text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Anemone coronaria là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753, có nguồn gốc tại vùng Địa Trung Hải
Miêu tả.
Anemone coronaria là cây thân thảo lâu năm mọc cao tới 20 cm–40 cm, hiếm khi tới 60 cm (0,75–1,50 feet), trải dài đến 15 cm–23 cm (0,50 đến 0,75 feet). Hoa nở từ tháng tư đến tháng sáu được sinh ra đơn độc trên một thân cây cao với một lá nhỏ của lá nhỏ ngay dưới hoa; hoa có đường kính 3 cm–8 cm, hoa thường có màu đỏ, màu trắng hoặc màu xanh dương. Phấn hoa khô, có đường kính dưới 40 nm. Hoa tạo ra 200-300 hạt. | 1 | null |
Clematis brachiata là một loài dây leo có hoa, chịu lạnh và lá sớm rụng trong họ Mao lương. Nó có xu hướng leo lên đỉnh của các loại cây gỗ và cây bụi, và nằm bò trườn trên tán lá. Lá kép với 1-7 lá chét. Hoa có hương thơm hấp dẫn nở trong mùa hè. Quả bế được bao bọc trong lớp lông tơ mịn như lụa. Loài này phổ biến ở khu vực Transvaal và KwaZulu-Natal, Nam Phi.
Loài này được Carl Peter Thunberg, một nhà tự nhiên học người Thụy Điển, mô tả khoa học đầu tiên năm 1800.
Từ nguyên.
"Clema" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là dây leo, và tính ngữ chỉ tên loài là từ tiếng Latinh "brachiata" có nghĩa là "có tay" do tập tính phân cành nhánh vuông góc và mọc đối trông giống như cánh tay thò ra từ thân người.
Danh pháp đồng nghĩa.
Các danh pháp sau đây là đồng nghĩa: | 1 | null |
Handeliodendron bodinieri là loài thực vật có hoa duy nhất trong chi Handeliodendron của họ Bồ hòn. Loài cây gỗ hay cây bụi cao tới 15 m này ban đầu được Augustin Abel Hector Léveillé đặt danh pháp là "Sideroxylon bodinieri" năm 1914-1915 và đặt nó trong họ Sapotaceae. Năm 1935, Alfred Rehder chuyển danh pháp của nó thành như hiện nay được công nhận và đồng thời chuyển sang họ Sapindaceae
Nó là loài đặc hữu Trung Quốc, phân bố trong khu vực núi đá vôi ở độ cao 500-2.500 m tại nam Quý Châu và tây bắc Quảng Tây. Tại đây nó được gọi là 掌叶木 (chưởng diệp mộc).
Phân loại.
Nó chia sẻ nhiều đặc trưng hình thái với "Aesculus" và "Billia" và được phân loại cùng chúng trong phân họ Hippocastanoideae hay trong họ Hippocastanaceae, phụ thuộc vào việc chúng được coi là thuộc họ tách biệt hay là một phần của họ Sapindaceae.
Mô tả.
Lá kép gồm 5 lá chét. Lá đài 2-3, kích thước khoảng 1 mm. Cánh hoa 4 hay 5, màu vàng tới trắng, 5-9 × 1,5–2 mm, xa trục có lông nhung quăn, gần trục nhẵn nhụi, mép rậm lông rung. Nhị 7 hay 8, 5–10 mm; chỉ nhị gần gốc có lông nhung quăn; bao phấn khoảng 0,7 mm. Bầu nhụy khoảng 2,5 mm, nhẵn nhụi. Quả nang màu nâu vàng cam, lốm đốm, 2,2-3,5 × 0,5-1,8 cm, đỉnh có mấu nhọn. Ra hoa tháng 3-5, tạo quả tháng 7-8(-10). | 1 | null |
Tuyết Sơn Phi Hồng, còn được gọi là hồng hoa ngọc phù dung (danh pháp khoa học: "Leucophyllum frutescens") là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae), là loài thực vật bản địa vùng tây nam tiểu bang Texas (Hoa Kỳ) và các tiểu bang Coahuila, Nuevo León và Tamaulipas miền bắc Mexico. Hồng hoa ngọc phù dung còn được biết đến với những tên khác như xô Texas, xô tím, lá bạc Texas, tử đinh hương dại. Loài này được (Berland.) I.M. Johnst. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1924.
Mô tả.
Ngọc phù dung thuộc nhóm các cây thân bụi thấp, cao 1.0–2.4 m và rộng 0.8–1.5 m. Lá có màu xanh xám, mềm và có lông mịn, dài khoảng 2.5–3.0 cm, viền lá nhẵn. Hoa hình chuông có 5 cánh, dài khoảng 2.5 cm, mềm và có lông mịn, màu từ hồng đến tím sen, và thường nở vào mùa mưa.
Cây chịu hạn tốt, có thể sống trong những điều kiện môi trường khắc nghiệt như đất nghèo dinh dưỡng, sa mạc, núi đá vôi, đất có độ mặn và độ pH cao. pH của đất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây từ 8.6 đến 9. Hàng triệu những sợi lông nhỏ mịn bao phủ bề mặt của lá (tạo nên màu xanh xám đặc trưng), hoa và thân là kết quả của quá trình tiến hoá giúp cho cây chống chịu các bức xạ mặt trời cao và giữ cho nước chậm thoát hơi trong điều kiện sa mạc khô hạn.
Hoá thực vật.
Các nghiên cứu hoá thực vật cho thấy vỏ rễ của cây có chứa leubethanol và 2′,5″-dimethoxysesamin có tác dụng ức chế các dòng trực khuẩn lao "Mycobacterium tuberculosis", kể cả dòng đa kháng thuốc MDR-TB. Dịch chiết từ lá cây chứa các độc tố thực vật (phytotoxin) như diayangambin, epiyangambin, diasesartemin và epiashantin có tác dụng ức chế sự nẩy mầm và sinh trưởng của các loài cỏ dại như cỏ bồ bặc ("Agrostis stolonifera" L. cv. Penncross) và cải xà lách ("Lactuca sativa" L.).
Lá và hoa khô của ngọc phù dung từ lâu đã được dùng để pha trà, có tác dụng an thần nhẹ và điều trị cảm. Ở vùng Đông Nam Mexico, người ta sử dụng cây như loài thảo dược trong điều trị viêm phế quản, các bệnh lý về phổi, lao, tiêu chảy, cảm sốt, bệnh gan và bệnh vàng da. | 1 | null |
Phyllopodium heterophyllum là một loài thực vật có hoa trong họ Huyền sâm. Loài này được Benth. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1835.
Phyllopodium heterophyllum là tên khoa học của một loài thực vật có hoa thuộc họ Fabaceae (họ Đậu). Loài này cũng được gọi là "salvinia bean" hoặc "floating bean". Phyllopodium heterophyllum là một loại cây thủy sinh có thể sống trong nước ngọt và thường được tìm thấy trong các hệ thống sông, ao, hồ và các vùng nước chảy chậm.
Phyllopodium heterophyllum có cấu trúc thân mềm, thân dạng nhánh, với các lá trôi nổi trên mặt nước. Lá của cây này có hình dạng đặc biệt, có các cấu trúc như lá đặc biệt gọi là phyllopodiums, giúp nó có khả năng nâng cao khả năng hấp thụ ánh sáng và khí độc. Cây thường có lá màu xanh sáng và có cấu trúc phân tán để giữ cho lá không bị chìm dưới mặt nước. Các bông hoa nhỏ màu trắng hoặc hồng có thể hiện diện trên cây trong mùa hè và mùa thu.
Phyllopodium heterophyllum được coi là một loài cây nổi bật trong các hệ sinh thái nước ngọt. Nó có khả năng tạo ra một mặt nước đặc biệt và cung cấp nơi ẩn náu cho các loài cá, ấu trùng côn trùng và các sinh vật khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, loài này có thể trở thành cây xâm lấn và gây khó khăn cho các hệ sinh thái nước ngọt khác. | 1 | null |
Paullinia sternii là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Loài này được Croat mô tả khoa học đầu tiên năm 1976.
Đặc điểm.
Paullinia Sternii là một loài cây bụi cao đến 5 mét và có lá 3 lá mọc xen kẽ. Hoa nhỏ màu trắng xếp thành chùm. Quả có hình cầu, màu vàng nâu. Hạt nhỏ và có màu đen. Cây con nhỏ và có một cặp lá.
Phân bổ.
Paullinia Sternii có thể được tìm thấy ở Nam Mỹ, từ Colombia đến Bolivia.
Công dụng và lợi ích.
Paullinia Sternii được sử dụng làm cây cảnh trong vườn và dùng làm hàng rào. Nó có khả năng chịu hạn cao nên có thể được sử dụng trong việc thiết kế cảnh quan khô hạn Xeriscaping. Nó cũng có khả năng chịu mặn cao và có thể được sử dụng để chống xói mòn ở các vùng ven biển. | 1 | null |
Sâng hay còn gọi sâng lông (danh pháp khoa học: Pometia pinnata) là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Loài này được J.R. Forst. & G. Forst. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1775.
Phổ biến rộng trong tự nhiên, sâng sinh sống trong khắp khu vực Đông Nam Á, Malesia và các đảo trên Thái Bình Dương.
Mô tả.
Sâng phát triển thành cây gỗ trung bình, cao đến . Các lá kép lông chim. Quả có màu xanh, vàng hoặc đỏ sẫm dài tới , mỗi quả có một hạt bao quanh bởi một lớp áo thịt. Quả có phần giống như quả vải, có thể ăn được và là một loại quả phổ biến để ăn. | 1 | null |
Bồ hòn (danh pháp khoa học: Sapindus saponaria) là một cây rụng lá nhỏ đến trung bình , một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Tên chi của nó, "Sapindus", xuất phát từ tiếng Latin, có nghĩa là xà phòng Ấn Độ. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Hình ảnh.
Ứng dụng
Bồ hòn là loại quả sở hữu hàm lượng saponin cao (nhất là phần thịt có đến 18%). Trong đó, điển hình là các saponin triterpen như saponin A, B, C, D, E, E1, X, Y, Y2. Hay các saponin với hoạt tính bề mặt khá mạnh như: Mukuroyiosid Ia, Ib,… Ngoài ra, hạt bồ hòn còn có khoảng 9 – 10% dầu béo
Các ứng dụng của bồ hòn
- Làm chất tẩy rửa tự nhiên
- Diệt khuẩn, sát trùng: bởi cao chiết nước và cồn của chúng có thể ức chế sự sinh sôi, phát triển của vài loại vi khuẩn như: Staphylococcus aureus
"- Ở nền y học dân gian Ấn Độ", họ đã dùng vỏ (cùi) bồ hòn rồi đem kết hợp cùng mật ong để tạo nên viên hoàn – dạng thuốc rắn, hình cầu. Mỗi viên sẽ có khối lượng tầm 2g và dùng trong việc chữa trị vấn đề viêm phổi. Bạn sẽ dùng 1 viên hoàn kèm với sữa nóng cho mỗi lần uống và dùng 2 lần/ngày.
"- Tại một số khu vực Nepal", người dân đã lấy vỏ bồ hòn giã nát thành bột nhão, rồi mỗi ngày sẽ dùng để đắp lên vùng da bị ghẻ, nấm da... Không những thế, bạn còn có thể kết hợp bột vỏ bồ hòn với bột ngô nhằm trị gàu và diệt chấy.- | 1 | null |
Thương mại Việt Nam thời Tiền Lê phản ánh tình hình thương mại nước Đại Cồ Việt từ năm 980 đến năm 1009 dưới thời Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam.
Hệ thống giao thông.
Hệ thống đường sá giao thông thời cổ đại chưa phát triển và điều đó cản trở hoạt động thương mại. Các vua nhà Tiền Lê đã có nhiều lần thực hiện mở mang đường bộ và đường thủy từ bắc vào nam trong thời gian cai trị.
Hệ thống đường sá giao thông đường bộ và đường thủy trong nước được các vua Lê quan tâm khai thông xây dựng. Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, năm 983, Lê Đại Hành sai quan Phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến Châu Địa Lý.
Năm 1003, vua Lê Đại Hành lại thân hành đi Hoan Châu, ra lệnh vét kênh Đa Cái cho Thông thẳng đến Tư Củng trường ở Ám Châu.
Năm 1009, triều thần đề nghị xin đào kênh, đắp đường và dựng cột bia ở Ái Châu. Lê Ngọa Triều xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu Ái đào đắp từ cửa quan Chi Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung. Sau đó Lê Long Đĩnh lại ra lệnh đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại.
Tháng 7 năm đó, nhân đi đánh châu Hoan Đường, hành quân đến Hoàn Giang, Lê Long Đĩnh sai Hồ Thủ Ích đem hơn 5.000 quân của châu Hoan Đường, sửa chữa đường từ sông Châu Giáp đến cửa biển Nam Giới để tiện cho việc hành quân về phía nam.
Hoạt động thương mại.
Sử sách không chép rõ về hoạt động thương mại trong nước. Đối tác quan hệ buôn bán ngoại thương chủ yếu của Đại Cồ Việt là Trung Quốc. Hai bên lập ra những nơi giao dịch song phương gọi là "Bạc dịch trường" đặt trên đường thông lộ biên giới.
Những Bạc dịch trường quan trọng trong thời kỳ này là trại Vĩnh Bình (được Lê Văn Siêu phỏng đoán là chợ Kỳ Lâm hiện nay), tại Sách Nam Giang thuộc trại Cổ Vạn và châu Tô Hậu (Lê Văn Siêu phỏng đoán là châu Thất Khê), trại Hoành Sơn (Na Chàm ở ải Nam Quan). Trại Hoành Sơn tụ tập nhiều nhà buôn từ châu Quảng Nguyên của Đại Cồ Việt và châu Đặc Ma của nước Đại Lý (Vân Nam) và các lái buôn từ Quảng Châu của Tống.
Bạc dịch trường lớn nhất gần biên giới là điểm giao dịch hai nước nằm ở trại Như Hồng, Khâm châu.
Tác giả Chu Khứ Phi mô tả việc buôn bán giữa hai bên lúc đó trong sách "Lĩnh ngoại đại pháp" như sau:
Các quan chức địa phương biên giới cũng hỗ trợ cho quan hệ buôn bán của các thương gia hai bên. Nếu xảy ra việc kêu ca vì người bán cân thiếu thì phía Đại Cồ Việt lại cử sứ sang Khâm châu để thử lại cân để kiểm tra. Không những thế, chính triều đình nhà Tiền Lê cũng sai người sang giao dịch thẳng với khách buôn người Tống. Hàng bán của Đại Cồ Việt gồm có vàng, bạc, tiền đồng. | 1 | null |
Mộc lĩnh (danh pháp hai phần: Verbascum thapsus) hay mao nhị hoa là một loài thực vật có hoa trong họ Huyền sâm. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đây là loài bản địa châu Âu, Bắc Phi và châu Á, và được du nhập vào châu Mỹ và Úc. Đây là một loài cây hai năm có lông có thể phát triển đến chiều cao 2 mét hoặc hơn. Hoa nhỏ màu vàng của tụ thành nhóm lại trên một thân cây cao lớn mọc lên từ một vòng lá lớn. | 1 | null |
Thouinia serrata là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn. Loài này được Radlk. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1878.
Miêu tả.
Thouinia serrata là loại cây bụi có thể cao tới 1,5m. Loài cây này thường được tìm thấy tại các khu rừng khô, rừng cây bụi và rừng ven biển.
Hoa của cây có hình ngôi sao màu trắng 5 cánh. Hạt nhỏ và có màu đen. Cây con có hai lá hình bầu dục.
Nơi sống.
Đây là loài cây có nguồn gốc từ vùng biển Caribbean và chúng thường sống ở Ấn Độ.
Công dụng.
Thouinia serrata thường được trồng để làm cây cảnh trong vườn và công viên. Ngoài ra, chúng cũng được dùng trong y học cổ truyền vì có đặc tính chống viêm và sát trùng.
Trồng trọt và nhân giống.
Bạn có thể trồng Thouinia serrata bằng cách nhân giống từ hạt hoặc giâm cành.
Nếu nhân giống từ hạt, hãy gieo hạt trong hỗn hợp đất thoát nước tốt vào mùa xuân hoặc mùa hè. Hạt giống phải được phủ một lớp đất mỏng và giữ ẩm. Sau khi cây con đủ lớn, bạn hãy cấy cây con vào từng chậu riêng.
Để nhân giống bằng cách giâm cành, bạn có thể giâm cành vào mùa xuân hoặc mùa hè và cắm rễ vào hỗn hợp đất thoát nước tốt. Giữ cành giâm ẩm và ở nơi có ánh sáng tự nhiên nhưng ánh nắng không quá mạnh và không chiếu trực tiếp. | 1 | null |
Tiền tệ Việt Nam thời Tiền Lê phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Tiền Lê (980-1009) trong lịch sử Việt Nam.
Tiền trong đời sống kinh tế - xã hội.
Sử liệu cũ của Việt Nam là Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục đều có nhắc đến việc tiền Thiên Phúc được đúc từ mùa xuân năm 984. Điều này cho thấy: thứ nhất, bốn năm đầu khi lên làm vua nhà Lê vẫn dùng tiền do nhà Đinh phát hành; thứ hai, tiền đã được sử dụng nhiều hơn. Do tiền trong nước không đủ nhu cầu sử dụng, một số đồng tiền nhà Đường cũ như Khai Nguyên và nhà Tống đương thời như Thuần Hóa, Tường Phù được lưu hành trong nước Đại Cồ Việt.
Khảo cổ học cho thấy "Thiên Phúc trấn bảo" có ba loạt đều có hình thù giống tiền của nhà Đinh. Một loạt mặt trước có bốn chữ Thiên Phúc trấn bảo và mặt sau có chữ Lê (họ của vua), một loạt mặt trước giống như loạt trên nhưng mặt sau lại không có chữ gì, và một loạt nữa mặt sau có chữ Lê nhưng mặt trước lại không có chữ gì.
Sử sách không nêu rõ tỷ lệ giá trị giữa những đồng tiền trong nước phát hành và tiền Trung Quốc ra sao. Tiền Thiên Phúc nhà Tiền Lê nặng 2,3-3,2 gram, còn các đồng tiền nhà Tống nặng khoảng 3,5 gram. Tại Khâm châu, việc mua bán của người Việt và người Tống bao gồm cả tiền đồng. Lê Văn Siêu cho rằng đây không chỉ là thị trường hàng hóa mà còn là thị trường tiền tệ mà hai bên trao đổi ngoại hối.
Đồng tiền thời Tiền Lê.
Khi cai trị, Lê Hoàn đã dùng ba niên hiệu, song chỉ đúc duy nhất tiền Thiên Phúc trấn bảo, lấy tên theo niên hiệu đầu tiên. Các vua Tiền Lê sau không đúc tiền.
Khảo cổ học cho thấy Thiên Phúc trấn bảo có ba loạt đều có hình thù giống tiền của nhà Đinh. Một loạt mặt trước có bốn chữ Thiên Phúc trấn bảo và mặt sau có chữ Lê (họ của vua), một loạt mặt trước giống như loạt trên nhưng mặt sau lại không có chữ gì, và một loạt nữa mặt sau có chữ Lê nhưng mặt trước lại không có chữ gì. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy có thể là vì trong quá trình đúc tiền, xưởng đúc đã ráp nhầm hai mặt của các khuôn đúc. | 1 | null |
Glaucidium palmatum là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được Siebold & Zucc. mô tả khoa học đầu tiên năm 1843.
Nó là loài đặc hữu khu vực bắc và đông Nhật Bản trên đảo Hokkaidō và đông bắc đảo Honshū trên các dãy núi gần với biển Nhật Bản.
Là loài thực vật lâu năm thân thảo có thân rễ, nó mọc cao tới 40 cm với thân cứng và 2 lá to (đường kính tới 20 cm) có thùy lông chim ở gần ngọn cùng các lá nhỏ có màng ở phần thấp hơn của thân cây. Hoa mọc đơn độc ở ngọn, đường kính 8 cm, với 4 lá đài hình cánh hoa màu hồng tới tía nhạt (hiếm khi trắng), nhiều nhị và 2 lá noãn. Quả là một cụm các quả đại.
Đôi khi người ta đặt nó trong họ riêng là Glaucidiaceae, hoặc trong họ Paeoniaceae. | 1 | null |
Helleborus orientalis là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được Lam. mô tả khoa học đầu tiên năm 1789. Đây là loài bản địa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Tên cụ thể loài xuất phát từ tiếng Latin "oriens" (đông). Loài này có các khác biệt rất cáo và dễ dàng lai với nhau một cách tự do. | 1 | null |
Xanthorhiza simplicissima là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được Marshall miêu tả khoa học đầu tiên năm 1785.
Đây là loài bản địa miền đông Hoa Kỳ từ Maine phía nam đến bắc Florida và phía tây đến Ohio và miền đông Texas. Nó chứa berberine alkaloid, có một số cách sử dụng truyền thống và đương đại để nhuộm và thuốc. | 1 | null |
Ranunculus asiaticus là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Công nhận.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 2023, Canada Post, cơ quan quản lý bưu chính của Canada, đã phát hành một con tem bưu chính có hình "Ranunculus asiaticus". Con tem được phát hành dưới dạng sách nhỏ và cuộn và như một tờ lưu niệm. | 1 | null |
Edward Joseph Snowden (sinh ngày 21 tháng 6 năm 1983) là một người tố giác người Mỹ và được nhập quốc tịch Nga đã sao chép và rò rỉ thông tin tối mật từ Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) vào năm 2013 khi anh là nhân viên và nhà thầu phụ của Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA). Tiết lộ của Snowden bộc lộ nhiều chương trình giám sát toàn cầu, nhiều chương trình do NSA và Five Eyes Intelligence Alliance với sự hợp tác của các công ty viễn thông và chính phủ châu Âu, và thúc đẩy một cuộc thảo luận văn hóa về an ninh quốc gia và quyền riêng tư cá nhân.
Năm 2013, Snowden được thuê bởi một nhà thầu NSA, Booz Allen Hamilton, sau khi làm việc trước đó với Dell và CIA. Snowden nói rằng anh dần dần bị vỡ mộng với các chương trình mà anh tham gia và anh đã cố gắng nói về mối quan tâm mang tính đạo đức của mình thông qua các kênh nội bộ nhưng đã bị bỏ qua. Vào ngày 20 tháng 5 năm 2013, Snowden đã bay tới Hồng Kông sau khi rời công việc tại một cơ sở của NSA ở Hawaii, và vào đầu tháng 6, anh đã tiết lộ hàng ngàn tài liệu NSA được phân loại cho các nhà báo Glenn Greenwald, Laura Poitras và Ewen MacAskill. Snowden thu hút sự chú ý của quốc tế sau khi những câu chuyện dựa trên tài liệu xuất hiện trên "tờ The Guardian" và "The Washington Post". Tiết lộ sau đó được xuất bản trên các ấn phẩm khác bao gồm "Der Spiegel" và "New York Times".
Vào sinh nhật lần thứ 30 của Snowden, ngày 21 tháng 6 năm 2013, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã công bố các cáo buộc chống lại Snowden về hai tội vi phạm Đạo luật gián điệp năm 1917 và trộm cắp tài sản của chính phủ, sau đó Bộ Ngoại giao đã thu hồi hộ chiếu của anh. Hai ngày sau, anh bay tới Moscow tại Sân bay Sheremetyevo, nơi nhà chức trách Nga lưu ý rằng hộ chiếu Mỹ của anh đã bị hủy bỏ, và anh đã phải ở lại ở nhà ga sân bay trong hơn một tháng. Nga sau đó đã cấp cho Snowden quyền tị nạn với thị thực cư trú ban đầu trong một năm và các lần gia hạn lặp lại đã cho phép anh ở lại Nga ít nhất cho đến năm 2020. Đầu năm 2016, anh trở thành chủ tịch của Freedom of the Press Foundation, một tổ chức có trụ sở tại San Francisco, nói rằng mục đích của nó là bảo vệ các nhà báo khỏi bị hack và giám sát của chính phủ. Tính đến năm 2017, anh đã kết hôn và đang sống ở Moscow.
Vào ngày 17 tháng 9 năm 2019, cuốn hồi ký "Permanent Record" của anh đã được xuất bản. Vào ngày đầu tiên xuất bản của cuốn sách, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã đệ đơn kiện dân sự chống lại Snowden về việc xuất bản hồi ký của anh, với cáo buộc Snowden đã vi phạm các thỏa thuận không tiết lộ đã ký với chính phủ liên bang Hoa Kỳ. Cựu phóng viên an ninh quốc gia "The Guardian" Ewen MacAskill gọi vụ kiện dân sự là "sai lầm lớn", lưu ý rằng "lệnh cấm sách "Spycatcher" của Anh 30 năm trước đã tạo ra nhu cầu rất lớn". Cuốn hồi ký được liệt kê là số 1 trong danh sách tác phẩm bán chạy nhất của Amazon cùng ngày. Trong một cuộc phỏng vấn với Amy Goodman trên Democracy Now! vào ngày 26 tháng 9 năm 2019, Snowden làm rõ rằng anh ta coi mình là "người thổi còi" (whistler) trái ngược với "người tiết lộ" (leaker) khi anh ta coi "một leaker chỉ phân phối thông tin vì lợi ích cá nhân".
Tiểu sử.
Snowden sinh ra tại thành phố Elizabeth nhưng lớn lên ở Wilmington, Bắc Carolina. Cha là Lonnie Snowden, một cư dân bang Pennsylvania, làm sĩ quan của Hải quân Hoa Kỳ. Mẹ là cư dân bang Baltimore, Maryland, thư ký tòa tại tòa án liên bang khu vực Maryland.
Năm 1999, Snowden cùng gia đình chuyển đến thành phố Ellicott, Maryland và học tại Trường Đại học Cộng đồng Anne Arundel (Arnold, Maryland) để đủ điều kiện đạt được bằng cấp của một trường Trung học nhưng Anh đã không hoàn thành. Cha anh giải thích: Con trai ông đã phải nghỉ học nhiều tháng vì ốm và sau khi quay lại, Snowden đã chọn và thi đỗ chứng chỉ GED (General Educational Development - Chứng chỉ hoàn tất Trung học) tại một trường Đại học Cộng đồng địa phương.
Năm 2001, Snowden làm việc trực tuyến để đạt được Văn bằng Cao Học của Đại học Liverpool. Khi làm việc cho căn cứ quân sự Mỹ tại Nhật Bản, Snowden thực sự thích thú văn hóa nơi đây và đã đi học tiếng Nhật, sau đó làm việc cho một công ty hoạt hình (anime) Nhật Bản có văn phòng tại Mỹ. Anh cũng biết một chút tiếng Trung phổ thông và say mê võ thuật. Đạo Phật được Snowden chọn làm tôn giáo của mình.
Ngày 07/05/2004, Snowden gia nhập quân đội Hoa Kỳ với tư cách là một thành viên của Lực lượng tân binh đặc biệt nhưng anh đã không hoàn thành nhiệm vụ. Snowden nói anh từng muốn tham gia trận chiến ở Iraq vì cảm thấy đó là "bổn phận của con người là phải trả lại tự do cho những ai còn bị áp bức". Nhưng Snowden đã giải ngũ sau 4 tháng, vào 28/09 vì gặp tai nạn gãy 2 chân trong khi tập luyện.
Snowden đầu tiên làm việc với phóng viên Glenn Greenwald của tờ báo Luân Đôn "The Guardian", tờ báo cũng đã đăng một loạt bài phơi bày sự thật dựa trên những tiết lộ của Snowden vào tháng 6 năm 2013, anh tiết lộ những thông tin về nhiều chương trình theo dõi mật, bao gồm chương trình siêu dữ liệu nghe lén điện thoại của Mỹ và châu Âu, PRISM (một chương trình theo dõi khác) và chương trình theo dõi Internet Tempora. Snowden nói những tiết lộ này là một nỗ lực nhằm "thông báo cho người dân biết rằng những gì đã được thực hiện trên chính cái tên của họ và những gì đã được thực hiện để chống lại họ."
Vào ngày 14 tháng 6 năm 2013, các công tố viên liên bang của Mỹ đã đệ một đơn kiện được công bố vào ngày 21 tháng 6 buộc tội Snowden trộm cắp tài sản chính phủ, truyền tin trái phép về thông tin quốc phòng, và cố ý tiết lộ tin tình báo mật cho một người không có quyền hạn; hai cáo buộc cuối cùng tuân theo Đạo luật Tình báo.
Những tiết lộ của Snowden được đánh giá là một trong những lỗ hổng nghiêm trọng nhất trong lịch sử của NSA. Matthew M. Aid, một sử gia về tình báo ở Washington cho rằng những tiết lộ của Snowden đã "xác nhận mối ngờ vực bấy lâu nay rằng sự theo dõi của NSA trên đất nước này thâm nhập xa hơn những gì chúng ta biết."
Cuộc sống riêng tư.
Trước khi bay tới Nga tháng 5 năm 2013, Snowden có bạn gái là Lindsay Mills, một nghệ sĩ trình diễn múa 28 tuổi mà anh đã lên kế hoạch kết hôn. Hai người đã có một thời gian dài gắn bó bên nhau và cùng nhau đi du lịch thế giới trong suốt 4 năm trước, nhưng khi Snowden trốn sang Hồng Kông để tiết lộ về chương trình giám sát được cho là bí mật hàng đầu của chính phủ Hoa Kỳ thì mọi kế hoạch đã đổ vỡ.
Tị nạn tại Nga.
Vào ngày 1 tháng 8 năm 2013, Snowden rời khỏi phi trường lúc nhận được quyền tị nạn tạm thời tại đây một năm, sau khi phải ở một tháng trong khu vực chuyển tiếp. Luật sư của Snowden, ông Anatoly Kucherena, cho biết, quyền tị nạn này có thể được gia hạn mỗi năm một lần.
Tháng 9 năm 2022, tổng thống Nga Vladimir Putin trao cho Snowden quốc tịch Nga.
Phim ảnh.
Cuộc đời của Edward Snowden đã trở thành cảm hứng cho điện ảnh Hollywood. Đã nhiều phim tài liệu được sản xuất về anh. Năm 2016, bộ phim "Snowden được công chiếu, phim" kể về cuộc đời của Snowden, từ lúc gia nhập quân đội, đến khi làm việc cho CIA, NSA, việc tiết lộ chương trình do thám đầy tranh cãi của NSA và CIA, và cuộc đào thoát khỏi nước Mỹ cũng như những cáo buộc của chính phủ Mỹ về Snowden với các tội danh gián điệp và phản quốc.
Liên kết ngoài.
PDF Version( ) | 1 | null |
Lễ khai mạc Sứ vụ của Giáo hoàng Phanxicô (tên đầy đủ là Thánh Lễ Khai mạc Sứ vụ Mục tử Toàn thể Hội Thánh, còn gọi là Lễ nhậm chức) được tổ chức vào ngày 19 tháng 3 năm 2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Vatican. Thánh lễ do chính ông cử hành trước sự hiện diện của các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo đến từ khắp nơi trên thế giới. Phái đoàn chính thức đến từ 132 quốc gia cùng các nhóm tôn giáo khác nhau, đám đông dân sự tham dự ước tính từ 150.000 đến 200.000 người. Đây cũng là lần đầu tiên sau gần 1000 năm có một vị Thượng phụ Constantinopolis đến dự lễ nhậm chức của một vị giáo hoàng.
Thánh lễ.
Khoảng nửa giờ trước Thánh lễ, Giáo hoàng Phanxicô tiến vào quảng trường trong chiếc xe jeep màu trắng, mui trần, không có kính chắn đạn, tiến ra Quảng trường thánh Phêrô để chào đám đông. Ông dừng lại và ôm hôn một người khuyết tật và vài trẻ em. Trước khi cử hành thánh lễ, Giáo hoàng Phanxicô đã xuống tầng hầm dưới bàn thờ chính của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô để viếng mộ của Thánh Phêrô - Tông đồ trưởng. Tại đây, ông cùng với 10 thủ lĩnh các Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông Phương cầu nguyện và xông hương trên mộ Thánh Phêrô. Sau đó, đoàn rước tiến ra lễ đài trên thềm vương cung thánh đường.
Đi trước Giáo hoàng trong đoàn rước là 180 vị đồng tế, hầu hết là các hồng y, trong phẩm phục màu trắng vàng, trong khi ca đoàn Sistina của Tòa Thánh hát Kinh Cầu Các Thánh xin các vị phù giúp tân Giáo hoàng Phanxicô. Giáo hoàng đội một chiếc mũ mitra mà ông từng sử dụng từ khi còn là một giám mục cùng với bộ áo lễ đơn giản với cây Thánh giá Giáo hoàng mà người tiền nhiệm Biển Đức XVI đã sử dụng. Tân giáo hoàng giữ các bài hát và hành động phụng vụ đơn giản. Theo Hồng y Timothy Dolan, Giáo hoàng Phanxicô ít hát trong thánh lễ là vì ông chỉ còn có một lá phổi.
Giống như buổi lễ nhậm chức của các vị Giáo hoàng trước đây, Hồng y Trưởng đẳng Phó tế, thời điểm này là Hồng y Jean-Louis Tauran - sẽ là người choàng dây pallium lên vai vị tân Giáo hoàng. Hồng y Angelo Sodano - Niên trưởng Hồng y Đoàn đã xỏ nhẫn Ngư phủ vào tay Giáo hoàng, chiếc nhẫn này làm bằng bạc mạ vàng thay vì bằng vàng ròng như thông lệ.. Sáu hồng y, mỗi đẳng hai vị thay mặt Hồng y Đoàn tuyên xưng vâng lời tân Giáo hoàng. Trước đó, tất cả các vị hồng y cũng đã làm như vậy trong một nghi thức riêng.
Bài giảng.
Giáo hoàng Phanxicô giảng lễ bằng tiếng Ý. Ông tập trung vào ý nghĩa Lễ Kính Thánh Giuse, ngày phụng vụ của hôm đó. Có đoạn ông nói: "Chúng ta hãy trở thành những người gìn giữ công trình tạo dựng, gìn giữ kế hoạch của Thiên Chúa được ghi khắc trong thiên nhiên, giữ gìn tha nhân, môi sinh; chúng ta đừng để cho những dấu hiệu tàn phá và chết chóc tháp tùng hành trình của thế giới chúng ta! Nhưng để "gìn giữ" thì chúng ta cũng phải chăm sóc chính mình! Chúng ta hãy nhớ rằng oán ghét, ghen tương, kiêu ngạo làm cho cuộc sống bị nhơ bẩn! Gìn giữ có nghĩa là canh chừng những tâm tình chúng ta, con tim chúng ta, vì chính từ đó nảy sinh những ý hướng tốt hay xấu: những ý hướng xây dựng và những ý hướng hủy hoại! Chúng ta không được sợ sự tốt lành, và cũng đừng sợ sự dịu dàng!"
Phái đoàn đại diện chính thức.
Trung Quốc phản đối tư cách tham dự của đoàn Đài Loan bởi mối quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Trung Hoa Dân quốc.
Tôn giáo.
Kitô giáo.
Đây là vị Thượng phụ Đại kết Constantinople đầu tiên tham dự lễ nhậm chức của Giáo hoàng kể từ cuộc Ly giáo Đông - Tây hồi năm 1054. Các nhà lãnh đạo Chính Thống giáo nói rằng quyết định của Thượng phụ Bartholomew I đương nhiệm của Constantinople khi tham dự sự kiện này cho thấy sự xem xét mối quan hệ giữa các giáo hội Chính Thống giáo và Công giáo đang là một ưu tiên. Họ cũng lưu ý rằng, Giáo hoàng Phanxicô đã hoạt động vì công bằng xã hội và nhấn mạnh sự thống khổ của người nghèo khi toàn cầu hóa có thể đã tạo ra một cơ hội đổi mới "cho hai cộng đoàn giáo hội cùng làm việc chung về các vấn đề cùng quan tâm. | 1 | null |
Trương Hành (; trong một vài tài liệu được phiên âm là Trương Hoành, 78–139) là nhà bác học Trung Quốc thời Đông Hán (25–220). Quê quán ở Nam Dương, Hà Nam, ông là nhà thiên văn học, toán học, nhà sáng chế, nhà địa lý, người vẽ bản đồ, học sĩ, nhà thơ, chính khách và nhà nghiên cứu văn chương nổi tiếng. Ông đã theo học tại các cố đô Lạc Dương và Trường An, và bắt đầu sự nghiệp với một chức quan nhỏ ở Nam Dương. | 1 | null |
iPhone (còn gọi là phiên bản iPhone thế hệ thứ nhất, hay thế hệ iPhone 2G để phân biệt với các sản phẩm ra đời sau nó) là một điện thoại thông minh được thiết kế và tiếp thị bởi công ty Apple Inc. Đây là thế hệ đầu tiên của iPhone và đã được công bố vào ngày 9 tháng 1 năm 2007 sau nhiều tháng tin đồn và đầu cơ .
Nó đã được giới thiệu tại Mỹ vào ngày 29 tháng 6 năm 2007. Nó có đặc tính hỗ trợ kết nối 4 băng tần GSM cho thiết bị di động và hỗ trợ truyền dữ liệu chuẩn GPRS và EDGE.
Vào ngày 9 tháng 6 năm 2008, Apple công bố thế hệ iPhone tiếp theo là iPhone 3G. iPhone đời đầu (phiên bản gốc) không còn nhận được bản cập nhật phần mềm của Apple, phiên bản phần mềm chính thức cuối cùng của nó là hệ điều hành iPhoneOS 3.1.3.
Nó đã được báo cáo rằng trong năm 2013, iPhone bản gốc sẽ được coi là "lỗi thời" trong các cửa hàng bán lẻ của Apple, thành "cổ điển" với các nhà cung cấp dịch vụ khác ở Mỹ, và "lỗi thời" trong tất cả các khu vực khác. Apple không phục vụ các sản phẩm quá cũ hay đã lỗi thời, và các linh kiện thay thế cho các sản phẩm lỗi thời sẽ không có sẵn cho các nhà cung cấp dịch vụ.
Lịch sử.
Giai đoạn đầu phát triển.
Steve Jobs, giám đốc điều hành tại Apple Inc, hình thành một ý tưởng sử dụng một cảm ứng đa chạm màn hình cảm ứng tương tác với một máy tính theo một cách thức mà ông có thể gõ trực tiếp lên màn hình, về cơ bản loại bỏ sự hiện diện vật lý của bàn phím và chuột, giống như một máy tính bảng. Việc tuyển dụng một nhóm các kỹ sư của Apple để nghiên cứu những ý tưởng như một dự án phụ. Khi thực hiện xem xét lại các nguyên mẫu của nó và GUI - giao diện người dùng, ông hình thành một ý tưởng thứ hai triển khai thực hiện công nghệ này trên một điện thoại di động. Những cố gắng quy tụ trong cái gọi là Dự án màu tím 2 và bắt đầu vào năm 2005.
Apple đã tạo ra các thiết bị trong một sự hợp tác bí mật và chưa từng có với AT&T, trước đó là Cingular Wireless. Chi phí phát triển của sự hợp tác đã được ước tính cỡ 150,000,000$ trong khoảng thời gian ba mươi tháng. Apple từ chối các cách tiếp cận "thiết kế của Uỷ ban" - cách đã tạo ra Motorola ROKR E1, một sự hợp tác phần lớn không thành công với Motorola. Thay vào đó, Cingular Wireless cho Apple tự do để phát triển phần cứng của iPhone và phần mềm trong nhà.
iPhone phiên bản gốc được Steve Jobs giới thiệu vào ngày 9 tháng 1 năm 2007 trong một bài phát biểu tại Hội nghị & hội chợ triển lãm Macworld tổ chức tại Moscone West ở San Francisco, California. Trong bài phát biểu của mình, Jobs nói: "Tôi đã mong chờ giây phút này trong hai năm rưỡi", và rằng "Hôm nay, Apple sẽ lại phát minh điện thoại" Jobs giới thiệu iPhone như là một sự kết hợp của ba thiết bị: một "màn hình rộng iPod với điều khiển cảm ứng", "cuộc cách mạng điện thoại di động điện thoại", và một "bước đột phá Internet truyền thông".
Phát hành.
Iphone 1 ra đời năm 2003 là thế hệ iphone đầu tiên. iPhone được phát hành vào ngày 29 tháng 6 năm 2007 tại Hoa Kỳ, nơi hàng ngàn người đã được báo cáo đã chờ đợi bên ngoài của Apple và AT&T bán lẻ cửa hàng ngày trước khi ra mắt của thiết bị, với nhiều cửa hàng báo cáo tình trạng hết sạch hàng trong vòng một giờ. Để tránh lặp lại những vấn đề của PlayStation 3 khi ra mắt như các vụ trộm cắp và thậm chí một vụ nổ súng, cảnh sát ra khỏi nhiệm vụ được thuê để bảo vệ các cửa hàng qua đêm.
Sau đó sản phẩm được bán trong Vương quốc Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, các Cộng hòa Ireland và Áo trong tháng 11 năm 2007.
Sáu trong mười người Mỹ được khảo sát nói rằng họ biết iPhone đang đến trước khi phát hành.
Sau khi phát hành.
Các iPod Touch, một thiết bị màn hình cảm ứng với các phương tiện truyền thông và khả năng internet và giao diện của iPhone, nhưng không có khả năng kết nối với một mạng di động cho các chức năng điện thoại hoặc truy cập internet, được phát hành vào ngày 5 tháng 9 năm 2007. Đồng thời, Apple đã giảm đáng kể giá của sản phẩm 8GB từ 599$ xuống còn 399$ trong khi ngừng bản sản phẩm 4 GB. Apple đã bán được một triệu chiếc iPhone năm ngày sau đó, hoặc 74 ngày sau khi phát hành. Sau khi nhận được "hàng trăm email... thất vọng" về sự sụt giảm giá cả đột ngột sau khi phát hành, Apple đã cho phép những người đã lỡ đặt mua giá cao có thể mua hàng trong kho với giá thấp.
Một mô hình 16 GB được phát hành vào ngày 5 tháng 2 năm 2008. Apple phát hành một SDK trên 06 tháng 3 năm 2008, cho phép các nhà phát triển để tạo ra các ứng dụng sẽ được cung cấp bắt đầu trong hệ điều hành iPhoneOS 2.0, nâng cấp miễn phí cho người dùng iPhone. Vào ngày 9, Apple công bố iPhone 3G, bắt đầu vận chuyển 11 tháng 7. Các bản iPhone gốc đã bị dừng tại thời điểm đó, tổng khối lượng bán hàng đến 6.124.000 đơn vị.
Trong khi hầu hết các tài liệu của Apple chỉ đơn giản được gọi là thiết bị "iPhone", thuật ngữ "iPhone nguyên bản" xuất hiện trong một thông cáo báo chí từ tháng 7 năm 2010.
Phần mềm.
Trong thời gian phát hành, iPhone được bán trên thị trường như chạy "OS X". Tên của hệ điều hành đã được tiết lộ như hệ điều hành iPhone với việc phát hành của iPhone SDK. Cho đến nay, Apple đã phát hành 6 phiên bản chính phần mềm cho iPhone, bao gồm cả một đơn vị đi kèm với iPhone bản gốc và ba phiên bản chính (hệ điều hành iPhone 1, 2, và 3) cho iPhone, nhưng bản cập nhật phần mềm cho iPhone bản gốc và 3G đã bị ngưng.
Lịch sử phần mềm.
Việc phát hành ban đầu của hệ điều hành bao gồm Visual Voicemail, cử chỉ đa cảm ứng, email HTML, trình duyệt web Safari, nhắn tin văn bản ren, và YouTube. Tuy nhiên, nhiều tính năng như tin nhắn MMS, các ứng dụng, và sao chép và dán không được hỗ trợ trong phiên bản. Những tính năng còn thiếu dẫn đến hacker jailbreak điện thoại của họ có thêm những tính năng còn thiếu. Cập nhật phần mềm chính thức từ từ bổ sung các tính năng này.
Hệ điều hành iPhoneOS 2.0, phát hành 11 tháng 7 năm 2008, giới thiệu các ứng dụng của bên thứ ba, hỗ trợ trao đổi, push e-mail, và các cải tiến khác.
Hệ điều hành iPhoneOS 3.0, phát hành 17 tháng 6 năm 2009 giới thiệu tính năng sao chép và dán, tìm kiếm Spotlight và các tính năng mới của YouTube. Không phải tất cả các tính năng của hệ điều hành iPhoneOS 3.0 được hỗ trợ trên iPhone phiên bản gốc.
iPhone gốc đã không nhận được bốn bản cập nhật hệ điều hành như iPhone 3G. iPhoneOS 3.1.3 là phiên bản mới nhất được phát hành cho iPhone gốc.
Thông cáo báo chí.
Tờ The New York Times và The Wall Street Journal công bố đánh giá tích cực, nhưng thận trọng, của iPhone, những lời chỉ trích chính của họ là tốc độ chậm của mạng 2.5G EDGE của AT&T và điện thoại không có khả năng kết nối sử dụng dịch vụ trên mạng 3G.
The Wall Street Journal bình luận của công nghệ, Walt Mossberg, kết luận rằng "mặc dù một số sai sót và thiếu sót tính năng, iPhone là, trên sự cân bằng, một máy tính cầm tay đẹp và mang tính đột phá".
Hiện tạp chí đặt tên nó là phát minh của năm trong năm 2007. | 1 | null |
Cecropia pachystachya là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được Trécul mô tả khoa học đầu tiên năm 1847.
Đây là loài bản địa Argentina, Paraguay và Brazil, nơi nó mọc gần rìa của những khu rừng ẩm ướt.
Mô tả.
"Cecropia pachystachya" là một cây thường xanh nhỏ phát triển đến chiều cao khoảng 6 m, và đường kính thân từ 15 đến 25 cm. Cây có cấu trúc mở, với một số lượng nhỏ các nhánh rẽ vào một góc tù và thường tạo thành hình dạng giống như cây dù. | 1 | null |
Dendrocnide excelsa là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được (Wedd.) Chew mô tả khoa học đầu tiên năm 1965.
Gai độc.
Các sợi lông của cây tồn tại trên tất cả các bộ phận trên không và có thể gây ra phản ứng nghiêm trọng khi tiếp xúc với da người, vì vậy nó là mối nguy hiểm cho gia súc, du khách và người cắm trại. Mặc dù vậy, loài cây vẫn là một thành viên quan trọng trong hệ sinh thái của các khu rừng phía đông Australia. Việc đau nhức do chạm vào lông lá được coi là nghiêm trọng hơn "Dendrocnide photinophylla", nhưng không nghiêm trọng bằng lông lá độc của "Dendrocnide moroides" được tìm thấy ở nhện và ốc nón.
Phó giáo sư Irina Vetter của Đại học Queensland giả định rằng cơn đau lâu dài do gympietides có thể là do những thay đổi vĩnh viễn trong các kênh natri trong tế bào thần kinh cảm giác.
Nơi va chạm lông của lá có thể bị đau kéo dài trong một hoặc hai giờ. Tuy nhiên, tình trạng đau nghiêm trọng có thể kéo dài hàng tháng. Cách sơ cứu cho vết đau do chạm phải lông lá là lấy lông dính vào da bằng băng sáp tẩy lông rồi giật mạnh để loại bỏ lông của lá. Vết đau do chạm lông lá của Dendrocnide đã được biết là có thể giết chết những con chó và ngựa đã chạm vào chúng.
Marina Hurley, một nhà nghiên cứu hàng đầu về loài cây này, nhận thấy rằng ngay cả những chiếc găng tay kín cũng không bảo vệ cô khỏi vết đau khi nghiên cứu loài cây này. | 1 | null |
Dendrocnide moroides, còn gọi là cây Tầm ma Queensland hay gympie-gympie, là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được (Wedd.) Chew mô tả khoa học đầu tiên năm 1965.
Loài này được tìm thấy ở các khu vực rừng mưa ở Malesia và Australia. Gympie-Gympie trông bình thường như những loại cây vô hại khác. Tuy nhiên, nó là một trong những loại cây độc nhất thế giới. Gympie-Gympie sinh trưởng tại vùng bắc nước Úc và trên 1 phần đảo Moluccas. Chúng có thể mọc cao đến hai mét.
Gây tử vong.
Trên thực tế, nó đã được ghi nhận là nguyên nhân gây ra cái chết của chó, ngựa và cả con người.
Nếu may mắn sống sót, bạn sẽ cảm nhận được nỗi đau kéo dài hàng tháng và lặp lại trong nhiều năm. Lá khô của loại cây này cũng có thể gây đau cho dù đã bị cắt khỏi cây cả trăm năm.
Cảnh báo về loài cây cực độc này được đặt trong rừng.
Tất cả các phần của cây đều độc, chỉ trừ bộ rễ. Toàn thân cây được bao bọc bởi đám lông mịn có dạng như những mũi kim. Bạn chỉ cần vô tình chạm nhẹ là đã bị ảnh hưởng, sau khi những chiếc lông này vào cơ thể chúng sẽ giải phóng chất độc moroidin.
Đôi khi, lông của loại cây này bay trong không khí khi tiếp xúc với cơ thể sẽ gây cảm giác ngứa rát, hắt hơi và xuất huyết mũi nghiêm trọng.
Chiếc lá của cây có đám lông đầy độc tố.
"Điều đầu tiên bạn cảm thấy là cảm giác bỏng rát và nó sẽ mạnh lên từng giờ, ngày càng đau đớn", bác sĩ Mike Leahy nói về tác hại do cây này gây ra.
""Trong một vài trường hợp nghiêm trọng, cơn đau sẽ gây sốc và tử vong. Nếu bạn không loại bỏ hết được những chiếc lông dính trên cơ thể, chúng sẽ tiếp tục giải phóng chất độc trong nhiều năm tiếp theo"."
Nhà thực vật học Marina Hurley, người từng tiếp xúc với loại cây này cho biết:""Cơn đau do loại cây này gây ra là loại khủng khiếp nhất mà bạn có thể tưởng tượng - giống như bị thiêu cháy bởi axit nóng và điện giật cùng một lúc"."
Quả của cây Gympie-Gympei có vị ngọt và ăn được.
Năm 1994, một người đàn ông tên Cyril Bromley bị rơi vào đám cây này trong một cuộc tập trận. Ông được buộc chặt vào giường bệnh viện trong suốt 3 tuần và điều trị bằng tất cả các phương thuốc hiện có nhưng đều vô hiệu.
Trường hợp khác được kể lại: Một sĩ quan vì không biết sau khi dùng lá cây để vệ sinh đã không chịu nổi cơn đau và buộc phải tự sát.
Trong những năm 1960, quân đội Anh đã điều tra về loại cây này. Giáo sư Alan Seawright tại Đại học Queensland cho rằng chúng được nghiên cứu để sử dụng cho vũ khí sinh học. | 1 | null |
Mán voi hay mán ông voi, tên khoa học là Dendrocnide urentissima, là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được François Gagnepain mô tả khoa học đầu tiên năm 1928 dưới danh pháp "Laportea urentissima". Năm 1965 Wee-Lek Chew chuyển nó sang chi "Dendrocnide".
Mô tả.
Cây cao 3–15 m, đường kính ngang ngực: 8–20 cm; vỏ cây màu xám trắng, lỗ bì hình elip; sẹo lá hình bán nguyệt, dễ thấy; phần thân trên và các cành nhánh có lông nhung và lông ngứa, nhưng nhanh chóng trở thành nhẵn nhụi. Các lá kèm sớm rụng, hình tam giác-hình trứng, khoảng 1 cm, bóng như da, phủ lông măng phía xa trục; cuống lá 7–15 cm, có lông nhung và lông ngứa ngắn; phiến lá màu xanh lục sẫm, hình tim, 15-25 × 12–22 cm, mỏng như giấy, 3-5 gân, các gân bên 5-7 ở mỗi bên, nối với nhau ở trước mép lá, bề mặt phía gần trục có lông cứng và lông ngứa ngắn thưa thớt, bề mặt phía xa trục có lông nhung, với các chấm tuyến màu đỏ, với các lông ngứa tren các gân, đế lá hình tim, mép lá nguyên hoặc có răng cưa nhỏ không rõ nét ở gần đỉnh, đỉnh nhọn; các sỏi khoang dạng điểm nhỏ, dễ thấy phía gần trục. Cụm hoa ở nách gần đầu các cành nhỏ, hình chùy dài, ngắn hơn lá; các cụm hoa cái dài hơn lá, đến 50 cm, cuống đến 25 cm, dày đặc lông ngứa. Hoa đực gần như không cuống, khi ở dạng nụ khoảng 2 mm; thùy bao hoa 5, hình trứng, không lông; nhị 5; bầu nhụy thô sơ hình nón ngược, 1 mm. Hoa cái 4-6 thành một hàng trên đế hoa có cuống hình quạt hơi dày cùi thịt, hoàn toàn không cuống, khoảng 1 mm; thùy bao hoa 4, không đều, 1 lớn khoảng 1 mm, 2 vừa khoảng 0,5 mm và 1 nhỏ khoảng 0,3 mm. Bầu nhụy khoảng 1 mm; đầu nhụy hình lưỡi bẹ khoảng 3 mm; lá bắc khoảng 0,3 mm. Quả bế màu ánh đỏ sẫm, tựa hình cầu, xiên, nén ép, đường kính khoảng 3 mm, mụn cóc dễ thấy; bao hoa bền tạo thành một chén nhỏ ở đáy. Ra hoa tháng 9-10 hoặc tháng 1-2, kết quả tháng 10-12 hoặc tháng 4-5.
Phân bố.
Loài này sinh sống trong rừng hỗn hợp trên đá vôi ở cao độ 800-1.300 m. Khu vực phân bố: Việt Nam, miền nam Vân Nam và tây nam Quảng Tây. | 1 | null |
Trận Arsuf là một trận chiến của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, trong đó Richard I của Anh đã đánh bại Saladin ở Arsuf. Sau một loạt các cuộc tấn công quấy rối bởi lực lượng của Saladin, trận chiến đã tham gia vào sáng ngày 07 tháng 9 năm 1191. Lực lượng của Richard đã chống lại mọi nỗ lực để phá vỡ sự gắn kết trong đội hình của họ cho đến khi hàng ngũ của các Hiệp sĩ Dòng đền bị phá vỡ, ông tập hợp lại lực lượng của mình và dẫn họ tới chiến thắng.
Nam tiến từ Acre.
Sau khi chiếm được Acre năm 1191, Richard đã phải chiến đấu theo kiểu hàng loạt các cuộc đụng độ với Saladin, mà mục tiêu chính là để ngăn chặn sự tái chiếm Jerusalem. Biết rằng mình cần phải kiểm soát được hải cảng Jaffa trước khi thực hiện được một nỗ lực tấn công về Jerusalem, Richard bắt đầu hành quân dọc theo bờ biển từ Acre vào ngày tháng 8 năm 1191. Richard đã cố gắng chuẩn bị trước với sự chú ý tới mọi tiết.
Ý thức được những bài học của thảm họa tại trận Hattin, ông biết rằng cái mà quân đội của ông cần nhất là nước và sự kiệt sức là nguy hiểm lớn nhất của họ. Mặc dù bị nhiều sức ép về thời gian, ông đã cho chỉ hành quân trong buổi sáng trước khi phải chịu cái nóng đỉnh cao trong ngày. Ông đã cho dừng lại nghỉ ngơi thường xuyên, luôn luôn ở bên cạnh các nguồn nước. Hạm đội khởi hành đi dọc theo bờ biển để cung cấp những hỗ trợ tức thì, đó là một nguồn cung cấp lương thực và nơi điều trị cho những người bị thương. Ý thức được sự nguy hiểm từ khả năng xuất hiện vào bất cứ lúc nào của đối phương cũng như kỹ năng tấn công đánh và rút của họ, ông luôn tìm cách giữ đội hình các cột một cách chặt chẽ với một xương sống gồm mười hai đại đội kỵ binh, mỗi đại đội có khoảng một trăm hiệp sĩ. Lực lượng bộ binh hành quân tạo thành một cánh để hộ tống cho kỵ binh khỏi bị tấn công từ phía đất liền.
Bất chấp liên tục bị quấy rối bởi các kỵ cung và "tarantulas" của Saladin vào ban đêm, chiến thuật của Richard vẫn đảm bảo tổ chức và kỷ luật của Thập tự quân vẫn được duy trì hoàn cảnh khó khăn nhất. Baha ad-Din ibn Shaddad, nhà sử gia Hồi giáo mô tả cuộc hành quân như sau:
Baha al-Din cũng mô tả sự khác biệt về sức mạnh của nỏ của quân Thập tự và cung của quân đội của mình. Ông từng nhìn thấy bộ binh Latinh diễu hành với mười mũi tên gắn trên giáp mà không không tỏ ra đau đớn chút nào, trong khi vũ khí của họ lại đánh bại được cả ngựa lẫn quân của mình.
Chiến lược của Saladin.
Khi quân Thập tự chinh đã hành quân đến phía bên kia của sông ở Caesarea, Saladin cũng tiến hành cách bố trí đội hình riêng của mình. Ông đã lên kế hoạch tung quân của mình qua các con đường La Mã cổ ở sâu bên trong vùng nội địa, cho phép ông ta có thể tấn công theo hướng nào có cơ hội thuận tiện nhất. Nhưng việc quân Thập tự chinh hành quân dọc theo ven biển đã bắt buộc ông phải theo tiến theo hướng song song với họ. Vào lúc bình minh lên, các cuộc tấn công quấy rối không có tác dụng như dự định; và chúng đã được đẩy mạnh cường độ và trở thành những trận chiến nhỏ trong quá trình hành quân. Khi quân đội của Richard tiến đến Caesarea vào ngày 30 tháng Tám, lực lượng bảo vệ phía hậu quân được chỉ huy bởi Hugh III của Burgundy đã phải chịu các cuộc tấn công nghiêm trọng và nó bị cắt ra khỏi phần còn lại của quân đội trong một thời gian. Richard đã cố gắng để tập hợp toàn bộ đội quân trong khi các giáo sĩ đi cùng với họ hô to "Sanctum Sepulchrum adjuva" ("Thánh Sepulchre hãy trợ giúp chúng tôi!").
Saladin, đánh giá sự tiến quân của đội hình của đối phương và ra quyết định tiến hành một cuộc tấn công ở Arsuf gần Jaffa, trong khi quân đội của ông phải đối mặt với quân Thập tự chinh ở phía tây và phía biển. Sườn phía bắc của ông được bảo vệ bởi các cánh rừng của Arsuf với con sông Rochetaillée và đầm lầy ở phía trước. Ở phía nam, sườn trái của ông đã được bảo vệ bằng một dải các ngọn đồi có cây cối rậm rạp, nó trải xuống chính những tàn tích của thành phố Arsuf. Kế hoạch là dử quân Thập tự chinh tiến vào sau một loạt những trận trá bại và tiêu diệt họ bằng một cuộc tổng tấn công khi mà thế trận của họ đã bị vỡ. Khoảng cách giữa những ngọn đồi của Arsuf và biển chỉ có , làm cho Richard ít có khoảng không gian để cơ động, và hạn chế sức mạnh tổng lực của các hiệp sĩ được bọc thép dày. Saladin coi đây là cái bẫy hoàn hảo nhưng Richard đã nhanh chóng biến nó thành một cơ hội cho ông ta.
Trận đánh.
Vào rạng sáng ngày 7 tháng 9 năm 1191, sứ giả của Richard đi đến các doanh trại và thông báo rằng trận chiến sẽ xảy gia ngày hôm đó. Các Hiệp sĩ Templar dưới sự chỉ huy của Robert de sable được lệnh phía trước, cùng với người Angevin và Breton, theo sau là Guy của Lusignan và Poitevins. Tiếp đến là những người Anh-Norman và sau đó là những người Flemings dưới sự chỉ huy của James của Avesnes. Sau người Flemings là đến người Pháp và cuối cùng là Hiệp sĩ Cứu tế, đứng đầu là Fra Garnier de Nablus. Dưới sự lãnh đạo của Henry II của Champagne, một đội quân nhỏ đã được tách ra để trinh sát các ngọn đồi và một toán các hiệp sĩ dưới sự chỉ huy của Hugh của Burgundy được tách ra để đi chạy ngược chạy xuôi khắp các hàng quân để đảm bảo rằng họ giữ được tổ chức của thế trận.
Cuộc tấn công đầu tiên của người Saracen diễn ra vào lúc chín giờ sáng. Trong một nỗ lực để phá hủy sự gắn kết của đối phương và làm lung lay quyết tâm của họ, các cuộc tấn công dữ dội đã được kèm theo âm thanh khủng khiếp của tiếng chiêng trống và thanh la, tiếng kèn cùng với tiếng người la hét. Cuốn "Itinerarium Regis Ricardi" có ghi: "Vì vậy, người Thổ Nhĩ Kỳ đông một cách không kể xiết đổ vào quân đội của chúng ta từ mọi phía, từ hướng biển và từ đất liền. Lúc đó khoảng không gian xung quanh không rộng đến , và dường như là không cái gì có thể tồn tại trước những đợt tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ". Nhưng khi đợt tấn công này không có hiệu quả như mong muốn, nó được hướng sang bên cánh trái của quân Thập tự chinh và các Hiệp sĩ Hospitaller phải chịu áp lực lớn nhất. Từng bước từng bước một, các cuộc tấn công kéo sang phần còn lại của đội hình của Richard. Những cuộc tấn công diễn ra theo cùng một kiểu: người Bedouin và Nubia bắn tên và phóng lao vào đội hình của kẻ thù, trước khi cho phép các cung kỵ tiến lên và tấn công theo kiểu phi ngựa vòng quanh, một kỹ thuật được thực hành rất tốt của người châu Á. Các xạ thủ bắn nỏ của quân Thập tự chinh trả lời khi khả năng này là có thể, mặc dù nhiệm vụ chính của các quân Thập tự chinh chỉ đơn giản là để duy trì đội hình của họ khi đối mặt với các hành động khiêu khích. Tại một số vị trí dọc theo đội hình hình cột của Thập tự quân, hai đội quân đã tham gia cận chiến.
Hiệp sĩ Dòng đền phá vỡ hàng ngũ.
Tất cả những nỗ lực tột bậc nhất của Saladin cũng không thể chia chia cắt đội hình hình cột của Thập tự quân hoặc ngăn chặn bước tiến của họ về hướng Arsuf. Richard được xác định là giữ vững các đội quân của mình lại với nhau, buộc đối phương phải lao vào như những con thiêu thân trong những cuộc tấn công lặp đi lặp lại, và rồi ông thấy rằng đây đúng là dịp để tung các hiệp sĩ của mình vào một cuộc tấn công tổng lực tập trung. Tuy nhiên lúc này vẫn tồn tại những rủi ro vì binh sĩ không chỉ hành quân dưới sự khiêu khích nghiêm trọng của đối phương mà họ còn bị nắng nóng và khát. Và tình hình cũng rất là nghiêm trọng vì người Saracens đã giết chết rất nhiều ngựa đến mức một số những hiệp sĩ riêng của Richard bắt đầu tự hỏi xem liệu có thể triển khai một cuộc tấn công vào lúc này.
Vào lúc mà lực lượng tiên phong tiến vào được vào Arsuf vào giữa buổi chiều, các xạ thủ bắn nỏ của Hiệp sĩ Dòng đền ở phía hậu quân đã vừa nạp tên vừa bắn lại vừa đi giật lùi. Chắc chắn rằng chiến đấu theo kiểu này làm cho họ bị mất đội hình và đối phương đã nhanh chóng tận dụng cơ hội này và di chuyển vào khoảng trống đó. Đối với quân Thập tự chinh, trận Arsuf lúc này đã bước vào một giai đoạn quan trọng. Garnier de Nablus yêu cầu Richard cho phép tấn công. Nhưng ông này từ chối và vẫn ra lệnh duy trì vị trí chung. Mệnh lệnh này là quá với sức mà các Hiệp sĩ Dòng đền có thể chịu đựng. Garnier de Nablus rút kiếm tấn công vào người Saracen sau một tiếng hô "Thánh George!" và cuốn theo sau một cách nhanh chóng tất cả các phần còn lại của hiệp sĩ của mình rồi một số người Pháp cũng bị cuốn theo họ.
Phản ứng của Thập tự quân.
Hành động nông nổi của các Hiệp sĩ Dòng đền có thể làm cho toàn bộ chiến thuật của Richard bị phá sản. Nhưng rất may là khi mà Garnier de Nablus bắt đầu cuộc tấn công của mình thì Saladin lại ra lệnh cho cung thủ của mình xuống ngựa để bắn tên được chính xác hơn và họ đã bị choáng bởi cuộc tấn công bất ngờ của các Hiệp sĩ Dòng đền.
Richard biết rằng nếu ông không hỗ trợ cho các Hiệp sĩ Dòng đền, họ sẽ ngay lập tức bị cô lập và tàn sát. Nhưng nếu ông quyết định gửi quá nhiều kỵ binh tăng viện cho họ, có thể ông sẽ làm suy yếu toàn bộ lực lượng còn lại của mình. Muzaffar al-Din Gökböri, một trong những chỉ huy của Saladin đang cố gắng để tập hợp người của mình với ý định là tấn công vào các cung thủ của đối phương. Trước khi ông ta vào được một vị trí để triển khai được cuộc tấn công này, Richard tập hợp lại quân đội của mình và tung ra một đợt tấn công thứ hai bao gồm các hiệp sĩ người Breton và Angevin hướng tới sườn trái của Saladin. Bản thân Richard dẫn đầu một cuộc tấn công thứ ba và cuối cùng bao gồm các hiệp sĩ người Norman và người Anh.
Trong một nỗ lực để khôi phục lại tình hình, Taqi al-Din, cháu trai của Saladin đã điều 700 người là cấm quân của Sultan Saladin để vào sườn trái của Richard. Cảnh giác với sự nguy hiểm vì lúc này lực lượng của ông đã bị trải ra rải rác. Richard cho tập hợp lại lực lượng của mình một lần nữa rồi và rồi tung ra đợt tổng tấn công cuối. Nó đã gây ra nhiều áp lực hơn so với sức ép mà đối phương có thể chịu được; quân của Saladin đã bị vỡ trận và bị truy kích một cách gắt gao trên những ngọn đồi của Arsuf bởi các hiệp sĩ Thập tự chinh. Ngọn cờ của nhà vua đã được cắm trên ngọn đồi của Saladin, trong khi doanh trại của quân Saracen bị cướp phá. Vào lúc này bóng tối đã buông xuống, Richard không cho phép đuổi theo nữa.
Sau trận chiến.
Như thường lệ với những trận đánh thời Trung cổ, rất khó để đánh giá chính xác thiệt hại ở mức nào. Các nhà sử gia Cơ đốc giáo cho rằng bên phía quân Hồi giáo bị thiệt hại khoảng 32 vị tiểu vương và 7.000 binh sĩ nhưng con số thực thì có thể là nhiều hơn hoặc ít hơn. Thiệt hại của Richard là không quá 700 người trong đó có James của Avesnes.
Arsuf là một chiến thắng quan trọng, nhưng không giống như chiến thắng của Saladin ở trận Hattin, trận này không phải là một trận thắng quyết định. Quân đội đối phương đã không bị tiêu diệt, nhưng việc tháo chạy được coi là một sự xấu hổ của người Hồi giáo và nó thúc đẩy nâng cao tinh thần chiến đấu cho quân Thập tự chinh. Sau khi tháo chạy, Saladin đã có thể tập hợp lại và cố gắng để tiếp tục giao tranh nhưng chỉ làm cho quân Thập tự chinh giật mình quay lại và phản ứng chứ ông ta không còn khả năng tổ chức một cuộc tấn công với quy mô hoành tráng. Mùa đông đã bắt đầu có nghĩa là Saladin không thể tiếp tục theoi đuổi. Arsuf đã làm hoen ố danh tiếng của Saladin như là một chiến binh bất khả chiến bại và đã chứng tỏ lòng dũng cảm của Richard trong cương vị một người lính và kỹ năng của ông như là một chỉ huy. Richard đã có thể tấn công và giữ được Jaffa, một động thái quan trọng chiến lược để chiếm lại Jerusalem. Khi lấy đi Jaffa của Saladin, Richard đã đe doạ nghiêm trọng đến Jerusalem, lúc này đang nằm trong tay Saladin bởi vì Jaffa là một hải cảng rất gần thành phố Thánh.
Nguồn sơ cấp.
There are descriptions of the battle in the "Itinerarium Regis Ricardi", the Old French continuation of "William of Tyre" called "Estoire d'Eracles" and, from the Kurdish and Arab side, in Baha al-Din ibn Shaddad's "Rare and Excellent History of Saladin" – also called "Saladin Or What Befell Sultan Yusuf", Abu Shama and Ibn al-Athir. | 1 | null |
Cây Nai (danh pháp khoa học: Oreocnide frutescens) là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được (Thunb.) Miq. mô tả khoa học đầu tiên năm 1867.
Sinh học.
Cây bụi nhỏ, cao từ 1–3 m. Thân cành tròn, lá đơn, mọc cách. Cuống lá hơi tím nâu. Phiến lá hình trái xoan hoặc hơi mũi mác, mặt trên phiến lá có phủ lớp lông thưa đen. Phiến lá dài từ 3–15 cm, rộng từ 1,5 – 6 cm. Hệ gân lông chim có 2-3 cặp gân thứ cấp, cặp gân thứ cấp dưới cùng tạo với gân sơ cấp trông gần như hệ 3 gân gốc. Hoa gần như không cuống, mọc thành cụm từ nách của các lá già đã rụng trước khi ra chồi lá non. Mùa hoa từ tháng 2 đến tháng 4, mùa quả từ tháng 6 đến tháng 10.
Sinh thái và phân bổ.
Loài cây Nai phân bổ sinh thái chủ yếu ở các rừng hỗn giao, trảng cỏ, nương rẫy hoang hóa, ven đường. Đai cao phân bổ từ 300–2500 m. Khu vực địa lý xuất hiện ở các nước Bhutan, Campuchia, Bắc Ấn Độ, Nhật Bản, Lào, Malaysia, Myanmar, Sirilanka, Thái Lan, Việt Nam, Nam Trung Quốc.
Sử dụng.
Vỏ thân cho sợi dai, thường dùng làm thừng bện. Lá được sử dụng làm thảo dược Đông y. | 1 | null |
Tầm ma Đài Loan (danh pháp hai phần: Oreocnide pedunculata) là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được (Shirai) Masam. mô tả khoa học đầu tiên năm 1929.
Mô tả.
Cây bụi thường xanh cao dưới 10 mét, đường kính thân 10-15 cm, vỏ cây màu nâu sẫm, cành và lá non có lông mịn. Lá mọc xen kẽ, phiến lá hình trứng hoặc hình lưỡi mác (dài 5-12 cm, rộng 1.5-4 cm), mép lá có răng cưa cùn và bề mặt lá tương đối nhám. Cuống lá dài 1-3 cm, thường có màu đỏ. Hoa thường nở vào tháng 2 đến tháng 4.
Phân bố.
Cây được tìm thấy chủ yếu ở Đài Loan và đảo Honshu ở Nhật Bản. | 1 | null |
Boehmeria là chi thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Chi này có khoảng 100 loài, là cây bản địa của châu Á và Bắc Mỹ. Các loài trong chi này gồm các loại cây thân thảo lâu năm, cây bụi và cây thân gỗ nhỏ. Tên chi được đặt theo tên nhà thực vật học người Đức, Georg Rudolf Boehmer.
Các loài.
Chi này gồm các loài:
Loài "Boehmeria nivea" rất quan trọng trong sản xuất sợi. Các loài trong chi này có thể là thức ăn của một số ấu trùng trong của Lepidoptera, như loài "Bedellia boehmeriella" ăn rất nhiều "B. grandis". | 1 | null |
Elatostema hay thường gọi tiếng Việt chi cao hùng là chi thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Chi này bao gồm khoảng 350 loài đã được biết đến, trên thực tế có thể lên tới 1.000 loài, phân bổ ở rừng nhiệt đới khắp các khu vực thuộc châu Á, châu Phi, châu Úc. Nhiều loài thuộc "Elatostema" có thể được dùng làm rau hoang dã ăn được hoặc biết đến dùng làm thuốc. Ngày nay được sự hỗ trợ của công nghệ phân tích DNA người ta thấy rằng các chi "Elastostema", "Pellionia", và "Pilea" có quan hệ gần gũi và có thể nhập làm một.
Các loài.
Một số loài trong chi: | 1 | null |
Một hồ miệng núi lửa là một hồ nước hình thành trong một miệng núi lửa hoặc phần hõm chảo núi lửa; ít phổ biến hơn là các hồ nước hình thành do va chạm bởi một thiên thạch, hoặc trong một vụ nổ nhân tạo do con người gây ra. Đôi khi hồ mà hình thành bên hõm chảo được gọi là hồ miệng núi lửa, nhưng sự khác biệt này không phải là lớn. Miệng núi lửa đang hoạt động có hồ miệng núi lửa ("fumarolic") được gọi là hồ núi lửa, và nước trong hồ này thường có tính axit, bão hòa với khí phát ra từ núi lửa, và nước thường có màu xanh nổi bật. Hồ trong ngọn núi lửa không hoạt động hoặc đã tắt có xu hướng là các hồ nước ngọt, và rõ ràng là nước trong các hồ như vậy có thể có màu sắc đặc biệt do thiếu sinh vật, nước và trầm tích.
Nhận dạng.
Hồ miệng núi lửa.
Hồ miệng núi lửa là một dạng như đặc biệt tạo ra trong vành miệng núi lửa, được lấp đầy bởi nước. Các nguồn nước có thể từ những cơn mưa, lưu thông nước ngầm (nước thủy nhiệt, thường trong trường hợp của miệng núi lửa đang hoạt động) hoặc do băng tan chảy từ các đỉnh núi. Mức độ của nó tăng lên cho đến khi trạng thái cân bằng đạt được giữa tốc độ vào và ra của nước. Sự mất hay thoát nước có thể là đơn lẻ hoặc cùng lúc nhiều hướng bao gồm bốc hơi, thấm xuống dưới bề mặt, rò rỉ bề mặt hoặc tràn ra khi mức độ hồ đạt đến điểm cao nhất trên vành của hồ. Tại một vị trí nào đó, phần trên của hồ chứa là đất đá tự nhiên của núi lửa, tiếp tục rò rỉ làm xói mòn, do đó làm giảm độ cao của hồ cho đến khi tạo thành một cân bằng mới của dòng chảy. Nếu phần núi lửa không bị xói mòn nhanh có thể xuất hiện tạo cho hồ nước một biến đổi mới hoặc lũ lụt. Với những thay đổi trong điều kiện môi trường theo thời gian, sự xuất hiện của lũ lụt như vậy là phổ biến cho tất cả các đập tự nhiên này.
Một hồ miệng núi lửa nổi tiếng, mang tên giống như tính năng địa chất của nó là Hồ miệng núi lửa ("Crater Lake") ở Oregon, Hoa Kỳ. Nó nằm trong miệng núi lửa của núi Mazama. Đây là hồ sâu nhất ở Mỹ với độ sâu 594 m (1.949 ft). Hồ chỉ có nguồn cung ứng nước từ mưa và tuyết, không có dòng chảy ngầm hay trên bề mặt nào, và do đó đây là một trong những hồ miệng núi lửa rõ ràng nhất trên thế giới.
Núi lửa cao nhất thế giới, với độ cao 6.893 m (22.615 ft) là ngọn núi lửa Ojos del Salado ở Chile. Ngọn núi là có một hồ miệng núi lửa liên tục có đường kính khoảng 100 mét (300 ft) ở độ cao 6.390 m (20.960 ft) trên phía đông của ngọn núi này. Điều này rất có thể đây là hồ nước cao nhất của bất kỳ hồ nước nào trên thế giới.
Các hồ nước có thể tồn tại liên tục hoặc theo mùa. Ví dụ, Hồ Toba ở Indonesia được hình thành sau vụ phun trào của nó khoảng 70.000 năm trước đây và có diện tích hơn 1.000 km vuông là hồ nước tồn tại lâu dài và cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt của người dân.
Trong khi đó, có nhiều hồ miệng núi lửa đẹp như tranh vẽ nhưng lại cực kỳ nguy hiểm và thể gây chết người. Khí thải ra từ hồ Nyos ở Cameroon đã gây ra cái chết cho 1.800 người vào năm 1986, và hồ miệng núi lửa ở núi Ruapehu của New Zealand thường xuyên gây ra các trận lụt lội và xói mòn.
Một số hồ nước, mặc dù sự hình thành của chúng có liên quan trực tiếp đến hoạt động núi lửa, nhưng lại không được gọi là hồ miệng núi lửa, bao gồm:
Hồ miệng núi lửa đặc biệt.
Hồ cũng có thể được hình thành do va chạm thiên thạch, nhưng đây không thường được gọi là hồ miệng núi lửa, ngoại trừ trong một vài trường hợp cá biệt. Ví dụ về các hồ miệng núi lửa được hình thành do tác động như vậy bao gồm Manicouagan ở Canada, Hồ Bosumtwi ở Ghana và Siljan ở Thụy Điển.
Cũng có cả các hồ miệng núi lửa tạo ra bởi vụ nổ nhân tạo, chẳng hạn như hồ phóng xạ Hồ Chagan ở Kazakhstan.
Đặc điểm khác gây nhầm lẫn với hồ miệng núi lửa.
Một số tính năng địa chất khi chứa đầy nước đôi khi có thể bị nhầm lẫn với hồ miệng núi lửa như:
Một số mỏ lộ thiên tròn chẳng hạn như Big Hole ở Kimberley, Nam Phi, đây là một mỏ kim cương tích tụ nước trong một khu vực hố nhân tạo. | 1 | null |
Poikilospermum là chi thực vật có hoa trong họ Tầm ma.
Chi này chứa các loài cây bụi hay dây leo thân gỗ cao, chứa 4 loài được chấp nhận và khoảng 37 danh pháp loài với tình trạng phân loại chưa được dung giải. Các loài tong chi này được tìm thấy trong khu vực cận nhiệt đới - nhiệt đới, từ đông bắc Ấn Độ và miền nam Trung Quốc (Vân Nam), khu vực Himalaya tới Malesia và New Guinea (gồm cả quần đảo Bismarck).
Tên gọi một số loài trong tiếng Trung là 锥头麻 ("trùy đầu ma"), và tiếng Khmer "krâpë rô".
Phân loại.
Phân loại của chi này trong quá khứ đã thường xuyên thay đổi và gắn với địa vị của họ Cecropiaceae. Hiện tại người ta đặt nó trong họ Urticaceae. Một nghiên cứu phát sinh chủng loài gần đây đặt nó trong nhánh với "Urtica", mặc dù 2 nghiên cứu hơi cũ hơn đặt nó trong nhánh chị em với Cecropieae (họ Cecropiaceae "sensu stricto") và Urticaeae (Urticaceae "s. antiq."). Nghiên cứu không phát sinh chủng loài cũ hơn đặt nó trong họ Cecropiaceae, một họ được coilà trung gian giữa Urticeae và Moraceae
Lịch sử phân loại.
Alexander Zippelius (1797-1828) là tác giả đặt tên chi này, được công bố trong "Annales Musei Botanici Lugduno-Batavi" (Amsterdam), 1: 203, năm 1864 của Friedrich Anton Wilhelm Miquel (1811-1871). Năm 1978, Berg đặt nó trong họ Cecropiaceae. Các bài báo gần đây như của Datwyler & Weiblen (2004), Zerega "et al." (2005), Hadiah "et al." (2008) đặt chi này trong họ Urticaceae.
Các loài.
Bốn loài được chấp nhận là:
Tác giả Phạm Hoàng Hộ tại mục từ 6322 trang 582 quyển II sách Cây cỏ Việt Nam còn ghi nhận loài "Poikilospermum annamensis" với tên gọi rum Trung Bộ. Tuy nhiên, tra cứu trên IPNI thì chỉ có danh pháp "Poikilospermum annamense" với ghi chú "Conocephalus annamensis" . The Plant List coi "P. annamense" có tình trạng phân loại là chưa dung giải, nhưng gợi ý rằng một số dữ liệu cho thấy nó là đồng nghĩa với "C. annamensis". | 1 | null |
Hổ nhĩ trắng hay còn gọi mao đài trổ (danh pháp khoa học: Pilea cadierei) là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được Gagnep. & Guillaumin miêu tả khoa học đầu tiên năm 1938.
Là loài bản địa Trung Quốc và Việt Nam. Đây là một cây lâu năm mọc cao đến 30 cm rộng 21 cm, với lá hình bầu dục màu xanh đậm, mỗi lá có bốn vệt bạc mọc lên (vì thế có tên là "cây nhôm"). Với nhiệt độ yêu cầu tối thiểu 15 °C, loài cây này được trồng như một cây trong nhà ở vùng ôn đới. Nó đã đạt được giải thưởng Award of Garden Merit. của Hội làm vườn Hoàng gia.
Danh pháp khoa học chi tiết "cadierei" để vinh danh nhà thực vật học thế kỷ 20 R.P. Cadière. | 1 | null |
Pipturus arborescens là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được (Link) C.B. Rob. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1911.
Loài này có ở Borneo, quần đảo Lưu Cầu, Philippines và Đài Loan.
Công dụng.
Loài cây này có đặc tính kháng khuẩn và chống tăng sinh. | 1 | null |
Hans Georg Hermann von Plessen (26 tháng 11 năm 1841 – 28 tháng 1 năm 1929) là một Thượng tướng Phổ và là Kinh nhật giáo sĩ vùng Brandenburg đã giữ cấp bậc danh dự Thống chế trên cương vị là Chỉ huy trưởng Đại Bản doanh của Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông đã từng tham chiến trong ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức.
Tiểu sử.
Tướng von Plessen sinh ra trong một gia đình quý tộc Mecklenburg-Holstein; thân phụ của ông, Hermann đã phục vụ quân đội Phổ và được phong đến cấp bậc Trung tướng. Cả ông nội và cụ nội của ông cũng đều là sĩ quan quân đội Phổ. Vào tháng 1 năm 1874, Hans von Plessen đã kết hôn với bà Elisabeth von Langenbeck, con gái của giáo sư đại học và sĩ quan quân y danh tiếng Bernhard von Langenbeck. Cặp đôi này có hai người con; cả hai đều tham chiến trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất – một trong số họ là phi công quân sự và đã thiệt mạng.
Ông đã từng tham gia cuộc chiến tranh chống Đan Mạch vào năm 1864, phục vụ với quân hàm thiếu úy trong tiểu đoàn Ersatz của Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ số 4. Để ghi nhận lòng dũng cảm của ông trong cuộc chiến này, Quốc vương Wilhelm I của Phổ đã đích thân trao tặng ông một thanh gươm. Ngoài ra, ông cũng tham chiến tại Königgrätz và Alt Rognitz trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Tiếp theo đó, ông tham gia cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) với chức vụ sĩ quan phụ tá cấp lữ đoàn, tham chiến tại Orléans và Le Mans.
Vào ngày 18 tháng 9 năm 1908, ông được phong quân hàm Thượng tướng, với cấp bậc danh dự Thống chế. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Von Plessen, 72 tuổi, được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Đại bản doanh của Đức. Ngoài ra, ông cũng giữ chức vụ "Tướng phụ tá thường nhật của Bệ hạ" () cho Đức hoàng Wilhelm II, do đó ông trở thành một trong những cộng sự thân cận nhất của Hoàng đế. Vào năm 1918, ông là sĩ quan cao tuổi nhất phục vụ trong quân đội Đế quốc Đức, mặc dù Paul von Hindenburg – vị Thống chế nhỏ hơn ông 6 tuổi – đã tự nhận mình là viên sĩ quan cao tuổi nhất của Đức. Vào năm 1918, von Plessen được tặng thưởng Huân chương Quân công, phần thưởng quân sự cao quý nhất của Đức. Mặc dù tướng von Plessen được biết đến như một người rất băn khoăn về cuộc chiến, nhất là với Anh, ông vẫn trung kiên với Đức hoàng cho đến chế độ quân chủ sụp đổ vào tháng 11 năm 1918.
Phong tặng.
Plessen là một trong những sĩ quan được tặng thưởng nhiều nhất, với tổng cộng là 88 huân chương trong và ngoài nước, trong đó có 51 đại thập tự. | 1 | null |
Dấu chân sinh thái (thuật ngữ tiếng Anh: "ecological footprint") là một thuật ngữ mới được sử dụng vào những năm 1990 bởi các nhà khoa học thuộc trường Đại học British Columbia là William E.Rees và Mathis Wackernagel. Theo đó, dấu chân sinh thái là một thước đo nhu cầu về các diện tích đất, nước có khả năng cho năng suất sinh học cần thiết để cung cấp thực phẩm, gỗ cho con người, bề mặt xây dựng cơ sở hạ tầng, diện tích hấp thụ cacbon dioxide, khả năng chứa đựng và đồng hóa chất thải.
Loài người đang khai thác tài nguyên thiên nhiên vốn có để phục vụ cho lợi ích của mình. Theo các nhà khoa học, Trái Đất có khả năng tái tạo lại những gì con người đã khai thác. Điều này là hoàn toàn đúng đắn vì những gì con người đang khai thác cũng là những gì Trái Đất đã tạo ra. Tuy nhiên, khả năng tái tạo của Trái Đất là có hạn, nếu con người khai thác tài nguyên vượt quá khả năng tái tạo của Trái Đất thì Trái Đất sẽ rơi vào trình trạng quá tải, nghĩa là không thể tái tạo đủ những gì con người khai thác.
Người ta đưa ra đơn vị Gha tương ứng với một Ha đất tiêu chuẩn. Theo đó thì một Gha hay một Ha đất tiêu chuẩn này sẽ có khả năng cung ứng một lượng vật chất tự nhiên cho con người. Nếu con người càng khai thác quá đà thì lượng Gha sẽ càng giảm. Hầu như các nước đều sử dụng quá dấu chân sinh thái của đất nước mình. | 1 | null |
Martin Wilhelm Remus von Woyrsch (4 tháng 2 năm 1847 – 6 tháng 8 năm 1920) là một Thống chế của Phổ đã từng tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, Chiến tranh Pháp-Đức và Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngoài ra, ông là một thành viên của Viện Quý tộc Phổ kế từ năm 1908 cho đến năm 1918, và là một "Ehrenkommendator" hay Chỉ huy Danh dự của Huân chương Thánh Johann.
Gia đình.
Remus von Woyrsch sinh ra tại điền trang Pilsnitz (Pilczyce, ngày nay là một phần thuộc Fabryczna) gần Breslau (Wrocław) ở tỉnh Schlesien của Phổ. Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc nhỏ và cổ xưa, có nguồn gốc ban đầu từ vùng Nam Čechy rồi sau đó là từ Troppau (Opava) ở Silesia thuộc Morava vào khoảng năm 1500. Ông là con trai của Karl Wilhelm von Woyrsch và Cäcilie von Websky. Ông đã thành hôn với Thekla von Massow (1854 – 1943) người Đông Phổ, vào ngày 26 tháng 9 năm 1873 tại Potsdam, Brandenburg. Bà là con gái của viên kiểm lâm vương quốc Phổ Hermann von Massow.
Ông sinh trưởng tại Người cháu trai của ông là Udo von Woyrsch (1895 – 1983) là một Đội trưởng cấp cao ("Obergruppenführer") SS và Chỉ huy SS và Cảnh sát.
Sự nghiệp.
Sau khi Woyrsch học xong trung học tại Breslau, ông đã được tuyển vào Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ số 1 Potsdam vào ngày 5 tháng 4 năm 1866. Chỉ 8 tuần sau khi nhập ngũ, người thiếu niên Woyrsch phải tham gia cuộc Chiến tranh Áo-Phổ. Với tư cách là Ứng viên Hạ sĩ quan trong trung đoàn Cận vệ của mình, ông được ghi nhận là người đã cứu mạng cho Vương thân Anton von Hohenzollern, người đã bị thương nặng trên chiến trường Königgrätz. Trong khi ông đang săn sóc cho vương thân, cả hai đều bị quân Áo bắt giữ. Do vương thân đã dặn Woyrsch đừng kháng cự, một cuộc đổ máu vô nghĩa đã không xảy ra. Một bức tranh khắc bằng đồng ở Tượng đài Chiến thắng Berlin ("Siegesäule") đã tái hiện lại biến cố này.
Tiếp theo đó, ông tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), và cũng giống như người đồng hương của mình là vị tư lệnh tập đoàn quân tương lai Friedrich von Scholtz, ông bị thương trong trận Gravelotte tàn khốc. Vì những cống hiến của mình trong cuộc chiến tranh, ông đã được trao tặng Huân chương Thập tự Sắt và lãnh chức chỉ huy một lữ đoàn trong Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ số Potsdam. Trong thời gian hòa bình, ông đã hướng dẫn cho Vương tử Wilhelm, tức Hoàng đế Wilhelm II tương lai, về tác chiến. Vào năm 1901, Woyrsch được phong cấp tư lệnh sư đoàn. Sau khi trở thành tư lệnh cấp quân đoàn, ông giải ngũ vào năm 1911, nhưng vào tháng 8 năm 1914, ông được triệu hồi và nhậm chức Tư lệnh của Quân đoàn Dân binh. Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông nhanh chóng được phái đến hỗ trợ cho quân đội Áo-Hung chiến đấu ở Ba Lan bị chia cắt trên Mặt trận phía Đông. Ông kéo quân tới sông Wisla, và sau đó tăng viện cho cánh trái của tập đoàn quân Áo-Hung dưới quyền tướng Viktor Dankl von Krasnik. Trong trận đánh ba ngày với quân đội Đế quốc Nga, ông đã yểm trợ cuộc triệt thoái của quân Áo bằng Quân đoàn Dân binh ("Landwehrkanal") của mình. Một tờ báo Sankt-Peterburg đã ghi nhận:
Về sau này, ông đã được đưa vào biên chế của Tập đoàn quân số 9 dưới sự chỉ huy của tướng Paul von Hindenburg. Vào tháng 7 năm 1915, Woyrsch đã tham gia trong trận đột phá Sienno gần Wongrowitz (Wągrowiec). Vào năm 1916, ông đóng một vai trò trong việc chặn đứng Chiến dịch tấn công Brusilov của Nga và thành công này đã góp phần khiến ông được thăng quân hàm Thống chế vào năm 1917.
Vào năm 1920, Woyrsch một lần nữa nghỉ hưu, ông về điền trang của mình tại lâu đài Pilsnitz gần Breslau. Sau khi ông từ trần vào ngày 6 tháng 8 năm 1920, nhà điêu khắc nổi tiếng người Schlesien Paul Ondrusch đã tạc một bức tượng gỗ Woyrsch để trang hoàng cho đại sảnh bên trong trụ sở thị trấn Leobschütz (Głubczyce). Bức tượng mô tả Woyrsch như một hiệp sĩ mặc binh giáp và một chiếc áo choàng, hai tay cầm chuôi của một thanh kiếm lớn chống xuống đất. | 1 | null |
Cầu Hồ là một cây cầu đường bộ bắc qua sông Đuống nằm trên quốc lộ 38 nối phường Hồ, thị xã Thuận Thành với xã Tân Chi, huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Cầu khánh thành năm 2000. Cầu nằm trên quốc lộ 38 bắc qua sông Đuống, nối khu vực phía bắc và phía nam tỉnh Bắc Ninh. Với chiều dài hơn 600 m rộng 11 m, cầu Hồ đã thay thế bến phà Hồ sau 36 năm phà này tồn tại. | 1 | null |
Friedrich Viktor Gustav Graf von Brandenburg (30 tháng 3 năm 1819 tại Potsdam – 3 tháng 8 năm 1892 tại Domanze) là một tướng lĩnh và nhà ngoại giao của Phổ, từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức năm 1870 – 1871. Sự nghiệp của ông có nhiều nét tương đồng với người anh song sinh của mình là Wilhelm von Brandenburg, cũng là một tướng lĩnh và nhà ngoại giao Phổ.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Các cấp bậc
Friedrich là con trai của Thủ tướng Vương quốc Phổ Friedrich Wilhelm Graf von Brandenburg và là anh em sinh đôi của Wilhelm, người cũng theo đuổi sự nghiệp quân sự và trở thành tướng lĩnh.
Vào năm 1836, ông gia nhập Trung đoàn Cấm vệ quân và hoạt động trong trung đoàn này trong suốt 30 năm sau đó. Kể từ năm 1851, ông lãnh chức chỉ huy đại đội và trong cuộc tổng động viên quân đội năm 1859, ông được nhậm chức Tư lệnh cấp Trung đoàn. Từ năm 1861, bên cạnh chức vụ này, ông còn là sĩ quan hầu cận ("Flügeladjudant") của Đức vua. Trên cương vị là tư lệnh cấp trung đoàn, ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Ông chỉ tham gia chiến đấu trong trận Königgrätz – trận đánh quyết định của cuộc chiến vào ngày 3 tháng 7, và đã kéo quân đến Clum ngay kịp lúc để góp phần bẻ gãy cuộc phản công lớn cuối cùng của các lực lượng trừ bị Áo. Vì đóng góp của ông trong cuộc chiến tranh, ông được trao tặng Huân chương Vương miện. Sau khi cuộc chiến chấm dứt, ông được phong cấp Tư lệnh của Lữ đoàn Kỵ binh Cận vệ số 1 và được thăng quân hàm Thiếu tướng, đồng thời là "Tướng của Đức vua".
Sau đó, ông tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Vào năm 1872, ông được thăng cấp Trung tướng, vào năm 1873 ông là "Tướng phụ tá của Hoàng đế và Quốc vương", rồi vào năm 1880 ông lên cấp bậc Thượng tướng Kỵ binh. Vào năm 1884, ông giải ngũ nhưng đồng thời vẫn tại chức Tướng phụ tá. Vào năm 1888, với cấp bậc "Wirklicher Geheimer Rat", ông là công sứ của Phổ ở Brussel và Lisbon. Ông chỉ mất 4 tháng sau người anh sinh đôi của mình.
Phong tặng.
Friedrich von Brandenburg đã được một số nước châu Âu tặng thưởng những huân chương như: | 1 | null |
Wilhelm Graf von Brandenburg (30 tháng 3 năm 1819 tại Potsdam – 21 tháng 3 năm 1892 tại Berlin) là một tướng lĩnh và nhà ngoại giao của Phổ, từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức năm 1870 – 1871. Sự nghiệp của ông có nhiều nét tương đồng với người em song sinh của mình Friedrich von Brandenburg, cũng là một tướng lĩnh và nhà ngoại giao Phổ.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Các cấp bậc
Wilhelm là con trai của Thủ tướng Vương quốc Phổ Friedrich Wilhelm Graf von Brandenburg và là anh song sinh của Friedrich von Brandenburg, người cũng theo đuổi sự nghiệp quân sự và trở thành một vị tướng.
Vào năm 1836, ông nhập ngũ trong Trung đoàn Thiết kỵ binh Cận vệ. Sau năm 1854, ông là chỉ huy trưởng một đội kỵ binh và trong cuộc tổng động viên quân đội vào năm 1859, ông được giao quyền chỉ huy ("Führung") Trung đoàn Thương kỵ binh Cận vệ số 2. Ông tiếp tục giữ cương vị này cho đến năm 1861, khi ông chính thức được bổ nhiệm làm Tư lệnh Trung đoàn đồng thời là sĩ quan hầu cận ("Flügeladjudant") của Đức vua. Ông đã thống lĩnh trung đoàn của minh tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Trong cuộc chiến tranh này, ông chỉ tham gia chiến đấu ở trận Königgrätz, trận đánh quyết định của cuộc chiến. Do đóng góp của ông trong chiến tranh, ông đã được tặng thưởng Huân chương Vương miện hạng hai với Bảo kiếm. Sau khi chiến tranh chấm dứt, ông được phong cấp Tư lệnh của Lữ đoàn Kỵ binh số 5 và kể từ năm 1868 ông là Thiếu tướng đồng thời là "Tướng của Đức vua".
Tiếp theo đó, ông đã tham gia trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Ông lên quân hàm Trung tướng vào năm 1872, vào năm 1873 ông trở thành "Tướng phụ tá của Hoàng đế và Quốc vương", rồi vào năm 1880 ông được thăng cấp Thượng tướng kỵ binh. Vào năm 1884, ông giải ngũ nhưng đồng thời vẫn tại chức Tướng phụ tá. Vào năm 1888, với cấp bậc "Wirklicher Geheimer Rat", ông là công sứ của Phổ tại Brussel và Lisboa. Ông mất khoảng 4 tháng sau người anh sinh đôi của mình.
Phong tặng.
Wilhelm von Brandenburg đã được một số nước châu Âu tặng thưởng những huân chương như: | 1 | null |
Sàn giao dịch hay sàn là một thị trường (cái chợ) được tổ chức cho việc trao đổi hàng hóa, chủ yếu là giữa các mã chứng khoán, hàng hóa, ngoại hối, tiền mã hóa, hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn.
Sàn.
Tên "sàn" có nguồn gốc từ thế kỷ 13, nhà trọ tên là" Ter Beurze" tại Bruges, Bỉ, nơi các thương nhân và nhà buôn nước ngoài từ khắp châu Âu tiến hành trao đổi trong những năm cuối thời kỳ trung cổ. Tòa nhà này, được thành lập bởi Robert van der Buerze như một ký túc xá, đã hoạt động từ năm 1285. Các nhà quản lý của nó đã trở thành nổi tiếng với cung cấp tư vấn tài chính đúng đắn cho các thương nhân và các thương gia thường xuyên lui tới tòa nhà. Dịch vụ này được gọi là "Purse Beurze" đó là cơ sở của từ "sàn", có nghĩa là một nơi được tổ chức để giao dịch. Cuối cùng tòa nhà này đã trở thành một nơi chỉ để trao đổi các hàng hoá.
Trong thế kỷ 18, mặt tiền của "Ter Beurze" được xây dựng lại với một mặt tiền rộng các cột. Tuy nhiên, vào năm 1947 nó đã được khôi phục diện mạo thời trung cổ ban đầu của nó.
Mô tả.
Các sàn giao dịch mang các nhà môi giới và các đại lý là những người mua và bán các đối tượng này lại cùng nhau. Những công cụ tài chính phong phú này thường có thể được bán thông qua sàn giao dịch này, đặc biệt với lợi ích của một trung tâm thanh toán để trang trải các rủi ro tín dụng, hoặc trao đổi ngang tắt (OTC), nơi thường có ít sự bảo vệ chống lại rủi ro đối tác hơn so với từ các trung tâm thanh toán.
Các sàn giao dịch có thể được phân ra thành:
Trong thực tế, các sàn giao dịch hợp đồng tương lai thường là các sàn giao dịch hàng hoá, tức là tất cả các phái sinh, bao gồm các phái sinh tài chính, thường được giao dịch tại các sàn giao dịch hàng hóa. Điều này có lý do lịch sử: các sàn giao dịch đầu tiên là các sàn giao dịch cổ phiếu. Trong thế kỷ 19, các sàn giao dịch được mở để trao đổi các hợp đồng chuyển tiếp trên hàng hóa. Các hợp đồng kỳ hạn được trao đổi qua sàn được gọi là các hợp đồng tương lai. Những "sàn giao dịch hàng hóa" này sau đó bắt đầu cung cấp các hợp đồng tương lai trên các sản phẩm khác, chẳng hạn như lãi suất và cổ phần, cũng như các hợp đồng quyền chọn. Hiện nay chúng được gọi là các sàn giao dịch hợp đồng tương lai ngoại tệ.
Xem để biết thêm chi tiết: | 1 | null |
Lý Nho (chữ Hán: 李儒, còn viết là Lý Nhu), tự Văn Ưu (文優), không rõ năm sinh năm mất, là một nhân vật lịch sử cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Ghi chép lịch sử.
Các tài liệu lịch sử không ghi chép rõ ràng xuất thân của Lý Nho, chỉ biết ông có lẽ là người quận Phùng Dực, huyện Cáp Dương. Khi Đổng Trác nắm quyền triều chính, ông được bổ nhiệm làm Lang trung lệnh. Sau khi Đổng Trác bị giết, ông đi theo làm thuộc hạ của Lý Thôi.
Theo Hậu Hán thư và Tư trị thông giám ghi chép lại thì vào năm 190, niên hiệu Sơ Bình năm đầu thời Hán Hiến Đế, Lý Nho bấy giờ là Lang trung lệnh, theo lệnh Đổng Trác phái đi bức tử Hoằng Nông vương (tức Hán Thiếu đế vừa bị giáng).
Sách Hậu Hán kỷ chép:
Theo Tam Quốc diễn nghĩa.
Trong tác phẩm "Tam quốc diễn nghĩa" nổi tiếng của La Quán Trung, Lý Nho là mưu sĩ phục vụ dưới quyền Đổng Trác, và cũng là con rể của ông ta. Ông là người cố vấn cho Đổng Trác mọi vấn đề lớn nhỏ, được Trác xem như tay chân thân tín của mình. Lý Nho cũng là người được Đổng Trác sai mang rượu độc đến để bức tử Hán Thiếu Đế và Hà thái hậu sau khi phế truất họ trước đó không lâu, giống như những gì sử sách chép lại. Sau khi đánh liên minh chư hầu thất bại, chính ông đã đề xuất ý kiến với Đổng Trác là nên dời đô từ Lạc Dương tới Trường An.
Sau này, do trúng mỹ nhân kế của tư đồ Vương Doãn, mối quan hệ giữa hai cha con Đổng Trác và Lã Bố xấu đi đáng kể. Lúc đó, Lý Nho đã khuyên Đổng Trác nên gả Điêu Thuyền cho Lã Bố để làm hòa nhưng Đổng Trác không nghe theo. Vương Doãn tận dụng thời cơ đó, bày mưu với Lã Bố để cùng giết Trác. Cuối cùng Đổng Trác bị Vương Doãn và Lã Bố dụ vào thành Trường An giết chết, và Lý Nho cũng bị người nhà trói mang tới nộp. Vương Doãn sai tả hữu mang ông ra chợ chém đầu.
Lý Nho được La Quán Trung miêu tả là một mưu sĩ có tài và trung thành nhưng lại bị mang tiếng là theo nhầm minh chủ vì Đổng Trác là kẻ tàn bạo, nên cũng bị thiên hạ oán ghét. Những hành động tàn ngược của Đổng Trác đều được ông hưởng ứng, giúp đỡ. Khác với sử sách ghi chép, La Quán Trung kể rằng Lý Nho mất vào năm 192, nên ông không phục vụ dưới quyền Lý Thôi và Quách Dĩ như trong thực tế. Ông xuất hiện ở hồi 2 khi Đổng Trác được lệnh của Hà Tiến để đem quân vào kinh trừ khử hoạn quan cho đến hồi 9 khi cả Đổng Trác và ông đều bị giết ở Trường An. | 1 | null |
iPhone 3G là dòng điện thoại thông minh được thiết kế và ra mắt bởi Apple Inc. Đây là chiếc điện thoại thông minh thế hệ thứ hai của iPhone, kế thừa từ chiếc iPhone đời đầu (iPhone 2G). iPhone 3G được ra mắt vào ngày 9 tháng 6 năm 2008 tại WWDC 2008 ở Trung tâm Moscone, San Francisco, Hoa Kỳ.
Phiên bản iPhone 3G có linh kiện bên trong tương tự như phiên bản iPhone đời đầu, nhưng đi kèm một số phần cứng mới, chẳng hạn như hỗ trợ GPS, dữ liệu di động 3G và UMTS / HSDPA. Thiết bị này được chạy hệ điều hành iPhone OS 2.0 (bao gồm các tính năng như Push email và Dẫn đường chi tiết). Hệ điều hành mới này đã giới thiệu App Store - nền tảng phân phối ứng dụng bên thứ ba mới của Apple.
Lịch sử.
Ngày 11 tháng 7 năm 2008, Apple chính thức phân phối iPhone 3G ở 22 quốc gia với hai phiên bản bộ nhớ 8GB và 16GB. Phiên bản 16GB có hai màu đen hoặc trắng. Nó được bán với giá khuyến nghị là 199 USD cho phiên bản 16GB và 99 USD cho phiên bản 8GB.
Sau khi Apple ra mắt iPhone 3GS một năm sau đó, iPhone 3G vẫn được bán nhưng đã trở thành điện thoại giá rẻ của Apple, với mức giá giảm một nửa so với ban đầu. iPhone 3G giá 99 Đô la Mỹ kèm theo bảo hành 2 năm lúc đó chỉ có màu đen và có bộ nhớ 8GB, đi kèm với cập nhật phần mềm iPhone OS 3.0. Ngày 07 tháng 6 năm 2010, iPhone 3G cuối cùng đã ngưng bán, và được thay thế bằng iPhone 3GS 8GB, với mức giá được bán là 99 USD kèm theo bảo hành 2 năm.
Vào năm 2008, Import Genius, nhà cung cấp thông tin kinh doanh cho ngành xuất nhập khẩu, đã sử dụng dữ liệu thông quan điện tử do Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ xuất bản theo Đạo luật Tự do Thông tin, để phát hiện sự xuất hiện của iPhone 3G trước đó, đến thông báo của Apple.
Phần mềm.
iPhone 3G đã được cài đặt sẵn phiên bản mới nhất của hệ điều hành iPhone OS và liên tục nhận các bản cập nhật phần mềm trong 2 năm. Tuy nhiên, dòng điện thoại được tiếp cận với tính năng trong các bản cập nhật phần mềm mới với tỷ lệ giảm dần của các tính năng mới do những phần cứng của nó đã bị thay thế bằng phần cứng mới hơn trong những chiếc iPhone phiên bản sau.
Lúc ra mắt vào tháng 7 năm 2008, iPhone 3G đã cài đặt sẵn với hệ điều hành iPhone OS 2.0. Hệ điều hành này giới thiệu App Store, hỗ trợ Microsoft Exchange ActiveSync, dịch vụ MobileMe của Apple, và Push email cùng với các tính năng mới và sửa lỗi.
Vào tháng 6 năm 2009, người dùng iPhone 3G nhận được bản cập nhật hệ điều hành iPhone OS 3.0, trong đó giới thiệu tính năng đã được chờ đợi là MMS, sao chép và dán, hỗ trợ màn hình ngang cho nhiều ứng dụng, âm thanh stereo Bluetooth, và các cải tiến khác.
Vào tháng 6 năm 2010, Apple ra mắt bản cập nhật hệ điều hành iOS 4.0, tuy nhiên iPhone 3G không hỗ trợ những tính năng nổi bật của iOS 4.0 như đa nhiệm, khả năng đặt hình nền cho màn hình chính, hay hỗ trợ bàn phím Bluetooth. Tuy nhiên nó cung cấp tính năng truy cập vào hộp thư thống nhất, thư mục màn hình chính để quản lí ứng dụng tốt hơn, tạo playlist, và các cải tiến khác. Bản cập nhật này bị chỉ trích rộng rãi vì hiệu năng kém trên iPhone 3G, cho đến tháng 9 năm 2010, iOS 4.1 ra mắt mới giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, không như nhiều thiết bị iOS khác, bản cập nhật này lại không cung cấp cho người sở hữu iPhone 3G truy cập vào các tính năng cần thiết, ví dụ như ứng dụng Game Center.
Năm 2008, Import Genius, nhà cung cấp thông tin kinh doanh cho ngành xuất nhập khẩu, đã sử dụng dữ liệu thông quan điện tử do Cục Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ xuất bản theo Đạo luật Tự do Thông tin, để phát hiện sự xuất hiện của iPhone 3G trước thông báo của Apple.
Hệ điều hành.
IPhone 3G được cài đặt sẵn phiên bản iOS mới nhất và tiếp tục nhận được các bản cập nhật cho phần mềm của nó trong hơn hai năm, với các nhiều lần lặp lại được phát hành hàng năm. Tuy nhiên, điện thoại có tỷ lệ các tính năng mới giảm dần sau mỗi bản cập nhật do phần cứng của nó bị thay thế bởi các mẫu sau này.
Khi ra mắt, iPhone 3G đã được cài đặt sẵn iPhone OS 2.0. Điều này đã giới thiệu App Store, hỗ trợ Microsoft Exchange ActiveSync, dịch vụ MobileMe của Apple và hỗ trợ email đẩy, cùng với các tính năng mới khác và các bản sửa lỗi.
Vào tháng 6 năm 2009, người dùng iPhone 3G đã nhận được bản cập nhật phần mềm iPhone OS 3.0. Bản cập nhật này đã giới thiệu tính năng MMS được chờ đợi từ lâu, nó có thêm công cụ sao chép và dán, hỗ trợ ngang cho nhiều ứng dụng hơn, Bluetooth hỗ trợ âm thanh nổi và các cải tiến khác.
Tháng 6 năm 2010, Apple phát hành bản cập nhật phần mềm iOS 4.0. Khác với các mẫu kế nhiệm, iPhone 3G không hỗ trợ các tính năng nổi bật của iOS 4.0 như đa nhiệm, khả năng đặt hình nền màn hình chính hay hỗ trợ bàn phím Bluetooth. Tuy nhiên, nó cung cấp quyền truy cập vào tính năng hộp thư hợp nhất, thư mục trên màn hình chính để sắp xếp ứng dụng tốt hơn, tạo danh sách phát và các cải tiến khác. Bản cập nhật này đã bị chỉ trích nhiều vì hiệu suất chậm trên iPhone 3G, mặc dù bản phát hành iOS 4.1 vào tháng 9 năm 2010 đã giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, không giống như các thiết bị iOS hiện đại hơn, bản cập nhật này lại không cung cấp cho chủ sở hữu iPhone 3G quyền truy cập vào các tính năng quan trọng, trong trường hợp này, Ứng dụng Game Center.
Vào ngày 22 tháng 11 năm 2010, iPhone 3G đã nhận được bản cập nhật phần mềm iOS 4.2 (như iOS 4.2.1), giới thiệu các tính năng như bỏ phiếu trên YouTube và sửa lỗi bảo mật. Tuy nhiên, iPhone 3G không thể sử dụng nhiều tính năng có trong bản cập nhật này, chẳng hạn như AirPlay và Tìm kiếm văn bản trên Safari. Đây là phiên bản iOS cuối cùng hỗ trợ kiểu iPhone này; iOS 4.3 trở lên không tương thích với mẫu iPhone này do các hạn chế về phần cứng và vấn đề về hiệu suất.
Hầu hết tất cả các ứng dụng được phát hành (sau khi phát hành iOS 6 vào cuối tháng 9 năm 2012) đều không chạy trên iPhone 3G, do bộ phát triển phần mềm (SDK) đã được thay đổi và không còn cho phép "nhắm mục tiêu" (tối thiểu) các phiên bản iOS cũ hơn 4.3 ( bao gồm 3.x và tối đa 4.2.1) hoặc thiết bị ARMv6 (hai thế hệ đầu).
Phần cứng.
Thiết kế.
Mặt sau của iPhone 3G có lớp vỏ bằng nhựa polycarbonate được thiết kế lại, thay thế cho mặt sau bằng nhôm của thế hệ đầu tiên. Các nút bấm đã được thay đổi từ nhựa sang kim loại và các cạnh của điện thoại được làm thon gọn, mang lại cảm giác cầm nắm tốt hơn. iPhone 3G đã giới thiệu các tùy chọn màu sắc chính thức đầu tiên cho lớp vỏ bên ngoài, với phiên bản 16GB có sẵn màu đen và trắng.
Kích thước của iPhone 3G lớn hơn một chút so với kích thước của iPhone ban đầu. Nó cao , rộng và sâu , so với phiên bản tiền nhiệm của nó, là cao và sâu .
IPhone 3G có màn hình cảm ứng điện dung với độ phân giải 480×320 (HVGA) ở 163 ppi. Kính chống xước nằm trên màn hình. Cũng giống như iPhone nguyên bản, màn hình cảm ứng được thiết kế cho một ngón tay trần hoặc nhiều ngón tay để cảm ứng đa chạm.
Thiết bị này có các cảm biến giống như người tiền nhiệm của nó. Cảm biến tiệm cận (tắt màn hình trong khi gọi khi khuôn mặt ở gần) đã được thay đổi vị trí để tiết kiệm pin và ngăn các đầu vào không chủ ý từ mặt và tai của người dùng. Một cảm biến ánh sáng xung quanh đã được đưa vào để điều chỉnh độ sáng màn hình cho các điều kiện ánh sáng khác nhau, giúp tiết kiệm pin. Gia tốc 3 trục được bao gồm để cảm nhận hướng của điện thoại và thay đổi màn hình cho phù hợp, cho phép người dùng dễ dàng chuyển đổi giữa chế độ dọc và ngang.
Vi xử lý và bộ nhớ.
Hầu hết phần cứng bên trong của iPhone 3G đều dựa trên iPhone gốc. Nó bao gồm một bộ xử lý Samsung 32-bit RISC ARM11 620 MHz (được ép xung xuống 412 MHz), một bộ xử lý đồ hoạ PowerVR MBX Lite 3D và 128 MB của gói trên gói (PoP) DRAM, như iPhone ban đầu.
Camera sau.
Ở mặt sau của thiết bị, iPhone 3G có cùng một máy ảnh 2.0 megapixel lấy nét cố định giống như người tiền nhiệm của nó. Máy ảnh này không có zoom quang học, đèn flash, tự động lấy nét hoặc quay video gốc, mặc dù đã có nhiều ứng dụng khác nhau để cho phép quay video trên thiết bị. Hệ điều hành của iPhone 3G hỗ trợ gắn thẻ địa lý cho các bức ảnh.
Khả năng kết nối.
Ngoài EDGE, iPhone 3G hỗ trợ dữ liệu GPS , 3G và ba băng tần UMTS/HSDPA . Những cải tiến này cho phép tải xuống dữ liệu nhanh hơn và dẫn đường chi tiết với bản đồ so với các thiết bị trước đó.
Giống như phiên bản trước của nó, iPhone 3G có đầu nối dock 30 chân độc quyền để sạc thiết bị. Nó cũng có thể được sử dụng để đồng bộ hóa thiết bị với máy tính và kết nối nhiều phụ kiện khác nhau.
iPhone 3G có giắc cắm tai nghe 3,5 mm gắn phẳng thay vì giắc cắm tai nghe lõm có trên iPhone ban đầu; do đó, nó có thể được sử dụng với bất kỳ tai nghe nào khác ngoài tai nghe do Apple cung cấp.
Pin và thời gian sử dụng.
IPhone 3G có pin với dung lượng là 1150 mAh, giống như phiên bản trước của nó, người dùng không thể thay thế được. Apple tuyên bố rằng pin của iPhone 3G có khả năng cung cấp tới sáu giờ duyệt web qua Wi-Fi, năm giờ qua 3G hoặc 25 giờ nghe nhạc. Ngoài ra, nó được cho là cung cấp thời gian sáng màn hình lên tới 300 giờ.
Thu nhận.
Walt Mossberg của The Wall Street Journal đã mô tả thiết bị này là "một phiên bản có nhiều khả năng hơn của một thiết bị vốn đã xuất sắc." Tuy nhiên, ông nói rằng nó có "những chi phí ẩn."
Vấn đề.
Hao pin.
iOS 4, vẫn tương thích với iPhone 3G, được phát hành vào ngày 21 tháng 6 năm 2010. Một bài báo trong chuyên mục "Digits" của tờ Wall Street Journal vào ngày 28 tháng 7 năm 2010 đã báo cáo rằng điện thoại iPhone 3G đang cập nhật lên iOS 4 phản hồi chậm, tuổi thọ pin giảm và trở nên quá nóng sau một thời gian sử dụng. | 1 | null |
Karl Freiherr von Plettenberg (18 tháng 12 năm 1852 tại Neuhaus – 10 tháng 2 năm 1938 tại Bückeburg) là một sĩ quan quân đội Phổ, và sau này là Thượng tướng Bộ binh trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông đã từng tham chiến trong Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Ông là Tướng tư lệnh của Quân đoàn Vệ binh tinh nhuệ từ năm 1913 cho đến năm 1917, đồng thời là Tướng phụ tá của Đức hoàng Wilhelm II và đã được nhận Huân chương Quân công.
Cuộc đời và binh nghiệp.
Karl von Plettenberg chào đời vào ngày 18 tháng 12 năm 1852 tại Neuhaus, tỉnh Westfalen, trong gia đình quý tộc cổ Plettenberg có nguồn gốc từ vùng Sauerland. Một trong những tiên tổ của ông đã được vua Friedrich Đại đế trao tặng Huân chương Quân công. Thân phụ của ông là Eugen von Plettenberg, một sĩ quan quân đội (Thiếu tá và chỉ huy đội kỵ binh). Thân mẫu của ông là bà Minette von der Borch.
Plettenberg đã học tập trong đội thiếu sinh quân và vào năm 1870, ông gia nhập Trung đoàn Bộ binh số 53 (Westfalen số 5) tại Köln. Với trung đoàn này, viên thiếu úy trẻ Plettenberg đã tham gia chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Sau đó, ông tham dự Học viện Quân sự Phổ và được chuyển vào Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1. Sau đó, ông được thăng quân hàm Đại úy và lãnh quyền chỉ huy một đại đội. Vào năm 1890, với quân hàm thiếu tá, ông chỉ huy Tiểu đoàn Súng trường Westfalen # 7 ở Bückeburg. Vào năm 1894, ông trở thành tư lệnh của Tiểu đoàn Súng trường Cận vệ ở Potsdam và khi còn giữ chức vụ này ông được phong quân hàm Thượng tá vào năm 1896. Vào năm 1898, ông trở thành "Sĩ quan hầu cận của Hoàng đế và Quốc vương Bệ hạ" ("Flügeladjutant SM des Kaiser und Königs "), và giữ ch ức vụ này cho đến năm 1901. Vào ngày 15 tháng 6 năm 1898, ông nhậm chức tư lệnh của Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1. Kể từ năm 1902, ông là "Inspekteur der Jäger und Schützen" (tức là thanh tra của bộ binh nhẹ "Jäger" và binh nhì "Schützen"), và đồng thời được giao trách nhiệm chỉ huy Quân đoàn Quân cảnh " Reitenden Feldjägerkorps". Vào năm 1906, ông lãnh chức Tư lệnh Sư đoàn số 22 tại Kassel. Vào ngày 12 tháng 4 năm 1910, ông được thăng cấp Thượng tướng Bộ binh, đồng thời nhậm chức Tướng tư lệnh của Quân đoàn IX ở Altona. Vào năm 1913, ông được ủy nhiệm làm chỉ huy Quân đoàn Vệ binh, đồng thời là "Tướng phụ tá của Đức vua".
Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Karl von Plettenberg vẫn là người chỉ huy Quân đoàn Vệ binh khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, và quân đoàn tinh nhuệ này thuộc về biên chế của Tập đoàn quân số 2 như một phần của cánh phải của các lực lượng Đức tấn công Pháp và Bỉ vào tháng 8 năm 1914 theo kế hoạch Schlieffen. Ông đã dẫn dắt Quân đoàn Vệ binh trong trận sông Marne lần thứ nhất và trận Ypres lần thứ nhất.
Ông được tặng thưởng Huân chương Quân công vào ngày 14 tháng 5 năm 1915, và vào ngày 27 tháng 1 năm 1916 ông được phong danh hiệu "" của Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1. Do ông chỉ trích việc tiến hành chiến tranh của Erich Ludendorff và Paul von Hindenburg trong các "trận đánh vật chất" trên Mặt trận phía Tây, Plettenberg bị buộc phải giải ngũ vào ngày 24 tháng 1 năm 1917. Mặc dù vậy, ông vẫn ở lại cung đình như là Tướng phụ tá của Đức hoàng cho đến năm 1918.
Cuối đời.
Sau khi nghỉ hưu, ông về Bückeburg, nơi từ trần vào ngày 10 tháng 2 năm 1938. "Đường Plettenberg" ("Plettenbergstraße"), một con đường trong thị trấn đã được đặt theo tên ông.
Gia đình.
Người con trai trưởng của ông, Karl-Wilhelm, là một trung úy trong Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 của Quân đoàn Vệ binh khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Ông đã tử trận vào ngày 30 tháng 8 năm 1914 trong trận chiến St Quentin..
Người con trai thứ của ông, Kurt von Plettenberg (1891 – 1945), là một đại diện toàn quyền của nhà Hohenzollern (triều đại cai trị Phổ) và là một trong những người đã tham gia âm mưu 20 tháng 7 nhằm ám sát nhà độc tài Đức Quốc xã Adolf Hitler. Ông đã nhảy xuống từ cửa sổ để tự vẫn vào ngày 10 tháng 3 năm 1945 khi bị lực lượng mật thám Gestapo chất vấn. | 1 | null |
Trương Siêu (chữ Hán: 张超, ?-195), là tướng nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong 10 lộ chư hầu tham gia chiến dịch chống Đổng Trác vào năm 190.
Tiểu sử.
Trương Siêu nguyên là người quận Đông Bình thuộc Duyện châu. Theo Tam Quốc diễn nghĩa thì tên tự của ông là Mạnh Cao (孟高). Sử sách ghi chép không rõ ràng về gia đình của ông, chỉ chép lại rằng ông có một người anh là Trương Mạc, được phong làm thái thú Trần Lưu, còn bản thân ông được phong thái thú Quảng Lăng.
Bấy giờ trong triều đình Đông Hán, đại thần Đổng Trác thao túng quyền lực, phế Thiếu đế, lập Hiến đế, trở thành người nắm chính trường, khiến nhiều người bất bình. Năm 190, Viên Thiệu tập hợp chư hầu thảo phạt Đổng Trác, Trương Siêu cùng anh là Trương Mạc tham gia vào cuộc chiến này, cùng với 18 lộ chư hầu khác, do Viên Thiệu thống lĩnh, tiến đánh Đổng Trác, buộc Trác phải dời đô từ Lạc Dương về Trường An.
Những năm tiếp theo trong triều phát sinh biến loạn, Đổng Trác bị thủ hạ là Lã Bố giết chết, nhưng Lã Bố cũng bị các tướng trung thành của Trác là Lý Thôi, Quách Dĩ chống lại, không giữ được Trường An, phải bỏ đi nơi khác. Trương Siêu và anh giúp đỡ Lã Bố, tôn làm Thứ sử Duyễn châu và giúp binh lương cho Bố.
Mùa hạ năm 194, Tào Tháo ở Duyễn Châu mang quân đánh Lã Bố, chiếm Từ châu. Anh em Trương Siêu và Trần Cung cùng Lã Bố đánh chiếm căn cứ Duyễn châu của họ Tào.
Năm 195, Tào Tháo lại đánh Lã Bố, Bố vội vã chạy về Từ châu theo Lưu Bị, còn Trương Siêu ở lại trấn giữ Ung Khâu theo ý của Trương Mạc.
Tào Tháo đem quân đánh Ung Khâu. Đến tháng 12, Trương Siêu đại bại, bị Tào Tháo bắt và xử tử. Anh ông và cả gia tộc họ Trương cũng bị diệt. | 1 | null |
Đài phát thanh truyền hình quốc gia Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Ραδιοφωνία Τηλεόραση, Ellinikí Radiofonía Tileórasi hoặc ERT, nghĩa là "Đài phát thanh truyền hình Hy Lạp") là công ty truyền phát thanh truyền hình công cộng nhà nước Hy Lạp. Tổ chức này là một thành viên của EBU. Khoảng 88% kinh phí ERT đến từ phí bản quyền truyền hình.
Ngày 19 tháng 8 năm 2011 công ty đã thông báo rằng nó sẽ trở thành một công ty đại chúng nhưng không còn nhà nước.
Ngày 11 tháng 6 năm 2013, người ta được báo cáo rằng ERT sẽ chấm dứt hoạt động theo mô hình hiện tại, dưới sự hướng dẫn của chính phủ Hy Lạp, mà vẫn tiếp tục phải chịu áp lực về tài chính. 2.656 nhân viên ERT sẽ mất việc làm. Người ta dự đoán rằng chính phủ Hy Lạp sẽ thiết lập lại tổ chức trên một quy mô nhỏ hơn nhiều. Người ta đã công bố xác nhận cách thức đóng cửa đài này sẽ ảnh hưởng đến các dịch vụ truyền hình và đài phát thanh đài truyền hình công cộng như thế nào. Nhân viên của đài truyền hình nhà nước đã phản đối việc đóng cửa. Một phát ngôn viên Chính phủ Hy Lạp, Simos Kedikoglou, nói rằng tổ chức này sẽ chấm dứt hoạt động vào sáng sớm ngày 12 tháng 6 sau khi kết thúc chương trình của ngày.
Mặc dù thông báo, nhân viên ERT trở lại làm việc. Sau khi phát ERT và trang web của nó đã bị đóng cửa, chương trình phát sóng tiếp tục thông qua vệ tinh wildfeed với thiết bị phát thanh truyền hình Liên minh châu Âu. EBU cũng bắt đầu cung cấp Internet trực tuyến phát sóng ERT.
Ngày 10 tháng 7 năm 2014, chính phủ Hy Lạp công bố thay thế bằng Tổ chức internet, phát thanh, tuyền hình mới (Νέα Ελληνική Ραδιοφωνία, Ίντερνετ και Τηλεόραση), rút ngắn NERIT (ΝΕΡΙΤ). Các tổ chức phương tiện truyền thông mới dự kiến sẽ khởi động dịch vụ của nó từ tháng 8 năm 2014.
Người phát ngôn Chính phủ Hy Lạp Simos Kedikoglou nói rằng, ERT là trường hợp điển hình về sự thiếu minh bạch, chi tiêu hoang phí và tình trạng này phải chấm dứt. Đài sẽ hoạt động trở lại theo một cơ chế mới và sử dụng ít nhân lực hơn.
Từ ngày 11 tháng 6 năm 2015, ERT lên sóng trở lại, thế chỗ cho NERIT. | 1 | null |
Alseodaphnopsis andersonii là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Joseph Dalton Hooker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1886 dưới danh pháp "Cryptocarya andersonii", dựa theo mô tả trước đó của George King. Năm 1962, André Joseph Guillaume Henri Kostermans chuyển nó sang chi "Alseodaphne". Năm 2017, Hsi-wen Li và Jie Li chuyển nó sang chi "Alseodaphnopsis".
Môi trường sống và phân bố.
Rừng lá rộng thường xanh, từ các thung lũng ẩm ướt cho đến đỉnh núi; trung bình ở cao độ 1.200-1.500 m, nhưng cũng xuất hiện ở khoảng cao độ từ 1.000 đến 1.900 m. Đông bắc Ấn Độ, Lào, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc (nam và đông nam Vân Nam, đông nam Tây Tạng) và Việt Nam. Sách Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ cho rằng loài này có ở Việt Nam (Kon Tum, ở cao độ 700 m).
Tên gọi.
Tên gọi tại Việt Nam là sụ Anderson, vàng trắng Anderson, du đơn lá lông; tại Trung Quốc là 毛叶油丹 (mao diệp du đan, nghĩa là du đan lá lông).
Mô tả.
Cây gỗ cao tới 25 m, đường kính ngang ngực 30-45 cm. Cành con màu đen, mập, có sọc, với ít bì khẩu thuôn dài màu nâu không dễ thấy, có lông măng màu gỉ sắt khi non nhưng trở thành không lông khi thuần thục. Cuống lá mập, (2-)4-5,5 cm, lồi-lõm, có lông măng màu gỉ sắt nhiều hay ít; phiến lá màu xanh lục-trắng ở phía xa trục, mờ đục phía gần trục, hình elip, 12-24 × 6-12 cm, gần giống da, có lông măng màu gỉ sắt khi non nhưng không lông khi thuần thục ở phía xa trục, nhẵn nhụi phía gần trục, gân chính nhô cao phía xa trục, chìm phía gần trục, gân bên 9-11 đôi, xiên, nhô cao phía xa trục, chìm hoặc phẳng phía gần trục, mờ dần về phía mép lá, các gân ngang thưa, dễ thấy, luôn luôn chẻ, các gân con hình mắt lưới, có hốc nông, gốc lá từ nhọn đến hình nêm rộng, đỉnh nhọn ngắn đột ngột. Chùy hoa ở nách trên phần trên của cành, 20-35 cm, nhiều nhánh; nhánh tận cùng (3-)5- hoặc 6-hoa; cuống chùy hoa 10-15 cm, cuống chùy hoa và trục nhánh nhiều lông măng màu gỉ sắt. Cuống hoa thanh mảnh, khoảng 2 mm, phình ra ở quả, nhiều lông măng màu gỉ sắt. Các thùy bao hoa hình trứng, (1,5-)2-2,5 mm, nhiều lông măng màu gỉ sắt, các thùy bên ngoài nhỏ hơn, 3 gân, các thùy bên trong lớn, 5 gân, tất cả đều sớm rụng khi ở quả. Nhị sinh sản nhỏ; chỉ nhị có lông nhung, mỗi chỉ của vòng 3 có 2 tuyến lớn và gần như không cuống ở gốc, các chỉ khác không có tuyến; bao phấn của vòng 1 và 2 thuôn dài, hình tuyến, với các tế bào hướng vào trong, các bao phấn của vòng 3 hình chữ nhật, hình tuyến, với các tế bào hướng ra ngoài. Nhị lép nhỏ, hình thận. Bầu nhụy hình trứng; vòi nhụy ngắn và xiên; đầu nhụy hình đầu. Quả thuôn dài, tới 5 × 2,8 cm, màu xanh lục khi còn non nhưng khi chín có màu tía đen; cuống quả mọng thịt khi còn tươi, màu đỏ tía, dài khoảng 1 cm, đường kính khoảng 4 mm ở phần đỉnh giãn nở. Ra hoa tháng 7, kết quả tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Nó là loài cây gỗ chi phối trong các khu rừng lá rộng thường xanh trong khu vực. | 1 | null |
Alseodaphnopsis hokouensis là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Hsi-wen Li miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979 dưới danh pháp "Alseodaphne hokouensis". Năm 2017, Hsi-wen Li và Jie Li chuyển nó sang chi "Alseodaphnopsis".
Môi trường sống và phân bố.
Rừng lá rộng thường xanh ở cao độ đến 700 m. Đông nam tỉnh Vân Nam.
Tên gọi.
Tên gọi tại Trung Quốc là 河口油丹 (Hà Khẩu du đan, nghĩa là du đan Hà Khẩu).
Mô tả.
Cây gỗ. Cành con màu nâu khi khô, có sọc, nhẵn nhụi. Chồi đầu cành gần hình cầu, đường kính khoảng 2 mm; vảy chồi màu nâu, hình trứng rộng, đỉnh nhọn, nhẵn nhụi. Lá mọc so le; cuống lá 1,5-3 cm, lồi-lõm, nhẵn nhụi; phiến lá màu nâu phía xa trục khi khô, màu xanh lục-nâu ở mặt gần trục, hình elip đến thuôn dài, 10,5-17 × 4-6,5 cm, gần giống da, nhẵn cả hai mặt, gân giữa nhô cao mặt xa trục, chìm mặt gần trục, gân bên 9-13 đôi, hơi nhô cao ở cả hai mặt, xiên, mờ dần và nối với nhau ở gần mép lá, các gân ngang và gân con hình lưới dày đặc, dễ thấy ở cả hai mặt, gốc hình nêm rộng đến gần thuôn tròn, đỉnh nhọn ngắn đột ngột. Chùy hoa 10,5-15 cm, gắn vào phần dưới của cành non; cuống chùy hoa phân nhánh ở giữa hoặc phía trên, cuống hoa và trục nhánh nhẵn nhụi; lá bắc và lá bắc con thẳng, khoảng 1,5 mm, nhọn, có lông rung, chóng rụng. Cuống hoa 3-4 mm, hơi phình ở đỉnh, nhẵn nhụi. Hoa nhỏ, khoảng 2,5 mm. Ống bao hoa ngắn; các thùy bao hoa hình trứng, không đều, khoảng 2 × 1,5 mm, hơi nhọn, nhẵn nhụi mặt ngoài, mặt trong có lông măng màu xám, sớm rụng. Nhị sinh sản 9, nhỏ, khoảng 1,5 mm ở vòng 1 và 2, khoảng 1,7 mm ở vòng 3; chỉ nhị có lông nhung, khoảng 0,7 mm ở vòng 1 và 2, khoảng 1 mm ở vòng 3, mỗi chỉ nhị ở vòng 3 có 2 tuyến hình thận-hình cầu có cuống ở gốc, các chỉ nhị khác không có tuyến; bao phấn của vòng 1 và 2 hình thuôn dài, gần dài như chỉ nhị, với các ngăn hướng vào trong, bao phấn của vòng 3 hình chữ nhật, với các ngăn hướng ra ngoài. Bầu nhụy hình trứng, khoảng 1,5 mm, nhẵn nhụi, thuôn dần thành vòi nhụy dài khoảng 0,5 mm; đầu nhụy hình đĩa, hơi xẻ thùy. Quả không rõ. Ra hoa tháng 5. | 1 | null |
Alseodaphnopsis lanuginosa là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được André Joseph Guillaume Henri Kostermans miêu tả khoa học đầu tiên năm 1973 dưới danh pháp "Alseodaphne lanuginosa". Năm 2017, Hsi-wen Li và Jie Li chuyển nó sang chi "Alseodaphnopsis".
Môi trường sống và phân bố.
Miền bắc Việt Nam.
Tên gọi.
Tên gọi tại Việt Nam là sụ lông mượt, vàng trắng nhung, du đơn lông mượt. | 1 | null |
Alseodaphnopsis marlipoensis là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Li Hsi Wen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1975 dưới danh pháp "Cinnamomum marlipoense". Năm 1979 tác giả này chuyển nó sang chi "Alseodaphne". Năm 2017, Hsi-wen Li và Jie Li chuyển nó sang chi "Alseodaphnopsis".
Môi trường sống và phân bố.
Rừng lá rộng thường xanh, trong các thung lũng dưới 1.400 m. Trung Quốc (đông nam Vân Nam).
Tên gọi.
Tên gọi tại Trung Quốc là 麻栗坡油丹 (Ma Lật Pha du đan).
Mô tả.
Cây gỗ cao tới 12 m, đường kính ngang ngực khoảng 30 cm. Cành con màu nâu xám, thon búp măng, thanh mảnh, dài 3–5 mm, có sọc, rải rác với các bì khẩu thuôn dài dạng bần màu nâu vàng, nứt theo chiều dọc, ban đầu có lông tơ thưa thớt màu nâu ánh vàng, nhưng sau đó nhanh chóng trở thành không lông. Chồi đầu cành nhỏ, hình nón ngược, nhỏ hơn 2 mm; vảy chồi xếp chặt, bên ngoài có lông tơ màu nâu ánh vàng thưa thớt. Lá mọc so le, thưa; cuống lá 0,5–2 cm, lồi-lõm, có lông tơ thưa; phiến lá mặt xa trục màu xanh lục trắng, mặt gần trục màu xanh lục, thuôn dài hoặc hình mác-thuôn dài, 6-14 × 2,2-3,8 cm, dạng giấy, mặt xa trục có lông tơ thưa thớt màu nâu ánh vàng, mặt gần trục nhẵn nhụi hoặc đôi khi có lông tơ màu nâu ánh vàng thưa thớt ở phần dưới của gân giữa, gân giữa trải rộng lên trên đến đỉnh lá, nhô cao ở mặt xa trục, chìm ở mặt gần trục, gân bên (9-)11-13 đôi, hình vòng cung, không dễ thấy ở cả hai mặt, tất cả đều mờ dần ở gần mép lá, các gân ngang và gân con hình lưới, gần như nhìn thấy được trên cả hai mặt, đáy hình nêm hoặc hình nêm rộng, mép lá cuốn ngoài, đỉnh nhọn. Hoa không rõ. Đầu quả hình chùy, dài hơn nhiều so với phiến lá, (8-)11–18 cm, tất cả đều ở nách lá ở phần trên của cành con, ít phân nhánh ở phần trên; các nhánh dài tới 4,5 cm; cuống chùy hoa thuôn dài, (5-)8–12 cm, cuống chùy và trục nhánh có lông tơ thưa thớt màu nâu ánh vàng. Quả chưa trưởng thành màu xanh lục, hình cầu, đường kính tới 2,2 cm; cuống quả mọng thịt, phình to, dài tới 1 cm, đường kính tới 3 mm ở đỉnh, nhăn nheo khi khô, màu đỏ tía khi non, có lông tơ lưa thưa màu nâu ánh vàng. Tạo quả tháng 12. | 1 | null |
Alseodaphnopsis petiolaris là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Carl Daniel Friedrich Meisner miêu tả khoa học đầu tiên năm 1864 dưới danh pháp "Nothaphoebe petiolaris". Năm 1886 Joseph Dalton Hooker chuyển nó sang chi "Alseodaphne". Năm 2017 Li Hsi Wen và Li Jie chuyển nó sang chi "Alseodaphnopsis".
Môi trường sống và phân bố.
Rừng thưa khô, rừng thường xanh lá rộng; ở cao độ 600-900 m. Phân bố tại Ấn Độ, Myanmar, Trung Quốc (nam Vân Nam). Sách Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ cho rằng loài này có ở Việt Nam (Thanh Hóa).
Tên gọi.
Tên gọi tại Việt Nam là sụ có cuống, vàng trắng có cuống; tại Trung Quốc là 长柄油丹 (trường bính du đan).
Mô tả.
Cây gỗ cao đến 20 m, đường kính ngang ngực khoảng 10 cm. Cành con màu ánh nâu, mọc hơi vòng, hơi có góc cạnh, rải rác với các bì khẩu như bần hình gần tròn, nhẵn nhụi trừ các phần non. Chồi tận cùng hình trứng; vảy chồi kết chặt, rậm lông măng màu nâu sẫm. Cuống lá mập, 1,5-2,5(-5) cm, lồi-lõm, nhẵn nhụi; phiến lá màu nâu ở cả hai mặt nhưng màu xanh lục-trắng ở mặt xa trục khi còn non, mờ đục mặt xa trục, mặt gần trục bóng loáng, to, hình trứng ngược thuôn dài hoặc thuôn dài, 14-26 × 6-15 cm, giống như da dày, gân giữa nhô cao mặt xa trục, chìm mặt gần trục, gân bên khoảng 11 cặp, rất dễ thấy ở mặt xa trục, hơi nhô cao ở mặt gần trục, xiên, nối cong hình cung với nhau ở các đầu tạn cùng, các gân ngang và các gân con hình lưới, nhô cao dễ thấy ở cả hai mặt, gốc lá hình nêm hoặc gần thuôn tròn và luôn không bằng nhau ở các bên, đỉnh thuôn tròn hoặc tù, hơi nhọn đột ngột hoặc hơi có khía. Chùy hoa gần đầu cành, mọc thành cụm ở đỉnh của cành con, (10-)15-30 cm, nhiều hoa, phân nhánh, các nhánh thấp nhất đến 10 cm; cuống chùy hoa 6-13 cm, có lông măng màu gỉ sắt dọc theo trục nhánh, đặc biệt ở các mắt. Cuống hoa khoảng 2 mm, lông măng màu gỉ sắt. Hoa nhỏ, khoảng 2,5 mm. Ống bao hoa hình nón rộng, khoảng 1 mm; thùy bao hoa 6, hình trứng-tròn, tù, các thùy bên ngoài khoảng 2 × 1,8 mm, các thùy bên trong khoảng 2,5 × 2 mm, nhiều lông măng màu gỉ sắt ở cả hai mặt. Nhị sinh sản 9, khoảng 1,2 mm ở vòng 1, khoảng 1,8 mm ở vòng 2 và khoảng 2,8 mm ở vòng 3; chỉ nhị phẳng, nhiều lông, rất ngắn ở vòng 1, dài gần bằng bao phấn ở vòng 2 và 3, mỗi bao phấn của vòng 3 có 2 tuyến hình tim-hình cầu có cuống ngắn, các bao phấn khác không có tuyến; bao phấn của vòng 1 hình trứng rộng, tù, khoảng 0,8 mm, với 2 ngăn nhỏ hơn phía trên và 2 ngăn lớn phía dưới, tất cả các ngăn đều hướng vào trong, bao phấn của vòng 2 hình trứng rộng-elipxoit, tù, với 4 ngăn hướng vào trong, bao phấn của vòng 3 hình elipxoit, cắt ngắn hoặc hơi có khía ở giữa tại đỉnh, với 4 ngăn hướng ra ngoài-ở bên. Nhị lép nhỏ. Bầu nhụy hình trứng, khoảng 0,8 mm, nhẵn nhụi, thu nhỏ dần thành vòi nhụy dài khoảng 1,6 mm; đầu nhụy hình khiên, 3 thùy. Quả hình trứng-thuôn dài, khoảng 2,8 × 1,3 cm, đỉnh tròn, mọng thịt; cuống quả mập, dài khoảng 5 mm, đường kính lên đến 4 mm ở phần giãn ra trên đỉnh. Ra hoa tháng 10-11, tạo quả từ tháng 12 đến tháng 4 hoặc 5 của năm sau. | 1 | null |
Alseodaphnopsis sichourensis là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Hsi-wen Li miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979 dưới danh pháp "Alseodaphne sichourensis". Năm 2017, Hsi-wen Li và Jie Li chuyển nó sang chi "Alseodaphnopsis".
Môi trường sống và phân bố.
Trung Quốc (đông nam Vân Nam).
Tên gọi.
Tên gọi tại Trung Quốc là 西畴油丹 (Tây Trù du đan), do mẫu vật thu được tại huyện Tây Trù, châu Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. | 1 | null |
Aspidostemon perrieri là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Paul Auguste Danguy miêu tả khoa học đầu tiên năm 1927 dưới danh pháp "Cryptocarya perrieri". Năm 1987, Rohwer J. G. & Richter H.G. chuyển nó sang chi "Aspidostemon". Nó là loài điển hình của chi "Aspidostemon" khi các tác giả mô tả chi này. | 1 | null |
Kali carbonat, còn gọi là bồ tạt, tro ngọc trai, muối cao răng là hợp chất vô cơ có công thức K2CO3. Nó là một loại muối carbonat, có thể hòa tan trong nước như natri carbonat. Nó hút ẩm mạnh, thường xuất hiện dưới dạng chất rắn ẩm. Kali carbonat được sử dụng chủ yếu trong sản xuất xà phòng và thủy tinh.
Lịch sử.
Kali cacbonat là thành phần chính của bồ tạt, tro ngọc trai và muối cao răng. Trong lịch sử, tro ngọc trai được tạo ra bằng cách nung nóng bồ tạt trong lò để loại bỏ tạp chất. Phần bột trắng mịn còn lại là tro ngọc trai. Bằng sáng chế đầu tiên được cấp bởi Văn phòng Sáng chế Hoa Kỳ đã được trao cho Samuel Hopkins vào năm 1790 cho một phương pháp cải tiến tạo ra bồ tạt và tro ngọc trai.
Vào cuối thế kỷ 18 ở Bắc Mỹ, trước khi bột nở phát triển, tro ngọc trai được sử dụng làm chất tạo men cho bánh mì.
Sản xuất.
Kali cacbonat được điều chế thương mại bằng phản ứng sục khí carbon dioxide vào dung dịch kali hydroxide:
Từ chất rắn kết tinh sesquihydrat K2CO3·formula_1H2O (kali hydrat), đun nóng chất rắn này trên 200 °C thu được muối khan. Trong một phương pháp thay thế, kali chloride được xử lý bằng carbon dioxide với sự có mặt của một amin hữu cơ để tạo ra kali bicarbonat, sau đó được đun nóng: | 1 | null |
Chắp chại hay chập chại hoặc bạch mi (danh pháp khoa học: Beilschmiedia roxburghiana) là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Nees miêu tả khoa học đầu tiên năm 1831.
Tên gọi.
Tại Trung Quốc nó được gọi là 琼楠 (quỳnh nam).
Mô tả.
Cây gỗ, cao 10-15(-20) m. Cành con màu nâu ánh đen, ép dẹp, có góc cạnh rõ ràng, có lông tơ thưa thớt hay gần như nhẵn nhụi. Các chồi đầu cành nhỏ, có lông tơ màu nâu xám dày dặc. Lá mọc đối, đôi khi mọc so le; cuống lá 1,5–2 cm, thanh mảnh; phiến lá hình elip, elip hẹp, hoặc hình elip-mũi mác, 9-14 × 3,5–5 cm, dạng giấy hay gần như da, có điểm-tuyến nhỏ trên cả hai mặt, gân giữa nhô cao mặt xa trục, mặt gần trục hơi nhô cao, gân bên 10-15 đôi, thanh mảnh, nối với nhau ở mép lá, mặt xa trục nhô cao và ánh đỏ, gân lưới thanh mảnh, luôn luôn không rõ, gốc lá hình nêm rộng hoặc gần thuôn tròn, đỉnh tù, nhọn tù, nhọn hoặc gần thuôn tròn. Chùy hoa dạng xim hoa hoặc cành hoa ở đầu cành hoặc ở nách lá, ngắn, chiều dài 5–15 cm, toàn bộ có lông tơ màu vàng xám che phủ dày dặc. Cuống hoa khoảng 1 mm. Hoa nhỏ. Các đoạn bao hoa hình trứng, khoảng 1,5 mm. Nhị sinh sản 9. Quả hình elipxoit, 4-5 × 2–3 cm, nhẵn, gần thuôn tròn ở hai đầu, đỉnh có mấu nhọn; cuống quả mập, 5–20 mm, đường kính tới 7 mm, luôn luôn có vết màu nâu. Ra hoa và tạo quả tháng 8.
Phân bố và môi trường sống.
Là loài bản địa khu vực Ấn Độ (quần đảo Andaman, Assam), Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Himalaya (đông và tây), Lào, Malaysia, Myanmar, Nepal, Thái Lan, Tây Tạng, Việt Nam. Rừng lá rộng thường xanh trên sườn núi. | 1 | null |
Beilschmiedia scintillans là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được André Joseph Guillaume Henri Kostermans mô tả khoa học đầu tiên năm 1939 dưới danh pháp "Cryptocarya scintillans". Năm 2007, Henk van der Werff & Sachiko Nishida chuyển nó sang chi "Beilschmiedia".
Phân bố.
Loài này là đặc hữu Madagascar. | 1 | null |
Chắp Bắc Bộ (danh pháp: Beilschmiedia tonkinensis hoặc bạch mi) là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được (Lecomte) Ridl. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1920.
Plants of the World Online coi nó là đồng nghĩa với "Beilschmiedia roxburghiana".
Lưu ý.
The Plant List cho rằng "Hufelandia tovariensis" là đồng nghĩa của "Beilschmiedia tonkinensis" , nhưng có lẽ đây là sai lầm do mô tả gốc của "Hufelandia tovariensis" là phân bố tại Nam Mỹ (Colombia, Venezuela). POWO hiện tại coi "Hufelandia tovariensis" là đồng nghĩa của "Beilschmiedia tovarensis" . | 1 | null |
Beilschmiedia tovarensis là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Carl Meissner miêu tả khoa học đầu tiên năm 1864 dưới danh pháp "Hufelandia tovariensis", dựa theo mô tả trước đó của Johann Friedrich Klotzsch & Gustav Karl Wilhelm Hermann Karsten. Năm 1999, Sachiko Nishida chuyển nó sang chi "Beilschmiedia".
Phân bố.
Loài này có tại Trung Mỹ (từ Costa Rica đến Trinidad) và miền tây Nam Mỹ (Colombia, Venezuela). | 1 | null |
Tơ xanh (danh pháp khoa học: Cassytha filiformis) là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Tơ xanh phân bố khắp miền nhiệt đới. Nó là loài phổ biến rộng rãi ở Mỹ Latinh và ở Tây Ấn cũng như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Sri Lanka, Timor, Việt Nam, Papua New Guinea, Australia, Madagascar và Nam Phi.
Tại khu vực Caribbea, nó là một trong những loài cây được gọi là Dây leo tình yêu bởi vì nó có một danh tiếng là một loài cây có chất kích thích tình dục. | 1 | null |
Dự hay kháo xanh, rè xanh (danh pháp khoa học: Cinnadenia paniculata) là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Joseph Dalton Hooker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1886 dưới danh pháp "Dodecadenia paniculata". Năm 1973 André Joseph Guillaume Henri Kostermans lập ra chi "Cinnadenia" và chuyển nó sang chi này.
Mô tả.
Cây gỗ, cao 15 – 30 m, đường kính 30 – 60 cm, đầu các cành có những chồi nhỏ. Lá xếp theo đường xoắn ốc, dai, nhẵn, hình bầu dục thuôn hoặc hình mũi mác, dài 12 – 18 cm, rộng 3 - 3,5 cm, thuôn dần về đỉnh, hơi thót nhọn hoặc hơi tròn về phía cuống; có 8 - 12 đôi gân bên, gân giữa phẳng hặc hơi lõm ở mặt trên và lồi lên ở mặt dưới, màu sáng, các gân bên hơi xiên về phía mép lá; cuống dài 1,5 - 3,5 cm, nhẵn. Mùa hoa tháng 9. Cụm hoa chuỳ tán, đơn tính khác gốc, cụm chuỳ đực dài 7 cm, có lông, mỗi tán có cuống nhỏ dài khoảng 3 – 6 mm; lá bắc 6 thuỳ, 3 cái trong hơi bé hơn 3 cái ngoài, có 5 - 10 hoa trong mỗi tán, hoa có cuống dài 1 – 2 mm. Bao hoa 6, gần đều nhau, hình trứng, phủ lông mặt ngoài; nhị sinh sản 9 - 12 (đôi khi đến 32), dài khoảng 2 mm, mảnh, có lông; bao phấn 4 ô, thuôn, hướng trong, vòng nhị thứ 3 có 2 tuyến, hình thận, không chân. Cụm hoa chuỳ cái dài 3 – 6 cm, ít hoa, cuống tán dài 8 mm, có 6 lá bắc, nhẵn, bao hoa 6, đều nhau; bầu nhẵn, đầu vòi dạng đĩa hơi loe ra hoặc không thấy rõ. Bao hoa rụng toàn bộ khi quả hình thành. Quả dạng chuỳ, dài 1,3 - 2,3 cm, đế quả dày lên, chén cao 2 – 4 mm, đường kính 5 – 8 mm, cuống quả dài 1 cm.
Phân bố và sinh thái.
Tại Việt Nam có ở các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà Nội (Ba Vì), Nghệ An. Mọc rải rác trong rừng thưa, rừng thường xanh cây lá rộng ở độ cao tới 1.500 m. Trên thế giới: Ấn Độ (Assam, Manipur), Myanmar, Nepal (ở độ cao 1.800-2.800 m), Bhutan, Malaysia.
Giá trị.
Là loài duy nhất của chi "Cinnadenia" ở Việt Nam. Gỗ tốt dùng làm cột kèo và làm củi, đóng đồ gia dụng. | 1 | null |
Quế Cambốt hay Quế Campuchia, tên khoa học Cinnamomum cambodianum, là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Lecomte miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913.
Cây thuộc dạng đại mộc, nhánh thô, có vỏ đen. Lá mọc xen kẻ hay đối nhau, có phiến to, dài đến 35 cm, rộng 6 – 16 cm, lá dạng hình bầu dục hay tròn dài, có đáy tà hay tròn, chóp tròn hay mũi ngắn. Mặt trên lá có màu nâu ngâm, láng mịn, mặt dưới lá có màu nâu tươi. Gân phụ cạnh tận cùng ở 3/4 trên phiến, lồi ở mặt dưới. | 1 | null |
Cinnamomum malabatrum là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được (Burm.f.) J.Presl miêu tả khoa học đầu tiên năm 1825.
Đây là loài đặc hữu của Tây Ghats của Ấn Độ. Loài cây này có thể cao tới 15 m (49 ft). Nó có lá thơm được sử dụng cho mục đích ẩm thực và dược liệu. Nó được cho là một trong những nguồn chính của lá cây thuốc được biết đến trong thời cổ điển và thời trung cổ là malabathrum (hay malobathrum). | 1 | null |
Hypodaphnis zenkeri là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Adolf Engler miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899 dưới danh pháp "Ocotea zenkeri". Năm 1909 Otto Stapf mô tả chi Hypodaphnis và chuyển nó sang chi này. Hiện tại, nó là loài duy nhất của chi này.
Phân bố.
Loài bản địa Gabon. | 1 | null |
Sụ cavaleriei hay vàng trắng cavaleriei (danh pháp khoa học: Machilus cavaleriei) là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được H. Lév. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Tại Trung Quốc nó được gọi là 安顺润楠 (an thuận nhuận nam).
Phân bố và môi trường sống.
Loài này sinh sống trên sườn núi trong rừng thưa hay rừng rậm. Phân bố tại tây bắc Quảng Tây, nam Quý Châu và Việt Nam. Sách Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ ghi nhận có tại Cá Ná (có thể là Cà Ná).
Mô tả.
Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, cao khoảng 2,5 m. Vỏ cây màu xám. Các cành con màu nâu ánh vàng, hơi dày, có đốm hình hột đậu-elip theo chiều dọc, phần non có lông tơ màu trắng ánh xám hoặc màu nâu nhạt. Lá mọc rải rác ở phần trên của cành con; cuống lá hơi thanh mảnh, 8-12 (-26) mm; phiến lá ở mặt xa trục màu xanh lục hơi xám, hình trứng ngược hoặc thuôn dài, 5-10,5 × 2-3 (-4,2) cm, phiến lá non có lông măng ở cả hai mặt, trở thành nhẵn bóng ở mặt gần trục, gân giữa phía xa trục nhô cao, hơi dẹp xuống ở phía gần trục, gân bên 6-8 đôi, thanh mảnh, các gân con có hố nhỏ, hơi dễ thấy trên cả hai mặt. Các chùy hoa mọc từ phần dưới của cành non, dài 3,8-7 cm, có lông tơ màu xám; cuống chùy hoa màu tía, thanh mảnh, phân nhánh ở phần trên. Cuống hoa thanh mảnh, dài 3-5 mm, có lông tơ. Các thùy bao hoa thuôn dài, 3-4 mm, hơi không đều, có lông tơ trên cả hai mặt, có 5 gân dọc, đỉnh tù. Chỉ nhị có lông nhung ở đáy; các tuyến của loạt thứ 3 hình cuống ngắn. Bầu nhụy gần giống hình cầu; đầu nhụy hình đĩa. Quả hình cầu khi còn non; các thùy bao hoa bền, mỏng như da. | 1 | null |
Mezilaurus palcazuensis là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được van der Werff miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987.
Miêu tả.
"Mezilaurus palcazuensis" là một loài thực vật thuộc họ Lauraceae. Đây là một loài cây xanh có thể cao tới 25 mét. Hoa của cây nhỏ màu vàng và hạt nhỏ, tròn, màu đen. Cây con nhỏ và có một lá hình bầu dục.
Nơi sống.
Chúng có nguồn gốc từ Peru và được tìm thấy trong các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới, cận nhiệt đới, nhất là các khu rừng nhiệt đới Amazon ở Peru.
Công dụng và Lợi ích.
"Mezilaurus palcazuensis" được sử dụng làm cây cảnh trong vườn và công viên. Nó có mùi thơm dễ chịu nên được sử dụng để làm tinh dầu. Nó cũng được sử dụng trong y học cổ truyền vì đặc tính chống viêm và chống vi khuẩn. | 1 | null |
Syndiclis paradoxa là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Joseph Dalton Hooker đặt tên khoa học đầu tiên năm 1886. Năm 1952, André Joseph Guillaume Henri Kostermans chuyển nó sang chi "Potameia".
Loài này có trong khu vực Đông Himalaya. Khi "Syndiclis" được công nhận là chi tách biệt với "Potameia" thì nó là loài điển hình của "Syndiclis". | 1 | null |
Sassafras albidum là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được Thomas Nuttall miêu tả khoa học đầu tiên năm 1818 dưới danh pháp "Laurus albida". Năm 1836 Christian Gottfried Daniel Nees von Esenbeck chuyển nó sang chi "Sassafras" được Jan Svatopluk Presl lập ra năm 1825. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Anh của nó là "sassafras", "white sassafras", "red sassafras" hay "silky sassafras".
Loài này là bản địa miền đông Bắc Mỹ, từ miền nam Ontario và miền nam Maine về phía tây tới Iowa và về phía nam tới miền trung Florida và miền đông Texas. Nó sinh sống trong các môi trường sống kiểu rừng lá sớm rụng ở miền đông, ở cao độ tới . Trước kia nó từng xuất hiện ở miền nam Wisconsin, nhưng hiện nay đã không còn được ghi nhận như là loài bản dịa của khu vực này. | 1 | null |
Sassafras tzumu là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được William Hemsley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891 dưới danh pháp "Lindera tzumu".
Phân bố.
Loài bản địa Trung Quốc, tìm thấy tại các tỉnh An Huy, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tô, Tứ Xuyên, Vân Nam, Chiết Giang. Nó mọc trong các kiểu môi trường sống rừng thưa hoặc rừng rậm, ở cao độ .
Mô tả.
"Sassafras tzumu" là cây gỗ lá sớm rụng, có thể cao đến . Gỗ nứt theo chiều dọc có màu vàng-lụcyellow-green, nhưng thay đổi thành xám hoặc nâu khi cây trưởng thành. Sự phân cành là kiểu gốc ghép. Lá mọc so le, màu lục xám, dạng trứng hay trứng ngược, dài 9–18 cm và rộng 6–10 cm với cuống lá mỏng màu hung đỏ, dài 2–7 cm. Lá 2-3 thùy. Hoa màu vàng, đường kính khoảng 4 mm. Quả màu lam-đen với lớp phấn màu trắng. Một tài liệu cổ thông báo cây cao đến 100 m (330 ft), nhưng không được các tài liệu hiện đại chứng thực.
"S. tzumu" và loài bản địa Đài Loan "S. randaiense" khác loài còn sinh tồn ở Bắc Mỹ là "S. albidum" ở chỗ chúng có thể có cả các hoa đực với 3 nhị lép và 1 nhụy thô sơ và các hoa cái với 12 nhị lép trên cùng một cây, trong khi loài Bắc Mỹ là đơn tính khác gốc (mỗi cây riêng lẻ hoặc là cây với các hoa đực hoặc là cây với các hoa cái mà thôi). Các dữ liệu phân tử cũng hỗ trợ một số khác biệt giữa các loài Trung Quốc và Bắc Mỹ. Giống như "S. albidum", các lá của "S. tzumu" có thể có 2 hoặc 3 thùy, nhưng lá với 3 thùy xuất hiện thường xuyên hơn ở "S. tzumu" và là hiếm thấy hơn ở "S. albidum".
Sử dụng.
Vỏ cây "S. tzumu" mịn hạt, bền, màu vàng. Gỗ được sử dụng trong đóng tàu thuyền và đồ gỗ nội thất, nhờ độ bền của nó. Nó cũng được sử dụng cho mục đích y học để điều trị phong thấp và chấn thương. | 1 | null |
Anthocercis littorea là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được Labill. mô tả khoa học đầu tiên năm 1806.
Là loài bản địa Tây Úc, nơi chúng mọc trên núi đá vôi ven biển và cồn cát cũng như đồng bằng cát. Chúng thường cao 0,6 đến 3 mét và nở hoa màu vàng trong suốt năm trong phạm vi phân bố bản địa. | 1 | null |
Josias von Heeringen (9 tháng 3 năm 1850 – 9 tháng 10 năm 1926) là một tướng lĩnh Đức trong thời kỳ đế quốc, đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) và Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918).
Cuộc đời và binh nghiệp.
Heeringen sinh ra tại Kassel ở Tuyển hầu quốc Hesse, là con trai của Josias Sr., người quản gia của vị tuyển hầu tước cuối cùng xứ Hesse, và bà Karoline von Starckloff. Vào năm 1867, sau khi học tại các học viện quân sự ở Kassel và Berlin, ông đã gia nhập Trung đoàn Bắn súng hỏa mai "Von Gersdorff" (số 1 Đại Công quốc Hesse) số 80 ở Wiesbaden, với tư cách là một học viên sĩ quan. Ông đã được phong quân hàm Thiếu úy vào ngày 10 tháng 8 năm 1868, và với cấp bậc này ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức. Trong trận Frœschwiller-Wœrth vào ngày 6 tháng 8 năm 1870, ông bị thương nặng do trúng đạn ở đầu và tay, và về sau này ông được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt vì lòng dũng cảm của mình. Sau một sự nghiệp quân sự lâu dài, ông đã được phong cấp thiếu tá trong Bộ Chiến tranh Phổ vào ngày 22 tháng 3 năm 1887. Kể từ năm 1892 cho đến năm 1895, ông giữ chức trưởng phòng trong Bộ Tổng tham mưu. Vào năm 1898, ông đã phong cấp Thiếu tướng cà được ủy nhiệm làm giám đốc của cục quản trị quân đội trực thuộc Bộ Chiến tranh.
Vào năm 1901, ông lên quân hàm Trung tướng và vào năm 1903 ông lãnh chức chỉ huy Sư đoàn số 22. Vào năm 1906, ông được thăng cấp Thượng tướng Bộ binh, đồng thời nhậm chức tư lệnh của Quân đoàn II, với bản doanh đặt tại Stettin. Từ năm 1909 cho đến năm 1913, ông là Bộ trưởng Chiến tranh Phổ, và trở nên mâu thuẫn gay gắt với Đại tá Erich Ludendorff về việc xây dựng lực lượng quân đội Đức trước chiến tranh. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục thanh tra quân đội II, đặt trụ sở tại Berlin.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào tháng 8 năm 1914, ông được lãnh chức tư lệnh của Tập đoàn quân số 7 tại Lorraine. Khi quân đội Pháp tấn công vùng Grand Est, ông đã dụ đối phương tiến sâu vào Sundgau, và sau đó các lực lượng được tăng viện của Heeringen đã tung một đòn phản công quyết liệt và choáng ngợp, buộc quân Pháp phải rút khỏi Alsace. Do chiến thắng này, ông đã được phong tặng Huân chương Quân công cao quý vào ngày 28 tháng 8 năm 1915. Ông được trao tặng Bó sồi vào ngày 28 tháng 8 năm 1916. Ông chỉ huy Tập đoàn quân số 7 cho đến năm 1916 khi ông được thuyên chuyển sang bộ chỉ huy bờ biển tại Đức trong suốt thời gian chiến tranh. Ông đã giải ngũ với quân hàm Thượng tướng.
Sau chiến tranh, ông tích cực giúp đỡ cho các cựu chiến binh, và từ năm 1918 cho đến năm 1926 ông là chủ tịch Hiệp hội Kyffhäuser ("Kyffhäuserbund"). Kể từ tháng 9 năm 1914, ông là công dân danh dự của thành phố Kassel. Ông từ trần vào ngày 9 tháng 10 năm 1926 tại Berlin-Charlottenburg. Ông có vợ là bà Augusta von Dewall; các con trai của ông, Walther và Kurt, đều là sĩ quan bộ binh cấp thấp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. | 1 | null |
Hoa triệu chuông (danh pháp hai phần: "Calibrachoa parviflora") là một loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này có xuất xứ từ Nam Mỹ, Mexico và từ vùng tây nam Hoa Kỳ. Hoa triệu chuông được (Juss.) D'Arcy mô tả khoa học đầu tiên năm 1989.
Hoa triệu chuông thường được sử dụng để làm hoa cảnh trang trí phòng, nhà và vườn. Hoa triệu chuông có chiều dài từ 10–60 cm, có tuổi thọ vài năm. Loài hoa này được ưa chuộng bởi vẻ đẹp sặc sỡ, tươi sáng. Lá hoa triệu chuông có màu xanh đậm, lá cây nhỏ nhưng mọc rất dày. Hoa có tên là hoa triệu chuông vì bông hoa của nó khi nở có hình quả chuông. Loài hoa này nở quanh năm, mỗi lần nở đều rất lâu mới tàn. | 1 | null |
Cestrum parqui là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được Charles Louis L'Héritier de Brutelle mô tả khoa học đầu tiên năm 1788., khi nâng cấp "Cestrum jamaicense" var. "parqui" nên thành loài riêng biệt và độc lập với "Cestrum jamaicense"
Loài bản địa Trung và Nam Mỹ.
Nó là cây bụi thân gỗ mọc thẳng, lộn xộn,có lá sớm rụng hoặc bán thường xanh, cao với 1 hoặc nhiều thân giòn, màu xanh lục. Các lá xanh lục nhạt, bóng láng, mọc so le, dài , tỏa mùi cao su thối khi nghiền nát. Nó có các chùm hoa nhỏ, thơm, hình ống, màu vàng lục, dài khoảng 2,5 cm ở đầu các thân cây, ra hoa từ cuối mùa xuân tới mùa thu. Chúng sinh ra các chùm quả mọng nhỏ, hình trứng, màu đen trong giai đoạn từ mùa hè tới mùa thu. | 1 | null |
Cyphomandra betacea là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được (Cav.) Miers mô tả khoa học đầu tiên năm 1854.
Cà chua Tamarillo, còn được gọi là cà chua thân gỗ có màu vàng hoặc đỏ sáng, hình bầu dục hoặc elip, có nguồn gốc từ khu vực Nam và Trung Mỹ.
Loại cà chua này hiện còn được rộng rãi và mang lại giá trị kinh tế cao cho vùng Nam và Trung Mỹ, Châu Phi, Australia và Châu Á.
Hương vị đặc trưng của cà chua Tamarillo là thơm ngon, hơi chua ngọt. Nhờ giàu các loại vitamin và khoáng chất, cà chua này có thể ăn tươi trực tiếp, làm salad, ép nước uống và dùng xào nấu các món như bình thường.
Hiện chưa có một nghiên cứu khoa học nào được công bố về việc so sánh lợi ích của cà chua Tamarillo với các loại cà chua đỏ đang được trồng phổ biến ở khắp nơi trên thế giới.
Tuy nhiên, theo Style Craze, sở dĩ loại cà chua này có tên riêng như vậy là để dễ phân biệt với loại cà chua thông thường, đồng thời cũng để nhấn mạnh những đặc tính đặc biệt của cà chua Tamarillo. | 1 | null |
Nicotiana glauca là loài thực vật có hoa trong họ Cà (Solanaceae). Loài này được Robert Graham mô tả khoa học đầu tiên năm 1828.
Là một loài "Nicotiana" hoang dại, nó được biết đến dưới tên gọi thuốc lá cây, do nó là loại cây bụi hay cây gỗ nhỏ sống lâu năm với thân gỗ mềm. Các lá hình trứng dài 5–21 cm của nó gắn với thân cây bằng các cuống lá, trong khi nhiều loài "Nicotiana" khác có lá không cuống. Lá và thân loài này không lông và cũng không dính như như "Nicotiana tabacum". Nó trông khá giống như "Cestrum parqui", nhưng khác ở hình dạng lá và sự hợp lại của các bộ phận hoa vòng ngoài. Nó có thể cao tới trên 2 mét. Ra hoa tháng 4-8. Cụm hoa thẳng, có lá bắc < 5 mm. Đài hoa khoảng 10 mm, thùy nhỏ hơn ống, hơi không đều, hình tam giác; tràng hoa 30–35 mm, hình trụ, màu vàng; nhị hơi không đều, gắn vào phía dưới đoạn giữa ống tràng. Quả 7–15 mm.
Là loài bản địa Nam Mỹ, nhưng hiện nay nó đã phổ biến rộng và là một loài du nhập ở nhiều châu lục khác như miền nam Hoa Kỳ, Mexico, Úc, New Zealand, châu Phi và khu vực ven Địa Trung Hải. Mọc tại những nơi thoáng đãng, phẳng hay dốc, ở độ cao dưới 1.100 m. | 1 | null |
Phạm Bá Trực (21 tháng 11 năm 1898 – 5 tháng 10 năm 1954) là một tu sĩ Công giáo người Việt và là đại biểu Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là linh mục đầu tiên tham gia cách mạng và giữ chức vụ cao trong bộ máy nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông nguyên là Phó Chủ tịch thường trực Quốc hội. Ông cũng là đại biểu Quốc hội có nhiều văn bằng tiến sĩ nhất trong Quốc hội Việt Nam từ trước tới nay (ba bằng tiến sĩ). Ông thuộc trong số rất hiếm linh mục tham gia hoạt động ở Quốc hội mà được sự cho phép của đấng bản quyền, Giám mục Francois Chaize.
Cuộc đời.
Phêrô Phạm Bá Trực tên thật là Phạm Bá Trực, Phêrô là Tên Thánh của ông, ông sinh ngày 21 tháng 11 năm 1898 tại làng Bạch Liên, xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo xứ Bạch Liên, giáo hạt Bạch Liên, giáo phận Phát Diệm. Quê nhà ông là những xứ đạo cổ được đón nhận Tin Mừng do giáo sĩ Alexandre de Rhodes rao giảng từ rất sớm. Phạm Bá Trực được gia đình gửi vào chủng viện của Giáo phận Tây Đàng Ngoài.
Tu lập.
Năm 1916, theo chủ trương của Tòa Thánh, mỗi giáo phận chọn 1 hay 2 chủng sinh xuất sắc để gửi sang Rôma đào tạo chức sắc cao cấp cho giáo hội. Do học thông minh và đạo đức, thầy Phạm Bá Trực được Giám mục Hà Nội là Pierre Jean Marie Gendreau tuyển chọn và gửi đi học trường Truyền giáo ở Rôma.
Năm 1925, Thầy Phạm Bá Trực tốt nghiệp với 3 bằng Tiến sĩ về Giáo luật, Thần học và Văn chương tại Rôma và trở về Việt Nam. Với thành tích này, ông được vua Khải Định ngỏ ý muốn tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh, nhưng ông đã khiêm nhường từ chối.
Năm 1925 - 1927 giáo sư giảng dạy đại chủng viện Hoàng Nguyên, Sở Kiện Tây đàng ngoài , cuối năm 1927 làm chánh xứ Kẻ Sét ở Làng Tám, Hà Nội. Tại đây, linh mục Trực đã mở một trường dạy văn hóa cho thanh thiếu niên. Năm 1927, linh mục Trực đem một người cháu ở quê Phát Diệm lên học và nhận nuôi dưỡng đỡ đầu. Người cháu mà ông nhận đỡ đầu và nuôi dưỡng đó là Phạm Đình Tụng, sau này là Hồng y Tổng Giám mục giáo tỉnh Hà Nội. Linh mục Phạm Bá Trực dịch nhiều sách giáo lý để phổ biến cho cộng đoàn. Năm 1929, ông được giao quản thêm xứ Khoan Vĩ ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông đã ở giáo xứ này cho đến khi đầu năm 1945 ông rời Khoan Vĩ, về Hà Đông và từ đây linh mục trực tiếp tham gia kháng chiến.
Hoạt động chính trị.
Năm 1946, khi cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa I diễn ra, linh mục Phạm Bá Trực xin phép Bề trên bản quyền là Giám mục Chaize Thịnh được tham gia ứng cử. Giám mục Chaize đồng ý và sau đó linh mục Phạm Bá Trực đã trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I. Tại quốc hội, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Thường trực Quốc hội vào tháng 3 năm 1946.
Tháng 5 năm 1947, linh mục Trực được bầu là Phó Ban Thường trực Quốc hội, tương đương Phó Chủ tịch Quốc hội hiện nay. Năm 1951, tại Đại hội thống nhất Việt Minh- Liên Việt, linh mục Phạm Bá Trực được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc và Ủy viên Hội Hữu nghị Việt – Hoa.
Thời gian kháng chiến, linh mục Trực di chuyển nhiều giáo xứ như Kẻ Chuôn, Thái Nguyên, Hà Đông. Ông vừa mục vụ và vừa chăm lo truyền nghề đan lát, làm nón cho cư dân trong vùng.
Phiên họp Hội đồng chính phủ 12/10/1954 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trù trì, đã xét truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và ngày 30/8/1961 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho linh mục Phạm Bá Trực.
Qua đời.
Linh mục Phạm Bá Trực mất vì bệnh tim ngày 5 tháng 10 năm 1954 tại Đại Từ, Thái Nguyên. Lễ tang của ông được tổ chức theo nghi lễ quốc gia. Trong lễ truy điệu ông có 3 điếu văn của Chủ tịch Liên Việt Tôn Đức Thắng, của Chủ tịch Ủy ban Liên lạc kháng chiến Liên khu III Vũ Xuân Kỷ và điếu văn của chủ tịch Hồ Chí Minh viết do Bộ trưởng Phan Anh thay mặt ông Hồ đọc lời điếu.
Sau đó vào lúc 9 giờ 30 ngày 7 tháng 10 năm 1954, lễ an táng linh mục Phạm Bá Trực được tổ chức tại nhà thờ An Huy, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 20 tháng 11 năm 1954, thánh lễ cầu nguyện cho linh mục Phạm Bá Trực đã được tổ chức trang trọng ở Nhà thờ lớn Hà Nội với sự có mặt của các lãnh đạo cao cấp của giáo hội Công giáo và chính quyền Việt Nam cùng hơn 4000 giáo dân.
Viết sách, báo.
Ngoài các công việc của đạo và đời, linh mục Phêrô Phạm Bá Trực còn là một dịch giả kinh thánh. Ông viết nhiều sách, biên soạn nhiều chủ đề vừa Công giáo vừa xã hội, viết báo... Một số tác phẩm tiêu biểu:
Nghiên cứu về linh mục Phạm Bá Trực.
Tiến sĩ Phạm Huy Thông trong một bài viết đăng trên trang thông tin của Ban tôn giáo chính phủ Việt Nam có thông tin về: ""tin đồn linh mục Trực bị giáo hội phạt treo chén là không có cơ sở". Theo ông Thông, Linh mục Trực khi ứng cử Quốc hội và đi kháng chiến đều đã xin phép và được sự đồng ý Giám mục bản quyền của ông. Linh mục Trực cũng cam kết khi kháng chiến thành công sẽ trở về tiếp tục làm công tác mục vụ. Trong một Lá thư do Hồng y Trịnh Như Khuê gửi Khâm sứ Dooley đề ngày 5 tháng 9 năm 1955 đã viết như sau: "... Cha Phạm Bá Trực đã đi với phép của Đức cha Thịnh (Chaize), vị tiền nhiệm của tôi, còn cha Vũ Xuân Kỷ có thể là tự ý ra đi. Khi nhận chức Giám mục, tôi chưa bao giờ gặp hai vị này…Cho tới nay, hai vị tiền nhiệm là Đức cha Thịnh và tôi nữa, chúng tôi chưa ra án phạt họ. Tôi tưởng trước hết hãy xem và nghe họ, những tin tức tôi lượm được về họ, thì hồ đồ và những điều phao tin về họ thường là gian dối"".
Ngày 28 tháng 11 năm 2009, UBND tỉnh Thái Nguyên và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên kết hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo đã cùng tổ chức Hội thảo Khoa học "Linh mục Phạm Bá Trực và đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ Kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)". Nhiều tham luận đã giới thiệu, đính chính về những vấn đề cần làm rõ của linh mục Trực cũng như các ý kiến đều nêu việc thực tế là hiện nay những hình ảnh về linh mục Phạm Bá Trực rất hiếm thấy.
Vinh danh.
Tên linh mục Phạm Bá Trực đựợc đặt cho hai con đường, một con đường tại thị xã Đông Triều, Thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh(20°51'39"N 106°40'52"E) và một tại Thái Nguyên. | 1 | null |
Physalis alkekengi là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
"Physalis alkekengi" (còn được gọi là "hoa đèn lồng Trung Quốc", "hoa đèn lồng Nhật Bản", hoặc "anh đào mùa đông") là một họ hàng xa của thế giới mới "P. peruviana" (cây chùm ruột Cape) . Loài này có nguồn gốc từ châu Á không giống như phần còn lại của "Physalis" có nguồn gốc từ châu Mỹ. Có thể dễ dàng nhận biết nó bằng lớp giấy lớn, màu cam sáng đến đỏ bao phủ trên quả, trông giống như những chiếc đèn lồng giấy. Nó mọc tự nhiên ở các khu vực từ Nam Âu đến Nam Á và Đông Bắc Á. Nó là một loại cây thân thảo lâu năm cao đến 40–60 cm, với các lá xếp xoắn ốc dài 6–12 cm và rộng 4–9 cm. Những bông hoa màu trắng, với tràng hoa năm thùy có chiều ngang 10–15 mm, với đài hoa hình gốc phồng lên, trưởng thành thành quả có màu cam bao phủ, dài và rộng 4–5 cm.
| 1 | null |
Thù lù lông (hay thù lù tây; danh pháp hai phần: Physalis peruviana) là loài thực vật có hoa trong họ Cà, là loài bản địa của Chile và Peru. Có chỗ còn gọi là tầm bóp Nam Mỹ, mặc dù tầm bóp là tên gọi khác của thù lù cạnh ("Physalis angulata") chứ không phải thù lù lông. Tên gọi bản xứ ở vùng Nam Mỹ là aguaymanto, uvilla và uchuva... Tên tiếng Anh phổ biến là Cape gooseberry, goldenberry và Peruvian groundcherry.
Loài này có lịch sử trồng trọt từ thời Đế quốc Inca. Cuối thế kỷ 18, nó được trồng tại Anh, và trồng tại Nam Phi ở vùng mũi Hảo Vọng ít nhất là từ đầu thế kỷ 19. Tới thế kỷ 20, thù lù lông được trồng hay mọc hoang dã khắp các miền ôn đới và nhiệt đới trên thế giới.
Miêu tả.
Thù lù lông có họ hàng gần với thù lù cạnh (tức tầm bóp, "Physalis angulata"), thù lù nhỏ ("Physalis minima"), "Physalis philadelphica"... hay xa hơn nữa là cà chua, cà tím và khoai tây.
Thù lù lông là thực vật hàng năm ở vùng ôn đới nhưng lại là thực vật lâu năm ở vùng nhiệt đới. Khi là cây lâu năm, thù lù lông có kiểu hình cây bụi phân nhánh rải rác, cành xòe, chiều cao đạt tới , lá hình trái tim mềm như nhung. Hoa có hình chuông và rủ xuống, chiều rộng , có màu vàng với các đốm màu nâu tím bên trong hoa. Sau khi hoa rụng, đài hoa nở ra, khi chín biến thành lớp áo màu be bao bọc hoàn toàn quả. Để phân biệt, mép lá tầm bóp có răng cưa, trong khi mép lá thù lù lông không có răng cưa.
Quản ăn được, có hình tròn, nhẵn, giống như quả cà chua thu nhỏ, có màu vàng sáng hay màu cam, to cỡ . Bao bọc xung quanh quả là một lớp áo, bóc ra sẽ thấy một quả mọng mà khi chín có vị ngọt, chua nhẹ đặc trưng giống quả nho.
Đặc điểm nổi bật nhất của quả cây này là lớp áo (calyx phồng lên như cái lồng đèn, sờ vào giống như giấy, bao kín từng quả mọng. Đây thực chất chính là phần đài hoa, lúc đầu có kích thước bình thường, nhưng sau khi cánh hoa rụng đi thì đài hoa tiếp tục phát triển cho đến khi tạo thành lớp vỏ bảo vệ xung quanh quả đang phát triển. Nếu quả còn nguyên vỏ đài hoa thì thời hạn sử dụng ở nhiệt độ phòng là khoảng 30–45 ngày. Đài hoa không ăn được.
Dinh dưỡng.
Quả thô có 85% là nước, 11% carbohydrat, 2% protein và 1% chất béo. quả cung cấp 53 Ca-lo và cung cấp mức độ vừa phải (chiếm 10–19% lượng tiêu thụ hàng ngày tham khảo) thiamin, niacin và vitamin C.
Quả có một số axit béo là acid linoleic và acid oleic; ngoài ra còn có các phytosterol là beta-sitosterol và campesterol, cùng với vitamin K và Β-Carotene.
Gieo trồng.
Người ta trồng rộng rãi thù lù lông ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới như Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia và Philippines. Thù lù lông mọc rất tốt ở nhiệt độ trung bình hàng năm từ , chịu được nhiệt độ cao tới . Cây mọc tốt ở vùng khí hậu Địa Trung Hải và có độ cứng USDA bằng 8, nghĩa là cây có thể bị sương muối gây hại. Cây phát triển tốt với mưa vào khoảng với điều kiện đất phải thoát nước tốt. Cây ưa nắng hoặc bóng râm một phần, mọc rất mạnh trên đất cát.
Cây dễ trồng từ hạt. Mỗi quả có 100 đến 300 hạt nhưng tỷ lệ ủ mầm thấp, cần hàng nghìn hạt để gieo một hecta. Cây trồng từ cành giâm một năm tuổi sẽ ra hoa sớm và cho năng suất tốt, nhưng sức sống kém hơn cây trồng từ hạt.
Công năng.
Theo Đông y, thù lù lông có vị đắng, tính hàn, không độc, có khả năng thanh nhiệt giải độc và lợi niệu tiêu thũng. Quả của cây có vị chua, tính bình, và có tác dụng thanh nhiệt lợi tiểu. Rễ của cây có tác dụng làm co rút tử cung.
Về công dụng và chỉ định, thù lù lông được sử dụng trong điều trị sốt, ho sưng họng, phiền nhiệt, và nôn nấc. Liều dùng thường là từ 20-40g, được sắc uống. Ngoài ra, thù lù lông cũng được sử dụng ngoại ô để điều trị mụn lở, với liệu pháp sử dụng 40-80g cây tươi, giã vắt lấy nước cốt uống, và bã cây thì có thể đắp hoặc xoa. Cũng có thể sử dụng nấu nước tắm rửa. Quả thù lù lông thích hợp cho trẻ em có triệu chứng nóng âm, gầy khô, cũng như cho phụ nữ trong giai đoạn sinh đẻ khó.
Ở Ấn Độ, lá thù lù lông được sử dụng để điều trị bệnh giun và đau ruột, trong khi cả cây được sử dụng làm thuốc lợi tiểu. Ở Trung Quốc, thù lù lông được ứng dụng để điều trị mụn, bệnh lỵ amip, bạch hầu, bệnh quai bị và viêm tinh hoàn. Quả của cây cũng được sử dụng trong trường hợp ho nóng và đau khi nuốt. | 1 | null |
Choi Min-ki (; sinh ngày 3 tháng 11 năm 1995), hay còn được biết đến bằng nghệ danh Ren (), là một nam ca sĩ Hàn Quốc, thành viên của nhóm nhạc nam Hàn Quốc NU'EST được thành lập bởi công ty giải trí Pledis Entertainment vào năm 2012.
Tiểu sử.
Ngay từ nhỏ, âm nhạc đã "ngấm" vào Ren một cách rất tự nhiên nhờ những ca khúc mà cha anh hát. Cha Ren từng mơ ước trở thành một ca sĩ, vì vậy ông luôn ủng hộ con trai đi theo nghiệp ca hát.
"Tôi đã thay cha thực hiện ước mơ trở thành ca sĩ. Ông ấy rất tự hào về tôi và tôi luôn cố gắng để không phụ lòng tin của cha" – Ren chia sẻ.
Ren đã tốt nghiệp trường korean Artist High School
Sự nghiệp.
Năm 2012: Debut với Face.
Ngày 16/1/2012, Pledis Entertainment tiết lộ teaser đầu tiên của Nu'est. Pledis Entertainment lần lượt tung teaser của các thành viên JR, Aron, Minhyun, Baekho và Ren. Ngày 2/3/2012, xe buýt mang tên Nu'est được lái xung quanh thành phố Seoul nhằm quảng bá cho sự ra mắt sắp tới của họ với ca khúc chủ đề "Face". Đồng thời công ty cũng tiết lộ rằng đĩa đơn đầu tay của nhóm được sáng tác bởi nhạc sĩ Thụy Điển Daniel Bergman.
Ngày 15/3/2012, nhóm phát hành MV đầy đủ cho ca khúc "Face". MV xoay quanh vấn đề tệ nạn xã hội như bạo lực học đường... đã được người dân ủng hộ nhiệt tình.
Cùng ngày hôm đó, nhóm có màn ra mắt trong chương trình Mnet's M! Countdown! với ca khúc "I'm Sorry" và ca khúc "Face".
Ngày 19/3/2012, NU'EST tham gia vào show truyền hình thực tế "Making of a Star: NU'EST, Landing Operation". Trong chương trình thực tế này, fan hâm mộ có thể thấy được một khía cạnh rất khác của NU'EST. Họ thật hài hước và dễ thương. Trên sân khấu, họ thể hiện sự quyến rũ và cách cư xử tốt của họ. Tuy nhiên, sau con người họ lại là sự ngây thơ. Ngày 9/5/2012 họ kết thúc tập phim cuối cùng của "Making of a star"
Sau khi kết thúc quảng bá ca khúc "Face", nhóm tiếp tục quảng bá ca khúc "I'm Sorry".
Ngày 7/4/2012, hai thành viên Minhyun và Ren đã được đặc cách tham gia trình diễn trong tuần lễ thời trang Seoul. ngày 11/7/2012, nhóm ra mắt mini album đầu tiên Action, và được nhiều sự chú ý, trang Fan cafe của nhóm cũng bị kẹt trong ít phút vì quá tải hiện tại, nhóm đang chuẩn bị luyện tập cho album thứ 3. Kế hoạch của nhóm là tấn công sang cả thị trường nước ngoài.
Tham gia như một vũ công trong chương trình khuyến mãi cho "Wonder Boy" của ASBlue tiểu đơn vị, Pledis sau đó tích hợp nó vào dự án của "Happy Pledis 2012". Thu hút nhiều sự chú ý khía cạnh nữ của mình, nhưng các đánh giá xấu anh không quan tâm. Trước khi ra mắt của nhóm, hình ảnh teaser của Ren, đã được tiết lộ, gây ra một mối quan tâm lớn từ cư dân mạng biết nếu đó là nam hay nữ.
Trở lại với mini album Action.
Sau khi ra mắt thành công với Face, Nu'est tiếp tục chứng minh sức hút qua hit Action. Qua ca khúc này, nhóm muốn nói về sự tự do, quyền được thể hiện tiếng nói, bản thân trong xã hội. Action nhanh chóng xuất hiện trong các bảng xếp hạng lớn.
Dã từ phong cách unisex.
Vào ngày 13-6-2014, đoạn clip【뉴파파 14일간의 기록】뉴이스트 (NU'EST) 13Days편 được đăng tải lên youtube. Đây là chương trình 14 ngày thử thách cho NUEST, trong đoạn video Ren đã quyết định cắt đi mái tóc dài và mãi mãi từ bỏ phong cách của anh suốt 2 năm kể từ ngày debut. Vào 00:00 ngày 22-6-2014, tấm teaser thứ 2 được tung ra với hình ảnh Ren với mái tóc ngắn và nam tính, album Re:Birth được tung ra với những teaser của anh đầy nam tính khoe cơ bụng 6 múi của mình, kể từ đây phong cách unisex đã hoàn toàn bị rũ bỏ.
Năm 2017.
Tham gia chương trình Produce 101 season 2 với tư cách trainee
Vị trí trong nhóm.
Ca sĩ, vũ công, center, maknae. | 1 | null |
Cà Mỹ (danh pháp khoa học: Solanum betaceum) còn gọi là "cà chua cây" hay "cà chua thân gỗ" là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được Cav. miêu tả cho học trước tiên năm 1799.
Phân bố.
Cây cà Mỹ xuất phát từ châu Nam Mỹ vùng núi Andes thuộc Peru, Chile, Ecuador và Bolivia. Cây này sau lan và mọc dại ở Argentina, Brasil, Colombia và Venezuela.
Ở New Zealand cây cà Mỹ được trồng một cách quy mô lấy trái xuất cảng.
Hột cà Mỹ du nhập Hoa Kỳ năm 1913 khi Bộ Canh nông Hoa Kỳ đặt mua và đem trồng ở Chico, California.
Miêu tả.
Cây cà Mỹ là loại lùm bụi hay cây nhỏ, thân mộc, cao khoảng 3-6 mét. Thân cây xốp, cành dễ gãy, rễ mọc nông gần mặt đất nên dễ bị gió xô bật gốc.
Lá cây dạng tim hoặc hình trứng, đầu lá mũi nhọn, dài 10–30 cm, rộng 3–12 cm. Thân lá có lông tơ.
Hoa cà Mỹ có hương thơm, mọc thành chùm. Mỗi hoa có năm cánh màu hồng nhạt, hay màu hoa cà. Hoa nở quanh năm nhưng nhiều nhất là vào mùa hè. | 1 | null |
Solanum incanum là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Tại Ấn Độ cổ đại, "Solanum incanum" được thuần dưỡng thành cà tím ("Solanum melongena"). Trong kinh thánh, đôi khi nó được sử dụng như là "hàng rào gai" (). | 1 | null |
Solanum mammosum (tiếng Việt gọi là cà đầu bò, cà vú hay trái dư ) là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Loài này chứa các chất solanine và scopolamine với nồng độ cao nên độc tính rất cao, ngoài ra còn có các độc chất như atropine và hyoscyamine gây ảo giác và liệt cơ. | 1 | null |
Solanum muricatum là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được Aiton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1789.
Giới thiệu.
Solanum muricatum có tên thông tục là Pepino, ở Việt Nam còn được gọi là dưa Nam Mỹ hay sâm sữa đã được trồng thử nghiệm thành công ở một số địa phương như Đà Lạt làm cây thương phẩm.
Giống dưa này khá dễ trồng, nhưng phải mất công giai đoạn đầu quấn, bắt giàn cho dây leo. Khi dây dưa đã trưởng thành thì chỉ tập trung chăm sóc và thu hoạch. Thời gian cây cho thu hoạch kéo dài khoảng 2 năm trước khi thay vụ mới, đem lại lợi nhuận cao cho người trồng. Dưa khi đến độ thu hoạch có màu vàng nhạt, mỗi quả trọng lượng 200-300 gram, da căng mọng. Điểm đặc biệt của loại dưa này là tùy theo từng giai đoạn sẽ mang hương vị của 10 loại trái cây khác nhau, là vị chuối, mít, ổi, xoài, kiwi, dưa lưới, dưa lê, dưa hấu, măng cụt, lê.
Giống quả này có lớp da láng mịn và rất mỏng có thể dùng tay lột ra rất dễ dàng. Bổ ra thấy bên trong ruột vàng ruộm, cùi dày, không có hạt hoặc hạt nhỏ li ti có thể ăn được. Cảm giác khi ăn mềm, mọng nước và thanh mát như dưa hấu. Quả có thể ăn trực tiếp hoặc cắt ra trộn đường, sữa chua hay làm sinh tố. Khi trái còn xanh, có màu trắng, có thể cắt lát trộn salad, vị giòn mát lạ miệng.
Đây là loại trái cây có chứa nhiều nước và có hàm lượng calo thấp, giàu các khoáng chất và vitamin rất tốt cho sức khỏe. Đặc biệt, dưa Pepino chứa ít đường và rất giàu chất xơ nên tạo cảm giác no lâu và phù hợp với những người ăn kiêng. Ngoài ra, đây là nguồn cung cấp dồi dào chất chống oxy hóa phù hợp nhiều người. | 1 | null |
Solanum pseudocapsicum là loài thực vật có hoa trong họ Cà. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đây là loài cây lâu năm có thể được trồng để trang trí như cây nhà, song ở một số khu vực của Nam Phi, Australia và New Zealand nó được coi là một loại cỏ dại.
Tổng quan.
Là loài bản địa Peru và Ecuador, chúng có thể sống sót trong điều kiện băng giá và thời tiết lạnh. Chúng có tuổi thọ lên đến 10 năm, thường ra quả trong năm thứ hai hoặc thứ ba và mỗi năm sau đó. Chúng có quả giống quả cà chua và quả rất giống với quả cà chua bi về vị và hình dạng và do đó dễ bị nhầm với cà chu bi.
Chất độc của quả loài này chủ yếu là solanocapsine, giống như các loại alkaloid khác được tìm thấy ở trong chi này, như solanine và atropine. Dù chất độc của chúng độc nhưng nhìn chung không đe dọa mạng sống con người. Nó có thể gây ra các vấn đề cho dạ dày nư nôn mửa và viêm dạ dày ruột được gọi bằng tên khoa học ngày nay đã không còn được sử dụng "S. ipecacuanha".
Quản se ri Jerusalem có thể độc đối với mèo và một số loài chim. | 1 | null |
Cuộc Thập tự chinh lần thứ tám là một chiến dịch được phát động bởi vua Louis IX của Pháp trong năm 1270. Cuộc Thập tự chinh lần thứ tám đôi còn được tính là thứ bảy, nếu cuộc Thập tự chinh Thứ năm và thứ sáu của Friedrich II được tính chỉ như là một cuộc thập tự chinh duy nhất. Cuộc Thập tự chinh lần thứ chín đôi khi cũng còn được tính như là một phần của cuộc Thập tự chinh lần thứ tám.
Louis đã bị thu hút bởi các sự kiện ở Syria, nơi Baybars I vị sultan người Mamluk đã tấn công những phần còn lại của các thành bang Thập tự chinh. v đã nắm lấy cơ hội sau một cuộc chiến tranh qua lại giữa các thành phố Venezia và Genova với nhau (1256-1260) đã cạn kiệt các hải cảng của Syria vốn được hai kiểm soát bởi thành phố này. Vào năm 1265 Baibars đã chiếm Nazareth, Haifa, Toron và Arsuf. Hugh III của đảo Síp, trên danh nghĩa là Vua của Jerusalem, đã đổ bộ xuống Acre để bảo vệ thành phố này trong khi Baibars hành quân xa về phía bắc Armenia, đây thuộc vùng kiểm soát của người Mông Cổ vào thời gian đó.
Những sự kiện này đã dẫn đến một lời kêu gọi của Louis cho một cuộc thánh chiến mới trong năm 1267, mặc dù thời gian này nó nhận được rất ít sự ủng hộ; Jean de Joinville, nhà sử gia đi cùng với Louis trong Cuộc Thập tự chinh lần thứ bảy, đã từ chối không cùng đi với ông ta nữa. Louis đã nhanh chóng bị thuyết phục bởi Charles của Anjou-anh trai của ông là đầu tiên phải tấn công Tunis, nơi này sẽ cung cấp cho họ một căn cứ vững chắc để tấn công Ai Cập, Trọng tâm của Louis trước cuộc thập tự chinh này cũng như trong Cuộc Thập tự chinh lần thứ năm, cả hai đều đã bị đánh bại ở đó. Charles, vua của Sicilia cũng có những lợi ích riêng của ông ta ở vùng biển Địa Trung Hải này. Vị Khalip của Tunis, Muhammad al-Mustansir I, cũng đã có liên lạc với người Kitô giáo ở Tây Ban Nha và được xem như là một ứng cử viên tốt cho việc chuyển đổi. Vào tháng 7 năm 1270 Louis đã đổ bộ xuống bờ biển châu Phi, một mùa rất bất lợi cho đổ bộ. Phần lớn quân đội bị bệnh vì ít uống nước nghèo, John Sorrow, người con trai của ông được sinh ra ở Damietta đã chết vào ngày 3 và đến ngày 25 tháng 8 thì bản thân Louis cũng đã chết vì một "căn bệnh trong dạ dày", một ngày sau khi có sự xuất hiện của Charles. Câu nói của ông trước khi chết là "Jerusalem." Charles tuyên bố Philippe III, con trai của Louis là nhà vua mới, nhưng vì ông này còn quá trẻ nên bản thân Charles trở thành lãnh tụ thực tế của cuộc thập tự chinh này.
Vì bệnh dịch tiếp tục bùng phát nên cuộc vây hãm Tunis của người Kitô giáo đã phải dừng lại và vào ngày 30 tháng 10 và một hiệp ước đã được ký với vị quốc vương Hồi giáo. Theo thỏa thuận này người Kitô giáo được tự do buôn bán với Tunis và nơi cư trú cho các tu sĩ và linh mục trong thành phố đã được đảm bảo, do đó cuộc thập tự chinh này có thể được coi là thành công một phần. Sau khi nghe về cái chết của Louis và quân Thập tự chinh đã rút khỏi Tunis, Sultan Baibars của Ai Cập hủy bỏ kế hoạch gửi quân Ai Cập của ông để chống lại Louis ở Tunis. Lúc nay Charles đã liên minh với Hoàng tử Edward của Anh, người vừa mới đến Đất thánh. Khi Charles chặn đứng các cuộc tấn công vào Tunis, Edward tiếp tục tiến vào Acre, tiền đồn cuối cùng của quân thập tự chinh ở Syria. Thời gian mà ông này ở đó người ta thường gọi là Thập tự chinh lần thứ IX. | 1 | null |
Cuộc Thập tự chinh lần thứ bảy là một chiến dịch được lãnh đạo bởi Louis IX của Pháp từ năm 1248-1254. Khoảng 800.000 đồng bezant đã được trả như là tiền chuộc cho vua Louis cùng với hàng ngàn binh lính của ông, những người bị đánh bại và bị bắt làm tù binh bởi quân đội Ai Cập do Quốc vương Ayyub Turanshah cùng với sự hỗ trợ của đội quân Mamluk, Bahariyya được chỉ huyh bởi Faris ad-Din Aktai, Baibars al-Bunduqdari, Qutuz, Aybak và Qalawun.
Bối cảnh.
Năm 1244, người Khwarezm, lúc này bị buộc phải di cư bởi các cuộc tiến công của người Mông Cổ, đã chiếm Jerusalem sau khi kết đồng minh với người Mamluk Ai Cập. Sự kiện này đã chuyển giao Jerusalem sang cho sự kiểm soát của người Hồi giáo, nhưng việc Jerusalem sụp đổ không còn là một sự kiện rung chuyển thế giới Kitô giáo châu Âu, những người đã quá quen với cảnh thành phố bị chuyển quyền kiểm soát nhiều lần từ tay người Thiên chúa giáo sang người Hồi giáo và ngược lại trong hai thế kỷ qua. Trong thời gian này, mặc dù có nhiều lời kêu gọi từ các Giáo hoàng, đã không còn sự nhiệt tình rộng rãi cho một cuộc thập tự chinh mới.
Giáo hoàng Innôcentê IV và Friedrich II, Hoàng đế La Mã Thần thánh tiếp tục cuộc chiến đấu giữa giáo hoàng và hoàng đế. Friedrich đã cho bắt giữ và giam cầm rất nhiều giáo sĩ trong khi họ đến Hội đồng đầu tiên của Lyon, và trong năm 1245 ông đã chính thức bị hạ bệ bởi Innôcentê IV. Trước đó Đức Giáo hoàng Grêgôriô IX cũng đã mời bá tước Robert xứ Artois - em trai vua Louis, nhận ngôi vua của nước Đức, nhưng Louis đã từ chối. Do đó, Hoàng đế La Mã Thần thánh không còn vị thế trong cuộc Thánh chiến. Henry III của Anh vẫn còn tranh giành với Simon de Montfort về các vấn đề ở Anh quốc. Henry và Louis đã không có được sự nhất trí trong cuộc tranh chấp giữa hai dòng họ Capetian-Plantagenet và trong khi nhà vua Louis tiến hành cuộc thập tự chinh ông đã ký một thỏa thuận ngừng bắn để bắt người Anh hứa hẹn không tấn công vào vùng đất Pháp. Louis IX cũng đã mời vua Haakon IV của Na Uy tham gia vào cuộc thập tự chinh này, và gửi sử gia Matthew Paris làm sứ giả, nhưng một lần nữa ông này đã không thành công. Chỉ có một người duy nhất quan tâm đến việc lãnh đạo một cuộc thập tự chinh do đó là Louis IX, người đã tuyên bố ý định của mình về một cuộc viễn chinh ở phương Đông trong năm 1245.
Giao tranh.
Pháp có lẽ là nhà nước mạnh nhất ở châu Âu vào thời điểm đó, bởi vì cuộc Thập tự chinh Albigeois đã mang vùng Provence vào sự kiểm soát của Paris. Vùng Poitou cũng nằm dưới sự cai trị của Alphonse de Poitiers, em trai của Louis IX, người gia nhập cuộc Thập tự chinh của ông trong năm 1245. Charles I của Anjou, một người anh em khác của ông cũng đã tham gia cùng với Louis. Trong ba năm Louis thu thuế thập phân của giáo hội, và năm 1248 ông có một đội quân hùng hậu gồm khoảng 15.000 người trong đó có 3.000 hiệp sĩ và 5.000 lính bắn nỏ đi trên 36 chiếc tàu từ hải cảng Aigues-Mortes, vốn được xây dựng để chuẩn bị cho cuộc thập tự chinh này và từ Marseille. Bộ máy tài chính của Louis IX chuyến chinh phạt này được tổ chức tương đối tốt và ông đã có thể huy động khoảng 1.500.000 Livre. Tuy nhiên, nhiều quý tộc tham gia vào cuộc thập tự chinh này cùng với Louis đã phải vay tiền từ ngân khố Hoàng gia và cuộc thập tự chinh lại trở nên là rất tốn kém.
Đầu tiên họ khởi hành đến Cyprus và trú đông trên hòn đảo này, sau khi đàm phán với một số cường quốc khác nữa ở phía đông, đế quốc La-tinh-vốn được thiết lập sau cuộc Thập tự chinh lần thứ tư yêu cầu giúp đỡ để chống lại Đế quốc Nicaea của người Byzantine, và Công quốc Antioch cùng với các Hiệp sĩ dòng Đền muốn nhận được sự giúp đỡ tại Syria, nơi mà lúc này người Hồi giáo đã chiếm Sidon.
Tuy nhiên, Louis IX cho rằng Ai Cập mới là đối tượng của cuộc thập tự chinh của mình, vào năm 1249 ông đã đổ bộ xuống Damietta trên bờ sông Nil, Ai Cập, Louis cho rằng địa điểm này sẽ tạo ra được một căn cứ để từ đó có thể tấn công Jerusalem, và sự giàu có cũng như kho ngũ cốc đầy ắp của nó sẽ cung cấp đủ trang bị và lương thực cho quân Thập tự chinh.
Ngày 6 tháng 6, Damietta đã bị chiếm chỉ với vài sự kháng cự nhỏ của người Ai Cập, họ đã rút lên thượng nguồn sông Nil. Lũ lụt của sông Nil đã không được đưa vào các tài liệu ghi chép, tuy nhiên nó đã giam chân Louis và quân đội của ông tại Damietta trong sáu tháng, nơi mà các hiệp sĩ đã ngồi và thưởng thức những chiến lợi phẩm của cuộc chiến. Louis đã bất chấp thoả thuận trong Cuộc Thập tự chinh lần thứ năm rằng Damietta phải được trao cho Vương quốc Jerusalem, lúc này chỉ còn là một vương quốc bị cắt xẻo nhằng nhịt ở xung quanh Acre, mà ông đã thiết lập một địa hạt có tổng giáo chủ và sử dụng thành phố như là một căn cứ chỉ huy các hoạt động quân sự chống lại người Hồi giáo ở Syria. Sử gia Hồi giáo al-Maqrizi ở thế kỷ thứ mười lăm miêu tả Louis IX đã gửi một bức thư cho Salih Ayyub và viết rằng:
Trong tháng 11, Louis đã hành quân tới Cairo, và gần như cùng lúc đó as-Salih Ayyub-vị sultan của triều Ayyub của Ai Cập qua đời. Một lực lượng do Robert của Artois chỉ huy và các Hiệp sĩ Templar tấn công vào doanh trại của quân Ai Cập tại Gideila và tiến đến Al Mansurah-nơi họ bị đánh bại tại Trận Al Mansurah và Robert đã bị giết chết. Trong khi đó, lực lượng chính của Louis bị tấn công bởi người Mameluk của Baybars, chỉ huy của quân đội và một vị sultan trong tương lai. Louis cũng đã bị đánh bại, nhưng ông đã không chịu rút quân về Damietta trong nhiều tháng mà muốn triển khai việc bao vây Mansourah, và cuộc bao vây này kết thúc với nạn đói và chết chóc cho quân Thập tự chinh chứ không phải là cho người Hồi giáo. Trong sự đau đớn đến tột cùng, một hiệp sĩ dòng Đền than thở:
Trong tháng 3 năm 1250 cuối cùng Louis đã cố gắng để quay trở về Damietta, nhưng ông đã bị bắt tù binh tại Trận Fariskur nơi mà quân đội của ông đã bị tiêu diệt. Louis bị ngã bệnh kiết lỵ và được chữa khỏi bệnh bởi một bác sĩ người Ả Rập. Trong tháng 5 ông đã chấp nhận khoản tiền chuộc 800.000 bezants, một nửa trong số đó đã được thanh toán trước khi nhà vua rời Ai Cập, và thành phố Damietta cũng phải đầu hàng như là một điều khoản của vụ chuộc người này. Lúc này, ông đã ngay lập tức rời Ai Cập để đến Acre, một trong vài vị trí còn sót lại của quân thập tự chinh ở Syria.
Hậu quả.
Louis đã ký một liên minh với người Mamluk, người vào thời điểm đó đã trở thành đối thủ của Sultan của Damascus, Và từ căn cứ mới của mình ở Acre, ông bắt đầu cho xây dựng lại các thành phố thập tự chinh khác, đặc biệt là Jaffa và Saida. Mặc dù Vương quốc đảo Síp vẫn khẳng định quyền của họ ở đó, Louis là người cai trị trên thực tế. Năm 1254, Louis đã hết tiền và sự hiện diện của ông là ở Pháp cần thiết, bởi vì mẹ ông là nhiếp chính Blanca de Castilla, Vương hậu Pháp vừa mới qua đời. Trước khi ông thành lập một đơn vị đồn trú thường trực của Pháp tại Acre, thủ đô của Vương quốc Jerusalem sau khi mất Jerusalem, để đại diện cho vương miện của vua nước Pháp, đội quân này đã lại đó cho đến khi Acre thất thủ vào năm 1291. Cuộc thập tự chinh của ông là một thất bại, nhưng ông vẫn được coi là một là một vị thánh bởi nhiều người dân và danh tiếng của ông đã tạo cho ông một quyền lực lớn hơn nữa ở châu Âu và còn lớn hơn cả Hoàng đế La Mã Thần thánh. Năm 1270, ông lại cố gắng tiến hành một cuộc thập tự chinh nữa, rồi thì nó cũng đã kết thúc trong thất bại. Sau đó, Louis còn qua đời vì bệnh dịch hạch tại Tunis. Con trai ông là Philip III lên ngôi, nhưng về sau không châm ngòi thêm cuộc thập tự chinh nào. | 1 | null |
Bezant là một thuật ngữ thời trung cổ cho một đồng tiền vàng có xuất xứ từ Đế chế Byzantine. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tên gọi trong tiếng Hy Lạp Βυζάντιον ("Byzántion"), của một thành phố tương đối nhỏ mà vào thế kỷ thứ 4 CN đã được tái thành lập thành thành phố Constantinopolis (tức Istanbul ngày nay) bởi Hoàng đế La Mã Constantinus Đại đế và trở thành thủ đô của Đế quốc Đông La Mã. Tiền tệ chính thức của Đế quốc Đông La Mã là "solidi", được sử dụng từ thời của Constantinus. | 1 | null |
Cuộc vẫy hãm Bani Walid từ tháng Chín đến tháng 10 năm 2012 khi lực lượng chính phủ tái chiếm thành phố từ tay dân quân nổi dậy.
Bani Walid, cách thủ đô Tripoli chừng 140 km về phía Đông Nam, là cứ địa vững chắc sau cùng của thành phần thân chế độ Moammar Gadhafi trong suốt thời gian tám tháng có cuộc nổi dậy và ngay cả sau khi chế độ bị lật đổ.
Ngày 23 tháng 10, nguồn tin từ cơ quan thông tấn nhà nước Libya ghi nhận có 13.000 gia đình đã phải di tản vì chiến cuộc.
Ngày 24 tháng 10, thành phần dân quân thân chính phủ Libya chiếm được trung tâm thành phố, tiếp theo các cuộc đụng độ dữ dội khiến hàng chục người thiệt mạng và hàng chục ngàn người khác phải rời bỏ nhà cửa đi lánh nạn.
Giới truyền thông hiện diện tại Bani Walid nhìn thấy các tay súng dân quân bắn chỉ thiên chào mừng việc chiếm được nơi này ngày 24 tháng 10. Các cột khói bốc cao ở khu vực bên ngoài phi trường, nơi các cuộc giao tranh vẫn còn tiếp diễn dù rằng có bản thông cáo của chính phủ loan tin hoàn toàn kiểm soát nơi này. | 1 | null |
Eloise Sophie Beatrix Laurence ("Elo(lo)"), Nữ bá tước xứ Oranje-Nassau, Nữ thiếu chủ nhà Amsberg (; sinh ngày 8 tháng 06 năm 2002 tại Bệnh viện Bronovo ở Den Haag) là con trưởng của Hoàng tử Constantijn và Công nương Constantijn Laurentien. Cô là thành viên của Hoàng gia Hà Lan và hiện đứng thứ 5 trong dòng kế vị ngai vàng của Vương quốc Hà Lan.
Nữ Bá tước Eloise sống cùng cha mẹ, anh trai và em gái của cô tại Brussels, Bỉ. | 1 | null |
Lưu Hưng Cư (chữ Hán: 劉興居, ?-177 TCN), hay Tế Bắc vương Cư (济北王居), là tông thất, vua chư hầu nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế.
Lưu Hưng Cư là cháu nội của Hán Cao Tổ Lưu Bang, vua đầu tiên của nhà Hán, con trai thứ ba của Tề Điệu Huệ vương Lưu Phì, con trưởng của Cao Tổ. Do bà ông chỉ là vợ thứ nên Lưu Phì không được làm thái tử, mà thay vào đó là người chú của Hưng Cư, Lưu Doanh, còn cha ông chỉ được phong tước Tề vương. Sau khi cha qua đời, người anh ông là Tề Ai vương nối ngôi vua Tề, còn ông chưa được phong chức vụ gì.
Tham gia diệt họ Lã.
Năm 182 TCN, thời Lã Thái hậu, Lưu Hưng Cư được phong tước Đông Mưu hầu. Bấy giờ Lã Thái hậu nắm quyền trong triều, phế họ Lưu để lập người họ Lã làm vương, tạo thành thế lực lớn trong triều.
Năm 180 TCN, Lã Thái hậu chết, thân tộc họ Lã là Lã Lộc và Lã Sản hợp binh muốn làm loạn. Đông Mưu hầu cùng người anh là Chu Khư hầu Lưu Chương cùng làm nội ứng, định lập anh trưởng là Tề vương làm hoàng đế. Tuy nhiên sau đó kế hoạch này không thành vì hai tướng Trần Bình, Chu Bột đã nắm quyền chủ động, giết hết thân tộc họ Lã và không đồng ý lập Tề vương mà đưa con thứ của Hán Cao Tổ là Lưu Hằng lên ngôi, tức Hán Văn đế.
Làm phản và tự sát.
Do có công diệt họ Lã, Lưu Hưng Cư được Hán đế phong tước Tế Bắc vương vào năm 178 TCN. Tuy nhiên ông cho rằng đáng lý ngôi hoàng đế phải thuộc về dòng dõi cha mình, nên có ý định tạo phản.
Năm 178 TCN, hai người anh là Tề vương Lưu Tương và Thành Dương vương Lưu Chương lần lượt qua đời, Lưu Hưng Cư từ đó có ý định chiếm ngôi vua. Năm 177 TCN, nhân quân Hung Nô xâm phạm biên cương, Hán Văn đế và thừa tướng Quán Anh dẫn quân chống trả, ra khỏi Trường An, đóng ở Thái Nguyên. Lưu Hưng Cư nhân có hội đó đem quân tấn công triều đình. Hán Văn đế bèn về Trường An, sai Sài Vũ dẫn quân dẹp loạn, đánh bại quân Tế Bắc. Lưu Hưng Cư tuyệt vọng bèn tự sát, không được ban thụy hiệu.
13 năm sau khi ông qua đời, người em ông là Lưu Chí được Hán Văn đế cho kế thừa tước Tề Bắc vương. | 1 | null |
Đáp ứng (chữ Hán: 答應) vốn là một chức danh, cách gọi dành cho cung nữ, nữ quan lẫn hoạn quan vào thời nhà Minh. Sang đến đời nhà Thanh, ban đầu đây là một dạng danh xưng của cung nữ, nhưng dần thì trở thành một cấp bậc của phi tần.
Lịch sử.
Vào thời nhà Minh, chức vụ này dành cho cả nữ quan và hoạn quan, dành cho cận thị luôn phục vụ cho Hoàng đế, Hoàng hậu và Thái hậu. Do vậy, họ còn gọi là Đáp ứng nhân (答應人), nếu là cung nữ thì gọi là Đáp ứng cung nữ (答應宮女). Cao cấp hơn còn được gọi là Đáp ứng chấp sự (答應執事), tiếp theo là Đại đáp ứng (大答應) và Tiểu đáp ứng (小答應). Cung Túc Hoàng quý phi, sủng phi của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm từng là Tiểu đáp ứng cho Tôn Thái hậu.
Sang thời nhà Thanh, cấp bậc này ban đầu cũng để chỉ cung nữ, sau dần trở thành danh hiệu cho phi tần, thuộc hàng thấp nhất, chỉ trên một danh vị không phẩm trật là Quan nữ tử. Đáp ứng tuy là thấp nhất, chỉ có 2 cung nữ cùng 1 thái giám hầu hạ, nhưng vẫn là gia thất của Hoàng đế, Tổng quản thái giám vẫn phải quỳ lạy. Trong lịch sử Bát kỳ tuyển tú, chưa từng có ai phong làm Đáp ứng sau khi tuyển tú, thấp nhất là Thường tại, do vậy đây có thể xem là tước vị đệm cho cung nữ tấn phong từ Quan nữ tử. | 1 | null |
Ewald Christian Leopold von Kleist (25 tháng 3 năm 1824 tại Stolp in Hinterpommern – 29 tháng 12 năm 1910 tại Potsdam) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng tới cấp Thượng tướng Bộ binh đồng thời là Trưởng Đạị tá ("Regimentschef") Trung đoàn Bộ binh "Bá tước Dönhoff" (số 7 Đông Phổ) số 44. Ông đã từng tham gia trong ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức.
Tiểu sử.
Thân thế.
Ewald là con trai út của Leopold Friedrich von Kleist (7 tháng 4 năm 1780 – 4 tháng 6 năm 1837), một cựu Thiếu tá đã từng phục vụ trong Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 và là trưởng dịch trạm tại Stolp. Thân mẫu của ông là bà Wilhelmine Agnes Friederike, tên khai sinh von Blanckensee (1788 – 1867).
Sự nghiệp quân sự.
Kể từ năm 1836 cho đến năm 1838, Von Kleist học trường thiếu sinh quân Kulmer, rồi sau đó ông nhập học trường thiếu sinh quân ở kinh đô Berlin cho đến năm 1841. Vài ngày 12 tháng 8 năm 1841, ông đã nhập ngũ quân đội Phổ với quân hàm thiếu úy trong Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 và tham gia giao chiến trên đường phố Berlin trong cuộc đánh đẹp cách mạng ở thủ đô vào tháng 3 năm 1848. Vào năm 1861, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy Trường Hạ sĩ ("Unteroffiziers-Schule") Potsdam. Vào năm 1863, Kleist được phong quân hàm Thiếu tá. Trên cương vị là sĩ quan phụ tá của Bộ Tổng chỉ huy [[quân đội liên minh [[Đế quốc Áo|Áo]] - Phổ trong cuộc [[Chiến tranh Schleswig lần thứ hai|Chiến tranh Đức-Đan Mạch]] năm [[1864]], ông đã tham chiến trong [[Trận Dybbøl|trận đột chiếm Dybbøl]] và [[trận Als|cuộc đổ bộ thành công]] lên [[Als (Đan Mạch)|đảo Alsen]]. Do vậy, ông đã được tặng thưởng [[Huân chương Đại bàng Đỏ]] hạng IV với [[Kiếm|Bảo kiếm]].
Vào năm [[1866]], ông được bổ nhiệm làm chỉ huy của [[Tiểu đoàn]] một trong trung đoàn của mình, và đã tham chiến trong các trận đánh tại [[Trận Soor (1866)|Soor]], [[Trận Königinhof|Königinhof]] và trận đánh quyết định ở [[Trận Königgrätz|Königgrätz-Sadowa]]. Vì những thành tích của ông trong cuộc chiến, ông đã được trao tặng [[Pour le Mérite|Huân chương Quân công]], phần thưởng quân sự cao quý nhất của [[Phổ (quốc gia)|Phổ]], vào ngày [[20 tháng 9]] năm 1866. Vào năm [[1868]], ông lãnh chức Trung đoàn trưởng của [[Trung đoàn Phóng lựu số 89 Đại Công quốc Mecklenburg|Trung đoàn Phóng lựu số 89 Mecklenburg]] rồi sang năm sau, ông được thăng cấp [[Đại tá]] vào ngày [[18 tháng 6]] năm [[1869]]. Với cấp bậc này, Von Kleist đã tham chiến trong cuộc [[Chiến tranh Pháp-Phổ|Chiến tranh Pháp-Đức]] ([[1870]] – [[1871]]), tham gia các [[cuộc vây hãm Metz (1870)|cuộc vây hãm Metz]], [[Cuộc vây hãm Toul|Toul]] và [[Cuộc vây hãm Paris (1870–1871)|Paris]], cùng với các cuộc giao chiến tại [[Trận Dreux (1870)|Dreux]], la Madeleine, Bouvet, Villorceau, Connerée và trận đánh quyết định tại [[trận Le Mans|Le Mans]]. Được tặng thưởng [[Thập tự Sắt|Huân chương Thập tự Sắt]] cả hạng nhất lẫn hạng nhì, Kleist đã dẫn trung đoàn của ông về đồn trú sau khi cuộc [[chiến tranh]] chấm dứt. Vì những cống hiến của ông đối với đạo quân của [[Friedrich Franz II xứ Mecklenburg-Schwerin|Đại Công tước xứ Mecklenburg-Schwerin]], Mecklenburg đã phong cho ông tước Chỉ huy ("Komtur") của [[Huân chương Gia tộc Vương miện Wendischen]] vào ngày [[29 tháng 3]] năm [[1873]].
Vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[1873]], Kleist rời khỏi chức chỉ huy của mình, đồng thời ông được lên quân hàm [[Thiếu tướng]] và đưa vào ngạch sĩ quan trừ bị, gọi là "Offizieren von der Armee". Tiếp theo đó, ông nhậm chức Tư lệnh của [[Lữ đoàn]] Bộ binh số 41 vào ngày [[16 tháng 9]] năm 1873. Ông được thăng cấp [[Trung tướng]] vào ngày [[8 tháng 2]] năm [[1880]] và lãnh chức Tư lệnh của [[Sư đoàn Cận vệ số 1 (Đế quốc Đức)|Sư đoàn Cận vệ số 1]], và chỉ huy [[sư đoàn]] cho đến ngày [[31 tháng 5]] năm [[1885]]. Sau đó, ông giữ chức [[Tướng tư lệnh]] của [[Quân đoàn I (Phổ)|Quân đoàn I]] tại [[Kaliningrad|Königsberg]] và trên cương vị này ông đã được thăng cấp [[Đại tướng|Thượng tướng]] [[Bộ binh]] vào ngày [[18 tháng 9]] năm [[1886]].
Kleist được [[Hoàng đế Đức|Đức hoàng]] [[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II]] trao tặng [[Đại Thập tự]] của [[Huân chương Đại bàng Đỏ]] vào ngày [[11 tháng 5]] năm [[1889]], đồng thời được xuất ngũ theo yêu cầu của ông. Đến ngày [[11 tháng 1]] năm [[1896]], ông lại được ban tặng [[kim cương]] trên đại thập tự của huân chương đại bàng đỏ đính kèm bó sồi và bảo kiếm. Vào năm [[1901]], ông tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm ngày gia nhập quân ngũ. Ông [[chết|từ trần]] vào ngày [[29 tháng 12]] năm [[1910]] tại Potsdam.
Gia đình.
Vào ngày [[23 tháng 4]] năm [[1856]], ở Pessin, Ewald von Kleist đã thành hôn với Ottilie Wilhelmine Betty von Knoblauch ([[12 tháng 3]] năm [[1834]] ở Pessin – [[21 tháng 9]] năm [[1914]] ở Potsdam). Cặp đôi này có những người con sau:
Chú thích.
[[Thể loại:Tướng Phổ]]
[[Thể loại:Tướng Đức]]
[[Thể loại:Nhân vật trong Chiến tranh Schleswig lần thứ hai]]
[[Thể loại:Nhân vật trong Chiến tranh Áo-Phổ]]
[[Thể loại:Người nhận Pour le Mérite]]
[[Thể loại:Người nhận Huân chương Bảo kiếm]]
[[Thể loại:Quân nhân Đức trong Chiến tranh Pháp–Phổ]]
[[Thể loại:Người nhận Huân chương Vương miện Wendischen]]
[[Thể loại:Người nhận Huân chương Vương miện Vương quốc Phổ hạng hai]]
[[Thể loại:Người nhận Đại Thập tự của Huân chương Đại bàng Đỏ]]
[[Thể loại:Kleist (gia tộc)|Ewald Christian Leopold]]
[[Thể loại:Sinh năm 1824]]
[[Thể loại:Mất năm 1910]] | 1 | null |
Nhiên liệu sinh học là một loại nhiên liệu được hình thành thông qua các quá trình sinh học hiện đại, như nông nghiệp và bể tự hoại, thay vì nhiên liệu được tạo ra bởi quá trình địa chất hình thành nên những nhiên liệu hóa thạch, chẳng hạn như than đá và dầu mỏ, từ những vật chất sinh học thời tiền sử.
Nhiên liệu sinh học có thể được lấy trực tiếp từ thực vật hoặc gián tiếp từ chất thải nông nghiệp, thương mại, chất thải hộ gia đình hoặc công nghiệp.
Nhiên liệu sinh học tái tạo thường liên quan đồng thời cố định cacbon, chẳng hạn như những chất xảy ra trong thực vật hoặc vi tảo thông qua quá trình quang hợp. Các nhiên liệu sinh học tái tạo khác được thực hiện thông qua việc sử dụng hoặc chuyển đổi sinh khối (liên quan đến các sinh vật sống, thường đề cập đến thực vật hoặc các nguyên liệu có nguồn gốc từ thực vật). Sinh khối này có thể được chuyển đổi thành các chất có chứa năng lượng thuận tiện theo ba cách khác nhau: chuyển đổi nhiệt, chuyển đổi hóa học và chuyển hóa sinh hóa. Việc chuyển đổi sinh khối này có thể dẫn đến việc hình thành nhiên liệu ở dạng rắn, lỏng hoặc khí. Sinh khối mới này cũng có thể được sử dụng trực tiếp cho nhiên liệu sinh học.
Nhiên liệu etanol là một loại rượu được làm bằng quá trình lên men, chủ yếu là từ carbohydrates được sản xuất trong đường hoặc tinh bột các loại cây trồng như ngô, mía, or cao lương. Cellulose, có nguồn gốc từ các nguồn phi thực phẩm, như cây và cỏ, cũng đang được phát triển như là nguyên liệu cho việc sản xuất ethanol. Ethanol có thể được sử dụng làm nhiên liệu cho các loại phương tiện ở dạng nguyên chất, nhưng nó thường được sử dụng như là chất phụ gia cho xăng để tăng chỉ số octan và cải thiện lượng khí thải xe. Nhiên liệu etanol sinh học được sử dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ và Brazil.
diesel sinh học có thể được sử dụng làm nhiên liệu cho các loại phương tiện ở dạng nguyên chất của nó, nhưng nó thường được sử dụng làm phụ gia diesel thêm vào để giảm mức hạt phân tán, carbon monoxit và hydrocarbon từ các loại xe chạy bằng diesel. Dầu diesel sinh học được sản xuất từ dầu hoặc chất béo qua sử dụng transesterification và là nhiên liệu sinh học phổ biến nhất ở châu Âu.
Năm 2010, sản lượng nhiên liệu sinh học trên toàn thế giới đạt 105 tỷ lít (28 tỷ gallon Mỹ), tăng 17% so với năm 2009, và nhiên liệu sinh học cung cấp 2,7% nhiên liệu cho vận tải đường bộ của thế giới. Sản lượng nhiên liệu ethanol trên toàn cầu đạt 86 tỷ lít (23 tỷ gallon Mỹ) trong năm 2010, với Hòa Kỳ và Brazil là những nước sản xuất đứng hàng đầu thế giới, cùng nhau chiếm khoảng 90% sản lượng toàn cầu. Nhà sản xuất diesel sinh học lớn nhất thế giới là Liên minh Châu Âu, chiếm khoảng 53% tổng sản lượng diesel sinh học trọng năm 2010. As of 2011, mandates for blending biofuels exist in 31 countries at the national level and in 29 states or provinces. The International Energy Agency has a goal for biofuels to meet more than a quarter of world demand for transportation fuels by 2050 to reduce dependence on petroleum and coal. The production of biofuels also led into a flourishing automotive industry, where by 2010, 79% of all cars produced in Brazil were made with a hybrid fuel system of bioethanol and gasoline.
Có khá nhiều vấn đề về xã hội, kinh tế, môi trường và công nghệ liên quan đến việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học, những vấn đề trên đã được tranh luận trong các tạp chí khoa học và truyền thông phổ biến.
Các thế hệ.
Thế hệ đầu tiên của năng lượng sinh học.
"Nhiên liệu sinh học thế hệ thứ nhất" hoặc nhiên liệu sinh học thông thường là nhiên liệu sinh học được làm từ cây lương thực trồng trên đất canh tác. Với thế hệ sản xuất nhiên liệu sinh học này, cây lương thực được trồng với mục đích sản xuất nhiên liệu, và không được sử dụng với bất kỳ mục đích nào khác. Đường, tinh bột hoặc dầu thực vật thu được từ các loại cây trồng được chuyển đổi thành dầu diesel sinh học hoặc ethanol, sử dụng quá trình este hóa hoặc lên men bằng nấm men.
Nhiên liệu sinh học thế hệ thứ hai.
Nhiên liệu sinh học thế hệ thứ hai là nhiên liệu được sản xuất từ nhiều loại sinh khối. Sinh khối là một thuật ngữ rộng có nghĩa là bất kỳ nguồn cacbon hữu cơ nào được tạo mới nhanh chóng như một phần của chu trình cacbon. Sinh khối có nguồn gốc từ nguyên liệu thực vật, nhưng cũng có thể bao gồm vật liệu động vật.
Trong khi các nhiên liệu sinh học thế hệ đầu được tạo ra từ [cây] và dầu thực vật được tìm thấy trong các loại cây trồng, nhiên liệu sinh học thế hệ thứ hai được làm từ sinh khối licno xenluloza hoặc cây gỗ, dư lượng nông nghiệp hoặc chất thải thực vật (từ cây lương thực nhưng họ đã hoàn thành mục đích về thực phẩm của họ).. Nguyên liệu được sử dụng để tạo ra nhiên liệu sinh học thế hệ thứ hai phát triển trên những vùng đất không thể sử dụng để trồng thực phẩm một cách hiệu quả và sự phát triển của chúng không cần tiêu thụ nhiều nước hay phân bón. Các nguồn nguyên liệu bao gồm cỏ, cây jatropha và các loại cây trồng khác, dầu thực vật thải, chất thải rắn đô thị và vv..
Điều này có cả ưu điểm và nhược điểm. Ưu điểm là, không giống như các loại cây lương thực thông thường, không có đất canh tác nào được sử dụng chỉ để sản xuất nhiên liệu. Những bất lợi là không giống như với các loại cây lương thực thông thường, khá khó khăn để trích xuất nhiên liệu từ loại này. Ví dụ, một loạt các phương pháp điều trị vật lý và hóa học có thể được yêu cầu để chuyển đổi sinh khối licno xenluloza thành nhiên liệu lỏng thích hợp cho giao thông vận tải.
Nhiên liệu sinh học thế hệ thứ ba.
Từ năm 1978 đến năm 1996, US NREL đã thử nghiệm sử dụng tảo làm nguồn nhiên liệu sinh học trong "Chương trình loài thủy sinh". Một bài báo tự xuất bản của Michael Briggs, tại UNH Nhóm nhiên liệu sinh học, đã đưa ra các ước tính cho việc thay thế tất cả các loại nhiên liệu mô tô bằng nhiên liệu sinh học thông qua cách sử dụng tảo tự nhiên với hàm lượng dầu lớn hơn 50%, mà Briggs gợi ý có thể được trồng trên các ao tảo tại các nhà máy Xử lý nước thải. Loại tảo giàu dầu này sau đó có thể chiết xuất từ hệ thống và chế biến thành nhiên liệu sinh học, với phần còn lại được sấy khô và tiếp tục tái chế để tạo ra ethanol. Việc sản xuất tảo để thu hoạch dầu cho nhiên liệu sinh học vẫn chưa được thực hiện trên quy mô thương mại, nhưng những nghiên cứu khả thi đã được tiến hành và cho thấy có thể đạt trên sản lượng đã ước tính. Ngoài năng suất cao, nuôi trồng thủy sản-không giống như các loại nhiên liệu sinh học dựa trên trồng trọt - không bắt buộc phải giảm sản lượng lương thực, vì nó không đòi hỏi cả đất nông nghiệp và nước sạchNhiều công ty đang theo đuổi các lò phản ứng sinh học tảo cho các mục đích khác nhau, bao gồm cả việc mở rộng quy mô sản xuất nhiên liệu sinh học cho mục đích thương mại.Giáo sư Rodrigo E. Teixeira từ Đại học Alabama ở Huntsville đã chứng minh việc khai thác các chất béo sinh học từ tảo ướt bằng việc sử dụng phản ứng đơn giản và mang tính kinh tế trong chất lỏng ion. Prof. Rodrigo E. Teixeira from the University of Alabama in Huntsville demonstrated the extraction of biofuels lipids from wet algae using a simple and economical reaction in ionic liquids.
Nhiên liệu sinh học thế hệ thứ tư.
Tương tự như nhiên liệu sinh học thế hệ thứ ba, nhiên liệu sinh học thế hệ thứ tư được tạo thành bằng cách sử dụng đất không canh tác được. Tuy nhiên, không giống như nhiên liệu sinh học thế hệ thứ ba, chúng không yêu cầu tiêu hủy sinh khối. Lớp nhiên liệu sinh học này bao gồm electrofuels and photobiological solar fuels. Một số nhiên liệu này là carbon trung tính. Việc chuyển đổi dầu thô từ hạt giống cây trồng thành nhiên liệu hữu ích được gọi là Sự chuyển hóa.
Các loại nhiên liệu sinh học.
Các nhiên liệu sau đây có thể được sản xuất bằng cách sử dụng quy trình sản xuất nhiên liệu sinh học thế hệ thứ nhất, thứ hai, thứ ba hoặc thứ tư. Hầu hết chúng thậm chí có thể được sản xuất bằng cách sử dụng hai hoặc ba quy trình sản xuất nhiên liệu sinh học khác nhau.
Ethanol.
Sản xuất rượu sinh học, phổ biến nhất là ethanol, và ít phổ biến hơn là propanol và butanol,được tạo ra bởi tác động của [[vi sinh vật] ] và [[enzyme]] thông qua quá trình lên men của đường hoặc tinh bột (dễ nhất),hoặc cellulose (khó hơn).[[Biobutanol]] (còn gọi là biogasoline) thường được cho là cung cấp thay thế trực tiếp cho xăng, vì nó có thể được sử dụng trực tiếp trong động cơ xăng.
[[Tập_tin:Bushlulacana09032007.jpg|nhỏ|U.S. President [[George W. Bush]] looks at sugar cane, a source of biofuel, with Brazilian President [[Luiz Inácio Lula da Silva]] during a tour on biofuel technology at [[Petrobras]] in [[São Paulo]], Brazil, ngày 9 tháng 3 năm 2007.]]
[[nhiên liệu Ethanol]] là nhiên liệu sinh học phổ biến nhất trên toàn thế giới, đặc biệt là [[năng lượng ethanol ở Brazil]]. [[Nhiên liệu cồn]] được sản xuất bằng cách lên men đường có nguồn gốc từ [[lúa mì]], [[Ngô bắp]], [[củ cải đường]], [[mía]], [[mật đường]] và bất kỳ đường hoặc tinh bột nào từ đó có thể tạo ra [[đồ uống có cồn]] như rượu [[whiskey]], (chẳng hạn như [[khoai tây]] và [[trái cây]], vv). Các phương pháp sản xuất ethanol thường được sử dụng là [[tiêu hóa enzyme]] (để giải phóng đường từ tinh bột đã được lưu trữ), lên men đường, [[chưng cất]] và sấy khô. Quá trình chưng cất đòi hỏi một lượng lớn năng lượng nhiệt đáng kể ở đầu vào (đôi khi [[nhiên liệu tự nhiên]] năng lượng hóa thạch không bền vững, ngược lại sinh khối xenlulô như [[bã mía]], chất thải còn sót lại sau khi ép mía được chiết xuất nước ép, là nhiên liệu phổ biến nhất ở Brazil, trong khi bột viên, dăm gỗ và nhiệt thải cũng phổ biến hơn ở châu Âu)) Nhà máy sản xuất ethanol bằng nhiên liệu hơi nước – nơi nhiệt thải từ các nhà máy cũng được sử dụng trong mạng lưới làm nóng.
Ethanol có thể được sử dụng trong động cơ xăng như là một sự thay thế xăng; nó có thể được trộn với xăng với bất kỳ tỷ lệ phần trăm nào. Hầu hết các động cơ xăng xe hiện tại có thể chạy vớihỗn hợp nhiên liệu lên đến 15% ethanol sinh học với xăng dầu. Ethanol có [[mật độ năng lượng]] nhỏ hơn so với xăng; điều này có nghĩa là phải mất nhiều nhiên liệu hơn (dung tích và khối lượng) để tạo ra cùng một lượng động năng. Một lợi thế của ethanol () là nó có [[chỉ số octane]] cao hơn so với xăng không có ethanol hiện có ở các trạm xăng trên đường, cho phép tăng [[tỷ lệ nén]] của động cơ để tăng [[hiệu suất nhiệt]]. Ở các địa điểm có độ cao (không khí loãng), một số tiểu bang chỉ định một hỗn hợp xăng và ethanol vào mùa đông [[oxy hóa]] để giảm lượng khí thải gây ô nhiễm không khí.
Ethanol cũng được sử dụng để đốt các [[lò sưởi]] ethanol sinh học. Vì nó không yêu cầu phải có ống khói, lò sưởi ethanol sinh học là cực kỳ hữu ích cho những ngôi nhà và căn hộ mới xây mà không có ống khói.Nhược điểm đối với các lò sưởi này là đầu ra nhiệt của chúng hơi nhỏ hơn nhiệt điện hoặc khí cháy, và các biện pháp phòng ngừa phải được thực hiện để tránh ngộ độc carbon monoxide.
Ngô-thành-ethanol và các thực phẩm dự trữ khác đã dẫn đến sự phát triển của [[ethanol từ rơm rạ]]. Theo một chương trình nghiên cứu chung được tiến hành thông qua [[Bộ Năng lượng Hoa Kỳ]], the fossil energy ratios ([[Fossil Energy Ratio|FER]]) for cellulosic ethanol, corn ethanol, and gasoline are 10.3, 1.36, and 0.81, respectively.
Ethanol có hàm lượng năng lượng thấp hơn một phần ba so với xăng trên cùng một đơn vị thể tích. Điều này một phần bị mất tác dụng bởi hiệu suất tốt hơn khi sử dụng ethanol (trong một thử nghiệm dài hạn hơn 2,1 triệu km, dự án BEST đã tìm thấy xe FFV tiết kiệm năng lượng hơn 1–26% so với xe xăng, nhưng mức tiêu thụ thể tích tăng lên khoảng 30%, vì vậy cần phải có nhiều trạm tiếp nhiên liệu hơn).
Với trợ cấp hiện tại, nhiên liệu ethanol rẻ hơn một chút cho mỗi khoảng cách di chuyển tại Hoa Kỳ.
Dầu diesel sinh học.
[[Biodiesel]] là nhiên liệu sinh học phổ biến nhất ở châu Âu. Nó được sản xuất từ dầu hoặc chất béo đã qua sử dụng [[Sự chuyển hóa]] và là một chất lỏng tương tự trong chế phẩm để tạo thành như khoáng thạch diesel. Về mặt hóa học, nó bao gồm chủ yếu là các [[axit béo]] metyl (hoặc etyl) este ([[Axit béo metyl este|FAME]]). Nguyên liệu cho dầu diesel sinh học bao gồm mỡ động vật, dầu thực vật, [[đậu nành]], [[hạt cải dầu]], [[Dầu mè|Mè]], [[Madhuca longifolia|mahua]], [[Mù tạt thực vật|mù tạt]], [[lanh]], [[hướng dương]], [[dầu cọ]], [[gai]], [[Thlaspi arvense|pennycress field]], '[[Pongamia pinnata]]' 'và [[Tảo nhiên liệu|rong]]. Dầu diesel sinh học nguyên chất (B100, còn được gọi là dầu diesel sinh học dạng "tối giản") hiện đang giảm lượng khí thải tới 60% so với diesel thế hệ thứ hai B100.
[[Tập_tin:Targray_Biodiesel_Railcar.png|nhỏ|Targray bộ phận nhiên liệu sinh học vận chuyển dầu diesel.]]
Dầu diesel sinh học có thể được sử dụng trong bất kỳ [[động cơ diesel]] khi trộn với bất kì dầu diesel dạng khoáng. Ở một số quốc gia, nhà sản xuất bảo toàn động cơ diesel của họ để sử dụng B100, mặc dù [[Volkswagen]] của [[Đức]], yêu cầu người lái xe kiểm tra qua điện thoại với bộ phận dịch vụ môi trường của VW trước khi chuyển sang B100 <! - - (Xem [[Dầu diesel sinh học#Sử dụng|sử dụng dầu diesel sinh học]]) ->. B100 có thể trở nên [[Độ nhớt|nhớt]] ở nhiệt độ thấp hơn, tùy thuộc vào nguyên liệu được sử dụng. Trong hầu hết các trường hợp, dầu diesel sinh học tương thích với động cơ diesel từ năm 1994 trở đi, sử dụng '[[Viton]]' ([[DuPont]]) [[cao su tổng hợp]] trong các hệ thống [[nhiên liệu]] cơ khí. Tuy nhiên, lưu ý rằng không có phương tiện nào được chứng nhận sử dụng dầu diesel sinh học nguyên chất trước năm 2014 vì không có giao thức kiểm soát khí do thải cho dầu diesel sinh học trước khoảng thời gian.
Các hệ thống '[[rào chắn chung]]' và '[[bộ phun theo đơn vị]] được điều khiển bằng điện tử từ cuối những năm 1990 trở đi chỉ có thể sử dụng dầu diesel sinh học được pha trộn với nhiên liệu diesel thông thường. Những động cơ này có hệ thống phun nhiều giai đoạn và được phun nhiều lần và hệ thống này rất nhạy cảm với độ nhớt của nhiên liệu. Nhiều động cơ diesel thế hệ hiện tại được chế tạo để chúng có thể chạy trên B100 mà không thay đổi động cơ, mặc dù điều này phụ thuộc vào [[nhiên liệu]] thiết kế.
Từ khi dầu diesel sinh học là một [dung môi] hữu hiệu và làm sạch các chất cặn lắng bằng dầu khoáng, [[Lọc dầu|bộ lọc động cơ]] có thể cần phải được thay thế thường xuyên hơn, vì nhiên liệu sinh học hòa tan các cặn lắng cũ trong bình nhiên liệu và đường ống. Nhiên liệu này cũng có hiệu quả làm sạch động cơ [[buồng đốt]] lớp carbon lắng đọng, giúp duy trì hiệu quả động cơ. Ở nhiều nước châu Âu, hỗn hợp dầu diesel sinh học 5% được sử dụng rộng rãi và có sẵn tại hàng ngàn trạm xăng.. Dầu diesel sinh học cũng là một dạng [[Oxy hóa diesel|nhiên liệu oxy hóa]], có nghĩa là dạng nhiên lieu chứa thành phần giảm lượng carbon và tăng hàm lượng hàm lượng hydro và oxy cao hơn so với diesel hóa thạch. Điều này cải thiện [[đốt]] dầu diesel sinh học và giảm lượng phát thải hạt từ cacbon không cháy. Tuy nhiên, việc sử dụng dầu diesel sinh học nguyên chất có thể làm tăng khí thải NO x-Sự tỏa ra
Dầu diesel sinh học cũng an toàn để xử lý và vận chuyển vì nó không độc hại và [[có thể phân hủy]], và [[điểm bắt cháy]] cao khoảng 300 °F (148 °C) so với nhiên liệu diesel dầu mỏ, có điểm bắt cháy là 125 °F (52 °C).
Tại Mỹ, hơn 80% xe tải dung trong thương mại và xe buýt trong thành phố chạy bằng dầu diesel. Thị trường dầu diesel sinh học mới nổi của Mỹ được ước tính đã tăng 200% từ năm 2004 đến năm 2005.."By the end of 2006 biodiesel production was estimated to increase fourfold [from 2004] to more than" .
Tại Pháp, dầu diesel sinh học được kết hợp với tỷ lệ 8% trong nhiên liệu được sử dụng bởi tất cả các loại xe diesel của Pháp.. [[Avril Group]] produces under the brand [[Diester]], a fifth of 11 million tons of biodiesel consumed annually by the [[European Union]]. It is the leading European producer of biodiesel.
Các loại nhiên liệu sinh học khác.
[[Methanol]] hiện được sản xuất từ [[khí tự nhiên]],một loại nhiên liệu hóa thạch [không thể tái tạo]. Trong tương lai người ta hy vọng loại nhiên liệu này sẽ được sản xuất từ sinh khối như [[Methanol sinh học]]. Phương án này khả thi về mặt kỹ thuật, nhưng việc sản xuất hiện đang bị trì hoãn vì lo ngại khả năng kinh tế chưa được xử lý bởi [[Jacob S. Gibbs]] và [[Brinsley Coleberd]].. [[Nền sản xuất methanol]] là một sự thay thế cho [[nền sản xuất hydro]], so với sản xuất [[hydro]] ngày nay từ khí tự nhiên.
[[Nhiên liệu Butanol|Butanol]] () được hình thành bởi [[Clostridium acetobutylicum|sự lên men ABE]] (acetone, butanol, ethanol) và các thay đổi thử nghiệm của quy trình cho thấy khả năng cao [[năng lượng thuần]] với butanol là sản phẩm lỏng duy nhất. Butanol sẽ tạo ra nhiều năng lượng hơn và được quả quyết rằng có thể bị đốt cháy "thẳng" trong các động cơ xăng hiện tại (nếu ko sửa đổi động cơ hoặc ô tô)). và ít bị ăn mòn và ít tan trong nước hơn ethanol, và có thể được phân phối thông qua cơ sở hạ tầng hiện có. [[DuPont]] và [[BP]] đang hợp tác để cùng phát triển butanol. Các chủng [['Escherichia coli]]' 'cũng đã được chế tạo thành công để sản xuất butanol bằng cách thay đổi [[chuyển hóa protein|chuyển hóa amino acid]]..
Dầu Diesel xanh.
[[Lọc dầu thực vật|Dầu diesel xanh]] được sản xuất thông qua các nguyên liệu dầu sinh học chứa hydrocracking, chẳng hạn như dầu thực vật và chất béo động vật. Hydrocracking là phương pháp tinh chế sử dụng nhiệt độ và áp suất cao đồng thời có sự hỗ trợ của chất xúc tác để phá vỡ các [[phân tử]] lớn hơn, chẳng hạn như các phân tử được tìm thấy trong [[dầu thực vật]], thành các chuỗi [[hydrocarbon]] ngắn hơn được sử dụng trong động cơ [[diesel]]. Nó cũng có thể được gọi là dầu diesel tái tạo, dầu thực vật hoặc diesel tái sinh có nguồn gốc từ hydro. Dầu diesel màu xanh có các tính chất hóa học giống như dầu diesel dựa trên dầu mỏ. Nó không yêu cầu phải có động cơ, đường ống hoặc cơ sở hạ tầng mới để phân phối và sử dụng, nhưng lại chưa được đầu tư sản xuất với chi phí cạnh tranh với [[xăng dầu]] Các phiên bản xăng khác cũng đang được phát triển. Dầu diesel xanh đang được phát triển ở [[Louisiana]] và [[Singapore]] bởi [[ConocoPhillips]], [[Neste Oil]], [[Valero Energy Corporation|Valero]], nhiên liệu động và [[UOP LLC|Honeywell UOP]] cũng như Preem ở Gothenburg, Thụy Điển, tạo ra cái được gọi là cuộc cách mạng dầu diesel.
Xăng sinh học.
Năm 2013, các nhà nghiên cứu Anh đã phát triển một dòng biến đổi gen " [[Escherichia coli|E. coli]] ", có thể biến đổi glucose thành xăng sinh học mà không cần phải pha trộn. Cuối năm 2013 [[UCLA]] các nhà nghiên cứu đã thiết kế một con đường trao đổi chất mới để vượt qua [[glycolysis]] và tăng tỷ lệ chuyển đổi đường thành nhiên liệu sinh học, trong khi các nhà nghiên cứu [[KAIST]] phát triển một chủng có khả năng tạo ra các chuỗi ngắn, các axit béo tự do, các este béo và rượu béo thông qua các protein béo (acyl carrier protein (ACP)) đến axit béo với đường dẫn acyl-CoA béo " in vivo ". Người ta tin rằng trong tương lai nó sẽ có thể "tinh chỉnh" các gen để làm cho xăng từ rơm hoặc phân động vật.
Dầu thực vật.
[[Hình:Used vegetable cooking oil.png|thumb|200px|Filtered waste vegetable oil]]
[[Tập tin:Walmart’s Grease Fuel Truck (2).jpg|thumb|right|This truck is one of 15 based at Walmart's [[Buckeye, Arizona]] distribution center that was converted to run on a biofuel made from reclaimed cooking grease produced during food preparation at Walmart stores.]]
Ở trạng thái ban đầu chưa bị biến đổi còn có thể [[ăn]] được dầu thực vật thường không được sử dụng làm nhiên liệu, nhưng dầu có chất lượng thấp hơn đã được sử dụng cho mục đích này. Dầu thực vật đã qua sử dụng ngày càng được tận dụng để chế biến thành dầu diesel sinh học, hoặc (hiếm khi) được làm sạch bằng nước hoặc các loại hạt và sau đó được sử dụng làm nhiên liệu.
Với 100% diesel sinh học (B100), để đảm bảo [[kim phun nhiên liệu]] phun dầu thực vật theo đúng mẫu để đốt cháy hiệu quả, [[nhiên liệu dầu thực vật]] phải được làm nóng để giảm [[độ nhớt]] thành dầu diesel, bằng cuộn dây điện hoặc bộ trao đổi nhiệt. Điều này dễ dàng hơn trong vùng khí hậu ấm áp hoặc ôn đới. [[MAN B&W Diesel]], [[Wärtsilä]], và [[Deutz AG]], cũng như một số công ty nhỏ hơn, chẳng hạn như [[Elsbett]], cung cấp động cơ tương thích với dầu thực vật ở trạng thái ban đầu, mà không cần sửa đổi sau khi thị trường.
Dầu thực vật cũng có thể được sử dụng trong nhiều động cơ diesel đời cũ hơn mà không sử dụng hệ thống phun diesel điện tử, như là [[Hệ thống phun nhiên liệu trực tiếp]] hoặc [[kim phun đơn vị]]. Do thiết kế của buồng đốt trong động cơ [[phun gián tiếp]], đây là những động cơ tốt nhất để sử dụng với dầu thực vật. Hệ thống này cho phép các phân tử dầu tương đối lớn có nhiều thời gian hơn để đốt cháy. Một số động cơ cũ, đặc biệt là Mercedes, được thử nghiệm bởi những người có đam mê mà không có bất kỳ chuyển đổi nào, một số ít các trình điều khiển đã có những thành công nhất định trước đó với động cơ "Pumpe Duse" [[VW TDI]] và các loại động cơ tương tự khác với hệ thống [[phun nhiên liệu trực tiếp]]. Một số công ty, chẳng hạn như [[Elsbett]] hoặc Wolf, đã phát triển các bộ chuyển đổi chuyên nghiệp và cài đặt thành công hàng trăm bộ trong số những thập kỷ qua.
Dầu và chất béo có thể được [[hydro hóa]] để cung cấp thay thế diesel.Sản phẩm thu được là một hydrocarbon mạch thẳng với [[số cetane]] cao, ít [[chất thơm]] và [[lưu huỳnh]] và không chứa oxy. [[Dầu hydro hóa]] có thể được trộn với dầu diesel theo mọi tỷ lệ. Chúng có nhiều ưu điểm hơn dầu diesel sinh học, bao gồm hiệu suất tốt ở nhiệt độ thấp, không có vấn đề ổn định lưu trữ và không nhạy cảm với vi khuẩn tấn công.
Ete Sinh Học.
Ete sinh học (được gôi là nhiên liệu [[Ete]] hoặc [[Nhiên liệu oxy hóa]]s) có hiệu quả về kinh tế [[Hợp chất hóa học|hợp chất]] hoạt động như chất tăng cường [[xếp hạng octane]]. "Các chất sinh học được tạo ra bởi phản ứng của các phản ứng iso-olefin, chẳng hạn như iso-butylen, với ethanol sinh học." Bioethers are created by wheat or sugar beet. Chúng cũng tăng cường hiệu suất [[động cơ]], đồng thời giảm đáng kể độ hao mòn động cơ và [[khí thải]] [[độc hại]]. Mặc dù ete sinh học có khả năng thay thế ete từ xăng dầu ở Anh, rất có khả năng chúng sẽ trở thành một nhiên liệu do chính nó do mật độ năng lượng thấp. Greatly reducing the amount of ground-level [[ozone emissions]], they contribute to air quality.
Khi nói đến nhiên liệu vận chuyển có sáu phụ gia ete: [[dimethyl ether]] (DME), [[dietyl ete]] (DEE), metyl teritiary-butyl ether (MTBE), etyl " ter " - butyl ether (ETBE), t"er " - amyl metyl ete (TAME), và " ter " - amyl etyl ether (TAEE).
The European Fuel Oxygenates Association (EFOA) tín dụng methyl Ttertiary-butyl ether (MTBE) và ethyl ter-butyl ether (ETBE) như là các ete được sử dụng phổ biến nhất trong nhiên liệu để thay thế chì. Ete được giới thiệu ở châu Âu vào những năm 1970 để thay thế hợp chất độc hại cao.. Mặc dù người châu Âu vẫn sử dụng phụ gia sinh học ether, Mỹ không còn có một yêu cầu oxy hóa do đó ete sinh học không còn được sử dụng như là phụ gia chính của nhiên liệu.
Khí sinh học.
[[Hình:Biogas pipes.JPG|right|thumb|150px|Pipes carrying biogas]]
Khí sinh học là [[metan]] được tạo ra bởi quá trình [[kỵ khí yếm khí]] của [[vật liệu hữu cơ]] bởi các [[vi khuẩn kị khí]]. Nó có thể được sản xuất hoặc có nguồn gốc từ vật liệu của các [[chất thải phân hủy sinh học]] hoặc bằng cách sử dụng [[sinh khối]] được đưa vào [[bể mê-tan]] để bổ sung năng suất khí. Các sản phẩm phụ rắn, [[tiêu hóa]], có thể được sử dụng làm nhiên liệu sinh học hoặc phân bón.
Biogas có thể được thu hồi từ hệ thống xử lý chất thải [[xử lý sinh học cơ học]]. [[Khí bãi rác]], một dạng khí sinh học kém sạch hơn, được tạo ra trong các [[bãi chôn lấp]] thông qua quá trình tiêu hóa kỵ khí tự nhiên. Nếu nó thoát ra ngoài khí quyển, nó sẽ trở thành một loại [[khí nhà kính]] tiềm tàng.
Nông dân có thể sản xuất khí sinh học từ [[phân chuồng]] trong gia súc của họ bằng cách sử dụng các chất khử khí kỵ khí.
Khí tổng hợp.
[[Khí tổng hợp]], là một hỗn hợp của [[carbon monoxit]], [[hydro]] và các hydrocarbon khác, được tạo ra bởi quá trình cháy một phần sinh khối, đó là đốt cháy với một lượng [[oxy]] không đủ để chuyển đổi sinh khối hoàn toàn thành carbon dioxide và nước. Trước khi đốt một phần, sinh khối khô và đôi khi [[nhiệt phân]]. Hỗn hợp khí thu được, khí tổng hợp, hiệu quả hơn đốt trực tiếp nhiên liệu sinh học ban đầu; nhiều năng lượng chứa trong nhiên liệu được chiết xuất.
Khí tổng hợp có thể được đốt trực tiếp trong [[động cơ đốt trong]], [[tuabin]] hoặc pin nhiên liệu nhiệt độ cao. The [[wood gas generator]], một lò phản ứng khí hóa bằng gỗ, có thể được kết nối với một động cơ đốt trong.
Khí tổng hợp có thể được sử dụng để sản xuất [[methanol]], [[Dimethyl ether|DME]] và [[hydro]], hoặc được chuyển đổi qua [[quy trình Fischer-Tropsch]] để sản xuất nhiên liệu thay thế diesel hoặc hỗn hợp rượu có thể được pha trộn thành xăng. Khí hóa thường dựa trên nhiệt độ lớn hơn 700 °C.
Khí hóa thấp hơn là lí tưởng khi đồng sản xuất [[than sinh học]], nhưng kết quả trong khí tổng hợp bị ô nhiễm với [[tar]].
Nhiên liệu sinh khối rắn.
Ví dụ bao gồm [[gỗ]], [[mùn cưa]], [[cỏ]] trang trí, [[rác thải sinh hoạt|rác sinh hoạt]], [[than củi]], [[rác thải nông nghiệp]], không phải thực phẩm [[cây trồng lấy năng lượng]], và [[phân súc vật khô]].
Khi sinh khối rắn đã ở dạng thích hợp như [[củi]], nó có thể đốt cháy trực tiếp trong bếp hoặc lò để cung cấp nhiệt hoặc tăng hơi. Khi sinh khối rắn ở dạng chưa phù hợp (như mùn cưa, dăm gỗ, cỏ, gỗ thải đô thị, dư lượng nông nghiệp), quá trình điển hình là làm tăng mật độ sinh khối. Quá trình này bao gồm nghiền sinh khối thô thành kích thước hạt thích hợp (được gọi là hogfuel), tùy thuộc vào loại đầm lầy, có thể từ , sau đó được cô đặc thành một sản phẩm nhiên liệu. Các quy trình hiện tại tạo ra [[viên gỗ]], hình khối, hoặc bóng băng Quá trình pellet là phổ biến nhất ở châu Âu, và thường là một sản phẩm gỗ nguyên chất. Quá trình thành hạt là quá trình phổ biến nhất ở châu Âu, và thường là một sản phẩm gỗ nguyên chất. Các loại khác có mật độ có kích thước lớn hơn so với một viên và tương thích với một loạt các nguyên liệu đầu vào. Nhiên liệu được gia tăng hiệu quả dễ dàng hơn để vận chuyển và đưa vào hệ thống tạo nhiệt, chẳng hạn như nồi hơi.
Mùn cưa, vỏ cây và khoai tây chiên đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ cho nhiên liệu trong quy trình công nghiệp; ví dụ bao gồm ngành công nghiệp giấy và bột giấy và ngành công nghiệp mía đường. Nồi hơi trong phạm vi của 500.000 lb / giờ hơi nước, và lớn hơn, đang hoạt động thường xuyên, sử dụng lò đốt, máy rải rác, đốt treo và đốt cháy chất lỏng. Các tiện ích tạo ra năng lượng, thường trong phạm vi từ 5 đến 50 MW, sử dụng nhiên liệu có sẵn tại địa phương. Các ngành công nghiệp khác cũng đã lắp đặt nồi hơi đốt nhiên liệu bằng gỗ và máy sấy ở những khu vực có nhiên liệu chi phí thấp.
One of the advantages of solid biomass fuel is that it is often a byproduct, residue or waste-product of other processes, such as farming, animal husbandry and forestry. Về lý thuyết, điều này có nghĩa là sản xuất nhiên liệu và thực phẩm không cạnh tranh về tài nguyên, mặc dù điều này không phải luôn luôn như vậy.
Một vấn đề với việc đốt cháy nhiên liệu sinh khối rắn là nhiên liệu này tỏa ra một lượng đáng kể [[chất gây ô nhiễm]], chẳng hạn như [[sol khí|hạt]] và [[polycyclic aromatic hydrocarbon]]. Ngay cả nồi hơi viên hiện đại cũng tạo ra nhiều chất gây ô nhiễm hơn so với lò hơi đốt dầu hoặc khí tự nhiên. Viên nén làm từ dư lượng nông nghiệp thường tồi tệ hơn các viên gỗ, tạo ra lượng khí thải lớn hơn nhiều [[Dioxin và các hợp chất giống dioxin|dioxin]] và [[chlorophenol]].
Một nhiên liệu có nguồn gốc là [[than sinh học]], được sản xuất từ sinh khối [[nhiệt phân]]. Than sinh học làm từ chất thải nông nghiệp có thể thay thế cho than củi. Do lượng gỗ dự trữ trở nên khan hiếm, phương án này đang hiệu quả hơn. Ở miền đông [[Cộng hòa Dân chủ Congo]], ví dụ [[than bánh sinh khối]] đang được bán trên thị trường như là một thay thế cho than để bảo vệ [[Vườn quốc gia Virunga]] từ [[phá rừng]] liên kết với [[than]] sản xuất.
Theo vùng.
[[Tập tin:Bio Diesel Powered Fast Attack Craft Of Indian Navy.jpg|thumb|287x287px|Bio Diesel Powered Fast Attack Craft Of [[Indian Navy]] patrolling during [[International Fleet Review 2016|IFR 2016]].The green bands on the vessels are indicative of the fact that the vessels are powered by [[Biodiesel|bio-diesel]]]]
Có các tổ chức quốc tế như IEA Bioenergy, đã được thành lập vào năm 1978 bởi [[OECD]] [[Cơ quan Năng lượng Quốc tế]] (IEA), với mục tiêu cải thiện hợp tác và trao đổi thông tin giữa các quốc gia có chương trình quốc gia về nghiên cứu, phát triển và triển khai năng lượng sinh học. Diễn đàn nhiên liệu sinh học quốc tế [[Liên Hợp Quốc]] được thành lập bởi [[Brazil]], [[Trung Quốc]], [[Ấn Độ]], [[Pakistan]], [[Nam Phi]], [[Hoa Kỳ Hoa]] và [[Ủy ban châu Âu]]. Các nhà lãnh đạo thế giới về phát triển và sử dụng nhiên liệu sinh học là Brazil, Hoa Kỳ, Pháp, Thụy Điển và Đức. Nga cũng có 22% diện tích rừng trên thế giới, và là một nhà cung cấp sinh khối lớn (nhiên liệu sinh học rắn). Năm 2010, nhà sản xuất giấy và bột giấy của Nga, Vyborgskaya Cellulose, cho biết họ sẽ sản xuất bột viên có thể được sử dụng trong nhiệt và phát điện từ nhà máy ở Vyborg vào cuối năm. Nhà máy cuối cùng sẽ sản xuất khoảng 900.000 tấn bột viên mỗi năm, khiến nó trở thành nhà máy lớn nhất trên thế giới khi đi vào hoạt động.
Nhiên liệu sinh học hiện chiếm 3,1% tổng nhiên liệu vận tải đường bộ ở Anh hoặc 1,440 triệu lít. Đến năm 2020, 10% năng lượng được sử dụng trong giao thông đường bộ và đường sắt của Anh phải đến từ các nguồn tái tạo - điều này tương đương với việc thay thế 4,3 triệu tấn dầu hóa thạch mỗi năm. Nhiên liệu sinh học thông thường có khả năng sản xuất từ 3,7 đến 6,6% năng lượng cần thiết cho vận chuyển đường bộ và đường sắt, trong khi [[nhiên liệu sinh học tiên tiến]] có thể đáp ứng tới 4,3% mục tiêu nhiên liệu vận chuyển tái tạo của Anh vào năm 2020.
Ô nhiễm Không khí.
Nhiên liệu sinh học tương tự như nhiên liệu hóa thạch trong đó nhiên liệu sinh học góp phần vào [[ô nhiễm không khí]]. Đốt tạo ra [[carbon dioxide]], cacbon trong không khí [[hạt]], [[carbon monoxit]] và [[nitơ oxit]] s. The WHO estimates 3.7 million premature deaths worldwide in 2012 due to air pollution. Brazil đốt cháy một lượng đáng kể nhiên liệu sinh học ethanol. Các nghiên cứu về khí [[sắc kí]] được thực hiện ở không khí xung quanh ở São Paulo, Brazil và so sánh với Osaka, Nhật Bản, không đốt cháy nhiên liệu ethanol. Formaldehyde khí quyển cao hơn 160% ở Brazil, và Acetaldehyde cao hơn 260%.
Cơ quan bảo vệ môi trường đã thừa nhận trong tháng 4 năm 2007 rằng việc sử dụng ethanol sinh học ngày càng tăng sẽ dẫn đến chất lượng không khí tồi tệ hơn. Tổng lượng phát thải các chất gây ô nhiễm không khí như các oxit nitơ sẽ tăng lên do việc sử dụng ethanol sinh học ngày càng tăng. Có sự gia tăng khí carbon dioxide từ việc đốt các nhiên liệu hóa thạch để sản xuất nhiên liệu sinh học cũng như nitơ oxit từ đất, mà rất có thể được xử lý bằng phân bón nitơ. Nitrous oxide được biết là có tác động lớn hơn lên bầu khí quyển liên quan đến sự nóng lên toàn cầu, vì nó cũng là một tàu khu trục ozone. | 1 | null |
Họ Nguyệt xỉ, tên khoa học Adiantaceae (không phải tên đồng nghĩa của "Pteridaceae") là một họ dương xỉ trong bộ Pteridales. Họ này bao gồm họ trước đây có tên là "Vittariaceae". Các phân tích gen gần đây dựa trên gene diệp lục chứng minh rằng các loài dương xỉ trong họ vittarioid nằm trong chi "Adiantum", làm cho chi này là cận ngành. | 1 | null |
Hans Otto Wilhelm Albert Mischke, sau năm 1888 là von Mischke (1 tháng 6 năm 1830 tại Münster (Westfalen) – 7 tháng 3 năm 1906 tại Berlin) là một Thượng tướng Bộ binh của Đức, đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức các năm 1870 – 1871.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Sau khi học tập trong đội thiếu sinh quân của Phổ ở Bensberg và Berlin, ông đã gia nhập Trung đoàn Bộ binh số 5 với quân hàm thiếu úy năm ông 17 tuổi. Từ năm 1852 cho đến năm 1855, ông được lệnh tham dự Trường Quân sự Tổng hợp ("Allgemeinen Kriegsschule") và vào năm 1859, ông được lên quân hàm trung úy rồi đại úy. Vào năm 1866, ông đã tham chiến trong cuộc chiến tranh chống Áo với vai trò là một sĩ quan phụ tá trong Bộ Tổng chỉ huy của "Binh đoàn thứ hai" dưới sự thống lĩnh của Thái tử Friedrich Wilhelm năm 1866. Sau đó, ông được chuyển vào Bộ Tổng tham mưu với quân hàm thiếu tá và vào ngày 10 tháng 3 năm 1870, ông được bổ nhiệm làm phụ tá cá nhân của Thái tử. Trên cương vị này, ông đã tham gia trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), với các trận đánh lớn tại Wissembourg, Frœschwiller-Wœrth và Sedan, trận vây hãm Paris, cùng các cuộc giao chiến ở Malmaison và Montretout. Trong một thời gian ngắn, ông được thăng cấp Thượng tá và Đại tá, và vào năm 1878 ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng trong Cục thanh tra quân đội IV. Thêm vào đó, ông được cử làm "Thống đốc quân sự", quản lý việc giáo dục vị vương tử yểu mệnh Waldemar của Phổ (1868 – 1879), con trai của Thái tử.
Vào năm 1880, ông được phong cấp Thiếu tướng và vào năm 1885 ông được thăng cấp Thiếu tướng. Sau đó, vào năm 1886, ông được bổ nhiệm làm Thanh tra Trường Quân sự Tổng hợp. Sau khi Thái tử lên kế ngôi, tức Hoàng đế Friedrich III vào năm 1888, ông được ủy nhiệm làm Tướng phụ tá, đồng thời được liệt vào hàng khanh tướng của Phổ.
Sau khi Hoàng đế Friedrich III băng hà, ông chỉ phục vụ thêm một năm nữa, rồi về hưu với cấp bậc danh dự ("Charakter") Thượng tướng Bộ binh đồng thời nhận tước hiệu "Exzellenz" ("Quý ông"). Trong suốt sự nghiệp quân sự của mình, ông đã được tặng nhiều phần thưởng, trong đó có Huân chương Vương miện hạng nhất (1889), Đại Thập tự của huân chương Đại bàng Đỏ (1873), Thập tự và Ngôi sao Chỉ huy của Huân chương Hoàng gia Hohenzollern (1898) và Huân chương Ghi công của Vương triều Phổ (1904).
Vào năm 1876, ông thành hôn với bà Mathilde Hiltrop (1826 – 1891). Sau khi ông từ trần vào ngày 7 tháng 3 năm 1906 ở thủ đô Berlin, ông được an táng ở nghĩa trang Südwestkirchhof Stahnsdorf. | 1 | null |
Tommy Lee Jones (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1946) là một diễn viên và đạo diễn phim người Mỹ. Ông đã nhận được 4 đề cử giải Oscar và nhận được một Giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho vai diễn Samuel Gerard, Chỉ huy đội truy bắt tội phạm đào tẩu thuộc Cục Cảnh sát Hoa Kỳ trong phim The Fugitive 1993.
Vai diễn đáng chú ý khác của ông bao gồm cựu nhân viên Hành pháp Texas - Woodrow F. Call trong phim truyền hình mini đoạt giải thưởng Dove Lonesome, đặc vụ K trong Men in Black và phần tiếp theo của nó, cảnh sát trưởng Ed Tom Bell trong No Country for Old Men, nhân vật phản diện "Two-Face "trong Batman Forever, tên khủng bố William Strannix trong Under Siege, một Hành pháp Texas trong Man of the House, chủ trang trại Pete Perkins trong The Three Burials of Melquiades Estrada, cũng là phim đầu tiên đạo diễn của ông, và Đại tá Chester Phillips trong . Jones cũng đã vào vai doanh nhân Howard Hughes, nghị sĩ Thaddeus Stevens, vai kẻ sát nhân Gary Gilmore, Oliver Lynn, vị tướng Douglas MacArthur, chồng của Loretta Lynn trong Coal Miner's Daughter, và vận động viên bóng chày nổi tiếng Ty Cobb.
Đầu đời.
Jones được sinh ra ở San Saba, Texas Mẹ ông, Lucille Marie (nhũ danh Scott), là một Sĩ quan cảnh sát, Giáo viên trung học, và chủ sở hữu một Thẩm mỹ viện và người cha, Clyde C. Jones, là một công nhân khai thác dầu mỏ. Hai người đã kết hôn và ly dị hai lần. Jones đã tiết lộ rằng bà ngoại của ông là người Cherokee. Ông lớn lên ở Midland, Texas và học ở Trường Trung học Robert E. Lee.
Sự nghiệp.
Jones chuyển đến New York để trở thành một diễn viên, ra mắt vào năm 1969 tại nhà hát Broadway trong vở kịch "A Patriot for Me" trong một vai phụ. Năm 1970, ông giành được vai diễn cho bộ phim đầu tiên của mình, một sinh viên Harvard trong Love Story.
Vào đầu năm 1971, ông trở lại Broadway trong vở kịch "Four on a garden" của Abe Burrows, nơi ông chia sẻ sân khấu với Carol Channing và Sid Caesar. Giữa năm 1971 và 1975, ông đóng vai bác sĩ Mark Toland trong vở kịch "One Life to Live" trên kênh ABC. Ông trở lại sân khấu trong một vở kịch "Ulysses in Nighttown" sản xuất năm 1974 với vai diễn Zero Mostel. Tiếp theo đó, ông tham gia vai chính trong bộ phim truyền hình được đánh giá cao: The Amazing Howard Hughes.
Đời thường.
Tại kỳ họp của Đảng Dân chủ năm 2000, ông đã trình bày đề cử các bài phát biểu của bạn cùng phòng đại học của mình, Al Gore, là ứng cử viên của đảng Dân chủ đến Tổng thống Hoa Kỳ.
Jones đã kết hôn với Kate Lardner, con gái của biên kịch và nhà báo Ring Lardner Jr, từ năm 1971 đến năm 1978. Ông có hai con từ cuộc hôn nhân thứ hai của mình với Kimberlea Cloughley, con gái của Phil Hardberger, cựu thị trưởng thành phố San Antonio. Austin Leonard (sinh năm 1982) và Victoria Kafka (sinh 1991). Ngày 19 tháng 3 năm 2001, ông kết hôn lần thứ ba, với Dawn Laurel.
Jones sinh sống tại Terrell Hills, Texas, một vùng ngoại ô của San Antonio, nói thông thạo tiếng Tây Ban Nha. Ông sở hữu một trang trại chăn nuôi 3.000 mẫu Anh ở Quận San Saba, Texas và một trang trại gần Van Horn, Texas, đã có công việc hàng ngày tương tự như trong vai diễn của bộ phim "The Three Burials of Melquiades Estrada". Ông cũng sở hữu một ngôi nhà và trang trại ở xứ sở thể thao Wellington, Florida. Jones là một vận động viên có hạng môn polo và cũng có một ngôi nhà ở một câu lạc bộ polo ở Buenos Aires, Argentina. Ông là người ủng hộ Quỹ Đào tạo Polo, ông cũng là một fan cuồng nhiệt của bộ môn này tại San Antonio Spurs, người ta thường thấy ông đứng bên ngoài sân xem các trò chơi ở Spurs.
Trong năm 2008, Jones cũng đã tham gia công tác xã hội với Chesapeake Energy là Thư ký cho một chiến dịch quan hệ công chúng để thúc đẩy khai thác khí đốt tự nhiên tại Texas. | 1 | null |
The Fugitive ("Kẻ đào tẩu") là một bộ phim hành động, điều tra vụ án, phát hành năm 1993, dựa trên bộ phim truyền hình cùng tên năm 1960. Bộ phim được đạo diễn bởi Andrew Davis với các diễn viên chính Harrison Ford và Tommy Lee Jones.
Khi Bác sĩ Richard Kimble (Ford) bị oan sai cho cái chết của vợ mình, và thoát khỏi nhà giam liên bang, ông được tuyên bố là một kẻ vượt ngục. Ông đã truy tìm bằng chứng chứng minh mình vô tội và đem những thủ phạm đích thực ra trước công lý trong khi bị sự truy bắt bén gót của cảnh sát Liên bang, dẫn đầu bởi Đặc vụ Samuel Gerard (Jones).
Nội dung.
Richard Kimble (Ford), một bác sĩ phẫu thuật ở Chicago, trên đường về nhà với người vợ xinh đẹp của mình, Helen (Ward), bị trọng thương trong khi chống lại người đàn ông có một cánh tay giả đột nhập. Kimble vào nhà và phát hiện hung thủ tấn công vợ mình. Mặc dù đấu tranh để khuất phục kẻ giết người, nhưng Kimble chỉ kịp nhìn mặt kẻ tấn công ngã xuống cầu thang và trốn thoát. Thiếu bằng chứng của vụ đột nhập, Kimble lại là người thụ hưởng khoản tiền bảo hiểm có giá trị của Helen và một hiểu lầm trong cuộc gọi 9-1-1, kết quả trong phiên tòa xử án ở Chicago, ông bị khép tội giết người cấp độ 1. Trên đường vận chuyển những tử tù trên một chiếc xe buýt, những người bạn tù cố gắng tìm cách trốn thoát. Kết quả hỗn loạn trong khi các cảnh sát bảo vệ tù nhân bị thương và lái xe bị đạn lạc giết chết, làm xe buýt rơi xuống một khe núi và nằm chắn ngang đường ray của một tàu đang đi tới. Kimble vừa kịp thoát khỏi sự va chạm hủy diệt làm đoàn tàu trật ray đổ nhào và chạy khỏi hiện trường. Đặc vụ Marshal Samuel Gerard (Jones), và các đồng nghiệp của ông Renfro (Pantoliano), Biggs (Roebuck), Newman (Wood) và Poole (Caldwell), đến hiện trường xảy ra tai nạn và xây dựng một kế hoạch tìm kiếm để bắt lại những tù nhân đã trốn thoát. Kimble lẻn vào bệnh viện để điều trị vết thương và thay đổi diện mạo của mình, sau đó, ông lên một xe cứu thương để trốn chạy.
Kimble trở lại Chicago để truy tìm kẻ giết vợ và bí mật nhận tiền từ người cộng sự, Bác sĩ Charles Nichols (Krabbe). Trong vai trò là người lao công, Kimble vào bộ phận làm giả các chi của Bệnh viện Cook County để có được danh sách những người đáng nghi có cánh tay giả vào viện sửa chữa sau khi giết người. Lần theo thông tin cảnh sát xác nhận nơi ở gần đây của Kimble, Gerard phỏng đoán rằng Kimble đang tìm kiếm người đàn ông một tay. Sau đó, Kimble đột nhập vào nơi ở của một cựu nhân viên an ninh tên là Frederick Sykes (Katsulas), và phát hiện ra người đàn ông này là kẻ giết vợ mình. Ông cũng biết được Sykes làm việc cho một công ty dược phẩm, Devlin MacGregor, dự kiến sẽ phát hành một loại thuốc mới gọi là Provasic. Kimble đã điều tra dược phẩm trong giai đoạn thử nghiệm của mình đã bị ngăn cản chấp thuận của FDA vì lý do gây phản ứng phụ cho gan khi sử dụng. Ông cũng suy luận rằng Nichols, người đang dẫn đầu sự phát triển của dược phẩm, sắp xếp che đậy, và ra lệnh cho Sykes tìm cách giết mình, và điều này đã đem đến cái chết bất đắc dĩ của vợ mình. Gerard sau cuộc gọi của Kimble từ nhà của Sykes, đã rút ra những kết luận tương tự khi được Kimble dụ đến hiện trường (nhà của Sykes).
Sau đó Kimble lên một chuyến tàu điện để vạch trần âm mưu của Nichols tại Hội thảo giới thiệu về dược phẩm mới trong một khách sạn, Sykes xuất hiện và tấn công anh trên tàu. Trong cuộc đối đầu sau đó, Sykes bắn một cảnh sát trước khi bị Kimble đấm mạnh vào mặt và còng tay Sykes vào một tay nắm trên cửa tàu. Kimble đến tại hội thảo và làm gián đoạn bài phát biểu của Nichols, cáo buộc ông làm sai lệch nghiên cứu y học của mình và buộc tội sát nhân của Nichols. Họ bắt đầu ẩu đả trong khi bị truy đuổi của nhóm Gerard. Trong cuộc đối đầu 3 bên trong tầng giặt ủi của khách sạn, Kimble, Nichols, Renfro và Gerard, bị khuất lấp bởi những túi đồ ở tầng giặt ủi, Gerard gọi ra rằng ông đã nhận thức được các âm mưu của Nichols. Nghe thấy thế, Nichols làm Renfro bị thương và lấy khẩu súng, Nichols sau đó cố gắng để bắn Gerard, nhưng đã bị Kimble tấn công từ phía sau, khiến Nichols bất tỉnh. Kimble được minh oan và được áp giải đi khỏi hiện trường tội phạm của Gerard.
Sản xuất.
Quay phim.
Các khu vực quay phim thay đổi bao gồm Cherokee, North Carolina, Tennessee, Chicago, Illinois và Dillsboro. Mặc dù gần một nửa của bộ phim được quay ở vùng nông thôn Illinois, một phần lớn cảnh chính đã quay tại Jackson County, North Carolina trong dãy núi Smoky lớn. Cảnh liên quan đến xe buýt vận chuyển tù Kimble và một xác tàu vận chuyển hàng hóa được quay dọc theo Great Smoky Mountains Railroad, bên ngoài Dillsboro, Bắc Carolina. Người đi tham quan trên tuyến đường sắt này vẫn có thể nhìn thấy đống đổ nát trên đường ra của kho bãi Dillsboro. Cảnh trong bệnh viện sau khi Kimble trốn thoát ban đầu được quay tại Bệnh viện Harris khu vực trong Sylva, Bắc Carolina. Cheoah Dam, Deals Gap là vị trí của cảnh Kimble nhảy xuống thác nước.
Phần còn lại của bộ phim được quay ở Chicago, Illinois, bao gồm một số cảnh đập nước, đã được quay trong phần còn lại của đường hầm vận chuyển hàng hóa Chicago. Sykes, nhân vật sống trong khu phố Pullman lâu đời ở Chicago. Harrison Ford sử dụng bốt điện thoại trả tiền tại Pullman Pub, và cảnh ông trèo lên một cái thang lên mái nhà cổ rowhouses. Cảnh rượt đuổi quay tại phố Patrick's Day Parade, Thị trưởng Richard M. Daley và Tổng chưởng lý bang Illinois, Roland Burris được quay trong các vai quần chúng.
Âm nhạc.
Nhạc phim được biên soạn bởi James Newton Howard. Hãng Elektra Records phát hành một album gồm các lựa chọn từ các bản ghi ngày 31 tháng 8 năm 1993. La-La Land Records cũng phát hành đĩa 2, phiên bản mở rộng và những bài nhạc đã chọn lọc, hơn 60 phút của nhạc phim trước đây chưa được phát hành,(bài hát từ nhạc phim, và các đoạn khác).
Phát hành đĩa.
Sau khi công chiếu trên rạp chiếu phim, DVD bản màn hình rộng được phát hành tại Mỹ vào ngày 26 tháng 3 năm 1997. Một phiên bản đặc biệt khác phát hành vào ngày 05 tháng 6 năm 2001 cùng với một phiên bản HD vào 23 tháng 5 năm 2006. Đồng thời, vào 08 tháng chín 2009, một biến thể đóng gói lại màn ảnh rộng cũng đã được phát hành, tính năng đặc biệt cho DVD bao gồm những cảnh quay đằng sau hậu trường, âm thanh bình luận của Tommy Lee.. Jones và đạo diễn Andrew Davis, giới thiệu với các ngôi sao của bộ phim và những người chịu trách nhiệm sản xuất, và đoạn trailer (quảng cáo phim).
Một phiên bản Blu-ray HD màn ảnh rộng phục hồi được phát hành vào ngày 26 Tháng Chín năm 2006. Tính năng đặc biệt bao gồm bình luận của Tommy Lee Jones và đạo diễn Andrew Davis, hai cảnh hậu kỳ, và trailer.
Jeanne Kalogridis đã thiết kế một loạt các hình bìa (bìa DVD, Blu-ray hoặc bìa Lệnh truy nã Kimble.v.v...) của bộ phim. Cô đã đưa lên các ý chính của kịch bản gốc, kể về một bác sĩ bị buộc tội oan sai, trong khi bị truy nã không ngừng của cảnh sát liên bang.
Đánh giá.
Trong số các nhà phê bình chính tại Mỹ, bộ phim đã nhận được đánh giá tích cực. Rotten Tomatoes đánh giá 94% của 53 nhà phê bình, với điểm trung bình là 7,6 trên 10. Tại Metacritic, "The Fugitive" nhận được số điểm 86% tích cực dựa trên 49 đánh giá.
Doanh thu.
The Fugitive có doanh số cao ở các rạp phim tại Mỹ, thu về 23.758.855 $ trong tuần đầu công chiếu và giữ vị trí hàng đầu trong sáu tuần. Cuối cùng, ước tính doanh số khoảng 183.875.760 $ tại Mỹ, và 185,000,000 USD ở ngoài Mỹ. Tổng cộng doanh thu trên toàn thế giới là 368.875.760 USD.
Phần tiếp theo.
Jones nhập vai Gerard (cảnh sát liên bang của Mỹ) trong năm 1998 ở phần tiếp theo. Vai này, Gerard cũng kết hợp cùng đội của mình truy bắt một kẻ đào tẩu, nhưng không liên quan đến Kimble hoặc các sự kiện ban đầu của phim năm 1993.
Giải thưởng.
Bộ phim được đề cử và giành nhiều giải thưởng trong năm 1993-1994. Ý kiến chung của các nhà phê bình phim khác nhau, cho nó là một trong 10 bộ phim hay nhất hàng đầu trong năm đó, bao gồm cả Roger Ebert của báo Chicago Sun-Times đã xếp hạng cho nó là hạng 4 cho những phim hay của năm 1993. Bộ phim là một trong 100 phim cuốn hút nhất của Mỹ được liệt kê bởi Viện phim Mỹ. | 1 | null |
Welwitschia mirabilis với tên gọi đề xuất trong tiếng Việt là Bách lan hoặc Gắm Angola, là một loài thực vật hạt trần duy nhất trong bộ Welwitschiales. Đây là loài duy nhất thuộc chi "Welwitschia", họ Welwitschiaceae và bộ Welwitschiales theo phân loại thực vật hạt trần. Các nguồn không chính thức gọi loài này là "hóa thạch sống". Chúng là loài đặc hữu của hoang mạc Namib ở Namibia và Angola.
Tên gọi.
Loài này có rất nhiều tên đồng nghĩa ở các vùng địa lý khác nhau như "kharos" hay "khurub" trong tiếng Nama, "tweeblaarkanniedood" tiếng Afrikaans, "nyanka" trong tiếng Damara, và "onyanga" trong tiếng Herero. | 1 | null |
Ngành Rêu hay ngành Rêu thật sự là một đơn vị phân loại thực vật, bao gồm các loài thực vật mềm, có kích thước , dù có một số loài lớn hơn như "Dawsonia", cây rêu cao nhất có thể lên đến . Chúng thường phát triển cùng nhau tạo thành cụm hoặc thảm ở các con đập hoặc các nơi có bóng râm. Chúng không có hoa cũng như không có hạt, sau khi thụ tinh thì phát triển các thể bào tử với các cuống không phân nhánh với đỉnh có các nang đơn giản chứa bào tử. Các cây riêng lẻ thông thường bao gồm các lá đơn giản nói chung chỉ dày cỡ một tế bào, đính vào thân cây có thể phân nhánh hoặc không và chỉ có vai trò hạn chế trong truyền dẫn nước và chất dinh dưỡng. Mặc dù một số loài có các mô truyền dẫn, nhưng các mô này nói chung kém phát triển và khác biệt về cấu trúc với mô tương tự ở thực vật có mạch.
Rêu thật nói chung hay bị nhầm lẫn với địa y, rêu sừng và rêu tản. Địa y có bề ngoài có thể rất giống rêu thật, và có tên gọi thông thường đôi khi cũng chứa từ "rêu" (như "rêu tuần lộc" ("Cladonia rangiferina") hay "rêu Iceland" ("Cetraria islandica")), nhưng chúng không có quan hệ họ hàng gần với rêu thật. Rêu thật từng được gộp cùng rêu sừng và rêu tản như là "thực vật không mạch" trong ngành cũ mà trong tiếng Anh gọi là "bryophytes" (rêu), tất cả chúng đều có thế hệ thể giao tử đơn bội như là pha chủ đạo trong vòng đời. Điều này tương phản với mô hình ở tất cả các nhóm thực vật có mạch (thực vật có hạt và dương xỉ), trong đó thế hệ thể bào tử lưỡng bội là chủ đạo.
Rêu thật hiện nay được xếp trong ngành Bryophyta. Có khoảng 12.000 loài rêu thật. Các nhóm rêu tản và rêu sừng hiện nay được tách thành những ngành riêng.
Tầm quan trọng thương mại chủ yếu của rêu thật là ở chỗ nó là thành phần chính của than bùn (chủ yếu là chi "Sphagnum"), mặc dù chúng cũng được sử dụng cho mục đích trang trí, như trong vườn và trong buôn bán hoa. Sử dụng truyền thống của rêu thật còn có làm vật liệu cách nhiệt cũng như trong các ứng dụng hấp thụ chất lỏng, do khả năng hấp thụ chất lỏng của nó có thể tới 20 lần trọng lượng của chính nó.
Tổng quan.
Về mặt thực vật học thì rêu thật là thực vật không mạch trong ngành thực vật trên cạn Bryophyta. Chúng là thực vật nhỏ (chỉ cao vài xentimet) thân thảo (không hóa gỗ) chủ yếu hấp thụ nước và các chất dinh dưỡng qua lá,sử dụng cacbon dioxide và ánh nắng để quang hợp tạo ra thức ăn.
Các thể giao tử của rêu thật có thân đơn hoặc phân nhánh, moc thẳng hay bò sát mặt chất nền. Lá của chúng đơn giản, thường chỉ có một lớp tế bào không có khe hở bên trong và thường có gân giữa dầy hơn. Chúng không có rễ thực sự mà chỉ có rễ giả như sợi chỉ để gắn chúng vào chất nền. Rêu thật không hấp thụ nước và chất dinh dưỡng từ chất nền thông qua các rễ giả này. Có thể phân biệt rêu thật với rêu tản (Marchantiophyta hay Hepaticae) bằng các rễ giả đa bào của chúng. Các nang chứa bào tử hay túi bào tử của rêu thật nằm đơn độc trên các thân dài không phân nhánh, và như thế phân biệt chúng với thực vật nhiều túi bào tử (Polysporangiophyta), nhóm chứa tất cả các loài thực vật có mạch. Các thể bào tử mang bào tử (nghĩa là thế hệ đa bào lưỡng bội) có thời gian sống ngắn ngủi và phụ thuộc vào thể giao tử để có nguồn cung cấp nước và chất dinh dưỡng. Bên cạnh đó, ở phần lớn các loài rêu thật thì nang chứa bào tử phình to và thuần thục sau khi cuống dài ra, trong khi ở rêu tản thì nang phình to và thuần thục trước khi cuống dài ra. Các khác biệt khác là không phổ quát đối với tất cả các loài rêu thật hay rêu tản, nhưng sự hiện diện của thân cây khác biệt rõ ràng với các lá hình dáng đơn giản và nổi gờ, không xẻ thùy sâu hay phân đoạn và không sắp xếp thành 3 hàng, tất cả đều chỉ ra rằng nó là loài rêu thật.
Vòng đời.
Thực vật có mạch có 2 bộ nhiễm sắc thể trong các tế bào sinh dưỡng của chúng và được gọi là lưỡng bội, nghĩa là mỗi nhiễm sắc thể đều có một đối tác chứa thông tin di truyền giống hoặc tương tự như nó. Ngược lại, rêu thật và các nhóm rêu khác chỉ có 1 bộ nhiễm sắc thể và vì thế là đơn bội (nghĩa là mỗi nhiễm sắc thể tồn tại trong một bản sao duy nhất bên trong tế bào). Có một khoảng thời gian trong vòng đời của rêu thật khi chúng có một bộ kép các nhiễm sắc thể cặp đôi, nhưng điều này chỉ xảy ra trong giai đoạn thể bào tử.
Vòng đời của rêu thật bắt đầu với một bào tử đơn bội nảy mầm để sinh ra một thể nguyên tơ (protonema, protonemata) hay tơ mềm, có thể là một khối các sợi giống như sợi chỉ hoặc dạng á tản (phẳng và giống như tản). Các thể nguyên tơ dạng khối của rêu thật thông thường giống như một lớp nỉ mỏng màu xanh lục, và có thể mọc trên đất ẩm, vỏ cây, đá, bê tông hoặc gần như bất kỳ bề mặt nào có độ ổn định phù hợp. Đây là giai đoạn chuyển tiếp trong vòng đời của rêu thật, nhưng từ các thể nguyên tơ mọc ra cuống túi giao tử ("vật sinh giao tử") được phân hóa về cấu trúc thành thân và lá. Một khối riêng lẻ các thể nguyên tơ có thể phát triển vài chồi cuống túi giao tử, sinh ra một cụm rêu.
Từ đỉnh của thân hay nhánh cuống túi giao tử phát triển các cơ quan sinh dục của rêu thật. Các cơ quan cái được biết đến như là túi giao tử cái (archegonium, archegonia) và được bảo vệ bởi một nhóm các lá bị biến đổi được biết đến như là tổng bao cái (perichaetum, perichaeta). Các túi giao tử cái là các cụm các tế bào dạng bình thót cổ nhỏ với phần cổ thắt lại hở (gọi là bụng), nơi mà tinh trùng bơi vào. Các cơ quan đực được biết đến như là túi giao tử đực (antheridium, antheridia) và được bao quanh bởi các lá bị biến đổi được biết đến như là bao đực (perigonium, perigonia). Các lá xung quanh ở một số loài rêu thật tạo thành một "chén văng", cho phép tinh trùng chứa trong chén bị văng ra ngoài tới các cuống lân cận bởi các giọt nước rơi vào.
Rêu thật có thể là đơn tính khác thể giao tử (so sánh với đơn tính khác gốc ở thực vật có hạt) hoặc đơn tính cùng thể giao tử (so sánh với đơn tính cùng gốc ở thực vật có hạt). Ở rêu đơn tính khác thể giao tử thì các cơ quan sinh dục đực và cái được sinh ra trên các cây thể giao tử khác nhau. Ở rêu đơn tính cùng thể giao tử thì các cơ quan sinh dục đực và cái được sinh ra trên cùng một cây thể giao tử. Khi có nước, tinh trùng từ các túi giao tử đực bơi tới các túi giao tử cái và thụ tinh diễn ra, dẫn tới sự sản sinh thể bào tử lưỡng bội. Tinh trùng của rêu thật là hai tiên mao, nghĩa là chúng có 2 tiên mao (lông roi) hỗ trợ tạo ra lực đẩy. Do tinh trùng phải bơi tới túi giao tử cái nên thụ tinh không thể xảy ra nếu không có nước. Một số loài (như "Mnium hornum" hay một vài loài của chi "Polytrichum") giữ các túi giao tử đực trong cái gọi là 'chén văng', một cấu trúc giống như cái chén hay cái bát trên đỉnh chồi để đẩy tinh trùng văng ra xa vài deximet khi các giọt nước va vào chúng, làm tăng khoảng cách có thể thụ tinh.
Sau khi thụ tinh, thể bào tử chưa thuần thục đẩy nó thoát ra khỏi bụng túi giao tử cái. Mất khoảng 3 đến 6 tháng để thể bào tử thuần thục. Cơ thể của thể bào tử bao gồm một cuống dài, gọi là tơ cứng, và một nang có nắp đậy. Nang và nắp được bao bọc bởi một mạng che đơn bội là phần sót lại của bụng túi giao tử cái. Mạng che thông thường sẽ rụng khi nang thuần thục. Bên trong nang, các tế bào sinh bào tử trải qua phân bào giảm nhiễm để tạo ra các bào tử đơn bội, mà sau đó vòng đời lại có thể bắt đầu. Miệng của nang thông thường có một vòng phần phụ giống như răng bao quanh, gọi là vòng lông răng. Vòng lông răng này không thấy có ở một số loài rêu thật.
Phần lớn các loài rêu thật phát tán bào tử nhờ gió. Ở chi "Sphagnum" thì bào tử được bắn ra xung quanh khoảng nhờ khí nén có trong nang; với các bào tử được gia tốc tới khoảng 36.000 lần gia tốc trọng trường Trái Đất ("g").
Gần đây người ta phát hiện ra rằng các nhóm động vật chân khớp nhỏ, như bọ đuôi bật (Collembola) và bét (Acari), có thể ảnh hưởng tới thụ tinh ở rêu thật và quá trình này được thúc đẩy bởi mùi do rêu phát ra. Chẳng hạn "Ceratodon purpureus" (rêu lửa, rêu răng sừng tía) đực và cái tỏa ra các chất mùi hữu cơ dễ bay hơi và phức tạp. Các cây cái tỏa ra nhiều hợp chất hơn các cây đực. Bọ đuôi bật được phát hiện là ưa chọn cây cái hơn, và một nghiên cứu cho thấy bọ đuôi bật làm tăng thụ tinh ở rêu, gợi ý rằng mối quan hệ được thúc đẩy bằng mùi tương tự như mối quan hệ thụ phấn thực vật ở nhiều loài thực vật có hạt. Loài rêu "Splachnum sphaericum" phát triển cơ chế thụ tinh nhờ côn trùng xa hơn nữa bằng cách thu hút ruồi tới các túi bào tử của nó với mùi xác chết thối nồng nặc, và cung cấp một ám hiệu thị giác mạnh dưới dạng các cổ phồng màu đỏ phía dưới mỗi nang bào tử của nó. Ruồi bị hấp dẫn bay đến cây rêu sẽ mang bào tử của nó đến các đống phân tươi của động vật ăn cỏ, chính là môi trường sống ưa thích của các loài trong chi rêu này.
Một số loài rêu thật, như "Ulota phyllantha", các cấu trúc sinh dưỡng màu xanh lục gọi là mầm được sinh ra trên lá hoặc nhánh, có thể tách ra để tạo thành một cây rêu mới mà không cần phải trải qua chu trình thụ tinh. Đó là một cách thức của sinh sản vô tính, và các đơn vị đồng nhất về di truyền có thể dẫn tới sự hình thành của các quần thể dòng vô tính.
Phân loại.
Trước đây, rêu thật được gộp nhóm cùng với rêu tản và rêu sừng trong ngành Bryophyta (rêu, hay Bryophyta "sensu lato"), trong đó rêu thật là lớp Musci. Định nghĩa này về Bryophyta là một nhóm cận ngành, do rêu thật dường như là gần với thực vật có mạch hơn là với rêu tản. Rêu nói chung hiện nay đã tách thành 3 ngành là Bryophyta (rêu thật), Marchantiophyta (rêu tản) và Anthocerotophyta (rêu sừng).
"Bryophyta"' (Bryophyta "sensu stricto") được chia thành 8 lớp:
Sáu trong 8 lớp này chỉ chứa 1 hoặc 2 chi trong mỗi lớp. Polytrichopsida có 23 chi, và Bryopsida chiếm phần lớn các loài trong ngành Rêu với hơn 95% số loài. | 1 | null |
Thường tại (chữ Hán: 常在), là một tước hiệu dành cho nữ quan nhà Minh, đến đời nhà Thanh thì trở thành một cấp bậc của phi tần.
Lịch sử.
Quy chế nhà Minh quy định "Thường tại" là cấp bậc Nữ quan trong Từ Ninh cung, Từ Khánh cung và Đông Cung, phục vụ bên cạnh của Thái hậu và Thái tử, không phải là một cấp bậc tần phi.
Nhà Thanh quy định đẳng cấp tần phi, ngoài Hoàng hậu thì có: Hoàng quý phi, Quý phi, Phi, Tần, Quý nhân, Thường tại và Đáp ứng. Địa vị của Thường tại khá thấp, là vị phân thấp nhất thông thường của một Tú nữ thông qua Bát kỳ tuyển tú, đồng thời là tước vị hay thấy nhất của Quan nữ tử (tức Cung nữ) tấn phong lên. Cung phân của Thường tại, mỗi năm 50 lượng bạc, cùng một số đãi ngộ theo tháng về lương thực và than (xem thêm ở Hậu cung nhà Thanh).
Ở triều Thanh, từ vị trí Quý nhân trở xuống địa vị thấp, cần ["Cần tu nội chức"; 勤修内职], tuân thủ nghiêm ngặt cung quy. | 1 | null |
Quý nhân (chữ Hán: 貴人; Bính âm: guì rén) là một cấp bậc danh phận của phi tần trong hậu cung của Hoàng đế trong khối Đông Á. Đôi khi đây cũng là một cách gọi chung của những người xuất thân quyền quý.
Lịch sử.
Danh vị Quý nhân đã xuất hiện không chính thức ở thời Tây Hán. Hiếu Thành Hứa Hoàng hậu khi bị phế ở Trường Định cung, đã được gọi là 「Trường Định Quý nhân; 長定貴人」.
Dưới thời Đông Hán, hậu cung có cách sắp xếp thứ bậc, tước vị Quý nhân chính thức trở thành danh hiệu cho phi tần. Hán Quang Vũ Đế thiết lập hậu cung, dưới Hoàng hậu chia thành 4 bậc: [Quý nhân; 貴人], [Mỹ nhân; 美人], [Cung nhân; 宮人] và [Thái nữ; 采女]. Hầu hết trước khi phong hậu, các Hoàng hậu Đông Hán đều được phong qua tước vị Quý nhân, ví dụ: Quách Thánh Thông, Âm Lệ Hoa rồi Đặng Tuy.
Tới thời Tào Ngụy, Tây Tấn rồi Nam Bắc triều, Quý nhân được liệt vào hàng cao chỉ sau Hoàng hậu. Như Tống Hiếu Vũ Đế thiết lập Tam phu nhân, bao gồm: [Quý phi; 貴妃], [Quý tần; 貴嬪] và [Quý nhân; 貴人]. Thời Bắc Ngụy ban đầu, dưới Hoàng hậu có Chiêu nghi, Quý nhân rồi Phu nhân. Sang thời nhà Tống, tước vị Quý nhân chỉ thuộc hàng "Chính ngũ phẩm", đã giảm đi đáng kể so với khi trước. Đặc biệt trong hậu cung nhà Thanh, Quý nhân là một trong 3 phân vị kém nhất trong hậu cung nhà Thanh, chỉ trên Thường tại và Đáp ứng.
Ở hậu cung nhà Triều Tiên, tước vị Quý nhân thuộc hàng "Tòng nhất phẩm", chỉ dưới Vương phi và Tần. Tại Việt Nam, cấp bậc này được quy định trong nội đình nhà Nguyễn, là bậc thứ 7 trong 9 bậc cung giai, gọi là [Thất giai Quý nhân; 七階貴人].
Nhân vật nổi tiếng.
Trung Quốc
Triều Tiên
Việt Nam | 1 | null |
George Wilcken Romney (08 tháng 7 năm 1907 - 26 tháng 7 năm 1995) là một người kinh doanh Mỹ và là một chính trị gia thuộc Đảng Cộng Hòa.Ông từng là Thống đốc Michigan từ 1963-1969, và Bộ trưởng Gia cư và Phát triển Đô thị Hoa Kỳ từ 1969-1973. Ông là cha của cựu Thống đốc Massachusetts và ứng cử viên đảng cộng hòa Mitt Romney và là chồng của cựu ứng cử viên Thượng viện Michigan Lenore Romney. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.