text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Norma là vở opera 2 màn của Vincenzo Bellini, nhà cách opera người Ý. Lời của vở opera do Felice Romani viết ra, dựa trên kịch của Alexandre Soumet. Vở opera được sáng tác vào năm 1831, được trình diễn tại Milan. Nhân vật chính cùng tên với tác phẩm. Bà là tu sĩ của dòng Celtic. Ngay sau buổi diễn đầu tiên của Norma, Vincenzo Bellini đã nhận xét: "Thất bại, thất bại, hoàn toàn thất bại". Tuy nhiên, thật may cho tác phẩm này là những khán giả bắt đầu nhận thấy mình đang thưởng thức một vở opera tuyệt vời. Và thế là, vào tháng 1-1835, khi được trình diễn ở Napoli và Catania, quê hương Bellini, Norma được khán giả chú ý rất nhiều. Với tác phẩm này, danh tiếng của Bellini, nhà soạn nhạc đoản mệnh, đã vang ra khắp châu Âu. Ông được khán giả vỗ tay chào đón một cách nồng nhiệt. | 1 | null |
Lệnh chgrp (viết tắt của change group - thay đổi nhóm) trong các hệ điều hành giống Unix dùng để thay đổi nhóm gán với đối tượng tập tin (tập tin, thư mục, liên kết). Một đối tượng tập tin có ba nhóm quyền truy cập chính: một cho chủ sở hữu, một cho nhóm và một cho những người dùng khác.
Cú pháp.
codice_1
-c, --changes: tương tự verbose nhưng chỉ xuất ra những thay đổi có hiệu lực
--dereference: ảnh hưởng tới đích của liên kết tượng trưng nhưng không ảnh hưởng tới liên kết
-h, --no-dereference: ảnh hưởng tới liên kết tượng trưng nhưng không ảnh hưởng tới đích của nó
--no-preserve-root: không đối xử đặc biệt với '/'
--preserve-root: không xử lý trên '/'
-f, --silent, --quiet: tiếp tục làm việc dù có lỗi, không hiển thị các thông báo lỗi
--reference=RFILE: sử dụng nhóm của RFILE
-R, --recursive: thực hiện với các thư mục con
-v, --verbose: xuất ra quá trình làm việc
Ví dụ.
$ ls -l *.conf
-rw-rw-r-- 1 gbeeker wheel 3545 Nov 04 2011 prog.conf
-rw-rw-r-- 1 gbeeker wheel 3545 Nov 04 2011 prox.conf
$ chgrp staff *.conf
$ ls -l *.conf
-rw-rw-r-- 1 gbeeker staff 3545 Nov 04 2011 prog.conf
-rw-rw-r-- 1 gbeeker staff 3545 Nov 04 2011 prox.conf
Trong ví dụ trên lệnh chgrp gán nhóm cho các đối tượng có đuôi.conf trong thư mục hiện hành là 'staff', (nhóm đã có là wheel) | 1 | null |
Bầu cử tổng thống Mông Cổ năm 2013 diễn ra ngày 26 tháng 6 năm 2013. Ứng viên Đảng Dân chủ Tsakhiagiin Elbegdorj tái đắc cử, vượt qua ứng ứng Đảng Nhân dân Mông Cổ Badmaanyambuugiin Bat-Erdene và Đảng Cách mạng Nhân dân Mông Cổ Natsagiin Udval (Bộ trưởng Bộ Y tế).
Cả hai Elbegdorj và Bat-Erdene thấy sự ủng hộ từ dân số đô thị trong thủ đô Ulan Bator, Bat-Erdene có nhiều hơn một đảng sau bảo thủ và tổng thống đương nhiệm được hỗ trợ bởi tầng lớp trung lưu. Elbegdorj thắng cử với 50,23% số phiếu bầu phổ thông, chênh lệch gần 9% so với Bat-Erdene. Udval nhận được 6,5% số phiếu phổ thông. Cuộc tái thắng cử của Elbegdorj giữ Đảng Dân chủ cầm quyền cả hai trong nhiệm kỳ tổng thống và quốc hội.
Hệ thống bầu cử.
Cuộc bầu cử được tổ chức bằng cách sử dụng Hệ thống bầu cử hai vòng, nếu không có ứng cử viên đã nhận được đa số phiếu trong vòng đầu tiên, lần thứ hai sẽ được tổ chức. Vòng thứ hai sẽ được tổ chức vào ngày 10 tháng 7 năm 2013 nếu cần thiết. Chỉ với bên ghế trong Khural lớn Nhà nước được phép đề cử ứng cử viên.
Các cuộc bầu cử là người đầu tiên trong đó Người Mông Cổ sống ở nước ngoài đã được phép bỏ phiếu, với khoảng 39.800 công dân Mông Cổ sống ở Mông Cổ vào thời điểm bầu cử. Cải cách khác đã được thực hiện kể từ khi cuộc bầu cử quốc hội năm 2012, bao gồm cả giới hạn về chi tiêu của các ứng cử viên về vận động và quảng cáo. Như trong cuộc bầu cử năm 2012, cuộc bầu cử tổng thống sử dụng máy bỏ phiếu điện tử từ Dominion Hệ thống bỏ phiếu.
Vận động.
Thay đổi luật chiến dịch đã được thực hiện trong năm 2011 mà hạn chế số lượng của truyền hình và Áp phích quảng cáo một ứng cử viên có thể sử dụng. Nó cũng tăng hình phạt đối với người vi phạm. Mục đích là để có các ứng cử viên được đánh giá trên công đức của họ nền tảng chứ không phải là ngân sách của chiến dịch của họ. Sự thay đổi này làm tăng vai trò của các mạng xã hội như Facebook và Twitter trong chiến dịch ứng cử viên. | 1 | null |
Ben Haggerty (sinh ngày 19 tháng 6 năm 1983), được biết đến hơn với nghệ danh Macklemore ( ) (trước đây là Professor Macklemore), là một nghệ sĩ hip hop người Mỹ. Anh bắt đầu hoạt động âm nhạc độc lập từ năm 2000 và cộng tác với nhiều người, trong đó có nhà sản xuất Ryan Lewis. Năm 2012, "", album đầu tay của Macklemore và Ryan Lewis đã đạt thứ 2 trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ. Tuy nhiên, mãi cho đến đĩa đơn "Thrift Shop" đạt quán quân 6 tuần liên tiếp trên Billboard Hot 100 và đạt trên 350 triệu lượt xem trên Youtube vào năm 2013 thì tên tuổi hai người mới thực sự gây chú ý. Đĩa đơn "Can't Hold Us" của nhóm cũng giành vị trí thứ nhất trên Hot 100 tiếp nối sự thành công của "Thrift Shop". Một bài hát khác của họ mang tên "Same Love" nói về hôn nhân đồng giới cũng đang gây chú ý. | 1 | null |
Benjamin Britten (1913-1976) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ piano người Anh. Ông là nhà soạn nhạc thuộc thời kỳ Hiện đại. Ông có công với opera Anh khi là người phục hưng lại nền nghệ thuật này sau 200 năm kể từ sự ra đi của Henry Purcell và George Frideric Handel (sau sự ra đi của nhà soạn nhạc lớn này, nền opera Anh bị quên lãng suốt thời gian dài). Ngoài ra, Britten còn là nghệ sĩ piano, nhạc trưởng xuất sắc.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Sinh ngày 22 tháng 11 năm 1913 tại Lowestoft, Benjamin Britten học nhạc tại trường Đại học Hoàng gia London. Năm 19 tuổi, Britten biểu diễn tác phẩm lớn cho dàn nhạc đầu tiên của mình, bản "Sinfonietta". Trong khoảng thời gian từ năm 1935 đến năm 1939, ông chủ yếu sáng tác cho sân khấu, phim và đài phát thanh. Những năm 1939-1942, nhà soạn nhạc người Anh sống ở Mỹ, sau trở nước đinh cư tại Aldeburg. Ông trở thành một trong những người sáng lập Hôi opera thính phòng Anh (1947). Britten còn là người có những sáng kiến tổ chức những Liên hoan âm nhạc của nhiều thời đại tại nơi ông qua đời. Năm 1965, ông được trao giải thưởng mang tên Jean Sibelius. Ngoài sáng tác, ông còn nghiên cứu, cải biên dân ca Anh.
Ông qua đời ngày 4 tháng 12 năm 1976 tại Aldeburg.
Phong cách sáng tác.
Benjamin Britten là một trong những nhà soạn nhạc xuất sắc của thế kỷ XX. Ông là người kế tục những giá trị truyền thống hiện thực của âm nhạc.
Các tác phẩm.
Bẹnamin Britten đã sáng tác các vở opera "Peter Grimes" (1945), "Lăng nhục Lucretia" (1946), "Albert Herring" (1947), "Billy Budd" (1951), "Gloriana" (1953), "Vặn đinh ốc" (1954), "Giấc mộng đêm hè" (1960), "Đứa con hoang toàng" (1968), "Owen Wingrave" (1971), "Cái chết ở Venice" (1973); vở operetta "Paul Bunyan" (1941); vở ballet "Ông hoàng của các ngôi chùa" (1956); bản cantata "Bản ballad về những anh hùng" cho giọng tenor, hơp xướng và dàn nhạc, để tặng những chiến sĩ Binh đoàn Quốc tế chiến đấu chống phát xít tại Tây Ban Nha (1939); "Giao hưởng mùa xuân" cho đơn ca, hợp xướng và dàn nhạc (1949), "Giao hưởng Requiem" (1940); các bản overture "Xây nhà" (1967); hai bản tứ tấu (1941, 1945); những tác phẩm dành cho piano, violin, viola, oboe và organ; những bản romance "7 sonnnets của Michelangelo" (1940); những bản hơp xướng, nổi bật có bản "Ballad" cho hợp xướng trẻ em và dàn nhạc; 3 tuyển tập cải biên dân ca. | 1 | null |
Tấm thảm Sierpinski là công trình khoa học nổi tiếng của nhà toán học Waclaw Sierpinski. Đây là loại hình học tự đồng dạng (môn hình học nghiên cứu những hình giống nhau về hình dạng nhưng tỉ lệ về kích thước (tức là nếu cho một hình to và một hình nhỏ có hình dạng giống nhau, nếu phóng hình nhỏ theo một tỉ lệ phù hợp rồi đặt lên hình lớn thì sẽ có sự trùng khớp)). Tấm thảm Sierpinski được tạo ra như sau: Đầu tiên cho một hình vuông. Ta sẽ chia hình vuông này thành 9 phần bằng nhau, rồi xóa phần chính giữa. Tiếp theo, ta lại chia 8 phần còn lại, mỗi phần được chia thành 9 phần, rồi xóa các phần chính giữa (nhỏ hơn) của chúng. Cứ như thế, ta được phần còn lại là tấm thảm Sierpinski. | 1 | null |
Tổng động viên là một khái niệm quân sự chỉ một hành động vừa mang tính kêu gọi vừa mang tính mệnh lệnh trong tình hình quốc gia đó chuyển sang tình trạng chiến tranh. Đối tượng của lệnh Tổng động viên bao gồm tất cả những thanh niên có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi. Tại một số quốc gia đối tượng của Tổng động viên chỉ gói gọn trong những binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan dự bị đã giải ngũ. Về sau có thể do yêu cầu của tình hình đất nước đối tượng của Tổng động viên được mở rộng đến cả những thanh niên chưa từng qua huấn luyện quân sự như học sinh sinh viên, công nhân, công chức, nông dân...
Người có quyền ra quyết định Tổng động viên thường là Tổng tư lệnh quân đội. Tại nhiều nước người ra quyết định Tổng động viên là Tổng thống đối với những quốc gia theo chế độ Tư bản chủ nghĩa và Chủ tịch nước hoặc Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đối với những quốc gia theo chế độ Xã hội Chủ nghĩa do Đảng Cộng sản đứng đầu. | 1 | null |
Chu Bột (chữ Hán: 周勃, ?- 169 TCN), người quận Bái, là tướng lĩnh, chính trị gia thời Hán Sở và là khai quốc công thần của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Năm 209 TCN, Chu Bột đi theo Lưu Bang chống lại nhà Tần, lập được nhiều công trạng nên lần lượt được phong các chức vị Ngũ đại phu, tướng quân. Sau khi chiến tranh Hán-Sở nổ ra, Chu Bột vẫn tiếp tục được Lưu Bang cất nhắc, phong chức Vũ Uy hầu, thực ấp ở vùng Hoài Đức. Trong giai đoạn này, ông tham gia vào các chiến dịch chinh phục Tam Tần; tiến công Thành Cao, Khúc Nghịch; bình định hai quận Tứ Thủy, Đông Hải;...
Năm 201 TCN, sau khi Lưu Bang diệt được Hạng Vũ thống nhất thiên hạ, Chu Bột được phong tước vị Giáng hầu, nâng thực ấp của ông lên 8100 hộ. Những năm đầu triều Hán, Chu Bột tiếp tục tham gia bình định các chư hầu, dẹp được các cuộc nổi dậy của Hàn vương Tín, Yên vương Lư Quán..., do đó được thăng đến chức Thái úy.
Sau khi Lưu Bang qua đời, quyền lực trong triều rơi vào tay Lã hậu và gia tộc họ Lã. Năm 180 TCN, Lã hậu mất, Chu Bột cùng Trần Bình lập kế tiêu diệt họ Lã và lập Hán Văn Đế lên ngôi. Văn Đế phong cho ông chức Hữu Thừa tướng, tuy nhiên về sau ông nhường lại cho Trần Bình.
Năm 178 TCN, Trần Bình chết, Chu Bột tiếp tục trở lại giữ chức Thừa tướng, nhưng chỉ được một năm lại bị ép từ chức về ấp phong. Những năm cuối đời, Chu Bột bị tố cáo có âm mưu tạo phản và bị bỏ ngục, tuy nhiên về sau được thả. Ông qua đời năm 169 TCN, thụy hiệu là Giáng Vũ hầu.
Thân thế.
Tổ tiên của Chu Bột nguyên là vốn xuất thân từ huyện Uyển, sau di cư về Bái quận. Do gia cảnh nghèo khó, Chu Bột phải đến kinh làm chức sĩ liêm, diễn tấu nhạc trong các buổi đám tang để kiếm sống.
Theo Lưu Bang khởi nghĩa.
Chiến dịch diệt Tần.
Sau khi Tần Thủy Hoàng qua đời, đế chế Tần suy yếu, các hào trưởng ở khắp nơi nổi dậy. Tháng 7 năm 209 TCN, Lưu Bang khởi binh ở Bái huyện, xưng là Bái công. Chu Bột thấy thế bèn đầu quân cùng Lưu Bang. Ông cùng Lưu Bang đem quân tiến công Hồ Lăng và Phương Dư. Ít lâu sau, ở Phương Dư xảy ra cuộc nổi loạn, Chu Bột nhanh chóng đánh bại quân địch và thu phục lại quận này. Sau đó ông tiếp tục theo Bái công tiến công ấp Phong và giành được thắng lợi, sau đó rút về Lưu Huyện và Tiêu Huyện.
Cùng trong năm 209 TCN, quân của Lưu Bang tiến công vào quận Đãng và phá được Hạ Ấp. Trong số các tướng thì Chu Bột là người đầu tiên lên được thành, do đó ông được Bái công phong chức Ngũ Đại phu.
Sang năm 208 TCN, Chu Bột theo Lưu Bang tham gia vào các chiến dịch tiến công quận Mông, Ngu, tập kích quân của Chương Hàm và lập được nhiều công trạng. Sau đó, ông tiếp tục tham gia đánh Tần, chiếm các thành Viên Thích, Đông Mân, Niết Tang, đuổi quân Tần về Bộc Dương, công đánh thành Chân, Đô Quan, Định Đào, Uyển Cù, Đan Phụ của Tần, rồi cùng Lưu Bang tiến đến thành Ung Khâu, giết tướng giữ Tam Xuyên là Lý Do (con thừa tướng Lý Tư).
Sau khi nhận lời giao ước của Sở vương, Lưu Bang tiến đánh Quan Trung để tận diệt nhà Tần. Chu Bột cũng hỗ trợ đắc lực của Lưu Bang trong việc đánh hạ các thành Khai Phong, Dĩnh Dương, Câu Thị và mở đường sông Hoàng Hà, cuối cùng diệt được nhà Tần. Nhờ những chiến công trên, Chu Bột được Lưu Bang phong làm tướng quân. Sau đó, Lưu Bang lên ngôi Hán vương, lại thăng ông làm Vũ Uy hầu, thực ấp ở vùng Hoài Đức.
Thời Hán Sở.
Sau khi diệt Tần, Lưu Bang cùng các tướng lại bước vào cuộc chiến tranh với quân Sở do Hạng Vũ chỉ huy, vốn đã gây dựng thế lực rất lớn. Hạng Vũ phân chia lại các vùng đất không chỉ của Tần mà của cả các nước chư hầu khác có tham gia vào cuộc khởi nghĩa thành 19 nước, trong đó nước Tần bị chia làm ba nước là Ung, Tắc, Địch do Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Ế giữ ngôi quốc vương.
Lưu Bang thực hiện chiến dịch công kích và tiêu diệt Tam Tần đầu tiên, tiến công lên phía bắc vào huyện Tất, Chương Bình..., buộc Tam Tần đầu hàng. Trong trận chiến đó, Chu Bột có công tiến chiếm Khúc Nghịch mở đường.
Năm 203 TCN, trong trận Thành Cao, Chu Bột được giao nhiệm vụ trấn giữ Nghiêu Quan, sau đó tiến quân vào được Thành Cao, đối đầu với Hạng Vũ, cuối cùng chiếm lại được Thành Cao. Sau Hạng Vũ thất thế và tự tử, Chu Bột lại được lệnh tiến đánh Khúc Nghịch và chiếm hai quận Tứ Thủy, Đông Hải, thu phục thêm 22 huyện, sau đó lui về trấn giữ Lạc Dương và Lịch Dương. Lưu Bang xét công của ông, phong thêm đất cho làm thực ấp.
Năm 202 TCN, Lưu Bang xưng đế, lập ra nhà Hán.
Tham gia bình định chư hầu.
Đánh Hàn vương Tín và Trần Hy.
Năm 201 TCN, Lưu Bang đổi phong Chu Bột làm Giáng hầu, ban cho thực ấp là 8100 hộ.
Năm 200 TCN, Hàn vương Tín phản Hán theo Hung Nô. Lưu Bang xuất quân thảo phạt, buộc Tín chạy sang Hung Nô. Chu Bột có tham gia vào cuộc chiến này, ông công đánh vào thành Tấn Dương và đánh bại quân của Tín, do đó được thăng làm Thái úy. Năm 197 TCN, Tín thuyết phục Trần Hy làm phản nhà Hán. Năm 196 TCN, Hàn vương Tín lại đánh phá biên giới phía bắc, tiến vào Tham Hợp. Trần Hy cũng làm phản ở đất Đại. Lưu Bang cùng Chu Bột mang quân đi đánh Trần Hy. Ông bình định được 17 huyện ở Nhạn Môn, chém được tướng của Trần Hy là Thừa Mã. Sau đó ông tiến vào Linh Khâu, giết Trần Hy và các tướng của Hy là Trình Túng, Trần Vũ,Cao Tứ.
Dẹp đất Yên.
Năm 195 TCN, Lưu Bang nghe tin Yên vương Lư Quán khởi binh chống lại nhà Hán bèn cử Chu Bột cùng Phàn Khoái dẫn binh đánh dẹp. Yên vương Quán bỏ chạy sang Hung Nô, Chu Bột và Phàn Khoái hạ được huyện Kế, bắt được đại tướng Đề, thừa tướng, quận thủ, thái úy và nhiều quan lại cao cấp của Lư Quán.
Tuy đất Yên được bình định nhưng cũng trong chiến dịch này, có người gièm pha Phàn Khoái với Hán Cao Tổ, vì thế Cao Tổ sai Trần Bình đến bắt Phàn Khoái về kinh và giao quyền chỉ huy cho Chu Bột. Chu Bột tiếp tục bình định 12 huyện Thượng Cốc, 16 huyện Hữu Bắc, 29 huyện Liêu Tây, Liêu Đông và 22 huyện thuộc quận Ngư Dương.
Bày mưu diệt họ Lã.
Tháng 4 năm 195 TCN, Hán Cao Tổ qua đời, Huệ Đế Lưu Doanh lên nối ngôi, Chu Bột tiếp tục đảm nhận chức thái úy. Năm 187 TCN, Huệ Đế mất, quyền hành trong triều lọt vào tay Lã hậu (vợ Cao Đế). Lã hậu muốn phong vương cho người họ Lã, bèn hỏi Thừa tướng Vương Lăng nhưng Lăng thẳng thừng từ chối. Lã hậu lại hỏi Chu Bột và Trần Bình. Hai ông nói:
Vương Lăng tức giận, trách cử Chu Bột và Trần Bình. Hai ông bèn giảng giải cho Vương Lăng thấy rằng chỉ có như vậy mới bảo toàn được cho họ Lưu.
Năm 180 TCN, Lã hậu sắp mất, dặn Triệu Vương Lã Lộc làm thượng tướng quân, coi cánh quân ở phía bắc, Lương vương Lã Sản coi cánh quân phía nam để đề phòng các đại thần lật đổ họ Lã sau khi bà qua đời. Tuy nhiên sau khi Lã hậu mất, ở phía đông, Tề vương xuất quân chống lại họ Lã, còn Trần Bình và Chu Bột trong triều cũng tìm cách tiêu diệt họ Lã.
Lã Lộc và Lã Sản ở kinh đô muốn khởi binh làm loạn nhưng sợ thế lực của các đại thần, còn chần chừ chưa quyết định. Chu Bột và Trần Bình, thấy người con của Khúc Chu Hầu Lịch Thương là Lịch Ký thân với Lã Lộc, bèn ép Lịch Thương bảo con đến nói với Lộc nếu ở lại kinh cầm binh sẽ bị nghi ngờ, chi bằng trao ấn cho Thái úy mà về nước Triệu.
Lã Lộc đem việc ấy bảo với Lã Sản. Nội bộ họ Lã biết việc ấy, nhưng chưa dứt khoát quyết định. Lã Lộc nói với người cô là Lâm Quang hầu Lã Tu nhưng Lã Tu biết được mưu đồ đó, không đồng ý.
Cùng lúc đó Giả Thọ từ nước Tề về, lại khuyên Lã Sản mau chóng làm loạn và giục Sản vào cung Vị Ương để làm loạn. Cùng lúc Chu Bột bảo tướng Kỷ Thông cầm cờ tiết giả làm lệnh hoàng đế trao cho mình cầm đầu đạo quân phía bắc rồi ra lệnh cho Lịch Ký và Lưu Yết tới thuyết phục Lã Lộc lần nữa. Lã Lộc nghe theo, trả tướng ấn lại, giao cho Chu Bột cầm quân. Chu Bột nắm được đạo quân phía nam.
Cùng lúc đó Trần Bình hay tin Lã Sản đã làm loạn, sai Chu Hư hầu giúp Chu Bột. Chu Bột lại ra lệnh không cho Lã Sản vào điện và sai Chu Hư hầu đến cung Vị Ương giết Lã Sản, sau đó tiêu diệt toàn bộ họ Lã và đưa Đại vương lên làm hoàng đế, tức Hán Văn Đế. Do sự đề cử của Trần Bình, Văn Đế phong cho Chu Bột làm Hữu thừa tướng nhưng ở địa vị cao nhất, còn Trần Bình làm Tả thừa tướng nhưng chỉ ở ngôi thứ hai.
Nhường chức thừa tướng.
Khi Hán Văn Đế bắt đầu quen với việc triều chính, có hỏi Chu Bột và Trần Bình các việc như một năm xét xử ngục hình bao nhiều người, một năm tiền và thóc xuất nhập bao nhiêu nhưng ông đều không biết được, mà Trần Bình ứng đối trôi chảy trước mặt Văn Đế, được vua khen. Khi ra triều, Chu Bột trách Trần Bình sao không chỉ cho mình biết, nhưng lại bị ông ta hỏi vặn: " Ông ở địa vị của mình mà lại không biết chức trách của mình sao? Nếu bệ hạ hỏi số người ăn trộm ăn cướp ở Tràng An thì ông định nói liều sao?". Cuối cùng ông nhận ra mình không bằng Trần Bình, bèn trả ấn thừa tướng về đất Giáng.
Tuy nhiên chỉ qua một năm, đến 178 TCN, Trần Bình qua đời, Chu Bột lại được trở về giữ chức thừa tướng.
Những năm tháng cuối đời.
Càng về sau, Hán Văn Đế càng không còn tin tướng Chu Bột. Chỉ một năm sau khi tái đảm nhận chức tướng, Chu Bột lại bị Văn Đế đuổi về ấp phong. Ông đành phải nghe theo, dâng biểu xin từ chức, về ấp Giáng. Chu Bột không cam tâm, lại sợ bị hãm hại và tỏ ra hống hách, khi gặp quận thủ và quận úy đều bảo gia nhân phải đem theo vũ khí. Ít lâu sau có người tố cáo ông có mưu đồ tạo phản. Hán Văn Đế ra lệnh bắt ông về Trường An xét xử. Chu Bột đã già, không thể tự biện hộ, bèn bị nhốt vào ngục. Trong ngục, ông bị bọn ngục lại đối xử tệ bạc. Ông đã phải ngầm lấy 1000 lạng vàng hối lộ cho cai ngục, cai ngục mới bày kế cho ông, bảo con dâu ông là công chúa nhà Hán (em gái Hán Văn Đế, lấy con trai ông là Chu Thắng) làm chứng, rồi xin Bạc Thái hậu miễn xá cho ông. Cuối cùng ông thoát khỏi ngục và được trở về ấp Giáng. Nhưng cũng từ đó ông không được trọng dụng nữa.
Năm 169 TCN, Giáng hầu Chu Bột qua đời, thụy hiệu là Giáng Vũ hầu.
Tính từ khi theo Lưu Bang khởi nghĩa năm 209 TCN đến khi mất, Chu Bột hoạt động 40 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Con trưởng của ông, Chu Thắng (người lấy công chúa nhà Hán) kế tập tước hầu. Được sáu năm, Chu Thắng phạm tội, tình cảm với công chúa cũng đã rạn nứt nên bị phế bỏ tước vị. Ít lâu sau, Hán Văn Đế tiếp tục phong cho con trai thứ của ông là Chu Á Phu, đang làm thái thú Hà Nội làm Điều hầu để kế tục ông. Năm 154 TCN, khi bảy nước khởi loạn, Chu Á Phu được lệnh cầm quân đánh dẹp, nhờ chiến thuật xuất sắc đã nhanh chóng đánh bại được các chư hầu, lập được công cho nhà Hán. | 1 | null |
cksum là một tiện ích trên các hệ điều hành giống Unix, có chức năng tính giá trị tổng kiểm của một tập tin hay luồng/khối dữ liệu. Lệnh xử lý từng tập tin được truyền qua đối số, hoặc xử lý dữ liệu trong stdin nếu không có tập tin nào được cung cấp.
Lệnh dùng để kiểm tra tính nguyên vẹn của một tập tin. Tuy nhiên, kiểm tra giá trị tổng kiểm không bảo mật: Nó có thể dùng để xác định các lỗi trong truyền dữ liệu, nhưng việc giả mạo một tập tin có cùng giá trị tổng kiểm cũng rất đơn giản. Để đáp ứng nhu cầu bảo mật, người ta thường dùng các lệnh tính tổng kiếm md5 hay sha1 như sha1sum, md5sum.
Tương thích.
Lệnh cksum chuẩn trên hầu hết các hệ điều hành giống Unix (bao gồm cả GNU / Linux, * BSD, Mac OS X, và Solaris) sử dụng một thuật toán CRC dựa trên chuẩn kiểm tra khung ethernet và do đó thay đổi theo môi trường, khác với lệnh sum không phụ thuộc điều kiện sử dụng. Trên hệ điều hành Tru64, lệnh cksum trả về một giá trị khác với các hệ điều hành khác, trừ khi biến môi trường CMD_ENV được đặt là "xpg4".
Cú pháp.
cksum [files]
Ví dụ.
$ cksum test.txt
4038471504 75 test.txt
trong đó "codice_1" là giá trị tổng kiểm, "codice_2" là kích thước của tập tin codice_3.
Với nhiều tập tin
$ cksum file*
723412753 37 filea
2975441213 6 fileb | 1 | null |
Động vật lớn hay động vật khổng lồ là thuật ngữ chỉ về những loài động vật có kích thước to lớn hay thậm chí là rất lớn (khổng lồ), bao gồm các loài động vật ăn cỏ (như voi) động vật ăn thịt (như hổ) các loài bò sát (cá sấu, rồng Komodo), các loài vật ở biển (cá voi). Kích thước của các loài động vật khổng lồ thông thường được xem xét tương quan với kích thước của con người. Nhiều loài động vật khổng lồ được coi là loài có kích thước to lớn nhất trong họ hàng của chúng. Ngoài ra thuật ngữ này cũng đề cập đến các loài động vật đột biến làm kích thước của chúng trở nên to lớn quá thể so với các cá thể cùng loài.
Một số loài.
Nước là môi trường sống của các động vật to lớn nhất. Dài nhất là loài sứa khổng lồ 75 m (bằng 6 chiếc xe buýt nối đuôi nhau), sau đó đến cá voi với chiều dài là 18m, cá sấu, trăn, cá đuối có chiều dài lên đến 8 m. Loài Cá voi xanh "Balaenoptera musculus" hiện được ghi nhận là động vật còn tồn tại lớn nhất từng được ghi nhận khi có chiều dài 30 mét, cân nặng 177 tấn. Loài động vật nuôi con bằng sữa lớn nhất còn sinh tồn là cá voi xanh. Trên cạn, lớn nhất là Voi bụi rậm châu Phi "Loxodonta africana" với chiều cao đo được lên tới 3,96 mét, cân nặng hơn 5 tấn.
Động vật Một cung bên không phải thú lớn nhất hiện biết có lẽ thuộc về loài "Cotylorhynchus romeri" sống ở Bắc Mỹ hồi đầu kỷ Permi. Động vật bò sát lớn nhất hiện còn sống có lẽ là loài Cá sấu cửa sông Crocodylus porosus với chiều dái lên đến 5 mét, cân nặng 450 kg. Loài rắn dài nhất là Trăn gấm "Python reticulatus" với cá thể được đặt tên Medusa ở Kansas City, Missouri đã liệt kê trong sách kỷ lục Guinness là dài 7,67 mét, cân nặng 158,8 kg. Loài rắn nặng nhất là Eunectes murinus trong Họ Trăn Nam Mỹ "Boidae", với cân nặng hơn 200 kg. Đà điểu châu Phi "Struthio camelus" hiện là loài chim lớn nhất còn sinh tồn, với cân nặng tới 155 kg và chiều cao 2,74 mét ghi nhận cho phân loài Struthio camelus camelus. Danh hiệu loài chim lớn nhất mọi thời đại thuộc về loài trong chi Aepyornis, họ Aepyornithidae, bộ Aepyornithiformes, liên bộ Palaeognathae, phân lớp Neornithes với chiều cao tới 3 mét, cân nặng khoảng 400 kg.
Động vật lưỡng cư. Lưỡng cư lớn nhất còn sống là loài Kỳ giông khổng lồ Trung Quốc "Andrias davidianus" với chiều dài tới 1,83 mét và cân nặng 64 kg. Kỷ lục trong Liên lớp Cá xương "Osteichthyes" thuộc về Mola mola trong Lớp Cá vây tia "Actinopterygii" với chiều dài 4,2 mét, cân nặng 2,300 kg. Lớp Cá vây thùy "Sarcopterygii" có loài Latimeria chalumnae với chiều dài lên tới 2 mét, cân nặng 80 kg. Kỷ lục về chiều dài thuộc về Regalecus glesne trong họ Regalecidae, bộ Lampriformes với kỷ lục dài 17 mét. Động vật không xương sống Động vật không xương sống thông thường có trọng lượng nhẹ hơn động vật có xương sống, mặc dù nhiều loài có chiều dài hơn rất nhiều. Động vật thân lỗ. Loài thân lỗ lớn nhất còn sống là Xestospongia muta cao 2,4 mét. Sứa bờm sư tử "Cyanea capillata" là loài sứa lớn nhất với đường kính lên tới 2,29 mét. xúc tu dài hơn 36 mét. Bipalium kewense thuộc bộ Tricladida, lớp Turbellaria là loài giun dẹp lớn nhất với chiều dài tới 0,6 mét. Loài giun "Placentonema gigantissima" họ Tetrameridae, bộ Spirurida, lớp Secernentea sống ký sinh trong cá nhà táng có thể dài tới 9 mét. Ngành Giun đốt có loài "Microchaetus rappi" dài 6,7 mét và nặng 1,5 kg. Động vật da gai Loài da gai nặng nhất là "Thromidia gigas" lớp sao biển với cân nặng tới 6 kg. Nemertea Loài giun dây giày "Lineus longissimus" có lẽ là loài động vật dài nhất còn sinh tồn, với chiều dài của một cá thể bắt được năm 1864 lên tới 55 mét. Động vật Chân khớp
Chân khớp nặng nhất là Homarus americanus với cá thể bắt được năm 1977 có cân nặng lên đến 20,14 kg.
Cá voi.
Cá voi xanh được xem là động vật lớn nhất trên thế giới sống trong đại dương. Độ dài của một con cá voi xanh trưởng thành có thể là từ 23m đến 30,5m hoặc đến 35 m và nặng khoẳng 130 đến 150 tấn, con nặng nhất có thể lên tới 190.000 kg. Trọng lượng của cá voi xanh có thể tương đương với trọng lượng của 1500 người đàn ông hoặc 24 con voi. Trái tim của cá voi xanh tương đương với một chiếc xe hơi dài hơn 1m và hơn 50 người có thể đứng vừa trên lưỡi của cá voi xanh. Một con voi trưởng thành cũng chỉ tương đương với một con cá voi xanh mới sinh. Cá voi xanh hầu như chỉ ăn những sinh vật nhỏ giống tôm, tép… gọi chung là loài nhuyễn thể. Trong suốt mùa hè, cá voi xanh ăn rất nhiều, số lượng thức ăn được tiêu thụ mỗi ngày đáng kinh ngạc, 3,6 tấn (7,900 pao) hoặc hơn. Điều này có nghĩa nó có thể ăn đến 40 triệu nhuyễn thể một ngày và số calo cần có hàng ngày của một con cá voi xanh trưởng thành trong khoảng 1,5 triệu. Loài cá nhám voi khổng lồ dài 18 m từ đầu tới đuôi và nặng 40.000 kg.
Voi.
Voi châu Phi là động vật trên cạn lớn nhất. Một con voi trưởng thành có thể cao tới 4m và dài tới 6m. Nó cũng là động vật cao thứ hai trong số các động vật trên cạn với 4 m chiều dài cả vòi. (hươu cao cổ dẫn đầu với chiều cao 6m). Trọng lượng của một con voi trưởng thành lên tới 7 – 8 tấn, tương đương trọng lượng của 165 người đàn ông. Trong số đó, Voi bụi rậm châu Phi là động vật sống trên mặt đất lớn nhất thế giới. Voi bụi rậm châu Phi trưởng thành nói chung không có kẻ thù tự nhiên do kích thước lớn của nó, nhưng những chú voi con (đặc biệt là lúc mới sinh) dễ bị sư tử và cá sấu tấn công, và thỉnh thoảng cũng bị báo và linh cẩu tấn công. Voi còn nổi tiếng phàm ăn, mỗi ngày một con voi trưởng thành ngốn hết 200 kg cỏ khô, uống hết 200 lít nước.
Hươu cao cổ.
Hươu cao cổ là động vật móng guốc có vú ở châu Phi và là động vật sống trên cạn cao nhất trên thế giới. Nó đứng cao 5 – 6 m và có trọng lượng trung bình 1.600 kg đối với con đực và 830 kg đối với con cái. Hươu cao cổ có một chiếc cổ cực kỳ dài, có thể hơn 2 m, chiếm gần một nửa chiều cao của con vật, tổng cộng, con hươu với cái cổ dài nhất cũng chỉ được 6 m. Cổ dài là kết quả của sự không cân đối các đốt sống cổ, chứ không phải từ việc bổ sung thêm các đốt sống.
Hải tượng.
Hải tượng miền Nam là động vật ăn thịt lớn nhất hiện nay. Kích thước của giống hải cẩu này cho thấy dị hình lưỡng tính cực đoan, có thể thấy bất kỳ động vật có vú nào, những con đực thường nặng hơn so với con cái 5 – 6 lần. Trong khi những con cái nặng trung bình 400 – 900 kg và dài 2,6 – 3 m, thì các con đực nặng trung bình từ 2.200 đến 4.000 kg và dài 4,5 – 5,8 m. Con đực có kích thước kỷ lục ở Possession Bay, Nam Georgia, vào ngày 28 tháng 2 năm 1913, đo được 6,85 m và ước tính trọng lượng là 5.000 kg. Hải tượng miền Nam lặn nhiều lần, mỗi lần hơn hai mươi phút để săn con mồi – mực và cá – ở độ sâu từ 400 đến 1.000m. Hải cẩu voi chỉ quen ăn động vật biển, còn con người không nằm trong thực đơn của loài vật khổng lồ này. Loài hải cẩu này còn có vòi lớn tương tự như voi, có thể phát ra những tiếng rống điếc tai.
Gấu.
Động vật ăn thịt sống trên đất lớn nhất là Gấu trắng Bắc cực, gấu Kodiak – một phân loài của gấu nâu. Vì chúng có kích thước cơ thể tương tự, không xác định được rõ ràng loài nào lớn hơn. Trong cả hai loài, chiều cao vai được đo là hơn 1,6 m và tổng chiều dài là 3,05 m. Trọng lượng gấu bắc cực và nâu nặng nhất được ghi nhận lần lượt là 1.003 kg và 1.135 kg. Hóa thạch loài gấu Arctotherium angustidens được phát hiện ở Nam Mỹ năm 2011 có cân nặng xấp xỉ 1600 kg.
Bò tót.
Bò tót hoang Ấn Độ có chiều cao 3 m, là loài bò tót lớn nhất thế giới. Chúng băng qua những cánh rừng và đồng cỏ Ấn Độ, đôi khi tấn công cả vườn tược. Trong số các loài động vật ăn cỏ cỡ lớn, chỉ có voi, tê giác và hươu cao cổ là có thể địch được với loài bò này về chiều cao hay cân nặng. Tuy hiền lành hơn trâu rừng châu Phi nhưng với cân nặng lên tới 1,6 tấn, chúng có khả năng gây chết người. Do nạn săn bắn trái phép và phá hủy môi trường, bò tót hoang Ấn Độ cũng đang nằm trong danh sách bị đe dọa tuyệt chủng.
Cá sấu.
Loài bò sát lớn nhất là cá sấu nước mặn với chiều dài: 5m, trọng lượng: 2,1 tấn. Chúng được tìm thấy trong môi trường sống phù hợp từ miền Bắc Australia thông qua khu vực Đông Nam châu Á đến bờ biển phía đông của Ấn Độ. Trọng lượng một con cá sấu nước mặn đực trưởng thành là 409 đến 1.000 kg và chiều dài bình thường là 4,1 – 5,5 m. Tuy nhiên, con đực trưởng thành có thể vượt quá 6 m và cân nặng nhiều hơn so với 1.000 kg. Các giống cá sấu còn tồn tại chỉ đạt hoặc vượt quá 4,8 m. Cá sấu nước mặn là một động vật ăn thịt, có khả năng tấn công gần bất kỳ động vật nào đi vào lãnh thổ của nó, hoặc trong mặt nước hoặc trên đất liền.
Cá.
Cá mập voi hay còn được gọi là cá nhám voi là loại cá lớn nhất với chiều dài 13,6m, trọng lượng 24 tấn). Cá đuối gai lớn nhất trong những loài cá đuối sống trên nước ngọt, cá đuối gai độc có tên khoa học là Himantura polylepis cũng là một trong những loài cá lớn nhất thế giới. Các nhà nghiên cứu cho rằng, những cá này chẳng thay đổi gì nhiều trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển kéo dài hàng triệu năm qua. Ở sông Colorado, Bắc Mỹ, cá tuế có kích thước vượt trội với chiều dài 1,8 m và nặng tới 35 kg. Với kích thước lớn, cá tuế ăn những loài cá nhỏ hơn, nhưng cũng dễ bị ảnh hưởng bởi những thay đổi của môi trường sống và đang trở thành loài động vật cần được bảo tồn.
Goonch là loài cá da trơn khổng lồ, ăn thịt, sống trên các dòng sông chảy siết ở nhiều nước châu Á, đặc biệt là khu vực gềnh thác của những dòng sông bắt nguồn từ dãy Himalaya và nhánh chính trên thượng nguồn sông Mekong. Tuy khá khỏe mạnh và hung hãn nhưng số lượng loài cá này đang giảm mạnh bởi mức độ ô nhiễm ngày càng gia tăng trên các dòng sông. cá Goonch còn gây sự chú ý mạnh mẽ vì bị coi là loài động vật ăn thịt người. Không ít người Ấn Độ tin rằng, xác người cháy dở sau nghi lễ hỏa táng chính là thức ăn của loài cá này. Tuy nhiên, việc tận diệt kèm theo sự thay đổi của môi trường khiến những con cá Goonch không thể phát triển cơ thể tới mức đủ lớn để tấn công con mồi kích thước tương tự con người.
Ở Việt Nam, người dân hai bên sông Kinh Môn, đoạn chảy qua huyện Kim Thành và Kinh Môn, thuộc tỉnh Hải Dương, đều biết đến những câu chuyện huyễn hoặc, nửa thật nửa đồn, về những con cá khổng lồ ở sông. Sông Kinh Môn có nhiều cá lớn, nhưng cá trắm đen nặng vài tạ khó kiếm vì thường chúng chỉ đến vài chục kg. Những con trắm đen nặng đến 40–50 kg, cực kỳ khó bắt. Trắm đen thường ẩn ở những vũng sâu, hoặc nó đào ổ dưới lòng sông, nên lưới vét kéo qua chỉ lướt trên mặt bùn, không vét cá vào được. Cũng có khi, quây lưới được, nhưng nó phóng một cái thì lưới nào cũng toạc. Cá trắm đen nặng vài chục kg, thậm chí đến ngót tạ, thì có thể có. Chuyện cá trắm đen khổng lồ ở Việt Nam là có thật đã có những con cá trắm đen nặng 60–70 kg, thậm chí ngót tạ, bắt được ở Việt Nam, tuy nhiên, cá trắm đen nặng vài tạ thì chưa từng thấy.
Người ta đồn có con cá lớn, to như con trâu, cứ quẫy uỳnh oàng ở đó suốt ngày, thi thoảng ngóc đầu thên thở phì phì, ở chỗ cống, có một “ông cá Thần” nặng mấy tạ, to như tàu ngầm, cứ lừ đừ dưới sông. Khi biển Đông hình thành bão, hoặc mây đen vần vũ, thì nó lại thò lên khỏi mặt sông cái đầu đen sì, khổng lồ, như thể mũi của tàu ngầm ở đoạn sông có cống, nó đã ở khúc sông Kinh Môn nhiều năm qua, “cụ cá Thần” này hiển linh trong thân thể một con trắm đen khổng lồ. Mỗi lần cá khổng lồ vào ăn, thì cả một khoảng sông mênh mông đục ngàu, sủi bọt trắng xóa. Con cá trắm đen, có cái đầu to bằng vành lốp ô tô, phải 2 người ôm cái vòng đầu nó không hết. Con trắm đen nhô hẳn đầu lên, thở phì một cái, bắn cả nước lên thuyền, nó mở cái mắt to như miệng chén, cú ngụp của nó, tạo ra sóng mạnh, ít nhất con cá đó phải nặng 3 tạ đến 5 tạ, con trăm đen phải to bằng thùng phi.
Tại một hồ câu khu vực Phùng (Cầu Diễn, Hà Nội), đã câu được con Cá trắm đen nặng gần 27 kg. Con cá khổng lồ dài hơn một mét này có vẩy to gần bằng miệng chén, hàm răng đều tăm tắp mỗi chiếc to bằng ngón tay. Sau 3 tiếng cấu, phao từ từ chìm xuống, khi giật lên phát hiện là cá trắm đen đã dính lưỡi. Sau 45 phút dòng kéo làm cho con cá khổng lồ này mệt, cần thủ đã chiến thắng và lôi được nó lên bờ. Con cá này dài hơn 1 mét, có hàng trăm chiếc vẩy to bằng miệng chén, còn hàm răng thì đều tăm tắp, trắng phau, chiếc nào chiếc nấy to bằng ngón tay. Vẩy cá được so sánh với chiếc bật lửa zippo, còn răng cá được so sánh với chiếc USB
Hồ Tây từng tồn tại rất nhiều trắm đen khổng lồ nhưng thỉnh thoảng có trắm đen ở Hồ Tây nặng tới hai ba chục kg,trưng bày một tiêu bản cá trắm đen nặng tới 46 kg. Giống cá trắm đen rất khôn, thấy động là rúc xuống bùn, nằm im trong ổ, hoặc dựa vào những vật cản. Khi những con trắm đen cùng các loài cá khác được đưa lên bờ, lập tức có một đội ngũ công nhân dùng dao, rìu bổ đầu lấy trung khu thần kinh chỉ đạo bộ máy sinh dục trong não cá. Thứ này được chuyển đến những trại cá giống trên khắp cả nước để chiết xuất thuốc kích thích, tiêm vào những con cá chửa để chúng đẻ được. Con “quái vật” khủng nhất tóm được ở Hồ Tây vào năm 1988, là một con trắm đen lớn chưa từng có, nặng tới 90 kg, tương đương một con lợn siêu nạc. Con trắm đen nặng 90 kg là kỷ lục của Hồ Tây. Có con 2,5 tạ ở Việt Trìkhông có chiếc cân nào chịu được con trắm đen khổng lồ nàydùng thước đo thì thấy nó dài hơn 3m, ước chừng nặng trên 2,5 tạ.Có lẽ, đây là con trắm đen lớn nhất từ trước đến nay, không những ở Việt Nam mà không chừng lớn nhất thế giới.
Chim.
Đà điểu châu Phi là loài chim lớn nhất với chiều cao: 2,1 m, trọng lượng: 156 kg. Loài chim biển lớn nhất hành tinh chính là chim hải âu. Trong số 21 loài hải âu trên khắp thế giới, lớn nhất là hải âu du mục, với sải cánh tới 3,5 m và cân nặng tới 13 kg. Loài chim vua của biển cả lợi dụng khối lượng cơ thể lớn để tạo đà đẩy đôi cánh, giúp chúng bay được rất xa và có thể đạt kỉ lục bay 6,000 km trong vòng 12 ngày. Đây là loài chim ăn đêm, thức ăn chính là mực và cá bơi sát mặt nước. Không một loài chim nào trên thế giới có sải cánh dài hơn hải âu du mục.
Khác.
Động vật lưỡng cư so với các loại khác thì nhỏ hơn khá nhiều nhưng loài lưỡng cư lớn nhất là kỳ nhông của Trung Quốc với chiều dài: 1,83m, trọng lượng 64 kg mặc dù nó hiếm khi đạt đến kích thước này. Loài vật này sống trong các dòng suối trên núi đá và hồ ở Trung Quốc. Loài mực quái vật khổng lồ từng được nhắc đến trong thần thoại Hy Lạp nhưng trên thực tế, chúng từng được phát hiện tại Tân Ban Nha. Chiều dài đo của con mực này lên đến 9m và chúng nặng 180 kg. Đây là loài động vật không xương sống lớn nhất thế giới. Ếch Goliath ở vùng đầm lầy Tây-Trung Phi nặng tới 3 kg và có kích cỡ của một chú chó con. Thực đơn của loài ếch lớn nhất thế giới này không phải sâu bọ mà là rùa non. Ếch Goliath chỉ có duy nhất một đối thủ không nặng ký bằng, đó là loài ễnh ương châu Mỹ ăn thịt chim non. Trăn đá châu Phi là loài rắn lớn nhất ở lục địa đen với kích thước, khối lượng khổng lồ và đôi khi người ta mổ bụng chúng còn thấy cả xác người. Mỗi năm, có hàng trăm trường hợp ghi nhận loài trăn đá tấn công người và cũng có không ít vụ chúng nuốt chửng những đứa trẻ, thậm chí là người trưởng thành. Ngoài ra, tê giác và hà mã cũng có cân nặng đáng kể, 3.000 kg mỗi con.
Côn trùng.
Các loài côn trùng như ong khổng lồ châu Á khi phát triển có thể dài đến 5 cm và vết cắn của nó khoảng 6mm. Độc tính của nó có thể gây suy thận. Với độ dài cánh lên đến 17 cm và nặng gấp 3 lần một con chuột trưởng thành, loài dế weta được mệnh danh là loài côn trùng lớn nhất thế giới. Nó được phát hiện vào năm 2011 tại Little Barrier Island, New Zealand. Rết khổng lồ có thể phát triển chiều dài lên đến 45,7 cm và có thể hạ gục một chú chuột nhỏ một cách dễ dàng. Có nguồn gốc từ Trung và Nam Mỹ năm 2005, một con rết có chiều dài khoảng 25 cm đã được phát hiện tại một căn hộ ở phía Bắc Luân Đôn. Mặc dù nó có nọc độc nhưng không thể gây tử vong với con người, thậm chí còn được sử dụng để chữa bệnh như đau đầu, thậm chí là cả bệnh ung thư tại một số nơi trên thế giới. Loài ruồi trâu này có thể phát triển với chiều dài lên đến 3 cm được tìm thấy ở phía Tây Hampshire. Được biết, chúng có thể cắn con người và gây đau như là bị dao cắt. | 1 | null |
Hội đồng bào Thân ái (tiếng Pháp: La Fraternité des Compatriotes) là một hiệp hội do luật sư Phan Văn Trường thành lập vào năm 1912 tại Pháp. Đây là tổ chức đầu tiên của người Việt tại Pháp.
Lịch sử.
Vào đầu thế kỷ 20 thời Pháp thuộc, một số người Việt sang đến Pháp dưới dạng sinh viên hay thợ thuyền trong đó giới sinh viên, vì sống xa gia đình, muốn tìm cách liên lạc và tương trợ nhau. Nhân buổi họp ở trường Parangon, Paris, ngày 18 Tháng Giêng năm 1912, họ đề nghị lập hội ái hữu sinh viên An Nam tại Pháp ("Association amicale des etudiants Annamites en France"). Có người cho ý kiến đặt tên cho hội là Ái hữu Sinh viên, Ái hữu Đông Dương, Hội Tương tế ("Société de secours mutuels Indochinoise")...
Phan Văn Trường bấy giờ đang làm phụ giảng ở Trường Ngôn ngữ Đông phương nhận việc soạn nội quy cùng các điều khoản đã chọn tên là Hội Thân ái ("La Fraternité") và gửi đơn lên Bộ thuộc địa của Pháp lấy giấy phép. Bùi Kỷ sinh viên Trường Thuộc địa lãnh chân làm thư ký, Khánh Ký làm thủ quỹ và Phan Văn Trường làm chủ tịch. Phan Châu Trinh cũng tham gia cùng lãnh đạo cộng đồng người Việt ở Pháp.
Hoạt động của Hội tức khắc bị chính quyền Pháp nghi ngờ. Toàn quyền là Albert Sarraut liền báo cho Bộ Thuộc địa để làm áp lực khiến Phan Văn Trường bị thôi việc ở Trường Ngôn ngữ Đông phương.
Mùa xuân năm 1913 khi Việt Nam Quang phục Hội cho nổ bom ở Hà Nội giết hai sĩ quan Pháp, chính quyền Liên bang Đông Dương cho là Hội Thân ái có tay liên lạc với các tổ chức chống Pháp trong nước và gài mầm mống tư tưởng cách mạng trong giới sinh viên nên càng thúc bách tìm cách triệt hạ. Anh của Phan Văn Trường là Phan Tuấn Phong cùng người con trai là Phan Trắc Cư bị mật thám bắt. Phan Trọng Kiên, em Phan Văn Trường, cũng bị kết án và cả ba bị đày sang Tân Đảo.
Cuối năm 1914 thì Phan Văn Trường cùng Phan Châu Trinh bị bắt giam. Hội đồng bào Thân ái sau đó giải tán vì mất lãnh đạo. | 1 | null |
Gian lận séc đề cập đến một loại hành vi phạm tội có liên quan đến việc sử dụng séc trái pháp luật để có được tiền một cách bất hợp pháp hoặc mượn tiền không tồn tại trong phạm vi số dư tài khoản hoặc sở hữu hợp pháp của chủ tài khoản. Hầu hết các phương pháp liên quan đến việc lợi dụng sự "thả nổi" (thời gian giữa các đàm phán về séc và thanh toán bù trừ tại ngân hàng của người viết séc) để rút ra số tiền này. Các loại cụ thể của gian lận séc bao gồm ghi séc khống, khi tiền được ký quỹ trước khi kết thúc giai đoạn thả nổi để trang trải gian lận, và ghi séc trắng, khi việc thả nổi cung cấp cơ hội để viết các séc lừa đảo nhưng tài khoản không bao giờ được bổ sung.
Các kiểu gian lận séc.
Ghi séc quá số dư.
Ghi séc quá số dư đề cập đến việc sử dụng thả nổi để lợi dụng và trì hoãn việc thông báo các khoản tiền không tồn tại.
Biển thủ.
Trong khi một số người ghi séc quá số dư có ý định hoàn toàn chỉ để mang tài khoản của họ vào địa vị tốt, những người khác, thường được gọi là "người ghi séc xấu", có gian lận thuần túy trong tâm trí, cố gắng "lấy tiền và chạy."
Ghi séc xấu.
Một séc được ghi cho một người bán hoặc người nhận khác, hy vọng người nhận sẽ không nghi ngờ rằng séc sẽ không được thanh toán. Người mua sau đó sẽ chiếm lấy tiền mặt, hàng hóa hoặc dịch vụ mua vào với séc, và sẽ hy vọng người nhận sẽ không hành động hoặc hành động một cách vô ích.
Bỏ rơi.
Người viết séc xấu ký quỹ một tờ séc một lần mà anh ta/cô ta biết là xấu hay hư cấu vào tài khoản của mình. Khi ngân hàng xem xét các khoản tiền có sẵn (thường là vào ngày làm việc tiếp theo), nhưng trước khi ngân hàng được thông báo séc là xấu, người viết séc xấu liền rút tiền bằng tiền mặt. Người phạm tội biết tờ séc sẽ bị trả về, và kết quả là tài khoản sẽ bị nợ nần, nhưng người phạm tội sẽ từ bỏ tài khoản và lấy tiền mặt.
Tội phạm như vậy thường được sử dụng bởi bọn tội phạm nhỏ để có được tiền thông qua một biển thủ nhanh chóng, và thường được thực hiện bằng cách sử dụng danh tính giả hoặc bị đánh cắp để che giấu người phạm tội thực sự.
Hình thức gian lận này là cơ sở cho lừa đảo séc Nigeria và các ý đồ tương tự khác; tuy nhiên, trong những trường hợp này, nạn nhân sẽ là người bị cáo buộc phạm tội như thế, và sẽ bị bỏ lại để chứng minh sự ngây thơ của mình.
Giả mạo.
Đôi khi, giả mạo là phương pháp được lựa chọn trong lừa đảo ngân hàng. Một hình thức giả mạo liên quan đến việc sử dụng séc hợp pháp của nạn nhân, đã hoặc hoàn toàn bị đánh cắp và sau đó đổi ra tiền mặt, hoặc thay đổi một séc đã được ghi một cách hợp pháp cho thủ phạm, bằng cách thêm từ và/hoặc chữ số để thổi phồng số tiền.
Các trường hợp khác liên quan đến việc sử dụng séc hoàn toàn giả mạo, như trong trường hợp của Frank Abagnale. Thủ phạm thông qua hoặc cố gắng để thông qua một séc đã được tạo ra bởi anh ta/cô ta, nhưng đại diện cho một tài khoản không tồn tại.
Các trường hợp không bình thường.
Làm biến mất mực đã được sử dụng để thực hiện một dạng hiếm của gian lận. Trong trường hợp này, thủ phạm làm thay đổi hóa học chất để nó biến mất trong vài giờ hoặc vài ngày thay vì vài phút. Cá nhân này sau đó viết một tờ séc cho chính anh ta/cô ta (hoặc một đồng phạm trong ý đồ này) bằng cách sử dụng tài khoản của ngân hàng A cho một số tiền xác định, chẳng hạn, 5100 USD. Trong số tiền này, chữ số 5 được viết với mực biến mất, và phần còn lại của số tiền bằng mực thường. Tờ séc sẽ được lưu ký vào tài khoản của ngân hàng B, nơi mà 5100 USD sẽ được bổ sung, nhưng do thời gian nó được ngân hàng A thanh toán bù trừ, séc sau đó sẽ đọc 100 USD, và chỉ có 100 USD sẽ được ghi nợ từ tài khoản đó.
Tẩy séc liên quan đến hành vi trộm cắp tờ séc trong quá cảnh giữa người ghi và người nhận, tiếp theo là sử dụng hóa chất để loại bỏ mực đại diện cho tất cả các bộ phận không phải là chữ ký. Thủ phạm sau đó điền vào các chỗ trống cho các lợi thế của hắn ta.
Đôi khi sự gian lận séc xuất phát từ một nhân viên của chính ngân hàng, như là trường hợp với Suzette A. Brock, người bị kết tội trộm cắp cho việc viết năm tờ séc công ty cho tên khai sinh của chính cô ta từ bàn làm việc như một đại lý dịch vụ khoản vay cho Banner Bank of Walla, Walla, WA.
"Nghệ sĩ séc xấu" nổi tiếng nhất của thế kỷ 20, Frank Abagnale, nghĩ ra một ý đồ đưa các số MICR không chính xác ở dưới cùng của séc ông ta đã viết, do đó chúng sẽ được chuyển đến Ngân hàng Dự trữ Liên bang không chính xác để thanh toán bù trừ. Điều này cho phép ông ta làm việc lâu hơn trong một khu vực trước khi hoạt động tội phạm của ông bị phát hiện.
Chống gian lận séc.
Trong hầu hết các nước, việc thông qua một séc cho một số tiền mà người viết không biết là trong tài khoản tại thời điểm đàm phán (hoặc có bảo vệ thấu chi) thường được coi là một hành vi vi phạm luật hình sự. Tuy nhiên, việc thực hành chung theo sau bởi các ngân hàng đã được kiềm chế truy tố người viết séc nếu séc đến ngân hàng sau khi có đủ tiền đã lưu ký, do đó cho phép nó để thanh toán. Nhưng chủ tài khoản thường phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả các hình phạt ngân hàng, hình phạt dân sự và truy tố hình sự cho phép bởi pháp luật trong trường hợp séc không thanh toán bù trừ được cho ngân hàng.
Chỉ khi thanh toán bù trừ thành công của tờ séc là do ý đồ ghi quá số dư ngân hàng mới hành động theo cách truyền thống. Các ngân hàng đã luôn luôn có các phương pháp khác nhau để phát hiện ý đồ ghi quá số dư và ngăn không cho chúng hành động. Hệ thống máy tính tại chỗ sẽ cảnh báo các quan chức ngân hàng khi khách hàng tham gia vào các hoạt động đáng ngờ khác nhau, bao gồm ký quỹ thường xuyên các séc mang cùng, tổng số tiền lưu ký hàng tháng lớn kèm theo số dư trung bình hàng ngày gần như bằng không, hoặc lẩn tránh các giao dịch viên bằng cách sử dụng thường xuyên máy ATM đối với tiền gửi.
Công nghệ mới tại đây ngày nay có thể làm cho hầu hết các hình thức ghi séc quá số dư và ghi séc xấu là một điều của quá khứ. Như phần mềm mới nhanh chóng bắt hoạt động bất hợp pháp tại cấp nhân viên giao dịch/chi nhánh thay vì chờ đợi chạy hàng đêm cho văn phòng phía sau, các ý đồ không chỉ dễ bị phát hiện hơn, mà còn có thể được ngăn ngừa bởi giao dịch viên từ chối giao dịch bất hợp pháp của khách hàng thậm chí trước khi họ bắt đầu.
Một phần của cách các ngân hàng chống gian lận séc là cung cấp cho các khách hàng của họ dịch vụ bảo vệ gian lận. Bởi vì các ngân hàng không thể biết tất cả các séc mà một khách hàng viết và chúng có thể gian lận hay không, quyền sở hữu này là thuộc về khách hàng để cho ngân hàng biết về các séc họ viết những gì. Các hệ thống này cho phép khách hàng tải lên tập séc của họ cho ngân hàng bao gồm số lượng séc, số tiền, và trong một số trường hợp, tên người thụ hưởng. Bây giờ, khi một séc được trình bày để thanh toán, ngân hàng thanh lọc nó đối với thông tin trên hồ sơ. Nếu một trong các biến không phù hợp, thì séc sẽ được gắn cờ như là một mục có khả năng gian lận.
Những dịch vụ này giúp với gian lận bên ngoài nhưng chúng không giúp đỡ được gì nếu có gian lận nội bộ. Nếu một nhân viên gửi thông tin cho ngân hàng với các mục gian lận, thì ngân hàng sẽ có thể không biết để từ chối thanh toán. Một hệ thống kiểm soát kép nên được đặt vào vị trí để không phân bổ tất cả các khả năng cho một người.
Trước khi thông qua "Thanh toán bù trừ séc đối với Đạo luật Thế kỷ 21", khi các séc có thể mất 3 ngày trở lên để thanh toán bù trừ, "chơi thả nổi" là thực tế khá phổ biến ở Mỹ trong các cá nhân trung thực-theo-một-cách-khác, những người gặp phải trường hợp khẩn cấp ngay trước ngày trả tiền.
Các hành vi gian lận lòng vòng và bỏ rơi đang dần được loại bỏ do các séc sẽ được thanh toán bù trừ trong Ngân hàng B trong cùng một ngày chúng được lưu ký vào Ngân hàng A, bằng cách không cho thời gian trễ đối với các khoản tiền không tồn tại trở thành có sẵn để rút. Với công nghệ chia sẻ-hình ảnh, các khoản tiền mà tạm thời trở nên có sẵn trong tài khoản của Ngân hàng A được xóa sổ trong cùng một ngày.
Trong khi có thể vẫn còn một số chỗ cho việc ghi séc quá số dư, các biện pháp an ninh đã được thực hiện bởi các chuỗi bán lẻ đang giúp giảm các sự cố như vậy. Ngày càng có nhiều chuỗi hơn hạn chế lượng tiền mặt nhận lại, số lần tiền mặt trở lại có thể sẽ được cung cấp trong một tuần hoặc một thời gian nhất định, và có được các số dư tài khoản giao dịch trước khi cung cấp tiền mặt trở lại, do đó phủ nhận nó đối với những chuỗi có số dư thấp. Ví dụ: chính sách của Wal-Mart là xác định số dư tài khoản của những người nhận tiền mặt trở lại, và một số địa điểm Safeway sẽ không cung cấp tiền mặt trở lại trên bất kỳ tài khoản nào có số dư dưới 250 USD, thậm chí cả khi các quỹ này đủ để trang trải số tiền trên tờ séc. Các khách hàng đã được ghi nhận để có được tiền mặt trở lại cũng bị công ty thường xuyên điều tra để quan sát hình mẫu.
Một số doanh nghiệp cũng sẽ sử dụng kiểm tra chặt chẽ như một thiết bị thông tin cho các số tiền ghi nợ tự động từ tài khoản, và sẽ trả lại mục này cho khách hàng sau đó. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ điều này được thực hiện thông qua các Nhà thanh toán bù trừ tự động (ACH); do nhanh hơn so với thanh toán bù trừ séc truyền thống, trái với niềm tin phổ biến rằng ACH là không tức thời. Mặc dù thực hành này làm giảm chỗ cho việc ghi séc quá số dư (bằng cách giảm thả nổi), nó không luôn luôn loại bỏ nó. | 1 | null |
Các hòn đảo nằm gần Nam Cực của New Zealand bao gồm 5 nhóm đảo và quần đảo của New Zealand. Các địa danh này được chỉ định chung là 1 Di sản thế giới. Hầu hết các hòn đảo nằm gần rìa phía đông nam của lục địa ngầm dưới đáy biển của tiểu New Zealand được gọi là Zealandia, được chia tách ra khỏi Úc từ khoảng 60-85 triệu năm trước và chia tách khỏi Nam Cực từ giữa 85-130 triệu năm trước.
Đến năm 1995, các nhân viên nghiên cứu khoa học đã được đóng trại vĩnh viễn tại 1 trạm khí tượng trên đảo Campbell. Kể từ đó, những hòn đảo đã trở lên có bóng dáng của con người tới viếng thăm, mặc dù họ chỉ được tới định kỳ để thăm các nhà nghiên cứu và số ít khách du lịch. Các hòn đảo bao gồm:
Các nhóm đảo này cùng với đảo Macquarie của Úc nằm về phía tây đều có chung một số tính năng và đặc điểm hệ sinh thái, địa chất.
New Zealand cũng có yêu sách về lãnh thổ tại châu Nam Cực theo Hệ thống Hiệp ước Vùng Nam Cực. Một số hòn đảo gần châu Nam Cực, bao gồm:
Trong số này, đảo Ross là nơi sinh sống của các cán bộ khoa học của một số trạm nghiên cứu, đặc biệt là tại McMurdo Sound và Scott Base. | 1 | null |
Sebastes borealis là một loài cá sinh sống ngoài khơi từ phía đông nam bán đảo Kamchatka, Nga, đến Fort Bragg, California. Nó đạt độ dài lớn hơn một mét (> 39 inch) và nặng tới 20 kg (44 pound). Trong Vịnh Alaska, shortraker rockfish được lấy mẫu hàng năm trong các cuộc điều tra câu vàng và phong phú nhất giữa độ sâu 300-400 mét (980-1,300 ft).
Trong năm 2007 ngư dân bắt được một mẫu vật đã được ước tính vào khoảng 90 đến 115 tuổi. Nó đã bị bắt ở phía nam của quần đảo Pribilof ở độ sâu khoảng 2.100 feet (640 m).
Vào năm 2013 Henry Liebman Seattle bắt một mẫu vật từ 900 foot dưới bề mặt và mười dặm ngoài khơi gần Sitka, Alaska. Với cân nặng 39,08 pound, các chuyên gia tin rằng đây là con cá thuộc loài này lớn nhất từng bị bắt, có độ tuổi khoảng 200 năm. Mẫu cá đã được gửi đến một phòng thí nghiệm tại Juneau cho một quyết định chính thức. | 1 | null |
Black & White 2 là trò chơi điện tử thể loại nhập vai thần thánh và chiến lược thời gian thật do hàng Lionhead Studios phát triển, Electronic Arts và Feral Interactive phát hành cho hệ máy tính cá nhân. Trò chơi phát hành năm 2005 như bản nối tiếp của trò Black & White, với các thể loại giả lập cuộc sống, chiến lược, và đối kháng lồng trong nó.
Người chơi sẽ vào vai một vị thần điều khiển các dân làng xung quanh hòn đảo nơi mà vị thần được tôn thờ. Mục đích của trò chơi là người chơi phải khiến dân ở các làng khác quay sang tôn thờ mình và trở thành vị thần mạnh nhất. Người chơi có thể thực hiện điều đó bằng cách làm cho ngôi làng mà mình đang được tôn thờ trở thành một thành phố tráng lệ, ấn tượng, nguy nga, no ấm và hạnh phúc khiến cho người dân ở các làng khác muốn dọn đến ở thay vì ở ngôi làng tồi tàn cũ hay có thể tạo lập một quân đội hùng mạnh buộc các ngôi làng khác phải khuất phục thông qua chiến tranh. Vị thần còn có một linh thú mà người chơi có thể nuôi và dạy dỗ để nó làm thay công việc cho mình cũng như nếu có chiến tranh thì các linh thú sẽ tiên phong trong việc tấn công hay bảo vệ các ngôi làng trước quân đội và các linh thú của vị thần khác. Ngoài ra cư dân thành phố còn có thể xây dựng các kỳ quan vĩ đại vừa tăng sự hoành tráng của thành phố vừa cho vị thần các quyền lực vô biên mà trước đó không có.
Trò chơi nhận được nhiều đánh giá tích cực nhưng chưa có kế hoạch cho việc phát triển phiên bản nối tiếp ngoài phiên bản mở rộng đã phát hành vào ngày 24 tháng 4 năm 2006. | 1 | null |
Kỹ thuật bán hàng là sự kết hợp giữa bán hàng và kỹ thuật tồn tại trong thị trường công nghiệp và thương mại. Quyết định mua tại các thị trường này được thực hiện khác với quyết định trong nhiều bối cảnh của người tiêu dùng, dựa trên nhiều thông tin kỹ thuật và phân tích hợp lý và ít hơn về phong cách, thời trang hoặc sự mua tuỳ hứng. Do đó, việc bán hàng ở những thị trường này không thể chỉ phụ thuộc vào phương thức bán hàng kiểu người tiêu dùng, và thay vào đó, nó phụ thuộc rất nhiều vào thông tin kỹ thuật và giải quyết vấn đề để thuyết phục người mua rằng họ nên chi tiền cho sản phẩm hoặc dịch vụ của người bán, để đáp ứng nhu cầu kinh doanh (đó là, để đáp ứng một trường hợp kinh doanh). Do đó, một kỹ sư bán hàng vừa là "một nhân viên bán hàng hiểu và có thể áp dụng kỹ thuật" và "một kỹ sư hiểu cách bán các hệ thống được thiết kế". Do đó, họ không chỉ bán mà còn cung cấp tư vấn và hỗ trợ. Họ cung cấp dịch vụ này cho nhiều khách hàng nội bộ hoặc bên ngoài khác nhau và họ có thể làm việc cho một nhà sản xuất (phục vụ khách hàng tài khoản công nghiệp / Doanh nghiệp với Doanh nghiệp), cho một nhà phân phối (từ đó phục vụ tài khoản công nghiệp / doanh nghiệp đến khách hàng doanh nghiệp) hoặc cho bên thứ ba như tư vấn kỹ thuật hoặc nhà tích hợp hệ thống.
Kỹ sư bán hàng là một thành viên nhóm bán hàng quan trọng trong nhiều công ty và ngành công nghiệp trên thế giới. Họ không chỉ là chuyên gia kỹ thuật trong các ngành công nghiệp tương ứng. Các kỹ sư bán hàng thành công cao phải xây dựng và duy trì chuyên môn song song trong các "kỹ năng mềm" như sự nhạy bén trong kinh doanh, kỹ năng thuyết trình, xây dựng mối quan hệ khách hàng, phát triển chiến lược gắn kết và hiểu biết sâu sắc về ngành mục tiêu. Nhiều công ty gặp khó khăn trong việc tìm kiếm những người sở hữu những phẩm chất này, cộng với có kiến thức kỹ thuật sâu rộng.
Bản chất của vai trò kỹ thuật bán hàng có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Tên nào thích hợp nhất thậm chí có thể phụ thuộc vào ngành được sử dụng trong ngành nào. Một số chức danh công việc phổ biến liên quan đến bản chất của kỹ thuật bán hàng bao gồm kỹ sư bán hàng, kỹ sư giải pháp, kiến trúc sư giải pháp, kỹ sư hệ thống, kỹ sư khách hàng, tư vấn trước bán hàng, quản lý tài khoản kỹ thuật, kỹ sư ứng dụng hoặc kỹ sư ứng dụng hiện trường. Thuật ngữ Kỹ thuật hệ thống có nhiều sắc thái ý nghĩa, tuy nhiên, vì nó thường ít nhiều đồng nghĩa với kỹ thuật công nghiệp; nhưng trong bất kỳ nền kinh tế thị trường nào, các kỹ sư công nghiệp thường sẽ cung cấp một số kỹ thuật bán hàng như một phần cần thiết trong công việc của họ. Kỹ thuật viên dịch vụ trong các lĩnh vực công nghiệp cũng có thể thấy rằng công việc của họ thách thức họ cung cấp một số kỹ thuật bán hàng, ở bất kỳ mức độ nào họ có thể cung cấp, bởi vì họ giao tiếp với khách hàng gặp sự cố với thiết bị (hoặc thiếu thiết bị phù hợp) và tìm kiếm giải pháp (ở bất cứ đâu từ chẩn đoán và sửa chữa, để xác định các hệ thống hoàn toàn khác nhau có thể được sử dụng thay thế).
Chức năng bên ngoài.
Bán hàng và tư vấn.
Mục đích của công việc là giúp khách hàng tiềm năng hiểu, so sánh và đối chiếu các giải pháp có sẵn để mua (vai trò trước khi bán hàng); để khắc phục sự cố với việc triển khai của họ, đó là, để giúp đảm bảo rằng các giải pháp hoạt động thành công sau khi quyết định mua được đưa ra (vai trò sau bán hàng); và để tối đa hóa doanh số cho người sử dụng công cụ bán hàng bằng cách cung cấp trợ giúp như vậy cho khách hàng (khía cạnh của công việc đặt "doanh số" trong chức danh kỹ sư bán hàng).
Quản lý xung đột lợi ích và thể hiện lợi tức đầu tư.
Trên thị trường, bằng cả kỹ sư bán hàng và khách hàng công nghiệp thận trọng của mình, rằng phần bán hàng của vai trò kỹ thuật bán hàng vốn liên quan đến xung đột lợi ích (COI), bởi vì luôn có khả năng các giải pháp và khắc phục sự cố lý tưởng có thể liên quan đến việc giới thiệu các sản phẩm hoặc dịch vụ của đối thủ cạnh tranh, nhưng kỹ sư bán hàng chịu áp lực không điều khiển khách hàng theo hướng đó, và ngược lại, tìm lý do để hướng họ đến các sản phẩm của người thuê mình. Do đó, khách hàng cân nhắc lời khuyên của các kỹ sư bán hàng với khuynh hướng người mua chịu trách nhiệm về hàng đã nhận. Tuy nhiên, các kỹ sư bán hàng thường cung cấp giá trị thực cho khách hàng, đó là lý do tại sao vai trò này có thể tồn tại mặc dù khách hàng. Động lực duy nhất của khách hàng để tham gia vào cuộc gặp gỡ là đạt được lợi tức đầu tư (ROI) bằng cách này hay cách khác. Để đạt được điều đó, kỹ thuật bán hàng ngày càng phụ thuộc vào bất kỳ công nghệ thông tin nào có thể giúp định lượng ROI ngay cả từ lần gặp đầu tiên. Điều này được tóm tắt trong câu cách ngôn rằng "vào cuối ngày, khách hàng chỉ muốn biết chắc chắn rằng họ sẽ kiếm được đô la A trong những năm B tiếp theo (thông qua chi phí giảm hoặc tăng doanh thu) nếu họ trả trước C đô la cho sản phẩm D. "
Phát triển ứng dụng.
Một chức năng khác của kỹ sư bán hàng là giới thiệu công nghệ sửa đổi, cải tiến và/hoặc tiên tiến cho những người dùng tiềm năng có thể có ứng dụng nhưng chưa có kiến thức về vật liệu hoặc kỹ thuật được đề cập. Kỹ sư bán hàng có thể tiến hành các buổi đào tạo hoặc trình diễn để thực hiện điều này. Nhiệm vụ tìm kiếm các ngành công nghiệp, công ty hoặc mô hình kinh doanh chưa sử dụng một sản phẩm nhất định (ví dụ: hệ thống CAx hoặc hệ thống CRM) và khiến họ áp dụng cách tiếp cận mới bằng cách sử dụng sản phẩm đó là "ứng dụng" trong "kỹ thuật ứng dụng" hoặc "phát triển ứng dụng" (không bị nhầm lẫn với ý nghĩa thông thường khác của thuật ngữ đó, trong đó đề cập đến phát triển phần mềm và lập trình). Nhiệm vụ là tìm kiếm và phát triển các ứng dụng mới cho sản phẩm, nhằm tăng doanh số. Động lực duy nhất của khách hàng để áp dụng nó là "những gì nó có thể làm cho tôi", chẳng hạn như chi phí đầu ra tương tự, chi phí thấp hơn, chi phí đầu ra giống nhau, v.v. phát triển ứng dụng.
Kết quả này cũng có ý nghĩa kinh tế rộng hơn, vì nó là một cơ chế giúp tăng hiệu quả kinh tế, tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Các nhà phát minh và người R&D tạo ra các công cụ và quy trình mới; nhưng họ không phổ biến vào thế giới kinh doanh (để làm bất kỳ lợi ích kinh tế nào) mà không có một số lượng phát triển ứng dụng, giảng dạy (từ việc đưa ra những người ra quyết định thông qua các triển lãm thương mại đến đào tạo cho người lao động) và bán hàng.
Dạy khách hàng.
Nhiều sản phẩm và dịch vụ được mua bởi các công ty lớn và các tổ chức rất phức tạp. Ví dụ bao gồm máy bay, hệ thống vũ khí và hệ thống Công nghệ thông tin (như viễn thông hoặc cơ sở dữ liệu và các ứng dụng phụ thuộc của chúng cho các mục đích như hậu cần hoặc quản lý quan hệ khách hàng). Các kỹ sư bán hàng tư vấn cho khách hàng về cách tốt nhất để sử dụng các sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấp.
Quá trình bán hàng cũng có thể yêu cầu một số bằng chứng kỹ thuật về khái niệm hoặc bản demo công nghệ để được đảm bảo về tính thực tiễn của giải pháp. Kỹ sư bán hàng thông thường sẽ đảm bảo những nỗ lực này thành công.
Chức năng bên trong.
Các kỹ sư bán hàng cũng hợp tác với các bộ phận thiết kế, sản xuất, kỹ thuật hoặc R & D của các công ty của họ để xác định cách thức sản phẩm và dịch vụ có thể được thực hiện hoặc sửa đổi cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Khía cạnh này của kỹ thuật bán hàng rất quan trọng, bởi vì đó là điều cho phép kỹ sư bán hàng cảm thấy rằng họ có thể duy trì tính chính trực cá nhân (nói về mặt đạo đức) khi đối mặt với COI vốn có của công việc (đã giải thích trước đó). Kỹ sư bán hàng không phải nói dối (bỏ qua hoặc phủ nhận sai lệch về sản phẩm hoặc dịch vụ của đối thủ cạnh tranh) nếu họ có thể nói với khách hàng một cách hợp lý rằng chủ nhân của họ có thể điều chỉnh các giải pháp của mình theo yêu cầu cụ thể của khách hàng. Làm điều đó có thể không dễ dàng hoặc rẻ tiền, điều đó có nghĩa là luôn luôn có một đường để đi để tránh cung cấp quá mức - và/hoặc dưới mức.
Cân nhắc nhân sự.
Tài năng, kỹ năng, kiến thức.
Các công ty sử dụng các kỹ sư bán hàng cần bán sản phẩm hoặc dịch vụ của họ để tạo thu nhập, nhưng vì các kỹ sư và nhà khoa học thường có những đặc điểm tính cách khác biệt so với những người cần thiết cho công việc bán hàng, có một vai trò cho những người có khả năng kết hợp. Những cá nhân này phải có hiểu biết kỹ thuật về sự phức tạp của những gì công ty họ cung cấp cùng với các kỹ năng bán hàng. Sự kết hợp các đặc điểm này không phổ biến.
Du lịch, giao tiếp, gặp mặt từ xa, bồi thường.
Các kỹ sư bán hàng có thể dành 20% đến 70% thời gian để đi du lịch và họ có thể làm việc theo lịch trình linh hoạt do nhu cầu của tổ chức bán hàng mà họ hỗ trợ. Hầu hết các kỹ sư bán hàng làm việc từ xa hoặc dành một khoảng thời gian giới hạn trong văn phòng. Các kỹ năng với CNTT giúp người ở xa giao tiếp tốt hơn, chẳng hạn như hội nghị từ xa, hội nghị truyền hình, hội nghị web và từ xa (ví dụ: GoToMeeting, WebEx, Live Meeting, Fuze Meeting) được sử dụng tốt cả trên và ngoài đường.
Các kỹ sư bán hàng, giống như các đối tác đại diện bán hàng của họ, được thuê dựa trên vị trí địa lý của họ thay vì gần với văn phòng của công ty hoặc thậm chí khu vực. Làm việc ở một phần khác của đất nước, hoặc thậm chí ở ngoài nước, nơi có văn phòng công ty, một kỹ sư bán hàng chỉ có thể đến trụ sở công ty một hoặc hai lần mỗi năm.
Một điểm khác biệt chính giữa các kỹ sư bán hàng và các vai trò khác trong tổ chức là một kỹ sư bán hàng thường được đền bù bằng tiền lương cộng với hoa hồng, vì hầu hết các đại diện bán hàng đều như vậy. Hoa hồng này thường được thanh toán khi đại diện bán hàng được thanh toán. Ít phổ biến hơn là trường hợp một kỹ sư bán hàng được bồi thường với mức lương cơ bản cộng với tiền thưởng. Phần thưởng có thể dựa trên doanh thu được tạo trong một lãnh thổ được chỉ định, được thiết lập dưới dạng phần thưởng Quản lý theo mục tiêu (MBO) hoặc kết hợp cả hai. Trong cả hai trường hợp, một kỹ sư bán hàng sẽ tạo ra mức lương cơ bản cao hơn so với các đối tác đại diện bán hàng của họ và nhiều hơn đáng kể so với các kỹ sư truyền thống trong một tổ chức.
Tài nguyên kỹ thuật bán hàng.
Kỹ thuật bán hàng khác với vai trò bán hàng truyền thống. Các hệ thống và công nghệ mà một kỹ sư bán hàng bán thường phức tạp và đắt tiền. Chiến lược bán hàng truyền thống bao gồm các kỹ thuật chốt, thường không hoạt động và thậm chí có thể làm tổn thương việc bán hàng. Khi công nghệ tiến bộ, chiến lược bán hàng của một kỹ sư bán hàng cũng phải như vậy. | 1 | null |
Trong y học, nocebo (từ tiếng Latinh có nghĩa "Tôi sẽ gây hại") là một chất vô hại nhưng có thể tạo ra tác dụng có hại cho bệnh nhân dùng nó. "Hiệu ứng nocebo" là phản ứng tiêu cực mà bệnh nhân trải qua khi nhận được nocebo. Ngược lại, một placebo là một chất trơ không có tác dụng gì nhưng nó lại có thể tạo ra các phản ứng tích cực cho người dùng nó.
Cả hiệu ứng nocebo và placebo hoàn toàn mang tính tâm lý, chứ không phải được gây ra bởi một hợp chất hay hoạt tính sinh học trong bản thân cái nocebo hoặc placebo, những phản ứng này là kết quả của sự mong đợi của người bệnh về loại thuốc và phương pháp điều trị sẽ tác dụng lên họ. Mặc dù nó có nguồn gốc hoàn toàn từ các nguồn tâm lý, tác động nocebo cũng có thể đến từ cả tâm lý và sinh lý. | 1 | null |
Hasso Plattner (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1944 tại Berlin, Đức) là một doanh nhân, và tỷ phú Đức. Ông là người đồng sáng lập ra hãng phần mềm SAP AG và là chủ tịch hội đồng quản trị hãng này từ tháng 5 năm 2003.
Tiểu sử.
Hasso Plattner lớn lên tại quận Berlin-Grunewald và thành phố Konstanz. Cha ông Horst Plattner (1919–2001) là một nha sĩ, tới từ Hermannstadt ở vùng Siebenbürgen, thuộc nước România. Sau khi lấy bằng tú tài vào năm 1963, Plattner học tại đại học Karlsruhe ngành kỹ thuật thông tin (Telecommunications engineering).
Thú giải trí của ông là chơi thuyền buồm trên biển và Golf. Ông là chủ nhân của sân golf Fancourt Golf Estate, gần George, thuộc nước Nam Phi. Plattner thỉng thoảng hay được nhắc tới trên báo chí cùng với người sáng lập ra hãng phần mềm Oracle, Larry Ellison. Cả hai đều có đội đua thuyền buồm trên biển.
Công nhận.
Về những đóng góp cho nền kinh tế và khoa học, Plattner đã nhận được nhiều bằng danh dự. Tạp chí "manager magazin" của Đức vào năm 1998 đã trao ông giải thưởng "IT Leadership Award for Global Integration". Năm 2001, Tạp chí "Time Magazine Europe" xếp ông Plattner vào hàng đầu trong danh sách những người quan trọng nhất và có thế lực nhất trong ngành IT.
Vào năm 2012, Forbes ước lượng tài sản của Plattner trị giá khoảng US$8,9 tỷ, và như vậy là người giàu thứ 8 tại nước Đức.
Nhà bảo trợ khoa học.
Từ khi rút ra khỏi những công việc hàng ngày tại SAP, Plattner tham dự vào những việc làm có tính cách đỡ đầu. Ông được cho là " một trong những người bảo trợ khoa học tư nhân đáng kể nhất tại Đức ". Về doanh nghiệp ông lập ra một quỹ tài chánh với một số tiền là 25 triệu Euro và một trung tâm lập nghiệp "Hasso Plattner Ventures" vào năm 2005 tại Potsdam. Những người muốn lập nghiệp với những cơ sở riêng có thể làm đơn để xin hùn vốn từ 50.000 cho tới 100.000 Euro.
Năm 1998 Plattner sáng lập viện Hasso-Plattner về kỹ thuật hệ thống phần mềm () tại đại học Potsdam. Viện này chỉ được trợ giúp từ quỹ Hasso-Plattner-Stiftung für Softwaresystemtechnik. Plattner đã cam kết, sẽ cung cấp cho quỹ này hơn 50 triệu Euro trong vòng 20 năm từ tiền tư của mình. Hiện tại sự giúp đỡ về tài chánh của Plattner cho HPI đã hơn gấp 4 lần đã hứa, tức là hơn 200 triệu Euro. Plattner không những chỉ một mình tài trợ cho HPI, mà còn làm việc tại đó với chức vụ là trưởng ban môn "Phần mềm cho các tổ chức lớn và các phương cách phối hợp" („Enterprise Platform and Integration Concepts") về dạy học và nghiên cứu.
Đời sống tư nhân.
Platter có gia đình và 2 người con, hiện đang sống ở Schriesheim-Altenbach gần Heidelberg, Đức. | 1 | null |
Nhạc hòa tấu (hay còn gọi là khí nhạc hay nhạc không lời) là một thể loại âm nhạc được tạo nên bởi các nhạc cụ mà không có giọng hát của ca sĩ. Nhạc không lời là khái niệm đối lập của thanh nhạc.
Khái niệm.
Trong sự định nghĩa về nhạc không lời thường xuyên xuất hiện câu hỏi liệu các nhạc cụ có thể diễn đạt được điều gì không, và nếu có thì nó có giống như giọng hát của con người hay không. Nhiệm vụ ban đầu của các nhạc cụ mà không phụ thuộc vào giọng hát bao gồm các âm thanh với mục đích là tín hiệu báo hiệu thời gian, tín hiệu trong quân đội, trong giao thông cũng như tín hiệu dẫn dắt các điệu nhảy và duyệt binh. | 1 | null |
Người Amish ( ; Tiếng Đức Pennsylvania: Amisch, tiếng Đức: Amische) là một nhóm các tín hữu Kitô giáo duy truyền thống, có liên hệ gần gũi nhưng khác biệt với các giáo hội Mennonite, mà cả hai nhóm đều chia sẻ chung nguồn gốc Anabaptist từ Thụy Sĩ. Người Amish được biết đến với cuộc sống đơn giản, trang phục giản dị, và vẫn duy trì chế độ tự cung tự cấp, ít phụ thuộc vào công nghệ hiện đại. Lịch sử của người Amish bắt đầu với một cuộc ly giáo trong một cộng đồng Anabaptist ở Thụy Sĩ và Alsace vào năm 1693 do Jakob Ammann dẫn dắt. Những người theo Ammann được gọi là người Amish. | 1 | null |
Nguyễn Từ Hưng (sinh ngày 16 tháng 8 năm 1957) thường được biết đến với nghệ danh Nguyễn Hưng là một ca sĩ, vũ công người Canada gốc Việt.
Cuộc đời.
Nguyễn Hưng có mẹ là người Hà Nội, nhưng lại sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn. Anh là con trai út của vũ sư Vũ Ánh Tuyết.
Năm 1974, Nguyễn Hưng đoạt giải Kim Khánh môn khiêu vũ Cha-cha-cha do nhật báo "Trắng Đen" tổ chức tại Sài Gòn. Ngoài ra, anh còn chơi trống trong ban nhạc trẻ The Radiation chuyên trình diễn trong các club Mỹ tại Sài Gòn trong hơn 2 năm.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, anh tham gia các đoàn xiếc Độc Lập, Bông Sen và được giáo sư Duy Tân dạy thanh nhạc. Năm 1982, anh mở lớp khiêu vũ riêng.
Năm 1992, Nguyễn Hưng được vợ bảo lãnh sang định cư tại Toronto, Canada.
Năm 1994, sau khi hát giúp vui cho một buổi tiệc ra mắt CD mới của ca sĩ Phi Phi ở Diamond Club, miền Nam California, Hoa Kỳ, anh được Tô Ngọc Thủy (giám đốc Trung tâm Thúy Nga) mời thử giọng qua sự giới thiệu của danh ca Phương Hồng Quế (trước đó Nguyễn Hưng cũng có đôi lần xuất hiện trong một số chương trình của Trung tâm Làng Văn nhưng không quá nổi bật). Anh xuất hiện lần đầu trong cuốn "Paris By Night 26" quay tại Paris với bài hát "Đêm Nguyện Cầu" (Lê Minh Bằng). Và tên tuổi của Nguyễn Hưng thực sự được chú ý khi trình bày nhạc phẩm "Lầm" (Lam Phương) trong cuốn Paris By Night 28 (3 cuốn Paris By Night 26, 27 và 28 được thực hiện tại cùng một địa điểm và khoảng thời gian). Sau đó anh bắt đầu nổi tiếng với hàng loạt video hát và nhảy với Nguyễn Cao Kỳ Duyên như "Người xa người" (Trần Thiện Thanh), "Tình cho không" ("L'amour c'est pour rien", nhạc Enrico Macias, lời Việt Phạm Duy)... Cho đến tận nay, anh vẫn đều đặn tham gia các chương trình "Paris by Night".
Anh được xem là một trong những ca sĩ trình bày thành công nhất những nhạc phẩm của các nhạc sĩ Lam Phương, Nhật Ngân, Lê Hựu Hà trong gian đoạn sau năm 1975.
Năm 2005, Trung tâm Thúy Nga đã phát hành riêng cho Nguyễn Hưng một cuốn DVD thu hình mang tên "Nguyễn Hưng - Dạ vũ Quốc tế".
Từ năm 2012, Nguyễn Hưng thường xuyên về nước trình diễn và tham gia các chương trình truyền hình với vai trò Khách mời cũng như Giám khảo.
Gia đình.
Dù có vẻ như là người hay vui đùa trên sân khấu, Nguyễn Hưng được xem là một người ít nói và rất nặng tình cảm gia đình, đặc biệt là với mẹ - vũ sư Ánh Tuyết. Chúng ta có thể thấy trong hầu hết các buổi phỏng vấn, anh đều dành lời cảm ơn cho mẹ trước tiên. Và trong hầu hết các live show trong nước, Nguyễn Hưng luôn làm với mong muốn là mẹ mình có thể xem mình trình diễn. Và Nguyễn Hưng cũng chịu ảnh hưởng lớn từ bà trong tư tưởng làm nghệ thuật.
Được coi là nghệ sĩ đào hoa khi rất hay trình diễn chung với các nữ ca sĩ, nhưng ngoài đời Nguyễn Hưng lại rất chung thủy với vợ. Hai người có chung với nhau ba người con: 2 trai 1 gái. Vợ anh xuất thân cũng là vũ công, từ thập niên 1990 mở một tiệm ăn mang tên "Nguyễn Hưng" ở Toronto, Canada.
Trình diễn trong Chương trình thu hình.
Trung tâm Thúy Nga.
Chương trình Paris By Night.
Riêng hai chương trình "Paris By Night 93 (Celebrity Dancing)" và "Paris By Night 97 (Celebrity Dancing 2)", Nguyễn Hưng xuất hiện trong vai trò Giám khảo cùng với Khánh Ly, Đức Huy và Shanda Sawyer.
Liveshow "Sol Vàng - Thời Gian" (2015) - Chương trình được chiếu trên kênh VTV9.
Khách mời: Tóc Tiên, Hoàng Mỹ An, Đông Nhi
Phong cách trình diễn.
Có thể nói Nguyễn Hưng bén duyên với nghiệp ca hát và nổi tiếng với vai trò ca sĩ khá muộn so với các đồng nghiệp khác (khá giống với trường hợp của nữ ca sĩ Ý Lan), dù trước đây anh đã từng cộng tác với một số trung tâm như Làng Văn nhưng tên tuổi của Nguyễn Hưng chỉ thực sự nổi bật khi trở thành ca sĩ của Trung tâm Thúy Nga bởi phong cách trình diễn cuốn hút. Vốn nổi danh là một vũ sư trước khi trở thành ca sĩ nên khả năng vũ đạo của Nguyễn Hưng được đánh giá là vô cùng điêu luyện và uyển chuyển, anh được coi là nghệ sĩ Việt Nam đi tiên phong trong việc kết hợp giữa ca hát và vũ đạo (cụ thể ở đây là khiêu vũ), điều khiến anh trở thành một hiện tượng của nền âm nhạc Hải ngoại tại thời điểm đó. Ngoài ra, anh còn có khả năng diễn xuất rất tốt trên sân khấu khi liên tục có những màn hóa thân đa dạng như anh công nhân trong "Con gái bây giờ", cao bồi trong "Sa mạc tuổi trẻ", chiến binh Mông Cổ trong "Dặm đường gió bụi..." khi tích cực tập quay súng và múa kiếm cho các tiết mục trên. Anh đặc biệt được khán giả yêu mến khi nhảy Cha-cha-cha và Tango (trên sân khấu) cùng những bước nhảy solo (khi đi show) của mình.
Anh cũng là nghệ sĩ có nhiều tiết mục solo mở màn nhất trên sân sấu Paris By Night (6 tiết mục)
Cho đến thời điểm hiện tại, bên cạnh nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn hay Nguyễn Cao Kỳ Duyên, thì Nguyễn Hưng là nghệ sĩ có ảnh hưởng và đóng góp bên bỉ bậc nhất của Trung tâm Thúy Nga.
Năm 2000, Thúy Nga đã thực hiện chương trình Paris By Night 54: In Concert với tâm điểm là 3 nam ca sĩ Thế Sơn, Nguyễn Hưng và Don Hồ - số lượng tiết mục của Nguyễn Hưng trong chương trình này có phần ít hơn so với 2 nam ca sĩ còn lại do Nguyễn Hưng định cư ở Toronto trong khi Thế Sơn và Don Hồ lại sống tại California nên gặp nhiều khó khăn để tập dượt cùng nhau.
Những bạn diễn ăn ý nhất của anh có thể kể đến bao gồm: Kỳ Duyên, Lưu Bích, Thùy Vân, Hồ Lệ Thu, Ngọc Anh, Hoàng Mỹ An...
Nhận xét.
"Don Hồ hát bằng đôi tay, Nguyễn Hưng hát bằng đôi chân, còn Thế Sơn hát bằng đôi mắt" - Nguyễn Ngọc Ngạn
"Tôi rất vui vì đã được gặp Nguyễn Hưng ở ngoài đời. Tôi nghe anh nhiều trên băng đĩa nhưng hôm nay mới người nhìn bên ngoài. Tôi còn nhớ, có lần tôi du lịch sang Mỹ người ta nói với tôi Nguyễn Hưng sẽ hát một bài của tôi.
Nghe vậy, tôi nói luôn, bài hát đưa cho Nguyễn Hưng phải một là sôi động, hai là sâu sắc. Tôi lập tức sáng tác luôn cho Nguyễn Hưng bài Trái tim đàn bà, nhưng vẫn không gặp được cậu ấy bên đó. Bài này nếu không phải Nguyễn Hưng hát thì không hay.
Bài hát nói về đàn bà làm trái tim đàn ông ê chề nhưng thực ra chưa người đàn bà nào làm Nguyễn Hưng ê chề được.
Nguyễn Hưng là ký ức của tôi, nằm sâu trong tim tôi. Tôi rất mong được gặp Nguyễn Hưng nhưng mấy chục năm qua, đến giờ mới được gặp lần đầu tiên" - Đài Phương Trang
Chương trình đã tham gia.
2012: Thử Thách Cùng Bước Nhảy (Đêm GALA) - Khách mời
2015: Tuyệt Đỉnh Tranh Tài - Giám khảo
2015: Gương Mặt Thân Quen Mùa 3 (Tập 9) - Khách mời
2016: Hãy Nghe Tôi Hát (Mùa 1, Tập 7) - Giám khảo Khách mời
2016: Biệt Đội Tài Năng - Đội trưởng đội H5
2018: Hãy Nghe Tôi Hát (Mùa 3, Tập 10) - Giám khảo Khách mời
2019: Hãy Nghe Tôi Hát (Mùa 4, Tập 9) - Giám khảo Khách mời
2019: Ký Ức Vui Vẻ (Mùa 2, Tập 14) - Khách mời
2020: Ca Sĩ Bí Ẩn (Mùa 4) - Đội nhà
2022: Quý ông đại chiến - Giám khảo
Thông tin khác.
Nguyễn Hưng thường hay có một chút nhầm lẫn về tác giả của ca khúc "Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang" - Đây vốn là ca khúc được sáng tác bởi Ngọc Chánh (nhạc) và Phạm Duy (lời). Nhưng trước lúc biểu diễn, Nguyễn Hưng thường hay giới thiệu nhầm thành nhạc của Phạm Duy, lời của Nguyễn Long. | 1 | null |
Roy Mata hay Roi Mata ("Vua Mata") là một vị vua của Melanesia ở thế kỷ 17, ở khu vực ngày nay là Vanuatu. Nhà khảo cổ học người Pháp Jose Garranger đã phát hiện ra các di chỉ khảo cổ về Roy Mata vào năm 1967 và nó được công nhận là di sản thế giới vào năm 2008. Đây cũng là di sản thế giới đầu tiên của Vanuatu. Garranger đã có thể xác định được vị trí ngôi mộ trên đảo Artok bằng cách phân tích văn hóa dân gian địa phương. Theo truyền thuyết, khi Roy Mata chinh phục vùng đất này, mục tiêu đầu tiên của ông là đoàn kết các bộ lạc lại với nhau. Triều đại của ông được cho là một triều đại hòa bình. Đáng buồn thay, Roy Mata đã bị người em trai đầu độc, nhưng thi thể của ông không được chôn trên quê hương vì sợ những người dân địa phương sẽ bị mất tinh thần khi biết tin này. Đến nay, Roy Mata là cái tên không bao giờ được sử dụng tại đây để đặt tên cho một ai đó.
Năm 2008, ba di chỉ khảo cổ liên quan đến Roy Mata trên các đảo Efate, Lelepa và Artok, gắn liền với cuộc sống và cái chết của người đứng đầu tối quan trọng cuối cùng đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản thế giới. Tài sản bao gồm nơi cư trú của Roy Mata, địa điểm nơi ông qua đời và các bãi chôn lấp. Nó được kết hợp chặt chẽ với các truyền khẩu và các giá trị đạo đức được ông tán thành. Các di chỉ này phản ánh sự hội tụ giữa truyền thống truyền khẩu và khảo cổ học và làm chứng cho sự tồn tại của cải cách xã hội Roy Mata và giải quyết xung đột liên quan tới người dân trong khu vực.
Lịch sử.
Nơi định cư sớm nhất cho đến nay được ghi nhận trên đảo Efate, với các mảnh gốm được xác định có niên đại 3.100 năm. Người ta coi rằng các cộng đồng tự trị cũng hiện diện và trở thành miền Roy Mata, mặc dù thời điểm đó là từ rất sớm. Sản xuất đồ gốm dừng lại cách đây khoảng 1500 năm.
Cuộc sống ở Vanuatu trải qua một sự gián đoạn nghiêm trọng vào năm 1452 với sự phun trào của núi lửa Kuwae trong quần đảo Shepherd ở phía bắc.
Trong khoảng năm 1600 một thời gian dài chiến tranh dai dẳng được gọi là chiến tranh Efate lớn dường như đã đi đến một kết thúc, với việc Roy Mata đã giải quyết xung đột này. Một cuộc di cư từ Efate đến quần đảo Shepherd đã diễn ra, một số cho rằng Roy Mata đã phát động một loại các cuộc cách mạng xã hội.
Sau cái chết và chôn cất Roi Mata trên đảo Artok, việc giải quyết Mangaas bị bỏ hoang và không bao giờ tái định cư. Có ý kiến cho rằng sau khi ông chết, cuộc xung đột có thể tiếp tục được chứng minh là gây tử vong cho cộng đồng của mình, người đã phân tán hay đưa đi nơi khác. Vào cuối thế kỷ 19, con cháu của các lãnh đạo cấp thấp hơn đang sống trên đảo Lelepa.
Người châu Âu bắt đầu tới đây khoảng năm 1840 và 20 năm sau đó đã có nhiều khu định cư châu Âu bao gồm cả các nhà truyền giáo. Từ những năm 1870, hang Fels đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch với chuyến thăm thường xuyên từ các tàu hải quân Anh.
Đến 1898, hầu hết mọi người đã chuyển sang theo đạo Thiên Chúa giáo. Dịch bệnh sau đó đã tàn sát dân số trên Efate và các đảo phụ cận buộc những người sống sót rời tới một vài khu định cư lớn hơn,được tổ chức bởi những người định cư châu Âu cho đến khi độc lập vào năm 1980. Kể từ khi độc lập, 55% diện tích đất trên đảo Efate hiện đã được cho nhà đầu tư nước ngoài thuê.
Từ năm 1957 nghiên cứu truyền khẩu và khảo cổ học đã được tiến hành trong khu vực của Mangaas, hang Fels và bãi chôn lấp Artok. Năm 2005, một cuộc điều tra ngắn gọn về đảo Artok đã được thực hiện. | 1 | null |
Gian lận ngân hàng là việc sử dụng các phương tiện có khả năng bất hợp pháp để có được tiền, tài sản hoặc của cải khác được sở hữu hoặc nắm giữ bởi một tổ chức tài chính, hoặc để có được tiền từ người gửi tiền bằng cách giả bộ một cách gian lận như là một ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác. Trong nhiều trường hợp, gian lận ngân hàng là một tội phạm hình sự. Trong khi các yếu tố cụ thể của một đạo luật gian lận ngân hàng nào đó là khác nhau giữa các chế định pháp lý, thuật ngữ gian lận ngân hàng áp dụng đối với các hành động có sử dụng một mưu đồ hoặc thủ đoạn, trái với cướp hoặc trộm cắp ngân hàng. Vì lý do này, gian lận ngân hàng đôi khi được coi là tội phạm cổ cồn trắng.
Mạo danh ngân hàng.
Những kẻ gian lận có thể thành lập các công ty hoặc tạo ra các trang web có tên nghe giống như của các ngân hàng hiện có, hoặc chiếm lấy các tên tuổi nổi tiếng để nghe có vẻ đáng tin cậy, sau đó bỏ trốn với các khoản tiền gửi này.
Cơ chế gian lận ngân hàng đối với các ngân hàng.
Séc bị lấy trộm.
Những kẻ gian lận có thể tìm kiếm vệc tiếp cận vào các tiện ích như phòng xử lý thư tín, bưu điện, văn phòng cơ quan thuế, bảng lương công ty hoặc văn phòng phúc lợixã hội hay cựu chiến binh, trong đó xử lý một lượng lớn séc. Những kẻ lừa đảo sau đó có thể mở các tài khoản ngân hàng dưới tên giả và ký quỹ séc, trước tiên chúng có thể sửa đổi để xem là hợp pháp, sao cho sau đó chúng có thể rút các khoản tiền không được phép.
Ngoài ra, những kẻ làm giả kiếm được sự tiếp cận trái phép các sổ séc trắng, và giả mạo chữ ký có vẻ hợp pháp trên các tờ séc, cũng để nhằm vào việc đạt được sự tiếp cận bất hợp pháp vào các khoản tiền không được phép.
Ghi séc quá số dư.
Ghi séc quá số dư khai thác một hệ thống trong đó, khi séc được ký quỹ vào một tài khoản ngân hàng, tiền sẽ được cung cấp ngay lập tức ngay cả khi nó không được lấy ra từ tài khoản trên đó séc được rút cho đến khi séc thực sự được thanh toán.
Các séc giả mạo và bị sửa đổi.
Những kẻ gian lận đã sửa đổi séc để đổi tên (để ký quỹ séc dành cho thanh toán cho người khác) hoặc số tiền trên mặt séc, sửa đổi đơn giản có thể thay đổi 100,00 USD thành 100.000,00 USD, mặc dù các giao dịch giá trị này có thể bị điều tra theo quy chế như là một biện pháp phòng ngừa ngăn chặn gian lận.
Thay vì giả mạo với một séc thật, những kẻ lừa đảo có thể cố gắng cách khác để giả mạo chữ ký của người gửi tiền trên séc trắng hoặc thậm chí in séc riêng của chúng để rút tiền từ các tài khoản thuộc sở hữu của người khác hay các tài khoản không tồn tại v.v. Sau đó chúng sẽ rút tiền mặt từ séc gian lận thông qua một ngân hàng khác và rút tiền trước khi ngân hàng nhận ra rằng séc là gian lận.
Gian lận kế toán.
Để che giấu các vấn đề tài chính nghiêm trọng, một số doanh nghiệp đã từng sử dụng gian lận sổ sách kế toán để phóng đại doanh thu và thu nhập, thổi phồng giá trị tài sản của công ty hoặc báo lợi nhuận khi công ty đang làm ăn thua lỗ. Những hồ sơ giả mạo này sau đó được sử dụng để tìm kiếm đầu tư vào trái phiếu của công ty hoặc các phát hành chứng khoán hoặc để thực hiện các đơn xin cho vay lừa đảo trong một nỗ lực cuối cùng để có nhiều tiền hơn nhằm trì hoãn sự sụp đổ không thể tránh khỏi của công ty không có lợi nhuận hoặc quản lý yếu kém. Ví dụ về các hành vi gian lận kế toán: Enron và WorldCom. Hai công ty này "xào sáo sổ sách" để làm ra vẻ như họ đã có lợi nhuận mỗi quý trong khi thực tế họ đã ngập sâu trong nợ nần.
Tiền gửi không có bảo hiểm.
Một ngân hàng mồi chài công chúng gửi tiền có thể là không có bảo hiểm hoặc không được phép hoạt động. Mục tiêu thường là để thu hút tiền gửi cho "ngân hàng" không có bảo hiểm này, mặc dù một số cũng có thể bán cổ phiếu đại diện quyền sở hữu của "ngân hàng". Đôi khi những cái tên này xuất hiện rất chính thức hoặc rất giống như của các ngân hàng hợp pháp. Ví dụ, "Chase Trust Bank" của Washington DC không có giấy phép đã xuất hiện vào năm 2002, không có quan hệ gì với tổ chức trùng tên bề ngoài của nó là Ngân hàng Chase Manhattan thật có trụ sở tại New York.
Gian lận kế toán cũng đã được sử dụng để che giấu hành vi trộm cắp khác diễn ra trong một công ty.
Gian lận hối phiếu theo yêu cầu.
Gian lận hối phiếu theo yêu cầu (DD) thường liên quan đến một hoặc nhiều nhân viên ngân hàng tham nhũng. Thứ nhất, các nhân viên như vậy lấy ra một vài tờ DD hoặc cuốn DD khỏi kho và viết chúng như một DD thông thường. Vì họ là người trong cuộc, họ biết cách mã hóa, dập dấu của một hối phiếu theo yêu cầu. Các hối phiếu theo yêu cầu gian lận như vậy thường được rút khoản phải trả tại một thành phố xa xôi mà không ghi nợ một tài khoản. Hối phiếu được trả tiền mặt tại chi nhánh khoản phải trả. Gian lận chỉ được phát hiện khi trụ sở chính của ngân hàng làm đối chiếu liên chi nhánh, thường mất sáu tháng, vào thời điểm này thì tiền là không thể thu hồi được.
Thương nhân gian xảo.
Một thương nhân gian xảo là một người trong cuộc có vị trí cao trên danh nghĩa được phép đầu tư các khoản tiền khá lớn thay mặt cho ngân hàng; thương nhân này đã bí mật sử dụng tiền của ngân hàng vào các khoản đầu tư ngày càng tăng lên và rủi ro hơn, khi một trong những khoản đầu tư xấu đi, thương nhân gian xảo này dính vào đầu cơ thị trường xa hơn nữa với hy vọng lợi nhuận nhanh chóng có thể che giấu hoặc bù lỗ.
Thật không may, khi một tổn thất đầu tư được xếp chồng lên một tổn thất khác, các chi phí đối với ngân hàng có thể đạt đến hàng trăm triệu đô la; thậm chí đã có những trường hợp trong đó một ngân hàng đóng cửa kinh doanh do thua lỗ đầu tư thị trường.
Một số gian lận ngân hàng lớn nhất đã từng bị phát hiện được gây ra bởi các thương nhân tiền tệ John Rusnak và Nick Leeson. Jérôme Kerviel, bị cáo buộc lừa đảo Société Générale 4,9 tỷ euro (7,1 tỷ USD), khi giao dịch các phái sinh cổ phiếu.
Các khoản vay gian lận.
Một cách để rút tiền từ ngân hàng là đi vay, một thực tế các ngân hàng sẽ rất sẵn lòng khuyến khích nếu họ biết rằng tiền sẽ được hoàn trả đầy đủ với tiền lãi. Tuy nhiên, một khoản vay gian lận là một khoản vay trong đó người đi vay là một thực thể kinh doanh được kiểm soát bởi một nhân viên ngân hàng không trung thực hoặc đồng lõa; "người vay" sau đó tuyên bố phá sản hoặc biến mất và tiền đã ra đi. Khách hàng vay thậm chí có thể là một thực thể không tồn tại và cho vay chỉ là giả tạo để che giấu một hành vi trộm cắp một khoản tiền lớn từ ngân hàng. Điều này cũng có thể được xem như là một thành phần trong gian lận vay thế chấp (Bell, 2010).
Các đơn xin vay gian lận.
Những đơn này có một số hình thức khác nhau từ các cá nhân sử dụng thông tin sai lệch để che giấu một lịch sử tín dụng đầy các vấn đề tài chính và các khoản vay chưa thanh toán cho tới các công ty sử dụng gian lận kế toán thổi phồng lợi nhuận nhằm làm cho một khoản vay rủi ro có vẻ như là một khoản đầu tư có cơ sở chắc chắn đối với ngân hàng.
Các tài liệu giả mạo hoặc gian lận.
Các tài liệu giả mạo thường được sử dụng để che giấu các vụ trộm cắp khác; các ngân hàng có xu hướng đếm tiền của họ một cách tỉ mỉ đến mức từng đồng xu phải được tính đến. Một tài liệu tuyên bố rằng một khoản tiền được vay mượn như một khoản vay, được rút ra bởi một người gửi tiền cá nhân hoặc được chuyển nhượng hay được đầu tư do đó có thể có giá trị cho những người muốn che giấu chi tiết nhỏ rằng tiền của ngân hàng trên thực tế đã bị đánh cắp và bây giờ đã ra đi.
Gian lận chuyển khoản.
Các mạng chuyển khoản quốc tế như hệ thống chuyển tiền liên ngân hàng SWIFT là mục tiêu hấp dẫn vì một chuyển khoản, một khi được thực hiện, rất khó hoặc không thể đảo ngược. Vì các mạng này được sử dụng bởi các ngân hàng để thanh toán các tài khoản với nhau, chuyển khoản nhanh hoặc qua đêm một lượng tiền lớn là phổ biến; trong khi các ngân hàng đã đặt kiểm tra và cân đối tại chỗ, có rủi ro mà những người trong cuộc có thể cố gắng để sử dụng tài liệu gian lận hay giả mạo để yêu cầu tiền của một người gửi tiền của ngân hàng được chuyển đến một ngân hàng khác, thường là một tài khoản ở nước ngoài trong một đất nước xa xôi.
Có một nguy cơ gian lận rất cao khi giao dịch với các tổ chức không rõ hoặc không có bảo hiểm.
Nguy cơ lớn nhất khi giao dịch với các ngân hàng ở nước ngoài hoặc ngân hàng Internet (vì điều này cho phép lựa chọn các nước có quy định ngân hàng lỏng lẻo), nhưng không chỉ hạn chế đối với các tổ chức này. Có một danh sách hàng năm về các ngân hàng không có giấy phép trên website của Bộ Ngân khố Hoa Kỳ hiện tại dài tới 15 trang.
Gian lận chiết khấu hóa đơn.
Về cơ bản là một thủ đoạn trên cơ sở niềm tin, một kẻ gian lận toàn quyền sử dụng một công ty để gây dựng niềm tin với một ngân hàng, bằng cách làm ra vẻ như một khách hàng có thể đem lại lợi nhuận và chân thật. Để tạo ra ảo tưởng là một khách hàng được mong ước, công ty thường xuyên và liên tục sử dụng ngân hàng để có được thanh toán từ một hoặc nhiều khách hàng của nó. Các khoản thanh toán này luôn được thực hiện, do các khách hàng đang xét tới là một phần của sự gian lận, tích cực chi trả tất cả và bất kỳ hóa đơn nào đưa ra bởi ngân hàng. Sau một thời gian, khi ngân hàng hài lòng với công ty, công ty yêu cầu ngân hàng thanh toán số dư của nó cho công ty trước khi lập hóa đơn cho khách hàng. Một lần nữa, việc kinh doanh vẫn tiếp tục bình thường đối với công ty gian lận, các khách hàng lừa đảo của nó, và ngân hàng vô tình. Chỉ khi dư nợ giữa ngân hàng và công ty đủ lớn, công ty có thanh toán từ ngân hàng, và công ty và các khách hàng của nó biến mất, để lại các hóa đơn do ngân hàng phát hành mà không có ai thanh toán.
Gian lận thẻ thanh toán.
Gian lận thẻ tín dụng là phổ biến rộng rãi như một phương tiện để ăn cắp từ các ngân hàng, người bán và khách hàng.
Séc tăng cường.
Một séc tăng cường là séc gian lận hay séc xấu được sử dụng để thực hiện thanh toán vào một tài khoản thẻ tín dụng để "bùng phát" hoặc làm tăng lượng tín dụng khả dụng trên một thẻ tín dụng theo cách khác là hợp pháp. Số tiền của séc được ghi có vào tài khoản thẻ bởi ngân hàng ngay sau khi khoản thanh toán được thực hiện, mặc dù séc vẫn chưa được thanh toán bù trừ. Trước khi séc xấu được phát hiện, thủ phạm đã đi mua sắm lu bù hoặc rút tiền mặt cho tới khi đạt tới giới hạn khả dụng mới được "nâng lên" trên thẻ. Séc ban đầu sau đó bị trả lại, nhưng khi đó thì đã quá muộn.
Thẻ thanh toán bị đánh cắp.
Thông thường, dấu hiệu đầu tiên cho thấy ví của nạn nhân đã bị đánh cắp là một cuộc gọi điện thoại từ một công ty phát hành thẻ tín dụng hỏi có phải người này vừa chi tiêu mua sắm lu bù, hình thức đơn giản nhất của hành vi trộm cắp này liên quan đến việc ăn cắp chính các thẻ và ghi nợ một lượng lớn các món hàng giá trị cao chỉ trong vài phút hoặc vài giờ trước khi nó được thông báo là bị đánh cắp.
Một biến thể của việc này là chỉ sao chép các con số của thẻ tín dụng (thay vì thu hút sự chú ý bằng cách ăn cắp chính các thẻ) để sử dụng các con số này trong các gian lận trực tuyến.
Sao chép hoặc lướt thông tin thẻ.
Gian lận này có một số hình thức khác nhau, từ các người bán sao chép các số thẻ tín dụng của khách hàng để sử dụng trong các hoạt động bất hợp pháp về sau hoặc bọn tội phạm sử dụng giấy than từ các máy in ấn thẻ cơ khí cũ để ăn cắp các thông tin, tới việc sử dụng hoặc các đầu đọc thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ giả mạo để sao chép dải từ tính từ một thẻ thanh toán trong khi một máy ảnh ẩn giấu chụp những con số trên mặt sau của thẻ.
Một số kẻ gian lận đã gắn các đầu đọc sọc thẻ gian lận để truy cập công khai các máy ATM, truy cập trái phép vào các nội dung của dải từ tính, cũng như các máy ảnh ẩn để ghi lại bất hợp pháp mã ủy quyền của người sử dụng. Các dữ liệu được ghi lại bằng máy ảnh và đầu đọc sọc thẻ gian lận này sau đó được sử dụng để sản xuất thẻ trùng lặp mà sau đó có thể được sử dụng để rút tiền ATM từ tài khoản của nạn nhân.
Tiền gửi phong bì ATM rỗng.
Một thấu chi tội phạm có thể xảy ra do chủ tài khoản thực hiện một gửi tiền khống hoặc bóp méo giá trị tại một máy rút tiền tự động để có được nhiều tiền hơn hiện có trong tài khoản hoặc để ngăn chặn một séc bị trả lại vì không đủ tiền. Luật pháp ngân hàng Hoa Kỳ làm cho 100 USD đầu tiên khả dụng ngay lập tức và điều này có thể làm cho nhiều khoản tiền không thu được bị mất bởi các ngân hàng vào ngày làm việc hôm sau, trước khi dạng giả mạo này được phát hiện. Tội phạm này cũng có thể gây ra đối với tài khoản của người khác trong một "chiếm đoạt tài khoản" hoặc với một thẻ ATM giả, hoặc một tài khoản được mở trong tên của người khác như là một phần của một lừa đảo trộm cắp nhận dạng. Sự xuất hiện của công nghệ gửi tiền ATM quét tiền và séc mà không cần sử dụng một phong bì có thể ngăn chặn loại gian lận này trong tương lai.
Mạo nhận danh tính.
Mạo danh đã trở thành một vấn đề ngày càng tăng; lừa đảo hoạt động bằng cách thu thập thông tin về một cá nhân, sau đó sử dụng thông tin để xin cấp chứng minh thư, tài khoản và tín dụng dưới tên của người đó. ; mỗi tài liệu thu được sau đó được sử dụng như nhận dạng để có được nhiều giấy tờ tùy thân hơn. Các mã số định danh tiêu chuẩn chính phủ ban hành như "số an sinh xã hội" cũng có giá trị đối với kẻ gian lận.
Thông tin có thể được lấy từ người trong cuộc (như nhân viên ngân hàng hoặc nhân viên chính phủ không trung thực), những kẻ giả danh cung cấp việc làm hoặc đầu tư (trong đó nạn nhân được yêu cầu cho một danh sách dài các thông tin cá nhân) hoặc bằng cách gửi thư tín ngân hàng hay thông báo thuế giả mạo. Một số biểu mẫu thuế hư cấu làm ra vẻ như được gửi bởi các ngân hàng cho các khách hàng trong năm 2002 là:
Nguồn gốc thực tế của các biểu mẫu này không phải là của ngân hàng cũng chẳng phải là của ngành thuế - chúng được gửi bởi những tên trộm danh tính tiềm năng và W-8888 không tồn tại, W-9095 cũng hư cấu (W-9 thực yêu cầu thông tin ít hơn nhiều) và W-8BEN là có thật nhưng có thể đã bị giả mạo để thêm câu hỏi xâm nhập khác. Các biểu mẫu ban đầu mà trên đó những yếu tố giả đã dựa được dùng để thu thập thông tin về thuế thu nhập đối với thu nhập từ tiền gửi và đầu tư.
Trong một số trường hợp, một cặp tên/SIN (số bảo hiểm xã hội) là cần thiết để mạo danh một công dân trong khi làm việc như một người nhập cư bất hợp pháp nhưng thường là kẻ trộm danh tính đang sử dụng các giấy tờ tùy thân không có thật trong phạm tội khác hoặc thậm chí để trốn truy tố cho tội phạm quá khứ. Việc sử dụng một danh tính bị đánh cắp cho gian lận khác như tiếp cận với các tài khoản ngân hàng, thẻ tín dụng, các khoản vay và phúc lợi xã hội hoặc yêu cầu hoàn thuế gian lận không phải là hiếm.
Không ngạc nhiên, các thủ phạm của gian lận như vậy từng được biết là rút các khoản vay và biến mất cùng với tiền mặt, có khá nhiều nội dung để xem những người sai đổ lỗi khi các khoản nợ xấu đi hoặc bị cảnh sát gọi lên.
Một số công ty đã tham gia vào sự mở rộng quá mức, sử dụng tiền vay để tài trợ chi phí cho các sáp nhập và mua lại và các tài sản phóng đại, bán hàng hoặc thu nhập rồi để không trả được nợ ngay sau khi vấn đề trở thành nghiêm trọng quá mức về tài chính.
Gian lận ngân hàng đầu não.
Hoạt động "ngân hàng đầu não" tuyên bố cung cấp một cơ hội cấp bách, độc nhất để rút tiền mặt trong sự bí mật tốt nhất trong ngành ngân hàng, tiền gửi được bảo lãnh trong các "ngân hàng đầu não", "ngân hàng hiến pháp", "giấy bạc ngân hàng và các giấy nợ ngân hàng phát hành từ 500 ngân hàng hàng đầu thế giới", "bảo lãnh ngân hàng và thư tín dụng dự phòng" tạo ra lợi nhuận ngoạn mục không rủi ro và "được chứng thực của Ngân hàng Thế giới" hay các chính phủ quốc gia và các ngân hàng trung ương khác nhau. Tuy nhiên, những cụm từ nghe có vẻ chính thức này và nhiều hơn nữa là những dấu hiệu của cái gọi là gian lận "ngân hàng đầu não"; chúng có thể nghe tuyệt vời trên giấy, nhưng các đầu tư ra nước ngoài được đảm bảo với những tuyên bố mơ hồ về hoàn vốn một cách dễ dàng 100% hàng tháng đều là các công cụ tài chính hư cấu nhằm mục đích lừa gạt các cá nhân.
'Thanh tra ngân hàng' hư cấu.
Đây là một lừa đảo cũ với một số biến thể, ý đồ ban đầu liên quan đến việc tự xưng là thanh tra ngân hàng, tuyên bố rằng ngân hàng nghi ngờ rằng một trong những nhân viên của mình là ăn cắp tiền và rằng để giúp bắt được thủ phạm "thanh tra ngân hàng" cần người gửi tiền rút tất cả tiền của họ. Tại thời điểm này, nạn nhân sẽ có thể mang theo một lượng lớn tiền mặt và có thể là mục tiêu cho hành vi trộm cắp các khoản tiền này.
Các biến thể khác bao gồm tự xưng là một đối tác kinh doanh tiềm năng với "cơ hội của đời người", sau đó yêu cầu tiếp cận với tiền mặt "để chứng minh rằng bạn tin tưởng tôi" hoặc thậm chí tự xưng là một người nhập cư mới, mang theo toàn bộ tiền của họ bằng tiền mặt vì sợ rằng các ngân hàng sẽ ăn cắp của họ - nếu nói với người khác rằng họ giữ tiền của họ trong ngân hàng nhưng sau đó yêu cầu người gửi tiền rút nó để chứng minh các ngân hàng đã không đánh cắp nó.
Mạo danh công chức gần đây đã trở thành một cách ăn cắp thông tin cá nhân để sử dụng trong hành vi trộm cắp gian lận danh tính.
Lừa đảo và gian lận Internet.
Lừa đảo hoạt động bằng cách gửi e-mail giả mạo, mạo nhận một ngân hàng trực tuyến, trang web đấu giá hoặc thanh toán; các e-mail này hướng người dùng đến một trang web giả mạo được thiết kế để trông giống như đăng nhập vào trang web hợp pháp nhưng tuyên bố rằng người sử dụng phải cập nhật thông tin cá nhân. Các thông tin như vậy bị đánh cắp sau đó được sử dụng trong các hành vi gian lận khác, chẳng hạn như hành vi trộm cắp danh tính hoặc gian lận đấu giá trực tuyến.
Một số chương trình "Con ngựa Troy" độc hại cũng đã được sử dụng để rình mò trên người sử dụng Internet trong khi trực tuyến, chụp tổ hợp phím hoặc dữ liệu bí mật để gửi cho các trang web bên ngoài.
Rửa tiền.
Thuật ngữ "rửa tiền" đã có từ thời Al Capone; Rửa tiền từ đó đã được sử dụng để mô tả bất kỳ ý đồ nào mà theo đó nguồn gốc thực sự của các khoản tiền là ẩn hoặc bị che giấu.
Rửa tiền là quá trình mà theo đó số tiền lớn bất hợp pháp (từ buôn bán ma túy, hoạt động khủng bố hoặc tội phạm nghiêm trọng khác) được cho xuất hiện có nguồn gốc từ một nguồn hợp pháp.
Gian lận ngân hàng theo các quốc gia.
Gian lận ngân hàng tại Trung Quốc.
Trung Quốc đã xử lý các quan chức ngân hàng đối với hoạt động gian lận; một số trường hợp gần đây (tháng 9 năm 2004) kết thúc bằng án tử hình bao gồm:
Ở Trung Quốc, trách nhiệm của người tiêu dùng đối với các chuyển tiền điện tử lừa đảo được bao phủ bởi một chỉ thị của Ủy ban điều tiết ngân hàng Trung Quốc, được gọi là Các biện pháp quản lý Ngân hàng điện tử. Chương 8 các giao dịch với trách nhiệm pháp lý. Điều 89 quy định rằng nếu các ngân hàng gây ra bất kỳ tổn thất tiền tệ đối với bất kỳ lý do "không thích hợp cho khách hàng, nó phải chịu trách nhiệm pháp lý cho phù hợp." Điều này khiến trách nhiệm của người tiêu dùng mở để giải thích trừ khi một vụ kiện được làm đầy. Nếu nạn nhân lừa đảo là thành công trong việc lấp đầy một vụ kiện, ngân hàng có thể giải quyết ngoài tòa án. Nếu một vụ kiện ra toà, sự thành công của các vụ kiện phụ thuộc phần lớn vào cách sắp xếp của tòa án địa phương trong câu hỏi. Một vụ kiện đã kết luận vào năm 2012 tại thành phố Ôn Lĩnh, tỉnh Jejiang làm tin tức bởi vì tòa án địa phương đã ra lệnh cho ngân hàng hoàn trả đầy đủ một người đàn ông là nạn nhân của thẻ trùng lặp.
Tuy nhiên, mức độ của vấn đề nạn nhân lừa đảo chưa được đền bù là không rõ, như một kết quả của phương tiện truyền thông bị kiểm duyệt của Trung Quốc. | 1 | null |
Đảo Pawai, còn được gọi là đảo cá sấu khi còn là thuộc địa của quốc gia khác. Với diện tích 182,000 m², đảo nằm trong khu vực diễn tập quân sự của lực lượng vũ trang Singapore. Đảo Pawai nằm ngoài khơi bờ biển phía tây nam của Singapore, nằm giữa đảo Sudong về phía Bắc và đảo Satumu nằm ở phía nam. Đây là một trong ba hòn đảo thuộc sở hữu của lực lượng vũ trang Singapore, cùng với đảo Sudong và đảo Senang. | 1 | null |
Vườn Carlton là một di sản thế giới của UNESCO nằm ở rìa phía đông bắc của khu trung tâm thương mại ngoại ô Carlton, tại Melbourne, Victoria, Úc.
Khu vực di sản có diện tích 26 ha (64 mẫu Anh) bao gồm cung triển lãm Hoàng gia, bảo tàng Melbourne, rạp chiếu phim Imax, sân tennis và một sân chơi dành cho trẻ em. Khu vực có hình chữ nhật được giới hạn bởi phố Victoria, Rathdowne, Carlton, và phố Nicholson. Từ Cung triển lãm Hoàng gia, khu vườn dốc nhẹ xuống phía tây nam và đông bắc là tới được Vườn Carlton. UNESCO đã công nhận Cung triển lãm Hoàng gia và Vườn Carlton là Di sản thế giới như là một địa điểm có ý nghĩa lịch sử, kiến trúc, thẩm mỹ, xã hội và khoa học (thực vật học) đối với bang Victoria.
Khu vườn là một ví dụ nổi bật của thiết kế cảnh quan ở Victoria với những bãi cỏ rộng và đa dạng các loại cây trồng từ châu Âu và Úc bao gồm cây rụng lá sồi Anh, dương trắng, chò, du, cây lá kim, tuyết tùng, sồi Thổ Nhĩ Kỳ, tùng bách tán và các cây thường xanh như đa Moreton, cùng với đó là những luống hoa, cây hàng năm và cây bụi. Một mạng lưới các cây lót đường cho con đường chính để làm nổi bật những đài phun nước và kiến trúc của tòa nhà triển lãm. Hai hồ cảnh nhỏ tô điểm cho phần phía nam của công viên. Khu vực phía bắc có các bảo tàng, sân tennis, kho bảo trì và khu ở của người quản lý và sân chơi của trẻ em được thiết kế như một mê cung Victoria.
Động vật hoang dã bao gồm thú có túi, vịt, cú muỗi mỏ quặp, chi Sả. Phổ biến nhất là Sáo nâu và mòng biển bạc.
Khu vườn có ba đài phun nước quan trọng là: Đài phun nước Triển lãm, là thiết kế dành cho Triển lãm Quốc tế vào năm 1880 do nhà điêu khắc Joseph Hochgurtel thiết kế, đài phun nước Pháp và đài phun nước Westgarth Drinking. | 1 | null |
Đảo Brani là một hòn đảo nằm ngoài khơi bờ biển phía nam của Singapore, gần Keppel Harbour. Đảo này nằm giữa các đảo chính của Singapore và các đảo nghỉ mát của Sentosa, được nối với đất liền qua Brani ga Avenue. Diện tích của đảo Brani là 1.22 km². | 1 | null |
P-14 (mã định danh NATO: Tall King C) là một loại ra đa cảnh giới VHF 2D, được chế tạo và phát triển bởi Liên Xô. P-14 làm việc trên dải sóng mét, có cự ly phát hiện xa với tầm hoạt động 600 km, tốc độ quét 2-6 vòng/phút, độ cao tìm kiếm cực đại 46 km.
Các biến thể.
P-14 được sản xuất với 3 biến thể: 1RL113 "Lena" (Tall King A), 44Zh6 "Furgon" (Tall King B) và 5N84A "Oborona-14" (Tall King C). | 1 | null |
P-18 Terek (mã định danh GRAU: 1RL131, mã định danh NATO: Spoon Rest D) là một loại radar bắt mục tiêu và cảnh báo VHF 2D, được sản xuất và phát triển bởi Liên Xô. Đây là loại ra đa làm việc trên dải sóng mét, có tầm hoạt động tối đa 170 km, có thể theo dõi cùng lúc 120 mục tiêu. | 1 | null |
P-19 Danube (mã định danh GRAU: 1RL134, mã định danh NATO: Flat Face B) là một loại radar cảnh giới kiêm giám sát mục tiêu do Liên Xô chế tạo và phát triển. Đây là loại radar hoạt động trên tần số UHF, có tầm quét 260 km và có thể quay 360 độ, có khả năng phát hiện số lượng lớn các mục tiêu tầm thấp. Chúng thường được trang bị trong các đại đội ra đa tầm thấp, trung đội ra đa độc lập thuộc quân chủng Phòng không. Ngoài ra, chúng còn có thể làm nhiệm vụ đài trinh sát và chỉ thị mục tiêu tầm thấp trong tổ hợp tên lửa phòng không S-125.
Lịch sử chế tạo.
P-19 được xem là một biến thể nâng cấp của loại radar cảnh giới P-15 Tropa | 1 | null |
Trần Thế Môn (1915–2009) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thiếu tướng. Nguyên Chánh án – Bí thư đảng uỷ Tòa án Quân sự Trung ương, kiêm Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Việt Nam; Chính uỷ – Bí thư đảng uỷ các đơn vị: Quân khu Tây Bắc, Mặt trận B5 (Trị – Thiên), Mặt trận B3 (Tây Nguyên) và Binh chủng Công binh. Ông được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Thân thế, sự nghiệp.
Ông có tên khai sinh là Trần Đình Thìn, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1915, quê tại xã Trần Thương, huyện Nam Xang (nay thuộc xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam.
Năm 18 tuổi, ông một mình lên Hải Phòng làm thợ. Do bản tính ham học hỏi, ông nhanh chóng có một tay nghề giỏi, được các bạn quý mến. Từ năm 1936, ông bắt đầu tham gia hoạt động trong phong trào đấu tranh của công nhân tại Hải Phòng.
Năm 1939, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam một thời gian ngắn do tham gia phong trào đấu tranh của công nhân đòi tăng lương giảm thuế. Do những hoạt động tích cực của mình, tháng 11 năm 1940, ông được ông Lương Khánh Thiện – Xứ ủy viên Bắc Kỳ phụ trách miền duyên hải (bao gồm Hải Phòng, Quảng Yên, Hòn Gai), chính thức tuyên bố kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 1 năm 1941, ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam lần thứ 2, bị Tòa Đại hình của Pháp tại Hà Nội kết án 10 năm khổ sai. Tháng 7 năm 1941, ông chuyển lên giam giữ tại nhà tù Sơn La. Đến đầu năm 1943, thì ông bị chuyển về giam giữ tại nhà tù chợ Chu (Thái Nguyên). Tại đây, đầu năm 1944, ông cùng 11 đồng chí đảng viên khác gồm Song Hào, Tạ Xuân Thu, Lê Trung Đỉnh, Trần Công Bình, Chu Nhữ, Lê Hiến Mai, Vũ Phong, Nhị Quý, Trần Tùng, Hoàng Bá Sơn, Nguyễn Kháng vượt ngục về hoạt động cách mạng, tham gia hoạt động tại Phân khu Nguyễn Huệ. Lúc này ông lấy tên hoạt động là Trần Thế Môn.
Tháng 10 năm 1944, ông được phân công về hoạt động trong lực lượng Cứu quốc quân III, hoạt động tại Thái Nguyên và Tuyên Quang. Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1945, ông tham gia giải phóng các khu vực thuộc Tuyên Quang và Thái Nguyên và chống quân Nhật càn phá, góp phần vào việc tạo ra khu Giải phóng Việt Minh với Tân Trào là Thủ đô kháng chiến. Tháng 8 năm 1945, ông phụ trách một đội quân tham gia giành chính quyền ở thị xã Tuyên Quang.
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, ông tham gia thành lập Chi đội giải phóng quân Trần Quốc Toản (Phú Thọ) và trực tiếp làm Chi đội trưởng. Tháng 9 năm 1945, ông được giao nhiệm vụ làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Phú Yên (Phú Thọ – Yên Bái). Tháng 4 năm 1946, ông làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bắc – Bắc (Bắc Ninh – Bắc Giang). Đến tháng 10 năm 1946, ông được điều về làm Chính ủy Trung đoàn 115 Phú Yên.
Tháng 1 năm 1948, ông về công tác tại Tổng Thanh tra Quân đội. Năm, 1956 ông được điều sang nhận nhiệm vụ làm Chính ủy Cục Công binh. Cùng năm đó, ông lại được điều về làm Chính ủy Quân khu Tây Bắc, rồi làm Phó chính ủy Quân khu 4. Năm 1958, ông được phong quân hàm Đại tá.
Tháng 8 năm 1966, ông vào chiến trường miền Nam và công tác tại Mặt trận Đường 9 – Bắc Quảng Trị. Từ tháng 10 năm 1967 đến tháng 12 năm 1973, ông làm Chính ủy Mặt trận B3 (Tây Nguyên) thay ông Chu Huy Mân.
Đầu năm 1974, ông trở lại làm Chính ủy Binh chủng Công binh. Cùng năm 1974, ông được phong quân hàm Thiếu tướng.
Năm 1977, ông về làm Chánh án, Bí thư đảng uỷ Tòa án Quân sự Trung ương, kiêm Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao..
Năm 1979, Ông được khi nghỉ hưu.
Ông tiếp tục tham gia công tác tư pháp, được bầu làm Phó Chủ nhiệm khóa I (1984–1988), rồi Chủ nhiệm khóa II (1988–1991) Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
Ông qua đời lúc 19 giờ ngày 12 tháng 12 năm 2009 tại Viện Quân y 108, thọ 94 tuổi.
Đời tư.
Ông có hai người vợ, với người vợ cả, ông bà có duy nhất một người con là Đại tá Trần Thế Thành
Ông lập gia đình lần thứ 2 với bà Phạm Thị Mậu. Ông bà có với nhau 5 người con lần lượt: Trần Thế Việt, Trần Thế Nam, Trần Thế Dân, Trần Thị Minh Hà, và Trần Thế Dũng. | 1 | null |
Đỗ Minh Quân (sinh ngày 7 tháng 1 năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam) là vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Việt Nam đạt nhiều thành tích quốc gia và quốc tế. Anh từng là cây vợt số 1 Việt Nam. Sau khi kết thúc sự nghiệp, anh du học Mỹ để lấy bằng Huấn luyện viên.
Thành tích.
Năm 2012, anh vô địch giải các tay vợt xuất sắc. Ở các giải ATP Challenger Tour và ITF Futures anh đã có 11 trận thắng và 33 trận thua. | 1 | null |
Chạy bộ là một hình thức chạy nước kiệu hoặc chạy với tốc độ chậm hoặc thong thả và duy trì một tốc độ ổn định đều trong suốt thời gian chạy. Ngày nay, chạy bộ là một trong những loại hình thể thao đơn giản, vừa sức, có lợi cho sức khỏe.
Lợi ích.
Chạy bộ là một hình thức tập thể dục rất tốt, phù hợp với tất cả mọi người và đặc biệt nó giúp nhiều phụ nữ có vóc dáng thon gọn, ổn định trọng lượng cơ thể. Khi chạy, toàn bộ cơ thể sẽ chuyển động theo từng bước chạy. Vì thế không chỉ có bắp chân, đùi tham gia vào hoạt động này, mà còn có cả cơ bụng, tay, cổ… Nhờ đó tuần hoàn máu tốt hơn. Luyện tập thường xuyên kết hợp với chế độ ăn hợp lý là một phương pháp giảm béo hiệu quả. Chạy bộ giúp giải tỏa căng thẳng rất hữu hiệu.
Khi chạy bộ, Axit béo được đốt cháy tốt nhất ở quãng 65 – 70% nhịp tim tối đa, Quá trình đốt cháy axit béo bắt đầu sau 45 phút, kể từ lúc bắt đầu buổi tập. Trước đó cơ thể đốt cháy glycogen của gan và cơ bắp. Để đốt cháy axit béo cần cacbonat đóng vai trò chất xúc tác. Chạy bộ phát huy tác dụng thải nước khỏi cơ thể và đẩy nhanh quá trình đốt cháy chất béo, đồng thời cải thiện tuần hoàn máu bên trong tế bào. Chạy cũng kích thích sự lưu thông bạch huyết trong các mạch bạch huyết.
Gần đây, tháng 4/2014, nghiên cứu đăng trên tạp chí khoa học Neurology cho thấy chạy bộ thường xuyên giúp ích cho kỹ năng suy nghĩ và trí nhớ đến hơn 20 năm sau đó.
Khuyến cáo.
Một số khuyến cáo để chạy bộ được tốt và khoa học, cụ thể là: | 1 | null |
Xã hội nguyên thủy (hay còn gọi là công xã thị tộc) là giai đoạn đầu tiên và dài nhất trong lịch sử phát triển của loài người, từ khi có con người xuất hiện trên Trái Đất đến khi xã hội nguyên thủy chuyển đổi thành xã hội giai cấp và xuất hiện chế độ nhà nước.
Việc mô tả xã hội nguyên thủy được nêu trong khái niệm về "Chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy" do Karl Marx và Friedrich Engels đưa ra. Các nước trong Hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây đã biên tập trong sách giáo khoa phổ thông từ những năm 1950, và hiện còn dùng tại Việt Nam.
Xã hội nguyên thủy phát triển kế thừa lối sống xã hội bầy đàn của linh trưởng tổ tiên, và thể hiện gần gũi nhất hiện có hai loài là tinh tinh và bonobo ở châu Phi . Xã hội nguyên thủy cũng kết thúc khác nhau ở các vùng và dân tộc khác nhau. Nhiều dân tộc ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ đã có lối sống không thay đổi trong chục nghìn năm qua, và họ được coi là bảo tàng sống của loài người về thời nguyên thủy, như người Hadza , San (Châu Phi), Sentinel (Châu Á), Vanuatu (Châu Đại Dương)...
Thị tộc và bộ lạc.
Người tinh khôn với số lượng nhất định, kế thừa lối sống linh trưởng tổ tiên, đã tổ chức thành thị tộc là những nhóm người gồm vài chục gia đình, có quan hệ gần gũi với nhau, thậm chí do cùng một bà mẹ đẻ ra (hay gọi là có quan hệ huyết thống với nhau), sống quây quần cùng làm chung ăn chung .
Người tinh khôn có khả năng ăn tạp, ban đầu sống dựa theo hái lượm cây trái và săn bắt các con thú. Bên cạnh kỹ năng tự kiếm ăn, họ đã biết hợp sức nhau săn đuổi, tức là dùng số đông người bao vây lấy bầy động vật, dồn cho chúng lao xuống vực, sau đó mới ném đá, phóng lao xuống cho chúng chết hẳn. Vì vậy, những công việc như thế, luôn đòi hỏi sự phối hợp ăn ý với nhau.
Theo mô tả trong sách giáo khoa tại Việt Nam thì trong nội bộ thị tộc, người ta không phân biệt "đâu là của anh và đâu là của tôi". Nói cách khác, trong thị tộc không có sở hữu tư nhân, nhưng có sở hữu của thị tộc. Tuy nhiên, là một động vật xã hội thì trong thị tộc có sự "phân chia đẳng cấp" nhất định. Sự phân chia này xác định nhiệm vụ của cá thể trong các hoạt động có tổ chức khi săn bắt hoặc tranh chấp lãnh thổ. Tại các thị tộc khác nhau thì quan hệ quyền lực của đẳng cấp với nhau là khác nhau, giống như các dân tộc hiện đại đang có những tập quán khác nhau.
Mỗi thị tộc chiếm cứ một khu vực xác định, tức lãnh thổ của thị tộc. Sự phát triển không đều của các thị tộc, gồm có hoặc phát triển lên và phân chia ra các thị tộc mới, hoặc tàn lụi do bệnh tật hay tai biến, cùng với xâm lấn lãnh thổ của thị tộc khác, dẫn đến lãnh thổ có thể thay đổi. Áp lực dân số từ các thị tộc phát triển hơn, dẫn đến các biên giới lãnh thổ thay đổi theo định hướng nhất định, tạo ra hiện tượng gọi là "Các dòng di cư sớm thời tiền sử".
Buổi đầu của thời đại kim khí.
Việc phát hiện ra kim loại để làm công cụ lao động có ý nghĩa hết sức to lớn. Trước kia con người chỉ biết sử dụng đá để làm công cụ. Cho tới khoảng 4000 năm TCN, con người đã phát hiện ra "đồng kim loại". Đồng kim loại rất mềm, nên chủ yếu dùng làm đồ trang sức. Sau đó họ biết pha đồng với thiếc và chì cho đồng cứng hơn, gọi là "đồng thau". Từ đó, người ta đã đúc ra được các loại rìu, cuốc, thương giáo, lao, mũi tên, trống đồng,v.v... Khoảng 3000 năm trước đây, cư dân ở Tây Á và Nam Âu là những người đầu tiên biết đúc và dùng đồ sắt để làm lưỡi cày, cuốc, liềm, kiếm, dao găm, v.v...
Nhờ có công cụ kim khí, con người có thể khai phá thêm đất hoang, tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, không chỉ đủ ăn mà còn có của dư thừa...
Xã hội nguyên thủy kết thúc.
Do có công cụ lao động mới, tức sự xuất hiện các công cụ kim loại, một số người có khả năng lao động giỏi hơn, tạo ra nhiều của cải hơn đến nỗi dư thừa, hoặc lợi dụng vị trí hay uy tín của mình để chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác và trở nên giàu có, còn một số người khác lại khổ cực thiếu thốn.
Chế độ "làm chung, ăn chung, hưởng chung" ở thời kì công xã thị tộc bị phá vỡ. Xã hội nguyên thủy dẫn tan rã, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp.
Tham khảo.
2. Lương Ninh, "Lịch sử thế giới cổ đại", Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002 | 1 | null |
Lucia di Lammermoor là một trong những vở opera xuất sắc nhất của Gaetano Donizetti, nhà cách tân opera người Ý. Lời của vở opera này được sáng tác bởi Salvadore Cammarano, dựa trên tiểu thuyết "The Bride of Lammermoor" của đại văn hào người Scotland Walter Scott. Vở opera được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1835 tại Napoli. | 1 | null |
Timoléo̱n (, 411-337 TCN) là một tướng lĩnh và là một chính trị gia người Hy Lạp nguyên quán ở Korinthos và là một bạo chúa của Siracusa trong giai đoạn 345-336 TCN. Ông được ca ngợi là người đã giải phóng thành phố này khỏi nền thống trị hà khắc và đánh bại các cuộc xâm lược của người Carthago vào lãnh thổ của người Hy Lạp tại đảo Sicillia.
Ông được Plutarchus xem là "bằng hữu của vận may" vì, tương truyền, trong cuộc đời, Timoleon đã gặp nhiều "may mắn" hay những sự kiện được cho là điềm tốt lành. Bản thân Timoleon cũng nhiều lần khẳng định những thành công trong sự nghiệp chủ yếu là do may mắn và do thần thánh "chiếu cố".
Tiểu sử.
Timoleon sinh ra trong một gia đình quyền quý ở Korinthos. Ông là con trai của Timodimos và em trai của Timofanis, một chỉ huy quân sự cấp cao của thành phố. Ông nổi tiếng bởi những đức tính khiêm nhường, cẩn trọng, lòng vị tha và - mặc dù thuộc giai cấp quý tộc - tư tưởng thiên về đường hướng dân chủ. Lòng dũng cảm của Timoleon được thể hiện rõ nét trong một trận chiến giữa thành phố Korinthos và thành phố Argos: trong trận đánh, khi người anh Timofanis đang chỉ huy kị binh thì ông ta bất thình lình bị ngựa hất ngã vào hàng ngũ địch quân. Ngay lập tức Timoleon chạy tới ứng cứu, lấy khiên che cho người anh bị ngã và cuối cùng đã cứu được người anh trai mang về.
Tuy nhiên, về sau Timofanis, một người ham mê quyền lực, đã thực hiện những âm mưu tiếm quyền khiến "người Korinthos mong ước Timoleon bỏ mặc hắn chết trên chiến trường". Cụ thể, trong thời gian này thành phố Korinthos đã thành lập một đội quân 400 lính đánh thuê thiện chiến để chống lại các thành bang địch thủ và giao cho Timofanis chỉ huy. Nhờ vào quyền lực và số tài sản đồ sộ trong tay, ông ta đã sử dụng số quân này trong việc thanh trừng và loại bỏ rất nhiều địch thủ chính trị của mình, và đến năm 365 TCN Timofanis trở thành nhà cai trị tối cao ở Korinthos với quyền lực như một bạo chúa thực thụ. Trước các hành động của anh trai, Timoleon đã nhiều lần khuyên giải và can ngăn Timofanis, nhưng không thành công. Sau cùng, ông lại nhờ anh rể của Timofanis và một nhà tiên tri khác đến khuyên can, nhưng cũng không có kết quả gì. Không còn cách nào khác, Timoleon khóc và bỏ ra ngoài để cho hai người kia giết chết Timofanis.
Hành động của Timoleon nhận được những đánh giá trái chiều nhau của công luận lúc đó. Nhiều người đã ca ngợi ông là người yêu nước, là người đã giết chết một tên bạo chúa, trả lại nền dân chủ cho Korinthos và biết đặt công lý lên trên tình cảm. Họ cũng lập luận rằng ngày xưa Timoleon đã từng cứu mạng Timofanis cho nên nay khi Timofanis làm điều xấu, ông chỉ đoạt lại mạng sống này. Những dư luận khác lại lên án Timoleon là kẻ giết anh trai ruột, đặc biệt mẹ của Timoleon, do vô cùng đau khổ trước cái chết của Timofanis, đã nguyền rủa và từ mặt Timoleon. Trước sự đả kích lớn này, Timoleon đã định tự tử, nhưng bạn bè của ông đã can ngăn kịp thời. Cuối cùng, Timoleon quyết định rời bỏ chính trường và rời bỏ thành phố Korinthos, sống ẩn dật suốt 20 năm tại vùng đồng quê với lương tâm luôn bị dằn vặt.
Viễn chinh Sicillia.
Được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng của viện binh.
Trong thời gian này, tình hình ở đảo Sicillia đang hết sức hỗn loạn. Nhiều thành bang xảy ra nội chiến, và nhiều thành bang khác chế độ độc tài của các bạo chúa được thiết lập. Người Carthago láng giềng nhân cơ hội đó đẩy mạnh các hoạt động xâm lấn vào lãnh thổ của người Hy Lạp ở Sicillia. Riêng ở Siracusa, sau khi Dion bị ám sát (354 TCN), tình hình thành phố nhanh chóng xuống dốc, nhất là khi Dionýsios II của Siracusa trở về thành phố và thiết lập lại nền độc tài của mình sau 10 năm bị lưu đày (346 TCN). Sự thống trị tàn bạo và hà khắc của Dionysios khiến cho tình hình trở nên rối loạn, quyền lực của thành bang bị suy sụp, nhiều thuộc quốc li khai khỏi Siracusa và nhiều người dân Siracusa cũng bỏ chạy khỏi thành phố. Lợi dụng điều này, Iketas, bạo chúa thành Lentini đã liên minh với những người Siracusa bất mãn cùng quân đội Carthago tấn công Siracusa, lấy danh nghĩa là giải phóng thành phố khỏi ách thống trị của Dionysios.
Lo lắng trước mối liên hệ của Iketas với người Carthago, một bộ phận người lưu vong Siracusa không chạy sang Lentini mà cử sứ giả đến Korinthos đề nghị giúp đỡ. Do Siracusa vốn là thuộc địa của Kornithos và trong thời gian này Korinthos không có chiến tranh nên yêu cầu này được phía Korinthos đồng ý. Sau đó, Đại hội nhân dân ("ekklēsia") đã quyết định chọn Timoleon làm người chỉ huy của số viện binh với số phiếu áp đảo; điều này được cho là một bất ngờ lớn vì lúc đó Timoleon đã sống ẩn dật suốt 20 năm và không có nhiều kinh nghiệm chỉ huy, điều hành.
Việc thuyết phục Timoleon không dễ dàng, vì mặc cảm về việc sát hại anh trai vẫn đè nặng ông. Tilekleidis, một chính trị gia có uy tín nhất ở Korinthos, đã tới gặp Timoleon và nói: "Nếu ông có lòng quả cảm làm được việc này thì người Kornithos sẽ nói ông đã giết một bạo chúa. Nếu không, họ sẽ nói ông đã giết chết anh ruột mình." Sau một thời gian dài kiên trì thuyết phục, Timoleon nhận lời. Năm 345 TCN, hạm đội Korinthos rời cảng trực chỉ hướng Siracusa.
Giải phóng Siracusa.
Timoleon được giao chỉ huy một hạm đội nhỏ gồm 10 tàu chiến ba tầng chèo ("trireme") và 700 lính đánh thuê tới chi viện cho Siracusa. Trong khi ông đang điểm binh, một bức thư của được cho là của Iketas gửi đến Korinthos đã được công bố trước người dân. Trong thư này, Iketas nói thành Korinthos không cần chi viện nữa, lấy nguyên do là Korinthos quá chậm trễ nên Iketas đã cầu cứu người Carthago trước. Bức thư này gây tác dụng ngược khi nó khiến dư luận Korinthos phẫn nộ và tiếp tục đóng góp thêm tiền của cho đội viện binh.
Cũng trong lúc đó, người dân Korinthos lại nhận được thông tin về giấc mơ của một nữ tư tế đền thờ thần Persefoni, nội dung rằng Persefoni và mẹ mình là Demeter sẽ theo quân viện binh đến Sicillia. Theo thần thoại Hy Lạp, đảo Sicillia là nơi thần âm phủ Hades bắt cóc Persefoni về làm vợ và đó cũng là của hồi môn của bà; thế là người dân Korinthos lại đóng thêm một con tàu riêng dành cho Persefoni. Sau đó Timoleon đến đền thờ thần Apollon tại Delphi để xin lời khuyên của thần thánh. Khi ông bước vào đền thờ làm lễ, một dải băng có biểu tượng chiến thắng đã rơi trúng đầu của Timoleon. Cũng theo tương truyền, một điềm lành khác lại xảy ra trong cuộc hành quân khi chiếc soái hạm của Timoleon được một tia sáng chiếu vào và điều này được giải thích là thánh thần đang chiếu sáng để hướng dẫn đường đi cho Timoleon. Theo Plutarchus, các dấu hiệu "thần thánh" này vô hình trung, đã củng cố tinh thần chiến đấu của đội quân viện binh.
Cuộc hải hành diễn ra tương đối thuận lợi và Timoleon cập bến ở thành phố cảng Rhegion (nay là Reggio Calabria thuộc miền cực Nam nước Ý) và được đón tiếp trọng thị. Tuy nhiên, tình hình không phải hoàn toàn màu hồng: một hạm đội Carthago với binh lực đông gấp đôi đã đến neo đậu tại thành phố này và đã phong tỏa mọi lối đi tới Siracusa. Cùng lúc đó, sứ giả của Iketas đến gặp Timoleon yêu cầu hạm đội Korinthos rút về vì "cuộc chiến đã gần kết thúc". Tương kế tựu kế, Timoleon giả vờ đồng ý và tổ chức một buổi lễ ký kết "thỏa ước rút quân" nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của phía Carthago, trong khi đó hạm đội Korinthos dưới sự giúp đỡ của người dân Rhegion đã bí mật vượt qua vòng vây một cách an toàn và đổ bộ lên Sicillia.
Tại Sicillia, Timoleon được vua Andromachos của Tauromenion (nay là thị trấn Taormina thuộc miền Đông Bắc Sicillia) tiếp đón nồng nhiệt; thậm chí Andromachos còn cho phép Timoleon sử dụng lãnh thổ của mình để làm bàn đạp cho các cuộc hành quân. Tuy nhiên phản ứng của các địa phương khác vẫn còn dè dặt vì họ lo sợ Timoleon cũng sẽ giống như các bạo chúa giả nhân giả nghĩa trước đây, thiết lập nền thống trị hà khắc lên họ. Tại Siracusa, Iketas đã đánh bại Dionysios, xâm chiếm hầu hết thành phố và vây chặt Dionysios trong pháo đài Siracusa tại đảo Ortygia. Hải quân Carthago thì vẫn tiếp tục kiểm soát vùng biển và hải cảng Siracusa. Binh lực của Timoleon chỉ có trên dưới 1.000 người và một lương quân nhu vừa đủ dùng.
Sau cùng, thành bang Ardanon (nay là Ardano ở Đông Bắc Sicillia) cử sứ giả đến cầu viện Timoleon, nguyên do là thành phố này đang xảy ra nội chiến và một trong hai phe đã cầu cứu Iketas. Timoleon mang 1.200 quân đến chi viện và khi tới Ardanon, ông phát hiện quân của Iketas đã đến ngoại vi Ardanon trước đó và vừa mới hạ trại ngoài thành. Mặc dù yếu thế về quân số (1.200 người so với 5.000 quân của Iketas), nhưng nhận thấy phía Iketas còn đang bận bịu với việc dựng trại, nấu nướng và chưa có hàng ngũ chỉnh tề, Timoleon liền xua quân tấn công chớp nhoáng và nhanh chóng đánh tan quân địch. Theo Plutarchus, tương truyền khi trận đánh đang diễn ra, các cổng đền thờ tại Ardanon bỗng dưng bật mở, để lộ ra các tượng thần chảy mồ hôi với những vũ khí đang lung lay, điều này được diễn giải là các thần thánh đang cùng Timoleon chiến đấu chống lại quân địch.
Chiến thắng chóng vánh này khiến thành phố Ardanon và nhiều vùng lân cận chuyển sang liên minh với Timoleon. Dionysios không ngoại lệ: trước đó ông ta đã định đầu hàng Iketas, nhưng sau trận Ardanon liền đổi ý quy thuận Timoleon với điều kiện được đảm bảo tính mạng và được sống yên ổn ở Korinthos. Timoleon liền cho 400 quân đến đánh chiếm pháo đài, bắt 2.000 hàng binh và thu giữ một lượng lớn quân nhu đủ để trang bị cho 70.000 người. Như vậy, chỉ trong vòng 50 ngày, Timoleon đã đánh chiếm lâu đài Siracusa và đày Dionysios đi Korinthos.
Iketas không dễ dàng bỏ cuộc. Ông ta tiếp tục phong tỏa chặt chẽ Ortygia và phái hai thích khách đến Ardanon để ám sát Timoleon, tuy nhiên kế hoạch ám sát bị thất bại ngay trong phút chót khi một người lạ mặt bất thình lình xuất hiện và giết chết một trong hai sát thủ nhằm trả thù cho người cha của anh ta đã bị sát thủ này giết trong quá khứ. Lần thoát hiểm vô cùng may mắn này được diễn giải là thần thánh đã phù hộ cho Timoleon tai qua nạn khỏi và chính Timoleon là người được trời sai xuống giải phóng hòn đảo này. Uy tín của Timoleon, nhờ đó, nhanh chóng tăng cao và nhiều người dân Sicillia lần lượt tình nguyên gia nhập quân đội của Timoleon. Trước tình hình chuyển biến nhanh chóng, Iketas và đồng minh Carthago quyết định ra tay trước. 60.000 quân Carthago cùng một hạm đội quy mô lớn dưới sự chỉ huy của Mago cấp tốc hành quân tới Siracusa. Đạo quân khổng lồ này nhanh chóng đánh chiếm phần lớn thành phố và vây chặt quân đồn trú của Timoleon tại Ortygia. Đối phó lại, Timoleon tổ chức các chuyến tàu tiếp tế từ đại bản doanh ở Katane (nay là thành phố cảng Catania ở miền Đông Sicillia) đến Ortygia, khởi hành nhân những lúc thời tiết xấu để tránh sự tầm nã của hải quân Carthago. Nhằm cắt đứt đường tiếp vận của Timoleon, Iketas cùng Mago mang một đạo binh tinh nhuệ đến công kích Katane, tuy nhiên khi số quân này vừa chớm đến nơi, họ nhận được tin quân đồn trú tại lâu đài vừa mới phản kích chiếm lại khu vực Arcadina. Đây là một vị trí có tầm quan trọng chiến lược trong thành phố, giúp củng cố đáng kể hệ thống phòng thủ tại Ortygia và mở rộng phạm vi hoạt động của quân đồn trú. Thất bại này buộc Iketas và Mago phải bỏ dở cuộc hành quân, vội vã rút về nhằm tìm cách vãn hồi tình hình.
Cùng thời gian này, phía Korinthos gửi thêm 2.000 viện binh đến giúp Timoleon. Số quân này đến Ý thì bị hạm đội Carthago phong tỏa, thêm nữa lại gặp bão nên không đổ bộ lên Sicillia được. Tin vào thời tiết xấu sẽ ngăn cản viện quân, viên tướng chỉ huy hải quân Carathago cho toàn bộ hạm đội quay về Siracusa phao tin viện quân Korinthos bị đánh tan, mong có thể nhờ đó khiến quân đồn trú của Timoleon mất tinh thần và đầu hàng. Tuy nhiên, mưu kế này đã phản tác dụng do thời tiết đột ngột chuyển biến tốt, và số viện quân đã có thể vượt biển đến Sicillia mà không phải chạm trán hạm đội Carthago. Sự "may mắn" này giúp tổng quân số của Timoleon tăng lên 4.000 người, trên cơ sở này ông đã mở một cuộc tấn công lớn nhằm quét sạch quân Iketas và Carthago khỏi Siracusa. Dĩ nhiên con số này không là gì so với 60.000 quân Carthago, nhưng những "may mắn" liên tiếp của Timoleon khiến cho phía Carthago rất lo sợ. Thêm vào đó, binh lính của Iketas, vốn là người Hy Lạp, bắt đầu bất mãn trước việc đầu quân cho người ngoại tộc đánh lại đồng bào của mình, nhất là khi các "điềm báo" cho thấy "thánh thần" đang phù hộ cho Timoleon. Kết quả, Mago cho quân rút về Carthago bất chấp sự can ngăn của Iketas. Mất đi sự ủng hộ của Carthago, quân đội Iketas tan rã nhanh chóng và Timoleon giải phóng được toàn bộ Siracusa mà không chịu tổn thất đáng kể nào. Như vậy là sau 1 năm chinh chiến, Timoleon đã hoàn thành mục tiêu giải phóng Siracusa. Iketas bị đánh bại, buộc phải rút về Lentini với hai bàn tay trắng.
Xây dựng và củng cố chính quyền mới.
Timoleon tiếp quản một Siracusa hoang tàn sau một thời gian trải qua chiến tranh liên miên và nằm dưới một nền cai trị hà khắc. Phần lớn dân cư đã bỏ chạy khỏi thành phố để tránh chiến tranh cũng như sự thống trị của các bạo chúa, đến mức chợ búa và quảng trường mọc đầy cỏ dại và ngựa cũng được nuôi ở đấy. Theo Platon, dân số Siracusa vào năm 354 TCN không vượt quá 10.000 người. Đó chính là tình trạng của một thành bang mà Timoleon có nhiệm vụ phải vực dậy và củng cố.
Trước hết, Timoleon thực hiện một bước đi chính trị nhằm xóa bỏ những ngờ vực về một nền chuyên chế mới hậu Dionysios. Ông hạ lệnh cho dỡ bỏ toàn bộ lâu đài Siracusa tại đảo Ortygia - tổng hành dinh của các bạo chúa trước đây. Đồng thời, tất cả các cung điện, đài tưởng niệm, dấu tích liên quan đến những chế độ trước đều bị phá hủy sạch sẽ. Một tòa án được xây dựng trên nền lâu đài cũ bằng vật liệu của những công trình bị phá dỡ. Sau đó, Timoleon cho vời Kephalos và Dionysios, hai luật gia của thành Korinthos đến giúp ông xây dựng luật pháp và điều hành chính thể mới của Siracusa.
Nhằm giải quyết vấn đề dân cư của Siracusa, Timoleon nhờ mẫu quốc Korinthos gửi sứ giả đi mời gọi những người Siracusa lưu vong và những người Hy Lạp khác quay về Siracusa sinh sống. Ban đầu có rất ít người lưu vong theo về, nhưng sau cùng, Timoleon cũng mời gọi được 60.000 nam cư dân gốc Sicillia và Ý (trong đó có 10.000 người Siracusa) cùng một số lớn phụ nữ, trẻ em về Siracusa. Ruộng đất được tái phân bổ lại giữa các cư dân cũ và mới, nhà cửa và các tài sản công thì được bán đấu giá, thu được tổng cộng 1.000 talanton vàng để trang trải chi phí cho chính quyền.
Về đối ngoại, từ mùa xuân năm 342 TCN, Timoleon cho quân đi khắp Sicillia lật đổ các bạo chúa còn lại trên hòn đảo và đày các bạo chúa này về Korinthos. Đối với Timoleon, việc bắt các bạo chúa về lục địa Hy Lạp cho công luận trông thấy là một vinh quang cho thành phố Korinthos. Ông cũng sai phái 1.000 quân tinh nhuệ đi xâm lấn những vùng đất của người Carthago và cho phép họ làm giàu nhờ các chiến lợi phẩm thu được.
Chiến tranh chống người Carthago.
Người Carthago không để yên như vậy. Năm 341 TCN, họ lại mở một cuộc tấn công quy mô lớn vào các thành bang Hy Lạp trên đảo Sicillia. Theo các sử liệu, lần này phía Carthago huy động đến 70.000 quân (trong đó có 2.500 quân tinh nhuệ thuộc Binh đoàn Thần thánh), 200 tàu chiến, 10.000 ngựa chiến và rất nhiều công cụ vây thành, tàu chở quân, chiến xa và các khí cụ khác, đủ dùng để duy trì một cuộc chiến lâu dài. Một đạo quân khổng lồ như vậy cho thấy người Carthago không chỉ muốn báo thù mà còn muốn vĩnh viễn đẩy lui thế lực của người Hy Lạp khỏi Sicillia. Đứng trước tình thế khẩn cấp, Timoleon buộc phải tạm ngưng các cuộc thảo phạt và mộ quân nghênh chiến. Ông chỉ có thể triệu tập một đạo quân nhỏ để chống lại phía Carthago. Trên đường đi, Timoleon buộc phải giải quyết rất nhiều khó khăn do tinh thần dao động và tình trạng đào ngũ của lính đánh thuê trong quân đội. Sau nhiều nỗ lực, vấn đề sĩ khí đã được giải quyết về cơ bản nhưng vẫn có 1.000 lính đánh thuê đã đào ngũ vì kinh sợ trước sức mạnh quân địch và bất mãn trong vấn đề lương bổng. Về phần mình, Timoleon lại cho rằng việc những phần tử phản loạn lộ diện trước trận đánh thực ra là một điều tốt và ông vẫn tiếp tục cuộc hành quân.
Vấn đề sĩ khí lại nổi lên không lâu sau đó, lần này là vì mê tín. Khi quân trinh sát của Timoleon đang thám thính động tĩnh bên doanh trại Carthago, họ nhìn thấy một đoàn la chở đầy mùi tây. Nhiều người cho rằng đây là điều cực kì xấu vì mùi tây vốn dùng để trang trí mồ mả. Timoleon nhanh trí "chữa cháy" bằng cách cải chính rằng, mùi tây được dùng để kết các vòng nguyệt quế dành cho các quán quân trong đại hội thể thao Isthmus tổ chức tại Korinthos. Vị chủ tướng đích thân kết cho mình một vòng nguyệt quế, sau đó các binh sĩ cũng bắt chước làm theo. Ngay lúc đó, hai nhà tiên tri của đoàn quân nhìn thấy hai con chim ưng đang bay lượn trên bầu trời. Điều này được giải thích là một điềm lành, nhờ thế mà sĩ khí cuối cùng cũng được khôi phục.
Hai bên dành quân chong mặt nhau ở con sông Krimissos. Theo kế hoạch của Timoleon, quân Hy Lạp sẽ tấn công khi người Carthago đang vượt sông dang dở, khi ấy chính dòng sông sẽ chia quân Carthago làm hai phần, giúp quân Hy Lạp có thể giải quyết riêng nhóm quân người Carthago chính gốc đi tiên phong, giảm bớt ưu thế quân số của phía Carthago. Còn khối quân đồng minh đang lội nước phía sau sẽ cản đường rút lui của tiền quân Carthago. Kế hoạch của Timoleon đã thành công, một phần là nhờ trận mưa giông lớn khiến quân địch lóa mắt và trượt ngã trong đống bùn, lúc đó các khiên giáp nặng nề của phía Carthago đã quay sang hại chính họ. Plutarchus ghi rằng có tổng cộng có 10.000 quân Carthago tử trận, trong đó bao gồm toàn bộ Binh đoàn Thần thánh tinh nhuệ nhất trong quân đội Carthago. Quân của Timoleon bắt được toàn bộ số chiến lợi phẩm khổng lồ trong doanh trại quân địch cùng rất nhiều tù binh, trong đó có 5.000 người được đưa về Siracusa. Timoleon đã gửi một số bộ áo giáp đẹp nhất về Korinthos làm bằng chứng cho trận thắng này.
Người Carthago lại đem quân tấn công Siracusa một lần nữa. Họ nhận được sự trợ giúp của một số bạo chúa, trong đó có Iketas và Marmekos, người cai trị thành Katane. Phía Carthago và các đồng minh giành được một số chiến thắng ban đầu, nhưng Timoleon đã giành một chiến thắng quan trọng khi đánh bại cuộc tập kích của Iketas, tiêu diệt 1.000 quân và bắt sống ông ta. Iketas cùng vợ con đều bị xử tử để trả thù cho việc ông này đã giết vợ và con trai của Dion. Sau đó, Timoleon tiến đánh Marmekos ở Katane và tiêu diệt 2.000 quân của Marmekos, trong đó có nhiều lính đánh thuê của Carthage. Marmekos chạy trốn đến Messini, nhưng bị Timoleon bắt giữ cùng với người bạo chúa cai trị thành này là Hippo. Cả hai đều bị xử tử. Cuối cùng, Carthage phải chấp nhận ký hòa ước, lấy sông Halycus (Platani) làm ranh giới và không được trợ giúp các bạo chúa ở Sicillia. Các bạo chúa còn lại đều bị Siracusa đánh dẹp.
Cai trị Siracusa.
Timoleon soạn thảo hiến pháp mới cho Siracusa, một hiến pháp được cho là dân chủ thời kỳ đó. Tuy nhiên ông vẫn giữ quyền lực tối thượng của chỉ huy quân đội - nhiều sử gia coi ông là một bạo chúa nhưng có chính sách cai trị nhân từ và có ý thức giữ gìn hình thức dân chủ. Thành phố Siracusa bước vào giai đoạn phục hồi và thịnh vượng.
Timoleon sống đến hết đời ở Siracusa. Ông không trở về Hy Lạp để tranh đoạt quyền lực như nhiều thống soái nổi tiếng khác của Hy Lạp. Cuối đời, Timoleon bị mù cả hai mắt và phải nghỉ hưu, tuy nhiên người ta vẫn thỉnh ông đến Đại hội dân chúng để xin ý kiến về các vấn đề nan giải. Sau khi qua đời (336 TCN), Timoleon được tổ chức tang lễ trọng thể, và an táng trong lăng mộ ở quảng trường-chợ của thành phố. Một học viện cũng được đặt tên là Timoleon. | 1 | null |
Antonov A-1 và các thiết kế liên quan là họ tàu lượn huấn luyện một chỗ, được sản xuất tại Liên Xô vào thập niên 1930 và 1940. Tất cả đều được bắt nguồn từ mẫu Standard-2 (Стандарт-2) (được thiết kế bởi Oleg Konstantinovich Antonov năm 1930), sau đó nó chuyển sang Standard-1.
Biến thể.
Trong mỗi trường hợp, "s" nghĩa là "serii" (серии – "series") | 1 | null |
Gian lận ngoại hối là bất kỳ ý đồ mua bán nào được sử dụng để lừa đảo thương nhân bằng cách thuyết phục họ rằng họ có thể kỳ vọng thu được lợi nhuận cao bằng trao đổi trên thị trường ngoại hối. Trao đổi tiền tệ "đã trở thành sự gian lận thời thượng" vào đầu năm 2008, theo Michael Dunn của Ủy ban giao dịch tương lai hàng hóa Mỹ.
Nhưng "thị trường từ lâu đã bị cản bởi những kẻ lừa đảo săn tìm những người cả tin", theo "The New York Times".
"Nạn nhân trao đổi ngoại hối cá nhân trung bình mất khoảng 15.000 USD, theo hồ sơ của CFTC " theo "The Wall Street Journal".
Hiệp hội các nhà quản trị Chứng khoán Bắc Mỹ nói rằng "giao dịch ngoại hối ngoài sàn của các nhà đầu tư nhỏ lẻ ở mức tốt nhất là vô cùng nguy hiểm, và ở mức tồi tệ nhất, là gian lận hoàn toàn."
"Trong một trường hợp điển hình, các nhà đầu tư có thể được hứa hẹn hàng chục ngàn đôla lợi nhuận chỉ trong một vài tuần hay vài tháng, với vốn đầu tư ban đầu chỉ có 5.000 USD. Thông thường, tiền của nhà đầu tư không bao giờ thực sự được đưa vào thị trường thông qua một đại lý hợp pháp, mà chỉ đơn giản là chuyển hướng - bị đánh cắp - vì lợi ích cá nhân của những kẻ lừa đảo."
Vào tháng 8 năm 2008 CFTC thiết lập một lực lượng đặc nhiệm để đối phó với gian lận ngoại hối ngày càng tăng. Vào tháng 1 năm 2010, CFTC đề xuất quy định mới hạn chế đòn bẩy xuống mức 10-1, dựa trên "một số hành vi không thích hợp" trong thị trường ngoại hối bán lẻ, "trong đó có gian lận mồi chài, sự thiếu minh bạch trong việc định giá và thực hiện giao dịch, không đáp ứng các khiếu nại của khách hàng, và nhắm mục tiêu vào những người chất phác, cao tuổi, có giá trị tài sản thấp và các cá nhân dễ bị tổn thương khác."
Thị trường ngoại hối ở mức tốt nhất là một trò chơi có tổng bằng không,
có nghĩa là khi một thương nhân được, thì một thương nhân khác thua. Tuy nhiên, hoa hồng môi giới và các chi phí giao dịch khác được trừ vào kết quả của tất cả các thương nhân, làm cho trao đổi ngoại hối là một trò chơi có tổng âm.
Các gian lận có thể bao gồm khuấy tài khoản của khách hàng với mục đích tạo ra hoa hồng, bán phần mềm được cho là chỉ dẫn cho khách hàng cách thu nhiều lợi nhuận,
quản lý không đúng cách các "tài khoản được quản lý",
quảng cáo láo,
các sơ đồ Ponzi và gian lận hoàn toàn.
Nó cũng đề cập đến bất kỳ nhà môi giới ngoại hối bán lẻ nào chỉ ra rằng kinh doanh ngoại hối là đầu tư rủi ro thấp, lợi nhuận cao.
Ủy ban giao dịch tương lai hàng hóa Mỹ (CFTC), nơi quản lý một cách lỏng lẻo thị trường ngoại hối tại nước Mỹ, đã ghi nhận sự gia tăng số lượng của hoạt động vô đạo đức trong ngành công nghiệp ngoại hối phi ngân hàng.
Một quan chức của Hiệp hội tương lai quốc gia đã được trích dẫn khi nói, "trao đổi ngoại hối bán lẻ đã tăng lên đáng kể trong vài năm qua. Thật không may, số lượng gian lận ngoại hối cũng đã tăng lên đáng kể." Từ năm 2001 đến năm 2006, Ủy ban giao dịch tương lai hàng hóa Hoa Kỳ đã truy tố hơn 80 trường hợp liên quan đến việc lừa đảo hơn 23.000 khách hàng đã bị mất 350 triệu USD. Từ năm 2001 đến năm 2007, khoảng 26.000 người bị mất 460.000.000 USD trong các gian lận ngoại hối.
CNN dẫn lời Godfried De Vidts, Chủ tịch Hiệp hội thị trường tài chính, một cơ quan của châu Âu, cho biết, "Các ngân hàng phải có trách nhiệm bảo vệ khách hàng của họ và họ nên chắc chắn rằng khách hàng hiểu những gì họ đang làm. Bây giờ nếu mọi người vào trực tuyến, tại các cổng thông tin phi ngân hàng, làm thế nào kiểm soát này được thực hiện?"
Không đánh bại được thị trường này.
Thị trường ngoại hối là một trò chơi có tổng bằng không trong đó có nhiều nhà đầu cơ chuyên nghiệp có vốn lớn giàu kinh nghiệm (ví dụ như làm việc cho các ngân hàng), những người có thể dành sự chú ý toàn thời gian của họ để mua bán. Một thương nhân bán lẻ thiếu kinh nghiệm sẽ có một bất lợi thông tin quan trọng so với các thương nhân này.
Thương nhân bán lẻ - gần như theo định nghĩa - là thiếu vốn. Vì vậy, họ khó tránh khỏi vấn đề sạt nghiệp của con bạc. Trong một "trò chơi công bằng" (một trò chơi không có lợi thế thông tin) giữa hai người chơi duy trì cho đến khi một thương nhân bị phá sản, người chơi với số vốn thấp hơn có xác suất bị phá sản trước cao hơn. Vì nhà đầu cơ bán lẻ đang chơi có kết quả với thị trường nói chung - trong đó có nhiều vốn hơn - họ gần như chắc chắn sẽ bị phá sản. Thương nhân bán lẻ luôn luôn trả tiền chênh lệch mua bán làm cho cơ hội thắng của anh ta thấp hơn so với người chơi một trò chơi công bằng. Chi phí bổ sung có thể bao gồm tiền lãi ký quỹ, hoặc nếu một vị thế giao ngay được duy trì mở trong nhiều hơn một ngày thì trao đổi có thể được "tái chuyển" mỗi ngày, mỗi lần làm mất đủ một chênh lệch mua bán đầy đủ.
Mặc dù có thể có một vài chuyên gia thực hiện thành công nghiệp vụ acbit (hưởng chênh lệch) thị trường để thu một hoàn vốn lớn bất thường, điều này không có nghĩa là một số lượng lớn có thể kiếm được hoàn vốn tương tự ngay cả khi có cùng các công cụ, kỹ thuật và các nguồn dữ liệu tương tự. Điều này là do hưởng chênh lệch về bản chất được rút ra từ một nhóm kích thước hữu hạn; mặc dù thông tin về cách giành được các khoản chênh lệch là một loại hàng hóa không kình địch, nhưng bản thân các khoản chênh lệch lại là một loại hàng hóa kình địch. (Để minh họa tương tự, tổng lượng kho báu chôn giấu trên một hòn đảo là như nhau, bất kể việc các thợ săn kho báu đã mua bao nhiêu bản sao bản đồ kho báu.)
Paul Belogour, Giám đốc điều hành của một thương gia ngoại hối bán lẻ đặt tại Boston, được trích dẫn bởi "Thời báo Tài chính" là nói rằng "Trao đổi ngoại hối là cách thức tuyệt vời cho các nhà đầu tư tìm hiểu thị trường thực sự khó khăn như thế nào. Nhưng tôi nói với khách hàng: nếu đây là tiền bạn đã làm việc cực nhọc để có được - mà bạn không thể để mất - thì đừng bao giờ, đừng bao giờ đầu tư vào ngoại hối."
Đòn bẩy cao.
Bằng cách cung cấp đòn bẩy cao một số nhà tạo lập thị trường khuyến khích các thương nhân trao đổi các vị thế cực lớn. Điều này làm tăng khối lượng trao đổi thông qua các nhà tạo lập thị trường và làm tăng lợi nhuận của họ, nhưng làm tăng nguy cơ rằng nhà đầu tư sẽ nhận được một gọi biên (gọi ký quỹ). Trong khi các đại lý tiền tệ chuyên nghiệp (ngân hàng, quỹ phòng hộ) có xu hướng sử dụng đòn bẩy không quá 10:1, thì các khách hàng bán lẻ có thể được cung cấp đòn bẩy trong khoảng từ 50:1 tới 400:1.
Vụ lừa đảo bị cáo buộc theo quốc gia.
Israel.
Ở Israel có hơn 20 công ty ngoại hối hoạt động, một con số lớn so với quy mô dân số, do một số công ty trong số này hoạt động từ Israel nhưng tập trung vào việc thu hút các khách hàng nước ngoài.
Síp.
Một lượng lớn các công ty ngoại hối đã đăng ký với Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Síp (CySEC) để tận dụng lợi thế của các quy định dễ dàng trong khi cho phép tiếp cận vào tất cả các nước Liên minh châu Âu thông qua MiFID. Một lượng lớn trong số này hoạt động từ Síp nhưng tập trung vào việc thu hút khách hàng nước ngoài. Trong một vụ việc, một khách hàng đã kiện công ty Easy Forex, cáo buộc rằng công ty này trả tiền thưởng môi giới khi khách hàng bị mất tiền và bị phạt tiền môi giới khi khách hàng thu được lợi nhuận. Một báo cáo của truyền hình Israel dẫn lời một nhà môi giới của Easy Forex nói rằng "Tôi đã nở nụ cười độc ác này trên khuôn mặt mình vào một ngày, khi một khách hàng bị mất 35.000 USD trong vòng chỉ có 15 phút. Một gã bị xóa sổ - và tôi nhận được hoa hồng của mình. Một gã giành chiến thắng và kiếm được lợi nhuận - và tôi phải trả tiền." | 1 | null |
Tưởng Hân (sinh ngày 8 tháng 5 năm 1983) là nữ diễn viên truyền hình người Trung Quốc được biết đến nhiều nhất với vai "Mộc Uyển Thanh " trong "Thiên Long Bát Bộ năm 2003".
Tiểu sử.
Tưởng Hân là người Hồi sinh ra tại Ürümqi, Tân Cương nhưng lớn lên ở Hà Nam.
Năm 7 tuổi, cô vào học ở Đoàn kịch nghệ thuật thiếu nhi Trịnh Châu. Lên 8 tuổi, cô theo học ở đoàn kịch thiếu nhi tỉnh Hà Nam, sau tốt nghiệp ở trường nghệ thuật điện ảnh chuyên nghiệp Hà Nam. Khi 9 tuổi, cô đã bắt đầu tham gia đóng phim truyền hình.
Năm 16 tuổi, gia đình chiều theo mong muốn của cô là chuyển đến sống tại Bắc Kinh. Sau đó, cô bắt đầu cuộc sống mới ở Bắc Kinh và liên tục tham gia rất nhiều bộ phim khác nhau.
Năm 2003, Tưởng Hân tham gia bộ phim Thiên long bát bộ của Trương Kỷ Trung với vai Mộc Uyển Thanh.
Đến năm 2011, vai Hoa phi của cô trong Hậu cung Chân Hoàn truyện đã gây được tiếng vang lớn ở trong nước, cô được tạp chí Nam Đô bình chọn là một trong tứ đại mỹ nhân Bắc Kinh năm 2014
Tính đến nay (2013), cô đã tham gia 39 phim truyền hình bao gồm cả các vai khách mời. Sau khi tham gia diễn xuất vai Kiều Thanh Tú trong sê ri phim truyền hình tên là "Trụy tử hoàng hậu", cô nhận được sự chào đón nồng nhiệt trên cả nước và sau đó trở thành ngôi sao nhí nổi tiếng ở Hà Nam. Trong suốt quá trình tham gia sê ri "Đại cước mã hoàng hậu", cô luôn bận rộn nhưng không có bất kỳ lời phàn nàn nào. Cô được đạo diễn Chu Hiểu Văn đánh giá khá cao và được nhận xét là 1 nữ diễn viên rất siêng năng. | 1 | null |
Konpeitō (金平糖, こんぺいとう, コンペイトー) là một loại kẹo của Nhật Bản với hình dáng bề ngoài không đồng đều trông như một bông hoa giấy và cứng như đá. Vào thời kỳ Meiji, konpeitō đã trở thành một trong những tiêu chuẩn cho các loại đồ ngọt trong văn hóa Nhật Bản và cũng được xem như một loại quà biếu trong Hoàng gia Nhật Bản khi đó. Còn hiện tại thì kẹo cũng được bán như quà lưu niệm, do có nhiều thị hiếu khác nhau kẹo cũng được làm với nhiều màu sắc và hương vị khác nhau.
Nguồn gốc.
Một trong các giả thuyết về nguồn gốc của loại kẹo này là du nhập từ Bồ Đào Nha. Từ "konpeitō" có thể phát âm giống "confeito" tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là kẹo ngọt. Kỹ thuật sản xuất bánh kẹo đã được giới thiệu đến Nhật Bản vào những năm đầu thế kỷ 16 bởi các thương nhân Bồ Đào Nha. Khi đó cơ sở hạ tầng và công nghệ tinh chế đường vẫn chưa được xây dựng tại Nhật Bản, konpeitō thì lại sử dụng rất nhiều đường vì thế nó rất đắt tiền và hiếm.
Biến thể.
Loại kẹo này bắt đầu có khá nhiều hương vị và màu sắc khác nhau khác với loại kẹo nguyên bản. Như việc có một số loại pha thêm rượu như shōchū vào công thức chế biến và từ đó các công ty sản xuất kẹo khác nhau bắt đầu pha thêm các loại rượu khác như sake, whisky, umeshu, các thành phần tạo ra các hương vị khác nhau cũng được sử dụng cho việc chế biến. | 1 | null |
Ghiyāth al-Dīn Jamshīd Masʿūd al-Kāshī (hay al-Kāshānī) (tiếng Ba Tư: غیاثالدین جمشید کاشانی) (1370/1380/1390-1429/1450) là nhà toán học người Ba Tư. Ông là một trong những nhà toán học xuất sắc nhất cuối thời toán học Hồi giáo. Ông là một trong những nhà khoa học lớn cuối cùng của trường phái Samarkand, một trong những trường phái lớn về khoa học thời kỳ Hồi giáo. Ông là người đầu tiên đã tính số Pi tới hơn 10 chữ số, phá kỷ lục của nhà toán học Trung Quốc Tổ Xung Chi. Với con số Pi chứa 17 chữ số, nhà toán học người Ba Tư đã lập nên kỷ lục mới, phá vỡ thế độc tôn của số Pi của Tổ Xung Chi đã tồn tại trong suốt hơn 1000 của lịch sử toán học. Để làm được điều này, al-Kāshī đã xét các đa giác đều có cạnh nối tiếp và ngoại tiếp đường tròn. Đây là cách mà Archimedes đã từng sử dụng và nó khác hoàn toàn với phương pháp tô điểm của Tổ Xung Chi. Ngoài ra al-Kāshī còn dự báo số Pi là con số vô tỉ, tức là không thể biểu diễn nó dưới dạng bất cứ tỉ lệ nào, điều được nhà toán học người Thụy Sĩ Johann Heinrich Lambert chứng minh vào hơn 200 năm sau đó. Thêm vào đó, không thể không kể tới việc phát minh ra định lý sin (tên gọi phổ biến của định lý al-Kashi) của nhà toán học này. Nhờ đó, ta dễ dàng tính giá trị các góc của một tam giác khi chỉ biết giá trị của các cạnh. | 1 | null |
Lốc tuyết là một trận bão tuyết cực mạnh và rất lạnh, là một hiện tượng thiên nhiên nguy hiểm.
Hình thành và miêu tả.
Một trận bão tuyết dữ dội có thể có sức gió lên đến 72 km/giờ và hàn phong lạnh tới -39 độ C. Nó được gọi là lốc tuyết. Lốc tuyết làm cho trời đất trắng toát vì tuyết mù mịt.
Tác động.
Lốc tuyết rất nguy hiểm, những đám mây tuyết mù mịt rút ngắn tầm nhìn chỉ còn 10m, khiến các lái xe lạc tay lái, khách bộ hành mất phương hướng nên rất dễ gặp tai nạn. Gió cũng dồn những đống tuyết lớn vào bờ tường, bờ rào và những vật cản khác làm chúng đổ sập; chôn vùi xe xộ và con người dưới tuyết. | 1 | null |
Zeno xứ Elea (tiếng Pháp: Zénon d'Elée) (501/490-430/429TCN) là một nhà toán học, nhà triết học người Hy Lạp. Ông là một nhà khoa học lớn đến từ thành phố Elea, một thành phố hiện nay nằm ở miền Nam nước Ý. Ông là tác giả của Nghịch lý Zeno nổi tiếng. Đây là một trong những nghịch lý khoa học nổi tiếng nhất. Nhờ có nó, Zeno đã góp phần thúc đẩy sự xuất hiện của khái niệm giới hạn, một khái niệm vô cùng quan trọng để con người tiến tới khái niệm vô hạn. Ông còn là người đã có ảnh hưởng tới các nhà triết học xuất sắc của Hy Lạp như Platon, Aristoteles. Aristotle đã gọi Zeno là nhà phát minh của biện chứng.
Tiểu sử.
Zeno sinh ra tại Ele, miền tây nam của nước Ý. Ông trở thành cậu học trò yêu quý của nhà triết học Parmenides. Zeno đã theo người thầy của mình khi đã 40 tuổi đến thủ đô của Hy Lạp là Athens. Ở thành phố này, Zeno có giảng dạy triết học trong vài năm, tập trung nghiên cứu vào siêu hình học của trường phái Elea. Ở đây, ông có nhiều học trò xuất sắc như Pericles và Callias. Sau đó, Zeno lại trở về quê hương, Theo tương truyền, ông tham gia việc giải cứu thành phố xinh đẹp khỏi bàn tay của tên bạo chúa Nearchus. Khi thất bại trong việc này, Zeno đã bị tra tấn dã man, nhưng ông cương quyết không khai ra bất kỳ những người hành động cùng với ông. Còn nhiều điều về cuộc đời của ông, nhưng không ai biết được.
Đóng góp.
Những nghịch lý.
Có lẽ đây là lĩnh vực gây ra nhiều thích thú nhất khi ai đó tìm hiểu về Zeno. Những nghịch lý nổi tiếng trong hệ thống nghịc lý Zeno là các nghịch lý về chuyển động: Achilles và con rùa, Mũi tên bay và Nghịch lý phân đôi Zeno. Những nghịch lý khoa học này gây đau đầu cho những người tìm hiểu về chúng cho đến tận bây giờ.
Triết học.
Trong lĩnh vực này, Zeno đã thể hiện ra rằng mình chịu ảnh hưởng từ người thầy như thế nào. Ông tiếp nhận triết tin của nhà triết học này, triết tin có nội dung rằng bất kỳ một hữu thể nào đều đơn nhất, bất phân, dù biểu hiện đa dạng dưới cái nhìn đầy cảm giác. Dựa vào đó, Zeno muốn phản bác các giác quan.
Ảnh hưởng.
Những nghịch lý của Zeno đã tạo nên phép biện chứng. Điều đó ảnh hưởng không hề nhỏ đến sự phát triển của khoa học. | 1 | null |
Once Upon a Time in America, (tạm dịch: "Ngày xửa ngày xưa ở nước Mĩ"), là một bộ phim sử thi về tội phạm Mỹ do Sergio Leone đạo diễn với hai diễn viên chính Robert De Niro và James Woods. Bộ phim khai thác về đề tài tình bạn, tình yêu, tình dục, lòng tham, sự phản bội, sự mất mát và sự nổi lên của những tên tội phạm trong xã hội Mỹ.
Nội dung.
Bộ phim tái hiện 3 giai đoạn trong lịch sử nước Mỹ: những năm đầu thập niên 20, khoảng năm 1933 và năm 1968.
Những năm đầu thập niên 20, Noodles chỉ là một đứa trẻ đường phố ở New York. Băng nhóm của Noodles quậy phá, móc túi, cướp giật, đánh nhau. Noodles thầm yêu Deborah. Cậu ta thường nhìn trộm cô tập múa trong một nhà kho. Debora vừa sợ vừa khâm phục tên con trai si tình có cá tính mạnh mẽ.
Cuối những năm 20, nước Mỹ bắt đầu bước vào thời kỳ đại suy thoái kinh tế. Chính phủ ban hành lệnh cấm buôn bán rượu trên toàn quốc. Các tổ chức buôn lậu rượu mọc lên như nấm. Nhiều băng đảng chuyển sang buôn lậu thứ nước có cồn. Nhóm của Noodles cũng không bỏ qua cơ hội này. Cứ sau mỗi phi vụ chúng lại cất một nửa tiền trong tủ sắt thuê ngoài ga tàu. Khi ấy thị trường rượu lậu ở New York nằm dưới quyền kiểm soát của băng đảng do Bugsy cầm đầu. Hoạt động của nhóm Noodles khiến chúng tức giận. Bugsy quyết định tiêu diệt "bọn trẻ ranh". Trong một lần đụng độ, Bugsy thẳng tay bắn chết một cậu bé trong nhóm. Noodles xông tới, đâm nhiều nhát dao vào ngực Bugsy...
Đánh giá.
Giải thưởng của Viện Hàn lâm Nhật Bản 1985: Phim nước ngoài hay nhất.
Đề cử Quả cầu vàng 1985: Đạo diễn xuất sắc nhất, Kịch bản gốc xuất sắc nhất | 1 | null |
Marco van Ginkel (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1992), là một cầu thủ bóng đá người Hà Lan đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ PSV tại Giải vô địch bóng đá Hà Lan và đội tuyển Hà Lan. Van Ginkel gia nhập học viện SBV Vitesse vào năm 1999 khi mới 7 tuổi. Năm 2010, Ginkel bắt đầu được tham gia thi đấu chuyên nghiệp.
Trong màu áo đội tuyển quốc gia, Ginkel từng là thành viên của đội U-19 và U-21 Hà Lan.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Vitesse Arnhem.
van Ginkel có trận ra mắt cho Vitesse vào ngày 9 tháng 4 năm 2010, anh vào sân thay cho Nicky Hofs vào phút 67 trong trận thua 4-1 của CLB trước RKC Waalwijk (khi đó anh mới 17 tuổi). Bàn thắng đầu tiên của anh khi chuyển lên thi đấu chuyên nghiệp diễn ra vào phút 43 khi anh gỡ hòa 2-2 trong trận thua 4-2 của Vitesse trước Ajax.
Ở Cúp KNVB vào ngày 19 tháng 12 năm 2012, van Ginkel ghi bàn thắng thứ hai của Vitesse trong chiến thắng 10-1 đáng nhớ. van Ginkel đã ghi một cú đúp và Wilfried Bony ghi được một hattrick giúp Vitesse thắng Heracles 5-3. Sau một mùa giải xuất sắc, van Ginkel ghi được 8 bàn thắng và Vitesse kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 4, vị trí cao nhất của CLB kể từ năm 1998. van Ginkel nhận giải thưởng cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của Hà Lan. Huấn luyện viên Peter Bosz đánh giá anh như là một Frank Lampard của Vitesse.
Chelsea.
Ngày 3 tháng 7 năm 2013, trang chủ Chelsea xác nhận đã đạt được thỏa thuận với Vitesse về việc chuyển nhượng van Ginkel. Cầu thủ người Hà Lan sẽ chính thức gia nhập Chelsea sau khi hoàn tất buổi kiểm tra y tế, điều khoản thỏa thuận cá nhân và hồ sơ pháp lý. Phí chuyển nhượng ước tính vào khoảng 8 triệu £. Hai ngày sau, Chelsea hoàn tất vụ chuyển nhượng với bản hợp đồng có thời hạn năm năm cùng van Ginkel.
Anh có trận đấu đầu tiên cho Chelsea trong trận đấu giao hữu trước mùa giải với Singha All-Stars tại Thái Lan. Ngày 18 tháng 8, anh ra sân lần đầu tiên tại Giải Ngoại hạng Anh khi vào thay cho Oscar ở phút 85 trận đấu với Hull City.
AC Milan.
Ngày 1 tháng 9 năm 2014, câu lạc bộ Ý AC Milan thông báo đã mượn được Marko van Ginkel từ Chelsea cho đến hết mùa giải 2014–15. Anh có trận đầu tiên cho AC Milan vào ngày 23 tháng 9 gặp Empoli nhưng chỉ thi đấu được vỏn vẹn 34 phút trước khi phải rời sân vì chấn thương mắt cá chân.
Stoke City.
Ngày 10 tháng 7 năm 2015, van Ginkel gia nhập Stoke City theo thỏa thuận cho mượn từ Chelsea cho đến hết mùa giải 2015-16. Van Ginkel có trận đấu đầu tiên cho Stoke vào ngày 9 tháng 8 trong trận thua Liverpool 1-0. Stoke City sau đó quyết định chấm dứt hợp đồng mượn van Ginkel trước thời hạn vào ngày 1 tháng 2 năm 2016 sau khi họ có được chữ ký của tiền vệ người Pháp Giannelli Imbula.
PSV Eindhoven.
Điểm đến tiếp theo của van Ginkel sau khi bị Stoke chấm dứt hợp đồng là đội bóng Hà Kan PSV Eindhoven, theo thỏa thuận cho mượn đến cuối mùa giải 2015-16.
Sự nghiệp quốc tế.
Ngày 14 tháng 10 năm 2012, van Ginkel có trận ra mắt đội tuyển quốc gia trong trận giao hữu giữa Hà Lan và Đức tại Amsterdam Arena (trận đấu kết thúc với tỉ số hòa 0-0). Tháng 5 năm 2013, van Ginkel được gọi vào đội hình U-21 Hà Lan để tham dự giải đấu dành cho U-21 tại Israel. | 1 | null |
Georg Hermann von Broizem (5 tháng 10 năm 1850 tại Leipzig – 11 tháng 3 năm 1918 tại Dresden) là một sĩ quan quân đội Sachsen, đã được thăng đến cấp Thượng tướng kỵ binh vào ngày 28 tháng 10 năm 1904. Ông từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871).
Lịch sử.
Georg Hermann sinh ra trong gia đình quý tộc lâu đời Broizem xuất xứ từ Braunschweig. Ông là một trong 6 người con của Eduard von Broizem, một chưởng lý làm việc trong Bộ Tài chính Sachsen, và Nữ nam tước Bertha von Seckendorf. Sau khi học xong, ông nhập ngũ vào năm 1868 với vai trò là ứng viên sĩ quan trong Trung đoàn Trọng kỵ binh Cận vệ số 1 Vương quốc Sachsen, đơn vị mà sau này ông sẽ chỉ huy. Với trung đoàn này, ông đã tham gia chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Vào năm 1877, ông thành hôn với Nữ Công tước Alexandra von Fersen. Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho họ 4 người con trai và 3 người con gái.
Vào ngày 18 tháng 10 năm 1904, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh của Quân đoàn XII (I Vương quốc Sachsen). Ngày 21 tháng 9 năm 1909, ông được phong danh hiệu à la suite của Trung đoàn Kỵ mã Cận vệ (I Schweres). Ông xuất ngũ vào ngày 26 tháng 10 năm 1910. Nhưng trong cuộc tổng động viên quân đội Đức khi Chiến tranh thế giới thứ nhất, Broizem được triệu hồi làm Phó Tướng Tư lệnh Quân đoàn XII. Trên cương vị này, ông ở lại hậu phương, hỗ trợ cho các tướng tư lệnh Karl Ludwig d'Elsa rồi sau đó là Horst Edler von der Planitz cho đến khi từ trần do một cơn đau tim vào ngày 11 tháng 3 năm 1918. Hoạt động tại đại bản doanh của Quân đoàn XII ở kinh đô Dresden, tướng Broizem, cùng với Phó Tướng tư lệnh von Schweidnitz của Quân đoàn XIX và Bộ trưởng Nội vụ Christoph Graf von Vitzthum von Eckstadt nắm thực quyền cai trị Vương quốc Sachsen thời chiến. | 1 | null |
Chuột chù Kẻ Gỗ, tên khoa học Crocidura kegoensis, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Lunde, Musser & Ziegler mô tả năm 2005. Chúng là loài động vật đặc hữu của Việt Nam, được phát hiện tại Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Kẻ Gỗ thuộc tỉnh Hà Tĩnh. | 1 | null |
Chuột chù Phan Lương, tên khoa học Crocidura phanluongi, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Jenkins, Abramov, Rozhnov & Olsson mô tả năm 2010. Chúng được phát hiện đầu tiên vào năm 2006 tại Vườn Quốc gia Virachey (Đông bắc Campuchia), sau đó vào năm 2007, phát hiện thêm tại 3 điểm ở miền Nam Việt Nam. Chúng được tên theo nhà sinh vật học Việt Nam Phan Lương. | 1 | null |
Đế quốc Tân Babylon, còn được gọi là Đế chế Babylon thứ hai và thường được các nhà sử học nhắc đến là Đế chế Chaldea, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được cai trị bởi các vị vua bản địa Lưỡng Hà. Bắt đầu với việc Nabopolassar lên ngôi với tư cách là Vua của Babylon vào năm 626 TCN và trở nên hùng mạnh sau sự sụp đổ của Đế quốc Tân Assyria vào năm 612 TCN, Đế quốc Tân Babylon chỉ tồn tại trong ít hơn một thế kỷ và cuối cùng bị Đế chế Achaemenes Ba Tư chinh phục vào năm 539 TCN.
Việc Assyria thua trận và chuyển giao vị trí đế quốc cho Babylonia đã đánh dấu lần đầu tiên thành phố Babylon nói riêng và vùng Nam Lưỡng Hà nói chung, trỗi dậy thống trị vùng Cận Đông cổ đại, kể từ khi Đế chế Cổ Babylon của Hammurabi sụp đổ gần một ngàn năm trước. Thời kỳ Tân Babylon chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế và dân số chưa từng có trên khắp Babylonia cùng với sự phục hưng của văn hóa nghệ thuật, với những công trình xây dựng hoành tráng, đặc biệt là ở Babylon, làm sống lại nhiều nét đặc trưng cổ của văn hóa Sumer-Akkad từ hai ngàn năm trước đó hoặc xa hơn nữa.
Đế chế vẫn giữ được một vị trí đặc biệt trong văn hóa hiện đại ngày nay chủ yếu là do hình ảnh tiêu cực của Babylon và vua Nebuchadnezzar II được thể hiện trong Kinh Thánh, quy trách nhiệm cho Nebuchadnezzar trong việc tàn phá Jerusalem năm 587 TCN và cầm tù người Do Thái ở Babylon. Trong khi đó, các nguồn sử liệu Babylon mô tả triều đại của Nebuchadnezzar là thời kỳ hoàng kim đã đưa Babylonia trở thành đế chế vĩ đại nhất thời bấy giờ.
Các chính sách tôn giáo được áp đặt bởi vị vua cuối cùng của Đế chế, Nabonidus, người ủng hộ vị thần mặt trăng Sîn thay cho vị thần bảo trợ của Babylon Marduk, đã tạo ra một "cái cớ" cho Cyrus Đại đế của Achaemenes xâm chiếm Babylonia vào năm 539 TCN, dưới ngọn cờ phục thù cho Marduk. Babylon vẫn giữ được văn hóa đặc trưng trong nhiều thế kỷ, thể hiện qua các cái tên Babylon và tôn giáo Babylon vẫn được nhắc tới cho đến cuối thời kỳ Parthia vào thế kỷ 1 TCN. Mặc dù Babylon nổi dậy nhiều lần trong thời kỳ cai trị của các đế chế sau này, nhưng vẫn không thể nào khôi phục nền độc lập.
Bối cảnh.
Babylonia được thành lập một thủ lĩnh Amorite là Sumu-abum 1894 TCN. Trong hơn một thế kỷ sau khi thành lập, nó là một quốc gia tiểu nhược, bị lu mờ bởi các quốc gia mạnh hơn như Isin, Larsa, Assyria và Elam. Tuy nhiên, Hammurabi (1792-1750 TCN) đã biến Babylon thành một cường quốc và chinh phục toàn bộ Lưỡng Hà, thành lập Đế chế Cổ Babylon. Sau cái chết của Hammurabi, Đế quốc Babylon suy tàn, và Babylon một lần nữa trở lại là một quốc gia nhỏ. Babylonia rơi vào vua Hittite Mursili I 1595 TCN, sau đó bị người Kassite cai trị trong gần năm thế kỷ trước người Babylon nổi dậy giành độc lập.
Dân số Babylonia trong thời kỳ hậu Kassite hoặc Trung Babylon này bao gồm hai nhóm chính; người Babylon bản địa (bao gồm hậu duệ của người Sumer và Akkad, người Amorite và Kassite bị đồng hóa) và những người di cư mới (như Aram và Chaldea). Đến thế kỷ thứ 8, các nhóm dân tộc bản địa mất dần bản sắc và đã dung hòa thành một nền văn hóa "Babylon" thống nhất. Đồng thời, người Chaldea, mặc dù vẫn giữ hình thái bộ tộc và lối sống của họ, ngày càng trở nên "Babylon hóa". Những người Chaldea được Babylon hóa này dần nằm vai trò quan trọng trong chính trị Babylon và vào năm 730 TCN, tất cả các bộ lạc Chaldea lớn đều có ít nhất một vị vua Babylon.
Trong thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 8 TCN, vương quốc Babylon độc lập suy yếu trầm trọng và cuối cùng bị người láng giềng hùng mạnh phía bắc của Babylonia, Đế quốc Tân Assyrian (cũng nói tiếng Akkad), can thiệp quân sự năm 745 TCN và sáp nhập Babylonia vào đế chế năm 729 TCN.' Cuộc chinh phạt của người Assyria đã bắt đầu một cuộc đấu tranh kéo dài một thế kỷ để giành độc lập của người Babylon. Tuy nhiên, ách đô hộ của người Assyria ở Babylonia không ổn định hoặc hoàn toàn liên tục và trong thế kỷ đô hộ của Assyria, có nhiều cuộc nổi dậy của người Babylon nhưng không thành công.'
Lịch sử.
Nổi dậy chống lại Assyria.
Vào năm 620 TCN, thủ lĩnh người Chaldea là Nabopolassar đã giành quyền kiểm soát phần lớn Babylon và được dân chúng ủng hộ, ngoại trừ thành Nippur và một số khu vực phía bắc vẫn trung thành với vua Assyria. Nabopolassar dành bốn năm tiếp theo chiến đấu với quân đội Assyria đóng quân tại Babylon. Tuy nhiên, vua Sin-shar-ishkun của Assyria bị phân tán bởi những cuộc nổi loạn liên tục ở Nineveh nên đã không thể dẹp tan được Nabopolassar.
Vào năm 615 TCN, Nabopolassar liên minh với Cyaxares, chư hầu của Assyria và là vua của các dân tộc Iran; Media, Ba Tư, Sagartia và Parthia. Cyaxares cũng lợi dụng tình trạng hỗn loạn để giải phóng các dân tộc Iran sau ba thế kỷ bị Assyria và Elam cai trị. Những dân tộc bị áp bức khác như người Scythia từ phía bắc của Kavkaz và người Cimmeria từ Biển Đen, và các bộ lạc Aram trong khu vực cũng gia nhập liên minh.
Vào năm 615 TCN, trong khi vua Assyria dồn sức dẹp loạn ở cả Babylonia và Assyria, Cyaxares đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào trung tâm Assyria, cướp phá các thành phố Kalhu (Calah, Nimrud trong Kinh thánh) và Arrapkha (Kirkuk hiện đại). Nabopolassar vẫn bị vây ở miền nam Lưỡng Hà nên không tham dự chiến dịch này.
Từ lúc đó, liên minh của người Babylon, Chaldea, Meia, Ba Tư, Scythia, Cimmeria và Sagartia đã đồng loạt nổi dậy chống lại Assyria. Nhiều thành phố lớn của Assyria rơi vào tay liên quân vào năm 614 TCN. Sin-shar-ishkun đã đảo ngược tình thế vào năm 613 TCN, thành công đẩy lùi quân nổi loạn. Tuy nhiên, liên quân quay lại tấn công đa phương diện vào năm tiếp theo, và sau năm năm chiến đấu ác liệt, Nineveh bị công phá vào cuối năm 612 TCN sau một cuộc bao vây kéo dài. Sin-shar-ishkun bị giết khi thủ thành.
Chiến loạn vẫn tiếp tục ở Nineveh. Một tướng lĩnh trong hoàng tộc Assyria là Ashur-uballit II lên ngôi (612-605 TCN). Theo Biên niên sử Babylon, ông được liên quân khuyên hàng và chấp nhận xưng thần, nhưng ông từ chối và tìm cách rút khỏi Nineveh để đến thành phố phía Bắc Assyria Harran ở Thượng Lưỡng Hà và thành lập kinh đô mới. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn cho đến năm 607 TCN, Ashur-uballit II bị Media, Babylon, Scythia và đồng minh đánh bật khỏi Harran. Số phận của ông sau đó vẫn chưa rõ.
Pharaoh Necho II của Ai Cập, triều đại chư hầu do Assyria lập nên năm 671 TCN, trợ giúp Assyria vì lo sợ Ai Cập sẽ bị các thế lực mới thôn tính nếu Assyria không còn nữa. Người Assyria có Ai Cập trợ giúp cho đến thất bại quyết định tại Carestoish ở tây bắc Assyria năm 605 TCN. Vị trí đế quốc được chuyển giao cho Babylon lần đầu tiên kể từ thời Hammurabi hơn một ngàn năm trước.
Thời kỳ Nebuchadnezzar II.
Nebuchadnezzar II lên kế vị (605-562 TCN) và trị vì trong 43 năm, đưa Babylon một lần nữa trở thành bá chủ của phần lớn thế giới văn minh, tiếp quản các phần của Đế quốc Assyria cũ, với phần phía đông và đông bắc là Media và phía cực bắc là Scythia. Nebuchadnezzar II phải đối mặt với tàn dư Assyria và các mối đe dọa mới là người Scythia và người Cimmeria, vốn là các đồng minh cũ dưới thời Nabopolassar. Nebuchadnezzar II đem quân lên Anatolia và đánh tan các thế lực này, chấm dứt mối đe dọa ở phía Bắc.
Người Ai Cập cố gắng trụ lại Cận Đông, có thể là để khôi phục Assyria làm vùng đệm an toàn chống lại Babylon, Media và Ba Tư, hoặc để tạo ra một đế chế mới của riêng họ. Nebuchadnezzar II tấn công người Ai Cập và đẩy họ trở lại Sinai. Tuy nhiên, ông không thể khuất phục được Ai Cập như Assyria đã làm, chủ yếu là do một loạt các cuộc nổi loạn từ Israel của Judah và cổ vương quốc Ephraim, Phoenicia của Caanan và Aram của Levant. Babylon đã nghiền nát những cuộc nổi loạn này, phế truất Jehoiakim của Judah và áp giải một phần lớn dân số về Babylonia. Các thành phố như Tyre, Sidon và Damascus cũng bị thu phục. Người Ả Rập và các dân tộc Nam Ả Rập khác cư ngụ trong các sa mạc ở phía nam biên giới Lưỡng Hà sau đó cũng bị khuất phục.
Vào năm 567 TCN, Nebuchadnezzar II gây chiến với Pharaoh Amasis và xâm lược Ai Cập trong một thời gian ngắn. Sau khi đế chế được bảo đảm, bao gồm việc kết hôn với một công chúa Media, ông dành hết tâm huyết để phát triển Babylon và thực hiện nhiều dự án xây dựng ấn tượng. Ông được cho là người xây dựng Vườn treo Babylon huyền thoại.
Amel-Marduk kế vị và chỉ ở ngôi hai năm. Có ít ghi chép đương thời về triều đại của ông, mặc dù Berosus sau này cho rằng ông bị người kế nhiệm Neriglissar phế truất và sát hại vào năm 560 TCN vì "những hành vi sai trái". Neriglissar (560-556 TCN) cũng có một triều đại ngắn ngủi. Ông là con rể của Nebuchadnezzar II, không rõ là người Chaldea hay người Babylon bản địa. Ông tấn công Aram và Phoenicia, thành công duy trì sự thống trị của Babylon ở những vùng này. Tuy nhiên, Neriglissar chết sớm. Con trai là Labashi-Marduk (556 TCN), vẫn còn là một cậu bé, kế vị và bị giết trong cùng năm bởi Nabodius.
Ba Tư xâm lược.
Vị vua Babylon cuối cùng, Nabonidus ("Nabu-na'id", 556-539 TCN), là con trai của nữ tư tế người Assyria Adda-Guppi, xuất thân từ Harran (Kharranu), kinh đô cuối cùng của Assyria. Thông tin liên quan đến Nabonidus có nguồn gốc chủ yếu từ một phiến đất sét có ghi niên hiệu của Nabonidus, và dòng chữ khắc ghi công ông xây dựng lại ngôi đền của Thần mặt trăng Sin tại Harran; cũng như trong tuyên cáo của Cyrus được ban hành ngay sau khi ông chiếm được Babylonia.
Nhiều yếu tố phát sinh dẫn đến sự sụp đổ của Babylon. Dân chúng Babylonia trở nên bất mãn với Nabonidus do ông quy tập toàn bộ hoạt động thờ phụng đa thần về đền thờ chính Marduk ở Babylon, dẫn đến bỏ bê giới tăng lữ địa phương. Ông cũng không được lòng quân đội do sở thích nghiên cứu khảo cổ của mình. Nabonidus có vẻ đã để cho con trai Belshazzar (một vị tướng có khả năng nhưng kém về ngoại giao, không được lòng giới tinh hoa chính trị) nhiếp chính, còn mình thì mải khai quật ghi chép lưu trữ của các đền thờ và xác định ngày tháng xây dựng. Ông cũng dành nhiều thời gian bên ngoài Babylon, xây dựng lại các ngôi đền ở thành phố Harran của Assyria, hoặc ở tại các vùng chư hầu Ả Rập trong các sa mạc ở phía nam Lưỡng Hà. Nguồn gốc Assyria của Nabonidus và Belshazzar cũng có thể khiến cho sự phẫn nộ gia tăng. Ngoài ra, các thế lực quân đội tại Lưỡng Hà thường tập trung ở các vùng Assyria cũ, nhưng không còn Assyria kiềm chế, khiến cho Babylonia ở vào thế không được phòng thủ và dễ bị xâm chiếm hơn so với phía bắc.Vào năm thứ sáu triều Nabonidus (549 TCN), Cyrus Đại đế, "vua của Anshan" người Achaemenid Ba Tư ở Elam, đã nổi dậy chống lại ách thống trị của Astyages, "vua của Manda" hoặc Media, tại Ecbatana. Quân đội của Astyages ngả theo phe Cyrus. Đế chế Media sụp đổ và người Ba Tư thành bá chủ của các dân tộc Iran. Ba năm sau, Cyrus trở thành vua của Ba Tư và dập tắt cuộc nổi dậy của người Assyria. Trong khi đó, Nabonidus đã lập doanh trại ở sa mạc thuộc địa Ả Rập của mình, gần biên giới phía nam vương quốc, để lại con trai Belshazzar ("Belsharutsur") chỉ huy quân đội.
Năm 539 TCN, Cyrus xâm chiếm Babylonia. Vào tháng 6, Opis bị chiếm; ngay sau đó Sippar đầu hàng. Nabonidus chạy về Babylon, và bị Gobryas bắt giữ. Vào ngày 16 lịch Tammuz, hai ngày sau khi Sippar đầu hàng, "binh sĩ của Cyrus vào Babylon mà không gặp phải sự kháng cự nào." Cho đến tận ngày 3 của "Marchesvan" (tháng Mười) Cyrus mới đến, trong thời gian đó Gobryas thay mặt cho ông và được phong làm tổng trấn của tỉnh Babylon. Vài ngày sau đó Belshazzar tử trận. Tang lễ được tổ chức kéo dài 6 ngày, con trai của Cyrus là Cambyses đi cùng lễ rước thi hài nhập táng. Một trong những đạo luật đầu tiên của Cyrus là cho phép những người lưu vong Do Thái trở về nhà. Qua đó Cyrus thể hiện mình chính thức sở hữu ngai vàng Babylon. Cyrus tuyên bố là người thừa kế hợp pháp của các vị vua Babylon cổ đại và là kẻ báo thù cho thần Marduk, người đã rất phẫn nộ trước sự bất kính của Nabonidus khi đem các tượng thần địa phương khỏi đền thờ gốc của họ tới thủ đô Babylon.
Tộc Chaldea đã mất quyền kiểm soát Babylonia trong nhiều thập kỷ trước khi kết thúc thời đại mang tên họ, và họ dường như đã hòa nhập với thường dân Babylonia từ trước đó (ví dụ, Nabopolassar, Nebuchadnezzar II và những người kế vị đều tự xưng là "Shar Akkad" chứ không phải là "Shar Kaldu" trên các dòng chữ khắc). Trong Đế chế Achaemenid của Ba Tư, thuật ngữ "Chaldea" đã không còn dùng để chỉ một chủng tộc người, mà thay vào đó là đẳng cấp tu sĩ có học vấn về Babylon cổ điển, cụ thể là Thiên văn học và Chiêm tinh. Vào giữa thời Đế chế Seleucid (312-150 TCN), thuật ngữ này cũng đã không còn được sử dụng.
Thời kỳ sau này.
Babylonia bị sáp nhập vào Đế chế Achaemenes vào năm 539 TCN.
Một năm trước khi chết, vào năm 529 TCN, Cyrus phong con trai mình là Cambyses II làm vua Babylon, còn ông giữ danh hiệu đầy đủ hơn là "vua của các tỉnh (khác)" của đế chế. Chỉ cho đến khi Darius I lên ngôi và đặt Hỏa giáo làm quốc giáo, thì truyền thống coi ngai vàng Babylon là điều kiện bắt buộc để trị vì chính danh ở Tây Á mới ngừng được thừa nhận.
Sau khi Darius giành được Ba Tư, Babylon đã nhanh chóng giành độc lập về tay người bản địa. Nidinta-Bel, lấy tên là Nebuchadnezzar III, trị vì từ tháng 10 năm 522 TCN cho đến tháng 8 năm 520 TCN, Daris chiếm lại thành phố. Assyria ở phía bắc cũng nổi loạn. Vài năm sau, có lẽ là 514 TCN, Babylon lại nổi dậy dưới thời vua Armenia Nebuchadnezzar IV; lần này sau khi bị người Ba Tư đánh hạ, các bức tường thành đã bị phá hủy một phần. Tuy nhiên, ngôi đền lớn Esagila vẫn được tu sửa và là một trung tâm tôn giáo của người Babylon.Alexander Đại đế chinh phục Babylon vào năm 333 TCN cho người Hy Lạp, và qua đời ở đây vào năm 323 TCN. Babylonia và Assyria sau đó trở thành một phần của Đế chế Seleucid của Hy Lạp. Lâu nay nhiều người tin rằng một phần dân số chuyển đến Seleucia, thủ đô mới của nam Lưỡng Hà, và những tàn tích của Babylon cũ bị khai thác đá để xây dựng chính quyền mới, nhưng ấn phẩm gần đây của "Biên niên sử Babylon" đã chỉ ra rằng cuộc sống thành thị tại đây vẫn như cũ cho đến thời Đế chế Parthia (150-226 CN). Vua Mithridates của Parthia đã chinh phục và sáp nhập vùng này vào Đế quốc Parthia vào năm 150 TCN. Khu vực này trở thành một chiến trường giữa người Hy Lạp và Parthia.
Có một thời gian ngắn khu vực bị La Mã chinh phạt (tỉnh Assyria và Lưỡng Hà thuộc La Mã; 116-118 CN) dưới thời Trajan, sau đó người Parthia giành lại quyền kiểm soát.
Satrap Babylon được sáp nhập vào vùng Asōristān (có nghĩa là "xứ Assyria" trong tiếng Ba Tư) thuộc Đế quốc Sasanian vào năm 226 CN, và đến thời điểm này, Kitô giáo Đông Syria (khởi nguồn ở Assyria và Thượng Lưỡng Hà) đã trở thành tôn giáo chính trong cộng đồng người Assyria-Babylon bản địa. Nhóm người này chưa bao giờ dung nhập Hỏa giáo hay tôn giáo Hy Lạp và ngôn ngữ của những kẻ cai trị.
Ngoại trừ các thành bang Tân Assyria nhỏ độc lập từ thế kỷ 2 TCN đến thế kỉ 3 CN: Adiabene, Osroene, Assur, Beth Garmai, Beth Nuhadra và Hatra ở phía bắc, Lưỡng Hà bị Ba Tư đô hộ cho đến cuộc xâm lược Ba Tư của người Hồi giáo Ả Rập trong thế kỷ 7 CN. Asōristān bị giải thể năm 637 CN; dân cư nói tiếng Đông Aram và phần lớn theo Kitô giáo ở miền Nam và Trung Lưỡng Hà (với ngoại lệ Mandea) dần dần bị Ả Rập hóa và Hồi giáo hóa; ngược lại, vùng Bắc Lưỡng Hà vẫn duy trì truyền thống Assyria cho đến tận ngày nay.
Văn hóa xã hội.
Tôn giáo.
Babylon, giống như phần còn lại của Lưỡng Hà cổ đại, theo tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại, trong đó các vị thần có hệ thống cấp bậc và triều đại, các vị thần địa phương đóng vai trò là vị thần bảo trợ cho mỗi thành phố cụ thể. Marduk là vị thần bảo trợ của thành Babylon kể từ thời vua Hammurabi (thế kỷ 18 TCN) của Triều đại Babylon thứ nhất. Trong thần thoại Lưỡng Hà, Marduk là một vị thần sáng tạo. Sử thi sáng thế của Babylon Enuma Elish kể về việc thế giới được tạo thành như thế nào và quá trình Marduk trở thành vị thần tối cao. Mặc dù tín ngưỡng Marduk của người Babylon không phủ nhận sự tồn tại của các vị thần khác trong hệ thống thần Lưỡng Hà, nhưng nhiều khi nó cũng được xem như tôn giáo độc thần. Lịch sử thờ cúng Marduk gắn bó mật thiết với lịch sử của Babylon và khi quyền lực của Babylon tăng lên, vị trí của Marduk cũng được nâng cao so với các vị thần Lưỡng Hà khác. Vào cuối thiên niên kỷ thứ hai TCN, đôi khi Marduk chỉ được nhắc đến như là "Bêl", có nghĩa là "chúa tể". Bức tượng Marduk được xem là hiện thân của Marduk nằm trong ngôi đền chính Esagila của Babylon, được sử dụng trong các nghi lễ quan trọng của thành phố.
Những ngôi đền ở miền nam Lưỡng Hà đóng vai trò là trung tâm tôn giáo và kinh tế của mỗi thành phố. Chúng có mặt ở tất cả các thành phố lớn, và góp phần kích thích tăng trưởng thương mại và dân số.
Công lý.
Các nguồn còn sót lại cho thấy hệ thống pháp lý của Đế chế Tân Babylon không thay đổi nhiều so với thời Đế chế Cổ Babylon từ một ngàn năm trước. Trên khắp Babylonia, có các hội đồng địa phương (được gọi là "puhru") của các bô lão và những người đáng kính khác trong xã hội, hoạt động như là tòa án công lý địa phương (ở bên trên còn có "hoàng gia" và "đền thờ" với các đặc quyền pháp lý lớn hơn). Tại các tòa án này, thẩm phán sẽ được hỗ trợ bởi các kinh sư và một số tòa án địa phương được chủ quản bởi các đại diện hoàng gia, thường có tước hiệu là "sartennu" hoặc "šukallu".
Phần lớn các nguồn còn sót lại liên quan đến hệ thống pháp lý Tân Babylon là các phiến đất sét ghi chép lại thư từ và các vụ kiện tụng. Những phiến đất sét này ghi lại các tranh chấp pháp lý và tội phạm khác nhau, chẳng hạn như tham ô, tranh chấp tài sản, trộm cắp, các vấn đề gia đình, nợ nần, thừa kế và thường cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc sống hàng ngày ở Đế quốc Tân Babylon. Hình phạt cho các loại tội phạm và tranh chấp này phần lớn là phạt tiền: bên có tội phải trả một số lượng bạc cụ thể như một khoản bồi thường. Những tội như ngoại tình hay phỉ báng hoàng gia là tội tử hình, nhưng có rất ít bằng chứng còn tồn tại cho thấy án tử hình thực sự được thực hiện.
Nô lệ.
Như trong hầu hết các đế chế cổ đại, nô lệ được chấp nhận tại xã hội Tân Babylon. Nô lệ ở Đế quốc Tân Babylon là tài sản quý giá, thường được bán với mức giá bằng nhiều năm thu nhập của một người làm công. Nô lệ thường được đem tới từ những vùng đất bên ngoài Babylonia thông qua buôn bán nô lệ hoặc là tù nhân chiến tranh. Nữ nô lệ thường được coi như một phần của hồi môn được dành cho con gái đi lấy chồng để giúp việc nhà hoặc làm vú em. Bởi vì nô lệ rất đắt nên nhiều chủ nô Tân Babylon đã cho nô lệ học nghề để nâng cao giá trị hoặc cho người khác thuê lại. Đôi khi có những nô lệ có năng khiếu buôn bán sẽ được cho đi làm buôn bán hoặc quản lý việc kinh doanh của gia đình. Các gia đình nô lệ thường được bán cùng nhau, trẻ em chỉ được tách khỏi cha mẹ khi đến tuổi trưởng thành (hoặc tuổi lao động).
Mặc dù nô lệ có thể phải chịu đựng điều kiện sống khắc nghiệt và bị đối xử tệ bạc, nhưng nó không đến mức tàn bạo như chế độ nô lệ ở Đế chế La Mã hay ở các thời sau này.' Mặc dù thỉnh thoảng có đề cập đến việc nô lệ bỏ trốn, nhưng không có ghi chép nào về các cuộc khởi nghĩa nô lệ trong Đế chế Tân Babylon. Nô lệ được nhắc đến trong nông nghiệp và trồng trọt thường không phải là lao động cưỡng bức. Vì việc canh tác đòi hỏi sự cần cù chăm sóc, nô lệ tại các trang trại thường được ký khế ước và làm việc tự chủ, điều này giúp cho nô lệ quan tâm nhiều hơn đến kết quả lao động. Một số nô lệ đóng vai trò như là người thay mặt hoặc hầu cận của chủ nhân. Nô lệ cũng được phép trả một khoản phí gọi là "mandattu" cho chủ nô để làm việc và sống độc lập, về cơ bản là "thuê" chính mình từ chủ nô. Có những ghi chép về việc nô lệ trả tiền "mandattu" cho chính mình và vợ để sống tự do. Tuy nhiên, không có ghi chép nào về việc nô lệ có thể tự chuộc thân hoàn toàn, nô lệ Babylon chỉ có thể được giải phóng bởi chính chủ nhân của họ.'
Kinh tế.
Sau khi đế chế Tân Babylon phục khởi, lần đầu tiên kể từ khi thời Assyria đô hộ, Babylonia trở thành "thiên triều" được hưởng cống nạp chứ không phải là nước đi cống nạp. Sự đảo ngược này, kết hợp với các dự án xây dựng và dòng di cư của các dân tộc bị khuất phục, đã kích thích tăng trưởng cả dân số và kinh tế trong khu vực.
Mặc dù đất đai ở Lưỡng Hà rất màu mỡ, nhưng lượng mưa trung bình trong khu vực không đủ để duy trì canh tác thường xuyên. Vì vậy, hệ thống kênh, đập và đê điều quy mô lớn phức tạp ra đười để lấy nước từ hai con sông lớn là Euphrates và Tigris và phòng chống lũ lụt. Hệ thống này đòi hỏi phải bảo trì và giám sát liên tục.' Đào kênh be bờ được coi là một nhiệm vụ của hoàng gia và các ngôi đền chịu trách nhiệm cung ứng nguồn nhân và vật lực cần thiết để xây dựng và duy trì cơ sở hạ tầng.'
Những ghi chép chi tiết nhất về kinh tế ở thời Tân Babylon là từ những ngôi đền này. Người canh tác trong các lãnh địa của đền thờ hầu hết là nông nô phụ thuộc đền thờ ("širāku). Về sau, để tăng năng suất, các đền thờ bắt đầu thuê "nông dân địa tô". Những người này được giao một phần hoặc toàn bộ ruộng đất của đền thờ, bao gồm cả nông nô và tư liệu sản xuất, đổi lại họ sẽ nộp lại tô và một lượng sản phẩm cố định cho đền.' Nông dân địa tô phải chịu trách nhiệm hoàn toàn nếu không nộp đủ hạn ngạch, có nhiều ghi chép cho thấy nông dân địa tô bỏ ruộng hoặc đôi khi phải gán nợ tài sản để bồi thường cho đền thờ."'
Chăn nuôi được áp dụng trên khắp Lưỡng Hà nhưng phổ biến nhất là ở miền Nam. Ở Uruk, chăn nuôi là nguồn thu nhập chính. Những người chăn cừu có thể là nông nô của đền thờ hoặc là người làm thuê tự do được giao cho đàn cừu hoặc dê. Tương tự như nông dân địa tô, những người chăn cừu này cũng cấn nộp một lượng cừu nhất định cho đền để hiến tế và lấy len hay da.' Các sản phẩm từ sữa không phổ biến vì phần lớn thời gian trong năm, súc vật không ở cố định một chỗ mà được chăn thả du mục khắp nơi. Bò không có nhiều ở Lưỡng Hà do thức ăn khan hiếm trong mùa hè, chủ yếu được sử dụng để lấy sức kéo. Những vùng đầm lầy không thích hợp để canh tác thì chủ yếu là săn bắn chim và cá.'
Hình thức hợp tác kinh doanh phổ biến nhất được ghi lại là "harrānu", gồm một đối tác ra vốn và một đối tác vai vế thấp hơn thực hiện công việc (sử dụng vốn được cung cấp để làm tất cả công việc). Lợi nhuận được chia đều giữa hai đối tác. Điều này cho phép người có tiền có thể tài trợ cho người có khả năng nhưng không có nguồn lực (ví dụ như những người con trai thứ không được thừa kế nhiều tiền như con trai đầu). Những ghi chép cho thấy một số đối tác vế dưới đã điều hành hoạt động kinh doanh hiệu quả và cuối cùng trở thành đối tác vế trên trong các thỏa thuận "harrānu" mới.
Thời kỳ Tân Babylon đã chứng kiến sự gia tăng dân số rõ rệt ở Babylonia, với số lượng các khu định cư đã biết tăng từ 134 thời trước đó đến 182 thời Tân Babylonia và tăng cả quy mô trung bình.' Thời kỳ Tân Babylon này cũng diễn ra sự đô thị hóa mạnh mẽ, đảo ngược xu hướng nông thôn hóa ở miền nam Lưỡng Hà kể từ sau khi Đế chế Babylon cổ sụp đổ.""'
Chính phủ và quân đội.
Quản lí hành chính.
Đứng đầu Đế chế Tân Babylon là vua ("šar"), được thần dân tuyên thệ lòng trung thành (được gọi là "ade"), một truyền thống kế thừa từ Đế chế Tân Assyria. Các vị vua Tân Babylon sử dụng các danh hiệu Vua Babylon và Vua của Sumer và Akkad. Họ bãi bỏ nhiều danh hiệu phù phiếm thời Tân Assyrian như là Vua của toàn vũ trụ (mặc dù một số lại được sử dụng dưới thời Nabonidus), có thể vì người Babylon căm ghét hình ảnh hiếu chiến và nghịch đạo của người Assyria, còn các vị vua Tân Babylon muốn tỏ ra là những vị vua sùng đạo.
Nhà vua cũng là người chủ sở hữu đất đai lớn nhất trong đế chế, với nhiều vùng đất rộng lớn nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của hoàng gia trên khắp Babylonia. Ngoài ra còn có các lãnh địa lớn thuộc về các thành viên khác của hoàng gia (ví dụ, có bản khắc đề cập đến một "tư dinh của thái tử" phân biệt với "cung điện của nhà vua") và các quan chức cấp cao khác (như quan coi quốc khố).
Vì thiếu tư liệu nên có nhiều điều chưa rõ về cơ cấu hành chính và chính phủ của Đế quốc Tân Babylon. Mặc dù Đế quốc Tân Babylon đã thay thế vị trí của Đế chế Tân Assyria, nhưng chưa thể xác định được phần lãnh thổ mà Babylon được thừa hưởng. Sau khi Nineveh thất thủ vào năm 612 TCN, lãnh thổ của Đế quốc Tân Assyria bị Babylon và Media chia cắt, bên Media được chia vùng núi phía bắc Wapros còn Babylon chiếm Xuyên Lưỡng Hà (các nước phía tây Euphrates) và Levant, nhưng biên giới chính xác giữa hai đế chế và việc phân chia vùng trung tâm Assyria vẫn chưa được biết nhiều. Bản thân Babylonia, trung tâm của Đế chế Tân Babylon, được chia thành các tỉnh và bộ lạc với các mức độ tự trị khác nhau. Cấu trúc hành chính ở bên ngoài vùng trung tâm vẫn chưa rõ.
Từ những bản khắc trên các công trình xây dựng, có thể thấy một số phần của vùng trung tâm Tân Assyrian cũ nằm dưới sự kiểm soát của Babylon. Bản khắc trên một tòa nhà của Nebuchadnezzar II đề cập đến những người thợ phục dựng Etemenanki ở Babylon được ca tụng bởi "toàn bộ xứ Akkad và Assyria, các vị vua Eber-Nāri, các tổng trấn Hatti, từ Thượng Hải đến Hạ Hải". Các tài liệu từ thời Neriglissar xác nhận sự tồn tại của một tổng trấn người Babylon ở thành Assur, có nghĩa là nó thuộc lãnh thổ của đế chế. Không có bằng chứng cho thấy kinh đô cũ Nineveh của Assyria nằm trong Đế chế Tân Babylon. Việc Syria nằm dưới sự cai trị trực tiếp được thể hiện trong bản khắc trên tòa nhà của Nebuchadnezzar ("tổng trấn Hatti" - Hatti để chỉ thành bang Syro-Hitti trong khu vực) và các bản khắc khác đề cập đến một tổng trấn ở thành Arpad.
Mặc dù một số học giả cho rằng hệ thống tỉnh của Assyria sụp đổ cùng với Đế chế Tân Assyria và Đế chế Tân Babylon chỉ đơn giản là một vùng ảnh hưởng mà vua Babylon nhận được triều cống, nhưng cũng có khả năng Đế chế Tân Babylon giữ lại hệ thống tỉnh cũ. Vùng trung tâm Assyria cũ có lẽ được phân chia giữa người Babylon và người Media, người Babylon sát nhập miền nam vào đế chế còn người Media lấy miền bắc. Có thể là mức độ kiểm soát thực tế của Babylon ở mỗi vùng lãnh thổ này không giống nhau. Sau sự sụp đổ của Assyria, nhiều thành quốc ven biển ở Levant giành độc lập, nhưng làm chư hầu của Babylon (chứ không phải là các tỉnh hợp nhất).
Quân đội.
Đối với các vị vua Tân Babylon, chiến tranh là một phương tiện để thu cống nạp, cướp bóc (đặc biệt là các vật liệu hiếm như kim loại và gỗ) và tù binh để dùng làm nô lệ. Giống như người Assyria, các vị vua Tân Babylon cũng kiểm soát dân chúng bằng biện pháp lưu đày. Người Assyria đã tái phân bổ dân cư trên khắp đế chế rộng lớn của họ, nhưng cách thức này đến thời các vị vua Babylon bị hạn chế hơn, chỉ được sử dụng để thành lập các khu dân cư mới ở chính Babylonia. Mặc dù các bản khắc hoàng gia thời Tân Babylon không nói về các hành động hủy diệt và trục xuất huênh hoang như thời Tân Assyria, nó không có nghĩa là người Babylon không thực hiện hoặc thực hiện ít tàn bạo hơn người Assyria. Chẳng hạn, có bằng chứng cho thấy thành phố Ashkelon đã bị Nebuchadnezzar II phá hủy vào năm 604 TCN.
Quân đội của Đế quốc Tân Babylon huy động từ tất cả đơn vị hành chính - các thành phố của Babylonia, các tỉnh ở Syria và Assyria, các liên minh bộ lạc thần phục Babylon và các thành quốc chư hầu ở Levant. Các nguồn chi tiết nhất còn lại từ thời Tân Babylon có đề cập đến quân đội là từ các ngôi đền, nơi cung cấp một phần dân cư phụ thuộc đền thờ (được gọi là "širāku") để nhập ngũ trong thời chiến. Những người này chủ yếu là nông dân ("ikkaru") nhưng một số người cũng là mục đồng, thợ làm vườn và thợ thủ công. Phần lớn quân sĩ lấy từ các đền thờ phục vụ trong quân đội ở vị trí cung thủ, được trang bị bởi đền thờ. Kỵ binh và chiến xa cũng do đền thờ cung cấp, nhưng ít được nhắc đến trong các bản khắc.
Công dân của các thành phố ở Babylonia có nghĩa vụ tham gia quân ngũ bắt buộc, thường là phục vụ ở vị trí cung thủ. Lực lượng dân quân này, giống lực lượng cung thủ từ đền thờ, được phân chia và tổ chức theo nghề nghiệp. Công dân tđi lính được trả lương bằng bạc, có thể ở mức 1 mina mỗi năm. Quân đội Tân Babylon cũng có thể đã bắt người từ các bộ lạc sung quân và thuê cả lính đánh thuê chuyên nghiệp (lính đánh thuê Hy Lạp trong quân đội của Nebuchadnezzar II được nhắc đến trong một bài thơ). Binh sĩ tham gia các chiến dịch (có thể kéo dài từ ba tháng đến cả năm) được cấp theo khẩu phần (bao gồm lúa mạch và cừu), trả lương bằng bạc, muối, dầu và bình nước, và cũng được trang bị chăn, lều, bao tải, giày, áo chẽn và lừa hoặc ngựa.
Nghệ thuật và kiến trúc.
Nghệ thuật.
Thời kỳ Tân Babylon tiếp tục xu hướng nghệ thuật của các thời kỳ trước, cụ thể là thời kỳ Tân Assyria. Các con dấu hình trụ thời này ít chi tiết hơn trước và cho thấy ảnh hưởng nhất định của Assyria trong các chủ đề được mô tả. Một trong những hình ảnh phổ biến nhất được miêu tả trên các con dấu là người anh hùng, đôi khi có cánh, chuẩn bị tấn công quái thú bằng kiếm cong. Những cảnh phổ biến khác bao gồm cảnh thanh tẩy cây thiêng hoặc sinh vật thần thoại. Các con dấu hình trụ ngày càng ít được sử dụng trong suốt thế kỷ Tân Babylon, cuối cùng bị thay thế hoàn toàn bởi các con dấu đóng dấu.
Tượng và phù điêu đất nung được làm bằng khuôn rất phổ biến ở Đế chế Tân Babylon. Những bức tượng được tìm thấy thường thể hiện những con quỷ bảo hộ (như Pazuzu) hoặc các vị thần, nhưng cũng có cả kỵ sĩ, phụ nữ khỏa thân, thuyền, người vác bình và nhiều loại đồ đạc. Những bức tượng đất nung có thể là những linh vật được giữ trong nhà của mọi người để làm phép giữ nhà hoặc trang trí, nhưng cũng có thể là những đồ vật được dâng lên các vị thần trong đền thờ.
Kỹ thuật tráng men màu đã được cải tiến và hoàn thiện bởi các nghệ nhân Tân Babylon. Trong các bức phù điêu, chẳng hạn như ở trên Cổng Ishtar ở Babylon và dọc theo Đường diễu hành của thành phố (nơi diễn ra các cuộc diễu hành trong các lễ hội tôn giáo), những viên gạch được đúc thành nhiều hình dạng khác nhau và tráng men màu để trang trí. Hầu hết các họa tiết trang trí này bao gồm sư tử và hoa (biểu tượng của nữ thần Ishtar), mušḫuššu (một sinh vật thần thoại gắn với thần Marduk) và bò (gắn với thần Adad).
Sự hồi sinh của truyền thống cổ.
Sau khi Babylonia giành lại độc lập, các nhà cai trị Tân Babylon có ý thức sâu sắc về bề dày lịch sử của đế quốc và theo đuổi chính sách đề cao truyền thống, làm sống lại phần lớn văn hóa Sumer-Akkad cổ đại. Mặc dù Tiếng Aram đã trở thành ngôn ngữ phổ thông, tiếng Akkad vẫn được dùng làm ngôn ngữ hành chính và văn hóa.
Các tác phẩm nghệ thuật cổ đại từ thời hoàng kim của đế quốc Babylon cổ được sùng bái hết mức và bảo tồn cẩn thận. Ví dụ, khi một bức tượng của Sargon Đại đế được tìm thấy trong quá trình xây dựng, một ngôi đền đã được dựng lên để thờ cúng bức tượng. Có một câu chuyện về việc Nebuchadnezzar II trong khi dựng lại Đền Sippar, đã phải khai quật nhiều lần cho đến khi tìm thấy nền móng cũ từ thời Naram-Sin của Akkad để xây dựng lại ngôi đền cho đúng cách. Người Tân Babylon cũng hồi sinh tập tục Akkad cổ đại là bổ nhiệm một thiếu nữ hoàng tộc làm nữ tư tế của thần mặt trăng Sîn.
Kiến trúc.
Kiến trúc đền đài.
Kiến trúc đền đài bao gồm các công trình như đền thờ, cung điện, ziggurat, tường thành, phố diễu hành, kênh mương và các công trình phòng thủ.' Vai trò truyền thống của nhà vua Babylon là người xây dựng và phục chế, và các dự án xây dựng quy mô lớn như vậy đóng vai trò khẳng định tính chính danh cho các vị vua.' Do công việc khai quật ban đầu thường hướng đến các đền đài đồ sộ ở trung tâm các thành phố lớn của Babylonia, các kiến thức khảo cổ về Đế quốc Tân Babylon thường xoay quanh những đối tượng này mà bỏ qua kết cấu của thành phố (như khu dân cư) và các định cư nhỏ hơn.
Mặc dù các bản khắc nhắc đến các cung điện hoàng gia tại một số thành phố trên khắp miền nam Lưỡng Hà, nhưng chúng chỉ được mới tìm thấy và khai quật tại chính Babylon. Cung điện phía Nam, nằm ở góc giao của tường thành phía bắc và Euphrates ở phía tây, được xây dựng dưới thời vua Nabopolassar và Nebuchadnezzar II và bao gồm năm cụm, mỗi cụm có một sân riêng. Trung tâm của các cụm là phòng ở và chính điện đặt ngai vàng, còn các cụm khác dành cho mục đích hành chính và lưu trữ. Cung điện tiếp giáp với Phố diễu hành ở phía đông và được phòng thủ cẩn mật ở phía tây (phía đối diện với Euphrates).
Nebuchadnezzar II cũng đã xây dựng một cung điện thứ hai, Cung điện phía Bắc, ở phía bên kia của thành nội. Cung điện này cũng tiếp giáp với Phố diễu hành ở phía đông, nhưng do hư hại nhiều nên vẫn chưa rõ về kiến trúc của nó. Ngoài ra còn có một cung điện hoàng gia thứ ba trong thành phố, Cung điện mùa hè, được xây dựng ở góc cực bắc của thành ngoại (cũng được xây dựng bởi Nebuchadnezzar II). Các dinh thự phi hoàng gia, như tư dinh của một tổng trấn địa phương tại Ur, cũng có các đặc điểm thiết kế với Cung điện phía Nam của Babylon nhưng có kích thước nhỏ hơn đáng kể.
Các đền thờ Tân Babylon được các nhà khảo cổ chia thành hai loại; những ngôi đền độc lập nhỏ hơn nằm rải rác trong một thành phố (thường là trong các khu dân cư) và những ngôi đền chính lớn của thành phố, dành riêng cho vị thần bảo trợ và thường có tường bao riêng.' Ở hầu hết các thành phố, ziggurat nằm trong quần thể đền thờ. Riêng ziggurat ở Babylon, được gọi là Etemenanki, có khu phức hợp riêng và các tường bao tách biệt với ngôi đền chính của thành phố, Esagila. Đền thờ Tân Babylon kết hợp chức năng của cả cung điện và nhà ở. Chúng có sân trung tâm, hoàn toàn khép kín ở tất cả các phía, với phòng chính dành riêng cho vị thần, thường được đặt ở phía nam, lối vào của ngôi đền nằm ở phía đối diện với phòng chính này. Một số ngôi đền, chẳng hạn như đền Ninurta ở Babylon, có một sân duy nhất, trong khi những ngôi đền khác, chẳng hạn như đền thờ Ishtar ở Babylon, có các sân khác nhỏ hơn ngoài sân chính.'
Mặc dù có nhiều Đường diễu hành được mô tả trong các bản khắc từ thời Tân Babylon, nhưng chỉ mới khai quật được duy nhất Đường diễu hành chính của Babylon. Con đường này chạy dọc theo các bức tường phía đông của Cung điện phía Nam và ra khỏi Thành nội tại Cổng Ishtar, chạy qua Cung điện phía Bắc. Ở phía nam, con đường này đi qua Etemenanki, rẽ về phía tây và đi qua một cây cầu được xây dựng dưới triều đại của Nabopolassar hoặc Nebuchadnezzar II. Một số viên gạch của Phố diễu hành khắc tên của vua Tân Assyria Sennacherib ở mặt dưới, cho thấy việc xây dựng con đường đã bắt đầu từ thời của ông, nhưng mặt trên của các viên gạch đều khắc tên của Nebuchadnezzar II, cho thấy việc xây dựng đường phố được hoàn thành ở thời này.
Nebuchadnezzar II cũng đã xây dựng hai dải tường phòng thủ xuyên quốc gia. Hiện chỉ mới xác định được chính xác một dải tường tên "Habl al-Shar" trải dài từ Euphrates đến Tigris tại đoạn hai con sông gần nhau nhất, nằm ở phía bắc thành phố Sippar. Dải tường kia chưa được tìm thấy, nằm ở phía đông gần thành phố Kish.' Nebuchadnezzar tập trung các dự án xây dựng phòng thủ của mình ở phía bắc Babylonia vì lo ngại khu vực này dễ bị tấn công nhất, và cũng xây dựng lại tường thành của các thành phố phía bắc như Kish, Borsippa và Babylon, còn của Ur và Uruk thì để như cũ.'
Kiến trúc dân dụng.
Những ngôi nhà dân điển hình thời Tân Babylon có kết cấu cụm phòng ở bao quanh một khoảng sân trung tâm không có mái che. Một số ngôi nhà lớn hơn có hai hoặc ba sân (chỉ trong những ngôi nhà đặc biệt lớn). Hầu hết các ngôi nhà theo hướng đông nam đến tây bắc, với khu vực sinh hoạt chính (phòng lớn nhất) nằm ở phía đông nam. Tường rào bên ngoài nhà không được trang trí, trống trơn và không có cửa sổ. Lối vào chính thường nằm ở cuối nhà, cách xa khu vực sinh hoạt chính. Nhà của những người có địa vị cao hơn thường đứng biệt lập, trong khi những ngôi nhà có địa vị thấp hơn có thể có chung tường rào với nhà hàng xóm.
Những ngôi nhà thời Tân Babylon được xây dựng chủ yếu bằng gạch bùn phơi khô. Chỉ có một số bộ phận, chẳng hạn gạch lát trong các phòng có nước và trong sân, mới sử dụng gạch nung, như loại dùng xây tường thành của Nebuchadnezzar. Mái nhà được làm từ gỗ phủ phên sậy, trên cùng phủ rơm khô.
Di sản.
Trước các cuộc khai quật khảo cổ học hiện đại ở Lưỡng Hà, lịch sử chính trị, xã hội và hình thái của Babylon cổ đại phần lớn là một điều bí ẩn. Các nghệ sĩ phương Tây thường hình dung thành phố và đế quốc của nó như là sự kết hợp của các nền văn hóa cổ đại đã biết - điển hình là sự pha trộn của văn hóa Hy Lạp và Ai Cập cổ đại - với một số ảnh hưởng từ đế quốc Trung Đông đương thời, Đế chế Ottoman. Những minh họa thời đầu về thành phố khắc họa nó với hàng cột dài, đôi khi có tầng cao, hoàn toàn không giống với kiến trúc thực tế của các thành phố Lưỡng Hà cổ đại trong lịch sử, cùng với các bút tháp và nhân sư lấy cảm hứng từ Ai Cập, và những chóp nhọn và tháp rải rác ảnh hưởng từ Ottoman.
Thời nay Babylon có lẽ được biết đến nhiều nhất qua những lần nó được nhắc đến trong Kinh Thánh theo cả nghĩa đen (liên quan đến các sự kiện lịch sử) và nghĩa bóng (tượng trưng cho những thứ khác). Đế chế Tân Babylon xuất hiện trong một số lời tiên tri và trong các mô tả về sự phá hủy Jerusalem và bị cầm tù người Do Thái tại Babylon sau đó. Do đó, theo truyền thống Do Thái, Babylon tượng trưng cho bạo ngược và áp bức. Trong Kitô giáo, Babylon tượng trưng cho sự trần tục và xấu xa. Những lời tiên tri đôi khi gắn các vị vua của Babylon với Lucifer. Nebuchadnezzar II, đôi khi được hợp nhất với Nabonidus, là người cai trị được nhắc đến nhiều nhất trong những câu chuyện này.
Sách Khải Huyền trong Kinh Thánh Kitô giáo đề cập đến Babylon nhiều thế kỷ sau khi nó không còn là một trung tâm chính trị lớn. Thành phố được nhân cách hóa thành "Con điếm thành Babylon", cưỡi trên một con thú đỏ tươi với bảy đầu và mười sừng, và say sưa hút máu của những người công chính. Một số học giả về văn học khải huyền tin rằng cụm "Babylon" trong Tân Ước này là để ẩn dụ cho Đế chế La Mã. | 1 | null |
Đế quốc Sikh (tiếng Ba Tư: سرکارِ خالصه, phiên âm La Tinh: Sarkār-ē-Khālsā; tiếng Punjab: ਸਿੱਖ ਖ਼ਾਲਸਾ ਰਾਜ; tiếng Anh: Sikh Empire) là một nhà nước bắt nguồn từ Tiểu lục địa Ấn Độ, được Maharaja Ranjit Singh thành lập với trung tâm là Punjab. Đế chế tồn tại từ năm 1799, khi Maharaja Ranjit Singh chiếm được Lahore (ngày nay là thủ phủ của tỉnh Punjab, Pakistan), đến năm 1849, khi nó bị đánh bại trong Chiến tranh Anh-Sikh lần thứ hai bởi Công ty Đông Ấn Anh. Nhà nước được thành lập dựa trên nền tảng của Khalsa từ một tập hợp những người theo Sikh giáo tự trị. Đế chế đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ XIX, khi lãnh thổ của nó kéo dài từ đèo Khyber ở phía Tây sang tận Tây Tạng ở phía Đông, và từ Mithankot ở phía Nam đến Kashmir ở phía Bắc, đa dạng về tôn giáo, với dân số ước tính khoảng 3,5 triệu người vào năm 1831 (trở thành quốc gia đông dân thứ 19 vào thời điểm đó), đây là khu vực lớn cuối cùng của tiểu lục địa Ấn Độ bị Đế quốc Anh sáp nhập.
Nền tảng của Đế chế Sikh có thể bắt nguồn từ năm 1707, năm qua đời của Aurangzeb, hoàng đế thứ 6 của Đế quốc Mogul, báo hiệu sự suy tàn của đế chế này. Quân đội Sikh, được gọi là Dal Khalsa, một tổ chức tái sắp xếp Khalsa do Guru Gobind Singh sáng lập, đã dẫn đầu các cuộc viễn chinh chống lại sự cai trị của Mogul và người Afghanistan ở phía Tây.
Sự hình thành của đế chế bắt đầu với việc Maharaja Ranjit Singh chiếm được Lahore, từ tay người cai trị Afghanistan, Zaman Shah Durrani, bằng các trận chiến, người Sikh đã trục xuất thành công người Afghanistan ra khỏi lãnh thổ, và thống nhất các nhóm người theo Sikh giáo. Ranjit Singh được tôn lên làm Maharaja của Punjab vào ngày 12/04/1801 (trùng với Vaisakhi), tạo ra một nhà nước chính trị thống nhất. Sahib Singh Bedi, hậu duệ của Guru Nanak, đã tiến hành lễ đăng quang. Ranjit Singh lên nắm quyền trong một thời gian rất ngắn, từ một thủ lĩnh của những kẻ khốn cùng để cuối cùng trở thành Maharaja của Punjab. Ông bắt đầu hiện đại hóa quân đội của mình, sử dụng các khóa huấn luyện mới nhất cũng như vũ khí và pháo binh. Sau cái chết của Maharaja Ranjit Singh, đế chế đã suy yếu do chia rẽ nội bộ và quản lý chính trị yếu kém. Cuối cùng, đến năm 1849, nhà nước này bị giải thể sau thất bại trong Chiến tranh Anh-Sikh lần thứ hai. Đế chế Sikh được chia thành 4 tỉnh: Lahore ở Punjab, trở thành thủ phủ của đạo Sikh, Multan, cũng ở Punjab, Peshawar và Kashmir từ năm 1799 đến năm 1849.
Bối cảnh.
Mogul cai trị Punjab.
Đạo Sikh bắt đầu hình thành vào khoảng thời gian chinh phục phía Bắc Tiểu lục địa Ấn Độ của Babur, người sáng lập ra Đế chế Mogul. Cháu trai của ông là Hoàng đế Akbar, ủng hộ tự do tôn giáo và sau khi viếng thăm langar của Guru Amar Das đã có ấn tượng tốt về đạo Sikh. Sau chuyến thăm này, ông đã hiến đất cho langar và Đế chế Mogul không có bất kỳ xung đột nào với các lãnh tụ của đạo Sikh cho đến khi vị hoàng đế này qua đời vào năm 1605. Tuy nhiên, người kế nhiệm của ông là Jahangir đã coi người Sikh là một mối đe dọa chính trị. Ông ra lệnh cho Guru Arjun Dev, người đã bị bắt vì ủng hộ Khusrau Mirza nổi loạn, thay đổi đoạn văn về Hồi giáo trong Adi Granth. Khi Guru từ chối, Jahangir ra lệnh tra tấn người này cho đến chết. Sự tử đạo của Guru Arjan Dev đã dẫn đến việc Guru thứ 6, Guru Hargobind, tuyên bố chủ quyền của người Sikh trong việc tạo ra Akal Takht và thiết lập một pháo đài để bảo vệ Amritsar. Hoàng đế Jahangir đã cố gắng khẳng định quyền lực đối với người Sikh bằng cách tống giam Guru Hargobind tại Gwalior, nhưng sau đó đã thả ông ra khi vị hoàng đế Mogul này không còn cảm thấy bị đe dọa. Cộng đồng người Sikh không có thêm bất kỳ vấn đề nào với đế chế Mughal cho đến khi Jahangir qua đời vào năm 1627. Người kế vị của Jahangir là Shah Jahan, đã xúc phạm "chủ quyền" của Guru Hargobind và sau một loạt các cuộc tấn công vào Amritsar đã buộc người Sikh phải rút lui đến Sivalik Hill.
Vị Guru tiếp theo là Guru Har Rai, duy trì quyền kiểm soát Sivalik Hill bằng cách đánh bại các nỗ lực đánh đuổi người Sikh của nhà cầm quyền địa phương. Người Sikh đóng vai trò trung lập trong cuộc tranh giành ngai vàng Đế quốc Mogul giữa hai người con trai của Shah Jahan là Aurangzeb và Dara Shikoh. Guru thứ 9, Guru Tegh Bahadur, đã di chuyển cộng đồng người Sikh đến Anandpur và bản thân ông đã đi khắp nơi để thăm và thuyết giảng, bất chấp Hoàng đế Aurangzeb, đã cố gắng đưa Ram Rai trở thành guru mới. Guru Tegh Bahadur đã hỗ trợ người Kashmiri Pandits tránh phải cải sang Hồi Giáo và bị Aurangzeb bắt giữ. Khi được đề nghị lựa chọn giữa việc cải đạo sang Đạo Hồi hoặc cái chết, ông đã chọn cái chết thay vì thỏa hiệp, sau đó ông đã bị xử tử.
Sự hình thành của Khalsa.
Guru Gobind Singh đảm nhận vai trò lãnh đạo vào năm 1675 và để tránh các trận chiến với các Raja của Sivalik Hill, nên đã chuyển cộng đồng của mình đến Paunta. Tại đây, ông đã xây dựng một pháo đài lớn để bảo vệ thành phố với một đội quân đồn trú. Sức mạnh ngày càng tăng của cộng đồng người Sikh đã báo động cho các Raja ở Sivalik Hill, họ đã cố gắng tấn công thành phố nhưng lực lượng của Guru Gobind Singh đã đánh đuổi trong trận Bhangani. Ông chuyển đến Anandpur và thành lập Khalsa, một đội quân tập hợp của những người theo Sikh giáo đã được rửa tội, vào ngày 30/03/1699. Sự thành lập của Khalsa đã thống nhất cộng đồng Sikh chống lại nhiều nhà cai trị dưới sự hậu thuẫn của Đế quốc Mogul. Năm 1701, một đội quân kết hợp của các Raja ở Sivalik Hill và quân Mogul dưới quyền của Wazir Khan đã tấn công Anandpur. Khalsa rút lui nhưng tập hợp lại để đánh bại quân của Đế quốc Mogul trong trận Muktsar. Năm 1707, Guru Gobind Singh nhận lời mời của người kế vị Aurangzeb là Bahadur Shah I đến gặp ông. Cuộc hội đàm diễn ra tại Agra vào ngày 23/07/1707.
Banda Singh Bahadur.
Vào tháng 8/1708, Guru Gobind Singh đến thăm Nanded. Tại đây, ông đã gặp một người Bairāgī ẩn dật, Madho Das, người đã cải sang Sikh giáo, được tôn xưng là Banda Singh Bahadur. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, Guru Gobind Singh đã ra lệnh cho Banda Singh Bahadur tái chinh phục vùng Punjab và trao cho ông một lá thư yêu cầu tất cả người Sikh tham gia cùng ông. Sau 2 năm tập hợp những người ủng hộ, Banda Singh Bahadur đã khởi xướng một cuộc nổi dậy của nông dân bằng cách phá bỏ các điền trang rộng lớn của các gia đình Zamindar và chia đất cho những nông dân nghèo làm ruộng. Banda Singh Bahadur bắt đầu cuộc nổi dậy của mình với việc đánh bại quân đội của Đế quốc Mogul tại Samana và Sadhaura, cuộc nổi dậy lên đến đỉnh điểm với sự thất thủ của Sirhind. Trong cuộc nổi dậy, Banda Singh Bahadur đã đưa ra quan điểm là phá hủy các thành phố mà Mogul đã tàn ác với những người ủng hộ Guru Gobind Singh. Ông đã hành quyết Wazir Khan để trả thù cho cái chết của các con trai của Guru Gobind Singh và Pir Budhu Shah sau chiến thắng của người Sikh tại Sirhind. Ông cai trị vùng lãnh thổ giữa sông Sutlej và sông Yamuna, thành lập thủ đô trên dãy Himalaya tại Lohgarh và đúc tiền dưới tên của Guru Nanak và Guru Gobind Singh. Năm 1716, quân đội của ông bị quân Mogul đánh bại sau khi ông cố gắng bảo vệ pháo đài của mình tại Gurdas Nangal. Ông đã bị bắt cùng với 700 người của mình và bị đưa về Delhi, nơi tất cả họ đều bị tra tấn và hành quyết sau khi từ chối cải sang Hồi Giáo.
Thời kỳ Dal Khalsa.
Liên minh Sikh.
Giai đoạn từ năm 1716 đến năm 1799 là một thời kỳ rất hỗn loạn về mặt chính trị và quân sự ở vùng Punjab. Tình trạng nghiêm trọng này có nguồn góc từ sự suy tàn chung của Đế chế Mogul để lại khoảng trống quyền lực trong khu vực mà cuối cùng đã được lấp đầy bởi người Sikh của Dal Khalsa, có nghĩa là "quân đội Khalsa" hay "đảng Khalsa", vào cuối thế kỷ XVII, sau khi họ đánh bại một số cuộc xâm lược của những nhà cai trị Afghanistan thuộc Đế chế Durrani và các đồng minh của họ, tàn tích của Đế quốc Mogul và những người quản lý của họ, những Raja người Hindu đồng minh của Mogul ở Sivalik Hills, và những người địa phương thù địch Hồi giáo đứng về phía các lực lượng Hồi giáo khác. Những người Sikh của Dal Khalsa cuối cùng đã thành lập các khu vực hành chính Sikh độc lập của riêng họ, "Misls", bắt nguồn từ một thuật ngữ Ba Tư-Ả Rập có nghĩa là 'tương tự', do "Misldars" đứng đầu. Những Misls này phần lớn được thống nhất bởi Maharaja Ranjit Singh.
Các nhà nước Cis-Sutlej.
Các Nhà nước Cis-Sutlej là một nhóm các lãnh địa của Sikh giáo trong vùng Punjab nằm giữa sông Sutlej về phía Bắc, dãy Himalaya ở phía Đông, sông Yamuna và Delhi ở phía Nam, và huyện Sirsa ở phía Tây. Các quốc gia này nằm dưới quyền thống trị của Đế chế Maratha sau năm 1785 trước Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ hai năm 1803–1805, sau đó người Marathi mất quyền kiểm soát lãnh thổ vào tay Công ty Đông Ấn Anh. Các nhà nước Cis-Sutlej bao gồm Kalsia, Kaithal, Nhà nước Patiala, Nhà nước Nabha, Nhà nước Jind, Thanesar, Maler Kotla, Ludhiana, Nhà nươc Kapurthala, Ambala, Ferozpur và Nhà nước Faridkot, cùng một số lãnh địa khác. Trong khi các quốc gia theo Sikh giáo này được thành lập bởi Dal Khalsa, nhưng chúng không phải là một phần của Đế chế Sikh và có lệnh cấm gây chiến lẫn nhau sau hiệp ước Amritsar (1809) (trong đó đế chế từ bỏ yêu sách đối với Các quốc gia Cis-Sutlej và người Anh không được can thiệp vào phía bắc Sutlej hoặc vào lãnh thổ hiện có của đế chế ở phía Nam Sutlej), sau những nỗ lực của Ranjit Singh nhằm giành quyền kiểm soát các lãnh địa này từ tay người Anh từ năm 1806 đến 1809. Cuộc vượt sông Sutlej của người Sikh, sau khi Anh quân sự hóa biên giới với Punjab (từ 2.500 người và 6 khẩu súng vào năm 1838 lên 17.612 người và 66 khẩu súng vào năm 1844, và 40.523 người cùng 94 khẩu súng vào năm 1845), và có kế hoạch sử dụng lãnh thổ mới được chinh phục của Sindh làm bàn đạp để tiến lên vùng Multan do người Sikh nắm giữ, cuối cùng dẫn đến xung đột với người Anh.
Nội chiến giữa các Misl.
Sau triều đại của Jassa Singh Ramgarhia, những Sikh Misl tự trị trở nên chia rẽ và tiến hành gây chiến với nhau. Một loại "Chiến tranh Lạnh" đã nổ ra với các Misl: Bhangi, Nakkai, Dalelwala và Ramgharia Misls Sukerchakia, Ahluwalia, Karor Singhia và Kaniyeha. Shaheedan, Nishania và Singhpuria cũng liên minh nhưng không tham gia chiến tranh với những Misl khác và tiếp tục Dal Khalsa. Phulkian Misl đã bị vạ tuyệt thông khỏi liên minh. Rani Sada Kaur của Kanhaiya Misl đã phá hủy sức mạnh của Bhangis. Sau đó, cô đã nhường ngôi cho Maharaja Ranjit Singh.
Đế chế.
Đế chế Sikh bắt đầu hình thành với sự thống nhất giữa các Misl tự trị vào năm 1801, tạo ra một nhà nước chính trị thống nhất. Tất cả các thủ lĩnh của Misl, đều thuộc giới quý tộc với xuất thân gia đình lâu đời và có uy tín trong lịch sử Sikh giáo.
Lãnh thổ địa lý chính thức của đế chế kéo dài từ vùng Punjab đến Đèo Khyber ở phía Tây, đến Kashmir ở phía Bắc, Sindh ở phía Nam và Tây Tạng ở phía Đông. Năm 1799, Ranjit Singh chuyển thủ đô từ Gujranwala đến Lahore, thành phố này được ông nội của ông là Charat Sing thành lập vào năm 1763.
Hari Singh Nalwa là Tổng tư lệnh của Quân đội Sikh Khalsa từ năm 1825 đến năm 1837. Ông được biết đến với vai trò lãnh đạo trong các cuộc chinh phục Kasur, Sialkot, Multan, Kashmir, Attock và Peshawar. Nalwa dẫn đầu quân đội Sikh giải phóng Kashmir khỏi Shah Shujah Durrani và Đế quốc Durrani phải cống nạp viên kim cương Koh-i-Noor cho Maharaja Ranjit Singh. Ông từng là thống đốc của Kashmir và Hazara và thành lập một xưởng đúc tiền thay mặt cho Đế chế Sikh để tạo nguồn tài chính dồi dào cho đế chế. Chính sách biên giới của ông về việc giữ đèo Khyber sau đó được kế thừa và tiếp tục sử dụng bởi Raj thuộc Anh. Nalwa chịu trách nhiệm mở rộng biên giới của đế chế Sikh đến sông Ấn. Vào thời điểm ông qua đời, ranh giới phía Tây của Đế chế Sikh là đèo Khyber.
Nhân khẩu học.
Nhân khẩu học tôn giáo của Đế chế ước tính chỉ có hơn 10% đến 12% cư dân là theo Sikh giáo, 80% theo Hồi giáo và dưới 10% dân số theo Hindu giáo. Surjit Hans đã đưa ra những số liệu khác nhau dựa trên dự báo điều tra dân số năm 1881, trong đó dân số theo Hồi giáo ở mức 51%, người theo đạo Hindu ở mức 40% và người theo đạo Sikh vào khoảng 8%, 1% còn lại là người châu Âu. Dân số là 3,5 triệu người vào năm 1831, theo Amarinder Singh trong "Hoàng hôn cuối cùng: Sự trỗi dậy và sụp đổ của Lahore Durbar" (The Rise and Fall of the Lahore Durbar).
Ước tính khoảng 90% người theo Sikh giáo và hơn 50% dân số của Đế chế tập trung ở thượng Bari, Jalandhar và thượng Rechna Doab. Vào những năm 1830, một nửa dân số theo Sikh giáo tập trung ở khu vực thuộc Lahore và Amritsar sau ngày.
Địa lý.
Đế chế Sikh thời kỳ cực thịnh có tổng diện tích là 260.128 km2 (100.436 dặm vuông).
Punjab là một khu vực nằm giữa tiểu lục địa Ấn Độ và Đế quốc Durrani của Afghanistan. Các đơn vị chính trị ngày nay đã tạo nên Đế chế Sikh lịch sử:
Huyện Jamrud (Cơ quan Khyber, Pakistan) là giới hạn cực Tây của Đế chế Sikh. Việc mở rộng về phía tây đã bị chặn lại tại Trận Jamrud, trong đó người Afghanistan đã giết được vị tướng nổi tiếng của Sikh giáo là Hari Singh Nalwa trong một cuộc tấn công, mặc dù người Sikh đã giữ vững vị trí của họ tại pháo đài Jamrud. Ranjit Singh đã cử tướng Sirdar Bahadur Gulab Singh Powind dẫn theo quân tiếp viện đến đè bẹp cuộc nổi dậy Pashtun. Năm 1838, Ranjit Singh cùng với quân đội của mình đã hành quân vào Kabul để tham gia cuộc diễu hành chiến thắng cùng với người Anh sau khi khôi phục ngai vàng Afghanistan cho Shah Shoja.
Chính sách.
Đế chế Sikh có chính sách trọng dụng nhân tài rất cởi mở so với các quốc gia xung quanh, nó cho phép những người đàn ông thuộc các tôn giáo khác ngoài Sikh giáo có thể vươn lên vị trí chỉ huy quyền lực trong cả quân đội và bộ máy hành chính của đế quốc.
Anh em nhà Fakir, những người theo Hồi giáo được xem là điển hình cho chính sách cởi mở trong việc trọng dụng nhân tài của Đế quốc Sikh. Họ là cố vấn và trợ lý cá nhân đáng tin cậy cũng như bạn thân của Ranjit Singh, đặc biệt là Fakir Azizuddin, phục vụ ở vị trí ngoại trưởng của đế chế, phiên dịch cho maharaja, và đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện đàm phán với người Anh, trong đó ông thuyết phục Ranjit Singh duy trì quan hệ ngoại giao với người Anh và không gây chiến với họ vào năm 1808, khi quân đội Anh được di chuyển dọc theo sông Sutlej, với chính sách này, người Anh muốn giữ chân của Ranjit Singh ở phía Bắc của con sông, và đặt Sutlej làm ranh giới phân chia giữa đế quốc Sikh và Anh; đàm phán với Dost Muhammad Khan trong nỗ lực bất thành để chiếm lại Peshawar. Ông cũng thỉnh thoảng được giao nhiệm vụ quân sự trong suốt sự nghiệp của mình. Anh em nhà Fakir được giới thiệu với maharaja khi cha của họ, Ghulam Muhiuddin, một bác sĩ, được ông triệu tập để chữa trị một căn bệnh về mắt ngay sau khi ông chiếm được Lahore.
Những người anh em khác của Fakir là Imamuddin, một trong những viên chức quản lý chính của nhà vua, và Nuruddin, người từng là bộ trưởng nội vụ và bác sĩ cá nhân, cũng được Maharaja ban cho tước hiệu Jagir.
Hàng năm, khi ở Amritsar, Ranjit Singh đã đến thăm các đền thờ của các tôn giáo khác, bao gồm cả Hồi giáo. Nhà vua đã ban hành những mệnh lệnh đối xử bình đẳng đối với tất cả các tôn giáo và nghề nghiệp, phù hợp với các học thuyết về đức tin của họ. Chính quyền cho lập các toàn án đặc biệt dành riêng cho người Hồi giáo, được phán quyết theo luật Hồi giáo trong các vấn đề cá nhân. Trên toàn đế chế có hệ thống các toà án chung, dược điều hành bởi các quan chức tư pháp của chính phủ, dành cho tất cả cư dân trên lãnh thổ đế chế mà không phân biệt tôn giáo và giai cấp xã hội.
Một trong những hành động đầu tiên của Ranjit Singh sau khi chiếm được Lahore năm 1799 là cho khôi phục các văn phòng của Qazis và Muftis cha truyền con nối vốn đã thịnh hành vào thời Đế quốc Mogul. Kazi Nizamuddin được bổ nhiệm để quyết định các vấn đề hôn nhân giữa những người theo đạo Hồi, trong khi đó Muftis Mohammad Shahpuri và Sadulla Chishti được giao quyền lập các chứng từ liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản. Hệ thống mohalladari cũ được khôi phục với mỗi mahallah, hoặc phân khu lân cận, do một trong các thành viên phụ trách. Văn phòng Kotwal, hay trưởng bộ phận an ninh, được giao cho một người Hồi giáo, Imam Bakhsh.
Các tướng lĩnh của Đế chế Sikh rất đa dạng, vì họ đến từ nhiều cộng đồng và tôn giáo khác nhau. Trong đó các vị tướng nổi tiếng của Sikh giáo như Hari Singh Nalwa, Fateh Singh Dullewalia, Nihal Singh Atariwala, Chattar Singh Attariwalla và Fateh Singh Kalianwala; Các vị tướng Hindu giáo bao gồm Dewan Mokham Chand Nayyar, con trai và cháu trai của ông, và Misr Diwan Chand Nayyar; và các tướng Hồi giáo bao gồm Ilahi Bakhsh và Mian Ghaus Khan; Balbhadra Kunwar, là người Nepal, và các tướng châu Âu bao gồm Jean-Francois Allard, Jean-Baptiste Ventura, và Paolo Avitabile. các tướng đáng chú ý khác của Quân đội Sikh Khalsa là Veer Singh Dhillon, Sham Singh Attariwala, Mahan Singh Mirpuri, và Zorawar Singh Kahluria...
Nhân khẩu học.
Dân số của đế chế trong thời kỳ Maharaja Ranjit Singh nắm quyền cai trị vào những năm 1800, được ước tính vào khoảng 12 triệu người. Thành phần tôn giáo thời đó bao gồm: 8,4 triệu người theo Hồi giáo, 2,88 triệu người theo Hindu giáo và 722.000 người theo Sikh giáo. | 1 | null |
Matija Nastasić (Kirin Serbia: Матија Настасић; sinh ngày 28 tháng 3 năm 1993) là một cầu thủ Serbia đang chơi cho Schalke 04 ở giải Bundesliga và đội tuyển quốc gia Serbia. Anh là một trung vệ. Anh nổi bật với khả năng chuyền bóng xa, tốc độ, và rất điềm tĩnh khi thi đấu.
Sự nghiệp CLB.
Partizan.
Matija Nastasić là sản phẩm của lò đào tạo Partizan. Không thể có được một vị trí trong đội hình Một của Partizan, anh được đem cho mượn sang đội FK Teleoptik thi đấu tại giải hạng 2 Serbia. Ở đó, trung vệ trẻ thuận chân trái đã thi đấu 21 trận và được cựu giám đốc thể thao của Fiorentina ông Pantaleo Corvino để ý đến và ký hợp đồng trong một thương vụ trị giá khoảng 2.5 triệu €.
Fiorentina.
Nastasić thi đấu một thời gian ngắn tại đội trẻ Fiorentina, cho đến khi CLB thiếu vị trí trung vệ do thẻ phạt và chấn thương, Nastasić được thể hiện thường xuyên trong đội hình chính. Đồng hương Serbia và là Hlv Fiorentina Siniša Mihajlović đưa anh ra mắt Serie A ngày 11 tháng 9 năm 2011 trong chiến thắng 2-0 trước Bologna. Anh sau đó thi đấu 25 trận trong mùa giải. Một trận đấu anh trở nên nổi bật là trận đấu giữa La Viola với Milan trên Sân vận động Artemio Franchi. Nastasić thể hiên chất lượng của mình: tắc bóng hiệu quả, thoải mái khi cầm bóng và óc chiến thuật. Điều đó đã dẫn đến vụ chuyển nhượng vào ngày đóng cửa thị trường chuyển nhượng sang Manchester City trong thương vụ trị giá 15 triệu €, chưa kể đến giá trị của Stefan Savić người chuyển sang Fiorentina theo chiều ngược lại.
Manchester City.
Nastasić ký hợp đồng 5 năm với CLB mới Manchester City, cho đến 30 tháng 6 năm 2017. Anh ra mắt trong màu áo CLB mới ngày 18 tháng 9 năm 2012, trong trận đấu Champions League trên sân khách với Real Madrid trên Sân vận động Santiago Bernabéu. Anh thi đấu trận đầu tiên tại Premier League ngày 29 tháng Chín trong chiến thắng 2–1 trước Fulham. Anh đảm bảo vị trí của mình trong đội hình ra sân và phong độ cao đã giúp anh nhận danh hiệu Cầu thủ xuất sắc tháng 11 của CLB. Nhanh chóng được CĐV yêu quý, cầu thủ trẻ này đã đẩy cầu thủ 30 tuổi Joleon Lescott ra khỏi vị trí chính thức ở vị trí trung vệ.
Sự nghiệp thi đấu quốc tế.
Đã được thi đấu cho đội trẻ Serbia, Nastasić ra mắt đội tuyển quốc gia Serbia ngày 29 tháng 2 năm 2012, trong trận đấu với Síp. | 1 | null |
Pulau Sekudu, còn gọi là đảo Thanh Oa (chữ Hán: "青蛙", Ếch Xanh) hay đảo Frog, là một hòn đảo nhỏ nẳm ở ngoài khơi Chek Jawa thuộc đảo Ubin, Singapore. Đảo này nằm trong Cảng Serangoon đối diện Changi, có thể đến đây bằng thuyền ngay cả khi nước ròng.
Thuyền thuyết.
Truyền thuyết kể lại rằng có ba con vật từ Singapore (gồm có heo, voi và một con ếch) đã thách thức với nhau xem ai có thể đến bờ biển của Johor đầu tiên. Con vật nào không đến được bờ sẽ được biến thành đá. Tất cả chúng điều gặp nhiều khó khăn bơi và rồi con ếch biến thành đảo Sekudu, hai con còn lại là heo và voi trở thành một hòn đảo lớn đó là đảo Ubin. | 1 | null |
Pulau Ujong (tiếng Mã Lai:đảo tận cùng của bán đảo) hay đảo Singapore là hòn đảo chính của quốc đảo Singapore. Với dân số khoảng 5.076.700 người và diện tích 710 km², Pulau Ujong là đảo đông dân nhất thứ 21 thế giới, đồng thời là đảo có mật độ dân số cao thứ 29 trên thế giới. Điểm cao nhất của đảo là ở Bukit Timah với độ cao đạt 165 mét. | 1 | null |
Pyramus và Thisbe là hai nhân vật trong thần thoại La Mã, câu chuyện tình giữa hai người thực sự rất lãng mạn nhưng cũng có kết cục bi thảm nhất. Câu chuyện được kể bởi Ovid trong tác phẩm "Metamorphoses" của ông.
Nội dung.
Pyramus là người đẹp trai nhất thành Babylon còn Thisbe, người bạn thiếu thời với Pyramus, cũng là một cô gái trong sáng, xinh đẹp nhất ở mảnh đất này. Do từ thuở nhỏ cả hai đã gần gũi và là hàng xóm của nhau nên khi trưởng thành cả hai đã phải lòng nhau.
Tuy nhiên, chuyện tình giữa Pyramus và Thisbe bị hai bên cha mẹ kịch liệt phản đối. Họ không bao giờ chấp nhận để Pyramus và Thisbe trở thành vợ chồng. Chính vì tình yêu mãnh liệt bị ngăn cấm, Pyramus và Thisbe quyết định bỏ trốn trong đêm, lúc mọi người con say giấc. Pyramus và Thisbe đã hẹn gặp nhau tại một cánh đồng ở vùng lân cận.
Đêm đó, sau khi bỏ trốn khỏi nhà, Thisbe đã tới chỗ hẹn sớm hơn Pyramus. Và trong lúc chờ đợi người yêu tới, Thisbe ngồi dưới gốc cây dâu tằm, Thisbe nhìn thấy một con sư tử đang tiến tới dòng suối ngay gần đó để uống nước. Sợ hãi trước con mãnh thú cùng hàm răng đầy máu, Thisbe đã vùng chạy trốn vào một hốc đá không xa đó.
Trong lúc hoảng loạn, Thisbe đã để rơi tấm mạng che mặt dưới gốc cây dâu tằm. Khi con sư tử từ từ tới gần, nó đã gậm tấm mạng che mặt của Thisbe trong hàm răng đầy máu. Cũng chính lúc này, Pyramus tới chỗ hẹn. Khi tiến gần về phía cây dâu tằm, Pyramus nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ: mạng che mặt của Thisbe nằm dưới những chiếc răng gớm ghiếc của con sư tử. Nghĩ rằng người yêu đã bị con mãnh thú ăn thịt, Pyramus hoàn toàn ngã quỵ. Quá đau đớn, Pyramus đã rút thanh kiếm đeo bên mình, tự sát.
Về phần Thisbe, do quá sợ hãi trước con sư tử, nàng cũng không hay biết chuyện gì xảy ra ở bên ngoài nên vẫn trốn trong hốc đá. Sau một thời gian ẩn nấp, Thisbe mới dám bước ra khỏi hốc đá. Và ngay lập tức cảnh tượng người mình yêu nằm chết với thanh kiếm đâm xuyên ngực đã khiến nàng hoàn toàn suy sụp. Quá tuyệt vọng và đau đớn, Thisbe cũng đã cầm thanh gươm mà Pyramus tự sát để tự kết liễu đời mình. | 1 | null |
Nguyễn Hữu Hanh (sinh 1923) là một chuyên gia kinh tế, tài chánh đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong cả thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa cũng như trên trường quốc tế. Ông từng giữ chức Thống đốc ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Tổng trưởng Kinh tế và Tài chính.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Ông sinh ngày 10 tháng 11 năm 1923 tại Huế, trong ngôi nhà của gia đình bên ngoại nhưng quê gốc ở làng Đại Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị và là hậu duệ đời thứ năm của nhà thiên văn học Nguyễn Hữu Thận.
Là con đầu lòng trong một gia đình mà cha là giáo viên dạy học, lớn lên tại Quảng Trị, từ nhỏ, ông thường theo cha đi săn hay đi câu cá, lội bộ, leo núi, băng rừng, ngủ ngoài trời. Ngoài ra ông còn chơi Tennis, và sau này còn có thú săn bắn
Năm 1935, cha ông chuyển vào làm việc tại Quảng Nam, giữ chức chánh thanh tra học đường, ông đi học ở Vĩnh Điện, cách nhà 6 cây số, đi bộ bằng chân đất, vì nhà nghèo không đủ tiền để mua giầy. Ở đây ông có cơ hội gặp mặt ông Ngô Đình Diệm, lúc đó đã thôi làm quan hiện đang ở với anh là Ngô Đình Khôi, lúc đó là Tổng đốc tỉnh Quảng Nam. Cha ông hay dẫn ông tới thăm họ mỗi chủ nhật vì cùng chia sẻ thú vui chung là nuôi chim, và chơi phong lan.
Sau khi xong bậc tiểu học, ông được cha gởi ra Huế để theo học trung học đệ nhất cấp ở trường Khải Định. Sau khi tốt nghiệp tú tài 2 vào năm 1944, ông ra Hà Nội học đại học, ngành Luật và Y khoa, nhưng chỉ được vài tháng cho đến khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sau đó ông theo Việt Minh chống Pháp, rồi bị bắt. Nhờ Thủ hiến Trung phần Trần Văn Lý, can thiệp với viên chỉ huy quân sự Pháp, ông được thả ra, rồi được ông Lý cho học bổng sang Pháp du học.
Tại Paris, ông theo học trường cao đẳng H.E.C. (Hautes Études Commerciales), trường thương mại ngân hàng danh tiếng nước Pháp. Sau đó Hanh được nhận vào trường École Nationale d’Administration (trường Quốc gia Hành chánh), nơi đào tạo những công chức cao cấp của Pháp.
Sự nghiệp.
Công vụ.
Năm 1954 ông trở về Việt Nam làm việc cho Viện Phát hành Quốc gia Việt, Miên, Lào (tiếng Pháp: "Institut d'Emission des Etats Associes du Laos, du Cambodge et du Viêt Nam").
Vài tháng sau ông, do sự giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng Quản trị Victor Cusin và Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Dương René Frappart, ông được Ngô Đình Diệm mời về làm cố vấn tài chánh và kinh tế cho tới năm 1962.
Đầu năm 1955 ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Theo thoả thuận với Pháp, Ngân hàng Trung ương ba nước Đông Dương, Việt Nam-Lào-Cao Miên, được tách ra làm 3 Ngân hàng Quốc gia Trung ương và chịu trách nhiệm tất cả các hoạt động chuyên môn. Trong khi đó Thống đốc Dương Tấn Tài lo việc quản trị hành chánh của ngân hàng. Địa vị Thống đốc sau trao cho Vũ Quốc Thúc, thạc sĩ luật khoa, giáo sư môn dân luật.
Theo lời yêu cầu của Ngô Đình Diệm, Nguyễn Hữu Hanh đứng ra lập Ngân hàng Việt Nam Thương tín (khai trương tháng 1 năm 1956) và giữ chức Tổng Giám đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng Quản trị của ngân hàng này.
Từ năm 1955 đến 1958 ông là Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.
Tư doanh.
Tháng 9 năm 1961, ông từ chức chức vụ cố vấn cho chính phủ và đứng ra thành lập Công ty Khuếch trương Kỹ nghệ SOFIDIV ("Société Financière Pour Le Development de L’Industrie au Vietnam") với sự hùn vốn của một số ngân hàng, trong đó Ngân hàng Việt Nam Thương tín có cổ phần lớn nhất.
Kinh tài quốc tế.
Cuối năm 1964 Nguyễn Hữu Hanh được tuyển làm Chánh sự vụ ở Công ty Tài chánh Quốc tế IFC thuộc Ngân hàng Thế giới ("World Bank") và sang Washington, D.C. nhận nhiệm sở vào tháng 2 năm 1965 nhưng đến cuối năm đó thì ông về Sài Gòn theo lời mời của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ với cương vị Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, làm việc với Tổng ủy Kinh tế gồm bốn bộ: Tài chánh, Kinh tế, Thương mại, và Kỹ nghệ.
Năm 1968 ông trở về lại với Ngân hàng Thế giới đảm nhận chức vụ Chánh sự vụ Bắc Phi và các nước nói tiếng Pháp, cùng là Quản trị viên dự khuyết Hội đồng quản trị Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF (1968-1975), phụ trách các nước Đài Loan, Nam Hàn, Việt Nam. Khi làm nhiệm vụ Quản trị viên dự khuyết trong Hội đồng quản trị IMF ông đảm nhiệm vai trò liên lạc giữa IMF, World Bank và chính phủ Việt Nam Cộng hòa; ngoài ra làm Cố vấn Kinh tế Tài chánh không chính thức cho chính phủ Việt Nam, Cố vấn Sở Ngân hàng Trung ương-Quỹ Tiền tệ Quốc tế (1975-1981).
Hoạt động tư nhân và trở về Việt Nam.
Năm 1981 ông nghỉ hưu sớm và thành lập công ty riêng về dầu hỏa nhưng không thành công . Sau đó ông hợp tác với 2 người bạn Mỹ thành lập công ty tư vấn xây dựng cho Hoa Kỳ tại Morroco. Nhưng một thời gian thì ông cũng giải thể công ty.
Trong thời gian này ông cũng quay về Việt Nam nhiều lần. Năm 2004 Nguyễn Hữu Hanh quyết định về sống hẳn ở quê hương. Ông chọn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa làm nơi sinh sống đến cuồi đời . Con cái ông thì vẫn ở Mỹ. | 1 | null |
Hummus () là một món ăn Trung Đông và Ả Rập làm từ đậu gà (chickpea) nấu chín nghiền nhuyễn trộn với xốt tahini (bơ vừng), dầu ô liu, nước cốt chanh muối và tỏi. Ngày nay, nó phổ biến trên toàn Trung Đông, Thổ Nhĩ Kỳ, Bắc Phi, Maroc và các cộng đồng ẩm thực Trung Đông trên thế giới.
Hummus là từ Ả Rập (حمّص ḥummuṣ) có nghĩa là "đậu gà"
Lịch sử.
Các công thức nấu ăn lâu đời nhất được biết đến cho một món ăn tương tự như "hummus bi tahina" được ghi lại trong sách nấu ăn được viết ở Cairo vào thế kỷ 13. Đậu gà nấu và nghiền nhỏ với dấm và chanh ngâm với các loại thảo mộc, gia vị và dầu, nhưng không có tahini hoặc tỏi, xuất hiện trong Kanni al-Fawa'id fi Tanwi 'al-Mawa'id; Đậu gà nấu nghiền và tahini gọi là hummus kasa xuất hiện trong Kitab Wasf al-Atima al-Mutada: được pha với dấm (mặc dù không phải chanh), nhưng nó cũng chứa nhiều gia vị, thảo mộc, và các loại hạt, và không tỏi. Nó cũng được phục vụ bằng cách lăn nó ra và ủ qua đêm, mà có lẽ cho nó một kết cấu rất khác với hummus bi tahina. Thật vậy, các thành phần cơ bản của nó - đậu gà, vừng, chanh, và tỏi - đã được ăn trong vùng trong hàng thiên niên kỷ. Mặc dù đậu gà được ăn rộng rãi trong khu vực, và chúng thường được nấu trong món hầm và các món ăn nóng khác, đậu gà nấu nghiền ăn lạnh với tahini không xuất hiện trước thời kỳ Abbasid ở Ai Cập và Levant.
Tranh giành xuất xứ.
Người Do Thái cho đây là món ăn của họ, cho là nó đã được ghi trong kinh thánh Do Thái giáo từ 3.500 năm trước. Lebanon lại cáo buộc Israel đã kiếm chác trên cái mà họ coi là phải thuộc về di sản, danh tiếng và tài sản của Lebanon. Giận dữ về việc món hummus được mọi người biết đến và được quảng cáo khắp nơi ở phương Tây như một món ăn của Israel, tháng 10 năm 2008 Hiệp hội Các nhà tư bản công nghiệp Lebanon đã kiện Israel về tội vi phạm luật bản quyền đối với món ăn này. Chính phủ Lebanon cũng đã yêu cầu EU công nhận món hummus là đồ ăn Lebanon.. Nhưng cả hai nỗ lực đó đều không đem lại kết quả mong muốn.
Kỷ lục.
Vào năm 2009, theo đề nghị Fadi Abboud, Bộ trưởng Du lịch, một đĩa hummus khổng lồ nặng chừng 2.000 kg, được làm ra và ghi nhận vào Sách Kỷ lục Thế giới Guinness. Để đáp trả, Jawdat Ibrahim, một quán chuyên làm món hummus nổi tiếng ở Abu Ghosh, Israel, đã phục vụ món hummus trên một chảo anten vệ tinh có đường kính 6,5m, với chừng 4.000 kg hummus trên đó. Người Lebanon lại đáp lại bằng cách làm đĩa hummus nặng 10.452 kg, bằng số cây số vuông diện tích lãnh thổ Lebanon. Họ vẫn giữ kỷ lục đó từ 2010 tới nay.
Dinh dưỡng.
Hummus giàu sắt và vitamin C và chứa một lượng đáng kể folate và vitamin B6. Đậu chickpeas là nguồn dinh dưỡng giàu protein và chất xơ; xốt tahini phần nhiều chứa hạt mè, vốn rất giàu amino axít methionine. Dựa trên công thức, hummus chứa một lượng không xác định chất béo không bão hòa đơn. Hummus hữu dụng cho người ăn chay và ăn kiêng, nó đóng vai trò nguồn đạm khi ăn với bánh mì. | 1 | null |
Ruộng muối là khoảnh đất thấp và phẳng dùng để khai thác muối từ nước biển hoặc nước mặn. Kỹ thuật làm ruộng muối chỉ thực hiện được ở những nơi khí hậu ấm, và khô để lượng nước bốc hơi cao hơn vũ lượng. Nhiệt độ cao, độ ẩm thấp và gió mạnh là ba yếu tố chính trong ngành thu hoạch ruộng muối.
Cách làm muối ở Việt Nam.
Miền Trung và Nam Việt Nam.
Ở Việt Nam vùng ven biển miền Trung và miền Nam nghề làm muối dùng phương pháp phơi nước. Người dân thường đào ao hoặc hồ cạn làm "đùng" Cạnh bên đùng thì làm hai cấp sân, thấp dần khoảng 15 cm. Mỗi sân đều san phẳng, đắp bờ chia ô vuông vắn; mỗi ô là 4 m x 10 m. Đó là ruộng muối.
Khi làm muối thì tát nước từ đùng lên sân trên cho đầy. Ruộng trên là "ruộng chịu" dùng để tăng nồng độ nước muối. Đợi khoảng năm ngày nắng ráo thì tháo nước mặn cho trút xuống sân dưới, gọi là "ruộng ăn" nơi muối bắt đầu kết tinh. Mỗi khi sân dưới gần cạn nước vì nước bốc hơi thì lại châm thêm nước từ ruộng chịu ở trên xuống ruộng ăn ở dưới. Cứ châm liên tiếp năm ngày đến khoảng một tháng tùy theo độ ẩm không khí thì nước sẽ cạn và muối đóng thành hột. Người làm muối theo đó gạt muối lên, người Việt gọi là "cào muối" đánh thành gò cho khô thì xúc lên đem bán.
Năng suất ruộng muối cổ truyền theo cách làm muối trên thì mỗi ô có thể sản xuất 500 kg muối/tháng.
Miền Bắc Việt Nam.
Công thức làm muối bằng ruộng muối ở miền Bắc Việt Nam có phần khác, nặng phần công hơn, còn gọi là phương pháp phơi cát. Cách này có thể khắc phục được phần nào thời tiết bất thường, không thể phơi nước được. Thay vì chỉ dùng ánh mặt trời làm nước bốc hơi, ruộng muối ở miền Bắc có công đoạn dùng cát mịn, đã sàng lọc kỹ, đem hòa nước biển vào cho thật ngấm nước mặn xong đem lớp cát đó, trải ra khoảnh đất phẳng, dùng nắng mặt trời phơi khô để muối kết tinh trên hạt cát. Diện tích phơi cát đây không hẳn là ruộng mà là sân rộng.
Lợi điểm phơi cát là hạt cát hấp nhiệt nhanh hơn và có nhiều góc cạnh để bốc hơi hơn, trong khi mặt nước chỉ có một bề mỏng trên cùng hấp nhiệt. Tùy vào thời tiết người làm muối sẽ trải lớp cát dày hay mỏng rồi châm nước vào. Nếu quá khô vì nắng gắt mà ít nước thì muối sẽ ở dạng bột thay vì hột. Lớp cát đó sau lại đem thu dồn vào trong một cái bể gạch, gọi là "chạt", nén chặt rồi châm thêm nước mặn, cho nước thấm qua lớp cát rồi hứng vào thùng. Thùng nước này có độ mặn cao hơn nước biển, gọi là "nước chạt" sẽ đem đổ ra sân nhỏ gọi là ô kết tinh phơi cho đến khi nước chạt kết thành muối hột. Sân phơi cuối cùng này xưa trát vôi trộn xỉ và bồ hóng cho mịn nhưng sau thường là sân xi măng, diện tích khoảng sáu m². Qua công đoạn 30 thùng nước chạt phơi khô sẽ thành 5 kg muối, phơi buổi sáng đến chiều thì thu hoạch được.
Thuế muối và sản lượng.
Việt sử ghi là từ thời nhà Lý triều đình đã có lệnh thu thuế muối. Nhà Trần thì bắt phải nộp thuế muối bằng tiền chứ không còn nộp bằng sản vật nữa. Vào thời chúa Trịnh thì thu thuế cứ 5 phần muối thì phải nộp một. Ai buôn muối phải có thẻ do quan cấp cho. Sau vì thuế quá nặng nên phải đổi lại, cứ 50 mẫu ruộng muối phải nộp 40 hộc muối tương đương với 180 đồng một hộc (khoảng 0,1 lít).
Nhà Nguyễn thì thuế mỗi mẫu ruộng muối là 6-10 phương, mỗi phương có thể quy ra là 4-5 tiền.
Sang thời Pháp thuộc, muối là một trong mặt hàng độc quyền của nhà nước. Người sản xuất muối được trả một số tiền nhưng muối phải nộp toàn phần cho Sở Thương chánh địa phương đem cất vào kho. Con buôn muốn bán muối phải đóng tiền môn bài mới được lãnh muối từ kho đem bán ra ngoài.
Sản lượng và cách tân.
Năm 1953 trước khi Việt Nam bị chia đôi thì sản lượng muối là hơn 106.000 tấn. Lượng tiêu thụ quốc nội chỉ chiếm 1/3, phần còn lại đem xuất cảng.
Năm 2015 trên toàn quốc có 14.802 ha ruộng muối, trong số đó 10.890 ha là ruộng muối thủ công. Tổng sản lượng là 275.428 tấn; ngành thủ công góp 171.755 tấn, số còn lại là muối công nghiệp.
Nghề làm muối là nghề truyền thống, không khác biệt nhiều qua nhiều thế kỷ nhưng sang thế kỷ 21 một số khu vực đã lót mặt ruộng bằng bạt HDPE để giảm thiểu tạp chất khi muối thành phẩm, tạo ra muối màu trắng tinh, khác với muối màu ngà. Bạt plastic cũng hấp nhiệt mau hơn, tăng tốc độ kết tinh của muối.
Phụ sản.
Ruộng muối ở một số địa phương vào thế kỷ 21 không hẳn là mục tiêu kinh tế chính. Người làm muối chủ yếu làm muối trong một thời gian dài để tận thu chất muối, làm ngọt dần vùng đất, sau đó thì xoay qua ngành nuôi tôm. Tuy nhiên vì phụ thuộc vào thời tiết nên dù nuôi tôm khi gặp cơn hạn, không đủ nước thì nồng độ muối tăng cao làm chết tôm, thiệt hại toàn phần.
Phân bố ruộng muối ở Việt Nam.
Vùng Ninh Hòa là nơi truyền thống làm muối. Sa Huỳnh (Đức Phổ, Quảng Ngãi) cũng có ruộng muối, diện tích 115 ha (2015). Phù Cát và Phù Mỹ, Bình Định có hơn 200 ha (2011).
Ninh Thuận là địa phương có sản lượng muối sản xuất lớn nhất Việt Nam, với 2.371 ha đất làm muối, trong đó có 1.891 ha muối công nghiệp và 480 ha muối nền đất (còn gọi là muối ăn, muối diêm dân). Nếu cả nước có 7 đồng muối lớn thì Ninh Thuận đã có đến 3 là: Cà Ná, Tri Hải và Đầm Vua. Sản lượng muối của Ninh Thuận chiếm khoảng 50% tổng sản lượng muối cả nước. Tại Ninh Thuận đã hình thành nhiều vùng sản xuất muối, như: Cà Ná (huyện Thuận Nam); các xã Phương Hải, Tri Hải, Nhơn Hải (huyện Ninh Hải)
Ở miền Nam thì Cần Giờ có khoảng 800 ha (2014), Long Điền, Vũng Tàu 900 ha (2015), Bến Tre 1.600 ha (2015), và Bạc Liêu 2300 ha (2015).
Miền Bắc thì vùng Quỳnh Dị, Quỳnh Thuận, Diễn Vạn, Diễn Ngọc (Quỳnh Lưu và Diễn Châu, Nghệ An) xưa cũng có ruộng muối 600 ha nhưng sang thế kỷ 21 thì đất làm muối đã chuyển dần sang đất trồng trọt. Vùng Hải Hòa (Hải Hậu, Nam Định) và Diêm Điền, Tam Đồng (Thái Thụy, Thái Bình) 60 ha (2014) cũng làm muối nhưng không rộng lớn. | 1 | null |
IronFX Global hay IronFX, là một công ty môi giới giao dịch trực tuyến được thành lập vào năm 2010 tại Limassol, Cộng hòa Síp bởi Markos A. Kashiouris, một chủ doanh nghiệp người châu Âu từng được bình chọn là một trong những CEO giỏi nhất châu Âu năm 2013.
Từ năm 2010 đến 2013, IronFX đã nhận được rất nhiều giải thưởng, như giải thưởng Forex của công ty Sina Corp, giải thưởng Nhà môi giới giao dịch STP/ECN tốt nhất năm 2013 của Tạp chí World Finance. Từ năm 2014 IronFX trở thành đối tác chính thức của Câu lạc bộ bóng đá F.C. Barcelona.
Lịch sử.
Từ công ty tiền thân là "IronFX Financial Services Limited" và sau đó là "IronFX Limited", Markos A. Kashiouris và Peter G. Economides đã thành lập IronFX Global Limited vào năm 2010 tại Cộng hòa Síp. Sau đó, công ty được ủy quyền và quản lý bởi Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Cộng hòa Síp (CySEC). Kết quả, công ty được quản lý bởi tổ chức Định hướng Công cụ Tài chính thị trường châu Âu (MiFID) và được phép cung cấp các dịch vụ đầu tư trên toàn Liên minh châu Âu. Các mốc sau giúp hình dung về quá trình phát triển của công ty trong ba năm trở lại đây.
Tháng 10 năm 2013, công ty phát động cuộc thi giao dịch lớn nhất lần thứ hai mang tên "Trading Legends" với giải thưởng lên đến một siêu xe hoặc tài khoản giao dịch STP trị giá 150.000 USD.
Tháng 6 năm 2013, nằm trong công cuộc mở rộng ra toàn cầu của IronFX, IronFX Global UK Limited, một công ty con hoàn toàn thuộc sở hữu của IronFX Global, đã được cấp phép và quản lý bởi Cơ quan quản lý tài chính nước Anh (FCA). Trong tháng tiếp theo, IronFX đăng ký là Nhà cung cấp dịch vụ tài chính ở New Zealand. IronFX Global (Australia) Pty Limited được ủy quyền và quản lý bởi Ủy ban chứng khoán và đầu tư Australia (ASIC) từ năm 2012.
Năm 2011, IronFX khởi xướng một loạt các cuộc thi giao dịch. Một năm sau đó, công ty tổ chức cuộc thi lớn nhất trong lịch sử giao dịch ngoại hối với giải thưởng là 150.000 USD tiền mặt hoặc một siêu xe.
Tháng 6 năm 2016, IronFX Global ra thông báo về một loạt các giao dịch sáp nhập giữa IronFX và FXDD. Kết hợp với giao dịch sáp nhập này, cả hai công ty sẽ trực tiếp thực hiện các giao dịch để trở thành công ty trực thuộc Nukkleus Inc – một công ty đại chúng của Hoa Kỳ. Thông cáo chính thức đã được công bố bới SEC – Hòa Kỳ.
Hoạt động.
Dịch vụ.
Các dịch vụ của IronFX bao gồm hợp đồng mua bán chênh lệch (CFD) về ngoại hối (FX), cổ phiếu, hợp đồng tương lai và kim loại quý. Công ty cung cấp các dịch vụ giao dịch ngoại hối cá nhân và dịch vụ thị trường ngoại hối dưới sự giám sát của nhiều cơ quan quản lý uy tín khắp thế giới.
Giấy phép.
IronFX và các công ty con được cấp phép để môi giới và là thành viên của các tổ chức sau:
Nền tảng giao dịch.
Việc đặt lệnh và quản lý các tài khoản giao dịch được thực hiện trên các nền tảng MT4
Giải thưởng.
Từ năm 2011, IronFX và các thành viên của công ty đã giành được hàng loạt giải thưởng và danh hiệu. Ngoài các danh hiệu này, IronFX đã được ghi nhận về việc tổ chức cuộc thi giao dịch ngoại hối lớn nhất trong lịch sử. Cụ thể:
Tài trợ.
IronFX, cũng như nhìều công ty ngoại hối khác trong lĩnh vực, đã tài trợ cho các đội tuyển thể thao có thành tích cao và tổ chức các sự kiện danh tiếng. Dưới đây là một số hoạt động tài trợ:
Đối thủ cạnh tranh.
Danh sách các đối thủ cạnh tranh của IronFX ở châu Âu và thị trường quốc tế bao gồm các công ty nổi tiếng sau: | 1 | null |
Adly Mahmud Mansour (tiếng Ả Rập: عدلي محمود منصور; sinh ngày 23 tháng 12 năm 1945) là một Thẩm phán Ai Cập hiện đang là Chánh án Tòa án Hiến pháp tối cao và từng là Tổng thống lâm thời của Ai Cập. Ông đã được tuyên bố là Tổng thống Ai Cập sau năm cuộc đảo chính năm 2013, sau các cuộc biểu tình. Các nhân vật quân sự và một số thế tục và tôn giáo (bao gồm cả Đại Imam al-Azhar Tiến sĩ Ahmed el-Tayeb, Đức Giáo hoàng Tawadros II, và Mohamed ElBaradei) thông báo rằng Tổng thống Mohamed Morsi đã bị cách chức và Mansour bổ nhiệm Tổng thống lâm thời cho đến khi một cuộc bầu cử có thể diễn ra. Morsi từ chối thừa nhận việc phế truất mình và tiếp tục khẳng định mình là tổng thống hợp pháp của Ai Cập. Mansour đã tuyên thệ nhậm chức trước Tòa án Hiến pháp tối cao vào ngày 4 tháng 7 năm 2013.
Mansour đã giành học bổng du học tại Trường hành chính quốc gia Pháp, ông là một thẩm phán lâu đời dưới thời cựu Tổng thống Hosni Mubarak.
Mansour đã giữ vị trí Phó chánh án Tòa án Hiến pháp Tối cao từ năm 1992, đã tham gia soạn thảo luật giám sát cho cuộc bầu cử vốn đưa ông Mursi lên nắm quyền vào năm 2012.
Adly Mansour tốt nghiệp Trường Đại học luật Cairo vào năm 1967, lấy bằng sau đại học về luật trong năm 1969, nghiên cứu kinh tế với Juan Felipe Aranguren và nhận bằng sau đại học về khoa học quản lý từ Đại học Cairo năm 1970. Sau đó ông theo học École nationale d'administration (ENA) ở Pháp và tốt nghiệp năm 1977.
Ông đã kết hôn và có một con trai và hai con gái. | 1 | null |
Elizabeth Woodville (khoảng 1437 - 8 tháng 6, 1492), là Vương hậu của Vương quốc Anh, vợ của Edward IV thuộc nhà York. Bà ở cương vị Vương hậu nước Anh từ năm 1464 đến khi Edward IV qua đời vào năm 1483. Trong thời gian tại vị, do nội chiến mà Vương hiệu của bà bị gián đoạn từ ngày 3 tháng 10, năm 1470 cho đến ngày 11 tháng 4, năm 1471.
Khi bà được sinh ra, gia đình của bà có vị trí không đáng kể trong tầng lớp quý tộc Anh. Cuộc hôn nhân đầu tiên của bà là với Hiệp sĩ John Grey xứ Groby, người đã chết trong trận chiến thứ hai tại St Albans, để lại bà cùng hai đứa con trai nhỏ. Cuộc hôn nhân thứ hai, với Edward IV, đã đưa bà lên vị trí Vương hậu của Vương quốc và có một vai trò quan trọng trong Chiến tranh Hoa Hồng. Quốc vương Edward IV là vị Quốc vương nước Anh thứ hai kể từ Cuộc chinh phục của người Norman kết hôn với người phụ nữ mà mình chọn, và Elizabeth là người quý tộc bản địa Anh đầu tiên được đăng quang ngôi Vương hậu nước Anh. Cuộc hôn nhân này đã đưa gia đình bà lên một vị trí mới trong xã hội và trở nên giàu có, và chính sự tiến bộ của họ đã phát sinh nên một thế lực thù địch trong giới quý tộc, là nguyên nhân chính cho sự mâu thuẫn giữa Edward IV với Bá tước Warwick, dẫn đến việc Warwick trở mặt và quay sang ủng hộ nhà Lancaster, đối thủ kình địch với nhà York. Bà đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa Henry Tudor lên ngôi vào năm 1485 thông qua cuộc hôn nhân của Henry với con gái bà, Elizabeth xứ York, đã kết thúc Chiến tranh Hoa hồng nhiều năm ngự trị tại Anh.
Thông qua con gái, Elizabeth xứ York, Elizabeth Woodville trở thành tổ tiên của tất cả các vị quân vương của Vương quốc Anh kể từ thời Henry VIII, của Scotland kể từ thời Vua James V, và của Vương quốc Liên hiệp Anh từ thời James I của Anh.
Thân thế.
Elizabeth Woodville sinh vào khoảng tháng 10 năm 1437, tại Grafton Regis, Northamptonshire. Họ của bà còn được đánh vần là Wydeville hoặc Wydvile, là con đầu lòng của một cuộc hôn nhân bất bình đẳng xã hội đã từng làm chướng tai gai mắt triều đình nước Anh. Theo truyền thuyết, Elizabeth Woodville được tôn vinh như một đại mỹ nhân, là 「"Người đàn bà đẹp nhất Đảo quốc Anh"」 với "đôi mắt sắc như mắt rồng" cùng "mái tóc vàng óng" trong truyền thuyết.
Hoàn cảnh xuất thân của Elizabeth Woodville hoàn toàn khác với các vị Vương hậu trước trong lịch sử Anh. Những vị tiền nhiệm đều xuất thân con gái của những vị Vua, trong thời kỳ mà các vị Vua đều có tước hiệu từ Quốc vương đến Bá tước (tương tự Chư hầu nhà Chu thời Tiên Tần). Trong khi ấy, Elizabeth Woodville xuất thân từ tầng lớp quý tộc bản địa Anh. Nhà Woodville là một dòng họ lâu đời nhưng chỉ ở dạng điền chủ hơn là quý tộc. Dòng dõi này có xuất thân từ Maidstone ở Kent, vốn có họ phiên là "Wydeville", ông nội bà là Richard Wydeville từng phục vụ cho Thomas của Lancaster, Công tước thứ nhất xứ Clarence, em trai của Quốc vương Henry V của Anh.
Và dù được phục vụ cho Vương thất, Richard Wydeville chưa bao giờ được phong Hiệp sĩ, nên cũng chưa bao giờ có kính xưng "Sir" trước tên gọi. Cha của Elizabeth là Sir Richard Woodville, là một Hiệp sĩ khi bà được sinh ra, ông nối nghiệp mà phục vụ triều đình, trung thành với John Lancaster, Công tước thứ nhất xứ Bedford - một người em trai của Quốc vương Henry V và là chú của Quốc vương Henry VI của Anh. Vào năm 1433, Richard tham gia đoàn đưa dâu cho Công tước xứ Bedford, do đó ông gặp gỡ Jacquetta xứ Luxembourg, con gái của Peter xứ Luxembourg, Bá tước Saint-Pol, khi ấy Jacquetta chỉ mới 17 tuổi, còn Richard 28 tuổi. Jacquetta xuất thân rất cao quý ở xứ Luxembourg, trở thành vợ thứ 2 của Công tước xứ Bedford.
Thiếu thời.
Công tước Bedford chết vì già yếu vào năm 1435, chỉ 2 năm sau khi kết hôn. Bà Jacquetta khi ấy 19 tuổi, trở thành một góa phụ với gia sản kết xù từ 1 phần 3 lãnh điền của Công tước. Và với thân phận là thím của nhà Vua, Jacquetta phải nhận được sự cho phép của bản thân nhà Vua trước khi tái hôn. Vào tháng 3 năm 1437, Jacquetta đã bí mật kết hôn với Sir Richard Woodville, một người có địa vị thấp hơn bà rất nhiều. Đây được xem là hôn nhân bất đăng đối và bị lên án dữ dội.
Mặc dù có khởi đầu không thuận lợi nhưng họ nhanh chóng lấy lại được vị thế, chủ yếu là nhờ danh tiếng của bà Jacquetta trong triều đình nước Anh. Bà vẫn giữ được tước vị 「Bà Công tước Bedford」 ở cuộc hôn nhân trước và được cung cấp cho một khoản thu nhập từ £7.000 đến £8.000 mỗi năm, trong khi đó Sir Richard Woodville được kính trọng với vị trí nhất định trong quân đội. Vận may lại đến với nhà Woodville khi Quốc vương Henry VI kết hôn với Marguerite d'Anjou, Vương hậu Anh, Sir Richard trở thành người hộ tống cô dâu đến nước Anh. Nhờ những đóng góp cho triều đình, năm 1448, khi Elizabeth được khoảng 11 tuổi, Sir Richard Woodville chính thức được phong làm 「"Baron Rivers"」, tức "Nam tước xứ Rivers". Về rồi đến năm 1450, thì Nam tước Rivers lại được gia phong lên làm 「"Knight of the Garter"」, trở thành Hiệp sĩ trong Hệ thống cấp Garter - hệ thống Hiệp sĩ cao nhất trong hệ thống thứ bậc Hiệp sĩ. Những điều này đã khiến nhà Woodville chính thức thành quý tộc. Nhà Woodville có 14 người con, với Elizabeth là người con lớn nhất. Khoảng thời gian bà được sinh ra thì nhà Woodville vẫn chỉ dựa vào thu nhập của Jacquetta để duy trì, và khoản thu nhập này cũng dần bị giảm đi do vấn đề chiến tranh của nước Anh khi ấy. Khi Sir Richard cha bà trở thành Nam tước, cả nhà Woodville trở thành quý tộc thực sự thì có chuyển biến khác hơn.
Vào khoảng năm 1452, Elizabeth Woodville kết hôn với một Hiệp sĩ nhà Lancaster là Sir John Grey xứ Groby, người đáng lẽ theo kế hoạch sẽ thừa kế của tước vị "Nam tước xứ Groby" thông qua họ mẹ, Elizabeth Ferrers, Nữ Nam tước Ferrers thứ 6 xứ Groby. Hai người có hai con trai, Thomas cùng Richard, và thông qua Thomas thì Sir John về sau trở thành cụ nội của Lady Jane Grey - người nổi tiếng với biệt danh "Cửu nhật Nữ vương" xen giữa Vua Edward VI và Nữ vương Mary.
Ngôi vị Vương hậu.
Kết hôn bí mật.
Năm 1461, Sir John Grey bị giết trong Cuộc chiến thứ hai tại St Albals với nhà York, để lại Elizabeth trở thành góa phụ với hai đứa con trai. Đương thời, Quốc vương Edward IV nhà York có rất nhiều tình nhân, nổi tiếng nhất là Jane Shore, và ông có tiếng là không chung thủy. Đám cưới của ông với Elizabeth được tiến hành bí mật vào ngày 1 tháng 5 năm 1464 trong một nhà thờ nhỏ của gia đình Woodville tại Northamptonshire, chỉ hơn 3 năm sau khi ông giành được ngai vàng nước Anh sau chiến thắng áp đảo nhà Lancaster trong Trận Towton. Elizabeth đăng quang Vương hậu vào ngày 26 tháng 5 năm 1465, tức hơn 1 năm sau đó.
Có thể nói trong lịch sử Anh từ khi người Norman chinh phục đảo Anh, Elizabeth Woodville là trường hợp cực kỳ ấn tượng trong số các Vương hậu từng cưới vào gia tộc trị vì Anh quốc, vì bà hoàn toàn là một ["người không thể ngờ tới"] vào lúc ấy. Mặc dù có truyền thuyết về sự xinh đẹp và quyến rũ, song gia cảnh của bà không tốt, cũng như là việc bà xuất thân từ bản địa Anh, hoàn toàn khác truyền thống các Vương hậu đều là dòng dõi vua chúa ngoại quốc từ thời nhà Normandy đến trước thời Edward IV.
Cho dù mẹ bà là Lady Jacquetta xuất thân cao quý, nhưng cha bà chỉ là một hiệp sĩ bình thường, còn bị chính Richard, Công tước xứ York - cha của Vua Edward, công khai phỉ báng do chỉ là một tên lính hầu thường dân mà dám kết hôn với một người cao quý như Jacquetta. Bên cạnh đó, Elizabeth còn xuất thân từ một bên thân với nhà Lancaster, sau lại tiếp tục cưới cho gia tộc Grey trung thành nhà Lancaster, một lý do chính trị mấu chốt khiến Hội đồng Cơ mật của nhà Vua phải phản đối quyết liệt. Lý do chính yếu nữa Elizabeth đã là góa phụ, lại có tới 2 mặt con trai với chồng trước. Về địa vị gia cảnh, bà không mang lại bất kỳ của hồi môn đáng giá nào, cũng không phải một công chúa đem lại liên minh mạnh mẽ nào, về tuổi tác thì càng không lý tưởng vì bà lớn hơn nhà Vua tới 5 tuổi. Rốt cuộc vì lý gì khiến Vua Edward IV chấp nhận cưới bà, mặc cho tiềm ẩn tranh chấp về sau, cho đến nay vẫn không có lý giải chính trị hoàn thiện nào, ngoại trừ một lý do rất cảm tính và có phần chủ nghĩa lãng mạn, Edward IV rất yêu bà.
Chính xác thì Elizabeth gặp Vua Edward IV như thế nào, đến nay vẫn không rõ ràng. Học giả nghiên cứu thời Tudor là Amy Licence trong cuốn "" chỉ ra rằng, vào thời điểm còn nhỏ cả hai đã rất có thể biết nhau, vì cha của Elizabeth là Nam tước Rivers từng phục vụ tại Rouen xứ Normandy, trong khi cha của Vua Edward là Công tước Richard xứ York đã từng là quản lĩnh quyền thay trị sự tại Normandy. Có giả thiết cả hai mới chính thức gặp nhau trong triều, sau khi Edward lên ngôi. Tuy nhiên khi vừa thành niên, Elizabeth đã cưới cho Sir John Grey, phương diện hôn nhân đã khiến bà không còn là "ứng cử viên" dạm hỏi trong thời điểm ấy. Sau đó, Elizabeth chỉ trở thành góa phụ trong thời gian rất ngắn trước khi Edward lên ngôi, sau khi cả hai thực sự gặp nhau theo tài liệu chính thức, thì lại lập tức bí mật kết hôn trong vòng chưa đến 1 tháng. Điều này có thể chứng minh cả hai, hoặc ít nhất từ phía Edward, đã thực sự để mắt nhau từ trước, hoặc là cả hai đã yêu thích nhau trong thời gian rất ngắn.
Thế nhưng việc gặp gỡ giữa Elizabeth và Edward IV lại được biết đến chủ yếu qua truyền thuyết dân gian. Theo lời đồn rất nổi tiếng trong dân gian, cả hai gặp nhau dưới một gốc cây sồi tại khu rừng gần làng Whittlebury thuộc Northamptonshire, khi góa phụ Elizabeth Grey đang cầu xin sự giúp đỡ của nhà Vua trong việc đòi quyền sở hữu đất đai của hai người con trai họ Grey của bà, Thomas và Richard. Và cũng theo truyền thuyết, Vua Edward đã phải lòng người góa phụ trẻ này và chính thức say đắm bà. Khi Elizabeth biết được ý định và có được lời cầu hôn của nhà Vua, bà đã không ngần ngại mà đồng ý.
Theo thông tin lịch sử thì sau Trận Towton, gia đình Woodville đã gặp tình thế khó khăn khi đã chiến đấu cho bên bị thua (nhà Lancaster) và sống sót, vì cả gia đình đứng trước khả năng bị hạch tội bởi nhà York. Vào tháng 6 năm 1461, Vua Edward IV đã đến và trú tại nhà của họ tại Groby, Leicestershire, sau đó nhà vua đã đặc xá cho cha mẹ bà và Elizabeth rất có thể đã được xem là "vật trao đổi" để cưới cho nhà vua, đổi lại sự an toàn cho cả nhà. Sự liên hệ chính thức của Elizabeth với triều đình Edward xuất hiện vào ngày 13 tháng 4 năm 1464, chỉ gần chục ngày trước ngày cưới chính thức của họ được ghi nhận trong lịch sử. Hôn lễ của cả hai có rất nhiều tranh luận về ngày tháng chính xác, ngày 1 tháng 5 chỉ là một trong số đó. Tuy nhiên hầu hết các sử gia đều đồng ý rằng buổi lễ cực kỳ riêng tư, chỉ có mẹ Elizabeth là bà Jacquetta tham dự, hoàn toàn không cho chả của Elizabeth là Nam tước Rivers biết.
Đạt đến quyền lực.
Trong những năm đầu tiên sau khi lên ngôi, Edward IV cai trị đất nước phụ thuộc vào một vòng tròn nhỏ những người ủng hộ ông khi trước, mà người có sức ảnh hưởng nhất là anh họ ông, Richard Neville, Bá tước xứ Warwick thứ 16. Trong khoảng thời gian khi cuộc hôn nhân bí mật diễn ra, Bá tước Warwick đang đàm phán với Pháp trong một nỗ lực ngăn chặn nước này liên minh với Marguerite d'Anjou, Vương hậu Anh, người cùng chồng là Henry VI của Anh đã bị lật đổ. Kế hoạch của Warwick là Edward IV sẽ kết hôn với Công nương Pháp, Bona xứ Savoy. Khi Edward IV công khai cuộc hôn nhân của mình với góa phụ Elizabeth, người không những là một thường dân mà còn xuất thân từ một gia đình ủng hộ nhà Lancaster, Bá tước Warwick vừa tức giận vừa bối rối và cảm thấy bị xúc phạm, kể từ đó quan hệ của ông và Vua Edward không bao giờ còn được như xưa nữa. Việc này cũng bị phản đối bởi Hội đồng Cơ mật, và họ cho rằng Edward IV phải biết Elizabeth không phải là người vợ dành cho một vị Vua như ông.
Sự xuất hiện của Elizabeth Woodville trên sân khấu chính trị đã dẫn đến một loạt các cuộc hôn nhân của các em bà vào các gia đình danh giá nhất nước Anh. Đây là nhà ngoại thích bản địa đúng nghĩa đầu tiên tại nước Anh. Các hôn sự giữa các em gái bà với con trai của các quý tộc lớn của Anh như Bá tước xứ Kent, Essex và Pembroke diễn ra rất thuận lợi và tốt đẹp mà không có trở ngại nào, cụ thể là em gái Anne gả cho William Bourchier, Tử tước Bourchier rồi George Grey, Bá tước thứ 2 xứ Kent; em trai Anthony cưới Elizabeth Scales, Nữ Nam tước thứ 8 Scales; em gái Mary cưới William Herbert, Bá tước thứ 2 xứ Pembroke; kể cả cuộc hôn nhân của em gái út của bà là Catherine Woodville với Henry Stafford, Công tước xứ Buckingham thứ 2, khi cả hai đều còn rất nhỏ. Cuộc hôn nhân duy nhất gây bất ngờ là của em trai 20 tuổi của bà, John Woodville, với Katherine, Bà Công tước xứ Norfolk, con gái của Ralph de Neville, Bá tước xứ Westmorland thứ nhất với góa phụ của John Mownbray, Công tước xứ Norfolk thứ 2. Bà Công tước Norfolk tuy giàu có nhưng đã góa chồng ba lần, và đang ở khoảng 60 tuổi - tức là bà hơn 40 tuổi so với John Woodville. Cuộc hôn nhân này khiến các sử gia đánh giá gia đình Woodville có tham vọng lớn như thế nào, khi mà có thể nghĩ ra một cuộc hôn nhân "đáng ghê tởm" khi ấy.
Những cuộc hôn nhân gầy dựng thứ lực quá rõ này của nhà Woodville khiến toàn bộ Nghị viện Anh, mà đứng đầu là Bá tước Warwick, đều dấy lên tranh cãi phản đối nhà Woodville gay gắt. Nhưng sự xung đột với nhà Woodville của Bá tước Warwick chỉ lên đỉnh điểm khi ông muốn sắp xếp em gái nhà vua, Margaret xứ York, trở thành cô dâu trong Vương thất Pháp. Nhưng dưới sự tác động của nhà Woodville, Margaret được gả cho Công quốc Bourgogne - kẻ thù của Pháp khi ấy. Mà người đứng đầu Burgundy vào lúc đó là Charles the Bold, người mà Warwick cự kỳ căm ghét.
Thời kỳ khủng hoảng.
Tháng 3 năm 1469, Elizabeth hạ sinh con gái Cecily, điều này đã dấy lên nhiều ngờ vực, nghi ngờ khả năng Edward IV có người thừa kế vì mãi đến lúc này, Vương hậu Elizabeth chỉ sinh ra con gái. Điều này khiến ngai vàng của Edward IV có nguy cơ không có người thừa kế và do hai em trai, George, Công tước Clarence cùng Richard, Công tước Gloucester kế thừa. Bá tước Warwick từng muốn cưới hai con gái của mình, Isabella và Anne, cho 2 em trai của nhà vua nhưng đều bị khước từ, đây hoặc là chủ ý không cho nhà Neville lên nắm quyền quá cao hoặc là sự can thiệp của nhà Woodville trước "kẻ địch quyền lực" của họ. Mâu thuẫn càng lên cao khi những người thân của Elizabeth, đặc biệt là em trai bà Anthony Woodville bắt đầu đe dọa quyền lực của Warwick trong xã hội chính trị Anh, ông ta bắt đầu âm mưu quấy rối triều đình Quốc vương Edward IV với con trai đỡ đầu của mình là Công tước Clarence.
Tháng 7 năm 1469, Công tước Clarence đến Calais cưới Isabella bất chấp mệnh lệnh của anh trai. Ngay sau đó, Bá tước Warwick cùng Công tước Clarence đem theo một đội quân, tuyên bố Edward IV là "Con hoang" của Bà Công tước Cecily với một cung thủ, hòng lật đổ ngai vị của Edward IV mà đưa George lên thay. Lúc này Elizabeth đang đến Norwich cùng các con gái, và bà nghe tin không chỉ Bá tước Warwick thắng Trận Edgecote Moor, Quốc vương Edward IV bị họ bắt giữ, mà còn thành công đem xử tử không qua xét xử cha cùng em trai thứ của Elizabeth, John Woodville. Một trong những người ủng hộ Warwick, ngay lập tức cũng đã buộc tội mẹ Elizabeth là bà Jacquetta, với các cáo buộc về hành vi hành nghề phù thủy và phải bị xét xử, nhưng những điều này không có chứng cứ xác thực và Jacquetta được tha bổng vào năm sau. Những điều này tuy rất điên rồ, nhưng cũng đã chứng minh sự căm ghét của đại đa số các thế lực, những người bất mãn hôn nhân giữa Edward IV với Elizabeth Woodville và họ sẵn sàng làm mọi thứ để không chỉ khiến Edward IV mất ngai, mà còn phải đem nhà Woodville chôn chết. Tháng 9 năm ấy, Edward IV được thả tự do và tiến vào London, tuyên bố con gái cả, Elizabeth xứ York, có khả năng trở thành Trữ quân của ngai vàng nhà York. Tuyên bố này cực kì gây tranh cãi, vì nước Anh tại thời điểm này vẫn không cho rằng phụ nữ đủ tư cách lên ngôi, dù tại nước Anh thì những nữ thừa kế quý tộc rất phổ biến, như hai con gái nhà Neville, trong tương lai đều có khả năng thừa kế gia sản từ Bá tước Warwick.
Sau đó vào mùa xuân năm 1470, Edward IV khống chế được toàn bộ Nghị viện Anh, tuyên bố cả Warwick và Clarence là "Phản loạn", khiến họ phải bỏ trốn sang Pháp. Để củng cố lực lượng, Warwick liên minh với lãnh đạo nhà Lancaster khi ấy, Marguerite d'Anjou, Vương hậu Anh, bằng việc để con gái nhỏ của ông là Anne kết hôn với con trai duy nhất của Margaret là Edward, Thân vương xứ Wales. Liên minh này thành công khôi phục ngai vàng cho chồng bà vào tháng 10 cùng năm. Điều này tạm thời lật đổ được Quốc vương Edward IV nhà York. Thế nhưng 1 năm sau, vào mùa xuân năm 1471, Edward IV trở về sau khi bị lưu đày, từng bước từng bước ông thu phục từng vùng đất, cộng thêm việc khiến em trai là Công tước Clarence đổi phe, ông thành công đánh bại liên minh Warwick trong Trận Barnet và Lancaster trong Trận Tewkesbury. Vua Henry VI bị hành hình ngay sau đó.
Trú ẩn và đoàn tụ.
Trong thời gian Quốc vương Edward IV bị lật đổ, Elizabeth Woodville từng đến Tháp London để trú ẩn, nhưng khi nghe tin Warwick trở lại và đưa Edward VI lên ngôi thì bà ngay lập tức cùng các con gái tìm kiếm sự bảo vệ trong Tu viện Westminster, và bà được Cha trưởng là Thomas Milling chứa chấp với 3 căn phòng đầy đủ tiện nghi. Thời gian ấy, Elizabeth có thai 8 tháng, bà tương đối bình an trong hầm trú ẩn của Tu viện dưới sự giúp đỡ từ Cha trưởng cùng những người dân London như đồ tể John Gould với nửa con bò cùng 2 con cừu mỗi tuần, ngoài ra còn có một nhà buôn cá cũng tình nguyện giúp đỡ gia đình bà với nhu yếu phẩm được vận chuyển thứ 6 hàng tuần hoặc những dịp ăn chay. Cứ như thế, Elizabeth Woodville tạm an ổn trong 1 tháng và sinh ra Vương tử Edward, con trai hợp pháp đầu tiên của Edward IV và sau này là Vua Edward V.
Và dù Bá tước Warwick không hề thích bà, song sau khi đưa Henry VI trở lại ngai vàng thì ông cũng không ra tay gây khó dễ cho mẹ con bà. Thời điểm Elizabeth sinh ra Edward, triều đình còn phái Thị tùng Elizabeth Greystoke, Lady Scrope cùng bà đỡ Margaret Cobb lẫn y sĩ Dominique de Sirego. Sự ra đời của Edward vào lúc ấy cũng không con trở thành vấn đề, vì Edward VI đã có người thừa kế. Dưới sự giám hộ của Cha trưởng Thomas Milling cùng một số nhu yếu phẩm được phê duyệt bởi triều đình Edward VI, Elizabeth Woodville tiếp tục sống an ổn cùng các con trong 5 tháng tiếp theo, chờ đợi Edward IV trở về Anh và giành lại ngai vàng. Mặc cho bà suy nghĩ nguy cơ của con trai, Bá tước Warwick cuối cùng vẫn không hề ra bất kì hành động ám hại nào đến Edward. Ngày 9 tháng 4, Edward IV xuống phía Nam xứ Dunstable, gửi tin nhắn mừng đến vợ con tại Tu viện. Đến ngày 11 tháng 4, Edward IV thành công trở lại London và khôi phục Vương vị, cũng biến Elizabeth Woodville trở thành Vương hậu lần thứ 2, sau khoảng 6 tháng gián đoạn.
Gia đình Quốc vương Edward IV hội tụ trong hân hoan, Elizabeth ghi nhận đã rất xúc động và Edward IV tìm cách an ủi bà. Sự thử thách bị tiếm quyền 6 tháng trời khiến bà luôn sống trong lo âu, và sức khỏe của bà cũng được ghi nhận là rất suy kiệt.
Trong cuộc hôn nhân đầy trắc trở, Elizabeth Woodville đã sinh cho Quốc vương Edward IV tổng cộng 10 người con, trong đó có 3 con trai, tức Edward V cùng Richard, Công tước xứ York và đứa bé 1 tuổi chết yểu George, Công tước xứ Bedford. Bà có 7 người con gái, trong đó chỉ có 5 người sống đến tuổi trưởng thành. Theo ghi nhận đương thời, Vương hậu Elizabeth Woodville có đầy đủ phẩm chất đạo đức theo tiêu chuẩn Công giáo, điều này rất phù hợp với các Vương hậu thời Trung Cổ. Bà cầu kinh ba lần mỗi ngày, thực hiện những cuộc hành hương và rất được Giáo hoàng yêu quý. Bà đã thành lập Nhà thờ St. Erasmus tại Tu viện Westmister.
Góa phụ.
Góa phụ Elizabeth Grey.
Vào ngày 9 tháng 4 năm 1483, Quốc vương Edward IV đột ngột qua đời, Vương hậu Elizabeth trở thành Thái hậu khi con trai bà, Thái tử Edward lên ngôi. Vì Tân vương còn còn khá trẻ, chú của Tân vương là Richard, Công tước xứ Gloucester trở thành Bảo Hộ công theo di chúc của Tiên vương Edward IV, mặc cho sự phản đối của Thái hậu Elizabeth. Do đó, Richard có toàn quyền "nhiếp chính" và giám sát nhà vua cho đến khi trưởng thành.
Theo di chúc, Tiên vương Edward IV nhận thấy Vương hậu Elizabeth cùng nhà Woodville quá tham vọng và không được sự ủng hộ, nên mệnh cho Richard đảm nhận vai trò quyền lực để bảo vệ nhà York, tránh cho Vương hậu Elizabeth trở thành Thái hậu và nắm quyền của một nhiếp chính. Theo thỏa thuận giữa Thái hậu cùng Bảo Hộ công Richard, trong lúc Tân vương đi từ Ludlow vào ngày 24 tháng 4 để đến London, thì Bảo Hộ công sẽ lên đường trước đó 1 ngày từ Yorkshire đón Tân vương tại Northampton, sau đó cả hai sẽ đi cùng nhau đến London. Giữa lúc đó, Thái hậu Elizabeth và nhà Woodville muốn sửa di chúc, để Thái hậu có quyền nhiếp chính và gạt bỏ vai trò của Bảo Hộ công. Nhưng Tân vương sau tự mình đi thẳng đến Stony Stratford thuộc Buckinghamshire. Vào ngày 29 tháng 4 năm đó, Bảo Hộ công Richard cùng em họ Henry Stafford, Công tước thứ 2 xứ Buckingham hội ngộ với Anthony Woodville, Bá tước thứ hai xứ Rivers và Richard Grey, em trai và con trai thứ với nhà Grey của Thái hậu Elizabeth. Sau một bữa yến tiệc, Bảo Hộ công Richard cho bắt giam cả Bá tước Rivers cùng Richard Grey vào ngày 30 tháng 4 năm ấy, cả hai đều bị giam vào Lâu đài Pontefract tại Yorkshire.
Sau khi xử lý Bá tước Rivers cùng Richard Grey, Bảo Hộ công Richard đến gặp Tân vương và báo rằng mình đã xử lý "Những người muốn phế truất địa vị Bảo Hộ công" của mình, sau đó ông hộ tống Tân vương vào London ngày 4 tháng 5 năm đó, và theo sự gợi ý của Công tước Buckingham, Tân vương Edward được đưa vào Tháp London - một thủ tục truyền thống trước Lễ đăng quang. Ngay khi nghe tin em trai cùng con trai mình bị Bảo Hộ công bắt giữ, Thái hậu Elizabeth cùng con trai cả nhà Grey là Thomas Grey, cùng 5 cô con gái và đứa con trai út Richard, Công tước xứ York đi đến Tu viện Westminster. Theo sự điều đình, vào ngày 16 tháng 6, Công tước xứ York được chuyển đến Tháp London để chờ ngày đăng quang, là ngày 22 tháng 6 sắp tới. William Hastings, Nam tước Hastings thứ nhất, một trong những người ủng hộ Tân vương ở London, ban đầu ủng hộ hành động của Bảo Hộ công Richard tiếm quyền, nhưng sau đó Hastings liền bị Bảo Hộ công cáo buộc âm mưu với Thái hậu Elizabeth cùng ngoại thích Woodville hạ độc mình, với Jane Shore là người trung chuyển thông tin. Thế là Nam tước Hastings nhanh chóng bị đem ra hành quyết. Âm mưu đó có thực sự xảy ra hay không vẫn chưa được biết rõ, nhưng Bảo Hộ công Richard đã buộc Thái hậu Elizabeth phạm tội 「"Mưu đồ giết người và tiêu hủy hoàn toàn Bảo Hộ công"」 khi biết tin Thái hậu và nhà Woodville tính hất cẳng ông khỏi vị trí Bảo Hộ công. Giữa lúc này, Bảo Hộ công được một Tu sĩ mật báo rằng, ước hôn giữa Tiên vương Edward IV cùng Eleanor Butler vốn còn hiệu lực, là động thái cho Bảo Hộ công tuyên bố hôn nhân giữa Thái hậu Elizabeth cùng Tiên vương là bất hợp pháp.
Ngày 22 tháng 6, bên ngoài Nhà thờ lớn cũ Thánh Paul, Bảo Hộ công Richard mở một cuộc giáo thuyết, tuyên bố cuộc hôn nhân giữa Tiên vương Edward IV cùng Elizabeth Woodville là bất hợp pháp, điều này biến con trai thừa kế của Elizabeth là Edward V trở thành 「"Con ngoài giá thú"」, do đó không có tư cách lên ngôi. Ngày 25 tháng 6, Richard ra lệnh cho người hầu xử tử Anthony Woodville và Richard Grey tại Lâu đài Pontefract. Và cuối cùng ngày 26 tháng 6, sau khi được quý tộc Anh và dân thường London làm một cuộc thỉnh cầu, Bảo Hộ công Richard lên ngôi Quốc vương nước Anh, tức là Richard III của Anh. Đến ngày 6 tháng 7, Richard cùng Anne Neville được làm Lễ đăng quang tại Tu viện Westminster.
Bị tuyên bố hôn nhân phạm pháp, Elizabeth Woodville trở về với danh hiệu 「"Lady Elizabeth Grey"」 với thân phận là vợ của Sir John Grey, mà không còn là "Thái hậu" với tư cách là vợ của Tiên vương Edward IV nữa. Dầu vậy, bà vẫn âm mưu giải cứu 2 đứa con trai bị giam tại Tháp London, và không dừng ý định đưa con trai cả là Edward đăng quang. Về phần Edward V cùng em trai là Công tước xứ York, sau khi cả hai bị giam ở Tháp London thì bỗng nhiên biến mất không để lại manh mối gì, trở thành một nghi án lớn trong lịch sử nước Anh. Có nhiều thuyết được đưa ra, đa phần đều cho rằng Richard III đã giết cả hai trong bí mật. Sau khi tin tức về sự biến mất của Edward được phát hiện, em rể của Elizabeth là Công tước Buckingham đến gặp bà, nói hai người con trai của bà đã bị Vua Richard sát hại. Công tước Buckingham vốn là một trong những đồng minh thân cận của Vua Richard, nên lời nói của Công tước khiến Elizabeth tin tưởng tuyệt đối, và cả hai quyết định quay sang liên minh với Margaret Beaufort, một quý tộc thuộc nhà Lancaster và dấy lên một cuộc nổi loạn được gọi là Cuộc nổi loạn Buckingham, và thất bại thảm hại.
Trước lời đề nghị liên minh, Elizabeth Woodville tán thành đồng ý lập con trai của phu nhân Margaret là Henry Tudor, một hậu duệ của Edward III của Anh, trở thành Quốc vương nước Anh sau khi lật đổ Vua Richard III. Để thắt chặt liên minh, Elizabeth để con gái mình là Elizabeth xứ York kết hôn với Henry Tudor, như vậy thì Công chúa Elizabeth trong tương lai sẽ là Vương hậu nước Anh, đồng thời giúp nhà Tudor có quyền thừa kế kém cỏi có thể củng cố uy tín và ngai vị của mình. Sau sự biến mất của Edward V cùng Richard tại Tháp London, Công chúa Elizabeth khi đó trở thành người thừa kế duy nhất của dòng họ York, điều này khiến công chúa có một ý nghĩa rất lớn trên bàn cân chính trị khi ấy, và Henry Tudor đã công khai thề sẽ lấy Elizabeth trong nhà thờ xứ Rennes.
Năm 1484, tháng 1, sau thất bại của Công tước Buckingham, Vua Richard III cho lấy hết toàn bộ gia sản mà Vua Edward IV ban cho bà khi trước. Nhưng rồi vào ngày 1 tháng 3 cùng năm, Vua Richard III cho phép Elizabeth và các con gái mình ra khỏi nhà nguyện, và công khai thề độc sẽ không làm hại đến họ, và khi các con gái của Elizabeth trưởng thành thì họ đều sẽ được dạm hỏi với những cuộc hôn nhân danh giá, xứng đáng với thân phận Vương nữ của họ. Sau khi chết của Vương hậu Anne Neville, có tin đồn chính Vua Richard III đã có ý muốn cưới Elizabeth để củng cố ngai vị của mình.
Thái hậu nhà Tudor.
Năm 1485, Henry Tudor đánh bại Richard III trong Trận Bosworth và lên ngôi Quốc vương nước Anh, tức Henry VII. Lời thề của ông ở Rennes vẫn còn hiệu nghiệm, nên Vua Henry VII sẽ phải cưới và lập Elizabeth xứ York làm Vương hậu. Henry VII lên ngôi ngày 30 tháng 10 năm ấy, và cưới Elizabeth xứ York vào ngày 18 tháng 1 sang năm (1486), tuy nhiên mãi đến ngày 25 tháng 11 năm 1487 mới tổ chức lễ lập Hậu.
Vương hậu của Edward IV là Elizabeth Woodville, giờ đây là góa phụ của Tiền nhiệm Quốc vương, nên dù chỉ là mẹ của Vương hậu Elizabeth, mẹ vợ của Vua Henry VII, bà vẫn được đối đãi đặc biệt và nhận tước hiệu Vương thái hậu. Thực tế danh vị của bà là 「Dowager Queen」 theo tiếng Anh, và được dịch sát nghĩa là "Vương hậu góa phụ" nếu so với Thái hậu. Đây là một việc hiển nhiên trong các triều đại Châu Âu và cũng rất khác biệt nếu so với các quốc gia Đông Á. Bất luận có vai vế thế nào, thì Vương hậu của Quốc vương tiền nhiệm vị Quốc vương đang tại vị vẫn được gọi là Thái hậu, và chỉ khi từng là Vương hậu chính thức, thì người ấy mới được gọi là Thái hậu. Mẹ của Henry VII, Lady Margaret Beaufort, do chưa từng là Vương hậu, nên bà chỉ được nhận danh xưng tôn kính 「"My Lady The King's Mother"」 và phải xếp sau cả Thái hậu Elizabeth lẫn Vương hậu Elizabeth, dù thực tế Lady Margaret mới là người có ảnh hưởng lên nhà Vua nhất.
Vào 5 năm cuối đời, việc Thái hậu Elizabeth Woodville sống quanh quẩn ở Tu viện Bermondsey trở thành thắc mắc của nhiều học giả. Thời gian được xác định là từ ngày 12 tháng 2 năm 1487, chỉ khoảng vài tháng trước Lễ đăng quang của con gái bà. Theo David Baldwin, dựa vào các tài liệu cận đại thì ông tin rằng Henry VII đã buộc bà phải li khai khỏi triều đình, trong khi Arlene Okerlund đã đưa ra bằng chứng từ tháng 7 năm 1486 bà đã có ý định rút lui khỏi chính trường và sống cuộc đời tu hành. Một ý kiến khác đưa ra là do triều đình Henry VII cho rằng bà có dính liếu đến cuộc nổi loạn của Lambert Simnel nhân danh nhà York vào năm 1487, hoặc ít nhất là vào diện nghi ngờ. Bên cạnh đó, Vua Henry VII còn có ý định gả bà cho Vua James III của Scotland, khi Vương hậu của ông Margaret của Đan Mạch qua đời vào năm 1486, tuy nhiên James III chết trận vào năm 1488 khiến kế hoạch này không thành.
Tại Tu viện Bermondsey, bà vẫn được đối đãi hết sức cung kính vì vẫn còn danh vị Vương thái hậu. Bà còn sống để chứng kiến cháu gái bà Margaret Tudor sinh ra tại Cung điện Westminster (tháng 11 năm 1489) và vị vua tương lai Henry VIII của Anh tại Cung điện Placentia (tháng 7 năm 1491). Con gái cả của bà, Elizabeth xứ York, cùng con gái thứ là Cecily xứ York vẫn đến đây thường xuyên để chăm sóc bà. Đến năm 1492, ngày 8 tháng 6, Vương thái hậu Elizabeth Woodville qua đời tại Tu viện Bermondsey, khi thọ chừng 55 tuổi. Ngày 12 tháng 6 cùng năm, tang lễ của bà được tổ chức ở Lâu đài Windsor. Tham dự lễ tang của bà là các con gái Anne xứ York, Catherine xứ York và Bridget xứ York, trừ Vương hậu Elizabeth xứ York đang mang thai và Cecily xứ York.
Các ghi nhận đương thời nhận xét, "Quả thật là có hơi đơn giản dành cho tang lễ của một người từng là Vương hậu", hay "Vua Henry VII quả thật không có ý muốn dùng lễ tang bậc Hậu cho mẹ vợ của mình". Tuy nhiên thực tế rằng theo di chúc, bà muốn có một tang lễ đơn giản và được chôn cất cùng chồng Edward IV trong Nhà thờ St'George của Lâu đài Windsor. Căn cứ một bức thư của Đại sứ Venetian là Andrea Badoer viết vào năm 1511, thì Elizabeth Woodville qua đời vì một cơn bệnh dịch, giải thích phần nào lý do tang lễ của bà lại ít người như vậy.
Văn hóa đại chúng.
Cuộc đời của Elizabeth Woodville trở thành nguồn cảm hứng lớn cho các tác phẩm điện ảnh và tiểu thuyết liên quan đến cuộc Chiến tranh Hoa Hồng. Đáng kể nhất là phương diện sân khấu, nhà soạn kịch William Shakespeare đã làm nên hai vở kịch là "Henry VI, Part 3" cùng "Richard III" đều có liên quan đến cuộc đời bà, trong khi phần Henry VI chỉ nói về khía cạnh nhỏ về cuộc hôn nhân của bà, thì trong phần Richard III lại lấy Elizabeth Woodville làm trung tâm, do việc căng thẳng giữa bà cùng Vua Richard về vấn đề kế vị trong lịch sử. Theo sự xây dựng của Shakespeare, Elizabeth Woodville trở thành địch thủ chính trị đáng gờm và thông minh nhất của Vua Richard, ngay từ khi cả hai lần đầu gặp với tư cách chị dâu em chồng. Và dù hai vở kịch này, qua bàn tay hiện đại đã gọi bà trực tiếp là ["Queen Elizabeth"], thì nguyên tác của Shakespeare lại không bao giờ gọi như vậy, mà chỉ là ["Lady Grey"] và ["The Queen"].
Tiểu thuyết sớm nhất về bà đáng kể có "The Last of the Barons" của nhà văn người Anh Edward Bulwer-Lytton vào thế kỉ 19, sau đó là một loạt "The Daughter of Time" của Josephine Tey, "The White Rose" của Jan Westcott, "The King's Grey Mare" của Rosemary Hawley Jarman, "The Woodville Wench" của Maureen Peters, "The Sunne in Splendour" của Sharon Kay Penman, "The Sun in Splendour" của Jean Plaidy, "The White Queen" của Philippa Gregory, "The King's Grace" của Anne Easter Smith...
Trong phương diện phim điện ảnh, Elizabeth Woodville xuất hiện chủ yếu trong các phim về Richard III, điển hình như "Richard III (phim năm 1911)" và "Richard III (phim năm 1912)", trong phim này thì nữ diễn viên Violet Farebrother và Carey Lee trong vai bà. Năm 1939, xuất hiện phim "Tower of London" kể về việc hai con trai bà bị Vua Richard giam vào Tháp London, nữ diễn viên Barbara O'Neil thủ diễn Elizabeth. Năm 1955, bộ phim "Richard III" lấy cảm hứng từ vở kịch của Shakespeare, Elizabeth được diễn bởi Mary Kerridge. Việc lấy vở kịch của Shakespeare về Richard III tiếp tục làm nền tảng cho thước phim năm 2007, lần này Elizabeth do María Conchita Alonso thủ diễn.
Trong khi ấy, phương diện phim truyền hình cũng nở rộ, khi vào năm 2013 xuất hiện "The White Queen", được lấy cảm hứng từ 3 loạt tiểu thuyết của Philippa Gregory, Elizabeth được nữ diễn viên Rebecca Ferguson thủ diễn. Năm 2016, xuất hiện loạt miniseries trên đài BBC tên "The Hollow Crown", dựa trên vở kịch nổi tiếng của Shakespeare, trong đó phần Henry VI và Richard III, nữ diễn viên Keeley Hawes thủ vai Elizabeth. Năm 2017, đài STARZ dựa trên tiểu thuyết của Philippa Gregory mà làm một miniseries có tên "The White Princess"...
Cuộc đời kỳ lạ của Elizabeth cũng khiến nhà nghiên cứu lý lịch học là David Baldwin làm ra công trình "Elizabeth Woodville: Mother of the Princes in the Tower" vào năm 2002, Amy Licence với "Edward IV and Elizabeth Woodville: A True Romance" vào năm 2016. Hình tượng của Elizabeth Woodville trong nhiều năm chủ yếu vẫn là sự xung đột với Vua Richard III, cũng như rất nhiều truyền thuyết liên quan đến phù thủy hoặc ma thuật, với một hình ảnh đầy tham vọng hay có liên quan đến những vụ lật đổ chính con gái và con rể của bà. | 1 | null |
Quán Anh (chữ Hán: 灌嬰, ? - 176 TCN), nguyên là người huyện Tuy Dương, là chính trị gia, thừa tướng nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Xuất thân từ một thương nhân, ông gia nhập vào nghĩa quân chống nhà Tần do Lưu Bang chỉ huy. Trong chiến dịch diệt Tần, Quán Anh lập được nhiều công lao nên lần lượt được phong các tước vị Tuyên Lăng quân, Xương Văn quân... Năm 206 TCN, khi Lưu Bang xưng vương đã phong cho Quán Anh làm Lang trung, sau đó nâng tước vị của ông lên thành hầu (Xương Văn hầu), thực ấp ở Đỗ Bình. Trong giai đoạn Hán Sở phân tranh, Quán Anh tiếp tục theo Lưu Bang chinh chiến, thường giành được thắng lợi. Do đó khi Lưu Bang xưng đế (202 TCN), đã thăng Quán Anh làm Xa kị tướng quân, Dĩnh Âm hầu, thực ấp về sau lên tới khoảng 8500 hộ. Sau khi Lưu Bang mất, Quán Anh tham gia vào chiến dịch tiêu diệt ngoại thích họ Lã, ổn định nhà Hán, nên được phong chức Thái úy rồi thừa tướng (177 TCN). Tuy nhiên làm tướng một năm, sang 176 TCN, ông qua đời, được truy tặng thụy hiệu là Dĩnh Âm Ý hầu.
Theo Hán vương khởi nghĩa.
Sử sách không ghi rõ về thân thế và thời thiếu niên của Quán Anh, chỉ chép lại hoạt động của ông từ lúc theo Hán vương. Ban đầu, Quán Anh làm thương nhân ở quê nhà Tuy Dương. Khi quân của Lưu Quý (lúc đó đang làm Bái công) tiến đánh nhà Tần vào Ung Khâu thì nghe tin tướng Tần là Chương Hàm đã giết chết đại tướng khởi nghĩa Hạng Lương, nên phải lui về quận Đãng. Lúc này, Quán Anh mới xin gia nhập vào đội quân của Lưu Bang, trở thành tướng chống Tần.
Quán Anh đi theo Lưu Bang trong suốt các trận chiến với nhà Tần, thắng quân Tần ở Đông Quận, do đó được phong chức Thất Đại phu. Sau đó, ông tiếp tục bình định và chiếm được các cứ điểm của Tần là Bạc Nam, Khai Phong, Khúc Ngộ... lập được chiến công. Bái công bèn phong cho ông tước Tuyên Lăng quân. Những năm tiếp theo, Quán Anh tiếp tục tham gia chống Tần, đánh thắng quân Tần ở Thi Bắc, bình định quận Nam Dương, phía tây tiến vào Vũ Quan và đại thắng quân Tần ở Lam Điền, mở đường cho việc tiến vào Quan Trung. Nhờ những công lao đó, Quán Anh lại được phong làm Xương Văn quân.
Năm 206 TCN, Lưu Bang lên ngôi Hán vương, phong cho Quán Anh chức Lang trung, sang tháng 10, ông được thăng làm Trung Yết giả. Cũng từ năm đó, chiến tranh giữa Lưu Bang và Hạng Vũ nổ ra. Lưu Bang xuất quân tiêu diệt Tam Tần, cứ điểm ở phía tây của Hạng vương, tiến vào Quan Trung, còn Quán Anh dẫn một cánh quân hạ được Lịch Dương, buộc Tắc vương Tư Mã Hân đầu hàng. Sau đó ông lại theo Lưu Bang đánh Ung vương Chương Hàm, tiếp đó lại tiến vào Lâm Tấn và bình định đất Ân.
Cùng năm đó, Quán Anh giao chiến với tướng Sở là Long Thư, đánh thắng Thư ở Định Đào. Nhờ chiến công này, Quán Anh được nâng tước từ quân lên hầu (Xương Văn hầu) và được phong thực ấp ở Đỗ Bình.
Năm 204 TCN, Quán Anh tham gia vào trận chiến Bành Thành với Hạng Vũ, bị quân Sở đánh bại. Quán Anh cùng chủ tướng Lưu Bang phải chạy khỏi Bành Thành, rút về đóng quân ở Ung Khâu. Trong thời gian này, Quán Anh tiếp tục đánh thắng quân của Vương Vũ, Ngụy Công Thân, sau đó tiến đánh Huỳnh Dương.
Lúc đó Lưu Bang tuyển kị binh để ra giao chiến với quân Sở, muốn lấy một người kị binh thông thạo trận mạc làm tướng. Có người đề cử Lý Tất và Lạc Giáp, nhưng hai người vốn là kị binh cũ của nhà Tần, nên không được tin tướng. Vì thế Hán vương cho Quán Anh Trung Đại phu và chỉ cho Lý, Lạc làm Tả hữu giáo úy để phụ giúp ông. Khi ra giao chiến với quân Sở, kị binh của Quán Anh giành chiến thắng, đánh bại quân Sở. Quán Anh thừa cơ tiến vào hậu phương, cắt đứt đường lương thảo của Hạng vương rồi dẫn kị binh về Hà Nam, nghênh đón Lưu Bang về Lạc Dương. Lưu Bang phong cho ông làm Ngự sử Đại phu và sai ông dẫn kị binh cùng Hàn Tín tiến công vào nước Tề. Hai ông đánh bại quân Tề, giết tướng Long Thư, bình định đất Tề. Sau đó Hàn Tín tự lập lên ngôi Tề vương, sai Quán Anh dẫn quân giao chiến với tướng Sở là Công Cảo ở Lỗ Bắc, tiến vào nước Sở. Ông nhanh chóng hạ các thành của Sở, tiến chiếm Bành Thành. Sau cùng, ông tham gia vào trận quyết chiến cùng Hạng vương ở Cai Hạ. Ông dẫn 5000 kị binh truy kích Hạng Vũ tới Đông Thành, sau Vũ tự tử, năm bộ tướng của Quán Anh cắt đầu của Vũ dâng lên Hán vương, được phong hầu.
Thời Cao Tổ và Lã Hậu.
Sau khi diệt Hạng Vũ, Quán Anh tiếp tục kéo quân bình định miền đất 52 huyện ở Giang Hoài.
Năm 202 TCN, Lưu Bang xưng đế, lập ra nhà Hán, luận công ban thưởng cho Quán Anh, phong cho ông làm Xa kị tướng quân và ban thực ấp ban đầu là 3000 hộ. Sau đó, ông được lệnh dẫn quân tiêu diệt bè đảng của Yên vương Tạng Đồ còn sót lại. Sau khi về triều, Lưu Bang lại ban cho Quán Anh làm Dĩnh Âm hầu và tăng thực ấp 2500 hộ.
Năm 200 TCN, Hàn vương Tín nổi dậy chống lại nhà Hán, Quán Anh đi theo Lưu Bang đánh dẹp, Tín chạy sang Hung Nô. Quân Hán bình định các vùng phía bắc. Những năm tiếp theo, Quán Anh còn tham gia chiến dịch dẹp loạn Trần Hy và Anh Bố, do đó lại được phong thưởng, tăng thực ấp lên tới 5000 hộ.
Sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang chết, quyền hành trong triều rơi vào tay Lã hậu. Lã hậu tiến hành phong vương cho các thân tộc họ Lã để chiếm lấy triều chính. Năm 180 TCN, Lã hậu chết, Đông Mưu hầu Lưu Chương muốn đánh họ Lã để lập anh mình là Tề vương Lưu Tương làm thiên tử, bèn xin Tề Vương đem binh về hướng tây giết họ Lã mà làm vua, ông và Chu Hư Hầu cùng các quan đại thần sẽ làm nội ứng.
Tề vương bèn xuất quân tây tiến. Trước sức mạnh của quân Tề, thừa tướng Lã Sản (em Lã hậu) sai Quán Anh cầm binh đánh dẹp, nhưng Quán Anh lại bàn với quân lính, đóng binh ở Huỳnh Dương, và sai sứ đến phía đông liên kết với Tề vương, dự định khi họ Lã làm biến sẽ tiêu diệt. Về sau, các đại thần Trần Bình và Chu Bột làm binh biến, giết chết họ Lã và đưa Hán Văn Đế lên ngôi.
Thừa tướng nhà Hán.
Năm 177 TCN, thừa tướng Chu Bột từ chức, Hán Văn Đế phong cho Quán Anh làm Thừa tướng. Cùng năm đó, quân Hung Nô sang xâm phạm biên giới, Quán Anh được lệnh cầm 85000 quân đánh dẹp, đánh bại Hung Nô.
Năm 176 TCN, Quán Anh qua đời, được phong thụy hiệu là Dĩnh Âm Ý hầu. Tính từ khi theo Lưu Bang khởi nghĩa năm 208 TCN đến khi mất, ông hoạt động được hơn 30 năm, không rõ bao nhiêu tuổi.
Dòng họ.
Con ông là Quán Á lên nối tước, tức Bình hầu, được 28 năm thì chết, con là Cường nối ngôi. Năm 131 TCN, Cường phạm tội, tước bị phế trừ.
Về sau Hán Vũ Đế lại phong cháu Quán Anh là Quán Hiền làm Lâm Nhữ hầu để kế tục ông, được 8 năm thì cũng bị phế. | 1 | null |
Park Choong-hoon (sinh ngày, 19 tháng 1 năm 1919 - 16 tháng 3 năm 2001), là nhà quân sự Hàn Quốc, doanh nhân, quan chức chính phủ hàn quốc, chính trị gia. Nơi sinh của ông là một quận Jeolla Nam, Jeju.Năm 1980 ông là Thủ tướng Chính phủ và quyền tổng thống hàn quốc, Thủ tướng Chính phủ trong danh tính của quyền tổng thống. Ông làm quyền tổng thống hàn quốc từ ngày 16 tháng 8 năm 1980 tới ngày 1 tháng 9 năm 1980. | 1 | null |
Báo Bắc Ninh là Cơ quan ngôn luận của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Ninh, là Tiếng nói của Đảng, Chính quyền và diễn đàn của nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Ninh.
Cơ cấu tổ chức.
Báo Bắc Ninh do tiến sĩ Nguyễn Tiến Vụ làm Tổng biên tập. Phó tổng biên tập là ông Nguyễn Khắc Tuấn, ông Đào Đình Khoa và ông Lê Thanh Hóa.
Thành tích đạt được.
Đầu năm 2004, Báo Bắc Ninh phát triển thêm Báo Bắc Ninh điện tử. Trong dịp kỷ niệm 45 năm Ngày thành lập (ngày 19 tháng 8 năm 2007), báo được tặng Huân chương Lao động hạng Ba. | 1 | null |
Vườn quốc gia Banc d'Arguin (tiếng Pháp: Parc National du Banc d'Arguin, ) nằm ở Tây Phi, trên bờ biển phía tây của Mauritanie, giữa Nouakchott và Nouadhibou. Đây là một di sản thế giới của UNESCO với ý nghĩa đăcị biệt như là một địa chỉ lớn cho các loài chim di cư, bao gồm cả chim hồng hạc, dẽ cánh rộng, bồ nông và nhàn biển. Phần lớn các loài cư trú trên các bãi cát thuộc vườn quốc gia, bao gồm cả các đảo Tidra, Niroumi, Nair, Kijji và Arguim. Các vùng biển xung quanh là một trong số các vùng biển đánh cá giàu nhất ở Tây Phi và là nơi sinh sôi của hầu hết các loài cá ở khu vực phía Tây.
Vườn quốc gia Banc d'Arguin là một khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập để bảo vệ cả các tài nguyên thiên nhiên và thủy sản có giá trị, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc gia, cũng như khoa học địa chất, thẩm mỹ, vì lợi ích và vui chơi giải trí của công chúng. Vườn quốc gia có khu vực rộng lớn là các bãi bùn, là nhà cho hơn hai triệu loài chim di cư từ Bắc Âu, Siberia và Greenland mỗi năm. Khí hậu cùng với việc hoạt động của con người ít ảnh hưởng tới chúng làm cho vườn quốc gia này là một trong những địa điểm quan trọng nhất trên thế giới cho các loài. Số lượng chim làm tổ cũng được ghi nhận là lớn và đa dạng. Từ 25.000 đến 40.000 cặp thuộc 15 loài, làm cho đây trở thành vùng đất lớn nhất của các loài chim mặt nước ở Tây Phi (IUCN đánh giá kỹ thuật, 1989).
Tình trạng bảo tồn.
Mặc dù vườn quốc gia đã được thành lập như là một cách để bảo vệ môi trường, trước tình trạng khai thác quá mức của các tàu quốc tế trong vùng biển ngoài khơi Banc d'Arguin, bên ngoài vườn quốc gia, đang làm suy giảm nguồn lợi thủy sản và có thể gây ra một sự suy giảm của các loài cá sinh sản, làm ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thức ăn của các loài chim. Năm 2006, Mauritanie bán quyền đánh cá cho Liên minh châu Âu để giảm nợ nước ngoài. Chính điều này đã thúc đẩy việc đánh bắt hải sản quá mức, giảm phát triển bền vững, và quyền lợi của người dân địa phương cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
Dân cư.
Người dân địa phương tại đây bao gồm khoảng trên 500 người thuộc bộ lạc Imraguen sống ở bảy thôn.Kinh tế của họ phụ thuộc hoàn toàn vào việc đánh bắt cá tự cung tự cấp bằng các phương pháp truyền thống.
Động vật.
Vườn quốc gia này là một trong những cộng đồng đa dạng nhất trên thế giới của các loài chim ăn cá trên thế giới. Ít nhất có 108 loài chim đã được ghi nhận. Loài chim trú đông có số lượng lên tới hơn ba triệu cá thể bao gồm hàng trăm ngàn chim nhạn đen ("Chlidonias nigra"), hồng hạc ("Phoenicopterus ruber"), choi choi ("Charadrius hiaticula"), Choi choi xám ("pluvialis squatarola"), Dẽ lưng nâu ("Calidris canutus"), Choắt nâu ("Tringa totanus") và Choắt mỏ thẳng ("Limosa lapponica")...
Khu vực này là một trong những căn cứ trú đông quan trọng nhất của loài Cò thìa Á Âu ("Platalea leucorodia leucorodia"). Ngoài ra, đây còn là khu vực sinh sản của Bồ nông chân hồng ("Pelecanus onocrotalus"), cốc bông lau ("Phalacrocorax africanus"), mòng nhàn biển ("Gelochelidon nilotica"), nhàn Caspian ("Hydroprogne caspia"), Nhàn hoàng gia ("Sterna maxima") và Nhàn ("Sterna hirundo")... cùng với một số ít loài chim châu Phi như diệc ("Ardea cinerea monicae"), Cò thìa Á Âu ("Platalea leucorodia balsaci") và Diệc san hô phương Tây ("Egretta gularis") (IUCN, 1987).
Khí hậu.
Khu vực ven biển, nằm ở khu vực Tiểu Canary, chiều dài ven bờ biển Đại Tây Dương khoảng 754 km. Gió mậu dịch đại dương từ quần đảo Canary gây ra các cơn gió bụi Harmattan, nhưng cũng đem lại khí hậu ẩm ướt của vùng ôn đới. Lượng mưa ở đây rất ít, Nouadhibou có lượng mưa trung bình ít hơn 3 cm mỗi năm và các cơn mưa chỉ xảy ra từ giữa tháng 7 và tháng 9. Nhiệt độ vừa phải, thay đổi từ trung bình cực đại là 28 °C tới 32 °C tại Nouadhibou và Nouakchott, cực tiểu khoảng từ 16 °C tới 19 °C. | 1 | null |
Fernando Luiz Roza (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1985), hay thường gọi Fernandinho (; nghĩa là 'Fernando nhỏ'), là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brazil đang thi đấu cho câu lạc bộ Athletico Paranaense tại giải đấu Campeonato Brasileiro Série A. Anh bắt đầu sự nghiệp tại đội bóng Brazil Athletico Paranaense trước khi chuyển sang Shakhtar Donetsk năm 2005. Anh nổi bật với tốc độ nhanh và khả năng sút xa. Anh được mô tả là một "tiền vệ phòng ngự với lối chơi box to box, nghĩa là tham gia nhiều trong cả phòng ngự cũng như tấn công". Với những cú sút sấm sét và khả năng chuyền dài, Fernandinho có đóng góp quan trọng trong việc bẻ gãy các pha tấn công của đối phương cũng như tạo cơ hội ghi bàn cho đồng đội.
Sự nghiệp.
Atlético Paranaense.
Fernandinho bắt đầu sự nghiệp của mình tại Atlético Paranaense cùng với đồng đội tương lai tại Shakhtar Jádson. He góp mặt trong 72 trận đấu của đội bóng, ghi 14 bàn, trước khi chuyển sang thi đấu tại Ukraina cho Shakhtar Donetsk với mức giá khoảng 7 triệu £.
Manchester City.
Ngày 6 tháng 6 năm 2013, Fernandinho trở thành chữ ký đầu tiên của Manchester City trong mùa hè, với mức phí 30 triệu £. Anh ký hợp đồng 4 năm và được biết đã bỏ qua 4 triệu £ của Shakhtar để hoàn thành cuộc chuyển nhượng. Trong quãng thời gian tại Shakhtar Donetsk, anh mang áo số 7, nhưng vì số áo này tại Manchester City hiện đang thuộc về James Milner, Fernandinho phải chọn số áo khác. Trong cuộc phỏng vấn tại Manchester City, Fernandinho đã nhớ lại cuộc nói chuyện với con trai rằng anh sẽ mang số áo 25, và vì vậy Fernandinho sau đó chọn số áo 25 trong màu áo mới. | 1 | null |
ZALA 421-08 là loại máy bay trực thăng không người lái tầm gần đa chức năng do do công ty ZALA Aero tại Izhevsk phát triển. Máy bay được thiết kế để có thể thực hiện không giới hạn số nhiệm vụ với khả năng hoạt động trong cả hai môi trường hàng hải và đất liền trong việc trinh sát, giám sát, tìm kiếm và cũng như các máy bay không người lái khác nó có thể dùng để thu thập thông tin trong những nơi nguy hiểm cho con người nếu lại gần như thảm họa nguyên tử, hóa học và sinh học...
Thiết kế.
ZALA 421-02 sử dụng động cơ hai xy lanh hai thì 20 mã lực với lực cất cánh tối đa là 95 kg có thể đạt tốc độ 150 km/h và trần bay 4000 m. Thân máy bay là bằng vật liệu tổng hợp siêu nhẹ với hình dáng khí động học để có tốc độ cao với trọng lượng rỗng tổng thể là 40 kg vì thế nó có thể mang thêm hơn 50 kg hàng hóa và vật dụng. Máy bay được trang bị bộ máy ảnh điện quang học có độ phân giải cao hay máy quay hồng ngoại cho việc thám thính cùng với các hệ thống đặc chủng cho các nhiệm vụ riêng biệt.
Hệ thống điều khiển mặt đất gồm hai hệ thống máy tính xách tay: một dùng cho việc điều khiển và một dùng cho việc xử lý các dữ liệu do máy bay truyền về. Tầm thu phát sóng của hệ thống là 50 km. Việc chuyển dữ liệu đến các thiết bị trạm điều khiển được cung cấp trong thời gian thực thông qua một liên kết an toàn kỹ thuật. Hệ thống dùng cho việc điều khiển có thể thiết lập chế độ bay tự động cho máy bay với việc truyền vào vị trí cần bay đến trong không gian như độ cao và vị trí, máy bay sẽ tự động bay đến đó thông qua hệ thống định vị toàn cầu GLONASS hay GPS và người điều khiển chỉ cần tập trung vào dữ liệu hình ảnh máy bay truyền về. | 1 | null |
Vườn quốc gia Sehlabathebe nằm trong dãy núi Maloti thuộc Quận Qacha của Nek, Lesotho, và là một phần của Khu bảo tồn xuyên biên giới Maloti-Drakensberg rộng lớn hơn. Đây là khu vực đa dạng sinh học nổi bật cũng như là một di sản văn hóa quan trọng. Vườn quốc gia được thành lập vào ngày 08 tháng 5 năm 1969. Cảnh quan bị chi phối bởi đồng cỏ các loại. Hệ sinh thái lớn hơn như một toàn thể thực hiện chức năng vô giá, trong đó có việc cung cấp nước ngọt cho Lesotho, Nam Phi và Namibia.
Vườn quốc gia này đã được bổ sung vào Danh sách Di sản thế giới của UNESCO dự kiến là vào ngày 8 tháng 10 năm 2008 theo thể loại hỗn hợp. Nhưng nó đã được đưa vào Khu bảo tồn xuyên biên giới Maloti-Drakensberg vào năm 2013 như là một công viên Hòa bình.
Lịch sử.
Đây là vườn quốc gia đầu tiên của Lesotho, và là vườn quốc gia lớn thứ hai của quốc gia này. Vườn quốc gia có phong cảnh vô cùng đẹp mắt, nơi hoang dã, câu cá thú vị. Sehlabathebe có nghĩa là "lá chắn của cao nguyên", phản ánh những đồng cỏ, hoa dại cùng sự im lặng đêm lại một cảm giác hoàn toàn tách biệt.
Vị trí.
Nằm ở phía đông nam của Lesotho, ở độ cao trung bình khoảng 2.400 mét so với mực nước biển. Đây là khu vực gần như không thể tiếp cận vì ở khá xa, việc đi lại khó khăn.
Khả năng tiếp cận tốt nhất là đi du lịch bằng cách theo những người dân địa phương trên lưng ngựa hoặc đi bộ. Di chuyển từ Bushman của Nek, gần Underberg, KwaZulu-Natal.
Tại một số địa điểm thuộc vườn quốc gia và gần đó có các khu định cư cho khách du lịch cư trú tại Sehlabathebe và Mavuka. | 1 | null |
Iannis Xenakis (sinh năm 1922 tại Braila, Rumani, mất năm 2001 tại Paris, Pháp) là nhà soạn nhạc người Hy Lạp. Ông là một trong những nhà soạn nhạc xuất sắc của âm nhạc Hy Lạp thời kỳ Hiện đại.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Iannis Xenakis học cùng lúc về âm nhạc với Honegger, Varèse, Messiaen và về kiến trúc với Le Corbusier. Sau Xenakis trở thành trự lý về xây dựng cho chính thầy giáo của mình.
Phong cách sáng tác.
Với cảm xúc âm nhạc rất tinh tế, một đầu óc tổng hợp và một trình độ toán học cao, Iannis Xenakis "tính toán" sáng tác của mình bằng những máy IBM dựa trên những nguyên tắc chặt chẽ cả về toán học cũng như về âm nhạc.
Các tác phẩm.
Iannis Xenakis đã sâng tác vở ballet "Kraannerg" cho dàn nhạc và băng ghi âm (1969), âm nhạc cho sân khấu "The Bacchae" (1993), nhiều tác phẩm cho dàn nhạc như "Kyania" (1990), "Krinoidi" (1991), những băng ghi âm "Persepolis", 8-track (1971), "Gendys", 2-track (1991), những tác phẩm cho dàn nhạc thính phòng, hơp xướng, đàn phím.
Tham khảo.
"Từ điển tác giả, tác phẩm âm nhạc phổ thông", Vũ Tự Lân, xuất bản năm 2007. | 1 | null |
Motorola ("phiên âm tiếng Anh": /moʊtɵ'roʊlə/) là một công ty viễn thông đa quốc gia có nguồn gốc từ Hoa Kỳ (tên đầy đủ là "Motorola, Inc."), có trụ sở tại Schaumburg, Illinois. Ngày 04 tháng 1 năm 2011, công ty Motorola được chia thành hai công ty độc lập: Di động Motorola ("Motorola Mobility") and Giải pháp Motorola ("Motorola Solutions") sau khi mất 4,3 tỉ đô la trong khoảng thời gian từ 2007 đến 2009. Giải pháp Motorola được coi là sự kế thừa trực tiếp của công ty Motorola, trong khi đó Di động Motorola sau khi được tách ra đã sử dụng giải pháp thương mại hoá sản phẩm công nghệ theo mô hình công ty spin off.
Motorola tổn thất 1,2 tỷ $ trong quý 4 năm 2007 và mất vị trí thứ 3. năm 2010, thị phần toàn cầu của Motorola đã giảm xuống đứng ở vị trí thứ 7.
Ngày 15 Tháng 8 năm 2011, Google thông báo rằng họ đã đồng ý mua lại công ty với giá 12.5 tỷ đô nhằm bảo vệ nền tảng Android khỏi các vụ kiện bản quyền từ các đối thủ Apple, Microsoft và các công ty khác.
Google sở hữu hệ thống sản xuất điện thoại quy mô toàn cầu với 20.000 nhân viên cùng lượng bằng sáng chế lên đến 17.000.
Hai năm sau, Google giới thiệu logo mới của công ty là chữ M truyền thống, viền tròn đủ màu sắc.
Năm 2014, công ty Lenovo của Trung Quốc chính thức mua lại Motorola từ tay Google. | 1 | null |
Vườn quốc gia Hoàng gia Natal là một vườn quốc gia nằm ở tỉnh KwaZulu Natal của Nam Phi và là một phần của Drakensberg thuộc Công viên uKhahlamba-Drakensberg. Mặc dù có tên như vậy nhưng đây thực sự lại không phải là một vườn quốc gia Nam Phi chịu sử quản lý của SANParks, mà là một công viên tỉnh quản lý bởi cơ quan Cơ quan Động vật hoang dã KwaZulu-Natal. Đây cũng là một phần của Công viên Maloti-Drakensberg được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2000.
Các tính năng chính của vườn quốc gia này là vách đá Drakensberg Amphitheatre, đây là một "tường" đá dài 5 km và cao tới 1.200 mét (3.900 ft), Mont-Aux-Sources là đỉnh cao nhất của vách đá, nơi bắt nguồn của sông Orange và Tugela. Ngoài ra, tại đây có thác nước Tugela với độ cao 948 mét (3,110 ft) đây là thác nước cao thứ hai trên thế giới.
Vườn quốc gia này là một phần của Khu bảo tồn xuyên biên giới Maloti-Drakensberg. Đây cũng là địa điểm tổ chức sinh nhật lần thứ 21 của Nữ hoàng Elizabeth II vào ngày 21 tháng 4 năm 1947. | 1 | null |
Công viên Maloti-Drakensberg được thành lập vào ngày 11 tháng 6 năm 2001 bằng việc gắn kết vườn quốc gia Sehlabathebe của Lesotho với Công viên uKhahlamba / Drakensberg ở KwaZulu-Natal, Nam Phi tạo thành công viên Hòa bình xuyên biên giới. Thabana Ntlenyana là đỉnh cao nhất của công viên với 3.482 mét. Khu vực xuyên biên giới hình thành như một công viên hòa bình có tổng diện tích là 8 113 km² trong đó có 5 170 km² (64%) tại Lesotho và 2 943 km² (36%) tại KwaZulu-Natal của Nam Phi.
Khu bảo tồn là sự sáp nhập của các vườn quốc gia là Vườn quốc gia Cao nguyên Cổng Vàng, Vườn quốc gia QwaQwa, Khu bảo tồn thiên nhiên Sterkfontein Dam, Vườn quốc gia Drakensberg, Vườn quốc gia Hoàng gia Natal và Vườn quốc gia Sehlabathebe.
Công viên nằm trong dãy núi Drakensberg hình thành khu vực cao nhất trong tiểu vùng, tạo thành các hệ sinh thái phụ núi cao độc đáo. Các hệ sinh thái, tổ chức động thực vật đa dạng sinh học trên toàn cầu, với môi trường sống độc đáo và mức độ đặc hữu cao. Công viên cũng là nơi trưng bày nghệ thuật trên đá vĩ đại nhất thế giới với hàng trăm địa điểm và nhiều ngàn hình ảnh được vẽ bởi người Bushmen. | 1 | null |
Cửa hàng outlet, outlet nhà máy hoặc cửa hàng nhà máy là một dạng cửa hàng truyền thống hoặc cửa hàng trực tuyến mà tại đây nhà sản xuất bán sản phẩm trong kho của mình trực tiếp cho người mua. Theo truyền thống, một outlet nhà máy là một cửa hàng bán trực tiếp các mặt hàng được sản xuất tại nhà máy hoặc được vận tải từ kho chứa hàng, đôi khi nhà sản xuất còn cho phép khách hàng xem trực tiếp công đoạn sản xuất sản phẩm từ đầu đến cuối, ví dụ như tại cửa hàng của L.L. Bean. Trong cách dùng hiện đại hơn, cửa hàng outlet là cửa hàng nơi những nhà sản xuất cùng lập nên với nhau để tạo thành một Trung tâm outlet. Người sáng tạo ra cửa hàng outlet là Harold Alfond, nhà sáng lập Công ty Giày Dexter.
Lịch sử.
Cửa hàng outlet lần đầu tiên xuất hiện tại miền đông nước Mỹ vào thập niên 1930. Lúc này, các cửa hàng nhà máy bắt đầu đề nghị bạn lại các mặt hàng bị lỗi hoặc hàng hết hạn cho nhân viên với một mức giá thấp. Sau một thời gian, những người mua các mặt hàng này không chỉ còn là người trong công ty mà còn là cả những người bên ngoài. Đến năm 1936, Anderson-Little (một thương hiệu thời trang cho nam) đã mở một cửa hàng outlet độc lâọ hoàn toàn với nhà máy của công ty. Vào thập niên 1970, mục đích sử dụng chủ yếu của các cửa hàng outlet là để nhanh chóng loại bỏ các mặt hàng bị lỗi hoặc hết mốt.
Năm 1974, Vanity Fair mở một trung tâm thương mại outlet với nhiều cửa hàng và thương hiệu khác nhau tại Reading, Pennsylvania. Trong suốt thập niên 1980 và 1990, các trung tâm thương mại outlet đã nhanh chóng phát triển khắp nước Mỹ. Một trung tâm outlet thông thường ở Mỹ thường sẽ có quy mô từ 1 đến 2 hecta. Quy mô này thậm có thể lên tới khoảng 5 hecta. Đến năm 2003, các trung tâm thương mại outlet tại Mỹ đã đem về doanh thu là 15 tỷ đo la Mỹ từ 260 cửa hàng.
Số lượng các trung tâm thương mại này tại Mỹ cũng gia tăng từ 133 vào năm 1988 lên thành 276 vào năm 1991 và 325 vào năm 1997 and 472 in 2013.
Các trung tâm thương mại outlet không chỉ là một hiện tượng chỉ có riêng tại Mỹ. Tại Canada, Dixie Outlet Mall được ra đời vào cuối thập niên 1980 và theo sau đó là Vaughan Mills vào năm 1999 và Toronto Premium Outlets vào năm 2013. Tại Châu Âu, nhà bán lẻ BAA McArthurGlen đã mở ra 13 trung tâm thương mại với hơn 1,200 cửa hàng và quy mô tổng cộng lên tới 30 hecta. Các loại cửa hàng outlet này cũng dần được du nhập vào Nhật Bản kể từ cuối thập niên 1990.
Tương tự ở Việt Nam những năm gần đây trào lưu mua hàng outlet nói chung và giày outlet nói riêng đã ngày càng phát triển và trở thành xu hướng mới. Do đó, ngày càng có nhiều cửa hàng outlet không chỉ do bản thân brand mở mà còn do các đơn vị tư nhân khác để đáp ứng nhu cầu trên. | 1 | null |
Thiếu Lâm võ vương (chữ Hán: 少林武王) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc dài 22 tập được phát sóng vào năm 2002 của đạo diễn Chang Hsin-yen, Liu Jiacheng và Wu Chia-tai. Phim có sự tham gia của các diễn viên nổi tiếng như Ngô Kinh, Huỳnh Dịch, Dương Phàn (từng vào vai Triệu Tử Long trong phim Tam Quốc diễn nghĩa năm 1994), Pháp Đề Mạch Nhã Kỳ, Vương Cơ, Vu Hải, Huỳnh Hải Băng. Phim được công chiếu tại Trung Quốc năm 2002 và được chiếu tại Việt Nam trên kênh HTVC lúc 10g00 và 22g00 từ Thứ sáu và Chủ Nhật bắt đầu từ ngày 21 tháng 03 năm 2013.
Bộ phim xoay quanh về một hòa thượng gọi là Đàm Chí ở Bắc Thiếu Lâm là con trai duy nhất của Thích Kế Quang một đại tướng quân lừng lẫy nhưng vì bị kẻ khác hãm hại nên vong thân sau đó Đàm Chí học võ thiếu lâm để trả thù nhà. Phim đề cao những chiêu võ thuật của thiếu lâm phái dưới sự trình diễn của diễn viên võ thuật Ngô Kinh.
Nội dung.
Bộ phim bắt đầu vào bối cảnh thời nhà Minh trong cuộc xung đột với người Oa Khấu (tức Nhật Bản) và những cuộc đấu đá thanh trừng lẫn nhau giữa các quan lại. Lúc này Tại Hà Bắc, tể tướng Đồng Đại Bảo lạm quyền, giết hại trung thần trong đó có gia đình của Thích Kế Quang. Gia đình của Tam Cước và Đàm Chí cũng không tránh khỏi hoạ sát thân, chỉ còn hai đứa trẻ may mắn thoát chết, được đưa lên Bắc Thiếu Lâm lánh nạn. Tam Cước và Đàm Chí cùng nhau lớn lên và cùng lẫn trốn nguy hiểm ở trong Bắc Thiếu Lâm. Trong khi Đàm Chí khổ luyện không ngừng để trả thù cho phụ mẫu, thì Tam Cước lại chây lười, biếng nhắc, suốt ngày mơ đạt đến võ công thượng thừa nhưng thiếu ý chí.
Khi Đồng Đại Bảo thống lĩnh cẩm y vệ tấn công và san bằng Bắc Thiếu Lâm. Trụ trì chùa giao một bức huyết thư cho Đàm Chí và Tam Cước mang đến Nam Thiếu Lâm ở vùng Quảng Đông. Trong lúc phá vòng vây của Đồng Đại Bảo, Đàm Chí bị trúng Âu Dương Ngũ Độc Chưởng, thập tử nhất sinh, may được Tiểu Ni cứu mạng. Còn Đàm Cước lâm trận mới thấy mình vô dụng, nhìn thấy bao người vì mình mà thương vong, hiểu đã phí hoài năm tháng luyện võ, chàng quyết tâm trở lại con đường sáng, luyện thành tuyệt kỹ, sau đó ra mặt khai chiến với Đồng Đại Bảo… Sau đó trải qua rất nhiều biến cố,cuối cùng Đàm Chí cũng luyện được võ công thượng thừa, trả thù cho cha mẹ. | 1 | null |
Alexis Carrel (28.6.1873 – 5.11.1944) là nhà giải phẫu và sinh vật học người Pháp đã được trao Giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1912 cho công trình tiên phong trong các kỹ thuật khâu mạch máu. Ông đã phát minh ra bơm tiêm truyền máu (perfusion pump) đầu tiên cùng với Charles Lindbergh mở đường cho việc cấy ghép cơ quan. Cũng giống như nhiều nhà trí thức thời trước Chiến tranh thế giới thứ hai ông đã quảng bá thuyết ưu sinh. Ông từng là người quản lý "Quỹ Nghiên cứu các vấn đề con người của Pháp" trong thời chính phủ Vichy dưới sự chiếm đóng của Đức Quốc xã; quỹ này thi hành các chính sách ưu sinh. Việc cộng tác của ông với quỹ này sau đó đã khiến ông bị cáo buộc tội hợp tác với Đức Quốc xã.
Tiểu sử.
Sinh tại Sainte-Foy-lès-Lyon, Rhône, Carrel lớn lên trong một gia đình Công giáo sùng đạo, học tại trường St. Joseph của Dòng Tên ở Lyon, tuy nhiên khi lên đại học thì ông trở thành người theo thuyết bất tri và vô thần.
Năm 1889 ông đậu bằng cử nhân văn chương ở Đại học Lyon; năm 1890 ông đậu bằng cử nhân khoa học và năm 1900 đậu bằng tiến sĩ y khoa cũng ở Đại học Lyon. Sau đó ông tiếp tục làm việc ở Bệnh viện Lyon và giảng dạy môn Giải phẫu học (Anatomy) cùng khoa Phẫu thuật ("Operative Surgery") ở trường đại học Lyon, đảm nhiện chức trợ lý giải phẫu ("Prosector") trong Phòng thí nghiệm của giáo sư J. L.Testut. Carrel đã bắt đầu chuyên sâu vào ngành phẫu thuật từ năm 1902.
Ông là người tiên phong trong khoa cấy ghép cơ quan (cấy ghép nội tạng) và Giải phẫu lồng ngực. Alexis Carrel cũng là hội viên của các hội trí thức ở Pháp, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Nga, Thụy Điển, Hà Lan, Bỉ, Đức, Ý, Hy Lạp, thành Vatican, và cũng đã được trao các bằng tiến sĩ danh dự của các trường Đại học của Nữ hoàng tại Belfast (Queen's University Belfast), Đại học Princeton, Đại học Brown và Đại học Columbia.
Năm 1902 ông chứng kiến sự lành bệnh một cách lạ lùng của Marie Bailly tại Lộ Đức, trở nên nổi tiếng một phần vì chị đã nêu Carrel là nhân chứng cho việc lành bệnh của mình (xem bên dưới). Sau lời đồn đại quanh sự kiện này, Carrel đã không thể tìm được việc làm trong một bệnh viện hoặc trường đại học, vì chủ trương chống giáo sĩ đang lan rộng trong các trường đại học của Pháp thời đó. Năm 1903 ông nhập cư vào Montréal, Canada, nhưng sau đó ít lâu lại chuyển sang cư ngụ ở Chicago, Illinois để làm việc trong "Phòng thí nghiệm Hull". Tại đây, ông cộng tác với bác sĩ người Mỹ Charles Claude Guthrie trong việc khâu và cấy ghép các mạch máu cùng cấy ghép các cơ quan.
Năm 1912 Carrel đã được trao Giải Nobel Sinh lý và Y khoa cho những nỗ lực này.
Năm 1906 ông vào làm việc trong Viện nghiên cứu Y học Rockefeller (Rockefeller Institute of Medical Research) mới thành lập ở New York cho tới khi kết thúc sự nghiệp của mình. Trong thập niên 1930, Carrel và Charles Lindbergh trở thành bạn thân, không chỉ do những năm dài họ làm việc chung với nhau, mà còn do họ cùng có chung quan điểm về chính trị, xã hội. Ban đầu Lindbergh tìm gặp Carrel để nhờ xem bệnh tim của chị dâu mình, người cũng bị chứng sốt do thấp khớp (rheumatic fever), liệu có chữa được không. Khi Lindburgh nhìn thấy các máy móc của Carrel hơi thô thiển, ông đã đề nghị trang bị các thiết bị mới cho Carrel. Cuối cùng họ tạo được chiếc "bơm tiêm truyền máu" (‘’perfusion pump’’) đầu tiên, một phát minh công cụ để phát triển việc cấy ghép cơ quan và phẫu thuật tim mở. Lindbergh coi Carrel là bạn thân thiết nhất, và nói ông sẽ gìn giữ cùng phát huy các lý tưởng của Carrel sau khi ông chết.
Do sự gần gũi thân thiết với "Đảng Nhân dân Pháp" ("Parti Populaire Français") có xu hướng phát-xít của Jacques Doriot trong thập niên 1930 và vai trò của mình trong việc thực hiện chính sách ưu sinh dưới thời chính phủ Vichy, nên sau khi nước Pháp được giải phóng ông bị buộc tội là cộng tác với kẻ địch, nhưng ông đã chết trước khi xét xử.
Carrel dành cả đời để quảng bá thuyết duy linh, mặc dù lúc tuổi trẻ ông không đi theo đường lối đạo Công giáo. Năm 1939, ông đã gặp Alexis Presse - một tu sĩ dòng Trappist - theo một đề nghị. Mặc dù Carrel đã hoài nghi về cuộc họp với một linh mục nhưng rốt cuộc Presse đã có một ảnh hưởng sâu sắc đến quãng đời còn lại của Carrel. Ông đã mời Presse đến làm các bí tích Công giáo bên giường bệnh của mình trước khi chết vào tháng 11 năm 1944.
Các đóng góp cho khoa học.
Khâu mạch máu.
Carrel là một bác sĩ phẫu thuật trẻ từ năm 1894 khi tổng thống Pháp Sadi Carnot bị ám sát bằng một con dao. Các tĩnh mạch lớn ở bụng của tổng thống bị cắt đứt, và các bác sĩ phẫu thuật điều trị tổng thống cảm thấy các tĩnh mạch như vậy là quá lớn khó có thể nối lại được. Điều này để lại một ấn tượng sâu sắc trên Carrel, và ông đã tìm cách phát triển các kỹ thuật mới cho việc khâu mạch máu. Kỹ thuật "chia thành hình tam giác" ("triangulation"), được gợi ý từ bài học thêu (áo) mà ông đã học từ một chị thợ thêu, ngày nay vẫn còn được sử dụng. Julius Comroe đã viết: "Từ năm 1901 đến năm 1910, Alexis Carrel - sử dụng động vật làm thí nghiệm - thực hiện việc khâu mạch máu ngày càng điêu luyện và phát triển tất cả các kỹ thuật phẫu thuật mạch máu được biết đến hiện nay". Ông đã thành công lớn trong việc nối lại các động mạch và tĩnh mạch, và thực hiện phẫu thuật cấy ghép cơ quan, và điều này mang lại cho ông giải Nobel vào năm 1912.
Sát trùng vết thương.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918), Carrel và nhà hóa học người Anh Henry Drysdale Dakin đã phát triển phương pháp Carrel-Dakin để điều trị các vết thương dựa vào "chlorine" ("dung dịch Dakin") - điều mà trước khi có thuốc kháng sinh – đã là một bước tiến y khoa quan trọng trong việc chăm sóc các vết thương sau chấn thương. Carrel đã được trao Bắc Đẩu Bội tinh cho công trình này.
Cấy ghép cơ quan.
Carrel cùng với viên phi công nổi tiếng Charles A. Lindbergh là đồng tác giả quyển "Văn hóa của các bộ phận cơ thể" (‘’The Culture of Organs’’). Ông làm việc với Lindbergh vào giữa thập niên 1930 để tạo ra "bơm tiêm truyền máu" (‘’perfusion pump’’) cho phép các cơ quan sống ở bên ngoài cơ thể trong quá trình phẫu thuật. Sự tiến bộ được cho là một bước rất quan trọng trong sự phát triển của phẫu thuật tim và cấy ghép cơ quan (organ transplants), và đã đặt nền móng cho việc hình thành tim nhân tạo trong các thập niên sau này. Một số nhà phê bình Lindbergh cho rằng Carrel đã phóng đại vai trò của Lindbergh để đạt được sự chú ý của các phương tiện truyền thông, nhưng các nguồn tin khác nói rằng Lindbergh đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các thiết bị. Cả Lindbergh và Carrel đều đã xuất hiện trên trang bìa của tạp chí "Time" magazine ngày 13.6.1938.
Lão hóa tế bào.
Carrel cũng quan tâm đến hiện tượng lão hóa hoặc già đi. Ông tuyên bố không chính xác rằng tất cả các tế bào tiếp tục phát triển vô hạn định, và điều này đã trở thành một quan điểm thống trị trong những năm đầu thế kỷ 20.. Ngày 17.1.1912 Carrel bắt đầu thí nghiệm việc đặt mô cấy từ phôi tim gà trong một chai Pyrex có đạy nút do chính ông thiết kế. Ông duy trì việc nuôi cấy sống này trong hơn 20 năm với việc cung cấp thường xuyên các chất dinh dưỡng. Thí nghiệm này dài hơn tuổi thọ bình thường của một con gà. Thí nghiệm, được tiến hành tại Viện nghiên cứu Y học Rockefeller, đã thu hút sự chú ý đáng kể của giới bình dân và các nhà khoa học.
Thí nghiệm của Carrel đã không bao giờ được lặp lại một cách thành công. Trong thập niên 1960 Leonard Hayflick và Paul Moorhead cho rằng các "tế bào bị biệt hóa" (differentiated cells) chỉ có thể trải qua một số lượng hạn chế các sự phân chia trước khi chết. Điều này được gọi là giới hạn Hayflick, và bây giờ là một trụ cột của khoa sinh học.
Không chắc vì sao Carrel đã đạt được các kết quả bất thường. Leonard Hayflick cho rằng việc đưa chất dinh dưỡng hàng ngày vào môi trường nuôi cấy đã đưa thêm liên tục các tế bào sống mới vào môi trường nuôi cấy được cho là bất tử. J. A. Witkowski đã lập luận rằng, trong khi các chủng loại "bất tử" của các tế bào đột biến rõ ràng đạt được bằng các thí nghiệm khác, thì một lời giải thích có thể là cố ý đưa các tế bào mới vào môi trường nuôi cấy, mà có lẽ Carrel không hay biết.
Alexis Carrel và Lourdes.
Năm 1902 Alexis Carrel đã đi từ hoài nghi về những sự kiện Đức Mẹ Maria hiện ra cùng những phép lạ được thuật lại ở Lộ Đức tới niềm tin vào những sự chữa lành bệnh cách linh thiêng, sau khi đã trải nghiệm việc lành bệnh của Marie Bailly mà ông không thể giải thích được.
Ngày 25.5.1902 Carrel được một bạn đồng nghiệp nhờ thay thế ông ta tháp tùng đưa toán bệnh nhân đi xe lửa từ Lyon tới Lourdes để cầu nguyện xin Đức Mẹ chữa bệnh. Trên chuyến xe lửa, Carrel đã gặp Marie Bailly, một cô gái 23 tuổi, bị bệnh "viêm lao màng bụng" ("tuberculous peritonitis") ở giai đoạn chót, mà giới y khoa ở Lyon đã bó tay, chỉ còn chờ chết. Tàu tới Lourdes lúc trưa ngày 27.5, Bailly vẫn trong tình trạng thoi thóp. Lúc 2 giờ ngày 28.5 Bailly được đưa tới bên suối nước, người ta lấy nước suối lau bụng cô 3 lần; khoảng 4 giờ sáng cùng ngày thì bụng cô tự nhiên xẹp dần và cô được lành bệnh. Chứng kiến vụ lành bệnh cách lạ lùng này, Alexis Carrel đã không bác bỏ một sự giải thích việc lành bệnh do siêu nhiên và kiên quyết khẳng định niềm tin của mình, thậm chí còn viết một cuốn sách mô tả kinh nghiệm của mình, mặc dù nó không được xuất bản cho đến 4 năm sau khi ông chết. Bị giới khoa học Pháp chế giễu, nghi kỵ và cảm thấy mình không có tương lai trong giới y học tại Pháp, ông di cư sang Canada với mục đích trồng trọt và chăn nuôi gia súc. Sau thời gian ngắn ở Canada, ông đã nhận một việc làm ở Đại học Chicago, rồi 2 năm sau làm việc ở Viện nghiên cứu Y học Rockefeller.
"L’Homme, cet inconnu" (1935).
Năm 1935, Carrel xuất bản quyển "L'Homme, cet inconnu" ("Man, The Unknown"), đã trở thành quyển sách bán chạy nhất. Sách này bàn về "bản chất của xã hội dưới ánh sáng của những khám phá về sinh học, vật lý, và y học". Nó bao gồm những quy định xã hội của riêng ông, có một phần ủng hộ quan điểm cho rằng nhân loại có thể tự tốt hơn bằng cách làm theo hướng dẫn của một nhóm ưu tú gồm các nhà trí thức, và bằng cách thực hiện một chế độ thi hành cưỡng bách thuyết ưu sinh. Carrel tuyên bố sự tồn tại của một "giới quý tộc sinh học di truyền" (‘’hereditary biological aristocracy’’) và lập luận rằng các loại người "có ứng xử lệch lạc" (so với thông thường) nên bị tiêu diệt bằng cách sử dụng các kỹ thuật tương tự như cách mà Đức quốc xã sử dụng sau này.
"Một nơi giết chết không đau đớn, được trang bị loại một khí (độc) thích hợp, sẽ cho phép việc loại bỏ cách nhân đạo và ít tốn kém những kẻ đã giết người, cướp có vũ trang, bắt cóc trẻ em, cướp của người nghèo và phản bội nghiêm trọng niềm tin công cộng". Carrel đề nghị: "Một hệ thống tương tự liệu có không thích hợp cho những người điên đã phạm tội ác?"
Trong lời tựa viết cho ấn bản tiếng Đức bản sách này ở Đức năm 1936, Alexis Carrel đã thêm lời ca ngợi chính sách ‘’ưu sinh’’ của Đức Quốc xã, ông viết:
Chính phủ Đức đã thực hiện các biện pháp mạnh mẽ chống lại sự lan truyền của khuyết điểm, bệnh tâm thần, và tôi phạm hình sự. Giải pháp lý tưởng sẽ là sự tiêu diệt từng người ngay sau khi người đó đã chứng tỏ mình là nguy hiểm.
Carrel cũng viết trong sách của mình rằng:
Việc cải huấn bọn tội phạm nhỏ bằng roi da, hoặc một số thủ tục khoa học hơn, sau một thời gian ngắn ở trong bệnh viện, có lẽ sẽ đủ để đảm bảo trật tự. Những kẻ giết người, cướp của có vũ trang súng tự động hoặc súng máy, bắt cóc trẻ em, bóc lột tiền tiết kiệm của người nghèo, lừa dối công chúng trong các vấn đề quan trọng, cần được xử lý cách nhân đạo và ít tốn kém trong các cơ sở nhỏ gây chết không đau được cung cấp hơi (độc) thích hợp. Một cách xử lý tương tự có thể được áp dụng cách có lợi cho người điên, kẻ mắc những tội ác hình sự.
Quỹ nghiên cứu những vấn đề con người của Pháp.
Năm 1937, Carrel gia nhập "Trung tâm nghiên cứu những vấn đề con người" của Jean Coutrot - Mục đích của Coutrot là phát triển cái mà ông ta gọi là "chủ nghĩa nhân văn kinh tế" thông qua "tư duy tập thể". Năm 1941, thông qua những liên hệ với chính phủ Vichy của tổng thống Philippe Pétain (nhất là các bác sĩ André Gros và Jacques Ménétrier) Carrel tiếp tục vận động cho việc thiết lập ‘’Fondation Française pour l'Etude des problèmes Humains‘’ (Quỹ nghiên cứu các vấn đề con người của Pháp). Quỹ này đã được lập ra bởi một sắc lệnh của chính phủ Vichy vào năm 1941, và ông được bổ nhiệm làm người quản lý.
Quỹ này là nguồn gốc của bộ luật ngày 11.10.1946, ban hành bởi Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp (GPRF), để thể chế hóa lĩnh vực Y học lao động (occupational medicine). Quỹ nghiên cứu các lãnh vực nhân khẩu học (Robert Gessain, Paul Vincent, Jean-Bourgeois Pichat), về kinh tế, (François Perroux), về dinh dưỡng (Jean Sutter), về nơi cư trú (Jean Merlet) và về cuộc thăm dò dư luận lần đầu (Jean Stoetzel). "Quỹ này được ban đặc quyền coi như một tổ chức công dưới sự giám sát chung của Bộ Tài chính và Bộ Y tế.. Nó được trao quyền tự chủ tài chính và có ngân sách là 40 triệu franc - khoảng một franc cho mỗi đầu người - một sự xa xỉ thực sự nếu xét về những gánh nặng do Quân Đức chiếm đóng áp đặt trên tài nguyên của quốc gia. Để so sánh, toàn bộ Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) đã chỉ được cấp một ngân sách là 50 triệu franc"
Trong thời gian tồn tại, Quỹ này đã thực hiện nhiều thành tựu tích cực. Quỹ cũng là nguồn gốc của Đạo luật ngày 16.12.1942 đặt ra "chứng chỉ tiền hôn nhân" (certificat prenuptial), cấp cho các cặp vợ chồng trước khi kết hôn sau khi họ đã được kiểm tra sinh học, để đảm bảo "sức khỏe tốt" của vợ chồng, đặc biệt là liên quan đến các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) và "vệ sinh cuộc sống". Viện còn tạo ra các "học bạ" ("livret scolaire"), có thể được sử dụng để ghi quá trình học tập của học sinh các lớp trong các trường trung học Pháp, và do đó phân loại và chọn lựa học sinh theo hiệu suất học tập.
Theo Gwen Terrenoire, viết trong quyển "Eugenics in France (1913-1941): xem xét lại các kết quả nghiên cứu". Quỹ là một trung tâm đa ngành đã sử dụng khoảng 300 nhà nghiên cứu (chủ yếu là các nhà thống kê, nhà tâm lý học, bác sĩ) từ mùa hè năm 1942 cho đến cuối mùa thu năm 1944. Sau khi Paris được giải phóng, Carrel đã bị Bộ trưởng Bộ Y tế ngưng chức ngày 21.8.1944 theo yêu cầu của Paul Milliez và Louis Pasteur Vallery-Radot. Quỹ bị giải thể, sau đó một thời gian ngắn tái xuất hiện dưới tên "Viện quốc gia nghiên cứu nhân khẩu" (‘’Institut national d’études démographiques’’) (INED), hiện còn hoạt động." Mặc dù Carrel đã qua đời nhưng hầu hết các thành viên trong nhóm nghiên cứu của ông đã chuyển sang làm việc ở Viện quốc gia nghiên cứu nhân khẩu do nhà nhân khẩu học nổi tiếng Alfred Sauvy lãnh đạo, người đã đặt ra khái niệm " thế giới thứ ba ". Những nhà nghiên cứu còn lại gia nhập "Viện vệ sinh quốc gia" (Institut national d'hygiène) của Robert Debré mà sau đó trở thành "Viện Y tế và Nghiên cứu Y khoa quốc gia (Institut national de la santé et de la recherche médicale) (INSERM của Robert Debré.
Tuy bị ngưng chức, nhưng Carrel được nhiều người Mỹ ủng hộ và Eisenhower đã nhận được lệnh «kh ông cho ai đụng tới Carrel »
Sự việc gây tranh cãi.
Sau một thời gian bị quên lãng, vai trò và nhân cách của Alexis Carrel đã một lần nữa trở thành đề tài tranh cãi khi Bruno Megret nêu ông là "nhà sinh thái học đích thực đầu tiên của Pháp" trong một cuộc tranh luận với đảng xanh về chính sách nhập cư (1991). Tiếp theo đó là cuộc tranh luận, trong đó Alexis Carrel bị cáo buộc là tiếp tay cho các lý thuyết xã hội quốc gia. Các luận văn về thuyết ưu sinh của ông, các liên hệ của ông với Philippe Pétain, với Charles Lindbergh, bạn bè với người bài Do Thái Henry Ford và sự hỗ trợ chính trị chủ nghĩa xã hội quốc gia, và nhất là một đoạn trích từ một bản dịch của lời nói đầu cho ấn bản tiếng Đức của quyển "L’Homme, cet inconnu" năm 1936: "Tại Đức, chính phủ đã có những biện pháp mạnh mẽ chống lại sự gia tăng các dân tộc thiểu số, bọn tội phạm, các người điên. Tình trạng lý tưởng sẽ là mỗi cá nhân loại này phải được loại bỏ khi chúng tỏ ra nguy hiểm", theo một số tác giả đã đủ để xác nhận sự hỗ trợ của Alexis Carrel cho các chính sách của Đức Quốc xã. Lập luận này được lặp đi lặp lại vào năm 1996 bởi Patrick Tort và Lucien Bonnafé người xuất bản ("L'Homme cet inconnu ? Alexis Carrel, Jean-Marie Le Pen et les Chambres à gaz"), trong đó họ đưa ra những liên kết giữa các quan điểm của Carrel có lợi cho thuyết ưu sinh: sự giết chết không đau của bọn tội phạm, Chương trình T4 của chế độ Quốc xã, sự giết chết không đau bởi đói của các bệnh nhân và các người khuyết tật tâm thần ở Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai (khoảng 40.000 người chết).
Về người đồng tính, Carrel đã viết: "Các giới tính một lần nữa cần được xác định rõ ràng. Điều quan trọng là mỗi cá nhân phải rõ ràng là nam hay nữ. Rằng giáo dục của người đó cấm họ thể hiện khuynh hướng tình dục, các đặc tính tinh thần và các tham vọng đối với người khác giới. "(L’Homme cet inconnu)".
Tuy nhiên, đối với giáo sư René Küss - thành viên của Viện Hàn lâm Phẫu thuật, cựu chủ tịch của Hội cấy ghép cơ quan sinh học Pháp - thì "đổ lỗi cho Carrel là người khởi xướng các phòng hơi ngạt là sự lừa đảo lịch sử.
Dù sao, do kiến nghị đưa ra bởi một số các phong trào cánh tả cực đoan và chống phân biệt chủng tộc, Phân khoa Y học của Đại học Lyon I Alexis Carrel - thành phần của Đại học Claude-Nernard - đã được đổi thành tên René-Théophile-Hyacinthe Laennec vào năm 1996 và nhiều đường phố mang tên ông cũng bị đổi tên.
Đời tư.
Alexis Carrel kết hôn với Anne-Marie-Laure Gourlez de La Motte, vợ góa của M. de La Meyrie. Họ không có con.
Từ trần.
Alexis Carrel qua đời buổi sáng ngày 5.11.1944 tại nhà riêng, số 54 Đại lộ Breteuil, Paris. Ông được mai tang trơng nhà nguyện nhỏ trên đảo Saint-Gildas thuộc tỉnh Côtes-d’Armor là tài sản riêng mà ông đã mua bằng tiền Giải Nobel của mình. | 1 | null |
Vườn quốc gia hồ Malawi là một vườn quốc gia nằm ở cuối phía nam của hồ Malawi, thuộc lãnh thổ Malawi. Đây là vườn quốc gia duy nhất ở Malawi được thành lập để bảo vệ các loài cá và môi trường thủy sinh. Mặc dù vậy, vườn quốc gia hồ Malawi cũng bao gồm một số phần đất đai, trong đó có phần đất đầu hồ cùng một số hòn đảo nhỏ trong hồ Malawi.
Vườn quốc gia này được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1984 vì tầm quan trọng của nó với việc bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là sự đa dạng của các loài cá trong hồ. Đáng chú ý nhất là các loài Cá hoàng đế được biết đến với tên địa phương là "mbuna". Các tính năng khác của vườn quốc gia bao gồm vẻ đẹp tự nhiên nổi bật của khu vực với cảnh quan hiểm trở tương phản với mặt nước trong vắt của hồ.
Lịch sử.
Tiến sĩ David Livingstone đã phát hiện ra hồ vào năm 1859 và gọi nó là Nyassa cho đến năm 1875 khi Giáo hội Trưởng lão Scotland đã thiết lập một khu truyền giáo tại Cape Maclear. Một cây bao báp lớn có tuổi đời lên tới hơn 800 năm được cho là nơi yêu thích của Livingstone, nơi mà ông có thể thuyết pháp và nói chuyện với các nhà truyền giáo khác. Ngôi mộ của năm nhà truyền giáo đầu tiên cũng nằm trong vườn quốc gia.
Vị trí.
Hồ Malawi nằm trong Thung lũng tách giãn Lớn ở độ cao so với mực nước biển và sâu so với bề mặt khiến nó trở thành một trong những hồ nước sâu nhất thế giới. Vườn quốc gia hồ Malawi bao gồm khoảng diện tích đất và mặt nước nằm ở cuối phía nam của hồ. Nó bao gồm hầu hết diện tích Bán đảo Nankumbu, một khu vực đất đai nằm ở phía bắc vườn quốc gia ăn sâu vào hồ với điểm xa nhất được biết đến là Cape Maclear, các khu vực mặt nước xung quanh cùng 9 đảo đá nằm gần bờ hồ. Bán đảo Nankumbu có độ cao từ bờ hồ cho đến tại đỉnh Nkhunguni ở phía tây và tại đỉnh Dzimwe ở phía đông. Những sườn dốc được bao phủ bởi khu rừng rậm rạp. Có rất ít cư dân ở khu vực núi của bán đảo, nhưng có một số làng chài ở các khu vực gần bờ hồ, lớn nhất là làng Chembe gần Cape Maclear. Những ngôi làng này nằm trong ranh giới nhưng không phải là một phần của vườn quốc gia này.
Hệ động vật.
Hồ Malawi được hình thành cách đây vài triệu năm và mực nước đã dao động rất lớn qua hàng thiên niên kỷ. Điều này đã tạo ra những chỗ thích hợp có sẵn cho các loài cá hoàng đế và nhiều loài khác sống trong hồ đã thích nghi với môi trường sống, như là một phần của bức xạ tiến hóa của một loài, tương tự như sự thích nghi của Chim sẻ trên Quần đảo Galápagos mà Charles Darwin đã quan sát được. Hầu hết các loài trong số 350 loài là đặc hữu, sống trong phạm vi hẹp, chỉ vài trăm mét so với bờ hồ. Nhiều loài trong số đó thậm chí còn chưa được khoa học mô tả.
Vườn quốc gia này còn là nhà của nhiều loài động vật có vú gồm Khỉ đầu chó Chacma, Khỉ Vervet, Hà mã, Báo châu Phi, Linh dương hoẵng, Linh dương Kudu lớn, Linh dương Klipspringer, Linh dương bụi rậm và một số loài khác như Cá sấu sông Nin, Đại bàng cá châu Phi, Cốc ngực trắng, Bồng chanh, Hồng hoàng, Trảu... | 1 | null |
Olivier Eugène Prosper Charles Messiaen (sinh ngày mùng 10 tháng 12 năm 1908 tại Avignon, mất năm 1992 tại Clichy, Haust-de-Seine) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn organ, nhà sư phạm người Pháp. Ông là nhà soạn nhạc thuộc thời kỳ Hiện đại.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Olivier Messiaen Học nhạc tại Nhạc viện Paris trong khoảng thời gian từ năm 1919-1930. Ông học lớp sáng tác của các thầy Dukas, Caussade. Thời trẻ, Messiaen nghiên cứu những tiết nhịp âm nhạc Ấn Độ, Hy Lạp và nhạc dân gian. Ông cũng ghi tiếng hót của tất cả các loài chim ở Pháp, sắp xếp theo từng vùng miền. Nhờ đó, ông có thể trích dẫn tiếng hót của chúng để đưa vào các tác phẩm của mình. Từ năm 1931, ông là nghệ sĩ đàn organ của Nhà thờ La Trinité, Paris trong hơn 40 năm ròng. Trong thời gian chiến tranh, ông bị phát xít Đức bắt giam 2 năm, sau đó về làm giáo viên tại Nhạc viện Paris (ông dạy các môn hòa thanh, phân tích tác phẩm từ năm 1947, môn sáng tác từ năm 1966). Ông có nhiều học trò xuất sắc như Boulez, Stockhausen, Barraqué, Xenakis, Amy, Sherlaw Johnson và Goehr. Ông có hai đời vợ, đặc biệt người vợ thứ hai đã có những ảnh hưởng tới các sáng tác của Messiaen. Bà là Yvonne Loriod, nữ nghệ sĩ đàn piano.
Phong cách sáng tác.
Olivier Messiaen là một trong những người có ảnh hưởng lớn tới âm nhạc thế kỷ XX, là người đem đến cho âm nhạc đàn organ mộ tầm vóc mới. Trong âm nhạc của mình, Messiaen sử dụng hiệu quả những tiếng vang và những tương phản âm sắc. Đặc biệt hơn, Messiaen còn sử dụng tiếng chim hót cho tác phẩm của mình. Còn về cách xử lý tiết tấu, ông xử lý theo cách hoàn toàn mới, đưa vào loại nhịp có nguồn gốc từ âm nhạc cổ đại Hy Lạp.
Các tác phẩm.
Olivier Messiaen đã sáng tác các tác phẩm cho dàn nhạc, có "Nấm mồ chói lợi" (1932), giao hưởng "Turanglila" (1946-1948), "Chronochromie" (1960); ba bản âm nhạc tế lễ cho 18 giọng nữ, dàn nhạc và sóng âm điện tử Martenot (1945); những hòa tấu thính phòng gồm "Tứ tấu cho ngày tận thế" cho violin, clarinet, cello, piano, "Những âm sắc kéo dài, nhạc cụ thể" (1952); nhạc cho organ, cho piano.
Tham khảo.
"Từ điển tác giả, tác phẩm âm nhạc phổ thông", Vũ Tự Lân, xuất bản năm 2007. | 1 | null |
Pulau Tekong là hòn đảo nằm ngoài khơi bờ biển đông bắc của Singapore và nằm phía đông của đảo Ubin. Về mặt địa lý, đảo nằm gần với Johor của Malaysia hơn so với đảo chính Singapore. Đảo này có diện lịch lớn thức hai trong số các đảo xa bờ của Singapore với diện tích 24.43 km², hồ chứa Pulau Tekong cũng nằm trên đảo này. | 1 | null |
Cộng đồng các nước Dân chủ (Community of Democracies) là một tổ chức giữa các chính phủ do Liên Hợp Quốc khởi xướng từ năm 2000, được lập ra để củng cố nền dân chủ trên khắp thế giới bằng cách ủng hộ các nền dân chủ và các xã hội dân sự mới thành hình. Hội nghị sáng lập ra tổ chức này được gọi là Hội nghị Warszawa do chính phủ Ba Lan tổ chức trong 3 ngày 25, 26 và 27 tháng 6 năm 2000 tại thủ đô Ba Lan. Hai nhà hoạt động chính trị có sáng kiến lập nên tổ chức quốc tế này là nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Ba Lan Branislaw Gérémek và nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Madeleine Albright. Cộng đồng này có một bộ phận chính phủ, bao gồm đại diện các chính phủ và một bộ phận phi chính phủ gồm có các tổ chức xã hội dân sự.
Chủ tịch hiện tại của cộng đồng là El Salvador.
Mục đích và cấu trúc.
Cộng đồng các nước Dân chủ hoạt động để ủng hộ sự biến chuyển sang và củng cố thể chế dân chủ và giúp đỡ nối liền khoảng cách giữa các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền có giá trị chung, được thực hiện bằng những cách như sau:
Năm 2007, Cộng đồng các nước Dân chủ đã thành lập một Ban thư ký thường trực tại thủ đô Warszawa và năm 2008 đã đề cử Giám đốc thường trực là ông Bronislaw Misztal, giáo sư Trường Đại học Công giáo (Catholic University of America) ở thủ đô Washington. Hiện nay Tổng thư ký Cộng đồng các nước Dân chủ là bà Maria Lessner, nguyên là đại sứ Thụy Điển về Dân chủ tại Liên Hợp Quốc.
Thành viên của hội đồng cai quản Cộng đồng các nước Dân chủ.
Cộng đồng các nước Dân chủ được cải tổ vào năm 2011. Trong những đổi mới gồm có việc thành lập một hội đồng cai quản bao gồm 24 nước: | 1 | null |
Đảo Jurong là hòn đảo nhân tạo nằm phía tây nam đảo chính của Singapore. Thông qua việc thu hồi đất, hòn đảo này được hình thành từ sự hợp nhất của bảy hòn đảo ngoài khơi bao gồm: đảo Ayer Chawan, đảo Ayer Merbau, đảo Merlimau, đảo Pesek, đảo Pesek Kechil (còn gọi là Terumbu Pesek), đảo Sakra, đảo Seraya, đảo Meskol, đảo Mesemut Laut, đảo Mesemut Darat và đảo Anak. Đảo Jurong có diện tích khoảng , diện tích ban đầu chỉ khoảng , đây là đảo lớn nhất trong các đảo ngoại biên của Singapore. | 1 | null |
Gojko Mitić (Гojкo Митић) (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1940 ở Strojkovce (gần Leskovac), Morava Banovina, Vương quốc Nam Tư) là một diễn viên, diễn viên đóng thế, đạo diễn người Serbia. Ông sống tại Berlin, Đức.
Ông được khán giả truyền hình Việt Nam biết đến với các vai diễn Boris trong phim Hồ sơ thần chết (do Cộng hòa dân chủ Đức và Ba Lan hợp tác sản xuất năm 1979) và vai Felipe trong phim Bí mật núi Andes (của Cộng hòa dân chủ Đức sản xuất năm 1972).
Ban nhạc Bulgaria Hipodil đã sáng tác bài hát "Bate Goiko" nói về Gojko Mitić. Năm 2010, ông đã được nhận giải thưởng Brothers Karić ở Serbia. | 1 | null |
Vườn Nhật Bản (Chinese: 星和园), thường được gọi là Vườn Jurong và "Seiwaen", là một công viên ở Jurong East, Singapore, được xây dựng từ năm 1974 bởi Jurong Town Corporation.
Khu vườn được xây dựng trên một hòn đảo nhân tạo trong khu vực hồ Jurong và được kết nối với Vườn Trung Hoa bởi "Cầu đôi đẹp ". | 1 | null |
Jessica Iskandar (sinh ngày 29 tháng 1 năm 1988, biệt danh Chika) là nữ diễn viên Indonesia. Cô bắt đầu sự nghiệp từ thế giới người mẫu. Trước đây, cô từng là học viên trường đào tạo người mẫu John Casablanca. Bộ phim đầu tiên của cô là "Dealova" (2005) và bộ phim thứ hai là "Diva" (2007). Hiện tại cô diễn trong các phim truyền hình ("soap opera") cũng như đóng quảng cáo.Năm 2007, cô cho biết đã lên kế hoạch chấm dứt nghiệp diễn trước tuổi 25 để trở thành bà nội trợ. | 1 | null |
Vườn quốc gia Diawling là một vườn quốc gia ở tây nam Mauritanie trong khu vực hành chính Trarza trên biên giới với Senegal. Nó bao gồm vùng đồng bằng của thung lũng sông Senegal, trong mùa mưa nơi đây chủ yếu là các hồ lớn.
Vườn quốc gia Diawling được thành lập vào năm 1990, và từ năm 1994 nơi đây đã là một khu ngập nước quan trọng theo Công ước Ramsar. Nó nằm ở huyện Keur Massène (Moughataa). Vùng đất ngập nước có diện tích 16.000 ha, ngoài ra là một khu vực 30.000 ha là các cồn cát và rừng ngập mặn. Màng gần nhất là Keur Massène ở phía bắc và Ndiago phía nam. Tổng cộng vườn quốc gia được bao quanh bởi 21 ngôi làng, có dân số được đưa ra vào năm 2005 là 19.000 người.
Từ năm 2005, Diawling cùng với Di sản thế giới tại Senegal là Khu bảo tồn chim quốc gia Djoudj là khu dự trữ sinh quyển xuyên biên giới. Theo điều tra vào tháng 1 năm 2010, vườn quốc gia này là nơi sinh sống của 105 loài, trong đó có 92 loài chim mặt nước với 237.755 con, của các loài chim, hơn một nửa trong số đó là các loài bồ nông, cò đen và cò. Ngoài ra, nơi đây còn có một số lượng lớn quần thể quan trọng của cá và động vật linh trưởng, lợn rừng và lưỡng cư.
Đây là một trong hai vườn quốc gia cùng với Vườn quốc gia Banc d'Arguin là hai vườn quốc gia của Mauritanie cung cấp một môi trường sống quan trọng cho các loài chim di cư nói riêng và ở Tây Phi nói chung. | 1 | null |
Xa-tanh là từ gốc Pháp satin, Satanh hay vải satanh, vải satin là loại vải đặc trưng bởi bề mặt ngoài bóng còn bề mặt trong khá nhám. Vật liệu dệt satanh là lụa, nylon hoặc polyester, mặc dù một số người quan niệm satanh chỉ làm từ lụa.
Tiếng Việt cho đến đầu thế kỷ 20 gọi loại hàng bằng lụa bóng này là vóc.
Satanh thường dùng làm vỏ áo bóng chày, quần short thể thao, đồ lót, áo ngủ, áo và váy dành cho phụ nữ nhưng đôi khi cũng được dùng làm vật liệu may quần lót, áo sơmi và cà vạt cho nam. Nó cũng được sử dụng trong việc sản xuất giày sử dụng trong múa ba lê. Các ứng dụng khác bao gồm vải trang trí nội thất, vải bọc ghế và tấm trải giường.
Nguồn gốc.
Thời trung cổ, satanh được làm bằng lụa, với giá rất đắt và chỉ được tầng lớp thượng lưu sử dụng. Satanh trở nên nổi tiếng ở châu Âu từ thế kỉ 12. Tên gọi satanh xuất phát từ tên thành phố cảng Quảng Châu của Trung Quốc, trong tiếng Ả rập trung cổ là Zayton. Trong giai đoạn sau của thời kì Trung cổ, đây là cảng tập kết, trung chuyển lụa để theo con đường tơ lụa trên biển đến châu Âu. | 1 | null |
Pierre Boulez (; sinh ngày 26 tháng 3 năm 1925 tại Montbrison, Loire, miền trung nước Pháp và qua đời ngày 5 tháng 1 năm 2016 tại Baden-Baden, Đức) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng người Pháp. Ông là nhà soạn nhạc thuộc thời kỳ Hiện đại.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Pierre Boulez học nhạc tại Nhạc viện Paris vào năm 1942. Ông là học trò về môn sáng tác của Olivier Messiaen trong khoảng thời gian 1944 – 1945. Ngoài ra Boulez còn học phức điệu với Andrée Varaubourg-Honegger, vợ của nhà soạn nhạc nổi tiếng Arthur Honegger và học cả kỹ thuật 12 cung, một kỹ thuật âm nhạc phổ biến, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XX, với thầy René Leibowitz. Năm 1946, Pierre Boulez trở thành giám đốc âm nhạc và nhạc trưởng của Dàn nhạc thính phòng Barrault-Renaud thuộc Nhà hát Marigny, Paris. Thêm vào đó, nhà soạn nhạc người Pháp còn có các chuyến lưu diễn cùng dàn nhạc tại châu Mỹ và khắp châu Âu. Từ năm 1971, ông tiếp tục làm nhạc trưởng, nhưng là nhạc trưởng của Dàn nhạc thính phòng New York, Mỹ.
Phong cách sáng tác.
Pierre Boulez là một trong những người tiếp nối xứng đáng của những đàn anh đi trước của âm nhạc Pháp và là một trong những nhà soạn nhạc nổi bật trong thời đại của mình. Trong các sáng tác của mình, Boulez sử dụng những thủ pháp của loại nhạc cụ thể, loại nhạc seriel-pointilisme và nhạc điện tử, nhạc aléatoire, một trong những loại nhạc mới, xuất hiện vào thế kỷ XX.
Các tác phẩm.
Pierre Boulez đã sáng tác những bản cantata "Mặt trời của nước" cho giọng nữ cao, hợp xướng nam và dàn nhạc (1949), Khuôn mặt hôn nhân cho 2 solist, hơp xướng nữ và dàn nhạc; concerto giao hưởng cho piano và dàn nhạc (1950); bản "Ngẫu hững" trên chủ đề của một bài thơ của nhà thơ Stéphane Mallarmé cho giọng nữ cao, đàn hạc cầm, chuông, đàn vibraphone và bộ gõ (1957); ba bản sonata cho piano (1946, 1948, 1957).
Liên kết ngoài.
"Từ điển tác giả, tác phẩm âm nhạc phổ thông", Vũ Tự Lân, xuất bản năm 2007. | 1 | null |
Xilam là một công ty sản xuất của Pháp chuyên thực hiện các loạt phim hoạt hình và phim điện ảnh. Thành lập với cái tên Gaumont Multimédia, nhưng công ty này đã thông qua cái tên Xilam và Marc du Pontavice đã thành lập công ty này vào ngày 5 tháng 8, 1999, sau khi ông rời khỏi Gaumont Multimédia.
Lịch sử.
Nguồn gốc của Xilam liên quan chặt chẽ đến sự hình thành của đài truyền hình Gaumont Television, được ra mắt vào đầu những năm 1990. Những chương trình như "Space Goofs" và "Oggy and the Cockroaches" đã tạo được những tiếng vang lớn trên thị trường quốc tế. Năm 2003, Xilam ra mắt bộ phim hoạt hình dài đầu tiên, "". Bộ phim hoạt hình dài thứ hai, "Lucky Luke - Go West", được ra mắt năm 2007. | 1 | null |
Võ lâm ngoại sử (còn gọi Phong Tuyết Phủ Trung Châu) là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn quá cố Cổ Long. Tác phẩm này đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự nghiệp sáng tác võ hiệp của ông, đưa Cổ Long lên ngang hàng với Kim Dung trở thành hai tác giả lớn nhất của làng tiểu thuyết võ hiệp.
Võ lâm ngoại sử cùng Đại Kỳ Anh Hùng Truyện, Tuyệt Đại Song Kiêu, và Hoán Hoa Tẩy Kiếm Lục đã được gọi là Cổ Long Trung Kỳ “Tứ Đại Danh tác”. Bốn bộ này không chỉ đã được đưa vào Cổ Long Tiểu Thuyết Hệ Liệt, mà còn được chọn vào bộ Võ Hiệp Văn Học Trung Quốc, bao gồm những tác phẩm được đánh giá cao về giá trị văn hóa.
Tác phẩm Võ lâm ngoại sử của nhà văn Cổ Long được dịch sang tiếng Việt bởi nhà dịch giả Thương Lan dưới tên tựa "Võ Lâm Tuyệt Địa". Dịch giả Thương Lan đã cắt xén thêm thắt câu truyện, nên bản dịch tiếng Việt và nguyên tác tiếng Trung có ít nhiều khác biệt. Bài viết này dựa theo sát nguyên tác của Cổ Long.
Năm 2001, Đài Truyền hình Trung Quốc sản xuất bộ phim truyền hình “Võ lâm ngoại sử” phỏng theo tiểu thuyết kiếm hiệp trên của nhà văn Cổ Long. Tuy là phỏng theo nguyên tác, nhưng phim và truyện gần như hoàn toàn khác nhau. Chỉ có tên nhân vật trong truyện được sử dụng trong phim. Bài viết này dựa trên truyện nguyên tác.
Tóm tắt nội dung.
Mười năm trước, Tử Ngọc Quan đem bí kíp “Vô địch bảo giám, thất thập nhị thần công” lừa gạt giang hồ gây nên trận Hành Sơn. Nơi đó không chỉ tinh hoa của võ lâm Trung Nguyên bị chôn vùi, mà ngay cả những bí kíp võ công của các đại môn phái cũng bị thất tung. Gần đây, một nhân vật mới xuất hiện nơi Nhạn Môn Quan mang tên Khoái Lạc Vương. Y không những tinh thông võ học của các môn phái hiện thời mà thông hiểu luôn cả những bí kíp thất truyền của các đại phái. Thế lực của y thâm nhập vào cả Trung Nguyên dường như có ý đồ giành ngôi bá chủ võ lâm. Tam huynh đệ chủ nhân Nhân Nghĩa Trang, triệu hội Thất Đại cao thủ đương thời bàn cách đối phó.
"Hoạt Tài Thần" Thất tiểu thơ Chu Thất Thất dẫn theo tiểu đệ Chu Bát từ Giang Nam đến Nhân Nghĩa Trang kiếm tình lang Thẩm Lãng. Hai chị em đã gây nhiều phiền toái với bọn người trên giang hồ. Thẩm Lãng dẫn hai người trốn chạy đến Tất Dương thành, định nghỉ qua đêm.
Tại thành Tất Dương đã xảy ra nhiều chuyện lạ. Cùng bọn người giang hồ, Thẩm Lãng cùng Chu Thất Thất và Chu Bát vào Cổ Mộ điều tra. Tại đây, Thẩm Lãng đấu trí đấu dũng với Kim Vô Vọng, "Tài" sứ giả dưới trướng của Khoái Lạc Vương. Dùng nghĩa đối đãi nhau, Thẩm - Kim từ địch nhân trở nên bằng hữu. Chốn Cổ Mổ, Kim Vô Vọng theo lời Thẩm Lãng thả bọn Phương Thiên Lý, Triển Anh Tòng, Thiết Hoá Hạc … mấy người. Nhưng sau khi rời Cổ Mộ, mấy người này đột nhiên mất tích một cách hết sức kỳ bí. Kim Bất Hoán vu oan cho Thẩm Lãng đã cấu kết cùng Khoái Lạc Vương. Thẩm Lãng hẹn nửa tháng điều tra “nghi án hang quỷ” để chứng minh sự trong sạch của mình. Tại Cổ Mổ, Chu Bát cũng bị mất tích.
Vì muốn giúp Thẩm Lãng, Chu Thất Thất tự ý theo dỏi bọn Bạch Vân Mục Nữ tới Lạc Dương thành. Nàng phát hiện được âm mưu của mẹ con Vương Lân Hoa, nhưng nàng bị Vương Phu Nhân kìm chế. Vương Lân Hoa si mê Chu Thất Thất, dùng mọi thủ thuật tán tỉnh nàng không thành, nên thả nàng. Trên đường tìm về Thẩm Lãng, Chu Thất Thất chuộc cô gái nô lệ Bạch Phi Phi, gặp du hiệp Hùng Miêu Nhi, bị Đoạn Hồn đạo trưởng bắt nạt... sau cùng nàng và Bạch Phi Phi lọt vào tay “Sắc” sứ giả của Khoái Lạc Vương. Cả hai cùng bị dị dung trở nên cực kỳ xấu xí để dễ bề rời Trung Nguyên ra Quan Ngoại.
Trên đường đi tìm Thất Thất, Thẩm Lãng gặp Hùng Miêu Nhi lúc đó đã bị nhan sắc của Thất Thất “hớp hồn” và anh cũng đang truy kiếm tung tích của nàng. Hùng Miêu Nhi cứu được Chu Thất Thất và Bạch Phi Phi nhưng phải cậy nhờ Vương Lân Hoa phục hồi nhan sắc cho hai nàng. Gặp lại Thẩm Lãng, Chu Thất Thất tỏ bày cùng chàng bộ mặt thật của Vương Lân Hoa, nhưng hắn chối. Thẩm Lãng phanh phuy sự thật, nhưng vô tình cùng Hùng Miêu Nhi tổn thương lòng tự ái của Thất Thất, nàng giận dỗi bỏ đi, nửa đường gặp Kim Vô Vọng, cùng gã có một đoạn ân tình.
Thẩm Lãng và Thất Thất sum họp sau cái nạn Thẩm Lãng “giả” và hỏa hoạn do Vương Lân Hoa gây ra. Thất Thất ghen vì Thẩm Lãng vẫn mang Bạch Phi Phi đi cùng. Thẩm Lãng dùng lời lẻ uyển chuyển trấn an nàng, rằng chàng chỉ dành cho Bạch Phi Phi cái tình thương hại bao dung vì cô ấy cơ khổ linh đinh không nơi nương tựa, chứ không phải là chàng thích cô.
Bao nhiêu tai ương xảy ra liên tiếp, Bạch Phi Phi bị Kim Bất Hoán và Vương Lân Hoa bắt cóc, Từ Nhược Ngu tử nạn trong trận chiến với Cái Bang, Kim Vô Vọng mất tay trở nên tàn phế... Thẩm Lãng trong cơn nóng giận cho tất cả là lỗi Thất Thất và quyết cùng nàng xa cách. Thất Thất trong lúc buồn đau lại bị Vương Lân Hoa giật dây, định trả hận Thẩm Lãng để chàng mang tiếng bất nghĩa với giang hồ ở Cái Bang Đại hội. May nhờ Hùng Miêu Nhi trợ giúp Thẩm Lãng, kế hoạch đó không thành. Tại đại hội Cái Bang, Thẩm Lãng đả bại Hàn Linh, "Tửu" sứ giả của Khoái Lạc Vương, tiếng vang lừng lẫy.
Chu Thất Thất lại bị Vương Lân Hoa giả làm Cái Bang đệ tử bắt cóc mang đi. Vì muốn kéo dài thời gian chờ người tới cứu, Thất Thất giả vờ ưng thuận gả cho Lân Hoa. Không ngờ Thẩm Lãng và Hùng Miêu Nhi nghe được. Hai chàng thiếu hiệp anh hùng nổi ghen. Tình cảm giữa Thẩm Lãng và Thất Thất càng thêm ngăn cách. Thất Thất tột cùng đau khổ giả làm Khoái lạc Vương quyết chết dưới tay người yêu. Thẩm Lãng nhanh trí nhận ra mọi sự. Nơi này chàng thổ lộ cùng nàng "Lòng của Thẩm Lãng, nào phải đâu sắt thép!"
Hạnh phúc ngắn ngủi! Thất Thất bất cẩn, Vương Lân Hoa bỏ thuốc mê vào rượu, hại ba người lọt vào tay mẹ con họ Vương. Vì bảo toàn sự an nguy cho Thất Thất và Hùng Miêu Nhi, Thẩm Lãng bằng lòng đính hôn với Vương Phu Nhân và lên đường đến Khoái Lạc Thành giết Khoái Lạc Vương rửa hận cho bà. Thì ra, Vương Phu Nhân kia chính là Mộng Vân Tiên Tử, mười năm trước đã cùng Tử Ngọc Quan Khoái Lạc Vương lừa gạt giang hồ trong trận Hoành Sơn. Vì muốn giữ các bí kiếp võ lâm cho riêng mình, y đã lừa bỏ hai mẹ con bà.
Cùng Nhiễm Hương đến Khoái Lạc Thành, Thẩm Lãng gặp lại Bạch Phi Phi. Theo lời cô, Vương Phu Nhân đã thuyết phục cô dùng mỹ nhân kế đem mình hiến cho Khoái Lạc Vương để dò la tin tức. Cô bằng lòng vì Vương Phu Nhân cho biết Khoái Lạc Vương có thù với chàng. Cũng lúc đó, Vương Lân Hoa đưa Thất Thất và Hùng Miêu Nhi đến Khoái Lạc Thành. Lân Hoa và Thất Thất cho Thẩm Lãng hay rằng họ đã đính hôn. Thẩm Lãng ngoài cứng trong mềm, tin này đã làm cho chàng hoang mang tinh thần hỗn loạn, suýt chút thì mất mạng dưới tay Long Tứ Hải. Nhờ Độc Cô Thương, "Khí" sứ giả của Khoái Lạc Vương, vì bất mãn với lối dùng người vắt chanh bỏ vỏ của hắn, đã "cải tà quy chính" quyết cùng Thẩm Lãng trừ Khoái Lạc Vương dẹp loạn cho võ lâm.
Tại nơi U Linh Quỷ Cung, Thất Thất được Nhiễm Hương nói rỏ lòng của Thẩm Lãng. Dù bao nhiêu cám dỗ, chàng chỉ một lòng mang bóng hình nàng. Thất Thất vô vàng đau khổ.
Thẩm Lãng, Vương Lân Hoa, và Độc Cô Thương đi tìm Hùng Miêu Nhi và Chu Thất Thất mà lạc chân vào U Linh Quỷ Cung. Nơi đây, sự thật được phơi bày. Thì ra, Bạch Phi Phi chính là U LInh Cung Chúa. Cô cũng là tỷ tỷ cùng cha với Vương Lân Hoa. Năm xưa, vì muốn U Linh Bí Cấp, Tử Ngọc Quan gạt tình mẹ Bạch Phi Phi. Vì Mộng Vân Tiên Tử, y bỏ rơi mẹ con cô. Cô tự bán mình vào Trung Nguyên tìm cơ hội vào nhà họ Vương trả thù cho mẹ. Nhưng sau khi biết Tử Ngọc Quan cũng bỏ rơi mẹ con Mộng Vân Tiên Tử, cô bằng lòng hợp tác với họ rửa hận Tử Ngọc Quan. Ép Thẩm Lãng thành hôn với mình không thành, Bạch Phi Phi phá đá nhốt cả bọn mấy người trong hang núi. Giữa bóng tối hang sâu, họ gặp lại Hùng Miêu Nhi và Chu Thất Thất. Thẩm Lãng cùng Chu Thất Thất xoá bỏ hiểu lầm và tha thứ cho nhau. Vương Lân Hoa cực chẳng đã, huỷ bỏ hôn ước với Thất Thất để hai người Thẩm-Chu trọn vẹn.
Để cho bọn bốn người có thời giờ chạy trốn khỏi Khoái Lạc Lâm, Độc Cô Thương đập đầu tự vẫn trong hang núi. Sau bao nhiêu vất vả và cơ trí, khi gần tới bến bờ tự do, vì lòng quân tử của Hùng Miêu Nhi và lòng tốt của Thẩm-Chu, bọn họ mắc phải khổ nhục kế của Bạch Phi Phi, mà rơi vào tay của Khoái Lạc Vương. Bạch Phi Phi vì hận Thẩm Lãng không chịu kết hôn với mình, quyết một lòng giết chàng. Cô hứa gả cho Khoái Lạc Vương với mục đích làm cho y tột cùng khổ đau khi biết y thành thân cùng con gái ruột. Cùng lúc, mượn sức y để giết Thẩm Lãng cả bọn bốn người.
Tại Lâu Lan thành cổ, Bạch Phi Phi nhốt riêng Thẩm Lãng, trộn xuân dược trong đồ ăn của chàng muốn cùng chàng giao hợp. Không ngờ, Thẩm Lãng không những chiến thắng dục vọng do sự kích thích của xuân dược mà còn lợi dụng thời khắc đó bế phong huyệt đạo tự giải phóng mình và chờ thời cơ cứu người yêu, bằng hữu, cùng... Vương Lân Hoa. Giữa cuộc hỗn loạn trong ngày hôn lễ, cả bọn bốn người trốn khỏi Lâu Lan Thành, mang theo cô gái hôn mê, mà sau này họ mới biết đó là Bạch Phi Phi.
Giữa sa mạc, Chu Thất Thất không nhớ đến những ngược đãi của Bạch Phi Phi đối với nàng trong những ngày lao lý, dùng phần nước của mình hy vọng cứu Bạch Phi Phi ra khỏi cơn mê. Cảm kích, Bạch Phi Phi ra đi lưu lại ba mươi hai chữ trên cát. Sau khi liễu nhục bốn người, cô mang thư cùng với địa hình trao cho Kim Vô Vọng để cứu họ. Qua Kim Vô Vọng, họ được biết Lâu Lan thành cổ đã bị cháy tan thành tro bụi. Mộng Vân Tiên Tử và Tử Ngọc Quan đồng quy vu tận. Võ Lâm Trung Nguyên thoát hoạ một lần.
Câu chuyện tới đây chấm dứt. Trong những tác phẩm sau này của Cổ Long, chuyện bốn người được nhắc đến như một... Huyền Thoại Võ Lâm.
Giá trị.
Truyện không là bản tình ca muôn thuở cho những đôi tình nhân mà nó là bức chân dung sinh động cho những tấm lòng biết vị tha và độ lượng. Những trái tim mang đầy những tâm sự khác nhau khó nói, những tình yêu đầy nước mắt lẫn ý nghĩa nhân văn, những sự sống nhỏ nhoi nhưng không kém phần thanh khiết. Liệu họ sẽ về đâu trên bước đường giang hồ đầy sóng gió? Họ có được bên nhau với những tâm hồn đầy nhiệt huyết? Tất cả làm người đọc phải suy ngẫm với một thái độ đầy nghiêm túc. Có điều, chính những trái tim bao la ấy mới chính là giá trị đích thực làm nên sự toàn vẹn và trường tồn của tác phẩm. Và dù với biết bao tác phẩm xuất sắc khác đang thu hút độc giả của Cổ Long, Võ Lâm Ngoại Sử vẫn giữ một vị trí vững bền trong lòng người đọc.
Nhân vật chính.
Thẩm Lãng.
Là một chàng trai tài trí, võ nghệ song toàn. Hơn thế chàng còn có một trái tim biết yêu thương từng sinh mạng, và cũng vì thế chàng luôn được đồng đạo võ lâm giúp đỡ. Với trí thông minh hiếm có, Thẩm Lãng đã từng bước tìm ra kẻ thù lớn và đồng thời cũng giúp võ lâm trừ đi không ít mối họa lớn.
Bạch Phi Phi.
Con gái của cung chúa U Linh Cung. Ngay từ nhỏ đã thường xuyên bị bà mẹ độc ác hành hạ do căm hận cha nàng bỏ rơi bà. Nàng nuôi trong lòng mối hờn cha, kẻ đã bỏ rơi mẹ mình nên nung nấu một kế hoạch trả thù Khoái Hoạt Vương. Đây là cô gái có tâm cơ sâu xa, mang ân Chu Thất Thất, cảm mến Kim Vô Vọng, có cảm tình với Thẩm Lãng nhưng vì mục đích riêng sẵn sàng đem họ làm quân tốt thí, thậm chí đã không tiếc hủy mình, rắp tâm phạm tội tày trời chỉ để sắp đặt một âm mưu kinh hoàng trả thù Khoái Hoạt Vương.
Vương Liên Hoa.
Là con trai của Khoái Hoạt Vương Sài Ngọc Quan cùng Vương Vân Mộng.Y đem lòng yêu thích Châu Thất Thất và dùng rất nhiều thủ đoạn hòng chiếm đoạt nàng.
Châu Thất Thất.
Là con gái đại phú hào Châu Phú Quý. Nàng từ nhỏ đã rất tinh nghịch, bướng bỉnh và nóng nảy nhưng vô cùng nhân hậu, lương thiện và trong sáng. Nàng yêu Thẩm Lãng và tình yêu của họ luôn gặp rắc rối vì Thẩm Lãng luôn tỏ vẻ thờ ơ với nàng.
Lưu ý.
Nên phân biệt "truyện" và "phim" Võ Lâm Ngoại Sử (đặc biệt là bản phim năm 2000) vì hai tác phẩm thuộc hai thể loại này khác nhau đến hơn 80% cốt truyện.
Chuyển thể.
Võ Lâm Ngoại Sử được chuyển thành thành bộ phim truyền hình dài 40 tập, với Huỳnh Hải Băng vai Thẩm Lãng, Vương Diễm vai Bạch Phi Phi và Trương Diễm Diễm vai Chu Thất Thất. | 1 | null |
de Havilland Canada DHC-6 Twin Otter là một máy bay vận tải của Canada được thiết kế nhằm có thể cất và hạ cánh bằng đường băng ngắn (STOL-Short Takeoff and Landing). DHC-6 có thể cất và hạ cánh từ mặt nước nên được xếp vào dạng Thủy phi cơ và được phát triển bởi tập đoàn hàng không "de Havilland Canada" và sản xuất bởi tập đoàn "Viking Air". Nhờ khả năng cất-hạ cánh trên mặt nước nên DHC-6 chủ yếu phục vụ các chuyến bay biển. Máy bay được sử dụng trong cả mục đích dân sự như thực hiện các chuyến bay thương mại, dịch vụ hay chụp ảnh mỗi trường lẫn quân sự như các hoạt động tuần tra bờ biển,cứu thương chiến trường (MEDEVAC) và cả huấn luyện phi công.
Lịch sử phát triển.
Việc phát triển DHC-6 Twin Otter bắt đầu từ đầu năm 1964. Đến đầu năm 1965 thì nguyên bản DHC-6 đầu tiên ra đời, nó bay thử vào ngày 20 tháng 5 năm 1965. Ý định của các nhà thiết kế là thay thế chiếc máy bay DHC-3 Otter 1 động cơ Pratt & Whitney R-1340-S1H1-G Wasp công suất 448 kW bằng chiếc DHC-6 Otter 2 động cơ. Từ "Twin" trong tiếng Anh có nghĩa là "đôi" tức ta có thể hiểu phiên bản DHC-6 Twin Otter là phiên bản hiện đại hóa hoàn toàn của chiếc DHC-3 Otter sản xuất từ năm 1951. Đến năm 1966 thì máy bay chính thức được giới thiệu.
Trải qua 48 năm phát triển, dòng máy bay DHC-6 đã có nhiều phiên bản được ra đời mà phổ biến nhất là các phiên bản Series 100, Series 110, Series 200 và Series 300. Các Series 100-300 trang bị 2 động cơ Pratt & Whitney Canada PT6, chúng được sản xuất từ năm 1965-1988. Sau đó, dây chuyền sản xuất DHC-6 ngừng hoạt động.
Đến năm 2006, tập đoàn Viking Air tung ra thị trường phiên bản Series 400 được trang bị 2 động cơ Pratt & Whitney Canada PT6-34/35 cùng các thiết bị điện tử và hiện đại phục vụ các nhiệm vụ quân sự và tìm kiếm cứu nạn.Nó có thể thực hiện tốt cho các nhiệm vụ tuần tra trên biển. DHC-6 được trang bị radar và nó sẽ phát huy tốt khả năng tác chiến khi được phối hợp với các tàu ngầm. Phiên bản này đi vào sản xuất từ năm đến nay và hiện đang là phiên bản mới nhất.
Thông số kỹ thuật (DHC-6 Twin Otter).
Nguồn:"Twin Otter Series 400." "Viking." Retrieved: ngày 16 tháng 6 năm 2012.
Xem thêm.
Máy bay có tính năng tương đương.
PZL M-28
Antonov An-2
Antonov An-28
Antonov An-38
Dornier Do 228
CASA C-212 Aviocar
Máy bay có cùng sự phát triển.
de Havilland Canada DHC-4 Caribou
de Havilland Canada DHC-3 Otter
de Havilland Canada Dash 7 | 1 | null |
Arthur Honegger (; sinh ngày 10 tháng 3 năm 1892 tại Le Havre, mất ngày 27 tháng 11 năm 1955 tại Paris) là nhà soạn nhạc người Thụy Sĩ. Ông là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng của thế kỷ 20.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Arthur Honegger hồi nhỏ rất yêu thích âm nhạc. Khi có 10 tuổi, câu bé Honegger đã thử sáng tác "Những sonate" và có thể tự học lấy ký âm pháp, ít lâu sau thì theo học violin. Từ năm 1909 đến năm 1911, nhà soạn nhạc trẻ tuổi người Thụy Sĩ đến và sống tại Zurich, đồng thời học môn lý thuyết âm nhạc ở các nhạc viện địa phương. Sau khoảng thời gian đó, Honegger đến Pháp và bước chân vào cổng Nhạc viện Paris. Ở đây, Honegger có một người bạn và là người đồng nghiệp mới, Darius Milhaud, nhà soạn nhạc người Pháp cũng sinh năm 1892. Từ đây, tình bạn giữa hai người nảy nở và đó là một trong các nhân tố thúc đẩy sự xuất hiện của nhóm nhà soạn nhạc Les Six (Nhóm 6 người), một nhóm các nhà soạn nhạc chất Pháp cũng nổi bật không kém gì so với nhóm Hùng mạnh của Nga thời kỳ âm nhạc Lãng mạn. Những năm 1915-1917, Arthur Honegger sáng tác nhiều tác phẩm thanh nhạc dựa trên thơ ca Pháp hiện đại. Trong những tác phẩm này, Honegger thể hiện rõ mình chịu ảnh hưởng của Claude Debussy và Maurice Ravel, những nhà soạn nhạc của chủ nghĩa ấn tượng. Năm 1917, ông bắt đầu nổi tiếng với bản tứ tấu đàn dây. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nhà soạn nhạc Thụy Sĩ gặp gỡ và kết bạn với một số nhà soạn nhạc của Pháp ngoài Milhaud. Những người bạn đó của Honegger chính là những thành viên bên cạnh Honegger và Milhaud của Nhóm 6 người. Năm 1926, Honegger nổi tiếng thế giới với vở thanh xướng kịch (oratorio) "Vua David" có đề tài xuất phát từ thánh thư. Năm 1936, ông gia nhập Liên đoàn âm nhạc nhân dân Pháp. Ông cùng Milhaud viết nhạc cho vở kịch nói "Ngày 14 tháng 7" của Romain Rolland. Trong thời kỳ phát xít Đức chiếm nước Pháp, Honegger viết "Khúc ca giải phóng". Ngoài ra, trong và sau Thế chiến II, Honegger nổi bật với các bản giao hưởng số 2 (1941), số 3 (1946) và số 5 (1950). Hai bản số 2 và 3 được gọi là "những bản giao hưởng chiến tranh". Đến năm 1953, sức khỏe của nhà soạn nhạc người Thụy Sĩ suy giảm và 2 năm sau ông qua đời tại thủ đô tráng lệ Paris.
Phong cách sáng tác.
Arthur Honegger đã tiệp bước thành công những người đàn anh Debussy và Ravel. Ông là một trong những nhà soạn nhạc danh tiếng của thế kỷ XX. Ông là nghệ sĩ chín chắn, nhiệt thành trong giới nghệ thuật hiện đại. Honegger học ở Bach, Handel, Beethoven và các nhà phức điệu người Pháp đi trước. Sau đây xin nói riêng về một số nét của một vài tác phẩm của Arthur Honegger:
Các tác phẩm.
Arthur Honegger đã để lại cho âm nhạc cổ điển thế giới gần 200 tác phẩm, có thể kể tới vở opera-oratorio "Judith" (1925), vở opera "Antigone" (1927), "Amphion", ballet-kịch nói melo cho người dẫn chuyện, giọng nam trung, 4 giọng nữ và hợp xướng và dàn nhạc (1929), "Đại bàng con" (sáng tác cùng Ibert - 1935); 9 vở ballet nổi bật có "Những đôi vợ chồng cưới trên tháp Eiffel" (sáng tác cùng các thành viên trong Nhóm 6 người), "Tiếng gọi của núi" (1945); vở oratorio "Vua David" (1921), "Những tiếng thét của thế giới" (1931); năm bản giao hưởng (1931, 1942, 1946, 1947, 1951); các tác phẩm cho dàn nhạc có concerto cho cello, "Khúc nhạc đồng quê mùa hè" (1920), "Khúc hát niềm vui" (1923), "Pacific 231" (1923), "Bóng bầu dục" (1928), "Chuyển động giao hưởng" (1933), Xây dựng mộ t thành phố (sáng tác cùng Milhaud - 1937); ba bản tứ tấu đàn dây (1917, 1936, 1937); bản sonata cho piano và violin số 1 và 2, cho viola (1920); những bản romance, hợp xướng, nhạc cho phim, trong đó có "Tội ác và trưng phạt", "Đại úy Fracasse". Ngoài những tác phẩm âm nhạc trên, Honegger còn để lại cuốn sách "Tôi-nhạc sĩ sáng tác" (1951), "Hồi âm" (1953). Many of Honegger's recordings as conductor of his music have been reissued on CD by Pearl and Dutton.
Tham khảo.
"Từ điển tác giả, tác phẩm âm nhạc phổ thông", Vũ Tự Lân, xuất bản năm 2007. | 1 | null |
Dĩnh Xuyên (chữ Hán: 潁川, nhưng trong thời kỳ từ Tần Hán cho tới thời Tây Tấn thường được viết là 穎川, còn trong thời kỳ Nam–Bắc triều thì thường viết thành 𩒠川) là một địa danh hành chính cấp quận từ thời Tần đến thời Đường tại Trung Quốc, nay thuộc trung bộ tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Nguyên nơi đây có dòng sông Dĩnh chảy xuyên qua mà có tên này.
Lịch sử.
Nguyên xưa đây là đất của nước Hàn thời Chiến Quốc ở Trung Quốc. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên, đã chia toàn quốc thành 36 quận (sau đó tăng lên 40), và Dĩnh Xuyên trở thành một trong 36 quận xứ hành chính đầu tiên của Tần.
Quận Dĩnh Xuyên bấy giờ gồm các huyện Hứa (nay là quận KIến An), Dương Địch (nay là Vũ Châu), Trường Xã (nay là Trường Cát), Yên Lăng, Tương Thành... với trị sở ở Dương Địch; gần tương ứng với các đơn vị hành chính gồm Hứa Xương, Bình Đỉnh Sơn, Tháp Hà, Đăng Phong thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. | 1 | null |
Lực lượng Đặc nhiệm hải quân (còn gọi là đặc công hải quân, đặc công nước, đặc công thủy) là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ của Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam, được huấn luyện để tiến công các mục tiêu thủy của đối phương như: Bến cảng, tàu thủy, v.v. và các mục tiêu chỉ có thể xâm nhập qua đường thủy: Căn cứ biệt lập, căn cứ thủy quân, v.v. So với đặc công bộ thì đặc nhiệm hải quân càng đặc biệt, vì chiến đấu dưới nước khó khăn hơn nhiều so với trên bộ, trang bị và vũ khí cũng khác biệt hơn. Đây là lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ bậc nhất của Hải quân Nhân dân Việt Nam.
Lịch sử hình thành.
Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương, các hoạt động trên sông nước của quân Pháp chiếm một phần quan trọng trên chiến trường. Lợi dụng lãnh thổ Việt Nam có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, có vùng sông ngòi chằng chịt như miền Tây Nam Bộ, quân Pháp đã bố trí một lực lượng hải quân khá mạnh. Hải quân Pháp tập trung vào 3 hoạt động chủ yếu:
Để chống lại các hoạt động của Hải quân Pháp, các lực lượng vũ trang của Việt Minh đã cho xây dựng các đội săn tàu Pháp, gồm cả những biệt đội đặc nhiệm hải quân, ở các vùng ven sông, ven biển, sẵn sàng đánh Pháp trên mặt trận sông nước.
Trong chiến dịch Hà-Nam-Ninh (tháng 6 năm 1951), tổ đặc nhiệm do Nguyễn Quang Vinh (thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308) chỉ huy dùng thuyền nan chở 300 kg thuốc nổ đánh chìm tàu LCD chở vũ khí của quân Pháp. Đây là trận mở đầu cho cách đánh tàu chiến trên chiến trường Bắc Bộ, tạo tiền đề cho việc nghiện cứu sử dụng đặc nhiệm đánh các mục tiêu tên sông, biển. Ở miền Nam, đầu năm 1949, đội săn tàu Long Châu Sa dùng thủy lôi tự tạo đánh chìm tàu Glycin trên sông Sài Thượng, diệt hàng trăm quân đối phương.
Ở vùng Rừng Sác, vào tháng 9 năm 1950, các đội đặc nhiệm được hình thành từ Trung đoàn 300, hoạt động ở vùng Nhà Bè, Thủ Thiêm xuống Cần Giờ, Soài Rạp. Lực lượng này chiến đấu rất dũng cảm, táo bạo, được gọi là "quân cảm tử", diệt nhiều chỉ huy Pháp và tay sai. Như vậy trong giai đoạn đầu kháng chiến, cùng với cách đánh của đặc công bộ, cách đánh của Đặc nhiệm hải quân cũng bắt đầu phát triển. Dựa trên những tiến bộ của quá trình nghiên cứu cải tiến vũ khí, các địa phương ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã tổ chức được một lực lượng chuyên, tinh để đánh tàu, thuyền bằng cách đánh đặc nhiệm.
Tổ chức.
Đặc nhiệm hải quân, còn có phiên hiệu là Đoàn 820, hay Đoàn 2, trước đóng tại Hải Phòng.
Lực lượng đặc nhiệm hải quân hiện nay có Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 đóng tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Tổ chức lữ đoàn gồm:
Trang bị hiện nay:.
Vũ khí bộ binh:
Phương tiện cơ giới quân sự hỗ trợ: | 1 | null |
Làn sóng Đài Loan hay Đài lưu (tiếng Nhật: ), hay còn gọi đầy đủ là làn sóng văn hóa Đài Loan, là tên gọi bắt nguồn từ Nhật Bản để chỉ sự lan toả tại đây (bao gồm: diễn viên, phim truyền hình, âm nhạc, thời trang, phim điện ảnh) và để phân biệt với làn sóng Hàn Quốc song song tồn tại ở quốc gia này. Nhiều bộ phim, bài hát cũng như các diễn viên, ca sĩ, của Đài Loan đã và đang trở nên nổi tiếng khắp Đông Á và Đông Nam Á.
Lịch sử.
Bên cạnh thành công ban đầu của làn sóng Hallyu tại Đông Á vào đầu thế kỷ 21, còn có một sự phát triển đáng chú ý không hề kém cạnh ở những sản phẩm văn hoá nhập khẩu đến từ Đài Loan, quốc gia mà cũng giống như Hàn Quốc khi là một trong Bốn con hổ châu Á. Sự lan toả "làn sóng văn hoá đại chúng Đài Loan" xảy ra sớm hơn một chút, trước khi làn sóng Hallyu được biết đến ở châu Á. Năm 2001, bộ phim truyền hình Đài Loan "Vườn sao băng" được phát sóng và đã nhanh chóng thu hút khán giả từ khắp nơi trong khu vực. Nó trở thành bộ phim được theo dõi nhiều nhất trong lịch sử truyền hình Philippines, tập trung hơn 10 triệu người xem mỗi ngày chỉ tính riêng ở thủ đô Manila, đưa các nam chính của nhóm nhạc Đài Loan F4 trở nên nổi tiếng chỉ sau một đêm. Sự phổ biến của F4 lan rộng khắp châu Á, bao gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và Philippines. Sau thành công của họ, nhiều nhóm nhạc nam khác của xứ Đài cũng nổi lên cùng thời gian đó như 5566, 183 Club và Phi Luân Hải. Năm 2002, một phóng viên của đài BBC miêu tả các thành viên của F4 từ những diễn viên vô danh trước đó đã "tạo nên làn sóng hâm mộ cuồng nhiệt khắp châu Á" như một hệ quả tất yếu sau thành công của ""Vườn sao băng". Sự phổ biến của "Vườn sao băng" (được chuyển thể từ bộ truyện tranh Nhật Bản "Con nhà giàu") có thể là do hai yếu tố sau đây:
- Sự đồng cảm của khán giả với điểm nhấn riêng trong việc thăng tiến cảm xúc cùng nhân vật chính.
- Sự chú trọng rõ rệt tới ham muốn gần gũi ân ái của phụ nữ - Khởi nguồn từ những tình tiết kịch theo khuôn mẫu đánh trúng tâm lý phụ nữ, "Vườn sao băng" quảng bá sự hấp dẫn, quyến rũ của các nam diễn viên (do nhóm nhạc thần tượng F4 thủ vai), đem đến cho phụ nữ một sự tự do nhất định trong việc biểu đạt tình yêu rạo rực.
Như một hệ quả tất yếu sau thành công của "Vườn sao băng", phần tiếp theo của nó "Vườn sao băng II" dần dần được phát sóng ở nhiều quốc gia châu Á, trước khi nguồn nguyên liệu này lần lượt sau đó được chuyển thể bởi các đài truyền hình ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Phiên bản của đài KBS Hàn Quốc được đổi tên thành "Boys Over Flowers" dựa trên một bộ truyện tranh cùng tên của Nhật Bản lâu đời trước đó.
Năm 2002, bộ phim truyền hình "Bản tình ca mùa đông" trở thành sản phẩm đầu tiên cùng thể loại của Hàn Quốc bắt kịp với thành công của "Vườn sao băng"", thu hút các tín đồ hâm mộ ở châu Á với doanh thu của các sản phẩm liên quan đến Bản tình ca mùa đông như những bộ DVD và các cuốn tiểu thuyết vượt mốc 3,5 triệu đô la Mỹ tại Nhật Bản.
Kể từ năm 2002, xu hướng chương trình trên truyền hình tại Đông Nam Á bắt đầu trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ khi phim truyền hình Hàn Quốc và Đài Loan lấp đầy khoảng trống ở khung giờ vàng vốn dành cho các bộ phim Hollywood trong suốt thời gian đầu. Mặc dù phim truyền hình Hàn dần dần lấn át những sản phẩm cùng thể loại đến từ Đài Loan nhưng phần lớn người hâm mộ châu Á vẫn quan tâm chủ yếu đến các nhóm nhạc Đài như F4, S.H.E và Phi Luân Hải. Sự đột phá của K-pop chỉ bắt đầu với sự ra mắt của TVXQ và Super Junior mà sau này cả hai nhóm đã được BBC ca ngợi là những cái tên quen thuộc trong khu vực.
Cho đến cuối những năm 2000, nhiều nhóm nhạc Đài Loan không còn bắt kịp được với các đối thủ K-pop nữa. Dẫu rằng một số nhóm nhạc Đài như F4 và Phi Luân Hải vẫn tiếp tục duy trì một lượng người hâm mộ tuy nhỏ mà trung thành ở châu Á, nhưng giới trẻ từ khắp nơi trên thế giới đã nhanh chóng tiếp nhận các nhóm nhạc K-pop như Big Bang và Super Junior, mà cả hai nhóm này đã và đang thu hút một lượng fan khổng lồ đến từ Nam Mỹ, nhiều khu vực của Đông Âu, vùng Trung Đông, cho tới một lượng người hâm mộ nhỏ hơn ở phương Tây (đặc biệt là trong cộng đồng người nhập cư gốc Á, Trung Đông, gốc Phi hay Đông Âu).
Đặc trưng.
Vào những năm 2001-2008, nền giải trí Đài Loan đã làm mưa làm gió tại thị trường châu Á với một series các "ngôi sao": Châu Kiệt Luân, Vương Lực Hoành, S.H.E, F4... và dòng nhạc C-pop cực điển hình. Bản sắc, đặc trưng là những đặc điểm riêng, cá tính riêng dùng để phân biệt cá thể này với những cá thể khác. Đặc trưng của nền giải trí Đài Loan đã lớn mạnh đến mức nó từng được sử dụng như bản sắc chung của những nước hát tiếng Hoa.
Tại Nhật Bản.
Dựa trên các trang web tiếng Anh viết về K-pop khiến người hâm mộ phương Tây thấy được sự nổi tiếng của K-pop tại Nhật Bản, nhưng chưa có bài viết nào nói rằng K-pop chỉ là một trong hai xu hướng phổ biến trên đất nước mặt trời mọc. Còn một xu hướng khác, tất nhiên đó là nhạc pop Đài Loan. Có hẳn một từ dành cho xu hướng này tại Nhật Bản gọi là (Đài lưu; người Nhật đọc là Tairyu), có nghĩa là dòng văn hóa đại chúng Đài Loan tại Nhật Bản. Xu hướng này đã được phổ biến tại Nhật một thời gian với những bộ "phim thần tượng" Đài Loan như ""Vườn sao băng", "Thơ Ngây", "Hoa dạng thiếu niên thiếu nữ", "Lửa bóng rổ", và gần đây là "Trạm kế tiếp hạnh phúc"" đã tạo nên cơn sốt tại Nhật Bản, trong khi các nghệ sĩ Nhật như Gackt thường xuyên tới Đài Loan để thư giãn.
Ngày 20 tháng 5 năm 2008, đĩa đơn tiếng Nhật """ của nhóm nhạc thần tượng Đài Loan Phi Luân Hải chính thức được phát hành tại xứ sở hoa anh đào, ngay lập tức leo lên vị trí 14 trong bảng xếp hạng. Đĩa đơn đã mang thêm về cho Phi Luân Hải một lượng người hâm mộ khổng lồ tại đây. Trước đó, những bộ phim truyền hình thần tượng như "Chung cực nhất ban", "Hoa dạng thiếu niên thiếu nữ" của các thành viên trong nhóm đã được khán giả Nhật Bản biết đến khi phát sóng ở đây và fan club chính thức của nhóm tại Nhật cũng được thành lập với sự tham gia của đông đảo fan hâm mộ, chứng tỏ mức độ yêu thích Phi Luân Hải ở đây là không hề nhỏ.
Hiện tại, nam ca sĩ Đài Loan La Chí Tường được coi là đang dẫn đầu "làn sóng Đài Loan" tại Nhật Bản. Ngày 15 tháng 2 năm 2012, anh đã thực hiện một bước đột phá mới trong sự nghiệp âm nhạc của mình khi tấn công vào thị trường Nhật Bản với việc phát hành single đầu tiên "Dante"". Đĩa đơn ngay lập tức leo lên vị trí số 10 trên bảng xếp hạng Oricon trong tuần đầu tiên phát hành. Anh là ca sĩ Đài Loan thứ hai có bài hát xuất hiện trên Oricon trong vòng 25 năm qua sau ca sĩ Đặng Lệ Quân, đồng thời cũng là nam ca sĩ Đài đầu tiên có tên trong Top 10 của bảng xếp hạng này. Các phương tiện truyền thông Nhật Bản thậm chí còn ca ngợi anh là phiên bản Đài Loan của thần tượng Nhật Bản Yamashita Tomohisa.
Tại Trung Quốc đại lục.
Làn sóng văn hoá đại chúng Đài Loan tràn sang Trung Quốc bao gồm các ca sĩ nhạc pop, talk show, chương trình truyền hình tạp kĩ và những bộ phim truyền hình.
Có đến hàng triệu người dân Trung Quốc đại lục theo dõi những chương trình truyền hình nổi tiếng của Đài Loan, nhưng họ không xem trên TV mà thoải mái thường thức trên Internet hay các DVD sao chép lậu bán tràn lan ở đại lục. Trên thực tế, các chương trình truyền hình của Đài Loan không được chính quyền Trung Quốc cho phép phát sóng ở đại lục do bị coi là không thích hợp. Ví dụ, một chương trình được xem nhiều nhất vào năm 2012 là cuộc trò chuyện tâm tình của ca sĩ Đài Loan FanFan, nhưng chắc chắn một điều là nó không chính thức xuất hiện trên truyền hình Trung Quốc.
Chính quyền Trung Quốc cấm tiệt mọi loại chương trình truyền hình của Đài Loan. Chính quyền Bắc Kinh không muốn người dân Trung Quốc bị tiêm nhiễm văn hóa Đài Loan bất chấp mối quan hệ ngoại giao giữa hai cơ cấu chính quyền được cải thiện trong những năm gần đây và văn hóa Đài Loan đang là hiện tượng gây sốt ở đại lục. Nhưng, hiện nay Đài Loan đang cố gắng xoa dịu những mối lo ngại của Bắc Kinh. Ví dụ nhiều bài hát nổi tiếng của Đài Loan được phát sóng trên Đài Phát thanh Trung Quốc.
Nhiều chương trình truyền hình quy mô ở Trung Quốc - như chương trình mừng năm mới vừa qua - sẽ không thể hấp dẫn nếu thiếu đi sự xuất hiện của các nghệ sĩ Đài Loan. Mặc dù quá nhỏ bé so với Trung Quốc đại lục, song Đài Loan có nền văn hóa đại chúng được đánh giá cao bởi người Hoa trên khắp thế giới, kể cả ở đại lục trong những thập niên quan hệ căng thẳng trước đây.
Vào thập niên 1980, nữ ca sĩ Đài Loan Đặng Lệ Quân nổi tiếng đến mức chính quyền Trung Quốc cấm nghe nhạc của cô nhưng cuối cùng vẫn không ngăn được sự ái mộ cuồng nhiệt của người Hoa trên khắp thế giới đối với giọng ca này. Đặng Lệ Quân được coi là một diva của châu Á. Năm 1986, tạp chí Time của Mỹ bình chọn Đặng Lệ Quân vào Top 10 ca sĩ nổi tiếng nhất thế giới và Top 7 ca sĩ của năm.
Trong thời gian qua, chỉ có vài bộ phim điện ảnh Đài Loan được phép chiếu trong các rạp ở Trung Quốc nhưng các chương trình truyền hình Đài Loan vẫn bị coi là chương trình nước ngoài cho dù được nói bằng tiếng Hoa phổ thông (Quan thoại). Không chỉ ở lĩnh vực âm nhạc và truyền hình, mà cả ngành xuất bản cũng vậy - các nhà xuất bản và tác giả Đài Loan đang cố gắng đấu tranh để bán hay in sách của họ ở Trung Quốc.
Văn hóa đại chúng Đài Loan không được phê chuẩn chính thức ở Trung Quốc dẫn đến tình trạng vi phạm bản quyền và thất thu tài chính. Ví dụ, các ca sĩ Đài Loan nổi tiếng bị ảnh hưởng túi tiền do âm nhạc của họ phổ biến ở đại lục qua các DVD sao chép lậu hay được tải xuống từ Internet. Gần đây, Bộ trưởng Văn hóa Đài Loan - - tuyên bố bà muốn tăng cường hơn nữa sự trao đổi văn hóa giữa Đài Loan và Trung Quốc.
Long Ứng Đài ước tính có hơn 1 triệu bản sao chép tác phẩm bán chạy nhất của bà nhan đề "Đại Hà, Đại Hải" (Big River, Big Sea) để bán ngoài thị trường đen ở Trung Quốc. Cuốn sách kể về câu chuyện người Trung Quốc vượt biên từ đại lục đến Đài Loan vào năm 1949. Bà Long nhận định sự trao đổi văn hóa cũng là một con đường xây dựng hòa bình: ""Thử nhìn vào gương của những quốc gia như Đức, Ba Lan hay Pháp sẽ thấy họ đã làm gì sau Thế chiến thứ hai. Đó là họ quảng bá trao đổi văn hóa với những quốc gia từng là kẻ thù của họ. Mục đích của họ là gì? Đó là xây dựng hòa bình, mà chỉ có trao đổi văn hóa mới làm được điều đó".
Cũng có thời gian chính quyền Đài Loan siết chặt nhập khẩu văn hóa Trung Quốc, chỉ cho phép công chiếu 10 phim điện ảnh của đại lục mỗi năm. Đài Loan cũng hạn chế các chương trình quảng cáo của Trung Quốc trên các phương tiện truyền thông ở địa phương cũng như cấm tiệt các chương trình truyền hình Trung Quốc do nội dung nhạy cảm về chính trị. Ví dụ, một bộ phim về cuộc Cách mạng Tân Hợi - dẫn đến sự lật đổ hoàng đế cuối cùng của Trung Hoa ngày xưa - không được phép phổ biến ở Đài Loan. Từ khi mối quan hệ giữa hai chính quyền được cải thiện vào năm 2008, sự trao đổi văn hóa bắt đầu tiến triển, với sự đóng góp của các tầng lớp sinh viên, học giả và nghệ sĩ.
Đài Loan cũng đề nghị những nghệ sĩ nổi tiếng ở Trung Quốc tham gia tranh giải Kim Mã (Golden Horse) danh giá của nơi này - được đánh giá là giải Oscar cho những phim nói tiếng Hoa - lần đầu tiên vào tháng 11 năm 2012 bất chấp còn đó những mối lo ngại.
Tại Hàn Quốc.
Làn sóng phim thần tượng Đài Loan lan đến Hàn Quốc từ khi đài truyền hình MBC trình chiếu bộ phim "Vườn sao băng". Kể từ đó, phim truyền hình Hàn Quốc bắt đầu bị “bắt nạt” ngay trên sân nhà. Sau đó không lâu, bộ phim thần tượng “"Thơ Ngây"” được chiếu trên kênh truyền hình SBS Dramaplus, khán giả đánh giá cao nên cũng đã thu hút khá nhiều fan hâm mộ. Kế đến là đài KBS cũng cho phát sóng bộ phim “"Hoa dạng thiếu niên thiếu nữ"” đã giành được rất nhiều sự quan tâm của người xem đài. Thống kê cho thấy tỷ lệ người xem đài của những bộ phim này là từ 1 - 2%, so với những phim truyền hình nước ngoài do các đài truyền hình hữu tuyến phát sóng thì tỷ lệ này khá cao. Tuy nhiên, tỷ lệ này nếu tính trên thực tế thì cao hơn rất nhiều, vì đại đa số đều đã được theo dõi thông qua Internet hoặc DVD.
Dưới cơn sốt này, ở Hàn Quốc đã hình thành nên khá nhiều các câu lạc bộ fan (FC) trên mạng. Số lượng fan tham gia FC của nam diễn viên Ngôn Thừa Húc, một thành viên của nhóm F4 đã lên tới con số hơn 30.000. FC của hai nam diễn viên chính trong bộ phim “"Hoa dạng thiếu niên thiếu nữ"” là Ngô Tôn và Uông Đông Thành (hai thành viên trong nhóm nhạc Phi Luân Hải) cũng chính thức hoạt động. Các thành viên lúc tích cực tham gia các hoạt động của hội này đạt tới 7.300 người, còn nếu tính các thành viên không thường xuyên tham gia các hoạt động thì vượt mức hơn 10.000 fan.
Nguyên nhân khiến người xem đài thích các bộ phim truyền hình này là, có rất nhiều phim đều chuyển thể từ những bộ manga nổi tiếng của Nhật Bản mà cũng rất được người dân Hàn Quốc yêu thích. Bộ phim "Vườn sao băng"" được phát sóng ở Hàn Quốc cũng đã chuyển thể từ bộ truyện manga nổi tiếng của Nhật “"Hana Yori Dango"” (Con nhà giàu), “"Thơ Ngây"” chuyển thể từ “"Itazura na Kiss"”, “"Hoa dạng thiếu niên thiếu nữ"” chuyển thể từ “"Hana-Kimi"”... Cũng như Đài Loan, những bộ manga nổi tiếng cũng được chuyển thể thành phim ở Nhật Bản. Do đó, việc so sánh đồng thời hai bộ phim cùng được chuyển thể từ một bộ truyện cũng là một thú vui đối với người hâm mộ.
Tại Việt Nam.
Thời kì 2004 - 2008 chứng kiến sự bùng nổ của dòng phim thần tượng Đài Loan tại thị trường châu Á, kéo theo đó là sự phổ biến dòng nhạc tình cảm lãng mạn, dễ thương kiểu C-pop (đặc biệt là Mandopop). Trong đó, nhiều ca khúc nhạc phim của các bộ phim thần tượng đình đám, ăn khách cũng được fan hâm mộ yêu thích tương tự như vậy. Khá đông các ca sĩ Việt đã hướng theo, chạy theo phong cách trình diễn của nghệ sĩ Đài Loan. Ở Việt Nam thời gian này, tiêu biểu có Thu Thủy là nữ ca sĩ V-pop bị ảnh hưởng từ C-pop nhiều nhất.
Vào cuối năm 2010, báo Hoa Học Trò đã công bố danh sách 5 nhóm nhạc nam C-pop đình đám nhất thập niên 2000, tất cả đều đến từ Đài Loan. Đó là các nhóm nhạc: F4, 183 Club, 5566, Phi Luân Hải và Bổng Bổng Đường (Lollipop).
Ngoài ra, trong giai đoạn này còn có nhiều ca khúc nhạc Mandopop của Đài Loan được các ca sĩ nổi tiếng V-pop lúc bấy giờ hát lại hoặc phối lại bằng tiếng Việt như:
Ngoài ra còn một số ca sĩ V-pop khác cũng hát lại những ca khúc đình đám của dòng nhạc Mandopop Đài Loan thời kỳ này như:
Cơn sốt trà sữa trân châu.
Trà sữa của Đài Loan du nhập vào Việt Nam từ đầu những năm 2000 nhưng phải mất vài năm sau đó, thức uống này mới được giới trẻ ưa chuộng. Các quán nước ven đường, các xe đẩy hiếm khi nào vắng bóng những học sinh vừa cầm cốc trà sữa vừa vui vẻ nói chuyện. Nhưng bẵng đi một thời gian, trào lưu trà sữa dần hạ nhiệt. Nhiều cửa hàng phải thanh lý hoặc đóng cửa, số khác vẫn chật vật để tồn tại. Tất cả là vì thông tin trà không có nguồn gốc, trân châu làm từ nhựa polyme rộ lên vào khoảng cuối năm 2009.
Đến năm 2012, các thương hiệu Đài Loan đổ bộ vào Việt Nam, vẫn là món trà sữa ngày trước nhưng được phục vụ theo một phong cách hoàn toàn mới: trà sữa uống kèm topping, phát triển mô hình dạng chuỗi, không gian thiết kế bài bản không kém bất kỳ quán cà phê tên tuổi nào. Và ánh hào quang của trà sữa Đài Loan dần dần trở lại, đặc biệt vào khoảng cuối năm 2016 - đầu năm 2017.
Theo một khảo sát của Lozi, trong năm 2017, thị trường trà sữa Việt Nam chứng kiến sự bùng nổ với 100 thương hiệu lớn nhỏ cùng tồn tại và trên 1.500 điểm bán, trong đó có những thương hiệu lớn đến từ Đài Loan như Ding Tea (薡茶), Gong Cha (貢茶), BoBaPop, Tiên Hưởng (鮮饗茶)... Khảo sát này cũng cho thấy trà sữa đang trở thành loại đồ uống phổ biến tại Việt Nam khi 53% người được khẳng định uống trà sữa ít nhất 1 lần/tuần.
Xét trên khía cạnh người tiêu dùng, trà sữa đặc trưng bởi vị ngọt, béo ngậy, phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng, không chỉ học sinh, sinh viên mà cả trẻ em, giới văn phòng đều yêu thích. Bên cạnh đó, trà sữa liên tục “biến hình” để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, từ những dòng trà kem cheese, trà hoa quả cho đến trà ít béo. Một điểm cộng nữa khiến trà sữa được ưa chuộng chính là phong cách phục vụ. Thay vì những hàng quán nhỏ, những xe đẩy cổng trường như trong quá khứ, trà sữa được thiết kế thành không gian rộng rãi, có chỗ ngồi cố định, có điều hòa mát lạnh...
Tại Indonesia.
Nhạc pop Hoa ngữ (đặc biệt là nhạc tiếng Quan thoại) từng đạt mức độ nổi tiếng đỉnh điểm ở Indonesia một thời gian dài trước khi làn sóng nhạc pop Hàn Quốc và Nhật Bản tràn qua. Văn hóa đại chúng Đài Loan đã từng là mốt thịnh hành tại Indonesia vào thời gian đầu và giữa những năm 2000, sau khi những điều luật có tuổi thọ hàng thập kỷ quy định việc nghiêm cấm truyền bá tiếng Hoa được bãi bỏ thông qua các cải cách của chính phủ.
Ở thủ đô Jakarta, các trung tâm thương mại như ITC Roxy Mas và ITC Mangga Dua là bến đỗ cho những người bán đĩa CD lậu của các ca sĩ Đài Loan và các đĩa phim lậu của Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan. Ở đây có những cửa hàng bán đồ điện tử và điện thoại di động nơi khách hàng có thể ghé vào và hỏi mua chiếc điện thoại hãng Nokia có chứa các tập tin MP3 của những bài hát tiếng Hoa mới nhất.
Chẳng có gì lạ khi nghe thấy các ca khúc của Châu Kiệt Luân, Vương Lực Hoành, Thái Y Lâm, v.v... được phát ra trong khung cảnh mọi người đang đi bộ dọc hành lang ở các trung tâm mua sắm này. Người hâm mộ biết cách để có được những bản phát hành mới nhất của nhóm nhạc nam F4 nhờ những tiểu thương trên vỉa hè mà họ thân quen, hoặc tải nhạc MP3 thông qua các mạng chia sẻ ngang hàng và các trang blog trực tuyến.
Tuy nhiên khi các cô cậu thanh thiếu niên của thập niên 2000 lớn lên, họ đã chuyển hướng từ văn hóa đại chúng Đài Loan sang các lối rẽ khác, và do đó đỉnh điểm đã hạ nhiệt và thoái trào. Dù sao thì, một số đài phát thanh như Đài Chân trời FM 98,3 (tức "98.3 FM Radio Cakrawala", nay đổi tên thành "Đài tiếng Quan thoại FM 98,3") ở Jakarta vẫn tiếp tục phát những giai điệu nhạc Hoa kể từ quãng thời gian đó. | 1 | null |
Paul Hindemith (sinh năm 1895 tại Hanau, mất năm 1963 tại Frankfurt) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ đàn viola, nhà sư phạm, nhà lý thuyết âm nhạc người Mỹ gốc Đức. Ông là một trõng những nhà soạn nhạc lớn thời kỳ Hiện đại.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Paul Hindemith bắt đầu học nhạc vào năm 9 tuổi, năm 1904. Sau đó, Hindemith học nhạc tại Nhạc viện Hoch, Frankfurt với các thầy Arnold Mendelssohn và Bernhard Sekles. Từ năm 1915 trở đi, ông làm việc tại Nhà hát opera Frankfurt, đồng thời chơi violin và viola trong dàn tứ tấu Rebner. Từ năm 1922 đến năm 1929, nhà soạn nhạc người Đức tiếp tục chơi viola trong dàn nhạc tứ tấu Amar, một dàn tứ tấu chơi các tác phẩm hiện đại, đi biểu diễn khắp châu Âu. Năm 1927, Hindemith được mời giảng dạy sáng tác tại Trường Cao đẳng âm nhạc Berlin. Năm 1934 tác phẩm "Họa sĩ Mathis" của ông bị chính quyền phát xít cấm trình diễn, nên ông đã sang Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Thụy Sĩ và đến Mỹ vào năm 1940. Ở đó, Hindemith là giáo sư thỉnh giảng của Trường Đại học Tổng hơp Yale. Năm 1947, ông trở về châu Âu, từ năm 1951 ông giảng dạy thường kỳ tại Đại học Tổng hơp Zurich và đến năm 1953, ông định cư tại Thụy Sĩ.
Phong cách sáng tác.
Paul Hindemith là một trong những nhà soạn nhạc lớn nhất thế kỷ XX. Ông có nhiều tác phẩm thuộc rất nhiều thể loại, thể hiện nhiều phong cách âm nhạc. Trong các sáng tác thời kỳ đầu sự nghiệp, Hindemith là một trong những ngọn cờ lãnh đạo trào lưu âm nhạc hiện đại, thứ trào lưu âm nhạc có gì đó cực đoan, chịu ảnh hưởng không nhỏ của hai trào lưu âm nhạc lớn: cấu trúc và biểu hiện. Về sau ông xa rời những thứ âm nhạc cực đoan, tiếp tục đổi mới, sáng tạo theo chiều hướng có nội dung và ý nghĩa giáo dục đao đức. Ông đấu tranh cho âm nhạc 12 cung, loại âm nhạc rất phổ biến đầu thế kỷ XX và những biểu hiện xa rời hệ thống đinh thức được vun đắp trong lịch sử âm nhạc châu Âu, đồng thời ủng hộ việc xích lại người nghệ sĩ với người nghe.
Các tác phẩm.
Paul Hindemith đã sáng tác 15 tác phẩm âm nhạc sân khấu, có thể kể đến "Tên giết người", "Niềm hy vọng của đàn bà" (1921), "Sancta Susana" (1921), "Họa sĩ Mathis" (1938), "Sự hài hòa của thế giới" (1957); những tác phẩm ballet "Herodiade" (1944); những bản oratorio, nổi bật có "Vĩnh cửu" (1931); ba bản cantata "Bài ca chiến thắng", "Người gác đêm", "Bài ca hy vọng" (1953-1955); bốn bản giao hưởng (1934, 1940, 1946, 1951); những tác phẩm cho dàn nhạc gồm "Những biến hóa giao hưởng dựa trên chủ đề âm nhạc của Weber" (1943) và một số tác phẩm khác; những bản hòa tấu thính phòng; những tiểu phẩm cho piano, trong đó có liên khúc prelude và fuga "Trò chơi của những điệu tính". Ngoài ra ông còn viết các cuốn sách, đáng chú ý có "Những chỉ dẫn về sáng tác âm nhạc" (2 tập-1937,1939). | 1 | null |
Giun móc là một loài ký sinh trùng thuộc ngành giun tròn. Giun móc sống trong ruột non của vật chủ là động vật có vú như chó, mèo hoặc người. Hai loài giun móc phổ biến ở người là "Ancylostoma duodenale" và "Necator americanus". "A. duodenale" phổ biến ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi, Ấn Độ và khu vực Nam Âu (trước đây) còn "N. americanus" thì phổ biến ở các nước châu Mỹ, miền châu Phi hạ Sahara, Đông Nam Á, Trung Quốc và Indonesia. Giun móc được cho là gây nhiễm trên 600 triệu người trên khắp thề giới. Loài "A. braziliense" và "A. tubaeforme" gây nhiễm cho mèo trong khi loài "A. caninum" gây nhiễm ở chó. Loài "Uncinaria stenocephala" gây nhiễm cả chó và mèo.
Dấu hiệu nhiễm và triệu chứng.
Không có triệu chứng hay dấu hiệu chuyên biệt nào để nhận biết việc nhiễm giun móc. Có sự kết hợp giữa viêm đường ruột và gia tăng tình trạng thiếu máu thiếu sắt hay thiếu đạm. Ấu trùng xâm nhập qua da có thể gây khó chịu, ngứa cục bộ, thường bị ở bàn chân hoặc chi dưới, sau đó có thể phát triển thành những tổn thương giống như bị côn trùng cắn, có thể gây phồng rộp da, kéo dài một hoặc vài tuần.
Ấu trùng giun móc ở vật nuôi khi xâm nhập qua người có thể gây cảm giác như phát ban từ ấu trùng di chuyển dưới da. Khi ấu trùng di chuyển xa, để lại vết xâm lấn dần khô và thô. Vùng thương tổn trở nên ngứa dữ dội.
Ho, đau ngực, thở khò khè hoặc sốt có thể xảy ra ở những người tiếp xúc nhiều với ấu trùng. Đau thượng vị, khó tiêu, nôn ói, táo bón hoặc tiêu chảy có thể xảy ra ở giai đoạn nhiễm sớm hoặc trễ mặc dù triệu chứng qua đường ruột có thể cải thiện theo thời gian. Dấu hiệu nhiễm giun nặng là thiếu máu, thiếu đạm, người hốc hác, suy tim, bụng sưng phồng do tràn dịch màng.
Cách phòng ngừa.
Ấu trùng lây nhiễm có khả năng phát triển và tồn tại trong môi trường đất ẩm, nhất là đất cát và mùn. Chúng không thể sống trong đất sét và phân chuồng. Việc phòng ngừa chủ yếu là giữ gìn vệ sinh:
Xử lý khi nhiễm giun móc.
Cách trị nhiễm giun móc phổ biến nhất là dùng thuốc thuộc nhóm benzimidazole, đặc biệt là albendazole và mebendazole. Benzimidazoles diệt giun trưởng thành bằng cách kết vào β-tubulin có ở giun tròn và do đó ức chế phản ứng trùng hợp của những vi thể dạng ống có ở ký sinh trùng. Trong một số tình huống, levamisole và pyrantel pamoate có thể được sử dụng trong điều trị. Nghiên cứu vào năm 2008 của Keiser và Utzinger cho thấy rằng liều duy nhất điều trị nhiễm giun móc cho hiệu quả theo thứ tự là 72% cho albendazole, 15% cho mebendazole, và 31% cho pyrantel pamoate. Kết quả này đã chứng minh cho thấy đề nghị trước đó là đúng: albendazole cho kết quả tốt hơn mebendazole rất nhiều trong việc điều trị nhiễm giun móc. Tổ chức Y tế Thế giới cũng khuyến khích điều trị nhiễm giun móc cho phụ nữ mang thai sau ba tháng. Bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt cũng được khuyên nên uống bổ sung 200 mg sắt sulfate ngày ba lần trong quá trình điều trị nhiễm giun sán, cho đến khi chỉ số hemoglobin trong máu trở lại bình thường (có khi đến 3 tháng).
Một số vấn đề quan trọng trong điều trị nhiễm giun móc là tái nhiễm và đề kháng thuốc. Nhiên cứu cho thấy tỉ lệ tái nhiễm sau điều trị có thể rất cao. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tỉ lệ tái nhiễm sau điều trị nhiễm giun móc có thể lên đến 80% sau 30 - 36 tháng trong một số cộng đồng. Trong khi việc tái nhiễm có thể xảy ra, việc điều trị đều đặn cũng được khuyến khích để giảm tối đa khả năng nhiễm mãn tính. Đề kháng thuốc cũng là vấn đề ngày càng dễ lo ngại. Đề kháng thuốc đã xuất hiện đối với những thuốc điều trị nhiễm giun sán được chọn hàng đầu cho vật nuôi nhiễm giun tròn. Giun tròn ở người nói chung khó có thể phát triển đề kháng thuốc do vòng đời sinh sản dài hơn, điều trị ít thường xuyên hơn và việc điều trị có định hướng rõ ràng hơn. Nhưng nhìn chung, cộng đồng trên thế giới cần phải thận trọng để đảm bảo tính hiệu quả cho những thuốc đều trị nhiễm giun sán hiện tại vì không có thuốc thay thế nào mới được phát triển.
Giun móc có thể được trị bằng phương pháp làm lạnh cục bộ khi nhiễm trên da.
Albendazole có hiệu quả điều trị cả trong gia đoạn qua đường ruột và giai đoạn nhiễm dưới da.
Trong trường hợp thiếu máu, bổ sung sắt có thể giúp giảm triệu chứng của thiếu máu thiếu sắt. Tuy nhiên, khi tỉ lệ hồng cầu được khôi phục, việc thiếu hụt những thành phần khác như axit folic và vitamin B12 có thể xảy ra và cũng có thể cần được bổ sung thêm. | 1 | null |
Chuyến bay 214 của Asiana Airlines là chuyến bay chở khách liên Thái Bình Dương của hãng hàng không Asiana Airlines, khởi hành từ Sân bay quốc tế Incheon gần Seoul, Hàn Quốc, đến Sân bay quốc tế San Francisco gần thành phố San Francisco, tiểu bang California tại Hoa Kỳ. Vào ngày 6 tháng 7 năm 2013, Chiếc máy bay Boeing 777-200ER phục vụ chuyến bay đã rơi trong lúc đang hạ cánh xuống Sân bay quốc tế San Francisco. Trên máy bay có 291 hành khách và phi hành đoàn 16 người. Đây là vụ tai nạn chết người đầu tiên của loại máy bay Boeing 777.
Tai nạn.
Ngày 6 tháng 7 năm 2013 lúc 11:26 a.m. giờ Thái Bình Dương (Hoa Kỳ) (18:26 UTC), một chiếc Boeing 777-200ER, số hiệu đăng ký HL7742, rơi tại Sân bay quốc tế San Francisco trong lúc hạ cánh ngoài ngưỡng cho phép hạ cánh của đường băng 28L và đụng phải bờ kè biển nằm dọc theo vịnh San Francisco. Một động cơ và phần đuôi bị tách rời khỏi máy bay. Phần đuôi đứng và cánh sau nằm lại trên đường băng phía trước ngưỡng hạ cánh trong khi đó phần còn lại của thân máy bay và cánh chính dừng lại phía bên trái của đường băng. Các nhân chứng mô tả một quả cầu lửa lớn bùng lên chớp nhoáng ngay khi máy bay hạ cánh và một tiếng nổ lớn thứ hai cách đó vài phút sau khi đụng đường băng với cột khói đen lớn bùng lên từ thân máy bay. Thang thoát hiểm được triển khai ở một bên của máy bay để di tản hành khách.
Hành khách và phi hành đoàn.
Chuyến bay khi đó có 16 người thuộc phi hành đoàn và 291 hành khách: 141 người Trung Quốc, 77 người Hàn Quốc, 61 người Mỹ, 3 người Ấn Độ, 3 người Canada, 1 người Việt Nam, 1 người Pháp, và 1 người Nhật..
Trên máy bay có 4 phi công, thay phiên theo cặp. Hai viên phi công vào thời điểm diễn ra tai nạn là Lee Jeong-min, đã có 12.387 giờ bay trong đó có 3.220 giờ bay với 777, và Lee Kang-kook, đã có 9.793 giờ bay và 43 giờ bay trên 777, theo số liệu của Bộ vận tải Hàn Quốc.
Trong một cuộc họp báo diễn ra tại sân bay, người đứng đầu lực lượng cứu hỏa San Francisco Joanne Hayes-White xác nhận đã có hai người chết; cả hai đều là nữ 16 tuổi mang hộ chiếu Trung Quốc và cả hai thi thể đều được tìm thấy ở bên ngoài máy bay. Theo một người phát ngôn của bệnh viện, 5 người đang trong tình trạng nguy kịch Chín bệnh viện trong khu vực đã tiếp nhận 182 người bị thương. Trong một cuộc họp báo ở sân bay diễn ra sau đó, người phát ngôn của sân bay Doug Yakel nói rằng chỉ có một người mất tích, ít hơn con số 60 được thông báo trước đó. Trong một cuộc họp báo bổ sung, Hayes-White tuyên bố rằng tất cả mọi người đã được kê khai sau khi đối chiếu hai địa điểm tiếp nhận ở sân bay.
"Tân Hoa xã" nói rằng trong số các hành khách Trung Quốc có 70 học sinh và giáo viên tới Hoa Kỳ để tham gia trại hè. Theo hãng tin "Reuters", "chính quyền địa phương" tuyên bố rằng 30 trong số các học sinh và giáo viên đến từ Sơn Tây, số còn lại đến từ Triết Giang. Trong số các giáo viên và học sinh có 34 người là của trường trung học Giang Sơn tỉnh Triết Giang đi cùng nhau thành một nhóm. Nhóm này bao gồm 5 giáo viên và 29 học sinh Sở giáo dục tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) nói rằng một giáo viên bị thương nhẹ. Hai hành khách đã qua đời, hai nữ sinh 16 tuổi, là học sinh của trường trung học Giang Sơn. Các học sinh khác của trường Giang Sơn đã sống sót qua vụ tai nạn.
Hậu quả.
Nguyên nhân tai nạn đã được xác định: các phi công mắc 20 hoặc 30 lỗi trong hơn 22 km bay cuối, "Reuters" dẫn thông báo Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia Mỹ (NTSB) cho hay. "Sự điều khiển yếu kém" của phi công dường như là nguyên nhân vụ tai nạn của chuyến bay số hiệu 214.
Ban An toàn Giao thông Quốc gia Hoa Kỳ đã phái một toán chuyên viên đến hiện trường điều tra vụ tại nạn. Sân bay đóng cửa nhiều giờ liền sau vụ tai nạn. Các chuyến bay đang đến Sân bay San Francisco được đổi hướng đến các sân bay chính khác tại vùng vịnh San Francisco hay đến Sacramento và Los Angeles. Các giới chức cho biết rằng yếu tố khủng bố bị loại trừ khỏi nguyên nhân gây ra tai nạn. Tại một cuộc họp báo được tổ chức tại San Francisco, trưởng cứu hỏa thành phố là Joanne Hayes-White xác nhận có hai người thiệt mạng và 10 người đang trong tình trạng nguy kịch.
Vụ tai nạn khiến 3 người thiệt mạng và 180 người bị thương. Hai thiếu niên Trung Quốc đã tử vong ngay sau tại nạn, và một em khác cùng quốc tịch tử vong vì bị thương nặng hôm 12/7. | 1 | null |
Lương Ký (chữ Hán: 梁冀, ? - 159), tên tự là Bá Trác (伯卓), là ngoại thích và quyền thần nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng là huynh trưởng của hai vị Hoàng hậu Đông Hán là Thuận Liệt Hoàng hậu Lương Nạp, Hoàng hậu của Hán Thuận Đế và Ý Hiến Hoàng hậu Lương Nữ Oánh, Hoàng hậu của Hán Hoàn Đế.
Được phong chức Đại tướng quân và được giao quyền phụ chính, họ Lương trở thành một thế lực ngoại thích lớn mạnh. Sau khi Thuận Đế mất, Lương Nạp trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính cho Hán Xung Đế và Hán Chất Đế, Lương Ký ngang nhiên thao túng triều đình. Chỉ vì một câu nói của Chất Đế, ông liền sai người hạ độc khiến hoàng đế qua đời. Sau ông lập Hán Hoàn Đế lên ngôi, đưa Lương Nữ Oánh lên làm Hoàng hậu. Có được đại quyền và hậu đãi, Lương Ký ra sức vơ vét của công và lộng hành ngang ngược, khiến Hoàn Đế bất mãn, điều này dẫn đến cái chết bất ngờ về sau của Lương Ký.
Thân thế.
Lương Ký xuất thân họ Lương, một gia tộc hiển hách thời Đông Hán. Quê ông ở Ôn Thị, An Định (安定乌氏; nay là Bình Lương, tỉnh Cam Túc). Cụ tổ năm đời của Lương Ký là Lương Thống, đại tướng phò giúp Hán Quang Vũ Đế sáng lập nhà Đông Hán, được trọng vọng và được phong làm Thành Thạch hầu, truyền năm đời đến Lương Ký. Cha Lương Ký là Lương Thương, có con gái (tức em gái của Lương Ký) là Lương Nạp, được gả cho Hán Thuận Đế làm hoàng hậu. Do là cha của hoàng hậu nên Lương Thương được trọng vọng, phong chức Đại tướng quân kiểm soát quân đội triều đình, còn Lương Ký được phong làm Hà Nam doãn vào năm 136.
Lương Thương tính tình thận trọng khiêm nhường, cúc cung phục vụ triều đình. Tuy nhiên Lương Ký hoàn toàn trái ngược, vô cùng kiêu ngạo và tàn độc, lại thù dai, cậy thế lực của cha mà đạt được chức "Chấp kim ngô" khi còn rất trẻ. Sau khi Lương Thương mất, Lương Ký kế chức Đại tướng quân của cha. Từ đó quyền hành đều rơi trong tay Lương Ký, em trai ông là Lương Bất Nghi được phong làm Hà Nam doãn.
Hại Hán Chất Đế.
Sau khi Hán Xung Đế qua đời vì bệnh, Hán Chất Đế được Lương Thái hậu lập làm hoàng đế kế vị. Chất Đế còn nhỏ nhưng khá thông minh, biết sự chuyên quyền của Lương Ký, ông từng chỉ tay vào mặt Ký nói trước mặt quần thần:"Ngươi là ông tướng ngang ngược!". Lương Ký nghe vậy rất tức giận, âm mưu trả thù.
Năm Bản Sơ nguyên niên (146), tháng 6, Lương Ký sai người đầu độc vào bát mỳ rồi dâng cho Chất Đế ăn. Khi độc tính phát tác, Chất Đế khó chịu, phái người cấp tốc truyền triệu Lý Cố. Lý Cố đi đến ngự sàn hầu Chất Đế, dò hỏi nguyên nhân. Chất Đế khi ấy còn gượng được, nói:"Trẫm ăn qua bát canh, bụng khó chịu, cho Trẫm uống nước có thể khỏi". Lương Ký ở ngay bên cạnh liền nói:"Bây giờ cho uống nước, có thể nôn mửa". Khi dứt câu, Chất Đế giá băng. Lý Cố khóc rống lạy Chất Đế. Lương Ký sợ sự việc bại lộ nên rất e dè Lý Cố.
Lập Hán Hoàn Đế.
Sau khi Hán Chất Đế giá băng, Thái úy Lý Cố, Tư đồ Hồ Quảng (胡廣) cùng Tư không Triệu Giới (赵戒) viết thư báo cho Lương Ký, ông ta liền triệu tập Tam công, các Liệt hầu hưởng 2.000 thạch thực ấp cùng chúng quan viên thương nghị chọn người kế vị. Đám người Lý Cố đề nghị Thanh Hà vương Lý Toán (劉蒜) kế vị, còn Lương Ký đòi lập Lễ Ngô hầu Lưu Chí, ý kiến này liền bị bãi bỏ. Lương Ký giận mà không có lý do, đương đêm về phủ thì gặp Trung thường thị Tào Đằng bất mãn với Lưu Toán, nên hiến kế cho Lương Ký áp chế các quan viên. Ngày hôm sau, Lương Ký đem binh sĩ bao vây điện nghị sự, khiến cả phe của Lý Cố cũng hoảng sợ, không thể không đồng ý lập Lưu Chí. Lương Ký vào cung nói với Lương Thái hậu. Lương Thái hậu biết chuyện Lương Ký độc chết Chất Đế nhưng không muốn kết tội chính anh trai mình, đành nghe theo Lương Ký để bảo toàn gia tộc, lập Lễ Ngô hầu Lưu Chí đăng vị, tức Hán Hoàn Đế.
Năm Kiến Hòa nguyên niên (147), Hoàn Đế lập Lương Nữ Oánh, em gái của Lương thái hậu và Lương Ký làm Hoàng hậu. Lương Ký cùng đợt được gia tặng thêm thực ấp 13.000 hộ, gia tăng số người được đề cử từ Đại tướng quân phủ, ngoài ra số quan lại phục vụ trong Đại tướng quân phủ cũng gia tăng hơn so với Tam công. Em trai Lương Bất Nghị được phong "Dĩnh Âm hầu" (潁暘侯), Lương Mông phong "Tây Bình hầu" (西平侯), con trai Lương Ký là Lương Dận (梁胤) cũng được phong làm "Tương Ấp hầu" (襄邑侯), mỗi tước có thực ấp 10.000 hộ.
Vào lúc này, thế lực của Lương Ký thực sự đã quá lớn, ông tìm cách giết Lý Cố. Cũng trong năm đó, đám Lưu Văn (劉文) ở Cam Lăng, Lưu Vị (劉鮪) ở quận Ngụy nổi lên tôn Lưu Toán làm Hoàng đế. Lương Ký nắm lấy thời cơ, đổ tội cho Lý Cổ dùng tà thuật phản loạn, giam vào ngục. Lương thái hậu nghe trần tình của các môn sinh nên bảo vệ Lý Cố, giải thoát ông khỏi ngục. Lương Ký vô cùng lo sợ, dùng hết mọi quan hệ và quyền lực bức tủ Lý Cố trong ngục
Cái chết.
Ngày 22 tháng 2 năm 147, Hoàng thái hậu Lương Nạp băng hà. Đại tướng quân Lương Ký tuy không còn Lương Thái hậu chống lưng nhưng vẫn còn em gái là Hoàng hậu để dựa vào. Hán Hoàn Đế vẫn không thể tự tiện áp chế nhưng dần xa lánh Lương hoàng hậu.
Năm Diên Hi thứ 2 (159), Hoàng hậu Lương Nữ Oánh đột ngột qua đời. Cuối năm đó, Hán Hoàn Đế kết hợp với hoạn quan lật đổ Lương Ký trong một cuộc đảo chính. Cả gia tộc họ Lương bị thảm sát, chấm dứt thế lực bá đạo kéo dài hơn 20 năm. | 1 | null |
Gia đình là số một (phần 3) (tiếng Hàn: 하이킥! 짧은 다리의 역습) là một bộ phim hài của Hàn Quốc được phát sóng vào trong khoảng thời gian từ 2011-2012. Nội dung câu chuyện là xoay quanh cuộc sống của gia đình Ahn Nae Sang và nhà hàng xóm láng giềng Park Ha Sun. Là phần cuối cùng của series phim đình đám High Kick tuy nhiên bộ phim không nối tiếp được thành công của hai phần trước đó.
Nhà Ahn Nae Sang.
Người đứng đầu của gia đình Ahn. Ông bị lừa một khoản tiền lớn bởi một người bạn thân. Kết quả là, công ty của ông đã phá sản, và ông tiếp tục chạy trốn khỏi các chủ nợ của mình. Ông thường xuyên cãi nhau với vợ, mặc dù họ có mối quan hệ rất tốt. Ông rất yêu quý 2 đứa con của mình và đặc biệt rất yêu con gái của ông là Ahn Soo Jung (hay Krystal). Cuối phim ông khá thành công.
Vợ Ahn Nae Sang. Cô bị mãn kinh sớm do quá căng thẳng vì công ty chồng mình bị phá sản. Cô thường xuyên cãi nhau với chồng vì chồng hay chọc tức cô. Cô là một người vợ đảm đang và mạnh mẽ.
Em trai của Yoon Yoo Sun. Anh là một bác sĩ tại một trung tâm y tế cộng đồng địa phương. Anh là người vui vẻ và tốt bụng, nhưng đôi khi trì trệ về cảm xúc của người khác. Anh có nụ cười rất đẹp nên được Kim Ji Won gọi là "Nụ cười thiên thần" và có cảm tình với anh. Là một bác sĩ tốt, biết quan tâm đến mọi người, luôn khám và chữa bệnh miễn phí cho các bệnh nhân nghèo tuy vậy anh cũng khá cứng đầu. Anh muốn sang Rwanda để làm từ thiện.
Em trai của Yoon Yoo Sun và Yoon Kye Sang. Anh là một giáo viên thể dục tại trường trung học mà Jongsuk và Soo Jung đang theo học. Anh hay bốc đồng và nổi nóng. Anh tỏ tình cô ha-sun ở cuối tập 67 khi giao thừa năm 2012
Con trai của Ahn Nae Sang và Yoon Yoo Sun. Anh là một cầu thủ khúc côn cầu nổi tiếng ở trường học cũ của mình. Anh đã gặp khó khăn về chuyện học ở ngôi trường mới mà mình đang theo học. Sau đó, anh nhờ Kim Ji Won làm gia sư cho anh và Kim Ji Won hay gọi anh là "tiền bối". Anh dần có tình cảm với Kim Ji Won. Anh thường xuyên cãi nhau với cô em gái bướng bỉnh của mình là Ahn Soo Jung. Cuối phim anh chuyển sang học nội chú và quyết tâm thi vào trường đại học heamin.
Con gái của Ahn Nae Sang và Yoon Yoo Sun. Em gái của Ahn Jong Suk. Cô ấy là một du học sinh tại Los Angeles, nhưng đột nhiên phải trở về nhà vì công ty của ba cô bị phá sản. Cô lạnh lùng và bướng bỉnh, hay nghĩ ra những trò đùa để chọc ghẹo anh mình, Cô hay gọi anh trai của mình là "đồ khùng". Mặc dù vậy nhưng cô rất quan tâm và yêu thương đến những người xung quanh mình, đặc biệt là cha cô.
Nhà Kim Ji Won.
Giáo viên dạy Ngữ văn tại trường trung học mà Jongsuk và Soojung đang theo học. Cô là người quá tử tế và hiền lành khi quản lý học sinh của mình. Sau này cô trở thành bạn gái của thầy giáo thể dục Yoon Ji Suk ( Cô chính thức đồng ý ở tập 80 ). Tập 122 cô bay xang mỹ với gia đình. Anh ji-suk tưởng cô không quay về nữa nhưng cô đã về sau 67 ngày xa cách.
Em họ của Park Ha Sun. Cha mẹ của cô đều đã qua đời tại Hàn Quốc. Cô sử dụng một điện thoại di động lỗi thời vì nó có chứa tất cả các thông điệp và hình ảnh của cha cô gửi cho cô ấy. Cô là học sinh giỏi và rất có năng khiếu. Cô thích đi xe máy của mình mặc dù Park Ha Sun và Yoon Kye Sang không đồng ý vì cô mắc bệnh "ngủ nhanh". Cô là chủ ngôi nhà mà Park Ha Sun, Baek Jin Hee và Julien Kang đang sống. Cô rất thích bác sĩ Yoon Kye Sang và muốn theo anh đến Rwanda nhưng sau cùng vào mấy tập gần cuối cô quyết định không đi nữa. Vào 1 hôm đang trên lớp Cô quyết định bỏ học để làm việc mình thích sau khi đọc lá thư mà kye-sang gửi ở tập cuối.
Cô bị thất nghiệp lâu dài và không có tiền đóng tiền nhà nên buộc phải rời khỏi ký túc xá và cô đã chuyển đến nhà Kim Ji Won. Cô nợ một khoản tiền rất lớn về chuyện học hành và phải tạm nghỉ học. Sau này cô được nhận vào làm ở một trung tâm y tế cộng đồng địa phương, nơi bác sĩ Yoon Kye Sang đang làm việc và nảy sinh tình cảm đơn phương với anh. Cuối phim, cô nghỉ việc ở trung tâm y tế và trúng tuyển vào một công ty với mức lương cao. Về sau cô là vợ bác sĩ Lee Juck
Anh là một giáo viên tiếng Anh bản địa tại trường trung học mà cô Park Ha Sun đang dạy học. Vì Ha Sun bị lừa trong lúc đi tìm nhà nên Julien phải ở tạm nhà Ji Won. Anh nói thông thạo tiếng Hàn Quốc và là một đầu bếp tuyệt vời, anh biết làm rất nhiều món ăn ngon của Hàn Quốc mặc dù anh là người Mỹ. Về sau anh hẹn hò với cô giáo park Ji sun
Trường học.
Cô là giáo viên tiếng Anh tại trường trung học mà Park Ha Sun đang giảng dạy. Cô luôn nghĩ rằng thầy giáo "Julien" và cô Park Ha Sun sống chung với nhau. Cô bị dị ứng với ánh nắng của mặt trời. Vì tính tình vô duyên của mình nên cô không có bạn trai và luôn nổi cáu mỗi khi đến dịp Giáng sinh hay Lễ tình nhân. Về sau cô và thầy Julien hẹn hò với nhau.
Anh là một giáo viên dạy nhạc tại trường trung học mà Park Ha Sun đang giảng dạy. Anh rất ít nói, nhưng là người rất có năng khiếu trong âm nhạc. Anh luôn luôn ngồi ở trên cửa sổ trong phòng giáo viên. Cuối phim anh đã nghỉ dạy ở trường để theo đuổi sự nghiệp ca sĩ, ở cuối phim anh có ra mắt MV.
Phó hiệu trưởng của trường trung học mà Park Ha Sun đang giảng dạy. Trong cả ba phần phim, ông đều là phó hiệu trưởng của trường trung học. Ông thường hay nói câu: "Good, good, good."
Các diễn viên khác.
Là bạn thân nhất của Jong Suk. Anh gặp gia đình Ahn Nae Sang khi họ đang chạy trốn chủ nợ. Anh tin rằng Trái Đất là hình vuông, và ước muốn của anh là trở thành tổng thống Hàn Quốc. Anh trở thành người bạn tốt nhất Jong Suk khi anh đã cứu anh ta từ một vụ tai nạn xe hơi. Cô Yoon Yoo Sun hay gọi anh là "đồ không bình thường" vì suy nghĩ của anh rất khác với suy nghĩ của người thường và có những hành động kì lạ. Tập cuối hình như anh đã là Tổng Thống.
Người thuê nhà ở ký túc xá nghiên cứu tương tự như Jin Hee. Anh đang chuẩn bị cho kỳ thi tuyển công chức. Anh thường cãi vã với Jin-hee. Vì anh đã cứu Ha Sun khi cô ngã xuống sông nên cô miễn cưỡng hẹn hò với anh. Anh rất thích cô, nhưng cô lại chỉ coi anh là một người bạn. Cô bị áp lực vào hẹn hò với anh bởi một số người xung quanh cô. Anh xuất hiện từ đầu đến tập 62 và sau đó xuất hiện lần cuối ở tập 117.
Câu chuyện( bộ phim này)được kể lại từ một cuốn tiểu thuyết ông viết trong tương lai. Ông là bác sĩ trưởng của một phẫu thuật đại trực tràng phòng khám. Ông là tiền bối của Kye Sang và là đồng nghiệp cấp cao của bệnh viện cho đến khi Kye-sang nghỉ việc để cung cấp dịch vụ của mình cho người nghèo và thiếu thốn. Ở cuối tập 121 khi xem nhạc kịch vs jin-hee, ông quyết định nghỉ cái công việc mà ông cho là nhàm chán của mình để viết tiểu thuyết(bộ phim này).
Cốt truyện của bộ phim.
Giống như hai phần trước, bộ phim không phải là sự tiếp nối. Nội dung phim không liên quan tới hai phần trước.
Câu chuyện được kể bởi Lee Juck. Đó là vào năm 2011 và ông đã phát hành một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất được gọi là "High kick!: Sự trả thù của đôi chân ngắn". Cuốn sách kể về câu chuyện giữa hai gia đình nhà Ahn Nae Sang và Kim Ji Won.
Bộ phim bắt đầu khi đối tác kinh doanh của Nae Sang đã quỵt tiền của ông và chạy khỏi đất nước. Và chủ nợ của ông đã đến công ty của ông đòi số tiền đó, ông đã chạy trốn và tìm vợ con của mình (vợ ông đang ở một tiệm mát xa, con trai của ông đang thi đấu khúc côn cầu trên sân băng và con gái của ông vừa mới về nước từ Los Angeles). Chỉ trong một đêm, gia đình Ahn đã rơi từ thiên đường xuống địa ngục khi công ty phá sản.
Khi không tìm được chỗ nào để gia đình sống và trở thành người vô gia cư thì Yoon Yoo Sun đã gọi em trai của mình là Yoon Kye Sang cho gia đình của cô Yoon Yoo Sun sống tạm ở nhà em trai.
Phát sóng.
Tại Singapore.
Kênh U: phim bắt đầu phát sóng vào lúc 5 giờ chiều, tức 16 giờ tại Việt Nam từ thứ hai đến thứ sáu từ 6/8/2012.
Gói Dip Family StarHub TV bán bộ phim này với giá 45 đô la từ 7/1/2013, không bao gồm tiếng Trung, Anh và Mã Lai.
Phiên bản Việt Nam.
Phim được Dien Quan Media mua bản quyền kịch bản để Việt hóa và bắt đầu phát sóng trên kênh HTV7 lúc 19h55 từ thứ 2 đến thứ 5 từ ngày 18 tháng 5 năm 2020. Tuy nhiên, khác với hai phần trước, ở phần này nội dung phim được làm mới hoàn toàn, không liên quan đến phiên bản gốc của Hàn Quốc. | 1 | null |
William Gilbert còn được gọi là Gilberd (sinh ngày 24 tháng 5 năm 1544 - mất 30 tháng 11 năm 1603) là nhà vật lý học, bác sĩ và triết học tự nhiên người Anh. Ông được xem là cha đẻ của kỹ thuật điện, điện và từ tính.
Ông là một trong những nhà khoa học lớn của Anh cũng như của châu Âu thời kỳ Phục hưng. Ông là người cách tân quan trọng trong lịch sử điện từ học. Tác phẩm chứng minh rõ nhất điều đó chính là tác phẩm "Luận về nam châm, các vật từ và về nam châm khổng lồ là Trái Đất". Tác phẩm được xuất bản vào năm 1600. Trong tác phẩm này, Gilbert đã tổng hợp những hiểu biết của con người về điện và từ từ thời nguyên thủy đến thời kỳ Phục hưng. Đồng thời, ông cũng trình bày những thí nghiệm để chứng tỏ những ý kiến của mình như việc Trái Đất là một nam châm khổng lồ. Tác phẩm lớn nhất của ông đã mở đầu cho một thời kỳ mới của lịch sử điện từ học. Từ đây, con người có thể tìm hiểu và khai thác một trong những nguồn năng lượng ưu việt nhất, quan trọng nhất, điện. Tuy vậy, người ta nhắc rất ít về Gilbert và ông trở thành nhà khoa học bị lãng quên. | 1 | null |
English Vinglish (tựa tiếng Việt: "Tiếng Anh là chuyện nhỏ") là bộ phim hài, tâm lý xã hội Ấn Độ phát hành năm 2012, phim được viết và đạo diễn bởi Gauri Shinde. Cốt truyện phim xoay quanh một bà nội trợ, người ghi danh vào một khóa học nói tiếng Anh để vượt qua những mặc cảm từ chồng và đứa con gái, và làm tăng lòng tự trọng của mình trong quá trình này. Nhân vật chính, do Sridevi thủ vai, được lấy cảm hứng từ câu chuyện "Mẹ Shinde". "English Vinglish" ban đầu được thực hiện bằng tiếng Hin-di và phát hành cùng với phiên bản lồng trong tiếng Tamil và Telugu vào ngày 05 tháng 10 năm 2012. Bộ phim đánh dấu sự trở lại Sridevi sau một thời gian vắng bóng (15 năm) trên màn ảnh, và các vai diễn người Pháp Mehdi Nebbou, Adil Hussain, và Priya Anand. Amitabh Bachchan và Ajith Kumar xuất hiện trong vai trò khách mời trong Tiếng Hindi và phiên bản Tiếng Tamil tương ứng.
Trước khi quảng bá phim chính thức, "English Vinglish" đã được công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế năm 2012 tại Toronto, trong đó vai diễn của Sridevi nhận được phản ứng tích cực. Trước khi phát hành, bộ phim đã được trình chiếu cho báo chí và các nhà phê bình Ấn Độ, một trong những buổi ra mắt lớn nhất trong năm. Nó nhận được lời khen ngợi và một số nhà phê bình ca ngợi nó như là một "phim phải xem". Một thời gian ngắn sau khi phát hành, bộ phim được công nhận là phim "bom tấn" ở Ấn Độ và cả ở nước ngoài.
Nội dung.
Shashi Godbole (Sridevi) là một bà nội trợ, cũng tự làm và bán bánh laddu được rất nhiều người ưa thích. Chồng cô, Satish (Adil Hussain) và con gái, Sapna (Navika Kotia), người thường chế nhạo và đối xử thiếu tôn trọng với vốn tiếng Anh yếu kém của cô. Điều này có tác động sâu vào những cảm xúc của Shashi và làm cho cô ấy cảm thấy không hạnh phúc. Tuy nhiên, con trai cô Sagar (Shivansh Kotia) rất yêu mẹ, và mẹ chồng (Sulabha Deshpande) vẫn thường an ủi cô về chuyện này.
Chị của Shashi, Manu (Sujatha Kumar), hiện đang sống ở New York, mời gia đình Shashi dự đám cưới con gái Meera (Neeju Sodhi) với Kevin (Ross Nathan). Thư mời quyết định rằng Shashi sẽ đi một mình đến New York để giúp Manu tổ chức đám cưới. Chồng và các con của cô sẽ đến sau, Shashi được đưa ra lời khuyên truyền cảm hứng bởi một đồng hành khách (Amitabh Bachchan). Trong khi Shashi sống ở New York, cô đã trải qua một "kinh nghiệm đau thương" tại một quán cà phê địa phương do mình không có khả năng giao tiếp. Cô bí mật ghi danh vào một lớp học tiếng Anh đàm thoại cấp tốc để học trong bốn tuần, quyết định sáng suốt của cô khi đến một thành phố xa lạ một mình. Các lớp học bao gồm: David Fischer, người hướng dẫn (Cory Hibbs); Eva, một vú em người México (Ruth Aguilar); Salman Khan, một tài xế taxi người Pakistan (Sumeet Vyas); Yu Son, một nhà tạo mẫu tóc Trung Quốc (Angela Romano); Ramamurthy, một kỹ sư phần mềm người Tamil (Rajeev Ravindranathan); Udumbke, một người đàn ông trẻ Caribe da đen nhút nhát (Damian Thompson) và Laurent, một đầu bếp người Pháp nói nhỏ nhẹ (Mehdi Nebbou). Shashi nhanh chóng nổi lên như là một học viên đầy hứa hẹn, có được sự tôn trọng của mọi người với sự giao tiếp hoạt bát và món bánh của cô. Điều này làm cho Shashi trở nên tự tin hơn. Laurent bị Shashi thu hút, gây một số áp lực cho Shashi.
Trong khi đó, cháu gái của Shashi (và em gái của Meera) Radha (Priya Anand) phát hiện bí mật về khóa học tiếng Anh của Shashi và ủng hộ cô kết thúc khóa học. Shashi bắt đầu xem phim tiếng Anh vào ban đêm và làm bài tập về nhà một cách cần mẫn. Để hoàn thành khóa học tiếng Anh và để có một giấy chứng nhận, mỗi học sinh phải làm bài viết và có bài văn nói trong 5 phút. Gia đình của Shashi đến New York tham dự đám cưới sớm hơn dự kiến. Shashi cố gắng để tiếp tục tham dự khóa học, nhưng quyết định bỏ do lịch học trùng với công việc tổ chức đám cưới, và nhờ Radha xin phép David Fischer. Ngày thi cũng trùng với ngày cưới, và cô buộc phải bỏ thi trong sự tiếc nuối.
Radha mời giáo viên tiếng Anh của mình và toàn bộ lớp học đến dự đám cưới, nơi mà chồng Satish Shashi ngạc nhiên được giới thiệu một nhóm người đa sắc tộc, bạn của vợ mình. Shashi nâng ly chúc mừng đám cưới và phát biểu cảm tưởng (bằng tiếng Anh) đến cặp vợ chồng mới, và làm choáng tất cả những người biết cô ấy như một "điển hình bà nội trợ Ấn Độ bảo thủ". Trong bài phát biểu của mình, Shashi nói lên giá trị của việc lập gia đình và giữ gìn hạnh phúc, mô tả các gia đình có một không gian an toàn của tình yêu và sự tôn trọng, không nên đem điểm yếu của đôi bên ra chế giễu. Hai cha con Godbole hối tiếc những đối xử thiếu tôn trọng với cô suốt thời gian qua. Kết thúc bài phát biểu, mọi người vỗ tay tán thưởng, thầy giáo David tuyên bố rằng cô đã vượt qua kỳ thi hạng ưu và trao giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa học đã chuẩn bị sẵn cho cô. Shashi cảm ơn Laurent đã "làm cho cô cảm thấy tự tin hơn về bản thân mình". Bộ phim kết thúc trong cảnh gia đình của Shashi trở về Ấn Độ. Trên chuyến bay, Shashi giải thích tiếng Anh thông thạo khi các tiếp viên hàng không có yêu cầu giải nghĩa tờ báo tiếng Hindi.
Sản xuất.
Phát triển kịch bản.
Nội dung truyện phim được lấy cảm hứng từ mẹ của đạo diễn Shinde, một người phụ nữ nói tiếng Marathi người điều hành kinh doanh dưa tại nhà của cô ở Pune. Mẹ cô không thông thạo tiếng Anh, và thường mặc cảm với Shinde lúc còn nhỏ. Trong một cuộc phỏng vấn, Shinde nói: "Tôi làm bộ phim này để nói lời xin lỗi với mẹ tôi". | 1 | null |
Giải bóng đá hạng Nhất Quốc gia - Eximbank 2013, tên viết tắt là HNQG - Eximbank 2013(Tên tiếng Anh: Eximbank First Division - 2013, viết tắt là V.League 2 vì theo tên nhà tài trợ) là mùa giải thứ 13 cấp câu lạc bộ cao thứ 2 trong hệ thống các giải bóng đá Việt Nam (sau giải V.League 1), đã diễn ra từ ngày 9 tháng 3 đến ngày 6 tháng 7 năm 2013.
Thay đổi trước mùa giải.
Danh sách các đội bóng có sự thay đổi so với năm 2012
Tới V.League 2.
Xuống hạng từ V.League 1 2012
Thăng hạng từ Giải hạng nhì 2012
Rời V.League 2.
Thăng hạng lên V.league 1 2013
Xuống hạng Giải hạng nhì 2013
Bỏ giải
Kết quả các trận đấu.
| 1 | null |
Tiếng Anh là chuyện nhỏ (tên gốc tiếng Hàn: "아이 캔 스피크", còn được biết đến với tên tiếng Anh: I Can Speak) là bộ phim năm 2017 của đạo diễn Kim Hyun-seok, với sự tham gia của Na Moon-hee và Lee Je-hoon. Bộ phim đã được phát hành vào ngày 21 tháng 9 năm 2017.
Nội dung.
Một phụ nữ lớn tuổi (do Na Moon-hee thủ vai) liên tục tố cáo với văn phòng địa phương về những sai trái mà bà nhìn thấy quanh mình mỗi ngày. Trong phim, bà xây dựng tình bạn với một sĩ quan phục vụ công chức cơ sở (Lee Je-hoon), người bắt đầu dạy tiếng Anh cho bà. Là giáo viên của người phụ nữ lớn tuổi, anh dần nhận ra lý do chính đáng tại sao bà cần học tiếng Anh và rồi ủng hộ một cách nghiêm túc.
Phát hành.
"Tiếng Anh là chuyện nhỏ" được phát hành tại Hàn Quốc vào ngày 21 tháng 9 năm 2017. Trong tuần đầu khai mạc, nó đã đứng đầu doanh thu phòng vé ở địa phương, thu về 5,2 triệu đô la Mỹ từ 727,000 vé nhập cảnh trong 4 ngày. Đến ngày 29 tháng 9 năm 2017, bộ phim đã vượt qua con số 1 triệu người xem và thu về tổng cộng 8,1 triệu đô la bán vé.
Trong dịp cuối tuần lễ Chuseok Hàn Quốc, bộ phim thu hút 462.939 lượt người xem, tăng tổng số vé bán ra lên 2.86 triệu.
Theo Hội đồng phim Hàn Quốc, chỉ trong 20 ngày kể từ khi phát hành, "Tiếng Anh là chuyện nhỏ" đã thu hút được 3 triệu người xem. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.