text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Carlos Andrés Pérez Rodríguez (27 tháng 10 năm 1922 – 25 tháng 12 năm 2010), còn được gọi là CAP và thường được gọi là El Gocho (do nguồn gốc Andes của ông), là một chính trị gia Venezuela từng giữ chức Tổng thống Venezuela giai đoạn 1974–1979 và một lần nữa từ năm 1989 đến năm 1993. Nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên được gọi là "Saudi Venezuela" do sự thịnh vượng kinh tế và xã hội của quốc gia này từ thu nhập rất lớn từ xuất khẩu dầu khí. Tuy nhiên, thời kỳ thứ hai của ông đã chứng kiến sự tiếp nối cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1980, và một loạt các khủng hoảng xã hội, một cuộc nổi dậy của quần chúng (có tên gọi là Caracazo) và hai nỗ lực đảo chính vào năm 1992. Vào tháng 5 năm 1993, ông trở thành Tổng thống Venezuela đầu tiên bị buộc phải từ chức theo phán quyết của Tòa án tối cao, tham ô 250.000.000 bolívar thuộc một quỹ tùy ý tổng thống. | 1 | null |
Jayma Suzette Mays (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1979) là một diễn viên và ca sĩ người Mỹ. Cô được biết đến nhiều nhất với vai diễn Emma Pillsbury trong sê ri phim truyền hình nhạc kịch "Glee" của Fox. Cô cũng xuất hiện trong hai bộ phim "" và "The Smurfs."
Tiểu sử.
Jayma sinh ra và lớn lên ở Grundy, Virginia, là con gái của Paulette (nhũ danh Norris) và James Mays, giáo viên trung học đồng thời làm việc trong ngành khai thác than. Khi còn nhỏ Jayma tỏ ra quan tâm tới nhiều lĩnh vực từ ca hát đến toán học. Ở tuổi 15, Jayma được mời làm người đọc cáo phó cho một đài phát thanh địa phương. Sau khi tốt nghiệp trung học tại Grundy High School, cô nhận được bằng cao đẳng của trường Southwest Virginia Community College. Sau đó Jayma theo học tại trường đại học Virginia Tech trong vòng một năm rồi chuyển đến trường đại học Radford và tốt nghiệp với bằng sân khấu.
Sự nghiệp.
Năm 2004, cô xuất hiện lần đầu tiên trên truyền hình trong phim "Joey". Năm 2005, cô tham gia vào bộ phim điện ảnh đầu tay với một vai phụ trong "Red Eye". Các vai diễn khác của Jayma nằm trong các sê ri phim truyền hình như "Six Feet Under", "The Comeback", "Entourage", "Stacked", "How I Met Your Mother", "Heroes", "Pushing Daisies", "Ghost Whisperer" và "Ugly Betty" cũng như các bộ phim điện ảnh như "Bar Starz", "Flags of Our Fathers", "Blind Guy Driving", "Epic Movie", ' và '. Cô đóng vai một bệnh nhân trong phim "House" (tập "Sleeping Dogs Lie") năm 2006. Cô còn xuất hiện trong video của bài "Awakening" (Switchfoot) cùng với chồng mình là Adam Campbell.
Jayma đảm nhận vai Emma Pillsbury trong sê ri phim truyền hình "Glee" của Fox, công chiếu vào ngày 19 tháng 5 ăm 2009. Tháng 3 năm 2010, Jayma thủ vai nữ chính trong bộ phim hành động pha lẫn hoạt hình "The Smurfs".
Đời tư.
Jayma Mays kết hôn với nam diễn viên Adam Campbell vào ngày 28 tháng 10 năm 2007. | 1 | null |
Đại học Ljubljana (tiếng Slovenia: Univerza v Ljubljani, viết tắt: UL, tiếng Latin: Universitas Labacensis) là trường đại học lâu đời nhất và lớn nhất ở Slovenia. Với hơn 63.000 sinh viên theo học đại học và sau đại học, đây là một trong những trường đại học lớn nhất ở châu Âu.
Mặc dù các học viện nhất định (đặc biệt là triết học và thần học) đã được thành lập làm các cơ sở giáo dục được chỉ huy bởi Dòng Tên vào đầu thế kỷ 17, trường đại học này đã được thành lập lần đầu tiên năm 1810 dưới tên gọi "Ecoles centrales"' bởi chính quyền Đế quốc Pháp của các tỉnh Illyria. Trường đại học đã bị giải tán năm 1813, khi Chính phủ Áo giành lại kiểm soát.
Trong nửa sau của thế kỷ 19, đã có nhiều yêu sách chính trị cho việc thành lập trường đại học tiếng Slovenia ở Ljubljanả. Họ đã đạt được đà trong thời đại "fin de siècle", khi một số lượng đáng kể những nhà học thuật người Slovenia làm việc trên khắp Trung Âu, trong khi con số đông đảo hơn các sinh viên Slovenia đã ghi danh vào trường đại học tiếng nước ngoài của Đế quốc Áo-Hung, đặc biệt là tại các vùng đất Áo và Séc (Đại học Charles ở Praha hoặc Đại học Olomouc, trong đó triết gia nguwif Slovenia Franc Samuel Karpe trở thành hiệu trưởng vào năm 1781). Trong thập niên 1890, một hội đồng quản trị thống nhất cho việc thành lập một trường đại học Slovenia được thành lập, với Ivan Hribar, Henrik Tuma, và Aleš Ušeničnik là các nhà lãnh đạo chính của trường. Năm 1898, nghị viện vùng Carniola thành lập một quỹ học bổng cho tất cả những sinh viên đã được lập kế hoạch cho một chuẩn bị có đủ tư cách với điều kiện là họ sẽ chấp nhận một vị trí ở Đại học Ljubljana khi trường thành lập. | 1 | null |
Jessalyn Sarah Gilsig (sinh ngày 30 tháng 11 năm 1971) là một nữ diễn viên người Canada được biết đến với các vai diễn trong "Boston Public" và "Nip/Tuck" cũng như vai Terri Schuester, vợ cũ của Will Schuester, trong "Glee". Cô cũng xuất hiện trong một vài tập của "NYPD Blue" và "Prison Break", đồng thời đảm nhận một vai phụ trong "Heroes" bên cạnh một số phim truyền hình khác.
Tiểu sử.
Jessalyn được sinh ra ở Montreal, Quebec, Canada, là con gái của Claire, nhà văn, và Toby Gilsig, kỹ sư. Cô bắt đầu diễn xuất từ năm 12 tuổi. Cô học trung học tại Trafalgar School for Girls ở trung tâm thành phố Montreal. Sau đó cô học đại học tại American Repertory Theater của trường đại học Harvard, và sau đó, từ năm 1989 đến năm 1993, ở trường đại học McGill. Cô tốt nghiệp với bằng Cử nhân Mỹ thuật vào năm 1993.
Sự nghiệp.
Cô bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một diễn viên lồng tiếng. Cô đã tham gia vào các bộ phim "Mascarade" và "The Journey Home" cũng như các sê ri phim truyền hình "The Little Flying Bears", "Young Robin Hood" và "Gulliver's Travels".
Cô chuyển tới thành phố New York vào năm 1995 nơi cô góp mặt trong một số vở kịch. Mặc dù cô đã xuất hiện trong một số phim do Canada sản xuất cuối những năm 80 đầu những năm 90, sự nghiệp diễn xuất trên truyền hình của cô bắt đầu cuối những năm 90 khi cô trở thành khách mời trong một số sê ri phim truyền hình như "Viper" và "Seven Days". Tuy nhiên, vai chính đầu tiên của cô nằm trong "Boston Public".
Sau khi xuất hiện với tư cách khách mời trong hai tập phim "The Practice", Jessalyn tiếp tục tham gia vào hai tập phim "Snoops". Mặc dù phim bị hủy bỏ trước khi tập phim của Jessalyn lên sóng, Kelley đã viết kịch bản của nhân vật Lauren Davis trong "Boston Public" dành riêng cho cô. Phim bắt đầu lên sóng vào tháng 9 năm 2000 trên FOX. Jessalyn ngừng tham gia phim sau khi mùa thứ hai kết thúc vào tháng 5 năm 2002.
Sau đó, Jessalyn thủ vai Gina Russo trong phim "Nip/Tuck" từ năm 2003 đến năm 2008. Cô cũng xuất hiện trong 5 tập phim "NYPD Blue" (2004) và 4 tập phim "Prison Break" (2005). Đầu năm 2006, cô trở thành khách mời trong một tập phim "Law & Order."
Bên cạnh những vai diễn trong các phim truyền hình và trên sân khấu kịch, Jessalyn còn tham gia vào một số bộ phim điện ảnh. Năm 1998, cô đảm nhận một vai phụ trong "The Horse Whisperer"
và lồng tiếng cho nhân vật Kayley trong bộ phim hoạt hình "Quest for Camelot". Năm 2004 cô xuất hiện trong các bộ phim "Chicks with Sticks" và "See This Movie". Năm 2007, cô thủ vai chính trong bộ phim "Flood".
Từ năm 2007 đến năm 2008 cô có một số vai phụ trong "Friday Night Lights" (vai Shelley, em gái của Tami Taylor) và "Heroes" (vai mẹ đẻ của Meredith Gordon). Jessalyn thủ vai chính Terri Schuester trong sê ri phim truyền hình "Glee" của Fox từ năm 2009 đến năm 2011. Năm 2012 nhân vật của cô quay trở lại trong tập "Glee, Actually".
Đời tư.
Jessalyn và Bobby Salomon gặp nhau lần đầu tiên khi họ đang là học sinh trường trung học Montreal và hẹn hò trong một khoảng thời gian ngắn. Sau khi Bobby, khi đó đang là một nhà sản xuất phim, chuyển tới Hollywood vào năm 2002, hai người bắt đầu hẹn hò nhau một lần nữa. Họ kết hôn vào ngày 1 tháng 1 năm 2005. Vì Bobby là người Do Thái và Jessalyn cũng có bố là người Do Thái nên họ tổ chức một đám cưới theo truyền thống Do Thái. Bobby và Jessalyn có một cô con gái tên là Penelope sinh ngày 26 tháng 9 năm 2006. Jessalyn nộp đơn xin li hôn Bobby vào ngày 8 tháng 9 năm 2010 do những bất đồng không thể hòa giải. Họ bắt đầu ly thân từ năm 2009. | 1 | null |
John Owen Brennan (sinh ngày 22 tháng 9 năm 1955) là Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương. Trước đó ông là trưởng cố vấn chống khủng bố của Tổng thống Mỹ Barack Obama, chính thức chức danh là Phó cố vấn An ninh Quốc gia về An ninh nội địa và Chống khủng bố, và Trợ lý Tổng thống. Trách nhiệm bao gồm kế hoạch giám sát để bảo vệ đất nước khỏi chủ nghĩa khủng bố và ứng phó thiên tai, và ông gặp với Tổng thống hàng ngày. Trước đó, ông cố vấn cho Obama về chính sách đối ngoại và các vấn đề tình báo trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008 và quá trình chuyển đổi. Brennan rút tên của mình khỏi ứng viên cho chức Giám đốc CIA trong chính quyền Obama đầu tiên do các mối quan ngại về sự ủng hộ của ông cho việc sử dụng tra tấn của CIA dưới thời Tổng thống George W. Bush. Thay vào đó, Brennan được bổ nhiệm làm Phó Cố vấn an ninh Quốc gia, một vị trí mà không cần Thượng viện xác nhận.
Brennan có 25 năm làm việc ở CIA bao gồm những công việc làm nhà phân tích Cận Đông và Nam Á, như là trưởng trạm ở Ả-rập Xê-út, và là giám đốc các Trung tâm Chống khủng bố quốc gia. Sau khi rời công việc chính phủ trong năm 2005, Brennan đã trở thành giám đốc điều hành của Tổng công ty Phân tích, một doanh nghiệp tư vấn an ninh và giữ chức Chủ tịch của Liên minh An ninh Quốc gia và Tình báo, một hiệp hội của các chuyên gia tình báo.
Tổng thống Obama đề cử Brennan là giám đốc của Cơ quan Tình báo Trung ương vào ngày 7 tháng 1 năm 2013. ACLU kêu gọi Thượng viện Hoa Kỳ tiến hành bổ nhiệm cho đến khi có khẳng định rằng "tất cả các hành vi của ông là trong khuôn khổ pháp luật" tại CIA và Nhà Trắng. John Brennan đã được phê duyệt bởi Ủy ban Tình báo Thượng viện vào ngày 05 tháng 3 năm 2013 để kế nhiệm David Petraeus làm Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương một cuộc bỏ phiếu với tỷ lệ 12-3.
Thời trẻ và giáo dục.
Brennan, con trai một người nhập cư Ai Len từ Roscommon, Ireland, lớn lên ở North Bergen, New Jersey. Cậu học Trường cơ sở Immaculate Heart of Mary, và tốt nghiệp từ Trường trung học Saint Joseph of the Palisades ở West New York, New Jersey.
Khi đang đi trên một chiếc xe buýt đến lớn ở Đại học Fordham, cậu nhìn thấy một quảng cáo trên "The New York Times" rằng CIA đang tuyển người, và cảm thấy sự nghiệp ở CIA phù hợp cho "wanderlust" của anh và mong muốn của anh làm công việc công. Cậu nhận bằng cử nhân khoa học chính trị từ Fordham năm 1977. Các nghiên cứu của ông bao gồm một năm học ở nước ngoài học tiếng Ả Rập và nghiên cứu Trung Đông tại Đại học Mỹ ở Cairo. Anh nhận bằng thạc sĩ trong chính phủ với tập trung về các nghiên cứu Trung Đông từ Đại học Texas tại Austin vào năm 1980. Ông nói tiếng Ả Rập thông thạo.
Làm việc cho CIA.
Brennan đã bắt đầu sự nghiệp với CIA với công việc nhà phân tích, có lẽ là tại khu vực Washington DC, và đã trải qua 25 năm với cơ quan này. Có thời điểm trong sự nghiệp của ông, ông là một người báo cáo ngắn hàng ngày cho Tổng thống Bill Clinton. Năm 1996 ông là Trưởng trạm CIA ở Riyadh, Ả Rập Saudi khi vụ đánh bom các tháp Khobar giết chết 19 quân nhân Mỹ. Năm 1999, ông được bổ nhiệm Chánh văn phòng cho George Tenet, lúc đó là Giám đốc CIA. Brennan trở thành phó giám đốc điều hành CIA tháng 3 năm 2001. Ông là giám đốc của Trung tâm Tích hợp Khủng bố mới được thành lập, giai đoạn 2003 đến 2004, một cơ quan có nhiệm vụ sàng lọc và biên soạn thông tin cho các cuộc họp giao ban tình báo hàng ngày tối mật của Tổng thống Bush và sử dụng công việc của các nhà phân tích từ một chục cơ quan và các tổ chức.
Một trong những tranh cãi trong sự nghiệp của ông liên quan đến sự phân bố của tình báo cho Nhà Trắng Bush đã giúp dẫn đến một "Cảnh báo Khủng bố Da cam", trong dịp Giáng sinh năm 2003. Thông tin tình báo, mà mục đích liệt kê các mục tiêu khủng bố, đã gây nhiều tranh cãi trong CIA và sau đó mất uy tín.
Giám đốc CIA.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã hai lần đề cử Brennan giữ chức Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ.
Morris Davis, một cựu Chánh công tố cho Các ủy ban Quân sự Guantanamo đã so sánh Brennan với Omar Khadr của Canada, người đã bị kết tội "phạm tội giết người vi phạm pháp luật của chiến tranh". Ông cho rằng vai trò của Brennan trong việc nhắm mục tiêu cá nhân cho các cuộc tấn công tên lửa của CIA đã không có thẩm quyền hơn ném những quả lựu đạn mà Khadr bị buộc tội.
Vào ngày 27 tháng 2 năm 2013, Ủy ban Tình báo Thượng viện đã hoãn một cuộc bỏ phiếu, dự kiến sẽ được thực hiện vào ngày hôm sau trên xác nhận của Brennan cho đến tuần tiếp theo. Vào ngày 05 tháng 3, Ủy ban Tình báo chấp thuận đề cử với số phiếu 12-3. Thượng viện đã có kế hoạch bỏ phiếu đề cử của Brennan vào ngày 6 tháng 3 năm 2013. Tuy nhiên, Thượng nghị sĩ đại diện tiểu bang Kentucky Rand Paul bắt đầu bàn về việc cản trở thông qua vụ bỏ phiếu, với lý do Tổng thống Barack Obama và sử dụng chính quyền của ông của đã sử dụng nhiều máy bay không người lái, cho rằng "Không một chính trị gia nào nên được phép phán xét về sự phạm tội, cáo buộc một cá nhân, để phán xét tội của một cá nhân và hành quyết một cá nhân. Điều này đi ngược lại tất cả mọi thứ mà chúng ta về cơ bản tin ở nước ta". Vụ cản trở đề cử của Paul tiếp tục trong 13 giờ, sau đó Brennan đã được xác nhận bởi một cuộc bỏ phiếu với tỷ lệ phiếu 63-34.
Brennan tuyên thệ nhậm chức Giám đốc CIA ngày 8 tháng 3 năm 2013. | 1 | null |
Nhạc Mỹ Latinh là một thể loại nhạc có nguồn gốc từ khu vực Mỹ Latinh thuộc châu Mỹ ngày nay. Thể loại này là một hỗn hợp các thể loại nhạc khác, gồm pop, jazz, rock, hip hop được pha lẫn và thêm thắt để phù hợp với văn hóa Mỹ Latinh.
Nhạc Mỹ Latinh theo quốc gia.
Argentina.
Tại Ác-hen-ti-na, điệu tăng-gô có lẽ là thể loại nhạc Latinh phổ biến nhất của quốc gia này. Các thể loại nhạc Latinh truyền thống khác bao gồm Chacarera, Milonga, Zamba và Chamamé. Thể loại hiện đại thì gồm có Cuarteto và tango điện tử.
Belize.
Tại Bê-li-dê, vốn là một phần của văn minh Maya cũ, âm nhạc của quốc gia này chịu ảnh hưởng từ nhạc cổ xưa của các tộc người Kreol, Mestizo, Garifuna, và Maya. Sau khi Maya bị quân Tây Ban Nha, sau đó là quân Anh xâm lược, làn sóng âm nhạc châu Âu đã có thêm ảnh hưởng tới âm nhạc của Bê-li-dê. Các thể loại nhạc truyền thống phổ biến của nước này là brukdown, garifuna, ngoài ra nhạc hiện đại cũng bị chịu ảnh hưởng của reggae và hip hop.
Bolivia.
Đất nước Bô-li-vi-a từng là một phần của nền văn minh Inca xưa cũ. Sau đó, tình trạng của nền văn minh cũng chịu chung số phần với các nền văn minh lớn khác là Aztec và Maya khi nền văn minh này bị đế quốc Tây Ban Nha xâm chiếm. Tương tự như các nền văn minh khác, âm nhạc của Bô-li-vi-a cũng bị chịu tác động mạnh mẽ của âm nhạc châu Âu, với phần ảnh hưởng của pop, rock, reggae, hip hop... Một số thể loại nhạc truyền thống còn giữ lại được của đất nước này là Huayno, Saya, Lamento, Taki Taki...
Brasil.
Tương tự như các đất nước Nam Mỹ khác, âm nhạc Bra-xin cũng chịu ảnh hưởng của các thể loại nhạc Âu-Mỹ. Một số thể loại truyền thống là Bossa nova và Forró. | 1 | null |
Chùa Thới Sơn tọa lạc tại khu vực núi Két, thuộc phường Thới Sơn, thị xã Tịnh Biên, An Giang, Việt Nam. Đây là một ngôi chùa thờ Tam bảo của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, và là một di tích "lịch sử cách mạng" của tỉnh.
Lịch sử.
Sau khi sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vào năm 1849, Phật Thầy Tây An (tên thật là Đoàn Minh Huyên, 1807-1856), đã lần lượt dẫn các tín đồ và người dân nghèo đi khai hoang lập làng ở nhiều nơi, trong đó có hai làng Hưng Thới và Xuân Sơn, mà sau này hợp thành phường Thới Sơn, thuộc thị xã Tịnh Biên.
Tại địa bàn của hai làng ấy, Phật Thầy Tây An đã cho dựng đình Thới Sơn để thờ Thành hoàng Bổn cảnh, là vị thần chủ quản vùng đất mà họ đến khai phá. Đồng thời, ông còn cho dựng hai "trại ruộng", tức căn nhà bằng cây lá đơn sơ để có chỗ ở khi làm ruộng. Và cũng để thỏa mãn nhu cầu tính ngưỡng tâm linh, ông cho lập bàn thờ Tam bảo ở trong khu vực trại, mà về sau được biến cải thành chùa. Đó chính là chùa Thới Sơn và chùa Phước Điền (tục gọi Trại Ruộng) ngày nay.
Ngày 26 tháng 8 năm 1999, Chính quyền tỉnh An Giang đã ra Quyết định công nhận chùa Thới Sơn là một di tích "lịch sử cách mạng" của tỉnh .
Kiến trúc, thờ phụng.
Chùa Thới Sơn ngày nay tọa lạc trên một khuôn viên rộng có nhiều cây xanh, và đã được xây dựng kiên cố và đẹp đẽ. Trong chùa, gồm có hai phần: chính điện và hậu điện. Trong chính điện có bàn thờ Tam bảo, và trong hậu điện có bàn thờ Phật Thầy Tây An. Trên cả hai bàn thờ đều không có các hình tượng, mà chỉ có một bức Trần điều lớn màu đỏ (ảnh).
Ở phía trước sân chùa Thới Sơn, có 3 ngôi miễu nhỏ (thờ Vinh thần, Tả và Hữu ngoại Sơn thần; nhưng cũng không có hình tượng) theo mô hình "trước miễu sau chùa" thường thấy ở các ngôi chùa của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có các nhà dành cho khách thập phương đến viếng và nghỉ lại.
Hằng năm, vào ngày 14 và 15 tháng Giêng (âm lịch), chùa Thới Sơn đều có tổ chức lễ cúng Tam bảo, Phật Thầy, và cầu an cho năm mới rất long trọng, thu hút nhiều tín đồ và khách thập phương đến dự . | 1 | null |
Cá cóc Ziegle (tên khoa học: "Tylototriton ziegleri") là một loài cá cóc được phát hiện ở vùng cao phía bắc Việt Nam tại vùng núi tỉnh Hà Giang và Cao Bằng. Tên gọi loài này được đặt tên theo tên phó giáo sư , từ , Đức - người có nhiều đóng góp trong nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học Việt Nam.
Tylototriton ziegleri (Nishikawa, Matsui & Nguyen, 2013) có đặc điểm là da nhám với các nốt sần rất nhỏ; chân chúng dài và mảnh, đuôi mảnh; mặt trên lưng của loài cá cóc màu nâu sẫm hoặc đen. | 1 | null |
Jane Marie Lynch (sinh ngày 14 tháng 6 năm 1960) là một diễn viên, ca sĩ và nghệ sĩ hài người Mỹ. Bà đã nhận được một giải Primetime Emmy Award, một giải Quả cầu vàng, một giải TCA Awards, một giải Satellite Award và một giải People's Choice Award cho vai diễn Sue Sylvester trong sê ri phim truyền hình "Glee" của Fox. Một số giải thưởng đáng chú ý khác mà bà nhận được với vai diễn này bao gồm Screen Actors Guild Award dành cho Tập thể diễn viên xuất sắc trong một sê ri phim hài, TCA Award dành cho Thành tích cá nhân xuất sắc, Satellite Award dành cho Nữ diễn vụ xuất sắc nhất và People's Choice Awards dành cho Nữ diễn viên phim hài được yêu thích. Jane cũng đã nhận được các giải PlanetOut.com Short Movie Award, Florida Film Critics Circle Award và Ft. Lauderdale International Film Festival Jury Award.
Bà bắt đầu được biết đến trong các bộ phim tài liệu của Christopher Guest như "Best in Show". Bà cũng xuất hiện trong các phim truyền hình như "iCarly" của Nickelodeon và "Weeds" của Showtime. Jane có một vai phụ trong phim sitcom "Two and a Half Men" của Warner Bros. cũng như các vai diễn đáng chú ý khác trong nhiều bộ phim hài nổi tiếng như "", "The 40-Year-Old Virgin", "Role Models" và "The Three Stooges".
Tiểu sử.
Jane sinh ra và lớn lên ở Dolton, Illinois, là con gái của Eileen (nhũ danh Carney), nội trợ-thư ký, và Frank Lynch, chủ ngân hàng. Bố bà mang dòng máu Ireland còn mẹ bà mang dòng máu Ireland và Thụy Sĩ. Bà theo Công giáo và học trung học tại Thornridge High School. Bà nhận được bằng Cử nhân Sân khấu tại trường đại học Bang Illinois và bằng Giáo sư Mỹ thuật về sân khấu tại trường đại học Cornell.
Sự nghiệp.
Jane Lynch đã tham gia nhiều bộ phim chẳng hạn như iCarly, một chương trình dành cho thiếu nhi của Mỹ. Jane đóng vai mẹ của Sam. Bà cũng lồng tiếng cho nhân vật Trung sĩ Calhoun trong bộ phim hoạt hình "Wreck-It Ralph" của Disney.
Jane dành 15 năm ở Chicago để làm việc tại Steppenwolf Theatre Company và là một trong số hai người phụ nữ được chọn tham gia vào The Second City. Sau đó bà tiếp tục rèn luyện các kỹ năng của mình tại Nhà hát Annoyance với vai diễn Carol Brady trong vở "The Real Live Brady Bunch". Bà và Andy Richter, người thủ vai Mike Brady trong các buổi diễn ở New York, đã trở thành bạn thân với nhau.
Điện ảnh.
Bộ phim điện ảnh đầu tiên mà Jane tham gia là "Vice Versa" năm 1988. Năm 1993, bà cùng Harrison Ford xuất hiện trong "The Fugitive".
Trong những năm 1990, bà góp mặt trong nhiều phim quảng cáo, trong đó có Frosted Flakes do Christopher Guest đạo diễn. Sau đó Jane thủ vai Christy Cummings trong "Best in Show" (2000). Từ đó bà tham gia vào nhiều phim của Christopher như "A Mighty Wind" (2003) và "For Your Consideration" (2006).
Khán giả và giới phê bình chú ý đến Jane qua vai diễn của bà trong "The 40-Year-Old Virgin" của Judd Apatow. Bà tiết lộ với Terry Gross của "Fresh Air" rằng ban đầu vai diễn này dành cho nam, nhưng do vợ của Steve Carell, Nancy Walls, thúc dục, mà được trao cho Jane. Từ đó Jane đảm nhận nhiều vai phụ trong một loạt các bộ phim bao gồm "Role Models", ', "Alvin & the Chipmunks", ', "Space Chimps", "The Rocker", "The Hammer", "Another Cinderella Story", "" và "Spring Breakdown".
Trong "Adventures of Power", một bộ phim hài được đánh giá cao ra mắt năm 2008, Jane gặp lại bạn diễn "For Your Consideration" Michael McKean trong vai Dì Joanie cùng với Ari Gold, Adrian Grenier, Chiu Chi Ling và Shoshannah Stern.
Trong "Julie and Julia", bà thủ vai Dorothy McWilliams, chị gái của Julia Child. "Entertainment Weekly" dành một bài viết trên trang web của mình để viết về khả năng bà được đề cử cho giải Oscar.
Truyền hình.
Jane đã góp mặt trong nhiều phim truyền hình trong hơn một thập kỷ, trong đó có "L.A. Law", "Judging Amy", "The West Wing", "7th Heaven", "Desperate Housewives", "Friends", "Dawson's Creek", "Felicity", "Arrested Development", "Lovespring International", "Two and a Half Men", "Weeds", "Boston Legal", "The L Word", "Criminal Minds", "Help Me Help You", "Gilmore Girls", "The New Adventures of Old Christine", "Psych", "Monk"và "Party Down". Bà cũng cùng John Hannah và William Fichtner tham gia "MDs" năm 2002, cũng như xuất hiện trong "Criminal Minds" với vai bà mẹ bị tâm thần phân liệt của Spencer Reid.
Đầu năm 2009, Jane tham gia sê ri phim truyền hình "Glee" của Fox và nhận được rất nhiều lời khen ngợi cho vai diễn Sue Sylvester của mình. Mary McNamara của tờ "LA Times" viết, "Một mình Jane là đủ làm cho Glee đáng xem." Trước đó, bà là diễn viên chính trong sê ri phim hài "Party Down" của Starz. Mặc dù phim đã chuyển sang mùa thứ hai, Jane sẽ không tiếp tục tham gia do vai diễn của bà trong "Glee".
Bên cạnh đó, Jane tiếp tục theo đuổi nhiều dự án khác. Bà dẫn chương trình cho "Saturday Night Live" vào ngày 9 tháng 10 năm 2010; thông tin này được báo cho bà biết một cách tình cờ bởi tác giả của "Glee" Ryan Murphy thông qua tin nhắn điện thoại. Jane cũng xuất hiện với tư cách khách mời trong phim "iCarly" của Nickelodeon với vai mẹ của Sam Puckett (tập "iSam's Mom").
Các hoạt động khác.
Jane viết kịch bản và thủ vai chính trong vở kịch "Oh Sister, My Sister". Bắt đầu được sản xuất từ năm 1998, vở kịch khởi động chương trình "Lesbians in Theater" tại Los Angeles Gay and Lesbian Center vào năm 2004.
Bà xuất hiện trong nhiều đoạn phim quảng cáo cho XFinity của Comcast. Bà cũng tham gia vào chiến dịch Text Ed của tập đoàn LG để giáo dục người lái xe về những mối nguy hiểm khi điều khiển phương tiện.
Lần đầu tiên Jane dẫn chương trình cho một lễ trao giải là vào năm 2010 với lễ trao giải VH1 DoSomething Awards. Bà tiếp tục dẫn chương trình cho lễ trao giải này vào năm 2011. Jane trở thành người dẫn chương trình của lễ trao giải Primetime Emmy Awards lần thứ 63 vào ngày 18 tháng 9 năm 2011 và là người phụ nữ thứ ba một mình dẫn chương trình trong lịch sử giải Emmy. Theo tờ "Hollywood Reporter" ngày 19 tháng 9, việc này đã không thể làm tăng lượng người xem (giảm 8%).
"Happy Accidents" được ra mắt vào mùa thu năm 2011 bởi Hyperion Voice. Jane được truyền cảm hứng để viết cuốn sách sau khi nhìn lại những thành công trong quá khứ của mình và ước rằng mình đã có thể tự khuyên bản thân đừng lo lắng quá nhiều như vậy. Cuốn hồi ký cũng bao gồm chi tiết về những năm tháng nghiện ngập và cuộc chiến thành công chống lại nó của bà. Jane là người đồng tính nữ công khai và đã kết hôn với Lara Embry năm 2010. Là một người yêu động vật, Jane có hai chú chó và một chú mèo. Bà đã ghi hình cho PETA để cổ vũ việc nhận nuôi thú hoang. Ngày 23 tháng 2 năm 2012, bà được thông báo là sẽ đọc diễn văn trong lễ tốt nghiệp khóa 2012 của Smith College, đồng thời nhận được bằng Tiến sĩ Mỹ thuật danh dự.
Tháng 3 năm 2012, Jane cùng Martin Sheen, Jamie Lee Curtis, Chris Colfer và Brad Pitt biểu diễn trong vở kịch 8 của Dustin Lance Black trong vai Maggie Gallagher tại Nhà hát Wilshire Ebell. Vở kịch sẽ được đăng tải lên YouTube để quyên góp tiền cho American Foundation for Equal Rights.
Tháng 2 năm 2013, Jane được thông báo là sẽ ra mắt lần đầu tiên trên sân khấu Broadway với vai Miss Hannigan trong vở "Annie" từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 14 tháng 7 năm 2013 để thay thế cho Katie Finneran.
Đời tư.
Jane là một người đồng tính nữ công khai; năm 2005 bà lọt vào danh sách "10 người phụ nữ đồng tính tuyệt vời trong ngành giải trí" của POWER UP. Năm 2010 Jane kết hôn với bác sĩ tâm lý Lara Embry, người đã có hai con gái 8 và 10 tuổi. | 1 | null |
Capecitabine (INN) () (Xeloda, Roche) là tên của hoạt chất, được nghiên cứu và phát triển bởi tập đoàn dược phẩm Hofmann-La Roche, dùng làm thuốc uống hóa trị, sử dụng trong điều trị ung thư đại trực tràng, ung thư dạ dày và ung thư vú di căn.
XELODA (capecitabine) là một dạng tiền dược, được chuyển hóa thành 5-fluoroouracil bên trong khối u bởi các enzyme. Tại đây 5-fluorouracil ức chế quá trình sinh tổng hợp DNA và ngăn chặn quá trình tăng sinh của khối u. Con đường hoạt hóa của capecitabine đi theo ba bước chuyển hóa bởi emzyme và ngang qua hai dạng chuyển tiếp, đó là 5’-deoxy-5-fluorocytidine (5’DFCR) và d5’-deoxy-5-fluorouridine (5’-DFUR), trước khi được biến đổi thành 5-fluorouracil.
Chỉ định.
XELODA (Capecitabine) được FDA (Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ) phê chuẩn cho các chỉ định sau:
Điều trị bước một cho bệnh nhân ung thư dạ dày thực quản tiến triển phối hợp với phác đồ hóa trị có platinum
Điều trị hỗ trợ cho bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn C hoặc giai đoạn B có nguy cơ cao.
Điều trị ung thư đại trực tràng tiến triển hoặc di căn
Điều trị đơn trị ung thư vú tiến triền tại chỗ hay di căn sau khi thất bại phác đồ hóa trị bao gồm taxanes và anthracyclin: hoặc Xeloda phối hợp docetaxel cho ung thu vú tiến triển tại chỗ hay di căn sau khi thất bại phác đồ hóa trị có anthracyclin.
Liều lượng và sử dụng.
Liều Xeloda được tính toán dựa theo diện tích da của cơ thể. Thuốc được uống trong vòng 30 phút sau khi ăn.
Đơn trị.
Liều khuyến cáo là 1250 mg/m2 uống hai lần mỗi ngày(tổng liều mỗi ngày là 2500 mg) trong 14 ngày sau đó nghỉ thuốc 7 ngày. (chu ky 3 tuần)
Điều trị phối hợp.
Ung thư vú.
Liều Xeloda giống như liều dùng trong đơn trị, kết hợp với docetaxel 75 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong vòng 1 giờ mỗi ba tuần.
Ung thư đại trực tràng tiến triển hay di căn.
Xeloda 1000 mg/m2 uống hai lần mỗi ngày trong 14 ngày sau đó nghỉ thuốc 7 ngày (chu kỳ 3 tuần) kết hợp với Avastin (7,5 mg/kg truyền tĩnh mạch kéo dài từ trên 30ph đến 90 ph) và oxaliplatin (130 mg/m2 truyền tĩnh mạch trên 2 giờ) vào ngày đầu của chu kỳ 3 tuần.
Ung thư dạ dày thực quản tiến triển.
Phác đồ phối hợp 3 thuốc: Xeloda 625 mg/m2 uống hai lần mỗi ngày duy trì liên tục phối hợp với epirubicin (50 mg/m2 tiêm nhanh vào ngày đầu của chu kỳ 3 tuần) kết hợp với phác đồ hóa trị có platinum (cisplatin hoặc oxaliplatin).
Phác đồ hai thuốc: Xeloda 1000 mg/m2 uống hai lần mỗi ngày trong 14 ngày sau đó nghỉ thuốc 7 ngày kết hợp với cisplatin (80 mg/ m2 truyền tĩnh mạch trong 2 giờ vào ngày đầu của chu kỳ 3 tuần).
Chống chỉ định.
Xeloda chống chỉ định ở những bệnh nhân
Quá mẫn với capecitabine hay bất cứ thành phần nào của thuốc;
Ở những bệnh nhân có tiền sử bị phản ứng nghiêm trọng hoặc không dự đoán được với fluoropyrimidine hoặc quá mẫn cảm với fluorouracil
Ở những bệnh nhân suy thận nặng (CrCl <30ml/ phút)
Ở những bệnh nhân thiếu hụt dihydropyrimidine dehydrogenase (DPD). Không nên dùng Xeloda phối hợp với sorivudin hay chất tương tự về mặt hóa học như brivudine.
Thận trọng.
Bệnh nhân nên được theo dõi thận trọng về độc tính, đặc biệt là tiêu chảy, buồn nôn, ói mửa và hội chứng bàn tay bàn chân.
Không nên dùng vitamin B6 để điều trị hội chứng bàn tay bàn chân nếu dùng Xeloda kết hợp với cisplatin.
Ở bệnh nhân chán ăn, suy nhược, ói mửa, buồn nôn, tiêu chảy có thể xảy ra hiện tượng mất nước. Nếu mất nước độ 2 hay nặng hơn xảy ra, nên ngừng Xeloda ngay lập tức và điều chỉnh mất nước.
Xeloda có thể gây tăng bilirubin máu. Độc tính trên tim bao gồm nhồi máu cơ tim đã quan sát thấy ở bệnh nhân dung xeloda có tiền sử bệnh lý mạch vành.
Cần theo dõi thận trọng ở bệnh nhân suy thận hay suy gan. Ở bệnh nhân suy thận trung bình (CrCl 30-50ml/ phút), cần giảm liều khởi đầu của Xeloda (đơn trị hay kết hợp).
Đối với phụ nữ mang thai: phân loại D.
Không sử dụng cho trẻ dưới 18 tuổi. Dùng thận trọng ở bệnh nhân lớn tuổi.
Tương tác với các thuốc khác như: thuốc kháng acid; leucovorin; thuốc kháng đông coumarin; phenytoin; những thuốc chuyển hóa bởi CỲP450 2C9; sorivudine và những thuốc tương đương hóa học với nó (có thể gây tử vong)
Tác dụng bất lợi.
Vui lòng xem thông tin sản phẩm để biết đầy đủ về các phản ứng phụ.
Buồn nôn, ói, tiêu chảy, hội chứng bàn tay bàn chân, viêm miệng, đau bụng, dị cảm, mệt mỏi, sốt, chán ăn, viêm da, tăng bilirubin máu, độc tính tim, giảm bạch cầu lympho,giảm bạch cầu trung tính, giảm huyết cầu tố, giảm tiểu cầu, bệnh thần kinh ngoại vi, nhức đầu, khó tiêu, tặng tiết nước mắt, xuất huyết tiêu hóa, bệnh lý não, suy tủy, nhiễm trùng tại chỗ hay toàn thân gây tử vong, nhiễm khuẩn, suy gan, viêm gan tắc mật. | 1 | null |
Cüneyt Çakır (, sinh ngày 23 tháng 11 năm 1976) là một trọng tài bóng đá chuyên nghiệp UEFA người Thổ Nhĩ Kỳ.
Sự nghiệp trọng tài.
Cakir bắt đầu sự nghiệp trọng tài năm 2001 khi tham gia điều hành tại giải vô địch quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Hai năm sau, tháng 7 năm 2003, Cakir có trận ra mắt tại Cúp châu Âu khi được chỉ định làm trợ lý trọng tài tại vòng sơ loại thứ nhất Champions League, trong trận đấu giữa Skonto FC và Sliema Wanderer.
Năm 2007, Cakir tham gia điều hành giải vô địch U19 châu Âu tại Áo. Tại vòng chung kết EURO 2008, ông cũng có tên trong danh sách bắt chính 2 trận đấu tại giải đấu tai Áo và Thụy Sĩ. Ngày 29 tháng 10 năm 2010, Cakir lần đầu tiên làm trọng tài chính ở một trận đấu vòng bảng UEFA Champions League, khi điều hành trận đấu thuộc bảng D, giữa Rubin Kazan và FC Barcelona. Ngày 3 tháng 11 năm 2010, ông tiếp tục bắt chính trận đấu giữa Chelsea F.C. và F.K. Spartak Moskva. Năm 2011, Cakir tiếp tục được tín nhiệm và là trọng tài đại diện của Thổ Nhĩ Kỳ điều hành ở UEFA Europa League.
Ngày 5 tháng 3 năm 2013, Cakir bắt chính trận đấu giữa Manchester United và Real Madrid ở UEFA Champions League ông đã quyết định rút thẻ đỏ với cầu thủ Nani của United, sau một pha cao chân với hậu vệ Alvaro Arbeloa bên Real. Đây là một chiếc thẻ đỏ gây tranh cãi.
Cüneyt Çakır cũng được chỉ định bắt chính một số trận đấu đáng chú ý như trận bán kết World Cup 2014 giữa Argentina và Hà Lan hay trận chung kết UEFA Champions League 2015 giữa Barcelona và Juventus. | 1 | null |
Tây Lăng thị (chữ Hán: 西陵氏) là tên 1 quốc gia bộ lạc từng tồn vào thời kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế trong lịch sử Trung Quốc, nước này chỉ được nhắc đến duy nhất một lần trong hơn 5000 năm vào giai đoạn chuyển giao giữa triều đại Thần Nông và triều đại Hiên Viên.
Bấy giờ nước Tây Lăng có người con gái tên là Luy Tổ vừa xinh đẹp lại vừa nết na hiền thục, thậm chí còn khéo tay và thông minh trí tuệ sáng suốt có khả năng phán xét tinh tường. Thủ lĩnh nước Hữu Hùng là Công Tôn Hiên Viên nghe tiếng đích thân mang lễ vật đến cầu thân, qua mấy phen thử thách Hiên Viên đều đáp ứng được các đề mục nên Luy Tổ chấp nhận về làm dâu nước Hữu Hùng. Sau này Hiên Viên đánh bại Xi Vưu được đế Du Võng thiện nhượng mà làm thiên tử thì Luy Tổ chính thức được sắc phong Hoàng hậu, bà sinh cho Hiên Viên Hoàng Đế được 2 người con trai là Huyền Hiêu và Xương Ý. Ngoài ra bà còn đặt ra các thể chế về tam cung lục viện để tiện cai quản hậu cung, bà lại nghiên cứu ra cách trồng dâu nuôi tằm quay tơ dệt vải để sản xuất ra lụa từ đó làm thành quần áo sắc phục rất độc đáo.
Không rõ nước Tây Lăng hình thành và diệt vong thế nào chỉ biết ngày nay nó nằm ở địa phận quận Tây Lăng thuộc địa cấp thị Nghi Xương tỉnh Hồ Bắc, nhưng việc nước ấy sinh ra người phụ nữ tên Luy Tổ cũng đủ để hậu thế vẫn còn phải nhắc đến nó suốt mấy vạn đời sau. | 1 | null |
Xứng () là tên vị quân chủ thứ ba của Cao Dương thị thời viễn cổ trong lịch sử Trung Quốc, theo Sử Ký Tư Mã Thiên - Ngũ Đế bản kỷ và một số thư tịch quan trọng khác thì Xứng là con trai trưởng của đế Chuyên Húc.
Lúc bấy giờ ở vào cuối đời vua Thiếu Hạo của vương triều Hoàng Đế, cha Xứng là Chuyên Húc đang cai trị nước Cao Dương được Thiếu Hạo triệu về kinh để truyền ngôi. Chuyên Húc bàn giao công việc cai quản nước Cao Dương cho Xứng rồi về triều đăng cơ làm thiên tử, Xứng thay cha tiếp tục lãnh đạo nước Cao Dương với thân phận là vua một nước chư hầu. Thời kỳ Xứng chấp chính nước Cao Dương cũng chẳng có thành tích gì đặc biệt nên sử sách không nhắc nhiều tới, sau khi Xứng qua đời con trai trưởng là Quyển Chương thế tập.
Cũng giống như ông nội là Xương Ý và sau này con là Quyển Chương, khi nhắc đến Cao Dương thị người ta chỉ nhớ đến cha của Xứng là đế Chuyên Húc bởi Chuyên Húc từng làm thiên tử và hơn nữa còn lập rất nhiều hành trạng lớn lao. | 1 | null |
Galerius (tiếng Latin: "Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus", khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều đại của mình, ông đã tiến hành chiến dịch chống lại Đế chế Sassanid, với sự trợ giúp của Diocletianus, và cướp phá kinh đô Ctesiphon của họ vào năm 299. Ông cũng tiến hành chiến dịch chống lại người Carpi ở phía bên kia bờ sông Danube, đánh bại họ vào năm 297 và trong năm 300. Mặc dù là một người đối nghịch mạnh mẽ với Kitô giáo, nhưng chính Galerius đã kết thúc cuộc bức hại do Diocletianus khởi xướng qua việc ban hành một sắc lệnh khoan dung vào năm 311.
Đầu đời.
Galerius đã được sinh ra ở Serdica, mặc dù một số học giả hiện đại xem xét địa điểm chiến lược nơi sau này ông cho xây dựng một cung điện mang tên người mẹ của ông - Felix Romuliana (Gamzigrad) - nơi sinh và nơi chôn cất ông Cha ông là một người Thracia và mẹ ông, Romula là một phụ nữ Dacia, bà đã rời bỏ Dacia vì các cuộc tấn công của người Carpi Ban đầu ông nối nghiệp cha mình, đó là một người chăn bò, mà nhờ đó ông đã nhận được tên họ của mình, Armentarius (tiếng Latin: armentum).
Ông đã phục vụ trong quân đội dưới triều đại của hoàng đế Aurelianus và Probus. Trong năm 293, khi chế độ Tứ Đầu chế được thiết lập, ông đã được chỉ định là "Caesar" cùng với Constantius Chlorus,và cưới con gái của Diocletianus, Valeria (sau này được biết là Galeria Valeria), và cùng thời điểm đó, ông được trao quyền cai quản các tỉnh Illyria. Sau một vài năm tiến hành các chiến dịch chống lại người Sarmatia và người Goth trên khu vực sông Danube, ông đã được giao quyền chỉ huy các quân đoàn trên biên giới phía đông của đế quốc. Ngay sau khi được bổ nhiệm, Galerius được phái tới Ai Cập để dập tắt cuộc khởi nghĩa ở các thành phố Busiris và Coptos.
Cuộc chiến tranh với Ba Tư.
Xâm lược và phản công.
Năm 294, Narseh, người con trai vốn không được kế vị ngai vàng nhà Sassanid của vua Shapur I, đã cướp ngôi vua Ba Tư. Narseh có thể đã sát hại vua Bahram III, vốn còn quá trẻ khi được một quý tộc tên là Vahunam đưa lên ngai vàng ngay sau khi vua Bahram II qua đời vào năm 293 Vào đầu năm 294, trong khi Narser gửi cho Diocletianus các gói quà tặng theo phong tục, thì ở Ba Tư, ông ta đã phá hủy mọi dấu vết của những vị vua tiền nhiệm ngay lập tức, tẩy xoá tên của họ khỏi những đài tưởng niệm công cộng. Ông ta đã cố gắng để đồng nhất bản thân mình với những triều đại hiếu chiến của vua Ardahir I (r. 226-41) và Shapur (r. 241-72), vị vua đã cướp phá thành Antioch của người La Mã và bắt hoàng đế Valerianuslàm tù binh.
Trong năm 295 hoặc năm 296, Narseh tuyên bố chiến tranh với Rome. Trước tiên, Ông ta dường như đã xâm lược phía Tây Armenia, lấy lại các vùng đất vốn được giao cho Tiridates theo hiệp ước òa bình năm 287. Ông ta sẽ chiếm các vùng đất đó cho đến tận năm sau Nhà sử học cổ đại Ammianus Marcellinus là tác giả duy nhất duy nhất đề cập một cách chi tiết về cuộc xâm lược Armenia lúc ban đầu này Southern(1999, 149) đặt thời điểm cho cuộc xâm lược là vào năm 295; Barnes (1982, 17, 293) đề cập đến một cuộc xâm lược khác sớm hơn, một cuộc xâm lược không thành công của Narseh dựa trên thực tế rằng tiêu đề "Persici Maximi" đã được trao cho tất cả bốn vị hoàng đế; Odahl (2004, 59) đồng tình với Barnes và cho rằng các vị hoàng tử Saracen trong sa mạc Syria đã hợp tác với cuộc xâm lược của Narseh. Narseh sau đó di chuyển về phía nam tiến vào vùng Lưỡng Hà của La Mã, tại nơi đó ông ta đã đánh cho Galerius thua hết lần này tới lần khác, mà vào lúc đó Galerius lại đang chỉ huy của các đạo quân phía Đông, ở khu vực giữa Carrhae (Harran, Thổ Nhĩ Kỳ) và Callinicum (Ar-Raqqah, Syria). Diocletianus lúc đó có thể có hoặc không có mặt tại mặt trận, | 1 | null |
Cộng đồng Kinh tế Á Âu (Eurasian Economic Community - EAEC hoặc EurAsEC) là một tổ chức được thành lập từ Liên minh thuế quan Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS) bao gồm Belarus, Nga và Kazakhstan ngày 29 tháng 3 năm 1996. Hiệp định thành lập Cộng đồng Kinh tế Á Âu đã được ký kết vào ngày 10 tháng 10 năm 2000 tại thủ đô Astana của Kazakhstan bởi tổng thống Belarus Alexander Lukashenko, Kazakhstan Nursultan Nazarbayev, Kyrgyzstan Askar Akayev, Nga Vladimir Putin, và Emomali Rakhmonov của Tajikistan. Ngày 7 tháng 10 năm 2005, các quốc gia thành viên đã chấp nhận để Uzbekistan tham gia vào tổ chức. Nhưng từ năm 2008 Uzbekistan đã ngừng tham dự.
Khi hiệp ước của Liên minh Âu Á có hiệu lực vào ngày 01 tháng 1 năm 2015, EurAsEC sẽ không còn tồn tại nữa. | 1 | null |
Michael Landon (31 tháng 10 năm 1936 – 1 tháng 7 năm 1991) là một diễn viên, nhà văn, đạo diễn, và nhà sản xuất. Ông được biết đến trong vai Little Joe Cartwright trong phim "Bonanza" (1959–1973), Charles Ingalls trong phim "Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên" (1974–1983), và Jonathan Smith trong phim "Highway to Heaven"/Đường tới thiên đàng (1984–1989). Landon đã xuất hiện trên trang bìa của "TV Guide" 22 lần, chỉ chịu đứng sau Lucille Ball với 39 lần xuất hiện trên trang bìa ("TV Guide", 06/07/1991). | 1 | null |
Trận Blumenau là một hoạt động quân sự trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần đã diễn ra vào ngày 22 tháng 7 năm 1866, tại Blumenau, nay là Lamač – 1 thị xã thuộc thủ đô Bratislava của Slovakia. Đây cũng là trận đánh cuối cùng trong cuộc chiến tranh giữa Áo và Phổ năm 1866. Mặc dù một hiệp định đình chiến sắp sửa được ký kết giữa hai nước, khi một trong các binh đoàn của quân đội Phổ dưới quyền chỉ huy của Hoàng thân Friedrich Karl đã tấn công quyết liệt vào quân đội Áo với quân số gần như ngang ngửa, và giành được lợi thế rõ ràng về tay mình. Trong khi các lực lượng của Phổ hứng chịu vài trăm thương vong trong trận chiến này, thiệt hại của phía Áo lớn hơn so với đối phương. Tuy nhiên, người Phổ đã bị buộc phải chấm dứt bước tiến thắng lợi của mình khi họ nhận được tin về sự ngừng bắn giữa hai bên tham chiến, và chính điều này đã cứu thoát người Áo khỏi một thất bại thê lương.
Hoàn cảnh.
Sau khi các đạo quân của Phổ dưới sự chỉ đạo của Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke giành thắng lợi quyết định trước Tập đoàn quân phía Bắc của Áo dưới quyền "Quân giới" Ludwig von Benedek trong trận đại chiến ở Königgrätz, các lực lượng Phổ đã tiếp tục bước tiến của mình. Trong khi đó, Đại Công tước Albrecht được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh các tập đoàn quân Áo và ra sức bố phòng Viên. Để khai thác chiến thắng Königgrätz, Hoàng thân Friedrich Karl – Tổng tư lệnh Tập đoàn quân số 1 của Phổ – đã ra lệnh cho các tướng Eduard von Fransecky và Julius von Bose vượt qua sông Morava để cắt đường rút của quân Áo đến kinh thành Viên. Đàm phán diễn ra giữa hai bên, và họ đồng thuận sẽ ký kết một hiệp định đình chiến vào ngày 22 tháng 7. Song, trong ngày hôm đó, do Friedrich Karl không nhận biết về sự kiện này, giao chiến đã bùng nổ giữa của quân của ông và quân đội Áo: Để phòng ngự Pressburg, quân đội Áo đã án ngữ tại ngôi làng Blumenau, cách thị trấn này 8 km, trong khi 3 sư đoàn quân Phổ dưới quyền tướng Fransecky đang tiến bước trên con đường qua Blumenau tới Pressburg, cách ngôi làng không xa. Nghĩ rằng ông có thể đánh chiếm Pressburg để tạo điều kiện cho quân đội Phổ vượt qua sông Donau, tướng Fransecky đã gửi một thông điệp đến Hoàng thân Friedrich Karl ở Ebenthal, để thỉnh cầu ông cho phép đánh vào Pressburg. Vị hoàng thân biết rằng một cuộc tấn công Pressburg của Phổ sẽ buộc quân Áo phải đi đường vòng về Viên, và ông đã chấp thuận. Thừa lệnh của cấp trên, Fransecky ngay lập tức xuống lệnh xuất quân.
Diễn biến.
Khi tiến hành trinh sát cùng với tướng Bose, Fransecky vốn đã nhận thấy rằng một đợt tiến công trực diện vào vị trí phòng ngự của đối phương sẽ đòi hỏi thương vong lớn của phía Phổ, do sự vững mạnh của lực lượng pháo binh Áo. Do đó, ông quyết định mở một cuộc tấn công trực diện để kìm chân quân Áo, trong khi cánh phải của họ bị buộc sườn, và ở một thời điểm thuận lợi các lực lượng Phổ sẽ phối hợp tấn công. Trong khi các trung đoàn quân Phổ dưới quyền Bose tiến về phía trước theo một đường núi để tập hậu quân Áo và cắt đứt đường rút của họ đến Pressburg, von Fransecky sẽ tấn công trực diện. Ông công kích đối phương giữa Katerbrunn và Blumenau, và ngay lập tức một cuộc pháo chiến bùng nổ. Trong khi hai bên vẫn còn đấu pháo, lực lượng khinh kỵ binh Phổ cũng xung phong dữ dội về phía đội hình đầu tiên của thương kỵ binh Áo, và hai phe đã chém giết nhau ác liệt. Cả hai phía đều chịu nhiều thương vong trong cuộc giao đấu này. Tuy nhiên, với ưu thế vượt trội của mình, quân kỵ binh Phổ đã đập nát kỵ binh Áo. Thương kỵ binh Áo bỏ chạy, và bị khinh kỵ binh Phổ truy kích ở một khoảng cách ngắn. Một số quân Áo bị bắt làm tù binh, nhưng do thiếu quân trừ bị nên kỵ binh Phổ không tiến xa. Trong khi đó, pháo chiến càng trở nên quyết liệt ở giữa trận địa. Pháo binh hai phe đều được tăng viện đáng kể, và tổn thất đã gia tăng. Trong khi trận chiến đang gay cấn, một sĩ quan Phổ bất ngờ tới doanh trại của Friedrich Karl đã báo tin về hiệp định đình chiến đã được ký kết giữa hai nước tham chiến. Tuy nhiên, với việc lữ đoàn của von Bose đang tiến qua núi đồi, Fransecky lo sợ Bose sẽ bị cô lập nếu ông ngừng tấn công trực diện. Vì thế, hai bên tiếp tục đấu pháo trong vòng hai tiếng, sau đó Fransecky ban lệnh tổng tiến công.
Cuộc tấn công của các tiểu đoàn Phổ tỏ ra không hiệu quả cho lắm. Nhưng đúng lúc đó, họ nhận được tin tốt: tướng Bose đã vượt qua vùng núi và triển khai quân trên đồi Gämsen-Berg. Tại đây, lữ đoàn của ông đã giao chiến rất khốc liệt với một lữ đoàn danh tiếng của Áo, và quân đội Phổ giành được thế thượng phong. Quân Áo bị đánh bật, và Bose đã bố trí các lực lượng của ông án ngữ trên các con đường và đường sắt, nhằm cắt đường rút của đội quân Áo giao tranh với Fransecky một khi họ bị thất trận. Giờ đây, triển vọng đã đến để người Phổ giành thêm một thắng lợi lớn nữa trong cuộc chiến. Fransecky phát lệnh tấn công, nhưng trong khi trận chiến vẫn còn nóng hổi ở gần Blumenau, một viên sĩ quan Áo mang cờ ngừng bắn đến chiến địa. Đồng thời, khoảng thời gian cố định sau khi hiệp định đình chiến khởi đầu đã chấm dứt, và quân đội của cả hai bên đều được lệnh ngừng bắn.
Vào ngày 26 tháng 7 năm 1866, hai bên ký kết Hòa ước sơ bộ Nikolsburg. Những điều khoản của nó được xác nhận tại Hòa ước Praha vào ngày 23 tháng 8, kết thúc chiến dịch với thắng lợi hoàn toàn của Phổ. | 1 | null |
Minh Huệ (3/10/1927 - 11/10/2003) là một nhà thơ hiện đại của Việt Nam. Ông được biết đến nhiều với tác phẩm thơ "Đêm nay Bác không ngủ", và đã được Nhà nước Việt Nam tặng giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật với 3 tập thơ: Đêm nay Bác không ngủ (1951); Tiếng hát quê hương (1959); Đất chiến hào (1970). Ngoài bút danh Minh Huệ, ông còn có các bút danh khác là "Mai Quốc Minh, Nguyễn Thái".
Minh Huệ tên khai sinh là Nguyễn Đức Thái, sinh ngày 3 tháng 10 năm 1927 tại Bến Thủy, nay thuộc phường Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Ông hoạt động cho Việt Minh từ tháng 5 năm 1945 và tham gia giành chính quyền ở Nghệ An trong Cách mạng tháng 8 năm 1945. Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Đông Dương, ông hoạt động tuyên truyền, văn nghệ tuyên huấn, báo chí ở Nghệ An, khu ủy khu Bốn và một số nơi. Ông bắt đầu viết năm 1951, khi mới 24 tuổi. Ông từng là Hội trưởng Hội sáng tác Văn nghệ liên khu IV,Trưởng ban thơ, lý luận, phê bình; Văn học dịch Nhà xuất bản văn học, Ủy viên Ủy ban hành chính kiêm Trưởng ty Văn hóa Nghệ An.
Sau khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, ông tiếp tục đi học và tốt nghiệp đại học Văn, được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957), Chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1984-1991).
Minh Huệ mất ngày 11 tháng 10 năm 2003.
Những tác phẩm của ông là:
Giải thưởng.
Minh Huệ được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật với 3 tập thơ: Đêm nay Bác không ngủ (1985), Tiếng hát quê hương (1959), và Đất chiến hào (1970). | 1 | null |
Tập đoàn quân Cờ đỏ 1 ("") là một tập đoàn quân của Hồng Quân trong Thế chiến thứ hai. Tập đoàn quân này đóng tại vùng Viễn Đông Nga.
Lịch sử hình thành.
Tập đoàn quân 1 được thành lập vào tháng 7 năm 1938 dưới tên gọi Tập đoàn quân Duyên hải ở vùng Viễn Đông. Trước đó Tập đoàn quân Viễn Đông Đặc biệt đã đóng tại vùng Viễn Đông, nhưng sau chiến dịch hồ Khasan chống lại quân Nhật, Stalin quyết định bãi bỏ tập đoàn quân này và thành lập 2 tập đoàn quân khác. Tập đoàn quân phòng thủ vùng Ussuri có sở chỉ huy đóng tại Voroshilov (giờ là Ussuriysk). Sau đó tập đoàn quân này nhanh chóng đổi tên thành Tập đoàn quân Cờ đỏ Độc lập 1. Chỉ huy tập đoàn quân là tướng Andrei Yeremenko, sau này là nguyên soái Liên Xô. Tập đoàn quân này đã có vài vụ đụng độ với Lục quân Đế quốc Nhật Bản, như Trận Khalkhin Gol, đến tháng 7 năm 1940 Tập đoàn quân Duyên hải 1 được đổi tên thành Tập đoàn quân Cờ đỏ 1. Đầu năm 1941, tập đoàn quân chịu trách nhiệm phòng thủ tất cả đường biên giới giữa Vladivostok và Khabarovsk; ngày 18 tháng 3 năm 1941, Tập đoàn quân 25 được thành lập nhằm phòng thủ khu vực phía Nam.
Lực lượng biên chế.
22 tháng 6 năm 1941.
Tài liệu lưu trữ Liên Xô về thành phần biên chế của Tập đoàn quân vào ngày 22 tháng 6 năm 1941:
9 tháng 8 năm 1945.
6 sư đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn xe tăng (75, 77, 257), 3 trung đoàn pháo tự hành, 6 tiểu đoàn pháo tự hành, 1 trung đoàn xe tăng hạng nặng/pháo tự hành, 5 lữ đoàn pháo binh.
Chiến dịch Mãn Châu (1945).
Cho đến khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, Tập đoàn quân Cờ đỏ 1 đã phòng thủ một tuyến biên giới kéo dài ở vùng viễn đông của Liên Xô. Tháng 8 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản, và Phương diện quân Viễn Đông Liên Xô đã thực hiện chiến dịch tấn công đạo quân Quan Đông của Nhật Bản đang chiếm đóng Mãn Châu, đây là một phần của Chiến dịch Mãn Châu của Liên Xô, do Nguyên soái Liên Xô Aleksandr Vasilevsky chỉ đạo. Khu vực tập đoàn quân hoạt động trải dài từ vùng núi, rừng taiga và các điều kiện đặc biệt khác. Lực lượng của Tập đoàn quân vào thời điểm bắt đầu chiến dịch gồm các quân đoàn bộ binh 26, 59; 6 sư đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn xe tăng (75, 77, 257), 3 trung đoàn pháo tự hành, 6 tiểu đoàn pháo tự hành, 1 trung đoàn xe tăng hạng nặng/pháo tự hành, 5 lữ đoàn pháo binh gồm 410 xe tăng, pháo tự hành và 1.413 pháo, súng rối. Các khu phòng thủ 6 và 112 cũng được biên chế vào tập đoàn quân.
Tập đoàn quân Cờ đỏ 1 giải thể vào năm 1959 để thành lập quân khu Primorskiy. Tập đoàn quân Cờ đỏ 1 không nên nhầm với Tập đoàn quân dự bị tham chiến tại mặt trận Stalingrad vào tháng 6 năm 1942 và sau đổi tên lại thành Tập đoàn quân 64. | 1 | null |
Trong sinh học, phân chi là bậc phân loại trực tiếp dưới Chi (sinh học). Trong Mã quốc tế thuật ngữ động vật học, tên phân chi có thể được dùng độc lập hoặc bao hàm trong một danh pháp hai phần, trong ngoặc đơn được đặt giữa tên chi (sinh học) và tên đặc tả (động vật học). | 1 | null |
Trong phân loại sinh học, bậc là thứ tự tương đối của một sinh vật, hay một nhóm sinh vật trong thế thống cấp bậc phân loại. Các ví dụ về bậc phân loại chính là loài, chi, họ, bộ, lớp, ngành, giới, vực (species, genus, family, order, class, phylum/divison, kingdom, domain). Một bậc bất kỳ thì bao gồm trong nó các hạng mục ít chung chung hơn, tức là các mục mô tả cụ thể hơn về các dạng sống. Bên trên nó, mỗi bậc lại được xếp trong các hạng mục sinh vật chung chung hơn, và các nhóm sinh vật có liên quan với nhau thông qua các tính trạng hoặc đặc điểm di truyền từ các tổ tiên chung. Bậc phân loại "loài" và mô tả "chi" của loài đó là các đơn vị "cơ bản"; tức là để xác định một sinh vật cụ thể nào đó thì thường người ta chỉ cần nêu ra hai bậc phân loại đó là đủ mô tả động vật đó, ví dụ là con mèo là "Felis catus". Chi là "Felis" và loại là "Felis" "catus".
Hãy xem xét các loài cáo; và một loài (species) trong số chúng, cáo đỏ "Vulpes vulpes": bậc phân loại tiếp theo của loài này là chi (genus) "Vulpes", bao gồm tất cả các loài "cáo thật". Các họ hàng gần chúng nhất nằm trong bậc phân loại cao hơn một bậc, là họ (family) Canidae, bao gồm chó, chó sói, chó rừng, tất cả các loài cáo, và các loài dạng chó khác; bậc cao hơn tiếp theo là bộ (order) Carnivora, bao gồm các loài giống chó và giống mèo (sư tử, hổ, gấu; và linh cẩu, chồn, và các loài đã nêu trên), và các động vật ăn thịt khác nữa. Là một nhóm thuộc lớp (class) Mammalia (Thú), tất cả các động vật trên được phân loại vào ngành (phylum) Chordata, và tất cả chúng thuộc vào giới (kingdom) Động vật. Và tất cả chúng sẽ tìm được họ hàng gần nhất của chúng ở đâu đó trong số các Eukarya (sinh vật nhân chuẩn) trong bậc phân loại Vực (domain).
Tổ chức Mã quốc tế về Danh pháp động vật định nghĩa bậc phân loại là:
Các bậc phân loại chính.
Trong các xuất bản mang tính bước ngoặt của mình, như là "Systema Naturae (Các hệ thống tự nhiên)", Carolus Linnaeus đã chỉ dùng các bậc phân loại: giới, lớp, bộ, chi, loài và một bậc dưới loài. Ngày nay, việc đặt tên được quy định bởi các mã danh pháp (nomenclature codes). Có bảy bậc phân loại chính: giới, ngành, lớp, bộ, họ, chi, loài. Ngoài ra, vực (do Carl Woese đề xuất) cũng được sử dụng rộng rãi như là một bậc phân loại cơ bản, mặc dù nó không được đề cập đến trong mã danh pháp nào và là từ đồng nghĩa với từ dominion (lat. dominium), giới thiệu bởi Moore vào năm 1974.
Các bậc phân loại cơ bản là loài và chi. Khi một sinh vật được đặt tên loài, nó được ấn định vào một chi nào đó, và tên chi trở thành một phần của tên loài.
Tên của loài còn được gọi là tên, hay danh pháp hai phần. Ví dụ, tên khoa học của cây lúa nước thường được trồng ở Việt Nam là "Oryza sativa," và Oryza là tên chi mà loài này thuộc về. Tên loài thường được viết ở dạng chữ nghiêng, hoặc gạch chân nếu không thể viết nghiêng được. Trong trường hợp ví dụ trên, "Oryza" là tên chung của chi và được viết hoa; còn "sativa" là tên chỉ loài, viết thường.
Các bậc phân loại phụ.
Ngoài các bậc phân loại chính kể trên còn có nhiều bậc phân loại phụ cho mỗi bậc chính. Các bậc này không bắt buộc và không cố định, tùy vào mỗi hệ thống hoặc phương pháp phân loại mà tồn tại. | 1 | null |
Cesar Millan, tên đầy đủ là César Millán Favela, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1969, là nhà huấn luyện chó người Mỹ gốc Mêxicô. Ông được biết đến rộng rãi qua chương trình truyền hình "Dog Whisperer with Cesar Millan", hiện tại đã được phát sóng tại hơn 80 quốc gia. Theo những nội dung của "The Dog Whisperer", Millan chú trọng việc huấn luyện tâm lý cho chó nuôi.
Cuốn sách đầu tiên của Millan với tựa đề "Cesar's Way" được tờ "New York Times" xếp vào hàng bán chạy nhất với hàng triệu bản chỉ tính ở khu vực Bắc Mỹ và được phát hành tại hơn 14 quốc gia trên toàn thế giới.
Millan cho rằng phương pháp chủ yếu dẫn tới thành công trong việc dạy dỗ những chú chó là cần có trạng thái tâm lý bình tĩnh, cân bằng. Nhận ra các biểu hiện không tốt của chó và sửa chữa cho chúng. Người chủ cần phải trở thành "con đầu đàn" (pack leader) đối với chó của mình chứ không phải chủ sở hữu.
Đời sống riêng.
Ông sinh năm 1969. Cha mẹ ông là Felipe Millán Guillen và María Teresa Favela de Millán tại Culiacán, Sinaloa, Mexico, Millan lớn lên trong trang trại động với ông mình tại Sinaloa.
Nhờ sự giao tiếp rất tự nhiên với các chú chó nên ông được đặt biệt danh "el Perrero", "cậu bé chó". Sau đó gia đình ông chuyển tới Mazatlán. Ở tuổi 13, Millan quyết định sẽ trở thành người huấn luyện chó nổi tiếng nhất thế giới.
Millan vượt biên trái phép sang Mỹ năm 21 tuổi, không hề biết nói tiếng Anh, và không có người quen tại đây. Thời gian đầu tại Mỹ, ông làm việc tại một cửa hàng chăm sóc chó. Công việc chủ yếu là chăm sóc những chú chó có biểu hiện hung dữ. Sau đó, Millan mở 1 trung tâm huấn luyện tâm lý chó tại phía Nam Los Angeles chuyên chăm sóc những giống chó lớn.
Millan được định cư hợp pháp tại Mỹ vào năm 2000, và chính thức trở thành công dân hợp pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 2009, sống tại Santa Clarita, California. Ông cưới Ilusión Wilson Millan năm 1994 và có hai con trai Andre (sinh năm 1995) và Calvin (sinh năm 2001). Năm 2010, Cesar Millan và vợ ly dị.
"Dog Whisperer with Cesar Millan".
năm 2002, sau khi xuất hiện trên tờ "Los Angeles Times", Millan bắt đầu làm việc với MPH Entertainment, Inc. phát triển "Dog Whisperer". Một chương trình truyền hình thực tế về Millan và công việc huấn luyên chó cách ứng xử. Lần đầu phát sóng ngày 13 tháng 12 năm 2004 trên kênh National Geographic Channel nhưng sau đó lại chuyển sang phát trên kênh Nat Geo WILD. Chương trình đã dẫn đầu về lượng khán giả của National Geographic Channel ngay trong mùa trình chiếu đầu tiên. Được biết đến với tên gọi "Dog Whisperer with Cesar Millan" hoặc "The Dog Whisperer", đến nay chương trình đã được lên sóng tại hơn 80 quốc gia trên thế giới và giúp Cesar trở nên thành công. Chương trình đã phát sóng tập cuối vào mùa thu năm 2012 và tháng 1 năm 2013 bởi 1 chương trình khác cũng do Millan phụ trách mang tên "Leader of the Pack" ("con đầu đàn.")
Ấn phẩm và DVD.
Sách:
DVD: | 1 | null |
Harry Potter là một loạt phim điện ảnh dựa trên loạt tiểu thuyết cùng tên của J. K. Rowling. Loạt phim được phát hành bởi Warner Bros. Pictures và bao gồm tám phần phim giả tưởng, bắt đầu với "Harry Potter và Hòn đá phù thủy" (2001) và kết thúc là "Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 2" (2011). Một loạt phim tiền truyện được lên kế hoạch bao gồm năm phần phim bắt đầu với "Sinh vật huyền bí và nơi tìm ra chúng" (2016), đánh dấu sự khởi đầu của nhượng quyền truyền thông chia sẻ Thế giới Phù thủy (Wizarding World).
Loạt phim chủ yếu do David Heyman sản xuất, và có sự tham gia của Daniel Radcliffe, Rupert Grint và Emma Watson trong vai ba nhân vật chính: Harry Potter, Ron Weasley và Hermione Granger. Bốn đạo diễn đã làm việc cho loạt phim: Chris Columbus, Alfonso Cuarón, Mike Newell và David Yates. Michael Goldenberg viết kịch bản cho "Harry Potter và Hội Phượng hoàng" (2007), trong khi kịch bản các phim còn lại do Steve Kloves viết. Quá trình sản xuất diễn ra trong hơn mười năm, với cốt truyện chính theo sau hành trình của Harry để vượt qua kẻ thù không đội trời chung của mình là Chúa tể Voldemort.
"Harry Potter và Bảo bối Tử thần", cuốn tiểu thuyết thứ bảy và cũng là cuốn cuối cùng trong bộ truyện, đã được chuyển thể thành hai phần dài tập. "Phần 1" được phát hành vào tháng 11 năm 2010, và "Phần 2" được phát hành vào tháng 7 năm 2011.
"Bảo bối tử thần – Phần 1", "Hòn đá" "phù thủy" và "Bảo bối tử thần – Phần 2" nằm trong số 50 phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại và xếp chúng là phim có doanh thu cao thứ 49, 47 và thứ 13, với "Hòn đá phù thủy" và "Bảo bối tử thần – Phần 2" thu về hơn 1 tỷ đô la Mỹ. Đây là loạt phim có doanh thu cao thứ tư với 7,7 tỷ đô la Mỹ doanh thu trên toàn thế giới.
Nguồn gốc.
Cuối năm 1997, văn phòng của nhà sản xuất phim David Heyman tại London đã nhận được một bản sao của cuốn sách đầu tiên trong bộ bảy tiểu thuyết "Harry Potter" của Rowling. Cuốn sách "Harry Potter và Hòn đá" "phù thủy", đã bị xếp vào một giá sách có mức độ ưu tiên thấp, nơi nó được phát hiện bởi một thư ký đã đọc nó và đưa nó cho Heyman với một đánh giá tích cực. Do đó, Heyman, người vốn dĩ không thích "tiêu đề rác rưởi", đã tự mình đọc cuốn sách. Rất ấn tượng trước tác phẩm của Rowling, ông đã bắt đầu quá trình dẫn đến một trong những thương hiệu điện ảnh thành công nhất mọi thời đại.
Sự nhiệt tình của Heyman đã dẫn đến việc Rowling bán bản quyền làm phim năm 1999 cho 4 cuốn "Harry Potter" đầu tiên cho Warner Bros. với giá 1 triệu bảng Anh (2.000.000 USD). Rowling đưa ra yêu cầu là dàn diễn viên chính phải được giữ nghiêm ngặt là người Anh, tuy nhiên cho phép nhiều diễn viên người Ireland, chẳng hạn như Richard Harris trong vai Dumbledore, và tuyển diễn viên Pháp và Đông Âu trong "Harry Potter và Chiếc cốc lửa" khi các chi tiết trong sách được chỉ định như vậy. Rowling đã do dự trong việc bán bản quyền vì bà "không muốn cho họ quyền kiểm soát phần còn lại của câu chuyện" bằng cách bán bản quyền cho các nhân vật, điều này sẽ cho phép Warner Bros. làm các phần tiếp theo không do tác giả viết.
Mặc dù ban đầu Steven Spielberg đã đàm phán để đạo diễn bộ phim đầu tiên, nhưng ông đã từ chối lời đề nghị. Spielberg cho rằng, theo quan điểm của ông, mọi kỳ vọng về lợi nhuận khi làm bộ phim. Anh ấy tuyên bố rằng việc kiếm tiền sẽ giống như "bắn vịt vào thùng. Đó chỉ là một trò lừa đảo. Nó giống như việc rút một tỷ đô la và đưa nó vào tài khoản ngân hàng cá nhân của bạn. Không có thách thức nào." Trong phần "Rubbish Bin" trên trang web của cô ấy, Rowling khẳng định rằng cô ấy không có vai trò gì trong việc chọn đạo diễn cho các bộ phim, viết "Bất cứ ai nghĩ rằng tôi có thể (hoặc sẽ) có quyền 'phủ quyết' anh ấy [Spielberg] cần Báo giá Nhanh của họ đã được phục vụ."
Sau khi Spielberg rời đi, các cuộc trò chuyện bắt đầu với các đạo diễn khác, bao gồm Chris Columbus, Jonathan Demme, Terry Gilliam, Mike Newell, Alan Parker, Wolfgang Petersen, Rob Reiner, Tim Robbins, Brad Silberling và Peter Weir. Petersen và Reiner đều rút khỏi cuộc chạy đua vào tháng 3 năm 2000. Sau đó, nó được thu hẹp lại cho Columbus, Gilliam, Parker và Silberling. Lựa chọn đầu tiên của Rowling là Terry Gilliam. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 3 năm 2000, Columbus được bổ nhiệm làm đạo diễn của bộ phim, với việc Warner Bros. trích dẫn công việc của ông trên các bộ phim gia đình khác như "Home Alone" và "Mrs. Doubtfire" là những ảnh hưởng đến quyết định của họ.
Steve Kloves đã được chọn để viết kịch bản cho bộ phim đầu tiên. Ông mô tả việc chuyển thể cuốn sách là "khó khăn" vì nó không "phù hợp với việc chuyển thể cũng như hai cuốn sách tiếp theo". Kloves đã được gửi một "bè" tóm tắt các cuốn sách được đề xuất làm phim chuyển thể, trong đó "Harry Potter" là người duy nhất phản đối anh. Anh ấy đi ra ngoài và mua cuốn sách, trở thành một người hâm mộ ngay lập tức. Khi nói chuyện với Warner Bros., ông nói rằng bộ phim phải đậm chất Anh và đúng với các nhân vật. David Heyman đã được xác nhận sẽ sản xuất bộ phim. Rowling nhận được một lượng lớn quyền kiểm soát sáng tạo cho bộ phim, một sự sắp xếp mà Columbus không bận tâm.
Warner Bros. ban đầu đã lên kế hoạch phát hành bộ phim đầu tiên vào cuối tuần 4 tháng 7 năm 2001, tạo ra thời hạn sản xuất ngắn đến mức một số đạo diễn được đề xuất ban đầu đã rút lui khỏi tranh chấp. Cuối cùng, do hạn chế về thời gian, ngày này đã được lùi lại thành ngày 16 tháng 11 năm 2001.
Phân vai Harry, Ron và Hermione.
Năm 2000, sau bảy tháng tìm kiếm, nam diễn viên chính Daniel Radcliffe đã được phát hiện bởi nhà sản xuất David Heyman và biên kịch Steve Kloves ngồi ngay sau họ trong một rạp chiếu phim. Theo cách nói của Heyman, "Ngồi đằng sau tôi là cậu bé có đôi mắt xanh to tròn này. Đó là Dan Radcliffe. Tôi nhớ ấn tượng đầu tiên của mình: Cậu ấy tò mò, vui tính và rất năng động. Ngoài ra còn có sự hào phóng và ngọt ngào. Nhưng ở đồng thời anh ta thực sự rất phàm ăn và khao khát kiến thức về bất cứ thứ gì."
Radcliffe đã tự khẳng định mình là một diễn viên trong bộ phim truyền hình BBC năm 1999 của "David Copperfield", trong đó anh đóng vai chính những năm thơ ấu. Heyman thuyết phục cha mẹ của Radcliffe cho phép anh tham gia thử vai trong Harry Potter, liên quan đến việc Radcliffe được quay phim. (Đoạn phim thử nghiệm trên màn hình này đã được phát hành qua tập đầu tiên của Ultimate Editions vào năm 2009.) Rowling rất hào hứng sau khi xem thử nghiệm được quay của Radcliffe, nói rằng cô ấy không nghĩ có sự lựa chọn nào tốt hơn cho phần Harry Potter.
Cũng trong năm 2000, các diễn viên người Anh vô danh khi đó là Emma Watson và Rupert Grint đã được chọn từ hàng nghìn trẻ em thử vai để lần lượt đóng các vai Hermione Granger và Ron Weasley. Kinh nghiệm diễn xuất duy nhất trước đây của họ là trong các vở kịch ở trường. Grint mười một tuổi và Watson mười tuổi vào thời điểm họ được chọn.
Cây bút Geoff Boucher của "Los Angeles Times", người đã thực hiện cuộc phỏng vấn nói trên với Heyman, nói thêm rằng việc tuyển chọn ba vai chính "đặc biệt ấn tượng trong nhận thức sâu sắc. Việc lựa chọn bộ ba được cho là một trong những quyết định kinh doanh tốt nhất trong thập kỷ qua... họ đã thể hiện sự duyên dáng và vững vàng đáng ngưỡng mộ khi đối mặt với dàn diễn viên tuổi teen."
Sản xuất.
Quá trình quay của loạt phim này bắt đầu tại Leavesden Studios, Hertfordshire, Anh, vào tháng 9 năm 2000 và kết thúc vào tháng 12 năm 2010, với phần hậu kỳ của bộ phim cuối cùng kéo dài đến mùa hè năm 2011. Leavesden Studios là cơ sở chính để quay "Harry Potter", và nó mở cửa cho công chúng như một chuyến tham quan trường quay vào năm 2012 (được đổi tên thành Warner Bros. Studios, Leavesden).
David Heyman đã sản xuất tất cả các phim trong loạt phim với công ty sản xuất Heyday Films của mình, trong khi David Barron tham gia loạt phim với tư cách là nhà sản xuất điều hành trên "Phòng chứa bí mật" và "Chiếc cốc lửa". Barron sau đó được chỉ định làm nhà sản xuất cho bốn bộ phim cuối cùng. Chris Columbus là nhà sản xuất điều hành của hai bộ phim đầu tiên cùng với Mark Radcliffe và Michael Barnathan , nhưng anh đã trở thành nhà sản xuất của bộ phim thứ ba cùng với Heyman và Radcliffe. Các nhà sản xuất điều hành khác bao gồm Tanya Seghatchian và Lionel Wigram. J. K. Rowling, tác giả của bộ truyện, đã được đề nghị trở thành nhà sản xuất trên "Chiếc cốc lửa" nhưng đã từ chối. Sau đó cô đã nhận vai trong hai phần "Bảo bối Tử thần".
Heyday Films và công ty 1492 Pictures của Columbus đã hợp tác với Duncan Henderson Productions vào năm 2001, Miracle Productions vào năm 2002, và P of A Productions vào năm 2004. Mặc dù "Tên tù nhân ngục Azkaban" là bộ phim cuối cùng do 1492 Pictures sản xuất, Heyday Films vẫn tiếp tục nhượng quyền thương mại và hợp tác với Patalex IV Productions vào năm 2005. Bộ phim thứ sáu trong loạt phim, "Hoàng tử lai", là bộ phim tốn kém nhất để sản xuất tính đến năm 2009.
Warner Bros. đã chia cuốn tiểu thuyết thứ bảy và cuối cùng trong loạt tiểu thuyết, "Bảo bối Tử thần", thành hai phần điện ảnh. Hai phần được quay liên tục từ đầu năm 2009 đến mùa hè năm 2010, với việc hoàn thành các buổi quay lại vào ngày 21 tháng 12 năm 2010; điều này đánh dấu sự kết thúc của việc quay phim "Harry Potter". Heyman tuyên bố rằng "Bảo bối Tử thần" được "quay như một bộ phim" nhưng được phát hành thành hai phần dài tập.
Tim Burke, giám sát hiệu ứng hình ảnh của loạt phim, nói về quá trình sản xuất "Harry Potter", "Đó là một gia đình khổng lồ này; tôi nghĩ rằng đã có hơn 700 người làm việc tại Leavesden, một ngành công nghiệp của chính nó." David Heyman nói, "Khi bộ phim đầu tiên ra rạp, tôi không nghĩ rằng chúng tôi sẽ làm tám bộ phim. Điều đó dường như không khả thi cho đến khi chúng tôi thực hiện phần thứ tư." Nisha Parti, cố vấn sản xuất của bộ phim đầu tiên, nói rằng Heyman "đã thực hiện bộ phim đầu tiên theo cách mà anh ấy cảm thấy hãng phim Warner Bros. muốn làm". Sau thành công của bộ phim, Heyman được cho "nhiều sự tự do" hơn.
Một trong những mục đích của các nhà làm phim ngay từ khi bắt đầu sản xuất là phát triển sự trưởng thành của các bộ phim. Chris Columbus nói: "Chúng tôi nhận ra rằng những bộ phim này sẽ dần trở nên tối hơn. Một lần nữa, chúng tôi không biết tối đến "mức nào" nhưng chúng tôi nhận ra rằng khi bọn trẻ lớn hơn, các bộ phim trở nên sắc nét và tối hơn một chút." Điều này xảy ra với ba đạo diễn kế nhiệm sẽ làm việc cho loạt phim trong những năm tiếp theo, với các bộ phim bắt đầu giải quyết các vấn đề như cái chết, sự phản bội, thành kiến và tham nhũng chính trị khi loạt phim phát triển theo chủ đề và tự sự.
Các đạo diễn.
Sau khi Chris Columbus hoàn thành tác phẩm "Harry Potter và Hòn đá phù thủy", ông được thuê làm đạo diễn cho phần phim thứ hai, "Harry Potter và Phòng chứa Bí mật". Quá trình sản xuất bắt đầu trong vòng một tuần sau khi phát hành bộ phim đầu tiên. Columbus đã được định hướng để chỉ đạo tất cả các mục trong loạt phim, nhưng ông không muốn quay lại với phần phim thứ ba, "Harry Potter và Tù nhân Azkaban", vì cho rằng ông đã "kiệt sức". Anh ấy chuyển sang vị trí nhà sản xuất, trong khi Alfonso Cuarón đã được tiếp cận cho vai trò giám đốc. Ban đầu anh ấy rất lo lắng về việc đạo diễn phần phim vì anh ấy chưa đọc bất kỳ cuốn sách nào hoặc xem các bộ phim. Sau khi đọc bộ truyện, anh ấy đã thay đổi quyết định và ký tiếp tục đạo diễn vì anh ấy đã ngay lập tức kết nối với câu chuyện.
Vì Cuarón quyết định không chỉ đạo phần thứ tư, "Harry Potter và Chiếc cốc lửa", nên một đạo diễn mới đã phải được chọn. Mike Newell được chọn làm đạo diễn cho bộ phim, nhưng ông đã từ chối đạo diễn bộ phim tiếp theo, "Harry Potter và Hội Phượng hoàng", bộ phim được giao cho David Yates, người cũng đạo diễn "Harry Potter và Hoàng tử lai" và "Harry Potter và Bảo bối Tử thần", trở thành đạo diễn duy nhất chỉ đạo nhiều bộ phim kể từ Chris Columbus.
Chris Columbus cho biết tầm nhìn của ông về hai bộ phim đầu tiên là một "cuốn truyện vàng, một cái nhìn kiểu cũ", trong khi Alfonso Cuarón thay đổi tông màu trực quan của bộ truyện, khử bão hòa bảng màu và mở rộng cảnh quan xung quanh trường Hogwarts. Mike Newell quyết định đạo diễn bộ phim thứ tư là "phim kinh dị hoang tưởng", trong khi David Yates muốn "mang lại cảm giác nguy hiểm và tính cách cho thế giới". Cuarón, Newell và Yates đã nói rằng thách thức của họ là tạo ra sự cân bằng giữa việc làm phim theo tầm nhìn cá nhân của họ, trong khi làm việc trong một thế giới điện ảnh đã được Columbus thiết lập.
David Heyman nhận xét về "sự hào phóng của các đạo diễn" bằng cách tiết lộ rằng "Chris đã dành thời gian với Alfonso, Alfonso đã dành thời gian với Mike và Mike đã dành thời gian với David, cho ông ấy xem một đoạn đầu của bộ phim, nói về ý nghĩa của việc trở thành một đạo diễn và cách họ tiến hành [làm phim]."
David Heyman cũng nói, "Tôi cho rằng Chris Columbus là sự lựa chọn thận trọng nhất theo quan điểm của hãng phim. Nhưng anh ấy thể hiện niềm đam mê thực sự." Nhà sản xuất Tanya Seghatchian cho biết họ "mạo hiểm hơn" trong việc chọn đạo diễn cho phần ba và đến thẳng Alfonso Cuarón. Mike Newell trở thành đạo diễn người Anh đầu tiên của loạt phim khi ông được chọn cho bộ phim thứ tư; Newell được coi là đạo diễn bộ phim đầu tiên trước khi anh bỏ. David Yates đạo diễn những bộ phim cuối cùng sau khi David Heyman cho rằng ông có khả năng xử lý các tài liệu chính trị, tình cảm và sắc sảo của các tiểu thuyết sau này.
Tất cả các giám đốc đã hỗ trợ lẫn nhau. Chris Columbus khen ngợi sự phát triển của nhân vật trong các bộ phim, trong khi Alfonso Cuarón ngưỡng mộ "chất thơ tĩnh lặng" trong các bộ phim của David Yates. Mike Newell lưu ý rằng mỗi đạo diễn có một chủ nghĩa anh hùng khác nhau, và David Yates xem bốn bộ phim đầu tiên "một cách tôn trọng và [tận hưởng] chúng". Daniel Radcliffe nói Yates "lấy sức hấp dẫn của những bộ phim mà Chris đã làm và sự tinh tế về mặt hình ảnh của mọi thứ mà Alfonso đã làm và bản chất khoa trương, hoàn toàn đậm chất Anh của bộ phim do Mike Newell đạo diễn" và thêm vào "cảm nhận của riêng anh ấy "của chủ nghĩa hiện thực.
Kịch bản.
Steve Kloves đã viết kịch bản cho tất cả ngoại trừ bộ phim thứ năm, do Michael Goldenberg chấp bút. Kloves đã có sự hỗ trợ trực tiếp từ J. K. Rowling, mặc dù cô ấy đã cho phép anh ta những gì anh ta mô tả là "phòng chống khuỷu tay to lớn". Rowling yêu cầu Kloves trung thành với tinh thần của những cuốn sách; do đó, cốt truyện và giọng điệu của mỗi bộ phim và cuốn sách tương ứng của nó hầu như giống nhau, mặc dù có một số thay đổi và thiếu sót cho các mục đích về phong cách điện ảnh, thời gian và ngân sách hạn chế. Michael Goldenberg cũng nhận được ý kiến đóng góp từ Rowling trong quá trình chuyển thể cuốn tiểu thuyết thứ năm của ông; Goldenberg ban đầu được cân nhắc để chuyển thể cuốn tiểu thuyết đầu tiên trước khi hãng phim chọn Kloves.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2010, David Heyman giải thích ngắn gọn về quá trình chuyển đổi từ sách sang phim. Ông nhận xét về sự tham gia của Rowling trong loạt phim, nói rằng bà hiểu rằng "sách và phim khác nhau" và là "sự hỗ trợ tốt nhất" mà một nhà sản xuất có thể có. Rowling đã có sự chấp thuận tổng thể về các kịch bản, đã được đạo diễn và nhà sản xuất xem và thảo luận. Heyman cũng nói rằng Kloves là "tiếng nói chủ chốt" trong quá trình chuyển thể tiểu thuyết và rằng một số khía cạnh của cuốn sách cần phải được loại trừ khỏi kịch bản do các nhà làm phim quyết định giữ trọng tâm chính vào hành trình của Harry với tư cách là một nhân vật, điều này cuối cùng sẽ cung cấp cho các bộ phim một cấu trúc xác định. Heyman đề cập rằng một số người hâm mộ "không nhất thiết phải hiểu quá trình chuyển thể" và các nhà làm phim rất thích "có mọi thứ" từ sách trong phim nhưng lưu ý rằng điều đó là không thể vì họ không có "thời gian cũng như cấu trúc điện ảnh" để làm như vậy. Ông kết thúc bằng cách nói rằng chuyển thể một cuốn tiểu thuyết lên màn ảnh là "một quá trình thực sự được cân nhắc".
Bởi vì các bộ phim đang được thực hiện khi tiểu thuyết đang được xuất bản, các nhà làm phim không biết kết quả của câu chuyện cho đến khi phát hành cuốn tiểu thuyết cuối cùng vào năm 2007. Kloves nói về mối quan hệ của mình với Rowling khi chuyển thể tiểu thuyết bằng cách nói, "Vấn đề là về Jo, điều đáng chú ý đối với một người không có kinh nghiệm trong quá trình làm phim, đó là trực giác của cô ấy. bởi vì tôi biết điều gì sẽ đến và không thể kịch tính hóa hoàn toàn những gì tôi sẽ viết trên màn ảnh. Nhưng tôi chỉ yêu cầu bạn sống thật với các nhân vật; đó là tất cả những gì tôi quan tâm.'" Kloves cũng nói, "Tôi không biết điều gì đã buộc tôi phải nói điều này [với Rowling], nhưng tôi nói, 'Tôi vừa phải cảnh báo với bạn rằng nhân vật yêu thích của tôi không phải là Harry. Nhân vật yêu thích của tôi là Hermione." Và tôi nghĩ vì một lý do kỳ lạ nào đó, kể từ thời điểm đó, cô ấy đã tin tưởng tôi."
Đoàn làm phim.
Ngoài ba diễn viên chính, dàn diễn viên đáng chú ý khác bao gồm Robbie Coltrane trong vai Rubeus Hagrid, Tom Felton trong vai Draco Malfoy, Alan Rickman trong vai Severus Snape và Dame Maggie Smith trong vai Minerva McGonagall. Richard Harris, người đóng vai Giáo sư Albus Dumbledore, qua đời vào ngày 25 tháng 10 năm 2002 khiến vai diễn này được chọn lại cho phần ba, "Harry Potter và Tên tù nhân ngục Azkaban". David Heyman và đạo diễn Alfonso Cuarón chọn Michael Gambon để đóng vai cụ Dumbledore, điều mà ông đã làm cho tất cả các bộ phim thành công. Dàn diễn viên định kỳ đáng chú ý bao gồm Helena Bonham Carter trong vai Bellatrix Lestrange, Warwick Davis trong vai Filius Flitwick, Ralph Fiennes trong vai Chúa tể Voldemort, Brendan Gleeson trong vai Alastor Moody, Richard Griffiths trong vai Vernon Dursley, Jason Isaacs trong vai Lucius Malfoy, Gary Oldman trong vai Sirius Black, Fiona Shaw trong vai Petunia Dursley, Timothy Spall trong vai Peter Pettigrew, David Thewlis trong vai Remus Lupin, Emma Thompson trong vai Sybill Trelawney, Mark Williams trong vai Arthur Weasley và Julie Walters trong vai Molly Weasley.
Loạt phim đã chứng kiến nhiều thành viên phi hành đoàn trở về từ các bộ phận khác nhau, bao gồm Tim Burke, giám sát hiệu ứng hình ảnh; Peter Doyle, chuyên gia chỉnh màu phim kỹ thuật số; Nick Dudman, nhà thiết kế trang điểm và hiệu ứng sinh vật; David Holmes, đóng thế kép; Amanda Knight, nghệ sĩ trang điểm; Stephenie McMillan, nhà thiết kế; Greg Powell, điều phối viên đóng thế; Jany Temime, nhà thiết kế trang phục; và Fiona Weir, giám đốc casting.
Thiết kế trường quay.
Người thiết kế sản xuất cho cả tám bộ phim là Stuart Craig. Được Stephenie McMillan hỗ trợ, Craig đã tạo ra các bộ đồ chơi mang tính biểu tượng bao gồm Bộ Pháp thuật, Phòng chứa Bí mật, Phủ Malfoy và cách bố trí cho Hang Trường sinh linh giá bằng CGI. Vì tiểu thuyết đang được xuất bản khi các bộ phim đang được thực hiện, Craig được yêu cầu xây dựng lại một số bộ cho các bộ phim trong tương lai và thay đổi thiết kế của Hogwarts.
Anh ấy nói, "Trong những ngày đầu tiên, mỗi khi bạn nhìn thấy bên ngoài của Hogwarts, đó là một bản thu nhỏ vật chất," được làm bởi những người thợ thủ công và chiếm một sân khấu âm thanh lớn. "Chúng tôi đã kết thúc với một hồ sơ về cách Hogwarts trông như thế nào, một đường chân trời mà thực sự tôi không thiết kế, và nó không phải lúc nào cũng hài lòng, và vì tất cả các tiểu thuyết được viết và các bộ phim đã được làm mới yêu cầu [đối với các tòa nhà]. [Tháp Thiên văn] chắc chắn không có ở đó ban đầu, và vì vậy chúng tôi có thể thêm phần quan trọng đó. Và trong bộ phim cuối cùng, chúng tôi cần một đấu trường cho trận chiến ở Hogwarts - sân lớn bên ngoài đã tăng gấp đôi về kích thước, và nếu bạn xem bộ phim đầu tiên, nó hoàn toàn không có ở đó. Có một số quyền tự do được thực hiện với sự liên tục của Hogwarts." Trong bộ phim cuối cùng, Craig đã sử dụng một mô hình kỹ thuật số thay vì một mô hình thu nhỏ để "đón nhận công nghệ mới nhất".
Về phương pháp tạo ra các bộ này, Craig cho biết anh thường bắt đầu bằng cách phác thảo ý tưởng lên một tờ giấy trắng. Stephenie McMillan cũng nói rằng "mỗi bộ phim luôn có nhiều thử thách mới", lấy ví dụ về sự thay đổi trong phong cách hình ảnh giữa đạo diễn và nhà quay phim, cùng với câu chuyện đang phát triển trong tiểu thuyết. Do mô tả của J. K. Rowling về các bối cảnh khác nhau trong tiểu thuyết, Craig lưu ý rằng "trách nhiệm của anh ấy là đặt nó lại với nhau."
Craig nhận xét về kinh nghiệm làm việc trong môi trường studio: "Tôi là nhà thiết kế sản xuất, nhưng trong một bộ phim lớn như "Harry Potter", tôi có thể chịu trách nhiệm từ 30 đến 35 người; từ giám đốc nghệ thuật giám sát, đội ngũ giám đốc nghệ thuật và trợ lý, cho các thợ săn và thợ may cấp dưới, và sau đó là các nhà sản xuất mô hình, nhà điêu khắc và nghệ sĩ phong cảnh." Ông nói, "Mười năm trước, tất cả các bức vẽ "Harry Potter" đều được thực hiện bằng bút chì. Tôi sẽ lấy các bản vẽ thô và các bản vẽ và các mặt cắt của mình và đưa chúng cho một họa sĩ minh họa kiến trúc chuyên nghiệp, người sẽ tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bằng bút chì và rửa màu trên giấy màu nước." Ông cho biết quá trình này đã thay đổi một chút trong suốt những năm qua do cái mà ông gọi là "cuộc cách mạng kỹ thuật số" trong việc làm phim.
Khi quá trình quay bộ phim hoàn thành, một số bộ phim của Craig phải được xây dựng lại hoặc vận chuyển để trưng bày trong chuyến tham quan trường quay của Warner Bros.
Kỹ thuật quay phim.
Sáu đạo diễn hình ảnh đã làm việc cho loạt phim: John Seale trong phần đầu tiên, Roger Pratt trong phần thứ hai và thứ tư, Michael Seresin phần thứ ba, Sławomir Idziak phần thứ năm, Bruno Delbonnel phần thứ sáu, và Eduardo Serra ở phần thứ bảy và thứ tám . Delbonnel được cho là sẽ trở lại cho cả hai phần của "Bảo bối Tử thần", nhưng anh đã từ chối, nói rằng bản thân "sợ lặp lại". Tác phẩm điện ảnh của Delbonnel trong "Hoàng tử lai" đã giành được đề cử giải Oscar duy nhất cho bộ phim này cho Quay phim xuất sắc nhất. Khi loạt phim tiếp tục phát triển, mỗi nhà quay phim phải đối mặt với thách thức quay và chiếu sáng các bối cảnh cũ hơn (đã có từ vài bộ phim đầu tiên) theo những cách độc đáo và khác biệt. Chris Columbus cho biết màu sắc sặc sỡ của loạt phim giảm dần khi mỗi bộ phim được thực hiện.
Michael Seresin nhận xét về sự thay đổi phong cách hình ảnh từ hai phần phim đầu tiên cho đến "Tù nhân Azkaban": "Ánh sáng buồn hơn, với nhiều bóng đổ và ánh sáng chéo hơn." Seresin và Alfonso Cuarón đã rời xa cách quay phim có màu sắc rực rỡ và rực rỡ của hai bộ phim đầu tiên, với ánh sáng mờ hơn và bảng màu tắt hơn được sử dụng cho năm bộ phim tiếp theo. Sau khi so sánh một loạt máy ảnh kỹ thuật số với phim 35 mm, Bruno Delbonnel quyết định quay bộ phim thứ sáu, "Hoàng tử lai", trên phim thay vì định dạng kỹ thuật số ngày càng phổ biến. Quyết định này được giữ cho hai phần "Bảo bối Tử thần"với Eduardo Serra, người nói rằng anh thích làm việc với phim vì nó "chính xác hơn về mặt kỹ thuật và đáng tin cậy".
Vì phần lớn các "Bảo bối Tử thần" diễn ra trong các bối cảnh khác nhau xa trường Hogwarts, David Yates muốn "làm rung chuyển mọi thứ" bằng cách sử dụng các kỹ thuật chụp ảnh khác nhau như sử dụng máy ảnh cầm tay và ống kính máy ảnh rất rộng. Eduardo Serra nói, "Đôi khi chúng tôi kết hợp các yếu tố được quay bởi đơn vị chính, đơn vị thứ hai và đơn vị hiệu ứng hình ảnh. Bạn phải biết những gì đang được chụp - màu sắc, độ tương phản, vân vân – với độ chính xác toán học." Ông lưu ý rằng với "bộ phim tuyệt vời và câu chuyện" của Stuart Craig, các nhà làm phim không thể "đi quá xa so với cái nhìn của các bộ phim "Harry Potter" trước đây".
Biên tập.
Cùng với sự thay đổi liên tục của các nhà quay phim, đã có năm nhà biên tập phim làm việc hậu kỳ cho loạt phim: Richard Francis-Bruce biên tập phần đầu tiên, Peter Honess phần hai, Steven Weisberg phần ba, Mick Audsley phần tư và Mark Day phim từ năm đến tám.
Âm nhạc.
Loạt phim "Harry Potter" đã có bốn nhà soạn nhạc. John Williams đã soạn nhạc trong ba phim đầu tiên: "Hòn đá phù thủy", "Phòng chứa bí mật", và "Tên tù nhân ngục Azkaban". Do một lịch trình bận rộn năm 2002, Williams đã đưa William Ross vào để thích nghi và chỉ huy dàn nhạc cho "Phòng chứa Bí mật". Williams cũng tạo ra "Hedwig's Theme", bản nhạc ngắn xuất hiện trong cả tám bộ phim.
Sau khi Williams rời loạt phim để theo đuổi các dự án khác, Patrick Doyle đã ghi được bàn thắng thứ tư, "Chiếc cốc lửa", được đạo diễn bởi Mike Newell, người mà Doyle đã làm việc trước đó. Năm 2006, Nicholas Hooper bắt đầu thực hiện phần nhạc cho "Hội Phượng hoàng", tái hợp với đạo diễn David Yates. Hooper cũng là người sáng tác nhạc phim cho "Hoàng tử lai" nhưng quyết định không quay lại cho những phần phim cuối cùng.
Vào tháng 1 năm 2010, Alexandre Desplat được xác nhận sẽ soạn nhạc cho "Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 1". Việc dàn dựng phim bắt đầu vào mùa hè với Conrad Pope, người dàn dựng trong ba bộ phim "Harry Potter" đầu tiên, hợp tác với Desplat. Pope nhận xét rằng bản nhạc "gợi nhớ một ngày xưa cũ". Desplat trở lại để soạn nhạc cho "Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 2" vào năm 2011.
Yates nói rằng anh ấy muốn Williams quay trở lại loạt phim cho phần cuối cùng, nhưng lịch trình của họ không phù hợp do yêu cầu khẩn cấp về việc cắt thô bộ phim. Buổi thu âm cuối cùng của "Harry Potter" diễn ra vào ngày 27 tháng 5 năm 2011 tại Abbey Road Studios với Dàn nhạc Giao hưởng London, Desplat và dàn nhạc Conrad Pope.
Doyle, Hooper và Desplat đã giới thiệu các chủ đề cá nhân của riêng họ vào các bản nhạc phim tương ứng của họ, trong khi vẫn giữ một số nhạc chủ đề của Williams.
Hiệu ứng hình ảnh.
Đã có rất nhiều công ty kỹ xảo hình ảnh hợp tác với bộ "truyện Harry Potter". Một số trong số này bao gồm Rising Sun Pictures, Sony Pictures Imageworks, Double Negative, Cinesite, Framestore và Industrial Light & Magic. Ba phần sau đã làm việc trên tất cả các phim trong loạt phim, trong khi Double Negative và Rising Sun Pictures bắt đầu cam kết lần lượt với "Tên tù nhân ngục Azkaban" và "Chiếc cốc lửa". Framestore đã đóng góp bằng cách phát triển nhiều sinh vật và trình tự đáng nhớ cho loạt phim. Cinesite đã tham gia vào việc sản xuất cả hiệu ứng thu nhỏ và kỹ thuật số cho các bộ phim. Nhà sản xuất David Barron nói rằng ""Harry Potter" đã tạo ra ngành công nghiệp hiệu ứng của Vương quốc Anh như chúng ta đã biết. Ở phần phim đầu tiên, tất cả các hiệu ứng hình ảnh phức tạp đều được thực hiện ở bờ biển phía tây [Hoa Kỳ]. Nhưng đến phần thứ hai, chúng tôi đã có một bước nhảy vọt của niềm tin và đã trao phần lớn những gì thường được trao cho các nhà cung cấp ở California cho các nhà cung cấp ở Vương quốc Anh. Họ đã đưa ra những con át chủ bài." Tim Burke, giám sát hiệu ứng hình ảnh, cho biết nhiều hãng phim "đang đưa tác phẩm của họ đến các công ty hiệu ứng của Vương quốc Anh. Mọi cơ sở đều được đặt hết chỗ, và đó không phải là trường hợp trước "Harry Potter". Điều đó thực sự quan trọng."
Quay phim cuối cùng.
Vào ngày 12 tháng 6 năm 2010, quá trình quay phim "Bảo bối Tử thần - Phần 1" và "Phần 2" đã được hoàn thành với nam diễn viên Warwick Davis tuyên bố trên tài khoản Twitter của mình, "Sự kết thúc của một Kỷ nguyên – hôm nay chính thức là ngày chụp ảnh chính cuối cùng của 'Harry Potter' – Tôi cảm thấy rất vinh dự khi được ở đây khi đạo diễn hét lên lần cuối cùng. Vĩnh biệt Harry & Hogwarts, thật là kỳ diệu!" Tuy nhiên, các cảnh quay lại phần kết đã được xác nhận là sẽ bắt đầu vào mùa đông năm 2010. Việc quay phim đã hoàn thành vào ngày 21 tháng 12 năm 2010, đánh dấu việc chính thức đóng cửa loạt phim "Harry Potter". Đúng bốn năm trước đó vào ngày đó, trang web chính thức của tác giả J. K. Rowling đã tiết lộ tiêu đề của cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong bộ truyện – "Harry Potter và Bảo bối Tử thần".
Các bộ phim.
"Harry Potter và Hòn đá phù thủy" (2001).
Harry Potter là một cậu bé mồ côi được nuôi dưỡng bởi người dì và chú Muggle (không có phép thuật) không tốt bụng của mình. Năm 11 tuổi, người nửa khổng lồ Rubeus Hagrid thông báo với cậu rằng cậu thực sự là một phù thủy và cha mẹ anh đã bị sát hại bởi một phù thủy độc ác tên là Chúa tể Voldemort. Voldemort cũng cố gắng giết Harry một tuổi vào cùng đêm đó, nhưng lời nguyền giết chóc của hắn ta đã bật lại một cách bí ẩn và khiến hắn trở thành một hình dạng yếu ớt và bất lực. Kết quả là Harry trở nên cực kỳ nổi tiếng trong Thế giới Phù thủy. Harry bắt đầu năm đầu tiên của mình tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts và học về phép thuật. Trong năm, Harry và những người bạn Ron Weasley và Hermione Granger vướng vào bí ẩn về Hòn đá Phù thủy đang được cất giữ trong trường.
"Harry Potter và Phòng chứa bí mật" (2002).
Harry, Ron và Hermione trở lại Hogwarts vào năm thứ hai, điều này được chứng minh là khó khăn hơn so với năm trước. Phòng chứa Bí mật đã được mở ra, để lại những học sinh và những hồn ma bị hóa đá bởi một con quái vật chưa giải phóng. Harry phải đối mặt để tuyên bố rằng cậu là người thừa kế của Salazar Slytherin (người sáng lập Phòng), biết rằng cậu có thể nói Xà ngữ, và cũng khám phá các thuộc tính của một cuốn nhật ký bí ẩn, chỉ để thấy mình bị mắc kẹt trong chính căn phòng.
"Harry Potter và Tên tù ngục Azkaban" (2004).
Năm thứ ba của Harry chứng kiến cậu bé phù thủy cùng với những người bạn của mình theo học trường Hogwarts một lần nữa. Giáo sư R. J. Lupin gia nhập đội ngũ giáo viên với tư cách là giáo viên môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, trong khi kẻ sát nhân bị kết án Sirius Black trốn thoát khỏi Azkaban. Bộ Pháp thuật giao cho các Giám ngục bảo vệ trường Hogwarts khỏi Black. Harry biết thêm về quá khứ của ông ta và mối liên hệ của cậu với người tù nhân vượt ngục.
"Harry Potter và Chiếc cốc lửa" (2005).
Trong năm thứ tư của Harry, trường Hogwarts đóng vai trò tổ chức Giải đấu Triwizard. Ba trường châu Âu tham gia giải đấu, với ba 'nhà vô địch' đại diện cho mỗi trường trong các nhiệm vụ chết người. Chiếc cốc lửa chọn Fleur Delacour, Viktor Krum và Cedric Diggory để thi đấu với nhau. Tuy nhiên, tên của Harry cũng được tạo ra từ Chiếc cốc, do đó khiến anh trở thành nhà vô địch thứ tư, dẫn đến cuộc chạm trán đáng sợ với Chúa tể Voldemort tái sinh.
"Harry Potter và Hội Phượng hoàng" (2007).
Năm thứ năm của Harry bắt đầu với việc cậu bị tấn công bởi Bọn Giám ngục ở Little Whinging. Sau đó, anh phát hiện ra rằng Bộ Pháp thuật đang chối bỏ sự trở lại của Chúa tể Voldemort. Harry cũng bị bủa vây bởi những cơn ác mộng thực tế và đáng lo ngại, trong khi Giáo sư Umbridge, đại diện của Bộ trưởng Bộ Pháp thuật Cornelius Fudge, là giáo viên mới của Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Harry nhận ra rằng Voldemort đang ở sau một lời tiên tri tiết lộ: "Không ai có thể sống sót trong khi người kia còn tồn tại". Cuộc nổi loạn liên quan đến các học sinh của trường Hogwarts, tổ chức bí mật Hội Phượng hoàng, Bộ Pháp thuật và các Tử thần Thực tử bắt đầu.
"Harry Potter và Hoàng tử lai" (2009).
Trong năm thứ sáu của Harry tại Hogwarts, Chúa tể Voldemort và các Tử thần Thực tử của hắn đang gia tăng sự kinh hoàng của chúng đối với Thế giới Phù thủy và Muggle. Hiệu trưởng Albus Dumbledore thuyết phục người bạn cũ Horace Slughorn trở lại Hogwarts với tư cách là một giáo sư khi còn một chỗ trống cần lấp đầy. Tuy nhiên, có một lý do quan trọng hơn cho sự trở lại của Slughorn. Trong khi học Độc dược, Harry sở hữu một cuốn sách giáo khoa ở trường được chú thích kỳ lạ, được ghi là thuộc về 'Hoàng tử lai'. Draco Malfoy đấu tranh để thực hiện một nhiệm vụ do Voldemort giao cho anh ta. Trong khi đó, cụ Dumbledore và Harry bí mật làm việc cùng nhau để khám phá ra phương pháp làm thế nào để tiêu diệt Chúa tể Hắc ám một lần và mãi mãi.
"Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 1" (2010).
Sau những sự kiện bất ngờ xảy ra vào cuối năm trước, Harry, Ron và Hermione được giao cho nhiệm vụ tìm và phá hủy bí mật trường sinh bất tử của Chúa tể Voldemort – Trường sinh linh giá. Đáng lẽ đây là năm cuối cùng của họ tại Hogwarts, nhưng sự sụp đổ của Bộ Pháp thuật và việc Voldemort lên nắm quyền đã ngăn cản họ theo học. Bộ ba trải qua một cuộc hành trình gian khổ với nhiều chướng ngại vật trên con đường của họ bao gồm Tử thần Thực tử, Bọn bắt người, những Bảo bối Tử thần bí ẩn, và mối liên hệ của Harry với tâm trí Chúa tể Hắc ám ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn.
"Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 2" (2011).
Sau khi tiêu diệt một Trường sinh linh giá và khám phá ra tầm quan trọng của ba Bảo bối Tử thần, Harry, Ron và Hermione tiếp tục tìm kiếm các Trường sinh linh giá khác nhằm tiêu diệt Voldemort, kẻ hiện đã lấy được Cây Đũa phép Cơm nguội mạnh mẽ. Chúa tể Bóng tối phát hiện ra cuộc săn lùng Trường sinh linh giá của Harry và mở một cuộc tấn công vào Hogwarts, nơi bộ ba trở lại để chống lại thế lực hắc ám đang đe dọa cả Thế giới Phù thủy và Muggle.
Phát hành.
Bản quyền của bốn tiểu thuyết đầu tiên trong loạt truyện đã được J. K. Rowling bán cho Warner Bros. với giá 1.000.000 bảng Anh. Sau khi phát hành cuốn thứ tư vào tháng 7 năm 2000, bộ phim đầu tiên, "Harry Potter và Hòn đá phù thủy", được phát hành vào ngày 16 tháng 11 năm 2001. Trong tuần đầu công chiếu, bộ phim đã thu về 90 triệu đô la chỉ riêng tại Hoa Kỳ, lập kỷ lục về doanh thu mở màn trên toàn thế giới. Ba bộ phim chuyển thể thành công tiếp nối thành công về mặt tài chính, đồng thời thu được những đánh giá tích cực từ người hâm mộ và các nhà phê bình. Bộ phim thứ năm, "Harry Potter và Hội Phượng hoàng", được Warner Bros phát hành vào ngày 11 tháng 7 năm 2007 tại các quốc gia nói tiếng Anh, ngoại trừ Vương quốc Anh và Ireland, bộ phim phát hành vào ngày 12 tháng 7. Phần phim thứ sáu, "Harry Potter và Hoàng tử lai", được phát hành vào ngày 15 tháng 7 năm 2009 với sự hoan nghênh của giới phê bình và kết thúc bộ phim chiếu rạp của nó được xếp hạng là bộ phim có doanh thu thứ hai trong năm 2009 trên bảng xếp hạng toàn thế giới.
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, "Harry Potter và Bảo bối Tử thần", được chia thành hai phần điện ảnh: "Phần 1" được phát hành vào ngày 19 tháng 11 năm 2010, và "Phần 2", phần kết của cả phần phim cuối cùng và bộ truyện, được phát hành vào ngày 15 tháng 7 năm 2011. "Phần 1" ban đầu dự kiến phát hành ở định dạng 3D và 2D, nhưng do quá trình chuyển đổi 3D bị trì hoãn nên Warner Bros. chỉ phát hành bộ phim ở các rạp chiếu phim 2D và IMAX. Tuy nhiên, "Phần 2" đã được ra rạp 2D và 3D như dự kiến ban đầu.
Bản quyền phát sóng truyền hình của loạt phim ở Mỹ hiện do NBCUniversal nắm giữ, thường phát sóng các bộ phim trên USA Network và Syfy. Loạt phim đã thu về gần 1,3 tỷ lượt xem kể từ khi ra mắt trên truyền hình — loạt phim có lượt xem cao nhất trong lịch sử phát sóng truyền hình. Tất cả tám bộ phim đều có sẵn để phát trực tuyến độc quyền trên HBO Max vào ngày 27 tháng 5 năm 2020, ngày ra mắt dịch vụ.
Nhân kỷ niệm 20 năm ngày phát hành "Hòn đá phù thủy", vào tháng 11 năm 2021, đã có thông báo rằng toàn bộ loạt phim sẽ được khởi chiếu lại tại các rạp chiếu phim ở Brasil, cũng như phiên bản đặc biệt của "Hòn đá phù thủy" trên HBO Max. Phần lớn dàn diễn viên ban đầu và đoàn phim đã tái hợp trong một chương trình đặc biệt hồi tưởng của HBO Max có tựa đề "", phát hành vào ngày 1 tháng 1 năm 2022.
Đón nhận.
Các bộ phim "Harry Potter" đã đạt doanh thu phòng vé hàng đầu, với tất cả tám bộ phim được phát hành đều nằm trong danh sách những bộ phim có doanh thu cao nhất trên toàn thế giới. "Hòn đá phù thủy" là bộ phim "Harry Potter" có doanh thu cao nhất cho đến khi phát hành phần cuối cùng của loạt phim, "Bảo bối tử thần – Phần 2", trong khi "Tên tù nhân ngục Azkaban có" doanh thu thấp nhất. Bên cạnh thành công về mặt tài chính, loạt phim cũng thành công trong giới phê bình điện ảnh. Ý kiến về các bộ phim thường được chia cho người hâm mộ, với một nhóm thích cách tiếp cận trung thực hơn của hai bộ phim đầu tiên và một nhóm khác thích cách tiếp cận theo hướng nhân vật cách điệu hơn của các bộ phim sau. Rowling đã liên tục ủng hộ tất cả các bộ phim và đánh giá "Bảo bối Tử thần" là "bộ phim yêu thích nhất" của cô trong bộ truyện.
Phê bình.
Tất cả các bộ phim đều thành công về mặt tài chính và phê bình, khiến nhượng quyền thương mại trở thành một trong những "cột mốc" lớn của Hollywood giống như "James Bond", "Chiến tranh giữa các vì sao", "Indiana Jones" và "Cướp biển vùng Caribbean". Loạt phim được khán giả ghi nhận vì hình ảnh ngày càng đen tối và trưởng thành hơn khi mỗi bộ phim được phát hành. Tuy nhiên, ý kiến về các bộ phim thường chia rẽ người hâm mộ sách, với một số thích cách tiếp cận trung thực hơn của hai bộ phim đầu tiên và những người khác thích cách tiếp cận theo hướng nhân vật cách điệu hơn của các bộ phim sau.
Một số người cũng cảm thấy bộ truyện có cảm giác "rời rạc" do những thay đổi trong đạo diễn, cũng như vai diễn Albus Dumbledore của Michael Gambon khác với Richard Harris. Tác giả J. K. Rowling đã không ngừng ủng hộ các bộ phim, và đánh giá "Bảo bối Tử thần" là tác phẩm yêu thích nhất của cô trong truyện. Cô ấy viết trên trang web của mình về những thay đổi trong quá trình chuyển đổi từ sách sang phim, "Đơn giản là không thể kết hợp mọi cốt truyện của tôi vào một bộ phim mà phải dài dưới bốn tiếng. Rõ ràng phim có những hạn chế - tiểu thuyết thì không có những hạn chế về thời gian và ngân sách; Tôi có thể tạo ra những hiệu ứng rực rỡ mà không dựa vào gì ngoài sự tương tác giữa trí tưởng tượng của tôi và độc giả."
Giải thưởng.
Tại Giải thưởng Điện ảnh Viện Hàn lâm Anh lần thứ 64 vào tháng 2 năm 2011, J. K. Rowling, David Heyman, David Barron, David Yates, Alfonso Cuarón, Mike Newell, Rupert Grint và Emma Watson đã nhận được Giải thưởng Michael Balcon cho những đóng góp xuất sắc của người Anh cho điện ảnh cho loạt phim.
Ngoài ra, Viện phim Hoa Kỳ đã công nhận toàn bộ loạt phim với Giải Đặc biệt tại Lễ trao giải Viện Phim Hoa Kỳ năm 2011. Giải thưởng đặc biệt "được trao cho những thành tựu xuất sắc trong hình ảnh chuyển động không phù hợp với tiêu chí của AFI cho những người được vinh danh khác". Trong thông cáo báo chí của mình, Viện gọi các bộ phim là "một loạt phim mang tính bước ngoặt; tám bộ phim giành được sự tin tưởng của một thế hệ mong muốn những cuốn sách yêu quý của J. K. Rowling trở nên sống động trên màn bạc. của một dàn nhạc sử thi đã mang đến cho chúng tôi món quà lớn lên cùng với Harry, Ron và Hermione khi phép thuật của trường Hogwarts xuất hiện từ các bộ phim và đi vào trái tim và tâm trí của những người Muggles trên khắp thế giới."
"Harry Potter" cũng được BAFTA Los Angeles Britannia Awards công nhận, với David Yates đoạt giải Britannia về Nghệ thuật xuất sắc trong đạo diễn cho bốn bộ phim "Harry Potter" của anh ấy.
Sáu trong số tám bộ phim đã được đề cử cho tổng số 12 giải Oscar.
Một số nhà phê bình, người hâm mộ và khán giả nói chung đã bày tỏ sự thất vọng về việc loạt phim "Harry Potter" không giành được bất kỳ giải Oscar nào cho thành tích của nó. Tuy nhiên, những người khác lại chỉ ra rằng một số phim trong loạt phim này có đánh giá không đồng đều, trái ngược với ba phim "Chúa tể của những chiếc nhẫn", chẳng hạn, đều được giới phê bình đánh giá cao. Điều này một phần được cho là do loạt phim "Harry Potter" trải qua một số đạo diễn, mỗi người có phong cách đạo diễn riêng, trái ngược với bộ ba "Chúa tể của những chiếc nhẫn", được quay trong một công việc lớn do cùng một đạo diễn, nhà biên kịch và nhà sản xuất. Một nhà quan sát lưu ý rằng "về mặt điện ảnh, phần đầu của loạt phim Potter được đánh dấu bởi sự thận trọng về mặt thương mại: trí tưởng tượng của nó bị giới hạn một cách an toàn, cách kể chuyện theo từng cuốn sách theo mọi nghĩa, ngân sách của nó được chi để mang lại nhiều giá trị hơn ma thuật" trái ngược với "Nếu so sánh, Fellowship of the Ring là một sự liều lĩnh, ngông cuồng đáng kinh ngạc".
Mặc dù không thành công tại lễ trao giải Oscar, loạt phim "Harry Potter" đã gặt hái được thành công ở nhiều lễ trao giải khác, trong đó có Lễ trao giải Saturn hàng năm và Giải thưởng của Hội Giám đốc Nghệ thuật. Bộ phim cũng đã nhận được tổng cộng 24 đề cử tại Giải thưởng Điện ảnh Viện hàn lâm Anh được trình bày tại BAFTA hàng năm, giành được một số và 5 đề cử tại Giải Grammy.
"Hòn đá Phù thủy" đã đạt được bảy đề cử Giải BAFTA, bao gồm Phim Anh hay nhất và Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Robbie Coltrane. Bộ phim cũng đã được đề cử cho tám giải thưởng Saturn và chiến thắng cho thiết kế trang phục của nó. Nó cũng được đề cử tại Art Director Guild Awards cho thiết kế sản xuất và nhận được Giải thưởng Nhà phê bình Phim truyền hình cho Phim gia đình hành động trực tiếp hay nhất cùng với hai đề cử khác.
"Phòng chứa Bí mật" đã giành được giải thưởng Phim gia đình hành động trực tiếp hay nhất của Hiệp hội phê bình phim Phoenix. Nó đã được đề cử cho bảy giải Saturn, bao gồm Đạo diễn xuất sắc nhất và Phim giả tưởng hay nhất. Bộ phim đã được đề cử cho bốn giải BAFTA và một giải Grammy cho điểm của John Williams. "Tên tù nhân ngục Azkaban" đã giành được Giải thưởng dành cho khán giả cũng như Phim truyện hay nhất tại Lễ trao giải BAFTA. Bộ phim cũng đã giành được giải BMI Film Music cùng với việc được đề cử tại các giải Grammy, Visual Effect Society Awards và Amanda Awards. "Chiếc cốc lửa" đã giành được giải BAFTA cho Thiết kế Sản xuất Xuất sắc nhất cũng như được đề cử tại Giải thưởng Sao Thổ, Giải thưởng Sự lựa chọn của Nhà phê bình và Giải thưởng Hiệp hội Hiệu ứng Hình ảnh.
"Hội Phượng hoàng" đã giành được ba giải thưởng tại Lễ trao giải Phim quốc gia ITV khai mạc. Tại Lễ trao giải Empire, David Yates giành giải Đạo diễn xuất sắc nhất. Nhà soạn nhạc Nicholas Hooper nhận được đề cử cho Giải thưởng Khám phá Nhạc nền Thế giới. Phim được đề cử tại Giải BAFTA, nhưng không giành được giải Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất hoặc Hiệu ứng hình ảnh đặc biệt xuất sắc nhất." Hoàng tử lai" đã được đề cử cho Giải BAFTA về Thiết kế sản xuất và Hiệu ứng hình ảnh, và nó nằm trong danh sách dài cho một số hạng mục khác, bao gồm Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Alan Rickman. Trong số các đề cử và chiến thắng khác, bộ phim cũng đạt được Phim gia đình hay nhất tại Giải thưởng Phim Quốc gia cũng như Phim gia đình hành động trực tiếp hay nhất tại Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Phoenix, cùng với được đề cử cho Phim điện ảnh xuất sắc nhất tại Giải thưởng vệ tinh.
"Bảo bối tử thần – Phần 1" đã nhận được hai đề cử tại Giải BAFTA cho Trang điểm và Tóc đẹp nhất và Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất, cùng với việc nhận được đề cử cho cùng hạng mục tại Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim truyền hình. Kỹ xảo điện ảnh của Eduardo Serra và thiết kế sản xuất của Stuart Craig cũng được đề cử trong nhiều lễ trao giải khác nhau, và David Yates đã giành được chiến thắng thứ hai tại Empire Awards, lần này là Phim giả tưởng hay nhất. Anh cũng nhận được một đề cử Đạo diễn xuất sắc nhất khác tại Lễ trao giải Saturn hàng năm, cũng là lúc bộ phim đạt được đề cử Phim giả tưởng hay nhất. "Bảo bối tử thần – Phần 2" được phát hành với sự hoan nghênh của giới phê bình, giành được nhiều giải thưởng của khán giả. Phần 2 của "Bảo bối Tử thần" cũng được công nhận tại Giải thưởng Saturn cũng như Giải thưởng BAFTA, nơi bộ phim đã giành được chiến thắng cho Hiệu ứng hình ảnh đặc biệt xuất sắc nhất.
Phòng vé.
Tính đến năm 2022, loạt phim "Harry Potter" là thương hiệu phim có doanh thu cao thứ 4 mọi thời đại, với 8 phần phim đã phát hành thu về hơn 7,7 tỷ đô la trên toàn thế giới. Nếu không điều chỉnh lạm phát, con số này cao hơn 22 phim "James Bond" đầu tiên và sáu phim trong loạt phim "Chiến tranh giữa các vì sao". "Hòn đá phù thủy của" Chris Columbus đã trở thành bộ phim "Harry Potter" có doanh thu cao nhất trên toàn thế giới sau khi hoàn thành ra rạp vào năm 2002, nhưng cuối cùng nó lại đứng đầu là "Bảo bối Tử thần – Phần 2" của David Yates, trong khi "Tên tù nhân ngục Azkaban" của Alfonso Cuarón kiếm được ít nhất.
Sáu bộ phim trong loạt phim "Harry Potter" — "Harry Potter và Tù nhân Azkaban", "Harry Potter và Chiếc cốc lửa", "Harry Potter và Hội Phượng hoàng", "Harry Potter và Hoàng tử lai" và "Harry Potter và Bảo bối Tử thần", các phần 1 & 2 — cho đến nay đã thu về khoảng 216 triệu đô la tại các rạp IMAX trên toàn thế giới.
Di sản và ảnh hưởng.
Loạt phim "Harry Potter" và thành công của chúng được xem là đã có tác động đáng kể đến ngành công nghiệp điện ảnh. Chúng được cho là đã giúp định nghĩa lại bom tấn Hollywood trong thế kỷ 21 bằng cách bắt đầu chuyển hướng sang nhượng quyền thương mại truyền thông lâu đời, tạo cơ sở cho những bộ phim thành công. Sau khi bộ phim cuối cùng được phát hành, Claudia Puig của "USA Today" đã viết rằng các bộ phim "truyền cảm hứng cho mọi hãng phim lớn cố gắng nắm bắt công thức giả kim thuật [của nó], tạo ra một loạt các bản sao và đồ muốn" và "cũng đã chỉ cho Hollywood cách làm một bộ phim bom tấn bóng bẩy với mục tiêu giảm chi phí". Một bài báo năm 2009 từ "The Economist" lập luận rằng các bộ phim "đi tiên phong" trong việc chuyển thể các tính chất đã được thiết lập là mô hình nhượng quyền phim hiện đại, "The Lord of the Rings", "Spider-Man" và "The Dark Knight Trilogy" là những ví dụ về loạt phim thành công nối tiếp "Harry Potter". Hơn nữa, việc chia nhỏ phần cuối của một loạt phim thành hai phần phim nối tiếp nhau bắt đầu với sự thành công của "Bảo bối Tử thần", và việc này được được nhân rộng bởi ' và ', và ' và '.
Các bộ phim cũng được cho là đã báo hiệu sự phổ biến của các bộ phim dựa trên văn học dành cho trẻ em và thanh thiếu niên trong những năm 2000 và 2010, tương quan với ảnh hưởng văn học của chính bộ sách. Costance Grady và Aja Romano, bình luận về toàn bộ di sản của loạt phim "Harry Potter" cho "Vox" sau kỷ niệm 20 năm thành lập, đã viết rằng văn học hướng đến thanh thiếu niên kể từ đó đã trở thành "một nguồn ý tưởng cho Hollywood", chỉ ra những thành công của "The Twilight Saga" và "The Hunger Games".
Bộ truyện đã tạo ra một khối lượng lớn các tác phẩm viễn tưởng của người hâm mộ, với gần 600.000 câu chuyện được truyền cảm hứng được đưa vào danh mục, và một bộ phim của người hâm mộ Ý, "Voldemort: Origins of the Heir", đã nhận được hơn mười hai triệu lượt xem trong vòng mười ngày trên YouTube. | 1 | null |
Ruy băng đỏ là một biểu tượng ruy băng màu đỏ có một vài ý nghĩa khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. Nó được dùng như là biểu tượng cho việc ngăn chặn lái xe say rượu hay là biểu tượng cho cộng đồng người sống chung với HIV/HIV/AIDS.
Giải thưởng hội chợ.
Tại các hội chợ ở Canada, ruy băng đỏ là giải thưởng được trao cho người đạt giải nhất; trong khi ở Hoa Kỳ, ruy băng trao cho người đạt giải nhì. Các loại ruy băng được trao giải tại các hội chợ ở Hoa Kỳ và Canada được liệt kê theo thứ hạng như sau: | 1 | null |
"Eleanor Rigby" là một ca khúc của ban nhạc The Beatles, được phát hành đồng thời trong album "Revolver" và đĩa đơn định dạng 45rpm vào năm 1966. Ca khúc được viết bởi Paul McCartney song vẫn được ghi chung cho Lennon-McCartney.
Với phần bè của dàn tứ tấu dây được viết bởi George Martin, phần ca từ nói về sự cô đơn, ca khúc tiếp tục là một bước chuyển hướng từ thứ nhạc pop sang những trải nghiệm mang đậm tính phòng thu của ban nhạc. "Eleanor Rigby" thực tế đã từ bỏ mọi quy chuẩn của thứ âm nhạc bình dân, từ phần nhạc cho tới phần lời. Richie Unterberger của Allmusic nhận xét rằng "những gì ban nhạc hát về những lo lắng thờ ơ và cuộc đời của những người già" qua ca khúc "là một ví dụ điển hình minh chứng vì sao quan điểm của The Beatles ngày một xa rời khỏi tầng lớp nghe nhạc rock truyền thống". | 1 | null |
Víctor Lidio Jara Martínez () (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1932 – mất ngày 16 tháng 9 năm 1973) là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhà giáo, một đạo diễn sân khấu, nhà thơ và nhà hoạt động chính trị nổi tiếng Chile, là đảng viên Đảng Cộng sản Chile. Là một nhà đạo diễn sân khẩu xuất sắc, ông đã đóng góp cho sự phát triển của sân khấu kịch Chile. Ồng đã đạo diễn một loạt tác phẩm từ các tác phẩm địa phương đến các tác phẩm kịch kinh điển của thế giới, đến các tác phẩm thử nghiệm của Ann Jellicoe. Đồng thời, ông đã phát triển trong lĩnh vực âm nhạc và đóng một vai trò quan trọng trong số các nghệ sĩ tân-dân gian-người đã thiết lập "Nueva Canción Chilena" (Bài hát mới Chile) phong trào dẫn đến một cuộc cách mạng trong âm nhạc nhân dân của đất nước Chile dưới thời chính quyền Salvador Allende. Ngay sau khi cuộc đảo chính ở Chile ngày 11 tháng 9 năm 1973, ông bị bắt, tra tấn và cuối cùng bắn chết với 44 phát đạn súng máy. Sau đó, cơ thể của ông đã bị ném ra đường phố của một thị trấn tồi tàn ở Santiago.
Tiểu sử.
Victor Jara sinh ngày 28 tháng 9 năm 1932 trong một gia đình nông dân nghèo ở Quiriquina thuộc tỉnh Nuble, miền trung Chile. Cuộc sống của gia đình Jara cũng phải trải qua thời kỳ khốn khó của tầng lớp nghèo Chile. Sau khi người cha của cậu là một người chồng nghiện rượu bỏ nhà ra đi, bà Amanda, mẹ của Jara, đã phải vật lộn với cuộc sống để nuôi sống gia đình. Bà đã phải đi lau nhà và giặt quần áo thuê để có được một chút thu nhập nuôi các con. Bất chấp cuộc sống khốn cùng như vậy nhưng bà Amanda vẫn luôn giữ được sự lạc quan, yêu đời. Trong những lúc rảnh rỗi, bà vẫn thường gảy đàn và ca những bản nhạc đồng quê, những bài ca trữ tình cho các con nghe. Cũng chính từ những đêm cùng các anh chị nghe mẹ hát, Jara đã bị cuốn hút bởi âm nhạc và dần dần được mẹ dạy cho cách chơi đàn guitar.
Tuy nhiên, mẹ của cậu đã qua đời khi Jara chưa đầy 15 tuổi. Jara nhiều lúc cảm thấy chán nản, bế tắc nhưng rồi tấm gương của người mẹ đã giúp anh vượt qua được giai đoạn khủng hoảng và đã theo đuổi con đường nghệ thuật và theo học các khóa về diễn xuất và đạo diễn tại khoa Nhạc kịch thuộc Trường Đại học Chile. Đến thập niên 1960, ở tuổi ngoài 30, Jara đã trở thành một trong những nhạc sĩ-ca sĩ, đạo diễn sân khấu nổi tiếng của Chile. Không chỉ có vậy, Jara còn được biết tới như là một nhà hoạt động chính trị không mệt mỏi. Jara quyết định tham gia các tổ chức tiến bộ của giới tri thức và sau đó trở thành một người cộng sản của Liên minh Đoàn kết Nhân dân. Ông đã dùng những lời ca, tiếng hát của mình để nói về tình hình chính trị Chile và để đấu tranh vì sự công bằng trong xã hội, vì những quyền của người nghèo được học tập và tiếp cận các dịch vụ y tế miễn phí. Ông đã sang tác bài hát ca ngợi Bác Hồ, "Quyền sống trong hòa bình". | 1 | null |
Salvador Allende Gossens (tiếng Tây Ban Nha phát âm: [salbaðoɾ aʝende ɣosens]; Sinh ngày 26 tháng 6 năm 1908 - mất ngày 11 tháng 9 năm 1973) là một bác sĩ và nhà chính trị Chile, người theo chủ nghĩa Marx đầu tiên trở thành tổng thống của một nước Mỹ Latinh thông qua bầu cử mở. Thời gian tham dự chính trường của Allende kéo dài khoảng gần bốn mươi năm. Là một thành viên của Đảng Xã hội, ông đã là một thượng nghị sĩ, dân biểu nghị viện và bộ trưởng nội các. Ông chạy đua không thành công vào chức vụ tổng thống trong các cuộc bầu cử năm 1952, 1958, và 1964. Năm 1970, ông thắng cử tổng thống trong một cuộc đua ba chiều sát sao, chính thức do Quốc hội bầu ra như không có ứng cử viên, và đã đạt được đa số phiếu.
Tiểu sử.
Là Tổng thống Chile, Allende đã áp dụng chính sách quốc hữu hóa các ngành công nghiệp và tập thể hóa; do các yếu tố này và các yếu tố khác, quan hệ ngày càng căng thẳng giữa ông và nhánh lập pháp và tư pháp của chính phủ Chile (những người không chia sẻ sự hăng hái của ông đối với sự xã hội hóa Chile) cuối cùng lên đến đỉnh điểm trong một tuyên bố của một "sự cố hiến pháp" của quốc hội. Ngày 11 tháng 9 năm 1973, quân đội đã tiến hành lật đổ Allende. Khi quân đội bao quanh cung điện La Moneda, Allende đã đọc bài diễn văn cuối cùng của ông tuyên bố sẽ không từ chức, và sau đó tự tử. | 1 | null |
Đế Khắc (帝克) theo "Sử ký tác ẩn" của Tư Mã Trinh là tên vị vua thứ 8 của triều đại Viêm Đế Thần Nông thị.
Các sách khác, như "Tư trị thông giám", "Thái Bình ngự lãm", "Thông giám tục biên", "Sử toản thông yếu" đều không ghi nhận vị vua này.
Bên cạnh đó, "Tư trị thông giám" và "Thông giám tục biên" còn viết rằng Khắc (克) là một tên gọi khác của Đế Ly (Đế Lai), ngoài ra "Thông giám tục biên" còn viết rằng có một người khác cũng tên là Khắc (克), nhưng không làm vua, là cháu gọi Đế Lai/Khắc/Lý là cụ.
"Sử ký tác ẩn" và "Thông giám tục biên" chép rằng Khắc sinh ra Đế Du Võng. | 1 | null |
Đảo chính năm 1973 tại Chile là một cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính quyền cánh tả của Đảng Unidad Popular, là một sự kiện bước ngoặt của Chiến tranh Lạnh và lịch sử của Chile. Sau một thời gian dài gặp tình trạng bất ổn xã hội và chính trị giữa Quốc hội do những người bảo thủ chi phối và vị Tổng thống dân bầu theo đường lối xã hội chủ nghĩa Salvador Allende , Allende bị lật đổ trong cuộc đảo chính. Ông đã tuyên bố không từ chức và bị giết hại, phe đảo chính tuyên bố là ông tự sát. Quân đội đã nắm chính quyền và lập nên chính quyền quân sự .
Chính quyền quân sự bao gồm người đứng đầu của Không quân, Hải quân, Carabineros (lực lượng cảnh sát) và Lục quân, Augusto Pinochet dần vươn lên nắm quyền lực tối cao trong vòng một năm sau cuộc đảo chính, chính thức nắm giữ chức vụ Tổng thống Chile vào cuối năm 1974. Pinochet sau đó đã nắm giữ quyền lực và chấm dứt Chính phủ Thống nhất dân cử của Salvador Allende, phát động chiến dịch khủng bố nhằm vào những người ủng hộ chính phủ Allende bao gồm vụ giết chết cựu Ngoại trưởng Orlando Letelier. Trước thời kỳ cai trị của Pinochet, Chile trong nhiều thập kỷ được ca ngợi như là một điển hình của dân chủ và ổn định chính trị trong một Nam Mỹ tràn ngập các chính quyền quân sự và chủ nghĩa Caudillo.
Trong thời gian xảy ra các cuộc không kích và tấn công mặt đất trước cuộc đảo chính, Allende đã đọc diễn văn cuối cùng của ông, trong đó ông tuyên bố sẽ ở lại Dinh Tổng thống, phản đối kịch liệt đề xuất ông được ra đi an toàn nếu ông chọn sống lưu vong thay vì ở lại đối đầu . Nhân chứng trực tiếp về cái chết của ông tuyên bố rằng ông tự tử trong cung điện. Sau cuộc đảo chính, chính quyền thành lập một chế độ độc tài quân sự với sự hỗ trợ từ phương Tây để cai trị Chile cho đến năm 1990. Chính quyền này được ghi nhớ bởi nhiều cáo buộc vi phạm nhân quyền. Một phong trào nổi dậy chống lại chính phủ Pinochet được duy trì bên trong Chile bởi các nhân vật có cảm tình với chính phủ Allende cũ, và một cuộc trưng cầu ý dân năm 1988 đã loại bỏ Pinochet khỏi quyền lực. | 1 | null |
Project I.G.I. (tên đầy đủ Project I.G.I.: I'm Going In) là trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất được phát triển bởi Innerloop Studios và phát hành ngày 15 tháng 12, năm 2000 bởi Eidos Interactive. Đây là một trong những trò chơi máy tính đầu tiên sử dụng vũ khí mô phỏng thật và giả lập tình huống chiến đấu. Sau khi phát hành, game được đánh giá là có vài thiếu sót, chẳng hạn như lập trình AI kém, thiếu tuỳ chọn lưu game trong khi chơi, và tính năng nhiều người chơi. Tuy nhiên, game được ca ngợi về nghệ thuật âm thanh và đồ họa, một phần nhờ vào sử dụng game engine độc quyền mà trước đó đã được sử dụng trong game Joint Strike Fighter của hãng.
Phần tiếp theo của game phát hành năm 2003 với tựa đề "".
Phần tiền truyện "I.G.I. Origins" được Toadman Interactive công bố vào năm 2019 và phát triển bởi AntiMatter Games. Nhưng vào tháng 6 năm 2023 AntiMatter Games đã chính thức bị đóng cửa và dự án I.G.I Origins sẽ mãi mãi trở thành tựa game bắn súng hành động lén lút đỉnh nhất mà chúng ta không bao giờ đụơc chơi.
Cốt truyện.
Lúc Jach bị bắt và áp tải bằng trực thăng, các trực thăng bị bắn hạ bởi Ekk. Ekk giải cứu Jach, tịch thu các thiết bị của David Jones. David Jones và Josef Priboi hợp tác đặt ra một cái bẫy để nhử Ekk và tìm vũ khí hạt nhân. Ekk trốn thoát được trong cuộc đụng độ đầu tiên với Jones, nhưng sau đó David Jones tìm thấy nơi ẩn náu, cất giấu đầu đạn hạt nhân của Ekk; đồng thời tiêu diệt cô ả. | 1 | null |
Liên minh vì liên kết châu Âu (tiếng Romana: "Alianţa pentru Integrare Europeană") là liên minh cầm quyền tại Cộng hòa Moldova kể từ cuộc bầu cử tháng 7 năm 2009.
Sau cuộc bầu cử 2009 và tình trạng bất ổn dân sự, bầu không khí chính trị ở Moldova trở nên rất phân cực. Quốc hội quốc gia này thất bại trong việc bầu ra một tổng thống mới. Vì lý do này, quốc hội bị giải tán và đã được tổ chức bầu cử sớm. Theo kết quả cuộc thăm dò ngày 29 tháng 7, chiến thắng thuộc về Đảng của những người Cộng sản Moldova với 44,7% số phiếu bầu. Điều đó đã cho đảng cầm quyền trước đây gồm 48 nghị sĩ, và 53 ghế còn lại nghị viện 101 ghế chia cho bốn đảng đối lập. Cần phải có 51 phiếu để bầu Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng, và 61 phiếu để bầu tổng thống.
Sau cuộc bầu cử tháng 7 năm 2009, liên minh được thành lập bởi các đảng sau đây: Đảng Dân chủ Tự do (18 ghế), Đảng tự do (15 ghế), Đảng Dân chủ (13 ghế), và Liên minh Moldova của chúng ta (7 ghế). Vào ngày 08 tháng 8 năm 2009, bốn đảng Moldova nhất trí lập ra một liên minh cầm quyền đẩy Đảng Cộng sản thành đảng đối lập, Đảng Cộng sản đã nắm chính phủ kể từ năm 2001. Tên của liên minh là "Liên minh liên kết vì châu Âu". Sau cuộc bầu cử năm 2010, liên minh gia tăng đa số từ 53 ghế lên 59 ghế. Mặc dù Liên minh Moldova của chúng ta đã không quay trở lại quốc hội, các nhà lãnh đạo của đảng còn lại của liên minh cam kết đã ký một thỏa thuận liên minh mới vào ngày 30 tháng 12 năm 2010. Nội các mới đã được lập vào ngày 14 tháng 1 năm 2011, khi một cuộc bỏ phiếu sự trao quyền đã diễn ra trong quốc hội.
Ngày 13 tháng 2 năm 2013, Thủ tướng Moldova Vlad Filat tuyên bố xác nhận Đảng Tự do Dân chủ Moldova do ông đứng đầu đã rút khỏi "Liên minh vì liên kết châu Âu" cầm quyền, ông Filat khẳng định nguyên nhân chính đảng của ông rút khỏi Liên minh là đòi bắt đầu cuộc đàm phán về thỏa thuận mới liên quan đến liên minh cầm quyền tại Moldova.
Mặc dù ông Filat không ủng hộ việc giải tán Quốc hội Moldova để tổ chức tổng tuyển cử trước thời hạn, nhưng với việc đảng của ông có 31 ghế rút khỏi Liên minh thì Liên minh cầm quyền này chỉ còn giữ 27 ghế (không kể 8 đại biểu độc lập ủng hộ) trong cơ quan lập. Đảng Cộng sản Moldova ủng hộ việc tổ chức tổng tuyển cử sớm vì cho rằng Liên minh này đang đưa Moldova đi chệch khỏi con đường phát triển phồn vinh và công bằng xã hội. | 1 | null |
"One Thing" là một bài hát của nhóm nhạc nam người Anh-Ireland One Direction. Bài hát được phát hành vào ngày 6 tháng 1 năm 2012 tại các nước châu Âu dưới dạng đĩa đơn (single) thứ hai trích từ album đầu tay của nhóm, "Up All Night" (2011) và ngày 12 tháng 2 năm 2012 tại Anh dưới dạng đĩa đơn thứ ba. Đây cũng là đĩa đơn thứ hai của nhóm ở Mỹ sau khi được gửi tới các đài phát radio ở quốc gia này vào ngày 22 tháng 5 năm 2012. Được sáng tác bởi Rami Yacoub, Savan Kotecha và Carl Falk trong khi được sản xuất bởi hai người đầu, "One Thing" là một bản uptempo mang thể loại pop rock.
"One Thing" nhận được chủ yếu các đánh giá tích cực từ các nhà phê bình nhạc, họ khen đoạn điệp khúc của bài hát hay cùng với nền ghita đệm. Về mặt thương mại, bài hát cực kỳ thành công tại châu Âu và châu Đại Dương khi lọt vào tốp 10 của Anh cùng Úc, Hungary, Ireland và Scotland; trong khi tại Mỹ bài hát chỉ đạt vị trí thứ 39 trên "Billboard" Hot 100.
Video âm nhạc cho "One Thing" được đạo diễn bởi Declan Whitebloom và được ra mắt ngày 13 tháng 1 năm 2012, mô tả nhóm nhạc biểu diễn trong và xung quanh khu ngoại ô của thủ đô Luân Đôn cùng với nhiều nhóm fan hâm mộ. Bài hát đã được nhóm biểu diễn nhiều nơi, trong đó có tour lưu diễn năm 2011-12 Up All Night Tour và các chương trình "Today" của Mỹ và "Dancing on Ice" của Anh.
Thực hiện và sáng tác.
"One Thing" được sáng tác bởi Rami Yacoub, Savan Kotecha cùng với Carl Falk trong khi được sản xuất bởi hai người đầu. Bài hát ra mắt trước công chúng lần đầu trên BBC Radio 1 ngày 21 tháng 11 năm 2011. Ngoài ra One Direction cũng thông báo sẽ phát hành "One Thing" được phát hành dưới dạng đĩa đơn (single) thứ ba trích từ album đầu tay của nhóm, "Up All Night" (2011) vào ngày 22 tháng 11 năm 2011. Hai thành viên Horan và Payne thì nói rằng "One Thing" là ca khúc mà họ yêu thích nhất từ album. Hãng đĩa của nhóm, Syco nói rằng "One Thing là ca khúc nhạc pop đang chuẩn bị bùng nổ với giai điệu hấp dẫn mà bạn sẽ không thể quên." Sau đó vào tháng 1 năm 2012 "One Thing" được phát hành trên các đài radio rộng khắp châu Âu. Ngày 25 tháng 12, mặt B của ca khúc được thông báo là "I Should Have Kissed You."
Theo tờ nhạc của "One Thing", ca khúc được sáng tác trên hợp âm Rê trưởng với nhịp đập trung bình là 128 nhịp một phút. Các nhạc cụ có trong bài hát gồm piano và ghita cùng với giọng ca của năm anh chàng One Direction. Bài hát có sự ảnh hưởng của thể loại nhạc rock.
Đánh giá của chuyên môn.
"One Thing" nhận được các đánh giá tích cực từ phía phê bình nhạc, họ ca ngợi đoạn điệp khúc hay và phần đệm ghita. Zachary Houle của trang mạng Pop Matter cho rằng bài hát có phần chịu ảnh hưởng từ ca khúc "I Want It That Way" của nhóm nhạc nam Backstreet Boys năm 1998. Brian Mansfield từ tờ báo "USA Today" cũng có những quan điểm trên, nói rằng "các fan một thời của những nhóm nhạc xưa cũ từ thập niên 1990 có thể nghe thấy những giai điệu của 'I Want It That Way' của Backstreet Boys trong 'One Thing'." Lewis Corner của Digital Spy đánh giá bài hát với số điểm 4/5 sao, khen ngợi phần đệm ghita của "One Thing" cùng giai điệu cuốn hút và nói "bài hát là một hit." "Newsround" đánh giá bài hát với số điểm 4,5/5 sao và khen ngợi phần giai điệu hay và cuốn hút. Tạp chí âm nhạc "Billboard" thì nói rằng "bài hát có thể được phát trên radio hàng tháng."
Diễn biến thương mại.
"One Thing" ra mắt trên bảng xếp hạng Irish Singles Chart của Ireland tại vị trí #15 ngày 19 tháng 1 năm 2012. Sau nhiều tuần lên hạng, bài hát đạt vị trí cao nhất là #6 tại đây vào ngày 16 tháng 2 năm 2012. Đĩa đơn ra mắt tại vị trí #48 trên bảng xếp hạng Ultratop 50 của Bỉ và đạt vị trí cao nhất là #38 vào ngày 28 tháng 1 năm 2012. "One Thing" ra mắt tại vị trí #28 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart của Anh ngày 22 tháng 1 năm 2012 và đạt vị trí cao nhất là #9, trở thành đĩa đơn thứ ba của One Direction lọt vào tốp 10 tại Anh. Mặt B của "One Thing", "I Should Have Kissed You" cũng có mặt trên UK Singles Chart ở vị trí #55. "One Thing" đạt vị trí cao nhất là #8 trên Scottish Singles Chart. "One Thing" đạt thành tích là ca khúc bán chạy thứ hai tại Anh cho tới tháng 8 năm 2012, với 154.000 bản tiêu thụ. Bài hát ra mắt ở vị trí #34 tại New Zealand Singles Chart ngày 23 tháng 1 năm 2012 sau đó lần lượt nhảy hạng từ #28 lên #16. "One Thing" được cấp chứng nhận đĩa vàng bởi RIANZ do tiêu thụ được 7.500 bản sao đĩa đơn. Mặt B của ca khúc, "I Should Have Kissed You" cũng lọt vào bảng xếp hạng với vị trí #27 vào ngày 20 tháng 2 năm 2012.
Trên bảng xếp hạng ARIA Charts của Úc, "One Thing" ra mắt ở vị trí #32 vào ngày 12 tháng 2 năm 2012. Sau 10 tuần trong bảng xếp hạng, "One Thing" đạt vị trí cao nhất là #3 tại đây. Với "One Thing" ở vị trí #3 và "What Makes You Beautiful" ở vị trí #10 trên ARIA, điều này giúp One Direction trở thành nghệ sĩ thứ hai có hai đĩa đơn tốp 10 bảng xếp hạng trong năm 2012. Đĩa đơn này được cấp chứng nhận 4 lần đĩa bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc với doanh số là 280.000 bản sao đĩa đơn. "One Thing" ra mắt tại vị trí #90 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 vào ngày 21 tháng 3 năm 2012 sau khi album "Up All Night" được phát hành tại đây. Sau đó "One Thing" xếp ở vị trí #62 với 330.000 bản tải kỹ thuật số. Sau khi được gửi tới đài radio tại Mỹ ngày 22 tháng 5 năm 2012, "One Thing" tiếp tục xếp hạng ở vị trí #39 vào ngày 20 tháng 6 năm 2012. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2012, "One Thing" được cấp chứng nhận đĩa bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ do tiêu thụ được hơn 1.000.000 bản sao đĩa đơn. Tính đến ngày 20 tháng 1 năm 2013, "One Thing" đã tiêu thụ được 1.305.000 bản sao đĩa đơn tại Mỹ. | 1 | null |
GE Honda HF120 là loại động cơ máy bay tuốc bin phản lực cánh quạt dành cho thị trường máy bay phản lực kinh doanh hạng nhẹ đang được phát triển bởi GE Honda Aero Engines, đây là mẫu phái sinh của động cơ thử nghiệm HF118. Trọng lượng nhẹ của động cơ giúp tiết kiệm nhiên liệu và giảm lượng khí thải, cũng như thiết kế cố gắng để đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường trong tương lai. Các giai đoạn thử nghiệm động cơ bắt đầu thực hiện từ cuối năm 2008. | 1 | null |
Màng nhĩ (còn gọi là màng tai - tympanic membrane) là một màng mỏng hình bầu dục, lõm ở giữa, nằm hơi nghiêng ra sau, ngăn cách hoàn toàn ống tai ngoài và tai giữa, bịt lên hòm tai như màng trống bịt vào tang trống. Chức năng của nó là để truyền tải âm thanh từ không khí vào tai qua ba xương nhỏ bên trong tai giữa, rồi vào cửa sổ hình bầu dục trong ốc tai chứa đầy chất dịch lỏng. Mục đích của quá trình nhằm chuyển đổi và khuếch đại rung động trong không khí thành rung động trong chất lỏng. Ba xương nhỏ trong tai giữa lần lượt có tên là xương búa, xương đe và xương bàn đạp. Màng nhĩ tuy có lớp xơ ở giữa tương đối chắc, nhưng lại rất dễ bị phá hủy gây thủng khi có viêm nhiễm hoặc ứ đọng dịch trong tai giữa. Màng nhĩ cũng dễ bị rách thủng khi có các chấn thương cơ học (chọc, ngoáy vào tai), chấn thương áp lực (lặn sâu, bị tát vào tai, sức ép do bom đạn...) hoặc chấn thương âm.
Vỡ hoặc thủng màng nhĩ có thể dẫn đến mất thính giác từ từ. Sự rách hoặc teo lại của màng nhĩ cũng có thể gây ra mất thính lực dẫn hoặc thậm chí là bệnh cholesteatoma.
Vị trí và quan hệ.
Màng nhĩ là nơi tiếp giáp của tai ngoài tại ống tai ngoài và tai giữa tại hòm nhĩ. Về mặt hình thái, màng nhĩ mỏng, màu xám lóng lánh, hơi trong suốt, hình bầu dục, có đường kính thẳng đứng khoảng 9 đến 10 mm, đường kính ngang khoảng 8 đến 9 mm.
Màng nhĩ đặc biệt liên quan đến hố sọ giữa, phía sau các xương nhỏ trong tai và dây thần kinh mặt, phía dưới là tuyến mang tai và phía trước là khớp thái dương.
Nhìn từ ngoài vào bằng hình soi màng nhĩ, ta có thể thấy được hình cán xương búa in trên màng nhĩ (được gọi là tia búa). Tia búa đi từ rốn màng nhĩ đến lồi búa là bóng của mỏm ngoài xương búa.
Cấu tạo.
Màng nhĩ gồm có 2 phần:
- Phần trên nhỏ, mỏng và mềm, dính trực tiếp vào xương đá ở khuyết nhĩ, gọi là phần chùng.
- Phần dưới lớn và dày, chắc hơn, bám vào rãnh nhĩ bởi một vòng sụn sợi, gọi là phần căng.
Giới hạn của 2 phần này là nếp búa trước và nếp búa sau. Mặt ngoài của màng nhĩ lõm do cán xương búa kéo vào trong, nơi lõm nhất là rốn màng nhĩ.
Xét về các lớp cấu thành, có thể chia màng nhĩ thành 4 lớp:
- Lớp da: liên tiếp với da của ống tai ngoài.
- Lớp sợi: bao gồm 2 lớp là lớp tia và lớp vòng, không có phần chung.
- Lớp niêm mạc: liên tiếp với niêm mạc hòm nhĩ.
Mạch máu và thần kinh.
Màng nhĩ được cấp máu bởi động mạch tai sâu và động mạch nhĩ trước là nhánh của động mạch hàm.
Ở mặt ngoài màng nhĩ có nhánh tai thái dương của thần kinh hàm dưới và nhánh tai của thần kinh lang thang. Ở mặt trong có nhánh thần kinh nhĩ của thần kinh thiệt hầu.
Thủng màng nhĩ chủ động.
Người Bajau vùng Thái Bình Dương cố ý làm thủng màng nhĩ của họ từ nhỏ để thuận lợi lặn và săn bắt dưới biển. Những người Bajau già vì thế nghe rất khó khăn.
Trong Thế chiến II, không quân Đức cho chọc thủng màng nhĩ của các phi công chiến đấu để hạn chế các vấn đề về áp suất không khí và thậm chí nhét dây thừng vào để các vết thương khó lành, điều này khiến các phi công trên điếc vĩnh viễn.
Thủng màng nhĩ không chủ động.
Thủng màng nhĩ không chủ động thường do các chấn thương do nổ trong các cuộc bạo động, trong di chuyển hàng không, thường khi việc tắc nghẽn do một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên đã ngăn cản cân bằng áp lực trong tai giữa. Nó cũng xảy ra trong thể thao và giải trí như khi bơi lặn mà tiếp nước trong tư thế quá tồi hoặc lặn sâu và võ thuật. Trong tài liệu đã được công bố, 80% đến 95% đã hồi phục hoàn toàn mà không cần sự can thiệp trong 2-4 tuần. Tuy nhiên, điều hiển nhiên là mức độ chấn thương càng nặng thì sẽ càng nguy hiểm tới thính giác đặc biệt trong môi trường chiến đấu hay quân sự. Tất cả các dạng trên kể cả thể thao đều xếp loại là chấn thương do nổ. Nhiều bệnh nhân sẽ mất thính giác ngắn hạn hoặc ù tai. Một số ít sẽ mất cân bằng tạm thời dữ dội (chóng mặt).Họ có thể bị chảy máu từ ống tai nếu màng nhĩ đã bị vỡ. | 1 | null |
Zeppelin-Lindau Rs.I (còn gọi là Dornier Rs.I) là một loại tàu bay hai tầng cánh, ba động cơ cỡ lớn, được thiết kế bởi Claudius Dornier và chế tạo trong giai đoạn năm 1914–1915 ở hồ Constance bên phía nước Đức. Nó đã bị phá hủy trong một cơn bão.
Xem thêm.
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương | 1 | null |
Zeppelin-Lindau Rs.II (còn gọi một cách không chính xác sau chiến tranh là Dornier Rs.II) là một loại tàu bay hai tầng cánh cỡ lớn, do Claudius Dornier thiết kế chế tạo trong giai đoạn năm 1914-1915 ở hồ Constance bên phía nước Đức. Ban đầu tàu bay này trang bị ba động cơ gắn bên trong thân để dẫn động ba cánh quạt đẩy thông qua hộp số và trục. Phiên bản về sau được trang bị bốn động cơ đặt trong hai vỏ kéo và đẩy gắn giữa hai cánh.
Xem thêm.
Máy bay có sự phát triển liên quan
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương | 1 | null |
Nhiễm quý Tái () hay Đam quý Tái (), họ Cơ, tên Tái, là đích tử nhỏ nhất nên còn gọi là quý Tái - là vị quân chủ đầu tiên của nước Đam thời Tây Chu và Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.
Nhân thân.
Nhiễm quý Tái là con thứ 10 của Chu Văn Vương Cơ Xương và là em út cùng mẹ với Chu Vũ Vương Cơ Phát.
Hành trạng.
Khi Chu Vũ Vương đánh bại Trụ vương nhà Ân và lên làm thiên tử, Nhiễm quý Tái còn nhỏ tuổi, vì vậy trong lần luận công ban thưởng đó ông chưa được phong hầu bởi chưa lập được công trạng.
Đến đời Chu Thành Vương Cơ Tụng chấp chính, Nhiễm quý Tái đã trưởng thành, ông học rộng hiểu sâu nên khi thấy các anh mình là: Quản thúc Tiên, Sái thúc Độ và Hoắc thúc Xử cùng với Vũ Canh làm loạn thì ông không thể ngồi yên. Ông đi theo những người anh em khác như Chu công Đán hay Tất công Cao dẫn binh đi dẹp loạn tam giám, ông trực tiếp lâm trận chiến đấu với Quản thúc Tiên và bắt sống ông này khiến quân nổi dậy kinh hồn bạt vía.
Sau khi dẹp yên được quân nổi dậy, Nhiễm quý Tái được Chu Thành Vương sắc phong làm vua chư hầu ở nước Đam (ngày nay thuộc địa phận thành phố Khai Phong của tỉnh Hà Nam, ông quản lý đất nước tuy rất kỷ luật nhưng lại không dập khuôn phép tắc mà thường sử dụng quyền biến theo thực tiễn nên được bách tính ngợi ca dân tình phấn khởi.
Không rõ Nhiễm Quý Tái mất lúc nào và thọ bao nhiêu tuổi, sử sách cũng không chép lại được hậu duệ của ông trị vì nước Đam truyền nối đến bao nhiêu đời. Khoảng cuối thời Tây Chu, nước Đam dời đô đến khu vực thành phố Kinh Môn tỉnh Hồ Bắc ngày nay, đến chừng giữa thời Xuân Thu thì nước Đam bị nước Sở đánh bại trở thành một quận của nước này. | 1 | null |
Russell Dominic Peters (sinh ngày 29 thánh 9 năm 1970) là một nhà hài kịch người Canada gốc Ấn Độ và đồng thời là một diễn viên. Anh bắt đầu trình diễn tại Toronto vào năm 1989 và đã giành giải Gemini Award vào năm 2008.
Đời sống.
Russell Peters sinh ra tại Toronto, Ontario là con trai của Eric và Maureen Peters, từ năm lên bốn tuổi, anh lớn lên tạiBrampton, Ontario. Gia đình anh đều là người có gốc Anh - Ấn Độ. Cha anh sinh ra và lớn lên tại Bombay, Ấn Độ, và là một thanh tra thực phẩm liên bang. Ban đầu, Peters được định hướng học tại trường trung họcChinguacousy từ lớp 9– lớp 10, và trường trung học North Peel ở Bramalea, từ lớp 11– lớp 12. Ở trường, anh thường bị bặt nạt vì chủng tộc của mình, và anh bắt đầu tập luyện môn quyền anh, nhờ đó đã giúp anh không bị bắt nạt. Peters cũng đã tham gia vào các hoạt động liên quan đến văn hóa hip hop "junkie" khi còn nhỏ, và vào những năm 1990, anh bắt đầu có mối quan hệ tốt với DJ ở Toronto.
Sự nghiệp.
Peters bắt đầu diễn ở Toronto vào năm 1989. Danh tiếng của anh lan rộng ra vài quốc gia khác, và anh nhanh chóng thực hiện các show diễn của mình tại Vương Quốc Anh, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand, Ireland, Afghanistan, Thụy Điển, Nam Phi, Ấn Độ, vùng Caribe, Philippines, Việt Nam, Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Sri Lanka, Singapore, UAE, Bahrain, Jordan, Na Uy, Liban, Oman, và Malaysia, cùng một vài nơi khác.
các buổi trình diễn của Peters thuộc về một kênh TV hài của Canada mang tên "Comedy Now!", năm 2004, đã được đăng, phánh hành trên YouTube và trở nên nổi tiếng đánh dấu một mốc quan trọng trong sự nghiệp của anh. Các đoạn video ban đầu chỉ tải lên các buổi biểu diễn của anh trong 45 phút, sau đó được tải lên bởi các người dùng YouTube khác, các video được cắt thành từng nhóm chia theo văn hóa, nội dung mà anh biểu diễn. Theo Peters, những đoạn video đó đã được đón nhận bởi họ, thực hiện theo cách của họ với những quy định của từng nhóm văn hóa khác nhau.
Phát hành.
Album đầu tay của anh mang tên "Outsourced" phát hành bởi Comedy Central vàp ngày 26 tháng 8 năm 2006. Phiên bản DVD không bị cắt bỏ các nội dung tục tĩu. Bộ DVD đã trở nên nổi tiếng, đặc biệt ở Canada và đã bán được hơn 100,000 bản. "Outsourced" đã đứng đầu bảng xếp hạng DVD toàn Canada trong suốt nửa năm đó. Peters sau đó tiếp tục phát hành bội DVD/CD combo, "Red, White and Brown", ở Canada ngày 30 tháng 9 năm 2008 và tại Mỹ ngày 27 tháng 1 năm 2009. Toàn bộ album được tái trình diễn trực tiếp vào ngày 2 tháng 2 năm 2008, tại rạp WAMU, Madison Square Garden. Peters và anh trai kiêm người quả lý Clayton Peters đã giới thiệu với công chúng "Red, White and Brown". Tháng 5 năm 2011, Peters phát hành vé buổi biểu diễn "The Green Card Tour: Live from the O2 Arena", trực tiếp trên sâu khấu với hơn 30,000 chỗ ngồi trong 2 đêm tại O2 Arena, London, Anh. được đạo diễn bởi Dave Higby.
Ngày 26 tháng 10 năm 2010, Peters phát hành cuốn tự truyện "Call Me Russell", đồng tác giả cùng anh trai Clayton và Dannis Koromilas.
Doanh Thu.
Theo "Forbes", Peters đã thu về hơn $15 triệu Dollars từ tháng 6 năm 2009 đến tháng 6 năm 2010. Trở thành một trong những nhà hài kịch có thu nhập cao nhất thế giới cộng thêm $5 triệu Dollars doanh thu mỗi năm. Anh đứng thứ 7 trong top các nhà hài kịch có doanh thu cao nhất của "Forbes".
Phong cách Diễn.
Russell Peters thường trực tiếp đứng trên sân khấu và diễn theo thể loại observational comedy bằng cách tận dụng năng khiếu hài hước làm nổi bật các chủ đề như phân biệt chủng tộc, dân tộc, đẳng cấp xã hội và phân loại văn hóa. Anh thường đề cập đến kinh nghiệm sống của mình lớn lên trong một gia đình Ấn Độ và thường giả giọng các dân tộc khác nhau khi nói tiếng Anh.." Peters sử dụng địa vị là một dân tộc thiểu số ở Canada để tạo tiếng cười qua văn hóa các chủng tộc. Theo trả lời phóng vấn của "The National", Peters không hề muốn phân biệt hay kỳ thị bất kỳ một dân tộc nào mà anh muốn đem họ lại gần thế giới hơn bằng tiếng cười.
Peters được đặc biệt nhớ tới với câu nói giả giọng cha mình mỗi lần dọa đánh anh thời niên thiếu: "Somebody gonna get a hurt real bad". Anh cũng đồng thời thường hay tấu hài về khoảng thời gian thơ ấu của mình với người cha mang đậm nét văn hóa Ấn Độ. Câu nói "Be a man!" của một người Trung Quốc khi muốn anh trả thêm tiền khi mua túi cũng được Peters nhại lại nhiều lần.
Đời tư.
Peters gặp bạn gái Monica Diaz vào ngày 10 tháng 7 năm 2010, tại sân bay Los Angeles International Airport. Anh thông báo điều này thông qua Twitter cá nhân.
Peters sống tại Los Angeles và sở hữu 2 ngôi nhà tại đó. Anh cũng sở hữu 1 căn nhà tại thung lũng Las Vegas, Nevada và tại Vaughan, Ontario.
Truyền hình.
Peters xuất hiện trong nhiều phim, năm 2011 trong một bộ phim mang tên "Breakaway", đóng cặp cùng với Camilla Belle, Anupam Kher, và Vinay Virmani. Anh cũng xuất hiện trong "Senior Skip Day" với Larry Miller, Tara Reid, và Gary Lundy. Ngoài ra, anh còn xuất hiện trong nhiều bộ phim vào khác như "Boozecan" năm 1994, "Tiger Claws III" năm 2000 trong vai thám tử Elliott, "My Baby's Daddy" năm 2004, "Quarter Life Crisis" trong vai Dilip Kumar năm 2006, "The Take" trong vai Sharma năm 2008, và nhiều bộ phim khác.
Peters trình diễn chương trình giáng sinh đặc biệt, "A Russell Peters Christmas", tổ chức tại Canada ngày 1 tháng 12 năm 2011. Các khác mời bao gồm Michael Bublé, Pamela Anderson, và Jon Lovitz.
Anh cũng tham gia diễn xuất trong bộ phim của Duncan Jones mang tên "Source Code" trong vai Max. | 1 | null |
Lại Lý Huynh (sinh ngày 16 tháng 5 năm 1990) là một vận động viên môn cờ tướng người Việt Nam, từng 5 lần vô địch Việt Nam, đặc cấp quốc tế đại sư. Là nhà vô địch hoặc á quân quốc gia 9 năm liên tiếp từ 2013 đến 2021, Lại Lý Huynh được xem là kỳ thủ số một Việt Nam hiện tại và được giới hâm mộ cờ tướng đánh giá là kỳ thủ toàn tài nhất trong lịch sử cờ tướng Việt Nam hiện đại.
Sự nghiệp.
Giải vô địch quốc gia.
Lại Lý Huynh 5 lần vô địch Việt Nam. Lần đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 3 năm 2013 và bảo vệ được ngôi vô địch tại giải 2014. Đến năm 2016 anh lại lên ngôi vô địch sớm một vòng đấu khi đạt 9/10 điểm, bỏ cách người thứ hai 1,5 điểm. Kết thúc giải đấu anh vô địch với 10/11 điểm. Lại Lý Huynh tiếp tục thể hiện phong độ cao và giành được chức vô địch cờ tướng A1 ở các năm 2018, 2021.
Giải đấu quốc tế.
Giải vô địch thế giới.
Lại Lý Huynh luôn là một trong những thành viên chủ lực của đội tuyển cờ tướng Việt Nam ở các giải cờ tướng vô địch thế giới. Ở nội dung đồng đội, anh cùng với Nguyễn Thành Bảo, đã đoạt chức vô địch giải đấu năm 2022.
Cũng ở giải đấu này, Lại Lý Huynh đã vô địch nội dung cờ nhanh, đây là nội dung thi đấu không chính thức, không có sự tham gia của các kỳ thủ Trung Quốc.
Năm 2023, Lại Lý Huynh đã bảo vệ thành công chức chức vô địch nội dung cờ nhanh. Nhưng đáng tiếc là anh lại để thua kỳ thủ Trung Quốc Mạnh Thần ở trận chung kết nội dung cờ tiêu chuẩn.
Sea Games.
Lại Lý Huynh trong thành phần đội tuyển cờ tướng Việt Nam đã đoạt huy chương vàng Sea Games 31 nội dung đồng đội và huy chương vàng Sea Games 32 nội dung cá nhân.
Asiad.
Ở đại hội thể thao Asiad 2023, Lại Lý Huynh giành được huy chương đồng cá nhân và huy chương bạc đồng đội.
Giáp cấp liên tái.
Lại Lý Huynh là kỳ thủ Việt Nam đầu tiên được mời tham gia giải đấu Giáp cấp liên tái ở Trung Quốc.
Năm 2016, Lại Lý Huynh được mời tham dự Giải vô địch đồng đội Trung Quốc Giáp Cấp Liên Tái, thi đấu dưới màu áo đội Hàng Châu. Anh thi đấu 19 ván / 27 vòng đấu (+7 =8 –4) (26 vòng đấu vòng tròn và 1 vòng đấu loại trực tiếp), có những ván giành kết quả tốt trước đối thủ mạnh từng vô địch Trung Quốc như thắng Tưởng Xuyên, hòa Triệu Hâm Hâm, Trịnh Duy Đồng. Trong trận đấu loại trực tiếp gặp đội Kinh Ký, Lại Lý Huynh giành chiến thắng ở ván cờ tiêu chuẩn trước Trương Cường, giúp đội Hàng Châu hòa 4-4. Ở loạt cờ nhanh anh thua Triệu Điện Vũ và đội nhà thua 3-5, xếp hạng 6 chung cuộc.
Năm 2023, Lại Lý Huynh một lần nữa được đội cờ Hàng Châu mời tham gia Giáp cấp liên tái. Ở giải này Lại Lý Huynh đã có những trận đấu xuất sắc, góp phần giúp Hàng Châu bảo vệ thành công chức vô địch.
Các giải khác.
Lại Lý Huynh được mời tham dự Cúp Hàn Tín 2016. Giải đấu gồm 12 kỳ thủ, chia làm hai bảng, chọn hai người nhất bảng vào đánh chung kết. Lại Lý Huynh được bốc thăm vào bảng A gồm Tạ Tịnh (Trung Quốc), Lý Cẩm Hoan (Ma Cao), Tiết Hàm Đệ (Đức), Iwan Setiawan (Indonesia) và Michael Naggler (Đức). Đây được coi là kết quả may mắn khi tránh được các đối thủ nặng ký bên bảng B như Vương Thiên Nhất, Trịnh Duy Đồng. Anh giành ngôi đầu bảng với 9 điểm / 5 ván (+4 =1) và giành quyền vào chung kết. Tại chung kết anh gặp Tào Nham Lỗi, hòa ván cờ tiêu chuẩn và thua ván cờ nhanh, giành ngôi á quân. Đây là lần đầu tiên một kỳ thủ Việt Nam vào đến chung kết giải đấu này. | 1 | null |
Cao Cừ Di (, ?-694 TCN), là đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.
Trận chiến ở Nhu Cát.
Cao Cừ Di bắt đầu xuất hiện trong sử sách từ thời Trịnh Trang công (743 TCN-701 TCN). Năm 707 TCN, Trịnh Trang công bỏ không đến triều kiến Chu Hoàn vương. Chu Hoàn vương tức giận, hội quân cùng các nước chư hầu gồm Sái, Vệ và Trần mang quân đánh nước Trịnh. Hai bên chạm trán ở Nhu Cát. Cao Cừ Di cùng Tế Trọng và Nguyên Phồn được giao chỉ huy trung quân ra đánh với quân nhà Chu.
Quân Trịnh giành chiến thắng, bắn trúng vai Chu Hoàn vương, vua Chu phải rút quân. Trịnh Trang công muốn phong thưởng cho Cao Cừ Di lên chức khanh, nhưng thế tử Hốt khuyên ngăn nhưng Trịnh Trang công không nghe, phong chức cho Cao Cừ Di. Từ đó, Cừ Di và thế tử Hốt sinh ra hiềm khích.
Giết Trịnh Chiêu công.
Năm 701 TCN, Trịnh Trang công qua đời, thế tử Hốt lên nối ngôi tức Trịnh Chiêu công. Năm 700 TCN, đại phu Tế Trọng phế Trịnh Chiêu công, lập công tử Đột lên ngôi, tức là Trịnh Lệ công.
Năm 697 TCN, Trịnh Lệ công cùng con rể Tế Trọng là Ung Củ mưu giết Tế Trọng nhưng không thành, Trịnh Lệ công bỏ trốn. Tế Trọng lại đón Trịnh Chiêu công về phục ngôi.
Cao Cừ Di đem lòng thù oán Trịnh Chiêu công. Tháng 10 năm 695 TCN, nhân Trịnh Chiêu công đi tế lễ, Cao Cừ Di bí mất sai người bắn chết Trịnh Chiêu công.
Sau khi Trịnh Chiêu công bị giết, người nước Trịnh muốn đón Trịnh Lệ công về phục ngôi nhưng Cao Cừ Di cùng Tế Trọng không chịu, lập công tử Vĩ lên ngôi.
Bị giết ở Thủ Chỉ.
Tháng 7 năm 694 TCN, Tề Tương công hội chư hầu ở đất Thủ Chỉ, triệu Trịnh Tử Vỉ đến hội. Tử Vỉ định cùng Cao Cừ Di và Tế Trọng chuẩn bị đi sứ. Tế Trọng sợ Trịnh Lệ công từ đất Lịch đem quân về đánh, khuyên Tử Vỉ và Cừ Di không nên đi nhưng hai người không nghe. Tế Trọng sợ bị vạ lây, xưng bệnh không đi. Tử Vỉ bèn phong Cừ Di làm tướng lễ cùng mình đến Thủ Chỉ.
Tử Vỉ và Cao Cừ Di đến đất Thủ Chi, yết kiến Tề Tương công. Tề Tương công lén đặt phục binh, khi vua tôi Tử Vỉ đến hội thì sai quân xông vào giết Trịnh Tử Vỉ và bắt Cao Cừ Di, kế tội giết vua, dùng xe ngựa phanh thây. Không rõ năm ấy Cao Cừ Di được bao nhiêu tuổi.
Tế Trọng đón tông Tử Anh đang làm con tin ở nước Trần về lập làm vua. | 1 | null |
Nhâm (chữ Hán: 任國, phiên âm Hán Việt: Nhâm quốc, chữ "任" âm "nhâm" không đọc là "nhậm" hoặc "nhiệm" ), là một tiểu quốc chư hầu do Chu Vũ Vương phong cho hậu duệ của Thái Hạo Phục Hy thị, địa bàn quốc gia này nằm ở khu vực thành phố Tế Ninh tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Hình thành.
Tương truyền quân chủ đầu tiên của nước Nhiệm vốn họ Phong thuộc dòng dõi đế vương, tuy nhiên sau khi họ Thần Nông thay họ Phục Hy thắt nút dây cai trị thiên hạ thì con cháu Phục Hy chia làm nhiều nhánh ở rải rác khắp nhân gian. Đến khi Chu Vũ Vương diệt được nhà Thương mới sai người đi tìm hậu duệ các đế vương ngày trước mà phân phong, sứ giả tìm được người họ Phong nói mình là hậu duệ Phục Hy nên nhà vua lập làm chư hầu ở nước Nhâm để hương hỏa tổ tiên.
Diệt vong.
Suốt thời Tây Chu, nước Nhâm luôn trung thành với thiên tử, hễ có lệnh lập tức vua nước này điều binh đến ngay, trong lần Chu U Vương đốt lửa ở đài Ly Sơn quân nước Nhâm cũng từng có mặt. Sang đến thời Xuân Thu, các nước chư hầu tranh giành địa vị bá chủ quyết liệt, nước Nhâm tuy nhỏ nhưng lập trường cũng vững chắc, hễ chư hầu nào tôn phục nhà Chu thì họ cũng ủng hộ ngay. Đầu tiên, họ ủng hộ nước Tề rồi sau đến nước Tấn, đến khi Sở rồi Ngô và Việt nổi lên thì họ vẫn theo Tấn bởi các nước kia dám tiếm hiệu thiên tử. Đến thời Chiến Quốc, nước Tấn suy nhược bị ba nhà là Hàn, Triệu và Ngụy thao túng rồi chia cắt thì nước Nhâm mất chỗ dựa, trong khi đó nhà Chu thì càng ngày càng suy nhược không thể cản nổi các cuộc chiến tranh đẫm máu của chư hầu.
Kết cục nước Nhâm nhỏ bé bị diệt vong bởi nước Tề của họ Điền và trở thành một quận của nước này, như vậy thời gian tồn tại của nước Nhiệm ước tính cũng phải trên dưới 700 năm. | 1 | null |
José Ramón Velasquez Mujica (28 tháng 11 năm 1916 – 24 tháng 6 năm 2014), là một chính trị gia Venezuela, ông từng là tổng thống của Venezuela từ ngày 5 tháng 6 năm 1993 đến ngày 2 tháng 2 năm 1994. Ông là một trong các chính trị gia già nhất của thế kỷ 20 trên thế giới. | 1 | null |
Amentet (hay Amentit, Imentet và Imentit) là một nữ thần trong tôn giáo Ai Cập cổ đại. Bà là vị thần đại diện cho cái chết và bờ tây sông Nile. Bà thường hay đi cùng với nữ thần phương đông Iabet.
Tuy không được thờ cúng một cách chính thức, nhưng tên bà vẫn xuất hiện nhiều trong các bài hát ca tụng và trong Sách chết.
Miêu tả.
Bà được mô tả là một người phụ nữ đội trên đầu biểu tượng của phương Tây, phía trên là một con chim ưng một cọng lông. Hình ảnh của nữ thần thường xuất hiện trên các quan tài, lăng mộ để bảo vệ cho người chết. Đôi khi bà được vẽ thêm một đôi cánh, thể hiện mối liên hệ với Isis và Nephthys.
Tên gọi.
Tên bà có nghĩa là "Nữ thần đến từ phương Tây". Người Ai Cập cổ đại tin rằng, khi mặt trời lặn xuống phía tây, là hình ảnh thần Ra trên hành trình đi xuyên âm phủ; vì thế, hướng tây được cho là nơi cõi âm, nơi Amentet ngự trị. Do đó, các lăng mộ và nghĩa địa thường được đặt ở phía Tây, và người chết thường được gọi là "người phương tây". Các pharaoh và nữ hoàng sau khi qua đời được gọi là "Chúa tể phương Tây".
Thần thoại.
Nữ thần Amentet sống trong một cái cây ở vùng rìa sa mạc, hướng về phía cổng âm phủ. Bà thường tiếp tế bánh mì và nước uống trước cho những linh hồn khi đưa họ về thế giới bên kia. Điều này giúp họ có thêm sức mạnh để bắt đầu cuộc hành trình tái sinh đầy thử thách phía trước để về "vùng đất lau sậy" - thiên đường trong tôn giáo Ai Cập cổ đại. Vì thế, bà cũng được coi là nữ thần của sự tái sinh.
Amentet có mối quan hệ mật thiết với Hathor về vai trò của mình ở thế giới bên kia, vì thế bà thường được coi là hiện thân của nữ thần này. Vì là thần chết, bà cũng liên kết với các nữ thần khác như Neith hay Nut. Đôi khi bà lại kết hợp với Ra-Horakthy (sáp nhập từ thần Mặt trời Ra và thần bầu trời Horus), đại diện cho ánh sáng mặt trời. Bà xuất hiện cùng với nữ thần Iabet, người cai trị sa mạc phía đông, theo Sách Trái Đất.
Trong một số thần thoại, bà là con gái của Hathor và Horus. Bà được cho là vợ của Aqen, người chở phà đưa người chết về thế giới bên kia. Amentet, Iabet cùng 10 nữ thần khác được gọi chung là "Những người tán dương Ra khi ngài vượt ra khỏi địa ngục". | 1 | null |
Jaime Ramon Lusinchi (27 tháng 5 năm 1924 – 21 tháng 5 năm 2014) là một chính trị gia Venezuela từng là Tổng thống Venezuela giai đoạn 1984 – 1989. Thời kỳ trị vì của ông được đặc trưng bằng cuộc khủng hoảng kinh tế, tốc độ tăng trưởng nợ nước ngoài, chính sách dân túy, khấu hao tiền tệ, lạm phát và tham nhũng làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng của hệ thống chính trị.
Ông bị cáo buộc tham nhũng sau khi rời chức vụ tổng thống. | 1 | null |
Pedro Francisco Carmona Estang (sinh ngày 06 tháng 7 năm 1941 tại Barquisimeto) - Là cựu lãnh đạo của tổ chức của người sử dụng lao động Fedecamaras của Venezuela và tham gia tích cực trong một cuộc đảo chính không thành công vào năm 2002, khi ông tuyên thệ nhậm chức tổng thống tạm thời của đất nước. Sau thất bại của Carmona,cuộc đảo chính thoát khỏi sự quản thúc tại Colombia, và sau đó đến Miami. | 1 | null |
Maxentius (tiếng Latin: "Marcus Aurelius Valerius Maxentius Augustus", khoảng năm 278-28 Tháng Mười năm 312) là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 306 tới năm 312. Ông là con trai của cựu hoàng đế Maximianus và đồng thời là con rể của Hoàng đế Galerius.
Cuộc đời.
Đầu đời.
Ngày sinh chính xác của Maxentius là không rõ, có lẽ vào khoảng năm 278 SCN. Ông là con trai của hoàng đế Maximianus và hoàng hậu Eutropia.
Khi cha ông trở thành hoàng đế vào năm 285, ông đã được coi là hoàng thái tử, người mà cuối cùng sẽ kế vị nga vàng của cha mình.Tuy nhiên, Ông dường như đã không nắm giữ bất kỳ chức vị quan trọng nào về cả mặt quân sự hoặc hành chính dưới triều đại của Diocletianus và cha của ông. Niên đại chính xác của cuộc hôn nhân với Valeria Maximilla, con gái Galerius, cũng chưa được biết rõ. Ông có hai người con trai, một là Valerius Romulus (khoảng năm 295 - 309) và một người con khác không rõ tên tuổi.
Năm 305, Diocletianus và Maximianus đột ngột thoái vị, và hai cựu Caesare là Constantius và Galerius đã trở thành hai vị Augusti mới. Bất chấp lúc đó Constantinus và Maxentius là con trai của các vị hoàng đế, họ đã không được lựa chọn cho bộ máy Tứ đầu chế mới, mà lại là Severus và Maximinus Daia được bổ nhiệm làm Caesar. Tác phẩm "Epitome" của Lactantius nói rõ rằng Galerius vốn ghét Maxentius và ông ta đã sử dụng ảnh hưởng của mình với Diocletianus để ngăn cản Maxentius kế vị, và có lẽ Diocletianus cũng nghĩ rằng Maxentius không đủ khả năng để đảm đương các nhiệm vụ quân sự của một vị quân vương. Sau đó, Maxentius đã lui về ẩn dật tại một điền trang cách Rome vài dặm.
Khi Constantius qua đời vào năm 306, con trai của ông ta, Constantinus đã lên ngôi hoàng đế vào ngày 25 tháng 7 và sau đó được chấp nhận gia nhập vào Tứ Đầu chế với địa vị như một Caesar bời Galerius. Điều này đã đặt tiền lệ cho việc lên ngôi của Maxentius sau đó trong cùng một năm.
Lên ngôi.
Khi tin đồn đến lan đến kinh đô rằng các vị hoàng đế cố gắng bắt cư dân La Mã phải nộp thuế thân, như mọi thành phố khác của đế quốc, và muốn giải tán phần còn lại của đội vệ binh hoàng gia mà vẫn còn đang đóng quân tại Roma, một cuộc bạo loạn đã nổ ra.
Chú thích.
Essays from "The Cambridge Companion to the Age of Constantine" are marked with a "(CC)". | 1 | null |
là một diễn viên kiêm cựu người mẫu người Nhật Bản. Cô từng là người mẫu độc quyền cho tạp chí "Seventeen" từ năm 2003 tới giữa năm 2006, và giã từ sự nghiệp người mẫu cùng thời điểm cô thôi việc cho tờ tạp chí. Vai diễn đầu tiên của cô là Sailor Mars trong Sailor Moon, thuộc show "Pretty Guardian Sailor Moon" (2003-4), và sau vai diễn trong "Mamiya Kyōdai", cô từ bỏ công việc người mẫu và chuyển sang trở thành diễn viên chuyên nghiệp. Cô xuất hiện trong một số phim như "" (2006) và "Handsome Suit" (2008), đồng thời Kitagawa cũng đóng nhiều phim truyền hình dài tập như "Mop Girl" (2007), "Homeroom on the Beachside" (2008), "Buzzer Beat" (2009) và "Lady Saigo no Hanzai Profile" (2011).
Đời Sống.
Kitagawa sinh ngày 22 tháng 8 năm 1986 tại Hyōgo, Nhật Bản, trong gia đình có một em trai. Cô lớn lên ở Kobe, và đã mất rất nhiều bạn bè trong Trận đại địa chấn Hanshin năm 1995. Khi còn nhỏ, cô muốn trở thành bác sĩ. Nhưng khi bước vào trung học, Kitagawa nhận ra mình không thể làm được điều đó và cô trở nên hoàn toàn mơ hồ về tương lai của mình. Trong thời gian này, cô đã muốn được các nhà tìm kiếm tài năng chú ý tới và quyết định sẽ bước chân vào làng giải trí. Cha mẹ cô ban đầu phản đối điều này, họ chỉ đưa ra sự cho phép trên hai điều kiện: rằng cô sẽ không được tiếp tục nếu không có tiến bộ trong vòng một năm, và trước tiên phải tốt nghiệp trường đại học. Cô đã giữ một nửa lời hứa, tốt nghiệp khóa "khoa học thương mại" ở Đại học Meiji, Tokyo vào thán 3 năm 2009.
Khoảng thời gian một năm không tạo nên trở ngại cho cô. Trong chưa đầy một tuần cô đã được chọn với cả vai trò diễn viên và người mẫu. Cô được chọn là Miss Seventeen năm 2003, Chính điều này đã dẫn dắt cô trở thành người mẫu thực tập của Seventeen cho tới khi cô trở thành người mẫu chuyên nghiệp tháng 9 năm 2006. Trong nửa cuối của sự nghiệp, cô thậm chí đã có thương hiệu riêng cho mình là "Keiko's Beauty Honey".
Trong vai trò diễn viên, cô được giao vai Rei Hino trong show diễn Sailor Moon, điều này đã đánh dấu sự bắt đầu trong sự nghiệp diễn xuất của Kitagawa. Vai diễn chính thức đầu tiên của cô là "Mamiya Kyōdai", và bị đánh giá là không chuyên nghiệp bởi đạo diễn Yoshimitsu Morita, từ đó cô đã chú trọng tập luyện diễn xuất nhiều hơn. Ban đầu cô chỉ tập trung vào phim ảnh, đáng chú ý có vai diễn trong "Cherry Pie" và "Dear Friends". Vào cuối năm 2007, cô nhận được vai chính đầu tiên trong một bộ phim truyện truyền hình,"Mop Girl". Năm 2008, cô được giao vai anh hùng trong "Homeroom on the Beachside", Fuji Television. Đây trở thành một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp của Kitagawa Keiko.
Cũng trong năm đó cô chuyển tớ Tokyo và bắt đầu thực hiện cả công việc người mẫu lẫn phim ảnh cho tới nay. Năm 2006, cô đã từng tới California để thực hiện các cảnh quay trong "" và trở lại Mỹ vài tháng sau khi quay về để học thêm tiếng Anh. Trong khoảng thời gian này, cô đã bắt đầu viết blog và tiếp tục cho đến tháng 6 năm 2007; Blog của cô đã bị xóa vào tháng 7 năm 2007. Blog của cố là nguồn cho rất nhiều thông tin trong bài viết này, và các liên kết tham khảo các bản sao trên máy Wayback. Từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2007, cô viết chuyên mục "Keytan Hakusho" cho tạp chí listings (Nhật Bản) "Weekly The Television". (Keytan hay "Kii-tan" là biệt danh của cô thời trung học.) "Hakusho" có nghĩa là "giấy trắng". Cô tiếp tục 1 blog mới vào tháng 5 năm 2008, ngay trước khi nhận vai diễn trong "Homeroom on the Beachside".
Cô cho rằng mình là một người thích ở nhà khi tự nhận xét về bản thân, cô thích xem DVD, nghe nhạc và đọc sách. Khi được hỏi cô sẽ làm gì nếu ngày mai là tận thế, cô trả lời "tôi đọc sách". Ngoài ra, cô cũng thích bơi lội. Cô nuôi một con mèo tên Jill.
Hiện tại, Kitagawa Keiko được quản lý bởi Stardust Promotion.
Cô đã xuất hiện trong rất nhiều phim như "Mizu ni Sumu Hana" (2006), "Mamiya Kyōdai" (2006), "" (2006), "Cherry Pie"(2006), "Dear Friends" (2007), "Sono Toki ha Kare ni Yoroshiku" (2007), "Southbound" (2007), "Heat Island" (2007), "Handsome Suit" (2008), "Orion in Midsummer" (2009), "I'll Pay" (2009), "After the Flowers" (2010), "Matataki" (2010) và "Elevator to the Scaffold" (2010).
Các chương trình truyền hình như "Pretty Guardian Sailor Moon" (2003-4), "Mop Girl" (2007), "Homeroom on the Beachside" (2008), "Buzzer Beat" (2009), and "Moon Lovers" (2010). | 1 | null |
Trong thời gian tại vị của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II của Giáo hội Công giáo Rôma đã từng đưa ra nhiều lời xin lỗi tới người Do Thái, Galileo, phụ nữ, các nạn nhân của Tòa án dị giáo, những người Hồi giáo bị giết trong các cuộc Thập Tự chinh và phần lớn những nạn nhân chịu những thiệt hại có liên quan đến hành động của Giáo hội trong lịch sử. Ngay trước khi ông trở thành Giáo hoàng, Gioan Phaolô II đã là một trong những người soạn thảo và ủng hộ việc ban hành Thư Hòa giải của các Giám mục Ba Lan gửi tới các Giám mục Đức vào năm 1965.
Những lời xin lỗi.
Sau khi trở thành Giáo hoàng, ông đã công khai xin lỗi hơn 100 lần về những hành động sai trái của Giáo hội Công giáo, trong đó bao gồm:
1. Tội lỗi chung.
2. Tội lỗi gây ra nhân danh "chân lý".
3. Tội lỗi về việc gây chia rẽ giữa các tín đồ Ki-tô giáo.
4. Tội ác trong sách lược chống lại và bách hại người Do Thái.
5. Tội ác trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tín ngưỡng của các dân tộc nhỏ, kém phát triển.
6. Tội ác về việc kì thị, không tôn trọng phụ nữ.
7. Tội về vi phạm những quyền căn bản của con người. | 1 | null |
Étienne Mourrut (biệt danh EM; sinh 14 tháng 12 năm 1939 tại Le Grau-du-Roi) là một chính khách người Pháp, thành viên của đảng UMP. Ông là thị trưởng của Le Grau-du-Roi – nơi ông sinh ra, từ 1983 đến nay và là nghị sĩ của Pháp từ năm 2002 đến 2012. | 1 | null |
Rạn san hô Maro (tiếng Anh: "Maro Reef", tiếng Hawaii: "Nalukākala") là một phức hợp các hệ thống san hô hình mắt lưới thuộc quần đảo Tây Bắc Hawaii. Trong tiếng Hawaii, "Nalukākala" nghĩa là "các đợt sóng vỗ cuồn cuộn" do có nhiều lớp sóng vỡ phía trên rạn san hô. Thuyền trưởng Joseph Allen của tàu săn cá voi Maro khám phá ra thực thể này vào tháng 6 năm 1820 sau khi ông tìm ra các đỉnh nhọn Gardner.
Maro là một rạn san hô (có thể xem là một cấu tạo kiểu mặt bằng hay rạn vòng) dạng hình bầu dục có kích thước 45 x 29 km và diện tích là 1.934 km², lớn nhất quần đảo Tây Bắc Hawaii. Khu vực này vẫn bị ngập sóng khi thủy triều xuống trừ một khối san hô trên mào rạn nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống.
Rạn Maro có sự phong phú về số lượng loài san hô hơn hẳn các hệ thống san hô khác trong quần đảo Tây Bắc Hawaii. Các nhà khoa học thống kê được đến 37 loài san hô cứng tại đây, trong đó loài "Montipora capitata" chiếm ưu thế tại sườn dốc và chân rạn còn "Porites compressa", "Pavona duerdeni", "Porites lobata" và các loài thuộc chi "Montipora" phổ biến tại đỉnh của sườn dốc. Tại các vùng nước mặt thoáng, người ta quan sát thấy "Caranx ignobilis" (cá vẫu) và "Caranx melampygus" (cá cam khế). Tại vùng nước nông, ngoài một số lượng lớn cá bướm và cá đuôi gai thì còn có nhiều đàn cá mập Galapagos. | 1 | null |
Giá trị vốn hoá thị trường (tiếng Anh: market capitalization, hoặc rút ngắn thành market cap, còn gọi là giá trị theo thị trường chứng khoán, hay còn gọi là "vốn hóa") là tổng giá trị của số cổ phần của một công ty niêm yết. Đây là sản phẩm có giá trị thị trường của tổng giá trị của số lượng cổ phiếu đang lưu hành của công ty. Các cổ phiếu tự nắm giữ không được tính đến trong việc tính toán vốn hóa thị trường.
Giá trị vốn hóa thị trường là thước đo quy mô của một doanh nghiệp, là tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp, được xác định bằng số tiền bỏ ra để mua lại toàn bộ doanh nghiệp này trong điều kiện hiện tại.
Vốn hóa tổng của các thị trường chứng khoán hoặc các khu vực kinh tế có thể được so sánh với các chỉ số kinh tế khác. Tổng giá trị vốn hóa thị trường của tất cả các công ty giao dịch công khai trên toàn thế giới vào tháng 1 năm 2007 là US$51.2 nghìn tỷ USD và tăng lên ở mức cao 57,5 nghìn tỷ USD vào tháng 5 năm 2008.
Đánh giá giá trị vốn hóa thị trường.
Giá trị vốn hóa thị trường đại diện cho sự đồng thuận của công chúng về giá trị của vốn chủ sở hữu của một công ty. Trong một công ty đại chúng, quyền sở hữu được tự do mua và bán thông qua mua, bán cổ phiếu, cung cấp một cơ chế thị trường (phát hiện giá), mà quyết định giá cổ phiếu của công ty. Giá trị vốn hóa thị trường tương đương với giá thị trường của cổ phiếu nhân với số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành. Khi tính giá trị vốn hoá thị trường người ta chỉ tính đến các cổ phiếu phổ thông chứ không tính đến cổ phiếu ưu đãi, vì chỉ cổ phiếu phổ thông mới đem lại cho người sở hữu quyền tham gia điều hành công ty. Tổng giá trị cổ phần còn bao gồm cả các quyền mua cổ phiếu chưa thực hiện và trái phiếu, cổ phiếu chuyển đổi.
Quy mô và tốc độ tăng của giá trị vốn hoá thị trường là thước đo quan trọng, đánh giá thành công hay thất bại của một công ty niêm yết. Tuy vậy, giá trị vốn hóa thị trường còn có thể tăng giảm do nguyên nhân không liên quan gì đến kết quả hoạt động, ví dụ như việc mua lại một công ty khác, bán bớt một số bộ phận của tập đoàn, hay mua lại chính cổ phiếu công ty trên thị trường chứng khoán. Giá trị vốn hóa thị trường phản ánh giá cổ phiếu của một công ty, trong khi giá này có thể thay đổi theo kì vọng của các nhà đầu tư, vì vậy, chỉ số này không phản ánh hoàn toàn chính xác giá trị thực sự của công ty đó. | 1 | null |
Licinius I (tiếng Latin: "Gaius Valerius Licinianus Licinius Augustus" khoảng năm 263-năm 325), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 308 tới năm 324. Trong phần lớn khoảng thời gian triều đại của mình, ông đã cùng cai trị và là đối thủ của hoàng đế Constantinus I, người mà cùng với ông là đồng tác giả của sắc lệnh Milan chính thức khoan dung cho các tín đồ Kitô giáo trong đế chế La Mã. Ông sau đó bị đánh bại hoàn toàn ở trận Adrianople, trước khi bị hành quyết theo mệnh lệnh của Constantinus I.
Những năm đầu cai trị.
Sinh ra trong một gia đình nông dân người Dacia ở Thượng Moesia, Licinius đã đồng hành theo người bạn thân thời thơ ấu của mình, vị hoàng đế tương lai Galerius, trong cuộc viễn chinh Ba Tư vào năm 298. Ông được Galerius tin cậy tới mức vào năm 307, ông đã được phái đi với vai trò là một sứ giả tới chỗ Maxentius ở Ý để cố gắng đạt được một số thỏa thuận về tước vị bất hợp pháp của ông ta. Galerius sau đó tin tưởng giao lại các tỉnh phía đông cho Licinius khi ông ta đích thân tới đàm phán với Maxentius sau cái chết của Flavius Valerius Severus.
Ngay khi Galerius quay trở về phía đông, Licinius đã được phong làm Augustus ở phương Tây vào ngày 11 tháng 11, năm 308. Ông đã ngay lập tức được giao quyền cai quản các tỉnh Illyricum, Thrace và Pannonia Năm 310, ông nắm quyền chỉ huy của cuộc chiến tranh chống lại người Sarmatia, gây cho họ một thất bại nặng nề và trở về trong chiến thắng Sau khi Galerius qua đời vào tháng 5 năm 311, Licinius đã đi đến một thỏa thuận với Maximinus II Daia để chia sẻ các tỉnh phía đông giữa họ với nhau. Bởi vì thời điểm này, Licinius không những là Augustus chính thức của phía tây, ông cũng nắm giữ một phần các tỉnh phía đông cũng như lấy Hellespont và Bosporus làm ranh giới phân chia giữa họ, với Licinius nắm giữ các tỉnh ở châu Âu và Maximinus cai trị châu Á.
Một liên minh giữa Maximinus và Maxentius đã buộc hai vị hoàng đế còn lại phải thiết lập một thỏa thuận chính thức với nhau Vì vậy, tháng 3 năm 313, Licinius kết hôn với Flavia Julia Constantia, người em gái cùng cha khác mẹ của Constantinus I, tại Mediolanum (ngày nay là Milan), họ có với nhau một người con trai, Licinius Trẻ, vào năm 315. | 1 | null |
Trong di truyền học loài người, Adam nhiễm sắc thể Y (Y-MRCA) là tổ tiên chung gần nhất (MRCA) mà từ đó tất cả những người còn sống có nguồn gốc được truyền từ cha (truy tìm lại dọc theo dòng tổ tiên bên nội của họ, tức là bố - ông nội - cụ nội... cứ tiếp tục như vậy). Tính đến năm 2015, ước tính tuổi của Y-MRCA nằm trong khoảng 200.000 đến 300.000 năm trước, gần như phù hợp với sự xuất hiện của người hiện đại (Homo sapiens) về mặt giải phẫu học.
Dữ liệu nhiễm sắc thể Y được lấy từ một người Neanderthal ở El Sidrón, Tây Ban Nha, đã ước tính YT-MRCA của 588.000 năm trước cho cả 2 phân loài người Neanderthal và Homo sapiens, được gọi là "ante Adam" và 275.000 năm trước cho Y-MRCA riêng cho phân loài Homo sapiens.
Tương tự, tất cả mọi người còn sống có dòng dõi theo mẹ từ bà Eve ti thể được cho là đã sống muộn hơn thời điểm đó, khoảng 155.000 năm về trước (theo một nghiên cứu năm 2013). Adam nhiễm sắc thể Y và Eve ti thể không cần phải sống cùng một thời điểm và cũng không phải ở cùng một chỗ.
Adam nhiễm sắc thể Y được đặt tên theo Adam trong Kinh Thánh. Điều này có thể dẫn đến một quan niệm sai lầm rằng ông là người đàn ông duy nhất sống trong thời kỳ của ông. Thực tế, ông đã cùng tồn tại với những người đàn ông khác, có thể bao gồm cả người cha của ông (người không phải là "tổ tiên gần đây nhất"). Tuy nhiên, không giống như bản thân và dòng dõi bên nội của ông, tất cả những người nam giới sống cùng thời với ông đã không có hậu duệ thuộc dòng nam còn sống cho tới ngày nay.
Sự tồn tại của một Adam nhiễm sắc thể Y đã được xác định bằng cách áp dụng các lý thuyết tiến hóa phân tử nhiễm sắc thể Y. Không giống như các nhiễm sắc thể thường, nhiễm sắc thể Y của con người không tái tổ hợp với nhiễm sắc thể X, nhưng được chuyển nguyên vẹn từ cha sang con. Các đột biến định kỳ xảy ra trong nhiễm sắc thể Y và những đột biến này được truyền lại cho nam giới ở các thế hệ sau. Những đột biến này có thể được sử dụng là dấu mốc để xác định các mối quan dòng phụ hệ chia sẻ. | 1 | null |
Nhiễm sắc thể (NST) Y là một trong hai nhiễm sắc thể giới tính ở các loài động vật có vú, bao gồm con người, và nhiều loài khác. Nhiễm sắc thể giới tính còn lại là nhiễm sắc thể X. Ở nhiều loài động vật, nó có chứa gen SRY, và trong trường hợp thông thường không bị các hội chứng khác, thì dẫn đến sự phát triển tinh hoàn, cùng với các biểu hiện giới tính đực khác.
Nhiễm sắc thể Y của con người bao gồm khoảng 50 triệu cặp cơ sở(base) Nó có vai trò đặc biệt trong nghiên cứu di truyền và tiến hóa của loài người.
Phát hiện.
Nhiễm sắc thể Y được xác định là một nhiễm sắc thể xác định giới tính bởi Nettie Stevens tại Bryn Mawr College vào năm 1905 trong một nghiên cứu của ấu trùng bọ cánh cứng Tenebrio molitor. Edmund Beecher Wilson khám phá ra cơ chế tương tự cùng năm đó một cách độc lập. Stevens đã đề xuất rằng các nhiễm sắc thể luôn luôn tồn tại theo cặp và nhiễm sắc thể Y là cặp với nhiễm sắc thể X được phát hiện vào năm 1890 bởi Hermann Henking. Bà nhận ra rằng ý tưởng trước đây của Clarence McClung, nhiễm sắc thể X xác định giới tính là sai và xác định giới tính đó, trong thực tế, do sự hiện diện hoặc vắng mặt của nhiễm sắc thể Y. Stevens đặt tên là nhiễm sắc thể "Y" đơn giản chỉ để theo từ Henking "X" theo thứ tự abc.
Tác động.
Trong nhân tế bào nhiễm sắc thể Y kết hợp với nhiễm sắc thể X, nhưng nó chỉ tổ hợp ở hai đầu của nhiễm sắc thể Y, phần khá lớn còn lại của nhiễm sắc thể Y là vùng "không tái tổ hợp", thường ký hiệu là Y-DNA. Ở con người vùng này vào cỡ 95%. Vì thế vùng DNA không tái tổ hợp trong nhiễm sắc thể Y được truyền nguyên vẹn từ cha sang con trai. Nếu có đột biến xảy ra ở vùng DNA không tái tổ hợp, thì đột biến này truyền cho con cháu trai trực hệ và không bị lẫn với các phả hệ khác. Do đó phân tích của Y-DNA được sử dụng trong nghiên cứu và xác định phả hệ dòng đực cho một quần thể. | 1 | null |
Bundesverband Musikindustrie (hay đơn giản là BVMI) là một tổ chức công nghiệp nhạc của Đức. Tổ chức này quản lý hơn 280 hãng đĩa thu âm và các dự án liên quan, tức 90% các hãng thu âm trong ngành công nghiệp nhạc.
Bundesverband Musikindustrie vốn là một thành viên của Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế (International Federation Phonographic Industry - IFPI) có trụ sở ở thủ đô Luân Đôn, Anh. Ngoài ra liên đoàn IFPI cũng gồm 70 thành viên con của các quốc gia khác nhau. Công việc của BVMI là công bố bảng xếp hạng âm nhạc ở Đức và cấp chứng nhận doanh số đĩa thu âm cho các ấn hành nhạc được phát hành ở nước này. | 1 | null |
"More than This" là một bài hát của nhóm nhạc nam người Anh-Ireland One Direction. Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn cuối cùng trích từ album đầu tay của nhóm "Up All Night" (2011) vào năm 2012 tại các quốc gia châu Âu và một vài quốc gia khác. "More than This" mang thể loại nhạc pop cùng soft rock với các nhạc cụ trợ âm là ghita và piano. Bài hát nhìn chung là một bài hát xếp hạng khiêm tốn, chỉ được xếp hạng ở ba quốc gia là Úc, Liên hiệp Anh và Ireland.
Sáng tác.
"More than This" được sáng tác bởi Jamie Scott, và được sản xuất bởi Brain Rawling cùng Paul Meehan. Bài hát nhìn chung là một bài hát có nhịp độ chậm, với tempo là 70 nhịp/phút. "More than This" được sáng tác trên hợp âm Đô trưởng và giọng của các thành viên One Direction dao động từ nốt F4 đến A5. | 1 | null |
Nhiễm sắc thể X là một trong hai nhiễm sắc thể giới tính trong nhiều loài động vật, bao gồm cả động vật có vú (nhiễm sắc thể kia là nhiễm sắc thể Y) và được tìm thấy ở cả nam và nữ. Nó là một phần của hệ thống xác định giới tính XY và hệ thống xác định giới tính X0. Nhiễm sắc thể X được đặt tên bởi các nhà nghiên cứu đầu tiên cho tính chất độc đáo của nó, mà kéo theo việc đặt tên của nhiễm sắc thể Y đối tác của nó, chữ cái tiếp theo trong bảng chữ cái, sau khi nó được phát hiện ra sau đó.
Nhiễm sắc thể X ở người kéo dài hơn 153 triệu cặp base (vật liệu xây dựng DNA). Nó đại diện cho khoảng 2000 từ 20.000 - 25.000 gene. Mỗi người thường có một cặp nhiễm sắc thể giới tính trong mỗi tế bào. Nữ giới có hai nhiễm sắc thể X, trong khi nam giới có một nhiễm sắc X và nhiễm sắc thể Y. Cả nam và nữ đều giữ một nhiễm sắc thể X của mẹ, và nữ giới giữ lại nhiễm sắc thể X thứ hai của họ từ cha của họ. Do người cha vẫn giữ nhiễm sắc thể X từ mẹ của mình, một người phụ nữ có một nhiễm sắc thể X từ bà nội của cô (bên cha), và một nhiễm sắc thể X từ mẹ cô.
Các gene xác định trên mỗi nhiễm sắc thể là một khu vực hoạt động của nghiên cứu di truyền. Do thực tế mà các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp tiếp cận khác nhau để dự đoán số lượng gen trên mỗi nhiễm sắc thể, số lượng ước tính của các gen thay đổi khác nhau. Nhiễm sắc thể X có chứa khoảng 804 gen so với nhiễm sắc thể Y có chứa 78 gen, trong số 20.000 đến 25.000 gen ước tính tổng trong hệ gen của con người. Rối loạn di truyền do đột biến gen trên nhiễm sắc thể X được mô tả như X liên kết.
Nhiễm sắc thể X mang một vài nghìn gen nhưng rất ít, nếu có, trong số này có liên quan trực tiếp với việc xác định giới tính. Giai đoạn đầu trong quá trình phát triển phôi thai ở phụ nữ, một trong hai nhiễm sắc thể X là ngẫu nhiên và vĩnh viễn bất hoạt trong gần như tất cả các tế bào xôma (tế bào khác với các tế bào trứng và tinh trùng). Hiện tượng này được gọi là bất hoạt-X hoặc Lyonization, và tạo ra một cơ thể Barr. Bất hoạt X-đảm bảo rằng phụ nữ, giống như nam giới, có một bản sao chức năng của nhiễm sắc thể X trong mỗi tế bào cơ thể. Trước đây người ta giả định rằng chỉ có một bản sao được tích cực sử dụng. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy rằng cơ thể Barr có thể có hoạt tính sinh học hơn so với trước đây người ta nghĩ. | 1 | null |
Từ Yển vương (chữ Hán: 徐偃王, ?-?), là một vị vua của nước Từ, chư hầu thời cổ đại trong lịch sử Trung Quốc.
Từ Yển vương vốn mang họ Doanh (嬴), không rõ tên thật là gì. Ông trị vì cùng thời với Chu Mục vương, vị vua thứ năm của nhà Chu.
Sự nghiệp.
Nước Từ từ thời Từ Câu vương đã trở nên lớn mạnh, độc lập với triều đình nhà Chu, cương vực cũng rất rộng lớn nao gồm Giang Tô, An Huy và phía Nam Sơn Đông ngày nay. Theo Hậu Hán thư, có hơn ba mươi chư hầu đến triều kiến vua Từ.
Sau khi Từ Yển vương lên ngôi đã thi hành chính sách nhân đức nên được thần dân ủng hộ, quốc lực ngày một cường thịnh. Sau Từ Yển vương thấy quốc lực hùng mạnh, bèn đem quân đánh nhà Chu. Chu Mục vương đích thân dẫn quân, triệu thêm nước Sở cùng đem quân phản công, đánh thắng quân Từ. Từ Yển vương thất bại, bỏ đi ẩn cư ở vùng rừng núi tại Bành Thành, song cũng có thuyết cho là ông bị quân Chu giết chết.
Sau khi Từ Yển vương qua đời được an táng ở miền đông đất Hồ Ban. Chu Mục Vương phong cho con cháu của ông làm Từ tử, kế tục thống trị nước Từ, tuy nhiên không còn được hùng mạnh như trước. | 1 | null |
Mardi Gras (), "Mùa Mardi Gras", và "mùa Carnival", đề cập đến các sự kiện của lễ hội Carnival, bắt đầu từ hoặc sau khi Lễ Hiển Linh và lên đến đỉnh điểm vào ngày trước Thứ Tư Lễ Tro. Mardi gras là tiếng Pháp nghĩa là "Thứ ba béo", đề cập đến việc thực hành bữa ăn của đêm cuối cùng phong phú hơn, ăn nhiều chất béo trước khi ăn chay nghi lễ của Mùa Chay, bắt đầu từ ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ngày đôi khi được gọi là "Thứ ba Shrove", từ "shrive", có nghĩa là "thú nhận" hoặc "xưng tội". Các hoạt động phổ biến liên quan liên kết với các lễ kỷ niệm trước khi ăn chay và các nghĩa vụ tôn giáo gắn liền với mùa đền tội của Mùa Chay. Lễ hội này được du nhập sang Mỹ và ngày nay đặc biệt tại New Orleans và Mobile, Alabama.
Các hoạt động phổ biến bao gồm đeo mặt nạ và trang phục, đảo lộn các quy ước xã hội, khiêu vũ, thi đấu thể thao, diễu hành, biểu thức Tương tự như Mardi Gras xuất hiện trong các ngôn ngữ châu Âu khác chia sẻ truyền thống Kitô giáo, vì nó liên quan với yêu cầu tôn giáo để xưng tội trước khi Mùa Chay bắt đầu. | 1 | null |
Niqab hoặc niqaab (; "", "vải che [mặt]") là một loại vải trùm mặt , được một số phụ nữ Hồi giáo sử dụng. Các thuật ngữ niqab và burqa thường bị nhầm lẫn; niqab che mặt nhưng không che mắt, trong khi burqa che toàn bộ cơ thể từ đỉnh đầu xuống đất, chỉ có một tấm lưới che cho phép người mặc nhìn thấy trước mặt. Theo phần lớn các học giả Hồi giáo và các trường phái tư tưởng Hồi giáo, che mặt không phải là yêu cầu của Hồi giáo; tuy nhiên một số ít các học giả Hồi giáo, đặc biệt là trong phong trào Salafi Hồi giáo Sunni, phong trào này khẳng định rằng phụ nữ bắt buộc phải che mặt ở nơi công cộng. Những phụ nữ Hồi giáo mặc niqab ở những nơi mà họ có thể gặp phải những người đàn ông không có quan hệ huyết thống.
Khăn che mặt ban đầu là một phần trang phục của phụ nữ trong một số tầng lớp nhất định trong Đế quốc Đông La Mã và đã được du nhập vào văn hóa Hồi giáo trong Cuộc chinh phục Trung Đông của người Ả Rập. Về mặt văn hóa, trong thế giới hiện đại, đó là "một phong tục du nhập từ Najd, một vùng ở Ả Rập Saudi và là cơ sở quyền lực của phong trào Salafi hình thức chính thống của Hồi giáo. Trong các quốc gia Hồi giáo, nó đang bị phản đối và bị coi là lỗi thời."
Ngày nay, niqab thường được đeo nhiều nhất ở khu vực xuất xứ của nó: các quốc gia Ả Rập thuộc Bán đảo Ả Rập - Ả Rập Saudi, Yemen, Oman, và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Tuy nhiên, ngay cả ở những quốc gia này, niqab không phải là một phong tục văn hóa phổ biến và cũng không phải là văn hóa bắt buộc. Ở các khu vực khác của thế giới Hồi giáo bên ngoài Bán đảo Ả Rập, nơi niqab đã từ từ lan rộng nhưng ở một mức độ nhỏ hơn nhiều, nó được những người Hồi giáo Sunni và không Sunni coi là "biểu tượng của sự xâm lấn chủ nghĩa chính thống". Tuy nhiên, niqab còn được mặc bởi một bộ phận nhỏ người Hồi giáo không chỉ ở những vùng dân số chủ yếu là Hồi giáo như Somalia, Syria, Afghanistan, Pakistan, Bangladesh, lãnh thổ Palestine, mà còn ở những vùng mà người Hồi giáo chỉ là thiểu số như Ấn Độ và Châu Âu.
Sử dụng thuật ngữ này bằng tiếng Ả Rập.
Phụ nữ mặc niqab thường được gọi là '; từ này được sử dụng như một danh từ hoặc tính từ. Tuy nhiên, dạng đúng ngữ pháp hơn là ' (số nhiều ') nhưng ' được sử dụng theo cách trìu mến hơn (giống như với ' so với '). Phụ nữ mặc niqab còn được gọi là ', với số nhiều là '.
Hình sự hóa và các lệnh cấm.
Niqab đang gây tranh cãi ở thế giới phương Tây. Cụ thể, tại Pháp, mặc dù họ không chỉ quy định riêng niqab, nhưng nó nằm trong phạm vi luật cấm mặc bất kỳ đồ tôn giáo nào (Cơ đốc giáo, Do Thái, Hồi giáo hoặc tôn giáo khác) trong các trường học của nhà nước (trường đại học không bị ảnh hưởng), và một lệnh cấm khác đối với khăn che mặt (bao gồm cả khẩu trang lễ hội và mũ bảo hiểm xe máy khi không đi xe máy).
Năm 2004, Quốc hội Pháp đã thông qua luật để quy định "việc đeo các biểu tượng thể hiện tín ngưỡng tôn giáo trong các cơ sở giáo dục công lập". Luật này cấm tất cả các biểu tượng thể hiện ra bên ngoài một niềm tin tôn giáo cụ thể và được áp dụng trong các trường công lập của Pháp. Luật này được đề xuất vì Ủy ban Stasi, một ủy ban được cho là thực thi tính thế tục trong xã hội Pháp, buộc phải thường xuyên xử lý tranh chấp về khăn trùm đầu ở các trường công lập của Pháp, vì những người không theo đạo không hiểu mục đích của khăn trùm và do đó cảm thấy khó chịu.
Mặc dù luật của Pháp cũng đề cập đến các biểu tượng tôn giáo khác - không chỉ khăn trùm đầu và khăn che mặt của người Hồi giáo - tranh luận quốc về tác động của nó đối với người Hồi giáo với dân số ngày càng tăng ở châu Âu, đặc biệt là ở Pháp, và sự gia tăng bài Hồi giáo.
Vào tháng 7 năm 2010, Quốc hội ở Pháp đã thông qua "Loi Interdisant La Dissimulation Du Visage Dans L'espace Public", (Đạo luật cấm che giấu khuôn mặt trong không gian công cộng). Đạo luật này cấm mặc quần áo che mặt ở bất kỳ không gian công cộng nào. Người vi phạm lệnh cấm che mặt có thể bị phạt lên đến 150 euro và phải học lớp về luật công dân Pháp. Bất kỳ ai bị phát hiện ép một phụ nữ mặc đồ tôn giáo có thể bị phạt tù đến hai năm cũng như bị phạt 60.000 euro.
Tổng thống Pháp lúc bấy giờ, Nicolas Sarkozy đã công khai tuyên bố "Burqa không được chào đón ở Pháp vì nó đi ngược lại với các giá trị của chúng tôi và những lý tưởng mà chúng tôi có về phẩm giá của một người phụ nữ". Sarkozy giải thích thêm rằng chính phủ Pháp coi những ban hành này là một cách thành công để thu hút người Hồi giáo vào xã hội Pháp và thúc đẩy bình đẳng giới.
Vào tháng 10 năm 2018, Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc tuyên bố rằng lệnh cấm của Pháp đã làm tổn hại một cách không cân đối quyền thể hiện niềm tin tôn giáo của phụ nữ và có thể có tác động "ép họ phải ở trong nhà, cản trở họ tiếp cận các dịch vụ công và cô lập họ."
Niqab hiện bị cấm hoàn toàn ở Áo, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Luxembourg, Bỉ, Tajikistan, Pháp, Bulgaria, Tchad, Cameroon, Tunisia, Gabon, Morocco, Algeria, Uzbekistan, Latvia, Sri Lanka, Cộng hòa Congo và Hà Lan. | 1 | null |
Thực phẩm hữu cơ là thực phẩm được sản xuất theo phương pháp tuân thủ các tiêu chuẩn của canh tác hữu cơ bền vững. Các tiêu chuẩn khác nhau trên toàn thế giới, nhưng canh tác hữu cơ có các thực hành xoay vòng các nguồn lực, thúc đẩy cân bằng sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học. Các tổ chức quy định các sản phẩm hữu cơ có thể hạn chế sử dụng một số loại thuốc trừ sâu và phân bón trong các phương pháp canh tác được sử dụng để sản xuất các sản phẩm đó. Thực phẩm hữu cơ thường không được chế biến bằng cách sử dụng chiếu xạ, dung môi công nghiệp hoặc phụ gia thực phẩm tổng hợp.
Trong thế kỷ 21, Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Nhật Bản và nhiều quốc gia khác yêu cầu nhà sản xuất phải có được Chứng nhận hữu cơ để bán thực phẩm của họ dưới dạng " hữu cơ ". Mặc dù sản phẩm của vườn bếp thực sự có thể là hữu cơ, nhưng việc bán thực phẩm có nhãn hữu cơ được quy định bởi các cơ quan chính quyền an toàn thực phẩm, như Chương trình hữu cơ quốc gia của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) hoặc Ủy ban châu Âu (EC).
Từ góc độ môi trường, bón phân, sản xuất thừa và sử dụng thuốc trừ sâu trong canh tác thông thường có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái, đa dạng sinh học, nước ngầm và nước uống. Những vấn đề môi trường và sức khỏe này nhằm giảm thiểu hoặc tránh trong canh tác hữu cơ.
Nhu cầu thực phẩm hữu cơ chủ yếu được thúc đẩy bởi mối quan tâm của người tiêu dùng đối với sức khỏe cá nhân và môi trường.
Tuy nhiên, từ góc độ của khoa học và người tiêu dùng, không có đủ bằng chứng trong tài liệu khoa học và y học để hỗ trợ cho rằng thực phẩm hữu cơ an toàn hơn hoặc tốt cho sức khỏe hơn thực phẩm thông thường.. Mặc dù có thể có một số khác biệt về hàm lượng chất dinh dưỡng và chất chống độc của thực phẩm được sản xuất hữu cơ và thông thường, tính chất thay đổi của sản xuất thực phẩm, vận chuyển, lưu trữ và xử lý gây khó khăn cho việc khái quát hóa kết quả. Khẳng định rằng "thực phẩm hữu cơ có vị ngon hơn" thường chưa được chứng minh qua các bài đánh giá.
Nông nghiệp hữu cơ có chi phí sản xuất cao hơn và năng suất thấp hơn, chi phí lao động cao hơn và giá tiêu dùng cao hơn so với các phương pháp canh tác thông thường.
Ý nghĩa và nguồn gốc thuật ngữ.
Đối với phần lớn lịch sử của thuật ngữ này, nông nghiệp có thể được mô tả là hữu cơ; Chỉ trong thế kỷ 20, một nguồn cung lớn các sản phẩm mới, thường được coi là không hữu cơ, được đưa vào sản xuất thực phẩm. Phong trào canh tác hữu cơ phát sinh vào những năm 1940 để đáp ứng với công nghiệp hóa của nông nghiệp.
Năm 1939, Walter Ernest Christopher James, Nam tước thứ 4 của Northbourne (một ngôi làng và giáo xứ dân sự gần Deal ở Kent, Anh) đã đặt ra thuật ngữ canh tác hữu cơ trong cuốn sách "Look to the Land" (1940), từ quan niệm của ông về "nông trại như sinh vật", để mô tả một cách tiếp cận toàn diện, cân bằng sinh thái đối với nông nghiệp - trái ngược với những gì ông gọi là canh tác hóa học, dựa trên "khả năng sinh sản nhập khẩu" và "không thể tự cung cấp cũng như toàn bộ hữu cơ." Các nhà khoa học đất ban đầu cũng mô tả sự khác biệt về thành phần đất khi phân động vật được sử dụng là "hữu cơ", bởi vì chúng có chứa các hợp chất carbon, nơi mà các chất siêu phosphat và nitơ thường không xử lý. Việc sử dụng tương ứng của chúng ảnh hưởng đến hàm lượng mùn của đất. Điều này khác với cách sử dụng khoa học của thuật ngữ "hữu cơ" trong hóa học, trong đó đề cập đến một lớp các phân tử có chứa carbon, đặc biệt là những chất liên quan đến hóa học của sự sống. Nhóm phân tử này bao gồm mọi thứ có thể được coi là có thể ăn được, và bao gồm hầu hết các loại thuốc trừ sâu và độc tố, do đó, thuật ngữ "hữu cơ" và đặc biệt là thuật ngữ "vô cơ" (đôi khi được sử dụng sai như một sự tương phản của báo chí phổ biến) khi chúng áp dụng hóa học hữu cơ là một ngụy biện tương đương khi áp dụng vào nông nghiệp, sản xuất thực phẩm và cho chính thực phẩm.
Thuật ngữ được sử dụng đúng cách trong bối cảnh khoa học nông nghiệp này, "hữu cơ" dùng để chỉ các phương pháp được trồng và chế biến, không nhất thiết là thành phần hóa học của thực phẩm.
Ý tưởng rằng thực phẩm hữu cơ có thể lành mạnh hơn và tốt hơn cho môi trường bắt nguồn từ những ngày đầu của phong trào hữu cơ là kết quả của các ấn phẩm như cuốn sách The Living Soil năm 1943 và "Trồng trọt và làm vườn vì sức khỏe hay bệnh tật" (Farming and Gardening for Health or Disease) năm 1945.
Trong thời đại công nghiệp, làm vườn hữu cơ đạt đến mức độ phổ biến khiêm tốn ở Hoa Kỳ vào những năm 1950. Vào những năm 1960, các nhà bảo vệ môi trường và phản văn hóa đã vô địch thực phẩm hữu cơ, nhưng chỉ đến những năm 1970, một thị trường quốc gia cho thực phẩm hữu cơ phát triển.
Người tiêu dùng thời gian đầu quan tâm đến thực phẩm hữu cơ sẽ tìm kiếm các loại thuốc trừ sâu không được xử lý hóa học, không sử dụng thuốc trừ sâu, thực phẩm tươi hoặc chế biến tối thiểu. Họ chủ yếu phải mua trực tiếp từ người trồng. Sau đó, "Biết nông dân của bạn, biết thực phẩm của bạn" đã trở thành phương châm của một sáng kiến mới được USDA đưa ra vào tháng 9 năm 2009. Định nghĩa cá nhân về những gì cấu thành "hữu cơ" được phát triển thông qua kinh nghiệm trực tiếp: bằng cách nói chuyện với nông dân, xem điều kiện trang trại và các hoạt động nông nghiệp. Các trang trại nhỏ trồng rau (và chăn nuôi gia súc) bằng cách sử dụng canh tác hữu cơ, có hoặc không có chứng nhận, và người tiêu dùng cá nhân được theo dõi.
Vào những năm 1970, sự quan tâm đến thực phẩm hữu cơ tăng lên cùng với sự gia tăng của phong trào môi trường, và cũng bị thúc đẩy bởi những nỗi sợ về sức khỏe liên quan đến thực phẩm như những lo ngại về Chất điều tiết sinh trưởng B-9 (Daminozide) nảy sinh vào giữa những năm 1980.
Định nghĩa pháp lý.
Sản xuất thực phẩm hữu cơ là một ngành tự điều chỉnh với sự giám sát của chính phủ ở một số quốc gia, khác với làm vườn tư nhân. Hiện tại, Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản và nhiều quốc gia khác yêu cầu các nhà sản xuất phải có chứng nhận đặc biệt dựa trên các tiêu chuẩn do chính phủ xác định để tiếp thị thực phẩm dưới dạng hữu cơ trong biên giới của họ. Trong bối cảnh của các quy định này, thực phẩm được bán dưới dạng hữu cơ được sản xuất theo cách tuân thủ các tiêu chuẩn hữu cơ được thiết lập bởi chính phủ quốc gia và các tổ chức thương mại công nghiệp hữu cơ quốc tế.
Tại Hoa Kỳ, sản xuất hữu cơ được quản lý theo Đạo luật Sản xuất Thực phẩm Hữu cơ năm 1990 (OFPA) và các quy định trong Tiêu đề 7, Phần 205 của Bộ luật Quy định Liên bang để đáp ứng các điều kiện cụ thể tại địa điểm bằng cách tích hợp văn hóa, sinh học và thực hành cơ học thúc đẩy chu kỳ tài nguyên, thúc đẩy cân bằng sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học. Nếu vật nuôi có liên hệ, vật nuôi phải được nuôi với việc tiếp cận thường xuyên với đồng cỏ và không sử dụng kháng sinh thường xuyên hoặc hormone tăng trưởng.
Thực phẩm hữu cơ chế biến thường chỉ chứa các thành phần hữu cơ. Nếu có thành phần phi hữu cơ, ít nhất một tỷ lệ nhất định trong tổng số thành phần thực vật và động vật phải là hữu cơ (95% tại Hoa Kỳ, Canada và Úc). Thực phẩm tự nhận là hữu cơ phải không có chất phụ gia thực phẩm nhân tạo và thường được chế biến với ít phương pháp, vật liệu và điều kiện nhân tạo hơn, như SmartFresh (làm chín hóa học), chiếu xạ thực phẩm và biến đổi gen. Thuốc trừ sâu được cho phép miễn là không phải nhân tạo. Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn hữu cơ của liên bang Hoa Kỳ, nếu sâu bệnh và cỏ dại không thể kiểm soát được thông qua quản lý, cũng như thông qua thuốc trừ sâu hữu cơ và thuốc diệt cỏ, "một chất có trong Danh sách quốc gia các chất tổng hợp được phép sử dụng trong hữu cơ sản xuất cây trồng có thể được áp dụng để ngăn chặn, ngăn chặn hoặc kiểm soát sâu bệnh, cỏ dại hoặc bệnh tật gây hại." Một số nhóm đã kêu gọi các tiêu chuẩn hữu cơ cấm công nghệ nano trên cơ sở nguyên tắc phòng ngừa trước những rủi ro chưa biết của công nghệ nano. Việc sử dụng các sản phẩm dựa trên công nghệ nano trong sản xuất thực phẩm hữu cơ bị cấm ở một số khu vực pháp lý (Canada, Anh và Úc) và không được kiểm soát ở những nơi khác.
Để được chứng nhận hữu cơ, các sản phẩm phải được trồng và sản xuất theo cách tuân thủ các tiêu chuẩn do quốc gia mà chúng được bán:
Tại Hoa Kỳ, có bốn cấp độ hoặc danh mục khác nhau để ghi nhãn hữu cơ.
Ở Hoa Kỳ, nhãn thực phẩm "tự nhiên" hoặc "tất cả tự nhiên" không có nghĩa là thực phẩm được sản xuất và chế biến hữu cơ."
Nhận thức của cộng đồng.
Có rất nhiều quảng cáo cũng như phổ biến cho công chúng rằng thực phẩm hữu cơ là an toàn hơn, dinh dưỡng hơn, và hương vị tốt hơn so với thực phẩm thông thường. Người tiêu dùng mua thực phẩm hữu cơ vì những lý do khác nhau, bao gồm cả những quan ngại về những ảnh hưởng của tập quán canh tác thông thường đối với môi trường, sức khỏe con người, động vật và phúc lợi xã hội.
Lý do quan trọng nhất cho việc mua thực phẩm hữu cơ có lẽ là niềm tin về các lợi ích sức khỏe cho các sản phẩm có "giá trị dinh dưỡng cao hơn". Những sự tin tưởng này được thúc đẩy bởi các ngành công nghiệp thực phẩm hữu cơ, và đã thúc đẩy tăng nhu cầu tiêu dùng đối với thực phẩm hữu cơ mặc dù giá thành cao hơn và còn nhiều khó khăn trong việc khẳng định những lợi ích này một cách thuyết phục bằng khoa học. Nhãn hữu cơ cũng thu hút sự chú ý của người tiêu dùng để xem các sản phẩm là có giá trị dinh dưỡng tích cực hơn.
Ở Trung Quốc, ngày càng tăng mạnh nhu cầu sử dụng các sản phẩm hữu cơ và đặc biệt là sữa hữu cơ và thức ăn hữu cơ dành cho trẻ em. Sự chuyển hướng này của thị trường Trung Quốc xuất phát từ những nỗi lo thực phẩm, tồi tệ nhất là vụ việc có 6 trẻ em đã chết năm 2009 do tiêu thụ sữa bột chứa melamine, ngoài ra vụ bê bối sữa Trung Quốc xảy ra năm 2008 cũng khiến cho thị trường Trung Quốc chuyển hướng qua sữa hữu cơ và trở thành thị trường sữa hữu cơ lớn nhất thế giới (2014). Một cuộc khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew năm 2012 đã chỉ ra có tới 41% người tiêu dùng Trung Quốc nghĩ an toàn thực phẩm là một vấn đề rất lớn, tăng gấp ba lần từ 12% vào năm 2008.
Hương vị.
Không có dẫn chứng khoa học nào đảm bảo rằng thực phẩm hữu cơ có mùi vị tốt hơn so với thực phẩm được cho là phi hữu cơ. Thậm chí còn có bằng chứng cho thấy một số trái cây hữu cơ khô hơn trái cây phát triển thông thường; khi trái cây hơi khô hơn cũng có thể khiến cho hương vị mãnh liệt hơn do nồng độ cao của chất hương liệu.
Một số loại thực phẩm như chuối, được hái khi chưa chín, được làm mát để ngăn chặn hiện tượng chín trong khi vận chuyển bán ra thị trường, sau đó chúng được gây chín nhanh chóng bằng các hóa chất propylen hoặc ethylen quá trình này có thể ảnh hưởng đến phẩm chất và hương vị của sản phẩm. Các vấn đề sử dụng ethylen làm chín trái cây trong sản xuất thực phẩm hữu cơ đang còn tranh cãi vì độ chín khi sử dụng lại không có tác động đến hương vị trái cây; những người phản đối cho rằng việc sử dụng nó chỉ có lợi lớn cho các công ty và sẽ khiến các tiêu chuẩn hữu cơ bị lỏng lẻo.
Thành phần hóa học.
Sự khác biệt trong thành phần hóa học của thực phẩm hữu cơ và thực phẩm thông thường được nghiên cứu và xem xét trên các phương diện: chất dinh dưỡng, chất chống hấp thụ dinh dưỡng và dư lượng thuốc trừ sâu. Những nghiên cứu về sự khác biệt này thường bị đảo lộn bởi nhiều nhân tố và rất khó để khái quát do sự khác biệt trong các phân tích đã được thực hiện, các phương pháp thử nghiệm, và những thay đổi bất thường của nông nghiệp ảnh hưởng đến các thành phần hóa học của thực phẩm; những biến động trong thời tiết (mùa này sang mùa cũng như nơi này đến nơi); biện pháp canh tác (phân bón, thuốc trừ sâu, …); thành phần hóa học của đất trồng; các giống cây được sử dụng, và trong trường hợp của thịt và các sản phẩm sữa là các yếu tố trong kỹ thuật chăn nuôi. Sơ chế thực phẩm sau khi thu hoạch (cho dù là sữa tiệt trùng hay nguyên liệu), chiều dài của thời gian giữa thu hoạch và phân tích, cũng như điều kiện vận chuyển và lưu trữ, cũng ảnh hưởng đến các thành phần hóa học của mặt hàng thực phẩm. Ngoài ra, có bằng chứng cho rằng sản phẩm hữu cơ là khô hơn các sản phẩm phát triển thông thường. Thông thường điều này giải thích hương vị cao hơn là do nồng độ cao hơn chứ không phải là do lượng tốt hơn.
Chất dinh dưỡng.
Thực phẩm hữu cơ không giàu vitamin và khoáng chất hơn so với thực phẩm thông thường, kết luận do các nhà nghiên cứu trong một tổng kết được công bố tháng 9 năm 2009 trên tạp chí American Journal of Clinical Nutrition. Nhiều người cho rằng thực phẩm hữu cơ có hàm lượng các chất dinh dưỡng lớn hơn và do đó đem lại lợi ích sức khỏe lớn hơn sản phẩm nông nghiệp thông thường. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã không chứng minh thuyết phục được rằng đây là kết quả phù hợp.
Các kết quả của phân tích chỉ rút ra được kết luận trong sản phẩm hữu cơ lượng nitơ thấp hơn và hàm lượng phosphor cao hơn sản phẩm thông thường. Hàm lượng của các chất dinh dưỡng hoặc các hợp chất khác không có sự khác biệt giữa hai loại thực phẩm hữu cơ và thông thường: Vitamin C, calci, kali, tổng chất rắn hòa tan, đồng, sắt, nitrat, mangan, natri.
Trong năm 2014 phân tích 343 mẫu nghiên cứu cho thấy cây trồng hữu cơ có nồng độ polyphenol cao hơn 17% so với các cây trồng thông thường. Nồng độ các axit phenolic, flavanon, stilben, flavon, flavonol, và anthocyanin được tăng lên, và đặc biệt là với flavanon cao hơn 69% thực phẩm thông thường.
Khảo sát năm 2012 của các nhà khoa học đã không tìm thấy sự khác biệt đáng kể trong hàm lượng vitamin của sản phẩm động thực vật nuôi trồng hữu cơ và nuôi trồng thông thường.
Một đánh giá năm 2011 phát hiện ra rằng các loại thực phẩm hữu cơ có một vi chất dinh dưỡng cao hơn tổng thể so với thực phẩm sản xuất thông thường. Trong thịt gà hữu cơ chứa hàm lượng cao các axit béo omega-3 hơn thịt gà thường. Các tác giả nhận thấy không có sự khác biệt trong hàm lượng các protein hay chất béo của sữa hữu cơ và sữa thông thường.
Một nghiên cứu năm 2016 phân tích thấy rằng thịt hữu cơ có nồng độ các chất béo bão hòa và chất béo không bão hòa đơn tương đương hoặc thấp hơn thịt thông thường, nhưng lại thấy mức độ cao hơn của cả axit béo omega-3 tổng thể và các axit béo không bão hòa đa.
Chất ức chế hấp thụ dinh dưỡng.
Lượng nitơ trong các loại thực phẩm, đặc biệt là rau ăn lá và ăn củ, được tìm thấy trong các sản phẩm hữu cơ thấp hơn các sản phẩm thông thường. Khi đánh giá độc tố môi trường như các kim loại nặng, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã lưu ý rằng gà nuôi hữu cơ có thể hấp thụ asen thấp hơn. Đánh giá này sớm tìm được bằng chứng về nồng độ asen, cadmi hoặc các kim loại nặng khác có sự khác biệt đáng kể giữa các sản phẩm thực phẩm hữu cơ và thông thường. Đánh giá năm 2014 lại cho thấy nồng độ cadmi trong các hạt phát triển thu từ canh tác hữu cơ là thấp hơn.
Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Lượng thuốc bảo vệ thực vật còn lại trong hoặc trên thực phẩm được gọi là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Tại Hoa Kỳ, trước khi một loại thuốc bảo vệ thực vật có thể được sử dụng trên một cây lương thực, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ phải xác định xem loại thuốc bảo vệ thực vật đó có thể được sử dụng mà không gây ra nguy cơ nào đối với sức khỏe con người hay không.
Một phân tích tổng hợp năm 2012 xác định dư lượng thuốc bảo vệ thực vật có thể phát hiện trong 7% mẫu sản phẩm hữu cơ và 38% mẫu sản phẩm thông thường. Kết quả này là không đồng nhất về mặt thống kê, có khả năng là do mức độ biến thiên của sự phát hiện được sử dụng trong các nghiên cứu này. Chỉ có ba nghiên cứu báo cáo tỷ lệ ô nhiễm vượt quá giới hạn tối đa cho phép; tất cả các nghiên cứu này đều đến từ Liên minh châu Âu. Một phân tích tổng hợp năm 2014 cho thấy rằng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật ở các sản phẩm thông thường có thể cao gấp 4 lần sản phẩm từ canh tác hữu cơ.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng không có bằng chứng về tăng nguy cơ ung thư từ dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên thực phẩm thông thường, tuy nhiên họ vẫn khuyên nên rửa kỹ trái cây và rau quả. Họ cũng đã tuyên bố rằng không có nghiên cứu cho thấy thực phẩm hữu cơ làm giảm nguy cơ ung thư so với các loại thực phẩm được trồng với phương pháp canh tác thông thường.
Cơ quan Bảo vệ môi trường duy trì hướng dẫn nghiêm ngặt về quy chế của thuốc bảo vệ thực vật bằng cách thiết lập một tiêu chuẩn hàm lượng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật được phép có trong hoặc trên bất kỳ thực phẩm nào. Mặc dù một số dư lượng có thể vẫn sót lại vào thời điểm thu hoạch, dư lượng có xu hướng giảm khi các loại thuốc bảo vệ thực vật bị phân hủy hoặc rửa trôi theo thời gian. Ngoài ra khi hàng hóa được rửa sạch và xử lý trước khi bán cũng khiến dư lượng được giảm hơn nữa.
Nhiễm khuẩn.
Một phân tích năm 2012 xác định tỷ lệ "E.coli" ô nhiễm là không đáng kể về mặt thống kê (7% trong sản phẩm hữu cơ và 6% trong sản xuất thông thường). Trong khi nhiễm khuẩn thường gặp ở cả hai sản phẩm động vật hữu cơ và thông thường, sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm khuẩn giữa các sản phẩm động vật hữu cơ và thông thường cũng không đáng kể về mặt thống kê. | 1 | null |
Chiến dịch Thọ Xuân (chữ Hán: 壽春三叛 "Thọ Xuân tam bạn"), hay còn gọi là Ba lần binh biến Thọ Xuân bao gồm 3 cuộc chiến chống lại các chính quyền địa phương của quyền thần họ Tư Mã nước Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc chiến chống họ Tư Mã chuyên quyền ở trung ương nổ ra 3 lần đều tại Thọ Xuân, vùng đất phía nam sông Hoài, trong đó có lần tham chiến của nước Đông Ngô.
Hoàn cảnh.
Sau khi Ngụy Minh Đế Tào Duệ qua đời (239), vua nhỏ Tào Phương được lập, quyền phụ chính trong tay Tào Sảng và Tư Mã Ý. Năm 249, sau nhiều năm kín đáo giấu mình, Tư Mã Ý phát động sự biến lăng Cao Bình lật đổ Tào Sảng, khống chế Tào Phương. Đồng thời, Tư Mã Ý buộc các tông thất họ Tào đều phải tới cư trú tại kinh đô Lạc Dương để khống chế, không cho qua lại với nhau. Ngoài ra, họ còn bị Tư Mã Ý sai người giám sát hành động.
Việc họ Tư Mã thao túng triều đình khiến tông thất nhà Tào Ngụy bất bình. Chính Tư Mã Ý cũng nhận thức nguy cơ tất yếu từ sự chống đối này nên đã chủ động ra tay dẹp những lực lượng này, dọn đường cho con cháu giành ngôi nhà Ngụy.
Lần thứ nhất.
Sau khi diệt Tào Sảng, Tư Mã Ý chủ động chĩa mũi nhọn vào những tướng lĩnh không cùng cánh để dẹp bỏ nguy cơ "phục hưng Tào Ngụy" của những người trung thành với họ Tào.
Tháng giêng năm 251, vua Đông Ngô là Tôn Quyền lấp kín cửa sông Đồ Thủy chảy vào sông Trường Giang, Đô đốc Dương châu chư quân sự là Vương Lăng cho rằng Tôn Quyền định khởi binh đánh Ngụy, do đó ông ra lệnh giới nghiêm toàn quân ở Dương châu, đồng thời dâng biểu về triều đề nghị phát đại quân đánh Ngô. Tư Mã Ý cho rằng Vương Lăng lấy lý do đánh Ngô chỉ là cớ để khởi binh chống triều đình, nên không đồng ý cho Vương Lăng hưng binh ra quân, rồi tâu lên Tào Phương rằng Vương Lăng có mưu đồ câu kết với Sở vương Tào Bưu (con thứ của Tào Tháo, em Văn Đế Tào Phi, ông chú của Tào Phương) làm phản, sẽ đánh chiếm Hứa Xương để phế truất Tào Phương.
Nhưng để giữ bí mật khiến Vương Lăng không phòng bị, Tư Mã Ý không công khai khởi binh rầm rộ, mà ngấm ngầm huy động binh lính đi theo đường thủy, đột ngột từ Dĩnh Thủy tới Thọ Xuân.
Vương Lăng không hiểu vì sao Tư Mã Ý lại mang quân tới bất ngờ như vậy, cũng không thể có cách nào điều quân chống cự. Khi Tư Mã Ý đã đến Khâu Đầu, Vương Lăng đành bảo thủ hạ trói mình, cùng thủ hạ Vương Úc tới thủy doanh của Tư Mã Ý, nộp ấn tín xin thỉnh tội.
Tư Mã Ý sai 600 quân áp giải Vương Lăng về Lạc Dương trị tội. Vương Lăng đi nửa đường tới Hạng Thành thì uống thuốc độc tự tử.
Vương Lăng được chôn cất ít lâu thì có một viên tướng là Vương Thức tới tự thú với Tư Mã Ý, nói rằng mình là người cùng họ với Vương Lăng và là thuộc hạ của Thứ sử Duyện châu Lệnh Hồ Ngu, từng theo lệnh của Lệnh Hồ Ngu tới thành Bạch Mã câu kết với Sở vương Tào Bưu; còn Lệnh Hồ Ngu cũng từng mưu đồ với Vương Lăng chống triều đình. Các sử gia cho rằng khi đó Lệnh Hồ Ngu đã bị bệnh qua đời nên không có cách nào kiểm chứng lời tự thú và tố cáo của Vương Thức, thực chất đây là vụ án giả do Tư Mã Ý làm ra để tiêu diệt những lực lượng chống đối.
Tư Mã Ý căn cứ vào đó hạ lệnh phá quan tài Vương Lăng và Lệnh Hồ Ngu, phơi xác họ 3 ngày trong chợ, thiêu hủy ấn tín và áo quan của họ, rồi chôn xác họ trần xuống đất. Sau đó Tư Mã Ý hạ lệnh tru di tam tộc của hai người này (họ cha, họ mẹ và họ vợ) và nhân danh Tào Phương ra chiếu thư bắt Sở vương Tào Bưu phải tự sát.
Lần thứ hai.
Tư Mã Ý chết không lâu sau chiến dịch lần thứ nhất (251), con trưởng là Tư Mã Sư lên kế vị điều hành triều chính. Tháng giêng năm 254, Tào Phương trước sự chèn ép của họ Tư Mã bèn mưu cùng Hạ Hầu Huyền (người cùng họ tông thất Tào Ngụy) đánh đổ Tư Mã Sư. Mưu sự bại lộ, Tư Mã Sư khép tội Hạ Hầu Huyền cùng những người cùng cánh là Lý Phong, Trương Tập, Nhạc Đôn, Lưu Hiền tội danh "phế bỏ đại thần" và tru di tam tộc họ.
Tới tháng 9 năm đó, Tư Mã Sư nhân danh Quách thái hậu, phế truất Tào Phương làm Tề vương, lập cháu Ngụy Minh Đế là Cao Quý hương công Tào Mao mới 14 tuổi lên ngôi.
Nghe tin Tư Mã Sư làm việc phế lập, Trấn đông tướng quân Vô Khâu Kiệm và Thứ sử Dương châu Văn Khâm bèn khởi binh thảo phạt Tư Mã Sư. Vô Kỳ Kiệm ước hẹn với Văn Khâm và các tướng: Hộ quân An Phong là Trịnh Ký, Hộ quân Lư Giang là Lã Tuyên, Thái thú Lư Giang là Trương Hưu, Thái thú Hoài Nam là Đinh Tôn, hộ quân Hợp Phì là Chính Hưu cùng giương cờ chống Tư Mã Sư bảo vệ nhà Tào Ngụy.
Vô Khâu Kiệm dâng biểu về Lạc Dương lên Tào Mao, kể 10 tội trạng của Tư Mã Sư; nhưng đồng thời bài biểu lại ca ngợi công lao của Tư Mã Ý và đề nghị Tào Mao dùng em Tư Mã Sư là Tư Mã Chiêu thay thế làm phụ chính. Các sử gia cho rằng có thể đây là chủ định nhằm phân hóa hàng ngũ họ Tư Mã của Vô Kỳ Kiệm và Văn Khâm, nhưng chẳng có hiệu quả nào.
Để có thêm lực lượng chống Tư Mã Sư, Vô Khâu Kiệm và Văn Khâm cầu cứu Đông Ngô hiệp trợ. Hai tướng cùng gửi con tin sang cho vua Ngô là Tôn Lượng đề nghị phát binh. Trong khi Tôn Lượng chưa phát binh, Vô Khâu Kiệm và Văn Khâm tập hợp 6 vạn quân từ Thọ Xuân tiến về phía tây, nhưng không đánh thẳng tới Lạc Dương hoặc Hứa Xương mà chỉ chiếm Hạng Thành và đóng quân. Các sử gia cho rằng việc không quyết đoán này chính là ngồi chờ đòn phản công của quân địch.
Vô Khâu Kiệm sai sứ giả mang thư tới Duyện châu dụ Đặng Ngải ủng hộ mình. Đặng Ngải không nghe theo, giết luôn sứ giả rồi mang quân ra kháng cự.
Tư Mã Sư sai Giám quân Vương Cơ làm tiên phong, đóng đồn ở Nam Đốn ngăn chặn Vô Khâu Kiệm và Văn Khâm, lại sai Gia Cát Đản mang quân Dự châu đánh căn cứ của họ là Thọ Xuân; còn sai Hồ Tuân mang quân Thanh châu, Từ châu đi theo đường giữa Thương Khâu và huyện Tiêu tới cắt đứt đường rút về Thọ Xuân của họ. Tư Mã Sư còn sai Đặng Ngải mang 1 vạn quân Thái Sơn ra Lạc Gia để dẫn dụ Vô Kỳ Kiệm ra đánh, còn tự mình cầm quân chủ lực tới Nhữ Dương.
Đặng Ngải mang quân tới Lạc Gia, làm cầu phao tạo điều kiện cho đại quân Tư Mã Sư tới chiếm được Lạc Gia. Lúc đó Tư Mã Sư đang bị bệnh lên bướu ở mắt. Văn Khâm sai con là mãnh tướng Văn Ương mang quân đánh vào đại doanh Tư Mã Sư. Bị quân Văn Ương đánh bất ngờ, quân Tư Mã Sư rối loạn. Tư Mã Sư sợ hãi, bật cả tròng một con mắt ra ngoài, đau quá ngất đi. Nhưng vì lực lượng của Văn Ương quá ít không phá được trại địch, cuối cùng phải rút lui.
Tư Mã Sư bớt bệnh, Vô Khâu Kiệm sai Văn Khâm mang quân ra đánh Đặng Ngải. Trong khi hai bên xuất chiến, Tư Mã Sư mang quân chủ lực đánh tập hậu. Văn Khâm không địch nổi, bị thua tan tác. Các cánh quân và thành trì theo Vô Khâu Kiệm lần lượt đầu hàng
Thấy quân chủ lực thua trận, Vô Kỳ Kiệm vội bỏ Hạng Thành chạy, toàn quân Dương châu tan vỡ. Vô Kỳ Kiệm chạy tới huyện Thận, núp vào bụi cỏ rậm bên bờ sông, bị một người dân là Trương Thuộc bắn chết. Em ông là Vô Khâu Tú chạy sang đầu hàng Đông Ngô, còn Văn Khâm bại binh cũng bỏ chạy đến hàng Ngô.
Tư Mã Sư thắng trận trở về, bắt giết hết gia tộc hai họ Vô Khâu và họ Văn.
Lần thứ ba.
Sau trận Thọ Xuân thứ hai không lâu, sang tháng 1 năm 255, Tư Mã Sư qua đời. Em ông là Tư Mã Chiêu lên nắm quyền phụ chính.
Trấn đông tướng quân Gia Cát Đản ở Thọ Xuân bất hòa với Thứ sử Dương châu là Nhạc Lâm (con Nhạc Tiến), bị Nhạc Lâm tố cáo liên kết với Đông Ngô. Gia Cát Đản trước đó đã thu thập những người bỏ trốn và tích trữ lương thực trong 1 năm.
Tư Mã Chiêu sai Giả Sung đi Dương châu thị sát. Khi trở về, Giả Sung khuyên Tư Mã Chiêu nên triệu tập Gia Cát Đản về kinh đô Lạc Dương phong chức Tư không. Tư Mã Chiêu nghe theo bèn nhân danh Tào Mao phát lệnh gọi Gia Cát Đản. Gia Cát Đản biết mình bị nghi ngờ, năm 257 bèn khởi binh đánh Tư Mã Chiêu nhân danh phò nhà Ngụy.
Trước tiên Gia Cát Đản tấn công giết chết Nhạc Lâm, sau đó sai người đưa con là Gia Cát Thịnh sang Đông Ngô làm con tin, đề nghị Tôn Lượng phát binh chi viện. Gia Cát Đản tập hợp được hơn 10 vạn quân, phía Tôn Lượng cũng phái hơn 3 vạn quân bắc tiến, dưới quyền chỉ huy của Toàn Dịch, Toàn Đoan, Vương Tộ và hàng tướng Văn Khâm.
Quân Ngô sang sông rồi vội vã vào thành Thọ Xuân hội với Gia Cát Đản. Các sử gia cho rằng chiến thuật này là sai lầm, quân Ngô nên đóng ở ngoài để cùng Gia Cát Đản hai cánh quân cứu ứng cho nhau.
Tư Mã Chiêu mang 20 vạn quân, ép Tào Mao cùng đi thân chinh để tránh binh biến ở Lạc Dương. Tư Mã Chiêu tiến đại quân đến đóng ở Thẩm Khâu, thúc quân bao vây thành Thọ Xuân, men theo tường thành đắp 2 lớp lũy.
Hai bên giằng co trong vòng 10 tháng, từ tháng 5 năm 257 đến tháng 3 năm 258. Cháu Toàn Dịch là Toàn Huy ở Kiến Nghiệp (kinh đô Đông Ngô), vì mâu thuẫn trong nhà nên dắt mẹ cùng gia quyến vượt sông Trường Giang sang đầu hàng Tư Mã Chiêu. Thủ hạ của Tư Mã Chiêu là Chung Hội nhân đó bèn hiến kế, nhân danh anh em Toàn Huy viết thư cho Toàn Dịch, trong thư nói vua Ngô trách Toàn Dịch bất lực, định trị tội gia quyến họ Toàn, do đó Toàn Huy mới phải trốn đi hàng Ngụy.
Toàn Dịch nhận thư sợ hãi, bèn mang quân ra khỏi thành đầu hàng Tư Mã Chiêu. Chung Hội hậu đãi những người đầu hàng, do đó các tướng sĩ trong thành của Đông Ngô và Gia Cát Đản dao động, nảy ý đầu hàng.
Cùng lúc đó trong thành Thọ Xuân hết lương, Toàn Dịch và Toàn Đoan cùng nhiều tướng sĩ ra đầu hàng. Gia Cát Đản lại nghi ngờ Văn Khâm không trung thành, bèn bắt giết Văn Khâm. Văn Ương bất mãn nhưng không thể trả thù được cho cha, bèn bỏ thành ra hàng Tư Mã Chiêu.
Trong thành Thọ Xuân suy kiệt, bị quân Tư Mã Chiêu công phá, cuối cùng hạ được thành. Gia Cát Đản cưỡi ngựa mang quân chạy ra cửa Tiểu Thành nhưng không thoát, bị quân Tư Mã Chiêu giết chết.
Có mấy trăm thủ hạ trung thành với Gia Cát Đản khi bị bắt đều không chịu đầu hàng, lần lượt chịu chém.
Hậu quả và ý nghĩa.
Ba lần binh biến Thọ Xuân là 3 lần có tính chất khác nhau. Lần đầu do Tư Mã Ý chủ động ra tay với Vương Lăng và Vương Lăng trong thế bị động. Lần thứ hai thực sự là do sự bất bình của các quan tướng trung thành với nhà Ngụy, nhưng cả Văn Khâm và Vô Khâu Kiệm đều tài năng kém cỏi không bằng Tư Mã Sư. Lần thứ ba giống lần thứ nhất ở việc họ Tư Mã chủ động ra tay trước với tướng trấn thủ Thọ Xuân bằng việc triệu tập về kinh để tước bỏ binh quyền, nhưng Gia Cát Đản không chịu trói như Vương Lăng. Mặt khác động cơ khởi binh của Gia Cát Đản cũng không được xem là xuất phát từ lòng trung thành với nhà Tào Ngụy; vì trước đó Gia Cát Đản từng giúp họ Tư Mã đánh Vô Khâu Kiệm; còn lý do thực sự là do mâu thuẫn giữa Gia Cát Đản và Nhạc Lâm, khi bị Tư Mã Chiêu đụng chạm thì Gia Cát Đản lấy việc phò vua Ngụy làm danh nghĩa
Các lực lượng chống đối ở Hoài Nam bị dẹp, quyền hành của họ Tư Mã trong chính quyền Tào Ngụy được củng cố, các thủ lĩnh địa phương không còn dám chống đối.
Tư Mã Chiêu ép Tào Mao phong làm Tấn công, cắt đất phong nước riêng, bắt đầu việc giành ngôi nhà Ngụy. Tào Mao không chịu nổi tự chèn ép của Tư Mã Chiêu. Năm 260, Tào Mao cầm quân chống lại, nhưng lập tức bị đánh bại và bị giết. Tư Mã Chiêu lập Tào Hoán lên làm Ngụy Nguyên Đế. Không lâu sau việc điều quân diệt nước Thục Hán đã suy yếu, họ Tư Mã phế truất Tào Hoán, lập ra nhà Tấn (265).
Trong Tam Quốc diễn nghĩa.
La Quán Trung không nhắc tới việc Tư Mã Ý trừ bỏ Vương Lăng và Tào Bưu trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Hai lần binh biến sau của Vô Khâu Kiệm và Gia Cát Đản được kể gần giống với sử sách. | 1 | null |
1408 (tựa tiếng Việt: Căn phòng 1408 hoặc Căn phòng bí mật) là một bộ phim kinh dị Mỹ năm 2007 của đạo diễn Mikael Håfström. "1408" dựa theo một truyện ngắn cùng tên của nhà văn lừng danh Stephen King. Phim có câu khẩu hiệu chính thức là "The Dolphin Hotel invites you to stay in any of its stunning rooms. Except one" (dịch tiếng Việt: "Khách sạn Dolphin mời bạn vào ở trong bất kỳ căn phòng đẹp nào. Ngoại trừ một phòng").
Nội dung.
Mike Enslin là một nhà văn chuyên viết sách về những hiện tượng siêu nhiên. Anh đang sống xa cách với cô vợ Lily sau cái chết của đứa con gái Katie. Một hôm Mike tìm thấy tấm thiệp đề cập đến khách sạn Dolphin, một khách sạn ở thành phố New York, kèm theo lời nhắn "Đừng vào phòng 1408". Nghĩ rằng đây là lời thách thức, Mike liền đến khách sạn Dolphin để đặt phòng.
Gerald Olin, quản lý khách sạn, giải thích với Mike rằng không ai có thể sống quá một giờ trong phòng 1408. Đã có 56 người chết, bao gồm tự tử và những cái chết "tự nhiên". Olin cảnh báo và ngăn cản Mike thuê phòng 1408, nhưng Mike nhất định đòi thuê. Olin đành chiều theo ý Mike.
Vào trong căn phòng 1408, Mike sử dụng chiếc máy ghi âm nhỏ để kể lại việc căn phòng có vẻ buồn chán và không hề có gì kinh dị. Lúc 8:07, chiếc đồng hồ điện tử tự động đếm ngược bắt đầu ở phút "60:00". Cửa sổ sập xuống làm bàn tay Mike bị thương. Anh bắt đầu gặp ảo giác và thấy được hồn ma những nạn nhân trước kia của căn phòng. Anh cũng nhìn thấy hình ảnh người thân trong gia đình anh.
Mike muốn rời khỏi căn phòng nhưng không được, chiếc chìa khóa bị gãy và nắm cửa rơi ra. Anh leo lên lỗ thông gió thì bị một hồn ma đuổi theo. Mike liều lĩnh leo ra bờ tường bên ngoài cửa sổ để qua phòng bên cạnh, nhưng những cửa sổ của mấy căn phòng khác bỗng dưng biến mất.
Căn phòng trở nên lạnh cóng bao phủ đầy tuyết. Mike lấy máy tính xách tay liên lạc với Lily, kêu cô báo cảnh sát, nhưng có một thế lực vô hình nào đó đã can thiệp vào cuộc nói chuyện. Căn phòng trở nên rung lắc dữ dội và Mike đập bức tranh có hình con thuyền trong cơn bão. Nước trong bức tranh tràn ra nhấn chìm căn phòng. Mike nổi lên trên bờ biển, quay lại cuộc lướt ván ở đầu phim.
Cuộc sống của anh tiếp tục từ lúc này, và anh hòa giải với Lily. Nhưng mọi thứ biến mất tiết lộ việc Mike vẫn đang mắc kẹt trong phòng 1408. Hồn ma của Katie gặp Mike, lúc anh ôm cô bé, cô bé chết và tan thành cát bụi. Khi sự đếm ngược kết thúc, căn phòng trở lại bình thường như lúc ban đầu, và chiếc đồng hồ lại đếm ngược ở phút "60:00". Mike nổi giận đốt cháy căn phòng.
Bộ phim có 3 kết thúc khác nhau | 1 | null |
Cộng hòa Nhân dân Tuva (hay Cộng hòa Nhân dân Tannu Tuva; tiếng Tuva: Tьвa Arat Respuвlik, Тыва Арат Республик, "Tyva Arat Respublik"; 1921-1944) là một nhà nước độc lập được hai nước Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ công nhận, nằm trên lãnh thổ xứ bảo hộ Tuva trước đây của Đế quốc Nga- cũng được gọi là Uryankhaisky Krai (). Đây là một quốc gia vệ tinh của Liên Xô và hậu thân của nó là nước Cộng hòa Tuva trong thành phần Liên bang Nga hiện nay.
Lịch sử.
Sau Cách mạng Nga 1917, Hồng Quân chiếm được Tuva vào tháng 1 năm 1920. Sự hỗn loạn trong giai đoạn này đã tạo điều kiện để người Tuva một lần nữa tuyên bố nền độc lập của họ. Ngày 14 tháng 8 năm 1921, những người Bolshevik (được Nga ủng hộ) đã thành lập Cộng hòa Nhân dân Tuva, được gọi là Tannu Tuva cho đến năm 1926. Thủ đô Khem-Beldir cuối cùng được đổi tên thành Kyzyl ('Đỏ' trong tiếng Tuva; trong tiếng Tuva và tiếng Nga: Кызыл; trong giai đoạn 1922-26 được đổi tên thành "Красный", "Krasnyy", 'Đỏ' trong tiếng Nga). Một hiệp định giữa Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ trong năm 1926 đã khẳng định nền độc lập của quốc gia này. Không có quốc gia nào khác chính thức công nhận Cộng hòa Nhân dân Tuva, song nó đã xuất hiện trên một số bản đồ và quả địa cầu sản xuất tại Hoa Kỳ.
Thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Tuva là Donduk Kuular thuộc Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva. Kuular chọn Phật giáo làm quốc giáo và cố gắng giới hạn số người định cư và sự tuyên truyền đến từ Nga. Ông cũng cố gắng thiết lập các mối quan hệ với Mông Cổ. Liên Xô ngày càng trở nên lo lắng trước những hành động này và đến năm 1929, Thủ tướng Kuular đã bị bắt giữ và sau đó bị hành quyết. Trong lúc ấy (năm 1930), tại Liên Xô, năm thành viên của Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông (KUTV), cũng chính là nhóm đã hành quyết Kuular, đã được bổ nhiệm "các chính ủy đặc mệnh" của Tuva. Những người này đặc biệt trung thành với chính phủ Joseph Stalin, họ đã tiến hành thanh trừng một phần ba số thành viên trong Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva và thúc đẩy tập thể hóa tại một quốc gia có kinh tế dựa vào chăn nuôi gia súc du mục truyền thống. Chính phủ mới bắt đầu các hành động nhằm tiêu diệt Phật giáo và Shaman giáo tại Tuva, một chính sách được Stalin khuyến khích. Bằng chứng về sự thành công của các hành động này thể hiện trong việc suy giảm số lượng các vị Lạt-ma tại quốc gia này: vào năm 1929 có 25 tu viện Lạt-ma với khoảng 4.000 lạt-ma và pháp sư; vào năm 1931 chỉ còn 1 tu viện Lạt-ma, 15 lạt-ma, và khoảng 725 pháp sư. Những nỗ lực xóa bỏ chăn nuôi du mục thì khó khăn hơn. Một cuộc điều tra dân số vào năm 1931 cho thấy 82,2% người Tuva vẫn tham gia chăn nuôi gia súc du mục. Salchak Toka, một trong số các chính ủy đặc mệnh đã đề cập ở trên, đã được lập làm Tổng bí thư của Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva vào năm 1932. Ông vẫn nắm giữ quyền lực tại Tuva cho đến khi qua đời vào năm 1973.
Tuva bước vào Thế chiến II cùng với Liên Xô vào ngày 25 tháng 6 năm 1941, ba ngày sau khi Đức tấn công vào Liên Xô. Ngày 11 tháng 10 năm 1944, theo yêu cầu của Tiểu Khural Nhân dân Tuva (nghị viện), Tuva trở thành một phần của Liên Xô và được tổ chức thành tỉnh tự trị Tuva của CHXHCNXV Liên bang Nga theo quyết định của Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô. Tiểu Khural Nhân dân đã chính thức hóa việc sáp nhập tại phiên họp cuối cùng của nó vào ngày 1 tháng 11 năm 1944. Salchak Toka trở thành Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Tuva. Tuva duy trì vị thế là cộng hòa tự trị (CHXHCNXVTT Tuva trong thành phần CHXHCNXV Liên bang Nga) từ ngày 10 tháng 10 năm 1961 cho đến năm 1992. | 1 | null |
Matthew Steven "Matt" LeBlanc (sinh ngày 25 tháng 7 năm 1967) là nam diễn viên người Mỹ, nổi tiếng nhất với vai diễn Joey Tribbiani trong hài tình huống nổi tiếng "Những người bạn" và "Joey" của đài NBC. Năm 2011, LeBlanc bắt đầu diễn xuất phiên bản hư cấu về chính mình trong bộ phim "Episodes" của đài BBC do đồng đạo diễn phim "Những người bạn", David Crane và Jeffrey Klarik sáng lập. LeBlanc chiến thắng giải Quả cầu vàng cho vai diễn trong "Episodes", sau ba lần được đề cử cho vai diễn Joey Tribbiani với bộ phim "Những người bạn".
Tiểu sử.
LeBlanc sinh ra tại thành phố Newton, Massachusetts. Mẹ của anh, Patricia, là một quản lý văn phòng, và bố anh, Paul LeBlanc, là một công nhân cơ khí. Mẹ của anh là một người gốc Ý, còn cha anh mang hai dòng máu Pháp và Canada.
Sự nghiệp.
Năm 1988, anh nhận vai diễn đầu tiên trong đời trong bộ phim truyền hình "TV 101", bộ phim chỉ kéo dài một mùa. Năm 1990, anh diễn xuất trong clip ca nhạc "Micacle" của Jon Bon Jovi, bản nhạc nền cho bộ phim "Young Gun II". Năm 1991, Anh tiếp tục xuất hiện trong video ca nhạc "Walk Away" của Allanis Morissette. Anh cũng xuất hiện trong những giây cuối cùng của clip của Tom Petty and the Heartbreakers' "Into the Great Wide Open" với vai người thổi kèn trumpet. Năm 1991, anh tham gia diễn xuất trong sản phẩm ăn theo bộ phim hài tình huống "Married... with Children", với tựa đề "Top of the Heap". Seri của Fox này kéo dài 7 tập, được phát sóng trong tháng 4 và 5 năm 1991. Năm 1994, anh tham gia clip "Night Moves" của Bob Seger.
LeBlanc nổi tiếng với vai diễn Joey Tribbiani trong seri "Những người bạn", anh đóng vai này trong 10 mùa và 2 mùa của "Joey". "Những người bạn" thành công và LeBlanc, cùng với các bạn diễn, trở nên nổi tiếng.
Leblanc xuất hiện trong các phim "Lookin' Italian" (1994), "Ed" (1996), "Lost in Space" (1998), "Charlie's Angels" (2000) và phần tiếp theo "" (2003).
Matt LeBlanc sáng lập ra công ty sản xuất phim Fort Hill Productions, và đồng sản xuất phim điện ảnh truyền hình "The Prince" năm 2006.
Năm 2011, LeBlanc bắt đầu diễn xuất phiên bản hư cấu về chính mình trong phim "Episodes", seri phim truyền hình của đài BBC/Showtime nói về các seri truyền hình của Anh, được làm lại cho khán giả Mỹ. Seri được viết bởi đồng sáng lập bộ phim "Những người bạn" David Crane and cộng sự Jeffrey Klarik. LeBlanc chiến thắng giải Quả cầu vàng năm 2012 cho giải "Nam diễn viên chính xuất sắc nhất trong seri truyền hình hài". Mùa thứ hai của "Episode" được phát sóng trên kênh BBC Two từ ngày 11 tháng 5 năm 2012.
Tháng 2 năm 2012, LeBlanc xuất hiện trong tập thứ 2, mùa thứ 8 của seri "Top Gear", nơi ảnh xác lập thời gian nhanh nhất 1:42.1 trong Kia Cee'd, đánh bại người nắm giữ kỉ lục trước Rowan Atkinson với 0.1 giây. Anh cũng tham gia tập 4 mùa 19 trong cuộc đua New Kia Cee'd, và thành công đánh bài thời gian đua xe trước đó.
Cuộc sống riêng.
Tháng 5 năm 2003, LeBlanc kết hôn với cựu người mẫu Mellissa McKright. McKnight và LeBlance quen nhau năm 1997 do giới thiệu của 1 người bạn của Mellisa, Kelly Phillips, vợ của nam diễn viên Lou Diamond Phillips, LeBlance cầu hôn cô một năm sau đó. Con gái của họ, Marina, ra đời năm 2004, đã phải trải qua chứng co giật khi mới 8 tháng, việc này làm ảnh hưởng đến khả năng lái xe của cô bé. Từ khi cô bé lên 2 tuổi, sự phát triển không bình thường của các bộ phận đã thuyên giảm hơn.
Tháng 6 năm 2005, LeBlane thừa nhận hành vi "thiếu cẩn trọng và thiếu trách nhiệm" với vũ nữ thoát ý trong chuyến đi bằng xe máy tới Canada. LeBlanc và McKnight chia tay vào ngày 1 tháng 1, năm 2006. Và thời gian đó, LeBlance có quan hệ với nữ diễn viên Andrea Anders. Tháng 3 cùng năm đó, LeBlanc hoàn tất thủ tục ly hôn do những mâu thuận không thể hòa giải. Cuộc ly hôn kết thúc vào ngày 6 tháng 10 năm 2006. | 1 | null |
Miguel Mario Díaz-Canel Bermúdez (; sinh ngày 20 tháng 4 năm 1960) là Chủ tịch nước Cuba đương nhiệm, đồng thời là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba. Ông từng là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước từ 2018 đến 2019, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (tức Phó Chủ tịch nước Cuba) và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Phó Thủ tướng) từ năm 2013 tới năm 2018. Ông là thành viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba từ năm 2003, và từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đại học từ năm 2009 tới năm 2012; ông được giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tức Phó Thủ tướng) vào năm 2012. Một năm sau, vào ngày 24 tháng 2 năm 2013, ông được bầu làm Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Nhà nước.
Ông được chọn để thay thế Raúl Castro làm Chủ tịch nước và Thủ tướng ngày 18 tháng 4 năm 2018 và tuyên thệ nhậm chức vào ngày hôm sau, 1 ngày trước sinh nhật lần thứ 58 của ông. Trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 4 của Quốc hội Cuba khóa 9, Chủ tịch Cuba Miguel Díaz-Canel tuyên bố khôi phục chức danh Thủ tướng Cuba (tương đương với chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) và giới thiệu Manuel Marrero Cruz cho chức danh này. Ông chỉ đảm nhận chức vụ Chủ tịch nước Cuba, điều hành Hội đồng bộ trưởng giao lại cho Thủ tướng Cuba. Ngày 19 tháng 4 năm 2021, ông được chọn làm Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba trong Đại hội Đảng lần thứ 8, để thay thế Raúl Castro đang về hưu, trở thành nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Cuba.
Tiểu sử và giáo dục.
Díaz-Canel sinh ngày 20 tháng 4 năm 1960 tại thành phố Placetas ở Villa Clara, là con của Aída Bermúdez, một giáo viên, và Miguel Díaz-Canel, một công nhân nhà máy ở Santa Clara. Phía nội ông có nguồn gốc trực tiếp từ Tây Ban Nha (Asturias); người cố của ông là Ramón Díaz-Canel đã đến La Habana từ Castropol, Asturias, trong cuối thế kỷ 19.
Ông tốt nghiệp Đại học Trung ương Las Villas năm 1982 với bằng kỹ sư điện tử và sau đó gia nhập Bộ các Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba. Từ tháng 4 năm 1985, ông giảng dạy tại trường của mình. Năm 1984, ông hoàn thành sứ mệnh quốc tế ở Nicaragua với chức Bí thư thứ nhất Đoàn Thanh niên Cộng sản Cuba tại Villa Clara.
Sự nghiệp chính trị.
Vào năm 1993, Diaz-Canel bắt đầu làm việc trong Đảng Cộng sản Cuba và một năm sau được bầu làm Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Villa Clara. Ông đã tạo được tiếng vang khi còn giữ chức vụ này, với việc đề cao các quyền của người LGBT khi nhiều người trong tỉnh còn có ác cảm với cộng đồng đồng tính. Năm 2003, ông được bầu chức vụ tương tự ở tỉnh Holguín. Cùng năm đó, ông được kết nạp vào Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba.
Díaz-Canel giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đại học vào tháng 5 năm 2009, cho tới ngày 22 tháng 3 năm 2012, khi ông trở thành Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cuba (tức Phó Thủ tướng). Năm 2013 ông còn giữ chức Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Nhà nước Cuba.
Chủ tịch nước.
Với chức vụ Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Nhà nước, Díaz-Canel có quyền lực chỉ sau Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Raúl Castro. Năm 2018, Castro, khi đã 86 tuổi, quyết định sẽ thôi giữ chức Chủ tịch, cho dù ông vẫn tiếp tục là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba và tổng tư lệnh Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba. Vào ngày 18 tháng 4 năm 2018, Díaz-Canel được chọn làm ứng viên duy nhất kế nhiệm Castro làm chủ tịch. Ông được Quốc hội bầu làm chủ tịch ngày 19 tháng 4 và nhậm chức vào cùng ngày. Là một chính khách kỹ trị ít được công chúng biết tới trước khi trở thành chủ tịch, ông được dự đoán sẽ theo đuổi các việc cải cách thận trọng đối với các chính sách kinh tế của người tiền nhiệm, đồng thời bảo toàn cơ cấu xã hội của quốc gia. Ông là chủ tịch đầu tiên sinh ra sau cuộc Cách mạng Cuba năm 1959 và là chủ tịch đầu tiên kể từ năm 1976 không phải là thành viên của gia đình nhà Castro.
Ông đón tiếp Tổng thống Venezuela Nicolás Maduro chỉ hai ngày sau khi nhậm chức. Ông gặp Maduro lại vào tháng 5 năm 2018 tại Caracas, trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên với tư cách là nguyên thủ quốc gia. Trong chuyến thăm nhiều nước đầu tiên sau khi trở thành Chủ tịch, ông đã viếng thăm tất cả các nước đồng minh của Cuba tại châu Á và châu Âu vào tháng 11 năm 2018. Ông đã có các buổi gặp gỡ ngoại giao tại Nga, CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam, và Lào. Ông cũng đã dừng chân tại Vương quốc Anh và Pháp để gặp gỡ các nghị sĩ Anh và các lãnh đạo Pháp. Vào tháng 3 năm 2019, Díaz-Canel và phu nhân đã đón tiếp Thái tử Charles, Thân vương xứ Wales và phu nhân Camilla, Nữ công tước xứ Cornwall ở La Habana; họ là những thành viên hoàng gia Anh đầu tiên đến thăm đảo quốc này.
Tháng 10 năm 2019, Diaz-Canel trở thành Chủ tịch nước Cộng hòa Cuba, một chức vụ được tái tạo vào tháng 2 năm đó sau một cuộc cải tổ hiến pháp đã được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý. Chức vụ này thay thế chức vụ ông đang giữ từ tháng 4 năm trước, tức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, cũng là nguyên thủ quốc gia Cuba. Chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước vẫn tồn tại, nhưng trở nên ít quan trọng hơn và được Esteban Lazo Hernández đảm nhiệm với tư cách là Chủ tịch Quốc hội của Chính quyền Nhân dân. Các cải cách của Diaz-Canel gồm có: giới hạn chức vụ Chủ tịch xuống còn hai nhiệm kỳ 5 năm, cấm phân biệt đối xử dựa vào tình trạng khuyết tật, giới tính, bản dạng giới, chủng tộc, hay thiên hướng tình dục.
Bí thư thứ nhất.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 8 diễn ra ngày 16 đến 19 tháng 4 năm 2021, ông dự kiến sẽ thay thế Raúl Castro trong cương vị Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba. Vào ngày 19 tháng 4 năm 2021, ông chính thức trở thành Bí thư thứ nhất sau khi Raúl Castro từ chức. Ông là người đầu tiên ngoài anh em Castro giữ vị trí này kể từ cuộc Cách mạng Cuba năm 1959. Theo BBC, Díaz-Canel sẽ trung thành với các tư tưởng của hai anh em Castro. Ông sẽ phải đối đầu với một nền kinh tế đã bị giảm sút 11% từ COVID-19 cũng như chịu ảnh hưởng từ cấm vận của Hoa Kỳ.
Đời sống cá nhân.
Diaz-Canel có hai con với người vợ đầu Martha, và ông hiện đang sống với người vợ thứ hai Lis Cuesta. | 1 | null |
Joseph Francis "Joey" Tribbiani, Jr. là nhân vật hư cấu trong loạt phim hài kịch tình huống "Những người bạn" và phần ăn theo "Joey", đóng bởi Matt LeBlanc.
Joey đến từ một gia đình Mỹ gốc Ý gồm có 8 anh chị em. Trong tập "The One Where They All Turn Thirty", Joey cho biết anh có 1/16 dòng máu Bồ Đào Nha trong người. Anh được đặt trên theo cha anh, một thợ lắp đường ống. Joey có bảy người chị em gái: Mary Therese, Mary Angela (người Chandler từng hôn trong một sinh nhật của Joey), Dina, Gina, Tina, Veronica, and Cookie. Joey được sinh ra tại Queens, New York. Ngày còn nhỏ, anh rất hay gặp tai nạn. Anh có một người bạn tưởng tượng làm cao bồi không gian tên là Maurice.
Joey được mô tả là một người bừa bãi và ngốc nghếch, nhưng rất trung thành và bảo vệ các bạn của mình. Là một diễn viên sống chật vật, anh thường xuyên phải đi tìm việc làm. Anh nhận chứng nhận làm mục sư trong tập phim "The One with the Truth About London" và làm cử hành lễ cưới cho đám cưới của Monica và Chandler cùng Phoebe và Mike. Qua tập "The One After 'I Do'" Joey bị lộ cỡ chân của anh là 7. Joey rất yêu quý con chim cánh cụt bằng bông mà anh ôm đi ngủ tên là Hugsy và không muốn chia sẻ nó. Anh không thích chia sẻ đồ ăn và rất dở làm toán (anh ấy phải sử dụng máy tính để tính phép tính 500+500). Về thể thao, Joey thích đội bóng chày New York Yankees, đội bóng rổ Los Angeles Clippers và New York Knicks, đội bóng bầu dục New York Giants và New York Jets, đội khúc côn cầu Detroit Red Wings và New York Rangers. | 1 | null |
Lisa Valerie Kudrow (; sinh ngày 30 tháng 7 năm 1963) là nữ diễn viên, diễn viên hài, nhà sản xuất và biên kịch người Mỹ. Cô trở nên nổi tiếng thế giới từ vai diễn Phoebe Buffay xuyên suốt 10 phần của loạt phim hài tính huống "Những người bạn", nhận được hàng loạt giải thưởng, trong đó có 1 giải Emmy and 2 giải Screen Actors Guild Awards.
Cô trở thành sản xuất, kiêm biên kịch và diễn xuất trong loạt phim ngắn "The Comeback" năm 2005 chiếu trên kênh HBO và tham gia phần 2 vào năm 2014. Cô đóng trong hai mùa "Web Therapy" chiếu trên kênh Showtime. Năm 2012, cô được đề cử giải Emmy cho "Outstanding Special Class - Short-Format Live-Action Entertainment Program". Cô cũng là nhà sản xuất đắc biệt cho chương trình thực tế của đài NBC "Who Do You Think You Are". Cô được đề cử giải Emmy Award với đề mục Outstanding Reality-Program.
Ngoài xuất hiện trên truyền hình, Kudrow cũng tham gia nhiều bộ phim khác bao gồm "Romy and Michele's High School Reunion" (1997), "The Opposite of Sex" (1998), "Analyze This" (1999), "Dr. Dolittle 2" (2001), "Happy Endings" (2005), "P.S. I Love You" (2007), "Bandslam" (2008), "Hotel for Dogs" (2009) và "Easy A" (2010). Trong suốt sự nghiệp của mình, cô nhân 9 đề cử giải Emmy, 12 đề cử Screen Actors Guild Award và một đề cử giải Quả cầu vàng.
Thời thơ ấu.
Lisa Kudrow sinh tại Los Angeles, California, là con gái của Nedra S. ("nhũ danh" Stern, sinh 1934) và Dr. Lee N. Kudrow (sinh 1933), một bác sĩ chuyên trị chứng nhức đầu. Cô có một người chị, Helene Marla (sinh 1955) và một người anh, chuyên gia khoa thần kinh học David B. Kudrow (sinh 1957). Kudrow lớn lên trong một gia đình người Do thái tầng lớp trung lưu và có buổi lễ Bat Mitzvah.
Đời tư.
Ngày 27 tháng 5 năm 1995, Kudrow kết hôn với Michel Stern, một nhà điều hành quảng cáo người Pháp. Họ có một người con trai, Julian Murray Stern, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1998. | 1 | null |
Lễ trao Giải Grammy thường niên lần thứ 42 được tổ chức vào ngày 23 tháng 2 năm 2000 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California, nhằm ghi nhận thành tựu của các nhạc sĩ trong năm 1999. Ban nhạc latin rock Santana đại thắng với 8 giải Grammy, chia sẻ với kỷ lục của Michael Jackson về số giải giành được nhiều nhất trong một đêm. Album "Supernatural" của Santana thắng tổng cộng chín giải. | 1 | null |
Global Warming (tạm dịch: Ấm lên toàn cầu) là album phòng thu thứ bảy của rapper Pitbull. Album được phát hành ngày 19 tháng 11 năm 2012 toàn thế giới. Một đoạn video quảng cáo (teaser) đã được phát hành để quảng bá cho "Global Warming". Đoạn video này được đăng trên kênh Facebook và YouTube của Pitbull ngày 17 tháng 11 năm 2012, trước ngày phát hành của "Global Warming" hai ngày.
Thực hiện.
Vào ngày 7 tháng 10 năm 2011, hãng RCA Records thông báo sẽ sáp nhập các hãng J Records, Artista Records cùng với Jive Records, do đó tất cả các nghệ sĩ từ ba hãng thu này đều phải gia nhập RCA. Vào tháng 4 năm 2012, trên trang mạng chính thức của Pitbull thông báo là Pitbull sẽ phát hành album mới với tiêu đề "Global Warming". Ngoài ra album còn được thông báo sẽ phát hành ngày 19 tháng 11 năm 2012 và đĩa đơn đầu tiên trích từ album, "Back in Time" sẽ được làm nhạc nền cho bộ phim "Men in Black 3". "Back in Time" được phát hành ngày 26 tháng 3 năm 2012 và chứa một đoạn nhạc mẫu của "Love Is Strange" bởi Mickey & Sylvia. Đĩa đơn thứ hai là "Get It Started" do Pitbull thể hiện cùng với đồng nghiệp lâu năm Shakira được phát hành tháng 6 năm đó. Một tour lưu diễn đã được Pitbull thực hiện, bắt đầu từ tháng 8 năm 2012 và gồm các show diễn ở Ulan Bator, Mông Cổ. Vào tháng 10, trang mạng của Pitbull tiếp tục thông báo các nghệ sĩ được hợp tác trong album là rất nhiều, bao gồm Christina Aguilera trong "Feel This Moment", Chris Brown, Jennifer Lopez, The Wanted, Enrique Iglesias và Havana Brown.
Đĩa đơn.
"Global Warming" đã phát hành được bốn đĩa đơn, trong số đó chỉ có đĩa đơn đầu là đĩa đơn độc lập, còn ba đĩa đơn sau đều được hợp tác bởi các nghệ sĩ khác nhau. | 1 | null |
Bá Di (chữ Hán: 伯夷) là tên vị quân chủ đầu tiên của nước Lã trong lịch sử Trung Quốc, theo Sử Ký Tư Mã Thiên - Tề Thái công Vọng thế gia thì ông chính là thủy tổ của Khương Tử Nha.
Sự nghiệp.
Bá Di vốn họ Khương, hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông thị, sống vào thời Ngu Thuấn tương truyền rất tinh thông âm luật, trước đây vua Phục Hy đã chế ra đàn Dao nhưng mới chỉ là gảy ra tiếng ngân nga chứ bài bản thì chưa có quy định rõ ràng. Bá Di đã nghiên cứu chế ra các làn điệu phổ từng bài theo từng hoàn cảnh cho phù hợp, ví như trong cung đình cần uy nghi hùng tráng thì điệu nhạc nghe trang trọng nghiêm túc. Hoặc giả người dân lao động cày cấy thì bài hát du dương trầm bổng, hay đám hiếu thì điệu nhạc buồn thảm thê lương còn đám hỷ thì bài ca ngất ngây vui nhộn sâu lắng. Vua Thuấn biết tiếng mời vào trong triều phong làm quan tứ nhạc quản lý việc dạy đàn trong thiên hạ, Bá Di đã sáng tác cho nhà vua khúc Nam Phong nổi tiếng ca ngợi cảnh thanh bình thịnh trị của đất nước. Khi Hạ Vũ nhận trách nhiệm trị thủy thì Bá Di tình nguyện đi theo trợ lực, đến nơi nước lũ ông sáng tác những bản đàn nghe rất dồn dập khẩn trương làm động lực thúc giục người dân hăng say đắp đê kè đập ngăn dòng nước. Nhờ có sự cổ động của ông mà dân chúng làm việc quên cả mệt nhọc vất vả, nạn hồng thủy bị dẹp yên cũng nhờ một phần đóng góp không nhỏ của Bá Di.
Hậu duệ.
Sau khi Hạ Vũ được đế Thuấn thiện nhượng đã họp chư hầu ở Miêu Sơn luận công ban thưởng, Bá Di được thụ phong ở nước Lã (ngày nay thuộc khu vực Nam Dương tỉnh Hà Nam) nên con cháu lấy luôn tên đất phong làm họ. Nước Lã tồn tại suốt từ thời nhà Hạ qua nhà Thương đến đầu thời nhà Chu thì được phân phong thêm 3 nước nữa là: Thân, Hứa và Tề. Ba nước Lã, Thân, và Hứa đều bị nước Sở tiêu diệt vào thời Xuân Thu, còn nước Tề thì bị đại phu Điền Hòa cướp ngôi vào thời Chiến Quốc. | 1 | null |
Edward Christopher "Ed" Sheeran (sinh ngày 17 tháng 2 năm 1991) hay còn được biết đến với nghệ danh Ed Sheeran là một nam ca sĩ-nhạc sĩ người Anh. Ed được sinh ra tại Hebden Bridge, Yorkshire và lớn lên tại Framlingham, Suffolk.
Đầu năm 2011, anh độc lập cho ra mắt EP thứ tám, "No. 5 Collaborations Project". Nhờ EP này, anh đã nhận được nhiều sự chú ý từ những người nổi tiếng như Elton John và Jamie Foxx, sau đó ký hợp đồng thu âm với hãng Asylum Records. Ed Sheeran đã tạo nên đột phá khi đĩa đơn đầu tiên của anh "The A Team" ra mắt ở vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart của Anh. Nhờ sự thành công trên các bảng xếp hạng của các đĩa đơn "The A Team" và "Lego House", album "+" của Ed Sheeran sáu lần được chứng nhận bạch kim tại Anh. Năm 2012, Ed Sheeran giành giải Nam nghệ sĩ Anh xuất sắc và Nghệ sĩ đột phá tại Brit Awards. Trong khi đó, bài hát "The A Team" của anh cũng thắng Giải thưởng Ivor Novello cho bài hát có lời và nhạc hay nhất.
Trong năm 2012, Ed Sheeran bắt đầu thu hút sự chú ý tại Mỹ. Anh tham gia vào album thứ tư của nữ nghệ sĩ nhạc đồng quê người Mỹ Taylor Swift, "Red", trong bài hát "Everything Has Changed" và sáng tác bài hát cho One Direction. Bài hát "The A Team" được đề cử trong hạng mục Bài hát của Năm tại lễ trao giải Grammy 2013 và song ca cùng Elton John tại đây. Anh dành hầu hết năm 2013 để mở màn cho chuyến lưu diễn The Red Tour tại Bắc Mỹ của Taylor Swift. Mùa thu năm 2013 Ed Sheeran biểu diễn ba đêm cháy vé tại Madison Square Garden ở New York với tư cách nghệ sĩ hát chính (với Taylor Swift làm khách mời trong đêm thứ hai). Vào năm 2014 anh nhận được đề cử cho giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất tại giải Grammy lần thứ 56.
"x", album thứ hai của Ed Sheeran ra mắt trên toàn thế giới vào ngày 23 tháng 6 năm 2014 và đạt vị trí số một trên UK Albums Chart của Anh và "Billboard" 200 của Mỹ. Năm 2015, "x" giành giải Brit Award cho Album Anh của năm, nhận giải Ivor Novello Award cho đề cử Nhạc sĩ của năm và được đề cử cho Album của năm tại lễ trao giải Grammy lần thứ 57. Ed Sheeran biểu diễn ba buổi tại sân vận động Wembley ở Luân Đôn vào từ ngày 10 đến 12 tháng 7 năm 2015, là một phần trong chuyến lưu diễn toàn thế giới để quảng bá cho album "x" và là buổi biểu diễn lớn nhất từ trước tới nay của anh. Đĩa đơn "Thinking Out Loud" nằm trong album "x" đã giúp anh đạt được 2 giải thưởng Grammy vào năm 2016: Bài hát của năm và Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất.
Cuộc đời và sự nghiệp.
1991-2004: Những năm đầu đời.
Ed Sheeran được sinh ra ở Hebden Bridge gần Halifax, Tây Yorkshire, nhưng lại chuyển đến sống tại Framlingham, Suffolk từ khi còn nhỏ. Ed Sheeran có một người anh trai tên là Matthew, nhà soạn nhạc cổ điển và sinh viên âm nhạc đã tốt nghiệp. Bố mẹ của Ed, John và Imogen, được sinh ra tại Luân Đôn. Gia đình bên nội của Ed Sheeran là người Ireland tới từ Maghera, Hạt Londonderry và Gorey, Bắc Wexford. Ông nội của Sheeran là Bill theo đạo Tin Lành còn bà nội của Ed theo đạo Thiên Chúa. Hiện nay họ đã nghỉ hưu và sống tại Gorey, County Wexford.
Bố anh là John Sheeran, một nhà quản lý bảo tàng, đồng thời là một diễn giả nghệ thuật. Mẹ anh là Imogen Lock, một nhà thiết kế trang sức, bà cũng có một cửa hàng trang sức online để bán những đồ trang sức do mình làm ra. Hai vợ chồng Sheeran có văn phòng tư vấn nghệ thuật Sheeran Lock từ năm 1990 đến 2010.
Ed Sheeran hát trong dàn hợp xướng tại nhà thờ từ năm lên 4 và học chơi guitar từ rất nhỏ, và bắt đầu sáng tác khi anh học tại trường cấp II Thomas Mills tại Framlingham. Trong trí nhớ của Ed Sheeran, phong cách âm nhạc của anh chịu ảnh hưởng từ việc nghe nhạc của Bob Dylan, Eric Clapton và Van Morrison trong vô số các chuyến đi tới Luân Đôn với bố mẹ. Ed nói rằng album đầu tiên mà anh được nghe là Irish Heartbeat của Van Morrison. Trong "Zane Lowe show", anh đã nói rằng người đã mang lại cho anh ảnh hưởng lớn nhất tới quyết định chơi nhạc và trở thành ca sĩ là Damien Rice. Anh đã được gặp Damien Rice sau khi xem buổi diễn của Rice tại Ireland lúc 11 tuổi và đã sáng tác bài hát đầu tiên của mình ngay ngày hôm sau. Ngoài Damian Rice, The Beatles, Bob Dylan, Nizlopi và Eminem cũng được anh coi là có ảnh hưởng lớn tới âm nhạc của mình. Anh là nhà bảo trợ cho Youth Music Theatre UK, nơi anh từng tham gia với tư cách là học sinh danh dự. Anh được National Youth Theatre của Luân Đôn nhận khi ở tuổi thiếu niên.
2005-2010: Khởi đầu sự nghiệp.
Ed Sheeran bắt đầu thu âm sản phẩm đầu tay của mình, album "Spinning Man", vào năm 2004. Ở tuổi 14, Ed Sheeran ngày càng trưởng thành hơn với việc sáng tác và thu âm, anh đã thêm vào những bài hát của mình tiếng beatbox và sử dụng loop pedal. Kết quả là "The Orange Room EP "– EP đầu tiên của anh - đã ra đời vào năm 2005. Anh cùng với ca sĩ-nhạc sĩ người Anh Passenger làm một số buổi biểu diễn nhỏ tại Cambridge từ khi anh mới 15 tuổi. Sau đó anh cho ra 2 album, "Ed Sheeran" vào năm 2006 và "Want Some? "năm 2007. Vào năm 2008, khi tròn 16 tuổi, anh chuyển đến Luân Đôn để chơi nhạc nhằm có thêm kinh nghiệm. Khởi đầu bằng những show rất nhỏ, anh vẫn chơi nhạc hằng ngày mặc dù đôi khi chỉ có 5 khán giả đến dự. Cùng năm đó, anh tham giọng cho series "Britannia High" của ITV. Anh cũng là ca sĩ mở màn cho Nizlopi tại Norwich vào tháng 4 năm 2008 sau một khoảng thời gian làm hỗ trợ kĩ thuật guitar cho họ. Ed Sheeran từng học tại Academy of Contemporary Music ở Guildford, Surrey từ năm 18 tuổi với tư cách một người chưa tốt nghiệp.
Năm 2009, Ed Sheeran đã chơi nhạc tại tất cả 312 buổi biểu diễn lớn nhỏ. Anh nói sau khi đọc được cuộc phỏng vấn của James Morrison rằng James đã tham dự 200 show trong vòng một năm, anh đã rất muốn phá vỡ kỉ lục đó. Anh cũng cho ra mắt EP "You Need Me" trong năm 2009, ngay trước khi đi lưu diễn cùng Just Jack. Anh còn hát cùng nữ ca sĩ đến từ Essex Leddra Chapman một vài bài hát, trong đó có bản cover "Fuck You" của Cee Lo Green. Nhạc của anh được đón nhận khá tốt, tiền bán CD anh dùng để chi trả các khoản phí đắt đỏ khi sống tại Luân Đôn, anh thậm chí còn chẳng thuê nổi một căn hộ và phải ngủ nhờ trên chiếc sofa ở nhà bạn bè. Vào tháng 2 năm 2010, Ed đăng tải một video thông qua kênh YouTube của SB.TV. Khi đó rapper Example đã xem, khen ngợi video đó và mời anh đi lưu diễn cùng. Cùng tháng anh đã cho ra mắt EP "Loose Change", trong đó có bài hát "The A Team", bài hát sau này trở thành đĩa đơn đầu tiên trong album "+".
Vào tháng 4 năm 2010, sau khi lưu diễn diễn của Example kết thúc, Ed Sheeran mua vé máy bay đến Los Angeles với đôi bàn tay trắng cùng chiếc guitar của mình. Anh chơi nhạc ở các buổi diễn tài năng tại các câu lạc bộ quanh thành phố. Và rồi vào một đêm tại "The FoxxHole", tài năng của anh đã được diễn viên nổi tiếng đồng thời là chủ của câu lạc bộ Jamie Foxx phát hiện. Jamie Foxx đã nhìn thấy tiềm năng của anh, mời anh ở lại nhà và sử dụng phòng thu tùy thích tại Hollywood cho đến khi Ed Sheeran rời Los Angeles. Trong suốt năm 2010, Ed Sheeran dần dần nổi tiếng nhờ những video của anh trên YouTube, lượng người hâm mộ cũng tăng dần, được tờ The Independent khen ngợi và nhất là được chú ý bởi những người nổi tiếng như cầu thủ bóng đá Rio Ferdinand và ca sĩ huyền thoại Elton John. Ed Sheeran cho ra mắt hai EP tự sản xuất trong năm 2010; "Ed Sheeran: Live at the Bedford" và "Songs I Wrote with Amy" với EP thứ hai là tập hợp những bản tình ca anh viết khi đang ở xứ Wales với người ca sĩ-nhạc sĩ Amy Wadge.
Vào ngày 8 tháng 1 năm 2011, Ed cho ra mắt EP tự sản xuất cuối cùng của mình, "No. 5 Collaborations Project", với sự tham gia của nhiều nghệ sĩ như Wiley, JME, Devlin, Sway và Ghetts. Với EP này, Ed Sheeran nhận được nhiều sự chú ý, EP của anh đã đứng thứ 2 trên iTunes. Mặc dù không hề quảng cáo hay thuộc bất kì nhà phát hành đĩa nào, anh vẫn bán được hơn 7000 bản trong tuần đầu tiên. Ba tháng sau, Ed Sheeran tổ chức một buổi diễn miễn phí cho người hâm mộ tại Barfly, Camden. Hơn 1000 người đã đến tham dự buổi biểu diễn. Cuối cùng anh đã tổ chức 4 buổi diễn khác nhau để chắc chắc rằng tất cả mọi người đều được nghe anh hát, tính cả những buổi diễn ngoài phố sau khi nhà hát đã đóng cửa. Sau đó anh đã ký hợp đồng với Asylum/Atlantic Records, công ty cũng là một chi nhánh của Rocketmusic (công ty quản lý các nghệ sĩ) – được đồng sáng lập bởi Elton John.
2011–2013: + và những thành công quốc tế.
Ngày 26 tháng 4 năm 2011, Ed Sheeran xuất hiện trong chương trình âm nhạc "Later... with Jools Holland", lần đầu tiên anh thể hiện đĩa đơn đầu tay "The A Team". Sáu tuần sau đó, "The A Team" được ra mắt dưới hình thức tải nhạc kỹ thuật số tại Anh. Bài hát đã được chọn làm bài hát chủ đề của +, album đầu tay của anh. "The A Team" đứng ở vị trí thứ 3 trên UK Singles Chart, bán được trên 58.000 bản ngay tuần đầu phát hành. Bài hát còn đứng vị trí đầu tiên trong những bài hát ra mắt bán chạy nhất và nằm trong top 8 bài hát được yêu thích nhất 2011 vơi doanh số là 801.000 bản. "The A Team" còn nằm trong top 10 bài hát tại Úc, Đức, Ireland, Nhật Bản, Luxembourg, New Zealand, Na Uy và Hà Lan. Trong buổi biểu diễn cho BBC Introducing tại Glastonbury Festival 2011, Ed Sheeran cho biết "You Need Me, I Don't Need You" sẽ trở thành đĩa đơn tiếp theo của anh và sẽ được ra mắt ngày 26 tháng 8 năm 2011. Đĩa đơn này đứng cao nhất ở vị trị thứ 4 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart. Ngày 11 tháng 11 năm 2011, "Lego House" được chọn làm đĩa đơn thứ ba và được chơi trên BBC Radio 1 lần đầu vào ngày 8 tháng 9 năm 2011. "Lego House" lọt vào UK Singles Chart và đứng ở vị trí thứ 5 vào 17 tháng 11. Bài hát cũng lọt vào top 10 trên bảng xếp hạng đĩa đơn của Úc, Ireland, Scotland, New Zealand, các bảng xếp hạng Flemish Ultratop 50 và the Wallonian Ultratip. "Drunk" được ra mắt vào ngày 19 tháng 2 năm 2012 và là đĩa đơn thứ tư của Ed Sheeran trong album +. Bài hát trở thành đĩa đơn thứ 4 liên tiếp lọt vào top 10 của Ed Sheeran khi nó đứng cao nhất ở vị trí thứ 9 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart. "Small Bump" là đĩa đơn thứ năm, được ra mắt vào ngày 10 tháng 5 năm 2012. "Give Me Love", đĩa đơn thứ sáu và cũng là đĩa đơn cuối cùng của album "+", được phát hành vào 21 tháng 11 năm 2012.
Album phòng thu đầu tay của Ed Sheeran, +, được ra mắt vào 12 tháng 9 năm 2011. Album đã nhận được nhiều phản hồi với những ý kiến trái chiều. Trên trang Metacritic, album nhận được số điểm trung bình 65/100. "+" ra mắt ở vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng UK Albums Chart, bán được 102.000 bản trong tuần đầu tiên. Album đã đứng ở vị trí thứ 2 trong những album đầu tay bán chạy nhất và đứng thứ 9 trong những album bán chạy nhất năm 2011 ở Anh, với doanh số là 791.000 bản. Album đã được chứng nhận bạch kim sáu lần bởi British Phonographic Industry, đồng nghĩa với doanh số 1.800.000 bản. Album leo lên vị trí thứ nhất một lần nữa vào Ngày 1 tháng 1 năm 2012, sau 15 tuần kể từ lần cuối đứng ở vị trí thứ 1. Tính đến tháng 3 năm 2012, album "+" bán được 1.021.072 bản tại Anh. Album cũng nằm trong top 10 của nhiều bảng xếp hạng lớn như Australian Albums Chart, Flanders Belgian Albums Chart, Dutch Albums Chart, Irish Albums Chart, New Zealand Albums Chart và Swiss Albums Chart.
Bài hát "Moments" trong album phòng thu đầu tay của ban nhạc One Direction được đồng sáng tác bởi Ed Sheeran. Vào ngày 21 tháng 1 năm 2012, Ed Sheeran tham dự BRIT Awards 2012 và nhận được 2 giải thưởng cho Nghệ sĩ nam solo xuất sắc nhất và Nghệ sĩ đột phá của năm. Vào ngày 10 tháng 1 năm 2012, Ed Sheeran cho biết sẽ tham gia cùng nhóm nhạc Snow Patrol tại Mỹ từ cuối tháng 3 đến tháng 5 trong Fallen Empires Tour. Bài hát "Give Me Love" được phát trong tập "Dangerous Liaisons" của loạt phim "The Vampire Diaries". Bài hát cũng được phát trong bộ sitcom Cougar Town (TBS) vào ngày 12 tháng 2 năm 2013. Tại Ivor Novello Awards 2012 vào tháng 5 năm 2012, bài hát "The A Team" của Ed Sheeran đã đánh bại "Rolling in the Deep" của Adele và "Shake It Out" của Florence and the Machine để chiến thắng trong hạng mục Bài hát có nhạc và lời hay nhất. Ed Sheeran biểu diễn "The A Team" tại buổi hòa nhạc Diamond Jubilee of Queen Elizabeth II tại Anh vào ngày 4 tháng 6 năm 2012 và hát lại bài hát "Wish You Were Here" của Pink Floyd tại lễ bế mạc Thế vận hội Mùa hè 2012 vào ngày 12 tháng 8 năm 2012.
Taylor Swift liên hệ với Ed Sheeran sau khi nghe được những bài hát của anh khi cô đang lưu diễn tại Úc vào tháng 3 năm 2012. Sau đó anh trở thành người đồng sáng tác và góp giọng trong bài hát "Everything Has Changed", bài hát nằm trong album phòng thu thứ tư của Swift, "Red". Được phát hành vào tháng 10 năm 2012, "Red" nhanh chóng trở thành album bán chạy nhất trong năm và được đề cử cho giải Grammy ở hạng mục Album của năm. Ed Sheeran còn đóng góp 2 bài hát cho nhóm nhạc One Direction, được sử dụng trong album thứ hai của họ, được phát hành vào tháng 11 năm 2012: "Over Again" và đĩa đơn "Little Things" – đĩa đơn thứ hai đạt vị trí thứ nhất của nhóm nhạc này tại Anh. Album "+" của Ed Sheeran đạt vị trí thứ 5 tại bảng xếp hạng Billboard 200, trong khi đó đĩa đơn "The A Team" đạt vị trí 16 trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Vào cuối năm 2012 và đầu năm 2013, anh tổ chức lưu diễn tại Hoa Kỳ của riêng mình tại các địa điểm từ 6000 đến 9000 chỗ ngồi. "The A Team" nhận được đề cử cho hạng mục Bài hát của Năm tại lễ trao giải âm nhạc Grammy 2013. Elton John, người điều hành công ty quản lý Ed Sheeran, đã thảo luận với ban tổ chức Grammy để cho anh một cơ hội biểu diễn tại lễ trao giải danh giá này, nhưng bị từ chối do ban tổ chức nghĩ rằng một mình anh biểu diễn sẽ không thu hút được sự chú ý của khán giả. Elton John quyết định tham gia biểu diễn bài hát với Ed Sheeran để giải quyết vấn đề này: "Tôi nhận được cuộc gọi của Elton nói ‘tôi không thể giành được xuất diễn solo cho cậu, vậy cậu có phiền nếu diễn cùng tôi không?’".
Từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2013, Ed Sheeran là ca sĩ mở màn tại 64 buổi diễn tại các sân vận động lớn nhỏ khắp Bắc Mỹ tại chuyến lưu diễn The Red Tour của nữ ca sĩ Taylor Swift. Anh có hình xăm "Red" để đánh dấu cơ hội mới của sự nghiệp: "Tôi nghĩ Taylor sẽ mở ra nhiều cơ hội và việc của tôi là làm sao để chắc chắn tận dụng được nó...Nó sẽ là một thử thách thú vị khi quay trở lại với việc biểu diễn trước mặt những người hoàn toàn xa lạ và tôi phải làm cho họ thích âm nhạc của tôi.". Ed Sheeran cũng thu âm đoạn điệp khúc cho bài hát "Old School Love", ca khúc chủ đề trong album thứ năm của Lupe Fiasco mang tên "Tetsuo & Youth". Anh cũng tham gia vào ca khúc "Top Floor (Cabana)" trong album đầu tay của Naughty Boy mang tên "Hotel Cabana."
Ed Sheeran ra mắt đĩa đơn đầu tiên sau hai năm mang tên "I See Fire". Bài hát được phát ở phần giới thiệu cuối của bộ phim "" cũng như có mặt trong album nhạc phim này. Mặc dù sau đó "I See Fire" nằm trong bản đặc biệt của album "x" của Ed Sheeran phát hành tháng 6 năm 2014 tuy nhiên bài hát này sẽ không được dùng để quảng bá album. Ed Sheeran được đề cử giải Nghệ sĩ mới xuất sắc tại Lễ trao giải Grammy lần thứ 56 vào năm 2014.
2014-2016: "x".
Ngày 24 tháng 3 năm 2014, Ed biểu diễn tại buổi hòa nhạc từ thiện Teenage Cancer Trust tại Royal Albert Hall, Luân Đôn - nơi mà anh tuyên bố "Take It Back" sẽ là bài hát xuất hiện trong album thứ hai của anh. Bài hát chủ đạo "Sing" được ra mắt vào ngày 7 tháng 4 năm 2014. Bài hát mang tới giai điệu cũng như ca từ khác hẳn với những bài hát trước đây của ảnh. "Sing" được kì vọng sẽ mang tới sự hứng khởi về sự ra mắt album mới, tuy vậy vì lo ngại sự chia rẽ trong những người hâm mộ, "One", một bản acoustic ballad, được ra mắt vào ngày 16 tháng 4 năm 2014. "Sing" đánh dấu vị trí thứ nhất đầu tiên của anh tại Anh.
Album thứ hai của Ed Sheeran, "x" (dấu nhân), ra mắt vào ngày 23 tháng 6 năm 2014. Album được Ed Sheeran thu tại Los Angeles, California cùng với Rick Rubin, người khuyên Ed Sheeran nên thu thanh tự nhiên khi cảm thấy tâm trạng thoải mái; phần phối nhạc được thực hiện bởi produced by Rick Rubin, Pharrell Williams, Benny Blanco và Jake Gosling. Một số bài hát trong album được đồng sáng tác với Foy Vance. Bài hát "Tenerife Sea" trong album được biểu diễn lần đầu vào tháng 10 năm 2013 tại Madison Square Garden ở New York. Tại lễ trao giải MTV Video Music Awards 2014, "Sing" giành giải thưởng MTV cho Video của nghệ sĩ nam xuất sắc nhất. Vào ngày 2 tháng 9, Ed Sheeran là một trong các nghệ sĩ mở đầu cho trận chung kết giải bóng đá luật Úc năm 2014 tại sân vận động Melbourne Cricket Ground. Ed Sheeran còn tham gia cùng DJ người Hà Lan Martin Garrix trong bài hát nhạc dance điện tử đầu tay của DJ này.
Vào ngày 8 tháng 10 năm 2014, sau đĩa đơn "Don't", Ed Sheeran phát hành video âm nhạc cho đĩa đơn thứ ba của album "x", "Thinking Out Loud", mà trong đó anh khiêu vũ tại phòng nhảy. Video đã thu hút 3 triệu lượt xem chỉ trong một ngày đầu ra mắt trên YouTube. Bài hát trở thành đĩa đơn thứ hai của Ed Sheeran đứng số một trên UK Singles Chart, cùng với đó là thành tích đứng ở vị trí thứ hai 8 tuần liên tiếp trên "Billboard" Hot 100 của Mỹ (chỉ chịu đứng sau ca khúc dẫn đầu "Uptown Funk" của Mark Ronson hợp tác với Bruno Mars). Vào tháng 11 năm 2014 Ed Sheeran thông báo rằng anh sẽ biểu diễn tại sân vận động Wembley của Luân Đôn vào ngày 10 tháng 7 năm 2015, và sẽ là buổi biểu diễn lớn nhất của anh từ trước tới nay. Anh nói rằng: "Tôi không hề giấu giếm tham vọng được được tự mình biểu diễn tại sân Wembley trước đám đông khán giả 80 nghìn người. Tôi hết sức vui mừng được thông báo rằng điều đó sẽ trở thành hiện thực vào mùa hè năm sau. Chắc chắn sẽ rất tuyệt vời, và tôi đang rất nóng lòng." Nhờ lượng đặt chỗ trước lớn nên hai buổi biểu diễn nữa cũng sẽ được tổ chức vào ngày 11 và 12 tháng 7 năm 2015. Vào tháng 12 năm 2014, Sheeran đạt danh hiệu nghệ sĩ được stream nhiều nhất trên thế giới từ Spotify, thu hút trên 860 triệu lượt stream trong năm 2014, còn Eminem và Coldplay lần lượt ở hai vị trí thứ 2 và thứ 3. Album cũng giúp Sheeran có được danh hiệu nghệ sĩ có doanh thu lớn nhất của iTunes tại Vương quốc Anh, cộng hòa Ireland và New Zealand trong năm 2014.
"x" được đề cử là Album của năm tại Lễ trao giải Grammy lần thứ 57. Ed Sheeran thắng giải Nghệ sĩ Solo xuất sắc nhất tại UK và Album của nam tại UK tại lễ trao giải Brits Award 2015. Tại Lễ trao giải Ivor Novello Award vào ngày 21 tháng 4 năm 2015, Ed nhận giải cho đề cử Nhạc sĩ của năm. Vào 21 tháng 6, Ed Sheeran đồng dẫn chương trình Much Music Award 2015 tại Toronto, anh đã thể hiện hai bài hát là "Thinking Out Loud" và "Photograph", anh cũng giành hai giải thưởng là Nghệ sĩ quốc tế xuất sắc và Nghệ sĩ quốc tế nhận được nhiều sự ủng hộ. Vào 27 tháng 6, Ed mở màn cho buổi diễn của The Rolling Stones trong Zip Code Tour tại sân vận động Arrowhead thuộc thành phố Kansas. Từ 10-12 tháng 7 năm 2015, Ed biểu diễn tại các buổi cháy vé tại Sân vận động Wembley thuộc Luân Đôn. Các buổi diễn được công bố từ tháng 11 năm 2014 là một phần của chuyến lưu diễn toàn thế giới của anh. Buổi biểu diễn đã được ghi hình và trình chiếu vào 16 tháng 8 năm 2015 trên kênh NBC với tên gọi "Ed Sheeran – Live at Wembley Stadium" bao gồm cả những thước phim hậu trường.
Ngày 26 tháng 9, Sheeran tham gia Global Citizen Festival 2015 được tổ chức tại Central Park Great Lawn của New York. Sự kiện được tổ chức bởi ca sĩ chính của nhóm nhạc Coldplay, Chris Martin. Buổi diễn nhằm ủng hộ việc chấm dứt nạn nghèo đói trên toàn thế giới. Sheeran là ca sĩ chính của buổi biểu diễn cùng với Beyoncé, Coldplay, và Pearl Jam. Lễ hội được chiếu trên kênh NBC của Mỹ vào 27 tháng 9 và trên BBC của Anh vào 28 tháng 9. Ed Sheeran đồng dẫn chương trình MTV Europe Music Award 2015 vào ngày 25 tháng 10 tại Milano, Ý. Tại đó anh thắng hai giải là Màn trình diễn trực tiếp xuất sắc và Buổi biểu diễn xuất sắc nhất cho buổi biểu diễn tại V Festival 2014 tại nước Anh. Anh cũng chiến thắng giải Màn trình diễn đột phá tại "Billboard" Touring Awards 2015.
Đĩa đơn "Thinking Out Loud" nằm trong album "x" đã giúp anh đạt được 2 giải thưởng Grammy 2016: Bài hát của năm và Màn trình diễn pop cá nhân xuất sắc nhất. Vào tháng 5 năm 2016, x được thông báo là album bán chạy thứ hai trên thế giới vào năm 2015, sau "25" của Adele.
2016–nay: Tạm ngừng hoạt động và "÷".
Vào ngày 13 tháng 12 năm 2016, sau một thời gian dài rời xa các hoạt động liên quan tới âm nhạc và mạng xã hội, Sheeran đăng trên các tài khoản mạng xã hội một bức hình màu xanh da trời, báo hiệu sự quay trở lại với các hoạt động nghệ thuật.
Vào ngày 6 tháng 1 năm 2017, Sheeran phát hành hai đĩa đơn, "Shape of You" và "Castle on the Hill". Sau đó Sheeran cùng Scott Mills có mặt trong chương trình BBC Radio 1 Breakfast Show. Cả hai đĩa đơn đều phá kỷ lục stream ngày đầu trên Spotify với trên 13 triệu lượt nghe trong 24 giờ.
Gingerbread Man Records.
Vào tháng 3 năm 2015, Ed Sheeran tiết lộ rằng anh sẽ có một hãng thu âm của riêng mình, Gingerbread Man Records, theo thỏa thuận cùng với hãng Warner Music Group. Vào tháng 8 cùng năm, hãng thu âm của anh chính thức đi vào hoạt động, cùng với một kênh YouTube để quảng bá. Jamie Lawson, người đầu tiên được mời ký hợp đồng với hãng, gặp anh tại Luân Đôn vài năm trước. Album phòng thu đầu tiên của Lawson, được ra mắt vào ngày 9 tháng 10 năm 2015, đã giành được vị trí đầu bảng tại BXH Album tại Anh Quốc. Tháng 11 năm 2015, Sheeran ký hợp đồng với ca sĩ thứ hai cho hãng đĩa của mình, Foy Vance.
Hoạt động từ thiện.
Ed Sheeran đã thực hiện một buổi biểu diễn ở Bristol và quyên góp được 40.000 bảng Anh cho những người mại dâm đường phố. "Thật tốt khi cho mọi người thấy được những con người này là những con người thật với những cảm xúc thật và họ đáng được nhận được sự giúp đỡ như những người khác... Có rất nhiều tổ chức từ thiện (ở các lĩnh vực khác) nhận được nhiều sự chú ý hơn. Còn những chủ đề như thế này thường bị bỏ qua và những người này xứng đáng nhận sự quan tâm mà những người khác xung quanh thường chẳng dành cho họ" Ed Sheeran nói. Vé của buổi biểu diễn chỉ dành cho những ai tham gia quỹ từ thiện Give it up for One25 campaign bằng cách từ bỏ một điều gì đó trong 125 giờ và gây quỹ 40.000 bảng Anh. Louise Willott, người tổ chức sự kiện tại The Fleece, Bristol nói về Ed Sheeran: "Anh ấy từng tham gia tình nguyện tại mái ấm vô gia cư Crisis ở Luân Đôn và đã gặp Angel - cô gái đã kể cho anh ấy nghe về câu chuyện của mình. Sau đó anh ấy đã đi thực tế tìm hiểu và nó đã tạo cảm hứng để anh ấy viết The A Team". Willott nói thêm: "The Fleece là một địa điểm khá nhỏ, chỉ khoảng 400 chỗ ngồi, điều này làm cho buổi biểu diễn thật thú vị và thân mật. Thật khó để kêu gọi ủng hộ vào thời điểm này cho nên việc quyên góp được 40000 Bảng quả là rất đáng kinh ngạc".
Vào ngày 15 tháng 11 năm 2014, Sheeran tham gia nhóm từ thiện Band Aid 30 cùng với các nghệ sĩ nhạc pop Anh và Ireland khác để thu âm bài hát "Do They Know It's Christmas?" tại Sarm West Studios ở Notting Hill, Luân Đôn, nhằm quyên góp tiền chống dịch bệnh Ebola tại Tây Phi.
Ed Sheeran thường xuyên ủng hộ những bộ quần áo cũ của mình cho các cửa hàng từ thiện quanh vùng Suffolk. Là đại sứ cho Children's Hospice tại East Anglia, anh đã tặng quần áo cho cửa hàng từ thiện St Elizabeth Hospice tại Framlingham, trong đó có 8 túi quần áo vào tháng 2 năm 2014, và toàn bộ trang phục anh mặc tại lễ trao giải Grammy 2015.
Tháng 11 năm 2015, Ed ủng hộ chiến dịch No Cold Homes, thực hiện bởi tổ chức Turn2Us. Ed Sheeran là một trong 30 nghệ sĩ, trong đó có Helen Mirren, Jeremy Irons và Hugh Laurie, ủng hộ quần áo mùa đông cho chiến dịch, nhằm giúp người dân UK gặp khó khăn trong việc giữ ấm qua mùa đông lạnh giá.
Cuộc sống riêng tư.
Vào năm 2012, Ed Sheeran mua một trang trại gần Framlingham, Suffolk. Hiện tại trang trại này đang được cải tạo và nâng cấp và trong tương lai có thể sẽ là nơi ở của gia đình anh.
Ed Sheeran sống qua lại giữa Hendersonville, Tennessee và Los Angeles, California trong suốt thời gian năm 2013. Anh là em họ thứ hai của phát thanh viên người Anh, Gordon Burns.
Ed Sheeran từng là bạn trai của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Scotland, Nina Nesbitt (người đóng trong MV "Drunk") vào năm 2012. Nesbitt là chủ đề của các bài hát "Nina" và "Photograph", trong khi hầu hết các ca khúc trong album "Peroxide" của cô là về Ed Sheeran. Tháng 1 năm 2014, Ed bắt đầu hẹn hò với Athina Andrelos, người làm việc cho đầu bếp người Anh Jamie Oliver. Athina là cảm hứng cho bài hát "Thinking Out Loud". Họ chia tay vào tháng 2 năm 2015. Tháng 9 năm 2015, Sheeran bắt đầu hẹn hò với người bạn học cùng cấp 3, Cherry Seaborn.
Vào tháng 6 năm 2015, "Forbes" thông báo mức thu nhập trong 1 năm qua của anh là 57 triệu đô-la, đứng thứ 27 trong những nghệ sĩ kiếm nhiều tiền nhất thế giới. Ngày 19 tháng 10 năm 2015, anh nhận được bằng khen danh dự từ Đại học Campus Suffolk tại Ipswich vì "những cống hiến đột phá trong âm nhạc". Sheeran nói "Suffolk là quê nhà của tôi. Nhận được giải thưởng này thực sự là một niềm vinh dự."
Lưu diễn.
Hát chính
Mở màn | 1 | null |
Eduardo di Capua (12 tháng 3 năm 1865 – 3 tháng 10 năm 1917) là một ca sĩ và nhà soạn nhạc người Ý.
Tiểu sử.
Ông sinh tại Napoli năm 1865. Cùng với nhà thơ Giovanni Capurro, di Capua đã viết nên tác phẩm "'O Sole Mio" ("Mặt trời của tôi"), được nhiều nhạc sĩ thể hiện cả ở phong cách cổ điển và đại chúng. Ông còn có tác phẩm "Marie, Ah Marie", là một bài hát Napoli khác.
Eduardo di Capua mất năm 1917 cũng tại Napoli. | 1 | null |
Cécile Corbel là một nhạc sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ hạc cầm người Pháp. Âm nhạc của cô mang âm hưởng dân gian Celtic, lấy cảm hứng từ những câu chuyện cổ, với giai điệu du dương như đưa người nghe vào thế giới thần thoại. Cô thực hiện các ca khúc với nhiều ngôn ngữ, gồm tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Bretagne, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Nhật. Cô còn thực hiện nhạc phim cho bộ phim Kari-gurashi no Arrietty của Studio Ghibli; các album và đĩa đơn song hành cùng bộ phim của cô đã gặt hái thành công vang dội ở Nhật Bản, đạt xếp hạng cao trên Japan Hot 100 và một số giải thưởng như Đĩa Vàng; ca khúc chủ đề "Arrietty's Song" đã được cô thực hiện với phiên bản tiếng Nhật, Anh, Pháp, Ý và Đức, và nó cũng được đặt lời tiếng Quảng Đông thực hiện bởi G.E.M.
Năm 2013, Corbel cùng cộng sự lâu năm Simon Caby soạn nhạc phim cho bộ phim "Land of the Bears", công chiếu vào tháng 2 năm 2014. Một chuyến lưu diễn đã được lên kế hoạch, bắt đầu từ 18-10 đến 3-11 tại 16 thành phố của Đức như Berlin, Mainz, Darmstadt... | 1 | null |
Ca khúc nhân vật (tiếng Anh: Character Song), còn được gọi chung chung là Ca khúc hình tượng (tiếng Anh: Image Song), là album hoặc đĩa đơn đồng hành cùng một anime, game, drama hoặc manga, thường được thực hiện (hát hoặc phối nhạc) bởi diễn viên/diễn viên lồng tiếng cho chính ấn bản điện ảnh đó. Nó có thể kèm theo thông tin chưa từng biết về thiết kế tạo hình nhân vật cũng như đôi lời ý kiến của các diễn viên, và góp phần tạo nên sự thành công cho anime hoặc drama. | 1 | null |
Courteney Bass Cox (sinh ngày 15 thang 6 năm 1964) là một diễn viên, nhà sản xuất và đạo diễn người Mỹ. Cô nổi tiếng nhất với vai Monica Geller trong bộ phim hài tình huống "Friends" của đài NBC, Gale Weathers trong seri phim kinh dị "Scream", và vai Jules Cobb trong sitcom "Cougar Town" đài ABC/TBS, vai diễn mang lại đề cử giải thưởng Quả cầu vàng đầu tiên trong sử nghiệp cho cô. Cox còn tham gia diễn xuất trên kênh FX trong seri "Dirt". Cô sở hữu công ty sản xuất riêng, có tên Coquette Productions, hãng được sáng lập bởi cô và người chồng cũ David Arquette. Cox còn đóng vai trò đạo diễn trong phim "Cougar Town" và phim truyền hình "Talhotblond".
Tuổi trẻ.
Courteney Cox lớn lên tại Mountain Brook, Alabama, ngoại ô Birmingham, con gái của một nhà thương nhân tên Richard Lewis Cox (sinh ngày 28 tháng 1, năm 1931 – mất ngày 3 tháng 9, năm 2001) và vợ ông - Courteney (née Bass, later Copeland). Cô có hai người chị gái, Virginia and Dottie, and và một anh trai, Richard, Jr. Cha mẹ cô ly hôn năm 1974 và mẹ cô sau đó kết hôn với một doanh nhân tên Hunter Copeland (chú đồng thời là quản lý và nhà tài trợ của Ian Copeland). Sau khi tốt nghiệp trường trung học Mountain Brook High School, Cox theo học đại học Mount Vernon College tại Washington, D.C., nhưng không hoàn thành khóa học mà lựa chọn theo đuổi sự nghiệp người mẫu và diễn xuất.
Cox mang trong mình dòng máu Anh, Scottland, xứ Welsh, Ai-len và Đức.
Sự nghiệp.
Đầu sự nghiệp.
Cox xuất hiện trong video ca nhạc "Dancing in the Dark" năm 1984 của Bruce Springsteen trong vai một khán giả nữ được đẩy lên sân khấu để nhảy cùng với Springsteen. Sự nghiệp diễn xuất trên truyền hình của cô khởi đầu bởi một số vai diễn như trong một seri tồn tại trong thời gian ngắn "Misfits of Science" (1985), hay vai diễn đình kì trong seri phim "Family Ties" trong thời gian từ 1987-1989 với vai Lauren Miller, bạn gái của Alex P. Keaton (Michael J. Fox). Her early film roles include "Masters of the Universe" (1987) và ' (1988). Cô còn đóng vai phụ, trợ lý đắc lực cho nhân vật của James Belushi, năm 1990 cô đóng bộ phim viễn tưởng - "Mr. Destiny". Năm 1994, ngay trước khi đóng bộ phim hài tình huống, "Friends," Cox cùng với Jim Carrey tham gia bộ phim ' và trong phim "Seinfeld" tập "The Wife" vai bạn gái của Jerry tên là Meryl. Năm 1995, cô tham gia clip "Good Intentions" của Toad the Wet Sprocket. Bài hát cũng đồng thời đước sử dụng làm nhạc phim của "Friends".
"Friends".
Năm 1994, Cox được mời tham gia thử vai Rachel Green trong bộ phim hài mới, "Friends"; thay vào đó cô lại đóng vai Monica Geller. Cùng với các bạn diễn Jennifer Aniston (Rachel Green), Lisa Kudrow (Phoebe Buffay), Matt LeBlanc (Joey Tribbiani), Matthew Perry (Chandler Bing) and David Schwimmer (Ross Geller) Cox tham gia diễn xuất cho vai diễn trở thành vai diễn tiêu biểu nhất của mình, trong bộ phim kéo dài 10 mùa cho đến năm 2004. Theo sách kỉ lục thế giới Guinness Book (2005), Cox (cùng với các bạn diễn nữ) trở thành nữ diễn viễn truyền hình được trả thù lao cao nhất mọi thời đại với 1 triệu đô cho mỗi tập phim trong 2 phần cuối của Friends.
Giữa mùa thứ 5 và 6, Cox kết hôn với David Arquette, và đổi tên thành Courteney Cox Arquette. Trong phần giới thiệu nhân vật cho tập phim "The One After Vegas", đoàn làm phim đã tạo một trò đùa khi ghi thêm "Arquette" sau tên của tất cả diễn viễn và đạo diễn. Lời đề tặng "Dành tặng đôi vợ chồng mới cưới Courteney and David, – áp chỉ việc Monica and Chandler quyết định không cưới lặp đi lặp lại trong tập phim.
Sự nghiệp điện ảnh.
Trong thời gian cô tham gia "Friends", Cox còn xuất hiện trong bộ phim nổi tiếng của Hollywood "Scream" (1996), "Scream 2" (1997), và "Scream 3" (2000), trong vai phóng viên Gale Weathers. Cô gặp người chồng sau này của cô trong khi quay phần đầu của bộ phim, David Arquette, người đóng vai người yêu màn ảnh với cô Dwight "Dewey" Riley. Cả Cox và Arquette tại hợp với nhau trong phần "Scream 4" năm 2011. Bộ phim được công chiếu ở rạp từ ngày 15 tháng 4 năm 2011.
Một số phim khác của cô là "The Runner", "3000 Miles to Graceland" và "The Shrink Is In". Cuối năm 2003, Cox và Arquette sản xuất một mùa cho seri chương trình thực tế "Mix It Up." Chương trình được phát sóng trên truyền hình cáp We nhưng gặp khó khăn do lượng người xem thấp và quyết định không sản xuất mùa thứ hai.
Sự nghiệp sau này.
Sau vai diễn trong "Friends", Cox là sự lựa chọn đầu tiên nhà sản xuất Marc Cherry cho vai diễn Susan Mayer trong "Những bà nội trợ kiểu Mỹ". Tuy nhiên, Cox khi đó đang mang thai nên không thể đảm nhận vai diễn, sau đó vai diễn thuộc về Teri Hatcher. Một vài năm sau, Cox ký hợp đồng với ABC Studios (trước đó có tên Touchstone Television) cho vai nữ chính. Sau "Friends", Cox diễn xuất cho bộ phim độc lập "November" (2005) chỉ đước chiếu giới hạn ở rạp, đồng diẽn cùng Tim Allen bộ phim bị phê bình nặng nề "Zoom"; và khách mới cho bộ phim có kinh phí lớn, là phiên bản làm lại của "The Longest Yard" với vai bạn gái của Adam Sandler. Cô còn tham gia lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình "Barnyard". Có tin đồn phim "Friends" sẽ tái hợp do sự thành công của phiên bản điện ảnh của "Sex and the City: The Movie", nhưng bị bác bỏ bởi Warner Bros. và các diễn viên.
Năm 2007, Cox đóng vai Lucy Spiller, một biên tập viên của một tờ báo nhỏ hay nhạo báng, trong "Dirt", một phim truyền hình của kênh FX. Cox và chồng cô David Arquette là nhà điều hành sản xuất cho seri Theo Cox, seri bị hiểu bỏ vào năm 2008 sau 2 mùa. Tháng 7 năm 2008, tờ "Entertainment Weekly" thông báo Cox ký hợp đồng diễn xuất cho 3 tập seri truyền hình "Scrubs".
Năm 2009, Cox bắt đầu vai diễn trong seri hài "Cougar Town của đài ABC called', cô đóng vai một người mẹ đơn thân 40 tuổi đang săn lùng những trải nghiệm mới. Phần thứ ba của chương trình lên lịch chiếu vào tháng 11 năm 2011 nhưng bị rời sang ngày 14 tháng 2, năm 2012. Trong phần thứ 3 này, Cox đạo diễn 2 trong số 15 tập. Mùa thứ 4 dự định phát vào tháng 1 năm 2013.
Tháng 6 năm 2012, Cox làm khách mời trong bộ phim truyền hình "Talhotblond" của đài Lifetime phát lần đầu vào ngày 23 tháng 6 năm 2012. Bộ phim mô tả một người đàn ông bắt đầu ngoại tình qua mạng và có một cuộc sống bí mật trong khi vợ con anh không hay biết.
Đời sống cá nhân.
Cox có nhiều mối quan hệ với nhiều người trong đấy có một người họ hàng, nhà tài trợ nhạc rock Ian Copeland.
Cox hẹn hò với diễn viên Micheal Keaton trong 6 năm từ 1989 đến 1995. Cox kết hôn với diễn viên David Arquette vào ngày 12 tháng 6 năm 1999. Sau khi con gái của họ, Coco, ra đời vào tháng 6 năm 2004, Cox phải trải qua chứng trầm cảm sau sinh. Jennifer Aniston là mẹ đỡ đầu của Coco. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2010, Cox và Arquette thông báo Ly thân, nhưng họ vẫn duy trì mối quan hệ bạn bè và quan hệ hợp tác công việc. Tháng 6 năm 2012, Arquette điền vào đơn ly hôn sau gần 2 năm ly thân với Cox. | 1 | null |
Khu di tích nhà Trần tại Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013). Hiện nay, Khu di tích này được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị trong Quyết định số 307/QĐ-TTg, ngày 07/02/2013 với phạm vi nghiên cứu 11.095 ha, quy mô quy hoạch tổng thể là 2.206 ha, bao gồm 14 di tích nhà Trần và khu vực bảo vệ, dịch vụ du lịch bao quanh. Đây cũng là một trong những Khu di tích Quốc gia đặc biệt của Việt Nam.
Tổng quan.
Quần thể Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều nằm ở phía Nam dãy núi Đông Triều thuộc địa bàn 4 xã, phường: An Sinh, Bình Khê, Tràng An và Thủy An đã được Nhà nước đặc cách xếp hạng cấp quốc gia từ năm 1962. Quy hoạch khu di tích nhà Trần bao gồm 14 điểm di tích: Đền An Sinh, lăng Tư Phúc, đền Thái, Thái Lăng, Mục Lăng, Ngải Sơn Lăng, Phụ Sơn Lăng, Nguyên Lăng, Đồng Hỷ Lăng, chùa Ngọc Thanh, chùa Ngọa Vân, chùa Tuyết, chùa Quỳnh Lâm và chùa Hồ Thiên. | 1 | null |
Khertek Amyrbitovna Anchimaa-Toka (, 1 tháng 1 năm 1912 – 4 tháng 11 năm 2008) là một chính trị gia Tuva/Liên Xô, trong giai đoạn 1940–44 bà giữ chức chủ tịch Tiểu Khural (quốc hội) của Cộng hòa Nhân dân Tuva, và là nữ nguyên thủ quốc gia được bầu hay bổ nhiệm đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại.
Tiểu sử.
Khertek Anchimaa sinh tại nơi mà nay là Bay-Tayginsky của Tuva trong một gia đình nông dân nghèo. Cha và anh trai của bà đã qua đời vì bệnh đậu mùa khi bà còn là một đứa trẻ. Mặc dù mẹ của bà thất học, song Khertek đã được học đọc và viết bằng tiếng Mông Cổ, vào năm 1930, khi chữ cái Tuva quốc gia được giới thiệu lần đầu, bà là một trong những người đầu tiên học nó. Cùng năm, bà được nhận vào Revsomol, tổ chức thanh niên có liên hệ với Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva (TPRP) (tương tự như Komsomol tại Liên Xô). Bà là một trong những người chịu trách nhiệm xóa mù chữ cho huyện của mình. Năm sau, do các thành công của bản thân, bà đã được kết nạp vào đảng và được cử đến Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông cùng với 70 người khác. Ngoài việc học tập, các sinh viên còn tham gia các thuyết giảng của các chính trị gia Liên Xô nổi tiếng; cuộc gặp gỡ với Nadezhda Krupskaya được cho là đã có ảnh hưởng rất lớn đối với Khertek.
Khertek là một trong số 11 sinh viên người Tuva có thể tốt nghiệp. Khi trở về Tuva vào năm 1935, bà được giao phụ trách ban tuyên truyền của Revsomol; đến năm 1938 bà trở thành giám đốc của Zhenotdel Tuva (tương tự như Zhenotdel của Liên Xô). Năm 1940, bà đạt được đỉnh cao trong sự nghiệp chính trị của mình khi được giữ vị trí Chủ tịch Tiểu Khural (trở thành nữ quan chức có cấp bậc cao nhất vào thời điểm đó, vượt qua thành tích trước đó của Aleksandra Mikhailovna Kollontai (là nữ bộ trưởng đầu tiên); những người phụ nữ có thể vượt qua thành tích của Anchimaa là Sühbaataryn Yanjmaa và Sirimavo Bandaranaike). Cùng năm, bà kết hôn với Tổng bí thư Đảng là Salchak Toka (tuy nhiên, bà vẫn giữ họ "Anchimaa" cho đến khi Toka qua đời). Ở vị trí này, bà là người đồng cấp với Mikhail Kalinin của Liên Xô. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bà đã làm nhiều thứ để huy động nguồn lực của Cộng hòa nhằm giúp Liên Xô đánh Đức Quốc xã. Khertek Anchimaa cũng đã góp phần vào việc đưa Tuva vào thành phần Liên Xô năm 1944. Sau đó, bà giữ chức phó chủ tịch của Ban chấp hành Khu vực, và sau đó là phó Chủ tịch của Hội đồng Bộ trưởng Tuva, chuyên trách về phúc lợi xã hội, văn hóa, thể thao và tuyên truyền. Bà nghỉ hưu năm 1972, mang họ "Anchimaa-Toka" sau khi chồng bà qua đời vào năm 1973 và sống bình lặng kể từ đó. Anchimaa-Toka qua đời vào ngày 4 tháng 11 năm 2008 tại Tuva, thọ 96 tuổi.
Khertek Anchimaa-Toka là một nhân vật gây tranh cãi ở một mức độ nào đó tại Tuva ngày nay, do bà được cho là một thành viên của troika (tương ứng với troika NKVD), thể chế đã kết án tử hình đối với thủ tướng Churmit Dazhy và các quan chức cấp cao khác với cao buộc "gián điệp Nhật Bản" trong thập niên 1930. Tuy nhiên, bà chưa từng bị truy tố hay là đối tượng điều tra. | 1 | null |
Sükhbaataryn Yanjmaa (, nhũ danh Nemendeyen Yanjmaa, ; 15 tháng 2 năm 1893–1963) là góa phụ của lãnh tụ cách mạng Mông Cổ Damdin Sükhbaatar, bà là Chủ tịch Đoàn chủ tịch Đại Khural Quốc gia từ tháng 9 năm 1953 đến tháng 7 năm 1954, trở thành người phụ nữ thứ hai trong lịch sử được bầu hay bổ nhiệm làm nguyên thủ quốc gia.
Yanjmaa sinh ngày 15 tháng 2 năm 1893 trong một gia đình mục dân nghèo gần Ulaanbaatar ngày nay. Bà hoạt động trong nhóm cách mạng của Sükhbaatar với vai trò người đưa tin vào năm 1919. Khi phu quân của bà đến Liên Xô vào năm 1920 để giao thiệp với những nhà cách mạng Bolshevik, Yanjmaa đã ở lại Ulaanbaatar cùng con trai, trốn tránh lùng sục của các quan chức Trung Quốc. Năm 1921, Khorloogiin Choibalsan đã giúp bà và con trai chạy trốn đến Kyakhta để đoàn tụ với Sükhbaatar.
Sau khi phu quân của bà lãnh đạo quân du kích Mông Cổ giành chiến thắng trong Cách mạng Ngoại Mông 1921, Yanjmaa trở thành một thành viên của Liên hiệp Thanh niên Cách mạng Mông Cổ. Khi Sükhbaatar qua đời năm 1923, bà nhận "Sükhbaataryn" để thay thế phụ danh "Nemedeyen" và gia nhập Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ vào năm 1924. Với vai trò là một thành viên của Ủy ban Trung ương Đảng và Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương, bà đã đại diện cho Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ trong Hội nghị Quốc tế lần thứ ba của Phụ nữ Cộng sản (nơi bà gặp Clara Zetkin và Nadezhda Krupskaya) và Đại hội Thế giới lần thứ năm của Quốc tế thứ ba ở Moskva, cả hai đều diễn ra vào năm 1924. Bà đã tham gia vào việc hình thành công đoàn đầu tiên của Mông Cổ vào năm 1925. Từ năm 1927 đến năm 1930, bà theo học tại Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông ở Moskva. Năm 1933, Yanjmaa đứng đầu phân nhóm phụ nữ mới được thành lập của Ủy ban Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ và với vị trí này, bà tập trung vào việc phát triển giáo dục của phụ nữ.
Từ năm 1940 cho đến năm 1954, Yanjmaa là một ủy viên trong Bộ chính trị của Đảng và là Bí thư của Ủy ban Trung ương Đảng từ năm 1941 đến năm 1947. Bà là một thành viên của Đoàn chủ tịch Tiểu Khural (ủy ban hành pháp của Đại Khural Quốc gia, hay nghị viện) từ năm 1940 đến 1950. Trong Thế chiến II Yanjmaa đã giúp gây quỹ để hỗ trợ Liên Xô, vì thế bà đã được Liên Xô trao Huân chương Cờ đỏ Lao động vào năm 1946. Năm 1945, bà được bầu làm một thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế
Yanjmaa là một thành viên của Đại Khural Nhân dân từ năm 1950 đến 1962. Sau cái chết của Gonchigiin Bumtsend, bà trở thành quyèn Chủ tịch Mông Cổ trong giai đoạn chuyển giao, tại chức từ ngày 23 tháng 9 năm 1953 đến ngày 8 tháng 7 năm 1954. Điều này khiến bà trở thành người phụ nữ thứ hai nắm giữ vai trò nguyên thủ quốc gia chính thức của một nước cộng hòa, sau Khertek Anchimaa-Toka tại Cộng hòa Nhân dân Tuva. | 1 | null |
Lập dị là thuật ngữ dùng để đề cập đến những hành vi bất thường mang tính cá thể, lẻ tẻ của một số cá nhân trong xã hội, nó chỉ về một phần tính cách, phong cách khác thường, sở thích dị biệt, quá độc đáo và tương phản với chuẩn bình thường của xã hội. Những người có hành vi này thường bị gây chú ý và được coi là những kẻ lập dị hoặc những người quái gở, kỳ quái. Có ý kiến cho rằng lập dị thường gắn liền với thiên tài vì sự phá cách và sáng tạo, thoát ra khỏi chuẩn mực phổ biến thông thường. Một kẻ lập dị nổi tiếng là Albert Einstein, ngoài ra còn có Nikola Tesla, Henry Cavendish, Isaac Newton.
Từ nguyên.
Trong tiếng Anh, lập dị là từ "Eccentricity" nó được phỏng từ từ "Latineccentricus" thời Trung cổ và sâu xa thì có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là: "ekkentros", "thoát ra khỏi trung tâm" (từ ek có nghĩa "ra khỏi" + kentron có nghĩa "trung tâm"), hay thoát khỏi sự kềm kẹp. Thuật ngữ Lập dị đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh năm 1551 như là một thuật ngữ thiên văn học có nghĩa là "một vòng tròn. Sau này, thuật ngữ lập dị bắt đầu được sử dụng để mô tả hành vi khác thường hoặc đơn lẻ.
Mô tả.
Một số nghiên cứu cho rằng một người được coi là lập di gồm các dấu hiệu sau đây: | 1 | null |
Công viên tỉnh Ischigualasto () còn được gọi là Valle de la Luna ("Thung lũng Mặt Trăng") là một công viên tự nhiên nằm ở phía đông bắc của tỉnh San Juan, tây bắc Argentina, giới hạn phía bắc của nó tiếp giáp với Vườn quốc gia Talampaya ở La Rioja. Cả hai khu vực thuộc về cùng một chu kỳ hình thành địa chất, hình thành Ischigualasto (đôi khi còn được gọi là "hình thành Ischigualasto-Talampaya"). Được thành lập vào ngày 3 tháng 11 năm 1971, công viên có diện tích
Mô tả.
Công viên tự nhiên này có diện tích 603,7 km2 (233 sq mi), hầu hết thuộc phạm vi của cục Fértil Valle, với một phần nhỏ trong bộ Jachal. Ischigualasto nằm ở độ cao khoảng 1.300 m (4265 ft) so với mực nước biển. Công viên là một phần biên giới phía tây của Pampean Hills, với thảm thực vật sa mạc điển hình (cây bụi, xương rồng và một số thực vật sa mạc khác) chiếm từ 10 đến 20% diện tích. Khí hậu rất khô, với lượng mưa chủ yếu là vào mùa hè, và nhiệt độ cực kỳ khắc nghiệt (tối thiểu -10 °C, tối đa 45 °C). Ở phía nam liên tục có một cơn gió thổi với tốc độ 20–40 km/h sau buổi trưa tới tối, đôi khi kèm theo cơn gió Zonda cực kỳ mạnh mẽ thổi từ phía dãy Aldes.
Công viên có phong cảnh ấn tượng, cùng vẻ đẹp hoang sơ được ví như cảnh quan trên Mặt Trăng bởi những lớp đất sét, tro và khoáng lắng đọng khiến nó nhìn xa xăm như phong cảnh của Mặt Trăng. Nơi đây từng là vùng đồng bằng màu mỡ được bồi đắp bởi con sông Ischigualasto có lịch sử lên tới 180 triệu năm nhưng giờ nó trở thành một thung lũng đá với rất nhiều hình thù khác nhau.
Cấu trúc đá bất thường ở đây có màu xám hoặc xanh được tạo ra bởi tác động của những cơn gió liên tục thổi trong suốt hàng triệu năm qua, khắc lên các hình thù kỳ quái trên đá như hình cây nấm, con vẹt, đèn thần Aladin hay sân bóng với hàng ngàn những "quả bóng" đầy hình thù khác nhau.
Khảo cổ.
Được mệnh danh là "thung lũng Mặt Trăng", công viên nổi tiếng là một trong những "bảo tàng" cổ sinh vật học xuất hiện từ kỷ Trias muộn (kỷ đầu tiên của Đại trung sinh cách đây 231,4 - 225,9 triệu năm) lớn nhất tại Argentina cũng như trên thế giới. Nơi đây lưu giữ hóa thạch về xương của các loài thực vật hóa đá ("Protojuniperoxylon ischigualastianus", dương xỉ hóa đá, mộc tặc) động vật, bò sát, khủng long cổ nhất từng được biết đến trên thế giới như "Terapsids", "Eodromaeus", "Eoraptor lunensis", "Herrerasaurus"... Đặc biệt, công viên còn có nhiều hóa thạch của các loài động vật có vú và tê giác cổ như "Cynodont","Rhynchosaur" chiếm phần lớn cho thấy khủng long không hẳn là loài động vật lớn nhất và có số lượng nhiều nhất tại đây. Theo nhiều nhà khoa học, nguyên nhân cái chết của nhiều loài khủng long và động vật ở đây là do một trận mưa lớn kéo dài làm ngập thung lũng, sau đấy rút đi để lại một đồng bằng bùn rộng lớn và các loài động vật đã mắc kẹt ở đó, vì thế, số lượng các bộ xương hóa thạch trong thung lũng là rất lớn và khá nguyên vẹn cho tới tận ngày nay. Ước tính nơi đây có khoảng 10.000 bộ xương hóa thạch. | 1 | null |
Vườn quốc gia Talampaya là một vườn quốc gia nằm ở tây nam tỉnh La Rioja, Argentina. Đây là khu dự trữ sinh quyển tỉnh vào năm 1975, vườn quốc gia vào năm 1997 và là di sản thế giới của UNESCO vào năm 2000.
Vườn quốc gia nằm ở độ cao 1.500 m (4.921 ft) so với mực nước biển và có diện tích 2.150 km² (830 dặm vuông). Mục đích thành lập vườn là để bảo vệ các địa điểm khảo cổ học và cổ sinh vật học quan trọng được tìm thấy. Vườn quốc gia có cảnh quan đẹp tuyệt vời cùng hệ thực vật và động vật điển hình của quần xã sinh vật núi.
Vườn quốc gia này là một bồn địa giữa hai dãy núi Los Cerro Colorados về phía tây và Sierra de Sañagasta về phía đông. Cảnh quan là kết quả của sự xói mòn bởi nước và gió của khí hậu sa mạc, cùng với đó là sự chênh lệch nhiệt độ rất lớn trong ngày - nhiệt độ cao vào ban ngày và thấp vào ban đêm, với những cơn mưa xối xả vào mùa hè và gió mạnh trong mùa xuân.
Giá trị của vườn:
Năm 2000, cùng với Ischigualasto, vườn quốc gia Talampaya được ghi vào danh sách di sản thế giới của UNESCO tại kì họp lần thứ 24. | 1 | null |
Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh - HUTECH là một đại học tư thục. Trường chính thức chuyển từ loại hình dân lập sang tư thục theo quyết định số 702/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ kể từ ngày 19/05/2010.
Hiện tại, hệ thống giáo dục HUTECH (HUTECH Education) bao gồm 2 trường đại học thành viên là Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (HUTECH) và Trường Đại học Kinh tế - Tài chính (UEF), bên cạnh đó, còn có Trường liên cấp song ngữ Hoàng Gia - Royal Bilingual International School - Royal School.
Lịch sử hình thành và phát triển.
Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập ngày 26/4/1995 theo quyết định số 235/TTg của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động theo quyết định số 2128/GD-ĐT ngày 24/06/1995 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trường chính thức chuyển từ loại hình dân lập sang tư thục theo quyết định số 702/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ kể từ ngày 19/05/2010.
Đại học HUTECH sở hữu 3 khu học xá tại khu vực trung tâm TP. Hồ Chí Minh với tổng diện tích trên 100.000 m². HUTECH đã đưa vào sử dụng Trung tâm Đào tạo nhân lực chất lượng cao HUTECH và Viện Công nghệ cao HUTECH vào năm 2016.
Chất lượng đào tạo.
Đội ngũ giảng viên.
Tính đến tháng 1 năm 2015, trường có 723 giảng viên. Trong đó có 9 Giáo sư, 21 Phó giáo sư, 95 Tiến sĩ, 416 Thạc sĩ và 182 giảng viên có trình độ Đại học.
Năm học 2017 - 2018, trường có 1109 giảng viên. Trong đó có 9 Giáo sư, 32 Phó giáo sư, 181 Tiến sĩ, 707 Thạc sĩ và 191 giảng viên có trình độ Đại học.
Năm học 2022 - 2023, trường có 1875 giảng viên cơ hữu gồm 15 Giáo sư, 45 Phó Giáo sư, 249 Tiến sĩ khoa học - Tiến sĩ, 1226 Thạc sĩ.
Cơ sở vật chất.
Năm học 2015 - 2016:
Năm học 2017 - 2018:
Các viện đào tạo trực thuộc trường.
Viện Đào tạo Quốc tế HUTECH.
Giới thiệu viện.
Viện Đào tạo Quốc tế HUTECH điều hành các chương trình đào tạo Quốc tế, đồng thời chủ trì các hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ với các công ty, viện trường trên thế giới. Hiện tại, HUTECH có quan hệ hợp tác đào tạo với Đại học mở Malaysia, Đại học Lincoln - Hoa Kỳ, Đại học Seokyeong - Hàn Quốc, Đại học VIA - Đan Mạch, Cao đẳng Marie Victorin - Canada. Các chương trình hợp tác đào tạo thực hiện từ bậc Cao đẳng đến thạc sĩ.
Viện Công nghệ Việt - Nhật (VJIT).
Viện Công nghệ Việt – Nhật (VJIT) là chương trình liên kết với các đại học hàng đầu của Nhật Bản, hiện đang triển khai đào tạo 20 chuyên ngành đại học chuẩn Nhật Bản. | 1 | null |
Quebrada de Humahuaca là một vùng thung lũng hẹp và dài khoảng 155 km (96 dặm), nằm ở tỉnh Jujuy ở phía tây bắc Argentina, cách 1.649 km (1025 dặm) phía bắc Buenos Aires (ở 23°11'59" vĩ nam 65°20'56" kinh tây). Khu vực giáp với vùng Altiplano ở phía tây và phía bắc, những ngọn đồi cận Andes ở phía đông, và các "thung lũng ấm" (Valles Templados) ở phía nam.
Quebrada (nghĩa đen là "bị gãy") dịch ra là thung lũng sâu hay khe núi. Nó được đặt tên theo Humahuaca, một thành phố nhỏ có 11.000 cư dân. Sông Grande (Río Grande) là sông chính trong khu vực, khô vào mùa đông, mở rộng dòng chảy trong mùa hè.
Khu vực là một ngã tư thông tin liên lạc, kinh tế, xã hội và văn hóa. Đây là khu vực sinh sống có niên đại 10.000 năm, kể từ khi có những người săn bắn hái lượm đầu tiên trong thời tiền sử. Nơi đây từng là nơi qua lại của con đường bộ hành dưới thời đế chế Inca vào thế kỷ 15, sau đó đây là khu vực kết nối quan trọng giữa phó vương quốc Río de la Plata và phó vương quốc Peru, cũng như các giai đoạn cho nhiều trận đánh của cuộc chiến tranh giành độc lập dưới thời Tây Ban Nha.
Quebrada de Humahuaca đã được UNESCO công nhận di sản thế giới vào ngày 2 tháng 7 năm 2003. | 1 | null |
Đồng Hoa (; sinh 18 tháng 10 năm 1980), người Trung Quốc, là tác giả tiểu thuyết lãng mạn, cô còn sử dụng bút danh Trương Tiểu Tam (张小三). Tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh. Năm 2005, để mở rộng sang Hoa Kỳ, cô cho đăng tải tiểu thuyết Bộ bộ kinh tâm lên mạng, năm 2006 thì xuất bản chính thức.
Cùng với Đằng Bình, Phỉ Ngã Tư Tồn và Mị Ngữ Giả, Đồng Hoa được độc giả bình chọn là một trong Tứ Tiểu Thiên Hậu của văn học ngôn tình Trung Quốc, với lời khen tặng: "ngòi bút nhẹ nhàng từ từ đi đâm sâu xuống khiến cõi lòng người ta đau đớn, tình yêu của cô luôn bùng cháy."
Năm 2011, Đồng Hoa đứng thứ 14 trong danh sách các nhà văn có thu nhập cao nhất Trung Quốc, với thu nhập khoảng 3 triệu nhân dân tệ/ năm. Cô chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhà văn Lev Tolstoy.
Vốn không phải học chuyên nghiệp về văn học mà tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh khoa Quản trị kinh doanh, sau lại làm phân tích tài chính và hiện đang học Thạc sĩ về kinh tế - tài chính ở Mĩ, nhưng Đồng Hoa lại được biết đến như một trong những nữ tác giả nổi tiếng của Trung Quốc, nhất là mảng văn học mạng.
Văn của Đồng Hoa được xưng là ‘hành văn bình thản nhập bút trục tầng xâm nhập trạc nhân đau lòng’, không phải loại hoa lệ sáo rỗng, mà trong cái ‘mĩ’ có chút chân chất bình dị, từng bước quen thuộc, thấm vào hồn người. | 1 | null |
Trong lý thuyết số học, hai số nguyên tố p và q được gọi là cặp số nguyên tố sinh đôi nếu p - q = 2. Hai số nguyên tố sinh đôi là một cặp số nguyên tố chỉ cách nhau bởi đúng một số khác trên trục số tự nhiên. Ví dụ: Các cặp số nguyên tố sau là cặp số nguyên tố sinh đôi:(3, 5), (5, 7), (11,13), (17,19)...
Trong trường hợp tổng quát, với số nguyên k cho trước, cặp số nguyên tố p và q gọi là sinh đôi nếu p - q = k. Ví dụ với k = 4 thì (3,7) là 1 cặp số nguyên tố sinh đôi tổng quát.
Tồn tại giả thuyết các cặp số nguyên tố sinh đôi là nhiều vô hạn. Hiện nay nó vẫn là một bài toán mở trong toán học. Dễ dàng thấy rằng với số k cho trước, việc xác định số lượng cặp nguyên tố sinh đôi trong tập số tự nhiên là bài toán phức tạp không kém việc xác định số lượng cặp sinh đôi theo định nghĩa thông thường.
Cặp số nguyên tố sinh đôi lớn hơn 5 bất kì có dạng (6k-1; 6k+1) với k là số nguyên dương. Chứng minh:
Gọi số nguyên tố đó là p; q
Theo bài ra ta có: p = q + 2 (p; q là số nguyên tố; p > 7; q > 5)
Xét p chia cho 6 ta có:
Nếu p chia hết cho 6 suy ra p không là số nguyên tố (Mâu thuẫn)
Nếu p chia 6 dư 2 hoặc dư 4 ta có p chia hết cho 2 mà p > 2 do đó p không là số nguyên tố (Mâu thuẫn)
Nếu p chia 6 dư 3 ta có p chia hết cho 3 mà p là sô nguyên tố suy ra p = 3 (loại vì p > 7)
Nếu p chia 6 dư 5 ta có q + 2 chia 6 dư 5 suy ra q chia 6 dư 3 suy ra q chia hết cho 3 mà q là số nguyên số suy ra q = 3 (loại vì q > 5)
Do đó p chia 6 dư 1 ta đặt p = 6k + 1 với k là số nguyên dương suy ra q = 6k - 1 ta có (p; q) = (6k + 1; 6k - 1)
Lịch sử hình thành.
Tuy rất nhiều nhà toán học cho rằng giả thuyết này là đúng. Dù các số nguyên tố hiếm dần khi con số lớn lên, kinh nghiệm và trực giác của các nhà lý thuyết về số học cho thấy rằng các cặp số nguyên tố sinh đôi vẫn sẽ xuất hiện. Tuy nhiên, giả thuyết này chưa thực sự được chứng minh hay bác bỏ.
Vào mùa xuân năm 2013, nhà toán học Yitang Zhang của Đại học New Hampshire đã phát minh ra một kỹ thuật mới chứng minh được rằng có vô số cặp số nguyên tố mà ở giữa chúng không có nhiều hơn 70 triệu số khác.
Tuy đây vẫn là một con số khổng lồ, nhưng là lần đầu tiên một giới hạn hữu hạn về khoảng cách giữa các số nguyên tố từng được phát hiện, có thể coi là một bước đột phá trong quá trình chứng minh giả thuyết.
Sau đó tới mùa thu 2013, một nhóm các nhà toán học đã bổ sung thêm vào công trình của Zhang và đưa ra được các khoảng cách ngày một ngắn lại. Cuối cùng, họ chứng minh được rằng có vô số cặp số nguyên tố nhiều nhất chỉ có 246 số khác xen giữa. | 1 | null |
Trận Reichenberg là một hoạt động quân sự nhỏ trong chiến dịch năm 1757 của cuộc Chiến tranh Bảy năm, đã diễn ra vào ngày 21 tháng 4 năm 1757, tại Reichenberg – thành phố đầu tiên của xứ Böhmen thuộc Vương triều Áo, tọa lạc trên sông Neisse. Cuộc giao chiến đã kéo dài trong vòng 11 tiếng đồng hồ, trong đó Quân đoàn thứ ba thuộc quân đội Phổ dưới quyền chỉ huy của Thống chế August Wilhelm, Công tước xứ Brunswick-Bevern đã tấn công vào cánh trái của Quân đoàn thứ ba thuộc quân đội Áo Habsburg dưới quyền chỉ huy của Bá tước Königsegg, và đánh bật quân đội Áo ra khỏi vị trí phòng ngự giữa các con suối và đồi rừng của họ. Trận đánh tại Reichenberg đã gây cho 1.000 binh sĩ Áo bỏ mạng và tàn phế, và tổng thiệt hại của quân Áo lớn hơn đáng kể so với quân Phổ, bất chấp sự thuận lợi của vị trí phòng thủ của người Áo. Chiến thắng ở Reichenberg được xem là một minh chứng cho tài nghệ và lòng dũng cảm của Công tước xứ Bevern – người đã thể hiện khả năng của mình trong trận Lobositz vào năm trước (1756), trong khi các sĩ quan và binh lính Phổ trong trận chiến này cũng được nhìn nhận tích cực. Đồng thời, trận Reichenberg cũng đe dọa đến đường tiếp tế của quân Áo.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 1757, vua Phổ Friedrich Đại đế đã bất ngờ phát động cuộc tấn công xứ Böhmen, để kết thúc chiến tranh bằng một chiến dịch duy nhất, hoặc nếu không thì ông chỉ phải đánh nhau với nước Áo của Nữ hoàng Maria Theresia chứ không phải là một liên minh giữa Áo, Pháp, Nga và Thụy Điển. Quân đội Phổ đã triển khai 4 quân đoàn, trong đó Quân đoàn thứ hai do Friedrich Đại đế trực tiếp điều khiển gần Dresden và Quân đoàn thứ ba do Bevern chỉ huy tại Zittau ở Lusatia, đối chọi với 4 quân đoàn của Áo, trong đó Quân đoàn thứ ba do Königsegg chỉ huy ở Reichenberg. Quân đoàn thứ tư của Phổ, được đặt dưới quyền của Thống chế Kurt Christoph Graf von Schwerin ở Schlesien, đã vượt sông Riesengebirge để khởi đầu cuộc tiến công của người Phổ, trong khi Bevern xuất quân vào ngày 20 tháng 4. Rời khỏi Zittau, các lực lượng của Phổ đã giành được những thắng lợi ban đầu, và vào ngày 21 tháng 4, người Phổ với hai đội hình hàng dọc đã tiến qua Habendorf về phía quân Áo gần Reichenberg. Sau khi thiết lập chiến tuyến, lực lượng kỵ binh Phổ đã tiến về hướng kỵ binh Áo. Cả hai cánh quân của Áo bao gồm bộ binh đều phòng ngự trong các công sự và đống cây đổ. Quân Phổ lập tức nã pháo vào kỵ binh Áo, nhưng kỵ binh Áo với địa thế thuận lợi cho mình đã can đảm đón nhận làn đạn của đối phương. Song, Bevern đã ra lệnh cho 15 đội long kỵ binh Phổ tấn công kỵ binh Áo, và đồng thời ngôi làng ở bên trái quân Áo bị các tiểu đoàn của Kablden và Möllendorf công kích, với sự yểm trợ của Trung đoàn Hoàng tử Heinrich. Lính phóng lựu Phổ tiến công rất dữ dội, quét sạch quân Áo ra khỏi đống cây đổ và các công sự của họ.
Trong khi đó, lính long kỵ binh Phổ – vốn đã được bảo vệ từ hai bên sườn nhờ cuộc tấn công của quân bộ binh Phổ – đã đánh tan nát kỵ binh Áo. Nhưng khi truy kích, sườn phải của kỵ binh Phổ hứng chịu đạn pháo từ quân bộ binh Áo vốn đã bị cuộc tấn công của bộ binh Phổ đánh chạy về đống chiến ngại vật thứ hai, gây thiệt hại rất lớn cho long kỵ binh Phổ. Đúng lúc này, khinh kỵ binh Phổ bất ngờ nhập trận và tấn công sườn của quân Áo. Lợi dụng thời cơ, lực lượng long kỵ binh Phổ một lần nữa tấn công, và đánh cho kỵ binh Áo thất bại hoàn toàn. Với thắng lợi của các lực lượng bộ binh và kỵ binh Phổ, quân Áo đã bị bọc sườn. Nhận thấy nguy cơ sau khi kỵ binh Áo bị đập tan, viên chỉ huy của quân Áo cuối cùng đã quyết định triệt thoái ra khỏi các vị trí của mình. Toàn bộ quân lực Áo trở nên hỗn loạn, và bỏ chạy tán loạn (trừ một đội quân không tham chiến trong trận đánh này). Đây có thể được xem là một sự khởi đầu tốt đẹp cho chiến dịch, và Königsegg đã rút về Liebenau để tăng cường phòng vệ nơi này. Sau này, bước tiến của quân Phổ dưới quyền Schwerin đã đe dọa đến hậu quân của viên tướng Áo nói trên, và buộc ông phải rút quân qua sông Elbe về Praha. Vào ngày 28 tháng 4, Bevern và Schwerin đã hội quân tại Münchengrätz. Các lực lượng của Vương công Moritz xứ Anhalt-Dessau và bản thân vua Friedrich cũng tiến quân, và vào ngày 6 tháng 5, quân đội Phổ đã hội đủ ở phía trước cổng thành Praha. Với cái giá rất đắt, Friedrich đã đánh thắng quân Áo trong trận chiến Praha, song vào ngày 18 tháng 6, ông bị đánh cho đại bại tại trận Kolín. | 1 | null |
Chandler Muriel Bing là nhân vật hư cấu trong bộ phim hài kịch tình huống "Friends" của đàiNBC, đóng bởi Matthew Perry.
Lai lịch.
Chandler Muriel Bing sinh ngày mùng 8 tháng 4 năm 1968, có mẹ là một tác giả tiểu thuyết khêu gợi và cha là một vũ công chuyển giới tại Las Vegas gốc Scotland. Anh xuất thân từ một gia đình giàu có, bởi anh có nhắc đến việc gia đình có thuê người hầu như người lau dọn bể bơi và quản gia (người đã từng quan hệ với cha anh); và Phoebe trong một tập đã nhận xét một cách khinh bỉ "Cậu ấm có vấn đề với quản gia phải không?". Cha mẹ Chandler thông báo với anh họ sẽ ly hôn trong bữa tối Lễ tạ ơn khi anh mới 9 tuổi, việc này là nguyên nhân anh không kỷ niệm ngày lễ này khi lớn lên. Chandler là bạn cùng phòng với Ross Geller ở trường đại học. Chandler gặp em gái của Ross, Monica Geller, và bạn cô, Rachel Green, khi họ tổ chức Lễ tạ ơn với gia đình khi anh đang học năm thứ nhất đại học. Theo gợi ý của Monica, Chandler chuyển tới căn hộ số #19 tại Greenwich Village, Manhattan, cách nhau hành lang với Monica và bạn cùng phòng Phoebe Buffay. Tại căn hộ số #19, Joey Tribbiani là bạn cùng phòng với Chandler.
Monica Geller.
Tại lễ cưới của Ross và Emily ở London, Monica và Chandler ngủ với nhau và bắt đầu hẹn hò. Monica và Chandler cố giữ bí mật mối quan hệ của họ vì lo lắng những người khác sẽ phản ứng thế nào nhưng cuối cùng mọi người đều phát hiện ra.
Joey khám phá ra sau khi hai người nghỉ cuối tuần cùng nhau, Rachel nghe được cuộc nói chuyện qua điện thoai, Phoebe và Rachel nhìn thấy họ từ căn hộ mới của Ross đối điện bên đường. Joey đầu tiên tiếp tục giữ bí mật nhưng sau khi Rachel và Phoebe phát hiện ra, hai cô nàng cố khiêu khích để họ phải thú nhận mối quan hệ. Do đó, Monica và Chandler cố làm cho họ phải thú nhận họ đã biết và chiến tranh nổ ra (Joey thì bị kẹp ở giữa). Chuyện kết thúc khi Phoebe và Chandler giả vờ có ý định ngủ với nhau, nhưng Chandler đầu hàng và thú nhận anh yêu Monica. Hai người chuyển đến sống chung trong mở đầu phần 6, Chandler cầu hôn vào cuối phần này và họ kết hôn vào cuối phần 7. Lễ cưới được cử hành bởi Joey, người đã được phong chức mục sư qua Internet. Trong tập cuối cùng, Monica and Chandler (không thể sinh con) đã nhận nuôi hai bé sinh đôi, đặt tên là Jack và Erica.
Chandler cũng có vấn về với bạn trai cũ của Monica, Richard (đóng bởi Tom Selleck), người mà anh và Joey từng thần tượng bởi sự đàn ông trước khi Chandler và Monica bắt đầu hẹn hò. Monica từng cho rằng Richard là tình yêu của đời cô làm tăng thêm sự bất an của Chandler. Vấn đề lớn nhất khi Richard xuất hiện lúc Chandler muốn cầu hôn Monica, Richard đã thú nhận anh vẫn yêu cô. Monica đầu tiên cân nhắc có nên nối lại với tình cũ (một phần do Chandler tỏ ra không hứng thú với việc kết hôn). Tuy nhiên, Richard đã rút lui để Chandler kết hôn với cô, anh nhận ra anh đã để tuột mất cơ hội của mình.
Monica cũng thỉnh thoảng làm Chandler sợ hãi vì tính hách dịch, ngăn nắp và tính cạnh tranh quá cao. Việc này đẩy Chandler vào nhiều tình huống dở khóc dở cười, ví dụ như Monica không chịu nhường sếp của Chandler khi chơi quần vợt, hay Chandler phải giấu việc anh chơi bóng bàn cực giỏi vì sợ Monica bắt hai người phải đấu với nhau. Monica là người chiếm ưu thế trông mối quan hệ của họ và Chandler thường xuyên phải phục tùng mong ước của cô. Trong tập phim thay đổi thực tế, Monica vẫn béo phì và Chandler không hứng thú với cô. Tuy nhiên, Khi bạn trai của Monica bỏ bữa tối vì một cuộc gọi, họ đã ngủ với nhau, và Chandler say mê cô, hai người cuối cùng vẫn thành một cặp. | 1 | null |
Ma ống kính, Hồn ma đeo đuổi hay Hồn ma báo oán (tựa tiếng Anh: Shutter) là bộ phim tâm lý, ly kỳ kinh dị năm 2008 của Mỹ có sự hợp tác của Nhật Bản, đạo diễn phim là một vị đạo diễn người Nhật Masayuki Ochiai. Phim này là phim làm lại từ bộ phim kinh dị cùng tên năm 2004 của Thái Lan, nó có mác phim là The most terrifying images are the ones that are real (tiếng Việt: Hình ảnh kinh hoàng nhất là hình ảnh có thật).
Nội dung.
Cặp vợ chồng trẻ Benjamin và Jane vừa mới cưới nhau thì người chồng liền đưa vợ mình qua Nhật sống vì công việc chính của anh là thợ chụp ảnh cho những người mẫu Nhật Bản. Nhưng khi đặt chân đến đất nước Phù Tang, hai vợ chồng bị một hồn ma của cô gái nào đó ám ảnh liên tục khiến cuộc sống gia đình trở nên rối ren, Jane nghi ngờ chồng mình có liên quan đến cô gái đó nên quyết định tìm hiểu chuyện này rõ ràng. | 1 | null |
Geert Adriaans Boomgaard (21 tháng 9 năm 1788 - 3 tháng 2 năm 1899), là người đầu tiên trên thế giới được các nhà nhân khẩu học xác nhận là người sống siêu thọ. Tuy nhiên, một số người lại coi ông là người sống thọ thứ hai được công nhận, trước đó có trường hợp ông Thomas Peters (1745–1857), đồng hương của ông, được Sách Kỷ lục Guinness công nhận vào những năm đầu thập niên 1990.
Ngoài ra, với việc từng phục vụ trong đội quân "La Grande Armée" của Napoléon Bonaparte, ông được biết đến như là vị cựu binh sống lâu nhất từ trước đến nay trong nhiều thập kỷ qua.
Cuộc đời.
Rất ít điều được biết đến về đời thường của Geert Adriaans Boomgaard. Ông sinh ra tại Groningen, Hà Lan, nơi mà ông cũng nhắm mắt xuôi tay. Cha ông là một thuyền trưởng trên một con tàu và các thông tin trong tập hồ sơ dân sự nói rằng ông làm những công việc giống như cha mình. Một vài nguồn khác lại đề cập đến việc ông tham gia vào Trung đoàn Khinh bộ binh thứ 33 của "La Grande Armée".
Ông kết hôn với bà Stijntje Bus vào ngày 4 tháng 3 năm 1818, ba năm sau khi cuộc chiến tranh Napoléon kết thúc. Và tái hôn sau cái chết của người vợ mình vào ngày 17 tháng 3 năm 1831 với bà Grietje Abels Jonker.
Ông mất khi ở tuổi 110 và 135 ngày.
Bằng chứng.
Ba bài báo nghiên cứu về Boomgaard của E.J. Heeres trong tờ "Gruoninga" dã được xuất bản trong các năm 1976, năm 1977 và 1978. Trang web http://www.stehelene.org, được dành riêng cho việc thu thập lại các tài liệu lưu trữ bị mất về những người đã nhận huy chương Médaille de Sainte-Hélène từ Hoàng đế Napoléon III dành cho những cá nhân đã chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Pháp giai đoạn 1792-1815 vào năm 1857, cho thấy bức ảnh của ông, và bản thân ông huy chương cùng với huy chương Sainte-Hélène, và một chứng chỉ cho thấy rằng "Adriaans, Gerrit, à Groningue, Pays-Bas, đã nhận được huy chương này" đại diện cho những hoạt động quân sự hoạt động của mình dưới thời Napoléon I. Giấy chứng nhận được đăng ký tại la Grande Chancellerie số 1871, và có chữ ký đóng dấu Duc de Plaisance Général Anne-Charles Lebrun, Grand Chancelier (1853-1859).
Giấy chứng tử của Boomgaard xác nhận rằng ông đã sống đến 110 tuổi. | 1 | null |
Lưu Phì (chữ Hán: 劉肥, 221 TCN -189 TCN), tức Tề Điệu Huệ vương (齊悼惠王), là vị vua thứ hai của tiểu quốc Tề, chư hầu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế.
Lưu Phì là con trai trưởng của Hán Cao Tổ Lưu Bang, khai quốc hoàng đế nhà Hán. Lưu Bang lúc còn làm đình trưởng lấy người con gái họ Tào, sinh ra Lưu Phì nhưng không lập làm chính thất, mà lập người vợ khác là Lã Trĩ. Sau khi Hán Cao Tổ lên ngôi phong cho con Lã Trĩ là Lưu Doanh làm thái tử nối ngôi mặc dù Lưu Phì mới là con trưởng. Năm thứ 6 đời Hán Cao Tổ, Lưu Bang đổi Tề vương Hàn Tín làm Sở vương, phong Lưu Phì làm Tề vương, phong cho 70 thành và lập làm chư hầu.
Sự nghiệp.
Năm 194 TCN, vua cha Hán Cao Tổ băng hà, Lưu Doanh lên kế vị tức Hán Huệ Đế. Lã Trĩ trở thành thái hậu nắm quyền triều chính, muốn giết hết các thân vương họ Lưu để phong cho họ Lã. Năm 193 TCN, Lưu Phì cùng chú là Sở Nguyên vương Lưu Giao đến chầu vua em Hán Huệ đế, cùng Huệ Đế ăn tiệc và uống rượu trước mặt Lã thái hậu vì ông cho rằng Lưu Phì là anh nên để ngồi ghế trên theo lễ những người trong nhà. Thái hậu nổi giận, bèn sai rót hai chén thuốc độc đặt trước mặt mình, sai Lưu Phì chúc thọ. Lưu Phì đứng dậy, Huệ Đế cũng đứng dậy nâng chén muốn cùng chúc thọ với Tề vương. Thái hậu sợ quá, thân hành đứng dậy hắt chén rượu của Huệ Đế.
Lưu Phì lấy làm lạ, do đó không dám uống, giả vờ say đi ra. Khi hỏi, Lưu Phì biết đó là thuốc độc thì sợ hãi, tự cho rằng không thể ra khỏi Tràng An nên rất lo lắng, hỏi quan nội sử là Sĩ. Sĩ trả lời:
"Thái hậu chỉ có một mình hoàng đế và công chúa Lỗ Nguyên. Nay đại vương có hơn 70 thành, mà công chúa chỉ có vài thành, nếu đại vương quả thực đem một quận dâng cho thái hậu để làm ấp tắm gội của công chúa, thì thái hậu thế nào cũng mừng rỡ và đại vương cũng không lo ngại gì."
Tề vương bèn dâng quận Thành Dương, tôn công chúa Lỗ Nguyên làm Vương thái hậu. Lã Hậu mừng rỡ đặt tiệc rượi mời, rồi thả ông về nước.
Năm 189 TCN, Lưu Phì qua đời,thọ 32 tuổi, được truy phong là Tề Điệu Huệ vương. Con ông là Lưu Tương lên kế thừa tước vị, tức Tề Ai vương. | 1 | null |
Bá Minh (chữ Hán: 伯明) là tên một bộ lạc cổ đại thời nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc, địa bàn sinh sống ước đoán vị trí thuộc khu vực Hàn Đình (Duy Phường, Sơn Đông, Trung Quốc) ngày nay.
Sách Tả truyện chép rất vắn tắt về bộ lạc này. Theo đó, chỉ nêu Hàn Trác xuất thân thuộc bộ lạc Bá Minh, nhưng do hành động và tính cách nhẫn tâm, nên Hàn Trác bị thủ lĩnh bộ lạc Bá Minh trục xuất. Hàn Trác và con trai sang gia nhập bộ lạc Hữu Cùng, đầu quân dưới trướng thủ lĩnh Hậu Nghệ, rất được Hậu Nghệ trong dụng, phò tá đắc lực trong việc Hậu Nghệ cướp ngôi quân chủ của nhà Hạ. Về sau, đến lượt Hàn Trác giết Hậu Nghệ đoạt ngôi quân chủ rồi bị Thiếu Khang giết giết giành lại ngôi quân chủ cho nhà Hạ. | 1 | null |
Mikhail Ivanovich Kalinin (; - 3 tháng 6 năm 1946), được người Liên Xô gọi một cách thân mật là "Kalinych," là một nhà cách mạng Bolshevik và là nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa của Nga và sau đó là Liên Xô, từ năm 1919 đến năm 1946. Từ năm 1926, ông là một thành viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, nhóm các lãnh đạo Đảng xung quanh Joseph Stalin.
Từ năm 1946, thành phố Königsberg vốn trước đó thuộc Đông Phổ sau thuộc về Liên Xô, được đổi tên theo tên họ của ông là Kaliningrad. Thành phố này còn là thủ phủ của tỉnh Kaliningrad thuộc Liên Xô, nay là lãnh thổ cực Tây của Liên bang Nga.
Đầu đời.
Mikhail Ivanovich Kalinin được sinh ra trong một gia đình nông dân gốc Nga tại làng Verkhnyaya Troitsa (), Tver Governorate, Nga. Ông là anh trai của Fedor Kalinin.
Kalinin học xong tại một trường địa phương vào năm 1889 và làm việc một thời gian tại một trang trại. Ông chuyển đến Saint Petersburg, nơi ông tìm được việc làm là một công nhân kỹ nghệ sắt vào năm 1895. Ông cũng làm quản gia và sau đó làm công nhân đường sắt tại kho của Tbilisi, nơi ông gặp Sergei Alliluyev, cha của người vợ thứ hai của Stalin.
Năm 1906, ông kết hôn với người Do Thái là Nikolina Lorberg, người gốc Estonia (tiếng Nga: Екатерина анвнаовна орберг (Yekaterina Ivanovna Lorberg, 1882–1960).
Sự nghiệp chính trị ban đầu.
Mikhail Ivanovich Kalinin gia nhập Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDLP) vào năm 1898, năm thành lập. Ông biết đến Stalin thông qua gia đình Alliluyev.
Trong Cách mạng Nga năm 1905, Kalinin làm việc cho đảng Bolshevik và nhân viên của Liên minh Công nhân Kỹ nghệ sắt Trung ương. Sau đó, ông đã trở thành hoạt động thay mặt cho RSDLP ở Tiflis, Georgia (nay là Tbilisi), Reval, Estonia (nay là Tallinn) và Moskva. Vào tháng 4 năm 1906, ông làm đại biểu tại Đại hội lần thứ tư của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga.
Kalinin là một người trung thành tận tụy ngay từ lúc đầu của phe Bolshevik của RSDLP, đứng đầu là Vladimir Lenin. Ông là đại biểu của Hội nghị Đảng Bolshevik năm 1912 được tổ chức tại Prague, nơi ông được bầu làm thành viên thay thế của Ủy ban Trung ương điều hành và được cử đi làm việc ở Nga. Ông không trở thành một đảng viên chính thức vì bị nghi ngờ là một đặc vụ Okhrana (tác nhân thực sự là Roman Malinovsky, một đảng viên chính thức).
Kalinin đã bị bắt vì các hoạt động chính trị của ông vào năm 1916 và được trả tự do trong Cách mạng tháng Hai năm 1917, đã lật đổ nhà nước Sa hoàng.
Trong cuộc cách mạng Nga.
Kalinin đã tham gia Uỷ ban Bolshevik của Petrograd và hỗ trợ trong một tờ báo của đảng - " Pravda, " hiện được hợp pháp hóa bởi chế độ mới.
Vào tháng 4 năm 1917, Kalinin, giống như nhiều người Bolshevik khác, ủng hộ sự hỗ trợ có điều kiện cho Chính phủ lâm thời hợp tác với phe Menshevik của RSDLP, một vị trí đối nghịch với Lenin. Ông tiếp tục phản đối một cuộc nổi dậy vũ trang nhằm lật đổ chính quyền của Alexander Kerensky trong suốt mùa hè đó.
Trong các cuộc bầu cử được tổ chức ở Petrograd City Duma vào mùa thu năm 1917, Kalinin đã được chọn làm Thị trưởng của thành phố, nơi ông quản lý trong và sau Cách mạng Bolshevik vào ngày 7 tháng 11.
Năm 1919, Kalinin được bầu làm thành viên của Ủy ban Trung ương cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng như một ứng cử viên của Bộ Chính trị. Ông được thăng chức đảng viên chính thức trong Bộ Chính trị vào tháng 1 năm 1926, vị trí mà ông đã tại vị cho đến khi qua đời vào năm 1946.
Khi Yakov Mikhailovich Sverdlov chết vào tháng 3 năm 1919 (do cúm, bị đánh đập hoặc ngộ độc; nguồn khác nhau)
Kalinin thay thế ông làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương toàn Nga và nguyên thủ quốc gia. Tên của vị trí này đã được đổi thành Chủ tịch Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga vào năm 1922 và Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao vào năm 1938. Kalinin tiếp tục giữ chức mà không bị gián đoạn cho đến khi nghỉ hưu vào cuối Thế chiến II.
Năm 1920, Kalinin đã tham dự Hội nghị Quốc tế thứ II của Quốc tế Cộng sản tại Moscow với tư cách là một thành viên của phái đoàn Nga. Ông đã ngồi trên ghế của đoàn chủ tịch và tham gia tích cực vào các cuộc tranh luận.
Thời Liên Xô.
Kalinin là một đồng minh thuộc phe phái của Stalin trong cuộc đấu tranh giành quyền lực sau cái chết của Lenin năm 1924. Ông đã gửi một báo cáo về Lenin và cho Đại hội thế giới lần thứ V vào năm 1924.
Kalinin là một trong số ít thành viên thuộc phe Stalin xuất thân từ nguồn gốc nông dân. Nguồn gốc xã hội thấp đã được công bố rộng rãi trên báo chí chính thức, trong đó thường gọi Kalinin là "người đứng đầu toàn liên minh" (Всесосзный староста), một thuật ngữ nghe theo xã hội, với vai trò là người đứng đầu của ông. Về mặt thực tế, vào những năm 1930, vai trò của Kalinin với tư cách là người ra quyết định trong chính phủ Liên Xô chỉ là trên danh nghĩa.
Ông nắm giữ rất ít quyền lực hoặc ảnh hưởng ngoài việc nhận được thư ngoại giao từ nước ngoài. Nhớ lại, nhà lãnh đạo Liên Xô tương lai Nikita Khrushchev nói: "Tôi không biết Kalinin đã thực hiện công việc thực tế nào dưới thời Lenin. Nhưng dưới thời Stalin, ông là người ký kết danh nghĩa của tất cả các sắc lệnh, trong khi thực tế, ông hiếm khi tham gia chính phủ. Thỉnh thoảng ông được coi là thành viên của một ủy ban, nhưng mọi người không để tâm ý kiến của ông quá nhiều. Thật xấu hổ khi chúng tôi thấy điều này, người ta đơn giản cảm thấy tiếc cho Mikhail Ivanovich."
Kalinin cư xử rất kín đáo trong cuộc Đại thanh trừng năm 1937. Ông nhận thức rõ về sự đàn áp, và từ năm 1937 đến 1941, hàng trăm người đã đến dacha hoặc gửi đơn thỉnh cầu tới ông để nhờ giúp đỡ do bị bắt giữ. Mặc dù ông phản đối việc xử tử những người bạn bè như Avel Enukidze, ông vẫn phục tùng Stalin với lý do bảo vệ anh ta, đã theo dõi căn hộ của anh ta bởi các sĩ quan NKVD.
Vào ngày 5 tháng 3 năm 1940, sáu thành viên của Bộ Chính trị Liên Xô - Stalin, Vyacheslav Molotov, Lazar Kaganovich, Kliment Voroshilov, Anastas Mikoyan và Mikhail Kalinin - đã ký một lệnh để xử tử 25.700 "người theo chủ nghĩa dân tộc và phản cách mạng" của Ba Lan tại các trại và nhà tù ở miền tây Ukraine và Belarus, một phần của vụ thảm sát Katyn.
Kalinin không thể bảo vệ ngay cả vợ mình. Ekaterina Kalinina, người chỉ trích chính sách của Stalin, và đã bị bắt vào ngày 25 tháng 10 năm 1938 với cáo buộc là "Trotskyist". Mặc dù chồng bà là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao (1938-1946), bà bị tra tấn tại nhà tù Lefortovo và vào ngày 22 tháng 4 năm 1939, bà bị kết án mười lăm năm tù trong trại lao động. Bà đã được thả ra ngay trước khi chồng chết vào năm 1946.
Cái chết và di sản.
Kalinin đã nghỉ hưu năm 1946 và chết vì ung thư vào ngày 3 tháng 6 cùng năm trong Moskva. Kalinin đã được vinh danh bằng Quốc tang và được chôn cất tại Nghĩa trang tường Điện Kremli.
Ba thành phố lớn (Tver, Korolyov và Königsberg) đã được đặt tên hoặc đổi tên để vinh danh ông; chỉ nơi cuối cùng trong số đó, Kaliningrad, vẫn giữ được tên sau khi Liên Xô sụp đổ. Kalinin và Phố Kalinin được đặt theo tên của Kalinin được đặt tại Minsk, Belarus. Đại lộ Kalinin tại Dnipro, Ukraine đã được đổi tên thành Prospekt Serhiy Nigoyan vào tháng 1 năm 2015. | 1 | null |
Ngũ Nguyệt Thiên (tiếng Anh: Mayday; ), là ban nhạc alternative rock Đài Loan thành lập năm 1997 với năm thành viên là Ashin (A Tín), Monster (Quái Thú), Stone (Thạch Đầu), Masa (Mã Sa) và Ming (Quán Hựu). Trong giới âm nhạc Hoa Ngữ, nhóm được mệnh danh là "Vua concert" và được CNBC gọi là "The Beatles của châu Á". Đến nay, Ngũ Nguyệt Thiên được coi là ban nhạc nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trong thập niên 2000 tại Đài Loan nói riêng và giới âm nhạc Hoa ngữ nói chung.
Thông tin thành viên.
Ashin/A Tín (阿信).
Tên thật: Chen Hsin Hung
Ngày sinh: 06/12/1975
Nơi sinh: Đài Bắc, Đài Loan
Vị trí: hát chính
Monster/Quái Thú (怪獸).
Tên thật: Wen Shang Yi
Ngày sinh: 28/11/1976
Nơi sinh: Đài Bắc, Đài Loan
Vị trí: Trưởng nhóm, guitar
Masa/Mã Toa (瑪莎).
Tên thật: Tsai Shen-yen
Ngày sinh: 25/04/1977
Nơi sinh: Cao Hùng, Đài Loan
Vị trí: bass guitar
Stone/Thạch Đầu (石頭).
Tên thật: Shi Chin-hang
Ngày sinh: 11/12/1975
Nơi sinh: Đài Bắc, Đài Loan
Vị trí: guitar chính, hát bè
Guan You/Ming/Quán Hựu (冠佑/諺明).
Tên thật: Liu Yen-ming
Ngày sinh: 28/07/1973
Nơi sinh: Miêu Lật, Đài Loan
Vị trí: trống, hát bè
Hình thành (1995-1997).
Mayday phát triển từ So Band được thành lập bởi Ashin, Monster và tay trống đầu tiên Tiền Hựu Đạt (钱 佑达) vào năm khoảng năm 1995 trong khi họ đang học năm cuối trường trung học trực thuộc Đại học quốc lập Đài Loan. Masa và Stone là những thành viên tham gia sau đó, họ cùng học chung trường. Sau khi tốt nghiệp, các thành viên đã học tại các trường đại học khác nhau nhưng vẫn tiếp tục tụ tập và biểu diễn ở các quán rượu và quán ăn. Họ cũng tích cực tham gia trong việc thúc đẩy xu hướng nhạc rock phát triển tại Đài Loan. Năm 1997, ban nhạc đổi tên thành Mayday (tên nickname trên mạng của Masa) và từ tên gốc tiếng Anh dịch ra tiếng Hoa là Ngũ Nguyệt Thiên để đăng ký tham gia Lễ hội âm nhạc Formoz (野台 开唱)
Những năm đầu (1997-1999).
Ngay sau khi tham gia Liên hoan Formoz (野台 开唱), ban nhạc đã bắt đầu tích cực gửi băng demo cho các công ty thu âm khác nhau với hy vọng đạt được hợp đồng thu âm. Bản demo của họ cuối cùng cũng gây ấn tượng với ca sĩ nhạc sĩ nổi tiếng, cũng là nhà điều hành của Rock Records Lý Tông Thịnh (李宗盛) người đã miêu tả họ như "những người sẽ mở ra những âm thanh của tương lai".
Ngũ Nguyệt Thiên đã ký hợp đồng thu âm đầu tiên với Rock Records vào năm 1998. Trong cùng năm đó, họ cũng đã phát hành album”Taiwan Independent Compilation "ㄞ 国 歌曲" bởi indie music label tcm (角 头 音乐) bao gồm những bản thu âm đầu tiên của nhóm như “Đua Xe "轧 车". Tháng 6 năm 1998, nhóm cũng phát hành “Ôm ấp"拥抱" cả nhóm đã đảm nhiệm hầu hết các nhiệm vụ sáng tác, sản xuất và thu âm.
Năm 1999, Ming trở thành tay trống thứ tư của ban nhạc và họ tiếp tục phát hành album phòng thu "五月天 第一 张 创作 专辑" dưới tên hãng Rock Records vào ngày 07 tháng 7 năm 1999. Album được coi là ra mắt đầu tay này nhận được sự hoan nghênh và đón nhận tại Đài Loan. Album đã dán được hơn 300.000 bản, một chiến công đáng kể cho một ban nhạc mới trong ngành công nghiệp âm nhạc thời kỳ hậu bi quan và bão hòa. Họ cũng được đề cử cho giải thưởng Golden Melody lần thứ 11 hạng mục “Ban nhạc xuất sắc nhất".
Các bài hát "Chí Minh và Xuân Kiều" "志明 与 春娇" và "Ôm ấp" "拥抱" đã tác động đến đông đảo thanh niên, và trở thành bài hát đứng đầu trong danh sách KTV. "Chí Minh và Xuân Kiều" là một trong những bài hát top 10 của năm theo Hiệp những người làm âm nhạc ở Đài Loan ghi nhận(中华 音乐 人 交流 协会). "Chí Minh và Xuân Kiều" là "bài hát đó đã mang tên tuổi của họ từ phía bắc đến phía nam của Đài Loan, khiến tất cả mọi người biết đến Mayday". Vào ngày 28 Tháng 8, lần đầu tiên nhóm tổ chức một buổi biểu diễn quy mô lớn được gọi là buổi biểu diễn 168 "第 168 场 演唱 会", đóng chắc vị trí của họ như là một trong những ban nhạc đang lên tại Đài Loan.
"Viva Love" và "Đời người, Biển cả" (1999-2001).
Album thứ hai của ban nhạc Viva Love "爱情 万岁" được phát hành ngày 7 tháng 7 năm 2000. Doanh số của album Viva Love vượt qua cả album trước, đạt tới hơn 350.000 bản. Ngoài ra, Viva Love đã mang về cho họ danh hiệu "Ban nhạc xuất sắc nhất" giải thưởng tại Golden Melody Awards lần thứ 12. Mayday cũng đã tổ chức một loạt các buổi hòa nhạc được gọi là "Mười vạn thanh niên cùng đứng lên" ("十万 青年 站 出来" 巡回 演唱 会) tại thành phố Đài Bắc, Zhang Hua và thành phố Cao Hùng. Các buổi hòa nhạc nổi tiếng vì là concert có số lượng khán giả lớn nhất vào năm 2000.
Trong năm 2001, Mayday lần đầu tiên chế tác một soundtrack phim và score đi kèm cho bộ phim “ Chim di trú” "候鸟" do Rene Liu và Huang Pin Yuan đóng vai chính. Hai tháng sau, Mayday phát hành album thứ ba “Đời người, biển cả” "人生海海", doanh số bán ra đạt hơn 35.000 bản chỉ sau một tháng.
Giai đoạn tạm ngưng (2001-2003).
Masa nhận được lệnh nhập ngũ, Mayday quyết định tạm ngưng khi đang ở đỉnh cao nổi tiếng. Trước khi tạm dừng hoạt động, nhóm đã tổ chức buổi concert chia tay có tiêu đề ”Bạn đi đâu vậy? "你 要去 哪里" từ 18 tháng 8 đến 1 tháng 9 năm 2001. Tuo La Ku và ban nhạc rock Nhật Bản Glay là khách mời đặc biệt tại buổi hòa nhạc này. Kỷ niệm đáng nhớ cho nhiều người hâm mộ, tay guitar Stone đã chọn cơ hội này cầu hôn với bạn gái của mình và bài hát cầu hôn đó cũng được bao gồm trong các album live concert. Trong tháng 11 năm 2001, các thành viên tạm thời giải tán với Masa đi vào quân đội, Stone đến Anh để tìm hiểu kỹ thuật sản xuất và Ming tới Los Angeles để trau dồi kỹ năng trống. Trong khi đó, Monster và Ashin vẫn ở lại Đài Loan với Rock Records, đảm nhận phần ghi âm và sản xuất cho các nghệ sĩ khác cùng công ty.
Quay trở lại sân khấu âm nhạc (2004).
Trong thời gian tạm ngưng, Mayday phát hành tự truyện có tựa đề The Wings of Dream "摇滚 本事", với doanh số hơn 1,2 triệu Đài tệ chỉ trong ba ngày. Họ cũng phát hành một phần nhạc đệm.
Sau khi của Masa chính thức hoàn thành nhiệm vụ quân đội, ban nhạc tập hợp và trở lại ngành công nghiệp âm nhạc. Để đánh dấu sự kiện này, Mayday tổ chức concert "Thành phố của bầu trời" "天空 之 城" vào ngày 16 tháng 8 Năm 2004 tại sân vận động Đài Bắc. Các buổi biểu diễn thu hút gần 40.000 người hâm mộ đó đã phá vỡ kỷ lục về lượng khán giả trước đây được tổ chức bởi Michael Jackson.
11 tháng 11 năm 2003, ban nhạc cũng phát hành album studio thứ tư của mình "Cỗ máy thời gian" "时光 机". Doanh số bán hàng của album đạt hơn 15.000 trong vòng hai ngày, chứng tỏ Mayday không hề suy giảm sự nổi tiếng của họ mặc dù trải qua thời gian gián đoạn. "Cỗ Máy Thời Gian" cũng giúp Mayday giành giải "Nhóm nhạc xuất sắc nhất" lần thứ 2 tại giải Golden Melody lần thứ 15. Trong mùa hè năm 2004, Mayday cũng tham gia làm nhạc đệm cho bộ phim "Tình yêu tháng năm" "五月 之 恋". Trong bộ phim họ cũng trình bày một số bản remix các bài hát cũ. Stone cũng đã có một vai phụ trong phim.
05 Tháng 11 Năm 2004 chứng kiến sự phát hành của studio album thứ 5 “ Con của thần cũng đang nhảy/ Flying Angels With A Soul Falling "神 的 孩子 都 在 跳舞". Album này sử dụng đồng thời các kỹ thuật thu âm để tạo ra hiệu ứng âm thanh của album trước và đặc biệt so với các album trước, ghi lại ở Kawaguchi-to, Nhật Bản. Trong năm 2005, họ cũng phát hành một album tổng hợp Just My Pride "知足 最 真 杰作 选", trong đó bao gồm sáu bài hát được chọn lọc từ các album trước đó.
Final Home World tour (2004-2006).
Gần cuối năm 2004, Mayday bắt tay vào thực hiện một loạt các buổi hòa nhạc trên toàn thế giới đầy tham vọng gọi là "Final Home - Khi chúng ta hòa mình cùng nhau" "Final Home 当 我们 混 在一起". Họ đã đi vòng quanh thế giới để tổ chức world tour tới Mỹ, Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Hong Kong và Nhật Bản. Các buổi biểu diễn kéo dài trong sáu tháng cho đến đầu năm 2006. Bản thu biểu diễn trực tiếp từ những buổi hòa nhạc đã được phát hành trong một định dạng DVD-CD vàcó tiêu đề đơn giản là "Final Home".
Không bằng lòng với sự quảng bá trên mặt đất, Mayday cũng đã đến tầng thượng của tòa nhà TaiPei101 để thực hiện tuyên truyền. Được gọi là concert” gần nhất tới bầu trời"史上 最接近 天空 演唱 会" (hoặc concert chúng ta vươn tới bầu trời"头顶 天空 演唱 会"), Buổi biểu diễn của Mayday ở độ cao gần 390,6 mét từ mặt đất.
“"Sinh ra vì yêu"” và “"Bài thơ hậu thanh xuân"” (2006-2008).
Sinh ra vì yêu "为 爱 而 生" đã được phát hành vào ngày 29 Tháng Mười Hai 2006, Mayday tổ chức một buổi ký tặng kéo dài mười giờ. Cùng với album mới và được tài trợ bởi Le tea, họ cũng tổ chức “sinh ra vì yêu "五月天 天使 le power, 为 爱 而 生 新歌 演唱 会" buổi hòa nhạc được tổ chức trên khắp Đài Loan. Những tấm vé cho các buổi hòa nhạc đã được tặng kèm trong phiên bản đầu tiên của album ”Sinh ra vì yêu”, và người hâm mộ đã xếp hàng thành dòng qua đêm để có được trong tay chiếc phiếu thực tế cho phép họ tham gia vào các buổi hòa nhạc.
Mayday đã tổ chức tổng cộng 12 buổi hòa nhạc, và các màn trình diễn tốt nhất được tổng hợp vào một đĩa DVD đã được đi kèm cùng với phiên bản thứ ba của album “Sinh ra vì yêu”
Trong năm 2006, Mayday cũng tách ra khỏi Rock Records và thành lập công ty riêng là B'in Music cùng với CEO cũ của Rock Records là Trần Dũng Chí. Đến nay, B'in Music đã trở thành một trong những công ty âm nhạc độc lập lớn tại Đài Loan, là công ty chủ quản của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác như Lý Tông Thịnh, Lưu Nhược Anh, Nhậm Hiền Tề, Magic Power, Đinh Đang, Nghiêm Tước, Gia Gia, Bạch An, flumpool... Các thành viên Mayday là cổ đông lớn của công ty.
Năm 2007 cũng chứng kiến sự phát hành của Jump! (Rời khỏi bề mặt của Trái Đất) "离开 地球 表面", trong đó bao gồm một số bài hát mới, biểu diễn trực tiếp từ những tour diễn cùng tên và quảng cáo “ trở nên cuồng nhiệt- Cuồng trảo "抓狂" cho video game Halo 3. Mayday cũng thực hiện một bản song ca với ca sĩ Trần Ỷ Trinh,” Chạy trốn lên Mặt Trăng "私奔 到 月球". Là một phần của concert Jump!, Mayday ký kết các tour diễn thế giới với bốn buổi hoà nhạc”Trở lại bề mặt của Trái Đất "回到 地球 表面"
Không chịu thua kém các năm trước, Mayday tổ chức một buổi hòa nhạc " Đột nhiên rất nhớ em " " 突然很想见到你 " vào ngày 01 tháng 1 năm 2008 kéo dài từ 1:00 sáng đến khoảng 6:00 sáng. Album phòng thu mới của Mayday, “Bài thơ hậu thanh xuân” "后 青春期 的 诗" đã được phát hành vào ngày 23 Tháng Mười 2008. Giống như Born to Love, album mới có tặng kèm vé concert. Hai phiên bản "Concert" bao gồm một vé cho buổi hòa nhạc “Trên bầu trời” của 100.000 Bạn & Mayday” được tổ chức tại sân vận động Chung Shan, trong khi phiên bản "Campus" bao gồm một vé cho một trong những buổi hòa nhạc trong trường mà đã được tổ chức trên khắp Đài Loan
DNA World Tour (2009).
Vào ngày 19 tháng 3 năm 2009, Mayday công bố World tour DNA của họ, Mayday sáng tạo Concert "DNA 五月天" 创造 "演唱 会", bắt đầu tại Hồng Kông vào ngày 20 tháng 5 năm 2009. Đối với các tour diễn, Mayday phát hành hai bài hát, "DNA" và "Phương thức" "放肆". Họ hợp tác với các đội cho các tour diễn xuyên quốc gia trên thế giới và Úc là nơi tour của họ dừng lại để biểu diễn lần đầu tiên. Một buổi hòa nhạc được gọi là “A.D.N - Mayday và bạn bè” đã được tổ chức mười ngày sau đó, cùng với một số ban nhạc đến từ Đài Loan, như Tizzy Bac, 1976, và Chairman, vv để chào mừng kỷ niệm 10 năm của Mayday kể từ khi Ming tham gia ban nhạc.
Đề cử cho Golden Melody Awards lần thứ 20 được công bố vào ngày 15 Tháng 5 năm 2009, trong đó bao gồm “Em không thực sự hạnh phúc "你 不是 真正 的 快乐" cho “ca khúc xuất sắc nhất, Ashin giành được 2 đề cử ”Lời bài hát xuất sắc nhất” cho các bài hát “ Nơi chưa từng tổn thương trong tim tôi "我 心中尚未 崩坏 的 地方 "và “Như sương khói" 如烟 ", Mayday cũng đoạt được giải” Ban nhạc xuất sắc nhất”. Mayday tổ chức lễ ăn mừng vào ngày 27 tháng 6 năm 2009 và trở lại với giải thưởng Golden Melody của mình cho Ban nhạc xuất sắc nhất lần thứ 3.
Điểm dừng buổi hòa nhạc với sự kiện đáng chú ý nhất là vé buổi hòa nhạc ngày 26, 27 tháng 9 năm 2009 được bán ra chỉ trong 1 ngày. Hai ngày sau, ban nhạc tổ chức thêm vào một ngày thứ ba, 25 tháng 9. Vé ngày hôm đó được bán hết trong vòng ba giờ nhanh chóng, buôỉ diễn thứ tư được thêm vào cho ngày 24 tháng 9. Điều này sẽ phá vỡ kỷ lục của chính của Mayday có 4 buổi biểu diễn liên tục tại Nhà thi đấu Đài Bắc trong chuyến lưu diễn thế giới trước của họ. Hơn nữa, buổi biểu diễn này của Mayday tại Nhà thi đấu Đài Bắc là show đầu tiên sau khi đã kết thúc, toàn bộ điện đã được tắt fan vẫn không chịu ra về nên Mayday đã tiếp tục hát chay cho khán giả nghe. Họ sẵn sàng trả tiền phạt nặng nề để biểu diễn vì fans sau 11 tối tại địa điểm này. Vào ngày cuối cùng 27, người hâm mộ tiếp tục ở lại yêu cầu biểu diễn tiếp khoảng 25 phút sau khi tắt điện cho đến khi Ashin hát một bài hát cuối cùng trong hậu trường và yêu cầu những người hâm mộ ra về. Vào ngày 5 Tháng 12, 2009 tại Sân vận động Quốc gia, đã cho phép Mayday tổ chức một buổi hoà nhạc "55.555 người". Đây sẽ là buổi hòa nhạc EXPO đầu tiên của Mayday, cũng là buổi hòa nhạc đầu tiên được tổ chức tại sân vận động này.
"Cuộc đời thứ hai" và sự phát triển mạnh mẽ (2011-2015).
Ngày 29 Tháng 3, Mayday đã ra mắt bộ phim điện ảnh concert 3D của họ, "Truy mộng 3DNA". Ngày 16 tháng 12, Mayday phát hành album thứ 8 "Cuộc đời thứ hai" "Second round" gồm hai phiên bản "No where"(tận thế) và "Now here" (trùng sinh) lấy cảm hứng từ thuyết năm 2012 của người Maya, đã bán được 129.958 bản trong 1 tuần. Album đem về cho họ 6 giải Kim Khúc (Golden melody Awards) lần thứ 23 gồm Nhóm nhạc xuất sắc nhất, Album của năm, Bài hát của năm (Con tàu Noah), Sáng tác xuất sắc nhất (Masa - bài Con tàu Noah)...
Ngày 29 tháng 4 năm 2012 Mayday trở thành ban nhạc đầu tiên mở concert ở sân vận động quốc gia Tổ Chim (Bắc Kinh, Trung Quốc) có sức chứa 100.000 người, 70.000 vé đã bán hết trong ba phút và họ đã quyết định thêm một buổi diễn nữa vào ngày 30 và 100.000 vé sau đó cũng nhanh chóng được tẩu tán.
Năm 2013, nhóm lần đầu tiên mở concert tại Đức và ra mắt phim điện ảnh concert thứ hai ở dạng 4DX.
Ngày 21 tháng 3 năm 2014, Mayday một lần nữa trở thành ban nhạc người Hoa đầu tiên (người Hoa thứ 2 sau Trương Học Hữu) mở concert cá nhân ở Madison Square Garden, Mỹ.
Từ khoảng thời gian phát triển mạnh mẽ này đến nay, nhóm đã được coi là nghệ sĩ có sức ảnh hưởng lớn nhất tại Đài Loan.
"Tự truyện" và "Life" world tour (2016–nay).
Vào ngày 21 tháng 7 năm 2016, Mayday phát hành album phòng thu thứ 9 của nhóm là Tự truyện ("History of Tomorrow)". Album tiếp tục nhận được sự đánh giá cao và giúp họ thắng giải Album tiếng Quốc ngữ xuất sắc nhất và giải Viết lời xuất sắc nhất (Ashin - bài "Danh vọng thành danh") tại Kim Khúc lần thứ 28 năm 2017.
Tour lưu diễn thế giới tiếp theo của nhóm Life World Tour ("Công ty trách nhiệm vô hạn Cuộc Đời"), bắt đầu vào 18 tháng 3 năm 2017 tại Cao Hùng, Đại Loan (thành phố mà nhóm làm đại sứ du lịch). Đến tháng 7 năm 2018, tour diễn đã cán mốc trên 100 buổi biểu diễn, tự phá vỡ kỷ lục của chính họ trước đó. Tháng 10 năm 2018. Life Tour đã đem Ngũ Nguyệt Thiên lần đầu tiên đến dừng chân ở trạm Bangkok (Thái Lan).
Âm nhạc, phong cách và sự ảnh hưởng.
Những bài hát của Mayday được viết chủ yếu bằng tiếng Hoa với một số bài nhạc Phúc Kiến Đài Loan bởi Ashin - người mà ngoài tiếng phổ thông còn rất thông thạo tiếng Phúc Kiến. Những bài hát của họ rất phổ biến vì với nền tảng là một ban nhạc học sinh sinh viên, nhóm có khả năng nắm bắt các tư tưởng của thanh niên Đài Loan vào giữa những năm 1990. Họ thường được công nhận là một trong những người tiên phong của nhạc rock tại Đài Loan.
Phong cách âm nhạc thời kì đầu của Mayday đặc trưng bởi các sản phẩm âm nhạc có xu hướng hướng tới những giai điệu rock Hokkien garage. Họ cũng ủng hộ tiếng nói về vấn đề quyền đồng tính, với một số bài hát nhắc trực tiếp đến vấn đề này. Những ca từ của Ashin thời kỳ đầu thường tập trung vào các chủ đề cảm giác của thiếu niên dang trong thời kỳ trưởng thành. Tuy nhiên, trong album về sau, Ashin đã sử dụng một số biểu tượng văn hóa đặc biệt là thần thoại Trung Quốc thần khỉ Tôn Ngộ Không, Chuột Mickey, Siêu nhân, Neil Armstrong và Che Guevara. Ashin trích dẫn phim và tiểu thuyết như là nguồn cảm hứng cho những bài hát của mình bao gồm "Viva Love" (爱情 万岁) được lấy cảm hứng từ bộ phim tiên phong đạo diễn người Đài Loan Tsai Ming Liang năm 1994, Vive L'Amour và bài hát "Vũ trang" (武装) chịu ảnh hưởng của một bộ phim truyền hình Trung Quốc "孽子" và cuốn tiểu thuyết của Murakami Haruki, Kafka trên bờ biển.
Mayday đã không giấu giếm sự ngưỡng mộ của mình với The Beatles mà họ đã nói rằng "ảnh hưởng đến lý tưởng của họ về nhạc rock. Ca khúc thứ tám của album thứ năm của họ có 1 bài là:” John Lennon (约翰 蓝 侬), nơi ban nhạc ôm ấp giấc mơ trở thành "The Beatles của thế giới người Hoa" (华人 世界 的 披头四). Những người ảnh hưởng đến âm nhạc của họ rất đa dạng, còn có các ban nhạc U2 của Ailen, các ban nhạc Oasis của Anh, các nghệ sĩ nhạc pop Nhật Bản, Mr.Children, Sting cũng như các rocker Đài Loan: Ngũ Bách và China Blue.
Ngoài ra nhóm còn được biết đến bởi những cống hiến cho xã hội khi ba năm liền (2012- 2014) mở loạt concert "Just love it" với mục đích từ thiện (đến nay 1 phần doanh thu từ concert của nhóm vẫn được lấy làm từ thiện) và trực tiếp tham gia tổ chức đại nhạc hội Super Slipper từ năm 2012 cho đến nay nhằm phát triển nhạc rock ở Đài Loan.
Năm 2016, Mayday phá kỉ lục khi mở 3 show concert liên tiếp tại sân vận động Tổ Chim, thu hút 300.000 khán giả.
Sự hợp tác của Ashin.
Như là một nhạc sĩ viết ca từ và nhạc thơ, Ashin đã làm việc với Vương Lực Hoành (王力宏 trong album “Anh hùng cái thế”(盖世 英雄). Anh cũng đã viết cho các nghệ sĩ khác nhau khác bao gồm Lương Tịnh Như, Dương Tông Vỹ, Angelica Lee, Thái Y Lâm, Trần San Ni, Nhậm Tề Hiền, Ring, Huỳnh Hồng Thăng, Tiêu Kính Đằng, Lưu Nhược Anh, nhóm 831... Ngoài ra, anh sáng tác bài hát SHERO đặc biệt cho SHE, được chọn là bài hát chủ đề cho 2010 Đài Bắc Flora Expo. Là một ca sĩ tài hoa, anh đã phối hợp với Tôn Yến Tư hai lần trong album thứ tư của "Cỗ máy thời gian" Mayday và bài hát ”Ngày đầu tiên” cũng bao gồm FIR, A Tín cũng hợp tác với Trần Ỷ Trinh trong bài hát 'Chạy trốn lên mặt trăng. " Trong năm 2008, anh hợp tác với Đing Đang trong album "Những gì tôi yêu thương" và đóng vai chính trong video âm nhạc của cô.
Ashin học nghệ thuật thị giác và thiết kế nội thất tại Đại học Shih Cheng, Ashin cũng mày mò trong lĩnh vực thiết kế, đặc biệt anh cùng nhà thiết kế Bất Nhị Lương/No2good (不二 良) đã sáng lập thương hiệu thời trang nổi tiếng Đài Loan StayReal và còn là thiết kế của một dáng máy nghe nhạc cho BenQ music player. Là tác giả, Ashin đã phát hành hai cuốn sách là Happy.BIRTH.day mà anh gọi là một "cuốn sách của bài thơ rock". Nó bao gồm các bức ảnh chụp của anh và lời của bài hát anh đã viết cho ban nhạc cùng các nghệ sĩ. Cuốn sách gần nhất của anh ”Chạy trốn đến Nhật Bản (浪漫 的 逃亡), viết về chủ đề du lịch Nhật Bản.
Sự hợp tác của các thành viên khác.
Các thành viên khác của Mayday cũng đã làm việc với các nghệ sĩ khác, chủ yếu trong các lĩnh vực sáng tác và sản xuất. Masa và Monster đã giúp sáng tác lời và chơi nhạc cụ cho các bài hát của các nghệ sĩ thuộc Rock Records như Lương Tịnh Như, Victor Huang, Huỳnh Hồng Thăng, Đinh Đang... Cả Monster và Stone cũng đã tham gia sản xuất album, Monster cho album đầu tay Đinh Đang, Stone cho album 2007 của Victor Huang, album năm 2011 cho Nhậm Hiền Tề, Masa cho album của Lưu Nhược Anh... Năm 2017, Masa được đề cử giải Chế tác đơn khúc xuất sắc nhất giải Kim Khúc cho tác phẩm kết hợp với Gia Gia. | 1 | null |
Đảng Cộng sản Thái Lan (Tiếng Thái: พรรคคอมมิวนิสต์แห่งประเทศไทย) hay còn gọi là đảng CPT, tiền thân là "Đảng Cộng sản Xiêm" là một trong những chính đảng lớn đã từng tồn tại trong Lịch sử Thái Lan. Thành lập vào 1 tháng 10 năm 1942 và phát triển mạnh trong những năm của Chiến tranh Lạnh. Đảng Cộng sản Thái Lan từng là đảng cộng sản mạnh thứ nhì Đông Nam Á sau Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đảng này và các phe cánh tả đã dần tan rã mà suy vong hoàn toàn hoặc suy yếu và không hề còn tồn tại từ đầu những năm 1990.
Lịch sử.
Năm 1929, Hồ Chí Minh thừa lệnh Quốc tế Cộng sản thực hiện hợp nhất hai tổ chức cộng sản của người Hoa và người Việt tại Thái Lan thành Đảng Cộng sản Xiêm. Đảng này hoạt động bí mật với chủ trương lật đổ hoàng gia Thái bằng bạo lực. Đảng phát triển nhanh chóng và lôi kéo được thành phần dân nghèo nhưng bị chính quyền khủng bố và đàn áp gắt gao. Để đối phó, lãnh đạo đảng cộng sản Xiêm quyết định đào tạo một thế hệ lãnh đạo mới rồi thành lập Đảng Cộng sản Thái Lan vào ngày 1/12/1942. Năm 1948, Đảng Cộng sản Thái Lan có khoảng 3.000 đảng viên và được sự ủng hộ lớn của nông dân và dân nghèo. Đảng Cộng sản Thái Lan theo chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Đảng Cộng sản Xiêm được Quốc tế Cộng sản tài trợ, sau này Đảng Cộng sản Thái Lan được cộng sản Trung Quốc và Việt Nam viện trợ bằng tiền và vũ khí, thông qua các đảng cộng sản từ các nước Campuchia, Lào, Malaysia...
Năm 1960, Đảng Cộng sản Thái Lan tham dự đại hội toàn quốc lần hai của Đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia cuộc họp Quốc tế của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế tại Moskva. Tại hội nghị này, khi xảy ra mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc thì Đảng Cộng sản Thái Lan đã ngả theo Trung Quốc. Thời điểm này, số lượng đảng viên và quần chúng ủng hộ của Đảng Cộng sản Thái Lan tương đối lớn. Các tổ chức của đảng này đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thuộc miền Bắc, Đông Bắc và miền Nam Thái Lan, kể cả thủ đô Bangkok.
Năm 1965, Quân đội Giải phóng Nhân dân Thái Lan do Đảng Cộng sản Thái Lan được thành lập. Đấu tranh vũ trang trở thành phương cách đấu tranh chính thức với sự yểm trợ của các nước cộng sản trong khu vực. Năm 1969 đảng này thành lập Mặt trận Yêu nước Thái Lan. Năm 1977, đảng Cộng sản Thái Lan đã thành lập Liên minh các Tổ chức Đấu tranh cho Dân chủ và Tự do của Thái Lan với Quân đội Giải phóng Nhân dân Thái Lan là nòng cốt. Đây là giai đoạn mạnh nhất của Đảng Cộng sản Thái Lan. Họ được sự ủng hộ của rất đông dân chúng và học sinh sinh viên nhất là sau hai vụ bạo động của sinh viên ở thủ đô Bangkok bị chính quyền Thái Lan đàn áp đẫm máu vào các ngày 14/10/1976 và 6/10/1979. Ước tính số đảng viên cộng sản và du kích của đảng Cộng sản Thái Lan gần một vạn người và khoảng một triệu người ủng hộ. Một nửa các thành phố Thái Lan có tổ chức đảng.
Năm 1979, Việt Nam đưa quân sang Campuchia rồi xung đột với Thái Lan dẫn đến chính quyền cộng sản Lào cấm Đảng Cộng sản Thái Lan sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ kháng chiến. Quan hệ ngoại giao, thương mại giữa Thái Lan - Trung Quốc được tái lập. Năm 1980 chính phủ Thái Lan thông qua nghị định số 66/2521 ân xá cho các thành viên Đảng Cộng sản Thái Lan về chiêu hồi. Tháng 4/1981 lãnh đạo cộng sản Thái Lan đề nghị được đàm phán hòa bình với chính quyền và chấp nhận giải giáp trước khi bắt đầu đàm phán. Tháng 10/1981, tướng Chawalit Yongchaiyud tuyên bố cuộc chiến chống các lực lượng cộng sản Thái Lan đã kết thúc. Năm 1982, Thủ tướng Prem Tinsulanonda ban hành nghị định 65/2525 tiếp tục ân xá cho các du kích cộng sản Thái Lan còn lại kèm theo các chính sách ưu đãi như cấp đất, xây nhà và hỗ trợ trong việc ổn định đời sống. Điều đó đã khiến lực lượng của đảng Cộng sản Thái Lan suy sụp nhanh chóng. Trong thời gian này hai lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Thái Lan bị quân đội chính phủ bắt giữ khiến tổ chức Đảng Cộng sản Thái Lan chính thức tan rã. | 1 | null |
A-pop (viết tắt của cụm từ tiếng Anh Asian pop - tức "nhạc pop châu Á") là thuật ngữ chung bắt đầu được sử dụng để chỉ ba nền âm nhạc lớn nhất châu Á, bao gồm: J-pop của Nhật Bản, C-pop của khu vực Hoa ngữ (gồm cả Mandopop lẫn Cantopop) và K-pop của Hàn Quốc kể từ năm 2013.
Thuật ngữ A-pop xuất hiện đầu tiên từ trang mạng xã hội chia sẻ video lớn nhất thế giới YouTube của Google qua kênh chính được tạo lập với mục đích quy tụ những kênh chính thức về J-pop, C-pop, K-pop trên YouTube, bao gồm các nghệ sĩ, nhóm nhạc, nhà phát hành và các hãng đĩa.
Thiết lập kênh A-pop như một hệ thống về âm nhạc châu Á trên YouTube là bước trong kế hoạch toàn cầu hóa âm nhạc châu Á sau khi các trang quảng bá, trang tổng hợp về A-pop được tạo lập trên các mạng xã hội nổi tiếng hiện hành hàng đầu là Facebook và Google+ nhận được sự theo dõi, ủng hộ của hàng tỷ người trên thế giới.
Kênh A-pop trên YouTube chính là trang hỗ trợ quảng bá cho chiến dịch "Hang-out cùng thần tượng A-pop" diễn ra trên Google+ từ đầu năm 2013. | 1 | null |
Lê Tư Lành (1914 - 1995) là một nhà giáo, nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Ông sinh ở xã Duy Tân, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Lê Tư Lành tốt nghiệp trung học tại trường Bưởi năm 1937. Sau khi tốt nghiệp, ông dạy lịch sử ở một số trường tư thục như Gia Long, Văn Lang...
Tháng 9 năm 1945 ông tham gia Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Duy Tiên và đã trúng cử đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Quốc hội khóa I). Ngày 26 tháng 7 năm 1947 ông được đặc cách và tạm thời làm Ủy viên Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Nam thay ông Lý Trang An được cử vào Ủy ban Kháng chiến. Tháng 2 năm 1950, từ Ủy viên Dự khuyết,ông được bầu làm Ủy viên chính thức của Ban Thường trực Quốc hội. Từ năm 1959 đến năm 1960, ông là Ủy viên Ban sửa đổi Hiến pháp do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban.
Trong thời gian 1960 đến 1973 Lê Tư Lành chuyển sang công tác ở Vụ Bảo tồn bảo tàng, Bộ Văn hóa, nghiên cứu ở Viện bảo tàng lịch sử, tham gia giảng dạy cho lớp đại học Hán Nôm đầu tiên dưới chế độ mới (1965-1968). Năm 1973 ông nghỉ hưu.
Ông còn là dịch giả một số tác phẩm tiếng Pháp của Voltaire và một số tác giả khác.
Gia đình.
Lê Đăng Doanh là con trai ông. Kim Lân là thông gia của ông. Thành Chương là đệ tử của ông, vì vậy Chương đã biếu ông một bức tượng điêu khắc bán thân.
Con trai khác là Lê Dưỡng Hạo, nhà nghiên cứu Hán Nôm công tác tại Bảo tàng Mỹ thuật VN, đã mất năm 2002. | 1 | null |
Huỳnh Văn Gấm (10 tháng 3 năm 1922 tại Bình Lập, Châu Thành, Tân An - 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh) là một họa sĩ Việt Nam.
Học vấn.
Huỳnh Văn Gấm theo học Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cùng khoá với nhiều học viên sau này trở thành họa sĩ tài danh của Việt Nam như Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Tạ Thúc Bình
Tham gia cách mạng.
Năm 1944, khi đang học tới năm thứ tư, chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương thì Huỳnh Văn Gấm bỏ dở không rõ tung tích. Ông bí mật trở về tham gia cách mạng tại quê hương. Khi cách mạng tháng Tám thành công, Huỳnh Văn Gấm được bầu làm Tỉnh ủy viên. Khi đó ông mới 23 tuổi
Năm 1946, sau cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc, Huỳnh Văn Gấm trúng cử đại biểu Quốc hội.
Sáng tác.
Huỳnh Văn Gấm sáng tác không nhiều. Ông vẽ kỹ lưỡng, thường không mấy khi ưng ý với tác phẩm. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể tới như "Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940", "Trái tim và nòng súng", "Cô Liên", "Công hội Đỏ", "Bác Hồ ngày thơ ấu" Tác phẩm của ông phần nhiều về đề tài chiến tranh và cách mạng. | 1 | null |
Ngô Tử Hạ (吳子賀, 1882 – 1973) là nhà tư sản dân tộc, Chủ tịch Đại Hội đồng Quốc hội Việt Nam khóa I, đồng thời là đại biểu Quốc hội khoá I cao tuổi nhất.
Ông sinh năm 1882 tại làng Quy Hậu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, cư ngụ tại số 14 đường Lamblot, Hà Nội (nay là phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội). Thân sinh của ông làm nghề nông, cuộc sống cũng tương đối ổn định. Ông theo học ở nhà dòng, thông minh, giỏi tiếng Pháp.
Ngô Tử Hạ lấy vợ sớm, nhưng đến năm 17 tuổi thì vợ qua đời để lại cho ông hai đứa con nhỏ. Một mình ông lặn lội lên Hà Nội làm thuê cho một cơ sở in vỏ bao thẻ hương. Qua nhiều năm dành dụm, ông đã mua máy in và mở cửa hàng in. Sau đó ông lại kết hôn với một người phụ nữ khác, nhờ sự giúp đỡ của vợ mà ông đã phát triển được nghề in của mình, trở thành một người nổi tiếng nhất ở Đông Dương trong lĩnh vực in ấn.
Hoạt động trong ngành in ấn.
Những năm 30, ông làm Giám đốc tạp chí Đông Thanh, hội viên Hội đồng thành phố Hà Nội, và tham gia trị sự báo Nam Phong, sau đó là chủ nhân nhà in Ngô Tử Hạ và là sáng lập viên Trường Ngô Tử Hạ ở Quy Hậu, tỉnh Ninh Bình.
Trước năm 1945, Ngô Tử Hạ làm chủ nhiều nhà in. Báo Nam Phong từng xếp Ngô Tử Hạ là một trong ba trăm nhà tư sản có máu mặt ở xứ Đông Dương. Nhà in nổi tiếng Ngô Tử Hạ từng là Mạnh Thường Quân của các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo. Nhà in của Ngô cũng từng ủng hộ Việt Minh hàng tạ chữ chì để in truyền đơn cho Cách mạng tháng Tám.
Ngô Tử Hạ là người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ đã hoạt động tích cực, tận tụy vào cuộc đấu tranh chống giặc đói của Nhà nước cách mạng, góp phần vào việc giữ nước trong những ngày đầu gian nan. Hình ảnh một ông già ăn mặc chỉnh khăn xếp, áo the kéo xe bò dẫn đầu đoàn người qua các đường phố của Hà Nội kêu gọi quyên góp tiền bạc cứu đói, hình ảnh cụ cùng Hồ Chủ tịch làm lễ cầu siêu cho hơn hai triệu người chết đói tại Nhà thờ lớn Hà Nội...
Nhà in Ngô Tử Hạ cũng là nơi in những tờ giấy bạc đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thường được gọi là "đồng bạc cụ Hồ". Pháp thấy được tầm quan trọng của nhà in này nên sau ngày toàn quốc kháng chiến, nhà in Ngô Tử Hạ đã bị quân Pháp phun xăng đốt, cháy ròng rã suốt một tuần. Vị trí của nhà in ngày nay là số nhà 24 Lý Quốc Sư, Hà Nội .
Ông cùng học giả Nguyễn Văn Tố tham gia trong Hội truyền bá Quốc ngữ.
Tham gia Quốc hội Việt Nam.
Tại phiên họp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tổ chức vào ngày 2.3.1946, Ngô Tử Hạ giữ chức Chủ tịch Đại hội đồng Quốc hội, chủ toạ kỳ họp, đọc lời khai mạc và Tuyên ngôn của Quốc hội Việt Nam và được bầu vào Ban thường trực Quốc hội. Trong thời gian đầu xây dựng chính quyền, Ngô Tử Hạ là cố vấn cho chủ tịch Hồ Chí Minh, được tin cậy và hỏi nhiều ý kiến. Khi chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi ông chọn ngày làm lễ Tuyên ngôn Độc lập vào ngày nào thì ông đề nghị chọn ngày 2 tháng 9 vì ngày đó là ngày Chủ nhật .
Ngô Tử Hạ còn làm cầu nối giữa chủ tịch Hồ Chí Minh với cựu hoàng Bảo Đại. Trong thời gian mở nhà in tại Huế, ông đã quen thân, giao hảo với một số quan lại triều đình và kết giao với hoàng đế Bảo Đại. Chính vì thế khi chuẩn bị cho Bảo Đại thoái vị, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn ông làm nhà thương thuyết, để sau đó Bảo Đại đồng ý thoái vị và nhận làm cố vấn cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sau đó ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Cựu binh.
Khi Toàn quốc kháng chiến ông tản cư về Ninh Bình, quân Pháp nhảy dù vào Ninh Bình và tìm mọi cách để mua chuộc ông nhằm tìm cách phá hoại cách mạng. Để bảo toàn khí tiết và sự nghiệp cách mạng của nước nhà, ông và gia đình được sự giúp đỡ của Hồ Chủ tịch đã sang định cư ở Thuỵ Sĩ từ năm 1947-1954.
Cuối đời.
Sau hiệp định Genève ông trở về nước tiếp tục làm việc trong Ban Thường vụ Quốc hội khóa I, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban đoàn kết tôn giáo, Chủ tịch Ủy ban liên lạc những người Công giáo Việt Nam yêu tổ quốc, yêu hòa bình thành phố Hà Nội.
Năm 1960, gia đình ông đã hiến hàng ngàn m² nhà đất cho nhà nước, chỉ giữ lại 200 m² để ở và sau này làm nơi thờ tự .
Gia đình.
Ông có hai vợ và hai con: một con gái lớn, một con trai út (Ngô Tử Hiển và vợ Ngô Đan Hà sau định cư tại Mỹ) đều với người vợ cả Ngô Thị Hòa.
Đường Ngô Tử Hạ.
Đoạn đường Ngô Tử Hạ ở thành phố Đà Nẵng có điểm đầu là đường Nguyễn Công Triều, điểm cuối là đường 5m chưa đặt tên: Mặt đường bằng bê tông nhựa; chiều dài 425m; rộng 5,5m; vỉa hè mỗi bên rộng 3m. | 1 | null |
Đảng Cộng sản Moldavia (tiếng Romania: Partidul Comunist al Moldovei, PCM; chữ Kirin Moldovan: Партидул Комунист ал Молдовей; tiếng Nga: Коммунистическая партия Молдав ии, "chuyển tự La tinh": Kommunisticheskaya partiya Moldavii) là đảng chính trị cầm quyền và hợp pháp duy nhất trong Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavian, và một trong mười lăm đảng cấp cộng hòa thành lập Đảng Cộng sản Liên Xô (CPSU) cho đến khi Liên Xô sụp đổ năm 1991. Trong Thế chiến II, nó là động lực của cuộc kháng chiến của người Moldova chống lại sự chiếm đóng của phe Trục.
Đảng bắt đầu suy yếu về mặt chính trị trong thời kỳ Perestroika, được đánh dấu bằng các cuộc bạo loạn chống lại sự cai trị của Liên Xô. Lãnh đạo đảng, Semion Grossu được thay thế bằng Petru Lucinschi vào ngày 16 tháng 11 năm 1989.
Vào ngày 23 tháng 8, Đảng Cộng sản bị cấm hoạt động, sau đó, vào ngày 27 tháng 8 năm 1991 Moldova tuyên bố Độc lập và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Moldavian chấm dứt. Ngày 7 tháng 9 năm 1993, Quốc hội Moldova bãi bỏ lệnh cấm các hoạt động cộng sản. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.