text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Saanen (; ) là một quận hành chính cũ thuộc bang Bern của Thụy Sĩ. Saanen có diện tích 241 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 8.438 người. Thủ phủ đóng ở Saanen. Mã bưu chính là 220. Sau ngày 1 tháng 1 năm 2010, quận này sáp nhập vào hạt Obersimmental-Saanen, thuộc vùng lãnh thổ Oberland. Quận gồm có 3 đô thị:
1
null
Huyện Sankt Gallen (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Sankt Gallen. Huyện Sankt Gallen có diện tích 71 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 80345 người. Trung tâm của huyện đóng ở Sankt Gallen. Mã của huyện là ?.
1
null
Huyện Sargans (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Sankt Gallen. Huyện Sargans có diện tích 518 kilômét vuông, dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 35176 người. Trung tâm của huyện đóng ở Sargans. Mã của huyện là ?.
1
null
Huyện Schaffhausen (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Schaffhausen. Huyện Schaffhausen có diện tích 101 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 49481 người. Trung tâm của huyện đóng ở Schaffhausen. Mã của huyện là 1403.
1
null
Huyện Schleitheim (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Schaffhausen. Huyện Schleitheim có diện tích 44 kilômét vuông, dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 3034 người. Trung tâm của huyện đóng ở Schleitheim. Mã của huyện là 1404.
1
null
Huyện See (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Sankt Gallen. Huyện See có diện tích 111 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 43781 người. Trung tâm của huyện đóng ở Jona. Mã của huyện là.
1
null
Huyện Sense (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Fribourg (bang). Huyện Sense có diện tích 265 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 28273 người. Trung tâm của huyện đóng ở Tafers. Mã của huyện là 1006.
1
null
Huyện Sierre (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Valais. Huyện Sierre có diện tích 419 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 40469 người. Trung tâm của huyện đóng ở Sierre. Mã của huyện là 2311.
1
null
Quận Signau (; ) là một quận hành chính cũ thuộc bang Bern, Thụy Sĩ. Signau có diện tích 320 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 24.815 người. Thủ phủ đóng ở Signau. Mã bưu chính là 223. Sau ngày 1 tháng 1 năm 2010, quận này sáp nhập vào hạt Emmental, thuộc vùng lãnh thổ Emmental-Oberaargau.
1
null
Huyện Sion (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Valais. Huyện Sion có diện tích 126 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 36819 người. Trung tâm của huyện đóng ở Sion. Mã của huyện là 2312.
1
null
Huyện Solothurn (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Solothurn. Huyện Solothurn có diện tích 6 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 15213 người. Trung tâm của huyện đóng ở Solothurn. Mã của huyện là 1109.
1
null
Huyện Stein (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Schaffhausen. Huyện Stein có diện tích 31 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 4941 người. Trung tâm của huyện đóng ở Stein am Rhein. Mã của huyện là 1405.
1
null
Huyện Surselva (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Graubünden. Huyện Surselva có diện tích 1261 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 22166 người. Trung tâm của huyện đóng ở Ilanz. Mã của huyện là 1831.
1
null
Huyện Unterklettgau (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Schaffhausen. Huyện Unterklettgau có diện tích 41 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 4293 người. Trung tâm của huyện đóng ở Hallau. Mã của huyện là 1406.
1
null
Huyện Unterrheintal (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Sankt Gallen. Huyện Unterrheintal có diện tích 51 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 40791 người. Trung tâm của huyện đóng ở Widnau. Mã của huyện là ?.
1
null
Huyện Untertoggenburg (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Sankt Gallen. Huyện Untertoggenburg có diện tích 107 kilômét vuông, dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 37231 người. Trung tâm của huyện đóng ở Uzwil. Mã của huyện là ?.
1
null
Huyện Uri (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Uri. Huyện Uri có diện tích 1077 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 35487 người. Trung tâm của huyện đóng ở Altdorf. Mã của huyện là 400.
1
null
Huyện Uster (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Zürich. Huyện Uster có diện tích 112 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 103534 người. Trung tâm của huyện đóng ở Uster. Mã của huyện là 109.
1
null
Huyện Val-de-Ruz (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Neuchâtel. Huyện Val-de-Ruz có diện tích 128 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 14198 người. Trung tâm của huyện đóng ở Cernier. Mã của huyện là 2405.
1
null
Huyện Val-de-Travers (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Neuchâtel. Huyện Val-de-Travers có diện tích 88 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 12344 người. Trung tâm của huyện đóng ở Mộtiers. Mã của huyện là 2406.
1
null
Huyện Vallemaggia (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Ticino. Huyện Vallemaggia có diện tích 569 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 5709 người. Trung tâm của huyện đóng ở Maggia. Mã của huyện là 2108.
1
null
Huyện Vevey (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Vaud. Huyện Vevey có diện tích 97 kilômét vuông, dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 65512 người. Trung tâm của huyện đóng ở Vevey. Mã của huyện là 2218.
1
null
Huyện Visp (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Valais. Huyện Visp có diện tích 835 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 27322 người. Trung tâm của huyện đóng ở Visp. Mã của huyện là 2313.
1
null
Vorderland (, ) là một huyện hành chính cũ của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Appenzell Ausserrhoden, tồn tại từ năm 1858 đến năm 1995. Huyện có diện tích 46 km², với thủ phủ đóng ở Heiden. Mã bưu chính của huyện là 1503. Mặc dù không còn tồn tại với tư cách đơn vị hành chính, nhưng phương diện văn hóa và địa bàn thống kê vẫn được sử dụng. Dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 13.527 người. Các đô thị trước đây gồm Heiden (thủ phủ), Grub, Lutzenberg, Rehetobel, Reute, Wald, Walzenhausen, Wolfhalden.
1
null
Huyện Waldenburg (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Basel-Landschaft. Huyện Waldenburg có diện tích 105 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 14984 người. Trung tâm của huyện đóng ở Waldenburg. Mã của huyện là 1305.
1
null
Wangen (; ) là một quận hành chính cũ thuộc bang Bern của Thụy Sĩ. Wangen có diện tích 129 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 26.162 người. Thủ phủ đóng ở Wangen an der Aare. Mã bưu chính là 226. Sau ngày 1 tháng 1 năm 2010, quận này sáp nhập vào hạt Oberaargau, thuộc vùng lãnh thổ Emmental-Oberaargau.
1
null
Huyện Wasseramt (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Solothurn. Huyện Wasseramt có diện tích 77 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 46581 người. Trung tâm của huyện đóng ở Zuchwil. Mã của huyện là 1106.
1
null
Huyện Weinfelden (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Thurgau. Huyện Weinfelden có diện tích 124 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 24111 người. Trung tâm của huyện đóng ở Weinfelden. Mã của huyện là 2008.
1
null
Huyện Werdenberg (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Sankt Gallen. Huyện Werdenberg có diện tích 206 kilômét vuông, dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 32799 người. Trung tâm của huyện đóng ở Buchs. Mã của huyện là ?.
1
null
Huyện Wil (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Sankt Gallen. Huyện Wil có diện tích 80 kilômét vuông, dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 31939 người. Trung tâm của huyện đóng ở Wil. Mã của huyện là ?.
1
null
Huyện Willisau (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Lucerne. Huyện Willisau có diện tích 337 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 46753 người. Trung tâm của huyện đóng ở Willisau. Mã của huyện là 305.
1
null
Huyện Winterthur (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Zürich. Huyện Winterthur có diện tích 251 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 133245 người. Trung tâm của huyện đóng ở Winterthur. Mã của huyện là 110.
1
null
Huyện Yverdon (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Vaud. Huyện Yverdon có diện tích 157 kilômét vuông, dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 33842 người. Trung tâm của huyện đóng ở Yverdon-les-Bains. Mã của huyện là 2219.
1
null
Huyện Zofingen (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Aargau. Huyện Zofingen có diện tích 142 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 57731 người. Trung tâm của huyện đóng ở Zofingen. Mã của huyện là 1910.
1
null
Huyện Zug (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Zug. Huyện Zug có diện tích 239 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 97758 người. Trung tâm của huyện đóng ở Zug. Mã của huyện là 900.
1
null
Huyện Zürich (, ) là một huyện hành chính của Thụy Sĩ. Huyện này thuộc bang Bang Zürich. Huyện Zürich có diện tích 88 km², dân số theo thống kê của cục thống kê Thụy Sĩ năm 1999 là 336822 người. Trung tâm của huyện đóng ở Zürich. Mã của huyện là 112.
1
null
Araschnia burejana là một loài bướm trong họ Nymphalidae. Loài này có ở Tây Tạng, Trung Quốc, khu vực Amur và Ussuri của Nga, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản. Nó hiện diện trong rừng hỗn hợp lên đến 1.300 mét. Con trưởng thành bay từ tháng 5-6 và tháng 7-tháng 8 trong hai thế hệ mỗi năm. Thức ăn chăn nuôi ấu trùng các loài Urtica.
1
null
Ununenni (phát âm như "un-un-en-ni"; tên quốc tế: "ununennium"; còn được gọi là "eka-franci" hay "nguyên tố 119") là tên tạm thời của một nguyên tố hóa học giả thuyết trong bảng tuần hoàn có ký hiệu tạm thời là Uue và số nguyên tử là 119. Ununenni sẽ trở thành nguyên tố đầu tiên trong chu kỳ nguyên tố thứ 8. Cho tới nay, các thí nghiệm để tổng hợp nguyên tố này chưa thành công. Vì nó nằm ở dưới các kim loại kiềm trong bảng tuần hoàn, nó có thể có các thuộc tính giống như franci hoặc caesi và do đó có thể tác động rất mạnh đối với nước và không khí, tuy hiện tượng tương đối có thể làm cho nó tác động yếu hơn franci và caesi). Một trạng thái oxy hóa được dự đoán là +1; tuy nhiên, không giống các kim loại kiềm khác, nó cũng sẽ có trạng thái oxy hóa +3 theo dự đoán. Lịch sử. Phần tử siêu nặng được tạo bởi phản ứng tổng hợp hạt nhân. Các phản ứng nhiệt hạch này có thể được chia thành phản ứng tổng hợp "nóng" và "lạnh", tùy thuộc vào năng lượng kích thích của các hạt nhân hợp chất được sản xuất. Trong các phản ứng nhiệt hạch nóng, các viên đạn năng lượng cao, rất nhẹ được tăng tốc về phía các mục tiêu rất nặng (actinide), tạo ra các hạt nhân hỗn hợp ở năng lượng kích thích cao (~ 40.5050 MeV) điều đó có thể phân hạch hoặc làm bay hơi thay thế một số (3 đến 5) neutron. Trong các phản ứng nhiệt hạch lạnh (thường sử dụng các vật nặng hơn, thường là từ giai đoạn thứ tư và các mục tiêu nhẹ hơn, thường là chì và bismuth), các hạt nhân hợp nhất được tạo ra có năng lượng kích thích tương đối thấp (~ 10 xăng20 MeV), giảm xác suất những pr này oducts sẽ trải qua các phản ứng phân hạch. Khi các hạt nhân hợp nhất nguội dần đến trạng thái cơ bản, chúng yêu cầu phát xạ chỉ một hoặc hai neutron. Tuy nhiên, các phản ứng nhiệt hạch nóng có xu hướng tạo ra nhiều sản phẩm giàu neutron hơn vì các actinide có tỷ lệ neutron-proton cao nhất trong số các nguyên tố hiện có thể được tạo ra với số lượng vĩ mô. Ununenni và unbinilium (các nguyên tố 119 và 120) là các nguyên tố nhẹ nhất chưa được tổng hợp và cố gắng tổng hợp chúng sẽ đẩy các giới hạn của công nghệ hiện tại, do giảm các phần của các phản ứng sản xuất và chu kỳ bán rã có lẽ ngắn của chúng, dự kiến ​​là cỡ micro giây. Các yếu tố nằm ngoài unbiunium (yếu tố 121) có thể sẽ quá ngắn để được phát hiện với công nghệ hiện tại: chúng sẽ phân rã trong vòng một phần triệu giây, trước khi đến máy dò. Khả năng phát hiện các yếu tố 121 đến 124 phụ thuộc rất lớn vào mô hình lý thuyết đang được sử dụng, vì thời gian bán hủy của chúng được dự đoán là rất gần với đường viền một micrô giây. Trước đây, trợ giúp quan trọng (đặc trưng như "Đạn bạc") trong quá trình tổng hợp các nguyên tố siêu nặng đến từ vỏ hạt nhân xung quanh kali - 270 làm tăng tính ổn định của các hạt nhân xung quanh và sự tồn tại của neutron ổn định gần như ổn định đồng vị -rich calci-48 có thể được sử dụng làm đạn để tạo ra các đồng vị giàu neutron hơn của các nguyên tố siêu nặng. Siêu siêu giàu neutron nuclide là, gần hơn, nó được dự đoán là đảo ổn định. Mặc dù vậy, các đồng vị tổng hợp vẫn có ít neutron hơn so với các đồng vị dự kiến ​​ở đảo ổn định. Hơn nữa, sử dụng calci-48 để tổng hợp thiên niên kỷ sẽ cần một mục tiêu là einsteinium - 253 hoặc -254, rất khó sản xuất với số lượng đủ lớn (hiện tại chỉ có microgam; miligam berkelium và californium có sẵn). Sản xuất thực tế hơn các yếu tố siêu nặng hơn sẽ đòi hỏi các viên đạn nặng hơn 48 Ca.
1
null
Bác sĩ nội trú hoặc đào tạo sau đại học cụ thể là một giai đoạn trong đào tạo y khoa sau đại học. Lĩnh vực liên quan đến một bác sĩ có trình độ chuyên môn, bác sĩ chuyên khoa điều trị chân, nha sĩ, dược sĩ hoặc bác sĩ thú y (một người có bằng Bác sĩ y khoa (MD), bác sĩ phẫu thuật nhi khoa (DPM), bác sĩ phẫu thuật nha khoa (DDS), bác sĩ nha khoa (DMD), bác sĩ thú y (DVM), bác sĩ dược (PharmD), bác sĩ xương khớp (DO), cử nhân nha khoa Phẫu thuật (BDS), hoặc Cử nhân Nha khoa (BDent); hoặc Cử nhân Y khoa (MB; BS, MBChB hoặc BMed) thực hành trong lĩnh vực y, thường là tại bệnh viện hoặc phòng khám, dưới sự giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của bác sĩ lâm sàng y khoa lâu năm đăng ký trong chuyên ngành đó, chẳng hạn như bác sĩ trực hoặc bác sĩ chỉ đạo chuyên môn. Ở nhiều khu vực nằm trong phạm vi quyền hạn, hoàn thành thành công khóa đào tạo như vậy là một yêu cầu để có được giấy phép hành nghề y không hạn chế và đặc biệt là giấy phép hành nghề chuyên khoa đã chọn. Một cá nhân tham gia vào khóa đào tạo đó có thể được gọi là nhân viên nội trú, cán bộ đào tạo hoặc thực tập sinh tùy thuộc vào quyền hạn. Đào tạo nội trú có thể được theo sau bằng đào tạo nghiên cứu sinh hoặc chuyên khoa. Trong khi trường y dạy cho các bác sĩ nhiều kiến thức y khoa, kỹ năng lâm sàng cơ bản và kinh nghiệm được giám sát hành nghề y trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nội trú y khoa cung cấp đào tạo chuyên sâu trong một ngành cụ thể của y học. Học Y khoa ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Chương trình Sau đại học Y khoa ở Việt Nam có vài điểm khác với Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, học 6 năm Y khoa hay đa khoa được cấp bằng bác sĩ đa khoa. Bằng này chưa hành nghề được, phải làm việc ở một bệnh viện khoảng 18 tháng thì sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề. Ở Mỹ học 4 năm cơ bản và 4 năm Y khoa, được cấp bằng MD (Doctor of medicine - gần giống với bác sĩ đa khoa ở Việt Nam). Bằng này chưa hành nghề được, muốn hành nghề thì phải học tiếp chương trình Residency, tức là chương trình bác sĩ nội trú bệnh viện 3-5 năm tùy chuyên ngành. Năm đầu tiên của Residency gọi là Internship. Như vậy Residency ở Mỹ hầu như là bắt buộc và có thể xem như là đại trà. Ở Việt Nam thì khác, chương trình Bác sĩ nội trú bệnh viện được xem là chương trình đặc biệt, dành cho những bác sĩ mới ra trường giỏi. Được xem là chương trình đào tạo bác sĩ Y khoa trình độ cao (cả về nghiên cứu lẫn thực hành lâm sàng), là hạt giống Y khoa nước nhà. Bởi vì mỗi một chuyên ngành chỉ tuyển vài bác sĩ nội trú mỗi năm (ví dụ: năm 2012 Gây mê hồi sức tuyển 4 Bác sĩ, Da Liễu và Ngoại Niệu tuyển 4, Ngoại Thần Kinh tuyển 3... Năm 2011 da Liễu tuyển 2, Nội Tiết tuyển 4...) nên số lượng ít (không giống Hoa Kỳ), các bác sĩ Nội trú được Giáo sư và các bác sĩ giàu kinh nghiệm ở bệnh viện hướng dẫn nên tiến bộ rất nhanh và kiến thức rất chuẩn. Cũng chính vì vậy mà Bác sĩ nội trú là niềm mơ ước của hầu hết các sinh viên Y khoa Việt Nam sau khi tốt nghiệp. Sau khi học Y đa khoa 6 năm, nếu có điều kiện sẽ thi và học tiếp Chương trình Bác sĩ nội trú thêm 3 năm nữa (chưa kể thời gian 1 năm ôn thi hoặc chờ nhập học - tùy theo mỗi Đại học Y Dược khác nhau). Như vậy tối thiểu cần 9 năm để đào tạo ra một bác sĩ Giỏi cả về thực hành lẫn nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam còn 2 chương trình học Sau đại học khác là Bác sĩ Chuyên khoa 1 học 2 năm (thiên về thực hành lâm sàng) và Cao học học 2 năm hay còn gọi là thạc sĩ y khoa (thiên về hướng nghiên cứu).
1
null
F.A.M.E là album phòng thu thứ tư của nam ca sĩ người Mỹ Chris Brown. Album được phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 2011 bởi hãng thu âm Jive. Brown đã làm việc với nhiều nhà sản xuất và nhạc sĩ cho album này, bao gồm Kevin McCall, Jean Baptiste, Brian Kennedy, DJ Frank E, The Underdogs, The Messengers, và nhiều người khác. Album có sự góp giọng của nhiều nghệ sĩ khác như McCall, Tyga, Lil Wayne, Busta Rhymes, Ludacris, Justin Bieber, Benny Benassi, Wiz Khalifa, Game, Timbaland và Big Sean. Danh sách ca khúc. Notes
1
null
Lẩu cua đồng như tên gọi của nó là một món lẩu với thành phần nguyên liệu chủ đạo là cua đồng. Cua đồng vốn là một nguồn thực phẩm dân dã, rất phổ biến trên khắp Việt Nam. Tuy nhiên thành phần dinh dưỡng trong cua đồng rất phong phú, đặc biệt là calci. Bởi vậy, mỗi vùng miền Việt Nam lại có những cách chế biến riêng theo tùy theo khẩu vị. Lẩu cua đồng theo phong cách ẩm thực Hải Phòng có thể xem là phiên bản đặc sắc nhất của món lẩu này do đây là địa phương mà người dân đặc biệt ưa thích những món ăn chế biến từ cua (gồm cả cua đồng và cua bể). Món lẩu này hiện đã vượt khỏi biên giới Hải Phòng để du nhập tới địa phương khác như Hà Nội và được nhiều thực khách nơi đây đón nhận. Lẩu cua đồng kiểu Hải Phòng được nhiều người xem là một biến thể mang nhiều tính hiện đại và phong phú của món bánh đa cua đồng vốn rất phổ biến. Lẩu cua đồng theo đúng phong cách ẩm thực Hải Phòng thường có bánh đa đỏ (loại sợi tươi nói chung được ưa thích hơn sợi khô), chả lá lốt, chả cá thu kiểu Hải Phòng, chả viên chiên vàng kiểu Hải Phòng, giò sống, lòng non, sườn non, thịt bò thăn, đậu phụ và rau mùng tơi. Thành phần nguyên liệu. Để có món lẩu cua đồng đúng theo khẩu vị Hải Phòng thì ngoài những nguyên liệu không thể thiếu để tạo nên món lẩu thông thường còn cần một số thành phần nguyên liệu đặc trưng hay đồ nhúng như cua đồng (dùng chế nước lèo), chả cá thu (chế biến theo kiểu Hải Phòng), giò sống, lòng non (lợn), thịt bò, đậu phụ, trứng vịt lộn, thịt nấm, rau chuối, rau mùng tơi và đặc sản bánh đa đỏ của Hải Phòng. Cách thức chế biến. Cua đồng được đem rửa sạch, giã nhuyễn, rồi lọc kỹ lấy nước, cho vào nồi đun. Tiếp đó, trút nước linh cua ra nồi lẩu và nêm các gia vị cần thiết dùng cho món lẩu. Công đoạn chế biến nước cốt cua đồng về cơ bản không khác như khi chế biến nước dùng cho món bánh đa cua. Các đồ nhúng đặc trưng trong món lẩu cua đồng thường là chả cá (theo cách chế biến của ẩm thức Hải Phòng), giò sống, lòng non của lợn, thịt bò, đậu phụ, trứng vịt lộn, thịt nấm, rau chuối, rau mùng tơi và đặc sản bánh đa đỏ. Du nhập. Hiện nay, nhiều nhà hàng chuyên chế biến các món lẩu tại Hải Phòng đã mở thêm chi nhánh tại Hà Nội để tiện cho nhiều thực khách nơi đây muốn thưởng thức món lẩu cua đồng đúng theo phong cách ẩm thực đất Cảng nhưng không phải đi xa.
1
null
Lẩu bề bề theo phong cách chế biến ẩm thực Hải Phòng có thể coi như một biến thể của món lẩu cua đồng vốn đã quen thuộc với nhiều thực khách sành món lẩu. Khác biệt cơ bản ở đây chính là sự thay thế của nguyên liệu bề bề (còn gọi là tôm tít) cho cua đồng trong chế biến nước lẩu. Mùi vị cũng như thành phần dinh dưỡng của bề bề và cua đồng khác nhau nên cũng tạo ra sự khác biệt trong hương vị và màu sắc của mước lẩu. Thành phần nguyên liệu. Như tên gọi của nó, lẩu bề bề bao gồm những nguyên liệu cơ bản để tạo nên một món lẩu thông thường và thành phần bề bề (tôm tít) vốn là một loài hải sản tương đối phổ biến và dồi dào của vùng biển Hải Phòng. Đồ nhúng dùng trong món lẩu bề bề cũng không khác mấy so với lẩu cua đồng như giò sống, lòng non (lợn), thịt bò, đậu phụ, trứng vịt lộn, thịt nấm, rau mùng tơi... Cách thức chế biến. Cách chế biến không khác nhiều so với món lẩu cua đồng. Bề bề đem rửa sạch, giã như giá cua, rồi lọc kỹ lấy nước, cho vào nồi đun. Tiếp đó, trút nước bề bề ra nồi lẩu và nêm gia vị. Đồ nhúng lẩu bề bề cũng phong phú như món lẩu cua đồng với thịt bò, lòng non và các loại rau tươi như mồng tơi, rau muống, rau cải, rau cần... Điểm đặc biệt của bề bề là khi đun sôi có màu vàng óng vì cũng có gạch như cua.
1
null
Varna () là thành phố và khu nghỉ mát ven biển lớn nhất trên bờ biển Đen của Bulgaria, và là thành phố lớn thứ ba của Bulgaria sau thủ đô Sofia và Plovdiv, với dân số 334.870 người vào tháng 2 năm 2011. Đây cũng là trung tâm hành chính của tỉnh và đô thị cùng tên. Varna đứng thứ 11 trong số các thành phố lớn nhất bán đảo Balkan, sau Istanbul, Athens, Bucharest, Sofia, Beograd, Thessaloniki, Zagreb, Skopje, Tirana và Plovdiv.
1
null
Andahuaylas (ngữ hệ Quechua: "Antawaylla", nghĩa là "đồng cỏ") là một thành phố của Peru. Đây là thủ phủ của tỉnh Andahuaylas thuộc vùng Apurímac. Nó còn được biết đến với cái tên "pradera de los celajes" (nghĩa là "thảo nguyên của những đám mây màu" trong tiếng Tây Ban Nha). Với dân số xấp xỉ 42.268 người (theo điều tra dân số năm 2017), đây là thành phố lớn số một trong khu vực. Vị trí. Andahuyalas nằm ở phía tây của Vùng Apurímac. Thành phố gần nhất là Abancay. Sân bay Andahuaylas là sân bay riêng của Andahuaylas. Liên kết ngoài. Pukllay, El verdadero carnaval originrio de Perú. (www.pukllay.pe)
1
null
Tỉnh Cuzco () là một tỉnh thuộc vùng Cusco của Peru. Tỉnh Cusco có diện tích 617 km², dân số thời điểm theo điều tra dân số ngày 11 tháng 7 năm 2005 là 348.493 người. Tỉnh lỵ đóng ở Cuzco. Hành chính. Tỉnh có 8 huyện (, singular: "distrito"), huyện lỵ in đậm:
1
null
Callao (; hay ) là thành phố nơi có cảng lớn nhất Peru. Thành phố trùng với tỉnh hiến pháp Callao, tỉnh duy nhất ở vùng Callao. Callao nằm ở phía tây thủ đô Lima và thuộc vùng đô thị Lima, vùng đô thị có 1/3 dân số Peru. Callao giáp tỉnh Lima về phía bắc, đông và nam, và giáp Thái Bình Dương về phía tây. Callao có diện tích 148,573 kilômét vuông, dân số thời điểm theo điều tra dân số ngày 11 tháng 7 năm 1993 là 639.729 người, dân số năm 2007 là 888.798 người. Nó trải dài dọc theo một vịnh rộng bảo vệ các hòn đảo San Lorenzo và El Frontón và đảo nhỏ Cavinzas và Redondo, phía nam của sông Rimac. Diện tích thành phố là 148,573 km km², bao gồm 17,630 km² đảo. Kể từ thời thuộc địa, cảng Callao đã là một cảng biển lớn, là cảng lớn nhất ở Peru và một trong những cảng lớn nhất ở Mỹ. Hiện nay, thành phố này cảng chính của đất nước và sân bay quốc tế Jorge Chávez, tạo thành cửa ngõ chính cho Peru.
1
null
Resiniferatoxin (viết tắt: RTX) là một hóa chất tự nhiên được tìm thấy từ nhựa cây đại kích Euphorbia resinifera ở Maroc và Euphorbia poissonii ở Nigeria.. RTX có tính năng hoạt động hóa học mạnh mẽ tương tự Capsaicin, hóa chất tạo ra vị cay của ớt. Đặc tính sinh học. Resiniferatoxin tinh khiết có độ cay lên đến 16.000.000.000 SHU, gấp 500-1.000 lần Capsaicin, khiến nó trở thành hợp chất cay nhất được biết đến.
1
null
Tỉnh Acomayo () là một tỉnh thuộc vùng Cusco của Peru. Tỉnh Acomayo có diện tích 948 km², dân số thời điểm theo điều tra dân số ngày 11 tháng 7 năm 1993 là 28906 người. Tỉnh lỵ đóng ở Acomayo. Huyện. Tỉnh có các huyện sau, huyện lỵ nằm trong ngoặc:
1
null
Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi () hay Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ (察罕特穆爾, chữ Mông Cổ: ᠴᠠᠭᠠᠨ ᠲᠡᠮᠦᠷ, chuyển tự La Tinh: Čaγan Temür hay Chaqan-temür, ? – 6/7/1362), tên tự Đình Thụy, sinh quán Trầm Khâu, Dĩnh Châu , nguyên quán Bắc Đình, dân tộc Uyghur, tướng lĩnh cuối đời nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. Thân thế. Ông cụ là Khoát Khoát Đài, ông nội là Nãi Man Đài, cha là Lương vương A Lỗ Ôn. Tổ tiên của Sát Hãn theo đại quân Mông Cổ tiến vào Trung Nguyên, đời sau định cư Trầm Khâu. Ông từ nhỏ đã ra sức học tập, từng thi đỗ Cử nhân, nức tiếng ở quê nhà, tự đặt tên Hán là Lý Sát Hãn. Sự nghiệp. Tổ chức "nghĩa binh". Tháng 5 năm Chí Chánh thứ 11 (1351), khởi nghĩa Khăn Đỏ nổ ra, quan quân nhà Nguyên liên tiếp thất bại. Năm sau (1352), Sát Hãn là người đầu tiên đứng ra tổ chức địa chủ vũ trang, tập hợp mấy trăm người địa phương, gọi là "nghĩa binh". Ông kết hợp với "nghĩa binh" của La Sơn điển lại Lý Tư Tề, vạch mưu giành lại được huyện La Sơn đã rơi vào tay quân Khăn Đỏ. Triều đình thụ Sát Hãn làm Trung Thuận đại phu, Nhữ Ninh phủ Đạt Lỗ Hoa Xích, Tư Tề làm Nhữ Ninh tri phủ. Lực lượng của Sát Hãn phát triển lên đến vạn người, đóng ở Trầm Khâu, liên tiếp đánh bại nghĩa quân Khăn Đỏ của Lưu Phúc Thông. Tháng 2 năm thứ 15 (1355), bọn Lưu Phúc Thông đưa Hàn Lâm Nhi lên ngôi, khí thế nhất thời lên cao, Sát Hãn đóng giữ Hổ Lao nhằm khống chế nghĩa quân. Tháng 11, Lưu Phúc Thông đưa quân vượt bến đò Mạnh Tân lên phía bắc, phá Hoài Khánh . Sát Hãn soái quân tiến đánh, nghĩa quân thua chạy. Nhờ công, thăng chức Trung thư Hình bộ thị lang, ban giai Trung nghị đại phu. Khi ấy quân Miêu đóng tại Huỳnh Dương làm phản, Sát Hãn nhân đêm tối tập kích, bắt hết bọn họ, rồi kết trại ở Trung Mưu. 30 vạn quân Khăn Đỏ đến đánh Trung Mưu, Sát Hãn soái quân ra sức chống trả, nghĩa quân bỏ cờ trống mà chạy, ông đuổi theo hơn 10 dặm, giết chết nghĩa quân vô số. Đưa quân tây tiến. Năm thứ 16 (1356), thăng chức Trung thư Binh bộ thượng thư, ban giai Gia nghị đại phu. Tháng 9, Lưu Phúc Thông sai bọn Lý Vũ, Thôi Đức phá Đồng Quan, tiến chiếm Thiểm Châu , Quắc Châu , chẹn ngang Hào, Hàm. Hà Nam hành tỉnh Bình chương chánh sự Đáp Thất Bát Đô Lỗ mệnh cho bọn Sát Hãn, Tư Tề đi dẹp. Sát Hãn tiến quân về phía tây, nhân đêm tối chiếm Hào Lăng . Ông tiếp tục tấn công Thiểm Châu, thành kiên cố không hạ được; chuyển sang đánh thành Linh Bảo (thuộc Quắc Châu), hạ được. Lý Vũ, Thôi Đức vượt Hoàng Hà chạy vào Sơn Tây, chiếm Bình Lục, cướp bóc An Ấp, Sát Hãn đuổi nà không tha. Lý Vũ, Thôi Đức lui quân xuống Dương Tân, cùng quân Nguyên chống chọi vài tháng, cuối cùng không địch nổi phải bỏ chạy. Ông nhờ công được gia Trung phụng đại phu, thêm Hà Bắc hành xu mật viện sự. Năm thứ 17 (1357), Lý Vũ, Thôi Đức công phá nhiều nơi thuộc Thiểm Tây, triều đình nhà Nguyên phái bọn Sát Hãn, Tư Tề, Lưu Cáp Lạt Bất Hoa từ Thiểm Châu, Đồng Quan cứu viện. Bọn họ đánh cho nghĩa quân Khăn Đỏ tan tác, Sát Hãn được gia chức Tư thiện đại phu, Thiểm Tây hành tỉnh tả thừa. Lưu Phúc Thông phái thêm nghĩa quân lên phía bắc Tứ Xuyên, nhắm đến Phượng Tường. Ông tiến vào Phượng Tường, dụ nghĩa quân đến vây thành. Nghĩa quân phát trọng binh đến đánh, Sát Hãn tự soái thiết kỵ, mai phục cách thành 200 dặm. Quân Nguyên trong ngoài hợp kích, nghĩa quân tan rã, người chết đến vài vạn, thây phơi hàng trăm dặm. Cứu viện Kinh sư. Tháng 2 năm thứ 18 (1358), thủ lĩnh quân Khăn Đỏ ở Sơn Đông là Mao Quý tiến hành bắc phạt, bức đến kinh sư. Triều đình nhà Nguyên vội triệu binh mã 4 phương cứu viện, mệnh cho Sát Hãn đóng quân ở Trác Châu. Sát Hãn chia quân đồn thú ở Thanh Tưu , Nghĩa Cốc , đóng quân Đồng Quan, chắn Nam Sơn khẩu, đề phòng nghĩa quân Thiểm Tây lại nổi dậy. Ông tự mình soái tinh kỵ gấp đến Hà Bắc. Khi ấy một cánh nghĩa quân vượt núi Thái Hành, đánh phá nhiều nơi thuộc Sơn Tây, tiến xuống phía nam. Sát Hãn phái bọn Quan Bảo, Hổ Lâm Xích giữ Thượng Đảng, Hổ Lâm Xích đẩy lui tất cả các cuộc tấn công của nghĩa quân nhắm vào Liêu Châu . Nhằm ngăn trở nghĩa quân tiến xuống phía nam, ông phái quân mai phục ở cửa ải Nam Sơn thuộc núi Thái Hành, tự nắm đại quân đóng tại Văn Hỷ, Giáng Dương. Nghĩa quân quả nhiên đi qua Nam Sơn, gặp phục kích, tổn thất nặng nề. Sát Hãn chia quân đóng ở Trạch Châu , chặn thành Lưu Tử ; đóng ở Thượng Đảng, chặn hang Ngô Nhân ; đóng ở Ký Ninh, chặn cửa Tỉnh Hình , nhằm lấp kín con đường đi qua núi Thái Hành. Việc nay khiến cho nghĩa quân Khăn Đỏ ở Sơn Tây hết cách hoạt động, chuyển sang tấn công Hà Bắc. Ông tiến chức làm Thiểm Tây hành tỉnh hữu thừa kiêm Thiểm Tây hành đài thị ngự sử, Đồng tri Hà Nam hành xu mật viện sự. Huệ tông hạ chiếu lệnh cho ông được thay quyền nhà vua ở Quan Thiểm, Tấn, Ký, coi sóc Hán, Miện, Kinh, Tương, tùy nghi làm việc bên ngoài. Đánh chiếm Biện Lương. Tháng 5 năm thứ 19 (1359), Sát Hãn nhắm vào kinh đô Biện Lương của chính quyền Tống do nghĩa quân Khăn Đỏ lập nên, tự soái đại quân đến Hổ Lao, sai quân theo đường phía nam ra Biện Nam, lấy các châu Quy, Bạc, Trần, Thái; theo đường phía bắc ra Biện Đông, lên chiến thuyền men Hoàng Hà, thủy lục cùng tiến, dẹp Tào Châu về phía nam, giữ bến Hoàng Lăng . Lại còn điều quân Thiểm Tây, ra cửa Hàm, vượt Hổ Lao; quân Sơn Tây ra Thái Hành, xuôi Hoàng Hà, hội sư dưới thành Biện Lương, chiếm lấy thành ngoài của nghĩa quân. Ông tự đóng quân ở doanh Hạnh Hoa (phía tây thành). Thủ lĩnh nghĩa quân Lưu Phúc Thông nhiều lần ra đánh đều thất bại. Tháng 8, thành vỡ, Phúc Thông đưa Tống đế Hàn Lâm Nhi và mấy trăm kỵ binh bỏ trốn. Quân Nguyên bắt được Hoàng hậu, hơn 5000 quan viên và mấy vạn gia thuộc của nghĩa quân. Sát Hãn nhờ công được bái làm Hà Nam hành tỉnh bình chương chánh sự, kiêm Tri Hà Nam hành xu mật viện sự, Thiểm Tây hành đài ngự sử trung thừa. Vì thế, ông chia quân trấn giữ Quan Thiểm, Kinh Tương, Hà Lạc, Giang Hoài, rồi đặt đại quân ở Thái Hành, cờ quạt kéo dài mấy ngàn dặm. Sát Hãn hằng ngày sửa chữa xe, thuyền, đúc khí giới, làm ruộng chứa lúa, huấn luyện sĩ tốt, muốn giành lại Sơn Đông. Tranh giành quyền lực. Vì Sát Hãn tỏ ra bất mãn Bột La Thiếp Mộc Nhi, thuộc gia tộc San Trúc Đái, trẻ tuổi hơn, ít chiến công hơn mà địa vị lại ở trên, nên triều đình mệnh cho Bột La giữ vùng đất từ cửa ải Thạch Lĩnh về phía bắc, ông giữ từ cửa ải Thạch Lĩnh về phía nam, tránh cho 2 người xảy ra xung đột. Tháng 9 năm thứ 20 (1360), Bột La phái quân tấn công Ký Ninh dưới quyền Sát Hãn, rồi lui về Giao Thành. Tháng 10, triều đình mệnh cho Bột La giữ Ký Ninh, tướng giữ Ký Ninh của Sát Hãn không chịu nộp thành. Sát Hãn phái thêm quân đến giữ, bị bộ tướng của Bột La là Thoát Liệt Bá đánh bại. Tháng giêng năm thứ 21 (1361), triều đình phái Bình chương Đáp Thất Thiếp Mộc Nhi, Tham chánh Thất Thập đến khuyên dụ, Bột La mới lui quân về đất cũ. Đưa quân đông tiến. Tháng 6 năm thứ 21 (1361), Sát Hãn ở Lạc Dương triệu tập các lộ tướng lĩnh, bàn bạc việc ra quân tấn công Sơn Đông như sau: quân Tịnh Châu ra Tỉnh Hình; quân Liêu, Thấm ra Hàm Đan; quân Trạch, Lộ ra Từ Châu; quân Hoài, Vệ ra Bạch Mã, cùng quân Biện, Lạc chia đường thủy lục cùng tiến. Rồi tự soái thiết kị tinh nhuệ, dựng cờ trống đại tướng, vượt Mạnh Tân, qua Hoài Khánh, nổi trống đông tiến. Tháng 7, chiếm Đông Xương , Quan Châu . Tháng 8, Sát Hãn đến Diêm Hà, sai con là Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cùng bọn Diêm Tử Hiếu, hội họp với bọn Quan Bảo, Hổ Lâm Xích soái 5 vạn tinh binh tấn công Đông Bình. Quân Nguyên từ bờ đông làm cầu nổi sang sông, "Hoa mã vương" Điền Phong phái 2 vạn quân cướp cầu, Quan Bảo, Hổ Lâm Xích vừa đánh vừa sang sông, chiếm Trường Thanh, đóng quân dưới thành Đông Bình. Điền Phong sai bộ hạ là bọn Thôi Thế Anh ra đánh, không thắng. Sát Hãn cho rằng Điền Phong ở Sơn Đông đã lâu, quân dân phục tùng ông ta, bèn gởi thư đem lẽ "nghịch thuận" ra dụ, Phong nhận lời đầu hàng, nhưng khéo léo từ chối gặp gỡ. Sát Hãn cả mừng, mệnh cho hắn ta làm Tiền phong, theo quân đông tiến. Sau đó "Tảo địa vương" Vương Sĩ Thành ở Đông Bình, Du Định ở Lệ Châu , Dương Thành ở Đông Xương đều hàng. Ông bèn thụ chức cho Phong làm Sơn Đông hành tỉnh bình chương. Đánh hạ Tế Nam. Bấy giờ, nghĩa quân Khăn Đỏ hội sư ở Tế Nam, Sát Hãn chia quân 3 đường: Bắc lộ đánh Tế Dương, Chương Khâu, Trung lộ do Sát Hãn tự soái chủ lực đánh Tế Nam, Nam lộ đánh Thái An, Ích Dương. Quân Trung lộ vượt Thanh Hà, đánh bại nghĩa quân ở Phân Tề, áp sát thành Tế Nam. Khi ấy quân Bắc lộ giành được Tế Hà, Vũ Thành, quân Nam lộ cũng báo tiệp. Nghĩa quân ở Ích Đô đến cứu Tế Nam, bị Sát Hãn đánh bại ở Thạch Kiều. Ông thừa thắng vây đánh Tế Nam, chia quân chiếm lấy các châu quận đang nằm trong tay quân Khăn Đỏ. 3 tháng sau, chiếm được Tế Nam, triều đình bái Sát Hãn làm Trung thư bình chương chánh sự, Tri Hà Nam, Sơn Đông hành xu mật viện sự, Thiểm Tây hành đài trung thừa như cũ. Vây chặt Ích Đô. Sát Hãn từ Tế Nam tiến quân vây đánh Ích Đô, hòng quét sạch sào huyệt cuối cùng của nghĩa quân Khăn Đỏ ở Sơn Đông, gặp Điền Phong ở phía tây thành. Ông lệnh cho quân Nguyên đặt doanh trại ở vài mươi chỗ, sửa chữa công cụ, trăm đường cùng tiến. Nghĩa quân ra sức cố thủ, quân Nguyên đào hào sâu, xây lũy dài, dẫn nước sông Nam Dương rót vào thành. Thành bị vây được vài tháng, Sát Hãn rất hay đến trại của Điền Phong ở cửa nam để bàn bạc. Ngày 15 tháng 6 năm thứ 22 (tức ngày 6 tháng 7 năm 1362 dương lịch), ông chỉ đưa 2 tùy tùng đến trại của Điền Phong, bị bọn Điền Phong, Vương Sĩ Thành bắt giữ, chạy vào trong thành, rồi bị hại. Tin tức truyền về, trong triều ngoài cõi chấn động. Triều đình ban chiếu tặng Thôi Thành Định Viễn Tuyên Trung Lượng Tiết công thần, Khai phủ nghi đồng tam tư, Thượng trụ quốc, Hà Nam hành tỉnh tả thừa tướng, truy phong Trung Tương vương, thụy là Hiến Vũ. Sau đó đổi tặng Tuyên Trung Hưng Vận Hoằng Nhân Hiệu Tiết công thần, truy phong Toánh Xuyên vương, đổi thụy Trung Tương, thực ấp là huyện Trầm Khâu. Mệnh cho con trai Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi tổng lĩnh quân đội của cha. Đánh giá. "Quốc triều điển cố" chép: Chu Nguyên Chương nghe tin Sát Hãn bị hại, chỉ nói: "Thiên hạ hết người rồi!".
1
null
Tiếp sức mùa thi là một chương trình xã hội nhằm hỗ trợ các thí sinh thi vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Chương trình được tổ chức lần đầu tiên từ năm 1996 bởi Trung tâm Hỗ trợ sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh với tên gọi "Chương trình hỗ trợ thí sinh dự thi đại học, cao đẳng". Đến năm 2001 Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam, Bộ Giáo dục & Đào tạo, báo Thanh Niên cùng Tập đoàn văn phòng phẩm Thiên Long nhân rộng mô hình và tổ chức chương trình với tên gọi chính thức là "Tiếp Sức Mùa Thi". Thành lập. Ý nghĩa chương trình. Hằng năm, sau kỳ khi tốt nghiệp trung học phổ thông, hàng trăm nghìn sĩ tử và người thân lại chuẩn bị ra các địa điểm thi tuyển sinh cao đẳng, đại học được tổ chức ở các tỉnh, thành phố lớn. Các Thí sinh và người nhà sẽ gặp rất nhiều khó khăn như đi lại, nơi ăn, chốn ở nơi môi trường mới cùng với sức ép về bài vở trước một kỳ thi lớn. Với thực tế đó, từ năm 1996, Tiếp sức mùa thi ra đời với mong muốn hỗ trợ, giúp đỡ các sĩ tử có được 1 kì thi đạt kết quả tốt nhất Thời gian hoạt động. Bắt đầu từ năm 1996 và liên tiếp các năm sau. Chương trình bắt đầu từ tháng 6 cho đến hết tháng 7, tại các thành phố lớn nơi có nhiều các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp Nội dung chương trình. "Tiếp sức mùa thi" được tiến hành ở 12 tỉnh, thành phố. - Hình thức tư vấn cho thí sinh: hỗ trợ đa dạng qua website, xây dựng phần mềm tư vấn cho thí sinh... từ khi tìm trường thi hợp với khả năng đến lập hồ sơ và đi thi - Đưa đón thí sinh cả ngày lẫn đêm... và đang phát triển mô hình đội xe ôm giá rẻ, đường dây điện thoại nóng để tư vấn và xử lý thông tin cũng phát triển rộng khắp. - Tìm kiếm và thỏa thuận giá cả phòng trọ gần khu vực thi với mức giá hợp lý nhất cho phụ huynh và thí sinh - Hướng dẫn cụ thể địa điểm trọ cho phụ huynh và thí sinh phù hợp - Chỉ đường di chuyển thuận tiện nhất cho phụ huynh và thí sinh trong những ngày dự thi - Hướng dẫn và nhắc nhở thí sinh thời gian - phòng thi - thủ tục thi - Đảm bảo trật tự và an toàn giao thông khu vực thi - Liên hệ với nhà trường và cơ quan chức năng về các vấn đề thí sinh phát sinh bao trọn gói, cấp tiền cho thí sinh nghèo... Thành phố Hồ Chí Minh là cái nôi của chương trình "Tiếp sức mùa thi", trong xuyên suốt nhiều năm qua, lực lượng tình nguyện và ban tổ chức chương trình luôn hình thành nhiều điểm mới sáng tạo trong công tác hỗ trợ và đặc biệt nhận được sự quan tâm rất lớn của xã hội và các mạnh thường quân Phát triển. Do ý nghĩa đầy nhân văn và hữu ích của nên chương trình được rất nhiều thành phần trong xã hội hưởng ứng, ủng hộ và tham gia tích cực. Từ giới sinh viên học sinh đến các công chức công sở, hay từ những người lao động bình dân đến các tổ chức tôn giáo đều nhiệt tình tham gia. Những chiếc áo xanh, tình nguyện viên của chương trình, xuất hiện ở khắp mọi nơi từ nhà ga, bến xe, trên các tuyến đường, nơi làm thủ tục thi, các điểm trọ để hỗ trợ thí sinh. Mỗi năm, chương trình ngày càng được mở rộng với số lượng người tham gia các hoạt động hỗ trợ nhiều hơn, có nhiều chỗ trọ giá rẻ hoặc miễn phí hơn, nhiều thí sinh và người nhà được giúp đỡ hơn... Hoạt động của chương trình từ lúc thành lập đến nay đã giúp hàng triệu thí sinh được động viên để vượt qua những khó khăn, rào cản thẳng tiến vào đại học tiếp thu tri thức để có được tương lai tươi sáng. Rất nhiều em đã từng được hỗ trợ tình nguyện tham gia chương trình như là sự tiếp nối đầy tính nhân văn sâu sắc. Đây cũng là chặng đường mà "Tiếp sức mùa thi" có được sự ủng hộ, hỗ trợ ngày một bền chặt từ phía nhân dân và các cơ quan liên quan. Tại Thành phố Hồ Chí Minh nơi được xem là cái nôi của chương trình, nhiều hoạt động sáng tạo được thực hiện để giúp đỡ thí sinh và phụ huynh một cách tốt nhất như in thông tin lên giấy báo thi, dán thông tin trên xe bus, tư vấn trực tiếp qua tổng đài 19006836, tổ chức đội hình xe ôm tình nguyện, đội hình hỗ trợ thí sinh khó khăn. Năm 2011, Trung tâm hỗ trợ học sinh sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ kỷ niệm 15 năm chương trình Tiếp sức mùa thi.
1
null
Atum , đôi khi được viết là Atem hay Tem, là vị thần tối cao và quan trọng trong thần thoại Ai Cập. Ông là một vị thần trong Bộ 9 vĩ đại của Heliopolis. Danh hiệu. Tên của Atum được cho là được bắt nguồn từ "tem" có nghĩa là hoàn toàn hoặc hoàn thành. Vì thế, tên ông được hiểu là "Một thực thể hoàn thiện" hay "Người làm hoàn thiện thế giới", ông trở lại thành dòng thác của thời hỗn mang ở cuối mỗi chu kỳ sáng tạo. Là người sáng tạo, ông được xem như là chất cơ bản của thế giới, các vị thần và tất cả mọi thứ tạo thành bằng da thịt của ông hoặc từ ka (linh hồn) của ông. Mối quan hệ giữa Atum với các pharaoh được nhìn thấy trong nhiều nghi lễ văn hoá, và trong những buổi đăng quang. Nhiều pharaoh đã sử dụng danh hiệu "Chúa của 2 vùng đất" và "Con trai của Amun" để chỉ sự hóa thân của các pharaoh vào vị thần này. Những dòng văn tự khắc trên đền thờ của Ramesses II ở Pithom, Atum được cho là vua của các pharaoh. Mô tả. Atum thường xuyên được nhắc tới ngay từ buổi đầu của lịch sử, nhiều bằng chứng được tìm thấy từ văn tự trong Kim tự tháp vào triều đại thứ 5 và 6 và trên các quan tài của quý tộc. Ông được miêu tả là một pharaoh đội trên đầu vương miện Trắng và Đỏ, tượng trưng cho 2 vùng đất Thượng và Hạ Ai Cập. Đôi khi Atum đội chiếc đĩa mặt trời thay cho vương miện kép. Dưới địa ngục Amduat, ông thường xuất hiện dưới hình ảnh một người đàn ông có cái đầu cừu, ngồi trên ngai vàng hoặc đứng thẳng. Con bò thần màu đen Mnevis, đội chiếc đĩa mặt trời giữa cặp sừng, cũng là một hiện thân của ông. Rắn, sư tử và cầy mangut là những loài vật thiêng của ông. Dưới hình dạng của loài khỉ, Atum thường mang theo một cây cung để bắn kẻ thù. Một bức tượng bọ hung lớn được đặt trong hồ thiêng Karnak để thờ thần Atum. Thần thoại. Atum được coi là vị thần đầu tiên đã tự tạo ra chính mình, ngự trên một gò đất nổi lên từ vùng biển nguyên thủy Nun. Sau đó, ông đã tạo ra thần Shu và nữ thần Tefnut từ một lần hắt hơi của mình, có thuyết cho là từ tinh dịch của mình khi ông thủ dâm. Trong một lần, Shu và Tefnut đã ra đi để khám phá vùng biển Nun. Cả 2 đã bị lạc trong vùng nước hỗn loạn đó. Atum vì nhớ con nên đã gửi thần Mắt đi tìm 2 người. Khi cả 2 quay về, hạnh phúc vì đoàn tụ, ông khóc rất nhiều và những giọt nước mắt đó tạo ra những con người đầu tiên. Trong một câu chuyện khác, sau khi mệt mỏi và muốn được nghỉ ngơi, ông đã hôn người con gái Tefnut của mình, và một gò đất lại nổi lên từ vùng nước nguyên thủy, đó chính là Iunu, về sau là vùng Heliopolis, nơi thờ phượng của Atum. Atum cũng tham gia vào trận chiến giữa Ra và Apep hằng đêm, là người có thể một mình đẩy lùi được con quái vật. Con rắn 2 đầu canh giữ địa ngục Nehebkau, được cho là rất hung hãn, và Atum đã phải dùng tay giữ chặt để kiểm soát nó. Trên các bức vẽ trong các ngôi mộ hoàng gia thuộc thời kỳ Tân vương quốc, Atum được miêu tả là một người đàn ông già nua đang đứng trông coi việc trừng phạt những kẻ ác và kẻ thù của thần Mặt trời Ra. Ông cũng bảo vệ những linh hồn của người tốt, đảm bảo họ an toàn khi bước qua Hồ lửa dưới địa ngục Amduat, nơi mà con quỷ đầu chó Am-heh sẽ nuốt những linh hồn khi đi qua. Am-heh chỉ bị khuất phục trước thần Atum. Trong thời Cựu Vương quốc, người Ai Cập tin rằng Atum đưa linh hồn của nhà vua từ kim tự tháp của mình về bầu trời đầy sao. Ông cũng là thần mặt trời, một kiểu kết hợp với thần mặt trời Ra. Atum được nhắc đến như ánh mặt trời vào buổi hoàng hôn, Khepri là vị thần của ánh sáng ban mai, trong khi Ra thường đại diện cho cái nắng gắt vào giữa trưa. Nói cách khác, Atum đã "chết" vào lúc chiều tối và sống lại vào lúc bình minh. Sự thờ cúng. Atum là vị thần được thờ cúng chính ờ thành phố Heliopolis. Ngoài ra, ông cũng được thờ tại đền thờ của Ramesses II ở Pithom. Trong suốt thời kỳ Tân vương quốc, Atum cùng thần chiến tranh Montu và các pharaoh khác được thờ chung tại Đền của Atum tại Karnak.
1
null
Chiên ngập dầu là một phương pháp nấu thực phẩm bằng cách đặt nó trong lượng lớn chất béo nóng (dầu hoặc mỡ). Phương pháp này làm chín thực phẩm rất nhanh chóng. Kỹ thuật. Nếu làm tốt, chiên ngập dầu không làm cho thức ăn quá béo ngậy, bởi vì độ ẩm làm phần bên trong thực phẩm không thấm dầu. Dầu nóng đun nóng nước trong thực phẩm, hấp nó từ trong ra. Hơi nước đẩy bong bóng và nước từ trong ra về phía bề mặt thực phẩm ngăn cản sự xâm nhập của dầu từ ngoài vào. Miễn là dầu nóng và thực phẩm không bỏ trong dầu quá lâu, dầu sẽ chỉ nhập vào bề mặt của thực phẩm. Tuy nhiên, nếu thức ăn được nấu chín trong dầu quá lâu, nhiều nước sẽ bị mất và dầu sẽ bắt đầu thâm nhập vào trong thực phẩm. Nhiệt độ chiên chính xác phụ thuộc vào độ dày và loại thực phẩm, nhưng thường là từ 175 đến 190 °C (345-375 °F). Một số loại thực phẩm chiên được bọc một lớp phủ giòn trước khi chiên để bên ngoài thực phẩm giòn vàng, trong khi bên trong trở nên mềm và ẩm. Một số thực phẩm như khoai tây, gia cầm trên toàn bộ bề mặt đã có một lớp phủ tự nhiên và không yêu cầu lăn bột. Suy thoái dầu. Dầu quá nóng hoặc qua sử dụng chiên nhiều lần dẫn đến sự hình thành các sản phẩm của quá trình oxy hóa, trùng hợp, và các hợp chất khác gây hại sức khoẻ, không mong muốn hoặc thậm chí độc hại như acrylamide (từ các loại thực phẩm giàu tinh bột). Chiên ngập dầu trong chân không giúp làm giảm đáng kể hình thành acrylamide, nhưng quá trình này không được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp thực phẩm do chi phí đầu tư cao. Một số biểu hiện hữu ích và các dấu hiệu suy thoái dầu quá mức như sau: Các công cụ cho biết tổng số các hợp chất phân cực, hiện đang là thước đo tốt nhất có sẵn với độ chính xác đủ cho nhà hàng và ngành công nghiệp sử dụng kiểm tra dầu chiên khi chiên ngập dầu. Hạn chế. Chiên ngập dầu rất tốn dầu. Loại bỏ dầu đúng cách có thể là một vấn đề. Hiện nay, dầu thải ngày càng được tái chế thành dầu diesel sinh học. Một số mỡ chiên chứa chất béo cấu hình trans. Dầu ăn cũng có thể bắt lửa nếu nó được sử dụng ở nhiệt độ quá cao. Dập tắt một ngọn lửa dầu đang cháy bằng nước làm cho đám cháy trở nên tệ hại hơn, thậm chí có thể tạo cột lửa rất mạnh có thể bốc cao 30-foot (9.1 m) trong điều kiện thử nghiệm, gây hoả hoạn nghiêm trọng . Thay vào đó, cháy dầu phải được chữa với một bình chữa cháy hoặc cách ly không khí. Tác hại đến sức khỏe con người.. Chiên ngập dầu được các nhà khoa học về dinh dưỡng khuyến cáo không nên ăn quá thường xuyên vì trong đồ chiên ngập dầu thường chứa nhiều dầu mỡ gây ra các vấn đề về tim mạch và bệnh béo phì vì 1g dầu thường chứa đến 9 kcal và khi bị béo phì thì thường phải đối mặt với nguy cơ bị những bệnh về tim mạch hoặc tiểu đường cao hơn rất nhiều so với người bình thường, theo một nghiên cứu của trường y tế công cộng Havard, những người ăn thực phẩm chiên 4-6 lần/ tuần tăng 39% nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 và tăng 23% nguy cơ mắc bệnh mạch vành so với người bình thường ăn quá nhiều đồ chiên rán nói chung và rất nhiều hệ lụi và tác hại lâu dài đối với sức khỏe của con người. Những cách giảm thiểu tác hại của phương pháp chiên ngập dầu.. Mặc dù phương pháp chiên ngập dầu mang lại nhiều nguy cơ cũng như hệ lụy lâu dài cho sức khỏe của con người nhưng cũng không thể phủ nhận rằng phương pháp này là phương pháp nấu ăn được ưa chuộng nhất trên thế giới cụ thể là những cửa hàng ăn nhanh của McDonald's hay KFC và nền công nghiệp thức ăn nhanh cũng như hương vị của nó mang lại cho thực khách sau đây là một số cách để giảm thiểu nguy cơ tiềm ẩn về sức khỏe mà phương pháp này gây ra. Dùng các loại dầu này để chiên ở nhiệt độ cao sẽ có thể tạo ra một lượng lớn axit béo bị oxy hóa và các hợp chất có hại. Vì vậy nếu chiên ngập dầu chúng ta nên sử dụng những loại dầu có điểm bốc khói cao và chứa nhiều chất béo bão hòa cũng như là không phản ứng với oxy khi đun nóng ví dụ như:
1
null
Willis là một quần đảo nhỏ nằm phía Tây đảo chính đảo Nam Georgia, cách đảo Bird 3,2 km về phía Tây. Đảo được phát hiện ngày 14.1 bởi thuyền trưởng James Cook, và được đặt theo tên của chuẩn uý hải quân người Anh, Thomas Cook Willis là thành viên trên tàu, là người đầu tiên nhìn thấy quần đảo.
1
null
Bồ câu bi ai (danh pháp hai phần: Zenaida macroura) hay còn gọi là bồ câu Carolina, là một loài chim thuộc họ Bồ câu (Columbidae). Bồ câu bi ai phân bố Bắc và Trung Mỹ. Đây là một trong những phong phú và phổ biến rộng rãi của tất cả các loài chim Bắc Mỹ. Đây cũng là loài chim bị săn bắn hàng đầu, với hơn 20 triệu con (có khi mỗi năm lên đến 70 triệu con) bị bắn hàng năm ở Mỹ cho mục đích săn thể thao và săn bắt làm thịt. Khả năng của nó để duy trì dân số của nó theo áp lực như vậy bắt nguồn từ khả năng mắn đẻ của loài bồ câu này: trong các khu vực ấm áp, một trong những cặp có thể sinh sản và nuôi dưỡng lên đến sáu lứa một năm. Phân loài. Bồ câu bi ai có 5 phân loài:
1
null
Trong vật lý hạt nhân, thuật ngữ hòn đảo ổn định hay đảo bền vững (tiếng Anh: "island of stability") miêu tả một loạt đồng vị nguyên tố siêu urani chưa khám phá được đưa ra trong lý thuyết là rất ổn định hơn các nguyên tố khác. Theo dự đoán, chu kỳ bán rã phóng xạ của chúng nó sẽ ít nhất được tính bằng phút hay ngày thay vì bằng giây, trong khi một số nhà khoa học dự đoán chu kỳ bán rã tới hàng triệu năm. Lý thuyết và nguồn gốc. Glenn T. Seaborg đưa ra khái niệm "hòn đảo ổn định" lần đầu tiên với giả thuyết rằng hạt nhân nguyên tử gồm có các "vỏ" giống như cấu trúc của các vỏ điện tử lớn hơn trong nguyên tử. Trong cả hai trường hợp, các vỏ chỉ là nhóm mức năng lượng lượng tử nằm gần nhau. Mức năng lượng của các trạng thái lượng tử trong hai vỏ khác nhau sẽ có khe năng lượng lớn. Khi các mức năng lượng của một vỏ trong hạt nhân đầy neutron và proton, năng lượng liên kết từng nucleon sẽ tăng lên tới cực đại tương đối và do đó cấu hình này sẽ có chu kỳ lâu dài hơn các đồng vị nằm gần mà không có vỏ đầy. Một vỏ đầy sẽ có các "con số kỳ diệu" ("magic number") neutron và proton. Một con số neutron kỳ diệu có thể xảy ra cho hạt nhân hình cầu là 184, và một vài số proton tương ứng là 114, 120, và 126 – điều này có nghĩa là các đồng vị hình cầu ổn định nhất sẽ là flerovi-298, unbinili-304, và unbihexi-310. Đặc biệt là Ubh, một nguyên tố "kỳ diệu hai mặt" (vì cả số proton 126 và số neutron 184 đều được coi là con số kỳ diệu) và do đó chắc có chu kỳ bán rã rất lâu dài. (Hạt nhân hình cầu kỳ diệu hai mặt nhẹ thứ hai là chì-208, tức là hạt nhân ổn định nặng nhất và kim loại nặng ổn định nhất.) Theo cuộc nghiên cứu gần đây, các hạt nhân bị méo mó, làm cho các con số kỳ diệu bị chệch. Hassi-270 hiện được hiểu là một đồng vị có hạt nhân méo kỳ diệu hai mặt, với các con số kỳ diệu méo 108 và 162. Tuy nhiên, nó chỉ có chu kỳ bán rã 3,6 giây (xem hassi). Các nhà khoa học đã tạo ra các đồng vị có đủ proton để nằm trên một hòn đảo ổn định nhưng không có đủ neutron để tiến gần "bờ biển" của hòn đảo này. Có thể là các nguyên tố này có thuộc tính hóa học bất thường và, nếu có đồng vị với chu kỳ đủ lâu, có thể có sẵn để ứng dụng thực hành (thí dụ dùng làm bia bắn trong máy gia tốc hạt cũng như nguồn neutron). Chu kỳ bán rã của các nguyên tố đánh số cao nhất. Tất cả các nguyên tố có số nguyên tử trên 82 (chì) là bất ổn, và "sự ổn định" (chu kỳ bán rã của đồng vị lâu đời nhất đã biết) của các nguyên tố thường giảm xuống trong khi các số nguyên tử tăng lên, từ urani (92) là một nguyên tố ổn định tương đối tới nguyên tố nặng nhất đã biết, ununocti (118). Nó tăng lên tí ti vào khoảng các nguyên tố từ 110 đến 113, vùng này được đưa ra trong lý thuyết là nơi bắt đầu của hòn đảo ổn định. Bảng sau có các đồng vị lâu đời nhất được quan sát của các nguyên tố nặng nhất: Để so sánh, nguyên tố dưới 100 có chu kỳ ngắn nhất là franci (nguyên tố số 87) có chu kỳ bán rã chỉ tới 22 phút.
1
null
"Morning Has Broken" là một bài ca tụng Thiên Chúa nổi tiếng được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1931. Lời do nhà thơ người Anh Eleanor Farjeon và giai điệu theo một đoạn nhạc Gaelic truyền thống có tên là Bunessan. Lời bài hát có nội dung ca tụng Thiên Chúa và sử dụng tiếng Anh cổ nên bản thân người nói tiếng Anh cũng thấy khó hiểu những ca từ này Cat Stevens hát và phát hành bài này trong album "Teaser and the Firecat" năm 1971. Bài này đã mang đậm dấu ấn của Stevens và lên đến hạng 6 trên US pop chart và đứng vị trí số 1 trên US easy listening chart vào năm 1972. Nguồn gốc xuất xứ. Bài thánh ca này lần đầu xuất hiện trong ấn bản thứ hai của "Songs of Praise" (tuyển tập các bài thánh ca ca tụng) (xuất bản năm 1931), mang giai điệu "Bunessan", sáng tác ở miền Tây Nguyên Scotland. Trong mục "Thảo luận về các bài ca tụng", biên tập viên, Percy Dearmer, giải thích rằng, cần thiết phải có một bài thánh ca tạ ơn cho mỗi ngày, một tác giả của trẻ em và là nhà thơ Eleanor Farjeon đã "được yêu cầu để làm một bài thơ phù hợp với giai điệu đáng yêu của Scotland". Một biến thể nhẹ trên bài thánh ca gốc, cũng được viết bởi Eleanor Farjeon, có thể được tìm thấy dưới hình thức của một bài thơ đóng góp cho tuyển tập "Children's Bells", dưới tiêu đề mới của Farjeon, "A Song Morning (For the First Day of Spring)", được xuất bản bởi Oxford University Press vào năm 1957. Giai điệu "Bunessan" đã được tìm thấy trong tuyển tập "Songs and Hymns of the Gael" của L. McBean, xuất bản năm 1900 Trước khi có ca từ của Farjeon, giai điệu này được sử dụng như một loại nhạc truyền thống Giáng sinh, mở đầu bằng những ca từ "Child in the manger, Infant of Mary" ("đứa bé trong máng cỏ, người con sơ sinh của Mẹ Maria"), dịch từ lời bài hát Gaelic của Scotland được viết bởi Mary MacDonald. Quyển thánh ca tiếng Anh Công giáo La Mã cũng sử dụng giai điệu này cho bài thánh ca "Christ Be Beside Me" ("Chúa Kitô ở bên con") và "This Day God Gives Me" ("Thiên Chúa cho con ngày hôm nay") của Charles Stanford, cả hai đều đã được chuyển thể từ bài thánh ca truyền thống "St. Patrick's Breastplate" của Ailen. Một bài thánh ca Thiên Chúa khác tên là "Baptize In Water" cũng mượn giai điệu này. Bản thu của Cat Stevens. Bài này hay bị nhầm lẫn là sáng tác của Cat Stevens, ca sĩ đã có công phổ biến bài hát này ra nước ngoài. Đoạn đệm piano quen thuộc trong bản thu của Stevens được thực hiện bởi Rick Wakeman, một tay chơi keyboard cổ điển và nổi tiếng nhất với vai tròn thành viên trong ban nhạc progressive rock tên là Yes của Anh Năm 2000, Wakeman phát hành một phiên bản hòa tấu của "Morning Has Broken" trong một album cùng tên. Cùng năm đó, ông đã cho một cuộc phỏng vấn trên BBC Radio 5 Live, trong đó ông nói rằng ông đã đồng ý biểu diễn trong bài của Cat Stevens với giá 10bảng Anh và đã không được ghi nhận tên trong bài hát như đã hứa, ông cũng nói thêm rằng ông chưa bao giờ nhận được tiền. Khi định hình "Morning Has Broken" để thu âm, Stevens đã phải bắt đầu bằng một bài thánh ca trong khoảng 45 giây để hát bài này ở thể gốc của nó. Nhà sản xuất Paul Samwell-Smith nói với ông rằng ông không thể đưa một cái gì như vậy vào một album, và rằng cần có độ dài ít nhất là 3 phút. Mặc dù một bản demo acoustis có phần của Stevens chơi phiên bản đầu tiên kéo dài gần 3 phút. Trước khi ghi âm thực tế, Stevens nghe Wakeman chơi một cái gì đó trong phòng thu âm. Đó là một khúc dạo sơ bộ những gì sau này sẽ trở thành album "Catherine Howard" "Stevens nói với Wakeman rằng ông thích khúc nhạc đó và muốn một cái gì đó tương tự như phần mở đầu, phần kết thúc, và nếu có thể, là một phần giữa bài luôn. Wakeman nói với Stevens rằng không thể vì khúc nhạc này đã dành cho một album solo, nhưng Stevens đã thuyết phục ông điều chỉnh bài này và đưa vào. Khúc dạo piano quen thuộc đoạn mở đầu và nói chung các đoạn tấu đều có thể ghi công cho Stevens hoặc Wakeman. Khi trở lại biểu diễn với tên Yusuf Islam, Stevens đã thanh toán cho Wakeman và xin lỗi vì sự cố không thanh toán lần đầu tiên, đó là do xuất phát từ sự hiểu lẫn rằng nó đã nằm trong phần của hãng thu âm. Trên một bộ phim tài liệu phát sóng trên truyền hình Anh, Wakeman nói rằng ông cảm thấy phiên bản "Morning Has Broken" của Stevens là một bản nhạc rất đẹp đã mang con người gần gũi hơn với chân lý tôn giáo. Ông bày tỏ sự hài lòng cho những gì ông đã đóng góp vào bản thu này Những phiên bản khác. Mặc dù một số nguồn tin cho rằng bài này được phát hành trong album "Last Date" của Floyd Cramer vào năm 1961, nhưng htông tin sự nghiệp của nghệ sĩ này chứng minh rằng bài hát này không phải là trong album đó. Trong thực tế, Cramer đã không thu bài này cho đến năm 1972, khi ông sử dụng đoạn nhạc dạo mà ông cho rằng của Cat Stevens Bài này đã được nhiều ca sĩ khác nhau thu lại, bao gồm Judy Collins, Michael Card, Floyd Cramer, Dana, Neil Diamond, Art Garfunkel, Daliah Lavi, Joe Longthorne, Anni-Frid Lyngstad, Nana Mouskouri, Aaron Neville, Kenny Rogers and the First Edition, Joseph McManners, Sister Janet Mead, Pam Tillis, the Mormon Tabernacle Choir trong "Consider the Lilies", Roger Whittaker, Ellen Greene trong "Pushing Daisies", Demis Roussos, và Steven Curtis Chapman. Tháng 11 năm 2008, album "Teaser and the Firecat" được phát hành lại trên đĩa CD trong đó có bao gồm bản demo gốc của "Morning Has Broken".
1
null
Assassin's Creed là một sê-ri trò chơi điện tử thể loại hành động phiêu lưu trong một thế giới mở có nội dung mang tính lịch sử-viễn tưởng. Dòng trò chơi gồm năm bản chính, bốn bản phụ và một vài các phim ngắn bổ trợ cho nội dung của game. Những phiên bản game xuất hiện trên các hệ máy Play Station 3, XBox 360, Microsoft Windows, Mac OS X, Nintendo DS, Playstation Portable, iOS, webOS, Android và Windows Phone và sẽ tương thích với Playstation Vita và Wii U. Những bản chính được phát triển bởi Ubisoft Montreal và các bản trên điện thoại di động sẽ do Gameloft và Gryptonite Studio đảm trách. Mọi phiên bản trong sê-ri đều được do Ubisoft phát hành. Series này được lấy cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết Alamut, được viết bởi nhà văn người Slovenia Vladimir Bartol. Giới thiệu. "Assassin's Creed" diễn ra vào năm 2012 với nhân vật chính là Desmond Miles, một chàng thanh niên làm nghề pha rượu. Anh được cho là hậu duệ của một số dòng sát thủ thời phục hưng; được nuôi dưỡng với tư cách là một sát thủ, Desmond đã trốn thoát khỏi gia đình du mục sát thủ của anh để đi tìm một cuộc sống bình dị. Tuy nhiên, sau đó Desmond bị bắt cóc bởi siêu tập đoàn Abstergo Industries, một bộ-mặt-hiện-đại của Hiệp sĩ dòng Đền; họ đã nhận ra dòng dõi của Desmond. Anh bị ép dùng 'Animus', một cỗ máy cho phép anh trải nghiệm những ký ức của tổ tiên anh, và trò chơi bắt đầu từ đây. Tuy nhiên, nội dung game không chỉ gói gọn như vậy. Abstergo đang ra sức tìm kiếm nơi cất giấu "Pieces of Eden", những kiệt tác có sức mạnh phi thường được phân bố rải rác khắp nơi, có thể kiểm soát toàn nhân loại và thay đổi vận mệnh. Desmond sau đó được giải cứu bởi một nhóm nhỏ sát thủ ngày nay và được đưa đến địa điểm an toàn. Sau khi đồng ý hợp tác với họ, Desmond dùng phiên bản Animus riêng của nhóm (Animus 2.0) để tiếp tục trải nghiệm những ký ức của tổ tiên Desmond và qua đó khám phá được nơi cất giữ Pieces of Eden và giữ chúng an toàn khỏi tay Abstergo. Trong khi lạc vào những ký ức của tổ tiên, một vài khả năng của họ nhập vào Desmond, hay còn gọi là "Hiệu ứng chảy máu" (Bleeding effect), do đó các kĩ năng đặc biệt của sát thủ được Desmond thực hiện một cách thuần thục. Trong cỗ máy Animus, người chơi sẽ vào vai Altaïr ibn-La'Ahad, một sát thủ vừa bị giáng chức đang cố gắng khôi phục lại chức vị của mình trong thời kì Thập tự chinh, và Ezio Auditore da Firenze, một sát thủ người Ý sinh sống vào cuối thế kỉ 15 và đầu thế kỉ 16 trong thời kì Phục Hưng. Cả hai đều có mối quan hệ với một mảnh Pieces of Eden là "The Apple of Eden". Trong quá trình theo dấu chân của Ezio, những mảnh Pieces of Eden được tiết lộ, và trong số đó có Gậy Mục tử. Xuyên suốt qua những sự kiện trong trò chơi, Desmond học được những lời tiên tri về Ngày tận thế 2012 từ một dự án thử nghiệm Animus trước đó, Subject 16, cũng như những nhân vật ba chiều của một loài sinh sống trước thời kì con người. Những người này, được gọi là "Chủng tộc đầu tiên", tự gọi họ là Minarva, Juno và Jupiter. Họ nói trực tiếp với Desmond thông qua những màn chơi của Ezio và đến lượt Ezio khám phá ra rằng ông chỉ là một đường dẫn thông tin cho Desmond. Bộ ba Chủng tộc đầu tiên giải thích rằng họ tạo ra loài người, những người mà sau này đã chống đối lại họ. Một vệt lóa mặt trời đã quét sạch loài của họ trên hành tinh và tiêu diệt toàn bộ chủng tộc. Cả ba thất bại trong việc chống lại nó, và họ đã xây dựng hàng loạt các ngôi đền trên khắp thế giới mà họ tin rằng sẽ ngăn chặn được tai họa lần thứ hai, trong đó có "Hầm mộ trung tâm", được giấu bí mật ở thành phố New York. Chủng tộc đầu tiên đã thất bại trong việc lai tạo với loài người, vì vậy họ đã tạo ra dòng máu lai giữa họ và con người, chẳng hạn như Altaïr và Ezio; Desmond cũng là sự thống nhất của cả hai. Sự lai tạo này đã dẫn đến giác quan thứ sáu, thứ xuất hiện trong game với tên gọi "Eagle Vision" và "Eagle Sense". Desmond bây giờ phải sử dụng lại Animus để truy cập vào ký ức của , một sát thủ có dòng máu một nửa người da đỏ, một nửa người Anh trong thời kì Cách mạng Hoa Kỳ, dùng hầm mộ trung tâm để tìm cách ngăn chặn một cơn vệt lóa mặt trời tương tự có khả năng xảy ra theo lời chỉ dẫn của những người đi trước. Sau đó Desmond đã hi sinh tính mạng để kích hoạt tấm lưới bảo vệ Trái Đất khỏi thảm họa Ngày tận thế trong năm 2012. Nối tiếp câu chuyện của Assassin's Creed III là những câu chuyện của Assassin's Creed IV: Black Flag. Người chơi sẽ vào vai một nhân viên của tập đoàn Abstergo, dùng cỗ máy Animus để trải nghiệm nhân vật Edward Kenway - ông nội của và là cha của Haytham Kenway. Edward Kenway trong game sẽ là một thuyền trưởng chỉ huy tàu Jackdaw khám phá vùng biến Caribbean những năm 1715, trải nghiệm thời kỳ hoàng kim của giới Hải tặc. Edward Kenway xuất thân từ dòng dõi quý tộc người Anh. Edward sớm vào đời và nối nghiệp với nghề lái buôn truyền thống của gia đình. Tuy nhiên sự tham lam của chính quyền cai trị vào thời điểm ấy, Edward và gia đình mình đã bị kết tội trốn thuế, tịch thu toàn bộ tài sản và đày ải ra ngoài vùng vịnh. Cách chơi. Trong khi cốt truyện trò chơi được trình bày thông qua nhân vật chính Desmond Miles, phần lớn thời gian trò chơi được chơi bởi những trải nghiệm của Desmond về ký ức của một trong ba Altaïr, Ezio hay Connor qua cỗ máy Animus. Điều này cung cấp vài phương tiện cho người chơi, thể hiện thanh máu của Altaïr hay Ezio, vật dụng, thiết bị, mục tiêu và một số tính năng khác thuộc Animus. Animus hoạt động dựa vào người chơi, mà ở đây là Desmond, điều khiển sát thủ để duy trỳ sự đồng bộ giữa Desmond và các tổ tiên của anh ta. Làm những hành động mà đi ngược lại với cách của sát thủ hoặc bị chết thì Animus sẽ dừng đồng bộ, và người chơi phải chơi lại ở checkpoint trước đó. Thêm vào đó, người chơi không thể đi đến những khu vực mà sát thủ chưa từng đặt chân đến. Ngoài ra còn có những điều kì lạ như những ký tự do subject trước để lại. Trong quá trình chơi vào vai sát thủ, game thường được trình diễn qua góc nhìn người thứ ba trong một thế giới mở, tập trung vào hành động lén lút và parkour. Game sử dụng kiến trúc nhiệm vụ để hoàn thành hết cốt truyện, thường là những nhiệm vụ yêu cầu hoàn thành ám sát những mục tiêu đầu não hoặc là những nhiệm vụ mang tính bí mật. Bên cạnh đó là những nhiệm vụ phụ, chẳng hạn như mở rộng bản đồ thành phố bằng cách leo lên những mái nhà cao tầng nhất định và thục hiện một cú "Leap of Faith" (cú nhảy của niềm tin), thu thập kho báu được ẩn giấu khắp thành phố, khám phá những tàn tích hay di vật, xây dựng một tình huỳnh đệ sát thủ để thực hiện các nhiệm vụ, hay chi tiền hoặc tái xây dựng lại thành phố thông qua giao thương và nâng cấp các cửa tiệm, quầy hàng buôn bán. Thông qua giao diện của Animus, người chơi được phép chơi lại những nhiệm vụ trước mặc dù đã hoàn thành xong, ví dụ như Assassin's Creed: Brotherhood, người chơi sẽ đạt được kết quả đồng bộ tốt hơn nếu như hoàn thành xuất sắc những yêu cầu riêng trong màn chơi như chỉ tiêu diệt duy nhất mục tiêu của nhiệm vụ. Game sử dụng khái niệm di chuyển "chủ động" đối đầu với "bị động", trong đó "chủ động" là những hành động như chạy, leo lên tường, trèo lên mái nhà, nhưng có thể gây sự chú ý đến các lính gác lân cận. Một khi quân lính đang trong tình trạng báo động, người chơi một là quay lại chiến đấu với chúng, hai là thoát khỏi vòng vây và ẩn nấp những nơi mà chúng không nhìn thấy, chẳng hạn như chui vào đống rơm hay cái giếng, và chờ cho sự cảnh giác của chúng suy giảm. Hệ thống chiến đấu trong game khá đa dạng với những vũ khí lạ, áo giáp và những đòn ra chiêu cực kì lợi hại, bao gồm việc sử dụng hidden blade được buộc ở phía cánh tay trong của sát thủ. Vũ khí này rất giúp ích cho việc ám sát lén lút. Các phiên bản. Các bản chính của game trên hệ PC đều ra mắt chậm trễ hơn so với trên consoles, ít nhất là hai tuần. " Assassin's Creed ". Assassin's Creed là phiên bản đầu tiên trong sê-ri game cùng tên. Game ra mắt trên Xbox 360 và Play Station 3 ngày 13 tháng 11 năm 2007, trong khi đó bản dành cho PC ra mắt ngày 8 tháng 4 năm 2008. Desmond Miles là một nhân viên pha rượu người mà bị bắt cóc bởi một tập đoàn có thế lực mang tên Abstergo. Trong khi bị bắt, Desmond được biết rằng anh ta có thể dùng một cỗ máy tên là Animus để sống lại những ký ức của tổ tiên anh. Anh ta đồng ý sử dụng cỗ máy và làm sống lại ký ức của tổ tiên anh, Altaïr ibn-La'Ahad. Altaïr, ông tổ của Desmond, là một sát thủ vừa bị giáng chức bởi vì Altaïr đã phá vỡ luật lệ của Hội sát thủ: Để khôi phục lại chức danh của mình Altaïr phải hoàn thành một sứ mệnh, đó là tiêu diệt chín mục tiêu quan trọng. Altaïr miễn cưỡng chấp nhận và từ từ hạ gục chín người đó. Altaïr nhận ra rằng có một nét chung giữa chín người. Sau khi ám sát hết cả chín người, anh nhận ra mục tiêu thứ chín thật ra chỉ là một cái bẫy. Altaïr chạm trán với Robert, thủ lĩnh của Hiệp sĩ dòng Đền, trước mặt Richard I của Anh, thủ lĩnh của đoàn quân thập tự chinh. Altaïr nói với Richard rằng Robert đang dựng kế hoạch để phản bội và giết chết ông, dẫn đến một cuộc đối đầu tay đôi giữa Robert và Altaïr. Sau đó Richard tin lời của anh. Trước khi chết, Robert thú nhận với Altaïr rằng không chỉ có chín, mà đến mười Templars thông đồng với nhau để lấy Piece of Eden, và người thứ mười này không ai khác chính là thủ lĩnh của hội Sát thủ, Al Mualim. Hắn ta muốn giữ Piece of Eden cho riêng mình nên đã cho Altaïr giết chết chín người còn lại. Trở lại Masyaf, pháo đài của Hội sát thủ. Lúc này Al Mulim đã lấy đi lý trí của những người bên trong do sử dụng Piece of Eden. Altaïr làm chủ được những cám dỗ từ Piece of Eden và đánh bại Al Mulim trong cuộc đấu tay đôi. Ký ức mà Abstergo đang tìm kiếm, thứ mà chỉ ra địa điểm của Piece of Eden, tiết lộ rằng chỉ có một trong số 28 cái phân bố đâu đó trên thế giới. Trở lại hiện tại, Abstergo gửi một đội quân lùng sục Pieces nhiều nhất có thể. Vì thấy Desmond hiện đã không cần thiết, họ cho người đến giết anh. Lucy Stillman, một nhân viên của Abstergo người đã tiết lộ với Desmond rằng cô ta là một sát thủ bí mật, đã thuyết phục họ không giết anh. Desmond ở một mình trong phòng Animus và sử dụng kĩ năng Eagle Vision mà anh có được nhờ Hiệu ứng chảy máu gây ra bởi Animus, anh thấy rất nhiều ký tự lạ được vẽ bằng máu ở trên tường và trên sàn ngay trong phòng nghiên cứu. Những ký tự này có liên quan đến ngày tận thế đựợc viết bằng rất nhiều thứ tiếng khác nhau. " Assassin's Creed II ". Assassin's Creed II là phiên bản nối tiếp sự thành công của phần đầu Assassin's Creed. Game ra mắt cho Xbox 360 và Play Station 3 vào ngày 17 tháng 11 năm 2009, còn game thủ PC phải chờ đến ngày 9 tháng 3 năm 2010 ở Mĩ và ở châu Âu là sớm hơn 4 ngày. Lucy trở lại và đưa Desmond ra khỏi Abstergo. Cô ta đưa anh vào một chỗ ẩn nấp và giới thiệu Desmond với các cộng sự sát thủ của cô là Shaun và Rebecca. Cô cũng nói rằng Hội sát thủ đang chiếm ưu thế với cỗ máy Animus được nâng cấp. Biết được dã tâm của bọn Templar muốn lấy cấp Pieces of Eden, Desmond liền tình nguyện trở lại Animus, và khám phá ký ức của Ezio Auditore da Firenze, một quý tộc trẻ vào năm 1476 tại Florence, Cộng hòa Florence. Anh hi vọng sẽ có được những khả năng của Ezio bằng Hiệu ứng chảy máu để giúp Hội sát thủ và tiêu diệt Templars. Cha và anh em ruột của Ezio bị hành quyết bởi bàn tay của Uberto Alberti, một tên quan tham ô thông đồng với bọn Templars. Ezio giết chết Uberto để trả thù, và sau đó tẩu thoát cùng với mẹ và em gái đến căn biệt thự của họ tại Monteriggioni. Ezio học được những di sản của sát thủ và bắt đầu tập luyện dưới sự hướng dẫn của người chú Mario. Ezio kết bạn với một nhà phát minh trẻ ở địa phương là Leonardo da Vinci. Leonardo đã giúp đỡ Ezio rất nhiều như dịch những mật mã codex mà trong đó gợi nhớ đến ký ức của Altaïr cũng như thiết kế những vũ khí sát thủ cao cấp. Khi Ezio nhìn thấy chúng qua Eagle vision, ba mươi mảnh codex hợp lại tạo thành một bản đồ thế giới trong đó chỉ địa điểm của các hầm mộ. Xuyên suốt một thập kỉ Ezio đã ám sát những tên có liên quan đến cái chết của cha anh, để lại Rodrigo Borgia, một tên quý tộc và cũng là Templar, người đã chiếm được Apple of Eden và là tên chủ mưu của vụ sát hại. Ezio và các sát thủ khác đoạt lại được bảo vật nhưng Borgia đã tẩu thoát. Ezio chính thức được công nhận là một Sát thủ và anh ta bảo rằng có thể anh sẽ là một nhà tiên tri theo lời của mảnh codex. Trong quá trình chơi Desmond trải qua nhửng điều khá bất thường. Đầu tiên anh nhận thấy những vết khắc kì lạ, dường như được để lại bởi dự án thử nghiệm trước, người mà đã chết do nhân viên của Abstergo để anh ở trên Animus quá lâu. Những vết khắc này rất giống với những ký hiệu ở trụ sở Abstergo, chúng đang giữ một bí mật lịch sử của trái đất. Sau đó anh mơ mình là Altaïr, đuổi theo Maria, một Templar mà sau này là vợ của Altaïr. Cuối cùng, một vài ký ức đã bị bỏ qua, đẩy thời gian của game lên đến hơn thập kỉ đến màn chơi ở Vatican, nơi mà Borgia lúc bấy giờ đang là Giáo hoàng Alexanđê VI. Khoảng ký ức bị "bỏ qua" ấy được bổ sung trong các phiên bản tải về DLC, có nội dung về Trận Forli và Lửa trại của sự phù phiếm. Borgia lúc này đang là Giáo hoàng và hắn đang nắm giữ Gậy Mục tử, một loại Pieces of Eden khác. Hắn định dùng nó để vào hầm mộ theo như lời tiên tri của codex. Ezio ngăn chặn hắn, nhưng tha đi mạng sống của hắn và vào hầm một mình. Anh ta gặp một vật thể ba chiều của một phụ nữ, tự xưng là Minerva và cho là bà ta đến từ một chủng tộc mà những thành viên của chủng tộc ấy sinh sống cùng thời với loài người cổ đại. Minerva nói rằng một thiên tai khủng khiếp đã tiêu diệt toàn bộ chủng tộc của bà và cảnh báo rằng tai họa ấy sẽ xảy ra thêm một lần nữa trong tương lai gần. Nói trực tiếp với Desmond, bà ta nói với anh "Thế giới này tùy thuộc vào ngươi" (The rest is up to you), để lại nỗi băn khoăn khó hiểu cho Ezio. Desmond bị đẩy ra khỏi Animus vì Abstergo đã tìm ra nơi ẩn trú của họ. Anh, Lucy và các thành viên khác trong nhóm nhanh chóng tẩu thoát đến nơi an toàn và nhanh chóng chuẩn bị cho Desmond sử dụng Animus một lần nữa tìm kiếm những manh mối có thế giúp ích cho nhóm. " Assassin's Creed: Brotherhood ". Assassin's Creed: Brotherhood là phần thứ ba trong sê-ri. Phát triển và phát hành bởi Ubisoft, game ra mắt vào ngày 16 tháng 11 năm 2010 tại Bắc Mĩ và 19 tháng 11 năm 2010 tại châu Âu. Phiên bản dành cho PC đến muộn hơn, vào ngày 22 tháng 3 năm 2011, tức chậm hơn gần bốn tháng. Game là sự tiếp diễn về câu chuyện của Ezio Auditore, nhân vật chính trong Assassin's Creed II, sau khi Ezio trở về Monteriggioni. Vào ngày nọ, em gái của Ezio đã tổ chức một buổi tiệc sinh nhật cực kì bất ngờ cho anh, và Ezio đã ngủ với Caterina Sforza. Sáng thức dậy, Ezio hoảng hốt khi thấy Monteriggioni đang bị đoàn quân của Cesare Borgia - con trai trưởng của Rodrigo Borgia - đánh chiếm. Ezio cùng quân lính cố gắng chống trả nhưng người chú của anh Mario đã bị giết bởi Cesare và hắn đã lấy đi The Apple of Eden, để lại Ezio một mình thoát khỏi thành phố. Mong muốn đòi lại công lý và lấy lại báo vật, Ezio lên đường đến Roma để giải phóng những người dân đang bị áp bức dưới triều đại của nhà Borgia. Để làm được điều đó, Ezio phải kết nạp thêm những sát thủ mới cũng như thiết lập đồng minh giữa các thế lực ngầm Roma. Rất nhiều lần Ezio đột nhập Castel Sant'Angelo - một pháo đài kiên cố - để giết hai cha con Borgia nhưng bất thành. Một lần nọ, Ezio quay trở lại Castel Sant'Angelo thì thấy Cesare ép cha của mình ăn quả táo độc mà trước đó Rodrigo đã cố ý tẩm độc hòng đầu độc con trai mình. Ezio rượt theo Cesare và cuối cùng cũng đoạt lại được Apple of Eden, và dùng nó giết rất nhiều quân lính của Cesare. Cuối cùng thì Cesare cũng bị bắt vào ngục, nhưng hắn điên tiết nói rằng không ai có thể giết được hắn và bắt giam hắn quá lâu. Cesare bị giam rất cẩn mật tại Viana, Tây Ban Nha, nhưng cuối cùng thì hắn cũng đã vượt ngục thành công nhờ sự trợ giúp của tâm phúc Micheletto. Nhưng Micheletto thậm chí lại bị giết bởi bàn tay của chủ nhân hắn, và game dẫn đến ký ức mà bắt đầu ở đầu game. Ezio giết Cesare, xô y xuống dưới tường thành của lâu đài; 'để cho hắn về với bàn tay của số phận' (leaving him in the hands of fate). Sau đó, Desmond, Lucy, Shaun và Rebecca phát hiện ra Apple of Eden được giấu kín đáo ở bên dưới Colosseum. Cả nhóm tìm kiếm và cuối cùng cũng đã tìm ra nó, rồi Juno, một "Những người đến trước" - tên gọi khác của Chủng tộc đầu tiên - khác xuất hiện, điều khiển Desmond và bắt anh ta đâm vào bụng Lucy. Sau sự kiện này, Desmond rơi vào trạng thái hôn mê, còn Lucy - người yêu của Desmond - đã chết dưới bàn tay của anh. Lần đầu tiên trong sê-ri, game xuất hiện tính năng chơi mạng. Người chơi vào vài các nhân viên của Abstergo, sử dụng Animus để đi vào những ký ức của những Templars thời Phục Hưng trong một vài màn chơi. Ngoài ra Ubisoft còn tung ra bản DLC "The Da Vinci Disappearance" cho Xbox 360 và Play Station 3 vào ngày 8 tháng 3 năm 2011, hỗ trợ thêm cho phần chơi đơn và chơi mạng. " Assassin's Creed: Revelations ". Assassin's Creed: Revelations là phiên bản thứ tư của dòng game Assassin's Creed, phát triển và phát hành bởi Ubisoft. Trong game, cả ba nhân vật chính trong các bản trước là Altaïr, Ezio và Desmond đều xuất hiện. Game ra mắt trên Xbox 360 và Play Station 3 vào ngày 15 tháng 11 năm 2011, còn cho PC vào ngày 2 tháng 12 năm 2012. Một đoạn trailer được trình chiếu tại E3 2011, mô tả Ezio lúc về già, bên cạnh một đoạn chơi thử gameplay. Desmond bị hôn mê sâu vào lúc kết thúc Assassin's Creed: Brotherhood và được đặt lại vào Animus. Anh bị lạc vào một khu vực được gọi là Dark room, trái ngược lại với White Room đã thấy trước đó. Desmond phải hợp lại những ký ức trước của Ezio để cải tạo lại trí óc của mình và giải thoát ra khỏi Animus. Điều này yêu cầu Desmond phải vượt qua những câu giải đố trong Animus trong khi bị giam giữ ở một khu vực an toàn là Animus Island, nơi mà anh có thể trò chuyện với mô hình mô phỏng kĩ thuật số của Subject 16, người mà cho Desmond biết anh phải hoàn thành nốt câu chuyện đời của cả hai Altaïr và Ezio thì Animus mới có thể chia tách cả ba người và giải phóng trí óc đang tổn thương của Desmond. Trong lúc ấy, Ezio, bây giờ đã khá lớn tuổi, tiếp tục việc tìm kiếm của ông để tìm ra nguồn gốc của Hội sát thủ và kết nối với quá khứ của Altaïr. Trước hết, Ezio phải tập hợp đủ năm phong ấn cần thiết để vào thư viện của Altaïr, nơi mà ông tin rằng nó chứa những kiến thức mà ông tìm kiếm. Tuy nhiên, bọn Templars cũng muốn được đặt chân vào thư viện, tìm kiếm một thứ vũ khí lợi hại được nói rằng đang được cất giấu tại đây. Những chìa khóa này đồng thời cho phép Ezio đi vào ký ức của Altaïr theo cách khá giống với Animus cho Desmond đi vào ký ức của Ezio. Điều này đã làm cho Ezio chu du đến Constantinople thời kì đế quốc Ottoman, nơi mà Hội sát thủ lĩnh đạo bởi Yusuf Tazim, tiếp đón như một Mentor huyền thoại. Khi phong ấn cuối cùng được thu thập, Ezio đến Masyaf và phát hiện ra đó không phải là một thư viện mà là một hầm mộ với hài cốt của Altaïr và một phong ấn nữa chỉ nơi cất giấu vũ khí, và khi mở ra thì đó là Apple of Eden. Nhưng Ezio đã bỏ lại nó, nói với nó rằng ông đã nhìn nó quá đủ trong đời rồi ("seen enough for one lifetime."). Sau đó ông nói chuyện và chạm vào Desmond trong vô hình, vứt đi hidden blade và thanh kiếm và về nghỉ hưu sinh sống tại Tuscany cùng gia đình. Câu chuyện đời của Ezio được kết thúc trong bộ phim hoạt hình ngắn , khi ông được vợ là Sofia và đứa con gái là Flavia dẫn đi dạo ở Firenze, mặc dù ông đang bị bệnh tim. Trong khi đang ngồi nghỉ, ông trò chuyện với một người thanh niên trẻ với một vết sẹo trên mặt, ông nhận ra giữa ông và người đó có gì tương đồng với nhau khi ông còn trẻ, và Ezio đã trút hơi thở cuối cùng trong sự chứng kiến của gia đình. " Assassin's Creed III ". Assassin's Creed III là tựa game đang phát triển của Ubisoft ấn định ngày ra mắt vào khoảng 30-31 tháng 11 năm 2012. Game sẽ giới thiệu một bối cảnh hoàn toàn mới, cũng như nhân vật chính, một người có cha là người Anh còn mẹ là người Mỹ bản xứ tên là Connor (tên tiếng da đỏ là Ratohnhaké:ton) Kenway. Nội dung trò chơi xoay quanh cuộc đời 30 năm của Connor từ 1753 đến 1783 và mô tả hai thành phố Boston và New York, cũng như vùng hoang dã được gọi là Frotier, nơi 1/3 số nhiệm vụ sẽ diễn ra tại đây. Ubisoft cũng nói rằng bản đồ của game sẽ lớn hơn các người anh của mình; một mình khu vực Frontier đã to gấp rưỡi bản đồ của , phiên bản có diện tích lớn nhất sê-ri tính đến thời điểm này. Tính đến năm 2012, game được Ubisoft phát triển trong 2 năm rưỡi. Thời lượng game cũng sẽ nhiều hơn 20% so với Assassin's Creed II. Game cũng xuất hiện những yếu tố lịch sử (giống như sự xuất hiện của Niccolò Machiavelli và Leonardo da Vinci trong thời kì Ezio). George Washington và Benjamin Franklin cũng sẽ xuất hiện để hỗ trợ cho Connor. Hệ thống vũ khí sẽ có những cái tên mới như rìu tomahawk, súng lục đôi, ném dao, cung và nỏ. Assassin's Creed III sẽ có hệ thống thời tiết do engene game đã được nâng cấp, engene Anvil 2.0. Sương mù sẽ dày đặc, bắt buộc người chơi phải sử dụng Eagle Vision. Trời cũng sẽ mưa, mặc dù Connor sẽ không bị trơn trợt hoặc té ngã. Và tuyết trong game đóng vai trò quan trọng. Nếu tuyết rơi dày đặc, người chơi sẽ đi chậm lại, và quân địch cũng vậy. Corey May, người đã viết kịch bản cho Assassin's Creed, Assassin's Creed II và cũng sẽ là người đảm trách việc viết kịch bản cho tựu game này. Thiết kế trưởng của game là ông Alex Hutchinson. Gameplay đã được cải tiến đáng kể. Cơ chế chiến đấu sẽ tập trung vào cách nhân vật di chuyển và bị ảnh hưởng khá nhiều bởi tốc độ cũng như đà chạy, lao vào kẻ địch của game thủ. Việc nâng cấp engine cũng cho phép nhân vật chính có thể rất nhiều động tác mới và độc đáo, hỗ trợ cho khả năng chiến đấu và combo trong các trận đánh. Hãng phát triển muốn người chơi phải di chuyển liên tục trong suốt các trận chiến và hệ thống camera mới sẽ hiển thị các hình ảnh một cách trực quan và mang tính điện ảnh nhiều nhất có thể. Free-running cũng đã thay đổi, cho phép Connor được leo trèo lên cây và các vách núi, đu qua đu lại giữa các cành cây hay thậm chí đi vào trong những căn nhà trong khi đang bị rượt đuổi. Ngoài việc ám sát, theo dõi mục tiêu, Connor cũng có thể săn thú để lột da bán kiếm tiền, nhưng Connor cũng có thể là mục tiêu của các loài ăn thịt khát máu, như chó sói hoặc gấu. Giá trị của một con thú phụ thuộc vào vũ khí, cách thức giết chúng và đòn chí mạng của bạn. Việc hạ gục con gấu bằng một lần chém sẽ khiến cho tấm da thu được có giá trị gấp nhiều lần việc giết nó bằng nhiều nhát đâm, hay giết chúng bằng súng đạn. "Assassin's Creed IV: Black Flag". Assassin's Creed IV: Black Flag là tên một game hành động phiêu lưu ẩn nấp lấy bối cảnh là một thế giới mở ở góc nhìn thứ ba được sản xuất vào năm 2013 và phát triển bởi Ubisoft Montreal – phát hành bởi Ubisoft.Đây là dòng game thứ 6 trong series game Assassin’s Creed.Assassin’s Creed 4 có mốc thời gian trong quá khứ trước bản "Assassin’s Creed 3" (sản xuất vào năm 2012) tuy nhiên những giai đoạn ở hiện tại thì lại tiếp nối bản 3 (các sequences trong game)."Black Flag" lần đầu tiên được thiết kế cho các hệ máy Playstation 3, Xbox 360 và Nintendo Wii U vào tháng 10 năm 2013; một tháng sau game được chuyển lên các hệ máy Playstation 4, Microsoft Windows (PC) và Xbox One. Mốc thời gian của game là vào thế kỉ 18 tại vùng biển Caribbean và cụ thể là trong giai đoạn thời đại vàng của cướp biển, nhân vật chính của game chính là hải tặc cộm cán "Edward Kenway" – cha của Haytham Kenway và là ông nội của (hai nhân vật chính trong bản 3). Không giống các phiên bản trước của dòng game, gameplay của Black Flag chủ yếu xoay quanh những chuyến phiêu lưu trên đại dương với phương tiện đi lại chủ yếu vẫn là thuyền tuy nhiên phiên bản bốn này vẫn giữ nguyên các yếu tố của một game góc nhìn thứ ba như các phiên bản trước như chiến đấu trên mặt đất, cận chiến (melee combat) và hệ thống các cách di chuyển – chiến đấu bí mật (stealth system).Game cho người chơi di chuyển qua nhiều địa điểm ở Caribbean nhưng chủ yếu xoay quanh ba thành phố lớn là Havana, Nassau và Kingston cùng với rất nhiều đảo, tàu đắm, pháo đài,….Ngoài ra, người chơi còn có thể lựa chọn đi săn những động vật biển nhằm trang bị thêm đồ đạc và túi mang đạn dược (bom khói, đạn,…).Lần đầu tiên trong lịch sử dòng game "Assassin’s Creed", khám phá đại dương và di chuyển bằng tàu lại được đặt lên hàng đầu khi mà nhân vật chính Edward Kenway chiếm được "Jackdaw" – một con thuyền buồm hai cột (brig) của quân đội Tây Ban Nha. "Assassin’s Creed IV: Black Flag" nhanh chóng được khen ngợi ngay sau khi phát hành và nằm trong danh sách những game bán chạy nhất trong năm 2013 với hơn 11 triệu bản được bán ra. Giới phê bình đánh giá cao thế giới mở rộng lớn với nhiều nhiệm vụ phụ, đồ họa tươi sáng cũng như hệ thống chiến đấu trên biển của game.Bản nhạc nền đầy phóng khoáng và kiêu bạc cũng được giới phê bình và fan của dòng game đánh giá rất cao.Tuy nhiên những sequence ở hiện tại lại nhận được nhiều lời khen – chê lẫn lộn và những lời phê bình tập trung chủ yếu ở việc cốt truyện ở giai đoạn quá khứ bị lập lại."Black Flag" nhận được một vài giải thưởng và danh hiệu bao gồm giải Spike VGX 2013 cho game hành động – phiêu lưu hay nhất năm.Tiếp nối Black Flag là Unity (bối cảnh là cách mạng Pháp) và Rogue (bối cảnh là chiến tranh 7 năm); cả hai đều được phát hành vào tháng 11 năm 2014. Assassin's Creed: Unity. Đây được coi là bản Assassin có sự đột phá nhất trong các bản từ trước đến nay. Đồ họa kiến trúc tỉ lệ 1:1 với ngoài đời, cùng với NPC lên đến cả ngàn người. Cơ chế parkour được cải tiến với chuyển động mượt mà nhất, đi kèm theo đó là gameplay đề cao sự lén lút nhất trong tất cả các bản Assassin. Với bản Assassin's Creed: Unity, người chơi sẽ được đưa về Paris thời kì Cách mạng Pháp. Khi bắt đầu trò chơi, bạn sẽ nhập vai vào một chàng trai trẻ Arno. Ngày bé được cha đưa vào Cung Điện versailles. Đột nhiên cha bị ám sát bởi Shay Cormac-nhân vật chính trong bản Assassin's Creed: Rogue. Arno được bạn của cha mình nhận nuôi. Trải qua một thời gian, lúc này Arno đã lớn trở thành một thanh niên có tính cách có phần trẻ trâu, nông nổi. Sau đó lại bị vu oan vì cái chết của người bố nuôi, anh bị tống vào ngục. Một tên tù nhân trong số đó nhìn anh và nói: Ah! ta biết cha ngươi, cha của ngươi là sát thủ đó, thế ngươi có muốn làm sát thủ không ? Anh được đào tạo trong tù 3 tháng, đúng lúc khi cuộc cách mạng Pháp nổ ra với mục tiêu đầu tiên là đột chiếm nhà tù BastilleBastille-Nơi Arno đang bị giam giữ. Anh được giải thoát và câu chuyện của sát thủ trẻ người Pháp chính thức bắt đầu Assassin's Creed: Origins. Đây là phiên bản ra mắt vào 27 tháng 10 năm 2017.  Assassin's Creed: Origins đưa người chơi đến với Ai Cập cổ đại, với câu chuyện của một trong số những nền văn minh đầu tiên của nhân loại với cuộc phiêu lưu của gã sát thủ BaYek. Trong bản này, chúng ta có thể thấy thay vì súng đạn của các phiên bản mới, thì cung tên lại trở thành món vũ khí tầm xa cực kỳ tin cậy của nhân vật chính. Assassin's Creed: Odyssey. Phiên bản này được phát hành vào 5/10/2018 Ở phiên bản này, ta sẽ tiếp nối nhân vật từ phần trước - Nữ sát thủ Layla. Cô vô tình tìm được thanh giáo của vị vua Sparta là Leonidas, và tiếp tục tham gia vào cuộc hành trình của các "sát thủ" đời đầu. Câu chuyện chuyển từ bối cảnh Ai Cập sang Hi Lạp và dựa theo sử thi Odyssey. Điều đặc biệt là chiếc giáo này đã qua tay hai chủ nhân - 2 chị em Kassandra và Alexios, 2 Sparta và cuộc hành trình của riêng mình - Layla / Người chơi có thể chọn hóa thân thành 1 trong 2 chị em. (Còn tiếp) ASSASSIN'S CREED: VALHALLA. Tương tự với phần game Assassin’s Creeds trước đó, Valhalla là một trò chơi thuộc thể loại phiêu lưu thế giới mở, góc nhìn thứ ba kết hợp với hành động lén lút và ám sát. Giống như những trò chơi trước, Valhalla có hai cốt truyện. Một câu chuyện diễn ra ở bối cảnh thời hiện đại, xoay quanh việc các Assassin đối đầu với tổ chức Templar và thường liên quan đến các đồ tạo tác quyền năng của thời xưa. Cốt truyện thứ hai — cốt truyện mà chúng ta dành 95% thời lượng chơi — lấy bối cảnh vào khoảng năm 875 sau Công nguyên, khi người Viking và gia tộc của họ rời Na Uy, khám phá và chinh phục các vùng của Anh và châu Âu. Khi ở trong Animus, bạn sẽ vào vai Eivor, một chiến binh Viking có cha mẹ bị giết khi anh còn nhỏ. Eivor được nuôi dưỡng bởi Styrbjorn, vua của gia tộc và có mối quan hệ như anh em với con trai của vua, Sigurd. Các bản khác. Assassin's Creed: Altaïr's Chronicles. Altaïr ibn La-Ahad, một thích khách thời Trung cổ được cử đi làm một nhiệm vụ từ Hội sát thủ để lấy lại ly rượu thánh từ sự tranh giành của cả hai đội quân Thập tự chinh và quân đội Hồi giáo. Altaïr ra sức tìm kiếm ba chiếc chìa khóa ma thuật rồi thằng tiến đến Jerusalem để đối đầu với thủ lĩnh quân Templars ở đây, Basilisk. Khi đến nơi, Altaïr nhận ra không có ly rượu thánh nào cả, nhưng có một người phụ nữ tên Adha đã tiết lộ rằng Altaïr đã bị lừa gạt bởi sát thủ có tên Harash, một điệp viên hai mang cho Templars. Sau khi giết chết cả hai Basillisk và Harash, Altaïr đã nỗ lực giải cứu Adha, lúc này đang bị bắt cóc, nhưng bất thành. Game kết thức với cảnh Adha bị đưa lên thuyền buôn, bỏ lại Altaïr ở đất Thánh.
1
null
Shu (; có nghĩa là ""khoảng không trống rỗng") là một trong số các vị thần nguyên thủy trong Thần thoại Ai Cập, là hiện thân của không khí, ở thành phố Heliopolis. Ông là một vị thần trong Bộ 9 vĩ đại của Heliopolis. Biểu tượng. Shu được miêu tả trong nhiều bức vẽ như là một người mang một chiếc lông ngỗng trên đầu. Cũng đôi khi người ta bắt gặp ông với hình ảnh có 4 cọng lông ngỗng trên đầu, trong hình ảnh này thì ông liên kết với thần chiến tranh Anhur. Gia đình. Ông được sinh ra bởi cha là Atum và mẹ là nữ thần Iusaaset, với người chị/em gái, đồng thời là vợ mình, Tefnut, nữ thần của Độ ẩm. Có thuyết cho rằng, Atum đã tự tạo ra 2 người con của mình bằng cách khạc nhổ hay thủ dâm. Ông là cha của thần mặt đất Geb và nữ thần bầu trời Nut. Về sau, Nut và Geb lại kết hôn, sinh ra Osiris, Isis, Seth và Nephthys. Chắt của ông là Horus và Anubis. Vai trò. Ông cũng là vị thần của ánh sáng, nhưng không phải là thần mặt trời. Sự chiếu sáng của ông xóa tan đi bóng tối của sự hỗn loạn, chia cách ngày và đêm, tách biệt dương trần với địa ngục. Shu cũng liên kết chặt chẽ với thần Ra. Ông cũng là một trong những vị thần trên con thuyền mặt trời, giúp Ra đánh đuổi con rắn quỷ Apep, đem ánh mặt trời vào mỗi bình minh. Đôi khi, ông được coi là vị thần của những cơn gió. Là một thần gió, ông đem lại sự mát dịu cho nhân loại, cấp thêm gió cho những chiếc thuyền xuôi dòng sông Nile. Shu được coi như biểu tượng của sự bình tĩnh, làm xoa dịu mọi thứ và là người lập lại hòa bình. Những đám mây được coi là xương của ông, được xem là những nấc thang để đưa linh hồn người chết về thiên đàng. Shu là vị pharaoh thứ 2 cai trị sau Atum-Ra. Tuy nhiên, con rắn quỷ Apep và những người theo phe nó bắt đầu chống phá lại ông. Sau khi đánh bại được Apep và tay sai, Shu trở nên yếu ớt và đã truyền ngôi lại cho Geb. Ông quay về thiên đàng, bảo vệ ánh sáng mặt trời và lại tiếp tục chiến đấu với Apep hằng đêm. Ông cũng là một vị thẩm phán dưới địa ngục Duat, phán xét các linh hồn người chết tại "Đại sảnh của Ma'at". Shu được cho là ghê tởm với sự tham nhũng. Thần thoại. Theo truyền thuyết, khi thấy Geb và Nut ôm nhau say đắm, thần Ra vô cùng tức giận đã lệnh cho Shu phải chia tách họ ra. Ông đứng giữa 2 người con của mình, nâng nữ thần Nut lên cao, tạo ra bầu không khí, giúp sự sống phát triển. Trong một câu chuyện thần thoại khác, Shu và Tefnut đã ra đi để khám phá vùng biển Nun. Ra (hoặc Atum) rất nhớ họ, cho rằng cả 2 đã bị lạc nên ông đã gửi thần Mắt đi tìm họ. Khi cả 2 quay về, hạnh phúc vì đoàn tụ, Ra khóc rất nhiều và những giọt nước mắt đó tạo ra những con người đầu tiên. Một thần thoại khác nói rằng, Tefnut vì bất hòa với cha mình, Ra, nên bà đã rời bỏ Ai Cập, mang theo nguồn nước tới Nubia. Thoth và Shu được phái đến để thuyết phục bà quay trở lại. Khi bà đồng ý quay về, Shu đã kết hôn với Tefnut. Bởi vì điều này mà ông có liên quan chặt chẽ với thần thợ săn Anhur (có nghĩa là "Người mang trở lại những gì xa cách"), có vợ là nữ thần sư tử Menhit, cũng bỏ đi tới Nubia và cũng phải quay về. Thờ cúng. Không có bất cứ đền thờ nào dành riêng cho Shu, nhưng ông được tôn kính trên khắp Ai Cập. Tại Iunet, có một nơi gọi là "Nhà của Shu" và tại Djeba, cũng có một nơi gọi là "Chỗ ngồi của Shu". Dưới thời Pharaoh Akhenaton, ông và hoàng hậu Nefertiti tự coi mình là hiện thân của Shu và Tefnut.
1
null
ZSU-57-2 (Ob'yekt 500) là một loại pháo phòng không tự hành (SPAAG) của Liên Xô. Vũ khí là hai khẩu pháo tự động 57 mm. 'ZSU' là từ viết tắt của "Zenitnaya Samokhodnaya Ustanovka" (), nghĩa là "hệ thống pháo phòng không tự hành" đặt trên khung gầm xe xích. '57' là cỡ nòng của pháo tính theo đơn vị mm và '2' là số lượng pháo được trang bị trên xe. Đây là hệ thống pháo phòng không tự hành bánh xích được sản xuất hàng loạt đầu tiên của Liên Xô. Ở Liên Xô nó có biệt danh không chính thức là "Sparka", có nghĩa là "cặp đôi", để chỉ 2 khẩu pháo tự động trang bị cho xe. Lịch sử sản xuất. Trong Thế chiến II, máy bay tấn công mặt đất nổi lên như một mối đe dọa đáng kể cho các đơn vị cơ giới di chuyển. các khẩu súng AA khi đó không có đủ điều kiện và thời gian để triển khai ngăn chặn. Do đó cần một loại phương tiện cơ động được trang bị pháo hoặc súng máy để chống máy bay là cần thiết và Wirbelwind của Đức quốc xã được sử dụng vào cuối thế chiến thứ hai là một loại phương tiện như thế và nó rất có hiệu quả. Năm 1942, các kỹ sư Liên Xô phát triển T-60-3. Chiếc xe dựa trên khung gầm xe tăng hạng nhẹ T-60, được trang bị hai súng máy hạng nặng DShK 12,7 mm, nhưng các mẫu thử nghiệm đã không đi vào sản xuất vì sai sót trong thiết kế. SPAAG SU-72 và một số xe thử nghiệm khác dựa trên khung gầm xe tăng hạng nhẹ T-60 hoặc T-70 được trang bị pháo 37 mm cũng đã được thử nghiệm từ 1942 đến 1943. ZSU-37 dựa trên khung gầm của súng tự hành SU-76M (SPG) và được trang bị pháo 37 mm chống máy bay trong một tháp pháo mở đầu xoay bọc thép. Chiếc xe vào sản xuất trong tháng 2 năm 1945 và sản xuất quy mô nhỏ cho đến khi năm 1948. Sau Thế chiến II, hỏa lực của một khẩu 37 mm AA không có hiệu quả chống lại máy bay tốc độ cao và mục tiêu ở độ cao thấp. SPAAG dựa trên khung gầm xe tăng hạng nhẹ có khả năng cơ động hạn chế trong địa hình khó khăn, làm chậm tốc độ và phạm vi không đủ so với xe tăng trung bình và Spgs. Vì vậy ZSU-37 được nghỉ hưu vào cuối những năm 1940. Nhiều năm sau chiến tranh thế giới thứ II, không có mô hình SPAAG mới ở Liên Xô, ngoại trừ BTR-152A (được trang bị 2 hoặc 4 súng máy hạng nặng KPV 14,5 mm). Chiếc xe đó đã được chỉ định ZTPU-2 hoặc ZTPU-4 tương ứng và BTR-40A (ZTPU-2). Tháng 2 năm 1946, do Cục Thiết kế công trình số 174 ở Omsk và Viện Nghiên cứu số 58 ở Kaliningrad, Moscow Oblast đệ trình một dự án chung cho một SPAAG dựa trên khung xe tăng T-34, được trang bị với bốn pháo AA 37 mm. Tuy nhiên, dự án đã không tiến hành do mong muốn tập trung sự chú ý trên khung gầm xe tăng mới nhất có sẵn. Phòng thiết kế của Viện Nghiên cứu số 58 (NII-58) [3] (trước đây gọi là Phòng thiết kế Trung ương pháo binh, TsAKB), dưới sự giám sát của VG Grabin, bắt đầu phát triển của một cặp pháo 57 mm S-68 tự động chống máy bay súng dựa trên 57 mm S-60 vào mùa xuân năm 1947. S-68 nguyên mẫu, đã sẵn sàng vào năm 1948. Dự án cuối cùng của các zsu-57-2 (Ob'yekt 500), được trang bị với cặp S-68 và dựa trên khung gầm của T-54, được hoàn thành vào năm 1948. Nguyên mẫu đầu tiên zsu-57-2 được xây dựng vào năm 1950, lần thứ hai trong tháng 12 năm 1950. Sau khi thử nghiệm chính thức diễn ra từ ngày 27 tháng 1 và 15 tháng 3 năm 1951, trong đó chiếc xe đã được lái khoảng 1.500 km và bắn 2000 phát, sáu nguyên mẫu được xây dựng để thử nghiệm. Những nguyên mẫu có bao gồm một số cải tiến, chẳng hạn như tăng tải đạn (300 viên đạn), nhưng phát triển ngừng lại do sự vắng mặt của khẩu súng cải tiến S-68A. Trong năm 1952 và 1953, nhiều cập nhật khác nhau được tiếp tục. Các cuộc kiểm tra, trong đó hai chiếc xe tham gia, diễn ra trong tháng 12 năm 1954. Điều này là do sự chậm trễ trong sự phát triển của pháo S-68. ZSU 57-2 chính thức đưa vào phục vụ trong quân đội Liên Xô vào ngày 14 tháng 2 năm 1955.
1
null
BTR-40 (БТР, viết tắt của từ , hay "Bronetransporter", có nghĩa là "xe bọc thép chở quân".) là một loại xe bọc thép trinh sát và chở quân bánh lốp của Liên Xô. Trong biên chế của Liên Xô loại xe này còn có tên gọi khác là "Sorokovka". Đây là loại xe bọc thép chở quân đầu tiên của Liên Xô được sản xuất hàng loạt. Sau này BTR-152 thay thế vai trò của nó trong việc chở quân và BRDM-1 thay thế vai trò xe trinh sát của nó.
1
null
Peter Ware Higgs (phiên âm tiếng Việt: Pi-tơ Oe Hếch), FRS, FRSE, FKC (sinh ngày 29 tháng 5 năm 1929) là một nhà vật lý lý thuyết người Anh và giáo sư danh dự tại Đại học Edinburgh. Ông giành giải Nobel Vật lý năm 2013. Ông được biết đến với đề nghị năm 1960 của ông về việc sự đối xứng trong thuyết điện yếu bị phá vỡ, với đề xuất này, Higgs giải thích nguồn gốc của khối lượng của hạt cơ bản nói chung và của W và Z boson đặc biệt. Điều này được gọi là cơ chế Higgs, đã được đề xuất bởi nhà vật lý bên cạnh Higgs tại cùng một thời điểm, dự đoán sự tồn tại của một hạt mới, các boson Higgs (thường được mô tả là "hạt được săn lùng nhất trong vật lý hiện đại"). CERN công bố vào ngày 04 tháng 7 năm 2012 rằng họ đã thử nghiệm thiết lập sự tồn tại của một boson Higgs như, nhưng công việc tiếp theo cần thiết để phân tích thuộc tính của nó và xem nó có các tính chất dự kiến từ Standard Model Higgs boson. cơ chế Higgs thường được chấp nhận như một thành phần quan trọng trong mô hình chuẩn của vật lý hạt, mà không có các hạt không có khối lượng. Peter Higgs và Francois Englert là hai khoa học đã giành được giải Nobel Vật lý năm 2013 với công trình nghiên cứu lý thuyết về "hạt của Chúa" hay còn gọi là "Hạt Higgs". Higgs đã được vinh danh với một số giải thưởng trong sự công nhận của công việc của mình, bao gồm Huy chương Dirac năm 1997 và giải thưởng cho những đóng góp xuất sắc cho vật lý lý thuyết Viện Vật lý, các năm 1997 năng lượng cao và Vật Lý Hạt giải thưởng của Hội Vật lý châu Âu, năm 2004 giải thưởng Wolf trong Vật lý và giải thưởng Vật lý Hạt lý thuyết JJ Sakurai 2010.
1
null
Khoa luận giáo được coi là một tổ chức tôn giáo có giáo lý và cách hành đạo liên quan đến "thuyết xuyên hồn" của L. Ron Hubbard (1911-1986), thiết lập vào năm 1952. Một trong những thành viên nổi tiếng nhất của giáo phái này là minh tinh màn bạc Tom Cruise. Từ nguyên. Tên gọi "Khoa luận giáo" ("Scientology" do L. Ron Hubbard đặt) được ghép từ chữ Latinh "scio" nghĩa là sự hiểu biết, và chữ Hy Lạp "λόγος lógos" nghĩa là nghiên cứu lý luận vấn đề. Như vậy, nghĩa mặt chữ của Khoa luận giáo là: "tôn giáo hiểu biết và xử lý linh hồn (tinh thần) trong mối liên hệ với chính nó, với vũ trụ và với cuộc sống khác". Giáo thuyết. Có thể nói, thuyết xuyên hồn ("Dianetics") do Hubbard phát triển là giáo lý căn bản của Khoa luận giáo. "Thuyết xuyên hồn" cũng là một từ ghép từ hai chữ Hy Lạp: "dia" nghĩa là xuyên qua, thấu suốt và "nous" nghĩa là linh hồn hoặc tinh thần. Giáo thuyết này cho rằng sẽ giúp con người hiểu được linh hồn chính mình. Đó là một phương pháp giúp con người có thể giảm nhẹ những cảm giác và cảm xúc, nỗi sợ hãi và căng thẳng tâm thần. Theo diễn nghĩa của Khoa luận giáo thì nó sẽ giúp người ta thấu suốt xuyên qua linh hồn. Tình trạng. Ngày nay, Khoa luận giáo chính thức được công nhận là một tôn giáo tại Mỹ, Úc, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thụy Điển và Đài Loan, trong khi những nơi khác không công nhận nó là một tôn giáo rõ ràng. Ví dụ tại Pháp, nó chỉ được coi là một giáo phái chứ không phải là một tôn giáo; còn ở New Zealand hiện chỉ công nhận nó là một tổ chức từ thiện chứ không phải một tôn giáo chính thức. Mỹ đã công nhận tư cách pháp nhân và được miễn thuế như các tôn giáo khác. Trong hơn nửa thế kỷ tồn tại, Khoa luận giáo đã thu hút tới 12 triệu môn đệ (theo số liệu từ giáo phái này), tập trung chủ yếu tại Mỹ, châu Âu, Nam Phi và Úc. Khoa luận giáo tự nhận rằng họ là tôn giáo chân chính và đẩy mạnh việc truyền giáo thông qua các tín đồ tích cực. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông cho rằng Khoa luận giáo là một tổ chức kinh doanh giả mạo tôn giáo nhằm thực hiện các hoạt động phi pháp.
1
null
Chiến dịch tấn công chiến lược Leningrad-Novgorod là tổ hợp các chiến dịch bộ phận do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã. Chiến dịch tấn công Leningrad-Novgorod diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kéo dài từ ngày 14 tháng 1 năm 1944 tới ngày 1 tháng 3 năm 1944. Lực lượng tham chiến của quân đội Liên Xô gồm Phương diện quân Volkhov, Phương diện quân Leningrad và một phần của Phương diện quân Baltic 2, với mục tiêu là hoàn toàn phá bỏ sư uy hiếp của quân Đức đối với thành phố Leningrad. Lực lượng tham chiến của phía Đức là các đơn vị thuộc Cụm Tập đoàn quân Bắc. Chỉ sau 2 tuần tấn công, quân đội Liên Xô đã giành lại quyền kiểm soát tuyến đường sắt Moskva - Leningrad và vào ngày 26 tháng 1 năm 1944, I. V. Stalin tuyên bố rằng vòng vây đối với Leningrad đã hoàn toàn bị phá giải, và quân Đức đã bị quét sạch khỏi tỉnh Leningrad. Vào ngày hôm đó, thành phố Leningard chào mừng việc vòng vây 900 ngày bị phá giải bằng 324 phát đại bác. Chiến dịch phản công Leningrad-Novgorod vẫn tiếp tục cho đến ngày 1 tháng 3, khi Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô (STAVKA) ra lệnh cho Phương diện quân Leningrad chuẩn bị binh lực cho một chiến dịch kế tiếp xảy ra tại sông Narva, trong khi phương diện quân Baltic 2 được yêu cầu phòng ngự bảo vệ những lãnh thổ họ giải phóng được trong cuộc truy kích Tập đoàn quân số 16 (Đức Quốc xã). Theo số liệu của phía Liên Xô, cho đến ngày 30 tháng 1 năm 1944, quân Đức đã chịu thương vong 21.000 người, mất 85 đại bác cỡ nòng từ 15 cm đến 40 cm, và bị đẩy lui 60-100 cây số từ Leningrad đến sông Luga. Bối cảnh. Sau thành công của chiến dịch Tia Lửa, vòng vây của quân Đức đối với Leningrad đã bị đục thủng, tuy nhiên hành lang trên bộ nối liền Leningrad với nội địa Liên Xô quá mỏng và thành phố vẫn còn bị quân thù uy hiếp nặng nề. Vì vậy, từ mùa thu năm 1943, sau đại thắng tại trận Vòng cung Kursk, trong một chuỗi các đòn tấn công chiến lược nhằm quét sạch quân Đức khỏi lãnh thổ Liên Xô không thể thiếu một đòn tấn công quy mô lớn nhằm giải phóng toàn bộ vùng phụ cận của Leningrad, tiếp sau đó là sẽ quét sạch toàn bộ quân Đức khỏi vùng Baltic. Các lực lượng tham gia một chiến dịch như vậy được dự kiến là các phương diện quân Leningrad, Volkhov, Tây Bắc và Tây. Trong đó, các Phương diện quân Volkhov và Leningrad sẽ lãnh nhiệm vụ giải trừ hoàn toàn sự uy hiếp của quân Đức tại Leningrad. Binh lực và kế hoạch. Quân đội Liên Xô. Binh lực. Do các hệ thống phòng thủ của quân Đức được xây dựng và củng cố trong một thời gian dài, quân đội Liên Xô trong chiến dịch này đã tập trung một lượng cực kì lớn binh lực để đảm bảo đục thủng phòng tuyến của quân địch. Hai phương diện quân Volkhov và Leningrad đã có 4 tháng để chuẩn bị và vì vậy đến trước khi chiến dịch mở màn, quân đội Liên Xô đạt được ưu thế rất lớn về quân số và vũ khí, trang bị. Phương diện quân Leningrad đóng dọc trên các tuyến ở sông Neva, vịnh Phần Lan, bờ nam của hồ Ladoga từ Moskovskoy Dubrovki (???) tới Gontovoy Lipki (???) và cả vùng bàn đạp Oranienbaum (Lomnosov) (khi TDQ xung kích số 2 được chuyển giao cho PDQ Leningrad vào mùa thu năm 1943). Binh lực gồm 30 sư đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn xe tăng, 3 đơn vị tăng cường và một lượng đáng kể các lực lượng pháo binh và công binh với quân số 417.600 người. Theo hỗ trợ cho PDQ Leningrad là Hạm đội Baltic với quân số là 89.600 người. Phương diện quân Volkhov ban đầu đóng quân trên tuyến từ Gontovo Lipky đến Lezno, tiếp đó là tuyến sông Volkhov tới hồ Ilmen. Binh lực gồm 22 sư đoàn bộ binh, 6 lữ đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn xe tăng, 14 trung đoàn và tiểu đoàn xe tăng và pháo tự hành, 2 đơn vị tăng cừong và một lượng đáng kể đại bác và súng cối với quân số 260.000 người. Phương diện quân Baltic 2 chống giữ tuyến từ hồ Ilmen tới hồ Neshcherdo. Binh lực tổng cộng gồm 45 sư đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn xe tăng, 1 đơn vị tăng cường và các đơn vị pháo binh, công binh. Tính riêng Tập đoàn quân xung kích số 1 có 54.900 người. Binh lực tổng cộng của phía Liên Xô trong trận này là 1.252.000 người (một số nguồn khác cho con số khoảng 90 vạn người), 1.580 xe tăng và pháo tự hành, 20.183 đại bác và súng cối, 1.386 máy bay (trong đó có 330 máy bay ném bom tầm xa). Ngoài ra, hoạt động ở hậu cứ quân Đức còn có 13 lữ đoàn du kích với tổng quân số 35.000 người có nhiệm vụ mở rộng các căn cứ kháng chiến và nổi dậy của quân chúng, tiêu diệt các chính quyền thân Đức ở địa phương, bảo vệ người dân khỏi bị giết hại hay bị đưa sang Đức, và phá hoại hệ thống liên lạc, hậu cần bằng đường bộ và đường sắt của quân địch. Kế hoạch. Vào đầu tháng 9 năm 1943, các chỉ huy của phương diện quân Volkhov và Leningrad bắt đầu soạn thảo các kế hoạch tấn công quy mô lớn nhằm vào Cụm Tập đoàn quân Bắc, và vấn đề này cũng được đem ra trình bày, thảo luận tại hai cuộc họp tại Đại bản doanh 9 và 14 tháng 9.. Kế hoạch chung là sẽ mở hai chiến dịch tấn công quy mô lớn nhằm đánh sập hai cánh của Tập đoàn quân số 18 (Đức), sau đó là lực lượng chính và tiếp theo là cắt đường lui của quân địch. Quân đội Liên Xô sẽ tấn công theo ba hướng, bắt nguồn từ bàn đạp Oranienbaum vừa mới được giải phóng không lâu trước đó, từ Điểm cao Pulkovo và từ các cứ điểm xung quanh Novgorod. Chiến dịch dự kiến sẽ bắt đầu vào mùa đông khi binh lực đã chuẩn bị đầy đủ và mặt băng đủ dày để pháo binh băng qua. Hai kế hoạch tấn công, Neva I và Neva II, được đề xuất. Kế hoạch Neva I được đưa ra dựa trên giả thuyết rằng, trước sức ép từ các khu vực khác, quân đội Đức tại miền bắc Liên Xô sẽ tự động rút lui khỏi Leningrad và trên đường đi cũng sẽ không quên thực hiện chính sách tiêu thổ, điều mà phía Liên Xô tin rằng rất có khả năng xảy ra. Theo đó, quân đội Liên Xô buộc phải thường xuyên tổ chức do thám, trinh sát động tĩnh của quân địch và khi thấy có dấu hiệu rút quân thì phải lập tức tấn công. Đối với kế hoạch Neva II, quân Đức được dự đoán là sẽ chưa rút binh trong vòng vài tháng tới. Ban đầu, khi tính toán về khả năng quân Đức rút lui về tuyến Panther-Wotan, quân đội Liên Xô dự tính sẽ tổ chức hợp vây toàn bộ Cụm Tập đoàn quân Bắc, cắt đứt lực lượng này khỏi khu vực Đông Phổ, tiến tới giải phóng toàn bộ tỉnh Leningrad và các nước vùng Baltic. Lúc này, phương diện quân Baltic 2 được giao nhiệm vụ tấn công theo hướng Idritsa, còn phương diện quân Kalinin thì tấn công Vitebsk, sau đó phát triển lên hướng Polotsk, Dvinsk và cuối cùng là giải phóng Riga - thủ đô của Latvia. Phương diện quân Tây Bắc sẽ tiến về Pskov còn phương diện quân Volkhov đánh vào Novgorod và sau đó là Luga. Tuy nhiên, các kết quả tại Chiến dịch tấn công Nevel và chiến dịch Gorodok hồi cuối năm 1943 tỏ ra khá khiêm tốn và không đủ để đem lại lợi thế cho một cuộc tiến công chóng vánh và táo bạo như trên. Thấy rõ ý định bao vây toàn bộ cụm Tập đoàn quân Bắc là không thực tế, STAVKA quyết định thu hẹp quy mô chiến dịch về khu vực mặt trận của các phương diện quân Leningrad và Volkhov - hai PDQ có sự chuẩn bị tốt nhất cho đợt tấn công sắp tới. Mục đích của chiến dịch lần này là giải phóng tỉnh Leningrad, phá giải hoàn toàn sự uy hiếp đối với thành phố cùng tên và từ đó giúp quân đội Liên Xô giành được ưu thế quan trọng tại khu vực Baltic. Mục tiêu của các phương diện quân Leningrad, Volkhov không gì khác chính là đánh bại Tập đoàn quân số 18 (Đức) - đối thủ dai sức của họ trong suốt mấy năm qua. Phối hợp với hai phương diện quân trên là phương diện quân Baltic 2, với nhiệm vụ tấn công vào Nevel và phát triển lên Idritsa Novosokolniki nhằm cắt đứt tuyến liên lạc của quân Đức và ghim giữ Tập đoàn quân số 16 (Đức) cùng các lực lượng dự bị của Cụm Tập đoàn quân Bắc. Tiếp đó, cả ba phương diện quân sẽ tiến về phía Narva, Pskov, đánh bại Tập đoàn quân số 16, giải phóng tỉnh Leningrad và tạo tiền đề cho các đợt tấn công kế tiếp ở vùng Baltic. Đồng thời, nếu quá trình tấn công Tập đoàn quân số 16 diễn ra thuận lợi, quân đội Liên Xô vẫn có cơ hội tổ chức bao vây tiêu diệt cụm Tập đoàn quân Bắc như dự kiến ban đầu. Hạm đội Baltic được giao nhiệm vụ đưa Tập đoàn quân xung kích số 2 của I. I. Fedyuninsky băng qua hồ Ladoga tới Oranienbaum. Từ ngày 11 tháng 5 năm 1943, Hạm đội đã vận chuyển 30.000 người, 47 xe tăng, 400 đại bác, 1.400 xe tải và 10.000 tấn quân nhu, đạn dược từ các cầu tàu của các nhà máy tại Leningrad, Kanat và căn cứ hải quân tại Lisy Nos tới Oranienbaum. Sau khi hồ Ladoga đóng băng, thêm 22.000 binh sĩ, 800 xe tải, 140 xe tăng và 380 đại bác đã được vận chuyển qua mặt băng trên hồ tới điểm tập kết. Sau khi việc vận chuyển hoàn tất, pháo binh được triển khai trên toàn bộ chiều dài mặt trận của các phương diện quân Leningrad, Baltic 2 và Volkhov với mật độ 200 đại bác trên một cây số mặt trận, bao gồm 21.600 đại bác, 1.500 dàn tên lửa Cachiusa, và 600 đại bác chống tăng. 1.500 máy bay cũng được hạm đội Baltic chuyên chở và triển khai xung quanh Leningrad. Binh lực tổng cộng của quân đội Liên Xô là 1.241.000 người, chống lại 741.000 lính Đức. Tiếp đó, vào ngày 11 tháng 1 các chỉ huy quân sự Xô Viết họp mặt lần cuối trước trận đánh tại Smolny. Đại tướng L. A. Govorov, tư lệnh phương diện quân Leningrad, liệt kê các mục tiêu của ông. Nhằm mục đích khai thông hai tuyến đường sắt chính, với điểm kết thúc tại ga Moskovsky và ga Ladozhsky, quân đội Liên Xô buộc phải đánh chiếm Gatchina rồi từ đó tấn công thành phố Mga, đầu mối giao thông đường sắt ở ngoại ô Leningrad và là điểm chót của con đường sắt tiến vào Leningrad. Tiếp đó, Govorov triển khai binh lực dựa theo các mục tiêu đã đề ra. Quân đội Đức Quốc xã. Binh lực. Theo các số liệu của Liên Xô, cụm Tập đoàn quân Bắc có 741.000 quân, 385 xe tăng, 10.070 đại bác và súng cối, 370 máy bay. Số liệu của phía Đức vào ngày 14 tháng 10 năm 1943 là 601.000 người, 146 xe tăng, 2.398 đại bác và súng cối. Theo David M. Glantz, quân Đức có 500.000 người, 2.389 đại bác và súng cối, 146 xe tăng, 140 máy bay. Kế hoạch. Từ cuối năm 1943 trở đi, tình hình của Cụm Tập đoàn quân Bắc trở nên xấu đi một cách nghiêm trọng. Sư đoàn Xanh Lam của Tây Ban Nha và ba sư đoàn Đức khác đã bị rút đi từ hồi tháng Mười, trong khi đó Cụm Tập đoàn quân Bắc phải nhận thêm việc phòng thủ 60 dặm mặt trận chuyển từ Cụm Tập đoàn quân Trung tâm. Để thay thế cho các lực lượng bị lấy đi, Cụm TDQ Bắc được bù đắp bằng Binh đoàn Xanh Lam (những gì còn sót lại sau khi Sư đoàn Xanh Lam bị giải thể) cùng với 3 sư đoàn SS. Trong tình trạng bi đát đó, các chỉ huy của Cụm Tập đoàn quân Bắc quyết định thảo một kế hoạch rút quân về hậu tuyến để chiều dài mặt trận giảm đi 25 phần trăm và loại bỏ những chỗ lồi, chỗ lõm nguy hiểm mà quân đội Liên Xô có thể đánh vào. Kế hoạch lui binh này được đặt tên là "Xanh lam" và theo đó, trong tháng 1 năm 1944 thì quân Đức sẽ rút lui 150 dặm về một phòng tuyến tự nhiên được tạo thành bởi sông Narva, sông Velikaya, hồ Chudskoe (còn gọi là hồ Peipus) và Pskov. Vị trí đóng quân này, mang tên "tuyến Panther-Wotan", được chống đỡ bằng những công sự được xây dựng từ hồi tháng 9 năm 1943. Quá trình lui binh sẽ diễn ra theo từng giai đoạn, sử dụng những phòng tuyến tạm thời làm trung gian giữa các giai đoạn - quan trọng nhất trong số này là tuyến Rollbahn được tạo thành bởi tuyến đường sắt Tháng Mười chạy qua Tosno, Lyuban và Chudovo. Tại đây, hai quân đoàn bị hở sườn nhiều nhất là các quân đoàn số 26 và 38 của Đức sẽ được tái tổ chức và nghỉ ngơi trước khi thực hiện giai đoạn cuối của cuộc lui binh tới tuyến Panther-Wotan. Sang đầu năm 1944, Cụm Tập đoàn quân Bắc tiếp tục nhận thêm những tin xấu khi Hitler từ chối mọi lời thỉnh cầu về một cuộc lui quân sớm về tuyến Panther. Ông ta vẫn cố chấp yêu cầu quân Đức phải giữ chân quân đội Liên Xô càng xa nước Đức càng tốt và chống giữ quyết liệt từng thước tấc mặt trận. Thêm vào đó, Hitler lại chuyển 3 sư đoàn tinh nhuệ của Cụm Tập đoàn quân Bắc về cho Cụm Tập đoàn quân Nam của thống chế Erich von Manstein - lúc này đang bị quân đội Liên Xô liên tục dồn đuổi về phía sông Dniepr. Tất cả điều này khiến Cụm Tập đoàn quân Bắc lâm vào tình thế hết sức bấp bênh và luôn đón chờ đợt tấn công mới của Hồng quân với thái độ cực kì bi quan. Diễn biến. Chiến dịch tấn công Leningrad-Novgorod bao gồm các chiến dịch nhỏ sau: Theo các tài liệu Đức, các trận chiến với cụm Tập đoàn quân Bắc kéo dài từ ngày 2 tháng 2 tới ngày 10 tháng 8 năm 1944 được gộp lại trong một "trận đầu cầu Narva" ("") Diễn biến chiến dịch trong tháng 1 năm 1944. Phá vỡ vòng cương tỏa Leningrad, 14-21 tháng 1. Vào cuối ngày 13 tháng 1 năm 1944, các máy bay ném bom tầm xa của hạm đội Baltic bắt đầu oanh tạc các cứ điểm của quân Đức trên phòng tuyến. Sang ngày 14, quân đội Liên Xô từ khu bàn đạp Oranienbaum và từ vị trí của Phương diện quân Volkhov ồ ạt xung phong, đến ngày 15 thì Tập đoàn quân số 42 từ cao điểm Pulkovo cũng tham gia tác chiến. Đại bác Liên Xô cũng thi nhau trút mưa bom bão đạn vào quân địch - 220 nghìn viên đạn đại bác đã rớt xuống đầu lính Đức. Sương mù dày đặc đã hạn chế đà tiến quân trong những ngày đầu tiên, tuy nhiên Tập đoàn quân xung kích số 2 và tập đoàn quân số 42 đã tiến xa 2 dặm trên một mặt trận dài 7 dặm, đánh lui các sư đoàn số 9 và 10 của Lực lượng bộ binh dã chiến thuộc không quân Đức Quốc xã ("Luftwaffen-Feld-Divisionen") trong khi Phương diện quân Volkhov đẩy lui quân Đức 3 dặm. Đến ngày 16, thời tiết trở nên khá hơn và Tập đoàn quân xung kích số 2 đã đột phá được 23 cây số. Vào ngày 19, Tập đoàn quân xung kích số 2 đã giải phóng Ropša và sư đoàn bộ binh cận vệ số 63 (thuộc Tập đoàn quân số 42) đã đuổi quân Đức khỏi Krasnoye Selo. Đến ngày 26 tháng 1, quân Đức bị đẩy lùi xa đến 100 cây số khỏi Leningrad và tuyến đường sắt Moskva - Leningrad đã được quân đội Liên Xô khai thông. Ngày 20 tháng 1 năm 1944, I. V. Stalin tuyên bố Leningrad đã được giải phóng và lúc 8 giờ tối thành phố Leningrad đã chào mừng sự kiện này bằng 324 loạt bắn chào mừng từ các dàn tên lửa Cachiusa cũng như từ các đại bác. Phương diện quân Volkhov tấn công Novogord-Luga. Cùng vào ngày 14 tháng 1, Phương diện quân Volkhov cũng nổ súng tấn công cùng với Phương diện quân Leningrad. Đòn tấn công do Tập đoàn quân số 59 thực thi, với hướng tấn công chính từ các bàn đạp tại sông Volkhov (cách Novgorod 30 cây số về phía Bắc) và hướng tấn công phụ ở phía Nam Novgorod, băng ngang qua hồ Ilmen. Sau vài ngày chiến đấu quyết liệt, đến ngày 17 tháng 1 quân đội Liên Xô đã đục thủng phòng tuyến chính của quân Đức và bắt đầu phát triển tấn công. Vào ngày 20 tháng 1, Novgorod được giải phóng. Số quân Đức không kịp chạy thoát thì bị quân đội Liên Xô bao vây ở phía tây Batetskiy. Vào ngày 16 tháng 1, ở hướng Chudovo-Lyuban, tập đoàn quân số 59 nổ súng tấn công. Cho đến ngày 20 tháng 1, Tập đoàn quân chỉ mới tiến được 5 cây số, tuy nhiên nó đã găm giữ một lực lượng rất lớn quân Đức tại đây và buộc Quân đoàn số 26 (Đức) - trước nguy cơ bị bao vây - phải triệt thoái về khu vực Mga. Đến ngày 22 tháng 1, Phương diện quân Volkhov trình lên Đại bản doanh (STAVKA) kế hoạch phát triển chiến dịch tấn công Novgorod-Luga. Theo kế hoạch, Tập đoàn quân số 59 sẽ tấn công giải phóng Luga, còn tập đoàn quân số 8 và 54 sẽ hợp lực khai thông tuyến đường sắt Tháng Mười. Kế hoạch được Đại bản doanh phê chuẩn và, sau đó STAVKA yêu cầu Phương diện quân Volkhov phải giải phóng Luga không trễ hơn ngày 30 tháng 1, còn hạn chót để giải phóng Lyuban là 24 tháng 1. Để tăng cường hiệu quả tác chiến, Phương diện quân được phép chuyển một phần Tập đoàn quân số 8 sang tập đoàn quân số 54, và, tổng hành dinh được chuyển về cánh trái của PDQ tại khu vực hồ Ilmen. Đà tiến quân nhanh về hướng Luga tạo cơ hội cho quân đội Liên Xô tổ chức bao vây một khối lớn quân Đức thuộc Tập đoàn quân số 18, lúc này đang triệt thoái về hướng Chudovo, Lyuban, Tosno. Vì lý do này, ngay sau khi giải phóng Novgorod, tập đoàn quân số 59 nhanh chóng tiến về hướng đường sắt Novgorod - Luga, xuyên qua nhà ga Batetskiy và các tuyến đường phụ ở Luga (về bên phải) và Shimsk (về bên trái). Trước tình hình diễn biến nghiêm trọng, quân Đức vội vã điều quân đến tăng viện cho Luga và đã chận được bước tiến của Tập đoàn quân số 59, không cho quân đội Liên Xô giải phóng Luga trong tháng 1 như dự kiến. Ở cánh trái (từ ngày 25 tháng 1 nằm dưới sự chỉ huy của tổng hành dinh của Tập đoàn quân số 8), diễn biến chiến dịch có chiều hướng thuận lợi hơn cho phía Liên Xô: sau vài ngày chiến đấu ác liệt, quân đột Liên Xô tiến khá xa về phía Tây và Tây Nam, cắt đứt tuyến đường sắt Leningrad-Dno, tiến tới ga Peredolskaya và tuyến đường và tuyến đường bộ Luga - Shimsk ở gần làng Medvedy, quét sạch quân Đức khỏi bờ Bắc hồ Ilmen và tiến về ngoại vi của Shimsk. Cùng lúc đó, chiến sự nổ ra dữ dội tại tuyến đường sắt Tháng Mười. Quân đội Liên Xô đặt dưới sự chỉ huy của tổng hành dinh của Tập đoàn quân số 54 đã giải phóng Tosno, Lyuban, Chudovo trong ngày 29 tháng 1 và hoàn toàn kiểm soát tuyến đường sắt chiến lược này. Hoạt động của Phương diện quân Baltic 2, tháng 1 năm 1943. Hai ngày trước khi chiến dịch Leningrad chính thức mở màn, Phương diện quân Baltic 2 đã nổ súng tấn công các cứ điểm của Tập đoàn quân số 16 (Đức). Trong đợt tấn công đó, Tập đoàn quân xung kích số 3 nhận nhiệm vụ đục thủng phòng tuyến địch quân trong khu vực và phát triển tấn công lên Pustoshka, Opochka; còn Tập đoàn quân số 22 tấn công Novosokolniki từ phía Bắc và sau đó tiến đến tiếp cận tuyến Nasva-Mayev (Nasva). Ở cánh trái, tập đoàn quân cận vệ số 10 chuyển từ Phương diện quân Tây Bắc sang có nhiệm vụ tấn công vào khúc cong của hồ Neshcherdo, tiến theo hướng Zilupe, vòng qua Idritsa ở phía Tây và Tây Nam. Quá trình tác chiến của Phương diện quân Baltic 2 diễn ra không được thuận lợi. Nguyên do là họ vừa mới tổ chức một số trận đánh vào cuối năm 1943 và không có thời gian chuẩn bị đầy đủ cho chiến sự vào đầu năm 1944. Đồng thời, địa hình tác chiến rất phức tạp vời nhiều vùng rừng và đầm lầy, và bản thân Phương diện quân không nắm trong tay đầy đủ thông tin về tình hình mặt trận cũng như hệ thống phòng thủ của quân Đức tại đây. Thêm vào đó, Tập đoàn quân cận vệ số 10 tới đầu chiến dịch vẫn trong quá trình hành quân tới điểm tập kết và chỉ được tung vào mặt trận từng phần một chứ không thể tung toàn bộ lực lượng. Tất cả điều này khiến kết quả đạt được của các đợt tấn công rất hạn chế. Cho đến ngày 16 tháng 1, Tập đoàn quân cận vệ số 10 với 9 sư đoàn bộ binh và nhiều đơn vị xe tăng, pháo binh chỉ có thể đột phá được 5-10 cây số. Lực lượng quân Đức tại đây (bao gồm 1 lữ đoàn của sư đoàn bộ binh số 132, 2 tiểu đoàn độc lập và 6 khẩu đội pháo) dù quân số ít đã chống cự rất quyết liệt và gây nhiều khó khăn cho quân đội Liên Xô. Tướng M. I. Kazakov, một trong những chỉ huy của Tập đoàn quân Cận vệ số 10, đã kể lại như sau: Đợt tấn công của Tập đoàn quân xung kích số 3 tại Pustoshka và của Tập đoàn quân số 22, Tập đoàn quân cận vệ số 6 tại Novosokolniki cũng gặp nhiều khó khăn. Thành quả đáng kể nhất là việc Tập đoàn quân số 22 đánh chiếm được ga Nasva sau khi sư đoàn bộ binh số 331 (Đức) triệt thoái khỏi đây vào ngày 14 tháng 1. Dựa trên thành quả đó, đến ngày 18 tháng 1 Tập đoàn quân phát triển tấn công và đến ngày 18 tháng 1 đã đánh chiếm được một đoạn 10 cây số của tuyến đường sắt Novosokolniki - Dno, tuyến liên lạc chủ yếu của Tập đoàn quân số 16 (Đức). Ngày 16 tháng 1, Đại bản doanh gọi cho tư lệnh Phương diện quân là tướng M. M. Popov và bày tỏ sự không hài lòng đối với diễn biến chiến dịch, đặc biệt là quá trình tác chiến của Tập đoàn quân cận vệ số 10. Không lâu sau đó, tư lệnh của Tập đoàn quân, trung tướng A. V. Sukhomlin bị cách chứng vào ngày 21 tháng 10. Người thay thế ông là trung tướng M. I. Kazakov. Trong bản báo cáo gửi về Đại bản doanh, tướng M. M. Popov đã lý giải về những khó khăn của Tập đoàn quân cận vệ số 10 như sau: Trước tình hình Tập đoàn quân cận vệ số 10 gặp khó khăn, M. M. Popov đã đề nghị dừng hướng tấn công này lại và tập trung toàn lực cho hướng Nasva - Novorzhev để có thể nhanh chóng tiếp cận và phối hợp với Phương diện quân Volkhov ở phía Bắc. STAVKA đồng ý và cho Phương diện quân Baltic 2 một tuần để tái tổ chức lại lực lượng. Kết quả. Cho đến cuối tháng 1, Phương diện quân Leningrad và Volkhov đã đẩy lui quân Đức ra xa khỏi Leningrad từ 70-100 cây số, phá giải hoàn toàn sự uy hiếp đối với thành phố và thiết lập một đường liên lạc trên bộ an toàn giữa Leningrad với nội địa Liên Xô. Cho dù không tiến nhanh như mong đợi, những thành quả mà quân đội Liên Xô đạt được đã tạo tiền đề thuận lợi cho chiến thắng của những chiến dịch về sau. Đợt tấn công của Phương diện quân Baltic 2 tuy thu được kết quả rất hạn chế nhưng nó đã giam chân một khối quân rất lớn của Tập đoàn quân số 16 (Đức), đóng góp đáng kể cho sự thành công của các chiến dịch tại Leningrad và Novgorod. Về phía Đức, tuy tập đoàn quân số 18 đã bị giáng cho những thiệt hại nặng nề, nhưng đã thành công trong việc tránh bị bao vây, bảo toàn được phần lớn sinh lực chiến đấu và rút lui về các tuyến sau. Tuy nhiên, tình thế của quân Đức vẫn không thể nói là an toàn. Việc mất Krasnogvardeisk vào tay quân đội Liên Xô khiến trận tuyến của quân Đức bị xé ra thành hai mảnh, với mảnh chủ lực (bao gồm 14 sư đoàn) rút về phía Tây, Tây Bắc và phía Bắc của Luga, còn mảnh phía Tây (5-6 sư đoàn) thì cũng bị cắt thành nhiều cụm chiến đấu đang lũ lượt rút về phía Tây của Narva. Chính vì vậy, việc chống giữ Luga trở thành ưu tiên hàng đầu của quân Đức và nơi này được tăng cường thêm rất nhiều binh lực, với tổng binh lực gồm sư đoàn thiết giáp số 12, 4 sư đoàn bộ binh, 6 cụm tác chiến bộ binh cấp sư đoàn và những gì còn sót lại của 6 sư đoàn và lữ đoàn khác. Điều này khiến cho quân Đức có thể tạm thời ngăn được bước tiến của phương diện quân Volkhov. Tuy nhiên, hiểu rõ rằng không thể nào đứng chân được lâu dài, vào ngày 30 tháng 1 tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Bắc là Thống chế Geogr von Küchler đã trực tiếp gặp Hitler và thỉnh cầu được rút về tuyến Panther-Wotan. Một lẫn nữa ông ta lại bị từ chối. Adolf Hitler cho rằng cần phải giữ chặt tuyến Luga và tiếp tục ổn định mặt trận tại đây. Do bất tuân thượng lệnh, Küchler bị cách chức. Người thay thế ông chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Bắc là Thượng tướng Walter Model. Diễn biến chiến dịch, 1-15 tháng 2 năm 1944. Giải phóng Luga. Đến đầu tháng 2 năm 1944, hai phương diện quân Leningrad và Volkhov tiếp tục phối hợp tấn công. Các tập đoàn quân số 42 và tập đoàn quân xung kích số 2 của Phương diện quân Leningrad sẽ tấn công mạnh theo hướng Narva, còn tập đoàn quân số 67 sẽ tiến về Luga từ phía Bắc và Tây Bắc. Nhiệm vụ của Phương diện quân Volkhov vẫn là nhanh chóng "giải quyết" Luga, với Tập đoàn quân số 59 và số 8 đánh từ hướng Đông, và Tập đoàn quân số 54 đánh từ hướng Đông Bắc. Từ ngày 2 tháng 2, Phương diện quân Volkhov nhận thêm Tập đoàn quân xung kích số 1 từ Phương diện quân Baltic 2. Chỉ huy của phương diện quân Leningrad, L. A. Govorov tin rằng hướng tấn công chính sẽ tập trung vào khu vực Narva, aтак как это позволит разу же приступить к освобождению Эстонии. Tuy nhiên, chiến sự ác liệt tại Luga buộc Phương diện quân phải chuyển trọng tâm về phía Tập đoàn quân số 2, hiện đang tiến về hướng Gdov - Pskov, Luga ở phía Tây và cắt đường liên lạc của đối phương. Đợt tấn công của Tập đoàn quân số 42 tiếp tục phát triển thuận lợi và không gặp kháng cự nào đáng kể. Các thành phố Lyady, Sara-Goru, Gdov lần lượt được giải phóng và đến ngày 2 tháng 4 quân đội Liên Xô đã tiếp cận bờ hồ Chudskoe. Từ vị trí này, Tập đoàn quân só 42 dự tính sẽ mở một đòn đánh bọc vòng, giải phóng Plyussa, Strugi Krasnye, cắt đứt tuyến đường bộ Luga - Pskov và hội quân với Tập đoàn quân số 67 để hợp vây Luga. Sự thành công của Tập đoàn quân số 42 ở phía Tây Luga khiến Tập đoàn quân số 18 (Đức) một lần nữa đứng trước nguy cơ bị bao vây, vì vậy tướng Walter Model đã hạ lệnh cho Tập đoàn quân số 18 bằng mọi giá phải lấy lại tuyến liên lạc giữa Luga và Pskov. Để giải cứu cho Luga, Model đã buộc phải đem ra dùng hết những lực lượng dự bị sẵn có - kể cả những đơn vị dự bị của Tập đoàn quân số 16. Đòn phản công của quân Đức đã không đạt được mục tiêu đề ra, nhưng sự kháng cự quyết liệt của họ đã phần nào làm chậm bước tiến Tập đoàn quân số 42 và cố chống giữ được tuyến liên lạc Luga - Pskov. Cùng lúc đó, Tập đoàn quân số 67 (của Phương diện quân Leningrad) và các tập đoàn quân số 54, 59, 8 (của Phương diện quân Volkhov) tiếp tục tiến mạnh về Luga. Đồng thời, Tập đoàn quân xung kích số 1 - vốn được giao nhiệm vụ đột phá phòng tuyến quân Đức ở phía Nam Staraya Russa - đã hợp lực với Tập đoàn quân số 8 và cùng tiến hành bao vây một phần của Tập đoàn quân số 16 (Đức) tại phía Tây nam hồ Ilmen. Diễn biến chiến sự ở Luga vẫn tiếp tục ác liệt do quân Đức đã bố trí hệ thống phòng thủ vững chắc và liên tục phản kích. Tuy nhiên, cho dù đà tiến quân của quân đội Liên Xô bị chậm lại, tình thế của Tập đoàn quân số 18 (Đức) vẫn hết sức nguy hiểm. Không còn cách nào khác, Model phải cho quân Đức bỏ Luga rút về Pskov. Đến ngày 12 tháng 2, các tập đoàn quân số 67 và 59 đã giải phóng Luga. Sau khi nhiệm vụ Luga hoàn thành, ngày 13 tháng 1 năm 1944 Đại bản doanh ra Chỉ thị số 220023 có nội dung yêu cầu giải tán Phương diện quân Volkhov. Các Tập đoàn quân số 54, 59 và 8 của nó được chuyển giao cho Phương diện quân Leningrad. Tập đoàn quân xung kích số 1 được trả về cho Phương diện quân Baltic 2. Bộ chỉ huy Phương diện quân được chuyển về lực lượng dự bị của Đại bản doanh. Tập đoàn quân xung kích số 2 tại khu vực Narva. Vào đêm 1 tháng 2 năm 1944, trung đoàn bộ binh số 109 (được chuyển từ Tập đoàn quân số 42 sang tập đoàn quân xung kích số 2), được yểm hộ bởi lữ đoàn xe tăng số 152, đã nổ súng tiến công sau một loạt phát bắn chuẩn bị. Sau một đợt di chuyển tránh né khéo léo, quân đội Liên Xô đã công kích và diệt gọn quân Đức ở Kingisepp. Mặc dù quân Đức không thể tổ chức phòng ngự ở sông Luga, hoạt động kháng cự một đội quân cản hậu Đức đã làm chậm bước tiến của quân đội Liên Xô và giúp cho chủ lực của quân đoàn số 54 và sư đoàn thiết giáp SS sổ 3 của Đức rút lui an toàn về tuyến phòng ngự vững chắc ở bồ Tây sông Narva. Quân đội Liên Xô tiếp tục truy kích và đến ngày 3 tháng 2, hai quân đoàn của Tập đoàn quân xung kích số 2 đã tiếp cận sông Narva. Quân đoàn bộ binh số 43 đã bắt đầu vượt sông ở phía Bắc thành phố cùng tên và thiết lập được hai đầu cầu ở bờ bên kia sông; trong khi đó quân đoàn bộ binh số 122 cũng vượt sông ở phía Nam thành phố này và cũng thiết lập được hai đầu cầu. Tiếp đó, quân đội Liên Xô đã đánh tan các cuộc phản kích của quân Đức và cũng cố vững chắc khu bàn đạp Narva. Tuy nhiên, quân Đức đã điều sư đoàn thiết giáp lựu đạn "Felderrnhalle" từ Cụm Tập đoàn quân Trung tâm đến để tăng viện và một trung đoàn của sư đoàn bộ binh số 58 (Đức) vẫn tiếp tục chiếm giữ đầu cầu ở bờ Đông sông Narva trong vùng phụ cận của thành phố Ivangorod. Vào ngày 11 tháng 2, Tập đoàn quân xung kích số 2 mở một đợt tấn công quy mô lớn nhằm mở rộng các đầu cầu ở bờ Đông sông Narva, tiến tới các tuyến Iyhvi (Johvi) - Atsalama - Kaups (Kauksi) và sau đó là tới Rakvere. Lực lượng thực hiện tấn công là Quân đoàn bộ binh cận vệ số 30 được tăng cường. Các lữ đoàn bộ binh hải quân của Hạm đội Baltic sẽ có nhiệm vụ trợ công ở phía Tây Bắc Narva. Về phía Đức, do Narva được xem là "cánh cửa dẫn đến nước Đức" nên Bộ Tư lệnh tối cao quân đội Đức Quốc xã đặc biệt chú ý đến mặt trận này. Cụm tác chiến "Schfonhaimer" (đặt tên theo chỉ huy của quân đoàn số 54 (Đức) là Otto Schfonhaimer) được giao nhiệm vụ bảo vệ tuyến sông Narva - cho đến người cuối cùng. Sau nhiều ngày chiến đấu ác liệt, quân đội Liên Xô vẫn tiến rất chậm và chỉ gặt hái được những thành quả ở quy mô nhỏ. Một phần của quân đoàn bộ binh số 43 - đánh theo hướng Tây Bắc Narva - chỉ đột phá được 2 cây số trên một chính diện mặt trận 4 cây số. Một đợt tấn công tiếp theo bị sư đoàn bộ binh số 227 và một lữ đoàn của lực lượng SS "Hà Lan" chặn đứng. Ở phía Tây Nam thành phố, các quân đoàn bộ binh số 109 và 122 tiến được 12 cây số nhưng cuối cùng cũng phải dừng lại trước sự kháng cự của các sư đoàn bộ binh số 17, sư đoàn thiết giáp ném lựu "Feldernhalle" và sư đoàn SS "Norland" của quân Đức. Quân đoàn bộ binh cận vệ số 30 thì thành công hơn, vào ngày 17 tháng 2 họ đã cắt đứt tuyến đường sắt và đường bộ Narva - Jõhvi và bắt đầu công kích Auvere. Tuy nhiên sự kháng cự quyết liệt cùng với nhiều đợt phản kích của phía Đức cũng buộc quân đội Liên Xô phải dừng bước. Một đợt tiến công đổ bộ ở phía Bắc cũng thất bại: chỉ có 432 binh sĩ Liên Xô tiếp cận được bờ bên kia sông và phần lớn trong số họ đều bị quân Đức bao vây tiêu diệt. Đại bản doanh tỏ ra đặc biệt không hài lòng với tình hình chiến sự ở Narva. Vào ngày 14 tháng 2, STAVKA ra chỉ thị số 220025 yêu cầu Phương diện quân Leningard phải hạ gục được Narva không muộn hơn ngày 17 vì "tình thế yêu cầu các biện pháp chính trị lẫn quân sự". Nhận được quân đoàn bộ binh số 124 từ Phương diện quân dự bị, Tập đoàn quân xung kích số 2 đã tổ chức lại lực lượng và tiếp tục phát động một cuộc tấn công mới. Chiến sự lại bùng nổ ác liệt cho đến tận cuối tháng 2 nhưng quân đội Liên Xô chỉ có thể mở rộng bàn đạp vượt sông Narva ở phía nam lên 35 cây số chiều rộng, 15 cây số chiều sâu và không thể đục thủng hoàn toàn tuyến phòng ngự của quân Đức để tiến lên giành lấy một thắng lợi quyết định. Cụm Tác chiến Schfonhaimer (đến ngày 23 tháng 2 là cụm tác chiến Narva do Johann Friessner chỉ huy) đã chận đứng các cuộc tấn công của quân đội Liên Xô. Đến cuối tháng 2, được sự đồng ý của Đại bản doanh, Tập đoàn quân xung kích số 2 đã chuyển hướng tấn công từ Narva sang hướng của các Tập đoàn quân số 8 và số 59. Chỉ thị số 220035 ngày 22 tháng 2 của Đại bản doanh đã yêu cầu 9 quân đoàn bộ binh Liên Xô mở một đợt tấn công nhằm phá vỡ phòng tuyến của quân Đức ở Narva và, một tập đoàn quân phát triển tấn công lên Pärnu còn 2 tập đoàn quân tấn công theo hướng Viljandi - Valga - Tartu - Vyra (???). Phương diện quân Baltic 2, 1-15 tháng 2. Vào cuối tháng 1 năm 1942, 3 tập đoàn quân của Phương diện quân Baltic 2 nhận được lệnh tấn công và đánh tan quân Đức tại khu vực Novosokolniki, sau đó tiếp tục phát triển đến phía Đông của hồ Uscho tại tuyến - Ale (???) - Bolshoy Vyaz. Nếu thành công, quân đội Liên Xô sẽ tấn công Pustoshka, Idritsa và nắm được một cơ hội phát triển lên Opochka. Đòn tấn công chính do Tập đoàn quân Cận vệ số 10 thực thi tại khu Shisherino (???) - Antonovo (???), phía Nam tuyến đường bộ Novosokolniki - Mayev (???). Ở cánh phải, tập đoàn quân cận vệ số 6 sẽ đánh theo hướng Mayev; còn ở cánh trái thì Tập đoàn quân số 22 sẽ tiến quân đến phía Nam Nasva để tìm cách hội quân với Tập đoàn quân cận vệ số 10. Quân đội Liên Xô tại khu vực này đã chuẩn bị được ưu thế tuyệt đối về binh lực và trang bị so vối quân đội Đức Quốc xã. Ví dụ, tập đoàn quân cận vệ số 10 đã chuẩn bị được 14 sư đoàn bộ binh cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, trong đó các sư đoàn bộ binh số 23 và 83 của phía Đức chỉ bao hàm vài tiểu đoàn. Tuy nhiên, các phòng tuyến của quân Đức được xây dựng rất vững chắc, dựa trên những hệ thống trung tâm phòng ngự được tổ chức tốt, tọa lạc trên các điểm cao và tại các khu dân cư. Sáng ngày 31 tháng 1, sau loạt bắn chuẩn bị, 3 quân đoàn của Tập đoàn quân cận vệ số 10 đồng loạt nổ súng tiến công trên một địa đoạn dài 7,5 cây số của mặt trận. Trong ngày đầu tiên, cả ba quân đoàn đã đục thủng tuyến phòng ngự của quân địch và riêng quân đoàn bộ binh cận vệ số 15 đã đột phá được 6 cây số, tiếp cận tuyến đường bộ Novosokolniki - Mayev. Tuy nhiên, sau đó đợt tấn công của Tập đoàn quân cận vệ số 10 bị chậm lại do Tập đoàn quân cận vệ số 6 ở bên sườn phải không tạo được đột phá đáng kể trong trận tuyến. Mãi đến ngày 7 tháng 2, khi quân đoàn bộ binh cận vệ số 15 tung thê đội thứ hai vào cuộc chiến thì việc tác chiến mới trở nên thuận lợi hơn và họ đã hội quân với Tập đoàn quân số 22 tại khu vực nông trang Minkin. Trước nguy cơ bị bao vây, quân Đức phải vội vã triệt thoái khỏi "chỗ lồi" Novosokolniki. Lúc này, Tư lệnh Tập đoàn quân cận vệ số 10, tướng M. I. Kazakov, đã nhận xét rằng, quân Đức đã kịp thời rút về phía sau, nhận được thêm binh lực tăng viện và chiếm giữ các vị trí phòng ngự mới. Vì vậy việc tiếp tục tiến quân theo kế hoạch ban đầu là không thể thực hiện được. Tuy nhiên, tướng M. M. Popov, tư lệnh Phương diện quân Baltic 2 yêu cầu phải tiếp tục tấn công. Ngày 11 tháng 2, Tập đoàn quân cận vệ số 10 chuyển chủ lực sang hướng Shetkovo (???) và tiếp tục đánh mạnh lên hướng Tây Bắc. Struga (strugi), Veshnyaya (???), Ivanovo và một số điểm dân cư khác lần lượt được giải phóng; tuy nhiên quân đội Liên Xô không thể tiếp tục phát triển tiến công . Như vậy, trong nửa đầu tháng 2, Phương diện quân Baltic 2 đã đột phá được 15-20 cây số và tiếp cận tuyến Nasva - Mayev. Diễn biến chiến dịch, 16 tháng 2 - 1 tháng 3 năm 1944. Phương diện quân Leningrad tấn công Pskov và Ostrov. Sau khi để mất Luga, Tập đoàn quân số 18 (Đức) triệt thoái về Pskov. Điều này đã tạo một khoảng hở ở cạnh sườn và sau lưng của Tập đoàn quân số 16 (Đức). Điều này buộc Walter Model phải hạ lệnh tổ chức một cuộc tổng rút quân đồng loạt về tuyến Panther-Wotan. Nhằm kìm chân quân đội Liên Xô, bảo vệ cho chủ lực quân Đức rút lui an toàn, quân đội Đức phải cố chống giữ tuyến hồ Pskov - Strugi Krasnye - Shimsk cho đến khi Tập đoàn quân số 16 rút lui an toàn về Ostrov và Pskov. Nhiệm vụ trấn giữ khoảng hở giữa 2 tập đoàn quân Đức được giao cho cụm tác chiến Friessner. Lúc này, mối đe dọa lớn nhất đối với số quân Đức đang rút lui đó chính là quân đoàn bộ binh số 123 - lúc này đang tiến mạnh về Pskov - và quân đoàn bộ binh số 116 - lúc này đang tiến về Plyussa và Strugi Krasnye - của Tập đoàn quân số 42. Cùng lúc đó, quân đoàn số 108 đang đóng chốt ở bờ Đông của hồ Pskov để bảo vệ sườn phải của Tập đoàn quân số 42. Tuy nhiên, việc tiến quân theo nhiều hướng trên một mặt trận rộng đã khiến binh lực của Tập đoàn quân số 42 bị phân tán, điều này khiến các sư đoàn bộ binh số 126, sư đoàn thiết giáp số 12 và sư đoàn không quân số 9 của Đức có thể cầm chân được quân đội Liên Xô tại tuyến sông Lochkina - Lyubotezh - Gridino. Thêm vào đó, ngày 16 tháng 2 sư đoàn bộ binh số 11 và cụm tác chiến "Kroher" đã thành công trong việc đánh bật các sư đoàn bộ binh số 129, 90 và 5-ю лыжную бригаду khỏi các bàn đạp ở phía bờ Tây hồ Chudskoe. Trước tình thế đó, quân đoàn bộ binh số 116, hiện đang cách xa chủ lực của Tập đoàn quân số 42 tới 40 cây số, được chuyển giao cho Tập đoàn quân số 67 vốn đang tấn công tuyến đường sắt Luga - Pskov. Đà tiến quân của tập đoàn quân số 67 tuy chậm nhưng dần dần đã dập tắt sức kháng cự của các sư đoàn bộ binh số 24, 12 và sư đoàn không quân số 13 của quân đoàn số 28 (Đức). Vào ngày 18 tháng 2, sư đoàn bộ binh số 46 cùng với các lữ đoàn du kích số 9 và số 6 - sau nhiều ngày chiến đấu quyết liệt - đã giải phóng Plyussa, và đến ngày 23 tháng 2, tập đoàn quân số 67 cùng với các lữ đoàn du kích số 6 và 11 đã giải phóng huyện trung tâm Strugi Krasnye. Ngày 22 tháng 2, Đại bản doanh ra chỉ thị số 220035, yêu cầu 3 tập đoàn quân của Phương diện quân Leningrad tại cánh trái tổ chức vượt sông, đánh chiếm Velikaya (???), Ostrov, sau đó phát triển lên Riga. Việc để mất Strugi Krasnye khiến phòng tuyến trung gian cuối cùng phía trước tuyến Panther-Wotan của Tập đoàn quân số 18 (Đức) bị phá vỡ. Quân Đức lúc này buộc phải đẩy nhanh quá trình rút chạy về Pskov và Ostrov. Trong khi đó, Tập đoàn quân số 67 tiếp tục đẩy mạnh tốc độ tiến công, đến cuối tháng 2 đã đột phá sâu 90 cây số, vượt sông Chyornaya, cắt đứt tuyến đường sắt Pskov - Opochka và tiến về gờ Đông Bắc và gờ Đông của phòng tuyến Đức tại Pskov-Ostrov. Cùng lúc đó, Tập đoàn quân số 42 trên đường truy kích quân thù đã giải phóng Seredka vào ngày 24 tháng 2 và đến ngày 29 đã tiến tới khu vực phòng thủ của tuyến Pskov-Ostrov. Chiến sự tại khu vực tiếp giáp của Tập đoàn quân số 16 và số 18 (Đức) ở phía Tây hồ Ilmen đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Tại đây là khu vực tham chiến của các tập đoàn quân số 8 và 54 (Liên Xô). Tập đoàn quân số 54 nhận nhiệm vụ tiến đến tuyến Utorgosh - Soltsy - Shimsk không muộn hơn ngày 19 tháng 2, còn Tập đoàn quân số 8 phải cắt đứt tuyến đường bộ Medved - Nikolayev (???). Mục tiêu chung của 2 tập đoàn quân là phải nhanh chóng hội quân với Phương diện quân Baltic 2 và ngăn chặn sự rút lui có tổ chức của Tập đoàn quân số 16. Cụm tác chiến "Friessner" - đơn vị được giao nhiệm vụ trám lỗ hổng giữa 2 tập đoàn quân Đức và bảo vệ đường rút lui cho Tập đoàn quân số 16 (Đức) - đã tổ chức kháng cự quyết liệt. Sư đoàn bộ binh nhẹ số 28 (Đức) đã kháng cự suốt 5 ngày nhằm cản chân Tập đoàn quân số 8 tại hướng Bolshoy Utorgosh (???) - Nikolayev; còn quân đoàn số 10 (Đức) đã kháng cự 3 ngày để cản đường Tập đoàn quân số 54 đang tiến về sông Shelon và sông Mshaga. Phải mất nhiều ngày quân đội Liên Xô mới đuổi được quân Đức về phía Tây. Trong quá trình truy kích quân thù, ngày 24 tháng 2 tập đoàn quân số 54 đã hội quân với Tập đoàn quân xung kích số 1 của phương diện quân Baltic 2, và, sau 2 ngày chiến đấu ác liệt đã giải phóng Dno và Porkhov. 3 ngày tiếp đó, quân độu Liên Xô tiếp tục đột phá 65 cây số và tiếp cận phần phía Đông của tuyến Pskov - Ostrov. Vào ngày 24 tháng 2, Tập đoàn quân số 8 được chuyển sang lực lượng dự bị, chờ ngày điều sang hướng tấn công ở Narva. Phương diện quân Baltic 2, 16 tháng 2 - 1 tháng 3. Đến giữa tháng 2, tình hình chiến cục chuyển sang chiều hướng có lợi cho phương diện quân Baltic 2. Việc giải phóng Luga cùng với các đợt tấn công của phương diện quân Leningrad đã khiến Tập đoàn quân số 16 (Đức) bị hở cạnh sườn và sau lưng. Trước tình hình đó, Đại bản doanh đã yêu cầu các phương diện quân Baltic 1 và 2 mở các cuộc tấn công quy mô lớn vào khu tiếp giáp giữa các Cụm Tập đoàn quân Bắc và Trung tâm. Riêng phương diện quân Baltic 2 sẽ tấn công vào hướng Opochka - Zilupye, sau đó phát triển lên Karsava và hội quân với cánh trái của phương diện quân Leningrad. Theo kế hoạch, đòn tấn công chính do Tập đoàn quân cận vệ số 10 thực thi, còn các tập đoàn quân số 22 và tập đoàn quân xung kích số 1 sẽ găm giữ quân địch trên những hướng thứ yếu. Tuy nhiên, việc quân Đức tổ chức rút lui đã buộc quân đội Liên Xô tấn công sớm. Vào ngày 18 tháng 2, sau khi phát hiện thấy sự trì hoãn trong việc lui binh của quân địch, Tập đoàn quân xung kích số 1 liền mở một đợt tấn công gần Staraya Russa. Đến ngày hôm sau, tập đoàn quân số 22 cũng nổ súng tấn công tại khu ngoại vi của Kholm. Lực lượng còn lại của phương diện quân Baltic 2 thì sẽ phát động tấn công muộn hơn do chưa tập hợp đầy đủ binh lực. Trên đường truy kích quân địch, tập đoàn quân xung kích số 1 đã giải phóng Staraya Russa, hội quân với phương diện quân Leningrad. Đến ngày 24 tháng 2 họ lại tiếp tục giải phóng Dno và ngày 29 tháng 2 là Novorzhyev. Cùng lúc đó, Tập đoàn quân số 22 giải phóng Kholm vào ngày 21 và Dedovichi vào ngày 25. Sang ngày 26, Tập đoàn quân cận vệ số 10 và Tập đoàn quân xung kích số 3 tham chiến, đột phá sâu 18 cây số, giải phóng Pustoshka. Tuy nhiên sau đó quân đội Liên Xô phải dừng lại. Như vậy, đến đầu tháng 3, phương diện quân Baltic 2 đã tiến sát đến tuyến Panther-Wotan. Trong nửa sau tháng 2, Tập đoàn quân xung kích sốt 1 đã đột phá được 180 cây số từ sông Velikaya đến Staraya Russa, tập đoàn quân số 22 tiến 125 cây số từ Kholm đến Novorzhyev, còn tập đoàn quân cận vệ số 10 và tập đoàn quân xung kích số 3 tiến 30 cây số từ Mayev đến Pustoshka. Tuy nhiên, Tập đoàn quân số 16 của Đức vẫn có thể rút lui và bảo toàn được binh lực, thiết lập được một phòng tuyến mới vững chắc tại tuyến Ostrov - Pushkinskiye Gory - Idritsa và chặn đứng đà tiến quân của quân đội Liên Xô. Kết quả. Đến đầu tháng 3 năm 1944, các phương diện quân Leningrad và Baltic 2 đã tiến sát đến tuyến Narva - hồ Chudsko - Pskov - Ostrov - Idritsa. Tuy nhiên, tập hợp tất cả phần binh lực còn lại, Cụm Tập đoàn quân Bắc đã có thể thiết lập một tuyến phòng ngự vững chắc tại vị trí phía Bắc của tuyến Panther-Wotan và ngăn không cho quân đội Liên Xô tiếp tục tiến vào các nước vùng Baltic. Ngày 1 tháng 3 năm 1944 được xem là mốc kết thúc của chiến dịch tấn công chiến lược Leningrad-Novgorod và quân đội Liên Xô đã khẳng định rằng ngày đó Đại bản doanh đã hạ lệnh các phương diện quân chuyển sang phòng ngự để chuẩn bị cho cac đợt tấn công tiếp theo. Tuy nhiên, trên thực tế mọi chuyện không đơn giản như vậy. Quân đội Liên Xô - gần như không có thời gian tạm dừng giữa chiến dịch - đã tiếp tục mở đợt tấn công mới nhằm phá vỡ luôn tuyến Panther-Wotan. Đến lúc này, sau gần 2 tháng tấn công liên tục, quân đội Liên Xô đã tiêu hao nhiều và cần được bổ sung gấp rút binh lực. Nhiều sư đoàn bộ binh của phương diện quân Leningrad chỉ còn 2500-3000 người. Tuy nhiên, các chỉ huy Xô Viết - không có trong tay các thông tin đầy đủ về hệ thống bố phòng của quân Đức ở tuyến Panther-Wotan - đã quyết định tiếp tục đánh mạnh vào phòng tuyến này nhằm mở đường tiến vào các nước vùng Baltic. Tham mưu trưởng của phương diện quân Baltic 2 L. M. Sandalov đã kể lại như sau: Kết quả. Chiến dịch tấn công Leningrad-Novgord đã giáng một đòn nặng vào Cụm Tập đoàn quân Bắc, đẩy lui quân địch ra xa khỏi Leningrad từ 220-280 cây số, và ở phía Nam của hồ Ilmen là 180 cây số. Trong tháng 1, các phương diện quân Volkhov và Leningrad đã đánh bật quân Đức khỏi các vị trí mà họ đã chiếm giữ suốt 2 năm, phá giải hoàn toàn sự uy hiếp đối với thành phố Leningrad, giải phóng hoàn toản tỉnh Leningrad và một phần Kalinin (tỉnh), đẩy quân thù lui về tuyến Panther-Wotan. Trong số các thành phố và thị xã được giải phóng, nổi bật nhất là Novgorod, Gatchina, Chudovo, Lyuban, Tosno, Luga, Kingisepp, Gdov, Porkhov, Staraya Russa, Novorzhyev. Nguyên nhân thành công của quân đội Liên Xô trong chiến dịch là quá trình chuẩn bị đầy đủ, tạo được mật độ tập trung binh lực lớn (nhất là tại các hướng đột phá) và sự phối hợp tốt giữa bộ binh, xe tăng, pháo binh và không quân. Tuy nhiên, Cụm Tập đoàn quân Bắc sau thất bại nặng này vẫn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Họ vẫn rút lui có trật tự về tuyến Panther-Wotan, tránh được sự bao vây của quân đội Liên Xô và bảo tồn được một phần lớn sinh lực. Điều này khiến quân đội Liên Xô bị chặn lại trên tuyến Panther-Wotan và dù liên tục tấn công trong suốt các tháng 3-4 năm 1944 vẫn không phá vỡ được phòng tuyến của quân Đức. Vì vậy, mục tiêu giải phóng Narva, Pskov, Ostrov và sau đó là Lativa, Estonia đã không thực hiện được. STAVKA rất không hài lòng về hoạt động của Phương diện quân Baltic 2 trong việc này và vì vậy, cộng thêm những lời xàm tấu của L. Z. Mekhlis, tướng M. M. Popov - chỉ huy của phương diện quân - đã bị giáng chức. Nguyên nhân của những thất bại này là do quân đội Liên Xô đã tiêu hao nhiều sau hai tháng tấn công liên tục trong điều kiện khắc nghiệt của mùa đông miền Bắc nước Nga, đồng thời địa hình trong khu vực rất phức tạp với nhiều đầm lầy và rừng núi. Đồng thời, những hoán đổi về binh lực đã gây ra nhiều khó khăn trong việc liên lạc, điều khiển cũng như trong việc tương tác giữa cấp Phương diện quân và Tập đoàn quân. Cho dù chiến dịch tấn công không hoàn toàn đem lại kết quả như mong muốn, thành quả to lớn của nó là hoàn toàn không thể chối cãi. Tướng Đức Kurt von Tippelskirch đã miêu tả về chiến thắng của quân đội Liên Xô tại Leningrad-Novgorod như sau: Thương vong đôi bên. Quân đội Liên Xô. Theo nghiên cứu thống kê về thương vong của quân đội Liên Xô và Nga trong các cuộc chiến ở thế kỷ 20, thiệt hại của quân đội Liên Xô trong chiến dịch tấn công Leningrad-Novgorod là 76.686 chết, mất tích và 237.267 bị thương, bị ốm. Thương vong của phương diện quân Leningrad là 56.564 chết và 170.886 bị thương, của hạm đội Baltic là 169 chết và 1.292 bị thương. Phương diện quân Volkhov từ 14 tháng 1 đến 15 tháng 2 thiệt hại 12.011 chết và 38.289 bị thương, phương diện quân Baltic 2 từ 10 tháng 2 đến 1 tháng 3 tổn thất 6.659 chết và 23.051 bị thương. Tập đoàn quân xung kích số 1 từ 14 tháng 1 đến 15 tháng 2 chịu 1.283 chết và 3.759 bị thương. Quân đội Liên Xô cũng mất 462 xe tăng và pháo tự hành, 1.832 đại bác và súng cối, 260 máy bay. Các thống kê này được cho là chưa đầy đủ và thương vong của quân đội Liên Xô được cho là lớn hơn thế. Tỉ như trong báo cáo về chiến dịch Novgorod-Luga của phương diện quân Volkhov, từ từ 14 tháng 1 đến 11 tháng 2 họ chịu thiệt hại 16.542 chết và 46.191 bị thương (tính luôn cả thương vong của Tập đoàn quân xung kích số 1 từ ngày 1 tới 10 tháng 2), lớn hơn con số nêu trên tương đối nhiều. Thương vong của các phương diện quân Leningrad và Baltic 2 không được thống kê rõ ràng trong tháng 3-4 năm 1944, và các sử gia cũng đưa ra những con số rất khác nhau. Tỉ như V. V. Beshanov đưa ra con số 42.000 thương vong của cả ba phương diện quân trong nửa tháng công kích Pskov. Còn theo G.A Shigin, trong thời gian đó ở khu vực Pskov, Ostrov và Idritsa thì quân đội Liên Xô chết 30.000 người và bị thương 80.000 - 90.000 người. Còn theo David M. Glantz, thương vong là 200.000 (tính luôn cả trận đánh ở Narva). Quân đội Đức Quốc xã. Không có con số chính xác về thương vong của quân đội Đức Quốc xã do trong quá trình rút chạy vội vã trước sức ép mãnh liệt của Hồng quân Liên Xô, việc thống kê thương vong của các Tập đoàn quân số 16 chỉ có thể được tính sơ sài. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là Cụm Tập đoàn quân Bắc đã chịu thiệt hại rất nặng nề trong trận đánh này. Ví dụ, chỉ riêng trong ngày 29 tháng 1 thì theo dự đoán của Liên Xô Tập đoàn quân số 18 đã tổn thất 14.000 chết và 35.000 bị thương. Theo A. V. Isayev, thương vong tính riêng của Tập đoàn quân số 18 trong giai đoạn quân đội Liên Xô giải trừ vòng uy hiếp đối với Leningrad đã lên tới 66.000 người. Theo các số liệu của Liên Xô, trong chiến dịch này Hồng quân đã tiêu diệt 3 sư đoàn, đánh thiệt hại nặng 26 sư đoàn, giết 90.000 tên địch và bắt 7.200 tù binh. Tuy nhiên các báo cáo của Đức cho biết tổn thất của quân Đức ít hơn mức Liên Xô ước tính khá xa. Quân Đức chỉ có tổng cộng 24.739 người chết và mất tích kèm theo 46.912 người bị thương. Tổn thất của Đức chưa bằng 1/4 của Liên Xô.
1
null
Xe phòng không, hay còn gọi là pháo phòng không tự hành (SPAAG) hoặc hệ thống phòng không tự hành (SPAD), là một loại phương tiện cơ động với khả năng phòng không chuyên dụng. Nga gọi loại phương tiện này là "ZSU", viết tắt của "zenitnaya samokhodnaya ustanovka" ("pháo phòng không tự hành"). Hệ thống vũ khí trang bị cho các xe phòng không là súng máy, pháo tự động, tên lửa, và một số hệ thống pháo-tên lửa tầm xa. Khung gầm của các xe phòng không gồm xe tải và xe chiến đấu hạng nặng như xe bọc thép chở quân và xe tăng. Các hệ thống vũ khí phòng không thường nhận được sử bảo vệ từ máy bay, pháo binh và bộ binh khi triển khai ở tiền tuyến. Pháo phòng không thường có các tháp pháo quay nhanh và cơ động để có thể bám mục tiêu bay có tốc độ bay lớn. Thường các pháo phòng không có hai pháo hoặc bốn pháo cho phép tốc độ bắn cao. Ngày nay, tên lửa (thường được gắn trên các tháp pháo tương tự) đã thay thế phần lớn các loại pháo phòng không. Lịch sử phát triển. Chiến tranh thế giới thứ nhất. Pháo phòng không từ lâu đã được đặt trên xe tải, và khá phổ biến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Một mẫu pháo phòng không tiền nhiệm của pháo FlaK 88 của Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai là pháo phòng không 77 mm trong Chiến tranh thế giới I. được đặt trên xe tải và rất hiệu quả khi sử dụng để chống lại các xe tăng của Anh. QF 3 inch 20 cwt của Anh Quốc được đặt trên xe tải khi sử dụng tại Mặt trận phía Tây. Giữa hai cuộc thế chiến. Giữa hai thế chiến, người Anh phát triển pháo Birch, một khẩu pháo đa năng đặt trên khung gầm xe bánh xích bọc giáp có khả năng bảo vệ đội hình xe tăng. Pháo có thể nâng lên để chống máy bay. Vickers Armstrong cũng phát triển một pháo phòng không tự hành dựa trên khung gầm của xe tăng hạng nhẹ 6 tấn Mk.E/xe kéo Dragon Medium Mark IV, được trang bị pháo Vickers QF-1 "Pom-Pom" 40 mm. Khoảng 26 xe đã bán cho Xiêm La và được sử dụng như pháo hỗ trợ bộ binh và pháo phòng không trong Chiến tranh Pháp - Thái Lan (1940-1941) cùng với 30 xe tăng Vickers Mk.E Type B 6-tấn. Đây có lẽ là loại pháo phòng không tự hành bánh xích đầu tiên được sản xuất hàng loạt. Sau đó người Anh cũng phát triển một phiên bản của xe tăng hạng nhẹ Mk.VI với 4 súng máy gọi là Light Tank AA Mk.I. Và một phiên bản hai súng 15 mm dựa trên Light Tank Mk.V cũng được chế tạo. Trong số những người đi tiên phong về pháo phòng không tự hành trước chiến tranh còn có người Đức. Họ đã có các xe phòng không SdKfz 10/4 và 6/2, đây là các xe nửa bánh nửa xích chở hàng đặt pháo phòng không 20 mm hoăc 23 mm. Sau đó trong chiến tranh người Đức cũng đặt lên xe nửa xích 4 khẩu pháo 20 mm. Chiến tranh thế giới thứ hai. Pháo lớn hơn được đặt trên các xe tải lớn hơn, nhưng cần phải có chân trợ lực cho xe tải khi pháo bắn. Một ngoại lệ cho việc này là Cannone da 90/53 của Ý, nó có hiệu quả cao khi đặt trên xe tải, còn được gọi là "autocannoni da 90/53". 90/53 là một vũ khí đáng sợ, nổi bật trong vai trò chống tăng, nhưng chỉ có vài trăm xe được chế tạo tính đến năm 1943 khi hiệp ước đình chiến được ký. Các quốc gia khác có xu hương đặt trên khung gầm xe tải. Bắt đầu từ năm 1941, Anh Quốc phát triển một phương pháp "en portee" (trong phạm vi) đặt một pháo chống tăng trên một xe tải. Điều này là để ngăn vũ khí không bị hư hỏng khi hành quân đường dài qua các địa hình như sa mạc, sa mạc đá, và dự định chỉ là một phương pháp mang vũ khí, với pháo không nạp đạn. Tuy nhiên, kíp xe thường có xu hướng khai hỏa vũ khí từ xe của họ để cơ động tránh thương vong.. Điều này chắc chắn có cảm hứng từ Morris C9/B của Anh (tên chính thức là "Carrier, SP, 4x4, 40 mm AA"), đây là một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm đặt trên khung xe có nguồn gốc từ xe tải kéo pháo Morris "Quad". Loại tương tự dựa trên xe tải 3-tấn, được chế tạo ở Anh, Canada và Úc, chúng cùng nhau hình thành nên các loại pháo phòng không tự hành nhiều nhất trong biên chế của Anh. Quân đội Hoa Kỳ đã mang pháo phòng không Bofors 40 mm được xe tải kéo cùng với các khối đặt trên xe tải tập trung vào các tháp pháo cơ giới hóa. Các tháp pháo mang 4 khẩu súng máy.50 inch (12,7 mm), được thiết kế để điều chỉnh cùng ngắm vào một điểm khi máy bay địch xuất hiện ở độ cao thấp. Sự quan tâm tới pháo phòng không cơ động sau đó đã chuyển sang các xe nặng hơn với trọng lượng và độ ổn định cần thiết để lắp vũ khí với mọi kích cỡ. Có lẽ do mong muốn, đặc biệt là trong biên chế của quân đội Đức Quốc xã (Wehrmacht), các xe phòng không đã được bọc thép để tự bảo vệ xe, và xu hướng này nhận được rất nhiều sự quan tâm. Khái niệm về một pháo phòng không tự hành đã được người Hungary dẫn đầu trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hungary sản xuất 40M Nimrod dựa trên giấy phép chế tạo Luftvärnskanonvagn L-62 Anti II có được từ Thụy Điển. Đức Quốc Xã theo sau người Hungary với loại xe "flakpanzer". Các pháo phòng không tự hành trong Chiến tranh thế giới II của Đức gồm Möbelwagen, Wirbelwind, Ostwind và Kugelblitz. Các lực lượng quân đội khác có các thiết kế của riêng họ, đáng chú ý là M16 của Mỹ, nó có 4 khẩu súng máy M2 Browning trên khung xe bánh xích M3 Lee. Người Anh phát triển SPAAG của riêng họ trong suốt cuộc chiến tranh bằng cách trang bị nhiều súng máy và pháo hạng nhẹ trên nhiều khung gầm xe bọc thép và xe tăng khác nhau, nằm 1943 xuất hiện xe tăng phòng không Crusader với pháo Bofors 40 mm hoặc 2 tới 3 pháo Oerlikon 20 mm. Dù nó được sử dụng trong cuộc đổ bộ Normandy, nhưng máy bay Đức đã được lực lượng không quân Đồng minh phụ trách nên phần lớn pháo phòng không là không cần thiết. Chiến tranh Lạnh và sau đó. Ngoài chức năng phòng không, SPAAG còn rất hữu dụng khi bắn thẳng chống bộ binh, ví dụ trong cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam. Các loại vũ khí phòng không hiện đại có thể kể đến như: ZSU-23-4 Shilka, Tunguska-M1, Pantsir-S1, Buk-M2 và Tor-M2 của Nga; K30 Biho và K263A1 Vulcan của Hàn Quốc; Type 95 SPAAA của Trung Quốc, CV9040 AAV của Thụy Điển; PZA Loara của Ba Lan; M6 Linebacker và M1097 Avenger của Hoa Kỳ; BOV-3 của Nam Tư; ADATS của Canada; Gepard của Đức; Type 87 SPAAG của Nhật Bản và các phiên bản tương tự khác. Các loại cũ hơn gồm ZSU-57-2, M163 VADS (trang bị pháo Vulcan) và mẫu xe M247 Sergeant York thất bại.
1
null
Theo quy định tại Điều 22 Luật Giao thông đường bộ, những xe sau đây được quyền ưu tiên đi trước xe khác khi qua đường giao nhau từ bất kỳ hướng nào tới theo thứ tự: Thứ tự xe được ưu tiên. Điều 22. Quyền ưu tiên của một số loại xe 1. Những xe sau đây được quyền ưu tiên đi trước xe khác khi qua đường giao nhau từ bất kỳ hướng nào tới theo thứ tự: a) Xe chữa cháy đi làm nhiệm vụ; b) Xe quân sự, xe công an đi làm nhiệm vụ khẩn cấp, đoàn xe có xe cảnh sát dẫn đường; c) Xe cứu thương đang thực hiện nhiệm vụ cấp cứu; d) Xe hộ đê, xe đi làm nhiệm vụ khắc phục sự cố thiên tai, dịch bệnh hoặc xe đi làm nhiệm vụ trong tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật; đ) Đoàn xe tang. 2. Xe quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này khi đi làm nhiệm vụ phải có tín hiệu còi, cờ, đèn theo quy định; không bị hạn chế tốc độ; được phép đi vào đường ngược chiều, các đường khác có thể đi được, kể cả khi có tín hiệu đèn đỏ và chỉ phải tuân theo chỉ dẫn của người điều khiển giao thông. Chính phủ quy định cụ thể tín hiệu của xe được quyền ưu tiên. 3. Khi có tín hiệu của xe được quyền ưu tiên, người tham gia giao thông phải nhanh chóng giảm tốc độ, tránh hoặc dừng lại sát lề đường bên phải để nhường đường. Không được gây cản trở xe được quyền ưu tiên. Quyền được ưu tiên của các xe đặc biệt. Xe chữa cháy đi làm nhiệm vụ → Xe quân sự, xe công an đi làm nhiệm vụ khẩn cấp, đoàn xe có xe cảnh sát dẫn đường → Xe cứu thương đang thực hiện nhiệm vụ cấp cứu → Xe hộ đê, xe đi làm nhiệm vụ khắc phục sự cố thiên tai, dịch bệnh → Đoàn xe tang → Xe cận vệ. Trách nhiệm người tham gia giao thông. Chính phủ quy định cụ thể tín hiệu của xe ưu tiên. Khi có tín hiệu của xe ưu tiên, mọi người tham gia giao thông phải nhanh chóng giảm tốc độ, tránh hoặc dừng lại sát lề đường bên phải để nhường đường. Không được gây cản trở xe được quyền ưu tiên.
1
null
Cá sỉnh gai hoặc cá mát (danh pháp hai phần: Onychostoma laticeps) là một loài cá thuộc họ Cyprinidae (cá chép). Loài cá nước ngọt này sinh sống ở Việt Nam và Trung Quốc. Nó được liệt kê vào sách đỏ Việt Nam. Cá sỉnh gai ăn các chất hữu cơ vụn nát và các loài tảo bám, đôi khi cũng ăn các loài động vật không xương sống cỡ nhỏ.
1
null
Thuật phù thủy (tiếng Anh: witchcraft), còn gọi là vu thuật (chữ Hán: 巫術) là việc thực hành và niềm tin vào, kỹ năng phép thuật và khả năng có thể được thực hiện một cá nhân hoặc nhóm tập thể. Những người thực hiện thuật phù thủy được gọi là phù thủy (vu bà) đối với phụ nữ và "vu sư" đối với đàn ông. Thuật phù thủy là một khái niệm phức tạp mà các văn hóa và xã hội khác nhau; do đó, rất khó để xác định với độ chính xác và giả định xuyên văn hóa về ý nghĩa hoặc ý nghĩa của thuật ngữ nên được áp dụng một cách thận trọng. Thuật phù thủy thường chiếm một vai trò trong tôn giáo, bói toán hoặc y dược, và thường xuất hiện trong các xã hội và các nhóm có khuôn khổ văn hóa bao gồm một thế giới huyền diệu. Mặc dù thuật phù thủy có thể thường xuyên chia sẻ chung các khái niệm liên quan như ma thuật, những điều huyền bí, mê tín dị đoan, gọi hồn, ma nhập, Saman giáo, chữa bệnh, tâm linh, tôn thờ thiên nhiên và huyền bí, nó thường được coi là khác biệt so với những khi kiểm tra bởi các nhà xã hội học và nhân chủng học. Thuật phù thủy trong thời xưa. Người ta cho rằng buổi bình minh của văn minh nhân loại tràn ngập ma thuật của các phù thủy, lễ hội phù thủy, các lễ hiến tế, và các nghi thức cầu xin trời đất. Đó là thời kỳ hoàng kim của các phù thủy. Thời xưa, xã hội và tôn giáo dùng án tử hình đề cấm hoạt động phù thủy. Thánh kinh "Cựu ước" có câu "Không được để thầy phù thủy sống sót". Về sau giáo hội Kitô giáo cũng phản đối sử dụng thuật phù thủy. Năm 1484, giáo hoàng ra thánh dụ tuyên bố chính thức là thuật phù thủy đi ngược lại tôn chỉ của đạo Ki tô. Thuật phù thủy thời nay. Thời gian từ 1647 - 1663, ở bang Massachusetts và bang Connecticut có hàng trăm người bị kết tội vì hành nghề phù thủy, trong đó 14 người bị treo cổ. Khi luật Phù thủy được bãi bỏ vào giữa thế kỷ 20, các vấn đề về thuật phù thủy đã được "hồi sinh" trên diện rộng và phù thủy không còn bị kỳ thị, xua đuổi như trước. Quyền năng phù thủy. Trong lịch sử, thuật phù thủy có liên quan đến ma thuật và được người ta tin rằng có thể ảnh hưởng đến tâm trí, cơ thể, hoặc tài sản của người khác chống lại ý muốn của họ hoặc thực hành mà người sử dụng sẽ phá hoại trật tự xã hội hay tôn giáo. Một số nhà bình luận hiện đại, tin rằng bản chất xấu xa của thuật phù thủy là do bắt nguồn từ thiên chúa giáo. Khái niệm về một người dùng vu thuật có thể ảnh hưởng đến cơ thể hoặc tài sản của người khác trái với ý muốn của họ rõ ràng là hiện diện trong nhiều nền văn hóa, là truyền thống trong cả hai phép thuật dân gian và ma thuật tôn giáo có mục đích chống lại vu thuật độc hại hoặc xác định người sử dụng ma thuật độc hại. Nhiều ví dụ xuất hiện trong các văn bản cổ đại, chẳng hạn như từ Ai Cập và Babylon. Người sử dụng ma thuật xấu xa có thể trở thành một nguyên nhân đáng tin cậy đối với bệnh, bệnh ở động vật, xui xẻo, cái chết đột ngột, bất lực và bất hạnh khác. Thuật phù thủy của một loại lành tính hơn và được xã hội chấp nhận thì có thể được sử dụng để đẩy cái ác sang một bên, hoặc xác định người hành động xấu xa để trừng phạt có thể được thực hiện. Ma thuật dân gian được sử dụng để xác định hoặc bảo vệ chống lại người sử dụng ma thuật độc hại thường không thể phân biệt bởi chính bản thân của những phù thủy. Hiện cũng đã tồn tại trong niềm tin khái niệm phổ biến về phù thủy trắng và thuật phù thủy đen, đó là tốt bụng. Nhiều phù thủy neopagan xác định mạnh mẽ với khái niệm này, và tuyên xưng mã đạo đức khiến họ không thể sử dụng phép thuật trên người khác không có sự cho phép của họ. Mà niềm tin vào thực hành ma thuật xấu xa tồn tại, các phù thủy như vậy thường bị cấm bởi pháp luật cũng như thù ghét và sợ hãi bởi dân chúng, trong khi phép thuật mang đến lợi ích được thu nhập hoặc thậm chí chấp nhận bán buôn bởi người dân - thậm chí nếu việc thành lập chính thống.
1
null
Aegina (, "Aígina" , ) là một đảo thuộc quần đảo Saronikos trong vịnh Saronikos của Hy Lạp, cách Athens . Truyền thuyết kể rằng hòn đảo lấy tên từ Aegina, mẹ của anh hùng Aeacus, người sinh ra trên đảo và sau đó trở thành vua. Vào thời cổ đại Aegina là một "đối thủ" của Athens, một thế lực trên biển Hy Lạp.
1
null
Agios Efstratios (), tên gọi thông tục Ai Stratis () là một đảo nhỏ của Hy Lạp nằm ở bắc biển Aegea, cách Lemnos về phía tây nam và cách Lesbos về phía tây bắc. Về hành chính, Agios Efstratios (cả đảo và vùng nước chung quanh) có diện tích 43,325 km². Cùng với Lemnos và những đảo nhỏ lận cận, nó tạo nên đơn vị khu vực Lemnos, một phần của vùng Bắc Aegea.
1
null
Alonnisos (), còn được chuyển tự là Alonissos hay Alonisos, là một hòn đảo của Hy Lạp trong biển Aegea. Cùng Skiathos và Skopelos, đây là một đảo trong cụm Bắc Sporades. Nó nằm cách Skopelos (2 nm) về phía đông. Alonnisos cũng là tên của ngôi làng trên đảo, tên của đơn vị hành chính bao hàm làng và cả hòn đảo. Lịch sử. Vào thời Trung Đại đến thế kỷ XIV, hòn đảo mang tên Liadromia (Λιαδρόμια). Nó được đặt lại tên Alonnisos năm 1838, do những học giả nhầm nó với đảo Alonnisos cổ đại. Trên thực tế, hòn đảo nay gọi là Alonnisos được người Hy Lạp cổ đại gọi là Ikos (Ίκος). Địa lý. Chỗ rộng nhất của hòn đảo đạt theo chiều tây bắc đến đông nam và chỗ dài nhất đạt theo chiều phía tây nam đến đông bắc. Diện tích hòn đảo là 64 km², được cấu thành từ đá vôi là chính.
1
null
Epidaurus là một thành phố nhỏ ở Hy Lạp cổ đại nằm trên bán đảo Argolid ở vịnh Saronic, Hy Lạp. Hai thị trấn hiện đại mang tên Epidavros là Palaia Epidavros và Nea Epidavros. Kể từ năm 2010, chúng thuộc về đô thị mới của Epidaurus, một phần của khu vực Argolis. Trung tâm hành chính của nó nằm tại Lygourio. Lịch sử. Epidaurus độc lập với Argos và không bao gồm trong Argolis cho đến thời kỳ La Mã. Nó được đặt theo tên của người Argolis là Epidaurus và là nơi sinh của con trai thần Apollo tên là Asclepius. Epidaurus được biết đến với thánh địa của nó nằm cách trung tâm thị trấn 5 dặm (8 km) cũng như một nhà hát La Mã vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Sự tôn sùng Asclepius tại Epidaurus được chứng thực vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, khi thánh địa trên đỉnh đồi cũ Apollo Maleatas không còn đủ rộng rãi. Đền chữa bệnh Asclepeion ở Epidaurus là trung tâm chữa bệnh nổi tiếng nhất của thế giới cổ điển, nơi mà người bệnh đến với hy vọng được chữa khỏi. Để tìm ra phương pháp chữa trị đúng đắn cho căn bệnh của mình, họ đã dành một đêm ở một phòng ngủ lớn được gọi là "Enkoimia". Trong giấc mơ, chính thần sẽ khuyên họ những gì họ phải làm để khỏi bệnh. Trong thánh đường có một nhà khách với 160 phòng. Ngoài ra còn có suối khoáng gần đó, có thể đã được sử dụng trong quá trình điều trị bệnh. Asclepius được coi là vị thần quan trọng nhất tại đây, người đã mang lại sự thịnh vượng cho thánh địa. Đến thế kỷ thứ 4 và 3 TCN, một chương trình xây dựng đầy tham vọng để mở rộng và tái thiết các tòa nhà hoành tráng đã được diễn ra. Danh tiếng và sự thịnh vượng của Epidaurus tiếp tục kéo dài trong suốt thời kỳ Hy Lạp. Sau khi Corinth bị phá hủy vào năm 146 TCN, Lucius Mummius Achaicus đã đến thánh địa này và để lại hai dấu ấn của riêng mình. Năm 87 TCN, thánh địa bị cướp phá bởi quân đội của tướng La Mã Sulla. Đến năm 74 TCN, một đơn vị đồn trú đã được xây dựng tại đây dưới thời Marcus Antonius Creticus tuy nhiên thánh địa một lần nữa bị cướp bóc bởi những tên cướp biển vào năm 67 TCN.
1
null
Gavdos (, ) là đảo cực nam của Hy Lạp, nằm tại phía nam của đảo lớn Crete, mà nó là một phần về mặt hành chính. Nó từng là một phần của tỉnh cũ Selino. Đây cũng là điểm cực nam của cả châu Âu. Tên. Gavdos từng được gọi bằng nhiều tên. Ví dụ, nó xuất hiện trong chuyến đi của Phaolô tới Roma trong chương 27 của Công vụ Tông đồ dưới tên "Clauda" () hay "Cauda" (). Hòn đảo cũng được gọi là "Cauda" bởi nhà địa lý La Mã Pomponius Mela, và "Gaudos" bởi Pliny. Ptolemaeus gọi Gavdos là "Claudos" (). Người dân Cộng hòa Venezia gọi nó là "Gotzo", có lẽ xuất phát từ tên đảo "Gozo" của Malta. Từ thế kỷ 17 đến 19, đảo có tên "Gondzo". Một tên gọi tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là "Bougadoz". Địa lý. Gavdos cách Hora Sfakion về phía nam và có diện tích . Hòn đảo có hình dạng hơi giống hình tam giác. Điểm cao nhất của nó là Núi Vardia, cao . Gốc đông nam là một bán đảo nhiều đá với một cầu đá tự nhiên, gọi là Trypiti. Có một đảo nhỏ lân cận tên Gavdopoula (Γαυδοπούλα, "tiểu Gavdos") ở phía tây bắc Gavdos. Gavdos và Gavdopoula được phủ phrygana (φρύγανα), tức cây bụi thấp. Cả hai đều là nơi nghỉ quan trọng cho chim di trú. Những loài chim địa phương là cú mèo châu Âu và cốc mào châu Âu. Gavdos còn có vài dạng cảnh quan thực vật, như maquis, rừng thông và bách xù.
1
null
Ios (, phát âm địa phương Νιός "Nios") là một hòn đảo của Hy Lạp trong nhóm đảo Cyclades ở biển Aegea. Ios là một đảo đồi núi với những vách đá dốc hướng ra biển, tọa lạc ở khoảng giữa Naxos và Santorini. Đảo dài khoảng và rộng , với diện tích . Dân số năm 2011 là 2.024. Ios là một phần của Thira. Ios là nơi quay bộ phim "Dillo con parole mie". Ngoài ra, một số cảnh trong phim "Le Grand Bleu" được quay ở Manganari.
1
null
Ithaki () là một trong những đảo nằm trong quần đảo Ionia, phía cực tây Hy Lap. Ithaki hiện là khu tự quản ở vùng Ionia, Hy Lạp. Khu tự quản Ithaki có diện tích 118 km², dân số theo điều tra ngày 18 tháng 3 năm 2001 là 3212 người. Đảo Ithaki được cho rằng chính là địa điểm trên thực tế của xứ Ithaca, nơi Odysseus (nhân vật chính trong sử thi Odysseus của Homer) làm vua. Tuy nhiên đảo Ithaki ngày nay lại khác biệt một chút so với mô tả của Homer, khi Ithaca trong thần thoại là đảo cực tây của Hy Lạp, trên thực tế đảo Kefalonia mới là đảo cực tây. Một khảo sát địa lý được tiến hành trên thung lũng phía tây đảo Kefalonia vào những năm 2000 đã cho thấy thung lũng nối bản đảo phía tây đảo Kafalonia từng chìm dưới biển. Do đó bản đảo tây Kefalonia mới có thể thực sự là đảo Ithaca trong thần thoại.
1
null
Korinthos (), còn được viết là Corinth hoặc Cô-rinh-tô, là một khu tự quản ở vùng Peloponnesos, Hy Lạp. Khu tự quản Korinthos có diện tích 611 km², dân số theo điều tra ngày 18 tháng 3 năm 2001 là 58523 người. Đây là là một thành phố cổ và khu tự quản ở Corinthia, Peloponnese, nằm ở trung nam Hy Lạp. Kể từ cuộc cải cách chính quyền địa phương năm 2011, nó là một phần của khu tự quản Corinth, trong đó nó là trụ sở và là một đơn vị thành phố. Đây là thủ phủ của Corinthia. Nó được thành lập với tên Nea Korinthos hoặc New Corinth (α Κόρθθθ) vào năm 1858 sau khi một trận động đất phá hủy khu định cư hiện tại của Corinth, nơi đã phát triển trong và xung quanh khu vực của Corinth cổ đại. Địa lý. Nằm cách phía tây Athens khoảng 78 km (48 dặm), Korinthos được bao quanh bởi các thị trấn ven biển (theo chiều kim đồng hồ) Lechaio, Isthmia, Kechries, và các thị trấn nội địa của Testilia và khu khảo cổ và làng Korinthos cổ. Các đặc điểm tự nhiên xung quanh thành phố bao gồm đồng bằng hẹp Vocha ven biển, vịnh Corinth, eo đất Korinthos bị cắt bởi kênh đào, Vịnh Saronic, núi Oneia và đá Acrocorinth nguyên khối, nơi xây dựng đô thị thời trung cổ. Lịch sử. Corinth có tên từ Ancient Corinth, một thành phố thời cổ đại. Địa điểm đã bị chiếm đóng từ trước 3000 trước Công nguyên. Nhưng các nguồn lịch sử về thành phố liên quan đến đầu thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên, khi Corinth bắt đầu phát triển như một trung tâm thương mại. Giữa thế kỷ thứ 8 và thứ 7, gia đình Bacchiad cai trị Corinth. Cypselus đã lật đổ gia đình Bacchiad, và từ năm 657 đến 550 trước Công nguyên, ông và con trai Periander cai trị Corinth là Tyrant. Trong cộng đồng Công giáo, Cô-rinh-tô còn được biết đến qua hai bức thư của sứ đồ Phaolô: Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô và Thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô.
1
null
Kythnos () là một hòn đảo và điểm dân cư của Hy Lạp nằm ở Tây Cyclades, giữa Kea và Serifos. Nó nằm cách hải cảng Piraeus . Kythnos rộng với đường bờ biển chừng . Nó có hơn 70 bãi biển, nhiều trong số đó không được nối bằng đường bộ.
1
null
Laurium hay Lavrio hay Lavrion (; ; before early 11th century BC: Θορικός "Thorikos"; from Middle Ages until 1908: Εργαστήρια "Ergastiria") là một khu tự quản ở vùng Attiki, Hy Lạp, tọa lạc ở phía đông nam của Attica, Hy Lạp. Đây là nơi đóng trụ sở chính quyền của khu tự quản Lavreotiki.. Khu tự quản Lavrio có diện tích 176 km², dân số theo điều tra ngày 18 tháng 3 năm 2001 là 22261 người. Laurium nổi tiếng trong Cổ vật cổ điển vì mỏ bạc, là một trong những nguồn thu nhập chính của Nhà nước Athen. Kim loại bạc chủ yếu được sử dụng cho đúc tiền xu bạc. Bảo tàng Khảo cổ Lavrion cho thấy phần lớn câu chuyện về những mỏ này. Nó là cảng biển ít quan trọng hơn Piraeus. Nó nằm khoảng 60 km về phía đông nam của Athens, đông nam của Keratea và bắc của mũi Sounio. Laurium nằm trên một vịnh nhìn ra đảo Makronisos (thời cổ đại: Helena) ở phía đông. Cảng nằm ở giữa và các đường phố bao phủ khu dân cư Lavrio. Xa lộ GR-89 chạy qua Lavrio và kết thúc ở phía nam trong Sounio.
1
null
Monemvassia () là một khu tự quản ở vùng Peloponnesos, Hy Lạp. Khu tự quản Monemvassia có diện tích 949 km², dân số theo điều tra ngày 18 tháng 3 năm 2001 là 21898 người. Thị trấn nằm trên một hòn đảo nhỏ ngoài khơi bờ biển phía đông của bán đảo Peloponnese. Hòn đảo được liên kết với đất liền bằng một đường đắp cao dài 200m. Diện tích của nó bao gồm chủ yếu của một cao nguyên rộng lớn khoảng 100 mét trên mực nước biển, rộng 300 m và dài 1 km, là nơi có của một pháo đài thời trung cổ mạnh mẽ. Các bức tường thành phố và nhiều nhà thờ Byzantine vẫn từ thời trung cổ. Trụ sở của đô thị là thị trấn Molaoi. Đảo đá Monemvasia tách khỏi đất liền sau một trận động đất vào năm 375. Đến thế kỷ thứ 6, cư dân vùng Laconia cổ tìm đến Monemvasia để trốn tránh đội quân xâm lược Slavic cai trị Hy Lạp giữa năm 500 và 700.
1
null
Mykonos () là một hòn đảo Hy Lạp, một phần của Cyclades, nằm giữa Tinos, Syros, Paros và Naxos. Hòn đảo này có diện tích 85,5 km vuông (33,0 dặm vuông) và tăng lên độ cao 341 mét (1,119 feet) tại điểm cao nhất của nó. Có 10,134 cư dân (điều tra dân số năm 2011), hầu hết trong số họ sống ở thị trấn lớn nhất, Mykonos, nằm trên bờ biển phía tây. Thị trấn này còn được gọi là Chora (tức là Thị trấn theo tiếng Hy Lạp, theo thông lệ ở Hy Lạp khi tên của hòn đảo chính nó giống như tên của thị trấn chính). Biệt danh của Mykonos là "Hòn đảo của gió". Du lịch là một ngành công nghiệp lớn và Mykonos nổi tiếng với cuộc sống về đêm sôi động và có nhiều cơ sở phục vụ cộng đồng LGBT. Lịch sử. Herodotus đề cập đến việc người Carian là cư dân nguyên thủy của hòn đảo. Người Ionian từ Athens dường như là cư dân tiếp theo vào đầu thế kỷ XI trước Công nguyên. Có rất nhiều người sống trên hòn đảo lân cận Delos, chỉ cách 2 km (1,2 dặm), điều này có nghĩa rằng Mykonos là một vị trí quan trọng đối với hàng hóa và phương tiện. Tuy nhiên, vào thời cổ đại, đây là một hòn đảo khá nghèo với nguồn tài nguyên nông nghiệp hạn chế. Cư dân ở đó là những người đa thần và thờ phụng nhiều vị thần. Mykonos nằm dưới sự kiểm soát của người La Mã trong triều đại của Đế chế La Mã và sau đó trở thành một phần của Đế quốc Byzantine cho đến thế kỷ thứ XII. Năm 1204, với sự sụp đổ của Constantinople trong cuộc Thập tự chinh thứ tư, Mykonos đã bị Andrea Ghisi, một người họ hàng của công tước Venice chiếm đóng. Hòn đảo đã bị tàn phá bởi Catalan vào cuối thế kỷ XIII và cuối cùng được trao lại cho sự cai trị của người Venice trong năm 1390. Năm 1537, trong khi người Venice vẫn còn trị vì thì bị tấn công bởi Hayreddin Barbarossa, đô đốc của Suleiman I và một hạm đội Ottoman tự thành lập trên đảo. Ottoman, dưới sự lãnh đạo của Kapudan Pasha, đã áp đặt một hệ thống tự quản bao gồm một thống đốc và một hội đồng bổ nhiệm của các công ty. Khi lâu đài Tinos rơi vào tay người Ottoman năm 1718, người cuối cùng của người Venice đã rút khỏi khu vực. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, Mykonos phát triển thịnh vượng như một trung tâm thương mại, thu hút nhiều người nhập cư từ các đảo gần đó, ngoài các cuộc tấn công cướp biển thường xuyên. Vào tháng 6 năm 1794, Trận chiến Mykonos đã diễn ra giữa các tàu của Anh và Pháp tại bến cảng chính của hòn đảo. Chiến tranh giành độc lập của Hi Lạp chống lại đế chế Ottoman nổ ra vào năm 1821 và Mykonos đóng vai trò quan trọng, dẫn đầu là nữ anh hùng dân tộc, Manto Mavrogenous. Mavrogenous, một nữ quý tộc ảnh hưởng bởi các ý tưởng của Thời kì Khai sáng, đã hy sinh tài sản của gia đình mình cho Hy Lạp. Hy Lạp trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1830. Một bức tượng của bà nằm ở giữa quảng trường Mando Mavrogenous ở thị trấn chính. Do kết quả của hoạt động buôn bán, nền kinh tế của hòn đảo nhanh chóng tăng tốc nhưng lại suy giảm trong cuối thế kỷ XIX và đặc biệt là sau khi kênh Corinth mở cửa vào năm 1904 và Thế chiến thứ nhất vào đầu thế kỷ XX. Nhiều người Mykonos rời đảo để tìm việc ở Hy Lạp đại lục và nhiều nước ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ. Du lịch đã sớm thống trị nền kinh tế địa phương, nhờ rất nhiều cuộc khai quật quan trọng được thực hiện bởi Trường Khảo cổ học Pháp, bắt đầu làm việc tại Delos vào năm 1873. Thần thoại Hi Lạp. Trong thần thoại Hy Lạp, Mykonos được đặt theo tên của người cai trị đầu tiên của nó, Mykonos (Μύκονος) ,con trai hoặc cháu trai của thần Apollo và một anh hùng địa phương. Hòn đảo cũng được cho là địa điểm của "Gigantomachy", trận chiến vĩ đại giữa Zeus và Giants, và là nơi Hercules giết chết những người khổng lồ bất khả chiến bại đã dụ dỗ họ khỏi sự bảo vệ của đỉnh Olympus. Theo truyền thuyết, những tảng đá lớn trên khắp hòn đảo được cho là xác chết hóa đá của những người khổng lồ. Địa lý. Hòn đảo này có diện tích 85,5 km2 (33,0 dặm vuông) và tăng lên độ cao 341 mét (1.119 feet) tại điểm cao nhất. Nó nằm 150 km (93 dặm) về phía đông của Athens ở Biển Aegean. Hòn đảo không có sông, nhưng nhiều dòng chảy theo mùa hai trong số đó đã được chuyển đổi thành hồ chứa. Hòn đảo này bao gồm chủ yếu là đá granit và địa hình rất nhiều đá với nhiều khu vực bị xói mòn bởi những cơn gió mạnh. Đất sét và baryte chất lượng cao, là một khoáng chất được sử dụng làm chất bôi trơn trong khoan dầu, đã được khai thác ở phía đông của Mykonos cho đến cuối những năm 1900. Nó tạo ra 4.500 mét khối (160.000 cu ft) nước mỗi ngày, bằng cách thẩm thấu ngược nước biển để giúp đáp ứng nhu cầu của người dân và du khách. Hòn đảo có dân số gần 12.500 người, hầu hết sống ở thị trấn chính Chora. Ẩm thực. Đặc sản địa phương: Nhân khẩu học. Có 10.134 cư dân (2011) hầu hết sống ở thị trấn lớn nhất là Mykonos, còn được gọi là "Chora "(nghĩa là "Thị trấn "trong tiếng Hy Lạp, một tên gọi phổ biến ở Hy Lạp khi tên của hòn đảo là giống như tên của thị trấn chính) Kinh tế. Là một hòn đảo của Hy Lạp, nền kinh tế của Mykonos có mối quan hệ chặt chẽ với biển. Tuy nhiên, với sự phát triển của du lịch, nó đóng một vai trò nhỏ trong mùa hè. Phương tiện giao thông. Sân bay Mykonos nằm cách thị trấn Mykonos 4 kilômét (2,5 dặm) về phía đông nam và được phục vụ bởi các chuyến bay quốc tế trong mùa hè. Chuyến bay từ Athens đến Mykonos mất 25 phút. Mykonos cũng có thể di chuyển bằng thuyền và phà. Tàu cao tốc di chuyển đến đó hàng ngày từ các đảo xung quanh và từ Athens. Taxi, xe buýt hoặc thuyền có sẵn để vận chuyển. Có ba kho xe buýt chính ở Mykonos. Phía bắc nằm phía sau Câu lạc bộ Remezzo phía trên Cảng cũ và cung cấp dịch vụ thường xuyên cho Ano Mera, Elia và Kalafatis. Vài trăm mét bên dưới, tại Cảng Cũ, đặt một Kho khác tập trung vào các điểm đến phía bắc của Tourlos (Cảng Mới) và Agios Stefanos. Bus Depot phía nam nằm ở "lối vào" của thị trấn, được gọi là Fabrika và nó cung cấp dịch vụ thường xuyên cho Ornos, Agios Yannis, Plati Gialos, Psarou, Paraga và Paradise Beach. Thuyền nhỏ đi đến và đi từ nhiều bãi biển. Thuyền du lịch thường xuyên đến đảo Delos gần đó. Văn hóa. Vào năm 2013, chiếc Biennale của Mykonos đã được khánh thành. Nó cung cấp các sản phẩm sân khấu, văn hóa, điện ảnh, nghệ thuật và âm nhạc. Liên kết ngoài. https://blog.biletbayi.com/avrupa/yunanistan/mykonos/
1
null
Sarah Wayne Callies là một nghệ sĩ Mỹ. Cô sinh năm 1977 tại Illinois nhưng cả gia đình cô đã chuyển tới sinh sống tại đảo Hawaii từ năm Sarah 1 tuổi. Mặc dù cả bố và mẹ đều là giáo sư giảng dạy tại trường Đại học Hawaii nhưng Sarah Wayne lại không có hứng thú để tiếp bước nghề nghiệp của bố mẹ. Cô gái có vẻ bề ngoài rất dễ tạo thiện cảm này quyết định con đường diễn xuất sau khi tốt nghiệp cấp 3 bằng cách đăng ký theo học trường Cao đẳng Dartmouth (Dartmouth College) và Học viên nghệ thuật quốc gia Denver (Denver's National Theater Conservatory). Năm 2002, Sarah tốt nghiệp Học viện nghệ thuật với tấm bằng Master. Sau vài vai diễn nhỏ trên các phim truyền hình, năm 2005, vận may đã mỉm cười với Sarah khi cô chính thức được bộ phận casting của hãng Fox mời tham gia series phim truyền hình mới nhất Vượt ngục. Theo như hợp đồng ban đầu, vai diễn của Sarah Wayne – cô bác sĩ Sara Tancredi – kéo dài từ đến hết phim từ 2005 - 2017. Đến năm 2010 Sarah Wayne Callies đã tham gia vào bộ phim The Walking Dead trong vai vợ của nhân vật chính Rick Grimes. Bộ phim nói về căn bệnh biến con người trở thành xác sống và mọi người phải chạy trốn và tìm mọi cách để sinh tồn. Nhưng Sarah chỉ đóng trong phần 1,phần 2 và phần 3 của bộ phim khi nhân vật cô đóng đã chết sau khi sinh con.
1
null
BTR-50 (BTR là từ viết tắt của "Bronetransporter" (, nghĩa là "xe bọc thép chở quân") là một loại xe bọc thép chở quân lội nước của Liên Xô dựa trên khung gầm xe tăng hạng nhẹ PT-76. BTR-50 là loại xe bánh xích, không giống các loại xe BTR khác thường là bánh lốp. BTR-50 có chung nhiều điểm tương đồng với hai loại xe bọc thép chở quân khác là OT-62 TOPAS và Type 77. OT-62 là một bản sao chép cải tiến của BTR-50 do Tiệp Khắc và Ba Lan hợp tác sản xuất, còn Type 77 dựa trên xe tăng lội nước Type 63 do Trung Quốc chế tạo, không phải là bản sao của BTR-50.
1
null
BTR-D là một loại xe bọc thép chở quân đổ bộ đường không bánh xích đa năng của Liên Xô, đưa vào trang bị năm 1974 và phương Tây nhìn thấy nó lần đầu vào năm 1979 trong Chiến tranh Xô viết ở Afghanistan. BTR-D là từ viết tắt của "Bronetransportyor Desanta" (БТР, Бронетранспортер Десанта, nghĩa là "xe bọc thép chở quân dùng cho đổ bộ đường không"). Nó dựa trên xe chiến đấu bộ binh đổ bộ đường không BMD-1. Tên định danh NATO là BMD M1979. Phát triển. Năm 1969 xe chiến đấu bộ binh đổ bộ đường không BMD-1 được đưa vào trang bị cho Lục quân Liên Xô. Xe có nhiều nhược điểm, nhưng lớn nhất là khoang chở quân quá chật hẹp và chỉ có thể chở được 4 lính; nhưng thực tế chỉ chở được 3 lính. Do đó đầu thập niên 1970, phòng thiết kế của Nhà máy máy kéo Volgograd từng thiết kế ra BMD-1 bắt tay vào thiết kế một xe bọc thép chở quân dựa vào xe BMD-1. Mẫu thử hoàn thành vào năm 1974 và cùng năm nó vượt qua được các cuộc thử nghiệm và đưa vào sản xuất, trang bị cho Lực quân Liên Xô với tên gọi BTR-D.
1
null
BTR-3 là một loại xe bọc thép chở quân bánh lốp 8×8 do Adcom Manufacturing của UAE thiết kế năm 2000/2001 và do KMDB ở Ukraina chế tạo. BTR-3 được xuất khẩu nhiều nhất cho Lục quân Myanmar với 1000 chiếc BTR-3U, một phần trong số này sẽ được lắp ráp ở Myanma. BTR-3U không phải là một bản nâng cấp của BTR-80 và nó là xe bọc thép mới giống với thiết kế của Liên Xô.
1
null
Khu vực Cầu Tre là địa điểm ghi dấu chiến công của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược (cuối tháng 10 – âm lịch năm 1967) ở ấp Thạnh Trung, xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, Việt Nam. Lịch sử. Tại khu vực này cuối tháng 10 âm lịch (năm 1967), Đại hội 1 và Đại hội 3 của tiểu đoàn 6 Nhà Bè đã tổ chức trận chống càn tiêu diệt một đại đội Mỹ và thu nhiều vũ khí.chúng quá tức tối cho là đây là một Trung đoàn chính quy bắc việt,chúng điều máy bay B52 rải thảm cả vùng Tắc cạn từ ngã 3 làng tới bầu le và xã Tân tập với 3 lần rải thảm Với trận thắng này, ta đã lấy lại thế chủ động trên chiến trường và góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân. Giải thích tên gọi. Tên gọi Cầu Tre bắt nguồn từ hình ảnh của một cây cầu được làm bằng tre. Từ rất lâu, tại con rạch nối liền với sông Kinh Hàn có một cây cầu tre được bắc qua để cho người dân 2 bên rạch tiện qua lại. Dần dần cây cầu tre ấy trở thành tên gọi con rạch – rạch Cầu Tre và tên riêng cho khu vực dân cư xung quanh – khu vực Cầu Tre. Cây cầu tre hiện không còn nhưng tên gọi ấy vẫn lưu truyền cho đến nay. Khu vực di tích Cầu Tre hiện nay thuộc ấp Thạnh Trung, xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Di tích cấp tỉnh. Ngày 15 tháng 1 năm 2010, UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định số 154/QĐ-UBND xếp hạng Khu vực Cầu Tre là di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
1
null
Aleksandrov () là một thị trấn và trung tâm hành chính của huyện Aleksandrovsky thuộc Tỉnh Vladimir, Nga, cách Moskva về phía đông bắc. Dân số: Địa vị hành chính. Theo khung phân cấp hành chính Nga, Aleksandrov đóng vai trò là trung tâm hành chính của huyện Aleksandrovsky. Thị trấn of Aleksandrov được hợp nhất vào Huyện tự quản Aleksandrovsky với tên Khu định cư đô thị Aleksandrov.
1
null
Huyện Aleutsky () là một huyện hành chính và tự quản (raion) của Kamchatka Krai, Nga, một trong mười một "raion" trong krai này. Huyện này được tạo nên từ quần đảo Komandorski ở phía đông bán đảo Kamchatka. Diện tích huyện là . Trung tâm hành chính của huyện là làng ("selo") Nikolskoye. Dân số: Gần như toàn bộ dân cư sống ở Nikolskoye.
1
null
Chỉ số nhà chọc trời (tiếng Anh: "Skyscraper Index") là một giả thuyết kinh tế học cho rằng các tòa nhà chọc trời cao nhất trên thế giới được xây dựng vào thời điểm trước sự suy sụp kinh tế. Các chu kỳ kinh tế và tốc độ xây dựng nhà chọc trời có tương quan với nhau để cho số tiền đầu tư để xây dựng nhà chọc trời lên tới đỉnh cao lúc mà tỷ lệ tăng trưởng không còn lên được nữa theo chu kỳ và nền kinh tế đến kỳ suy thoái. Giả thuyết này do Andrew Lawrence, một giám đốc nghiên cứu tại ngân hàng đầu tư Anh Dresdner Kleinwort Wasserstein, đưa ra vào tháng 1 năm 1999. Các tòa nhà này có thể được hoàn thành sau khi suy thoái đã bắt đầu hay về sau, khi một chu kỳ mới lại kéo lên kinh tế, hoặc kế hoạch xây dựng tòa nhà có thể bị bãi bỏ. Khác với các khái niệm về trước mà dựa trên chiều cao – "chiều cao là một áp kế đo sự bùng nổ tăng trường" – Lawrence dùng các kế hoạch nhà chọc trời để dự đoán các khủng hoảng kinh tế thay vì bùng nổ tăng trường.
1
null
Barra (; hoặc ) là một hòn đảo trong Hebrides bên ngoài, Scotland, và là hòn đảo có người ở cực nam thứ hai ở đó, sau hòn đảo liền kề Vatersay mà nó được nối với nhau bằng đường đắp cao. Năm 2011, dân số là 1.174 người. Tiếng Gaelic được sử dụng rộng rãi và tại cuộc điều tra dân số năm 2011, có 761 người nói tiếng Gaelic (62% dân số). Địa lý. Đảo Barra rộng khoảng , dài và rộng rộng. Một đường đơn, A888, chạy quanh bờ biển phía nam của hòn đảo theo vùng đất bằng phẳng nhất và phục vụ nhiều khu định cư ven biển. Nội thất của hòn đảo ở đây là đồi núi và không có người ở. Phía tây và phía bắc của hòn đảo có những bãi cát trắng bao gồm cát được tạo ra từ vỏ sò biển liền kề với , trong khi phía đông nam có nhiều vịnh đá. Ở phía bắc, một bán đảo cát chạy đến sân bay bãi biển và Eoligarry. Giao thông. Hàng không. Sân bay Barra, gần Northbay, sử dụng bãi biển vỏ sò của ("The Great Beach") làm đường băng. Máy bay có thể hạ cánh và chỉ cất cánh khi thủy triều thấp, vì vậy thời gian biểu thay đổi. Bình chọn vị trí hạ cánh đẹp nhất thế giới bằng chuyến bay theo lịch trình, Sân bay của Barra được tuyên bố là sân bay duy nhất trên thế giới có các chuyến bay theo lịch trình thường xuyên hạ cánh trên một bãi biển. Máy bay đang bay đi đến đảo này là đang hoạt động trên Barra là de Havilland Canada DHC-6 Twin Otter, được bay bởi Loganair đi đến Glasgow. Thường có các chuyến bay mỗi ngày trong tuần vào mùa hè. Đường biển. Một tuyến phà Ro-Ro lớn chạy giữa đảo và Oban từ bến phà tại Castlebay, và mất khoảng 5 giờ. Một chiếc phà xe nhỏ hơn nối đảo đến Nam Uist và đi giữa Ardmore (') ở phía bắc đảo và ở Eriskay ('). Phà đi mất khoảng 40 phút. Cả hai đều được điều hành bởi Caledonia MacBrayne. Đường nội bộ. Có xe buýt địa phương, sử dụng A888 hình tròn và đường đến bến phà phía bắc đến Eriskay và sân bay, và thường đi cùng với thời gian bay và thời gian phà.
1
null
The Shard hay Shard London Bridge (tên cũ là London Bridge Tower hay Shard of Glass) hay Shard of Glass) là một tòa nhà chọc trời ở Southwark, Luân Đôn. Tòa nhà cao 309,6 mét trên mặt đất, là tòa nhà cao nhất châu Âu tới ngày 30 tháng 10 năm 2012. Nó cũng là cấu trúc đứng độc lập cao thứ nhì ở Vương quốc Anh, sau tháp cao 330 mét của đài phát tín hiệu Emley Moor ở West Yorkshire. The Shard thay thế Southwark Towers, một tòa nhà văn phòng cao 24 tầng xây ở địa điểm này vào năm 1975. Renzo Piano, kiến trúc sư thiết kế the Shard, đã làm việc với hãng kiến trúc Broadway Malyan trong giai đoạn lên quy hoạch. Tòa tháp có 72 tầng ở được với một triển lãm nghệ thuật và một tầng quan sát ngoài trời, là tháp quan sát cao nhất Vương quốc Anh, nằm ở tầng 72, ở độ cao 245 mét. Tháp The Shard có hình kim tự tháp. Tòa tháp được hoàn thành tháng 4 năm 2012 và mở cửa cho công chúng ngày 5 tháng 7 năm 2012. The Shard bị mất ngôi vị tòa nhà cao nhất châu Âu vào tay tòa nhà Mercury City Tower của Nga cao 338m hoàn thành vào ngày 1 tháng 11 năm 2012.
1
null
Nhà thiết kế và chế tạo sản phẩm theo đơn đặt hàng (thường gọi tắt là ODM, viết tắt của "Original design manufacturer") là một công ty thiết kế và sản xuất một sản phẩm, theo quy định, cuối cùng được đổi thương hiệu bởi một công ty khác để bán. Các công ty như vậy cho phép công ty sở hữu hoặc cấp phép cho thương hiệu sản xuất sản phẩm (dưới dạng bổ sung hoặc duy nhất) mà không phải tham gia vào tổ chức hoặc điều hành nhà máy. Các đơn vị phát triển đã tăng kích thước trong những năm gần đây và vào năm 2015, nhiều người có quy mô để xử lý sản xuất nội bộ cho các sản phẩm được thương hiệu của công ty mua. Điều này trái ngược với một nhà sản xuất hợp đồng (CM). Các khách hàng doanh nghiệp có thể tận dụng điều này để loại bỏ thời gian R&D và bắt đầu bán hàng càng sớm càng tốt. Một hình thức sản xuất ODM khác là sản phẩm nhãn hàng riêng (Private Label), có nghĩa là nhà sản xuất ODM thiết kế và bán thành phẩm độc quyền cho một nhà bán lẻ. Mô hình này đặc biệt được sử dụng trong thương mại quốc tế, trong đó một công ty địa phương được sử dụng để sản xuất hàng hóa cho một công ty nước ngoài có lợi thế trong giao dịch, chẳng hạn như đầu vào lao động thấp, liên kết giao thông hoặc gần thị trường. Các công nghệ tiên tiến và/hoặc được cấp bằng sáng chế được phát triển / sở hữu bởi ODM là một nguyên nhân khác cho mô hình phân phối sản phẩm này. Các mô hình ODM cũng được sử dụng khi luật sở hữu địa phương có thể cấm người nước ngoài sở hữu trực tiếp tài sản, cho phép một công ty địa phương sản xuất cho một công ty thương hiệu - cho thị trường nội địa hoặc xuất khẩu. Loại hình kinh doanh này là một phần của "gia công". Ví dụ: Compal Electronics sản xuất máy tính xách tay và màn hình, và hoạt động như một nhà sản xuất hàng loạt cho nhiều công ty thương hiệu, được hỗ trợ bởi chi phí lao động thấp, vận chuyển chi phí thấp và tính chất gần như hàng hóa của đầu vào vật lý (trong trường hợp của Compal, máy tính các thành phần). Tính đến năm 2011, các công ty ODM Đài Loan đã tạo ra chín mươi bốn phần trăm tất cả các máy tính xách tay. Sở hữu trí tuệ. Các công ty tạo ra tài sản trí tuệ của riêng họ và rất chủ động trong việc cấp bằng sáng chế cho nó. Hầu hết các bằng sáng chế của họ được nộp tại Mỹ, Trung Quốc và Đài Loan.
1
null
Thuật ngữ kim tự tháp Bosnia đã được sử dụng để chỉ một cụm của các kiến tạo địa chất tự nhiên đôi khi được gọi là "flatiron" gần thị trấn Bosnia Visoko, phía tây bắc của Sarajevo. Ngọn đồi có tên là Visočica trở thành tâm điểm của sự chú ý quốc tế trong tháng 10 năm 2005 sau một chiến dịch truyền thông thúc đẩy ý tưởng rằng chúng là nhân tạo và kim tự tháp cổ đại lớn nhất trên trái đất. Trong phân tích địa điểm, lịch sử được biết đến về nó, và các cuộc khai quật, các nhà địa chất, khảo cổ học, và các nhà khoa học khác đã kết luận rằng chúng là các kiến tạo tự nhiên và không có dấu hiệu của công trình do con người xây dựng. Ngoài ra, các nhà khoa học đã chỉ trích các cơ quan Bosnia ủng hộ các tuyên bố kim tự tháp nói rằng: "Chương trình này là một trò lừa bịp tàn nhẫn đối với công chúng không hoài nghi và không có chỗ đứng trong thế giới của khoa học chân chính". Đồi Visočica cao 213 mét, thị trấn trên đó phố cổ Visoki từng tọa lạc, có hình gần như kim tự tháp. Ý tưởng cho rằng nó tạo thành một dinh thự cổ kính nhân tạo đã được công bố bởi tác gia và nhà chế tác kim loại Bosnia Semir Osmanagić. Các cuộc khai quật tiếp theo của ông ở địa điểm này đã phát hiện ra những gì ông tuyên bố là một cao nguyên lối vào trải nhựa và đường hầm, cũng như các khối đá và vữa cổ xưa mà ông đã từng bao phủ cấu trúc. Osmanagić đã tuyên bố rằng các khai quật liên quan đến một nhóm các nhà khảo cổ quốc tế từ Australia, Áo, Ireland, Scotland và Slovenia. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ học mà ông nêu tên đã nói rằng họ đã không đồng ý tham gia và không bao giờ đến địa điểm đó. Các cuộc khai quật bắt đầu vào tháng 4 năm 2006, và đã tham gia định hình lại các ngọn đồi để làm cho nó trông giống như một kim tự tháp của người Maya.
1
null
"And I Love Her" là ca khúc nổi tiếng của The Beatles, được sáng tác chính bởi Paul McCartney (được ghi cho Lennon-McCartney). Đây là ca khúc thứ 5 nằm trong album thứ ba của họ, "A Hard Day's Night". "And I Love Her" được phát hành dưới dạng đĩa đơn cùng "If I Fell" vào ngày 20 tháng 7 năm 1964 tại Mỹ bởi Capitol và đạt vị trí số 12 tại "Billboard". The Beatles chỉ một lần duy nhất trình diễn "And I Love Her" ngoài Abbey Road Studios: ngày 14 tháng 7 năm 1964, ca khúc được trình bày trong trường quay chương trình "Top Gear" của BBC và được phát sóng 2 ngày sau đó. Sáng tác. Phần lớn ca khúc là giọng chuyển từ Mi sang giọng thứ Đô thăng. Tất cả đều chuyển sang Fa trước khi vào đoạn solo và kết thúc bởi giọng thứ của nó, Rê. Ca khúc được viết chủ yếu bởi McCartney, John Lennon thừa nhận trên tạp chí "Playboy" rằng anh chỉ đóng góp vào phần nối ("A love like ours/Could never die/As long as I/Have you near me"). Nhà phát hành của The Beatles, Dick James, cũng củng cố điều này khi tiết lộ rằng đoạn nối là ý tưởng của George Martin (trong bản nháp thu của ca khúc được cho vào trong album "Anthology 1" vào năm 1995, đoạn nối này không tồn tại). Theo James, Lennon muốn có một đoạn nghỉ và "sau khoảng nửa tiếng (họ) đã hoàn thành đoạn nối cho một ca khúc vô cùng thành công." McCartney thì lại phủ nhận: "Đoạn nối là của tôi... Tôi viết bằng chính tay tôi. Tôi nói rằng John đã giúp tôi đôi chút, song thật quá đáng nếu anh ấy nói đoạn đó là do anh ấy viết." ""Từ "and" trong tiêu đề là một yếu tố rất quan trọng. "And I Love Her" nghe rất thuận tai, khiến bạn cuốn theo nó ngay từ phút đầu tiên"", McCartney nói, "Tiêu đề nằm trong đoạn lời thứ 2 và nó không hề lặp lại. Đây là một câu nói khá quen, nhưng nó lại chỉ gần giống thế: 'Oh... I love you'." McCartney gọi "And I Love Her" là "bản ballad mà tôi thấy ngạc nhiên với chính bản thân mình". Lennon nói đây chính là tiền bản của "Yesterday". Ghi âm. Ca khúc này được ghi âm trong 3 ngày tại phòng thu số 2 ở Abbey Road. Quá trình chỉnh âm được thực hiện bởi George Martin và Norman Smith. Một kỹ thuật viên âm thanh khác là Richard Langham. Ngày 1. Công việc bắt đầu vào lúc 2 rưỡi ngày thứ ba, 25 tháng 2 năm 1964, cũng là ngày thu đầu tiên của ca khúc "A Hard Day's Night" và album cùng tên. hai bản thu đã được thực hiện, bản thứ nhất không hoàn thiện, còn bản thứ hai thì đạt yêu cầu. Tuy nhiên, The Beatles mong muốn ca khúc tinh tế hơn. Bản thu này chính là bản nằm trong "Anthology 1" khi không có đoạn nối. Các nhạc cụ được sử dụng: Ngày 2. Ngày hôm sau, có tới 17 bản thu được thực hiện trong khoảng từ 7-10h tối. Cho dù Starr đã chuyển sang dùng bongo và phách song họ cũng không cảm thấy hài lòng. Trong khoảng thời gian này, họ nghỉ ngơi và ngồi viết đoạn nối. Một đoạn chuyển ngắn từ bản thu thứ 11 có thể nghe trong phần 8 của "The Beatles Anthology" khi McCartney hát "And if you saw my love, I'd love her [too]..." trước khi bị ngắt. Ngày 3. Họ thực hiện hai bản thu duy nhất vào ngày thứ năm, 27 tháng 2. Tất cả bắt đầu vào lúc 10h sáng. Bản thứ 20 là phần ca khúc cơ bản, còn bản thứ 21 là một bản ghi đè với một lần nữa giọng của McCartney và phách của Starr. Các nhạc cụ sử dụng trong buổi thu ngày 2 và 3: Phát hành. Tất cả các bản mix đều được thực hiện trên bản thu thứ 21. Mono Remix 1. Bản thu mono đầu tiên được thực hiện tại phòng thu thứ nhất ở Abbey Road vào ngày thứ ba, 3 tháng 3. Trong buổi chỉnh âm này, Martin và Smith là nhà sản xuất và kỹ thuật viên. Ngoài ra còn có sự góp mặt của một kỹ thuật viên nữa là A.B.Lincoln. Việc mix chủ yếu vào phần hát của McCartney, theo từng câu một được chỉnh sang máy 2-băng. Bản mix được gửi cho Capitol và United Artists Records vào ngày 9 tháng 6 và được phát hành trong album soundtrack "A Hard Day's Night" vào ngày 24 tháng 6 năm 1964. Bản stereo của album dùng kỹ thuật "fake stereo" từ bản mix mono này. Trong album "Something New" (1964) của Capitol, ca khúc này cũng dùng bản mono. Nó cũng được dùng trong bộ phim "A Hard Day's Night" nhưng chơi với tốc độ chậm hơn. Ngày nay, ta có thể nghe nó trong "Capitol Albums Volume 1" box set. Mono Remix 2. Bản mix mono thứ 2 được thực hiện tại phòng thu số 1 của Abbey Road ngày 9 tháng 6. Những người thực hiện lần này là Martin, Smith và Geoff Emerick. Trong bản sửa này, toàn bộ phần lời của McCartney được chỉnh sang máy 2-băng, ngoại trừ 2 câu đầu của đoạn lời thứ 2. Đây là bản được phát hành vào ngày 10 tháng 6 năm 1964 trong album "A Hard Day's Night" mono tại Anh. Nó cũng nằm trong "The Beatles in Mono" box set. Stereo Mix. Bản stereo được thực hiện vào ngày 22 tháng 6 ngay sau bản mix mono. Bản stereo có mặt trong album "A Hard Day's Night" stereo tại Anh ngày 10 tháng 7 năm 1964. Nó cũng xuất hiện trong album "Something New" stereo của Capitol, cũng như trong bản stereo của "Capitol Albums Volume 1" box set. Stereo Mix mở rộng. Ấn bản tại Đức của "Something New" có bản chỉnh sửa từ bản stereo ngày 22 tháng 6 với việc lặp lại tiếng gảy guitar kết bìa tới 5 lần chứ không phải 3. Bản sửa xuất hiện trong album "Rarities" tại Mỹ vào năm 1980. Không ai biết nó được sửa vào khi nào, và nó cũng không được phát hành dưới dạng CD. Thành phần tham gia sản xuất. Theo Ian MacDonald.
1
null
Congonhas (Congonhas do Campo) là một thành phố lịch sử thuộc bang Minas Gerais, Brasil. Nó có diện tích 305,579 km², dân số năm 2007 là 48066 người, mật độ 149,3 người/km².. Nó nằm về phía Nam của thành phố Belo Horizonte, thủ phủ của tiểu bang Minas Gerais khoảng 90 km (56 dặm) Thành phố này đáng chú ý bởi nhà thờ của thành phố - Bom Jesus do Matosinhos với các tác phẩm điêu khắc liên quan đến nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Feliciano Mendes thế kỷ 18. Nó được tạo ra bởi Aleijadinho, một trong những nghệ sĩ bậc thầy về phong cách baroque trên thế giới. Mười hai tác phẩm điêu khắc của các tiên tri Cựu Ước xung quanh sân thượng được coi là những tuyệt tác. Năm 1985, UNESCO đưa nhà thờ này vào danh sách Di sản thế giới.
1
null
Gerald Anderson (tên khai sinh là Gerald Randolph Opsima Anderson, Jr., sinh ngày 7 tháng 3 năm 1989, là một nam diễn viên người Mỹ gốc Philippines đã đóng vai người thuê nhà chung trong phiên bản mùa đầu tiên của sô truyền hình thực tế của Philippines như "", và đã được biết đến nhiều nhất cho các vai diễn của anh trong các teleserye" như Sana Maulit Muli", "My Girl", "Tayong Dalawa", "Kung Tayo'y Magkakalayo", Wansapanataym: Rod Santiago's: Buhawi Jack, và "Budoy". Anh hiện đang quản lý và có hợp đồng với Star Magic, một hãng của ABS-CBN. Gerald Randolph Opsima Anderson, Jr tên lúc sinh là con của Gerald Randy Anderson, Sr, người hướng dẫn người Mỹ gốc Kavkaz trong Hải quân Philippines người đi qua lại giữa Hoa Kỳ và các Zambales, và mẹ là Evangeline Opsima, một nữ doanh nhân Philippines từ thành phố General Santos, Nam Cotabato, Mindanao, Philippines. Khi anh lên 3, anh và gia đình chuyển đến San Antonio, Texas. Anh có 2 chị gái và một em trai. Ở tuổi 14, Anderson và gia đình anh trở về thành phố General Santos. Anderson sử dụng lưu loát bằng cả tiếng Anh và tiếng Tagalog thông qua công việc của mình, anh cũng có thành thạo tiếng Cebuano. Anderson đã tiết lộ trong năm 2010 anh và Kim Chiu đã có một mối quan hệ lãng mạn trong 5 năm từ năm 2006.
1
null
Diamantina() là một đô thị thuộc bang Minas Gerais, Brasil. Đô thị này có diện tích 3869,8 km², dân số năm 2007 là 44.229 người, mật độ 11,4 người/km². Trong thời kỳ thuộc địa thế kỷ 18, nơi đây được biết đến với tên gọi Arraial do Tijuco. Vào thời đó, nơi đây là một trung tâm khai thác kim cương. Thành phố cũng là ví dụ nổi bật cho việc bảo tồn kiến trúc Baroque ở Brazil. Vì vậy, năm 1999, nó đã được UNESCO công nhận là một di sản thế giới. Địa lý. Thành phố nằm trong một khu vực núi, nằm cách thành phố thủ phủ bang là Belo Horizonte 292 km về phía Bắc. Độ cao trung bình của thành phố là 1.114 mét so với mực nước biển. Sông Jequitinhonha, một trong những dòng sông quan trọng nhất của Brazil chảy qua phía Đông của thành phố. Kinh tế. Các hoạt động kinh tế chủ yếu là du lịch, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp. GDP năm 2005 là 184 triệu Reais, với 140 triệu đến từ các dịch vụ, 23 triệu từ ngành công nghiệp, và 8 triệu USD từ nông nghiệp. Trong năm 2006, đã có 1.248 cơ sở sản xuất trên 73.000 ha đất. Chỉ có 24 cơ sở có máy kéo. Có 14.000 đầu gia súc.
1
null
Trần Hoàn công (chữ Hán: 陳桓公; trị vì: 744 TCN - 707 TCN), tên thật là Quy Bảo (媯鮑), là vị vua thứ 12 của nước Trần – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Trần Hoàn công là con của Trần Văn công – vua thứ 11 nước Trần. Năm 745 TCN, Hoàn công mất, Quy Bảo lên nối ngôi, tức là Trần Hoàn công. Năm 719 TCN, Tống Thương công ghét Trịnh Trang công dung nạp công tử Phùng (đối thủ tranh ngôi), nên kêu gọi các nước Vệ, Sái, Trần cất quân đánh Trịnh. Trần Hoàn công hưởng ứng mang quân cùng nước Tống sang Trịnh, vây đất Đông Môn một thời gian rồi rút về nước. Vua Vệ là Chu Hu vừa giết Vệ Hoàn công cướp ngôi. Đại phu Thạch Thác già cả, thỉnh cầu Trần Hoàn công ra tay giết Chu Hu cùng con Thạch Thác là Thạch Hậu – người giúp sức cho Chu Hu. Nhân Chu Hu và Thạch Hậu sang nước Trần, Trần Hoàn công bèn bắt giữ cả hai, rồi báo cho nước Vệ biết. Nước Vệ cử Hữu tể Xú sang nước Trần giết Chu Hu ở đất Bộc và lập vua mới là Vệ Tuyên công. Năm 717 TCN, Trịnh Trang công mang quân đánh nước Trần báo thù việc giúp Tống và Vệ đánh mình. Cuối cùng hai nước giảng hòa, nước Trần xin kết thông gia. Trịnh Trang công bằng lòng, lấy con gái Trần Hoàn công cho thế tử Hốt. Năm 711 TCN, Hoa Đốc nước Tống giết Tống Thương công. Trịnh Trang công bèn họp các nước Lỗ, Tề, Trần cùng bàn về loạn nước Tống. Hoa Đốc bèn mang của đút lót cho cả bốn nước và xin đón công tử Phùng về nước làm vua. Trần Hoàn công và các chư hầu bằng lòng, Trịnh Trang công cho Tử Phùng về nước lên ngôi, tức là Tống Trang công. Tháng giêng năm 707 TCN, Trần Hoàn công qua đời. Ông ở ngôi được 38 năm. Em ông là công tử Đà lên ngôi.
1
null
Ouro Preto là một đô thị thuộc bang Minas Gerais, Brasil. Đô thị này có diện tích 330,9 km², dân số năm 2007 là 69058 người, mật độ 55,5 người/km². Thành phố là một thị trấn cổ về việc khai thác vàng trong dãy núi Serra do Espinhaço và được công nhận là một di sản thế giới của UNESCO vì kiến trúc Baroque nổi bật của nó. Lịch sử. Được thành lập vào cuối thế kỷ 17, Ouro Preto (có nghĩa là "Vàng đen") ban đầu được gọi là Vila Rica, hay "làng giàu", là tâm điểm của cơn sốt vàng và thời kỳ vàng son của Brazil vào thế kỷ 18 dưới sự cai trị của thực dân Bồ Đào Nha. Thành phố có kiến trúc thuộc địa Bồ Đào Nha, được bảo quản tốt, với các tòa nhà đô thị hiện đại. Các tòa nhà hiện đại được xây dựng phải tuân thủ các tiêu chuẩn duy trì lịch sử của thành phố. Thành phố có nhiều nhà thờ thế kỷ 18, 19 được trang trí bằng vàng và các tác phẩm điêu khắc của Aleijadinho làm cho Ouro Preto một địa điểm du lịch chính của vùng. Sự giàu có từ khai thác vàng trong thế kỷ 18 tạo ra một thành phố thu hút trí thức châu Âu. Triết học và nghệ thuật phát triển mạnh và bằng chứng của một sự hồi sinh kiến trúc baroque được gọi là "Barroco Mineiro" được minh họa trong kiến trúc cũng như các nhà điêu khắc của Aleijadinho, bức họa của Mestre Athayde, các bản nhạc của nhà soạn nhạc Lobo de Mesquita, và thi ca của nhà thơ như Tomás António Gonzaga. Vào thời điểm đó, Vilaxta Rica là thành phố lớn nhất ở Brazil, với 100.000 cư dân. Năm 1789, Ouro Preto đã trở thành nơi nổ ra phong trào ly khai Mineira Inconfidência, một cuộc đấu tranh giành độc lập nhưng không thành công. Nhân vật hàng đầu là Tiradentes, đã bị treo cổ trở thành một sự răn đe cho bất kỳ một cuộc cách mạng nào trong tương lai. Năm 1876, Escola de Minas (trường Mines) được thành lập. Trường này đã thành lập các nền tảng công nghệ cho một số những khám phá khoáng sản ở Brazil. Ouro Preto là thủ phủ của Minas Gerais từ 1720 cho đến năm 1897, khi nhu cầu của chính phủ tăng lên thì thị trấn trong thung lũng này quá bé nhỏ để trở thành thủ phủ lâu dài. Chính quyền bang đã được chuyển đến thành phố mới theo kế hoạch, Belo Horizonte.
1
null
"Bài này viết về một đô thị ở Brasil, tên này tương ứng với nhiều định nghĩa khác, xem Perdigão (Định hướng)" Perdigão là một đô thị thuộc bang Minas Gerais, Brasil. Đô thị này có diện tích 249,845 km², dân số năm 2007 là 7310 người, mật độ 26,3 người/km².
1
null
Bắc Thành dư địa chí (; còn gọi là Bắc Thành chí lược "北城志略", hay Bắc Thành địa dư chí lục "北城地輿志錄") là một bộ sách dư địa chí của Việt Nam, do Tổng trấn Bắc Thành Lê Chất (còn được gọi là Lê Công Chất) tổ chức biên soạn. Chưa rõ năm khởi soạn và hoàn thành, chỉ biết bộ sách ra đời dưới triều vua Minh Mạng, đến 1845, lại được Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý hiệu đính và bổ sung, đồng thời viết bài tựa nói rõ lai lịch công trình ấy. Giới thiệu. Bài Tựa của Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (1795 - 1868), viết vào năm Thiệu Trị thứ 5 (Ất Tỵ, 1845) đề ở đầu bộ "Bắc Thành dư địa chí" đã cho biết một phần lai lịch và nội dung của bộ sách, trích (dịch): Theo bộ sách "Bắc Thành dư địa chí" mà nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp đã đọc được, thì công trình ấy gồm 12 quyển, còn ở dạng chép tay, viết bằng chữ Hán trên sách giấy bản thường (26 x 16 cm), cộng chung là 336 tờ (mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 25 hay 26 chữ). Tuy chữ không đẹp, nhưng nét chữ già dặn, cẩn thận, nhưng viết sai nhiều. Nội dung bộ sách chép về 12 trấn ở Bắc Thành dưới triều Gia Long, tức 12 tỉnh thành dưới triều Minh Mạng về sau . Tuy nhiên, theo bản dịch in trong "Tổng tập dư địa chí Việt Nam" (tập 3), thì "Bắc Thành dư địa chí" chỉ có 4 quyển, và được phân chia ra như sau: Đây là bản dịch của Tú tài Hán học Đặng Thu Kình, Nha Văn hóa - Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1962. Căn cứ vào lời "Tựa" của Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, thì rõ ràng bản dịch này hãy còn thiếu nhiều. Giá trị. Tuy là nhà quân sự, nhưng Lê Chất đã tổ chức biên soạn (có sự tham gia của ông và của các nho sĩ đương thời) được một công trình dư địa chí lớn, có giá trị và thật sự rất cần thiết cho người đời sau. Đóng góp ấy của ông thật đáng được nêu gương và ca ngợi
1
null
Três Corações là một đô thị thuộc bang Minas Gerais, Brasil. Đô thị này có diện tích 825,924 km², dân số năm 2007 là 71737 người, mật độ 86,4 người/km². Khí hậu. Três Corações có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (phân loại khí hậu Köppen "Cwa") đặc trưng bởi mùa hè ẩm ướt, ấm áp và mùa đông khô mát.
1
null