text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Ferdinand Emil Karl Friedrich Wilhelm von Schwartzkoppen (15 tháng 1 năm 1810 tại Obereimer – 5 tháng 1 năm 1878 tại Stuttgart) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh. Ông đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất năm 1848, Chiến tranh Schleswig lần thứ hai năm 1864, Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và Chiến tranh Pháp-Đức năm 1870 – 1871.
Tiểu sử.
Thân thế.
Emil xuất trong gia đình trung lưu Swartekop, một gia đình trung lập đã được ghi nhận từ năm 1500 tại Braunschweig, và đã được liệt vào hàng quý tộc Đế chế "Rittermäßiger Reichsadelsstand" đồng thời là quý tộc di truyền của Áo với tên gọi "von Schwartzkoppen" vào năm 1688. Ông là con trai của viên kiểm lâm trưởng và thị thần Phổ Ernst August Friedrich von Schwartzkoppen (27 tháng 5 năm 1776 – 17 tháng 2 năm 1827 tại Arnsberg) đến từ Königslutter bs3 vợ của ông này là bà Marie Therese Charlotte, tên khai sinh Marschall von Bieberstein (17 tháng 7 năm 1775 – 25 tháng 3 năm 1842) đến từ Wallerstein.
Sự nghiệp quân sự.
Schwartzkoppen học tại Trường Trung học Laurentianum ở Arnsberg và sau khi rời trường ông nhập ngũ trong quân đội Phổ vào ngày 10 tháng 1 năm 1826. Đơn vị đầu tiên mà ông tham gia là Trung đoàn Bộ binh số 30 ở Trier và Luxemburg. Vào năm 1829, ông được lên quân hàm trung úy, và sau đó ông giữ chức vụ sĩ quan phụ tá cấp tiểu đoàn, rồi cấp trung đoàn. Vào năm 1841, ông được cử làm sĩ quan phụ tá trong Ban Chỉ huy ("Kommandantur") của pháo đài Luxemburg. Vào năm 1846, ông được thăng cấp Đại úy, với chức vụ đại đội trưởng ("Kompaniechef") trong Trung đoàn Bộ binh số 36. Vào năm 1847, ông được thuyên chuyển vào Trung đoàn Bộ binh số 2.
Khi phục vụ trung đoàn này, ông đã tham gia chiến trận lần đầu tiên trên đường phố Berlin trong cuộc đánh dẹp Cách mạng năm 1848 tại Đức, rồi sau đó là trong cuộc chiến tranh chống Đan Mạch. Vào ngày 23 tháng 4, ông bị thương trong cuộc đánh chiếm cao điểm Annettenhöhe tại trận Schleswig. Sự nghiệp quân sự của ông tiếp tục sau cuộc chiến tranh này, và sau khi giữ một số chức, ông được phong quân hàm Đại tá vào ngày 1 tháng 7 năm 1860, đồng thời được bổ nhiệm làm Tư lệnh của Trung đoàn Bộ binh "Bá tước Bülow von Dennewitz" (số 6 Westfalen) số 55 mới được thành lập. Ông đã chỉ huy trung đoàn này tham chiến trong trận đột chiếm Dybbøl, một thắng lợi quyết định của Phổ vào ngày 18 tháng 4 năm 1864 trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch.
Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, ông lại được phong cấp Thiếu tướng và lãnh chức Tư lệnh của Lữ đoàn Bộ binh số 27 vào năm 1864. Trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, lữ đoàn của ông là một phần thuộc biên chế của "Tập đoàn quân Elbe" (Elbarmee) và đã tấn công Vương quốc Böhmen. Trong trận đánh quyết định ở Königgrätz, Bittenfeld đã đánh chiếm thành công làng Problus, buộc quân Sachsen mặc dù phía Phổ chịu thiệt hại nặng, trong số đó 4 tiểu đoàn của Schwartzkoppen mất 4 sĩ quan và 67 binh lính tử trận cùng với 17 sĩ quan và 300 binh lính bị thương. Lữ đoàn của ông đã chiếm giữ Problus sau thắng lợi của cuộc tấn công. Do công tích của ông trong cuộc tấn công Problus, Schwartzkoppen đã được tặng thưởng Huân chương Quân công cao quý nhất của Phổ. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1866, ông được đổi làm Tư lệnh của Sư đoàn số 18 mới được cấu trúc tại Flensburg. Vào năm 1867, ông được lên quân hàm Trung tướng, và cùng năm đó ông nhậm chức Tư lệnh của Sư đoàn số 19 tại Hannover.
Chiến tranh Pháp-Đức.
Tiếp theo đó, Sư đoàn số 9 dưới quyền ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức như một phần thuộc biên chế của Quân đoàn X trong Tập đoàn quân số 2 ("2. Armee"). Trong cuộc chiến tranh này, trận đánh đấu tiên của ông là trận Mars-la-Tour vào ngày 16 tháng 8 năm 1870. Khi nghe tiếng súng trận, Schwartzkoppen đã kéo sư đoàn của mình hành binh từ St. Hilaire, và đưa hai trung đoàn của mình (hợp thành một lữ đoàn) vào trận với mệnh lệnh tấn công vào sườn của Quân đoàn IV của Pháp do tướng Paul de Ladmirault chỉ huy, mà không hề dò la vị trí hay sinh lực của phía Pháp. Do phải hành quân trên các đoạn đường nóng bức trong vòng 12 tiếng đồng hồ, binh sĩ của ông đã rệu rã. Mệnh lệnh đánh bọc sườn quân Pháp đã gần như đẩy quân đội Đức vào một thảm họa. Binh lính của Schwartzkoppen, với đội hình chặt chẽ và không hề có lực lượng tiền vệ, khi đang tiến qua Mars-la-Tour đã bất ngờ trông thấy những tuyến quân Pháp dày đặc: thay vì họ đã tạt sườn Quân đoàn IV của Ladmirault, họ đã đối mặt trực diện với quân của ông ta. Các lực lượng Pháp này chính là sư đoàn của tướng Grenier, vốn đang nghỉ ngơi sau thắng lợi trong một cuộc giao chiến, và sư đoàn của Cissey nhanh chóng ứng viện cho họ. Không còn thời gian để quân Đức khai pháo trước khi tấn công, và các đội hình hàng dọc dày đặc của họ đã lao đầu tấn công thẳng vào thung lũng. Chỉ trong vòng 30 phút, súng trường "Chassepot" của người Pháp tại cao điểm Bruville đã đánh quỵ người Đức trước khi quân Pháp có thể lọt vào tầm bắn hiệu quả của súng trường "Dreyse" của quân Đức. Các trung đoàn thuộc Lữ đoàn Wedell, lữ đoàn tiên phong của Schwartzkoppen, bị thiệt hại 2.600 người và buộc phải rút chạy. Trước sự cổ vũ của các sĩ quan và lính đánh trống, quân Pháp đã truy đuổi quân Đức trên các dốc chất đầy xác chết. Những tổn thất của lữ đoàn tiên phong của ông chiếm 60% tổng lực của đơn vị này, và trong số đó 45% đã tử trận, gồm thâu và hai chỉ huy trung đoàn. Trong số những người bị thương có Lữ đoàn trưởng Wedell.
Sau đó, cũng như "cuộc tấn công tử thần của Bredow" 3 tiếng đồng hồ trước đó, lực lượng kỵ binh đã ồ ạt xung phong, chặn đứng bước tiến của quân Pháp dưới quyền Ladmirault và buộc ông ta phải thoái lui. Lữ đoàn của Cissey đã phát động một cuộc tấn công, nhưng khi đến gần quân Đức, họ bị rơi vào tầm đạn của đối phương. Sau khi quân Pháp hết sạch đạn dược, một cuộc phản công của quân Đức đã bẻ gãy đợt tấn công của quân Pháp.
Sau chiến tranh.
Sau trận đánh khốc liệt này, ông lâm bệnh và không còn tham gia chiến tranh nữa. Sau khi Hòa ước Frankfurt được ký kết với nước Pháp bại trận, ông được bổ nhiệm làm Thống đốc quân sự của thành phố Berlin đồng thời cũng lãnh chức chỉ huy lực lượng Hiến binh Quốc gia. Vào năm 1873, ông được thăng cấp bậc Thượng tướng Bộ binh và vào ngày 24 tháng 12 năm 1874 ông được ủy nhiệm làm Tướng tư lệnh của Quân đoàn XIII (Vương quốc Württemberg), đóng quân tại Stuttgart. Khi còn đang tại nhiệm, Schwartzkoppen đã từ trần vào ngày 5 tháng 1 năm 1878.
Sau khi ông mất, linh cữu ông được đưa về Merseburg và tại đây ông được mai táng vào ngày 8 tháng 1 năm 1878.
Tặng thưởng.
Trong sự nghiệp quân sự lâu dài của mình, Verdienste đã được nhận nhiều phần thưởng. Trong số đó có các huân chương sau đây:
Nhân dịp kỷ niệm 50 ngày ông nhập ngũ, Schwartzkoppen được phong chức Trung đoàn trưởng của Trung đoàn Bộ binh "Công tước Ferdinand von Braunschweig" (số 8 Westfalen) số 57. Ngoài ra, ông còn được cấp quyền vận quân phục của tướng lĩnh Württemberg.
Tặng thưởng.
Vào ngày 4 tháng 8 năm 1840, tại Fischbek, Schwartzkoppen đã thành hôn lần đầu tiên với Anna Marie Luise, tên khai sinh là von Ditfurth (27 tháng 9 năm 1816 tại Danzig – 15 tháng 4 năm 1865 tại Düsseldorf), con gái của Thượng tướng Bộ binh về sau này Wilhelm von Ditfurth, Điền chủ của Dankersen, và bà Florentine von Brederlow. Cặp đôi đã sản sinh những người con sau đây:
Bốn năm sau khi người vợ đầu tiên của ông qua đời, ông tái giá tại Merseburg vào ngày 29 tháng 7 năm 1869 với bà Christiane Marie Hildegard, tên khai sinh là von Brederlow (13 tháng 12 năm 1833 tại Halberstadt – 31 tháng 5 năm 1916 tại Merseburg), khi đó sinh sống ở Haus Tragarth tại Merseburg, con gái của viên Thiếu tướng Phổ Bonaventura von Brederlow và bà Karoline, tên khai sinh là von Branconi. Họ có hai người con sau đây: | 1 | null |
Lepidium meyenii là một loài thực vật có hoa thuộc họ Cải. Loài này được Walp. mô tả khoa học đầu tiên năm 1843.
Đây là loài bản địa Andes cao của Peru quanh hồ Junin. Lepidium Meyenii được trồng lấy củ, và người dân bản xứ sử dụng nó như một loại rau củ trong thức ăn hàng ngày, một loại dược thảo quý đối với sức khỏe tổng thể, đặc biệt là giúp người phụ nữ cải thiện ham muốn tình dục.
Người phương Tây đầu tiên mô tả loài này là Gerhard Walpers vào năm 1843, và định danh cho loài này là Lepidium meyenii. Trong những năm 1990, tiến sĩ Gloria Chacon đã phân biệt rõ hơn nữa của các loài khác nhau. Bà xem là loài thảo dược tự nhiên được trồng rộng rãi ngày nay là một loài được thuần hóa mới, L. peruvianum. Hầu hết các nhà thực vật học ngày nay nghi ngờ sự khác biệt này, tuy nhiên, và tiếp tục gọi loài Maca được trồng là L. meyenii. Tên Latin được công nhận bởi Bộ Nông nghiệp Mỹ cũng tiếp tục là Lepidium meyenii. Có một cuộc tranh luận vẫn đang tiếp diễn về thuật ngữ chính xác, và liệu sự phân biệt giữa meyenii và peruvianum là đúng về mặt thực vật học hay không hay chúng cùng loài.
Lepidium Meyenii là gì?
Sinh trưởng ở vùng núi cao thuộc dãy Andes - Nam Mỹ, Lepidium Meyenii là thảo dược có thân thảo cao từ 10 đến 20 cm. Lá cây đa hình, mọc đan xen vào nhau như một tấm thảm tròn gần mặt đất. Cây có hoa mọc thành cụm nhỏ ở trung tâm, hoặc hoa đơn ở nách lá.
Phần quý giá nhất của Lepidium Meyenii là rễ củ phình đại bên dưới mặt đất, có đường kính từ 3 đến 5 cm. Củ có nhiều màu sắc, nhưng phần lớn màu trắng ngà hoặc màu vàng. Đây là bộ phận giúp cây bám lấy mặt đất, hấp thụ nước và chất dinh dưỡng để lưu trữ, giúp cây tồn tại ngay trong những thời tiết khắc nghiệt nhất. Khả năng trích xuất chất dinh dưỡng từ môi trường xung quanh của rễ cây rất cao.
Nhờ vậy, Lepidium Meyenii có thể sinh trưởng trên những vùng đất khô cằn của dãy Andes, nơi mà hầu như không có loại cây nào tồn tại được. Ở độ cao trên 4000 mét, điều kiện đất đai nghèo dinh dưỡng và nhiều đá sỏi, gió mạnh, ánh nắng mặt trời gay gắt nhưng lại lạnh hơn cả nhiệt độ đóng băng, Lepidium Meyenii vẫn phát triển tốt và tích lũy trong rễ củ của mình những tinh túy quý giá của thiên nhiên.
Sau khi thu hoạch, Lepidium Meyenii có thể sử dụng ngay hoặc được phơi sấy khô để lưu trữ dài ngày. Nước ép của phần củ có mùi thơm nhẹ, vị ngọt dịu, có thể dùng hằng ngày như một loại sinh tố. Củ Lepidium Meyenii có thể chế biến cùng với các thực phẩm khác như trứng, sữa, bột... thành các món ăn đa dạng.
Lịch sử của Lepidium Meyenii.
Lepidium Meyenii được sử dụng phổ biến trong thời gian gần đây nhờ tác dụng cân bằng hormone một cách tự nhiên, giúp cơ thể khỏe mạnh và tăng cường sinh lý. Tuy vậy, những bằng chứng khảo cổ học đã cho thấy loại thảo dược này đã được người Inca cổ đại sử dụng từ 2.000 năm trước. Họ xem đây là loại dược phẩm thiêng liêng, giúp tăng cường sức khỏe tình dục và mang đến nguồn sinh lực thần thánh Lepidium Meyenii được sử dụng chủ yếu cho hoàng tộc Inca, rồi mới đến các chiến binh, người dân.
Khi xâm lược Nam Mỹ, người Tây Ban Nha bắt đầu biết đến công dụng của Lepidium Meyenii và cũng bắt đầu sử dụng loại thảo dược này. Tuy vậy, Lepidium Meyenii chỉ được mô tả lần đầu tiên vào năm 1843 bởi nhà thực vật học người Đức Wilhelm Walpers Gerhard khi ông thực hiện một số nghiên cứu ở vùng cao nguyên Puno.
Năm 1945, tiến sĩ August Weberbauer cũng mô tả một số loại cây Lepidium Meyenii sinh trưởng ở độ cao hơn 4.000 mét so với mực nước biển, nhưng ông gọi đây "cây Puna". Một số nghiên cứu về thảo dược của ông hiện vẫn được lưu trữ ở viện bảo tàng thực vật học ở Chicago.
Khả năng tăng cường sinh sản của Lepidium Meyenii được hỗ trợ lâm sàng vào năm 1961, trong một nghiên cứu của Tiến sĩ Gloria Chacon – một nhà sinh học nổi tiếng. Đến năm 1989, Tiến sĩ Gloria Chacon cũng đã công bố thêm một nghiên cứu khác, trong đó cô đặt tên cho loài thảo dược này là "Lepidium Peruvianum Chacon sp.", thêm một tên khoa học mới cho Lepidium Meyenii.
Sau đó, hàng loạt các nghiên cứu khoa học khác cũng đã được tiến hành và khẳng định các tác dụng cũng như tính an toàn của loài thảo dược có lịch sử hơn 2.000 năm qua này. Đặc biệt, công dụng đối với sức khỏe tình dục của Lepidium Meyenii ngày càng được chú trọng nghiên cứu.
Hiện nay, Lepidium Meyenii được sử dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới, như một biện pháp cân bằng hormone một cách tự nhiên, đặc biệt ở nữ giới, giúp tăng cường sinh lực và chức năng sinh lý. Lepidium Meyenii có thể sử dụng một mình, hoặc kết hợp cùng các thảo dược khác để tăng hiệu quả mà không có tương kỵ.
Thành phần của Lepidium Meyenii.
Sterols.
Sterol có tác dụng giúp màng tế bào nguyên vẹn, giảm viêm, giữ ẩm và cải thiện làn da trong quá trình biến dưỡng. Sterol còn có tác dụng ức chế hấp thu cholesterol, Sterol còn có khả năng chống oxi hoá. Người ta còn gọi đây là những phytosterols, được xem như chất làm giảm cholesterol một cách tự nhiên. Do đó, thảo dược này rất hữu ích đối với người có vấn đề về tim mạch, chống đột quỵ.
Vitamin:.
Lepidium Meyenii chứa nhiều Vitamin B1, B2 and B12 góp phần giúp sản xuất năng lượng, đồng thời thúc đẩy quá trình trao đổi chất, giúp làn da khỏe mạnh và sức khỏe cơ bắp, Vitamin C giúp chống oxy hóa, tăng cường hệ thống miễn dịch.
Chất khoáng:.
Lepidium Meyenii chứa 31 loại chất khoáng khác nhau như calci, sắt, ma giê, phosphor, kali, kẽm vv... hỗ trợ cho cấu trúc tế bào và các chức năng sinh lý của cơ thể.
Carbohydrates:.
Lepidium cũng giàu carbonhydrates – nguồn gốc chính của năng lượng tự nhiên. Kết hợp cùng nhóm Alkaloids và các chất dinh dưỡng khác, Lepidium Meyenii mang đến một nguồn năng lượng lâu dài.
Fatty Acids:.
Lepidium Meyenii chứa nhiều axit béo cần thiết cho sự hình thành của màng tế bào, và sự phát triển, hoạt động của não bộ và hệ thống thần kinh. Đây cũng là nguồn cung cấp các sterol cho tác động tương tự như các nội tiết tố trong cơ thể nữ giới như testosterone, estrogen và progresterone.
Proteins:.
Trung bình trong 100gr Lepidium Meyenii chứa 11 gr protein có hoạt tính sinh học ("bio-available" protein). Đây là thành phần quan trọng, cần thiết cho sự phát triển, hoàn thiện và thay thế tế bào.
Glucosinolates:.
Lepidium Meyenii chứa nhóm glucosinolates, có tác động lên chức năng sinh sản, kích thích tình dục và thay đổi quá trình chuyển hóa estrogen theo hướng có lợi. Các nghiên cứu còn khẳng định nhóm glucosinolates còn có tác dụng mạnh trong điều trị ung thư, tác động lên hệ enzyme, ngăn ngừa sự đột biến gen.
Saponins:.
Saponin vốn là thành phần quan trọng trong các loại sâm, nhân sâm. Saponin trong Lepidium Meyenii cho tác dụng chống oxy hóa, chống ung thư, kháng viêm và giải độc máu.
Alkaloids:.
Alkaloid chứa trong Lepidium Meyenii cho tác dụng kích hoạt não điều tiết hormone, giúp chuyển hóa calci và phosphor trong máu.
Công dụng của Lepidium Meyenii.
Lepidium Meyenii được sử dụng khá phổ biến nhờ tác dụng tăng cường sinh lực, giúp cơ thể khỏe mạnh lâu dài, thay vì chỉ mang đến hiệu quả nhất thời như các hoạt chất khác (caffeine...). Tuy vậy, công dụng hàng đầu của Lepidium Meyenii vẫn là tăng cường sinh lý, giúp phụ nữ có được đời sống tình dục viên mãn, đồng thời làm giảm các triệu chứng của giai đoạn tiền mãn kinh – mãn kinh.
Các nghiên cứu khoa học đã cho thấy Lepidium Meyenii giúp tạo sự cân bằng có lợi theo kiểu hormone sinh dục như testosterone, estrogen, progesterone. Ngoài ra, Lepidium Meyenii còn có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương làm tăng nồng độ serotonin và dopamine trên vỏ não, là những hormone tham gia vào quá trình tình dục. Nhờ đó, Lepidium Meyenii giúp phụ nữ cải thiện các triệu chứng giảm ham muốn, khô âm đạo, khó đạt khoái cảm.
Đặc biệt, dù có tác động vào sự cân bằng hormone nhưng Lepidium Meyenii lại không hề chứa các thành phần nội tiết tố cũng như không làm ảnh hưởng đến nồng độ của estrogen, progesterone và testosterone trong cơ thể. Lepidium Meyenii được xem như giải pháp an toàn thay cho liệu pháp hormone thay thế. Loại thảo dược này chứa các sterol có tác động giúp cơ thể tự điều tiết bộ các hormone sao cho phù hợp với độ tuổi, tình trạng sức khỏe của từng người. Nhờ vậy, cơ thể phụ nữ sẽ thích nghi một cách nhẹ nhàng với các thay đổi tự nhiên mà tạo hóa quy định trong giai đoạn tiền mãn kinh – mãn kinh. Quá trình mãn kinh vẫn diễn ra nhưng các triệu chứng khó chịu trong mãn kinh đã được xoa dịu một cách hiệu quả. | 1 | null |
Lepidium strongylophyllum là một loài thực vật có hoa trong họ Cải. Loài này được F. Mull. mô tả khoa học đầu tiên năm 1863.
Phạm vi bản địa của loài này là miền Trung nước Úc.
Miêu tả.
Cây bụi sống lâu năm, mọc thẳng, cao tới 40 cm, nhẵn, đôi khi có lông; lá hình trứng ngược, dài 15-30 mm, rộng 10-20 mm, có lông.
Lá đài dài 3-5 mm; cánh hoa dài 4-6 mm, màu trắng; nhị 6.
Silicula hình elip, dài 5-7 mm, rộng 4-5,5 mm, có cánh ở nửa trên của quả, tạo thành một khía bằng 1/6 chiều dài của quả; cuống xòe, dài 5-7 mm; hạt hình trứng, dài 2-3 mm. | 1 | null |
Đặc điểm.
Ptilotrichum reverchonii là một loài thực vật có hoa trong họ Cải. Loài này được Degen & Hervier miêu tả khoa học đầu tiên năm 1906.
Loài cây này khi trưởng thành cao không quá 20cm. Phiến lá rộng và có có lớp lông tơ màu trắng bạc dày đặc phủ quanh lá.
Phân bổ.
Ptilotrichum reverchonii thường sống ở phía Đông Nam Tây Ban Nha bên trên các vách đá vôi. Cây có thể sống trên núi cao hoặc trồng ở trên bức tường khô hoặc nằm ở giữa các khe hở thẳng đứng có mái che. | 1 | null |
Sinapis alba là một loài thực vật có hoa trong họ Cải. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Phổ biến nhất ở châu Âu, Bắc Phi, Trung Đông và Trung Á, cây có thể được tìm thấy trên toàn thế giới. Cây cũng được tìm thấy ở phía bắc xa xôi như Greenland, và được tập cho quen phong thổ trên khắp nước Anh và Ireland.
Mù tạc trắng là một cây thường niên, phát triển đến 70 cm cao với các cặp lá song song. Hạt của cây là một trong những nguyên liệu để tạo gia vị mù tạt. Thuật ngữ "mù tạt trắng" đề cập đến hạt có màu trắng, cũng còn được gọi là "mù tạt vàng", vì hoa màu vàng của nó.
Mù tạt chứa protein, dầu béo và sinalbine glycoside (xem thành phần) và có vị cay nồng.
Mù tạc trắng là một đối tượng nghiên cứu quan trọng của sinh lý học thực vật. Nhiều phát hiện của quang hình thái ("Photomorphogenesis") đã thu được, ví dụ, từ Hans Mohr và đồng nghiệp tại Viện Sinh học của Đại học Albert-Ludwigs ở Freiburg im Breisgau về loài thực vật này. | 1 | null |
Thlaspi armenum là một loài thực vật có hoa trong họ Cải. Loài này được nhà thực vật người Nga Nikolay Adolfovich Busch (Николай Адольфович Буш) mô tả khoa học đầu tiên năm 1906.
Từ nguyên.
Tính từ định danh giống trung "armenum" (giống đực: "armenus", giống cái: "armena") là tiếng Latinh, lấy theo tên gọi Armenia. Mẫu định danh thu thập gần Nakhchivan; khi đó là thị trấn trong huyện Nakhichevan, tỉnh Erivan (tên gọi cũ của Erevan) của đế quốc Nga.
Phân bố.
Loài này có trong khu vực Nam Kavkaz.
Lưu ý.
Brassibase và Euro+Med Plantbase không công nhận loài này mà coi nó là đồng nghĩa của "Neurotropis platycarpa"/"Noccaea platycarpa". | 1 | null |
Thlaspi arvense là một loài thực vật có hoa trong họ Cải. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Từ nguyên.
Tính từ định danh giống trung "arvense" (giống đực/cái: "arvensis") là tiếng Latinh để chỉ đồng ruộng, đồng cỏ, bãi cỏ.
Phân bố.
Loài này phân bố rộng trong khu vực bản địa của nó là vùng ôn đới thuộc đại lục Á-Âu, nhưng đã du nhập vào châu Mỹ, Algeria, Australia, quần đảo Anh, Iceland, Ma Rốc, Nam Phi, | 1 | null |
Mikoyan LMFS () là một loại máy bay tiêm kích tàng hình một động cơ của Nga, được đề xuất dựa trên loại máy bay Mikoyan Project 1.44 đã bị hủy bỏ. Những hình ảnh gần đây về mẫu thiết kế tiêm kích này cho thấy nó có khoang quân giới lớn. | 1 | null |
Hassan Rowhani là một giáo sỹ và nhà chính trị Iran. từng là nhà thương thuyết hạt nhân từ năm 2003-2005 dưới thời cựu tổng thống Mohammad Khatami. Trong chiến dịch tranh cử tháng 6 năm 2013, ông đã giành thắng lợi, Rowhani cam kết sẽ đàm phán để thuyết phục phương Tây dỡ bỏ các biện pháp cấm vận đang phá hủy nền kinh tế Iran. | 1 | null |
USS "Kimberly" (DD–80) là một tàu khu trục lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Lewis Ashfield Kimberly.
Thiết kế và chế tạo.
"Kimberly" được hạ thủy vào ngày 14 tháng 12 năm 1917 bởi hãng Fore River Shipbuilding Company tại Quincy, Massachusetts; nó được đỡ đầu bởi Cô Elsie S. Kimberly, con gái Đô đốc Kimberly; và được đưa ra hoạt động vào ngày 26 tháng 4 năm 1918, dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân A. W. Johnson.
Lịch sử hoạt động.
Sau khi hoàn tất chạy thử máy, "Kimberly" rời Boston, Massachusetts ngày 19 tháng 5 năm 1918, hộ tống một đoàn tàu vận tải đi sang Anh Quốc. Sau khi đến nơi vào tháng 6, chiếc tàu khu trục trải qua suốt thời gian còn lại của chiến tranh bảo vệ các con tàu từ Anh đi đến vùng chiến sự tại Châu Âu. Nó rời Queenstown, Ireland vào ngày 26 tháng 12; và sau khi về đi đến Boston vào ngày 8 tháng 1 năm 1919, "Kimberly" tham gia các hoạt động huấn luyện dọc bờ biển. Vào tháng 5, chiếc tàu khu trục đã phục vụ như là tàu cứu nạn dự phòng tại vùng biển New England trong chuyến bay vượt Đại Tây Dương đầu tiên do một thủy phi cơ NC-4 Hải quân thực hiện dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Albert C. Read.
"Kimberly" hoàn tất các cuộc cơ động ngoài khơi Newport, Rhode Island trước khi đi vào Xưởng hải quân Boston tiến hành sửa chữa lớn. Nó gia nhập Lực lượng Khu trục tại Newport ngày 18 tháng 4 năm 1921, và đã hoạt động phối hợp với tàu ngầm trong suốt mùa Hè. Kinh nghiệm thu lượm từ các cuộc thử nghiệm ban đầu có giá trị lớn trong việc hoàn thiện kỹ thuật tác chiến dưới nước. "Kimberly" trải qua mùa Đông tại Charleston, South Carolina trước khi đi đến Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 29 tháng 3 năm 1922, nơi nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 30 tháng 6. Lườn của nó được bán cho hãng Boston Iron & Metal Company, Baltimore, Maryland vào ngày 20 tháng 4 năm 1939 để tháo dỡ. | 1 | null |
USS "Gregory" (DD-82/APD-3) là một tàu khu trục lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và được cho tái hoạt động như một tàu vận chuyển cao tốc với ký hiệu lườn APD-3 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đánh chìm vào ngày 5 tháng 9 năm 1942. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Francis Gregory (1780–1866).
Thiết kế và chế tạo.
"Gregory" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Fore River Shipbuilding Company ở Quincy, Massachusetts vào ngày 25 tháng 8 năm 1917, được hạ thủy vào ngày 27 tháng 1 năm 1918; được đỡ đầu bởi Bà George S. Trevor, chắt của Đô đốc Gregory, và được đưa ra hoạt động vào ngày 1 tháng 6 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Trung tá Hải quân Arthur P. Fairfield.
Lịch sử hoạt động.
Thế Chiến I.
Gia nhập một đoàn tàu vận tải tại New York, "Gregory" lên đường đi Brest, Pháp ngày 25 tháng 6 năm 1918. Nó trải qua mùa Hè cuối cùng của chiến tranh hộ tống các đoàn tàu vận tải từ các cảng của Pháp đến nhiều cảng Đồng Minh. Khi chiến tranh sắp kết thúc, "Gregory" được phân về hải đội tuần tra tại Gibraltar vào ngày 2 tháng 11 năm 1918. Ngoài nhiệm vụ tuần tra tại Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, "Gregory" còn vận chuyển hành khách và tiếp liệu đến khu vực biển Adriatic và hỗ trợ việc thực thi các điều khoản Hiệp ước Đình chiến với Đức. Sau sáu tháng làm nhiệm vụ này, chiếc tàu khu trục gia nhập lực lượng hải quân tham gia các hoạt động cứu trợ tại khu vực Tây Địa Trung Hải vào ngày 28 tháng 4 năm 1919. Cùng với thiết giáp hạm , "Gregory" vận chuyển hàng tiếp liệu và hành khách đến Smyrna, Constantinople và Batum. Nó lên đường cùng với vị Lãnh sự Hoa Kỳ tại Tiflis, Nga cùng một số sĩ quan quân đội Anh, và sau khi đưa các vị khách lên bờ tại Gibraltar; "Gregory" khởi hành đi New York, về đến Hoa Kỳ ngày 13 tháng 6 năm 1919.
Sau các đợt phục vụ ngắn trong thành phần dự bị tại Tompkinsville, New York, Xưởng hải quân Brooklyn và Xưởng hải quân Philadelphia; "Gregory" lên đường đi Charleston, South Carolina ngày 4 tháng 1 năm 1921. Sau một năm hoạt động huấn luyện tại chỗ ngoài khơi các cảng phía Nam kết thúc vào ngày 12 tháng 4 năm 1922, "Gregory" quay về Xưởng hải quân Philadelphia, nơi nó xuất biên chế ngày 7 tháng 7 năm 1922 và được đưa về lực lượng dự bị.
Thế Chiến II.
Khi chiến tranh nổ ra tại Châu Âu với nguy cơ lan rộng đến Hoa Kỳ, "Gregory" cùng ba tàu khu trục bốn ống khói khác được cho thoát ra khỏi tình trạng bỏ không để cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc. Những chiếc khu trục được tháo dỡ hầu hết vũ khí, dành chỗ cho những chiếc xuồng đổ bộ, đồng thời cũng có những cải biến quan trọng khác nhằm phục vụ cho việc vận chuyển binh lính và tiếp liệu. "Gregory" nhập biên chế trở lại vào ngày 4 tháng 11 năm 1940 với ký hiệu lườn mới APD-3 và hợp cùng , và để hình thành nên Đội vận chuyển 12. Không chiếc nào trong số các con tàu dũng cảm này sống sót qua cuộc chiến tranh tại Thái Bình Dương, và tất cả ngoại trừ "McKean" đều bị mất trong Chiến dịch quần đảo Solomon.
"Gregory" cùng những chiếc APD chị em tiến hành huấn luyện dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ trong năm tiếp theo, hoàn thiện kỹ thuật đổ bộ cùng với các sư đoàn Thủy quân Lục chiến khác nhau. Vào ngày 27 tháng 1 năm 1942, khi chiến tranh đã bùng nổ tại Thái Bình Dương, nó rời Charleston hướng sang Trân Châu Cảng. Các cuộc thực tập tại vùng biển Hawaii giữ chân Đội vận chuyển 12 tại Thái Bình Dương suốt mùa Hè, sau đó chúng quay lại San Diego, California để sửa chữa. Những tàu vận chuyển này lại lên đường hướng ra Thái Bình Dương vào ngày 7 tháng 6, đến Trân Châu Cảng một tuần sau đó nhằm chuẩn bị cho cuộc xâm chiếm Guadalcanal, nỗ lực tấn công đầu tiên của phía Mỹ tại mặt trận Thái Bình Dương.
Rời Nouméa ngày 31 tháng 7 năm 1942, "Gregory" gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 62 dưới quyền Đô đốc Frank Jack Fletcher và hướng đến Guadalcanal. Sau khi cho đổ bộ lực lượng Thủy quân Lục chiến của nó lên bờ trong đợt tấn công đầu tiên vào ngày 7 tháng 8, "Gregory" cùng những chiếc APD chị em tiếp tục ở lại khu vực đổ bộ thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau trong một trận chiến cam go nhất lịch sử. Chúng tuần tra tại vùng biển chung quanh các đảo bị giành giật quyết liệt, nơi bị đặt biệt danh "eo biển đáy sắt", và vận chuyển đạn dược và hàng tiếp liệu từ Espiritu Santo.
Vào ngày4 tháng 9, "Gregory" và "Little" đưa một phân đội biệt kích Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên đảo Savo do một tin đồn không thể xác nhận là lực lượng đối phương đã chiếm đóng nơi đó. Binh lính được đưa quay trở về Lunga Point, Guadalcanal. Đêm hôm đó trời tối một cách đặc biệt, nên chỉ huy Đội vận chuyển Hugh W. Hadley quyết định tuần tra ngoài khơi Lunga Point thay vì đi vào cảng Tulagi vốn không thấy rõ bờ. Trong khi chúng di chuyển giữa Guadalcanal và đảo Savo ở vận tốc , các tàu khu trục Nhật "Yudachi", "Hatsuyuki" và "Murakumo" di chuyển vào eo biển mà không bị phát hiện nhằm thực hiện một chuyến "Tốc hành Tokyo" vận chuyển binh lính tăng viện và hàng tiếp tế đến Guadalcanal. Sau khi hoàn thành việc chuyển giao, chúng chuẩn bị bắn phá sân bay Henderson tại Lunga Point.
Lúc 00 giờ 56 sáng ngày 5 tháng 9, "Gregory" và "Little" trông thấy những ánh chớp đạn pháo về phía Đông và tin rằng chúng xuất phát từ một tàu ngầm đối phương, cho đến khi màn hình radar hiển thị bốn mục tiêu nổi; rõ ràng một tàu tuần dương đối phương đã gia nhập cùng ba tàu khu trục. Giây lát sau một thủy phi cơ hải quân PBY Catalina bay bên trên eo biển Savo thả một loạt năm quả pháo sáng để tìm kiếm cái mà họ cũng nghĩ là tàu ngầm đối phương; thay vì vậy, các quả pháo sáng lại thả ngay bên trên những chiếc ADP, hình ảnh chúng nổi bật trên nền trời tối đen, và lập tức bị các tàu đối phương phát hiện. Các tàu khu trục đối phương nổ súng lúc 01 giờ 00. Mặc dù bị áp đảo về hỏa lực, "Gregory" vẫn khai hỏa nhắm vào các tàu khu trục đối phương, nhưng rồi phải chịu đựng các loạt đạn pháo bắn trúng, chỉ sau ba phút nó chết đứng giữa biển và bắt đầu chìm. Hai nồi hơi bị nổ tung, và các sàn tàu là một biển lửa. Hạm trưởng của nó, Thiếu tá Hải quân Harry F. Bauer, bản thân bị thương nặng, ra lệnh bỏ tàu, và thủy thủ của "Gregory" miễn cưỡng rời tàu. Bauer ra lệnh cho hai người tháp tùng đến cứu giúp một đồng đội đang kêu cầu cứu, và sau đó không còn ai thấy ông.
Đến 01 giờ 23 phút, khi tất cả thủy thủ của "Gregory" và hầu hết thủy thủ của "Little" đã ở dưới nước, các tàu chiến Nhật lại tiếp tục bắn pháo và dùng súng máy càn quét, không phải nhắm vào các xác tàu hỏng nhưng là nhắm vào những người sống sót vô vọng dưới nước. Chỉ có 11 thành viên thủy thủ đoàn của "Gregory" sống sót, sáu người trong số đó phải bơi suốt đêm suốt khoảng cách đến Guadalcanal. "Gregory" chìm đuôi trước lúc khoảng 01 giờ 40 phút; "Little" chìm trong tư thế thăng bằng hai giờ sau đó.
Tên của "Gregory" được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân ngày 2 tháng 10 năm 1942. Do hành động can đảm và gan dạ, Bauer được truy tặng huân chương Ngôi sao Bạc. Sau này Hải quân Mỹ đặt tên ông cho một tàu khu trục, chiếc , để ghi nhớ hành động dũng cảm của vị chỉ huy này.
Phần thưởng.
"Gregory" được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận cho thành tích hoạt động trong Thế Chiến II. | 1 | null |
USS "Dyer" (DD–84) là một tàu khu trục lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Nehemiah Mayo Dyer.
Thiết kế và chế tạo.
"Dyer" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Fore River Shipbuilding Company ở Quincy, Massachusetts vào ngày 26 tháng 9 năm 1917, được hạ thủy vào ngày 13 tháng 4 năm 1918; được đỡ đầu bởi cô Virginia Blackmur, và được đưa ra hoạt động vào ngày 1 tháng 7 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Trung tá Hải quân F. H. Poteet.
Lịch sử hoạt động.
Được phân về Hải đội tuần tiễu Hoa Kỳ đặt căn cứ tại Gibraltar, "Dyer" khởi hành từ Thành phố New York ngày 9 tháng 7 năm 1918, có mặt Franklin Delano Roosevelt, lúc đó là Trợ lý Bộ trưởng Hải quân, trên tàu để được đưa đến Plymouth, Anh Quốc. Đến nơi vào ngày 21 tháng 7, "Dyer" lên đường năm ngày sau đó, đi đến Gibraltar vào ngày 29 tháng 7. Từ ngày 4 tháng 8, nó bắt đầu phục vụ như tàu hộ tống cho các đoàn tàu buôn và tàu vận chuyển quân đội giữa Gibraltar và Marseilles, Pháp, thực hiện chín cuộc hành trình cho đến khi kết thúc chiến sự.
"Dyer" rời Gibraltar ngày 29 tháng 1 năm 1919 để phục vụ cùng Lực lượng hải quân Hoa Kỳ tại khu vực Trung và Đông Địa Trung Hải, ghé qua Split và Kotor, Dalmatia (ngày nay thuộc Croatia và Montenegro), Brindisi, Ý, Constantinople, Thổ Nhĩ Kỳ, và Beirut, Li băng, trước khi đến Venice ngày 5 tháng 2. Hoạt động từ căn cứ ở Venice như là soái hạm của lực lượng, "Dyer" tham gia các hoạt động cứu trợ tại khu vực Balkan và Trung Đông, vận chuyển hành khách và tiếp liệu đến khu vực biển Adriatic và hỗ trợ việc thực thi các điều khoản Hiệp ước Đình chiến với Đức cho đến ngày 16 tháng 4, khi nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ. "Dyer" về đến New York ngày 14 tháng 6 năm 1919 cùng với hai thành viên Quốc hội trên tàu.
Từ ngày 1 tháng 10 năm 1919 đến ngày 31 tháng 10 năm 1920, "Dyer" nằm trong thành phần dự bị với một biên chế rút gọn. Nó hoạt động ngoài khơi Charleston, South Carolina cho đến ngày 3 tháng 4 năm 1922, khi nó lên đường đi đến Xưởng hải quân Philadelphia. "Dyer" được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 7 tháng 6 năm 1922 và bị bán để tháo dỡ ngày 8 tháng 9 năm 1936. | 1 | null |
Hassan Rouhani (Tiếng Ba Tư: حسن کونیانی, cũng phiên âm "Ruhani", "Rohani", "Rowhani"; Tên khi sinh Hassan Feridon حسن فریدون ngày 12 tháng 11 năm 1948) là một luật sư, chính trị gia và một nhà ngoại giao Iran, và là cựu Tổng thống Iran. Ông là một thành viên của hội đồng chuyên gia từ năm 1999, thành viên của Hội đồng phương tiện từ năm 1991, thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia tối cao từ năm 1989 và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược từ năm 1992.
Hassan Rouhani là một giáo sĩ và nhà chính trị Iran. từng là nhà thương thuyết hạt nhân từ năm 2003-2005 dưới thời cựu tổng thống Mohammad Khatami. Trong chiến dịch tranh cử tháng 6 năm 2013, ông đã giành thắng lợi. Rouhani giành được tỉ lệ ủng hộ hơn 50% nên không cần phải tổ chức thêm vòng bỏ phiếu bổ sung. Người về nhì trong cuộc bầu cử là Thị trưởng Tehran Mohammad Baqer Qalibaf (16,56%), ông Saeed Jalili - trưởng đoàn đàm phán hạt nhân hiện tại của Iran - đạt tỉ lệ phiếu bầu cao thứ ba (11,35%).
Rouhani cam kết sẽ đàm phán để thuyết phục phương Tây dỡ bỏ các biện pháp cấm vận đang phá hủy nền kinh tế Iran. | 1 | null |
Văn minh vật chất của người Việt là tên một cuốn sách viết về văn minh vật chất tại Việt Nam trong thời đại "tiền công nghiệp", phát hành năm 2011 của nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng. Cuốn sách đạt giải B giải thưởng sách quốc gia năm 2022.
Sơ lược nội dung.
Cuốn sách được chia làm năm chương bàn về nhiều khía cạnh đời sống, văn hoá, sinh hoạt của người Việt cổ như đời sống sinh hoạt của họ nói chung, về công cụ lao động, ẩm thực và sinh hoạt văn hoá.
Bên cạnh việc muốn "trình bày trọn vẹn "phần hồn" của đồ vật người Việt, từ những công cụ đồ đá thô sơ ở núi Đọ, Thanh Hóa [...] cho đến chiếc áo dài do họa sĩ Cát Tường thiết kế năm 1930", ông cũng bày tỏ tiếc nuối trước sự biến dạng của đời sống vật chất của người Việt hiện đại. Để minh hoạ cho cuốn sách, họa sĩ đã sử dụng gần 960 bức ảnh, 505 hình minh họa sưu tầm nhiều nguồn, trong đó có cuốn "Kỹ thuật của người An Nam" của Henri Oger, và do chính ông tự ký hoạ.
Quá trình thực hiện.
Trong bài phỏng vấn với báo "Thể thao & Văn hoá", ông chia sẻ rằng cuốn sách được thai nghén từ năm 1992 với những nghiên cứu nhỏ lẻ của tác giả, nhưng chỉ đến năm 2007 - 2008, ông mới bắt tay thực hiện một mạch để thành sách hoàn chỉnh.
Phát hành.
Cuốn sách được phát hành năm 2011 bởi nhà xuất bản Trí Thức và lần đầu được ra mắt tại ngày 31 tháng 5 vừa rồi tại Viet Art Center, Hà Nội. Tiếp theo đó, cuốn sách lần lượt được giới thiệu đến công chúng ở nhiều nơi khác, trong đó Bảo tàng cổ vật Champa, Đà Nẵng có ngày 25 tháng 6 năm 2011 và Đại học Văn Lang (TP. HCM) ngày 9 tháng 11.Tháng 1 năm 2012, các bức tranh minh hoạ cho cuốn sách đã được triển lãm tại Hà Nội. | 1 | null |
Chủ nghĩa tân quốc xã () gồm những phong trào chính trị và xã hội hậu Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm làm hồi sinh chủ nghĩa Quốc xã
Cụm từ "chủ nghĩa tân quốc xã" cũng có thể chỉ những tư tưởng ủng hộ các phong trào này.
Chủ nghĩa tân quốc xã mượn lại những yếu tố của học thuyết Quốc xã, bao gồm chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa bài Do Thái, bài ngoại, ghê sợ đồng tính luyến ái và phân biệt chủng tộc.
Thuật ngữ.
Neo-Nazism hay Chủ nghĩa tân quốc xã mô tả bất kỳ chiến dịch quân sự, xã hội hoặc chính trị sau Chiến tranh thế giới thứ hai nào tìm cách làm sống lại ý thức hệ của chủ nghĩa phát xít toàn bộ hoặc một phần.
Thuật ngữ chủ nghĩa tân quốc xã cũng có thể ám chỉ đến hệ tư tưởng của những hoạt động này, có thể mượn các yếu tố từ học thuyết của Đức Quốc xã, bao gồm chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa chống cộng, phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa thể chế, ngoại cảm, đồng tính, chống Rôma, chống độc tài. Holocaust được phủ nhận là một tội ác mà như là sự kết hợp của các biểu tượng của Đức Quốc xã và sự ngưỡng mộ Adolf Hitler.
Chủ nghĩa tân quốc xã được coi là một hình thức đặc biệt của chính trị cánh hữu và chủ nghĩa cực đoan cánh hữu (chính trị cực hữu)
Sinh thái và môi trường.
Chủ nghĩa tân quốc xã có liên kết với một biến đổi máu và đất của chủ nghĩa môi trường, trong đó có chủ đề chung về bảo vệ hệ sinh thái, phong trào hữu cơ và bảo vệ động vật.
Xu hướng này, đôi khi được gọi là "chủ nghĩa môi trường", được đại diện trong chủ nghĩa xã hội quốc gia Đức ban đầu bởi Richard Walther Darré, là người quản lý thực phẩm từ năm 1933 đến năm 1942.
Học thuyết Phân chia chủng tộc.
Người Tân Quốc Xã đã đặt ra một học thuyết tinh thần di chuyển vượt ra ngoài chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, mang tính khoa học lấy cảm hứng từ Darwin chủ yếu phổ biến ở giới trung lưu trong thế kỷ 20.
Các nhân vật có ảnh hưởng trong sự phát triển của chủ nghĩa phân biệt mới này như Miguel Serrano và Julius Evola (các nhà văn, các nhà phê bình về chủ nghĩa phát xít như Trung tâm Luật nghèo đói miền Nam) cho rằng tổ tiên của người Aryan trong quá khứ xa xôi, sinh ra cao cấp hơn trạng thái hiện tại, bị "xâm nhập" do trộn lẫn với những người ngoại lai.
Trong lý thuyết này, nếu "Aryan" là để trở về thời kỳ vàng son của quá khứ xa xôi, họ cần phải đánh thức bộ nhớ của máu. Một nguồn gốc ngoài trái đất của Hyperboreans thường được tuyên bố. Những lý thuyết này thu hút sự ảnh hưởng từ thuyết ngộ độc và Mật thừa, xây dựng trên công việc của Ahnenerbe. Trong lý thuyết phân biệt chủng tộc này, người Do thái được tổ chức như là sự phản nghịch lại của giới quý tộc, tinh khiết và sắc đẹp. | 1 | null |
Chú bác, cậu dượng (trong bài gọi tắt là "chú bác") là anh, em ruột của cha mẹ hoặc kết hôn với chị, em ruột của cha mẹ. Chú bác có quan hệ họ hàng sinh là họ hàng cấp hai. Đối với chú bác là nữ thì gọi là cô, và quan hệ tương hỗ là cháu trai hoặc cháu gái. Từ này có nguồn gốc từ tiếng Latinh: avunculus là phần nhỏ của avus (ông nội) và là một mối quan hệ gia đình trong một gia đình mở rộng hoặc trực tiếp. Ở một số nền văn hóa và gia đình (chẳng hạn như ở Châu Phi), trẻ em cũng có thể gọi anh chị em họ của cha mẹ là cô hoặc chú do chênh lệch tuổi tác. Đây cũng là một danh hiệu để tôn trọng những người lớn tuổi (ví dụ như anh chị em họ, hàng xóm, người quen, bạn bè thân thiết của gia đình, và thậm chí đôi khi hoàn toàn xa lạ). Sử dụng thuật ngữ theo cách này là một hình thức quan hệ họ hàng hư cấu.
Các biến thể văn hóa.
Tiếng Albanian, Slavic và Persian.
Ở một số nền văn hóa, như tiếng Albania, tiếng Slav hoặc tiếng Ba Tư, không có thuật ngữ bao hàm duy nhất nào mô tả cả mối quan hệ họ hàng của một người với anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc vợ chồng nam của cha mẹ họ. Thay vào đó, có những thuật ngữ cụ thể mô tả mối quan hệ họ hàng của một người với anh trai của mẹ họ (dajë trong tiếng Albania, daiyee trong tiếng Ba Tư, wuj (diminutive: wujek) trong tiếng Ba Lan) hoặc mối quan hệ họ hàng của một người với anh trai của cha họ (xhajë bằng tiếng Albania, amou bằng tiếng Ba Tư, stryj (nhỏ: stryjek) trong tiếng Ba Lan). Một sự khác biệt tương tự tồn tại bằng cách sử dụng các thuật ngữ riêng biệt để mô tả mối quan hệ họ hàng của một người với anh chị em nữ của mẹ họ (teze trong tiếng Albania, khaleh trong tiếng Ba Tư, ciotka (nhỏ: ciocia) trong tiếng Ba Lan), và mối quan hệ họ hàng của một người với anh chị em nữ của cha họ, (hallë trong tiếng Albania, ammeh trong tiếng Ba Tư, stryjna (nhỏ gọn: stryjenka) trong tiếng Ba Lan).
Hơn nữa, trong văn hóa Ba Tư, các thuật ngữ được sử dụng để mô tả mối quan hệ họ hàng của một người với mẹ hoặc cha mẹ của họ mang những mô tả rõ ràng và rõ ràng về mối quan hệ đó, phân biệt cha mẹ vợ với họ hàng cùng dòng máu. Ví dụ: có một thuật ngữ cụ thể mô tả mối quan hệ họ hàng của một người với vợ/chồng của chú nội của họ (tức là zan-amou, nghĩa đen là 'vợ của-' amou). Điều này làm rõ rằng quan hệ họ hàng là đối với vợ/chồng của anh chị em cùng cha khác mẹ của người đó, trái ngược với quan hệ huyết thống.
Phía nam Châu Á.
Ở Ấn Độ, những cái tên rõ ràng được sử dụng cho nhiều người chú khác nhau như chacha, anh trai của cha (hoặc kaka). Nếu anh trai của cha bạn lớn tuổi hơn cha của bạn thì anh ấy được gọi là Tauji (hoặc bapuji). Anh trai của mẹ bạn tên là Mama. Chồng của dì ruột của bạn được gọi là Fufa (hoặc Fuva) và chồng của dì ngoại của bạn được gọi là Mausa (hoặc Masa) trong tiếng Hindi (hoặc Gujarati).
Tương tự như vậy, ở nước láng giềng Bangladesh, anh trai của mẹ cũng là Mama cũng như anh trai của cha là Chacha. Chồng của dì ruột là Phupha và chồng của dì ngoại là Khalu. | 1 | null |
Rudolf Karl Fritz von Caemmerer (25 tháng 7 năm 1845 tại Koblenz – 18 tháng 9 năm 1911 tại Schöneberg) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng. Ông đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức các năm 1870 – 1871, đồng thời là một sử gia quân sự có tên tuổi.
Tiểu sử.
Rudolf là con trai của viên sĩ quan quân đội Phổ Gustav Alexander Wilhelm von Caemmerer (1806 – 1872) và người vợ của ông này là bà Marie Sophie Nanny, tên khai sinh là Hoffmann (1812 – 1851). Sau khi được đào tạo trong đội thiếu sinh quân ở Bensberg và Berlin, vào ngày 6 tháng 5 năm 1862 Caemmerer đã nhập ngũ trong Trung đoàn Bộ binh số 29 với vai trò là một lính cầm cờ và được phong quân hàm thiếu úy vào ngày 16 tháng 12 năm 1862. Trên cương vị này, ông đã tham chiến trong các trận đánh lớn tại Münchengrätz và Königgrätz-Sadowa trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Tiếp theo đó, ông đã nhập học trong Học viện Quân sự. Sau đó, ông tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) và vào ngày 6 tháng 8 năm 1870, trong trận đánh khốc liệt tại Frœschwiller-Wœrth, ông bị thương do trúng đạn ở xương gót. Vào ngày 16 tháng 9 năm 1870, ông được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng hai.
Kể từ năm 1873 cho đến năm 1886, ông đã mở rộng sự hiểu biết của mình về việc chỉ huy quân đội trong khi phục vụ tại một số bộ tham mưu quân đội và Bộ Tổng tham mưu. Tại Học viện Quân sự Phổ, ông giảng dạy về chuyên ngành "Lịch sử Chiến tranh". Vào năm 1886, ông lãnh chức tư lệnh của một tiểu đoàn. Đến năm 1890, ông được ủy nhiệm làm tư lệnh của Trung đoàn Bộ binh "Hoàng đế Friedrich III" (số 6 Baden) số 114. Tiếp sau đó, ông chỉ huy Lữ đoàn Bộ binh số 12 vào năm 1893.
Vào ngày 18 tháng 1 năm 1896, trên cương vị là Thiếu tướng và Tư lệnh của Lữ đoàn Bộ binh số 12, ông đã được liệt vào hàng khanh tướng của Phổ.
Vào năm 1897, Rudolf von Caemmerer được thăng quân hàm Trung tướng và nhậm chức Tư lệnh của Sư đoàn số 26 (số 1 Vương quốc Württemberg). Năm ngoái, ông đã trở thành một quý tộc di truyền. Vào ngày 15 tháng 4 năm 1873, ông đã thành hôn với bà Ida Auguste Charlotte, geborene Rüppel (1840 – 1917). Vào ngày 22 tháng 2 năm 1900, Caemmerer đã nghỉ hưu. Tại thủ đô Berlin, ông cư ngụ trên Đường Geisberg 27 ("Geisbergstraße 27") và từ trần vào ngày 18 tháng 9 năm 1911.
Ông là một nhà sử học quân sự nổi tiếng quốc tế. Luận thuyết "Die Entwicklung der strategischen Wissenschaft im 19. Jahrhundert" ("Sự phát triển khoa học chiến lược thế kỷ 19") đã được dịch sang tiếng Anh và được nhiều tác giả dùng làm tài liệu tham khảo trong tác phẩm của mình. Cuốn tiểu sử Clausewitz của ông cũng rất được tán dương. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu của ông về cuộc Chiến tranh Giải phóng năm 1813 được đánh giá cao và đã được tái bản ngày nay. | 1 | null |
Thảm sát Túc Thanh (; Hán Việt: "Túc Thanh đại đồ sát") là một cuộc thảm sát có hệ thống được thực hiện bởi quân Nhật nhằm loại bỏ những thành phần thù địch người Singapore gốc Hoa trong thời gian Nhật Bản chiếm đóng Singapore, sau khi thuộc địa này của Anh thất thủ và phải đầu hàng ngày 15 tháng 2 năm 1942. Chiến dịch Túc Thanh diễn ra sau đó đã mở rộng đối tượng sang cả người Hoa ở Mã Lai. Cuộc thảm sát bắt đầu từ 18 tháng 2 cho đến 4 tháng 3 năm 1942 tại nhiều địa điểm trong khu vực.
Từ "Túc Thanh" ("Sook Ching" ) có nghĩa là "dẹp sạch" trong tiếng Hán và người Nhật dùng từ này để ám chỉ từ "Kakyōshukusei" (), nghĩa là "thanh trừng người Trung Quốc". Người Nhật còn gọi nó là "Shingapōru Daikenshō" (シンガポール大検証), tức là "cuộc đại thanh tra Singapore". Ủy ban di sản quốc gia (National Heritage Board) Singapore sử dụng từ "Sook Ching" khi nói về sự kiện này.
Những kỷ vật của những người sống sót qua thời kỳ này được lưu giữ trong phòng trưng bày triển lãm ở nhà máy ô tô Ford cũ ở Bukit Timah, địa điểm mà trước kia người Anh từng ký văn kiện đầu hàng Nhật Bản ngày 15 tháng 2 năm 1942.
Ngày nay, trong tiếng Nhật còn có từ "Shingapōru Kakyōgyakusatsujiken" () (vụ thảm sát người Hoa Singapore) để nói về vụ thảm sát này.
Tuy giới học giả đều nhất trí rằng đã có cuộc thảm sát này nhưng các nguồn tin của Nhật và Singapore không thống nhất về số người bị thiệt mạng. Theo Hirofumi Hayashi (đọc phần sau), Bộ ngoại vụ Nhật Bản "đã thừa nhận rằng quân Nhật đã gây ra các vụ thảm sát ở Singapore... Trong các cuộc đàm phán với Singapore, chính phủ Nhật Bản đã từ chối yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng đồng ý có "hành động chuộc lỗi" bằng cách cung cấp tài chính theo những cách khác".
Kế hoạch thảm sát.
Hirofumi Hayashi, một giáo sư ngành chính trị tại Đại học Kanto Gakuin kiêm đồng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Lưu trữ văn thư về Trách nhiệm Chiến tranh của Nhật Bản, viết rằng cuộc thảm sát đã được trù định trước và rằng "người Hoa ở Singapore được xem là có tư tưởng chống Nhật kể cả trước khi quân Nhật đổ bộ". Qua đoạn văn sau có thể thấy là cuộc thảm sát cũng đã mở rộng sang cả người Hoa ở Mã Lai.
"Việc thanh trừng đã được lên kế hoạch từ trước khi quân đội Nhật Bản đổ bộ lên Singapore. Ban chỉ huy của tập đoàn quân số 25 (Nhật Bản) đã dựng lên một kế hoạch được gọi là "Hướng dẫn Tiến hành Quản lý Hoa kiều" vào khoảng 28 tháng 12 năm 1941. Chỉ thị này nói rằng bất cứ ai không phục tùng hoặc bất hợp tác với lực lượng chiếm đóng cần phải bị loại bỏ. Rõ ràng là cơ quan đầu não của tập đoàn quân số 25 đã lựa chọn một chính sách tàn nhẫn đối với người Hoa ở Singapore và Mã Lai từ khi bắt đầu cuộc chiến. Theo Onishi Satoru, sĩ quan hiến binh Nhật phụ trách trung tâm thẩm tra Jalan Besar, trung tá hiến binh Oishi Masayuki đã nhận chỉ thị từ trưởng ban tham mưu Suzuki Sosaku tại Keluang, Johor để chuẩn bị cho một cuộc thanh trừng sau khi chiếm được Singapore. Mặc dù không biết chính xác thời điểm của chỉ thị này, chỉ biết rằng sở chỉ huy tập đoàn quân đóng tại Keluang từ 28 tháng 1 đến 4 tháng 2 năm 1942... Rõ ràng, vụ thảm sát Singapore không phải là chỉ đạo của một vài cá nhân độc ác, nhưng nhất quán với những biện pháp được áp dụng trong thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Quốc và cũng liên tục được áp dụng trên những nước châu Á khác. Để tổng kết những điểm trên, quân đội Nhật Bản, đặc biệt là tập đoàn quân số 25, sử dụng biên pháp thanh trừng để loại trừ những thành phần chống Nhật trong tương lai, đe dọa dân Trung Quốc địa phương và những người khác để áp đặt chế độ quân quản một cách nhanh chóng."
Xác định các mục tiêu thảm sát.
Sau khi xâm chiếm Singapore, Nhật Bản nhận thấy rằng cộng đồng người Hoa địa phương trung thành với người Anh và Trung Hoa Dân quốc. Một số người gốc Hoa giàu có đã hỗ trợ tài chính cho Quốc dân Cách mạng quân trong chiến tranh Trung-Nhật qua những đợt phát động gây quỹ. Giới lãnh đạo quân sự Nhật Bản, đứng đầu là Yamashita Tomoyuki, đã chủ trương chính sách "loại trừ" những kẻ có thái độ kiên quyết bài Nhật.
Giới chức quân sự Nhật Bản đã xác định những đối tượng sau là "có thể gây phiền phức":
Yamashita đã ra lệnh cho lực lượng đồn trú "Chiêu Nam Đảo" (Syonan) để phối hợp với Hiến binh Chiêu Nam Đảo, quân cảnh Nhật Bản, cùng "trừng phạt người Hoa thù địch một cách đích đáng".
Tàn sát.
"Sàng lọc".
Sau khi Singapore thất thủ, chỉ huy mặt trận 2 của Hiến binh Nhật là Masayuki Oishi thiết lập trụ sở của mình tại Tòa nhà YMCA trên đường Stamford với vị thế là Chi nhánh Khu vực Đông của Hiến binh Nhật. Nhà tù Hiến binh Nhật nằm tại Outram với các chi nhánh tại đường Stamford, phố Tàu và đồn cảnh sát Trung tâm. Một dinh thự tại nơi giao cắt của phố Smith và đường New Bridge là chi nhánh Khu vực Tây của Hiến binh Nhật.
Dưới quyền của Oishi là 200 sĩ quan Hiến binh chính quy và 1.000 quân phụ trợ khác, họ hầu hết còn trẻ và là nông dân lỗ mãng. Singapore được phân thành các khu vực, mỗi khu vực nằm dưới quyền quản lý của một sĩ quan. Người Nhật thiết lập các "trung tâm sáng lọc" trên khắp Singapore để tập hợp và "sàng lọc" các nam giới người Hoa từ 18 đến 50 tuổi. Những người bị cho là "chống Nhật" sẽ bị trừ khử. Đôi khi, nữ giới và thiếu niên cũng được đưa đi kiểm tra.
Đoạn văn dưới đây là từ một bài viết từ Ban Di sản Quốc gia:
"Các phương thức kiểm tra là bừa bãi và phi tiêu chuẩn. Đôi khi, những người trùm đầu cung cấp tin tức bị nghi ngờ là người Hoa chống Nhật; những lúc khác, các sĩ quan người Nhật chọn ra các cá nhân "khả nghi" dựa theo ý thích và tưởng tượng của họ. Những người sống sót qua kiểm tra đi ra với dấu "đã kiểm tra" trên mặt, tay hoặc quần áo; một số được phát một giấy chứng nhận. Những người không may mắn khác bị đưa tới những nơi hẻo lánh như Changi và Punggol, và bị giết một cách thô bạo theo các đợt."
Theo "A Country Study: Singapore" được phát hành bởi Đơn vị Nghiên cứu Liên bang của Thư viện Quốc hội:
"Toàn bộ nam giới người Hoa từ 18 đến 50 tuổi bị yêu cầu trình báo với các trại đăng ký để sàng lọc. Người Nhật hoặc quân cảnh bắt giữ những ai bị cho là chống Nhật, nghĩa là những ai bị mật thám chỉ ra hoặc những người là giáo viên, ký giả, tri thức hoặc thậm chí là người hầu cũ của người Anh. Một số bị cầm tù, song hầu hết bị hành quyết."
Những người vượt qua "sàng lọc" sẽ nhận được một mảnh giấy có chữ "đã kiểm tra" hoặc được đóng một dấu vuông lên tay hoặc áo. Những người thất bại sẽ được đóng dấu hình tam giác, họ bị tách khỏi những người khác và được đưa đến các điểm xử tử.
Hành quyết.
Có một số địa điểm tàn sát, nổi tiếng nhất là tại bãi biển Changi, bãi biển Punggol và Sentosa (hay Pulau Blakang Mati).
Theo chỉ thị của Tsuji Masanobu, Túc Thanh được mở rộng sang Malaya, đặc biệt là Penang. Tuy nhiên, tại các khu vực nông thôn, cư dân ít tập trung và người Nhật thiếu thời gian và nhân lực để tiến hành một cuộc "sàng lọc" đầy đủ cư dân người Hoa, song họ tiếp tục tàn sát bừa bãi người Hoa trên quy mô rộng. Tàn sát ngưng lại vào ngày 3 tháng 3.
Tổng số người chết.
Có những số liệu khác biệt về số người chết, thống kê chính thức của người Nhật biểu thị có ít hơn 5.000 trong khi cộng đồng người Hoa Singapore tuyên bố số lượng là khoảng 100.000. Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu nói trong một chương trình của Discovery Channel rằng tổng số người chết được ước tính, "khoảng giữa 50.000 đến 100.000 nam giới trẻ, người Hoa".
Trong một bài phỏng vấn vào ngày 6 tháng 7 năm 2009 với "National Geographic", Lý Quang Diệu nói rằng:
"Tôi là một nam giới người Hoa, cao và người Nhật làm vậy với những người như tôi do Singapore là trung tâm để tập hợp tiền quyên góp của người Hoa cho Trùng Khánh nhằm kháng Nhật. Vậy nên họ tiến hành trừng phạt chúng tôi. Họ tàn sát 70.000 – có thể lên đến 90.000 xong con số xác minh được là khoảng 70.000. Nếu không nhờ may mắn, có khi tôi đã là một trong số họ."
Hirofumi Hayashi viết trong một báo cáo rằng tổng số người chết "cần điều tra thêm".
"Theo nhật ký của chỉ huy quân đồn trú tại Singapore là Thiếu tướng Kawamura Saburo, tổng số người bị giết được các chỉ huy Hiến binh báo cáo cho ông ta vào ngày 23 tháng 2 là năm nghìn. Đây là ngày thứ ba của hoạt động thanh lọc khi việc hành quyết hầu như đã hoàn thành. Người ta nói rằng tại Singapore tổng số người bị giết là bốn mươi hay năm mươi nghìn; điểm này cần điều tra thêm."
Chứng kiến sự tàn bạo của người Nhật, Lý Quang Diệu phát biểu:
"Họ cũng thể hiện tính chất hèn hạ và độc ác với kẻ thù của mình tương tự như của người Hung. Thành Cát Tư Hãn và bè lũ của ông ta có thể không tàn nhẫn hơn thế. Tôi không có nghi ngờ về việc thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki là cần thiết. Nếu không có chúng, hàng trăm nghìn thường dân tại Malaya và Singapore, và hàng triệu tại bản thân Nhật Bản, sẽ phải bỏ mạng."
Hậu quả.
Năm 1947, sau khi người Nhật đầu hàng, nhà đương cục Anh tại Singapore tổ chức một phiên tòa tội phạm chiến tranh đối với các thủ phạm Túc Thanh. Bảy sĩ quan người Nhật là Takuma Nishimura, Saburo Kawamura, Masayuki Oishi, Yoshitaka Yokata, Tomotatsu Jo, Satoru Onishi và Haruji Hisamatsu—bị buộc tội chỉ đạo tàn sát.
Trong phiên tòa, một vấn đề lớn là các chỉ huy người Nhật không thông qua bất kỳ mệnh lệnh văn bản chính thức nào về tiến hành tàn sát. Tài liệu về quá trình sàng lọc hoặc các thủ lục sắp xếp cũng đã bị phá hủy. Bên cạnh đó, mệnh lệnh tổng hành dinh quân sự của Nhật Bản về hành quyết nhanh chóng, cộng với các chỉ thị không rõ ràng từ các chỉ huy, gây các nghi ngờ để lọt cáo buộc và khó khăn trong việc xác định chính xác tội của họ.
Kawamura và Oishi nhận án tử hình trong khi năm người khác nhận án chung thân, song Nishimura sau đó bị hành quyết sau khi bị kết án vì vai trò của ông ta trong thảm sát Parit Sulong bởi một tòa án quân sự Úc. Tòa án chấp thuận những lời biện hộ "chỉ theo lệnh" của những người được đưa ra xét xử.
Các tù nhân bị kết án bị treo cổ vào ngày 26 tháng 6 năm 1947. Nhà đương cục Anh chỉ cho phép sáu thành viên trong gia đình của các nạn nhân đến chứng kiến việc hành quyết Kawamura và Oishi, bất chấp những lời kêu gọi treo cổ công khai.
Khi Singapore giành quyền tự trị đầy đủ từ chính phủ thực dân Anh vào năm 1959, nảy sinh làn sóng chống Nhật trong cộng đồng người Hoa và họ yêu cầu bồi thường và xin lỗi từ Nhật Bản. Chính phủ thực dân Anh chỉ yêu cầu bồi thường chiến tranh cho các tổn thất đến tài sản của Anh trong chiến tranh. Bộ Ngoại giao Nhật Bản bác bỏ yêu cầu của Singapore về xin lỗi và bồi thường vào năm 1963, nói rằng vấn đề bồi thường chiến tranh đã được giải quyết trong Hiệp ước San Francisco năm 1951 và khi đó Singapore vẫn là một thuộc địa của Anh.
Thủ tướng Lý Quang Diệu phản ứng bằng phát biểu rằng chính phủ thực dân Anh không đại diện cho tiếng nói của người Singapore. Trong tháng 9 năm 1963, cộng đồng người Hoa tiến hành một cuộc tẩy chay hàng nhập khẩu Nhật Bản (từ chối hạ tải các máy bay và tàu từ Nhật Bản), song chỉ kéo dài trong bảy ngày.
Với việc Singapore hoàn toàn độc lập từ Malaysia vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, chính phủ Singapore tiến hành một yêu cầu khác với Nhật Bản về bồi thường và xin lỗi. Ngày 25 tháng 10 năm 1966, Nhật Bản đồng ý trả 50 triệu đô la Singapore tiền bồi thường, một nửa trong đó là viện trợ và phần còn lại là vốn vay, song không có xin lỗi chính thức. | 1 | null |
USS "Colhoun" (DD-85/APD-2) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và tiếp tục phục vụ như một tàu vận chuyển cao tốc với ký hiệu lườn APD-2 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Edmund Colhoun.
Thiết kế và chế tạo.
"Colhoun" được đặt lườn tại xưởng đóng tàu của hãng Fore River Shipbuilding Company ở Quincy, Massachusetts vào ngày 19 tháng 9 năm 1917. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 2 năm 1918; được đỡ đầu bởi cô A. Colhoun, được đưa ra hoạt động vào ngày 13 tháng 6 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Trung tá Hải quân B. B. Wygant, và trình diện để hoạt động cùng Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ.
Lịch sử hoạt động.
Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 14 tháng 9 năm 1918, "Colhoun" phục vụ hộ tống cho các đoàn tàu vận tải đi lại giữa New York vào các cảng Châu Âu. Ngày 10 tháng 11 năm 1918, nó đi đến New London để tiến hành thử nghiệm những thiết bị âm thanh vốn đang được phát triển. Ngày 1 tháng 1 năm 1919 nó vội vã đi đến trợ giúp cho chiếc "Northern Pacific" bị mắc cạn tại đảo Fire, chuyển 194 người đến Hoboken, New Jersey.
Sau các hoạt động tại vùng biển Caribe và ngoài khơi bờ Đông Hoa Kỳ, "Colhoun" được cho rút gọn biên chế tại xưởng hải quân Philadelphia ngày 1 tháng 12 năm 1919. Sau khi được đại tu tại Xưởng hải quân Norfolk và một thời gian ở lực lượng dự bị tại Charleston, South Carolina, nó quay trở lại Philadelphia, Pennsylvania, nơi nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 28 tháng 6 năm 1922.
Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Được kéo đến Xưởng hải quân Norfolk ngày 5 tháng 6 năm 1940, "Colhoun" trải qua một đợt cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc, và được cho nhập biên chế trở lại dưới ký hiệu lườn mới APD-2 vào ngày 11 tháng 12 năm 1940. Nó hoạt động giữa Norfolk và vùng biển Caribe trong các đợt thực tập huấn luyện cho đến khi nó khởi hành đi Nouméa, Nouvelle-Calédonie, đến nơi vào ngày 21 tháng 7 năm 1942. Nó vận chuyển các đơn vị thuộc Tiểu đoàn 1 Biệt kích Thủy quân Lục chiến trong cuộc đổ bộ tấn công đầu tiên lên Guadalcanal vào ngày 7 tháng 8, và tiếp tục phục vụ như là tàu vận chuyển cũng như tuần tra chống tàu ngầm hỗ trợ cho cuộc tấn công.
Lúc 14 giờ 00 ngày 30 tháng 8 năm 1942, trong khi "Colhoun" đang tuần tra ngoài khơi Guadalcanal, nó chịu đựng một đợt không kích của quân Nhật. Các cú đánh trúng ban đầu làm hỏng những chiếc xuồng trên tàu và gây một đám cháy dầu diesel từ các mảnh xuồng vỡ. Trong đợt tấn công thứ hai, một loạt các cú đánh trúng bên mạn phải làm gẩy cột ăn-ten chính, nổ tung hai khẩu đội pháo 20 mm và một khẩu pháo cũng như làm hư hại khoang động cơ. Hai cú đánh trúng trực tiếp khác đã làm thiệt mạng toàn bộ những người ở sàn sau. "Colhoun" đắm ở tọa độ ; 51 người đã thiệt mạng và 18 người bị thương trong trận chiến này. Những người sống sót được các xuồng máy từ Guadalcanal cứu vớt.
Phần thưởng.
"Colhoun" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến đấu do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. | 1 | null |
Hội thánh vô hình là khái niệm thần học về một tập hợp "vô hình" gồm những người được Chúa chọn và chỉ có Chúa biết họ, trái với "hội thánh hữu hình" – một định chế trên đất, rao giảng phúc âm và cử hành các thánh lễ. Mỗi thành viên của hội thánh vô hình đều là người đã được cứu rỗi, trong khi hội thánh hữu hình bao gồm những cá nhân được cứu và cả những người không được cứu rỗi. Học thuyết này lập nền trên giáo huấn của Kinh Thánh chép trong Phúc âm Matthew 7: 21 – 23; 13: 24 – 30; Rô-ma 2: 28, 29; Cô-lô-se 2: 11.
Augustine.
Augustine thành Hippo đã trình bày giáo lý này như một phần trong những luận cứ của ông nhằm phản bác giáo phái Donatist. Augustine chịu ảnh hưởng Plato, khi thể hiện các luận cứ, về ý tưởng thực thể là vô hình, và nếu sự hữu hình có phản ảnh sự vô hình thì sự phản ảnh ấy cũng chỉ một phần và có giới hạn. Như vậy, giáo hội trên đất bao gồm những con người hữu hình, có cả cỏ lùng và lúa mì như được miêu tả trong một ẩn dụ của Chúa Giê-xu. Do đó, không thể có một giáo hội thuần khiết trên thế gian này, nhưng bên cạnh những con dân thật của Chúa, luôn có những người hoạt động trong giáo hội chỉ vì tư lợi, những kẻ yêu Chúa bằng lời nói, mà lòng cách xa Ngài.
Kháng Cách.
Giáo thuyết này của Augustine được củng cố và nhấn mạnh trong thời kỳ Cải cách Kháng Cách nhằm xác lập một sự phân biệt rõ ràng giữa hội thánh hữu hình Công giáo Rô-ma đã xa rời giáo huấn Tân Ước và dung dưỡng nhiều tệ nạn, theo quan điểm của những nhà cải cách, với những người là tín hữu thật của Chúa. John Calvin miêu tả hội thánh vô hình là "nơi thật sự có Chúa ở giữa, ở đó chỉ có những người là con dân của Chúa được tiếp nhận bởi ân điển, và là chi thể thật của Chúa Cơ Đốc, họ đã được thánh hóa bởi Thánh Linh... [hội thánh vô hình] không chỉ bao gồm những thánh đồ đang sống trên đất, nhưng tất cả những người được chọn kể từ lúc có thế gian." Calvin vạch rõ sự khác biệt giữa hội thánh vô hình với hội thánh đang hiện diện trên khắp thế giới, "trong hội thánh này rất đông đảo là những kẻ đạo đức giả, họ chẳng có mối quan hệ nào với Chúa Cơ Đốc ngoại trừ danh hiệu và bề ngoài tin kính..." (Nguyên lý Cơ Đốc giáo 4.1.7)
Những người theo quan điểm của hệ phái Sùng tín còn đi xa hơn khi thiết lập khái niệm "ecclisiolae in ecclesia" ("hội thánh nhỏ bên trong hội thánh lớn"), ngụ ý bên trong hội thánh hữu hình trên đất là tập hợp những người được chọn và được cứu rỗi bởi ân điển của Chúa, họ có mặt, như là một thành phần thiểu số, trong các giáo hội thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo.
Công giáo Rôma.
Ban đầu, thần học Công giáo Rôma phản bác khái niệm này bằng cách nhấn mạnh rằng khía cạnh hữu hình của giáo hội được lập nền trên Chúa Kitô, nhưng đến thế kỷ 20, họ tập chú nhiều hơn vào đời sống nội tâm của giáo hội như là một cấu trúc siêu nhiên, xem giáo hội là ""Nhiệm thể Chúa Kitô" (Mystici Corporis Christi)" theo Thông điệp của Giáo hoàng Piô XII công bố năm 1943. Giáo hội là một thân thể, bởi vì Giáo hội là một cơ quan hữu hình, sống động và tăng trưởng, được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần. Giáo hội là nhiệm thể bởi vì bản tính cốt yếu của Giáo hội là một mầu nhiệm, và mọi giáo huấn, luật lệ và nghi thức của Giáo hội là nguồn ân sủng của bí tích. Và Giáo hội là Nhiệm thể Chúa Kitô bởi vì Chúa Kitô thành lập Giáo hội. Chúa vẫn là vị Thủ lĩnh vô hình của Giáo hội, và qua Chúa, mọi phúc lành được chuyển thông cho các thành viên của Giáo hội, và qua họ đến với phần còn lại của nhân loại. Theo giáo lý Công giáo, một hội thánh thật là cộng đồng hữu hình do Chúa Kitô thành lập, đó là Giáo hội Công giáo Rôma mà thẩm quyền đại diện Chúa Kitô trên toàn cầu là Giám mục thành Rôma.
Chính Thống giáo.
Nhà thần học [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính Thống giáo]] Vladimir Lossky cũng đề cập đến "quan điểm Nestorian về giáo hội học," tin rằng giáo hội được chia thành hai thực thể riêng biệt: giáo hội vô hình là hội thánh thật và thuần túy, phân biệt với giáo hội trên đất, bất toàn và tương đối.
Liên kết ngoài.
[[Thể loại:Thần học]]
[[Thể loại:Kitô giáo]]
[[Thể loại:Tin Lành]]
[[Thể loại:Thuật ngữ Kitô giáo]]
[[Thể loại:Giáo hội học]] | 1 | null |
Beach Head 2000 (tạm dịch: "Thiện xạ bờ biển 2000") là tựa game bắn súng góc nhìn người thứ nhất do hãng Digital Fusion phát triển. Ban đầu game được hãng WizardWorks phát hành cho Microsoft Windows và MacSoft cho Mac OS dưới dạng một bản phát hành có giá trị. Đây được coi là một phiên bản làm lại không giống hệt của tựa game máy tính Beach Head năm 1983, cũng với nội dung tương tự là người chơi vào vai một xạ thủ phải bảo vệ bờ biển chống lại cuộc tấn công đủ kiểu từ kẻ thù bằng cách sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau. "Beach Head 2000" nhận được phần lớn lời đánh giá tiêu cực, với những lời phê bình chủ yếu chỉ trích về tính lặp đi lặp lại trong lối chơi của game. Một phiên bản của trò chơi còn được hãng Tsunami Visual Technologies sản xuất cho hệ máy thùng arcade, chỉ dành cho những buồng mô phỏng chuyển động khác nhau và Digital Fusion tiếp tục bán các phiên bản Windows dưới dạng tải về thông qua trang web của mình.
Digital Fusion còn tạo ra một số phần tiếp theo như "Beach Head 2002", "Beach Head Desert War" và "Baghdad Central Desert Gunner". Global VR sẽ tiến hành cấp giấy phép từ Tsunami và sản xuất các phiên bản arcade của ba tựa game đầu tiên trong sê-ri.
Lối chơi.
Người chơi trong vai một viên xạ thủ duy nhất bảo vệ một bãi biển chống lại quân địch xâm lược bao gồm binh lính, xe tăng, trực thăng và các khí tài quân sự khác. Game cho phép người chơi sử dụng nhiều loại vũ khí gồm một tháp pháo với một khẩu súng máy, lựu pháo và tên lửa hành trình đất đối không. Ngoài ra còn có thêm khẩu súng ngắn dự phòng dùng trong những lúc nguy cấp. Chuột được sử dụng để nhắm bắn. Đạn dược và túi cứu thương bổ sung chỉ xuất hiện nếu người chơi bắn rơi các kiện hàng được thả xuống bằng dù. Màn chơi kết thúc khi người chơi tiêu diệt hết số lượng quân địch, cứ mỗi màn chơi sẽ thay đổi các điểm xuất hiện quân đổ bộ trên bãi biển. Game có số màn chơi vô hạn và cũng không có kết thúc.
Đón nhận.
Trò chơi được phản hồi với đánh giá chủ yếu là tiêu cực với nhiều lời chỉ trích tập trung vào lối chơi. GameSpot cho biết: "trò chơi cứ nhạt dần một cách nhanh chóng, kiểu như loại khỏi vòng chiến hàng loạt quân địch trong từng màn chơi cứ lặp đi lặp lại". Một đánh giá trong Allgame nói rằng "sự hấp dẫn ban đầu của cái nhìn một chiều về "Beach Head 2000" biến mất rất nhanh chóng" và so sánh nó không có triển vọng như phiên bản "Beach Head" đầu tiên. Inside Mac Games nhận xét rằng trò chơi chẳng đáng giá dù giá bán tương đối thấp, thậm chí trong một lựa chọn hạn chế của những game trên Mac OS. Tuy nhiên, IGN đã có một phản ứng tích cực hơn về trò chơi và so sánh nó với tựa game "Missile Command" và gọi đó là "sự gây nghiện kỳ lạ". | 1 | null |
Prince of Persia 3D là tựa game hành động phiêu lưu do hãng Red Orb Entertainment phát triển và The Learning Company phát hành cho Microsoft Windows, đây là phiên bản thứ ba trong loạt game "Prince of Persia". Trò chơi ra mắt lần đầu vào năm 1999, 10 năm kể từ sau bản gốc và được kết hợp đồ họa 3D trong lối chơi của game.
Năm 2000, một phiên bản trên hệ máy Dreamcast dưới cái tên Prince of Persia: Arabian Nights do hãng Avalanche Software phát triển và Mattel Interactive phát hành, rồi sau được Red Orb Entertainment và The Learning Company mua lại. Nhiều lỗi trong phần điều khiển từ phiên bản máy tính ban đầu đã được chỉnh sửa và vá một số lỗi đáng chú ý khác, cải thiện lối chơi của phiên bản chuyển thể này, mặc dù nó vẫn bị mắc những vấn đề về camera như nhau. Phiên bản này chỉ được phát hành ở Bắc Mỹ.
Cốt truyện.
Mọi chuyện bắt đầu với vị Hoàng tử (Prince) và Quốc vương Ba Tư (Sultan of Persia) đến thăm anh trai của Sultan là Assan. Ngay sau đó, đội vệ binh riêng của Hoàng tử đã bị quân lính của Assan giết chết, bản thân mình bị nhốt trong ngục tối và Sultan thì bị Assan bắt đi. Hoàng tử tìm cách thoát khỏi ngục tối và chợt phát hiện ra rằng Quốc vương Ba Tư đã hứa với Assan nhiều năm về trước là ông sẽ gả con gái của mình cho con trai của Assan là Rugnor chứ không phải Hoàng tử. Sau một hồi phiêu bạt bỗng Hoàng tử thấy cả hai người nhưng Assan đã giết chết Sultan do một sự nhầm lẫn, trong khi đang cố giết Hoàng tử. Assan lập tức chạy trốn nhưng Hoàng tử quyết định đuổi theo Rugnor, kẻ đã bắt cóc Công chúa Ba Tư (Princess of Persia) làm tù nhân. Hoàng tử và Rugnor đã có nhiều lần giao chiến bất phân thắng bại nhưng Hoàng tử đã chứng tỏ với Rugnor là chàng sẽ không bỏ cuộc, riêng Công chúa không đời nào chịu quy phục hắn đã khiến Rugnor nổi giận quyết định ra tay giết chết cô. Hắn trói cô vào cỗ máy lớn để cố nghiền nát cô Công chúa này. Tuy nhiên cũng may là Hoàng tử tới kịp lúc trước khi điều này xảy ra và xuống tay giết chết Rugnor cùng việc vô hiệu hóa cỗ máy. Hoàng tử sau đó cùng công chúa chạy trốn qua một con thú bay, theo hướng trái ngược Ba Tư, chứ không phải về phía nó.
Lối chơi.
"Prince of Persia 3D" có bốn điểm chính yếu mà các nhà làm game giữ lại từ các phiên bản trước là chuyển động nhuần nhuyễn, các loại bẫy tinh vi, các đặc trưng của Hoàng tử và sự kết hợp giữa yếu tố hành động và phiêu lưu. Trong khi đó, điểm cải tiến quan trọng nhất là sự thay đổi từ tầm nhìn 2D sang 3D khiến người chơi có cảm giác như đang trực tiếp tham gia vào trò chơi. Việc giữ nguyên kiêu di chuyển của các nhân vật cũng như đảm bảo các thao tác điều khiển phải đơn giản, dễ dàng và trực giác là một thách thức đối với các nhà thiết kế, nhất là khi đã chuyển sang dạng 3D.
Việc bố trí bẫy, cửa sập hay các lưỡi hái cũng đặt ra rất nhiều khó khăn vì trong môi trường 3D, tầm nhìn của người chơi bị giới hạn ở tầm nhìn của chính nhân vật. Trong Prince of Persia 3D, người chơi cũng sẽ nhìn thấy mọi vật qua góc nhìn của người thứ ba. Nếu ở Prince of Persia II, nhân vật của người chơi chạy dọc hành lang rồi dẫm lên một viên gạch - công tắc nào đó để mở cánh cửa ở tầng trên hoặc đá lở rơi xuống sẽ mở cửa tầng dưới... đều nằm trong tầm kiểm soát của người chơi, thì sang "Prince of Persia 3D" đã được các nhà làm game đưa ra giải pháp là chuyển camera đến chỗ xảy ra sự kiện hay cho xem một đoạn phim nào đó... hoặc bố trí lại các bẫy, cơ quan bí mật để đảm bảo cho người chơi có thể ghi nhận và biết những gì đã hoặc sẽ xảy ra.
Xét từ góc độ nội dung thì "Prince of Persia 3D" là sự kết hợp giữa phiêu lưu và hành động với tỷ lệ khoảng 70/30. Khác với các phiên bản trước, ngoài thanh gươm, Hoàng tử có thêm những vũ khí khác như gậy dài, đoản đao và cả cây cung nữa. Thiền trượng thích hợp cho những cú đánh mạnh, tầm xa nhưng tốc độ chậm, đao sử dụng trong phạm vi rất gần, cung thích hợp cho những cú bắn tỉa từ rất xa nhưng nạp tên là một công việc mất thời gian và không nên sử dụng khi bị địch truy kích. Ngoài ra, cánh cung với những loại tên khác nhau còn có thể dùng để gạt công tắc hay phá các cạm bẫy nguy hiểm vốn rất nhiều trong suốt chặng đường đi tìm công chúa. Một số loại tên còn có tính năng ma thuật, chẳng hạn như Arrow of Discord (mũi tên bất hòa) khiến đối phương tự đánh lẫn nhau. Các lọ nước phép ngoài tính năng cấp thêm năng lượng và máu cho Hoàng tử, còn có thể giúp chàng thay đổi hình dạng như biến thành chim.
"Prince of Persia 3D" có đến hơn 30 chủng loại lính gồm cả người lẫn thú đủ để người chơi thử sức. Bên cạnh đó là vô số các cạm bẫy khác nhau. Tuy có dáng vẻ bên ngoài như một chiến binh, đôi lúc người chơi điều khiển Hoàng tử sẽ phải cố gắng tránh những cuộc đụng độ không cần thiết. Thậm chí có màn Hoàng tử sẽ không có vũ khí và phải tìm cách tránh né để di chuyển sang màn tiếp theo. Mặc dù phần lớn trò chơi là tìm đường và giải đố nhưng kỹ thuật chiến đấu cũng là một phần quan trọng. Khi rút vũ khí ra, Hoàng tử chuyển sang chế độ chiến đấu, tốc độ di chuyển sẽ chậm đi, nhân vật tự động quay người đối mặt với kẻ thù. Các thao tác điều khiển sẽ rất đơn giản gồm có sang trái, sang phải, tấn công và phòng thủ. Để chiến thắng, người chơi cần chú trọng vào những thế đánh và đỡ cũng như chọn thời điểm tấn công thích hợp chứ không nên bấm phím lung tung như trong các game đánh nhau khác. Cũng sẽ có một số thế tấn công và kết thúc đặc biệt đó là những tuyệt chiêu, tuy nhiên tổ hợp phím để ra được những chiêu này sẽ không quá khó nhớ và dễ thao tác cho người chơi hơn.
Phát triển.
"Prince of Persia 3D" do hãng Red Orb phát hành do sự chuyển nhượng từ Broderbund. Tuy nhiên, do khó khăn về tài chính, Red Orb đã buộc phải phát hành game sớm hơn dự kiến và đã buộc Red Orb phải phát hành trước khi nó đã trải qua các giai đoạn phát hiện lỗi và sửa chữa. Hơn nữa, nó đã được bán lần đầu cho Mattel, sau đó bán lại cho The Learning Company.
Đón nhận.
"Prince of Persia 3D" nhận được đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình. IGN chấm cho game là 7.1 điểm ở mức "tốt", ca ngợi nét độc đáo, hình diễn hoạt di động và chất lượng đồ họa cũng như cơ chế nhảy khá tốt. GameSpot cho số điểm 6.0 và chỉ trích mô hình nhân vật thiết kế thô sơ, hiệu ứng camera gây khó khăn và phần điều khiển không thuận lợi, nhưng lại ca ngợi tính hành động của game. | 1 | null |
HMS "St. Vincent" là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc.
"St. Vincent" được đưa ra hoạt động vào ngày 3 tháng 5 năm 1910 như là soái hạm thứ hai của Đội thiết giáp hạm 1 thuộc Hạm đội Nhà tại Portsmouth. Nó được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Douglas R. L. Nicholson và là soái hạm của Chuẩn đô đốc Richard H. Peirse nhân cuộc duyệt binh hải quân tại Spithead vào ngày 24 tháng 6 năm 1911.
Đến tháng 4 năm 1914, nó trở thành soái hạm thứ hai của Hải đội Chiến trận 1 trực thuộc Hạm đội Nhà, nơi nó ở lại cho đến tháng 11 năm 1915, khi nó trở thành một tàu riêng. "St. Vincent" nằm trong thành phần Đội 5 của hạm đội chiến trận Anh trong trận Jutland, đứng thứ 20 trong hàng chiến trận, và đã đối đầu với một thiết giáp hạm Đức được tin là một chiếc thuộc lớp "König".
Vào tháng 6 năm 1916, "St. Vincent" được chuyển sang Hải đội Chiến trận 4. Đến tháng 3 năm 1919, nó được rút về lực lượng dự bị và trở thành một tàu huấn luyện tác xạ, tiếp tục phục vụ trong vai trò này cho đến khi bị đưa vào danh sách loại bỏ vào tháng 3 năm 1921. "St. Vincent" bị bán để tháo dỡ vào năm 1921. | 1 | null |
Cuộc hành quân chết chóc Bataan (Tagalog: Martsa ng Kamatayan sa Bataan, tiếng Nhật: ) được bắt đầu vào ngày 9 tháng 4 năm 1942, là một cuộc di chuyển cưỡng ép 60-80.000 tù binh chiến tranh Philippines và Mỹ được thực hiện bởi quân đội Nhật sau trận Bataan (trên lãnh thổ Philippines) trong Thế chiến thứ hai Có khoảng 2.500–10.000 tù binh Philippines và 100-650 tù binh Hoa Kỳ chết trước khi tới được địa điểm cuối cùng là Trại O'Donnell.. Khó có thể đưa ra con số chính xác cho số người chết, đặc biệt là với tù binh người Philippines bởi vì các sử gia không thể xác định có bao nhiêu tù binh đã trà trộn vào dân thường và trốn thoát. Hành trình từ Mariveles, Bataan đến San Fernando, Pampanga là đi bộ; còn từ San Fernando, những người sống sót được đưa lên xe lửa và chuyển đến Trại O'Donell ở Capas, Tarlac.
Trên tuyến đường dài 128 km (80 dặm) đã thường xuyên diễn ra những vụ giết chóc và lạm dụng vũ lực gây ra bởi quân Nhật. Kết quả là có rất nhiều tù nhân cũng như thường dân đã bị chết mà sau này Hội đồng Quân sự Đồng Minh đã coi đó là tội ác chiến tranh của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. | 1 | null |
Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô thành Assisi (tiếng Ý: "Basilica Papale di San Francesco", Latinh: "Basilica Sancti Francisci Assisiensis") là nhà thờ mẹ của Dòng Anh Em Hèn Mọn thuộc Giáo hội Công giáo Rôma, tọa lạc tại Assisi (Ý) - thành phố nơi sinh và mất của Thánh Phanxicô. Vương cung thánh đường này là một trong những nơi quan trọng nhất tại Ý mà các Kitô hữu thường đến hành hương. Nó được nhận danh hiệu di sản thế giới từ UNESCO vào năm 2000.
Vương cung thánh đường được bắt đầu khởi công năm 1228 trên một ngọn đồi và bao gồm hai nhà thờ, được gọi là Thượng Thánh đường và Hạ Thánh đường, cùng một hầm mộ an táng Thánh Phanxicô. Nội thất của Thượng Thánh đường là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách kiến trúc Gothic ở Ý. Cả hai thánh đường được trang trí bằng những bức bích họa nổi tiếng của nhiều họa sĩ cuối thời Trung cổ như Cimabue, Giotto, Simone Martini, Pietro Lorenzetti và có thể cả Pietro Cavallini. Quy mô và chất lượng công trình này mang một tầm quan trọng đặc biệt trong việc chứng minh sự phát triển của nghệ thuật Ý đương thời.
Lịch sử.
Tu viện Phanxicô Sacro Convento cùng hai vương cung thánh đường Hạ và Thượng Phanxicô thành Assisi được xây dựng để vinh danh vị thánh địa phương này, ngay sau khi ngài được phong thánh vào năm 1228. Simone di Pucciarello đã hiến đất cho nhà thờ, một ngọn đồi ở phía tây của Assisi, được gọi là "Đồi Địa ngục", nơi trước đây được dùng để xử tử những tên tội phạm. Ngày nay, nó được gọi là "Đồi Thiên đường".
Ngày 16 tháng 7 năm 1228, Giáo hoàng Grêgôriô IX đã phong thánh cho Phanxicô tại Assisi, và chính ông là người đã đặt viên gạch cho nhà thờ mới vào ngày hôm sau, mặc dù việc xây dựng có thể đã được bắt đầu trước đó. Việc xây dựng đã được bắt đầu theo lệnh của ông, Giáo hoàng tuyên bố nhà thờ là tài sản của giáo hoàng. Nhà thờ được thiết kế bởi Maestro Jacopo Tedesco, người thời đó là kiến trúc sư nổi tiếng nhất. Việc xây dựng được giám sát bởi Elias một trong những tín đồ đầu tiên của Dòng Anh em Hèn mọn dưới thời Thánh Phanxicô. Vương cung thánh đường Hạ Assisi được hoàn thành vào năm 1230. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần tức 25 tháng 5 năm 1230, thi hài của Thánh Phanxicô được rước một cách long trọng đến Vương cung thánh đường mới từ nơi chôn cất tạm thời tại nhà thờ San Giorgio nay là vương cung thánh đường Thánh Chiara của Assisi. Nơi chôn cất được giấu kín vì sợ rằng, thi hài của ông có thể sẽ bị đánh cắp và phân tán. Việc xây dựng Vương cung thánh đường Thượng Assisi được bắt đầu sau năm 1239 và hoàn thành vào năm 1253. Cả hai nhà thờ đều được thánh hiến bởi Giáo hoàng Innôcentê IV vào năm 1253.
Giáo hoàng Nicôla IV đã nâng nhà thờ lên vị thế là Nhà thờ Giáo hoàng vào năm 1288. Quảng trường Piazza del Loge dẫn lên nhà thờ được bao quanh bởi các cột được xây dựng vào năm 1474. Đây là nơi có mặt rất nhiều khách hành hương đổ về nhà thờ. Năm 1818, thi hài của Thánh Phanxicô được tìm thấy bên dưới sàn của Vương cung thánh đường Hạ. Dưới thời của Giáo hoàng Piô VII, một hầm mộ được xây dựng để các tín hữu có thể đến thăm nơi chôn cất của thánh nhân.
Vào ngày 27 tháng 10 năm 1986 và tháng 1 năm 2002, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tập hợp hơn 120 đại diện của các tôn giáo và hệ phái trong Kitô giáo tại Assisi để Cầu nguyện Hòa bình cho Thế giới. | 1 | null |
Acanthopsis là chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae.
Chi này được William Henry Harvey mô tả năm 1842. Ông đề cập rằng "Acanthodium dispermum" là loài điển hình của chi này. Tuy nhiên, ông lại không tạo ra tổ hợp tên gọi mới là "Acanthopsis disperma". Tới năm 1847 thì Christian Gottfried Daniel Nees von Esenbeck mới hợp lệ hóa tên gọi "Acanthopsis disperma".
Phân bố.
Các loài trong chi này là bản địa Namibia và Nam Phi.
Danh sách loài.
Các loài được công nhận tại thời điểm năm 2020 bao gồm: | 1 | null |
Acanthus là một chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae. Chi này có khoảng 30 loài, chủ yếu là cây thân thảo (hiếm khi là cây bụi) sống lâu năm, với lá có khía răng cưa và cành hoa mang các hoa màu trắng hay ánh tía. Chiều cao trong khoảng 0,4-2,0 m.
Từ nguyên.
Tên chi bắt nguồn từ tiếng Latinh acanthus, tới lượt nó lại bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ "ἄκανθος" (ákanthos), từ "ἀκή" (akḗ, "gai") + "ἄνθος" (ánthos, "hoa").
Mô tả.
Cây thân thảo lâu năm, cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ; không có sỏi túi. Lá mọc đối hoặc vòng gồm 4 lá, thường giống như da với gân giữa, gân con và mép dày lên màu vàng nhạt, các lá mọc so le (nếu có) thì thường suy giảm nhiều, với các tuyến giống vảy và không cuống. Hoa ở đầu cành hoặc ở nách lá, thành xim hoa dạng tựa cành hoa. Lá bắc to, giống như da, có 3 gân dọc nổi rõ, mép nhiều gai hoặc nguyên; lá bắc con 2, hình chỉ đến hình trứng, nhiều gai hoặc nguyên. Có thể nhận biết ngay ra nó bằng những bông hoa lớn màu đỏ sẫm. Đài hoa chia đến đáy thành 4 lá đài có mày, dày lên và giống như sừng ở đáy; lá đài mặt lưng có 1–3 gân, nguyên hoặc có 2–3 răng nhỏ, lá đài mặt bụng 2 gân, nguyên hoặc có 2 răng lớn hình tam giác hoặc có răng không đều, lá đài bên 1 gân. Ống tràng hoa ngắn, màu trắng, dày và xốp ở đỉnh, với một dải dày đặc của các sợi lông tơ lộn ngược dày ở đỉnh; phiến chia ở mặt lưng để tạo ra môi gồm 3–5 thùy, ở đáy với thể chai dày lên, ở cả hai mặt của thể chai và trên nó có lông lộn ngược dày đáy hình củ hành; các thùy thuôn dài và rộng, tròn hoặc có khía ở giữa. Nhị hoa 4, thò ra, chèn ngay bên trong họng, hai nhị phía sau giữ ở trên hai nhị phía trước; hai đôi chỉ nhị giống nhau, cong, dày và giống như xương, dẹp bên; bao phấn 1 mô vỏ, thuôn dài, với các bó lông cứng dọc theo toàn bộ chiều dài ở mặt bụng. Bầu nhụy 2 ngăn với 2 noãn mỗi ngăn; vòi nhụy thẳng, nhẵn nhụi; đầu nhụy 2 thùy hình mác và nhọn. Quả nang 2–4 hạt, hóa gỗ, hình elipxoit, bóng, không cuống, dẹp ở mặt lưng bụng và tròn ở đỉnh. Hạt giống hình đĩa, nhẵn nhụi hoặc có lông lụa-lông tơ.
Phân bố.
Các loài sinh sống trong khu vực nhiệt đới và ôn đới ấm, với sự đa dạng loài cao nhất trong khu vực ven Địa Trung Hải và châu Á. Phạm vi phân bố từ miền nam châu Âu đến Thái Bình Dương và về phía nam qua châu Phi đến Angola, Zambia và Malawi.
Danh sách loài.
Các loài dưới đây lấy theo Plants of the World Online (2020).
Lưu ý.
Ngoài 3 loài là "A. ebracteatus", "A. ilicifolius", "A. leucostachyus" có ở Việt Nam thì Phạm Hoàng Hộ (1999) còn ghi nhận trong Cây cỏ Việt Nam loài "A. integrifolius" T.Anders. với tên gọi ác ó và mô tả như sau: "Tiểu mộc cao 1-2 m, thân tròn, không lông. Lá mọc đối; phiến nguyên, mỏng, láng, xanh đậm; cuống 1 cm. Hoa ở nách lá, to, trắng, đài do 5 lá đài hẹp, cao 1,5 cm; vành đài 8-10 cm, môi dài hơn ống; tiểu nhụy 4. Nang 4 hột. Trồng làm hàng rào ở bình nguyên; II-VI. - Shrub; flowers white, 8-10 cm long; capsules 4-seeded.". Tuy nhiên, IPNI không ghi nhận "A. integrifolius" T.Anders. mà chỉ ghi nhận "A. integrifolius" và "A. integrifolius" . Tất cả chỉ có mô tả ngắn bằng tiếng Latinh, hiện tại chưa xác định là loài nào.
Ngoài ra, trong "An Enumeration of the Species of "Acanthaceae" from the Continent of Africa and the adjacent Islands" đăng tại trang 13-54 số 7 tạp chí "Journal of the Proceedings of the Linnean Society" năm 1863 (in 1864) Thomas Anderson (1832-1870) chỉ ghi nhận 6 loài ở châu Phi là "A. ilicifolius", "A. kirkii", "A. barteri", "A. montanus", "A. mollis" và "A. arboreus", không đề cập gì tới "A. integrifolius".
Gieo trồng và sử dụng.
Những chiếc lá của các loài ô rô là cơ sở thẩm mỹ cho các đầu cột theo thức Corinth trong kiến trúc; chi tiết xem lá ô rô (trang trí). Một số loài, đặc biệt là "A. balcanicus", "A. spinosus" và "A. mollis", được trồng làm cây cảnh.
Lá ô rô cũng có nhiều công dụng y học. Ô rô to ("Acanthus ilicifolius"), với thành phần hóa học của nó đã được nghiên cứu nhiều, được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng dược phẩm học dân tộc, bao gồm cả trong y học cổ truyền Ấn Độ và Trung Quốc. Các bộ phận khác nhau của "A. ilicifolius" từng được sử dụng để điều trị hen phế quản, tiểu đường, phong cùi, viêm gan, rắn cắn và viêm khớp dạng thấp. Lá của ô rô ("Acanthus ebracteatus"), đáng chú ý vì có đặc tính chống oxy hóa, được sử dụng để làm trà thảo mộc kiểu Thái ở Thái Lan và Indonesia. | 1 | null |
Anisosepalum là chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae.
Các loài trong chi này là bản địa Burundi, Cộng hòa Trung Phi, Congo, Gabon, Rwanda, Tanzania, Uganda, Zambia, Cộng hòa Dân chủ Congo.
Phát sinh chủng loài.
"Anisosepalum" có quan hệ họ hàng gần nhất với "Saintpauliopsis". Chúng tạo thành nhánh chị-em với "Staurogyne" nghĩa rộng. | 1 | null |
Blepharis là chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae.
Phân bố.
Các loài trong chi này phân bố rộng trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc châu Phi và châu Á. Đặc biệt đa dạng ở miền đông và nam châu Phi.
Mô tả.
Cây thân thảo sống một năm hoặc lâu năm, cây bụi nhỏ hoặc cây bụi. Lá mọc thành vòng gồm 4 lá (rất hiếm khi mọc đối), một đôi nhỏ hơn đôi kia, không cuống hoặc gần như không cuống, mép cuốn ngoài, đỉnh thường nhọn đột ngột. Cụm hoa ở dạng xim hoa dạng bông có nhiều hoa, mỗi xim hoa đối diện với một lá bắc (phân chi "Acanthodium") hoặc bông suy giảm thành một hoa đơn lẻ đầu cành (phân chi "Blepharis"); khi đó xim hoa đơn độc hoặc nhiều cụm lại với nhau trong nách của các lá bình thường, mỗi xim được hỗ trợ bởi (3–)4(–5) đôi lá bắc chéo chữ thập (tổ "Blepharis") hoặc cụm lại thành các đầu được bao quanh bởi các lá hoa khác về hình dạng và kết cấu với các lá thông thường và với số lượng lá bắc sắp xếp không đều biến thiên (tổ "Scorpioideae"); lá bắc giống như da, thường có răng (nhóm có mày phía trong ở tổ "Scorpioideae"); lá bắc con 2 hoặc không có, thường có dạng thẳng đến hình mác. Đài hoa chia đến gốc thành 4 lá đài có mày, không thò ra trong các lá bắc hoặc thò ra ít hay nhiều, đáy dày 1–2 mm và giống như sừng; lá đài lưng dài hơn những lá đài khác, có 3(–5) gân và 1–3 răng ở đỉnh, các răng bên có hoặc không; các lá đài bụng 2(–5) gân, chẻ đôi (hiếm khi nguyên); các lá đài bên hình mác đến hình trứng, có 1 gân. Tràng hoa với ống tràng hẹp đáy, thắt lại bên dưới phần trên 1-3 mm xốp, mở rộng, dày; 1-2 mm phía dưới với dải lông hướng lên trên; phiến tràng theo chiều ngang, xẻ lưng để tạo ra môi dưới gồm 3–5 thùy, với thể chai trung tâm dày, xốp và màu vàng, thường kết thúc tại 1–3 gờ ở đỉnh, bên dưới có lông măng đến lông tơ, bên trên có lông măng từ các lông uốn cong rõ nét (đến 90°). Nhị hoa 4, thường thò ra (nhưng ẩn bên dưới lá đài lưng), chèn ngay bên trong ống trên đỉnh của gờ dày, 2 nhị phía sau giữ ở trên 2 nhị phía trước; chỉ nhị giống như xương, cặp phía sau thẳng, cong, với gối ở gốc, cặp phía trước hơi ngắn hơn, thẳng, rộng và dẹp, chia đôi ở đỉnh thành một nhánh ngắn mang bao phấn và phần phụ giống răng ở mặt bụng từ nhọn đến tù; bao phấn 1 mô vỏ, hình elip đến thuôn dài, cặp phía trước hơi lớn hơn, ngăn sinh sản thường chỉ bằng 1/2–2/3 tổng chiều dài (toàn bộ chiều dài ở phân chi "Acanthodium"), rậm râu và có các túm lớn gồm các lông dài ở đỉnh, thường là tuyến. Bầu nhụy nhẵn nhụi, 2 ngăn với 2 noãn mỗi ngăn; hình đĩa lớn, hình khuyên; vòi nhụy thường nhẵn nhụi, với hai túm lông tuyến ngắn ở gốc; đầu nhụy gần nguyên hoặc với 2 thùy khác biệt hình mũi mác gần nhọn. Quả nang 2(–4) hạt, hình trứng-elipxoit, không cuống, bóng, dẹp ở mặt lưng-bụng, vách trung tâm dày và hóa gỗ. Hạt hình đĩa, được che phủ bằng lông hút ẩm phân nhánh màu trắng và dài.
Các loài.
Tại thời điểm năm 2020 Plants of the World Online công nhận 126 loài trong chi này, một loài mô tả năm 2019 ("B. saudensis"). Danh sách 127 loài liệt kê dưới đây: | 1 | null |
Elytraria là chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae.
Các loài trong chi này có xu hướng không có thân.
Phân bố.
Phân bố rộng trong vùng nhiệt đới châu Phi, châu Mỹ, Ấn Độ. Du nhập vào Galápagos, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Các loài.
Các loài được công nhận tại thời điểm năm 2020 bao gồm: | 1 | null |
Sanchezia, tạm phiên âm là cây Xăng-sê, là chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae.
Các loài.
Gồm một số loài như
Phân bố.
- Huyện miền núi Tây Giang (tỉnh Quảng Nam). Huyện Hòa Vang (thành phố Đà Nẵng)
- Huyện miền núi Chiêm Hóa, Na Hang (tỉnh Tuyên Quang)
Công dụng.
Diệt khuẩn Helicobacter Pylori (HP) chữa viêm loét dạ dày tá tràng và viêm đại tràng. Cách dùng: lấy vài lá tươi rửa sạch và nhai sống với một hạt muối là cắt cơn đau lập tức, dùng một thời gian thì khỏi hẳn. Ngoài việc ăn sống còn có thể sắc lá khô thay nước chè uống hằng ngày. | 1 | null |
Staurogyne là chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae.
Phân bố.
Các loài trong chi này phân bố trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ, miền tây châu Phi, miền đông châu Á, Papua New Guinea, Australia.
Các loài.
Plants of the World Online công nhận 149 loài. Danh sách loài phân chia theo khu vực phân bố như dưới đây.
Châu Mỹ.
Hiện tại công nhận 29 loài.
Châu Phi.
Hiện tại công nhận 6 loài, chủ yếu tập trung tại khu vực xung quanh vịnh Guinea.
Châu Á.
Hiện tại công nhận 114 loài. Chủ yếu tập trung tại khu vực Đông Nam Á. | 1 | null |
Chi Cát đằng (danh pháp khoa học: Thunbergia) là một chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae, bản địa khu vực nhiệt đới châu Phi, Madagascar, Nam Á và Đông Nam Á. Các loài "Thunbergia" là dây leo hay cây bụi một năm hoặc lâu năm, cao tới 2–8 m. Tên chi được đặt theo họ của Carl Peter Thunberg, một nhà tự nhiên học người Thụy Điển.
Phần lớn các loài có ở Việt Nam có tên gọi là cát đằng. | 1 | null |
Baldellia là chi thực vật có hoa trong họ Alismataceae.
Chi này bao gồm 3 loài, được tìm thấy ở phần lớn khu vực châu Âu và ven Địa Trung Hải, từ Ireland và quần đảo Canary tới Thổ Nhĩ Kỳvà Estonia.
Chi này được đặt theo tên của quý tộc người Ý Bartolomeo Bartolini Baldelli. "Baldellia" có quan hệ họ hàng rất gần với "Echinodorus". | 1 | null |
Butomopsis là chi thực vật có hoa trong họ Alismataceae.
Nó chỉ chứa 1 loài duy nhất là Butomopsis latifolia bản địa khu vực nhiệt đới châu Phi (từ Senegal và Sudan tới Mozambique), Nam Á (Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Bangladesh), Đông Nam Á (Java, Myanmar, Lào, Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc (Vân Nam) cũng như miền bắc Australia (Queensland và Lãnh thổ Bắc Úc). | 1 | null |
Damasonium là chi thực vật có hoa trong họ Alismataceae.
Chi này có phân bố toàn cầu nhưng rất rời rạc.
Các loài trong chi này là thực vật thân thảo thủy sinh lâu năm, sinh sống trong các vùng nước nông hay đáy bùn nông rìa ao hồ. Toàn bộ các lá mọc từ gốc, nổi trên mặt nước hoặc nhô khỏi mặt nước. Hoa lưỡng tính, mọc thành 1 hoặc nhiều vòng thành tán, cành hay chùy hoa; chúng có 6 nhị, 6-9 lá noãn xếp thành 1 vòng, hợp sinh tại đế, mỗi lá noãn với 2-nhiều noãn ở mặt bụng. Các vòi nhụy ở đỉnh. Quả là một vòng các quả đại dẹp bên, xòe ra như hình sao, với một mỏ thuôn dài nhiều hay ít ở đỉnh.
Các loài.
Ở thời điểm tháng 9/2016 người ta công nhận 6 loài, bao gồm: | 1 | null |
Chi Lưỡi mác (danh pháp Echinodorus) là chi thực vật có hoa trong họ Alismataceae.
Chi này phân bố tại Tây bán cầu, từ miền trung Hoa Kỳ tới Argentina.
Loài.
Đến tháng 5 năm 2014, 30 loài đã được chấp nhận theo các tác giả thuộc Kew Royal Botanic Gardens:. | 1 | null |
Liquidambar là chi thực vật có hoa trong họ Altingiaceae.
Trước đây chúng thường được đặt trong họ "Hamamelidaceae". Chúng là loài bản địa Đông Nam và Đông Á, Tây Địa Trung Hải và Đông Bắc Mỹ. Chúng là cây rụng lá trang trí được sử dụng trong ngành công nghiệp gỗ và làm cảnh.
Loài.
Theo :
Theo : | 1 | null |
Salicornia là chi thực vật có hoa mọng nước, halophyte (chịu mặn) trong họ Dền (Amaranthaceae) mọc ở đầm lầy muối, bãi biển và rừng ngập mặn. Các loài Salicornia có nguồn gốc từ Bắc Mỹ, Châu Âu, Nam Phi và Nam Á.
Các tên thông thường của chi này bao gồm măng tây biển và samphire.
Mô tả.
Các "loài Salicornia" là loại thảo mộc nhỏ hàng năm. Chúng mọc từ bò đến thẳng, thân đơn hoặc phân nhánh mọng nước, không lông và có các khớp nối. Các lá đối diện bị giảm mạnh thành vảy thịt nhỏ với mép khô hẹp, không có lông, không có kim và liên kết với nhau ở phần gốc, do đó bao bọc và tạo thành một bẹ mọng nước xung quanh thân, làm cho nó trông như bao gồm các đoạn nối với nhau. Nhiều loài có màu xanh lá cây, nhưng tán lá chuyển sang màu đỏ vào mùa thu. Thân già hơn có thể hơi hóa gỗ ở gốc.
Tất cả các thân cây đều kết thúc trong các cụm hoa hình kim. Hoa được xếp thành hình tam giác, cả hoa bên ở bên dưới hoa trung tâm. Các hoa lưỡng tính ít nhiều đối xứng tròn.
Giống như hầu hết các thành viên của phân họ Salicornioideae, các "loài Salicornia" sử dụng con đường cố định carbon C3 để hấp thụ carbon dioxide từ bầu khí quyển xung quanh.
Phân bố và sinh cảnh.
Các loài "Salicornia" phân bố rộng rãi trên Bắc bán cầu và miền nam châu Phi, trải dài từ các vùng cận nhiệt đới đến cận Bắc Cực. Có một loài hiện diện ở New Zealand nhưng chi này không có ở Nam Mỹ và Úc.
"Salicornia" phát triển trong các đầm lầy muối ven biển và trong các môi trường sống mặn trong đất liền như bờ hồ muối. "Các" loài Salicornia là loài chịu mặn và nói chung có thể chịu được ngâm trong nước muối (hygrohalophytes).
Sinh thái học.
Các loài "Salicornia" được tiêu thụ bởi ấu trùng của một số loài Lepidoptera, bao gồm cả bộ "Coleophora" case-bearers "C. atriplicis" và "C. salicorniae" (loài sau này chỉ ăn "Salicornia" spp.).
Phát sinh loài.
Chi này có lẽ có nguồn gốc từ thời Miocen ở khu vực giữa lưu vực Địa Trung Hải và Trung Á. Phát triển từ trong chi "Sarcocornia" lâu năm và nhạy cảm với sương giá, "Salicornia" giao phối cận huyết hàng năm và chịu được sương giá đã đa dạng hóa trong suốt Pliocen muộn đến Pleistocen sớm. Do các sự kiện phân tán xuyên lục địa, chúng đã đến miền nam châu Phi hai lần, Bắc Mỹ ít nhất ba lần. Hai dòng tứ bội mở rộng nhanh chóng, với khả năng sinh sống ở đai thấp hơn của các đầm muối hơn họ hàng lưỡng bội của chúng. Giao phối cận huyết và cách ly địa lý dẫn đến một số lượng lớn các loài cách ly sinh sản chỉ phân hóa ít.
Hệ thống học.
Chi "Salicornia" lần đầu tiên được mô tả vào năm 1753 bởi Carl Linnaeus. "Salicornia europaea" đã được chọn là loài điển hình.
Việc phân loại phân loại của chi này là vô cùng khó khăn (và đã được gọi là "cơn ác mộng phân loại"), việc xác định loài dường như gần như không thể đối với những người không chuyên. Nguyên nhân của là do giảm sút thói quen với sự phân hóa hình thái yếu và sự biến đổi kiểu hình cao. Vì các cây mọng nước bị mất đi các đặc tính khi phơi khô, các mẫu vật cây cỏ thường không thể xác định chắc chắn và ít thích hợp cho các nghiên cứu phân loại học.
Dựa trên nghiên cứu di truyền phân tử (Kadereit và cộng sự 2007, 2012), "Salicornia" bao gồm các loài sau:
Ở Âu-Á:
Ở Bắc Mỹ:
Ở Châu Phi:
Ở Nam Á:
Ẩm thực.
"Salicornia europaea" có thể ăn được, chín hoặc sống, cũng như "S. rubra" và "S. depressa". Ở Anh, "S. europaea" là một trong một số loài thực vật được gọi là "samphire."
Samphire thường được nấu chín, hấp hoặc nướng trong lò vi sóng, sau đó được phủ trong bơ hoặc dầu ô-liu. Do hàm lượng muối cao, nó phải được nấu chín mà không thêm muối, trong nhiều nước. Nó có một lõi cứng và nhiều sợi, và sau khi nấu chín, phần thịt ăn được sẽ được rút ra khỏi lõi. Phần thịt này sau khi nấu chín, có màu giống rong biển, hương vị và kết cấu giống như thân rau bina non hoặc măng tây. Samphire thường được sử dụng làm vật đi kèm thích hợp cho cá hoặc hải sản.
Ở Hawai'i nó thường được chần và dùng làm lớp trên cho món salad hoặc ăn kèm với cá.
Hạt của "S. bigelovii" tạo ra một loại dầu ăn ăn được. "Khả năng ăn được của S. bigelovii" bị ảnh hưởng phần nào vì nó chứa saponin, chất độc trong một số điều kiện nhất định.
Umari keerai được nấu chín và ăn hoặc ngâm. Nó cũng được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, cừu và dê. Ở Sri Lanka, nó được dùng để nuôi lừa.
Ở bờ biển phía đông của Canada, salicornia là một món ăn ngon của địa phương. Ở Hoa Kỳ, chúng được gọi là "đậu biển" khi được sử dụng cho mục đích ẩm thực.
Tại Ấn Độ, các nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Hóa chất Biển và Muối Trung ương đã phát triển một quy trình để sản xuất muối ẩm thực từ "Salicornia Brachiata." Sản phẩm thu được được gọi là "muối thực vật" và được bán dưới tên thương hiệu Saloni.
Nghiên cứu dược lý.
Tại Hàn Quốc, Tập đoàn Phyto đã phát triển công nghệ chiết xuất muối natri thấp từ cây "Salicornia europaea", một loại cây tích tụ muối. Công ty tuyên bố muối thực vật có nguồn gốc tự nhiên có hiệu quả trong việc điều trị huyết áp cao và bệnh gan nhiễm mỡ bằng cách giảm lượng natri. Họ cũng phát triển một loại bột Salicornia khử muối có chứa polyphenol chống oxy hóa và antithrombus, được tuyên bố là có hiệu quả trong việc điều trị béo phì và xơ cứng động mạch, cũng như cung cấp một phương tiện giúp giải quyết tình trạng thiếu lương thực toàn cầu.
Sử dụng trong công nghiệp.
Lịch sử.
Tro của măng tây biển, saltwort và của tảo bẹ được dùng từ lâu như một nguồn cung cấp tro soda (chủ yếu là natri cacbonat) cho sản xuất thủy tinh và xà phòng. Sự ra đời của quy trình LeBlanc để sản xuất tro soda trong công nghiệp đã thay thế việc sử dụng các nguồn thực vật vào nửa đầu thế kỷ 19.
Umari keerai được sử dụng làm nguyên liệu thô trong các nhà máy sản xuất giấy và bìa.
Ngày nay.
Vì "Salicornia bigelovii" có thể được trồng bằng nước mặn và hạt của nó chứa hàm lượng dầu không bão hòa cao (30 wt. %, chủ yếu là axit linoleic) và protein (35 wt. %), nó có thể được sử dụng để sản xuất thức ăn chăn nuôi và làm nhiên liệu sinh học trên đất ven biển, nơi không thể trồng các loại cây thông thường. Thêm phân bón gốc nitơ vào nước biển dường như làm tăng tốc độ phát triển và chiều cao cuối cùng của cây, và nước thải từ nuôi trồng thủy sản biển (ví dụ như nuôi tôm) được đề xuất sử dụng cho mục đích này.
Các cánh đồng thử nghiệm "Salicornia" đã được trồng ở Ras al-Zawr (Ả Rập Xê Út), Eritrea (đông bắc châu Phi) và Sonora (tây bắc Mexico) nhằm sản xuất dầu diesel sinh học. Công ty chịu trách nhiệm về thí nghiệm ở Sonora (Global Seawater ) tuyên bố từ 225 đến 250 gallon dầu diesel sinh học BQ-9000 có thể được sản xuất trên mỗi ha salicornia, và đang xúc tiến kế hoạch 35 triệu đô la để tạo ra trang trại salicornia rộng 49 km2 ở Bahia de Kino.
Thân và rễ của "cây Salicornia Brachiata" có hàm lượng xenlulo cao (khoảng 30 wt. %), trong khi các đầu thân mềm có hàm lượng xenluloza thấp (9,2 wt. %). "Salicornia Brachiata" chứa nhiều rhamnose, arabinose, mannose, galactose và glucose, ngoài ra có một ít ribose và xylose.
Việt Nam là một chịu ảnh hưởng nặng nề của nước biển dâng. Salicornia có thể đóng góp vào việc lọc mặn, tận dụng đất nhiễm mặn. Việc nghiên cứu ứng dụng măng tây biển vào thích ứng biển đổi khí hậu hiện mới ở giai đoạn sơ khai.
Xử lý môi trường.
Salicornia được sử dụng trong để khử độc đất. Nó có hiệu quả cao trong việc loại bỏ selen khỏi đất, được cây hấp thụ và sau đó được giải phóng vào khí quyển để phân tán theo gió. Salicornia bigelovii được phát hiện có tỷ lệ bay hơi trung bình cao hơn 10-100 lần so với các loài khác. | 1 | null |
Bách tử liên hay Thanh anh (danh pháp khoa học: Agapanthus) là tên một chi thực vật có hoa trong phân họ Agapanthoideae thuộc họ Amaryllidaceae.
Một số loài "Agapanthus" thường được gọi là loài hoa huệ sông Nile (hoặc loài hoa huệ châu Phi ở Anh), mặc dù chúng không phải là huệ và tất cả các loài có nguồn gốc từ Nam Phi (South Africa, Lesotho, Swaziland, Mozambique) mặc dù một số đã trở được trồng ở những nơi rải rác trên khắp thế giới (Australia, Anh, Mexico, Ethiopia, Jamaica, vv).
Ranh giới giữa các loài không rõ ràng trong chi, và mặc dầu được nghiên cứu kỹ lưỡng, con số được các cơ quan thẩm quyền công nhận chỉ khoảng từ 6 đến 10 loài. Loài điển hình cho chi này là "Agapanthus africanus". Nhiều cây lai, và giống cây trồng đã được tạo ra. Chúng được trồng trọt tại những khu vực ấm áp trên khắp thế giới. | 1 | null |
Amaryllis là chi thực vật có hoa duy nhất trong phân tông Amaryllidinae (tông Amaryllideae) họ Amaryllidaceae. Đây là một chi nhỏ cây lưu niên thân thảo có thân hành với hai loài. Loài Amaryllis belladonna nổi tiếng nhất là loài có nguồn gốc từ vùng Tây Cape của Nam Phi, đặc biệt là vùng đất đá phía tây nam thung lũng sông Olifants đến Knysna. Trong nhiều năm đã có sự nhầm lẫn giữa các nhà thực vật học về tên Amaryllis và Hippeastrum, một trong những hậu quả đó là tên gọi cây "amaryllis" chủ yếu được sử dụng cho các giống của chi Hippeastrum, được bán rộng rãi trong những tháng mùa đông vì khả năng nở trong nhà.
Hình ảnh.
"Amaryllis belladonna": | 1 | null |
Haemanthus là chi thực vật có hoa trong họ Loa kèn đỏ (Amaryllidaceae), phân bố chủ yếu ở Nam Phi và một số khu vực lân cận. Chi này được biết đến với các loài như Hồng tú cầu, cây Huệ máu (blood lily).
Hầu hết các loài trong chi này có hoa mọc thành cụm, được bảo vệ bởi bốn hoặc nhiều mo có màu sắc phù hợp với màu hoa. Hoa chứa nhiều mật và phấn và có mùi rất nhạt. Trái có hình cầu, khi chín có màu từ đỏ đến hồng, cam hoặc trắng và thường có mùi thơm.
Haemanthus có từ một đến sáu lá, lá nằm rạp trên mặt đất hoặc dựng thẳng tùy theo các loài.
Chi này ra đời năm 1753 bởi Linnaeus. Tên của nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: αίμα, haima và ανθος, anthos, có nghĩa là hoa máu - huyết hoa.
Danh sách các loài trong chi được công nhận trong cuốn Danh mục các loài cây trên Thế giới ("World Checklist of Selected Plant Families):" | 1 | null |
Hippeastrum là một chi có khoảng 90 loài và hơn 600 loài lai và giống cây trồng. "Hippeastrum" là một chi phân tông Hippeastrineae, tông Hippeastreae, phân họ Amaryllidoideae của họ Amaryllidaceae Tên chi được đặt bởi nhà thực vật học William Herbert.
Phân bố và môi trường sống.
Các loài "Hippeastrum" tập trung nhiều nhất ở hai trung tâm đa dạng loài (centre of diversity), một ở miền đông Brazil và một còn lại ở trung tâm miền nam Andes thuộc Peru, Bolivia và Argentina, tại sườn đông gần foothill. Vài loài sống xa lên phía bắc tại Mexico và miền tây Đông Ấn. Chi này được cho là có gốc ở Brazil, nơi ít nhất 34 được phát hiện. Môi trường sống chủ yếu là nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhiều loài sống ở các tầng cây thấp, trong khi nhiều loài lại ưa nắng. "Hippeastrum angustifolium" là ví dụ cho loài thích vùng lũ. Cũng có các loài thực vật biểu sinh như "Hippeastrum aulicum", "Hippeastrum calyptratum", "Hippeastrum papilio" và "Hippeastrum arboricola" thuộc phân chi "Omphalissa".
Bảo tồn.
Các loài sau đây được xem là bị đe dọa hay sắp nguy cấp do môi trường sống tự nhiên của chúng đang xuống cấp, Theo sách đỏ IUCN: | 1 | null |
Leucocoryne là chi thực vật có hoa trong họ Amaryllidaceae.
Đặc điểm.
Tán lá của các loài dài và hẹp, có mùi giống như mùi hành. Các hoa màu lam, trắng hay tím hoa cà mọc thành tán.
Toàn bộ chi này là đặc hữu Chile ở Nam Mỹ. Một số loài được trồng trong vườn làm cây cảnh. Chúng đòi hỏi đất có độ thoát nước tốt và không chịu được giá rét. "L. purpurea", với hoa màu tím tía, được Hiệp hội làm vườn Hoàng gia Anh (RHS) trao tặng phần thưởng phẩm chất làm vườn (AGM).
Các loài.
Các loài liệt kê dưới đây được The Plant List công nhận, mặc dù một số tác giả ước tính nó chỉ chứa khoảng 15 loài.
Phát sinh chủng loài.
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Sassone "et al." (2014)
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Souza "et al." (2016). | 1 | null |
Lycoris ( hoa Bỉ Ngạn) là chi thực vật có hoa trong họ Amaryllidaceae.
Các loài.
Tại thời điểm tháng 4 năm 2015, "World Checklist of Selected Plant Families" công nhận 22 loài và 1 loài lai ghép:
Chuyển đi.
Trước đây xếp trong chi này, nhưng hiện nay xếp trong các chi khác như "Griffinia" và "Ungernia").
Lai ghép.
Các loài lai ghép bao gồm | 1 | null |
Trong thần thoại Hy Lạp, Narcissus (; , "Narkissos") là một thợ săn từ Thespiae trong Boeotia, nổi tiếng với vẻ ngoài đẹp trai. Chàng là con trai của thần sông Cephissus và nữ thần Liriope. Một lần Narcissus nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình ở dưới nước và đem lòng yêu chính bản thân mình. Vì vậy, chàng đau khổ tự lao mình xuống sông tự tử do tình yêu chính mình không bao giờ được đáp lại. Khi ở thế giới bên kia, Narcissus vẫn không thôi ngắm mình dưới làn nước của sông mê Styx.
Nhà thơ Ovidius đã kể một câu chuyện về Narcissus trong một sử thi huyền thoại Latinh từ thời Augustus. Sự ra đời của huyền thoại nữ thần núi Echo (Tiếng Vọng) với Narcissus, chàng thanh niên xinh đẹp đã từ chối tình yêu và tình dục và rơi vào tình yêu với cái bóng của mình, dường như đã được sáng tạo bởi Ovidius. Phiên bản của Ovidius ảnh hưởng đến việc thể hiện huyền thoại trong nghệ thuật và văn học phương Tây sau này.
Thuật ngữ "Nhân cách yêu mình thái quá" dựa trên tính cách của nhân vật này. | 1 | null |
Nothoscordum là chi thực vật có hoa trong họ Amaryllidaceae.
Chi này rất có thể là cận ngành.
Các loài trong chi này là bản địa Bắc và Nam Mỹ, mặc dù một vài loài đã tự nhiên hóa ở những nơi khác thuộc Cựu Thế giới.
Các loài.
The Plant List liệt kê 87 loài (gồm 84 loài trong phần này trừ "N. muscorum" và cộng thêm "N. dialystemon" tại phần có thể tách ra cùng "N. andinum" và "N. serenense" tại phần chuyển đi), hơi khác một chút với danh sách do World CheckList of Selected Plant Families (WCSP) cung cấp (89 loài). Một số tác giả khác gợi ý nó chỉ chứa 20 loài.
Có thể tách ra.
Nếu "Beauverdia" được công nhận như một chi độc lập thì 4 loài có trong danh sách của WCSL sau đây sẽ thuộc về chi này.
Chuyển đi.
Một vài danh pháp đã từng sử dụng tên gọi "Nothoscordum" nhưng hiện tại được coi là thuộc các chi khác như "Allium", "Latace" (= "Zoellnerallium"), "Oziroe", "Tristagma".
Phát sinh chủng loài.
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Sassone "et al." (2014)
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Souza "et al." (2016). | 1 | null |
Tristagma là chi thực vật có hoa trong phân họ Allioideae thuộc họ Amaryllidaceae.
Phân bố.
Tại Argentina chi này phân bố từ Mendoza tới khu vực Patagonia và rộng hơn tại Chile, từ khu vực Patagonia tới vùng Coquimbo, trong dãy Andes và Cordillera de La Costa, cũng như trong vùng duyên hải từ Bio Bio tới Coquimbo. Theo Ravenna (2005a), vùng phân bố của "Tristagma" đạt tới Cuzco (Peru) nhưng tại khu vực này người ta không tìm thấy mẫu vật nào phù hợp.
Các loài trong chi này là bản địa Nam Mỹ (Argentina, Chile, Uruguay và có thể cả Peru?).
Các loài.
Danh sách 17 loài dưới đây lấy theo Kew World Checklist, trong đó 5 loài là bị nghi vấn theo S. C. Arroyo-Leunberger & A. B. Sassone (2016)
Chuyển đi.
Một vài loài từng xếp trong chi "Tristagma" nhưng hiện tại đã xếp vào các chi khác như "(Beauverdia", "Ipheion", "Leucocoryne", "Nothoscordum" và "Zephyranthes").
Phát sinh chủng loài.
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Sassone "et al." (2014)
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Souza "et al." (2016). | 1 | null |
Bocagea là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Nhà thực vật học người Pháp Augustin Saint-Hilaire mô tả chính thức chi này và đặt tên nó để vinh danh Josephi Mariae de Souza du Bocage, người mà ông nói rằng đã phiên dịch một bài thơ rất hay về loài hoa này sang tiếng Bồ Đào Nha và minh họa nó.
Mô tả.
"Bocagea" là cây bụi hay cây gỗ nhỏ với hai hàng cánh hoa, 3 bên trong và 3 bên ngoài, cùng 6 nhị hoa.
Các loài.
Chi này gồm 2 loài, phân bố tại Brasil. | 1 | null |
Cananga là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Lịch sử tên gọi.
Từ cananga có nguồn gốc từ tiếng Mã Lai "kenanga". Các nhà thám hiểm và truyền giáo châu Âu từ thế kỷ 17 đã dùng nó để chỉ ít nhất là 1 loài thực vật châu Á. Georg Everhard Rumphius (1627-1702) là người đầu tiên sử dụng từ cananga trong tài liệu viết về thực vật học. Ông bắt đầu viết bản thảo cho công trình sau này là "Herbarium Amboinense" vào khoảng năm 1663 cho Công ty Đông Ấn Hà Lan, nhưng do các lý do chính trị và thương mại mà tác phẩm của ông chỉ được xuất bản từ năm 1741. Trong tập 2 của "Herbarium Amboinense" Rumphius đã nhắc tới cananga từ bonga cananga = bungah kenanga = hoa cananga. Cananga, cananga domestica hay cananga vulgaris như được đề cập trong tài liệu này và chú giải với tiêu bản (tab. 65) rõ ràng là chỉ tới "Cananga odorata", mặc dù đài hoa 4 phần trong hình vẽ rõ ràng là sai lầm.
François Valentijn, con rể của Rumphius, đã sử dụng một phần bản thảo "Herbarium Amboinense" để viết "Oud en Nieuw OostIndiën". Tác phẩm này đã có ảnh hưởng trong gần 2 thế kỷ như là chỉ dẫn chung về Viễn Đông. Cananga xuất hiện lần đầu tiên ở dạng in ấn trong quyển 3 (Valentijn, 1726, tr. 213) trong đó nó được miêu tả (phụ lục 1 chứa bản dịch sang tiếng Anh của văn bản gốc) và vẽ hình minh họa (tab. 42, hình 2). Có rất ít nghi vấn về việc Valentijn đã miêu tả "Cananga odorata".
Jean Baptiste Christophore Fusée Aublet sử dụng từ cananga của Rumphius như là đơn vị phân loại thực vật ở cấp chi vào năm 1775 tại trang 607-608 trong quyển 1 "Histoire des plantes de la Guiane Françoise", với loài được mô tả là "Cananga ouregou" = "Guatteria ouregou" ở Nam Mỹ. Do không có gì trong các yếu tố mà Rumphius đề cập tới là đã có hiệu lực khi Aublet công bố tên gọi "Cananga", nên chi này phải được điển hình hóa bởi "Cananga ouregou" [ICBN (McNeill "et al.", 2006) Art. 10.3 ex. 3]. Nhưng "Cananga" lại có trước "Guatteria" và vì thế có độ ưu tiên cao hơn trong việc được coi là tên gọi chính xác cho một chi rất lớn ở Tân thế giới. Rafinesque (1815, tr. 175) cũng sử dụng "Cananga" như là tên chi nhưng không có bất kỳ miêu tả hay chỉ dẫn nào về nguồn gốc của nó.
Trong xử lý phân loại "Unona", Michel Félix Dunal (1817) công nhận 2 bậc đơn vị phân loại dưới cấp chi mà không có chỉ dẫn chính thức. Một trong các bậc phân loại thấp hơn này chứa 9 loài, bao gồm "Unona odorata" , được ông gọi là "Cananga". Muộn hơn, de Candolle (1817) tuân theo phân loại của Dunal, sử dụng "Cananga" giống như Dunal, mặc dù ông đặt tên cho cả đơn vị phân loại ("Unonaria") và bậc (tổ) của mức cao hơn "Cananga". Nói chung người ta có thể coi "Cananga" ở đây như là bậc phân tổ (subsectio, như McNeill "et al." (2006); Jessup (2007)) nhưng bản thân de Candolle lại không chỉ ra một bậc rõ ràng cho nó. Blume (1830) dường như là người đầu tiên sử dụng "Cananga" cho một bậc phân loại dưới chi rõ ràng khi ông nhắc tới "Uvaria" sectio "Canangae". Do ông phát biểu tại trang 12 rằng các tổ của ông là dựa theo Dunal nên điều này có thể coi như là phương án viết chính tả của "Cananga". Hooker & Thomson (1855) chỉ miêu tả 1 loài là "Cananga odorata" khi họ miêu tả chi "Cananga" . Mặc dù không có tham chiếu trực tiếp tới Dunal, nhưng Hooker & Thomson phải được coi là đã chuyển tên gọi của Dunal lên cấp chi [ICBN Art. 33.3 ex. 9]. Tuy nhiên, chi mới này là đồng âm muộn của "Cananga" Baillon (1868) rõ ràng đã nhận ra điều này và đề xuất "Canangium" như là tên gọi thay thế ["Cananga" ], nhưng ông lại sử dụng nó cho một tổ của "Unona" (tr. 213), chứ không phải ở cấp chi như nhiều tác giả sau này ngộ nhận. King (1892) là người đầu tiên sử dụng "Canangium" làm tên gọi cho một chi khi công nhận "Canangium odoratum" và miêu tả loài thứ hai là "Canangium scortechinii" (sau này bị hạ xuống thành đồng nghĩa của "Cananga odorata" (Corner, 1939).
Trong thế kỷ 19-20 đã có sự lộn xộn trong việc sử dụng tên gọi chi "Cananga". Nó từng được sử dụng cho cả "Guatteria" và "Cananga", kể cả trong thời gian mà tên gọi "Canangium" được sử dụng để chỉ đơn vị phân loại có ở châu Á. Năm 1910 tại Đại hội Thực vật học Quốc tế ở Brussels người ta đã đề xuất "Guatteria" và nó được chấp nhận là tên gọi được bảo toàn so với "Cananga" . Năm 1952, tên gọi "Cananga" cũng chính thức được bảo toàn so với "Cananga" . Vì thế, danh pháp "Cananga" kể từ năm 1952 bị ICBN coi là "nomen rejiciendum" (danh pháp bị từ chối). Sự bảo toàn tên gọi cũng tự động làm cho tên gọi đồng nghĩa cùng bậc bị mất hiệu lực [ICBN Art. 14.4], vì thế "Canangium" cũng trở thành "nomen rejiciendum". | 1 | null |
Cleistopholis là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Phân bố.
Châu Phi nhiệt đới hạ Sahara đến ranh giới với Angola; bao gồm Benin, Burkina, Cabinda (tỉnh biệt lập của Angola), Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, các đảo trong vịnh Guinea, Ivory Coast, Liberia, Nigeria, Senegal, Sierra Leone, Sudan, Togo, Uganda, Cộng hòa Dân chủ Congo (Zaïre). | 1 | null |
Cremastosperma là chi thực vật có hoa trong tông Malmeae của phân họ Malmeoideae thuộc họ Annonaceae.
"Cremastosperma" được Robert Elias Fries mô tả năm 1930, dựa theo loài "Aberemoa pedunculata" , nguyên được Ludwig Diels mô tả năm 1906, vì thế nó là loài điển hình của chi này với danh pháp tổ hợp là "Cremastosperma pedunculatum"
Phân bố.
Các loài của "Cremastosperma" được tìm thấy từ vùng đất thấp đến rừng nhiệt đới trước núi cao tại Tân nhiệt đới. Sự đa dạng loài lớn nhất nằm trong dải nhiệt đới hẹp ở phía tây dãy núi Andes về phía Thái Bình Dương ở tây bắc Nam Mỹ, kéo dài về phía bắc đến Trung Mỹ, xa tới Costa Rica; và ở sườn đông dãy núi Andes trải dài từ Colombia qua miền đông Ecuador và Peru xa về phía nam đến Bolivia. Hai loài được tìm thấy ở vùng duyên hải Venezuela là "Cremastosperma macrocarpum" và "Cremastosperma venezuelanum" , và một loài tại Guiana thuộc Pháp là "Cremastosperma brevipes" .
Mô tả.
"Cremastosperma" là các cây gỗ ở tầng dưới tán với hình thái hoa điển hình của họ Annonaceae (lá đài và cánh hoa xếp thành các vòng bộ 3; lượng không xác định các nhị và lá noãn xếp thành vòng xoắn) sinh ra các quả hình cuống với các lá noãn rời, một hạt, tương tự như các chi Tân nhiệt đới khác (như "Guatteria"). Đặc trưng hữu ích nhất để phân biệt chi này với các chi Tân nhiệt đới khác của họ Annonaceae là gân giữa của lá, nổi lên ở mặt trên với đường rãnh dọc bất thường, hầu hết là dễ thấy.
Các loài.
Tại thời điểm năm 2018 người ta công nhận 34 loài, phân bố tại Trung và Nam Mỹ, trong đó 5 loài mô tả lần đầu trong năm 2018. | 1 | null |
Cyathocalyx là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Lịch sử phân loại.
Tên chi "Cyathocalyx" do Hooker và Thomson công bố năm 1855 cho loài được mô tả mới là "C. zeylanicus". Các tác giả này sau đó công bố một tên gọi mới cho một chi khác là "Drepananthus" đối với 2 loài mới mô tả là "D. ramuliflorus" và "D. pruniferus" . Các tác giả phân biệt hai chi chủ yếu dựa vào số lá noãn của mỗi hoa (đơn độc ở "Cyathocalyx" và 4–12 ở "Drepananthus"). Sau đó, năm 1885 Scheffer đề xuất hợp nhất hai chi này, mặc dù ông chấp nhận sự khác biệt giữa hai đơn vị phân loại này bằng việc công nhận chúng là như các tổ (sectio) "Drepananthus" và "Cyathocalyx" (như là "Eucyathocalyx"). Các tác giả sau này hoặc là công nhận hai chi riêng biệt hoặc là hiểu "Cyathocalyx" theo nghĩa rộng.
Phân bố.
Theo nghĩa rộng thì các loài trong chi này thường bắt gặp ở Ấn Độ, Sri Lanka, Malaysia, vùng Indomalaya và kéo dài đến tận Fiji ở Nam Thái Bình Dương.
Khu vực phân bố theo nghĩa hẹp bao gồm: Borneo, Lào, Malaysia bán đảo, Myanmar, Philippines, Sri Lanka, Sumatra, Thái Lan, Việt Nam.
Các loài.
Các loài dưới đây là khi hiểu chi này theo nghĩa hẹp, được liệt kê theo Plants of the World Online:
Chuyển đi.
Các loài dưới đây chuyển sang chi "Drepananthus" theo Surveswaran "et al." (2010), trừ "C. maingayi" sang chi "Monocarpia". | 1 | null |
Drepananthus là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Lịch sử phân loại.
Tên chi "Cyathocalyx" do Hooker và Thomson công bố năm 1855 cho loài được mô tả mới là "C. zeylanicus". Các tác giả này sau đó công bố một tên gọi mới cho một chi khác là "Drepananthus" đối với 2 loài mới mô tả là "D. ramuliflorus" và "D. pruniferus" . Các tác giả phân biệt hai chi chủ yếu dựa vào số lá noãn của mỗi hoa (đơn độc ở "Cyathocalyx" và 4–12 ở "Drepananthus"). Sau đó, năm 1885 Scheffer đề xuất hợp nhất hai chi này, mặc dù ông chấp nhận sự khác biệt giữa hai đơn vị phân loại này bằng việc công nhận chúng là như các tổ (sectio) "Drepananthus" và "Cyathocalyx" (như là "Eucyathocalyx"). Các tác giả sau này hoặc là công nhận hai chi riêng biệt hoặc là hiểu "Cyathocalyx" theo nghĩa rộng.
Phân bố.
Quần đảo Bismarck, Borneo, Fiji, Malaysia bán đảo, New Guinea, Philippines, quần đảo Solomon, Sulawesi, Sumatra, Việt Nam. | 1 | null |
Chi Song môi (danh pháp khoa học: Miliusa) là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Tên gọi.
Các loài có ở Việt Nam được gọi là song môi hay mại liễu.
Mô tả.
Cây gỗ hoặc cây bụi mọc thẳng. Cụm hoa mọc ở nách lá hoặc trên nách lá, tụ thành chùm hoặc xim hoa, 1 hoa. Hoa chủ yếu là lưỡng tính. Cuống nhỏ thon, thường thuôn dài. Đế hoa nâng cao, thường có lông tơ dài. Lá đài 3, nhỏ, có nắp, hợp sinh tại đáy. Cánh hoa 6, xếp thành 2 vòng, với mỗi vòng có nắp; các cánh hoa bên ngoài tương tự như lá đài; các cánh hoa bên trong lớn, mọc thẳng, mỏng, đáy hình túi nông và có vấu ngắn, mép ban đầu dính nhau nhưng dễ rời, đỉnh thường cuốn ngoài. Nhị nhiều; mô liên kết hẹp và không che các ngăn bao phấn, đỉnh gần nhọn đột ngột. Lá noãn nhiều, thuôn dài; noãn 1-8 mỗi lá noãn; đầu nhụy hình đầu, hình trứng, hoặc hình cầu. Quả có lá noãn rời; đơn quả nhiều, gần như không cuống đến có hình cuống dài, hình cầu đến hình trứng. Hạt 1 đến một số trong mỗi đơn quả.
Phân bố.
Nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á và Australia.
Các loài.
Danh sách loài được công nhận lấy theo Plants of the World Online: | 1 | null |
Chi Mạo đài (danh pháp khoa học: Mitrephora) là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Phân bố.
Các loài trong chi này phân bố tại khu vực nhiệt đới và ôn đới Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á như Ấn Độ (gồm cả quần đảo Andaman), Bangladesh, Brunei, Campuchia, Indonesia (Borneo, Java, Maluku, Sulawesi, Sumatra, Tiểu Sunda), Lào, Malaysia (gồm cả phần trên đảo Borneo), Myanmar, Nepal, New Guinea, Philippines, Sri Lanka, Thái Lan, trung nam Trung Quốc (gồm cả đảo Hải Nam), Việt Nam.
Các loài.
48 loài dưới đây lấy theo Plants of the World Online: | 1 | null |
Monoon là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Các loài trong chi này được ghi nhận tại tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Dương, Malesia, New Guinea và Australia, với sự du nhập vào Tây Phi (Cameroon) cũng như Trinidad và Tobago. Một loạt các loài được chuyển vào đây từ chi "Polyalthia".
Các loài.
"Plants of the World Online" hiện tại công nhận các loài sau: | 1 | null |
Neo-uvaria là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Chi "Enicosanthum" (hiện nay được coi là đồng nghĩa của "Monoon") dường như là họ hàng gần nhất của "Neo-uvaria".
Lịch sử phân loại.
Năm 1939 Herbert Kenneth Airy Shaw dựng lên chi "Neo-uvaria" dựa trên "Popowia foetida" và "Uvaria acuminatissima". Lý do chính để thiết lập chi này là do ông nghĩ rằng nó có quan hệ gần với "Uvaria", nhưng khác ở chỗ các loài "Uvaria" là dây leo thân gỗ, trong khi 2 loài nói trên là cây gỗ cao với các lông che phủ hình sao. Năm 1955, Sinclair cho rằng "Neo-uvaria" có lẽ có quan hệ họ hàng với "Popowia". Sự tương tự duy nhất giữa "Neo-uvaria" và "Uvaria" chỉ là lông che phủ hình sao. Năm 1992 Van Heusden nghiên cứu hình thái học hoa của Annonaceae và nhận thấy các cánh hoa của "Neo-uvaria" dày và mọng bất thường. Ngoài ra, sự hiện diện của lông che phủ hình sao cũng là kỳ dị đối với "Neo-uvaria", do phần lớn các chi của họ Na không có các lông này.
Các nghiên cứu phát sinh chủng loài năm 2004 (Mols "et al.", Richardson "et al.") cho thấy "Neo-uvaria" không có quan hệ họ hàng gần với "Uvaria" mà nó thuộc về nhánh miliusoid, trong đó có "Popowia".
Phân bố.
Đông Nam Á, bao gồm: Borneo, Lào, Malaysia, Philippines, Thái Lan.
Các loài.
Bảy loài công nhận dưới đây lấy theo Plants of the World Online: | 1 | null |
Chi Tháp hình (danh pháp khoa học: Orophea) là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Phân bố.
Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á, bao gồm: Ấn Độ (cả các quần đảo Andaman, Nicobar), Borneo, Campuchia, Indonesia (Java, Maluku, Sulawesi, Sumatra, Tiểu Sunda), Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan, trung nam và đông nam Trung Quốc (cả Hải Nam), Việt Nam. | 1 | null |
Polyalthia là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae. Có khoảng 86-90 loài phân bố từ châu Phi tới châu Á và các đảo trên Thái Bình Dương.
Phân bố.
Các loài trong chi này là bản địa châu Á nhiệt đới, Madagascar, Queensland và châu Á ôn đới.
Các loài.
Chi lớn này được biết đến như là đa ngành, với nhiều loài đang được tách ra và gán sang các chi khác. Một số loài cũng được chuyển từ chi khác sang nó (như "P. malabarica" từ "Phaeanthus").
"Plants of the World Online" hiện tại coi các loài sau là hợp lệ:
Chuyển đi.
Theo Plants of the World Online, các loài sau được chuyển sang các chi khác: | 1 | null |
Chi Bồ bốt (danh pháp khoa học: Popowia) là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Phân bố.
Ấn Độ (gồm cả quần đảo Nicobar), Indonesia (Borneo, Java, Sumatra, Sulawesi), Madagascar, Malaysia, Myanmar, New Guinea, Philippines, Thái Lan, Việt Nam.
Các loài.
Danh sách loài được công nhận lấy theo Plants of the World Online: | 1 | null |
Robert Loeb (23 tháng 1 năm 1853 tại Kaldenhof, Kreis Hamm – 26 tháng 1 năm 1925, cũng tại Kaldenhof) là một sĩ quan quân đội Phổ, từng tham gia Chiến tranh Pháp-Đức và đã được thăng đến cấp Thượng tướng kỵ binh trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tiểu sử.
Vào tháng 10 năm 1870, Loeb đã gia nhập trong Trung đoàn Thương kỵ binh "Đại Công tước Friedrich xứ Baden" (Rhein) số 7 với vai trò là một học viên sĩ quan và tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Ông được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng nhì trong cuộc chiến tranh này. Vào năm 1906, ông được thăng cấp Đại tá và Tư lệnh của Trung đoàn Long kỵ binh Magdeburg số 6, đóng quân tại Mainz.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, Robert Loeb, mặc dù đã nghỉ hưu với quân hàm Trung tướng, được triệu hồi và bổ nhiệm làm Tư lệnh của Lữ đoàn Dân quân số 13 vào cuối tháng 10 năm 1914. Trong thời gian đó, lữ đoàn của ông tham chiến tại khu vực phía đông của mặt trận ở rừng Argonne. Trong cuộc tấn công được phát động vào ngày 8 tháng 1 năm 1915, lữ đoàn của ông đã đánh chiếm toàn bộ ngọn đèo nằm giữa các đồng bằng Meurisson và Osson.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 1915, ông đã kế niệm Trung tướng Drnst Wagner làm chỉ huy của Sư đoàn Trừ bị số 4 thuộc biên chế của Quân đoàn Trừ bị VII. Do đóng góp của sư đoàn dưới quyền ông trong cuộc chiến trên Mặt trận phía Tây, ông được trao tặng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng nhì với Bó sồi, Ngôi sao và Bảo kiếm vào tháng 4 năm 1918, rồi nhận Huân chương Quân công vào ngày 17 tháng 7 năm đó. Vào ngày 1 tháng 10 năm 1918, khi cuộc chiến tranh vẫn chưa kết thúc, ông về hưu với quân hàm Thượng tướng Kỵ binh, và quyền chỉ huy Sư đoàn thuộc về Trung tướng Thilo von Hanstein. Ông từ trần ngày 26 tháng 1 năm 1925. | 1 | null |
Pseuduvaria là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Phân bố.
Chi này sinh sống ở khu vực nhiệt đới châu Á kéo dài đến miền bắc Australia, bao gồm quần đảo Andaman, Bangladesh, Borneo, Java, Lào, Tiểu Sunda, Malaysia bán đảo, Maluku, Myanmar, New Guinea, quần đảo Nicobar, Philippines, Queensland, Sulawesi, Sumatra, Thái Lan, Việt Nam.
Các loài.
Danh sách loài dưới đây lấy theo Plants of the World Online: | 1 | null |
Sphaerocoryne là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae.
Phân bố.
Các loài trong chi này có tại vùng nhiệt đới ở châu Á và châu Phi.
Lưu ý.
Phân loại của các chi "Melodorum", "Sphaerocoryne" và "Mitrella" vẫn khá mơ hồ và sự tiếp tục sửa đổi là cần thiết. | 1 | null |
Uvaria là chi thực vật có hoa trong họ Annonaceae. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là bù dẻ hay bồ quả.
Các loài phân bố khắp vùng nhiệt đới Cựu Thế giới. Đây là một chi lớn, gồm khoảng 150 loài, nhưng nghiên cứu gần đây cho thấy nhiều chi nhỏ hơn cũng thuộc "Uvaria".
Chúng mọc thành cây bụi leo hoặc cây gỗ nhỏ. | 1 | null |
Arctopus là chi thực vật có hoa trong họ Apiaceae.
Chi này là đặc hữu miền nam châu Phi. Tên chi có nghĩa là "chân gấu", nhưng nó đã từng được sử dụng trong y học Khoi-San và được những người định cư ban đầu sử dụng tên gọi trong tiếng Afrikaan là "sieketroos". Chúng là các thành viên không điển hình của họ Apiaceae, với các lá mọc phẳng trên mặt đất và là đơn tính khác gốc (nghĩa là có cây đực và cây cái riêng biệt). | 1 | null |
Lichtensteinia là chi thực vật có hoa trong họ Apiaceae.
Các loài trong chi này là bản địa các tỉnh KwaZulu-Natal và Cape, Nam Phi.
Lưu ý.
Danh pháp "Lichtensteinia" còn được các tác giả khác sử dụng để chỉ các loài không thuộc về họ Apiaceae. Cụ thể như sau: | 1 | null |
Chi Luyến hương (danh pháp khoa học: Aganosma) hay chi Chè bông, chi Chè lông, là một chi thực vật có hoa trong Họ La bố ma (Apocynaceae), được George Don mô tả khoa học đầu tiên năm 1837. Chúng được tìm thấy ở Trung Quốc, tiểu lục địa Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
Các loài.
Theo Thực vật chí thế giới trực tuyến (WFO), tính đến nay có 9 loài và 2 thứ trong chi Luyến hương đã được công nhận: | 1 | null |
Baroniella là chi thực vật có hoa trong họ Apocynaceae.
Phân bố.
Chi này bao gồm các dạng dây quấn dạng cây bụi thấp, đặc hữu Đông Madagascar, trong rừng duyên hải, ở cao độ tới 1.700 m.
Các loài.
Danh sách loài dưới đây lấy theo IPNI và Plants of the World Online. | 1 | null |
Camptocarpus là chi thực vật có hoa trong họ Apocynaceae.
Phân bố.
Chi này có tại Madagascar, Rodrigues và Réunion ở miền tây Ấn Độ Dương.
Các loài.
Danh sách loài dưới đây lấy theo Plants of the World Online.
Lưu ý.
Danh pháp "Camptocarpus" dù được công bố trước (tháng 1 năm 1844) so với danh pháp "Camptocarpus" (công bố tháng 3 năm 1844), nhưng "Camptocarpus" là danh pháp được bảo toàn (nom. cons). Danh pháp "Camptocarpus orientalis" hiện nay là đồng nghĩa của "Alkanna orientalis" (họ Boraginaceae). | 1 | null |
Ceropegia là chi thực vật có hoa trong họ Apocynaceae.
Nghiên cứu phát sinh chủng loài của Surveswaran và ctv. (2009), Bruyns và ctv. (2015), Meve và ctv. (2017) cho thấy "Ceropegia" như định nghĩa tới thời điểm đó là cận ngành. Bruyns "et al." (2017, 2018) đề xuất mở rộng "Ceropegia" để bao gồm toàn bộ các chi còn lại của phân tông Stapeliinae. Nếu điều này được chấp nhận thì chi "Ceropegia" nghĩa rộng là đơn ngành sẽ bao gồm khoảng 717 loài đã biết và việc sử dụng các chi pha tạp là không cần thiết. | 1 | null |
Cẩm cù hay còn gọi tú cù (danh pháp khoa học: Hoya) là một chi thực vật thuộc phân họ Bông tai (Asclepiadoideae) thuộc họ Trúc đào, còn gọi là họ La bố ma (Apocynaceae).
Các loài cẩm cù được coi là bản địa Đông Á và Australia. Chi Cẩm cù trên thế giới hiện có khoảng gần 500 loài. Ở Việt Nam có ít nhất 24 loài. | 1 | null |
Microloma là chi thực vật có hoa trong họ Apocynaceae.
Các loài.
Danh sách dưới đây liệt kê theo The Plant List (TPL).
Tuy nhiên, danh sách loài do WCSPF đưa ra hơi khác. Cụ thể WCSPF công nhận 9 loài đầu như TPL, công nhận thêm loài "Microloma armatum" với 2 thứ là "M. armatum" var. "armatum" và "M. armatum" var. "burchellii"; nhưng không công nhận 4 loài cuối cùng liệt kê trên đây mà đồng nghĩa chúng với các loài như liệt kê dưới đây:
WCSPF cũng công nhận loài lai ghép "M. x archeri". | 1 | null |
Streptocaulon là chi thực vật có hoa trong họ Apocynaceae.
Chi này được mô tả lần đầu tiên năm 1834. Nó chứa các loài bản địa Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Nam Á.
Từ nguyên.
Tên khoa học của chi này là từ ghép của tiếng Hy Lạp "στρεπτος" = "streptos" = xoắn và "καυλος" = "kaulos" = thân, nghĩa là thân xoắn.
Các loài.
Chi này chứa 6 loài như sau:
Chuyển đi.
Chi này trước đây còn bao gồm, hiện tại đã chuyển sang các chi như "Calotropis", "Cryptolepis", "Myriopteron", "Periploca", "Strophanthus", "Vincetoxicum". | 1 | null |
Bùi hay Đông thanh, nhựa ruồi (tiếng Latinh: Ilex) là chi thực vật có hoa trong họ Aquifoliaceae. Chi này có từ 400 đến 600 loài, bao gồm các loài cây thường xanh và lá rộng, cây bụi, và dây leo phân bố ở những vùng nhiệt đới đến ôn đới trên toàn cầu.
Loài.
Trong số 400 đến 600 loài, chúng được xếp vào 3 phân chi:
Độc tính.
Holly có thể chứa axit caffeic, caffeoyl phái sinh, axit caffeoylshikimic, axit chlorogenic, axit feruloylquinic, quercetin, axit quinic, kaempferol, tannin, rutin, caffeine và theobromine.
Quả Holly có thể gây nôn mửa và tiêu chảy. Chúng đặc biệt nguy hiểm trong các trường hợp liên quan đến việc trẻ em vô tình bị thu hút bởi những quả mọng màu đỏ tươi. Ăn phải hơn 20 quả mọng có thể gây tử vong cho trẻ em.
Nếu ăn phải lá cây Holly có thể gây tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa và các vấn đề về dạ dày và ruột.
Cây Holly có thể gây độc cho vật nuôi và vật nuôi.
Văn hóa.
Cây nhựa ruồi thường được nhắc đến và được lấy làm vật trang trí trong ngày lễ Giáng Sinh. Cây nhựa ruồi cũng mang tính biểu tượng của của Kitô giáo đặc biệt là cây này còn mang tên "Mão gai của Chúa Giêsu" vì cái gai của lá khiến cho người ta liên tưởng. Trong đó có bài hát dân giam của Anh "The Holly And The Ivy" đã mượn hình ảnh của cây nhựa ruồi để tượng trưng cho Chúa Giêsu và dây thường xuân tượng trưng cho Đức Mẹ.
Trong huy hiệu học, lá cây nhựa ruồi thường được in trên phù hiệu áo giáp của một số quốc gia hoặc một số nơi của quốc gia đó vì nó tượng trưng cho sự thật.
Những người trong tầng lớp cao cấp của xã hội Celt (Druids) cho rằng: "lá cây nhựa ruồi bảo vệ khỏi linh hồn ma quỷ" và do đó họ "đội cây nhựa ruồi trên tóc".
Trong tiểu thuyết Harry Potter của nhà văn Anh J. K. Rowling thì cây nhựa ruồi được dùng làm đũa thần của Harry
Trong một số truyền thống của Wicca, Holly King là một trong những gương mặt của Thần Mặt trời. Anh ta được sinh ra vào giữa mùa hè và quy tắc từ Mabon đến Ostara | 1 | null |
Dendropanax là chi thực vật có hoa trong họ Araliaceae.
Chi này 92 loài cây bụi thường xanh, được mô tả lần đầu bởi Joseph Decaisne & Jules Émile Planchon vào năm 1854. Chúng là các loài bản địa Trung Mỹ và Bắc Mỹ, Đông Á và bán đảo Mã Lai. Các loài như "Dendropanax trifidus" hoặc "kakuremino" trong tiếng Nhật, được sử dụng trong các khu vườn roji, các khu vực ẩm ướt và rêu truyền thống dẫn đến chashitsu cho các nghi lễ trà. | 1 | null |
Chi Ngũ gia (danh pháp khoa học: Eleutherococcus, đồng nghĩa: "Acanthopanax") là chi thực vật có hoa trong họ Araliaceae, chứa 38 loài cây bụi và cây gỗ có gai. Chúng là bản địa khu vực Đông Á, từ đông nam Siberia và Nhật Bản tới Philippines và Việt Nam. Trong số này 18 loài đến từ Trung Quốc, từ khu vực miền trung đến miền tây quốc gia này.
Từ nguyên và sử dụng danh pháp.
Từ "Eleutherococcus" từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "quả mọng tự do". Từ "Acanthopanax" có nghĩa là "sâm gai".
Danh pháp khoa học trong thực vật học có lịch sử ngoằn nghèo. "Acanthopanax" từng được sử dụng tại Trung Quốc như là tên gọi khoa học chính xác cho chi này cho tới gần đây, trong khi tại phương Tây người ta sử dụng danh pháp "Eleutherococcus" như là tên gọi chính thức.
Tên gọi.
Tên gọi ngũ gia bì () theo Trung dược học có thể gán cho một loạt các loài trong chi này, nhưng hiện nay tại Trung Quốc chúng được gọi chung là ngũ gia (五加, "wujia"), đặc biệt là "E. gracilistylus", và theo một nguồn thì ngũ gia sinh dược thật sự là thu hái từ loài này, còn "E. sessiliflorus" chỉ là nguồn thay thế.
Tên gọi trong tiếng Nhật vay mượn trực tiếp từ tên gọi tiếng Trung, và được áp dụng cho nhiều loài trong chi này. Sách thảo mộc học thế kỷ 10 là "Bản thảo hòa danh" () giới thiệu "ngũ gia" Trung Quốc như là một loại cây được gọi là "mukogi" (, mâu cổ kỳ), đặc biệt là nói tới "E. sieboldianus" (tên Nhật: "hime-ukogi"). | 1 | null |
Heptapleurum là danh pháp khoa học của một chi thực vật có hoa trong họ Araliaceae.
Lịch sử phân loại.
Chi này được Joseph Gaertner mô tả lần đầu tiên năm 1791, với loài "Heptapleurum stellatum" ở Sri Lanka và miền nam Ấn Độ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài sau này nó chỉ được coi là đồng nghĩa muộn của "Schefflera" nghĩa rộng. Các nghiên cứu phát sinh chủng loài cho thấy "Schefflera" nghĩa rộng ("sensu lato") là đa ngành. Vì thế, năm 2020 người ta lại phục hồi chi "Heptapleurum".
Phân bố.
Tất cả các loài thuộc chi này có tại vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới châu Á; từ Ấn Độ ở phía tây tới Nhật Bản ở đông bắc và miền bắc Australia ở phía đông nam.
Các loài.
Chi này hiện nay được công nhận chứa khoảng 317 loài. Một số loài như sau: | 1 | null |
Alexios V tên đầy đủ là Alexios V Doukas Mourtzouphlos (; ? - 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 5 tháng 2 đến ngày 12 tháng 4 năm 1204 trong cuộc vây hãm thành Constantinopolis lần thứ hai và cuối cùng thành của cuộc Thập tự chinh thứ tư. Biệt danh "Mourtzouphlos" của Alexios V có lẽ cũng vì đôi lông mày rậm rạp nhô ra hoặc do tính tình ủ rũ của ông. Thuật ngữ này cũng có nghĩa là ám chỉ một người bị bỡ ngỡ, chán nản, thất vọng, u sầu, buồn rầu, ủ rũ và cau mày, quắc mắt rõ rệt.
Vốn xuất thân từ tầng lớp quý tộc, rồi dần leo lên chức vị "protovestiarios" trong triều đến thời điểm xảy ra cuộc Thập tự chinh thứ tư. Alexios đã từng kết hôn hai lần nhưng có nghi vấn cho rằng ông là tình nhân của Eudokia Angelina, con gái của Hoàng đế Alexios III Angelos. Sự việc Alexios có tham gia vào âm mưu soán ngôi của Ioannes Komnenos Béo vào năm 1200 đã khiến ông bị triều đình tống giam cho đến khi Isaakios II Angelos lên ngôi, người vừa phục vị sau khi bị phế truất và bị bỏ tù bởi người anh Alexios III và con là Alexios IV Angelos mà về sau được đặt lên ngôi báu do sự can thiệp của Thập tự quân vào tháng 7 năm 1203.
Đến đầu năm 1204, Isaakios II và Alexios IV đã truyền một chút sự tin tưởng lên dân chúng thành Constantinopolis trong nỗ lực của họ để bảo vệ thành phố từ người Latinh và Venezia, những kẻ trở nên hiếu động và nổi loạn khi số tiền và viện trợ được Alexios IV hứa hẹn đã không được đáp ứng. Trong khi đó thì Alexios Doukas nổi lên như một nhà lãnh đạo của phong trào chống người Latinh và tự mình cầm đầu một số cuộc giao tranh chống lại quân Thập tự chinh. Khi dân chúng nổi loạn vào cuối tháng 1 năm 1204, các vị Hoàng đế quá sợ hãi vội trốn vào trong cung và giao cho Alexios Doukas nhiệm vụ tìm kiếm sự giúp đỡ của Thập tự quân. Thay vào đó, Alexios Doukas đã lợi dụng dịp này mà dẫn quân binh xông vào cung bắt giữ các vị Hoàng đế. Tân vương Alexios IV bị bóp cổ chết trong tù, trong khi cha của ông là Isaac qua đời không lâu sau đó cũng vì do lo lắng, buồn phiền hoặc uất ức mà chết. Alexios V Doukas chính thức làm lễ đăng quang vào đầu tháng 2 năm 1204.
Sau khi đăng quang, Alexios V bắt đầu tăng cường khả năng phòng thủ thành Constantinopolis và chấm dứt đàm phán với người Latinh. Tuy nhiên, mọi chuyện đã quá trễ để vị tân vương này xoay chuyển tình thế. Một cuộc đột kích do nhà vua phát động nhằm vây đánh chỗ đóng quân Thập tự chinh đã thất bại mặc dù đích thân Hoàng đế ngự giá thân chinh. Trong trận chiến sau đó, quân phòng thủ Constantinopolis đã chặn đứng cuộc phản công của Thập tự quân vào ngày 9 tháng 4. Đợt tấn công thứ hai của Thập tự quân tỏ ra quá mạnh khó mà đẩy lùi buộc Alexios V phải bỏ thành trốn đến xứ Thracia vào đêm ngày 12 tháng 4 năm 1204, đi cùng với ông có Eudokia Angelina và mẹ cô là Euphrosyne Doukaina Kamatera. Constantinopolis cuối cùng đã bị Thập tự quân chiếm toàn bộ vào ngày hôm sau.
Những người tị nạn chạy đến Mosynopolis, căn cứ của vị Hoàng đế bị phế truất Alexios III Angelos, nơi lúc đầu họ được đón nhận và Alexios V nhân dịp này mà kết hôn với Eudokia Angelina. Tuy nhiên sau đó, Alexios III vì thèm muốn ngôi báu đã ngầm sắp đặt âm mưu thay thế chàng rể mới bằng cách sai người phục kích và chọc mù mắt ông, khiến Alexios V không đủ điều kiện lên ngôi Hoàng đế. Bị những người ủng hộ và kẻ thù bỏ rơi, chẳng mấy chốc Alexios V đã bị đạo quân Thập tự chinh dưới sự chỉ huy của tướng Thierry de Loos bắt làm tù binh ở gần Mosynopolis vào tháng 11 năm 1204. Rồi ông bị giải về Constantinopolis xét xử tội mưu phản chống lại Alexios IV với án tử hình bằng cách ném từ trên đỉnh Cột trụ Theodosius xuống dưới đất chết vào tháng 12 năm 1204. Ông là vị Hoàng đế Đông La Mã cuối cùng trị vì Constantinopolis trước khi thành lập Đế quốc Latinh đã kiểm soát thành phố này khoảng 57 năm tiếp theo cho đến khi giành lại từ tay Hoàng đế Nicaea Mikhael VIII Palaiologos. | 1 | null |
Theron (? - 473 TCN) là bạo chúa Hy Lạp của thành bang Acragas trên đảo Sicilia từ năm 488 TCN và là con trai của Aenesidamus. Theron sớm trở thành một đồng minh của Gelo, người về sau làm con rể của ông, vào thời điểm đó đang kiểm soát thành bang Gela và Siracusa từ năm 485 TCN.
Tiểu sử.
Không có tài liệu nào đề cập chi tiết về cuộc đời của Theron, các sử gia chỉ biết đến ông trong cuộc chiến tranh Sicilia khi Theon tuyên chiến với thành bang Selinunte và bạo chúa của Himera là Terillus. Rồi sau đó Terillus bị đám đông dân chúng dưới sự xúi giục của Theron trục xuất khỏi thành phố của mình, vì vậy mà ông đã tìm cách liên minh với Carthage thông qua người con rể Anaxilas lúc ấy đang là bạo chúa thành bang Rhegium. Theron lập tức xuất quân chiếm Himera nhưng lại bị quân Carthage bao vây với sự hỗ trợ của Terillus. Năm 480 TCN, Theron với sự hỗ trợ của Gelo đã giành chiến thắng vang dội ở ngoài dãy tường thành của Himera khi đánh bại đội quân Carthage và các đồng minh của họ. Trong suốt thời kỳ cai trị của Theron, thành bang Acragas cùng với Siracusa và Selinunte hình thành một loại "tam hùng" đã thống trị đảo Sicilia thuộc Hy Lạp vào thời điểm đó. Theron mất vào năm 473 TCN trong một thời gian ngắn thì con là Thrasydaios kế vị, ít lâu sau ông này bị người anh rể Gelon và người kế nhiệm Hieron I hợp lực kéo quân đánh đuổi ra khỏi thành bang và chịu cảnh sống lưu vong đến cuối đời. Kể từ sau thất bại đó thì thành bang Acragas chính thức thuộc quyền kiểm soát của Siracusa.
Nhà thơ trữ tình Pindar từng dâng hai bài thơ ca ngợi Thế vận hội Olympic ở mục 2 & 3 cho Theron, cả hai đều ca tụng về chiến thắng tương tự trong các cuộc đua xe ngựa tại Thế vận hội Olympic cổ đại năm 476 TCN. Nhà thơ Simonides đảo Ceos cũng hoạt động tại triều của Theron. | 1 | null |
Thrasydaios (? - ?) là bạo chúa Hy Lạp của thành bang Akragras và là người con kế vị Theron. Hầu như trong suốt cuộc đời của cha mình, ông được Theron bổ nhiệm vào chính phủ thành bang Himera sau cuộc chiến tranh Sicilia, do các hành vi bạo lực và cai trị độc đoán hà khắc của Thrasydaios khiến dân chúng oán thán mà vùng lên nổi dậy. Nhưng khi họ đề nghị hỗ trợ Hieron I của Siracusa thì tên bạo chúa này đã phản bội họ câu kết với Theron, nhờ sự hợp tác này mà Theron dễ dàng sai người giết chết người cầm đầu nhóm bất mãn và mau chóng tái lập quyền lực của mình. Cho dù Thrasydaios vẫn giữ được vị trí của mình tại Himera sau này nhưng khi Theron mất vào năm 473 TCN, ông kế vị mà không có sự phản đối về chủ quyền của cả hai thành phố. Tính cách độc đoán và chuyên quyền của ông đã sớm bộc lộ trong thời gian cai trị lúc đầu khiến Thrasydaios mất đi sự ủng hộ của dân chúng ở Akragras và Himera. Nhưng mục tiêu đầu tiên của ông vẫn là nối lại cuộc chiến với Hieron, chống lại người đồng minh thân cận đã tham gia tích cực trong suốt cuộc đời của cha mình. Vì vậy ông cho tập hợp một lực lượng lớn lính đánh thuê và một đạo quân mới tuyển được từ Akragras và Himera rồi tiến đánh Hieron, để rồi đại bại sau một trận chiến dai dẳng và đẫm máu giữa đôi bên, dân chúng Akragras nhân cơ hội này đã nhanh chóng trục xuất Thrasydaios ra khỏi thành phố của họ và chào đón vị chủ nhân mới là Gelon và Hieron vào tiếp quản. Ông vội vàng trốn thoát đến Hy Lạp ẩn náu chờ đợi thời cơ phục vị nhưng ít lâu sau bị bắt tại Megara và bị hành quyết công khai. | 1 | null |
Tanki Online là trò chơi trực tuyến miễn phí nhiều người chơi cùng lúc có thể tham gia cùng 1 màn chơi dựa trên công nghệ Adobe Flash - đã được tạo ra từ giữa năm 2008 bởi AlternativaPlatform, Nga. Đây là một trò chơi chạy trên trình duyệt thuộc thể loại bắn súng góc nhìn người thứ ba. Tính đến tháng 2 năm 2013, nó có hơn 20.000.000 người chơi đăng ký. Trò chơi hỗ trợ 3 ngôn ngữ là tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Đức.
Vào đầu năm 2009, trò chơi đã nhận được giải thưởng uy tín КRI Nga năm 2009 trong đề cử "trò chơi tốt nhất mà không có một nhà phát hành" và "Công nghệ tốt nhất". Giải thưởng khác giành được giải thưởng flash năm 2009 trong thể loại: "thành tựu kỹ thuật".
Cách chơi.
Cách chơi của trò chơi này khá đơn giản, bốn nút mũi tên lên xuống sang trái,phải dùng để di chuyển, dấu cách (SPACEBAR) và nút Z,X dùng để xoay tháp pháo bắn đạn vào đối phương đồng thời phải phối hợp với đồng đội (tùy từng chế độ chơi, ví dụ trong chế Teamdeadmatch (TDM),bạn phải phá hủy càng nhiều xe tăng đối phương càng tốt đồng thời phối hợp với đồng đội để giảm tối thiểu số lượng xe tăng ta bị tiêu diệt)
Phát triển.
Tanki Online ra đời khoảng giữa năm 2008 bởi AlternativaPlatform, tại Perm, Nga. Trò chơi đã được sử dụng để giới thiệu công nghệ flash Alternativa3D cho các trang web, được coi là công nghệ tiên tiến vào thời điểm đó.
Trong giai đoạn đầu, các game thủ phải tham gia khó khăn hơn, chế độ chơi cũng đơn điệu hơn, và chỉ được giới hạn trong một vài tháp pháo và vỏ, được rất nhiều ý kiến đối với sự kết hợp nhất định. Sau đó, nhiều vũ khí mới và vỏ được đưa vào một "hạng hai" của các thiết bị, chúng mạnh hơn rất nhiều và sẵn sàng cho một mức giá cao hơn. Lời hứa cho một "Tanki Online 2.0" đã được thực hiện chủ yếu trong năm 2010-2011, mặc dù dự án này sau đó được loại bỏ một bổ sung làm chậm hơn của các tính năng mới trong phiên bản đầu tiên..
Giữa năm 2012, trò chơi đã được cải thiện đáng kể về ý tưởng đồ họa, với bản "cập nhật 1.100.0" mang lại đồ họa chi tiết hơn và sáng sủa hơn để mở đầu một không gian thân thiện hơn và thực tế hơn. Kiểm soát điểm cũng đã được giới thiệu. Trong vài tháng sau, thử nghiệm của phiên bản "114" đã được hoàn tất, và tất cả các thiết bị trong "nhà để xe" đã được cân đối lại để tất cả thay đổi bằng tương tự về sức mạnh. Một lớp sơn mới cũng được thêm vào. Tái cân bằng này vẫn có hiệu lực đến nay, mặc dù tinh chỉnh thông số kỹ thuật chính xác của thiết bị vẫn đang được chỉnh sửa.
Sự phát triển tiếp theo của Tanki Online đã gây sự chú ý tới Adobe Systems, và các công ty đã cùng nhau sử dụng các trò chơi để thúc đẩy các khả năng 3D của Flash. | 1 | null |
Quản đốc thành phố (tiếng Anh: "city manager") là một viên chức được bổ nhiệm giữ vai trò như một người quản lý hành chính của một thành phố có hình thức chính quyền hội đồng-quản đốc. Các viên chức địa phương phục vụ trong chức vụ này đôi khi được xem như một tổng giám đốc (CEO) hay viên chức hành chính trưởng (CAO) tại một số khu tự quản. Tuy nhiên, về ý nghĩa thực tế, thuật từ "quản đốc", khác với chức vụ "viên chức hành chính trưởng", ám chỉ đến thẩm quyền độc lập và tự do hơn như đã được ghi rõ trong hiến chương hay bộ phận luật nào đó, khác với các bổn phận và trách nhiệm được giao phó theo căn bản khác nhau từ một người có chức vụ cao hơn, ví dụ là thị trưởng.
Lịch sử.
Đa số các nguồn truy tìm cho thấy thành phố Staunton, Virginia là nơi đầu tiên có quản đốc thành phố vào năm 1908. Một trong số các thành phố đầu tiên thuê mướn một quản đốc thành phố là Sumter, South Carolina (1912) và Dayton, Ohio (1914). Cuộc họp "Hội Quản đốc Thành phố" đầu tiên gồm 8 quản đốc là vào tháng 12 năm 1914. Quản đốc thành phố, hoạt động dưới hình thức chính quyền hội đồng-quản đốc, được lập ra một phần để kéo chính quyền thành phố ra khỏi quyền lực của các đảng chính trị, và đặt sự quản lý thành phố vào tay của một chuyên gia từ bên ngoài đến. Người này thường là một kỹ sư hay giám đốc thương nghiệp với hy vọng rằng quản đốc thành phố sẽ luôn trung lập với nền chính trị thành phố.
Vào cuối đầu thế kỷ 20, khoảng 45 thành phố tại Hoa Kỳ sử dụng hình thức chính quyền quản đốc thành phố.
Trách nhiệm.
Với tư cách là viên chức hàng đầu được bổ nhiệm trong thành phố, quản đốc thành phố thường thường có trách nhiệm đối với đa số nếu không phải là tất cả các hoạt động hành chính hàng ngày của khu tự quản.
Một trong số các vai trò, trách nhiệm, và quyền lực của một quản đốc thành phố gồm có:
Trách nhiệm có thể khác nhau tùy theo các điều khoản ghi trong hiến chương thành lập thành phố, luật lệ tiểu bang và luật lệ địa phương. Ngoài ra, nhiều tiểu bang như các tiểu bang New Hampshire và Missouri, có pháp điển hóa thành luật các chức năng tối thiểu mà một quản đốc thành phố phải thực thi.
Tóm lược.
Trong những năm nghiệp vụ đầu tiên, đa số các quản đốc xuất thân từ các cấp chuyên gia kỹ thuật. Ngày nay, nền tảng và giáo dục bắt buộc và tiêu biểu đối với một quản đốc thành phố mới khởi nghiệp là cấp bằng thạc sĩ quản lý công và ít nhất phải có một số năm kinh nghiệm làm giám đốc sở tại thành phố hay một trợ tá quản đốc. Tính đến năm 2005, hơn 60% các quản đốc nhà nghề có bằng thạc sĩ quản lý công hay cấp bằng có liên quan cao hơn.
Thời gian phục vụ trung bình của một quản đốc thành phố hiện nay là 7–8 năm và tăng dần theo năm tháng. Thời gian phục vụ có chiều hướng ít hơn tại các cộng đồng nhỏ hơn và nhiều hơn tại các cộng đồng lớn hơn và cũng có chiều hướng thay đổi khác nhau tùy thuộc vào từng vùng của quốc gia.
Lương bổng của quản đốc thành phố thường cao hơn các chức vị quan chức thành phố khác, kể cả thị trưởng. Theo thăm dò năm 2009 của Hội Quản lý Thành phố/Quận Quốc tế (International City/County Management Association), lương trung bình của quản đốc thành phố là 106.408 USD trong khi lương cho chức vụ dân cử cao nhất (thường là thị trưởng) chỉ là 51.918 USD. | 1 | null |
Đầu cơ trong ngày, giao dịch trong ngày, mua bán trong ngày là đầu cơ vào chứng khoán, cụ thể là mua và bán cùng một lượng (hoặc với số lượng gần bằng nhau) của cùng một công cụ tài chính trong cùng một ngày giao dịch, sao cho gần như tất cả các vị thế được đóng lại trước khi thị trường đóng cửa trong ngày giao dịch. Các thương nhân tham gia vào giao dịch trong ngày được gọi là thương nhân trong ngày. Các thương nhân mua bán theo kiểu này với động cơ là tìm kiếm lợi nhuận, và vì thế là những nhà đầu cơ.
Không được biết đến rộng rãi, định nghĩa chính xác của "giao dịch trong ngày" có nghĩa là sự thay đổi được so sánh với giá đóng cửa của phiên trước và không chỉ liên quan đến một giá khác được giao dịch trong cùng ngày.
Một số công cụ tài chính được giao dịch trong ngày phổ biến hơn cả là cổ phiếu, quyền chọn, tiền tệ, và một loạt các hợp đồng tương lai chẳng hạn như tương lai chỉ số cổ phiếu, tương lai lãi suất, và tương lai hàng hóa.
Giao dịch trong ngày từng có thời là hoạt động chỉ dành cho các công ty tài chính và các nhà đầu cơ chuyên nghiệp. Nhiều thương nhân trong ngày là các nhân viên của ngân hàng hoặc của công ty đầu tư làm việc như là các chuyên gia trong đầu tư vốn cổ phần và quản lý quỹ. Tuy nhiên, với sự ra đời của giao dịch điện tử và giao dịch ký quỹ, giao dịch trong ngày càng trở nên phổ biến trong số các thương nhân tại gia.
Các đặc trưng.
Mặc dù được gọi chung là giao dịch trong ngày, việc thực hành có nhiều phong cách với chất lượng và rủi ro cụ thể. Đầu cơ kiếm chác là một kỹ thuật đầu cơ trong ngày mà nhà đầu cơ thường chỉ nắm giữ một vị thế trong một vài phút hoặc thậm chí vài giây. Đầu cơ ăn mỏng là một phương pháp cho phép các nhà đầu cơ kiếm chác nhảy bên trong giá chào mua (Bid) hoặc giá chào bán (Ask) với một số lượng nhỏ, và một đi vòng đầy đủ (thực hiện mua và bán) thường được hoàn thành trong thời gian dưới một giây. Giả sử giá chào mua là 102,00 USD và giá chào bán là 102,03 USD. Các nhà đầu cơ kiếm chác sẽ đặt lệnh mua trong hàng lệnh giá chào mua ở mức giá 102,01 USD, do đó trở thành mức giá chào mua tốt nhất và do đó là người xếp hàng đầu tiên để có thể mua cổ phiếu. Và vì giá chào bán tốt nhất khi đó là 102,03 USD, nên nhà đầu cơ ăn mỏng sẽ lại đặt lệnh bán trong thị trường hiện tại là vị trí đầu tiên trong hàng lệnh chào bán ở mức giá rẻ hơn 1 xu là 102,02 USD và có cơ hội cao nhất để hoàn thành cả lệnh mua và lệnh bán ở các mức giá làm ra lợi nhuận chỉ là 0,01 USD cho mỗi cổ phiếu được trao đổi. Do lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu mua vào và bán ra trong chiến lược ăn mỏng thường là rất nhỏ, nên thương nhân này cần phải thực hiện mua/bán nhiều cổ phiếu theo cách này để tạo ra mức lợi nhuận hợp lý. Nó có thể thực hiện nhiều hơn một chút trên các giao dịch bằng cách giảm giá để tạo tính thanh khoản. Một chiến lược mà một thương nhân trong ngày có thể sử dụng là chủ động tìm kiếm các thiết lập giao dịch tiềm năng. Khi một nhà đầu cơ trong ngày nghĩ giá đã sẵn sàng để tăng tốc theo cả hai hướng, cổ phiếu được cho là trong trạng thái "căng thẳng". Bằng cách xác định chính xác hướng biến động giá, có một tiềm năng tạo ra lợi nhuận đáng kể. Số lượng giao dịch có thể thực hiện mỗi ngày, cũng như là lợi nhuận và thua lỗ là gần như không giới hạn.
Một số thương nhân trong ngày tập trung vào giao dịch rất ngắn hạn trong giao dịch trong ngày, trong đó trao đổi có thể chỉ kéo dài trong vài phút. Thương nhân trong ngày có thể mua và bán nhiều lần trong một ngày giao dịch và có thể được giảm giá phí giao dịch từ nhà môi giới của họ cho khối lượng giao dịch này.
Một số thương nhân trong ngày chỉ tập trung vào xung lượng giá, những người khác dựa vào các mẫu hình kỹ thuật. Một số thương nhân khác lại tập trung vào một lượng không giới hạn các chiến lược mà họ cảm thấy có thể tạo ra lợi nhuận.
Hầu hết các thương nhân trong ngày đóng trạng thái của các vị thế trước khi thị trường đóng cửa để tránh các rủi ro không thể quản lý là những khoảng trống giá âm (chênh lệch giữa giá đóng cửa ngày hôm trước và giá mở cửa ngày hôm sau trong thị trường giá tăng) vào lúc mở cửa hay các biến động giá qua đêm ngược với vị thế mà các thương nhân này nắm giữ. Các thương nhân khác lại cho rằng họ nên cho lợi nhuận vận hành, vì vậy có thể chấp nhận nắm giữ một vị thế sau khi thị trường đóng cửa.
Thương nhân trong ngày đôi khi vay tiền để giao dịch. Điều này được gọi là giao dịch ký quỹ. Vì lãi suất/tiền lãi ký quỹ thường chỉ tính trên các số dư qua đêm, nên thương nhân không phải trả phí cho lợi ích ký quỹ, mặc dù vẫn còn các rủi ro của gọi ký quỹ. Mức lãi suất ký quỹ thường dựa trên gọi ký quỹ của nhà môi giới.
Lợi nhuận và rủi ro.
Do bản chất của đòn bẩy tài chính và lợi nhuận nhanh chóng có thể có, các kết quả của giao dịch trong ngày có thể là cực kỳ lợi nhuận hoặc cực kỳ thua lỗ, và những thương nhân có hồ sơ rủi ro cao có thể tạo ra tỷ lệ phần trăm lợi nhuận rất cao hoặc tỷ lệ thua lỗ rất lớn.
Do lợi nhuận (thua lỗ) cao mà giao dịch trong ngày có thể tạo ra, nên các thương nhân giao dịch trong ngày đôi khi được các nhà đầu tư khác miêu tả như là những "kẻ cướp" hoặc "kẻ cờ bạc". Tuy nhiên, một số cá nhân vẫn kiếm sống đều đặn từ giao dịch trong ngày.
Tuy nhiên giao dịch trong ngày có thể là rủi ro, đặc biệt là nếu những điều sau đây tồn tại trong khi giao dịch:
Do sử dụng phổ biến việc mua ký quỹ (sử dụng vốn vay) khuếch đại số được và số mất nên thiệt hại hoặc lợi ích đáng kể có thể xảy ra trong một khoảng thời gian rất ngắn. Ngoài ra, các nhà môi giới thường cho phép mức biên lớn hơn đối với các thương nhân trong ngày. Trong khi mức biên qua đêm cần thiết để giữ một vị thế cổ phiếu thường là 50% giá trị của cổ phiếu, nhiều nhà môi giới cho phép tài khoản mô hình giao dịch trong ngày sử dụng các mức thấp tới 25% cho việc mua bán trong ngày. Điều này có nghĩa là một thương nhân trong ngày với trị giá tối thiểu luật định 25.000 USD trong tài khoản của mình có thể mua 100.000 USD (đòn bẩy 4x) giá trị cổ phiếu trong ngày, miễn là một nửa trong số những vị thế đó được thoát trước khi thị trường đóng cửa. Do rủi ro cao của sử dụng ký quỹ, và của các thực tiễn mua bán trong ngày khác, một thương nhân trong ngày thường sẽ thoát khỏi một vị thế thua lỗ rất nhanh chóng, để ngăn chặn một mất mát lớn hơn, không thể chấp nhận, hoặc thậm chí là một tổn thất tai hại, lớn hơn nhiều so với đầu tư ban đầu của mình, hoặc thậm chí lớn hơn tổng tài sản của mình.
Lịch sử.
Ban đầu, các cổ phiếu quan trọng nhất của Hoa Kỳ được giao dịch trên Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE). Một thương nhân sẽ liên hệ với một nhà môi giới chứng khoán, người sẽ chuyển lệnh đặt mua/đặt bán tới một chuyên gia trong sàn chứng khoán NYSE. Mỗi chuyên gia làm thị trường cho chỉ một số ít cổ phiếu. Chuyên gia này sẽ khớp lệnh của người mua với lệnh của người bán của một nhà môi giới khác bằng việc ghi thông tin lên các phiếu, mà một khi được xử lý có hiệu quả sẽ thực hiện việc chuyển nhượng chứng khoán và chuyển tiếp thông tin lại cho cả hai nhà môi giới. Hoa hồng môi giới được chốt ở mức 1% của số tiền của giao dịch, nghĩa là mua 10.000 USD giá trị chứng khoán thì người mua phải chi 100 USD tiền hoa hồng và người bán cũng phải chi 100 USD tiền hoa hồng (có nghĩa là giao dịch là có lợi nhuận khi được thực hiện "trên" mức 1% thì mới thu được bất kỳ lợi ích thực tế nào).
Một trong những bước đầu tiên để làm cho giao dịch trong ngày của cổ phiếu có tiềm năng mang lại lợi nhuận là sự thay đổi trong sơ đồ hoa hồng. Năm 1975, Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Hoa Kỳ (SEC) đã làm cho tỷ lệ hoa hồng cố định là bất hợp pháp, dẫn đến việc các nhà môi giới cung cấp nhiều tỷ lệ hoa hồng giảm hơn.
Quyết toán tài chính.
Các thời hạn quyết toán tài chính đã từng là dài hơn: Chẳng hạn, trước đầu những năm 1990 tại Sàn giao dịch chứng khoán London, cổ phiếu có thể được thanh toán sau tối đa 10 ngày làm việc kể từ khi nó được mua, cho phép các thương nhân mua (hoặc bán) cổ phiếu vào đầu của một thời hạn quyết toán chỉ bán (hoặc mua) chúng trước khi kết thúc thời hạn này với hy vọng giá sẽ tăng. Hoạt động này giống hệt với giao dịch trong ngày hiện đại, nhưng trong thời hạn quyết toán dài hơn. Nhưng ngày nay, để giảm rủi ro thị trường, thời gian quyết toán thường là 3 ngày làm việc (T+3). Thời hạn quyết toán giảm xuống làm giảm khả năng vỡ nợ, nhưng là không thể trước khi có sự ra đời của chuyển quyền sở hữu điện tử.
Mạng lưới truyền thông điện tử.
Các hệ thống mà cổ phiếu được giao dịch cũng đã phát triển, nửa sau của thế kỷ 20 đã chứng kiến sự ra đời của các mạng lưới truyền thông điện tử (ECN). Về bản chất chúng là mạng máy tính độc quyền lớn, nơi mà các nhà môi giới có thể niêm yết một số lượng chứng khoán nhất định để chào bán ở một mức giá nhất định (giá chào bán hoặc giá "Ask") hoặc chào mua một số lượng chứng khoán nhất định tại một mức giá nhất định (giá chào mua hay giá "Bid").
Các ECN và sàn giao dịch thường được các thương nhân biết đến bởi một định danh gồm ba hoặc bốn chữ cái để xác định ECN hoặc sàn giao dịch trên các màn hình chứng khoán Cấp II. ECN đầu tiên trong số này là Instinet (hoặc "inet"), được thành lập vào năm 1969 như là một cách để các tổ chức lớn bỏ qua NYSE ngày càng cồng kềnh và đắt tiền, cũng cho phép họ giao dịch trong những giờ khi các sàn giao dịch đóng cửa. Các ECN ban đầu như Instinet rất không thân thiện với nhà đầu tư nhỏ, bởi vì chúng có xu hướng cung cấp cho các tổ chức lớn giá tốt hơn giá có sẵn cho công chúng. Điều này dẫn đến một thị trường bị phân mảnh và đôi khi thiếu tính thanh khoản.
Bước quan trọng tiếp theo trong việc thúc đẩy giao dịch trong ngày là việc thành lập NASDAQ vào năm 1971 - một sàn giao dịch chứng khoán ảo mà trên đó các lệnh đã được truyền bằng điện tử. Dịch chuyển từ chứng chỉ cổ phiếu giấy và đăng ký cổ phiếu bằng văn bản sang cổ phiếu "phi vật chất hóa", giao dịch và đăng ký bằng máy tính đòi hỏi không chỉ thay đổi sâu rộng về lập pháp mà còn cả sự phát triển của công nghệ cần thiết: các hệ thống thời gian thực trực tuyến chứ không phải là hệ thống theo các khối; truyền thông điện tử chứ không phải là dịch vụ bưu chính, telex hay hàng lô các băng máy tính vật chất thực, và sự phát triển của các thuật toán mã hóa an toàn.
Những phát triển này báo trước sự xuất hiện của các "nhà tạo lập thị trường": bản sao tương đương của NASDAQ với các chuyên gia của NYSE. Một nhà tạo lập thị trường có một kho các cổ phiếu để mua và bán, và đồng thời cũng đặt lệnh mua và bán chính các cổ phiếu này. Rõ ràng, nhà tạo lập thị trường này sẽ đặt lệnh bán cổ phiếu ở một mức giá cao hơn giá mà nhà tạo lập thị trường đó đặt mua. Sự khác biệt này được gọi là "chênh lệch chào mua - chào bán" (bid - ask spread). Các nhà tạo lập thị trường không quan tâm về việc liệu giá cổ phiếu đi lên hay đi xuống, đơn giản họ chỉ cố gắng để liên tục mua vào với giá thấp hơn là giá bán ra. Một xu hướng liên tục theo một hướng nào đó sẽ dẫn đến thua lỗ cho các nhà tạo lập thị trường, nhưng chiến lược này về tổng thể là tích cực (nếu không họ sẽ rời khỏi công việc kinh doanh này). Ngày nay có khoảng 500 công ty tham gia vào thị trường chứng khoán như là các nhà tạo lập thị trường trên các ECN, mỗi công ty thường tạo lập thị trường cho khoảng từ 4 tới 40 cổ phiếu khác nhau. Nếu không có bất kỳ nghĩa vụ pháp lý, các nhà tạo lập thị trường được tự do cung cấp các mức chênh lệch chào mua - chào bán trên các ECN nhỏ hơn trên NASDAQ. Một nhà đầu tư nhỏ có thể phải trả một chênh lệch chào mua - chào bán 0,25 USD (ví dụ như ông ta có thể phải trả 10,50 USD để mua một cổ phiếu nhưng chỉ có thể nhận được 10,25 USD cho việc bán nó), trong khi một tổ chức có thể chỉ phải trả một chênh lệch chào mua - chào bán 0,05 USD (mua tại 10,40 USD và bán tại 10,35 USD).
Bong bóng công nghệ (1997-2000).
Sau đổ vỡ thị trường chứng khoán năm 1987, SEC thông qua "Quy định xử lý lệnh đặt" trong đó yêu cầu các nhà tạo lập thị trường công bố giá chào mua và giá chào bán tốt nhất của họ trên NASDAQ. Một cải cách khác được thực hiện trong giai đoạn này là "Hệ thống thực thi lệnh đặt nhỏ" ("SOES"), đòi hỏi các nhà tạo lập thị trường mua hoặc bán, ngay lập tức, các lệnh đặt nhỏ (lên đến 1.000 cổ phiếu) tại giá chào mua hoặc giá chào bán đã niêm yết của nhà tạo lập thị trường. Thiết kế của hệ thống đã dẫn đến sự lợi dụng cơ lợi giá (acbit) của một nhóm nhỏ các nhà đầu tư được gọi là những "kẻ cướp SOES", những người đã tạo ra rất nhiều đặt lệnh mua và bán nhỏ tới các nhà tạo lập thị trường bằng cách chặn trước các dịch chuyển giá trước khi chúng được phản ánh trong các giá chào mua/chào bán nội bộ được công bố. Hệ thống SOES cuối cùng đã dẫn tới giao dịch được thực hiện bằng phần mềm thay vì là các nhà tạo lập thị trường thông qua các ECN.
Vào cuối thập niên 1990, các ECN khi đó đã bắt đầu cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư nhỏ. Các hãng môi giới mới chuyên phục vụ các thương nhân trực tuyến muốn giao dịch trên các ECN đã xuất hiện. Các ECN mới cũng xuất hiện, quan trọng nhất là Archipelago ("arca") và Island ("isld"). Archipelago cuối cùng đã trở thành một sàn giao dịch chứng khoán và năm 2005 đã được NYSE mua lại (tại thời điểm này, NYSE đã đề xuất sáp nhập Archipelago với chính nó, mặc dù một số phản kháng đã phát sinh từ các thành viên NYSE). Phí hoa hồng cũng giảm mạnh, ví dụ để giao dịch 1.000 cổ phiếu của Google, một thương nhân trực tuyến năm 2005 có thể đã mua 300.000 USD cổ phiếu với mức hoa hồng khoảng 10 USD, so với hoa hồng 3.000 USD các thương nhân phải trả năm 1974. Hơn nữa, vào năm 2005 các thương nhân đã có thể mua cổ phiếu gần như ngay lập tức và đã nhận nó ở một mức giá rẻ hơn.
Các ECN liên tục thay đổi với các ECN mới được hình thành, trong khi những ECN hiện có được mua hoặc sáp nhập. Tính đến cuối năm 2006, các ECN quan trọng nhất đối với các nhà đầu tư cá nhân là:
Sự kết hợp của các yếu tố đã làm cho giao dịch trong ngày đối với cổ phiếu và các phái sinh cổ phiếu (như các ETF) là có thể. Tỷ lệ hoa hồng thấp cho phép một cá nhân hay công ty nhỏ thực hiện một lượng lớn các giao dịch trong một ngày duy nhất. Tính thanh khoản và chênh lệch chào mua - chào bán nhỏ do các ECN cung cấp cho phép một cá nhân thực hiện giao dịch gần như tức thời và có được giá cả thuận lợi. Các cổ phiếu có khối lượng giao dịch lớn như Intel hay Microsoft thường có chênh lệch chào mua - chào bán chỉ 0,01 USD, nên giá cả chỉ cần di chuyển một vài xu để các thương nhân trang trải chi phí hoa hồng và có lợi nhuận.
Khả năng cho phép các cá nhân giao dịch trong ngày trùng với thị trường giá tăng mạnh của các cổ phiếu công nghệ từ năm 1997 đến đầu năm 2000, được gọi là bong bóng Dot-com. Từ năm 1997 đến năm 2000, chỉ số Nasdaq tăng từ 1.200 lên 5.000. Nhiều nhà đầu tư ngây thơ và ít kinh nghiệm thị trường đã kiếm được lợi nhuận khổng lồ bằng cách mua các cổ phiếu này vào buổi sáng và bán chúng vào buổi chiều, với một tỉ lệ biên lên tới 400%.
Tháng 3 năm 2000, bong bóng này đã nổ, và một lượng lớn các thương nhân non kinh nghiệm này bắt đầu bị mất tiền cũng nhanh, hoặc còn nhanh hơn, so với khi họ kiếm được trong cơn điên cuồng mua trước đó. Chỉ số Nasdaq rơi từ 5.000 trở lại 1.200; nhiều người trong các thương nhân non kinh nghiệm đã phá sản, mặc dù rõ ràng là đã có thể có được một khối tài sản trong thời gian đó bằng việc bán khống hoặc mua bán theo độ biến động.
Kỹ thuật.
Sau đây là một số chiến lược cơ bản mà một thương nhân trong ngày cố gắng để làm ra lợi nhuận. Bên cạnh đó, một số thương nhân trong ngày cũng sử dụng các chiến lược trái ngược (ngược lại) (thường được thấy trong giao dịch thuật toán) để giao dịch đặc biệt chống lại hành vi không hợp lý từ các thương nhân trong ngày sử dụng các phương pháp tiếp cận này.
Một số phương pháp tiếp cận yêu cầu bán khống cổ phiếu thay vì mua chúng: các thương nhân vay mượn cổ phiếu từ nhà môi giới của ông ta và bán chứng khoán vay, hy vọng rằng giá sẽ giảm và sẽ có thể mua lại cổ phiếu ở mức giá thấp hơn. Có một số vấn đề kỹ thuật với bán khống - nhà môi giới có thể không có loại cổ phiếu đó để cho vay, một số bán khống có thể chỉ được thực hiện nếu giá cổ phiếu hoặc giá chào mua (bid) vừa tăng lên (được gọi là một "khoảng khắc gia tăng"), và nhà môi giới có thể thu hồi cổ phiếu của mình bất cứ lúc nào. Một số những hạn chế này (cụ thể là quy tắc khoảng khắc gia tăng) không áp dụng cho các giao dịch các cổ phiếu là cổ phần thực sự của một quỹ trao đổi giao dịch (ETF).
Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Hoa Kỳ đã loại bỏ yêu cầu khoảng khắc gia tăng đối với các bán khống vào ngày 06 tháng 7 năm 2007.
Theo xu hướng.
Theo xu hướng là một chiến lược được sử dụng trong tất cả các khung thời gian giao dịch, với giả định rằng công cụ tài chính đã tăng giá đều đặn sẽ tiếp tục tăng, và ngược lại với giảm giá. Nhà đầu tư theo xu hướng mua một công cụ đã được tăng giá, hoặc bán khống một công cụ đã bị giảm giá, với hy vọng rằng xu hướng này sẽ còn tiếp tục.
Đầu tư trái ngược.
Đầu tư trái ngược là một chiến lược định thời thị trường được sử dụng trong tất cả các khung thời gian giao dịch. Nó giả định rằng công cụ tài chính đã được tăng giá đều đặn sẽ đảo ngược và bắt đầu giảm, và ngược lại với giảm giá. Các nhà đầu cơ trái ngược mua một công cụ đã giảm giá, hoặc bán khống một công cụ đã tăng giá, với hy vọng rằng xu hướng này sẽ thay đổi.
Giao dịch trong khoảng.
Giao dịch trong khoảng hay giao dịch giới hạn phạm vi, là một phong cách giao dịch, trong đó cổ phiếu được theo dõi hoặc là tăng vượt một mức giá hỗ trợ hoặc giảm quá một mức giá kháng cự. Điều này có nghĩa là mỗi khi cổ phiếu chạm mức giá cao, nó rơi trở lại mức thấp nhất, và ngược lại. Một cổ phiếu như vậy được cho là "giao dịch trong khoảng", và nó là trái ngược với xu hướng. Do đó, thương nhân giao dịch trong khoảng mua cổ phiếu tại hoặc gần với mức giá thấp, và bán (và có thể bán khống) ở mức giá cao. Một cách tiếp cận liên quan đến giao dịch trong khoảng là tìm kiếm các dịch chuyển vượt ra ngoài của khoảng đã thiết lập, gọi là đột phá (di chuyển giá lên) hoặc một suy sụp (di chuyển giá xuống), và giả định rằng một khi khoảng đã bị phá vỡ thì giá sẽ tiếp tục di chuyển theo hướng đó một thời gian nữa.
Giao dịch kiếm chác.
Giao dịch kiếm chác ban đầu được gọi là giao dịch chênh lệch chào mua - chào bán. Đây là một phong cách kinh doanh khi mà khoảng cách giá nhỏ được tạo ra bởi chênh lệch chào mua/chào bán được các nhà đầu cơ khai thác. Nó thường liên quan tới việc thiết lập và thanh lý một vị thế nhanh chóng, thường trong vòng vài phút hoặc thậm chí vài giây.
Các công cụ có tính linh hoạt cao của giao dịch kiếm chác đối với thương nhân trong ngày ngoài sàn liên quan đến việc có lợi nhuận nhanh trong khi giảm thiểu rủi ro (nguy cơ thua lỗ). Nó áp dụng các khái niệm phân tích kỹ thuật như mua trên/mua dưới, các khu vực hỗ trợ và kháng cự cũng như đường xu hướng, kênh giao dịch để tham gia thị trường tại các điểm quan trọng và có lợi nhuận nhanh chóng từ những di chuyển nhỏ. Ý tưởng cơ bản của giao dịch kiếm chác là khai thác sự không hiệu quả của thị trường khi độ biến động tăng và khoảng giao dịch mở rộng.
Giao dịch giảm giá.
Giao dịch giảm giá là một phong cách kinh doanh bằng sử dụng giảm giá của ECN như một nguồn chính của lợi nhuận và doanh thu. Hầu hết các ECN thu phí hoa hồng các khách hàng muốn các lệnh của họ được thực hiện ngay lập tức với giá tốt nhất có sẵn, nhưng các "ECN" trả hoa hồng cho những người mua hoặc người bán "thêm thanh khoản" bằng cách đặt các lệnh giới hạn để tạo ra "sự tạo lập thị trường" trong một chứng khoán. Thương nhân giảm giá tìm cách kiếm tiền từ những giảm giá và thường sẽ tối đa hóa lợi nhuận của họ bằng giao dịch các cổ phiếu giá thấp, khối lượng giao dịch cao. Điều này cho phép họ giao dịch nhiều cổ phiếu hơn và đóng góp thêm thanh khoản với một lượng vốn đã thiết lập, trong khi hạn chế rủi ro là họ sẽ không thể thoát khỏi một vị thế trong cổ phiếu này. Giao dịch giảm giá đã đi tiên phong tại Datek Online và Domestic Securities. Omar Amanat thành lập Tradescape và nhóm giao dịch giảm giá tại Tradescape giúp đóng góp 280 triệu USD vào việc mua lại người khổng lồ giao dịch trực tuyến E*Trade.
Mua bán theo tin tức.
Chiến lược cơ bản của mua bán theo tin tức là mua một cổ phiếu vừa công bố tin tốt, hoặc bán khống theo tin tức xấu. Những sự kiện này cung cấp biến động rất lớn trong một cổ phiếu và do đó cơ hội lớn nhất cho lợi nhuận (hoặc lỗ) nhanh chóng. Tin tức là "tốt" hay "xấu" phải được xác định theo hành động giá của các cổ phiếu, bởi vì phản ứng thị trường có thể không phù hợp với tinh thần chung của chính tin tức. Nguyên nhân phổ biến nhất cho điều này là khi những tin đồn hoặc ước tính của sự kiện (như các phát hành của thị trường và của các nhà phân tích công nghiệp) đã được lưu hành trước khi phát hành chính thức, và giá đã di chuyển theo mong đợi - những tin tức này đã định giá cổ phiếu.
Hành động giá.
Giữ mọi thứ đơn giản cũng có thể là một phương pháp hiệu quả khi nói đến giao dịch. Có những nhóm thương nhân được gọi là thương nhân hành động giá là một dạng thương nhân kỹ thuật dựa trên phân tích kỹ thuật nhưng không phụ thuộc vào chỉ số thông thường để chỉ cho họ theo hướng có giao dịch hay không. Các thương nhân này dựa vào sự kết hợp của các chuyển động giá, các mô hình biểu đồ, khối lượng giao dịch, và các dữ liệu thị trường thô khác để đánh giá nên hay không nên tham gia một giao dịch. Đây được xem như một cách tiếp cận "đơn giản" và "tối giản" để giao dịch nhưng không phải là dễ dàng hơn so với bất kỳ phương pháp giao dịch nào khác. Nó đòi hỏi một nền tảng vững vàng trong việc tìm hiểu cách thị trường làm việc và các nguyên tắc cốt lõi trong một thị trường, nhưng điều tốt về loại hình phương pháp này là nó sẽ làm việc trong hầu như bất kỳ thị trường nào đang tồn tại (cổ phiếu, ngoại hối, tương lai, vàng, dầu, vv.).
Trí tuệ nhân tạo.
Ước tính có khoảng một phần ba giao dịch chứng khoán vào năm 2005 tại Hoa Kỳ đã được tạo ra bởi các thuật toán tự động hay giao dịch tần suất cao. Tăng sử dụng các kỹ thuật thuật toán và định lượng đã dẫn đến sự cạnh tranh cao hơn và lợi nhuận nhỏ hơn.
Chi phí.
Thiết bị giao dịch.
Một số chiến lược giao dịch trong ngày (bao gồm cả giao dịch kiếm chác và cơ lợi) đòi hỏi hệ thống và phần mềm giao dịch tương đối phức tạp. Phần mềm này có thể có giá 45.000 USD trở lên. Do những người bình thường hiện nay đã bước chân vào không gian giao dịch trong ngày, nên các chiến lược có thể được tìm thấy ít nhất là ở mức 5.000 USD. Nhiều thương nhân trong ngày sử dụng nhiều màn hình hoặc thậm chí nhiều máy tính để thực hiện các đặt lệnh của họ. Một số sử dụng các phần mềm lọc thời gian thực được lập trình để gửi các ký hiệu cổ phiếu tới một màn hình đáp ứng tiêu chí cụ thể trong ngày, chẳng hạn như hiển thị các cổ phiếu đang chuyển từ tích cực sang tiêu cực. Một số thương nhân sử dụng các công cụ dựa vào cộng đồng bao gồm các diễn đàn và các phòng chat.
Môi giới.
Thương nhân trong ngày thường không sử dụng các nhà môi giới tạo lập thị trường hay nhà môi giới chiết khấu bởi vì họ chậm hơn trong việc thực hiện giao dịch, giao dịch ngược lại dòng lệnh đặt, và tính phí hoa hồng cao hơn nhà môi giới truy cập trực tiếp, người cho phép các thương nhân gửi đặt lệnh của họ trực tiếp đến ECN. Giao dịch truy cập trực tiếp cung cấp những cải tiến đáng kể trong tốc độ giao dịch và thường dẫn đến giá thực hiện giao dịch tốt hơn (giảm chi phí kinh doanh). Bên ngoài nước Mỹ, thương nhân trong ngày thường sử dụng CFD hoặc các môi giới cá độ chênh lệch tài chính bởi cùng một lý do.
Hoa hồng.
Hoa hồng cho nhà môi giới truy cập trực tiếp được tính toán dựa trên khối lượng giao dịch. Các cổ phiếu được giao dịch nhiều hơn thì hoa hồng rẻ hơn. Hoa hồng trung bình mỗi giao dịch là khoảng 5 USD cho mỗi hành trình khứ hồi (vào và ra khỏi một vị thế). Trong khi một nhà môi giới bán lẻ có thể tính phí 7 USD hoặc hơn cho mỗi giao dịch bất kể quy mô giao dịch, thì một nhà môi giới truy cập trực tiếp điển hình có thể tính bất cứ mức nào trong phạm vi từ 0,01 USD đến 0,0002 USD trên mỗi cổ phiếu được giao dịch (từ 10 USD xuống 0,20 USD cho mỗi 1.000 cổ phiếu), hoặc 0,25 USD cho mỗi hợp đồng tương lai. Một thương nhân giao dịch kiếm chác có thể trang trải khoản chi phí như vậy, thậm chí với mức thu tối thiểu.
Về phương thức tính toán, một số nhà môi giới sử dụng theo tỷ lệ ("pro-rata") để tính toán hoa hồng và chi phí, trong đó mỗi mức khối lượng giao dịch được tính chi phí hoa hồng khác nhau. Các nhà môi giới khác sử dụng một tỷ lệ đồng đều, khi mà tất cả tiền hoa hồng và chi phí dựa vào ngưỡng khối lượng giao dịch đạt được.
Chênh lệch chào mua - chào bán.
Sự khác biệt bằng số giữa giá chào mua và giá chào bán được gọi là chênh lệch chào mua - chào bán. Hầu hết các thị trường trên toàn thế giới hoạt động trên hệ thống dựa trên chào mua - chào bán này.
Giá chào bán là giá thực hiện ngay lập tức (giá thị trường) cho người mua nhanh chóng (bên chấp nhận chào bán) trong khi giá chào mua là giá dành cho người bán nhanh chóng (bên chấp nhận chào mua). Nếu giao dịch được thực hiện tại giá niêm yết, việc đóng giao dịch ngay lập tức mà không cần xếp hàng sẽ luôn luôn gây ra một khoản thua lỗ, vì giá chào mua luôn luôn thấp hơn giá chào bán tại bất kỳ thời điểm nào.
Chênh lệch chào mua - chào bán là hai mặt của một đồng xu. Chênh lệch này có thể được xem như tiền thưởng hay chi phí giao dịch tùy theo các bên khác nhau và các chiến lược khác nhau. Một mặt, các thương nhân KHÔNG muốn phải xếp hàng lệnh đặt của họ, thay vì trả tiền theo giá thị trường, chi trả chênh lệch (chi phí). Mặt khác, những thương nhân có nhu cầu xếp hàng và chờ đợi thực hiện lệnh nhận được chênh lệch (tiền thưởng). Một số chiến lược mua bán trong ngày cố gắng để nắm bắt chênh lệch này như lợi nhuận bổ sung, hoặc thậm chí, lợi nhuận duy nhất cho các giao dịch thành công.
Dữ liệu thị trường.
Thị trường dữ liệu là cần thiết cho thương nhân trong ngày, thay vì sử dụng dữ liệu thị trường có sẵn miễn phí bị trễ (bởi bất cứ điều gì từ 10 đến 60 phút, theo quy định mỗi sàn). Một nguồn cấp dữ liệu thời gian thực đòi hỏi tiền lệ phí phải trả cho sàn giao dịch chứng khoán tương ứng, thường được kết hợp với chi phí của nhà môi giới; các khoản phí này thường rất thấp so với các chi phí giao dịch khác. Các khoản phí này có thể được miễn cho các mục đích quảng cáo hay cho các khách hàng đáp ứng một khối lượng giao dịch tối thiểu hàng tháng. Thậm chí một thương nhân trong ngày có mức độ hoạt động vừa phải cũng có thể mong đợi là đáp ứng được các yêu cầu này, làm cho việc cấp dữ liệu cơ sở về cơ bản là "miễn phí".
Ngoài các dữ liệu thị trường thô, một số thương nhân mua các nguồn cung cấp dữ liệu tiên tiến hơn, bao gồm dữ liệu lịch sử và các tính năng như quét một số lượng lớn cổ phiếu trên thị trường trực tiếp cho hoạt động bất thường. Các phần mềm phân tích và lập biểu đồ phức tạp là những bổ sung phổ biến khác. Các loại hệ thống này có thể có giá từ hàng chục đến hàng trăm đô la mỗi tháng để truy cập.
Biểu đồ hình nến.
Các biểu đồ hình nến được sử dụng bởi các thương nhân dùng phân tích kỹ thuật để xác định các mẫu hình biểu đồ. Khi một hình mẫu được ghi nhận trên biểu đồ, các thương nhân sử dụng thông tin này để có một vị thế. Một số thương nhân xem phương pháp này là một phần của giao dịch hành động giá.
Quy định và hạn chế.
Giao dịch trong ngày được coi là một phong cách kinh doanh rủi ro, và các quy định yêu cầu các công ty môi giới hỏi xem khách hàng hiểu những rủi ro của giao dịch trong ngày chưa và liệu họ có kinh nghiệm kinh doanh trước khi bước vào thị trường.
Thương nhân trong ngày kiểu mẫu.
Ngoài ra, Cục Quản lý Công nghiệp tài chính và SEC tiếp tục hạn chế sự gia nhập bằng phương tiện của các sửa đổi "thương nhân trong ngày kiểu mẫu". Thương nhân trong ngày kiểu mẫu là một thuật ngữ được định nghĩa bởi SEC để mô tả bất kỳ thương nhân nào mua và bán cùng một loại chứng khoán trong một ngày giao dịch, và làm việc này bốn lần hoặc nhiều hơn trong thời gian năm ngày làm việc liên tiếp bất kỳ. Một thương nhân trong ngày kiểu mẫu là đối tượng của các quy định đặc biệt, quy định chính là để tham gia vào giao dịch trong ngày kiểu mẫu thương nhân phải duy trì một số dư vốn chủ sở hữu ít nhất 25.000 USD trong một tài khoản ký quỹ. Điều quan trọng cần lưu ý rằng yêu cầu này chỉ dành cho các thương nhân trong ngày sử dụng một tài khoản ký quỹ. | 1 | null |
Tàu đổ bộ (thuật ngữ tiếng Anh: "Landing craft") là một loại tàu được sử dụng để đổ bộ một lực lượng quân sự (bộ binh và thiết giáp), thường là từ các quốc gia biển vào bờ trong một cuộc tấn công đổ bộ. Loại tàu này đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đổ bộ nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở Normandy, Địa Trung Hải, và các đảo Thái Bình Dương. Thời điểm bấy giờ là đỉnh cao của các tàu đổ bộ, với một số lượng lớn các mẫu thiết kế khác nhau được sản xuất với số lượng lớn bởi Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Đế quốc Nhật. | 1 | null |
Aeshna ossiliensis là loài chuồn chuồn trong họ Aeshnidae. Loài này được Mierzejewski mô tả khoa học đầu tiên năm 1913.
Aeshna osiliensis là một loài chuồn chuồn ngô thuộc họ Aeshnidae. Nó được tìm thấy ở Estonia, Phần Lan, và Thụy Điển. Môi trường sống tự nhiên của chúng là hồ nước ngọt có nước theo mùa, đầm nước ngọt, và hồ nước mặn. | 1 | null |
Anax junius là loài chuồn chuồn trong họ Aeshnidae. Loài này được Drury mô tả khoa học đầu tiên năm 1773.
Một trong những loài phổ biến nhất và phong phú trên khắp Bắc Mỹ và phạm vi phân bố về phía nam tới Panama. Loài này cũng được biết đến với khoảng cách di cư vĩ đại của chúng từ bắc Hoa Kỳ về phía nam Texas và Mexico. Chúng xuất hiện trong vùng biển Caribbea, Tahiti, và châu Á từ Nhật Bản đến Trung Quốc đại lục. Đây là côn trùng chính thức của tiểu bang Washington ở Hoa Kỳ. | 1 | null |
Austroaeschna parvistigma là loài chuồn chuồn trong họ Aeshnidae. Loài này được Selys mô tả khoa học đầu tiên năm 1883.
Loài chuồn chuồn này sinh sống có nhiều cây cối rậm rạp và các dòng suối chảy chậm ở miền đông Úc, từ bắc New South Wales qua Victoria, Tasmania và một số vùng của Nam Úc. "Austroaeschna parvistigma" là một loài chuồn chuồn rất sẫm màu với những mảng màu nhạt. Chúng có bề ngoài tương tự như loài cỏ nhiều đốm, "Austroaeschna multiunctata", sinh sống ở các suối trên núi ở phía nam New South Wales và phía đông Victoria. | 1 | null |
Prescott Bush Sheldon (15 tháng 5 năm 1895 - 08 tháng 10 năm 1972) là một nhân viên ngân hàng và chính trị gia Mỹ. Ông là một người điều hành ngân hàng và là một Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, đại diện cho Connecticut từ năm 1952 cho đến tháng 1 năm 1963. Ông là thành viên của một gia đình danh giá và quyền thế nhất nước Mỹ, Gia tộc Bush. Ông là cha của George H. W. Bush (tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ) và ông nội của George W. Bush (Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ) và Jeb Bush (Thống đốc thứ 43 của Florida).
Nghĩa vụ quân sự.
Sau khi tốt nghiệp, ông Bush từng là một đội trưởng pháo binh lĩnh vực với các lực lượng viễn chinh Mỹ (1917-1919) trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông được đào tạo tình báo tại Verdun, Pháp, và được chỉ định một thời gian ngắn làm một nhân viên sĩ quan của Pháp. Xen kẽ giữa trí thông minh và pháo binh, ông đã bị chỉ định làm chỉ huy lực lượng quân đội trong vụ tấn công Meuse-Argonne. | 1 | null |
Rhionaeschna multicolor là loài chuồn chuồn trong họ Aeshnidae. Loài này được Hagen mô tả khoa học đầu tiên năm 1861.
Đây là loài chuồn chuồn phổ biến ở tây Hoa Kỳ thường thấy ở thảo nguyên cây bụi xô thơm của đồng bằng sông Snake, ở phía đông đến Midwest từ trung bộ Canada và Dakotas phía nam đến tây Texas và Oklahoma. Tại Trung Mỹ nó hiện diện ở phía nam đến Panama. Chúng sinh sống gần hồ, đầm lầy tại khu vực có độ cao thấp. | 1 | null |
Tetracanthagyna plagiata là một loài chuồn chuồn trong họ Aeshnidae. Loài này được Waterhouse mô tả khoa học lần đầu năm 1877. Loài này được tìm thấy khắp thềm Sunda, được ghi nhận ở Thái Lan, Malaysia bán đảo, Singapore, Sumatra và Borneo. Đây là loài điển hình của chi "Tetracanthagyna".
Đây là loài chuồn chuồn nặng nhất còn tồn tại, loài chuồn chuồn lớn thứ hai tính theo sải cánh (chỉ đứng sau "Megaloprepus caerulatus" thuộc họ Pseudostigmatidae) và cũng là loài chuồn chuồn ngô lớn nhất còn tồn tại, với sải cánh tối đa là 163 mm, vượt quá sải cánh của á quân "Petalura ingentissima" là 162 mm.
Phân loại.
"Tetracanthagyna plagiata" ban đầu được Charles Owen Waterhouse mô tả vào năm 1877 dưới tên "Gynacantha plagiata", phân loại thuộc chi "Gynacantha" hiện đã tách biệt, loài điển hình được liệt kê tồn tại ở Borneo. Robert McLachlan cho biết rằng đồng nghiệp của ông là Edmond de Sélys Longchamps đã đề xuất tách "T. plagiata" khỏi các thành viên khác trong chi "Gynacantha" như một phân loài riêng biệt mà ông gọi là "Tetracanthagyna". Theo cách nói của ông, quyết định này là do "hình dạng của đoạn bụng thứ mười ở con cái." Năm 1891, trong cuốn sách "Kritik des Systems der Aeschniden", Ferdinand Karsch không công nhận sự phân loại được đề xuất như một phân chi hợp lệ. Tuy nhiên, Robert McLachlan viết trong "Transactions of the Royal Entomological Society of London", khi xem xét các tài liệu có sẵn đã nói rằng ""Tetracanthagyna" không chỉ hợp lệ mà còn có lẽ là mối quan hệ của loài này với "Gynacantha", không quá thân mật như người ta nghĩ." Phân tích của ông đã đưa ra phân chi được đề xuất của "Tetracanthagyna" lên cấp độ của một loài riêng biệt. Việc phân loại lại "Gynacantha plagiata" thành "Tetracanthagyna plagiata", được coi là loài điển hình của chi mới được thiết lập.
Mô tả.
"Tetracanthagyna plagiata" là một loài chuồn chuồn lớn có thân màu đen với đôi cánh lớn. Ngực có màu đen, với mặt bên của ngực tổng hợp ("synthorax") được đánh dấu bằng hai dải màu vàng nhạt, phân biệt loài này với các dải màu nâu đỏ của loài "Tetracanthagyna brunnea" có liên quan. Bụng có màu nâu đỏ và hình trụ, dài 100 mm (3,9 in), và thu hẹp kích thước đến đầu bụng. "Tetracanthagyna plagiata" có kiểu sọc ngang ở phần xa của cánh trước và cánh sau, với con đực và một số con cái có các vệt màu sẫm ở sườn. Chỉ một số mẫu vật "T. plagiata" thiếu các dải sẫm màu. Theo Leonard Tan của blog "Singapore Odonata", con đực thiếu các mảng màu nâu ngang gần chót cánh mà con cái có. Ngoài sự khác biệt về kiểu dáng cánh, con đực và con cái của loài này có ngoại hình rất giống nhau.
"Tetracantagyna plagiata" là loài dị hình giới tính. Con đực nhỏ hơn con cái. Con cái có chiều dài cánh sau là 80–84 mm, trong khi ở con đực là 76 mm. Con cái có một chiếc đĩa có răng trên bụng, một cơ quan hình cây chĩa dùng để khoét các lỗ trên bề mặt bên dưới cơ thể hoặc để giữ trên bề mặt trong quá trình đẻ trứng. Con đực có một cặp thùy, giúp hướng dẫn cơ quan sinh dục cái vào vị trí thích hợp trong quá trình giao phối, nằm trên đoạn bụng thứ hai.
Loài chuồn chuồn lớn nhất.
Đây là loài nặng nhất trong số các loài chuồn chuồn trong bộ Odonata còn tồn tại, là loài chuồn chuồn lớn nhất còn tồn tại trong phân bộ Chuồn chuồn ngô và là loài chuồn chuồn còn tồn tại lớn thứ hai về tổng thể, sau loài chuồn chuồn kim "Megaloprepus caerulatus". "Tetracanthagyna plagiata" được biết là có sải cánh dài tới 163 mm, với chiều dài cơ thể 100 mm. Điều này khiến "T. plagiata" trở thành loài chuồn chuồn ngô còn tồn tại lớn nhất, vượt qua "Petalura ingentissima" với chiều dài 162 mm. Có một số điều không chắc chắn về trọng lượng của loài này. Paulson (2019) nói rằng không có hồ sơ trọng lượng nào cho "T. plagiata". Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng con cái của "T. plagiata" là loài chuồn chuồn nặng nhất còn tồn tại. Corbet (1999) tuyên bố rằng một cá thể đực của "loài Tetracanthagyna plagiata" có sải cánh sau là 144 mm (5,7 in). Sải cánh của mẫu vật "T. plagiata" được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Lee Kong Chian (trước đây là Bảo tàng Nghiên cứu Đa dạng Sinh học Raffles) nằm trong khoảng từ 134 mm đến 144 mm, với một báo cáo khác cho biết "T. plagiata" có sải cánh dài 160 mm, đưa "T. plagiata" trở thành loài chuồn chuồn ngô lớn nhất Đông Nam Á.
Về kích thước của "T. plagiata", các nghiên cứu của Dorington (2012) đã chỉ ra rằng hoạt động săn mồi trên không sẽ ức chế sự phát triển kích thước hơn nữa của các loài chuồn chuồn ngô còn tồn tại. Các mẫu vật của cả loài này và loài "Petalura ingentissima" đều được đo chiều dài cánh sau của chúng cho nghiên cứu nói trên. Các mẫu vật được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, London có chiều dài cánh sau là 84–86 mm.
Vòng đời.
Con cái đẻ trứng trong các khúc gỗ mục nát và các chất nền mềm khác được bao phủ bởi rêu theo dòng suối thông qua việc đưa cơ quan đẻ trứng của chúng vào khúc gỗ mục nát. Trước khi làm như vậy, con cái sẽ cạo bề mặt trong một phút để chuẩn bị bề mặt trong khi cong bụng. Một con cái đã được MacRitchie Reservoir phát hiện có hành vi nói trên. Watanabe (2003) đã ghi lại cảnh một con "T. plagiata" cái đẻ trứng vào gỗ mục, cách mặt nước 150 cm.
Ấu trùng của "Tetracanthagyna plagiata" trước đây chưa được khoa học biết đến, không giống như ấu trùng của các loài liên quan. Các nghiên cứu về loài "Tetracanthagyna waterhousei" ở Hồng Kông đã ghi nhận sự ăn thịt của ấu trùng cá và sự phát triển từ vỏ lột mà con trưởng thành để lại. Các nghiên cứu tiếp theo được thực hiện vào năm 2010 bởi Orr "và cộng sự." sử dụng ấu trùng được xác định bằng vỏ lột và được thu thập từ các dòng suối rừng di chuyển chậm mà từ đó các mẫu vật trưởng thành của "T. plagiata" được quan sát thấy đang nổi lên, những mẫu vật này được xác định bằng kích thước so sánh lớn và hình dáng các đường vân đặc biệt của chúng. Ấu trùng được tìm thấy trong Khu bảo tồn thiên nhiên lưu vực trung tâm của Singapore tại hai địa điểm riêng biệt (hồ chứa MacRitchie và rừng đầm lầy Nee Soon). Trong điều kiện nuôi nhốt, ấu trùng được nuôi trên tôm tồn tại ("Macrobrachium lanchesteri"), cá nhỏ hoặc giun tubifex ("Tubifex tubifex"). Người ta tin rằng ấu trùng ăn các loài tôm "Macrobrachium trompii" và "Caridina temasek", cũng như cá da trơn, cá chép, cá kìm và nòng nọc trong tự nhiên. Giải phẫu xúc giác gợi ý một sự chuyên môn hóa hướng tới việc săn mồi những con mồi lớn hơn. Không giống như ấu trùng của các thành viên khác trong chi "Tetracanthagyna", ấu trùng của loài này là loài rình mồi hơn là chủ động săn con mồi, ẩn mình bằng cách trông giống như một cây gậy khi chờ đợi con mồi. Ấu trùng cũng có biểu hiện đại tiện theo đường đạn đạo, theo đó ấu trùng sẽ bắn phân của chúng, một chiến thuật có thể tránh bị các con mồi tiềm năng phát hiện do có một đám mây phân gây ô nhiễm.
Orr "và cộng sự.", trong mô tả ấu trùng tuổi đầu tiên của "T. plagiata", đã mô tả ấu trùng này là một ấu trùng chuồn chuồn ngô lớn dài. Hình dáng của ấu trùng chủ yếu là góc cạnh, và ấu trùng có một đường vân "đặc biệt, rõ rệt" trên đầu. Màu sắc sọc trên chân của ấu trùng là điểm khác biệt duy nhất so với vẻ ngoài sẫm màu của nó. Chân của ấu trùng ngắn và khỏe, thích hợp để thực hiện việc leo bám trên các bề mặt. Môi khớp có phần trước chắc khỏe với sự giãn nở về phía xa, và càng của môi khớp mỏng và ngắn; viền bên trong có răng cưa dọc theo móc cuối ("terminal hook") của nó. Vỏ lột của con đực dài 57,5 mm (2,26 in) và của con cái dài 62 mm (2,4 in). So với ấu trùng của các loài liên quan "T. waterhousei" và "T. degorsi", ấu trùng của "T. plagiata" có đầu góc cạnh hơn.
Chuồn chuồn trưởng thành kiếm ăn vào lúc bình minh và hoàng hôn và bị thu hút bởi ánh sáng. Giống như các thành viên khác trong họ Aeshnidae, chúng thể hiện lối sinh hoạt lúc hoàng hôn, bay trong thời kỳ chạng vạng.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở Đông Nam Á, khắp vùng địa sinh học Sundaland. Loài này được tìm thấy ở Thái Lan, Malaysia, Singapore, Brunei và Indonesia.
Frank Fortescue Laidlaw (1901) mô tả "T. plagiata" được ghi nhận ở các đảo Sumatra và Borneo. René Martin (1909) mô tả "T. plagiata" được tìm thấy ở Borneo, Sumatra và Melaka. MA Lieftinck (1954) tuyên bố rằng "T. plagiata" cũng được tìm thấy ở Singapore và là thành viên duy nhất của chi "Tetracanthagyna" trên đảo. "T. plagiata" cũng đã được ghi nhận ở bang Johor trên Bán đảo Mã Lai.
Môi trường tồn tại.
Ấu trùng đực được tìm thấy ở các dòng suối chảy chậm rộng khoảng 1 mét (3 ft 3 in) và sâu 0,6 mét (2 ft 0 in) trong rừng thứ sinh với chất nền bao gồm hỗn hợp cát và bùn. Các dòng suối có ấu trùng "Tetracanthagyna plagiata" được quan sát có chứa chất hữu cơ, bao gồm cành cây và lá rụng. Ấu trùng cái được tìm thấy trong điều kiện tương tự, với thảm thực vật như cây cói và dương xỉ trong môi trường tồn tại của dòng suối bên cạnh những cây cung cấp bóng mát. Con trưởng thành được tìm thấy ở các khu rừng đất thấp nguyên sinh và thứ sinh.
Các mối đe dọa và bảo tồn.
"Tetracanthagyna plagiata" được Sách đỏ IUCN đánh giá vào năm 2010 là loài ít quan tâm. Báo cáo của IUCN cho biết "T. plagiata" có khả năng bị đe dọa do khai thác gỗ trong môi trường tồn tại của nó, suy thoái môi trường do phát triển khai thác mỏ cũng như do các đồn điền trồng gỗ và bột giấy.
Trong một cuộc khảo sát các loài chuồn chuồn được thực hiện tại các khu bảo tồn thiên nhiên ở Singapore, DH Murphy đã liệt kê loài này là "hiếm" trong Rừng đầm lầy Nee Soon của Singapore. Y. Norma-Rashid chứng thực lời giải thích này, liệt kê loài này là "hiếm" trong danh sách kiểm tra chuồn chuồn Singapore. Murphy còn cho biết rằng báo cáo của ông là một "ghi nhận cũ". Ông tiếp tục mô tả loài này là "hoàn toàn bị giam giữ" trong Rừng đầm lầy Nee Soon. Leong "và cộng sự" sau đó báo cáo rằng loài này đã được nhìn thấy nhiều lần bên ngoài Rừng đầm lầy Nee Soon, được tìm thấy trong bối cảnh rộng lớn hơn của Khu bảo tồn thiên nhiên lưu vực trung tâm ở Singapore. Trong bản sửa đổi năm 2016 của công trình trước đây của Murphy và bản cập nhật về tình trạng bảo tồn quốc gia đối với nhiều loài Odonata, "T. plagiata" được liệt kê là "Hạn chế & Không phổ biến", nhận được chỉ định "Loài sắp nguy cấp". | 1 | null |
Chlorogomphus campioni là loài chuồn chuồn trong họ Chlorogomphidae. Loài này được Fraser mô tả khoa học đầu tiên năm 1924. Nó chỉ được biết đến từ Western Ghats của Ấn Độ. Sự phân bố của loài này bị hạn chế ở South Canara và Kodagu ở Karnataka, Malabar ở Kerala và Nilgris ở Tamil Nadu. Nó là một loài chuồn chuồn lớn với đầu khá rộng từ bên này sang bên kia và đôi mắt được tách ra vừa phải với màu xanh lục bảo. Ngực của nó có màu đen với ba sọc xiên màu vàng sáng. Đôi cánh của nó trong suốt màu nâu sẫm với đốm màu đen. Bụng màu đen với những mảng màu vàng. Màu sắc và dấu hiệu của con cái rất giống con đực. | 1 | null |
Somatochlora flavomaculata là một loài chuồn chuồn phổ biến trong họ Corduliidae. Phân bố của loài động vật này trải dài từ Pháp đến Siberia và Mông Cổ. Chúng thường trú ngụ ở vùng đầm lầy. Những con đực thường sẽ bảo vệ lãnh thổ của chúng.
Nhận dạng.
Không giống như các loài chuồn chuồn khác có màu xanh kim loại, loài này có các đốm màu vàng trên ngực và phần bụng. Con cái có đốm lớn nhất và những đốm sáng trên những con còn non. Các đốm trên bụng trở nên sẫm màu hơn khi cá thể già đi và sau đó trở nên gần như không nhìn thấy được. Loài này tương tự như "Somatochlora metallica", nhưng nó có nhiều đốm vàng hơn ở trên bụng và đốm vàng chạy xuống hai bên. "S. flavomaculata" nhỏ hơn "S. metallica".
Hành vi.
Con đực sẽ bảo vệ lãnh thổ của chúng trên thảm thực vật khô, lối đi cạnh bụi rậm và cây cối, trong trảng lau sậy và thủy vực. Gần cuối chu kỳ sinh sản, thủy vực thường được con đực tuần tra. Chúng lượn vòng khi giao phối, trong lúc chúng giao phối có hình giống bánh xe, có thể nhìn thấy lượn quanh vài phút mỗi lần phía trên đám lau sậy.
Phân bố.
"S. flavomaculata" thường được tìm thấy ở các vùng đất ngập nước ở lục địa Châu Âu, với các quần thể được tìm thấy từ miền bắc nước Pháp đến Siberia và Mông Cổ. "S. flavomaculata" được tìm thấy lần đầu tiên ở Vương quốc Anh vào năm 2018 tại Đầm lầy Carlton và Oulton bởi nhiếp ảnh gia động vật hoang dã Andrew Easton, ông đã kêu gọi những người dùng trên Twitter nhận diện chúng. Loài này có thể được gió đông mang đến Vương quốc Anh vào mùa xuân và mùa hè mặc dù không phân biệt được di chuyển trong quãng đường dài. Chúng được sử dụng để biểu thị mức độ đa dạng của loài ở các khu rừng phương bắc miền trung Thụy Điển. | 1 | null |
Crocothemis erythraea là loài chuồn chuồn trong họ Libellulidae. Loài này được Gaspard Auguste Brullé mô tả khoa học đầu tiên năm 1832.
Phân bố.
Loài chuồn chuồn này phổ biến ở Nam Âu và khắp châu Âu. Loài này cũng hiện diện trên khắp miền tây Châu Á đến tận miền nam Trung Quốc. Loài này cũng vãng lai ở Anh. Ghi nhận đầu tiên của loài này ở Anh tại Hayle Kimbro Pool, The Lizard, Cornwall, vào ngày 7 tháng 8 năm 1995. Kể từ đó đã có thêm một số kỷ lục tại các địa điểm rải rác trên khắp nước Anh. | 1 | null |
Libellula croceipennis là loài chuồn chuồn trong họ Libellulidae. Loài này được Edmond de Sélys Longchamps mô tả khoa học đầu tiên năm 1868. Chúng có thể được tìm thấy ở gần các ao, hồ và các dòng suối có nước chảy chậm ở tây nam Hoa Kỳ, Trung Mỹ và bắc của Nam Mỹ. | 1 | null |
Libellula jesseana là loài chuồn chuồn trong họ Libellulidae. Loài này được Williamson mô tả khoa học đầu tiên năm 1922.
Chúng là loài bản địa của Florida. Thân dài 50–57 mm. Con đực trưởng thành có màu lam nhạt đến đậm phủ toàn cổ và đầu, với mặt và Cercus đen. Hầu hết con cái có màu vàng và đây là đặc điểm khó phân biệt với "Libellula auripennis", nhưng một vài con có màu tím. | 1 | null |
Lyriothemis acigastra là loài chuồn chuồn trong họ Libellulidae, sinh sống ở Ấn Độ. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế cũng trích dẫn các bộ sưu tập rất cũ ở Myanmar, Trung Quốc và Tây Tạng.. Loài này được Selys mô tả khoa học đầu tiên năm 1878.
Người ta biết rất ít về hệ sinh thái hoặc môi trường sống của loài này, điều này có thể là do tính chất hiếm có và bí mật của nó. Các mẫu vật được báo cáo vào năm 2013 đã được tìm thấy trong các bụi cây xung quanh đầm lầy nước ngọt và suối. Các cá nhân thường hoạt động mạnh nhất vào buổi tối và buổi sáng; con đực nằm cách mặt đất khoảng 8 đến 10 mét (26 đến 33 ft), và săn những con bướm nhảy và bướm đêm.
Loài này gần giống với loài Sri Lanka "L. defonsekai", được mô tả vào năm 2009. | 1 | null |
là kì thi lâu đời nhất, có uy tín nhất, được phổ biến rộng rãi tại hơn 50 quốc gia trên toàn thế giới, thích hợp với tất cả những người học tiếng Nhật muốn kiểm tra và đánh giá trình độ năng lực Nhật ngữ của mình. Do hiệp hội hỗ trợ quốc tế Nhật Bản và Quỹ giao lưu quốc tế Nhật Bản chủ trì tổ chức.
Lịch sử.
Kỳ thi JLPT được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1984 nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về chứng chỉ tiếng Nhật tiêu chuẩn. Ban đầu, 7.000 người đã tham gia bài kiểm tra. Cho đến năm 2003, JLPT là một trong những yêu cầu đối với người nước ngoài vào các trường đại học Nhật Bản. Kể từ năm 2003, Kỳ thi tuyển sinh đại học Nhật Bản dành cho sinh viên quốc tế ( Examination for Japanese University Admission for International Students - EJU) được hầu hết các trường đại học sử dụng cho mục đích này; Không giống như JLPT chỉ là bài thi trắc nghiệm, EJU có các phần yêu cầu thí sinh viết bằng tiếng Nhật.
Thời gian tổ chức.
Bài kiểm tra được tổ chức hai lần một năm tại Nhật Bản và một số quốc gia được chọn (vào Chủ nhật đầu tiên của tháng 7 và tháng 12) và mỗi năm một lần ở các khu vực khác (vào Chủ nhật đầu tiên của tháng 12 hoặc tháng 7 tùy theo khu vực).
Các cấp độ và điểm số.
Trước năm 2009, bài thi gồm 4 cấp độ. Từ 2009 tới nay gồm 5 cấp độ: N1, N2, N3, N4, N5; trong đó N1 là cấp cao nhất, N5 là cấp độ thấp nhất. Điểm tối đa: 180 điểm cho 03 nhóm môn thi, trong đó điểm tối thiểu/ tổng điểm của từng phần và các cấp độ, trình độ ứng với các cấp độ được mô tả như sau:
Cấu trúc bài thi.
Thời gian từng phần thi như sau:
Thống kê.
Thời lượng học bắt buộc để có thể đậu bài thi | 1 | null |
Orthetrum brunneum là loài chuồn chuồn trong họ Libellulidae. Loài này được Fonscolombe mô tả khoa học đầu tiên năm 1837.
Phân loài.
Các phân loài:
Phân bố.
Loài chuồn chuồn này có mặt ở hầu hết châu Âu và phạm vi mở rộng đến Mông Cổ và Bắc Phi. Loài này phân bố ở Afghanistan, Albania, Algeria, Andorra, Armenia, Áo, Belarus, Bỉ, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Trung Quốc, Croatia, Síp, Cộng hòa Séc, Ai Cập, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ý, Latvia, Liechtenstein, Lithuania, Luxembourg, Cộng hòa Macedonia, Malta, Moldova, Montenegro, Hà Lan, Ba Lan, Portuga, Romania, Nga, Serbia; Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine.
Môi trường sống.
Loài này chủ yếu ưa thích các con suối nhỏ, kênh, mương, nước nông, nóng lên nhanh.
Mô tả.
Con trưởng thành dài tới 40–45 mm. Kích thước của chúng trung bình lớn hơn ở "Orthetrum coerulescens".
Ngực và bụng có màu xanh lam nhạt ở con đực, màu nâu vàng hoặc nâu xám ở con cái. Con đực màu nâu nhạt. Phần bụng tương đối dẹt và có một vạch đen mỏng ở giữa lưng và các điểm rõ ràng trên mỗi đoạn. Sải cánh dài tới 66–70 milimét. | 1 | null |
Orthetrum serapia là loài chuồn chuồn trong họ Libellulidae. Loài này được Watson mô tả khoa học đầu tiên năm 1984.
Loài này hiện diện ở Australia, Philippines, Fiji, Papua New Guinea và quần đảo Solomon.
Chúng sinh sống trong một loạt các vùng nước tĩnh lặng và chậm chạp, thường nông. Ở Úc, phạm vi phân bố loài chuồn chuồn này nằm trong khoảng từ đầu cuối của Lãnh thổ phía Bắc đến khoảng Mackay ở trung bộ Queensland.
Mô tả.
"Orthetrum serapia" là một loài chuồn chuồn cỡ trung bình với sải cánh 60-85mm. Đôi cánh của nó rất trong ngoại trừ một điểm tối nhỏ ở gốc chân sau. ngực có màu từ xanh lục đến vàng xám với các vệt đen. Bụng có màu đen với các dấu màu vàng nhạt hoặc xanh nhạt. "Orthetrum serapia" bề ngoài rất giống với "Orthetrum sabina" và có thể bị nhầm lẫn trong đó phạm vi của hai chồng chéo ở phía đông bắc Australia. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.