đó mà ba người chồng đã du hành ngược thời gian. Các hình thức du hành thời gian phi công nghệ đã xuất hiện trong một số câu chuyện trước đó, như bài thơ Giáng sinh của Dickens trong văn xuôi (A Christmas Carol) vào năm 1843. Trong lịch sử xa xưa hơn, khái niệm này bắt nguồn từ các thần thoại Hindu đầu tiên (ví dụ Mahabharata). Trong thời gian gần đây, với sự phát triển của công nghệ và sự hiểu biết khoa học về vũ trụ ngày càng tăng, các nhà văn khoa học viễn tưởng, triết gia và nhà vật lý đã khám phá rất chi tiết về độ tin cậy của du hành thời gian. Trong văn học. Du hành đến tương lai (chuyển tiếp). Không có sự đồng thuận chung về việc tác phẩm viết đại diện cho ví dụ cổ nhất về câu chuyện du hành thời gian, vì một số tác phẩm ban đầu cho thấy các yếu tố mơ hồ gợi ý về du hành thời gian. Những truyền thuyết và văn học dân gian cổ đại đôi khi bao gồm một cái gì đó giống như du hành đến tương lai. Ví dụ, trong thần thoại Hindu, Mahabharata đã đề cập đến câu chuyện về vua Raivat Kakudmi, người đã du hành lên thiên đàng để gặp nhà sáng tạo Brahma và bị sốc khi trở về Trái đất khi nhận ra rằng nhiều năm đã trôi qua. Chánh tạng Phật giáo Pali (Tipitaka) cũng đề cập đến chuyển động thời gian ở các tốc độ khác nhau. Tác phẩm Pajasijevem có đoạn "Một thế kỷ của chúng ta, một trăm năm; chỉ bằng một ngày của họ (tức nhân loại), hai mươi bốn giờ." Trong Hồi giáo, có một số nguồn về du hành thời gian. Câu chuyện kể về một số cá nhân đã ngủ trong hang và tỉnh dậy sau 309 năm. Ngoài ra còn có một nguồn về sự thay đổi của thời gian mà ông tuyên bố "một ngày đối với Đức Allah là một ngàn năm mà bạn (loài người) đếm được". Một ý tưởng tương tự được mô tả trong Tân Ước Kitô giáo, nơi Peter nói rằng "với Chúa một ngày như một ngàn năm và một ngàn năm là một ngày". Một câu chuyện nổi tiếng khác liên quan đến du hành thời gian vào tương lai xa là một câu chuyện huyền thoại của Nhật Bản về Urashima Taro, một ngư dân giải cứu một con rùa, và anh ta được thưởng một chuyến viếng thăm thủy cung. Tường thuật được mô tả lần đầu tiên trong cuốn sách Nihongi năm 720 và trong một số tác phẩm khác. Ngư dân trẻ Urashima đến thăm thủy cung và ở đó trong ba ngày. Sau khi trở về quê nhà, anh thấy 300 năm đã trôi qua, nơi anh đã hoàn toàn bị lãng quên, ngôi nhà của anh đã hoang phế và gia đình anh đã qua đời từ lâu. Một ví dụ rất cũ khác thuộc loại này có thể được tìm thấy trong Talmud với câu chuyện về Honi ha-Me'agel, người đã đi ngủ 70 năm và tỉnh dậy trong một thế giới nơi các cháu của ông đã trở nên già cỗi và tất cả bạn bè và gia đình ông đã qua đời., một câu chuyện khác ở Việt Nam kể về nhân vật Từ Thức đời nhà Trần đi chu du đã gặp nàng tiên Giáng Hương với thời gian từ tháng 2 năm Bính Tỵ (1396) khi trở về nhân gian thì đã vào năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh (tức năm 1459) Một câu chuyện hiện đại khác kể về một hành trình đến tương lai là năm 2440 của Mercier, "L'an 2440, rêve s'il en fut jamais", một tiểu thuyết không tưởng kể về nhân vật chính được chuyển đến năm 2440. Tác phẩm cực kỳ nổi tiếng vào thời điểm đó với số lần tái bản lên tới 25 kể từ lần xuất bản đầu tiên vào năm 1771. Nó mô tả cuộc phiêu lưu của một người đàn ông giấu tên, sau một cuộc thảo luận sôi nổi với một người bạn triết gia về sự bất công ở Paris, anh ngủ thiếp đi và thấy mình ở Paris của tương lai. Nhà sử học người Mỹ Darnton đã viết rằng: "Mặc dù tác phẩm là giả tưởng... "L'An 2440" vẫn bàn về du hành thời gian một cách nghiêm túc." Truyện ngắn Irving, Rip Van Winkle từ năm 1819 kể câu chuyện về một người đàn ông đã ngủ trên núi và tỉnh dậy sau 20 năm trong tương lai nơi ông bị lãng quên, vợ ông đã chết và con gái ông đã trưởng thành.. Giấc ngủ du hành thời gian đã được Bulgarin sử dụng trong tác phẩm không tưởng của ông "Правдоподобные небылицы, или Странствования по свету в двадцать девятом веке" vào năm 1824. Trong tác phẩm đó, nhân vật chính thức tỉnh vào thế kỷ 29. Đây là mô tả đầu tiên về du hành thời gian (chuyển tiếp) trong văn học Nga và khoa học viễn tưởng Nga. Morris đã viết một truyện ngắn, "A Dream of John Ball", được xuất bản trong các tác phẩm trong một tuần báo giữa tháng 11 năm 1886 và tháng 2 năm 1887. Trong đó, ông mô tả một chuyến du hành thời gian giữa thế giới thời trung cổ và hiện đại. Cuốn sách được xuất bản dưới dạng tiểu thuyết vào năm 1888. Năm 1888, Bellamy đã xuất bản cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng không tưởng rất nổi tiếng lúc bấy giờ , trong đó chàng trai trẻ người Mỹ Julian West ngủ thiếp đi vào năm 1887 và thức dậy 113 năm sau đó vào năm 2000. Vẫn là thành phố ở Boston, Massachusetts, nhưng trong một thế giới hoàn toàn thay đổi. Tại thế giới trong tác phẩm, Hoa Kỳ đã trở thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa không tưởng. Du hành thời gian cũng xuất hiện trong văn học Slovenia vào thế kỷ 19, đó là tác phẩm thuộc thể loại phản địa đàng "4000" được xuất bản bởi Tavčar vào năm 1891. Giả thuyết du hành. Việc du hành đến tương lai có thực sự khả thi ? Cơ bản thời gian là là một dòng chảy tuyến tính theo Newton, việc du hành thời gian cơ bản cũng như chiếc xe lửa chạy trên đường ray. Vì vậy việc du hành đến tương lai là bất khả thi vì đoàn tàu không thể chạy trước đường ray. Vậy còn du hành về quá khứ ? Khi dòng chảy thời gian đi qua, đều để lại "vết xe" sau nó, vậy việc đi ngược lại theo những vết xe này là có thể ? câu trả lời là có thể, vì đơn giản nó chỉ là việc bạn mở cửa tàu và nhảy ra khỏi đoàn toàn sau đó đi ngược theo hướng đường ray. Nhưng giả thuyết đặt ra ở đây là: Bạn sẽ không bị trật khỏi đường ray chứ ? không như thực tế, đường ray thời gian ở đây là vô hình vô sắc, bạn có thể cảm nhận nó nhưng không thể vẽ chính xác nó. Việc đi lệch đường ray và rơi vào trạng thái vô cực là rất dễ. Kể cả việc bạn thành công quay lại quá khứ, cũng không chắc bạn có thể quay lại hiện tại, vì việc dí theo đoàn tàu thời gian khi bạn đang bị bỏ quá xa là bất khả thi, bạn chạy được 1 giây  thì đoàn tàu thời gian cũng chạy thêm được 1 giây. Chính vì vậy các nhà du hành có thể sẽ bị kẹt tại quá khứ, nhưng không gì là không thể, chỉ cần thiết bị du hành có vận tốc đủ để phá vỡ giới hạn thời gian thì việc quay lại hoàn toàn khả thi. Nghịch lý. Nghịch lý ông nội. Nghịch lý ông nội là một vấn đề trong nghịch lý của du hành thời gian, hay hiểu đơn giản là vấn đề không thể hiểu hoặc không có cách giải, lần đầu tiên được miêu tả (miêu tả đúng như khái niệm hiện nay) bởi nhà khoa học giả tưởng René Barjavel trong quyển sách "Le Voyageur Imprudent" ("Nhà du hành khinh suất") xuất bản năm 1943. Tuy nhiên, những vấn đề tương tự (thậm chí còn phức tạp hơn) đã được miêu tả sớm hơn, ví dụ điển hình tiểu thuyết "By His Bootstraps" của Robert A. Heinlein. Điều nghịch lý ở đây là: "Có một người đàn ông du hành thời gian về quá khứ và giết ông nội mình trước khi ông mình cưới bà nội. Kết quả là cha của anh ta sẽ không được sinh ra, điều đó dẫn tới người đàn ông đó sẽ không bao giờ được ra đời thì làm sao anh ta có thể du hành về quá khứ. Nhưng nếu anh không về quá khứ để giết ông nội mình thì ông nội anh phải còn sống và điều đó nghĩa là anh vẫn được ra đời và có thể vượt thời gian để giết ông nội mình". Hai tình trạng trên đã phủ nhận sự tồn tại của cả hai trường hợp, đây là một loại của nghịch lý logic. Mặc dù tên lý thuyết này là nghịch lý ông nội, nó không nói riêng về sự không thể sinh ra đời của một ai đó. Đúng hơn thì khái niệm này bao gồm bất cứ những hành động nào làm nên sự không thể vượt thời gian về quá khứ từ lúc đầu. Tên nghịch lý ông nội là tên thông thường nhất được dùng để diễn tả hiện tượng nghịch lý du hành thời gian. Một ví dụ nữa là sử dụng một kiến thức khoa học của nhà khoa học A để tạo ra cỗ máy thời gian rồi sử dụng nó đi về quá khứ rồi giết nhà khoa học A, nếu nhà khoa học A bị giết trước khi phát minh ra kiến thức khoa học đó thì cỗ máy thời gian cũng sẽ không hề được tồn tại. Thuyết nghịch lý tương tự được biết đến (trong triết học) như là autoinfanticide (tạm dịch là "em bé tự sát"): Nói về trở về thời gian và giết chính mình khi còn là đứa bé. Lý thuyết nghịch lý ông nội là một minh chứng bác bỏ khả năng du hành thời gian về quá khứ. Tuy nhiên, đã có một số phương pháp dùng để giải mã câu đố này đã được công bố, như là lý thuyết thời gian bất khả đổi nghĩa là tất cả mọi thứ trong thế gian đều đã sắp đặt không ai có thể thay đổi gì hết hoặc là khái niệm vũ trụ là một khoảng thời gian và không gian song song. Ví dụ như là không-thời gian (hay còn nói là thế giới) mà người đó được sinh ra khác biệt với thế giới mà người đó trở về quá khứ để giết ông nội mình hoặc có thể người đó vì muốn giết ông nội mình nhưng đã vô tình cứu ông thay vì giết được ông, điều đó nghĩa là ông nội anh vẫn còn sống và anh vẫn được ra đời để mà sau này trở về cứu ông nội mình. Một nghịch lý có liên quan là Nghịch lý Hitler hoặc Nghịch lý vụ ám sát Hitler. Nghịch lý Hitler này được thấy trong các thể loại khoa học giả tưởng, khi một người hùng vai chính du hành về quá khứ để giết chết Hitler trước khi Hitler tạo nên chiến tranh thế giới hai. Nếu như chiến tranh thế giới thứ hai chưa từng xảy ra thì lý do quay về quá khứ để giết Hitler cũng sẽ không hề tồn tại. Thêm vào đó, ảnh hưởng của sự tồn tại của Hitler rất to lớn và hầu như sẽ ảnh hưởng đến tất cả những người sinh sau thế chiến thứ hai. Do đó, nghịch lý ông nội cũng có thể được áp dụng trong nghịch lý Hitler vì thế chiến thứ hai ảnh hưởng đến sự ra đời của những người sinh sau thế chiến thứ hai. Nghịch lý tiền định. Nghịch lý tiền định hay vòng lặp nhân quả là nghịch lý du hành thời gian thường được sử dụng trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng. Vòng lặp nhân quả thời gian bao gồm sự kiện 1 diễn ra trước là nguyên nhân (hay ít nhất là một trong những nguyên nhân) của sự kiện 2 diễn ra sau, và bằng du hành thời gian, sự kiện 2 lại là nguyên nhân của sự kiện 1. Nghịch lý xảy ra khi nhà du hành thời gian rơi vào vòng lặp các sự kiện tiền định anh ta hoặc chị ta du hành thời gian về quá khứ. Lúc này, sự kiện 2 sẽ là sự kiện nhà du hành thời gian trở về quá khứ, và 1 là điều gì đó nhà du hành thời gian đã làm trong quá khứ khiến anh ta hoặc chị ta muốn quay trở về. Nghịch lý này đưa ra giả thuyết rằng những nhà du hành thời gian không có cách nào để thay đổi được một sự việc. Ví dụ khi một người quay về quá khứ để cứu một người khỏi tai nạn giao thông và khi ở quá khứ người đó lấy xe chạy đến nơi trước khi tai nạn xảy ra, vô tình người đó đâm trúng chính người mà họ trở về để cứu và gây ra cái chết, cái chết mà đã khiến bản thân trong tương lai muốn quay trở lại quá khứ. Lý thuyết này liên quan mật thiết đến nghịch lý bản thể ở chỗ có thứ không thể xác định được nguồn gốc độc lập, mà trong trường hợp này là lý do của chuyến du hành thời gian. Nghịch lý không ngụ ý rằng có một kế hoạch lớn hơn từ một nguồn gốc cao hơn, nó chỉ khẳng định rằng thời gian là bất biến. Chuỗi sự kiện vẫn có thể xảy ra bởi quan hệ nhân quả thay vì bởi một nguồn gốc siêu nhiên, ví dụ: Bởi vì du hành thời gian có khả năng làm ảnh hưởng đến quá khứ, một cách để giải thích vì sao quá khứ không thay đổi là nói điều gì đã xảy ra phải xảy ra. Điều này có nghĩa là mọi nỗ lực thay đổi quá khứ của nhà du hành thời gian, dù vô tình hay cố ý, cũng chỉ tạo ra và hoàn thành quá khứ mà chúng ta biết bấy lâu nay thay vì thay đổi nó, và kiến thức về lịch sử của nhà du hành thời gian đã bao gồm những chuyến du hành tương lai trong kinh nghiệm ở quá khứ của bản thân (theo Nguyên tắc tự nhất quán của Novikov). Nói cách khác: nhà du hành thời gian trở về quá khứ có nghĩa là họ đã "từng" ở quá khứ trước đây. Vì vậy, sự tồn tại của họ ở quá khứ là đặc biệt quan trọng đối với tương lai, và họ làm điều gì đó khiến tương lai diễn ra đúng như những gì họ nhớ. Nghịch lý này liên quan mật thiết đến nghịch lý bản thể và thường xuất hiện cùng nhau. Nghịch lý boostrap. Đây là 1 nghịch lý về du hành thời gian. Khi một sự vật, 1 thông tin ở tương lai được gửi về quá khứ, nó ảnh hưởng đến sự tồn tại của thông tin hay sự vật đó ở hiện tại. Nghịch lý boostrap hay thường được ghép với Nghịch lý tiền định. Giả sử, bạn ngân nga một bài hát của người ca sĩ bạn thích ở trong quá khứ, rồi người ca sĩ đó nghe thấy và đã nghĩ ra bài hát mới. Vậy ai đã tạo ra bài hát, không phải là bạn hay người ca sĩ. Nghịch lý boostrap luôn tạo ra sự bí ẩn về nguồn gốc thông tin trong nhiều tiểu thuyết, bộ phim có du hành thời gian. Hiệu ứng cánh bướm. Hiệu ứng cánh bướm (tiếng Anh: Butterfly effect) là một cụm từ dùng để mô tả khái niệm trong lý thuyết hỗn loạn về độ nhạy cảm của hệ đối với điều kiện gốc (sensitivity on initial conditions). Vốn được sử dụng ban đầu như một khái niệm khoa học đơn thuần, hiệu ứng cánh bướm sau đó đã được nhắc đến nhiều lần trong văn hóa đương đại, đặc biệt là trong các tác phẩm có đề cập tới quan hệ nhân quả hoặc nghịch lý thời gian. Đã có một vài bộ phim nhắc tới hiệu ứng này như: "Hiệu ứng cánh bướm" do diễn viên Ashton Kutcher thủ vai chính. Năm 1972, nhà khí tượng học và chuyên gia về lý thuyết hỗn loạn Edward Norton Lorenz đã giới thiệu trước Hiệp hội phát triển khoa học Hoa Kỳ (American Association for the Advancement of Science) một bài nói chuyện có tựa đề "Predictability: Does the Flap of a Butterfly's Wings in Brazil Set off a Tornado in Texas?" ("Tính dự đoán được: Liệu con bướm đập cánh ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?"). Trước đó vào năm 1961, trong khi mô phỏng một dự đoán về thời tiết trên máy tính, Lorenz đã lỡ nhập số liệu là 0,506 thay vì 0,506127 như dự định, và do đó đã thu được kết quả dự đoán thời tiết hoàn toàn khác so với tính toán ban đầu. Từ kết quả này Lorenz đã đề cập tới sự ràng buộc chặt chẽ của hệ vật lý đối với các điều kiện ban đầu trong bài nói chuyện. Theo đó một cái đập cánh của con bướm nhỏ bé có thể gây ra sự thay đổi (dù rất nhỏ) trong điều kiện gốc của hệ vật lý, dẫn đến kết quả là những thay đổi lớn về thời tiết như cơn lốc tại một địa điểm cách nơi con bướm đập cách hàng vạn km. Cũng theo Lorenz thì tỉ lệ động năng giữa một cái đập cánh của con bướm với toàn bộ cơn lốc là quá nhỏ, vì thế con bướm chỉ có vai trò không đáng kể trong những tính toán lý thuyết hỗn loạn cho hệ vật lý, nói cách khác thì nếu một cái đập cánh của con bướm có thể gây ra cơn lốc, thì một cái đập cánh khác cũng có thể dập tắt nó, và bên cạnh cái đập cánh của con bướm thì còn có vô vàn hoạt động khác có động năng đáng kể hơn rất nhiều có thể ảnh hưởng tới thời tiết.
1
null
8,8 cm Raketenwerfer 43 (tiếng Đức: "Puppchen" nghĩa là "búp bê") là pháo cỡ 88 mm dùng lựu chống tăng phát triển bởi Đức Quốc xã trong Thế chiến II. Nó đã được sử dụng bởi bộ binh để tăng cường khả năng chống tăng của họ. Vũ khí được đặt trên hai bánh xe nhỏ và bắn lựu, loại lựu RPzB. Gr. 4312 dùng bộ gõ mồi,được đẩy bằng tên lửa, có vây ổn định ở đuôi và có ngòi nổ hình lõm.Lựu đạn có một cái đuôi ngắn hơn 490 mm (19 in) so với cái đuôi dài 650 mm (26 in) cho lựu đạn điện tử RPzB. Gr. 4322 cho Panzerschreck. Cả hai lựu đạn đều sử dụng đầu đạn giống và gỗ mồi giống hệt nhau. Khoảng 3 000 đơn vị đã được trang bị loại vũ khí này vào năm 1943-1945. Nó đã được trang bị với số lượng nhỏ hơn nhiều so với Panzerschreck, được dựa trên Bazooka của Mỹ, hay Panzerfaust-là loại súng dùng một lần bắn lựu chống tăng không giật. Điều này một phần là bởi vì nó có một ống rỗng đơn giản với một thiết bị đánh lửa là tất cả cần thiết để khởi động các quả lựu pháo 88 mm, chứ không phải là pháo binh thu nhỏ với khả năng di chuyển. Do vận chuyển và điểm ngắm tốt hơn, độ chính xác là tốt hơn, và phạm vi lớn hơn gấp đôi so với Panzerschreck. Tuy nhiên, Raketenwerfer 43 đắt hơn, nặng hơn và có thời gian sản xuất lâu hơn Panzerschreck hoặc Panzerfaust.
1
null
Gina Jane Choi (tiếng Hàn: 최지나; Latinh: Choi Gi-na; sinh ngày 13 tháng 9 năm 1987), còn được biết đến với nghệ danh G.NA, là một ca sĩ Hàn Quốc lai Canada đang đầu quân cho hãng Cube Entertainment. Cô bắt đầu ra mắt và được công chúng biết đến qua các sự hiện EP, Draw G's First Breath vào ngày 16 tháng 7 năm 2010. Cô chính thức giải nghệ vào năm 2016 là kết quả cuối cùng sau vụ việc xùm lùm bê bối bán dâm xảy ra trong cùng năm đó. Khởi nghiệp. Cô là 1 thực tập sinh của công ty giải trí Cube Intertainment từ khá lâu cùng thời điểm 2010 với Beast và 4minute. Vào thời gian đầu cô không gây được nhiều sự chú ý nên được sắp xếp vị trí back dancer cho HyunA trong ca khúc Change. Sau này cô dần được chú ý và được debut sau vài tháng. Một số ca khúc đình đám. G.NA từng có nhiều hit trong sự nghiệp. Cô có kết hợp với HyunA trong vài ca khúc nhưng không thành công cho lắm. Bài hát "Black and white" của cô như 1 bước ngoặt khi mà nó đứng No.1 2 tuần liên tiếp trên bảng xếp hạng Gaon và đạt được nhiều vị trí cao trong các bảng xếp hạng khác. MV "Black and white" có nội dung khá thú vị về 1 cô nàng dễ thương luôn ghen tị và không muốn bạn trai mình để mắt tới bất cứ ai ngoài mình. Cuối cùng, cô nàng tức điên lên định đuổi anh chàng ra khỏi nhà nhưng chỉ cần một cái ôm ấm áp là cô nàng đã mủi lòng, sung sướng quên hết mọi việc. Một trong những ca khúc làm nên tên tuổi của G.NA là "2Hot". 2Hot là ca khúc được Kim Do Hoon và Lee Hyun Seung đồng sáng tác cùng với phần lời của Choi Gap Won. Đây là một bài hát nhạc dance kết hợp cùng những âm thanh điện tử giúp G.NA phô diễn được chất giọng mạnh mẽ cũng như hình ảnh trưởng thành và nữ tính của mình. Tuy nhiên, cộng động mạng thì xôn xao lên cho là G.NA đang cố tình gây sốc bằng cách hôn một bạn nhảy nữ ngay trên sân khấu. Không ít cư dân mạng đã tỏ ý nghi ngờ về việc G.NA đang muốn tạo sự chú ý khi 2Hot đang dần đi đến chặng cuối của việc quảng bá tuy nhiên sau đó các fan của G.NA đã đưa các video bằng chứng cho việc G.NA không hôn bạn nhảy nữ của mình tất cả chỉ là do góc máy quay của chương trình. Cô cũng đã cho ra mắt MV "Top Girl", ca khúc chủ đề của album. Hóa thân thành cô gái thượng lưu sành điệu và gợi cảm, G.NA khoe vóc dáng sexy trong những bước nhảy sôi động. Cùng với album, cô ca sĩ trẻ tài năng cũng cho đăng những hình mới nóng bỏng. Tuy nhiên "Banana", bài hát được lựa chọn để tái xuất của nữ ca sĩ G.NA đã bị đài MBC từ chối phát sóng vì lý do nội dung không phù hợp. Đài MBC khẳng định, ngay cả tên gọi ca khúc cũng có vấn đề. Theo họ, các câu từ của Banana chứa đựng nhiều hàm ý, ví dụ như đoạn ""nhiệt độ cơ thể tăng lên", hay "gương mặt nhỏ xinh và eo thon, khi dời xuống hông", "Xin đừng giấu đôi chân triệu đô của em", "Bóc vỏ chuối và chẳng màng đến những chú khỉ nói gì""... Đời tư. G.NA nổi tiếng với thể hình nóng bỏng, phong cách biểu diễn gợi cảm và táo bạo. Tuy nhiên, khi mới gia nhập làng giải trí, giống như nhiều ca sĩ khác, cô cũng khá mũm mĩm, gương mặt lộ rõ nét ngây thơ. So với vẻ sành điệu và sexy hiện tại, G.NA của lúc còn nhỏ có khuôn mặt tròn, vóc dáng đầy đặn và làn da ngăm, trông cô không thực sự nổi bật. Cư dân mạng nhận xét rằng G.NA đẹp lên rất nhiều nhờ trang điểm và chọn lựa trang phục hợp lý. Cô cũng cho biết mối tình đầu của cô tan vỡ chỉ vì cô quá gợi cảm, mối tình đầu của cô kéo dài 5 năm khi còn là học sinh cấp ba, cô được mọi người biết đến với vai trò đội trưởng đội cổ vũ. Đó cũng là thời gian mà cô quen và yêu. Nhưng sau này, người yêu của cô luôn khó chịu với những gì cô mặc, đặc biệt là những đồng phục cổ vũ, đồng thời can thiệp quá đáng vào lựa chọn thời trang của cô.
1
null
Bí tích Thánh Thể, còn gọi là Bí tích Cực Thánh hay Bí tích Mình Thánh Chúa, là một trong bảy Bí tích của Kitô giáo, được cử hành trong phần Phụng vụ Thánh Thể của Thánh lễ. Giáo hội Công giáo Rôma tin rằng, khi người Công giáo lãnh nhận bí tích này, họ được dự phần vào Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô và tham gia vào cuộc tế lễ của Ngài. Các tên gọi. Bí tích Thánh Thể vô cùng phong phú nên được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau, mỗi danh hiệu gợi lên một số khía cạnh: Nghi thức. Rước lễ là ăn và uống Mình Thánh Chúa qua hình thức bánh mì (không men trong Nghi lễ Latinh, và có men trong hầu hết các Nghi lễ Đông phương) và rượu nho đã được truyền phép. Theo đức tin của người Công giáo, biến đổi từ bánh mì và rượu nho thành Mình và Máu của Chúa Kitô là sự biến đổi thần tính (hoặc biến đổi bản thể) trong khi những tính chất vật lý, hóa học không thay đổi. Họ cũng tin rằng Bí tích Thánh Thể có khả năng nuôi dưỡng linh hồn. Bánh và rượu sẽ trở thành Mình Thánh và Máu Thánh Chúa khi Linh mục đọc lời truyền phép và không còn là Mình và Máu Chúa nữa khi bánh và rượu không còn tính chất của bánh và rượu. Chỉ có Giám mục hay linh mục mới có quyền cử hành Bí tích Thánh Thể.
1
null
Bảng xếp hạng "Billboard" cuối năm (tiếng Anh: "Billboard" Year-End) là bảng xếp hạng các sản phẩm âm nhạc (đĩa đơn và album) phổ biến nhất trong năm tại Mỹ, phát hành bởi tạp chí âm nhạc "Billboard". Vị trí xếp hạng dựa trên tổng doanh số tiêu thụ của đĩa đơn và album trong suốt năm đó. Danh sách. Dưới đây là danh sách các đĩa đơn và album quán quân trên bảng xếp hạng "Billboard" cuối năm.
1
null
thường được biết đến với tên Shin Megami Tensei: Persona 4 là phiên bản thứ năm của series Persona được phát triển và phát hành bởi Atlus dành cho hệ máy PlayStation 2. Series "Persona" là 1 spin-off của series "Shin Megami Tensei", một dòng trò chơi lớn hơn. "Persona 4" phát hành vào ngày 10 tháng 7 năm 2008 cho hệ PlayStation 2 tại Nhật Bản, sau đó phát hành tại Bắc Mỹ vào tháng 12 năm 2008 và tại châu Âu vào tháng 3 năm 2009. Phiên bản mở rộng Persona 4: Golden với nhiều tình tiết mở rộng đã phát hành vào ngày 14 tháng 6 năm 2012 tại Nhật Bản cho hệ máy PlayStation Vita và ngày 13 tháng 6 năm 2020 cho Microsoft Windows cho toàn thế giới. Trong trò chơi, người chơi sẽ vào vai một nam sinh trung học, vừa chuyển đến sống với chú của mình trong một thị trấn nhỏ tại miền quê Nhật Bản. Tại đây, một loạt vụ giết người đã xảy ra vào thời điểm sương mù bao phủ và theo một cách thức rất bí hiểm. Người chơi cùng những người bạn mới cùng nhau điều tra vụ án và phát hiện ra một thế giới song song nơi những sinh vật bí hiểm được gọi là Shadow sinh sống, họ đã quyết định phiêu lưu trong thế giới này để giải cứu các nạn nhân bị mắc kẹt và tìm kiếm kẻ chủ mưu. Để có thể chống lại các Shadow, các nhân vật phải triệu hồi các Persona vốn chính là những tính cách bên trong con người xuất hiện dưới dạng những vị thần hay sinh vật thần thoại mang nhiều quyền năng đặc biệt. Mặt khác của trò chơi là khi người chơi ở trong thế giới bình thường, nơi không phải chiến đấu với các Shadow thì "Persona 4" sử dụng yếu tố mô phỏng xã hội, người chơi sẽ nói chuyện, kết bạn, mua sắm cũng như có thể hẹn hò với các nhân vật nữ để tăng sự liên kết của nhân vật chính với xã hội, từ đó tính cách trở nên trưởng thành hơn giúp triệu tập các Persona mạnh hơn khi chiến đấu (nhưng nếu hẹn hò với nhiều người quá sẽ khiến nhân vật chính gặp rắc rối to sau đó nếu không biết cách xử lý). Trò chơi đã được chuyển thể thành nhiều loại hình truyền thông khác và trở thành một nhánh thương hiệu của "Persona" với các chuyển thể như các drama CD, manga, trò chơi điện tử... Cũng như nhiều vật dụng mà các nhân vật sử dụng cũng đã được làm. AIC ASTA và Aniplex đã thực hiện hai chuyển thể anime của trò chơi và phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 06 tháng 10 năm 2011 đến ngày 29 tháng 3 năm 2012 với 25 tập. Một chuyển thể anime khác do A-1 Pictures thực hiện đã phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 11 tháng 7 đến ngày 26 tháng 9 năm 2014 với 12 tập. Lối chơi. "Persona 4" pha trộn giữa lối chơi RPG truyền thống và yếu tố mô phỏng xã hội. Người chơi vào vai 1 thiếu niên do người chơi tự đặt tên, tới thị trấn Inaba trong 1 năm. Lối chơi được chia giữa cuộc sống ở thế giới thật Inaba, nơi nhân vật chính sống 1 cuộc sống thường ngày, và "Thế Giới TV" đầy bí ẩn, nơi các hầm ngục đầy rẫy những quái vật được biết đến với cái tên Shadows đang chờ đợi. Ngoại trừ 1 vài sự kiện đặc biệt hay tiến trình cốt truyện, người chơi có thể lựa chọn dành thời gian của họ vào việc gì mà họ thích, tham gia nhiều hoạt động ở thế giới thật như tham gia các hoạt động của CLB trường, làm việc bán thời gian hay đọc sách, hoặc thám hiểm hầm ngục trong Thế Giới TV để kiếm điểm kinh nghiệm và vật phẩm. Ngày được chia thành các thời điểm trong ngày, chủ yếu là "Sau giờ học/Ban ngày" và "Chiều tối", hầu hết mọi hoạt động đều sẽ chuyển giao thời gian. 1 vài hoạt động bị giới hạn bởi thời điểm trong ngày, ngày trong tuần và thời tiết, đa số hành động đều không thể làm được nếu người chơi bước vào Thế giới TV vào ngày đó. Hơn nữa, 1 vài hoạt động và lựa chọn lời thoại có thể bị giới hạn bởi 5 chỉ số đặc tính của nhân vật chính bao gồm: sự thấu hiểu, sự cần cù, sự can đảm, sự hiểu biết và sự bày tỏ. Các chỉ số này có thể tăng lên bằng cách thực hiện 1 vài hoạt động có thể tăng được loại chỉ số đó. Dù người chơi có thể thoải mái lựa chọn việc dành thời gian vào việc gì, nhưng nếu họ thất bại trong việc giải cứu ai đó bị kẹt trong Thế gới TV vào thời điểm sương mù xuất hiện trong thị trấn, xảy ra khi có mưa liên tục vài ngày, người đó sẽ bị Shadow giết chết và trò chơi sẽ kết thúc, buộc người chơi phải trở về 1 tuần trước đó. Càng về sau, nhân vật chính sẽ hình thành mối quan hệ với các nhân vật khác nhau, được biết đến với tên gọi là cơ chế ""Social Links"." Mỗi người sẽ đại diện cho 1 trong các Lá Ẩn Chính. Khi các mối quan hệ bền vững hơn, Social Link sẽ tăng hạng lên, giúp Persona được thưởng thêm cấp độ khi được tạo ra ở Velvet Room. Hơn nữa, tăng Social Link với các thành viên trong nhóm sẽ giúp họ có thêm một số khả năng như khả năng thực hiện đòn đánh nối hoặc thêm kĩ năng cho Persona của họ. Persona. Cơ chế chính của trò chơi xoay quanh Persona, các cá thể có hình thù như nhân vật thần thoại phản chiếu nội tâm của con người và đại diện cho lớp mặt nạ được mọi người đeo lên để đối mặt với khó khăn trong cuộc sống. Mỗi Persona sỡ hữu những kĩ năng riêng của chúng, cũng như có điểm mạnh và yếu ở 1 vài chỉ số. Khi Persona tăng kinh nghiệm từ trận chiến và lên cấp. Persona đó có thể học được những kĩ năng mới bao gồm kĩ năng công kích hoặc hỗ trợ được sử dụng trong trận chiến, hoặc kĩ năng nội tại tạo lợi thế cho nhân vật. Mỗi Persona có thể nắm giữ 8 kĩ năng 1 lúc, chiêu thức cũ cần phải bị quên đi để học được chiêu mới. Mỗi thành viên trong nhóm đều có Persona riêng của họ và đều có thể tiến hóa lên hình dạng mới mạnh hơn sau khi Social Link của họ đã đạt cấp tối đa, nhân vật chính có kĩ năng "Wild Card" giúp nắm giữ được nhiều Persona và có thể chuyển đổi linh hoạt Persona đang sử dụng trong trận chiến để sử dụng được nhiều loại kĩ năng khác nhau. Người chơi có thể có thêm Persona từ "Shuffle Time", khi lên cấp thì nhân vật chính có thể mang thêm được nhiều Persona hơn. Ngoài các hầm ngục, người chơi có thể vô thăm Velvet Room, nơi mà người chơi có thể tạo thêm các Persona mới, hoặc triệu hồi lại những Persona cũ đã từng sở hữu trước đây với 1 cái giá. Persona mới được tạo ra bằng cách kết hợp 2 hay nhiều con hơn để tạo nên 1 con mới và có thể nhận lại được 1 vài kĩ năng của những con đã được đem ra kết hợp. Cấp độ của Persona được tạo ra bị giới hạn bởi cấp độ của nhân vật chính. Nếu người chơi tăng cấp Social Link của 1 Lá Ẩn Chính nào đó thì Persona thuộc Lá Ẩn Chính đó sẽ nhận được điểm kinh nghiệm thưởng thêm khi được tạo ra. Chiến đấu. Bên trong thế giới TV, người chơi có 1 nhóm gồm nhân vật chính và 3 nhân vật khác để thám hiểm các hầm ngục được tạo ra 1 cách ngẫu nhiên, mỗi hấm ngục gắn liền với 1 nạn nhân đã bị bắt cóc. Ở mỗi tầng của 1 hầm ngục, người chơi có thể tìm thấy các Shadow, cũng như các rương báu chứa vật phẩm và trang bị. Người chơi vượt qua hầm ngục bằng cách tìm cầu thang nằm ở đâu đó ở mỗi tầng để lên tầng tiếp theo, tiếp tục cho đến khi tới được tầng cuối cùng nơi mục tiêu đang chờ tại đó. Người chơi bắt đầu trận chiến khi tiếp xúc với 1 Shadow. Người chơi sẽ nhận được lợi thế khi tấn công Shadow từ phía sau và bị tấn công từ phía sau sẽ cho kẻ địch nhận được lợi thế. Tương tự như hệ thống Press Turn được sử dụng trong các trò Shin Megami Tensei khác, chiến đấu sử dụng cơ chế đánh theo lượt với nhân vật tấn công kẻ địch sử dụng vũ khí được trang bị, vật phẩm hoặc kĩ năng đặc biệt của Persona. Bên cạnh việc nhân vật chính được điều khiển trực tiếp, các nhân vật khác cũng có thể được điều khiển trực tiếp hoặc chỉ định kiểu chiến đấu trong mục "Tactic - Chiến thuật" (có thể thay đổi chiến thuật cả trong lẫn ngoài trận chiến), giúp thay đổi AI chiến đấu của họ. Nếu nhân vật chính mất hết tất cả HP, trò chơi sẽ kết thúc và người chơi sẽ quay trở về màn hành chính. Các kĩ năng công kích có nhiều loại thuộc tính bao gồm vật lí, lửa, băng, gió, điện, ánh sáng, bóng tối và vạn năng. Cũng như việc mỗi loại kẻ địch có những đặc tính khác nhau, nhân vật ngưới chơi cũng có điểm mạnh và yếu trước 1 vài đòn tấn công dựa trên Persona hoặc trang bị mà họ đang xài. Bằng cách đánh trúng điểm yếu hoặc thực hiện 1 đòn đánh chí mạng, người chơi có thể đánh gục kẻ địch và nhân vật thực hiện đòn đánh đó sẽ có thêm 1 lượt nữa. Kẻ địch cũng sẽ được nhận thêm lượt nếu đánh trúng điểm yếu của nhân vật. Nếu ngưới chơi đánh gục tất cả kẻ địch, họ sẽ có cơ hội thực hiện đòn "All-Out Attack" - 1 đòn tấn công mà tất cả thành viên trong đội cùng lúc lao thẳng tấn công vào tất cả kẻ địch bị đánh gục, gây 1 lượng lớn sát thương. Kết thúc trận chiến, người chơi nhận được điểm kinh nghiệm, tiến và có thể sẽ có thêm vật phẩm từ trận chiến. Thỉnh thoảng sau trận chiến, người chơi có thể tham gia 1 trò chơi nhỏ có tên "Shuffle:Time" và "Arcana Time", giúp người chơi có thể có thêm Persona mới hoặc nhiều loại thưởng thêm tương ứng. Tổng quan. Bối cảnh và nhân vật. Persona 4 diễn ra tại 1 thị trấn nông thôn hư cấu của Nhật Bản tên là Inaba (稲葉市, "Inaba-shi"), nằm giữa vùng đồng bằng ngập nước, có khu mua sắm và trường trung học riêng. Những vụ giết người không rõ nguyên nhân đã xảy ra tại thị trấn, nơi các thi thể được tìm thấy bị treo lủng lẳng trên ăng ten truyền hình và nguyên nhân cái chết của họ vẫn chưa được giải đáp. Cùng lúc đó, tin đồn đã bắt đầu lan truyền rằng việc xem tivi bị tắt vào giữa đêm trời mưa sẽ tiết lộ bạn tâm giao của mỗi người. Trò chơi cũng theo chân các nhân vật chính vào Thế giới TV, một vương quốc phủ đầy sương mù chứa đầy quái vật tên là Shadows, chỉ có thể được gặp thông qua các TV. Nhân vật chính là một học sinh trung học được người chơi tự do đặt tên, sau này được Atlus đặt tên là Narukami Yu, anh đã chuyển từ thành phố để theo học tại Inaba. Ở trường, anh nhanh chóng kết bạn với Hanamura Yosuke, đứa con trai hơi vụng về của người quản lý siêu thị tạp hóa địa phương Junes; Satonaka Chie, một cô gái năng động, có hứng thú với võ thuật; và Amagi Yukiko, một cô gái điềm tĩnh và tinh tế, đang giúp đỡ công việc nhà trọ của gia đình cô. Vài ngày sau khi bắt đầu trò chơi, nhân vật chính, Yosuke và Chie theo dõi tin đồn "Midnight Channel", dẫn họ khám phá Thế giới TV và gặp Teddie, một sinh vật thân thiện xuất hiện dưới dạng trang phục gấu rỗng. Cốt truyện. Biến cố ập đến khi Ryotaro Dojima buộc tội nhân vật chính có liên quan đến vụ giết người. Nanako bị bắt cóc trong cuộc thẩm vấn của nhân vật chính, dẫn đến việc Ryotaro tham gia vào một cuộc truy đuổi bằng xe với thủ phạm. Cuộc rượt đuổi kết thúc khi cả hai cùng đâm nhau; kẻ bắt cóc trốn thoát cùng Nanako thông qua một chiếc tivi được đặt trong xe tải của hắn, và Ryotaro bị thương nặng đã giao nhiệm vụ giải cứu cô bé cho cả nhóm. Nhóm theo dõi họ trong thế giới TV; thủ phạm, Taro Namatame, trở thành Kunino-Sagiri tấn công họ nhưng bị đánh bại, cả hắn và Nanako được đưa đến bệnh viện Inaba. Trong thời gian Nanako ở lại bệnh viện, sương mù vẫn tồn tại trong thế giới thực quá thời hạn, khiến cư dân của Inaba ngày càng hoảng sợ. Khi Nanako dường như đã chết, cả nhóm đối mặt với Namatame một cách tức giận, và một Namatame giả làm Shadow xuất hiện trên Midnight Channel để khiến nhóm nổi điên và ném anh ta vào TV; với tư cách là nhân vật chính, người chơi phải giúp những người khác nhận ra rằng Namatame không phải là kẻ giết người bằng cách chỉ ra việc thiếu động cơ thích hợp, và sau đó làm việc để xác định rằng trợ lý của Ryotaro, Tohru Adachi, là kẻ giết người thực sự. Quyết định ném Namatame vào TV dẫn đến việc Nanako chết thật sự, trong khi tha thứ cho anh ta sẽ khiến cô ấy được hồi sinh một cách kỳ diệu. Việc không suy ra được danh tính của kẻ giết người thực sự dẫn đến bí ẩn sẽ không được giải đáp. Giết Namatame hoặc không giải được bí ẩn dẫn đến sương mù lặp đi lặp lại vĩnh viễn, điều này cuối cùng sẽ dẫn đến sự diệt vong của nhân loại. Sau khi xác định được thủ phạm là Adachi, cả nhóm đuổi theo và tìm thấy anh ta trong thế giới TV. Adachi giải thích rằng hành động của anh ấy là vì cả sự chán nản và niềm tin rằng nhân loại tốt hơn nên tin vào những gì "nó" muốn; những tuyên bố của anh ta bị đảng bác bỏ như là lời nói của một kẻ điên. Sau khi chiến đấu với Adachi, anh ta bị điều khiển bởi Ameno-sagiri, thứ đó tiết lộ rằng sương mù có hại cho con người và cuối cùng sẽ khiến nhân loại rơi vào trạng thái vô minh vĩnh viễn và biến thành Shadow. Sau thất bại của mình, nó đồng ý dỡ bỏ sương mù, chúc mừng cả nhóm về quyết tâm của họ. Bị đánh bại, Adachi đồng ý chịu trách nhiệm về hành động của mình và tự giao nộp mình. Trò chơi chuyển sang ngày trước khi nhân vật chính phải về nhà. Nếu người chơi quay trở lại dinh thự của Dojima, trò chơi sẽ kết thúc với việc cả nhóm tiễn nhân vật chính khi anh ta rời khỏi Inaba. Ngoài ra, nếu người chơi có thể xác định nguyên nhân không giải thích được của Midnight Channel và cố gắng giải quyết yếu tố cốt truyện này, nhân vật chính gặp gỡ cả nhóm và cùng nhau quyết định kết thúc vụ án một cách tốt đẹp. Nhân vật chính đối mặt với người phục vụ trạm xăng gặp phải khi bắt đầu trò chơi, người tiết lộ mình là Izanami, "người chỉ huy" đằng sau các sự kiện của trò chơi. Nguyên nhân của sương mù tái diễn được xác lập là một nỗ lực tạo ra một thế giới ảo ảnh bằng cách hợp nhất thế giới TV với thế giới con người, tất cả đều vì "lợi ích" của nhân loại. Cả nhóm theo dõi Izanami trong thế giới TV và chiến đấu với cô ấy, nhưng lúc đầu không thể chiến thắng; Nhân vật chính bị đánh bại được tiếp thêm sức mạnh nhờ mối liên kết mà anh ta đã tạo dựng với những người xung quanh, và với sức mạnh này, đánh thức một Persona mới — Izanagi-no-Okami — mà anh ta sử dụng để đánh bại Izanami. Khi làm như vậy, sương mù ở mỗi thế giới được dỡ bỏ và thế giới TV được khôi phục lại như ban đầu. Trò chơi kết thúc với việc cả nhóm tiễn nhân vật chính vào ngày hôm sau, và một cảnh hậu tín dụng mô tả cả nhóm quyết tâm duy trì tình bạn mãi mãi, khi nhân vật chính kiểm tra ảnh của bữa tiệc. Persona 4 Golden. "Persona 4 Golden" thêm vào 2 Social Links mới cho trò chơi; Adachi và Marie, 1 cô gái bí ẩn đã trở thành phụ tá ở Velvet Room và mong ước được vén màn kí ước đã mất của cô. Nếu người chơi nâng cao Social Link của Adachi lên một cấp độ nhất định, họ được lựa chọn giữ lại danh tính kẻ giết người của anh ta với nhóm, do đó bí ẩn vẫn chưa được giải đáp. Vào ngày cuối cùng của Yu ở Inaba, ta có thể chọn đến thăm Adachi và tiêu hủy một phần bằng chứng quan trọng liên quan đến vụ án. Adachi sau đó đe sẽ bắt Yu vì tội tiêu hủy bằng chứng nếu anh không trả lời các cuộc gọi của hắn. Kết thúc của trò chơi sau đó diễn ra tương tự, sau phần danh đề, Yu đi ngang qua Adachi ở vạch qua . Anh nắm chặt điện thoại trong tay khi Adachi nở nụ cười nhếch mép. Phát triển. Theo đạo diễn phát triển trò chơi Hashino Katsuro thì ý tưởng phát triển "Persona 4" chỉ xuất hiện sau khi phát hành Persona 3. Đội ngũ phát triển "Persona 4" là tất cả những người đã tham gia phát triển "Persona 3" cùng một số người mới vốn là những người hâm mộ Persona 3. Atlus đã lên kế hoạch nâng cấp cách chơi cũng như cốt truyện để nó không bị xem là "bản làm lại" nối tiếp của "Persona 3". Hashino nói rằng "Để đạt mục tiêu đó chúng tôi đã cố gắng cho người chơi Persona 4 mục tiêu nhất định cũng như cảm giác thúc đẩy để hoàn thành trò chơi. Một câu truyện về những vụ giết người hàng loạt đầy bí ẩn là cách chúng tôi thực hiện việc đó." Các ý kiến phản hồi của những người chơi "Persona 3" và "Persona 3: FES" cũng đã giúp đỡ rất nhiều cho việc phát triển, hơn 2.000 ý kiến đã được các nhân viên Atlus tổng hợp và phân tích. Cốt truyện của Persona 4 theo Hashino là "lấy cảm hứng rất nhiều" từ các tiểu thuyết trinh thám của Arthur Conan Doyle, Agatha Christie và Yokomizo Seishi. "Những cái chết kỳ lạ ở vùng nông thôn và phản ánh như các câu truyện thần thoại Nhật Bản rất tốt" cũng như các chi tiết đặc trưng của tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản thể hiện rất nhiều trong trò chơi. Các thiết kế của thị trấn Inaba trong trò chơi được dựa trên một thị trấn ở ven núi Phú Sĩ. Thiết kế nông thôn của nó là nguồn của một cuộc tranh cãi giữa các thành viên phát triển "Persona 4" do mỗi người có ý tưởng riêng của họ về hình ảnh một vùng nông thôn. Kết quả là toàn bộ nhân viên đã đi "săn hình ảnh" để quyết định thiết kế của Inaba. Inaba không đại diện cho một thành phố "Cấp quốc gia thu hút nhiều khách du lịch" nhưng cũng không phải là không được biết đến đến nỗi "Chẳng có gì". Hashino mô tả thành phố như "Có thể tốt hơn hoặc tệ hơn... một thị trấn đang trên đà xuống dốc". Không giống như các trò chơi phiêu lưu với một thế giới lớn để người chơi có thể khám phá, "Persona 4" chỉ tập trung hầu hết tại Inaba. Việc này giúp giảm chi phí phát triển cũng như như giúp Atlus có thể "Phát triển các chi tiết khác của trò chơi". Thiết lập trung tâm này cho phép người chơi cảm nhận được "Cuộc sống hằng ngày diễn ra trong trò chơi". Và tránh cảm giác lập đi lập lại, nhiều sự kiện khác nhau diễn ra trong cuộc sống được đưa vào để trò chơi luôn giữ được cảm giác thú vị. Các nhân vật chính được thiết kế trông giống như các học sinh bình thường nhưng cũng mang chất hiện đại và hơi mang sắc thái vùng nông thôn. Nich Maragos đã nói về thiết kế là "Các nhân vật không hẳn là nhà quê... mà chỉ là đang sống ở một vùng không thuộc đô thị lớn". Đạn diễn nghệ thuật Soejima Shigenori đã thiết kế mỗi nhân vật trong trò chơi có một mái tóc khác nhau. Phiên bản đã phát hành tại Nhật Bản vào ngày 14 tháng 6 năm 2012 đây là bản mở rộng của "Persona 4" cho hệ PlayStation Vita. Ban đầu phiên bản này dự định sẽ phát hành trên hệ PlayStation Portable vốn sẽ yêu cầu phải bỏ bớt một số tính năng của hệ PS2 tuy nhiên hệ PS Vita lại đủ mạnh để cho phép mở rộng trò chơi nên Atlus đã chuyển hướng sang hệ máy này. Phiên bản này có nhiều tình tiết mở rộng cũng như có thêm nhân vật, các Persona, trang phục cũng như các đoạn cắt cảnh mới. Trò chơi hỗ trợ thêm tính năng chiến đấu nối mạng không dây của Vita cũng như các tính năng mới cho việc thám hiểm các hầm ngục. Truyền thông. Thương hiệu. Cùng với việc phát hành "Persona 4" thì Atlus cũng phát hành luôn một thương hiệu kèm theo như một nhánh của thương hiệu "Persona" với các búp bê nhỏ, các tài liệu xuất bản, đồ chơi và quần áo. Atlus đã phối hợp với công ty xuất bản Enterbrain Nhật Bản để phát hành hai cuốn sách, một là artbook với các hình ảnh cùng các thông số của các nhân vật và một cuốn fanbook bao gồm các hình ảnh phác thảo, các hình ảnh do người hâm mộ vẽ cũng như có các bài phỏng vấn nhóm phát triển trò chơi. Các công ty khác cũng sản xuất các mặt hàng có liên quan đế trò chơi như Alter đã sản xuất các bức tượng nhỏ của các nhân vật, Cospa sản xuất các loại quần áo, túi xách cùng các vật dụng mà nhân vật mặc. Hầu hết các mặc hàng này chỉ sản xuất tại Nhật. Enterbrain cũng đã phát hành một artbook tiếng Anh có tựa đề "Persona 4: Official Design Works". Manga. Các chuyển thể manga của "Persona 4" đã được thực hiện. Chuyển thể đầu tiên do Sogabe Shūji, người cũng đã từng thực hiện chuyển thể manga của "Persona 3", thực hiện. Chuyển thể này đã đăng trên tạp chí Dengeki Black Maoh của ASCII Media Works từ ngày 19 tháng 9 năm 2008. Các chương sau đó đã được tập hợp lại và phát hành thành các tankōbon, tính đến tháng 7 năm 2012 thì có 6 tập đã được phát hành. Một chuyển thể manga ngoại truyện khác có tựa "Persona 4: The Magician" đăng trên tạp chí "Persona Magazine" đã phát hành từ ngày 07 tháng 11 năm 2011. Anime. AIC ASTA đã thực hiện chuyển thể anime của trò chơi và phát sóng tại Nhật Bản trên kênh MBS từ ngày 06 tháng 10 năm 2011 đến ngày 29 tháng 3 năm 2012 với 25 tập. Tất cả các diễn viên lồng tiếng cho trò chơi đều tham gia lồng tiếng cho bộ anime này. Aniplex đã phát hành và phân phối phiên bản DVD/BD của bộ anime từ ngày 23 tháng 11 năm 2011, tập phim trong hộp đĩa đầu tiên có thêm các cảnh mà phiên bản phát sóng trên truyền hình không có, hộp đĩa này còn đính kèm một đĩa đơn chứa bài hát mở đầu và kết thúc của bộ anime. Phiên bản DVD/BD của bộ anime được chờ đón tại Nhật Bản với hộp đĩa BD đầu của bộ anime có doanh thu tốt với 27.951 bản được bán khi hết năm 2011. Một tập đặc biệt chứa "kết thúc thật sự" của bộ anime được phát hành cho phiên bản DVD/BD của bộ anime. Sentai Filmworks đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ anime để tiến hành việc phân phối tại thị trường Bắc Mỹ. Một phim anime có tựa "Persona 4 The Animation -The Factor of Hope-" (ペルソナ4 the Animation -the Factor of Hope-) dài 90 phút đã được công chiếu tại các rạp ở Nhật Bản vào ngày 09 và 10 tháng 6 năm 2012. Bộ phim là tập hợp những sự kiện diễn ra trong bộ anime nhưng nó cũng có luôn "kết thúc thật sự" mà chỉ có phiên bản DVD/BD của bộ anime sau khi phát hành xong mới có. Bộ anime thứ hai có tựa "Persona 4 The Golden Animation" (ペルソナ4 ザ・ゴールデンアニメーション) do A-1 Pictures thực hiện chuyển thể cho phiên bản "Golden" trên hệ PlayStation Vita đã phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 11 tháng 7 đến ngày 26 tháng 9 năm 2014 với 12 tập trên kênh MBS. Cốt truyện giống như bộ anime thứ nhất nhưng tập trung vào các sự kiện thêm cùng nhân vật mới của phiên bản "Golden". Một tập OVA đặc biệt đã được thực hiện và phát hành vào ngày 10 tháng 12 năm 2014 cùng với phiên bản BD/DVD của bộ anime thứ hai, tập này có chứa một kết thúc hoàn toàn khác. Drama CD. Frontier Works đã phát hành ba đĩa drama CD từ ngày 24 tháng 6 năm 2009 đến ngày 26 tháng 5 năm 2010. Một áp phích do Soejima Shigenori thiết kế được đính kèm với đĩa đầu tiên. Âm nhạc. Âm nhạc trong trò chơi được soạn chủ yếu bởi Meguro Shōji, Kitajoh Atsushi người được biết đến với các bản nhạc trong và đã soạn bốn bản và Kozuka Ryota đã soạn ba bản. Tất cả các bài hát đều do Hirata Shihoko người mà Meguro thấy có chất giọng phù hợp với các bản nhạc trình bày, lời bài hát do Tanaka Reiko người mà Meguro thấy rất thích hợp để biên soạn các bài hát bằng tiếng Anh soạn. Meguro đã được đưa một phác thảo thô về cốt truyện của trò chơi và cũng đã soạn các bản nhạc thô dựa vào đó, sau đó với sự phát triển của cốt truyện cùng các lời thoại được hình thành thì các bản nhạc cũng dần được hoàn chỉnh và chuyển tải phù hợp với các cảnh trong trò chơi. Meguro đã nói rằng hai bài hát "Pursuing My True Self" và "Reach Out to the Truth" đã được soạn để phản ánh sự xung đột bên trong các nhân vật trong trò chơi, bài "Pursuing My True Self" được dùng như bài hát mở đầu giúp cho mọi người cảm nhận được xung đột nội tâm của nhân vật và bài "Reach Out to the Truth" sử dụng sau những cuộc chiến lớn trong trò chơi giúp mọi người cảm nhận được "Sức mạnh của những nhân vật này để họ vượt qua những xung đột nội tâm này". Bản nhạc chủ đề "Aria of the Soul" trong Căn phòng Velvet là bản nhạc chung của các trò chơi trong dòng "Persona" vẫn tương đối không thay đổi vì Meguro tin rằng bản nhạc đã khá hoàn hảo từ các trò chơi trước. Aniplex đã phát hành các bản nhạc trong "Persona 4" thành hai đĩa CD vào ngày 23 tháng tháng 7 năm 2008. Trong khi hình bìa đĩa nhạc của "Persona 3" được thiết kế theo kiểu hiện đại thì hình bìa đĩa nhạc của "Persona 4" được thiết kế hơi mang âm hưởng của quá khứ. Một album được biên soạn lại có tên "Never More" của "Persona 4" đã phát hành vào ngày 26 tháng 10 năm 2011, trong album này có các bài hát với lời đầy đủ không bị rút gọn cũng như một số bản biến tấu của các bản nhạc trong trò chơi. "Never More" đã đứng ở vị trí đầu trong bảng xếp hạng hàng tuần của Oricon và bảng xếp hạng album Nhật Bản có doanh số cao của Billboard trong tuần đầu phát hành với khoảng 27.000 bản được bán, nhiều hơn 6.000 bản so với album The Boys của Girls' Generation trong thời gian này. Các bản nhạc của anime cũng do Meguro Shōji soạn. Bộ anime có 10 bài hát chủ đề cho cả phần mở đầu và kết thúc. Bài hát mở đầu đầu tiên là bài "Pursuing My True Self" do Hirata Shihoko trình bày sử dụng trong tập đầu, bài hát chủ đề thứ hai là bài "sky's the limit" cũng do do Hirata Shihoko trình bày sử dụng như bài hát kết thúc từ tập 2 đến 8 và 10 đến 12, bài hát này còn được dùng như bài hát kết thúc của tập đầu. Bài hát mở đầu thứ ba là bài "True Story" do Kugimiya Rie trình bày thông qua nhân vật Kujikawa Rise sử dụng trong tập 9. Bài hát mở đầu thứ tư là bài "key plus words" tiếp tục do Hirata Shihoko trình bày sử dụng ở tất cả các tập còn lại trừ tập 15, tập 15 sử dụng bài hát "Burn My Dread" do Kawamura Yumi trình bày làm bài hát mở đầu bài hát này vốn là bài hát chủ đề của "Persona 3" để phù hợp với bối cảnh của tập anime này. Bài hát kết thúc thực sự đầu tiên là bài "Beauty of Destiny" do Hirata Shihoko cùng Lotus Juice trình bày sử dụng từ tập 2 đến 12. Bài hát kết thúc thứ hai là bài "Koisuru Meitantei" (恋する名探偵) do Horie Yui trình bày dùng trong tập 13. Bài hát kết thúc thứ ba là bài "The Way of Memories -Kizuna no Chikara-" (The Way of Memories -キズナノチカラ-) do Hirata Shihoko trình bày sử dụng trong các tập 14 đến 17, 19 đến 21 và tập 23. Bài hát kết thúc thứ tư là bài "Honto no Kimochi" (ほんとのきもち) cũng do Hirata Shihoko trình bày sử dụng trong tập 18. Bài hát kết thúc thứ năm là bài "Never More" do Hirata Shouko trình bày sử dụng trong tập 25. Các bài hát chủ đề cùng các bản nhạc dùng trong bộ anime đã phát hành dưới dạng đính kèm các hộp phiên bản BD/DVD giới hạn của bộ anime. Đĩa tập hợp các bản nhạc của phiên bản "Persona 4: The Golden" đã phát hành vào ngày 27 tháng 6 năm 2012. Bộ anime "The Golden" có 6 bài hát chủ đề, 3 mở đầu và 3 kết thúc. Bài hát ở đầu thứ nhất có tên "Shadow World", bài hát mở đầu thứ hai là bài "Next Chance to Move On", bài hát mở đầu thứ ba có tên "key plus words" tất cả đều do Hirata Shihoko trình bày. Bài hát kết thúc thứ nhất có tên "Dazzling Smile" do Hirata Shihoko trình bày, bài hát kết thúc thứ hai là bài "Subete no Tamashii no Uta" (全ての人の魂の詩) do Meguro Shoji trình bày, bài hát kết thúc thứ ba có tên "Never More" do Hirata Shihoko trình bày. Hầu hết các bản nhạc chủ đề đều đã được phát hành trong các đĩa đơn hay album của các tác phẩm Persona 4 trước, riêng hai bài "Next Chance to Move On" và "Dazzling Smile" thì phát hành dưới dạng đính kèm phiên bản hộp DVD/BD giới hạn đầu tiên của bộ anime này phát hành vào ngày 10 tháng 9 năm 2014, ngoài ra còn có một đĩa đính kèm đặc biệt khác cho hộp đầu tiên chứa bản biến tấu của hai bài hát này. Album chứa các bản nhạc dùng trong bộ anime đã phát hành dưới dạng đính kèm trong phiên bản hộp DVD/BD giới hạn 3 và 5 của bộ anime phát hành vào ngày 12 tháng 11 năm 2014 và ngày 14 tháng 1 năm 2015. Hòa nhạc. Một buổi hòa nhạc có tên "VisuaLive: Persona 4" (VISUALIVE『ペルソナ4』) đã được thực hiện vào ngày 15 đến 20 tháng năm 2012. Các diễn viên vào vai các nhân vật là Baba Toru vào vai nhân vật nam chính (tên của nhân vật này do khán giả bình chọn), Maeyama Takahisa vào vai "Hanamura Yosuke", Tsukui Minami vào vai "Satonaka Chie", Yoshiki Risa vào vai "Amagi Yukiko", Saotome Jyōji vào vai "Nagase Daisuke", Ota Motohiro vào vai "Ichijo Kou", Taniguchi Masashi vào vai "Dojima Ryotaro" và Ito Masami vào vai "Adachi Tohru". Diễn viên lồng tiếng cho nhân vật "Teddie" là Yamaguchi Kappei cũng tham gia buổi biểu diễn này với vai Teddie. Đón nhận. "Persona 4" đã nhận được rất nhiều các đánh giá tích cực từ các nhà phê bình bên trong và bên ngoài Nhật Bản, trò chơi đã giành vị trí đầu trong bảng xếp hạng về doanh thu trong ngày đầu tiên phát hành. Tại Nhật Bản, "Persona 4" đã bán được 193.000 bản trong vòng tuần đầu tiên phát hành. Còn tại thị trường Bắc Mỹ thì phiên bản PlayStation 2 của trò chơi đã bán chạy nhất trên Amazon.com trong vòng 2 tuần đầu phát hành. "Persona 4" đã giành danh hiệu "Trò chơi PlayStation 2 hay nhất" của tại chí Famitsu năm 2008. Hiệp hội các nha cung cấp giải trí máy tính (CESA) Nhật Bản đã trao cho trò chơi danh hiệu "Trò chơi xuất sắc của năm"tại lễ trao giải trò chơi Nhật Bản năm 2009 vì "Chất lượng cao của tác phẩm" và "Cốt truyện tuyệt vời, hầm ngục có khả năng tự động thiết lập và nhạc nền ấn tượng.". Đánh giá. "Persona 4" đã nhận được rất nhiều các đánh giá tích cực từ các nhà phê bình bên trong và bên ngoài Nhật Bản kể từ khi được phát hành. Metacritic đã đánh giá trò chơi là 90/100 dựa trên 47 bài đánh giá. "Famitsu" nói rằng dù không có thay đổi nhiều trong cách chơi từ phiên bản trước nhưng sự thay đổi trong cách chiến đấu đã nhận được sự ủng hộ với nhận xét "Nhịp điệu khá nhanh như thế sẽ tránh được sự buồn chán" và đánh giá khả năng điều khiển các nhân vật là "Làm cho dễ chơi hơn nhiều". IGN thì nhận xét "Nhịp điệu có thể là hơi quá nhanh" và "Một số điểm có vẻ như được thêm thắt hoặc không hề bị đả động đến từ trò chơi trước" trong đó lại khen ngợi trò chơi là "Sự tiến hóa thẳng trực tiếp của dòng trò vai nhập vai cổ điển" nhưng cũng nói âm nhạc của trò chơi "Lặp lại đôi chút". Ryan Mattich tại RPGFan đã đánh giá "Persona 4" là "Một trong những kinh nghiệm thú vị nhất trong năm về trò chơi nhập vai" cũng như nói trò chơi là một phiên bản nối tiếp không mấy khác biệt nhưng là một ví dụ hoàn hảo trong việc giữ cân bằng với việc làm cho người chơi có cảm giác lại chơi trò chơi cũ và một trò chơi hoàn toàn mới trong thể loại. Andrew Fitch tại 1UP.com thì nhận xét trò chơi là "Một trong các trò chơi nhập vai hay và lớn của thập kỷ" nhưng cũng nói là "Còn một số vấn đề nhỏ trong việc nạp trò chơi" cũng như nói thời gian chờ nạp là "Đủ để ra trò chơi mới". GameTrailers đã đả đánh giá trò chơi là 9.3 với nhận xét đây là một trong các ví dụ điển hình về dòng trò chơi nhập vai Nhật Bản và nó nổi bật giữa các trò chơi khác kể cả Persona 3. Wired thì chỉ ra rằng đồ họa của trò chơi dù không bằng với các trò chơi thuộc hệ PlayStation 3 hay Xbox 360 nhưng nó có một phong cách độc đáo đủ để bù đắp cho vấn đề đó cũng như nhận xét về âm nhạc là "Tuyệt vời, nhất là trong các trận đánh". Thiết lập của trò chơi đã nhận được các đánh giá khác nhau. IGN đã nhận xét chủ đề là "Các vụ giết người bí ẩn là chủ đề quen thuộc từ Persona 3", còn về việc thám hiểm và mô phỏng xã hội thì "Được nhàu nặn một cách thú vị" nhưng có cũng làm cho thời gian chơi trở nên quá dài. Tim Henderson tại Hyper đã nói rằng trò chơi đã thành công trong việc kết hợp các truyền thuyết cổ xưa vào bối cảnh đô thị cùng những ý khác một cách mạch lạc. Tuy nhiên ông cũng nói là tốc độ cốt truyện khá chậm khiến có cảm giác như có sự thiếu liên kết ở mảng này.
1
null
BMPT "Ramka" (, "Xe chiến đấu hỗ trợ tăng") là một loại xe chiến đấu bọc thép của Nga, nó được thiết kế để dùng lẫn trong các đội hình tăng nhằm bảo vệ đội hình và làm nhiệm vụ diệt tăng của đối phương. Nó được trang bị hỏa lực mạnh cùng hệ thống phòng vệ tiên tiến, thậm chí còn hơn hẳn so với nhiều loại xe tăng chiến đấu chủ lực vẫn được nhiều quốc gia sử dụng. BMPT còn có biệt danh khác là "Terminator – Kẻ hủy diệt". Một số lượng nhỏ BMPT đã được trang bị cho Lục quân Nga vào năm 2005. Thiết kế. Khái niệm về một xe chiến đấu hỗ trợ xe tăng chủ lực không phải là mới, vào thập niên 1970 người Đức đã thiết kế "Begleitpanzer" (xe hộ tống tăng). Nhưng nó không bao giờ được đưa vào sản xuất do thiếu sự quan tâm vào thời điểm đó. Lịch sử phát triển của BMPT được bắt đầu từ sau cuộc Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất. Sử dụng giáp thông thường ở các cuộc đụng độ trong đô thị, lực lượng Nga đã phải chịu những tổn thất nặng nề về cả người và phương tiện. Những tổn thất này không thể đổ lỗi hoàn toàn cho công nghệ, hiển nhiên một xe chiến đấu chống bộ binh chuyên dụng sẽ cung cấp sự hỗ trợ giá trị trong một môi trường đô thị. Trong khi đó, giải pháp tạm thời đã được sử dụng là dùng pháo phòng không tự hành (AA) ở Chechnya. Tuy nhiên, các phương tiện này vốn không có lớp giáp dày cũng như thiếu khả năng cơ động mạnh như những chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT). Chính vì vậy, đòi hỏi phải phát triển một loại xe tác chiến mới đặt trên khung gầm xe tăng, được trang bị hệ thống phòng vệ chí ít cũng phải bằng hoặc hơn hẳn so với hầu hết các loại xe tăng chiến đấu chủ lực. Đã có vài thiết kế khác nhau, ví dụ như Ob'yekt 193A và Ob'yekt 745. Một mô hình của Ob'yekt 199 đã được trình diễn lần đầu tại triển lãm BTVT-1997. Chiếc xe này hơi khác so với thiết kế hiện tại, chỉ được trang bị một pháo 30 mm và tên lửa Kornet. Mẫu sản xuất của BMPT được phát triển vào năm 2002. Sử dụng. Khi tác chiến trong đô thị, BMPT được sử dụng theo tỷ lệ 2 trên 1, tức là cứ 2 chiếc BMPT sẽ hỗ trợ và bảo vệ 1 chiếc xe tăng chủ lực. Còn khi tác chiến ở khu vực ngoài đô thị thì cứ 1 chiếc BMPT bảo vệ 2 chiếc xe tăng. Đây là kết quả từ sự phức tạp trong tác chiến ở địa hình đô thị và sự cần thiết phải có một xe chiến đấu chống bộ binh có thể tiêu diệt nhiều mục tiêu cùng lúc ở các độ cao khác nhau. Sự ra đời của xe chiến đấu như vậy đã làm cho việc tác chiến trong môi trường đô thị của xe tăng giảm nhẹ hơn và có thể giảm một lượng lớn mục tiêu khác, để xe tăng có thể tập trung vào các mục tiêu lớn và xe tăng đối phương. Mô tả. BMPT được đặt trên khung gầm của những chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực T-72 nổi tiếng, vốn được sử dụng số lượng lớn trong Lục quân Nga và trong quân đội nhiều quốc gia khác. Phía sau của khoang lái, phần phía trước của xe được nâng lên, tăng thể tích bên trong. Tháp pháo trang bị khẩu pháo tự động nòng kép 2A42 30 mm với tốc độ bắn lên tới 600 viên/phút. Cơ số đạn cho pháo 2A42 là 850 viên. Pháo có thể bắn nhiều loại đạn khác nhau gồm: đạn nổ mạnh – vạch đường (HE-T), đạn tách vỏ xuyên thép (APDS), đạn nổ mạnh – phân mảnh (HE-FRAG) và đạn xuyên thép – vạch đường (AP-T). Một súng máy đồng trục 7,62 mm đi kèm với pháo chính. 4 ống phóng tên lửa chống tăng có điều khiển Ataka-T, có thể bắn nhiều loại đầu đạn khác nhau, được đặt ở hai bên của pháo chính. Tên lửa chống tăng có đầu đạn HEAT nối tiếp để tiêu diệt các mục tiêu có giáp phản ứng nổ. Nhờ việc sử dụng được nhiều loại đầu đạn tên lửa khác nhau, xe có khả năng công kích các loại tăng hiện hữu và tương lai, các cứ điểm kiên cố, cũng như trực thăng bay thấp. Một hệ thống máy tính điều khiển hỏa lực sẽ điều khiển BMPT tiêu diệt các mục tiêu trong điều kiện thời tiết ngày và đêm, hay khi BMPT đứng yên hoặc chuyển động. Nó sử dụng các phần tử đã được trang bị trên xe tăng chủ lực T-90. Trưởng xe được trang bị một kính ngắm toàn cảnh B07-K1, xạ thủ pháo chính có kính ngắm B07-K2 gồm các kênh ảnh nhiệt, quang học và một máy đo xa laser. Hai xạ thủ điều khiển súng phóng lựu AG-17D mỗi người có một kính ngắm ngày/đếm "Agat-MR". Ngoài ra tùy chọn BMPT có thể trang bị thiết bị phá mìn như KMT-7 hoặc KMT-8. Xe tăng T-72 có thể được hoán đổi thành BMPT. Hệ thống điều khiển hoả lực đồng bộ với kính ngắm ảnh nhiệt cung cấp khả năng trinh sát phát hiện và xạ kích mục tiêu rất hiệu quả. Nhờ hỏa lực mạnh, hệ thống phòng vệ tiên tiến cùng khả năng việt dã cao, xe có khả năng tác chiến bất cứ thời điểm nào trong ngày, trong mọi điều kiện thời tiết và trên mọi địa hình, cả rừng núi lẫn đô thị. Vũ khí. Trang bị vũ khí gồm: Xe được bảo vệ nhờ giáp chủ động và thụ động.
1
null