text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Ngấy hương còn gọi là Chát ngấy, Đùm đũm hương (danh pháp: Rubus cochinchinensis) là loài thực vật có hoa trong họ Hoa hồng. Loài này được Tratt. mô tả khoa học đầu tiên năm 1823.
Xuất xứ.
Ngấy hương mọc dại ở ở Lào, Campuchia, miền nam Trung Quốc, và Tam Đảo - Việt Nam.
Hình thái.
Ngấy hương là cây bụi, mọc leo dựa vào cây khác, phân cành nhiều, cành vươn dài, có gai nhỏ cong về phía gốc. Lá kép có 5 lá chét, lá chét giữa lớn hơn cả; những lá ở trên có 3 lá chét hình mũi mác; mặt trên lá màu xanh, mặt dưới có lông màu trắng ngà hoặc vàng sẫm, mép lá khía răng cưa; cuống chung dài, có gai. Hoa trắng mọc thành chùm ở nách lá gần ngọn. Quả hình cầu gồm nhiều quả hạch con, đường kính 8–11 mm, màu đỏ khi chưa trưởng thành, màu đen khi chín, ăn được. Hoa nở từ tháng 3-5. Quả từ tháng 7-8.
Công dụng và liều dùng.
Thường dùng sắc thuốc để giúp cho việc tiêu hóa, kém ăn, ăn không tiêu, đau gan. Ngày uống 15-30 g lá và cành phơi khô, quả thì từ 6-12g. Chia làm 2 hoặc 3 lần trước bữa cơm. | 1 | null |
Rubus coreanus, tên thông thường là Mâm xôi đen Triều Tiên, là loài thực vật thuộc Chi Mâm xôi bản địa ở Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Quốc. Loài này được Miq. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1867.
Ở Triều Tiên, loài này được gọi là "Phúc bồn tử" (Hanja: 覆盆子, Hangul: 복분자, chuyển tự Latin: Bokbunja), có quả dùng để làm loại rượu truyền thống "Bokbunja ju" (Phúc bồn tử tửu). Trong khi đó tiếng Trung gọi loài này là "Sáp điền bào" (插田泡), còn tên "Phúc bồn tử" thì để chỉ một loài khác cũng thuộc Chi mâm xôi, xin xem trang định hướng. | 1 | null |
Mâm xôi ba màu (danh pháp hai phần: "Rubus tricolor") hay còn gọi là Mâm xôi tàu là một loại cây bụi thường xanh bò lan, có nguồn gốc ở từ miền tây nam Trung Quốc. Lá có màu xanh đậm ở trên, xanh nhạt ở dưới và thân có lông màu đỏ. Nó có hoa màu trắng vào mùa hè, và quả đỏ ăn được. Cây phát triển cao khoảng 0.3 m (1 ft) và thường hình thành một thảm trải rộng, dày đặc. Trong trồng trọt, cây chủ yếu được sử dụng làm cây bụi che phủ cho đất. Tên thường gặp gồm có bụi cây mâm xôi Trung Quốc, groundcover bramble, creeping bramble, mâm xôi Hàn Quốc, bramble Himalaya, Groundcover Raspberry. Trong tiếng Trung, cây có tên là ("", "dâu tây ba màu"). | 1 | null |
Địa du ("Sanguisorba officinalis") là loài thực vật có hoa trong họ Hoa hồng. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Địa du là một vị thuốc dùng trong Đông y lần Tây Y. Địa du vị đắng, tính hơi hàn, không độc, có khả năng làm mát huyết, cầm máu. Dùng khi phụ nữ tắc sữa, khí hư, thấy kinh đau bụng, kinh nguyệt ra nhiều và các chứng huyết của phụ nữ sau khi sinh nở, còn dùng chữa nôn ra máu, chảy máu cam, đại tiện ra máu, tiêu chảy. Tây Y dùng trong cầm máu, lợi tiêu, rửa vết loét.
Polysacarit chiết xuất từ Địa du có khả năng chống oxy hóa , ethanol chống viêm và chất chiết từ rễ chống rụng tóc. Một số hoạt chất như Sanguiin H-6 và Ziyuglycoside II cũng được chiết xuất từ Địa du.
Mật hoa Địa du cũng là nguồn thức ăn quan trọng cho hai loài bướm châu Âu là "Maculinea nausithous" và "M. teleius". | 1 | null |
là tên một quận thuộc khu Sé của thành phố São Paulo, Brasil. Đây là nơi có cộng đồng người Nhật lớn nhất thế giới bên ngoài nước Nhật và nó tiếp tục phát triển kể từ những năm 1950.
Liberdade của São Paulo được ví như khu phố Nhật ở nước Mỹ. Cũng có một số lượng lớn người Tàu, người Đài Loan và người Triều Tiên cư trú tại quận Liberdade. Ở đây cũng có các tuyến São Paulo Metro chạy qua.
Lối vào Liberdade được trang trí bởi một chiếc cổng "torii" cao 9 m (loại cổng này thường xuất hiện tại lối vào đền thờ Thần đạo) từ 1974. Công trình nổi bật nằm trên đường Rua Galvão Bueno này là một biểu tượng đặc biệt của cả vùng lân cận. | 1 | null |
Brunnera macrophylla là loài thực vật có hoa trong họ Mồ hôi, có nguồn gốc từ Caucasus. Loài này được (Adans.) I.M.Johnst. mô tả khoa học đầu tiên năm 1924.
Đây là một loại cây thân thảo, thân rễ cứng, sống lâu năm, có thể cao từ 12 đến 18 inch (30 đến 45 cm), và mang những chiếc lá hình sợi đơn giản trên thân mảnh mai. Những chùm hoa nhỏ màu xanh lam, tương tự như những loại hoa chi Lưu Ly, nở vào giữa mùa xuân và nở trong 8 đến 10 tuần. | 1 | null |
Cáp điền bò (danh pháp hai phần: Coldenia procumbens) là loài thực vật có hoa được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Trước đây nó được xếp trong phân họ Cordioideae của họ Boraginaceae nghĩa rộng.
Năm 2016, sau khi hệ thống APG IV công bố thì Boraginales Working Group công bố sự phân chia bộ Boraginales ra thành một số họ, trong đó "Coldenia procumbens" là loài duy nhất của chi Coldenia, đồng thời cũng là chi duy nhất của họ Coldeniaceae.
Mô tả.
Cây thân thảo một năm bò sát mặt đất, với thân cây mảnh dẻ, phân cành từ gốc, các cành phủ phục hay cao lên, cao 15–40 cm, thường có rễ chùm, với lớp lông che phủ mịn rậm rạp là lông tơ mềm gồm các sợi lông nhỏ đơn bào màu trắng đơn giản. Lá nhiều, mọc so le, các lá ở phần thân thấp có cuống ngắn, thuôn dài đến hình trứng ngược, 1-2 × 0,5-1,5 cm, cuống lá ngắn, tụ thành chùm, nhỏ, không đối xứng, bề mặt thô ráp, phồng lên, mép lá khía răng cưa đến khía tai bèo hay có thùy, gân lá lông chim với các gân thứ cấp chìm sâu và kết thúc trong các lõm gian thùy của khía răng cưa; các lá phần thân trên không cuống, phiến lá hình trứng, lông tơ chỉ có giữa các gân phía gần trục và có trên toàn bộ bề mặt phía xa trục. Cụm hoa ở nách lá, xim hoa xoắn ốc hình lá lược, chúng thường thuôn dài và kiểu nhánh hoa (anthoclade). Hoa mẫu bốn, lưỡng tính, nhỏ; đài hoa 1,5–2 mm, các thùy đài hoa rời gần tới gốc, hình trứng hay mũi mác, có lông tơ dài, xếp rời trong nụ, hơi phình to ở quả, bền; tràng hoa 2-2,5 mm, nhẵn nhụi, thùy tròn khoảng 0,3 mm, màu trắng hoặc ánh vàng, cánh tràng hợp, ống tràng hình vạc, nhẵn nhụi, các thùy thuôn dài, giãn ngoài, xếp lợp trong nụ; nhị 4, không thò ra, chỉ nhị ngắn khoảng 0,3 mm, nhẵn nhụi, hợp sinh với ống tràng, bao phấn tròn đến hình trứng rộng khoảng 0,2 mm, không thò sâu; bộ nhụy hai lá noãn, bầu nhụy hình trứng hay hình chóp thon đầu, 4 khe, che phủ dày đặc bằng các lông hình chuỗi, vòi nhụy ở đầu tận cùng, ở đỉnh với hai đầu nhụy nhỏ có nhú, đầu nhụy hình đầu, 2 kẽ nứt mờ; đĩa mật hoa có thể có ở đáy bầu nhụy. Quả nhỏ, khô, hình quả lê rộng hay hình tam giác rộng khi nhìn từ mặt bên, kích thước 3–4 mm, chẻ 4 thùy sâu, đỉnh có mỏ sinh ra từ đỉnh vô sinh của bầu nhụy, có lông tơ thô và không đều, dạng hột cơm hay gai thưa thớt và không đều, chủ yếu được bao phủ trong đài hoa đồng phát triển mạnh, chia tách chậm (sau phát tán) thành 4 quả kiên nhỏ hình quả lê xiên chứa 1 hạt, không có khoang vô sinh, vỏ quả ngoài hơi hóa gỗ và có cấu trúc tương tự như bần (li e), vỏ quả giữa nhăn nheo, có gai hay mấu. Ra hoa tháng 4, tạo quả tháng 6.
Trong một thời gian dài nó được coi là đồng chi với "Tiquilia" trong Ehretiaceae (ví dụ: Gray 1862; Bentham & Hooker 1876; Baillon 1891; Gürke 1893; Johnston 1924; Chadefaud & Emberger 1960; Takhtajan 1987). Richardson (1976) chứng minh rằng hai chi này có họ hàng xa dựa trên hình thái học và điều này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu phân tử gần đây (Gottschling & "et al." 2005; Moore & Jansen 2006; Weigend & "et al." 2014). "Coldenia" cũng từng được tạm thời đưa vào trong họ Cordiaceae (Miller & Gottschling 2007). Tuy nhiên, "Coldenia" là khác biệt trong kiểu phát triển bò sát mặt đất và sống một năm của nó, các cụm hoa hình lá lược, các lá mầm phẳng (không uốn nếp) và quả tách ra thành 4 quả kiên nhỏ có mỏ ở đỉnh và loại hạt có mỏ và nhiều gai.
Phân bố.
"C. procumbens" phổ biến rộng khắp ở vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới Cựu Thế giới và đã du nhập vào nhiều nơi khác. Môi trường sống là những nơi nhiều cát, bãi biển, đất gieo trồng khô. | 1 | null |
Chiến tranh Pháp–Thái ( ) (1940–1941) là một cuộc chiến giữa Thái Lan và chính phủ Vichy của Pháp trong các vùng đất của Đông Dương thuộc Pháp mà từng thuộc về Thái Lan.
Các cuộc đàm phán với Pháp ngay trước chiến tranh thế giới thứ hai đã chỉ ra rằng chính phủ Pháp sẵn sàng chỉnh sửa đường biên giới giữa Thái Lan và Đông Dương thuộc Pháp một cách thích hợp, nhưng chỉ ở mức độ nhỏ. Sau khi nước Pháp thất thủ năm 1940, thiếu tướng Plaek Pibulsonggram (thường được biết đến là "Phibun"), thủ tướng Thái Lan, quyết định rằng việc thua trận của nước Pháp đem đến cho người Thái một cơ hội chưa từng có để giành lại những vùng đất đai mà họ đã mất dưới triều vua Chulalongkorn.
Quân Đức xâm chiếm mẫu quốc Pháp khiến cho việc cai trị của Pháp ở những thuộc địa hải ngoại, bao gồm Đông Dương, trở nên vô nghĩa. Việc quản lý các thuộc địa cô lập không còn nhận được những sự hỗ trợ và giúp đỡ từ bên ngoài. Sau khi Nhật Bản tiến vào Đông Dương tháng 9 năm 1940, người Pháp buộc phải cho phép quân Nhật thiết lập những căn cứ quân sự ở đây. Động thái được coi là hèn nhát này đã thuyết phục Phibun rằng chính phủ Vichy sẽ không thể chống lại một cuộc đối đầu với Thái Lan.
Lực lượng hai bên.
Pháp.
Lực lượng của Pháp ở Đông Dương bao gồm một đội quân xấp xỉ 50.000 lính, trong đó có 12.000 người Pháp, được biên chế thành 41 tiểu đoàn bộ binh, hai trung đoàn pháo binh và một tiểu đoàn công binh. Khuyết điểm dễ thấy của quân Pháp là thiếu xe thiết giáp: chỉ có 20 xe tăng Renault FT-17 đã lỗi thời để chống lại gần 100 xe bọc thép của Lục quân Hoàng gia Thái Lan. Quân chủ lực của Pháp đóng gần biên giới với Thái Lan bao gồm các trung đoàn số 3 và số 4 quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ ("Tirailleurs Tonkinois") cùng với đó một tiểu đoàn Montagnard, quân thường trực Pháp trong bộ binh thuộc địa và các đơn vị Lê Dương viễn chinh Pháp.
Armée de l'Air có 100 máy bay trong biên chế, trong số đó có 60 chiếc có thể tham chiến, bao gồm 30 chiếc Potez 25 TOEs, 4 chiếc Farman 221, 6 chiếc Potez 542, 9 chiếc Morane-Saulnier M.S.406 và 8 chiếc Loire 130.
Thái Lan.
Quân đội Thái là một đội quân được trang bị khá tốt. Lục quân Hoàng gia Thái Lan tập trung 60.000 quân, phân thành bốn tập đoàn quân, trong đó lớn nhất là Tập đoàn quân Burapha với 5 sư đoàn và Tập đoàn quân Isan với 3 sư đoàn. Các đội hình độc lập chịu sự kiểm soát trực tiếp của Bộ tư lệnh quân đội bao gồm hai tiểu đoàn kỵ binh cơ giới, một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn pháo hiệu, một tiểu đoàn công binh và một trung đoàn thiết giáp. Lực lượng pháo binh trang bị kết hợp các loại pháo Krupp với pháo Bofors hiện đại hơn, trong khi 60 xe tăng Carden Loyd và 30 xe tăng Vickers 6 tấn chiếm phần lớn lực lượng xe tăng của lục quân.
Hải quân Hoàng gia Thái Lan yếu thế hơn Hải quân Pháp khi chỉ có hai tàu tuần duyên, 12 tàu phóng lôi và bốn tàu ngầm.. Tuy nhiên Không quân Hoàng gia Thái Lan lại trội hơn "Armée de l'Air" về cả mặt số lượng lẫn chất lượng. Trong số 140 máy bay tạo nên sức mạnh tuyến đầu của Thái Lan có 24 máy bay ném bom hạng nhẹ Mitsubishi Ki-30, 9 máy bay ném bom tầm trung Mitsubishi Ki-21, 25 tiêm kích Hawk 75N, 6 máy bay ném bom tầm trung Martin B-10, và 70 máy bay ném bom hạng nhẹ O2U Corsair.
Chiến dịch.
Trong khi các cuộc biểu tình thể hiện chủ nghĩa dân tộc và các cuộc mít tinh chống Pháp được tổ chức tại Bangkok, các cuộc giao tranh nhỏ lẻ diễn ra ở dọc biên giới sông Mekong. Không quân Hoàng gia Thái Lan đã tiến hành các vụ ném bom ban ngày ở Vientiane, Phnom Penh, Sisophon và Battambang. Người Pháp đã trả đũa bằng chính chiếc máy bay của họ, nhưng thiệt hai gây cho đối phương là ít hơn. Những hoạt động của Không quân Thái Lan, đặc biệt trong việc ném bom bổ nhào đã được Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux nhận xét một cách miễn cưỡng rằng những chiếc phi cơ Thái Lan dường như được lái bởi những phi công dày dạn kinh nghiệm trận mạc.
Kết quả.
Thỏa thuận ngừng bắn.
Nhật Bản đã làm trung gian hòa giải cho cuộc xung đột này. Một "Hội nghị đình chiến" do Nhật Bản bảo trợ đã diễn ra ở Sài Gòn và một văn kiện sơ bộ cho việc ngừng bắn giữa chính phủ Vichy của tướng Philippe Pétain và Vương quốc Xiêm đã được ký kết trên tàu tuần dương Natori của Nhật ngày 31 tháng 1 năm 1941 và một lệnh đình chiến hoàn toàn được áp đặt vào lúc 10 giờ ngày 28 tháng 1. Ngày 9 tháng 5, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết ở Tokyo. Pháp bị Nhật ép buộc phải từ bỏ chủ quyền đối với các vùng đất tranh chấp gần biên giới. Pháp đã phải nhượng lại các tỉnh sau cho Thái Lan:
(từ lãnh thổ Campuchia):
(từ lãnh thổ Lào):
Tuy vậy, thị xã Siem Reap và đền Angkor Wat vẫn thuộc Đông Dương thuộc Pháp.
Hiệp ước.
Những gì cuộc xung đột này đem lại được đông đảo người Thái hoan nghênh và đây cũng được xem như là một chiến thắng cá nhân của Phibun. Đây cũng là lần đầu tiên Thái Lan nhận được sự nhượng bộ từ một cường quốc phương Tây dù rằng là nước yếu hơn. Đối với người Pháp ở Đông Dương, cuộc chiến này là một lời nhắc nhở cay đắng về tình trạng bị cô lập của họ sau khi nước Pháp thất thủ.
Thương vong.
Con số thương vong của Pháp là 321, trong đó có 15 sĩ quan. Tổng số binh sĩ bị mất tích sau ngày 28 tháng 1 là 178 người (6 sĩ quan, 14 hạ sĩ quan và 158 lính.). Có 222 người trở thành tù binh của Thái Lan (17 lính Bắc Phi, 80 lính Pháp và 125 người Đông Dương).
Lục quân Thái Lan tổn thất 54 binh sĩ thiệt mạng và 307 binh sĩ bị thương. Có 41 lính thủy đánh bộ và lính hải quân của Thái bị thiệt mạng trong khi bị thương 67 người. Trong trận Ko Chang có 36 binh sĩ Thái Lan bị giết, trong đó có 20 thuộc tàu HTMS Thonburi, 14 người tàu HTMS Songkhla và 2 người thuộc tàu HTMS Chonburi. Không quân Thái mất 13 người. Con số binh sĩ Thái bị Pháp bắt chỉ là 21 người. | 1 | null |
Vòi voi Polynesia, hay vòi voi Thái Bình Dương hoặc Hinahina kū kahakai trong tiếng Hawaii, tên khoa học Heliotropium anomalum, là loài thực vật có hoa trong họ Mồ hôi. Loài này được Hook. & Arn. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1832. Chúng được tìm thấy ở Hawaii, Guam, đảo Christmas, Saipan, Tinian, đảo Wake và Nouvelle-Calédonie. | 1 | null |
Vòi voi vani, tên khoa học Heliotropium arborescens, là loài thực vật có hoa trong họ Mồ hôi. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1759.
Loài "Heliotropium arborescens" là một loại cây lâu năm có nguồn gốc từ Peru.. Nó nổi tiếng với mùi thơm nồng có hương vị giống mùi thơm của vani. | 1 | null |
Vòi voi duyên hải, tên khoa học Heliotropium curassavicum là loài thực vật có hoa trong họ Mồ hôi. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Loài này còn có nhiều tên gọi khác như vòi voi muối, cây đuôi khỉ, cây chim cút thực vật, hay mùi tây Trung Quốc. Trong tiếng Tây Ban Nha ở châu Mỹ Latin, nó được gọi là cola de mico hoặc cola de Gama, trong tiếng Hawaii, nó được gọi là kīpūkai. | 1 | null |
Power Rangers Dino Thunder là series thứ 12 của loạt phim truyền hình nổi tiếng Power Rangers dựa trên phiên bản của Sentai là Bakuryū Sentai Abaranger. Phim đánh dấu sự trở lại của Jason David Frank và có những tập đặc biệt như tập 4 - tập thứ 500 của cả series Power Rangers - kể lại lịch sử các siêu nhân từ Mighty Morphin Power Rangers đến Power Rangers: Ninja Storm, tập 19 khi các siêu nhân xem tập thứ 10 của Bakuryū Sentai Abaranger, tập 27 khi Tommy gặp lại mình ngày trước. Dino Thunder cũng như Abaranger được coi là một bản ăn theo Mighty Morphin cũng như Kyoryu Sentai Zyuranger khi linh thú của siêu nhân đỏ, xanh, vàng trong bản không khác gì tinh thú đỏ, xanh, hồng trong Mighty Morphin cũng như Zyuranger là khủng long bạo chúa, khủng long ba sừng và thằn lằn bay. Đây cũng là phim đầu tiên và duy nhất trong Power Rangers chỉ có 5 thành viên tính cả thành viên bổ sung.
Nội dung.
Một sự cố đã gây ra vụ nổ ở một phòng thí nghiệm, xuất hiện một sinh vật nửa người nửa khủng long Mesogog. Tommy Oliver đã kịp thời chạy thoát. Nhiều năm sau, anh đến giảng dạy ở trường Reefside High, California với tư cách là một tiến sĩ. Trong một lần đến thăm bảo tàng trưng bày hóa thạch khủng long, anh đã mang theo 3 học sinh bị kỷ luật là Conner, Ethan và Kira. 3 học sinh này vô tình tìm được căn cứ bí mật của Tommy và 3 viên đá là màu đỏ, xanh, vàng. Conner nhặt viên màu đỏ, Ethan nhặt viên màu xanh, Kira nhặt viên màu vàng, sức mạnh của 3 viên đá sau đó đã ăn sâu vào trong 3 người. Biết rằng sức mạnh của ba viên đá không thể thoát ra khỏi cơ thể học trò mình, Tommy đã tiết lộ cho họ về những viên đá và sức mạnh siêu nhân. 3 người dưới sự huấn luyện của thầy giáo, trở thành những siêu nhân với sứ mệnh bảo vệ Trái Đất khỏi âm mưu đưa Trái Đất về với thời tiền sử. Đội sau đó có thêm sự giúp đỡ của Tommy khi anh trở lại làm siêu nhân và Trent Fernandez. Cuối cùng, 5 siêu nhân cũng đã làm được điều này, nhưng đổi lại họ mất hết Zord và sức mạnh siêu nhân của mình. Phim kết thúc với cảnh các nhân vật đến dự dạ hội của trường
Các siêu nhân trong Dino Thunder còn xuất hiện trở lại 2 lần trong , tập 31 và 35, sau 2 lần team up, trí nhớ của các siêu nhân bị xóa. Kira sau đó cũng trở lại trong trong tập 20 và 21 và gặp Adam Park - một người bạn cũ của Tommy
Nhân vật.
Conner McKnight/Red Dino Ranger/Triassic Ranger
Conner là học sinh của trường Reefside High, cậu là một cầu thủ bóng đá xuất sắc, Conner có tính kiêu ngạo rất gây khó chịu với mọi người. Conner bị hiệu trưởng Randall bắt gặp khi trốn học chơi bóng đá, cậu cùng với Ethan và Kira bị cấm đến trường một tuần vả bị bắt phải cùng Tommy Oliver đến viện bảo tàng trưng bày khủng long. Tommy nói rằng nếu họ tìm được bất cứ điều gì liên quan đến thời tiền sử, học sẽ được mãn đuổi học. 3 người đã vô tình tìm thấy phòng bí mật của thầy mình và tìm thấy 3 viên đá. Conner nhặt viên đá màu đó với sức mạnh của loài khủng long bạo chúa, viên đá này sau ngấm vào cơ thể cậu, nhờ vậy mà cậu có sức mạnh của siêu nhân đỏ và có tốc độ siêu nhanh ở chân. Từ khi trở thành siêu nhân và nghe những lời khuyên của thầy, Conner đã bỏ được tính kiêu ngạo của mình và chững chạc hơn, là một thủ lĩnh của đội. Conner sau đó còn có thêm sức mạnh Triassic của loài thằn lằn gai và kích hoạt được Battlizer. Conner đã mất zord và sức mạnh siêu nhân để tiêu diệt Mesogog. Cậu trở lại trong tập 31 của S.P.D, khi Broodwing tìm được 3 viên đá đó và bắt Conner, Kira và Ethan về tương lai, ba người đã nhặt ba viên đá của mình, nhờ Kat hồi sức mạnh và giúp đỡ các siêu nhân trong S.P.D, sau lần hợp sức, các siêu nhân S.P.D đã nói về tương lai của 3 người, Conner sẽ trở thành một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp và nổi tiếng. 3 người bị đưa về thời của mình - 1 năm sau khi tiêu diệt Mesogog và bị xóa trí nhớ. Conner cũng xuất hiện thêm một lần nữa ở tập 35 S.P.D, khi các siêu nhân S.P.D trở về quá khứ năm 2004. Conner có một người anh em sinh đôi là Eric - một học viên của trường Ninja, xuất hiện trong tập cuối của Power Rangers: Ninja Storm, nhưng người này sau bị đuổi học vì quá kém
Ethan James/ Blue Dino Ranger
Ethan là học sinh của trường Reefside High, cậu là một chuyên gia về máy tính, giống như Conner và Kira, Ethan bị đuổi học 1 tuần vì trốn học khi giúp bạn mình hack một phần mềm. Ethan đã nhặt viên đá màu xanh với sức mạnh của loài khủng long ba sừng khi cùng Conner và Kira tìm thấy phòng bí mật của thầy. Viên đá màu xanh cũng ngấm vào cơ thể của Ethan, nhờ vậy mà cậu có sức mạnh của siêu nhân xanh và có cánh tay rất khỏe. Ethan nổi tiếng là bị nghiện game nặng, luôn bám lấy máy tính và điện tử tay cầm. Ethan cũng đã hi sinh zord và sức mạnh siêu nhân của mình để tiêu diệt Mesogog. Cậu trở lại trong tập 31 của S.P.D, khi Broodwing tìm được 3 viên đá đó và bắt Conner, Kira và Ethan về tương lai, ba người đã nhặt ba viên đá của mình, nhờ Kat hồi sức mạnh và giúp đỡ các siêu nhân trong S.P.D, sau lần hợp sức, các siêu nhân S.P.D đã nói về tương lai của 3 người, Ethan trở thành một chuyên gia tin học và đã tạo ra khá nhiều vũ khí tối tân được dùng trong . 3 người bị đưa về thời của mình - 1 năm sau khi tiêu diệt Mesogog và bị xóa trí nhớ. Ethan cũng xuất hiện thêm một lần nữa ở tập 35 S.P.D, khi các siêu nhân S.P.D trở về quá khứ năm 2004
Kira Ford/Yellow Dino Ranger
Kira là học sinh của trường Reefside High, cô là một ca sĩ, giống như Conner và Ethan, Kira bị đuổi học 1 tuần do trốn học tập hát. Kira đã nhặt viên đá màu vàng với sức mạnh của loài Chi Thằn lằn bay không răng khi cùng Conner và Ethan tìm thấy phòng bí mật của thầy. Viên đá màu vàng cũng ngấm vào cơ thể của Kira, nhờ vậy mà cô có sức mạnh của siêu nhân vàng và có giọng rất khỏe. Kira sống khép kín và chỉ bộc lộ cảm xúc của mình bằng âm nhạc. Kira có tình cảm với Trent nhưng phim không làm rõ cũng làm đầy đủ câu truyện tình này, người xem có thể nhận ra qua cuộc gặp mặt đầu tiên giữa hai người và Kira luôn tìm cách bào chữa cho Trent khi mọi người biết được bí mật của cậu. Kira đã hy sinh zord và sức mạnh siêu nhân của mình để tiêu diệt Mesogog. Cô trở lại trong tập 31 của S.P.D, khi Broodwing tìm được 3 viên đá đó và bắt Conner, Kira và Ethan về tương lai, ba người đã nhặt ba viên đá của mình, nhờ Kat hồi sức mạnh và giúp đỡ các siêu nhân trong S.P.D, sau lần hợp sức, các siêu nhân S.P.D đã nói về tương lai của 3 người, Kira trở thành ca sĩ nổi tiếng và được lưu diễn ở New York. 3 người bị đưa về thời của mình - 1 năm sau khi tiêu diệt Mesogog và bị xóa trí nhớ. Ethan cũng xuất hiện thêm một lần nữa ở tập 35 S.P.D, khi các siêu nhân S.P.D trở về quá khứ năm 2004. Kira còn trở lại một lần nữa trong tập 20 và 21 của khi Sentinel Knight đã tập hợp 5 siêu nhân ở 5 Power Rangers khác nhau, Kira có gặp lại Tori và Bridge nhưng chỉ nhận ra Tori vì cuộc gặp gỡ của cô với các siêu nhân S.P.D đã bị xóa ký ức, Kira cũng nói chuyện với Adam về Tommy Oliver. Sau lần trở lại đó, Kira tiếp tục với cuộc sống của mình
Tommy Oliver/Black Dino Ranger
Thomas Oliver là một trong những chiến binh vĩ đại nhất trong lịch sử Power Rangers, anh xuất hiện và chiến đáu từ phiên bản đầu tiên Mighty Morphin Power Rangers đến . Dù từ bỏ làm siêu nhân ở giữa chừng bản Turbo nhưng Tommy vẫn là một trong những người giỏi nhất và là người hùng của nhiều trẻ em. Sau khi từ bỏ làm siêu nhân ở Turbo, Tommy tiếp tục theo đuổi việc học và đến làm ở Viện Công nghệ Massachusetts, niềm đam mê thời tiền sử bỗng đến với Tommy và làm anh nhớ đến quãng thời gian còn làm siêu nhân. Trong lúc nghiên cứu, Tommy đã tình cờ tìm thấy 3 viên đá quý đỏ, vàng, xanh và anh quyết định sẽ giấu nó. Khi đang cùng Terrence Smith và Anton Mercer, một sự cố đã xảy ra, phòng thí nghiệm bị nổ, Mesogog xuất hiện. Tommy đã chạy thoát, và khi 3 người học trò tìm thấy 3 viên đá, anh đã đào tạo họ thành siêu nhân. Vốn có kinh nghiệm từ lâu, nên khi các con quái vật chuyển sang khổng lồ, Tommy không thấy ngạc nhiên. 3 siêu nhân không biết thân phận thật của thầy mình cho đến khi Tommy bị Mesogog bắt, Ethan tìm thấy một đĩa ghi lại những hồi ức của Tommy khi còn là siêu nhân và kể câu chuyện về các siêu nhân khác từ sau khi mình từ bỏ thân phận. Khi bị Mesogog bắt, Tommy đã phát hiện thêm một viên đá có sức mạnh của loài Brachiosaurus. Tommy được các siêu nhân giải thoát và lấy đi viên đá đó, viên đá sau cũng ngấm vào người Tommy và định mệnh một lần nữa lại bắt anh trở lại làm siêu nhân. Anh trở lại với sức mạnh màu đen. Ở trong đội, Tommy luôn tìm kiếm và thu phục những con zord (zord của anh không có khả năng chiến đấu). Tommy sau đó đã phát hiện ra Trent là siêu nhân trắng nhưng đã bị Trent hóa đá, dù được giải thoát nhưng anh bị kẹt trong thân hình của siêu nhân. Trong tập 27, Tommy tìm ra cách để trở lại dạng người thường, anh đã đối mặt với những siêu nhân mà mình đã từng trải qua ở Mighty Morphin Power Rangers và Power Rangers: Zeo trong ý thức của mình. Sau lần đối mặt đó, Tommy kích hoạt được Super Dino Mode và mạnh hơn. Anh đã hy sinh tất cả các zord và sức mạnh siêu nhân của mình để tiêu diệt Mesogog. Anh có xuất hiện lại trong tập 35 của S.P.D, nhưng chỉ ở dạnh siêu nhân. Tommy tiếp tục công việc nghiên cứu và giảng dạy của mình, anh dự kiến sẽ trở lại trong với sức mạnh màu xanh lá cây trong Mighty Morphin
Trent Fernandez/White Dino Ranger
Trent là học sinh của trường Reefside High, cậu là một họa sĩ và là một học sinh mới chuyển đến trường. Trent là con nuôi của tiến sĩ Anton Mercer, sau vụ nổ phòng thí nghiệm, bố mẹ của Trent đã chết và Anton nhận Trent làm con nuôi. Trent có tài năng và đam mê hội họa nhưng người cha nuôi không tán thành vì ông muốn cậu sẽ nối nghiệp của mình. Ở trường, Trent làm bồi bàn giúp đỡ cho cửa hàng của Hayley. Trent có tình cảm với Kira nhưng câu chuyện tình này không được làm rõ ràng, chúng ta có thể nhận ra ở vài điểm cuộc gặp mặt đầu tiên giữa hai người và Trent có quan tâm đến Kira khi theo dõi, vẽ cô lúc cô biểu diễn. Trent đã nhìn thấy không gian ảo bí ẩn ở nhà nơi có thể đưa người ta dịch chuyển đến bất kì vị trí nào, trong một lần sau khi nói chuyện với bố, Trent lại nhìn thấy không gian ảo đấy và nó đưa cậu đến đúng căn cứ của Mesogog, cậu nhìn thấy viên đá lạ mang sức mạnh của loài Tupuxuara, viên đá sau đó đã ngấm vào người của Trent và nó đã chọn cậu để trở thành siêu nhân trắng. Thế nhưng sức mạnh của viên đá quá mạnh khiến Trent không thể chế ngự nó mà chính nó chế ngự Trent, thay đổi Trent thành một siêu nhân cực mạnh nhưng bản tính từ hiền lành thành một kẻ ác và ngang ngược. Khi bị viên đá chế ngự, Trent không kiểm soát được mình, đánh nhau loạn xạ, đánh cả các siêu nhân và cả phe Mesogog, và còn cướp cả con Stegosaurus của Tommy, tạo ra một Megazord riêng cho mình. Trent đã nói bí mật của mình với Kira. Cho đến khi bị viên đá hoàn toàn kiểm soát, Trent thỏa thuận đứng về phe Mesogog và có đấu đá quyền lực với Zeltrax. Zeltrax đã âm mưu hại Trent và hắn đã thành công khi Mesogog dùng máy hút năng lượng của Trent, bỗng nhiên Anton xuất hiện, đảo chiều của máy mà nó bắn trúng vào morpher của Trent, giảm sức mạnh giúp Trent kiểm soát lại mình và gia nhập đội. Cùng lúc đó Zeltrax sử dụng nguồn sức mạnh viên đá bị hút, tạo ra một siêu nhân trắng ác. Trong thời gian ở đội, sức mạnh của Trent bị giảm nên thậm chí cậu không thể điều khiển được zord của mình. Ở tập 30, sức mạnh của siêu nhân trắng giả bị giảm mạnh vì chỉ được phép tồn tại một siêu nhân trắng, Trent đã tiêu diệt siêu nhân giả và lấy lại một phần sức mạnh bị mất. Cậu mạnh hơn và điều khiển được con zord của mình. Trent giấu bí mật của bố mình cho đến tập 35, lúc bố cậu không kiểm soát được mình. Trent đứng trước việc có thể bị tước mất quyền làm siêu nhân nhưng đã nhanh chóng lấy lại được lòng tin của đội và trả lời được câu hỏi của Conner rằng cậu sẽ phản ứng ra sao khi đối mặt với Mesogog. Trent đã vạch ra kế hoạch để tiêu diệt căn cứ của Mesogog, cậu cũng đã tiêu diệt toàn bộ lính của hắn. Trent mất zord và sức mạnh của mình để tiêu diệt Mesogog. Cậu xuất hiện lại trong tập 35 của S.P.D. Trent theo học trường hội họa và tiến sĩ Mercer rất tự hào vì điều đó
Đồng minh.
Hayley Ziktor
Harley là quản lý cửa hàng Cyberspace Cafe của trường Reefside High và là nguồn trợ giúp không nhỏ cho các siêu nhân. Chị là bạn đại học của Tommy và là thiên tài về máy móc. Harley đã chế tạo xe cho các siêu nhân, nâng cấp các Zord. Harley đã từng có bằng tốt nghiệp ở Học viện Công nghệ Massachusetts
Cassidy Cornell
Cassidy là phóng viên của trường Reefside High, cô hay nói nhiều nên tính cách rất là khó chịu. Cô từng hẹn hò với Ethan, nhờ vậy mà Ethan nhận ra được điểm tốt của cô, sau 2 người chia tay vì công việc. Cassidy luôn tìm cách săn đuổi để tìm được tung tích các siêu nhân và cô đã thành công khi các siêu nhân đang chiến đấu với Mesogog. Sau đó cô đã đưa băng ghi hình cho Tommy và nói không muốn làm hại bạn bè vì bản thân mình
Devin Del Valle
Devin là trợ lý của Cassidy, là người quay hình. Cậu có tình cảm với Cassidy, vì thế nên cậu mới chịu được tính cách của cô. Devin đã từng ghi lại đoạn băng về Trent nhưng sau bị chị gái mình ghi đè đoạn quay cháu của cậu, Devin đã từng đối mặt với Zeltrax và 2 lần ghi hình về tung tích của các siêu nhân khi 5 người chiến đấu với Zeltrax và Mesogog
phản diện.
Những nhân vật ác này chủ yếu là con người nhưng do ảnh hưởng thí nghiệm mà bị biến thành kẻ xấu
Mesogog/Tiến sĩ Anton Mercer
Anto Mercer là tiến sĩ về hóa thạch khủng long và là cha nuôi của Trent, sau vụ nổ phòng thí nghiệm, bố mẹ của Trent đã chết và Anton nhận Trent làm con nuôi. Ông cũng là chủ của công ty cùng tên và giảng dạy ở trường Reefside High. Trong một lần pha chế hóa chất DNA khủng long, Anton đã thí nghiệm lên cơ thể mình và ông bị biến thành một sinh vật nửa người nửa khủng long Mesogog. Trent sau đó cũng phát hiện ra sự thật về Mesogog. Trong một lần bị Zeltrax bẫy, Trent bị Mesogog đem lên hút sức mạnh, đúng lúc đó ý thức của Anton trỗi dậy, Mesogog bị biến trở lại thành Anton Mercer, ông đã chỉnh đường dẫn và bắn vào morpher của Trent. Anton nói rằng Trent hãy giúp đỡ các siêu nhân, còn mình sẽ tự tìm cách xoay xở, Anton đã nhiều lần thất bại khi cố gắng tiêu diệt Mesogog. Sau khi bí mật bị lộ, Mesogog đã tách cơ thể mình khỏi Anton Mercer. Để cứu bố, Trent đã thỏa thuận với Mesogog sẽ đem 5 viên đá đổi lấy bố mình, Mesogog đồng ý và đã mắc mưu Trent, khi đem 5 viên đá đến, Trent đã ấn nút để các siêu nhân tiến vào tiêu diệt căn cứ Mesogog, Trent sau cứu được bố mình ra. Mesogog đã kịp hấp thụ 5 viên đá nên sống sót và trở nên cực mạnh, các siêu nhân đã phải dùng hết sức mạnh viên đá, tạo ra một con khủng long bạo chúa để tiêu diệt hoàn toàn hắn, đổi lại, họ mất sức mạnh siêu nhân. Anton sau đó đã cảm ơn các siêu nhân và cảm thấy tự hào khi Trent theo học trường hội họa
Elsa
Elsa là tay sai của Mesogog, Elsa vốn là một người bình thường nhưng bị Mesogog bắt và đem đi thí nghiệm. Elsa đã giấu mình với danh hiệu trưởng trường Reefside, mụ đã thất bại rất nhiều khi đối đầu với các siêu nhân. Elsa sau đã lấy tấm bài Ruby Dragon của Ethan để tạo quái vật, đúng lúc đó Tommy đi vào phòng Hiệu trưởng và phát hiện ra, sau khi các siêu nhân tiêu diệt con quái vật Ruby Dragon. Elsa đã nhét nó vào túi Mesogog, vì vậy mà khi trở lại là Anton Mercer, tấm bài bị rơi ra và Mesogog bị lộ bí mật. Sau đó Mesogog đã hút hết sức mạnh Elsa, Elsa trở lại là một con người bình thường
Zeltrax/Terrence Smith
Terrence Smith cũng là một chuyên gia nghiên cứu khủng long và từng cạnh tranh với Tommy để làm việc cho Tiến sĩ Anton Mercer. Sau khi Anton chọn Tommy, Terrence đã làm việc cho công ty địch thủ và có một bước đột phá trong pha chế hóa chất về loài khủng long. Thế nhưng lúc đó phòng thí nghiệm bị nổ, Mesogog đã tìm thấy Smith và tái tạo anh ta thành một dạng quái vật. Terrence sau lấy tên là Zeltrax
Giống như Goldar, Zeltrax cũng có thù hận và quyết tâm tiêu diệt bằng được Tommy, mối thù đấy càng lên cao khi Tommy tiêu diệt Goldenrod con quái vật mà Zeltrax coi như con
Sau khi kế hoạch thất bại thảm hại, lúc Conner kích hoạt sức mạnh Triassic, Zeltrax đã quay lưng lại với Mesogog, bặt hơi một thời gian dài để lên kế hoạch tăng sức mạnh. Zeltrax còn tạo ra Zelzord - một con Zord khá mạnh khiến các siêu nhân phải hy sinh toàn bộ Zord của mình để tiêu diệt được. Zeltrax sau bị Tommy và Kira giết
Zeltrax còn xuất hiện lại trong tập 35 Power Rangers: S.P.D, khi Gruumm đi ngược thời gian về 24 năm trước, Gruumm đã liên kết với Zeltrax để tấn công các siêu nhân trong Dino Thunder và S.P.D nhưng sau thất bại, Zeltrax trốn thoát và tiếp tục lên kế hoạch trả thù
Sức mạnh và khí giới.
5 siêu nhân đều có điểm giống nhau là có vũ khí và cùng có khả năng biến Super Dino Mode, khi biến dạng Super Dino Mode, gai sẽ mọc đầy trên người các siêu nhân, Kira có thêm cánh vì cô có sức mạnh của Chi Thằn lằn bay không răng Pteranodon, Trent không có cánh nhưng cũng có khả năng bay lượn vì cậu có sức mạnh của Chi thằn lằn bay không răng khác, lớn hơn là Tupuxuara. Đầu tiên là Conner có được khi chiến đấu với Trent, sau Kira và Ethan cũng có khi khi chiến đấu với Trent, Trent có được khả năng này sau khi sức mạnh bị giảm, sau cùng là Tommy. Super Dino Mode của Trent mạnh nhất trong số cả năm với gai lớn hơn và 2 gai đầu tay mọc dài hơn nửa mét.
Morphers
Vũ khí
Phương tiện đi lại
Chi tiết đặc biệt.
Trong tập "Lost & Found in Translation", các chiến binh Dino Thunder ngồi xem bản lồng tiếng Anh tập 10 của Abaranger. Khi Conner, Ethan và Kira theo dõi, Conner đã kinh hoàng khi miêu tả về chúng. Trong khi đó, các Abaranger phải đối đầu với một con quái vật tên là Trinoid 9: Bankumushroom (bản lồng tiếng Anh bị xuyên tạc thành Ka - Ching). Nó là một con quái vật biến con người có mái tóc kiểu đầu nấm và vũ khí của nó là những đồng xu. Trong khi Kira rất nhiệt tình và Ethan, tò mò, Conner vẫn nghi ngờ về điều đó bởi vì, vì đây không phải là một chương trình của Mỹ, nên họ sẽ miêu tả về Abaranger vô cùng không chính xác. Mặc dù vậy, anh vẫn ở lại khi Kira thuyết phục anh tiếp tục theo dõi để sao lưu yêu cầu của mình. | 1 | null |
Rì rì cát hay rù rì cát (danh pháp khoa học: Ehretia aquatica) là loài thực vật có hoa thuộc họ Dót (Ehretiaceae) hoặc trong phân họ Ehretioideae thuộc Boraginaceae nghĩa rộng.
Loài này được João de Loureiro miêu tả khoa học đầu tiên năm 1790 dưới danh pháp "Rotula aquatica". Năm 2001, Gottschling & Hilger chuyển nó sang chi "Ehretia". | 1 | null |
Turricula parryi là loài thực vật có hoa trong họ Mồ hôi. Loài này được Asa Gray miêu tả khoa học đầu tiên năm 1876 dưới danh pháp "Nama parryi". Năm 1917 James Francis Macbride chuyển nó sang chi đơn loài Turricula.
Phân bố.
Loài này là bản địa miền nam California (Hoa Kỳ) và Baja California (Mexico). Nó đặc biệt phổ biến trong dãy núi Ngang, cũng như xuất hiện trong dãy núi Duyên hải California về phía nam San Luis Obispo, cũng như trong dãy núi Sierra Nevada xa về phía bắc tới hẻm núi Kings. | 1 | null |
Phạm Trung Tuyến (sinh ngày 4 tháng 11 năm 1973) là nhà báo, Phó giám đốc kênh VOV Giao thông Quốc gia – Đài tiếng nói Việt Nam (VOV). Trước khi là người thiết kế nội dung VOV Giao thông, ông là biên tập viên, phụ trách chương trình phát thanh tương tác với thính giả Bạn hãy nói với chúng tôi. Ông cũng được biết tới vai trò là một nhà văn trong tác phẩm Chuyện nhà văn của Di Li. Cùng với Trần Đăng Khoa, Ngô Thiệu Phong...ông là tác giả của nhiều bài bình luận trên Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, đặc biệt là trong mục "Blog tòa soạn", là một trong 5 người đầu tiên được vinh danh Cây bút VOV.
Sự nghiệp.
Anh nổi tiếng trên làn sóng Đài tiếng nói Việt Nam vì đã tạo ra các chương trình phát thanh có tinh tương tác cao (tương tác toàn diện, tương tác các loại hình báo chí với nhau, tương tác với các nhà nghiên cứu, các khách mời và các thính giả...) như Bạn hãy nói với chúng tôi, Góc nhìn Đường Tin, Phía sau tội ác... đồng thời là người có các bài bình luận sắc sảo trong các chương trình đó. Anh là một số trong rất nhiều nhà báo của VOV thực hiện những bài điều tra chống tiêu cực và giành được Giải Báo chí Quốc gia.
Anh là người chuẩn bị nội dung cho dự án kênh VOV giao thông quốc gia. VOV giao thông quốc gia là một kênh phát thanh tương tác đầu tiên ở Việt Nam phát sóng trực tiếp 24/24h.
Tác phẩm.
Ông có bút danh Lão Phạm. Sau khi một thời gian dài phát sóng chương trình Bạn hãy nói với chúng tôi, biên tập viên Phạm Trung Tuyến đã tập hợp những câu chuyện có thật của thính giả Đài Tiếng nói VN tâm sự với chương trình để hình thành nên cuốn sách với nhan đề "Những câu chuyện trong đêm" (Ghi chép từ studio của một biên tập viên mất ngủ). Với số lượng phát hành 3000 cuốn. | 1 | null |
, là một nhà khảo cổ học người Nhật Bản. Ông có tên tiếng Việt là Lý Văn Sỹ. Ông Nishimura Masanari đã có thời gian dài làm cộng tác viên tại Viện Khảo cổ học Việt Nam, ông được mệnh danh là "một người Nhật rất Việt Nam". Ông là người có đóng góp lớn vào việc xây dựng Bảo tàng gốm Kim Lan, bảo tàng cấp xã đầu tiên ở Việt Nam.
Cuộc sống.
Tiến sĩ Masanari sinh tại thành phố Shimonoseki, Nhật Bản. Ông học về khoa khảo cổ học ở Đại học Tokyo, ông nói tiếng Việt rất tốt.
Ông bắt đầu đến Việt Nam năm 1990, trong chương trình hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam để khai quật một số mộ cổ ở Nghĩa Đàn, Nghệ An và nghiên cứu về di chỉ làng Vạc.
Luận án thạc sĩ của ông nghiên cứu về công cụ đá của văn hóa Hòa Bình và văn hóa Sơn Vi. Luận án tiến sĩ của ông nghiên cứu về khảo cổ học ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Mê Kông – Đồng Nai.
Ông Nishimura và các đồng nghiệp của ông ở Viện Nghiên cứu Tương tác Văn hóa thuộc Đại học Kansai, Nhật Bản đã có nhiều công trình hợp tác với Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
Năm 2001, ông kết hôn với tiến sĩ Noriko, lễ cưới của ông bà được tổ chức tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, và họ đã có hai con trai. Cả gia đình ông đã có nhiều năm gắn bó với Việt Nam.
Tiến sĩ Masanari qua đời sau một tai nạn giao thông trên đường 5 ở Hà Nội, khi ông đang đi xe máy để khảo sát ở chùa Dạm, ngôi chùa quan trọng bậc nhất của thời Lý, hiện còn lại cột đá rất nổi tiếng. Do cả gia đình ông Nishimura đều gắn bó với Việt Nam, vì vậy nên gia đình ông đã có nguyện vọng thực hiện việc tang lễ của ông theo nghi thức của một người Việt. Viện Khảo cổ học Việt Nam đã đứng ra tổ chức tang lễ cho ông. Linh cữu của ông được chôn cất tại nghĩa trang xã Kim Lan, Gia Lâm, Hà Nội.
Sự ra đi đột ngột của ông Masanari đã khiến nhiều người cảm thấy xót xa, nuối tiếc. Những lời tri ân và thương tiếc với Tiến sĩ Masanari đã xuất hiện trên khắp các diễn đàn, mạng xã hội, nhất là của những người đã từng được gặp và làm việc cùng ông
Những đóng góp.
Trong suốt 20 năm cộng tác và làm việc ở Việt Nam, ông Masanari đã có nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ rất có giá trị. Ông là người phát hiện ra mảnh khuôn đúc trống đồng duy nhất từ trước đến nay, có niên đại khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 3 sau Công nguyên. Điều này đã chứng tỏ rằng, trống đồng được đúc ra từ chính Việt Nam, chứ không phải từ nơi khác mang đến.
Ông còn là người có công đóng góp cho việc xây dựng Bảo tàng gốm Kim Lan và Dương Xá nằm tại Bắc Ninh. Ông cùng những đồng nghiệp khảo cổ Việt Nam đã phát hiện các khuôn đúc mũi tên tại Luy Lâu, nhằm chứng tỏ mũi tên có niên đại từ thời kỳ An Dương Vương và đã được sản xuất tại Việt Nam thời xưa.
Tiến sĩ Masanari đã tham gia nhiều chương trình khác như nghiên cứu địa điểm 18 Hoàng Diệu, Hà Nội, tham gia nghiên cứu thành nhà Hồ, trống đồng Đông Sơn. Ông cũng là người góp phần giới thiệu phương pháp "khảo cổ học bình dân" cho mọi người biết cách bảo tồn lưu giữ di chỉ khảo cổ. Ông cũng tham gia đào tạo và hướng dẫn các nghiên cứu trẻ của Viện khảo cổ học và các địa phương.
Ông Nishimura Masanari đã nghiên cứu về Hoàng thành Thăng Long, di vật đời Lý – Trần; đến Tây Đô (Thanh Hóa). Những nghiên cứu hữu ích của ông đã góp phần để UNESCO công nhận ngôi thành đá độc đáo này là Di sản Văn hóa thế giới | 1 | null |
Ngô Hoàng Thịnh (sinh ngày 21 tháng 4 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Thép Xanh Nam Định.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Sông Lam Nghệ An.
Hoàng Thịnh trưởng thành từ lò đào tạo trẻ Sông Lam Nghệ An. Anh được đôn lên thi đấu ở đội 1 từ mùa giải 2011. Trong suốt thời gian thi đấu cho Sông Lam Nghệ An (tới hết mùa giải 2015) anh đã 88 lần ra sân và ghi được 3 bàn thắng.
FLC Thanh Hóa.
Cuối năm 2015, Hoàng Thịnh chuyển sang thi đấu cho FLC Thanh Hóa theo bản hợp đồng kéo dài 3 mùa bóng với khoản lót tay lên tới 6 tỷ đồng. Sau mùa bóng đầu tiên V-League 2016 khoác áo Thanh Hóa, anh dính chấn thương nặng không thể thi đấu giai đoạn đầu mùa bóng 2017.
Thành phố Hồ Chí Minh.
Mùa giải 2019, Hoàng Thịnh chính thức gia nhập Thành phố Hồ Chí Minh sau quãng thời gian chơi bóng ở Thanh Hóa. Tại đây, anh nhanh chóng trở thành trụ cột của câu lạc bộ.
Ngày 23 tháng 3 năm 2021, trong trận đấu gặp Hà Nội ở vòng 5 V.League 1 2021 trên sân Thống Nhất, Hoàng Thịnh có pha vào bóng bằng hai chân gây chấn thương nặng cho tiền vệ Đỗ Hùng Dũng. Ngoài việc bị thẻ đỏ trực tiếp, anh còn bị cấm thi đấu đến hết năm 2021, nộp tiền phạt và phải đền bù chi phí chữa trị cho Hùng Dũng.
Hoàng Thịnh trở lại ở vòng 2 của V.League 2022 và góp công không nhỏ giúp câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh trụ hạng. Ở mùa giải 2022, anh được mang băng đội trưởng cho "Chiến hạm đỏ". Anh ghi dấu ấn bằng bàn thắng đẹp nhất tháng 7 sau pha sút phạt mang thương hiệu của Cristiano Ronaldo.
Sự nghiệp quốc tế.
Ngô Hoàng Thịnh có lần đầu tiên được triệu tập lên đội tuyển quốc gia Việt Nam vào năm 2014, dưới thời huấn luyện viên Toshiya Miura. Giải đấu lớn anh tham dự trong năm này là AFF Cup 2014.
Năm 2018, anh có tên trong danh sách sơ bộ của đội tuyển chuẩn bị cho AFF Cup 2018, tuy nhiên không có tên trong đội hình sau cùng thi đấu tại giải.
Năm 2019, anh cũng được triệu tập vào đội dự tuyển chuẩn bị cho vòng loại World Cup 2022, nhưng bị loại vì đau mắt.
Đời sống cá nhân.
Ngô Hoàng Thịnh lập gia đình với Dương Thị Ánh Nguyệt năm 2018, có một con trai sinh năm 2020.
Danh hiệu.
Hoàng Thịnh từng được đề cử danh hiệu Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất 4 lần liên tiếp nhưng chưa lần nào được nhận danh hiệu. Anh đã giành được một số huy chương ở các giải quốc gia như: 2 huy chương đồng giải U11 và U12, 1 vàng giải U15, 3 vàng giải U17, 1 vàng giải U21 QG, á quân U21 Quốc tế. Năm 19 tuổi, Hoàng Thịnh giành giải vô địch V-League 2011, Á quân Cúp quốc gia. | 1 | null |
Chung kết Cúp FA 1872 là trận chung kết cúp FA mùa bóng đầu tiên, 1871-72. Trận đấu là cuộc đọ sức giữa Wanderers và Royal Engineers trên sân Kennington Oval ở thủ đô London, Anh vào ngày 16 tháng 3 năm 1872. Trận đấu kết thúc với tỷ số 1-0, phần thắng nghiêng về Wanderers. Bàn thắng duy nhất của trận đấu được thực hiện bởi Morton Betts ở phút thứ 15.
Kết quả.
Quy định:90 thi đấu chính thức30 hiệp phụ nếu hòa trong thời gian chính thứcĐá lại nếu tỷ số vẫn hòa.Không có quyền thay người. | 1 | null |
Thần Châu 10 () là một chuyến bay có người lái vào không gian nằm trong chương trình Thần Châu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được lên kế hoạch phóng vào ngày 12 tháng 6 năm 2013, đưa 3 nhà du hành vũ trụ lên quỹ đạo. Thần Châu 10 đã rời bệ phóng tại Trung tâm Phóng vệ tinh Tửu Tuyền, tỉnh Cam Túc.
Theo Cục hàng không vũ trụ Trung Quốc (CNSA), tàu vũ trụ Thần Châu 10 sẽ được ghép nối với môđun không gian Thiên Cung 1 (được phóng từ ngày 29 tháng 9 năm 2011), đây cũng là nhiệm vụ cuối cùng của Thiên Cung 1. Thần Châu 10 sẽ lắp ghép với trạm không gian Thiên Cung 1 của Trung Quốc, dự kiến phi hành đoàn sẽ ở lại trên quỹ đạo trong 15 ngày để thực hiện các thí nghiệm y học và công nghệ vũ trụ. Đây là lần thứ 5 Trung Quốc phóng thành công tàu vũ trụ có người lái.
Chuyến đi này có một phi hành đoàn gồm ba nhà du hành: Nhiếp Hải Thắng, Trương Hiểu Quang và Vương Á Bình, trong đó Vương Á Bình là nữ phi hành gia. | 1 | null |
Shaun Mark "Sean" Bean (sinh ngày 17 tháng 4 năm 1959) là một diễn viên sân khấu và điện ảnh người Anh. Anh được biết đến với vai Boromir trong The Lord of the Rings phần 3, Lord Eddard Stark trong bộ phim truyền hình HBO Game of Thrones và nhân vật hư cấu sĩ quan người Anh Richard Sharpe trong loạt phim truyền hình ITV Sharpe. Vai diễn đáng chú ý khác bao gồm Alec Trevelyan trong phim James Bond GoldenEye, Odysseus trong Troy, Dr. Merrick trong The Island, Ian Howe trong National Treasure, Zeus trong loạt phim Percy Jackson và Ulric trong Black Death.
Bean cũng đã đóng góp trong một số sản phẩm truyền hình và vai trò của nhân vật chẳng hạn như game: Robert ASke trong Henry VIII. Ông cũng đã thực hiện lồng tiếng cho các trò chơi video, bao gồm Martin Septim trong . Bean thường nói giọng Yorkshire (tiếng địa phương thuộc miền bắc nước Anh) trong vai trò diễn xuất của mình.
Đầu đời.
Bean được sinh ra tại quận Handsworth Sheffield, Yorkshire, con trai của Rita (nhũ danh Tuckwood) và Brian Bean. Cha ông làm chủ một cửa hàng chế tạo có 50 nhân công, trong đó mẹ của Bean làm thư ký cho cửa hàng. Mặc dù là gia đình khá giả (cha của anh sở hữu một chiếc Rolls-Royce Silver Shadow), họ không bao giờ đi khỏi địa phương vì thích luôn ở gần bạn bè và gia tộc của mình.
Lúc còn là một đứa trẻ, Bean đập vỡ một cửa kính khi giành lấy một cây kéo. Một mảnh thủy tinh đã ghim vào trong chân của anh, một thời gian ngắn bị khó khăn khi di chuyển và để lại một vết sẹo lớn. Điều này ngăn cản anh theo đuổi giấc mơ chơi bóng đá chuyên nghiệp. Năm 1975, anh rời trường Brook toàn diện với chứng chỉ trung bình trong môn nghệ thuật và tiếng Anh. Sau khi làm việc tại một siêu thị và cho hội đồng ở địa phương, anh bắt đầu làm việc cho công ty của cha mình và tham gia một khóa học tại Cao đẳng Nghệ thuật và Công nghệ Rotherham. Lúc đó, anh tình cờ vào một lớp học nghệ thuật và quyết định theo đuổi đam mê của mình trong nghệ thuật.
Sau khi tham dự các khóa học tại hai trường khác, anh trở lại trường Cao đẳng Rotherham, nơi anh đã qua một khóa học diễn viên đóng phim. Sau một số vai diễn thử nghiệm tại các trường và ở nhà hát Rotherham Civic, anh nộp đơn và nhận được học bổng vào Học viện kịch nghệ Hoàng gia, bắt đầu một khóa học 7 học kỳ trong tháng 1 năm 1981.
Phong cách diễn xuất.
Mặc dù được đào tạo chuyên nghiệp, Sean Bean thường thể hiện phong cách làm việc theo bản năng mà một số người đã cho rằng anh đặc biệt rất phù hợp để diễn các nhân vật có cá tính. Anh đã nói trong một cuộc phỏng vấn rằng, phần khó khăn nhất là bắt đầu quay phim khi đang cố gắng để hiểu được nhân vật của mình. Và sau khi đạt được điều này, anh có thể hoàn thành nhanh chóng các cảnh quay của mình. Khả năng này để đi từ người đàn ông trầm lặng trong vai chiến binh Boromir gây "ngạc nhiên" cho Sean Astin trong quá trình quay phim của The Fellowship of the Ring. Các fan khác bao gồm đạo diễn Mike Figgis (Stormy Monday) và Wolfgang Petersen (Troy (phim)), người mô tả "mọi thứ tốt đẹp" khi làm việc với Bean. | 1 | null |
Agnieszka Roma "Aga" Radwańska là 1 cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Ba Lan. Radwańska đạt thứ hạng cao nhất là số 2 thế giới vào tháng 7 năm 2012. Được biết đến là 1 tay vợt biết cách xây dựng chiến thuật thi đấu cũng như lối chơi thông minh, phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân, Radwanska đã có được 17 danh hiệu đơn trong sự nghiệp.
Radwanska đã từng tiến sâu vào 1 giải Grand Slam đó là tại giải Wimbledon 2012 và đã để thua Serena Williams. Ngoài ra, còn vào được bán kết của Úc Mở rộng và tứ kết Roland Garros.
Ngoài ra, cô còn chơi ở nội dung đôi, từng đánh cặp với Maria Kirilenko và Daniela Hantuchová, nhưng sau năm 2010, Radwanska tập trung cho nội dung đơn và ít khi tham gia đánh đôi.
Radwanska được bình chọn là tay vợt nữ được yêu thích nhất của WTA trong 5 năm liên tiếp (2011-2015). Với thành tích của mình trong thể thao, năm 2013, cô đã được Tổng thống Ba Lan Bronisław Komorowski trao tặng huy hiệu chữ thập vàng.
Cuộc sống cá nhân.
Sinh ra tại Kraków, Radwanska bắt đầu tập chơi tennis từ năm 4 tuổi. Khi đó, cha cô đã giúp cô làm quen với tennis cũng như các môn thể thao khác. Em gái cô là Urszula Radwanska cũng là 1 vận động viên quần vợt. Cô hâm mộ Martina Hingis và Pete Sampras và lấy đó làm nguồn cảm hứng chơi tennis cho mình. Ngoài chơi tennis, Radwanska còn theo học ngành du lịch tại trường đại học tại Kraków. Cô cũng là một tín đồ Công giáo La Mã, và từng tham gia vào chiến dịch "Nie wstydzę się Jezusa!" (Tôi chẳng lấy làm hổ thẹn vì đấng Kitô!) của Công giáo Ba Lan. Trong chiến dịch này, cô phát hành một video kêu gọi người hâm mộ "đừng hổ thẹn vì đức tin của mình" và dùng những quả bóng tennis để xếp thành dòng chữ "JEZUS" ("JESUS").
Theo Forbes, vào năm 2012 cô là vận động viên nữ có thu nhập cao thứ 9 trên thế giới.
Sự nghiệp.
2005-2006: Những năm đầu trong sự nghiệp.
Radwanska giành được danh hiệu tại giải trẻ Wimbledon 2005, đánh bại Tamira Paszek và tiếp tục có được danh hiệu tại giải trẻ Roland Garros 2006 sau chiến thắng trước Anastasia Pavlyuchenkova. Cô tham dự giải đấu WTA đầu tiên của mình là tại J & S Cup vào năm 2006 (sau này là Warsaw Open) ở Warsaw, đánh bại Anastasia Myskina trong trận đấu ra quân đầu tiên của mình và để thua trước Elena Dementieva ở trận tứ kết trong vòng 3 set đấu.
Tại Wimbledon năm 2006, cô thua Kim Clijsters tại vòng 4, và sau đó thua tại vòng 2 của U.S Open. Tại giải đấu ở Luxembourg, Radwanska đã vượt qua cựu số 1 thế giới Venus Williams ở vòng 2 và Elena Dementieva tại tứ kết nhưng thua Francesca Schiavone ở bán kết.
2007-2008: Danh hiệu WTA đầu tiên.
Radwanska tham dự Úc Mở rộng 2007 nhưng cô thua Ana Ivanovic tại vòng 2. Tại Sony Ericsson Open năm 2007, cô đã đánh bại thần tượng của mình là Hingis tại vòng 3. Nhưng cô phải rời khỏi giải đấu vì thua Tathiana Garbin tại vòng 4.
Tháng 8 năm 2007, Radwanska có thêm chức vô địch WTA tại Nordea Nordic Light sau khi thắng Vera Dushevina trong trận chung kết. Tại Mỹ Mở rộng 2007, Radwanska đã đánh bại tay vợt đương kim vô địch là Maria Sharapova tại vòng 3 nhưng sau đó để thua trước Shahar Pe'er ở vòng 4.
Tại Úc Mở rộng 2008, cô đã lọt đến tứ kết sau khi thua Daniela Hantuchova. Tại Pháp Mở rộng, Radwanska thua Jelena Jankovic tại vòng 4. Tại Wimbledon, cô thua. Ở Mỹ Mở rộng, cô cũng thua tại vòng 4 trước Venus Williams. Tại WTA Championships, Radwanska được chọn để thay thế cho Ana Ivanovic bị chấn thương, có trận thắng sau 2 set trước Svetlana Kuznetsova. Radwanska kết thúc năm ở vị trí thứ 10.
Tại Olympics Bắc Kinh, Radwanska đại diện cho nước Ba Lan để chơi tại đây, thua trước Schiavone tại vòng 2.
2009-2010.
Tại giải Úc mở rộng, Radwańska bị loại tại vòng 1 sau khi thua Kateryna Bondarenko. Tại Pháp Mở rộng, cô thất bại tại vòng 4, thua Svetlana Kuznetsova. Cô và em gái Urszula tham dự nội dung đôi Pháp Mở rộng và cũng lọt đến tứ kết. Tại Wimbledon, Radwanska thua Venus Williams tại tứ kết.
Radwańska có trận bán kết đôi đầu tiên là tại Tokyo, thua trước Maria Sharapova. Vào đến chung kết giải tại Trung Quốc, thua Kuznetsova.
Agnieszka Radwanska tham dự nội dung đánh đôi tại Úc Mở rộng cùng với Maria Kirilenko, lọt đến bán kết, thua bộ đôi hạt giống số 1 và cũng là bộ đôi số 1 thế giới vào thời điểm đó Cara Black và Liezel Huber. Tại Pháp Mở rộng, cô cũng đánh đôi với Kirilenko, bộ đôi này cũng lọt đến tứ kết và thua Serena và Venus Williams. Tại Wimbledon, Radwańska lọt đến vòng 4, thua Li Na, người mà cô cũng từng đánh bại trong giai đoạn cùng kì năm trước.
Do chấn thương, Radwanska phải kết thúc mùa giải 2010 sớm, sau trận thua Angelique Kerber tại giải China Open và kết thúc năm ở ngoài top 10.
2011.
Agnieszka lọt đến tứ kết Úc Mở rộng, nơi cô thua trước nhà vô địch năm đó Kim Clijsters với tỉ số 3–6 6–74–7. Tại Pháp Mở rộng, cô lại một lần nữa dừng bước ở vòng 4 sau trận thua Maria Sharapova. Tại Wimbledon, thua Petra Cetkovska của Cộng hòa Séc tại vòng 2. Ở US Open, cô thua Angelique Kerber tại vòng 2 sau khi đánh bại cô em Urszula Radwańska ở vòng 1. Radwanska có danh hiệu WTA tại Tokyo sau chiến thắng trước Vera Zvonareva. Tại China Open, Radwanska có được chức vô địch sau khi thắng Andrea Petkovic 7–5 0–6 6–4 trong trận chung kết. Radwanska giành được 1 suất tham dự WTA Championships với cương vị hạt giống số 8, dừng bước tại vòng bảng.
Agnieszka Radwanska kết thúc năm 2011 ở vị trí số 8 thế giới.
2012: Lần đầu vào chung kết Grand Slam, vị trí số 2 thế giới.
Năm 2012 được coi như 1 bước ngoặt trong sự nghiệp cua Agnieszka Radwanska.
Tại Úc Mở rộng, Radwanska lần thứ 3 phải dừng bước tại tứ kết, thua Victoria Azarenka sau 3 set. Radwanska có danh hiệu WTA tại Dubai sau chiến thắng trước Julia Goerges và danh hiệu tại Miami sau chiến thắng bất ngờ 7–5 6–4 trước Maria Sharapova.
Trên mặt sân đất nện, Radwanska có danh hiệu WTA tại Brussels, (Bỉ) sau chiến thắng trước Simona Halep 7–5 6–0 ở trận chung kết. Tại Pháp Mở rộng, sau khi đánh bại Venus Williams tại vòng 2, Radwanska phải dừng bước tại vòng 3 sau trận thua trước Kuznetsova. Tại Wimbledon, Radwanska lần đầu tiên có mặt tại trận chung kết của giải và cũng là trận chung kết Grand Slam đầu tiên trong sự nghiệp, thua trước Serena Williams 1–6 7–5 2–6 trong trận chung kết. Tại Olympics London 2012, Radwanska đại diện cho nước Ba Lan tham dự với cương vị hạt giống số 2 nhưng cô lại thua một cách bất ngờ trước Julia Goerges 5–7 7–65–7 6–4 tại vòng một. Tại US Open, Radwanska được xếp hạt giống số 2 nhưng lại thua trước hạt giống số 20 Roberta Vinci tại vòng 4 khiến cô rơi xuống vị trí số 4 thế giới. Tại WTA Championships, Radwanska lọt đến trận bán kết, thua Serena Williams 6–2 6–1.
Radwanska kết thúc mùa giải 2012 ở vị trí số 4.
2013.
Radwanska có 2 danh hiệu WTA liên tiếp tại Auckland sau chiến thắng trước Yanina Wickmayer 6–4 6–4 và tại Sydney, thắng Dominika Cibulkova 6–0 6–0 trong trận chung kết.
Tại Úc Mở rộng, Radwanska có lần thứ 3 liên tiếp thất bại tại trận tứ kết, năm nay người đánh bại cô là Li Na, á quân năm đó. Tại Pháp Mở rộng, Radwanska lần đầu tiên vào tứ kết nhưng cô lại thua á quân năm 2012 Sara Errani 4–6 6–76–8. Tại Wimbledon, cô thua Sabine Lisicki trong trận bán kết
4–6 6–2 7–9. Khi Azarenka, Sharapova và cả Serena Williams chơi không tốt tại giải, thì Radwanska cũng không bắt đuọc cơ hội để có chức vô địch grand slam đầu tiên trong sự nghiệp.
Radwanska cũng có những trận đấu chuẩn bị khá tốt trước thềm US Open. Đi đến bán kết Rogers Cup, thua Serena Williams 6–73–7 4–6. Radwanska bỏ cuộc tại tứ kết Cincinnati trong trận đấu gặp Li Na.
Agnieszka Radwanska tiến đến Mỹ Mở rộng khi được xếp hạt giống số 3 (sau khi Maria Sharapova rút lui do chấn thương) nhưng cô lại 1 lần nữa không thoát khỏi ngưỡng cửa vòng 4 để lọt vào tứ kết, lần này, Radwanska thua tay vợt Nga Ekaterina Makarova 4–6 4–6.
Sau Mỹ Mở rộng, Radwanska có được danh hiệu WTA thứ 3 trong mùa giải, giải đấu tại Seoul, Hàn Quốc sau chiến thắng 6–76–8 6–3 6–4 trước Anastasia Pavlyuchenkova. Cô còn tham dự China Open – giải đấu mà trước đây cô đã từng vô địch, dừng bước tại bán kết (thua Serena Williams 6–2 6–2). Radwanska tham dự WTA Championships với 1 tâm lý có vẻ không ổn định khiến cô thua cả ba trận vòng bảng, thua Petra Kvitova 4–6 4–6, Serena Willams 2–6 4–6 và thua Angelique Kerber 2–6 2–6, điều đó khiến cô rơi khỏi top 4, kết thúc năm ở vị trí số 5 thế giới.
2014-2015: Vô địch WTA Final.
Radwanska mở đầu năm 2014 khi cùng đồng đội là Grzegorz Panfil đại diện cho Ba Lan tham dự Hopman Cup, được xếp hạt giống số 1 và vào được trận chung kết. Tại chung kết gặp Pháp, cô đánh bại được Alize Cornet nhưng thua tại trận đôi nam nữ trước đội Pháp.
Tại Úc Mở rộng, Radwanska lần đầu tiên vào bán kết sau 5 năm thất bại tại tứ kết khi bất ngờ đánh bại nhà đương kim vô địch Victoria Azarenka 6–1 5–7 6–2 tại tứ kết, cô đã tạo nên 1 kết quả mà ít ai nghĩ tới. Tại Roger Cup (Montreal, Canada), Radwanska giành được chức vô địch khi đánh bại Venus Williams trong trận chung kết. Tại WTA Final, cô để thua trước Maria Sharapova và Caroline Wozniacki nhưng đã giành chiến thắng trước Petra Kvitová để lọt vào bán kết rồi dừng bước trước Simona Halep. Radwanska kết thúc năm 2014 với vị trí thứ 6.
Radwanska khởi đầu năm 2015 cùng đồng đội Jerzy Janowicz đại diện cho Ba Lan tham dự Hopman Cup, tại chung kết cô giành chiến thắng trước Serena Williams và trong trận đánh đôi để giành chức vô địch cho đội Ba Lan.
Tại WTA Final 2015, Radwanska nằm trong bảng đỏ cùng Simona Halep, Maria Sharapova và Flavia Pennetta. Cô đã để thua Sharapova và Pennetta, nhưng sau đó đã đánh bại Halep để giành quyền lọt vào vòng sau. Tiếp đó cô đánh bại Garbiñe Muguruza tại bán kết và Petra Kvitova tại chung kết để giành chức vô địch WTA Final đầu tiên. Cô kết thúc năm 2015 với vị trí thứ 5.
Phong cách thi đấu, trang bị.
Năm 2012, Tom Perrotta của tờ The Wall Street Journal gọi Radwanska là "tay vợt chơi chiến thuật và khôn ngoan bậc nhất trên thế giới. Trong suốt nhiều năm người ta gọi cô với nhiều nickname như "Nhà ảo thuật", "Ninja" hay "Bậc thầy", xuất phát từ việc Radwanska có khả năng tung ra những cú đánh vô cùng khó bằng một cách thức rất dễ dàng. Lối chơi của Radwanska được xây dựng trên nền tảng của sự đa dạng, linh hoạt và xu hướng dự đoán các cú đánh của đối thủ. Cô thường sử dụng phong cách này để duy trì những loạt đánh bền cũng như mở góc đánh tạo điểm winner, hoặc gây bất ngờ nhằm khiến đối phương đánh bóng hỏng. Vũ khí chính của Radwanska bao gồm sự phối hợp của những cú cắt và lốp, đi kèm với khả năng đánh bóng ở mọi góc sân. Cô cũng thường sử dụng những cú dropshot ngụy trang, thực hiện với động tác tương tự như một cú đánh bóng thông thường. Radwanska còn được chú ý với những cú đánh khom người, cô ngồi sụp xuống để đánh trả hoặc chuyển hướng bóng, cùng với cú trái tay vượt đầu trong khi phòng thủ. Trên thực tế, người ta xem Radwanska như người sáng tạo ra kiểu đánh bóng bằng tư thế squat, theo đó cô hạ thấp cơ thể để thực hiện những cú half vollley theo hướng vợt dọc. "Tôi không biết mình có phải là người phát minh ra nó hay không," Radwanska nói, "nhưng chắc chắn tôi là một trong những người tiên phong làm điều ấy. Khi xem TV, tôi có thể nghe người BLV nói rằng đó là cú đánh của tôi, ngay cả khi có một người nào đó thực hiện nó, thật là tốt khi biết được mình đã đóng góp chút ít gì đó cho tennis".
Một trong những yếu điểm quan trọng của Radwanska chính là những cú giao bóng thiếu lực. Đặc biệt đối với những cú giao bóng hai, thường rất chậm và dễ bị tấn công. Những cú đánh của cô đôi khi có điểm rơi rất nông trên sân, tạo nhiều thuận lợi cho đối thủ đè bóng nặng. "Tôi không nghĩ bản thân mình có thể tung ra những cú giao bóng 200 km/h, nó thực sự không phải là cơ thể của tôi", Radwanska nói. "Tôi phải bù vào thứ gì đó. Tôi được sinh ra để chơi như vậy. Trong đầu lúc nào cũng đầy ắp những ý tưởng, kiểu như 'OK Đánh dọc dây rồi sau đó chéo sân, có thể thêm dropshot vào nữa.' Nhưng bạn chỉ có duy nhất 1s để quyết định, nhiều khi cũng không có giây nào, thế nên mọi thứ phải được lập trình tự động." Radwanska đẩy hơi ra khi cô đánh bóng, nhồi bóng không quá 4 lần trước khi giao. Cô tiết lộ rằng mình có thể sử dụng bất kỳ chiếc vợt nào và có thói quen sử dụng duy nhất một chiếc trong suốt trận đấu.
Radwanska sử dụng vợt Babolat Pure Drive Lite, và trang phục thi đấu của Lotto. Ngoài ra cô cũng có hợp tác với các hãng Lexus, Rado, Amica, Cheesecake Factory, Vanquis Bank..., logo của các hãng này xuất hiện trên trang phục thi đấu của cô tùy theo mùa giải.
Huấn luyện viên.
Radwanska bắt đầu sự nghiệp quần vợt dưới sự hướng dẫn của cha cô - Robert Radwański.
Trong năm 2011, Radwanska bắt đầu làm việc với huấn luyện viên Tomasz Wiktorowski.
Cuối năm 2014, Radwanska mời huyền thoại quần vợt nữ Martina Navratilova vào đội ngũ huấn luyện của mình. Trong tháng 4 năm 2015, họ chia tay sau khi Navratilova nói rằng cô quá bận rộn và không thể tiếp tục công việc.
Thành tích tại các giải Grand Slam.
W = vô địch
F = á quân
SF = bán kết
QF = tứ kết
1R, 2R, 3R, 4R = vòng 1, vòng 2, vòng 3, vòng 4 | 1 | null |
Tỉnh dòng La San Việt Nam là một phân cấp của Dòng La San. Trong thời kỳ mở đầu, dòng La San tại Đông Dương trực thuộc tỉnh dòng Ấn Độ.
Lịch sử.
Nhóm tu sĩ Dòng La San đầu tiên đến Việt Nam gồm sáu người, khởi hành từ Toulon vào năm 1865 và đến Sài Gòn ngày 6 tháng 1 năm 1866. Tại đây, họ bắt đầu điều hành trường d’Adran vào ngày 9/1/1866. ngôi trường này vốn do các linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris mở trước đó. Mọi chi phí ăn ở, giảng dạy, cơ sở vật chất, giáo cụ và trợ huấn cụ của các sư huynh và học sinh đều do Hội Thừa sai Paris đài thọ. Theo đúng chủ trương của dòng La San, các tu sĩ này dạy học bằng chữ quốc ngữ, không dạy bằng chữ Nho và tiếng Pháp.
Năm 1867, dòng mở thêm chi nhánh ở Chợ Lớn, Mỹ Tho, rồi đến năm 1869 là Vĩnh Long và Sóc Trăng. Trong thời gian đầu, mọi chi phí của trường d’Adran do Hội Thừa sai Paris tài trợ. Sau đó, chính quyền thực dân tài trợ chi phí trường dòng và học bổng cho học sinh. Tuy nhiên, tới năm 1879, chính quyền ở Pháp thay đổi chính sách, ngưng tài trợ cho trường tư thục; chính quyền đô hộ Pháp ở Việt Nam cũng ngưng tài trợ các trường dòng La San. Trường d’Adran đóng cửa vào khoảng năm 1887.
Vào năm 1873, linh mục Kerlan có mở một trường nghĩa thục dạy cho các trẻ bị bỏ rơi, trong số đó có nhiều trẻ là người lai. Trường được gọi theo tên Giám mục Taberd - Giám mục địa phận Nam Việt từ năm 1830 đến 1840. Khi trường d’Adran đóng cửa, cha mẹ học sinh trường này đem con đến theo học trường Taberd. Linh mục Kerlan thấy không đủ sức lo cho những học trò mới liền mời các tu sĩ Dòng La San trở qua giúp ông. Năm 1889 có chín tu sĩ từ Marseille qua. Năm sau đó, các tu sĩ tiếp nhận Trường Trung học Lasan Taberd, lúc đó có khoảng 160 học sinh mà một nửa ở nội trú. Số học trò theo học tăng nhanh, nên năm 1891 có thêm năm tu sĩ theo qua, mở thêm một trường nghĩa thục nằm ngay cạnh trường Taberd. Các tu sĩ lại mở thêm một chi nhánh ở Vũng Tàu(tên cũ là Ô Cấp). Qua sự sắp xếp của linh mục Kerlan,dòng Sai chịu trách nhiệm tài chính đối với những trường do các tu sĩ dòng La San điều hành và giảng dạy.
Năm 1894, hai tu sĩ ra Hà Nội mở trường. Số học sinh tăng lên quá nhanh, Giám mục Hà Nội khi ấy là Gentreau phải mua một thửa đất rộng hơn để xây trường mới. Trường được khánh thành năm 1897 với 400 học sinh, và được đặt tên là trường Puginier, tên vị Giám mục tiền nhiệm.
Vào tháng 1 năm 1896, dòng La San ở Đông Dương được tách ra khỏi Tỉnh Dòng La San Ấn Độ để thành lập Tỉnh Dòng La San Sài Gòn. Năm 1897, trường Taberd được mở rộng thêm. Năm 1898, nhà dòng mở trường đào tạo thầy giáo ở Thủ Đức (Lasan Thủ Đức) cạnh tiểu chủng viện đã được mở năm trước đó nhằm đào tạo các tu sĩ tương lai cho dòng.
Thế kỷ 20.
Tính đến đầu thế kỷ 20, dòng La San tại Việt Nam đã có sáu trường, 76 tu sĩ, 17 người tập sự học ở nhà tập sư phạm, và 6 chủng sinh. Chính quyền thuộc địa đã ngưng yểm trợ các nhà trường và không tài trợ cho dòng nữa. Năm 1904, nhà dòng mở trường Pellerin ở Huế. Năm 1906, nhà dòng mở trường Thánh Giuse ở Hải Phòng. Năm 1908, nhà dòng mở trường Thánh Giuse ở Mỹ Tho. Năm 1924, nhà dòng mở trường Thánh Tomasso d'Aquino ở Nam Định. Năm 1932, nhà dòng mở trường Thánh Louis ở Phát Diệm và trường Gagelin ở Bình Định.
Đến năm 1933, nhà dòng lập ra Nhà tập (gồm tiểu chủng viện và chủng viện) ở Nha Trang, tọa lạc trên đồi La San. Năm 1934, dòng tiếp tục lập ra nhà tập sự (probatorium) ở Bùi Chu. Năm 1941, dòng La San thành lập trường d’Adran bên rừng Ái Ân, Đà Lạt.
Ngoài ra còn trường La San Đức Minh ở Tân Định, trường La San Kỹ thuật ở Đà Lạt, trường Thánh Phanxicô Xaviê ở Sóc Trăng, và trường Bá Ninh (Bénilde) ở Nha Trang không rõ được mở vào năm nào.
Vào năm 1955, tất cả các trường La San ở miền Bắc được chuyển vào miền Nam, học sinh các trường này tùy vị trí định cư mà theo học các trường đang có trong Nam. Riêng học sinh các trường Puginier ở Hà Nội, trường Thánh Giuse ở Hải Phòng được theo học ở trường Taberd, Sài Gòn. Năm 1956, nhà dòng mở trường La San Kim Phước ở Kontum. Năm 1957 thì mở trường La San Bình Lợi ở Qui nhơn. Năm 1958, nhà dòng mở trường La San Ban Mê Thuột, đồng thời trường La San Nghĩa Thục ở Sài Gòn dường như cũng được mở vào năm này. Trường La San Nghĩa Thục thu học phí rất thấp vì dành cho trẻ em nghèo; tiền học phí thu ở trường La San Taberd dùng để giúp học sinh La San Nghĩa Thục. Cũng giống như La San Nghĩa thục, trường La San Chánh Hưng và các trường thu học phí thật thấp như Xóm Bóng ở Nha trang và Phú Vang ở Huế.
Năm 1962, nhà dòng thành lập trường Trung Tiểu học Lasan Văn Côi, Hố Nai, Biên Hòa. Từ năm 1961, Hiệp hội Thánh Mẫu Taberd có thêm Đoàn Thánh Mẫu Sinh viên do Sư huynh Adrien tổ chức, tham gia hoạt động trong khuôn khổ Công giáo Tiến hành với Tổng hội Sinh viên Công giáo Sài Gòn, dưới sự hướng dẫn của linh mục Nguyễn Văn Lập.
Trong những năm đầu thập niên 1970, dòng La San đưa học sinh Taberd các lớp 9 và 10 hằng tuần đi thăm viếng các khu lao động nghèo, hớt tóc cho các em nhỏ và phát thuốc cho những người đến khám bệnh ở những trạm chẩn bệnh miễn phí như ở La San Chánh Hưng (theo toa các bác sĩ và các sinh viên y khoa). Dòng phụ trách dạy các học sinh lớp 9 và 10, một số nghề như chụp hình, rửa ảnh, sửa radio...
Vào đầu năm 1975, dòng La San ở Việt Nam đã có 300 tu sĩ và khoảng 15 chủng sinh. Ngoài các trường học, Dòng La San còn có trang trại Mai Thôn ở khu vực Thanh Đa để các tu sĩ lớn tuổi về đây hưu dưỡng, và cũng là nơi để các hội đoàn "cấm phòng".
Dòng La San sau 1975.
Sau năm 1975, tất cả các trường La San bị chính quyền tịch thu. Trường Lasan Taberd bị đóng cửa vào năm 1976, sau đó cơ sở trường này được dùng làm trường cao đẳng sư phạm và sau đó là Trường trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa. Trường d'Adran Đà Lạt bị trưng dụng và nay trở thành trụ sở của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng. Chỉ trong vỏn vẹn 1 năm, toàn bộ tài sản của dòng La San chỉ còn có trang trại Mai Thôn (Thanh Đa). Hoạt động của các sư huynh Dòng La San bị hạn chế rất nhiều.
Bắt đầu từ năm 1980, các tu sĩ trong dòng bắt đầu tự lực tổ chức lại quy chế của dòng bất chấp khó khăn chính trị và xã hội. Sự tự lực tái tổ chức giúp dòng có sẵn sinh khí khi Việt Nam áp dụng chính sách đổi mới. Các tu sĩ dòng La San trở về với sứ vụ của dòng là giáo dục và bắt đầu tạo dựng những cơ sở mới. Đến nay, các tu sĩ dòng La San đã mở lại một số trung tâm dạy nghề, các trường tình thương, được phép tổ chức một số sinh hoạt cứu trợ.
Một số sinh hoạt hiện nay của dòng La San tại Việt Nam: | 1 | null |
Bầu nâu là phát âm theo tiếng Khmer ផ្នៅ = P'nư, (danh pháp khoa học: Aegle marmelos) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (L.) Corrêa mô tả khoa học đầu tiên năm 1800.
Phân bố.
Bản địa bầu nâu là vùng Nam Á và Đông Nam Á trải dài từ Ấn Độ đến Campuchia.
Ở Việt Nam, bầu nâu được trồng ở miền Nam. | 1 | null |
Citrus aurantiifolia (Tiếng Anh: Key Lime, Mexican Lime) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (Christm.) Swingle mô tả khoa học đầu tiên năm 1913.
Mô tả.
Chiều cao của "Citrus aurantiifolia" có thể phát triển cao tới 5 m. "Citrus aurantiifolia" có cành cây đầy gai và hoa của nó có màu trắng ngả vàng. Quả của "Citrus aurantiifolia" có phần da mỏng và khá axit.
Phạm vi.
"Citrus" "aurantiifolia" thường sinh sống trên vùng Châu Á nhiệt đới và có thể bắt nguồn từ phía bắc Ấn Độ hoặc Myanmar.
Trồng trọt.
"Citrus aurantiifolia" được trồng rộng rãi ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là Tây Ấn, Mexico, Florida, Ai Cập và Đông Nam Á.
"Citrus aurantiifolia" thường phát triển ở độ cao lên tới 2.200 m. Nhiệt độ tối ưu cho sự canh tác của "Citrus aurantiifolia" nằm trong khoảng từ 25 - 30°C. Sự tăng trưởng của "Citrus aurantiifolia" thường sẽ ngừng lại ở nhiệt độ dưới 13 ° C và trên 38 ° C. | 1 | null |
Citrus australasica (tiếng Việt gọi là chanh ngón tay, từ tiếng Anh "finger lime") là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được F.Muell. mô tả khoa học đầu tiên năm 1858. Chanh có hình dáng dài như ngón tay, thon, trong thịt có hàng trăm hạt nhỏ bên trong như trứng cá tầm. Các loài thường được bao gồm trong chi "Microcitrus" chứ không phải trong chi "Citrus". | 1 | null |
Yuzu ("Citrus junos", từ tiếng Nhật "dữu tử" hoặc ) là một loại cây ăn quả có múi thuộc họ Rutaceae có nguồn gốc từ Đông Á. Yuzu được trồng chủ yếu ở Đông Á, mặc dù gần đây cũng có ở New Zealand, Úc, Tây Ban Nha, Ý và Pháp.
Cây được cho là có nguồn gốc ở miền trung Trung Quốc. Vốn là giống lai F1 của phân loài "quýt rừng Mãng Sơn" của quýt thường và cam Nghi Xương.
Mô tả.
Loại quả này giống như một quả bưởi nhỏ với vỏ không đều và có thể có màu vàng hoặc xanh tùy thuộc vào độ chín. Quả y"uzu" rất thơm, thường có đường kính khoảng từ nhưng cũng có thể to bằng quả bưởi thường (đến , hoặc lớn hơn) và cân nậng khoảng 120 đến 130g.
Yuzu có dạng cây bụi thẳng đứng hoặc cây nhỏ, thường có nhiều gai lớn. Lá cây nổi bật với cuống lá lớn, giống như lá đơn, giống lá chanh Thái và cam Nghi Xương có họ hàng gần và hương thơm nồng.
Yuzu gần giống với sudachi ("Citrus sudachi", mọc ở tỉnh Tokushima, một loại cam lai chéo yuzu-quýt) ở nhiều khía cạnh, tuy nhiên, không giống như sudachi, yuzu khi chín có màu cam và có sự khác biệt tinh tế giữa hương vị của quả.
Trồng trọt.
Yuzu có nguồn gốc ở thượng nguồn sông Dương Tử của Trung Quốc. Cây được du nhập vào Nhật Bản và Hàn Quốc vào thời nhà Đường. Cây phát triển chậm, thường cần mười năm để ra quả. Để rút ngắn thời gian đậu quả, cây có thể được ghép vào karatachi ("P. trifoliata"). Điều bất thường ở các loại cây có múi là tương đối chịu được sương giá, do loài tổ tiên là cam Nghi Xương vốn chịu lạnh, có thể trồng ở những vùng có mùa đông thấp đến , nơi cây có múi nhạy cảm hơn sẽ không phát triển mạnh.
Giống trồng và trái cây tương tự.
Ở Nhật Bản, một phiên bản trang trí của yuzu được gọi là , "hoa yuzu", cũng được trồng để lấy hoa hơn là lấy quả. Một loại yuzu ngọt được gọi là "yuko", chỉ có ở Nhật Bản, đã trở nên nguy cấp nghiêm trọng trong những năm 1970 và 1980; một nỗ lực lớn đã được thực hiện để hồi sinh giống này ở miền nam Nhật Bản. Một loại yuzu khác ở Nhật Bản, có vỏ sần sùi, được gọi là .
Dangyuja, một loại quả có múi của Hàn Quốc từ đảo Jeju, thường được xem là một loại yuzu do hình dạng và hương vị tương tự, nhưng đó là một loại bưởi về mặt di truyền.
Sử dụng.
Đông Á.
Trong ẩm thực.
Nhật Bản.
Sản lượng yuzu nội địa là khoảng 27.000 tấn (2016). Mặc dù hiếm khi được ăn như một loại trái cây, nhưng yuzu là một thành phần phổ biến trong ẩm thực Nhật Bản, trong đó vỏ thơm (vỏ ngoài) và nước cốt được sử dụng nhiều giống như cách sử dụng chanh vàng trong ẩm thực đa dạng. Hương vị yuzu chua và thơm, gần giống với hương vị bưởi, với hương quýt.
Quả là một thành phần không thể thiếu (cùng với sudachi, daidai và các loại quả có múi tương tự khác) trong nước sốt ponzu làm từ các loại chanh và giấm yuzu cũng được sản xuất. Yuzu thường được kết hợp với mật ong để làm ( "dữu tử phong mật"), một loại siro dùng để pha trà yuzu ( "dữu tử trà"), hoặc là một thành phần trong đồ uống có cồn như yuzu chua (). (cũng là , nghĩa đen là "yuzu và hạt tiêu") là một loại nước sốt cay của Nhật Bản được làm từ vỏ quả yuzu xanh hoặc vàng, ớt xanh hoặc đỏ và muối.
Quả được sử dụng để làm rượu (chẳng hạn như , "dữu tử tiểu đinh") và rượu vang. Vỏ quả yuzu cắt nhỏ được dùng để trang trí món bánh pudding trứng muối có vị mặn gọi là "chawanmushi", cũng như súp miso. Nó thường được sử dụng cùng với và . Yuzu được sử dụng để làm nhiều loại đồ ngọt khác nhau, bao gồm mứt cam và bánh ngọt. Quả được sử dụng rộng rãi trong hương liệu của nhiều sản phẩm ăn nhẹ, chẳng hạn như Doritos.
Hàn Quốc.
Trong ẩm thực Hàn Quốc, yuja được sử dụng phổ biến nhất để làm (, mứt cam yuja) và trà yuja. có thể được nấu bằng yuja đã gọt vỏ ngâm đường, tách nước và thái lát mỏng. Món , trà yuja, có thể nấu bằng cách pha nước nóng với . (, rượu punch yuja), nhiều loại (rượu punch trái cây), là một món tráng miệng phổ biến khác được nấu cùng yuja. Yuja cũng là thành phần phổ biến trong món ăn phương Tây kiểu Hàn Quốc, chẳng hạn như xa lát.
Cách dùng khác.
Tắm Yuzu.
Yuzu cũng được biết đến với hương thơm nồng đặc trưng và dầu từ vỏ được bán trên thị trường dưới dạng nước hoa. Ở Nhật Bản, tắm với yuzu vào ngày đông chí, là một phong tục có muộn nhất từ đầu thế kỷ 18 đến nay. Toàn bộ quả yuzu được thả nổi trong nước nóng của bồn tắm, đôi khi được bọc trong túi vải để tỏa hương thơm. Quả cũng có thể được cắt đôi, để cho nước ép quả hòa với nước tắm. Tắm cùng yuzu, thường được gọi là "yuzu yu" (柚子湯. "dữu tử thang"), còn có tên là "yuzu buro" (柚子風呂, "dữu tử phong lã"), được cho là có tác dụng chống cảm lạnh, trị da sần sùi, làm ấm cơ thể và thư giãn đầu óc.
Dùng làm gỗ.
Phần thân của "taepyeongso", một loại kèn oboe truyền thống của Hàn Quốc, gần giống với kèn tỏa niệt của Trung Quốc hoặc zurna, thường được chế tạo từ gỗ táo tàu, dâu tằm hoặc yuzu.
Nơi khác.
Bắt đầu từ đầu thế kỷ 21, yuzu ngày càng được các đầu bếp ở Hoa Kỳ và các quốc gia phương Tây khác sử dụng nhiều hơn, gây chú ý trong một bài báo năm 2003 trên tờ "The New York Times".
Tại Hoa Kỳ, Bộ Nông nghiệp có lệnh cấm nhập khẩu yuzu tươi (cùng với hầu hết các loại quả có múi) từ nước ngoài, bao gồm cả quả và cây. Điều này nhằm ngăn chặn lây lan bệnh truyền nhiễm giữa các loại cây trồng trong nước. | 1 | null |
Ba chạc hay còn gọi dấu dầu ba lá, dấu dầu háo ẩm, chè đắng, chè cỏ (danh pháp khoa học: Melicope pteleifolia) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (Champ. ex Benth.) T.G. Hartley mô tả khoa học đầu tiên năm 1993.
Đặc điểm.
Cây nhỏ, cao 1 – 3m, có khi hơn (4 – 5m). Cành non có lông, sau đó nhẵn. Lá kép mọc đối, có ba lá chét, mép nguyên, gân phụ 15 – 20 cặp, lá non có lông rất mịn, lá chét hình trái xoan: dài 4,5 – 13 cm, rộng 2,5 – 5,5 cm, gốc thuôn, đầu nhọn; cuống lá dài có lông, tày ở phần dính vào thân, cuống lá chét không có hoặc rất ngắn. Cụm hoa mọc thành xim ở kẽ lá, ngắn hơn lá; lá bắc nhỏ; hoa nhỏ màu trắng; lá đài hình trái xoan, có lông ở mép; cánh hoa có 4 – 5, dài gấp 3 lần lá đài, hơi khum ở đầu, nhẵn; nhị 4, chỉ nhị bằng hoặc dài hơn cánh hoa; bầu nhụy hình trứng, có lông, vòi nhụy nhẵn, đầu nhụy có 4 rãnh. Quả nang hình trái xoan, khi chín màu đỏ, chia làm 1– 4 mảnh, vỏ nhẵn (1– 4 hạch nhẵn), phía ngoài nhăn nheo; mỗi ngăn chứa một hạt hình cầu đường kính 2mm, màu đen xanh, bóng. Toàn cây có tinh dầu thơm. Mùa hoa tháng 4 – 5, mùa quả tháng 6 – 7.
Phân bố.
Ba chạc là cây bụi ưa sáng, chịu được hạn và có thể sống trên nhiều loại đất khác nhau. Trên thế giới, cây Ba chạc phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới, chủ yếu ở các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan, Philippin. Ở Việt Nam, cây mọc hoang, rất phổ biến trên khắp nước ta từ miền Bắc đến miền Nam. Cây thường được gặp ở các vùng đồi, rừng thứ sinh, rừng thưa, hoặc trong các bụi cây ở vùng đồng bằng.| | 1 | null |
Murraya koenigii (cà ri Ấn Độ, cà ri Patta, chùm hôi trắng, xan tróc hay đơn giản là cây cà ri) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (L.) Spreng. mô tả khoa học đầu tiên năm 1817.
Mô tả.
Cây bụi cao 1-2m, có các nhánh màu tía sẫm. Lá kép lông chim lẻ với 17-21 dụi lá chét dài 3–5 cm, mọc so le, hình trái xoan thon, không cân xứng, nhẵn hay hơi có lông mịn, nhạt ở mặt dưới; mép có răng tròn thấp, gân phụ 4-6 cặp, lồi rõ ở mặt dưới. Hoa nhỏ, màu trắng có mùi không thơm lắm, tập hợp thành ngù kép ở ngọn ngắn hơn lá. Quả dạng quả mọng, dài 1 cm, màu tía sẫm, có tuyến, với 1-2 hạt bao bởi chất nhầy.
Phân bố.
Cây có nguồn gốc Ấn Độ và Sri Lanka nhưng cũng phổ biến ở Campuchia, Lào, Nam Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam, mọc hoang và được trồng tại nhiều nơi.
Thành phần hóa học.
Lá rất thơm, chứa carbazol alcaloid như mukonin, mukonicin, clausenalen. Vỏ rễ có một tỷ lệ cao tinh dầu và một glucosid koenigin.
Công dụng.
Toàn bộ lá, thân, quả, hạt và rễ đều được sử dụng làm gia vị và làm thuốc. Ở Ấn Độ, người ta trồng chủ yếu để lấy lá, phần lớn để chế bột cari và làm thuốc. Quả, lá có thể dùng để trị lỵ, tiêu chảy và sốt rét, phát ban, hạ sốt, rắn cắn v.v. | 1 | null |
Nguyệt quới (tên khoa học: Murraya paniculata) là một loài thực vật có hoa thuộc chi "Murraya", được William Jack mô tả khoa học năm 1820. Loài này cũng được gọi theo tên tiếng Trung là nguyệt quất (月橘), thất lý hương (七里香), cửu lý hương (九里香), thập lý hương (十里香), thiên lý hương (千里香) hoặc vạn lý hương (萬里香). Nguyệt quới là tên gọi phổ biến trong tiếng Việt, đây là cách phát âm từ "nguyệt quý" theo phương ngữ miền Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng "nguyệt quý" (月季) vốn đề cập đến loài hồng Trung Hoa ("Rosa chinensis"). Một số sách báo cũng gọi nhầm loài này là "nguyệt quế" (月桂), vốn là tên thông dụng của "Laurus nobilis". | 1 | null |
Hoàng bá hay còn gọi hoàng nghiệt (danh pháp khoa học: Phellodendron amurense) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được Franz Josef Ruprecht miêu tả khoa học đầu tiên năm 1857.
Mô tả.
Cây gỗ cao 10–30 m, đường kính ngang ngực tới 1 m. Lá 7-13 lá chét; cuống nhẵn hoặc có lông tơ; phiến lá chét hình trứng tới hình trứng-hình mác, 6-12 × 2,5-4,5 cm, dạng giấy tới giấy mỏng, nhọn đỉnh. Chùm hoa và chùm quả lỏng lẻo, cuốn và cuống nhỏ thanh mảnh. Quả dạng hình cầu, đường kính khoảng 1 cm. Hạt kích thước khoảng 6 × 3 mm. Ra hoa tháng 5-6, kết quả tháng 9-10.
Phân bố.
Hoàng bá sinh sống trong các khu rừng miền núi, các bụi rậm hay thung lũng sông. Khu vực phân bố: Trung Quốc (các tỉnh An Huy, Hà Bắc, Hắc Long Giang, Hà Nam, Cát Lâm, Liêu Ninh, Nội Mông, Sơn Đông, Sơn Tây), Đài Loan, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, Viễn Đông Nga.. Tuy nhiên hiện nay loài này được trồng ở nhiều nơi khác để làm thuốc, như tại Việt Nam.
Sử dụng y học.
Nó là một trong 50 vị thuốc cơ bản của y học cổ truyền Trung Quốc. Từng được sử dụng trong điều trị viêm màng não, lị khuẩn que, viêm phổi, lao và xơ gan.
Sử dụng theo đường uống để điều trị thương tổn bụng, tiêu chảy, viêm đường ruột và nhiễm khuẩn dường tiết niệu. Berberin, một thành phần có trong hoàng bá là có hiệu quả trong điều trị tiêu chảy do nhiễm khuẩn, mắt hột và bệnh do Leishmania ở da.
"Phellodendron amurense" cũng có thể bảo vệ sụn chống lại quá trình thoái hóa khớp.
Nó cũng chứng tỏ là một tác nhân phòng ngừa hóa quan trọng tiềm tàng trong điều trị ung thư phổi.
"Phellodendron amurense" cũng có khả năng ức chế co rút tuyến tiền liệt, gợi ý về việc nó có thể hữu dụng trong điều trị các rối loạn niệu khoa gây ra bởi sự tắc nghẽn niệu đạo do tuyến tiền liệt như u xơ tuyến tiền liệt (BPH). Nexrutin (Dịch chiết vỏ cây "Phellodendron amurense") có thể có tiềm năng ngăn chặn sự phát triển các khối u tuyến tiền liệt.
Các dịch chiết độc quyền chứa "Magnolia officinalis" và "Phellodendron amurense" có thể giúp giảm béo phì.
Các hợp chất trong lá (quercetin, quercetin-3-"O"-beta--glucoside, quercetin-3-"O"-beta--galactoside và kaempferol-3-"O"-beta--glucoside) được chứng minh là có khả năng làm giảm các gốc tự do tương tự như vitamin E.
Dầu.
Dầu quả hoàng bá là một loại dầu thực vật ép từ quả "Phellodendron amurense". Dầu này có các tính chất tiêu diệt côn trùng tương tự như pyrethrum. Dầu chứa một số chất có hoạt tính sinh học như các flavonoid (diosmin), alkaloid (berberin, yatroriccin, palmatin), saponin và coumarin. Các ứng dụng y học của dầu quả hoàng bá bao gồm điều trị viêm tụy, giảm cholesterol, giảm đường máu và điều trị một số bệnh ngoài da.
Hóa học.
Tinh dầu:
Amurensin, một "tert"-amyl alcohol dẫn xuất của kaempferol 7-"O"-glucoside, có thể tìm thấy ở "P. amurense". | 1 | null |
Xuyên hoàng bá hay hoàng bì thụ (tên khoa học: Phellodendron chinense) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được C.K. Schneid. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907.
Mô tả.
Cây gỗ cao tới 15 m. Lá lông chim 7-15 lá chét; cuống nhẵn nhụi hoặc phớt lông tơ mỏng hoặc lông măng màu gỉ sắt. Phiến lá chét hình trứng-elip tới hình mác thuôn dài, kích thước 8-15 × 3,5-6 cm, dạng giấy, gốc hình nêm tới hơi mảnh đi và xiên, đỉnh có mấu nhọn tới nhọn. Chùm hoa và chùm quả đặc sít, cuống và cuống nhỏ mập. Quả hình á cầu tới elipxoit, đường kính 1-1,5 cm. Hạt kích thước 6-7 × 3-5 mm. Ra hoa tháng 5-6, kết quả tháng 9-11.
Phân bố.
Xuyên hoàng bá sinh sống trong các khu rừng lá rộng hỗn hợp, rừng thưa tới rừng rậm ở độ cao 800-1500(-3000) m trong các tỉnh An Huy, Phúc Kiến, Cam Túc, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tô, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Chiết Giang. | 1 | null |
Phellodendron sachalinense là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương (Rutaceae). Loài này được Carl Friedrich (Fedor Bogdanovich) Schmidt miêu tả khoa học đầu tiên năm 1868 như một thứ của loài "Phellodendron amurense" dưới danh pháp "Phellodendron amurense" var. "sachalinense". Năm 1905 Charles Sprague Sargent nâng cấp lên thành loài.
Phân bố.
Như tên gọi khoa học của nó gợi ý, loài này sinh sống trên đảo Sakhalin và miền bắc Nhật Bản. | 1 | null |
Psilopeganum sinense là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được William Hemsley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1886.
Phân bố.
Sườn đồi, ở độ cao khoảng 800m tại các tỉnh Quý Châu, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quảng Tây. Tên gọi trong tiếng Trung 裸芸香 (lỏa/khỏa vân hương). Là thực vật thân thảo cao 30–80 cm. Ra hoa và tạo quả tháng 5-8. Hiện tại nó được đánh giá là nguy cấp, do việc xây dựng đập Tam Hiệp. Sử dụng trong y học cổ truyền Trung Hoa với tên gọi 山麻黄 (sơn ma hoàng), thu hái toàn cây giai đoạn tháng 4-6. Liều dùng 6-15 g. | 1 | null |
Ruta chalepensis là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1767. Nó là loài bản địa của đại lục Á-Âu và Bắc Phi ven Địa Trung Hải nhưng ngày nay có thể tìm thấy ở những nơi khác như một loài du nhập. Nó là loài cây bụi nhỏ sống lâu năm, mọc cao tới 80 cm, nặng mùi. Lá kép, mỗi lá chia ra thành 2-3 đoạn hình lông chim, mỗi đoạn lại chia ra thành 2-3 lá chét nhỏ hơn màu xanh xám, hình mũi mác thuôn dài hay hình trứng, rộng tới 6 mm. Cụm hoa màu vàng tươi không lông, tràng hoa với 4-5 cánh hoa hình xẻng thuôn dài, có lông mịn, rìa cánh hoa cuộn lại và xẻ tua. Quả nang hình cầu, đường kính 6–9 mm. Loài này mọc trong các khu vực đá vôi, khe đá và vách đá, ở độ cao từ 2 tới 300 m. Nó phát triển tốt ở những nơi nhiều nắng, khô, không ưa ẩm ướt trong mùa đông.
Người ta tìm thấy khoảng 23 hợp chất trong tinh dầu chiết từ các phần mọc trên mặt đất của "Ruta chalepensis". Hợp chất chính là methyl nonyl ketone (CH3CO(CH2)8CH3) chiếm khoảng 78%
Loài này được sử dụng như một loại thảo dược để chữa trị một số bệnh, như sốt hay viêm nhiễm.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy dịch chiết rượu của "Ruta chalepensis" có tiềm năng như một chất ngăn cản ăn mòn axit thân thiện môi trường đối với thép
Tại Việt Nam.
Trước đây, theo tác giả Phạm Hoàng Hộ thì "Ruta chalepensis" là loài duy nhất thuộc chi "Ruta" được trồng ở một số nơi tại Việt Nam, nó được gọi là cửu lý hương. Lưu ý rằng trong tiếng Việt, ‘cửu lý hương’ còn được dùng để chỉ loài Nguyệt quới ("Murraya paniculata") thuộc cùng họ. | 1 | null |
Vân hương (tên khoa học: Ruta graveolens) là một loài thực vật có hoa trong họ Rutaceae. Loài này được Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.. Một số tài liệu tiếng Việt cũng gọi loài này là "Cửu lý hương" nhưng tên gọi này có thể đề cập tới một số loài khác. | 1 | null |
Dấu dầu hay còn gọi dấu dầu Daniell, tứ chẻ Daniell (danh pháp khoa học: Tetradium daniellii) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (Benn.) T.G.Hartley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1981 vinh danh bác sĩ người Anh, nhà thực vật học William Freeman Daniell. | 1 | null |
Thôi chanh trắng hay còn gọi chân hương, hảo, thù dù, ngô vu, xà lạp (danh pháp khoa học: Tetradium ruticarpum) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (A. Juss.) T.G. Hartley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1981.
Cây nhỡ cao 4-5cm hay cây gỗ rụng lá. Lá dạng màng, hình mắt chim - nhọn, gân hình tim ở gốc, có khi có góc dạng thuỳ ở đầu hoặc xoan - ngọn ngắn, gốc cụt, thường không cân đối, có khi có lông sét mềm, có khi có điểm tuyến hay gần như nhẵn, rất thay đổi về kích thước và hình dạng, dài 10-20cm. Hoa thành xim lưỡng phân, ở nách lá, với 8-12 hoa có cuống dài bằng hoặc vượt quá cuống lá. Quả hạch dạng bầu dục, hay gần hình cầu, màu nâu đen, ít nạc, có thể dài tới 30mm; hạch có 2 hạt mà 1 cái thường tiêu biến.
Ra hoa tháng 5-8. | 1 | null |
Balfourodendron molle là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương (Rutaceae). Năm 1850 Friedrich Anton Wilhelm Miquel mô tả loài "Esenbeckia mollis". Năm 1998 José Rubens Pirani đặt loài này vào chi "Balfourodendron", mặc dù vẫn tồn tại mâu thuẫn trong các bộ dữ liệu cung cấp. | 1 | null |
Sẻn gai (danh pháp khoa học: Zanthoxylum armatum) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được DC. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1824.
Cây gỗ nhỏ cao 4m; thân to 20 cm; gai thẳng, dẹp. Lá có sống lá, có cánh rộng 2mm, mang 3-5(-7) lá chét thon, dài đến 13 cm, không lông, mép có răng nằm, mặt dưới có tuyến nhỏ và nâu lúc khô. Cụm hoa ở phần nhánh già, cao 4–7 cm; hoa trăng trắng, lá đài 5, hoa cái có nhị lép, bầu 2-5 lá noãn. Quả dài 1 hạt tròn, đỏ, có tuyến to, to 4-5mm; mảnh 2; hạt đen chói. | 1 | null |
Zanthoxylum bungeanum là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được Maxim. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1871. Loài này là một trong số các loài thuộc chi Zanthoxylum được dùng để chế biến loại gia vị tiêu Tứ Xuyên nổi tiếng.
"Z. bungeanum" vốn xuất xứ từ Trung Quốc, và được trồng cả ở Uzbekistan. | 1 | null |
Feroniella lucida là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (Scheff.) Swingle mô tả khoa học đầu tiên năm 1912 publ. 1913.
Tại Việt Nam, cây có tên là Cần Thăng, dùng làm cây cảnh bonsai. Tại Campuchia, cây có tên là Krasang hoặc Krasaing ក្រសាំង, quả được dùng làm gia vị.
Cây gỗ lớn cao đến 25m, vỏ nhám, có gai, lá kép. Hoa mọc ở nách lá, thơm. Quả to cỡ quả quýt, vỏ dày, màu xanh, khi chín màu vàng nâu, ăn được phần thịt quanh hạt, được dùng làm gia vị chế biến món ăn tại Campuchia. | 1 | null |
Flindersia maculosa là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Đây là loài đặc hữu của các khu vực nội địa phía đông Australia. Loài cây này có vỏ lốm đốm, những chiếc lá đơn xếp thành từng cặp đối diện, hoa màu trắng đến màu kem và quả có những điểm sần sùi.
Mô tả.
"Flindersia maculosa" là một cây thường phát triển đến chiều cao 15 m, phát triển từ một loạt các nhánh gai chằng chịt ở giai đoạn cây con. Thân cây bị lốm đốm do vỏ cây rụng thành từng mảng. Các lá đơn, xếp thành từng cặp đối nhau, thuôn hẹp đến hình mác hoặc hình mác, dài 10–80 mm và rộng 2,5–10 mm trên cuống lá dài 2–15 mm. Mặt trên của lá bóng và có màu xanh đậm, mặt dưới xỉn và nhạt màu hơn. Hoa xếp thành chùy dài 10–80 mm ở đầu cành con. Các lá đài dài 1–1,5 mm, các cánh hoa màu trắng đến màu kem và dài 3–4 mm. Mùa nở hoa từ tháng 9 đến tháng 12 và quả là một quả nang gỗ có điểm nhám và mở ra thành năm phần, phóng ra các hạt có cánh dài khoảng 18 mm.
Taxonomy.
"Flindersia maculosa" được mô tả khoa học đầu tiên năm 1848 bởi John Lindley trong tác phẩm của Thomas Mitchell's "Journal of an Expedition into the Interior of Tropical Australia". Năm 1963, George Bentham đổi danh pháp thành "Flindersia maculosa" trong "Flora Australiensis". | 1 | null |
Chè khúc bạch là một món chè giải khát khá phổ biến của Việt Nam. Về cơ bản món ăn này là một dạng rau câu, nhưng được biến tấu nhiều về thành phần nguyên liệu, đa dạng hơn và được ăn chung với nhau, với cách ăn khác với rau câu thường. Cái tên "chè khúc bạch" có nguồn gốc từ Hán Việt, mô tả hình dạng thành phẩm của những viên thạch màu trắng được cắt thành khúc nhỏ vừa ăn.
Nguồn gốc.
Chè khúc bạch được xem là có nguồn gốc từ một món ăn của người Hoa Sài Gòn với tên gọi "đậu phụ hạnh nhân", đây là món tráng miệng chuyên dùng ở các tiệc cưới, sinh nhật... Chè khúc bạch là món ăn được cải tiến từ "đậu phụ hạnh nhân", chúng được làm cho béo và thơm hơn.
Thành phần.
Thành phần chính là những miếng "khúc bạch" được ướp lạnh và có vị dẻo thơm, chúng được làm từ sữa tươi không đường, kem tươi, gelatin, đường cát trắng. Nước chè được nấu chủ yếu từ đường phèn. Sau đó, món thêm nước hoa quả như vải hộp và hạt hạnh nhân. Những viên khúc bạch được cắt hình ô cờ lượn sóng, ngậy nhưng hơi cứng và thơm mùi phô mai. Chè khúc bạch thường được ăn cùng với các loại trái cây như nhãn, kiwi, táo, vải, thanh long, mít, hạt é...Các biến thể ngoài sữa của món gồm có hương vị trà xanh, khoai môn, cà phê.
Thương mại.
Vào khoảng 2013, chè khúc bạch tạo ra trào lưu ăn vặt mới của giới trẻ, thay cho trà chanh chém gió là một trào lưu đã có từ các năm trước. Các quán ăn quán uống đã đưa món vào menu của họ. Một người buôn bán tên Thu Trang ở phố Bùi Thị Xuân tại Hà Nội bán trung bình 200 đến 300 cốc chè khúc bạch mỗi ngày, với giá từ 20-25.000 VND. Đường Châu Văn Liêm, Quận 5, Tp.HCM tập trung nhiều điểm bán chè khúc bạch, trong đó nhiều hàng quán đã chuyển các món thường ngày của họ sang chè khúc bạch. Chè khúc bạch cũng được tiếp thị trên mạng internet và được giao đến tận nơi.
Một vụ bê bối ngành sản xuất và cung ứng gelatin bùng nổ sau đó gây ảnh hưởng đến thương mại chè khúc bạch. Gelatin, loại phụ gia làm đông "khúc bạch" của món làm từ collagen lấy trong da lợn, xương gia súc... bị phát hiện thiếu vệ sinh. Do đó, món ăn bị xem là gây nguy hại sức khỏe người dùng. Về sau, những người thợ làm chè khúc bạch sử dụng nguyên liệu tự nhiên và an toàn hơn làm đông thạch khúc bạch là rau câu, thay cho gelatin. Tỉ lệ sử dụng là một gói bột rau câu 10 gram dùng do 200 gram đường và nửa lít nước. Tuy vậy, rau câu bị đánh giá làm mất đi sự đặc trưng của món chè khúc bạch, vì gelatin làm cho khúc bạch dẻo, dai, mềm; còn rau câu lại làm cho khúc bạch giòn, cứng. | 1 | null |
Xuyên tiêu hay còn gọi sẻn, sang, sang láng, đắng cay, hoàng liệt, chứ xá (tiếng H'Mông) (danh pháp khoa học: Zanthoxylum nitidum) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được (Roxb.) DC. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1824.
Phân bố.
Mọc ở độ cao dưới 800 m. Phân bố tại Australia, Ấn Độ, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Nepal, New Guinea, Nhật Bản (quần đảo Lưu Cầu), Philippines, Thái Lan, Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, nam và đông nam Quý Châu, Hải Nam, nam Hồ Nam, Vân Nam, nam Chiết Giang), Việt Nam, các đảo tây nam Thái Bình Dương. | 1 | null |
Zanthoxylum schinifolium là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được Siebold & Zucc. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1846. Loài này là một trong số các loài thuộc chi Zanthoxylum được dùng để chế biến loại gia vị tiêu Tứ Xuyên nổi tiếng. | 1 | null |
Zanthoxylum simulans là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được Hance miêu tả khoa học đầu tiên năm 1866.
Loài này có nguồn gốc ở miền đông Trung Quốc và Đài Loan. Nó là một trong số các loài thuộc chi Zanthoxylum được dùng để chế biến loại gia vị tiêu Tứ Xuyên nổi tiếng.
Mô tả.
"Z. simulans" có dạng một cây bụi lớn hoặc cây nhỏ cao đến 7 m. Các lá dài 7–12,5 cm, hình lông chim, có 7–11 lá chét, các lá chét dài 3–5 cm và rộng 1,5–2 cm. Chúng có rất nhiều gai ngắn (3–6 mm) trên cả thân và cuống lá, và các núm lớn (vài cm) trên cành. Những bông hoa được tạo ra trong các cymes mảnh mai, mỗi bông hoa có đường kính khoảng 4–5 mm. Quả mọng 3–4 mm có vỏ màu nâu đỏ nhám, khi tách ra để giải phóng các hạt đen bên trong. | 1 | null |
Cơm rượu (danh pháp khoa học: Glycosmis pentaphylla) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được Anders Jahan Retzius mô tả khoa học đầu tiên năm 1788 dưới danh pháp "Limonia pentaphylla". Năm 1824 Augustin Pyramus de Candolle chuyển nó sang chi "Glycosmis".
Một trong các tên gọi dân gian của "Glycosmis pentaphylla" tại Việt Nam là bưởi bung, cùng họ nhưng không thuộc chi Bưởi bung ("Acronychia").
Lưu ý.
Năm 1805 José Francisco Corrêa da Serra đặt ra chi "Glycosmis" và cho rằng "Limonia arborea" và "Limonia pentaphylla" thuộc về chi mới thành lập, nhưng ông lại không đặt ra các danh pháp tương ứng của chúng trong chi mới. Cả hai danh pháp này hiện nay đều là đồng nghĩa của "Glycosmis pentaphylla". | 1 | null |
Limonia acidissima là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương. Loài này được Carolus Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1762. Nó là loài duy nhất trong chi đơn loài Limonia.
Phân bố.
Loài này là bản địa của vùng sinh thái Indomalaya phân bố ở Ấn Độ, Sri Lanka, và du nhập vào Đông Dương về phía đông đến Java và vùng Malesia. Ở Việt Nam loài này phổ biến ở Trà Vinh.
Mô tả.
Quách là loại cây cao khoảng 7-8m, lá nhỏ và thân giống như cây cần thăng, trồng khoảng 7 năm thì cho trái. Lá dài 25-35mm và rộng 10-20mm. Trái có đường kính 5–9 cm, cơm có vị chua ngọt. Khi chín Quách tự rụng, do có vỏ cứng nên nó khó đập vỡ khi rụng. Quách có hình cầu, màu xám loang lổ kiểu hạt li ti nhìn giống trái dây cám, phần thịt bên trong có nhiều sợi cứng và các hạt bám trên đó. Khi trái chưa chín phần thịt có màu trắng, khi chín phần thịt chuyển sang màu nâu sậm đến đen. Nếu để quá chín sẽ bị lên men như mật.
Sử dụng.
Trái quách làm thức uống giải khát, theo y học dân gian trái quách còn xanh xắt mỏng phơi khô dùng để chữa trị tiêu chảy, trái chín chống táo bón, giúp điều hòa tiêu hóa. Trái quách chín có thể dầm nước đá đường và để ngâm rượu. Loại dầm đá đường có tác dụng giải nhiệt.
Dinh dưỡng.
100 gram trái chứa 18 g cacbohydrat và 7g protein, tương đương gần 130 calor. Trái chính chứa nhiều beta-carotene, một chất tiền Vitamin A; nó cũng chứa một lượng nhất định vitamin B thiamine và riboflavin, và một ít vitamin C.
Chú ý.
Ăn quá nhiều có thể dẫn đến táo bón, đầy hơi và các vấn đề về tiêu hóa khác.
Những người có vấn đề về tuyến giáp, phụ nữ có thai và cho con bú nên hạn chế ăn. | 1 | null |
Karl Friedrich Georg Freiherr von Rechenberg (12 tháng 5 năm 1846 tại Putbus – 8 tháng 6 năm 1920 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, được phong đến cấp bậc Trung tướng. Ông đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871).
Tiểu sử.
Georg là con trai của Bernhard Gottlob Friedrich Freiherr von Rechenberg và người vợ của ông này là Charlotte Johanna, tên khai sinh von Münchow.
Rechenberg đã nhập ngũ trong Trung đoàn Bộ binh số 93 Anhalt tại Dessau vào năm 1866, và trong trung đoàn này ông đã thăng cấp sĩ quan ngày 14 tháng 11 năm 1867. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức, ông bị thương trong cuộc vây hãm Touk, và được phong tặng Huân chương Thập tự Sắt. Vào tháng 5 năm 1877, ông lên quân hàm đại úy trong Bộ Tổng tham mưu, rồi vào năm 1881 ông được thuyên chuyển vào Bộ Tham mưu của Sư đoàn số 9 tại Erfurt. Đến năm 1891, ông được phong cấp bậc Thượng tá và giữ chức Trưởng phòng trong Bộ Tổng tham mưu. Trên cương vị này, ông được thăng quân hàm Đại tá vào tháng 6 năm 1893 và Thiếu tướng vào tháng 3 năm 1897; rồi đến tháng 4 năm 1898 ông được thụ phong Tư lệnh của Lữ đoàn Bộ binh số 21 ở Schweidnitz. Sau đó, ông được thăng quân hàm Trung tướng đổi làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần trong Bộ Tổng tham mưu. Ông được thăng quân hàm Trung tướng và đổi làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần trong Bộ Tổng tham mưu vào tháng 5 năm 1900, rồi không lâu sau đó ông là Giám đốc của Học viện Quân sự Phổ., Vào ngày 20 tháng 8 năm 1902, ông giải ngũ và vào ngày 1 tháng 4 năm 1916 ông làm lễ kỷ niệm 50 ngày gia nhập quân ngũ.
Vào nửa cuối thế kỷ 19, ông thành hôn với bà Hildegard Klara Elisabeth, Nữ Bá tước von der Schulenburg (17 tháng 2 năm 1854 tại Lieberose – 21 tháng 9 năm 1935 tại Wernigerode), con gái của Friedrich Albrecht, Graf von der Schulenburg, và Elisabeth Karoline von Münchow. Họ có ba người con - Fritz, Elisabeth và Hildegard. Hildegard đã kết hôn với Joachim Sander, một Đại tá Lục quân Đức Quốc xã và Tư lệnh Trung đoàn tăng số 31. | 1 | null |
Cuộc Thập tự chinh lần thứ IX, đôi khi còn được tính gộp vào cuộc Thập tự chinh lần thứ tám, Thường được coi là chiến dịch lớn cuối cùng thời trung cổ đến vùng Đất Thánh. Nó xảy ra trong 1271-1272.
Louis IX của Pháp đã không chiếm Tunis trong cuộc Thập tự chinh lần thứ tám, Hoàng tử Edward của Anh đã đi bằng đường thủy đến Acre để bắt đầu cuộc Thập tự chinh lần thứ IX. Cuộc Thập tự chinh lần thứ IX thất bại phần lớn là do sức mạnh tinh thần của thập tự quân đã gần như "cạn kiệt" và vì sức mạnh ngày càng tăng lên của Baybars I và Mamluk ở Ai Cập. Nó cũng báo hiệu trước sự sụp đổ sắp xảy ra của các pháo thập tự chinh cuối cùng còn lại dọc theo bờ biển Địa Trung Hải.
Bối cảnh.
Sau chiến thắng của Mamluk trước người Mông Cổ năm 1260 tại Trận Ain Jalut bởi Qutuz và Baybars, một vị tướng của ông, Qutuz bị ám sát và Baybars đã trở thành quốc vương. Ở trên cương vị một Sultan, Baybars đã tiến hành các cuộc tấn công vào quân Thập tự chinh người Thiên chúa giáo tại Arsuf, Athlith, Haifa, Safad, Jaffa, Ascalon và Caesarea. Các thành phố pháo đài của người Kitô giáo đã bị thất thủ từng chiếc một, người Kitô giáo tìm kiếm sự hỗ trợ từ châu Âu, nhưng quân tiếp viện đến rất chậm.
Trong năm 1268 Baybars công chiếm thành phố Antioch tiêu diệt tàn dư cuối cùng của Hầu quốc Antioch, đảm bảo an toàn cho biên giới phía Bắc của người Mamluk và đe dọa Lãnh địa Tripoli bé nhỏ của người Thiên chúa giáo.
Sau khi Louis IX của Pháp tổ chức một đội quân thập tự chinh lớn với mục đích tấn công Ai Cập, đã chuyển hướng vào Tunis, nơi mà bản thân ông này đã chết trong năm 1270. Hoàng tử Edward của Anh đến Tunis quá trễ để đóng góp vào phần còn lại của cuộc thánh chiến tại Tunis. Thay vào đó, ông này lại tiếp tục đến Đất Thánh để hỗ trợ cho Bohemund VI, Vương công xứ Antiochia và Bá tước của Tripoli, để chống lại mối đe dọa của người Mamluk tới Hầu quốc Tripoli và phần còn lại của Vương quốc Jerusalem.
Hoạt động của quân Thập tự chinh tại Đất Thánh.
Edward cùng với Charles của Anjou, anh trai của Louis đã quyết định điều chuyển lực lượng của họ về Acre, thủ đô của phần còn lại của Vương quốc Jerusalem và mục tiêu cuối cùng của chiến dịch của Baybars. Quân đội của Edward và Charles đến Acre vào năm 1271, cùng vào lúc Baibars bao vây thành phố Tripoli, đây là lãnh thổ cuối cùng còn lại của Hầu quốc Tripoli và thành phố này bị chật ních bởi hàng chục ngàn người tị nạn Thiên chúa giáo. Từ các căn cứ của họ tại Síp và Acre, Edward và Charles cố gắng tấn công vào đội hình của Baibars và phá vỡ cuộc bao vây.
Ngay sau khi Edward đến Acre, ông này đã thực hiện một số nỗ lực để tạo thành một liên minh Pháp-Mông Cổ, ông đã gửi một đoàn sứ giả đến vùng Abagha thuộc Ba Tư, nơi mà người Mông Cổ đang cai trị, đây là một kẻ thù của người Hồi giáo. Đoàn sứ giả được điều hành bởi Reginald Rossel, Godefroi của Waus và John của Parke, và sứ mệnh của nó là kêu gọi sự hỗ trợ về mặt quân sự từ người Mông Cổ. Ngày 4 tháng 9, năm 1271, Abagha trả lời rằng ông ta đồng ý hợp tác và yêu cầu rằng nên phải có một cuộc tấn công phối hợp vào lực lượng của người Mamluk.
Sự xuất hiện của lực lượng tăng viện từ Anh và Hugh III của Síp, dưới sự chỉ huy của Edmund, em trai của Edward đã khuyến khích ông này, và ông ta đã tổ chức một cuộc đột kích vào thành phố Qaqun. Vào cuối tháng 10 năm 1271, một lực lượng nhỏ quân Mông Cổ đã tiến đến Syria và tàn phá vùng đất ở phía nam Aleppo. Tuy nhiên Abagha lại đang mắc vào các xung đột khác trong vùng Turkestan nên chỉ có thể gửi 10.000 kỵ binh Mông Cổ dưới sự chỉ huy của tướng Samagar từ đội quân đang đồn trú tại vùng Anatolia của người Seljuk, cộng với quân đồng minh người Seljuk. Mặc dù đây chỉ là một lực lượng tương đối nhỏ nhưng đội quân này vẫn gây ra một cuộc di cư ồ ạt của người Hồi giáo (những người còn nhớ đến sự khủng khiếp của chiến dịch Kithuqa trước đó) đến tận phía nam Cairo.
Nhưng người Mông Cổ đã không ở lại và khi Baibars-vị vua người Mamluk tiến phàn một cuộc phản công từ Ai Cập vào ngày 12, người Mông Cổ đã rút lui ra ngoài Euphrates.
Trong thời gian đó, Baybars đã nghi ngờ rằng sẽ có một cuộc tấn công kết hợp bằng cả hai đường thủy bộ vào Ai Cập. Cảm thấy vị trí của mình bị đe dọa một cách nghiêm trọng, ông này đã cố gắng chặn đầu bằng cách xây dựng một hạm đội. Ông này đã cố công hoàn thành việc xây dựng một hạm đội hơn là tấn công trực tiếp vào quân đội của người Thập tự chinh, Baibars đã cố gắng đổ bộ xuống đảo Cyprus trong năm 1271, hy vọng để đuổi được Hugh III của Síp và hạm đội của ông ta rời khỏi Acre với mục tiêu chính là chinh phục hòn đảo này và làm cho Edward và quân thập tự chinh trở nên không có đối thủ ở vùng Đất Thánh. Tuy nhiên, trong các chiến dịch hải quân sau đó hạm đội này đã bị phá hủy và quân của Baibars đã bị buộc phải quay trở lại.
Sau chiến thắng này, Edward nhận ra rằng để tạo dựng được một lực lượng có khả năng chiếm lại Jerusalem sẽ là rất cần thiết phải chấm dứt tình trạng bất ổn nội bộ trong các thành bang Thiên chúa giáo, và vì vậy ông đã trung gian hòa giải giữa Hugh và các hiệp sĩ của ông ta đến từ gia đình Ibelin của Síp-những người vốn chẳng nhiệt tình với cuộc Thánh chiến. Song song với buổi hòa giải, Hoàng tử Edward và vua Hugh đã bắt đầu đàm phán một thỏa thuận ngừng bắn với Sultan Baibars; một thỏa thuận ngừng bắn kéo dài năm 10, tháng 10 và 10 ngày đã được ký kết vào tháng 5 năm 1272 tại Caesarea. Hầu như ngay lập tức Hoàng tử Edmund đã rời khỏi quân đội Anh, trong khi Edward vẫn ở lại để quan sát xem liệu hiệp ước có được tuân thủ. Tháng sau đo, Baibars đã cố gắng ám sát Edward. Edward đã hạ được tay sát thủ nhưng đã phải lãnh một vết thương từ một con dao găm có tẩm thuốc độc trong trận chiến này, sự kiện này tiếp tục trì hoãn việc khởi hành của Edward. Trong tháng 9 năm 1272, Edward rời Acre đến Sicily và trong khi phục hồi lại sức khỏe ở trên hòn đảo, lần đầu tiên ông nhận được tin về cái chết của John, con trai ông và sau đó một vài tháng là tin tức về cái chết của cha mình. Năm 1273 để trở về nhà Edward đã bắt đầu hành trình của mình qua Ý, Gascony và Paris. Cuối cùng Edward đã về đến Anh vào mùa hè năm 1274 và lên ngôi vua của nước Anh trong ngày 19 tháng 8 năm 1274.
Hậu quả.
Edward đã được đi kèm theo Theobald Visconti, người trở thành Giáo hoàng Grêgôriô X trong năm 1271. Grêgôriô kêu gọi tiến hành một cuộc thập tự chinh mới tại Hội đồng Lyon năm 1274, nhưng lời kêu gọi này đã không được hưởng ứng. Trong khi đó có những rạn nứt mới xuất hiện trong các tiểu quốc Kitô giáo khi Charles của Anjou đã lợi dụng tranh chấp giữa Hugh III, các Hiệp sĩ Templar và người Venice để nhằm đưa vương quốc Kitô giáo nằm dưới sự kiểm soát của ông. Dựa vào lời tuyên bố của Mary của Antioch về Vương quốc Jerusalem, ông tấn công Hugh III và gây ra một cuộc nội chiến trong phần còn lại của vương quốc. Năm 1277, Roger của San Severino đã chiếm Acre cho Charles.
Mặc dù các cuộc chém giết lẫn nhau trong hàng ngũ của quân Thập tự chinh đã chứng minh rằng Vương quốc Jerusalem đã suy nhược, nó cũng đã tạo ra cơ hội để lập ra một người chỉ huy duy nhất để kiểm soát các thập tự quân trong số người của Charles. Tuy nhiên, hy vọng này đã tiêu tan khi Venezia đề xuất một cuộc thánh chiến mà không phải để chống lại người Mamluk mà để chống lại thành phố Constantinopolis, nơi mà gần đây Hoàng đế Michael VIII đã tái thành lập Đế quốc Byzantine và đẩy lui được người Venezia. Đức Giáo hoàng Gregory đã không ủng hộ một cuộc tấn công như vậy, nhưng vào năm 1281 Giáo hoàng Martin IV đã chấp thuận với nó; sau đó cuộc tấn công này đã thất bại và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến Sicilia Vespers trong ngày 31 tháng 3 năm 1282, vốn được xúi giục bởi Michael VIII và Charles đã bị buộc phải quay trở về nhà. Đây là chuyến viễn chinh cuối cùng được tiến hành để chống lại người Byzantine ở châu Âu hoặc người Hồi giáo ở vùng Đất Thánh.
Chín năm còn lại cho thấy tham vọng ngày càng gia tăng từ phía người Mamluk, bao gồm cả đòi hỏi về các khoản cống nộp, cũng như các hành động khủngbố nhằm vào những người hành hương ngày càng gia tăng, tất cả đều đi ngược lại với các điều khoản của thỏa thuận ngưng bắn này. Năm 1289, Sultan Qalawun tập hợp được một đội quân lớn và tiến hành bao vây những phần còn lại của hầu quốc Tripoli, cuối cùng ông đã tiến hành bao vây thành phố thủ phủ của nó và chiếm được nó sau một cuộc tấn công đẫm máu. Tuy nhiên cuộc tấn công vào Tripoli là đặc biệt nghiêm trọng đến mức người Mamluk đã bị người Kitô giáo kháng cự một cách cực kỳ dữ dội và Qalawun đã bị mất người con trưởng và cũng là người con tài giỏi nhất của mình trong chiến dịch này. Ông này đợi thêm hai năm nữa để phục hồi lại được sức mạnh của mình.
Năm 1291, một nhóm người hành hương từ Acre đã tiến hành một cuộc tấn công báo thù và giết chết mười chín thương gia Hồi giáo trong một thương đoàn ở Syria. Qalawun yêu cầu họ phải trả một khoản tiền đền bù bất thường. Khi không nhận được câu trả lời, vị Sultan sử dụng nó như là một lý do để vây hãm thành phố Acre, và cuộc bao vây này đã chấm dứt sự tồn tại của thành bang độc lập cuối cùng của người Kitô giáo ở vùng Đất Thánh. Qalawun đã chết trong cuộc bao vây này, Khalil, người con còn sống sót duy nhất trong gia đình của ông trở thành vị Sultan của người Mamluk. Với việc pháo đài Acre bị thất thủ, vương quốc của người Thập tự chinh không còn tồn tại. Và cuối cùng phải chuyển đến đảo Síp. Vị trí cuối cùng của người Kitô giáo còn lại ở trên vùng Đất Thánh là đảo Ruad và nó cũng đã bị thất thủ trong khoảng năm 1302/1303. Cuối cùng thì thời kỳ của các cuộc thập tự chinh vào vùng Đất Thánh đã kết thúc sau 208 năm kể từ ngày Giáo hoàng Urbanô II ra lời kêu gọi đầu tiên cho các cuộc Thánh chiến. | 1 | null |
Eduard Moritz Flies, sau năm 1864 là von Flies (25 tháng 8 năm 1802 – 10 tháng 12 năm 1886) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến cấp Trung tướng. Trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần năm 1866, ông chỉ huy một Sư đoàn Tổng hợp trong "Binh đoàn Main" của Phổ. Trong Chiến dịch Main, ông đã phát động cuộc tấn công hấp tấp vào một lực lượng đông hơn nhiều của Hanover tại Langensalza vào ngày 27 tháng 6, dẫn đến một thất bại thê lương của quân Phổ. Nhà sử học quân sự Hoa Kỳ Robert Michael Citino coi đợt tấn công của Flies là "một trong những cuộc tấn công trưc diện vô nghĩa nhất trong lịch sử quân sự". Hai ngày sau, quân đội Hanover đầu hàng các lực lượng Phổ do thiếu hụt lương thảo và bị áp đảo về quân số.
Vào ngày 23 tháng 7 năm 1866, một số đơn vị thuộc sư đoàn của ông đánh bại quân Baden trong trận Hundheim, buộc quân Baden rút lui về sông Tauber. Quân của ông cũng đánh chiếm Wertheim nhanh chóng trong ngày 24 tháng 7. Ngoài ra, sư đoàn dưới quyền ông còn tham gia trong trận Helmstadt, Roßbrunn và Uettingen, khi mà "Binh đoàn Main" do Edwin von Manteuffel chỉ huy đánh tan các lực lượng Bayern. | 1 | null |
Windows XP Embedded (thường được gọi ngắn gọn là XPe) là phiên bản hệ điều hành Windows mà Microsoft nhắm tới các đối tượng là các nhà lập trình thiết bị nhúng, hộp set-top, máy ATM, trạm Internet công cộng, thiết bị đầu cuối bán hàng và các trạm 3G. Windows XP Embedded tương tự như Windows XP Professional nhưng có một số hạn chế về cấp phép yêu cầu các thiết bị dẫn đến khởi động trực tiếp vào ứng dụng của nhà sản xuất bản gốc. Phiên bản này chủ yếu dành cho các nhà lập trình trên thiết bị nhúng, các thiết bị công cộng...
Đặc điểm.
Windows XP Embedded dựa trên nền tảng x86 của Windows XP Professional. Windows XP Embedded có một điểm yếu là hạn chế cấp phép ngăn chặn nó được triển khai vào máy tính tiêu chuẩn. Tuy vậy thì Microsoft đã khắc phục được điểm này. Windows XP Embedded có một API đầy đủ và hỗ trợ ứng dụng như bình thường. Ngoài ra XPe còn có khả năng khởi động từ CD-ROM, USB và mạng.
Thiết bị sử dụng Windows XP Embedded.
Trên thị trường ghi nhận một số máy tính cơ bản dùng XPe như máy Dell, Acer, Samsung...
Thông tin thêm.
Ngoài XPe thì còn có các phiên bản Windows XP dành cho thiết bị nhúng:
Windows Embedded for Point of Service
Phiên bản này nhắm đến các loại thiết bị chủ yếu phục vụ việc kinh doanh như máy tính tiền, máy ATM, trạm bơm nhiên liệu... Nó không được Microsoft cung cấp mà bản có thể mua giấy phép.
Windows Fundamentals for Legacy PCs
Phiên bản này dành cho các máy yếu. Mục tiêu là các người dùng không có nhiều tiền nhưng muốn tận hưởng các tính năng của Windows XP mà không đủ khả năng nâng cấp phần cứng. Phiên bản này rất thích hợp cho các máy tính cũ. | 1 | null |
Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp ("gouvernement provisoire de la République française" - GPRF) là một chính phủ lâm thời đã lãnh đạo nước Pháp trong giai đoạn 1944 đến 1946, sau khi Chính phủ Vichy sụp đổ và trước khi ra đời Đệ Tứ Cộng hòa Pháp.
Theo sau Trận chiến nước Pháp năm 1940, nhà nước của chính phủ Vichy được thành lập dưới sự điều hành của Philippe Pétain. Tuy nhiên, sau Chiến dịch Overlord, Giải phóng Paris và thắng lợi quyết định của phe Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai trong trận Falaise, chính quyền Vichy đã phải giải tán. Vào lúc đó, khi mà tiền tuyến của quân Đồng Minh bao phủ dần nước Pháp, chính phủ lâm thời dưới sự lãnh đạo của Charles de Gaulle đã nắm quyền điều hành đất nước. | 1 | null |
Nevado Ojos del Salado là một ngọn núi lửa dạng tầng lớn trong dãy Andes, nằm trên biên giới Argentina - Chile và là núi lửa cao nhất thế giới còn hoạt động với độ cao 6.893 mét (22.615 ft) so với mực nước biển. Nó cũng là ngọn núi cao thứ hai ở Tây và Nam bán cầu, cao nhất ở Chile. Nó nằm cách khoảng 600 km (370 dặm) về phía bắc so với Aconcagua, ngọn núi cao nhất ở Tây bán cầu với độ cao 6.962 m (22.841 ft).
Do vị trí của nó gần sa mạc Atacama, ngọn núi có điều kiện rất khô với tuyết thường xuất hiện trên đỉnh núi trong mùa đông, mặc dù trận bão lớn có thể kéo tuyết tại đây và các khu vực xung quanh đi một vài feet ngay cả trong mùa hè. Mặc dù điều kiện khí hậu ở đây khắc nghiệt và khô cằn, nhưng trên đỉnh núi có một hồ miệng núi lửa có đường kính khoảng 100 mét (300 ft), ở độ cao 6.390 m (20,960 ft) và nằm về phía đông của Ojos del Salado. Đây chính là hồ nước cao nhất trên thế giới.
Lên được đỉnh Ojos del Salado chủ yếu là đi bộ được trừ đoạn cuối cùng của cuộc hành trình cần phải có dây thừng để tới được đích. Cuộc hành trình đầu tiên lên đỉnh núi đã được thực hiện vào năm 1937 bởi Alfred Jan Szczepański và Justyn Wojsznis, là các thành viên của một đoàn thám hiểm dãy núi Andes người Ba Lan.
Tên của nó xuất phát từ việc có lượng lớn muối trong các đầm phá và đỉnh núi, thậm chí xuất hiện ngay trong các sông băng tại đây.
Hoạt động núi lửa.
Không có nghi ngờ rằng khi Ojos del Salado là một ngọn núi lửa vẫn đang hoạt động gần đây, nhưng câu hỏi là liệu nó cần được xem xét và lịch sử hoạt động của nó vẫn đang là điều tranh cãi. Theo Chương trình núi lửa toàn cầu của Viện Smithsonian, ngọn núi lửa này phun trào lần gần đây nhất là vào khoảng 1300 năm trước. Tuy nhiên, cũng có một số bằng chứng cho thấy một đợt phát thải tro bụi nhỏ vào năm 1993. Sự hiện diện của các lỗ phun khí cao trên ngọn núi và những dòng dung nham gần đây, mặc dù không cho biết chắc về tuổi của ngọn núi này, song điều này có thể chứng minh rằng đây vẫn là ngọn núi lửa đang hoạt động. Bởi vây, Ojos del Salado là ngọn núi lửa vẫn đang hoạt động cao nhất thế giới. Nếu ngày tuổi được chấp nhận, danh hiệu "ngọn núi lửa hoạt động cao nhất trong lịch sử" thay vì ngọn núi lửa Llullaillaco thấp hơn một chút, đã chắc chắn từng phun trào trong quá khứ (gần đây nhất là vào năm 1877). Định nghĩa về sự "hoạt động" của núi lửa này đến nay vẫn còn gây tranh cãi và có phần độc đoán, chủ yếu quan tâm và xét ở khía cạnh thông thường.
Địa chất.
Đá ở núi lửa Salado chủ yếu là đá dacit giàu kali và rhyodacite. Dung nham của nó có hàm lượng cao Biotit (mica đen), Hornblend, Plagioclase và Opaque, và mức độ thấp hơn của Augit, thạch anh, hypersthene.
Độ cao.
Độ cao của Ojos del Salado đã là chủ đề của các cuộc tranh luận. Trái ngược với tuyên bố rộng rãi được thực hiện bởi chính quyền Argentina năm 1994, trong một số bản đồ, ấn phẩm và các trang web cho biết Ojos del Salado cao hơn khoảng 100 m (330 ft) so với đỉnh núi Monte Pissis (6,793 m).
Một bài báo trong tạp chí "Andes" vào năm 2006 cung cấp thông tin cho rằng Ojos del Salado có thể cao hơn cả nóc nhà Nam Mỹ là đỉnh Aconcagua, Argentina. Mặc dù lập luận trên được cáo buộc là từ các cuộc điều tra ở độ cao ít chuẩn xác. Kết quả của những cuộc điều tra đó cho rằng Ojos del Salado có độ cao 7.057 mét (23.150 ft), khiến cho nó cao hơn gần 100 m (330 ft) so với Aconcagua. Ngay từ năm 1955, ước tính được thực hiện cho rằng độ cao của Ojos del Salado là 7.100 m (23.000 ft), nhưng đó "chỉ đơn giản là một ước tính dựa trên độ cao của trạm cuối cùng và thời gian từ đó đi lên đến đỉnh." Năm 1956, đoàn thám hiểm người Chile đầu tiên do trung úy nghỉ hưu René Gajardo đã đo chiều cao của Ojos del Salado là 7.084 m với bằng một chiếc túi áp lực đo độ cao. Ngoài việc bị coi như là một phương pháp đo không chính xác, chiều cao thể đo được từ máy đo độ cao là quá lớn giống như áp suất khí quyển thấp hơn vào buổi chiều, thời gian mà đoàn thám hiểm lên đến đỉnh núi.
Trong năm 2007, một đoàn thám hiểm Chile - châu Âu do tạp chí Andes và Azimut 360 tổ chức thực hiện một cuộc khảo sát trên cả hai đỉnh Ojos del Salado và Monte Pissis sử dụng công cụ chính xác hơn. Ngọn núi lần lượt được đo có chiều cao 6,891 m trước đây và 6,793 m sau này. Đây là thiết bị cầm tay trong hệ thống định vị toàn cầu (GPS), đã ước tính đỉnh núi có độ cao giữa 6880 – 6910 m (22,570-22,670 ft).
Khám phá.
Ojos del Salado đã được coi là một ngọn núi nổi tiếng có thể lên được ở độ cao cao nhất trên một chiếc xe leo núi. Ba lần đã được thiết lập kỷ lục ở đây thông qua những chuyến đi của những người Đức với một số phương tiện chuyên dụng, thiết lập một dấu mốc đạt được là 6,646 m (21.804 ft) vào tháng 3 năm 2007. Vào ngày 21 tháng 4 năm 2007, Gonzalo Bravo G. và Eduardo Canales Moya là hai người Chile đánh bại kỷ lục khi đạt 6,688 m (21.942 ft). Kỷ lục độ cao cao này đã được chứng nhận bởi sách kỷ lục Guinness vào tháng 7 năm 2007. Một kỷ lục độ cao đi bằng xe máy đã được thiết lập tại Ojos del Salado bởi Barton Churchill (Mỹ), Walter Colebatch (Anh / AUS) và Lukas Matzinger (AUT), người đạt 6,361 m (20.869 ft) vào ngày 18 tháng 3 năm 2012. | 1 | null |
USS "Wickes" (DD-75) là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo trong Chiến tranh thế giới thứ nhất; sau đó được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh quốc như là chiếc HMS "Montgomery" (G95) vào đầu Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoàng gia mang cái tên "Montgomery".
Thiết kế và chế tạo.
Là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được đặt cái tên nhằm vinh danh Lambert Wickes, nó được đặt lườn vào ngày 26 tháng 6 năm 1917 tại xưởng tàu của hãng Bath Iron Works ở Bath, Maine; được hạ thủy vào ngày tháng 6 năm 1918; được đỡ đầu bởi cô Ann Elizabeth Young Wickes, con gái Tiến sĩ Walter Wickes, hậu duệ của Lambert Wickes, và được đưa ra hoạt động vào ngày 31 tháng 7 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John S. Barleon.
Hoạt động cùng Hải quân Mỹ.
Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sau một giai đoạn chạy thử máy ngắn, "Wickes" khởi hành từ Boston vào ngày 5 tháng 8 và đi đến New York vào ngày 8 tháng 8. Cuối ngày hôm đó, nó lên đường hướng sang quần đảo Anh Quốc hộ tống một đoàn tàu vận tải bao gồm khoảng một tá tàu buôn. Hoàn thành nhiệm vụ, "Wickes" tách khỏi đoàn tàu cho một chặng dừng ngắn tại Queenstown, Ireland vào ngày 19 tháng 8. Lên đường ngay ngày hôm sau, chiếc tàu khu trục đi đến quần đảo Azore đón hành khách và thư tín tại Ponta Delgada để chuyển về Hoa Kỳ rồi tiếp tục đi đến New York. Sau đó "Wickes" hộ tống các đoàn tàu vận tải ngoài khơi bờ biển Đông Bắc Hoa Kỳ. Nó rời New York ngày 7 tháng 10 hướng đến Nova Scotia; nhưng đang khi trên đường đi về phía Bắc, thủy thủ đoàn của nó bị nhiễm cúm. Sau khi đi đến Halifax, 30 thành viên thủy thủ đoàn, kể cả hạm trưởng, phải vào bệnh viện trên bờ.
Bệnh cúm đã được đẩy lui trên chiếc tàu khu trục, nhưng vận rủi dường như chưa chịu buông tha "Wickes". Nó khởi hành từ New York lúc 17 giờ 48 phút ngày 23 tháng 10, đi trinh sát phía trước chiếc tàu tuần dương bọc thép "Pueblo" và hộ tống một đoàn tàu buôn vận tải. Lúc 21 giờ 04 phút, "Wickes" trông thấy một con tàu không rõ lai lịch bên mạn trái có hướng đến va chạm. Nó lập tức đổi hướng và bật hết đèn pha. Khi con tàu lạ không chịu nhường đường, chiếc tàu khu trục phải cho chạy lùi hết mức và ra lệnh báo động. Lúc 21 giờ 10 phút, chỉ sau phút kể từ khi phát hiện, mũi của con tàu lạ đâm vào lườn trái của "Wickes", gây hư hại nặng phần trước thân tàu. May mắn là không có thương vong về người; và việc ngập nước được kiểm soát do các vách ngăn đã chịu đựng được. Danh tính của con tàu lạ vẫn không thể xác định. Sau khi động cơ ngừng hoạt động lúc 21 giờ 12 phút, thủy thủ đoàn của "Wickes" kiểm soát được hư hỏng và đưa được con tàu quay trở lại Xưởng hải quân New York, đến nơi lúc 04 giờ 53 phút ngày 24 tháng 10.
Trong khi con tàu được sửa chữa tại đây, việc ký kết Thỏa thuận Đình chiến vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 đã đưa đến kết thúc chiến tranh. Tổng thống Woodrow Wilson đi sang Châu Âu trên chiếc "George Washington", và "Wickes" đã phục vụ trong thành phần hộ tống cho con tàu của Tổng thống, khởi hành từ New York vào ngày 4 tháng 12 năm 1918 để hướng đến Brest, Pháp.
1918-1922.
"Wickes" sau đó đi đến các cảng Bắc Âu vào cuối năm 1918, viếng thăm Hamburg và Stettin, Đức cùng Harwich, Anh. Trong chuyến đi châu Âu này, đang khi neo đậu tại Hamburg vào ngày 3 tháng 3 năm 1919, chiếc tàu khu trục đã va chạm với chiếc tàu buôn Đức "Ljusne Elf". Sau khi được sửa chữa, nó chuyển đến Brest vào tháng 6, và từ đây hộ tống cho "George Washington" khi nó đưa Tổng thống Wilson quay trở lại Hoa Kỳ.
Sau khi ăn mừng Ngày độc lập Hoa Kỳ 4 tháng 7 năm 1919 ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương, "Wickes" cùng các tàu chị em được chuyển sang khu vực Thái Bình Dương, băng qua kênh đào Panama vào ngày 24 tháng 7 năm 1919 trong đợt điều động một số lớn tàu chiến từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Cuối năm đó, Trung tá Hải quân William F. Halsey nhận quyền chỉ huy con tàu sau khi nó được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island. Trong vai trò soái hạm của Đội khu trục 10, "Wickes" hoạt động tại khu vực ngoài khơi bờ Tây cho đến năm 1922, tiến hành các hoạt động thực hành mục tiêu và tập trận thường lệ. Trong bối cảnh cắt giảm chi phí quốc phòng sau khi chiến tranh kết thúc, "Wickes" được rút biên chế và đưa về lực lượng dự bị tại San Diego, California vào ngày 15 tháng 5 năm 1922.
1923-1940.
Chiếc tàu khu trục bị bỏ không trong tám năm trước khi nhập biên chế trở lại vào ngày 26 tháng 4 năm 1930. "Wickes" được chuyển sang Đại Tây Dương và đặt căn cứ tại New York, hoạt động tại khu vực ngoài khơi bờ Đông, thực hiện các chuyến đi huấn luyện cùng với các đơn vị Vùng 3 Hải quân thuộc lực lượng Dự bị Hải quân Hoa Kỳ. Từ ngày 3 đến ngày 18 tháng 2 năm 1931, nó viếng thăm Tampa, Florida nhân dịp Hội chợ bang Florida State và Lễ hội Cướp biển Gasparilla trước khi chuyển đến Mobile, Alabama tham gia lễ hội Thứ Ba Béo. Sang tháng 11, "Wickes" viếng thăm Bridgeport Connecticut kỷ niệm Ngày đình chiến 11 tháng 11. Đến tháng 4 năm 1932, hai năm sau khi tái biên chế, "Wickes" trình diện để hoạt động cùng Hải đội Dự bị Luân phiên 20 và sau đó được thuyên chuyển sang Thái Bình Dương.
Từ năm 1933 đến năm 1937, "Wickes" hoạt động ngoài khơi San Diego dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Ralph U. Hyde. Được cho xuất biên chế vào ngày 6 tháng 4 năm 1937, chiếc tàu khu trục ở lại lực lượng dự bị chỉ trong một thời gian ngắn, do hoàn cảnh căng thẳng chính trị gia tăng tại cả châu Âu và Viễn Đông. Chiến tranh nổ ra tại Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 khi lực lượng Đức Phát xít xâm chiếm nước này, buộc Anh và Pháp phải tuyên chiến để hỗ trợ. Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu. Tổng thống Franklin Roosevelt lập tức ra lệnh cho Hải quân thành lập một vùng Tuần tra Trung lập ngoài khơi bờ Đông, trên các lối tiếp cận kênh đào Panama và vịnh Guantanamo cùng các lối tiếp cận vịnh Mexico. Để giúp vào việc tuần tra các vùng biển rộng lớn, Hải quân Mỹ nhanh chóng cho tái hoạt động 77 tàu khu trục và tàu rải mìn.
"Wickes" được cho tái hoạt động vào ngày 30 tháng 9 năm 1939 dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Charles J. Stuart. Trong tháng tiếp theo, chiếc tàu khu trục được trang bị trong khi neo đậu tại căn cứ khu trục dọc theo chiếc "Whitney" (AD-4). Vào đầu tháng 11, nó chuyển đến ụ tàu ở Xưởng hải quân Mare Island, Vallejo, California. Sau khi quay trở lại San Diego vào ngày 21 tháng 11, "Wickes" rời khu vực bờ Tây Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 11 hướng đến Panama cùng với đơn vị của nó, Đội khu trục 64. Trên đường đi, nó được chiếc tàu chở dầu "Neches" (AO-5) tiếp nhiên liệu, và đến Balboa, Panama vào ngày 6 tháng 12. Băng qua kênh đào vào ngày 7 tháng 12, chiếc tàu khu trục đi đến Căn cứ Hải quân Key West, Florida vào ngày 11 tháng 12 và bắt đầu các nhiệm vụ tuần tra trung lập.
"Wickes" và các tàu chị em luân phiên tuần tra tại eo biển Yucatan giữa bờ biển phía Đông của Cuba và bán đảo Yucatán cùng lối qua lại giữa Florida và bờ biển phía Tây Cuba. Chúng theo dõi các tàu buôn và tàu chiến của Anh Quốc và khối Thịnh Vượng Chung đang truy lùng tàu hàng hoặc tàu khách Đức ở khu vực gần bờ biển châu Mỹ do chiến tranh nổ ra.
Trong chuyến tuần tra đầu tiên, "Wickes" trông thấy một tàu tuần dương, có thể là HMAS "Perth" hoặc HMS "Orion", lúc 10 giờ 58 phút ngày 14 tháng 12. Chiếc tàu khu trục đã dõi theo chiếc tàu tuần dương, đổi hướng và tốc độ để phù hợp theo đối tượng, cho đến tận đêm. Thả neo ngoài khơi Port Everglades, Florida ngay trước lễ Giáng sinh năm 1939, "Wickes" ghi nhận tàu khu trục Anh HMS "Hereward" cần mẫn thực hiện tuần tra cách 12 hải lý ngoài khơi bờ biển Florida từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 12.
"Wickes" quay trở lại Key West vào ngày 30 tháng 12, nhưng chỉ đủ thời gian tiếp nhiên liệu và tiếp liệu trước khi lại lên đường vào ngày 2 tháng 1 năm 1940. Nó tiếp tục tuần tra ngoài khơi bán đảo Yucatán trong một tuần trước khi quay trở lại Key West vào ngày 9 tháng 1. Chuyển sang vịnh Guantanamo không lâu sau đó, "Wickes" thực tập cùng với các đơn vị tàu chiến lớn của Hải đội Đại Tây Dương từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 1 trước khi cùng Đội khu trục 64 khởi hành đi Puerto Cabello, Venezuela vào ngày 26 tháng 1. Đến nơi vào ngày hôm sau, các con tàu thực hiện chuyến viếng thăm cảng kéo dài ba ngày.
Sau khi rời Puerto Cabello, "Wickes" và các con tàu cùng đội viếng thăm St. Thomas thuộc quần đảo Virgin trước khi gia nhập Đội khu trục 65 ở St. Eustatius, Tây Ấn thuộc Hà Lan vào ngày 6 tháng 2. Ngày hôm sau, hai đội tàu khu trục đã gặp gỡ tàu tuần dương hạng nặng "Wichita" và Đội khu trục 82; cùng với các đội khu trục 61 và 83 cùng tàu tuần dương hạng nặng "Vincennes" để hình thành nên "Phân đội Antilles" của Hải đội Đại Tây Dương. Sau khi di chuyển và thực hành trong đội hình, "Wickes" quay lại vịnh Guantanamo vào ngày 9 tháng 2 trước khi chuyển đến Căn cứ Key West vào ngày 14 tháng 2.
Vào cuối tháng 2, "Wickes" lại tuần tra eo biển Florida, viếng thăm Dry Tortugas trong quá trình hoạt động. Vào cuối tháng 3, nó thực hiện tuần tra Yucatan. Quay trở lại Key West vào ngày 8 tháng 4 "Wickes" cặp mạn cùng tàu khu trục "Twiggs" tại bến tiếp nhiên liệu. Hai con tàu đã va chạm vào nhau làm vỡ tấm che chân vịt của "Twiggs" cùng thủng một lỗ nhỏ bên trên mực nước của "Wickes". May mắn đây chỉ là một hư hại nhẹ, và chiếc tàu khu trục đã có thể trở ra khơi không lâu sau đó, tiến hành chuyến đi trập trận tầm ngắn ngoài khơi Key West trước khi thực hiện một lượt tuần tra Yucatan khác vào giữa tháng 4.
Từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 6 "Wickes" viếng thăm San Juan, Puerto Rico và St. Thomas. Nó rời cảng St. Thomas vào ngày 1 tháng 7 để gia nhập cùng các thiết giáp hạm "Texas", "Arkansas" và "New York" xế chiều hôm đó để tiến hành thực tập mô phỏng tấn công bằng ngư lôi trong đêm. Sau đó "Wickes" hoạt động ngoài khơi San Juan trong suốt thời gian còn lại của tháng 7.
Trong khi đó tại châu Âu, Anh Quốc đối mặt với rất nhiều khó khăn. Chiến lược Chiến tranh Chớp nhoáng blitzkrieg của Đức đã loại bỏ Pháp ra khỏi chiến tranh; lực lượng tàu khu trục Anh bị thiệt hại nặng sau thất bại của Chiến dịch Na Uy và cuộc triệt thoái khỏi Dunkirk. Không những thế, tàu ngầm U-boat gây tổn thất lớn cho các đoàn tàu vận tải. Cùng với việc Ý tham chiến vào mùa Hè năm 1940, Anh đối mặt với một mặt trận dài để phòng thủ Địa Trung Hải. Khi đó Thủ tướng Anh Winston Churchill đã kêu gọi đến sự giúp đỡ của Tổng thống Roosevelt; và vào mùa Hè năm 1940 đã đạt được một thỏa thuận giữa Anh Quốc và Hoa Kỳ. Đánh đổi việc 50 tàu khu trục cũ của Hải quân Hoa Kỳ được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh, Hoa Kỳ được quyền thuê lại trong thời hạn 99 năm một loạt các căn cứ chiến lược trải dài từ Newfoundland đến Guiana thuộc Anh.
"Wickes" nằm trong số 50 con tàu được chọn để chuyển giao. Vì vậy, sau lượt hoạt động cuối cùng tại vùng biển Caribe, chiếc tàu khu trục quay trở về Key West vào ngày 24 tháng 7 Nó chuyển đến Galveston, Texas vào ngày 27 tháng 7 để đại tu tại xưởng tàu của hãng Todd's Drydock Company và ở lại đây cho đến tháng 8. "Wickes" cùng với tàu chị em "Evans" (DD-78) rời Galveston ngày 22 tháng 9, ghé qua Key West, và đi đến Xưởng hải quân Norfolk, Portsmouth, Virginia vào ngày 26 tháng 9. Đến ngày 9 tháng 10, "Wickes" rời Hampton Roads cùng với Đội khu trục 64, dừng tại Căn cứ Ngư lôi Hải quân, Newport, Rhode Island, không lâu sau đó. Các con tàu băng qua kênh đào Cape Cod trên đường đi đến Provincetown, Massachusetts, và sau khi dừng một chặng ngắn, tiếp tục đi đến Halifax, Nova Scotia, đến nơi vào ngày 16 tháng 10.
HMS "Montgomery".
Như một phần của nhóm tàu khu trục thứ năm được chuyển giao cho Anh Quốc và Canada, "Wickes" được Thủ tướng Canada Mackenzie King và Chuẩn đô đốc Mỹ Ferdinand L. Reichmuth, Tư lệnh lực lượng khu trục Hạm đội Đại Tây Dương thị sát vào ngày 19 tháng 10, vào giai đoạn truyền đạt kiến thức cho thủy thủ đoàn Anh tương lai. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1940, "Wickes" được bàn giao cho Hải quân Hoàng gia Anh. Tên của nó được rút khỏi Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1 năm 1941. Nó được đưa vào biên chế của Hải quân Hoàng gia cùng ngày 23 tháng 10 như là chiếc HMS "Montgomery" (G.95), dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân W. L. Puxley.
Chiếc tàu khu trục trải qua giai đoạn trang bị và làm quen ttrước khi rời vùng biển Canada vào ngày 1 tháng 11 hướng sang quần đảo Anh. Trên đường đi, "Montgomery" và các tàu chị em cùng đội càn quét qua vùng biển nơi trải qua trận hải chiến giữa chiếc tàu buôn tuần dương vũ trang HMS "Jervis Bay" và "thiết giáp hạm bỏ túi" Đức "Admiral Scheer". Trận chiến một chiều này diễn ra vào ngày 5 tháng 11 khi chiếc tàu chiến Đức tấn công một đoàn tàu vận tải được chiếc tàu buôn vũ trang hộ tống. "Jervis Bay" đã dũng cảm chặn giữa kẻ cướp và đoàn tàu buôn, giúp cho đồng đội thoát đi trong khi bản thân bị đánh hỏng và chìm. Tuy nhiên, "Montgomery" không tìm thấy gì, và sau một đợt ngắn truy tìm chiếc "thiết giáp hạm bỏ túi" Đức với mệnh lệnh bám theo vào ban ngày và tấn công vào ban đêm, nó đi đến Belfast, Bắc Ireland vào ngày 11 tháng 11.
Chuyển đến Plymouth, Anh một tuần sau đó, "Montgomery" được đặt dưới quyền Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây và đặt căn cứ tại Liverpool. Ngay trong những chuyến tuần tra đầu tiên của nó, "Montgomery" đã cứu vớt 39 người sống sót từ chiếc tàu chở dầu "Scottish Standard" bị tàu ngầm Đức "U-96" phóng ngư lôi đánh chìm vào ngày 21 tháng 2 năm 1941. Đưa những thủy thủ được cứu vớt lên bờ vào ngày 24 tháng 2, "Montgomery" tiếp tục các chuyến tuần tra khu vực tiếp cận phía Tây không lâu sau đó.
Chiếc tàu khu trục trải qua đợt sửa chữa tại Barrow-in-Furness từ tháng 4 đến tháng 9, và sau đó được phân về Đội hộ tống 4. "Montgomery" được cải tiến để phục vụ hộ tống các đoàn tàu buôn khi được cho tháo dỡ ba trong số các khẩu pháo /50 caliber ban đầu và một trong ba dàn ống phóng ngư lôi để giảm bớt trọng lượng bên trên, lấy chỗ để chứa thêm mìn sâu và trang bị hedgehog (cối chống tàu ngầm). Giờ đây đặt căn cứ tại Greenock, chiếc tàu khu trục hoạt động tại khu vực giữa quần đảo Anh và các cảng Canada cho đến cuối năm 1941. Vào ngày 13 tháng 1 năm 1942, chiếc tàu thủy SS "Friar Rock" treo cờ Panama bị tàu ngầm Đức "U-130" phóng ngư lôi đánh chìm ở cách 100 hải lý về phía Đông Nam mũi Race, Newfoundland. Bốn ngày sau, "Montgomery" vớt được bảy người sống sót từ con tàu này.
Đến tháng 2 năm 1942, "Montgomery" được điều về Lực lượng Hộ tống Tại chỗ phía Tây tại Halifax. Cuối năm 1942, chiếc tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Canada mượn trước khi nó lên đường về phía Nam, được sửa chữa tại Xưởng hải quân Charleston vốn kéo dài sang năm tiếp theo 1943. Tiếp nối các hoạt động hộ tống vận tải dọc bờ biển vào tháng 2 năm 1943, "Montgomery" cứu vớt những người sống sót của chiếc "Manchester Merchant", bị tàu ngầm Đức "U-628" phóng ngư lôi đánh chìm vào ngày 25 tháng 2 năm 1943, ở cách 390 hải lý ngoài khơi mũi Race.
Chiếc tàu khu trục tiếp tục ở lại cùng Lực lượng Hộ tống Tại chỗ phía Tây cho đến cuối năm 1943, hoạt động ngoài khơi Halifax. Vào ngày 12 tháng 12 năm 1943, nó trợ giúp cho chiếc sà lan "Spruce Lake" của hãng Bowater-Lloyd Paper Co., và vào ngày 27 tháng 12 đã rời Halifax quay về quần đảo Anh, mang theo các thành viên thủy thủ đoàn sống sót của chiếc tàu khu trục Anh HMS "Hurricane" bị tàu ngầm Đức "U-415" phóng ngư lôi đánh chìm trong đêm Giáng sinh.
Về đến Anh không lâu sau đó, "Montgomery" được đưa về lực lượng dự bị tại River Tyne vào ngày 23 tháng 2 năm 1944. Được rút khỏi đăng bạ, chiếc tàu kỳ cựu cuối cùng bị tháo dỡ vào mùa Xuân năm 1945, không lâu trước khi chiến tranh kết thúc tại châu Âu. | 1 | null |
Friedrich Wilhelm Ludwig von Wittich (15 tháng 10 năm 1818 tại Münster – 2 tháng 10 năm 1884 tại điền trang Siede của mình ở miền Neumark) là một sĩ quan quân đội Phổ – Đức, đã được thăng tới cấp bậc Trung tướng, và là một đại biểu Quốc hội Đế quốc Đức ("Reichstag"). Ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871).
Tiểu sử.
Wittich đã học tập trong đội thiếu sinh quân và vào năm 1835 ông nhập ngũ trong quân đội Phổ với quân hàm thiếu úy. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá trong Sư đoàn số 2 vào năm 1844 rồi trong Bộ Tổng chỉ huy của Quân đoàn V vào năm 1852. Vào năm 1857, ông được thăng cấp Thiếu tá và được thuyên chuyển sang Bộ Tham mưu của Sư đoàn số 9; năm 1861, ông gia nhập Bộ tham mưu của Quân đoàn V.
Vào năm 1863, Wittich là Tham mưu trưởng của Quân đoàn II, và vào năm 1864 ông giữ chức vụ này trong Quân đoàn IV. Ông đã được thăng quân hàm Đại tá và thực hiện xuất sắc trách nhiệm của mình trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, nhờ đó ông được tặng thưởng Huân chương Quân công. Vào năm 1868, ông được lên cấp bậc Thiếu tướng và Tư lệnh của Trung đoàn Bộ binh số 49 (số 1 Đại Công quốc Hessen), và sau khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ vào năm 1870, ông đã chỉ huy trung đoàn này tham chiến trong các trận đánh lớn ở Vionville, Gravelotte-St. Privat và Noisseville. Vào ngày 22 tháng 9 năm 1870, được phong cấp Trung tướng, ông nhậm chức Tư lệnh của Sư đoàn số 22, và chỉ huy sư đoàn của mình tham gia trong các chiến dịch lâu dài và khốc liệt trên sông Loire và ở phía trước Le Mans kể từ tháng 10 năm 1870 cho đến tháng 1 năm 1871, chống lại các đạo quân của nền Cộng hòa Pháp non trẻ. Trong diễn tiến của chiến dịch này, ông đã tham chiến dưới quyền viên tướng Bayern von der Tann trong trận Artenay vào ngày 10 tháng 10, trận Orléans vào ngày 11 tháng 10 và cuộc đánh chiếm Châteaudun vào ngày 18 tháng 10. Tại Châteaudun, 12.000 binh sĩ với pháo binh yểm trợ của ông đã đập tan cuộc kháng cự hết sức quyết liệt của 1.300 Vệ binh quốc gia và du kích franc-tireur của Pháp. Được nhìn nhận là một trong những vị tướng dữ tợn nhất của quân đội Phổ, ông được biết đến với biệt danh là "Tay đồ tể của Châteaudun". Vào ngày 21 tháng 10 năm 1870, ông đánh chiếm Chartres và chiến đấu dưới quyền Đại Công tước xứ Mecklenburg-Schwerin tại Loigny và Poupry vào ngày 2 tháng 12, tại Orléans từ ngày 3 cho đến ngày 4 tháng 12, và tại Beaugency từ ngày 8 cho đến ngày 10 tháng 12 (cả ba trận chiến này đều kết thúc với sự thất trận của quân Pháp). Sau đó, ông đã đóng một vai trò quan trọng đến những chiến thắng tại Le Mans (từ ngày 10 cho đến ngày 12 tháng 1) và tại Alençon vào ngày 15 tháng 1 năm 1871.
Cuối năm 1872, ông được lãnh chức Tư lệnh của Sư đoàn số 31, và vào năm 1873, ông giải ngũ. Vào năm 1889, để vinh danh ông, Trung đoàn Bộ binh "von Wittich" (số 3 Đại Công quốc Hessen) số 83 đã được đặt theo tên ông.
Kể từ năm 1879 cho đến năm 1881, Wittich là đại biểu Quốc hội của Đảng Bảo thủ Đức và Khu vực bầu cử Landsberg.
Ludwig von Wittich đã từ trần vào ngày 2 tháng 10 năm 1884 tại điền trang Siede của ông ở miền Altmark. | 1 | null |
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (tiếng Anh: Viet Nam Social Security, viết tắt là VSS) là cơ quan trực thuộc Chính phủ có chức năng tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử dụng các quỹ: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế (sau đây gọi chung là bảo hiểm); thanh tra chuyên ngành việc đóng bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; của Bộ Y tế về bảo hiểm y tế; của Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam được quy định tại Nghị định 89/2020/NĐ-CP ngày 4/8/2020 của Chính phủ.
Nhiệm vụ và quyền hạn.
Theo Nghị định 89/2020/NĐ-CP ngày 4/8/2020 của Chính phủ: | 1 | null |
"Just Give Me a Reason" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Pink hợp tác với giọng ca chính của ban nhạc fun. Nate Ruess nằm trong album phòng thu thứ sáu của cô, "The Truth About Love" (2012). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ ba trích từ album vào ngày 26 tháng 2 năm 2013 bởi RCA Records. Bài hát được viết lời bởi hai nghệ sĩ với Jeff Bhasker, người cũng đồng thời chịu trách nhiệm sản xuất nó. Đây là một bản pop ballad với nội dung đề cập đến việc mong muốn níu giữ lại một mối quan hệ ngay cả khi nó dường như đã bị phá vỡ và không còn nguyên vẹn như trước, được lấy cảm hứng từ chính mối quan hệ tình cảm giữa Pink và người chồng của cô là tay đua Carey Hart vốn đã nhiều lần tan vỡ và tái hợp, trước khi cả hai chính thức trở lại vào năm 2010. Trong quá trình viết lời cho "Just Give Me a Reason", nữ ca sĩ nhận ra rằng bài hát cần một người hát chung bởi nội dung của nó giống như một cuộc trò chuyện hơn là một bản nhạc về quan điểm, và sau đó cô đã liên hệ với Ruess và thiết lập nó như một bản song ca.
Sau khi phát hành, "Just Give Me a Reason" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao chất giọng của Pink và Reuss cũng như gọi đây là bản nhạc xuất sắc nhất từ "The Truth About Love". Bài hát cũng gặt hái những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại với việc đứng đầu các bảng xếp hạng ở hơn 20 quốc gia, bao gồm nhiều thị trường lớn như Úc, Áo, Canada, Đức, Ireland, Ý, Hà Lan, New Zealand và Thụy Điển, và lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, trong đó vuơn đến top 5 ở Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, "Just Give Me a Reason" đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 trong ba tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn quán quân thứ tư của Pink và đầu tiên của Ruess dưới cương vị nghệ sĩ hát đơn, và đã tiêu thụ được hơn bốn triệu bản tại đây. Tính đến năm 2013, nó đã bán được hơn 9.9 triệu bản trên toàn cầu, trở thành đĩa đơn bán chạy thứ tư trong năm và là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.
Video ca nhạc cho "Just Give Me a Reason" được đạo diễn bởi Diane Martel với sự tham gia góp mặt từ Ruess và Hart, trong một khung cảnh lãng mạn giống như một đầm lầy nhân tạo. Nó đã nhận được ba đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2013 cho Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ, Biên tập xuất sắc nhất và Hợp tác xuất sắc nhất, và chiến thắng một giải sau. Để quảng bá bài hát, Pink đã trình diễn "Just Give Me a Reason" trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm giải Grammy lần thứ 56 cũng như trong tất cả những chuyến lưu diễn trong sự nghiệp của cô. Kể từ khi phát hành, nó đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như Charlie Puth, Sam Tsui và dàn diễn viên của "Glee". Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm giải Sự lựa chọn của Giới trẻ, giải Sự lựa chọn của Công chúng và giải thưởng Âm nhạc Thế giới cũng như hai đề cử giải Grammy cho Bài hát của năm và Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 56.
Thành phần thực hiện.
Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của "The Truth About Love", RCA Records.
Chứng nhận.
!scope="col" colspan="3"| Trực tuyến | 1 | null |
Ferdinand Wolf Konstantin Karl von Stülpnagel (7 tháng 10 năm 1842 tại Berlin – 24 tháng 12 năm 1912 cũng tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng tới cấp bậc Thượng tướng Bộ binh. Ông từng tham chiến trong ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức.
Tiểu sử.
Ferdinand xuất thân trong giai đình quý tộc von Stülpnagel vùng Uckermark. Ông là con trai của Thượng tướng Bộ binh về sau này Wolf Louis Anton Ferdinand von Stülpnagel và vợ của ông này là Cäcilie, tên khai sinh von Lossau (1809 – 1886).
Sau khi học tập trong các trường thiếu sinh quân tại Potsdam và Berlin, Stülpnagel đã nhập ngũ trong Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 với quân hàm thiếu úy vào ngày 6 tháng 3 năm 1860. Tiếp theo đó, vào ngày 23 tháng 2 năm 1861, ông được chuyển vào Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 3. Kể từ ngày 2 tháng 10 năm 1862 cho đến ngày 1 tháng 7 năm 1863, ông nhận nhiệm vụ trong Học viện Thể thao Trung tâm ("Zentral-Turnanstalt"), tại đây ông làm giáo viên trong vòng hai tháng.
Sau khi tham chiến trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai chống Đan Mạch vào năm 1865, ông tham dự Học viện Quân sự kể từ năm 1865, và thời gian này bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh với Áo vào năm 1866. Trong cuộc chiến này, ông giữ chức vụ sĩ quan phụ tá của Trung đoàn Bộ binh Dân quân Cận vệ. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1866, ông được phong quân hàm trung úy, và từ ngày 16 tháng 4 năm 1868 cho đến ngày 1 tháng 5 năm 1869 ông nhận nhiệm vụ trong Bộ Tổng tham mưu. Khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) bùng nổ, ông là sĩ quan phụ tá của "Chính quyền Trung ương các Lãnh thổ Ven biển" ("General-Gouvernement der Küstenlande"), và sau đó là của Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 3 ngoài tiền tuyến. Vào ngày 6 tháng 12 năm 1870, ông được thăng cấp Đại úy và chỉ huy trưởng đại đội 11.
Vào tháng 10 năm 1877, ông được thuyên chuyển vào Bộ Tổng tham mưu, đến tháng 2 năm 1878, ông được chuyển vào Bộ Tham mưu của Sư đoàn số 9, đóng quân tại Glogau, và được thăng cấp Thiếu tá vào tháng 6 năm 1878. Vào năm 1882, Stülpnagel lãnh chức Tư lệnh của Tiểu đoàn Bắn súng hỏa mai trong Trung đoàn Phóng lựu "Vua Friedrich" (số 2 Schlesien) số 11. Tiếp theo đó, vào năm 1886, ông được phong chức vị danh dự và được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Võ bị ("Kriegsschule"). Cùng năm đó, ông được phong cấp Thượng tá, năm 1887 ông là tham mưu trưởng của Quâ đoàn I, năm 1888 Đại tá và Trung đoàn Phóng lựu "Thái tử" (số 1 Đông Phổ) số 1) ở Königsberg, vào năm 1891 Thiếu tướng và Tư lệnh của Lữ đoàn Bộ binh số 22 tại Breslau rồi vào năm 1893 ông là Tư lệnh của Lữ đoàn Bộ binh số 1 ở Königsberg. Vào năm 1895, ông được thăng cấp Trung tướng và nhậm chức Tư lệnh của Sư đoàn số 1 ở Königsberg. Vào năm 1899, Stülpnagel được ủy nhiệm làm Tướng tư lệnh của Quân đoàn V ở Posen và vào ngày 27 tháng 1 năm 1900 ông lên quân hàm Thượng tướng Bộ binh.
Vào ngày 13 tháng 9 năm 1906, Stülpnagel nghỉ hưu với danh hiệu "à la suite" của Trung đoàn Phóng lựu "Thái tử" (số 1 Đông Phổ) số 1. Ông đã từ trần vào ngày 24 tháng 12 năm 1912 tại thủ đô Berlin.
Gia đình.
Vào ngày 25 tháng 1 năm 1873, Stülpnagel kết hôn với Marie Klara Rosalie Franziska Antonie, tên hai sinh là Bronsart von Schellendorff (8 tháng 4 năm 1854 – 20 tháng 6 năm 1932). Cặp đôi có một vài người con, trong số đó có Joachim von Stülpnagel | 1 | null |
Trần Mạnh Dũng (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1990 tại Nam Định) là một cầu thủ bóng đá Việt Nam hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Dược Nam Hà Nam Định ở vị trí Tiền vệ.
Anh cũng là đội phó đội tuyển U-23 Việt Nam tham dự Sea Games 27.
Đội tuyển quốc gia.
Anh thi đấu trận đầu tiên cho đội tuyển quốc gia tại Vòng loại Asian Cup 2015 trong trận gặp Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và trận thứ hai trong trận gặp Hồng Kông.
Anh là người ghi bàn duy nhất trong trận giao hữu gặp câu lạc bộ Arsenal ngày 17 tháng 7 năm 2013.
Nghi án bán độ.
Vào tháng 3 năm 2014, anh cùng đồng đội tại CLB The Vissai Ninh Bình bị nghi ngờ tham gia đường dây cá độ 800 triệu đồng. Anh còn bị nghi ngờ là người cầm đầu trong việc bán độ ở trận gặp CLB Kelantan ở vòng loại AFC Cup.
Tháng 8 năm 2014, trong phiên tòa xử vụ án bán độ, Trần Mạnh Dũng bị coi là chủ mưu và bị tuyên phạt 30 tháng tù giam. | 1 | null |
Chi Sắc tử (danh pháp khoa học: Oxyspora) là một chi thực vật có hoa trong họ Mua.
Các loài.
Các loài được công nhận hiện tại có:
Chưa dung giải hoặc chuyển đi.
Có khoảng 33 danh pháp gắn với chi này chưa dung giải được xem có phải loài hợp lệ hay không. Bên cạnh đó, một vài danh pháp là đồng nghĩa của các loài thuộc chi "Allomorphia" (các loài mua đa hình). | 1 | null |
Trong lý thuyết đồ thị và trí tuệ nhân tạo, Thuật toán tô màu tham lam (tiếng Anh: "Greedy coloring") là một trong những phương pháp tô màu cho đồ thị áp dụng giải thuật tham lam (tiếng Anh: "Greedy algorithm"). Thuật toán tô màu Greedy chưa phải là một thuật toán tô màu hoàn toàn chính xác. Có hai trường hợp tiêu biểu thể hiện sự chưa chính xác của thuật toán.
Thuật toán.
Tư tưởng thuật toán.
Thuật toán tô màu tham lam xem xét đồ thị formula_1 với tập hợp các đỉnh formula_2 và tập các đỉnh kề formula_3. Đầu tiên ta xét các đỉnh theo thứ tự và gán cho mỗi đỉnh một màu riêng theo nguyên tắc: các đỉnh không kề với đỉnh đang xét (không có cạnh nối trực tiếp) thì được phép tô cùng một màu, cấm tô màu đó cho các đỉnh có cạnh kề với đỉnh đang xét. Thuật toán lặp lại cho đến khi tất cả các đỉnh được tô màu.
Mã giả.
SET formula_4.
SET formula_5.
FOR formula_6.
Tô màu k > 0 cho đỉnh vj khác với đỉnh kề nó
formula_7 MIN formula_8 AND formula_9
} Lặp lại đến tô màu xong. | 1 | null |
Michal Nguyễn (sinh ngày 4 tháng 12 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người Cộng hòa Séc gốc Việt hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ FK Baník Most-Sous.
Michal Nguyễn sinh ra tại Cộng hòa Séc với cha là người Việt Nam và mẹ là người Séc. Trong sự nghiệp, anh đã từng thi đấu cho câu lạc bộ FK Baník Most tại Czech 2.Liga, Becamex Bình Dương tại V-League 1, Air Force Central tại Thai Premier League và FA Selangor tại Super League Malaysia.
Sự nghiệp quốc tế.
Năm 2013, Michal Nguyễn được HLV Hoàng Văn Phúc triệu tập lên đội tuyển quốc gia Việt Nam để tham dự 2 trận đấu thuộc vòng loại Asian Cup 2015. Tuy nhiên, chỉ 6 phút trong trận ra mắt đội tuyển quốc gia Việt Nam ở cuộc đối đầu gặp UAE, Michal Nguyễn đã mắc lỗi và khiến đội nhà chịu phạt đền. Trận này, đội tuyển Việt Nam nhận thất bại với tỷ số 1–2. Sau đó một tháng, anh tiếp tục được xếp đá chính trong trận thua 0–1 trước đội tuyển Hồng Kông.
Danh hiệu.
Becamex Bình Dương | 1 | null |
Ma trơi là những đám lửa sáng lập lòe được nhìn thấy vào ban đêm, ngoài những khu nghĩa trang. Đây là một hiện tượng tự nhiên có thể giải thích bằng kiến thức khoa học, không phải là hiện tượng thần bí giống như ma.
Mê tín.
Ở chiến trường.
Hàng đêm, những đám lửa sáng lập lòe lan tỏa theo chiều gió, màu xanh nhạt thường được nhìn thấy ngoài những bãi tha ma, lúc ẩn lúc hiện, gây bao nỗi sợ hãi và tò mò cho người dân, thường là ở những vùng nông thôn và miền núi. Theo nhiều người, đó là oan hồn của những chiến sĩ trên chiến trường, hài cốt không được nhận lại còn vương vất trên những bãi chiến trận, tha ma, hay cánh đồng vắng. Do những linh hồn này sợ ánh sáng nên chỉ xuất hiện về đêm, những ngọn lửa này không hại ai cả, nhưng có nhiều khi lại đuổi theo người.
Trong văn hóa tín ngưỡng xứ Wales.
Theo người xứ Wales, ma trơi do thánh Davis tạo ra để báo trước cái chết của một người nào đó, điều này đồng nghĩa với khi thấy một đóm lửa ma trơi thì gần đó trong tương lai gần sẽ có một người chết. Đóm lửa có màu xanh người chết sẽ là một người trẻ tuổi, còn nếu đóm lửa có màu vàng thì người chết sẽ là một người lớn tuổi. Người xứ Wales cũng cho rằng nếu nhìn vào đóm lửa ma trơi sẽ thấy gương mặt của người sắp chết. | 1 | null |
Cung thúc Đoàn (chữ Hán: 共叔段, ?-722 TCN), hay còn gọi là Thái thúc Đoàn (大叔段), tên thật là Cơ Đoàn (姬段) là tông thất của nước Trịnh thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.
Thụ phong ở đất Kinh.
Cơ Đoàn là con trai thứ của Trịnh Vũ công, vua thứ hai của nước Trịnh với Vũ Khương, con gái quan Thân hầu, em trai của Trịnh Trang công Cơ Ngụ Sinh, vua thứ ba của nước Trịnh. Chưa rõ năm sinh của Cơ Đoàn, nhưng có thể tạm đoán là ông ra đời sau năm 757 TCN (năm sinh của Trịnh Trang công).
Khi mẹ ông là Vũ Khương mang thai Ngụ Sinh, thai bị nằm ngang đẻ rất đau và suýt chết nên bà không thích Ngụ Sinh. Còn Cơ Đoàn sinh sau rất được Vũ Khương yêu mến. Vũ Khương nhiều lần khuyên Vũ công bỏ Ngụ Sinh để lập Đoàn làm thế tử, song Vũ công cho rằng Ngụ Sinh chưa phạm lỗi gì không thể làm chuyện phế lập được.
Năm 744 TCN, Trịnh Vũ công ốm nặng, Vũ Khương lại khuyên Vũ công cho Đoàn nối ngôi nhưng vẫn không được chấp thuận. Ít lâu sau, Trịnh Vũ công qua đời, Ngụ Sinh lên kế vị, tức là Trịnh Trang công.
Sau khi vua anh tức vị, mẹ ông là Vũ Khương vẫn chưa từ bỏ ý định, bèn bảo Trang công phong cho Đoàn ở ấp Kinh là ấp lớn của nước Trịnh, nguyên thuộc nước Đông Quắc đã bị Trịnh diệt thời Vũ công. Đại phu Tế Trọng can ngăn nhưng Trịnh Trang công cho là ý của Vũ Khương nên phải tuân theo. Từ đó Cơ Đoàn được làm chúa đất Kinh, hiệu là Thái Thúc, thường được gọi là Kinh Thành Thái thúc hay Thái Thúc Đoàn.
Tạo phản và bị giết.
Vũ Khương ra sức giúp đỡ Cơ Đoàn cướp ngôi nước Trịnh, hứa làm nội ứng cho ông. Được sự hậu thuẫn của quốc mẫu, Cơ Đoàn bắt đầu phát triển thế lực: xây thành mới, tụ tập quân lính và vũ khí, sau lại dụ ấp Tây Bỉ và ấp Bắc Bỉ về theo mình, sau đó lại dụ ấp Lẫm Diên. Trịnh Trang công biết được chuyện đó nhưng giả vờ không chú ý mà ngầm chuẩn bị đề phòng.
Năm 722 TCN, Thái thúc Đoàn với sự giúp sức của Vũ Khương, kéo quân vây Tân Trịnh (kinh đô nước Trịnh). Trịnh Trang công vốn đã có sự chuẩn bị trước, sai Tử Phong mang quân và 200 cỗ xe đánh Thái thúc Đoàn ở đất Kinh. Người đất Kinh thấy quân Trịnh đến bèn phản lại ông. Thái thúc Đoạn bỏ chạy đến ấp Yển, cũng bị Trịnh Trang công đem quân đánh.
Tháng năm năm đó, Thái thúc Đoàn trốn sang ấp Cung, nên gọi là Cung thúc Đoàn. Trịnh Trang công lại đánh ấp Cung nhằm tận diệt ông. Cung thúc Đoàn không chống nổi bèn tự sát. Không rõ năm đó bao nhiêu tuổi.
Sau khi chết.
Con Cung thúc Đoàn là Công tôn Hoạt bỏ chạy sang nước Vệ, cầu cứu Vệ Hoàn công. Vệ Hoàn công mang quân giúp Hoạt cùng đánh Trịnh, chiếm đất Lâm Diên. Trịnh Trang công mượn quân nhà Chu tiến sang nước Vệ, đánh thắng quân Vệ ở Nam Bỉ. Vệ Hoàn công phải xin cầu hòa, cùng nước Trịnh ăn thề.
Về sau, Công tôn Hoạt được phong ở nước Vệ. | 1 | null |
đã được thành lập tại Nhật Bản khi trong quá trình phát triển chính quyền đại nghị thời kỳ Minh Trị nhằm tăng cường quyền lực của nhà nước. Lãnh đạo đầu tiên của hội đồng này là Yamagata Aritomo (1838–1922), người gốc Chōshū. Ông được tín nhiệm do đã có công thành lập Lục quân Nhật Bản hiện đại và ông cũng trở thành thủ tướng hợp hiến đầu tiên của Nhật Bản. Hội đồng Chiến tranh Tối cao đã xây dựng một hệ thống ban tham mưu kiểu Đức trong đó tham mưu trưởng có thể trực tiếp tiếp kiến Thiên hoàng và có quyền chỉ đạo bộ trưởng quốc phòng và các viên chức dân sự. Hội đồng Chiến tranh Tối cao trên thực tế là nội các Nhật trước chiến tranh Trung-Nhật.
Hội nghị liên lạc.
Từ tháng 11 năm 1937, theo lệnh của Nhật hoàng Showa, "Gunji sangikan kaigi" được thay thế bởi Hội đồng liên lạc Đại bản doanh - Chính phủ (大本営政府連絡会議, "Daihon'ei seifu renraku kaigi"). Hội đồng Liên lạc có mục đích là tạo ra các cuộc hội đàm gần gũi hơn giữa các tướng lĩnh Bộ Tham mưu Lục quân và Hải quân với chính phủ của Thiên hoàng, và để giúp thống nhất các quyết định và nhu cầu của hai quân chủng của Đại Bản Doanh với các nguồn lực và chính sách của chính phủ. Các quyết định cuối cùng của Hội đồng Liên lạc được chính thức trình bày và phê chuẩn tại Hội nghị Đế quốc do đích thân Thiên hoàng chủ trì tại chính cung Kyūden của Hoàng cung Tokyo.
Dưới đây là một số thành viên hội nghị:
Trong đêm diễn ra trận Trân Châu Cảng, các thành viên nổi tiếng của hội đồng bao gồm: | 1 | null |
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức xã hội - chính trị của các cựu chiến binh của các lực lượng vũ trang và bán vũ trang trong cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia qua các thời kỳ, của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Hội Cựu chiến binh là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là một cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội.
Ngày 6/12/1989, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã quyết định cho thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ Cựu chiến binh (CCB) giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của Cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
Điều lệ Hội hiện hành được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V thông qua ngày 19 tháng 12 năm 2012 .
Lịch sử.
• Năm 1989, Việt Nam rút toàn bộ quân tình nguyện ở Campuchia về nước. Ở biên giới phía Bắc, Trung Quốc thực hiện việc rút quân khỏi các vị trí đã chiếm đóng, hòa bình thực sự đã trở lại trên toàn cõi Đông Dương. Điều kiện để thành lập một tổ chức thống nhất theo nguyện vọng thiết tha, chính đáng của cựu chiến binh toàn quốc đã chín muồi.
• Ngày 06/12/1989, căn cứ Tờ trình của Ban Bí thư, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã quyết định thành lập Hội CCB Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được bổ nhiệm làm Chủ tịch danh dự.
• Ngày 3/2/1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 100-QĐ/TW cho thành lập Hội CCB Việt Nam, chỉ định Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Hội CCB Việt Nam gồm 31 đồng chí, do đồng chí Thượng tướng Song Hào làm Chủ tịch , có nhiệm vụ giúp các tỉnh, thành phố hình thành tổ chức lâm thời, tiến hành kết nạp hội viên và chuẩn bị các văn kiện, nhân sự, dự thảo Điều lệ Hội CCB... để trình Đại hội lần thứ nhất, đồng thời bầu Ban chấp hành Trung ương Hội CCB chính thức.
• Ngày 24/02/1990 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho phép thành lập Hội CCB Việt Nam (Giấy phép số 528/NC).
• Ngày 14/4/1990, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) ra Quyết định số 51-QĐ/MTTQ. Công nhận Hội CCB là thành viên của MTTQVN.
• Ngày 7-10-2005, Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Cựu chiến binh.
• Ngày 6/12 là Ngày truyền thống của CCB và Hội CCB Việt Nam.
"Quyết định thành lập Hội CCB Việt Nam là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, đáp ứng đòi hỏi khách quan của tình hình cách mạng nước ta trong giai đoạn cách mạng mới. Sự ra đời của Hội CCB Việt Nam là dấu mốc lịch sử quan trọng trong đời sống chính trị, tinh thần, đáp ứng với sự mong mỏi, nguyện vọng thiết tha, chính đáng của CCB Việt Nam."
Chức năng, nhiệm vụ.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam có chức năng đại diện ý chí, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng, hợp pháp của Cựu chiến binh. Hội làm tham mưu giúp cấp uỷ Đảng và làm nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động Cựu chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách mạng, của Hội; tham gia giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức Nhà nước.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam có nhiệm vụ:
Các kỳ đại hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I.
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ nhất diễn ra tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội từ ngày 19 đến ngày 20 tháng 11 năm 1992 với sự tham gia của 318 đại biểu đại diện cho 700.000 hội viên cả nước.
Nội dung:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II.
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ hai diễn ra tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội từ ngày 17 đến ngày 18 tháng 12 năm 1997 với sự tham gia của 432 đại biểu.
Nội dung:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III.
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ III diễn ra tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 12 năm 2002 với sự tham gia của 471 đại biểu.
Nội dung:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV.
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ IV diễn ra tại Hội trường Bộ Quốc phòng, Hà Nội từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 12 năm 2007 với sự tham gia của 497 đại biểu.
Nội dung:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã diễn ra từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 12 năm 2012, tại Hội trường Bộ Quốc phòng, Thủ đô Hà Nội, với sự tham dự của 510 đại biểu thay mặt cho hơn 2,6 triệu hội viên trên toàn quốc.
Nội dung:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Hội Cựu chiến binh Việt Nam diễn ra từ ngày 13 - 15/12/2017 với sự tham dự của 516 đại biểu thay mặt cho gần 3 triệu hội viên trên toàn quốc.
Danh sách ban chấp hành trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam khóa VI
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Hội Cựu chiến binh Việt Nam diễn ra từ ngày 29 - 31/12/2022 với sự tham dự của 506 đại biểu thay mặt cho gần 3 triệu hội viên trên toàn quốc.
Danh sách ban chấp hành trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam khóa VII | 1 | null |
Nhân vật chính (từ Hy Lạp cổ đại: πρωταγωνιστής (protagonistes), có nghĩa là "một trong những người đóng vai đầu tiên" hay "diễn viên chính") là một nhân vật đóng vai trò trung tâm, xuyên suốt, chủ đạo trong một tác phẩm văn học, sân khấu, điện ảnh, hoặc âm nhạc (một live Show, một chương trình ca nhạc…), trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật, điện ảnh thì nhân vật chính thường được tập trung thể hiện hình ảnh cá nhân và nêu lên những tư tưởng, quan điểm chủ đạo của tác giả trong tác phẩm của mình, nhân vật chính thường được kết thúc trong xung đột và giải quyết xung đột với nhân vật phản diện. Nhân vật chính có thể là người tốt hoặc kẻ xấu.
Ngày nay, thuật ngữ nhân vật chính được hiểu theo nghĩa rộng đề cập đến nhân vật (người) đang được nhắc đến trong một câu chuyện, một buổi hội thoại, một sự kiện hoặc một vụ bê bối. | 1 | null |
Axit 3-(2,4-đinitrophenyl)-2,4,6-trinitrobenzoic là một axit có công thúc là C13H5N5O12. Là một chất rắn tan trong nước và là một axit khá mạnh, mạnh hơn axit 2,4,6 trinitrobenzoic.
Tính chất hoá học.
Axit 3-(2,4-đinitrophenyl)-2,4,6-trinitrobenzoic có tính chất của axit thông thường như tác dụng với kim loại, base, đẩy axit yếu hơn ra khỏi muối của nó như kali, kali hydroxide, kali cacbonat: | 1 | null |
Nữ vương (chữ Hán: 女王, tiếng Anh: "Queen Regnant") hay Nữ chúa là từ dùng để chỉ người phụ nữ làm Quốc vương. Nữ vương là nguyên thủ quốc gia tại các Vương quốc này. Người phụ nữ làm Hoàng đế, là nguyên thủ quốc gia của một Đế quốc, thì sẽ được gọi là Nữ hoàng. Ngoài ra, Nữ vương cũng là tước vị dành cho con gái của các Thân vương thuộc hoàng tộc Nhật Bản. Nữ chúa thường được dùng chỉ những người phụ nữ được tôn thờ trong các tôn giáo, tín ngưỡng.
Hầu hết các quốc gia ở Châu Âu đều là Vương quốc, nên các vị nguyên thủ nữ giới kế vị ngai vàng đều là Nữ vương. Ở Đông Á có nhà Triều Tiên là quốc gia lâu năm vẫn xưng tước Vương, còn các nước Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản, các triều đại của họ phần lớn đều xưng Hoàng đế, do vậy nếu có Nữ quân chủ tồn tại thì đại đa phần đều là Nữ hoàng.
Vị Nữ vương hiện tại duy nhất trên thế giới hiện nay là Margrethe II của Đan Mạch. Do cách dịch báo chí cho dễ hiểu, vị này đều bị dịch thành "Nữ hoàng", trong khi thực tế bà là Nữ vương theo tước vị quốc tế.
Khái quát.
Lịch sử cách gọi.
Ở các quốc gia cổ đại như Trung Quốc, Ai Cập, Ba Tư, những người phụ nữ dù xuất thân từ vương thất hay hoàng tộc cũng đều không có quyền kế thừa ngai vị. Do vậy, ngôn ngữ tại những nền văn hóa này không có danh từ "nữ hóa" chỉ đến ngai quốc chủ, như Pharaoh của Ai Cập, Hoàng đế của Trung Hoa. Dù có cách dùng Nữ hoàng đối với trường hợp phụ nữ làm Hoàng đế, Nữ vương đối với phụ nữ làm Quốc vương song điều đó chỉ mang tính tương đối.
Rất nhiều vị Nữ quân chủ cổ đại khi được truyền ngôi vị vẫn sử dụng danh xưng vốn dùng cho nam giới. Như Đế quốc Byzantine, có Irene thành Athena khi lên làm Hoàng đế của Đế quốc, bà dùng danh xưng [Basileus; βασιλεύς] theo truyền thống các Hoàng đế giới tính nam, hơn là tự dùng [Basilissa; βασίλισσα] vốn dành cho các Hoàng hậu Byzantine. Đối với trường hợp Quốc vương cũng vậy, Jadwiga của Ba Lan khi được tôn làm Vương, dùng danh hiệu Rex Poloniae, tức Quốc vương của Ba Lan. Về sau, các đạo luật thừa kế tại một số quốc gia như Vương quốc Anh bắt đầu chấp nhận phụ nữ kế thừa ngôi vua, song không ít các quốc gia ở Châu Âu xem việc này là bất hợp pháp.
Trải qua Đông Á, các Nữ quốc chủ Tân La cùng Trưng Nữ Vương là những vị Nữ vương hiếm hoi, riêng (Nữ hoàng) càng hiếm hơn nữa, và những trường hợp này đều rơi vào những sự kiện độc nhất vô nhị, không có tiền lệ hoặc không có một truyền thống lâu đời của các triều đại ấy. Đến Nhật Bản, dù trong lịch sử ghi nhận có tới 8 vị Nữ Thiên hoàng, song không ít các nhận định cho rằng những người phụ nữ này thiên về nhiếp chính hơn là có quyền lực thực tế của một Thiên hoàng.
Trường hợp kế vị.
Rất ít quốc gia trên thế giới có truyền thống để phụ nữ làm vua, ở Châu Âu cũng như vậy. Hai quốc gia đáng kể nhất công nhận phụ nữ kế vị là Vương quốc Anh và Vương quốc Tây Ban Nha. Và dù Margrete I của Đan Mạch đã tự xưng Vương vị vào năm 1375, song Vương quốc Đan Mạch khi ấy hoàn toàn không có quy luật cho phép nữ giới lên ngôi, bà lên ngôi khi con trai là Olaf II qua đời.
Do Đạo luật Salic, các quốc gia thuộc khối Châu Âu phần lớn không đưa nữ giới vào dòng thừa kế. Quy định thừa kế chấp nhận nữ xảy ra khá sớm ở Anh và Tây Ban Nha, sau đó dần đến các quốc gia như Hà Lan, Bỉ, Thụy Điển cùng Đan Mạch. Ở Anh và Tây Ban Nha, nữ giới lớn nhất khi không còn nam duệ mới bắt đầu được suy xét quyền kế vị. Hiện nay ở Bỉ, Thụy Điển, các vương thất bắt đầu chỉ định người con lớn nhất không kể nam nữ để kế vị.
Ở Ai Cập, phụ nữ làm Pharaoh thường là công chúa xuất thân từ dòng dõi Ai Cập, trị vì với tư cách là vợ hoặc "Đồng quốc quân", như Hatshepsut, Nefertiti. Khi Ai Cập được trị vì bởi nhà Ptolemaios, trường hợp Vương hậu kiêm đồng quốc quân xảy ra rất thường xuyên, nổi tiếng nhất phải kể đến Cleopatra. Và tuy Pharaoh là một tước vị không rõ thuộc phạm trù Đế hay Vương, song các tư liệu quốc tế đều dịch Ai Cập ở mức độ [Vương quốc; Kingdom], các Nữ Pharaoh cũng từ đó thành Nữ vương, dù ở Việt Nam quen xưng gọi Nữ hoàng Ai Cập.
Phân biệt ngôn ngữ.
So với Vương hậu.
Trong ngôn ngữ Đông Á, Nữ vương cùng Vương hậu có sự phân biệt rất rõ ràng. Tuy nhiên điều này không xảy ra ở Châu Âu, tại những quốc gia nói tiếng Anh hoặc chung một hệ ngôn ngữ từ Hy Lạp và La Mã, họ đều dùng Queen để chỉ trường hợp một người phụ nữ trị vì một Vương quốc (Nữ vương) và vợ của Quốc vương (tức Vương hậu).
Vào lúc này, để phân biệt rõ hơn, Nữ vương sẽ được thêm vào trợ từ [Regnant; ý là "người trị vì"], trở thành [Queen Regnant]. Còn các Vương hậu sẽ được thêm trợ từ [Consort; ý là "hôn phối của quốc chủ"], tức [Queen Consort].
So với Nữ hoàng.
Ngôn ngữ báo chí hiện đại ở Việt Nam lẫn Trung Quốc đại lục, tình trạng xem Nữ hoàng đánh đồng với Nữ vương, thậm chí là với cả Hoàng hậu xảy ra khá phổ biến. Vương thất của Vương quốc Liên hiệp Anh là một [Royal family], tức "vương thất", và vị quân chủ hiện tại của họ là Elizabeth II chỉ là [Nữ vương]. Trong lịch sử nước Anh, chỉ có Victoria của Anh từng trở thành Nữ hoàng, nhưng đó lại là trường hợp phức tạp.
Năm 1877, Victoria được tôn xưng danh hiệu [Empress of India; Nữ hoàng Ấn Độ], biến Victoria vừa là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh, lẫn Nữ hoàng của Đế quốc Ấn Độ. Tuy nhiên, trong vòng Vương quốc Liên hiệp Anh, Victoria không tự xưng Nữ hoàng mà chỉ được biết đến là Nữ vương, tức [Queen Victoria]. Vào thời kỳ Hongkong thuộc nước Anh, do từ [Vương; 王] cùng [Hoàng; 皇] có hiện tượng đồng âm, không ít báo đài gọi Elizabeth II là [Nữ hoàng Anh; 英女皇], dù thực tế bà không bao giờ tự xưng làm Nữ hoàng. Tình trạng này kéo theo ở Việt Nam.
Dẫu vậy, trong ngôn ngữ nhận thức hằng ngày, [Queen] của Châu Âu lại bằng với Nữ hoàng hoặc Bà hoàng, như kiểu vi von [Ảnh đế], [Ảnh hậu] của Trung Quốc, hay Bà hoàng truyền thông, khi dùng ở ngôn ngữ tiếng Anh đều chỉ là Queen hoặc King. Với phạm trù này, phân chia tước vị trong hệ thống quân chủ không còn quan trọng, mà nhận thức tước vị tùy thuộc ở mỗi khối văn hóa.
Tước vị ở Nhật Bản.
Từ thời Nara, con gái của các Thân vương (con trai trực hệ của Thiên hoàng) được phong tước vị [Nữ vương], mà theo ngôn ngữ Nhật là [Nyōō; にょおう].
Phong vị này không phải tự động có, mà phải trải qua sắc phong từ Thiên hoàng, gọi là [Nữ vương tuyên hạ; 女王宣下], nếu không chỉ được gọi là Vương nữ. Sau khi thụ phong tước vị [Nữ vương], sẽ kèm theo gia phong thực ấp, lãnh địa cùng gia trang, đều tương tự Nội thân vương. Thời kỳ Kamakura, địa vị hoàng thất Nhật Bản tù túng, không ít các Hoàng nữ (con gái trực hệ của Thiên hoàng) chỉ được phong làm [Nữ vương].
Sang thời Meiji, những phụ nữ trong hoàng thất thụ phong [Nữ vương] thuộc dòng dõi trực hệ Thiên hoàng ở ngoài vòng 3 đời.
Danh sách Nữ vương.
Nhật Bản.
Thiên hoàng Suiko (Thói cổ Thiên hoàng 推古天皇) thực hiện cải cách ruộng đất, dẫn dắt ngoại giao với nhà Tùy.
Thiên hoàng Saimei (Tề Minh Thiên hoàng 斉明天皇) lên ngôi hai lần, bình định là thiên hạ qua thời kỳ hỗn loạn của chính cách Taika, chết khi chuẩn bị dẫn quân đánh chiếm Tân La (Triệu Tiên).
Thiên hoàng Gemmei (Nguyên Minh Thiên hoàng 元明天皇) ban hành hệ thống tiền tệ Nhật Bản, dời đô đến Nara, dùng vũ lực đàn áp những kẻ phản nghịch, sau khi tàn vị truyền ngôi lại cho con gái là Thiên hoàng Gensho (Nguyên Chính Thiên hoàng 元正天皇) | 1 | null |
Abulhassan Banisadr (Tiếng Ba Tư: ابوالحسن بنیصدر, sinh ngày 22 tháng 3 năm 1933 - mất 9 tháng 10 năm 2021) là một chính trị gia Iran, ông từng là Tổng thống đầu tiên của Iran từ ngày 04 tháng 02 năm 1980 sau cuộc Cách mạng Iran năm 1979 với việc bãi bỏ chế độ quân chủ cho đến khi ông bị Quốc Hội Iran lên án vào ngày 21 tháng 6 năm 1981 Trước khi làm tổng thống, ông là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ lâm thời.
Tiểu sử.
Banisadr sinh ngày 22 tháng 3 năm 1933 tại Hamedan. Cha ông là một ayatollah và gần gũi với Ruhollah Khomeini. Ông học tài chính và kinh tế tại Sorbonne. Năm 1972, cha của Banisadr qua đời và ông tham dự đám tang ở Iraq, nơi lần đầu tiên ông gặp Ayatollah Khomeini.
Banisadr đã tham gia phong trào chống sinh viên Shah vào đầu những năm 1960 và bị giam cầm hai lần, và bị thương trong một cuộc nổi dậy năm 1963. Sau đó, ông trốn sang Pháp. Sau đó, ông gia nhập nhóm kháng chiến Iran do Khomeini lãnh đạo, trở thành một trong những cố vấn cứng rắn của ông. Banisadr trở về Iran cùng với Khomeini khi cuộc cách mạng bắt đầu vào tháng 2 năm 1979. Ông đã viết một cuốn sách về tài chính Hồi giáo, Eghtesad Tohidi, tạm dịch là "Kinh tế học của thuyết độc thần".
Sự nghiệp.
Sau cách mạng Iran, Banisadr trở thành thứ trưởng bộ tài chính vào ngày 4 tháng 2 năm 1979 và tại vị cho đến ngày 27 tháng 2 năm 1979. Ông cũng trở thành thành viên của hội đồng cách mạng khi Bazargan và những người khác rời khỏi hội đồng để thành lập chính phủ lâm thời. Sau khi bộ trưởng tài chính lâm thời Ali Ardalan từ chức vào ngày 27 tháng 2 năm 1979, ông được bổ nhiệm làm bộ trưởng tài chính bởi thủ tướng Mehdi Bazargan. Vào ngày 12 tháng 11 năm 1979, Banisadr được bổ nhiệm làm bộ trưởng ngoại giao để thay thế Ebrahim Yazdi trong chính phủ do Hội đồng Cách mạng Hồi giáo lãnh đạo khi chính phủ lâm thời từ chức.
Banisadr được bầu với nhiệm kỳ bốn năm vào ngày 25 tháng 1 năm 1980, nhận được 78,9% phiếu bầu trong cuộc bầu cử và được khánh thành vào ngày 4 tháng 2. Khomeini vẫn là Nhà lãnh đạo tối cao của Iran với thẩm quyền lập hiến để bãi nhiệm tổng thống. Các nghi thức khai mạc được tổ chức tại bệnh viện nơi Khomeini đang hồi phục sau cơn đau tim.
Banisadr không phải là giáo sĩ Hồi giáo; Khomeini đã nhấn mạnh rằng các giáo sĩ không nên chạy đua tranh cử cho các vị trí trong chính phủ. Vào tháng 8 và tháng 9 năm 1980, Banisadr sống sót sau hai vụ tai nạn máy bay trực thăng gần biên giới Iran. Trong cuộc chiến tranh Iran ở Iraq, Banisadr đã được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh bởi Khomeini vào ngày 10 tháng 6 năm 1981. | 1 | null |
Alsodidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura.
Trước đây, nó được coi là phân họ Alsodinae trong họ Cycloramphidae, tuy nhiên kết quả nghiên cứu của Pyron R.A. và ctv cho thấy Cycloramphidae "sensu lato" không đơn ngành và tốt nhất nên tách nó ra thành họ riêng.
Họ này khi được công nhận thì chứa 30 loài, với khu vực phân bố từ tây bắc Brasil tới Bolivia, qua Paraguay tới Chile và Argentina.
Phân loại học.
Họ Alsodidae gồm các chi sau: | 1 | null |
Arthroleptidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này có 153 loài sinh sống trong khu vực hạ Sahara. Họ này bao gồm ếch cây châu Phi trong chi "Leptopelis" cùng các loài ếch sinh sản trên mựt đất của chi "Arthroleptis" và một vài chi chỉ phân bố hạn hẹp trong các khu rừng Guinea ở trung và tây châu Phi, như ếch lông ("Trichobatrachus").
Phân loại học.
Họ này về phát sinh chủng loài là nhóm chị em của ếch nhái lau sậy trong họ Hyperoliidae, cùng nhau chúng lập thành nhóm gọi là Laurentobatrachia, một tên gọi để vinh danh nhà bò sát học người Bỉ là Raymond Laurent vì công trình của ông về ếch nhái châu Phi. Nhóm này lồng bên trong Afrobatrachia, một dòng dõi cổ xưa đặc hữu châu Phi, bao gồm cả Brevicipitidae và Hemisotidae. Họ Arthroleptidae được tách ra, dựa trên các phân tích phát sinh chủng loài, thành 3 phân họ phân kỳ sâu và khác nhau là Arthroleptinae, Astylosterninae và Leptopelinae. Một số tác giả coi chúng là các họ tách biệt, trong khi một số tác giả khác lại không công nhận bất kỳ phân họ nào, cụ thể là do tính không chắc chắn trong vị trí phát sinh chủng loài của "Leptopelis" và "Scotobleps".
Ba phân họ bao gồm các chi sau: | 1 | null |
Họ Ếch đuôi (danh pháp khoa học: Ascaphidae) là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này nếu được công nhận thì có 2 loài. Tuy nhiên, nó có thể gộp cùng các loài thuộc chi "Leiopelma" để lập ra họ Leiopelmatidae nghĩa rộng ("sensu lato").
Phân bố.
Miền tây nam Canada và duyên hải tây bắc Hoa Kỳ tới miền bắc California; tây Montana và bắc Idaho tới đông bắc Oregon và tây nam Washington, Hoa Kỳ.
Phân loại học.
Họ Ascaphidae khi được công nhận chỉ bao gồm 1 chi như sau:
Phát sinh chủng loài.
Ủng hộ chia tách hai họ.
Savage (1973) công nhận Ascaphidae cho riêng chi "Ascaphus", chỉ để lại "Leiopelma" trong họ Leiopelmatidae.
Green và Cannatella (1993) hay Ford và Cannatella (1993) đã thảo luận các lý do cho việc tách nhóm này khỏi "Leiopelma".
Bossuyt và Roelants (2009), mở rộng trên cơ sở phân tích phát sinh chủng loài ếch nhái năm 2007 của họ đã gợi ý rằng trên cơ sở thời gian rẽ nhánh thì Leiopelmatidae và Ascaphidae nên được coi là các họ tách biệt, có lẽ đã rẽ nhánh ra khỏi nhau trong kỷ Trias (251-200 Ma).
Pyron và Wiens (2011) trong nghiên cứu của họ về các trình tự Genbank, xác nhận vị trí của "Ascaphus" như là đơn vị phân loại chị em của "Leiopelma" và đi theo đề xuất của Roelants và Bossuyt (2009), coi 2 chi này như là đại diện cho 2 họ ngang hàng.
Blackburn và Wake (2011) xem xét tóm tắt lịch sử phân loại của đơn vị phân loại này và coi 2 chi còn sinh tồn này như là hợp thành 2 họ đơn chi khác biệt, mặc dầu sự dự phòng này là không cần thiết cho tính hiệu quả phân loại.
Ủng hộ hợp nhất thành 1 họ.
Frost và ctv (2006) đã thảo luận tại sao "Leiopelma" và "Ascaphus" nên gộp lại và nhận thấy rằng đơn vị phân loại gộp chung này về mặt phát sinh chủng loài nằm ở vị trí như là đơn vị phân loại chị-em với tất cả các nhóm ếch nhái khác, cũng giống như các kết quả của Roelants và ctv. (2007)
Blackburn và ctv. (2010), trên cơ sở phân tích phân tử gợi ý rằng "Ascaphus" và "Leiopelma" tạo thành một nhóm đơn ngành với tổ tiên chung gần nhất xuất hiện trong kỷ Creta (145-65 Ma).
Irisarri và ctv. (2010) tìm thấy rằng Leiopelmatidae ("sensu lato") là đơn ngành trên cơ sở phân tích DNA của họ. | 1 | null |
Centrolenidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này có 153 loài.
Phân loại học.
Họ Centrolenidae trước đây có quan hệ gần với họ Hylidae; nhưng các nghiên cứu phát sinh loài gần đây đã xếp chúng thành một họ (cùng với họ khác Allophrynidae) có quan hệ gần hơn với họ Leptodactylidae.
Phân loại học của họ Centrolenidae gần đây được chia thành 2 phân họ và 12 chi.
Incertae sedis "Ikakogi" | 1 | null |
Ceratobatrachidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura, được tìm thấy ở Bán đảo Mã Lai, Borneo, Philippines, Palau, Fiji, New Guinea, và các quần đảo Admiralty, Bismarck, Solomon.
Phân loại học.
Ceratobatrachidae từng được xem là một phân họ của họ Ranidae (dưới tên Ceratobatrachinae). Họ Ceratobatrachidae gồm các chi sau:
Chi lớn nhất, "Platymantis", được xem là cận ngành. | 1 | null |
Craugastoridae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura.
Khi hiểu theo nghĩa hẹp, họ này có 115 loài trong 2 chi.
Chi "Craugastor", với 113 loài, có phân bố lớn và có thể được tìm thấy ở Tây Nam Hoa Kỳ, México và Trung Mỹ tới phía tây bắc Nam Mỹ. Chi "Haddadus" với 2 loài, chỉ được tìm thấy là phía đông nam Brasil.
Khi hiểu theo nghĩa rộng, họ này chứa khoảng 713 loài. Xem phân loại dưới đây.
Phân bố.
Từ nam Arizona tới trung Texas (Hoa Kỳ) và Mexico về phía nam qua các môi trường sống nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Colombia và Veneuzela tới Guiana; về phía nam qua Ecuador, Andes và Amazon thuộc Peru và Bolivia và lưu vực sông Amazon ở Brasil, về phía nam dọc theo sườn đông dãy Andes tới đông bắc Argentina; vùng rừng duyên hải Đại Tây Dương ở đông nam Brasil.
Phát sinh chủng loài.
Hedges và ctv (2008) đưa ra một thảo luận hệ thống hóa rộng lớn về đơn vị phân loại này và mối quan hệ của nó với đơn vị phân loại con cũ của Brachycephalidae "sensu lato" (= Terrarana, một đơn vị phân loại không phân hạng trên cấp họ trong danh pháp do họ đưa ra).
Pyron và Wiens (2011) trong nghiên cứu về các trình tự Genbank của họ đã đưa ra một phân tích lớn hơn khi xét theo số lượng loài, nhưng sử dụng hơi ít hơn lượng dữ liệu về một loài khi so với phân tích của Hedges và ctv (2008) để làm cột trụ cho phân tích của họ. Các kết quả thu được là hơi khác so với của Hedges và ctv (2008), trong đó Pyron và Wiens (2011) thấy rằng Strabomantidae là không đơn ngành và với Craugastoridae cũ (trong bài này coi là phân họ Craugastorinae) lồng sâu vào trong họ đó. Vì lý do này, họ đã đặt toàn bộ các yếu tố tạo thành họ Strabomantidae vào trong họ Craugastoridae.
Blackburn và Wake (2011) đã xem xét vắn tắt lịch sử danh pháp của đơn vị phân loại cấp họ này và duy trì giới hạn cũ của 2 họ Craugastoridae và Strabomantidae. Tuy nhiên, Fouquet và ctv (2012) lại gợi ý rằng Craugastoridae theo nghĩa Hedges và ctv (2008) là không đơn ngành, mặc dù dựa trên việc lấy mẫu ít hơn so với Pyron và Wiens (2011).
Phân loại.
Họ Craugastoridae "sensu lato" bao gồm các chi và phân họ sau: | 1 | null |
Cyclorhamphidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này có 34 loài.
Phân loại học.
Họ Cyclorhamphidae gồm các chi sau:
Ngoài ra, phân họ "Cycloramphinae" (Bonaparte, 1850) cũng hình thành các chi:
Họ Alsodidae (gồm các chi "Alsodes" - 19 loài, "Eupsophus" - 10 loài, và "Limnomedusa" - chi đơn loài.) trước là một phân họ của họ Cyclorhamphidae, sau được tách thành họ riêng | 1 | null |
Họ Ếch nhái thực (tên khoa học: Dicroglossidae) là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này có 14-15 chi với 186 loài.
Phân bố.
Họ này phân bố ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Phi và châu Á, trải rộng trong khu vực từ tây bắc và hạ Sahara ở châu Phi, miền nam bán đảo Ả Rập, Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ tới Nepal, Malaya, Sri Lanka; về phía đông qua Nepal và Myanma tới tây và nam Trung Quốc, Đông Dương, các đảo thuộc thềm Sunda; Philippines; Nhật Bản. Có ghi nhận tại Papua New Guinea.
Phân loại học.
Họ Dicroglossidae trước đây được coi là một phân họ của họ Ranidae, nhưng địa vị như là một họ đã được thiết lập trong giai đoạn gần đây.
Khi được coi là một họ thì Dicroglossidae bao gồm các chi sau: | 1 | null |
Micrixalidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này có 1 chi với 24 loài, đặc hữu Tây Ghats, Ấn Độ. Trước khi được nâng cấp thành một họ thì chúng được phân loại như là phân họ Micrixalinae trong họ Ranidae.
Ếch của chi "Micrixalus" được biết đến trong tiếng Anh như là "dancing frog" (ếch khiêu vũ, ếch nhảy múa, ếch vũ công) do tập tính vung vẩy uốn lượn chân kỳ dị của các con ếch đực để thu hút ếch cái trong mùa sinh sản. Các loài ếch trong họ này là cực kỳ dễ thương tổn do môi trường sống của chúng bị đe dọa nghiêm trọng.
Phân loại.
Họ Micrixalidae gồm 24 loài sau: | 1 | null |
Myobatrachidae là một họ lượng cư không đuôi được tìm thấy ở Úc và New Guinea. Các thành viên của họ này rất khác nhau về kích thước, từ dài dưới 1,5 cm (0,59 in), đến loài ếch lớn thứ hai ở Úc, Mixophyes iteratus với chiều dài 12 cm.
Đặc điểm.
Họ Myobatrachidae có hình thức chăm sóc con non duy nhất trong thế giới động vật. Hai loài Rheobatrachus được tìm thấy trong họ này. Con cái của các loài nuốt nòng nọc của chúng, nơi chúng phát triển cho đến khi biến thái. Loài Assa darlingtoni có túi ở hai bên cơ thể của nó. Con đực sẽ bảo vệ trứng cho đến khi nở, và đưa những con nòng nọc vào bên trong túi của nó, nơi chúng ở lại cho đến khi biến thái. Một hình thức chăm sóc của khác của con bố mẹ, mặc dù không độc đáo, được tìm thấy ở nhiều loài thuộc chi Limnodynastes, nơi con đực chôn bản thangần những quả trứng, và bảo vệ những quả trứng.
Trong khi nhiều loài thích nghi với việc đào hang, giúp chúng sống sót trong môi trường bán khô cằn hoặc khô theo mùa, loài Myobatrachus gouldii và Arenophryne rotunda đi xa để đẻ trứng trực tiếp vào cát ẩm vài mét dưới mặt nước, chứ không phải vào nước. Các loài này thiếu nòng nọc, những quả trứng nở trực tiếp ra những con ếch nhỏ.
Những loài này thiếu đĩa chân được tìm thấy ở các loài ếch cây. Các phân họ chủ yếu được chia dựa trên thói quen đẻ trứng của họ. Những loài của phân họ Limnodynastinae làm tổ bằng bọt. Các con cái tạo bọt bằng cách kích thích các hóa chất trên làn da của mình. Bọt có thể nổi trên mặt nước, hay trên đất đai. Phân họ Rheobatrachinae chứa hai loài Rheobatrachus và phần còn lại nằm trong phân họ Myobatrachinae | 1 | null |
Pelodytidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này có 3 loài. Những loài này được tìm thấy ở tây nam Châu Âu và Kavkaz
"Pelodytidae" gồm những loài ếch có liên quan chặt chẽ tới Scaphiopodidae và Megophryidae. Không giống như Megophryidae, chúng không dùng màu sắc để ngụy trang, thường là màu xanh lá cây hay nâu
Chúng là những loài ếch nhỏ, da mịn, chiều dài đạt khoảng 5 cm (2,o in) | 1 | null |
Pipidae là danh pháp khoa học của một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura, gồm 34 loài cóc, ếch nguyên thủy không có lưỡi với chiều dài cơ thể từ 4 tới 19 cm. Trong số này, 7 loài được tìm thấy ở Nam Mỹ (chi "Pipa"), các loài thuộc 4 chi còn lại sống ở vùng hạ Sahara châu Phi.
Các loài trong họ này hoàn toàn sống dưới nước và có nhiều thay đổi về hình thái để phù hợp với môi trường sống, chẳng hạn chân có màng bơi, thân dẹp, có hệ thống đường bên. Ngoài ra chúng có tai biến đổi mạnh để nghe được dưới nước. Chúng không có lưỡi hay dây thanh âm mà có các que xương trong thanh quản giúp phát ra âm thanh.
Các hồ sơ hóa thạch của chúng là tương đối tốt, với 12 loài tuyệt chủng được biết tới. 6 trong số này được đặt trong chi còn sinh tồn "Xenopus", sáu loài còn lại được đặt trong các chi đã tuyệt chủng. Các hóa thạch được phát hiện đến từ châu Phi, Nam Mỹ và Trung Đông có niên đại tới Hạ Creta.
Phân loại học.
Họ Pipidae gồm 5 chi với 34 loài như sau: | 1 | null |
Họ Ếch nhái là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Anura. Họ này có 362 loài. Chúng có phạm vi phân bố rộng nhất trong các họ ếch. Chúng có mặt ở hầu hết các châu lục trừ Nam Cực. Họ Ranidae có mặt ở Bắc Mỹ, phía bắc Nam Mỹ, Châu Âu,
Châu Á, Madagascar, Châu Phi, và từ Đông Ấn đến New Guinea.
Thông thường, những loài ếch thật sự có làn da mịn và ẩm ướt, cặp chân mạnh mẽ và có màng rộng.
Những loài ếch thật sự rất khác nhau vế kích cỡ, từ nhỏ như Rana sylvatica đến loài ếch lớn nhất thế giới Conraua goliath.
Đa số trong số chúng là loài sống gần nước, hầu hết các loài đẻ trứng trong nước và trải qua giai đoạn nòng nọc. Ngoài ra còn có một số loài sống trên cây và một số rất ít các loài có thể sinh sống ở nước lợ.
Phân loại học.
Họ Ranidae gồm các chi sau: | 1 | null |
Rhinoderma là một họ nhỏ nhửng loài được tìm thấy ở bờ biển phía tây nam của Nam Mỹ. Chi Rhinoderma chỉ có hai loài, trong đó ếch Darwin Chile(R. rufum) là cực kỳ nguy cấp hoặc có thể đã tuyệt chủng. Loài được biết tới nhiều hơn ếch Darwin (R. darwinii) là loài dễ thương tổn.
Cả hai loài này đều nổi tiếng vì cách sinh sản bất thường của chúng, với nòng nọc được đưa vào bên trong miệng của con đực. Trứng được đặc trên mặt đất. Ếch đực vận chuyển những con nòng nọc bằng túi dưới cỗ của nó. loài ếch Darwin Chile nòng nọc được vận chuyển đến một nguồn nước và được thải trong suốt thời gian phát triển của chúng. Còn loài ếch Darwin, nòng nọc ở trong túi cho tới khi biến thái. Chúng có thể vận chuyển từ năm đến 15 con. Ếch Darwin được tách ra thành một ho riêng biệt hoàn toàn dựa trên sự hành vi thích ứng này, là duy nhất trong số những loài ếch.
Ếch Darwin khá nhỏ, đạt chiều dài chỉ 3 cm (1.2 in). Chúng chủ yếu là những con ếch màu xanh lá cây, với các vệt màu nâu, và chiếc mũi dài, hẹp. Chúng chủ yếu ở trên mặt đất. | 1 | null |
Ambystoma là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Caudata. Họ này có 31-32 loài, trong đó 45% bị đe dọa hoặc tuyệt chủng.
Phân loại học.
Theo "Darrel Frost" và "The American Museum of Natural History", họ này có 2 chi là "Ambystoma" và "Dicamptodon"
Theo "AmphibiaWeb: Information on amphibian biology and conservation", họ Ambystomatidae gồm các 1 chi và 32 loài, riêng chi "Dicamptodon" được tách thành 1 chi duy nhất trong họ Dicamptodontidae với 4 loài: | 1 | null |
là cụ ông Nhật có tuổi thọ cao nhất từ trước tới 12 tháng 6 năm 2013 sau khi cụ bà Dina Manfredini qua đời vào này 17 tháng 12 năm 2012. Cụ cũng được xác nhận là cụ ông thọ nhất từ trước tới nay trong lịch sử thế giới, và là cụ ông đầu tiên được xác nhận thọ 116 tuổi. Cụ Kimura cũng được xác nhận là cụ ông cuối cùng sinh ở thế kỷ 19 sau khi cụ ông 113 tuổi James Sisnett ở Barbados qua đời ngày 23 tháng 5 năm 2013. Cụ Kimura qua đời ngày 12 tháng 6 năm 2013 vì nguyên nhân tự nhiên ở tuổi 116 năm, 54 ngày.
Kimura Jiroemon trở thành cụ ông sống thọ nhất ở Nhật Bản kể từ khi cụ Tanabe Tomoji qua đời ngày 19 tháng 6 năm 2009, và trở thành cụ ông còn sống thọ nhất trên thế giới khi cụ Walter Breuning qua đời ngày 14 tháng 4 năm 2011, cũng như trở thành cụ còn sống thọ nhất ở Nhật Bản sau khi cụ bà Hasegawa Chiyono qua đời ngày 2 tháng 12 năm 2011.
Tiểu sử.
Ông sinh ra trong một gia đình nông dân trồng gạo và rau cỏ. Trước khi chết tại một bệnh viện, ông sống với gia đình của cháu ông tại thành phố Kyōtango.
Theo như đài truyền hình Áo ORF, Kimura làm việc 40 năm tại bưu điện cho tới khi về hưu (theo báo "Der Spiegel" 45 năm), và sau đó giữ sức khỏe nhờ làm ruộng cho tới khi ông được 90 tuổi. Ông có bảy người con, 14 đứa cháu, 25 chít và 14 hay 15 cháu chít. Ông sống lâu chỉ thua bà Jeanne Calment, người Pháp, người mà mất vào năm 1997 lúc 122 tuổi; đây là tuổi già nhất của con người, mà cho tới giờ có thể chứng minh được. Thành phố quê hương của ông Kyotango đã lập ra một chương trình nghiên cứu, tại sao có trên 100 người trong số 60.000 dân của tỉnh này đã sống lâu hơn 100 tuổi. | 1 | null |
Cryptobranchidae là một họ lưỡng cư có đuôi thủy sinh. Một loài, "Cryptobranchus alleganiensis", sống ở đông Hoa Kỳ, trong khi những loài châu Á sống ở Trung Quốc và Nhật Bản. Đây là những loài lưỡng cư lớn nhất còn sống đến ngày nay. Kỳ giông khổng lồ Nhật Bản ("Andrias japonicus") đạt chiều dài , bắt cá và giáp xác để ăn, là được ghi nhận sống hơn 50 năm trong điều kiện nuôi nhốt. Kỳ giông khổng lồ Trung Quốc ("Andrias davidianus") đạt đến .
Phân loại.
Tên của họ này ghép từ hai từ tiếng Hy Lạp cổ: "krypto" ("che"), và "branch" ("mang"), chỉ việc các loài trong họ này lấy oxy nhờ mao mạch trên những nếp da ngang thân.
Nhánh Pancryptobrancha (Cryptobranchidae + Ukrainurus) | 1 | null |
Sirenidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Caudata. Các thành viên của chi này có tay chân phía trước rất nhỏ, và thiếu chân sau hoàn toàn. Ở một số loài, xương trong chân phía trước của chúng được làm bằng sụn. Trái ngược với hầu hết các loài kỳ nhông khác, chúng có bên mang ngoài trên cổ tại cả ấu trùng và con trưởng thành. Sirenidae chỉ được tìm thấy tại Đông Nam Hoa Kỳ và phía bắc México. | 1 | null |
Herpelidae là một họ động vật lưỡng cư trong bộ Gymnophiona. Họ này có 9 loài. Chúng được tìm thấy ở châu Phi.
Phân bố.
Các loài trong họ này sinh sống trong khu vực từ đông nam Nigeria kéo dài về phía đông tới miền tây Cộng hòa Trung Phi và về phía nam tới cực tây Cộng hòa Dân chủ Congo, có thể tới vùng đất lọt giữa là Cabinda của Angola; Tanzania, Kenya, Rwanda, Malawi, có thể có tại Uganda, Zambia, Burundi.
Phân loại học.
Họ Herpelidae gồm các chi và loài sau:
Phát sinh chủng loài.
Họ này được coi là có quan hệ chị em gần nhất với họ Chikilidae, được phát hiện năm 2012. | 1 | null |
Acer caudatum là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Loài này được Wall. mô tả khoa học đầu tiên năm 1830.
Đây là một loài phong châu Á. Loài này được tìm thấy ở dãy Himalaya (Tây Tạng, Nepal, miền bắc và đông bắc Ấn Độ, Myanmar) vùng núi phía tây nam Trung Quốc (Cam Túc, Hà Nam, Hồ Bắc, Ninh Hạ, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam), cộng với Nhật Bản, Hàn Quốc và miền đông nước Nga.
"Acer caudatum" là một cây rụng lá cao tới 10 mét. Lá dài tới 12 cm, mỏng và nhú, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới màu lục nhạt hơn, thường có 5 thùy nhưng đôi khi 7. | 1 | null |
Acer freemanii, Acer × freemanii, Phong Freeman, là một cây phong lai xuất hiện tự nhiên, là kết quả của sự giao thoa giữa "Acer rubrum" (cây phong đỏ) và "Acer saccharinum" (cây phong bạc). Loài này được đặt tên theo Oliver M. Freeman của Vườn ươm Quốc gia Hoa Kỳ, người đã lai "A. rubrum" với "A. saccharinum" vào năm 1933. Các mẫu vật hoang dã được tìm thấy ở miền đông Bắc Mỹ nơi các loài gốc chồng lên nhau. Những tán lá mùa thu có màu đỏ cam nổi bật. Nó có nhiều giống cây trồng thương mại và thường được sử dụng làm cây đường phố. | 1 | null |
Đại học Quốc gia Kongju (hangul: "국립공주대학교"), tên tiếng Anh: Kongju National University (KNU) là một trường đại học Quốc gia Tổng hợp có trụ sở chính đặt tại thành phố Gongju, tỉnh Chungcheong Nam, Hàn Quốc với khuôn viên tọa lạc tại ba thành phố là Gongju, Cheonan và Yesan. Năm 2014 trường đã đạt được chứng chỉ đánh giá chất lượng giáo dục quốc tế IEQAS và là một trong những trường hàng đầu ở Hàn Quốc trong lĩnh vực đào tạo giáo viên sư phạm.
Lịch sử.
KNU được thành lập vào năm 1948 với tên gọi là Trường Cao đẳng sư phạm Kongju. Nó được nâng lên thành một trường Đại học hoàn chỉnh vào năm 1991, và lớn mạnh nhanh chóng trở thành một trường Đại học lớn với trên 22,000 sinh viên, bởi sự sáp nhập trường Cao đẳng Nông nghiệp Yesan thành College of Industrial Sciences vào năm 1992, và sáp nhập trường Cao đẳng Văn hóa Quốc gia Kongju thành College of Visual Image and Health vào năm 2001, và tiếp tục sáp nhập trường Cao đẳng Kỹ thuật Cheonan thành College of Engineering vào năm 2005. KNU đã đào tạo được hơn 100,000 sinh viên tốt nghiệp kể từ khi thành lập tới nay.
Thư viện.
KNU hoạt động với thư viện trung tâm tại khuôn viên chính Gongju, và hai thư viện chi nhánh tại Yesan và Cheonan. Thư viện đã hỗ trợ đào tạo và nghiên cứu của các khoa, ngành và các hoạt động học tập của sinh viên trong hơn 60 năm qua.
Khuôn viên.
Trường Kongju có ba khuôn viên:
Địa chỉ: số 182 Singwan-dong, Thành phố Gongju, tỉnh Chungcheongnam-do
Địa chỉ: 1-dong, thành phố Yesan, tỉnh Chungcheongnam-do
Địa chỉ: số 275, Budae-dong, thành phố Cheonan, tỉnh Chungcheongnam-do
Cuộc sống sinh viên.
Ký túc xá.
Trường có toàn bộ 5 tòa nhà Ký túc xá với tổng số sinh viên là 4365, trong đó bao gồm 2773 sinh viên tại Gongju, 582 sinh viên tại Yesan và 234 sinh viên tại Cheonan. Sinh viên quốc tế sẽ được ưu tiên chấp nhận đăng ký phòng ở ký túc xá.
Khuôn viên Gongju
Khuôn viên Yesan
Khuôn viên Cheonan
Câu lạc bộ sinh viên.
Sinh viên có thể tham gia vào các câu lạc bộ để tham gia các hoạt động xã hội hoặc gặp gỡ các sinh viên khác có cùng sở thích.
Danh sách các câu lạc bộ có thể truy cập tại liên kết: Student Clubs | 1 | null |
Mang thầu dầu hay còn gọi thích Bắc bộ, tích thụ Bắc Bộ (danh pháp: Acer tonkinense) là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Loài này được Lecomte mô tả khoa học đầu tiên năm 1912.
Phân bố.
Loài này phân bố ở Trung Quốc (Quảng Tây, Nam Quý Châu, Đông Nam Tây Tạng, Đông Nam Vân Nam); Lào; Bắc Việt Nam; Myanmar; Thái Lan; ở độ cao từ 300 đến 1800 m. | 1 | null |
Aesculus hippocastanum là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Aesculus hippocastanum là loài bản địa từ một khu vực nhỏ trong rừng hỗn hợp núi Pindus và rừng hỗn giao Balkan ở Đông Nam Châu Âu. Tuy nhiên, loài này có thể được tìm thấy ở nhiều nơi ở châu Âu ở phía bắc như Gästrikland ở Thụy Điển, cũng như ở nhiều công viên và thành phố ở Hoa Kỳ và Canada.
"Aesculus hippocastanum" là một loài cây lớn, cao khoảng 39 mét với ngọn cây vòm của các nhánh chắc chắn. Hoa thường có màu trắng với một đốm màu vàng đến hồng ở gốc cánh hoa, nở vào mùa xuân trong những bông hoa thẳng đứng cao từ 10–30 cm với khoảng 20-50 hoa trên mỗi cánh hoa. Thông thường chỉ có 1–5 quả phát triển trên mỗi hoa.
Đặc điểm sinh trưởng.
Cây ưa sáng, chịu bóng nhẹ, thích khí hậu ấm ẩm, chịu lạnh tương đối, sợ khô nóng, phát triển tốt trong môi trường đất sâu, ẩm, màu mỡ và thoát nước tốt. Rễ sâu, sống lâu, khả năng nảy mầm yếu.
Cây có khả năng thích nghi kém, phát triển kém trên đất cằn cỗi, ứ đọng, dễ bị cháy nắng dưới ánh nắng gay gắt.
Ở những nơi có điều kiện thích hợp mọc nhanh hơn nhưng cây non sinh trưởng chậm, thông thường cây con 4-6 tuổi cao khoảng 3m. Tốc độ tăng trưởng tăng nhanh sau 6-8 tuổi và chậm lại sau 25-30 tuổi.
Thành phần hóa học.
Coumarins (esculin, esculin) và coumarin glycoside (escin), saponin (escin), flavonoid (quercetin, rutin, kaempferol ), tannin (ngưng tụ và thủy phân), axit béo, sterol, allantoin.
Thành phần hoạt chất chính có trong hạt dẻ ngựa là Aescin, còn được gọi là Escin có tác dụng thúc đẩy lưu thông tĩnh mạch và máu quay trở lại tim. Aescin cũng có thể làm giảm sưng, viêm và đau, tăng sức bền thành mạch.
Độc tính.
Aescin có đặc tính tan máu và có thể gây buồn nôn, kích ứng đường tiêu hóa và trào ngược khi uống liều cao.
Tương tác.
Có thể cản trở sự liên kết thuốc với protein huyết tương.
Các nghiên cứu về tác dụng.
Một nghiên cứu của nhóm tác giả Andy Suter, Silvia Bommer, Jordan Rechner với đề tài "Điều trị bệnh suy giãn tĩnh mạch bằng chiết xuất hạt dẻ ngựa tươi dựa trên 5 nghiên cứu lâm sàng" cho thấy chiết xuất từ hạt dẻ ngựa có tác dụng giảm phù nề ở cẳng chân và giảm đau chân, nặng chân và ngứa ở chân.
Trong nghiên cứu so sánh với vớ nén, Aescin đã cho kết quả, mức độ giảm phù tương đương với vớ nén, ngoài ra Hiệp hội các Bác sỹ Thực hành Tổng quát (National Association of General Practicioners - GP)tại Đức đã thực hiện một nghiên cứu về việc sử dụng aescin (Cao hạt dẻ ngựa) trong 5429 bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch cũng cho ra kết quả mức độ giảm các triệu chứng như nặng chân, đau nhức, sưng phù chân, ngứa bắp chân đều giảm tới 70-80%. Mức độ tuân thủ điều trị khi sử dụng cao hạt dẻ ngựa cũng lên tới 95%, vượt trội hơn hẳn so với vớ nén. | 1 | null |
Chạc ba (danh pháp hai phần: Allophylus cobbe) hay lù mù, chăm ba, ngoại mộc Nam Bộ, là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn (Sapindaceae), được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1797 với danh pháp "Rhus cobbe" và được William Forsyth Junior đặt lại danh pháp "Allophylus cobbe" năm 1794, xuất bản trong "Botanical Nomenclator". Loài này phân bố rộng rãi ở tiểu lục địa Ấn Độ và các nước Đông Nam Á. Chạc ba thường bị nhầm lẫn về tên gọi với cây ba chạc ("Melicope pteleifolia"), một loài thực vật dược thuộc Họ Cửu lý hương (Rutaceae). | 1 | null |
Allophylus largifolius là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Loài này được Radlk. mô tả khoa học đầu tiên năm 1908 publ. 1909.
Đặc điểm.
Allophylus largifolius là loài cây bụi có thể cao đến 10m. Hoa có màu trắng hoặc trắng vàng với đài hoa 5 thùy và tràng hoa 4 thùy. Hạt là loại hạt nhỏ, hình ovan, màu nâu sẫm. Cây con có một lá mầm hình bầu dục và một cặp lá hình trứng - mác đối diện nhau.
Môi trường sống.
Loài cây này thường sống ở Ấn Độ, Sri Lanka, Myanmar, Đông Nam Á hoặc Châu Phi. Chúng được tìm thấy trong các khu rừng có đất ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới, khu rừng rụng lá khô, vùng cây bụi và thảo nguyên.
Công dụng và lợi ích.
"Allophylus largifolius" được sử dụng làm cây cảnh trong vườn và công viên, đồng thời cũng được sử dụng để chống xói mòn và chắn gió.
Trồng trọt và nhân giống.
"Allophylus largifolius" là một loại cây bụi có thể nhân giống từ hạt hoặc giâm cành. Nó thích đất thoát nước tốt và nơi có đầy đủ ánh nắng hoặc bóng râm một phần. Tuy nó có thể chịu được hạn hán nhưng trong mùa cây sinh trưởng cần phải tưới nước thường xuyên. Cắt tỉa vào cuối mùa đông hoặc đầu mùa xuân để duy trì hình dạng gọn gàng. | 1 | null |
Aconitum lycoctonum là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đây là loài bản địa châu Âu và bắc châu Á, là một loài cây lâu năm thân thảo phát triển cao đến 1 m. Lá hình chân vịt có thùy với 4-6 thùy cắt sâu. Hoa dài 18–25 mm, màu tím đậm, ít khi màu vàng nhạt. | 1 | null |
Ackee hay Akee (danh pháp hai phần: Blighia sapida), được phát âm là e-ki, là 1 loài thuộc họ Sapindaceae (họ bồ hòn), có quả màu đỏ tươi, nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới vùng Tây Phi: Cameroon, Gabon, São Tomé và Príncipe, Bénin, Burkina Faso, Côte d'Ivoire, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Mali, Nigeria, Sénégal, Sierra Leone và Togo.
Đặc điểm.
Loài cây này cũng họ với vải và nhãn, là một loài cây xanh quanh năm, có thể cao tới 10 mét, với thân ngắn và cành lá rậm rạp. Lá cây có hình lông chim, dai, dài 15–30 cm, với 6–10 lá non thuôn, dài. Mỗi lá non dài khoảng 8–12 cm và có chiều ngang 5–8 cm.
Hoa của chúng là hoa đơn tính và có mùi thơm ngát. Hoa màu trắng xanh, có năm cánh, thường nở vào những tháng ấm áp. Quả có hình quả lê. Khi chín, chúng chuyển từ màu xanh sang màu đỏ tươi rồi màu vàng cam rồi nứt ra để lộ 3 hạt đen lớn, bóng bẩy bao bọc bởi thịt quả mềm, mịn, xốp, có màu trắng đến vàng. Quả thường nặng từ 100-200g.
Tên khoa học của loài cây này được vinh danh theo tên thuyền trưởng William Bligh-người có công mang quả Ackee từ Jamaica về Vườn thực vật hoàng gia Kew, Vương quốc Anh năm 1793 và giới thiệu nó với giới khoa học. Tên phổ thông xuất phát từ tên gọi của nó ở Tây Phi - Akye. Từ ackee bắt nguồn từ tiếng Twi. Những cái tên khác với những phát âm khác nhau như: Ackee, Akee, táo akee, Achee, hay cây não thực vật.
Trước năm 1778, loại quả này được nhập khẩu đến Jamaica từ Tây Phi (chủ yếu bằng thuyền nô lệ). Sau đó chúng đã trở thành một phần chính trong nhiều bữa ăn ở vùng Caribe cũng như được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên khắp thế giới.
Trồng trọt và sử dụng.
Mặc dù bắt nguồn từ Tây Phi nhưng Ackee lại là một món ăn chính trong bữa ăn ở Jamaica. Ackee là quốc quả của Jamaica, và cá ướp muối với Ackee là 1 đặc sản.
Ackee được giới thiệu đầu tiên ở Jamaica và rồi ở Haiti, Cuba, Bali, Barbados...Sau đó nó được giới thiệu tại Florida, Hoa Kỳ.
Độc tính.
Những phần chưa chín hoặc không ăn được của loại quả này có chứa độc tố tên là hypoglycin. Hypoglycin hoạt động như một chất ức chế fatty acyl-CoA dehydrogenase, 1 enzyme quan trọng trong con đường beta oxy hóa acid béo. Việc con đường này bị cản trở sẽ khiến cho acetyl CoA không được sản sinh ra, làm giảm quá trình tân tạo glucose và sản xuất năng lượng. Hậu quả là gây tụt đường huyết nặng kèm khởi phát nôn ói 2-6 tiếng sau khi ăn bữa ăn có chứa ackee còn chứa độc tố. Sau khoảng thời gian 18 tiếng, bệnh nhân có thể nôn ói nhiều hơn kèm theo co giật, hôn mê và tử vong. | 1 | null |
Tam phỏng, còn gọi là tầm phỏng hay xoan leo (danh pháp khoa học: Cardiospermum halicacabum) là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Cây thân thảo leo từ 1 - 2m. Lá kép có 3 lá chét, lá chét có dạng như lá chét của lá xoan, nên có nơi còn gọi nó là cây "Xoan leo". Các lá kép mọc so le. Tua cuốn mọc đối. Quả nang có 3 ô phồng lên nên trong tiếng Việt gọi nó là cây "Tam phỏng". Cây trồng dùng làm cảnh, hoặc có nơi dùng là chữa các bệnh ngoài da. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.