text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Trong mạng máy tính, Giao thức truyền vận điều khiển dòng (tiếng Anh: Stream Control Transmission Protocol hay viết tắt SCTP) là một giao thức truyền thông ở tầng giao vận (số cổng 132), có vai trò tương tự giống hai giao thức phổ biến đó là TCP và UDP. Giao thức này cung cấp một số tính năng dịch vụ giống hai giao thức TCP và UDP: đó là một thông điệp định hướng như UDP và đảm bảo tin cậy, trong chuỗi truyền tải các thông điệp với sự điều khiển tắc nghẽn giống TCP.
Giao thức được định nghĩa bởi nhóm làm việc về Vận chuyển Tín hiệu IETF (SIGTRAN) vào năm 2000, và được duy trì bởi nhóm làm việc Lĩnh vực Vận chuyển IETF (TSVWG). RFC 4960 định nghĩa giao thức này. RFC 3286 cung cấp một số thông tin giới thiệu về giao thức SCTP.
Nếu việc thiếu hỗ trợ giao thức SCTP sẵn có ở các hệ điều hành, người ta có thể dùng giao thức đường hầm cho SCTP thông qua UDP, cũng như ánh xạ các cuộc gọi từ TCP API tới SCTP.
Bảo mật.
Mặc dù mã hóa không phải là một phần của thiết kế ban đầu SCTP SCTP được thiết kế với các tính năng để cải thiện bảo mật, chẳng hạn như bắt tay 4 chiều để bảo vệ chống lại các cuộc tấn công lũ lụt và "cookie" lớn để xác minh tính liên kết và tính xác thực. Độ tin cậy cũng là một khía cạnh quan trọng của thiết kế bảo mật SCTP. Multihoming cho phép một hiệp hội duy trì mở ngay cả khi một số tuyến đường và giao diện không hoạt động. Điều này đặc biệt quan trọng đối với SIGTRAN, vì nó vận chuyển SS7 qua mạng IP bằng SCTP và yêu cầu khả năng phục hồi mạnh mẽ trong thời gian ngắt liên kết để duy trì dịch vụ viễn thông, ngay cả khi chúng đang hỗ trợ các bất thường trong mạng. SCTP đôi khi là một ứng cử viên dấu vân tay tốt. Một số hệ điều hành cho phép hỗ trợ SCTP theo mặc định và do không được biết đến như TCP hoặc UDP, đôi khi nó bị bỏ qua trong các cấu hình phát hiện xâm nhập và tường lửa, thường cho phép bỏ phiếu lưu lượng. | 1 | null |
Peter Debye ForMemRS(tên đầy đủ: Peter Joseph William Debye (tiếng Hà Lan: Petrus Josephus Wilhelmus Debije); sinh ngày 24 tháng 3 năm 1884 - mất ngày 2 tháng 11 năm 1966 là nhà hóa học, vật lý và đoạt Giải Nobel hóa học người Hà Lan. Ông là viện sĩ của Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Khoa học. Ông là đoạt Giải Nobel Hóa học năm 1936. Công trình khoa học giúp ông đoạt giải thưởng nổi tiếng này là nghiên cứu về momen lưỡng cực, sự khuếch tán của tia X và điện tử các chất khí. Ngoài ra, ông còn có những nghiên cứu về photon. Năm 1910, Peter Debye suy luận ra định luật Planck cho bức xạ vật đen từ một giả thiết tương đối đơn giản. Ông đã đúng khi phân tách trường điện từ trong một hốc thành những mode Fourier, và giả sử rằng năng lượng trong một mode bất kỳ là bội nguyên lần của formula_1, với formula_2 là tần số của mode điện từ. Định luật Planck cho bức xạ vật đen trở thành tổng hình học của các mode này. Tuy vậy, cách tiếp cận của Debye đã không suy luận ra được công thức đúng cho thăng giáng năng lượng của bức xạ vật đen, mà Einstein đã thu được từ năm 1909. Để tưởng nhớ tới ông, Giải Peter Debye đã được lập ra.
Tiểu sử.
Thời thơ ấu.
Peter Debye tên thật là Petrus Josephus Wilhelmus Debije và sinh tại Maastricht, Hà Lan. Ông đăng ký vào Đại học RWTH Aachen năm 1901. Năm 1905, ông có được tấm bằng đầu tiên với chuyên ngành kỹ thuật điện. Ông xuất bản bài báo đầu tiên của mình viết về một giải pháp toán học cho vấn đề liên quan đến dòng điện Foucault vào năm 1907. Tại Aachen, ông theo học nhà vật lý lý thuyết Arnold Sommerfeld, người mà sau này tuyên bố rằng khám phá quan trọng nhất của ông là Peter Debye.
Năm 1906, Sommerfeld nhận được một cuộc hẹn tại Munich, Bavaria, và đưa Debye đi cùng với tư cách là trợ lý của ông. Debye lấy bằng Tiến sĩ với luận án viết về vấn đề áp suất bức xạ vào năm 1908. Năm 1910, ông suy ra công thức định luật Planck bằng một phương pháp mà Max Planck cũng phải đồng ý rằng nó đơn giản hơn của công thức của chính ông.
Năm 1911, khi Albert Einstein được bổ nhiệm làm giáo sư tại Praha, Bohemia, Debye đã nhận chức giáo sư cũ của mình tại Đại học Zurich, Thụy Sĩ. Ông sau đó chuyển đến đại học Utrecht năm 1912, đại học Göttingen năm 1913, đại học ETH Zurich năm 1920, đại học Leipzig năm 1927, và đại học Humboldt Berlin năm 1934 để kế nhiệm Einstein trở thành giám đốc của Hiệp hội Kaiser Wilhelm (bây giờ được đặt tên là Hiệp hội Max-Planck). Cũng trong thời gian này, các cơ sở vật chất tại Hiệp hội mới được cho xây dựng hoàn chỉnh. Ông được trao tặng Huân chương Lorentz vào năm 1935. Từ năm 1937 đến năm 1939, ông là chủ tịch của Hiệp hội Vật lý Đức (Deutsche Physikalische Gesellschaft).
Vào tháng 5 năm 1914, ông trở thành thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoàng gia Hà Lan, và vào tháng 12 cùng năm, ông được chuyển thành thành viên nước ngoài của Viện này.
Gia đình và đời sống.
Debye được mô tả như một người có tính kỷ luật khi nói đến các nguyên tắc khoa học, nhưng luôn dễ gần và sẵn sàng dành thời gian cho học sinh của mình. Triết lý cá nhân của ông nhấn mạnh đến việc hoàn thành mục tiêu và sự thích thú trong công việc. Ngoài ra, Debye còn là một người đánh cá và làm vườn nhiệt huyết, một người sưu tầm xương rồng, và "luôn được biết đến là người thưởng thức một điếu xì gà ngon".
Khi ở Berlin với tư cách là trợ lý cho Arnold Sommerfeld, Debye đã làm quen với Mathilde Alberer. Mathilde là con gái của chủ khu nhà trọ mà Debye đang ở, và hai người kết hôn năm 1913. Debye rất thích làm việc trong vườn hồng của mình với Mathilde Albere vào những năm cuối đời. Họ có một con trai, Peter P. Debye (1916-2012) và một con gái, Mathilde Maria (sinh năm 1921). Peter sau này trở thành nhà vật lý học và cộng tác với Debye trong một số nghiên cứu của mình, và có một người con trai cũng là nhà hóa học.
Debye là một người Công giáo trung thành, và ông luôn cố gắng thuyết phục mọi người trong gia đình đến nhà thờ. | 1 | null |
Lavoslav (Leopold) Ružička (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1887 - mất ngày 26 tháng 9 năm 1976) là nhà hóa học người Thụy Sĩ gốc Croatia. Ông đoạt Giải Nobel Hóa học năm 1939 cung với Adolf Butenandt nhờ những nghiên cứu về steroid giới tính, polymethylene và terpene bậc cao. Với điều này, ông trở thành nhà hóa học đầu tiên gốc Croatia nhận giải thưởng nổi tiếng của thế giới. | 1 | null |
Rapunzel là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ phim hoạt hình thứ 50 của Walt Disney Pictures, "Người đẹp tóc mây" (2010). Được lồng tiếng bởi nữ diễn viên kiêm ca sĩ người Mỹ Mandy Moore, Rapunzel là một nàng công chúa trẻ tuổi với mái tóc vàng rất dài và có phép thuật, bị đánh cắp khỏi vua và hoàng hậu từ khi còn rất nhỏ và không hề hay biết về thân phận hoàng gia của mình bởi một người phụ nữ ích kỉ tên là mẹ Gothel, người đã nuôi dưỡng cô trong một tòa tháp hẻo lánh và lợi dụng khả năng chữa lành mọi vết thương từ mái tóc của nàng để làm cho bà trẻ mãi.
Được sáng tạo và thiết kế bởi họa sĩ giám sát Glen Keane, Rapunzel được dựa trên nhân vật chính của câu chuyện cổ tích cùng tên của anh em nhà Grimm.
Sự đón nhận của giới phê bình đối với Rapunzel là tích cực, với các nhà phê bình khen ngợi sự hồn nhiên thoải mái, tự lập và tính cách hiện đại của nàng. Rapunzel chính thức trở thành một nàng công chúa Disney vào ngày 2 tháng 10 năm 2011, trở thành nhân vật thứ 10 của thương hiệu độc quyền này và là nhân vật đầu tiên được sáng tạo bằng máy tính và là công chúa châu Âu đầu tiên sau 20 năm, trước đó là Belle trong "Người đẹp và quái vật" (1991). Ngoại hình và tính cách của cô đã tạo ra nhiều sự so sánh giữa cô và một trong những Công chúa Disney trước đó là Ariel trong "Nàng tiên cá" (1989).
Quá trình phát triển.
Nguồn gốc và các bản phác thảo.
Trong khi đang làm công việc của một họa sĩ giám sát cho bộ phim "Tarzan" vào năm 1996, họa sĩ hoạt hình lâu năm của Disney là Glen Keane quyết định sẽ chuyển thể câu chuyện cổ tích "Rapunzel" của anh em nhà Grimm thành một bộ phim hoạt hình. Keane, người bắt đầu phát triển bộ phim với mục đích duy nhất là được đưa Rapunzel vào với phim hoạt hình, đã bị thu hút đến với dự án bởi ông vô cùng thích thú với bản phác thảo về "một con người sinh ra với một món quà từ trong sâu thẳm của nàng và nó cần phải được hé mở", ví việc này với toàn bộ quá trình trải nghiệm của ông khi làm việc với Walt Disney Animation Studios. Keane tự cho rằng mình là "một kiểu đạo diễn khác" bởi "[ông] thực sự quan tâm đến trái tim của nhân vật mình thực hiện trước... rồi sau đó mới bắt đầu phát triển cốt truyện." Sau một cơn đau tim vào năm 2008, Keane quyết định tốt nhất ông nên rời khỏi vị trí hiện tại của mình, đề cử Nathan Greno và Byron Howard thay thế cho ông. Tuy nhiên, ông vẫn tham gia dự án với vai trò giám đốc sản xuất và là họa sĩ giám sát của nhân vật Rapunzel.
Walt Disney đã tìm cách chuyển thể truyện "Rapunzel" thành một bộ phim hoạt hình không lâu sau khi hãng phim ra mắt "Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn" (1937). Dự án cuối cùng bị bỏ dở bởi cốt truyện tỏ ra là "một hạt dẻ khó cắn vỏ". Keane tin rằng việc câu chuyện cổ tích diễn ra quá nhiều trong một toà tháp có thể đã góp phần vào sự khó khăn khi thực hiện bộ phim. "Cho nên, tôi nghĩ, thật tuyệt vời khi thấy những gì Byron và Nathan đã làm – đưa nàng Rapunzel ra khỏi toà tháp... mang đến một hương vị thực sự mới mẻ cho câu chuyện cổ." Bộ phim ban đầu được đặt tên là "Rapunzel Unbraided", được Keane miêu tả là "một phiên bản phim tương tự như Shrek", và nhấn mạnh vào một cốt truyện hoàn toàn khác. Keane nói về phiên bản đầu tiên, "Đó là một phiên bản thú vị, tuyệt vời, dí dỏm và chúng tôi đã có những nhà viết kịch bản rất giỏi. Nhưng từ trong tận trái tim mình tôi vẫn tin rằng câu chuyện cần có thêm một chút chân thành và chân thực nữa, vậy nên chúng tôi đã đặt nó sang một bên và quay về với cốt truyện ban đầu của câu chuyện cổ tích."
Trong vai trò đạo diễn, Greno và Howard muốn đảm bảo rằng Rapunzel thể hiện hình ảnh một cô gái ít "thụ động" hơn trong truyện cổ tích. "Chúng tôi biết chúng tôi đang làm phim cho một thế hệ khán giả hiện đại và chúng tôi muốn Rapunzel trở thành một mẫu nhân vật hiện thực theo một cách nào đó. Chúng tôi muốn sức mạnh của cô gái này sẽ chèo lái cốt truyện, để cô không phải chờ đợi điều gì đến cả… cô ấy là một cô gái thông minh, cô có những hi vọng và ước mơ như thế và cô sẽ biến tất cả chúng thành hiện thực."
Lồng tiếng.
Ban đầu, nữ diễn viên và ca sĩ của nhà hát Broadway Kristin Chenoweth được chọn lồng tiếng cho nhân vật Rapunzel. Vào một thời điểm khác, các đạo diễn lại chọn nữ diễn viên Reese Witherspoon. Tuy nhiên, cuối cùng cô đã từ bỏ dự án, với lý do rằng quan điểm sáng tạo của cô khác với của các nhà làm phim. Sau cùng, họ đã chọn ca sĩ và diễn viên Mandy Moore cho vai này bởi, theo lý giải của đồng đạo diễn Byron Howard, cô "truyền tải được một tâm hồn tuyệt vời qua giọng nói" cũng như "có một giọng nói truyền cảm, đáng yêu và thực tế có thể biến cô trở thành một người đáp ứng được tất cả những gì bạn có thể mong chờ ở một nữ nhân vật chính của Disney." Nữ diễn viên nhỏ tuổi Delaney Rose Stein sau đó đã được chọn lồng tiếng cho nhân vật Rapunzel hồi nhỏ.
Moore "lớn lên trong niềm yêu thích những bộ phim của Disney", cô miêu tả như vậy về cơ hội được tham gia trong "bộ phim kịch tích và hoành tráng nhất" này. Ban đầu cô không có nhiều hi vọng trong buổi thử giọng cho phim "Tangled" bởi cô nghĩ rằng sẽ có một sự cạnh tranh lớn, và sợ rằng một buổi thử giọng thất bại sẽ chỉ mang lại sự thất vọng mà thôi. Tới khi quyết định sẽ tham gia buổi diễn thử, Moore được cho biết đã "theo đuổi" vai diễn nàng Rapunzel, thử giọng tới hai lần. Bởi đây là một bộ phim nhạc kịch đòi hỏi diễn viên phải thể hiện cả giọng nói và hát của nhân vật, các ứng viên đều được yêu cầu thể hiện một bài hát tuỳ thích. Theo lời chỉ dẫn phải hát một bài hát theo phong cách của một nghệ sĩ vừa sáng tác vừa biểu diễn, Moore, một ca sĩ chuyên nghiệp, thể hiện ca khúc "Help Me" của nhạc sĩ kiêm ca sĩ Joni Mitchell, một bài hát mà chính cô cũng đã hát lại trong album phòng thu thứ tư của mình, "Coverage" (2003).
Khi tham gia lồng tiếng cho "Tangled", Moore ban đầu không biết rằng bộ phim sẽ là bộ phim hoạt hình thứ 50 của Walt Disney Animation Studios. Sau đó cô cho rằng việc mình không biết về điều này là nên và giải thích rằng "Tôi thấy may mắn vì có thể tôi sẽ bị thêm một chút áp lực nếu tôi biết điều này khi đang trong quá trình thu âm." Moore cũng ngạc nhiên khi biết rằng phần lớn các đoạn đối thoại của cô sẽ thu âm mà không có mặt các diễn viên lồng tiếng chính khác là Zachary Levi và Donna Murphy, những người lồng tiếng cho các nhân vật Flynn Rider và Mẹ Gothel riêng biệt. Cô chỉ gặp Levi có một lần để thu âm bài hát "I See the Light", một bài hát giữa Rapunzel và Flynn. Moore miêu tả quá trình thu âm khá là thử thách bởi cô không có nhiều hình ảnh trực quan bên mình lắm. Cô chia sẻ trong một buổi phỏng vấn với tạp chí "NOW" rằng, "Tất cả những thứ tôi làm việc cùng chỉ là vài bản vẽ phác đơn giản... nhưng cũng rất thú vị bởi điều này cho phép bạn bước vào chiều sâu của trí tưởng tượng." Cô cũng nói rằng, để thu âm giọng nói của Rapunzel, cô chỉ đơn giản "buông thả" mọi thứ mà thôi. Moore thường được yêu cầu thu âm lại một câu tối đa bốn lần trước khi các đạo diễn hoàn toàn hài lòng với nó. Sau khi xem lại phim hoàn chỉnh lần đầu tiên, Moore tỏ ra hơi thất vọng với phần thể hiện của mình bởi cô nghĩ rằng giọng cô nghe hơi chói.
Quá trình thiết kế và các đặc điểm.
Glen Keane làm việc với vai trò họa sĩ giám sát cho nhân vật Rapunzel. Ông thiết kế nhân vật này dưới sự cố vấn của họa sĩ Disney đã về hưu Ollie Johnston, một trong những thành viên của nhóm Chín ông già của Disney. Sau khi cho Johnson xem một trong số những bản vẽ thử bằng bút chì đầu tiên của nhân vật Rapunzel, Johnston khuyên Keane cố gắng nắm bắt và thể hiện sự chuyển động của cô ấy, cô ấy đang nghĩ gì, thay vì chỉ đơn thuần tập trung vào việc diễn tả, cô ấy đang làm gì. Johnson nói rằng, "điều tôi đang tự hỏi là: Cô ấy đang "nghĩ" gì? " Trong một buổi phỏng vấn của Animation World Network, Keane ví lời khuyên này với việc nhận được "một cú hích mà tôi sẽ không bao giờ quên, từ đó khi tôi vẽ lại cảnh người khác làm việc, tôi luôn cố tự nhắc mình rằng nhân vật đó đang suy nghĩ điều gì ".
Cá nhân đồng đạo diễn Byron Howard lại lấy cảm hứng từ vẻ bề ngoài của Ariel trong phim "Nàng tiên cá" (1989), một nhân vật cũng được chính Keane vẽ. Howard nói với "Hollywood News" rằng, "Ariel là nhân vật đầu tiên tôi từng nghĩ rằng có một tâm hồn ẩn sau đôi mắt kia... Chúng tôi hi vọng cũng có thể làm điều đó với Rapunzel, tìm ra một thứ tâm hồn và chiều sâu để mọi người có thể liên hệ ". Trong khi đó, mục tiêu của Keane là "mang những bức vẽ tay truyền thống vào máy tính." Trong khi thiết kế Rapunzel, Keane chịu ảnh hưởng từ một cuốn sách hướng dẫn người đọc về "nét đẹp nữ giới". Cuốn sách giải thích rằng, "chìa khoá của vẻ đẹp nằm ở sự khác lạ trên khuôn mặt người phụ nữ." Quan tâm tới điều này, Keane vẽ Rapunzel với một chút không cân đối trong suy nghĩ, kết hợp vào vẻ bề ngoài của nàng phảng phất một chút thiếu sót, đặc biệt là ở hàm răng có vẻ như "không hoàn hảo lắm"; Rapunzel được vẽ với hàm răng khểnh một cách có chủ ý. Cô ấy cũng được vẽ với một số vết tàn nhang trên mặt. Thông qua đôi mắt to, Keane muốn truyền tải tính cách "không chịu khuất phục" của Rapunzel. Ông phát hiện ra một điểm tương tự như vậy trong giọng nói của Mandy Moore, và lấy cô làm nguồn cảm hứng. Các họa sĩ thiết kế tới chín phiên bản khác nhau của nàng Rapunzel trước khi chọn một mẫu mà họ ưng ý nhất.
Tính cách và nguồn cảm hứng cho nhân vật.
Giám đốc sản xuất John Lasseter giải thích với tờ "The New York Times", "Thử thách nằm ở chỗ bạn muốn tạo cảm giác Rapunzel là một người thông minh, sắc sảo, hiểu biết, khoẻ mạnh, vui vẻ và ngộ nghĩnh — một người chưa từng rời khỏi toà tháp trong suốt 18 năm ". Để tránh tạo ra một nữ nhân vật chính "có vẻ công chúa và xa rời thực tế, các nhà viết kịch bản có một chút xây dựng tính cách của Rapunzel dựa trên một số nhân vật nổi tiếng là nữ. Nữ diễn viên Reese Witherspoon và Natalie Portman là một nguồn cảm hứng, cùng với diễn viên hài và là ngôi sao của "Saturday Night Live", Amy Poehler. Kết quả là một loạt những "phẩm chất không ngờ tới và rất đa dạng" được mong chờ sẽ "khơi dậy sự mong đợi về những gì một nàng công chúa nên có." "The New York Times" lưu ý rằng tính cách của nàng Rapunzel là một bước chuyển quan trọng so với các nữ nhân vật chính trước đây của Disney. Viết cho báo chí, Brooks Barnes nói rằng Rapunzel "rất cứng rắn và mạnh mẽ: cô đánh Flynn bằng một chiếc chảo rán khi anh ta tìm cách trèo lên toà tháp của cô và dùng mái tóc của mình như một chiếc roi vậy." Theo Mandy Moore, Rapunzel "không phải là… một công chúa Disney điển hình… cô ấy rất tự lập, cô ấy có thể tự lo cho bản thân mình. "
Keane được biết đến là người thường thiết kế các nhân vật hoạt hình dựa trên các thành viên trong gia đình mình. Trong khi vẻ bề ngoài của Ariel được thiết kế dựa trên vợ của Keane, thì niềm đam mê của Rapunzel với nghệ thuật và hội họa lấy từ con gái ông, Claire. Trong bộ phim, một số bức tranh của Claire đã được sử dụng để trang trí tường và trần toà tháp của Rapunzel. Trong khi Keane đang làm việc với "Tangled", Claire sinh con gái đầu lòng, đứa cháu đầu tiên của ông, Matisse, vẻ bề ngoài của đứa cháu đó đã được Keane sử dụng làm nguồn cảm hứng cho nhân vật Rapunzel hồi nhỏ xuất hiện ở đầu phim.
Mái tóc và công nghệ được sử dụng.
Rapunzel là nữ nhân vật chính với mái tóc vàng đầu tiên sau Aurora trong "Người đẹp ngủ trong rừng "(1959). Thiết kế và vẽ mái tóc của Rapunzel sử dụng công nghệ mô phỏng hình ảnh trên máy tính (Computer-generated imagery CGI) được đánh giá rộng rãi là phần khó nhất trong quá trình phát triển phim "Tangled". Theo báo "Los Angeles Times", họa sĩ giám sát Glen Keane trở nên nổi tiếng với việc thiết kế "những siêu phẩm lớn nhất về mái tóc" cho Walt Disney Animation Studios từ năm 1989, trong đó có Ariel trong phim "Nàng tiên cá", con quái vật trong "Người đẹp và quái vật (phim 1991)" (1991) và Pocahontas trong phim "Pocahontas" (1995). Cả Keane và Howard đều có những ý kiến giống nhau về mái tóc của Rapunzel, Keane miêu tả nó là "một lời nhắc nhở thường trực rằng cô ấy được ban cho món quà này", và Howard đùa rằng mái tóc thực ra cũng chính là một nhân vật đấy.
Kĩ sư thiết kế phần mềm trưởng, Tiến sĩ Kelly Ward, một chuyên gia mô phỏng tóc tốt nghiệp đại học Bắc Carolina, được giao nhiệm vụ phát triển một phần mềm đặc biệt nhằm giúp đỡ các họa sĩ hoạt hình hoá 70 feet (khoảng 21 mét) tóc. Ward cho biết, ngoài đời thực, mái tóc của nhân vật sẽ có khối lượng khoảng 60 pounds (khoảng 22 kg), "nặng hơn khối lượng một người bình thường có thể di chuyển thoải mái như cách chúng ta thực hiện với Rapunzel trong phim." Nhằm đơn giản hoá công việc, các họa sĩ hoạt hình giảm số lượng thực tế lên tới 100.000 sợi tóc riêng biệt thường thấy trên đầu một người bình thường xuống khoảng hơn 100 sợi dễ kiểm soát hơn cho Rapunzel. Xây dựng phần bóng cho mái tóc vàng vừa lạ mắt nhưng phải chân thực cho Rapunzel cũng là một thử thách khác với các họa sĩ.
Các sản phẩm tham gia.
"Người đẹp tóc mây" (Tangled) (2010).
Để được trẻ đẹp mãi mãi, một mụ già kiêu căng tên là Mẹ Gothel giữ riêng cho mình khả năng chữa lành mọi bệnh tật thần diệu của một bông hoa vàng có phép thuật. Khi hoàng hậu đang mang thai bị ốm, bông hoa được hái về và mang cho bà uống, khiến Gothel không còn được sử dụng nó nữa. Khi khoẻ mạnh trở lại, hoàng hậu sinh hạ được Rapunzel, một cô bé có mái tóc dài bằng vàng thừa hưởng từ bông hoa màu nhiệm. Hi vọng lấy lại được toàn bộ quyền sử dụng bông hoa, Gothel bắt cóc công chúa và giam cầm nàng tại một toà tháp hẻo lánh chỉ với mục đích duy nhất là lợi dụng mái tóc của nàng để được trẻ mãi. Mỗi năm vào ngày sinh nhật của Rapunzel, cả vương quốc Corona thả hàng nghìn chiếc đèn lồng lên trời để nhớ về nàng.
Mười tám năm sau, Rapunzel, không biết sự thật về thân phận một nàng công chúa của mình, háo hức được rời khỏi toà tháp và đi xem những "ánh sáng lơ lửng" mà nàng tin rằng chúng hẳn rất quan trọng với mình. Tuy nhiên, mẹ Gothel ngăn cản không cho nàng làm việc này, mà nàng lại được dạy rằng luôn phải tin và nghe lời mẹ. Khi một tên trộm bị truy nã tên là Flynn Rider, đang đi tìm một nơi ẩn nấp, tình cờ tìm thấy toà tháp của Rapunzel. Rapunzel đã lừa Gothel để nàng ở nhà không được trông nom, và đe doạ Flynn phải đưa nàng đi xem đèn lồng để đổi lấy việc nàng trả lại chiếc vương miện anh ta ăn cắp được ở lâu đài. Họ khởi hành, cùng đi với họ có một con tắc kè, bạn của Rapunzel, nhưng sau đó Gothel đã nhanh chóng theo sát họ.
Rapunzel và Flynn cuối cùng cũng đến được vương quốc đúng vào dịp lễ thả đèn lồng. Không lâu sau, Flynn bị phục kích và giao cho lính canh bởi đồng bọn trước đây của anh ta, anh em nhà Stabbington, những người đã bị anh bỏ lại để chạy trốn quân lính của nhà vua, và bị kết án tử hình. Tuy nhiên, trước khi hai anh em tên trộm làm hại Rapunzel, Gothel đánh chúng bất tỉnh và đưa nàng Rapunzel với trái tim đang đau đớn quay về toà tháp.
Về tới phòng ngủ của mình, Rapunzel đắm chìm trong những kỉ niệm quá khứ. Nhận ra rằng Gothel đã nói dối mình, nàng tìm mọi cách chống lại mụ ta. Tuy nhiên, Gothel, không muốn để mất Rapunzel, đã trói nàng lại một chỗ. Khi Flynn, đã trốn thoát được khỏi lâu đài, đến toà tháp, Gothel đã đâm anh. Trong lúc tuyệt vọng, Rapunzel hứa sẽ làm mọi điều để Gothel hài lòng nếu mụ để nàng cứu Flynn. Gothel đồng ý, nhưng ngay lúc Rapunzel chuẩn bị chữa lành vết thương cho anh, Flynn cắt mái tóc dài của nàng, khiến nó chuyển sang màu nâu và mất hết phép thuật, và dẫn đến cái chết của Gothel. Flynn ra đi trong vòng tay của Rapunzel và nàng đã khóc lóc thảm thiết. Tuy nhiên phép thuật của bông hoa đã có tác dụng qua nước mắt của Rapunzel và cứu sống Flynn. Flynn đưa Rapunzel trở lại lâu đài, nơi nàng cuối cùng cũng được đoàn tụ cùng bố mẹ.
"Người đẹp tóc mây - Hạnh phúc mãi mãi về sau" (Tangled Ever After) (2012).
Ở đoạn cuối phim "Tangled", Flynn Rider cuối cùng cũng đã chấp nhận cái tên khai sinh của mình, Eugene Fitzherbert, và tiết lộ anh đã cầu hôn Rapunzel, nhấn mạnh rằng một đám cưới sẽ sớm diễn ra. Trong tập phim ngắn 6 phút "Tangled Ever After", cả vương quốc đang chuẩn bị cho đám cưới của Rapunzel với Eugene. Một số vị khách đã có mặt, trong đó có bố mẹ Rapunzel là nhà vua và hoàng hậu, một số tên tội phạm ở quán ăn và anh em nhà Stabbington, trong khi những người bạn động vật của họ là Pascal, một con tắc kè và Maximus, một con ngựa, lần lượt làm công việc mang hoa và nhẫn đến. Vừa lúc nàng công chúa tóc nâu Rapunzel, được bố dẫn đi, bước qua hành lang tới chỗ Eugene, thì Maximus, đang mang nhẫn cưới trên một chiếc gối ngậm trong miệng, phản ứng lại với những cánh hoa của Pascal bay vào mũi và hắt hơi, làm rơi những chiếc nhẫn qua hành lang xuống đường.
Tìm mọi cách để lấy lại chúng, Pascal và Maximus nhẹ nhàng trốn ra khỏi nhà thờ trong lúc Rapunzel và Flynn đang nói lời thề với nhau. Sau khi đuổi theo chiếc nhẫn trong một cuộc chạy đua ồn ào và ầm ĩ, cuối cùng họ cũng lấy lại được chúng từ một bầy chim bồ câu đang bay, rồiđâm xuống một nhà máy nhựa đường. Pascal và Maximus trở lại nhà thờ vừa lúc vị Giám mục hỏi đến những chiếc nhẫn. Mặc dù bị sốc bởi bề ngoài phủ đầy nhựa đường của chúng, Rapunzel và Flynn vẫn đeo nhẫn cho nhau và trao một nụ hôn. Kiệt sức sau những nỗ lực vừa rồi, Maximus ngồi xuống, hích vào chiếc bánh cưới đang được đặt trên chiếc bàn có bánh xe, làm nó lao xuống dãy hành lang.
"Nữ hoàng băng giá - Frozen" (2013).
Rapunzel và Eugene có màn xuất hiện dưới vai diễn khách mời trong ngày đăng quang của Elsa. Rapunzel xuất hiện trước cổng lớn khi Anna chạy ra hát bài "For the First Time in Forever".
"Sofia the First: The Curse of Princess Ivy" (2014).
Được gọi bởi Bùa hộ mệnh của Avalor, Rapunzel đã giải cứu Công chúa Sofia và Công chúa Amber khỏi một kẽ hở bằng cách cho họ leo lên mái tóc vàng dài của cô. Bay trở lại Enchancia trên một trong những con rồng, cô ấy dạy Amber về hậu quả của những hành động của cô ấy đối với Sofia, dưới dạng một bài hát, "Risk It All" và đề cập đến Eugene. Sau đó, cô ấy cho Amber một lời khuyên cuối cùng: "Nếu em thực sự yêu em gái của mình, em sẽ biết phải làm gì khi thời gian đến" và biến mất trở lại Corona. Mandy Moore cũng thể hiện vai diễn của mình trong bộ phim.
Ấn phẩm liên quan.
Nàng công chúa Disney và các hàng hoá.
Rapunzel là thành viên thứ mười của nhóm "Những nàng công chúa Disney" một thương hiệu độc quyền chủ yếu hướng đến các bé gái với nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất các sản phẩm như đồ chơi, phim và âm nhạc, quần áo và trò chơi điện tử. The Walt Disney Company đưa các nhân vật vào loạt những nàng công chúa Disney của họ thông qua những lễ đăng quang. Lễ đăng quang của Rapunzel được tổ chức vào ngày 2 tháng 10 năm 2011 ở lâu đài Kensington tại London, Anh; trở thành công chúa đầu tiên của thương hiệu này được xây dựng trên máy tính. Tuy nhiên, thương hiệu này sử dụng phiên bản hoạt hình vẽ tay truyền thống của Rapunzel trên phần lớn các sản phẩm của họ. Tiếp sau lễ đăng quang, Rapunzel được công nhận với trang riêng của mình trên website chính thức của Những nàng công chúa Disney.
Disney Consumer Products đã cho ra mắt một số sản phẩm dựa trên phim "Tangled" có Rapunzel. Rapunzel xuất hiện với vai trò một nhân vật trong một trò chơi thám hiểm tương tác dựa trên bộ phim, với tên gọi "". Trò chơi được phát hành bởi Disney Interactive Studios vào ngày 23 tháng 11 năm 2010, một ngày trước khi bộ phim được ra mắt tại các rạp (24 tháng 11), dành riêng cho nền tảng trò chơi điện tử của Nintendo, Wii và DS, dựa theo cốt truyện của bộ phim gốc. Nữ diễn viên lồng tiếng Mandy Moore đảm nhận tiếp vai Rapunzel của mình trong trò chơi này. Nàng Rapunzel cũng được mô phỏng trong nhiều sản phẩm búp bê. Rapunzel là nhân vật đầu tiên được sáng tạo và ra mắt như một phần của bộ sưu tập Disney Animator's Collection, một series búp bê diễn tả lại mười một nàng công chúa Disney trong hình dạng những em bé. Sản phẩm được thiết kế bởi Glen Keane, người lam nhiệm vụ họa sĩ giám sát trong bộ phim gốc.
Walt Disney Parks and Resorts (các khu công viên và nghỉ dưỡng).
Rapunzel hiện đang có mặt tại một số điểm đến thu hút của một số công viên và khu nghỉ dưỡng Walt Disney Parks and Resorts. Cùng với sự ra mắt của bộ phim, nhiều điểm tham quan lấy cảm hứng từ "Tangled" đã được xây dựng và đang mở cửa tại một số địa điểm của Disney Park ở cả California và Florida, USA. Trong đó có cả một phiên bản kích cỡ thật của toà tháp của Rapunzel, đặt tại Fantasyland.
Là một phần của bộ ảnh Disney Dream Portrait Series của nhiếp ảnh gia Annie Leibovitz mà bà đang thực hiện cho Walt Disney Parks and Resorts từ năm 2007, The Walt Disney Company mời ca sĩ kiêm nhạc sĩ nhạc đồng quê người Mỹ Taylor Swift tham gia làm người mẫu cho nhân vật Rapunzel. Miêu tả chi tiết tác phẩm này, "Us Weekly" viết, "Bức ảnh tuyệt vời — được đặt tiêu đề 'Where a world of adventure awaits' (Nơi một thế giới phiêu lưu đang chờ đón) — thể hiện hình ảnh nữ ca sĩ giành giải Grammy 23 tuổi ngồi trên bờ cửa sổ của một toà lâu đài bằng đá rêu phong. Lớp váy lót màu hồng lấp ló bên dưới chiếc váy dài màu tím khi nàng ngước nhìn hồi lâu với vẻ bâng khuâng vào khoảng không, mái tóc vàng dài như của hoàng gia của nàng nhẹ bay trong gió. " Swift nói với tạp chí "On The Red Carpet" rằng cô rất vinh dự khi được chọn tham gia thực hiện tác phẩm này.
Phản hồi và nhận xét.
Nhận xét từ các nhà phê bình.
Rapunzel được đón nhận nồng nhiệt và đánh giá tích cực bởi phần lớn các nhà phê bình. Sara Vizcarrondo của tạp chí "Boxoffice" thích nhân vật này, miêu tả nàng là "một nữ nhân vật chính năng động có thể dễ dàng vượt qua tiêu chuẩn nghiêm ngặt của một nàng công chúa." Lisa Schwarzbaum của tạp chí "Entertainment Weekly" ca ngợi tính cách độc lập của nàng Rapunzel qua việc nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa hai nhân vật chính trong phim. Cô viết, "Thời của những câu chuyện cổ tích với các hoàng tử làm nhiệm vụ giải cứu công chúa đã qua. Thời của những chuyến phiêu lưu với những con người lanh lợi và sắc sảo đã bắt đầu." Tương tự như vậy, Stephen Whitty của tờ "The Star-Ledger" miêu tả nhân vật là "một cô gái trẻ thực sự có tài năng". Kenneth Turan của tờ "Los Angeles Times" viết rằng Rapunzel là "một cô gái trẻ rất hiện đại". Bruce Diones của báo "The New Yorker" thích Rapunzel bởi nàng "có trí thông minh sắc sảo và những mối quan tâm rất thông minh," và tránh "không trở thành một thiếu niên hay nói nhiều". Claudia Puig của báo "USA Today" viết, "Rapunzel đáng tin với vai thiếu niên của nàng" hơn bất kì nhân vật nữ chính của Disney trước đó. Miêu tả rằng nữ nhân vật đã mang lại "niềm vui thích" cho mình, Marjorie Baumgarten của tờ "The Austin Chronicle" viết, "Rapunzel là một cô gái gan dạ, có thể tự bảo vệ mình".
Cathy Jakicic của tờ "Milwaukee Journal Sentinel" gọi Rapunzel là một nhân vật nữ chính khá "luộm thuộm và tự lập" biết "tự giải thoát cho mình". Miêu tả nhân vật là một cô gái "ngây thơ nhưng (chắc chắn là) rất mạnh mẽ và quyết đoán, nhà báo Helen O'Hara của tạp chí "Empire" ca ngợi việc cả Rapunzel và Flynn đều là các nhân vật được "phát triển rất hay và hợp lý" và "tình yêu nảy nở giữa họ có nền tảng vững chắc hơn là chỉ một cái nhìn ao ước thoáng qua." Tương tự, tờ "Mountain Xpress" ca ngợi mối quan hệ và tình yêu của Rapunzel và Flynn, viết rằng, "điều tuyệt vời nhất đó là sự tương tác của hai nhân vật chính với nhau... nói thật là hai nhân vật hoạt hình này có vẻ thật và lôi cuốn hơn cả một số phim người đóng." Peter Travers của tạp chí "Rolling Stone" thì lại rất ấn tượng với mối quan hệ giữa Rapunzel và mẹ Gothel, viết rằng, "việc Rapunzel trưởng thành và bước ra khỏi sự che chở và cái bóng của người mẹ yêu thương nhất đã thật sự cuốn hút tôi."
Là nhân vật thứ mười trong hàng những nàng công chúa Disney, một số nhà phê bình đã có những so sánh tích cực giữa Rapunzel và các công chúa Disney trước đó, đáng chú ý nhất là với Ariel trong "Nàng tiên cá "(1989). Joe Neumaier của tờ "Daily News" so sánh tính độc lập của Rapunzel với nàng Belle trong phim "Người đẹp và quái vật" (1991), nói rằng, "nàng Rapunzel hết sức hiện đại đã thể hiện phần lớn những gì tuyệt vời nhất ". Jonathan Crocker của tạp chí "Total Film" lưu ý những điểm tương đồng giữa Rapunzel và Ariel, miêu tả nàng là "một nhân vật nữ chính có khát khao cháy bỏng được ngắm nhìn thế giới bên ngoài." Mike Scott của tờ "The Times-Picayune" nói rằng sự ngây thơ trong trắng của Rapunzel "gợi nhắc lại hình ảnh nàng công chúa Giselle hay thay đổi do Amy Adams đóng trong phim... "Enchanted"." Tom Charity của báo LoveFilm nhận xét về tính độc lập của nhân vật, ví nàng với cả Ariel và Mulan trong phim "Mulan" (1998). Charity cũng nói rằng Rapunzel "đã thêm vào truyền thống gần đây của Disney về những nữ nhân vật chính tự do, ít phụ thuộc".
Một số nhà phê bình có phản hồi ít tích cực hơn. Mặc dù Richard Corliss của tạp chí "Time" thực sự yêu thích bộ phim, anh cảm thấy rằng trọng tâm được đặt khá nhiều vào Flynn Rider và với Rapunzel như thế là chưa đủ. Corliss đặt câu hỏi về tương lai của những nữ nhân vật hoạt hình chính của Disney, viết rằng, "Trong suốt 60 năm… những cô gái luôn là các nhân vật chính, được mong chờ đến tuổi trưởng thành, vượt qua mọi thử thách và, nói chung là, khá nam tính," và chỉ trích nhiều hãng phim khác đã "bỏ ngoài những câu chuyện với nhân vật nữ chính." Tom Huddleston của tạp chí "Time Out" nhận xét Rapunzel hơi "đơn điệu. James Berardinelli của báo "ReelViews" có những quan điểm trái chiều trong bài nhận xét của mình, viết rằng, "mặc dù rất dễ thương và mạnh mẽ, Rapunzel không đáng nhớ bằng Nàng Bạch Tuyết, Ariel, hay Belle."
Giải thưởng và sự công nhận.
Tala Dayrit của tờ "Female Network" nhắc tới Rapunzel trong bài báo "30 Fierce and Fun Female Cartoon Characters" của mình, viết rằng, khác với nhân vật trong truyện cổ tích gốc, "Cô ấy không phải là một nàng công chúa yếu đuối không tự lo liệu được cho bản thân bị giam giữ trong một toà tháp cao chờ đợi số phận mình định đoạt, mà là một cô gái mạnh mẽ có thể tự bảo vệ mình trong một trận chiến."
Trong bộ phim, Rapunzel biểu diễn bài hát "I See the Light" cùng với Flynn Rider. Bài hát nhận được một đề cử giải Oscar cho "Bài hát gốc hay nhất" ở Lễ trao giải Oscar năm 2011. Nữ diễn viên lồng tiếng Mandy Moore biểu diễn bài hát tại lễ trao giải cùng với nam diễn viên chính Zachary Levi, người lồng tiếng cho nhân vật Flynn trong bộ phim. Tuy nhiên, bài hát đã giành được giải Grammy cho "Bài hát hay nhất viết cho sản phẩm truyền thông có hình ảnh]] ở lễ trao giải lần thứ 54, năm 2012. | 1 | null |
Publius Licinius Cornelius Saloninus Valerianus (242 – 260) là Hoàng đế La Mã vào năm 260.
Tiểu sử.
Saloninus sinh vào khoảng năm 242. Cha của cậu sau là Hoàng đế Gallienus và mẹ là Cornelia Salonina, gốc người Hy Lạp từ Bithynia. Năm 258 Saloninus được cha mình phong làm "Caesar" (giống như người anh Valerianus II đã qua đời khoảng năm 258) và gửi đến Gaul để bảo vệ phòng tuyến sông Rhine nhằm ngăn ngừa ngoại tộc xâm nhập. Bray phỏng đoán rằng việc Saloninus được phong làm "Caesar" như người anh Valerianus II ở Illyria cũng do sự xúi giục của Valerianus I. Nếu như Valerianus II được sự bảo trợ của Ingenuus, thống đốc các tỉnh Illyria, thì Saloninus cũng được đặt dưới sự bảo hộ của viên pháp quan thái thú ("praetorian prefect") Silvanus, Saloninus khi làm "Caesar" tại Gaul còn có tư dinh tại Colonia Agrippina (nay là Cologne).
Vào năm 260, Silvanus với Saloninus có tranh chấp với viên trấn thủ Postumus về một số chiến lợi phẩm mà quân của Postumus đã chiếm được từ tay quân German trong một cuộc đột kích thành công vào xứ Gaul. Tuy nhiên, Postumus lại tuyên bố nổi loạn rồi dẫn quân tiến hành bao vây Colonia Agrippina, do thực lực đôi bên quá chênh lệch nên chẳng bao lâu thành bị hạ, vị hoàng tử trẻ tuổi Saloninus cùng người giám hộ Silvanus đều bị giết chết. Rồi sau đó Postumus tự xưng hoàng đế và định đô ngay tại đây, lãnh thổ của ông được gọi là Đế quốc Gallia tồn tại cho đến khi bị Hoàng đế Aurelianus chiếm lại sau trận Châlons vào năm 274.
Tham khảo.
| 1 | null |
Trebonianus Gallus (; 206 – 253), là Hoàng đế La Mã từ năm 251 đến 253, đồng cai trị cùng con mình là Volusianus.
Thiếu thời.
Gallus sinh vào năm 206 tại Ý trong một thế gia vọng tộc dòng dõi Nguyên lão nghị viên Etrusca. Ông có hai người con qua cuộc hôn nhân với Afinia Gemina Baebiana là Gaius Vibius Volusianus, sau này trở thành Hoàng đế và một người con gái tên Vibia Galla. Sự nghiệp ban đầu của ông là một "cursus honorum" điển hình, với nhiều chức vụ được bổ nhiệm gồm cả chính trị lẫn quân sự. Ông từng giữ chức chấp chính quan La Mã vào năm 250 được cử làm thống đốc tỉnh La Mã vùng Thượng Moesia, một chức vụ đã cho thấy sự tin cậy của Hoàng đế Trajan Decius đối với ông. Ở Moesia, Gallus là một nhân vật quan trọng trong việc đẩy lùi các cuộc tấn công xâm lược thường xuyên của các bộ tộc người Goth vùng sông Danube và rất được lòng quân sĩ, từng phục vụ trong suốt thời ky trị vì ngắn ngủi của ông nhờ những hình tượng chính thức của mình như: mái tóc cắt theo kiểu nhà binh, vóc dáng tựa như võ sĩ giác đấu cùng tư thế oai phong lẫm liệt.
Nắm quyền.
Tháng 6 năm 251, Decius và đồng hoàng đế cũng là con trai của ông Herennius Etruscus đều chết trong trận Abrittus dưới tay quân Goth mà họ dự định trừng trị vì tội dám xâm phạm bờ cõi Đế quốc La Mã. Theo lời đồn được sự ủng hộ của Dexippus (một nhà sử học Hy Lạp cùng thời) và lời sấm truyền thứ mười ba của Sibylline, sự thất bại của Decius phần lớn là do Gallus đã bắt tay với quân xâm lược để mưu hại chủ cũ. Trong bất cứ tình huống nào, khi quân đội nghe được hung tin liền tôn phò Gallus làm hoàng đế, mặc dù đứa con trai còn lại của Decius là Hostilianus đã lên ngôi hoàng đế ở Roma. Hành động này của quân đội và trong thực tế là Gallus dường như có mối quan hệ tốt với gia đình của Decius, khiến lời cáo buộc của Dexippus không chắc có thực. Dù Gallus chưa từ bỏ ý định trở thành hoàng đế, nhưng ông đã phải chấp nhận Hostilianus là đồng hoàng đế, có lẽ cũng để tránh những tổn hại của một cuộc nội chiến.
Lo lắng cho việc củng cố vị trí của mình tại Roma và ổn định tình hình trên biên giới sông Donau, Gallus quyết định nghị hòa với người Goth. Thỏa thuận hòa bình cho phép người Goth rời khỏi lãnh thổ La Mã trong khi được phép giữ lại tù binh cùng chiến lợi phẩm của họ. Ngoài ra, điều khoản còn buộc triều đình phải trả cho họ một khoản cống nạp hàng năm. Khi đến Roma, danh hiệu hoàng đế của Gallus mới được sự công nhận chính thức từ Viện Nguyên lão, người con Volusianus của ông được phong là Caesar. Ngày 24 tháng 6 năm 251, Decius được phong thần, nhưng đến ngày 15 tháng 7 thì Hostilianus đột ngột qua đời trong một trận dịch hạch vừa bùng phát. Ngoài ra dưới thời trị vì của mình, Gallus từng ra lệnh mở một cuộc đàn áp cục bộ và thiếu sự phối hợp các tín đồ Kitô giáo từ lời cáo buộc của Giáo hoàng Cornelius vào năm 252.
Ngoại tộc xâm lấn.
Giống như người tiền nhiệm của mình, Gallus không có lấy một phút giây thảnh thơi để mà trị vì được. Tại phía Đông, một nhà quý tộc Antiochene là Mariades đã nổi loạn và bắt đầu tàn phá Syria và Cappadocia, sau đó bỏ trốn sang Ba Tư. Gallus ra lệnh cho quân của mình tấn công người Ba Tư, nhưng Hoàng đế Ba Tư Shapur I đã dẫn quân xâm chiếm Armenia và đánh bại một đội quân La Mã lớn trong trận đột kích ở Barbalissos vào năm 253. Sau đó Shapur I lại tiếp tục xâm chiếm các tỉnh ở Syria không được bảo vệ, tất cả đồn binh lê dương và thành phố tại đây đều lần lượt bị chiếm đóng và tàn phá, bao gồm cả thành Antioch mà không gặp phải phản ứng nào.
Cuộc xâm lược của người Ba Tư còn được lặp lại trong năm sau, thế nhưng lúc bấy giờ Uranius Antoninus (một linh mục ban đầu được gọi là Sampsiceramus), một hậu duệ của hoàng tộc Emesa, đã mang quân giao chiến dữ dội với Shapur và buộc ông phải rút lui. Nhân cơ hội này mà Uranius Antoninus liền tự xưng hoàng đế, sự kiện này được xác đình là nhờ vào các tiền xu được đúc cùng với hình ảnh của ông và hàng chữ bên trên. Cùng lúc đó,trên sông Donau, các bộ tộc người Scythia một lần nữa lại nổi lên như một hiểm họa ngoại xâm bất chấp hiệp ước hòa bình mà họ ký kết với La Mã vào năm 251. Họ xâm chiếm Tiểu Á bằng đường biển, thiêu hủy ngôi đền thờ Artemis ở Ephesus và trở về nhà với chiến lợi phẩm trong tay. Vùng Hạ Moesia cũng bị xâm lược vào đầu năm 253. Aemilianus, thống đốc vùng Thượng Moesia và Pannonia, dẫn đầu trong cuộc chiến và đã đánh bại quân xâm lược.
Cái chết.
Kể từ khi quân đội không còn hài lòng với Hoàng đế, đám binh sĩ liền tôn Aemilianus làm hoàng đế. Với một kẻ tiếm ngôi đe dọa đến ngôi vị của mình, Gallus đã chuẩn bị cho một cuộc chiến chống lại Aemilianus. Ông cho gọi nhiều quân đoàn lê dương và ra lệnh cho quân tiếp viện từ Gaul trở về Roma dưới sự chỉ huy của vị hoàng đế tương lai Publius Licinius Valerianus. Bất chấp những biến động này, Aemilianus mau chóng hành quân vào đất Ý sẵn sàng chiến đấu cho yêu sách của mình và ngầm sai người lẻn vào bắt sống Gallus tại Interamna (nay là Terni) trước khi Valerianus đến kịp lúc. Những gì thực sự xảy ra ở đó cho đến nay đối với giới sử học vẫn còn mơ hồ. Những nguồn tài liệu về sau cho rằng sau một thất bại ban đầu, Gallus và Volusianus đều đám binh sĩ dưới quyền sát hại; hoặc Gallus đã không có cơ hội để đối mặt với Aemilianus cũng bởi do quân của ông đa phần đều ngả về kẻ tiếm ngôi. Dù gì đi nữa thì tất cả đồng ý rằng Gallus và Volusianus đều bị giết vào tháng 8 năm 253. | 1 | null |
Aemilianus (; khoảng 207/213 – 253), là Hoàng đế La Mã được 3 tháng vào năm 253. Aemilianus là chỉ huy quân đội La Mã ở Moesia, nhờ giành một chiến thắng quan trọng chống lại quân xâm lược người Goth mà ông được binh sĩ ca ngợi và tôn kính. Sau đó dựa vào thực lực của mình, ông mau chóng tiến quân về Ý đánh bại Hoàng đế Trebonianus Gallus mà ít lâu sau bị thuộc hạ của mình giết chết khi một viên tướng khác là Valerianus, cũng tự phong làm Hoàng đế rồi thống soái đại quân tiến đánh Aemilianus nhằm phân định ngôi vị giữa đôi bên.
Tiểu sử.
Thiếu thời.
Aemilianus được sinh ra ở châu Phi thuộc La Mã. Theo nguồn tài liệu từ thế kỷ 4 "Epitome de Caesaribus" thì ông được sinh ra tại Girba (nay là Djerba, một hòn đảo ngoài khơi bờ biển của Tunisia) và là người Moor; một tài liệu tham khảo cũng cùng một nguồn các lời gợi ý cho rằng ông được sinh vào khoảng 207. Nhà sử học thế kỷ 12 Joannes Zonaras gọi ông là một người Libya (nghĩa là đến từ phía tây Ai Cập và phía đông Libya) hơn là một người Moor, riêng một cuốn biên niên sử thế kỷ 13 còn cho là ông đã bốn mươi tuổi vào thời điểm qua đời năm 253.
Về dòng dõi của Aemilianus có hai tới nghi vấn khác nhau đều mang tính phóng đại: trong khi nhà sử học Eutropius và dịch giả của ông Paeanius luôn phỉ báng Aemilianus về việc tiếm vị thất bại khi họ nói rằng ông xuất thân từ một gia đình bình thường, John thành Antioch thì lại dựa vào những lời tuyên truyền của Aemilianus khi ông cho rằng kẻ tiếm ngôi sử dụng thân thế của mình để thâu tóm quyền hành. Aemilianus kết hôn với Cornelia Supera, một phụ nữ gốc Phi nhưng không rõ họ kết hôn vào năm nào, cũng có thể là cả hai đều từ cùng một nơi, các nhà sử học đều cho rằng họ đã kết hôn trước khi Aemilianus rời khỏi châu Phi.
Binh nghiệp.
Dưới thời Hoàng đế Trebonianus Gallus và con trai của ông Volusianus (251-253), Aemilianus được triều đình gửi đến các nước vùng Balkan để chỉ huy quân đội. Trọng trách chính của ông là đảm bảo hòa bình dọc theo biên giới sông Danube, vốn là vùng đất hay chịu nhiều cuộc tấn công từ người Goth dưới sự lãnh đạo của vua Cniva.
Gallus đã lo củng cố ngôi vị từ sau cái chết của hoàng đế Decius dưới tay của Cniva trong trận Abrittus vào năm 251 và sau đó phải lo giải quyết một đợt bùng phát nạn dịch hạch đã tàn phá thành Roma. Tuy nhiên ông lại không được lòng binh sĩ trong quân đội, chủ yếu là do các điều ước nhục nhã được ký kết năm 251 với người Goth và vua Shapur I của Ba Tư, người đã tấn công Syria. Theo John thành Antioch thì khi được bổ nhiệm làm thống soái tại Moesia, Aemilianus đã ghen tị với Gallus và âm mưu tạo phản chống lại ông. Ngoài ra ông còn đối địch với Viện Nguyên lão La Mã và kế hoạch nổi loạn của ông đều được các sử gia Jerome và Jordanes xác nhận.
Triều đại.
Năm 253, người Goth dưới sự lãnh đạo của vua Cniva tuyên bố họ đã không nhận được khoản cống nạp từ người La Mã theo hiệp ước năm 251. Họ vượt qua biên giới và tấn công Cappadocia, Pessinus, và Ephesus. Các nhà sử học hiện đại tin rằng khoản tiền cống nạp thiếu mất này không làm thay đổi trong chính sách của Đế quốc La Mã, và người Goth gần như chỉ muốn cố gắng để tận dụng sức mạnh quân sự của họ. Aemilianus đã ra lệnh cho quân đội được phân công bảo vệ khu vực, nhưng thất bại gần đây tại trận Abrittus đã đẩy quân của ông bên bờ vực thẳm. Để vực dậy tinh thần binh sĩ, Aemilianus đã cổ vũ họ, nhắc nhở họ về danh dự La Mã (theo Zosimus) và hứa hẹn lấy lại những khoản cống nạp từ người Goth (theo Zonaras). Người La Mã đã tiến hành đột kích người Goth, giết chết gần như tất cả bọn họ rồi tiếp theo dẫn quân xâm nhập lãnh thổ của họ với kết quả là giành được chiến lợi phẩm và giải thoát các tù binh. Đám binh sĩ La Mã được Aemilianus triệu tập liền tôn phò ông làm Hoàng đế. Tuy nhiên theo như Jordanes cho biết thì đại quân của Aemilianus chỉ kéo đi cướp phá bên trong lãnh thổ La Mã hơn là chiếm đoạt cống phẩm của người Goth.
Cùng vài người hầu cận, Aemilianus rời khỏi tỉnh của ông mà không đề phòng và di chuyển một cách nhanh chóng tới Roma để gặp gỡ hoàng đế hợp pháp Gallus trước khi có thể nhận được viện binh về sau. Trong khi Aemilianus tấn công bất ngờ thành Roma dọc theo đại lộ Flaminia, thì cả Gallus và Volusianus đã buộc Viện Nguyên lão phải tuyên bố ông là "kẻ thù nhân dân", sau đó hai người dẫn quân binh rời khỏi Roma để đến gặp kẻ cướp ngôi. Chiến lược này cho thấy quân của Aemilianus có quy mô nhỏ hơn so với đối phương, khi họ có thể không mong đợi quân tiếp viện đến kịp lúc nhưng vẫn tin rằng đại quân của họ sẽ giành chiến thắng trong trận giao chiến. Quân đội hai bên mau chóng dàn trận ở Interamna Nahars (nay là Terni) ở cuối phía nam đường phía đông Flaminia, sau một hồi kịch chiến dữ dội cuối cùng thì Aemilianus thắng trận; làm cho Gallus và Volusianus cùng với một vài tùy tùng chạy trốn về phía bắc, có lẽ họ định thực hiện chiến thuật trì hoãn trước khi đợi quân tiếp viện đến cứu, nhưng tại quảng trường trung tâm Flaminii (nay là San Giovanni Profiamma) ở khúc đường phía tây Flaminia, cả hai người đều bị đám vệ sĩ phản bội giết chết để được thưởng công.
Aemilianus tiếp tục tiến về Roma. Viện Nguyên lão La Mã sau một hồi phản đối kịch liệt cũng đành công nhận ông là hoàng đế. Theo một số nguồn tài liệu thì sau đó Aemilianus đã viết thư cho Viện Nguyên lão, hứa sẽ chiến đấu vì Đế quốc ở Thrace và chống lại người Ba Tư, cùng với tuyên bố sẽ từ bỏ quyền lực của mình cho Viện Nguyên lão mà ông chỉ coi mình là một vị tướng. Aemilianus tiếp nhận danh hiệu "Pius, Felix và Pater Patriae", "tribunicia potestas" và được thăng lên tới chức "pontifex maximus"; tuy nhiên ông lại không được bầu chọn làm chấp chính quan (có thể là do gốc gác không thuộc Nguyên lão nghị viên La Mã chính thống). Những đồng tiền đúc của ông cho thấy lời tuyên truyền của ông chỉ tập trung vào khả năng chỉ huy quân sự của mình, cũng bởi ông đã đánh bại người Goth khi ít ai nghĩ rằng điều này có thể xảy ra, và do đó mọi người coi ông là người thích hợp cho công việc khôi phục lại sức mạnh của Đế quốc La Mã, vốn đã bị suy yếu nhiều do thường xuyên bị nội loạn và ngoại xâm tác động.
Tuy nhiên, viên thống đốc các tỉnh vùng sông Rhine là Valerianus lại đang trên đường tiến về phía nam với một đội quân mà Zosimus đã gọi đấy là quân tăng viện cho Gallus. Nhưng các sử gia hiện đại tin rằng đội quân này có thể được huy động cho một chiến dịch đương nhiệm ở phía Đông, và chỉ di chuyển sau cái chết của Gallus nhằm hỗ trợ cho Valerianus trong cuộc tranh đoạt quyền bính. Quân sĩ của Hoàng đế Aemilianus do lo sợ sẽ bùng nổ một cuộc nội chiến nên chần chừ chưa chịu tiến công trong khi đại quân của Valerianus đã mau chóng tiến hành binh biến và áp sát thành Roma. Thấy vậy đám binh sĩ quyết định nổi loạn giết chết ông tại Spoletium hoặc tại cầu "Sanguinarium", giữa Oriculum và Narnia (Khúc đường giữa Spoletium và Roma) và chịu công nhận Valerianus là hoàng đế mới của họ. Sau cái chết của Aemilianus vốn xảy ra từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 9, Valerianus còn cho công bố một "memoriae damnatio" chống lại ông trước toàn thể thần dân.
Cũng có thể là kẻ tiếm vị Silbannacus là một sĩ quan do Aemilianus để ở lại Roma trước khi tiến quân trừ diệt Valerianus, người sau này đã cố gắng trở thành hoàng đế nhưng về sau cũng bị đám binh sĩ dưới trướng sát hại.
Tình trạnh hỗn loạn dưới thời Aemilianus rốt cuộc cũng được sử gia Eutropius tóm gọn lại như sau: | 1 | null |
là một loạt manga được thực hiện bởi Yoshiharu Makita. Tạp chí Champion RED Ichigo của Akita Shoten vừa phát sóng một đoạn video giới thiệu cho anime chuyển thể này. Bản chuyển thể anime OVA một tập trên đĩa Blu-ray được phát hành vào ngày 20 tháng 6 năm 2013 và kèm theo phiên bản giới hạn của tập manga thứ 3. OVA do Keiichiro Kawaguchi làm đạo diễn và Satoshi Isono phụ trách thiết kế các nhân vật. Yutaka Mukumoto làm đạo diễn hình ảnh và Haruko Nobori thực hiện chỉnh màu. Satoshi Isono đóng vai trò đạo diễn hoạt họa.
Cốt truyện.
Cốt truyện manga xoay quanh Mizutani Masayuki, một học sinh phổ thông bình thường có cha mẹ đang bận công việc ở nước ngoài. Một ngày nọ, Shimizu Sayaka, Bạn cùng lớp của cậu đột nhiên chuyển tới sống cùng cậu với tư cách một người giúp việc rất thích quấy rối, và thường dẫn tới những tình cảnh ecchi dở khóc dở cười. Từ ngày đó, Masayuki thấy mình phải đối phó với Sayaka, cùng các nhân vật khác như bà dì trẻ con Takamura Yuka hay gọi cậu là "Onii-chan", người yêu của Yuka là cô nàng yandere Takagi Mai rất ghét Masayuki, và cả đàn em là Ozono Anna với trí tưởng tượng quái đản về mối quan hệ giữa Masayuki và Sayaka cùng cậu bạn ghen ăn tức ở Matsushita. | 1 | null |
Chiêu Hiến Vương hậu (chữ Hán: 昭憲王后; Hangul: 소헌왕후, 12 tháng 10, 1395 - 19 tháng 4, 1446), là Vương hậu của Triều Tiên Thế Tông, và là mẹ ruột của Triều Tiên Văn Tông và Triều Tiên Thế Tổ.
Tiểu sử.
Chiêu Hiến vương hậu sinh vào ngày 28 tháng 9 năm Triều Tiên Thái Tổ thứ 4, tức ngày 12 tháng 10 năm 1395 theo dương lịch. Bà nguyên quán Thanh Tùng, là trưởng nữ của Thanh Xuyên phủ viện quân Thẩm Ôn (靑川府院君沈溫) với Tam Hàn Quốc Đại phu nhân An thị ở Thuận Hưng (三韓國大夫人順興安氏).
Năm 1408, bà kết hôn với Trung Ninh quân Lý Tạo, ban đầu phong làm Kính Thục Ông chúa (敬淑翁主). Năm 1417, cải phong thành Tam Hàn Quốc Đại phu nhân (三韓國大夫人).
Năm 1418, Trung Ninh Đại quân Lý Tạo được sắc phong làm Vương thế tử chính vị Trữ quân, bà cũng được sắc phong làm Kính tần (敬嬪). Cùng năm đó vào tháng 9, Thái Tông truyền ngôi cho Thế tử, Thẩm thị được phong làm Cung phi (恭妃). Tuy nhiên vào lúc đó, cha của bà là Thẩm Ôn âm mưu làm phản bị xử tử, các quan đại thần đã dâng sớ đòi phế phi. Do bà đã hạ sinh 3 vị Vương tử cho Vương thất, cũng như có sự ủng hộ của Thái thượng vương cùng Triều Tiên Thế Tông, nên vị trí Trung điện của bà vẫn được giữ vững.
Năm 1432, quan viên Lễ tào dâng sớ trình về danh hiệu của bà không giống với pháp chế, nên đã đổi thành Vương phi (王妃).
Năm 1446, ngày 24 tháng 3 (tức ngày 19 tháng 4), bà bệnh nặng và hoăng thệ, khi đang đến thăm phủ đệ của con trai thứ là Thủ Dương đại quân, tức Triều Tiên Thế Tổ sau này. Ban đầu, bà được an táng ở Hiến lăng (獻陵), sau này Triều Tiên Duệ Tông di táng sang Anh lăng (英陵). | 1 | null |
Max Friedrich Ernst von Bock und Polach (5 tháng 9 năm 1842 tại Trier – 4 tháng 3 năm 1915 tại Hannover) là một sĩ quan quân đội Phổ, về sau được phong quân hàm Thống chế. Ông đã từng tham chiến trong ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức trong thời kỳ cầm quyền của Thủ tướng Otto von Bismarck.
Tiểu sử.
Thân thế.
Max sinh ngày 5 tháng 9 năm 1842, trong gia đình quý tộc cổ vùng Meißen Bock und Polach và là con trai thứ của Ernst von Bock und Polach (1799 – 1849). Anh cả của ông là Đô trưởng Mülheim an der Ruhr về sau này, Karl von Bock und Polach (1840 – 1902).
Binh nghiệp.
Sau khi học tập trong đội thiếu sinh quân, Bock und Polach, cùng với anh ruột của mình là Karl, đã gia nhập Trung đoàn Bộ binh số 55 (số 6 Westfalen) vào năm 1860 với quân hàm Thiếu úy. Ông tham gia cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch năm 1864 và cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), trên cương vị là sĩ quan phụ tá của Trung tướng Adolf von Glümer, ông là một thành viên của Bộ Tham mưu Sư đoàn số 13 và được phong tặng Huân chương Thập tự Sắt hạng II.
Được thăng quân hàm Đại úy, ông giảng dạy tại Trường Quân sự ("Kriegsschule") Hannover sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Không lâu sau đó, ông được đổi sang biên chế của Trung đoàn Bộ binh số 16 (số 3 Westfalen). Vào năm 1872, ông được phong danh hiệu à la suite của Trung đoàn Bộ binh "Bá tước Bülow von Dennewitz" số 55 (số 6 Westfalen), trực thuộc Bộ Tham mưu.
Với quân hàm Thượng tá, ông đã nhậm chức Tham mưu trưởng của Quân đoàn VIII tại Koblenz vào năm 1874. Sau đó, vào năm 1875, ông gia nhập Bộ Tham mưu Sư đoàn số 31 tại Straßburg, nơi ông được phong cấp Thiếu tá vào ngày 20 tháng 9 năm 1876. Tiếp theo đó, ông được chuyển vào Bộ Tổng chỉ huy của Quân đoàn XV. Từ năm 1882 cho đến năm 1884, ông là một thành viên của Bộ Tổng tham mưu tại kinh thành Berlin. Sau khi được thăng cấp Thượng tá, ông trở lại Quân đoàn XV ở Straßburg và được lãnh chức Tham mưu trưởng. Trên cương vị này, ông được lên quân hàm Đại tá vào năm 1887.
Sau khi Bock und Polach được lên chức Thiếu tướng vào năm 1890, ông trở lại Bộ Tổng tham mưu vào năm sau với vai trò là thành viên của Ủy ban Nghiên cứu Quân sự cấp cao ("Obermilitärstudienkommission") và Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Vào năm 1893, ông được lên quân hàm Trung tướng và được bổ nhiệm làm Sư trưởng của Sư đoàn số 20 tại Hannover. Với cấp bậc Thượng tướng Bộ binh, Bock und Polach đã được bổ nhiệm làm Tướng tư lệnh của Quân đoàn Vệ binh vào năm 1897.
Sau khi được phong tước Hiệp sĩ Huân chương Đại bàng Đen vào đầu năm 1902, ông được giao quyền chỉ huy Quân đoàn XIV tại Karlsruhe ngày 27 tháng 1 năm 1902 và giữ trách nhiệm này cho tới ngàyà 10 tháng 9 năm 1907. Tiếp sau đó, vào năm 1907, ông được lãnh chức Cục trưởng Cục thanh tra quân đội III tại Hannover. Vào ngày 18 tháng 9 năm 1908, ông được thăng cấp Thượng tướng. Cùng với Alfred von Schlieffen và Colmar von der Goltz, ông đã được Đức hoàng Wilhelm II phong cấp bậc Thống chế Phổ nhân dịp Tết Dương lịch vào ngày 1 tháng 1 năm 1911.
Vào mùa thu năm 1912, ông đệ đơn từ chức, và vào ngày 13 tháng 9 năm 1912, việc từ chức của ông chính thức được thừa nhận. Ông từ trần ngày 4 tháng 3 năm 1915 tại Hannover, nơi ông đã đảm nhiệm chức vụ chỉ huy cuối cùng trong sự nghiệp quân sự của mình.
Gia đình.
Vào ngày 19 tháng 4 năm 1873, tại Haus Mehrum, Bock und Polach đã thành hôn với Mathilde Nam tước von Plettenberg (1850 – 1924). Cuộc hôn nhân đã mang lại cho họ 3 người con gái.
Vinh danh.
Thống chế Bock und Polach đã được tôn vinh vì những cống hiến của ông đối với các lực lượng quân sự của Phổ. Vua nước Phổ đã phong cho ông làm Kinh nhật giáo sĩ vùng Brandenburg an der Havel, đồng thời là Trưởng Đại tá ("Regimentschef") của Trung đoàn Bộ binh "Nam tước von Sparr" số 16 (số 3. Westfalen).
Ngoài ra, trong suốt sự nghiệp của ông, vị Thống chế đã được tặng thưởng các huân chương sau đây: | 1 | null |
Trung Quốc hiện là quốc gia có dân số đông nhất trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi tiết vào đầu thời Chiến Quốc, song tài liệu không được truyền lại đến ngày nay. Tuy nhiên, từ khi Ban Cố soạn Hán thư trở đi, trong các chính sử đại đa số đều có ghi chép về nhân khẩu trong thiên địa lý.
Tư liệu nhân khẩu phần lớn dựa vào chính sử, vốn ghi con số nhân khẩu nộp thuế, song vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên có một lượng dân cư không nhỏ phải lưu tán, họ không được tính đến trong chính sử, ngoài ra còn có rất nhiều tăng ni, đạo sĩ, nô tì, quân nhân cũng không được tính, nên kết quả thống kê có phần sai lệch. Trong thời gian chiến tranh, triều đình và quan phủ không thể kiểm soát địa phương, nhân dân chạy trốn hình thành lưu dân, do vậy trong trường hợp này cần phải có sự ước lượng để đưa ra một con số gần với thực tế.
Thời kỳ Chiến Quốc.
Thời kỳ Chiến Quốc (453 TCN- 221 TCN) là thời kỳ nông nghiệp Trung Quốc phát triển nhanh chóng và đặt cơ sở cho nền văn minh nông canh sau này. Trong thời gian này, số dân của các nước chư hầu tăng trưởng mau lẹ. Ước tính vào trung kỳ Chiến Quốc, tổng nhân khẩu các nước chư hầu đạt khoảng 35-40 triệu người. Trong khi đó, tổng nhân khẩu toàn thế giới ước tính vào năm 1000 TCN đạt 50 triệu; vào năm 500 TCN ước đạt 100 triệu, vào năm 200 TCN ước đạt 190,5 triệu; Đế quốc Achaemenes ở Tây Á đạt 18-35 triệu vào năm 500 TCN và 18,7-40 triệu vào năm 340 TCN; Đế quốc Khổng Tước ở tiểu lục địa Ấn Độ đạt 26,5 triệu người vào năm 265 TCN.
Thời Tần.
Năm 26 dưới quyền trị vì của Tần Thủy Hoàng, tức 221 TCN, nước Tần hoàn thành việc tiêu diệt sáu nước, sau đó tiếp tục mở mang lãnh thổ, đến năm 37 thời Tần Thủy Hoàng, tức 210 TCN, tổng nhân khẩu toàn quốc là 30 triệu người, trong khi nhân khẩu thế giới ước tính khoảng 190 triệu. Giáo sư Cát Kiếm Hùng tại Đại học Phúc Đán trong cuốn "Trung Quốc nhân khẩu phát triển sử" suy tính rằng nhân khẩu Đại Tần vào năm 213 vào khoảng trên dưới 25 triệu.
Thời Tây Hán.
Trong thời kỳ ban đầu của lịch sử Trung Quốc, phát triển nông nghiệp tập trung ở khu vực trung hạ du Hoàng Hà, do vậy nhân khẩu có tình trạng bắc đông nam ít. Lấy Tần Lĩnh và Hoài Hà làm ranh giới, nhân khẩu Hoa Bắc vượt quá 85%, nhân khẩu Hoa Nam không đến 15%. Năm châu có nhân khẩu vượt quá 5 triệu là: Dĩnh, Dự, Ký, Duyện, Thanh đều nằm ở khu vực trung hạ du Hoàng Hà, tổng nhân khẩu của 5 châu này chiếm 55% tổng nhân khẩu toàn quốc. Mật độ nhân khẩu khu vực xung quanh thủ đô Trường An đạt trên dưới 1.000 người/km². Bốn châu có nhân khẩu dưới 2 triệu là Giao, Lương, Tịnh, Sóc Phương (U châu). Ba châu: Ích, Kinh, Dương có nhân khẩu phân bố chủ yếu tại bình nguyên Thành Đô, bồn địa Nam Dương, bình nguyên Thái Hồ và bình nguyên Ninh Thiệu.
Khởi nghĩa nông dân cuối thời Tần và chiến tranh Hán-Sở khiến một lượng lớn dân chúng tử vong, Tư Mã Thiên cảm thán trong Sử ký: "Ban đầu Trần Thiệp khởi đầu tai họa, họ Hạng tàn ác diệt Tần, dẹp loạn trừ bạo, bình định hải nội, tốt lên ngôi đế, trở thành Hán gia. Trong vòng 5 năm, ba lần đổi hiệu lệnh. Từ khi con người sinh ra đến nay, chưa từng thụ mệnh gấp như vậy" Năm 202 TCN, Hán vương Lưu Bang xưng đế, nhân khẩu khi đó ước tính vào khoảng từ 15 đến 18 triệu người.
Sau khi triều Hán được thành lập, theo đuổi Hoàng Lão chính trị, để dân chúng nghỉ ngơi phục hồi, sau Văn Cảnh chi trị đến năm Nguyên Quang thứ 6 (129 TCN) thời Hán Vũ Đế, nhân khẩu đạt đến 36 triệu người, trong khoảng 60 năm này nhân khẩu vùng trung hạ du Hoàng Hà tăng trưởng rõ rệt, xuất hiện cảnh tượng phồn vinh.
Từ năm 129 TCN trở đi, do chiến tranh liên miên (như 11 lần đánh Hung Nô và lao dịch thu thuế cùng hình phạt ngày càng nặng, cho nên từ trung kỳ thời Hán Vũ Đế trở đi, số lượng nhân khẩu trở nên đình trệ và suy giảm trong nhiều năm, đến năm Chinh Hòa thứ 2 (91 TCN) thời Hán Vũ Đế thì chỉ còn 32 triệu. Sau đó, trong Chiêu Tuyên trung hưng, cuộc sống người dân lại được an định, quốc lực Đại Hán cơ bản khôi phục, trong thời gian này nhân khẩu khôi phục việc tăng trưởng. Theo "Hán thư- Địa lý chí" ghi chép: "Năm Nguyên Thủy thứ 2 (2) thời Hán Bình Đế, có 12.233.062 hộ, 59.594.978 người."
Học giả Vương Dục Dân ước tính nhân khẩu thực tế dưới 65 triệu. Ước tính vào năm 1, tổng nhân khẩu thế giới là 272,27 triệu, tỷ lệ người Hán vào năm này là 21,18%.
Thời Tân.
Vương Mãng cải chế thất bại, cộng thêm thiên tai thường xuyên xảy ra và Hoàng Hà đổi dòng ở hạ du vào năm Thiên Phượng thứ 1 (14), kết quả là năm 17, bùng phát khởi nghĩa Lục Lâm, Xích Mi, sau đó chiến hỏa khắp nơi, quân phiệt cát cứ và hỗn chiến, khiến một lượng lớn người dân ở lưu vực Hoàng Hà phải dời đi lưu tán hoặc tử vong, hay chạy đến lưu vực Trường Giang tránh chiến tranh. Thời kỳ nhà Tân, không có điều tra nhân khẩu cụ thể, ước tính vào năm Thiên Phượng thứ 5 (17), toàn quốc có 56 triệu người.
Thời Đông Hán.
Đến năm Kiến Vũ Trung Nguyên thứ 2 (57), nhân khẩu toàn quốc đạt gần 21.007.820, so với năm Nguyên Thủy thứ 2 (2) thời Tây Hán thì chỉ bằng 36,427%. Sau đó, nhân khẩu bắt đầu khôi phục tăng trưởng. Căn cứ theo "Hán thư-quận quốc chí ngũ" chép, năm Vĩnh Hòa thứ 5 (140) thời Hán Thuận Đế, toàn quốc có 9.698.630 hộ, 49.150.220 người. Đến năm Vĩnh Thọ thứ 3 (157) thời Hán Hoàn Đế, toàn quốc có 10.677.960 hộ, 56.476.856 khẩu, khôi phục đáng kể so với thời kỳ hoàng kim của Tây Hán. Phân bổ nhân khẩu thời Đông Hán cũng có sự biến hóa. Vào cuối Tân và đầu Đông Hán, có một lượng lớn người dân Trung Nguyên để tránh ngọn lửa chiến tranh nên đã chuyển đến lưu vực Trường Giang, nhân khẩu vùng phương nam chiếm đến 4/10 toàn quốc. Bốn châu: Dự, Kinh, Dương, Ích có số nhân khẩu vượt quá 5 triệu người. Hai châu Kinh và Ích đều có nhân khẩu tăng gấp đôi, nhân khẩu Dương châu cũng tăng thêm khoảng 1/4. Trong khi nhân khẩu phương nam tăng trưởng, đại bộ phận quận quốc ở phương bắc đều có nhân khẩu giảm thiểu. Cuối thời Đông Hán, chiến tranh không ngừng, đến năm Thái Khang thứ 3 (282) thời Tấn Vũ Đế, nhân khẩu toàn quốc chỉ còn 18,85 triệu, chỉ bằng 1/3 so với 125 năm trước đó.
Sau loạn Hoàng Cân, khu vực Trung Nguyên xảy ra thiên tai mất mùa đói kém và có ghi chép như "tháng 1 mùa xuân năm Kiến Ninh thứ 3, người Hà Nội vợ ăn chồng, người Hà Nam chồng ăn vợ". Sau khi Đổng Trác nắm quyền, cho binh sĩ hiếp dâm phụ nữ, cướp vật tư. Khi phải đối mặt với việc liên quân Quan Đông thảo phạt, Đổng Trác lại "di chuyển toàn bộ vài chục vạn dân cư quanh Lạc Dương đến Trường An; đốt hết cung, miếu, quan phủ, cư gia; trong vòng 200 lý không bỏ sót thứ gì". Khi Tào Tháo đánh Từ Châu trả thù cha, chôn sống hàng chục vạn nam nữ, gà chó cũng không bỏ sót, Tứ Thủy do vậy không chảy được". Lý Quyết tại Quan Trung "đương thời dân Tam Phụ vẫn còn vài chục vạn hộ, bọn Lý Quyết phát binh đi cướp đoạt, cộng thêm việc mất mùa, trong hai năm, người dân ăn thịt nhau". Do chiến tranh mà Ích châu của Lưu Yên và Lưu Chương, Kinh châu của Lưu Biểu, Dương châu của bọn Tôn Sách đều suy giảm nhân khẩu. Đương thời, nhân dân di chuyển theo ba dòng: từ Quan Trung về phía tây để đến Lương châu hoặc về phía nam để đến Ích châu, theo Hán Thủy dời đến Kinh châu, mỗi hướng khoảng 10 vạn hộ. Từ khu vực Trung Nguyên dời về phía đông bắc để đến Ký châu hoặc U châu, rồi lại chuyển đến Liêu Đông, người Tiên Ti và Ô Hoàn tiếp nhận làn sóng lưu dân này mà trở nên lớn mạnh. Dòng lớn nhất là từ khu vực Trung Nguyên dời đến Bành Thành Từ châu, rồi lại dời về phía nam đến khu vực Giang Nam. Đương thời, có rất nhiều sĩ đại phu tứ phương đến Giang Nam tị nạn, Đông Ngô lập quốc dựa trên cơ sở này.
Học giả hiện đại Vương Dục Dân ước tính nhân khẩu Đông Hán vào thời tối thịnh vượt xa nhân khẩu Tây Hán (65 triệu) vào thời tối thịnh. Ước tính tổng nhân khẩu thế giới vào năm 200 đạt 223 triệu người, năm này nhân khẩu Đông Hán chiếm 18,2% tổng nhân khẩu thế giới.
Thời Tam Quốc.
Sau khi dần hình thành thế cục Tam Quốc, nhân dân buộc phải thiên di do chiến tranh hay theo lệnh của người thống trị. Sau khi Tào Tháo đánh bại Trương Lỗ, một bộ phận cư dân Xuyên Đông và Hán Trung bị dời đến Quan Trung. Sau khi Tào Phi kiến đô ở Lạc Dương, đã cho dời 5 vạn binh hộ đến Hà Nam. Sau khi Ngụy diệt Thục, đã dời ba vạn gia đình người Thục đến Lạc Dương và Quan Trung. Sau khi Lưu Bị có được Ích châu, nhiều lần dời dân đến bình nguyên Thành Đô. Sau khi Gia Cát Lượng bắc phạt lần thứ nhất thất bại, đã tranh thủ di dời mấy chục van cư dân Lũng Tây đến bổ sung cho Hán Trung. Tôn Quyền đánh bại Giang Hạ thái thú Hoàng Tổ, bắt được hàng vạn nam nữ. Sau khi kiến quốc, Tôn Quyền đề xướng gia tăng nhân khẩu, sau khi bình định Sơn Việt thì lấy "người yếu sung hộ, người khỏe bổ binh", đồng thời tiến công Hoài Nam để bắt người.
Từ cuối thời Đông Hán đến khi Tây Tấn thống nhất toàn quốc, nhân khẩu suy giảm 35,3% so với thời kỳ đỉnh cao của Đông Hán. Đáng chú ý là nhân khẩu bị quân sự hóa cao độ, đương thời Tam Quốc còn có binh hộ, lại hộ, đồn điền hộ. Tào Tháo sáng lập ra đồn điền chế. Nhân khẩu Thục Hán đến khi bị diệt tuy chỉ còn có 90 vạn, song quân đội có đến hơn 10 vạn, Đồn điền hộ có số lượng lớn, có vai trò quyết định đối với việc khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội đương thời.
Vào thời điểm Thục Hán bị diệt (263), nhân khẩu theo tư liệu văn hiến còn lưu truyền lại thì tổng số nhân khẩu nộp thuế của ba nước đạt trên dưới 8,2 triệu người. Căn cứ theo "Trung Quốc nhân khẩu phát triển sử" do giáo sư Cát Kiếm Hùng thuộc Đại học Phúc Đán chủ biên, nhân khẩu thực tế thời kỳ Tam Quốc là khoảng 16-20 triệu người.
Thời Lưỡng Tấn- Thập Lục Quốc.
Sau khi Tây Tấn thống nhất toàn quốc, nhân khẩu vẫn chưa khôi phục lại mức vào thời Đông Hán. Loạn bát vương và Ngũ Hồ loạn Hoa lại khiến cho nhân khẩu giảm mạnh. Trong thời kỳ Ngũ Hồ loạn Hoa, nhiều lần xảy ra đồ sát, như Lưu Thông, Lưu Diệu, Thạch Lặc và Thạch Hổ tiến hành đồ sát tại Hoa Bắc. Chiến loạn cũng gây ra dịch bệnh và mất mùa đói kém, khiến cho một lượng lớn cư dân tử vong, thậm chí xảy ra thảm cảnh "người ăn thịt nhau; người chết đói đến năm, sáu phần". Ngoài nhân tố chiến loạn ra, số nhân khẩu Lưỡng Tấn cũng vì nhiều nhân tố khác mà bị che giấu. Chính quyền trưng thu thuế nặng nề, khiến cho bách tính trốn vào nương nhờ đại tộc hoặc chùa miếu để trốn thuế; ngoài ra vì chiến loạn nên một lượng lớn nhân khẩu sau khi di dời đã che giấu hộ tịch.
Do phương Bắc chiến loạn không kham nổi, xuất hiện một dòng chảy nhân khẩu lớn. Đương thời có sáu hướng lưu vong chủ yếu: năm 296 thời Tấn Huệ Đế, Quan Trung xảy ra loạn Tề Vạn Niên, có vài vạn người từ Quan Trung qua Hán Trung để đến đất Thục, sau đó hiệp trợ Lý Đặc và Lý Lưu lập quốc Thành Hán. Một hướng khác là qua Hán Thủy, Uyển đến lưu vực Hoài Hà, sau được Thạch Lặc dung nạp. Sau khi Ba Thục bất ổn, nhân dân chạy đến khu vực Kinh Tương, song bị cường hào địa phương áp bức nên tiến hành nổi loạn, cuối cùng bị Vương Đôn và Đào Khản bình định. Dân đói Tịnh châu (trị sở nay thuộc Sơn Tây) đến khu vực Ký, Dự khất thực, sau do Điền Chân thống lĩnh, được gọi là "khất hoạt tặc". Lương châu ít chịu cảnh chiến loạn nên nhân dân đến đó tị nạn, do bảo lưu được một lượng lớn chế độ văn vật của người Hán nên tại khu vực này hình thành "văn hóa Hà Tây". Trong khi Hoa Bắc rối loạn, có nhiều người chạy đến Liêu Đông, được Mộ Dung Hoảng tiếp nhận, sau đó những kiều dân này hiệp trợ Mộ Dung Hoảng kiến lập Tiền Yên.
Cuối cùng, sau loạn Vĩnh Gia xuất hiện một dòng chuyển cư lớn nhất, hướng từ Trung Nguyên đến Giang Nam, sử gọi là "Vĩnh Gia chi loạn, y quan nam độ". Vào thời Đông Tấn có tổng cộng năm đợt: thời kỳ Tư Mã Duệ di trấn Giang Đông; thời kỳ Tổ Địch và Tổ Ước bắc phạt thất bại, phải triệt thoát về nam; thời kỳ Hậu Triệu diệt vong, Hoàn Ôn bắc phạt; thời kỳ sau trận Phì Thủy, Tiền Tần sụp đổ; thời kỳ Lưu Dụ bắc phạt thất bại. Các thế tộc di cư đến phương nam trở thành trụ cột trong triều đình Đông Tấn và Nam triều sau đó. Kiều dân sau khi vượt Trường Giang chủ yếu phân bố tại bốn châu: Kinh, Dương, Lương, Ích; cũng có một số ít thâm nhập vào khu vực Mân Quảng. Kiều dân đầu tiên chủ yếu an trí tại "Kiều châu, quận, huyện", nhập bạch tịch, để có thể được giảm miễn thuế và lao dịch. Do "Kiều châu, quận, huyện" thay đổi không ổn định, kiều dân và dân bản địa sống hỗn tạp, gây khó khăn trong việc quản lý hộ tịch, ảnh hưởng đến việc thu thuế của chính quyền. Do vậy, sau khi an định thì triều đình thi hành "thổ đoạn", cho kiều dân nhập "hoàng tịch" (nhập hộ tại địa phương) nhằm dụ tài thực binh, đồng thời phái quan cai trị- tước đi đặc quyền miễn thuế của kiều dân. Trong thời Đông Tấn thực thi bốn lần "thổ đoạn". Đương thời nhân dân là một tài sản quan trọng, khi chiến tranh thì bất luận là kẻ xâm lược hay người bị xâm lược đều buộc nhân dân thiên di để đề phòng họ giúp đỡ cho đối phương, đặc biệt là tại khu vực Hoa Bắc và Giang Hoài.
Trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc, ở phương bắc, giữa ngoại tộc và tộc Hán mở ra dung hợp về mặt dân tộc và văn hóa. Cuối thời Đông Hán đến thời Ngụy-Tấn, các tộc người phương bắc dần tiến vào Trung Nguyên, sống cùng với người Hán, chịu ảnh hưởng từ văn hóa Hán, song thường chịu áp bức từ quan lại người Hán hoặc chịu sự kỳ thị của người Hán. Như tộc Hung Nô và Đê đổi sang dùng họ người Hán, đồng thời học tiếng Hán và kinh thư. Ở Trung Nguyên cũng lưu hành văn hóa Hồ tộc, cảm thấy hứng thú với các dụng cụ sinh hoạt, phục trang và âm nhạc của các dân tộc phương bắc; đồng thời tại Trung Nguyên cũng phổ biến việc uống sữa bò dê. Sang thời Ngũ Hồ thập lục quốc, các tộc người phương bắc xâm nhập hơn nữa vào Trung Nguyên, hoạt động tại Trung Nguyên có các ngoại tộc: Tiên Ti, Ô Hoàn, Cao Câu Ly, Đinh Linh, Yết, Nam Hung Nô, nhánh Thiết Phất và Lô Thủy Hồ của tộc Hung Nô; các tộc ở phía tây như Đê, Khương, Ba cũng xâm nhập. Các quốc gia do những tộc người này lập nên được gọi là "vương triều thâm nhập". Các tộc người thâm nhập và người Hán còn ở lại phương bắc chọn lọc và vay mượn văn hóa của nhau, hai bên dần tiến hành giao lưu văn hóa và dung hợp dân tộc, trong đó phép tắc chế độ và pháp luật lễ nghi của các nước phương bắc gần như đều giao cho người Hán chế định. Trong khi giao lưu, do các nhân tố như xung đột tư tưởng, phân tranh chủng tộc hay đấu tranh chính trị, tại Thập Lục Quốc thường xảy ra các xung đột như phá hoại hay đồ sát.
Cô Tang ở Hà Tây trở thành một trọng trấn mậu dịch trên Con đường tơ lụa, người Hán còn lưu lại Trung Nguyên thì tìm sự che chở giúp đỡ tại các ổ bảo hoặc quý tộc bộ lạc. Ổ bảo đại đa số đều do thế tộc cường hào lập ra, chủ yếu nhằm phòng vệ quân sự. Các hộ nương nhờ thế tộc cường hào không phải nộp thuế và lao dịch cho quốc gia, họ chỉ có nghĩa vụ với ổ chủ. Để đảm bảo thu nhập quốc khố và lao dịch, quân chủ Thập Lục Quốc thường kiểm tra hộ khẩu, đưa "ấm hộ" (hộ được che chở) trở về "biên hộ" (bình dân).
Sau khi ngoại tộc để mất nước, do thảo nguyên cố hương đã bị các tộc người khác như Nhu Nhiên chiếm cứ, tuyệt đại bộ phận lưu lại Trung Nguyên, chuyển sang thích ứng với văn hóa và lối sinh hoạt của Trung Nguyên, hợp nhất với người Hán. Quá trình dung hợp dân tộc đến thời Bắc Chu và Tùy thì hoàn thành. Tại Đông Tấn, sau khi người Hán ở phương bắc "y quan nam độ" cũng xảy ra xung đột và dung hợp với người Hán địa phương, các tộc người Bách Việt và các dân tộc khác. Sau khi Tùy thống nhất Trung Quốc, giới tuyến người Hán nam-bắc dần bị xóa mờ, hòa lẫn thành một thể.
Thời Nam-Bắc triều.
Tình hình xã hội và nhân khẩu vào thời Nam-Bắc triều rất phức tạp, nhìn chung có thể phân thành 4 tầng lớp: thứ nhất là thế tộc danh môn hào tộc; thứ hai là "biên hộ tề dân" tự làm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hay thương nghiệp; thứ ba là "y phụ nhân" phụ thuộc thế tộc cường hào như "bộ khúc" "điền khách" hay "y thực khách", những người chịu sự cai quản của chính quyền thuộc tạp hộ-bách công hộ-binh hộ-doanh hộ cũng được định là "y phụ nhân"; cuối cùng là các nô lệ như "nô tì", "sinh khẩu", "lệ hộ" và các thành dân bị bắt làm tù binh rồi bị buộc phải thiên di.
Ngụy-Tấn-Nam-Bắc triều là thời kỳ chính trị thế tộc, mặc dù hào tộc ở phương bắc có địa vị và quyền lực thấp hơn ở Nam triều, song vẫn ở địa vị rất cao. Số nhân khẩu do thế tộc khống chế gồm "bộ khúc", "điền khách" và "nô lệ" nếu không thể "tự thục" (tự chuộc thân) hoặc "phóng khiển" (phóng thích) thì không thể có được tự do. "Bộ khúc" chủ yếu được sử dụng vào việc tác chiến, do chiến sự giảm thiểu nên tham gia vào hoạt động sản xuất. Do tại Nam triều, "đại gia tộc chế" suy vong khiến "bộ khúc" dần chịu sự khống chế của quốc gia. Nô lệ chủ yếu bắt nguồn từ các nông dân phá sản hoặc là lưu dân, họ là tài sản của địa chủ, do vậy có thể bị địa chủ dùng làm vật thế chấp hoặc để giao dịch. Để ngăn chặn nô lệ chạy trốn, các nô lệ đều bị "kình diện" (Thích chữ bôi mực vào mặt). Nhờ các phương thức như "mi nam vi khách" hay " phát nô vi binh" mà nô lệ có thể chuyển thành điền khách của địa chủ hoặc binh sĩ của quốc gia. Những người tự cày cấy trồng trọt là lực lượng trọng yếu trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đương thời. Họ phải thực hiện các nghĩa vụ tô điều, tạp thuế, lao dịch và binh dịch cho triều đình; vì thế mà nhiều nông dân tự canh đã phá sản và phải lưu vong, trở thành bộ khúc hoặc điền khách của thế tộc. Thời Nam-Bắc triều vẫn tiếp tục thi hành "thế binh chế" có từ thời Tam Quốc, các "binh hộ" truyền đời đảm nhiệm việc binh, thời bình cũng phải nộp tô điều. Do thợ thủ công nghiệp rất ít, cho nên quan phủ khống chế hết sức nghiêm ngặt với "tạp hộ" hoặc "bách công hộ", "bách công hộ" sau khi chuyển sang khu vực sản xuất của quan phủ thì hình thành nên các phố xưởng, truyền nghề cho thế hệ sau. Nếu như quý tộc và quan lại tự chiếm bách công hộ thì thường sẽ bị trừng trị. Tại Bắc triều còn có "tân dân" và "thành dân"; "tân dân" là những người dân hoặc thợ thủ công thuộc các dân tộc di dời quy mô lớn đến khu vực thủ đô dưới thời Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế nhằm tăng cường quốc lực, xét theo số khẩu mà được nhận ruộng; "thành dân" là những người dân bị chinh phục, bị buộc phải thiên di, được bố trí đến sống tại các châu và có thân phận giống như nô lệ; thành dân có cấu trúc dân tộc phức tạp và phân bố trên quy mô rộng.
Ở phương nam, vào khoảng thời Tấn mạt-Tống sơ, mô hình đại gia đình chuyển thành tiểu gia đình, người trong cùng một gia tộc không làm chung nghề phải lên đến bảy phần, lạnh nhạt với nhau. Điều này là do sau khi tông tộc phát triển, các gia đình giàu nghèo khác biệt, nếu như không cùng chung hoạn nạn từ bên ngoài thì sẽ dễ dàng phân ly; do đó phương thức đánh thuế dựa trên đại gia tộc trở nên vô dụng. Ở phương bắc, do ngoại tộc cần đoàn kết hợp tác nên vẫn duy trì được chế độ đại gia tộc. Do người Hán có cơ hội được tham gia chính quyền của người Hồ, truyền thống văn hóa và thể chế của Trung Quốc dần dần tiếp nhận các yếu tố ngoại tộc, song vẫn còn thịnh hành các phong tục như "tài hôn".
Thời Nam-Bắc triều, các dân tộc du mục và dân tộc nông nghiệp diễn ra Hồ-Hán dung hợp văn hóa, các dân tộc du mục trên thảo nguyên phương bắc không ngừng Hán hóa trong quá trình tiến vào Trung Nguyên, trong khi các thế tộc người Hán do muốn tránh chiến loạn nên đem gia đình dời đến phương nam, xúc tiến việc người Hán và các dân tộc khác ở phương nam tiến hành tiếp xúc và dung hợp. Do đó, người Hán vào thời Tùy-Đường không giống như người Hán vào thời Tần-Hán, các dân tộc ở hai lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang lấy người Hán làm chủ thể mà dụng hợp và hình thành nên "tân Hán tộc". Thời Nam triều, chính quyền 5 lần lần tiến hành "thổ đoạn", trong đó "Nghĩa Hy thổ đoạn" do Tống Vũ Đế Lưu Dụ tiến hành vào năm 413 là đáng kể nhất, khiến cho các châu huyện của kiều dân dần dần biến mất. Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế thúc đẩy phong trào Hán hóa, dung hợp hoàng tộc Tiên Ti với thế tộc người Hán, đổi họ của hoàng tộc từ "Thác Bạt" sang "Nguyên", cấm dùng tiếng Tiên Ti; Thượng trụ Tây Ngụy là Vũ Văn Thái nghe theo kiến nghị của Tô Xước mà lập chính sách Quan Trung bản vị. Tuy nhiên, quá trình dung hợp không thể tránh khỏi sản sinh xung đột tư tưởng, đấu tranh chính trị hoặc xung đột chủng tộc. Ví dụ như Bắc Ngụy Thái Vũ Đế nhân "sự kiện tu quốc sử" mà diệt tông tộc của trọng thần Thôi Hạo và các họ khác có liên hệ. Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế thúc đẩy phong trào Hán hóa khiến cho quý tộc Tiên Ti ở Lạc Dương và người Tiên Ti ở Lục trấn xảy ra mâu thuẫn, phát sinh phong trào Tiên Ti hóa để phản kháng văn hóa Hán, cuộc cùng dẫn đến loạn Lục trấn. Đông Ngụy và Bắc Tề do người Tiên Ti Lục trấn và người Hán bị Tiên Ti hóa làm chủ, duy trì tinh thần thượng võ, đề xướng văn hóa Tiên Ti, cực lực bài xích văn hóa Hán. Cuối cùng triều Bắc Chu dung hợp văn hóa Hồ-Hán và triều Tùy Hán hóa tiêu diệt triều Bắc Chu và Nam triều Trần, khởi đầu cho đế quốc Tùy-Đường mang tính chất "Thiên hạ một nhà".
Thời Tùy.
Thời Ngũ Hồ thập lục quốc và Nam-Bắc triều, các dân tộc du mục và dân tộc nông nghiệp có sự giao thoa về văn hóa, đến Tùy triều thì hình thành Hán-Hồ dung hợp văn hóa, các dân tộc ở lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang dung hợp, lấy tộc Hán làm chủ thể, tạo thành tộc Hán mới. Thời kỳ Ngụy-Tấn-Nam-Bắc triều, do chiến tranh kéo dài nên số hộ khẩu trên thực tế suy giảm; do chiến tranh và thuế nặng nên người dân che giấu về hộ khẩu, dẫn đến số hộ điều tra được ít hơn so với thực tế; thế tộc có nhu cầu sử dụng một lượng lớn nhân lực để sản xuất nông nghiệp, bao gồm những người trốn tránh việc nộp thuế. Xuất hiện hiện tượng "bách thất hợp hộ, thiên đinh cộng tịch" (trăm nhà hợp thành một hộ, nghìn đinh cùng chung hộ tịch), khiến số hộ khẩu mà triều đình thống kê được ít hơn nhiều con số thực tế. Đến thời Tùy, số hộ khẩu bắt đầu tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là do thuế nhẹ và lao dịch ít, cộng thêm việc chính trị thế tộc và chế độ trang viên bị suy yếu, nhân dân tình nguyện thoát ly sự bảo hộ của thế tộc để tự lập môn hộ. Do thống kê chính xác số khẩu sẽ đảm bảo được nguồn thu thuế, Cao Quýnh lệnh cho các quan châu huyện đều phải kiểm tra hộ khẩu mỗi năm, do vậy địa phương không thể che giấu nhân khẩu. Năm Khai Hoàng thứ 5 (585) thời Tùy Văn Đế, Hoàng đế hạ lệnh cho quan châu huyện kiểm tra hộ khẩu, thân thuộc có quan hệ xa từ "đường huynh đệ" (anh em con chú con bác) trở đi đều phải tách hộ tịch, đồng thời mỗi năm thống kê một lần, do vậy phương bắc thống kê được thêm hơn 1,64 triệu khẩu.
Thời Tùy, nhân khẩu gia tăng nhanh chóng, diện tích đất canh tác được mở rộng và kho lương quốc gia dồi dào. Theo "Tùy thư-Địa lý chí", theo số liệu từ các quận thì toàn quốc có 9.073.926 hộ, khôi phục số hộ dưới thời Đông Hán trước đó 4 thế kỷ, năm 613 có 44,5 triệu người. Trong vòng 26-27 năm, quốc gia tăng thêm 428 vạn hộ, nhân khẩu tăng thêm hơn 17 triệu người. Cùng với việc lực lượng lao động tăng thêm, kinh tế-xã hội cũng xuất hiện cảnh tượng phồn vinh, thu nhập của triều đình tăng lên. Năm 592, dự trữ lương thực và lụa hoa chất cao như núi, sử tịch thuật lại là phủ khố đều đầy ắp, buộc phải tích trữ ở dưới hiên, ở một mức độ nhất định đã phản ánh sự phát triển của nền nông nghiệp thời Tùy.
Thời Đường.
Triều Đường từ đầu những năm Vũ Đức (618-626) đến cuối những năm Thiên Bảo (742-756) théo thống kê thì có số nhân khẩu và hộ khẩu thấp hơn triều Tùy, có khả năng là do pháp lệnh không được thi hành, người dân giấu giếm hộ khẩu không báo cáo, như vậy số liệu do sử tịch ghi lại ít hơn so với con số thực tế. Theo "Cựu Đường thư", vào năm Đức Nguyên thứ 1 (618), Đại Đường có 1,8 triệu hộ; đến năm Vũ Đức thứ 7 (624) có 2,19 triệu hộ; đến năm Trinh Quán thứ 13 (639) có 3,04 triệu hộ; đến năm Trinh Quán thứ 22 (648) có 3,6 triệu hộ; năm Vĩnh Huy thứ 3 (652) có 3,8 triệu hộ. Căn cứ theo "Thông điển- quyển 7- thực hóa" thì vào năm Thiên Bảo 13 (754), toàn quốc có 9.069.154 hộ, 52.880.488 khẩu. Theo sử liệu thì triều Đường phải mất 100 năm thì mới phục hồi qua mức hộ khẩu vào thời cực thịnh của triều Tùy.
Đương thời, toàn quốc có 15 đạo, nhân khẩu khu vực phía bắc Tần Lĩnh-Hoài Hà là 30 triệu, các khu vực đông dân nhất là hai đạo Hà Nam và Hà Bắc cùng với khu vực Hoài Bắc; tổng nhân khẩu các khu vực còn lại là gần 20 triệu. Thủ đô Kinh Triệu phủ Trường An có 1,96 triệu người, đông đô Hà Nam phủ Lạc Dương có 1,18 triệu người. Ngụy Châu với 1,1 triệu người là một đầu mối giao thông nằm ven Đại Vận Hà vào thời Tùy-Đường. Nhân khẩu của Hà Đông đạo đạt 3,72 triệu, Quan Nội đạo có 1,5 triệu, Lũng Hữu đạo có số nhân khẩu thấp nhất với chỉ 53 vạn. Trong số các đạo ở phương nam, Giang Nam Đông đạo có số nhân khẩu đông nhất với 6,61 triệu, kế đến là Kiếm Nam đạo với 4,09 triệu, trong đó Thành Đô phủ có 92 vạn nhân khẩu, Giang Nam Tây đạo có 3,72 triệu nhân khẩu, Hoài Nam đạo có 2,27 triệu, Lĩnh Nam đạo có 1,16 triệu, Kiềm Trung đạo là đạo ít dân nhất toàn quốc với chỉ 16 vạn.
Trong loạn An Sử, tình hình xã hội và sản xuất ở phương bắc bị phá hoại, nhân khẩu phương bắc dời về phương nam hoặc tử vong. Sau khi kết thúc loạn An Sử, theo sử sách thì số nhân khẩu chỉ còn lại một phần ba so với trước loạn An Sử, từ đó số nhân khẩu của triều Đường không khôi phục được nữa, theo ước lượng thì vào trung kỳ triều Đường, toàn quốc có khoảng 4-5 triệu hộ. Phân bổ nhân khẩu cũng có sự biến hóa, vào thời sơ Đường khu vực Hoa Bắc chiếm 75% tổng số nhân khẩu, còn Hoa Nam chiếm 25%; song đến khi triều Đường diệt vong thì mỗi khu vực chiếm một nửa tổng số nhân khẩu. Phương nam thu hút di dân phương bắc, như Thanh Hà quận ở Hà Bắc trước loạn An Sử có 80 vạn nhân khẩu song sau đó giảm xuống còn 10 vạn. Hậu kỳ triều Đường xảy ra tình trạng phiên trấn cát cứ và loạn Hoàng Sào, tình trạng nhân dân dời về phương nam tị nạn trở nên nghiêm trọng hơn. Từ sau loạn An Sử đến cuối thời Đường là làn sóng lớn dời về phương nam thứ hai trong lịch sử nhân khẩu Trung Quốc, kéo theo đó là phương nam trên các phương diện kinh tế-văn hóa đều vượt qua phương bắc. Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, trong số 9 nước ở phương nam thì có sáu nước có quân chủ là di dân từ phương bắc.
Thời Ngũ Đại Thập Quốc.
Từ hậu kỳ triều Đường đến thời Ngũ Đại Thập Quốc, do chiến loạn kéo dài và thiên tai nên kinh tế khu vực Trung Nguyên bị tàn phá rất nặng. Sau loạn Hoàng Sào, trong suốt 60-70 năm, chiến sự lớn nhỏ không dừng. Binh dịch và các loại lao dịch ở khu vực Hoa Bắc rất nặng nhọc, quần chúng thường bị thảm sát. Chiến tranh và lao dịch nặng nhọc khiến hàng vạn người chết đói hoặc lưu tán tha hương. Giả dụ như vào hậu kỳ triều Đường, Tần Tông Quyền từ Thái châu đánh ra tứ phía, từng đánh chiếm Đông Đô, hình thành tình huống "nhìn xa nghìn lý, không thấy khói lửa". Khi Chu Ôn giao chiến với Thì Phổ ở Từ châu, nông nghiệp ba châu Từ, Tứ và Hào bị phá hoại nghiêm trọng. Khi Chu Ôn giao chiến với Lưu Nhân Cung ở Hà Bắc, một dải từ Ngụy châu đến Thương châu bị phá hoại, trận chiến ở Định châu khiến cho hơn 6 vạn người tử thương. Khu vực Trường An, Lạc Dương vốn là nơi tập trung tinh hoa của triều Đường, song khi Chu Ôn buộc Đường Chiêu Tông đông thiên, ông ta cũng buộc người dân phải thiên di, đồng thời phá bỏ phòng ốc, đốt cháy hoàn toàn, không đầy 100 hộ trở về. Sau đó, xảy ra chiến sự giữa Hậu Lương và Tấn, khiến cho vùng Tấn Nam-Dự Bắc có không ít địa phương "làng không thóc lúa, ấp không khói lửa". Để ngăn chặn quân Tấn, Hậu Lương từng vài lần làm vỡ đê Hoàng Hà, khiến vùng Hà Nam và Sơn Đông nước lụt tràn ngập, dân không kham nổi. Đến giữa thời kỳ Hậu Đường và Hậu Tấn, khu vực Hoa Bắc bị Khiết Đan Quốc tiến đánh và quấy nhiễu; đất Yên châu Lô Long nhiều lần bị kị binh Khiết Đan cướp bóc đốt phá, trong vài nghìn lý "dân vật đãi tận". Đặc biệt là sau khi quân Khiết Đan nam hạ đánh chiếm Biện châu, trong phạm vi hàng trăm lý giữa Khai Phong và Lạc Dương, dân cư chỉ còn rất ít, bách tính Tương châu có đến hơn vạn người bị giết chết. Thời Hậu Hán, các phiên trấn như Hà Trung và Phượng Tường phản lại triều đình, thi thể người chết trận và chết đói có trên 20 vạn. 12 châu của Bắc Hán vào thời thịnh Đường có đến 28 vạn hộ, song vào lúc Bắc Hán mất nước vào tay Bắc Tống thì chỉ có hơn 3 vạn hộ, tức là chỉ còn lại 1/8 so với thời thịnh Đường. Năm 838, thời Đường Văn Tông, Đại Đường có 4,99 triệu hộ, đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc thì có 3,79 triệu hộ, tức trong vòng 140 năm giảm đi 120 vạn hộ, qua đó có thể thấy thời Đường mạt và Ngũ Đại, chiến loạn kịch liệt còn dân sinh thì thống khổ.
Hậu kỳ triều Đường, phương nam chịu ảnh hưởng từ biến Bàng Huân và loạn Hoàng Sào, tuy nhiên sang đến thời Thập Quốc thì có tương đối ít các cuộc chiến tranh lớn, chính cục tương đối ổn định, có lợi cho việc khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội. Lại thêm việc sau khi triều Đường suy yếu, Trung Nguyên bất ổn định, có không ít người nối tiếp nhau tiến về phương nam để đến Giang Nam, Hồ Quảng và Ba Thục, xa nhất đến tận đất Lưỡng Quảng. Quan Nội đạo, Hà Nam đạo, Hà Bắc đạo đều có hộ khẩu giảm sút rất nhiều; song ở các nơi phương nam như Tô châu, Ngạc châu, Hồng châu, Nhiêu châu, Cát châu, Tương châu, Dĩnh châu, Đường châu, Hành châu, Quảng châu đều có hộ khẩu tăng đáng kể. Theo cách nói đương thời, thì trong số hộ khẩu tại Tô châu, một phần ba là từ phương bắc đến; ở Vũ Xương số hộ khẩu tăng gấp ba lần chỉ trong vòng hai năm, đều phản ánh việc có nhiều người di cư về phương nam, khiến phân bổ nhân khẩu khá tập trung ở phương nam. Việc ổn định lâu dài có lợi cho phát triển sản xuất, khiến phủ khố của Thập Quốc dần trở nên đầy đủ. Mạt kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, hộ khẩu Hậu Chu và Bắc Hán không quá 100 vạn, các nước phương nam thì lại đạt đến trên 270 vạn hộ. Trong số các nước, đông nhất là Nam Đường với khoảng 65 vạn hộ, tiếp đến là Ngô Việt với khoảng 55 vạn hộ, Hậu Thục có khoảng 53 vạn hộ. Tổng nhân khẩu của ba nước này đương thời chiếm một nửa dân số toàn Trung Quốc. Đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc, khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Hậu Chu và Bắc Hán có khoảng 100 vạn hộ, song khu vực phương nam nguyên thuộc chín nước thì có 230 vạn hộ. Những năm đầu Bắc Tống, tỉ lệ nhân khẩu nam bắc đại ước là 6:4.
Thời Tống-Liêu-Hạ-Kim.
Theo ghi chép trong "Thái bình hoàn vũ ký", năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 (980), toàn Đại Tống có 6.499.145 hộ với khoảng 32,5 triệu người. Theo ghi chép trong "Nguyên Phong cửu vực chí", vào những năm Nguyên Phong (1078-1085), toàn quốc có 16 triệu hộ. Căn cứ theo "Tống sử-Địa lý chí", năm Sùng Ninh thứ 1 (1102) thời Tống Huy Tông, toàn quốc có 17,3 triệu hộ. Năm Đại Quan thứ 5 (1110) thời Tống Huy Tông, Tống có 20.882.258 hộ, nhân khẩu khoảng 112,75 triệu. Ước tính vào năm Tuyên Hòa thứ 2 (1120), có 22 triệu hộ, nhân khẩu khoảng 118,8 triệu. Sau "họa Tĩnh Khang", lại xuất hiện hiện tượng cư dân Trung Nguyên dời về phương nam với số lượng lớn, có hai làn sóng: làn sóng thứ nhất là từ "sự kiện Tĩnh Khang" (1125-1127) đến "hòa nghị Thiệu Hưng" (1141), làn sóng thứ hai là trong thời gian hoàng đế Kim Hoàn Nhan Lượng xâm chiếm phương nam. Nhân khẩu phương nam do vậy tăng thêm rất nhiều, theo ước tính, vào năm Gia Định thứ 11 (1218) tức thời điểm đỉnh cao của Nam Tống, toàn quốc có 13,6 triệu hộ. Năm Thiệu Hưng thứ 32 (1162) so với năm Sùng Ninh thứ 1, Lưỡng Chiết lộ tăng thêm thêm 26 vạn hộ, Giang Nam Tây lộ tăng thêm 42 vạn hộ, Phúc Kiến lộ tăng thêm 33 vạn hộ, Đồng Xuyên Phủ lộ tăng thêm 24 vạn hộ, Quỳ Châu Phủ lộ tăng thêm 14 vạn hộ. Thời Tống, nhân khẩu thành thị tăng mạnh, có 50 thành thị có trên 10 vạn hộ, trong đó nhân khẩu Lâm An vượt 1,24 triệu hộ (1274), nhân khẩu Biện Lương trên 1,8 triệu hộ (1125), đương thời là một trong số các thành thị đông nhất trên thế giới.
Trong những năm Sùng Ninh thời Tống Huy Tông, trong số các lộ ở phương bắc thì Kinh Kỳ lộ có nhân khẩu tập trung nhất, năm Nguyên Phong thứ 6 (1083) có 23 vạn hộ, năm Sùng Ninh thứ nhất có 26 vạn hộ; song Vĩnh Hưng quân lộ có 100 vạn hộ, Kinh Triệu phủ với trung tâm là Trường An có 23 vạn hộ, nguyên nhân do đây là tiền tuyến trong chiến tranh giữa Tống và Tây Hạ. Nhân khẩu phương nam tập trung chủ yếu tại các lộ: Lưỡng Chiết, Giang Nam Đông-Tây, Phúc Kiến, Xuyên Thiểm. Hộ khẩu của năm lộ này đạt 5,71 triệu hộ, tức một nửa số hộ của phương nam. Trong đó, Lưỡng Chiết lộ là đông nhất với 1,97 triệu hộ, tiếp đến là Giang Nam Tây lộ với 1,66 triệu hộ, Giang Nam Đông lộ với 1,01 triệu hộ, Phúc Kiến lộ với 1,06 triệu hộ, hai lộ Hoài Nam Đông-Tây có tổng cộng khoảng 1,3 triệu hộ, bốn lộ Xuyên-Hiệp có tổng cộng 2 triệu hộ (năm 1231 có 5 triệu hộ), hai lộ Kinh Hồ Nam-Bắc có tổng cộng 1,4-1,5 triệu hộ, hai lộ Quảng Nam Đông-Tây có tổng cộng hơn 80 vạn hộ, Kinh Tây-Nam có tổng cộng 40 vạn hộ.
Mặc dù người Hán đến định cư trên đảo Hải Nam từ trước Công nguyên, song phải đến thời Tống thì mới có các nỗ lực nhằm đồng hóa người Lê sống trên vùng núi - những người này khi đó đang chiến đấu chống lại và đẩy lui người Hán nhập cư.
Căn cứ theo Liêu sử được học giả hiện đại khảo đính, vào năm Càn Thống thứ 10 (1110) thời Liêu Thiên Tộ Đế, nhân khẩu Liêu quốc đạt mức tối đa là hơn 1,5 triệu hộ, 10.569.288 người. Phong tục xã hội của người Khiết Đan khác biệt với người Hán, người Khiết Đan cai trị người Hán ở Yên Vân thập lục châu giống như cách thức ở Trung Nguyên, người Khiết Đan ở phương bắc vẫn sinh hoạt theo tục cũ, hai tộc người cũng hỗn tạp ở những vùng ranh giới.
Do Tây Hạ áp dụng chế độ toàn dân đều là binh lính nên có thể dựa vào số lượng binh lực để suy ra lượng nhân khẩu. Ngày nay có nhận định rằng nhân khẩu Tây Hạ không thấp hơn 30 vạn hộ, không cao hơn 2 triệu hộ. Theo "Tống sử" ghi lại thì Tây Hạ có 50 vạn đại quân Tây Hạ cũng là một triều đại đa dân tộc, với chủ thể là tộc Đảng Hạng, cùng với tộc Hán, Hồi Cốt và Thổ Phồn. Theo "Trung Quốc nhân khẩu sử" của Ngô Tùng Đệ thì nhân khẩu Tây Hạ vào những năm Sùng Tông (1100) thời Sùng Tông đạt mức tối đa là khoảng 3 triệu người.
Sau Nghị hòa Thiệu Hưng năm 1141, tình trạng nhân khẩu giảm thiểu ở phương bắc từ sau sự biến Tĩnh Khang bắt đầu được khắc phục ở mức độ nhất định, đến năm 1207 thời Kim Chương Tông thì đạt 53.532.151 người, cũng là mức tối đa của Đại Kim. Đương thời, tổng nhân khẩu của Kim, Nam Tống, Tây Hạ ước tính là khoảng 136 triệu người. Trong lần thống kê nhân khẩu chuẩn xác thứ tư của triều Kim, mỗi hộ bình quân có trên 6 khẩu, quy mô hộ dưới triều Kim đông đảo, có quan hệ nhất định với việc các quý tộc và mãnh an-mưu khắc sử dụng một lượng lớn nô bộc.
Kim Thái Tổ và Kim Thái Tông khi thống trị Trung Nguyên đã đưa hơn 1 triệu người Nữ Chân đến vùng đất hạ du Hoàng Hà vỗn đã có nhân khẩu đông đúc, dùng biện pháp hy sinh lợi ích của người Hán phục vụ cho người Nữ Chân, mục đích là để đáp ứng cho sinh hoạt và quân sự của họ. Cùng lúc với việc đưa những di dân mới người Nữ Chân đến chiếm lĩnh đất đai Trung Nguyên, người Khiết Đan và người Hán bị đưa đến nội địa của triều Kim (tức vùng Mãn Châu ngày nay). Trong cuộc chiến tranh chống Liêu, quân Kim từng bắt được một lượng lớn người Khiết Đan và người Hán làm nô lệ. Sau đó, Kim Thái Tổ từng hạ chiếu cấm chỉ giam giữ bách tính chịu đầu hàng, cấm chỉ nhà quyền thế mua dân nghèo làm nô lệ, lại quy định những người từng bán thân làm nô lệ có thể dùng công lao động để chuộc thân, song trên thực tế khả năng nô lệ có thể tự chuộc thân là rất thấp. Cư dân người Hán bị buộc phải thiên di không thể không trở thành nô lệ với số lượng lớn. Triều đình Kim đối với nhân dân khu vực chịu đầu hàng tuân phục thì áp dụng biện pháp cưỡng bách thiên di đến nội địa. Như cư dân các châu huyện Sơn Tây bị buộc phải thiên di với số lượng lớn đến Hồn Hà lộ thuộc Thượng Kinh của Kim. Cư dân địa khu Thượng Kinh lại được dời đến Ninh Giang châu. Nhân dân Bình châu nổi dậy phản kháng, sau khi bị trấn áp thì phải cùng với cư dân Nhuận châu, Tháp châu, Lai châu, Thiên châu dời đến đông đô Thẩm Dương. Những cư dân này không thể vượt qua khó khăn để tồn tại, buộc phải bán thân làm bô lệ, khiến người Hán hận thù sâu sắc.
Thời Mông-Nguyên.
Nhân khẩu thời Nguyên có điểm đặc trưng, ngay từ thời đế quốc Mông Cổ, dân phương bắc đã không ngừng chạy xuống nam, hiện tượng này đến thời Nguyên Huệ Tông vẫn tiếp tục xảy ra, triều đình Nguyên luôn cấm đoán song không thể chấm dứt được. Trong thời gian đế quốc Mông Cổ chinh phục Tây Hạ, Kim và Nam Tống, quân Mông Cổ thường hay tiến hành đồ sát và cướp bóc trên quy mô lớn Sau đó, do dịch bệnh và mất mùa đói kém nên một lượng lớn nhân khẩu khu vực Đông Á cũng biến mất, trong đó khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Kim và khu vực Xuyên-Thiểm tứ lộ nguyên thuộc Nam Tống hết sức nghiêm trọng. Đây được xem là tai họa thảm khốc nhất trong lịch sử Trung Quốc, cũng là nguyên nhân chính dẫn đến phong trào di dân "Hồ Quảng điền Tứ Xuyên". Sau khi Kim diệt vong năm 1234, khu vực Hoa Bắc ước tính có 1,1 triệu hộ với 6 triệu người, chỉ bằng 13% so với mức 53,53 triệu người vào năm 1208. Trong thời gian chiến tranh Tống-Mông, số người thiệt mạng trong biên cảnh Nam Tống là khoảng 15 triệu người, chủ yếu tập trung tại khu vực Xuyên Thiểm tứ lộ. Sau khi quân Nguyên hoàn toàn tiêu diệt thế lực kháng Nguyên tại Tứ Xuyên vào năm 1279, theo điều tra thì khu vực chỉ còn hơn 9 vạn hộ và hơn 50 vạn người, chỉ bằng 4% so với mức năm 1231 tức trước khi quân Mông Cổ xâm lược Xuyên-Thiểm tứ lộ. Thời Đại Mông Cổ Quốc có 2 lần tiến hành thống kê hộ khẩu, lần thứ nhất là vào năm 1235 khi Oa Khoát Đài Hãn thi hành "Ất Mùi tịch hộ", có tư liệu về nhân khẩu của khu vực Hoa Bắc; lần sau là vào năm 1252 khi Mông Kha Hãn hoàn thành "Nhâm Tý tịch hộ", cho thấy nhân khẩu Hoa Bắc có sự gia tăng ở mức thấp. Năm 1271, Hốt Tất Liệt Hãn cải quốc hiệu thành "Đại Nguyên", kiến lập triều Nguyên. Tuy nhiên, trong thời gian từ thời Nguyên Thành Tông đến những năm đầu Chí Chính thời Nguyên Huệ Tông, chính cục triều Nguyên khổng ổn định, mỗi năm đều phải ứng phó với rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân, tuy nhiên về mặt xã hội thì cơ bản có tình trạng ổn định, kinh tế nhìn chung cũng thể hiện tăng trưởng, khiến nhân khẩu gia tăng, theo ước tính vào năm Chí Chính thứ 10 (1351) thì ở mức cao nhất. Những năm Chí Chính (1341-1370) thời Nguyên Huệ Tông, toàn quốc nhiều lần xảy ra mất mùa đối kém và dịch bệnh trên quy mô lớn, cuối cùng bùng phát thành khởi nghĩa Hồng Cân quân, sau cuộc khởi nghĩa này thì nhân khẩu suy giảm rất lớn. Sau khi Minh Thái Tổ kiến quốc có luận: "trong cuộc cách mạng đời trước, tùy tiện tiến hành giết chóc, làm trái ý trời mà hại dân, Trẫm thực không thể nhịn".
Thống kê nhân khẩu vào thời Nguyên không hoàn toàn chuẩn xác, bỏ mất những hộ chạy trốn, đi nương nhờ ở nơi khác. Triều đình không thống kê hộ khẩu của Lĩnh Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh (vùng Nội Mông-Mông Cổ-nam Siberi), Vân Nam đẳng xứ hành trung thư tỉnh, các cư dân ở những khu vực thổ ty Tây Nam và Tuyên Chính viện (Tây Tạng); nhân khẩu thuộc sở hữu riêng của chư vương, quý tộc, quân tướng Mông Cổ; ngoài "chức sắc hộ kế" ở các châu huyện. Các học giả hiện đại chỉ có thể căn cứ theo số liệu nguyên thủy trong sách sử lưu giữ được để suy đoán, do vậy số liệu có thể sai khác lớn. Hiện tượng nhân khẩu chạy trốn hết sức nghiêm trọng, như vào năm 1241, trong số 1.004.656 hộ có nguyên tịch ở các lộ do Hốt Đô Hổ cai quản, thì có đến 280.746 hộ bỏ trốn, chiếm 28%.
Ngoài ra, mối quan hệ dân tộc ngày càng mật thiết, hiện tượng vãng lai và tạp cư tương đối phổ biến. Từ thời kỳ chiến tranh Mông-Kim, một lượng lớn người Hán không ngừng bị buộc phải dời đến thảo nguyên Mông Cổ hay khu vực nam bắc Thiên Sơn, Liêu Dương đẳng xứ hành trung thư tỉnh và Vân Nam đẳng xứ hành trung thư tỉnh; Các quan viên, quân hộ hay thương nhân người Mông Cổ và Sắc Mục di cư với số lượng lớn đến nội địa Trung Nguyên; khu vực Vân Nam có khoảng trên dưới 10 vạn người Mông Cổ cư trú; các thành thị chính trị như Thượng Đô và Đại Đô, các thành thị thương nghiệp như Hàng Châu, Tuyền Châu, Trấn Giang đều có nhiều người Mông Cổ, người Duy Ngô Nhĩ, người Hồi giáo, người Đảng Hạng, người Nữ Chân hay người Khiết Đan cư trú, giữa các dân tộc có sự giao lưu kinh tế và văn hóa, bang trợ lẫn nhau. Do tỷ lệ người Mông Cổ và người Hán hết sức chênh lệch, văn hóa và chế độ của người Hán cũng ưu việt hơn so với người Mông Cổ, triều đình Nguyên do vậy bảo hộ địa vị của người Mông Cổ, chủ trương Mông Cổ chí thượng chủ nghĩa, thi hành chính sách phân chia chế độ với bốn tầng lớp dân cư: Mông Cổ nhân, Sắc Mục nhân (người Tây Vực và Tây Hạ), Hán nhân (người Hán nguyên thuộc Kim), Nam nhân (người Hán nguyên thuộc Nam Tống). Triều đình Nguyên trao cho Mông Cổ nhân và Sắc Mục nhân quyền lợi rất lớn, bắt Hán nhân và Nam nhân phải chịu thuế và lao dịch nặng, áp bức dân tộc và áp bức giai cấp rất trầm trọng.
Thời Minh.
Sau khi Đại Minh thành lập và thống nhất Trung Hoa, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thi hành chính sách "hưu dưỡng sinh tức" (phục hồi và phát triển), nông nghiệp thời Mông-Nguyên vốn chịu sự phá hoại từ chiến tranh nay khôi phục ở mức độ lớn, những năm Hồng Vũ tiến hành khẩn hoang vùng đất phía bắc Hoài Hà và Tứ Xuyên trên quy mô lớn, nhân khẩu do vậy tăng trưởng ổn định. Đến năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), toàn quốc có 63 triệu người, trong đó 61,75 triệu người thuộc dân hộ, 3,25 triệu người thuộc quân hộ. Bắc ngũ tỉnh (Bắc Bình, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Thiểm Tây) có 17,55 triệu nhân khẩu, chiếm 27% toàn quốc; trong đó Sơn Đông là đông dân nhất với 5.462.850 người, kế đến là Sơn Tây (3.790.760 người), Hà Nam (2.825.300 người), Thiểm Tây (2.646.450 người), Bắc Bình (2.619.500 người). Trung ngũ tỉnh (Kinh Sư, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên) có 33,8 triệu người, chiếm 52% toàn quốc; trong đó Nam Trực Lệ có 11.291.460 người, mật độ nhân khẩu cao nhất là ở lực vực Tô Nam Thái Hồ với tổng số 6.320.300 người và đạt 220 người/km²; tiếp đến là Chiết Giang tỉnh với 9.959.270 người; Giang Tây có 7.260.000 người, Hồ Quảng có 4.318.420 người, Tứ Xuyên có 1.314.260 người. Nam ngũ tỉnh (Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu) có tổng cộng 10,40 triệu người, chiếm 16% toàn quốc.
Nhân khẩu triều Minh đạt đỉnh cao vào hậu kỳ, song các học giả bất đồng về thời gian và số lượng cụ thể. Dịch Trung Thiên nhận định vào thời Minh mạt toàn quốc có trên 60 triệu người, Hàn Văn Lâm và Tạ Thục Quân nhận định năm 1626 thì Đại Minh đạt đỉnh cao về nhân khẩu, với khoảng 99,873 triệu người, Vương Dục Dân nhận định vào những năm Vạn Lịch (1573-1620) thì nhân khẩu triều Minh đạt mức tối đa, nhân khẩu thực tế là từ 130-150 triệu người; Cát Kiếm Hùng nhận định vào năm 1600 triều Minh thực tế có 197 triệu dân, vào thời đỉnh cao là sát 200 triệu người; Tào Thụ Cơ nhận định nhân khẩu triều Minh lên đến đỉnh cao vào năm 1630 với nhân khẩu thực tế là khoảng 192,51 triệu người, sang năm 1644 thì số nhân khẩu thực tế giảm còn khoảng 152,47 triệu người; nhà kinh tế học Anh Quốc Angus Maddison thì nhận định vào năm 1600 nhân khẩu thực tế của triều Minh đạt khoảng 160 triệu người.
Cuối năm năm Gia Tĩnh thời Minh Thế Tông, các loại cây trồng cao sản đến từ châu Mỹ bắt đầu được truyền bá đến Trung Quốc, trở nên phổ biến tại những vùng có mật độ dân cư cao nhất như Giang-Chiết hay Lĩnh Nam. Đặc biệt là qua Vạn Lịch trung hưng, nhân khẩu tăng trưởng nhanh và ổn định, có học giả ước tính thì đạt đến mức chưa từng có là 150 triệu người, phân bổ vẫn không đổi. Từ Sùng Trinh thứ 11 (1640) thời Minh Tư Tông đến năm Thuận Trị thứ 7 (1650) thời Thanh Thế Tổ, do chiến tranh cùng mất mùa và dịch bệnh nên số người tử vong gia tăng, đặc biệt là bùng phát dịch hạch và hạn hán ở phương bắc, quân Bát kỳ nhập quan tiến hành giết hại và buộc người Hán phải thiên di để đề phòng họ phản kháng, khiến nhân khẩu giảm thiểu rất nhiều, chưa bằng một nửa so với trước đó, riêng phương bắc giảm xuống chỉ chưa bằng 20%.
Kế tục triều Nguyên, triều Minh phân cư dân thành "dân hộ", "quân hộ", "tượng hộ", những người làm thủ công nghiệp nhập tượng tịch. Tượng tịch và quân tịch có địa vị thấp hơn so với dân tịch, không được ứng thí, đồng thời phải kế thừa nghề của đời trước. Việc thoát khỏi hộ tịch ban đầu là khó khăn, cần phải được Hoàng đế đặc chỉ phê chuẩn.
Thời Thanh.
Thời Minh mạt Thanh sơ, do cướp bóc lan tràn, chiến tranh Thanh binh nhập Tắc và nhập Quan, loạn Tam Phiên, sinh mạng và tài sản của nhân dân chịu tổn thất. Cùng với đó là mất mùa đói kém, dịch bệnh khiến cho nhân khẩu Trung Quốc suy giảm nhanh chóng. Nhà sử học Cát Kiếm Hùng nhận định giao thời Minh-Thanh, nhân khẩu ước tính suy giảm 40%, cuối những năm Thuận Trị là ở mức thấp nhất. Ý kiến khác cho rằng số lượng nhân khẩu che giấu hộ tịch lớn hơn nhiều so với số lượng nhân khẩu bị tổn thất, và số lượng nhân khẩu tổn thất lớn nhất thực sự vẫn là trong thời kỳ chiến loạn sau khi quân Mãn nhập Quan, cùng các cuộc đồ sát mang tính tận diệt tộc họ. Kể từ sau năm Khang Hy thứ 20 (1681), do nay triều đình Thanh hoàn thành bình định Tam Phiên đồng thời chiếm lĩnh Đài Loan, trải qua thịnh thế thời Khang Hy-Ung Chính-Càn Long, sinh hoạt được an định và khôi phục, nhân khẩu gia tăng nhanh chóng. Đầu thời Thanh, số liệu nhân khẩu còn chưa chính xác, nhà sử học Khương Đào ước lượng vào khoảng trước sau năm Khang Hy thứ 19 (1680), nhân khẩu tăng lên đến 100 triệu; Triệu Văn Lâm suy đoán vào năm Khang Hy thứ 24 (1685), nhân khẩu vượt quá 100 triệu. Ngoài việc quốc gia an định, nhu cầu lương thực được đáp ứng với việc trồng cấy rộng rãi các cây trồng mới như gạo Chiêm Thành, ngô, lạc, khoai tây. Đến thời kỳ Càn Long, nhân khẩu toàn quốc chính thức vượt quá 200 triệu, đến năm Đạo Quang thứ 13 (1833) trước chiến tranh Nha phiến thì tăng mạnh lên mức 400 triệu. Tăng trưởng nhân khẩu dưới triều Thanh hoàn toàn trái nhược với hình thái tăng trưởng dạng sóng trong quá khứ của Trung Quốc, thể hiện bằng đường chéo tăng lên. Trong thế kỷ 19, do cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc, Niệp loạn và Hồi loạn, số nhân khẩu tổn thất là không nhỏ; trong những năm Quang Tự lại xảy ra không ít thiên tai: năm Quang Tự thứ 3 (1877) xảy ra hạn hán ở Sơn Tây và Thiểm Tây, số người chết vì nạn đói và bạo loạn lên tới trên 10 triệu người. Cuối cùng, cùng với việc di cư ra hải ngoại trở nên phổ biến, nên đến khi triều Thanh diệt vong, nhân khẩu Trung Quốc duy trì ở mức 430 triệu người, không khác nhiều so với những năm Đạo Quang (1821-1850).
Do nhiều năm chiến loạn và đồ sát, khiến nhiều khu vực biến thành vô chủ, sau đó vì nhân khẩu gia tăng với số lượng lớn, một số nơi xảy ra tình trạng dư thừa nhân khẩu, dẫn đến làn sóng di dân. Như thủ lĩnh nổi dậy Trương Hiến Trung vào thời Minh mạt vào năm 1646 bại trận rút đến Thành Đô, tiến hành thiêu sát phá hoại chưa từng có tại Tứ Xuyên: 40 vạn người ở Thành Đô chỉ còn 20 hộ, nhân khẩu Tứ Xuyên từ ít nhất 3 triệu giảm mạnh chỉ còn 8 vạn người. Về sau, triều đình Thanh thúc đẩy việc đưa dân các tỉnh Hồ Quảng, Thiểm Tây bù đắp nhân khẩu cho khu vực Tứ Xuyên, sử gọi là "Hồ Quảng điền Tứ Xuyên" lần thứ hai. Xu thế di dân đến Tứ Xuyên trải qua 1 thế kỷ, Tứ Xuyên do vậy trở thành một khu vực thu hút quá nhiều đến nỗi dư thừa nhân khẩu. Để bảo hộ vùng đất phát tường là Mãn Châu, triều đình Thanh thiết lập "Liều điều biên" ở Phụng Thiên (nay là Liêu Ninh), cấm chỉ người Hán di dân về phía bắc, tuy nhiên dân nghèo Hoa Bắc vì sinh kế vẫn lén di dân. Những năm Hàm Phong-Quang Tự, triều đình Thanh xét thấy Nga và Nhật Bản có ý định thâm nhập Mãn Châu, vì vậy dần dần mở cửa cho người Hán di dân về phía đông bắc, và hoàn toàn mở cửa từ sau Chiến tranh Nga-Nhật 1904-1905 Các tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông do núi nhiều dân đông, lại sát biển, do vậy có nhiều người di dân ra hải ngoại. Đài Loan ngay từ thời kỳ Hà Lan-Tây Ban Nha và sau là Minh Trịnh thống trị đã thu hút di dân từ Mân Nam, Việt Đông; ước tính có hơn 10 vạn dân. Vào đầu thời Thanh, để ngăn chặn việc xảy ra các rối loạn như của Chu Nhất Quý, triều đình từng có hạn chế nghiêm ngặt về việc di dân đến Đài Loan. Những năm cuối thời Đồng Trị xảy ra sự kiện Mẫu Đơn Xã, quân Nhật xâm chiếm Đài Loan, điều này khiến triều đình Thanh mở cửa việc di dân đến Đài Loan. Vào thời điểm trước khi Đài Loan bị cắt nhượng cho Nhật Bản, hòn đảo này có hơn 3 triệu nhân khẩu di dân. Ngay từ thế kỷ 15, 16, nhân dân Phúc Kiên và Quảng Đông đã thường di dân đến các nơi ở khu vực Đông Nam Á, người Hoa hải ngoại còn thành lập nên Lan Phương Cộng hòa Quốc. Sau Chiến tranh Nha phiến, có thêm nhiều người Hán di cư ra hải ngoại, chủ yếu là đến Đông Nam Á, miền Tây Hoa Kỳ, quần đảo Caribe Đến khi triều Thành diệt vong, tại hải ngoại có 7 triệu Hoa kiều.
Hậu kỳ Khang Hy, sau một thời gian dài khôi phục và phát triển, xã hội trở nên an định hơn, song nhân đinh và địa mẫu ghi trong sổ sách vẫn tăng chậm. Một mặt là do việc thanh tra nhân khẩu và thổ địa không triệt để, hơn nữa địa chủ phần nhiều cố tình báo ít đi, người nghèo bị đánh thuế nặng nên buộc phải chạy trốn, thống kê số nhân đinh do vậy không xác thực. Để nắm được số nhân khẩu xác thực, Khang Hy Đế vào năm 1712 hạ chiếu "thịnh thế tư sinh nhân đinh vĩnh bất gia phú", lấy số nhân đinh ghi trong sổ sách năm 1711 để định ra mức tổng cố định cho việc trưng thu thuế đinh, đem số người tăng mới sau đó liệt vào "thịnh thế tư sinh nhân đinh", từ trung ương đến địa phương không được vì gia tăng nhân khẩu mà thêm thuế. Tuy nhiên, việc này vẫn có hạn chế, do vậy triều đình lại chọn chính sách "than đinh nhập địa", phế trừ "nhân đầu thuế" tức thuế định, nhập vào trong thuế thổ địa. Điều này khiến cho giai cấp vô sản không phải nộp thuế, song phần nộp thuế của địa chủ lại tăng thêm, đối với triều đình khiến cho nhân khẩu tiếp tục gia tăng, giảm hoãn việc tích tụ đất đai, có tác dụng nhất định trong việc phát triển công thương nghiệp. | 1 | null |
Dưới chế độ Khmer Đỏ (1975-1979), ngay sau nội chiến Campuchia (1969–1975) đã có rất nhiều người Campuchia bị giết hại và chôn xác tại nhiều địa điểm gọi chung là cánh đồng chết.
Sau khi phân tích 20.002 ngôi mộ tập thể, Trung tâm Tài liệu Campuchia thuộc chương trình DC-Cam Mapping và đại học Yale cho biết có ít nhất 1.386.734 người đã bị hành quyết. Các ước tính về tổng số người chết do sự cai trị của Khmer Đỏ, tính cả bệnh tật và chết đói, là khoảng từ 1,7 đến 2,5 triệu trong khi dân số Campuchia năm 1975 là 8 triệu người. Năm 1979, Việt Nam đưa quân vào Campuchia và lật đổ chế độ Khmer Đỏ.
Nhà báo Campuchia Dith Pran đã đặt ra thuật ngữ "cánh đồng chết" sau khi ông trốn thoát khỏi chế độ này. Bộ phim Cánh đồng chết sản xuất năm 1984 kể câu chuyện về Dith Pran, do Haing S. Ngor-một người Campuchia sống sót khác thủ vai, và cuộc đào thoát của ông khỏi trại diệt chủng.
Diệt chủng.
Chế độ Khmer Đỏ đã bỏ tù và cuối cùng là hành quyết hầu như bất cứ ai bị nghi ngờ có quan hệ với chính quyền cũ hoặc với các chính quyền nước ngoài hoặc người đó là chuyên gia hay học giả. Những người thiểu số Việt Nam, Hoa, Thái, Chăm cũng như những tì khâu và những người Campuchia theo đạo Cơ đốc đều trở thành mục tiêu hành quyết. Bởi vậy, đôi khi Pol Pot được gọi là "Hitler của Campuchia" hay "bạo chúa diệt chủng". Nhà xã hội học Martin Shaw đã mô tả tội ác diệt chủng ở Campuchia là "tội diệt chủng thuần chủng nhất của thời chiến tranh Lạnh." | 1 | null |
Xuất bản phẩm định kỳ hay tài liệu xuất bản định kỳ là loại xuất bản phẩm (đa số là ấn phẩm) có các bản mới được phát hành theo lịch trình đều đặn. Các ví dụ quen thuộc nhất về xuất bản phẩm định kỳ là báo viết (báo ngày, báo tuần) hoặc tạp chí (thường xuất bản theo tuần, theo tháng hoặc theo quý). Bên cạnh đó còn có những xuất bản phẩm khác như bản tin, tạp chí văn học, tập san học thuật (bao gồm tập san khoa học), tạp chí khoa học phổ thông và niên giám.
Tập và Kỳ.
Điển hình trong đó là những xuất bản phẩm được phát hành và trích dẫn theo "Tập" và "Kỳ". "Tập" còn gọi là "Quyển" ("Volume") thường để chỉ số năm thứ mấy mà xuất bản phẩm đó đã lưu hành, trong khi "Kỳ" ("Issue") hay "Số" ("Number") là để chỉ số lần thứ mấy mà xuất bản phẩm đó được phát hành trong năm. Ví dụ, xuất bản phẩm tháng 4 năm 2013 của một nguyệt san được xuất bản lần đầu năm 2011 sẽ được liệt kê là "Tập 3, Kỳ 4". Số La Mã đôi khi được dùng để ghi số Tập. Lưu ý, "Kỳ" cũng được gọi là "Niên kỳ" để phân biệt với "Tổng kỳ". Tổng kỳ là tổng số tất cả các kỳ tính từ lần phát hành đầu tiên. Như trong ví dụ trên, số Tổng kỳ sẽ là 12×2+4=28.
Phổ thông và học thuật.
Có thể phân xuất bản phẩm định kỳ làm hai loại: phổ thông (đại chúng) và học thuật (hàn lâm). Xuất bản phẩm định kỳ loại phổ thông bao gồm tạp chí và báo. Xuất bản phẩm định kỳ loại học thuật (tập san) có trong thư viện và cơ sở dữ liệu. Các tạp chí chuyên ngành cũng là loại xuất bản phẩm định kỳ, được viết cho đối tượng độc giả chuyên nghiệp trong lĩnh vực nào đó. Vào đầu thập niên 1990, chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ đã có hơn 6.000 xuất bản phẩm thương mại, kỹ thuật, học thuật, khoa học và thương mại.
Không có dự định so với xuất bản từng phần.
Những ví dụ trên đây dựa trên giả định về vòng tuần hoàn liên tục của các xuất bản phẩm: chúng không được dự định kết thúc sau một số lượng các kỳ đã xác định trước. Trái lại, một cuốn tiểu thuyết có thể được xuất bản từng phần theo từng tháng. Phương pháp này gọi là "xuất bản từng phần", đặc biệt khi mỗi phần tới từ một tác phẩm hoàn chỉnh, hoặc khi mỗi phần tới từ một chuỗi nối tiếp ví dụ như truyện tranh. Loại hình này nở rộ trong suốt thế kỷ 19 và không chỉ giới hạn cho các tác phẩm hư cấu.
Mã tiêu chuẩn.
Xuất bản phẩm định kỳ cũng như xuất bản phẩm nhiều kỳ nói chung được nhận dạng bằng ISSN (Mã số Tiêu chuẩn Quốc tế cho Xuất bản phẩm nhiều kỳ), tương tự như ISBN cho sách. | 1 | null |
Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC) là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng các cú sốc thực tế (trái ngược với các cú sốc danh nghĩa). Không giống như các lý thuyết hàng đầu khác về chu kỳ kinh tế, lý thuyết RBC coi việc biến động chu kỳ kinh doanh là phản ứng hiệu quả đối với những thay đổi bên ngoài trong môi trường kinh tế thực. Tức là, mức sản lượng của quốc gia phải tối đa hóa mức lợi ích kỳ vọng, và các chính phủ nên tập trung vào những thay đổi chính sách cơ cấu dài hạn và không can thiệp vào chính sách tài chính được thiết kế để chủ động giải quyết các biến động kinh tế trong ngắn hạn.
Theo lý thuyết RBC, các chu kỳ kinh doanh do đó "có thật" ở chỗ chúng không thể hiện sự thất bại của thị trường mà ngược lại phản ánh hoạt động hiệu quả nhất của nền kinh tế, dựa trên cấu trúc của nó.
Lý thuyết RBC gắn liền với kinh tế học nước ngọt (Trường Kinh tế Chicago theo truyền thống tân cổ điển).
Chu kỳ kinh doanh.
Nếu chúng ta chụp một bức hình về nền kinh tế tại các thời điểm khác nhau, ta sẽ thấy rằng không có bức ảnh nào giống nhau. Điều này xảy ra vì hai lý do:
Một cách phổ biến để quan sát hành vi đó là xem xét chuỗi thời gian sản lượng của một nền kinh tế, cụ thể hơn là tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Đây chỉ là giá trị của hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi các doanh nghiệp và người lao động của một quốc gia.
Hình 1 cho thấy chuỗi thời gian GNP thực của Hoa Kỳ từ 1954–2005. Mặc dù chúng ta thấy sản lượng tăng liên tục, nhưng nó không phải là mức tăng ổn định. Có những thời điểm tăng trưởng nhanh hơn và có những thời điểm tăng trưởng chậm hơn. Hình 2 biến đổi các mức này vào tỷ lệ tăng trưởng của GNP thực và trích xuất xu hướng tăng trưởng đều đặn hơn. Một phương pháp phổ biến để có được xu hướng này là bộ lọc Hodrick – Prescott. Ý tưởng cơ bản là tìm sự cân bằng giữa mức độ mà xu hướng tăng trưởng chung tuân theo sự chuyển động theo chu kỳ (kể từ tốc độ tăng trưởng kỳ hạn có khả năng không hoàn toàn ổn định) và mức độ đều của nó. Bộ lọc HP xác định các biến động dài hạn như một phần của xu hướng tăng trưởng trong khi phân loại các biến động nhanh hơn thành phần theo chu kỳ.
Quan sát sự khác biệt giữa thành phần tăng trưởng này và dữ liệu giật cấp. Các nhà kinh tế học gọi những chuyển động theo chu kỳ này là chu kỳ kinh doanh. Hình 3 thể hiện rõ ràng những sai lệch như vậy. Lưu ý trục hoành ở mức 0. Một điểm trên đường này cho biết tại năm đó, không có độ lệch so với xu hướng. Tất cả các điểm khác trên và dưới dòng đều có nghĩa là bị sai lệch. Bằng cách sử dụng ghi GNP thực, khoảng cách giữa bất kỳ điểm nào và đường 0 gần bằng phần trăm độ lệch so với xu hướng tăng trưởng dài hạn. Cũng lưu ý rằng trục tung sử dụng các giá trị rất nhỏ. Điều này chỉ ra rằng độ lệch trong GNP thực là rất nhỏ, có thể so sánh được và được quy cho lỗi đo lường hơn là độ lệch.
Ta gọi độ lệch dương lớn (những độ lệch trên trục 0) là cực đại và độ lệch âm tương đối lớn (những độ lệch âm dưới trục 0) là đáy. Một loạt các sai lệch dương dẫn đến đỉnh là bùng nổ và một loạt các sai lệch âm dẫn đến đáy là suy thoái.
Trong nháy mắt, độ lệch trông giống như một chuỗi sóng chụm lại với nhau không nhất quán. Để giải thích nguyên nhân của những biến động như vậy khá khó khăn. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét các biến số kinh tế vĩ mô khác, chúng ta sẽ quan sát thấy các mô hình bất thường này. Ví dụ: Hình 4 mô tả những biến động trong sản lượng và chi tiêu tiêu dùng, tức là những gì mọi người mua và sử dụng tại bất cứ thời kỳ nhất định nào. Quan sát cách các đỉnh và đáy sắp xếp gần như giống nhau và các điểm lên và xuống trùng khớp với nhau như thế nào.
Ta có thể dự đoán rằng các dữ liệu khác có thể xuất hiện một cách tương tự. Ví dụ, (a) lao động, (b) số giờ làm việc năng suất, cách thức các doanh nghiệp sử dụng vốn hoặc lao động hiệu quả, (c) đầu tư, số vốn tiết kiệm được để giúp đỡ các nỗ lực trong tương lai và (d) vốn tồn kho, giá trị của máy móc, tòa nhà và các thiết bị khác giúp các công ty sản xuất hàng hóa của họ. Trong khi Hình 5 cho thấy một câu chuyện tương tự đối với đầu tư, mối quan hệ với vốn trong Hình 6 khác hoàn toàn với nó. Chúng tôi cần một cách để ghi lại một câu chuyện hay hơn; một cách là xem một số thống kê.
Sự thật cách điệu.
Bằng cách nhìn vào dữ liệu, chúng ta có thể suy ra một số quy luật, đôi khi được gọi là sự thật cách điệu. Một là sự bền bỉ. Ví dụ, nếu ta lấy bất kỳ điểm nào trong chuỗi nằm trên xu hướng (trục x trong hình 3), khả năng giai đoạn tiếp theo vẫn nằm trên xu hướng là rất cao. Tuy nhiên, sự bền bỉ này bị hao mòn theo thời gian. Có nghĩa là, hoạt động kinh tế ngắn hạn khá dễ dự đoán nhưng do tính chất biến động dài hạn không thường xuyên nên việc dự báo về lâu dài khó khăn hơn nhiều nếu không muốn nói là không thể.
Một tính đều đặn khác là sự biến thiên theo chu kỳ. Cột A của Bảng 1 liệt kê những cách đo độ lệch chuẩn. Mức độ dao động của sản lượng và số giờ làm việc gần bằng nhau. Tương tự, mức tiêu thụ và năng suất đều trơn tru hơn nhiều so với sản lượng trong khi đầu tư. Vốn cổ phần ít biến động nhất trong các chỉ số.
Tuy nhiên, một sự đều đặn khác là sự đồng chuyển động giữa sản lượng và biến số kinh tế vĩ mô khác. Hình 4 - 6 minh họa mối quan hệ đó. Chúng ta có thể đo lường điều này chi tiết hơn bằng cách sử dụng các mối tương quan như được liệt kê trong cột B của Bảng 1. Một biến theo chu kỳ có mối tương quan thuận vì nó thường tăng khi bùng nổ và giảm trong thời kỳ suy thoái. Ngược lại, một biến phản chu kỳ có mối tương quan nghịch. Một biến số tuần hoàn, có mối tương quan gần bằng 0, hàm ý không có mối quan hệ nào với chu kỳ kinh doanh. Chúng ta thấy rằng năng suất đi với chu kỳ, có nghĩa rằng người lao động và vốn có năng suất cao hơn khi nền kinh tế đang trải qua sự bùng nổ. Họ không hoạt động hiệu quả khi nền kinh tế đang suy thoái. Các giải thích tương tự cũng được áp dụng đối với tiêu dùng và đầu tư, vốn có tính tuần hoàn. Lao động cũng có tính chu kỳ trong khi vốn dự trữ xuất hiện theo chu kỳ.
Quan sát những biến động tương đồng nhưng dường như không xác định về xu hướng này, câu hỏi đặt ra là tại sao điều này lại xảy ra. Vì mọi người thích bùng nổ kinh tế hơn là suy thoái, nên nếu tất cả mọi người trong nền kinh tế đưa ra quyết định tối ưu, thì những biến động này là do yếu tố gì ở bên ngoài quá trình gây ra. Vì vậy, câu hỏi quan trọng thực sự là: yếu tố chính nào ảnh hưởng và sau đó thay đổi quyết định của tất cả các yếu tố trong nền kinh tế?
Các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều ý tưởng để trả lời câu hỏi trên. Hiện đang thống trị các tài liệu học thuật về lý thuyết này là chu kỳ kinh tế thực được Finn E. Kydland và Edward C. Prescott giới thiệu vào năm 1982 “Xây dựng và tổng hợp biến động” . Họ hình dung yếu tố này là những cú sốc về công nghệ - tức là những biến động ngẫu nhiên về mức năng suất làm thay đổi xu hướng tăng trưởng liên tục lên hoặc xuống. Ví dụ về những cú sốc đó bao gồm đổi mới, thời tiết xấu, giá dầu nhập khẩu tăng, các quy định nghiêm ngặt hơn về môi trường và an toàn... Ý chính chung là điều gì đó xảy ra làm thay đổi trực tiếp hiệu quả của vốn và lao động. Điều này lại ảnh hưởng đến quyết định của người lao động và doanh nghiệp, những người này sẽ thay đổi những gì họ mua và sản xuất, do đó cuối cùng ảnh hưởng đến sản lượng. Các mô hình RBC dự đoán trình tự thời gian phân bổ cho tiêu dùng, đầu tư..với những cú sốc này.
Nhưng chính xác thì những cú sốc về năng suất này gây ra những thăng trầm trong hoạt động kinh tế như thế nào? Hãy xem xét một cú sốc tích cực nhưng tạm thời đối với năng suất. Điều này ngay lập tức làm tăng hiệu quả của người lao động và vốn, cho phép một mức vốn và lao động nhất định tạo ra nhiều sản lượng hơn.
Các cá nhân phải đối mặt với hai loại đánh đổi. Một là quyết định tiêu dùng - đầu tư. Vì năng suất cao hơn nên người dân có nhiều đầu ra hơn để tiêu thụ. Một cá nhân có thể chọn tiêu thụ tất cả chúng ngay hôm nay. Nhưng nếu anh ta coi trọng mức tiêu thụ trong tương lai, thì tất cả sản lượng tăng thêm đó có thể không đáng để tiêu thụ toàn bộ ngày hôm nay. Thay vào đó, anh ta có thể tiêu dùng một phần nhưng đầu tư phần còn lại vào vốn để tăng cường sản xuất trong các giai đoạn tiếp theo và do đó tăng mức tiêu thụ trong tương lai. Điều này giải thích tại sao chi tiêu đầu tư lại dễ biến động hơn tiêu dùng. Giả thuyết chu kỳ sống lập luận rằng các hộ gia đình đưa ra quyết định tiêu dùng dựa trên thu nhập kỳ vọng cả đời và do đó họ thích tiêu dùng "trơn tru" theo thời gian. Do đó, họ sẽ tiết kiệm (và đầu tư) trong những thời kỳ có thu nhập cao và trì hoãn việc tiêu dùng khoản này vào những thời kỳ có thu nhập thấp.
Quyết định khác là sự cân bằng giữa lao động và giải trí. Năng suất cao hơn khuyến việc thay thế một công việc hiện tại cho công việc tương lai vì người lao động sẽ kiếm được nhiều tiền hơn mỗi giờ hôm nay so với ngày mai. Ngày nay, có nhiều người lao động hơn và ít nhàn rỗi hơn dẫn đến sản lượng cao hơn, tiêu dùng và đầu tư lớn hơn. Mặt khác, có một tác động ngược lại: vì người lao động đang kiếm được nhiều tiền hơn, họ có thể không muốn làm việc nhiều như hiện nay và trong các giai đoạn tương lai. Tuy nhiên, với tính chất chu kỳ của lao động, có vẻ như tác động thay thế ở trên chi phối tác động thu nhập này
Nhìn chung, mô hình RBC cơ bản dự đoán rằng với một cú sốc tạm thời, sản lượng, tiêu dùng, đầu tư và lao động đều tăng trên xu hướng dài hạn và do đó hình thành độ lệch dương. Hơn nữa, vì đầu tư nhiều hơn có nghĩa là có nhiều vốn hơn cho tương lai, nên một cú sốc ngắn hạn có thể có tác động đến tương lai. Có nghĩa là, hành vi trên xu hướng có thể tồn tại trong một thời gian ngay cả sau khi cú sốc biến mất. Tích lũy vốn này thường được coi là một "cơ chế lan truyền" bên trong, vì nó có thể làm tăng độ bền của các cú sốc đối với sản lượng.
Một chuỗi các cú sốc về năng suất như vậy có thể sẽ dẫn đến sự bùng nổ. Tương tự, suy thoái kéo theo một chuỗi các cú sốc tồi tệ đối với nền kinh tế. Nếu không có cú sốc, nền kinh tế sẽ tiếp tục theo xu hướng tăng trưởng, không có chu kỳ kinh doanh.
Để phù hợp về mặt định lượng với các dữ kiện cách điệu trong Bảng 1, Kydland và Prescott đã giới thiệu các kỹ thuật hiệu chuẩn. Sử dụng phương pháp luận này, mô hình mô phỏng gần giống với nhiều đặc tính của chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, các mô hình RBC hiện tại vẫn chưa giải thích đầy đủ tất cả các hành vi và các nhà kinh tế học tân cổ điển vẫn đang tìm kiếm các biến thể tốt hơn
Giả định chính trong lý thuyết RBC là các cá nhân và doanh nghiệp phản ứng tối ưu trong thời gian dài. Có nghĩa là các chu kỳ kinh doanh được thể hiện trong một nền kinh tế được lựa chọn theo sở thích chứ không phải không có chu kỳ kinh doanh nào cả. Điều này không có nghĩa là mọi người thích suy thoái. Sự sụt giảm được dẫn trước bởi một cú sốc năng suất không mong muốn, điều này đã kìm hãm tình hình. Nhưng với những hạn chế mới này, mọi người vẫn sẽ đạt được kết quả tốt nhất có thể và thị trường sẽ phản ứng hiệu quả. Vì vậy, khi có một sự sụt giảm, mọi người đang lựa chọn ở trong sự sụt giảm đó bởi vì trong hoàn cảnh, đó là giải pháp tốt nhất. Điều này cho thấy giấy thông hành (không can thiệp) là chính sách tốt nhất của chính phủ đối với nền kinh tế nhưng với bản chất trừu tượng của mô hình, điều này đã gây ra tranh vãi
Tiền thân của lý thuyết RBC được phát triển bởi các nhà kinh tế tiền tệ Milton Friedman và Robert Lucas vào đầu những năm 1970. Họ hình dung ra yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của mọi người là nhận thức sai về tiền lương - tức là sự bùng nổ và suy thoái xảy ra khi người lao động nhận thức được mức lương cao hơn hoặc thấp hơn thực tế. Điều này có nghĩa là họ đã làm việc và tiêu thụ nhiều hơn hoặc ít hơn so với cách khác. Trong một thế giới thông tin hoàn hảo, sẽ không có sự bùng nổ hay suy thoái.
Sự định cỡ.
Không giống như ước lượng, định cỡ thường được sử dụng để xây dựng các mô hình kinh tế, hiệu chuẩn chỉ quay trở lại bảng vẽ để thay đổi mô hình khi đối mặt với nhiều bằng chứng chống lại mô hình là đúng; điều này đảo ngược gánh nặng chứng minh khỏi người xây dựng mô hình. Trong thực tế, nói một cách đơn giản, đó là quá trình thay đổi mô hình để phù hợp với dữ liệu. Vì các mô hình RBC giải thích dữ liệu trước khi đăng, nên rất khó để làm sai lệch bất kỳ một mô hình nào có thể được đưa ra để giải thích dữ liệu. Các mô hình RBC rất cụ thể về mẫu, khiến một số người tin rằng chúng có rất ít hoặc không có khả năng dự đoán.
Các biến cấu trúc.
Các mô hình RBC quan trọng, "giá trị hợp lý" cho các biến cấu trúc như tỷ lệ chiết khấu và tỷ lệ khấu hao vốn được sử dụng để tạo các đường biến mô phỏng. Chúng có xu hướng được ước tính từ các nghiên cứu kinh tế, với độ tin cậy khoảng 95%. Nếu sử dụng đầy đủ các giá trị có thể có cho các biến này, hệ số tương quan giữa đường đi thực tế và mô phỏng của các biến kinh tế có thể thay đổi dữ dội, dẫn đến một số câu hỏi mức độ thành công của một mô hình chỉ đạt được hệ số 80% thực sự là như thế nào.
Phê bình.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế dựa trên ba giả định mà theo các nhà kinh tế học như Greg Mankiw và Larry Summers là không thực tế:
1. Mô hình được thúc đẩy bởi những thay đổi lớn và đột ngột trong công nghệ sản xuất sẵn có. Summers lưu ý rằng Prescott không thể đưa ra bất kỳ cú sốc công nghệ cụ thể nào cho một cuộc suy thoái thực tế ngoài cú sốc giá dầu vào những năm 1970. Hơn nữa, không có bằng chứng kinh tế vi mô cho những cú sốc thực tế lớn cần thúc đẩy các mô hình này. Các mô hình chu kỳ kinh doanh thực tế như một quy luật không phải kiểm tra các lựa chọn thay thế cạnh tranh mà dễ hỗ trợ. (Summers 1986)
2. Thất nghiệp phản ánh những thay đổi về số lượng mà mọi người muốn làm việc.
Paul Krugman lập luận rằng giả định này có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp 25% ở đỉnh điểm của cuộc Đại suy thoái (1933) sẽ là kết quả của một quyết định hàng loạt để đi nghỉ dài ngày.
3. Chính sách tiền tệ không thích hợp với những biến động kinh tế.
Ngày nay, người ta đồng ý rộng rãi với tiền lương và giá cả không điều chỉnh nhanh chóng khi cần thiết để khôi phục trạng thái cân bằng. Do đó, hầu hết các nhà kinh tế, ngay cả trong số các nhà cổ điển mới, không chấp nhận đề xuất chính sách không hiệu quả
Một chỉ trích lớn khác là các mô hình chu kỳ kinh doanh thực tế không thể tính đến các động lực được hiển thị bởi tổng sản phẩm quốc dân của Hoa Kỳ. Như Larry Summers đã nói: "(Quan điểm của tôi là) các mô hình chu kỳ kinh doanh thực tế thuộc loại được [Ed] Prescott thúc giục chúng tôi không liên quan gì đến các hiện tượng chu kỳ kinh doanh được quan sát thấy ở Hoa Kỳ hoặc các nền kinh tế tư bản khác." - (Mùa hè 1986) | 1 | null |
Vườn quốc gia Big Bend là một vườn quốc gia nằm ở tiểu bang Texas của Hoa Kỳ, gần biên giới với México. "Big Bend" có tầm quan trọng quốc gia như là khu vực được bảo vệ lớn nhất của địa hình và sinh thái học sa mạc Chihuahua tại Hoa Kỳ và Mexico. Vườn quốc gia bao gồm hơn 1.200 loài thực vật, hơn 450 loài chim, 56 loài bò sát và 75 loài động vật có vú.
Khu bảo tồn rộng 801.163 mẫu Anh (1.252 dặm vuông; 3.242 km²). Nó có diện tích lớn hơn cả bang Rhode Island. Chỉ một vài vườn quốc gia khác vượt trội so với vườn quốc gia này về giá trị bảo vệ và nghiên cứu các nguồn tài nguyên địa chất và cổ sinh vật học. Một loạt các hóa thạch kỷ Phấn Trắng và Kỷ Đệ tam cũng như các hiện vật văn hóa của người bản địa châu Mỹ có mặt tại đây. Các nhà khảo cổ phát hiện được nhiều hiện vật ước tính là 9.000 năm tuổi. Ngoài ra là các tòa nhà lịch sử và cảnh quan tự nhiên cung cấp minh họa sinh động về cuộc sống dọc theo biên giới quốc tế trong thế kỷ 19.
Với chiều dài hơn 1.000 dặm (1.600 km), sông Rio Grande/Río Bravo tạo thành biên giới tự nhiên giữa Mexico và Hoa Kỳ, vườn quốc gia Big Bend quản lý khoảng 244 dặm (393 km) dọc theo ranh giới đó. Vườn quốc gia được đặt tên theo khu vực, bao quanh bởi những đoạn uốn cong lớn ở biên giới Texas - Mexico.
Vì Rio Grande phục vụ như một biên giới quốc tế, nên vườn quốc gia Big Bend phải đối mặt với khó khăn bất thường trong khi quản lý và thực thi các quy tắc, quy định và chính sách của vườn quốc gia. Để phù hợp với Hiệp ước Guadalupe Hidalgo, lãnh thổ của vườn quốc gia chỉ mở rộng đến trung tâm của lòng sông sâu nhất theo dòng chảy năm 1848. Phần còn lại của vùng đất phía nam lòng sông đó và con sông nằm trong lãnh thổ Mexico.
Địa lý và khí hậu.
Khí hậu tại đây có sự tương phản mạnh mẽ, có thể được mô tả như là một trong những thái cực. Những ngày khô và nóng cuối mùa xuân và mùa hè thường vượt quá 100 °F (38 °C) tại các khu vực thấp hơn. Mùa đông nhiệt độ dễ chịu tại khắp vườn quốc gia, nhưng nhiệt độ dưới điểm đóng băng thỉnh thoảng xảy ra. Vì độ cao từ khoảng 1.800 feet (550 m) dọc theo con sông tới 7.832 feet (2.387 m) tại đỉnh Emory ở dãy núi Chisos nên có một sự khác biệt lớn về độ ẩm trong không khí và nhiệt độ tồn tại trên khắp vườn quốc gia. Các biến đổi này đóng góp vào sự đa dạng đặc biệt về môi trường sống của thực vật và động vật. Một số loài chỉ có mặt trong vườn quốc gia, chẳng hạn như loài cử đỏ Chisos ("Quercus gravesii"), mà không thể được tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác ở Hoa Kỳ.
Chiều dài 118 dặm (190 km) của sông Rio Grande tạo nên ranh giới của vườn quốc gia ở phía nam, bao gồm các hẻm núi ngoạn mục như Santa Elena, Mariscal, và Boquillas. Rio Grande, uốn khúc qua phần này của sa mạc Chihuahua, đã chia cắt các hẻm núi sâu với những bức tường gần như thẳng đứng qua 3 phay nghịch chủ yếu là đá vôi. Xuyên suốt vùng sa mạc rộng lớn, khu vực ven sông Rio Grande trù phú bao gồm rất nhiều loài động thực vật và các nguồn tài nguyên văn hóa quan trọng. Vành đai thực vật mở rộng vào trong sa mạc dọc theo các con lạch và con rạch.
Phía nam biên giới là các bang Chihuahua và Coahuila của Mexico và các khu vực bảo vệ hệ động thực vật mới được tạo ra, trong đó có các khu vực được gọi là Maderas del Carmen và Canon de Santa Elena.
Năm 2012, vườn quốc gia được Hiệp hội quốc tế Bầu trời tối đặt tên là "Công viên quốc tế Bầu trời tối", công nhận Big Bend như là một trong mười nơi trên hành tinh được chứng nhận để ngắm sao trong đêm tối. Ngoài ra, Hiệp hội công nhận Big Bend như là địa điểm có bầu trời tối nhất đo được trong 48 địa điểm được đo tại Hoa Kỳ. Trong nhiều đêm, du khách có thể nhìn lên bầu trời để ngắm nhìn hàng ngàn ngôi sao, hành tinh sáng, và có thể quan sát rõ ràng dải Ngân Hà. Các nhà thiên văn học, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư, được thấy tại đây trong những đêm không trăng khi đang quan sát các ngôi sao qua kính thiên văn cầm tay.
Địa chất.
Các hoạt động kiến tạo lâu đời nhất được ghi nhận trong vườn quốc gia có liên quan đến kiến tạo Marathon Đại Cổ sinh, mặc dù nó có thể là sự kiện diễn ra trong Đại Nguyên sinh (hơn 550 triệu năm trước). Các kiến tạo Marathon là một phần của việc đẩy những tảng đá từ Mảng Nam Mỹ lên so với mảng Bắc Mỹ. Điều này có thể được nhìn thấy rõ nhất trong khu vực Persimmon Gap của vườn quốc gia. Sự kiện tạo núi này có liên quan đến việc nhiều các phiến đá kỷ Trias và kỷ Jura trong vườn quốc gia.
Giữa kỷ Trias và kỷ Phấn Trắng, mảng Nam Mỹ tách giãn ra từ mảng Bắc Mỹ, kết quả là sự lắng đọng của đá vôi Glen Rose, đá vôi Del Carmen, đá vôi Santa Elena, đất sét Del Rio, đá vôi Buda và Boquillas. Cũng trong thời gian này, các máng Chihuahua hình thành như Vịnh Mexico mở rộng, kết quả ở phía đông-tây nổi bật các vết đứt gãy. Như một kết quả của thời gian trầm tích này, hóa thạch của khủng long, thực vật và các hóa thạch khác được bảo quản tốt trong vườn quốc gia Big Bend. | 1 | null |
Mã số tiêu chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ hay viết tắt là ISSN (tiếng Anh: International Standard Serial Number) là một dãy số độc nhất gồm tám chữ số, được dùng để nhận dạng một xuất bản phẩm nhiều kỳ dạng giấy in hoặc điện tử như tạp chí định kỳ, tạp chí chuyên khảo, báo, bản tin, xuất bản phẩm thông tin, niên giám, báo cáo thường niên, kỷ yếu hội nghị hay hội thảo, phụ trương hay phụ bản của các xuất bản phẩm nhiều kỳ. Nhiều xuất bản phẩm có ở cả hai dạng in và điện tử nên được ISSN xếp vào hai loại là: ISSN in (p-ISSN) và ISSN điện tử (e-ISSN hay eISSN). Hệ thống ISSN được phác thảo như một tiêu chuẩn quốc tế ISO vào năm 1971 và được ấn hành với tên gọi ISO 3297 vào năm 1975. Tiểu ban ISO TC 46/SC 9 là cơ quan quản lý tiêu chuẩn này.
Định dạng.
ISSN gồm tám chữ số, được phân cách làm hai phần (mỗi phần gồm bốn chữ số) bởi một dấu gạch nối. Chữ số cuối (có thể là một trong các chữ số từ 0 đến 9 hoặc chữ cái X) là chữ số kiểm tra. Ví dụ, ISSN của báo Tuổi Trẻ là 0868-3999, trong đó chữ số kiểm tra là 9.
Có thể dùng thuật toán sau để tính ra chữ số kiểm tra:
Tiếp theo, lấy mô-đun 11 của tổng này, tức là lấy tổng này chia cho 11 để tìm số dư.
Chữ X in hoa dùng trong trường hợp chữ số kiểm tra được tính ra là 10.
Để xác nhận chữ số kiểm tra, lấy từng chữ số trong cả tám chữ số của ISSN rồi nhân với số chỉ vị trí của nó (vẫn tính từ bên phải sang; X tương ứng với giá trị 10). Mô-đun 11 của tổng sẽ bằng 0 nếu tính đúng.
Cấp mã.
Mã ISSN được cấp phát bởi một hệ thống các Trung tâm Quốc gia ISSN, thường là đóng tại các thư viện quốc gia và được phối hợp bởi Trung tâm Quốc tế ISSN ở Paris, Pháp. Trung tâm này là một tổ chức quốc tế thành lập năm 1974 qua một thỏa thuận giữa UNESCO và chính phủ Pháp. Trung tâm có một cơ sở dữ liệu gọi là "ISDS Register (International Serials Data System)" hay "ISSN Register", chứa tất cả ISSN được cấp trên thế giới. Đầu năm 2011, cơ sở dữ liệu này lưu trữ 1.623.566 ISSN.
So sánh với các mã nhận dạng khác.
ISSN và ISBN giống nhau về mặt ý tưởng, chỉ khác ở chỗ ISBN là dành để nhận diện sách. Đi kèm với ISSN áp dụng cho toàn bộ xuất bản phẩm nhiều kỳ thì ISBN cũng có thể được cấp cho một kỳ cụ thể của xuất bản phẩm đó. Không giống như ISBN, ISSN là mã nhận dạng gắn liền với nhan đề của một xuất bản phẩm nhiều kỳ và không chứa thông tin về nhà xuất bản hay nơi xuất bản. Vì lý do này mà số ISSN phải được cấp mới mỗi khi xuất bản phẩm có sự thay đổi lớn trong nhan đề.
Do ISSN áp dụng cho toàn bộ xuất bản phẩm nên người ta xây dựng thêm mã SICI ("Serial Item and Contribution Identifier") để tham chiếu một tập, một bài viết cụ thể hay một thành phần nhận dạng (ví dụ mục lục).
Tính sẵn có.
Muốn tra cứu ISSN Register thì phải đăng ký do cơ sở dữ liệu này không có sẵn trên mạng Internet. Có một số cách để công chúng nhận dạng và xác nhận mã ISSN.
Sử dụng URN.
Một mã ISSN có thể mã hóa thành Tên gọi Tài nguyên Đồng nhất ("Uniform Resource Name" - URN) bằng cách thêm tiếp đầu ngữ urn vào, tức là "". Ví dụ tạp chí "Rail" có thể được tham chiếu là "". Không gian tên URN có sự phân biệt VIẾT HOA-viết thường, và không gian tên ISSN thì đều viết in hoa. Nếu chữ số kiểm tra là "X" thì vẫn viết hoa khi mã hóa thành URN.
Vấn đề.
URN là mã định hướng nội dung của ISSN là mã định hướng phương tiện:
Nhãn danh mục phương tiện.
Hai loại tiêu chuẩn của phương tiện truyền thông mà các loạt bài có sẵn nhiều nhất là "bản in" và "bản điện tử" .
ISSN cho bản in.
"p-ISSN" là nhãn tiêu chuẩn cho "Print ISSN", ISSN cho phiên bản phương tiện in (giấy) của một series. Thông thường nó là "phương tiện mặc định" và vì vậy là "ISSN mặc định".
ISSN điện tử.
"e-ISSN" (hoặc "eISSN" ) là nhãn tiêu chuẩn cho "ISSN điện tử", ISSN cho phiên bản phương tiện điện tử (trực tuyến) của một series. | 1 | null |
Serena Williams là đương kim vô địch của mùa giải nhưng bị loại ngay từ vòng 4 thua ta vợt người Đức Sabine Lisicki. Marion Bartoli đã vô địch giải Grand Slam đầu tiên sau khi chiến thắng Sabine Lisicki ở chung kết.
Hạt giống.
Serena Williams "(Vòng bốn)
Victoria Azarenka "(Second round, withdrew because of a knee injury)
Maria Sharapova "(Vòng hai)
Agnieszka Radwańska "(Bán kết)
Sara Errani "(Vòng một)
Li Na "(Tứ kết)
Angelique Kerber "(Vòng hai)
Petra Kvitová "(Tứ kết)
Caroline Wozniacki "(Vòng hai)
Maria Kirilenko "(Vòng một)
Roberta Vinci "(Vòng bốn)
Ana Ivanovic "(Vòng hai)
Nadia Petrova "(Vòng một)
Samantha Stosur "(Vòng ba)
Marion Bartoli (Vô địch)
Jelena Janković "(Vòng hai)
Sloane Stephens "(Tứ kết)
Dominika Cibulková "(Vòng ba)
Carla Suárez Navarro "(Vòng bốn)
Kirsten Flipkens "(Bán kết)
Anastasia Pavlyuchenkova "(Vòng một)
Sorana Cîrstea "(Vòng hai)
Sabine Lisicki " (Chung kết)
Peng Shuai "(Vòng hai)
Ekaterina Makarova "(Vòng ba)
Varvara Lepchenko "(Vòng một)
Lucie Šafářová "(Vòng hai)
Tamira Paszek "(Vòng một)
Alizé Cornet "(Vòng ba)
Mona Barthel "(Vòng hai)
Romina Oprandi "(Vòng một)
Klára Zakopalová "(Vòng ba) | 1 | null |
Jessie (viết theo định dạng là "JESSIE") là một loạt hài kịch tình huống (Sitcom) dành cho lứa tuổi trẻ em và thiếu niên ra mắt ngày 30 tháng 9 năm 2011 trên kênh Disney Channel. Bộ phim được tạo ra và điều hành sản xuất bởi Pamela Eells O'Connell và có sự tham gia của Debby Ryan vai Jessie Prescott, một cô gái tỉnh lẻ ở Texas chuyển vào sống ở New York và trở thành bảo mẫu của 4 đứa con của một gia đình giàu có. Các diễn viên khác tham gia vai các đứa con bao gồm Peyton List, Cameron Boyce, Karan Brar và Skai Jackson. Vào tháng Ba ngày 11 năm 2012, Disney công bố rằng "Jessie" sẽ tiếp tục được làm phần (hay mùa) 2 và một bộ phim truyền hình dựa trên phim này đang được phát triển. Phần (hay mùa) 2 bấm máy ngày 9 tháng 7 năm 2012. và ra mắt ngày 5 tháng 10 năm 2012.
Ngày 28 tháng 3 năm 2013, phần 3 hay mùa 3 được quyết định cho sản xuất và sẽ phát sóng bắt đầu từ ngày 5 tháng 10 năm 2013.
Cốt truyện.
Jessie Prescott, một cô gái tỉnh lẻ ở Texas sống trong một căn cứ quân sự ở vùng nông thôn Hoa Kỳ. Vì không hợp với người cha là một Trung sĩ Hải Quân khó tính, Jessie chuyển đến New York để thực hiện ước mơ của cô là trở thành ngôi sao, nhưng với một biến cố bất ngờ của cuối cùng lại trở thành một người trông trẻ cho gia đình nhà Ross giàu có gồm: Morgan và Christina, và bốn đứa con của họ: Emma, Luke, Ravi và Zuri, cùng với con vật nuôi (và là bạn đồng hành của Ravi) Mr. Kipling, một con thằn lằn bảy chân. Hỗ trợ của cô là Bertram, quản gia lười biếng và cáu kỉnh của gia đình Ross, và Tony, người gác cổng 20 tuổi của tòa nhà mà họ sống.
Phát hành.
Tập phim đầu tiên của" Jessie" được phát hành dưới dạng tải về miễn phí qua iTunes Store một tuần trước khi ra mắt trên Disney Channel. Ra mắt chính thức trên kênh Disney vào ngày 30 Tháng Chín năm 2011, bộ phim đã trở thành phim có phần ra mắt được xem nhiều nhất của mạng lưới truyền hình này vào ngày thứ sáu kể từ tháng 9 năm 2008, khi" The Suite Life on Deck" ra mắt. Buổi ra mắt của Jessie xếp hạng là thứ một trong các chương trình truyền hình vào lúc 9 giờ với tổng số 4,6 triệu người xem trong tổng số đối tượng khán giả phim nhắm tới, ghi được 2,3 triệu người xem đối với các em 6-11 tuổi và 1,8 triệu người xem trong 9-14, với trung bình 887.000 người xem trong số người lớn từ 18-49 tuổi. Tập phim được xem nhiều nhất của" Jessie" là "Star Wars" với 7,32 triệu người xem. Tập "Quitting Cold Koala" có ít lượt xem nhất với 2,24 triệu người xem do phải hủy chiếu vì các vấn đề trong kịch bản. Về sau nhiều phần tấu hài trong tập này bị cắt.
Bộ phim bắt đầu phát sóng trên Disney XD vào 28 tháng 6 năm 2013 không theo thứ tự tập phim. Bộ phim hiện nay có hai mạng lưới phát sóng tại Mỹ. | 1 | null |
György de Hevesy () (1 tháng 8 năm 1885- 5 tháng 7 năm 1966) là nhà hóa học người Hungary. Ông nhận giải Nobel Hóa học năm 1943 do đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển chất đánh dấu phóng xạ để nghiên cứu các quá trình quá trình hóa học, đặc biệt là trao đổi chất ở động vật. Ông cũng đồng khám phá ra nguyên tố hafnium.
Tuổi trẻ.
Hevesy György sinh ra tại Budapest, Hungary trong một gia đình Hungary gốc Do Thái giàu có, theo Công giáo và được phong quý tộc, con thứ năm của trong gia đình có tám con, cha là Lajos Bischitz và mẹ là Nữ bá tước Eugenia Schossberger de Tornya. Hai bên nội ngoại gia đình ông đều có người từng làm lãnh tụ của cộng đồng Do Thái ở Pest.
Hevesy học trung học ở trường Piarista Gimnázium và tốt nghiệp năm 1903.
Hevesy bắt đầu nghiên cứu hóa học tại Đại học Budapest trong một năm, tại Đại học Kỹ thuật Berlin vài tháng, cuối cùng ông chuyển sang Đại học Albert Ludwigs Freiburg.
Năm 1906 ông bắt đầu làm luật án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của Georg Franz Julius Meyer.
Năm 1908, ông nhận bằng tiến sĩ vật lý. Cũng trong năm này ông nhận một vị trí tại ETH Zürich.
Nghiên cứu.
Năm 1922 Hevesy đồng phát minh ra hafnium (72Hf) (tiếng Latinh từ "Hafnia" chỉ "Copenhagen", quê hương của Niels Bohr), cùng với Dirk Coster. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev năm 1869 đặt các nguyên tố hóa học vào một hệ thống logic, tuy nhiên một nguyên tố với 72 proton bị khuyết. Dựa trên mô hình nguyên tử của Bohr, Hevesy đi đến kết luận rằng phải có một nguyên tố hóa học ở vị trí đó. Bảo tàng khoáng vật học của Na Uy và Greenland ở Copenhagen cung cấp vật liệu cho nghiên cứu của ông. Phổ đặc trưng tia X từ các mẫu vật chỉ ra một nguyên tố mới tồn tại.
Hevesy nhận một ghế tại Đại học Freiburg. Được hỗ trợ tài chính từ Quỹ Rockefeller, ông đã có một năm rất thành công. Ông phát triển phương pháp phân tích huỳnh quang tia X, và phát hiện ra tia alpha của Samarium. Từ đây ông bắt đầu sử dụng các đồng vị phóng xạ trong việc nghiên cứu các quá trình trao đổi chất ở động vật và thực vật, bằng cách theo dõi các hóa chất trong cơ thể từ việc thay thế một phần đồng vị bên với một lượng nhỏ đồng vị phóng xạ. Năm 1923, Hevesy công bố nghiên cứu đầu tiên về việc sử dụng đồng vị phóng xạ tự nhiên 212Pb làm chất đánh dấu phóng xạ để theo dõi sự hấp thụ và hút nhựa trong rễ, thân và lá của loài Vicia faba (đậu răng ngựa).
Thế chiến thứ hai và những năm cuối đời.
Khi Đức Quốc xã xâm lược Đan Mạch từ tháng 4 năm 1940, Hevesy đã hòa tan hai huy chương Nobel bằng vàng của James Franck và Max von Laue vào nước cường toan để chúng không bị rơi vào tay phát xít. Vào thời đó mang vàng ra khỏi quốc gia là phạm pháp và nếu Franck và Laue bị phát hiện đem đi, họ sẽ bị xét xử ở Đức. Ông đặt dung dịch thu được trên giá đựng trong phòng thí nghiệm của mình tại Viện Niels Bohr. Sau chiến tranh, ông trở lại và phát hiện dung dịch vẫn còn nguyên, bèn kết tủa vàng ra khỏi a xít. Số vàng này được đưa trở lại cho Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển để họ đúc lại những huân chương mới cho Franck và Laue.
Năm 1943 Copenhagen không còn là một trung tâm khoa học của người Do Thái và Hevesy tìm cách chạy tới Thụy Điển, nơi ông làm việc tại Đại học Stockholm cho tới năm 1961.
Cuối năm 1943 ông nhận giải Nobel Hóa học cho những đóng góp về chất đánh dấu phóng xạ. Ông sau đó còn được ghi nhận là thành viên Hội Hoàng gia Anh và nhận Huy chương Copley của Hội, điều mà ông đặc biệt tự hào vì đến thời điểm của ông chỉ có hai nhà khoa học nước ngoài (ông cùng Bohr) nhận huy chương này.
Năm 1958 ông nhận Giải Nguyên tử vì Hòa bình với việc sử dụng đồng vị phóng xạ cho mục đích hòa bình.
Hevesy cưới Pia Riis năm 1924, họ có một con trai và ba con gái, trong đó một người con gái (Eugenie) lấy cháu trai của Svante Arrhenius. Ông mất năm 1966 và được chôn cất tại Budapest. Trong suốt đời mình ông đã công bố tổng cộng 397 bài viết khoa học, một trong số đó là Bài giảng Tưởng niệm Becquerel-Curie nhân dịp kỉ niệm thành lập ngành hóa học phóng xạ.
Phòng thí nghiệm phóng xạ Hevesy được thành lập tại Đại học Kỹ thuật Đan Mạch năm 2005 đặt theo tên của ông | 1 | null |
A Sầu là một thung lũng nằm ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm trên biên giới Việt-Lào. Thung lũng trải dài 40 km theo hướng bắc nam với khu vực đất trũng bằng phẳng rộng 1 km, hai bên là hai dãy núi phủ rừng rậm cao từ 3 đến 6 nghìn feet. Thung lũng A Sầu là một trong những vị trí trọng yếu để quân đội Nhân dân Việt Nam vận chuyển người và hàng hóa vào chiến trường miền Nam dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh; tại đây cũng từng diễn ra nhiều trận đánh ác liệt trong chiến tranh Việt Nam. | 1 | null |
Đặng Văn Lâm (, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Quy Nhơn Bình Định tại V.League 1 và đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam.
<br>Đặng Văn Lâm có bố là người Việt Nam và mẹ là người Nga.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Spartak Moscow và Dynamo Moscow.
Đặng Văn Lâm trưởng thành từ câu lạc bộ trẻ Spartak Moscow vào năm 2005 sau 5 năm, cuối năm đó anh chuyển đến câu lạc bộ Dinamo Moscow học hỏi thêm 4 năm.
Hoàng Anh Gia Lai.
Năm 2010, anh về Việt Nam và bắt đầu sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp với câu lạc bộ Hoàng Anh Gia Lai. Mùa 2013, anh được chuyển sang thi đấu cho câu lạc bộ Hoàng Anh Attapeu tại giải bóng đá ngoại hạng Lào theo dạng cho mượn. Dù cùng Hoàng Anh Attapeu giành ngôi á quân giải Lào nhưng sau khi trở lại Việt Nam, anh đã phải chia tay phố Núi vì không được trọng dụng và quay trở lại thi đấu cho 2 câu lạc bộ hạng thấp ở Nga là Duslar và Rodina Moscow.
Hải Phòng.
Năm 2015, anh quay trở lại Việt Nam để thi đấu cho câu lạc bộ Hải Phòng. Sau khi thất bại với việc có được suất bắt chính năm 2015, cho đến 2016, anh trở thành thủ môn trọng yếu của câu lạc bộ và ngay sau đó được gọi lên đội tuyển quốc gia Việt Nam bởi huấn luyện viên Miura Toshiya. Tháng 9 năm 2017, Văn Lâm ngã dẫn đến lật cổ chân khi bị trợ lý huấn luyện viên Lê Sỹ Mạnh hành hung. Văn Lâm sau đó đã rời khỏi Việt Nam và quay trở lại nước Nga. Nhưng một năm sau đó, anh lại quay trở về câu lạc bộ để tiếp tục thi đấu V.League 2018 sau khi Lê Sỹ Mạnh (người hành hung anh) đã bị sa thải trước đó.
Muangthong United.
Tháng 1 năm 2019, sau kỳ Asian Cup thành công cùng đội tuyển Việt Nam, Văn Lâm được câu lạc bộ Muangthong United của Thái Lan để ý. Anh đồng ý thi đấu cho câu lạc bộ và đã ký vào bản hợp đồng kéo dài 3 năm. Đội bóng Thái Lan phải trả cho câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng 500.000 USD để đổi lấy sự phục vụ của thủ môn Việt kiều.
Năm 2021, việc Đặng Văn Lâm rời Muangthong United sang Cerezo Osaka đã được người đại diện của thủ môn này, ông Andrey Grushin, tiết lộ với tờ VnExpress từ ngày 7 tháng 1. Theo Grushin, Muangthong đã vi phạm các điều khoản về lương với Văn Lâm, nên thủ thành Việt kiều hoàn toàn là cầu thủ tự do và có thể thoải mái gia nhập Cerezo. Muangthong không chấp nhận để Văn Lâm ra đi dễ dàng. CLB Thái Lan kiện Văn Lâm lên FIFA, cho rằng anh và người đại diện tự ý phá vỡ hợp đồng. Muangthong thậm chí kiện cả Cerezo Osaka vì đã tự ý tiếp xúc với cầu thủ của họ. Phía Văn Lâm và ông Grushin vẫn tự tin vào vụ chuyển nhượng và khẳng định sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến pháp lý với CLB Thái Lan.
Cerezo Osaka.
Ngày 27 tháng 1 năm 2021, FIFA đã tạm thời cấp ITC (giấy phép chuyển nhượng quốc tế) cho Văn Lâm, mở đường cho anh ký hợp đồng với Cerezo Osaka. Sáng 30 tháng 1 năm 2021, câu lạc bộ Cerezo Osaka của Nhật Bản thông báo tuyển mộ thành công Đặng Văn Lâm. Anh chính thức là cầu thủ người Việt Nam đầu tiên khoác áo một câu lạc bộ J1 League, giải đấu cấp cao nhất của bóng đá Nhật Bản.
Chiều 9 tháng 6 năm 2021, Đặng Văn Lâm được huấn luyện viên Levir Culpi trao cơ hội bắt chính trước Gainare Tottori trong khuôn khổ trận đấu thuộc vòng 2 Cúp Hoàng đế Nhật Bản. Đây cũng là lần đầu tiên anh ra sân cho Cerezo Osaka kể từ khi chuyển đến đây vào tháng 1. Lần thứ 2, Văn Lâm được trao cơ hội bắt chính cho Cerezo Osaka là tại trận gặp câu lạc bộ Quảng Châu ở vòng đấu bảng AFC Champions League 2021.
Topenland Bình Định.
Đặng Văn Lâm ký hợp đồng ba năm với Topenland Bình Định chiều 15/8/2022, nhưng chưa thể ra mắt V-League 2022 do chấn thương trong buổi tập hôm 24/8, trước đó, anh mắc Covid-19 và bỏ lỡ trận đấu ở vòng 13 với Thanh Hoá. Anh góp phần giúp Bình Định thắng 3-0 trên sân Hà Nội ở vòng 15 tối 2/9 và giúp thắng Viettel để vào bán kết Cúp Quốc gia 2022 nhờ loạt sút luân lưu.
Sự nghiệp quốc tế.
Văn Lâm bắt đầu thi đấu cho đội tuyển quốc gia Việt Nam từ năm 2015, khi đó Việt Nam đang sở hữu một số cầu thủ nhập tịch có nguồn gốc nước ngoài. Cùng với cầu thủ Việt kiều Cộng hòa Séc là Mạc Hồng Quân, anh là một trong hai cầu thủ nhập tịch đáng chú ý nhất của đội tuyển quốc gia. Chỉ 1 năm sau, anh lại được huấn luyện viên Nguyễn Hữu Thắng gọi lên triệu tập cho đội tuyển quốc gia để tham dự AFF Cup 2016 nhưng cả giải đấu anh chỉ ngồi trên băng ghế dự bị.
Vào tháng 6 năm 2017, anh có trận ra mắt ở vòng loại AFC Asian Cup 2019 gặp Jordan tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi tài năng của anh đã giúp giữ sạch lưới khi trận đấu kết thúc với tỷ số 0–0. Anh được khen ngợi về kỹ năng của mình. Tuy nhiên, phải đến chức vô địch AFF Cup 2018, tiềm năng mới mang lại danh tiếng cho anh, giúp Việt Nam chinh phục Đông Nam Á sau 10 năm kể từ danh hiệu đầu tiên.
Trong trận đấu thuộc vòng 1/16 AFC Asian Cup 2019, một lần nữa đối đầu với Jordan, anh đã có một pha cứu thua rất quan trọng trước Ahmed Samir trên chấm luân lưu sau 120 phút thi đấu để giúp Việt Nam lọt vào tứ kết.
Anh đã trở thành trụ cột của Việt Nam tại vòng loại thứ 2 FIFA World Cup 2022, nơi anh đã tạo ra một màn trình diễn mạnh mẽ, bao gồm một pha cản phá thành công quả phạt đền trong trận đấu quan trọng của Việt Nam với đối thủ Thái Lan trên sân nhà, được so sánh với pha cản phá quả phạt đền của Igor Akinfeev trước Tây Ban Nha tại FIFA World Cup 2018 do có nét tương đồng. Trong lượt về của vòng loại thứ hai, Đặng Văn Lâm phải rút khỏi danh sách thi đấu sau khi một đồng đội của anh ở Cerezo Osaka nhiễm COVID-19. Ngày 28 tháng 8 năm 2021, HLV Park Hang-seo triệu tập bổ sung cho Đặng Văn Lâm lọt vào danh sách 25 cầu thủ bay sang Ả Rập Xê Út (quá cảnh tại Qatar). Ngày 29 tháng 3 năm 2022, Văn Lâm có mặt trong danh sách thi đấu của Việt Nam trong trận gặp Nhật Bản tại vòng loại thứ 3 FIFA World Cup 2022 ngay trên sân Saitama của Nhật Bản, quốc gia mà anh đang thi đấu cấp câu lạc bộ, và có mặt trên sân trong ít phút cuối trận.
Đời tư.
Đặng Văn Lâm được sinh ra và lớn lên tại thủ đô Moskva của Nga, có bố là người Việt tên là Đặng Văn Sơn và mẹ là người Nga tên là Olga Zhukova. Bố anh là em sinh đôi với Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Văn Hùng, do vậy anh có người chị họ là diễn viên múa Đặng Linh Nga. Bố mẹ của anh đều rất giỏi nghệ thuật, đặc biệt là mẹ của anh từng là một vũ công múa ba lê. Anh cũng có anh em ruột trong đó có em trai là Đặng Văn Mạnh (tên tiếng Nga là Aleksey Shonovich Dang) và em gái tên là Đặng Thanh Giang (tên tiếng Nga là Lyubov Shonovna Dang). Tên tiếng Nga của Văn Lâm là "Lev Shonovich Dang", là bởi vì mẹ anh thần tượng thủ môn huyền thoại người Liên Xô Lev Yashin, người mà Văn Lâm coi là hình mẫu để học hỏi.
Mặc dù cả nhà đều yêu mến và theo sự nghiệp nghệ thuật, Văn Lâm quyết định chọn con đường đi theo sự nghiệp bóng đá. Vì tài năng bóng đá thiên bẩm có sẵn của Văn Lâm nên anh đã được lò đào tạo của câu lạc bộ Spartak Moscow của Nga chú ý và anh đã gia nhập đội bóng này. Tuy vậy, sau khi bị từ chối chơi bóng ở nơi quê cha đất tổ của mình và cả lúc bị loại khỏi danh sách đội hình đội tuyển U-23 Việt Nam tham dự giải đấu bóng đá nam của ASIAD 2018, bố anh đã khuyên Văn Lâm nên quay trở lại nước Nga và làm nghề kế toán. Tuy vậy, anh vẫn ở lại Việt Nam và không thay đổi ý chí ban đầu. Anh cũng sở hữu một giọng hát hay và tốt với chất giọng ngọt ngào và trầm ấm. Anh có thể nói tốt và thông thạo 3 ngôn ngữ bao gồm tiếng Việt, tiếng Nga và tiếng Anh.
Đặng Văn Lâm là một tín đồ của đạo Chính thống giáo, anh thường xuyên cầu nguyện Chúa phù hộ cho mình và làm dấu thánh giá để thể hiện niềm tin, điều này khiến cho Văn Lâm trở thành tín đồ Chính thống giáo đầu tiên của đội tuyển quốc gia Việt Nam.
Là một người gốc Nga nên Đặng Văn Lâm cũng yêu quý đội tuyển bóng đá Nga. Anh ăn mừng phấn khích khi Nga vượt qua Tây Ban Nha trên loạt 11m và tiến vào tứ kết World Cup 2018. Thần tượng của anh là tuyển thủ quốc gia Artem Dzyuba. | 1 | null |
Artturi Ilmari Virtanen (; 1895–1973) là nhà hóa học người Phần Lan. Ông đoạt Giải Nobel Hóa học năm 1945 nhờ vào những nghiên cứu về các chất hóa học nông nghiệp và chất hóa học dinh dưỡng. Với sự kiện này, Virtanen trở thành nhà hóa học đầu tiên của Phần Lan giành Giải Nobel Hóa học, đồng thời đưa Phần Lan trở thành quốc gia thứ hai ở bán đảo Scandinavia sau Thụy Điển giành giải thưởng lớn này. Quả là một vinh dự hiếm có cho nền khoa học Phần Lan, một nền khoa học ít được đề cập đến như các nước Bắc Âu khác như Thụy Điển hay Đan Mạch cũng như nhiều nền khoa học thuộc châu Âu khác như Anh, Pháp, Đức, Nga. Để vinh danh nhà hóa học này, một tiểu hành tinh đã được đặt theo tên ông, đó là 1449 Virtanen. | 1 | null |
John Howard Northrop (1891-1987) là nhà hóa học người Mỹ. Ông được trao Giải Nobel Hóa học năm 1946 nhờ những cố gắng trong việc điều chế, kết tinh các enzime và virus protein ở trạng thái nguyên chất. Ông cùng chung giải thưởng với Wendell Meredith Stanley và James Batcheller Sumner, hai nhà hóa học người Mỹ khác. Với sự kiên quan trọng này, năm 1946 trở thành năm đầu tiên Giải Nobel Hóa học được trao cho ba người, thậm chí ba người này có cùng quốc tịch. Đây là niềm tự hào không hề nhỏ của nền hóa học Mỹ nói riêng và nền khoa học Mỹ nói chung. Ngoài ra, Northrop còn giành Huy chương Daniel Giraud Elliot vào 7 năm trước đó, năm 1939. | 1 | null |
James Batcheller Sumner (sinh ngày 19 tháng 11 năm 1887 - mất ngày 12 tháng 8 năm 1955) là nhà hóa học người Mỹ. Ông cùng với John Howard Northrop và Wendell Meredith Stanley làm nên một niềm tự hào cho nước Mỹ khi cả ba đều nhận được Giải Nobel Hóa học năm 1946 cho công trình điều chế, kết tinh enzime và virus protein nguyên chất, đưa nước Mỹ trở thành quốc gia đầu tiên có ba người cùng nhận Giải Nobel Hóa học trong cùng một năm.. | 1 | null |
Cúp bóng đá nữ châu Á 2008 (tiếng Anh: AFC Women's Asian Cup 2008) là giải Cúp bóng đá nữ châu Á lần thứ 16, được Việt Nam đăng cai từ 28 tháng 5 đến 8 tháng 6. CHDCND Triều Tiên giành chức vô địch lần thứ ba sau khi vượt qua Trung Quốc với tỉ số 2-1 ở trận chung kết.
Phân loại hạt giống.
Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 18 tháng 4 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Vòng bảng.
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (UTC+7). | 1 | null |
Sir Robert Robinson (1886-1975) là nhà hóa học người Anh. Ông nghiên cứu hóa học hữu cơ là chủ yếu. Công trình hóa học nổi bật của ông đó là khám phá về chất nhuộm thực vật và ankaloids. Đây là công trình giúp ông nhận Giải Nobel Hóa học năm 1947. | 1 | null |
William Francis Giauque (; 1895-1982) là nhà hóa học người Mỹ. Ông là nhà hóa học được trao Giải Nobel Hóa học năm 1949, giải thưởng danh giá về lĩnh vực hóa học, cho những đóng góp về nhiệt động hóa học và những nghiên cứu về tính chất các chất ở nhiệt độ thấp. | 1 | null |
Vườn quốc gia Glacier nằm ở phía Bắc tiểu bang Montana, có biên giới phía Nam với các tỉnh Alberta và British Columbia, Canada. Vườn quốc gia có diện tích hơn 1.000.000 mẫu Anh (4.000 km2), bao gồm các phần của hai dãy núi (các dãy núi con của Dãy núi Rocky), hơn 130 hồ được đặt tên, hơn 1.000 loài thực vật khác nhau và hàng trăm loài động vật. Hệ sinh thái nguyên sơ rộng lớn này được xem là vùng trung tâm của "Vương miện của các hệ sinh thái lục địa", một vùng đất được bảo vệ có diện tích 16.000 dặm vuông (41.000 km2).
Người Mỹ bản địa đến khu vực Vườn quốc gia Glacier sinh sống đầu tiên và sau khi có sự xuất hiện của các nhà thám hiểm châu Âu, Liên minh Blackfoot cai quản ở phía đông và Flathead ở khu vực miền Tây. Ngay sau khi thành lập vườn quốc gia trên vào ngày 11 tháng 5 năm 1910, một số khách sạn và nhà gỗ được xây dựng dọc theo Tuyến đường sắt Great Northern. Các khách sạn lịch sử và nhà gỗ được liệt kê như là Di tích lịch sử quốc gia, và tổng cộng 350 địa điểm đang là địa danh lịch sử quốc gia. Năm 1932, tuyến đường lịch sử Going-to-the-Sun hoàn thành, sau đó nó trở thành một Địa điểm lịch sử về Kỹ thuật Xây dựng Quốc gia, với vai trò nâng cao khả năng đi lại cho xe ô tô vào trung tâm của vườn quốc gia.
Các ngọn núi của vườn quốc gia Glacier bắt đầu hình thành từ 170 triệu năm trước, khi đất đá cổ đã trôi dần về phía đông và trên khu vực xuất hiện nhiều những vỉa đá non trẻ. Các đá trầm tích tại đứt gãy Lewis Overthrust được coi là có một số mẫu hóa thạch tốt nhất về vi sinh vật từ rất sớm mà không được tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên Trái Đất. Các hình dạng hiện tại của Lewis Overthrust và dãy núi Livingston cùng vị trí và kích thước của các hồ cho thấy từng tồn tại về một lớp băng khổng lồ, khắc vào thung lũng tạo thành hình chữ U, để lại trầm tích tạo thành các hồ. Trong số khoảng 150 sông băng đã tồn tại ở vườn quốc gia vào giữa thế kỷ 19, chỉ còn lại có 25 sông băng vào năm 2010. Các nhà khoa học nghiên cứu các sông băng trong vườn quốc gia đã ước tính rằng tất cả các sông băng có thể sẽ biến mất vào năm 2020 nếu tình trạng nóng lên của khí hậu hiện nay vẫn tiếp tục gia tăng.
Vườn quốc gia Glacier có gần như tất cả các loài động thực vật nguyên sơ đã từng tồn tại ở đây. Động vật có vú lớn như gấu xám Bắc Mỹ, nai, dê núi Bắc Mỹ, cũng như các loài quý hiếm và đang bị đe dọa như Chồn sói và Linh miêu Canada có mặt trong vườn quốc gia. Hàng trăm loài chim, hơn một chục loài cá và một số loài bò sát, lưỡng cư cũng đã được ghi nhận. Nơi đây có nhiều hệ sinh thái khác nhau, từ đồng cỏ đến lãnh nguyên. Đáng chú ý, khu rừng phía đông là nơi tập trung của loài tuyết tùng đỏ ("Thuja plicata") và cây độc cần phát triển ở phần phía tây nam của vườn quốc gia. Cháy rừng lớn ít xảy ra tại đây. Tuy vậy, trong năm 2003, hơn 13% rừng của vườn quốc gia đã bị đốt cháy.
Vườn quốc gia Glacier giáp với vườn quốc gia Các hồ Waterton ở Canada, hai vườn quốc gia được biết đến như là Công viên hòa bình quốc tế Waterton-Glacier, và được thành lập như là một Công viên Hòa bình Quốc tế đầu tiên trên thế giới vào năm 1932. Cả hai vườn quốc gia trở thành khu dự trữ sinh quyển thế giới trong năm 1976, và vào năm 1995 nó trở thành di sản thế giới của UNESCO .
Lịch sử.
Theo bằng chứng khảo cổ học, những người Mỹ bản địa đầu tiên đến khu vực Glacier khoảng 10.000 năm trước đây. Những người cư ngụ đầu tiên có dòng dõi là các bộ lạc hiện tại là Salish, Flathead, Shoshone và Cheyenne. Những người Blackfeet đến đây vào khoảng đầu thế kỷ 18 và nhanh chóng thống trị các sườn núi phía đông, những khu vực sau này trở thành vườn quốc gia, cũng như khu vực Đại Bình nguyên về phía đông của Glacier. Các khu vực của vườn quốc gia cung cấp nơi trú ẩn cho những người Blackfeet tránh khỏi những cơn gió mùa đông khắc nghiệt của vùng đồng bằng, và cho phép họ bổ sung vào việc săn bắt bò rừng - nguồn thức ăn truyền thống của họ - nhiều loại thịt thú rừng khác. Ngày nay, "Khu dành riêng của người Blackfeet" giáp với vườn quốc gia Glacier ở phía đông, trong khi "Khu dành riêng của người Flathead" nằm ở phía tây và nam vườn quốc gia. Khi Khu dành riêng của người Blackfeet lần đầu tiên được thành lập vào năm 1855 theo Hiệp ước Lame Bull, nó bao gồm các khu vực phía đông của vườn quốc gia hiện tại cho đến đường phân thủy đại lục. Đối với người Blackfeet, những ngọn núi của khu vực, đặc biệt là núi Chief và khu vực phía đông nam tại Two Medicine, được coi là "xương sống của thế giới". Năm 1895, thủ lĩnh White Calf của người Blackfeet đã cho phép bán khu vực miền núi có diện tích khoảng 800.000 ha (3.200 km²), cho chính phủ Mỹ với giá 1,5 triệu USD với sự hiểu biết rằng họ vẫn sẽ duy trì được quyền sử dụng đất cho săn bắn trên đất công ích của Hoa Kỳ. Điều này thiết lập ranh giới hiện tại giữa vườn quốc gia và các "quốc gia nhỏ" xung quanh này.
Trong cuộc khám phá sông Marias năm 1806, thám hiểm Lewis và Clark đến trong vòng 50 dặm (80 km) của khu vực mà bây giờ là vườn quốc gia. Một loạt các cuộc thám hiểm sau năm 1850 giúp hình thành sự hiểu biết về khu vực đó. Năm 1885, George Bird Grinnell thuê nhà thám hiểm James Willard Schultz để hướng dẫn anh ta vào một cuộc thám hiểm săn bắn trong khu vực vườn quốc gia ngày nay. Sau nhiều chuyến đi khác trong khu vực, Grinnell lấy cảm hứng từ phong cảnh mà ông đã trải qua hai thập kỷ tới làm việc để thiết lập một vườn quốc gia. Trong năm 1901, Grinnell đã viết mô tả khu vực, trong đó ông gọi nó là "Vương miện của các hệ sinh thái lục địa", cùng với đó là những nỗ lực của mình để bảo vệ vườn quốc gia làm cho ông là người có đóng góp hàng đầu cho việc thành lập và bảo vệ vườn quốc gia. Một vài năm sau, Henry L. Stimson và hai đồng nghiệp, trong đó có một người Blackfoot, trèo lên mặt phía đông sườn dốc của núi Chief trong năm 1892.
Trong năm 1891, tuyến đường sắt xuyên lục địa Bắc Hoa Kỳ Great Northern Railway vượt qua Continental Divide tại đèo Marias cao 5.213 feet (1,589 m), nằm dọc theo biên giới phía nam của Glacier. Trong một nỗ lực để kích thích việc sử dụng đường sắt, Great Northern đã sớm quảng cáo sự tráng lệ và tuyệt đẹp của khu vực vườn quốc gia cho công chúng. Công ty đã vận động hành lang Quốc hội Hoa Kỳ, và trong năm 1897, Glacier đã được chỉ định là một khu bảo tồn rừng. Theo đó, việc khai thác rừng vẫn được cấp phép hạn chế. Trong khi đó, những người ủng hộ việc bảo vệ khu vực tiếp tục những nỗ lực và vào năm 1910, dưới ảnh hưởng của George Bird Grinnell, Henry L. Stimson cùng công ty đường sắt đã đưa ra một dự luật được trình lên Quốc hội Mỹ để đưa khu vực này từ một khu bảo tồn rừng thành một vườn quốc gia. Dự luật này được ký thành luật bởi Tổng thống William Howard Taft vào ngày 11 tháng năm 1910 .
Từ tháng 5 tới tháng 8 năm 1910, giám sát của khu bảo tồn rừng, Fremont Nathan Haines trở thành người quản lý đầu tiên của vườn quốc gia Glacier. Vào tháng 8 năm 1910, William Logan được bổ nhiệm làm giám đốc đầu tiên của vườn quốc gia. Trong khi việc chỉ định các khu bảo tồn rừng xác nhận quyền sử dụng truyền thống của người Blackfeet, pháp luật cho phép vườn quốc gia không đề cập đến việc bảo lãnh cho người Mỹ bản địa. Đó là tài sản của chính phủ Hoa Kỳ, rằng với sự chỉ định đặc biệt như một vườn quốc gia núi thì việc nhượng lại việc sử dụng đất công đa mục đích cho người bản địa và quyền cũ không còn tồn tại như nó đã được xác nhận bởi Tòa án được bố vào năm 1935 nữa. Một số người Blackfeet cho rằng quyền sử dụng truyền thống của họ vẫn còn tồn tại hợp pháp. Trong những năm 1980 nhiều cuộc phản đối có vũ trang đã tránh được trong gang tấc.
Dưới sự giám sát của chủ tịch của Great Northern Railway là Louis W. Hill đã tiến hành xây dựng một số khách sạn và nhà gỗ khắp vườn quốc gia trong những năm 1910 để thúc đẩy du lịch. Các tòa nhà được xây dựng và điều hành bởi một công ty con của Great Northern gọi là Công ty Glacier Park, được mô phỏng theo kiến trúc Thụy Sĩ như là một phần của kế hoạch của Hill trong việc đưa Glacier trở thành "Thụy Sĩ của nước Mỹ". Hill đã đặc biệt quan tâm bảo trợ các nghệ sĩ đến với vườn quốc gia, và ông đã xây dựng nhà nghỉ du lịch để tạo công việc cho họ làm tại đó. Khách sạn của ông trong Glacier không bao giờ thu được lợi nhuận nhưng chính nhờ có chúng đã thu hút hàng ngàn du khách đến với vườn quốc gia thông qua tuyến đường sắt Great Northern.
Du khách thường chọn chuyến đi trọn gói trên lưng ngựa từ các nhà nghỉ hoặc sử dụng các tuyến đường xe ngựa theo mùa để được đến những khu vực sông băng ở phía đông bắc của Glacier.
Vườn quốc có các nhà gỗ được xây dựng từ năm 1910 tới 1913 như Belton, St Mary, Going-to-the-Sun, Many Glacier, Two Medicine, Sperry, Granite Park, Cut Bank, và Gunsight Lake. Nhà nghỉ Glacier Park, tiếp giáp với vườn quốc gia ở phía đông, và khách sạn Many Glacier trên bờ phía đông của hồ Swiftcurrent cũng đã được công ty đường sắt xây dựng. Louis Hill là người lựa chọn các địa điểm xây dựng cho tất cả các tòa nhà, mỗi lựa chọn đều dựa trên phông nền phong cảnh ấn tượng cùng quan điểm thẩm mỹ. Một nhà phát triển có tên là John Lewis cũng đã xây dựng khách sạn Lewis Glacier trên Hồ McDonald trong năm 1913 - 1914. Great Northern Railway đã mua lại khách sạn này vào năm 1930, và sau đó khách sạn được đổi tên thành Nhà nghỉ Hồ McDonald. Một số nhà gỗ được xây dựng tại các địa điểm hẻo lánh xa xôi của vườn quốc gia và chỉ có thể truy cập vào bằng đường mòn. Hiện nay, chỉ còn các biệt thự Sperry, Granite Park và Belton vẫn còn hoạt động, trong khi một tòa nhà trước đây thuộc Two Medicine bây giờ trở thành cửa hàng Two Medicine Toà nhà và cáckhách sạn hiện nay trong vườn quốc gia được coi là những Danh lam Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Tổng cộng có 350 tòa nhà và cấu trúc bên trong vườn quốc gia được liệt kê vào Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ, bao gồm cả trạm kiểm lâm, cabin tuần tra các khu vực hẻo lánh, trạm quan sát cảnh báo cháy rừng và cả các bãi đỗ xe lịch sử..
Sau khi Glacier đã được thành lập như là một vườn quốc gia và du khách bắt đầu tới đây nhiều hơn bằng xe ô tô, sau khi việc xây dựng đường Going-to-the-Sun dài 53 dặm (85 km) được hoàn thành vào năm 1932. Tuyến đường này cũng được gọi đơn giản là đường Sun, con đường chia đôi Glacier thành hai và là con đường duy nhất đi sâu vào trong vườn quốc gia, đi qua Continental Divide tại đèo Logan tại điểm giữa chừng cao 6,646 feet (2.026 m). Đường Sun cũng được liệt kê vào Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia, và vào năm 1985 nó cũng đã được chỉ định một Địa điểm lịch sử về Kỹ thuật Xây dựng Quốc gia. Một tuyến đường dọc theo biên giới phía Nam giữa vườn quốc gia và rừng quốc gia là Đường 2 đi qua, chia cắt tại đèo Marias và kết nối các thị trấn của Tây Glacier và Đông Glacier.
Dự án Đoàn bảo tồn Dân sự (CCC) là một cơ quan cứu trợ kinh tế mới, đóng một vai trò quan trọng giữa năm 1933 tới 1942 trong việc phát triển cả hai vườn quốc gia Glacier và Yellowstone. Dự án CCC bao gồm các công việc trồng rừng, phát triển khu cắm trại, xây dựng đường mòn, giảm nguy cơ hỏa hoạn, và công việc chữa cháy. Sự gia tăng trong giao thông xe cơ giới thông qua vườn quốc gia Glacier trong những năm 1930 đã dẫn đến việc xây dựng các bãi đỗ xe mới tại Swiftcurrent và Rising Sun, cả hai được thiết kế cho việc phát triển du lịch bằng tuyến bằng bộ. Các bãi đỗ xe bây giờ cũng được liệt kê trên Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia.
Năm 2011, Vườn quốc gia Glacier đã được vinh danh khi đứng thứ bảy trong chuỗi Các khu vực tuyệt đẹp tại Hoa Kỳ.
Công tác quản lý.
Vườn quốc gia Glacier được điều hành bởi Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ; trụ sở chính của vườn quốc gia là ở Tây Glacier, Montana. Thăm viếng Vườn quốc gia Glacier trung bình đạt gần 2 triệu du khách mỗi năm, tuy nhiên một vài địa điểm du lịch tương đối xa các con đường chính và khách sạn.
Vườn quốc gia Glacier có ngân sách hoạt động là 13.190.000 đô trong năm tài chính 2008. Ngân sách năm 2008 đã tăng so với năm 2007 và đã được sử dụng để tăng mức lương biên chế cho nhân viên, nhưng tiền cho các dự án bảo dưỡng các công trình và đường thì lại chưa tới lượt. Trong dự đoán của kỷ niệm 100 năm của vườn quốc gia trong năm 2010, công việc xây dựng lại đường Going-to-the-Sun đang được tiến hành, và con đường sẽ tạm thời bị đóng cửa không được qua lại, dự kiến sẽ thông đường sau đó không lâu. Cục Quản lý Đường cao tốc Liên bang là đơn vị quản lý dự án xây dựng lại, phối hợp với Cục Công viên Quốc gia. Một số tòa nhà chức năng có cấu trúc lớn như trung tâm du khách và các khách sạn lịch sử, cũng như các cơ sở xử lý nước thải và khu cắm trại cũng đã được cải tạo, và dự kiến sẽ được hoàn thành vào ngày kỷ niệm. Vườn quốc gia cũng lên kế hoạch nghiên cứu thủy sinh của Hồ McDonald, cập nhật các tài liệu lưu trữ lịch sử và phục hồi các con đường mòn trong Glacier.
Nhiệm vụ của vườn quốc gia là "... bảo tồn, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và văn hóa". Đạo luật hữu cơ ngày 25 tháng 8 1916, thành lập vườn quốc gia là một cơ quan liên bang. Phần lớn của Đạo luật thường được tóm tắt như "sứ mệnh", "... để thúc đẩy và điều chỉnh việc sử dụng của... vườn quốc gia... mà mục đích là để bảo tồn cảnh quan, các đối tượng tự nhiên, di tích lịch sử và đời sống hoang dã trong đó, để cung cấp cho sự hưởng thụ cho các thế hệ mà không làm ảnh hưởng cho các thế hệ tương lai ". Để phù hợp với nhiệm vụ này, khai thác tài nguyên bất hợp pháp trong vườn quốc gia như là săn bắn, khai thác mỏ, dầu khí khai thác gỗ và hủy hoại các tài nguyên thiên nhiên, văn hóa đều tuyệt đối bị cấm. Tuy nhiên, đạo luật này gây ra rất nhiều mâu thuẫn với những người Blackfeet khi họ cho rằng, họ bán đất cho chính phủ Hoa Kỳ với các quy định của là vẫn có thể duy trì quyền sử dụng của họ trong khu vực, nhiều trong số các hoạt động đó (ví dụ như săn bắn) đã là phần tất yếu, nên những xung đột với các quy định này đã xảy ra. Năm 1974, một nghiên cứu nới về cuộc sống hoang dã đã được trình lên Quốc hội. Trong đó xác định 95% diện tích của Glacier như là một khu vực hoang dã được chỉ định. Không giống như một vài vườn quốc gia khác, Glacier vẫn chưa được bảo vệ như là một vùng hoang dã, nhưng vườn quốc gia đã có các chính sách dịch vụ quốc gia yêu cầu các khu vực xác định được liệt kê trong báo cáo được quản lý như là một vùng hoang dã cho đến khi Quốc hội đưa ra quyết định đầy đủ. Chín mươi ba phần trăm của vườn quốc gia Glacier được quản lý như là vùng hoang dã, mặc dù nó đã không được chính thức chỉ định.
Địa lý và địa chất.
Vườn quốc gia được bao bọc ở phía bắc bởi Vườn quốc gia Các hồ Waterton ở Alberta, rừng tỉnh Flathead và Công viên tỉnh Akamina-Kishinena thuộc British Columbia. Về phía Tây, ngã ba phía bắc của sông Flathead tạo thành một phần ranh giới phía Tây, trong khi ngã ba giữa của nó là một phần của biên giới phía Nam. Trong khi, hầu hết lãnh địa của người Blackfeet tạo thành ranh giới phía Đông, còn Rừng quốc gia Lewis và Clark và Flathead tạo thành ranh giới phía Nam và phía Tây. Phía Nam của vườn quốc gia thuộc hai khu rừng là Khu bảo tồn hoang dã Bob Marshall .
Vườn quốc gia này có hàng chục hồ nước rộng lớn và khoảng 700 hồ nhỏ hơn, nhưng chỉ có 131 hồ đã được đặt tên. Hồ McDonald ở phía tây của vườn quốc gia là hồ dài nhất với . Đây cũng là hồ lớn nhất trong vườn quốc gia với và sâu nhất tại . Nhiều hồ nhỏ hơn, được gọi là các hồ nhỏ trên núi, nằm tại các khu vực đất trũng được hình thành bởi sự xói mòn băng tuyết. Một số các hồ như Avalanche và Cracker được tô màu lam ngọc mờ bởi bùn băng, tạo thành một số con suối màu trắng sữa. Các hồ của vườn quốc gia Glacier có nhiệt độ lạnh duy trì quanh năm, với nhiệt độ hiếm khi trên trên bề mặt . Chính vì thế nên các sinh vật phù du trong hồ ít phát triển, khiến cho nước hồ là khá trong. Tuy nhiên, thiếu các sinh vật phù du đã làm giảm tốc độ lọc các chất ô nhiễm bẩn khiến các chất bẩn có xu hướng kéo dài và tồn tại lâu hơn trong hồ. Do đó, các hồ được coi là môi trường dễ bị biến động và có thể nhanh chóng bị ảnh hưởng ngay cả khi các chất ô nhiễm tăng thêm một ít.
Không những thế, hai trăm thác nước nằm rải rác khắp vườn quốc gia Glacier. Tuy nhiên, trong thời điểm khô hạn trong năm, nhiều trong số này bị giảm thiểu đến mức chỉ còn nhỏ giọt. Thác lớn nhất bao là thuộc khu vực Two Medicine, thác nước McDonald trong thung lũng McDonald và thác Swiftcurrent trong những khu vực sông băng, ta có thể dễ dàng quan sát và nó cũng nằm gần với nhiều khách sạn của Glacier. Một trong những thác nước cao nhất là thác Bird Woman, cao 492 feet (150 m) đổ xuống thung lũng lưng chừng ở phía bắc của núi Oberlin.
Địa chất.
Những tảng đá được tìm thấy trong vườn quốc gia Glacier chủ yếu là đá trầm tích thuộc siêu nhóm Vành đai. Chúng được lắng đọng trong các vùng biển nông từ 1,6 tỷ đến 800 triệu năm trước. Trong quá trình hình thành của dãy núi Rocky 170 triệu năm trước đây, một chờm đá bây giờ được gọi là Lewis Overthrust nằm về phía đông 50 dặm (80 km) của vườn quốc gia. Chờm đá này dày vài dặm (km) và dài hàng trăm dặm (km). Điều này khiến các phiến đá cổ bị đẩy dời xa hơn so với các khu vực đá mới hơn, vì vậy các loại đá Proterozoic nằm trên có niên đại lâu đời hơn so với đá Cretaceous từ 1,4 đến 1,5 tỷ năm ở phía trên.
Một trong những bằng chứng mạnh mẽ nhất của chờm đá này có thể nhìn thấy tại núi Chief, một đỉnh cao bị cô lập trên ranh giới phía đông củavườn quốc gia, nằm ở độ cao 2.500 feet (800 m) so với vùng đồng bằng lớn . Có sáu ngọn núi trong vườn quốc gia Glacier cao trên 10.000 feet (3.000 m), cao hơn tất cả là đỉnh Cleveland ở 10.466 feet (3.190 m). Đỉnh Triple Divide là trung tâm lưu vực của các sông đổ ra Bắc Thái Bình Dương, Vịnh Hudson, và vùng Vịnh Mexico, có thể được coi là đỉnh của lục địa Bắc Mỹ, mặc dù ngọn núi này chỉ cao 8.020 feet (2.444 m) so với mực nước biển.
Những tảng đá trầm tích Proterozoic trong vườn quốc gia Glacier được xem là bảo quản tốt nhất trên thế giới, và đã được chứng minh là các tài liệu hiệu quả của cuộc sống sớm nhất trên thế giới. Đá trầm tích ở độ tuổi tương tự nằm trong các khu vực khác đã được thay đổi rất nhiều qua các biến động địa chất khác, và do đó hóa thạch ít hơn và khó quan sát hơn. Các tảng đá trong vườn quốc gia bảo tồn các tính năng như điểm gợn, vết nứt bùn, phôi muối tinh thể và đặc trưng trầm tích khác. Sáu loại hóa thạch của đá Stromatolite, đó là sinh vật bao gồm chủ yếu là màu xanh-xanh lá của loài tảo, đã được ghi nhận và có niên đại khoảng 1 tỷ năm. Việc phát hiện ra Appekunny Formation, một tảng đá tầng được bảo quản tốt trong vườn quốc gia,đã đưa con người về với nguồn gốc động vật cách đây một tỷ năm. Hình thành đá này có cấu trúc giường, là phần còn lại được xác định là của những sinh vật đa bào (động vật) đầu tiên trên Trái Đất.
Sông băng.
Vườn quốc gia Glacier bị chi phối bởi các dãy núi đã được chạm khắc thành hình dáng hiện tại bởi những núi băng khổng lồ thời kỳ băng hà cuối cùng. Các sông băng đã gần như biến mất trong 12.000 năm qua Bằng chứng về hoạt động rộng khắp trong vườn quốc gia được tìm thấy trên khắp tại các thung lũng hình chữ U, động băng, chỏm băng và các hồ lớn tỏa ra như hình ngón tay từ các đỉnh núi cao nhất của Glacier. Từ cuối thời kỳ băng hà, sự nóng lên bởi các nguyên nhân khác nhau khiến hiện tượng giảm nhiệt xảy ra. Gần đây nhất, Kỷ băng hà nhỏ diễn ra khoảng giữa 1550 và 1850. Trong Kỷ băng hà nhỏ, các sông băng trong vườn quốc gia được mở rộng và nâng cao dần lên, mặc dù chỉ đạt đến một mức độ nhất định so với các sông băng trong Kỷ băng hà.
Giữa thế kỷ 20, kiểm tra các bản đồ và hình ảnh từ thế kỷ trước đó cung cấp bằng chứng, rõ ràng rằng 150 sông băng đã từng tồn tại trong vườn quốc gia một trăm năm trước đó đã bị tan chảy đi rất nhiều, và nhiều trong số đó đã biến mất hoàn toàn. Lặp lại hình ảnh của các sông băng, chẳng hạn như các hình ảnh được chụp của sông băng Grinnell giữa năm 1938 và năm 2009 như hiển thị, đã giúp xác định trực quan về mức độ rút ngắn lại của sông băng.
Trong những năm 1980, Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ đã bắt đầu một nghiên cứu có hệ thống các sông băng còn lại mà vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay. Đến năm 2010, 37 sông băng vẫn còn tồn tại, nhưng chỉ có 25 trong số này được coi là "sông băng hoạt động". Nếu xu hướng nóng lên hiện nay tiếp tục diễn ra, tất cả các sông băng còn lại trong vườn quốc gia sẽ biến mất vào năm 2020. Các sông băng rút lui hiện đang diễn ra trên toàn thế giới và đã tăng tốc hơn nữa kể từ năm 1980. Nếu không có một sự thay đổi khí hậu lớn trong đó có việc làm hạ nhiệt độ và tăng độ ẩm trở lại, giúp cân bằng khối lượng, tỷ lệ tích lũy so với tỷ lệ tan chảy của các sông băng, thì các sông băng cuối cùng sẽ biến mất, chỉ để lại trợ trọi các lớp đất đá cằn cỗi.
Sau khi kết thúc Thời kỳ băng hà nhỏ vào năm 1850, các sông băng vừa phải trong vườn quốc gia đã rút lui dần cho đến thập niên 1910. Giữa năm 1917 tới 1941, tốc độ rút lui của một số sông băng đạt con số 330 feet (100 m) mỗi năm. Từ những năm 1940 cho đến 1979, xu hướng làm dịu mát đã giúp làm chậm tốc độ rút lui và trong một vài sông băng thậm chí còn tăng được thêm vài chục mét. Tuy nhiên, từ những năm 1980, các sông băng tại vườn quốc gia đã bắt đầu một thời kỳ ổn định của việc mất nước đóng băng, mà vẫn tiếp tục cho tới thời điểm hiện tại. Trong năm 1850, các sông băng ở khu vực gần sông băng Blackfoot và Jackson bao phủ 5.337 mẫu Anh (21,6 km2), nhưng năm 1979, cùng một vùng của vườn quốc gia thì băng bao phủ chỉ còn 1.828 mẫu Anh (7.4 km2). Giữa năm 1850 và năm 1979, 73% nước đóng băng đã tan biến hoàn toàn. Đồng thời với việc vườn quốc gia được thành lập, sông băng Jackson là một phần của sông băng Blackfoot, nhưng cả hai đã chia thành hai dòng sông băng kể từ đó.
Tác động của việc sông băng rút lui trên các hệ sinh thái của vườn quốc gia không được biết đầy đủ, nhưng các loài thực vật phụ thuộc vào nguồn nước từ các sông băng có thể sẽ biến mất và động vật thì có thể bị ảnh hưởng do mất môi trường sống. Lượng băng tan chảy ít đi theo mùa của nước đóng băng cũng có thể ảnh hưởng đến dòng chảy trong mùa hè và mùa thu khi khí hậu khô hanh, cùng với đó là làm giảm lượng nước ngầm và làm tăng nguy cơ cháy rừng. Những mất mát của sông băng cũng sẽ làm mất đi một cảnh quan thiên nhiên đẹp mà chúng đem lại cho du khách.
Khí hậu.
Trải dài trên Continental Divide, và có hơn 7.000 feet (2.100 m) ở độ cao chênh lệch, nên Glacier có nhiều vùng khí hậu và vi khí hậu. Cũng như nhiều hệ thống núi cao khác, nhiệt độ trung bình thường giảm khi độ cao tăng dần. Phía Tây của vườn quốc gia, trong lưu vực Thái Bình Dương, có một khí hậu ôn hòa và ẩm ướt hơn. Lượng mưa lớn nhất là vào mùa đông và mùa xuân, trung bình 2-3 inch (50–80 mm) mỗi tháng. Tuyết rơi có thể xảy ra tại bất kỳ thời gian nào trong năm, ngay cả trong mùa hè, và đặc biệt là ở các khu vực núi cao. Mùa đông đem lại thời tiết lạnh kéo dài, đặc biệt là ở phía Đông của Continental Divide. Tuyết rơi có ý nghĩa trong mùa đông, sự tích lũy tuyết nhiều nhất là ở phía Tây của vườn quốc gia. Trong mùa du lịch, nhiệt độ trung bình ban ngày là 60-70 °F (15-20 °C), và thấp hơn vào ban đêm với chỉ 40 °F (5 °C). Tại các thung lũng lũng thấp ở phía tây, mức nhiệt cao nhất vào ban ngày trong mùa hè có thể lên đến 90 °F (30 °C) .
Nhiệt độ thay đổi nhanh chóng đã được ghi nhận trong khu vực, và tại Browning, Montana, phía đông của vườn quốc gia Glacier thuộc lãnh thổ của người Blackfeet, nơi mà đã ghi nhận được là địa điểm có nhiệt độ giảm kỷ lục thế giới 100 °F (56 °C) chỉ trong 24 giờ. Đó là vào đêm ngày 23 - 24 tháng 1 năm 1916, khi nhiệt kế đo được nhiệt độ giảm từ 44 xuống còn -56 °F (7 đến -49 °C).
Vườn quốc gia Glacier có một chương trình nghiên cứu về biến đổi khí hậu toàn cầu được đánh giá cao. Trụ sở tại Tây Glacier, với trụ sở chính của nó ở Bozeman, Montana, Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ đã thực hiện nghiên cứu khoa học về nghiên cứu biến đổi khí hậu cụ thể từ năm 1992. Ngoài việc nghiên cứu việc rút lui dần sông băng, nghiên cứu thực hiện bao gồm các nghiên cứu mô hình rừng, trong đó hệ sinh thái và thay đổi môi trường sống được phân tích. Ngoài ra, những thay đổi của các loài thực vật núi cao được ghi chép thành tài liệu, nghiên cứu về lưu vực sông, trong đó tỷ lệ dòng chảy và nhiệt độ được ghi nhận thường xuyên tại các trạm quan trắc cố định, và nghiên cứu khí quyển về bức xạ UV-B, ozone và các khí trong bầu khí quyển khác được phân tích theo thời gian. Các nghiên cứu biên soạn góp phần tăng thêm sự hiểu biết về biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới vườn quốc gia thế nào. Việc thu thập dữ liệu, khi so sánh với các trạm quan trắc và các chương trình nghiên cứu khác khắp thế giới, giúp đỡ để tương quan các biến đổi về khí hậu trên quy mô toàn cầu .
Glacier được coi là nơi có bầu không khí tuyệt vời cùng chất lượng nguồn nước được đảm bảo không bị ô nhiễm. Không có khu vực hành chính, dân cư hay công nghiệp nào dày đặc tồn tại trong và gần khu vực vườn quốc gia. Tuy nhiên, nguồn nước gần như vô trùng và lạnh ở khắp Glacier có thể dễ dàng bị ô nhiễm bởi các chất ô nhiễm trong không khí bất cứ khi nào khi trời mưa hoặc tuyết, và một số bằng chứng về các chất gây ô nhiễm đã được tìm thấy trong nguồn nước của vườn quốc gia. Mức độ ô nhiễm hiện đang được xem như là không đáng kể, và các hồ cùng nguồn nước của vườn quốc gia đang được đánh giá chất lượng là đạt mức A-1, tiêu chuẩn đánh giá cao nhất được đưa ra bởi tiểu bang Montana .
Động thực vật và hệ sinh thái.
Thực vật.
Glacier là một hệ sinh thái bảo tồn lớn được mệnh danh là "Vương miện của các hệ sinh thái lục địa", tất cả đều là hệ sinh thái hoang dã nguyên sơ. Hầu như tất cả các loài động thực vật đã tồn tại ở đây đều được các nhà thám hiểm châu Âu trong quá trình khám phá khu vực đã phát hiện ra.
Tổng cộng có hơn 1.132 loài thực vật đã được xác định. Thực vật chủ yếu là rừng lá kim, là nơi có nhiều loài cây như vân sam Engelmann ("Picea engelmannii"), linh sam Douglas ("Pseudotsuga menziesii "), linh sam núi Rocky ("Abies lasiocarpa"), thông Limber ("Pinus flexilis") và thông phương Tây ("Larix occidentalis"), là một loài cây lá kim rụng lá mỗi khi mùa thu tới. Dương đen và các loài khác thuộc Chi Dương là những cây rụng lá phổ biến hơn và được tìm thấy ở những khu vực có độ cao thấp hơn, thường là tại các khu vực hồ và suối của vườn quốc gia. Đường giới hạn ở phía Đông của Glacier có độ cao gần 800 feet (244 mét) thấp hơn ở phía Tây của Continental Divide, do tiếp xúc với những cơn gió và thời tiết lạnh của vùng đồng bằng lớn. Phía Tây Continental Divide, các khu rừng nhận được độ ẩm nhiều hơn trong mùa đông, nên mật độ cây rừng ở đây khá cao. Phía trên thung lũng rừng và sườn núi, vùng lãnh nguyên núi cao có điều kiện phát triển cho các loại cỏ và cây nhỏ và chúng có được sự tồn tại ít nhất là ba tháng mà không có tuyết phủ. Ba mươi loài thực vật là các loài chỉ có ở Glacier và các khu rừng quốc gia xung quanh. Bách hợp lá khô ("Xerophyllum tenax"), một loài thực vật có hoa, thường được tìm thấy gần các khu vực ẩm, và là loài tương đối phổ biến trong tháng 7 - 8 ở Glacier. Ngoài ra, các loài hoa dại như Mị thảo, loa kèn, liễu lan ("Chamerion angustifolium"), cúc dại và cỏ bút lông Ấn Độ cũng rất phổ biến.
Các phần rừng rơi vào ba vùng khí hậu lớn. Phía Tây và Tây bắc bị chi phối bởi cây vân sam và linh sam, phía Tây nam là khu vực của cây tuyết tùng đỏ và Tsuga, khu vực phía đông của Continental Divide là một sự kết hợp của hỗn hợp thông, vân sam, linh sam và vùng đồng cỏ. Những lùm cây tuyết tùng, thông dọc theo thung lũng Hồ McDonald là những ví dụ nổi bật của hệ sinh thái khí hậu Đông Thái Bình Dương.
Thông vỏ trắng Bắc Mỹ là loài có trong vườn quốc gia là loài đang gặp nguy hiểm trước mối đe dọa của một loại nấm rỉ sét không có nguồn gốc có tên khoa học "Cronartium ribicola". Ở Glacier và các khu vực xung quanh, 30% loài thông vỏ trắng đã bị chết và hơn 70% số cây còn lại đang bị nhiễm bệnh. Thông vỏ trắng Bắc Mỹ cung cấp chất béo hạt thông, đó là món ăn ưa thích của loài sóc đỏ và chim bổ hạt Clark. Cả hai loài gấu xám và gấu đen Bắc Mỹ được biết đến những loài có nguồn thức ăn từ những con sóc ăn hạt thông, và nó là một trong những món ăn ưa thích của loài gấu. Giữa năm 1930 tới 1970, những nỗ lực để kiểm soát sự lây lan của loài nấm rỉ sét đã không thành công, và chúng tiếp tục phá hủy các cây thông vỏ trắng còn lại, với tác động tiêu cực ảnh hưởng kéo theo nhiều loài khác.
Động vật.
Vườn quốc gia là nơi cư trú của rất nhiều loài động vật, với số lượng lớn của bò rừng và tuần lộc. Hai loài động vật có vú bị đe dọa là gấu xám Bắc Mỹ và linh miêu Canada cũng xuất hiện trong vườn quốc gia. Mặc dù số lượng của chúng thời điểm hiện tại so với quá khứ không bị suy giảm đáng kể, nhưng cả hai đều được xem là các loài bị đe dọa vì trong hầu như tất cả các khu vực khác bên ngoài Alaska, hoặc là số lượng của hai loài này vô cùng hiếm hoặc là phạm vi sinh sống trước đây giờ đã mất. Trung bình mỗi năm xảy ra một hoặc hai vụ tấn công con người bởi loài gấu. Từ khi vườn quốc gia được thành lập vào năm 1910, đã có tổng cộng 10 trường hợp tử vong liên quan đến gấu. Số lượng gấu xám và linh miêu trong vườn quốc gia Glacier hiện nay chưa được xác định cụ thể, nhưng các nhà sinh học tin rằng, vào năm 2008 chỉ có trên 300 gấu xám trong vườn quốc gia, và một nghiên cứu bắt đầu vào năm 2001 hy vọng sẽ xác định được số lượng linh miêu. Số liệu chính xác của loài gấu xám và số ít loài gấu đen không được biết đến nhưng các nhà sinh học đang sử dụng nhiều phương pháp để cố gắng xác định phạm vi số lượng loài chính xác.] Một nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng loài chồn sói, một loài động vật có vú rất hiếm tại hơn 48 quốc gia cũng đã có mặt tại vườn quốc gia. Các loài thú lớn khác như dê núi Bắc Mỹ (biểu tượng chính thức của vườn quốc gia), Cừu sừng lớn, nai sừng tấm châu Âu, hươu, hươu đuôi đen, hươu đuôi trắng, sói, và hiếm gặp loài báo sư tử. Không giống như trong vườn quốc gia Yellowstone, chương trình nhân giống loài sói Mackenzie áp dụng trong những năm 1990, người ta tin rằng những con sói tại Glacier là hoàn toàn tự nhiên từ những năm 1980. Sáu mươi hai loài động vật có vú đã được ghi nhận, bao gồm lửng, rái cá sông, nhím, chồn, chồn mactet, các loài dơi và nhiều động vật có vú nhỏ hơn khác.
Tổng cộng có 260 loài chim đã được ghi nhận, với các loài ăn thịt như đại bàng đầu trắng, đại bàng vàng, cắt lớn, ó cá và một số loài diều hâu cư trú quanh năm. Vịt Harlequin là một loài chim mặt nước đầy màu sắc được tìm thấy trong các hồ và sông ngòi của vườn quốc gia. Các loài chim như diệc xanh lớn, thiên nga nhỏ, ngỗng Canada và vịt trời Mỹ là loài chim nước thường gặp trong vườn quốc gia. Cú mèo lớn, chim bổ hạt Clark, giẻ cùi Steller, chim gõ kiến và cánh sáp cư trú trong những khu rừng rậm dọc theo sườn núi, và trong các khu vực núi cao, trĩ, sẻ Mỹ và sẻ núi là các loài cũng dễ được tìm thấy. Chim bổ hạt Clark là loài ít phong phú hơn trong những năm qua do sự suy giảm về số lượng các cây thông vỏ trắng.
Vì khí hậu ở đây lạnh nên các loài thu nhiệt như bò sát gần như là vắng mặt, ngoại trừ hai loài rắn sọc và rùa sơn phương Tây là ba loài bò sát đã được chứng minh là có tồn tại trong vườn quốc gia. Tương tự như vậy, chỉ có sáu loài động vật lưỡng cư được ghi nhận, mặc dù các loài tồn tại với số lượng lớn. Sau khi một đám cháy rừng xảy ra vào năm 2001, một vài con đường trong vườn quốc gia đã tạm thời bị cấm đi lại cho tới năm sau để cho phép hàng ngàn con cóc phương Tây di chuyển đến các khu vực khác của vườn quốc gia.
Glacier cũng là nơi sinh sống của nhiều loài động vật có nguy cấp như cá hồi bò, việc săn bắt là bất hợp pháp và chúng phải được trả lại với mặt nước nếu vô tình bắt được. Tổng cộng có 23 loài cá sống ở vùng nước trong vườn quốc gia và các loài cá bản địa được tìm thấy trong các hồ và suối bao gồm cá hồi nước ngọt thông thường ("Oncorhynchus clarkii"), cá măng phương Bắc, cá hồi Thyman, cá hồi trắng và cá hồi đỏ. Giới thiệu trong thập kỷ trước của cá hồi hồ và các loài cá không có nguồn gốc khác đã tác động rất nhiều tới những người ngư dân bản địa, đặc biệt là cá hồi biển và cá hồi nước ngọt.
Cháy rừng.
Cháy rừng đã được xem trong nhiều thập kỷ qua như một mối đe dọa đến các khu vực được bảo vệ như các khu rừng và vườn quốc gia. Hiểu biết đã tốt hơn về cháy rừng sau những năm 1960, các vụ cháy rừng được hiểu là một phần của tự nhiên của hệ sinh thái. Các chính sách trước đây đã dẫn đến nhiều cây cối bị chết và khô dần đi, là điều kiện thuận lợi của cháy rừng. Nhiều loài thực vật và động vật thực sự cần đến việc cháy rừng để giúp bổ sung các chất dinh dưỡng cho đất và giảm thiểu sự phát triển quá mạnh của cỏ. Vườn quốc gia Glacier có một kế hoạch quản lý cháy rừng do con người gây ra và khống chế được đám cháy. Trong trường hợp hỏa hoạn tự nhiên, ngọn lửa được theo dõi và khống chế tùy thuộc vào kích thước và mối đe dọa có thể gây ra cho con người và hệ sinh thái.
Quá trình tăng dân số cùng với sự phát triển của các khu vực ngoại ô gần vườn quốc gia đã dẫn đến sự phát triển của những gì được gọi là phối hợp quản lý cháy rừng Wildland, trong đó vườn quốc gia phối hợp với các chủ sở hữu bất động sản liền kề trong việc nâng cao an toàn và nhận thức về cháy rừng. Phương pháp này là cơ sở chung cho nhiều lĩnh vực bảo vệ khác. Như là một phần của chương trình này, nhà ở và các công trình gần vườn quốc gia được thiết kế để khó bắt cháy hơn. Cây chết và đổ bị loại bỏ ở những khu vực gần con người sinh sống, giảm tải nhiên liệu có sẵn và nguy cơ hỏa hoạn, cùng với các hệ thống cảnh báo trước được nâng cấp để giúp ban quản lý và du khách hiểu rõ về nguy cơ cháy rừng tại một thời điểm trong năm. Vườn quốc gia Glacier có trung bình 14 vụ cháy với 5.000 mẫu Anh (20 km 2) bị cháy mỗi năm. Năm 2003, 136.000 mẫu Anh (550 km 2) bị trong vườn quốc gia bị thiêu rụi hoàn toàn sau khi một đợt hạn hán kéo dài năm năm và với một mùa hè hầu như không có mưa.
Du lịch.
Vườn quốc gia Glacier cách xa các thành phố lớn. Sân bay gần nhất là tại Kalispell, Montana, phía tây nam của vườn quốc gia. Trạm dừng tàu hỏa cuối cùng là ở Đông, Tây Glacier và Essex. Năm 1930, một đoàn xe buýt chuyên nghiệp của công ty White Motor, cung cấp tuyến du lịch trên tất cả các tuyến đường chính trong vườn quốc gia. Các tài xế xe buýt được gọi là "Jammer", tên được đặt theo thiết bị gây nhiễu trước đây thường xảy ra khi vận hành xe. Tuyến du lịch xe buýt đã được phục hồi vào năm 2001 bởi công ty Ford Motor. Các phần của xe được gỡ bỏ khỏi khung xe ban đầu và lắp ráp lại trên khung xe hiện đại Ford E-Series. Chúng cũng được chuyển đổi để chạy propan để giảm bớt tác động tới môi trường.
Những chiếc thuyền du lịch bằng gỗ có lịch sử từ năm 1920, hoạt động trên một số hồ lớn. Một số chiếc hoạt động theo mùa tại công viên quốc gia Glacier từ năm 1927 và chở được tới 80 khách du lịch.
Đi bộ đường dài là loại hình du lịch phổ biến nhất trong vườn quốc gia. Hơn một nửa số khách tham quan tới đây tham gia một chuyến đi bộ theo các lối mòn trong vườn quốc gia dài gần 700 dặm (1.127 km). 110 dặm (177 km) của tuyến đường mòn Continental Divide kéo dài tới hầu hết vườn quốc gia từ phía Bắc tới Nam, với một số tuyến đường thay thế ở độ cao thấp hơn nếu tuyến đường trên bị phủ băng tuyết. Đường mòn Bắc Thái Bình Dương dọc theo công viên dài trên 52 dặm (84 km) từ Đông sang Tây.
Chó bị cấm xuất hiện tại các lối mòn trong vườn quốc gia do có sự hiện diện của gấu và các loài thú lớn khác. Chúng chỉ được cho phép có mặt tại khu cắm trại và dọc theo con đường lát đá trong vườn quốc gia.
Bất kỳ ai vào Hoa Kỳ không phải bằng đường bộ hoặc đường thủy từ Canada đều cần phải có hộ chiếu.
Vườn quốc gia cho phép du khách lưu trú và tham quan du lịch nhiều ngày. Chỉ được cho phép cắm trại tại những khu cắm trại đã được chỉ định dọc theo những con đường mòn. Giấy phép tham quan cần có và có thể nhận được từ các trung tâm quản lý khách du lịch. Phần lớn các sông băng không thể đi lại cho tới đầu tháng 6 do tuyết tích tụ và có nguy cơ sạt lở, và nhiều con đường mòn ở độ cao cao hơn vẫn còn tuyết đóng băng cho đến tháng 7. Khu cắm trại hầu hết gần một trong những hồ lớn của vườn quốc gia và xe cộ có thể ra vào dễ dàng. Cắm trại tại St Mary và Apgar được mở quanh năm, nhưng do điều kiện thiếu thốn trong mùa khô khiến không có nước sinh hoạt cho nên các phòng vệ sinh đều đóng cửa. Hoạt động cắm trại phổ biến từ tháng 6 tới tháng 9 hàng năm, với dịch vụ hướng dẫn và đưa đón khách tham quan luôn sẵn có.
Câu cá là hoạt động phổ biến tại vườn quốc gia. Một số khu vực câu cá phổ biến ở Bắc Mỹ có thể được tìm thấy trong các dòng chảy qua vườn quốc gia Glacier. Công viên yêu cầu khách tham quan những hiểu biết các quy định câu cá, tuy nhiên lại không hạn chế khu vực câu cá. Cá hồi bò là loài nguy cơ tuyệt chủng cao vì vậy phải được thả ngay lập tức trở về nước nếu bắt được, nếu không, người câu cá có thể bị bắt vì tội săn bắt động vật hoang dã.
Mùa đông, các hoạt động vui chơi giải trí tại Glacier bị hạn chế. Trượt tuyết là hoạt động bị cấm ở vườn quốc gia trừ khu vực thung lũng thấp không bị sạt lở. | 1 | null |
Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Việt Nam hay Đội tuyển futsal quốc gia Việt Nam đại diện Việt Nam thi đấu futsal quốc tế và do Liên đoàn Bóng đá Việt Nam điều hành.
Lịch sử.
Năm 1950, Đội tuyển bóng đá trong nhà Việt Nam Cộng Hoà được thành lập nhưng không được ra nước ngoài thi đấu do vấn đề chính trị.
Mãi đến năm 1997 mới ghi nhận đại diện Việt Nam đầu tiên đi thi đấu futsal quốc tế do Nguyễn Thành Vinh dẫn dắt với nòng cốt các cầu thủ bóng đá ngoài trời đã chơi cho Sông Lam Nghệ An hoặc đội tuyển quốc gia như Sỹ Hùng hay Hữu Thắng. Đội dự giải khách mời tại Singapore và có một trận thắng duy nhất trước đội chủ nhà. Tới năm 2005, đội mới bắt đầu dự giải Đông Nam Á, rồi sau đó đăng cai giải châu Á.
Năm 2010, huấn luyện viên người Ý Sergio Gargelli được bổ nhiệm thay thế thầy người Thái Pattaya Piamkum, người đưa Việt Nam vô địch AFF Futsal 2009.
Năm 2014, Bruno Garcia Formoso trở thành tân huấn luyện viên trưởng. Đội tuyển Futsal Việt Nam lọt vào chung kết Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Á 2014 và 2018. Chiến tích chấn động làng Futsal châu Á tại Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Á 2016 khi đánh bại đương kim vô địch Nhật Bản tại trận tứ kết, qua đó lọt tốp 4 và dành vé dự vòng chung kết FIFA Futsal World Cup 2016 tổ chức tại Colombia. Lần đầu tham dự một vòng chung kết World Cup, đội đã giành quyền vào vòng 16 đội khi đánh bại Guatemala 4-2, thua Paraguay 1-7 và Ý 0-2. Tại vòng 16 đội, đội để thua trước đối thủ rất mạnh là Nga với tỉ số 0-7. Kết thúc giải đấu, đội đã giành được giải thưởng Fair Play đầu tiên của bóng đá Việt Nam.
Cũng trong năm 2016, Bruno từ chức và Miguel Rodrigo chính thức lên tiếp quản đội năm 2017. Việt Nam có chuyến du đấu tại Andalusia đối đầu các câu lạc bộ futsal Tây Ban Nha vào tháng hai và ba năm 2019.
Năm 2021, đội tuyển Futsal Việt Nam cùng huấn luyện viên Phạm Minh Giang có được lần thứ hai liên tiếp tham dự vòng chung kết FIFA Futsal World Cup 2021 tổ chức tại Lithuania sau khi cầm hòa Lebanon ở hai lượt trận đi và về với tổng tỉ số 1-1 (Việt Nam đi tiếp nhờ luật bàn thắng sân khách) tại vòng playoff khu vực châu Á. Đội một lần nữa giành quyền vào vòng 16 đội với tư cách thứ 3 bảng D và là một trong số bốn đội thứ 3 có thành tích tốt nhất sau khi thua 1-9 trước Brazil, thắng Panama 3-2 và cầm hòa Cộng hòa Séc 1-1. Đội có trận đấu kiên cường khi gặp lại đội tuyển Nga, thua sát nút 2-3 và bị loại ở vòng 16 đội.
Cầu thủ.
Đội hình hiện tại.
Danh sách 14 cầu thủ được triệu tập cho Cúp bóng đá trong nhà châu Á 2022 từ ngày 28 tháng 9 đến ngày 8 tháng 10 năm 2022 tại Kuwait.
Danh sách dự phòng.
Triệu tập gần đây.
Những cầu thủ sau đây cũng đã được gọi vào đội tuyển Việt Nam trong vòng 12 tháng qua.
Notes:
Lịch thi đấu.
| 1 | null |
Kurt Alder (10 tháng 7 năm 1902 - 20 tháng 6 năm 1958) là một nhà hóa học Đức và cũng là một trong hai nhân vật được nhận Giải Nobel Hóa học danh giá năm 1950.
Alder sinh ra và lớn lên trong một khu đô thị công nghiệp tại thành phố Königshütte, tỉnh Śląskie (nay là thành phố Chorzów, thượng Śląskie, Ba Lan). Năm 1922, ông rời thành phố khi Śląskie trở thành một phần của Ba Lan và đến nhập học tại Đại học Berlin. Năm 1926, Alder theo học tại Đại học Kiel để hoàn tất chương trình tiến sỹ dưới sự hướng dẫn của giáo sư Otto Diels.
Năm 1930, Alder được bổ nhiệm làm trở giảng môn hóa học tại Đại học Kiel và được thăng chức làm giảng viên vào năm 1934. Năm 1936, ông rời Đai học Kiel để chuyển sang tập đoàn công nghiệp IG Farben ở thành phố Leverkusen với công việc nghiên cứu cao su tổng hợp. Năm 1940, ông trở thành giáo sư chuyên ngành Hóa học Thực nghiệm và Công nghệ Hóa học tại Đại học Cologne và đồng thời cũng đảm nhiệm chức trưởng khoa hóa tại ngôi trường này. Mặc dù thời bấy giờ, các nhà khoa học tại châu Âu gặp nhiều khó khăn trong việc tiến hành các nghiên cứu chưa từng được công bố trước đây, Alder vẫn cố gắng tiếp tục công trình thí nghiệm có hệ thống của mình nhằm thỏa mãn đam mê tổng hợp các hợp chất hữu cơ. Với việc làm này, ông đã cho công bố 151 nghiên cứu hóa học.
Năm 1945, Alder cộng tác với Ferdinand Münz - nhà hóa học đã chế tạo chất axit ethylenediaminetetraacetic (EDTA) dùng trong cả công nghiệp và y khoa. Năm 1949, cả hai nhà hóa học cùng công bố một nghiên cứu về các phản ứng tổng hợp và phản ứng cộng từ alkadien.
Trong cuộc đời của mình, Alder đã nhận nhiều tấm bằng và giải thưởng danh giá, mà trong số đó có vẻ nổi bật nhất là giải Nobel Hóa học năm 1950 ông nhận với thầy của mình là Otto Diels nhờ phát hiện phản ứng Diels-Alder. Đây là lần thứ hai Đức có hai nhà hóa học nhận Giải Nobel Hóa học cùng năm (lần đầu tiên là năm 1931 khi Carl Bosch và Friedrich Bergius nhận giải nhờ sự tiên phong trong việc nghiên cứu công nghiệp hóa học áp suất cao. Đồng thời, giải thưởng này cũng là niềm tự hào hiếm có của nền hóa học Đức bởi trước đó, trừ Mỹ có ba người nhận giải thưởng này trong một năm (1946) thì không có quốc gia nào có hai lần mà mỗi lần đều có hai người cùng nhận giải thưởng.
Nhằm vinh danh Alder cho các đóng góp của ông trong nhiều lĩnh vực, ngoài phản ứng Diels-Alder, tên của ông được đạt cho một hố va chạm trên Mặt Trăng. Đồng thời, tên ông còn được đặt cho thuốc diệt sâu aldrin, một chất được tổng hợp bằng phản ửng Diels-Alder.
Alder qua đời vào tháng 6 năm 1958 ở tuổi 55. Thi thể của ông được tìm thấy trong nhà của mình ở Cologne, Đức 2 tuần sau khi ông được xác định tử vong. Cháu gái của ông là người đã phát hiện ra thi thể, và cô đã kể lại rằng mùi phân hủy của cơ thể nồng đến mức cô có thể ngửi được nó từ ngoài phố. Nguyên nhân tử vong thât sự của Alder không được xác định. Vợ của ông, Gertrud Alder, thuật lại rằng chồng bà trông vô cùng đau khổ khi bà thấy ông lần cuối. Lúc đó, ông thường lẩm bẩm cụm từ "Les Jardins du Souvenir" (tạm dịch: khu vườn ký ức) khi ghi chú nghiên cứu của mình. | 1 | null |
Multihoming (còn gọi là Đa chủ hay Kết nối nhiều mạng) là một thành phần dịch vụ mạng quan trọng với cơ chế cho phép một trang mạng có thể đáp ứng một lượng lớn các yêu cầu ở mức cao. Theo cách khác, nó còn được mô tả là sự kết nối từ một máy tính hay thiết bị đến nhiều hơn một mạng máy tính. Điều này giúp tăng sự đáng tin cậy của một IP, chẳng hạn như người dùng sử dụng nhiều hơn một Nhà cung cấp dịch vụ Internet. Multihoming cũng có thể tăng chi phí bao gồm: | 1 | null |
"Rapunzel" (; ) là một câu chuyện cổ tích của Đức trong bộ sưu tập của anh em nhà Grimm, lần đầu xuất bản vào năm 1812 như một phần của "Chuyện kể cho trẻ em và trong nhà". Câu chuyện của anh em nhà Grimm phỏng theo truyện cổ tích "Persinette" của Charlotte-Rose de Caumont de La Force ban đầu được xuất bản vào năm 1698. Cốt truyện của Rapunzel đã được sử dụng lại trên nhiều sản phẩm truyền thông đại chúng và câu được biết đến nhiều nhất trong tác phẩm này ("Rapunzel, Rapunzel, hãy thả tóc của con/nàng xuống đi") ngày nay là một thành ngữ trong văn hoá đại chúng.
Trong hệ thống phân loại Aarne–Thompson dành cho truyện cổ tích, câu chuyện này được xếp ở loại 130, "những thiếu nữ trong toà tháp".
Andrew Lang đưa câu chuyện vào trong tập "The Red Fairy Book". Các phiên bản khác của câu chuyện cũng xuất hiện trong "A Book of Witches" của Ruth Manning-Sanders và trong sách tranh giành huy chương Caldecott của Paul O. Zelinsky (1998), "Rapunzel" và trong bộ phim "Người đẹp tóc mây" (2010) của Disney.
Câu chuyện của Rapunzel có một số nét tương đồng với câu chuyện cổ Ba tư từ thế kỉ thứ 10 sau Công nguyên về Rudaba, được đính kèm trong bộ sử thi "Shahnameh" của Ferdowsi. Rudaba muốn thả mái tóc của mình xuống từ trên tháp để người yêu của cô Zal có thể trèo lên chỗ cô ở. Một số chi tiết của câu chuyện cổ tích này cũng có thể đã được dựa trên truyện về Saint Barbara, người được cho là đã bị chính bố cô giam giữ trong một toà tháp cao.
kịch bản.
Câu chuyện bắt đầu với một cặp vợ chồng nông dân mong muốn có một đứa con, họ sống cạnh một khu vườn được bao quanh bởi những bức tường thuộc về một mụ phù thủy độc ác. Người vợ mang thai và nhìn thấy một số cây Rapunzel được trồng trong vườn, và bắt đầu cảm thấy thèm ăn ngày càng tăng đến mức phát ốm. Chồng cô quyết định vào vườn hai đêm liên tiếp để thu thập một số rapunzel, nhưng vào đêm thứ hai, anh bị phù thủy tên là Gothel phát hiện và buộc tội anh trộm cắp. Anh cầu xin sự thương xót của cô, và mụ phù thủy đưa cho anh một số rapunzel để đưa cho vợ anh với điều kiện đứa trẻ mà cô đang mong đợi phải được trao cho cô ngay khi anh chào đời. Anh chấp nhận, không còn lựa chọn nào khác. Đứa bé sinh ra là một cô gái xinh đẹp; Mụ phù thủy xuất hiện, đặt tên cô là Rapunzel và đưa cô đi. Cuộc hôn nhân đau khổ nhưng theo thời gian họ có những đứa con khác và dần dần họ quên mất đứa con gái đầu lòng. Khi Rapunzel tròn mười hai tuổi, mụ phù thủy độc ác Gothel nhốt cô trong một tòa tháp ẩn trong rừng cao và không có cửa ra vào, và đến thăm cô hàng ngày, yêu cầu cô để mái tóc dài vàng óng của mình rơi xuống để trèo lên người cô. .
Một ngày nọ, con trai của Vua của những vùng đất đó đi ngang qua tòa tháp và nghe thấy Rapunzel hát, Hãy tìm một cánh cửa nhưng không tìm được cách nào để vào, anh quyết định đợi. Anh trở lại mỗi ngày để lắng nghe cô ấy, cho đến một ngày anh có thể nghe thấy mụ phù thủy hát cho Rapunzel: "Rapunzel, Rapunzel, hãy để tóc em rụng đi để anh có thể leo lên chiếc thang vàng," và bằng cách này, hoàng tử đã khám phá ra cách để đến đó tùy cô ấy. Anh ấy yêu cầu cô ấy thả tóc xuống. Kể từ ngày đó, anh bắt đầu đến thăm cô thường xuyên, họ yêu nhau và anh ngỏ lời cầu hôn. Mà cô ấy chấp nhận.
Họ cùng nhau lên kế hoạch đưa cô ra khỏi tòa tháp: anh sẽ đi hàng đêm, tránh mụ phù thủy đến thăm cô vào ban ngày, và anh sẽ mang theo lụa để Rapunzel dệt cho đến khi nó tạo thành một loại dây thừng. Nhưng mụ phù thủy phát hiện ra hoàng tử và Rapunzel có quan hệ bí mật (vì Rapunzel đang mang thai) nên quyết định trừng phạt cô bằng cách cắt tóc và bỏ rơi cô giữa sa mạc.
Khi hoàng tử đến vào ban đêm, mụ phù thủy sẽ lo hạ bím tóc đã cắt trong tầm tay của hoàng tử. Khi hoàng tử đi lên và gặp mụ phù thủy trong tòa tháp, bà nói với chàng rằng chàng sẽ không bao giờ gặp lại Rapunzel nữa. Anh ta, tuyệt vọng, cố gắng tự tử bằng cách nhảy khỏi tháp nhưng rơi vào một số gai và bị mù, cuối cùng anh ta bỏ cuộc vì sẽ không còn nhìn thấy người phụ nữ trẻ nữa. Ít lâu sau, khi hoàng tử đang lang thang trong sa mạc, anh tìm thấy Rapunzel và đứa con trai mà cô đã sinh ra, cô thấy anh trong tình trạng như vậy nên quyết định đưa anh về nhà. Rapunzel khóc buồn và tuyệt vọng vì đau đớn; Nước mắt của Rapunzel rơi vào mắt hoàng tử đẹp trai và anh lấy lại được thị lực. Sau đó, hoàng tử cùng với Rapunzel và con trai của họ trở về vương quốc và họ hạnh phúc mãi mãi.
Các biến thể.
Rapunzel được miêu tả là có mái tóc vàng trong câu chuyện nguyên gốc của anh em nhà Grimm (ý nói là hoặc có màu vàng hoe, màu vàng dâu hoặc đỏ), mặc dù, từ đó về sau, nàng xuất hiện với mái tóc dài màu vàng.
Có thể, biến thể lâu đời nhất ở châu u của truyện này là Petrosinella, một trong những truyện của xứ Naples trong tập "Pentamerone" (1634) của Giambattista Basile.
Italo Calvino có in trong sách "Italian Folktales" (Truyện cổ của người Italia) một phiên bản tương tự về một nàng công chúa bị giam giữ trong toà tháp, "The Canary Prince", mặc dù việc này do tính ghen tuông của bà mẹ kế gây ra.
Một câu chuyện của Đức "Puddocky" cũng mở đầu với một cô gái rơi vào tay một mụ phù thủy bởi lấy trộm đồ ăn, nhưng người muốn được ăn thức ăn ấy lại chính là cô gái đó, và người lấy trộm nó là mẹ cô. Một câu chuyện của Ý khác, "Prunella", có một cô gái đi lấy trộm đồ ăn về và cũng bị một mụ phù thủy bắt được.
"Snow-White-Fire-Red", một câu chuyện khác của Ý cùng loại này, và "Anthousa, Xanthousa, Chrisomalousa", một câu chuyện của Hy Lạp, kể lại từ điểm nhìn của một anh hùng, chàng và nữ nhân vật chính đã thoát khỏi tay mụ phù thủy, nhưng sau đó phải chịu những lời nguyền độc ác.
Trong các phiên bản mới hơn, Rapunzel được miêu tả là một họa sĩ, như các phiên bản của Barbie và Disney.
Trong tiểu thuyết "Golden" của Cameron Dokey, Rapunzel bị giao cho mụ phù thủy (tên là Melisande) do một thoả thuận giữa mụ và mẹ của Rapunzel – nếu người mẹ không yêu Rapunzel cho dù vẻ bề ngoài của cô có thế nào, thì bà ấy phải giao Rapunzel cho mụ phù thủy. Rapunzel được sinh ra mà không có tóc và cũng không có hi vọng cô sẽ mọc tóc, do đó cô được đưa cho mụ phù thủy nuôi nấng.
Trong tiểu thuyết "By the Hair" của Kymbr Mundstock, cô gái được đặt tên là Kaprice. Truyện được kể từ điểm nhìn của nhiều nhân vật cho phép người đọc hình dung mục đích việc làm của mỗi nhân vật là gì.
Series truyện tranh "Truyện cổ Grimm" ấn bản số19 được đặt tên là Rapunzel. Khi Sela gặp một cặp đôi chuyên làm nghề lừa tiền tiết kiệm của mọi người, cô nghĩ đã đến lúc can thiệp và dạy cho chúng một bài học. Nàng Rapunzel xinh đẹp không thả tóc xuống cho một người đàn ông riêng biệt nào, nàng thả tóc xuống cho tất cả đàn ông! Và nàng đã dẫn hai kẻ mù quáng vì tình kia thẳng vào một cái bẫy kinh khủng. Nhưng giống như người xưa hay nói "Tình yêu là mù quáng", đôi khi người bạn chăm sóc nhiều nhất lại chính là người bạn có thể tin tưởng ít nhất.
Trong truyện "Bitter Greens" của Kate Forsyth, một phiên bản kể lại của truyện Rapunzel, một cô gái trẻ tên là Margherita, sau đổi tên thành Petrosinella, có mái tóc đỏ rực lửa được may ghép lại từ mái tóc của tám cô gái khác bởi mụ phù thủy tên là Selena Leonelli. Cô cũng là một trong ba nhân vật chính của truyện.
Trong trò chơi điện tử "" Rapunzel được nhắc đến trong mức chơi (level) mang tên Operation Rapunzel, trong đó người chơi phải đi giải cứu một thành viên giải phóng người Hà Lan tên là Gerrit, người bị giam giữ trong một trang trại Hà Lan bởi bọn Nazis.
Nguồn gốc tên gọi.
Khá khó để xác định loài cây nào đã được anh em nhà Grimm nhắc tới qua từ "Rapunzel", nhưng những loài thực vật sau, được liệt kê trong từ điển của riêng chúng, là các ứng cử viên sáng giá. | 1 | null |
Đội tuyển David Cup Việt Nam là đại diện của Việt Nam tại giải quần vợt Davis Cup và được Liên đoàn quần vợt Việt Nam quản lý.
Việt Nam hiện đang thi đấu tại khu vực châu Á/châu Đại Dương nhóm II. Việt Nam từng lọt vào chung kết khu vực Đông A năm 1964 và khu vực Đông B năm 1965 và 1969.
Lịch sử.
Việt Nam lần đầu góp mặt tại Cúp Davis vào năm 1964. Giai đoạn 1974-2003 Việt Nam không tham gia. Họ thi đấu tại Khu vực châu Á/châu Đại Dương nhóm II vào năm 2014 và năm 2016.
2016.
Ở khu vực châu Á/châu Đại Dương nhóm II, Việt Nam hạ Indonesia 3-2 trong vòng đầu (diễn ra vào đầu tháng 3), thua Thái Lan tại vòng bán kết diễn ra từ 15 tới 17 tháng 7.
Đội tuyển hiện tại.
Đội trưởng: Trương Quang Vũ | 1 | null |
Lê Văn Tân (tên khai sinh là Jonathan Quartey; sinh ngày 30 tháng 7 năm 1984) là một cựu cầu thủ bóng đá người Ghana nhập quốc tịch Việt Nam.
Sự nghiệp.
Lê văn Tân bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình tại câu lạc bộ Liberty Professionals của giải ngoại hạng Ghana. Năm 2003, anh được triệu tập lên đội tuyển quốc gia Ghana. Ngày 15 tháng 2 năm 2003, anh ra mắt đội tuyển khi vào sân thay người trong trận giao hữu gặp Benini.
Năm 2007, anh chuyển đến Việt Nam thi đấu cho Khánh Hòa tại V.League. Sau đó, anh chuyển sang Hà Nội ACB của bầu Kiên và nhập quốc tịch Việt Nam vào tháng 5 năm 2011. | 1 | null |
Shaman giáo hay Saman giáo là một hình thức tín ngưỡng cổ xưa thông qua những người trung gian để giao tiếp với Thần linh, qua đó nhờ Thần linh giúp đỡ những điều mong muốn, truyền đạt ý chí của Thần Linh, họ có nhiệm vụ trông giữ, phụng sự và cúng tế lễ cho Thần Linh. Và những người môi giới hay sứ giả thần linh này được gọi là Thầy tế, Thầy mo, Phù thủy hoặc Pháp sư tùy theo từng nơi. Có thể hiểu Shaman là tín ngưỡng dân gian, có ở tất cả các quốc gia trên thế giới từ thời cổ đại và nguyên thủy nhất của loài người.
Tổng quan.
Từ Shaman bắt nguồn từ chữ Smàn (tế tư) tiếng Tungus. Trong tiếng Phạn là chữ Zramaịa (trong tiếng Pàli là Samaịa, nghĩa là là siêng năng không ngừng), từ chữ gốc là Sam nghĩa là nhảy múa, quay cuồng trong trạng thái hưng phấn.
Shaman giáo là tín ngưỡng bản địa có các vị pháp sư hoặc phù thủy là người mang ý của Thần Linh nơi đó và họ chính là Sứ giả của Thần Linh giúp Thần Linh giao tiếp với tín đồ và người dân. Việt Nam dịch là đạo phù thủy Saman giáo. Shaman giáo có nhiều yếu tố giống ma thuật nhưng khác ma thuật ở chỗ nếu ma thuật quan niệm tự bản thân người làm ma thuật có một sức mạnh siêu linh thì shaman cho mình là người môi giới, là hình bóng của siêu linh. Saman giáo là một hình thức tôn giáo dùng phù phép, ảo thuật dưa con người vào trạng thái hôn mê để giao tiếp với thần linh, qua đó nhờ thần linh giúp đỡ những điều mình mong muốn.
Chung quy lại thì dù là cách gọi có khác nhau theo từng nơi nhưng ta thấy điểm chung là tôn thờ Thần bản địa, mang tính chất sơ khai, do Tu tế, Thầy mo, Phù thủy, Pháp sư, Ông đồng, Bà đồng, Cô đồng, Cậu đồng... theo nhiều cách gọi tùy nơi nhưng lại giữ chung vai trò là sứ giả, người đại diện, người hầu cận cho Thần Linh và giúp con người giao tiếp với Thần Linh, truyền đạt ý chí của Thần Linh và thực hiện mong muốn của con người với Thần Linh, khi hành lễ luôn kèm theo hành động nhảy múa và kêu gọi hoặc hát xướng xem như lời chú ngữ để mời thỉnh Thần Linh ứng hiện.
Người làm nghề shaman không cha truyền con nối, chỉ khi được thánh nhập vào sau cơn ốm, được báo mộng thấy phải làm nghề này mới sống... người đó mới chính thức thành một shaman. Người làm nghề shaman phải có một thánh nhập vào, phải có âm binh (là những thế lực siêu hình thừa lệnh thánh giúp shaman tróc quỷ), có mũ áo, đao kiếm, đồ nghề riêng. khi làm lễ thầy ca hát nhảy múa để thần linh nhập vào thầy hay trống chiêng của thầy. Cũng có thể thầy xuất hồn vào cõi thần. Shaman thường sử dụng ayahusaca để kết nối với vũ trụ, thần linh.
Tín đồ của shaman giáo là những người tin theo và tham gia vào các nghi lễ của shaman giáo.
Thuật ngữ.
Từ nguyên.
Mượn từ tiếng Đức "Schamane", từ tiếng Nga шама́н (šamán), từ Evenki шама̄н (şamān), сама̄н (samān). Từ Evenki có thể bắt nguồn từ gốc ша- ("biết"); hoặc một từ mượn từ Tocharian B "ṣamāne" (“nhà sư”) hoặc tiếng Trung 沙門 ("shāmén", “tu sĩ Phật giáo”), từ tiếng Pali "samaṇa" từ tiếng Phạn श्रमण ("śramaṇa", “khổ hạnh, tu sĩ, tín đồ”), từ श्रम ("śrama", “sự mệt mỏi”), kiệt sức, lao động, cực nhọc, v.v.”), điều này sẽ làm cho điều này trở thành một từ kép của "Sramana".
Từ tiếng Anh hiện đại shamanism bắt nguồn từ từ tiếng Nga šamán, bản thân từ này xuất phát từ từ samān từ một ngôn ngữ Tungus [7] – có thể từ phương ngữ tây nam của tiếng Evenki được nói bởi các dân tộc Sym Evenki, [8] hoặc từ tiếng Mãn Châu . [9] Từ nguyên của từ này đôi khi được kết nối với từ gốc Tungus sā- , có nghĩa là "Người Đã Biết" hay "Người Giác Ngộ" nhằm nói về Người có năng lực Phi thường, đã được Giác ngộ (theo Phật Giáo), hay Khai sáng (theo Thiên Chúa giáo) và có khả năng giao tiếp và tiếp thu các Kiến thức cũng như lời Sấm truyền từ các Đấng Thần Linh. [10] [11]
Mircea Eliade lưu ý rằng từ tiếng Phạn śramaṇa , chỉ một nhân vật tu sĩ hoặc thánh sống lang thang, đã lan sang nhiều ngôn ngữ Trung Á cùng với Phật giáo và có thể là nguồn gốc cuối cùng của từ pháp sư. [13]
Thuật ngữ này được sử dụng bởi người Nga tương tác với người bản địa ở Siberia . Nó được tìm thấy trong hồi ký của nhà thờ Nga lưu vong Avvakum . [14] Nó được du khách người Hà Lan Nicolaes Witsen mang đến Tây Âu hai mươi năm sau , người này đã tường thuật lại quá trình lưu trú và hành trình của mình giữa các dân tộc bản địa nói tiếng Tungusic và Samoyedic ở Siberia trong cuốn sách Noord en Oost Tataryen ( 1692) của ông. [15] Adam Brand , một thương gia đến từ Lübeck , xuất bản vào năm 1698 tài khoản của ông về một đại sứ quán Nga tại Trung Quốc; bản dịch cuốn sách của ông, xuất bản cùng năm, giới thiệu từ pháp sưcho người nói tiếng Anh. [16]
Shaman giáo trên thế giới.
Trung Quốc.
Shaman nghĩa là ông đồng, Thuật ngữ này lấy từ dân tộc Mãn ở đông bắc Trung Quốc. Đối tượng tôn thờ thường là các vị Thần bản địa có nguồn gốc từ động vật tu Tiên với tên gọi là Địa Tiên như Chuột Tinh, Gà Tinh, Rắn Tinh, Nhím Tinh, Hổ Tinh, Hồ Ly Tinh, Chồn Tinh, Mèo Tinh, Chó Tinh, đôi khi là Mộc Tinh...Nó rất gần với Vu thuật hay Vu giáo cổ xưa của Trung Quốc.
Triều Tiên và Hàn Quốc.
Ở Triều Tiên cũng có Shaman giáo có nét tương tự như Đạo Mẫu và Vu giáo ở Trung Quốc. Triều Tiên có hình thức hầu đồng liên quan đến tín ngưỡng thờ mẹ tương đồng với Việt Nam.
Nhật Bản.
Ở Nhật Bản thì có hệ thống đền thờ gọi là Thần Xã = [神社] = "[じんじゃ]" hay Đền Thần theo nghĩa Hán Việt, những vị này cũng được gọi là vu nữ (pháp sư) hay miko là những người thực hiện nghi lễ cúng tế Thần Linh và trên điện thờ là một cái gương đồng với một bài vị có ghi hàng chữ Hán là "[大明神]" tức là Đại Minh Thần là biểu tượng của thần Mặt Trời cũng tức là Nhật Hoàng Thượng Đế là vị thần tối cao của bầu trời, của ánh sáng và sự sống. Xét cho cùng cũng là mang hàm nghĩa tín ngưỡng bản địa nguyên thủy như Shaman và những vị Pháp sư giữ đền Thần là Sứ giả để truyền đạt ý chí của Thần Linh họ cũng tôn sùng chó và mèo như vị thần Hộ Pháp nơi đền Thần thiêng liêng. Ngoài ra họ còn tôn thờ Mộc Tinh và một số vị Thần Linh khác có nguồn gốc từ động vật tu Tiên tức là Yêu Tinh được tôn làm thần nhờ có công giúp đỡ người dân, hay đôi khi chỉ vì muốn được cầu được sống bình an tại nơi đang sống mà có Yêu Tinh cư ngụ.
Việt Nam.
Ở Việt Nam thì Đạo Mẫu, thờ Trần triều và Thầy mo hay Phù thủy của các dân tộc thiểu số là những hình thức shaman giáo. Hình thức lên đồng Tam phủ, Tứ phủ và thờ Trần triều ở Việt nam là một hình thức Shaman điển hình phát triển và định hình trong xã hội có giai cấp, hấp thu ảnh hưởng Tam giáo, nhất là tư tưởng từ bi của đạo Phật, các hình thức phù chú cúng lễ, hệ thống thần linh của Đạo giáo. Các thầy thống Việt Nam (Đạo giáo Chính Nhất của Việt Nam) cũng còn lưu truyền các phép "đánh đồng thiếp" (vào ngục tìm người thân), "phụ phan", "Thiếp tính Sơn Trang phụ đồng"... để kiều vong người đã mất nhập vào thân nhân.
Tham khảo.
__CHỈ_MỤC__ | 1 | null |
Otto Paul Hermann Diels (23 tháng 1 năm 1876 - 7 tháng 3 năm 1954) là một nhà hóa học người Đức.
Ông cùng người học trò là Kurt Alder được biết đến với công trình khám phá ra phản ứng Diels-Alder, một phản ứng tổng hợp dùng ankadien làm chất phản ứng. Cả hai nhà hóa học đều được trao Giải Nobel Hóa học năm 1950 nhờ công trình này. Đồng thời, đây là lần đầu tiên trong lịch sử cả thầy lẫn trò được trao Giải Nobel Hóa học trong cùng một năm và đặc biệt cả hai đều có quốc tịch Đức.
Phản ứng Diels-Alder của hai nhà hóa học đã giúp cho việc tổng hợp hiệu quả các chất hữu cơ dạng vòng và đã mang lại một giá trị to lớn cho ngành sản xuất cao su và nhựa tổng hợp.
Diels hoàn tất chương trình học tại Đại học Berlin và ở lại làm việc tại ngôi trường này sau khi tốt nghiệp. Sau này, ông chuyển đến làm việc tại Đại học Kiel nơi mà ông hoàn thành công trình đạt Giải Nobel của mình. Ông làm việc tại ngôi trường này cho đến khi nghỉ hưu năm 1945.
Về đời sống cá nhân, Diels kết hôn và có 5 người con. Ông qua đời vào năm 1954.
Cuộc đời lúc thiếu thời.
Diels sinh ngày 23 tháng 1 năm 1876 tại Hamburg, Đức. Khi ông 2 tuổi, gia đình ông chuyển đến Berlin để sinh sống. Ông học tại trường Trung học Joachimsthalsches (một trường cho các nam sinh năng khiếu) tại Berlin trước khi ghi danh vào Đại học Berlin năm 1895. Tại Đại học này, ông theo ngành hóa học và được Emil Fischer chỉ dẫn cho đến khi tốt nghiệp năm 1899.
Sự nghiệp khoa học.
Sau khi vừa mới tốt nghiệp, Diels được nhận một lời đề nghị làm việc tại Viện Hóa học của Đại học Berlin. Ông được thăng cấp nhanh chóng và cuối cùng lên đến chức Trưởng khoa năm 1913. Ông làm việc tại ngôi trường này cho đến năm 1915, khi ông chấp nhận một vị trí mới tại Đại học Kiel nơi mà ông làm việc cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1945. Trong thời gian giảng dạy và nghiên cứu tại Kiel, ông làm việc với Kurt Alder nhằm phát triển phản ứng Diels-Alder - công trình đã giúp họ có được Giải Nobel Hóa học năm 1950. Việc hợp tác với Alder đã giúp Diels phát triển một phương pháp tổng hợp mới giúp điều chế các chất hữu cơ vòng không no. Công trình này đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất cao su và nhựa tổng hợp.
Đời sống cá nhân.
Diels kết hôn với Paula Geyer vào năm 1909, và cả hai có với nhau 5 người con bao gồm 3 trai và 2 gái. 2 trong số 3 người con trai của ông đã tử trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diels dành thời gian rảnh của mình để đọc sách, nghe nhạc và đi du lịch. Ông qua đời vào ngày 7 tháng 3 năm 1954. | 1 | null |
Mohamed Brahmi (; ;m15 tháng 5 năm 1955 – 25 tháng 7 năm 2013) là một chính khách phe đối lập người Tunisia, tổng Thư ký Đảng Phong trào Nhân dân đối lập và là thành viên Quốc hội Tunisia, một thành viên của ban soạn thảo hiến pháp mới.
Tiểu sử.
Brahmi sinh ngày 15 tháng 5 năm 1955 tại Sidi Bouzid, thủ phủ của Sidi Bouzid Governorate. Ông tốt nghiệp Viện Đại học Quản lý tại Đại học Tunis với bằng Thạc sĩ kế toán trong năm 1982. Sau khi tốt nghiệp ông làm giáo sư kinh tế và quản trị trong hai năm tại trường Đại học kỹ thuật của Menzel Bourguiba.
Sau đó, ông làm việc tại Văn phòng Thủy lợi, và sau đó trong lĩnh vực bất động sản 1985 – 1993. Ông đã làm tư vấn kiểm toán cho Cơ quan Hợp tác kỹ thuật tại Ả Rập Xê Út. Từ năm 2004 ông làm người quản lý của một doanh nghiệp bất động sản chuyên trong khu dân cư.
Chính trị.
Brahmi là một thành viên tích cực của "Liên hiệp sinh viên Ả Rập Cấp tiến" cho tới 2005, khi ông thành lập "phong trào Liên minh Nasserist"; một đảng bất hợp pháp dưới thời của chính phủ Ben Ali. Sau cách mạng Tunesia ông thành lập "Phong trào Nhân dân" và trở thành Tổng thư ký của nhóm này. Đảng này sau đó nhập vào "Mặt trận Bình dân (Tunisia)" vào ngày 13 tháng tư 2013. Tuy nhiên, Brahmi và các thành viên khác của phong trào đã rời bỏ Mặt trận vào ngày 7 tháng 7, sau khi họ bị các lãnh tụ trung ương và địa phương của Phong trào chỉ trích là đã gia nhập Mặt trận này một cách vội vã.
Brahmi nổi tiếng là một chính trị gia Xã hội có tinh thần Quốc gia Ả Rập, đặc biệt theo truyền thống của Gamal Abdel Nasser. Ông là một người sùng đạo hồi giáo. Mặc dù là một thành viên của Mặt trận Bình dân chống Hồi giáo cực đoan, ông không được biết tới như là một người hay chỉ trích Hồi giáo cực đoan, và trên thực tế ông có nhiều bạn bè trong đảng Hồi giáo quá khích đang cầm quyền (phong trào Ennahda).
Qua đời.
Ngày 27 tháng 7 năm 2013, Trước sự chứng kiến của vợ và các con nhà lãnh đạo đối lập Mohamed Brahmi bị bắn 14 phát đạn bởi 2 tay súng đi mô tô, và chết sau đó cùng ngày tại bệnh viện ở Aryanah. Người ta vẫn chưa xác định thủ phạm, bên ngoài nhà ông tại thủ đô Tunis.
Sau cái chết của ông ta, hàng trăm người ủng hộ, bao gồm thân nhân và đảng viên của Phong trào Nhân dân biểu tình trước tòa nhà Bộ nội vụ tại đại lộ Avenue Habib Bourguiba, đổ trách nhiệm vụ ám sát cho đảng Ennahda đang cầm quyền. Hàng trăm người ủng hộ cũng đã phản đối tại quê hương của Brahmi ở Sidi Bouzid.
Cái chết của Brahmi xảy ra sau vụ ám sát lãnh tụ đối lập Chokri Belaid, bị bắn chết vào ngày 6 tháng 2 năm 2013. Cả hai đều là thành viên của Liên minh thiên tả. Bộ trưởng bộ Nội vụ Lotfi Ben Jeddou nói trong một cuộc họp báo: "Khẩu súng tự động 9mm mà đã giết Belaid cũng làm tử thương Brahmi." Một nghi can đã được nhận diện là Boubacar Hakim, một thành viên của nhóm hồi giáo Salafist đang bị truy nã vì bị nghi ngờ là đã mang lén vũ khí này vào từ Libya. Một đám tang trọng thể đã được tổ chức cho Brahmi và hàng chục ngàn người đã đưa đám tới nghĩa địa Jellaz Cemetery tại Tunis. Trong đám tang, những người phản đối kêu gọi lật đổ chính phủ, trong khi cảnh sát bắn đạn cay vào họ.
Phản ứng.
3 ngày sau vụ ám sát, bộ trưởng bộ Giáo dục Salem Labiadh, người mà cũng thuộc đảng "Phong trào Quốc gia Cấp tiến" như thủ tướng Ali Larayedh, đã đệ đơn từ chức. Sau những kêu gọi của các nhóm đối lập đòi chính phủ hiện thời từ chức, nhất là khi đảng Ettakatol, một đảng nhỏ trong Liên hiệp các Đảng đang cầm quyền, kêu gọi thành lập một chính phủ hòa hợp dân tộc, thủ tướng Ali Larayedh định ngày 17 tháng 12 là ngày tổng bầu cử, tuy nhiên ông ta nói là chính quyền sẽ tiếp tục công việc của họ. | 1 | null |
Ngàn năm áo mũ với tiêu đề Lịch sử trang phục Việt Nam giai đoạn 1009 - 1945, là tên một cuốn sách khảo cứu về trang phục của người Việt Nam phát hành năm 2013, dày hơn 400 trang, Nhà xuất bản Thế giới và Công ty Nhã Nam phát hành, là kết quả sau "ba năm lao động trí óc" của tác giả Trần Quang Đức.
Tác giả.
Trần Quang Đức sinh năm 1985, là một nhà nghiên cứu độc lập, dịch giả Trung-Việt, từng công tác tại Viện Văn học trong khoảng thời gian 2012-2014. Trước khi về Viện Văn học, Trần Quang Đức học tại Đại học Ngoại ngữ (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), sau đó du học và tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh năm 2009. Từ năm 2010 đến 2012, trong quá trình công tác tại phòng Tu thư thuộc Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, Trần Quang Đức bắt tay khởi thảo cuốn "Ngàn năm áo mũ". Anh quan niệm: ""Nhìn lại quá khứ, chúng ta không thể thù ghét quá khứ. Với những gì trong quá khứ thì thế hệ sau cần phải tôn trọng chứ không phải rũ sạch. Bởi nếu giờ ta không tôn trọng quá khứ của ta thì con cháu sau này cũng không tôn trọng ta".
Nội dung.
"Ngàn năm áo mũ" giải thích các kiểu dáng và quy chế các loại áo mũ được sử dụng trong cung đình và dân gian Việt Nam trong giai đoạn từ 1009 - 1945, trải dài từ thời Lý tới thời Trần, Lê sơ, Lê trung hưng, Tây Sơn và cuối cùng là thời Nguyễn.
Thứ nhất, về trang phục cung đình, khảo cứu lý giải nguyên do và phân tích mức độ mô phỏng trang phục Trung Hoa trong quy chế trang phục của các triều đại Việt Nam, mô tả chi tiết nhiều dạng trang phục như bộ Tế phục áo Cổn mũ Miện của các vị hoàng đế, các bộ Triều phục, Thường phục Lương quan, Củng Thần, Ô Sa, Bổ phục của bá quan hay Lễ phục Vĩ Địch, Phượng quan của hoàng hậu.
Kế đến, khảo cứu miêu tả chi tiết những kiểu trang phục dân gian phổ biến, không biến động nhiều như kiểu áo giao lĩnh, áo tứ thân, hay lối ăn mặc cởi trần đóng khố của đàn ông và yếm, váy giản tiện của phụ nữ.
Theo báo Công an Nhân dân, "Mỗi triều đại, tác giả lại chia ra làm 2 phần lớn: trang phục thường dân và trang phục cung đình. Trang phục cung đình lại được chia ra nhiều mảng nhỏ: Trang phục hoàng đế (lễ phục, triều phục, thường phục, quân phục); trang phục bá quan; trang phục hậu cung; trang phục quân đội… Không chỉ đưa ra đầy đủ hình dáng, hoa văn, màu sắc, tác giả còn miêu tả tỉ mỉ các phụ kiện đi kèm như hoa cài mũ, đai lưng, chi tiết của hài…".
Sách dày hơn 400 trang, có nhiều hình ảnh minh họa, cả những bức tranh có cách đây 600 năm, hay những bức tranh của người Nhật vẽ người Việt Nam cách nay 400 năm.
Tác giả cho rằng có hai tư tưởng lớn ảnh hưởng đến trang phục cung đình Việt Nam là tư tưởng Đế vương và quan niệm Hoa di (cho mình là người văn minh ở trung tâm), nền văn hóa cung đình ảnh hưởng lớn đến cấu trúc trang phục và trang phục của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của những quốc gia xung quanh, đặc biệt là từ Trung Quốc nhưng với tâm thức của người đứng ngang hàng.
Theo tác giả viết trong lời kết của sách: "Ngàn năm áo mũ thể hiện một góc nhìn lịch sử, tư tưởng, mỹ thuật Việt Nam thông qua dòng chảy biến thiên của văn hóa trang phục; đồng thời làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa trang phục Việt Nam so với trang phục của các nước đồng văn, đặc biệt là Trung Quốc". Nhà nghiên cứu Trịnh Bách nhận xét trong lời tựa sách: "Có lẽ đây là một trong những tập tài liệu văn hóa, lịch sử trang phục được nghiên cứu sâu và được biên soạn kỹ nhất ở Việt Nam, nếu không nói là quốc tế, cho đến nay".
Quá trình thực hiện.
Để tìm kiếm tư liệu cho cuốn sách, tác giả khai thác nhiều từ nguồn tư liệu Hán - Nôm hay các văn tự, văn vật cổ cùng thời ở cả trong và ngoài nước hơn là những hiện vật do người đời sau dựng nên, tác giả đã đọc tài liệu của nhiều nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và đi thực tế cả Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Để chỉ ra sai lầm nhìn nhận trang phục các triều đại trước nhà Nguyễn bằng trang phục nhà Nguyễn của đa số mọi người, ví dụ, khảo cứu đã chỉ ra rằng người Lê trung hưng thường mặc áo giao lĩnh, xoã tóc dài, đôi khi dùng khăn phủ đầu. Điển hình có Phùng Khắc Khoan đi sứ nhà Minh đã được sứ thần Triều Tiên Lý Toái Quang miêu tả: xoã tóc dài, dùng một tấm khăn phủ lên đầu trông tựa nhà sư.
Phát hành.
"Ngàn năm áo mũ" được Nhã Nam và Nhà xuất bản Thế giới phát hành vào ngày 29 tháng 5 năm 2013 tại Hội chợ Sách hè năm 2013 của Nhã Nam tổ chức ở Hà Nội. Tối ngày 31 tháng 5 năm 2013, tác giả có buổi giao lưu và ký tặng sách cho độc giả. Chỉ trong 2 tuần đầu phát hành, 1000 cuốn sách đã bán hết và sách được in thêm. | 1 | null |
Xào là một cách nấu chín thức ăn bằng cách đảo lộn thức ăn với một ít dầu ăn hay mỡ nước trên chảo nóng cùng với gia vị. Yếu tố quan trọng là chảo phải ở nhiệt độ thật nóng trong khi người làm bếp phải mau tay đảo trộn các thành phần trong chảo. Khác với chiên hoặc rán, lượng dầu mỡ dùng ít hơn và các vật liệu phải được cắt đều, kích thước nhỏ để chín đều nhau. Chiên thì có thể để nguyên một cánh gà hay cá nguyên con nhưng xào thì phải xắt nhỏ. Ở Việt Nam một số món tiêu biểu dùng phương thức xào là rau muống xào tỏi, gà xào sả ớt, phở xào, mì xào... | 1 | null |
Glenn Theodore Seaborg (1912-1999) là nhà vật lý hạt nhân người Mỹ. Ông cùng với Edwin McMillan trở thành hai nhà khoa học Mỹ đoạt Giải Nobel Hóa học năm 1951 nhờ những phát hiện những nguyên tố phóng xạ. Với điều đó, Mỹ trở thành nước thứ 3 trên thế giới sau Pháp và Đức có hai người đoạt Giải Nobel Hóa học trong một năm.
Những nghiên cứu các nguyên tố phóng xạ.
Americi.
Americi được tạo ra vào năm 1944 khi Glenn Theodore Seaborg bắn phá các proton bằng các neutron.
Plutoni.
Plutoni được tạo ra đầu tiên vào ngày 14 tháng 12 năm 1940 bởi một nhóm các nhà khoa học, đứng đầu là Seaborg và McMillan (hai thành viên còn lại của nhóm là Joseph William Kennedy, người học trò của Seaborg và Arthur Wahl). Để làm được việc này, họ dùng hạt nhân deuteron bắn phá urani trong máy gia tốc 60 inch ở Đại học California, Berkeley Trong thí nghiệm năm 1940, neptuni-238 đã được tạo ra một cách trực tiếp từ việc bắn phá nhưng bị phân rã phát ra tia beta 2 ngày sau đó, và tạo ra nguyên tố 94.</ref>.
Berkeli.
Berkeli được tổng hợp ra bởi một nhóm nhà khoa học khác vẫn do Seaborg đứng đầu. Các thành viên còn lại của nhóm là Albert Ghiorso, Stanley G. Thompson và Kenneth Street, Jr. Họ đã tổng hợp ra nguyên tố phóng xạ này vào năm 1949, tháng 12. Họ đã sử dụng máy xiclotron để bắn phá hạt nhân 241Am kích thước miligam bằng các hạt anpha tạo ra 243Bk (chu kỳ bán rã 4,5 giờ) và hai neutron tự do.
Actini.
Actini là một nguyên tố phóng xạ quan trọng, đã làm cho Glenn Seaborg có một đề xuất quan trọng: đưa thêm nhóm actini vào trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Dmitri Mendeleev. Đề xuất này được đưa ra vào năm 1945
Tecneti.
Emilio Segrè, nhà hóa học người Mỹ gốc Ý và Glenn Seaborg là nhà khoa học đã cô lập được đồng vị Tc99m mà hiện nay được sử dụng trong khoảng 10 triệu thử nghiệm chẩn đoán y học mỗi năm..
Mendelevi.
Nhóm những Albert Ghiorso, Glenn Seaborg, Gregory R. Choppin, Bernard G. Harvey và Stanley G. Thompson (trưởng nhóm đã được phát hiện ra vào năm 1955 tại Đại học California, Berkeley. Nhóm đã tạo ra 256Md (chu kỳ bán rã 87 phút) khi họ bắn phá hạt nhân 253Es bằng các hạt anpha (hạt nhân heli) trong máy cyclôtron 60 in của phòng thí nghiệm phóng xạ Berkely ("Berkeley Radiation Laboratory")..
Californi.
Năm 1950, Glenn T. Seaborg, Albert Ghiorso và Stanley G. Thompson thực hiện việc tấn công các nguyên tử Am241 bằng các ion heli, tạo ra các nguyên tử có số nguyên tử bằng 97 và là tương tự với terbi trong nhóm Lanthan. Do terbi được đặt tên theo làng Ytterby, nơi nó và một vài nguyên tố khác được phát hiện, nên nguyên tố mới này được đặt tên là berkeli theo thành phố (Berkeley) nơi nó được tổng hợp. Tuy nhiên, khi nhóm nghiên cứu tổng hợp nguyên tố số 98, họ không thể nghĩ ra một tên tương ứng với dysprosi, và thay vì thế đặt tên nguyên tố là californi để vinh danh bang nơi nó được tổng hợp. Nhóm nghiên cứu đi tới kết luận là "chỉ ra rằng, để thừa nhận thực tế rằng dysprosi được đặt tên trên cơ sở của từ trong tiếng Hy Lạp nghĩa là 'khó thu được', rằng các nhà nghiên cứu của nguyên tố kia một thế kỷ trước đó thấy rằng nó khó có thể nhận tên gọi theo California.".
Tôn vinh.
Để tôn vinh nhà hóa học người Mỹ, một nhóm các nhà khoa học Mỹ khác khi tổng hợp được một nguyên tố phóng xạ đã đặt tên là Seaborgi, mặc dù ông vẫn còn sống khi đó. Ngoài ra, tên ông còn được đặt cho tiểu hành tinh 4856 Seaborg. | 1 | null |
Seven Pounds (tựa tiếng Việt: "Bảy số phận" hay "Hành trình sám hối") là một bộ phim năm 2008, đạo diễn Gabriele Muccino, trong đó diễn viên Will Smith vào vai một người đặt ra kế hoạch để thay đổi cuộc sống của bảy người. Với các diễn viên khác Rosario Dawson, Woody Harrelson, và Barry Pepper. Bộ phim đã được phát hành tại các rạp ở Mỹ và Canada vào ngày 19 tháng 12 năm 2008, bởi Columbia Pictures. Mặc dù nói chung đánh giá tiêu cực từ các nhà phê bình nhưng là một thành công ở phòng vé, thu về 168.168.201 USD trên toàn thế giới.
Tựa phim.
Trước khi phát hành phim, tiêu đề "Seven Pounds" được coi là một "bí mật" mà hãng từ chối giải thích. Trailer đầu tiên cho "Seven Pounds" thể hiện các chi tiết bí ẩn của bộ phim. Đạo diễn Gabriele Muccino giải thích mục đích: "Các khán giả sẽ không biết chính xác những gì người đàn ông này đang làm". Smith sẽ được báo cáo khẳng định rằng tiêu đề phim liên quan đến vở kịch The Merchant of Venice của Shakespeare, trong đó một con nợ phải trả tiền một cân thịt. Trong trường hợp này, giá trị bảy món quà đến bảy cá nhân được coi là xứng đáng bởi nhân vật Smith, để chuộc lỗi cho bảy người đã chết trong tai nạn giao thông do anh gây ra.
Nội dung.
Hai năm trước, Tim Thomas (Will Smith), khi vô tình gửi một tin nhắn điện thoại trong lúc lái xe, trên đường đến trung tâm thành phố và gây ra một tai nạn giao thông, trong đó có bảy người chết: sáu người ở xe khác và vị hôn thê của mình, Sarah Jenson (Robinne Lee).
Trong sự cố gắng có ý thức để chuộc tội, không thể sống với những gì mình đã gây ra, Tim lên kế hoạch để cứu sống bảy người tốt bằng cách hiến nội tạng của mình, sau khi kế hoạch hoàn thành anh sẽ tự kết liễu đời mình. Một năm sau vụ tai nạn, đã từ bỏ công việc của mình là một Kỹ sư Hàng Không, Tim hiến một thùy phổi cho người em trai Ben (Michael ealy), một nhân viên lĩnh vực IRS. Anh đánh cắp thẻ căn cước liên bang IRS của Ben và các thông tin, dán hình ảnh của mình vào thẻ của Ben, tự nhận mình theo tên của người em trai, và sử dụng đặc quyền của Ben để kiểm tra tình hình tài chính của các ứng cử viên tiềm năng hơn nữa cho sự đóng góp của mình. Trong nhiều trường hợp, anh ưu tiên "phỏng vấn" những người "tốt".
Trong một trường hợp, giám đốc của một cơ sở nhà tế bần đang nuôi con nhỏ, tìm một khoảng phí về thuế để hoàn lại cho mình. Tim không chắc chắn về đạo đức của người này, bởi vì ông lái một chiếc BMW nhưng lại tuyên bố vỡ nợ. Để làm rõ chuyện này, Tim nhiệt tình hỏi một bệnh nhân nội trú, người phụ nữ lớn tuổi nằm liệt giường, nói với anh dù sao ông ta cũng là một "người tốt", và phát hiện ra rằng ông ta đang trừng phạt những người phụ nữ không chịu ăn bằng cách cấm các y tá tắm rửa họ.
Sáu tháng sau, Tim tặng một lá gan của mình cho Holly (Judyann Elder) tại một Tổ chức xã hội Bảo trợ Trẻ em. Sau đó anh tìm thấy George (Bill Smitrovich), một huấn luyện viên khúc côn cầu địa phương và hiến một quả thận để cứu anh ta. Sau đó anh hiến tủy xương cho một cậu bé tên là Nicholas (Quintin Kelley), chọn không gây mê trong quá trình lấy tủy, một hệ quả hiển nhiên của mong muốn để chuộc tội cho mình. Trong mỗi trường hợp, anh không giải thích lý do những việc anh làm dù được mọi người liên tục yêu cầu.
Hai tuần trước khi tự sát, anh liên lạc Holly và hỏi cô biết bất cứ ai "trong kế hoạch của mình" - những người cần và xứng đáng được giúp đỡ, nhưng không dám đòi hỏi nó. Holly gợi ý Connie Tepos (Elpidia Carrillo), hiện đang sống với hai đứa con của cô và một người bạn trai lạm dụng, nhưng không có khả năng bỏ đi. Khi Tim đến để "phỏng vấn" Connie dưới vỏ bọc nhân viên Sở Thuế Vụ, Connie đau khổ kể anh biết những gì đã xảy ra. Cô bênh vực bạn trai của mình, bị xúc phạm bởi lời đề nghị của Tim rằng cô nên bỏ rơi anh ta vì những đứa trẻ của mình, và tống khứ ta ra khỏi nhà. Trong khi đó, Tim dọn ra khỏi nhà của mình và vào một nhà trọ địa phương, mang theo một con sứa nuôi - sinh vật độc nhất trên trái đất, với nọc độc gây tử vong trong vòng ba đến năm phút mà không có thuốc giải. Đêm đó, sau khi lại bị bạn trai hành hung, Connie liên lạc với Tim. Anh gặp cô, nói với cô không nên mềm lòng và cho cô chìa khóa của ngôi nhà bên bãi biển của mình. Sau đó, cô cùng hai đứa con dọn đến ngôi nhà này. Trong lúc dọn dẹp, cô đọc một lá thư của Tim, trong đó bao gồm các điều phải thực hiện khi nhận nhà:
Ứng cử viên thứ sáu của Tim là Ezra Turner (Woody Harrelson), một điện thoại viên khiếm thị cho một công ty thịt, người chơi piano. Tim đã gọi Ezra và giả gây rối anh ta ở tuần làm việc trước đó, để xem anh nổi nóng trả đũa hay là một người "tốt". Rốt cục, Ezra vẫn bình tĩnh, khiêm tốn, và rơi nước mắt. Sau đó, khi quan sát anh tại một nhà hàng, Tim quyết định anh ta "xứng đáng".
Tim sau đó liên lạc với Emily Posa (Rosario Dawson), một cô gái hấp dẫn làm công việc in thiệp chúc mừng với máy in tại nhà, người có bệnh tim bẩm sinh và nhóm máu hiếm, cô chỉ còn khả năng sống được vài tuần nữa. Tim "phỏng vấn" cô, một lần nữa dưới vỏ bọc của một nhân viên điều tra IRS, và ít nhiều tìm hiểu bệnh tình của cô ở bệnh viện. Rồi sau đó, anh bắt đầu dành nhiều thời gian với cô, đi dạo, làm vườn, và sửa chữa chiếc máy in mà Emily đã có nhiều kỷ niệm với nó. Một lần nữa, tìm cách chuộc tội cho cái chết của vị hôn thê của mình, nên anh mâu thuẫn trong tình cảm của mình dành cho cô. Nhưng sau nhiều lần tiếp xúc, anh đã có tình cảm với cô.
Anh trai Tim là Ben cuối cùng cũng theo dõi anh khi đến nhà của Emily, yêu cầu Tim trả lại thông tin IRS của mình. Sau một cuộc ái ân đam mê với Emily, khi Ben đang đợi bên ngoài ngôi nhà, Tim biến mất ra cửa sau khi Emily đang ngủ. Anh cuốc bộ về nhà trọ, đầu tiên dừng lại tại bệnh viện để hỏi bác sĩ nếu có bất kỳ cơ hội nào cho bệnh nhân Emily, để anh cải thiện nó, và phát hiện ra rằng bệnh tình của Emily đang trầm trọng và cô ấy có thể sẽ chết trước khi tìm được nội tạng hiến tặng, Tim quyết định "thời khắc đã đến".
Tim gọi 9-1-1 và khai báo vụ tự tử của mình, sau đó đổ đầy nước đá vào bồn tắm nhà trọ để giữ lạnh cơ thể của mình, leo vào trong và tự sát bằng cách kéo con sứa của mình vào trong nước với anh. Sứa dùng xúc tu của nó quấn xung quanh cánh tay của Tim, gây cho Tim một cái chết nhanh chóng nhưng cực kỳ đau đớn.
Tại bệnh viện, người bạn thời thơ ấu tốt nhất của Tim: Dan (Barry Pepper), mặc dù mất kìm chế với cái chết của Tim, thực hiện nguyện vọng cuối cùng của Tim, để bảo đảm các cơ quan hiến tặng của anh sẽ được cho Emily và Ezra. Ezra nhận được giác mạc của Tim, chữa được bệnh mù của mình, và Emily nhận được trái tim của anh cho cô.
Sau đó, Ben tìm được bức thư từ Tim, giải thích lý do những gì anh đã làm. Điều này khiến Emily đau khổ. Emily thấy Ezra (bây giờ là một giáo viên trung học) tại buổi tập nhạc hợp xướng với học sinh của mình ở một công viên và dừng lại khi đi qua anh. Cảm giác của cô như đã gặp anh trước đây, Emily cảm thấy gắn bó với đôi mắt của Ezra, biết họ đều chịu ơn của Tim. Emily bắt đầu nhận biết, mà gợi ý thể hiện trong ánh mắt của Ezra. Khi anh nói, "Bạn có phải là Emily," cô đã rơi nước mắt và họ ôm nhau chân thành trong sự tôn trọng lẫn nhau, tình yêu và lòng ngưỡng mộ Tim.
Các diễn viên.
Mô tả của vai chính trong phim.
Thông thường với những vai diễn trong phim, tôi luôn có ý tưởng để kết nối với nó, nhưng gần đây tôi đã được nhận những vai với cá tính buồn vui lẫn lộn và cảm thấy như mình trong cuộc sống tự nhiên ngoài đời. Bạn không bao giờ có được nó thực sự theo cách bạn muốn trong cuộc sống. Điều đó làm mê hoặc tôi thực sự. Là một diễn viên, có một số phần của một nhân vật mà bạn tự tạo ra, và bạn nhập tâm để làm tròn vai diễn, nhưng sau đó nó trở nên khó khăn để ngăn chặn chúng khi vai diễn kết thúc. Bạn phải trở về con người thực của mình. Nhân vật của tôi trong bộ phim này là như món "yến mạch nóng". Bạn biết bạn không thể lôi chúng ra khỏi suy nghĩ của mình trong một thời gian ngắn, và khi bạn nghĩ đến, nó lại làm bạn đau lòng.
Smith nhận thấy rằng nhân vật này cần thiết để trở thành một người ít nói và sống nội tâm chứ không phải những người hay thể hiện mình ra ở tất cả các trường hợp có thể. Nhân vật này là một sự tương phản với những vai diễn trước đây của Smith, và Smith cảm thấy tin tưởng đạo diễn Gabriele Muccino khi giúp anh thư giãn và tránh kéo căng lý trí quá mức. Smith thừa nhận "Seven Pounds" như một bộ phim truyền hình, nhưng anh xem đây chỉ là chi tiết của một câu chuyện tình yêu.
Sản xuất.
"Seven Pounds" được dựa trên một kịch bản được viết bởi Grant Nieporte. Vào tháng 6 năm 2007, Will Smith tham gia trường quay và phục vụ như là một trong những nhà sản xuất của nó. Vào tháng 9 năm 2007, đạo diễn Gabriele Muccino, người đã làm việc với Smith trong The Pursuit of Happyness (2006), đã nhận đạo diễn cho "Seven Pounds", mang theo ê-kíp của mình từ bộ phim năm 2006. Smith đã cùng Rosario Dawson và Woody Harrelson sau tháng 12 năm 2007 chuẩn bị cho phim "Seven Pounds". Quay phim bắt đầu vào tháng 2 năm 2008..
Hầu hết ngoại cảnh quay trong phim được thực hiện tại Los Angeles, Pasadena, và Malibu, thuộc California. Các điểm công cộng quay tại Travel Inn ở Tujunga, California, Colorado Bar, Thư viện Huntington, Khách sạn Sheraton và Sân trượt băng Pasadena tất cả ở Pasadena, California, cũng như bãi biển Malibu ở phía tây bắc California, Hoa Kỳ. | 1 | null |
Sir Paul Maxime Nurse, sinh ngày 25.1.1949 tại Norwich, Vương quốc Anh, là nhà di truyền học và sinh học tế bào người Anh, đã được trao Giải Nobel Sinh lý học và Y khoa năm 2001 cùng với Leland H. Hartwell và R. Timothy Hunt cho các công trình phát hiện các phân tử protein kiểm soát việc phân bào trong chu kỳ tế bào.
Khi các tế bào và nhân của chúng phân chia, chúng phân chia trong các giai đoạn G1 (growth = lớn lên), S (synthesis = tổng hợp), G2 (growth = lớn lên) và M (mitosis =nguyên phân). Nurse, Hartwell và Hunt cùng nhau phát hiện 2 protein, cyclin và cyclin dependent kinase (CDK), chúng kiểm soát việc chuyển tiếp từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Những protein này được gọi là các "trạm kiểm soát" (‘’checkpoint’’), vì chúng kiểm tra xem các tế bào đã phân chia đúng cách (hay không). Nếu tế bào không phân chia một cách chính xác, các protein khác sẽ cố gắng sửa chữa nó, và nếu không thành công, chúng sẽ phá hủy các tế bào này. Nếu một tế bào phân chia không chính xác và tồn tại, nó có thể gây ra bệnh ung thư và các bệnh nghiêm trọng khác.
Nghiên cứu trong nấm men, Nurse xác định gen cdc2, kiểm soát quá trình chuyển đổi từ pha G1 sang pha S, khi các tế bào phát triển để chuẩn bị cho việc sao chép DNA, và pha G2 đến nguyên phân, khi tế bào phân chia. Nurse cũng tìm thấy các gien tương ứng, CDK1, trong con người. Những gien này dừng lại và bắt đầu tạo ra "cyclin dependent kinase" (CDK) bằng cách thêm hoặc loại bỏ các nhóm phosphate.
Nurse hiện là chủ tịch Hội Hoàng gia Luân Đôn, Giám đốc kiêm Giám đốc điều hành của Viện Francis Crick.
Nurse tin rằng các nhà khoa học cần lên tiếng về khoa học trong các vấn đề công cộng và phản đối những chính trị gia ủng hộ các chính sách dựa trên khoa học giả hiệu.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Mẹ của Nurse di chuyển từ London tới Norwich, Norfolk sống với họ hàng thân thuộc khi chờ ngày sinh của Nurse nhằm che giấu tình trạng có con ngoài hôn thú. Bà ngoại của ông đóng vai mẹ ông khi bà còn sống, còn mẹ ông đóng vai người chị gái của ông trong suốt cuộc đời còn lại của bà.
Ông học tại trường Lyon Park ở Alperton và trường trung học Harrow. Ông đậu bằng cử nhân năm 1970 ở trường Đại học Birmingham và bằng tiến sĩ năm 1973 ở Trường Sinh học của Đại học East Anglia. Nurse tiếp tục nghiên cứu sau tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của Murdoch Mitchison thuộc Đại học Edinburgh trong vòng 6 năm (1973-1979).
Đầu năm 1976, Nurse xác định được gien "cdc2" trong nấm men ("Schizosaccharomyces pombe"). Gien này kiểm soát sự tiến triển của chu kỳ tế bào từ pha G1 sang pha S và quá trình chuyển đổi từ pha G2 tới nguyên phân ("mitosis"). Năm 1987, Nurse xác định các gien tương đồng trong con người, "Cdk1", là mã hóa cho một cyclin dependent kinase.
Năm 1984, Nurse vào làm việc cho Imperial Cancer Research Fund. Năm 1988 ông rời nơi này để đảm nhiệm chức giáo sư ở "Phân khoa vi sinh học" tại Đại học Oxford. Sau đó ông trở lại làm giám đốc nghiên cứu ở Quỹ nghiên cứu Ung thư Anh trong năm 1993, và năm 1996 ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Quỹ này, (trở thành Trung tâm nghiên cứu Ung thư vương quốc Anh (Cancer Research UK) từ năm 2002).
Năm 2003, ông sang làm chủ tịch Đại học Rockefeller ở thành phố New York, nơi ông tiếp tục nghiên cứu về chu kỳ tế bào của phản ứng phân hạch nấm men. Ngày 15.7.2010 có tin loan báo Nurse được bổ nhiệm làm Giám đốc thứ nhất kiêm Giám đốc điều hành "Viện Francis Crick". Ngày 1.1. 2011 Nurse chính thức đảm nhiệm các chức vụ nói trên.
Ngày 30.11.2010, Sir Paul Nurse kế vị Martin Rees làm chủ tịch Hội Hoàng gia Luân Đôn.
Lập trường chính trị.
Nurse chỉ trích các ứng cử viên tiềm năng của đảng Cộng hòa được đề cử tranh chức tổng thống Mỹ vì chống đối học thuyết về sự chọn lọc tự nhiên, chống việc nghiên cứu tế bào gốc trên dòng tế bào từ phôi thai người, và việc biến đổi khí hậu do con người; ông cũng đổ lỗi cho các nhà khoa học một phần vì không lên tiếng. Ông đã cảnh báo rằng điều này có thể xảy ra ở Hoa Kỳ, một đất nước lãnh đạo thế giới về khoa học, "quê hương của Benjamin Franklin, Richard Feynman và Jim Watson."
Nurse nói rằng: Một vấn đề khó khăn là "xem xét việc thảo luận khoa học như thể đó là cuộc tranh luận chính trị," sử dụng thủ thuật hùng biện hơn là logic. Một vấn đề khác là giảng dạy khoa học trong các trường học, mà không dạy cho người dân biết thảo luận về khoa học, và bị dàn xếp bởi các trường học tôn giáo, kể cả ở Vương quốc Anh.
Nurse viết: "Chúng ta cần phải nhấn mạnh lý do vì sao quá trình khoa học là một nguồn phát sinh kiến thức đáng tin cậy với sự tôn trọng đối với bằng chứng, đối với thái độ hoài nghi, tính nhất quán của phương pháp, đối với các thử nghiệm liên tục của ý tưởng".
Cuối cùng, các nhà lãnh đạo khoa học "có trách nhiệm phải vạch trần các lời rổng tuếch", Nurse nói. Họ nên thách thức các chính trị gia, và vạch trần lời vô nghĩa trong các cuộc bầu cử.
Giải thưởng và Vinh dự.
Tiến sĩ danh dự: | 1 | null |
Thuja plicata, thường được gọi là Tuyết tùng đỏ phương Tây, Tuyết tùng đỏ Thái Bình Dương, Tuyết tùng đỏ khổng lồ, hay đơn giản chỉ là tuyết tùng khổng lồ, là một loài thuộc chi Thuja, lá kim xanh quanh năm thuộc họ Cupressaceae có nguồn gốc phía tây Bắc Mỹ. Mặc dù tên gọi là tùng, nhưng loài này không thuộc về chi tùng Cedrus. Loài là cây biểu tượng của British Columbia, và có công dụng rộng rãi ở khắp vùng Tây Bắc Thái Bình Dương.
"Thuja plicata" là cây rất lớn, cao từ và đường kính cây , có một số cây còn lớn hơn nữa. Loài cây này có thể sống thọ hơn 1000 năm, có cây già hơn đến 1460 năm tuổi. | 1 | null |
Nhai bách ( ) là chi bao gồm các loài cây lá kim trong họ Cupressaceae. Có năm loài trong chi, hai có nguồn gốc từ Bắc Mỹ và ba nguồn gốc Đông Á. Chi này đơn ngành với chi Thujopsis (bách La Hán).
Các loài trong chi này thường được gọi là arborvitaes (từ tiếng Latin có nghĩa là: "cây đời") hoặc thujas, một số loài được gọi phổ biến với tên "tuyết tùng" nhưng vì chúng không thực sự là tuyết tùng ("Cedrus") nên đã được đề nghị gọi là "tuyết tùng đỏ" hoặc "tuyết tùng trắng" . | 1 | null |
Gấu xám Bắc Mỹ (tên khoa học Ursus arctos horribilis; tiếng Anh: Grizzly bear), còn được gọi là gấu đầu bạc, gấu xám, hoặc gấu nâu Bắc Mỹ, là một phân loài khác của gấu nâu ("Ursus arctos") thường sống ở vùng núi cao ở miền Tây Bắc Mỹ. Phân loài này được cho là hậu duệ của loài gấu nâu Ussuri có mặt khắp vùng Alaska tới miền đông nước Nga 100.000 năm trước đây, mặc dù chúng đã không di chuyển về phía nam cho đến 13.000 năm trước.
Là một quần thể lớn của loài gấu nâu sống ở Bắc Mỹ. Các nhà khoa học thường không sử dụng tên gấu xám mà gọi nó là gấu nâu Bắc Mỹ. Nhiều phân loài gấu nâu phân bố cùng với gấu xám Bắc Mỹ đôi khi được công nhận là một phân loài riêng biệt, bao gồm cả loài gấu xám đại lục (Ursus arctos horribilis), gấu Kodiak (U. a. Middendorffi), gấu nâu bán đảo Alaska (U. a. Gyas) gần đây là gấu xám California và gấu xám Mexico (U. a. nelsoni †). Trung bình những con gấu sống gần bờ biển có xu hướng lớn hơn trong khi những con gấu xám nội địa có xu hướng nhỏ hơn.
Gấu nâu Ussuri (U. a. Lasiotus) sinh sống ở Nga, miền Bắc Trung Quốc, Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên đôi khi được gọi là gấu xám đen, mặc dù đây là một phân loài khác với gấu ở Bắc Mỹ.
Phân loại.
Ý nghĩa của "Grizzly".
Meriwether Lewis và William Clark lần đầu tiên mô tả nó là "grisley", có thể được hiểu là "Grizzly" (nghĩa là "nghiến răng", với bộ lông màu vàng và xám) hoặc "ghê tởm" ("truyền cảm hứng sợ hãi", bây giờ thường là "khủng khiếp"). Chính tả hiện đại cho rằng nghĩa cũ; ngay cả như vậy, nhà tự nhiên học George Ord đã chính thức phân loại nó vào năm 1815 là "U. horribilis", không phải vì bộ lông, mà vì tính cách của nó.
Tiến hóa và di truyền.
Phát sinh gen.
Phân loại đã được sửa đổi dọc theo dòng di truyền. Có hai hình thái hình thái của "Ursus arctos", gấu xám và gấu nâu ven biển, nhưng những hình thái hình thái này không có dòng dõi mtDNA khác biệt.
Ursus arctos - gấu nâu.
Gấu nâu có nguồn gốc từ lục địa Á-Âu và du hành đến Bắc Mỹ khoảng 50.000 năm trước, lan sang khu vực tiếp giáp Hoa Kỳ ngày nay khoảng 13.000 năm trước. Vào thế kỷ 19, gấu nâu được phân loại thành 86 loài khác nhau. Tuy nhiên, đến năm 1928, chỉ còn bảy loài gấu nâu và đến năm 1953 chỉ còn một loài duy nhất trên toàn cầu. Tuy nhiên, xét nghiệm di truyền hiện đại cho thấy loài gấu xám là một phân loài của gấu nâu (Ursus arctos). Rausch thấy rằng Bắc Mỹ chỉ có một phân loài gấu nâu. Do đó, mặc dù ở khắp mọi nơi nó được gọi là "gấu nâu"; ở Bắc Mỹ, nó được gọi là "gấu xám", nhưng đây đều là cùng một loài, "Ursus arctos".
Phân loài Ursus arctos ở Bắc Mỹ.
Năm 1963, Rausch đã giảm số lượng phân loài gấu nâu Bắc Mỹ xuống còn một, "Ursus arctos middendorffi".
Cần thử nghiệm thêm về nhiễm sắc thể Y để mang lại một phân loại mới chính xác với các phân loài khác nhau.
Gấu xám ven biển, thường được gọi bằng từ đồng nghĩa phổ biến nhưng dư thừa về mặt địa lý của "gấu nâu" hoặc "gấu nâu Alaska" lớn hơn và có lông tối hơn so với gấu xám nội địa, đó là lý do tại sao chúng cũng được coi là một loài khác với gấu xám. Những con gấu xám Kodiak cũng có lúc được coi là khác biệt. Do đó, tại một thời điểm có năm "loài" gấu nâu khác nhau, trong đó có ba loài ở Bắc Mỹ.
Phân bố.
Gấu nâu được tìm thấy ở khắp châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ, khiến chúng trở thành loài gấu có độ phân bố rộng nhất. Chúng cũng sinh sống ở Bắc Phi và Trung Đông. Ở Bắc Mỹ, những con gấu xám Bắc Mỹ trước đây đã di chuyển từ Alaska xuống Mexico và xa về phía đông như bờ biển phía tây của Vịnh Hudson; loài này hiện được tìm thấy ở Alaska, phía nam qua phần lớn phía tây Canada và vào các phần của dãy núi Rocky thuộc tây bắc Hoa Kỳ (bao gồm các tiểu bang Idaho, Montana, Washington và Wyoming), kéo dài đến tận phía nam tới vườn quốc gia Yellowstone và vườn quốc gia Grand Teton. Chúng thường được tìm thấy ở Canada. Ở Canada, có khoảng 25.000 con gấu xám Bắc Mỹ cư ngụ ở British Columbia, Alberta, Yukon, Các Lãnh thổ Tây Bắc, Nunavut và phần phía bắc của Manitoba. Một bài báo được xuất bản vào năm 1954 cho thấy chúng có thể có mặt ở các vùng lãnh nguyên của Bán đảo Ungava và mũi phía bắc của Labrador-Quebec. Tại British Columbia, gấu xám Bắc Mỹ chiếm khoảng 90% lãnh thổ ban đầu của chúng. Có khoảng 25.000 con gấu xám Bắc Mỹ sống ở đây trước khi những người định cư châu Âu đến. Tuy nhiên, quy mô dân số đã giảm đáng kể do săn bắn và mất môi trường sống. Năm 2003, các nhà nghiên cứu từ Đại học Alberta đã phát hiện ra một con gấu xám trên đảo Melville (Canada) ở sát vùng Bắc Cực, đây là nơi nhìn thấy xa nhất từng được ghi nhận. Năm 2008, ước tính có 16.014 con gấu xám Bắc Mỹ. Ước tính quần thể ở British Columbia dựa trên việc kiểm kê dựa trên DNA, đánh dấu và thu hồi và mô hình hồi quy bội. Số lượng gấu xám được sửa đổi lại vào năm 2012 cho British Columbia là 15.075.
Quần thể ở Alaska gồm 30.000 cá thể là quần thể cao nhất của bất kỳ tỉnh/bang nào ở Bắc Mỹ. Quần thể ở Alaska có mật độ dày nhất dọc theo bờ biển, nơi nguồn cung cấp thực phẩm như cá hồi phong phú hơn. Đài tưởng niệm quốc gia đảo Admiralty bảo vệ quần thể dày đặc nhất với 1.600 con gấu trên một hòn đảo rộng 1.600 dặm vuông.
Bắc Mỹ.
Hiện tại có khoảng 55.000 con gấu xám hoang dã sinh sống trên khắp Bắc Mỹ, hầu hết chúng sống ở Alaska. Phần còn lại đều sống ở nhiều vườn quốc gia tại hai nước Mỹ và Canada, tiêu biểu là vườn quốc gia Yellowstone. Chỉ còn lại khoảng 1.500 gấu xám ở 48 tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong số này, khoảng 800 cá thể sống ở Montana. Khoảng hơn 600 cá thể sống ở Wyoming, trong khu vực Yellowstone-Teton. Ước tính có khoảng 70 con gấu xám Bắc Mỹ sống ở miền bắc và miền đông Idaho. Phạm vi ban đầu của nó bao gồm phần lớn các đồng bằng lớn và các bang phía tây nam, nhưng nó đã bị tuyệt chủng ở hầu hết các khu vực đó. Kết hợp Canada và Hoa Kỳ, những con gấu xám Bắc Mỹ chiếm khoảng một nửa diện tích trong phạm vi lịch sử của chúng.
Mặc dù có những loài gấu xám khổng lồ một thời (như gấu xám California) xuất hiện nổi bật trên quốc kỳ California và là biểu tượng của Cộng hòa Bear Flag trước khi kết nạp vào Liên minh California, chúng không còn tồn tại trong tự nhiên nữa. Con gấu xám cuối cùng ở California đã bị giết ở chân đồi Sierra phía đông Fresno vào tháng 8 năm 1922.
Vào tháng 9 năm 2007, một thợ săn đã đưa ra bằng chứng về một con gấu trong khu hệ sinh thái hoang dã Selway-Bitterroot, bằng cách giết chết một con gấu xám Bắc Mỹ. Trong hệ sinh thái Bắc Cascades của miền bắc Washington, quần thể gấu xám được ước tính có ít hơn 20 con gấu. Một lần nhìn thấy một con gấu xám Bắc Mỹ năm 2010 đã được ghi lại. Không có xác nhận nhìn thấy một con gấu xám ở Colorado kể từ năm 1979.
Các tỉnh khác và Hoa Kỳ có thể sử dụng kết hợp các phương pháp để ước tính quần thể. Do đó, thật khó để nói chính xác phương pháp nào đã được sử dụng để tạo ra ước tính tổng quần thể gấu cho Canada và Bắc Mỹ, vì chúng có thể được phát triển từ nhiều nghiên cứu khác nhau. Gấu xám hiện đang được bảo vệ hợp pháp ở Mexico, các nước châu Âu, một số khu vực của Canada và ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dự kiến rằng việc phục hồi phạm vi trước đây của nó sẽ là một quá trình chậm chạp, vì nhiều lý do bao gồm thói quen sinh sản chậm của gấu và ảnh hưởng của việc tái sinh một loài động vật lớn như vậy đến các khu vực được đánh giá cao cho nông nghiệp và chăn nuôi. Cạnh tranh với các loài săn mồi khác là những yếu tố hạn chế có thể khác để phục hồi gấu xám, mặc dù gấu xám cũng được hưởng lợi từ việc trở thành ký sinh ăn cướp hay ăn xác thối bị bỏ lại từ các động vật ăn thịt khác như một nguồn thức ăn dễ dàng khi các nguồn thức ăn khác suy giảm.
Đặc điểm.
Gấu xám có một kích thước đồ sộ. Hầu hết những con gấu cái trưởng thành nặng 130–180 kg (290-400 lb), trong khi con đực trưởng thành nặng trung bình 180–360 kg (400-790 lb). Tổng chiều dài trung bình trong phân loài này là 198 cm (6,50 ft), với chiều cao vai trung bình là 102 cm (3,35 ft) và chiều dài chân sau là 28 cm (11 in). Gấu sơ sinh có thể nặng dưới 500 gram (1,1 lb). Ở khu vực sông Yukon, những con gấu cái trưởng thành có thể nặng ít nhất 100 kg (220 lb). Một nghiên cứu cho thấy trọng lượng trung bình của một con gấu xám nội địa là khoảng 272 kg (600 lb) và trọng lượng trung bình của một con đực ven biển là khoảng 408 kg (900 lb). Đối với một con cái, các trọng lượng trung bình này sẽ lần lượt là 136 kg (300 lb) trong đất liền và 227 kg (500 lb) ven biển. Mặt khác, một con đực khổng lồ thỉnh thoảng đã được ghi nhận vượt quá kích thước bình thường, với trọng lượng được báo cáo lên tới 680 kg (1.500 lb). Một con đực lớn ven biển có kích thước này có thể cao tới 3 mét (9,8 ft) nếu đứng bằng hai chân sau và cao tới 1,5 mét (4,9 ft) tính từ vai khi đứng bằng 4 chân.
Mặc dù có thể thay đổi màu sắc từ vàng đến gần như đen, lông gấu xám thường có màu nâu với chân sẫm hơn và lông thường có màu trắng hoặc vàng ở sườn và lưng. Một bướu rõ rệt xuất hiện trên vai của chúng; Bướu là một cách tốt để phân biệt gấu xám với gấu đen Bắc Mỹ, vì gấu đen không có bướu này. Ngoài cái bướu phân biệt, một con gấu xám có thể được xác định bằng những đặc điểm riêng biệt trên khuôn mặt của chúng với đôi tai ngắn, tròn, trong khi một con gấu đen có khuôn mặt thẳng và đôi tai dài hơn. Một con gấu xám cũng có thể được xác định bằng mông của nó, thấp hơn vai của nó, trong khi đó, một con gấu đen sẽ có mông cao hơn. Móng vuốt trước của gấu xám có chiều dài khoảng 2-4 inch và gấu đen là khoảng 1-2 inch.
Tập tính.
Ngủ đông.
Gấu xám ngủ đông trong khoảng 5-7 tháng mỗi năm trừ khi khí hậu ấm áp, vì loài gấu xám California không ngủ đông. Trong thời gian này, gấu xám cái sinh ra những con gấu con, chúng sau đó tiêu thụ sữa từ mẹ và tăng sức mạnh trong phần còn lại của thời kỳ ngủ đông. Để chuẩn bị cho ngủ đông, gấu xám phải chuẩn bị một cái hang để trú ẩn, và tiêu thụ một lượng lớn thức ăn vào mùa thu do chúng không ăn trong thời gian ngủ đông. Gấu xám thậm chí không đại tiện hoặc tiểu tiện trong toàn bộ thời gian ngủ đông. Thời kỳ ngủ đông của gấu xám đực kết thúc vào đầu đến giữa tháng 3, trong khi con cái xuất hiện vào tháng 4 hoặc đầu tháng 5.
Để chuẩn bị cho mùa đông, gấu có thể tăng khoảng 180 kg (400 lb), trong thời gian bị tăng sản, trước khi đi vào giấc ngủ đông. Gấu thường chờ đợi một cơn bão tuyết đáng kể trước khi nó quyết định đi vào hang của nó: hành vi như vậy làm giảm bớt cơ hội những kẻ săn mồi sẽ tìm thấy hang. Các hang ngủ đông của gấu thường ở độ cao trên 1.800 m (5.900 ft) trên các sườn dốc về phía bắc. Có một số tranh luận giữa các chuyên gia về việc liệu gấu xám có ngủ đông về mặt kỹ thuật hay không: phần lớn cuộc tranh luận này xoay quanh nhiệt độ cơ thể và khả năng của những con gấu di chuyển trong thời gian ngủ đông. Gấu xám có thể "tái chế" một phần chất thải cơ thể của chúng trong giai đoạn này. Mặc dù những con gấu xám trong đất liền hoặc trên núi Rocky dành gần một nửa cuộc đời của chúng trong hang, những con gấu xám ven biển có khả năng tiếp cận tốt hơn với nguồn thức ăn sẽ tốn ít thời gian hơn trong hang. Ở một số khu vực có thức ăn rất dồi dào quanh năm, gấu xám bỏ qua việc ngủ đông hoàn toàn.
Sinh sản.
Ngoại trừ những con cái có đàn con, gấu xám thường sống đơn độc, là một loài động vật khá năng động khi không ngủ đông, nhưng ở các khu vực ven biển, gấu thường tập trung quanh suối, hồ, sông và ao trong mùa sinh sản của cá hồi. Mỗi năm, con cái sinh ra một đến bốn con non (thường là hai con) nhỏ và chỉ nặng khoảng 450 gram (1 lb) khi sinh. Một con gấu cái sẽ bảo vệ con của nó một cách quyết liệt và sẽ tấn công nếu nó nghĩ rằng con của mình đang bị đe dọa.
Gấu xám có một trong những tỷ lệ sinh sản thấp nhất trong tất cả các động vật có vú trên cạn ở Bắc Mỹ. Điều này là do nhiều yếu tố sinh thái. Gấu xám không đạt đến độ chín về tình dục cho đến khi chúng ít nhất năm tuổi. Sau khi giao phối với một con đực vào mùa hè, con cái trì hoãn việc cấy phôi cho đến khi ngủ đông, trong thời gian đó sảy thai có thể xảy ra nếu con cái không nhận được chất dinh dưỡng và lượng calo thích hợp. Trung bình, con cái sinh ra hai con con trong một lứa và gấu mẹ chăm sóc con con đến hai năm, trong thời gian đó, gấu mẹ sẽ không giao phối.
Một khi con non rời đi hoặc bị giết, con cái không thể sinh ra một lứa khác trong ba năm trở lên, tùy thuộc vào điều kiện môi trường. Gấu xám đực có lãnh thổ rộng lớn, lên tới 4.000 km2 (1.500 dặm vuông), khiến việc tìm kiếm mùi hương của gấu cái trở nên khó khăn trong mật độ quần thể thấp như vậy. Thời gian mang thai của gấu xám là khoảng 180-250 ngày.
Kích thước lứa nằm trong khoảng từ một đến bốn con, trung bình sinh đôi hoặc sinh ba. Đàn con luôn được sinh ra trong hang mùa đông của gấu mẹ khi gấu mẹ đang ngủ đông. Những con gấu xám cái sẽ bảo vệ rất dữ dội những con non của chúng, có thể chống đỡ những kẻ săn mồi lớn như những con gấu đực lớn hơn chúng để bảo vệ những con. Đàn con ăn sữa mẹ hoàn toàn cho đến mùa hè, sau đó chúng vẫn uống sữa nhưng bắt đầu ăn thức ăn đặc. Đàn con tăng cân nhanh chóng trong thời gian sống cùng mẹ, cân nặng của chúng sẽ tăng từ 4,5 đến 45 kg (10 đến 99 lb) trong hai năm sống cùng mẹ. Các con gấu mẹ có thể nhìn thấy con của họ trong những năm sau đó nhưng cả hai đều tránh mặt nhau.
Tuổi thọ.
Tuổi thọ trung bình của một con gấu xám đực được ước tính là 22 tuổi, với con cái sống lâu hơn một chút ở mức 26 năm. Con cái sống lâu hơn con đực do cuộc sống ít nguy hiểm hơn; chúng không tham gia vào các cuộc chiến để giành quyền giao phối theo mùa như con đực thường làm. Loài gấu xám hoang dã nội địa sống lâu nhất đã 34 tuổi ở Alaska; con gấu ven biển già nhất là 39 tuổi, nhưng hầu hết những con gấu xám đều chết trong vài năm đầu tiên sau khi bị săn mồi hoặc săn bắn. Trong điều kiện nuôi nhốt chúng đã sống đến 44 năm.
Sinh thái học.
Chế độ ăn.
Gấu xám mặc dù xếp vào Bộ Ăn thịt và có hệ thống tiêu hóa đặc trưng của một loài động vật ăn thịt, chúng thường là loài ăn tạp: chế độ ăn uống của chúng bao gồm cả thực vật và động vật. Chúng đã được biết đến là có thể săn các động vật có vú lớn, khi có sẵn, như nai sừng tấm, nai sừng xám, tuần lộc, hươu đuôi trắng, hươu la, cừu sừng lớn, bò rừng bizon và thậm chí cả gấu đen Bắc Mỹ; mặc dù chúng có nhiều khả năng tấn công những con mồi còn non và cá thể bị thương hơn là những con mồi trưởng thành khỏe mạnh. Gấu xám ăn các loại cá như cá hồi, cá hồi chấm và cá vược. Những cá thể có chế độ ăn giàu protein hơn ở các khu vực ven biển có khả năng phát triển lớn hơn những cá thể trong đất liền. Những con gấu xám cũng dễ dàng nhặt sạch thức ăn thừa hoặc xác thối để lại bởi những động vật khác. Gấu xám cũng thường ăn chim và trứng của chúng, và thường tập hợp với số lượng lớn tại các địa điểm có cá hồi để đón bắt những con cá hồi di cư. Chúng thường xuyên săn những chú nai con bị mẹ chúng bỏ lại trên cỏ, và thỉnh thoảng chúng đột kích vào tổ của những kẻ săn mồi như đại bàng đầu trắng.
Những con gấu xám ở Canada hoặc Alaska có kích thước lớn hơn so với đồng loại của chúng ở dãy núi Rocky của Mỹ. Điều này một phần là do sự phong phú của chế độ ăn uống. Trong Công viên Quốc gia Yellowstone ở Hoa Kỳ, chế độ ăn của gấu xám bao gồm chủ yếu là hạt thông vỏ trắng Bắc Mỹ, củ, cỏ, hoa màu, chồi non, các loài gặm nhấm khác nhau, sâu bướm và xác động vật chết. Tuy nhiên, không nguồn thức ăn nào trong số này phù hợp với hàm lượng chất béo của cá hồi có sẵn ở Alaska và British Columbia. Với hàm lượng chất béo cao của cá hồi, không có gì lạ khi bắt gặp những con gấu xám ở Alaska nặng 540 kg (1.200 lb). Gấu xám ở Alaska bổ sung chế độ ăn cá hồi và nghêu của chúng với cỏ cói và quả mọng. Ở những khu vực mà cá hồi bị buộc phải nhảy thác, những con gấu xám tập trung tại chân thác để kiếm ăn và bắt cá. Cá hồi gặp bất lợi khi chúng nhảy thác nước vì chúng tụ lại với nhau tại căn cứ của chúng và do đó là mục tiêu dễ dàng hơn cho gấu xám. Những con gấu xám được ghi nhận lại bằng cách đã bắt cá hồi nhảy trong miệng tại Thác Brooks ở Vườn quốc gia và Khu bảo tồn Katmai ở Alaska. Gấu xám cũng rất có kinh nghiệm trong việc đuổi theo những con cá xung quanh và ghim chúng bằng móng vuốt của mình, chúng có thể chỉ cần vung tay xuống nước là bắt được cá. Tại những địa điểm như Thác Brooks và Thác McNeil ở Alaska, những con gấu lớn đực thường xuyên chiến đấu với nhau để có những điểm bắt cá tốt nhất. Những con gấu xám dọc bờ biển cũng tìm kiếm những con nghêu cát và thường xuyên đào xuống cát để tìm kiếm chúng. Trong mùa xuân và mùa thu, trực tiếp trước và sau khi cá hồi di cư, quả mọng và cỏ tạo thành chủ đạo của chế độ ăn của gấu xám ven biển.
Gấu xám vùng nội địa cũng có thể ăn cá, đáng chú ý nhất là trong công viên Yellowstone chúng thường ăn cá hồi mũi vàng Yellowstone. Mối quan hệ với cá hồi Yellowstonne và gấu xám là chỉ có một bởi vì đây là ví dụ duy nhất mà loài gấu xám núi Rocky ăn cá hồi sinh sản. Tuy nhiên, gấu xám Bắc Mỹ và cá hồi hồ xâm lấn đe dọa sự sống còn của quần thể cá hồi Yellowstone và có một khả năng nhỏ là chúng sẽ bị loại bỏ.
Thịt, như đã được mô tả, là một phần quan trọng trong chế độ ăn của gấu xám. Gấu xám đôi khi ăn các loài động vật có vú nhỏ, chẳng hạn như thỏ rừng, marmota, sóc đất, chuột Lemming và chuột đồng. Ví dụ nổi tiếng nhất của loài săn mồi này là ở Vườn quốc gia và Khu bảo tồn Denali, nơi những con gấu xám đuổi theo, vồ lấy và đào những con sóc đất Bắc Cực lên để ăn. Ở một số khu vực, những con gấu xám Bắc Mỹ săn những con sóc hoa râm, lật đá ra để tiếp cận chúng, và trong một số trường hợp, chúng đang săn mồi khi chúng đang ngủ đông. Con mồi lớn hơn bao gồm bò rừng và nai sừng tấm, đôi khi được những con gấu trong Công viên quốc gia Yellowstone bắt. Vì bò rừng và nai sừng tấm là những con mồi nguy hiểm, nên chúng thường sử dụng vỏ bọc để rình rập chúng và/hoặc chọn ra những cá thể yếu hoặc con non. Gấu xám ở Alaska cũng thường xuyên săn nai sừng tấm con, mà ở Vườn quốc gia Denali có thể là nguồn thịt chính của chúng. Trên thực tế, gấu xám Bắc Mỹ là loài săn mồi chính của những con nai sừng xám và nai sừng tấm còn non ở Alaska và Yellowstone, chúng có thể giết chết tới 51% nai sừng xám hoặc nai sừng tấm con được sinh ra vào năm đó. Những con gấu xám cũng bị quy trách nhiệm trong sự suy giảm của nai sừng xám ở Công viên quốc gia Yellowstone trong khi những kẻ săn mồi thực sự được cho là những con sói xám. Ở phía bắc Alaska, gấu xám săn một số lượng đáng kể những con tuần lộc, chủ yếu là lấy những cá thể già yếu hoặc con non. Một số nghiên cứu cho thấy những con gấu xám Bắc Mỹ có thể đi theo đàn tuần lộc quanh năm để duy trì nguồn cung cấp thức ăn của chúng. Ở phía bắc Alaska, gấu xám thường gặp bò xạ hương. Mặc dù thực tế là bò xạ thường không sinh sống trong môi trường sống của gấu xám và chúng lớn hơn và mạnh hơn tuần lộc, nhưng những sự việc bò xạ bị săn bởi gấu xám đã được ghi nhận lại.
Những con gấu xám Bắc dọc bờ biển Alaska cũng ăn những con cá voi đã chết bị dạt vào bờ. Thông thường những sự cố như vậy chỉ liên quan đến một hoặc hai con gấu xám tiếp cận xác cá voi, nhưng có tới mười con đực lớn đã được nhìn thấy tại một thời điểm ăn một con cá voi lưng gù đã chết. Xác hải cẩu và sư tử biển đã ghi nhận cũng được chúng tiêu thụ.
Mặc dù chế độ ăn của gấu xám Bắc Mỹ thay đổi nhiều dựa trên sự thay đổi theo mùa và khu vực, thực vật chiếm một phần lớn trong số chúng, với một số ước tính lên tới 80%-90%. Các loại quả mọng khác nhau tạo thành một nguồn thực phẩm quan trọng khi chúng có sẵn. Chúng có thể bao gồm quả việt quất xanh, Rubus fruticosus (Rubus frunomosus), quá cá hồi (Rubus Spectabilis), quả nam việt quất (Vaccinium oxycoccos), quả trâu (Shepherdia argentea), quả xà phòng (Shepherdia canadensis), huckleberries (Vaccinium parvifolium); tùy vào sự sẵn có. Côn trùng như bọ rùa, kiến và ong sẽ bị gấu ăn nếu chúng có sẵn với số lượng lớn. Trong Công viên Quốc gia Yellowstone, những con gấu xám Bắc Mỹ có thể có được một nửa nhu cầu calo hàng năm của chúng bằng cách ăn những con sâu bướm đêm tập trung trên sườn núi. Khi thức ăn dồi dào, gấu xám sẽ ăn theo nhóm. Ví dụ, nhiều con gấu xám Bắc Mỹ sẽ đến thăm đồng cỏ ngay sau khi có tuyết lở hoặc sông băng. Điều này là do một dòng cây họ đậu, chẳng hạn như Hedysarum, mà chúng tiêu thụ với số lượng lớn. Tuy nhiên, khi nguồn thực phẩm trở nên khan hiếm hơn, chúng lại tách ra một lần nữa.
Đối thủ cạnh tranh.
Do tương đồng về môi trường sống và chế độ ăn, gấu xám thường xuyên xung đột với các loài thú ăn thịt khác như sói xám, sói đồng cỏ, gấu đen Bắc Mỹ hay báo sư tử, nhưng những kẻ ăn thịt đó phải khôn ngoan, kinh nghiệm hoặc có cả đàn đi theo mới dám đương đầu với chúng. Phần lớn trong nhiều trường hợp, những đối thủ cạnh tranh này sẽ tránh đối đầu với gấu xám do bất lợi về thể hình và sức mạnh. Nhiều cuộc đụng độ thường chỉ với mục đích tranh giành con mồi, lãnh thổ hay tự vệ.
Việc loại bỏ những con sói và gấu xám ở California có thể đã làm giảm đáng kể sự phong phú của loài cáo San Joaquin đang bị đe dọa. Với việc tái du nhập những con sói xám ở Yellowstone, nhiều du khách đã chứng kiến một cuộc đấu tranh phổ biến một thời giữa những loài chủ chốt, gấu xám và đối thủ lịch sử của nó, sói xám. Sự tương tác của gấu xám Bắc Mỹ với những con sói ở Yellowstone đã được nghiên cứu đáng kể. Thông thường, cuộc xung đột sẽ là để bảo vệ con non hoặc tranh giành con mồi, thường là một con nai sừng tấm bị giết bởi sói. Gấu xám sử dụng khứu giác nhạy bén của nó để xác định vị trí con mồi. Khi những con sói và gấu xám tranh giành con mồi, một con sói có thể cố gắng đánh lạc hướng con gấu trong khi những con khác có thể tiếp tục ăn mồi. Con gấu sau đó có thể trả thù bằng cách đuổi theo những con sói. Nếu những con sói trở nên hung dữ với gấu, chúng thường nhanh chóng tấn công vào hai chân sau. Do đó, con gấu sẽ ngồi xuống và sử dụng khả năng tự bảo vệ mình trong một phạm vi an toàn đầy đủ. Hiếm khi các xung đột như vậy dẫn đến cái chết hoặc thương tích nghiêm trọng cho một trong hai loài động vật. Một con mồi đơn giản là không có giá trị rủi ro cho những con sói (nếu con gấu có ưu thế về sức mạnh và kích thước) hoặc với con gấu (nếu sói đi theo đàn lớn hoặc lì lợm, không chịu rút lui). Mặc dù những con sói thường có ưu thế hơn những con gấu xám Bắc Mỹ trong những cuộc xung đột tại các hang sói, cả gấu xám và gấu đen đã được báo cáo là giết chết sói và đàn con của chúng tại các hang sói ngay cả khi chúng ở trạng thái phòng thủ.
Những con gấu đen Bắc Mỹ thường sống ngoài lãnh thổ của loài gấu xám, nhưng đôi khi những con gấu xám có thể đi vào lãnh thổ gấu đen để có được nguồn thức ăn mà cả hai con gấu đều thích, chẳng hạn như hạt thông, trứng cá, nấm và quả mọng. Khi một con gấu đen nhìn thấy một con gấu xám đang đến, nó sẽ quay đầu lại và chạy hoặc trèo lên cây. Gấu đen không phải là đối thủ tranh mồi quá nguy hiểm với gấu xám vì chúng có chế độ ăn thực vật nhiều hơn. Cuộc đối đầu rất hiếm vì sự khác biệt về kích thước, môi trường sống và chế độ ăn uống của các loài gấu. Khi điều này xảy ra, nó thường là do sự gây hấn đến từ một bên. Con gấu đen sẽ chỉ chiến đấu khi đối thủ là một con gấu xám nhỏ hơn như con gấu xám chưa quá 1 tuổi hoặc khi con gấu đen không còn lựa chọn nào khác ngoài tự vệ. Có ít nhất một quan sát được xác nhận về một con gấu xám đang đào bới, giết và ăn một con gấu đen khi chúng đang ngủ đông.
Sự phân biệt giữa quần thể gấu đen và gấu xám có thể là do loại trừ cạnh tranh. Ở một số khu vực nhất định, gấu xám vượt trội so với gấu đen cho cùng một tài nguyên. Ví dụ, nhiều hòn đảo ven biển Thái Bình Dương ngoài khơi British Columbia và Alaska hỗ trợ nơi sinh sống cho gấu đen hoặc gấu xám, nhưng hiếm khi cả hai. Ở những khu vực mà cả hai loài cùng tồn tại, chúng được phân chia theo độ dốc cảnh quan như tuổi rừng, độ cao và độ mở của đất. Gấu xám có xu hướng ưa thích những khu rừng già với năng suất cao, địa hình cao hơn và môi trường sống cởi mở hơn so với gấu đen.
Mối quan hệ giữa gấu xám Bắc Mỹ và các loài săn mồi khác chủ yếu là một chiều; gấu xám Bắc Mỹ sẽ tiếp cận những kẻ săn mồi kiếm ăn để đánh cắp con mồi của chúng. Nói chung, các loài khác sẽ để lại con mồi cho gấu để tránh nguy cơ phải đánh nhau với một đối thủ mạnh hơn. Bất kỳ bộ phận nào của con mồi còn sót lại chưa được ăn hết sẽ được gấu "dọn sạch". Tuy nhiên, báo sư tử thường cho gấu một con mồi gần như nguyên vẹn. Gấu xám có ít sự cạnh tranh với báo sư tử hơn so với các loài săn mồi khác, chẳng hạn như chó sói, sói đồng cỏ và những con gấu khác. Khi một con gấu xám tấn công một con báo sư tử đang ăn mồi, con báo thường nhanh chóng nhường mồi cho con gấu. Khi một con báo sư tử đứng vững, nó sẽ sử dụng sự nhanh nhẹn vượt trội và móng vuốt của nó để quấy rối con gấu, nhưng đứng ngoài tầm với của nó cho đến khi một trong số chúng bỏ cuộc. Gấu xám đôi khi giết chết báo sư tử trong các tranh chấp con mồi. Đã có một số bằng chứng, chủ yếu từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, của báo sư tử và gấu xám đã đánh nhau trong những trận chiến đến chết. Một con mèo lớn khác có mặt ở Hoa Kỳ, có thể gây ra mối đe dọa cho gấu, là báo đốm.
Sói đồng cỏ, cáo và chồn sói thường được coi là loài gây hại cho gấu xám hơn là cạnh tranh, mặc dù chúng có thể cạnh tranh để kiếm con mồi nhỏ hơn, chẳng hạn như sóc đất và thỏ. Cả ba sẽ cố gắng ăn bất cứ thứ gì chúng có thể nhận được từ con mồi mà những con gấu bỏ lại. Chồn sói đủ hung dữ để thỉnh thoảng kiên trì cho đến khi gấu ăn xong, để lại nhiều phần thừa hơn bình thường đối với con vật nhỏ hơn. Các đàn sói đồng cỏ cũng đôi khi đã đánh bại những con gấu xám Bắc Mỹ trong các cuộc tranh chấp thức ăn.
Vai trò sinh thái.
Gấu xám Bắc Mỹ có một số mối quan hệ với hệ sinh thái của chúng, đôi khi chúng được xem như những kỹ sư sinh thái. Một mối quan hệ như vậy là mối quan hệ tương hỗ với các loại cây có quả. Sau khi tiêu thụ trái cây, hạt được bài tiết và do đó phân tán trong điều kiện có thể nảy mầm. Một số nghiên cứu cho thấy thành công nảy mầm thực sự tăng lên do kết quả của hạt được lắng đọng cùng với chất dinh dưỡng trong phân gấu. Điều này làm cho gấu xám Bắc Mỹ phân phối hạt giống quan trọng trong môi trường sống của chúng.
Trong khi tìm kiếm rễ cây, củ, hoặc sóc đất, gấu khuấy động đất. Quá trình này không chỉ giúp gấu tiếp cận thức ăn của chúng mà còn làm tăng sự phong phú của các loài trong hệ sinh thái núi cao. Một khu vực chứa cả vết đào của gấu và đất không bị xáo trộn có sự đa dạng thực vật lớn hơn một khu vực chỉ chứa đất không bị xáo trộn. Cùng với sự phong phú của loài, sự xáo trộn đất làm cho nitơ được đào lên từ các lớp đất thấp hơn và làm cho nitơ có sẵn trong môi trường. Một khu vực đã được đào bởi con gấu xám có nhiều nitơ hơn đáng kể so với khu vực không bị xáo trộn.
Chu kỳ nitơ không chỉ được tạo điều kiện bởi những con gấu xám đào đất tìm thức ăn, nó còn được thực hiện thông qua thói quen mang xác cá hồi vào các khu rừng xung quanh. Người ta đã phát hiện ra rằng tán lá của cây vân sam (Picea glauca) trong phạm vi 500 m (1.600 ft) của dòng suối nơi cá hồi thu được có chứa nitơ có nguồn gốc từ cá hồi mà những con gấu bắt được. Tại đó chúng thải nước tiểu và phân giàu dinh dưỡng và cá có thể bị ăn dở. Đã có ước tính rằng những con gấu để lại tới nửa số cá hồi chúng bắt được trên nền rừng với mật độ có thể lên đến 4,000 kilograms trên 1 hectare, cung cấp tới 24% tổng lượng nitơ có được cho các khu rừng ven sông..Những dòng nitơ này có liên quan trực tiếp đến sự hiện diện của gấu xám và cá hồi.
Gấu xám trực tiếp điều chỉnh quần thể con mồi và cũng giúp ngăn chặn số lượng tăng quá mức trong rừng bằng cách kiểm soát quần thể của các loài khác trong chuỗi thức ăn. Một thí nghiệm tại Công viên quốc gia Grand Teton ở bang Utah, Hoa Kỳ cho thấy việc loại bỏ những con sói và gấu xám đã khiến cho số lượng con mồi ăn cỏ của chúng tăng lên. Điều này, đến lượt chúng, đã thay đổi cấu trúc và mật độ của thực vật trong khu vực, làm giảm quy mô số lượng của các loài chim di cư. Điều này cung cấp bằng chứng gấu xám đại diện cho một loài săn mồi chủ chốt, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hệ sinh thái mà chúng sinh sống.
Khi gấu xám bắt cá hồi dọc theo bờ biển Alaska và British Columbia, chúng thường chỉ ăn da, não và trứng của cá. Khi làm như vậy, chúng cung cấp một nguồn thức ăn cho mòng biển, quạ và cáo, tất cả đều ăn được cá hồi; điều này có lợi cho cả gấu và động vật ăn thịt nhỏ hơn.
Quan hệ với con người.
Tấn công con người.
Gấu xám được coi là hung dữ hơn so với gấu đen Bắc Mỹ khi tự vệ và bảo vệ con của chúng. Không giống như những con gấu đen nhỏ hơn, những con gấu xám trưởng thành không trèo cây tốt và đối phó với nguy hiểm bằng cách đứng trên mặt đất và tránh xa những kẻ tấn công của chúng. Các con gấu mẹ bảo vệ đàn con là những con gấu dễ tấn công người nhất và chịu trách nhiệm cho 70% số người bị giết bởi những con gấu xám.
Gấu xám thường tránh tiếp xúc với con người. Mặc dù có lợi thế về thể chất rõ ràng, chúng hiếm khi chủ động săn lùng con người. Hầu hết các cuộc tấn công của gấu xám đều xuất phát từ một con gấu đã bị bất ngờ với sự hiện diện của con người ở cự ly rất gần, đặc biệt là nếu nó đang có thức ăn để bảo vệ, hoặc những con gấu xám cái bảo vệ con cái của chúng. Một con gấu đã giết người trong công viên quốc gia có thể bị giết đi để ngăn chặn cuộc tấn công của nó một lần nữa.
Vấn đề càng trầm trọng thêm khi con người canh tác và sử dụng nhiều môi trường sống của gấu trùng khớp với sự di chuyển theo mùa của gấu xám Bắc Mỹ. Sự tương tác giữa con người và gấu ngày càng tăng đã tạo ra "những con gấu có vấn đề": những con gấu thích nghi với hoạt động hoặc môi trường sống của con người. Những biện pháp xua đuổi như sử dụng đạn cao su, hóa chất có mùi hôi hoặc các thiết bị âm thanh răn đe đã được sử dụng để ngăn gấu tiếp cận nơi ở của con người, nhưng không hiệu quả khi gấu đã học cách tích cực liên kết con người với thức ăn. Những con gấu như vậy được di dời sang nơi khác hoặc bị giết đi bởi vì chúng có thể gây ra mối đe dọa cho con người. Chính quyền British Columbia giết chết khoảng 50 con gấu mỗi năm và tổng chi hơn một triệu đô la hàng năm để giải quyết những than phiền liên quan đến gấu, di dời gấu hoặc giết chúng.
Các chương trình nâng cao nhận thức về gấu đã được phát triển bởi nhiều thị trấn ở British Columbia, Canada, để giúp ngăn ngừa xung đột với cả gấu đen và gấu xám. Tiền đề chính của các chương trình này là dạy con người quản lý thực phẩm có thể thu hút gấu. Giữ rác được lưu trữ an toàn, thu hoạch trái cây khi chín, bảo vệ gia súc đằng sau hàng rào điện và lưu trữ thức ăn trong nhà là tất cả các biện pháp được thúc đẩy bởi các chương trình nâng cao nhận thức về gấu. Thực tế là gấu xám Bắc Mỹ ít hơn và thậm chí được bảo vệ ở một số khu vực, có nghĩa là việc ngăn chặn xung đột với loài gấu xám là đặc biệt quan trọng. Revelstoke, British Columbia là một cộng đồng thể hiện sự thành công của phương pháp này. Trong mười năm trước khi phát triển một chương trình giáo dục cộng đồng ở Revelstoke, 16 con gấu đã bị giết và 107 người đã được di dời khỏi thị trấn. Một chương trình giáo dục do Revelstoke Bear Aware điều hành đã được đưa ra vào năm 1996. Kể từ khi chương trình bắt đầu, chỉ có bốn con gấu bị giết và năm cá thể đã được di dời.
Không giống các loài gấu khác trong họ nhà gấu, gấu xám rất ít khi leo cây do kích thước quá lớn. Vì vậy, đối với những người đi cắm trại ở vùng hoang dã, treo thức ăn giữa các cây ở độ cao không thể tiếp cận được với gấu là một thủ tục phổ biến, mặc dù một số con gấu xám có thể trèo lên và lấy thức ăn treo theo những cách khác. Một cách khác để bảo vệ thức ăn là sử dụng hộp cứng đựng thức ăn để ngăn gấu mở ra.
Đi du lịch theo nhóm sáu người trở lên có thể làm giảm đáng kể khả năng bị tấn công liên quan đến gấu khi đi bộ đường dài ở lãnh thổ của gấu. Ngoài ra nên mang theo bình xịt có hơi cay rất nồng để tự vệ trong trường hợp khẩn cấp. Khi vô tình chạm trán với gấu xám, tuyệt đối không được chạy. Dù có thân hình to lớn, gấu xám có thể chạy nhanh đến 56 km/h. Đừng lo lắng nếu con gấu đứng lên - điều đó thường có nghĩa là nó đang tò mò. Thay vào đó, cố gắng giữ bình tĩnh, giang rộng cánh tay và nói bằng giọng từ tốn, chậm rãi với nó để gấu tin rằng nó không bị đe dọa. Sau đó, lùi lại từ từ để chứng tỏ đang rút lui và không có dấu hiệu gây nguy hiểm cho nó. Nếu con gấu đi theo, hãy dừng lại và đứng vững. Nếu con gấu đuổi theo, hãy nằm xuống và ôm tay sau gáy để bảo vệ bản thân. Bảo vệ bụng bằng cách nằm giống một thai nhi, với đầu gối nằm dưới cằm. Ngoài ra, giả chết cũng là một phương án khả thi. Nếu con gấu quyết định tấn công, có nghĩa nó đang cố gắng vô hiệu hóa đối thủ như một mối đe dọa. Và vì gần như không thể đối kháng với nó, giả chết là cách tốt nhất vào thời điểm này. Ngay cả khi nó bỏ đi, không đứng dậy ngay lập tức. Gấu được biết là sẽ nán lại theo dõi để chắc chắn rằng nạn nhân đã chết, vì vậy hãy nằm lại ít nhất 20 phút.
Gấu xám đặc biệt nguy hiểm vì lực cắn của chúng, được đo ở mức hơn 8 megapascal (1160 psi; 1200 pound). Người ta ước tính rằng một vết cắn từ một con gấu xám thậm chí có thể nghiền nát một quả bóng bowling. Đó là chưa kể, gấu xám có thể giết chết người chỉ với 1 cú tát bằng chân trước của nó.
Bảo vệ loài gấu.
Gấu xám Bắc Mỹ được liệt kê là loài bị đe dọa ở Hoa Kỳ lục địa và nguy cấp ở các vùng của Canada. Vào tháng 5 năm 2002, Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng ở Canada đã liệt kê quần thể thảo nguyên (thuộc vùng Alberta, Saskatchewan và Manitoba) của loài gấu xám Bắc Mỹ đang bị tuyệt chủng ở Canada. Kể từ năm 2002, gấu xám Bắc Mỹ được liệt kê là mối quan tâm đặc biệt theo đăng ký COSEWIC và được coi là bị đe dọa theo Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ.
Tại Hoa Kỳ, Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ tập trung nỗ lực để khôi phục những con gấu xám Bắc Mỹ trong sáu khu vực phục hồi. Đó là Bắc lục địa (Montana), Yellowstone (Montana, Wyoming và Idaho), Cabinet-Yaak (Montana và Idaho), Selway-Bitterroot (Montana và Idaho), Selkirk (Idaho và Washington), và Bắc Cascades (Washington). Quần thể gấu xám ở những khu vực này được ước tính là 750 ở vùng Phân chia lục địa phía Bắc, 550 ở Yellowstone, 40 ở khu vực Yaak của Cabinet-Yaak và 15 ở khu vực Cabinet (ở phía tây bắc Montana), 105 ở vùng Selkirk của Idaho, 102020 ở Bắc Cascades, và hiện tại không có ở Selway-Bitterroots, mặc dù chúng đã được nhìn thấy. Đây là những ước tính vì gấu nhiều lần di chuyển vào và ra khỏi những khu vực này, và do đó không thể tiến hành đếm chính xác. Trong các khu vực phục hồi tiếp giáp Canada, gấu cũng di chuyển qua lại biên giới quốc tế.
Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ tuyên bố các khu vực Cabinet-Yaak và Selkirk được liên kết thông qua British Columbia, một yêu sách đang bị tranh chấp. Các công viên quốc gia của Hoa Kỳ và Canada, như Công viên Quốc gia Banff, Yellowstone và Grand Teton và Công viên Quốc gia Theodore Roosevelt phải tuân theo luật pháp và các quy định được thiết kế để bảo vệ những con gấu.
Vào ngày 9 tháng 1 năm 2006, Cơ quan Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ đã đề xuất loại bỏ các loài gấu xám Yellowstone khỏi danh sách các loài bị đe dọa và bảo vệ. Vào tháng 3 năm 2007, Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ "hủy niêm yết" quần thể, loại bỏ một cách hiệu quả các biện pháp bảo vệ Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng cho loài gấu xám trong khu vực Công viên Quốc gia Yellowstone. Một số tổ chức môi trường, bao gồm NRDC, đã đưa ra một vụ kiện chống lại chính phủ liên bang để chống lại chính sách bảo tồn gấu xám. Vào ngày 22 tháng 9 năm 2009, Thẩm phán quận Hoa Kỳ Donald W. Molloy đã phục hồi sự bảo vệ do sự suy giảm của cây thông trắng, mà hạt của nó là nguồn thức ăn quan trọng cho gấu. Năm 1996, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đã chuyển con gấu xám sang trạng thái "loài ít quan tâm nhất" có nguy cơ thấp hơn trong Sách đỏ IUCN.
Xa hơn về phía bắc, ở Alberta, Canada, các nghiên cứu cắt lông DNA kỹ lưỡng vào năm 2000 cho thấy quần thể gấu xám tăng nhanh hơn so với trước đây và sự phát triển tài nguyên bền vững của Alberta đã tính toán được 841 con gấu. Vào năm 2002, Ủy ban bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng đã khuyến nghị rằng quần thể gấu xám Bắc Mỹ được chỉ định là bị đe dọa do các ước tính gần đây về tỷ lệ tử vong của gấu xám Bắc Mỹ cho thấy số lượng đang suy giảm. Một kế hoạch phục hồi được chính quyền tỉnh công bố vào tháng 3 năm 2008 cho thấy quần thể gấu xám thấp hơn so với trước đây. Năm 2010, chính quyền tỉnh chính thức liệt kê số lượng khoảng 700 cá thể gấu của họ là "Bị đe dọa".
Môi trường Canada coi loài gấu xám là một loài "quan tâm đặc biệt", vì nó đặc biệt nhạy cảm với các hoạt động của con người và các mối đe dọa tự nhiên. Ở Alberta và British Columbia, loài này được coi là có nguy cơ. Trong năm 2008, người ta ước tính có 16.014 con gấu xám ở British Columbia, thấp hơn so với ước tính trước đây do sự tinh chỉnh trong mô hình dân số.
Loài gấu xám Mexico (Ursus arctos nelsoni) đã tuyệt chủng.
Nỗ lực bảo tồn.
Những nỗ lực bảo tồn đã trở thành một khoản đầu tư ngày càng quan trọng trong những thập kỷ gần đây, khi số lượng gấu xám đã giảm đáng kể. Thành lập các công viên và các khu vực được bảo vệ là một trong những trọng tâm chính hiện đang được giải quyết để giúp tái lập quần thể gấu xám thấp ở British Columbia. Một ví dụ về những nỗ lực này là Khu bảo tồn gấu Khutzeymateen nằm dọc theo bờ biển phía bắc của British Columbia; với kích thước 44.300 ha (109.000 mẫu Anh), nó bao gồm môi trường sống chính của loài bị đe dọa này. Các quy định như quyền truy cập công cộng hạn chế, cũng như chính sách cấm săn bắn nghiêm ngặt, đã cho phép địa điểm này trở thành nơi trú ẩn an toàn cho chúng trong khu vực. Khi chọn vị trí của một công viên tập trung vào bảo tồn gấu xám, các yếu tố như chất lượng môi trường sống và khả năng kết nối với các mảng môi trường sống khác được xem xét.
Nơi ẩn náu cho động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng nằm trên núi Grouse ở Vancouver là một ví dụ về một loại nỗ lực bảo tồn khác nhau cho quần thể gấu xám đang giảm dần. Nơi ẩn náu là một địa hình rộng 5 mẫu, có chức năng như một ngôi nhà cho hai con gấu xám mồ côi từ năm 2001. Mục đích của nơi ẩn náu này là cung cấp nhận thức và giáo dục cho công chúng về những con gấu xám, cũng như cung cấp một khu vực để nghiên cứu và quan sát loài sinh vật sống kín đáo này.
Một yếu tố khác hiện đang được xem xét khi thiết kế kế hoạch bảo tồn cho các thế hệ tương lai là các rào cản nhân tạo dưới hình thức phát triển đô thị và đường sá. Các yếu tố này đóng vai trò là chướng ngại vật, gây ra sự phân mảnh của môi trường quần thể gấu xám còn lại và ngăn chặn dòng gen giữa các quần thể (ví dụ, Vườn quốc gia Banff). Điều này, đến lượt nó, đang tạo ra sự suy giảm về đa dạng di truyền, và do đó, thể lực chung của số lượng gấu nói chung bị hạ thấp. Trước những vấn đề này, các kế hoạch bảo tồn thường bao gồm các hành lang di cư bằng các dải "rừng công viên" dài để kết nối các khu vực kém phát triển hơn hoặc bằng đường hầm và cầu vượt trên những con đường đông đúc. Sử dụng theo dõi cổ áo GPS, các nhà khoa học có thể nghiên cứu xem những nỗ lực này có thực sự đóng góp tích cực trong việc giải quyết vấn đề hay không. Cho đến nay, hầu hết các hành lang được tìm thấy được sử dụng không thường xuyên, và do đó sự phân lập gen hiện đang xảy ra, điều này có thể dẫn đến cận huyết và do đó làm tăng tần số các gen nguy hiểm thông qua sự trôi dạt di truyền. Dữ liệu hiện tại cho thấy gấu xám Bắc Mỹ ít có khả năng sử dụng các hành lang này một cách không tương xứng so với con đực, điều này có thể ngăn cản sự tiếp cận của bạn đời và giảm số lượng con cái.
Tại Hoa Kỳ, những nỗ lực quốc gia đã được thực hiện từ năm 1982 cho kế hoạch phục hồi của những con gấu xám. Rất nhiều nỗ lực đã được thực hiện thông qua các tổ chức khác nhau nỗ lực giáo dục công chúng về sự an toàn của gấu xám, thói quen của gấu xám và các cách khác nhau để giảm xung đột giữa người và gấu. Ủy ban phục hồi gấu liên ngành là một trong nhiều tổ chức cam kết phục hồi gấu xám Bắc Mỹ ở 48 tiểu bang. Có năm khu vực phục hồi cho gấu xám Bắc Mỹ ở 48 tiểu bang bao gồm hệ sinh thái Bắc Cascades ở bang Washington. ịch vụ Công viên Quốc gia và Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ đã khởi xướng quá trình tuyên bố tác động môi trường bắt đầu vào mùa thu năm 2014 để bắt đầu quá trình phục hồi của gấu xám đến khu vực Bắc Cascades. Một kế hoạch cuối cùng và tuyên bố tác động môi trường đã được phát hành vào mùa xuân năm 2017 với hồ sơ quyết định tuân theo.
Đầu tháng 3 năm 2016, Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ đã đề xuất rút các biện pháp bảo vệ Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng khỏi những con gấu xám trong và xung quanh Công viên Quốc gia Yellowstone. Số lượng đã tăng từ 136 con gấu vào năm 1975 lên ước tính 700 con vào năm 2017 và đạo luật đã bị "hủy bỏ" vào tháng 6 năm 2017.
Xem gấu.
Trong 20 năm qua ở Alaska, du lịch sinh thái đã bùng nổ. Trong khi nhiều người đến Alaska để săn gấu, thì phần lớn đến để xem những con gấu và quan sát thói quen của chúng. Một số nơi để quan sát loài gấu tốt nhất trên thế giới là ở các khu vực ven biển của Bán đảo Alaska, bao gồm Công viên Quốc gia và Khu bảo tồn Lake Clark, Khu bảo tồn và Công viên Quốc gia Katmai, và Khu bảo tồn và Khu bảo tồn Trò chơi Sông McNeil. Tại đây, gấu tập trung với số lượng lớn để ăn trên các nguồn thức ăn tập trung, bao gồm cả cói trong đầm lầy muối, nghêu ở các bãi triều gần đó, cá hồi ở các cửa sông và quả mọng trên sườn đồi lân cận.
Vườn quốc gia và khu bảo tồn Katmai là một trong những điểm tốt nhất để xem gấu nâu. Số lượng gấu ở Katmai ước tính khoảng 2.100 cá thể khỏe mạnh. Công viên nằm trên Bán đảo Alaska, cách phía tây nam thành phố Anchorage khoảng 480 km (300 dặm). Tại Brooks Camp, một địa điểm nổi tiếng tồn tại nơi những con gấu xám có thể được nhìn thấy bắt cá hồi từ trên đỉnh thác, bạn thậm chí có thể xem trực tuyến này từ một máy quay. [148] Ở các khu vực ven biển của công viên, như Vịnh Hallo, Cảng địa lý, Đầm Swikshak, Lạch Mỹ, Sông lớn, Sông Kamishak, Sông Savonoski, Lạch Moraine, Lạch phễu, Lạch Battleuk, Lạch Nantuk, Vịnh Kukak và Kaflia Bay bạn thường có thể xem gấu câu cá cùng với sói, đại bàng và rái cá sông. Các khu vực ven biển có mật độ dân số cao nhất quanh năm vì có nhiều nguồn thực phẩm lớn hơn, nhưng Brooks Camp có dân số cao nhất (100 con gấu).
Khu bảo tồn McNeil River Game, trên sông McNeil, là nơi tập trung nhiều gấu nâu nhất trên thế giới. Ước tính có 144 cá thể gấu đã được xác định tại thác vào một mùa hè với số lượng 74 con cùng một lúc; 60 con gấu trở lên tại thác là một cảnh thường xuyên và không có gì lạ khi thấy 100 con gấu ở trên thác trong suốt một ngày. Nơi này có hồ Chenik và một số lượng nhỏ gấu xám, đã bị đóng cửa do săn lùng ráo riết từ năm 1995. Tất cả khu vực Katmai-McNeil đều đóng cửa để cấm săn bắn trừ Khu bảo tồn quốc gia Katmai, nơi diễn ra hoạt động săn bắn hợp pháp. Tổng cộng, khu vực Katmai-McNeil có khoảng 2.500 con gấu xám.
Đảo Admiralty, ở phía đông nam Alaska, được người bản địa đầu tiên gọi là "Xootsnoowú", có nghĩa là "pháo đài của những con gấu", và là nơi có quần thể gấu dày đặc nhất ở Bắc Mỹ. Ước tính 1600 con gấu xám sống trên đảo, bản thân hòn đảo chỉ dài 140 km (90 dặm). Một nơi để xem những con gấu xám Bắc Mỹ trên đảo có lẽ là Pack Creek, trong Khu bảo tồn Động vật hoang dã Stan Price State. Có thể quan sát 20 đến 30 con gấu xám tại con lạch cùng một lúc và giống như Brooks Camp, du khách có thể xem gấu từ một vị trí trên cao. Đảo Kodiak, là một nơi khác để xem gấu. Ước tính có khoảng 3.500 con gấu Kodiak sống trên đảo, 2.300 trong số này trong Khu bảo tồn động vật hoang dã quốc gia Kodiak. Sông O'Malley được coi là nơi tốt nhất trên đảo Kodiak để xem những con gấu xám Bắc Mỹ | 1 | null |
Alexander Robertus Todd (1907-1997) là nhà hóa học người Scotland. Ông đoạt Giải Nobel Hóa học năm 1957 khi có những nghiên cứu về nucleotide. Sau khi nhận bằng tiến sĩ từ các trường đại học của Frankfurt am Main (1931) và Oxford (1933), Todd đã công bố các bài viết với Lister Institute of Preventive Medicine, London, và Đại học London trước khi trở thành giáo sư hóa học hữu cơ tại Đại học Manchester (1938 -44) và sau đó tại Cambridge (1944-71), nơi ông còn là bậc thầy của Trường Cao đẳng Chúa Kitô (1963-78). Ông được bổ nhiệm làm hiệu trưởng của trường Đại học Strathclyde năm 1975 và là giáo sư thỉnh giảng của Đại học Bách khoa Hatfield (1978-86).
Trong khi ở Manchester, ông bắt đầu nghiên cứu các nucleoside, các hợp chất tạo thành các đơn vị cấu trúc của axit nucleic (DNA và RNA). Năm 1949, ông tổng hợp một chất liên quan, adenosine triphosphate (ATP), điều quan trọng đối với việc sử dụng năng lượng trong sinh vật sống. Ông tổng hợp hai hợp chất quan trọng khác, flavin adenine dinucleotide (FAD) vào năm 1949 và uridine triphosphate năm 1954. Năm 1955 ông đã giải thích cấu trúc của vitamin B12.
Todd cũng làm việc về cấu trúc và tổng hợp vitamin B1, vitamin E, và các chất alkaloid trong marijuana và hashish. Ông nghiên cứu các alkaloids khác, thực vật và các sắc tố côn trùng, và các sản phẩm khuôn, bao gồm cả penicillin. Ông từng giữ chức chủ tịch (1952-64) của ủy ban cố vấn về chính sách khoa học của chính phủ Anh, và năm 1975 ông được bầu làm chủ tịch Hội Hoàng gia. Được khen ngợi năm 1954, ông được tạo ra vào năm 1962 và trở thành thành viên của Huân chương Hoàng gia năm 1977. | 1 | null |
Dith Pran (; 27 tháng 9 năm 1942 – 30 tháng 3 năm 2008) là một nhà báo ảnh người Campuchia được biết đến là một người tị nạn và người sống sót khỏi chế độ Khmer Đỏ. Ông chính là đề tài cho bộ phim đoạt giải Oscar Cánh đồng chết sản xuất năm 1984. Trong phim, hình tượng của ông do diễn viên lần đầu đóng phim Haing S. Ngor (1940–1996) thủ vai, nhờ vai diễn này mà Ngor đã giành được Giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất.
Tuổi trẻ.
Pran sinh ra ở Siem Reap, Campuchia gần Angkor Wat. Cha ông là một viên chức hành chính. Ông đã học tiếng Pháp ở trường và tự học tiếng Anh.
Quân đội Hoa Kỳ đã thuê ông làm người phiên dịch nhưng sau khi quan hệ của ông với Mỹ trở nên tồi tệ, ông đã làm việc cho một đoàn làm phim của Anh rồi sau đó làm nhân viên lễ tân khách sạn.
Cuộc cách mạng.
Năm 1975, Pran và phóng viên của tờ "New York Times" Sydney Schanberg ở lại Campuchia để đưa tin cho sự kiện thủ đô Phnôm Pênh thất thủ vào tay Khmer Đỏ. Schanberg và các phóng viên nước ngoài khác được phép rời khỏi nước này nhưng Pran thì không. Do giới trí thức bị đàn áp trong cuộc diệt chủng, ông đã cố giấu sự thật rằng ông là người được học hành và có quen biết với người Mỹ, và giả bộ là một lái xe taxi Khi người Campuchia bị bắt phải lao động trong các trại cải tạo, Pran đã phải chịu đựng 4 năm đói khát và bị tra tấn trước khi Việt Nam lật đổ Khmer Đỏ vào tháng 12 năm 1978 Ông đã đặt ra cụm từ "cánh đồng chết" để chỉ những đống xác chết và những mảnh xương của nạn nhân ông gặp phải trong quá trình chạy trốn 40 dặm của mình. Ba người anh và một người chị của ông đã bị giết ở Campuchia.
Pran đã quay trở lại Siem Reap khi ông biết rằng 50 thành viên gia đình ông đã chết. Người Việt Nam đã cho ông làm trưởng thôn nhưng do lo sợ họ sẽ khám phá ra mối quan hệ của ông với Mỹ nên ông đã trốn sang Thái Lan vào ngày 03 tháng 10 năm 1979.
Từ 1980, ông làm phóng viên cho tờ "New York Times".
Đời tư.
Năm 1986, ông cùng với vợ khi đó là Ser Moeun Dith trở thành công dân Mỹ. Sau này hai người ly dị và ông cưới Kim DePaul nhưng rồi họ cũng ly hôn. Ông cũng đấu tranh để các nạn nhân diệt chủng Campuchia được công nhận, đặc biệt ông làm nhà sáng lập và chủ tịch của "Dith Pran Holocaust Awareness Project". Ông đã được trao Huân chương Danh dự Đảo Ellis năm 1998 và giải Ưu tú của Trung tâm Quốc tế.
Cái chết.
Ngày 30 tháng 3 năm 2008, Pran qua đời ở tuổi 65 tại New Brunswick, New Jersey. Ông mới được chẩn đoán bị ung thư tuyến tụy 3 tháng trước đó. Khi đó ông đang sống ở Woodbridge, New Jersey. | 1 | null |
Baumgartenschneid là ngọn núi hay sườn núi cao 1.448 m ở Bayerische Voralpen trên hồ Tegernsee về phía Đông.
Vị trí và đường lên đỉnh.
Đường lên đỉnh là một con đường đi dạo núi, mất khoảng chừng 2 tiếng từ thị trấn Tegernsee (700m), đi xuống mất khoảng 1 tiếng rưỡi.
Người ta cũng có thể lên đỉnh núi từ xã Rottach-Egern hay Schliersee theo một tuyến đường khác. Khi lên núi từ Tegernsee hay Rottach-Egern, thì con đường sẽ đi ngang qua quán ăn, "Gasthaus Galaun", cao khoảng 1.060 m, kế đên là ngọn núi đá "Riederstein" 1.207 m, trên đó có nhà nguyện nhỏ Riederstein.
Baumgartenschneid là một đỉnh núi được ưa thích, dễ leo, ngay cả vào mùa đông, nếu tuyết đóng không dầy lắm, thì không cần phải đi giầy tuyết.
Nhìn từ chữ thập trên đỉnh, khách du lịch có thể nhìn thấy phần lớn hồ Tegernsee. Ngoài ra khách còn có thể thấy những ngọn núi của vùng Tegernsee chẳng hạn như Wallberg, Setzberg, Kampen và Fockenstein. Nhìn về phía đông khách có thể thấy ngọn núi Wendelstein. | 1 | null |
Frederick Sanger (1918 – 2013) là nhà hóa học người Anh. Ông là người đầu tiên giành Giải Nobel Hóa học tới 2 lần và đang là người duy nhất có thành tích này. Lần đầu tiên là vào năm 1958, ông giành giải này một mình. Lần thứ hai là vào năm 1980, ông chung giải thưởng với hai nhà hóa học người Mỹ đó là Paul Berg và Walter Gilbert. Năm 1958 ông giành giải nhờ những nghiên cứu làm sáng tỏ cấu trúc của protein, đặc biệt là insulin. Năm 1980, ông đoạt giải là vì có những đóng góp liên quan đến chuỗi axít nucleic.
Tiểu sử.
Frederick Sanger sinh ngày 13 tháng 8 năm 1918 tại Rendcomb, một ngôi làng nhỏ ở Gloucestershire, nước Anh. Ông là con trai thứ hai của Frederick Sanger, một bác sĩ đa khoa, và vợ là Cicely Sanger (nhũ danh Crewdson). Ông có một người anh trai, Theodore, lớn hơn ông một tuổi, và một người em gái, May (Mary), nhỏ hơn ông năm tuổi. Bác sĩ Sanger đã từng làm việc như một nhà truyền giáo y tế Anh giáo ở Trung Quốc, nhưng sau đó đã trở về nước vì sức khỏe kém. Năm 1916, khi bác sĩ Sanger đã 40 tuổi, ông kết hôn với Cicely kém bản thân 4 tuổi. Cha của Sanger đã chuyển sang Giáo Hữu Hội (Quakers) ngay sau khi hai người con trai của ông được sinh ra, và ông đã nuôi dạy các con của mình theo giáo lý của nhóm tôn giáo này. Mẹ của Sanger là con gái của một nhà sản xuất bông giàu có và có xuất thân là người Quaker, nhưng bản thân bà không theo giáo phái này.
Khi Sanger khoảng năm tuổi, gia đình chuyển đến ngôi làng nhỏ Tanworth-in-Arden ở Warwickshire. Với điều kiện tài chính khá giả, gia đình ông đã thuê một gia sư để dạy dỗ bọn trẻ. Năm 1927, khi mới 9 tuổi, ông được gửi đến trường Downs, một trường dự bị nội trú do Quakers điều hành gần thị trấn Malvern. Anh trai của ông, Theo, cũng học cùng trường nhưng trước ông một năm. Năm 1932, ở tuổi 14, ông được gửi đến trường Bryanston mới thành lập ở Dorset. Ngôi trường sử dụng phương pháp giáo dục Dalton với một lịch trình tự do hơn khiến Sanger rất thích. Ở trường mới, ông thích học các giáo viên của mình và đặc biệt thích các môn khoa học. Do hoàn thành Chứng chỉ Trung học (tiếng Anh: School Certificate) sớm hơn một năm và được trao đến bảy tín chỉ, Sanger đã có thể dành phần lớn thời gian năm học cuối cùng của mình để thực nghiệm trong phòng thí nghiệm cùng với thầy giáo hóa học của mình, Geoffrey Ordish, người từng học tại Đại học Cambridge và là một nhà nghiên cứu trong Phòng Thí nghiệm Cavendish. Làm việc với Ordish đã tạo ra một sự thay đổi mới mẻ so với việc ngồi và nghiên cứu tài liệu, và điều này đánh thức khát vọng theo đuổi sự nghiệp khoa học của Sanger. Năm 1935, trước khi vào đại học, Sanger được gửi đến trường Schule Schloss Salem ở miền nam nước Đức trong một chương trình trao đổi. Nhà trường quá chú trọng vào các môn thể chất, và điều này giúp Sanger đi trước về mặt kiến thức so với các học sinh khác. Ngoài ra, ông đã bị sốc khi biết rằng mỗi ngày tại ngôi trường được bắt đầu bằng các bài đọc từ Mein Kampf của Hitler, sau đó là kiểu chào Quốc xã.
Năm 1936, Sanger đến St John's College, Cambridge để nghiên cứu khoa học tự nhiên. Đây cũng là ngôi trường mà cha ông đã theo học. Đối với Phần I của kỳ sát hạch Tripos, ông đã đăng ký các khóa học vật lý, hóa học, hóa sinh và toán học nhưng lại gặp khó khăn với vật lý và toán học. Nhiều học sinh khác đã phải học thêm các lớp toán khác ở trường. Trong năm thứ hai, ông thay thế vật lý bằng sinh lý học. Anh ấy đã mất ba năm để có được Phần I. Đối với Phần II, ông theo học hóa sinh và nhận được bằng tấm bằng Danh dự Hạng 1. Tại Cambridge lúc bấy giờ, hóa sinh là một khoa tương đối mới do Gowland Hopkins thành lập với các giảng viên nhiệt tình bao gồm Malcolm Dixon, Joseph Needham, và Ernest Baldwin.
Cả cha và mẹ của ông đều chết vì bệnh ung thư trong hai năm đầu tiên của ông tại Cambridge. Khi mất, cha ông đã 60 tuổi, và mẹ của ông đã 58 tuổi. Khi còn là sinh viên đại học, niềm tin của Sanger bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi giáo lý của Giáo Hữu Hội. Ông là một người theo chủ nghĩa hòa bình và là thành viên của Hiệp hội Cam kết Hòa bình (tiếng Anh: Peace Pledge Union hay PPU). Chính nhờ sự tham gia của ông với Nhóm các nhà khoa học chống chiến tranh Cambridge (tiếng Anh: Cambridge Scientists Anti-War Group hay CSAWG) , ông đã gặp người vợ tương lai của mình, Joan Howe, người đang theo học kinh tế tại Đại học Newnham. Họ hẹn hò với nhau khi ông đang học cho kỳ thi Phần II của Tripos và kết hôn sau khi ông tốt nghiệp vào tháng 12 năm 1940. Sanger, mặc dù được nuôi dưỡng và ảnh hưởng bởi giáo lý của Quakers, sau đó bắt đầu không đến cách nhìn nhận của giáo hội này. Sanger ấy bắt đầu nhìn thế giới qua lăng kính khoa học hơn, và với sự phát triển vượt bậc của nghiên cứu và phát triển khoa học, ông dần xa rời đức tin mà ông ấy đã được dạy. Ông không có gì ngoài sự tôn trọng đối với tôn giáo và tuyên bố ông đã giữ lại hai điều từ giáo lý là sự thật và sự tôn trọng đối với tất cả cuộc sống. Theo Đạo luật Huấn luyện Quân sự 1939, ông tạm thời được đăng ký là một người từ chối nhập ngũ vì lương tâm thấy không đúng, và một lần nữa theo Đạo luật Nghĩa vụ Quốc gia (Lực lượng Vũ trang) 1939, trước khi được tòa án cho phép ông miễn nghĩa vụ quân sự vô điều kiện. Trong thời gian chờ đợi, anh đã được đào tạo về công tác cứu trợ xã hội tại trung tâm Quaker, Spicelands, ở Devon và phục vụ một thời gian ngắn như một hộ lý tại bệnh viện.
Sanger bắt đầu học tiến sĩ vào tháng 10 năm 1940 dưới sự dẫn dắt của N.W. "Bill" Pirie. Dự án của ông là điều tra xem liệu protein có thể ăn được có thể chiết xuất từ cỏ hay không. Sau hơn một tháng, Pirie rời khỏi khoa và Albert Neuberger trở thành người hướng dẫn luận án tiến sĩ của ông. Sanger đã thay đổi dự án nghiên cứu của mình để nghiên cứu sự trao đổi chất của lysine và một vấn đề thực tế hơn liên quan đến nitơ trong khoai tây. Luận án của ông có tên là "Sự chuyển hóa axit amin lysine trong cơ thể động vật". Luận án của ông được Charles Harington và Albert Charles Chibnall kiểm tra, và Sanger được trao bằng tiến sĩ năm 1943.
Sự nghiệp.
Xác định trình tự insulin.
Khi giáo sư Neuberger chuyển đến Viện Nghiên cứu Y khoa Quốc gia (tiếng Anh: National Institute for Medical Research hay NIMR) ở London, Sanger vẫn quyết định ở lại Cambridge. Năm 1943, Sanger gia nhập nhóm nghiên cứu của Charles Chibnall, một nhà hóa học protein, người mới vừa đảm nhận vị trí trưởng khoa tại Khoa Hóa sinh. Chibnall đã thực hiện một số nghiên cứu về thành phần axit amin của insulin bò và đề nghị Sanger tìm hiểu các nhóm amin có trong protein đó. Thời bấy giờ, insulin có thể được mua từ chuỗi hiệu thuốc Boots và là một trong số rất ít protein có sẵn ở dạng tinh khiết. Cho đến thời điểm này, Sanger đã tự chi trả cho các hoạt động học tập và nghiên cứu của chính mình tại Đại học. Khi trở thành thành viên của nhóm của Chibnall, ông ban đầu được hỗ trợ bởi Hội đồng Nghiên cứu Y khoa (tiếng Anh: Medical Research Council hay MRC), và sau đó từ năm 1944 đến năm 1951, bởi Học bổng Beit Memorial về Nghiên cứu Y khoa.
Thành công đầu tiên của Sanger là xác định được trình tự axit amin hoàn chỉnh của hai chuỗi polypeptit của insulin bò, A và B, lần lượt vào năm 1952 và 1951. Trước đó, các nhà khoa học đã cho rằng protein không có một cấu trúc cụ thể. Khi xác định các trình tự axit amin này, Sanger đã chứng minh rằng protein có thành phần hóa học xác định.
Để đạt được thành công này, Sanger đã cải tiến phương pháp sắc ký phân vùng do Richard Laurence Millington Synge và Archer John Porter Martin lần đầu phát triển để xác định thành phần của các axit amin trong sợi len. Sanger đã sử dụng thuốc thử hóa học 1-fluoro-2,4-dinitrobenzene (hiện nay, còn được gọi là thuốc thử Sanger, fluorodinitrobenzene, FDNB hoặc DNFB), có nguồn gốc từ nghiên cứu khí độc của Bernhard Charles Saunders tại Khoa Hóa học tại Đại học Cambridge. Thuốc thử của Sanger tỏ ra hiệu quả trong việc đánh đấu nhóm amin ở đầu N của chuỗi polypeptit. Sau đó, ông thủy phân một phần insulin thành các đoạn peptit ngắn bằng axit clohydric hoặc một loại enzym như trypsin. Sau đó, hỗn hợp các peptit này được phân phân tách trong không gian hai chiều trên một tờ giấy lọc. Cụ thể hơn, tờ giấy lọc chứa hỗn hợp peptit sẽ được điện di theo một chiều ngang, và sau đó, phương pháp sắc ký được áp dụng để peptit phân tách theo chiều dọc (vuông góc với chiều của điện di). Các đoạn peptit khác nhau của insulin, được đánh dấu bằng ninhydrin, di chuyển đến các vị trí khác nhau trên giấy, tạo ra một mẫu riêng biệt mà Sanger gọi là "dấu vân tay". Có thể nhận đoạn peptit ở đầu N bằng cách xác định vị trí của màu vàng, được tạo thành bởi phản ứng hóa học của chât FDNB, trên tờ giấy lọc. Đoạn axit amin này có thể được xác định bằng cách thủy phân hoàn toàn bằng axit và xác định loại axit amin đinitrophenyl nào được tạo thành. [6 ]
Khi lặp lại loại quy trình này, Sanger có thể xác định trình tự của các đoạn peptit ngắn được tạo ra bằng cách sử dụng các phương pháp khác nhau trong quá trình thủy phân ban đầu. Sau đó, chúng có thể được tập hợp thành các chuỗi dài hơn để suy ra cấu trúc hoàn chỉnh của insulin. Cuối cùng, vì chuỗi A và B không hoạt động về mặt sinh lý nếu không có ba liên kết cầu disulfua (hai cầu giữa chuỗi A và B, một cầu giữa các axit amin trên chuỗi A), Sanger và đồng nghiệp của ông đã quyết định kết thúc thí nghiệm của họ vào năm 1955. Kết luận chính của Sanger là hai chuỗi polypeptide của protein insulin có một trình tự axit amin xác định, và rộng hơn, mỗi protein đều có một trình tự nhất định. Chính thành tích này đã mang về cho ông giải Nobel Hóa học đầu tiên vào năm 1958. Đồng thời, khám phá này góp phần quan trọng đối với Giả thuyết Trình tự (tiếng Anh: Sequence Hypothesis) sau này của Crick để phát triển các ý tưởng về cách ADN mã hóa thành protein.
Xác định trình tự ARN.
Từ năm 1951, Sanger là một nhân viên ngoại bộ của Hội đồng Nghiên cứu Y học, và khi cơ quan này mở Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử vào năm 1962, ông chuyển từ các phòng thí nghiệm của mình tại Khoa Hóa sinh của trường đại học lên tầng cao nhất của tòa nhà mới của MRC. Đồng thời, ông cũng trở thành người đứng đầu bộ phận Hóa học Protein.
Trước khi chuyển đi, Sanger bắt đầu khám phá khả năng giải mã trình tự các phân tử ARN và bắt đầu phát triển các phương pháp tách các đoạn ribonucleotide bằng các enzym nuclease cụ thể. Ông đã thực hiện công việc này trong khi cố gắng hoàn thiện các kỹ thuật giải trình tự mà ông đã phát triển trong quá trình nghiên cứu insulin.
Thách thức quan trọng trong công việc giải mã trình tự là tìm ra một đoạn ARN tinh khiết để có thể làm thí nghiệm. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã phát hiện ra vào năm 1964, với Kjeld Marcker, ARN vận chuyển formylmethionine tham gia quá trình tổng hợp protein ở vi khuẩn. Tuy nhiên, ông đã bị đánh bại trong cuộc đua trở thành người đầu tiên giải trình tự phân tử ARN vận chuyển bởi một nhóm nghiên cứu do Robert Holley đến từ Đại học Cornelldẫn đầu. Holley đã công bố trình tự của 77 ribonucleotide của ARN vận chuyển alanin chiết xuất từ Saccharomyces cerevisiae vào năm 1965. Đến năm 1967, nhóm của Sanger mới xác định được trình tự nucleotide của ARN ribosome 5S, một RNA nhỏ gồm 120 nucleotide, chiết xuất từ Escherichia coli.
Xác định trình tự ADN.
Năm 1975, Frederick Sanger đã phát minh ra phương pháp giải trình tự của DNA bằng enzyme. Phương pháp này được gọi là phương pháp Dideoxy. Đây là phương pháp giúp các nhà khoa học có thể đọc trình tự nucleotide trên một phân tử DNA. Ngày nay rất nhiều máy giải trình tự gene đều dựa trên nguyên tắc chính của phướng pháp nói trên. | 1 | null |
Giải Indira Gandhi hoặc Giải Hòa bình Indira Gandhi hoặc Giải Indira Gandhi cho Hòa bình, Giải trừ quân bị và Phát triển là một giải thưởng uy tín của Ấn Độ dành cho các cá nhân hoặc tổ chức nhằm công nhận những nỗ lực sáng tạo hướng tới việc thúc đẩy hòa bình quốc tế, sự phát triển và một trật tự kinh tế quốc tế mới, đảm bảo rằng những khám phá khoa học được sử dụng vì lợi ích lớn hơn của nhân loại, và mở rộng phạm vi của tự do.
Giải thưởng gồm một khoản tiền mặt là 2.500.000 rupee Ấn Độ và một trích dẫn. Một tác phẩm viết, để có đủ điều kiện được xem xét, phải là tác phẩm đã được xuất bản. Ban giám khảo gồm "Hội Tưởng niệm Indira Gandhi" bao gồm các nhân vật quốc gia và quốc tế nổi tiếng trong đó có cả các người đã được trao giải này trước đây.
Người nhận giải được lựa chọn từ một danh sách các ứng viên quốc gia và quốc tế. Giải này được trao hàng năm. | 1 | null |
Otto Clemens August von Claer (23 tháng 11 năm 1827 tại Bonn – 1 tháng 4 năm 1909 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng. Ông từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871).
Tiểu sử.
Otto là con trai của Franz Bernhard Wilhelm de Claer (1785 – 1853), một vị quan "Domänenrats" (tạm dịch là "Tư vấn Ruộng đất") của Phổ. Ông đã học ở Đại học Bonn, tại đây ông là một thành viên của Liên đoàn Sinh viên Palatia, trước khi ông gia nhập quân ngũ vào năm 1849 với vai trò là lính tình nguyện một năm ("Einjährig-Freiwilliger") trong Trung đoàn Long kỵ binh số 4 "von Bredow".
Vào năm 1850, ông được phong quân hàm Thiếu úy, sau đó ông được thăng cấp Trung úy vào năm 1859, rồi được phong Trưởng quan kỵ binh và Chỉ huy đội kỵ binh ("Eskadronchef") vào năm 1864. Ông giữ chức vụ sĩ quan phụ tá thứ nhất của Thượng tướng Bộ binh Bá tước Helmuth von Moltke (sau này là một anh hùng của chiến tranh thống nhất nước Đức và được phong cấp Thống chế), đồng thời mang danh hiệu của Trung đoàn Long kỵ binh Schleswig-Holsteini số 13. Trên cương vị này, ông đã tham chiến trong cuộc chiến tranh với Áo năm 1866 và chiến dịch Pháp các năm 1870 – 1871. Vào mùa thu năm 1876, ông được lên quân hàm Đại tá và vào ngày 4 tháng 4 năm 1882 ông được bổ nhiệm chức Tư lệnh quân đội ở Magdeburg. Cũng trong năm 1882, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng, sau đó vào tháng 9 năm 1887 ông lên cấp Trung tướng và vào mùa xuân năm 1889 ông được sung vào hàng ngũ Sĩ quan trừ bị ("Offizieren von der Armee").
Nhân dịp khánh thành Đài Kỷ niệm Moltke tại Quảng trường Đức vua ("Königsplatz") ở kinh đô Berlin, ông được Đức hoàng tặng thưởng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng I kèm theo Thanh kiếm trên Chiếc nhẫn.
Otto von Claer cùng với vợ ông là bà Maria Spitz được mai táng ở nghĩa trang Invalidenfriedhof Berlin. Vào năm 1989, một tấm bia phục chế ("Restitutionsstein") đã được dựng cho mộ phần của ông bà. | 1 | null |
Sir John Cowdery Kendrew (1917-1997) là nhà hóa học người Anh. Ông cùng với người thầy Max Perutz giành Giải Nobel Hóa học năm 1962 cho những nghiên cứu về cấu tạo của các protein hình cầu. Đây là trường hợp tiếp theo cả thầy lẫn trò đều giành Giải Nobel Hóa học chỉ trong một năm (trường hơp đầu tiên là của Otto Diels (thầy) và Kurt Alder (trò), những người giành Giải Nobel Hóa học năm 1950) và nước Anh trở thành quốc gia thứ tư sau Pháp, Đức, Mỹ có hai người cùng đoạt giải Nobel Hóa học trong cùng một năm. | 1 | null |
Chelsea Victoria Clinton (sinh ngày 27 tháng 2 năm 1980) là con gái duy nhất của cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton và cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. Cô là một phóng viên đặc biệt cho NBC News, và làm việc với Quỹ Clinton và Sáng kiến toàn cầu Clinton.
Tiểu sử.
Clinton được sinh ra ở Little Rock, Arkansas, trong nhiệm kỳ đầu tiên của cha cô là Thống đốc bang Arkansas. Cô học các trường công lập ở Little Rock, cho đến khi cha cô được bầu làm Tổng thống của Hoa Kỳ thì cô cũng theo về Nhà Trắng lúc 12 tuổi, đổi sang học và tốt nghiệp trường tư, Sidwell Friends School ở Washington, D.C.. Sau đó Chelsea học Đại học Stanford, tốt nghiệp với bằng cử nhân về Lịch sử, rồi được bằng thạc sĩ ở Đại học Oxford về Quan hệ quốc tế vào năm 2010 thạc sĩ ở Đại học Columbia về Y tế. Cô hiện đang theo đuổi một bằng tiến sĩ tại Đại học Oxford. Cô đã làm việc cho Công ty tư vấn McKinsey & Company, Quỹ đầu tư Avenue Capital Group, Đại học New York và làm việc tại một số hội đồng trong đó có các trường của Mỹ Ba-lê, Quỹ Clinton, Clinton Global Initiative, Common Sense Media, Trường Y Dược Đại học Cornell và IAC / InterActiveCorp.
Giữa tháng 12 năm 2007 và kết thúc bầu cử sơ bộ năm 2008, cô đã vận động rộng rãi các ở trường đại học Mỹ và cuối cùng mẹ cô không thành công chức vụ ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ, cô được giới thiệu tại Hội nghị Quốc gia Đảng Dân chủ tháng 8 năm 2008.
Ngày 31 tháng 7 năm 2010, cô đã kết hôn với nhân viên ngân hàng đầu tư Marc Mezvinsky ở Rhinebeck, New York. Ngày 26 tháng 9 năm 2014, cô đã sinh đứa một bé gái tên là Charlotte Clinton Mezvinsky. Ngày 17 tháng 6 năm 2016, cô đã sinh đứa một bé trai tên là Aidan Clinton Mezvinsky. Ngày 22 tháng 7 năm 2019, cô đã sinh đứa một bé trai tên là Jasper Clinton Mezvinsky. | 1 | null |
Felix Barth (12 tháng 10 năm 1851 tại Lichtenwalde ở Chemnitz – 22 tháng 9 năm 1931 ở Dresden) là một sĩ quan quân đội Sachsen, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh. Ông từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) và thực hiện một số nhiệm vụ tại Ba Lan trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918).
Tiểu sử.
Barth sinh năm 1851 tại Lichtenwalde, là con trai của một viên quan. Ông đã học tại Trường Thomas ở Leipzig cho đến khi tốt nghiệp bằng Abitur vào năm 1870.
Sau đó, ông đã gia nhập quân đội Sachsen và giữ vai trò là một học viên sĩ quan ("Fahnenjunker") trong Trung đ8oàn Pháo dã chiến số 48. Trong Chiến dịch Pháp vào các năm 1870 – 1871, ông đã tham chiến trong biên chế Trung đoàn Bộ binh số 107 (số 8 Sachsen) "Vương tử Johann Georg". Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt với chiến thắng của người Đức, ông trải qua các cấp bậc Thiếu úy (1872), Trung úy (1878), Đại úy (1886), Thiếu tá (1891), Thượng tá (1896) và Đại tá (1899). Tiếp theo đó, Barth được phong quân hàm Thiếu tướng vào năm 1903 rồi Trung tướng vào năm 1907. Trong thời gian phục vụ của mình, ông đã chức vụ sĩ quan phụ tá của Trung đoàn Bộ binh số 107 ở Leipzig và Trung đoàn Bộ binh số 133 (số 9 Sachsen) ở Zwickau. Ngoài ra, ông cũng từng là sĩ quan phụ tá của Lữ đoàn Bộ binh số 47 (số 3 Vương quốc Sachsen) ở Leipzig. Tiếp sau đó, ông được bổ nhiệm vào Bộ Tham mưu của Sư đoàn số 24 (số 2 Vương quốc Sachsen) vào ngày 1 tháng 1 năm 1891, rồi Sư đoàn số 23 (số 1 Vương quốc Sachsen) vào ngày 1 tháng 10 năm 1892. Cả hai sư đoàn này đều thuộc về biên chế Quân đoàn XII (I Vương quốc Sachsen) tại kinh đô Dresden, và vào ngày 26 tháng 3 năm 1899 ông được lãnh chức Tham mưu trưởng của quân đoàn. Kể từ ngày 4 tháng 9 năm 1902 cho đến năm 1903, ông là Tổng tham mưu trưởng quân đội Sachsen ở Dresden, và trên cương vị này ông là một cánh tay phải của Thái tử Georg. Người kế tục của ông là Thiếu tướng Georg Freiherr von Wagner. Vào ngày 25 tháng 3 năm 1907, ông được bổ nhiệm làm Sư trưởng của Sư đoàn số 40 (số 4 Vương quốc Sachsen) ở Chemnitz. Ông chỉ huy sư đoàn này cho đến khi xuất ngũ vào ngày 23 tháng 10 năm 1908.
Hơn một tháng sau khi Đức tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông được triệu hồi vào năm 1915. Ngày 6 tháng 10 năm đó, ông được Bộ Chỉ huy Tối cao quân đội Đức trên Mặt trận phía Đông ("Ober Ost") bổ nhiệm làm Thống đốc quân sự ở Łódź. Từ năm 1917, dưới sự chỉ đạo của Thượng tướng Hans von Beseler, Barth đã xây dựng quân đội Ba Lan thuộc Đức ở Warschau và tích cực huấn luyện cũng như trang bị cho các lực lượng này. Vào năm 1918, ông được thay thế bởi viên tướng người Ba Lan Henryk Minkiewicz và trở về Đức để chỉ huy một sư đoàn bộ binh từ ngày 6 tháng 11 cho đến ngày 13 tháng 11 năm đó.
Ông là một thành viên của "Hiệp hội Địa lý Dresden" ("Vereins für Erdkunde zu Dresden") Barth đã kết hôn với bà Anna Frida Barth (1859 – 1919), tên khai sinh là Schaeffer. Ông từ trần năm 1931 ở Dresden và được mai táng ở Nordfriedhof. | 1 | null |
"Après toi" (tiếng Pháp, dịch nghĩa: "Vắng anh") là ca khúc chiến thắng Eurovision Song Contest 1972 (Cuộc thi Ca khúc Truyền hình châu Âu năm 1972) diễn ra ở Edinburgh, Scotland. Ca khúc này do ca sĩ người Hy Lạp Vicky Leandros trình diễn đại diện cho Luxembourg. Đồng sáng tác ca khúc có cha của Vicky là Leandros Papathanasiou dưới bút danh "Mario Panas". Bài hát đánh dấu lần thứ hai Vicky Leandros tham dự Cuộc thi Ca khúc Truyền hình châu Âu sau lần cô xếp hạng tư với ca khúc "L'amour est bleu" ("Tình Buồn") vào năm 1967. Dựa vào bí quyết thành công của bài "L'amour est bleu", Leandros Papathanassiou soạn ca khúc "Après toi" như một khúc nhạc giao hưởng. Ông giao phần hòa âm cho nhạc sư Klaus Munro - nhạc sư nổi tiếng của nhạc viện thành phố Hamburg, Đức.
"Après toi" là ca khúc thứ 17 trong đêm nhạc, diễn ra sau màn thể hiện ca khúc "À la folie ou pas du tout" của Serge & Christine Ghisoland (đại diện cho Bỉ). Kết thúc cuộc bình chọn, "Après toi" thu được tổng cộng 128 điểm, giúp Luxembourg xếp hạng nhất trong 18 quốc gia tham gia cuộc thi năm đó.
Vicky Leandros cũng thu âm một phiên bản tiếng Anh của ca khúc này dưới nhan đề "Come What May". Phiên bản này leo lên vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng đĩa đơn ở cả Anh Quốc và Ireland. Ngoài ra, Vicky còn thu âm nhiều phiên bản ngoại ngữ cho ca khúc "Après toi", bao gồm bản tiếng Ý "Dopo te", bản tiếng Đức "Dann kamst du", bản tiếng Tây Ban Nha "Y despues", bản tiếng Hy Lạp "Mono Esi" (Μόνο εσύ) và bản tiếng Nhật "Omoide Ni Ikiru" (想い出に生きる). Tổng cộng Vicky Leandros đã thu âm bảy phiên bản với bảy thứ tiếng khác nhau.
"Après toi" - cũng giống như bài "L'amour est bleu" - đã được nghệ sĩ ở nhiều nước thể hiện lại, bao gồm "Jak Mám Spát" (Helena Vondráčková hát tiếng Séc), "Keď Si Sám" (Eva Kostolányiová hát tiếng Slovak), "Tulethan – rakastan" (Carola Standertskjöld hát tiếng Phần Lan), "Posle Tebe" (Lola Novaković hát tiếng Serbia), "Si te vas" (Paloma San Basilio hát tiếng Tây Ban Nha) và "Vad än sker" (Ann-Louise Hanson hát tiếng Thụy Điển).
Nhạc sĩ Phạm Duy đã đặt lời tiếng Việt cho ca khúc "Après toi" với nhan đề "Vắng bóng người yêu". | 1 | null |
HMS "Defender" (H07) là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, nó được điều sang Trạm Trung Quốc vào đầu năm 1935, và tạm thời được bố trí Hồng Hải vào đầu năm 1935 do cuộc Khủng hoảng Abyssinia trước khi quay trở lại nhiệm sở, nơi nó ở lại cho đến giữa năm 1939. "Defender" được điều trở lại Hạm đội Địa Trung Hải ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939, rồi được chuyển đến Tây Phi một thời gian ngắn làm nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải trong năm 1940 trước khi quay lại Địa Trung Hải. Con tàu tham gia các trận Calabria, trận mũi Spartivento và trận mũi Matapan trong năm tiếp theo mà không bị hư hại. "Defender" đã giúp vào việc triệt thoái khỏi Hy Lạp và Crete vào tháng 4–tháng 5 năm 1941 trước khi bắt đầu chuyển hàng tiếp liệu đến Tobruk, Libya vào tháng 6. Con tàu bị hư hại nặng bởi một máy bay ném bom Đức trong một chuyến đi như vậy vào ngày 11 tháng 7 năm 1941, nên bị các tàu tháp tùng đánh đắm.
Thiết kế và chế tạo.
"Defender" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất . "Defender" mang theo tối đa dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, "Defender" có một khẩu QF 12-pounder Mk V bố trí giữa hai ống khói và hai pháo QF 2-pounder Mk II đặt ở hai bên cánh cầu tàu. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi . Một đường ray và hai máy phóng được dùng để thả mìn sâu, thoạt tiên mang theo 20 quả mìn, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.
"Defender" được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2 năm 1931 tại xưởng tàu của hãng Vickers Armstrongs ở Barrow trong Kế hoạch Chế tạo 1930. Nó được đặt lườn vào ngày 22 tháng 6 năm 1931, hạ thủy vào ngày 7 tháng 4 năm 1932, và hoàn tất vào ngày 31 tháng 10 năm 1932 với chi phí tổng cộng 223.979 Bảng Anh, không kể đến những thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị vô tuyến.
Lịch sử hoạt động.
"Defender" thoạt tiên được phân về Chi hạm đội Khu trục 1 tại Địa Trung Hải và từng được bố trí một thời gian ngắn đến vùng vịnh Ba Tư và Hồng Hải vào tháng 9-tháng 11 năm 1933. Con tàu được tái trang bị tại Devonport từ ngày 3 tháng 9 đến ngày 23 tháng 10 năm 1934 để phục vụ tại Trạm Trung Quốc cùng Chi hạm đội Khu trục 8 (sau đổi tên thành Chi hạm đội 21), và đi đến Hồng Kông vào tháng 1 năm 1935. Nó được phối thuộc về Hạm đội Địa Trung Hải tại Hồng Hải từ tháng 11 năm 1935 đến tháng 6 năm 1936 trong vụ Khủng hoảng Abyssinia, và đã viếng thăm các cảng tại Đông Phi trước khi quay trở về Trạm Trung Quốc. Ống nồi hơi của con tàu được sửa chữa tại Singapore từ ngày 5 tháng 11 năm 1938 đến ngày 26 tháng 1 năm 1939, và lò đốt siêu nhiệt của nó được sửa chữa tại Hồng Kông từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 14 tháng 3 năm 1938.
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939, "Defender" được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, và đi đến Alexandria vào ngày 19 tháng 9. Nó được phân nhiệm vụ tuần tra cho đến khi được điều đến Gibralta vào tháng 1 năm 1940. Con tàu đã tuần tra tại vùng biển Bồ Đào Nha cho đến khi được chuyển đến Freetown vào giữa tháng 2 để hộ tống các đoàn tàu vận tải qua lại ngoài khơi bờ biển Tây Phi. "Defender" được điều trở lại Gibralta vào tháng 4, hộ tống cho tàu tuần dương hạng nhẹ trên đường đi, và đến nơi vào ngày 23 tháng 4 năm 1940. Trong tháng tiếp theo, nó gia nhập Chi hạm đội Khu trục 10 thuộc Hạm đội Địa Trung Hải. Cùng với tàu chị em , nó đã hộ tống cho Đoàn tàu vận tải US-2 chuyển binh lính Australia và New Zealand đến Trung Đông ngang qua Hồng Hải từ ngày 12 đến ngày 17 tháng 5.
Vào ngày 27 tháng 6 năm 1940, cùng với các tàu khu trục và , "Defender" tham gia vào việc đánh chìm tàu ngầm Ý "Console Generale Liuzzi" về phía Đông Nam Crete. Nó tham gia trận Calabria vào ngày 9 tháng 7 năm 1940 trong thành phần hộ tống cho các tàu chiến lớn thuộc Lực lượng C, và đã đối đầu không thành công với các tàu khu trục Ý, không chịu hư hại nào. Nó đã cùng với các tàu chị em "Dainty" và , tàu khu trục Australia HMAS "Stuart" cùng các tàu tuần dương hạng nhẹ và hộ tống cho Đoàn tàu vận tải AN.2 từ Ai Cập đi đến nhiều cảng trong biển Aagean vào cuối tháng 7.
Đến ngày 6 tháng 11, "Defender" đã cùng với các tàu khu trục "Decoy", , , , , , "Ilex", , , và bảo vệ cho các tàu chiến chủ lực của Hạm đội Địa Trung Hải khi chúng hỗ trợ từ xa cho các đoàn tàu vận tải MW3 từ Ai Cập đến Malta và ME3 khởi hành từ Malta như một phần của Chiến dịch MB8. Trong Chiến dịch Collar vào cuối tháng 11, "Defender" cùng với tàu tuần dương phòng không và bốn tàu khu trục khác đã khởi hành từ Alexandria để gặp gỡ một đoàn tàu vận tải khởi hành từ Gibraltar. Sau khi đến Malta vào ngày 26 tháng 11, các tàu khu trục gia nhập cùng thiết giáp hạm với các tàu tuần dương hạng nhẹ và thuộc Lực lượng D, rồi lên đường để gặp gỡ Lực lượng H cũng khởi hành từ Gibraltar. Ngày hôm sau, khi các lực lượng Anh kết hợp, chúng bị phía Ý phát hiện, dẫn đến Trận chiến mũi Spartivento bất phân thắng bại.
Vào ngày 7 tháng 1 năm 1941, "Defender" cùng với các tàu chị em và tàu tuần dương phòng không đã hộ tống cho Đoàn tàu vận tải MW.5 từ Alexandria đến Malta trong Chiến dịch Excess. Con tàu được tái trang bị tại Malta từ ngày 4 tháng 2 đến ngày 19 tháng 3, rồi tham gia Trận chiến mũi Matapan vào ngày 27–29 tháng 3. Trong Chiến dịch Demon, cuộc triệt thoái lực lượng Đồng Minh khỏi Hy Lạp, nó đã hộ tống cho Đoàn tàu vận tải GA15 vào ngày 29–30 tháng 4 từ vịnh Souda, Crete đến Alexandria. Một tàu khu trục Ý và hai xuồng phóng lôi đã tấn công đoàn tàu vận tải trong đêm khi chúng vượt qua eo biển Kaso về phía Đông Crete, nhưng được lực lượng hộ tống bảo vệ mà không chịu thiệt hại nào. Trong tháng tiếp theo, "Defender" đã giúp vào việc triệt thoái binh lính từ Crete đến Ai Cập trong Chiến dịch Merkur sau khi Đức xâm chiếm đảo này vào ngày 22 tháng 5.
Vào ngày 10 tháng 6, "Defender" cùng ba tàu khu trục khác thuộc Chi hạm đội Khu trục 10 đã đi đến ngoài khơi bờ biển Li-băng tăng cường cho lực lượng hải quân Hoàng gia Anh nhằm hỗ trợ cho Chiến dịch Exporter, cuộc chiếm đóng Syria và Li-băng đang dưới quyền kiểm soát của phe Vichy Pháp, nhưng con tàu đã không tham gia tác chiến vào giai đoạn ngoài khơi Li-băng và Syria. Cuối tháng đó, nó bắt đầu hộ tống cho các đoàn tàu vận tải đi và đến Tobruk, Libya, và vào ngày 29 tháng 6, khi chiếc tàu khu trục Australia HMAS "Waterhen" bị hư hại nặng do bị máy bay ném bom bổ nhào Junkers Ju 87 "Stuka" của Ý tấn công ngoài khơi Tobruk, "Defender" đã kéo "Waterhen", nhưng đến ngày hôm sau chiếc tàu chiến Australia bị lật úp và chìm.
Ngày 11 tháng 7 năm 1941, "Defender" cùng tàu khu trục Australia HMAS "Vendetta" quay trở về từ Tobruk. Chúng bị tấn công bởi một máy bay ném bom Junkers Ju 88 duy nhất thuộc Liên đội I./Không đoàn 1 do Gerhard Stamp điều khiển đang trong một phi vụ trinh sát dọc bờ biển trước bình minh. Chiếc máy bay ném bom ghi được một quả ném suýt trúng gần "Defender", phát nổ bên dưới con tàu, ngay trước phòng động cơ. Sức ép làm vỡ lườn tàu và nước bắt đầu tràn vào phòng động cơ, cho dù không có thương vong trong số thủy thủ đoàn và hành khách trên tàu. "Vendetta" kéo "Defender", chỉ để lại một nhóm thủy thủ tối thiểu trên con tàu bị hư hại, nhưng nó bắt đầu bị vỡ ra, và "Vendetta" buộc phải đánh đắm nó bằng một quả ngư lôi và hải pháo ngoài khơi Sidi Barrani khoảng năm giờ sau đó. | 1 | null |
Windows Phone 8 là hệ điều hành phiên bản thứ hai của Microsoft dành cho điện thoại, kế tiếp nền tảng Windows Mobile. Nó cũng sở hữu giao diện Modern UI (trước là Metro) của Windows 8/8.1/RT. Được Microsoft giới thiệu vào ngày 20 tháng 6 năm 2012 nhưng đến ngày 29 tháng 10 năm 2012, Microsoft bắt đầu phát hành phiên bản này. Phiên bản kế tiếp của nó là Windows Phone 8.1 sắp được hoàn thiện và trình làng cho các lập trình viên vào ngày 10 tháng 2 năm 2014
Windows Phone 8 được thay thế từ nhân Windows CE (được sử dụng làm kiến trúc xây dựng Windows Phone 7) sang nhân Windows NT được sử dụng trên Windows 8. Các phiên bản smartphone hiện tại chạy Windows Phone 7 không thể chạy hoặc cập nhật phiên bản mới của Windows Phone 8 và các ứng dụng mới chạy trên Windows Phone 8 không thể chạy trên các thiết bị Windows Phone 7. Các lập trình viên có thể thiết kế ứng dụng cho cả hai hệ điều hành trên.
Các thiết bị Windows Phone 8 được sản xuất bởi các hãng Microsoft Mobile (trước là Nokia), Samsung, HTC và Huawei.
Lịch sử phát triển.
Ngày 20 tháng 6 năm 2010 Microsoft công bố Windows Phone 8 (tên mã là Apollo), thế hệ thứ hai của hệ điều hành Windows Phone và được ra mất vào cuối năm 2012. Windows Phone 8 thay thế từ nhân Windows CE sang nhân Windows NT (được sử dụng trên Windows 8), cho phép các lập trình viên dễ dàng port các ứng dụng lên hai nền tảng.
Windows Phone 8 cho phép các thiết bị có độ phân giải lớn hơn ("WVGA 800×480 15:9","WXGA 1280×768 15:9","720p 1280×720 16:9", "1080p 1920×1080 16:9") và hỗ trợ vi xử lý đa nhân, NFC (chủ yếu dùng để chia sẻ nội dung và thực hiện thanh toán), tính tương thích ngược với các ứng dụng Windows Phone 7, cải thiện hỗ trợ cho các thiết bị di động, màn hình chính được thiết kế lại kết hợp với các live tiles có thể điều chỉnh được nhiều kích thước của nó, WIndows Phone 8 hỗ trợ cập nhật OTA, và tất cả thiết bị Windows Phone 8 đều nhận được hỗ trợ phần mềm ít nhất là sau 36 tháng sau khi ra mắt.
Để đảm bảo các thiết bị nâng cấp lên Windows Phone 8 tận dụng được lợi thế của các tính năng mới của nó, tất cả thiết bị WIndows Phone 7 sẽ không thể cập nhật được WIndows Phone 8. Thay vào đó, Microsoft ra mắt Windows Phone 7.8 cho các thiết bị trên với một số tính năng của Windows Phone 8, như là tuỳ chỉnh màn hình chính.
Việc giải quyết một số lỗi phần mềm làm Microsoft trì hoãn ra mắt một số cải tiến cho doanh nghiệp đến khi ra mắt WIndows Phone 8.1 vào năm 2014, ví dụ như hỗ trợ VPN.
Bản cập nhật 1 (GDR1, Portico).
Bản cập nhật GDR1 (hay còn gọi là Portico) là một bản cập nhật nhỏ ra mắt vào tháng 12 năm 2012 mang nhiều cải tiến và sửa lỗi, như cải tiến ứng dụng Tin nhắn, kết nối Bluetooth hiệu quả hơn, và tuỳ chọn "luôn bật" trong Wi-Fi, cùng với một vài cập nhật nền tảng.
"Portico" còn sửa lỗi khiến điện thoại bất ngờ khởi động lại khi đang sử dụng, nhưng nhiều người dùng vẫn phát hiện lỗi này sau khi cập nhật.
Bản cập nhật 2 (GDR2).
Microsoft đã triển khai bản cập nhật nhỏ "GDR2", bắt đầu từ tháng 7 năm 2013 và kéo dài sang những tháng tiếp theo, tuỳ vào nhà sản xuất và nhà cung cấp dịch vụ. Bản cập nhật bao gồm tính năng hỗ trợ đài FM trên một số thiết bị, dùng một ứng dụng trong Ống kính làm ứng dụng chụp ảnh mặc định, Data Sense giúp quản lý lượng dữ liệu sử dụng chỉ trên một số thiết bị (trước đó những người sử dụng dịch vụ của Verizon đã có tính năng này), và cập nhật HTML5 cho Internet Explorer. Hỗ trợ CalDAV/CardDAV cũng được thêm vào giúp người dùng Windows Phone kết nối với các máy chủ như Google Lịch sau khi Google bỏ hỗ trợ Microsoft Exchange vào năm 2012.
Bản cập nhật cũng giải quyết lỗi trong phần "Bộ nhớ khác" khiến cho người dùng không thể xoá các tập tin tạm thời chiếm tới 10 GB trên một số điện thoại. WIndows Phone sẽ tự động xoá các tệp trong phần này.
GDR2 còn sửa lỗi về Bluetooth khiến các thiết bị không thể kết nối với một số mẫu xe hơi. Những sửa đổi bổ sung được thêm vào trong bản cập nhật 3, kèm theo lựa chọn "Chế độ lái xe" riêng.
Bản cập nhật 3 (GDR3).
Ngày 14/10/2013, Microsoft ra mắt bản cập nhật GDR thứ 3 cho WIndows Phone 8, sẽ được phát hành cho các thiết bị trong vài tháng sau. Các nhà phát triển được nhận bản cập nhật đầu tiên. Bản cập nhật 3 thêm vào một vài tính năng mới như khoá xoay màn hình, hỗ trợ màn hình lớn hơn (lên tới 6 inch và độ phân giải 1080p) và hỗ trợ vi xử lý bốn nhân Qualcomm Snapdragon 800. Những thiết bị có màn hình lớn hơn và có độ phân giải 1080p có thể hiển thị thêm một hàng ứng dụng nữa trong màn hình chính. Một vài tính năng mới khác là có thể thoát các ứng dụng trong màn hình đa nhiệm và Chế độ lái xe.
Hỗ trợ.
Tháng Ba 2013, Microsoft thông báo rằng bản cập nhật cho hệ điều hành Windows Phone 8 sẽ được thực hiện đến ngày 08 tháng 7 năm 2014. Microsoft nâng thời gian hỗ trợ lên 36 tháng, thông báo các bản cập nhật cho Windows Phone 8 sẽ được thực hiện đến ngày 12 tháng Giêng 2016. Tất cả các thiết bị Windows Phone 8 đều có thể nâng cấp lên phiên bản kế tiếp là Windows Phone 8.1.
Các tính năng.
Các tính năng sau đã được xác nhận tại các buổi giới thiệu Windows Phone của Microsoft vào ngày 20 tháng 6 năm 2012 và buổi ra mắt Windows Phone 8 vào ngày 29 tháng 10 năm 2012:
Nhân.
Windows Phone 8 là hệ điều hành cho điện thoại đầu tiên của Microsoft sử dụng nhân Windows NT giống như Windows 8. Hệ điều hành thêm các cải thiện tập tin hệ thống, trình điều khiển, mạng, yếu tố an ninh, phương tiện truyền thông và hỗ trợ đồ họa. Dùng nhân NT, Windows Phone hỗ trợ các vi xử lý đa nhân lên tới 64 nhân, cũng như độ phân giải 1280x720 và 1280x768, cùng với độ phân giải 800x600 đã hỗ trợ trên Windows Phone 7. Hơn nữa, Windows Phone 8 hỗ trợ thẻ nhớ giúp tăng bộ nhớ điện thoại. Bản cập nhật GDR3 thêm tuỳ chọn hỗ trợ độ phân giải 1080p.
Chuyển sang nhân NT, Windows Phone 8 hỗ trợ hệ thống mã hoá 128-bit Bitlocker và khởi động an toàn. Windows Phone 8 cũng hỗ trọ NTFS.
Mạng.
Internet Explorer 10 là trình duyệt mặc định trên Windows Phone 8. Giao diện điều hướng đã được đơn giản hoá với một nút có thể tuỳ biến (mặc định để ngừng tải/làm mới trang) và thanh địa chỉ. Người dùng có thể đổi nút sang nút Quay lại, nhưng không thể thêm nút Chuyển tiếp.
Đa nhiệm.
Không giống như người tiền nhiệm, Windows Phone 8 sử dụng đa nhiệm thật, giúp nhà phát triển có thể lập trình ứng dụng chạy trong nền và có thể tiếp tục sử dụng ngay lập tức.
Người dùng có thể chuyển giữa các tác vụ đang chạy bằng cách nhấn và giữ phím Quay lại, nhưng bất kì ứng dụng nào trong danh sách có thể đã bị ngừng do những nguyên nhân nhất định, như kết nối mạng bị gián đoạn hay do pin yếu. Một ứng dụng chạy trong nền có thể tự động ngưng lại khi người dùng không mở nó trong một thời gian dài.
Người dùng có thể tắt những ứng dụng này trong màn hình đa nhiệm bằng cách nhấn nút "X" ở góc trên bên phải trên mỗi ứng dụng, tính năng đã được thêm vào trong bản cập nhật 3.
Góc của bé.
Windows Phone 8 thêm tuỳ chọn "Góc của bé" hoạt động như "chế độ khách". Người dùng chọn các ứng dụng và trò chơi sẽ xuất hiện trong Góc của bé. Khi tính năng này được kích hoạt, các ứng dụng và trò chơi đã cài đặt có thể chơi hoặc truy cập mà không ảnh hưởng đến dữ liệu của người dùng chính.
Phòng.
Phòng là tính năng dựa trên nhắn tin và liên lạc theo nhóm. Sử dụng Phòng, người dùng có thể liên lạc và xem các cập nhật trên Facebook và Twitter chỉ từ những người trong nhóm đã tạo. Những người trong nhóm có thể chia sẻ tin nhắn và ảnh ngay lập tức trong nhóm. Những tin nhắn này chỉ được chia sẻ giữa các thành viên trong nhóm.
Chế độ lái xe.
Ra mắt trong bản cập nhật 3, khi kết nối thiết bị với xe hơi qua Bluetooth sẽ tự động kích hoạt "Chế độ lái xe", giao diện đặc biệt cho thiết bị khi kết nối với xe hơi.
Data Sense.
Data Sense giúp người dùng đặt giới hạn dữ liệu tuỳ vào gói cước dữ liệu của họ. Data Sense có thể hạn chế dữ liệu nền khi dữ liệu đã sử dụng gần đến giới hạn đã định (trên thanh thông báo có biểu tượng trái tim).
NFC.
Những thiết bị Windows Phone 8 hỗ trợ NFC cho phép truyền dữ liệu giữa hai thiết bị Windows Phone, hoặc giữa thiết bị Windows Phone và thiết bị Windows 8 bằng tính năng "Chạm và gửi".
Đồng bộ hóa.
Ứng dụng Windows Phone App kế nhiệm Zune Software là một ứng dụng đồng bộ hóa để di chuyển nhạc, video, những tập tin đa phương tiện khác và tài liệu văn phòng giữa Windows Phone 8 và máy tính hoặc máy tính bảng Windows 8/Windows RT. Phiên bản cho OS X và Windows Desktop cũng có sẵn. Các thiết bị Windows Phone 7 không tương thích với phiên bản PC của ứng dụng, nhưng sẽ hoạt động với phiên bản Mac. (Zune vẫn được sử dụng để đồng bộ hóa Windows Phone 7 với PCs, và vẫn có thể tải về được từ trang web của Windows Phone).
Do Windows Phone 8 kết nối với máy tính như một thiết bị MTP, Windows Media Player và Windows Explorer có thể được sử dụng để truyền nhạc, video và các tập tin đa phương tiện khác không giống như Windows Phone 7. Dung lượng video tối đa được truyền vào một máy tính bị giới hạn ở 4 GB. | 1 | null |
Giang Sung (江充), tự Thứ Sai (次倩), là đại thần thời nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Nguyên danh tên của ông là Giang Tề (江齐), sinh sống ở nước Triệu, lúc bấy giờ nước Triệu do người anh của Hán Vũ Đế là Lưu Bành Tổ (tức là Kính Túc vương nước Triệu) cai quản. Ông vốn thông thạo y thuật, còn người em gái thì làm nghề ca vũ, phải lòng thái tử nước Triệu là Lưu Đan, nhưng bản thân ông lại gây hiềm khích với thái tử nên bị ghét bỏ phải chạy trốn đến Trường An. Sau đó ông được cử đi sứ Hung Nô, được phong lên chức Thủy Hành đô úy. Được sự tin tưởng của Vũ Đế, Giang Sung bày cách hãm hại thái tử Lưu Đan, tố cáo Lưu Đan dâm loạn. Cuối cùng Vũ Đế ép Triệu vương phế Lưu Đan và tống giam vào ngục.
Về già, Hán Vũ Đế trở nên thiếu sáng suốt, do đó Giang Sung thừa cơ hội tung hoành khắp triều đình. Do có mâu thuẫn với hoàng thái tử Lưu Cứ, ông bèn lập mục tiêu hạ bệ thái tử. Ông nói với Vũ Đế rằng trong cung có cổ khí, Vũ Đế tin theo cho điều tra, kết quả Giang Sung thừa cơ hội đó ra sức vu cáo hoàng thất kể cả những người không có hiềm khích gì với ông để tỏ quyền uy. Ông vào cung hoàng hậu và thái tử, rao lên là có cổ khí. Vậy mà Vũ Đế không điều tra kĩ lại tin theo. Thái tử Lưu Cứ vừa sợ vừa giận bèn quyết tâm làm binh biến để tiêu diệt Giang Sung. Lưu Cứ sai người giả mạo sứ vua đến chỗ của Giang Sung, ra lệnh bắt ông rồi kể tội ông giữa triều, đem giết chết. Tuy nhiên vì việc này mà thái tử cũng bị liên lụy, cuối cùng cũng bị ép tự tử.
Mãi về sau, Hán Vũ Đế mới nhận ra việc này là mưu của Giang Sung, bèn giết cả nhà ông. | 1 | null |
Trong toán học, đặc biệt là trong lĩnh vực lý thuyết nhóm hữu hạn, định lý Sylow là một nhóm các định lý được đặt tên theo nhà toán học Na Uy Ludwig Sylow vào năm 1872. Các định lý này đưa ra thông tin chi tiết về số nhóm con có cấp cố định được chứa trong một nhóm hữu hạn cho trước. Các định lý Sylow hình thành một phần cơ bản của lý thuyết nhóm hữu hạn và có ứng dụng rất quan trọng trong việc phân loại nhóm đơn hữu hạn.
Với một số nguyên tố "p", một "p"-nhóm con Sylow của một nhóm "G" là một "p"-nhóm con cực đại của "G", nói cách khác, một nhóm con của "G" là một "p"-nhóm (tức là cấp của mọi phần tử trong nhóm con này đều là một lũy thừa của "p"), và nó không phải là nhóm con thực sự của bất kì "p"-nhóm con nào khác của "G". Tập hợp tất cả các "p"-nhóm con Sylow với một số nguyên tố "p" cho trước đôi khi được ký hiệu là formula_1.
Các định lý Sylow khẳng định một phần ngược lại với định lý Lagrange. Định lý Lagrange phát biểu rằng nếu "H" là một nhóm con của nhóm hữu hạn "G" thì cấp của "|H|" là một ước của cấp của "|G|". Với một ước nguyên tố bất kì "p" của cấp của nhóm hữu hạn "G", tồn tại một "p"-nhóm con Sylow của "G". Cấp của "p"-nhóm con Sylow của một nhóm hữu hạn "G" bằng formula_2, với "n" là cấp của "p" trong cấp của "G", và mỗi nhóm con bới cấp formula_2 đều là một "p"-nhóm con Sylow của "G".
Các định lý Sylow.
Các định lý sau đây được đưa ra và chứng minh đầu tiên bới Ludwig Sylow vào năm 1872, và được công bố trên tạp chí Mathematische Annalen.
Định lý 1: Với mọi ước nguyên tố "p" với cấp "n" của cấp của một nhóm hữu hạn "G", tồn tại một "p"-nhóm con Sylow của "G" với cấp formula_2.
Hệ quả sau của định lý 1 được chứng minh đầu tiên bởi Cauchy, còn được biết dưới tên định lý Cauchy.
Hệ quả: Cho một nhóm hữu hạn "G" và một số nguyên tố "p" chia hết cấp của "G", khi đó tồn tại một phần tử (và một nhóm con cyclic) có cấp "p" trong "G".
Định lý 2: Cho một nhóm hữu hạn "G" và một số nguyên tố "p", mọi "p"-nhóm con Sylow của "G" đều liên hợp với nhau, nói cách khác, nếu "H" và "K" là các "p"-nhóm con Sylow của "G" thì tồn tại một phần tử "g" của "G" sao cho formula_5.
Định lý 3: Cho "p" là một ước nguyên tố với cấp "n" của cấp của nhóm hữu hạn "G", khi đó cấp của "G" có thể được viết dưới dạng formula_6, với formula_7 và "p nguyên tố cùng nhau với m". Đặt formula_8 là số các "p"-nhóm con Sylow của "G". Khi đó ta có
Các hệ quả.
Các định lý Sylow chỉ ra rằng với mỗi số nguyên tố "p", mọi "p"-nhóm con Sylow có cùng cấp là formula_2. Ngược lại, nếu một nhóm con có cấp formula_2 thì nó là "p"-nhóm con Sylow, và do đó đẳng cấu với mọi "p"-nhóm con Sylow khác. Theo điều kiện cực đại, nếu "H" là một "p"-nhóm con bất kì của "G" thì "H" là một nhóm con của một "p"-nhóm con Sylow nào đó.
Một hệ quả rất quan trọng của định lý 3 là điều kiện formula_10 tương đương với việc các "p"-nhóm con Sylow đều là nhóm con chuẩn tắc (tồn tại nhóm có nhóm con chuẩn tắc nhưng không có nhóm con Sylow, ví dụ như nhóm đối xứng formula_16).
Các định lý Sylow cho nhóm vô hạn.
Có một sự tương tự của các định lý Sylow cho các nhóm vô hạn. Ta xác định một "p"-nhóm con Sylow của một nhóm hữu hạn là một "p"-nhóm con cực đại và chứa mọi "p"-nhóm con khác của nhóm ban đầu trong nó. Nhóm con này tồn tại theo bổ đề Zorn.
Định lý: Nếu "K" là một "p"-nhóm con Sylow của nhóm vô hạn "G", và formula_17 hữu hạn, khi đó mọi "p"-nhóm con Sylow đều liên hợp với "K" và formula_10, trong đó formula_19 ký hiệu lớp liên hợp của "K".
Các ví dụ.
Một minh họa đơn giản cho các nhóm con Sylow và các định lý Sylow là nhóm dihedral formula_20 của đa giác đều formula_21 cạnh. Với formula_21 lẻ, 2 là lũy thừa cao nhất của 2 chia hết cấp của nhóm, và vì vậy, các nhóm con cấp 2 là nhóm con Sylow. Chúng là các nhóm con sinh bởi một phép đối xứng trục, có tất cả formula_21 nhóm như thế và chúng liên hợp với nhau bởi các phép quay.
Ngược lại, nếu formula_21 chẵn thì 4 chia hết cấp của nhóm, và các nhóm con trên không còn là nhóm con Sylow. Trên thực tế, chúng chia thành hai lớp liên hợp, tùy theo trục đối xứng đi qua hai đỉnh hoặc hai cạnh. Chúng được liên hệ với nhau bởi một phép tự đẳng cấu ngoài, có thể được biểu diễn bởi một phép quay góc formula_25.
Ứng dụng.
Nhóm cyclic.
Tồn tại những số tự nhiên "n" sao cho mọi nhóm con với cấp "n" đều cyclic. Ta có thể chứng minh được rằng formula_26 là một số như thế bằng cách sử dụng các định lý Sylow: Giả sử "G" là một nhóm cấp formula_27 và formula_28 lần lượt là số các 3-nhóm con Sylow và 5-nhóm con Sylow. Ta có formula_29 và formula_30, suy ra formula_31 phải bằng 1, và do đó 3-nhóm con Sylow duy nhất này là nhóm con chuẩn tắc. Tương tự, ta cũng có duy nhất một 5-nhóm con Sylow chuẩn tắc. Vì 3 và 5 là hai số nguyên tố cùng nhau, giao của hai nhóm con Sylow này là tầm thường. Vì vậy, "G" phải là tích trực tiếp của hai nhóm con Sylow, cũng là hai nhóm con cyclic. Từ đó suy ra "G" phải là nhóm cyclic. Do đó, tồn tại duy nhất một nhóm cấp 15, là nhóm cyclic formula_32 (chính xác tới đẳng cấu).
Các nhóm với cấp nhỏ không phải là nhóm đơn.
Trong mục này, ta sẽ khảo sát tính tồn tại của các nhóm đơn với cấp "nhỏ".
Nếu formula_33 là nhóm đơn và formula_34 thì formula_31 phải là ước của 10, và formula_36. Từ đó suy ra formula_37, vì formula_38 và nếu formula_39 thì formula_33 có nhóm con chuẩn tắc cấp 3 (là 3-nhóm con Sylow duy nhất của nó), vì vậy formula_33 không thể là nhóm đơn. Do đó, formula_33 có 10 nhóm con cấp 3 phân biệt, các nhóm con này đôi một có chung một phần tử duy nhất là formula_43 (phần tử đơn vị) và mỗi nhóm con chứa hai phần tử cấp 3. Suy ra formula_33 có ít nhất 20 phần tử cấp 3. Tương tự, ta có formula_45 và formula_33 chứa ít nhất formula_47 phần tử cấp 5. Như vậy thì tổng số phần tử cấp 3 và cấp 5 ít nhất là formula_48, điều này không thể xảy ra. Vì vậy không tồn tại nhóm đơn cấp 30.
Tiếp theo, ta xét nhóm formula_33 với cấp formula_50. Ta có formula_51 và formula_52. Do đó formula_53 và vì vậy, formula_33 không thể là nhóm đơn.
Mặt khác, xét nhóm formula_33 với formula_56, khi đó ta tìm được formula_37 và formula_45. Trên thực tế, nhóm đơn nhỏ nhất mà không phải là nhóm cyclic là formula_59, nhóm thay phiên trên 5 phần tử. Cấp của formula_59 bằng formula_61 và nó chứa 24 phép thế cấp 5 và 20 phép thế cấp 3. | 1 | null |
Max Ferdinand Perutz (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1914 - mất ngày 6 tháng 2 năm 2002) là nhà hóa học người Anh gốc Áo. Ông đoạt Giải Nobel Hóa học năm 1962 chung với John Kendrew vì những nghiên cứu về cấu trúc của protein hình cầu.
Làm việc với các cậu học trò.
John Kendrew.
Năm 1958, Max Perutz và John Kendrew nhận dạng cấu trúc của myoglobin bằng phương pháp tinh thể tia X. Đây là phát hiện quan trrongj, giúp cả hai đều nhận Giải Nobel Hóa học. Max Peruttz và John Kendrew là những nhà nghiên cứu tiên phong tại Phòng Thí nghiệm Cavendish (Đại học Cambridge) đã tiên phong nghiên cứu về tinh thể học protein từ năm 1947 để góp phần xây dựng Phòng Thí nghiệm Sinh học Phân tử MRC danh tiếng ngày nay.
Francis Crick.
Giữa tháng 2 năm 1953, Max Perutz có đưa cho Francis Crick một bản sao bài báo cáo cho Hội đồng Nghiên cứu Y khoa nhân chuyến thăm đến King's vào tháng 12 năm 1952, trong đó có rất nhiều tính toán về tinh thể học của Rosalind Franklin. Nhờ có bản sao này, Crick cùng với James Watson đã tìm ra được cấu tạo của DNA và giành Giải Nobel Y học và Sinh lý học năm 1962. | 1 | null |
Leonor, Nữ Thân vương xứ Asturias (Leonor de Todos los Santos de Borbón y Ortiz; sinh ngày 31 tháng 10 năm 2005) là con trưởng của Quốc vương Felipe VI và Vương hậu Letizia của Tây Ban Nha. Cô hiện tại đang đứng đầu trong dòng kế vị ngai vàng của vương quốc Tây Ban Nha và giữ tước vị Nữ Thân vương xứ Asturias, theo truyền thống dành cho người kế vị ngai vàng Tây Ban Nha.
Thông tin về sự ra đời.
Nữ Thân vương Leonor tên khai sinh là [Leonor de Todos los Santos] chào đời vào ngày 31 tháng 10 năm 2005 nặng 3,54 kg và đo được 47 cm lúc 1:46 sáng tại Bệnh viện Quốc tế Ruber ở Madrid, Tây Ban Nha dưới thời trị vì của ông nội là Juan Carlos I. Cha cô khi đó là Thân vương xứ Asturias Felipe và mẹ là Vương phi Letizia. Ngay khi chào đời, Leonor đã được xếp thứ hai trong dòng kế vị ngai vàng Tây Ban Nha sau cha mình, khi đó còn ở ngôi trữ quân, Thân vương xứ Asturias. Cô được rửa tội tại Cung điện Zarzuela bởi Tổng giám mục Madrid, Antonio Rouco Varela vào ngày 14 tháng 1 năm 2006. Giống cha, Leonor được rửa tội bằng nước Sông Jordan. Cha mẹ đỡ đầu của cô gồm ông bà nội, Quốc vương Juan Carlos I và Vương hậu Sophia.
Học vấn và nhiệm vụ chính thức.
Ngôi trường đầu tiên mà Leonor theo học là Escuela Infantil Guardia Real. Vào ngày 15 tháng 9 năm 2008, cô bắt đầu năm tiểu học đầu tiên tại Trường Santa María de los Rosales tại Aravaca. Cha cô là cựu học sinh ở trường tư thục này và em gái cô Sofía cũng theo học ở đây. Leonor có thể nói lưu loát được Tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Anh (sau này, cô học ngôn ngữ này từ bảo mẫu người Anh và bà nội mình, Vương hậu Sophia) và đã học Tiếng Quan Thoại. Vào tháng 5 năm 2014, Leonor đã có chuyến thăm chính thức tới Căn cứ Không quân San Javier ở Murcia.
Một ngày trước lần sinh nhật thứ 10, Leonor được cha trao Huân chương Lông cừu vàng. Vào lần sinh nhật thứ 50 của Vua Felipe (tháng 1 năm 2018), nhà vua trao cho Leonor chiếc vòng cổ Huân chương lông cừu vàng trong một nghi lễ ở Cung điện Vương thất Madrid.
Vào lần sinh nhật thứ 13 của mình (trùng với kỷ niệm 40 năm thành lập hiến pháp), Leonor đã có bài phát biểu đầu tiên (đọc phần đầu của Hiến pháp Tây Ban Nha) tại Instituto Cervantes tại Madrid.
Vào ngày 18 tháng 10 năm 2019, cô đã có bài phát biểu tại Giải thưởng Nữ Thân vương xứ Asturias. Vào ngày 4 tháng 11 năm 2019, cô có bài phát biểu đầu tiên (bằng cả tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Catalan, Tiếng Anh và Tiếng Ả Rập) tại Giải thưởng Quỹ Nữ thân vương xứ Girona ở Barcelona.
Vào ngày 10 tháng 2 năm 2021, có thông báo rằng Leonor sẽ bắt đầu theo học ở UWC Atlantic College tại Wales vào đầu thu.
Địa vị.
Theo Hiến pháp Tây Ban Nha 1975, luật kế vị ngai vàng của Tây Ban Nha ưu tiên nam giới và quyền kế vị ưu tiên con trưởng. Theo đạo luật này, nếu Vua Felipe có thêm một người con trai hợp pháp nữa khi đang trì vị thì Leonor sẽ bị thay thế trong danh sách kế vị ngai vàng và trở thành một Infanta của Tây Ban Nha. Đã có một số cuộc thảo luận về việc cải cách đạo luật kế vị từ ưu tiên quyền trưởng nam sang ưu tiên quyền con trưởng, bất kể giới tính. Tuy nhiên, với sự ra đời của Leonor, và tiếp theo là em gái Sofía đã khiến những kế hoạch này bị đình trệ. Tính tới năm 2022, Tây Ban Nha chưa có đạo luật nào được thông qua ảnh hưởng tới việc kế vị ngai vàng.
Nếu thuận lợi kế vị, Leonor dự kiến sẽ trở thành Nữ vương thứ hai của Tây Ban Nha sau Nữ vương Isabel II - Nữ vương đầu tiên của vương quốc Tây Ban Nha thống nhất, nếu không kể đến hai Nữ vương của Castilla là Nữ vương Isabel I và Nữ vương Juana I. Cô cùng với 5 người thừa kế khác là Thái nữ Victoria của Thụy Điển, Estelle của Thụy Điển, Élisabeth của Bỉ, Catharina-Amalia của Hà Lan và Ingrid Alexandra của Na Uy sẽ trở thành những Nữ vương tương lai của châu Âu.
Nữ Thân vương xứ Asturias.
Theo Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978, "Thân vương/Nữ Thân vương xứ Asturias" là tước hiệu chính thức dành cho người thừa kế ngai vàng của Tây Ban Nha.
Leonor chính thức trở thành người đứng đầu trong dòng kế vị ngai vàng của Tây Ban Nha và giữ tước hiệu "Nữ thân vương xứ Asturias" khi ông nội cô - Vua Juan Carlos I thoái vị và cha cô lên ngôi quân chủ Tây Ban Nha vào ngày 18 tháng 6 năm 2014.
Tước hiệu, tước vị và danh hiệu.
Tước hiệu, tước vị.
Kể từ năm 2014, với tư cách là Trữ quân của Tây Ban Nha, Leonor có các tước vị sau:
Nữ Thân vương xứ Asturias, với tư cách là người thừa kế Vương quốc Castilla.
Nữ thân vương xứ Gerona, Nữ Công tước xứ Montblanc, Nữ Bá tước xứ Cervera, Lãnh chúa xứ Balaguer"," với tư cách là người thừa kế Vương quốc Aragón.
Nữ Thân vương xứ Viana, với tư cách là người thừa kế Vương quốc Navarra. | 1 | null |
Dorothy Crowfoot Hodgkin (1910-1994) là nhà hóa học nữ người Anh. Bà giành Giải Nobel Hóa học năm 1964 nhờ công trình xác định công thức cấu tạo của các chất hoạt động sinh học bằng kỹ thuật Tinh thể học Tia X. Bà là một trong rất ít những người phụ nữ giành giải thưởng này. Chính xác là bà là một trong bốn nhà hóa học nữ giành giải thưởng và là một trong hai nhà hóa học nữ giành giải độc lập.
Năm 1969, sau 35 năm nghiên cứu, cuối cùng bà cũng tìm ra cấu trúc phân tử insulin. Tinh thể học tia X được sử dụng rộng rãi sau đó để tìm hiểu, khám phá cấu trúc của phân tử sinh học phức tạp, vì hiểu biết về cấu trúc là tối quan trọng trong tìm hiểu về chức năng. Bà được cho là một trong những nhà khoa học tiên phong trong sử dụng kĩ thuật tinh thể học này.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Những năm đầu đời.
Bà sinh ra tại Cairo, ở Ai Cập. Bà là con và là chị cả trong số 4 cô con gái của một viên chức thuộc địa người Anh, cũng là một nhà khảo cổ học. Gia đình bà ở đây những ngày mùa đông, mùa hè họ trở về nước Anh để tránh mùa hè oi bức ở đây.
Năm 1921, bà được học Hóa học tại trường Sir John Lenman.
Sự nghiệp nghiên cứu.
Lần đầu Hodskin nuôi tinh thể là năm bà lên lớp 10. Cảm thấy đã tìm thấy thứ sẽ "thu hút mình suốt đời", Hodskin lập tức tiến hành các thí nghiệm tại nhà. Cuộc đời bà sẽ gắn liền với các tinh thể.
xxxxtrái|nhỏ|Máy chiếu xạ tia X của Bernal]]
Năm 1928, bà được nhận vào chuyên ngành hóa ở trường Đại học Somerville College - một trong những trường nữ sinh trực thuộc trường Đại học Oxford. Bà được trao bằng xuất sắc rồi được chuyển sang Cambridge để làm luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của John D. Bernal - một nhà tinh thể học. Thời điểm này, Bernal bắt đầu nghiên cứu các phân tử sinh học.
Tinh thể học tia X là một công cụ để có thể hiểu cấu trúc không gian của các phân tử. Hiểu được sự sắp xếp của các nguyên tử là chìa khóa để có thể biết được chức năng của chúng. Bernal và Hodgkin là những người đầu tiên áp dụng kĩ thuật để nghiên cứu các phân tử sinh học phức tạp - ví dụ như enzim pepsin có ở dạ dày.
Năm 1934, bà trở lại đại học Oxford, đại học Somerville trao cho bà tấm bằng nghiên cứu sinh, một giáo sư hóa học hữu cơ xoay xở được một khoản trợ cấp, vậy là bà xây dựng một phòng thí nghiệm tinh thể tia X trong khuôn viên trường Đại học. Ngay lập tức, bà nghiên cứu xác định hoocmon insulin, nhưng phân tử này quá phức tạp so với kỹ thuật thời đó (như đã nói ở trên, phải mất 35 năm bà mới xác định được cấu trúc phân tử này)
xxxxgiữa|nhỏ|Hodgkin tự hào cầm bản vẽ cấu trúc Penicillin năm 1945 cùng các đồng nghiệp của cô]]
Năm 1937, bà kết hôn với Thomas Hodgkin, họ có con vào khoảng giữa năm 1938 và 1946, nhưng điều đó không ngăn cản bà tiếp tục nghiên cứu. Penicillin - thần dược thế kỉ 20 - đã được tách chiết tại trường đào tạo Y tế Dunn - cũng trực thuộc Oxford, sau đó được thử nghiệm thành công trên người năm 1941. Nhu cầu sản xuất hàng loạt phục vụ đòi hỏi cần phải biết cách sắp xếp của phân tử này. Năm 1945, bà đã xác định thành công cấu trúc của Penicillin, bà cũng kết thúc các cuộc tranh cãi về tinh thể học tia X thời đó, mọi thứ thật rõ ràng: Không cần phải biết chắc chắn công thức phân tử để xác định cấu trúc của nó.
xxxxnhỏ|169x169px|Cấu trúc 3D vitamin B12]]
Tiếng lành đồn xa, năm 1955, bà có thành công tiếp theo khi xác định được cấu trúc phân tử vitamin B12
Năm 1964, bà được trao giải Nobel cho công trình tìm ra cấu trúc insulin, mặc dù nghiên cứu thực sự hoàn thành 5 năm sau đó | 1 | null |
Alexander Agricola (sinh Alexander Ackerman; 1445 hay 1446 – 15 tháng 8 năm 1506) là nhà soạn nhạc Pháp-Flemish của thời kỳ Phục hưng. Là một thành viên nổi bật của Grande chapelle, ông là một nhà soạn nhạc nổi tiếng trong các năm 1500 và âm nhạc của ông được phân phối rộng rãi khắp châu Âu. Là một trong những nhà soạn nhạc quan trọng của cả nhạc thế tục và nhạc tôn giáo. | 1 | null |
Vườn Văn hóa Thể dục Đài Bắc (chữ Hán phồn thể: 臺北文化體育園區; chữ Hán giản thể: 台北文化体育园区; Hán-Việt: Đài Bắc văn hóa thể dục viên khu) được khởi công xây dựng vào năm 2007 và hoàn thành năm 2011, mặc dù ngày khởi công bị trì hoãn cho đến tháng 10 năm 2011. Chủ thể của Vườn Văn hóa Thể dục Đài Bắc là một sân vận động đa năng (trong tiếng Hoa có tục xưng là "cự đản" 巨蛋, nghĩa là "quả trứng lớn") nên có tục xưng là Đài Bắc đại cự đản (臺北大巨蛋). Ngoài sân vận động, khu phức hợp sẽ bao gồm các cơ sở thương mại, trong đó có một trung tâm mua sắm, rạp chiếu phim, khách sạn và không gian văn phòng. Sau khi hoàn thành, nó sẽ được sử dụng chủ yếu cho các trận thi đấu bóng chày nhưng cũng có thể được sử dụng cho các sự kiện thể thao khác như bóng đá và bóng mềm. Nó sẽ toạ lạc tại góc đường Trung Hiếu Đông và đường Quang Phục Nam. Bên cạnh đó, đây sẽ trở thành sân chính của Thế vận hội sinh viên Mùa hè 2017 tại Đài Bắc. | 1 | null |
Định lý Thébault là một trong bốn định lý hình học phẳng được đề xuất bởi nhà toán học người Pháp Victor Thébault (1882–1960) đăng trên tạp chí toán học hàng tháng của Mỹ.
Định lý Thébault I.
Cho một hình bình hành, dựng trên các cạnh của nó 4 hình vuông ra phía ngoài. Tứ giác lập từ các tâm của 4 hình vuông đó cũng là một hình vuông.
Định lý này là một trường hợp đặc biệt của định lý Van Aubel và là một phiên bản của định lý Napoleon cho tứ giác.
Kết quả liên quan.
Gọi ABCD là hình bình hành. Gọi M, N, P Q lần lượt là các tâm hình vuông dựng trên AB, BC, CD, DA trong định lý Thébault I. Khi đó MP cắt BC và DA tại hai điểm E, G. NQ cắt AB, CD tại F, H. Thì EFGH tạo thành một hình vuông.
Định lý Thébault II.
Cho một hình vuông ABCD, dựng các tam giác đều CBE và CDF sao cho các tam giác được dựng cùng ở phía trong hoặc phía ngoài hình vuông. Khi đó, tam giác AEF là tam giác đều.
Định lý Thébault III.
Định lý này còn có tên là định lý Sawayama-Thébault. Nội dung định lý như sau:
"Cho tam giác ABC và điểm M nằm trên cạnh BC. Dựng đường tròn nội tiếp tâm I và đường tròn ngoại tiếp tâm O của tam giác ABC. Dựng thêm 2 đường tròn có tâm O1 và O2, mỗi đường tròn tiếp xúc với AM, BC và đường tròn ngoại tiếp (O). Khi đó, các tâm O1, O2 và I thẳng hàng."
Định lý Sawayama-Thébault được chứng minh bằng bổ đề Sawayama.
Bổ đề Sawayama.
"Cho tam giác ABC, một điểm D nằm trên đường thẳng BC, dựng đường tròn tiếp xúc trong với đường tròn ngoại tiếp tam giác ABC và tiếp xúc với hai đường thẳng AD, BC lần lượt tại E,F. Khi đó E, F và tâm đường tròn nội tiếp tam giác ABC thẳng hàng."
Trường hợp đặc biệt của bổ đề Sawayama là định lý Nixon.
Định lý Nixon.
Đường tròn tiếp xúc với hai cạnh của tam giác và tiếp xúc với đường tròn ngoại tiếp tam giác được gọi là đường tròn Mixtilinear. Định lý Nixon có nội dung như sau: "Đường tròn mixtilinear ứng với đỉnh A, tiếp xúc AB, AC lần lượt tại M,N khi đó tâm đường tròn nội tiếp tam giác ABC là trung điểm của MN."
Định lý Thébault IV.
Cho tam giác ABC với các đường cao AA', BB', CC'. Các đường thẳng Euler của các tam giác AB'C', A'BC', A'B'C sẽ đồng quy trên đường tròn Euler của tam giác ABC tại một điểm P thoả mãn moả một trong các khoảng cách PA', PB', PC' bằng tổng 2 khoảng cách còn lại. | 1 | null |
Vz. 27 là loại súng ngắn bán tự động được phát triển bởi nhà thiết kế Frantisek Myska của quân đội Tiệp Khắc. Đây là một mẫu đơn giản hóa của khẩu ČZ vz. 24 dùng để bắn loại đạn yếu hơn là 7,65x17 mm (.32 ACP) thích hợp hơn cho lực lượng thi hành công vụ và cảnh sát. Nhà máy Česká Zbrojovka đã đưa súng vào sản xuất hàng loạt từ năm 1927 cho đến khi loại súng tốt hơn là CZ 75 được đưa vào sản xuất thay thế. Đây là một trong các loại súng thành công nhất được sản xuất tại Tiệp Khắc với hơn 500.000 khẩu được chế tạo từ năm 1927 đến năm 1951, ngay cả khi Đức quốc xã chiếm đóng Tiệp Khắc súng vẫn được chế tạo nhưng với tên Pistole modell 27 hay P.27(t). Nó được sử dụng rộng rãi trong lực lượng cảnh sát và an ninh Tiệp Khắc cũng như được xuất khẩu cho nhiều nước khác trên thế giới.
Thiết kế.
ČZ vz. 27 sử dụng cơ chế nạp đạn blowback. Nòng súng sẽ cố định khi súng hoạt động nhưng nó rất dễ tháo ráp chỉ việc kéo khối trượt về phía sau và vặn nòng súng cho đến khi nó rời ra khỏi súng. Lò xo đẩy khối trượt trở về chỗ cũ nằm bên dưới nòng súng. Súng có thể khai hỏa với cả hai cơ chế hoạt động đơn và kép. Nút khóa an toàn của súng nằm ở bên trái súng phía trên tay cầm cò súng, khi khóa xạ thủ chỉ việc đẩy cần nút xuống nó sẽ không cho cò súng di chuyển còn để mở khóa thì chỉ việc nhấn vào một nút nhỏ phía dưới cần khóa để nó bật ra vào vị trí sẵn sàng chuẩn bị bắn.
Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi. Hộp đạn của súng chỉ có một hàng chứa từ 8 đến 9 viên tùy loại. | 1 | null |
Chevron Corporation (thường được gọi là Chevron) là một tập đoàn năng lượng đa quốc gia có trụ sở tại San Ramon, California và hoạt động tại hơn 180 quốc gia.
Hoạt động của Chevron bao gồm thăm dò, khai thác và vận chuyển dầu thô và khí tự nhiên, lọc dầu, tiếp thị và phân phối nhiên liệu cho giao thông vận tải và các sản phẩm năng lượng khác, sản xuất và kinh doanh các sản phẩm hóa dầu, sản xuất điện năng và năng lượng địa nhiệt, cung cấp các giải pháp tiết kiệm năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng cho tương lai như khí vi sinh và các dạng năng lượng tái sinh khác. Các sản phẩm của Chevron được cung cấp dưới 3 thương hiệu là Chevron, Texaco và Caltex. | 1 | null |
Đây là danh sách những thành phố lớn nhất và lớn thứ hai theo dân số ở mỗi nước. Nếu một vùng lãnh thổ hoặc khu vực của một nước nào đó được liệt kê, tên của quốc gia được đặt trong dấu ngoặc đơn ngay sau tên của lãnh thổ.
Thành phố thủ đô được in đậm. | 1 | null |
Dòng nữ tu Salêdiêng Don Bosco, còn gọi là Dòng Con Đức Mẹ phù hộ (tiếng Latin: "Congregatio Filiarum Mariae Auxiliatricis"), là một dòng nữ tu Công giáo do Giovanni Bosco và Maria Mazzarello sáng lập vào năm 1872 với mục đích thành lập một tu hội của các nữ tu sĩ tình nguyện làm công tác giáo dục từ thiện cho trẻ em, đặc biệt là phụ nữ trẻ và trẻ em gái, theo tinh thần của Dòng Salêdiêng Don Bosco trên toàn thế giới.
Lịch sử hình thành.
Bên cạnh các hoạt động của Dòng Salêdiêng Don Bosco, người sáng lập Dòng, Giovanni Bosco, cũng chú ý đến việc xây dựng một tu hội dành cho các nữ tu sĩ hoạt động trên tinh thần của Dòng. Ngày 5 tháng 8 năm 1872 tại Mornese (Alessandria, Ý), Linh mục Giovanni Bosco và Đức ông Joseph Sciandra, Giám mục thành Acqui, đã quy tụ một nhóm các nữ tu đầu tiên của tu hội Dòng Con Đức Mẹ phù hộ để ăn mừng nhập học của họ để tập viện. Nữ tu Maria Mazzarello được cử làm Bề trên Cả đầu tiên của tu hội.
S. Maria Domenica Mazzarello (1837-1881).
Người sáng lập của FMA Phong Á Thánh vào 20/11/38 phong thánh vào 24/06/51
Các phác thảo lịch sử tiểu sử của Maria Domenica Mazzarello là tương đối ngắn (44 năm) và có thể được khớp trong bốn giai đoạn được đánh dấu bằng một sự trưởng thành đặc biệt trong đời sống Kitô hữu và dâng hiến.
Các giai đoạn đầu tiên bao gồm mười ba tuổi, từ sơ sinh đến Mornese, trong Monferrato (1837) cho tiên thông (1850). Những năm qua đã được chi tiêu trong một môi trường gia đình đặc trưng của đời sống Kitô hữu vững chắc và làm việc không mệt mỏi của người nông dân. Thông minh, ý chí mạnh mẽ và phong phú với tình cảm, Maria Domenica mở ra cho đức tin đi kèm với cha mẹ và khôn ngoan của mình tinh thần giám đốc Don Domenico Pestarino.
Trong giai đoạn thứ hai (1850-1860) có một nội tâm đặc biệt của đức tin từ cuộc họp của Bí Tích Thánh Thể, dẫn của mình để tặng tuổi trẻ của mình cho Chúa bằng lời khấn trinh và tham gia mạnh mẽ trong đời sống giáo xứ, đặc biệt là thông qua Liên minh của con gái của Thánh Đức Maria Vô Nhiễm.
Ở tuổi 23, ông ngã bệnh sốt phát ban và bệnh đã đưa cô đến bờ vực của cái chết có trong một sự cộng hưởng sâu sắc của mình. Cho cuộc sống trong các lĩnh vực, không chỉ cho sự mất mát của sức mạnh vật lý mà ông đã được hưởng trước đây, mà còn bởi vì cô ấy là trong một trực giác của giáo dục rõ ràng. Ông là dành riêng cho giáo dục của các cô gái trẻ trong cả nước thông qua một hội thảo may, một nhà nguyện lễ hội và một nhà nuôi dưỡng cho trẻ em không có gia đình.
Trong giai đoạn thứ ba (1860-1872) nó được nhìn thấy nhiều hơn và mở cửa cho kế hoạch của Thiên Chúa hơn cô được đáp ứng với s. Gioan Bosco (1864), đáp ứng đầy đủ hơn ý đồ của việc tông đồ. Họ cùng nhau thành lập ngày 05 tháng 8 năm 1872 trong một gia đình tôn giáo mới trong Giáo hội vì lợi ích của những người trẻ tuổi, trong đó có Don Bosco là người sáng lập và đồng người sáng lập, do đó, Maria Domenica.
Trong giai đoạn thứ tư, người cuối cùng của cuộc đời mình (1872-1881) Maria Domenica Mazzarello bài tập làm mẹ thiêng liêng của mình thông qua sự hình thành của các chị em, những chuyến đi Mẹ đã tiến hành đến thăm các cơ sở mới, sự gia tăng mở rộng el 'truyền giáo của Viện, chữ viết, món quà hàng ngày của cuộc sống, tiêu thụ trong việc thực hiện các "bệnh nhân từ thiện và tốt bụng. " Mẹ qua đời tại Nizza Monferrato 14 Tháng Năm 1881
Mẹ còn để lại cho con cái của mình một truyền thống giáo dục mạnh mẽ, Thiên Chúa đã làm cho món quà của sự sáng suốt và làm cho nó đơn giản và khôn ngoan người phụ nữ. Lễ phụng vụ của Mẹ được tổ chức vào ngày 13 tháng 5. | 1 | null |
Thằn lằn báo đốm hay tắc kè da báo ("Eublepharis macularius") là một loài thằn lằn sống về đêm, sống trên mặt đất có nguồn gốc từ đồng cỏ khô đầy đá và các vùng sa mạc của Afghanistan, Iran, Pakistan, Ấn Độ và Nepal. Tắc kè da báo đã trở thành một vật nuôi phổ biến, và do quá trình nuôi nhốt rộng rãi, đôi khi được coi là loài thằn lằn đầu tiên được thuần hóa.
Phân loại.
Tắc kè da báo lần đầu tiên được nhà động vật học Edward Blyth mô tả là một loài vào năm 1854 với danh pháp là "Eublepharis macularius". Tên chi "Eublepharis" là sự kết hợp của các từ Hy Lạp "eu" (tốt) và "blepharos" (mí mắt), vì việc có mí mắt là đặc điểm cơ bản để phân biệt các thành viên của phân họ này với các loài tắc kè khác, cùng với việc thiếu lamella. Tên loài "macularius" bắt nguồn từ từ tiếng Latinh "macula" có nghĩa là "đốm" hoặc "tì vết", ám chỉ đến các vết đốm tự nhiên trên da của chúng.
Phân bố và sinh cảnh.
Môi trường sống bản địa của tắc kè da báo là vùng đồng cỏ khô và đá ở nam Á Afghanistan, Pakistan, tây bắc Ấn Độ, tây Nepal và một số vùng của Iran. Tắc kè da báo sống ở những khu vực khô cằn và bán khô hạn với thảm thực vật thưa thớt và đất sét hoặc đất cát, cũng như môi trường sống trên đá, nơi các kẽ hở có thể được sử dụng làm nơi trú ẩn. Theo báo cáo, chúng thường tránh những khu vực có chất nền chính là cát.
Hành vi và hệ sinh thái.
Tắc kè da báo là loài bò sát sống về đêm; ban ngày chúng lui vào hang và những nơi ẩn nấp có mái che, bắt đầu hoạt động vào lúc hoàng hôn khi nhiệt độ thích hợp hơn. Nhiệt độ mùa đông trong phạm vi hoạt động của tắc kè da báo có thể khá thấp, dưới 10 °C, buộc các con dưới lòng đất phải chuyển sang trạng thái bán ngủ đông, sống bằng nguồn dự trữ chất béo.
Có một số cuộc tranh luận về mức độ mà tắc kè da báo tương tác với các loài đặc biệt trong tự nhiên. Các nguồn tin học thuật đã khẳng định rằng tắc kè da báo sống thành từng đàn rời rạc trong tự nhiên. Các hướng dẫn viên nuôi thú cưng thường khẳng định những con tắc kè này sống đơn độc và không thường sống chung với các loài động vật khác. Thừa nhận khẳng định sau là một sự ngộ nhận được truyền bá bởi những người nuôi thú cưng, Philippe de Vosjoli - một nhà gây giống tắc kè da báo nổi tiếng và là tác giả của hàng chục cuốn sách về việc gây giống bò sát - đã khẳng định rằng "Tuyên bố của một số 'chuyên gia' trên internet rằng tắc kè báo trong tự nhiên sống đơn độc... không được hỗ trợ bởi sự thật."
Chế độ ăn.
Tắc kè da báo là loài săn mồi cơ hội ăn nhiều loại mồi khác nhau. Động vật không xương sống được cho là chiếm phần lớn khẩu phần ăn của các con tắc kè hoang dã, nhưng trong điều kiện nuôi nhốt, chúng cũng sẽ ăn thịt những con mồi có xương sống nhỏ nếu có cơ hội, bao gồm chuột con "pinky" và thậm chí cả tắc kè da báo con. Điều thú vị là, các nhà gây giống tắc kè báo da trong điều kiện nuôi nhốt báo cáo rằng các con tắc kè được cho ăn đầy đủ sẽ không ăn thịt con non, và hành vi ăn thịt đồng loại dường như chỉ xảy ra ở những con vật không được cho ăn đầy đủ.
Đặc điểm.
Tắc kè da báo là loài thằn lằn nhỏ có tên gọi bắt nguồn từ bộ da đốm của chúng. Con mới nở dài trung bình từ 7 đến 10 cm và nặng khoảng 2 đến 5 g. Con cái trưởng thành có chiều dài khoảng từ 18 đến 20 cm và nặng khoảng 50 đến 70 g, trong khi tắc kè đực trưởng thành có chiều dài khoảng từ 20 đến 28 cm và nặng khoảng 60 đến 80 g.
Do quá trình sinh sản nuôi nhốt và chọn lọc nhân tạo rộng rãi, các con nuôi nhốt có nhiều màu sắc và hoa văn. Những con được tìm thấy trong tự nhiên thường có màu sắc xỉn hơn những con được nuôi nhốt làm thú cưng.
Không giống như nhiều loài tắc kè khác, nhưng cũng giống như các loài họ Thạch sùng mí khác, ngón chân của chúng không có lớp màng kết dính nên chúng không thể leo lên được những bức tường thẳng đứng nhẵn bóng.
Răng.
Những con tắc kè da báo là loài đa vệ và có thể thay mỗi chiếc trong số 100 chiếc răng của chúng sau mỗi 3 đến 4 tháng. Bên cạnh chiếc răng đã mọc đầy đủ có một chiếc răng thay thế nhỏ phát triển từ tế bào gốc răng trong lớp vỏ răng.
Đuôi.
Giống như hầu hết các loài tắc kè, chiếc đuôi dày của tắc kè da báo có thể tái sinh lại khi bị mất đi; tuy nhiên, đuôi tái sinh có vẻ sần sùi và không bao giờ có hình dạng giống như cái đuôi ban đầu.
Là thú cưng độc lạ.
Tắc kè da báo là một trong những loài thú cưng thằn lằn phổ biến nhất. Chúng có thể là loài thằn lằn đầu tiên được thuần hóa. Kích thước nhỏ, độ bền bỉ và sự tương đối dễ chăm sóc khiến chúng trở thành thú cưng bò sát lý tưởng dành cho những người "mới tập chơi". Chúng sinh sản dễ dàng trong điều kiện nuôi nhốt, vì vậy đa số các con được bán ngày nay là loại được sinh ra trong điều kiện nuôi nhốt thay vì là loại bị đánh bắt ngoài tự nhiên. | 1 | null |
Du lịch tình dục hay còn gọi tên là Sex tour là việc đi du lịch nước ngoài hằng năm để thỏa mãn nhu cầu tình dục trong đó có bao gồm cả việc thỏa mãn tình dục với trẻ em và việc du lịch tình dục dành cho phái nữ vốn thường thấy ở các quý bà có nhiều tiền. Du lịch tình dục rất phổ biến ở những nước thế giới thứ ba, nơi giá dịch vụ có thể chấp nhận được. Hiện nay trên thế giới, số lượng địa điểm phục vụ dịch vụ du lịch tình dục cùng con số các nạn nhân của nó vẫn tiếp tục gia tăng và những khu đèn đỏ được coi là một trong những món đặc sản du lịch của một số thành phố trên thế giới
Tổng quan.
Du lịch tình dục cũng hiện hữu tại các quốc gia phát triển như Đức, Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Anh và hiện nay là Trung Quốc. Đặc biệt là tại Ý với số lượng người đi du lịch tình dục cao nhất trên thế giới, ước tính có khoảng 80.000 người Ý đi du lịch nước ngoài hằng năm trong đó khoảng 35% thường xuyên đi du lịch tình dục, số lượng người Ý đi du lịch tình dục ở độ tuổi 25-35, và đang có xu hướng gia tăng và hướng đến du lịch tình dục tại Kenya, Santo Domingo, Colombia và Brazil nhằm thỏa mãn nhu cầu với trẻ em tuổi từ 12-14 và thậm chí nhỏ hơn, giới trẻ Ý thường lên internet để tìm kiếm những địa điểm du lịch tình dục Về hành vi lạm dụng tình dục trẻ em ở các nước Đông Nam Á thì số công dân người Mỹ chiếm tỉ lệ cao nhất do khách du lịch Mỹ tìm được nguồn cung nhanh và liên tục như vậy là do đã liên hệ nhanh với những người làm nghề môi giới sinh sống và kinh doanh các dịch vụ mại dâm ở châu Á.
Trong các loại hình thì du lịch tình dục dành cho nam và nữ là hai hiện tượng hoàn toàn khác nhau. Về tâm lý, phụ nữ thông thường không lui tới các quán bar và các buổi trình diễn sex để tìm bạn tình mới, họ cũng không tham gia các tour tìm kiếm khoái lạc vốn thỉnh thoảng được tổ chức cho nam giới mặc dù vậy, loại khách tiêu biểu của hình thức du lịch này là các phụ nữ trung niên, những người cảm thấy cô đơn hoặc không hạnh phúc trong cuộc sống gia đình những người này tuy không nổi tiếng như các siêu sao màn bạc nhưng có khá nhiều tiền lại muốn hưởng thụ và quan hệ tình dục trong khi đi nghỉ như một sự thư giãn, không phải lo nghĩ chuyện gia đình. Một số người phụ nữ cho biết họ thích du lịch tình dục không chỉ bởi khoái lạc chăn gối mà vì sự quan tâm và chú ý của những người đàn ông địa phương đối với họ và những người phụ nữ như vậy sẵn sàng trả tiền cho tình yêu kiểu này.
Du lịch tình dục dành cho phụ nữ được đề cập lần đầu tiên vào giữa thế kỷ 19 tại Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ, phụ nữ người Mỹ thích đến với những người Anh điêng Bắc Mỹ và phụ nữ châu Âu đến Thổ Nhĩ Kỳ để hưởng lạc thú. Theo báo cáo cuối những năm 1840 đã có một phụ nữ người Anh đến Roma để tìm kiếm bạn tình. Phụ nữ Canada là những người đầu tiên đi du lịch để tìm khoái lạc một cách chủ động. Trong thời kỳ suy thoái, các tour du lịch tình dục tạm ngừng hoạt động và sự ngắt quãng này kéo dài tới những năm 1960. Chỉ vài phụ nữ từ Anh, Pháp, Tiệp Khắc và Mỹ tới Ấn Độ, Nepal, Thái Lan để tìm kiếm khoái lạc tình dục với dân địa phương. Du lịch tình dục của phụ nữ có động lực mới cùng với làn sóng thứ hai của phong trào đòi bình quyền cho nữ giới. Khi đó, các tour tình dục phát triển với tốc độ nhanh vào những năm 1960.
Trong khi đàn ông thường chọn điểm đến là châu Á là điểm đến thì phụ nữ lại đổ về phía nam châu Âu (Italia, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Croatia và Tây Ban Nha), vùng lòng chảo Caribbe (Jamaica, Barbados và Cộng hòa Dominica), Genoa và Kenya ở châu Phi, Bali-Indonesia, và Phuket-Thái Lan. Nepal, Morrocco, Fiji, Ecuador, Costa-Rica cũng là những điểm đến nhưng ít được ưa chuộng hơn. Đặc biệt, Thái Lan, Cộng hòa Dominica là những nước phù hợp cho du lịch tình dục của cả hai giới, nam và nữ. Du lịch dành cho dân lesbian cũng mới xuất hiện. Tuy nhiên, chỉ có vài điểm hợp với những phụ nữ có sở thích này. Đó là Mytilini tại Hy Lạp, Bangkok, Pattaya ở Thái Lan và Bali tại Indonesia.
Phụ nữ tham gia các tour du lịch tình dục thường được đặt các tên khác nhau cho những nơi họ đi. Một số biệt hiệu như: "Shirley Valentines" tại Anh, "Longtails" ở Bermudas, "taxi vàng" ở Nhật, "bình sữa" (những cô gái tóc vàng) và "stellas" (người đàn bà ngăm đen) tại Jamaica. Ở Barbados, các khách du lịch tình dục là nữ thường được gọi là "hội chứng thư ký người Canada". Những người đàn ông phục vụ trong nghề này cũng có những tên riêng chẳng hạn như: "Kamakia" (lao đâm cá) tại Hy Lạp, "galebovi" (mòng biển) tại Croatia, "cá mập" ở Costa Rica, "cao bồi Kuta" hay "pemburu-bule" (những thợ săn da trắng) tại Bali, "những người đàn ông Malboro" tại Jordan, "bomsas" ở Gambia, "sanky pankie" ở Cộng hòa Dominica, "thợ săn grinda" tại Ecuador, "brichero" ở Peru. Nam giới tại Cộng hòa Dominica nổi tiếng nhất trong nghề này.
Đông Nam Á.
Thái Lan là nước phát triển về du lịch tình dục, kể cả với đối tượng là trẻ em. Vào năm 2009, ước tính nước này có khoảng 2,8 triệu người hoạt động liên quan đến mại dâm, trong đó có 2 triệu phụ nữ, 20.000 đàn ông và 800.000 người là trẻ em dưới 18 tuổi. Khách chủ yếu là người Âu Mỹ, rất ít dân Á châu. Giá cả cho mỗi lần cùng các cô gái dao động từ 2.600 đến 4.500 bạt.
Tại Philippines, 40% khách du lịch nam giới, trong đó có cả các công dân Mỹ, đến Philippines là nhằm mục đích tình dục, Philippines chỉ xếp sau Thái Lan trong danh sách những nước có ngành sex tour được biết đến nhiều nhất trên thế giới. Ngành này ở Philippines đang phát triển nhanh chóng khi thu hút hàng triệu du khách nhờ dịch vụ tình dục rẻ tiền, số người kiếm sống trong lĩnh vực sex tour ở Philippines đã vượt quá số người làm việc trong lĩnh vực công nghiệp do giá phục vụ rẻ, chỉ cần 25 USD là đã có thể qua một đêm vui vẻ và phụ nữ Philippines khá xinh đẹp, nhìn tổng thể, phụ nữ Philippines đẹp hơn phụ nữ Thái
Ở Việt Nam, việc xâm hại tình dục trẻ em thông qua con đường du lịch đã xuất hiện gắn với lượng khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng. Trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 800 vụ xâm hại tình dục trẻ em, nạn nhân đều tuổi còn quá nhỏ và đặc biệt là có những em chưa đầy 10 tuổi đã làm gái bán dâm cho người nước ngoài. Nguyên nhân là từ khi phía Thái Lan siết chặt các hoạt động liên quan đến tình dục trẻ em thì Việt Nam bắt đầu trở thành điểm đến của hoạt động phi pháp này trong các tỉnh thành thì Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là điểm đến lớn nhất của hoạt động du lịch tình dục.
Ở Campuchia, có khoảng 33.000 trẻ em người Campuchia đang bị ép làm việc trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ mại dâm, trong đó có cả các cơ sở chuyên phục vụ cho khách du lịch là người nước ngoài.
Vào năm 2008 có gần 14.000 trẻ em Indonesia là nạn nhân của nạn du lịch tình dục. Nguyên nhân chính là do nghèo đói, xung đột chính trị - chiến tranh, quá trình công nghiệp hóa nhanh, sự bùng nổ dân số.
Caribe.
Việc tìm đến các nước đang phát triển, các nước thứ ba, nhất là vùng Caribbean được xem là lựa chọn của nhiều phụ nữ phương Tây. Trong đó, Jamaica, Cộng hòa Dominica, Barbados và Cuba là điểm đến lý tưởng cho những chuyến du lịch tình dục trên bãi biển khi các quý bà da trắng chọn làm nơi phiêu lưu tình ái với các chàng trai trẻ bản địa cường tráng. Đây là nơi phụ nữ trung niên da trắng dễ dàng tìm thấy một Beach boy (chàng trai bãi biển) cho riêng mình. Trung bình mỗi năm khoảng 600.000 phụ nữ đã tới vùng lòng chảo Caribbe để tìm kiếm sự quan tâm và tình yêu. Sân bay ở vịnh Montego xuất hiện nhiều thanh niên trẻ mỗi khi có chuyến bay nào từ Canada hoặc Luân Đôn tới. Những chàng trai chỉ vừa qua đôi mươi, da đen bóng, vạm vỡ trở thành sức hút khó cưỡng của các quý bà sồn sồn da trắng cô đơn hoặc không may mắn trong cuộc sống gia đình.
Người địa phương đàn ông địa phương gọi những người phụ nữ da trắng nước ngoài là "những bình sữa cần đổ đầy một cách nhanh chóng" và những phụ nữ trung niên tới đây để kiếm "một cây tre to khỏe" hay "một cây tre vâm vấp" khi mà sức mạnh tình dục của những người đàn ông da đen trở nên nổi tiếng. "Già, mập, giàu, xấu" là những từ để chỉ những đối tượng phụ nữ phương Tây đến vùng Caribbean. Dân địa phương cho rằng đây là những phụ nữ này như "tín đồ tình dục ngẫu nhiên" sau khi trải qua thời gian đầy phức tạp và không mấy suôn sẻ với cuộc hôn nhân trước đây ở nước mình. Họ lao đến các nước đang phát triển có vùng biển thơ mộng tìm trải nghiệm mới mẻ từ các chàng trai bản địa trẻ trung, vạm vỡ, nóng bỏng.
Giá trung bình của dịch vụ là 30USD/giờ, và lên tới 150USD/đêm. Ngoài số tiền nhận được, các nam giới bán dâm còn thích được tặng thêm tiền hay quà tặng như đồng hồ, áo sơmi, bật lửa. Phụ nữ tới từ Thủ đô Ottawa của Canada nổi danh là những người hào phóng. Nhiều người cho rằng, việc những người đàn ông bản địa vùng Caribbean bước vào con đường mại dâm đơn giản chỉ vì vấn đề kinh tế tuy nhiên nó dấy lên mối nguy hại thấy rõ của bệnh tật, bạo lực tình dục và băng hoại đạo đức. | 1 | null |
In the Line of Fire ("Trong làn đạn") là một phim hành động của Mỹ năm 1993 của đạo diễn Wolfgang Petersen với Clint Eastwood trong vai Đặc vụ Frank Horrigan và John Malkovich vai sát thủ Mitch Leary. Bộ phim kể về kế hoạch ám sát Tổng thống Hoa Kỳ của một cựu nhân viên CIA và cuộc điều tra ngăn cản vụ ám sát. Vai diễn của Eastwood là làm nhiệm vụ điều tra bí mật duy nhất còn lại kể từ các chi tiết trong hộ tống an ninh cho Tổng thống John F. Kennedy tại Dallas, Texas, vào thời điểm ông bị ám sát vào năm 1963. Các diễn viên khác: Rene Russo, Dylan McDermott, Gary Cole, John Mahoney, và Fred Thompson.
Bộ phim được đồng sản xuất bởi Columbia Pictures và Castle Rock Entertainment, với phân phối bởi Columbia và được 3 đề cử Oscar. Ban đầu, Eastwood và Petersen đề nghị Robert De Niro đóng vai Leary, nhưng đã từ chối do xung đột lịch làm phim của phim "A Tale Bronx". "In the Line of Fire" là bộ phim cuối cùng Eastwood đóng vai chính cho đến năm 2012 với phim "Trouble with the Curve".
Nội dung.
Đặc vụ FBI Frank Horrigan và đồng sự trẻ tuổi Al D'Andrea cùng là cớm chìm điều tra một nhóm tội phạm làm tiền giả nhưng Al bị chúng nghi ngờ và phát hiện.Tên cầm đầu yêu cầu Frank bắn Al để chứng minh anh cũng không phải cảnh sát, Frank đã bóp cò nhưng súng không có đạn, bọn tội phạm tin Frank và bị anh bắt ngay sau đó. Về sau, Frank có trả lời Al rằng anh dựa vào sức nặng của súng để phán đoán có đạn hay không nhưng cũng có thể còn 1 viên sót lại. Al sau đó đã bị ám ảnh và muốn bỏ nghề.
Nhận được khiếu nại từ một bà chủ nhà trọ về một người thuê vắng mặt, Frank phát hiện ra một âm mưu ám sát tổng thống, nhưng khi quay trở lại căn phòng để tiếp tục điều tra thì chỉ còn lại một tấm hình, chụp đoàn xe hộ tống thống Kennendy trong sự kiện ông bị ám sát năm 1963. Trong bức hình đó, Frank chính là người đứng gần tổng thống nhất. Sau đó Frank nhận được điện thoại của 1 kẻ tự nhận là Booth, nói rằng hắn sẽ giết tổng thống đương nhiệm, và muốn đối đầu với Frank vì anh là người cuối cùng trong vụ Kennendy bị ám sát còn làm việc. Booth biết mọi thứ về Frank, về sự ám ảnh khi đã phản ứng chậm trong vụ việc dẫn đến việc nghiện rượu và tan vỡ gia đình của anh. Nhận thức rõ sự nguy hiểm của Booth, Frank quyết định quay trở lại tham gia công tác bảo vệ tổng thống một lần nữa. Trong quá trình làm việc, anh đã yêu mật vụ Lilly Raines.
Booth tiếp tục liên lạc với Frank dù biết bị nghe trộm, theo dõi đường dây và coi đó như một phần "trò chơi", hắn chế giễu thất bại của Frank và hỏi anh có dám lĩnh đạn thay tổng thống hay không. Booth thay đổi mã điện đàm làm các nhân viên kỹ thuật không tìm được địa chỉ đầu dây, nhưng trong một cuộc điện bằng điện thoại công cộng, các đặc vụ đã phát hiện ra Booth đang ở ngay gần trụ sở cơ quan điều tra. Cuộc truy bắt Booth sau đó không thành công nhưng cảnh sát đã có dấu vân tay của hắn, tuy nhiên khi tra trong kho dữ liệu thì dấu vân tay đó được xếp vào loại tuyệt mật nên FBI đã không nhận được thông tin gì.
Trong một chiến dịch vận động tranh cử tại Chicago, Booth chọc những quả bong bóng làm Frank gây ra báo động hụt, cho rằng Frank quá rắc rối, các cấp trên đình chỉ công tác bảo vệ tổng thống của anh, nhưng Frank vẫn tiếp tục điều tra về Booth. Trong khi đó, Booth đã thực hiện từng bước kế hoạch tiếp cận tổng thống bằng cách ủng hộ một số tiền lớn vào chiến dịch tranh cử, trong quá trình đó hắn đã giết một nhân viên ngân hàng và bạn cùng phòng với cô. Sau đó Frank và Al điều tra ra danh tính của Booth, hắn là Leary, một cựu CIA cho rằng chính phủ đã phản bội hắn trong đợt cắt giảm nhân sự. Nắm được quá khứ của Leary, Frank đối thoại, tìm điểm yếu của hắn và FBI đã phát hiện ra địa chỉ đầu dây. Trong cuộc truy bắt Leary, Frank được Leary cứu sống và đã có cơ hội giết hắn nhưng lưỡng lự vì anh cũng sẽ chết trong tình huống đó, sau đó Leary giết Al, người mới trước đó định nghỉ việc nhưng Frank đã thuyết phục anh ta tiếp tục công việc.
Leary tạo danh tính giả và đã có được vị trí thuận lợi trong một bữa tiệc có sự xuất hiện của tổng thống tại California. Frank tham gia công tác chuẩn bị an ninh cho buổi tiệc đó và gây rắc rối, anh bị điều chuyển sang làm việc tại một địa điểm khác, nhưng linh tính mách bảo Frank nên anh tiếp tục điều tra và phát hiện ra manh mối từ ngân hàng Southwest. Từ đó anh tìm được danh tính giả của Leary, ngay khi phát hiện ra vị trí của Leary trong bữa tiệc, khi hắn đang chuẩn bị bắn tổng thống, Frank lao đến lĩnh thay tổng thống một viên đạn. Sau tiếng súng của Leary, bữa tiệc hỗn loạn và Fank bị hắn khống chế, đưa vào cầu thang máy. Leary định giết Frank rồi tự sát nhưng nhờ mưu trí, Frank ra hiệu cho các tay súng bắn tỉa để hạ gục Leary, sau đó Frank có thể cứu Leary nhưng hắn đã khước từ ân huệ của Frank rồi chết. Frank trở thành anh hùng, anh nghỉ hưu và trở về nhà cùng Lilly Raines. Tại nhà, anh nhận được tin nhắn cuối cùng của Leary nói về những quan điểm, triết lý của hắn nhưng cũng như mọi cuộc đối thoại trước, Frank không hề quan tâm, anh cùng Lilly ra ngoài ngắm cảnh và cùng dựa vào nhau. | 1 | null |
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (United Nations Environment Programme — UNEP) là một cơ quan của LHQ điều phối các hoạt động môi trường của Liên Hợp Quốc, hỗ trợ các nước đang phát triển trong việc thực hiện các chính sách và các cách làm hợp lý về môi trường. Chương trình do Maurice Strong, Giám đốc đầu tiên thành lập, do kết quả của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường Con người (Hội nghị Stockholm) tổ chức vào tháng 6 năm 1972. Các hoạt động Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc bao gồm nhiều vấn đề liên quan đến bầu khí quyển, hệ sinh thái dưới nước và trên cạn, quản trị môi trường và kinh tế xanh. Chương trình có vai trò to lớn trong việc phát triển các hiệp ước môi trường quốc tế, quảng bá khoa học môi trường và thông tin và minh hoạ cách chúng có thể được áp dụng kết hợp với chính sách, phát triển và thực hiện những chính sách với chính phủ các quốc gia, các tổ chức khu vực kết hợp với những tổ chức phi chính phủ về môi trường (NGOs). Chương trình cũng đã và đang hoạt động trong việc tài trợ và thực hiện các dự án liên quan đến phát triển môi trường.
Chương trình đã hỗ trợ trong việc xây dựng hướng dẫn và những hiệp ước đối với những vấn đề như trao đổi quốc tế những hoá chất có nguy cơ độc hại, ô nhiễm không khí xuyên biên giới, và sự ô nhiễm do giao thông đường thủy quốc tế.
Tổ chức Khí tượng Thế giới và Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc đã thành lập Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu(IPCC) trong năm 1988. UNEP cũng là một trong số những Cơ quan triển khai thực hiện cho Cơ sở vật chất Môi trường toàn cầu và Quỹ Đa phương cho việc thực hiện Nghị định thư Montreal. Chương trình cũng là một thành viên của Nhóm Phát triển Liên Hợp Quốc. Bộ luật Quản lý Cyanide Quốc tế, một chương trình đi đầu trong quản lý việc sử dụng hoá chất trong hoạt động khai thác vàng, được phát triển dưới sự bảo trợ của UNEP.
Lịch sử.
Trụ sở chính của UNEP được thành lập ở Nairobi, Kenya trong những năm cuối thập kỉ 1970 với đội ngũ nhân viên 300 người, 100 trong số họ là chuyên gia trong nhiều lĩnh vực với hơn 100 triệu đô trong quỹ năm năm. Vào thời điểm đó, 40 triệu đô được đóng góp bởi Mỹ và phần còn lại bởi 50 quốc gia khác.
Quản trị.
Giám đốc điều hành.
Giám đốc điều hành hiện tại của UNEP, Inger Andersen , kế nhiệm Giám đốc vào năm 2019
Tiến sĩ Mostafa Kamal Tolba giữ vị trí giám đốc điều hành trong vòng 17 (1975-1992). Ông là đóng vai trò quan trọng nhất trong việc đưa môi trường thành vấn đề hàng đầu trong suy nghĩ và hành động toàn cầu. Dưới sự lãnh đạo của ông, thành công được công nhận rộng rãi nhất của UNEP - Hiệp ước mang tính chất lịch sử năm 1987 về bảo vệ tầng ozone - Nghị định thư Montreal đã được đàm phán.
Trong tháng 12 năm 1972, Hội đồng quản trị Liên Hợp Quốc đã nhất trí bầu Maurice Strong là giám đốc điều hành của UNEP. Ông cũng là Tổng thư kí Hội đồng Môi trường Nhân loại Liên Hợp Quốc, hội đồng đã bắt đầu phong trào môi trường trên toàn thế giới. Trong Hội nghị Thượng đỉnh Trái Đất năm 1992, Strong có vai trò chủ chốt trong việc đưa phong trào môi trường lên tầm quốc tế.
Hoạt động.
Hoạt động của UNEP bao gồm nhiều vấn đề liên quan đến khí quyển, các hệ sinh thái biển và trên cạn, quản trị môi trường và nền kinh tế xanh. UNEP đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các công ước môi trường quốc tế, thúc đẩy khoa học và thông tin về môi trường, cũng như trình diễn cách thức về những vấn đề có thể triển khai cùng với chính sách, cộng tác với chính phủ các nước, các thể chế khu vực, cũng như các tổ chức phi chính phủ (NGO) bảo vệ môi trường về việc xây dựng và thực hiện chính sách. UNEP còn hoạt động tích cực trong việc tài trợ và thực hiện các dự án phát triển liên quan đến môi trường.
UNEP đã hỗ trợ xây dựng các hướng dẫn và các hiệp ước về những vấn đề như thương mại quốc tế về các hóa chất có hại tiềm tàng, ô nhiễm không khí xuyên biên giới và ô nhiễm các đường thủy quốc tế.
Tổ chức Khí tượng Thế giới và UNEP đã thành lập Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) vào năm 1988. UNEP cũng là một trong những cơ quan thực thi Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) và Quỹ đa phương để thực hiện Nghị định thư Montreal. UNEP còn là thành viên của "Nhóm Phát triển Liên Hợp Quốc". Bộ luật Quản lý Xyanua quốc tế là một chương trình cách làm tốt nhất về sử dụng hóa chất trong các hoạt động khai thác vàng, được xây dựng dưới sự bảo trợ của UNEP.
Năm 2001, UNEP liên kết và đồng hành cùng cuộc thi Hoa hậu Trái Đất. Đây là một cuộc thi sắc đẹp được thành lập nhằm mục đích tuyên truyền và tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường.
Cấu trúc.
UNEP có các ban chuyên môn sau: | 1 | null |
Khu vực miền Nam Sudan (hiện là nước cộng hòa độc lập Nam Sudan) đã trở thành tự trị lần đầu tiên, ở miền nam Sudan năm 1972, thông qua Hiệp định Addis Ababa, và chính quyền địa phương của nó có năm Tổng thống cho đến năm 1983, khi chính quyền trung ương Sudan bị thu hồi tự chủ. Tự chủ được tăng trở lại trong năm 2005, thông qua các Hiệp định hòa bình toàn diện có nghĩa là để kết thúc Nội chiến Sudan lần 2, và vị trí của chủ tịch của miền Nam Sudan đã được khôi phục. Sau đó, vào ngày 09 tháng 7 năm 2011, Nam Sudan đã trở thành một quốc gia độc lập.
Các chức danh.
Mặc dù hiện nay giành danh hiệu của người đứng đầu nhà nước nam sudan là Tổng thống, người đứng đầu nhà nước Nam Sudan đã có được một số danh hiệu trong suốt lịch sử của đất nước:
Danh sách các nguyên thủ quốc gia của Nam Sudan.
Lưu ý: Các Tổng thống Nam Sudan cũng là Phó Tổng thống của chính phủ cho đến ngày 09 tháng 7 năm 2011. | 1 | null |
HMS "Delight" (H38) là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, nó được điều sang Trạm Trung Quốc vào đầu năm 1935, và tạm thời được bố trí Hồng Hải vào đầu năm 1935 do cuộc Khủng hoảng Abyssinia trước khi quay trở lại nhiệm sở, nơi nó ở lại cho đến giữa năm 1939. "Delight" được điều trở lại Hạm đội Địa Trung Hải ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939, rồi sau đó phục vụ cùng Hạm đội Nhà trong Chiến dịch Na Uy. "Delight" bị máy bay ném bom Đức đánh chìm vào ngày 29 tháng 7 năm 1940 đang khi tìm cách băng qua eo biển Manche vào ban ngày.
Thiết kế và chế tạo.
"Delight" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất . "Delight" mang theo tối đa dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, "Delight" có một khẩu QF 12-pounder Mk V bố trí giữa hai ống khói và hai khẩu đội súng máy QF 0.5-inch Vickers Mk III bốn nòng đặt ở hai bên cánh cầu tàu. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi . Một đường ray và hai máy phóng được dùng để thả mìn sâu, thoạt tiên mang theo 20 quả mìn, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.
"Delight" được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2 năm 1931 tại xưởng tàu của hãng Fairfield Shipbuilding and Engineering Company, ở Govan, Scotstoun trong Kế hoạch Chế tạo 1930. Nó được đặt lườn vào ngày 22 tháng 4 năm 1931, hạ thủy vào ngày 2 tháng 6 năm 1932, và hoàn tất vào ngày 31 tháng 1 năm 1933 với chi phí tổng cộng 229.378 Bảng Anh, không kể đến những thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị vô tuyến.
Lịch sử hoạt động.
Sau khi hoàn tất, "Delight" được sử dụng vào việc thử nghiệm ngư lôi Mark IX cho đến ngày 24 tháng 4 năm 1933, rồi gia nhập Chi hạm đội Khu trục 1 tại Địa Trung Hải, và từng được bố trí một thời gian ngắn đến vịnh Ba Tư vào tháng 9–tháng 11 năm 1933. Con tàu được tái trang bị tại Portsmouth từ ngày 3 tháng 9 đến ngày 25 tháng 10 năm 1934 để phục vụ tại Trạm Trung Quốc cùng với Chi hạm đội Khu trục 8 (sau đổi tên thành Chi hạm đội Khu trục 21), đến nơi vào tháng 1 năm 1935. Nó được điều động về Hạm đội Địa Trung Hải từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1935 trong vụ Khủng hoảng Abyssinia, rồi quay trở lại Trạm Trung Quốc. Khi nguy cơ chiến tranh với Đức trở nên rõ ràng, "Delight" được điều về Địa Trung Hải, khởi hành vào ngày 29 tháng 8 năm 1939 cùng với nhiều tàu chị em. Nó đi đến Aden vào ngày 19 tháng 9, và sau đó là Alexandria, nơi nó hoạt động cùng Hạm đội Địa Trung Hải trong ba tháng tiếp theo. Con tàu được chuyển về Hạm đội Nhà vào tháng 12, và đi đến Portsmouth vào ngày 30 tháng 12.
Nó được tái trang bị cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1940 trước khi gia nhập Chi hạm đội Khu trục 3. "Delight" bị hư hại do thời tiết xấu vào ngày 8 tháng 4, buộc phải quay về cảng để sửa chữa. Trong Chiến dịch Na Uy, "Delight" hộ tống cho tàu sân bay khi nó quay về Scapa Flow vào ngày 25 tháng 4 để bổ sung máy bay. Vào ngày 1 tháng 5, nó chuyển binh lính đến các tàu tuần dương hạng nhẹ và thuộc Hải đội Tuần dương 18 trong cuộc triệt thoái khỏi Åndalsnes. "Delight" hỗ trợ cho binh lính Đồng Minh vào các ngày 27–28 tháng 5 khi họ tái chiếm Narvik trước khi nó được gửi đến Bodø vào ngày hôm sau xác minh báo cáo về việc quân Đức đổ bộ. Trong hai đêm tiếp theo, nó cùng bảy tàu khu trục khác giúp triệt thoái binh lính Anh khỏi Bodø. Vào ngày 7-8 tháng 6, "Delight" hộ tống một đoàn tàu vận tải triệt thoái binh lính Anh khỏi Narvik (Chiến dịch Alphabet).
Con tàu đã đi đến hỗ trợ cho chiếc tàu buôn tuần dương vũ trang sau khi nó trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Đức "U-25" vào ngày 13 tháng 6. Lò đốt siêu nhiệt của nó được thay thế tại Rosyth từ ngày 21 tháng 6 đến ngày 24 tháng 7. Sau khi rời cảng Portland vào ban ngày bất chấp lệnh cấm, con tàu bị dàn radar Freya tại Cherbourg phát hiện, và Không quân Đức được báo động. Ở vị trí cách ngoài khơi Portland Bill, nó bị 16 máy bay Đức tấn công. Một quả bom đã đánh trúng sàn trước, gây một đám cháy và sau đó là một vụ nổ. Con tàu bị đắm chiều tối ngày hôm đó, với sáu thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng trong vụ tấn công.
Xác tàu đắm của "Delight" nằm ở độ sâu , bị vỡ ra nhiều mảnh. Phần giữa con tàu bị lật úp, mũi tàu bị vỡ, và đuôi tàu ở tư thế thẳng đứng. Do xác tàu được chỉ định là một địa điểm được bảo vệ theo Luật bảo vệ di sản quân sự 1986, không được phép đi vào xác tàu hoặc vùng mảnh vỡ mà không có giấy phép. | 1 | null |
HMS "Diamond" (H22) là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, nó được điều sang Trạm Trung Quốc vào đầu năm 1935, nơi nó ở lại cho đến giữa năm 1939. "Diamond" được điều trở lại Hạm đội Địa Trung Hải sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra trước khi được chuyển đến Tây Phi làm nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải. Nó quay trở lại Hạm đội Địa Trung Hải vào đầu năm 1940, nơi nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi và đến Malta. "Diamond" đã tham gia Trận mũi Spartivento vào tháng 11, và bị máy bay Đức đánh chìm vào ngày 27 tháng 4 năm 1941 đang khi triệt thoái binh lính Đồng Minh khỏi Hy Lạp.
Thiết kế và chế tạo.
"Diamond" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất . "Diamond" mang theo tối đa dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, "Diamond" có một khẩu QF 12-pounder Mk V bố trí giữa hai ống khói và hai pháo QF 2-pounder Mk II đặt ở hai bên cánh cầu tàu. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi . Một đường ray và hai máy phóng được dùng để thả mìn sâu, thoạt tiên mang theo 20 quả mìn, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.
"Diamond" được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2 năm 1931 tại xưởng tàu của hãng Vickers-Armstrong ở Barrow-in-Furness trong Kế hoạch Chế tạo 1930. Nó được đặt lườn vào ngày 29 tháng 9 năm 1931, hạ thủy vào ngày 8 tháng 4 năm 1932, và hoàn tất vào ngày 3 tháng 11 năm 1932 với chi phí tổng cộng 223.509 Bảng Anh, không kể đến những thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị vô tuyến.
Lịch sử hoạt động.
"Diamond" thoạt tiên được phân về Chi hạm đội Khu trục 1 tại Địa Trung Hải, và từng được bố trí một thời gian ngắn đến vịnh Ba Tư và Hồng Hải vào tháng 9–tháng 11 năm 1933. Con tàu được tái trang bị tại Xưởng tàu Devonport từ ngày 3 tháng 9 đến ngày 27 tháng 10 năm 1934 để phục vụ tại Trạm Trung Quốc cùng với Chi hạm đội Khu trục 8 (sau đổi tên thành Chi hạm đội Khu trục 21), đến nơi vào tháng 1 năm 1935, nơi nó ở lại trong bốn năm tiếp theo. Nó bắt đầu một đợt tái trang bị tại Singapore từ ngày 7 tháng 8 năm 1939, và được điều động về Hạm đội Địa Trung Hải sau khi hoàn tất vào tháng 11. "Diamond" đi đến Malta vào ngày 19 tháng 12, rồi được điều sang Trạm Nam Đại Tây Dương trong tháng tiếp theo. Nó rời Malta ngày 8 tháng 1 năm 1940 hướng sang Freetown, nơi nó gia nhập Chi hạm đội Khu trục 20 cho nhiệm vụ hộ tống. Đến tháng 4, con tàu quay trở lại Địa Trung Hải nơi nó gia nhập Chi hạm đội Khu trục 10 mới được thành lập sau một đợt tái trang bị ngắn tại Malta.
"Diamond" bị hư hại nhẹ do không kích vào các ngày 11 và 17 tháng 6 gần Malta sau khi Ý tuyên chiến với Đồng Minh vào ngày 10 tháng 6. Cùng với các tàu chị em và , tàu khu trục Australia HMAS "Stuart" cùng các tàu tuần dương hạng nhẹ và , nó đã hộ tống cho Đoàn tàu vận tải AN.2 từ Ai Cập đến nhiều cảng trong biển Aagean vào cuối tháng 7. "Diamond" đã bắn phá căn cứ thủy phi cơ của Ý ở Bomba, Libya vào ngày 23 tháng 8. Một tuần sau, nó hộ tống bốn tàu vận tải đi đến Malta cùng với "Dainty" và các tàu khu trục và như một phần của Chiến dịch Hats. Con tàu cũng hộ tống cho Đoàn tàu vận tải MB.8 trong Chiến dịch Collar. Sau khi đi đến Malta vào ngày 26 tháng 11, "Diamond" gia nhập Lực lượng D và lên đường để gặp gỡ Lực lượng H đi đến từ Gibralta. Ngày hôm sau, khi các lực lượng Anh kết hợp, chúng bị phía Ý phát hiện, dẫn đến Trận chiến mũi Spartivento bất phân thắng bại.
Trong Chiến dịch Excess, "Diamond" cùng với "Defender" tàu tuần dương phòng không đã hộ tống cho Đoàn tàu vận tải MW.5 từ Alexandria đến Malta vào tháng 1 năm 1941. Con tàu cũng hộ tống một đoàn gồm bốn tàu hàng từ Malta đến Alexandria vào giữa tháng 4. Không lâu sau đó, nó bắt đầu tham gia triệt thoái binh lính Đồng Minh khỏi Hy Lạp. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1941, "Diamond" cùng tàu khu trục đã cứu vớt hơn 500 binh lính từ chiếc tàu chở quân Hà Lan "Slamat", và bắt đầu hướng đến Crete. Tuy nhiên, khoảng bốn giờ sau đó, cả hai bị máy bay tiêm kích Messerschmitt Bf 109 và máy bay ném bom Junkers Ju 88 tấn công và đánh chìm. Chỉ có một sĩ quan, 41 thủy thủ và tám binh lính từ cả ba con tàu được cứu vớt. | 1 | null |
HMS "Diana" (H49) là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, nó được điều sang Trạm Trung Quốc vào đầu năm 1935, và tạm thời được bố trí Hồng Hải vào đầu năm 1935 do cuộc Khủng hoảng Abyssinia trước khi quay trở lại nhiệm sở, nơi nó ở lại cho đến giữa năm 1939. "Diana" được điều trở lại Hạm đội Địa Trung Hải ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939, rồi phục vụ cùng Hạm đội Nhà trong Chiến dịch Na Uy. "Diana" được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Canada vào năm 1940 và được đổi tên thành HMCS "Margaree", nhưng chỉ phục vụ cùng Canada được hơn một tháng trước khi bị đắm do một tàu buôn lớn mà nó hộ tống húc phải vào ngày 22 tháng 10 năm 1940.
Thiết kế và chế tạo.
"Diana" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất . "Diana" mang theo tối đa dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, "Diana" có một khẩu QF 12-pounder Mk V bố trí giữa hai ống khói và hai khẩu đội súng máy QF 0.5-inch Vickers Mk III bốn nòng đặt ở hai bên cánh cầu tàu. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi . Một đường ray và hai máy phóng được dùng để thả mìn sâu, thoạt tiên mang theo 20 quả mìn, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.
"Diana" được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2 năm 1931 tại xưởng tàu của hãng Palmers Shipbuilding and Iron Company ở Hebburn-on-Tyne trong Kế hoạch Chế tạo 1930. Nó được đặt lườn vào ngày 12 tháng 6 năm 1931, hạ thủy vào ngày 16 tháng 6 năm 1932, và nhập biên chế cùng Hải quân Anh vào ngày 21 tháng 12 năm 1932 với chi phí tổng cộng 229.502 Bảng Anh, không kể đến những thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị vô tuyến.
Lịch sử hoạt động.
"Diana" thoạt tiên được phân về Chi hạm đội Khu trục 1 tại Địa Trung Hải, và từng được bố trí một thời gian ngắn đến vịnh Ba Tư và Hồng Hải vào tháng 9–tháng 11 năm 1933. Đang khi ở lại Địa Trung Hải, trong một thời gian, con tàu được đặt dưới quyền chỉ huy của Geoffrey Oliver, vị Đô đốc tương lai của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được tái trang bị tại Xưởng tàu Sheerness từ ngày 3 tháng 9 đến ngày 23 tháng 10 năm 1934 để phục vụ tại Trạm Trung Quốc cùng với Chi hạm đội Khu trục 8 (sau đổi tên thành Chi hạm đội Khu trục 21), đến nơi vào tháng 1 năm 1935. Nó được điều động về Hạm đội Địa Trung Hải tại Hồng Hải từ tháng 9 năm 1935 đến tháng 5 năm 1936 trong vụ Khủng hoảng Abyssinia, từng ghé thăm Bombay và các cảng Đông Phi trước khi quay về Hồng Kông vào ngày 7 tháng 8. Một lần vào năm 1937, "Diana" được cử đi khảo sát tại sao một hải đăng gần Hạ Môn không chiếu sáng, và khám phá rằng nó bị hải tặc tấn công. Nó tiếp tục ở lại Viễn Đông cho đến khi sự căng thẳng gia tăng ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai khiến nó được gọi quay trở về vào tháng 8 năm 1939.
Khi chiến tranh nổ ra, "Diana" và các tàu chị em , và được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, đến nơi vào tháng 10. Nó được sửa chữa tại Malta trong tháng 11 và gia nhập trở lại hạm đội vào tháng 12, được phân công nhiệm vụ tuần tra một giai đoạn ngắn trước khi được chuyển về Chi hạm đội Khu trục 3 trực thuộc Hạm đội Nhà. Con tàu quay về vùng biển nhà vào tháng 1 năm 1940, đảm trách hộ tống các tàu chiến chủ lực của hạm đội và tuần tra. Ngày 15 tháng 2, nó hộ tống cho tàu chị em "Duncan" khi chiếc này được các tàu kéo đưa từ Invergordon đến Forth để sửa chữa triệt để những hư hại do va chạm trong khi hộ tống một đoàn tàu vận tải.
Trong Chiến dịch Na Uy, "Diana" đã hộ tống tàu sân bay khi chiếc này quay về Scapa Flow vào ngày 25 tháng 4 để bổ sung thêm máy bay. Vào ngày 1 tháng 5, nó hộ tống cho các tàu tuần dương hạng nhẹ và thuộc Hải đội Tuần dương 18 khi chúng bảo vệ cho cuộc triệt thoái khỏi Åndalsnes, và nó đã đưa Tổng tư lệnh quân đội Na Uy, Thiếu tướng Otto Ruge, từ Molde đến Tromsø. Chiếc tàu khu trục cũng hộ tống các tàu sân bay và "Furious", khi chiếc sau chuyển những máy bay tiêm kích Gloster Gladiator của Không quân Hoàng gia Anh đến sân bay Bardufoss vào ngày 21 tháng 5. Mười ngày sau, "Diana" hộ tống cho các tàu sân bay và "Furious" trong Chiến dịch Alphabet, cuộc triệt thoái lực lượng Đồng Minh khỏi Na Uy.
Chiếc tàu khu trục được tái trang bị và sửa chữa tại Luân Đôn trong tháng 7. Sau khi hoàn tất, "Diana" được chuyển giao cho Canada để thay thế chiếc "Fraser" vốn bị đắm do va chạm với chiếc tàu tuần dương phòng không Anh vào ngày 25 tháng 6 năm 1940. Con tàu được chính thức nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Canada như là chiếc HMCS "Margaree" vào ngày 6 tháng 9 năm 1940. Đến ngày 17 tháng 10, nó hộ tống Đoàn tàu vận tải OL8 đi Canada, nhưng con tàu bị đắm chỉ năm ngày sau đó do va chạm với tàu chở hàng MV "Port Fairy". Trong số 176 người có mặt trên "Margaree" vào lúc đó, chỉ có sáu sĩ quan và 28 thủy thủ được "Port Fairy" cứu vớt. | 1 | null |
HMS "Duchess" (H64) là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, nó được điều sang Trạm Trung Quốc vào đầu năm 1935, và tạm thời được bố trí Hồng Hải vào đầu năm 1935 do cuộc Khủng hoảng Abyssinia trước khi quay trở lại nhiệm sở, nơi nó ở lại cho đến giữa năm 1939. "Duchess" được điều trở lại Hạm đội Địa Trung Hải ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939. Đang khi hộ tống thiết giáp hạm quay trở lại quần đảo Anh Quốc, nó gặp tai nạn bị "Barham" húc phải lúc sương mù dày đặc, và bị đắm với tổn thất nhân mạng nặng nề vào ngày 12 tháng 12 năm 1939.
Thiết kế và chế tạo.
"Duchess" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất . "Duchess" mang theo tối đa dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, "Duchess" có một khẩu QF 12-pounder Mk V bố trí giữa hai ống khói và hai khẩu đội súng máy QF 0.5-inch Vickers Mk III bốn nòng đặt ở hai bên cánh cầu tàu. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi . Một đường ray và hai máy phóng được dùng để thả mìn sâu, thoạt tiên mang theo 20 quả mìn, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.
"Duchess" được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2 năm 1931 tại xưởng tàu của hãng Palmers Shipbuilding and Iron Company ở Jarrow trong Kế hoạch Chế tạo 1930. Nó được đặt lườn vào ngày 12 tháng 6 năm 1931, hạ thủy vào ngày 19 tháng 7 năm 1932, và nhập biên chế cùng Hải quân Anh vào ngày 24 tháng 1 năm 1933 với chi phí tổng cộng 229.367 Bảng Anh, không kể đến những thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị vô tuyến.
Lịch sử hoạt động.
"Duchess" thoạt tiên được phân về Chi hạm đội Khu trục 1 tại Địa Trung Hải, và từng được bố trí một thời gian ngắn đến vịnh Ba Tư và Hồng Hải vào tháng 9–tháng 11 năm 1933. Sau khi quay về, lò đốt siêu nhiệt của nó được sửa chữa tại Malta từ ngày 18 tháng 12 đến ngày 6 tháng 1 năm 1934. Nó được tái trang bị tại Xưởng tàu Chatham từ ngày 3 tháng 9 đến ngày 23 tháng 10 năm 1934 nhằm chuẩn bị cho việc phục vụ tại Trạm Trung Quốc.
"Duchess" đi đến Hồng Kông vào tháng 1 năm 1935, nơi nó gia nhập Chi hạm đội Khu trục 8 (sau đổi tên thành Chi hạm đội Khu trục 21). Con tàu được điều động về Hạm đội Địa Trung Hải tại Hồng Hải từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1936 trong vụ Khủng hoảng Abyssinia, đã thực hiện một số chuyến viếng thăm thiện chí cũng như tuần tra chống hải tặc trong thời gian ở lại Trạm Trung Quốc. Khi một cơn bão quét qua Hồng Kông vào ngày 2 tháng 9 năm 1937, một chiếc tàu buôn bị đứt neo đã va chạm vào đuôi của "Duchess". Việc sửa chữa chỉ hoàn tất vào ngày 14 tháng 10.
Con tàu tiếp tục ở lại Viễn Đông cho đến cuối tháng 8 năm 1939, khi sự căng thẳng gia tăng ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai khiến nó được gọi quay trở lại Hạm đội Địa Trung Hải]] tại Malta. Nó về đến đây vào ngày 12 tháng 10, ở lại khu vực Địa Trung Hải trong hai tháng tiếp theo. Vào tháng 12, "Duchess" cùng các tàu chị em , và được phân công hộ tống thiết giáp hạm HMS "Barham" quay trở về Anh; chúng khởi hành từ Gibraltar vào ngày 6 tháng 12. Sáng sớm ngày 12 tháng 12, "Barham" va chạm với "Duchess" ngoài khơi Mull of Kintyre trong thời tiết sương mù dày đặc. Chiếc tàu khu trục lật úp, và các quả mìn sâu của nó phát nổ, làm thiệt mạng 124 thành viên thủy thủ đoàn, kể cả vị chỉ huy của nó, Thiếu tá Hải quân Robin White, người bị hãm trong cabin của mình khi cánh cửa lùa bị mắc kẹt. | 1 | null |
Cá rồng châu Phi (tên khoa học Heterotis niloticus), là một thành viên của gia đình Cá rồng. Mặc dù được gọi là một "cá rồng", cá rồng châu Phi là loài liên quan chặt chẽ với Cá hải tượng long hơn, thành viên duy nhất khác trong phân họ Heterotidinae. Chúng là loài chỉ ăn sinh vật phù du, cá rồng châu Phi có một miệng khác biệt hơn so với các loài khác của Họ Cá rồng (Osteoglossum và Scleropages).
Mô tả.
Cá rồng châu Phi là một loài cá có thân và lớn, vây lưng dài cùng vây hậu môn nằm khá xa trên cơ thể, trong khi vây đuôi lại tròn. Chiều cao của nó được báo cáo lên tới 100 cm (39 in) và nặng tới 10,2 kg (22 lb).
Chúng có cơ thể màu xám, nâu, hoặc màu đồng. Màu sắc đồng nhất ở cá thể trưởng thành, nhưng những con chưa trưởng thành có một cơ thể tối hơn.
Cá rồng châu Phi có cơ quan máy thở trên mang, cho phép nó tồn tại trong khu vực nước ít oxy.
Phân bố.
Loài này phát triển rộng khắp châu Phi, ở tất cả các lưu vực sông trong khu vực Sahelo-Sudan, Senegal và Gambia cũng như đại bộ phận Đông Phi. Phạm vi này bao gồm các lưu vực sông Corubal, Volta, Oueme, Niger, Bénoué, và sông Nile cũng như tại các khu vực hồ Chad và hồ Turkana. Nó đã được tìm thấy tại Bờ Biển Ngà, sông Cross ở Nigeria, sông Sanaga và Nyong ở Cameroon, sông Ogooué tại Gabon, lưu vực sông Congo, bao gồm sông Ubangui và Kasai. Nó cũng đã được nhân rộng ra ở Madagascar. Trong một số trường hợp, việc nhân rộng loài cá này cũng có một tác động tiêu cực đến hệ sinh thái địa phương. | 1 | null |
Đội tuyển bóng chày Đài Bắc Trung Hoa (chữ Hán: 中華臺北棒球代表隊; bính âm: Zhōnghuá Táiběi Bàngqiú Dàibiǎoduì; Hán-Việt: Đài Bắc Trung Hoa bổng cầu đại biểu đội) là đội tuyển cấp quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Đội bóng do Hiệp hội bóng chày Trung Hoa Đài Bắc quản lý. Họ được công nhận là một trong những đội tuyển bóng chày cấp quốc gia mạnh nhất. Hiện tại họ đứng thứ tư trên thế giới theo báo cáo của Liên đoàn bóng chày quốc tế, chỉ sau Cuba, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Họ cũng liên tục duy trì vị trí hàng đầu trong các cuộc thi bóng chày quốc tế. Đội bóng thường do các vận động viên chuyên nghiệp đến từ Chinese Professional Baseball League của Đài Loan, Nippon Professional Baseball của Nhật Bản và Major League Baseball hay Minor League Baseball từ Hoa Kỳ.
Do áp lực chính trị thù địch từ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trong các tổ chức thể thao quốc tế, đoàn phải tiếp nhận một cái tên thoả hiệp, từ Đội tuyển bóng chày quốc gia Trung Hoa Dân Quốc (chữ Hán: 中華民國棒球國家隊; bính âm: Zhōnghuá Mínguó Bàngqiú Guójiāduì; Hán-Việt: Trung Hoa Dân Quốc bổng cầu quốc gia đội) đổi thành Đội tuyển bóng chày Trung Hoa Đài Bắc.
Đội bóng tham gia vào nhiều giải đấu khu vực và quốc tế và đã đạt được nhiều thành công. Họ dành sáu danh hiệu trong Giải vô địch bóng chày châu Á, một huy chương đồng tại Thế vận hội 1984 tổ chức ở Los Angeles và một huy chương bạc tại Thế vận hội 1992 ở Barcelona. Thành công gần đây của họ là dành huy chương vàng tại Á vận hội 2006 tổ chức ở Doha trong một chiến thắng càn quét đánh bại các đội tuyển Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Philippines và cuối cùng đánh bại đối thủ Nhật Bản. Họ cũng dành vị trí thứ 8 trong World Baseball Classic 2013 gần đây.
Tranh cãi tên gọi.
Năm 1954, khi đội tuyển lần đầu tiên tham dự Giải vô địch bóng chày châu Á đã thi đấu với tên gọi "United Team of Taiwan". Kể từ khi Trung Hoa Dân Quốc bị trục xuất khỏi Liên Hợp Quốc vào năm 1971, Đội tuyển bóng chày quốc gia Trung Hoa Dân Quốc bị buộc phải thi đấu quốc tế dưới cái tên "Đài Bắc Trung Hoa" do áp lực ngoại giao của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa thông qua Chính sách Một Trung Quốc. Ở Đài Loan thì được gọi với cả hai cái tên là 中華隊 (bính âm: Zhōnghuá Duì; Hán-Việt: Trung Hoa đội; nghĩa là "đội Trung Hoa") hay 台灣隊 (bính âm: Táiwān Duì; Hán-Việt: Đài Loan đội; nghĩa là "đội Đài Loan"). | 1 | null |
Alfred von Briesen (29 tháng 7 năm 1849 – 12 tháng 11 năm 1914 tại Wloclawek) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã tham gia trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) và được phong quân hàm Thượng tướng Bộ binh trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918).
Tiểu sử.
Sự nghiệp quân sự.
Từng là một đại tá trong Trung đoàn Bắn súng hỏa mai "Vương hậu Viktoria của Thụy Điển" (Pommern) số 34 tại thành phố Stettin, ông đã được bổ nhiệm làm Lữ trưởng của Lữ đoàn Bộ binh số 71 tại Danzig vào ngày 22 tháng 3 năm 1903, và không lâu sau đó ông lên quân hàm Thiếu tướng. Đến ngày 16 tháng 10 năm 1906, ông được thăng cấp Trung tướng và giữ chức vụ Sư trưởng của Sư đoàn số 35 ở Graudenz cho đến khi xuất ngũ vào năm 1910. Khi rời khỏi quân ngũ, ông được phong cấp bậc danh dự ("Charakter") Thượng tướng Bộ binh.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, ông được triệu hồi trở lại Quân đội Đức. Tại Wloclawek, trên Mặt trận phía Đông, với cương vị là Tư lệnh của Sư đoàn Trừ bị số 49 của Quân đoàn Trừ bị I, một phần thuộc Tập đoàn quân số 9, ông đã thiệt mạng trong trận chiến Łódź. Trận đánh kết thúc vào tháng 12 năm 1914 với thắng lợi chiến lược của người Đức.
Gia đình.
Ông đã kết hôn với bà Olga, tên khai sinh von Kleist. Người con trai của ông, Kurt von Briesen (1886 – 1941), về sau cũng là một Thượng tướng Bộ binh. | 1 | null |
Jang Hyun-seung (; Hanja: Hán Việt: Trương Hiền Thắng; sinh ngày 3 tháng 9 năm 1989), còn được gọi là JS, là một ca sĩ và vũ công người Hàn Quốc, cựu thành viên của ban nhạc BEAST. Cuối năm 2011, đầu năm 2012, anh cùng với nữ ca sĩ HyunA của 4Minute gây chú ý sau khi kết hợp trong dự án Trouble Maker. Tuy nhiên, trước khi có được những thành công như thế, Jang Hyunseung đã từng bị loại trong cuộc thi tuyển chọn thành viên chính thức cho ban nhạc Big Bang. Vào năm 2015, Hyunseung đã ra mắt với tư cách là nghệ sĩ solo với album "MY". Ngày 19 tháng 4 năm 2016, Jang Hyunseung chính thức rời BEAST, nhưng vẫn trực thuộc hãng đĩa Cube Entertainment với tư cách là ca sĩ solo. Anh từng là đạo diễn hình ảnh cho nhóm nhạc dự án IZ*ONE. | 1 | null |
Trong giải tích, định lý giá trị trung bình khẳng định rằng: cho một cung phẳng, trơn nối hai điểm phân biệt, khi đó tồn tại một điểm trên cung mà tiếp tuyến với cung tại điểm này song song với đường thẳng nối hai đầu cung.
Định lý này được sử dụng đề chứng minh các kết quả toàn cục về một hàm trên một khoảng xuất phát từ các giả thuyết địa phương về đạo hàm tại các điểm của khoảng đó.
Chính xác hơn, nếu một hàm số formula_1 liên tục trên khoảng đóng formula_2 với formula_3 thì tồn tại một điểm formula_4 sao cho
Một trường hợp đặc biệt của định lý này được mô tả lần đầu tiên bởi Parameshvara (1370-1460). Định lý giá trị trung bình ở dạng hiện đại của nó được phát biểu sau đó bởi Augustin Louis Cauchy (1789-1857). Nó là một trong những kết quả quan trọng nhất của phép tính vi phân, cũng như một trong những định lý quan trọng nhất của giải tích toán học, và được sử dụng để chứng minh định lý cơ bản của giải tích. Định lý giá trị trung bình có thể được suy ra từ một trường hợp đặc biệt của nó là định lý Rolle, và có thể được sử dụng để chứng minh một kết quả tổng quát hơn là định lý Taylor (với phần dư dạng Lagrange).
Phát biểu chính thức.
Cho formula_6 là một hàm số liên tục trên khoảng đóng formula_2 và khả vi trên khoảng mở formula_8, với <math>a. Khi đó tồn tại formula_4 sao cho
Định lý giá trị trung bình là một tổng quát hóa của định lý Rolle, trong đó giả sử formula_11, khi đó vế phải của hệ thức bên trên bằng 0.
Định lý giá trị trung bình vẫn đúng với một giả thiết tổng quát hơn. Ta chỉ cần điều kiện formula_12 liên tục trên formula_2, và với mọi formula_14, giới hạn
tồn tại (hữu hạn hoặc bằng formula_16). Nếu hữu hạn, giới hạn trên bằng formula_17. Một ví dụ mà phiên bản này của định lý được áp dụng là hàm số formula_18, với đạo hàm tiến đến vô cùng tại gốc tọa độ.
Chú ý rằng định lý này sai nếu ta áp dụng cho hàm phức khả vi thay vì hàm thực. Ví dụ, lấy formula_19 với mọi số thực formula_20. Khi đó
trong khi formula_22.
Chứng minh.
Biểu thức formula_23 cho chúng ta hệ số góc của đường thẳng nối hai điểm formula_24 và formula_25, trong khi formula_17 là hệ số góc của tiếp tuyến của đường cong tại điểm formula_27. Do đó định lý giá trị trung bình phát biểu rằng: cho một cung bất kì của một đường cong phẳng, trơn, ta có thể tìm được một điểm nằm giữa hai đầu cung sao cho tiếp tuyến tại điểm đó của cung song song với dây cung. Cách chứng minh sau đây mô tả ý tưởng này.
Đặt formula_28, với formula_29 là một hằng số mà ta sẽ xác định sau. Vì formula_1 liên tục trên formula_2 và khả vi trên formula_8, điều tương tự cũng đúng với formula_33. Ta sẽ chọn formula_29 sao cho formula_33 thỏa mãn các điều kiện của định lý Rolle, tức là
Theo định lý Rolle, vì formula_33 liên tục và formula_38 nên tồn tại một điểm formula_39 thuộc formula_8 sao cho formula_41. Khi đó, từ đẳng thức formula_28, ta có
Đây chính là điều phải chứng minh.
Một ứng dụng đơn giản.
Giả sử rằng formula_1 là một hàm thực liên tục, xác định trên một khoảng formula_45 bất kì trên trục số thực. Nếu đạo hàm của formula_1 tại mọi điểm trong của formula_45 tồn tại và bằng 0, khi đó formula_1 là hàm hằng.
Chứng minh: Giả sử rằng đạo hàm của formula_1 tại mọi điểm trong của formula_45 tồn tại và bằng 0. Đặt formula_8 là một khoảng mở bất kì trong formula_45. Theo định lý giá trị trung bình, tồn tại một điểm formula_4 sao cho
Từ đó suy ra formula_55. Do đó formula_1 là hàm hằng trên mọi khoảng con của formula_45, và vì vậy, nó là hàm hằng trên formula_45 do tính liên tục.
Nhận xét:
Định lý giá trị trung bình Cauchy.
Định lý giá trị trung bình Cauchy, còn được biết dưới tên định lý giá trị trung bình mở rộng, là một tổng quát hóa của định lý giá trị trung bình. Nó phát biểu rằng: Nếu các hàm số formula_1 và formula_33 cùng liên tục trên khoảng đóng formula_2 và khả vi trên khoảng mở formula_8, khi đó tồn tại một điểm formula_4 sao cho
Nếu formula_71 và formula_72, điều này tương đương với
Nói theo ngôn ngữ hình học, điều này có nghĩa là tồn tại một tiếp tuyến với đồ thị của đường cong
sao cho tiếp tuyến này song song với đường thẳng nối hai điểm formula_75. Tuy nhiên, định lý Cauchy không khẳng định sự tồn tại của một tiếp tuyến như thế trong mọi trường hợp formula_76 và formula_77 là các điểm phân biệt, bởi vì điều này được thỏa mãn chỉ khi tồn tại một giá trị formula_39 sao cho formula_79, nói cách khác, một giá trị mà tại đó đường cong dừng. Một ví dụ cho trường hợp này là đường cong được cho bởi
trên khoảng formula_2 đi từ điểm (-1,0) đến điểm (1,0), không có một tiếp tuyến nằm ngang. Tuy nhiên nó có một điểm dừng tại formula_82.
Định lý giá trị trung bình Cauchy có thể được dùng để chứng minh quy tắc l'Hôpital. Định lý giá trị trung bình là một trường hợp đặc biệt của định lý giá trị trung bình Cauchy khi formula_33 là hàm số đồng nhất: formula_84.
Chứng minh của định lý trung bình Cauchy.
Chứng minh của định lý trung bình Cauchy được dựa trên ý tưởng tương tự với chứng minh của định lý giá trị trung bình.
Đặt formula_85, với formula_29 là một hằng số ta sẽ xác định sau. Vì formula_87 là các hàm số liên tục trên formula_2 và khả vi trên formula_8, điều tương tự cũng đúng với formula_90. Ta sẽ chọn formula_29 sao cho formula_92 thỏa mãn các điều kiện của định lý Rolle, tức là
Theo định lý Rolle, tồn tại một điểm formula_4 sao cho formula_95, và từ đẳng thức formula_85, ta suy ra
Đây chính là điều cần chứng minh.
Tổng quát hóa cho định thức.
Giả sử rằng formula_87 và formula_90 là các hàm liên tục trên formula_2 và khả vi trên formula_8. Đặt
Khi đó tồn tại formula_4 sao cho formula_104.
Để ý rằng
và nếu ta lấy formula_106, ta thu được định lý giá trị trung bình Cauchy. Nếu ta thay formula_106 và formula_108, ta thu được định lý giá trị trung bình.
Chứng minh của tổng quát hóa này khá đơn giản: Ta có formula_109 và formula_110 là các định thức có hai hàng bằng nhau, do đó formula_111. Từ định lý Rolle, ta suy ra tồn tại formula_4 sao cho formula_104.
Định lý giá trị trung bình với hàm nhiều biến.
Định lý giá trị trung bình với hàm một biến được tổng quát lên với hàm nhiều biến bằng cách sử dụng tham số. Đặt formula_114 là một tập con mở của formula_115, và đặt formula_116 là một hàm khả vi. Cố định các điểm formula_117 sao cho khoảng mở formula_118 nằm trong formula_114 và đặt formula_120. Vì formula_33 là hàm một biến khả vi, áp dụng định lý giá trị trung bình, ta có
với formula_123. Lại có formula_124 và formula_125, tính trực tiếp formula_126, ta có
trong đó formula_128 là vector gradient và formula_129 ký hiệu tích vô hướng. Chú ý rằng đây chính là phiên bản tương tự của định lý với hàm một biến. Theo bất đẳng thức Cauchy-Schwarz, đẳng thức trên cho ta
Đặc biệt, khi các đạo hàm riêng của formula_1 bị chặn, formula_1 liên tục Lipschitz (và do đó hội tụ đều). Chú ý rằng formula_1 không được giả sử rằng khả vi liên tục cũng như liên tục trên bao đóng của formula_114. Tuy nhiên, ta đã sử dụng quy tắc xích, do đó sự tồn tại của formula_135 là không cần thiết.
Ta sẽ chứng minh rằng formula_1 là hàm hàng nếu formula_114 liên thông và mọi đạo hàm riêng của formula_1 đều bằng 0. Lấy formula_139 và đặt formula_140. Ta sẽ chỉ ra rằng formula_141 với mọi formula_142. Thật vậy, đặt formula_143. Khi đó formula_144 đóng và khác rỗng. Đồng thời formula_144 cũng là tập mở: với mọi formula_146, ta có
với mọi formula_148 trong một lân cận nào đó của formula_20. Vì formula_114 liên thông, ta suy ra formula_151.
Chú ý rằng tất cả các lập luận bên trên không phụ thuộc vào tọa độ, do đó, trên thực tế chúng ta đã tổng quát cho trường hợp formula_114 là tập con của một không gian Banach.
Định lý giá trị trung bình với hàm nhận giá trị vector.
Không có một sự tương tự chính xác của định lý giá trị trung bình cho hàm nhận giá trị vector. Trong bộ sách "Foundations of Modern Analysis" của mình, Jean Dieudonné đã bỏ qua định lý giá trị trung bình và thay thế nó bởi bất đẳng thức trung vì cách chứng minh không có tính xây dựng và chúng ta không thể tìm được giá trị trung bình. Serge Lang, trong quyển "Analysis I" đã sử dụng định lý giá trị trung bình dạng tích phân, nhưng cách này yêu cầu tính liên tục của đạo hàm. Nếu sử dụng tích phân Henstock-Kurzweil thì ta có thể có định lý giá trị trung bình dưới dạng tích phân mà không cần giả thiết thêm đạo hàm phải liên tục, có điều này là vì mọi đạo hàm đều khả tích Henstock-Kurzweil.
Bài toán có thể được phát biểu như sau: Nếu formula_153 là một hàm khả vi (với formula_154 là tập mở) và nếu formula_155 là một đoạn thẳng nằm trong formula_156, khi đó ta có thể áp dụng quá trình tham số hóa bên trên cho một hàm thành phần formula_157 của formula_1 (với ký hiệu như trên, đặt formula_159). Như vậy, ta có thể tìm các điểm formula_160 trên đoạn thẳng sao cho
Tuy nhiên, với trường hợp tổng quát, không tồn tại một điểm "duy nhất" formula_162 trên đoạn thẳng sao cho
đồng thời với mọi formula_164. Để minh họa, ta có thể lấy formula_165 được xác định bởi các hàm thành phần formula_166. Khi đó formula_167. Tuy nhiên formula_168 và formula_169 không đồng thời bằng 0 với mọi formula_20.
Tuy nhiên, một cách tổng quát hóa của định lý giá trị trung bình với hàm nhận giá trị vector có thể nhận được như sau: Đặt formula_1 là một hàm thực khả vi liên tục được xác định trên một khoảng mở formula_45, và đặt formula_173 là các điểm của formula_45. Từ định lý giá trị trung bình với hàm một biến, ta suy ra tồn tại một điểm formula_175 sao cho
Mặt khác, theo định lý cơ bản của giải tích, ta có
Do đó, giá trị formula_178 tại điểm formula_179 được thay thế bởi giá trị trung bình
Công thức này có thể được tổng quát cho hàm nhận giá trị vector: Đặt formula_154 là tập mở, formula_153 khả vi liên tục, và formula_183 là các vector sao cho toàn bộ đoạn thẳng formula_184 nằm trong formula_156. Khi đó ta có
Với tích phân của ma trận được lấy theo từng thành phần. (formula_187 ký hiệu ma trận Jacobi của formula_1.)
Từ điều này, ta còn có thể suy ra rằng nếu formula_189 bị chặn với formula_190 bởi một hằng số formula_191 nào đó, khi đó
Chứng minh (*). Ký hiệu formula_157 cho các hàm thành phần của formula_1. Xác định formula_195 bởi formula_196. Khi đó ta có
Khẳng định được suy ra từ việc formula_187 là ma trận gồm các thành phần formula_199.
Chứng minh (**). Từ (*), ta có
Ở đây ta đã sử dụng bổ đề sau:
Bổ đề. Đặt formula_201 là hàm liên tục được xác định trên đoạn formula_202. Khi đó ta có
Chứng minh (***). Đặt formula_204 là giá trị của tích phân
Khi đó ta có
suy ra formula_207. (Ở đây ta đã sử dụng bất đẳng thức Cauchy-Schwarz.) Từ đây ta có (***) được chứng minh, và (**) cũng được chứng minh.
Định lý giá trị trung bình dạng tích phân.
Định lý giá trị trung bình dạng tích phân thứ nhất.
Định lý giá trị trung bình dạng tích phân thứ nhất khẳng định rằng:
Đặc biệt, nếu formula_213 với mọi formula_214, khi đó tồn tại formula_14 sao cho
Đẳng thức này thường được viết dưới dạng
Giá trị formula_218 được gọi là "giá trị trung bình" của formula_219 trên đoạn formula_2.
Chứng minh của định lý giá trị trung bình dạng tích phân thứ nhất.
Không mất tính tổng quát, giả sử formula_221 với mọi formula_222. Từ định lý cực trị, hàm liên tục formula_114 có các giá trị cực tiểu formula_224 và giá trị cực đại formula_191 hữu hạn trên đoạn formula_2. Từ tính đơn điệu của tích phân và bất đẳng thức formula_227, cùng với giả thiết formula_228 không âm, ta có
với formula_230
ký hiệu tích phân của formula_228 trên formula_2. Do đó, nếu formula_233, ta có đẳng thức xảy ra với mọi formula_14. Vì vậy, ta có thể giả sử formula_235. Chia cả hai vế cho formula_45 và ta nhận được
Từ định lý giá trị trung gian, ta suy ra hàm liên tục formula_219 đạt được mọi giá trị trong đoạn formula_239, đặc biệt, tồn tại formula_240 sao cho
Từ đây ta có điều cần chứng minh.
Định lý giá trị trung bình cho tích phân thứ hai.
Có nhiều định lý khác nhau đôi chút cùng được gọi là "định lý giá trị trung bình thứ hai dạng tích phân". Một phiên bản thông dụng như sau:
Ở đây formula_246 ký hiệu cho formula_247, từ các điều kiện đã cho có thể suy ra giới hạn này tồn tại. Chú ý rằng formula_244 có chứa điểm formula_249 là một điều kiện quan trọng. Một biến thể khác của định lý không có điều kiện này như sau:
Định lý này được chứng minh bởi Hiroshi Okamura vào năm 1947.
Công thức xác suất tương tự định lý giá trị trung bình.
Giả sử formula_254 là các biến ngẫu nhiên với formula_255 và formula_256 (tức là formula_257 nhỏ hơn formula_258 theo thứ tự ngẫu nhiên thông thường). Khi đó tồn tại một biến ngẫu nhiên không âm, liên tục tuyệt đối formula_259 có hàm mật độ xác suất | 1 | null |
Hans Christian Joachim Gram (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1853 - mất ngày 14 tháng 11 năm 1938) là nhà vi sinh vật học người Đan Mạch. Ông là con của Frederik Terkel Julius Gram, một giáo sư Luật học, và bà Louise Christiane Roulund.
Ông học thực vật học tại Đại học Copenhagen và là trợ lý về lĩnh vực thực vật học cho nhà động vật học Japetus Steenstrup. Các hiểu biết của ông về thực vật đã giúp ông lý giải được các nguyên tắc cơ bản của Dược học và từ đó ứng dụng vào thế giới vi mô.
Ông bắt đầu học tại trường Y khoa từ năm 1878 và tốt nghiệp vào năm 1883. Ông đi du lịch vòng quanh châu Âu từ năm 1878 tới năm 1885. Tại Berlin, năm 1884, ông phát triển phương pháp cơ bản nhất để phân biệt giữa hai nhóm lớn của vi khuẩn. Kỹ thuật này được gọi là Nhuộm Gram, và ngày nay nó vẫn còn được dùng phổ biến trong quy trình xác định vi sinh vật trong ngành y tế.
Năm 1891, Gram bắt đầu làm giảng viên trong trường Dược, và vào cuối năm đó ông được bổ nhiệm làm giáo sư tại Đại học Copenhagen. Năm 1900 ông giữ chức của mình tại khoa Dược vả chính thức trở thành Giáo sư Y khoa.
Nhuộm Gram.
Việc đã mang lại cho ông tiếng tăm đó chính là việc phát triển kỹ thuật nhuộm màu vi khuẩn, làm cho chúng có thể nhìn thấy được dưới kính hiển vi. Sự bắt màu khác nhau của vi khuẩn đóng một vai trò hết sức quan trọng tỏng việc phân loại vi khuẩn sau này. Gram là một người khiêm tốn, và trong công bố đầu tiên của mình, ông nhận xét, "Tôi công bố phương pháp này, mặc dù tôi biết rằng nó còn nhiều khiếm khuyết và chưa hoàn hảo, nhưng hy vọng rằng dưới bàn tay của các nhà khoa học khác, nó sẽ thực sự hữu dụng." Phương pháp nhuộm Gram được tiến hành bằng cách sử dụng hai loại thuốc nhuộm cơ bản lầm lượt là tím tinh thể và thuốc nhộm safranin. Vi khuẩn sẽ bị nhuộm thành màu tím, lúc đó chúng được gọi là "Gram dương", trong khi đó, một số vi khuẩn khác chuyển sang màu đỏ hồng, lúc đó chúng được gọi là "Gram âm".
Công việc khác.
Công việc đầu tiên ông nghiên cứu có liên quan đến hồng cầu ở người. Ông là một trong những người đầu tiên nhận ra rằng macrocyte là nguyên nhân chủ yếu của bệnh pernicious anaemia - thiếu máu ác tính.
Sau khi được bổ nhiệm làm Giáo sư Y khoa vào năm 1900, ông bắt đầu xuất bản bốn tập bài giảng lâm sàng mà vẫn được sử dụng rộng rãi ở Đan Mạch. Ông về hưu năm 1923. | 1 | null |
Bình Minh tên đầy đủ Nguyễn Bình Minh (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1981 tại Lạng Sơn) là một siêu mẫu thuộc thế hệ người mẫu thứ ba, diễn viên và MC người Việt Nam. Anh từng đoạt giải thưởng Mai Vàng 2011 ở hạng mục "Nam diễn viên chính được yêu thích nhất" qua vai Chí Cùa trong phim "Vật chứng mong manh".
Tiểu sử.
Bình Minh có quê quán ở Lạng Sơn, anh khởi nghiệp với vai trò là một người mẫu. Sở hữu ngoại hình lý tưởng (cao 1m85, nặng 87 kg, số đo ba vòng 101 – 83 – 100), Bình Minh nhanh chóng trở thành một gương mặt người mẫu sáng giá và giành được nhiều giải thưởng người mẫu khác nhau, đặc biệt là giải "Siêu mẫu ấn tượng" trong cuộc thi "Tìm kiếm người mẫu thời trang châu Á" năm 2002.
Năm 2001, Bình Minh vào Thành phố Hồ Chí Minh lập nghiệp, từ công việc người mẫu, anh còn tham gia lĩnh vực điện ảnh và dẫn chương trình. Với vai trò diễn viên, anh từng tham gia nhiều bộ phim: Chuyện tình xa xứ, Giao lộ định mệnh, Cô gái xấu xí, Để mai tính, Người mẫu, Vật chứng mong manh, Nữ sát thủ, Khát vọng thượng lưu, Giấc mơ cỏ may...
Ngày 21 tháng 12 năm 2008, Bình Minh vinh dự nhận danh hiệu "Người mẫu nam xuất sắc của năm" tại lễ trao giải "Người mẫu Việt Nam". Cũng trong năm 2008, Bình Minh kết hôn với Anh Thơ, cặp đôi sinh được hai con gái là An Nhiên và An Như.
Bình Minh là một đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh có một căn nhà ở quận 7.
Một số phim truyền hình đã tham gia.
Hài cuối năm.
Gặp nhau cuối năm: Thiên lôi
Một số chương trình truyền hình tham gia.
Chung sức.
Anh dẫn dắt chương trình này thay thế vị trí của nghệ sĩ Tạ Minh Tâm từ số phát sóng đầu năm 2012 cho đến hết cuối năm 2014. Từ đầu năm 2015, anh không phải ở vị trí này ví lý do bận việc cá nhân riêng của mình. Người kế nhiệm vị trí của anh là nghệ sĩ Trường Giang và ca sĩ Hari Won.
Siêu đầu bếp.
Anh dẫn dắt chương trình ở mùa đầu tiên.
Thử tài thách trí.
Trong suốt thời gian phát sóng, anh luôn là người dẫn dắt chương trình.
Ai thông minh hơn học sinh lớp 5?
Anh dẫn dắt chương trình này thay thế vị trí của MC Trấn Thành từ số phát sóng ngày 16/2/2014 cho đến khi chương trình kết thúc vào ngày 24/2/2016. Anh cũng là người cuối cùng dẫn dắt chương trình này.
Tôi là... người chiến thắng.
Anh dẫn dắt chương trình ở mùa đầu tiên.
Tôi là diễn viên.
Anh dẫn dắt chương trình cùng với MC Liêu Hà Trinh ở mùa đầu tiên.
Gặp gỡ VTV.
Anh dẫn dắt chương trình trong năm 2015.
Sức sống mới.
Anh dẫn đôi cùng với các MC khác trong suốt thời gian phát sóng.
Sắc màu cuộc sống.
Anh dẫn dắt chương trình trong suốt thời gian phát sóng.
Gala cười.
Anh dẫn dắt chương trình cùng với MC Thảo Vân trong năm 2016 và hoa hậu Đỗ Mỹ Linh trong năm 2019.
Cầu thủ nhí.
Anh dẫn dắt chương trình ở mùa thứ 2.
Hãy nghe họ nói.
Anh dẫn dắt chương trình trong suốt thời gian phát sóng.
Chào 2017.
Anh dẫn dắt chương trình này cùng với Á hậu 2 Hoa hậu Việt Nam 2008 Thụy Vân.
Let's Cafe.
Anh dẫn dắt cùng với các MC khác trong suốt thời gian phát sóng. | 1 | null |
Felix Arvid Ulf Kjellberg ( , ; sinh ngày 24 tháng 10 năm 1989), được biết đến với biệt danh trên mạng là PewDiePie ( ), là một YouTuber, diễn viên hài và nhà từ thiện người Thụy Điển, được biết đến chủ yếu qua những video Let's Play và thể loại hài kịch. Sau khi đăng ký kênh YouTube với biệt danh của mình vào năm 2010, Kjellberg chủ yếu đăng video Let's Play về trò chơi hành động và kinh dị. Kênh của anh đã có sự tăng trưởng đáng kể về mức độ phổ biến trong hai năm tiếp theo và anh đã đạt 1 triệu lượt đăng ký vào tháng 7 năm 2012. Theo thời gian, phong cách nội dung của anh được đa dạng hóa bao gồm vlog, hài kịch ngắn, chương trình được định dạng và video ca nhạc.
Vào ngày 15 tháng 8 năm 2013, PewDiePie trở thành trở thành người dùng có nhiều lượt đăng ký nhất trên YouTube, bị vượt qua vào cuối năm 2013 bởi YouTube Spotlight. Nắm giữ vị trí kể từ ngày 23 tháng 12 năm 2013, kênh đã có hơn 100 triệu lượt đăng ký tính đến đầu tháng 9 năm 2019. Từ ngày 29 tháng 12 năm 2014 đến ngày 14 tháng 2 năm 2017, kênh của PewDiePie nắm giữ vị thế là kênh có nhiều lượt xem nhất YouTube, và tính đến tháng 5 năm 2022, kênh đã có hơn 28 tỷ lượt xem video.
Nội dung YouTube được chú ý nhất của PewDiePie bao gồm bình luận về video game, chủ yếu là thể loại kinh dị, nhưng rồi anh chuyển hướng sang nhiều thể loại game đa dạng. Ngoài ra, anh còn làm một số video về thể loại hài kịch, châm biếm và thỉnh thoảng là vlog.
Những năm đầu cuộc đời và giáo dục.
Kjellberg sinh ra và lớn lên tại Gothenburg, Thụy Điển. Anh được sinh ra với mẹ là Lotta Kristine Johanna (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1958) và Ulf Christian Kjellberg (sinh ngày 8 tháng 1 năm 1957), và lớn lên cùng chị gái. Mẹ anh, một cựu giám đốc công nghệ thông tin (CIO), được vinh danh là CIO của năm 2010 tại Thụy Điển. Cha anh cũng là một giám đốc điều hành của công ty.
Trong quãng thời gian đi học đầu, anh quan tâm đến hội họa và đã nói chi tiết rằng anh sẽ vẽ các nhân vật trò chơi video nổi tiếng như Mario và Sonic the Hedgehog, cũng như chơi các trò chơi video trên Hệ thống giải trí Super Nintendo của mình, chẳng hạn như "Star Fox" và "". Khi còn học trung học, anh thường chơi điện tử trong phòng ngủ và hay trốn học để chơi trò chơi điện tử tại một quán cà phê Internet với bạn bè; Về chủ đề này, Kjellberg đã bình luận: "Thụy Điển có một nền văn hóa tuyệt vời xung quanh việc chơi game." Năm cuối cấp 3, anh lấy tiền kiếm được từ việc bán những bức tranh của bà mình để mua máy tính. Sau đó, anh tiếp tục theo đuổi bằng cấp về kinh tế công nghiệp và quản lý công nghệ tại Đại học Công nghệ Chalmers, nhưng đã rời trường đại học năm 2011. Về quyết định của mình, Kjellberg đã tuyên bố: "Nghĩ về nó bây giờ, điều đó hoàn toàn vô lý. Để vào trường Chalmers học kinh tế công nghiệp, bạn cần phải học thật giỏi, nhưng bằng cách nào đó tôi đã hạnh phúc hơn khi bán hot dog và làm video chơi game của riêng mình." Trong khi lý do rời trường Chalmers thường được báo cáo là muốn tập trung vào sự nghiệp YouTube của mình, vào năm 2017, Kjellberg đã làm rõ, "Tại sao mọi người lại hiểu sai câu chuyện này? Tôi bỏ học đại học vì tôi không thích nó. Bỏ học đại học để theo đuổi YouTube, điều đó thật ngu ngốc." Anh nói thêm rằng "quản lý công nghiệp và kinh tế thật là nhàm chán và tôi không thể liên hệ đến bất cứ ai."
Kjellberg cũng đã chia sẻ rằng anh "yêu Photoshop", muốn làm việc với nghệ thuật xử lý ảnh bằng Adobe Photoshop hơn là ở trường. Liên quan đến niềm đam mê này, anh tham gia các cuộc thi Photoshop và gần như kiếm được quyền học việc tại "một trong những công ty quảng cáo tốt nhất ở Scandinavia." Anh cũng quan tâm đến việc tạo nội dung trên YouTube và sau khi không kiếm được quyền học việc, anh đã bán các bản in hình ảnh Photoshop phiên bản giới hạn của mình để mua một cái máy tính để làm các video trên YouTube.
Sự nghiệp YouTube.
Những năm đầu sự nghiệp (2010 - 2012).
Kjellberg ban đầu đăng ký tài khoản YouTube mang tên "Pewdie" vào tháng 12 năm 2006, anh giải tích từ "pew" là tiếng của laser còn "die" nghĩa là chết, nhưng tài khoản này anh quên mật khẩu. Kjellberg tạo tài khoản YouTube có tên là PewDiePie vào ngày 29 tháng tháng 4 năm 2010. Trong năm 2012, kênh của anh trở nên nổi tiếng và cuối cùng đạt được cột mốc 1 triệu người đăng ký vào ngày 11 tháng 7 năm 2012, và 2 triệu trong tháng 9 năm 2012. Tháng 2 năm 2012, anh đã thử tham gia chương trình King of the Web - một cuộc thi trên mạng. Trong lần thử đầu tiên, anh đã thất bại và mất chức vô địch tổng thể. Nhưng anh vẫn trở thành "Gaming King of the Web" trong cuộc bầu cử từ ngày 1 đến 15 tháng 2 năm 2012. Trong cuộc bầu cử tiếp theo, anh đã chiến thắng và tặng số tiền thắng được cho Quỹ Động Vật Hoang Dã Thế giới. Anh cũng đã phát biểu tại Hội nghị Nonick 2012. Trong tháng 10 năm 2012, OpenSlate đã xếp hạng kênh PewDiePie là kênh YouTube số 1 theo các điều khoản của "Điểm Slate".
Trở thành một trong những người dùng được nhiều lượt đăng ký nhất và tiếp tục con đường phát triển (2013 - 2016).
Ngày 18 tháng 2 năm 2013, kênh của anh đạt 5 triệu lượt người đăng ký. Trong tháng 4 năm 2013, kênh của Kjellberg đã đạt hơn 6 triệu lượt người đăng ký theo tờ "New York Times". Sau này anh đoạt giải Chương Trình Phổ Biến Nhất Trong Xã Hội, đấu với Jenna Marble, Smosh và Toby Turner, cùng với Giải Ngôi Sao Xã Hội Thụy Điển, tại buổi khai mạc giải Social Stars được đăng khai ở Singapore trong tháng 5 năm 2013. Anh cũng đã được giới thiệu là một ứng cử viên cho giải Game nổi tiếng nhất trong giờ phát sóng trực tiếp của buổi lễ. Trong tháng 6 năm 2013, kênh của anh đạt đến 8 triệu lượt đăng ký, và sau đó là 9 triệu. Từ năm 2012 đến năm 2013, kênh của anh là một trong những kênh phát triển nhanh nhất của YouTube. Lần chơi qua The Last of Us của anh được ghi thành tài liệu vì làm các game thủ không nói nên lời. Tháng 7 năm 2013, anh đánh bại Jenna Marbles để trở thành người được đăng ký nhiều thứ 2 trên YouTube và ngày 9 tháng 7 năm 2013 đạt 10 triệu người đăng ký.
Khủng hoảng truyền thông (2017–2018).
Kênh của Kjellberg tập trung chủ yếu vào những bình luận và phản ứng của anh về những trò chơi mà anh chơi qua. Anh được biết đến với việc chơi các game thể loại kinh dị và hành động, đáng nói nhất là và những cốt truyện làm bởi fan của anh.
Tháng 9 năm 2017, Kjellberg bị chỉ trích với những câu đùa giỡn thái quá mang tính phân biệt chủng tộc đã khiến cho anh gặp nhiều phản ứng trái chiều. Youtube đã cấm anh công chiếu "Scare Pewdiepie Season: 2" sau việc anh phát ngôn có tính phân biệt chủng tộc khi live-stream PlayerUnknowns' Battleground. Ông Sean Vanaman, đồng sáng lập công ty Campo Santo, đã cấm anh đăng video về game Firewatch họ sắp ra.
Kjellberg sau đó đã đăng tải một đoạn video ngắn xin lỗi vì phát ngôn không đúng mực trong trong buổi phát trực tiếp, bày tỏ rằng "Tôi thất vọng về bản thân mình, vì có vẻ như tôi không học được gì từ tất cả những tranh cãi trong quá khứ, [Văng tục] thực sự không ổn. Tôi thực sự xin lỗi nếu tôi đã xúc phạm, làm tổn thương hoặc thất vọng bất kỳ ai. Ở vị trí này thì tôi nên biết điều."
Từ đó trở đi anh chỉ làm những video thực tế như "LWIAY", "Meme Review"...
Xuất hiện trong các công việc khác.
Tháng 4 năm 2013, Kjellberg có một xuất hiện nhỏ trong mùa thứ hai của chương trình web, Epic Rap Battle of History, trong vai Mikhail Baryshnikov. Một đoạn video của anh đã xuất hiện trong một clip Music Mix của Joe Penna, được biết nhiều hơn với biệt danh, MysteryGuitarMan. Kjellberg đã được thông báo sẽ làm một giám khảo khách mời trong mùa thư hai của sê-ri web Internet Icon. Anh cũng đã xuất hiện trong một clip của SmoshGames của cặp đôi YouTube Smosh và Your Grammar Sucks của Jacksfilms. Anh hiện cũng có mặt trên một chương web sê-ri mới của YouTube 'PewDiePie And Friends' sáng tạo bởi Polaris.
Hình ảnh trong cộng đồng.
Kjellberg thường gọi fan của mình '9 year old army'. Anh thường làm một cú 'Brofist' (Cụng tay) vào những phút cuối trước khi chào tạm biệt trong những clip của mình. Tại Giải Social Star, anh cố tình đi chào đón những người hâm mộ của mình bất chấp bảo vệ cảnh cáo anh không được làm như vậy.
Kênh của Kjellberg thuộc Maker Studio, được biết đến như một mạng lưới đa kênh làm tăng sự phát triển của những kênh dưới quyền của nó. Kênh của Kjellberg xuất hiện rất mạnh mẽ đến các khán giả nhỏ tuổi, một nhóm được Google đề cập với cái tên Generation C vì thói quen "sáng tạo (Creation), sửa chữa (Curation), kết nối (Connection) và cộng đồng (Community).
Ra mắt game, sách và series Scare PewDiePie.
Ngày 20 tháng 10 năm 2015 cùng với Penguin Group, anh xuất quyển sách của riêng anh, "This Book Loves You". Quyển sách được lấy cảm hứng từ chính fan của anh trên Twitter. Tháng 1 năm 2017, anh đã bán được 112.000 bản.
Ngày 24 tháng 9 năm 2015, Kjellberg hợp tác cùng Outerminds cho ra mắt game đầu tiên "PewDiePie: Legend of the Brofist" trên nền tảng IOS và Android. Tháng 1 năm 2016, anh công bố việc hợp tác với Makers tạo nên Revelmode và ngày 29 tháng 9 năm 2016, anh cho ra mắt "PewDiePie's Tuber Simulator" trên nền tảng IOS và Android. Vào ngày ra mắt, game đã thu hút lượt tải đông nhất trên App Store và ngày hôm sau anh được thông tin rằng game của anh đã được tải trên 1.000.000 lần.
Tháng 2 năm 2015, cùng nhà sản xuất Maker Studios (hiện là Disney Digital Network) và Youtube Red (Nay là Youtube Premium), Kjellberg cho ra mắt Scare PewDiePie mùa đầu tiên.
Cạnh tranh với T-Series (2018–29/4/2019).
Vào ngày 5 tháng 11 năm 2018, Felix Kjellberg đã đăng tải bài rap "Bitch Lasagna" hay còn được gọi là "T-Series diss track" trên kênh YouTube của mình để chống lại kênh đối thủ T-Series vì kênh này vượt mặt anh về số lượng người đăng ký. Bài rap này chủ yếu mang nội dung châm biếm và hài hước qua việc chỉ trích T-Series với nhiều ngôn từ chọc ghẹo, chửi rủa, cho rằng kênh dùng tool, sub bot để tăng số người đăng ký kênh.
Ngày 31 tháng 3 năm 2019, PewDiePie cho ra mắt thêm 1 diss track có tên là "Congratulations" cùng với Roomie và Boyinaband để mỉa mai T-Series.
Vào ngày 11 tháng 4, T-Series bắt đầu yêu cầu tòa án yêu cầu xóa "bản nhạc diss" của Kjellberg khỏi YouTube. Theo trang web giải trí và luật Iprmentlaw, T-Series gửi đơn kiện lên tòa Tòa án Tối cao Delhi để yêu cầu xóa video "Bitch Lasagna" và "Congratulations" của Kjellberg khỏi YouTube. Kết quả phán quyết có lợi cho T-Series. Đơn kiện chống lại Kjellberg cho rằng các bài hát của anh ấy là "phỉ báng, miệt thị, xúc phạm", đồng thời cho rằng bình luận phía dưới video có tính chất "lăng mạ, tục tĩu và cũng có tính chất phân biệt chủng tộc." Quyền truy cập vào các video nhạc trên YouTube đã bị chặn ở Ấn Độ. Hai bên được cho là đã đi đến giải quyết vào cuối tháng 7, mặc dù các video của Kjellberg vẫn bị chặn ở Ấn Độ.
Tranh cãi Nimses, sê-ri Minecraft và bị cấm ở Trung Quốc (2019–2020).
Ngày 21 tháng 6 năm 2019, Kjellberg cho ra mắt "Gaming Week" ("Tuần chơi game"), cùng với đó là sự trở lại của các video Let's Play sau nhiều năm vắng mặt. Kjellberg đăng tải hàng loạt các video anh chơi "Minecraft" suốt nhiều tháng, nội dung này cũng lọt vào "Meme Review" và "LWIAY". Kjellberg đã từng chơi "Minecraft" trong những thời đầu sự nghiệp YouTube của mình, anh hạn chế tham gia vào xu hướng "YouTuber "Minecraft"", những người chỉ chơi "Minecraft" vì mức độ phổ biến của nó thay vì tự trải nghiệm. Do đó, Kjellberg đã nhận được hơn 570 triệu tổng lượt xem suốt một tháng (tháng 7), và lượng đăng ký của anh tăng hàng ngày từ 25,000 đến 45,000 suốt tháng đó. Dù vậy, Kjellberg thừa nhận anh chỉ chơi game cho vui và không muốn trở thành một "YouTuber "Minecraft"", nói rằng "Nếu "Minecraft" bị cho là chán, tôi có thể chuyển sang những thứ khác."
Ngày 25 tháng 8, PewDiePie trở thành YouTuber độc lập đầu tiên đạt 100 triệu lượt đăng ký và là kênh thứ hai đạt cột mốc này sau khi T-Series vượt mặt anh vài tháng trước. YouTube đã tweet một lời chúc mừng.
Vào tháng 10, trong một video Kjellberg tuyên bố rằng nội dung YouTube của anh, cũng như nội dung liên quan đến anh trên các trang web khác như Reddit, đều đã bị chặn ở Trung Quốc. Anh giải thích rằng điều này là anh bình luận về các cuộc biểu tình tại Hồng Kông 2019–20 và so sánh hình ảnh nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc Tập Cận Bình với Winnie-the-Pooh trong một video trước đó. Vào tháng 12, Kjellberg được công nhận là người sáng tạo được xem nhiều nhất trong năm, với hơn 4 tỷ lượt xem vào năm 2019.
Đời sống riêng tư.
Nguồn gốc của Kjellberg là Thụy Điển, nhưng sau anh dời đến sống với bạn gái của anh Marzia Bisognin (biệt danh trên mạng là CutiePieMarzia), ở đất nước bản địa của cô, Ý. Anh dời đến Vương Quốc Anh vào tháng 7 năm 2013 để có mạng internet tốt hơn. Hiện anh và vợ của mình, Marzia Kjellberg đã chuyển đến Nhật Bản. Kjellberg là con của CIO (giám đốc công nghệ thông tin) cũ của KappAhl, Lotta Kristine Johanna, người từng đoạt giải CIO của năm 2010 tại Thụy Điển.
Làm từ thiện.
Kjellberg đã từng làm từ thiện cho Quỹ Động Vật Hoang Dã Thế giới và trẻ em trong Bệnh viện Nghiên cứu St. Jude. Anh cũng đã mở một cuộc vận động từ thiện nước, nơi mà fan của anh có thể quyên góp tiền, trong danh dự và ăn mừng 10 triệu lượt đăng ký. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2013, quỹ từ thiện của anh đã quyên góp được $172,189 trong mức $250,000 dự định.
Kết hôn.
Ngày 19 tháng 8 năm 2019, Kjellberg chính thức tổ chức đám cưới với người bạn gái 8 năm Marzia Bisognin, sau khi cầu hôn cô tại Nhật Bản năm 2018. Đám cưới được tổ chức một cách riêng tư với sự tham gia của người thân Kjellberg và Marzia. Những bức ảnh chụp tại đám cưới sau đó đã được Kjellberg đăng lên trang Twitter cá nhân của anh, bài đăng nhanh chóng thu hút hơn một triệu lượt thích trong vòng 10 giờ.
Tham khảo.
Trong văn bản, các nguồn tham khảo này được đặt trước bởi dấu (‡): | 1 | null |
TWiki là một ứng dụng wiki dựa trên ngôn ngữ lập trình Perl.
Dự án TWiki được lập bởi Peter Thoeny vào năm 1998 như là một nền tảng ứng dụng dựa trên wiki mã nguồn mở. Vào tháng 10 năm 2008, công ty TWiki.net được thành lập bởi Thoeny, đảm nhận toàn quyền kiểm soát dự án TWiki .
Các chức năng chính.
TWiki extension (Phần mở rộng của TWiki).
TWiki có một API plugin, đã tạo ra trên 300 extension liên quan tới các cơ sở dữ liệu, tạo ra các biểu đồ, tag, các bảng ngắn, viết các bảng biểu, tạo ra thư viện ảnh và slideshow, tạo ra các bản vẽ, viết blog, vẽ đồ thị, giao tiếp với nhiều bản xác minh, theo dõi các dự án Lập trình cực hạn...
Platform ứng dụng TWiki.
TWiki là một cấu trúc wiki cung cấp các trường thao tác kiểu cơ sở dữ liệu lưu trữ trên các trang, và cung cấp một ngôn ngữ truy vấn dạng SQL để nhúng vào các báo cáo trong các trang wiki.
and offers a SQL-like query language to embed reports in wiki pages.
Các ứng dụng Wiki còn được gọi là các ứng dụng tình huống vì chúng được tạo ra bốt phát bởi người dùng cho các nhu cầu rất cụ thể. Người dùng tạo ra các ứng dụng TWiki bao gồm các bảng trạng thái trung tâm, Task list, các hệ thống đánh giá, sổ tay hướng dẫn nhân viên, hệ thống tracker lỗi, các ứng dụng blog, forum, các báo cáo trạng thái với rollup...
Giao diện người dùng.
Giao diện của TWiki hoàn toàn có thể tùy biến được gồm các mẫu template, chủ đề theme và CSS bởi người dùng. Nó cũng hỗ trợ nhiều ngôn ngữ khác nhau('I18n'), với nhiều bộ ký tự, UTF-8 URL, và giao diện người dùng đã được dịch sang tiếng Trung Quốc, Séc, Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Nga, Tây Ban Nha và Thụy Điển.
Triển khai TWiki.
TWiki chủ yếu được sử dụng tại công sở như một wiki công ty để phối hợp các hoạt động nhóm, các dự án theo dõi, thực hiện tiến trình công việc và như một Wiki Intranet. Cộng đồng TWiki ước tính có khoảng 40.000 trang web wiki của công ty vào tháng 3/2007, và 20.000 trang web TWiki công cộng.
Khách hàng TWiki bao gồm các công ty thuộc nhóm Fortune 500 như Disney, Google, Motorola, Nokia, Oracle và Yahoo, cũng như trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và DHL. TWiki cũng từng được sử dụng để tạo ra các trang cộng tác, chẳng hạn như wiki "FutureMelbourne" của thành phố Melbourne, nơi người dân có thể góp ý về kế hoạch tương lai của thành phố.
Thực hiện.
TWiki được lập trình bằng Perl. Các trang wiki được lưu trữ trong các tập tin văn bản đơn giản. Tất cả mọi thứ, bao gồm các meta như các cài đặt kiểm soát truy cập, là phiên bản kiểm soát sử dụng RCS. RCS là tùy chọn vì tất cả hệ thống kiểm soát phiên bản Perl đã được cung cấp.
Các lớp TWiki khá tốt mặc dù nó sử dụng các tập tin văn bản đơn giản và không có cơ sở dữ liệu quan hệ để lưu trữ dữ liệu trang web. Nhiều cài đặt TWiki của các công ty có hàng trăm ngàn trang và hàng chục ngàn người sử dụng. Cân bằng tải và bộ nhớ đệm có thể được sử dụng để cải thiện hiệu suất trên các trang web có lưu lượng truy cập cao.
TWiki có các tính năng cơ sở dữ liệu được xây dựng trong engine. Một TWiki Form được đính kèm vào một trang như là meta data. Form này trình bày một bản ghi cơ sở dữ liệu. Một tập hợp các trang chia sẻ cùng một loại cách thức xây dựng một bảng cơ sở dữ liệu. Một tìm kiếm đã định sẵn with a SQL-like query có thể được nhúng vào một trang để xây dựng bản trình bày dữ liệu động từ nhiều trang. Điều này cho phép xây dựng các [ [ ứng dụng wiki]] và tạo nên khái niệm TWiki của một wiki có cấu trúc.
Các phân nhánh của TWiki.
Các phân nhánh của TWiki bao gồm: | 1 | null |
Harold Caballeros (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1956) là một luật sư, doanh nhân, chính trị gia và tham gia vào các học viện Guatemala. Hiện Ông đang là Tổng thư ký của Visión con Valores party, VIVA và là giám đốc của trường Đại học San Pablo de Guatemala (USPG). Ông đã đưa ra một số bài giảng đến hơn 45 quốc gia ở châu Mỹ Latinh, châu Âu và châu Á. | 1 | null |
Mamnoon Hussain ( (23 tháng 12 năm 1940 - 14 tháng 7 năm 2021) là một chính khách và nhà kinh doanh ngành dệt Pakistan người được bầu làm tổng thống Pakistan năm 2013.
Hussain trong một thời gian ngắn đảm nhận chức thống đốc của Sindh vào năm 1999, nhiệm kỳ thống đốc đã bị rút ngắn bởi cuộc cuộc đảo chính quân sự tháng 10 năm 1999. Ông được bầu làm tổng thống thứ 12 của Pakistan ngày 30 tháng 7 năm 2013, và sẽ nhậm chức vào ngày 8 tháng 9 năm 2013, kế vị Asif Ali Zardari, là người không tham gia tái tranh cử và nghỉ hưu.
Tiểu sử.
Mamnoon Hussain là một "người muhajir", sinh ở Agra. Ông di cư vào năm 1954 từ Ấn Độ và tốt nghiệp đại học từ Viện Quản trị Kinh doanh (IBA) trong Karachitrong những năm 1960. Hussain đã từng là chủ tịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Karachi. Trong một thời gian ngắn ông giữ chức thống đốc Sindh trong năm 1999.
Sự nghiệp chính trị.
Mamnoon Hussain được bầu làm tổng thống thứ 12 của Pakistan khi là ứng cử viên chính thức của PML-N trong cuộc cuộc bầu cử tổng thống tháng 7 năm 2013. Hussain giành được 432 phiếu và đối thủ duy nhất của ông Wajihuddin Ahmed nhận được 77 phiếu. | 1 | null |
Viện thiết kế thử nghiệm mang tên V. M. Myasishchev (Экспериментальный Машиностроительный Завод им. В. М. Мясищева) hay OKB-23, được Vladimir Myasishchev thành lập năm 1951. Là một trong những viện thiết kế hàng không vũ trụ hàng đầu của Liên Xô cho đến khi giải thể vào năm 1960. Vladimir Myasishchev trở thành người đứng đầu TsAGI. Năm 1967, Myasishchev rời TsAGI và tái thành lập lại viện thiết kế mang tên ông, và viện thiết kế này vẫn tồn tại cho tới ngày nay. Viện thiết kế này có tiền tố là "M." Tính đến năm 2003, số lượng công nhân viên của viện ước tính khoảng 1000 người. Myasishchev và NPO Molniya dự định sử dụng V-MT hoặc M-55 làm phương tiện phóng phục vụ cho các chuyến bay du lịch ở quỹ đạo thấp. | 1 | null |
Cosmopolis XXI là một phương tiện của Nga được quảng cáo là một phương tiện dành cho du kịch không gian, tương tự như chương trình Tier One của Mojave Aerospace. Do viện thiết kế Myasishchev thiết kế chế tạo, nó sẽ được phóng đi từ máy bay mẹ M-55X (phát triển từ Myasishchev M-55). | 1 | null |
Myasishchev M-60 là một thiết kế máy bay ném bom động cơ hạt nhân của Liên Xô. Thiết kế này tương tự như mẫu thử của máy bay ném bom M-50.
Myasishchev nhận được chỉ thị phát triển M-60 vào ngày 19 tháng 5 năm 1955.
Có thể tên định danh M-60 được sử dụng cho vài dự án của Myasishchev, bao gồm máy bay dân dụng và máy bay vận tải. | 1 | null |
Hạng Bá (項伯, ? - 192 TCN), là một nhân vật thời cuối Tần đầu Hán trong lịch sử Trung Quốc. Hạng Bá xuất thân trong gia đình quý tộc của nước Sở, cha là danh tướng Hạng Yên. Khi người anh của Hạng Bá là Hạng Lương cùng cháu là Hạng Vũ khởi nghĩa chống Tần ở đất Ngô (nay thuộc Tô Châu, Giang Tô), Hạng Bá cũng tham gia.
Trương Lương, mưu sĩ của Bái công Lưu Bang, từng có ơn với Hạng Bá. Vì thế khi theo Hạng Vũ tiến vào Hàm Dương, biết được Hạng Vũ có ý giết Lưu Bang, Hạng Bá đã báo cho Lưu Bang biết. Sau đó, Hạng Vũ theo kế của mưu sĩ Phạm Tăng bày tiệc rượu ở Hồng Môn, mời Lưu Bang đến dự để nhân đó giết chết ông ta. Nhưng khi gặp mặt Lưu Bang thì Hạng Vũ lại do dự. Phạm Tăng bèn bảo Hạng Trang múa kiếm giúp vui, tìm cơ hội đâm Lưu Bang. Hạng Bá cũng đứng lên tuốt gươm múa, che đỡ cho Lưu Bang khiến mưu của Phạm Tăng không thành.
Lưu Bang diệt Hạng Vũ, lên làm Hán Cao Tổ, do biết ơn Hạng Bá nên phong cho Hạng Bá làm Dịch Dương hầu.
Hạng Bá chết năm 192 TCN. Lúc còn sống, Hạng Bá lấy Hứa thị sinh Hạng Đông và Hạng Bổn, con lên kế vị bị tội và bị bỏ đất phong. | 1 | null |
OKB Chyetverikov là một viện thiết kế hàng không của Liên Xô, đứng đầu là kỹ sư trưởng Igor Vyacheslavovich Chyetverikov tại nhà máy Menzhinskii của TsAGI ("Tsentrahl'nyy Aerodinamicheskiy i Ghidrodinamicheskiy Institoot"- viện nghiên cứu thủy động học và khí động học trung ương), được thành lập từ năm 1931 với nhiệm vụ thiết kế chế tạo tàu bay. | 1 | null |
Grigorovich M-5 (định danh ban đầu Shch M-5, đôi khi còn gọi là Shchetinin M-5) là một loại tàu bay hai tầng cánh của Nga trong Chiến tranh thế giới I. Do Grigorovich thiết kế. Đây là loại tàu bay đầu tiên sản xuất hàng loạt ở Nga.
Tài liệu.
Heinonen, Timo: "Thulinista Hornetiin - Keski-Suomen ilmailumuseon julkaisuja 3", Keski-Suomen ilmailumuseo, 1992, ISBN 951-95688-2-4
Durkota, Darcey & Kulikov: "The Imperial Russian Air Service - Famous Pilots and Aircraft of World War 1", Flying Machines Press, 1995, ISBN 0-9637110-2-4 | 1 | null |
Grigorovich M-9 (định danh ban đầu ShCh M-9, còn gọi là Shchetinin M-9) là một loại tàu bay hai tầng cánh của Đế quốc Nga trong Chiến tranh thế giới II, do Grigorovich phát triển dựa trên loại M-5.
Tài liệu.
Heinonen, Timo: "Thulinista Hornetiin - Keski-Suomen ilmailumuseon julkaisuja 3", Keski-Suomen ilmailumuseo, 1992, ISBN 951-95688-2-4 | 1 | null |
Grigorovich M-15 (định danh gốc ShCh M-15 (), đôi khi còn gọi là
Shchetinin M-15) là một loại tàu bay hai tầng cánh của Đế quốc Nga trong Chiến tranh thế giới I, được phát triển từ M-9.
Tài liệu.
Heinonen, Timo: "Thulinista Hornetiin - Keski-Suomen ilmailumuseon julkaisuja 3", Keski-Suomen ilmailumuseo, 1992, ISBN 951-95688-2-4 | 1 | null |
"We Can't Stop" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Miley Cyrus nằm trong album phòng thu thứ tư của cô, "Bangerz" (2013). Nó được phát hành vào ngày 3 tháng 6 năm 2013 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi RCA Records, đồng thời đánh dấu sản phẩm âm nhạc đầu tiên của cô sau khi rời khỏi Hollywood Records. Bài hát được đồng viết lời và sản xuất bởi Mike Will Made It, P-Nasty và hai thành viên Timothy Thomas và Theron Thomas thuộc đội sản xuất Rock City bên cạnh sự tham gia hỗ trợ viết lời bởi Cyrus, trong đó sử dụng đoạn nhạc mẫu từ bài hát năm 1985 của Doug E. Fresh và MC Ricky D "La Di Da Di", được đồng viết lời bởi hai nghệ sĩ dưới tên thật là Douglas Davis và Ricky Walters. Rock City tiết lộ rằng "We Can't Stop" ban đầu được sáng tác với dự định sẽ do Rihanna thể hiện, trước khi Mike Will Made It quyết định sẽ để Cyrus sử dụng cho album phòng thu tiếp theo của cô. Đây là một bản pop và R&B mang nội dung đề cập đến một bữa tiệc tại gia, trong đó bao gồm nhiều từ ngữ ẩn dụ nhằm ám chỉ đến việc sử dụng chất gây nghiện với tính chất giải trí.
Sau khi phát hành, "We Can't Stop" nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao quá trình sản xuất tổng thể nhưng lại tỏ ra gay gắt và cảm thấy mâu thuẫn trước nội dung của nó. Tuy nhiên, bài hát đã tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở New Zealand cũng như là đĩa đơn quán quân và vươn đến top 10 đầu tiên trong sự nghiệp của Cyrus ở Vương quốc Anh, đồng thời lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Úc, Canada, Na Uy, Tây Ban Nha và Thụy Điển. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 trong ba tuần, trở thành đĩa đơn thứ ba của nữ ca sĩ vươn đến top 5 và ngang bằng thành tích với đĩa đơn năm 2009 "Party in the U.S.A." như là tác phẩm đạt thứ hạng cao nhất lúc bấy giờ của cô tại đây, trước khi Cyrus đứng đầu Hot 100 với đĩa đơn tiếp theo "Wrecking Ball". Tính đến nay, "We Can't Stop" đã bán được hơn 11 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.
Video ca nhạc cho "We Can't Stop" được đạo diễn bởi Diane Martel, trong đó bao gồm những cảnh Cyrus tổ chức một bữa tiệc tại nhà và tham gia vào nhiều hành động kỳ quái với những vị khách. Mặc dù vấp phải nhiều đánh giá trái chiều từ giới chuyên môn về việc hình tượng của nữ ca sĩ ngày càng khiêu khích, nó đã phá vỡ một số kỷ lục về lượt người xem trên Vevo và gặt hái bốn đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2013 cho Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ, Video Pop xuất sắc nhất, Biên tập xuất sắc nhất và Bài hát mùa hè. Để quảng bá bài hát, nữ ca sĩ đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm "The Ellen DeGeneres Show", "Good Morning America", "Jimmy Kimmel Live!", "Saturday Night Live", giải Âm nhạc châu Âu của MTV năm 2013 và giải Video âm nhạc của MTV năm 2013, nơi màn trình diễn đã trở thành đề tài thu hút sự chú ý của giới truyền thông và công chúng bởi những tranh cãi xung quanh tiết mục và màn song ca với Robin Thicke. Kể từ khi phát hành, "We Can't Stop" đã được hát lại bởi nhiều nghệ sĩ khác nhau, như Jimmy Fallon, Bastille và The Vamps.
Thành phần thực hiện.
Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của "Bangerz", RCA Records.
Chứng nhận.
!scope="col" colspan="3"| Streaming | 1 | null |
Vantage Point (tựa tiếng Việt: "Điểm mấu chốt" hay "Mục tiêu tối thượng") là một bộ phim chính trị, hành động của Mỹ năm 2008 của đạo diễn Pete Travis, được chuyển thể từ kịch bản của Barry L. Levy. Câu chuyện tập trung vào một vụ ám sát nhằm vào Tổng thống Hoa Kỳ, được mô tả từ nhiều góc nhìn một sự kiện xảy ra của các nhân vật khác nhau. Với các diễn viên Dennis Quaid, Matthew Fox, Forest Whitaker, William Hurt và Sigourney Weaver. Bộ phim thường được so sánh không thuận lợi, với Rashōmon (phim) của Akira Kurosawa, nó cũng kể một câu chuyện xảy ra qua các sự chứng kiến. Rashomon sử dụng nhiều quan điểm để đặt câu hỏi về khả năng xảy ra "sự thật", trong một quá trình được gọi là "hiệu ứng Rashomon", ngược lại, "Vantage Point" kể lại một loạt sự kiện được tái diễn từ những quan điểm và góc nhìn khác nhau để người xem tự có kết luận sự "chân thật" những gì đã xảy ra. "Vantage Point" cũng giúp khán giả khám phá sự hình thành các vụ bắt cóc, ám sát và khủng bố. | 1 | null |
Đảo chính Pakistan năm 1999 là một cuộc đảo chính không đổ máu diễn ra vào ngày 12 tháng 10 năm 1999 khi Tổng Tư lệnh Bộ tham mưu của quân đội Pakistan, tướng Pervez Musharraf đã lật đổ chính quyền của Thủ tướng Nawaz Sharif. Ngày 12 tháng 10 năm 1999, Sharif thay thế ông Musharraf bằng vị Tổng giám đốc tình báo Inter-Services Trung tướng Ziauddin Butt vào chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân đội trong khi Musharraf đang trên đường từ Sri Lanka đến Karachi, Pakistan. Sharif đã ra lệnh cho máy bay thương mại chở Musharraf không được hạ cạnh trên đất Pakistan trong khi nhiên liệu của máy bay không đủ để làm như vậy. Quân đội Pakistan biết được lệnh này và nắm quyền kiểm soát sân bay Karachi để cho phép máy bay hạ cánh, và bắt đầu cuộc đảo chính. Vào ngày 14 tháng 10 năm 1999, hai ngày sau cuộc đảo chính, Musharraf tuyên bố tình trạng khẩn cấp và ban hành Lệnh Hiến pháp tạm thời. Lệnh Hiến pháp tạm thời tạo ra nhiều vấn đề, do một số lượng lớn các thẩm phán từ chối tuyên thệ dưới nó.
Tòa án Tối cao Pakistan đã ra lệnh rằng Musharraf chỉ có thể cho quân đội được nắm quyền trong ba năm, và kết quả là, Musharraf đã tổ chức trưng cầu dân ý vào ngày 30 tháng 4 năm 2002. Nhiều người cho rằng cuộc trưng cầu dân ý này là rất nhiều gian lận, mặc dù chính phủ Musharraf cho rằng những cáo buộc trên là chỉ đơn giản là tuyên truyền lây lan của phe đối lập | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.