text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Banksia petiolaris là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được F.Muell. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1864. Đây là là loài bản địa Tây Úc, nơi chúng được tìm thấy trong đất cát ở các vùng ven biển phía nam từ Munglinup đông đến vịnh Israelite. Loài này được nhà thực vật học bang Victoria Ferdinand von Mueller mô tả lần đầu vào năm 1864, và không có loài phụ nào được công nhận. "B. petolaris" là một trong số các loài có quan hệ họ hàng gần, tất cả đều phát triển như cây bụi phủ, với thân ngang và lá thẳng đứng dày, có lông. Những loài thuộc loài này có thể tồn tại đến 13 năm - tuổi thọ lâu nhất trong số các loài thực vật có hoa được ghi nhận. Nó mang những gai hoa hình trụ màu vàng, được gọi là chùm hoa, cao lên đến vào mùa Xuân. Khi gai già đi, chúng chuyển sang màu xám và phát triển lên đến 20 vỏ hạt gỗ.
Côn trùng như ong, ong bắp cày và kiến thụ phấn cho hoa. | 1 | null |
Banksia prionotes thường được gọi là Acorn Banksia hay Orange Banksia là một loài cây bụi hay cây thân gỗ thuộc chi Banksia trong họ Quắn hoa. Loài này được Lindl. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1839. Đây là một loài có nguồn gốc ở phía tây nam của Tây Úc với độ cao có thể thể đạt đến 10 m (30 ft). | 1 | null |
Banksia sceptrum là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được Meisn. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1855.
Loài thực vật này mọc ở Tây Úc gần bờ biển miền trung tây từ Geraldton về phía bắc qua Kalbarri đến Hamelin Pool. Loài này có phạm vi phân bố mở rộng nội địa gần như đến Mullewa. Lần đầu tiên được thu thập và trồng bởi người định cư ban đầu James Drummond ở Tây Úc, loài này được mô tả bởi nhà thực vật học Thụy Sĩ Carl Meissner vào năm 1855.
Mô tả.
"Banksia sceptrum" thường mọc dạng cây bụi cao , mặc dù đôi khi cao đến . Cây có nhiều nhánh và có đường kính có thể lên đến . Thân cây chắc nịch có vỏ màu xám nhạt hoặc nhẵn nhiều màu. Cây mới mọc đã được ghi nhận vào mùa xuân và mùa thu, và có thể xảy ra trong mùa hè. Các nhánh con mới được bao phủ bởi lớp lông mịn màu nâu xanh và trở nên mịn và xám nhạt sau khoảng hai năm. Các lá gần như hình thuôn dài với phần chóp lá cụt hoặc có khía dài và rộng . Là mọc trên cuống lá dài . Mép lá phẳng có răng cưa ngắn. Mặt trên và mặt dưới của lá được bao phủ bởi lớp lông dày, nhưng trở nên nhẵn theo tuổi. | 1 | null |
Banksia serrata là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được L.f. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1782.
Đây là loài bản địa bờ biển đông nước Úc. Loài này được tìm thấy từ Queensland qua Victoria với các quần thể bên ngoài ở Tasmania và đảo Flinders. Cây thường có hình dạng xương xẩu cao lên đến 15 m, nó có thể là nhỏ hơn nhiều ở những vùng tiếp xúc nhiều hơn. Vỏ cây thường nhăn có màu xám và tối, lá có răng cưa màu xanh lá cây, với gai hoa lớn, màu vàng hoặc xám vàng, được gọi là cụm hoa, nở trong mùa hè. Các gai hoa chuyển màu xám khi chúng già hơn và nang lớn màu xám xuất hiện.
Nó là một trong bốn loài Banksia ban đầu được Sir Joseph Banks thu thập vào năm 1770, và là một trong bốn loài được xuất bản vào năm 1782 như một phần của các mô tả ban đầu về chi của Carolus Linnaeus Trẻ. Không có giống được công nhận, mặc dù nó có liên quan chặt chẽ đến "Banksia aemula". Loài này chỉ mọc trên đất cát, và thường là các loài cây chiếm ưu thế trong rừng cây bụi hoặc đất trồng cây thấp. Banksia serrata cung cấp thực phẩm cho loạt động vật có xương sống và không xương sống động vật trong những tháng mùa thu và mùa đông, và những loài này cũng giúp chúng thụ phấn. Đây là một nguồn thức ăn quan trọng cho họ ăn mật. Nó là một loại cây phổ biến của các công viên và các khu vườn. | 1 | null |
Banksia speciosa là một loài cây bụi lớn hoặc cây nhỏ trong họ Quắn hoa. Nó xảy ra ở bờ biển phía nam Tây Úc giữa Hopetoun và Vịnh Đại Úc, mọc trên cát trắng hoặc cát xám ở vùng cây bụi. Với chiều cao lên tới 8m, nó là một cây thân đơn có lá mỏng với "răng cưa" hình tam giác nổi bật dọc theo mỗi rìa, dài 20 – 45 cm và rộng 2 – 4 cm. Các gai hoa màu vàng kem nổi bật được gọi là hoa hồng ngoại xuất hiện trong suốt cả năm. Khi có tuổi, chúng phát triển tới 20 nang, mỗi nang chứa hạt giống cho đến khi được mở bằng lửa. Mặc dù xuất hiện rộng rãi, loài này rất nhạy cảm với loài "Phytophthora cinnamomi" và các quần thể thực vật lớn đã chịu thua trước dịch bệnh do loài này gây ra.
Được nghiên cứu và mô tả bởi Robert Brown vào đầu thế kỷ 19, "Banksia speciosa" được phân loại trong một loạt Banksia trong chi. Họ hàng gần nhất của nó là "B. baxteri". Cây Banksia speciosa bị chết bởi cháy rừng và được tái sinh từ hạt giống. Những bông hoa thu hút các loài chim ăn mật và côn trùng, đặc biệt là ong mật. Trong canh tác, "Banksia speciosa" phát triển tốt ở một vị trí đầy nắng trên một khu đất thoát nước tốt ở những khu vực có mùa hè khô. Nó không thể được trồng ở những khu vực có mùa hè ẩm ướt, mặc dù nó có thể được ghép cành với "Banksia serrata" hoặc "B. integrifolia".
Mô tả.
"Banksia speciosa" mọc thành cây bụi hoặc cây nhỏ ở bất cứ nơi nào cao từ 1 – 6 m hoặc có khi cao 8 m, nhưng rất hiếm. Nó có một thói quen nhiều nhánh mở, phát sinh từ một thân hoặc thân cây có vỏ màu xám mịn. Không giống như nhiều loài "Banksia", nó không có rễ ống. Khi các cây mới tăng trưởng, nó được bao phủ trong bộ lông trông có màu gỉ sắt vào mùa hè. Các lá mỏng dài tạo thành một đường thẳng, dài 20 – 45 cm và rộng 2 – 4 cm. Chúng được tô viền với từ 20 - 42 thùy tam giác nổi bật có hoa văn ngoằn ngoèo. Các thùy dài 1 – 2 cm và rộng 1 - 2,5 cm, trong khi các vân hình chữ V nằm giữa phần gần của gân lá. Rìa lá được khép lại một chút. Ở mặt dưới của mỗi thùy, có 3 - 10 lá trên đỉnh thùy. Gân giữa được nâng lên trên mặt dưới lá, nó được bao phủ bởi lông trắng và có màu nâu khi trưởng thành. | 1 | null |
Banksia sphaerocarpa là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được R.Br. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1811.
Loài này thường mọc thành cây bụi cao , và thường nhỏ hơn ở phía bắc phạm vi phân bố. Loài này có lá màu xanh hẹp, hoa tròn màu vàng hoặc cam hơi nâu, chùm hoa có thể nhìn thấy từ tháng 1 đến tháng 7. Loài này phân bố rộng rãi khắp tây nam của Tây Úc, chỉ mọc trên đất cát. Nó là loài chủ yếu ở rừng cây bụi và rừng cây thấp. Loài hày được thụ phấn bởi, và là một nguồn thức ăn cho, chim, động vật có vú và côn trùng.
Lần đầu tiên được mô tả bởi nhà thực vật học vào năm 1810 Robert Brown với danh pháp là "B. sphaerocarpa" có một lịch sử phân loại phức tạp, và một vài phân loại đã từng đặt danh pháp loài này là "B. sphaerocarpa" đã được xác định rộng rãi là loài riêng. | 1 | null |
Banksia verticillata là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được R. Br. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1810.
Đây là loài bản địa phía tây nam của Tây Úc, thân cao lên tới 3 m. Loài cây này có thể phát triển cao đến 5 m tại các khu vực có tán cây che, và nhỏ hơn nhiều ở những vùng rừng mỏ nhiều hơn. Loài này có lá màu xanh lá cây ellip và lá lớn, chùm hoa hoặc gai hoa màu vàng kim sáng, xuất hiện trong mùa hè và mùa thu. "Phylidonyris novaehollandiae" là loài thụ phấn nổi bật nhất cho loài cây này, mặc dù một số loài khác của loài ăn mật, cũng như con ong, cũng lấy mật hoa loài này. | 1 | null |
Banksia sessilis, thường được gọi là bụi vẹt (), là một loài cây bụi hay thân gỗ thuộc chi thực vật "Banksia" của họ Quắn hoa. Loài này từng được biết là Dryandra sessilis trước năm 2007, khi mà chi "Dryandra" được hợp nhất vào chi "Banksia". Người Noongar gọi loài cây này là Budjan hay Butyak. Xuất hiện rộng rãi ở phía nam vùng Tây Úc, ở những vùng đất cát trên đá ong hay đá vôi, thường là tầng cây bụi trong các cánh rừng thưa. Thường được thấy dưới dạng bụi cây hay cây cao đến , nó có lá màu xanh đậm với gai nhỏ và những đầu hoa màu vàng kem hình mái vòm. Nở hoa từ mùa đông đến cuối xuân, cả mật hoa và những loài côn trùng ăn mật hoa là nguồn thức ăn quan trọng cho chim ăn mật trong những tháng lạnh hơn, đồng thời giúp gia tăng đa dạng loài cho môi trường xung quanh. Một số loài chim ăn mật, ong bản địa và ong mật châu Âu tìm và tiêu thụ mật hoa, trong khi vẹt mào đen Baudin và cổ nhẫn Úc ăn hạt của cây. Vòng đời của "Banksia sessilis" có khả năng thích ứng với cháy rừng thường xuyên. Mỗi bụi cây sau khi chết do lửa thường sinh lại hạt, tạo ra nhiều đầu hoa và một lượng lớn hạt. Nó có thể tái sinh sống tại những khu vực bị cháy, và có thể mọc thành bụi rậm.
"Banksia sessilis" có lịch sử phân loại tương đối phức tạp. Nó được thu thập từ King George Sound năm 1801 và được mô tả bởi Robert Brown năm 1810 là "Dryandra floribunda", cái tên thông dụng trong nhiều năm. Tuy nhiên, Joseph Knight đưa ra cái tên "Josephia sessilis" năm 1809, và được ưu tiên do xuất hiện trước, và tên gọi cụ thể được hợp thức hóa năm 1924. Bốn thứ đã được nhận dạng. Nó là một loài có gai với ít tiềm năng trồng trọt, và không có thứ nào thường thấy trong gieo trồng. Tuy nhiên là một loài sinh nhiều mật hoa, "B. sessilis" có giá trị đối với ngành nuôi ong.
Mô tả.
"Banksia sessilis" mọc thành bụi đứng hay cây nhỏ với chiều cao lên đến mà không có lignotuber. Ở hầu hết các thứ, thân non được phủ trong lông mềm mịn và mất dần theo thời gian; tuy nhiên thân non của "B. sessilis" var. "flabellifolia" thường không có lông. Lá có màu xanh lục-lam hoặc lục sẫm. Hình dạng của chúng tùy thuộc vào thứ: ở thứ "cygnorum" và thứ "flabellifolia" chúng hình cái nêm, với răng cưa gần đỉnh lá; lá của thứ "cordata" cũng hình nêm, nhưng răng cưa chạy dọc viền lá; và ở thứ "sessilis" chúng rộng hơn ở gốc, đôi khi gần như dẹt. Kích cỡ lá nằm trong khoảng từ chiều dài, và chiều rộng. Chúng có thể không có cuống hoặc mọc trên cuống dài đến .
Những cụm hoa có màu vàng hoặc kem, và mọc thành đầu hình mái vòm rộng , nằm ở cuối thân. Mỗi đầu hoa chứa từ 55 đến 125 hoa riêng biệt, bao xung quanh gốc là một vòng lá bắc tổng bao. Cũng như hầu hết các loài họ Quắn hoa khác, các hoa riêng lẻ chứa một bao hoa hình ống gồm bốn cánh đài hợp lại, và một lá noãn dài. Đầu lá noãn ban đầu được nhốt trong phần trên của bao hoa, nhưng thoát ra khi nở hoa. Ở "B. sessilis" bao hoa hình thẳng, dài từ và có màu vàng nhạt. Lá noãn ngắn hơn, cũng thẳng và có màu kem. Do đó ở "B. sessilis", khác với nhiều loài "Banksia" khác, sự thả lá noãn lúc nở hoa không dẫn đến sự đổi màu hoa rực rỡ. Một nghiên cứu thực địa phát hiện rằng việc nở hoa diễn ra trong bốn ngày, với những hoa ở ngoài nở trước, sau đó đi dần vào trong.
Thời gian nở hoa chủ yếu từ tháng 7 đến tháng 11, mặc dù thứ "sessilis" có thể nở từ tháng 5. Sau khi nở hoa, các phần của hoa héo và rụng đi, và tối đa bốn quả đại mọc ở đế hoa. Quả non được phủ trong lông mịn, và mất dần đi theo thời gian. Những quả trưởng thành có hình bầu dục và dài từ . Hầu hết quả mở ngay khi chín, cho thấy phần ruột bên trong: ngăn cách hạt và tối đa hai hạt hình cánh. | 1 | null |
Gentianella germanica là một loài thực vật có hoa trong họ Long đởm. Loài này được (Willd.) Börner mô tả khoa học đầu tiên năm 1912.
Trong Vương quốc Anh, nó chỉ là loài bản địa của Hills Chiltern của miền Nam nước Anh, mặc dù phạm vi phân bố của loài này trên lục địa rộng hơn, trong khoảng từ Pháp đến vùng Balkans. | 1 | null |
Gentianella kusnezowii là một loài thực vật có hoa trong họ Long đởm. Loài này được Ernest Friedrich Gilg mô tả khoa học đầu tiên tháng 5 năm 1896 dưới danh pháp "Gentiana kusnezowii". Tháng 11 cùng năm Henry Hurd Rusby mô tả nó dưới danh pháp "Gentiana virgata". Năm 1993, Ting Nung Ho & Shang Wu Liu chuyển nó sang chi "Gentianella".
Lưu ý.
Loài "Metagentiana alata" ở Trung Quốc nguyên ban đầu cũng được Adrien René Franchet mô tả dưới danh pháp "Gentiana kusnezowii" vào năm 1897. | 1 | null |
Neomarica longifolia, hay còn được gọi là "diên vĩ biết đi" ("walking iris"), là một loài thực vật có hoa trong họ Diên vĩ. Loài này được Thomas Archibald Sprague miêu tả khoa học đầu tiên năm 1928.
"Neomarica longifolia" có đường kính từ 5 đến 10 cm và có phần giống với hoa diên vĩ. Sau khi thụ phấn, cây trồng mới xuất hiện nơi hoa xuất hiện và thân cây vẫn tiếp tục phát triển lâu hơn. Trọng lượng của cây trồng sẽ phát triển làm cho thân cây uốn cong xuống mặt đất, cho phép cây trồng mới ra rễ xa ra khỏi bố mẹ. Đây là cách nó có được tên phổ biến của "diên vĩ biết đi". Cái tên phổ biến khác là "cây tông đồ" ("Apostle Plant"), bắt nguồn từ niềm tin rằng cây sẽ không nở hoa cho đến khi cá thể có ít nhất 12 lá, bằng với số tông đồ của Chúa Giêsu. | 1 | null |
Grevillea juniperina là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa có nguồn gốc tại miền đông New South Wales và miền đông-nam Queensland của Úc. Nhà thực vật học người Scottland Robert Brown mô tả loài này năm 1810. Bảy phân loài hiện được công nhận. Nó phát triển thành bụi lá gai cao từ 0.2 đến 3 m, thường mọc trên nền đất sét hoặc đất bồi tích trong các rừng bạch đàn. | 1 | null |
Vincent Michael Martella (sinh ngày 15 tháng 10, 1992 tại Rochester, New York) là một diễn viên và ca sĩ thiếu niên Mĩ. Cậu được biết đến nhiều nhất với vai Greg Wuliger trong loạt phim hài kịch Everybody Hates Chris và vai diễn lồng tiếng Phineas Flynn trong loạt phim hoạt hình Disney Phineas and Ferb.
Sự nghiệp.
Vincent bắt đầu nhảy múa từ lúc 3 tuổi và biểu diễn trực tiếp lần đầu tiên trong The Nutcracker. Cậu bắt đầu chơi dương cầm lúc 5 tuổi. Không lâu sau đó, cậu đã thể hiện nhiều buổi diễn kịch ở trường và nhiều điểm thương mại địa phương. Khi lên 6, cậu bắt đầu tập diễn xuất và luyện giọng và lên 7, cậu đã làm việc cho cả cục in ấn và quảng cáo quốc gia.
Lúc 10 tuổi, Vincent chuẩn bị cho chuyến đi Los Angeles, California, trở thành khách mời của chường trình "Cracking Up" và vai diễn định kỳ trong Ned's Declassified School Survival Guide, nơi mà cậu đã phát triển nhân vật của mình trong vai diễn Scoop. Mùa hè kế tiếp, Vincent nhận được vai diễn trong bộ phim đầu tiên của mình làm việc đối diện với Rob Schneider trong Deuce Bigalow: European Gigolo. Vincent là ngôi sao khách mời chương trình hài kịch của Fox, Stacked và lồng tiếng cho bộ phim đặc sắc Bad News Bears.
Năm 2005, Vincent nhận vai diễn chính trong loạt phim hài kịch Everybody Hates Chris với vai bạn thân của Chris, Greg. Giọng của cậu cũng được nghe thấy trong chương trình hoạt hình đề cử giải Emmy, Phineas and Ferb với vai nhân vật chính Phineas Flynn. Cậu là một trong số ít những diễn viên lồng tiếng trong chương trình tự thay đổi giọng nói của mình một cách đáng kể để vào vai diễn.
Năm 2006, Vincent đã thu âm cuốn album đầu tiên của cậu Time Flies By, chơi dương cầm và ca hát. Những ca khúc được viết và sản xuất bởi cậu và nó phát hành trên iTunes. Nhiều đoạn phim trên YouTube cho thấy cảnh cậu hát nhiều ca khúc như Imagine bởi John Lennon
Cậu xuất hiện trong bộ phim 2008 Role Models đối diện với Seann William Scott và Paul Rudd. Cậu cũng có vai diễn dẫn đầu trong bộ phim Baitshop cùng với Bill Engvall và Billy Ray Cyrus.
Cậu cũng diễn một phần Hope Estheim trong phiên bản tiếng Anh của trò chơi Final Fantasy XIII, Vincent cũng lồng tiếng cho Jason Todd/Robin thiếu niên trong bộ phim Batman: Under the Red Hood.
Đời tư.
Vincent Martella sinh ở thành phố Rochester, New York và là một người Mỹ gốc Ý. Hiện nay cậu sống tại DeLand, Florida cùng với bố mẹ và 3 người em nhỏ và đã tốt nghiệp trường Trung học DeLand trong năm 2011. | 1 | null |
Romulea monadelpha là một loài thực vật có hoa trong họ Diên vĩ. Loài này được (Sweet ex Steud.) Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1892.
Môi trường sống.
"Romulea monadelpha" chỉ mọc trên đất sét dolerit ở phía tây Karoo gần các vách đá. Loài này chỉ được biết là được thụ phấn bởi loài bọ cánh cứng "Clania glenlyonensis". | 1 | null |
Trải bàn hay còn gọi ngân hoa (danh pháp khoa học: Grevillea robusta) là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được A.Cunn. ex R.Br. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1830.. Loài có nguồn gốc xuất xứ từ đảo Tasmania và Nouvelle-Calédonie, trong tiếng Việt cây có tên gọi "trải bàn" vì lá đẹp thường được dùng trang trí bàn khách. | 1 | null |
Chẹo thui Nam Bộ hay mạ sưa nam, răng cưa nam, quắn hoa Nam Bộ, cơm vàng, mạ sưa Bắc Bộ, răng cưa bắc (danh pháp: Helicia cochinchinensis) là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được Lour. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1790. | 1 | null |
Isopogon anemonifolius là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được (R.A. Salisbury) KNIGHT miêu tả khoa học đầu tiên năm 1809.
Loài này chỉ được tìm thấy ở đông New South Wales tại Australia. Chúng mọc tự nhiên ở rừng thưa, rừng mở và rừng thạch nam trên đất sa thạch. Chiều cao cây thường khoảng 1-1,5 m. | 1 | null |
Cây Mắc ca ba lá (danh pháp khoa học: Macadamia ternifolia) là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Cây gỗ nhỏ lá thường xanh, phân bổ tự nhiên vùng Quensland nước Úc. Lá đơn mọc vòng chập ba lá, tuy nhiên cũng nhiều khi thấy lá non chỉ mọc hai lá đối. Phiến lá hình thuôn, mép lá có răng cưa, lá khi non có màu đỏ tía. Loài này được F. Muell. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1858. | 1 | null |
Cây Mắc ca bốn lá hay còn gọi là "Mắc ca mép lá răng cưa, Mắc ca lá gai, Mắc ca hạt nhám" có danh pháp khoa học Macadamia tetraphylla là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được L.A.S. Johnson miêu tả khoa học đầu tiên năm 1954. | 1 | null |
Swertia davidii (còn gọi là cây khổ sâm Trung Quốc, trong số nhiều tên phổ biến khác) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Long đởm (Gentianaceae), có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Nó mọc ở những đồng cỏ ẩm ướt, thảo nguyên và rừng ở độ cao 500–3000 m. Loài này được Franch. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1887.
Miêu tả.
S. davidii có thân ngắn và lá hình mũi mác và có răng cưa. Hoa có màu xanh vàng, hình ống, 5 thùy, dài khoảng 1 cm. Hạt nhỏ, hình trứng, màu đen. Cây con có lá mầm thuôn dài, dài khoảng 2 cm, cuống lá ngắn.
Phân bổ.
"S. davidii" có nguồn gốc từ Trung Quốc, Ấn Độ và Nepal. Nó có thể được tìm thấy ở vùng Himalaya, mọc ở những đồng cỏ ẩm ướt, đồng cỏ và dọc theo bờ suối.
Công dụng và Lợi ích.
"S. davidii" được sử dụng như một loại thuốc truyền thống của Trung Quốc để điều trị sốt, đau đầu và các bệnh khác. Nó cũng được sử dụng làm cây cảnh trong vườn.
Chú thích.
“Swertia davidii - Uses, Benefits & Care”. Selina Wamucii. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2024.
The Plant List (2010). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2013. | 1 | null |
Protea effusa là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được E. Mey. Ex Meisn. miêu tả khoa học đầu tiên.
Đây là là loài đặc hữu của Nam Phi, đặc biệt là Koue Bokkeveld đến khu vực Kloof và Naudesberg của Du Toit ở Western Cape, và nằm trong sách đỏ. Trong tiếng Nam Phi có tên là "Blosrooisuikerbos". | 1 | null |
Sphalmium racemosum là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được (C.T. White) B.G. Briggs, B. Hyland & L.A.S. Johnson miêu tả khoa học đầu tiên năm 1975. Chúng là loài duy nhất thuộc chi Sphalmium. Cây phát triển đến 30 m (100 ft) hoặc có thể cao hơn. Nó là loài đặc hữu cho vùng cao ở Rừng mưa nhiệt đới Queensland thuộc miền đông bắc cua tiểu bang Queensland, Úc.
Chú thích.
| 1 | null |
Stenocarpus sinuatus là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được (A. Cunn.) Endl. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1848. Phạm vi phân bố tự nhiên trong các loại rừng khác nhau từ các sông Nambucca (30 ° S) trong New South Wales cho đến cao nguyên Atherton (17 ° S) trong nhiệt đới Queensland. Tuy nhiên, Stenocarpus sinuatus được trồng rộng rãi để làm cây cảnh trong các tiểu bang khác của Úc và nhiều nơi khác nhau trên thế giới. | 1 | null |
Xylomelum pyriforme là một loài thực vật có hoa trong họ Quắn hoa. Loài này được (Gaertn.) R. Br. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1810. Đây là một loài đặc hữu của Úc, chúng phát triển như một loại cây bụi lớn hay cây nhỏ, thường đạt 4–5 m (13–16 ft), có cây đạt đến 15 m (50 ft). | 1 | null |
Đại hội Thể thao Người khuyết tật châu Á 2018 () là một sự kiện thể thao được tổ chức mỗi kỳ bốn năm ngay sau khi Đại hội Thể thao châu Á 2018 kết thúc. Đại hội này được dành cho các vận động viên đến từ khắp châu lục không may mắn có những khuyết tật thể chất. Đại hội lần thứ ba được tổ chức tại Jakarta, Indonesia vào năm 2018. | 1 | null |
Monty Python và cái chén thánh là một bộ phim hài năm 1975 của Anh được viết và trình diễn bởi nhóm hài Monty Python (Graham Chapman, John Cleese, Terry Gilliam, Eric Idle, Terry Jones và Michael Palin), do Gilliam và Jones đạo diễn. Bộ phim được phát hành khá thành công.
Nội dung.
Arthur - Vua nước Anh đi tìm các hiệp sĩ để tham gia Hội nghị Bàn Tròn do Vua chủ trì tại Camelot. Ông tìm được nhiều hiệp sĩ như Hiệp sĩ Galahad Thuần Khiết, Hiệp sĩ Lancelot Dũng Cảm, Hiệp sĩ Bedevere Ít Nói, và Hiệp sĩ Robin Không hoàn toàn dũng cảm như Hiệp sĩ Lancelot. Qua vài cảnh châm biếm các sự kiện lịch sử (như các phiên tòa xử phù thủy, dịch bệnh hoành hành, đói kém...) họ tới Camelot, nhưng cuối cùng lại quyết định không vô thành. Khi bỏ đi, họ được Đức Chúa trời hiện ra và lệnh cho họ đi tìm Cái Chén Thánh, và họ bắt đầu lên đường đi tìm...
Đánh giá.
Năm 2000, độc giả của tạp chí Total Film bình chọn Monty Python và cái chén thánh là một trong 5 bộ phim hài hay nhất mọi thời đại. | 1 | null |
3D là tên viết tắt của từ 3-Dimension (3 chiều), đi liền với khái niệm "đồ họa 3D" - tức là những hình ảnh được dựng nên một cách sống động như thật với sự trợ giúp của các phần mềm đồ họa vi tính. Kỹ thuật này lần đầu tiên được biết đến vào năm 1995 với bộ phim hoạt hình Toy Story (Câu chuyện đồ chơi) của hãng phim Walt Disney. Có thể kể đến một số bộ phim nổi bật cho thể loại 3D này như Shrek, Finding Nemo, The Incredibles, Happy Feet, Surf's Up, Wall-E, Up... Vì lẽ đó mà công nghệ Real 3-D – không gian ba chiều "thật" đã ra đời. Khác với công nghệ phim 3D trước kia, vốn chỉ là những phim hoạt hình có các hình khối được dựng trong không gian ba chiều, nhưng nó vẫn bị giới hạn bởi không gian phẳng (2D) của màn hình, thì công nghệ Real 3-D làm cho người xem có cảm giác như những hình khối đó hoàn toàn thoát ra khỏi màn hình. Điều này khiến cho hình ảnh trên phim trở nên sâu và thật hơn rất nhiều. Bộ phim được coi là làm theo công nghệ 3-D đầu tiên đã ra đời vào năm 1953. Đó là bộ phim House of Wax của đạo diễn người Mỹ gốc Hungari, André de Toth. Nhưng chỉ đến cho tới khi bộ phim hoạt hình Chicken Little (2005) của hãng Walt Disney đạt được những thành công rực rỡ (thu về gần 100 triệu USD chỉ trong tháng công chiếu đầu tiên) thì công nghệ Real 3-D mới được các nhà làm phim chú ý đến. Nhận thấy được tiềm năng cũng như lợi nhuận khổng lồ mà những bộ phim 3-D này mang lại, các nhà làm phim Hollywood đã quyết định đầu tư lớn hơn vào công nghệ 3-D. Và quả thật, những thành công sau đó đã cho thấy những sự mạo hiểm là hoàn toàn sáng suốt: Ice Age 2 có doanh thu gần 200 triệu USD chỉ riêng tại Mỹ, Shark Tale thì thu về 363 triệu USD, Madagascar đạt 525 triệu USD ở thị trường Mỹ... Chính vì nhận thức được điều này mà đạo diễn lừng danh James Cameron đã quyết định cho thực hiện dự án Avatar (phim 2009) vốn đã ấp ủ gần 11 năm trời của mình. Khác với những bộ phim hoạt hình 3-D trước đó chỉ dựng hoàn toàn bằng máy tính, James Cameron đã sử dụng một loại máy quay phim kĩ thuật số 3-D tiên tiến có hai ống kính song song, có thể định vị được những tiêu điểm khác nhau, thích hợp với từng địa hình quay và những hình ảnh này được sẽ được hiện ngay trực tiếp trên máy tính để có thể chỉnh sửa một cách tùy ý.Có thể nói chính nhờ phương pháp này mà bộ phim Avatar đã trở thành một trong những người đi tiên phong mở ra "một trang sử mới cho lĩnh vực điện ảnh".
Nguyên lý hoạt động của 3-D.
Các bộ phim được làm theo công nghệ 3-D nói chung đều dựa theo nguyên lý sự tạo ảnh 3 chiều từ hai mắt, sự chìm hay nổi của một vật phụ thuộc vào cách nhìn người quan sát. Chẳng hạn khi nhìn hai hình ảnh của một vật sát cạnh nhau, nếu như mắt trái nhìn vào ảnh bên phải còn mắt phải nhìn vào ảnh bên trái, thì ta sẽ cảm tưởng như vật đó đang nổi ra khỏi khung hình. Và ngược lại thì vật đó sẽ "lõm" xuống.Lợi dụng điều này, các nhà làm phim 3-D sẽ quay thành hai phim, từ hai góc nhìn khác nhau tương ứng với hoạt động của hai con mắt. Những hình ảnh này khi qua não bộ, chúng sẽ chập lại tạo thành những hình ảnh không gian ba chiều. Và vì kĩ thuật 3-D này chủ yếu là dựa vào sự tổng hợp ảnh từ 2 mắt tạo nên những người có tật về mắt sẽ khó có thể xem được những bộ phim 3-D.
Kỹ thuật quay phim 3-D.
Đầu tiên, như đã biết, người ta sẽ sử dụng một camera khổng lồ trang bị hai ống kính lệch pha (một dành cho mắt trái và một cho mắt phải) để ghi hình cùng lúc từ hai góc nhìn, trên hai cuốn phim khác nhau.au đó khi đưa vào phòng chiếu, người ta sử dụng máy chiếu phim có hai ống kính, qua đó chuyển tải hai băng hình khác nhau. Một thiết bị đặc biệt đưa lên màn ảnh quang cảnh dành cho mắt trái và mắt phải cùng lúc để tạo nên ảnh 3 chiều. Tuy nhiên, khán giả sẽ không thể xem được những hình ảnh này ngay vì chúng sẽ xuất hiện rất nhòe trên màn ảnh, mà bắt buộc phải mang một cặp kính làm bằng chất liệu đặc biệt (thường là bằng thủy tinh lỏng). Sau đó, qua một tín hiệu hồng ngoại đồng bộ với máy chiếu phim chiếu từ xa sẽ làm một bên mắt kính bị mờ và bên kia trong suốt, khi đó người xem mới cảm nhận được những hình ảnh 3 chiều trên màn ảnh.Tuy nhiên, trong Avatar, đạo diễn James Cameron còn đưa ra ý tưởng khác khi dùng ba màn ảnh rộng, tạo thành một đường cong khổng lồ bao trùm cả tầm nhìn. Mỗi màn ảnh đó sẽ được chiếu bằng loại phim 65mm, nghĩa là gấp đôi loại phim nhựa 35mm vẫn thường dùng, để có được ảnh to, rõ và sáng hơn. Ngoài ra sẽ có tổng cộng sáu máy chiếu phim tạo ra sáu góc nhìn khác nhau, thay vì 2 máy chiếu như bình thường để tạo ảo giác hoàn hảo và phim cũng được chiếu với tốc độ nhanh hơn 30 ảnh/giây thay vì 24 ảnh/giây làm cho chuyển động của các nhân vật trong phim cũng trở nên nhuần nhuyễn hơn.Do có sự phức tạp, đòi hỏi đến các kĩ thuật hiện đại đến như vậy nên việc làm nên các bộ phim 3-D quả thật rất "nặng đô-la". Chính vì thế nên các nhà làm phim đã nghĩ ra được một phương pháp khác có thể tiết kiệt được một khoản chi phí lớn, đó là bằng cách chuyển đổi những bộ phim dạng 2-D (phẳng) sang 3-D (nổi), hay người ta vẫn thường gọi đùa là phim "giả 3-D"
Các dạng công nghệ 3-D.
Hiện nay trên thế giới, có rất nhiều loại công nghệ Real 3-D như Anaglyph, Real D, Dolby, Prisma… nhưng phổ biến nhất và thường dùng trong các rạp chiếu phim nhất vẫn là hai công nghệ Dolby và Real D.Công nghệ Real D dựa theo nguyên lý phân cực để tạo hiệu ứng nổi 3D, bao gồm hai máy chiếu giống hệt nhau được đồng bộ hóa, phân cực hóa, và cùng chiếu lên một màn ảnh (phủ một chất liệu đặc biệt chống khử cực, thường là một lớp bạc) nhằm làm giảm độ sáng cho phim.Trong khi đó, ưu thế của công nghệ Dolby so với Real D chính là Dolby dễ lắp đặt, hoàn toàn có thể chiếu được ngay trên màn hình trắng thông thường và kính đeo có thể tái sử dụng nhiều lần (trong khi kính dùng cho công nghệ Real-D chỉ có thể sử dung 1 lần). Ngoài ra có thể kể đến công nghệ Imax 3D dành chiếu riêng cho những rạp Imax có kích thước hình vòm khổng lồ ngang bằng một tòa nhà.Hay là công nghệ Anaglyph thường dùng ở các rạp chiếu phim tại gia bằng các loại kính khá phổ biến trên thị trường như Anaglyph Red/Cyan (Đỏ/Xanh) và Anaglyph Green/Magenta (Hồng/ xanh dương). | 1 | null |
Máy chơi trò chơi điện tử video là thiết bị điện tử hoặc máy tính có đầu ra dùng để xuất ra tín hiệu video hoặc hình ảnh trực quan để hiển thị trò chơi điện tử mà một hoặc nhiều người có thể chơi thông qua một số loại tay cầm điều khiển trò chơi. Đây có thể là máy chơi trò chơi điện tử tại gia thường được đặt ở vị trí cố định được kết nối với TV hoặc thiết bị hiển thị khác và được điều khiển bằng bộ điều khiển trò chơi riêng biệt hoặc máy chơi trò chơi điện tử cầm tay bao gồm bộ hiển thị và chức năng bộ điều khiển của riêng chúng được tích hợp sẵn trong thiết bị và có thể phát ở mọi nơi. Máy chơi trò chơi điện tử lai kết hợp các yếu tố của cả máy gia đình và máy cầm tay.
Máy chơi trò chơi điện tử là một dạng máy tính tại gia chuyên dụng hướng đến chơi trò chơi điện tử, được thiết kế với khả năng chi trả và khả năng tiếp cận cho công chúng nói chung, nhưng thiếu khả năng tính toán thô và khả năng tùy chỉnh. Sự đơn giản hoa này được thông qua một phần nhờ vào việc sử dụng hộp băng trò chơi hoặc các cách phân phối đơn giản khác, giúp giảm bớt thời gian khởi chạy trò chơi. Tuy nhiên, điều này dẫn đến các định dạng độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh để giành thị phần. Nhiều hệ máy gần đây đã cho thấy sự hợp nhất hơn nữa với máy tính gia đình, giúp các nhà phát triển dễ dàng phát hành trò chơi trên nhiều nền tảng. Hơn nữa, các hệ máy hiện đại có thể thay thế cho máy phát đa phương tiện với khả năng phát lại phim và nhạc từ phương tiện quang học hoặc các dịch vụ phương tiện truyền trực tuyến.
Máy chơi trò chơi điện tử thường bán theo chu kỳ 5-7 năm được gọi là một thế hệ, với các hệ máy sản xuất ra với các khả năng kỹ thuật tương tự hoặc được sản xuất trong cùng một khoảng thời gian sẽ vào chung một nhóm thế hệ. Ngành công nghiệp này đã phát triển một mô hình dao cạo để bán máy chơi trò chơi điện tử với lợi nhuận thấp hoặc thua lỗ trong khi vẫn tạo ra doanh thu từ phí bản quyền cho mỗi trò chơi được bán ra, với kế hoạch thu hút người tiêu dùng vào máy chơi trò chơi điện tử thế hệ tiếp theo. Trong khi nhiều nhà sản xuất từng đến và đi trong lịch sử, luôn có hai hoặc ba nhà lãnh đạo thống trị thị trường, với thị phần hiện tại dẫn đầu là Sony (với thương hiệu PlayStation), Microsoft (với thương hiệu Xbox), và Nintendo (hiện đang sản xuất Switch và phiên bản gọn nhẹ của nó).
Lịch sử.
Máy chơi trò chơi điện tử đầu tiên xuất hiện vào đầu những năm 1970. Ralph H. Baer đã nghĩ ra khái niệm chơi các trò chơi đơn giản tại chỗ trên màn hình tivi vào năm 1966, sau này trở thành nền tảng của Magnavox Odyssey vào năm 1972. Lấy cảm hứng từ trò chơi bóng bàn trên máy Odyssey, Nolan Bushnell, Ted Dabney, và Allan Alcorn tại Atari, Inc đã phát triển ra trò chơi arcade đầu tiên đạt được nhiều thành công, "Pong", và tìm cách phát triển trò chơi đó thành phiên bản dành cho gia đình, phát hành vào năm 1975. Các máy chơi trò chơi điện tử tại đầu tiên chỉ có thể chơi một nhóm trò chơi tích hợp sẵn trong phần cứng. Hệ máy lập trình sử dụng hộp băng ROM có thể hoán đổi do Fairchild Channel F giới thiệu vào năm 1976 mặc dù đã có mặt trên Atari 2600, phát hành trước đó vào năm 1977.
Máy chơi trò chơi điện tử cầm tay nổi lên nhờ những cải tiến về công nghệ trong trò chơi điện tử khi chúng chuyển từ cơ học sang logic điện tử / kỹ thuật số và chuyển từ màn hình diode phát sáng (LED) sang màn hình tinh thể lỏng (LCD) giống với màn hình video hơn, với Microvision vào năm 1979 và Game & Watch năm 1980 là những ví dụ ban đầu và Game Boy hiện thực hóa hoàn toàn vào năm 1989.
Kể từ những năm 1970, cả máy chơi trò chơi điện tử gia đình và cầm tay đều trở nên tiên tiến hơn sau những thay đổi toàn cầu về công nghệ, bao gồm cải tiến sản xuất chip điện tử và máy tính để tăng sức mạnh tính toán với chi phí và kích thước thấp hơn, sự ra đời của đồ họa 3D và bộ xử lý đồ họa dựa trên phần cứng cho ra kết xuất thời gian thực, truyền thông kỹ thuật số như Internet, mạng không dây và Bluetooth, và các định dạng phương tiện truyền thông lớn hơn và dày đặc hơn cũng như phân phối kỹ thuật số. Theo cùng một kiểu tiến triển của định luật Moore, các máy chơi trò chơi điện tử tại gia được nhóm thành các thế hệ, mỗi thế hệ kéo dài khoảng năm năm, với các máy trong mỗi loại có các thông số kỹ thuật và tính năng tương tự như kích thước của bộ xử lý. Mặc dù không có định nghĩa tiêu chuẩn hoặc phân tích theo thế hệ, nhưng định nghĩa về các thế hệ này được Wikipedia sử dụng bao gồm cả hệ máy đại diện được hiển thị bên dưới.
Tổng quan theo dòng thời gian.
<section begin="generations graph"/>
<section end="generations graph"/>
Loại.
Hầu hết các máy chơi trò chơi điện tử được coi là máy có thể lập trình và có phương tiện để người chơi chuyển đổi giữa các trò chơi khác nhau. Theo truyền thống, điều này đã được thực hiện bằng cách chuyển hộp băng trò chơi hoặc thẻ trò chơi vật lý hoặc thông qua sử dụng đĩa quang.
Máy chơi trò chơi điện tử chuyên dụng rất phổ biến trong thế hệ thứ nhất cho đến khi chúng dần bị thay thế bởi thế hệ thứ hai sử dụng hộp băng ROM. Thế hệ thứ tư dần dần được hợp nhất thành đĩa quang. Hiện tại, việc tải xuống trò chơi thông qua phân phối kỹ thuật số và lưu trữ chúng trên các thiết bị lưu trữ kỹ thuật số bên trong hoặc bên ngoài là phổ biến.
Một số máy chơi trò chơi điện tử được coi là máy chơi trò chơi điện tử chuyên dụng, trong đó trò chơi có sẵn cho máy chơi trò chơi điện tử được "nhúng" vào phần cứng, bằng cách lập trình qua mạch hoặc chép vào bộ nhớ flash chỉ đọc của máy. Do đó, người dùng không thể trực tiếp thêm hoặc thay đổi thư viện trò chơi. Người dùng thường có thể chuyển đổi giữa các trò chơi trên máy chơi trò chơi điện tử chuyên dụng bằng cách sử dụng công tắc phần cứng trên máy chơi trò chơi điện tử hoặc thông qua menu trong trò chơi. Máy chơi trò chơi điện tử chuyên dụng phổ biến trong thế hệ máy chơi trò chơi điện tử gia đình đầu tiên, chẳng hạn như Magnavox Odyssey và phiên bản máy chơi trò chơi điện tử gia đình của "Pong", và gần đây hơn là cho các máy theo phong cách cổ điển như NES Classic Edition và Sega Genesis Mini.
Giá bán.
Các máy chơi trò chơi điện tử khi ban đầu ra mắt vào thập niên 1970 và 1980 có giá khoảng , và với sự ra đời của hộp băng ROM, trung bình mỗi trò chơi có giá khoảng . Theo thời gian, giá ra mắt của các máy chơi trò chơi điện tử cơ bản nhìn chung đã tăng lên khoảng , với trò chơi trung bình có giá . Không ngoại lệ, giai đoạn chuyển đổi từ hộp băng ROM sang phương tiện quang học vào đầu những năm 1990 đã chứng kiến một số máy có mức giá cao hơn và lên đến . Kết quả là, doanh số của những máy sử dụng phương tiện quang học đầu tiên này nhìn chung rất kém.
Khi được điều chỉnh theo lạm phát, giá của máy nói chung đã theo xu hướng giảm, từ từ những thế hệ đầu tiên xuống còn đối với hệ máy hiện tại. Điều này là điển hình cho bất kỳ công nghệ máy tính nào, với những cải tiến về hiệu suất và khả năng tính toán vượt xa chi phí bổ sung để đạt được những lợi ích đó. Hơn nữa, tại Mỹ, giá của máy nói chung vẫn nhất quán, nằm trong khoảng 0,8% đến 1% thu nhập trung bình của hộ gia đình, dựa trên dữ liệu Điều tra dân số Hoa Kỳ cho năm ra mắt của máy.
Kể từ Nintendo Entertainment System, giá máy đã ổn định trên mô hình dao cạo, trong đó các máy có doanh số thấp hoặc không mang lại lợi nhuận cho nhà sản xuất, nhưng họ có doanh thu từ mỗi trò chơi được bán do phí cấp phép và các dịch vụ giá trị gia tăng khác xung quanh máy (chẳng hạn như Xbox Live). Các nhà sản xuất thậm chí còn đoán được chắc chắn sẽ lỗ khi bắt đầu ra mắt với kỳ vọng sẽ phục hồi nhờ việc chia sẻ doanh thu và sau đó thu hồi giá trên máy khi họ chuyển sang các thành phần và quy trình sản xuất ít tốn kém hơn mà không thay đổi giá bán lẻ. Các máy thường được thiết kế để có tuổi thọ sản phẩm là 5 năm, mặc dù các nhà sản xuất đã xem xét lại đối với các thế hệ gần đây, có tuổi thọ dài hơn từ 7 đến 10 năm.
Thế hệ đầu tiên.
Các trò chơi video đầu tiên xuất hiện vào những năm 1960. Chúng được chơi trên các máy tính lớn kết nối với màn hình vector, không phải TV analog. Ralph H. Baer đã nghĩ ra ý tưởng về một trò chơi video gia đình vào năm 1951.
Vào cuối những năm 1960, khi làm việc cho Sanders Associates, Baer đã tạo ra một loạt các thiết kế bảng điều khiển trò chơi video. Một trong những thiết kế này, được đặt tên là "Brown Box" năm 1966, có các chế độ trò chơi có thể thay đổi và đã được thử nghiệm cho một số nhà sản xuất TV, cuối cùng đưa đến một thỏa thuận giữa Sanders Associates và Magnavox.
Vào năm 1972, Magnavox đã phát hành Magnavox Odyssey, máy chơi console gia đình đầu tiên có thể được kết nối với TV. Thiết kế ban đầu của Ralph Huser đã gọi vốn cho một hàng switch (thiết bị chuyển mạch) lớn cho phép người chơi bật và tắt một số thành phần của máy console (Odyssey thiếu CPU) để tạo ra các trò chơi hơi khác nhau như tennis, bóng chuyền, khúc côn cầu và đuổi bắt. Magnavox đã thay thế thiết kế công tắc bằng hộp ROM riêng cho từng trò chơi. Mặc dù Baer đã phác thảo ý tưởng cho các hộp mực có thể bao gồm các thành phần mới cho các trò chơi mới, nhưng các hộp ROM do Magnavox phát hành đều có chức năng tương tự như các phím chuyển và cho phép người chơi chọn từ các trò chơi tích hợp của Odyssey.
Máy chơi game Odyssey ban đầu bán được khoảng 100.000 chiếc, tạo ra thành công vừa phải, và cho đến khi trò chơi arcade "Pong" của Atari đã phổ biến trò chơi điện tử khiến công chúng bắt đầu chú ý nhiều hơn về ngành công nghiệp mới nổi. Vào mùa thu năm 1975, Magnavox phải cúi đầu chịu thua trước sự phổ biến của "Pong" nên đã hủy bỏ Odyssey và phát hành một phiên bản thu nhỏ chỉ chơi "Pong" và hockey là Odyssey 100. Máy chơi game thế hệ thứ hai, "đời cao hơn", Odyssey 200, được phát hành cùng với 100 và thêm điểm trên màn hình, tối đa bốn người chơi và thế hệ thứ ba—"Smash", được phát hành thông qua Sears, gần như đồng thời với máy chơi Pong tại nhà của Atari. Những máy chơi game này đã khởi động thị trường tiêu dùng. Tất cả ba máy chơi game mới đều sử dụng thiết kế đơn giản hơn so với Odyssey ban đầu đã làm mà không có các phần board game hoặc đạn bổ sung. Trong những năm sau đó, thị trường chứng kiến nhiều công ty tương tự đổ xô vào máy chơi game.
Sau khi General instrument phát hành các vi mạch giá rẻ của họ, mỗi vi mạch chứa một bộ điểu khiển hoàn chỉnh trên một con chip, nhiều nhà phát triển nhỏ đã bắt đầu phát hành các máy console có vẻ ngoài khác nhau, nhưng bên trong chính xác các trò chơi giống nhau. Hầu hết các máy chơi game từ thời đại này là máy chơi game chuyên dụng chỉ chơi các trò chơi đi kèm với bảng điều khiển. Những máy chơi game video này thường chỉ được gọi là trò chơi điện tử vì có rất ít lý do để phân biệt hai loại này. Trong khi một số công ty như Atari, Magnavox và người mới Coleco đẩy mạnh về vỏ ngoài, thị trường trở nên tràn ngập các trò chơi video đơn giản, tương tự.
Tham khảo.
| 1 | null |
Trương Khắc Phàm (giản thể: 张克帆; phồn thể: 張克帆; bính âm: Zhāng Kè Fān), sinh ngày 31 tháng 7 năm 1972 là một diễn viên, ca sĩ Đài Loan.
Tiểu sử.
Nam ca sĩ Đài Loan Trương Khắc Phàm đầu những năm 1980 là thành viên nhóm nhạc Đài Loan Red Kids, sau đó trở thành Giám đốc Điều hành Chi nhánh Đài Loan của Công ty Liên doanh Đa quốc gia EMI (EMI Music Publishing). Chàng ca sĩ Johnathan Trương có nhiều solo và album được đánh giá cao. Anh cũng đã hát nhiều bài hát chủ đề cho các bộ phim truyền hình (Claustrophobia (2008), Thủy Nguyệt Động Thiên (2003)) và phim điện ảnh (Heroes Shed No Tears (1986)). Tiếng hát của Trương Khắc Phàm có âm sắc độc đáo riêng, đặc biệt thể hiện nhiều cảm xúc khác nhau.
Chú thích.
Nguồn dịch từ Cidian | 1 | null |
Bão tuyết là một hiện tượng đặc trưng bởi sức gió mạnh ít nhất là 56 km/h và kéo dài trong một thời gian dài - thường là ba giờ hoặc hơn. Hiện tượng bão tuyết luôn đi kèm theo mưa tuyết, gió thổi mạnh với giật tốc độ lên tới 200 km/giờ, có thể làm nhiệt độ hạ thấp gần -50 °C.
Định nghĩa.
Bão tuyết có hai ý nghĩa hơi khác nhau. Theo một định nghĩa, điều kiện bão tuyết có thể xảy ra mà không có tuyết rơi. Ý nghĩa phổ biến khác của bão tuyết là một mùa đông lạnh, cơn bão tích lũy tuyết rơi lớn, thường kết hợp với gió mạnh thổi gây ra và trôi tuyết. Đây là một thiên tai vô cùng nguy hiểm. Một vài các trận bão tuyết tồi tệ nhất ở Mỹ xảy ra vào năm 1888 và năm 1977. Một trận bão tuyết năm 1972 ở Iran dẫn đến khoảng 4.000 ca tử vong.
Tác động.
Bão tuyết gây ra sự ùn tắc giao thông, những ngôi nhà, công trình nhẹ không chịu được sức nặng của tuyết đã đổ sập. Hơn nữa, du khách leo núi cũng gặp tai nạn do tuyết lở.
Một trận bão tuyết nghiêm trọng có sức gió trên 72 km/h, và nhiệt độ -12 °C (10 °F) hoặc thấp hơn. Ở Nam Cực, những trận bão tuyết được kết hợp với gió tràn trên các cạnh của cao nguyên đá ở một vận tốc trung bình 160 km (khoảng 100 dặm) mỗi giờ. | 1 | null |
"Pretty Brown Eyes" là một bài hát của nam nghệ sĩ ghi âm người Úc Cody Simpson. Đây là đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ hai của Cody Simpson, "Surfers Paradise". Bài hát được phát hành kỹ thuật số tại Úc vào ngày 23 tháng 4 năm 2012, và đã lọt được vào bảng xếp hạng của Anh, Canada và Ireland.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc cho "Pretty Brown Eyes" được ra mắt trên kênh YouTube của Simpson vào ngày 22 tháng 4 năm 2013 với tổng độ dài hai phút và năm mươi mốt giây. | 1 | null |
Georg Friedrich von Kleist (25 tháng 9 năm 1852 tại điền trang Rheinfeld ở Karthaus – 29 tháng 7 năm 1923 tại điền trang Wusseken ở Hammermühle) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng cấp Thượng tướng kỵ binh, đồng thời là một chính trị gia. Ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức và cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tiểu sử.
Georg sinh ngày 25 tháng 9 năm 1852, trong gia đình quý tộc cổ vùng Pommern von Kleist. Ông là con trai duy nhất của Thiếu tướng Fedor Benno von Kleist.
Ông đã khởi đầu sự nghiệp quân sự của mình khi gia nhập Trung đoàn Bộ binh "von Alvensleben" (số 6 Brandenburg) số 52, trung đoàn cũ của thân phụ ông, đóng quân tại Cottbus. Vào ngày 25 tháng 9 năm 1869, ông được phong quân hàm thiếu úy. Năm 18, ông đã tham gia cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Sau khi chiến đấu trong trận Mars-la-Tour vào ngày 16 tháng 8 năm 1870, ông bị thương nặng ở chân trong trận Gravelotte vào ngày 18 tháng 8, và điều này buộc ông phải chuyển sang lực lượng kỵ binh. Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, ông tham dự Học viện Quân sự Phổ vào năm 1873, và vào năm 1877 ông được thăng cấp trung úy. Tiếp theo đó, ông được lệnh gia nhập Bộ Tổng tham mưu vào năm 1878. Năm 1883, ông được lên quân hàm Trưởng quan kỵ binh, năm 1887 ông là Thiếu tá trong Bộ Tham mưu của Sư đoàn số 3, và là Tư lệnh của Trung đoàn Thương kỵ binh "Hoàng đế Alexander II của Nga" (số 1 Brandenburg) số 3 tại Fürstenwalde từ năm 1892 cho đến năm 1893. Vào ngày 25 tháng 3 năm 1894, ông được phong quân hàm Thượng tá, rồi vào năm 1895 ông được nhậm chức Trưởng khoa trong Bộ Tổng tham mưu, từ năm 1896 cho đến năm 1898 ông là Đại tá và Trưởng khoa Lịch sử Quân sự. Ngày 22 tháng 5 năm 1899, Kleist được thăng quân hàm Thiếu tướng và được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục thanh tra kỵ binh 1 tại Königsberg vào ngày 14 tháng 9 năm 1901. Ngày 22 tháng 4 năm 1902, ông được thăng cấp Trung tướng và một năm sau ông được lãnh chức Tư lệnh của Sư đoàn số 38 tại Erfurt vào ngày 18 thámg 4 năm 1903. Vào năm 1907, Kleist được bộ nhiệm làm Tướng thanh tra Kỵ binh, sau đó ông giải ngũ vào năm 1909.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, ông được triệu hồi làm Tướng tư lệnh của Quân đoàn Trừ bị XXIII vào ngày 25 tháng 8 năm 1914. Với quân đoàn này, Kleist đã tham chiến tại khu vực phía bắc của Tập đoàn quân số 4 dưới sự chỉ huy của Quận công Albrecht của Württemberg trong trận Ypres lần thứ nhất tại Flanders. Vào ngày 19 tháng 12 năm 1914, ông phải từ bỏ chức vụ chỉ huy của mình do một cơn đau tim. Ông rời bệnh viện quân y ở Ghent vào tháng 1 năm 1915, từ đó ông chú tâm vào các vấn đề chính trị và viết các công trình nghiên cứu quân sự.
Từ năm 1910 cho đến năm 1918, ông là Chủ tịch Hiệp hội Gia tộc von Kleist. Ông cũng là một thành viên Viện Quý tộc Phổ, và, trên cương vị là một trong những người sáng lập "Liên minh Phổ" vào năm 1913, ông là Chủ tịch hiệp hội này từ mùa thu năm 1918 cho đến năm 1919. Hiệp hội này kêu gọi khôi phục chế độ quân chủ ở Đức.
Ông là người hưởng quyền thừa tự ("Fideikommissherr") của điền trang Wusseken và là điền chủ của Löschinghof. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1909, ông được phong chức à la suite của Trung đoàn Thương kỵ binh "Hoàng đế Alexander II của Nga" (số 1 Brandenburg) số 3. Ông từ trần vào ngày 29 tháng 7 năm 1923.
Gia quyến.
Von Kleist đã thành hôn với bà Barbara von Nathusius; hai người có với nhau sáu con trai và một con gái. Trong các con trai của ông có Heinrich và Fedor đều là sĩ quan trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và tử trận lần lượt ở Litva và Ba Lan. Ngoài ra, ba người con trai khác, Robert, Ewald, và Barnim cũng là đều sĩ quan quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Tác phẩm.
Ông là tác giả của một số cuốn sách:
Ngoài ra, ông còn là đồng tác giả của "Handbuchs für Heer und Flotte" ("Sổ tay Hải Lục quân"), "Enzyklopädie der Kriegswissenschaften und verwandter Gebiete" ("Từ điển Khoa học Chiến tranh và các đề tài liên quan"), Berlin, Leipzig, Viên, Stuttgart 1913. | 1 | null |
Sân bay Trường Sa là một sân bay quân sự toạ lạc tại thị trấn Trường Sa trên đảo Trường Sa Lớn, thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam
Đây là sân bay quân sự duy nhất của Không quân Nhân dân Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, có một đường băng dài khoảng 1300 mét. Đường băng và sân đỗ máy bay có ba lớp kết cấu trên nền cát, đá san hô tự nhiên gồm: Lớp nền móng tạo phẳng và lu, lèn chặt; lớp móng gia cố xi măng và lớp bê tông xi măng cường độ cao dày 25 cm. Sân bay trên đảo Trường Sa Lớn có thể tiếp nhận các loại trực thăng, máy bay tuần tiễu M-28 và các loại máy bay chiến đấu khác.
Có thể nói, sân bay Trường Sa là một công trình quan trọng trong việc khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Phòng điều hành và bảo đảm kỹ thuật sân bay do Phòng Tham mưu, Sư đoàn 370 đảm nhiệm. | 1 | null |
"Maybe I'm Amazed" là ca khúc được sáng tác và thể hiện bởi Paul McCartney, nằm trong album solo đầu tay của anh, "McCartney" (1970). McCartney giành tặng ca khúc này cho người vợ Linda của mình – người đã giúp anh vượt qua những khó khăn sau khi The Beatles tan rã.
Bản trình diễn trực tiếp sau này được anh thể hiện cùng ban nhạc Wings của mình trong tour diễn vòng quanh nước Mỹ năm 1976 đã trở thành đĩa đơn hit tại Mỹ và đạt được vị trí số 26 tại Anh. Bản thu chính thức của ca khúc nằm trong album "McCartney" thì chưa bao giờ được phát hành dưới dạng đĩa đơn. | 1 | null |
Aimeric de Péguilhan ("khoảng" 1170 – "khoảng" 1230) là một nghệ sĩ hát rong ("troubadour") nổi tiếng ở châu Âu thế kỷ 12-13.
Nguyên tên ông là Aimeric, còn được viết là Aimery. Dù được sinh ra ở Toulouse, nhưng hậu tố de Péguilhan, còn được viết là Peguilhan, Peguillan, hoặc Pégulhan, nhằm để chỉ nguyên quán của ông là tại Péguilhan (gần Saint-Gaudens), miền Tây nước Pháp ngày nay.
Sinh ra trong một gia đình trung lưu ("bourgeois") làm nghề buôn vải, thời trẻ ông từng đem lòng yêu một người phụ nữ hàng xóm cũng thuộc tầng lớp trung lưu ở Toulouse, người được cho là nguồn cảm hứng để Aimeric trở thành một nghệ sĩ hát rong sau này.
Sự nghiệp trình diễn hát rong của Aimeric de Péguilhan được cho là vào những năm 1190–1221. Người bảo trợ đầu tiên của ông là Raymond V, Bá tước xứ Toulouse, sau đó là con trai ông ta, Raymond VI, Bá tước xứ Toulouse. Tuy nhiên, do hậu quả của một vụ ghen tuông, có thời gian Aimeric phải trốn tránh ở xứ Catalunya dưới sự che chở của Tử tước Guillermo de Berguedá, đồng thời cũng là một nghệ sĩ troubadour nổi tiếng.
Aimeric một lần nữa lại rời Toulouse vào năm 1212 để trốn khỏi binh lửa của cuộc chiến tranh Thập tự chinh Albigeois. Ông đến Tây Ban Nha, sau đó ở vùng Lombardia (Bắc Ý) trong 10 năm. Mặc dù vậy, trong những năm cuối đời, ông vẫn tìm trở về Toulouse, nơi có người phụ nữ là tình yêu và nguồn cảm hứng suốt sự nghiệp của mình.
Tác phẩm.
Aimeric được cho là đã sáng tác ít nhất 50 tác phẩm, nhưng chỉ có 6 trong số chúng còn lưu giữ được đến ngày nay. | 1 | null |
Peire Vidal (1175-1205) là một nghệ sĩ hát rong. Theo cuốn tiểu sử của ông thì ông sinh ra ở Toulouse, là con trai của một nhà buôn bán lông thú và ông cũng là một ca sĩ lớn.
Bốn mươi lăm bài hát của ông đã được bảo tồn cho đến ngày nay. Mười hai ca khúc vẫn có giai điệu minh chứng cho danh tiếng xứng đáng của bản chất âm nhạc của ông. | 1 | null |
Sphingosin (2-amino-4-octadecen-1,3-diol) là amino alcohol có 18 carbon với chuỗi hydrocarbon chưa bão hòa, tham gia cấu tạo nên sphingolipid, lớp lipid màng tế bào.
Chức năng.
Sphingosin có thể được phosphoryl hóa bởi hai kinase là sphingosin kinase loại 1 và sphingosin kinase loại 2. Sản phẩm tạo thành là sphingosin-1-phosphat.
Sinh tổng hợp.
Sphingosin được tổng hợp từ palmitoyl CoA và serin ở dạng cô đặc, sinh ra dehydrosphingosin.
Sau đó, dehydrosphingosin được NADPH khử thành dihydrosphingosin (sphinganin) và cuối cùng được FAD oxy hóa thành sphingosin.
Không thể tổng hợp trực tiếp sphinganin thành sphingosin; đầu tiên là acylat hóa thành dihydroceramid, sau đó dehydrogenat hóa thành ceramid. Sphingosin có thể bị khử thành sphingolipid với sự có mặt của lysosome. | 1 | null |
Castle Combe là một làng nhỏ có từ thời Trung cổ thuộc hạt Wiltshire, phía tây nam nước Anh với số dân khoảng 350 người. Đứng thứ trong tổng số 30 làng tốt nhất, nổi tiếng với vẻ đẹp của những ngôi nhà cổ kính, duyên dáng xây bằng đá, lợp ngói đá có từ thời trung cổ. Làng có khách sạn Manor House được xây dựng vào thế kỷ 14, với 48 phòng và khu vườn có diện tích 365 mẫu Anh (1,5 km²). | 1 | null |
Neidhart von Reuental (sinh khoảng 1190 - mất sau 1236 hoặc 1237) (hay Nîthart von Riuwental) là một trong những minnesinger (hát rong ở Đức thời trung cổ) nổi tiếng nhất của Đức thời Giữa trung cổ. Ông có thể hoạt động trong vùng Bavaria và sau đó được biết đến là một ca sĩ tại Vienna. Như một minnesinger ông hoạt động mạnh nhất từ 1210 đến ít nhất 1236.
Neidhart rất nổi tiếng vì sự châm biếm và hài hước. Những giai điệu của ông tồn tại nhiều hơn bất kỳ một nhạc sĩ hát rong khác. Các ca khúc của ông thường có nội dung về "tình yêu phong nhã". Có lẽ bài hát nổi tiếng nhất của ông là "Meienzît", trong đó Neidhart bắt đầu bằng việc mô tả một kịch bản mùa xuân yên bình, nhưng nhanh chóng nói về sự xúc phạm của kẻ thù ông (một số bạn bè và các đồng minh đã phản bội ông) đến ông. | 1 | null |
Việt Nam đang được xem xét phát triển năng lượng nguyên tử cho mục đích hòa bình dựa trên công nghệ hiện đại và được chứng thực từ năm 1995, được đề xuất xây dựng vào năm 2006.
Danh sách kế hoạch năng lượng nguyên tử.
Các kế hoạch năng lượng nguyên tử sẽ được điều hành bởi Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Danh sách kế hoạch hiện tại của NPP như sau, | 1 | null |
Wolf Messing Grigorevich (tiếng Nga: "Вольф Григорьевич (Гершикович) Мессинг"), (Ba Lan: "Wolf Messing Grigoriewicz"), (Do Thái: "וּוֹלףֿ מסינג"), (sinh ngày 01 tháng 9 năm 1899 - mất ngày 8 tháng 11 năm 1974) là một nhà ngoại cảm có khả năng đọc được suy nghĩ của người khác và tiên tri đặc biệt được cả Hitler và Stalin khâm phục trong Thế chiến II. Ông cũng là một giảng viên cho các cán bộ của Ủy ban Nội vụ NKVD (thuộc Ủy ban An ninh Quốc gia KGB).
Tiểu sử.
Wolf Messing được sinh ra tại làng Góra Kalwaria, 25 km về phía đông nam của Warszawa, tại thời điểm khi Ba Lan vẫn còn là một lãnh thổ của Đế quốc Nga. Trong suốt thời thơ ấu của mình, ông đã được biết về khả năng tâm linh cùng trí lực siêu phàm. Theo Messing, ông đã có thể phát ra các luồng sóng tinh thần để làm thay đổi nhận thức của người đối diện. Trong cuộc phỏng vấn với P. Oreshkin, Messing nói:
Năm 1915, trong khi sống ở Đức, Albert Einstein và Sigmund Freud cả hai đã thử nghiệm khả năng chàng trai trẻ Messing, tuy nhiên kết quả đã không còn lưu giữ được cho đến ngày nay. Mặc dù vậy, Messing trong thời gian ở Đức đã phải sống lẩn trốn khi năm 1937 khi Hitler đưa ra một 200.000 Mác Đức - là phần thưởng cho bất cứ ai có thể giết chết và lấy đầu của ông. Messing đã dự đoán rằng "nếu Hitler quay chiến tranh sang phía Đông, ông ta sẽ bị tiêu diệt". Ngay lập tức thông tin này đã đến tai Hitler. Vốn là người rất tin vào các bị ẩn của các nhà ngoại cảm nên Hitler vô cùng tức giận và cho gọi Eric Hanussen tới để xác minh thông tin. Và Hanussen đã xác nhận về việc Messing không phải là kẻ bịp bợm cũng như việc ông ta đã từng thua Messing về khả năng ngoại cảm trong một chuyến lưu diễn.
Để bảo toàn tính mạng, Messing đã chạy trốn khỏi Đức sang Ba Lan. Khi quân Đức tiến vào Ba Lan năm 1939, các tấm áp phích in chân dung Messing xuất hiện trên tất cả các bức tường, hàng rào. Tuy lẩn trốn nhưng ông vẫn bị binh lính Đức bắt giữ. Chính lúc này, khả năng thôi miên của ông đã giúp ông trốn thoát khi ông tập trung hết sức lực để thôi miên các binh lính canh gác làm theo mệnh lệnh của mình. Sau sự việc này, Messing đã vượt biên giới để tới Liên Xô. Khi tới đây, ông đã là một người nổi tiếng và đã được biết đến bởi các nhà chức trách và ngay cả Stalin cũng có mối quan tâm cá nhân về khả năng của Messing. Ông đã bị bắt và Stalin đã thẩm vấn ông về kết quả của cuộc chiến tranh. Sau khi Messing dự đoán rằng "xe tăng được trang trí với ngôi sao đỏ đi trên đại lộ Unter den Linden của Berlin", Stalin đã cho giám sát Messing chặt chẽ.
Stalin ra lệnh cho Messing chứng minh khả năng của mình bằng việc yêu cầu ông xâm nhập vào được hệ thống an ninh quốc gia. Ông đã xâm nhập được bằng cách sử dụng thuật thôi miên. Các vệ sĩ khẳng định như vậy và người đứng đầu hệ thống an ninh quốc gia, Nguyên soái Lavrenti Beria đã thừa nhận điều đó.
Có được sự tin tưởng của Stalin, Messing đã được tự do hoàn toàn để đi du lịch khắp Liên bang Xô Viết. Người ta nói rằng dự đoán của ông chịu ảnh hưởng từ quyết định ký Hiệp ước Xô-Đức của Stalin.
Messing tiếp tục biểu diễn và trở thành một nghệ sĩ thành công ở Liên Xô. Tuy nhiên, ý kiến của ông vẫn được các lãnh đạo đứng đầu quốc gia tham khảo cho đến khi ông gặp Nikita Khrushchev, người liên quan đến cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Khi Krushchev hỏi Messing kết quả của cuộc khủng hoảng sẽ được gì, ông đã khẳng định rằng, nó sẽ không dẫn đến chiến tranh thế giới ba.
Vào ngày 7 tháng 3 năm 1944, Messing được cho là đã dự đoán chính xác ngày chết của Hitler, nhưng có tồn tại hay không có của dự báo này vẫn đang là một bí ẩn. Ngoài ra, ông được cho là đã dự đoán kết cục của hai nhà du hành vũ trụ Vladimir Komarov và Yuri Gagarin.
Messing qua đời trong bệnh viện vào ngày 8 tháng 11 năm 1974. Ông đã được phẫu thuật thành công động mạch đùi và xương chậu, nhưng vì một lý do cái chết đã xảy ra sau một vài ngày sau đó. Kết quả cho thấy ông đã bị suy thận và phù phổi. Trước khi qua đời, người ta còn thấy ông nhìn bức chân dung treo trên tường và tiên đoán được sự ra đi của bản thân "Hết rồi Wolf ạ, anh sẽ không trở lại đây nữa đâu". Ông được chôn cất tại nghĩa trang "Vostryakovskoe" ở Moskva. Ông đã được phong hàm nghệ sĩ Công huân Liên bang Xô Viết cho những đóng góp tài năng của mình.
Trong văn học, Wolf Messing là nhân vật chính trong loạt tiểu thuyết Max August của Steve Englehart với các tác phẩm lần lượt ra đời, bắt đầu là "The Point Man" năm 1980, và tiếp tục là "The Long Man" và "The Plain Man". | 1 | null |
Phái sinh quỹ là một sản phẩm tài chính có cấu trúc liên quan đến một quỹ, thông thường bằng cách sử dụng quỹ cơ bản để xác định chi trả. Đó có thể là một quỹ cổ phần tư nhân, quỹ tương hỗ hay quỹ phòng hộ. Người mua có được tiếp xúc với quỹ cơ bản (hoặc các quỹ) trong khi cải thiện hồ sơ rủi ro của họ qua một đầu tư trực tiếp.
Ví dụ.
Ví dụ người mua có thể bị thu hút bởi người quản lý ngôi sao, lịch sử hoặc chiến lược hoạt động của quỹ, trong khi cải thiện nguy cơ đối tác của họ và nhận được đòn bẩy, phòng hộ tiền tệ hay một bảo lãnh vốn thông qua phái sinh.
Đặc tính.
Sản phẩm có cấu trúc này có thể là có thể đầu tư bởi khách hàng bán lẻ hoặc nhà đầu tư tổ chức mà có thể sẽ không mua quỹ nếu không vì việc cung cấp các tính năng bảo vệ như bảo lãnh vốn hoặc việc bổ nhiệm cán bộ quản lý độc lập để tính toán giá trị quỹ cơ bản và các cơ chế giám sát bổ sung.
Các loại.
Các phái sinh quỹ điển hình có thể là một quyền chọn gọi giá trên một quỹ, một CPPI trên một quỹ, hoặc một giấy tờ vay nợ trên một quỹ. Các cấu trúc phức tạp hơn có thể bao gồm các tính năng gọi tự động đảm bảo rằng nếu phái sinh đạt đến một giá trị nhất định mà giá trị đã bị khóa trong, hàng đầu của một đảm bảo giá trị tối thiểu ban đầu khi phát hành. Kỳ hạn có thể dao động 3-10 năm, hoặc qua nhiều thập kỷ (hiếm hơn). Các đấu thủ lớn trong lĩnh vực này là các ngân hàng đầu tư như Barclays Investment Bank, BNP Paribas, Citigroup, Credit Suisse, Deutsche Bank, Goldman Sachs, Morgan Stanley, Société Générale, UBS Investment Bank.
Các phái sinh quỹ đã tăng trưởng bùng nổ trong 10 năm qua nhưng vẫn còn là một khu vực tăng trưởng lớn. Các cấu trúc mới liên tục được phát triển để phù hợp với thị trường và các cơ hội khách hàng. | 1 | null |
Các quỹ phòng hộ, quỹ tự bảo hiểm rủi ro hay quỹ đối xung (hedge fund) là các quỹ đầu tư tư nhân được quản lý chủ động. Họ đầu tư vào một phạm vi đa dạng các thị trường, công cụ và chiến lược đầu tư và phụ thuộc vào các quy định hạn chế của đất nước họ. Các quy định của Hoa Kỳ giới hạn tham gia quỹ phòng hộ đến các lớp nhất định của các nhà đầu tư được công nhận.
Các quỹ phòng hộ thường là mở, và cho phép bổ sung hoặc rút tiền của các nhà đầu tư của họ. Giá trị một quỹ phòng hộ được tính như giá trị tài sản ròng của một cổ phần quỹ, có nghĩa là tăng và giảm trong giá trị tài sản đầu tư của quỹ (và chi phí quỹ) được phản ánh trực tiếp vào số tiền mà nhà đầu tư sau này có thể rút.
Hầu hết các chiến lược đầu tư của quỹ phòng hộ nhằm mục đích đạt được một hoàn vốn đầu tư tích cực bất kể thị trường là tăng hoặc giảm. Các nhà quản lý quỹ phòng hộ thường đầu tư tiền của mình trong quỹ mà họ quản lý, phục vụ để gắn kết lợi ích riêng của họ với lợi ích của những nhà đầu tư trong quỹ. Một quỹ phòng hộ thường trả tiền cho người quản lý đầu tư một khoản phí quản lý hàng năm, đó là một tỷ lệ phần trăm của các tài sản của quỹ, và phí thực hiện nếu giá trị tài sản ròng quỹ tăng trong năm. Một số quỹ phòng hộ có giá trị tài sản ròng vài tỷ USD. , các quỹ phòng hộ đại diện cho 1,1% tổng số vốn và tài sản được nắm giữ của các tổ chức tài chính. Đến tháng 4 năm 2012, quy mô ước tính của công nghiệp quỹ phòng hộ toàn cầu là 2.13 nghìn tỷ USD.
Bởi vì các quỹ phòng hộ không được bán cho công chúng hoặc các nhà đầu tư nhỏ lẻ, các quỹ này và các nhà quản lý của họ có lịch sử được miễn một số các quy định chi phối các nhà quản lý quỹ và đầu tư khác liên quan với cách quỹ có thể được cấu trúc và cách các chiến lược và kỹ thuật được sử dụng. Quy định thông qua tại Hoa Kỳ và châu Âu sau khi cuộc khủng hoảng tín dụng năm 2008 được dự định để tăng giám sát chính phủ đối với các quỹ phòng hộ và loại bỏ những khoảng trống pháp lý nhất định.
Lịch sử.
Trong thời gian thị trường tăng của Mỹ những năm 1920, đã có nhiều phương tiện đầu tư tư nhân cho các nhà đầu tư giàu có. Của thời kỳ đó, được biết đến nhiều nhất hiện nay, là Graham-Newman Partnership thành lập bởi Benjamin Graham và Jerry Newman, được trích dẫn bởi Warren Buffett trong một bức thư năm 2006 cho Bảo tàng Tài chính Mỹ, như một quỹ phòng hộ sơ khai.
Nhà báo tài chính Alfred W. Jones được coi là người khởi xướng sử dụng cụm từ "quỹ "phòng hộ"" và được coi một cách sai lầm là người tạo ra cấu trúc quỹ phòng hộ đầu tiên vào năm 1949. Jones gọi quỹ của ông là "được phòng hộ", một thuật ngữ sau đó thường được sử dụng trên phố Wall, để mô tả việc quản lý rủi ro đầu tư do các thay đổi trong thị trường tài chính. Năm 1968 đã có gần 200 quỹ phòng hộ, và quỹ của các quỹ đầu tiên sử dụng các quỹ phòng hộ được tạo ra vào năm 1969 tại Genève.
Trong những năm 1970 các quỹ phòng hộ chuyên tâm trong một chiến lược duy nhất, và hầu hết các nhà quản lý quỹ theo mô hình mua/bán cổ phần. Nhiều quỹ phòng hộ bị đóng cửa trong suy thoái 1969-1970 và sụp đổ thị trường chứng khoán 1973-1974 do thua lỗ nặng nề. Chúng đã nhận được sự chú ý lại vào cuối thập niên 1980. Trong thập niên 1990 số lượng các quỹ phòng hộ tăng đáng kể, được tài trợ với của cải được tạo ra trong sự tăng cao của thị trường chứng khoán thập niên 1990. Lợi ích tăng là do cơ cấu bồi thường bằng lãi suất phù hợp (tức là lợi ích tài chính phổ biến) và hứa hẹn hoàn vốn cao hơn. Qua thập kỷ tiếp theo các chiến lược quỹ phòng hộ được mở rộng bao gồm: chênh lệch tín dụng, nợ khốn cùng, thu nhập cố định, định lượng, và đa chiến lược. Các nhà đầu tư tổ chức của Mỹ như các quỹ lương hưu và quỹ cấp vốn đã bắt đầu phân bổ phần lớn danh mục đầu tư của họ tới các quỹ phòng hộ.
Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, các quỹ phòng hộ trở nên phổ biến trên toàn thế giới và đến năm 2008, ngành công nghiệp quỹ phòng hộ trên toàn thế giới nắm giữ 1,93 nghìn tỷ đô la Mỹ trong tài sản thuộc quyền quản lý (AUM). Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 làm cho nhiều quỹ phòng hộ hạn chế nhà đầu tư rút tiền và sự phổ biến cũng như tổng số AUM của chúng đã giảm. Tổng AUM đã hồi phục và trong tháng 4 năm 2011 ước tính đạt gần 2 nghìn tỷ USD. , 61% đầu tư toàn cầu trong các quỹ phòng hộ đến từ các nguồn tổ chức. Đến tháng 6 năm 2011, các quỹ phòng hộ có AUM lớn nhất là Bridgewater Associates (US$58,9 tỉ), Man Group (US$39,2 tỉ), Paulson & Co. (US$35,1 tỉ), Brevan Howard (US$31 tỉ), và Och-Ziff (US$29,4 tỉ). Bridgewater Associates, có 70 tỷ USD thuộc quyền quản lý . Vào cuối năm đó, 241 quỹ phòng hộ lớn nhất tại Hoa Kỳ nắm giữ chung 1,335 nghìn tỷ USD. Vào tháng 4 năm 2012, công nghiệp quỹ phòng hộ đạt đỉnh cao kỷ lục 2,13 nghìn tỷ USD tổng tài sản thuộc quyền quản lý.
Các chiến lược.
Các quỹ phòng hộ sử dụng một loạt các chiến lược hoạt động trao đổi nhưng phân loại chúng là khó khăn do sự thay đổi và biến hóa nhanh chóng của chúng. Tuy nhiên, các chiến lược quỹ phòng hộ thường được cho là rơi vào bốn loại chính: vĩ mô toàn cầu, định hướng, hướng sự kiện, và giá trị tương đối (hưởng chênh lệch). Bốn thể loại này được phân biệt bởi phong cách đầu tư và mỗi thể loại đều có nguy cơ và đặc điểm hoàn vốn riêng của chúng. Các quỹ tương lai được quản lý hoặc đa chiến lược có thể không phù hợp với các thể loại này, nhưng dù sao cũng là những chiến lược phổ biến với các nhà đầu tư. Các quỹ phòng hộ có thể cam kết theo đuổi một chiến lược nhất định hoặc sử dụng nhiều chiến lược để cho phép sự linh hoạt, cho các mục đích quản lý rủi ro, hoặc để đạt được thu hồi vốn đa dạng. Bản cáo bạch của quỹ phòng hộ, còn được gọi là ghi nhớ cung cấp, cung cấp cho các nhà đầu tư tiềm năng thông tin về các khía cạnh quan trọng của quỹ, bao gồm chiến lược của quỹ đầu tư, hình thức đầu tư và giới hạn đòn bẩy.
Các yếu tố góp phần vào chiến lược quỹ phòng hộ bao gồm: phương pháp tiếp cận của quỹ đầu tư với thị trường; công cụ đặc thù được sử dụng; khu vực thị trường mà quỹ chuyên tâm (ví dụ như y tế); phương pháp được sử dụng để lựa chọn đầu tư; và số lượng đa dạng hóa trong quỹ. Có rất nhiều phương pháp tiếp cận thị trường tới các loại tài sản khác nhau, bao gồm vốn cổ phần, thu nhập cố định, hàng hóa và tiền tệ. Các công cụ được sử dụng bao gồm: cổ phần, thu nhập cố định, tương lai, quyền chọn và hoán đổi. Các chiến lược có thể được chia thành những thứ trong đó các đầu tư có thể được lựa chọn bởi các nhà quản lý, được gọi là "tùy ý/định tính", hoặc những thứ trong đó đầu tư được lựa chọn bằng cách sử dụng một hệ thống máy tính hóa, được gọi là "hệ thống/định lượng". Số lượng đa dạng hóa trong quỹ có thể khác nhau, các quỹ có thể là đa chiến lược, đa quỹ, đa thị trường, đa nhà quản lý hoặc kết hợp.
Đôi khi chiến lược quỹ phòng hộ được mô tả như hoàn vốn tuyệt đối và được phân loại là trung lập thị trường hay định hướng. Các quỹ trung lập thị trường có mối tương quan ít hơn với diễn biến thị trường tổng thể bằng cách "trung hòa" tác động của các dao động thị trường, trong khi các quỹ định hướng sử dụng các xu hướng và sự không nhất quán trên thị trường và có tiếp xúc nhiều hơn với những biến động của thị trường.
Vĩ mô toàn cầu.
Các quỹ phòng hộ sử dụng chiến lược đầu tư vĩ mô toàn cầu nắm giữ các vị thế đáng kể trong các thị trường cổ phiếu, trái phiếu hay tiền tệ để đề phòng các sự kiện kinh tế vĩ mô toàn cầu nhằm tạo ra một hoàn vốn được điều chỉnh rủi ro. Các nhà quản lý quỹ vĩ mô toàn cầu sử dụng các phân tích kinh tế vĩ mô ("bức tranh lớn") dựa trên các sự kiện và xu hướng thị trường toàn cầu để xác định các cơ hội đầu tư sẽ thu lợi từ các biến động giá dự kiến. Trong khi các chiến lược vĩ mô toàn cầu có một số lượng lớn tính linh hoạt do khả năng sử dụng đòn bẩy của chúng để có các vị thế lớn trong các đầu tư đa dạng trên nhiều thị trường, việc định thời gian thực hiện các chiến lược này là quan trọng để tạo ra các hoàn vốn hấp dẫn, được điều chỉnh rủi ro. Vĩ mô toàn cầu thường được phân loại như là chiến lược đầu tư định hướng.
Các chiến lược vĩ mô toàn cầu có thể được chia thành các phương pháp tiếp cận tùy ý và có hệ thống. Giao dịch tùy ý được thực hiện bởi các nhà quản lý đầu tư, những người xác định và lựa chọn đầu tư; giao dịch hệ thống dựa trên các mô hình toán học và thực hiện bởi phần mềm với sự tham gia hạn chế của con người ngoài việc lập trình và cập nhật phần mềm. Những chiến lược này cũng có thể được chia thành các cách tiếp cận xu hướng hoặc ngược xu hướng phụ thuộc vào việc quỹ cố gắng thu lợi nhuận từ việc theo các xu hướng (dài hay ngắn hạn) hoặc cố gắng dự đoán và thu lợi nhuận từ các đảo ngược xu hướng.
Trong các chiến lược vĩ mô toàn cầu, có các tiểu chiến lược bao gồm "được đa dạng hệ thống", trong đó các quỹ mua bán trong các thị trường đa dạng, hoặc "tiền tệ hệ thống", trong đó quỹ mua bán trong các thị trường tiền tệ. Các tiểu chiến lược khác bao gồm những chiến lược được khai thác bởi các nhà tư vấn giao dịch hàng hóa (CTA), trong đó quỹ mua bán các tương lai (hoặc quyền chọn) trong các thị trường hàng hóa hoặc các giao dịch hoán đổi. Các quỹ này còn dược gọi là quỹ tương lai có quản lý. Các CTA mua bán hàng hóa (như vàng) và các công cụ tài chính, bao gồm các chỉ số chứng khoán. Ngoài ra họ còn nắm giữ các trường vị và đoản vị, cho phép họ thu lợi nhuận trong cả các biến động lên và biến động xuống của thị trường.
Định hướng.
Các chiến lược đầu tư định hướng sử dụng các trào lưu thị trường, xu hướng, hoặc các không nhất quán khi chọn các cổ phiếu trên nhiều thị trường. Các mô hình máy tính có thể được sử dụng, hoặc các nhà quản lý quỹ sẽ xác định và lựa chọn đầu tư. Các loại chiến lược này có một tiếp xúc với những biến động chung của thị trường nhiều hơn so với các chiến lược trung lập thị trường. Quỹ phòng hộ chiến lược định hướng bao gồm các quỹ phòng hộ mua/bán cổ phần Hoa Kỳ và quốc tế, trong đó các vị thế mua vốn cổ phần được phòng hộ với các bán khống vốn cổ phần hoặc các quyền chọn chỉ số vốn cổ phần.
Trong các chiến lược định hướng, có một số tiểu chiến lược. Các quỹ "thị trường mới nổi" tập trung vào các thị trường mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ, trong khi "các quỹ lĩnh vực" chuyên về các lĩnh vực cụ thể bao gồm công nghệ, y tế, công nghệ sinh học, dược phẩm, năng lượng và vật liệu cơ bản. Các quỹ sử dụng chiến lược "tăng trưởng cơ bản" đầu tư vào các công ty có lợi nhuận tăng trưởng hơn so với thị trường cổ phiếu tổng thể hoặc lĩnh vực có liên quan, trong khi các quỹ sử dụng chiến lược "giá trị cơ bản" đầu tư vào các công ty bị định giá thấp. Các quỹ sử dụng các kỹ thuật định lượng để đầu cơ tài chính vốn cổ phần được mô tả như sử dụng chiến lược "định hướng định lượng". Các quỹ sử dụng chiến lược "bán khống" tận dụng lợi thế của giá vốn cổ phần giảm bằng cách sử dụng các vị thế bán.
Hướng sự kiện.
Các chiến lược hướng sự kiện liên quan tới các tình huống, trong đó cơ hội và rủi ro đầu tư cơ sở có liên quan đến một sự kiện. Một chiến lược đầu tư hướng sự kiện tìm kiếm cơ hội đầu tư trong các sự kiện giao dịch công ty như hợp nhất, mua lại, tái cấp vốn, phá sản, và thanh lý. Các nhà quản lý khai thác chiến lược như vậy tận dụng sự thiếu nhất quán định giá trên thị trường trước hoặc sau các sự kiện như vậy, và nắm một vị thế dựa trên sự chuyển động dự đoán của chứng khoán hoặc các chứng khoán đang xem xét. Các nhà đầu tư tổ chức lớn như các quỹ phòng hộ có nhiều khả năng để theo đuổi chiến lược đầu tư hướng sự kiện hơn các nhà đầu tư vốn cổ phần truyền thống bởi vì họ có chuyên môn và nguồn lực để phân tích các sự kiện giao dịch công ty cho các cơ hội đầu tư.
Các sự kiện giao dịch công ty nói chung được chia thành ba loại: chứng khoán khốn cùng, hưởng chênh lệch rủi ro và các tình huống đặc biệt. Chứng khoán đau khổ bao gồm các sự kiện như tái cơ cấu, tái cấp vốn, và phá sản. Một chiến lược đầu tư các chứng khoán khốn cùng liên quan đến việc đầu tư vào trái phiếu hoặc các khoản vay của các công ty đang phải đối mặt với phá sản hoặc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, khi các trái phiếu hoặc các khoản vay này đang được giao dịch với một mức chiết khấu so với giá trị của chúng. Những người quản lý quỹ phòng hộ theo đuổi chiến lược đầu tư nợ khốn cùng nhắm vào việc lợi dụng các mức giá trái phiếu suy yếu. Các quỹ phòng hộ mua nợ khốn cùng có thể ngăn chặn những công ty này khỏi phá sản, do việc mua lại như vậy ngăn cản những tịch thu bởi các ngân hàng. Trong khi đầu tư hướng sự kiện nói chung có xu hướng phát triển mạnh trong một thị trường bò, đầu tư khốn cùng hoạt động tốt nhất trong một thị trường gấu.
Hưởng chênh lệch rủi ro hay hưởng chênh lệch sáp nhập bao gồm các sự kiện như sáp nhập, mua lại, thanh lý, và tiếp quản thù địch. Hưởng chênh lệch rủi ro thường liên quan đến việc mua và bán cổ phiếu của hai hay nhiều công ty đang sáp nhập để tận dụng lợi thế của các khác biệt thị trường giữa giá mua lại và giá cổ phiếu. Yếu tố rủi ro phát sinh từ khả năng việc sáp nhập hoặc mua lại sẽ không diễn ra theo kế hoạch; các nhà quản lý quỹ phòng hộ sẽ sử dụng nghiên cứu và phân tích để xác định xem liệu sự kiện này sẽ diễn ra hay không.
Các trường hợp đặc biệt là những sự kiện có ảnh hưởng đến giá trị của cổ phiếu của một công ty, bao gồm tái cơ cấu của một công ty hay các nghiệp vụ công ty bao gồm chia tách, mua lại cổ phần, phát hành/mua lại chứng khoán, bán tài sản, hoặc các tình huống định hướng xúc tác khác. Để tận dụng các tình huống đặc biệt người quản lý quỹ phòng hộ phải xác định xem sự kiện sắp tới sẽ tăng hay giảm giá trị vốn cổ phần và các công cụ vốn cổ phần liên quan của công ty.
Các chiến lược hướng sự kiện khác bao gồm: chiến lược hưởng chênh lệch tín dụng, tập trung vào chứng khoán thu nhập cố định doanh nghiệp; một chiến lược hoạt động, khi quỹ chiếm vị trí lớn trong các công ty và sử dụng quyền sở hữu để tham gia quản lý; một chiến lược dựa trên dự đoán phê chuẩn cuối cùng của các loại dược phẩm mới; và chiến lược xúc tác pháp lý, chuyên về các công ty dính líu vào các vụ kiện lớn.
Giá trị tương đối.
Các chiến lược hưởng chênh lệch giá trị tương đối tận dụng lợi thế của các sự khác biệt tương đối về giá giữa các chứng khoán. Sự khác biệt giá này có thể xảy ra do việc định giá sai chứng khoán so với chứng khoán liên quan, chứng khoán cơ sở hoặc thị trường tổng thể. Các nhà quản lý quỹ phòng hộ có thể sử dụng các loại phân tích để xác định sự khác biệt giá trong các chứng khoán, bao gồm các phương pháp toán học, kỹ thuật hay cơ bản. Giá trị liên quan thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa với trung hòa thị trường, do các chiến lược trong thể loại này thường có rất ít hoặc không có tiếp xúc thị trường định hướng tới thị trường nói chung. Các chiến lược phụ giá trị tương đối khác bao gồm:
Các chiến lược khác.
Ngoài những chiến lược trong bốn loại chính, có một số chiến lược không phù hợp với phân loại này hoặc có thể áp dụng trên một vài chiến lược nêu trên.
Rủi ro.
Bởi vì các đầu tư trong các quỹ phòng hộ có thể bổ sung sự đa dạng hóa vào các danh mục đầu tư, các nhà đầu tư có thể sử dụng chúng như một công cụ để giảm các tiếp xúc rủi ro danh mục đầu tư tổng thể của họ. Các nhà quản lý của các quỹ phòng hộ sử dụng các chiến lược và các công cụ kinh doanh cụ thể với mục đích cụ thể của việc giảm rủi ro thị trường để tạo ra thu hồi vốn được điều chỉnh rủi ro, phù hợp với mức độ rủi ro mong muốn của các nhà đầu tư. Các quỹ phòng hộ tạo ra hoàn vốn một cách lý tưởng tương đối không liên quan với các chỉ số thị trường. Trong khi "phòng hộ" có thể là một cách để giảm rủi ro của một đầu tư, các quỹ phòng hộ, giống như tất cả các loại đầu tư khác, không được miễn dịch với rủi ro. Theo một báo cáo của Hennessee Group, các quỹ phòng hộ là ít biến động hơn khoảng một phần ba so với S&P 500 từ năm 1993 đến năm 2010.
Quản lý rủi ro.
Tại hầu hết các nước, các nhà đầu tư trong các quỹ phòng hộ được yêu cầu phải là các nhà đầu tư đủ trình độ và sành sỏi, những người được cho là phải nhận thức được những rủi ro đầu tư, và chấp nhận các rủi ro vì lợi nhuận tiềm năng liên quan đến những rủi ro này. Các nhà quản lý quỹ có thể khai thác rộng rãi các chiến lược quản lý rủi ro để bảo vệ quỹ và các nhà đầu tư. Theo "Financial Times", "các quỹ phòng hộ lớn có một số thực hành quản lý rủi ro tinh tế và chính xác nhất hơn bất cứ nơi nào trong quản lý tài sản." Các nhà quản lý quỹ phòng hộ có thể nắm giữ một số lượng lớn các vị thế đầu tư trong những khoảng thời gian ngắn và có thể có một hệ thống quản lý rủi ro toàn diện đặc biệt tại chỗ. Các quỹ có thể có các "cán bộ rủi ro", những người đánh giá và quản lý rủi ro nhưng không được tham gia vào hoạt động trao đổi, và có thể khai thác các chiến lược chẳng hạn như các mô hình rủi ro danh mục đầu tư chính thức. Một loạt các kỹ thuật và các mô hình đo lường có thể được sử dụng để tính toán rủi ro phát sinh bởi các hoạt động của một quỹ phòng hộ; các nhà quản lý quỹ có thể sử dụng các mô hình khác nhau tùy thuộc vào cấu trúc và chiến lược đầu tư của quỹ của họ. Một số yếu tố, chẳng hạn như độ chuẩn tắc của hoàn vốn, không phải luôn luôn được giải thích bởi các phương pháp đo lường rủi ro thông thường. Các quỹ mà sử dụng giá trị khi rủi ro như một đo lường rủi ro có thể bù đắp cho điều này bằng cách sử dụng thêm các mô hình như Tháo chạy vốn và "thời gian dưới nước" để đảm bảo mọi rủi ro đã được nắm bắt.
Ngoài việc đánh giá các rủi ro liên quan đến thị trường có thể phát sinh từ một đầu tư, các nhà đầu tư thường sử dụng thẩm định hoạt động để đánh giá nguy cơ lỗi hoặc gian lận tại một quỹ phòng hộ có thể dẫn đến thiệt hại cho nhà đầu tư. Các cân nhắc sẽ bao gồm việc tổ chức và quản lý hoạt động tại các nhà quản lý quỹ đầu tư, liệu chiến lược đầu tư có khả năng bền vững hay không và khả năng của quỹ để phát triển như một công ty.
Các quan tâm về tính minh bạch và có điều tiết.
Vì các quỹ phòng hộ là thực thể tư nhân và có ít yêu cầu công bố công khai, điều này đôi khi bị coi là thiếu minh bạch. Một nhận thức chung của các quỹ phòng hộ là các nhà quản lý của họ không phải chịu sự giám sát quy định và/hoặc các yêu cầu đăng ký như nhiều nhà quản lý đầu tư tài chính khác, và dễ bị những rủi ro mang phong cách quản lý cụ thể riêng như trôi phong cách, các vận hành lỗi, hoặc gian lận. Các quy định mới được giới thiệu tại Mỹ và Liên minh châu Âu vào năm 2010 đòi hỏi các nhà quản lý quỹ phòng hộ báo cáo thêm thông tin, dẫn đến sự minh bạch hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư tổ chức, đang khuyến khích các phát triển hơn nữa trong quản lý rủi ro quỹ phòng hộ, thông qua các thực hành nội bộ và các yêu cầu pháp lý bên ngoài. Ảnh hưởng ngày càng tăng của các nhà đầu tư tổ chức đã dẫn đến sự minh bạch hơn: các quỹ phòng hộ ngày càng cung cấp thông tin cho nhà đầu tư bao gồm phương pháp định giá, các vị trí và tiếp xúc đòn bẩy.
Các rủi ro được chia sẻ với các loại đầu tư khác.
Các quỹ phòng hộ chia sẻ cùng loại nhiều rủi ro như các lớp đầu tư khác, trong đó có rủi ro thanh khoản và rủi ro người quản lý. Thanh khoản đề cập đến mức độ mà một tài sản có thể được mua và bán hoặc chuyển đổi sang tiền mặt; tương tự như các quỹ vốn cổ phần tư nhân, các quỹ phòng hộ sử dụng một thời kỳ khóa kín trong đó nhà đầu tư không thể rút tiền ra. Quản lý rủi ro đề cập đến những rủi ro phát sinh từ việc quản lý các quỹ. Cũng như những rủi ro cụ thể như trôi phong cách, trong đó đề cập đến một người quản lý quỹ "trôi" ra khỏi một lĩnh vực chuyên môn cụ thể, quản lý các yếu tố rủi ro bao gồm rủi ro định giá, rủi ro năng lực, rủi ro tập trung và rủi ro đòn bẩy. Rủi ro định giá đề cập đến lo ngại rằng giá trị tài sản ròng của các đầu tư có thể không chính xác; rủi ro năng lực có thể phát sinh từ việc đặt quá nhiều tiền vào một chiến lược cụ thể, có thể dẫn đến sự suy giảm hiệu suất quỹ; và rủi ro tập trung có thể xảy ra nếu một quỹ có quá nhiều tiếp xúc với một đầu tư, lĩnh vực, chiến lược trao đổi cụ thể, hoặc một nhóm các quỹ tương quan. Những rủi ro này có thể được quản lý thông qua các kiểm soát được xác định trên xung đột lợi ích, các hạn chế về phân bổ kinh phí, và thiết lập các giới hạn tiếp xúc dành cho chiến lược.
Nhiều quỹ đầu tư sử dụng đòn bẩy, là việc thực hành vay tiền hoặc trao đổi trên biên ngoài nguồn vốn từ các nhà đầu tư. Mặc dù đòn bẩy có thể làm tăng hoàn vốn tiềm năng, cơ hội cho các lợi ích lớn hơn được cân nhắc đối với khả năng tổn thất lớn hơn. Các quỹ phòng hộ khai thác đòn bẩy có khả năng tham gia vào các hoạt động quản lý rủi ro rộng rãi. Trong so sánh với các ngân hàng đầu tư, đòn bẩy của quỹ phòng hộ là tương đối thấp; theo một công trình của Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia, đòn bẩy trung bình cho các ngân hàng đầu tư là 14,2, so với 1,5 và 2,5 đối với các quỹ phòng hộ.
Một số loại quỹ, bao gồm các quỹ phòng hộ, được coi là có thèm khát rủi ro lớn hơn, với mục đích tối đa hóa thu hồi vốn, tùy thuộc vào khả năng chịu đựng rủi ro của các nhà đầu tư và nhà quản lý quỹ. Các nhà quản lý sẽ có động cơ bổ sung để tăng giám sát rủi ro khi vốn của chính họ được đầu tư vào quỹ.
Phí và thù lao.
Phí trả cho các quỹ phòng hộ.
Các hãng quản lý quỹ phòng hộ thường tính tiền các quỹ của họ cả phí quản lý và phí thực hiện.
Phí quản lý được tính theo phần trăm của giá trị tài sản ròng của quỹ và thường phạm vi từ 1% đến 4% mỗi năm, với 2% là tiêu chuẩn. Chúng thường được thể hiện dưới dạng một tỷ lệ phần trăm hàng năm, nhưng được tính toán và trả hàng tháng hoặc hàng quý. Phí quản lý cho các quỹ phòng hộ được thiết kế để trang trải các chi phí hoạt động của người quản lý, trong khi phí thực hiện cung cấp lợi nhuận của nhà quản lý. Tuy nhiên, do kinh tế quy mô phí quản lý từ các quỹ lớn hơn có thể tạo ra một phần đáng kể lợi nhuận của một nhà quản lý, và kết quả là một số phí đã bị chỉ trích bởi một số quỹ hưu trí công cộng, chẳng hạn như Calpers, cho là quá cao.
Phí thực hiện thường là 20% lợi nhuận của quỹ trong bất cứ năm nào, mặc dù nó nằm trong khoảng từ 10% đến 50%. Phí thực hiện nhằm mục đích cung cấp một sự khuyến khích cho một người quản lý để tạo ra lợi nhuận. Phí thực hiện đã bị chỉ trích bởi Warren Buffett, người tin rằng bởi vì các quỹ phòng hộ chỉ chia sẻ lợi nhuận và không phải là tổn thất, phí như vậy tạo ra một động lực để quản lý đầu tư có rủi ro cao. Tỷ lệ phí thực hiện đã giảm kể từ đầu cuộc khủng hoảng tín dụng.
Hầu như tất cả các phí thực hiện của quỹ phòng hộ bao gồm một điều khoản "high water mark" = "mức cao nhất" (hoặc "loss carryforward" = "lỗ chuyển sang"), có nghĩa là phí thực hiện chỉ áp dụng cho lợi nhuận ròng ("nghĩa là" lợi nhuận sau khi thua lỗ trong các năm trước đó đã được thu hồi). Điều này ngăn cản các nhà quản lý nhận được phí cho hiệu suất biến động, mặc dù một người quản lý đôi khi sẽ đóng cửa một quỹ đã phải chịu tổn thất nghiêm trọng và bắt đầu một quỹ mới, hơn là cố gắng để phục hồi thiệt hại qua một số năm mà không có phí thực hiện.
Một số phí thực hiện bao gồm một "rào chắn", sao cho một phí chỉ được trả khi hiệu suất của quỹ vượt quá một mốc chuẩn nào đó (ví dụ như LIBOR) hoặc một tỷ lệ phần trăm cố định. Một rào chắn "mềm" có nghĩa là phí thực hiện được tính trên tất cả các hoàn vốn của quỹ nếu tỷ lệ rào chắn được xóa bỏ. Một rào chắn "cứng" chỉ được tính toán trên các hoàn vốn trên tỷ lệ rào chắn. Một rào chắn được thiết kế để đảm bảo rằng một người quản lý chỉ được thưởng nếu quỹ tạo ra hoàn vốn vượt quá các hoàn vốn mà các nhà đầu tư có thể nhận được nếu họ đã đầu tư tiền của họ ở nơi khác.
Một số quỹ phòng hộ thu phí chuộc lại (hoặc phí rút tiền) đối với các khoản rút tiền sớm trong một khoảng thời gian quy định (thường là một năm) hoặc khi các khoản rút tiền vượt quá tỷ lệ phần trăm quy định của đầu tư ban đầu. Mục đích của phí này là không khuyến khích đầu tư ngắn hạn, làm giảm luân chuyển vốn và ngăn chặn việc rút tiền sau một thời kỳ hiệu quả kém. Không giống như các phí quản lý và phí hoạt động, phí chuộc lại thường được giữ bởi quỹ.
Thù lao của các nhà quản lý danh mục đầu tư.
Các hãng quản lý quỹ phòng hộ thường thuộc sở hữu của các nhà quản lý danh mục đầu tư của chúng, do đó họ được hưởng các lợi nhuận do doanh nghiệp tạo ra. Do phí quản lý được dành để trang trải chi phí hoạt động của hãng, phí thực hiện (và bất kỳ khoản phí quản lý dư thừa) thường được phân phối cho các chủ sở hữu của hãng như là lợi nhuận. Nhiều nhà quản lý cũng có cổ phần lớn trong các quỹ họ làm chủ.
Các nhà quản lý quỹ phòng hộ kiếm được những gì đã được gọi là số tiền lớn "lạ thường", với tổng số nhận được cao nhất lên đến 4 tỷ USD mỗi năm. Các khoản thu nhập hàng đầu là cao hơn nhiều so với bất kỳ lĩnh vực nào khác của ngành công nghiệp tài chính. "Họ thậm chí có thể không xem xét việc ra khỏi giường để lĩnh 13 triệu đôla (8 triệu bảng) như Lloyd Blankfein ông chủ của Goldman Sachs đã được trả năm ngoái," Richard Anderson, một phóng viên kinh doanh của BBC viết. Tổng thể, 25 nhà quản lý quỹ phòng hộ hàng đầu thường xuyên kiếm được nhiều hơn so với tất cả 500 giám đốc điều hành trong S&P 500. Tuy nhiên, hầu hết các nhà quản lý quỹ phòng hộ được trả công thấp hơn nhiều, và tính cạnh tranh của ngành công nghiệp, cùng với cơ cấu khuyến khích tài chính, có nghĩa là thất bại có thể dẫn đến không nhận được thanh toán. BBC dẫn lời một người trong ngành công nghiệp đã nói "rất nhiều nhà quản lý không làm ra được bất kỳ khoản tiền nào cả."
Trong năm 2011, người quản lý hàng đầu kiếm được 3,0 tỷ USD, người thứ mười kiếm được 210 triệu USD và người thứ 30 kiếm được 80 triệu USD. Năm 2011, thu nhập trung bình cho 25 nhà quản lý quỹ phòng hộ được bồi thường cao nhất ở Hoa Kỳ là 576 triệu USD. Theo "Absolute Return + Alpha", trong năm 2011, tổng bồi thường trung bình cho tất cả các chuyên gia đầu tư quỹ phòng hộ là 690.786 USD và bồi thường trung bình là 312.329 USD. Các con số tương tự cho CEO quỹ phòng hộ là 1.037.151 USD và 600.000 USD, và cho giám đốc đầu tư là 1.039.974 USD và 300.000 USD.
Trong 1.226 người trên danh sách các tỷ phú thế giới của "Forbes" năm 2012, 36 nhà tài chính được liệt kê "những phần có nguồn gốc quan trọng" của sự giàu có của họ là từ quản lý quỹ phòng hộ. Trong số 1.000 người giàu nhất ở Vương quốc Anh, 54 người là nhà quản lý quỹ phòng hộ, theo Danh sách người giàu của "Sunday Times" cho năm 2012. (Các quỹ có xu hướng không báo cáo mức bồi thường. Các danh sách công bố các khoản thu nhập của các nhà quản lý hàng đầu sử dụng ước tính dựa trên các yếu tố như phí được tính bởi các quỹ của họ và vốn mà họ được cho là đã đầu tư vào chúng.)
Cấu trúc.
Một quỹ phòng hộ là một phương tiện đầu tư được xây dựng như một công ty hoặc hợp danh. Quỹ này được quản lý bởi một nhà quản lý đầu tư dưới hình thức của một tổ chức hay công ty mà về mặt pháp lý và tài chính là khác biệt với quỹ phòng hộ và danh mục tài sản của nó. Nhiều nhà quản lý đầu tư sử dụng các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động. Các nhà cung cấp dịch vụ bao gồm các nhà môi giới hàng đầu, ngân hàng, nhà quản trị, nhà phân phối và các hãng kế toán.
Các nhà môi giới hàng đầu thanh toán bù trừ các trao đổi, và cung cấp đòn bẩy và hoạt động tài chính ngắn hạn. Chúng thường là các bộ phận của các ngân hàng đầu tư lớn. Các nhà môi giới hàng đầu hoạt động như một đối tác đối với các hợp đồng phái sinh, và cho vay chứng khoán cho các chiến lược đầu tư cụ thể, chẳng hạn như mua/bán vốn cổ phần và chênh lệch trái phiếu chuyển đổi. Nó có thể cung cấp dịch vụ giám sát đối với tài sản của quỹ, và thực thi các dịch vụ thanh toán bù trừ cho người quản lý quỹ phòng hộ.
Những người quản trị quỹ phòng hộ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động, kế toán và dịch vụ định giá. Hỗ trợ văn phòng phía sau này cho phép nhà quản lý quỹ tập trung vào các trao đổi. Quản trị cũng xử lý các đăng ký và chuộc lại, và thực hiện các dịch vụ cổ đông khác nhau. Các quỹ phòng hộ ở Hoa Kỳ không cần phải chỉ định một người quản trị, và tất cả các chức năng này có thể được thực hiện bởi một người quản lý đầu tư. Một số tình huống xung đột lợi ích có thể phát sinh trong sự sắp xếp này, đặc biệt là trong việc tính toán giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ. Một số quỹ Mỹ tự nguyện sử dụng các nhà kiểm toán độc lập, do đó cung cấp một mức độ minh bạch lớn.
Một nhà phân phối là một bảo lãnh phát hành, môi giới, đại lý, hoặc người khác, tham gia vào việc phân phối chứng khoán. Nhà phân phối cũng chịu trách nhiệm tiếp thị quỹ cho các nhà đầu tư tiềm năng. Nhiều quỹ phòng hộ không có nhà phân phối, và trong trường hợp như vậy người quản lý đầu tư sẽ chịu trách nhiệm phân phối chứng khoán và tiếp thị, mặc dù nhiều quỹ cũng sử dụng các đại lý vị trí và môi giới-đại lý để phân phối.
Hầu hết các quỹ sử dụng một hãng kế toán độc lập để kiểm toán các tài sản của quỹ, cung cấp dịch vụ thuế và thực hiện kiểm toán toàn bộ các báo cáo tài chính của quỹ. Kiểm toán cuối năm thường được thực hiện theo Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (US GAAP) hoặc Các tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), tùy thuộc vào nơi quỹ được thành lập. Kiểm toán viên có thể xác minh NAV và tài sản thuộc quyền quản lý (AUM) của quỹ. Một số kiểm toán viên chỉ cung cấp dịch vụ "NAV lite", có nghĩa là việc định giá dựa trên giá nhận được từ người quản lý chứ không phải là đánh giá độc lập.
Nơi cư trú và thuế.
Cơ cấu pháp lý của một quỹ phòng hộ cụ thể đặc biệt nơi cư trú của nó và loại thực thể pháp lý được sử dụng - thường được xác định bởi những kỳ vọng thuế của nhà đầu tư của quỹ. cân nhắc quy định cũng sẽ đóng một vai trò. Nhiều quỹ phòng hộ được thành lập trong các Trung tâm Tài chính hải ngoại để tránh hậu quả về thuế bất lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và được miễn thuế của nó. Các quỹ hải ngoại đầu tư vào Mỹ thường nộp thuế khấu trừ trên một số loại thu nhập đầu tư nhưng không phải thuế lãi vốn Mỹ. Tuy nhiên, các nhà đầu tư của quỹ là đối tượng chịu thuế trong khu vực pháp lý của họ trên bất kỳ sự gia tăng trong giá trị của các khoản đầu tư của họ. Xử lý thuế này thúc đẩy đầu tư xuyên biên giới bằng cách hạn chế tiềm năng đối với nhiều khu vực pháp lý với các loại thuế tầng lớp trên các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư được miễn thuế Mỹ (như các kế hoạch hưu trí và cấp vốn) đầu tư chủ yếu trong các quỹ phòng hộ hải ngoại để bảo tồn tình trạng miễn thuế của họ và tránh thu nhập chịu thuế kinh doanh không liên quan. Người quản lý đầu tư, thông thường trong một trung tâm tài chính lớn, nộp thuế trên phí quản lý của mình theo các luật thuế của tiểu bang và quốc gia mà nó nằm. Trong năm 2011, một nửa trong số các quỹ phòng hộ hiện đã được đăng ký ở hải ngoại và một nửa trên đất liền. Quần đảo Cayman là địa điểm hàng đầu cho các quỹ hải ngoại, chiếm 34% tổng số các quỹ phòng hộ toàn cầu. Mỹ có 24%, Luxembourg 10%, Ai-len 7%, British Virgin Islands 6% và Bermuda có 3%.
Các địa điểm quản lý đầu tư.
Tương phản với chính các quỹ, các nhà quản lý đầu tư chủ yếu nằm ở đất liền. Hoa Kỳ vẫn là trung tâm đầu tư lớn nhất, với các quỹ Mỹ đang quản lý khoảng 70% tổng tài sản toàn cầu vào cuối năm 2011. Tính đến tháng 4 năm 2012, đã có khoảng 3.990 cố vấn đầu tư quản lý một hoặc nhiều quỹ phòng hộ tư nhân đăng ký với Ủy ban chứng khoán và hối đoái. New York City và khu vực Gold Coast của Connecticut là các địa điểm dẫn đầu cho các nhà quản lý quỹ phòng hộ Hoa Kỳ.
London là trung tâm hàng đầu của châu Âu cho các nhà quản lý quỹ phòng hộ. Theo số liệu EuroHedge, khoảng 800 quỹ nằm trong Vương quốc Anh quản lý khoảng 85% tài sản quỹ phòng hộ của châu Âu trong năm 2011.
Tiền lãi trong các quỹ phòng hộ ở châu Á đã tăng đáng kể từ năm 2003, đặc biệt là ở Nhật Bản, Hồng Kông, và Singapore. Tuy nhiên, Anh và Mỹ vẫn là địa điểm hàng đầu cho quản lý tài sản các quỹ phòng hộ châu Á.
Các pháp nhân.
Các cấu trúc quỹ phòng hộ hợp pháp thay đổi tùy theo vị trí và các nhà đầu tư (s). Các quan hệ đối tác hạn chế được sử dụng chủ yếu cho các quỹ phòng hộ của Mỹ, chủ yếu nhằm vào các nhà đầu tư chịu thuế có trụ sở tại Mỹ. Quan hệ đối tác hạn chế và các cấu trúc chịu thuế thông qua khác đảm bảo rằng các nhà đầu tư trong các quỹ phòng hộ không phải chịu cả hai cấp đánh thuế thực thể và cấp cá nhân. Một quỹ phòng hộ được cấu trúc như một quan hệ đối tác hữu hạn phải có một thành viên chung. Thành viên hợp danh có thể là một cá nhân hay một công ty. Đối tác chung phục vụ như người quản lý của quan hệ đối tác hạn chế, và có trách nhiệm vô hạn. Các đối tác hạn chế phục vụ như các nhà đầu tư của quỹ, và không có trách nhiệm về các quyết định quản lý hoặc đầu tư. Trách nhiệm pháp lý của họ được giới hạn trong số tiền họ đầu tư cho lợi ích hợp tác. Như một thay thế cho một thỏa thuận đối tác hạn chế, các quỹ phòng hộ trong nước Mỹ có thể được cấu trúc như công ty trách nhiệm hữu hạn, với các thành viên đóng vai trò là cổ đông của công ty và được hưởng sự bảo vệ khỏi trách nhiệm cá nhân.
Ngược lại, các quỹ công ty hải ngoại thường được sử dụng cho các nhà đầu tư ngoài nước Mỹ, và khi họ cư trú trong một thiên đường thuế hải ngoại có thể áp dụng, không có thuế cấp thực thể được áp dụng. Nhiều nhà quản lý của các quỹ hải ngoại cho phép sự tham gia của các nhà đầu tư được miễn thuế Mỹ, chẳng hạn như các quỹ hưu trí, cúng vốn thể chế và các tín thác từ thiện.
Như một cơ cấu pháp lý thay thế, các quỹ hải ngoại có thể được hình thành như một tín thác đơn vị mở sử dụng một cấu trúc quỹ tương hỗ chưa hợp nhất. Các nhà đầu tư Nhật Bản thích đầu tư vào các tín thác đơn vị, chẳng hạn như những cái có sẵn trong quần đảo Cayman.
Người quản lý đầu tư tổ chức quỹ tín thác có thể giữ lại một lợi ích tại quỹ này, hoặc như đối tác chung của quan hệ đối tác hạn chế hoặc như người nắm giữ "cổ phần sáng lập" trong một quỹ công ty. Đối với các quỹ hải ngoại cấu trúc như các thực thể công ty, quỹ có thể chỉ định một ban giám đốc. Vai trò chính của ban giám đốc là để cung cấp một lớp giám sát trong khi đại diện cho lợi ích của các cổ đông. Tuy nhiên, trong thực tế các thành viên ban giám đốc có thể không đủ chuyên môn để có hiệu quả trong việc thực hiện những nhiệm vụ. Ban giám đốc có thể bao gồm cả các giám đốc liên kết là người lao động của quỹ và các giám đốc độc lập có mối quan hệ với quỹ bị hạn chế.
Các loại quỹ.
Quỹ phòng hộ mở tiếp tục phát hành cổ phần cho các nhà đầu tư mới và cho phép rút tiền định kỳ tại giá trị tài sản ròng ("NAV") cho mỗi cổ phần.
Các quỹ phòng hộ đóng phát hành một số lượng hạn chế cổ phần có thể trao đổi ngay từ đầu.
Cổ phần của các quỹ phòng hộ được niêm yết được giao dịch trên các sàn giao dịch chứng khoán, chẳng hạn như Irish Stock Exchange và có thể được mua bởi các nhà đầu tư không được công nhận.
Trích lập dự phòng.
Trích lập dự phòng là một cơ chế theo đó một quỹ compartmentalizes các tài sản có tính thanh khoản tương đối kém hoặc khó định giá một cách đáng tin cậy. Khi một đầu tư được trích lập dự phòng, giá trị của nó được tính riêng rẽ với các giá trị của danh mục đầu tư chính của Quỹ. Vì trích lập dự phòng được sử dụng để giữ các khoản đầu tư kém thanh khoản, nhà đầu tư không có các quyền mua lại tiêu chuẩn liên quan đến đầu tư trích lập dự phòng mà họ làm đối với danh mục đầu tư chính của Quỹ. Các lợi nhuận hoặc thua lỗ từ việc đầu tư được phân bổ trên một cơ sở "theo tỷ lệ" duy nhất đối với những người là các nhà đầu tư tại thời điểm đầu tư được trích lập dự phòng và không được chia sẻ với các nhà đầu tư mới. Các quỹ thường mang theo tài sản trích lập dự phòng "chi phí" cho các mục đích của tính toán các phí quản lý và báo cáo giá trị tài sản ròng. Điều này cho phép các nhà quản lý quỹ tránh cố gắng xác định giá trị của các đầu tư cơ bản, có thể không luôn luôn có một giá trị thị trường có sẵn.
Trích lập dự phòng đã được sử dụng rộng rãi bởi các quỹ phòng hộ trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 trong bối cảnh ngập lụt những yêu cầu rút tiền. Trích lập dự phòng cho phép các nhà quản lý quỹ đặt xa các chứng khoán kém thanh khoản cho đến khi thanh khoản thị trường được cải thiện, một động thái nhằm giảm tổn thất. Mặc dù những lợi ích này, một số nhà đầu tư phàn nàn rằng việc thực hành đã bị lạm dụng và không luôn luôn minh bạch.
Quản lý nhà nước.
Các quỹ phòng hộ phải phù hợp với quy định pháp luật quốc gia, tiểu bang và liên bang trong vị trí tương ứng của chúng. Các quy định và hạn chế của Mỹ áp dụng cho các quỹ phòng hộ khác với các quỹ tương hỗ của nó. Theo một báo cáo của Tổ chức quốc tế các Ủy ban Chứng khoán hình thức phổ biến nhất của quy định gắn liền với các hạn chế lên các nhà tư vấn tài chính và nhà quản lý quỹ phòng hộ trong một nỗ lực để giảm thiểu gian lận khách hàng. Mặt khác, các quỹ phòng hộ Hoa Kỳ được miễn nhiều yêu cầu đăng ký và báo cáo tiêu chuẩn bởi vì họ chỉ chấp nhận các nhà đầu tư được công nhận. Trong năm 2010, các quy định đã được ban hành ở Mỹ và Liên minh châu Âu, trong đó giới thiệu các yêu cầu báo cáo quỹ phòng hộ bổ sung. Chúng bao gồm Đạo luật Cải cách Phố U-ôn Dodd-Frank của Mỹ and European Alternative Investment Fund Managers Directive.
Châu Âu.
Trong Liên minh châu Âu (EU), các quỹ phòng hộ chủ yếu được quy định thông qua các nhà quản lý các tư vấn viên. Tại Vương quốc Anh, nơi 80% các quỹ phòng hộ của châu Âu đóng trụ sở, các nhà quản lý quỹ phòng hộ phải được ủy quyền và được quy định của Cơ quan dịch vụ tài chính (FSA). Mỗi quốc gia có những hạn chế cụ thể của họ về hoạt động quỹ phòng hộ, bao gồm kiểm soát việc sử dụng của các phái sinh tại Bồ Đào Nha, và các giới hạn về đòn bẩy tại Pháp.
Trong tháng 11 năm 2010, EU đã thông qua một đạo luật sẽ yêu cầu tất cả các nhà quản lý quỹ phòng hộ EU phải đăng ký với cơ quan quản lý quốc gia. Chỉ thị các nhà quản lý Quỹ đầu tư thay thế (AIFMD) của EU là chỉ thị của EU đầu tiên tập trung vào các nhà quản lý quỹ phòng hộ. Theo EU, mục đích của chỉ thị là cung cấp giám sát và kiểm soát lớn hơn các quỹ đầu tư thay thế.
Chỉ thị yêu cầu các nhà quản lý tiết lộ thêm thông tin, trên cơ sở thường xuyên hơn. Nó cũng chỉ đạo các nhà quản lý quỹ phòng hộ nắm giữ một lượng lớn vốn. Tất cả các nhà quản lý quỹ phòng hộ trong EU có thể bị các hạn chế khả năng trong đầu tư sử dụng đòn bẩy. Chỉ thị giới thiệu một "hộ chiếu" cho các quỹ phòng hộ có thẩm quyền ở một nước EU để hoạt động trên toàn EU. Phạm vi của AIFMD là rộng lớn và bao gồm các nhà quản lý nằm trong EU cũng như các nhà quản lý không thuộc EU mà tiếp thị quỹ của họ cho các nhà đầu tư châu Âu. Một khía cạnh của AIFMD mà thách thức các thực hành đã được thiết lập trong lĩnh vực quỹ phòng hộ là hạn chế tiềm năng của thù lao thông qua các quy định hoãn thưởng và clawback. Dưới Chỉ đạo người quản lý Quỹ Đầu tư thay thế năm 2010 của Liên minh châu Âu, các quỹ phòng hộ hải ngoại sử dụng các nhà môi giới sơ cấp như là nơi lưu ký được yêu cầu phải sử dụng các tổ chức tín dụng đăng ký tại EU trước khi họ có thể được bán trong Liên minh châu Âu. Các yêu cầu quy định của AIFMD về cơ bản sẽ áp đặt các quy định tương đương đối với các quỹ đầu tư không thuộc EU, nếu họ muốn hoạt động tại thị trường EU.
Việt Nam.
Tại Việt Nam, quỹ phòng hộ được gọi là quỹ thành viên và chỉ dành cho các nhà đầu tư tổ chức
Các nước khác.
Một số quỹ phòng hộ được thành lập trong các trung tâm hải ngoại như Quần đảo Cayman, Dublin, Luxembourg, Quần đảo Virgin thuộc Anh và Bermuda có các quy định khác liên quan đến các nhà đầu tư không được công nhận, bảo mật thông tin khách hàng và sự độc lập của các nhà quản lý quỹ.
Tại Nam Phi, các nhà quản lý quỹ phòng hộ phải được phê duyệt bởi và được đăng ký với Cục dịch vụ tài chính (FSB).
Hiệu suất.
Đo lường.
Các thống kê hiệu suất cho các quỹ phòng hộ cụ thể là khó khăn để có được, do các quỹ này có lịch sử không bị yêu cầu báo cáo hoạt động của họ đến một kho lưu trữ trung tâm và các hạn chế đối với các chào bán công chúng và quảng cáo đã khiến nhiều nhà quản lý từ chối cung cấp thông tin hoạt động công khai. Tuy nhiên, các tóm tắt hiệu suất quỹ phòng hộ cụ thể thỉnh thoảng có sẵn trong các tạp chí công nghiệp và các cơ sở dữ liệu. và hãng tư vấn đầu tư Hennessee Group.
Một ước tính là quỹ phòng hộ trung bình hoàn vốn 11.4% mỗi năm, đại diện hoàn vốn 6.7% bên trên hiệu suất thị trường tổng thể trước phí, trên cơ sở dữ liệu hiệu quả từ 8.400 quỹ phòng hộ. Một ước tính khác là giữa tháng 1 năm 2000 và tháng 12 năm 2009 các quỹ phòng hộ vượt trội đáng kể so với các khoản đầu tư khác ít biến động, với các cổ phiếu giảm -2.62% mỗi năm trong thập kỷ và các quỹ phòng hộ tăng 6,54%.
Hiệu suất quỹ phòng hộ được tính bằng cách so sánh lợi nhuận của họ với ước tính rủi ro của họ. Các thước đo phổ biến là tỷ lệ Sharpe., Tỷ lệ Treynor và Yếu tố an-pha của Jensen. Những phép đo này làm việc tốt nhất khi các hoàn vốn theo các phân phối bình thường mà không có tự tương liên, và các giả định này thường không được đáp ứng trong thực tế.
Các đo lường hiệu quả mới đã được giới thiệu cố gắng để giải quyết một số vấn đề lý thuyết với các chỉ số truyền thống, bao gồm: tỷ lệ Sharpe thay đổi; tỷ lệ Omega được giới thiệu bởi Keating và Shadwick năm 2002; Hiệu quả được điều chỉnh rủi ro các đầu tư thay thế (AIRAP) được xuất bản bởi Sharma năm 2004; và Kappa được phát triển bởi Kaplan và Knowles năm 2004.
Ảnh hưởng phụ.
Có một cuộc tranh luận về việc liệu Yếu tố Alpha (yếu tố kỹ năng của nhà quản lý trong hoạt động) có bị pha loãng bởi sự mở rộng của ngành công nghiệp quỹ phòng hộ hay không. Hai lý do được đưa ra. Thứ nhất, sự gia tăng về khối lượng trao đổi có thể đã và đang giảm các bất thường thị trường mà là một nguồn của hiệu suất quỹ phòng hộ. Thứ hai, mô hình thù lao đang thu hút thêm nhiều nhà quản lý, có thể pha loãng các tài năng có sẵn trong ngành công nghiệp này.
Chỉ số quỹ phòng hộ.
Các chỉ số theo dõi hoàn vốn quỹ phòng hộ, để phát triển, được gọi là Không thể đầu tư, Có thể đầu tư và Clone.
Các chỉ số đóng một vai trò trung tâm và rõ ràng trong các thị trường tài sản truyền thống, nơi chúng được chấp nhận rộng rãi như là đại diện của danh mục đầu tư cơ bản của chúng. các sản phẩm quỹ chỉ số vốn chủ sở hữu và nợ cung cấp truy cập thể đầu tư sang các thị trường phát triển nhất trong các loại tài sản này. Tuy nhiên, các quỹ phòng hộ, được quản lý tích cực, nên theo dõi là không thể. Các chỉ số quỹ phòng hộ không thể đầu tư trên mặt khác có thể là đại diện nhiều hơn hoặc ít hơn, nhưng dữ liệu hoàn vốn trên nhiều nhóm tham chiếu của các quỹ là phi công cộng. Điều này có thể dẫn đến các ước tính sai lệch về hoàn vốn của chúng. Trong một nỗ lực để giải quyết vấn đề này, chỉ số nhân bản đã được tạo ra trong một nỗ lực để nhân rộng các tính chất thống kê của các quỹ phòng hộ mà không được dựa trực tiếp trên số liệu hoàn vốn của họ. Không có cái nào trong những phương pháp tiếp cận này đạt được độ chính xác của các chỉ số trong các loại tài sản khác mà đối với chúng có số liệu công bố hoàn chỉnh hơn liên quan đến hoàn vốn cơ bản.
Chỉ số không thể đầu tư.
Chỉ số không thể đầu tư được chỉ định trong tự nhiên, và nhằm mục đích để đại diện cho hiệu quả của một số cơ sở dữ liệu của các quỹ phòng hộ sử dụng một số biện pháp như trung bình, bình quân hoặc bình quân gia quyền từ một cơ sở dữ liệu quỹ phòng hộ. Cơ sở dữ liệu có tiêu chí lựa chọn và phương pháp xây dựng đa dạng, và không cơ sở dữ liệu duy nhất nắm bắt tất cả các quỹ. Điều này dẫn đến các khác biệt đáng kể trong hiệu quả báo cáo giữa các chỉ số khác nhau.
Mặc dù chúng mong muốn được đại diện, các chỉ số không thể đầu tư bị một danh sách dài và phần lớn là không thể tránh khỏi của các thành kiến.
Sự tham gia của các quỹ phòng hộ trong một cơ sở dữ liệu là tự nguyện, dẫn đến thiên vị tự lựa chọn vì những quỹ này mà chọn báo cáo có thể không điển hình của toàn bộ các quỹ. Ví dụ, một số không báo cáo vì kết quả nghèo nàn hoặc vì họ đã đạt đến quy mô mục tiêu của họ và không muốn gây quỹ hơn nữa..
Thời gian sống ngắn của nhiều quỹ phòng hộ có nghĩa là có nhiều quỹ mới và nhiều quỹ ra đi mỗi năm, trong đó đặt ra vấn đề của thiên vị sống sót. Nếu chúng ta chỉ xem xét các quỹ còn sống sót đến nay, chúng ta sẽ đánh giá quá cao hoàn vốn quá khứ vì rất nhiều quỹ hiệu quả tồi tệ nhất đã không còn tồn tại, và sự kết hợp quan sát được giữa độ trẻ của quỹ và hiệu quả của quỹ cho thấy rằng thiên vị này có thể là đáng kể.
Khi một quỹ được thêm vào một cơ sở dữ liệu cho lần đầu tiên, tất cả hoặc một phần của dữ liệu lịch sử của nó được ghi lại ex-post trong cơ sở dữ liệu. Có khả năng là các quỹ chỉ công bố kết quả của họ khi họ thuận lợi, do đó, hiệu quả trung bình được trình bày bởi các quỹ này trong thời gian ủ bệnh của họ được thổi phồng. Điều này được gọi là "thiên vị lịch sử tức thời" hoặc "thiên vị backfill".
Chỉ số có thể đầu tư.
Chỉ số có thể đầu tư là một nỗ lực để giảm những vấn đề này bằng cách đảm bảo rằng sự trở lại của chỉ số có sẵn cho các cổ đông. Để tạo ra một chỉ số có thể đầu tư, các nhà cung cấp chỉ số lựa chọn các quỹ và phát triển các sản phẩm có cấu trúc hay các công cụ phái sinh mà cung cấp hiệu quả của chỉ số. Khi các nhà đầu tư mua các sản phẩm nỳ nhà cung cấp chỉ số làm các đầu tư vào các quỹ cơ bản, bằng cách làm một chỉ số thể đầu tư tương tự như trong một số cách đối với một quỹ của danh mục đầu tư quỹ phòng hộ.
Để thực hiện các chỉ số có thể đầu tư, các quỹ phòng hộ phải đồng ý chấp nhận các đầu tư trên các điều khoản được đưa ra bởi người xây dựng. Để làm cho chỉ số này linh động, những điều khoản này phải bao gồm các điều khoản về các chuộc lại mà một số nhà quản lý có thể xem là quá nặng nề để có thể chấp nhận được. Điều này có nghĩa là chỉ số có thể đầu tư không đại diện cho tính vạn năng tổng của các quỹ phòng hộ. Nghiêm trọng nhất, chúng không đại diện cho các nhà quản lý thành công hơn, thường không chấp nhận các giao thức đầu tư như vậy.
Nhân rộng quỹ phòng hộ.
Bổ sung mới nhất cho lĩnh vực này tiếp cận vấn đề theo một cách khác. Thay vì phản ánh hiệu quả hoạt động của các quỹ phòng hộ thực tế họ có cách tiếp cận thống kê để phân tích hoàn vốn lịch sử quỹ phòng hộ, và sử dụng nó để xây dựng một mô hình về cách hoàn vốn quỹ phòng hộ đáp ứng với sự chuyển động của các tài sản tài chính có thể đầu tư. Mô hình này sau đó được sử dụng để xây dựng một danh mục có thể đầu tư của các tài sản đó. Điều này làm nên chỉ số có thể đầu tư, và về nguyên tắc chúng có thể làm đại diện như cơ sở dữ liệu quỹ phòng hộ mà từ đó chúng đã được xây dựng.
Tuy nhiên, các chỉ số nhân bản này dựa trên một quá trình mô hình hóa thống kê. Các chỉ số đó có một lịch sử quá ngắn để chỉ ra xem liệu cách tiếp cận này có được coi là thành công hay không.
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính 2007/08.
Các quỹ đầu tư đã công bố hoàn vốn đáng thất vọng trong năm 2008, thế nhưng hoàn vốn quỹ phòng hộ trung bình -18,65% (hoàn vốn Chỉ số hỗn hợp gia quyền Quỹ HFRI) là tốt hơn nhiều so với các hoàn vốn được tạo ra bởi hầu hết các tài sản khác với tiền mặt hoặc tương đương tiền. Tổng hoàn vốn S&P 500 là -37,00% trong năm 2008, và đó là một trong những chỉ số vốn cổ phần thực hiện tốt nhất trên thế giới. Một số thị trường vốn cổ phần mất hơn một nửa giá trị của họ. Chỉ số nợ của hầu hết công ty trong và ngoài nước cũng bị trong năm 2008, công bố lỗ tồi tệ hơn đáng kể so với quỹ phòng hộ trung bình. Các quỹ tương hỗ cũng thực hiện tồi tệ hơn nhiều so với các quỹ phòng hộ trong năm 2008. Theo Lipper, quỹ tương hỗ vốn cổ phần trong nước của Mỹ trung bình giảm 37,6% trong năm 2008. Quỹ tương hỗ vốn cổ phần quốc tế trung bình giảm 45,8%. Quỹ tương hỗ lĩnh vực trung bình giảm 39,7%. Quỹ tương hỗ Trung Quốc trung bình giảm 52,7% và quỹ tương hỗ Mỹ Latinh trung bình giảm mạnh 57,3%. Bất động sản, cả dân cư và thương mại, cũng bị giảm đáng kể trong năm 2008. Tóm lại, các quỹ phòng hộ vượt trội so với nhiều lựa chọn đầu tư rủi ro tương tự trong năm 2008.
Các cuộc tranh luận và tranh cãi.
Rủi ro hệ thống.
Rủi ro hệ thống đề cập đến nguy cơ bất ổn trên toàn bộ hệ thống tài chính, chứ không phải trong một công ty duy nhất. Nguy cơ như vậy có thể xảy ra sau một sự kiện hoặc các sự kiện gây bất ổn ảnh hưởng đến một nhóm các tổ chức tài chính được liên kết thông qua hoạt động đầu tư. Các tổ chức như National Bureau of Economic Research và Ngân hàng Trung ương châu Âu đã tố cáo rằng các quỹ phòng hộ gây ra rủi ro hệ thống cho khu vực tài chính, và sau sự thất bại của quỹ phòng hộ Long-Term Capital Management (LTCM) trong năm 1998 đã có quan tâm rộng rãi về khả năng rủi ro hệ thống nếu thất bại quỹ phòng hộ dẫn đến sự thất bại của các đối tác của nó. (Vì nó xảy ra, không có hỗ trợ tài chính được cung cấp cho LTCM của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, vì vậy không có chi phí trực tiếp đối với người nộp thuế Mỹ, nhưng một gói cứu trợ lớn đã được gắn kết bởi một số tổ chức tài chính.)
Tuy nhiên, những cáo buộc này đang bị tranh chấp rộng rãi trong ngành tài chính. Nhà văn tài chính Sebastian Mallaby đã nói rằng các quỹ đầu tư có xu hướng "đủ nhỏ đối với sụp đổ", vì hầu hết là tương đối nhỏ về tài sản họ quản lý, và họ thường hoạt động với đòn bẩy thấp, do đó hạn chế các tác hại đến hệ thống kinh tế có thể xảy ra khi một trong số họ thất bại. Các quỹ phòng hộ thất bại không thường xuyên, và nhiều quỹ phòng hộ đã thất bại trong cuộc khủng hoảng tài chính. Trong điều trần trước Ủy ban Dịch vụ tài chính Hạ viện năm 2009, Ben Bernanke, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang nói rằng ông "sẽ không nghĩ rằng bất kỳ quỹ phòng hộ, quỹ vốn cổ phần tư nhân nầo sẽ trở thành một công ty có tầm quan trọng hệ thống một cách cá nhân".
Tuy nhiên, mặc dù các quỹ phòng hộ phải nỗ lực để giảm tỷ lệ rủi ro cho phần thưởng, không tránh khỏi vẫn còn một số rủi ro. Rủi ro hệ thống được tăng lên trong một cuộc khủng hoảng nếu có hành vi "bầy đàn", làm cho một số quỹ phòng hộ tương tự làm ra thua lỗ trong các trao đổi tương tự. Sử dụng rộng rãi của đòn bẩy (vay để khuếch đại lợi nhuận) có thể dẫn đến các thanh lý bắt buộc trong một cuộc khủng hoảng, có thể trầm trọng hơn do bản chất kém thanh khoản của một số khoản đầu tư. Sự liên kết chặt chẽ của các quỹ phòng hộ với các nhà môi giới sơ cấp của họ, điển hình là các ngân hàng đầu tư, có thể dẫn đến hiệu ứng domino trong một cuộc khủng hoảng, và thực sự không còn các ngân hàng đối tác có thể đóng băng các quỹ phòng hộ. Tổng số tiền lớn tham gia - trên toàn cầu, hơn một nghìn tỷ đô la Mỹ, và được khuếch đại bởi đòn bẩy - thêm vào tất cả những rủi ro này.
Tháng Mười năm 2009, Financial Services Authority (FSA) Vương quốc Anh bắt đầu điều tra sáu tháng về những rủi ro do các quỹ phòng hộ và các đối tác của họ. Cuộc khảo sát tháng 7 năm 2011 đã xem xét những rủi ro bất ổn thị trường và rủi ro đối tác gây ra những tổn thất cho một lây lan rộng của hơn 100 quỹ được quản lý bởi khoảng 50 nhà quản lý, với tổng tài sản khoảng 390 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tài sản thuộc quyền quản lý của các quỹ phòng hộ toàn cầu. Nó kết luận rằng rủi ro được hạn chế và đã giảm như kết quả "trong đó có việc" của các biên lớn hơn được yêu cầu của các ngân hàng đối tác, nhưng có thể thay đổi nhanh chóng theo điều kiện thị trường. Trong các điều kiện thị trường căng thẳng, các nhà đầu tư có thể đột nhiên rút một khoản tiền lớn, dẫn đến việc bán tài sản cưỡng bức. Điều này có thể gây ra các vấn đề về tính thanh khoản và giá cả nếu nó xảy ra trên một số quỹ hoặc trong một quỹ lớn có đòn bẩy cao.
Tính minh bạch.
Như các tổ chức tư nhân, quy định nhẹ, các quỹ phòng hộ không có nghĩa vụ công bố các hoạt động của họ cho các bên thứ ba. Điều này trái ngược với một quỹ tương hỗ (hoặc tín thác đơn vị) bị pháp định, thường sẽ phải đáp ứng yêu cầu quy định về công khai. Một nhà đầu tư trong một quỹ phòng hộ thường có thể truy cập trực tiếp đến tư vấn đầu tư của quỹ, và có thể thưởng thức nhiều báo cáo cá nhân hoá hơn các nhà đầu tư trong các quỹ đầu tư nhỏ lẻ. Điều này có thể bao gồm các cuộc thảo luận chi tiết về các rủi ro giả định và các vị thế quan trọng. Tuy nhiên, mức độ công bố cao này là không có sẵn cho người không phải là nhà đầu tư, góp phần phòng ngừa của quỹ phòng hộ cho tính bí mật, trong khi một số quỹ phòng hộ có tính minh bạch rất hạn chế thậm chí đối với cả các nhà đầu tư.
Các quỹ có thể chọn để báo cáo một số thông tin trong sự quan tâm của các nhà đầu tư tuyển dụng bổ sung. Phần lớn các dữ liệu có sẵn trong cơ sở dữ liệu hợp nhất là tự báo cáo và chưa được xác minh. Một nghiên cứu được thực hiện trên hai cơ sở dữ liệu lớn có chứa dữ liệu quỹ phòng hộ. Nghiên cứu lưu ý rằng 465 quỹ phổ thông có sự khác biệt đáng kể trong thông tin báo cáo (ví dụ như hoàn vốn, ngày thành lập, giá trị tài sản ròng, phí ưu đãi, phí quản lý, phong cách đầu tư, vv) và có 5% số hoàn vốn và 5% số NAV là khác nhau đáng kể. Với những hạn chế này, các nhà đầu tư phải làm nghiên cứu riêng của họ, mà có thể chi phí trên quy mô 50.000 USD.
Một số quỹ đầu tư, chủ yếu là Mỹ, không sử dụng bên thứ ba giám sát tài sản hoặc là người quản trị của họ (những người sẽ tính toán NAV của quỹ). Điều này có thể dẫn đến xung đột lợi ích, và trong trường hợp nặng có thể hỗ trợ gian lận. Trong một ví dụ gần đây, Kirk Wright của International Management Associates đã bị cáo buộc gian lận điện thư và các vi phạm chứng khoán khác mà bị cáo buộc gian lận của khách hàng gần 180 triệu USD.
Trong tháng 12 năm 2008, Bernard Madoff đã bị bắt vì vận hành một sơ đồ Pôn-di 50 tỷ USD mà được cho là một quỹ phòng hộ, và một số quỹ phòng hộ trung chuyển, trong đó lớn nhất là Fairfield Sentry, chuyển tiền cho nó.
Cấu kết với các nhà phân tích.
Vào tháng 6 năm 2006, được thúc đẩy bởi một lá thư từ Gary J. Aguirre, các Ủy ban Tư pháp Thượng viện bắt đầu một cuộc điều tra mối liên hệ giữa các quỹ đầu tư và các nhà phân tích độc lập. Aguirre bị sa thải khỏi công việc của mình với SEC khi, như điều tra viên chính của giao dịch nội gián cáo buộc chống lại Pequot Capital Management, ông đã cố gắng để phỏng vấn John Mack, sau đó được xem xét làm CEO tại Morgan Stanley. Ủy ban pháp chế và Ủy ban Tài chính Thượng viện Hoa Kỳ đã phát hành một báo cáo gay gắt trong năm 2007, phát hiện ra rằng Aguirre đã bị đuổi việc bất hợp pháp trong sự trả thù cho việc theo đuổi Mack của ông và trong năm 2009, SEC đã buộc phải mở lại trường hợp của mình chống lại Pequot. Pequot đã giải quyết với SEC 28 triệu USD và Arthur J. Samberg, Giám đốc đầu tư của Pequot, đã bị cấm làm việc như một nhà tư vấn đầu tư. Pequot bị đóng cửa dưới sức ép của các cuộc điều tra.
Thực hành hệ thống của các quỹ phòng hộ nộp các câu hỏi điện tử định kỳ cho các nhà phân tích cổ phiếu như một phần của nghiên cứu thị trường đã được báo cáo trong của " The New York Times" trong tháng 7 năm 2012. Theo báo cáo này, một động lực cho các câu hỏi là nhằm thu được những thông tin chủ quan không có sẵn để thông báo sớm công chúng và thông báo sớm có thể về các khuyến nghị giao dịch mà có thể tạo ra các trào lưu thị trường trong ngắn hạn.
Định giá quá mức các tài sản.
Vào tháng 10 năm 2012, Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái Hoa Kỳ buộc một quỹ phòng hộ của New Jersey, Yorkville Advisors LLC, các nhà phát triển của Standby Equity Distribution Agreement và hai giám đốc của nó tội danh lừa đảo, bởi ý đồ để định giá quá mức các tài sản.
Giá trị danh mục đầu tư hiệu quả trung dung/mâu thuẫn.
Theo lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại, các nhà đầu tư hợp lý sẽ tìm cách giữ danh mục đầu tư mà hiệu quả trung dung/mâu thuẫn (có nghĩa là, danh mục đầu tư cung cấp mức hoàn vốn cao nhất cho mỗi đơn vị rủi ro, và mức rủi ro thấp nhất cho mỗi đơn vị hoàn vốn). Một trong những tính năng hấp dẫn của các quỹ phòng hộ (đặc biệt là trung lập thị trường và các quỹ tương tự) là họ đôi khi có một sự tương quan khiêm tốn với các tài sản truyền thống như chứng khoán. Điều này có nghĩa rằng các quỹ phòng hộ có vai trò tiềm năng rất có giá trị trong danh mục đầu tư như các yếu tố đa dạng, làm giảm thiểu rủi ro danh mục đầu tư tổng thể.
Tuy nhiên, có ba lý do tại sao người ta có thể không muốn phân bổ một tỷ lệ cao tài sản vào các quỹ phòng hộ. Những lý do này là:
Một số nghiên cứu cho thấy các quỹ phòng hộ đang đa dạng hóa đủ để xứng đáng đưa vào các danh mục đầu tư, nhưng điều này còn gây tranh cãi ví dụ Mark Kritzman người đã thực hiện một tính toán tối ưu hóa trung bình-mâu thuẫn trên một tập hợp cơ hội mà bao gồm một quỹ chỉ số chứng khoán, một quỹ chỉ số trái phiếu, và mười quỹ phòng hộ giả thuyết. Tôi ưu hóa cho thấy một danh mục đầu tư hiệu quả trung bình-mâu thuẫn không chứa bất kỳ phân bổ nào cho các quỹ phòng hộ, chủ yếu là do tác động của phí thực hiện. Để chứng minh điều này, Kritzman lặp đi lặp lại tối ưu hóa bằng cách sử dụng một giả định rằng các quỹ phòng hộ không có phát sinh phí thực hiện. Kết quả từ tối ưu hóa thứ hai này là một phân bổ 74% cho các quỹ phòng hộ.
Yếu tố khác làm giảm sự hấp dẫn của các quỹ phòng hộ trong một danh mục đầu tư được đa dạng hóa là họ có xu hướng không thực hiện trong các thị trường vốn cổ phần suy giảm, chỉ khi một nhà đầu tư cần một phần của danh mục đầu tư của họ để tăng thêm giá trị. Ví dụ, bào tháng Giêng–tháng Chín năm 2008, chỉ số quỹ phòng hộ Credit Suisse/Tremont đã giảm 9,87%. Theo loạt chỉ số tương tự, thậm chí các quỹ "thiên vị ngắn dành riêng" đã có hoàn vốn -6,08% trong tháng 9 năm 2008. Nói cách khác, mặc dù các tương quan trung bình thấp có thể xuất hiện để làm cho các quỹ phòng hộ hấp dẫn điều này có thể không làm việc trong thời kỳ hỗn loạn, ví dụ xung quanh sự sụp đổ của Lehman Brothers trong tháng 9 năm 2008.
Các hãng quỹ phòng hộ đáng chú ý.
Danh sách các hãng quỹ phòng hộ đáng chú ý: | 1 | null |
Pravda (, "Sự thật") là một tờ báo chính trị của Nga, có liên quan đến Đảng Cộng sản Liên bang Nga. Tờ báo đã được những nhà cách mạng Nga cho ra đời từ trước chiến tranh thế giới thứ nhất và kể từ sau cách mạng Tháng Mười trở thành một tờ báo quan trọng của Liên Xô. Từ 1912 đến 1991, Pravda đảm trách vai trò như một tổ chức trung ương của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga và Đảng Cộng sản Liên Xô. | 1 | null |
Spartacus là một loạt phim truyền hình Mỹ được trình chiếu trên kênh Starz bắt đầu từ ngày 22 tháng 01 năm 2010 và kết thúc vào ngày 12 tháng 4 năm 2013. Bộ phim lấy cảm hứng từ nhân vật lịch sử - Người anh hùng nô lệ Spartacus, một võ sĩ giác đấu người Thracia (73-71 Trước Công nguyên) người đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy lớn lao chống lại chế độ nô lệ của nền Cộng hòa La Mã.
Điều hành sản xuất phim là Steven S. DeKnight và Robert Tapert tập trung vào cơ cấu các sự kiện của cuộc sống mơ hồ của Spartacus và sau đó thêm thắt các chi tiết cho hấp dẫn. Loạt phim truyền hình này được đánh giá là hệ TV-MA vì nội dung phim có quá nhiều cảnh bạo lực chém giết máu me, quá nhiều cảnh tình dục trần trụi và ngôn ngữ thô tục trong phim.
Bộ phim có 04 phần: | 1 | null |
Mùa giải 1905-06 là mùa bóng thứ 35 của The Football League.
Sự kiện.
Sau sự gia tăng số câu lạc bộ tham dự các giải bóng đá Anh từ 36 lên 40, và với việc Doncaster Rovers đã bị xuống hạng từ giải hạng hai, bốn câu lạc bộ mới được tham dự các giải thuộc Liên đoàn bóng đá, cùng với Stockport County. Các câu lạc bộ mới là: Chelsea, Hull City, Leeds City và Clapton Orient. Crystal Palace đã được thành lập trong năm đó nhưng thất bại trong việc tranh cử tham dự giải bóng đá Anh bởi chỉ có một phiếu bầu và thay vào đó bắt đầu sự tồn tại của họ ở giải Nam.
Bristol City, đội duy nhất không thuộc Liên đoàn bóng đá Nam London, mà của bóng đá Birmingham vào thời điểm đó, được thăng hạng Nhất vì là nhà vô địch.
Tháng 3 năm 1906 - Aston Villa đã ký hợp đồng với Herbert Kingaby từ Clapton Orient, với khoản phí không được tiết lộ là 300 bảng (năm 2012: 24.000 bảng) | 1 | null |
Chersonesus (; ; tiếng Nga và Ukraina hiện đại: Херсонес, "Khersones"; cũng được dịch là "Chersonese", "Chersonesos"), trong Hy Lạp Trung Cổ rút gọn lại thành Cherson (Χερσών; Đông Slav cổ: Корсунь, "Korsun") là một thuộc địa Hy Lạp cổ đại được thành lập khoảng năm 2.500 năm trước ở phía tây nam của bán đảo Krym, lúc đó được gọi là Taurica. Thuộc địa này được thành lập vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên bởi những người định cư từ Heraclea Pontica.
Thành phố cổ nằm bên bờ Biển Đen ở vùng ngoại ô của thành phố Sevastopol trên bán đảo Krym của Ukraina (trên thực tế nằm dưới sự kiểm soát của Nga), nơi nó được gọi là "Khersones". Nó là một phần của "Khu bảo tồn quốc gia Tauric Chersonesos". Tên "Chersonesos" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "bán đảo" là mô tả một cách khéo léo địa điểm mà nơi thuộc địa được thành lập. Nó thi thoảng bị nhầm lẫn với "Tauric Chersonese", cái tên thường được áp dụng cho toàn bộ miền nam Krym.
Trong phần lớn thời kỳ cổ điển, Chersonesus là một nền dân chủ cai trị bởi một nhóm các Archon được bầu ra và một hội đồng gọi là "Damiorgi". Thời gian trôi qua, quyền lực dần chỉ tập trung trong tay của các Archon. Một hình thức tuyên thệ nhậm chức từ thế kỷ 3 TCN đã tồn tại cho đến ngày nay. Năm 2013, Chersonesus được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Lịch sử.
Thời cổ đại.
Vào cuối thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, Chersonesus đã trở thành thuộc địa của Vương quốc Bosporos. Sau đó, Đế quốc La Mã chi phối từ giữa thế kỷ 1 trước Công nguyên cho đến năm 370 sau Công nguyên, khi nó bị người Hung chinh phục.
Thời đại Byzantine.
Nó đã thuộc sở hữu của Byzantine trong thời Trung Cổ sớm và chịu một cuộc bao vây bởi người Göktürk trong năm 581. Việc cai trị của Byzantine có phần là đơn giản hơn khi chỉ có một đơn vị đồn trú nhỏ để bảo vệ thị trấn hơn là để kiểm soát nó. Đồn trú này như là một điểm quan sát các bộ tộc man rợ, và sự cô lập của nó đã làm cho nó trở thành một nơi lưu vong phổ biến cho những cơn giận dữ của chính quyền La Mã và hậu Byzantine. Trong số các "tù nhân", nổi tiếng hơn cả là Đức Giáo hoàng Clêmentê I và Đức Giáo hoàng Martin I, và người đã lật đổ Byzantine, Hoàng đế Justinian II. Theo Theophanes the Confessor và những người khác, Chersonesus là nơi cư trú của một thống đốc Khazar ("tudun") vào cuối thế kỷ thứ 7.
Trong năm 833, Hoàng đế Theophilus gửi cho các nhà quý tộc Petronas Kamateros, người gần đây đã giám sát việc xây dựng các pháo đài của Khazar ở Sarkel, để kiểm soát trực tiếp các thành phố và các vùng lân cận, xây dựng chủ điểm ở Klimata / Cherson. Nó vẫn còn trong tay của Byzantine cho đến năm 980, khi nó được cho là đã rời tới Kiev. Vladimir Đại đế đồng ý sơ tán pháo đài chỉ khi Anna Porphyrogeneta và Basileios II kết hôn. Điều này đã gây ra một vụ bê bối ở Constantinople, vì một nàng công chúa hoàng gia chưa bao giờ được phép kết hôn với Hy Lạp. Như một điều kiện tiên quyết để giải quyết hôn nhân, Vladimir được rửa tội ở đây năm 988, do đó mở đường cho Thiên Chúa hóa của Kievan Rus'. Sau đó Korsun đã được sơ tán.
Kể từ khi chiến dịch này không được ghi lại trong các nguồn tiếng Hy Lạp, các nhà sử học cho rằng thực chất đề cập đến các sự kiện của cuộc chiến tranh Rus'-Byzantine (1043) và một Vladimir khác. Trong thực tế, hầu hết các vật có giá trị bị cướp phá bởi người Xla-vơ ở Korsun' theo cách của họ để Novgorod (có lẽ là Ioakim Korsunianin, giám mục Novgorodian đầu tiên, như họ của ông cho biết quan hệ với Korsun), nơi họ được bảo vệ trong nhà thờ chính tòa Wisdom cho đến thế kỷ 20. Một trong các điều thú vị nhất "Bảo vật Korsun" Korsun Gate, được cho là bị lấy bởi Novgorodians ở Korsun và bây giờ là một phần của Nhà thờ St Sophia.
Sau khi các cuộc Thập tự chinh thứ tư, Chersonesus trở nên phụ thuộc vào đế chế của Trebizond, và sau đó giảm xuống dưới sự kiểm soát Genova trong những năm đầu thế kỷ 13. Trong năm 1299, thị trấn đã bị quân đội của Nogai Khan tấn công. Một thế kỷ sau nó đã bị phá hủy bởi Edigu và đã bị bỏ rơi vĩnh viễn. Trong cuối thế kỷ 19, Nhà thờ St Vladimir (hoàn thành 1892) được xây dựng trên một ngọn đồi nhỏ nhìn ra địa điểm khảo cổ, thiết kế theo phong cách Byzantine, nó được dự định để tưởng nhớ nhà thờ rửa tội của Vladimir.
Địa điểm khảo cổ.
Di tích cổ Chersonesus hiện nay nằm tại một trong những khu vực ngoại ô của Sevastopol. Nó đã được khai quật bởi chính phủ Nga bắt đầu từ năm 1827. Ngày nay, nơi đây là một điểm nổi tiếng thu hút khách du lịch, được bảo vệ bởi nhà nước Ukraina như một công viên khảo cổ học.
Các tòa nhà chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp, La Mã và Byzantine. Bức tường phòng thủ dài khoảng 3,5 km (2,2 dặm), rộng 3,5 - 4 mét, cao từ 8 - 10 mét trong khi các tháp cao từ 10 - 12 mét. Các bức tường bao quanh một diện tích khoảng 30 ha (74 Mẫu Anh). Các tòa nhà bao gồm một giảng đường La Mã và một ngôi đền Hy Lạp.
Vùng đất xung quanh dưới sự kiểm soát của thành phố, gọi là các "Chora", bao gồm vài cây số vuông đất nông nghiệp cổ xưa nhưng đã cằn cỗi, với phần còn lại của máy ép rượu vang và tháp phòng thủ. Theo các nhà khảo cổ, các bằng chứng cho thấy người dân địa phương đã được trả tiền để làm công việc đồng áng thay vì bị bắt làm nô lệ.
Các ngôi mộ được khai quật cho thấy bằng chứng về việc chôn cất người đã chết theo cách khác lạ của những người Hy Lạp. Mỗi phiến đá đánh dấu một ngôi mộ, thay vì toàn bộ gia tài và bức tượng chôn cất, các đồ trang trí chỉ bao gồm thắt lưng và vũ khí. Hơn một nửa số ngôi mộ được các nhà khảo cổ đã tìm thấy có xương trẻ em. Tàn tích bị cháy cho thấy rằng thành phố đã bị cướp bóc và phá hủy.
Trong năm 2007, Chersonesus là một trong bảy kỳ quan của Ukraina.
Ngày 13 tháng 2 năm 2009, Bộ trưởng Quốc phòng Ukraina Yuriy Yekhanurov kêu gọi các hạm đội hải quân Biển Đen của Nga di chuyển kho cơ giới ô tô của mình từ địa điểm này đến nơi khác. Vị trí kho ô tô của hạm đội hải quân Biển Đen Nga là một trong những trở ngại đối với sự bảo tồn di tích để nó có thể trở thành di sản thế giới của UNESCO.
Vương cung Thánh đường.
Năm 1935, đây chính là nhà thờ nổi tiếng nhất được khai quật ở Chersonesus. Tên ban đầu là chưa biết đến nên "1935" là năm nó được tìm thấy được đặt là tên của Vương cung Thánh đường này. Nhà thờ có thể được xây dựng vào thế kỷ thứ 6 trên nền móng của một ngôi đền trước đó, có thể là một giáo đường Do Thái, tự thay thế một ngôi đền nhỏ có niên đại từ những ngày đầu của Kitô giáo. Nhà thờ thường được sử dụng như một hình ảnh đại diện cho Chersonesos. Hình ảnh của nó xuất hiện trên một tờ tiền giấy Ukraina.
Bảo tàng cổ vật.
Bảo tàng có khoảng 200.000 hiện vật từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15, hơn 5.000 trong số đó hiện đang được trưng bày. Bao gồm:
Mối đe dọa.
Sự xâm lấn của các tòa nhà hiện đại trong và xung quanh các địa điểm khảo cổ xưa, kết hợp với việc thiếu kinh phí để ngăn chặn áp lực phát triển, di rời khỏi khu vực Chersonesus.
Trong tháng 10 năm 2010 báo cáo có tựa đề "Saving Our Vanishing Heritage", Quỹ Di sản Toàn cầu xác định Chersonesus là một trong 12 địa điểm trên toàn thế giới có nguy cơ biến mất và phá hủy mà không thể khắc phục được, với nguyên nhân chính là không đủ chi phí quản lý và áp lực phát triển. | 1 | null |
Ngô Phạm Hạnh Thúy, thường được biết đến với nghệ danh Hạnh Thúy (sinh ngày 26 tháng 11 năm 1976), là một nữ diễn viên, nhà biên kịch và đạo diễn sân khấu người Việt Nam.
Tiểu sử và sự nghiệp.
Hạnh Thúy sinh ra tại Bến Tre trong một gia đình có bốn anh chị em.
Cô từng học diễn viên ở trường Nghệ thuật Sân khấu II, khoa diễn viên cùng lớp với Thuý Nga, Việt Hương, Cao Minh Đạt, Tiết Cương… do Nghệ sĩ Minh Nhí chủ nhiệm. Sau đó hoàn thành khoá đạo diễn sân khấu ở trường Cao đẳng Sân khấu Điện ảnh TP HCM với tấm bằng tốt nghiệp loại giỏi.
Từ đó, Hạnh Thuý tham gia ở các vai trò diễn viên, đạo diễn, tác giả cộng tác cùng các đơn vị: Nhà hát kịch Sân khấu nhỏ, sân khấu Hoàng Thái Thanh, sân khấu kịch Hồng Vân, sân khấu Hồng Hạc, các chương trình sân khấu của đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh-HTV và tham gia nhiều vai diễn trong nhiều bộ phim truyền hình, điện ảnh của Việt Nam.
Cô từng đoạt giải "Nữ diễn viên phụ xuất sắc" trong phim điện ảnh "Sống trong sợ hãi" của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. Sau đó vở kịch "Dòng nhớ" - đạo diễn, tác giả Hạnh Thúy - (phóng tác từ truyện ngắn cùng tên của tác giả Nguyễn Ngọc Tư) lại đoạt 7 giải thưởng trong đó có giải "Đạo diễn xuất sắc" và giải Bạc co tác phẩm mang lại thành công ban đầu trong sự nghiệp đạo diễn. Vở diễn Dòng Nhớ cũng mang lại giải B Giải thưởng tác phẩm sân khấu năm 2009.
Hạnh Thúy cũng được biết đến là một diễn viên đa năng khi hóa thân được nhiều thể loại vai: lão, hài, chính kịch và nhiều nhân vật tính cách khác nhau ở nhiều lứa tuổi và được đánh giá cao bởi sự hết mình trong mỗi công việc. Ngoài ra cô còn là một người hoạt động xã hội khá tích cực khi tham gia khá nhiều hoạt động từ thiện và các hoạt động phong trào khác. Cô nhận danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú trong đợt phong tặng của nhà nước năm 2015.
Sự nghiệp sân khấu.
Diễn viên hài.
Và nhiều tác phẩm khác v.v...
Diễn viên kịch.
Và nhiều tác phẩm khác v.v...
Tác giả sân khấu.
Và một số tác phẩm khác v.v...
Đạo diễn sân khấu.
Và một số tác phẩm khác v.v...
Sự nghiệp truyền hình, điện ảnh.
Diễn viên truyền hình.
Và một số phim truyền hình khác v.v...
Đời tư.
Cô kết hôn với nhà điêu khắc Phan Nhất Phương và có 2 cô con gái là Phan Thúy Anh (Xí Muội) (sinh 2006) và Phan Tuệ Anh (Đậu Rồng) (sinh 2013). | 1 | null |
Cung điện Golestan (tiếng Ba Tư: کاخ گلستان, phát âm là "Kakheh Golestan") còn được gọi là Cung điện Gulistan là tổ hợp hoàng gia của triều đại Qajar nằm tại thủ đô của Iran. Đây là di tích lịch sử lâu đời nhất tại Tehran, là một di sản thế giới được UNESCO công nhận.. Cung điện Golestan thuộc về một nhóm các tòa nhà hoàng gia từng được bảo vệ trong trát bùn gắn liền với lịch sử của thành cổ Tehran. Nó bao gồm các khu vườn, tòa nhà hoàng gia, các bộ sưu tập hàng thủ công Iran và các món quà tặng từ châu Âu thế kỷ 18 đến 19.
Lịch sử.
Tổ hợp được xây dựng dưới thời Tahmasp I (1524-1576) của triều đại Safavid (1502-1736), và sau đó được cải tạo bởi Karim Khan Zand (1750-1779). Agha Khan Mohamd Qajar (1742-1797) đã chọn Tehran là thủ đô của vương quốc. Golestan đã trở thành cung điện hoàng gia của Qajar (1794-1925). Từ đó Golestan trở thành nơi ở chính thức của gia đình hoàng gia Qajar. Cung điện được xây dựng lại giống như hiện tại của nó vào năm 1865 bởi "Haji Abol-hasan Mimar Navai".
Trong thời kỳ Pahlavi (1925-1979) Golestan đã được sử dụng để tiếp khách chính của hoàng gia và triều đại Pahlavi đã xây dựng cung điện của mình tại Niavaran. Các nghi lễ quan trọng nhất được tổ chức tại cung điện trong thời đại Pahlavi là lễ đăng quang của Reza Khan (1925-1941) ở Takht-e Marmar và lễ đăng quang của Mohammad Reza Pahlavi (1941-bị lật đổ năm 1979) tại Bảo tàng Hall.
Trong giữa năm 1925 và 1945, phần lớn các tòa của cung điện đã bị phá hủy theo lệnh của Reza Shah. người tin rằng cung điện vào thế kỷ cũ Qajar không nên cản trở sự phát triển của một thành phố hiện đại như Tehran. Vị trí của các tòa nhà thương mại hiện đại những năm 1950 và 1960 đã được dựng lên khiến cung điện Golestan không còn lại nguyên vẹn như trước.
Tổ hợp cung điện.
Tổ hợp Cung điện Golestan bao gồm 17 cung điện, bảo tàng, và tòa nhà. Hầu như tất cả các tổ hợp này được xây dựng trong suốt hơn 200 năm dưới thời vua Qajar nắm quyền. Các cung điện này được sử dụng cho nhiều dịp khác nhau như lễ đăng quang và lễ kỷ niệm quan trọng khác của đất nước.
Dưới đây là các công trình, hạng mục chính của cung điện.
"Sân thượng" của cung điện được gọi là Takht-e Marmar, được xây dựng vào năm 1806 theo lệnh của Fath Ali Shah Qajar (1797-1834). Được trang trí bởi những bức tranh, đá cẩm thạch chạm khắc, ngói, vữa, các tấm gương, gạch men, khắc gỗ, và cửa sổ lưới mang phong cách kiến trúc Iran. Đây là một trong những tòa nhà lâu đời nhất của cung điện. Ngai vàng nằm ở giữa sân thượng ("Iwan"), được làm bằng đá cẩm thạch màu vàng nổi tiếng của tỉnh Yazd.
Ngai vàng được làm bằng 65 miếng đá cẩm thạch và được thiết kế bởi Mirza Baba Naghash Bashi (họa sĩ hàng đầu của Qajar). Mohammad Ebrahim, Royal Mason giám sát việc xây dựng và một số bậc thầy nổi tiếng thời đó cũng tham gia để hoàn thành kiệt tác này. Các chi tiết kiến trúc và đồ trang trí của Takht Marmar (Iwan) được hoàn thành trong triều đại của Fath Ali Shah và Nasser - ol-Din Shah (1848-1896).
Lễ đăng quang của vua Qajar, và các nghi lễ chính thức đã được tổ chức trên sân thượng này (Iwan). Lễ đăng quang cuối cùng được tổ chức tại Takht-e-Marmar là lễ đăng quang của nhà vua tự xưng, Reza Khan Pahlavi vào năm 1925.
Hiện nay, Golestan là kết quả của 400 năm xây dựng và nâng cấp. Các tòa nhà tại địa điểm hiện đại đều có một lịch sử độc đáo.
Ngày 11 tháng 10 năm 2005, của Tổ chức Di sản văn hóa của Iran đệ trình UNESCO công nhận Golestan là di sản thế giới vào năm 2007. Tuy nhiên, phải đến ngày 23 tháng 6 năm 2013 nó mới chính thức được công bố là di sản thế giới trong kỳ họp của UNESCO tại Phnom Penh. Golestan hiện đang được điều hành bởi Tổ chức Di sản văn hóa của Iran. | 1 | null |
Lốc cát, hay còn gọi là quỷ cát là một hiện tượng thiên nhiên đáng sợ, thường xuất hiện ở các vùng sa mạc trên Trái Đất. Lốc cát cũng có thể xuất hiện trên bề mặt có điều kiện tương tự như sa mạc của các hành tinh, ví dụ như Sao Hỏa.
Hình thành.
Lốc cát thường xuất hiện vào tầm trưa, nhất là ở những vùng sa mạc, nơi mặt đất đã trở nên nóng bỏng. Không khí bên trên sa mạc bị nung nóng, bốc lên cao rất nhanh, và khí lạnh ở xung quanh tràn và thế chỗ. Cát bị dòng khí lạnh cuốn lên theo, tạo thành một trận xoáy cát.
Nguồn gốc, tên gọi.
Lốc cát có nhiều tên gọi tùy vùng miền. Ví dụ, ở các bang Tây nam Hoa Kỳ người ta gọi lốc cát là "con quỷ nhảy múa" "(dancing devil)" hoặc "con quỷ mặt trời" "(sun devil)". Tại Thung lũng Chết ở California người ta gọi lốc cát là "mũi khoan cát" "(sand auger)". Tại những đất nước Ả rập, nơi mà lốc cát có thể cao tới hàng trăm mét, người ta gọi chúng là "quỷ dữ" "(djin)".
Miêu tả.
Rồi, thình lình, lốc cát xuất hiện từ mặt đất. Tiếng gió rít, một bức tường cát cao khoảng 30m, có khi đến 2 km, nhưng cũng có khi chỉ có kích cỡ khá nhỏ (cao vài mét và rộng nửa mét). Khi trận xoáy cát này lặng đi thì sẽ có một trận xoáy cát khác nổi lên ở gần đó, cứ thế mà tiếp tục.
Tác động.
Những cơn lốc cát nhỏ có thể phá sập những căn nhà ọp ẹp, ném cát vào mặt những người xung quanh.
Tuy nhiên một số cơn lốc cát lớn có gây nên thiệt hại nặng: | 1 | null |
Các dinh thự Medici là một loạt các tổ hợp dinh thự xây dựng ở vùng nông thôn gần Florence thuộc sở hữu của các thành viên gia đình Medici giữa thế kỷ 15 và thế kỷ 17. Các dinh thự này là những cung điện quốc gia của Medici, rải rác trên lãnh thổ mà gia tộc Medici cai trị, thể hiện quyền lực và sự giàu có của họ. Đây cũng là những khu nghỉ dưỡng, giải trí và vui chơi của các chủ sở hữu, và xa hơn, đây là các trung tâm hoạt động nông nghiệp tại các khu vực xung quanh.
Lịch sử.
Các dinh thự Medici đầu tiên được xây dựng là Dinh thự Trebbio và tại Cafaggiolo, các căn nhà lớn được xây dựng vào thế kỷ 14 trong khu vực Mugello, ban đầu thuộc về gia đình Medici. Trong thế kỷ 15, Cosimo de 'Medici xây dựng dinh thự theo thiết kế của Michelozzo tại Careggi và Fiesole, tòa nhà vẫn còn khá nguyên vẹn, nhưng dãdduowjwc bổ sung các không gian giải trí bao gồm sân, ban công và khu vườn. Lorenzo de 'Medici đã dành thời gian dài tại Dinh thự Careggi. Dần dần, Florence đã trở thành thành phố được bao quanh bởi một tập hợp các dinh thự Medici Với các thành viên khác trong gia tộc Medici thì các dinh thự ở xa hơn của Đại công quốc Toscana. Đến cuối thế kỷ 16, đã có ít nhất 16 dinh thự lớn, với ít nhất là 11 khu vực khác (chủ yếu là đất nông nghiệp hoặc thuộc sở hữu của gia đình Medici trong một thời gian ngắn), cùng với một trang trại và nhà nghỉ săn bắn khắp Toscana. Giusto Utens vẽ một loạt những bức bích họa mô tả các biệt thự Medici chính trong thế kỷ 17, bây giờ được bảo quản bởi Bảo tàng thời đại Firenze.
Các dinh thự Medici nhất là Dinh thự Montevettolini và Dinh thự Artimino, mua trong năm 1595-1596 bởi Ferdinando I trong khi ông mở rộng Dinh thự Castello, Dinh thự Petraia và Dinh thự Ambrogiana.
Danh sách.
Di sản thế giới.
Dưới đây là 12 dinh thự và 2 khu vườn được UNESCO công nhận là Di sản thế giới:
Dinh thự nhỏ.
Ngoài biệt thự, Medici cũng chiếm giữ các tòa nhà sau: | 1 | null |
Total S.A, thường được gọi là Total, là một tập đoàn dầu khí đa quốc gia của Pháp. Đây là một trong sáu công ty dầu khí lớn nhất thế giới. Nó cũng là một nhà sản xuất hóa chất lớn. Công ty có trụ sở chính tại quận La Défense ở Courbevoie, phía Tây Paris. | 1 | null |
Vòi rồng nước (tiếng Anh: waterspout) là hiện tượng khi vòi rồng di chuyển bên trên hồ nước hay biển cả, trông như một cột nước trắng xóa, thường kèm theo sấm sét, có nhiều loại vòi rồng nước khác nhau.
Hình thành và miêu tả.
Vòi rồng nước chủ yếu là hơi nước. Chúng ta nhìn thấy một cột nước bốc lên vì hơi nước bên trong có áp suất cực thấp. Nước bắn ra rất nhiều ở chân cột nước là đám bụi nước hình thành khi vòi rồng đập và mặt hồ nước hay đại dương. Đám bụi nước đó nặng đến hàng chục tấn. Nhiều vòi rồng nước hình thành độc lập, không phụ thuộc vào mưa bão, chúng còn hình thành khi thời tiết tương đối tốt.
Các loại vòi rồng nước.
Hình thành từ nước.
Không phải tất cả vòi rồng nước đều hình thành từ khí xoáy, một số vòi rồng nước thực tế hình thành ngay trên mặt nước. Đây là loại vòi rồng nước chưa được nghiên cứu kĩ. Những vòi rồng nước này không dữ dội như vòi rồng trên cạn, chân của nó rộng không quá 100m, sức gió cũng chỉ tới 80 km/giờ, thường hình thành trong một vùng nước ấm mùa thu.
Quỷ nước.
Một loại vòi rồng nước nhỏ rất hiếm gặp gọi là quỷ nước chỉ xuất hiện trên các hồ nước. Một cơn gió lạnh thổi qua một vùng đồi núi chung quanh và gặp hồ nước ấm, khiến dòng không khí cuộn tròn thành xoáy áp thấp di chuyển ngang mặt hồ.
Tác động.
Vòi rồng nước với sức gió có thể đạt tới 200 km/h. Thỉnh thoảng các vòi rồng, hút cả đống cá và ếch nhái lên cao mang chúng lên cao hàng dặm đường. Bẻ cong thuyền và cuốn người đứng xem ra biển. | 1 | null |
Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi Thượng Quan Thái hậu (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Trong lịch sử, Thượng Quan hoàng hậu nổi tiếng vì đạt được ngôi vị Hoàng hậu khi còn rất trẻ, chỉ vừa lên 6 tuổi. Lên ngôi Hoàng hậu còn trẻ tuổi, đến khi nhận cương vị Hoàng thái hậu thì Thượng Quan hoàng hậu chỉ mới đến 15 tuổi. Trong suốt cuộc đời của mình, bà chứng kiến việc cả dòng họ bên nội và bên ngoại của mình bị tàn sát bởi những việc mưu lập chính trị. Bà thường được nhắc đến như là Bà hoàng trẻ tuổi nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Xuất thân.
Hiếu Chiêu hoàng hậu Thượng Quan thị, người Lũng Tây (nay là Thiên Thủy, Cam Túc). Tổ phụ của bà là Tả Tướng quân An Dương hầu Thượng Quan Kiệt (上官桀). Phụ thân Thượng Quan An (上官安), mẹ là Kính phu nhân Hoắc thị (霍氏), con gái của Đại tư mã Đại tướng quân Hoắc Quang.
Dưới thời Hán Vũ Đế, Thượng Quan Kiệt từng cùng Lý Quảng Lợi lập quân công, sau thăng lên chức Thiếu phủ (少府) rồi là Tả Tướng quân (左將軍), trở thành một trong những danh thần đáng kể thời Hán Vũ Đế. Sau khi Vũ Đế qua đời, Thượng Quang Kiệt cùng Hoắc Quang đều trở thành nhiếp chính cho Hán Chiêu Đế. Nhằm tạo thêm thế lực liên minh mạnh mẽ, Thượng Quan Kiệt kết thông gia với Hoắc Quang, do đó Hoắc Quang đem con gái trưởng là Hoắc thị gả cho con trai Thượng Quan Kiệt là Thượng Quan An.
Do vậy, Thượng Quan thị được sinh ra là cầu nối giữa hai gia tộc này, trở thành cháu nội Thượng Quan Kiệt đồng thời là cháu ngoại của Hoắc Quang.
Nhập cung Hán.
Lập làm Hoàng hậu.
Khi Hán Vũ đế hấp hối (87 TCN), ông đã giao cho Thượng Quan Kiệt và Hoắc Quang cùng làm phụ chính cho Thái tử nối ngôi là Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, khi ấy mới 8 tuổi. Bấy giờ, Chiêu Đế còn quá nhỏ, các đại thần đồng ý tôn Ngạc Ấp công chúa, chị gái của Chiêu Đế, làm người phụ giúp và chăm sóc Chiêu Đế trong cung, giúp Chiêu Đế quyết định chính sự, đồng thời được tôn làm Trưởng công chúa.
Năm Thủy Nguyên thứ 4 (83 TCN), cha bà là Thượng Quan An muốn dựa vào thế lực của Hoắc Quang để đưa bà vào cung làm vợ Hán Chiêu Đế, Thượng Quang An cũng liên kết Hoắc Quang dâng tấu, nhưng tấu này không được duyệt. Cha bà sau đó lại nghe tin Trưởng công chúa để con gái Chu Dương thị nuôi trong cung, đợi thành hôn với Chiêu Đế, nên Thượng Quang An cố gắng không từ bỏ ý định đưa con gái mình làm Hoàng hậu. Gặp có người họ Đinh là tâm phúc của Trưởng công chúa, Thượng Quan An nói rằng:「"Nghe nói Trưởng công chúa có tính toán tuyển lập Hoàng hậu. Ta có một cô con gái, dung mạo đoan chính thanh nhã, được Trưởng công chúa yêu mến. Việc này thành hay không thành, đều nhờ vào các hạ"」. Người họ Đinh đó bẩm lên Trưởng công chúa, quả nhiên sau đó Thượng Quan thị có chỉ nhập cung trở thành Tiệp dư. Sang tháng sau, được lập làm Hoàng hậu. Năm đó, bà mới 6 tuổi và Hán Chiêu Đế cũng mới 12 tuổi, đây là Hoàng hậu nhỏ tuổi nhất trong toàn bộ lịch sử Trung Quốc. Cha bà Thượng Quan An do là quốc trượng, được thụ phong "Tang Nhạc hầu" (桑樂侯), phong thực ấp lên 1.500 hộ, thăng làm "Xa Kỵ tướng quân" (車騎將軍), càng ngày càng ngang ngược kiêu ngạo.
Năm Nguyên Phụng nguyên niên 80 TCN, Thượng Quan An và Thượng Quan Kiệt có tư thù với Hoắc Quang nên lập mưu tạo phản, nhưng bị thất bại, sử gọi đó là Chính biến Nguyên Phụng. Nguyên là sau khi lập được Thượng Quan thị làm Hoàng hậu, Thượng Quan An muốn trả công cho họ Đinh, xin Hoắc Quang phong tước Hầu cho họ Đinh nhưng bị cự tuyệt. Việc này khiến họ Thượng Quan mất mặt, hơn nữa họ Đinh kia là tình nhân của Trưởng công chúa, cũng khiến Trưởng công chúa sinh oán hận Hoắc Quang, vì vậy họ mưu lật đổ Hán Chiêu Đế, lập người anh của Hán Chiêu Đế là Yên vương Lưu Đán lên ngôi. Hán Chiêu Đế lúc này đã trưởng thành, cùng Hoắc Quang âm thầm đề phòng nhà Thượng Quan và chuẩn bị lực lượng phản kháng. Sự việc bị phát giác, Trưởng công chúa và Lưu Đán bị Hán Chiêu Đế ép tự sát, cả nhà Thượng Quan bị giết cả họ.
Về phần Thượng Quan thị, do vẫn còn nhỏ lại là cháu ngoại Hoắc Quang nên vẫn vô sự và tiếp tục được làm Hoàng hậu. Lúc này tuy nhà nội đã bị tận diệt, nhưng tính cách ổn trọng của Thượng Quan hoàng hậu khiến Hoắc Quang yêu thích. Hoắc Quang cũng từ đó muốn cháu ngoại sinh ra Hoàng tử, với quyền hành lớn của mình, ông ngầm lệnh các Ngự y tấu thỉnh, xin Hán Chiêu Đế xa rời nữ sắc, nên trừ Thượng Quan hoàng hậu thì không có cung nhân nào khác gần gũi Hoàng đế, Thượng Quan hoàng hậu cũng từ đó chuyên sủng. Nhưng dẫu vậy, Thượng Quan hoàng hậu vẫn không hề có con.
Phế truất Lưu Hạ.
Năm Nguyên Bình nguyên niên (74 TCN), ngày 17 tháng 4, Hán Chiêu Đế băng hà ở Vị Ương cung, lúc đó chỉ mới 20 tuổi. Bời vì Hán Chiêu Đế qua đời mà không có con, Hoắc Quang đề nghị chọn người trong tông thất vào cung làm hậu tự cho Chiêu Đế, kế thừa Đế vị. Và Hoắc Quang xin lập Xương Ấp vương Lưu Hạ, con trai của Xương Ấp Ai vương Lưu Bác (劉髆) và là cháu nội của Hán Vũ Đế cùng Lý phu nhân lên làm Hoàng thái tử, sau đó tiến hành kế vị ngôi Hoàng đế của Hán Chiêu Đế. Tháng 6, Lưu Hạ nhận Hoàng đế tỉ thụ, tấn tôn Hoàng hậu Thượng Quan thị làm Hoàng thái hậu khi mới 15 tuổi, là Hoàng thái hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử.
Thế nhưng, Lưu Hạ lại là người không đứng đắn. Khi dùng thân phận Hoàng thái tử tùy hành các quan viên đến Trường An tế bái Hán Chiêu Đế, Lưu Hạ lén mua gà, mua vịt ăn và thăm thú các trò chơi bời khác, đặc biệt là ông cùng cung nhân của Hán Chiêu Đế thông dâm, bãi hại đức độ. Sau 27 ngày giữ Hoàng đế tỉ thụ, mặc cho Hoắc Quang cùng quần thần khuyên can, Lưu Hạ vẫn không hề bỏ đi thói xấu, mà ngày càng đổ đốn hơn. Không thể để Đế vị cho một người như vậy, Hoắc Quan đến Vị Ương cung xin Thượng Quan Thái hậu phế truất Lưu Hạ. Hoàng thái hậu chấp nhận. Khi đó, Hoàng thái hậu mặc y phục hoa lệ đoan nhã, ngồi giữa mành trướng, có bày biện võ sĩ mang binh khí, triệu Lưu Hạ đến trước mặt quỳ xuống. Thượng thư lệnh tuyên đọc sớ tấu của Hoắc Quang, hạch tội trạng của Lưu Hạ, Hoàng thái hậu theo đó ban chỉ phế truất Lưu Hạ.
Tháng 7 năm đó, Hoắc Quang dâng sớ tấu xin Thượng Quan Thái hậu lập Đích hoàng tằng tôn (cháu chắt trưởng) của Hán Vũ Đế, cháu nội Lệ Thái tử Lưu Cứ là Lưu Bệnh Dĩ lên kế vị. Hoàng thái hậu có vẻ đồng ý lời tấu của Hoắc Quang, bèn dùng Tông chính phái sứ giả đón Tằng tôn nhập cung, trai giới để tiến hành tiếp nhận Đế vị. Ngày Canh Thân, Tằng tôn Lưu Bệnh Dĩ vào Vị Ương cung triều kiến Hoàng thái hậu, được phong làm "Dương Vũ hầu" (阳武侯). Trong ngày đó, triều thần đến trước mặt Lưu Bệnh Dĩ dâng Hoàng đế tỉ thụ, Dương Vũ hầu Lưu Bệnh Dĩ lên ngôi, tức Hán Tuyên Đế.
Tấu xin lập Tuyên Đế năm ấy có nội dung như sau, nhấn mạnh rõ Tuyên Đế là vào cung làm thừa tự cho Chiêu Đế:
Rất nhiều trang thông tin trên mạng đem Thượng Quan Thái hậu tự động lên làm Thái hoàng thái hậu dưới thời Hán Tuyên Đế, đây là một sự sai lầm do không hiểu chế độ "Nhập tự" của người xưa. Sự nhấn mạnh vấn đề 「Thừa tự; 承嗣」 của Hán Tuyên Đế trong tấu chương của Hoắc Quang rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tôn xưng của Thượng Quan thị trong hoàng thất. Theo đó, vì Hán Tuyên Đế đã nhận Chiêu Đế làm "Người cha thừa tự" để lên ngôi, tức danh xưng 「"Tự phụ"; 嗣父」, Hoàng thái hậu Thượng Quan thị do là Hoàng hậu của Chiêu Đế vẫn trên danh nghĩa là 「"Mẫu hậu"」 của Hán Tuyên Đế, nên được giữ vị trí "Hoàng thái hậu" mà không tự động lên làm "Thái hoàng thái hậu" mặc dù bà đã qua tiếp một đời Hoàng đế và còn nhỏ tuổi hơn cả Tuyên Đế, đây là vì Hán Tuyên Đế vào cung nhận mệnh làm con của Hán Chiêu Đế cùng Thượng Quan Thái hậu để kế vị. Tháng 9 năm ấy, lập Hứa Bình Quân làm Hoàng hậu, Hoàng thái hậu Thượng Quan thị chuyển từ Vị Ương cung sang Trường Lạc cung (長樂宮).
Trường Lạc an dưỡng.
Năm Địa Tiết thứ 2 (68 TCN), ông ngoại Thượng Quan Thái hậu là Hoắc Quang qua đời, bà cùng với Hán Tuyên Đế đích thân đến khóc tang, dùng lễ tôn kính nhất để cúng bái Hoắc Quang. Tuy nhiên chỉ hai năm sau, toàn bộ gia tộc họ Hoắc bị Tuyên Đế giết chết vì mưu giết Thái tử Lưu Thích và ám hại mẹ của Thái tử là Cung Ai hoàng hậu Hứa Bình Quân. Nhà nội và nhà ngoại đều bị liên lụy và xử trảm thảm khốc, Thượng Quan thị trong cung an nhàn sống cho đến hết đời tại Trường Lạc cung. Trong thời gian này, bà cứ an nhiên hưởng tuổi già, trong số các cung nhân hầu hạ bà, có Tài nhân Phó thị, về sau được bà tiến cử cho Thái tử Lưu Thích, chính là Phó Chiêu nghi.
Năm Sơ Nguyên nguyên niên (48 TCN), ngày 10 tháng 1, Hiếu Tuyên hoàng đế băng hà. Sang ngày 29 tháng 1, Thái tử Lưu Thích lên ngôi, Hoàng thái hậu Thượng Quan thị được tôn Thái hoàng thái hậu. Năm Kiến Chiêu thứ 2 (37 TCN), Thái hoàng thái hậu Thượng Quan thị băng hà tại Trường Lạc cung, hưởng thọ 52 tuổi, hợp táng cùng Hán Chiêu Đế ở Bình lăng (平陵).
Tổng cộng, Thượng Quan thị từ khi vào cung đến lúc mất đã trải qua bốn đời Hoàng đế Đại Hán, bà làm Hoàng hậu 9 năm dưới thời Hán Chiêu Đế, trở thành Hoàng thái hậu 27 ngày dưới thời Xương Ấp vương và 25 năm thời Hán Tuyên Đế, cuối cùng là Thái hoàng thái hậu suốt 12 năm dưới triều đại của Hán Nguyên Đế. | 1 | null |
Mỏ muối Bochnia () ở Bochnia, Ba Lan là một trong những mỏ muối lâu đời nhất trên thể giới. Đây là phần mở rộng của Mỏ muối Wieliczka (đã được công nhận vào năm 1978), ghi vào danh sách Di sản thế giới năm 2013, để hợp nhất thành di sản Mỏ muối Wieliczka và Bochnia. Các lâu đài của các thợ làm muối Wieliczka cũng đã là tài sản được thêm vào di sản này. Các mỏ muối Wieliczka-Bochnia được khai thác từ thế kỷ 13 và là mỏ muối lâu đời nhất ở châu Âu. Trải rộng trên 300 km bao gồm các phòng trưng bày với nhà thờ dưới lòng đất, nhà kho... Ngoài ra là các bàn thờ và các bức tượng được tạc vào muối, hành hương tại hai mỏ muối này đưa con người về với quá khứ của một nền công nghiệp lớn đã phát triển cách đây hơn 700 năm.
Mỏ được Bochnia thành lập vào giữa thế kỷ 12 và 13 sau khi muối được phát hiện ở Bochnia, và trở thành một mỏ muối của công ty khai thác mỏ Hoàng gia Krakowskie. Khu mỏ đã đóng cửa một thời gian sau Thế chiến I. Năm 1981, nó được công nhận là di tích, di sản quốc gia.
Hầm mỏ này có chiều dài khoảng 4,5 km (2,8 dặm), chiều sâu bên dưới bề mặt từ 330-468 mét, ở 16 cấp độ khác nhau. August Passage là tuyến đường chính trong mỏ cùng các tuyến đường giao thông vận tải khác nhỏ hơn trong mỏ. Nó chạy từ phía đông đến phía tây của mỏ, kết nối trong một đường hầm ngầm phía dưới kết thúc của hai trục đường Campi và Sutoris. Phần đầu tiên của nó, mở rộng giữa Chute Rabsztyn và trục Campi được xây dựng trong những năm 1723-1743, với một thiết kế của Jan Gottfried. Thành tựu to lớn của ông là đã điều chỉnh các tuyến đường trong mỏ bằng cách đảm bảo chúng thẳng và bằng phẳng. Vì vậy, Passage ngày đó có thể đạt đến chiều dài gần 3 km. Phòng khai quật, trục và các con đường tạo thành một thành phố dưới lòng đất, ngày nay đã mở cửa cho khách tham quan. Căn phòng lớn nhất đã được chuyển đổi thành một viện điều dưỡng.
Trong năm 2010, mỏ muối được đề nghị thêm vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO như là một phần mở rộng của Mỏ muối Wieliczka được công nhận vào năm 1978. Nhưng mỏ muối này phải đến năm 2013 mới chính thức được công nhận. | 1 | null |
Cơn tố (tiếng Anh: "Squall"), gọi tắt là tố (thuật ngữ ít phổ biến trong văn nói) là hiện tượng gió tăng tốc đột ngột, hướng cũng thay đổi bất chợt, nhiệt độ không khí giảm mạnh, độ ẩm tăng nhanh thường kèm theo dông, mưa rào hoặc mưa đá.
Hình thành và miêu tả.
Những đám mây có chân mây tối, tơi tả, thấp và thay đổi hình dạng liên tục báo trước tố sắp xảy ra. Tố hình thành khi không khí lạnh tràn vào vùng nóng và không khí nóng lên đột ngột. Tố thường xảy ra chừng vài phút. | 1 | null |
Bão biển là những cơn bão siêu mạnh, lớn nhất và có sức tàn phá khủng khiếp trên hành tinh.
Hình thành và miêu tả.
Một cơn dông hình thành trên một vùng xích đạo, ví dụ Equador. Tiếp theo, nhờ những cơn gió mạnh thổi từ đại dương, ví dụ Thái Bình Dương, nó sẽ tiến về phía tây. Ở đó, nó sẽ gặp những điều kiện cần thiết để trở thành một cơn bão mạnh rồi thành cơn bão biển. Điều kiện hình thành là nhiệt độ nước biển phải từ 27 độ C trở lên. Để nước biển lên đến nhiệt độ này phải gần mất hết mùa hè, đó là lý do bão biển trên Thái Bình Dương thường diễn ra từ cuối hè tới cuối thu.
Phát triển.
Khi gió xoáy ở gần trung tâm cơn bão đạt tới vận tốc 120 km/giờ, nó chính thức được gọi là bão biển. Không khí bị chuyển động nhanh hơn khi bị xoáy vào tâm bão. Vì thế cơn bão càng lớn, trung bình trải trên một đường kính 500-800, sức gió càng mạnh.
Tác hại.
Mưa lớn.
Những đám mây bão trút xuống một lượng nước khổng lồ. Năm 1998, cơn bão biển Mitch giết chết 11 ngàn người, trút xuống lượng nước tới 1900mm trong suốt 11 ngày. Vì thế, sau mỗi cơn bão là xảy ra lụt lội nghiêm trọng.
Sóng cồn.
Áp suất cực thấp tại mắt bão làm cho nước nở ra. Gió mạnh đẩy sóng biển hướng vào bờ. Những cơn sóng lớn kết hợp với thủy triều sẽ gây ra sóng cồn, đặc biệt vào thời điểm triều cường, khi đó, những bức tường nước khổng lồ sẽ ập vào bờ, quét sạch mọi thứ. Năm 1998, cơn bão biển Mitch đã ập vào bờ với những con sóng cao 13m, ngang với một ngôi nhà ba tầng.
Động thực vật.
Sóng cồn tàn phá san hô, chim di cư bay chệch hàng ngàn cây số để tránh bão, hoặc tệ hơn, năm 1989, cơn bão Hugo hầu như giết sạch những con chim gõ kiến còn lại ở bang Nam Carolina, Hoa Kỳ. | 1 | null |
Friedrich Wilhelm Gustav Stiehle, sau năm 1863 là von Stiehle (14 tháng 8 năm 1823 tại Erfurt – 15 tháng 11 năm 1899 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã được thăng đến cấp Thượng tướng bộ binh. Được xem là một sĩ quan tài năng, với khả năng tổ chức chỉ sau Roon, ông từng tham chiến trong ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức.
Tiểu sử.
Stiehle sinh ngày 14 tháng 8 năm 1823. Ông đã học trường Pädagogium ở Halle và Trung học tại Erfurt. Sau đó, ông đã gia nhập Trung đoàn Bộ binh số 21 với vai trò là một lính phảo thủ vào ngày 11 tháng 2 năm 1840, và tại đây Stiehle được phong quân hàm thiếu úy vào ngày 25 tháng 2 năm 1841. Từ năm 1844 cho đến năm 1847, ông tham dự Trường Quân sự Tổng hợp ("Allgemeine Kriegsschule") ở kinh đô Berlin và vào năm 1848 ông tham gia đánh dẹp bạo động ở tỉnh Posen. Từ năm 1852 cho đến năm 1855, ông được bổ nhiệm vào Cục Lượng giác trong Bộ Tổng tham mưu, và vào năm 1859, ông được thăng quân hàm Thiếu tá. Tiếp theo đó, ông được ủy nhiệm vào một chức đại đội trưởng ("Kompaniechef") trong Trung đoàn Bộ binh số 7 Phổ cổ vào năm 1858. Sau đó, trên cương vị là Giám đốc, Stiehle đã thiết lập các trường quân sự mới ở Potsdam và Neisse, rồi vào năm 1860 ông được giao quyền chỉ đạo Cục Lịch sử Quân sự của Bộ Tổng tham mưu.
Vào năm 1864, ông đã tham gia trong bộ tham mưu của Thống chế von Wrangel, Tổng chỉ huy của liên quân Áo - Phổ, trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch. Trong diễn tiến của cuộc chiến, ông được thăng cấp Thượng tá và trở thành sĩ quan hầu cận của Quốc vương. Ông còn là chuyên gia quan sát quân sự trong Hội nghị Luân Đôn và Hòa ước Viên.
Vào năm 1866, người sĩ quan mới được phong quý tộc Stiehle, với quân hàm Đại tá, tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ. Ông chiến đấu trong các trận đánh tại Hühnerwasser, Münchengrätz cùng với trận Königgrätz. Ông đã tham gia các cuộc đàm phán ký kết Hòa ước sơ bộ Nikolsburg (Mikulov) và Hòa ước Praha chấm dứt cuộc chiến tranh.
Trong cuộc tổng động viên quân đội Phổ – Đức khi Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) bùng nổ, Stiehle được ủy nhiệm làm Tham mưu trưởng của "Binh đoàn thứ hai" và không lâu sau đó ông được lên quân hàm Thiếu tướng vào ngày 26 tháng 7 năm 1870. Trong chiến dịch tại Pháp, ông đã tham gia các trận chiến quan trọng tại Gravelotte, Beaune-la-Rolande, Orléans và Le Mans, cùng với cuộc vây hãm Metz. Vào ngày 27 tháng 10 năm 1870, ông và tướng Jarras của Pháp đã ký kết văn kiện đầu hàng của pháo đài Metz, trong đó điều khoản đầu tiên cho biết đội quân Pháp của Thống chế François Achille Bazaine, gồm 3 thống chế Pháp, 66 tướng, 6.000 sĩ quan và 173.000 binh lính trở thành tù binh của Đức. Ông đã thể hiện tài năng của mình trong một số trận đánh, và được phong tặng nhiều huân chương, trong đó có Thập tự Sắt hạng I vào ngày 6 tháng 10 năm 1870 và Bó sồi đính kèm Huân chương Quân công vào ngày 18 tháng 1 năm 1871.
Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Stiehle giữ chức Thanh tra bộ binh nhẹ ("Jäger") và lính trơn ("Schützen") từ năm 1873 cho đến năm 1875. Vào ngày 28 tháng 10 năm 1875, vị tướng được lãnh chức Tư lệnh của Sư đoàn số 7 và không lâu sau ông được thăng quân hàm Trung tướng vào ngày 4 tháng 11 năm 1875. Với quân hàm này, ông được bổ nhiệm làm Tướng phụ tá của Đức hoàng Wilhelm I vào ngày 22 tháng 3 năm 1877, trong khi vẫn giữ chức Tư lệnh của mình. Vào ngày 17 tháng 8 năm 1881, ông rời chức chỉ huy của mình và được phong chức Tướng tư lệnh của Quân đoàn V, đóng quân tại Posen. Trên cương vị này, ông được thăng cấp Thượng tướng bộ binh vào ngày 9 tháng 6 năm 1884. Ông thống lĩnh Quân đoàn V cho đến năm 1886 thì được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Quân đoàn Kỹ sư và Công binh, và là Tướng thanh tra các pháo đài ("Generalinspekteur der Festungen"). Vào ngày 4 tháng 9 năm 1888, Stiehle xuất ngũ nhưng vẫn giữ vai trò Tướng phụ tá, đồng thời được phong danh hiệu của Quân đoàn Kỹ thuật và Công binh. Ông từ trần vào ngày 15 tháng 11 năm 1899 tại Berlin.
Tặng thưởng.
Do những cống hiến của mình, Stiehle được liệt vào hàng khanh tướng vào ngày 6 tháng 8 năm 1863. Ngoài ra, nhân dịp ông nghỉ hưu, Đức hoàng Wilhelm II quyết định đặt tên ông cho một pháo đài ở Pillau. Ông cũng được trao tặng nhiều huân chương và phần thưởng. Bên cạnh Huân chương Quân công, huân chương quân sự cao quý nhất của Phổ, ông còn được nhận các huân chương khác như: | 1 | null |
Quỹ bảo trợ là một chương trình đầu tư tập thể tồn tại như một thực thể pháp lý duy nhất nhưng có một số quỹ phụ riêng biệt được giao dịch như các quỹ đầu tư cụ thể.
Loại sắp xếp này có nguồn gốc trong ngành công nghiệp quản lý đầu tư châu Âu, nhất là với SICAV (một đầu tư tập thể mở). mô hình SICAV đã được sao chép cho công ty đầu tư mở (OEIC) Vương quốc Anh và các mô hình quỹ hải ngoại.
Ưu điểm.
Cơ cấu quỹ bảo trợ làm cho nó rẻ hơn cho các nhà đầu tư chuyển từ một quỹ phụ này sang một quỹ phụ khác và tiết kiệm các chi phí quản lý đầu tư liên quan đến trùng lặp quy định. | 1 | null |
Các đầu tư tác động là các đầu tư vào các công ty, tổ chức, và các quỹ với ý định tạo ra tác động xã hội và môi trường có thể đo được cùng với một hoàn vốn tài chính. Các khoản đầu tư tác động có thể được thực hiện trong cả thị trường mới nổi và thị trường phát triển, và nhắm mục tiêu một loạt các hoàn vốn từ thị trường bên dưới tới lãi suất thị trường bên trên, tùy thuộc vào hoàn cảnh. Đầu tư tác động có xu hướng có nguồn gốc từ các vấn đề xã hội hoặc các vấn đề môi trường. Các nhà đầu tư tác động tích cực tìm kiếm để đặt vốn trong các doanh nghiệp và các quỹ có thể khai thác sức mạnh tích cực của doanh nghiệp. Đầu tư tác động xảy ra trên các lớp tài sản, ví dụ vốn cổ phần/vốn mạo hiểm, nợ nần, và thu nhập cố định.
Các nhà đầu tư tác động được phân biệt chủ yếu bởi ý định của họ để giải quyết những thách thức xã hội và môi trường thông qua việc triển khai vốn của họ. Ví dụ, tiêu chí để đánh giá kết quả xã hội và/hoặc môi trường tích cực của các đầu tư là một thành phần tích hợp của quá trình đầu tư. Ngược lại, các người thực hành của đầu tư trách nhiệm xã hội cũng bao gồm các tiêu chí tiêu cực (tránh) như là một phần các quyết định đầu tư của họ.
Bối cảnh.
Trong lịch sử, quy định - và đến một mức độ thấp hơn, hoạt động từ thiện - là một nỗ lực để giảm thiểu những hậu quả xã hội tiêu cực của các hoạt động kinh doanh. Nhưng có một lịch sử của các nhà đầu tư cá nhân sử dụng đầu tư trách nhiệm xã hội để thể hiện giá trị của họ, thường là bằng cách tránh đầu tư vào các công ty hoặc các hoạt động cụ thể với các tác động tiêu cực. Trong những năm 1990, Jed Emerson ủng hộ phương pháp tiếp cận giá trị pha trộn, cho các cấp vốn của nền tảng sẽ được đầu tư trong sự liên kết với sứ mệnh của nền tảng, chứ không phải là để tối đa hóa hoàn vốn tài chính, vốn đã được các chiến lược chấp nhận trước đó.
Đồng thời, các cách tiếp cận như phòng ngừa ô nhiễm, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và ba cốt lõi đã bắt đầu được dùng để đo lường các tác động phi tài chính trong và ngoài các công ty. Năm 2000, Baruch Lev của Trường Quản lý Viện đại học New York đã kéo suy nghĩ về tài sản vô hình trong một cuốn sách cùng tên, trong đó đẩy mạnh suy nghĩ về các tác động phi tài chính của sản xuất công ty.
Cuối cùng, trong năm 2007, thuật ngữ "đầu tư tác động" xuất hiện, một cách tiếp cận mà cố tình xây dựng các tài sản vô hình bên cạnh tài sản tài chính, hữu hình.
Ngành công nghiệp.
Quy mô thị trường.
Số lượng các quỹ tham gia vào đầu tư tác động đã phát triển nhanh chóng trong năm năm qua, và một báo cáo từ năm 2009, Monitor Group, một hãng nghiên cứu, ước tính ngành công nghiệp đầu tư tác động có thể phát triển từ 50 tỷ USD hiện tại trong tài sản lên 500 tỷ USD tài sản trong thập kỷ tới. Vốn này có thể là trong một loạt hình thức bao gồm cổ phần, nợ, dòng vốn lưu động của tín dụng và bảo lãnh khoản vay. Các ví dụ trong những thập kỷ gần đây bao gồm nhiều khoản đầu tư vào tài chính vi mô, tài chính phát triển cộng đồng, và công nghệ sạch. Tăng trưởng của nó một phần là để phản biện các hình thức truyền thống của hoạt động từ thiện và phát triển quốc tế, đã được mô tả như là không bền vững và thúc đẩy bởi mục tiêu - hoặc ý tưởng bất chợt - của các nhà tài trợ.
Nhiều tổ chức tài chính phát triển như Commonwealth Development Corporation của Anh hay Norfund của Na Uy cũng có thể được coi là các nhà đầu tư tác động, bởi vì họ phân bổ một phần danh mục đầu tư của họ cho các đầu tư cung cấp các lợi ích tài chính cũng như phúc lợi xã hội hoặc môi trường.
Các cơ chế đầu tư tác động.
Các đầu tư tác động xảy ra trên các lớp tài sản và các khoản đầu tư. Trong số các cơ chế nổi tiếng nhất là vốn cổ phần tư nhân hoặc vốn mạo hiểm. Các đầu tư tác động cũng có thể được thực hiện bởi các nhà đầu tư thiên thần cá nhân. Các đầu tư tác động "vốn mạo hiểm xã hội" hoặc " vốn bệnh nhân" được cấu trúc tương tự như những vốn trong phần còn lại của cộng đồng vốn mạo hiểm. Các nhà đầu tư có thể có một vai trò tư vấn hoặc dẫn dắt tích cực sự phát triển của công ty, tương tự như cách một hãng vốn mạo hiểm hỗ trợ trong sự phát triển của một công ty trong giai đoạn đầu.
Đầu tư tác động chủ yếu diễn ra thông qua cơ chế mở cửa cho các nhà đầu tư tổ chức. Tuy nhiên, có nhiều cách để các cá nhân tham gia cung cấp tài trợ giai đoạn đầu cho các mạo hiểm pha trộn lợi nhuận và mục đích. Chúng bao gồm RSF Social Finance, Calvert Foundation, MicroPlace và với các nhà tư vấn tài chính tập trung vào tác động tư nhân như HIP Investor. Các cơ hội khác có sẵn cho các cá nhân bao gồm Investor Note của Viện Kinh tế Cộng đồng, Community Reinvestment Note của Calvert Foundation hay Community Impact Note của Enterprise Community Partners.
Đầu tư tác động được phân biệt với các trang web lập quỹ đám đông như Indiegogo hay Kickstarter ở chỗ các đầu tư tác động thường là các đầu tư nợ hoặc vốn cổ phần hơn 1000 USD với thời gian thanh toán VC lâu hơn truyền thống, và có thể không có một "chiến lược rút lui" (theo truyền thống một IPO hoặc mua lại trong thế giới khởi động vì lợi nhuận). Mặc dù một số doanh nghiệp xã hội là phi lợi nhuận, đầu tư tác động thường là với các doanh nghiệp vì lợi nhuận, định hướng nhiệm vụ xã hội hoặc môi trường. Đầu tư tác động được phân biệt với tài chính vi mô (như MYC4) chủ yếu là quy mô thỏa thuận và thứ yếu bằng việc đầu tư cho vốn cổ phần chứ không phải nợ.
Các tổ chức tiếp nhận vốn đầu tư tác động có thể được thiết lập một cách hợp pháp như một vì lợi nhuận, không vì mục đích lợi nhuận, Công ty B, Công ty trách nhiệm hữu hạn lợi nhuận thấp, hoặc các tên khác mà có thể khác nhau tùy theo quốc gia.
Các "tăng tốc" đầu tư tác động cũng tồn tại cho các doanh nghiệp xã hội giai đoạn hạt giống. Tương tự như tăng tốc giai đoạn hạt giống cho các khởi động truyền thống, tăng tốc đầu tư tác động cung cấp một lượng vốn nhỏ hơn các tài trợ Series A hoặc giao dịch đầu tư tác động lớn hơn.
Một số cơ sở tư nhân cũng làm đầu tư tác động. Xem Đầu tư liên quan đến chương trình để biết thêm.
Các mạng lưới đầu tư tác động cũng tồn tại để mang lại cùng các cá nhân có quan tâm đến đầu tư tác động. Mạng lưới nhà đầu tư có thể có các cuộc họp trực tiếp và/hoặc các nền tảng trực tuyến để tạo thuận lợi cho việc tìm kiếm cơ hội đầu tư phù hợp. Mạng lưới nhà đầu tư có thể hoặc không thể có một hồ quỹ để đầu tư đại diện cho mạng. Thông thường, vai trò của mạng là để mang các nhà đầu tư và người được đầu tư lại với nhau nhưng các mạng nhà đầu tư khác nhau về lượng của sự tích cực họ làm như là một mạng so với những gì các nhà đầu tư cá nhân làm trong việc đánh giá cơ hội.
Các tổ chức thúc đẩy đầu tư tác động.
Nguồn: ImpactSpace
Các mạng lưới đầu tư tác động.
Nguồn: ImpactSpace
Các nguồn lực bổ sung:
Đo lường, tiêu chuẩn, và dữ liệu.
Một cam kết để đo lường hiệu quả xã hội và môi trường với sự chặt chẽ tương tự như hiệu quả tài chính là rất quan trọng, thậm chí không thể thiếu, thành phần của đầu tư tác động. | 1 | null |
Hieron I (; ? – 467 TCN) là con trai của Deinomenes, anh của Gelon và là bạo chúa Siracusa ở Sicilia từ năm 478 TCN đến 467 TCN. Từ khi kế vị Gelon, ông đã mưu tính chống lại người em thứ ba là Polyzelos nhằm củng cố chức quyền. Thành bang Siracusa dưới thời ông cai trị đã dần gia tăng thực lực một cách đáng kể. Ngoài ra ông còn cho dời đám cư dân Naxos và Catana tới Leontini, di dân Catana (mà ông đổi tên thành Aetna) với người Dorian, tham gia liên minh với Acragas (Agrigentum) và tán thành mục tiêu chống đối Anaxilas, bạo chúa Rhegium của người Locrian.
Thành tựu quân sự quan trọng nhất của ông là đã đánh bại người Etruscan và Carthage trong trận Cumae vào năm 474 TCN nhờ đó đã cứu người Hy Lạp ở Campania thoát khỏi ách thống trị của người Etruscan. Một chiếc mũ đồng (nay để ở Bảo tàng Anh) với một dòng chữ kỷ niệm sự kiện này được dành riêng tại Thế vận hội Olympia.
Triều đại của Hieron được đánh dấu bằng sự kiện thành lập lực lượng cảnh sát mật đầu tiên trong lịch sử Hy Lạp, bên cạnh đó ông còn là một người bảo trợ hào phóng về văn học nghệ thuật. Các nhà thơ Simonides, Pindar, Bacchylides, Aeschylus, và Epicharmus cũng như nhà triết học Xenophane đều từng hoạt động dưới triều ông. Đồng thời ông cũng là một thành viên tham gia tích cực trong các cuộc thi thể thao toàn Hy Lạp, giành nhiều chiến thắng trong các cuộc đua ngựa đơn và đua xe ngựa. Ông giành thắng lợi trong cuộc đua xe ngựa ở Delphi vào năm 470 TCN (một chiến thắng được tán dương trong bài thơ ca ngợi Pythian đầu tiên của Pindar) và tại Olympia năm 468 TCN (chiến thắng lớn nhất này của ông được kỷ niệm trong bài thơ ca ngợi chiến thắng thứ ba của Bacchylides). Những bài thơ ca ngợi khác được dâng lên ông bao gồm thơ ca ngợi Olympia thứ nhất của Pindar, cùng bài thơ ca ngợi Pythian thứ hai và thứ ba của ông và những bài thơ ca ngợi chiến thắng thứ tư và thứ năm của Bacchylides.
Về sau Hieron lâm trọng bệnh mất ở Catana/Aetna vào năm 467 TCN và được chôn cất ở đó, nhưng ngôi mộ của ông đã bị phá hủy sau khi các cư dân trước đây của Catana trở về thành phố. Sau khi ông qua đời thì người em Thrasybulos kế vị nắm quyền được hơn một năm thì bị dân chúng lật đổ và nền dân chủ được tái lập ở Siracusa. | 1 | null |
Thrasybulos (? – ?) là bạo chúa Siracusa cai trị được mười một tháng từ năm 466 TCN đến 465 TCN. Ông là một thành viên của gia tộc Deinomenid và là em trai của bạo chúa tiền nhiệm Hieron I, người từng nắm quyền ở Siracusa bằng cách thuyết phục con của Gelon từ bỏ yêu sách đòi quyền lãnh đạo Siracusa. Lên ngôi chưa đầy một năm, do Thrasybulos có phát sinh mâu thuẫn với các thành viên gia tộc Deinomenid nên cuối cùng ông bị họ lật đổ. Tuy nhiên, ít lâu sau họ cũng bị đám dân chúng vùng dậy lật đổ và nền dân chủ được tái lập ở Siracusa. | 1 | null |
Julius Patricius (Latin: "Iulius Patricius" or "Patriciolus"; ; "floruit" 459 – 471) là con trai của vị tướng đầy quyền uy Aspar đã chi phối triều chính của Đế quốc Đông La Mã trong gần hai thập kỷ. Vốn là người La Mã gốc rễ, cậu được cha mình dự định chọn kế thừa ngôi vị Hoàng đế Đông La Mã và dần thăng quan tiến chức tới cấp bậc "Caesar" dưới thời Hoàng đế Leo I, để rồi về sau cả hai cha con đều bị Hoàng đế sai người ám sát chết trong một cuộc bạo loạn năm 471.
Tiểu sử.
Patricius là con trai thứ ba của Aspar, viên thống chế ("magister militum") người Alan của Hoàng đế Leo I, giống như cha mình và hầu hết các dân tộc German cậu bé cũng là một tín đồ của giáo thuyết Arianus. Cái tên "Julius Patricius" phô trương gốc gác La Mã, cho thấy rằng người cha đã có toan tính đưa cậu lên ngôi Hoàng đế. Patricius được triều đình phía Đông bổ nhiệm làm chấp chính quan vào năm 459 ngay khi cậu bé vừa mới sinh.
Năm 470, vào lúc xảy ra cuộc tranh đấu quyền bính giữa Aspar và viên tướng người Isauria là Zeno, Aspar đã thuyết phục Hoàng đế bổ nhiệm người con thứ hai của ông là Julius Patricius làm "Caesar" và kết hôn với Leontia, con gái của Leo I nhằm tạo dựng thanh thế trong triều. Tuy nhiên, đối với các giáo sĩ và nhân dân Constantinopolis thì một người thuộc giáo thuyết Arianus không đủ điều kiện để làm Hoàng đế, những tin tức của các cuộc bạo loạn đã nổ ra tại trường đua ngựa thành phố, dưới sự dẫn dắt của giáo đoàn những Thầy tu không ngủ đứng đầu bởi Marcellus: Aspar và Leo đã hứa với các giám mục rằng Patricius sẽ chuyển sang Chính Thống giáo trước khi trở thành Hoàng đế, và chỉ sau khi chuyển đổi thì ông mới có thể kết hôn với Leontia.
Năm 471, một âm mưu diệt trừ quyền thần của triều đình do Hoàng đế Leo I chủ xướng đã gây ra cái chết của hai cha con Aspar và Ardabur, cũng có thể là Patricius đã chết trong dịp này, mặc dù một số nguồn tin cho rằng ông chỉ bị thương nhẹ không ảnh hưởng đến tính mạng. Cũng từ đó mà các nguồn sử liệu về cậu đều biến mất không một dấu vết. Cuộc hôn nhân với Leontia đã bị hủy bỏ rồi về sau cô lại kết hôn với Marcianus.
Không có đồng tiền nào của Patricius khi cậu làm "Caesar" được ban hành và hành động duy nhất của cậu khi tại chức là một chuyến du lịch đến Alexandria, nơi cậu được chào đón với tất cả các danh hiệu dành cho một "Caesar". | 1 | null |
Thân Công Tài (1620 - 1683), tự Phúc Khiêm; là một viên quan của vương triều Lê trung hưng, nổi tiếng với chiến lược phát triển kinh tế vùng biên ải thời phong kiến của Việt Nam.
Tiểu sử.
Ông sinh trưởng ở xã Như Thiết, huyện Yên Dũng xưa; nay là thôn Như Thiết, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, người dân tộc Tày. Có thể thuộc dòng dõi của Thân Thừa Quý trên đất Lạng Sơn.
Không rõ gia cảnh, quá trình học tập và làm quan của Thân Công Tài. Căn cứ bia mộ của ông và một số tài liệu, thì chỉ biết ông sinh năm Canh Thân (1620) dưới triều vua Lê Thần Tông. Lớn lên, ông ra làm quan cho triều Lê trung hưng, lần lượt trải các chức: Tri thị nội thư tả (1672), Đề đốc (các xứ Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn), Đô đốc Đồng Tri (1683), Tả Đô đốc, v.v... và từng được phong đến tước "Hán quận công".
Ngày 11 tháng 8 (âm lịch) năm Chính Hòa thứ 4 (Quý Hợi, 1683) đời vua Lê Hy Tông, Thân Công Tài mất, hưởng thọ 64 tuổi (tuổi ta). Sau khi mất, ông được an táng nơi quê nhà, và được đặt thụy hiệu là "Minh Đạt Phủ Quân".
Trong suốt cuộc đời làm quan, Thân Công Tài đã nhiều lần qua lại các vùng biên ải. Thấy việc giao thương ở Lạng Sơn kém phát triển, ông đã cùng với Vũ quận công Vi Đức Thắng là người bản địa, đứng ra lập chợ Kỳ Lừa, làm nơi buôn bán giao lưu hàng hóa giữa hai nước Đại Việt (tức Việt Nam ngày nay) và Trung Quốc .
Vì vậy, nhân dân hai nước Việt - Trung lúc bấy giờ đã tôn làm "sư phụ và là lưỡng quốc khách nhân" .
Ghi nhận công lao.
Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn là của Cao Xuân Dục, đã ghi nhận công lao của Thân Công Tài trong sách "Đại Nam dư địa chí ước biên" như sau:
Công lao ấy, cũng đã được ghi nhận trên tấm bia đá (tạc năm 1686) và đôi câu đối bằng chữ Hán ở trong đền Tả Phủ (Lạng Sơn):
Nghĩa là:
Gần đây, trong một bài viết đăng tải trên báo "Dân tộc", nhân cách và sự nghiệp của ộng lại được đề cao:
Hiện nay, từ Lạng Sơn đến Hà Nội có rất nhiều nơi thờ Thân Công Tài. Đền chính và phần mộ của ông được xây dựng tại xóm Ga thuộc thôn Như Thiết, xã Hồng Thái, gần Quốc lộ 1 cũ. Đền có tên là đền Như Thiết, được xây vào năm Chính Hòa thứ 7 (1686). Năm 1967, đền và mộ đều bị hư hỏng vì bom đạn. Về sau, cả hai đều được nhân dân tôn tạo lại. Lễ hội được tổ chức vào ngày 11 tháng 8 âm lịch hàng năm.
Lễ hội đầu pháo Kỳ Lừa được tổ chức từ ngày 22 đến 27 tháng giêng âm lịch tại đền Tả Phủ, chợ Kỳ Lừa, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn để tưởng nhớ và tôn vinh công đức của Thân Công Tài. Tên bia ở đền Tả Phủ là "Tôn sư phụ bi" ý nói tôn Thân Công Tài là một người thầy một người cha có công với xứ Lạng. | 1 | null |
Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là Cung Thành Thái hậu (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Dù được lập làm Hoàng hậu, Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu không được Hán Tuyên Đế sủng hạnh, và cũng không như nhiều Hoàng thái hậu khác của Tây Hán, bà không dựa vào vị trí ngoại thích của dòng họ mình để tác động chính trị, an bình ở trong nội cung. Trước sự mưu toan của nhà họ Hoắc hòng đưa Hoắc Thành Quân lật đổ Hoàng hậu Hứa Bình Quân, Vương Hoàng hậu nuôi dưỡng con trai Hứa hậu là Hán Nguyên Đế Lưu Thích trưởng thành, nên Nguyên Đế tôn trọng bà.
Thân thế.
Hiếu Tuyên hoàng hậu Vương thị, không rõ tên gì, người huyện Trường Lăng (nay là Vị Thành, Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây), nguyên là con gái của Cung Thành hầu Vương Phụng Quang (王奉光).
Tổ tiên của Vương thị do có công phò giúp Hán Cao Tổ, nên được phong làm "Quan nội hầu" (關內侯), dời từ Bái huyện sang Trường Lăng cư trú. Tước vị Quan nội hầu của dòng họ Vương được truyền đến đời Vương Phụng Quang. Vốn Phụng Quang thích chơi đá gà, thường gặp Hoàng tằng tôn Lưu Bệnh Dĩ, cho nên quen biết. Đến tuổi cập kê, Vương thị được định hôn với một vài nhà quyền quý nhưng những người ấy lại chết vào ngày thành hôn, nên bà vẫn phải ở nhà.
Năm Nguyên Bình nguyên niên (74 TCN), Hoàng tằng tôn Lưu Bệnh Dĩ được đưa lên ngôi, tức Hán Tuyên Đế. Do có giao tình, Hán Tuyên Đế chọn Vương thị nhập cung, phong Tiệp dư.
Năm Bổn Thủy thứ 3 (71 TCN), Hoàng hậu Hứa Bình Quân của Hán Tuyên Đế bị vợ của Hoắc Quang là Hoắc Hiển hạ độc sát hại vì muốn đưa con gái là Hoắc Thành Quân làm Hoàng hậu. Hoắc Hoàng hậu cùng Hoắc phu nhân nhiều lần ám sát Thái tử Lưu Thích, con của Hứa hoàng hậu để dọn đường cho ngôi vị Thái tử.
Vô sủng lập Hậu.
Năm Địa Tiết thứ 4 (66 TCN), Hán Tuyên Đế phế truất Hoắc Hoàng hậu, đồng thời tiêu diệt toàn bộ nhà họ Hoắc vì tội ám sát Hứa hoàng hậu và âm mưu tạo phản, cả dòng họ hơn 1000 người đều bị xử trảm, Hoắc Hoàng hậu bị giam vào lãnh cung. Do lo sợ nếu lập một vị Hoàng hậu có con sẽ ảnh hưởng đến địa vị của Thái tử nên Tuyên Đế quyết định lấy Vương Tiệp dư vốn không con làm Hoàng hậu và giao cho việc nuôi dạy Thái tử.
Năm Nguyên Khang thứ 2 (64 TCN), ngày 26 tháng 2 (âm lịch), Vương Tiệp dư được chính thức sách lập làm Hoàng hậu. Hán Tuyên Đế mệnh Hoàng hậu nhận Thái tử làm Dưỡng tử, chịu trách nhiệm nuôi dạy Thái tử. Tuy đã trở thành Hoàng hậu, song Vương thị vẫn bị Hán Tuyên Đế lạnh nhạt, tuy nhiên Tuyên Đế vẫn không để cho bà chịu thiệt thòi, bèn phong cha bà Vương Phụng Quang làm "Cung Thành hầu" (邛成侯), gia tộc họ Vương thừa huy ân sủng.
Đến tuổi trưởng thành, Thái tử Lưu Thích lấy Tư Mã thị, phong làm Lương đệ (良娣). Không lâu sau, Tư Mã Lương đệ ốm qua đời, Lưu Thích rất đau buồn. Hán Tuyên Đế lo lắng, bèn sai Vương hoàng hậu chọn ra một số cung nữ cho thái tử để an ủi. Vương hoàng hậu chọn ra 5 người mang đến trước mặt Tuyên Đế và Thái tử. Thái tử Thích đau buồn vì cái chết của Tư Mã thị, cũng không quan tâm đến họ, do đó đích thân Vương hoàng hậu lựa chọn thái tử phi. Do thấy Vương Chính Quân, con gái đình úy sử Vương Cấm mặc áo khác những người còn lại mà đứng gần thái tử nhất, nên Vương hoàng hậu sai Vương Chính Quân vào hầu Thái tử.
Vinh quang cả đời.
Năm Hoàng Long nguyên niên (49 TCN), Hán Tuyên Đế băng hà, Thái tử Lưu Thích lên ngôi, tức Hán Nguyên Đế. Khi lên ngôi, Hoàng đế tôn Vương hoàng hậu làm Hoàng thái hậu. Năm Sơ Nguyên nguyên niên (48 TCN), phong anh trai Thái hậu là Thị trung Trung lang tướng Vương Thuấn (王舜) làm "An Bình hầu" (安平侯).
Năm Cảnh Ninh nguyên niên (33 TCN), tháng 5, Hán Nguyên Đế băng hà, Thái tử Lưu Ngao nối ngôi, tức Hán Thành Đế, Hoàng thái hậu Vương thị được tôn làm Thái hoàng thái hậu. Vương Thái hoàng thái hậu ít khi tham dự vào chính sự, cũng không được nhắc đến thường xuyên, bà sống an nhàn bình yên như một trưởng bối đức cao vọng trọng trong hậu cung Hán triều. Tuy không phải ruột thịt nhưng Hán Nguyên Đế vẫn rất kính trọng bà như mẹ đẻ, và Hán Thành Đế xem bà như tổ mẫu, vì thế luôn ban tước vị cho người trong họ của bà để hưởng vinh quang. Khi Thành Đế lên ngôi, em trai của Cung Thành Thái hậu là Vương Tuấn (王骏) được phong làm Quan nội hầu, thực ấp 1.000 hộ; Vương gia thế tộc Liệt hầu 2 người, Quan nội hầu 1 người. Con trai Vương Thuấn là Vương Chương (王章), cùng đường đệ Vương Hàm (王咸), đều làm đến Tả Hữu tướng quân. Đương thời đều gọi bà là Cung Thành Thái hậu (邛成太后) dựa trên tước phong của cha bà và cũng để phân biệt với Hoàng thái hậu Vương Chính Quân.
Năm Vĩnh Thủy nguyên niên (16 TCN), ngày 19 tháng 8 (âm lịch), Thái hoàng thái hậu Vương thị băng, thọ chừng 70 tuổi. Bà được hợp táng cùng với Hán Tuyên Đế ở Đỗ Lăng (杜陵), xưng là Đông viên (東園).
Từ khi vào cung, Vương thị làm Tiệp dư 10 năm, Hoàng hậu 15 năm, Hoàng thái hậu 16 năm và Thái hoàng thái hậu 17 năm, trải qua ba đời Đại Hán hoàng đế. Chính sự khiêm nhường không can chính của bà, đã khiến cuộc đời bà bình lặng, gia tộc hưng vượng tuy không quá hiển quý. Ban Cố khi viết Hán thư nhận định, từ đời Tây Hán khai quốc đến hết triều, ngoại thích ân phong rất nhiều, duy chỉ có nhà họ Bạc của Bạc Thái hậu, họ Đậu của Hiếu Văn Đậu hoàng hậu, họ Vương của Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu cùng họ Vương của Cung Thành Thái hậu là bảo toàn vinh hoa. | 1 | null |
Thủy thủ Popeye là một nhân vật hoạt hình hư cấu được sáng tạo bởi E. C. Segar. Popeye lần đầu xuất hiện trong bộ truyện tranh Thimble Theatre do hãng King Features phát hành vào ngày 17 tháng 1 năm 1929; các năm sau đó bộ truyện tranh đã lấy tên là Popeye.
Dù rằng khi Popeye ra mắt thì bộ truyện "Thimble Theatre" của Segar đã phát hành đến năm thứ 10, chàng thủy thủ vẫn nhanh chóng trở thành tâm điểm chú ý của bộ truyện và "Thimble Theatre" trở thành một trong những tác phẩm của King Features được ưa thích nhất trong những năm 1930. Sau khi Segar qua đời năm 1938 "Thimble Theatre" vẫn được một số tác giả vẽ tiếp, trong đó đáng chú ý nhất có trợ lý của Segar là Bud Sagendorf.
Năm 1933, Fleischer Studios của hai anh em Max và Dave Fleischer đã phỏng theo các nhân vật của "Thimble Theatre" để tạo thành một sê ri phim hoạt hình ngắn chiếu rạp có tên là Thủy thủ Popeye theo đơn hàng của hãng Paramount Pictures.
Năm 2002, TV Guide đã xếp Popeye thứ 20 trong danh sách "50 nhân vật hoạt hình vĩ đại nhất mọi thời đại". | 1 | null |
Nguyễn Đình Hiến (阮廷獻, 1870-1948) là danh thần nhà Nguyễn, làm tới chức tổng đốc Bình Phú (Bình Định - Phú Yên). Ông tự Dực Phu (翼夫), hiệu Ấn Nam (印南), thụy là Mạnh Khả, quê làng Lộc Đông, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam).
Tiểu sử.
Năm 1895, niên hiệu Thành Thái thứ 7 ông được bổ vào học sinh trường Đốc Quảng Nam, được Đốc học Mã Sơn Trần Đình Phong khen ngợi cùng với Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng tại trường này.
Năm Đinh Dậu (1897), ông dự kì thi Hương tại Huế vào được Trường Ba tức Tú tài. Khoa thi Hương năm Canh Tý (1900), ông đỗ Á nguyên tại trường Thừa Thiên cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng (Giải nguyên), Phan Châu Trinh, Phan Thúc Duyện, Lương Thúc Kỳ.
Năm 1901, ông đỗ Phó bảng trong kì thi Hội. Tổng tài Quốc sử quán có câu liễn mừng ông:
Nguyên văn:
Phiên âm:
Nghĩa:
Nguyễn Đình Hiến cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phạm Liệu được người dân xứ Quảng gọi là "Tứ kiệt" nổi tiếng trên con đường học vấn của Quảng Nam. Không những thế, người dân xứ Quảng còn tôn vinh ông là một trong "Tứ hổ" (cùng với Phan Châu Trinh, Võ Vỹ, Nguyễn Mậu Hoán).
Sau khi vinh qui, ông được triều đình cử giữ chức Hàn lâm viện Kiểm thảo, được chọn vào học chữ Pháp tại trường Quốc học, đến năm 1905 được thăng chức Toản tu. Đầu năm 1906 được vua Thành Thái phái sang du học tại Pháp về chính trị và phong tục và đã viết cuốn "Tây sai kỹ lãm" trình vua Thành Thái.
Sau chuyến đi sứ về, ông được bổ nhiệm Đồng tri phủ lãnh chức Tri huyện huyện Bồng Sơn, phủ Bồng Sơn tỉnh Bình Định.
Năm 1907, ông được cai đổi sang làm Tri huyện huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
Năm 1908, thăng Tri phủ Hoài Nhơn.
Cũng trong năm 1908, bạn đồng học của Nguyễn Đình Hiến là Trần Quý Cáp bị bắt giam và bị khép vào tội mưu phản, lãnh án bị chém ngang lưng. Khi gia quyến và học trò đưa quan tài Trần Quý Cáp ngang qua Bồng Sơn (thuộc thị xã Hoài Nhơn), Nguyễn Đình Hiến đang làm Tri phủ Hoài Nhơn đã thiết án bên đò Bồng Sơn làm lễ, lạy khóc thảm thê. Công sứ Bình Định biết tin, cho rằng Nguyễn Tri phủ đã đồng lõa với Trần Quý Cáp. Nhờ có Tổng đốc Bình Định là cụ Bùi Xuân Huyên can thiệp, bày cho ông Nguyễn Đình Hiến giả đang mắc bệnh tâm thần nên chuyện mới được cho qua.
Năm 1912, được cải chức Hồng lô tự Thiếu Khanh, lãnh chức Quản đạo đạo Ninh Thuận.
Năm 1913, ông được thăng chức Phủ Thừa phủ Thừa Thiên, năm sau được thăng Quan Lộc tự Thiếu Khanh làm việc ở Huế.
Năm 1919, ông được vua cử làm Phó Chủ khảo khoa thi Hội thí Kỷ mùi, sau đó thăng Bố Chính sứ tỉnh Hà Tĩnh, rồi về Huế giữ chức Tả thị lang Bộ Lại, năm sau chuyển làm Bố Chính sứ tỉnh Quảng Bình.
Năm 1921, ông chuyển về làm Phủ doãn Phủ Thừa Thiên, năm sau giữ chức Tuần phủ tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1923, thăng Tổng đốc Bình Phú.
Cuối đời.
Năm 1927, Nguyễn Đình Hiến về hưu với hàm Hiệp tá Đại học sĩ, sau đó ông trở về Huế và ở tại ấp Bình An, gần dốc Nam Giao một thời gian.
Năm 1935, ông trở về nguyên quán ở làng Lộc Đông dưỡng tuổi già và qua đời vào ngày 31 tháng 5 năm 1948, hưởng thọ 77 tuổi.
Khai mở đường đèo Le.
Ông không những là một vị quan thanh liêm chính trực mà còn là một người có tư tưởng đổi mới và ham học hỏi tìm hiểu kỹ thuật phương Tây với mục đích canh tân đất nước. Khi đã về hưu an dưỡng tại quê nhà ông đã đứng ra vận động nhân sĩ và nhân dân góp công, góp của khai mở con đường đèo Le để tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và phát triển kinh tế cho vùng đất Nông Sơn lúc bấy giờ.
Trước đây vùng Lộc Đông quê hương ông bốn bề là rừng rậm núi cao, mọi sự giao lưu với bên ngoài đều qua đường thủy xuôi dòng sông Thu Bồn, còn đường bộ thì hầu như không có. Dần về sau nhu cầu đi lại càng nhiều, người dân đã băng rừng, vượt núi, dần thành một lối mòn nhỏ băng qua núi và được gọi là đèo Le. Còn vì sao có tên gọi là đèo Le và tên gọi này ra đời từ khi nào thì có nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng đèo Le là cách đọc trại tên của một người Pháp: De Larie đã có công khám phá và khai thông đèo. Có người cho rằng tên gọi đèo Le xuất phát từ việc người dân đè núi đá cây rừng mà leo, leo mệt quá le lưỡi nên đặt là đèo Le.
Theo nội dung tấm bia chính được tìm thấy tại đèo Le (do chính tay Nguyễn Đình Hiến cẩn soạn bằng chữ Hán) thì sự hiểm trở, khó đi lại của đèo Le lúc bấy giờ được miêu tả như sau:
Cũng theo nội dung tấm bia này thì vào một ngày mùa Đông năm Bính Tý (1936), Nguyễn Đình Hiến đã diện kiến với Ngô Đình Khôi (Tổng đốc Quảng Nam lúc bấy giờ) khi Ngô Đình Khôi đi kinh lý các tổng miền thượng du. Tại cuộc gặp này, Nguyễn Đình Hiến đã đề xuất với quan Tổng đốc về việc mở con đường băng qua đèo Le kéo dài từ đông sang tây, rộng 3m và dài khoảng 7 km. Sau đó, Nguyễn Đình Hiến đứng ra thành lập ban vận động lạc quyên để khai mở con đường đèo Le gồm Tú tài Lâm Xuân Quế ở xã Phước Bình, Cửu phẩm Nguyễn Đình Dương ở xã Lộc Đông. Các ông đã đi vận động nhân dân trong tổng lạc quyên được số bạc là 4600 đồng lẻ, đồng thời cũng trích số bạc tư ích ở các tổng và thu bạc hội chợ rồi giao cho quan lục lộ cùng với ông tri huyện Nguyễn Trọng Thuần đốc thúc tiến hành.
Việc khai mở đèo le bắt đầu được tiến hành vào mùa hè năm Đinh Sửu (1937) và trải 2 năm trời qua bao khó khăn, gian nan, vất vả con đường vượt đèo Le mới được hình thành. Điều này cũng đã được Nguyễn Đình Hiến ghi rõ trong tấm bia chính:
Sau khi con đường đèo Le được hoàn thành, vào năm Canh Thìn (1940), Nguyễn Đình Hiến đã cẩn soạn bốn tấm bia với mục đích dựng tại đỉnh đèo Le. Nội dung tấm bia chính chủ yếu ghi lại công tích mở đường đèo Le, các tấm còn lại ghi danh sách các vị hảo tâm góp tiền bạc để mở đường. Khi chuẩn bị dựng bia thì Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, nên phải đưa các tấm bia này đi dấu, hiện nay mới chỉ tìm được ba tấm.
Tác phẩm.
Ngoài một quan triều đình, Nguyễn Đình Hiến còn là một nhà văn. Thơ văn Nguyễn Đình Hiến để lại không nhiều, nhưng giá trị văn chương của tác phẩm ông là những dấu ấn của văn học Việt Nam.
Bài thơ có tên "Bang Sơn động" (Vịnh núi Trà Bang) ở Ninh Thuận có thể liệt vào hàng những bài thơ hay.
Nguyên văn:
Phiên âm:
Tạm dịch:
Một số tác phẩm khác của ông gồm có: | 1 | null |
Kali ozonit là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học là KO3. Hiện nay người ta chỉ biết được một số ozonit của kim loại kiềm và amoni, trong đó biết nhiều nhất là KO3.
Điều chế.
Dùng amonia lỏng ở -45 ℃ chiết kali ozonit ra sẽ thu được dung dịch màu đỏ. Cho dung dịch này bay hơi sẽ thu được tinh thể đỏ cam của KO3. | 1 | null |
Quan hệ Indonesia và Việt Nam đề cập về quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Cộng hòa Indonesia. Hai nước có nhiều điểm tương đồng là có đường biên giới Biển Đông và cùng là thành viên của Khu vực ASEAN và diễn đàn APEC. Indonesia là đối tác quan trọng, giàu tiềm năng đối với Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng là nước được Indonesia đánh giá cao với vị thế là một trong những nước có ảnh hưởng lớn trong nội khối ASEAN
Lịch sử.
Từ thời kỳ phong kiến, các nhà nước ở Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với những quốc gia, phiên bang ngày nay thuộc Indonesia mà sử sách hay gọi là Chà Và, Tam Phật Tề. Thời nhà Trần còn ghi lại việc sứ giả Trả Oa tới diện kiến và cống nạp, ngoài ra quốc gia Champa (ngày nay là một phần của lãnh thổ Viet Nam) cũng đã có mối quan hệ bang giao thân thiết với các tiểu quốc ở Indonesia do cùng ảnh hưởng của văn minh Phật giáo tại thời điểm đó. Thời kỳ Phong kiến đã có nhiều dấu hiệu hai nước này có quan hệ với nhau từ cấp nhà nước (đi sứ), buôn bán, thậm chí là cướp bóc. Cao Bá Quát từng được triều đình Nhà Nguyễn cử sang công sứ tại Indonesia và có làm một bài thơ về người phụ nữ Tây Dương ở Indonesia. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1947-1954, cả hai miền Việt Nam đã thực hiện ngoại giao để đấu tranh chính trị và đã cố gắng xây dựng quan hệ với Indonesia cũng là một nước trong khu vực.
Hai bên bắt đầu quan hệ chính thức vào ngày 30 tháng 12 năm 1955. Vào tháng 9 năm 2011, hai nước đã ký Chương trình hành động giai đoạn 2012-2015. Ngày 27 và 28 tháng 6 năm 2013, nhận lời mời của Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng phu nhân qua thăm Indonesia nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi trọng tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với Indonesia một đối tác truyền thống và quan trọng của Việt Nam. Quan hệ Đối tác Chiến lược Việt Nam – Indonesia được ký kết.
Hợp tác kinh tế.
Việt Nam và Indonesia đã ký trên 30 Hiệp định và thỏa thuận. Tổ chức nhiều chuyến thăm lẫn nhau giữa các Đoàn đại biểu cấp cao Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội. Trao đổi các đoàn cấp Bộ, ngành, doanh nghiệp, đoàn thể quần chúng. Hoạt động giao lưu văn hóa. Indonesia cấp học bổng cho Việt Nam trong các lĩnh vực ngôn ngữ, nghệ thuật, công nghệ thông tin.
Một số địa phương hai nước chủ có lập quan hệ hợp như giữa tỉnh Kiên Giang (Việt Nam) và tỉnh Tây Kalimantan (Indonesia), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu-thành phố Padang; thành phố Đà Nẵng và thành phố Somarang.
Hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư giữa Việt Nam và Indonesia ổn định. Kim ngạch thương mại hai chiều tăng trưởng tốt, đạt hơn 4,6 tỷ USD năm 2012, hướng tới mục tiêu 5 tỷ USD hoặc cao hơn trước năm 2015. Indonesia có 35 dự án đầu tư tại Việt Nam với số vốn trên 282 triệu USD, đứng thứ 27 trong số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam cũng có 7 dự án đầu tư sang Indonesia với số vốn 107 triệu USD.
Chuyến thăm ngoại giao.
Vào tháng 2 năm 1959, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã đến thăm Indonesia, được đáp lại bằng chuyến thăm của Tổng thống Sukarno tới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào tháng 6 cùng năm. Vào tháng 11 năm 1990, Tổng thống Suharto đã đến thăm Việt Nam. Vào tháng 4 năm 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đến thăm Indonesia. Tổng thống Indonesia Megawati Sukarnoputri đã đến thăm Hà Nội vào ngày 22 tháng 8 năm 2001, và cũng vào tháng 6 năm 2003, được đáp lại bởi Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm Jakarta vào tháng 11 năm 2001. Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono đã đến thăm Hà Nội vào ngày 28 tháng 5 năm 2005. Vào ngày 27 tháng 6 năm 2013, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã đến thăm Indonesia và có một cuộc gọi lịch sự tới người đồng cấp Indonesia, ông Susilo Bambang Yudhoyono, để tăng cường quan hệ song phương và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực quan trọng cũng như đồng ý thiết lập quan hệ đối tác chiến lược.
Ngày 12 tháng 12 năm 2022, Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã đến sân bay quốc tế Soekarno-Hatta, thủ đô Jakarta, bắt đầu chuyến thăm cấp nhà nước đến Indonesia theo lời mời của Tổng thống Joko Widodo.
Du lịch.
Năm 2016, khoảng 50.000 khách du lịch Việt Nam đã đến thăm Indonesia, với 70.000 người Indonesia đến Việt Nam.
Tranh chấp lãnh thổ trên biển.
Indonesia và Việt Nam hiện không có tranh chấp lãnh thổ. Tuy nhiên, liên quan đến tranh chấp tại biển Đông, Indonesia ủng hộ và kêu gọi các quốc gia ASEAN (bao gồm cả Việt Nam và Philippines) đoàn kết và tái khẳng định Tuyên bố về Ứng xử (DOC) của các bên liên quan, cần phải xác nhận lại các hướng dẫn, Quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông (Biển Đông) và sự cần thiết phải tôn trọng luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Trong những năm gần đây, các tàu cá Việt Nam bị bắt vì cáo buộc đánh bắt cá trong Vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia đã bị đánh chìm, với 96 tàu bị chìm trong suốt năm 2016, con số lớn nhất so với các nước láng giềng khác. Tổng thống Indonesia bày tỏ mong muốn giải quyết các vấn đề EEZ cho người đồng cấp Việt Nam trong hội nghị thượng đỉnh G20 Hamburg 2017, trong đó Việt Nam là khách mời.
Nguyên thủ quốc gia của 2 nước đã tuyên bố hoàn tất đàm phán phân định EEZ vào cuối năm 2022, nhân dịp Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc có chuyến thăm cấp nhà nước tới Indonesia.
Sứ quán.
Tại Việt Nam:
Tại Indonesia: | 1 | null |
Vốn mạo hiểm (VC) hay vốn liên doanh là vốn tài chính cung cấp cho các công ty khởi động, tăng trưởng, rủi ro cao, có tiềm năng lớn giai đoạn sơ khai. Quỹ vốn mạo hiểm làm ra tiền bằng cách sở hữu vốn cổ phần trong các công ty đầu tư vào, mà thường có công nghệ hoặc mô hình kinh doanh mới trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, chẳng hạn như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, phần mềm, vv và các công ty này đang làm ra đủ tiền sau khi các khoản vay đã được trả hết để ném ra tiền mặt dư thừa không cần thiết để tăng trưởng kinh doanh. Đầu tư vốn mạo hiểm điển hình xảy ra sau vòng tạo vốn hạt giống như vòng tạo vốn phát triển (cũng được gọi là vòng Series A) trong lợi ích của việc tạo ra hoàn vốn thông qua một sự kiện cuối cùng thực hiện, chẳng hạn như một IPO hay bán trao đổi của công ty. Vốn mạo hiểm là một tập hợp con của vốn cổ phần tư nhân. Vì vậy, tất cả các vốn mạo hiểm là vốn cổ phần tư nhân, nhưng không phải tất cả vốn cổ phần tư nhân đều là vốn mạo hiểm.
Ngoài các lựa chọn đầu tư thiên thần và tài trợ hạt giống, vốn mạo hiểm là hấp dẫn cho các công ty mới với lịch sử hoạt động hạn chế có quá nhỏ để huy động vốn trên thị trường công cộng và đã không đạt đến điểm mà họ đang có thể đảm bảo cho một vay ngân hàng hoặc hoàn thành một chào nợ. Để đổi lấy rủi ro cao mà các nhà tư bản mạo hiểm gánh vác bởi việc đầu tư vào các công ty nhỏ và chưa trưởng thành, các nhà tư bản mạo hiểm thường nắm kiểm soát đáng kể đối với các quyết định công ty, ngoài một phần quan trọng của quyền sở hữu công ty (và do đó giá trị của công ty).
Vốn mạo hiểm cũng được kết hợp với giải quyết việc làm (chiếm 2% GDP của Mỹ), kinh tế tri thức, và được sử dụng như một biện pháp đổi mới trong một ngành kinh tế hay khu vực địa lý. Mỗi năm, có gần 2 triệu doanh nghiệp được tạo ra ở Mỹ, và 600-800 được tài trợ vốn mạo hiểm. Theo Hiệp hội vốn mạo hiểm quốc gia, 11% công ăn việc làm khu vực tư nhân đến từ các công ty được hỗ trợ vốn mạo hiểm và doanh thu được hỗ trợ vốn mạo hiểm chiếm 21% GDP của Mỹ.
Nó cũng là một cách thức mà các khu vực công và tư có thể xây dựng một tổ chức mà có thể tạo ra một cách hệ thống các mạng lưới cho các hãng và ngành công nghiệp mới, để họ có thể tiến bộ. Tổ chức này giúp trong việc xác định và kết hợp các phần của các công ty, như tài chính, chuyên môn kỹ thuật, bí quyết tiếp thị và các mô hình kinh doanh. Sau khi hợp nhất, các doanh nghiệp này thành công bằng cách trở thành các nút trong các mạng lưới tìm kiếm cho việc thiết kế và xây dựng các sản phẩm trong phạm vi của họ.
Lịch sử.
Một đầu tư vốn mạo hiểm có thể được định nghĩa là một dự án tiềm năng được chuyển đổi thành một quá trình với một rủi ro và đầu tư được giả định đầy đủ.
Với vài ngoại lệ, vốn cổ phần tư nhân trong nửa đầu của thế kỷ 20 là lĩnh vực của các cá nhân và gia đình giàu có. Vanderbilts, Whitneys, Rockefellers, và Warburgs là các nhà đầu tư đáng chú ý trong các công ty tư nhân ở nửa đầu của thế kỷ này. Trong năm 1938, Laurance S. Rockefeller giúp tài trợ cho việc tạo ra của cả hai Eastern Air Lines và Douglas Aircraft, và gia đình Rockefeller đã có cổ phần lớn trong một loạt các công ty. Eric M. Warburg thành lập E.M. Warburg & Co vào năm 1938, mà cuối cùng sẽ trở thành Warburg Pincus, có các đầu tư trong các mua lại vốn có đòn bẩy và vốn mạo hiểm.
Nguồn gốc của vốn cổ phần tư nhân hiện đại.
Trước Chiến tranh Thế giới II, các lệnh đặt tiền (ban đầu được gọi là "vốn phát triển") là lĩnh vực chủ yếu của các cá nhân và gia đình giàu có. Mãi cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những gì được coi hôm nay là các đầu tư vốn cổ phần tư nhân thực sự bắt đầu xuất hiện được đánh dấu bằng sự ra đời của hai hãng vốn mạo hiểm đầu tiên năm 1946: American Research and Development Corporation (ARDC) và J.H. Whitney & Company.
ARDC được sáng lập bởi Georges Doriot, "người cha của chủ nghĩa tư bản mạo hiểm" (cựu hiệu trưởng của Trường kinh doanh Harvard và người sáng lập của INSEAD), với Ralph Flanders và Karl Compton (cựu chủ tịch của MIT), để khuyến khích các đầu tư khu vực tư nhân vào các doanh nghiệp được điều hành bởi những người lính đã trở về từ Thế chiến II. Ý nghĩa của ARDC chủ yếu là nó là hãng đầu tư cổ phần tư nhân thể chế đầu tiên huy động vốn từ các nguồn khác ngoài các gia đình giàu có mặc dù nó cũng đã có một số thành công đầu tư đáng chú ý. ARDC được ghi nhận với cú ngoạn mục đầu tiên khi đầu tư năm 1957 của nó khoảng 70.000 USD vào Digital Equipment Corporation (DEC) có giá trị trên 355.000.000 USD sau chào bán công chúng lần đầu của công ty trong năm 1968 (đại diện cho hoàn vốn hơn 1200 lần trên đầu tư và tỷ lệ hoàn vốn hàng năm 101%).
Các nhân viên cũ của ARDC đã bước vào và thành lập một số hãng vốn mạo hiểm nổi tiếng như Greylock Partners (thành lập vào năm 1965 bởi Charlie Waite và Bill Elfers) và Morgan, Holland Ventures, tiền thân của Flagship Ventures (thành lập năm 1982 bởi James Morgan). ARDC đã tiếp tục đầu tư cho đến năm 1971 với việc nghỉ hưu của Doriot. Năm 1972, Doriot sáp nhập ARDC với Textron sau khi đã đầu tư vào hơn 150 công ty.
J.H. Whitney & Company được thành lập bởi John Hay Whitney và đối tác của mình Benno Schmidt. Whitney đã đầu tư từ những năm 1930, thành lập Pioneer Pictures vào năm 1933 và mua lại 15% lợi ích trong Technicolor Corporation với người em họ của mình Cornelius Vanderbilt Whitney. Đến nay đầu tư nổi tiếng nhất của Whitney là ở Florida Foods Corporation. Công ty đã phát triển một phương pháp sáng tạo để cung cấp dinh dưỡng cho những người lính Mỹ, mà sau này được biết đến như nước cam Minute Maid và đã được bán cho The Coca-Cola Company vào năm 1960. J.H. Whitney & Company tiếp tục thực hiện đầu tư trong các nghiệp vụ mua lại đòn bẩy và đã nâng 750 triệu USD cho vị trí quỹ cổ phần tư nhân thể chế lớn thứ sáu của mình vào năm 2005.
Vốn mạo hiểm sơ khai và sự tăng trưởng của Thung lũng Silicon.
Một trong những bước đầu tiên hướng tới một ngành công nghiệp vốn mạo hiểm được quản lý chuyên nghiệp là việc thông qua Đạo luật Đầu tư doanh nghiệp nhỏ năm 1958. Đạo luật năm 1958 đã chính thức cho phép Cục Quản lý Kinh doanh nhỏ Mỹ (SBA) cấp giấy phép các "công ty đầu tư kinh doanh nhỏ" tư nhân (SBIC) để giúp đỡ tài trợ và quản lý các doanh nghiệp tự doanh nhỏ tại Hoa Kỳ.
Trong những năm 1960 và 1970, các hãng vốn mạo hiểm tập trung hoạt động đầu tư của họ chủ yếu trong việc khởi động và mở rộng các công ty. Thường xuyên, các công ty này đang khai thác những bước đột phá trong công nghệ điện tử, y tế, hoặc xử lý dữ liệu. Kết quả là, vốn mạo hiểm đã đi đến được gần như đồng nghĩa với tài chính công nghệ. Một công ty vốn mạo hiểm tại bờ biển phía tây thời kỳ đầu là Draper and Johnson Investment Company, được hình thành vào năm 1962 bởi William Henry Draper III và Franklin P. Johnson, Jr. Năm 1965, Sutter Hill Ventures mua lại danh mục đầu tư của Draper và Johnson là một hành động sáng lập. Bill Draper và Paul Wythes là những người sáng lập, và Pitch Johnson thành lập Công ty quản lý tài sản tại thời điểm đó.
Thường được lưu ý rằng khởi động được hỗ trợ vốn mạo hiểm đầu tiên là Fairchild Semiconductor (nhà sản xuất mạch tích hợp thương mại thực tế đầu tiên), được cấp vốn trong năm 1959 bởi cái mà sau này trở thành Venrock Associates. Venrock được thành lập vào năm 1969 bởi Laurance S. Rockefeller, con thứ tư trong sáu người con của John D. Rockefeller như một cách để cho phép các con cái khác của Rockefeller phát triển tiếp xúc với các đầu tư vốn mạo hiểm.
Cũng trong những năm 1960, hình thức phổ biến của quỹ vốn cổ phần tư nhân, vẫn còn sử dụng ngày hôm nay, nổi lên. Các hãng vốn cổ phần tư nhân đã tổ chức các quan hệ đối tác hạn chế để nắm giữ các đầu tư, trong đó các chuyên gia đầu tư phục vụ như những đối tác tổng quát và các nhà đầu tư là những đối tác hạn chế thụ động, đưa vốn lên. Cơ cấu bồi thường, vẫn được sử dụng ngày hôm nay, cũng đã xuất hiện với các đối tác hạn chế chi trả một khoản phí quản lý hàng năm 1,0-2,5% và tiền lãi thực hiện thường chiếm tới 20% lợi nhuận của quan hệ đối tác này.
Sự phát triển của ngành công nghiệp vốn mạo hiểm đã được thúc đẩy bởi sự xuất hiện của các hãng đầu tư độc lập tại đường Sand Hill, bắt đầu với Kleiner, Perkins, Caufield & Byers và Sequoia Capital vào năm 1972. Được đặt tại Menlo Park, CA, Kleiner Perkins, Sequoia và các hãng vốn mạo hiểm sau đó sẽ có quyền truy cập vào nhiều công ty bán dẫn có trụ sở tại thung lũng Santa Clara cũng như các hãng máy tính sơ khai bằng cách sử dụng các thiết bị và việc lập trình của họ và các công ty dịch vụ.
Trong suốt những năm 1970, một nhóm các hãng vốn cổ phần tư nhân, tập trung chủ yếu vào đầu tư vốn mạo hiểm, đã được thành lập mà sẽ trở thành mô hình cho các hãng đầu tư mua lại đòn bẩy và vốn mạo hiểm sau này. Trong năm 1973, với số lượng các hãng vốn mạo hiểm mới gia tăng, các nhà đầu tư vốn mạo hiểm hàng đầu hình thành Hiệp hội vốn mạo hiểm quốc gia (NVCA). NVCA là để phục vụ như là tập đoàn trao đổi công nghiệp cho ngành công nghiệp vốn mạo hiểm. Các hãng vốn mạo hiểm bị suy giảm tạm thời trong năm 1974, khi thị trường chứng khoán sụp đổ và các nhà đầu tư đã thận trọng một cách tự nhiên đối với loại hình mới này của quỹ đầu tư.
Mãi cho đến năm 1978 vốn mạo hiểm được trải nghiệm năm tăng quỹ chính đầu tiên của nó, khi ngành công nghiệp tăng khoảng 750 triệu USD. Với việc thông qua các Đạo luật An sinh lợi tức hưu trí nhân viên (ERISA) trong năm 1974, các quỹ hưu trí công ty đã bị cấm đảm nhiệm một số đầu tư rủi ro nhất định trong đó có nhiều khoản đầu tư trong các công ty nắm giữ tư nhân. Trong năm 1978, Bộ Lao động Mỹ nới lỏng một số hạn chế của ERISA, theo "quy tắc người khôn ngoan," do đó cho phép các quỹ hưu trí công ty đầu tư vào các lớp tài sản và cung cấp một nguồn vốn lớn sẵn có cho các nhà đầu tư vốn mạo hiểm.
Những năm 1980.
Những thành công đại chúng của công nghiệp vốn mạo hiểm trong những năm 1970 và đầu những năm 1980 (ví dụ, Digital Equipment Corporation, Apple, Genentech) đã dẫn đến một sự gia tăng lớn của các hãng đầu tư vốn mạo hiểm. Từ chỉ một vài chục hãng vào đầu thập kỷ này, đã có hơn 650 hãng vào cuối những năm 1980, mỗi hãng tìm kiếm cho "vận hành nhà" chính tiếp theo. Số lượng các hãng được nhân lên, và vốn được quản lý của các hãng này đã tăng từ 3 tỷ USD lên 31 tỷ USD trong suốt thập kỷ này.
Tăng trưởng của ngành công nghiệp này bị cản trở bởi các hoàn vốn bị suy giảm mạnh, và các hãng vốn mạo hiểm nhất định bắt đầu công bố lỗ lần đầu tiên. Ngoài ra với sự cạnh tranh gia tăng giữa các hãng, một số yếu tố khác đã ảnh hưởng tới hoàn vốn. Thị trường cho các IPO bị giá lạnh vào giữa những năm 1980 trước khi bị sụp đổ sau sự sụp đổ của thị trường cổ phiếu trong năm 1987 và các công ty nước ngoài, đặc biệt là từ Nhật Bản và Hàn Quốc, bị tràn ngập các công ty giai đoạn sơ khai với vốn.
Để đáp ứng với các điều kiện thay đổi, các công ty đã được tài trợ bởi các tay đầu tư vốn mạo hiểm trong nhà, bao gồm General Electric và Paine Webber hoặc bán ra hoặc đóng cửa các đơn vị vốn mạo hiểm này. Ngoài ra, các đơn vị vốn mạo hiểm trong Chemical Bank và Continental Illinois National Bank, trong số những người khác, bắt đầu chuyển sự chú ý của họ từ việc tài trợ các công ty giai đoạn sơ khai sang các đầu tư trên các công ty trưởng thành hơn. Ngay cả các nhà sáng lập ngành công nghiệp J.H. Whitney & Company và Warburg Pincus cũng bắt đầu quá trình chuyển đổi hướng tới các đầu tư mua lại đòn bẩy và vốn tăng trưởng.
Sự bùng nổ vốn mạo hiểm và bong bóng Internet (1995-2000).
Vào cuối những năm 1980, tỷ suất hoàn vốn vốn mạo hiểm là tương đối thấp, đặc biệt là so với người anh em mua lại đòn bẩy mới nổi của nó, một phần là do sự cạnh tranh cho các khởi động nóng, nguồn cung dư thừa các IPO và sự thiếu kinh nghiệm của nhiều nhà quản lý các quỹ vốn mạo hiểm. Tăng trưởng trong công nghiệp vốn mạo hiểm còn nhiều hạn chế trong suốt những năm 1980 và nửa đầu những năm 1990, tăng từ 3 tỉ USD trong năm 1983 lên chỉ có hơn 4 tỷ USD so với một thập kỷ sau đó trong năm 1994.
Sau khi một shakeout của các nhà quản lý vốn mạo hiểm, các hãng thành công đã đổi xu hướng, tập trung nhiều hơn vào việc cải thiện các hoạt động tại công ty danh mục đầu tư của họ chứ không phải liên tục thực hiện các đầu tư mới. Kết quả sẽ bắt đầu chuyển sang rất hấp dẫn, thành công và cuối cùng sẽ tạo ra sự bùng nổ vốn mạo hiểm của những năm 1990. Giáo sư Andrew Metrick của Trường Quản lý Yale đề cập đến 15 năm của sự bắt đầu của ngành công nghiệp vốn mạo hiểm hiện đại trong những năm 1980 như là "thời kỳ trước sự bùng nổ" trong dự đoán của sự bùng nổ mà sẽ bắt đầu vào năm 1995 và cuối cùng thông qua sự bùng nổ của bong bóng Internet vào năm 2000.
Cuối những năm 1990 là một thời kỳ bùng nổ cho vốn mạo hiểm, do các hãng trên đường Sand Hill tại Menlo Park và thung lũng Silicon được hưởng lợi từ sự gia tăng lợi ích lớn đến từ Internet mới ra đời và các công nghệ máy tính khác. Các IPO cổ phiếu cho các công ty công nghệ và các công ty tăng trưởng khác là trong sự phong phú và các hãng vốn mạo hiểm đã được gặt hái hoàn vốn lớn.
Sụp đổ vốn cổ phần tư nhân (2000 to 2003).
Sự sụp đổ Nasdaq và khủng hoảng công nghệ bắt đầu Tháng 3 năm 2000 bắt gần như toàn bộ ngành công nghiệp vốn mạo hiểm như các định giá cho các công ty công nghệ khởi động sụp đổ. Trong hai năm tiếp theo, nhiều hãng vốn mạo hiểm đã bị buộc phải write-off tỷ lệ lớn các đầu tư của họ, và nhiều quỹ "dưới nước" đáng kể (các giá trị của các đầu tư của quỹ là dưới số vốn đã đầu tư). Các nhà đầu tư vốn mạo hiểm tìm cách giảm quy mô các cam kết mà họ đã làm với các quỹ vốn mạo hiểm, và trong nhiều trường hợp, các nhà đầu tư tìm cách dỡ bỏ các cam kết hiện tại cho từng xu trên mỗi đồng đô la trên thị trường thứ cấp. Đến giữa năm 2003, công nghiệp vốn mạo hiểm đã teo lại còn khoảng một nửa công suất năm 2001 của mình. Tuy nhiên, khảo sát MoneyTree của PricewaterhouseCoopers cho thấy tổng đầu tư vốn mạo hiểm được nắm giữ ổn định tại các mức của năm 2003 thông qua quý thứ hai của năm 2005.
Mặc dù những năm sau sự bùng nổ chỉ chiếm một phần nhỏ trong các mức đỉnh cao của đầu tư mạo hiểm đã đạt được trong năm 2000, nhưng chúng vẫn được tăng thêm so với mức độ đầu tư từ năm 1980 đến năm 1995. Là một tỷ lệ phần trăm của GDP, đầu tư mạo hiểm là 0,058% trong năm 1994, đạt mức cao nhất 1.087% (gần 19 lần so với mức năm 1994) vào năm 2000 và dao động từ 0,164% đến 0,182% trong năm 2003 và 2004. Sự hồi sinh của một môi trường theo định hướng Internet trong năm 2004 thông qua năm 2007 đã giúp làm sống lại môi trường vốn mạo hiểm. Tuy nhiên, như một tỷ lệ phần trăm của toàn thị trường vốn cổ phần tư nhân, vốn mạo hiểm vẫn chưa đạt đến mức giữa những năm 1990 của mình, để lại một mình đỉnh điểm vào năm 2000.
Các quỹ vốn mạo hiểm, chịu trách nhiệm cho phần lớn khối lượng huy động vốn trong năm 2000 (chiều cao của bong bóng dot-com), chỉ huy động được 25,1 tỷ USD trong năm 2006, giảm 2%, so với năm 2005 và giảm đáng kể từ cao điểm của nó.
Tài trợ vốn.
Nhận vốn mạo hiểm là khác nhau đáng kể so với nâng nợ hay vay tiền từ người cho vay. Người cho vay có quyền hợp pháp với tiền lãi trên khoản vay và hoàn trả vốn, không phụ thuộc vào sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Vốn mạo hiểm được đầu tư để đổi lấy một phần vốn cổ phần trong doanh nghiệp. Là một cổ đông, hoàn vốn của vốn mạo hiểm phụ thuộc vào sự tăng trưởng và khả năng lợi nhuận của doanh nghiệp. Hoàn vốn này thường thu được khi nhà tư bản vốn mạo hiểm "thoát" bằng cách bán cổ phần của mình khi kinh doanh được bán cho chủ sở hữu khác.
Các nhà tư bản vốn mạo hiểm thường rất chọn lọc trong việc quyết định những gì để đầu tư, như một quy tắc ngón cái, một quỹ có thể đầu tư vào một trong bốn trăm cơ hội được trình bày cho nó, bằng cách tìm kiếm các phẩm chất rất hiếm, chẳng hạn như công nghệ tiên tiến, tiềm năng phát triển nhanh chóng, một mô hình kinh doanh đã phát triển tốt, và một đội ngũ quản lý ấn tượng. Về những phẩm chất này, các quỹ quan tâm nhất trong các liên doanh với tiềm năng tăng trưởng đặc biệt cao, vì chỉ có những cơ hội như vậy mới có thể có khả năng cung cấp các hoàn vốn tài chính và sự kiện thoát thành công trong khung thời gian cần thiết (thường là 3-7 năm) mà các nhà tư bản mạo hiểm mong đợi.
Bởi vì các đầu tư là kém thanh khoản và yêu cầu khung thời gian kéo dài để thu hoạch, các nhà tư bản mạo hiểm dự kiến sẽ thực hiện thẩm định chi tiết trước khi đầu tư. Các nhà tư bản mạo hiểm cũng được dự kiến sẽ nuôi dưỡng các công ty mà họ đầu tư, để tăng khả năng đạt được một giai đoạn IPO khi các định giá là thuận lợi. Các nhà tư bản mạo hiểm thường hỗ trợ tại bốn giai đoạn trong sự phát triển của công ty:
Bởi vì không có niêm yết giao dịch công khai chứng khoán của họ, các công ty tư nhân đáp ứng các hãng vốn mạo hiểm và các nhà đầu tư vốn cổ phần tư nhân khác bằng nhiều cách, kể cả giới thiệu nồng nhiệt từ các nguồn đáng tin cậy của nhà đầu tư và các tiếp xúc kinh doanh khác; hội nghị nhà đầu tư và hội nghị chuyên đề và hội nghị thượng đỉnh mà các công ty pitch trực tiếp cho các nhóm nhà đầu tư trong các cuộc họp mặt đối mặt, bao gồm cả một biến thể được gọi là "Speed Venturing", mà là giống như ước hẹn nhanh cho vốn, nơi mà nhà đầu tư quyết định trong vòng 10 phút liệu ông ta có muốn một cuộc gặp mặt tiếp theo hay không. Ngoài ra, có một số mạng trực tuyến riêng tư mới đang xuất hiện để cung cấp các cơ hội bổ sung đáp ứng cho các nhà đầu tư.
Nhu cầu cho hoàn vốn cao này làm cho tài trợ vốn mạo hiểm là một nguồn vốn đắt tiền đối với các công ty, và phù hợp nhất cho các doanh nghiệp có các yêu cầu vốn lớn phía trước, mà không thể được tài trợ bởi các lựa chọn thay thế rẻ hơn như vay nợ. Đó là phổ biến nhất cho trường hợp đối với các tài sản vô hình như phần mềm, và tài sản trí tuệ khác, có giá trị chưa được chứng minh. Đến lượt nó, điều này giải thích lý do tại sao vốn mạo hiểm là phổ biến nhất trong các lĩnh vực công nghệ đang phát triển nhanh chóng và khoa học đời sống hay công nghệ sinh học.
Nếu một công ty có những phẩm chất các nhà tư bản mạo hiểm tìm kiếm bao gồm một kế hoạch kinh doanh vững chắc, đội ngũ quản lý tốt, đầu tư và niềm đam mê từ những người sáng lập, một tiềm năng tốt để thoát khỏi đầu tư trước khi kết thúc chu kỳ tài trợ vốn của họ, và hoàn vốn mục tiêu tối thiểu vượt quá 40% mỗi năm, nó sẽ thấy dễ dàng hơn để huy động vốn mạo hiểm.
Các giai đoạn tài trợ vốn.
Thông thường có sáu giai đoạn của tài trợ vòng mạo hiểm được cung cấp bằng vốn mạo hiểm, tương ứng một cách mạnh mẽ với các giai đoạn phát triển của công ty.
Giữa vòng đầu tiên và vòng thứ tư, các công ty được hỗ trợ vốn mạo hiểm cũng có thể tìm cách nhận nợ mạo hiểm.
Các hãng và quỹ vốn mạo hiểm.
Nhà tư bản mạo hiểm.
Một nhà tư bản mạo hiểm là một người mà làm các đầu tư mạo hiểm, và những nhà đầu tư mạo hiểm này được dự kiến sẽ mang lại kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật cũng như vốn cho các đầu tư của họ. Một quỹ vốn mạo hiểm đề cập đến một phương tiện đầu tư gộp (tại Hoa Kỳ, thường là một LP hay LLC) mà chủ yếu là đầu tư vốn tài chính của các nhà đầu tư bên thứ ba trong các xí nghiệp vốn bị xem là quá rủi ro đối với các thị trường vốn tiêu chuẩn hoặc vay vốn ngân hàng. Các quỹ này thường được quản lý bởi một hãng vốn mạo hiểm, thường sử dụng các cá nhân với các nền tảng công nghệ (các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu), đào tạo kinh doanh và/hoặc có kinh nghiệm sâu trong ngành.
Một kỹ năng cốt lõi trong VC là khả năng xác định công nghệ mới có khả năng tạo ra hoàn vốn thương mại cao ở giai đoạn đầu. Theo định nghĩa, các VC cũng có một vai trò trong việc quản lý các công ty tự doanh ở giai đoạn đầu, nên các kỹ năng cũng như vốn bổ sung, do bởi sự khác biệt của VC với vốn cổ phần tư nhân mua lại, thường đầu tư vào các công ty có doanh thu đã được chứng minh, và do đó có khả năng thực hiện tỷ suất hoàn vốn cao hơn nhiều. Vốn có trong việc thực hiện tỷ suất hoàn vốn cao bất thường là nguy cơ mất tất cả đầu tư của một VC trong một công ty khởi động đã cho. Kết quả là, hầu hết các khoản đầu tư vốn mạo hiểm được thực hiện trong một định dạng hồ bơi, nơi vài nhà đầu tư kết hợp các đầu tư của họ vào một quỹ lớn đầu tư vào nhiều công ty khởi động khác nhau. Bằng cách đầu tư trong các định dạng hồ bơi, các nhà đầu tư đang lan rộng rủi ro của họ tới nhiều khoản đầu tư khác nhau so với việc nhận lấy nguy cơ của việc đặt tất cả tiền của họ trong một công ty khởi động.
Cấu trúc.
Các hãng vốn mạo hiểm thường được cấu trúc như các quan hệ đối tác, các đối tác tổng quát trong đó phục vụ như các nhà quản lý của hãng và sẽ phục vụ như người tư vấn đầu tư cho các quỹ vốn mạo hiểm được huy động. Các hãng vốn mạo hiểm tại Hoa Kỳ cũng có thể được cấu trúc như các công ty trách nhiệm hữu hạn, trong trường hợp này các nhà quản lý của hãng được biết đến như các thành viên quản lý. Các nhà đầu tư vào các quỹ vốn mạo hiểm được gọi là các đối tác hạn chế. Khu vực này bao gồm các cá nhân đáng giá cao và các tổ chức với số lượng lớn vốn có sẵn, chẳng hạn như các quỹ hưu trí tư nhân và nhà nước, các cúng vốn tài chính viện đại học, các cơ sở tư nhân, các công ty bảo hiểm, và các phương tiện đầu tư gộp, được gọi là các quỹ của các quỹ.
Các loại.
Các hãng vốn mạo hiểm khác nhau trong cách tiếp cận của họ. Có rất nhiều yếu tố, và mỗi hãng là khác nhau.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến các quyết định VC bao gồm:
Các vai trò.
Trong ngành công nghiệp vốn mạo hiểm, các cộng tác viên nói chung và các chuyên gia đầu tư khác của hãng vốn mạo hiểm thường được gọi là các "nhà tư bản mạo hiểm" hay "VC". Nguồn gốc sự nghiệp tiêu biểu khác nhau, nhưng nói chung các nhà tư bản mạo hiểm đến từ một nền hiểu biết vận hành hay một nền tài chính. Các nhà tư bản mạo hiểm với một nền hiểu biết vận hành (đối tác điều hành) có xu hướng là cựu thành viên sáng lập hoặc giám đốc điều hành của các công ty tương tự như những công ty mà hợp tác sẽ tài trợ hoặc sẽ phục vụ như các tư vấn quản lý. Các nhà tư bản mạo hiểm với nền hiểu biết tài chính có xu hướng có kinh nghiệm hoạt động ngân hàng đầu tư hoặc tài chính doanh nghiệp khác.
Mặc dù các chức danh không hoàn toàn thống nhất giữa các hãng, các vị trí khác tại các hãng vốn mạo hiểm bao gồm:
Cơ cấu của các quỹ.
Phần lớn quỹ vốn mạo hiểm có thời gian sống cố định là 10 năm, với khả năng của một vài năm các mở rộng cho phép các công ty tư nhân vẫn đang tìm kiếm khả năng thanh khoản. Chu kỳ đầu tư đối với hầu hết các quỹ thường là 3-5 năm, sau đó trọng tâm là quản lý và thực hiện các đầu tư tiếp theo vào trên một danh mục đầu tư hiện tại. Mô hình này đã đi tiên phong của các quỹ thành công tại Silicon Valley qua những năm 1980 để đầu tư vào các xu hướng công nghệ rộng nhưng chỉ trong thời gian uy lực của chúng, và cắt giảm tiếp xúc với các rủi ro quản lý và tiếp thị của bất kỳ hãng hoặc sản phẩm cụ thể nào của nó.
Trong một quỹ như vậy, các nhà đầu tư có cam kết vững chắc đối với quỹ chưa được góp quỹ ban đầu và "gọi xuống" sau đó bởi quỹ vốn mạo hiểm theo thời gian khi quỹ này làm các đầu tư của mình. Có những hình phạt đáng kể cho một đối tác hạn chế (hoặc nhà đầu tư) mà không tham gia vào một gọi vốn.
Nó có thể mất bất cứ nơi nào từ một tháng hoặc lâu hơn đến vài năm để các nhà đầu tư mạo hiểm để huy động vốn từ các đối tác hạn chế cho quỹ của họ. Vào thời điểm khi tất cả số tiền đã được huy động xong, quỹ tuyên bố là đóng cửa, và vòng đời 10 năm bắt đầu. Một số quỹ đóng cửa một phần khi một nửa (hoặc một số lượng khác) quỹ đã được huy động xong. "Năm hái nho" thường dùng để chỉ năm mà quỹ được đóng cửa và có thể phục vụ như một phương tiện để phân tầng quỹ VC để so sánh. Điều này cho thấy sự khác biệt giữa một công ty quản lý quỹ vốn mạo hiểm và các quỹ vốn mạo hiểm được quản lý bởi họ.
Từ quan điểm của nhà đầu tư, các quỹ có thể là: (1) truyền thống - nơi mà tất cả các nhà đầu tư đầu tư với các điều kiện như nhau, hoặc (2) bất đối xứng - nơi mà các nhà đầu tư khác nhau có các điều khoản khác nhau. Thường thì tính bất đối xứng được nhìn thấy trong trường hợp có một nhà đầu tư có các quyền lợi khác như thuế thu nhập trong trường hợp các nhà đầu tư đại chúng.
Bồi thường.
Các nhà đầu tư vốn mạo hiểm được bồi thường thông qua một sự kết hợp của phí quản lý và tiền lãi thực hiện (thường được gọi là một sắp xếp "hai và 20"):
Bởi vì một quỹ có thể thất thoát vốn trước khi kết thúc cuộc sống của mình, các hãng vốn mạo hiểm lớn thường có nhiều quỹ chồng chéo cùng một lúc; làm như vậy cho phép các hãng lớn giữ các chuyên gia trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển của các công ty gần như tham gia liên tục. Các hãng nhỏ hơn có xu hướng phát triển mạnh hoặc không có các liên hệ công nghiệp ban đầu của họ; theo thời gian quỹ giải ngân, một thế hệ hoàn toàn mới của công nghệ và con người thay đổi dần, người mà các đối tác chung có thể không biết rõ, và vì vậy là khôn ngoan để đánh giá lại và thay đổi ngành công nghiệp hoặc nhân viên chứ không phải chỉ đơn giản là cố gắng đầu tư nhiều hơn trong ngành công nghiệp hoặc những người mà các đối tác đã biết.
Các thay thế chính cho vốn mạo hiểm.
Vì những yêu cầu nghiêm ngặt các nhà đầu tư mạo hiểm phải có cho các đầu tư tiềm năng, nhiều doanh nhân tìm kiếm tài trợ hạt giống từ các nhà đầu tư thiên thần, người có thể sẵn sàng hơn để đầu tư vào các cơ hội đầu cơ cao, hoặc có thể có một mối quan hệ từ trước với nhà doanh nghiệp.
Hơn nữa, nhiều hãng vốn mạo hiểm sẽ đánh giá nghiêm túc chỉ đầu tư vào một công ty khởi động nếu không thì bỏ qua nếu công ty có thể chứng minh ít nhất một số yêu sách của hãng về công nghệ và/hoặc thị trường tiềm năng cho sản phẩm hoặc dịch vụ của mình. Để đạt được điều này, hoặc thậm chí chỉ để tránh những tác động suy giảm của việc nhận tài trợ trước khi những yêu sách như vậy được chứng minh, nhiều khởi động tìm cách tự tài trợ vốn cổ phần mồ hôi cho đến khi chúng đạt đến một điểm khi mà họ có thể tiếp cận một cách đáng tin các nhà cung cấp vốn bên ngoài như các nhà đầu tư mạo hiểm hoặc nhà đầu tư thiên thần. Cách thức này được gọi là "bootstrapping".
Đã và đang có một số cuộc tranh luận kể từ khi bùng nổ dot-com mà một "khoảng cách tài trợ" đã phát triển giữa các đầu tư bạn bè và gia đình thường trong phạm vi 0 đến 250.000 USD và số tiền mà quỹ VC thích đầu tư nhất khoảng 1 triệu USD cho tới 2 triệu USD. Khoảng cách tài trợ này có thể được nhấn mạnh bởi thực tế là một số quỹ VC thành công đã được rút ra để huy động các quỹ ngày càng lớn hơn, yêu cầu họ tìm kiếm các cơ hội đầu tư tương ứng lớn hơn. Khoảng cách này thường được lấp đầy bởi vốn cổ phần mồ hôi và tài trợ hạt giống qua nhà đầu tư thiên thần cũng như các công ty đầu tư vốn cổ phần chuyên về đầu tư trong công ty khởi động từ khoảng 250.000 USD đến 1 triệu USD. Hiệp hội vốn mạo hiểm Quốc gia ước tính rằng các thay thế sau hiện đầu tư hơn 30 tỷ USD mỗi năm ở Mỹ tương phản với 20 tỷ USD mỗi năm được đầu tư bởi các quỹ vốn mạo hiểm có tổ chức.
Tài trợ đám đông đang nổi lên như một thay thế cho vốn mạo hiểm truyền thống. Tài trợ đám đông là một cách tiếp cận để huy động vốn cần thiết cho một dự án hay xí nghiệp mới bằng cách kêu gọi một số lượng lớn những người bình thường cho các quyên góp nhỏ. Trong khi một cách tiếp cận như vậy có tiền lệ lâu đời trong lĩnh vực từ thiện, nó đang nhận được sự quan tâm trở lại của các doanh nhân như các nhà làm phim độc lập, mà bây giờ phương tiện truyền thông xã hội và các cộng đồng trực tuyến làm cho nó có thể tiếp cận với một nhóm người ủng hộ có khả năng quan tâm với chi phí rất thấp. Một số mô hình tài trợ đám đông cũng đang được áp dụng cho tài trợ khởi động như những mô hình được liệt kê tại So sánh các dịch vụ tài trợ đám đông. Một trong những lý do để tìm kiếm các lựa chọn thay thế cho vốn mạo hiểm là vấn đề của mô hình VC truyền thống. Các VC truyền thống đang chuyển hướng tập trung của họ tới các đầu tư giai đoạn sau, và hoàn vốn đầu tư của nhiều quỹ VC đã thấp hay tiêu cực.
Ở châu Âu và Ấn Độ, Phương tiện truyền thông cho vốn cổ phần là một thay thế một phần cho tài trợ vốn mạo hiểm. Các nhà đầu tư phương tiện truyền thông cho vốn cổ phần có thể cung cấp cho các khởi động với các chiến dịch quảng cáo thường đáng kể để đổi lấy vốn cổ phần.
Trong các ngành công nghiệp mà tài sản có thể được chứng khoán hóa một cách có hiệu quả bởi vì họ tạo ra nguồn doanh thu trong tương lai một cách đáng tin cậy hoặc có tiềm năng tốt để bán lại trong trường hợp bị tịch thu, các doanh nghiệp có thể tăng nợ theo cách có thể là rẻ hơn để tài trợ cho sự tăng trưởng của họ. Ví dụ điển hình có thể là các ngành công nghiệp khai thác tài sản chuyên sâu như khai thác mỏ, hoặc các ngành công nghiệp chế biến. Tài trợ nước ngoài được cung cấp thông qua các tín thác vốn mạo hiểm chuyên sâu, tìm cách sử dụng chứng khoán hóa trong việc cơ cấu các nghiệp vụ đa thị trường kết hợp thông qua một SPV (phương tiện mục đích đặc biệt): một thực thể công ty được thiết kế chỉ duy nhất cho mục đích làm tài chính.
Ngoài vốn mạo hiểm truyền thống và các mạng lưới thiên thần, các nhóm đã xuất hiện, cho phép các nhóm nhà đầu tư nhỏ hoặc các doanh nhân tự mình để cạnh tranh trong một cạnh tranh kế hoạch kinh doanh tư nhân hóa khi mà nhóm tự phục vụ như nhà đầu tư thông qua một tiến trình dân chủ.
Các hãng luật cũng đang ngày càng đóng vai trò như một trung gian giữa khách hàng tìm kiếm vốn mạo hiểm và các hãng cung cấp nó.
Các khác biệt địa lý.
Vốn mạo hiểm, như một ngành công nghiệp, có nguồn gốc ở Hoa Kỳ, và các hãng Mỹ có truyền thống được nhiều người tham gia nhất trong giao dịch mạo hiểm, và phần lớn vốn mạo hiểm đã được triển khai trong các công ty Mỹ. Tuy nhiên, đầu tư vốn mạo hiểm không phải Mỹ đang ngày càng phát triển, và số lượng và quy mô các nhà tư bản mạo hiểm ngoài nước Mỹ đã và đang được mở rộng.
Canada.
Các công ty công nghệ Canada đã thu hút được sự quan tâm từ cộng đồng vốn mạo hiểm toàn cầu như kết quả, một phần của ưu đãi thuế hào phóng qua Chương trình tín dụng thuế đầu tư phát triển nghiên cứu và thí nghiệm khoa học (SR & ED).
Châu Âu.
Châu Âu có một số lượng lớn và ngày càng tăng các hãng vốn mạo hiểm hoạt động. Vốn huy động được trong khu vực vào năm 2005, bao gồm các quỹ mua lại, vượt quá 60 tỷ EUR, trong đó 12,6 tỷ EUR đã được phân bổ cụ thể cho đầu tư mạo hiểm. Hiệp hội vốn mạo hiểm châu Âu bao gồm một danh sách các hãng hoạt động và các thống kê khác. Năm 2006, ba quốc gia hàng đầu nhận được hầu hết các khoản đầu tư vốn mạo hiểm là Vương quốc Anh (515 stake cổ phần thiểu số được bán với giá 1,78 tỷ EUR), Pháp (195 vụ trị giá 875 triệu EUR), và Đức (207 vụ trị giá 428 triệu EUR) theo dữ liệu được thu thập bởi Library House.
Đầu tư vốn mạo hiểm châu Âu trong quý thứ hai của năm 2007 tăng 5% lên 1,14 tỷ EUR từ quý đầu tiên. Tuy nhiên, do các vụ có quy mô lớn hơn trong các đầu tư giai đoạn sơ khai, số lượng giao dịch đã giảm 20% đến 213. Các kết quả đầu tư vốn mạo hiểm quý thứ hai là có ý nghĩa trong các điều kiện của đầu tư vòng ban đầu, khi tới 600 triệu EUR (khoảng 42,8% tổng vốn) đã được đầu tư trong 126 vụ vòng đầu tiên (bao gồm hơn một nửa tổng số các vụ). Vốn cổ phần tư nhân tại Ý là 4.2 tỷ EUR năm 2007.
Một nghiên cứu được công bố vào đầu năm 2013 cho thấy, trái với niềm tin phổ biến, các khởi động của châu Âu được hỗ trợ bởi vốn mạo hiểm không thực hiện tồi tệ hơn so với các đối tác Mỹ. Liên doanh các hãng được hỗ trợ vốn mạo hiểm châu Âu có cơ hội niêm yết bình đẳng trên thị trường chứng khoán, và một cơ hội thấp hơn của một "bán trao đổi" (mua lại bởi công ty khác).
Trái ngược với Mỹ, các công ty phương tiện truyền thông châu Âu và cả các quỹ đã và đang theo đuổi một mô hình kinh doanh phương tiện truyền thông cho vốn cổ phần như một hình thức đầu tư vốn mạo hiểm.
Nam Phi.
Ngành công nghiệp vốn mạo hiểm nam châu Phi là một giai đoạn phát triển ban đầu, chủ yếu tập trung ở Nam Phi. Các quỹ là khó khăn để đi qua và rất ít hãng đã quản lý để có được tài trợ mặc dù thể hiện tiềm năng phát triển to lớn. Nói chung là khí hậu cho ngành công nghiệp vốn mạo hiểm là nghèo nàn.
Thông tin bảo mật.
Không giống như công ty đại chúng, thông tin liên quan đến kinh doanh của một doanh nhân thường là bí mật và độc quyền. Là một phần của quá trình thẩm định, hầu hết các nhà đầu tư mạo hiểm sẽ yêu cầu chi tiết quan trọng liên quan đến kế hoạch kinh doanh của một công ty. Các doanh nhân phải cảnh giác về việc chia sẻ thông tin với các nhà đầu tư mạo hiểm là các nhà đầu tư trong các đối thủ cạnh tranh của họ. Hầu hết các nhà đầu tư mạo hiểm xử lý thông tin một cách bảo mật, nhưng như một vấn đề của thực tế kinh doanh, họ thường không tham gia vào thỏa thuận không công bố bởi vì những vấn đề trách nhiệm pháp lý tiềm năng mà các thỏa thuận đòi hỏi. Các doanh nhân thường khôn ngoan để bảo vệ tài sản trí tuệ thực sự độc quyền.
Các đối tác hạn chế của các hãng vốn mạo hiểm thường chỉ có quyền tiếp cận tới số lượng hạn chế thông tin liên quan đến các công ty danh mục đầu tư cụ thể, trong đó họ được đầu tư và thường bị ràng buộc bởi các điều khoản bảo mật trong thỏa thuận quan hệ đối tác hạn chế của quỹ. | 1 | null |
Kazimierz Kwiatkowski (1944 - 1997), còn được biết tới tại Việt Nam với tên gọi thân mật kiến trúc sư Kazik là một kiến trúc sư, nhà bảo tồn người Ba Lan. Ông được biết tới qua những nỗ lực bảo tồn các di tích lịch sử và khảo cổ tại Việt Nam như Hoàng thành Huế, Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn. Kiến trúc sư Kazik được coi là người có đóng góp lớn trong việc bảo tồn các di tích lịch sử tại Việt Nam và góp phần đưa các di tích này được ghi danh trong danh sách Di sản thế giới của UNESCO.
Tiểu sử.
Kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (phát âm là "Ka-zi-mi-ê Ki-át-cốp-xki") sinh năm 1944 tại thị trấn Pachol, huyện Parczewski, tỉnh , Ba Lan.
Kazimierz có năng khiếu vẽ từ nhỏ. Năm 15 tuổi, cậu vào học nội trú tại trường Trung học Nghệ thuật ở Zamosc. Kazimierz tốt nghiệp trung học vào năm 1963 và sau đó nộp đơn cùng lúc vào hai trường đại học: Học viện Nghệ thuật ở Cracow và Khoa Kiến trúc Đại học Bách khoa Cracow. Trường Đại học Bách khoa có thông báo quyết định tuyển sinh trước và việc được học tại khoa này là một sự kiện cực hiếm với người xuất thân từ gia đình nông dân như ông nên ông quyết định học kiến trúc.
Năm 1969, Kazimierz Kwiatkowski đạt học vị thạc sĩ kỹ sư kiến trúc sư. Năm sau, ông lập gia đình với bà Wieceslawa và sống, làm việc tại Lublin.
Sự nghiệp.
Tháng 9 năm 1969, Kazimierz Kwiatkowski làm trợ lý tại văn phòng Quy hoạch đô thị tại Ủy ban tỉnh Lublin. Từ tháng 3 năm 1972 đến tháng 10 năm 1974, ông làm thiết kế tại chi nhánh Công ty Nhà nước - Văn phòng Trùng tu Di tích (Państwowe Przedsiębiorstwo Pracowni Konserwacji Zabytków - PP PKZ) tại Lublin. Trong thời gian này, ông đã đỗ kỳ thi quốc gia và nhận được giấy phép hành nghề xây dựng và thiết kế.
Từ giữa tháng 11 năm 1974 đến cuối tháng 11 năm 1979 ông làm việc tại Văn phòng Thiết kế - Nghiên cứu Xây dựng Tổng hợp "Miastoprojekt" (Thiết kế Thành phố). Ở vị trí trưởng nhóm thiết kế, ông phụ trách việc lập quy hoạch không gian cũng như quy hoạch đô thị. Những công việc đầu tiên của ông liên quan đến việc bảo vệ các di tích là điều tra các công trình dân tộc được xây dựng trên địa bàn địa phương, nhằm mục đích phục vụ việc xây dựng Bảo tàng Nông thôn Lublin ở thành phố Lublin.
Tháng 12 năm 1979, ông đã quay trở lại làm việc tại Văn phòng Trùng tu Di tích (PP PKZ).
Năm 1981, ông đã được giao nhiệm vụ lãnh đạo sứ mệnh Trùng tu tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Sứ mệnh Trùng tu Di tích Ba Lan - Việt Nam là dự án đầu tiên kiểu này mà Văn phòng Trùng tu Di tích thực hiện ở châu Á. Đó là một thử thách quan trọng đối với PP PKZ, và Kazimierz Kwiatkowski là chuyên gia duy nhất đã chấp thuận thách thức này.
Ở Ba Lan, ông đã được biết tới qua các công trình khảo cổ, trùng tu tại Ai Cập hay Warszawa. Từ đầu thập niên 1980 ông đã tình nguyện sang Việt Nam khảo sát các di tích khảo cổ tại Mỹ Sơn, đây cũng là nơi ông gắn bó lâu nhất trong thời gian tại Việt Nam - gần 16 năm. Năm 1981, kiến trúc sư Kazik bắt đầu tiếp xúc với Hội An và lập tức nhận ra tiềm năng của thành phố (khi đó là thị xã) này.
Ông cùng với các chuyên gia Việt Nam, đã nghiên cứu, chuẩn bị chương trình trùng tu các công trình thời trung cổ của nền văn hóa Chàm ở miền Trung Việt Nam. Sứ mệnh tập trung trước tiên vào những tháp thờ bằng gạch tại quần thể thánh địa trên địa phận Amaravati của vương quốc Chămpa xưa. Một "vương quốc biến mất" mà lịch sử và văn hóa để lại không nhiều.
Ông đã nỗ lực vận động chính quyền địa phương tiến hành các biện pháp bảo tồn, trùng tu đô thị cổ Hội An đồng thời giới thiệu nét riêng biệt của Hội An ra thế giới. Trong thời gian ở Mỹ Sơn, đã có tám người trong đoàn khảo cổ của kiến trúc sư Kazik thiệt mạng do bom đạn còn lại sau chiến tranh, do bệnh tật và cuộc sống kham khổ. Năm 1991, khi nguồn tài chính cho hoạt động khảo cổ của đoàn chuyên gia Ba Lan bị chấm dứt, kiến trúc sư Kazik đã tự đứng ra kêu gọi tạo quỹ cho hoạt động khảo cổ của mình tại Mỹ Sơn, ngay cả vào thời điểm khó khăn nhất này, ông vẫn nói:
Nhờ vào hỗ trợ tài chính mà Kazimierz Kwiatkowski xin được từ Hội Những người bạn của Văn hóa Chăm ở Stuttgart mà Bảo tàng Điêu khắc Chăm mở cửa từ 26 tháng 3 năm 1994.
Bất chấp sự phản đối từ một số chuyên gia, kiến trúc sư Kazik luôn kiên trì theo đuổi nguyên tắc trùng tu "khảo cổ học" trong đó di tích gốc sẽ được giữ gìn nguyên vẹn ở mức tối đa và các biện pháp trùng tu chỉ được áp dụng để duy trì hiện trạng. Ông là người đầu tiên đã chú ý đến giá trị di sản đặc biệt của phố nhỏ Hội An nằm ngay cạnh cảng cổ Faifo của người Chăm. Những công trình xây bằng gỗ vẫn còn nguyên vẹn, quy hoạch tuyệt vời của thành phố vẫn còn giữ được và nghề may mặc đang phát triển tại thành phố. Ông đã thuyết phục được chính quyền Việt Nam quan tâm tới thành phố nhỏ này và không nên thay đổi các tòa nhà �� theo hướng hiện đại.
Đích thân kiến trúc sư Kazik đã quay về Ba Lan chỉ để mang hóa chất quay lại Việt Nam phục vụ cho công tác trùng tu Mỹ Sơn. Chính nhờ nguyên tắc này mà Hội An và Mỹ Sơn sau đó đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Trong thời gian năm 1981 và 1988, ông cùng đội ngũ các chuyên gia quang trắc đã làm việc ở Việt Nam, thực hiện hồ sơ trùng tu ở tỷ lệ: 1:20 và 1:50 cho hơn 30 công trình. Việc đo đạc không chỉ được thực hiện ở Mỹ Sơn, mà cả Phan rang, Quy Nhơn, Bằng An, Khương Mỹ, Chiên Đàn, Tháp Nhạn.
Đầu năm 1995, Kazimierz Kwiatkowski và ê kíp của ông bắt đầu công việc liên quan đến đánh giá lại tổ hợp đền thờ - cung điện trên địa phận "Tử Cấm Thành" ở Huế bằng nguồn tài trợ của Hội Stuttgart. Vào năm 1997, ông trở thành người chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng đánh giá lại hoàng cung do Cơ quan Quản lý Công trình ở Huế phụ trách.
Gắn bó với Việt Nam suốt 17 năm, kiến trúc sư Kazik qua đời ngày 19 tháng 3 năm 1997 trong một khách sạn ở Huế do nhồi máu cơ tim khi vẫn đang tích cực tham gia trùng tu khu vực đại nội Huế. Di hài của ông sau đó được chuyển về Ba Lan.
Lễ an táng được tổ chức tại Lublin vào ngày mồng 2 tháng 4. Kazimierz Kwiatkowski được chôn tại nghĩa trang công giáo cạnh nhà thờ Thánh Agnieszkatrên phố Kalinowszczyzna.
Gia đình.
Ông là con duy nhất của gia đình Twarowski, cha ông là Karol, mẹ là bà Zuzanna. Cha mẹ của Kazimierz làm nghề nông. Cậu Kazimierz lớn lên hầu như thiếu cha, cho tận đến lúc 9 tuổi, vì ngay cả sau khi kết thúc chiến tranh vào năm 1945, cha cậu vẫn ở lại phong trào đối lập. Mãi đến tận năm 1953, ông mới xuất hiện, nhờ vào ân xá được công bố sau khi Jozef Stalin chết.
Năm 1968, ông lập gia đình với bà Wieceslawa Porzadna, vốn là sinh viên khoa Toán Đại học Tổng hợp Jagiellonski. Ông đã làm quen với vợ tương lai của mình khi đang là sinh viên. Sau khi tốt nghiệp đại học, bà Kwiatkowski làm giáo viên tại Raciborz. Con trai đầu tiên Bartlomiej của ông ra đời vào năm 1970. Hai năm sau là đến con gái Katarzyna, và năm 1975 là con trai thứ hai Mateusz..
Di sản.
Việc trùng tu quần thể di tích Mỹ Sơn là công trình quan trọng nhất trong sự nghiệp của Kwiatkowski. Ông đã cứu được khoảng 20 đền tháp chỉ trong phạm vi quần thể thánh địa này tính đến năm 1989. Với sự tham gia và hướng dẫn của ông, một loạt các tháp Chàm thời trung cổ như Tháp Đôi, Dương Long, Po Klong Garai, Khương Mỹ, Tháp Nhạn, Chiên Đàn và Bằng An đã được nghiên cứu, trùng tu và bảo vệ. Ông được coi là người bảo vệ cho Sứ mệnh giải cứu những gì còn sót lại của nền văn hóa Chăm cho những thế hệ tương lai.
Kiến trúc sư Kazik được coi là người góp công lớn trong việc đưa Hội An và Mỹ Sơn trở thành Di sản thế giới. Vì vậy năm 2007, thành phố Hội An đã dựng một bức tượng kiến trúc sư để tưởng nhớ công lao của ông. Năm 2009, một bức tượng khác tưởng nhớ kiến trúc sư Kazik cũng đã được khởi công tại Mỹ Sơn. Năm 1999, một tuyển tập các bài viết về kiến trúc sư Kazik đã được xuất bản tại Việt Nam với tựa đề "Kazik, ký ức bạn bè".
Kazimierz Kwiatkowski đứng đầu nhóm chuyên gia tái kiến thiết địa đạo du kích Bến Đình thuộc huyện Củ Chi.
Kazimierz Kwiatkowski là tác giả rất nhiều xuất bản phẩm về nghệ thuật Chăm, cũng như các biện pháp bảo vệ và trùng tu các đền thờ ở Việt Nam. Ông đã để lại rất nhiều dự án, tài liệu khoa học, hồ sơ từ các nghiên cứu của mình. Ông đã được thưởng và nhận huân huy chương vì thành tích của mình, trong đó có Chữ thập Công trạng hạng đồng (năm 1978), và vàng (năm 1988), cũng như các kỷ niệm chương do Văn phòng Trùng tu Di tích trao tặng. | 1 | null |
Trong toán học, đơn thức là biểu thức đại số chỉ gồm một số, 1 biến hoặc 1 tích giữa các số và các biến hay là 1 hạng tử.
Đơn thức thu gọn.
Đơn thức thu gọn là đơn thức chỉ gồm tích của một số với các biến, mà mỗi biến chỉ được viết 1 lần và đã được nâng lên lũy thừa với số mũ nguyên dương.
Một đơn thức thu gọn thường gồm 2 phần là hệ số và phần biến số
Ví dụ: x, 9, formula_1 là những đơn thức thu gọn; xyx, formula_2 là những đơn thức chưa thu gọn
Nói chung, một hệ số hay một biến hay tích của hệ số và biến số được gọi là đơn thức hoặc thương giữa hệ số và biến số cũng là một đơn thức, đơn thức có thể có nhiều biến số, mỗi biến số đó có bậc lũy thừa là "m."
Để thu gọn một đơn thức, ta nhân các hệ số với nhau và nhân các phần biến với nhau.
Bậc của đơn thức.
Bậc của đơn thức có hệ số khác 0 là tổng các số mũ của tất cả các biến trong đơn thức đó.
Một số thực khác 0 được xem là đơn thức có bậc bằng 0
Đơn thức 0 (số 0) là đơn thức không có bậc
Đơn thức đồng dạng.
2 đơn thức đồng dạng là 2 đơn thức có hệ số khác 0 và có phần biến số giống hệt nhau.
Ví dụ: 3xy và -9,3xy là các đơn thức đồng dạng.
Để cộng trừ các đơn thức đồng dạng, ta áp dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng. Ta cộng hệ số với nhau và giữ nguyên phần biến.
Các số thực khác 0 cũng được coi là các đơn thức đồng dạng với nhau
Phép toán trên đơn thức.
Phép nhân.
Muốn nhân 2 đơn thức chứa hệ số và biến số, ta nhân hệ số với nhau và nhân biến số với nhau.
Ví dụ: formula_3
Phép chia.
Muốn chia đơn thức formula_4 cho đơn thức formula_5 thì ta lấy các hệ số của đơn thức "H(x)" chia cho các hệ số của đơn thức "f(x)" và lấy từng biến số của "H(x)" chia cho từng biến số của "f(x)"
Phép cộng, phép trừ các đơn thức đồng dạng.
Để cộng hoặc trừ các đơn thức đồng dạng, ta cộng hoặc trừ các hệ số và giữ nguyên phần biến.
Tham khảo.
Bộ giáo dục và đào tạo - Sách giáo khoa lớp 7 tập 2 phần đại số | 1 | null |
Cá dơi môi đỏ, tên khoa học Ogcocephalus darwini, là một loài cá họ Ogcocephalidae. Chúng sinh sống ở các vùng biển nhiệt đới, trong đó nhiều nhất ở đảo Galapagos, Ecuador. Chúng có vây được chúng sử dụng như chân. Thức ăn của chúng là những con cá, tôm, giáp xác.
Chúng có đôi môi đỏ có thể được cá dơi sử dụng để thu hút bạn tình, hoặc làm vũ khí thu hút con mồi. | 1 | null |
Red Bay là một làng chài và địa danh cũ của một số trạm đánh bắt cá voi của người Basque trên bờ biển phía nam Labrador ở tỉnh Newfoundland và Labrador, phía Đông Canada. Từ giữa năm 1550 đến đầu thế kỷ 17, Red Bay đã là một khu vực đánh bắt cá voi lớn của người Basque. Địa danh này là nhà của ba chiếc thuyền buồm săn cá voi xứ Basque và bốn chiếc thuyền Chalupa nhỏ được sử dụng trong việc săn bắt cá voi. Việc phát hiện ra những con tàu này làm cho Red Bay là một trong những địa điểm khảo cổ dưới nước quý giá nhất ở châu Mỹ. Ngày 23 tháng 6 năm 2013, các địa điểm khảo cổ về trạm đánh bắt cá voi của người Basque tại Red Bay đã trở thành một di sản thế giới của UNESCO.
Địa lý.
Red Bay là một bến cảng tự nhiên trong vịnh Red Bay và do đó tên của thị trấn cũng trùng với tên của vịnh, cả hai tên đều trong tham chiếu đến các vách đá granite màu đỏ của khu vực. Vì các bến cảng được che chắn nên nó đã được sử dụng trong Thế chiến II như là một địa điểm neo đậu cho tàu thuyền. Trong vịnh là đảo Penney và đảo Saddle, được sử dụng bởi người xứ Basques ở Tây Ban Nha cho các hoạt động đánh bắt cá voi của họ. Vị trí của tàu chìm San Juan, một phần của di sản thế giới là ở gần đảo Saddle.
Lịch sử.
Giữa năm 1550 tới đầu thế kỷ 17, Red Bay được gọi là "Balea Baya" ("Vịnh cá voi"), là một trung tâm cho các hoạt động đánh bắt cá voi của người Basque. Thủy thủ từ miền Nam nước Pháp và miền bắc Tây Ban Nha đã gửi 15 tàu đánh bắt cá voi cùng 600 người mỗi mùa săn bắt cá voi để tới các tiền đồn xa trên eo biển của đảo Belle để bắt cá voi và Cá voi đầu cong là loài chủ yếu ở vùng biển đó.
Năm 1565, một con tàu được cho là tàu San Juan đã bị chìm tại vùng biển ngoài khơi Red Bay trong một cơn bão. Một số các tàu khác nhỏ hơn, cũng đã được tìm thấy tại các vùng nước ngoài thị trấn.
Một chiếc thuyền buồm đã được tìm thấy ở độ sâu 25–35 feet dưới nước trong năm 2004. Đó là các con tàu xuyên đại dương thứ tư đã được tìm thấy trong khu vực.
Nghĩa trang trên đảo Saddle gần đó nắm giữ phần còn lại của 140 tàu săn cá voi. Nhiều người trong số những thủy thủ săn bắt cá voi được chôn ở đây, nguyên nhân được cho là do chết đuối và bị bỏ rơi tại đây.
Sử gia tin rằng sự sụt giảm cá voi trong khu vực đã dẫn đến việc từ bỏ các trạm đánh bắt cá voi ở Red Bay. Ngày nay, một trung tâm nghệ thuật trình diễn ở thị trấn giải thích lịch sử cho du khách.
Truyền thuyết địa phương của Red Bay làm tham chiếu đến một kho báu bị chôn vùi dưới vùng nước ngọt gọi là "Pond on the Hill" (Hồ nước trên đồi) tại chân của Đồi Tracey, nơi có những tên cướp biển khét tiếng của thuyền trưởng William Kidd. Một nỗ lực đã được thực hiện để tìm thấy kho báu của cư dân thị trấn Carrol Cove bằng cách tháo cạn các ao nhưng các nỗ lực đều đã thất bại.
Red Bay đã được chỉ định là một di tích lịch sử quốc gia của Canada,] và kể từ năm 2013 nó là một di sản thế giới tại Canada được UNESCO công nhận. | 1 | null |
Trận phản công Soltsy là hoạt động quân sự lớn đầu tiên của Phương diện quân Bắc (sau này là Phương diện quân Leningrad) trên khu vực phía Tây hồ Ilmen. Đây cũng là trận đánh mở màn cho một loạt các trận đánh ác liệt của Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad. Diễn ra từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 7 năm 1941, lần đầu tiên, quân đội Liên Xô chiếm lại được một thị trấn quan trọng từ tay quân Đức và đẩy quân Đức lùi lại hơn 40 km. Tuy không giữ được thị trấn này quá ba ngày nhưng đòn phản công của ba tập đoàn quân Liên Xô đã chặn được đà tấn công của quân đội Đức Quốc xã, tạo điều kiện để quân đội Liên Xô củng cố tuyến phòng thủ Luga và trụ lại tại đây gần một tháng - một trong những thành công đầu tiên trong việc chống các cuộc tấn công của quân đội Đức, khiến cho họ bị quân đội Xô Viết đánh bật khỏi thị trấn Soltsy. Trận phản công này đã làm tiêu hao một phần lực lượng thiết giáp của Quân đoàn xe tăng 56 (Đức). Nó cũng giành thêm thời gian cho quân đội Liên Xô tại khu vực Leningrad củng cố vững chắc hơn các tuyến phòng thủ quanh thành phố và trên hướng Novgorod.
Tình huống mặt trận.
Sau khi chiếm Pskov, Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) của tướng Erich Hoepner tiếp tục triển khai kế hoạch tấn công trên hướng Leningrad. Quân đoàn xe tăng 41 tấn công vào các cụm cứ điểm Luga, Kingisepp do hai cụm phòng thủ của Phương diện quân Leningrad đóng giữ trên con đường ngắn nhất đến Leningrad. Quân đoàn cơ giới 56 tấn công trên hướng Novgorod và Staraya Russa. Cả hai cánh quân xe tăng Đức mặc dù còn tương đối đầy đủ biên chế nhưng cũng đã khá mệt mỏi sau khi liên tục tấn công vượt qua gần 600 km kể từ biên giới Liên Xô đến tuyến Pskov - Ostrov - Opochka.
Quân đội Liên Xô sau khi để mất Pskov đã bị quân Đức tiếp tục đột phá sâu và đẩy lùi về tuyến sông Cherekha và bị mất cả đầu cầu Slavkovichi. Các đơn vị tăng viện cho mặt trận gồm các tập đoàn quân 34 và 48 đã phải dừng lại lập phòng tuyến trên các con sông này khi các sư đoàn xe tăng Đức vượt qua Chernevo (???), Strugi (Strugi Krasnye), Porkhov, Dno và Chikharevo (???). Quân đội Liên Xô phải từ bỏ việc thiết lập các trận địa phòng thủ trên tuyến này vì địa bàn rộng lớn từ tuyến sông Cherekha đến các tuyến sông Luga và Lovat hầu như trống trải. Quân số các sư đoàn bộ binh Liên Xô còn tồn tại sau khi rút từ mặt trận biên giới về hao hụt nghiêm trọng. Sư đoàn đông nhất cùng chỉ có gần 8.000 quân. Phần lớn các sư đoàn chỉ còn lại không quá 50% quân số theo biên chế thời chiến. Sau ba tuần chiến đấu liên tục, các tập đoàn quân 11 và 27 hầu như chỉ đủ sức phòng ngự tại chỗ do thiếu hụt nghiêm trọng các phương tiện cơ giới.
Binh lực và kế hoạch.
Quân đội Liên Xô.
Lực lượng chủ công của quân đội Liên Xô tham gia trận phản công tại Soltsy là Tập đoàn quân 11 do thiếu tướng V. I. Morozov chỉ huy. Trong đội hình có:
Trong quá trình diễn ra chiến dịch, Tập đoàn quân 11 được tăng viện "Sư đoàn xe tăng 21" rút từ Quân đoàn cơ giới 10 và các sư đoàn bộ binh 70, 237.
Ngày 9 tháng 7, STAVKA ra mệnh lệnh số 00260 yêu cầu Phương diện quân Bắc tập trung binh lực giáng một đòn phản công vào bên sườn Quân đoàn cơ giới 56 (Đức) đang tấn công dọc sông Shelon lên Shimsk. Nếu quân Đức chiếm được Shimsk, mặt trận Liên Xô trên hướng này sẽ bị chia cắt bởi hồ Ilmen và các khu vực phòng thủ tại Staraya Russa cũng như Novgorod sẽ bị uy hiếp. Chấp hành lệnh này, trung tướng P. P. Sobennikov, chỉ huy cụm quân Tây Bắc giao nhiệm vụ này cho Tập đoàn quân 11, đơn vị đang đóng đối diện với Quân đoàn cơ giới 56 (Đức) làm chủ công mở chiến dịch phản công. Ngày 10 tháng 7, STAVKA thành lập 3 bộ tổng tư lệnh trên các hướng Tây Bắc, Bắc và Tây Nam. Nguyên soái K. E. Voroshilov được chỉ định là Tổng tư lệnh hướng Tây Bắc. Ngày 10 tháng 7, K. E. Voroshilov đến mặt trận và thị sát Tập đoàn quân 11 và bổ khuyết những thiếu sót trong kế hoạch của tướng P. P. Sobennikov. Hai cụm pháo binh chiến dịch được thành lập. Trên hướng sông Mtaga là Cụm trung đoàn pháo binh hỗn hợp 68 gồm 1 Tiểu đoàn 1 lựu pháo của Trung đoàn 221, tiểu đoàn 3 pháo nòng dài của Trung đoàn 227 và 1 tiểu đoàn súng cối hạng nặng. Trên hướng sông Shelon là Cụm trung đoàn pháo binh hỗn hợp 252 gồm Tiểu đoàn 2 lựu pháo của Trung đoàn 221, Tiểu đoàn 1 pháo nòng dài của Trung đoàn 227 và Trung đoàn pháo chống tăng. Ngày phản công được ấn định vào 14 tháng 7.
Quân đội Đức Quốc xã.
Sau khi đoạt được phòng tuyến Pskov - Ostrov - Opochka, Cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) đã điều đến khu vực này bộ phận chủ lực của nó để mở trận công kích quyết định trên hướng Leningrad:
Mục tiêu của quân Đức là nhanh chóng tiếp cận tuyến sông Luga khi quân đội Liên Xô chưa kịp củng cố hệ thống phòng ngự. Quân Đức vẫn sử dụng chiến thuật tấn công như hồi đầu chiến tranh, dùng các sư đoàn xe tăng và cơ giới tạo thành các mũi khoan thép vượt lên trước để phá vỡ các vị trí phòng thủ trung gian của quân đội Liên Xô. Theo sau là các sư đoàn bộ binh tiếp tục giải quyết chiến trường khi bộ binh Liên Xô đã bị chia cắt thành các ổ phòng ngự. Cũng vẫn như ba tuần đầu của cuộc chiến, không quân Đức Quốc xã vẫn chiếm ưu thế trên không phận vùng Baltic và Leningrad.
Diễn biến.
Quân đội Liên Xô phản công.
Ngày 10 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Erich Hoepner tiếp tục cuộc tấn công trên hướng Leningrad. Ngày 11 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 41 của tướng Georg-Hans Reinhardt bị chặn lại gần Luga bởi một hệ thống phòng thủ có chiều sâu của quân đội Liên Xô. Thất bại trong việc tìm con đường ngắn nhất đến Leningrad, tướng Georg-Hans Reinhardt phải đổi hướng tấn công. Thay vì nhằm vào Luga, Quân đoàn xe tăng 41 (Đức) dịch chuyển lên phía Bắc, chiếm Osmino và dùng nó làm bàn đạp tấn công vào Bolshoy Sabsk và Porechye. Ở phía Nam, Quân đoàn cơ giới 56 của tướng Erich von Manstein tiếp tục tiến về phía Tây hồ Ilmen, tấn công cụm cứ điểm Shimsk do Cụm phòng thủ Novgorod (Liên Xô) đang trấn giữ. Ngày 13 tháng 7, các đơn vị tiền tiêu của Sư đoàn xe tăng 8 đã tiến dọc theo sông Shelon, thọc sâu vào dải đất hẹp giữa sông Shelon và sông Mshashka mà không hề biết rằng, một cái bẫy đang chờ họ từ hướng Mikhalkino và Skirino nằm ở hai bên sườn Sư đoàn xe tăng 8 (Đức).
Sáng sớm ngày 14 tháng 7, Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) tiến hành phản công với sự yểm hộ của Sư đoàn không quân 135 trực thuộc Phương diện quân Bắc. Sư đoàn bộ binh 70 (Liên Xô) chỉ có 15.333 quân so với 16.120 quân của Sư đoàn xe tăng 8 (Đức), 16 xe tăng đấu với 201 xe tăng, 53 khẩu pháo đấu với 60 khẩu pháo, 136 súng cối đấu với 78 súng cối; chỉ có lực lượng phòng không chiếm ưu thế tuyệt đối với 60 khẩu đội/10 khẩu đội. Sư đoàn này đã đánh bật Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) khỏi thị trấn Skirino, bao vây và tiêu diệt một bộ phận xe tăng của sư đoàn này tại phía Bắc Skirino. Bị phản công bất ngờ từ hướng chính diện Prigorov (???) và bên sườn từ hướng Skirino, chủ lực Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) buộc phải lùi lại. Trên cánh trái, chủ lực của Sư đoàn cơ giới 3 (Đức) cũng bị Quân đoàn bộ binh 16 (Liên Xô) đánh bật khỏi tuyến sông Mshaga và buộc phải rút về Ostrov. Trung đoàn cơ giới 29 (Đức) cũng phải hủy bỏ cuộc tấn công vào Gorodishche. Chiều 14 tháng 7, Trung đoàn bộ binh 841 thuộc Sư đoàn bộ binh 237 (Liên Xô) bao vây và tiêu diệt tiểu đoàn trinh sát cơ giới của Sư đoàn cơ giới 3 (Đức) ở phía Nam Gorodishche và tiến về Borok.
Ngày 15 tháng 7, các sư đoàn bộ binh 252 và 329 thừa thắng xốc tới Soltsy. Lúc 18 giờ cùng ngày, Trung đoàn bộ binh 252 thuộc Sư đoàn bộ binh 70 đã đánh bật Trung đoàn xe tăng 10 thuộc Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) khỏi thị trấn Soltsy. Lữ đoàn cơ giới 8 có Tiểu đoàn xe tăng 28 và Trung đoàn pháo binh cơ giới 80 bị bao vây tại phía Tây thị trấn Soltsy. Chiều 16 tháng 8, cụm quân Đức tại đây buộc phải mở đường máu rút quân dọc theo con đường sắt từ Soltsy đi Dubelka (???) trong sự truy đuổi của Sư đoàn cơ giới 202 và Sư đoàn bộ binh 70 (Liên Xô). Ngày 16 tháng 7, Sư đoàn bộ binh 70 (Liên Xô) chiếm các thị trấn Seltso và Relbitsy, dồn quân Đức về tuyến Nikolsky (???) - Baranovo - Bolshoy Klin (Klin) - Dubelka (???). Từ phía Nam Ilmen, Sư đoàn bộ binh 183 (Liên Xô) vượt sông Shelon đánh vào hậu cứ của Quân đoàn cơ giới 56 (Đức), tiếp tục vượt sông Sitnye tấn công lên Dubky (???) và Shamusky (???) nhằm cắt đường rút về phía sau của Sư đoàn xe tăng 8 (Đức). Ngày 17 tháng 7, Quân đoàn cơ giới 56 (Đức) bị đẩy lui hơn 40 km, quay lại tuyến xuất phát tấn công ngày 10 tháng 7.
Cuộc phản công của Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) tại khu vực Soltsy đã gây ra một mối lo ngại lớn không chỉ cho Bộ Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) mà còn ở cả Tổng hành dinh của quân đội Đức Quốc xã. Tổng tham mưu trưởng lục quân Đức, tướng Franz Halder viết:
Quân đội Đức Quốc xã khôi phục lại tình hình.
Sự rút lui của Quân đoàn xe tăng 56 buộc Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) phải có những biện pháp đặc biệt để đối phó bởi ngày 17 tháng 7, 2 trung đoàn xe tăng và 1 trung đoàn cơ giới của Sư đoàn cơ giới 21 (Liên Xô) đã triển khai phía sau các sư đoàn bộ binh Liên Xô tại Cheremenets, Bolotsko, Borok và Novoselye, cùng với Sư đoàn cơ giới 202 uy hiếp cả hai bên sườn của Quân đoàn xe tăng 56 và chia cắt quân đoàn này với Quân đoàn xe tăng 41 đang tấn công trên hướng Luga. Tuy nhiên, nguyên soái K. E. Voroshilov đã phạm sai lầm khi ông tách các trung đoàn xe tăng để phối thuộc và yểm hộ cho các sư đoàn bộ binh. Trong đó, Trung đoàn 3 có 25 xe tăng được giao yểm hộ Sư đoàn bộ binh 70, Trung đoàn 1 còn lại 25 xe tăng được phối thuộc cho Sư đoàn bộ binh 237, Trung đoàn cơ giới 2 có 12 xe tăng được sử dụng làm lực lượng cơ động. Việc phân tán xe tăng đã làm yếu sức chiến đấu của Sư đoàn xe tăng 21 và tạo điều kiện cho Sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf" tập trung lực lượng đánh bại từng trung đoàn xe tăng Liên Xô.
Ngày 18 tháng 7, Sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf" được trả về đội hình của Quân đoàn cơ giới 56 và tướng Erich von Manstein bắt đầu ở cuộc phản đột kích. Ngay trong buổi sáng ngày 18 tháng 7, Sư đoàn cơ giới 21 (Liên Xô) mất 8 xe tăng do hỏa lực của quân Đức, 9 chiếc khác bị hỏng vì lý do kỹ thuật, 10 xe chiến đấu bộ binh bị đốt cháy. Sư đoàn chỉ còn lại 33 xe tăng trên tuyến đầu và 12 chiếc của Trung đoàn cơ giới 2.. Chiều 18 tháng 7, Sư đoàn cơ giới SS "Totenkpf" phối hợp với Sư đoàn bộ binh 269 bắt đầu đẩy lùi Quân đoàn bộ binh 16 (Liên Xô) về tuyến Ostrov - Seltso - Relbitsy. Trên cánh trái, Sư đoàn xe tăng 3 (Đức) cũng thực hiện các đòn phản đột kích vào Zhidy (???) và Borok rồi phản đột kích dọc theo tả ngạn sông Mshaga. 10 giờ ngày 19 tháng 7, khi tướng V. I. Morozov ra lệnh cho tiền đội của Sư đoàn xe tăng 21 rút về tuyến sau thi xe tăng Đức đã đột kích vào phía sau lưng sư đoàn này được 30 km.
Ngày 20 tháng 7, Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) chiếm lại Soltsy và bắt đầu uy hiếp sườn trái của Tập đoàn quân 11 (Liên Xô). Trên cánh Bắc của chiến dịch, Sư đoàn cơ giới 36 (Đức) cũng chuyển hướng tấn công vào Shimsk, buộc Quân đoàn cơ giới 12 (Liên Xô) phải xoay hướng sang phía Bắc để đối phó. Ngày 21 tháng 7, Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) phải rút về tuyến xuất phát tấn công với tổn thất khá nặng nề. Sư đoàn xe tăng 21 chỉ còn lại 24 xe tăng hoạt động được và vẫn phải phân tán để yểm hộ cho các sư đoàn bộ binh Liên Xô đã chuyển sang phòng thủ. Trung đoàn 1 còn 7 chiếc phối hợp với Sư đoàn bộ binh 237 giữ Utorgosh. Trung đoàn 3 cũng còn lại 7 xe tăng phối hợp với các trung đoàn 68 và 329 giữ tuyến Sevnya (???) - Mikhalkino. Trung đoàn 2 còn lại 10 xe chiến đấu bộ binh phối hợp với Trung đoàn 252 và phần còn lại của Sư đoàn cơ giới 202 giữ tuyến sông Shelon. Ngày 22 tháng 7, Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) chiếm lại Skirino và tiến tới ngã ba sông Shelon - Mshashka.
Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng.
Trận phản công Soltsy của quân đội Liên Xô không đủ mạnh nên chỉ làm chậm thời gian tiến quân theo hướng Leningrad của quân đội Đức Quốc xã. Mặc dù vậy, Quân đoàn cơ giới 56 (Đức) nói chung và Sư đoàn xe tăng 8 trong đội hình thọc sâu của nó nói riêng đã gánh chịu những thiệt hại đáng kể đầu tiên kể từ khi Chiến tranh Xô-Đức khởi phát. Đây cũng là lần đầu tiên tại mặt trận Tây Bắc Liên Xô, quân Đức phải rút lui tới 40 km, dù chỉ là tạm thời.
Sự phối hợp không tốt giữa Tập đoàn quân 11 với Sư đoàn cơ giới 202 bên sườn trái nó đã làm yếu đòn tấn công của Quân đoàn bộ binh 16. Sư đoàn này chỉ tham gia vào trận đánh chiếm Soltsy và không đủ sức để tiếp tục tấn công ở giai đoạn sau của trận đánh khi nó chỉ còn lại Trung đoàn cơ giới 5 tương đối nguyên vẹn. Do đó, mũi tấn công bọc hậu của Sư đoàn bộ binh 183 (Liên Xô) trở nên đơn độc và nó dễ dàng bị Sư đoàn bộ binh 269 (Đức) từ thê đội 2 của Tập đoàn quân xe tăng 4 lên cản phá và chịu thiệt hại nặng khi bị kẹp vào dải đất hẹp giữa hai con sông Sitnye và Shelon.
Sau trận phản đột kích, từ ngày 22 tháng 7, mặt trận phía Nam hồ Ilmen tương đối ổn định. Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đã có thể tính đến các cuộc tấn công vào phòng tuyến Luga để tiếp cận Leningrad. | 1 | null |
Khu dự trữ sinh quyển El Pinacate y Gran Desierto de Altar (tiếng Tây Ban Nha: "Reserva de la Biosfera El Pinacate y Gran Desierto de Altar"), là một khu dự trữ sinh quyển và cũng là di sản thế giới của UNESCO. Khu vực được quản lý bởi chính phủ liên bang Mexico, trực tiếp là Ban thư ký về Môi trường và Tài nguyên, phối hợp với Tohono O'odham và chính quyền bang Sonora. Đây là vùng đất tự nhiên nằm trong sa mạc Sonoran ở Tây Bắc México, phía đông của Vịnh California, miền đông Gran Desierto de Altar, ngay gần biên giới với bang Arizona, Hoa Kỳ và phía bắc của thành phố Puerto Peñasco. Khu vực là một trong những vùng địa hình có thể quan sát thấy từ không gian quan trọng nhất ở Bắc Mỹ. Một hệ thống núi lửa, được gọi là Santa Clara là phần chính của cảnh quan, trong đó có ba đỉnh núi gồm Pinacate, Carnegie và Medio. Trong khu vực này là nhà của hơn 540 loài thực vật, 40 loài động vật có vú, 200 loài chim, 40 loài bò sát, động vật lưỡng cư và cũng như các loài cá nước ngọt. Trong số đó có các loài đang bị đe dọa và loài đặc hữu như: linh dương sừng nhánh Sonoran, cừu sừng lớn, thằn lằn Gila và rùa sa mạc.
Phần mở rộng của khu dự trữ sinh quyển có diện tích 7.146 km ², lớn hơn so với các bang Aguascalientes, Colima, Morelos và Tlaxcala. | 1 | null |
Nastja Čeh (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1978 tại Ptuj) là một cựu cầu thủ bóng đá người Slovenia đã từng chơi ở vị trí tiền vệ.
Sự nghiệp bóng đá.
Tháng 4, 2012 anh ký hợp đồng với PSMS Medan tại giải Indonesia Super League và lấy số áo 33. Trận đấu ra mắt của anh đã diễn ra vào ngày 9 tháng 4 năm đó khi anh vào sân thay cho Muhammad Antoni tại phút thứ 53; anh cũng phải nhận thẻ vàng đầu tiên trong chính trận này.
Sự nghiệp quốc tế.
Čeh đã 46 lần thi đấu cho đội tuyển Slovenia và ghi 6 bàn. Anh đã hai lần ra sân trong màu áo quốc gia tại giải vô địch bóng đá thế giới 2002 và cả hai lần đều ra sân từ băng ghế dự bị.
Điều tiếng.
Cuối tháng 4 năm 2011, truyền thông Slovenia đã phát hiện ra rằng sở cảnh sát Maribor trong vòng 6 tháng trở lại đây đang điều tra một tổ chức cá độ phi pháp và 6 cá nhân liên quan, 4 trong số đó sống ở Maribor và đã bị tạm giam. Cảnh sát đã khám phá ra rằng hai kẻ đồng phạm khác vẫn chưa bị bắt và một trong số đó là Goran Šukalo (một cầu thủ Slovenia), người bị nghi là đã rót 1,9 triệu vào tổ chức này năm 2011 mà trong đó phần lớn được anh ta thu nhặt từ các cầu thủ thi đấu chuyên nghiệp khác. Šukalo đã một mực từ chối dính líu đến vụ việc này tuy nhiên, các phương tiện truyền thông và cảnh sát tiết lộ rằng các điều tra viên đã khai thác điện thoại của bốn người đang bị giam giữ và đã ghi lại một cuộc trò chuyện giữa Šukalo và kẻ cầm đầu tổ chức phi pháp Kosta Turner, khi Šukalo tiết lộ rằng một cầu thủ bóng đá, Nastja Čeh, vẫn còn nợ anh 73.000 euro và đang trốn thanh toán. Đây được cho là lý do Čeh đã cầm cố nhà cửa của anh gần Ptuj cho Kosta Turner, điều này có thể nhìn thấy qua các giấy tờ bất động sản chính thức. Tháng 1, 2012, công tố trưởng ở tòa án quận của Maribor đã đưa ra một bản cáo trạng cho 6 cá nhân cầm đầu tổ chức cá cược bất hợp pháp với bằng chứng mới chống lại họ. Tổ chức này được cho là đã nhận tổng cộng 43 triệu euro tiền cá độ, trong đó có 2,53 triệu euro do Čeh đặt cược.
Tuy vậy, trong một cuộc phỏng vấn với tờ Báo Bóng đá, Nastja Čeh đã phủ nhận việc mình có dính lứu đến tổ chức cá độ và cho rằng mọi việc đã bị thổi phồng quá mức. Anh đồng thời còn cung cấp cho phóng viên giấy chứng nhận không có tiền án tiền sự được cảnh sát Slovenia cấp để chứng minh mình vô tội. | 1 | null |
Puerto Cabello () là một thành phố trên bờ biển phía bắc của Venezuela. Nó nằm trong bang Carabobo, khoảng 223 km về phía Tây Caracas, khoảng 2 tiếng rưỡi đi xe hơi. Đến năm 2001, thành phố có dân số khoảng 154.000 người. Thành phố này là nơi có các cảng lớn nhất và bận rộn nhất trong cả nước và do vậy là một bánh răng quan trọng trong ngành công nghiệp dầu rộng lớn của đất nước. Từ 'Cabello' dịch là 'tóc'. Người Tây Ban Nha đã để nói rằng biển rất lặng ở đó một con tàu có thể được đỗ ở bến ổn định bằng cách buộc nó với một sợi tóc. | 1 | null |
Làng cổ đại của miền Bắc Syria hay còn gọi là các thành phố chết () hoặc thành phố bị lãng quên () là một nhóm bao gồm 700 khu định cư bị bỏ hoang ở phía tây bắc Syria, giữa Aleppo và Idlib. Khoảng 40 ngôi làng được nhóm lại trong tám công viên khảo cổ học nằm ở tây bắc Syria cung cấp một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống nông thôn trong thời cổ đại và trong thời kỳ Byzantine. Hầu hết các làng này thành lập ngay từ thế kỷ 1 đến 7, và sau đó bị bỏ hoang từ giữa thế kỷ thứ 8 và 10. Các khu định cư bao gồm các di tích kiến trúc được bảo quản tốt của nhà ở, đền thờ ngoại giáo, nhà thờ, bể nước, nhà tắm công cộng, vv.. các Thành phố Chết quan trọng bao gồm thành phố Simeon Stylites, Serjilla và al Bara.
Các Thành phố Chết nằm trong một khu vực đá vôi cao được gọi là cao nguyên Khối núi Belus. Các khu định cư cổ đại này có chiều rộng 20–40 km (12-25 dặm) và dài khoảng 140 km (87 dặm) Các thành phố chết được chia thành 3 khu vực bao gồm ba nhóm của vùng cao nguyên: Đầu tiên là nhóm phía Bắc của Núi Simeon và núi Kurd; Nhóm thứ hai là nhóm ở núi Harim, nhóm thứ ba là nhóm tại dãy núi Zawiya. | 1 | null |
Web chìm (tiếng Anh: deep web) hay còn gọi là mạng chìm (deep web), web ẩn (invisible web, undernet, hay hidden web) là từ dùng để chỉ các trang hoặc nội dung trên thế giới mạng World Wide Web không thuộc về Web nổi (Surface Web), gồm những trang không được đánh dấu, chỉ mục (index) và không thể tìm kiếm được khi dùng các công cụ tìm kiếm thông thường. Nội dung của web chìm ẩn bên dưới các bản mẫu HTML, và có thể yêu cầu mật khẩu hoặc truy cập bảo mật khác qua trang web công cộng.
Web chìm bao gồm nhiều ứng dụng rất phổ biến như web mail và ngân hàng trực tuyến nhưng nó cũng bao gồm các dịch vụ mà người dùng phải trả tiền, và được bảo vệ bởi một paywall, như video theo yêu cầu, một số tạp chí và báo chí trực tuyến, và nhiều hơn nữa. Nhà khoa học máy tính : Michael K. Bergman được cho là đã tạo ra thuật ngữ này vào năm 2001 như một thuật ngữ lập chỉ mục tìm kiếm.
Năm 2011, lượng thông tin trên web chìm đã vượt hơn hẳn web nổi.
Quy mô.
Web chìm là một phần của Internet. Trong một bài báo phát hành năm 2001, nhà học giả cũng như là một doanh nhân tên Michael K. Bergman đã viết: "Những trang deep web hiện nay có kích thước gấp 400 đến 550 lần so với những trang web được định nghĩa thông thường trên thế giới."
Trong một nghiên cứu tại đại học California, Berkeley năm 2011, dựa trên ước lượng ngoại suy, dung lượng dữ liệu trên web chìm khoảng 7500 terabyte. Cụ thể gồm khoảng 300.000 trang web chìm trong năm 2004, và theo Shestakov, khoảng 14 000 trang web chìm có xuất xứ từ Nga vào năm 2006.
Tên gọi.
Nguồn gốc.
Trong một bài báo chuyên đề về web chìm trên tạp chí Electronic Publishing, Michael Bergman đã nhắc đến việc Jill Ellsworth đã sử dụng thuật ngữ Invisible Web vào năm 1994 để ám chỉ các website không đăng ký với bất kỳ máy tìm kiếm nào cả. Bergman đã trích dẫn một bài viết vào tháng 1 năm 1996 của trâm pu: "Một trang web được thiết kế hợp lý, nhưng người lập ra trang web đó đã không để ý tới việc đăng ký nó với bất kỳ máy tìm kiếm nào. Vì vậy, không ai tìm thấy nó và nó được ẩn. Tôi gọi đó là web ẩn (Invisible Web)."
Thuật ngữ Invisible Web trước đó đã được Bruce Mount và Matthew B. Koll sử dụng tại Personal Library Software, trong một miêu tả về các công cụ cocomelon @1 được tìm thấy trong một ấn phẩm vào tháng 12 năm 1996.
Việc sử dụng lần đầu thuật ngữ Deep Web, hiện nay đã được mọi người công nhận, đó là vào năm 2001 trong một nghiên cứu của Bergman.
Khái niệm hiện tại.
Khái niệm Deep Web được sử dụng để chỉ tất cả những trang web mà các máy tìm kiếm như Google, Bing, Yahoo... không thể tìm thấy, bao gồm databases, các thông tin đăng nhập, Webmail...
Tài nguyên.
Tài nguyên trên web chìm được phân loại theo một hoặc nhiều loại có trong danh mục sau:
Truy cập.
Để khám phá nội dung trên các trang web, các máy tìm kiếm sử dụng các máy dò để lần theo các hyperlink thông qua các số đã biết của cổng giao thức ảo. Kỹ thuật này lý tưởng để khám phá các nguồn tài nguyên trên web nổi, nhưng không có tác dụng mấy đối với web chìm. Ví dụ, những máy dò này không thử tìm các trang liên kết động mà kết quả truy vấn database dựa trên số vô định các truy vấn có thể xảy ra. Chú ý là điều này có thể (một phần) được vượt qua bởi cách cung cấp các đường dẫn tới các kết quả truy vấn, nhưng điều này lại vô tình làm thôi phồng sự nổi tiếng cho một Trang deep web.
Vào 2005, Yahoo! thực hiện một dịch vụ tìm kiếm một phần nhỏ của web chìm bằng cách ra mắt Yahoo! Subscriptions. Máy tìm kiếm này tìm kiếm trong vài trang web mà phải đăng ký thành viên mới vào xem nội dung được. Vài trang này hiển thị đầy đủ nội dung cho máy tìm kiếm robot do đó chúng sẽ hiển thị trên kết quả tìm kiếm của người dùng, nhưng sau đó hiển thị lên một trang đăng nhập (log in) hoặc trang đăng ký khi click vào một đường dẫn từ trang kết quả tìm kiếm từ trang đó.
Từ lúc trình duyệt Tor ra đời, người dùng có thể dễ dàng truy cập được vài tầng trong deep web một cách khá an toàn (khỏi những trang dark web hoặc những trang web của tội phạm, web chứa nội dung phi pháp, hacker, thông tin mật...) tràn lan trong deep web mà không được kiểm soát, ảnh hưởng đến sự bảo mật và an toàn của người truy cập. Để duyệt các web trong đấy cần những thư viện các đường dẫn. Tuy nhiên, để truy cập được những trang web bảo mật hơn trong web chìm, người dùng cần phải có kiến thức về phần mềm và phần cứng cao.
Nội dung.
Nói chung, nội dung trên deep web (bao gồm cả dark web) chứa đựng các nội dung sau:
Dò tìm web chìm.
Các nhà nghiên cứu đã khám phá ra cách thức dò tìm web chìm một cách tự động. Năm 2011, Sriram Raghavan và Hector Garcia-Molina giới thiệu mô hình kiến trúc cho một máy dò web ẩn, sử dụng các từ khóa cung cấp bởi người dùng hoặc thu thập từ các giao diện truy vấn để truy vấn tới các trang và tài nguyên web chìm. Alexandros Ntoulas, Petros Zerfos, và Junghoo Cho tại UCLA đã tạo ra một máy dò Hidden-Web cho phép tự động tạo ra các truy vấn có ý nghĩa một cách tự động tới các form nhập dữ liệu tìm kiếm. (ví dụ: DEQUEL: ngoài nhập lệnh truy vấn, nó còn chiết xuất dữ liệu có cấu trúc từ các trang kết quả. Một máy dò khác là DeepPeep, một dự án khác của đại học Utah được tài trợ bởi tổ chức National Science Foundation, cho phép tập hợp các nguồn Hidden-Web (dạng Web) trong các tên miền khác nhau dựa vào các kỹ thuật dò tìm dựa trên ngữ cảnh.
Các máy tìm kiếm thương mại đã bắt đầu tạo ra các phương pháp khác nhau để dò tìm web chìm. (Được phát triển đầu tiên bởi Google) và mod oai là các cơ chế cho phép các bên liên quan có thể khám phá các nguồn tài nguyên deep web trên các server (trang chủ) đặc thù. Cả hai cơ chế trên đều cho phép các web server quảng cáo các đường dẫn (URL) được truy cập tới chúng, bằng cách đó nó cho phép tự động khám phá các nguồn tài nguyên không liên kết trực tiếp tới web nổi. Hệ thống duyệt web chìm của Google tính toán trước các tác vụ nhỏ cho mỗi form HTML và đưa vào trang HTML kết quả tìm kiếm vào chỉ mục tìm kiếm của Google. Kết quả hiển thị của các trang web chìm chiếm một ngàn truy vấn trong một giây. Trong hệ thống này, các tính toán trước được thực hiện theo 3 phương thức sau:
Phân loại tài nguyên.
Để tự động xác định một tài nguyên web có phải thuộc dạng web nổi hay web chìm hay không là một việc khó. Một tài nguyên được đánh dấu bởi một search engine, thì không nhất thiết nó thuộc loại web nổi, bởi vì các tài nguyên trên mạng có thể được tìm thấy bằng nhiều phương pháp khác nhau (như Sitemap Protocol, mod oai, OAIster) thay vì các phương pháp dò tìm (crawling) truyền thống. Nếu một máy tìm kiếm cung cấp một đường dẫn của một tài nguyên nào đó trong một kết quả tìm kiếm cụ thể, có thể cho đó là web nổi. Không may là, các máy tìm kiếm không phải không nào cũng cung cấp tất cả các đường dẫn này (backlink). Ngay cả khi có backlink, cũng không cách nào để phát hiện ra nguồn này có cung cấp đường dẫn của chính nó tới các trang web nổi mà không phải crawling toàn bộ trang web hay không. Ngoài ra, cũng có trường hợp một tài nguyên ẩn nấp trên web nổi, và một máy tìm kiếm nào đó chưa tìm ra nó. Do đó, nếu chúng ta có một tài nguyên độc quyền, chúng ta không thể biết chắc chắn tài nguyên đó ẩn nấp trên web nổi hoặc web chìm mà chưa qua crawl (dò tìm) trang web đó.
Hầu kết công việc phân loại kết quả tìm kiếm đã được thư mục hóa web nổi bằng các đề tài. Để phân loại tài nguyên web chìm, Ipeirotis et al đã giới thiệu một thuật toán cho phép phân loại một trang web chìm thành các thư mục mà tạo ra nhiều hit nhất dựa trên vài lựa chọn cẩn thận, các truy vấn-tập trung vào-chủ đề. Các chỉ mục của deep web đang phát triển gồm có OAIsters tại đại học Michigan, Intute tại đại học Manchester, Infomine tại đại học California tại Riverside, và DirectSearch (bởi Gary Price). Các xếp loại này đứng trên một thách thức là việc tìm kiếm web chìm chia ra 2 cấp độ thư mục hóa. Cấp độ 1 là các trang được thư mục hóa thành các chủ đề theo chiều dọc (như sức khỏe, du lịch, ô tô) và các chủ đề-phụ tùy theo tính chất của các nội dung nằm dưới các database (cơ sở dữ liệu) của chúng.
Thách thức lớn hơn nữa là để thư mục hóa và biểu đồ hóa các thông tin trích xuất từ các nguồn web chìm theo nhu cầu người dùng-cuối. Các bản báo cáo tìm kiếm web chìm không thể hiển thị các URL như các tìm kiếm thông thường. Người dùng-cuối mong chờ các công cụ tìm kiếm không chỉ tìm ra những gì họ muốn một cách nhất mà còn phải hiển thị kết quả đó một cách trực quan và thân thiện với người dùng nữa. Để hiểu được ngữ nghĩa, các báo cáo tìm kiếm phải hiểu sâu vào nội dung nằm dưới các tài nguyên này hoặc là người dùng sẽ bị lạc lối trong biển URL mà nội dung đằng sau nó chả ăn nhập gì cả. Định dạng mà các kết quả tìm kiếm hiển thị ra rất phong phú tùy theo chủ đề đặc thù của tìm kiếm nào và loại nội dung được phô ra. Thách thức này là tìm ra và biểu đồ hóa các thành phần dữ liệu tương tự từ nhiều nguồn khác nhau sao cho các kết quả tìm kiếm được sắp xếp trong một định dạng thống nhất trên bản báo cáo tìm kiếm bất kể nguồn tài nguyên mà nó lấy từ đâu.
Các tầng trên Web chìm.
Việc chia tầng trên Web chìm có ý kiến trái ngược: Một số cho rằng trên Web chìm có 8 tầng (hoặc hơn). Trong khi số khác khẳng định rằng, trên Web chìm hoàn toàn không có tầng nào cả và khái niệm "tầng" trên Web chìm dùng để chỉ khả năng bảo mật, khó truy cập của một địa chỉ Internet nào đó, hay mức độ nguy hiểm của các thông tin website chia sẻ... được phân ra nhờ FBI.
Dùng để chỉ những trang web mà chúng ta vẫn truy cập hàng ngày như Wikipedia, YouTube, Facebook... Chúng gọi chung là Web nổi, mặc dù đôi khi chúng được gọi là Common Web (Web thông thường) và được cho là Tầng 0 của Internet, trong khi những trang web "đen hơn" như Reddit mới là tầng 1 của Internet.
Được cho rằng, đây là tầng cuối cùng mà một người dùng Internet có thể truy cập một cách thông thường nhất mà không cần sự can thiệp khác để có thể truy cập chúng (thông qua một proxy, dùng các trình duyệt hỗ trợ như Tor hoặc có sự can thiệp đặc biệt vào phần cứng máy tính). Theo khuyến cáo, tốt nhất không nên truy cập những trang web sau với mức độ cao hơn 2. Tại đây, bạn có thể bắt gặp những trang web bí mật (ngầm) được liệt kê, ví dụ như 4chan.
Tầng này có thể truy cập thông qua proxy hoặc hệ thống mạng Tor. Chứa đựng những thông tin nhạy cảm, kinh dị: ấu dâm, clip kinh dị, trang web của các hacker (các trang chuyên hack).. Vì là tầng đầu tiên của Internet mà việc truy cập phải được phải thông qua một sự hỗ trợ từ mạng Tor hoặc thiết đặt phần cứng, nên đôi khi cũng dùng để chỉ cả những tầng cao hơn của Internet. Tầng này không thể truy cập bằng trình duyệt bình thường vì địa chỉ đuôi của trang web loại này (.onion) khi truy cập sẽ bị DNS xem là địa chỉ web không hợp lệ khi truy cập. Chỉ có khi đã kết nối với Proxy mới có thể vào tầng này bằng trình duyệt bình thường.
Loại mạng này được chia thành 2 phần, để chỉ cách thức truy cập:
Nếu muốn truy cập được các trang web tại mức độ 5, cần có một hệ thống máy trạm đặc biệt. Tại đây là nơi rò rỉ những tài liệu mật của Quốc gia, tổ chức mà vẫn thường thấy trên Wikileaks; các hoạt động tâm linh kỳ quái, các hội đoàn hoạt động bí mật, những hoạt động hiến tế... Chỉ có thể truy cập bằng máy trạm. Việc kết nối với loại mạng này được cảnh báo là nên truy cập bằng một loại máy trạm đặc biệt, thường các loại máy này có cấu hình rất mạnh để có thể giải mã tất cả khóa bảo mật có trong trang web. Loại mạng này là mạng - trong - mạng, để kết nối vào loại web này cần thời gian rất lâu do phải kết nối với nhiều máy chủ.
Việc truy cập vào Diversion Web đòi hỏi phải hiểu rõ các vấn đề liên quan đến cơ học lượng tử và cần có kiến thức sâu rộng về máy tính và internet. Kể cả việc vượt qua những hàng rào bảo mật của Chính phủ. Không quá nhiều thông tin được biết về các trang web ở mức độ 6, thường được xem là rào cản an toàn cho người truy cập nếu không muốn chịu rủi ro khi tiến sâu hơn.
Là nơi hoạt động của những chuyên gia An ninh Internet, các tin tặc , thường diễn ra các hành động phá hoại lẫn nhau, một cách công khai hoặc lén lút nhằm bảo vệ những thông tin mật (những đơn hàng giá trị cao hàng tỷ đôla). Mọi hoạt động tại đây đều không an toàn, đặc biệt là những tài nguyên tải về, thường chứa đựng virus máy tính.
Là nơi tận cùng của "Đại dương Internet", được phát hiện ra vào năm 2000 trong một lần rà soát dữ liệu tập trung (Massive Deep Web Scan).
Việc có hay không việc phân tầng Deep Web dựa mức độ bảo mật của chúng vẫn chưa có sự thống nhất.
Tương lai.
Ranh giới giữa những gì mà các cỗ máy tìm kiếm phát hiện được và deep web đã bắt đầu trở nên phai nhòa, khi các dịch vụ tìm kiếm bắt đầu cung cấp dịch vụ truy xuất tới một phần hoặc toàn bộ các nội dung cấm cấp 1. Lượng nội dung deep web đang được mở ra để tự do tìm kiếm khi các nhà xuất bản và thư thiện đồng ý với các cỗ máy tìm kiếm lớn. Trong tương lai, nội dung của deep web có thể bị thu hẹp bởi vì cơ hội tìm kiếm thông tin bằng cách trả phí hoặc các dạng bản quyền khác ra đời. | 1 | null |
Carabobo (, ) là một trong 23 bang của Venezuela, nằm ở phía bắc của đất nước với khoảng hai giờ đi bằng xe hơi từ Caracas. Thành phố này là Thủ phủ đồng thời là trung tâm công nghiệp chính của Valencia với diện tích 4650 km² và dân số vào năm 2007 đạt khoảng 2.227.000 người. | 1 | null |
Đại hội Thể thao học sinh Đông Nam Á () là đại hội thể thao thường niên dành cho học sinh trung học trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và được tổ chức dưới sự ủy quyền của Hội đồng Thể thao Trường học Đông Nam Á (ASSC). ASSC là một hội đồng thể thao khu vực phi chính trị nhằm thúc đẩy thể thao giữa các quốc gia thành viên. ASG đầu tiên được tổ chức theo thể thức mới và được tổ chức bởi Thái Lan vào năm 2009, trong khi ASG thứ 2, 3 và 4 lần lượt được tổ chức bởi Malaysia, Singapore và Indonesia.
Các môn thể thao.
Đến nay, đã có tổng cộng 20 môn thể thao được tổ chức trong Đại hội Thể thao học sinh Đông Nam Á. | 1 | null |
The Lodge (tạm dịch:"Ngôi nhà nhỏ") là nơi ở chính thức của Thủ tướng Úc ở thủ đô Canberra. Nó được đặt tại số 5, đường Adelaide, Deakin. Đây là một trong hai nơi ở chính thức của Thủ tướng Chính phủ Úc, nơi kia là biệt thự Kirribilli House tọa lạc tại Sydney.
Lịch sử.
The Lodge là một biệt thự gồm 40 phòng theo phong cách Kiến trúc Georgian Phục Hưng ở thuộc địa của Anh, nằm trên một khu đất rộng 18.000 mét vuông. Hiện nay vẫn chưa rõ nguồn gốc tên của tòa nhà này. Tòa nhà được xây ban đầu với mục đích là một chỗ ở tạm thời cho bất kì ai được bầu làm Thủ tướng Úc "cho đến khi một biệt thự xứng tầm hơn với Thủ tướng được xây dựng và tòa nhà này sẽ được sử dụng cho mục đích khác". The Lodge được xây dựng trong khoảng 1926–1927 tiêu tốn số tiền là 28.319 Bảng Úc. Hai kiến trúc sư là Percy A. Oakley và Stanley T. Parkes ở Melbourne; nhà thầu xây dựng là J.G. Taylor ở Sydney. Ruth Lane Poole ở Melbourne có trách nhiệm thiết kế nội thất và đồ đạc gia dụng, bà cũng đã từng thiết kế tương tự cho Phủ Toàn quyền Úc và Tòa nhà chính phủ Úc. The Lodge được dự định là một trong ba biệt thự công của Nhà nước, hai nơi kia dành cho Chủ tọa Hạ viện Úc và Chủ tịch Thượng viện Úc nhưng hai tòa nhà này chưa từng được xây dựng.
Thủ tướng đầu tiên sống trong tòa biệt thự này là Stanley Bruce. Ông cùng vợ là Ethel (họ không có con) chuyển đến ngày 4/5/1927, năm ngày trước ngày khánh thành Tòa nhà Quốc hội Úc vào 9/5. Khi ông trở thành lãnh đạo phe đối lập, người kế nhiệm của ông là James Scullin (1929–32) đã phản đối chi phí hoạt động của The Lodge và đúng như lời ông nói, ông ta và vợ đã sống tại Khách sạn Canberra (nay là Khách sạn Hyatt) trong suốt nhiệm kỳ Thủ tướng của mình. Tuy nhiên, Thủ tướng kế tiếp Joseph Lyons lại lựa chọn The Lodge, và tất cả các Thủ tướng sau đó đều đã lựa chon nơi đây làm nơi ở chính thức, ngoại trừ:
Khi Julia Gillard trở thành Thủ tướng thay thế Kevin Rudd vào ngày 24/6/2010 sau cuộc bầu cử lãnh đạo Đảng Lao động Úc, bà đã tuyên bố là sẽ không chuyển đến The Lodge cho đến khi nào bà "nhận được sự tin tưởng hoàn toàn của nhân dân Úc để trở thành Thủ tướng" sau một cuộc bầu cử; thay vào đó bà vẫn tiếp tục sống tại căn nhà ở Altona, Melbourne và căn hộ ở Canberra. Theo kết quả của cuộc bầu cử liên bang Úc, 2010 bà Gillard đã dẫn dắt Đảng của mình thành lập Chính phủ thiểu số, sau đó bà chuyển đến sống tại The Lodge vào ngày 26/9/2010.
Trong số ba Thủ tướng Úc qua đời khi đang tại vị, chỉ có một người mất tại The Lodge là John Curtin vào năm 1945.
Tu bổ và sửa chữa.
Tòa nhà mang đậm phong cách thuộc địa Mỹ, toàn bộ các bức tường được ốp gỗ nhuộm màu từ sàn nhà cho tới chạm sàn tầng trên. Lối vào tầng trệt dẫn thẳng tới một lối vào hội trường. Bên trái của lối vào là phòng ăn và chái nhà của bộ phận phục vụ bao gồm khu nhân viên. Bên phải của là phòng lễ tân, một phòng tiếp khách, phòng làm việc và thư viện (ban đầu dự định là phòng bi-a). Cầu thang chính giữa nhà dẫn thẳng lên một chiếu nghỉ có phòng làm việc của vợ/chồng Thủ tướng, sau đó chia thành hai cầu thang hai bên dẫn lên tầng hai tại một sảnh lớn (vị trí ngay trên cửa chính ra vào). Trên tầng hai là các phòng riêng và phòng nghỉ của khách, bao gồm một phòng làm việc, sáu phòng ngủ, phòng khách, phòng giải trí và một phòng bi-a/trò chơi.
Khi Robert Menzies trở thành Thủ tướng vào năm 1939, gia đình ông chuyển đến The Lodge. Pattie Menzies đã quyết định sửa sang căn nhà một cách toàn diện. Phòng ngủ tạm thời được xây cho gia đình đông con của Thủ tướng Joseph Lyons ở ban công phía trước được tháo dỡ. Thảm và đồ đạc cũ đã được thay thế và máy sưởi dầu được lắp đặt.
The Lodge cũng đã trải qua một số thay đổi lớn trong những năm 1960. Khi Harold Holt đến ở, vợ ông là Zara Holt đã thay đổi hoàn toàn diện mạo căn nhà. Tất cả các rèm cửa và thảm bị tháo ra. Sàn nhà được trải thảm xanh ngọc lục bảo nổi bật. Các cửa sổ vòm cao ở lối vào đã được che bằng rèm lượn sóng màu trắng. Một cột cờ nhỏ treo quốc kỳ Úc được đặt ở chiếu nghỉ. Gây nhiều tranh cãi nhất là việc đổi màu sơn tường của ba phòng tiếp khách. Sau khi được hoàn thành, các bức tường sẫm màu tro núi lửa được phủ hết một lớp sơn bóng màu trắng. Những bức tường sáng màu vẫn là nền cho những bức ảnh chụp tại The Lodge trong năm đời thủ tướng tiếp theo.
Khi Thủ tướng John Gorton chuyển đến, Bettina Gorton với khả năng thực tế trong việc sửa chữa trang trại đã nhanh chóng phải đối mặt với những vấn đề là hậu quả của những trang trí không hợp lý của Zara Holt. Bà đã sửa chữa trần nhà bị dột đe dọa làm hỏng giấy lụa dán tường trong 'Phòng Thiên Nga' và giảm bớt cường độ màu sắc rực rỡ hơn trong trang trí nội thất. Nhưng dấu ấn lâu dài của Bettina Gorton tại The Lodge là ở khu vườn. Trong nhiệm kỳ của Gortons, một bức tường được xây bao xung quanh The Lodge,vừa là một biện pháp tăng cường an ninh và để ngăn chặn việc lấn đất của người dân sống trên đường Adelaide ở phía đông tòa biệt thự. Sau khi bức tường đã được hoàn thành, Bettina Gorton tạo ra một khu vườn trồng toàn thực vật bản địa Úc. Vợ chồng Thủ tướng Gortons còn xây dựng một hồ bơi và một sân chơi ở góc phía đông bắc của khu đất.
Nhiều tu bổ lớn cũng đã được thực hiện trong khoảng 1977-1978 để nâng cấp khu nhà bếp và nhân viên, mở rộng phòng ăn chính. Gia đình Frasers tiếp nhận The Lodge chín năm sau cuộc tân trang của Zara Holt, họ đã nhận được một ngôi nhà ảm đạm và không hề tiện lợi cho những người mới đến. Giấy dán tường bắt đầu bong tróc từ trên trần phòng, nhiều vết nứt đã xuất hiện trên các bức tường phòng tắm. Tamie Fraser nghĩ rằng cách bố trí của ngôi nhà là không hợp lý, khu phục vụ không đủ lớn và như mọi người đã ở từ năm 1927 đều nhận thấy phòng ăn quá nhỏ. Trong số các khách đến chơi tại The Lodge của Frasers còn có cả Thân vương xứ Wales, Nữ vương và Công tước zứ Edinburgh vào năm 1977.
Nhiệm vụ đầu tiên Tamie Fraser tiến hành là bổ sung cho các trang bị thiết yếu vẫn được sử dụng từ năm 1927 như đồ sứ mạ vàng của hãng Royal Doulton để dùng trong bữa ăn. Chúng có một biểu tượng đặc biệt được thiết kế bởi Ruth Lane Poole vào năm 1926 có chữ P và chữ M đan vào nhau (PM là viết tắt của 'Prime Minister' nghĩa là Thủ tướng), biểu tượng này cũng được chạm khắc vào lưng của ghế phòng ăn. Điều thú vị là người đàn ông được Tamie Fraser thuê đóng ghế phòng ăn vào năm 1977 chính là người đã sản xuất bộ bàn ghế này năm mươi năm trước. Mặc dù cuộc mua sắm đắt tiền này đã tạo ra một tranh cãi sôi nổi, nhưng vẫn không ngăn cản được Tamie Fraser chiến đấu để đảm bảo những thay đổi lớn của bộ phận phục vụ và phòng ăn trong năm 1978. Bà đã chọn kiến trúc sư Guilford Bell để giám sát việc tu sửa và trang trí lại phòng chính. Mười năm sau khi Zara Holt áp dụng chương trình trang trí lộng lẫy của mình vào The Lodge, Tamie Fraser đưa các phòng chính trở lại với màu sắc cổ điển và phong cách, với tường sơn màu kem và thảm Berber trắng.
Một số việc phục hồi đáng chú ý của tòa nhà diễn ra vào thập niên 80 khi Bob Hawke là Thủ tướng. Phu nhân Hawke là bà Hazel trong tám năm ở đây đã thành lập Quỹ Australiana. Quỹ Australiana được khởi xướng bởi Tamie Fraser sử dụng để quyên góp các tác phẩm nghệ thuật và đồ nội thất cho bốn tòa nhà của Nhà nước: Tòa nhà Chính phủ Úc, The Lodge, Phủ Toàn quyền Úc và Kirribilli House. Hazel Hawke được biết đến vì đã tìm kiếm và mua lại được chiếc piano thuộc sỏ hữu của The Lodge do hãng Beale (hãng sản xuất Piano đầu tiên của Úc) sản xuất. Chiếc piano, được Ruth Lane Poole chọn vì nó vừa vặn với thiết kế ban đầu của phòng giải trí, sau đó được đem cho Học viện âm nhạc Canberra mượn để tập luyện và không được trả lại The Lodge nữa. Hawke cũng trang trí lại căn phòng trên tầng lửng chỗ chiếu nghỉ của The Lodge như văn phòng của mình, mà bà gọi là căn phòng yêu thích, nơi bà đã dành phần lớn thời gian ở đấy.
Khi Gia đình Keatings đến The Lodge vào năm 1991, họ đã thực hiện một số thay đổi đối với các đồ nội thất như di chuyển tủ sách khổng lồ William Rojo được mua bởi Quỹ Australiana vào lưu trữ và mua ghế sofa mới cho 'Phòng Nâu'. Không giống như nhiều gia đình Thủ tướng trước đó, Keatings muốn biến The Lodge thành một không gian riêng tư và không thường xuyên mời khách đến thăm chính thức.
Mặc dù gia đình Howards chủ yếu sống tại Kirribilli House ở Sydney, điều này không ngăn cản được họ sửa sang The Lodge. Từ năm 2000 đến năm 2005, khu vực lễ tân đã được dần dần nâng cấp với sự hỗ trợ của nhà thiết kế nội thất Mary Durack. Hai phòng tiếp khách chính, Phòng Buổi Sáng và Phòng giải trí, được trang trí lại thành cùng một phong cách để bổ sung cho nhau chứ không phải là hai phòng riêng biệt như trước đây nữa. Phòng ăn và phòng nghỉ cũng đã được tân trang lại.
Thủ tướng kế nhiệm Howard là Kevin Rudd tiếp tục truyền thống bằng cách sống ở The Lodge. Julia Gillard kế nhiệm Rudd cũng như thông lệ sống chủ yếu ở The Lodge.
Tháng 10 năm 2011, Bộ Tài chính và Cải cách công bố rằng việc nâng cấp và sửa chữa là cần thiết cho The Lodge được ước tính sẽ mất 18 tháng để hoàn thành. Hoạt động nâng cấp được coi là cần thiết và khẩn cấp bao gồm: mái nhà, vật liệu cách nhiệt, máng xối, ống nước, loại bỏ các vật liệu độc hại, sưởi ấm và làm mát, hoàn chỉnh lại hệ thống cáp điện và thay thế lực lượng Cảnh sát Liên bang Úc bảo vệ ngôi nhà. Trong một cuộc phỏng vấn với ABC News, Bộ trưởng Gary Gray cho biết tổng cộng chi phí có thể lên đến hàng triệu đô la.
An ninh.
The Lodge luôn được duy trì mức độ an ninh cao xung quanh căn nhà. Tòa biệt thự có nhiều tính năng bảo mật trong việc bảo vệ Thủ tướng và gia đình, bao gồm việc sử dụng nhiều camera an ninh, bảo mật sinh trắc học, hàng rào cao, cửa sổ chống vỡ và một phòng an toàn. | 1 | null |
Predigtstuhl (Lattengebirge) là một ngọn núi ở Bayern, Đức.
Địa lý.
Núi Predigtstuhl cao khoảng 1613m nằm trong địa phận thành phố Bad Reichenhall được coi là "núi nhà" của thành phố này bên cạnh Hochstaufen, Zwiesel (Berg) và Untersberg. Nó thuộc dãy núi Lattengebirge của Berchtesgadener Alpen.
Giao thông.
Predigtstuhlbahn, chạy từ dưới chân lên đỉnh núi, là tuyến xe cáp có lâu nhất thế giới mà vẫn được sử dụng trong tình trạng nguyên thủy (xây năm 1925-1928). Trạm trên núi nằm gần đỉnh (1583m) nối với khách sạn Predigtstuhl. Cách khách sạn 200 m là nhà trọ Teisendorfer Hütte, được quản lý từ năm 2004 bởi bộ phận Teisendorf của hội DAV. Từ đỉnh núi Predigtstuhl người ta có thể nhìn thấy toàn bộ lòng chảo thung lũng Bad Reichenhall cũng như những ngọn núi chung quanh. Trước đây, Predigtstuhl là một nơi trượt tuyết được yêu chuộng với 3 giây kéo, cho tới khi hệ thống này vào năm 1994 bị ngưng hoạt động. | 1 | null |
Tô Tử Quang còn được gọi theo họ là cụ Sú tàu (1910 tại Long Châu, Quảng Tây, Trung Quốc – 1998) là một võ sư Trung Quốc sinh ra trong một dòng tộc 8 đời theo nghiệp võ. Ông là con trai của Tô Cao Lân, được xem là người rất có vị trí trong giới võ thuật lưỡng Quảng (Quảng Đông - Quảng Tây) vào những năm đầu thế kỷ trước.
Từ lúc nhỏ ông đã được cha truyền dạy môn Thiếu Lâm- Hồng Gia. Năm 18 tuổi, ông đã đạt giải nhì toàn tỉnh và được mệnh danh là "Thần đồng võ thuật" trong một cuộc thi võ hàng năm của tỉnh Quảng Tây.
Năm 1954, ông sang Việt Nam sinh sống và làm việc tại nhà máy in báo thanh niên Hà Nội. Cùng năm 1954, ông đã tham gia biểu diễn võ thuật tại nhà thi đấu Đông Dương và đã đạt huy chương bạc với bài La Hán Quyền. Kể từ đó ông luôn là người đại diện cho võ phái Thiếu Lâm Hồng gia quyền của người Hoa tại Hà Nội.
Năm 1963, Tô Tử Quang mới chính thức phổ biến Hồng gia quyền cho mọi người. Tuy nhiên, việc truyền thụ chỉ trong phạm vi hẹp. Đa phần môn đồ chỉ là những người gốc Hoa. Ba đại đệ tử của ông là Làm Ốn Và, Voòng Sìu Khoóng, Chu Há .
Năm 1965, ông cùng học trò đại diện cho hội Hoa Kiều biểu diễn võ thuật cho thủ tướng Phạm Văn Đồng và chủ tịch thành phố Hà Nội Trần Duy Hưng xem. Năm 1982, ông tham gia thành lập đồng thời phát triển hội võ thuật Hà Nội. Ngoài ra, ông được bầu làm ban cố vấn võ thuật của Liên đoàn Võ thuật Việt Nam. Các môn phái khác đều công nhận ông là chưởng môn đầu tiên của Thiếu Lâm Hồng gia quyền tại Hà Nội .
Ngày 22 tháng 7 năm 1998, Giám đốc Sở Thể dục thể thao Hà Nội Hoàng Vĩnh Giang thay mặt Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội trao tặng cho ông danh hiệu "Lão võ sư cao cấp" Chưởng môn phái Thiếu Lâm Hồng gia quyền. Đến tháng 11 năm 1998 ông qua đời ở độ tuổi 88. | 1 | null |
Alain Émile Louis Marie Poher (; 17 tháng 4 năm 1909 – 9 tháng 12 năm 1996) là một chính trị gia ôn hòa Pháp. Ông là một Thượng nghị sĩ cho Val-de-Marne 1946-1995. Ông là Chủ tịch Thượng viện từ 03 tháng 10 năm 1968 đến ngày 01 tháng 10 năm 1992, vì vậy ông đã 2 lần làm quyền Tổng thống Pháp. Ông từng là ứng cử viên trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1969, nhưng ông đã bị đánh bại bởi Georges Pompidou ở vòng thứ hai. | 1 | null |
Canariomys bravoi là một loài động vật gặm nhấm đặc hữu của đảo Tenerife (quần đảo Canary, Tây Ban Nha), đã tuyệt chủng.
Các hóa thạch của loài này được tìm thấy hầu như khắp đảo, đặc biệt là trong các hang động và miệng núi lửa, thường có xu hướng xuất hiện cùng với phần còn lại của các loài khác, chẳng hạn như thằn lằn khổng lồ ("Lacerta maxima" và "Lacerta goliath"). Hóa thạch của nó có từ các thế Pliocen và Pleistocen, mặc dù một số cá thể cũng thuộc Holocen. Các hóa thạch đầu tiên được tìm thấy bởi nhà tự nhiên học Telesforo Bravo, tên ông được dùng để đặt tên cho loài này.
Hộp sọ của nó dài đến 7 inch, vì thế nó có thể đã đạt đến kích thước của một con thỏ, làm cho nó là to lớn hơn hầu hết thành viên khác trong cùng họ và khá lớn so với các loài chuột khác ở châu Âu. Kích thước khác thường của chúng chủ yếu là do chế độ ăn chay không thân thảo, thích ứng với chế độ ăn khác nhau, nhưng đặc biệt là do sự cô lập của hòn đảo.
"Canariomys bravoi", giống như các loài bản địa khác của quần đảo, đã bị tuyệt chủng do hoạt động săn bắt của con người, hoặc do tác động của các động vật khác được du nhập vào đảo có thể cạnh tranh, săn bắt chúng hoặc truyền bệnh cho chúng. Hiện nay, Bảo tàng Thiên nhiên và con người ở Santa Cruz de Tenerife trưng bày hộp sọ và các xương hóa thạch của loài chuột này, cũng như các bản điêu khắc tái tạo trung thực hình ảnh của nó. | 1 | null |
Canariomys là một chi động vật gặm nhấm (chuột của thế giới cũ) đã tuyệt chủng, Chúng từng tồn tại trên đảo Tenerife và Gran Canaria (quần đảo Canary, Tây Ban Nha).
Những con chuột khổng lồ có thể đạt trọng lượng khoảng 1 kg, làm cho chúng rất lớn so với các cá thể sống ở châu Âu trong họ này. Cả hai loài này có một chế độ ăn uống tương tự, động vật ăn cỏ.
Hai loài hiện đang được công nhận:
Tham khảo.
Crusafont-Pairo, M. & F. Petter, 1964, "Un Muriné géant fossile des iles Canaries Canariomys bravoi gen. nov., sp. nov", Mammalia, 28,pp 607–612. | 1 | null |
Hãy kể giấc mơ của em (nguyên tác: Tell Me Your Dreams) là một tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Sidney Sheldon, xuất bản lần đầu tiên năm 1998.
Nội dung.
Những nhân vật chính của tác phẩm là Ashley Patterson, một cô gái người Mỹ tham công tiếc việc với tính cách hướng nội, các đồng nghiệp của cô, Toni Prescott, một cô gái người Anh sôi nổi, có giọng hát tốt, Alette Peters, một cô gái người Ý rụt rè, có khả năng hội họa và cha của Ashley.
Ba cô gái này không hoà thuận với nhau lắm vì tính cách khác nhau. Toni và Alette nhìn chung giữ mối quan hệ bạn bè, nhưng Toni ghét Ashley và thường chỉ trích, mỉa mai Ashley với Alette. Cả ba cô đều gặp vấn đề với mẹ của họ khi mẹ họ cho rằng họ sẽ chẳng làm nên điều gì.
Ashley lo sợ rằng có một ai đó đang theo dõi mình. Cô thấy rằng đèn trong nhà bật sáng khi đi làm về, đồ đạc cá nhân xáo trộn và ai đó viết lên gương trong nhà tắm "Mày phải chết" bằng son môi. Cô nghĩ rằng có ai đó đã đột nhập vào nhà mình. Vào buổi tối phát hiện dòng chữ trên gương, Ashley cầu cứu đến sự trợ giúp của cảnh sát. Tuy nhiên đến sáng hôm sau, viên cảnh sát canh gác buổi đêm ở căn hộ của cô bị phát hiện đã chết đằng sau khu chung cư đó. Ba vụ sát nhân khác cũng diễn ra trong thời gian này với cùng hình thức. Những nạn nhân đều là nam giới, đều quan hệ tình dục trước khi chết và sau đó đều bị thiến. Những bằng chứng cho thấy rằng cùng một hung thủ liên quan đến cả bốn vụ sát nhân này. Khi một món quà của một trong ba nạn nhân gửi cho Toni được tìm thấy trong nhà của Ashley, cô bị kết tội là kẻ sát nhân và bị bắt giữ. Tại thời điểm đó, những bằng chứng cho thấy cả ba người phụ nữ này chỉ là một người.
Cha của Ashley thuyết phục một luật sư, David Singer, mà ông từng làm ơn thuở trước biện hộ cho Ashley. Phần thứ hai của tác phẩm miêu tả về phiên toà. Khi tiếp xúc với Ashley tại trại giam, với sự giúp đỡ của bác sĩ thôi miên Salem, David nhận ra rằng cô mắc bệnh rối loạn đa nhân cách và ba phụ nữ chính là ba nhân cách trong con người cô. Anh muốn dựa vào điểm này để bào chữa trắng án cho cô, với lý lẽ rằng cô mắc bệnh và những nhân cách khác đã gây ra tội ác chứ không phải bản thân Ashley. Cuộc tranh luận tại tòa căng thẳng giữa luật sư công tố và luật sư biện hộ. Hai bên đều đưa ra những bác sĩ tâm lý hàng đầu để tranh luận xem căn bệnh rối loạn đa nhân cách có thực sự tồn tại hay không. Tuy nhiên, chánh án Williams không cho phép thực hiện việc thôi miên Ashley tại tòa. Điều này gây khó khăn cho bên biện hộ và bồi thẩm đoàn đã quyết định Ashley phải chịu án tử hình vì giết người. Vào sáng sớm ngày tuyên bố án, David cùng bác sĩ Salem đã thực hiện việc thôi miên Ashley, gọi được các nhân cách Toni và Alette ra, lén quay phim lại. Khi tòa sắp tuyên án, David xin chánh án hoãn phiên tòa 10 phút. Trong thời gian đó, ở phòng chánh án, anh chiếu đoạn phim quay hồi sáng cho chánh án và luật sư công tố xem. Việc này đã thuyết phục được chánh án rằng Ashley vô tội. Toà án kết luận Ashley mắc bệnh, việc thực hiện tội ác do nhân cách Toni trong con người cô. Do vậy cô trắng án và được điều trị tại một bệnh viện tâm thần.
Phần tiếp theo là cuộc điều trị của Ashley tại bệnh viện. Bác sĩ Gilbert nhận điều trị cho Ashley. Ông bị cô cuốn hút. Trong sự khủng hoảng của cô, ông cũng có thể cảm nhận được nỗi đau của cô và muốn giúp cô thoải mái. Tuy nhiên, quá trình điều trị không tiến triển mấy, cho đến khi cha cô đến thăm con gái. Khi nhìn thấy cha đang nựng đứa bé gái, con của nhân tình hiện tại, Ashley hét lên kinh hoàng và không muốn gặp người thân. Đến lúc đó Gilbert mới phát hiện ra rằng từ nhỏ Ashley đã bị cha mình lạm dụng tình dục, khiến cho cô phát triển các nhân cách khác nhau. Nhân cách Toni được sinh ra tại Luân Đôn, khi Ashley 6 tuổi và bị người cha lạm dụng lần đầu tiên. Với sự vật lộn và sợ hãi của một đứa trẻ chưa trưởng thành về tính dục, nhân cách này xuất hiện để trở thành người bảo vệ và sau này thực hiện các vụ sát nhân khi những điều kiện tương tự xảy ra. Nhân cách Alette được hình thành tại Roma, năm Ashley 14 tuổi và bị người cha lần đầu cưỡng hiếp. Alette đại diện cho sự xấu hổ và đau đớn của Ashley nên không thù ghét Ashley như Toni và thường bị Toni chi phối. Sau khi Gilbert biết được điều này, việc chữa trị cho Ashley có tiến triển. Gilbert thuyết phục được Ashley nói chuyện với hai nhân cách kia của mình. Khi việc chữa trị gần xong thì tình cờ Toni đọc được bài báo cha mình sắp kết hôn với tình nhân. Cô nổi điên lên và muốn đi giết ông vì lo sợ đứa bé gái sẽ bị lạm dụng như mình hồi trước. Tuy nhiên Gilbert đã tìm cách hạ hỏa Toni bằng cách cho cô đọc tin tức về cha mình hàng tuần, làm cô mềm lòng lại. Cuối cùng, sau hơn một năm, Toni và Alette đồng ý hợp nhất lại với Ashley.
Vài tháng sau, các chuyên gia đến khám lại cho Ashley. Cô không gặp ác mộng trong những giấc mơ nữa mà thay vào đó là những điều thanh bình. Cô không còn thù ghét cha mình mà mong cho ông, cũng như bản thân mình được hạnh phúc. Ashley khỏi bệnh, được xuất viện và điều trị ngoại trú thêm.
Kết thúc tác phẩm, Ashley quay trở về quê nhà Hamptons với niềm tin vào tương lai.
Bản dịch tiếng Việt.
Tác phẩm này được Trần Hoàng Cương dịch ra tiếng Việt với tựa đề "Hãy kể giấc mơ của em". Bản dịch tiếng Việt được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 1999, tái bản năm 2006, Nhà xuất bản Công an nhân dân tái bản năm 2011. | 1 | null |
Bảo Liên Đăng tiền truyện (tiếng Hoa: 宝莲灯前传) là một bộ phim của đạo diễn Dư Minh Sinh. Năm 2007, Bảo Liên Đăng của đạo diễn Dư Minh Sinh đã thu hút đông đảo khán giả, trở thành bộ phim có tỷ suất người xem trung bình tại các tỉnh ở Trung Quốc thuộc loại cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Thừa thắng xông lên, đạo diễn Dư Minh Sinh tiếp tục tập hợp êkip cũ làm nên "Bảo Liên Đăng tiền truyện".
Có khá nhiều người nhầm lẫn Bảo Liên Đăng tiền truyện là phần tiếp theo của bộ phim Bảo Liên Đăng. Nhưng đây là câu chuyện diễn ra trước Bảo Liên Đăng.
Bảo Liên Đăng tiền truyện xoay quanh kể về cuộc đời của Nhị Lang Thần và Tam Thánh Mẫu vào thời kỳ hỗn mang giữa trời và đất và để cho mọi người biết tại sao Tam Thánh Mẫu lại phải bị đày nhốt dưới Hoa Sơn mà trước đây người xem Bảo Liên Đăng đã từng thắc mắc.
Nội dung.
Giao Long ba đầu (Tam Đầu Long) trên Thiên giới trốn xuống phàm trần, thần cai quản dục giới là Dao Cơ truy bắt, bị Giao Long ba đầu đánh nát trái tim, may nhờ thư sinh Dương Thiên Hựu cho trái tim mới thoát nạn. Từ đó Dao Cơ và Dương Thiên Hựu có chung một trái tim, tình yêu nảy sinh và họ kết hôn, bất chấp luật trời hà khắc. Hai người sống hạnh phúc và sinh được ba người con: con trai cả Dương Giao, con trai thứ Dương Tiễn, con gái út Dương Thiền.
Nhưng cuộc sống gia đình hạnh phúc không kéo dài được bao lâu, Thiên đình phát giác liền cử Đại Kim Ô cùng Thiên Bồng Nguyên Soái xuống hạ giới bắt Dao Cơ. Trong trận chiến, Dương Thiên Hựu và con trai cả Dương Giao bị thiên binh thiên tướng giết chết, Dao Cơ bị bắt và đày xuống Đào Sơn. Anh em Dương Tiễn và Dương Thiền nhờ có Thiên Bồng Nguyên Soái ngầm giúp mới thoát chết. Từ đó hai anh em bắt đầu cuộc hành trình tầm sư học đạo, giải cứu mẹ. Đến cuối cùng, Dương Tiễn được phong tước Chiêu Huệ Hiển Thánh Nhị Lang Chân Quân, giữ chức Tư Pháp Thiên Thần, Dương Thiền trở thành Hoa Sơn Tam Thánh Mẫu hưởng hương hoả của nhân gian. Cuối truyện, Dương Thiền gặp anh học trò thi hỏng nhưng nghĩa hiệp Lưu Ngạn Xương, hai người nảy sinh tình cảm và kết hôn với nhau sinh ra một đứa con tên là Trầm hương, cuộc sống hạnh phúc không kéo dài được bao lâu thiên đình phát giác và Dương Tiễn phải ngậm đắng nuốt cay khi phải lựa chọn giữa bá tánh thiên hạ hoặc là tình huynh muội tương tàn và Dương Tiễn đành phải chấp nhận chấp pháp đày Tam Thánh Mẫu xuống Hoa Sơn và câu chuyện Bảo Liên Đăng lại bắt đầu…
Cuộc hành trình giải cứu mẹ, sửa đổi luật trời của anh em Dương Tiễn đồng thời là cuộc hành trình của "tâm", hành trình biến đổi từ người có tình yêu nhỏ hẹp cho gia đình thành vị thần có lòng bác ái với chúng sinh tam giới, bất chấp hiểm nguy, bất chấp cả những hiểu lầm từ bạn bè, đấu tranh vì hạnh phúc của chúng sinh.
Trong phim khán giả sẽ bất ngờ với sự xuất hiện của nhiều nhân vật truyền thuyết như Thác Tháp Lý Thiên Vương, Na Tra Tam thái tử, Thất tiên nữ, cho đến thầy trò Đường Tăng.
Diễn viên.
(vai diễn cũ trong Bảo Liên Đăng là Đinh Hương)
Sản xuất.
Nhà chế tác Lý Công Đạt tuyên bố trong buổi họp báo rằng phần "Tiền truyện" sẽ giữ nguyên kịch bản đã được chuẩn bị từ 9 năm trước, đạo diễn phim "Bảo Liên Đăng", ông Dư Minh Sinh sẽ tiếp tục đảm đương công việc chỉ đạo bộ phim. Ngoài ra dàn diễn viên vẫn sẽ được giữ nguyên: Tiêu Ân Tuấn vai Nhị Lang Thần, Lưu Hiểu Khánh vai Vương Mẫu nương nương... Ngoài ra còn có sự góp mặt của các diễn viên mới như Lưu Đào, Chu Dương, Lý Quang Hạo... "Bảo Liên Đăng tiền truyện" hứa hẹn sẽ lôi cuốn hơn phần I, nhờ có dàn diễn viên ăn khách và phần kỹ xảo hiện đại không thua kém gì phim của Hollywood. Lý Công Đạt thừa nhận: "Lần này chúng ta sẽ được thấy lời giải đáp cho phần I, bởi Bảo Liên Đăng có một cốt truyện không thật sự rõ ràng, như mối quan hệ tình cảm của huynh muội Nhị Lang Thần và Tam Thánh Mẫu, tại sao bà lại chịu sự trừng phạt của Vương Mẫu Nương Nương? Và điều này sẽ được lý giải trong Tiền Truyện, qua đó sau khi xem xong Bảo Liên Đăng và Bảo Liên Đăng Tiền Truyện, khán giả sẽ có thể hiểu được toàn bộ câu chuyện".
Diễn viên Đài Loan Tiêu Ân Tuấn tiếp tục đảm nhận vai Nhị Lang Thần, cùng với Chu Dương trong vai Tam Thánh Mẫu sẽ trở thành huynh muội của nhau. Anh nói: "Vai Nhị Lang Thần thật sự đã hấp dẫn tôi, dù trong nhiều thời điểm tưởng chừng như Nhị Lang Thần là một kẻ rất xấu xa, nhưng sự mô tả về tính cách nhân vật chưa được bộc lộ hoàn toàn. Tôi muốn mang đến cho khán giả một Nhị Lang Thần bằng xương bằng thịt".
Sắp tới, bộ phim "Tây Du Ký" của nhà chế tác Trương Kỷ Trung sẽ khởi quay. Khi được hỏi liệu Tiêu Ân Tuấn có tham gia vai Nhị Lang Thần trong tác phẩm "Tây Du Ký" mới nhất này, anh đã đưa ra câu trả lời: "Tôi không nghĩ nhiều về điều đó, bởi không muốn mình trở thành "Diễn viên chuyên trị vai Nhị Lang Thần", hãy để cho người ta nghĩ rằng tôi đơn giản chỉ là người thể hiện vai Nhị Lang Thần mà thôi." | 1 | null |
Cầu Đông Xuyên là một cây cầu đường bộ bắc qua sông Cầu nằm trên tỉnh lộ 295 nối xã Đông Tiến - huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh với xã Mai Đình - Hiệp Hòa -tỉnh Bắc Giang
Cầu Đông Xuyên cách Bến phà Đông Xuyên 800 mét, tổng chiều dài toàn tuyến là 7708 m, trong đó phần nằm trên địa phận tỉnh Bắc Giang dài 3838 mét và phần nằm trên địa phận tỉnh Bắc Ninh dài 3227 mét. Tổng vốn đầu tư xây dựng cầu là 528 tỷ đồng từ nguồn vốn Nhà nước. Cầu được khởi công ngày 19 tháng 5 năm 2012, lễ cắt băng khánh thành ngày 18 tháng 5 năm 2014.
Cầu Đông Xuyên có ý nghĩa rất lớn trong việc kết nối giữa hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các tỉnh này | 1 | null |
Trần Đông Phong (1887-2 tháng 5 năm 1908) là một trong chín học sinh Việt Nam đi du học đầu tiên trong Phong trào Đông Du đi theo Phan Bội Châu sang Yokohama, Nhật Bản. Vốn là con một gia đình giàu có ở Nghệ An, Trần Đông Phong đã từng quyên góp nhiều tiền bạc cho Phong trào Đông Du. Khi sang tới Nhật Bản, vì mong tin nhà gửi tiền sang cho Phong trào mà không thấy tới, Trần Đông Phong đã tự vẫn để tỏ lòng hổ thẹn với đồng chí của mình và thể hiện ý chí quyết tâm với phong trào Đông Du. Cảm kích trước nghĩa khí của Trần Đông Phong, Kỳ ngoại hầu Cường Để đã đích thân xây mộ phần cho Trần Đông Phong tại Tokyo và sau này chính Kỳ ngoại hầu cũng được chôn cất tại mộ phần này.
Tiểu sử.
Trần Đông Phong sinh năm 1887 trong một nhà giàu có ở Thanh Chương, Nghệ An. Theo Đỗ Thông Minh trong "Kỷ niệm 100 năm Phong trào Đông Du", Trần Đông Phong từng quyên góp nhiều tiền bạc cho Phong trào Đông Du, vì vậy khi qua Nhật Bản, anh đã được Phan Bội Châu giao làm thủ quỹ cho nhóm sinh viên Đông Du. Tuy nhiên do nắm bắt được kế hoạch Đông Du của Phan Bội Châu, Chính quyền đô hộ Pháp tại Đông Dương đã chặn nguồn cung cấp tài chính từ trong nước sang Nhật Bản cho phong trào Đông Du, cả những lá thư của Trần Đông Phong gửi về cho gia đình về việc quyên góp tiền cũng bị giữ lại. Ngày 2 tháng 5 năm 1908, Trần Đông Phong vì quá lo lắng trước trách nhiệm nặng nề, lại cảm thấy hổ thẹn với đồng chí của mình vì tưởng rằng gia đình anh không chịu gửi tiền quyên góp cho phong trào đã quyết định tự vẫn ở chùa Toho-ji. Trần Đông Phong có để lại di thư như sau:
Cảm kính trước nghĩa khí của Trần Đông Phong, Kỳ ngoại hầu Cường Để đã đích thân đứng ra xây mộ phần cho Trần Đông Phong tại Nghĩa trang Zoshigaya (雑司ヶ谷霊園), Tokyo. Trên bia mộ của Trần Đông Phong có ghi dòng chữ "Đồng bào chí sĩ Trần Đông Phong chi mộ". Năm 1951 sau khi Kỳ ngoại hầu qua đời tại Nhật Bản, một phần di cốt của ông cũng được an táng tại mộ phần này. Ngày nay mộ phần của Trần Đông Phong nằm ở dãy 1-4a-4-15 của Nghĩa trang Zoshigaya và vẫn thường có người tới thăm viếng, tưởng niệm. | 1 | null |
Jérémie Aliadière (sinh ngày 30 tháng 3 năm 1983) là một cầu thủ bóng đá người Pháp gốc Algérie, anh chơi ở vị trí tiền đạo cho Lorient.
Sau khi tốt nghiệp hạng ưu tú ở học viện Clairefontaine, anh gia nhập Arsenal lúc 16 tuổi. Sau khi có trận ra mắt tại Premier League ở mùa giải 2001-02, cơ hội ra sân của anh đã bị giới hạn, một phần là bởi chấn thương. Mùa giải 2005-06 anh được đem cho mượn ở ba câu lạc bộ, Celtic ở Scottish Premier League, West Ham United ở Premier League, và Wolverhampton Wanderers ở Football League Championship, trước khi trở lại Arsenal vào mùa giải mới, và đã góp mặt ở trận chung kết League Cup 2007 thất bại trước Chelsea. Vào đầu mùa giải 2007-08 anh được bán cho câu lạc bộ ở Premier League là Middlesbrough với phí chuyển nhượng 2,5 triệu bảng, anh trải qua qua ba mùa giải tiếp theo tại đó, hai ở Premier League và mùa giải cuối cùng là ở Championship, sau đó anh không được gia hạn hợp đồng và rời khỏi câu lạc bộ vào tháng 6 năm 2010.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Arsenal.
Aliadière gia nhập Arsenal lúc 16 tuổi trước khi bắt đầu mùa giải 1999-2000. Là một cầu thủ trẻ, anh hứa hẹn sẽ tỏa sáng trong tương lai, không mất nhiều thời gian để cầu thủ trẻ người Pháp có được màn trình diễn xuất sắc ở FA Youth Cup (nắm giữ kỷ lục ghi bàn ở giải đấu này) và sau đó là Carling Cup.
Mùa giải 2001-02 và 2002-03.
Sự tiến bộ của anh ban đầu bị cản trở bởi những chấn thương nhưng anh cuối cùng cũng có trận đấu ra mắt cho Arsenal. Gây được ấn tượng với Arsène Wenger, anh đã được trao cơ hội để có trận ra mắt ở Premier League, vào thay Thierry Henry trong trận thắng 4-1 của Arsenal trước Fulham ở mùa giải 2001-02. Ở mùa giải tiếp theo, anh đã có bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 5-2 của Arsenal trước West Bromwich Albion vào ngày 27 tháng 8 năm 2002.
Mùa giải 2003-04.
Ở mùa giải 2003-04, Aliadière chủ yếu là chơi ở League Cup nhiều hơn ở Giải vô địch, anh ghi bàn thắng đầu tiên của Arsenal ở League Cup mùa giải đó trong cuộc đối đầu với Rotherham United. Trận đấu kết thúc với tỷ số 1-1 sau hiệp phụ, Arsenal giành phần thắng 9-8 trên chấm penalty. Anh cũng ghi hai bàn thắng vào lưới Wolverhampton Wanderers ở vòng đấu sau đó tại League Cup, bàn thắng thứ hai được bình chọn là bàn thắng đẹp nhất tháng 12. Tổng cộng anh đã ghi được bốn bàn tại League Cup, anh cũng ghi bàn trong trận đấu với West Brom ở Tứ kết, nhưng Arsenal cuối cùng đã bị loại bởi Middlesbrough ở Bán kết. Anh cũng được bình chọn là tài năng trẻ xuất sắc nhất ở League Cup 2003-04. Ở mùa giải đó, anh cũng có những bước tiến ở đội I, chơi 10 trận ở Premier League, bảy lần vào thay người, giành được danh hiệu vô địch Premier League, cũng như có được trận đấu đầu tiên ở FA Cup, thất bại 0-1 trước Manchester United. Anh cũng vào sân trong sự thay đổi người cuối cùng ở trận thắng 5-1 đáng nhớ trước Inter Milan ở San Siro. Vài giây sau khi vào sân anh đã kiến tạo bàn thắng thứ 5 cho Robert Pires.
Mùa giải 2004-05.
Những chấn thương tiếp tục gây khó cho cầu thủ người Pháp ở mùa giải tiếp theo, anh chỉ được xuất hiện từ băng ghế dự bị. Aliadière đã bỏ lỡ phần lớn mùa giải 2004-05 bởi chấn thương, anh đã phải ngồi ngoài cho đến tháng 2. Khi trở lại, anh có sáu lần ra sân từ băng ghế dự bị cho đội I. Dù thất bại trong việc ghi bàn ở những trận đấu đó, nhưng anh đã ghi được tám bàn trong năm trận cho đội dự bị. Cho dù cơ hội hạn chế, anh vẫn được đề nghị gia hạn hợp đồng với Arsenal đến mùa hè 2009, điều này được thông báo cùng lúc với việc anh được cho mượn tại Celtic.
Cho mượn đến Celtic.
Vào mùa hè 2005, Aliadière được đem cho mượn đến đội bóng Celtic của Scotland trong suốt mùa giải 2005-06 để có cơ hội góp mặt thường xuyên ở đội I. Mặc dù số lần được ra sân của anh là rất hạn chế, nhưng huấn luyện viên Arsène Wenger của Arsenal tuyên bố anh vẫn có tương lai tại Arsenal, cho dù tại thời điểm đó anh không có được vị trí chính thức bởi phong độ của Thierry Henry và Dennis Bergkamp. Nhưng giai đoạn ở Celtic là một khoảng thời gian đáng quên đối với anh; anh chỉ có hai lần xuất hiện từ băng ghế dự bị cho câu lạc bộ, trong hai lượt trận đối đầu với Artmedia Bratislava ở Champions League. Anh đã cáo buộc huấn luyện viên Celtic Gordon Strachan cố tình không cho anh cơ hội được thi đấu.
Cho mượn đến West Ham United.
Vào ngày 24 tháng 8 năm 2005, Aliadière đã quyết định trở lại London sau khi anh không có cơ hội ở đội I, anh đã ký hợp đồng cho mượn một năm với West Ham United, đội bóng vừa được thăng hạng lên chơi ở Premier League sau hai mùa giải ở giải vô địch hạng dưới. Một lần nữa bị ảnh hưởng bởi chấn thương, anh chỉ có tám lần ra sân cho West Ham, trong đó bảy lần là từ băng ghế dự bị.
Cho mượn đến Wolverhampton Wanderers.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2006, West Ham chấm dứt hợp đồng, Aliadière chuyển đến vùng Midlands của nước Anh để gia nhập câu lạc bộ ở Football League Championship là Wolverhampton Wanderers với một hợp đồng mượn trong phần còn lại của mùa giải 2005-06. Anh đã ghi hai bàn ở giải vô địch cho Wolves, trong trận đối đầu với Hull và Watford. Khi kết thúc mùa giải anh quay trở lại Arsenal.
Trở lại Arsenal.
Sau khi trở về Arsenal, trong suốt mùa giải 2006-07, Aliadière một lần nữa chỉ được sử dụng chủ yếu ở chiến dịch League Cup 2006-07, ghi cả hai bàn trong trận thắng 2–0 trước West Bromwich Albion vào ngày 24 tháng 10 năm 2006. Bàn thắng đầu tiên của anh ở Premier League trong mùa giải đó đến vào ngày 16 tháng 12 năm 2006, trong trận hòa 2-2 trước Portsmouth, Aliadière được chơi 70 phút trước khi được thay ra bởi Robin Van Persie. Tiếp tục xuất hiện ở chiến dịch League Cup của Arsenal, anh lại ghi bàn ở trận tứ kết vào lưới Liverpool trong chiến thắng 6-3, và trong trận bán kết lượt về trước Tottenham Hotspur, Arsenal giành quyền đi tiếp với chiến thắng 3-1. Arsenal cuối cùng đã thất bại ở trận chung kết với tỷ số 2–1 trước Chelsea, Aliadière được chơi 80 phút trong trận đấu đó.
Middlesbrough.
Middlesbrough ký hợp đồng với Aliadière vào ngày 19 tháng 6 năm 2007, với khoản phí ban đầu là 2 triệu bảng. Anh ghi bàn thắng đầu tiên của anh ở Premier League trong trận đấu với Manchester United tại Old Trafford vào tháng 10 năm 2007 từ một pha đánh đầu để cân bằng tỷ số 1–1, trước khi Middlesbrough để thua với tỷ số 4–1. Đây là bàn thắng đầu tiên của anh ở Premier League kể từ bàn thắng đầu tiên anh ghi được cho Arsenal vào ngày 27 tháng 8 năm 2002. Anh cũng đã ghi bàn cho Middlesbrough vào lưới đội bóng cũ Arsenal vào ngày 15 tháng 3 trong trận hòa 1–1, trước khi hoàn tất mùa giải với bàn thắng ở vòng đấu cuối cùng trong trận thắng 8–1 trước Manchester City vào ngày 11 tháng 5 năm 2008.
Aliadière bị nhận thẻ đỏ và lệnh cấm ba trận do hành động không đẹp với Javier Mascherano vào ngày 23 tháng 2 năm 2008 ở Premier League trong trận đối đầu với Liverpool, sau khi Mascherano có hành động khiêu khích đối với anh, trọng tài đã quan sát rất rõ tình huống đó. Đây là nguyên nhân của cuộc tranh cãi sau khi kháng cáo của Middlesbrough đã bị FA cho là "chuyện tầm phào" và kéo dài án phạt thêm một trận nữa, chủ tịch và giám đốc điều hành của câu lạc bộ, cùng với huấn luyện viên của Tottenham Harry Redknapp xét thấy điều này là không công bằng và đã lên tiếng chỉ trích FA, trong khi kháng cáo của Chelsea về trường hợp của Michael Essien vẫn bị từ chối nhưng không có thêm bất kỳ án phạt nào giống trường hợp của Aliadière.
Trước khi bắt đầu mùa giải 2008-09, Aliadière chuyển sang mặc chiếc áo số 10 trước đây thuộc về tiền vệ Fábio Rochemback, trong khi chiếc áo số 11 của anh được trao cho bản hợp đồng mới trị giá 3,2 triệu bảng vào mùa hè Marvin Emnes. Anh ghi bàn thắng đầu tiên của anh trong mùa giải ở trận thắng 5-1 trên sân nhà trước Yeovil Town vào ngày 26 tháng 8 năm 2008. Bàn thắng đầu tiên của anh ở Premier League 2008-09 đến trong chiến thắng 1–0 trước Wigan Athletic tại Sân vận động JJB vào ngày 4 tháng 10 năm 2008, ghi bàn ở phút thứ 89 của trận đấu. Sau khi trải qua 10 trận mà không có được bàn thắng nào, anh đã ghi bàn trở lại trong lần tiếp đón đội bóng cũ Arsenal, với cú đánh đầu cân bằng tỷ số 1-1 vào ngày 13 tháng 12 năm 2008. Vào cuối mùa giải, Middlesbrough kết thúc ở vị trí áp chót trên bảng xếp hạng với 32 điểm, chỉ đứng trên West Brom do hơn về hiệu số bàn thắng, và kết quả là họ buộc phải xuống chơi ở Football League Championship.
Aliadière đã bị phản đối vào đầu mùa giải 2009-10 ở Championship bởi một bộ phận người hâm mộ của Middlesbrough. Vào ngày 12 tháng 9 năm 2009, anh vào sân từ băng ghế dự bị trong cuộc đối đầu với Ipswich Town để ghi hai bàn thắng trong vòng 30 phút được chơi trên sân; cùng tuần lễ đó, anh có thêm một bàn thắng nữa ở trận đấu với Sheffield Wednesday. Bàn thắng tiếp theo của anh đến vào ngày 26 tháng 12 đối đầu với Scunthorpe United, trong lần đầu tiên anh được đá chính dưới thời của huấn luyện viên mới Gordon Strachan sau khoảng thời gian bị chấn thương. Thất bại trong việc giành vé tham dự vòng đấu play-off thăng hạng, và sau ba mùa giải chống chọi với những chấn thương tại Middlesbrough, anh đã rời câu lạc bộ vào ngày 30 tháng 6 năm 2010 khi hợp đồng của anh kết thúc và quyết định không gia hạn thêm. Tổng cộng anh có 86 lần ra sân, ghi được 12 bàn thắng cho câu lạc bộ. Ở giai đoạn chuẩn bị cho mùa giải 2010-11, Aliadière đang tập luyện với West Ham và tiến tới một bản hợp đồng dài hạn với câu lạc bộ thành London. Nhưng bản hợp đồng đã đổ vỡ khi anh bị đứt dây chằng đầu gối trong trận đấu của đội dự bị đối đầu với Crystal Palace. Sau đó câu lạc bộ cũ của anh, Middlesbrough, nói rằng anh có thể sử dụng các trang thiết bị phục hồi chức năng ở khu tập luyện của họ để giúp anh vượt qua chấn thương và lấy lại thể lực tốt nhất.
Vào tháng 1 năm 2011, Aliadière tiết lộ rằng anh đã được liên hệ để chuyển đến Blackpool nhưng đã bị thất bại bởi những vấn đề trong hợp đồng; anh đã vô cùng thất vọng với điều này, trang web thể thao Sky Sports đã mô tả đó là "cơn ác mộng" đối với Aliadière. Al Ain, một câu lạc bộ có trụ sở ở Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, thông báo vào ngày 13 tháng 2 năm 2011 rằng họ đã ký hợp đồng với Aliadière, nhưng anh sau đó đã phủ nhận tuyên bố này, anh nói rằng anh đã từ chối sự chuyển nhượng này và Al Ain thì đã "rất không chuyên nghiệp trong cách hành xử".
Sau khi rời khỏi Middlesbrough.
Vào tháng 3 năm 2011, Aliadière đã trở lại câu lạc bộ cũ, khu tập luyện London Colney của Arsenal trong một nỗ lực nhằm hồi phục thể lực. Aliadière, cùng với cầu thủ vừa gia nhập trở lại câu lạc bộ, Jens Lehmann, cả hai đã chơi trọn vẹn 90 phút trong trận đấu của đội dự bị đối đầu với Wigan vào ngày 29 tháng 3 năm 2011, thất bại với tỷ số 2–1.
Lorient.
Vào ngày 5 tháng 7 năm 2011, Aliadière ký hợp đồng ba năm với câu lạc bộ FC Lorient ở Ligue 1 dưới dạng chuyển nhượng tự do trong nỗ lực hồi sinh sự nghiệp của mình. Một thông tin được tiết lộ cho rằng Arsène Wenger đã giúp đỡ Aliadière trong thương vụ chuyển đến Lorient. Anh có trận ra mắt cho Lorient trong chiến thắng 2-0 trước Valenciennes. Aliadière ghi bàn thắng đầu tiên và bàn thắng thứ hai của anh trong màu áo Lorient ở chiến thắng 3-0 trước Saint-Étienne. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2011, Aliadière đã đồng với các điều khoản của bản hợp đồng mới có thời hạn ba năm với Lorient và bản hợp đồng được chính thức ký kết vào ngày 1 tháng 11 năm 2011.
Trong trận hòa 2–2 của Lorient trước PSG khi bắt đầu mùa giải 2012-13, Aliadière đã ghi bàn thắng thứ hai cho Lorient, đưa đội bóng vượt lên dẫn trước 2-0 ở thời điểm đó. Khi đội bóng đang bị dẫn trước 4-1 bởi Ajaccio vào ngày 28 tháng 10 năm 2012 ngay trên sân nhà, Aliadiere đã lập một cú đúp ở hiệp hai trước khi Gilles Sunu ghi bàn thắng thứ tư cho Lorient ở những giây cuối cùng của trận đấu giúp Lorient giữ lại được một điểm quý giá. Vào ngày 9 tháng 12, Aliadière ghi bàn mở tỷ số vào lưới ứng cử viên cho danh hiệu vô địch Marseille, ghi bàn từ chấm phạt đền và cung cấp một đường kiến tạo cho bàn thắng của Kevin Monnet-Paquet, Lorient dễ dàng giành chiến thắng với tỷ số 3-0 trên sân Stade Velodrome.
Vào ngày 12 tháng 12, Aliadière di chuyển để đón bóng nhưng bóng đã bị phá lên bởi hậu vệ của Sochaux và tìm đến chân của Alain Traoré, người đã tung một cú dứt điểm từ xa vào sát cột dọc bên trái khung thành, đưa Lorient dẫn trước 1-0; Lorient sau đó giành chiến thắng 2–0 và vươn lên vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Ligue 1. Lorient tiếp tục thăng tiến trên bảng xếp hạng Ligue 1 với chiến thắng 2–0 trước AS Saint-Étienne vào ngày 16 tháng 12, Aliadière ghi bàn mở tỷ số ở phút thứ 20 sau khi vượt qua hai hậu vệ và có pha dứt điểm thông minh đánh bại thủ môn đối phương. Ở thị trường chuyển nhượng tháng 1, Aliadière được liên hệ để trở lại nước Anh gia nhập đội bóng đối thủ của Middlesbrough, Newcastle United, vì lý do cá nhân. Nhưng động thái này đã bị từ chối bởi câu lạc bộ. Cuối cùng, anh vẫn ở lại câu lạc bộ khi thị trường chuyển nhượng đóng cửa và phát biểu rằng những lời đồn đoán sẽ không gây ảnh hưởng đến phong độ của anh và bóng gió về cơ hội được chơi ở đội tuyển quốc gia của mình.
Trong trận derby Brittany của Lorient với Rennes vào ngày 2 tháng 2 năm 2013, Aliadière đã ghi bàn thắng thứ hai cho đội bóng trong trận đấu đó, tỷ số cuối cùng là 2-2. Trước trận đấu, Aliadière nói với Ligue 1.com khi được đề nghị so sánh giữa các trận derby: "Bạn không thể đưa ra sự so sánh thật sự giữa chúng. Những trận derby mà tôi đã chơi ở Liên hiệp Anh là Arsenal đối đầu với Spurs hay Middlesbrough đối đầu với Sunderland hoặc Newcastle. Những trận derby ở đây thì không cuồng nhiệt như ở anh. Nó rõ ràng là một trận đấu lớn, một trận đấu mà người hâm mộ muốn đội bóng giành chiến thắng nhưng đó cũng không phải là ngày tận thế đối với họ nếu đội bóng không thể làm điều đó. Họ thì không đam mê như những người ở Liên hiệp Anh vì thế những trận derby cũng không lớn bằng."
Aliadière thực hiện thành công quả phạt đền để mở tỷ số trong trận thắng 2-1 trước Evian Thonon vào ngày 16 tháng 2, giúp Lorient tiếp tục cuộc đua giành vé tham dự đấu trường châu Âu. Aliadière đã bày tỏ sự vui mừng khi được chơi dưới sự chỉ đạo của huấn luyện viên Christian Gourcuff, anh nói rằng "tầm nhìn bóng đá của ông ấy... có nghĩa là sự tổ chức rất tốt trong khâu phòng ngự."
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia.
Aliadière có bảy lần ra sân và ghi được một bàn thắng cho Đội tuyển bóng đá U21 quốc gia Pháp.
Cá nhân.
Aliadière là người gốc Algérie và có một hình xăm với quốc kỳ Algérie. Aliadière nói Arsène Wenger giống như là một người cha của anh, trong suốt sáu năm ở Arsenal và cho đến bây giờ anh vẫn còn giữ liên lạc với ông ấy. | 1 | null |
The Score (tựa tiếng Việt: "Siêu trộm" hay "Siêu trộm đọ tài") là một phim về tội phạm, phim hành động sản xuất năm 2001 của đạo diễn Frank Oz với các diễn viên Robert De Niro, Edward Norton, Angela Bassett và Marlon Brando trong vai diễn cuối cùng của ông. Kịch bản phim được dựa trên một câu chuyện của Daniel E. Taylor và người đạt giải Emmy: Kario Salem.
Đó là lần duy nhất Brando và De Niro đã xuất hiện cùng nhau trong một bộ phim, mặc dù trước đó họ đã diễn cho một nhân vật Vito Corleone và cả hai đã giành giải Oscar trong hai phần khác nhau của phim Bố già phần I và Bố già phần II tương ứng.
Nội dung.
Sau khi suýt bị bắt trong một vụ trộm thông thường, trở về công việc thường ngày, ông chủ một quầy rượu có phục vụ nhạc jazz, "Vua bẻ khóa két sắt" Nick Wells (Robert De Niro) quyết định đó là lần cuối cùng để giải nghệ. Bạn gái của Nick, Diane (Angela Bassett), một tiếp viên hàng không, đề cao quyết định này, hứa hẹn sẽ cam kết công khai mối quan hệ của họ nếu anh ta sẽ thực sự làm ăn lương thiện. Tuy nhiên Nick bị dụ dỗ tham gia một vụ trộm cuối cùng bởi người môi giới Max (Marlon Brando). Công việc có trị giá 4.000.000 USD trả cho Nick, để trộm một vương trượng, được tiết lộ là một bảo vật quốc gia của Pháp. Nó được giấu trong chân gỗ của một cây đàn piano cổ, nhập lậu qua Canada vào Hoa Kỳ, nhưng đã vô tình được phát hiện ra trong khi tiêu hủy hàng lậu, sau đó nó được tạm giữ trong tầng hầm cực kỳ an toàn của Hải quan Montréal.
Max giới thiệu Jack Teller (Edward Norton) với Nick, một tên trộm đầy tham vọng đã thâm nhập vào tòa nhà Hải quan và đã tiếp cận thông tin liên quan đến an ninh bằng cách giả vờ là một người thiểu năng giúp việc tình nguyện tên là Brian. Nick thuê một "hacker" máy tính Steven (Jamie Harrold) thâm nhập vào hệ thống an ninh của Hải quan Montréal để có được mã số kiểm soát các giao thức cảnh báo an ninh của hệ thống báo động. Steven bị phát hiện, tuy nhiên Quản trị viên hệ thống an ninh tham nhũng đã ra giá cho Nick 50,000 USD cho các mã số này. Tình hình trở nên phức tạp hơn khi bộ phận an ninh của Hải quan nhận thức được giá trị thực sự của vương trượng và cho lắp thêm camera an ninh và thiết bị dò hồng ngoại để theo dõi phòng chứa tang vật trong tầng hầm khi chuẩn bị trả lại vương trượng cho chủ sở hữu hợp pháp của nó.
Nick đi vào kho chứa tang vật của sở Hải quan qua đường cống thoát nước, cùng lúc Jack sử dụng các mật mã để máy quay an ninh mất tín hiệu tạm thời để khi Nick vào kho hàng. Trong lúc đó người lao công già tình cờ gặp Jack, nhưng Jack đã nhốt ông vào trong một phòng nhỏ gần đó. Trong khi đó Nick xả đầy nước vào trong két sắt, nơi chứa vương trượng và cho chất nổ vào bên trong két làm cho cánh cửa két sắt bị bật tung ra. Nick nhanh chóng gói vương trượng để đi, nhưng Jack đã đứng chờ và dùng súng đòi ông giao vương trượng. Nick miễn cưỡng từ bỏ hợp tác với Jack và vài giây sau, còi báo động an ninh đã hú inh ỏi, toàn bộ các nhân viên an ninh vội vã đến hiện trường. Nick đu dây chạy khỏi kho hàng bằng lối xuống cống thoát nước, trong khi Jack quay trở lên cầu thang, nhét túi đựng vương trượng bên trong bộ quần áo bảo hộ của mình và vượt qua các cảnh sát đến ứng phó với vụ trộm tại cổng chính của Sở Hải quan. Nick cũng thoát khỏi các nhân viên an ninh đuổi theo anh ta và mau chóng ra khỏi đường hầm.
Sau khi chạy bộ đến trạm xe buýt đầu tiên để chạy trốn khỏi thành phố, Jack gọi điện cho Nick để hả hê nhưng bị sốc khi phát hiện ra rằng Nick đã dự đoán trước kế hoạch của mình. Jack mở túi mà Nick đưa cho mình và tìm thấy một thanh sắt giả vương trượng của Nick. Lập luận trong cuộc gọi của Nick đã tránh được mối đe dọa tố cáo trả thù của Jack, Nick khuyên Jack chạy trốn trước khi bị sự truy nã gắt gao của cảnh sát. Jack đứng chết lặng bên trạm xe buýt cho kế hoạch non kém của mình trước Nick. Sau đó, Max mỉm cười khi xem tin tức phát sóng báo cáo truy nã lớn được tổ chức để tìm Jack, nghi can chính của vụ trộm, và một đồng phạm không thể xác định. Nick sau đó gặp Diane tại sân bay khi cô kết thúc chuyến bay, Nick kéo vali hành lý cho Diane và họ cùng nhau trở về nhà.
Sản xuất.
Trong thời gian thực hiện phim, Brando thường hay tranh cãi với Oz và gọi ông ta là "Miss Piggy" (một nhân vật "lợn cái" có cá tính đặc biệt được phát triển bởi Oz). Sau đó, Oz đã nhận lỗi về mình vì sự căng thẳng và giải thích xu hướng đáp ứng với phong cách diễn xuất của Brando là đối đầu hơn là dung dưỡng. | 1 | null |
Chích bông Campuchia (danh pháp khoa học: Orthotomus chaktomuk) là một loài chim thuộc chi Chích bông. Loài này được phát hiện ở Phnom Penh năm 2009 và được xác định là một loài riêng vào năm 2013.
Loài chích bông Campuchia có kích thước nhỏ, đầu có chỏm đỏ và cổ đen. Loài chim mới được đặt danh pháp là Orthotomus chaktomuk), danh pháp khoa học là "chaktomuk" - theo tiếng Khmer, có nghĩa là "4 mặt", nơi hợp lưu của 3 dòng sông lớn Mekong, Bassac và Tonle Sap.
Phát hiện.
Chích bông Campuchia được phát hiện tại Phnom Penh, thủ đô của Campuchia, trong năm 2009, trong khi kiểm tra cúm gia cầm. Kể từ đó, nó đã được phát hiện trong các khu vực khác nhau của Phnom Penh, trong đó có trên một công trường xây dựng, nơi nhà nghiên cứu chim Ashish John chụp ảnh nó hình ảnh của ông sau đó đã được sử dụng để mô tả loài chim này.
Tháng tám năm 2012, John bắt đầu hợp tác với Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã, BirdLife International, Đại học Kansas, Đại học bang Louisiana, và Trung tâm Veasna Sam để kiểm tra bộ lông của chim, di truyền học, và tiếng hót. Các xét nghiệm xác định rằng đó là một loài duy nhất. Bài viết chính thức mô tả chích bông Campuchiađược xuất bản trong tạp chí Forktail. Danh pháp cụ thể của nó bắt nguồn từ một từ tiếng Khmer có nghĩa là bốn khuôn mặt, trong đó mô tả nơi chim được tìm thấy:. trong vùng lũ nơi sông Hậu, sông Cửu Long, và Tonlé Sap gặp nhau. Chích bông Campuchia có một chùm lông màu đỏ cam trên đầu, lông cổ màu đen. Phần còn lại của cơ thể của nó màu nhạt và đậm. Nó có kích thước tương đương với loài hồng tước, lông cổ màu đen, mào màu đỏ cam và tiếng hót to.
Khu vực sinh sống của chúng là những bụi cây rậm rạp trong vùng đất thấp ở Phnom Penh và những địa điểm khác trong khu vực bãi bồi gần đó. | 1 | null |
Tất toán vàng là yêu cầu của Ngân hàng nhà nước buộc các ngân hàng thương mại phải tất toán các tài khoản gửi vàng tại ngân hàng của mình. NHNN đã tiến hàng bán đấu thầu hàng chục tấn vàng cho các NHTM để tất toán.
Tại Hội nghị giao ban trực tuyến ngày 27/6, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu đúng hạn 30/6, các ngân hàng phải tất toán tài khoản và không gia hạn cho bất kỳ trường hợp nào.
Vào thời điểm bắt đầu lộ trình tất toán, tổng dư nợ của các ngân hàng lên tới hơn 160 tấn. Để hỗ trợ các đơn vị đóng trạng thái đúng lộ trình, Ngân hàng Nhà nước tăng cung thông qua các phiên đấu thầu. Sau 36 phiên, Ngân hàng Nhà nước đã tung ra thị trường 917.000 lượng, tương đương 35,3 tấn. | 1 | null |
Justice Majabvi (sinh 26 tháng 3 năm 1984) là một cựu cầu thủ bóng đá người Zimbabwe. Khi còn thi đấu, ông chơi ở vị trí tiền vệ và đã giải nghệ vào năm 2018. Majabvi từng là tuyển thủ quốc gia Zimbabwe và có thời gian thi đấu ở V.League 1 cho Hải Phòng và Khánh Hòa.
Sự nghiệp.
Majabvii lần đầu khoác áo đội tuyển quốc gia Zimbabwe trong trận giao hữu với Zambia ngày 15 tháng 7 năm 2006. Anh cũng từng chơi cho Dynamos F.C. tại Giải bóng đá vô địch các câu lạc bộ châu Phi và cùng đội bóng lọt đến trận bán kết. Anh đã 14 lần ra sân tại giải đấu này. Năm 2007, trong vai trò đội trưởng Dynamos FC, anh đã cùng đội giành được cúp liên đoàn, cúp CBZ và cúp Nestlé. | 1 | null |
Thị trấn nông trường là một thuật ngữ dùng để chỉ các thị trấn được hình thành từ những khu dân cư tập trung của các nông trường quốc doanh tại miền Bắc và miền Trung Việt Nam.
Hình thành.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, bên cạnh việc phân chia lại ruộng đất cho nông dân ly tán do tác động chiến tranh, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn tổ chức hệ thống các nông trường để khai thác các vùng đất hoang vào mục đích nông nghiệp. Lực lượng tổ chức nông trường gồm nhiều thành phần dân cư, trong đó có một số lượng lớn quân nhân tạm thời chưa giải ngũ được điều động làm công tác kinh tế.
Số lượng nông trường tăng nhanh trong suốt thập niên 1960, cùng với thời gian tồn tại của Bộ Nông trường trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bên cạnh việc thúc đẩy kinh tế nông nghiệp để có thể đảm bảo một phần nhu cầu lương thực, các nông trường còn là các địa điểm tập kết bí mật dùng huấn luyện các đơn vị quân đội trước khi hành quân vào Nam tham chiến.
Việc hình thành các nông trường cũng thúc đẩy hình thành các khu dân cư tập trung mới ở những vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần làm tăng nhanh dân số cơ học tại địa phương. Việc tăng trưởng nhanh chóng các nông trường dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong quản lý đất đai giữa địa phương với nông trường, đặc biệt là các tranh chấp về đất đai trồng trọt; đồng cỏ chăn nuôi, ao hồ nuôi cá, đập nước, v.v... Bên cạnh đó, xảy ra những bất cập trong quản lý hành chính, nhập nhằng, chồng lấn giữa cơ quan chính quyền địa phương và ban giám đốc nông trường. Do đặc điểm khá biệt lập, các nông trường vừa mang đặc tính một đơn vị sản xuất kinh tế, vừa là đơn vị hành chính gần như độc lập với chính quyền địa phương (các nông trường thường trực thuộc cấp Bộ, hoặc trực thuộc quân đội).
Để khắc phục tình trạng này, một cơ cấu hành chính đặc biệt được thành lập, gọi là thị trấn nông trường. Theo đó, các khu dân cư tập trung thành lập các thị trấn trực thuộc huyện ở những nông trường có từ 700 nhân khẩu trở lên (kể cả công nhân, viên chức và gia đình công nhân, viên chức và những người sinh sống dựa theo nông trường). Trường hợp nông trường ở trong địa giới hơn một huyện, thị trấn nông trường sẽ trực thuộc về huyện mà phạm vi chính của nông trường thuộc về đó.
Mặc dù mang tính chất như một đơn vị hành chính, nhưng thị trấn nông trường không có địa giới hành chính riêng, mà chỉ đơn thuần thực hiện chức năng quản lý hành chính trong phạm vi của nông trường, vốn có phạm vi nằm trên địa giới của nhiều xã, thậm chí chồng lấn địa giới của nhiều huyện. Cơ quan quản lý hành chính nhà nước của thị trấn nông trường là Ủy ban hành chính thị trấn nông trường, phụ trách quản lý hành chính nhà nước đối với công nhân, viên chức, gia đình công nhân; viên chức và những người sinh sống dựa theo nông trường. Chủ tịch Ủy ban hành chính thị trấn nông trường thường do một Phó giám đốc nông trường kiêm nhiệm, nhưng không thoát ly công tác chuyên môn.
Trong kỳ Chiến tranh phá hoại, các thị trấn nông trường nhanh chóng gia tăng dân số cơ học do dòng người tản cư từ các đô thị lớn, phát triển thành những thị tứ đông đúc, có vai trò như một đơn vị hành chính chính thức. Sau năm 1975, các thị trấn nông trường và thị trấn lâm trường tiếp tục được mở ở phía Nam, đặc biệt là ở vùng Tây Nguyên. Tuy nhiên, từ sau năm 1980, cơ cấu hành chính của thị trấn nông trường cũng được thay đổi, với sự hình thành cơ cấu chính quyền nhà nước Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, tách biệt với bộ máy của nông trường.
Tuy nhiên, sau khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, nhiều nông trường chuyển đổi mô hình, thuần túy làm nhiệm vụ kinh tế. Từ sau thập niên 2000, lần lượt các thị trấn nông trường đều bị giải thể. Một số được chuyển đổi thành đơn vị hành chính sang cấp xã hoặc thị trấn thực thụ. Một số vẫn còn duy trì tên gọi thị trấn nông trường cho đến ngày nay, nhưng tất cả chúng đều là những đơn vị hành chính thực thụ, không còn mang tính chất thị trấn nông trường như hình thái của chúng lúc ban đầu. | 1 | null |
Nguyễn Nhân Thiếp (1452 - 1507) là đại thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.
Sự nghiệp.
Nguyễn Nhân Thiếp người xã Kim Đôi huyện Võ Giàng, nay là Kim Đôi - Kim Chân - TP Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh.
Từ nhỏ Nguyễn Nhân Thiếp đã thông minh ham học. Năm 1466 đời Lê Thánh Tông, ông cùng anh là Nguyễn Nhân Bỉ đỗ đồng tiến sĩ khi mới 15 tuổi. Sau đó ông được cử làm tri huyện lập thạch.
Năm 1467 khi mới 16 tuổi, ông lại thi đỗ Hoành từ, được vào làm việc ở Bí thư giám.
Sang thời Lê Hiến Tông (1498-1504), ông làm Học sĩ đông các kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Tài văn chương của ông được vua Hiến Tông và người đương thời coi trọng.
Sau đó Nguyễn Nhân Thiếp làm tới chức Thượng thư bộ Lại. Ông mất năm Đinh Mão 1507, tháng 01, ngày Bính Thân 22.
Gia quyến.
Gia đình ông có nhiều người đỗ đạt và làm quan. Anh ông là tiến sĩ Nguyễn Xung Xác (Nguyễn Nhân Bồng), tiến sĩ Nguyễn Nhân Bỉ (Nguyễn Hoằng Thạc) và em ông là tiến sĩ Nguyễn Nhân Dư, tiến sĩ Nguyễn Nhân Đạc cùng làm quan trong triều đình nhà Lê.
Con cháu của ông: tiến sĩ Nguyễn Hoành Khoản, Bảng nhãn Nguyễn Nhân Huân, tiến sĩ Nguyễn Nhân Kính, tiến sĩ Nguyễn Nhân Lượng. | 1 | null |
Cầu Như Nguyệt là một cây cầu đường bộ bắc qua sông Cầu nằm trên Quốc lộ 1 và đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông đoạn Hà Nội – Bắc Giang nối phường Đáp Cầu – Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh với phường Quang Châu – thị xã Việt Yên – tỉnh Bắc Giang.
Cầu được khởi công xây dựng năm 1998 và khánh thành vào ngày 31 tháng 12 năm 2000. Tháng 1 năm 2022, một nhánh cầu thứ hai nằm bên cạnh nhánh cầu cũ được khởi công xây dựng và khánh thành vào ngày 16 tháng 6 năm 2023. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.