text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Fritillaria montana là một loài thực vật có hoa trong họ Liliaceae. Loài này được Hoppe ex W.D.J.Koch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1832.
Đây là loài bản địa nam và đông châu Âu: Pháp, Italia, Hy Lạp, Áo, Hungary, Nam Tư (tất cả bảy vùng), Albania, Bulgaria, Romania, Ukraine, Nga thuộc châu Âu. | 1 | null |
Đình Ruối là một công trình kiến trúc văn hóa truyền thống của Việt Nam, tọa lạc tại thôn Ngọc Chuế, xã Yên Nghĩa, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đình nguyên là đền Kiến Quốc, thờ bà Lương Thị Minh Nguyệt và chồng là ông Đinh Tuấn, là những người có công lớn giúp quân Lam Sơn hạ thành Cổ Lộng. Đình được Nhà nước Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Phúc thần.
Từ thành phố Nam Định đi theo Quốc lộ 10 đến ga Cát Đằng rẽ phải đến Phố Cháy - trung tâm của huyện Ý Yên, đi tiếp theo đường 57 đến cầu Bo tiếp tục rẽ phải sẽ đến đình Ruối. Đình thờ bà Lương Thị Minh Nguyệt, người làng Chuế Cầu, cùng chồng là Đinh Tuấn, mở quán rượu gần thành Cổ Lộng, thu thập tin tức của quân Minh đang đóng trong thành, góp công lớn giúp quân Lam Sơn hạ thành vào năm 1247. Sau khi thủ lĩnh Lam Sơn là Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đã phong tước danh cho bà là Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân; ban cho ông Đinh Tuấn chồng bà tước danh Kiến Quốc Trung Dũng Công thần, đồng thời ban cho 200 mẫu ruộng tốt để làm ăn sinh sống. Năm Quý Sửu (1433), hai ông bà qua đời; vua Lê Thái Tổ sai quân về tang chế theo tước Vương, phong làm Nhị vị Phúc thần, sau đó cho lập đền thờ Kiến Quốc (dân gian gọi là đền Ruối), ở làng Ngọc Chuế để thờ ông bà, ban 100 mẫu ruộng tốt dâng vào việc tế tự. Đến đời Lê Thánh Tông, vua cho tu sửa lại đền Kiến Quốc, trong đó khắc đôi câu đối nổi tiếng: "“Thiên cổ danh truyền thần nữ tướng;Ức niên trách nhuận cố hương nhân" và truyền Tiến sĩ Lê Tung (khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức) viết bài minh, ghi công đức bà Kiến Quốc, trong đó có câu: "Vĩ tai liệt phụ; Khí hùng vạn binh!"". Đến đời vua Thành Thái, năm thứ 13 (1902), đền được đại trùng tu thành đình.
Kiến trúc.
Tiền đường đình Ruối gồm 5 gian với 4 bộ vì làm theo kiểu chồng rường giá chiêng. Gánh đỡ 4 bộ vì là 24 cây cột bằng gỗ lim đều có đường kính 0,4m. Hệ thống vì kèo, các xà nách nghé bẩy chạm khắc công phu với các đề tài tứ linh, tứ quý. Xà dọc tại gian giữa được chạm lưỡng long chầu nguyệt có những lớp đao mác nhiều tầng tiêu biểu của phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê thế kỷ XVII - XVIII.
Hậu cung gồm 4 gian được ngăn cách với bên ngoài bằng một hệ thống cửa. Vì kèo phía trên làm kiểu chồng rường. Tất cả các con rường chạm khắc công phu chủ yếu là họa tiết hình rồng tạo sự uy nghiêm, linh thiêng cho nơi đặt ngai và bài vị vợ chồng Kiến quốc phu nhân.
Lễ hội.
Lễ hội đình Ruối được tổ chức vào ngày 24;25 tháng 11 âm lịch hàng năm, dân làng Ngọc Chuế (là là 8 thôn Ngọc Chuế, Thanh Khê, Trung Cầu, Nha Cầu, Cổ Liêu, Nhân Nghĩa; Trung Cầu và An Liêu trong xã Yên Nghĩa) tổ chức. Lễ hội gồm các Lễ yên vị nhà thờ tổ; Lễ rước bánh vưng lên đền; Lễ Chiếu văn; Lễ rước Thánh về đình; Lễ dâng hương... Đặc biệt, trong đó lễ hội rước Thánh về đình được tổ chức long trọng, đi trước gồm có kiệu ông do 6 nam khiêng, còn kiệu bà do 6 nữ khiêng. Theo sau là 6 kiệu thờ thành hoàng làng của các thôn. Các tế phẩm dâng lên hai đức thánh gồm các loại bánh vưng, bánh mật, bánh gai, mía, cam… tượng trưng cho những đồ ăn mà bà Nguyệt Nương từng bán cho quân Minh để dò la tin tức của quân Minh. Trước đây, lễ hội đền Kiến Quốc thường diễn ra 5 ngày. Những năm gần đây, lễ hội được tổ chức trong vòng 3 ngày.
Chú thích.
Bình Ngô đại chiến có nhắc đến Tiểu Nguyệt nhưng không rõ có tương đồng hay liên quan đến bà Rưới. | 1 | null |
Lilium auratum là loài bản địa của Nhật Bản, được gọi trong tiếng Nhật với các tên: , "Bồ bồ" hay "Bồng bồng", thuộc họ Liliaceae. Loài này được Lindl. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1862.
Miêu tả.
Chiều cao cây 1-1,5m. Hoa nở vào khoảng tháng 7-8.
Trồng trọt.
Loài hoa này sống khỏe ở vùng đất bằng phẳng hoặc axit; đất giàu phân sẽ gây hại cho cây. Củ nên được trồng trong lỗ có kích thước lớn gấp ba lần về cả chiều sâu và chiều rộng ở vùng thoát nước tốt. Nơi trồng loài này tốt nhất là trên đỉnh nơi nhận nhiều ánh sáng trong khi gốc của nó vẫn nằm trong bóng râm.
Loài hoa ly này có thể trồng bằng hạt, nhưng những việc sinh sản quy mô lớn cần được khuyến khích. Thời gian sống cua nó khoảng 3-4 năm. Loài này đã được trồng trọt rộng rãi và nhiều giống hiện đại có nguồn gốc từ loài này.
Hóa học.
"L. auratum" chứa các glyceride phenol như 1,2-O-diferuloylglycerol, 1-O-feruloyl-2-O-p-coumaroylglycerol, 1-O-p-coumaroyl-2-O-feruloylglycerol, 1-O-feruloylglycerol, 1,3-O-diferuloylglycerol, 1-O-feruloyl-3-O-p-coumaroylglycerol và 1-O-p-coumaroylglycerol.
Thông tin khác.
Tại hội chợ triển lãm năm 1873 tại Vienna, loài này đã được giới thiệu cùng nhiều loài ly khác từ Nhật Bản đã gây được sự chú ý ở châu Âu. Kể từ đó, củ của loài này là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang châu Âu thời kỳ Taisho. Nó được sử dụng chủ yếu như một dòng mẹ của các giống ở phương Tây. Loài ly này là biểu tượng của tỉnh Kanagawa. | 1 | null |
Lilium bulbiferum là một loài thực vật có hoa trong họ Liliaceae. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Phân bố và môi trường sống.
"Lilium bulbiferum" phân bố phổ biến ở hầu hết châu Âu, từ Tây Ban Nha đến Phần Lan và Ukraina. Loài này sinh sống trong các vùng đồng cỏ trên núi và núi đá. Chúng thích hợp với đất vôi ở những vùng nắng ấm, nhưng cũng phát triển trên các đất chua nhẹ. Chúng phân bố ở độ cao trên mực nước biển.
Trong văn hóa.
Lily cam được dùng làm biểu tượng của Orange Order ở Northern Ireland. | 1 | null |
Lilium ciliatum là một loài thực vật có hoa trong họ Liliaceae. Loài này được P.H.Davis miêu tả khoa học đầu tiên năm 1968.
Phân bố.
Đây là loài đặc hữu của vùng đông bắc Anatolia ở Thổ Nhĩ Kỳ. Nó mọc ở bìa rừng, trong các khoảng trống và đồng cỏ. Nó được tìm thấy ở độ cao từ 1.500 đến 2.400 mét so với mực nước biển. | 1 | null |
Lilium kesselringianum là một loài thực vật có hoa trong họ Liliaceae. Loài này được Miscz. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914.
"Lilium kesselringianum" có nguồn gốc từ Bắc và Nam Caucasus cũng như miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ. Nó phát triển từ mực nước biển dọc theo Biển Đen lên các ngọn núi đến mực nước ngầm trên các rìa rừng, trong các vùng đồng cỏ, và trên bãi cỏ.
Cây mọc đến độ cao 40–60 inch (1–1,5m), nhưng có lúc đã được ghi nhận lên đến 80 inches (2m). Lá có hình dài như ngọn giáo (lanceolatus) dài 4-8 inch (10-20 cm) và lớn lên theo chiều dài của thân cây.
Hoa thường bắt đầu nở vào tháng 6 (Ở Abkhazia cây nở hoa lên đến 3 tuần sau). | 1 | null |
Hoa loa kèn vằn (danh pháp hai phần: "Lilium lancifolium") hay quyển đơn là một loài thực vật có hoa trong họ Liliaceae, còn có các tên gọi "hổ bì bách hợp"(), "bách hợp Nghi Hưng", "bách hợp Thái Hồ", "bách hợp Hồ Châu", " bách hợp Long Sơn", "đảo thuỳ liên", "dược bách hợp", "khổ bách hợp", "hoàng bách hợp".
Nó có nguồn gốc từ Giang Tô, Chiết Giang, An Huy, Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Thanh Hải, Tây Tạng, Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc, Bắc Kinh, Sơn Đông, Cát Lâm, và Bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản.
Thân hành của hoa là thực phẩm và dược liệu quan trọng, cùng tên với hoa lan châu bách hợp (兰州百合) và long nha bách hợp (龙牙百合).
Loài này được Thunb. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1794.
Phân bố.
Phạm vi bản địa của cây bao phủ vùng liên bang Viễn Đông Nga tới Nhật Bản và Tibet, một số tỉnh ở Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Cây cũng xuất hiện rải rác khi mọc hoang trong vườn ở Bắc Mỹ, đặc biệt là miền đông Hoa Kỳ và đã xâm nhập tại một số bang miền nam như Georgia.
Tên gọi.
Các nhà thực vật trong nhiều năm coi " L. tigrinum " (sau Ker Gawler) tên khoa học chính xác cho đến khi xác định rằng tên cũ " L. lancifolium " (sau Thunberg) đề cập đến cùng một loài, và sau này trở thành tên được chấp nhận.
Tên thường gọi của nó là " 'tiger lily' ". Mặc dù tên này không rõ ràng đối với một số loài, nhưng được áp dụng chính xác cho riêng loài này.
Tên thường gọi trong tiếng Nhật nay hầu hết được sử dụng cho loài " L. lancifolium ". Tên thay thế , được ghi chép sớm nhất từ năm 1900, với sự tham khảo từ giống hoa ra hoa kép , đã trở lại nhiều hơn trong các tác phẩm văn học gần đây.
Một loài cây tên "on-yuri" được ghi nhận trong văn học những năm 1900 là , giống tên gọi trong tiếng Trung Quốc, "quyển đan".
Mô tả chung.
Giống như các loài thuộc họ bách hợp, những bông hoa mọc ra trên những thân cây thẳng đứng cao và ra lá hình dao lưỡi chích (lanceolate) dài và rộng . "Lilium lancifolium" sinh ra các chồi con trên không, được gọi là mầm non ở kẻ lá, trong nách lá. Mầm non của kẽ lá không phổ biến ở một số loài " Lilium " và sinh các cây mới là bản sao của cây ban đầu.
Các bông hoa không có mùi. Mỗi bông hoa kéo nở vài ngày và nếu thụ phấn sẽ tạo ra những quả nang có nhiều hạt mỏng.
Các biến thể.
Tên gọi của một số giống tại một số thời điểm là:
Giống hoa kép " Lilium tigrinum flore pleno ", giống hoa kép, đã được xuất khẩu ra khỏi Nhật Bản bởi nhà thực vật học William Bull kể từ 1869.
Thu hoạch và công dụng.
Loài cây này mọc hoang và hái lấy củ làm thức ăn cho vật nuôi ở châu Á. Giống cây trồng 'Splendens' đã giành được Giải thưởng Award of Garden Merit của Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia.
Tính độc với mèo.
Một nghiên cứu về trường hợp điều trị thành công trên mèo ăn phải loài cây này đã được công bố năm 2007.
Tham khảo.
Trích dẫn | 1 | null |
Lilium poilanei là một loài thực vật có hoa trong họ Liliaceae. Loài này được Gagnep. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1934.
Phổ biến.
Lilium poilanei là loài đặc hữu ở Tây Bắc Việt Nam gần Sapa và ở Tây Bắc Lào giữa Mường-het và Mường-seng. Vị trí ở Lào nằm khoảng mực nước biển 1700 mét. | 1 | null |
HIM International Music (chữ Hán: 華研國際音樂股份有限公司; bính âm: Huá Yán Guó Jì Yīn Lè Gǔ Fèn Yǒu Xiàn Gōng Sī; Hán-Việt: Hoa Nghiên Quốc tế Âm nhạc Cổ phần Hữu hạn Công ty) hay Công ty cổ phần hữu hạn Âm nhạc Quốc tế Hoa Nghiên là một hãng thu âm độc lập và là công ty quản lý nghệ sĩ của Đài Loan, được thành lập năm 1999. Trước đó, công ty đã từng được biết đến với tên gọi "Grand Music International Inc." hay "Công ty Cổ phần Hữu hạn Âm nhạc Quốc tế Vũ trụ" (宇宙國際音樂股份有限公司). Đây là một công ty thu âm thành viên của Liên đoàn Công nghiệp thu âm quốc tế (IFPI). | 1 | null |
Mily Alexeyevich Balakirev (, ; sinh năm 1837 tại Novgorod - mất năm 1910 tại Sankt Peterburg) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano, nhạc trưởng, nhà hoạt động xã hội âm nhạc của Nga. Ông cùng với Modest Mussorgsky, Nikolay Rimsky-Korsakov, Alexander Borodin và César Cui trở thành những thành viên của nhóm Hùng mạnh. Ông là linh hồn của nhóm này. Ông cũng như các thành viên trong nhõm luôn mong muốn một thứ âm nhạc Nga thực thụ.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Mily Balakirev học vỡ lòng về âm nhạc với người mẹ của mình, tiếp theo đó là tự học trong sách vở và thực tập với dàn nhạc trong trang trịa của ông Oulibuchev, một người yêu nhạc nghiệp dư, tác giả của 3 cuốn nói về tiểu sử của Wolfgang Amadeus Mozart. Năm 10 tuổi, Balakirev học chơi piano với Dyubyuk ở Moskva. Sau trở về quê nhà học với nhạc trưởng Eizich. Nhờ có ông Ukibichev giúp đỡ, Barakirev được học tập và sau đó làm nhạc trưởng cho dàn nhạc của ông này. Trong các năm 1853-1855, Balakirev học trường đại học ở Kazan. Trong khoảng thời gian đó, ông đã tiếp thu những tư tưởng có tính chất tiến bộ về chính trị. Sau thời gian học ở trường đại học này, ông đến Sankt Peterburg và gặp nhà soạn nhạc người Nga đang có danh tiếng ở châu Âu hồi đó, Mikhail Glinka. Tuy là nhà soạn nhạc có tiếng ở lục địa già, nhưng Glinka đã bị thu hút bởi tài năng của người đàn em Balakirev. Tại chốn Sankt Peterburg hoa lệ, Balakirev trở nên nổi tiếng với tư cách là một nghệ sĩ đàn piano có tài, nhà soạn nhạc xuất sắc, nhà chỉ huy và lý luận âm nhạc tuyệt vời. Khi đã hơn 20 tuổi, năm 1861, Balakirev trở thành nhân vật trung tâm của nhóm Hùng mạnh. Ông thành lập một trường dạy nhạc miễn phí tại Sankt Peterburg, cùng với nhóm Hùng mạnh do ông lập ra sưu tầm và khám phá kho tàng dân ca Nga phong phú, đồng thời cho xuất bản toàn tập những tác phẩm của người đàn anh Glinka, tổ chức và chỉ huy những buổi hòa nhạc (trong những buổi như thế, các tác phẩm mới nhất của nhóm được giới thiệu).
Mily Balakirev là người rất yêu dân ca Nga, nên vào mùa hè năm 1860, ông đã đi dọc bờ sông Volga nổi tiếng để sưu tầm dân ca. Năm 1866, ông đã viết phần đệm và cho in tuyển tập "40 bài dan ca Nga". Balakirev đã 3 lần đến vùng Kavkaz. Ấn tượng của vùng đất miền nam nước Nga này đối với ông là không hề nhỏ chút nào, điển hình là trong bản Fantasia dành cho piano có tên "Islamey" và bản giao hưởng "Tamara". Năm 1866, ông đến Praha, thủ đô của Cộng hòa Séc, để dựng vở nhạc kịch hay nhất của Glinka, "Ruslan và Lyudmila". Buổi dàn dựng hôm ấy rất thành công. Trong thời gian tiếp theo, ông bị suy nhược thần kinh nên đã phải ngừng hoạt động từ năm 1871 đến năm 1876. Sau đó, sức khỏe của ông đã được bình phục lại và ông tiếp tục công việc của mình. Từ năm 1883 đến năm 1894, ông phụ trách công việc chỉ huy tại dàn hợp xướng của triều đình Nga hoàng.
Phong cách sáng tác.
Mily Balakirev là người kế thừa truyền thống của Glinka. Ông là người đã sáng tác những tác phẩm mang tính giá trị nghệ thuật cao. Ông đã cổ vũ, dìu dắt nhóm Hùng mạnh bằng những tác phẩm tôn vinh nghệ thuật âm nhạc Tổ quốc Nga xinh đẹp. Balakierev là một nhà soạn nhạc đã đấu tranh cho một nền văn hóa âm nhạc tiến bộ và dân chủ. Ông cũng rất có uy tín trong vai trò của một người nghiên cứu âm nhạc dân gian nước mình.
Các tác phẩm.
2 bản giao hưởng (1897, 1908): ba bản overture dựa trên ca khúc Nga: bản giao hưởng thơ "Tamara" (1882), "Nước Nga" (1862), "Ở nước Séc" (1867): nhạc cho vở bi kịch "Vua Lia", tác phẩm văn học của William Shakespeare (1861); hai bản concerto cho piano và dàn nhạc giao hưởng; bản fantasia "Islamey" (1869) và những tác phẩm khác cho piano; 10 bản romance, nổi bật có "Bài ca Gruzia", "Bài hát con cá vàng", "Bài hát của tên cướp"...; 2 tuyển tập dân ca Nga, đó là những gì mà Balakirev đã để lại. | 1 | null |
César Antonovich Cui (; sinh năm 1835 tại Vilna (nay là Vilnius), mất năm 1918 tại Sankt Peterburg) là nhà soạn nhạc, nhà phê bình âm nhạc người Nga. Ông là một trong năm thành viên của nhóm Hùng mạnh.
Cuộc đời và sự nghiệp.
César Cui sinh ra trong một gia đình có cha là một sĩ quân đội Pháp cư trú tại Ba Lan, còn mẹ là người Litva. Ông học nhạc với S. Moniuszko được một thời gian. Chủ yếu Cui tự học nhạc và âm nhạc chỉ là cánh tay thứ yếu của ông. Sau ông được đào tạo tại một trường quân sự nổi tiếng của Sankt Peterburg, sau là trung tướng ngành thiết kế công sự, giáo sư về thiết kế của Viện Hàn lâm Thiết kế Quân sự từ năm 1878. Ông đã viết nhiều giáo trình có giá trị không nhỏ, là một nhà lý luận quân sự có tài năng. Năm 1865, Cui gặp Mily Balakirev và tán thành về những lý tưởng âm nhạc mang chất dân tộc Nga của nhà soạn nhạc này, nên nhanh chóng trở thành thành viên của nhóm Hùng mạnh.
Phong cách sáng tác.
César Cui, nếu ta đem so sánh ông với những thành viên khác của nhóm Hùng mạnh, là người kém nổi bật trong sáng tác nhất, có lẽ bởi ông không coi trọng âm nhạc bằng quân sự (như đã nói ở trên thì ông chỉ coi âm nhạc chỉ là thứ yếu). Nhưng khó có thể có thành viên nào trong nhóm nhạc cổ điển nổi tiếng nhất nước Nga lại có thể thay thế Cui trong công việc lý luận phê bình âm nhạc, có thể là bởi ông là nhà lý luận quân sự có tài. Ông trở thành đôi mắt thẩm mỹ, có thể nói như vậy, của các thành viên còn lại trong nhóm. Nói chung những bài bút chiến của ông thì sắc bén chẳng khác gì lưỡi dao. Nôi dung của những bài bút chiến này là đấu tranh cho tư tưởng hiện thực trong âm nhạc Nga.
Các tác phẩm.
César Cui có để lại 10 vở opera, nổi bật có "William Ratcliffe" (1869), "Angielo" (1876); 4 vở opera trẻ em; các bản giao hưởng-thanh nhạc và giao hưởng (trong đó có 4 tổ khúc); ba bản tứ tấu đàn dây; những khúc nhạc cho piano, cho piano-violin; những bản hợp xướng, hòa ca thanh nhạc, romance (khoảng 259 bài); những ca khúc danh cho thiếu nhi. | 1 | null |
Sân bay Dương Châu Thái Châu () thường viết tắt Sân bay Dương Thái (扬泰机场) là sân bay phục vụ hai thành phố Dương Châu và Thái Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Sân bay hoàn thành năm 2012. Sân bay nằm ở trấn Đinh Câu của khu Giang Đô thuộc Dương Châu, cách 30 km từ trung tâm của Dương Châu và 20 km từ Thái Châu. Một thành phố lớn khác là Trấn Giang, cũng ở gần sân bay, cách biệt qua sông Dương Tử.
Sân bay này được cùng xây dựng và thuộc sở hữu chung của các thành phố Dương Châu (80% cổ phần) và Thái Châu (20% thị phần), với tổng vốn đầu tư 2 tỷ 082 triệu nhân dân tệ. Sân bay được mở cửa vào ngày 7 tháng năm 2012. Ban đầu nó được gọi là Sân bay Tô Trung Giang Đỗ (tiếng Trung Quốc: 苏中江都机场) nhưng đã được đổi tên thành trong tháng 11 năm 2011 để phản ánh tên của các thành phố chính nó phục vụ. | 1 | null |
Tài nguyên thiên nhiên của Chile được bảo vệ trong hệ thống các khu bảo tồn quốc gia. Được thành lập và quản lý bởi Tổng Công ty Lâm nghiệp Quốc gia Chile (CONAF), hệ thống này hiện có 101 khu bảo tồn, bao gồm 36 vườn quốc gia, 49 khu bảo tồn quốc gia, 16 di tích tự nhiên.Tổng diện tích bảo vệ là khoảng 14,6 triệu ha, chiếm gần 20 % lãnh thổ Chile.
Vườn quốc gia được định nghĩa là một khu vực nói chung là lớn, có nhiều môi trường độc đáo hoặc đại diện cho sự đa dạng sinh học tự nhiên của quốc gia, không bị xáo trộn đáng kể của con người. Mục tiêu của vườn quốc gia là để bảo vệ các mẫu môi trường tự nhiên, đặc điểm văn hóa và danh lam thắng cảnh gắn liền; đảm bảo tính liên tục của quá trình tiến hóa trong phạm vi phù hợp với quy định trên, cho các hoạt động giáo dục, nghiên cứu và giải trí.
Vườn quốc gia tại Chile bao gồm 36 vườn quốc gia có tổng diện tích lên tới 9.290.942 ha. Yendegaia là vườn quốc gia mới nhất khi nó được thành lập vào tháng 12 năm 2013. Thống kê năm 2013 của CONAF thì có khoảng 2.408.269 du khách ghé thăm các vườn quốc gia của Chile. | 1 | null |
Pavel Vezhinov (tiếng Bulgaria: Павел Вежинов) (9 tháng 11 năm 1914 - 2 tháng 12 năm 1983), tên khai sinh là Nikola Delchev Gugov (tiếng Bulgaria: Никола Делчев Гугов), là một nhà văn khoa học giả tưởng người Bulgaria. Trong các sách của ông được dịch sang tiếng Việt, tên của ông được phiên âm thành Pavel / Paven Veginov, P. Veginov, Pa-ven Vê-gi-nốp / Paven Vêginốp.
Ông là một trong những tác giả khoa học giả tưởng đầu tiên của Bulgaria và đã cho xuất bản nhiều cuốn sách, bài báo cùng kịch bản phim. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết "Barie" / "Ba-ri-e" (tiếng Bulgaria: Бариерата, 1976) được viết sau cái chết của người vợ đầu tiên của ông. Các tác phẩm đáng chú ý khác của ông gồm có "Những con ngựa trắng trong đêm" và kịch bản bộ phim năm 1971, "Ba người lính dự bị" (tiếng Bulgaria: Тримата от запаса). | 1 | null |
Gaius Marcius Censorinus (mất khoảng 2 CN) là một nghị sĩ La Mã, người đã được bầu làm chấp chính quan năm 8 TCN.
Tiểu sử.
Là một thành viên của giới bình dân Censorini thuộc thị tộc "Marcia", Marcius Censorinus là con trai của Lucius Marcius Censorinus, từng là chấp chính quan năm 39 TCN. Ông được bổ nhiệm làm "Triumvir Monetalis" vào khoảng 20 hoặc 19 TCN. Ông được bầu làm quan chấp chính vào năm 8 TCN cùng với Gaius Asinius Saloninus Gallus, nhưng cuộc bầu cử của ông đã bị che khuất bởi những cáo buộc hối lộ bầu cử. Tuy nhiên hoàng đế Augustus đã từ chối can thiệp vào chuyện này. Ông cũng chủ trì phiên họp của Viện nguyên lãb để bỏ phiếu ủng hộ đổi tên tháng Sextilis thành tháng "August" nhằm vinh danh hoàng đế.
Có lẽ trong năm 3 TCN, Marcius Censorinus được bổ nhiệm làm tổng đốc tỉnh "Asia" thuộc về Viện nguyên lão. Người ta phỏng đoán rằng ông sau đó được bổ nhiệm làm "Legatus Augusti pro praetore" của Galatia vào năm 2, nơi ông đã mời Gaius Caesar ở lại nhà mình trong khoảng thời gian ông ta ở phía đông. Ông qua trong cùng năm đó, trong khi vẫn là thống đốc Galatia.
Marcius Censorinus là người bảo trợ của thành phố Miletus, và trong thành phố Mylasa, nơi ông đã được trao danh hiệu "vị cứu tinh và người sáng lập", và các trò chơi gọi là "Censorineia" được tổ chức hàng năm để vinh danh ông. Nhà thơ Horace đã viết một ca khúc để vinh danh ông, và ông được các nhà sử học La Mã như Marcus Velleius Paterculus ca ngợi bởi là "vir demerendis hominibus genitus". Không có người con nào của ông được biết đến. | 1 | null |
Phong () là một nước chư hầu nhỏ vào đầu thời Chu.
Theo cuốn "Xuân Thu đại sự biểu" của Cố Đống Cao thì Phong quốc vốn là đất phong của Sùng Hầu Hổ đời Thương, sau bị Văn vương chiếm được, bèn kiến tạo ấp Phong, đến thời Vũ vương mới phong cho người em làm Phong hầu. Đô ấp của nước Phong nay thuộc địa phận huyện Sơn Dương, Thiểm Tây, không phải là đô thành "Phong kinh" đầu thời Chu.
Về nguyên nhân diệt vong thì theo sách "Trúc thư kỷ niên" viết: "Năm Chu Thành vương thứ 19 (khoảng năm 1036 TCN), Phong hầu bị phế truất, nước từ đó mất hẳn. Cũng vì Phong hầu say rượu làm loạn, nên bị Chu Thành vương phế đi". | 1 | null |
Lưu () là một nước chư hầu trong lãnh thổ nhà Chu thời Xuân Thu, vị trí nay thuộc địa phận phía tây nam Yển Sư tỉnh Hà Nam, có lãnh địa là Lưu ấp thời cổ. Thời Chu Thành vương nhà Tây Chu đã từng phong cho hậu nhân của cố tổ Vương Quý tại đất Lưu (Yển Sư, Hà Nam), nhưng chưa được bao lâu đã bị diệt vong. Vả lại điều mục của nước Lưu đều không giống với các nước chư hầu khác.
Năm 592 TCN (đời Chu Khoảnh vương thứ 8), nhà vua phong Lưu ấp cho vương đệ là Quý Tử, từ đó Vương Quý Tử mới xưng là Lưu công, tức Lưu Khang công. Lưu quốc vốn dĩ đã bị nhà Chu thôn tính vào đầu thời Chiến Quốc nhưng không rõ niên đại.
Đời sau của Hoàn công không rõ | 1 | null |
Cây nắm cơm hay na rừng, na dây, dây xưn xe, re pa, po po (danh pháp: Kadsura coccinea), đôi khi cũng được gọi là ngũ vị tử nam là một loài thực vật có hoa trong họ Schisandraceae. Loài này được (Lem.) A.C.Sm. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1947. | 1 | null |
Brasenia là một chi thực vật có hoa thuộc họ Cabombaceae, gồm một loài tồn tại, Brasenia schreberi. Chúng phân bố rộng ở Bắc Mỹ, Tây Ấn, miền bắc Nam Mỹ (Venezuela, Guyana), miền đông châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Primorye), Úc, Tiểu lục địa Ấn Độ, vài phần của châu Phi.
"Brasenia" là thực vật thủy sinh sống lâu năm với lá hình khiên, nổi trên mặt nước và có thân rễ. Lá màu lục tươi, hoa tím nhỏ nở từ tháng sáu tới tháng chín, và một lớp chất nhầy phủ gần như toàn bộ phần dưới nước, gồm mặt dưới lá, thân rễ và búp hoa. Chất nhầy có thể dùng để tự vệ trước động vật ăn thực vật, như ốc. Nó mọc ở sông và hồ nước nông, đặc biệt là ở vùng nước hơi có tính axít. | 1 | null |
Nuphar lutea là một loài thực vật có hoa trong họ Nymphaeaceae. Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Nymphaea lutea". Năm 1809 khi mô tả chi mới "Nuphar" trong "Florae Graecae Prodromus" thì James Edward Smith đã chuyển nó sang chi này như là loài điển hình của chi.
Loài bản địa khu vực ôn đới châu Âu, Bắc Phi và Tây Á. | 1 | null |
Súng trắng châu Âu (danh pháp hai phần: Nymphaea alba) là một loài hoa súng trong họ Nymphaeaceae.
Mô tả.
Loài súng này phát triển trong nước sâu 30–150 cm và ưa thích ao lớn và hồ. Lá có thể có đường kính lên đến 30 cm và có thể chiếm 150 cm mỗi cây. Hoa có màu trắng và có nhiều nhị hoa nhỏ bên trong. Loài súng này được tìm thấy trên khắp châu Âu và các khu vực Bắc Phi và Trung Đông tại các nơi có nước ngọt. | 1 | null |
, nghĩa đen là "Thư viện trời xanh" và còn được biết đến với tên "Thư viện ngoài trời", là một thư viện số tập hợp các đầu sách tiếng Nhật đã thuộc về phạm vi công cộng và được chuyển đổi thành sách điện tử. Các đầu sách của Aozora Bunko trải rộng từ mảng sách hư cấu đến phi hư cấu.
Kể từ khi thai nghén năm 1997, "Aozora Bunko" đã trở thành nơi tập hợp và xuất bản trực tuyến với số lượng đầu sách càng ngày càng lớn. Vào năm 2006, "Aozora Bunko" đã chủ trương bổ sung vào chính sách của mình những điều khoản để bảo vệ danh sách các tác phẩm điện tử miễn phí đang sở hữu.
Sự hình thành.
"Aozora Bunko" ra đời vào năm 1997 để giúp người đọc có thể tiếp cận dễ dàng và miễn phí nguồn sách tiếng Nhật đã hết thời hạn bản quyền và không hay chưa được gia hạn thêm. Người đứng đằng sau sự ra đời của thư viện là Tomita Michio; ông có một niềm tin giản dị rằng những người có chung sở thích thì nên bắt tay với nhau. Xét trên chức năng và vai trò, "Aozora Bunko" tại Nhật là một dự án tương đương với Project Gutenberg.
Tài nguyên trên "Aozora Bunko" có thể được truy tìm thông qua thể loại, tác giả, tác phẩm. Ngoài ra còn có hướng dẫn chi tiết cách tận dụng hệ thống dữ liệu của trang web. Tất cả các thông tin hiển thị đều bằng tiếng Nhật. Người đọc tải tập tin về dưới dạng TXT, HTML hay EBK.
Quá trình hoạt động.
"Aozora Bunko" đã cùng nhiều đơn vị khác tiến hành phản đối các thay đổi trong Luật bản quyền của Nhật. Công dân Nhật Bản được khuyến khích gửi thư và đơn thỉnh cầu đến Bộ Văn hoá và các thành viên Quốc hội Nhật Bản.
Nhật và các quốc gia khác đã chấp hành những điều khoản về bản quyền năm 1886 của Công ước Berne. Theo đó, bản quyền tồn tại suốt thời gian tác giả còn sống cộng thêm 50 năm. "Aozora Bunko" đã đồng ý với chủ trương trên hơn là những thay đổi được kiến nghị cho Luật bản quyền bởi nhiều nhân vật có thế lực khác. Như vậy, việc "Aozora Bunko" từ một thư viện điện tử trở thành một tổ chức tuân theo chính sách công cộng là một động thái tất yếu để tránh các nguy cơ xảy đến cho các đầu sách họ đang nắm giữ.
Vấn đề.
"Aozora Bunko" đã chỉ ra rằng, các điều khoản về bản quyền đã chịu ảnh hưởng từ văn bản, "The U.S.-Japan Regulatory Reform and Competition Policy Initiative." Thông qua các báo cáo thường niên, chính phủ Mỹ yêu cầu chính phủ Nhật kéo dài thời gian bản quyền được bảo hộ tại Nhật lên 70 năm sau khi tác giả mất đối với một cá nhân, và 95 năm đối với một đoàn thể. Nếu việc kéo dài thời gian bảo hộ bản quyền được thực thi, "Aozora Bunko" sẽ không được đăng các đầu sách nằm trong thời gian 20 năm bị kéo dài đó. Vì thế,ngày 1 tháng 1 năm 2005, "Aozora Bunko" đã tuyên bố phản đối việc phải tuân theo Bộ luật sửa chữa; 2 năm sau, ngày 1 tháng 1 năm 2007, họ tiến hành thu thập chữ ký thỉnh cầu.
Cùng với việc thay đổi chính phủ Nhật năm 2009, chính phủ Nhật không còn nhận những báo cáo thường niên từ chính phủ Mỹ. "Aozora Bunko" không có động thái gì và việc ký tên để phản đối việc kéo dài thời hạn bản quyền tạm ngưng để điều chỉnh vào tháng 10 năm 2008. Tháng 2 năm 2011, trang web của Đại sứ quán Mỹ đã đăng văn bản "UNITED STATES - JAPAN ECONOMIC HARMONIZATION INITIATIVE" và vẫn yêu cầu chính phủ Nhật kéo dài bảo hộ bản quyền đối với sở hữu trí tuệ. | 1 | null |
Nero Claudius Drusus Germanicus (khoảng 28 tháng 3 năm 38 TCN - ngày 14 tháng 9 năm 9 TCN), tên khai sinh là Decimus Claudius Drusus còn gọi là Drusus, Drusus I, Nero Drusus, hoặc Drusus Già là một chính trị gia và chỉ huy quân sự người La Mã. Ông là một quý tộc thuộc dòng họ Claudia theo phía người cha hợp pháp của ông, nhưng bà ngoại của ông lại xuất thân từ một gia đình bình dân. Ông là con trai riêng của hoàng hậu Livia Drusilla, người vợ thứ ba của Hoàng đế Augustus. Ông cũng là em trai của Hoàng đế Tiberius, cha của Hoàng đế Claudius, ông nội của Hoàng đế Caligula, và ông cố ngoại của Hoàng đế Nero.
Ông đã phát động các chiến dịch La Mã lớn đầu tiên trên sông Rhine và bắt đầu cuộc chinh phục xứ Germania, trở thành tướng La Mã đầu tiên đặt chân đến sông Weser và sông Elbe. Năm 12 TCN, Drusus dẫn đầu một chiến dịch thành công tiến vào Germania, chinh phục Sicambri. Cuối năm đó, ông đã dẫn một đoàn thám hiểm hải quân chống lại bộ tộc người Đức dọc theo bờ biển Bắc Hải, chinh phục Batavi và Frisii, và đánh bại Chauci gần cửa sông Weser. Năm 11 TCN, ông đã chinh phục được Usipetes và Marsi, mở rộng sự kiểm soát của La Mã đến tận Thượng Weser. Năm 10 TCN, ông đã phát động một chiến dịch chống lại cuộc nổi dậy của người Chatti và Sicambri. Năm sau, ông đã chinh phục Mattiaci, trong khi đánh bại Marcomanni và Cherusci ở gần Elbe. Tuy nhiên, Drusus qua đời một năm sau đó, khi chưa đầy 30 tuổi, lấy mất đi của Roma một trong những tướng tài ba nhất của mình.
Liên kết ngoài.
<br> | 1 | null |
Lucius Pomponius Flaccus (mất năm 35) là một Nghị sĩ La Mã, được bầu làm Quan chấp chính vào năm 17.
Flaccus xuất thân từ một gia đình thuộc tầng lớp bình dân thuộc dòng họ Pomponia. Nơi khởi nguồn của gia tộc Iguvium. Anh trai của Flaccus là Gaius Pomponius Graecinus, từng làm "consul suffectus" vào năm 16. Pomponius Flaccus sau đó đã kết hôn với Memmia.
Cũng giống như anh trai của mình, Pomponius Flaccus đã kết bạn với thi sĩ Ovid, người đã gửi cho ông một trong những "epistulae ex Ponto" của ông ta trong thời gian đang sống lưu vong, vào lúc mà Flaccus đang làm "legatus" ở Moesia. Ông được bầu làm chấp chính quan vào năm 17 cùng với Gaius Caelius Rufus. Năm 19, ông quay trở lại Moesia với tư cách là thống đốc. Tình bạn của ông với Hoàng đế Tiberius, ông còn mắc nợ sau đó, từ năm 32, ông trở thành Thống đốc của tỉnh Syria, nơi ông bắt đầu có xung đột với vua Hê-rốt Agrippa. Ông mất vào năm 35 tại Syria. | 1 | null |
Danielle Simone Bradbery (sinh ngày 23/7/1996) là một nữ ca sĩ nhạc đồng quê đến từ Cypress, Texas. Cô nổi tiếng từ khi giành vị trí quán quân mùa thứ tư của The VoiceUSA năm 2013, trở thành quán quân trẻ tuổi nhất của chương trình này. Album đầu tay của cô,Danielle Bradbery được phát hành vào ngày 25 tháng 11 năm 2013.
Đầu đời.
Bradbery được sinh tại thành phố League, bang Texas với cha mẹ của cô là Danny Bradbery và Gloria Redden Martinez nhưng sau chuyển đến Cypress, Texas. Cô theo học trường Cypress Ranch High School,nơi cô là một thành viên của lớp học năm 2015. Bradbery có một chị gái là Monica và ba anh em trai là Drake, Drew, Collin.
The Voice.
Trước khi đến với The Voice, Bradbery chưa hề được học thanh nhạc hay kinh nghiệm hát trước đám đông. Tại buổi thử giọng vào ngày 25 tháng 3 năm 2013, Bradbery đã hát bài "Mean" của Taylor Swift, khiến Adam Levine, Blake Shelton, và Usher quay ghế. Sau đó Bradbery chọn Shelton làm huấn luyện viên của mình.
Trong đêm thi trực tiếp top 10, Bradbery đã hát bài "Heads Carolina, Tails California", bài hát đã trở thành ca khúc đầu tiên của mùa giải lọt vào bảng xếp hạng top 10 Itunes. Tiếp đến là các ca khúc "Please Remember Me", "Who I Am", "Maybe It Was Memphis" và cuối cùng "Born To Fly" đều lọt vào Top 10 iTunes. Đặc biệt, cô đã có tổng số lượt tải và các ca khúc lọt top 10 iTunes (5 bài) nhiều hơn bất kỳ thí sinh nào trong lịch sử của chương trình. Bradbery trở thành thí sinh trẻ tuổi nhất giành vị trí quán quân của chương trình The Voice.
Sự nghiệp.
Vào ngày 19 tháng 6 năm 2013, một ngày sau khi giành quán quân The Voice, cô đã ký hợp đồng với Big Machine Records. Bài hát đơn đầu tay của cô, "Heart Of Dixie", được phát hành vào ngày 16 Tháng Bảy 2013.
Danielle là một trong 18 nghệ sĩ duy nhất (ở mọi thể loại) có từ 7 bài hát trở lên trong bảng xếp hạng billboard năm 2013. | 1 | null |
Candice Rickelle Glover (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1989) là một ca sĩ R&B người Mỹ, quán quân của chương trình American Idol mùa 12. Glover là nữ quán quân đầu tiên của chương trình kể từ khi Jordin Sparks đăng quang vào năm 2007. Album đầu tay của cô là "Music Speak" dự kiến sẽ được phát hành vào ngày 8 tháng 10 năm 2013. | 1 | null |
Vườn quốc gia tại Canada là các khu vực được bảo vệ theo Đạo luật Vườn quốc gia Canada, do Chính phủ Canada sở hữu và quản lý vì lợi ích, giáo dục và thụ hưởng của người dân Canada và các thế hệ tương lai của quốc gia. Các vườn quốc gia được quản lý bởi Cục Công viên Quốc gia Canada, một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Môi trường và Biến đổi Khí hậu Canada. Mục tiêu của hệ thống vườn quốc gia là bảo tồn các vùng đất đại diện cho 39 vùng tự nhiên khác nhau của đất nước được mô tả trong Kế hoạch Hệ thống Vườn quốc gia, chủ yếu để bảo vệ tính toàn vẹn sinh thái của đất đai, và thứ hai để cho phép công chúng khám phá, tìm hiểu và tận hưởng không gian tự nhiên của Canada.
Vườn quốc gia đầu tiên được thành lập vào năm 1885, để bảo vệ của khu vực Suối nước nóng Cave và Basin để ngăn việc bán đất để phát triển tư nhân hóa. Mô hình hóa sau khi thực tế tại Hoa Kỳ với việc thành lập Vườn quốc gia Yellowstone, Đạo luật Vườn quốc gia Dãy núi Rocky được thông qua vào năm 1887, thành lập Vườn quốc gia Núi Rocky, sau chính là Vườn Quốc gia Banff. Ý tưởng về một vườn quốc gia sau đó rất phổ biến và dẫn đến nhiều đề xuất cho Bộ Nội vụ xem xét, bao gồm cả các địa điểm bổ sung dọc theo Đường sắt Thái Bình Dương của Canada (như là Yoho, Glacier và phần mở rộng của Banff), Tuyến đường sắt Grand Trunk Thái Bình Dương (như là Jasper). Năm 1911, Đạo luật Vườn quốc gia Dãy núi Rocky được thay thế bởi "Đạo luật Khu bảo tồn và Vườn quốc gia Rừng Dominion" đã thành lập Cục Công viên Quốc gia đầu tiên trên thế giới mang tên, Chi nhánh Dominion (sau này là Cục Công viên Quốc gia Canada), quản lý các vườn quốc gia ở Canada. Những vườn quốc gia sớm, kể cả những nơi được thành lập dưới sự lãnh đạo của James Bernard Harkin, được đặt sang một bên để dành đất chủ yếu phục vụ du lịch và bảo tồn nhưng cũng đã có một chính sách loại trừ cấm việc sử dụng tài nguyên tại các vùng đất truyền thống của những người bản địa sau khi hình thành các vườn quốc gia mới. Năm 1922, Vườn quốc gia Wood Buffalo là nơi đầu tiên cho phép các hoạt động của những người dân tộc bản địa truyền thống được tiếp tục. Năm 1972, Cục Công viên Quốc gia Canada thiết lập Khu bảo tồn vườn quốc gia, vùng đất được quản lý bởi cơ quan dự định sẽ trở thành vườn quốc gia trong khi chờ giải quyết quyền sử dụng đất bản địa và các thỏa thuận để tiếp tục sử dụng đất truyền thống.
Tính đến năm 2018, có tổng cộng 39 vườn quốc gia và 8 khu bảo tồn vườn quốc gia (bao gồm vườn quốc gia và khu bảo tồn Kluane, được coi là một vườn quốc gia và cũng là một khu bảo tồn) có tổng diện tích , chiếm 3,3% diện tích Canada, đại diện cho 30 trong tổng số 39 khu vực tự nhiên. Mỗi Tỉnh và lãnh thổ của Canada đều có ít nhất một vườn quốc gia. Danh sách này cũng bao gồm 4 Khu bảo tồn biển quốc gia (NMCAs), 1 địa danh quốc gia, và các vườn quốc gia, khu bảo tồn biển quốc gia dự kiến trong tương lai. Theo báo cáo có tất cả 15.449.249 lượt khách ghé thăm các vườn quốc gia của Canada trong năm 2016-17, trong đó có hơn 4 triệu lượt khách ghé thăm vườn quốc gia Banff, trong khi chỉ có hai người ghé thăm Vườn quốc gia Tuktut Nogait.
Dưới đây là danh sách các vườn quốc gia của Canada.
Danh sách.
Một Khu bảo tồn vườn quốc gia là khu vực đang chờ để trở thành một vườn quốc gia. Cho đến lúc đó, chúng sẽ được quản lý theo Đạo Luật vườn quốc gia như là một vườn quốc gia chính thức.
Vườn quốc gia và các Khu bảo tồn vườn quốc gia dự kiến.
Sau đây là những khu vực mà Cục Công viên Quốc gia Canada đang trong quá trình đánh giá để trở thành các vườn quốc gia trong tương lai. Trong khi các khu vực này có thể được bảo tồn hoặc có các thỏa thuận liên bang/lãnh thổ, nhưng vẫn chưa được chính thức thành lập thông qua luật pháp như là một vườn quốc gia.
Khu bảo tồn biển quốc gia.
Khu bảo tồn biển quốc gia (NMCAs) là một bổ sung tương đối mới đối với hệ thống vườn quốc gia. Mục tiêu của hệ thống NMCAs là bảo tồn các khu vực đại diện cho 29 vùng biển của Canada được xác định bởi Cục Công viên Quốc gia Canada. Chúng được thành lập để sử dụng hiệu quả, bền vững, cũng như bảo vệ toàn vẹn hệ sinh thái biển. Chính phủ đã công bố kế hoạch bổ sung 5 Khu bảo tồn biển như là một phần của Đạo luật Khu bảo tồn biển. Khu bảo tồn đầu tiên được chính thức công bố là khu bảo tồn biển quốc gia Hồ Superior được thành lập vào năm 2015. Công viên biển quốc gia Fathom Five được thành lập vào năm 1987 trước khi có hệ thống NMCAs. Khu bảo tồn biển Saguenay–St. Lawrence được đồng quản lý bởi Cục Công viên Quốc gia Canada và Cơ quan quản lý Cơ sở giải trí ngoài trời Quebec (Sépaq).
Vào năm 2018, một khu bảo tồn biển đã được thiết lập bảo vệ vùng biển, vùng đất ngập nước và bờ biển, đại diện cho 5 trong số 29 vùng biển được xác định với các nghiên cứu đang được tiến hành cho các khu bảo tồn ở ba khu vực khác.
Địa danh quốc gia.
Ngoài các vườn quốc gia, một chương trình gần đây được thành lập vào năm 1978 có tên Địa danh quốc gia nhưng vẫn chưa được mở rộng ngoài một địa điểm duy nhất. Nó được dự định để bảo vệ các đặc điểm tự nhiên cụ thể được coi là "xuất sắc, đặc biệt, độc đáo, hoặc hiếm có của quốc gia. Những đặc điểm tự nhiên thường sẽ được các đơn vị khoa học quan tâm.
Xem thêm.
Công viên cấp tỉnh được quản lý và hỗ trợ bởi chính quyền địa phương, tuy nhiên cũng có một số công viên cấp tỉnh được phân loại như là một "vườn quốc gia" (loại II) thuộc IUCN. | 1 | null |
La Vérité (dịch nghĩa: "Sự thật") là một phim điện ảnh Pháp-Ý của đạo diễn Henri-Georges Clouzot. Phim được công chiếu tại Pháp vào tháng 11 năm 1960 và tại Ý vào tháng 1 năm 1961.
Nội dung.
Phim dựa trên câu chuyện có thật về nữ sát thủ Pauline Dubuisson - người giết chết vị hôn phu cũ của mình là Félix Bailly.
"La Vérité" lấy bối cảnh là phiên tòa xử cô gái trẻ Dominique Marceau can tội giết Gilbert Tellier - bạn trai cũ của cô. Xen kẽ giữa các cảnh ở tòa là những đoạn thuật lại quá khứ trước khi hành vi phạm tội diễn ra.
Dominique Marceau là một cô gái trẻ tuổi có ngoại hình thu hút, bị đuổi học và có lối sống phóng túng. Từ quê nhà Rennes lên Paris hoa lệ cùng cô em gái Annie, Dominique sớm lao vào các cuộc vui chốn quán xá và làm quen cùng nhiều người bạn mới. Một hôm Dominique vô tình gặp Gilbert Tellier - một sinh viên trường nhạc - khi anh đến nơi hai chị em trọ. Họ dần dần yêu nhau sau những lần đi chơi. Điều này khiến Annie rất tức giận do cô cảm mến Gilbert từ trước. Trong thời gian sau đó Gilbert và Dominique thường gặp nhau, và Gilbert cầu hôn cô. Dominique từ chối với lý do cô chưa sẵn sàng. Giữa hai người dần xuất hiện hố ngăn cách do có sự xung đột về thái độ đối với tình dục. Trong khi Gilbert là một người theo quan niệm truyền thống và có thái độ chiếm hữu trong tình yêu thì Dominique có quan điểm tự do, xem tình dục và tình yêu là khác nhau. Trong một lần nọ, Gilbert đã mắng Dominique, xem cô là kẻ phản bội do có quan hệ với người đàn ông khác.
Sau khi chia tay, Gilbert dần gặt hái thành công trong sự nghiệp nhạc trưởng trong khi Dominique sống đắm mình trong các cuộc vui chơi và thậm chí chấp nhận qua đêm cùng những người đàn ông khác để có tiền sinh sống. Tuy vậy, trong thâm tâm cô biết mình chỉ yêu Gilbert. Trong khi đó, Gilbert đính hôn với Annie. Trong một buổi tối, Dominique tìm đến và xin anh quay lại. Gilbert lợi dụng thân xác Dominique và ngay sáng hôm sau anh hối thúc cô ra khỏi nơi anh trọ. Chìm đắm trong buồn chán, Dominique chuẩn bị súng để tự sát. Cô tìm đến nhà Gilbert để dọa chết trước mặt anh nhưng anh đã thốt ra những lời lẽ xúc phạm thách thức Dominique khiến cô không làm chủ được mình và bắn chết anh bằng nhiều phát đạn. Sau đó, Dominique vào nhà và tháo dây bình gas để tự sát nhưng không thành do những người khác đã phát hiện sự việc.
Tại phiên tòa, phía công tố viên liên tục cáo buộc bị cáo Dominique bằng những lời lẽ nặng nề, trong khi luật sư cố gắng bào chữa cho cô. Cuối phim, cô vẫn khẳng định mình yêu Gilbert và phản bác những người buộc tội mình. Sau khi bị đưa trở lại phòng giam chờ phán quyết, Dominique viết lá thư bày tỏ sự hối lỗi và rạch tay tự sát.
Thông tin thêm.
Thời gian sau khi "La Vérité" công chiếu, Brigitte Bardot cũng từng cố tự sát và có quan hệ tình ái với Sami Frey, tương tự như nhân vật Dominique Marceau trong phim. | 1 | null |
Kingkey 100 (, "Kinh Cơ 100"), có tên cũ là Kingkey Finance Center Plaza, là một tòa nhà chọc trời ở quận La Hồ, thành phố Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Tòa nhà cao và có 100 tầng, Trong đó, 68 tầng với tổng diện tích là các văn phòng hạng A, 22 tầng (từ tầng 75 đến tầng 98) với tổng diện tích thuộc khách sạn 6 sao St. Regis mở cửa từ tháng 9 năm 2011. Còn các tầng trên cùng có một khu vườn và một vài nhà hàng. Nằm bên cạnh Kingkey 100 là trung tâm thương mại KK mở cửa vào ngày 26 tháng 11 năm 2010 với nhiều cửa hiệu, nhà hàng và một siêu thị, cũng như rạp chiếu phim IMAX đầu tiên ở Thâm Quyến.
Kingkey 100 hiện là tòa nhà có quy mô lớn nhất Thâm Quyến, đồng thời là tòa nhà cao thứ 9 trên thế giới. | 1 | null |
Lãng Thanh (1977-2002), tên thật là Lê Quốc Tuấn, là nhà thơ trẻ Việt Nam đã qua đời khi mới 25 tuổi và trở nên nổi tiếng với tập thơ "Hoa" đạt Giải thưởng cao nhất về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004.
Tiểu sử.
Lãng Thanh là bút danh (mang nghĩa "tiếng sóng") của Lê Quốc Tuấn, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1977 tại xã Hiền Quan, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Khi lớn lên anh theo học và tốt nghiệp Học viện Quan hệ Quốc tế khóa 23 (1996-2000) và Đại học Ngoại thương Hà Nội khóa 37 (1996-2001). Tháng 10 năm 2001, Lãng Thanh về công tác tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Vĩnh Phúc. Thành thạo ba ngoại ngữ Anh, Pháp, Trung và chữ Hán, chữ Nôm, có thể đọc được tiếng Đức, anh cũng đa tài trong các lĩnh vực thư pháp, hội họa, dịch thuật và thơ ca. Ở độ tuổi thanh xuân đang tràn đầy nhiệt huyết, thậm chí Lãng Thanh còn ấp ủ dự định viết sách về thư pháp và thành lập Lãng Thanh thư phái, một trường phái thư pháp mang tên mình.
Ngày 20 tháng 7 năm 2002, Lãng Thanh và phụ thân bị một kẻ nghiện ma túy vốn là người bà con đâm chết ngay trong nhà mình. Sau khi Lãng Thanh mất, nhóm bạn bè của anh trong Câu lạc bộ văn hóa Chí Tâm đã đưa một phần di cảo thơ anh đến với Nhà xuất bản Thanh Niên, biến anh thành "người của công chúng", một "hiện tượng của thơ Việt" trong thập niên đầu của thế kỷ 21.
Sự nghiệp.
Khi còn sống, Lãng Thanh đã tự tay tuyển chọn một số bài thơ với tâm nguyện trình làng một thi phẩm mang phong cách cá nhân nhưng chưa kịp thực hiện. Trong lời tâm sự với bạn bè, Lãng Thanh cho biết từ năm 1998 khi tròn 21 tuổi anh đã mong muốn in thơ nhưng không thực hiện được, tới năm 2001 anh lại muốn in nhưng nhà xuất bản vẫn chưa chấp nhận vì ái ngại sự mới lạ của tập thơ. Đột ngột rời bỏ dương thế, những gì Lãng Thanh để lại được bạn bè anh tập hợp lại và Nhà xuất bản Thanh Niên đã ấn hành năm 2003 với tựa đề thi tập "Hoa" (thơ). Chỉ vỏn vẹn 14 bài thơ in trong khổ giấy nhỏ, dày 76 trang chia làm hai phần Thượng, Hạ xen cài một số bức thư họa của tác giả, "Hoa" đã ngay lập tức được trên dưới 30 tờ báo viết bài giới thiệu, bình luận, nghiên cứu, và số lượng các bài viết về hiện tượng Lãng Thanh cùng tập thơ ngày một nhiều hơn theo thời gian. Cho tới khi ra đi ở độ tuổi 25, Lãng Thanh chưa từng có một bài thơ in báo, nhưng chỉ một năm sau công chúng đã biết đến anh với tư cách là một nhà thơ thực sự. Năm 2004, "Hoa" đoạt giải B Giải thưởng Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam (trong năm này không có tác phẩm nào được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải A), và tác giả đã trở thành người trẻ tuổi nhất được nhận giải (nếu còn sống, khi đó Lãng Thanh mới 27 tuổi).
Sau khi tập thơ "Hoa" đến với độc giả, bạn bè và người thân của Lãng Thanh tiếp tục sưu tập được một số bài thơ nữa, trong đó có cả những bài được Lãng Thanh sáng tác từ năm 14 tuổi. Những người bạn của Lãng Thanh, các nhà văn, nhà báo và biên tập viên, đã lựa 7 bài trong số những bài thơ mới sưu tầm nói trên, gộp chung với các bài đã ra mắt bạn đọc trong tập "Hoa" trước đó thành 21 bài. Cùng một số tản văn, tiểu luận, lời ca khúc, dịch phẩm thi ca, ảnh chụp một số bức thư pháp, tranh vẽ, tranh xé dán của cùng tác giả, tập hợp lại và được Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành trong cuốn "Hoa và những trang viết để lại" vào năm 2009. Nhà văn Thiên Sơn (tên thật là Nguyễn Xuân Hoàng) viết lời giới thiệu cho tác phẩm với tựa đề "Lãng Thanh - hạt mầm của một thời đại thi ca".
Tác phẩm.
1. Hoa (tập thơ), Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2003, 76 trang:
2. Hoa và những trang viết để lại (tuyển tập), Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2009, 231 trang:
Một số bài thơ.
Dưới đây trích một vài câu thơ trong các bài thơ của Lãng Thanh đã được xuất bản: | 1 | null |
Trung tâm Tài chính Quốc tế Quảng Châu () hay Tháp Tây Quảng Châu () là một tòa nhà chọc trời 103 tầng cao ở Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc và là một phần của tháp đôi Quảng Châu.
Việc thi công tòa nhà, dựa trên thiết kế của Wilkinson Eyre, bắt đầu từ tháng 12 năm 2005 và kết thúc vào năm 2010. Tòa nhà đóng vai trò là một trung tâm hội nghị, khách sạn và văn phòng. Tầng 1 đến tầng 66 là các văn phòng, tầng 67 và tầng 68 chứa các thiết bị cơ khí, tầng 69 đến tầng 98 thuộc một khách sạn Bốn Mùa, còn tầng 99 và tầng 100 được dùng làm đài quan sát.
Tòa nhà trước đây được biết đến với tên gọi Tháp Tây Quảng Châu với một dự án liên quan là Tháp Đông Quảng Châu cao . Tuy nhiên, dự án này đã được trao cho một thiết kế khác, trung tâm Châu Đại Phúc cao của Kohn Pedersen Fox, người chiến thắng giải Lubetkin của Viện Kiến trúc Hoàng gia Anh năm 2012. | 1 | null |
Buteoninae là một phân họ động vật trong họ Ưng bao gồm các loài chim săn mồi có cánh rộng từ trung bình tới lớn.
Các loài chim trong phân họ này thường có đôi chân và móng vuốt mạnh mẽ để bắt mồi, với mỏ lớn và khỏe để xé thịt con mồi. Chúng cũng có thị lực rất tốt có thể phát hiện con mồi từ xa.
Phân họ này chứa các loài diều, diều hâu, đại bàng thực sự và đại bàng biển. | 1 | null |
Đại bàng ẩn sĩ vương miện (danh pháp khoa học: Buteogallus coronatus) là một loài chim trong họ Accipitridae.
Miêu tả.
Đại bàng ẩn sĩ vương miện là một loài chim săn mồi ở phía đông và trung tâm Nam Mỹ. Đây là một loài chim ăn thịt lớn với chiều dài 73–79 cm, sải cánh dài 170–183 cm và trọng lượng trung bình 2,95 kg. Con trưởng thành gần như hoàn toàn màu xám, với một cái đuôi có dải màu đen và trắng. Con non có màu xám nâu trên lưng và nhạt màu ở phần đầu và phía dưới.
Phân bố và lối sống.
Đại bàng ẩn sĩ vương miện sống ở Argentina, Brazil, Paraguay và Bolivia. Chúng có xu hướng sống trong rừng thưa và vùng đầm lầy. Chúng được cho là hoạt động chủ yếu vào lúc hoàng hôn. Con mồi chủ yếu của chúng là các loài động vật có vú, bao gồm thú tatu, chồn hôi, chồn triết, động vật gặm nhấm và khỉ. Chúng cũng săn bò sát (chủ yếu là rắn), cá, cừu và đôi khi là chim bao gồm gà tinamou và gia cầm.
Sinh sản.
Đại bàng ẩn sĩ vương miện thường làm tổ trên các cây lớn, với đường kính khoảng 1,2 m và sâu 30 cm. Chúng chỉ đẻ một quả trứng mỗi lứa. Loài này được coi là có nguy cơ tuyệt do có mật độ sinh sống rất thấp và rất hiếm gặp trong tự nhiên. Chúng bị đe dọa do sự hủy diệt môi trường sống, chủ yếu là sự xâm nhập của quá trình sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi gia súc. Ngoài ra, đôi khi chúng cũng bị bắn và bị bẫy, do người dân lo sợ chúng ăn thịt gia súc. | 1 | null |
Alfred Marshall (26 tháng 7 năm 1842 - 13 tháng 7 năm 1924) là một nhà kinh tế học người Anh. Cuốn sách của ông có tựa đề "Principles of Economics" (Các quy luật của kinh tế học) xuất bản năm 1890, là một trong những cuốn sách giáo khoa kinh tế có tầm ảnh hưởng nhất ở Anh trong nhiều năm. Cuốn sách đã đưa các ý tưởng về cung và cầu, độ thỏa dụng biên và chi phí sản xuất thành một khối tổng thể. Ông được coi là một trong những nhà sáng lập kinh tế học. | 1 | null |
Đại bàng ẩn sĩ núi (danh pháp khoa học: Buteogallus solitarius) là một loài chim trong họ Accipitridae.
Miêu tả.
Đại bàng ẩn sĩ núi trưởng thành có màu xám đen, hoặc màu đen, với những mảng trắng trên đuôi. Chúng có chiều dài 63–76 cm, nặng 2,75 kg, với sải cánh 152–188 cm. Chúng giống với diều hâu đen, nhưng lớn hơn nhiều và có đôi cánh rộng hơn đáng kể. Đôi cánh đặc biệt rộng là một trong những đặc điểm phân biệt chính của loài này. Cơ thể của chúng cũng khá chắc mập. Khác với con trưởng thành, con non có màu nâu và đốm nâu, với những mảng màu quanh mắt.
Phân bố và lối sống.
Đại bàng ẩn sĩ núi có nguồn gốc ở Mexico, Trung và Nam Mỹ. Nó được tìm thấy trong vùng rừng núi hoặc rừng đồi, ở độ cao từ 600 m đến 2.200 m. Có rất ít thông tin về lối sống cũng như đặc tính sinh thái của chúng. Chúng được cho là săn các loài động vật có xương sống trung bình như rắn lớn, gà Mỹ hay hươu nhỏ. | 1 | null |
Danh sách các tòa nhà cao nhất Quảng Châu bao gồm các tòa nhà chọc trời tại Quảng Châu, Trung Quốc theo chiều cao. Hiện tại tòa nhà cao nhất Quảng Châu là Trung tâm Tài chính Quốc tế Quảng Châu với chiều cao 440m (1,440 ft). Đây cũng là tòa nhà cao thứ tư Trung Quốc. Mặc dù không được coi là một tòa nhà, ở độ cao 600m (1,969 ft), Tháp Quảng Châu là công trình cao nhất ở cả Quảng Châu lẫn Trung Quốc, đồng thời là công trình độc lập cao thứ hai thế giới, chỉ sau Tokyo Skytree.
Các tòa nhà cao nhất.
Danh sách sau bao gồm các tòa nhà chọc trời tại Quảng Châu với chiều cao ít nhất 150 m (492 ft).
Đang thi công, đã phê duyệt và được đề xuất.
Đang thi công.
Danh sách sau bao gồm các tòa nhà đang được thicoong và theo kế hoạch sẽ cao ít nhất 150 m (492 ft).
Đã phê duyệt.
Danh sách sau bao gồm các tòa nhà đã được phê duyệt hoặc đang trong quá trình chuẩn bị thi công mà theo kế hoạch sẽ cao ít nhất 150 m (492 ft).
Được đề xuất.
Danh sách sau bao gồm các tòa nhà đã được đề xuất xây dựng ở Quảng Châu và sẽ cao ít nhất 150 m (492 ft) theo kế hoạch. | 1 | null |
Trương Văn Hổ (; ?-?) là một tướng người Hán của nhà Nguyên. Ông từng cầm đầu nhóm cướp biển hoạt động tại vùng Phúc Kiến và Quảng Đông. Sau đó, ông đầu hàng nhà Nguyên, được phong tước Vạn hộ, trở thành tướng thủy binh.
Trong kế hoạch tấn công Đại Việt lần thứ 3, vua Nguyên Hốt Tất Liệt trù tính dùng đoàn thuyền tải lương nhằm giải quyết nhược điểm chí mạng về lương ăn của lực lượng viễn chinh. Đầu năm 1288, Trương Văn Hổ, bấy giờ đang giữ tước Vạn hộ, được Hốt Tất Liệt phong làm Hải đạo vận lương, sai chỉ huy đạo thuyền lương theo Ô Mã Nhi đánh Đại Việt. Bên cạnh đó, còn có thêm 2 đoàn thuyền lương của Phí Củng Thìn và Từ Khánh tiếp vận theo sau.
Theo kế hoạch, lực lượng thủy quân chủ lực của Ô Mã Nhi có trách nhiệm bảo vệ đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đi sau tiến vào Đại Việt. Tuy nhiên, sau trận Lãng Sơn, Ô Mã Nhi thừa thắng kéo quân đi trước, không nghĩ gì đến thuyền lương ở sau. Khi vào đến cửa Lục Vân Đồn, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị quân của Trần Khánh Dư mai phục bị đánh tan. Trương Văn Hổ cùng tàn quân rút chạy về Quỳnh Châu.
Nguyên sử chép:
An Nam chí lược chép:
Đại Việt sử ký toàn thư chép về trận này như sau:
Số phận các đoàn thuyền lương khác cũng chẳng khá hơn. Theo Nguyên sử, đoàn thuyền lương của Phí Củng Thìn đến Huệ Châu thì gặp gió ngược, trôi dạt đến Quỳnh Châu. Đoàn thuyền lương của Từ Khánh thì trôi dạt đến Chiêm Thành, sau cũng đến Quỳnh Châu.
Thất bại của các đoàn thuyền lương góp phần lớn dẫn đến thất bại nhanh chóng của kế hoạch viễn chinh lần thứ ba của quân Nguyên Mông. Sách Đại Việt toàn thư chép: "Cho nên, năm này, vết thương không thảm như năm trước, Khánh Dư có phần công lao trong đó."
Số phận Trương Văn Hổ sau này không rõ. | 1 | null |
Lý Thành (chữ Hán: 李成, ? - ?), tự Bá Hữu, người Quy Tín, Hùng Châu, vốn là tướng lãnh cấp thấp nhà Bắc Tống, trở thành trùm giặc cướp ở khoảng Giang - Hoài; sau đó đi theo nhà Lưu Tề; nhà Lưu Tề bị phế, tiếp tục phục vụ nhà Kim, tham gia đánh Nam Tống. Ông và "Từ đại đao" Từ Văn là nguyên mẫu của các nhân vật Đô giám "Lý thiên vương" Lý Thành và "Văn đại đao" Văn Đạt, dưới quyền Đại Danh lưu thủ Lương Trung Thư trong Thủy Hử truyện .
Cuộc đời và sự nghiệp.
Ông có sức mạnh hơn người, có thể kéo cung nặng 300 cân. Đầu thời Tuyên Hòa (1119 – 1125) nhà Bắc Tống, thi cung thủ, được xếp loại có sức kéo dị thường. Từng nhận chức Hoài Nam chiêu tróc sứ. Quân Kim chiếm Hà Bắc, Lý Thành nhân đó tụ tập ở Truy Xuyên làm cướp, dần dần lui xuống phía nam, hoạt động ở khoảng Giang - Hoài. Triều đình từng hai lần chiêu an , nhưng Thành vẫn quen thói cũ, nên phái binh dẹp tan.
Thành về với Lưu Tề, được làm Tri Khai Đức phủ, theo quân Kim đánh Tống. Năm Thiên Hội thứ 11 (1133), Lý Thành chiếm cứ 6 quận Tương Dương (Tương Dương phủ, Đặng Châu, Tùy Châu, Dĩnh Châu, Đường Châu, Tín Dương quân), bị Nhạc Phi đánh bại. Khi Ngụy Tề bị phế năm 1137, Lý Thành được tái bổ nhiệm An Vũ quân Tiết độ sứ.
Hoàn Nhan Tông Bật lại đánh Hà Nam, Lý Hưng nhà Tống giữ phủ Hà Nam. Lý Thành đưa quân vào Mạnh Tân. Hưng soái quân áp sát, nổi trống thách đánh, ông không ra. Trời về chiều, quân Tống mệt và đói, Thành mở cửa đánh gấp, đại phá bọn họ. Hưng chạy đi Hán Nam, ông chiếm được các nơi Lạc Dương, Tung, Nhữ. Bình xong Hà Nam, Tông Bật tâu cho Thành làm Hà Nam doãn, Đô Quản áp Bản lộ binh mã. Vì đem chỗ thóc thừa gộp vào số đã dùng, nên bị kết tội, mất cả hai chức quan. Thời Chánh Long (1149 - 1161), được khởi dụng làm Chân Định doãn, phong Quận vương, theo Hán chế giáng phong Tể quốc công. Hưởng thọ 69 tuổi.
Tính cách.
Thành là kẻ mạnh tợn nhất trong nhóm hàng tướng, hiệu lệnh rất nghiêm, bộ hạ không dám phạm. Khi lâm trận đi trước mọi người; sĩ tốt chưa ăn thì không ăn trước; đích thân thăm nom người có bệnh. Không chịu che mưa, cho dù ướt át như thế nào!
Có người tố cáo Thành làm phản, Hoàn Nhan Tông Bật xét ra là vu khống, giao cho ông xử trí, Thành đánh đòn rồi tha cho, không bắt bớ thêm nữa. Đem việc này làm trò vui, nhờ thế mà được lòng người. | 1 | null |
Marco Andreolli (sinh ngày 10 tháng 6 năm 1986 tại Ponte dell'Olio, Piacenza) là cầu thủ bóng đá người Ý, hiện đang chơi cho câu lạc bộ Sevilla F.C. mượn từ Inter Milan, anh chơi ở vị trí trung vệ.
Thống kê sự nghiệp.
"Tính đến ngày 23 tháng 1 năm 2015" | 1 | null |
Ishak Belfodil (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1992 tại Mostaganem) là cầu thủ bóng đá người Algérie, hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ TSG 1899 Hoffenheim tại Bundesliga và đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie. Ngoài quốc tịch Algérie, anh còn có thêm quốc tịch Pháp và đã thi đấu ở các cấp độ trẻ của Pháp. | 1 | null |
Hugo Campagnaro (27 tháng 6 năm 1980) là cầu thủ bóng đá người Argentina chơi ở vị trí hậu vệ.
Mùa hè năm 2007, anh đã ký hợp đồng với Sampdoria để chuẩn bị cho cúp Intertoto năm 2007. Tại thời điểm đó Campagnaro trị giá 1.550.000 Euro. Ngày 9 tháng 7 năm 2009, Anh ký hợp đồng 4 năm với Napoli có giá trị 7 triệu Euro.
Thống kê sự nghiệp.
Câu lạc bộ.
"Tính đến ngày 1 tháng 3 năm 2015"
Danh hiệu.
Sampdoria
Napoli
Đội tuyển Argentina | 1 | null |
Kuno Thassilo von Auer (28 tháng 7 năm 1818 tại Königsberg, Đông Phổ – 24 tháng 12 năm 1895 cũng tại nơi mà ông sinh ra) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được phong đến quân hàm danh dự ("Charakter") Thiếu tướng.
Ông là con trai của Thiếu tướng Kasimir von Auer (1788 – 1837) và người vợ của ông này là "Friederike Leopoldine Ferdinande von Kleist".
Vào năm 1835, trên tư cách là lính pháo thủ, Auer gia nhập Trung đoàn Phóng lựu "Vua Friedrich Wilhelm I" (số 2 Đông Phổ) số 3. Sau đó, ông được đổi sang Tiểu đoàn "Lehrinfantriebataillon" vào năm 1843. Vào năm 1855, ông được thăng cấp Đại úy, đến năm 1856 ông được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá ("Adjutant") của Tổng tham mưu trưởng. Vào năm 1865, ông được lãnh một chức Tiểu đoàn trưởng ("Bataillonskommandeur") trong Trung đoàn Bộ binh số 18. Năm 1866, ông được lên chức Đại tá và Trung đoàn trưởng ("Regimentskommandeur") của Trung đoàn Phóng lựu số 2 "Thái tử". Trên cương vị này, ông đã tham chiến trong cuộc chiến tranh với Áo vào năm 1866. Đến năm 1868, ông được cử vào một chức Trưởng phòng trong Bộ Chiến tranh Phổ, nhưng không lâu sau ông cáo lui về điều hành lãnh địa Goldschmiede, mà ông được hưởng theo chế độ con trưởng thừa kế, ở hạt Samland. Sau khi tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông được nhận quân hàm danh dự ("Charakter") Thiếu tướng.
Ông cũng tham gia chính trị với vai trò là thành viên Đảng Bảo thủ. Ngoài ra, ông cũng tham gia Hiệp hội Altertumsgesellschaft Prussia ở Đông Phổ, và là "Chủ tịch" ("Obervorsteher") của Lâu đài Königshalle (Königsberg).
Gia đình.
Vào ngày 7 tháng 11 năm 1849, ông thành hôn với "Charlotte von Plocki" (24 tháng 1 năm 1831 – 22 tháng 4 năm 1907). Trong số những người con của họ có: | 1 | null |
Han Ji-min (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1982) là nữ diễn viên nổi tiếng người Hàn Quốc. Sau hai vai nhỏ trong phim "All In" và "Dae Jang Geum," Ji-min có vai diễn đột phá trong phim dài tập thể loại báo thù "Resurrection" năm 2005"." Sau đó, cô tiếp tục đảm nhận vai chính trong hai bộ phim truyền hình lịch sử "Capital Scandal" và "Yi San," phim truyền hình hiện đại "Cain and Abel" và "Padam Padam;" phim truyền hình lãng mạn "Hoàng tử gác mái, Familiar wife" và "Dazzling."
Nhờ phim điện ảnh Miss Baek năm 2018, cô đoạt được giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh và Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang - hai trong ba giải thưởng danh giá nhất của điện ảnh Hàn Quốc (thường được gọi là "Grand Slam").
Cuộc sống.
Han Ji-min sinh ngày 5 tháng 11 năm 1982, tại Heishokdong, quận Dongjak, thành phố Seoul, Hàn Quốc. Cô tốt nghiệp ngành phúc lợi xã hội trường Đại học Nữ sinh Seoul.
Hoạt động xã hội & quyên góp.
Vốn tốt nghiệp ngành phúc lợi xã hội, Han Ji-min nổi tiếng vì tích cực tham gia hoạt động thiện nguyện và gây quỹ, thường là thông qua tổ chức cứu trợ Join Together Society. Năm 2009, cô viết và xuất bản cuốn sách "We’re Already Friends: Han Ji-min's Philippines Donation Book (Chúng ta là bạn: Sách về đóng góp của Han Ji-min ở Phillipines)," chứa những câu chuyện và tranh vẽ về thời gian cô đến giúp một trường làng ở vùng núi xa xôi tại Philippines. Sau đó cô quyên góp toàn bộ tiền kiếm được từ cuốn sách cho quỹ giáo dục trẻ em tại Triều Tiên và các quốc gia đang phát triển ở châu Á.
Năm 2012, cô được bổ nhiệm làm sứ giả thiện chí của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc.
Cô được gọi là "biểu tượng nhân ái của đất nước", và đã được trao nhiều giải thưởng nhằm ghi nhận đóng góp của cô cho xã hội.
Sự nghiệp.
2003–2010: Khởi đầu & Đột phá.
Han Ji-min bắt đầu sự nghiệp diễn xuất khi vẫn còn đang là học sinh trung học. Cô tham gia nhiều phim thương mại (CF) và video âm nhạc trước khi nhận được sự chú ý rộng rãi vào năm 2003 nhờ xuất hiện trong hai bộ phim truyền hình đình đám "All In" và "Dae Jang Geum". Han Ji-min cho biết cô chưa từng mơ ước trở thành diễn viên chuyên nghiệp, nhưng đã thay đổi suy nghĩ này sau khi tham gia phim All In. Trong phim, cô đóng vai thuở nhỏ của diễn viên chính, do nữ diễn viên nổi tiếng Song Hye-kyo thủ vai.
Han Ji-min có vai diễn đột phá trong bộ phim dài tập được giới phê bình khen ngợi "Resurrection" năm 2005. Sau đó, cô tiếp tục thử thách bản thân bằng vai một tomboy đáng yêu nhưng đầy hoài bão, luôn mơ ước trở thành phi công, trong bộ phim điện ảnh đầu tay "Blue Swallow".
Tai nạn xe hơi tại phim trường phim "Wolf" đã khiến Han Ji-min cùng bạn diễn Eric Mun bị thương nặng, khiến cho tiến trình làm phim liên tiếp bị dừng lại, và rồi ngừng hẳn dù chỉ mới phát sóng được ba tập. Sau khi Eric Mun hồi phục, hai diễn viên tái ngộ trong bộ phim "Super Rookie Ranger" (còn có tên là "Invincible Parachute Agent" hoặc "Korea Secret Agency)""."
Han Ji-min tiếp tục đóng nhiều phim truyền hình, đặc biệt cô hóa thân thành một chiến sĩ kháng chiến gian khổ trong phim "Capital Scandal" và vai cung tần trong bộ phim truyền hình lịch sử "Yi San". Vốn được khán giả yêu mến với hình ảnh ngọt ngào, thánh thiện,mỏng manh cùng những vai nhân vật lương thiện, Han Ji-min khiến khán giả kinh ngạc với màn lột xác thành người phụ nữ có sức quyến rũ chết người trong phim "Detective K: Secret of the Virtuous Widow".
2011–2017: Đa dạng thể loại.
Han Ji-min đóng vai một bác sĩ thú y theo lối sống yếm thế trong bộ phim "Padam Padam", do biên kịch phim nổi tiếng Noh Hee-kyung viết kịch bản, phát sóng trên kênh truyền hình cáp mới ra mắt jTBC. Sau đó, cô đóng vai nữ chính trong phim "Hoàng tử gác mái", kể về một vị vương tử thời Triều Tiên xuyên không tới thế kỷ 21 và gặp được một người phụ nữ giống hệt người vợ quá cố của mình. Độ nổi tiếng của phim giúp Han Ji-min đoạt được một số giải thưởng và nâng tầm tên tuổi quốc tế của cô lên, đặc biệt là tại Nhật Bản.
Tháng Mười năm 2013, Han Ji-min rời công ty quản lý S.M. Entertainment's SM C&C và gia nhập BH Entertainment của Lee Byung-hun.
Năm 2014, cô tham gia phim hài lãng mạn "The Plan Man", kể về một anh chàng thủ thư sống ngăn nắp và mắc chứng sợ bẩn đem lòng yêu một cô nhạc sĩ phóng túng thích phiêu lưu. Tiếp đó, trong phim lịch sử "The Fatal Encounter", cô vào vai Trinh Thuần Vương hậu, người đang tổ chức một cuộc chiến tranh quyền đoạt vị với cháu nội (trên danh nghĩa) - vua Chính Tổ. Han Ji-min tái ngộ với bạn diễn Hyun Bin (phim The Fatal Encounter) trong bộ phim "Hyde, Jekyll, Me" năm 2015, cô vào vai một nghệ sĩ xiếc đem lòng yêu ông chủ một công viên chủ đề mắc chứng đa nhân cách.
Năm 2016, Han Ji-min nhận vai trong phim hành động kịch tính "The Age of Shadows", kể về những âm mưu và phản trắc trong một nhóm người đấu tranh kháng Nhật đòi độc lập trong thập niên 1920. Năm 2017, Han Ji-min tham gia bộ phim lãng mạn ngắn có tựa đề "Two Rays of Light", cùng với bạn diễn là Park Hyung-sik.
2018–nay: Gặt hái thành công.
Năm 2018, Han Ji-min tham gia đóng vai chính trong bộ phim "Miss Baek", trong phim cô thủ vai nhân vật Baek, một người phụ nữ có tiền án, sống khép kín vì sự kỳ thị xã hội. Màn nhập vai của Han Ji-min đã giúp cô giành được giải Diễn viên chính xuất sắc nhất của Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh danh giá và Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang, cùng với nhiều giải thưởng tại các liên hoan phim lớn khác. Cũng trong năm này, cô quay trở lại màn ảnh nhỏ với bộ phim truyền hình kỳ ảo lãng mạn "Người vợ thân quen (Familiar Wife)" hóa thân vào vai một người vợ bình thường, tính hay cáu gắt.
Năm 2019, Han Ji-min đóng vai chính trong hai phim truyền hình: phim tâm lý tình cảm kỳ ảo "Đôi mắt rực rỡ (Dazzling)" và phim lãng mạn "Một đêm xuân" ("One Spring Night)."
Năm 2020, Han Ji-min xác nhận tham gia đóng bộ phim truyền hình "Here", do Noh Hee-kyung viết kịch bản, phim xoay quanh các tình nguyện viên của tổ chức phi chính phủ. Do tác động của dịch Covid-19 nên công việc làm phim đã bị hoãn vô thời hạn.
Năm 2021, Han Ji-min xác nhận vào vai nữ giám đốc khách sạn trong phim "Happy New Year". Phim khởi quay từ ngày 19 tháng 4, quy tụ dàn diễn viên đình đám của điện ảnh Hàn Quốc như Lee Dong Wook, Kang Ha Neul, YoonA, Lee Kwang Soo...
Cũng trong năm 2021, Han Ji-min xác nhận tham gia phim truyền hình "Our Blues", do Noh Hee-Kyung viết kịch bản, phim dự kiến sẽ phát sóng vào năm 2022. Phim lấy đề tài về cuộc sống, chia sẻ các câu chuyện của mọi người tại các giai đoạn trong cuộc đời. | 1 | null |
Circaetinae là một phân họ chim săn mồi từ trung bình đến lớn. Đây chủ yếu là các loài chim chuyên ăn rắn và các loài bò sát khác, vì vậy hầu hết được đặt tên là "đại bàng ăn rắn". Ngoại lệ duy nhất là Đại bàng Bateleur, một loài đi săn đa dạng hơn. Tất cả các loài trong phân họ đều phân bố ở phần ấm hơn của cựu thế giới.
Các loài này dùng mỏ để xé thịt từ con mồi, và cũng có đôi chân và móng vuốt mạnh mẽ. Chúng cũng có thị lực rất tốt để có thể phát hiện con mồi từ xa. | 1 | null |
Oskar Fromhold Friedrich Olof von Lindequist (10 tháng 12 năm 1838 tại Jülich, hạt Düren, vùng Rhein thuộc Phổ – 16 tháng 4 năm 1915 tại Potsdam, Brandenburg) là một Thống chế của Vương quốc Phổ. Trong sự nghiệp quân sự năng động của mình, Lindequist đã tham gia ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức.
Gia đình.
Ông sinh ngày 10 tháng 12 năm 1835, trong một gia đình quý tộc cổ vùng Pommern (được phong hàm quý tộc của Đế chế tại Viên vào năm 1792), và là con trai của Thượng tá quân đội Phổ "Karl von Lindequist" (1795 – 1874) với người vợ thứ nhất của ông này là bà "Lony von Mayer" (1808 – 1846). Friedrich von Lindequist (1862 – 1945), Thống đốc Tây Nam Phi thuộc Đức là cháu trai của ông.
Thân mẫu của ông mất khi ông chỉ mới 8 tuổi. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1867, tại điền trang Woitzel (ở Labes), Lindequist thành hôn với bà "Anna von Podewils" (Haus Woitzel) (21 tháng 2 năm 1847 tại Magdeburg – sau năm 1928).
Tiểu sử.
Lindequist là một Đại tướng quyền lãnh Thống chế của Vương quốc Phổ đồng thời là Tướng phụ tá của Đức hoàng, à la suite của Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 và Trung đoàn Phóng lựu "Vương hậu Olga" (số 1 Württemberg") số 119. Ông giữ chức Trưởng Đại tá ("Chef") của Trung đoàn Bộ binh số 87 (số 1 Nassau). Lindequist còn là linh mục quản hạt của Nhà thờ chính tòa Merseburg và từ năm 1911 cho đến khi từ trần vào ngày 16 tháng 4 năm 1915, ông là một thành viên Viện Quý tộc Phổ.
Vào ngày 2 tháng 5 năm 1857, khi ông 19 tuổi, Lindequist khởi đầu sự nghiệp quân sự của mình với quân hàm thiếu úy. Đến ngày 2 tháng 5 năm 1857, ông gia nhập Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ số 1 "Hoàng đế Alexander" ở kinh thành Berlin. Ông đã tham chiến trong chiến dịch chống Đan Mạch vào năm 1864 và vào ngày 14 tháng 7 năm đó, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá của Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ số 1 đồng thời lên quân hàm Trung úy. Sau đó, vào năm 1866 ông lại tham chiến trong cuộc chiến tranh với Áo. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1867, ông gia nhập Quân đoàn Vệ binh ("Gardekorps") ở Berlin, hoạt động trong bộ tham mưu của Vương công August của Württemberg, người Tổng chỉ huy Quân đoàn. Ngày 22 tháng 3 năm 1868, ông được thăng cấp Đại úy trong Bộ Tổng tham mưu. Tiếp theo đó, ông tham gia cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), trong đó có trận đánh quyết định ở Sedan vào ngày 2 tháng 9 năm 1870 và cuộc vây hãm Paris. Vào ngày 18 tháng 4 năm 1872, ông là sĩ quan hầu cận ("Flügeladjutant") trong cung đình của Hoàng đế Wilhelm I. Ngày 18 tháng 8 năm đó, ông được lên chức Thiếu tá. Sau đó, vào ngày 22 tháng 3 năm 1877, ông được phong quân hàm Thượng tá. Đến ngày 24 tháng 12 năm 1879, ông được ủy nhiệm làm Đại đội trưởng của Đại đội Túc vệ Hoàng cung ("Schlossgarde") tại Berlin và Potsdam, rồi được lên quân hàm Đại tá vào ngày 16 tháng 9 năm 1881.
Vào ngày 23 tháng 1 năm 1882, ông được lãnh chức Trung đoàn trưởng của Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 ở Potsdam, và giữ chức vụ này cho đến năm 1883. Về sau, vào ngày 1 tháng 9 năm 1887, ông được phong chức Thiếu tướng và Lữ trưởng của Lữ đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 ở Potsdam, và vào ngày 17 tháng 1 năm 1890, ông được nhậm chức Sư trưởng của Sư đoàn số 22 tại Frankfurt am Main. Ngày 24 tháng 3 năm đó, ông lên quân hàm Trung tướng. Cũng trong năm đó, ông được cử làm Tướng phụ tá của tân Hoàng đế Wilhelm II, đồng thời là Sư trưởng của Sư đoàn số 26 tại Stuttgart, Württemberg, vào ngày 27 tháng 10. Ông giữ chức vụ này cho đến ngày 22 tháng 3 năm 1895, khi ông được phong cấp Thượng tướng Bộ binh đồng thời là Tư lệnh của Quân đoàn XIII tại Stuttgart. Sau đó, vào ngày 21 tháng 3 năm 1899, ông được bổ nhiệm chức Tư lệnh của Quân đoàn XVIII ở Frankfurt am Main. Từ ngày 1 tháng 5 năm 1904 cho đến năm 1907, ông là Cục trưởng Cục thanh tra quân đội III ở Hannover, và trong thời gian này ông được phong quân hàm Thượng tướng vào ngày 13 tháng 9 năm 1906.
Sau khi xuất ngũ vào năm 1907, ông được phong cấp bậc Thống chế vào ngày 1 tháng 1 năm 1911. Cùng năm đó, ông trở thành thành viên của Viện Quý tộc Phổ. Ngoài ra, từ năm 1910 cho đến năm 1914, ông còn là Chủ tịch "Hiệp hội Chiến binh Đức" ("Deutschen Kriegerbunds", hay còn gọi là Hiệp hội Kyffhäuser). Ông từ trần vào ngày 16 tháng 4 năm 1915 ở Potsdam. | 1 | null |
Văn hóa Thạch Gia Hà () (2500-2000 TCN) là một nền văn hóa vào cuối thời đại đồ đá mới, tập trung quanh lưu vực trung du Trường Giang thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Đây là nền văn hóa kế thừa của văn hóa Khuất Gia Lĩnh, nằm tại cùng một khu vực và thừa hưởng các đồ tạo tác độc đáo là những dọi se chỉ được tô vẽ. Các bức tượng nhỏ bằng gốm và ngọc thạch khác biệt được làm bằng các kỹ thuật tiên tiến và khá phổ biến. Các dấu tích quặng và các hiện vật đồng đỏ được phát hiện tại một di chỉ thuộc văn hóa Thạch Gia Hà.
Di chỉ đặc trưng Thạch Gia Hà nằm tại Thiên Môn, Hồ Bắc. Địa tầng dưới của di chỉ thuộc về văn hóa Khuất Gia Lĩnh. Di chỉ Thạch Gia Hà có diện tích khoảng 1.200.000 m². Khu định cư có một hào và tường đất bao quanh, nó có thể là một trung tâm khu vực. Thạch Gia Hà là một trong các khu định cư lớn nhất được khai quật cho đến gần đây, nó có hình dạng gần như hình vuông và mỗi phía rộng 1 km. Đây là một giai đoạn mà các làng mạc hay đô thị được mở rộng đối xứng theo hình bầu dục, vuông, chữ nhật hoặc hình thang. | 1 | null |
Văn hóa Bảo Đôn () (2500 TCN-1750 TCN) là một nền văn hóa thời tiền sử tập trung tại đồng bằng Thành Đô thuộc Tứ Xuyên ngày nay. Các cuộc khai quật gần đây đã phát hiện được 6 khu định cư của nền văn hóa này: di chỉ đặc trưng Bảo Đôn nằm tại huyện Tân Tân, di chỉ Mang Thành ở Đô Giang Yển, di chỉ Ngư Phù ở Ôn Giang, di chỉ Tử Trúc ở Sùng Châu, di chỉ Song Hà ở Sùng Châu, di chỉ Cổ Thành ở Bì huyện. Di chỉ đặc trưng Bảo Đôn là lớn nhất, có diện tích khoảng 600.000 m². Toàn bộ các khu định cư nằm bên sông Dân. Tường bao của các khu định cư được bao bọc bằng đá cuội, một đặc điểm đơn nhất của văn hóa Bảo Đôn. Các đồ gốm thuộc văn hóa Bảo Đôn có một số điểm tương đồng với các đồ gốm tại di chỉ Tam Tinh Đôi. | 1 | null |
Di chỉ Bán Pha (半坡遗址) là một di chỉ khảo cổ được phát hiện vào năm 1953, nằm ở lưu vực Hoàng Hà, Trung Quốc, ngay phía đông của thành phố Tây An hiện nay. Di chỉ có tàn tích của khu định cư được tổ chức tốt thuộc thời đại đồ đá mới, có niên đại từ 5600-6700 năm trước theo phương pháp "định tuổi bằng cacbon C14".
Khu vực có diện tích 5-6 ha, có một con mương bao quanh, có thể là một hào phòng thủ, rộng năm hoặc sáu mét. Các ngôi nhà có hình tròn, được xây bằng bùn và gỗ cùng mái nhà nhô ra. Chúng nằm trên một nền thấp, có vẻ là một khu vực mộ táng cộng đồng.
Bản Pha là một di chỉ đặc trưng có liên hệ với văn hóa Ngưỡng Thiều. Các di chỉ khảo cổ có đặc điểm tương đồng với Bản Pha được xem là một bộ phận của "giai đoạn Bản Pha" (thiên niên kỷ 7 TCN) của văn hóa Ngưỡng Thiều. Bản Pha được khai quật từ năm 1954 đến năm 1957 trên một diện tích khoảng 50.000 m².
Khu định cư có mương bao quanh, với những ngôi mộ và lò gốm được đặt bên ngoài vòng mương. Nhiều ngôi nhà bán ngầm với sàn thường sâu 1 mét dưới mặt đất. Các ngôi nhà được chống đỡ bằng các cọc gỗ và mái dốc.
Theo mô hình khảo cổ học Marxist phổ biến tại Trung Quốc trong thời gian khai quật di chỉ, Bản Pha được xem là một xã hội mẫu hệ; tuy nhiên các nghiên cứu mới mâu thuẫn với tuyên bố này, và mô hình Marxist dần dần được loại bỏ khỏi hoạt động nghiên cứu khảo cổ Trung Quốc hiện nay. Hiện nay, không thể nói nhiều về cấu trúc tôn giáo hoặc chính trị từ các tàn tích khảo cổ của di chỉ.
Bảo tàng Bản Pha Tây An được xây dựng vào năm 1957 để bảo tồn bộ sưu tập khảo cổ học từ di chỉ. | 1 | null |
Văn hóa Long Sơn () là một nền văn hóa vào cuối thời đại đồ đá mới tại Trung Quốc, tập trung tại trung du và hạ du Hoàng Hà, có niên đại từ khoảng 3000 TCN đến 2000 TCN. Văn hóa Long Sơn được đặt theo tên của trấn Long Sơn thuộc Tế Nam, Sơn Đông, là nơi di chỉ đầu tiên được phát hiện (1928) và khai quật (1930 và 1931) của nền văn hóa này, di chỉ Thành Tử Nhai.
Giai đoạn đầu của văn hóa Long Sơn là từ 3.000-2.600 TCN, trong khi giai đoạn sau là từ 2.600-2.000 TCN.
Văn hóa Long Sơn đánh dấu một quá trình chuyển đổi sang việc thành lập đô thị, với việc xuất hiện các bức tường đất và hào; di chỉ Đào Tự là điểm định cư lớn nhất có tường bao thuộc văn hóa Long Sơn, có diện tích 2,8 km2. Tại Đào Tự, các nhà khảo cổ học đã khai quật được một cung điện, một đài quan sát thiên văn, chỗ ở của giới thượng lưu và thường dân, cùng một nghĩa trang quý tộc có niên đại từ 4.300 đến 3.900 năm trước. Những hiện vật tuyệt vời đã được tìm thấy, trong đó có một đĩa gốm trang trí một con rồng xanh, trống gốm, trống da cá sấu, rìu ngọc bích và đá, đồ nghi lễ bằng gỗ và khánh đá. Một số nhà khảo cổ cho rằng di tích này có liên quan đến giai đoạn Ngũ Đế trong truyền thuyết Trung Hoa. Ông Hà Nô, một học giả thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc cho biết: "Theo một số tư liệu lịch sử Đào Tự chính là Bình Dương, kinh đô của triều vua Nghiêu… Thời đại vua Nghiêu và hậu duệ là vua Thuấn và vua Vũ không phải huyền thoại. Họ thật sự tồn tại trong lịch sử".
Ngày 1/11/2005, các nhà khảo cổ Trung Quốc ở tại Đào Tự đã thông báo về việc tìm thấy di tích đài thiên văn cổ nhất thế giới, có niên đại cách đây gần 4.100 năm. Những dấu vết còn lại bao gồm một vòng hình bán nguyệt có đường kính 40 m trong khuôn viên chính và 60 m ở vòng ngoài, cho thấy đài có 3 vòng tròn và được đắp bằng đất. Căn cứ vào vết tích có thể suy ra rằng có 13 cột đá, mỗi cột cao ít nhất 4 mét đứng trong vòng tròn thứ nhất, tạo thành 12 khoảng hở. Người xưa đã quan sát hướng mặt trời mọc thông qua những khoảng hở này để tính toán lịch, phân chia các mùa trong năm. Mô phỏng cho thấy chỉ đài thiên văn này chỉ sai lệch 1 - 2 ngày so với lịch âm ngày nay của Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Hà Nô thuộc Viện Khảo cổ Trung Quốc cho biết đài thiên văn này được xây "không chỉ dùng để quan sát các hiện tượng thiên văn mà còn để phục vụ cho các lễ tế".
Một di chỉ khác là Di chỉ ở Thạch Mão (石 峁, thuộc Thần Mộc, tỉnh Thiểm Tây). Nó có niên đại khoảng 2.000 TCN, gần cuối thời kỳ Long Sơn và là địa điểm có tường thành bao quanh lớn nhất được biết đến vào thời kỳ đó ở Trung Quốc, với diện tích 400 ha. Thành phố được bao quanh bởi những bức tường đá bên trong và bên ngoài, trái ngược với những bức tường đất nện đặc trưng của các đô thị khác cùng thời ở Đồng bằng Trung tâm và Sơn Đông. Các bức tường dày trung bình 2,5 mét, với chu vi tương ứng là 4.200 m và 5.700 m, có cổng và tháp canh. Địa điểm đầu tiên, "cung điện trung tâm", là một kim tự tháp bậc thang lớn dựa trên một ngọn đồi hoàng thổ đã được làm lại để tạo thành 11 bệ, với chiều cao 70 mét. Mỗi bệ trong số này được gia cố bằng các bốt đá. Trên đỉnh của kim tự tháp đã xây dựng các cung điện bằng đất nện. Nội thành có một khu nền bằng đá, được hiểu là một khu phức hợp cung điện và các khu dân cư, nghĩa trang và xưởng thủ công đông đúc. Đặc điểm khác thường bao gồm ngọc bích được gắn trên các bức tường thành phố, có thể mang ý nghĩa tâm linh, các tác phẩm điêu khắc phù điêu rắn và quái vật, và các bức tranh vẽ hoa văn hình học trên các bức tường bên trong. Khoảng 80 chiếc sọ người được tìm thấy dưới cổng thành phố, chủ yếu của các cô gái trẻ, gợi ý rằng đây là kết quả của nghi lễ hiến tế.
Việc canh tác lúa gạo lúc này rõ ràng đã được tiến hành. Các cư dân sản xuất tơ lụa quy mô nhỏ bằng cách nuôi và thuần hóa tằm tơ, xuất hiện hoạt động trồng dâu nuôi tằm sơ khởi. Các ngành nghề thủ công phát triển như chế tác đồ đồng, lúa mì, lúa mạch, cừu, dê và gia súc dường như đã xuất hiện ở đây sớm hơn những nơi khác ở Trung Quốc, cho thấy rằng cư dân của nó đã giao tiếp với các dân tộc ở Thảo nguyên Á-Âu qua mạng lưới thương mại rộng lớn. Ngoài ra, các vật liệu có thể từ miền Nam Trung Quốc, chẳng hạn như trống da cá sấu, đã được tìm thấy, cho thấy sự giao thương với miền nam Trung Quốc.
Điểm đặc biệt của văn hóa Long Sơn là kỹ thuật làm gốm ở trình độ cao, bao gồm việc sử dụng các bàn xoay gốm, phát hiện ra chữ viết vào thời kỳ này được gọi là Cốt khắc văn (骨刻文). Văn hóa Long Sơn được biết đến với các đồ gốm đen được đánh bóng ở mức độ cao. Loại đồ gốm này có thành mỏng và màu đen được đánh bóng cũng được phát hiện tại lưu vực Trường Giang thuộc vùng ven biển đông nam Trung Quốc hiện nay. Đó là một dấu hiện rõ ràng rằng các phân nhóm nông nghiệp thời đại đồ đá mới của văn hóa Long Sơn đã vượt ra ngoài ranh giới của Trung Hoa cổ đại.
Các hóa thạch được phát hiện ở các di chỉ khảo cổ học cho thấy các cư dân đã sử dụng một phương thức bói toán dựa trên phân tích các vết rạn được tạo ra khi xương gia súc được đốt nóng.
Một loạt các khu vực địa lý tại Trung Quốc có liên hệ đến các tiểu giai đoạn của nền văn minh Long Sơn, đặc biệt là giai đoạn cuối. Giả dụ khu vực trung du Kính Hà và Vị Hà có các di chỉ khu định cư được gọi là văn hóa Long Sơn Thiểm Tây.
Cư dân thời đại đồ đá mới tại Trung Quốc đạt tới đỉnh cao trong văn hóa Long Sơn. Đến giai đoạn kết thúc văn hóa Long Sơn, nhân khẩu giảm mạnh, điều này ứng với sự biến mất của các đồ gốm đen chất lượng cao được phát hiện trong các mộ táng. Giả thuyết phổ biến liên quan đến việc nền văn hóa này tàn lụi là do khí hậu khô và lạnh hơn trên Cao nguyên Hoàng Thổ từ năm 2000 đến năm 1700 trước Công nguyên. Sự thay đổi môi trường này có khả năng khiến phần lớn dân số phải rời bỏ các đô thị, di cư đến vùng Đồng bằng Trung tâm Trung Quốc. | 1 | null |
Văn hóa Khuất Gia Lĩnh (屈家嶺文化) là một nền văn hóa thuộc thời đại đồ đá mới có niên đại 3000-2600 TCN, phân bố tại bình nguyên Giang Hán ở trung du Trường Giang, được đặt tên theo di chỉ Khuất Gia Lĩnh tại huyện Kinh Sơn của tỉnh Hồ Bắc. Nền văn hóa này có phạm vi ảnh hưởng rộng, đông đến Hoàng Cương và Ngạc Thành thuộc đông bộ Hồ Bắc, tây đến khu vực Tam Hiệp, bắc đến Nam Dương thuộc Hà Nam, nam đến bờ hồ Động Đình, tây bắc kéo dài đến lưu vực Đan Giang ở nam bộ Thiểm Tây.
Di chỉ Khuất Gia Lĩnh được khai quật từ năm 1955 đến 1957, sau đó các học giả lại khai quật được thêm nhiều di chỉ thuộc văn hóa Khuất Gia Lĩnh tại các nơi thuộc Hồ Bắc, trong đó có nhiều di chỉ như di chỉ Quan Miếu Sơn ở Chi Giang phát hiện thấy mối quan hệ với các nền văn hóa tiền kỳ và hậu kỳ, nhận định rằng văn hóa Khuất Gia Lĩnh kế thừa văn hóa Đại Khê ban đầu ở trung du Trường Giang, còn kế thừa nó là văn hóa Thanh Long Tuyền (hay văn hóa Long Sơn Hồ Bắc).
Trong các di chỉ thuộc văn hóa Khuất Gia Lĩnh đã phát hiện thấy dấu tích của lúa gạo, các động vật như gà, dê, chó, lợn, khai quật được một lượng lớn đồ gốm dùng trong xe sợi, chứng minh việc sản xuất tơ lụa rất phát triển. Trên phương diện kiến trúc, việc nung khối đất để tạo thành vật liệu xây dựng đã rất thành thục. Ngoài ra, còn phát hiện một lượng lớn kiến trúc mộ táng với nhiều đồ gốm tùy táng. Đồ gốm thuộc văn hóa Khuất Gia Lĩnh kế thừa đồ chân vòng của văn hóa Đại Khê song cũng có đồ ba chân nhiều cải biến.
Nhiều hiện vật của nền văn hóa Khuất Gia Lĩnh nay được đặt trong Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc. | 1 | null |
Phra Nakhon Khiri (tiếng Thái Lan: อุทยานประวัติศาสตร์พระนครคีรี) là một công viên lịch sử thuộc tỉnh Phetchaburi, Thái Lan, nằm trên một ngọn đồi nhìn ra thành phố. Tên "Phra Nakhon Khiri" có nghĩa là thành phố thánh thần, nhưng người dân địa phương quen gọi nó là "Khao Wang", có nghĩa là ngọn đồi cung điện.
Miêu tả.
Công viên bao gồm ba nhóm xây dựng, nằm trên ba đỉnh của ngọn đồi cao 92m. Trên đỉnh phía tây là cung điện thực tế với cấu trúc liền kề. Đỉnh cao trung bình hoặc trung tâm là một Bảo tháp lớn có tên là "Phra That Chom Phet". Đỉnh Đông là "Wat Phra Kaeo", ngôi đền hoàng gia, được xây dựng trong thời gian tương tự như Chùa Phật Ngọc tại Bangkok. Toàn bộ phức hợp này được xây dựng như một cung điện mùa hè của vua Mongkut, với xây dựng hoàn thành vào năm 1860.
Điều thú vị ở chỗ nó công viên lịch sử này pha trộn nhiều phong cách kiến trúc nước ngoài như châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, thêm vào đó là phong cách Thái truyền thống.
Rama IV từng lưu tại đây và lập đài quan sát thiên văn bên cạnh Cung điện Hoàng gia. Đài quan sát này giúp du khách có một cái nhìn tốt bảo tháp trắng "Chomphet" gần đó và thị trấn Phetchaburi, và toàn bộ khu vực xung quanh. Có nhiều căn lều bán ăn nhẹ nhỏ ở gần Cung điện Hoàng gia nhằm cung cấp thực phẩm thực và đồ uống cho du khách, và một số cửa hàng quà tặng tại chân đồi ở phía trước của khu vực cáp treo và khu vực dừng xe của du khách trước khi lên đồi.
Công viên lịch sử này được đăng ký như một công viên lịch sử vào ngày 27 tháng 8 năm 1979, với hai trong số những tòa nhà cung điện ở đây hiện nay là chi nhánh của Bảo tàng Quốc gia Thái Lan.
Xung quanh công viên phong cảnh rất đẹp, với những ngọn núi đá và hàng cây gỗ tếch lá lớn dọc theo đường lên công viên mà nhà vua cho trồng. Gần đó là "Tham Khao Luang" - nơi mà du khách có thể tham quan về động vật hoang dã, với rất nhiều khỉ hoang dã.
Địa điểm tham quan này đã được in trên bộ tem công viên Phra Nakhon Khiri do bưu chính Thái Lan phát hành năm 1989.
Chú ý.
Do khỉ được thả hoang dã nên dễ dẫn đến tình trạng khỉ cướp giật ví, bóp và máy chụp hình của du khách. Hãy cẩn thận khi tiếp cận bầy khỉ ở đây và khuyến cáo không đưa thức ăn cho khỉ cũng như sử dụng máy chụp hình gần bầy khỉ của công viên. | 1 | null |
Văn hóa Mã Gia Diêu () là một nền văn hóa thời đại đồ đá mới, ước tính tồn tại từ 3300-2100 TCN tại khu vực Cam Túc và đông bộ Thanh Hải. Đây là nền văn hóa thải đào (gốm màu) sáng tạo huy hoàng, đạt tới đỉnh cao của việc làm gốm màu ở thế giới viễn cổ, đồng thời người ta cũng khai quật được các vật phẩm đồng thanh cổ xưa nhất của Trung Quốc. Văn hóa Mã Gia Banh là một loại hình văn hóa Ngưỡng Thiều phát triển về phía tây.
Nhà khảo cổ học người Thụy Điển Johan Gunnar Andersson từ năm 1921 đến 1923 đã tiến hành khai quật tại Mã Gia Diêu thuộc huyện Lâm Thao, Cam Túc. Năm 1975, tại di chỉ Đông Hương Lâm thuộc văn hóa Mã Gia Diêu, người ta đã khai quật được một con dao bằng đồng thanh (niên đại khoảng 2.900 - 2.740 TCN). Đây là dụng cụ bằng đồng thanh cổ xưa nhất được phát hiện tại Trung Quốc, chứng minh cho việc Trung Quốc khi đó đã tiến vào thời đại đồ đồng. Xỉ đồng cũng đã được khai quật thấy tại địa điểm này, chứng tỏ khả năng tạo ra đồ đồng.
Đánh giá từ những phát hiện khảo cổ học hiện nay, cư dân lúc bấy giờ đã trồng kê, chủ yếu là canh tác khô thô sơ và sử dụng một số lượng lớn nông cụ bằng đá, xương, gốm và gỗ. Họ cũng nuôi lợn, chó, cừu và các vật nuôi khác trong cuộc sống hàng ngày. Ở một số nghĩa trang gia tộc, cả lợn, chó hoặc cừu được chôn trong các ngôi mộ. Hiện tượng này là bằng chứng cho thấy ngành chăn nuôi tương đối phát triển, trình độ phát triển kinh tế và phong tục tang lễ có phần giống với Văn hóa Đại Vấn Khẩu ở hạ lưu sông Hoàng Hà. Thời điểm đó chỉ có một số loại gia cầm được nuôi, số lượng còn ít.
Đồ gốm Mã Gia Diêu chủ yếu là gốm vẽ, có thể gọi là đỉnh cao của nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới về số lượng và độ tinh xảo. Gốm Mã Gia Diêu cổ điển bao gồm các loại bình và bát làm bằng đất sét mịn, nền màu vàng hoặc đỏ. Nó được trang trí bằng màu đen sáng. Đồ họa trang trí của nó được đặc trưng bởi các đường xoáy cong với các chấm chấm ở trung tâm, ngoài ra còn có các đường lượn sóng hoặc các đường chéo phẳng, đặc biệt phổ biến trên bình hoặc lọ. Các đồ trang trí khác cũng bao gồm các thiết kế như đường kẻ dày "ngoằn ngoèo", ếch, chim và các hình nhân đang nhảy múa.
Mặc dù nền kinh tế nông nghiệp phát triển hơn nhưng hoạt động hái lượm và săn bắn vẫn là những khía cạnh quan trọng của đời sống kinh tế. Đầu đá, đầu xương, quả cầu đá... hầu hết được tìm thấy trong các di chỉ. Nai, lợn rừng... được tìm thấy với nhiều bộ xương của động vật hoang dã.
Trong sản xuất xã hội đã có sự phân công nghề nghiệp khá rõ ràng, nghề thủ công sơ khai chủ yếu là làm đồ gốm, đồ đá, đồ gỗ, dệt may.
Hơn 2.000 ngôi mộ của nền văn hóa này đã được khai quật. Nghĩa trang thường nằm liền kề với nơi ở. Các nghĩa trang công cộng là phổ biến. Việc bố trí các ngôi mộ không đều đặn, và hầu hết chúng nằm ở phía đông hoặc đông nam. Mẫu mộ hầm đất được nhiều người ưa chuộng, ngoài ra có các loại mộ hình chữ nhật, vuông, tròn. Phong cách mai táng thay đổi tùy theo thời kỳ và vùng miền, nói chung là táng thẳng đứng. Trong các lăng mộ thường có đồ tùy táng, chủ yếu là công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt và đồ trang trí, một ít ngũ cốc và lợn, chó, cừu và các vật nuôi khác. Ở một số nghĩa trang, đồ tùy táng thể hiện công cụ của nam giới như rìu đá, chõng đá, đục đá, hoặc guồng quay sợi và đồ gốm với nữ giới, phản ánh sự phân công lao động giữa nam và nữ. Số lượng và chất lượng đồ tùy táng có sự khác biệt, càng về sau sự chênh lệch càng lớn, một số mộ có đồ tùy táng lên tới hơn 90 chiếc, còn một số thì không có gì. Sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo này đánh dấu sự tan rã dần dần của xã hội nguyên thủy và buổi bình minh của nền Văn minh Trung Quốc. | 1 | null |
Văn hóa Lương Chử () (3300 — 2300 TCN) là nền văn hóa ngọc thạch cuối cùng của thời đại đồ đá mới tại châu thổ Trường Giang. Phạm vi của nền văn hóa này trải rộng từ khu vực Thái Hồ đến Nam Kinh và Trường Giang ở phía bắc, Thượng Hải và biển ở phía đông, và Hàng Châu ở phía nam. Nền văn hóa này có sự phân tầng ở mức độ cao, các đồ tạo tác từ ngọc thạch, tơ lụa, ngà voi, đồ gỗ sơn chỉ phát hiện được trong các ngôi mộ của tầng lớp trên, còn những cá nhân nghèo khó hơn thường được chôn cất cùng với đồ gốm. Di chỉ đặc trưng Lương Chử được phát hiện tại khu Dư Hàng của Chiết Giang, và ban đầu được Thi Hân Canh khai quật vào năm 1936.
Di tích khảo cổ Lương Chử minh họa sự chuyển đổi từ các xã hội thời kỳ đồ đá mới quy mô sang một đơn vị chính trị tích hợp lớn với hệ thống phân chia giai cấp, nghi lễ và nghề thủ công. Nó bao gồm các ví dụ nổi bật về đô thị hóa sớm được thể hiện trong các di tích bằng đất, quy hoạch thành phố và cảnh quan, hệ thống phân cấp xã hội thể hiện ở sự khác biệt về chôn cất trong các nghĩa trang, trong tài sản, các chiến lược văn hóa xã hội để tổ chức không gian và thực hiện quyền lực. Nó đại diện cho thành tựu to lớn của nền văn minh trồng lúa thời tiền sử của Bách Việt hơn 5.000 năm trước và là một ví dụ nổi bật của nền văn minh đô thị sớm.
Nền văn hóa này sở hữu hoạt động nông nghiệp tiên tiến, bao gồm thủy lợi, ruộng lúa và nuôi thủy sản. Nhà của cư dân thường được xây dựng với các cột sàn trên sông hoặc tại bờ biển. Hệ thống trữ nước ngoại vi với các chức năng phức tạp và nghĩa trang được phân cấp xã hội (bao gồm cả bàn thờ) và các vật thể được khai quật đại diện bởi một loạt các đồ tạo tác bằng ngọc tượng trưng cho tín ngưỡng, đại diện cho những đóng góp đáng chú ý của lưu vực sông Dương Tử cho nguồn gốc của nền văn minh Bách Việt.
Ngày 29 Tháng 11 năm 2007 tại Hàng Châu, các nhà khảo cổ thông báo rằng di chỉ thành phố cổ diện tích hơn 2,9 km2, niên đại hơn 5.000 năm đã được tìm thấy trong vùng lõi của di tích Lương Chử. Giáo sư Đại học Bắc Kinh Nghiêm Văn Minh và các nhà khảo cổ khác chỉ ra rằng đây là các di chỉ thành phố giai đoạn văn hóa Lương Chử, lần đầu tiên được phát hiện ở khu vực sông Dương Tử, có thể được gọi là "thành phố phương Đông đầu tiên". Thành phố cổ có bức thành theo hướng đông tây dài 1.500-1.700 m, chiều Bắc-Nam khoảng 1.800 - 1.900 mét, hình chữ nhật hơi tròn. Một số phần của bức thành còn lại cao 4 mét, dày 40 mét bề mặt, đáy 60 mét, làm bằng đất hoàng thổ nguyên chất đưa từ nơi khác tới, được đầm nén kỹ. Dấu vết kho lương thực chứa được khoảng 15 tấn gạo. Từ vị trí, sự bố trí và đặc điểm cấu trúc của thành cổ được phát hiện, các chuyên gia tin rằng có những cung điện dành cho giới quý tộc.
Năm 2017, các nhà khảo cổ học lại phát hiện một hệ thống thủy lợi có niên đại tới 5.100 năm, quy mô khổng lồ và cổ xưa nhất trên thế giới tính đến thời điểm hiện nay. Công trình dẫn nước quy mô 5.100 tuổi thậm chí còn lâu đời hơn cả phát hiện hệ thống thủy lợi 4.900 năm trước đây của Văn minh Lưỡng Hà. Đây là công trình thủy lợi khổng lồ, có diện tích hơn 300.000 m2, được xây đắp nhân tạo của hoàng thổ dày tới 10,2 mét. Những cư dân cổ đại được cho là đã di dời khoảng 3,3 triệu mét khối đất để xây nên công trình này. Đây là một hệ thống thủy lợi rất phức tạp, gồm nhiều đập nước cao, đập nước thấp, mương, rạch, hào lớn và đê điều để ngăn ngừa lũ lụt, dự trữ nước để tưới tiêu mùa màng trong những đợt hạn hán. Kỹ thuật và quy mô rộng lớn của nó vào loại hiếm trên thế giới.
Công cụ bằng đá khai quật ở Lương Chử có đá hình lưỡi liềm, đầu mũi tên, dáo, rìu đục lỗ, dao đục lỗ, đặc biệt là cày đá và dụng cụ nhổ cỏ được sử dụng, cho thấy nông nghiệp bước vào giai đoạn dùng cày. Đồ gốm đánh bóng màu đen là đặc điểm của gốm Lương Chử. Trên gốm và ngọc bích xuất hiện một số lượng lớn các ký tự đơn hoặc nhóm mang chức năng văn bản, cho thấy giai đoạn bắt đầu hình thành của chữ tượng hình.
Ngọc thạch của văn hóa Lương Chử tiêu biểu là những vật mang tính lễ nghi có kích thước lớn và được làm một cách tinh xảo, thường được chạm khắc theo mô dạng thao thiết. Các đồ tạo tác đặc trưng nhất của văn hóa Lương Chử là tông, tông lớn nhất được khai quật nặng 3,5 kg. Bích và việt cũng được phát hiện. Người ta cũng phát hiện thấy đồ trang sức làm bằng ngọc thạch dùng để đeo, được trang trí bằng cách chạm khắc các biểu tượng chim, rùa và cá nhỏ. Nhiều đồ tạo tác làm từ ngọc thạch thuộc văn hóa Lương Chử có bề ngoài trắng sữa giống như màu xương do có nguồn gốc đá tremolite và ảnh hưởng từ chất lỏng từ tại điểm mai táng, song cũng thường phát hiện thấy đồ ngọc thạch làm từ actinolit và serpentin.
Người ta khai quật được một bệ thờ thời đại đồ đá mới thuộc văn hóa Lương Chử khi khai quật tại Dao Sơn ở Chiết Giang, chứng minh rằng công trình tôn giáo được xây dựng công phu và các cột đá và tường đá được đặt cẩn thận: điều này cho thấy tôn giáo đã có tầm quan trọng đáng kể. Bệ thờ có ba mức, cao nhất là một bục kháng thổ, có thêm ba bục nữa được lát bằng đá cuội. Vẫn còn lại một bức tường bằng đá. Ở sát bệ thờ có 12 ngôi mộ xếp thành 2 hàng.
Chính quyền tỉnh Chiết Giang đã công bố phát hiện mới về một di chỉ tường thành cổ vào ngày 29 tháng 11 năm 2007. Toàn bộ các di vật trước đó được xác định là một bộ phận của quá trình xây dựng thành. Người ta kết luận rằng thành là thủ đô cổ xưa của vương quốc Lương Chử, có ảnh hưởng xa đến khu vực các tỉnh Giang Tô, Thượng Hải và Sơn Đông ngày nay. Một bảo tàng Văn hóa Lương Chử mới đã được hoàn tất vào năm 2008 và mở cửa vào cuối năm đó, nằm tại Hàng Châu.
Sụp đổ.
Đáng chú ý là tại Lương Chử chưa có dấu hiệu sử dụng đồ đồng trong khi đó các di chỉ cùng tuổi phía bắc thuộc văn minh Hoàng Hà như Ngưỡng Thiều, Hồng Sơn… đã phát lộ dày đặc xỉ đồng. Do không có vũ khí bằng đồng, có giả thuyết là nền văn hóa này đã bị một nền văn hóa khác ở lưu vực Hoàng Hà tiêu diệt hoặc thôn tính vào khoảng năm 2.250 TCN.
Tuy vậy, sau nhiều năm khai quật, các nhà khảo cổ vẫn chưa tìm thấy bằng chứng cho nguyên nhân chiến tranh. Thay vào đó, một giả thuyết khác có căn cứ hơn là nền văn hóa này sụp đổ do biến đổi khí hậu. Theo đó, mưa lớn gây lũ lụt suốt một thời kỳ dài, khiến người dân phải rời bỏ nơi này, di cư tới nơi khác | 1 | null |
Văn hóa Đại Vấn Khẩu () là tên gọi mà các nhà khảo cổ học đặt cho một nhóm các cộng đồng thời đại đồ đá mới sinh sống chủ yếu ở khu vực nay thuộc tỉnh Sơn Đông, song cũng xuất hiện tại An Huy, Hà Nam và Giang Tô. Nền văn hóa này tồn tại từ năm 4100 TCN đến năm 2600 TCN, tồn tại song song với văn hóa Ngưỡng Thiều. Các đồ tạo tác làm từ ngọc lam, ngọc thạch, ngà voi thường được phát hiện trong các di chỉ thuộc văn hóa Đại Vấn Khẩu. Mẫu trống cá sấu sớm nhất xuất hiện tại các di chỉ thuộc văn hóa Đại Vấn Khẩu.
Các nhà khảo cổ học thường phân văn hóa Đại Vấn Khẩu thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu (4100-3500 TCN), giai đoạn giữa (3500-3000 TCN) và giai đoạn cuối (3000-2600 TCN). Dựa trên bằng chứng là các đồ tùy táng, giai đoạn đầu mang tính quân bình chủ nghĩa ở mức cao. Giai đoạn này có điểm đặc trưng là sự xuất hiện của các chiếc cốc được trang trí riêng, có chân cao. Trong giai đoạn giữa, đồ tùy táng bắt đầu nhấn mạnh đến yếu tố số lượng thay vì tính đa dạng. Trong giai đoạn cuối, các áo quan bằng gỗ bắt đầu xuất hiện trong việc an táng của văn hóa Đại Vấn Khẩu. Nền văn hóa này ngày càng trở nên phân tầng, một số mộ táng không có đồ tùy táng trong khi những mộ khác thì lại có một lượng lớn đồ tùy táng.
Di chỉ đặc trưng Đại Vấn Khẩu nằm tại Thái An, Sơn Đông, được khai quật vào các năm 1959, 1974 và 1978. Chỉ có địa tầng giữa tại Đại Vấn Khẩu là có liên hệ với văn hóa Đại Vấn Khẩu, địa tầng đầu tiên ứng với văn hóa Bắc Tân còn địa tầng cuối cùng ứng với biến thể Sơn Đông sơ khởi của văn hóa Long Sơn. | 1 | null |
Văn hóa Hồng Sơn () là một nền văn hóa thời đại đồ đá mới ở tại đông bắc Trung Quốc. Các di chỉ thuộc văn hóa Hồng Sơn được phát hiện tại một khu vực trải rộng từ khu Nội Mông đến Liêu Ninh (Hoa Bắc) của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có niên đại có từ khoảng tầm 4.700 TCN đến 2.900 TCN. Đây là một trong những nền văn minh cổ xuất hiện sớm nhất tại Trung Quốc
Đồ đất nung có hoa văn hình chiếc lược, Jeokseong-gun và ngọc tương tự như hoa tai bằng ngọc bích (7.000 năm trước) được khai quật từ các gò vỏ ở Goseong-gun, Gangwon-do trên Bán đảo Triều Tiên, và đồ trang sức và hoa tai bằng ngọc tìm thấy ở Ando-ri, Yeosu , Jeollanam-do (6.000 năm trước), đang thu hút sự chú ý vì có liên quan đến lịch sử sơ khai của Bán đảo Triều Tiên, chẳng hạn như Gojoseon.
Văn hóa Hồng Sơn được đặt theo tên của Hồng Sơn Hậu (), một di chỉ thuộc khu Hồng Sơn của Xích Phong. Di chỉ Hồng Sơn Hậu được nhà khảo cổ học người Nhật Torii Ryūzō phát hiện vào năm 1908 và được khai quật quy mô vào năm 1935 bởi Kōsaku Hamada và Mizuno Seiichi.
Các đồ tùy táng của nền văn hóa Hồng Sơn bao gồm một vài trong số những mẫu chế tác ngọc thạch sớm nhất được biết đến. Văn hóa Hồng Sơn được biết đến với tượng rồng hình C, tượng các loài động vật, tượng người (đàn ông và phụ nữ). Chất liệu làm tượng rất phong phú nhưng chủ yếu làm từ các loại ngọc, đá... Đặc biệt, đồ đồng và hợp kim đồng đã xuất hiện. Công cụ, kỹ thuật để tạo tác những đồ vật này vẫn còn là một bí ẩn cho đến ngày nay.
Cũng như văn hóa Ngưỡng Thiều, các di chỉ thuộc văn hóa Hồng Sơn đã cung cấp các bằng chứng cổ xưa nhất về thuật phong thủy của người Trung Hoa. Sự hiện diện của cả hình tròn và vuông tại các trung tâm nghi lễ của văn hóa Hồng Sơn cho thấy sự hiện diện ban đầu của thuyết vũ trụ "trời tròn đất vuông". Phong thủy ban đầu dựa trên thiên văn học để tìm ra mối quan hệ giữa con người và vũ trụ. | 1 | null |
Văn hóa Mã Gia Banh () là một nền văn hóa thuộc thời đại đồ đá mới tồn tại ở vùng cửa sông của Trường Giang, chủ yếu tập trung quanh khu vực Thái Hồ và phía bắc vịnh Hàng Châu. Nền văn hóa này trải rộng khắp nam bộ Giang Tô và bắc bộ Chiết Giang từ khoảng 5000 TCN đến 3000 TCN. Thoạt đầu, các nhà khảo cổ học nhận định các di chỉ thuộc văn hóa Mã Gia Banh thuộc cùng một nền văn hóa với các di chỉ ở bắc bộ Giang Tô và đặt tên là "văn hóa Thanh Liên Cương". Sau đó, các nhà khảo cổ học nhận ra rằng các di chỉ ở bắc bộ Giang Tô thuộc văn hóa Đại Vấn Khẩu và xếp các di chỉ ở nam bộ Giang Tô quy thuộc văn hóa Mã Gia Banh. Văn hóa Mã Gia Banh cùng tồn tại với văn hóa Hà Mỗ Độ trong hơn 1000 năm như hai nền văn hóa riêng biệt và khác biệt, song có sự truyền bá văn hóa giữa hai bên.
Người dân thuộc nền văn hóa Mã Gia Banh canh tác lúa. Ở di chỉ Thảo Hài Sơn và di chỉ Xước Đôn thuộc văn hóa Mã Gia Banh, các nhà khảo cổ học đã khai quật được ruộng lúa, cho thấy vai trò trung tâm của lúa trong kinh tế. Ngoài ra, các hóa thạch động vật khai quật được từ những di chỉ thuộc văn hóa Mã Gia Banh thể hiện rằng người dân đã thuần hóa lợn. Tuy nhiên, người ta cũng tìm thấy hóa thạch của hươu sao và hoẵng, cho thấy họ không hoàn toàn phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp. Các di chỉ khảo cổ cũng có các dấu tích cho thấy người dân thuộc văn hóa Mã Gia Banh sản xuất đồ trang trí làm từ ngọc thạch. | 1 | null |
Văn hóa Đại Khê (大溪文化) (4500 TCN- 3000 TCN) là một nền văn hóa thuộc thời đại đồ đá mới tại khu vực Tam Hiệp, trung du Trường Giang. Nền văn hóa này trải dài từ khu vực nay là tây bộ Hồ Bắc đến đông bộ Tứ Xuyên và đồng bằng Châu Giang. Di chỉ đặc trưng Đại Khê nằm ở Cù Đường Hiệp thuộc Vu Sơn, Trùng Khánh, nó được Nels C. Nelson phát hiện vào thập niên 1920. Nhiều di chỉ khảo cổ quan trọng thuộc văn hóa Đại Khê, bao gồm cả di chỉ ở Đại Khê, bị ngập nước hoặc bị phá hủy sau khi hoàn thành đập Tam Hiệp.
Các di chỉ thuộc văn hóa Đại Khê có điểm đặc trưng là sự xuất hiện của "đậu" (một loại bát), "bàn" (một loại mâm) trắng, và đồ gốm đỏ. Người dân thuộc văn hóa Đại Khê canh tác lúa trên quy mô rộng. Các di chỉ thuộc văn hóa Đại Khê nằm trong số các di chỉ có niên đại sớm nhất Trung Quốc có dấu tích về việc có hào và tường thành quanh khu định cư.
Văn hóa Đại Khê có các dấu tích thể hiện việc tương tác với khu vực châu thổ Trường Giang. Hiện vật "Bàn" trắng cũng được phát hiện ở một vài di chỉ tại châu thổ Trường Giang, bao gồm di chỉ đặc trưng Mã Gia Banh. Ngược lại, các hiện vật bằng ngọc thuộc văn hóa Đại Khê lại cho thấy khả năng chịu ảnh hưởng từ khu vực châu thổ Trường Giang. Nối tiếp văn hóa Đại Khê là văn hóa Khuất Gia Lĩnh. | 1 | null |
Văn hóa Hà Mỗ Độ (河姆渡文化) (5000 TCN - 4500 TCN) là một nền văn hóa thuộc thời đại đồ đá mới, phát triển rực rỡ ở ngay phía nam vịnh Hàng Châu thuộc vùng Giang Nam, nay thuộc địa phận của Dư Diêu, Chiết Giang. Di chỉ Hà Mỗ Độ nằm cách 22 km về phía tây bắc của Ninh Ba, được khai quật vào năm 1973. Các di chỉ thuộc văn minh Hà Mỗ Độ cũng được phát hiện trên các hòn đảo thuộc Chu Sơn.
Văn hóa Hà Mỗ Độ cùng tồn tại với văn hóa Mã Gia Banh song là hai nền văn hóa riêng biệt và khác biệt, có sự chuyển giao văn hóa giữa hai phía. Hai cơn lụt lớn đã khiến Diêu Giang gần đó đổi dòng và đất đai nhiễm mặn, khiến người dân Hà Mỗ Độ phải từ bỏ các khu định cư của họ. Người Hà Mỗ Độ sống trong các ngôi nhà sàn dài.
Văn hóa Hà Mỗ Độ là một trong những nền văn hóa đầu tiên có hoạt động canh tác lúa. Những cuộc khai quật gần đây tại di chỉ Điền Loa Sơn thuộc văn hóa Hà Mỗ Độ đã chứng minh rằng lúa đã trải qua các thay đổi tiến hóa mà được công nhận là thuần hóa. Hầu hết các hiện vật được phát hiện tại Hà Mỗ Độ có xương động vật, ví dụ như cuốc được làm từ xương vai dùng trong canh tác lúa.
Cư dân thuộc nền văn hóa Hà Mỗ Độ cũng sản xuất đồ gỗ sơn. Tàn tích của nhiều loài cây khác nhau, bao gồm củ ấu, sen hồng, quả đầu, dưa, dương đào dại, mâm xôi, đào, khiếm thực và bầu, được tìm thấy tại Hà Mỗ Độ và Điền Loa Sơn. Người dân Hà Mỗ Độ có khả năng thuần hóa lợn, chó song vẫn tiến hành săn bắn với số lượng lớn hươu nai và một số trâu hoang dã. Hoạt động đánh cá cũng được tiến hành trên quy mô lớn, đặc biệt tập trung vào cá giếc. Các hoạt động đánh cá và săn bắn có bằng chứng là dấu tích của lao, cung và mũi tên bằng xương. Các dụng cụ âm nhạc, như còi bằng xương và trống bằng gỗ, được phát hiện tại di chỉ Hà Mỗ Độ.
Cư dân nền văn hóa Hà Mộ Độ làm ra một loại đồ gốm dày và xốp. Đồ gốm có đặc điểm riêng là màu đen đặc trưng và được làm với bột than gỗ. Các trang trí thực vật và hình học thường được vẽ lên đồ gốm, đồ gốm đôi khi cũng có văn thừng. Họ cũng sản xuất ra đồ trang trí ngọc bích chạm trắc, các đồ tạo tắc chạm trắc từ ngà voi, và các bức tượng nhỏ làm bằng đất sét.
Các amip và phấn hoa hóa thạch cho thấy văn hóa Hà Mỗ Độ xuất hiện và phát triển vào giữa khí hậu tối thích nghi Holocene. Một nghiên cứu về mực nước biển tại một đường bờ dâng cao ở đồng bằng Ninh Thiệu từ 7000 – 5000 năm trước cho thấy rằng mực nước biển ổn định, và trong giai đoạn từ 5000 đến 3900 năm trước thì thường xuyên bị ngập nước. | 1 | null |
Văn hóa Bắc Tân (, 5300-4100 TCN) là một nền văn hóa thời đại đồ đá mới tại tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. 50 di chỉ thuộc nền văn hóa này đã được khai quật. Nền văn hóa này có các dấu tích của hoạt động canh tác kê và thuần hóa trâu.
Di chỉ đặc trưng Bắc Tân nằm tại Đằng Châu, Sơn Đông, được khai quật từ năm 1978 đến năm 1979. Văn hóa Bắc Tân phân bố rộng rãi, lấy Thái An làm trung tâm, tại Thanh Đảo, Lai Vu cũng như đại bộ phận Sơn Đông đều phát hiện di chỉ. | 1 | null |
Văn hóa Triệu Bảo Câu (趙宝溝文化) (5400–4500 TCN) là một nền văn hóa thời đại đồ đá mới ở đông bắc Trung Quốc, được phát hiện chủ yếu tại thung lũng Loan Hà thuộc Nội Mông và bắc bộ Hà Bắc. Nền văn hóa này sản xuất ra các bình gốm mài giũa bằng cát, chạm khắc với các trang trí hình học và thú hình. Nền văn hóa này cũng sản xuất ra những bức tượng người nhỏ làm bằng đá và đất sét.
Di chỉ đặc trưng Triệu Bảo Câu được khai quật vào năm 1986, nằm tại kỳ Ngao Hán, Xích Phong, Nội Mông; di chỉ có diện tích khoảng 90.000 m². | 1 | null |
Văn hóa Tân Lạc (新樂文化) (5500-4800 TCN) là một nền văn hóa thời đại đồ đá mới ở đông bắc Trung Quốc, chủ yếu được phát hiện ở hạ du Liêu Hà thuộc tỉnh Liêu Ninh. Nền văn hóa này cho thấy các bằng chứng về việc canh tác kê và thuần hóa lợn. Di chỉ đặc trưng Tân Lạc thuộc khu Hoàng Cô của Thẩm Dương.
Di chỉ khu định cư cổ đại được phát hiện bên dưới một khối nhà ở cũ của một nhà máy điện, gọi là Tân Lạc túc xá. Khi người ta phát hiện ra đây là khu định cư của một nền văn minh chưa được biết đến, toàn bộ nền văn minh được đặt theo tên của di chỉ, tức văn minh Tân Lạc, Mặc dù các phát hiện gần đây ở các khu vực lân cận có tầm quan trọng rất lớn, đặc biệt là tại di chỉ ở Tân Dân, song tên gọi gốc vẫn phổ biến.
Năm 1973, cuộc khai quật tại di chỉ Tân Lạc đã phát hiện ra dấu tích của khoảng 40 ngôi nhà thời đại đồ đá mới. Các đồ tạo tác được phát hiện trong quá trình khai quật bao gồm các công cụ bằng đá, đồ gốm, ngọc, các công cụ bằng xương, mộc điêu và than tinh chế.
Năm 1978, một cuộc khai quật khác lại phát hiện được nhiều hiện vật hơn bao gồm một mộc điêu có niên đại khoảng 7.200 năm, có lẽ là một vật tổ được thị tộc thờ phụng. Không có phát hiện nào khác ở Thẩm Dương có niên đại lâu hơn, đây cũng là mộc điêu niên đại cổ nhất được phát hiện trên thế giới.
Khi khai quật, người ta cũng tìm thấy hai ngôi mộ Khiết Đan cách nay 1.000 năm.
Năm, 1984, Bảo tàng di chỉ Tân Lạc (新樂遺址博物館) được thành lập. Bảo thành được chia thành hai phần là bắc và nam. Phần phía nam trưng bày các hiện vật được khai quật từ các cuộc khai quật khác nhau và có diện tích . Phần phía bắc bao gồm một ngôi làng Tân Lạc 7.000 năm trước được tái hiện, một số ngôi nhà có thể hiện cuộc sống từ 7.000 năm trước. | 1 | null |
Văn hóa Từ Sơn (磁山文化) (8000-5500 TCN) là một nền văn hóa Hoàng Hà thời đại đồ đá mới, chủ yếu nằm ở khu vực nam bộ tỉnh Hà Bắc. Văn hóa Từ Sơn dựa vào hoạt động canh tác kê, việc trồng kê tại một di chỉ có niên đại từ 10.000 năm trước. Các đồ tạo tác thông thường của nền văn hóa này bao gồm cối nghiền bằng đá, liềm bằng đá và đồ gốm ba chân.
Do văn hóa Từ Sơn chia sẻ nhiều điểm tương đồng với văn hóa Bùi Lý Cương láng giềng ở phía nam, cả hai nền văn hóa thường được gọi chung là "văn hóa Từ Sơn-Bùi Lý Cương" hay "văn hóa Bùi Lý Cương-Từ Sơn". Văn hóa Từ Sơn cũng chia sẻ một số điểm tương đồng với văn hóa Bắc Tân láng giềng ở phía đông.
Di chỉ đặc trưng Từ Sơn nằm ở Vũ An, Hà Bắc; có diện tích khoảng 80.000 m². Các ngôi nhà thuộc di chỉ Từ Sơn theo kiểu bán ngầm và tròn. Di chỉ cũng có các dấu tích của lợn, chó và gà đã thuần hóa, lợn là nguồn cung cấp thịt chính. Cá cũng là một thành phần quan trọng trong khẩu phần ăn của cư dân thuộc văn hóa Từ Sơn.
Có trên 500 hố ngầm tích trữ được phát hiện tại di chỉ Từ Sơn, chúng được dùng làm kho kê. Các hố lớn nhất sâu 5 mét và có thể trữ đến 1.000 kg kê. | 1 | null |
Nam Trang Đầu (南莊頭遺址; 10.500— 9700 TCN) là một di chỉ thuộc thời đại đồ đá mới nằm gần hồ Bạch Dương Điến thuộc huyện Từ Thủy, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Di chỉ được phát hiện dưới một bãi than bùn. Người ta phát hiện được 47 mảnh gốm tại di chỉ này. Nam Trang Đầu cũng là di chỉ thời đại đồ đá mới có niên đại sớm nhất được phát hiện tại phương bắc Trung Quốc. Có bằng chứng cho thấy các cư dân Nam Trang Đầu đã thuần hóa chó. Người ta cũng phát hiện thấy phiến mài và con lăn bằng đá, đồ tạo tác bằng xương tại di chỉ này. | 1 | null |
Văn hóa Hưng Long Oa () (8000-7500 TCN) là một nền văn hóa thuộc Thời đại đồ đá mới ở phía đông bắc Trung Quốc, được phát hiện chủ yếu tại vùng ranh giới giữa Nội Mông và Liêu Ninh. Đồ gốm Hưng Long Oa chủ yếu có hình trụ, và được nung ở nhiệt độ thấp.
Văn hóa Hưng Long Ca thể hiện một số dấu hiệu của việc lập kế hoạch chung. Trong ba di chỉ thuộc văn hóa Hưng Long Hoa, nhà cửa được xây theo hàng. Một số di chỉ Hưng Long Hoa mang đặc điểm là có một ngôi nhà lớn ở trung tâm. Thêm vào đó, một số di chỉ Hưng Long Oa có hào bao quanh.
Di chỉ đặc trưng Hưng Long Oa nằm ở sườn tây nam của một ngọn đồi thuộc kỳ Ngao Hán, Xích Phong, Nội Mông; di chỉ được đặt theo tên của một thôn nằm cách nó 1,3 km về phía đông nam. 120 ngôi nhà âm lòng đất được phát hiện tại di chỉ Hưng Long Oa, mỗi ngôi nhà có một nền lò sưởi ở trung tâm. Di chỉ Hưng Long Hoa cũng mang điểm đặc trưng là có một ngôi nhà lớn ở trung tâm khu định cư. Di chỉ Hưng Long Oa là di chỉ có niên đại sớm nhất được phát hiện tại Trung Quốc có một con hào bao quanh. Di chỉ Hưng Long Oa cũng có điểm đặc trưng với một phong tục mai táng bất thường, do một số thi thể được táng ngay bên dưới ngôi nhà. Giống như các di chỉ khác thuộc văn hóa Hưng Long Oa, các lễ vật bằng ngọc cũng được phát hiện. Tại ngôi mộ xa hoa nhất, một nam giới được táng cùng một cặp lợn, cũng như các lễ vật bằng ngọc.
Các phát hiện gần đây tại Hưng Long Câu cho thấy đây là di chỉ duy nhất thuộc văn hóa Hưng Long Oa có các dấu vết về nông nghiệp, bằng chứng là các hạt kê. | 1 | null |
Văn hóa Hậu Lý (, 8500— 7500 TCN) là một nền văn hóa thuộc thời đại đồ đá mới tại tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Người dân thuộc nền văn hóa này sống trong những căn nhà vuông, nửa ngầm. Bằng chứng khảo cổ cho thấy trong các di chỉ có chó và lợn được thuần hóa. Di chỉ Hậu Lý nằm ở huyện Lâm Truy thuộc Sơn Đông và được khai quật từ năm 1989 đến năm 1990. Nền văn hóa kế tiếp là văn hóa Bắc Tân.
Bằng chứng về việc canh tác lúa sớm nhất tại lưu vực Hoàng Hà đến từ hạt thóc bị cacbon hóa đến từ di chỉ Nguyệt Trang tại Tế Nam, Sơn Đông. Hạt thóc cacbon hóa được xác định niên đại theo phương pháp phóng xạ cacbon AMS có kết quả là 7050±80. Các nhà khảo cổ học cũng khai quật được kê từ di chỉ Nguyệt Trang. | 1 | null |
Giả Hồ (賈湖, bính âm: Jiǎhú) là di chỉ của một điểm định cư thời đại đồ đá mới ở lưu vực Hoàng Hà, nay thuộc huyện Vũ Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Các nhà khảo cổ học nhận định di chỉ này là một trong các thí dụ sớm nhất của văn hóa Bùi Lý Cương. Di chỉ này có người định cư từ năm 7000 TCN đến năm 5800 TCN, song sau đó nó bị ngập nước và bị bỏ rơi. Khu định cư được bao quanh bởi một con hào và bao trùm một diện tích 55.000 m². Quán trưởng Bảo tàng huyện nhà đã phát hiện ra di chỉ vào năm 1962, song việc mở rộng khai quật chỉ được tiến hành một thời gian khá dài sau đó, hầu hết di chỉ đến nay vẫn chưa được khai quật.
Các nhà khảo cổ học phân niên đại của di chỉ Giả Hồ thành ba giai đoạn, giai đoạn đầu là từ 7000 đến 6600 TCN, giai đoạn giữa là từ 6600 đến 6200 TCN, giai đoạn cuối là từ 6200 đến 5800 TCN. Hai giai đoạn cuối thuộc về văn hóa Bùi Lý Cương, trong khi giai đoạn đầu chỉ mang đặc điểm Giả Hồ độc nhất.
Các cư dân Giả Hồ trồng tiểu mễ và lúa. Trong khi việc trồng kê phổ biến trong các cộng đồng thuộc văn hóa Bùi Lý Cơng, chỉ có Giả Hồ là trồng lúa. Hoạt động canh tác lúa ở Giả Hồ là một trong các phát hiện sớm nhất, và xa về phía bắc nhất trong cùng giai đoạn lịch sử.
Có trên 300 ngôi mộ đã được khai quật tại Giả Hồ, kèm theo đó là các lễ vật mai táng, từ đồ gốm cho đến mai rùa. Một trong các lễ vật quan trọng nhất được khai quật là cốt địch (sáo) âm có thể chơi được, được làm từ xương cánh của hạc. Giai đoạn đầu tiên của Giả Hồ chỉ có hai loại sáo, là tứ cung và ngũ cung. Giai đoạn giữa của Giả Hồ xuất hiện một vài loại sáo, đáng chú ý là một cặp sáo lục cung. Một chiếc sáo trong cặp đã bị vỡ, và chiếc còn lại dường như là bản sao của chiếc đầu tiên, vì có những bằng chứng cho thấy nó được điều chỉnh để ứng với âm của các đầu tiên. Giai đoạn cuối có điểm cách tân là việc sử dụng sáo thất cung.
Tại Giả Hồ, người ta tìm thấy một vài trong số các đồ gốm Trung Hoa cổ nhất vào thời đại đồ đá mới tại Trung Quốc. Các nhà khoa học đến từ Đại học Pennsylvania đã tiến hành phân tích hóa học các bình gốm từ Giả Hồ và phát hiện thấy dấu tích của đồ uống có cồn được lên men từ gạo, mật ong và táo gai. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng rượu được lên men theo quá trình lên men đường.
Tại Giả Hồ, các nhà khảo cổ học đã xác định được 11 ký hiệu của phù hiệu khế khắc Giả Hồ, chín ký hiệu trên mai rùa và hai ký hiệu trên xương, bằng chứng của chữ viết nguyên thủy. Các ký hiệu này thuộc về giai đoạn giữa, một số khá tương đồng với các chữ Hán sau này; hai trong số đó là "mục" (目) và "nhật" (日). | 1 | null |
Văn hóa Bùi Lý Cương () là tên được các nhà khảo cổ học đặt cho một nhóm các cộng đồng thời đại đồ đá mới tại lưu vực sông Y-Lạc thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Nền văn hóa này tồn tại từ năm 5500 TCN đến 4900 TCN. Có trên 100 di chỉ đã được xác định thuộc về văn hóa Bùi Lý Cương, gần như toàn bộ trong số đó đều nằm trong một khu vực nhỏ có diện tích khoảng 100 km² ở ngay phía nam sông và dọc theo đôi bờ sông. Nền văn hóa này được đặt tên theo di chỉ Bùi Lý Cương được khai quật năm 1977 thuộc thành phố Tân Trịnh. Các nhà khảo cổ học cho rằng văn hóa Bùi Lý Cương theo chủ nghĩa quân bình, có ít cấu trúc mang tính chính trị.
Cư dân thuộc nền văn hóa Bùi Lý Cương trồng kê và chăn nuôi lợn, gia súc và gia cầm. Họ săn bắn hươu nai và lợn rừng, đánh cá tại dòng sông gần đó, dùng lưới làm từ sợi cây gai dầu. Văn hóa Bùi Lý Cương cũng là một trong những nền văn hóa Trung Quốc cổ nhất có hoạt động sản xuất đồ gốm. Nền văn hóa này mang điểm đặc trưng là có khu vực dân cư và khu vực mai táng riêng biệt, giống như hầu hết các nền văn hóa thời đại đồ đá mới. Các hiện vật thường thấy bao gồm mũi tên, mũi giáo, đầu rìu bằng đá; các công cụ bằng đá như đục, dùi, và liềm dùng để thu hoạch ngũ cốc, các đồ gốm dùng để nấu nướng và lưu trữ ngũ cốc.
Di chỉ Giả Hồ là một trong các di chỉ sớm nhất được xác định thuộc nền văn hóa Bùi Lý Cương. | 1 | null |
Đại Mạch Địa (), là di chỉ có 3.172 nham họa, với 8.453 hình khắc riêng lẻ trên vách đá. Các học giả cho rằng nó có thể là đại diện cho hệ thống chữ viết sớm nhất được biết đến tại Trung Quốc. Đại Mạch Địa là một thôn nhỏ nằm ở Trung Vệ, Ninh Hạ; nằm trên Vệ Ninh Bắc Sơn gần Hoàng Hà.
Các hình khắc tại Đại Mạch Địa có niên đại cách nay 7.000-8.000 năm, miêu tả về các chủ đề môi trường cũng như xã hội. Có các hình khắc về Mặt Trời và Mặt Trăng cùng với các thiên thể khác, cũng như cảnh săn bắn, chăn nuôi và chiến đấu. Các nhà khảo cổ học cho rằng một số biểu tượng (trên 1.500) mang một số điểm tương đồng với các ký tự tượng hình cổ của chữ Hán. Nếu như ước tính về niên đại của các hình khắc là chính xác, điều này sẽ đẩy lui mốc thời gian nguồn gốc của chữ Hán (trước đó được xem là Giáp cốt văn tìm thấy tại An Dương) từ 1200 TCN thành 6600 TCN-6200 TCN. | 1 | null |
Vương Triều (, Bình thoại tự Mân Đông: Uòng Dièu, 10 tháng 4 năm 846- 2 tháng 1 năm 898), tên tự Tín Thần (信臣), gọi theo thụy hiệu là Tần Quảng Vũ công (秦廣武公), là một quân phiệt vào thời nhà Đường. Ông cai quản Phúc Kiến- tiền thân của nước Mân thời Ngũ Đại Thập Quốc.
Thân thế.
Vương Triều sinh năm 846, dưới triều đại của Đường Vũ Tông. Tổ tiên năm đời của ông là Vương Diệp (王曄) giữ chức Cố Thủy [huyện] lệnh, được dân chúng yêu mến, và ông ta cùng gia đình định cư tại Cố Thủy. Gia đình này sau đó trở nên vẻ vang với nghiệp kinh doanh. Bản thân Vương Triều phục vụ trong chính quyền địa phương Cố Thủy. Cha ông tên là Vương Nhẫm (王恁), mẹ ông là Đổng thị. Ông có hai em là Vương Thẩm Khuê (王審邽) và Vương Thẩm Tri.
Phụng sự Vương Tự.
Năm 881, Đại Đường chìm đắm trong các cuộc khởi nghĩa nông dân, Vương Tự và em rể Lưu Hành Toàn (劉行全) tiến hành nổi dậy và chiếm Thọ châu , sau đó là Quang châu- bao gồm huyện Cố Thủy. Vương Tự được Phụng Quốc tiết độ sứ Tần Tông Quyền bổ nhiệm làm Quang châu thứ sử. Vương Tự buộc các đàn ông địa phương phải nhập ngũ, ba anh em là Cố Thủy huyện tá Vương Triều, Vương Thẩm Khuê và Vương Thẩm Tri trở thành binh lính dưới quyền Vương Tự. Vương Tự bổ nhiệm Vương Triều làm "quân chính", sai quản lý việc cướp lương, duyệt sĩ tốt, tin dùng Vương Triều.
Sau đó, Tần Tông Quyền quay sang phản lại triều đình Đường, xưng làm hoàng đế, đem quân tiến công Vương Tự. Vương Tự lo sợ nên tập hợp 5.000 binh sĩ Quang châu và Thọ châu và buộc người dân phải vượt sang bờ nam Trường Giang. Vào mùa xuân năm 885, Vương Tự tiếp tục tiến về phía nam và chiếm Đinh châu và Chương châu, song không thể giữ được lâu.
Đoạt lấy Tuyền châu.
Khi Vương Tự tiến đến Chương châu, đội quân của ông ta cạn kiệt lương thực. Do địa hình Phúc Kiến gồ ghề, Vương Tự ra lệnh bỏ lại những người già yếu. Tuy nhiên, anh em Vương Triều vẫn đưa Đổng thị đi cùng. Vương Tự trách mắng họ và đe dọa giết Đổng thị. Ba anh em cầu xin tha mạng cho Đổng thị, đề nghị được chết thay bà, các thuộc hạ khác cũng nói giúp cho họ, khiến Vương Tự mủi lòng.
Trong khi đó, Vương Tự trở nên hoang tưởng, giết chết bất cứ ai có tài năng vượt trội so với ông ta, thậm chí giết cả Lưu Hành Toàn. Khi đội quân tiến đến Nam An, Vương Triều thuyết phục tướng tiền phong quay sang chống lại Vương Tự, họ tiến hành phục kích và bắt được Vương Tự. Vương Triều thoạt đầu muốn ủng hộ tướng tiền phong làm chủ, song tướng tiền phong nói rằng đó là ý của Vương Triều đã giúp họ sống sót trước sự tàn ác của Vương Tự, do vậy tướng sĩ đồng ý để Vương Triều trở thành thủ lĩnh của họ.
Vương Triều thoạt đầu muốn đưa đội quân trở về Quang châu, song khi họ tiến đến Sa huyện, người dân địa phương do phải chịu cảnh sưu thuế nặng nề của Tuyền châu thứ sử Liệu Ngạn nhược (廖彥若), suất kì lão, dâng trâu và rượu chắn đường thỉnh Vương Triều lưu lại châu. Vương Triều sau đó bao vây châu thành của Tuyên châu, chiếm thành vào mùa thu năm 886. Vương Triều giết chết Liêu Ngạn Nhược và quản thúc Vương Tự (Vương Tự sau đó tự sát). Phúc Kiến quan sát sứ Trần Nham (陳巖) là người có uy danh, Vương Triều do đó quyết định không chống lại Trần Nham, thay vào đó ông sai sứ đến Phúc châu xin hàng Trần Nham. Trần Nham bổ nhiệm Vương Triều làm Tuyền châu thứ sử. Vương Triều dũng mãnh lại có trí lược, sau khi đoạt được Tuyền châu thì chiêu hoài dân ly tán, giảm gánh nặng thuế, tái thiết quân đội, quân lại dân đều ủng hộ.
Đoạt lấy toàn bộ Phúc Kiến.
Năm 891, Trần Nham lâm bệnh nặng, ông ta phái người triệu Vương Triều đến Phúc châu, có ý giao lại quyền cai quản Phúc Kiến cho Vương Triều. Tuy nhiên, Trần Nham qua đời trước khi Vương Triều có thể đến được Phúc châu. Em vợ của Trần Nham là "Đô tướng" Phạm Huy (范暉) thuyết phục tướng sĩ ủng hộ ông ta làm lưu hậu, phát binh cự Vương Triều.
Tuy nhiên, Phạm Huy trở nên cao ngạo và phóng túng, mất đi sự ủng hộ của binh sĩ. Năm 892, Vương Triều bổ nhiệm em họ là Vương Ngạn Phục (王彥復) làm "Đô thống", Vương Thẩm Tri làm "Đô giám", đem binh công Phúc châu. Theo ghi chép thì người Hán tự quyên lương thực, còn các dân tộc khác đem binh thuyền trợ giúp ông.
Tuy nhiên, việc bao vây Phúc châu bị sa lầy do thành phòng thủ vững chắc, Phạm Huy cầu cứu Uy Thắng tiết độ sứ Đổng Xương- có quan hệ thông qua hôn nhân với Trần Nham. Đổng Xương phái 5.000 quân đến cứu Phúc châu, Vương Ngạn Phục và Vương Thẩm Tri hay tin thì báo lại cho Vương Triều và thỉnh cầu bãi binh, song Vương Triều từ chối. Khi họ thỉnh Vương Triều tự đến hành doanh, Vương Triều trả lời: "Binh hết thì thêm binh, tướng hết thì thêm tướng. Binh tướng đều hết, ta sẽ tự đến"
Vương Ngạn Phục và Vương Thẩm Tri lo sợ bị trách mắng nên tăng cường tiến công. Đến mùa hè năm 893, Phúc châu cạn nguồn lương thực, Phạm Huy bỏ thành chạy trốn rồi bị binh sĩ giết chết, quân Uy Thắng vẫn đang trên đường đến song khi hay tin thì trở về Uy Thắng. Vương Triều tiến vào Phúc châu, xưng là lưu hậu, phục táng Trần Nham, gả một con gái do vợ cả sinh cho Trần Diên Hối (陳延晦)- kỳ tử của Trần Nham. Sau đó, Đinh châu và Kiến châu cũng hàng Vương Triều, Khoảng 20 nhóm quân cướp trên núi dưới biển cũng hàng phục hoặc bị ông tiêu diệt.
Tháng 10 ÂL năm 893, Đường Chiêu Tông bổ nhiệm Vương Triều làm Phúc Kiến quan sát sứ. Tháng 12 ÂL năm sau, hai vạn người Man bao vây Đinh châu, Vương Triều khiển bộ tướng Lý Thừa Huân đem một vạn lính tiến đánh, quân Man tan vỡ chạy trốn, Thừa Huân truy kích và đánh bại họ ở cửa Tương Thủy. Vương Triều khiển liêu tả đi tuần các châu huyện, khuyến khích cày cấy, trồng dầu nuôi tằm, ổn định mức tô thuế, giao hảo với các đạo lân cận, bảo vệ cương giới, dân Mân được nghỉ ngơi yên ổn. Năm 896, Đường Chiêu Tông thăng Phúc Kiến thành Uy Vũ quân (威武), bổ nhiệm Vương Triều làm tiết độ sứ.
Qua đời.
Trong khi Vương Triều giữ chức tiết độ sứ, Vương Thẩm Tri giữ chức quan sát phó sứ. Theo ghi chép, khi Vương Thẩm Tri phạm lỗi, sẽ bị Vương Triều đánh, song Vương Thẩm Tri không oán giận. Khi Vương Triều nằm trên giường bệnh vào năm 897, thay vì giao lại quyền lực cho một trong bốn con (Vương Diên Hưng (王延興), Vương Diên Hồng (王延虹), Vương Diên Phong (王延豐), Vương Diên Hưu (王延休)), ông lại giao phó quân phủ sự cho Vương Thẩm Tri. Ngáy Đinh mùi tháng 12 ÂL, Vương Triều qua đời.
Sau khi Vương Triều qua đời, Vương Thẩm Tri đề nghị giao lại quyền hành cho Tuyền châu thứ sử Vương Thẩm Khuê do Vương Thẩm Khuê lớn tuổi hơn, song Vương Thẩm Khuê từ chối vì cho rằng Vương Thẩm Tri có công lao lớn hơn. Sau đó, Vương Thẩm Tri xưng là lưu hậu, rồi được Đường Chiêu Tông bổ nhiệm làm tiết độ sứ. Vương Thẩm Tri sau đó được Hậu Lương Thái Tổ phong tước Mân vương, Vương Diên Quân sau lại xưng đế, nước Mân tồn tại đến năm 946.
Sau khi Vương Triều qua đời, được táng tại Phượng Kỳ Sơn thuộc thôn Bàn Long, trấn Loa Dương, huyện Huệ An của Tuyền Châu. Mộ của Vương Triều có quy mô to lớn thuộc kiến trúc mộ cổ thời Đường mạt và Ngũ Đại Thập Quốc, là một mộ có cấu trúc bằng đá cổ đại được bảo tồn tương đồi hoàn chỉnh. Năm 1996, tỉnh Phúc Kiến đã liệt mộ Vương Triều vào danh mục đơn vị văn vật được bảo hộ cấp tỉnh.
Sau khi qua đời, Vương Triều được người dân tôn làm "Uy Vũ Tôn vương" hoặc "Quảng Vũ Tôn vương". Tại Phúc Châu và những nơi khác có miếu thờ ông, được gọi là "Thủy Tây Đại vương" miếu, hoặc phối tự trong "Khai Mân Thánh vương" miếu (cùng với Thẩm Tri và Thẩm Khuê). Nhiều dòng họ Vương ở Phúc Kiến và Đài Loan cũng tế anh em Vương Triều như thủy tổ của mình. | 1 | null |
Aleksey Anatolyevich Navalnyy ( / "A-lếch-sê(i) A-na-tô-lia-vi(chơ) Na-vao-nưi"; sinh ngày 4 tháng 6 năm 1976) là một chính trị gia và nhà hoạt động chống tham nhũng người Nga. Ông nổi tiếng quốc tế bằng cách tổ chức các cuộc biểu tình và tranh cử, ủng hộ các cải cách chống lại tham nhũng ở Nga, Tổng thống Nga Putin cũng như chính phủ của Putin. Năm 2012, "The Wall Street Journal" mô tả ông là "người mà Vladimir Putin sợ nhất".
Navalny từng là thành viên Hội đồng điều phối đối lập của Nga và là lãnh đạo của Đảng Tiến bộ chính trị đối lập. Vào tháng 9 năm 2013, ông ra tranh cử trong cuộc bầu cử thị trưởng ở Moscow, được ủng hộ bởi đảng RPR-PARNAS. Ông đứng thứ hai, với 27% phiếu bầu, thua thị trưởng đương nhiệm Sergei Sobyanin, một người được bổ nhiệm của Putin. Navalny tuyên bố có gian lận bầu cử và cho rằng mình thực sự nhận được nhiều phiếu bầu hơn. Navalny được biết đến nhiều thông qua blog LiveJournal của mình, nhưng sau đó chuyển sang YouTube, tại đó ông có bốn triệu người đăng ký và Twitter với 2,2 triệu người theo dõi. Thông qua các kênh này, ông đã công bố các video và tài liệu về tham nhũng của các quan chức nhà nước Nga, tổ chức các cuộc biểu tình chính trị và thúc đẩy các chiến dịch tranh cử của mình. Navalny cũng đã hoạt động trong các phương tiện truyền thông khác. Trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh năm 2011, ông mô tả đảng cầm quyền Nước Nga Thống nhất của Nga là một " đảng của những kẻ lừa đảo và trộm cắp ", mà đã trở thành một cách nói phổ biến. Ông đã thành lập Quỹ Chống Tham nhũng vào năm 2011.
Navalny đã nhiều lần bị chính quyền Nga bắt giữ. Ông nhận hai bản án treo cho cáo buộc tham ô trong hai vụ án riêng biệt, một vào tháng 7 năm 2013 và một vào tháng 12 năm 2014, lần lượt là 5 năm và 3,5 năm tù. Cả hai trường hợp đều được coi là bịa đặt nhằm trả đũa cho hoạt động chính trị của ông và vi phạm quyền được xét xử công bằng của Navalny, theo phán quyết của Tòa án Nhân quyền Châu Âu. Trung tâm Nhân quyền Tưởng niệm xem Navalny như một tù nhân chính trị. Vào tháng 2 năm 2014, Navalny bị quản thúc tại gia và hạn chế giao tiếp với bất kỳ ai ngoại trừ gia đình. Vào tháng 5 năm 2018, ông bị kết án 30 ngày tù vì tham gia một cuộc biểu tình không phép chống lại Putin ở Moscow. Ông đã lên án bản án này.
Vào tháng 12 năm 2016, Navalny đã cố gắng tranh cử Tổng thống Nga trong cuộc bầu cử năm 2018, nhưng đã bị Ủy ban Bầu cử Trung ương Nga cấm vào tháng 12 năm 2017. Tòa án tối cao của Nga đã bác bỏ kháng cáo của ông và giữ nguyên lệnh cấm. Ông và những người ủng hộ ông đã bị giam giữ và bắt giữ nhiều lần, và đã trở thành nạn nhân của các cuộc tấn công nhiều lần trong chiến dịch. Vào tháng 3 năm 2017, Alexei Navalny và Tổ chức Chống Tham nhũng của ông đã tạo ra một bộ phim tài liệu "He Is Not Dimon to You", cáo buộc Dmitry Medvedev, cựu thủ tướng và tổng thống Nga, tham nhũng. Ngày 20 tháng 8 năm 2020, Navalny phải nhập viện trong tình trạng nghiêm trọng nhưng ổn định sau khi bị nghi ngờ bị ngộ độc trong chuyến bay từ Tomsk đến Moscow trong một cuộc tấn công có thể có động cơ chính trị. Chuyến bay của Navalny đã được chuyển hướng đến Omsk. Cuối ngày, ông được đưa lên máy bay y tế đi Berlin, và đến vào ngày hôm sau. Đến ngày 22 tháng 8, Navalny vẫn hôn mê.
Tuổi thơ và sự nghiệp.
Navalny là người gốc Nga và Ukraine. Cha anh đến từ Zalissia, một ngôi làng gần biên giới với Belarus ở Ivankiv Raion, Kiev Oblast, Ukraine. Navalny lớn lên ở Obninsk khoảng phía tây nam Mátxcơva, nhưng đã trải qua những mùa hè thời thơ ấu với bà của mình ở Ukraina, đạt được trình độ thông thạo tiếng Ukraina. Cha mẹ anh, Anatoly Navalny và Lyudmila Navalnaya, sở hữu một xưởng dệt giỏ ở làng Kobyakovo, Moscow Oblast, họ đã điều hành từ năm 1994.
Navalny tốt nghiệp Đại học Hữu nghị Nhân dân của Nga năm 1998 với bằng luật. Sau đó, ông theo học chứng khoán và trao đổi tại Đại học Tài chính thuộc Chính phủ Liên bang Nga. Navalny nhận được học bổng cho chương trình Yale World Fellows tại Đại học Yale vào năm 2010.
Điều tra chống tham nhũng.
Năm 2008, Navalny đầu tư 300.000 rúp vào cổ phiếu của 5 công ty dầu khí: Rosneft, Gazprom, Gazprom Neft, Lukoil, và Surgutneftegaz, do đó trở thành một cổ đông hoạt động. Do đó, ông bắt đầu nhắm đến việc minh bạch hóa tài sản của các công ty này. Điều này được yêu cầu bởi luật pháp, nhưng có những cáo buộc rằng một số quản lý cấp cao của các công ty này có liên quan đến các vụ trộm và đang che khuất sự minh bạch. Các hoạt động khác đối phó với các hành vi sai trái của cảnh sát Nga, chẳng hạn như trường hợp của Sergei Magnitsky.
Tháng 11 năm 2010, Navalny công bố tài liệu mật về việc kiểm toán của Transneft. Theo blog của Navalny, khoảng 4 tỷ đô la đã bị lãnh đạo Transneft đánh cắp trong quá trình xây dựng đường ống dẫn dầu Đông Siberia - Thái Bình Dương.
Tháng 12 năm 2010, Navalny thông báo khởi động dự án RosPil, nhằm tìm cách đưa ra ánh sáng những hành vi tham nhũng trong quy trình mua sắm chính phủ. Dự án tận dụng quy chế đấu thầu hiện hành yêu cầu tất cả các yêu cầu đấu thầu của chính phủ phải được đăng trực tuyến. Thông tin về việc thắng thầu cũng phải được đăng trực tuyến. Tên RosPil là một cách chơi chữ của thuật ngữ tiếng lóng "raspil" (wikt: ru: распил) để chỉ một hành vi tham nhũng nhằm chiếm đoạt tiền được cấp từ ngân sách nhà nước.
Tháng 5 năm 2011, Navalny khởi động RosYama (nghĩa đen là "Hố Nga"), một dự án cho phép các cá nhân báo cáo về các lỗ hổng và theo dõi phản ứng của chính phủ đối với các khiếu nại.
Vào tháng 8 năm 2011, Navalny đã công khai các giấy tờ liên quan đến một thỏa thuận bất động sản tai tiếng giữa chính phủ Hungary và Nga. Theo các báo cáo, Hungary đã bán một tòa nhà đại sứ quán cũ ở Moscow với giá 21 triệu đô la Mỹ cho một công ty nước ngoài của Viktor Vekselberg, người ngay lập tức bán lại cho chính phủ Nga với giá 111 triệu đô la. Sự bất thường trong dấu vết giấy ám chỉ một sự thông đồng. Ba quan chức Hungary chịu trách nhiệm về thương vụ này đã bị bắt giữ vào tháng 2 năm 2011. Hiện chưa rõ liệu có cuộc điều tra chính thức nào được tiến hành về phía Nga hay không.
Vào tháng 5 năm 2012, Navalny cáo buộc Phó thủ tướng Igor Shuvalov tham nhũng, nói rằng các công ty thuộc sở hữu của Roman Abramovich và Alisher Usmanov đã chuyển hàng chục triệu đô la cho công ty của Shuvalov, cho phép Shuvalov chia sẻ lợi nhuận từ việc Usmanov mua công ty thép của Anh. Corus. Navalny đã đăng các bản quét tài liệu lên blog của mình cho thấy các khoản chuyển tiền. Usmanov và Shuvalov tuyên bố các tài liệu mà Navalny đã đăng là hợp pháp, nhưng giao dịch đó không vi phạm luật pháp Nga. Shuvalov tuyên bố, "Tôi kiên quyết tuân theo các quy tắc và nguyên tắc xung đột lợi ích. Đối với một luật sư, điều này là thiêng liêng ".
Vào tháng 7 năm 2012, Navalny đã đăng các tài liệu trên blog của mình bị cáo buộc cho thấy Alexander Bastrykin, người đứng đầu Ủy ban Điều tra của Nga, sở hữu một doanh nghiệp không được khai báo ở Cộng hòa Séc. Bài đăng được "Financial Times" mô tả là "phát súng trả lời" của Navalny vì đã để lọt email của anh ta trong thời gian bị bắt vào tháng trước.
Vào tháng 3 năm 2017, Navalny phát động chiến dịch " He Is Not Dimon To You ", cáo buộc Thủ tướng Dmitry Medvedev tham nhũng. Các nhà chức trách hoặc bỏ qua báo cáo do Navalny đưa ra, hoặc nhận xét rằng báo cáo được đưa ra bởi một "tội phạm bị kết án" và không đáng để bình luận. Vào ngày 26 tháng 3, Navalny đã tổ chức một loạt các cuộc mít tinh chống tham nhũng ở các thành phố khác nhau trên khắp nước Nga. Ở một số thành phố, các cuộc biểu tình đã bị chính quyền xử phạt, nhưng ở những thành phố khác, bao gồm cả Moscow và Saint Petersburg, họ không được phép. Cảnh sát Moscow cho biết có 500 người đã bị giam giữ, nhưng theo tổ chức nhân quyền OVD-Info, chỉ riêng ở Moscow đã có 1.030 người bị giam giữ, bao gồm cả bản thân Navalny. Vào ngày 27 tháng 3, anh ta bị phạt tối thiểu 20.000 rúp vì tổ chức một cuộc biểu tình bất hợp pháp và bị bỏ tù trong 15 ngày vì chống lại việc bắt giữ.
Hoạt động chính trị.
Yabloko.
Năm 2000, sau khi công bố luật mới nâng cao ngưỡng cử tri cho các cuộc bầu cử Duma Quốc gia, Navalny gia nhập Đảng Dân chủ Thống nhất Nga Yabloko. Theo Navalny, luật pháp chống lại Yabloko và Liên minh các Lực lượng Cánh hữu, và anh ta quyết định tham gia, mặc dù anh ta không phải là "một fan hâm mộ lớn" của cả hai tổ chức. Năm 2001, anh được liệt vào danh sách đảng viên. Năm 2002, ông được bầu vào hội đồng khu vực của chi nhánh Yabloko ở Moscow. Năm 2003, ông đứng đầu phân khu Moscow của chiến dịch tranh cử của đảng cho cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức vào tháng 12. Vào tháng 4 năm 2004, Navalny trở thành Tham mưu trưởng của chi nhánh Yabloko ở Moscow, ông giữ chức vụ này cho đến tháng 2 năm 2007. Cũng trong năm 2004, ông cũng trở thành Phó Chánh văn phòng chi nhánh Matxcova của đảng. Từ năm 2006 đến năm 2007, ông là thành viên của Hội đồng Liên bang của đảng.
Vào tháng 8 năm 2005, Navalny được hợp nhất vào Hội đồng Xã hội của Hành chính Trung tâm Okrug của Moscow, được thành lập trước cuộc bầu cử Duma thành phố Moscow được tổ chức vào cuối năm đó, trong đó anh ta tham gia với tư cách là một ứng cử viên. Vào tháng 11, anh là một trong những người khởi xướng Phòng Công cộng Thanh niên, nhằm giúp các chính trị gia trẻ tuổi tham gia vào các sáng kiến lập pháp.
Đồng thời, vào năm 2005, Navalny bắt đầu một phong trào xã hội thanh niên khác, mang tên "DA! - Giải pháp thay thế dân chủ ". Dự án không liên quan đến Yabloko (cũng như bất kỳ đảng chính trị nào khác). Trong phong trào, Navalny đã tham gia vào một số dự án. Đặc biệt, ông còn là một trong những người tổ chức các cuộc tranh luận chính trị theo phong trào, sớm gây được tiếng vang trên các phương tiện truyền thông. Navalny cũng tổ chức các cuộc tranh luận trên truyền hình thông qua Trung tâm Truyền hình kênh Moscow do nhà nước điều hành; hai tập đầu cho thấy rating cao, nhưng chương trình đột ngột bị hủy. Theo Navalny, các nhà chức trách đã cấm một số người nhận được các chương trình truyền hình.
Vào cuối năm 2006, Navalny đã khiếu nại tới Tòa thị chính Moscow, yêu cầu nó cho phép tổ chức Cuộc hành quân Nga năm 2006 theo chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, ông nói thêm rằng Yabloko lên án "bất kỳ sự hận thù sắc tộc hoặc chủng tộc nào và bất kỳ chủ nghĩa bài ngoại nào" và kêu gọi cảnh sát chống lại "bất kỳ biểu hiện bài ngoại nào của Chủ nghĩa Phát xít, Đức Quốc xã,". Navalny là một quan sát viên trong các cuộc họp của ban tổ chức; ông được chỉ định là người tổ chức cho cuộc tuần hành trên các phương tiện truyền thông, mà ông đã phủ nhận.
Vào tháng 7 năm 2007, Navalny thôi giữ chức vụ Phó chính ủy chi nhánh Matxcova của đảng. Vào lúc đó, ông đã thành lập một phong trào dân tộc chủ nghĩa, "The People" (xem bên dưới). Trong một hội đồng đảng vào tháng 12 năm 2007, Navalny đã công khai yêu cầu "từ chức ngay lập tức chủ tịch đảng và tất cả các cấp phó của ông ấy, và bầu cử lại ít nhất 70% của Cục". Do đó, ông bị trục xuất khỏi Yabloko "vì đã gây thiệt hại chính trị cho đảng; đặc biệt, vì các hoạt động dân tộc chủ nghĩa". Navalny tuyên bố lý do thực sự đằng sau việc loại trừ anh ta là việc anh ta yêu cầu Grigory Yavlinsky, lãnh đạo đảng lúc bấy giờ từ chức.
Phong trào "Nhân dân".
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2007, Navalny đồng sáng lập một phong trào chính trị mới, lấy tên là "Nhân dân", ủng hộ các quan điểm của "chủ nghĩa dân tộc dân chủ", được định nghĩa là một cuộc đấu tranh cho dân chủ và quyền của người dân tộc Nga; theo một trong những người viết tiểu sử của Navalny, Navalny phân biệt các khía cạnh dân tộc và xã hội của thuật ngữ, làm nổi bật cái sau.
Vào tháng 6 năm 2008, phong trào đã hợp tác với hai phong trào dân tộc chủ nghĩa khác của Nga là Phong trào Chống nhập cư bất hợp pháp (MAII) và Nước Nga vĩ đại, để thành lập một liên minh mới, Phong trào Quốc gia Nga. Navalny tuyên bố phong trào sẽ tham gia vào các cuộc bầu cử quốc hội tiếp theo, lên kế hoạch để có được một phần lớn số phiếu bầu; ông nói thêm, "có tới 60% dân số ủng hộ chủ nghĩa dân tộc tự phát, nhưng nó không có hiệu lực về mặt pháp lý". Cuối cùng tháng, MAII và The People đã ký một thỏa thuận hợp tác; về thủ tục, ông định nghĩa "chủ nghĩa dân tộc chính trị mới" là dân chủ, "về cơ bản và về mặt thống kê", thêm vào đó, "chúng tôi có thể dạy những người tự do trắng trợn một hoặc hai điều". Ông cũng tuyên bố muốn tách liên minh khỏi những kẻ đầu trọc, kêu gọi hợp tác chặt chẽ với phe cánh tả và phe tự do để tổ chức bầu cử công bằng mà liên minh "sẽ thắng", đồng thời yêu cầu tự do hóa chính trị và bầu cử quốc hội sớm ở Nga.
Năm 2011, Navalny thừa nhận phong trào "Nhân dân" đã thất bại trong việc thiết lập chính nó như một cơ cấu hoạt động.
Tham gia vào cuộc bầu cử quốc hội năm 2011 và các cuộc biểu tình năm 2011–13 ở Nga.
Vào tháng 12 năm 2011, sau cuộc bầu cử quốc hội và bị cáo buộc gian lận bầu cử, khoảng 6.000 người đã tụ tập ở Moscow để phản đối kết quả tranh chấp, và khoảng 300 người đã bị bắt bao gồm cả Navalny. Sau một thời gian không rõ ràng, Navalny đã bị đưa ra tòa và sau đó bị kết án tối đa 15 ngày "vì tội bất chấp một quan chức chính phủ". Alexei Venediktov, tổng biên tập của đài phát thanh Echo of Moscow, gọi vụ bắt giữ là "một sai lầm chính trị: bỏ tù Navalny biến anh ta từ một nhà lãnh đạo trực tuyến thành một người ngoại tuyến". Navalny bị giam cùng nhà tù với một số nhà hoạt động khác, bao gồm Ilya Yashin và Sergei Udaltsov, thủ lĩnh không chính thức của Vanguard of Red Youth, một nhóm thanh niên cộng sản cấp tiến của Nga. Udaltsov đã tuyệt thực để phản đối các điều kiện.
Navalny bị bắt vào ngày 5 tháng 12, bị kết tội và bị kết án 15 ngày tù. Kể từ khi bị bắt, blog của anh ta đã có sẵn bằng tiếng Anh.
Trong một hồ sơ được công bố một ngày sau khi được thả, BBC News mô tả Navalny là "nhân vật đối lập lớn duy nhất nổi lên ở Nga trong 5 năm qua".
Khi được thả vào ngày 20 tháng 12, Navalny kêu gọi người Nga đoàn kết chống lại Putin, người mà Navalny nói sẽ cố gắng giành lấy chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, được tổ chức vào ngày 4 tháng 3 năm 2012
Navalny nói với các phóng viên khi được thả rằng anh ta sẽ vô nghĩa nếu tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống vì Điện Kremlin sẽ không cho phép họ công bằng. Nhưng ông nói rằng nếu các cuộc bầu cử tự do được tổ chức, ông sẽ "sẵn sàng" tranh cử. Vào ngày 24 tháng 12, anh ấy đã giúp dẫn đầu một cuộc biểu tình lớn hơn nhiều so với cuộc biểu tình sau bầu cử (50.000 người, trong một tài khoản truyền thông phương Tây ), nói với đám đông, "Tôi thấy đủ người để chiếm Điện Kremlin ngay bây giờ".
Vào tháng 3 năm 2012, sau khi Putin đắc cử tổng thống, Navalny đã giúp dẫn đầu một cuộc biểu tình chống Putin tại Quảng trường Pushkin ở Moscow, với sự tham dự của khoảng 14.000 đến 20.000 người. Sau cuộc biểu tình, Navalny bị chính quyền giam giữ trong vài giờ, sau đó được thả.
Vào ngày 8 tháng 5, một ngày sau khi Putin nhậm chức, Navalny và Udaltsov đã bị bắt sau một cuộc biểu tình chống Putin tại Clean Ponds, và mỗi người bị kết án 15 ngày tù. Tổ chức Ân xá Quốc tế đã chỉ định hai người đàn ông là tù nhân lương tâm. Vào ngày 11 tháng 6, các công tố viên Moscow đã tiến hành khám xét nhà, văn phòng và căn hộ của Navalny trong 12 giờ của một trong những người thân của ông ta. Theo mạng truyền hình RT, các cuộc tìm kiếm đã được thực hiện như một phần của cuộc điều tra rộng hơn về vụ đụng độ giữa các nhà hoạt động đối lập và cảnh sát chống bạo động xảy ra vào ngày 6/5. Ngay sau đó, một số email cá nhân của Navalny được một blogger ủng hộ chính phủ đưa lên mạng.
Đảng mới.
Vào ngày 26 tháng 6 năm 2012, có thông báo rằng các đồng chí của Navalny sẽ thành lập một đảng chính trị mới dựa trên nền dân chủ điện tử; Navalny tuyên bố anh không có kế hoạch tham gia vào dự án này vào lúc này. Vào ngày 31 tháng 7, họ đã nộp một tài liệu để đăng ký một ban tổ chức của đảng tương lai; đảng được đặt tên là "Liên minh Nhân dân". Đảng được tuyên bố là trung tâm; một trong những lãnh đạo đương nhiệm của đảng và đồng minh của Navalny là Vladimir Ashurkov giải thích điều này nhằm giúp đảng có được một lượng lớn cử tri. Tuy nhiên, đảng chưa có một hệ tư tưởng toàn diện. Đảng sẽ giới hạn số lượng thành viên của mình là 500 người. Navalny cho biết khái niệm về các đảng chính trị đã "lỗi thời", và việc ông thêm vào sẽ khiến việc duy trì đảng trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên, ông đã "ban phước" cho bữa tiệc và thảo luận về việc duy trì nó với các nhà lãnh đạo của nó. Đến lượt họ, họ tuyên bố rằng cuối cùng họ muốn xem Navalny là một thành viên của nhóm. Đảng đã lên kế hoạch sử dụng hoạt động của các thành viên trên các phương tiện truyền thông và Internet như một lợi thế lớn. Ashurkov cho biết ông mong muốn đảng này sẽ đăng ký chính thức vào mùa xuân năm 2013. Ngày 15 tháng 12 năm 2012, chi bộ tổ chức đại hội thành lập; Navalny bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với đảng, nói rằng, "Liên minh Nhân dân là đảng của tôi", nhưng một lần nữa từ chối tham gia với lý do các vụ án hình sự chống lại anh ta. Đảng này thông báo họ đã lên kế hoạch cải cách tư pháp và thực thi luật, chuyển giao một phần quyền lực của tổng thống cho quốc hội và hạn chế di cư vào nước này. Vào ngày 10 tháng 4 năm 2013, đảng đã nộp hồ sơ để đăng ký chính thức của đảng. Vào ngày 30 tháng 4, việc đăng ký đảng bị đình chỉ. Đảng đã tổ chức đại hội lần thứ hai để sửa chữa những sai phạm do Bộ Tư pháp tuyên bố. Vào ngày 5 tháng 7, bữa tiệc đã bị từ chối đăng ký; Theo "Izvestia", không phải tất cả những người sáng lập đảng đều có mặt trong đại hội, mặc dù các giấy tờ đều có chữ ký của họ. Navalny đã phản ứng với điều đó bằng một dòng tweet nói rằng, "[... ] Một cuộc tấn công của tất cả các loại súng ". (NLĐO) - Cùng ngày, ông cũng nói những lời cuối cùng trước phiên tòa xét xử Kirovles.) Sau cuộc bầu cử thị trưởng, vào ngày 15 tháng 9, Navalny tuyên bố sẽ tham gia và có thể đứng đầu đảng. Vào ngày 17 tháng 11, đảng tổ chức một đại hội thành lập khác; Navalny được bầu làm lãnh đạo của đảng.
Vào tháng 11 năm 2013, đảng đã đăng ký "Tổ quốc", do Andrei Bogdanov lãnh đạo, đổi tên thành "Liên minh Nhân dân"; vào ngày 30 tháng 11, Bộ Tư pháp đã công nhận việc đổi tên là hợp pháp. Vào ngày 8 tháng 1 năm 2014, nhóm của Navalny đã nộp hồ sơ đăng ký lần thứ hai. Vào ngày 20 tháng 1, việc đăng ký đảng bị đình chỉ; Theo luật của Nga, không có hai bên nào có thể dùng chung tên. Vào ngày 8 tháng 2 năm 2014, đảng của Navalny đổi tên thành "Đảng Tiến bộ". Vào ngày 25 tháng 2, bữa tiệc được đăng ký. Tại thời điểm đó, nó có sáu tháng để đăng ký các chi nhánh khu vực ở ít nhất một nửa số đối tượng liên bang của Nga; thời gian có thể bị kéo dài nếu bên đó kháng cáo bản án từ chối đăng ký chi nhánh của ít nhất một chủ đề của tòa án. Theo Dmitri Krainev, thành viên hội đồng quản trị chính của đảng, đảng đã có 15 chi nhánh khu vực được đăng ký vào ngày 22 tháng 8 và đảng này đã thông báo với Bộ Tư pháp rằng thời hạn sẽ bị kéo dài, với lý do tạm ngừng đăng ký hoặc các phiên tòa liên quan đến đăng ký chi nhánh khu vực. Vào ngày 24 tháng 9, nó đã thông báo cho Bộ về việc kéo dài thời hạn khác. Vào ngày 26 tháng 9, đảng này tuyên bố đã đăng ký 43 chi nhánh khu vực. Một nguồn tin giấu tên của "Izvestia" trong Bộ cho biết các đăng ký hoàn thành sau thời hạn sáu tháng sẽ không được xem xét, nói thêm, "Có, các thử nghiệm đang diễn ra ở một số khu vực [...] họ không thể đăng ký chi nhánh mới ở các khu vực khác trong thời gian các thử nghiệm, bởi vì thời hạn chính đã kết thúc ". Blog của Navalny phản bác, "Câu trả lời của chúng tôi rất đơn giản. Thời hạn đăng ký sáu tháng đã bị kéo dài về mặt pháp lý, do đó việc truy tố "tạm thời" đối với các kháng cáo về việc từ chối và đình chỉ đăng ký ".
Vào ngày 2 tháng 10 năm 2014, bên đã nộp hồ sơ đăng ký 44 chi nhánh khu vực; Theo Krainev, từ thời điểm đó, đảng lẽ ra phải được thêm vào danh sách các cơ cấu đủ điều kiện tham gia bầu cử. Đảng đã cố gắng chỉ định các ứng cử viên cho cuộc bầu cử thành phố ở hai thị trấn ở Moscow Oblast, nhưng bị từ chối quyền làm điều đó, vì nó không được thêm vào danh sách nói trên. Sau đó, đảng này đã cố gắng phản đối việc không đưa vào danh sách tại các tòa án; tuy nhiên, lập trường đã được ủng hộ bởi mọi tòa án tiếp theo mà bên đó giải quyết, với tòa án mới nhất là Tòa án Thành phố Moscow vào ngày 30 tháng 3 năm 2015. Vào ngày 1 tháng 2, đảng này đã tổ chức một đại hội, nơi Navalny tuyên bố đảng đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử năm 2016, tuyên bố đảng sẽ duy trì hoạt động của mình trên khắp nước Nga, nói rằng, "Chúng tôi không ngại làm việc ở những vùng đất xa xôi, nơi phe đối lập không hoạt động. Chúng tôi thậm chí có thể [làm việc] ở Crimea ". Các ứng cử viên mà đảng sẽ chỉ định sẽ được chọn thông qua các cuộc bầu cử sơ bộ; tuy nhiên, ông nói thêm, các ứng cử viên của đảng có thể bị loại khỏi các cuộc bầu cử. Vào ngày 17 tháng 4, đảng này bắt đầu liên minh các đảng dân chủ.
Vào ngày 28 tháng 4 năm 2015, bên bị tước đăng ký bởi Bộ Tư pháp, trong đó tuyên bố rằng bên đã không đăng ký số lượng chi nhánh khu vực cần thiết trong vòng sáu tháng sau khi đăng ký chính thức. Krainev tuyên bố đảng chỉ có thể bị Tòa án Tối cao loại bỏ và ông nói thêm rằng không phải tất cả các phiên tòa xét xử đăng ký các chi nhánh khu vực đều kết thúc, gọi phán quyết là "hai lần bất hợp pháp". Ông nói thêm, đảng này sẽ tham chiếu đến Tòa án Nhân quyền Châu Âu, và bày tỏ tin tưởng rằng đảng sẽ được khôi phục và tham gia các cuộc bầu cử. Ngày hôm sau, đảng chính thức phản đối bản án.
Ứng cử thị trưởng Moscow.
Vào ngày 30 tháng 5 năm 2013, Sergey Sobyanin, thị trưởng của Moscow, lập luận rằng một thị trưởng được bầu là một lợi thế cho thành phố so với một người được bổ nhiệm, và vào ngày 4 tháng 6, ông tuyên bố sẽ gặp Tổng thống Vladimir Putin và yêu cầu ông bầu cử nhanh chóng, đề cập đến người Hồi giáo sẽ đồng ý các cuộc bầu cử thống đốc nên diễn ra đồng thời ở thành phố Moscow và Moscow Oblast xung quanh. Vào ngày 6 tháng 6, yêu cầu đã được chấp thuận, và ngày hôm sau, Duma thành phố Moscow đã chỉ định cuộc bầu cử vào ngày 8 tháng 9, ngày bỏ phiếu toàn quốc.
Vào ngày 3 tháng 6, Navalny tuyên bố sẽ tranh cử chức vụ này. Để trở thành ứng cử viên chính thức, anh ta sẽ cần bảy mươi nghìn chữ ký của người Moskva hoặc được một bên đã đăng ký chốt cho văn phòng và sau đó thu thập 110 chữ ký của các đại biểu thành phố từ 110 khu vực khác nhau (3/4 của Moscow là 146). Navalny đã chọn để được chốt bởi một bên, RPR-PARNAS (vốn đã neo anh ta, nhưng động thái này đã làm mối quan hệ trong đảng trở nên sâu sắc hơn; sau khi một trong ba đồng chủ tịch và người sáng lập ban đầu, Vladimir Ryzhkov, đã rời khỏi đảng, anh ta nói đây là một trong những dấu hiệu mà cả nhóm "bị đánh cắp khỏi anh ta"). Trong số sáu ứng cử viên đã được đăng ký chính thức như vậy, chỉ có hai (Sobyanin và Ivan Melnikov cộng sản) có thể tự mình thu thập đủ số lượng chữ ký cần thiết, và bốn ứng cử viên còn lại đã được Hội đồng thành phố cấp một số chữ ký, sau đây một đề xuất của Sobyanin, để vượt qua yêu cầu (Navalny chấp nhận 49 chữ ký, và các ứng cử viên khác chấp nhận 70, 70 và 82).
Vào ngày 17 tháng 7, Navalny được đăng ký là một trong sáu ứng cử viên cho cuộc bầu cử thị trưởng Moscow. Tuy nhiên, vào ngày 18 tháng 7, anh ta bị kết án 5 năm tù cho các tội danh tham ô và gian lận đã được tuyên vào năm 2012. Vài giờ sau khi tuyên án, anh ta rút khỏi cuộc đua và kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử. Tuy nhiên, sau ngày hôm đó, văn phòng công tố yêu cầu bị cáo được trả tự do trong thời hạn tại ngoại và hạn chế đi lại, vì bản án chưa có hiệu lực pháp luật, nói rằng trước đó họ đã tuân theo các hạn chế, Navalny là ứng cử viên thị trưởng và do đó sẽ bị phạt tù. không tuân thủ quy tắc của mình để tiếp cận bình đẳng với cử tri. Khi trở về Moscow sau khi được trả tự do trong khi chờ kháng cáo, anh thề sẽ ở lại cuộc đua. "Tờ Washington Post" đã suy đoán rằng việc phóng thích của ông là do Điện Kremlin ra lệnh nhằm giúp cho cuộc bầu cử và Sobyanin có vẻ hợp pháp hơn.
Chiến dịch của Navalny chủ yếu dựa trên việc gây quỹ: trong số 103,4 triệu rúp (khoảng 3,09 triệu USD tính đến ngày bầu cử ), tổng quy mô quỹ bầu cử của anh ấy, 97,3 triệu rúp (2,91 triệu USD) đã được chuyển tới từ các cá nhân trên khắp nước Nga; điều như vậy là chưa từng có ở Nga. Nó đạt được danh tiếng cao thông qua một tổ chức chiến dịch lớn chưa từng có với sự tham gia của khoảng 20.000 người tình nguyện phát tờ rơi và treo biểu ngữ, cũng như một số cuộc mít tinh chiến dịch mỗi ngày quanh thành phố; họ là động lực chính cho chiến dịch. "Tờ New Yorker" mô tả chiến dịch đạt được kết quả là "một phép màu", cùng với việc Navalny được phát hành vào ngày 19 tháng 7, chiến dịch gây quỹ và tính cách của chính Navalny. Chiến dịch nhận được rất ít sự phủ sóng của truyền hình và không sử dụng các bảng quảng cáo. Nhờ chiến dịch mạnh mẽ của Navalny (và chiến dịch yếu kém của Sobyanin ), kết quả của anh ta tăng lên theo thời gian, làm suy yếu Sobyanin và cuối chiến dịch, anh ta tuyên bố cuộc bầu cử bỏ chạy (sẽ được tiến hành nếu không có ứng cử viên nào nhận được ít nhất 50 % phiếu bầu) là "đường tơ kẽ tóc".
Các công ty xã hội học lớn nhất đã dự đoán (Trung tâm Levada là công ty duy nhất không đưa ra bất kỳ dự đoán nào; tuy nhiên, dữ liệu mà nó có vào ngày 28 tháng 8 lại trùng khớp với các công ty khác ') Sobyanin sẽ thắng cuộc bầu cử, đạt 58% đến 64% cuộc bỏ phiếu; họ dự đoán Navalny sẽ nhận được 15–20% phiếu bầu và tỷ lệ cử tri đi bầu là 45–52%. Kết quả cuối cùng của cuộc bỏ phiếu cho thấy Navalny nhận được 27% phiếu bầu, nhiều hơn các ứng cử viên do các đảng chỉ định nhận được kết quả cao thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ năm trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2011, hoàn toàn. Navalny có số phiếu bầu nhiều hơn ở trung tâm và phía tây nam của Moscow, nơi có thu nhập và trình độ học vấn cao hơn. Tuy nhiên, Sobyanin nhận được 51% phiếu bầu, đồng nghĩa với việc ông đã thắng cử. Tỷ lệ cử tri đi bầu là 32%. Các công ty giải thích sự khác biệt nảy sinh từ thực tế là cử tri của Sobyanin không bỏ phiếu, cảm thấy ứng cử viên của họ được đảm bảo giành chiến thắng. Các phép đo của văn phòng chiến dịch của Navalny dự đoán Sobyanin sẽ đạt 49–51%, và Navalny sẽ nhận được 24–26% phiếu bầu.
Nhiều chuyên gia cho rằng cuộc bầu cử diễn ra công bằng, số lượng các trường hợp bất thường thấp hơn nhiều so với các cuộc bầu cử khác được tổ chức trong nước và các bất thường không ảnh hưởng nhiều đến kết quả. Dmitri Abyzalov, chuyên gia hàng đầu của Trung tâm Kết luận Chính trị, nói thêm rằng con số cử tri đi bỏ phiếu thấp cung cấp thêm một dấu hiệu về tính công bằng của cuộc bầu cử, bởi vì điều đó cho thấy họ không được đánh giá quá cao. Tuy nhiên, theo Andrei Buzin, đồng chủ tịch của Hiệp hội GOLOS, Bộ An sinh xã hội các bang đã bổ sung những người ban đầu không muốn bỏ phiếu vào danh sách những người sẽ bỏ phiếu ở nhà, với số lượng cử tri như vậy là 5% trong số đó. người đã bình chọn, và thêm vào điều này đã gây ra câu hỏi liệu Sobyanin sẽ đạt 50% nếu điều này không diễn ra. Dmitry Oreshkin, lãnh đạo của dự án "Ủy ban bầu cử nhân dân" (người đã thực hiện một cuộc kiểm phiếu riêng biệt dựa trên dữ liệu từ các quan sát viên bầu cử; kết quả của họ cho Sobyanin là 50%), cho biết bây giờ cuộc bầu cử bỏ phiếu chỉ còn 2%, mọi chi tiết sẽ được xem xét rất kỹ, và thêm rằng không thể chứng minh "bất cứ điều gì" về mặt pháp lý.
Vào ngày 9 tháng 9, một ngày sau cuộc bầu cử, Navalny công khai từ chối cuộc kiểm phiếu, nói rằng, "Chúng tôi không công nhận kết quả. Chúng là giả". Văn phòng của Sobyanin đã từ chối lời đề nghị kiểm phiếu lại. Vào ngày 12 tháng 9, Navalny đã phát biểu trước Tòa án thành phố Moscow để lật lại kết quả cuộc thăm dò; tòa bác bỏ khẳng định. Navalny sau đó đã phản đối quyết định tại Tòa án Tối cao Nga, nhưng tòa án đã phán quyết rằng kết quả bầu cử là hợp pháp.
RPR-PARNAS và liên minh dân chủ.
Sau cuộc bầu cử thị trưởng, Navalny đã được đề nghị làm đồng chủ tịch thứ tư của RPR-PARNAS. Tuy nhiên, Navalny không đưa ra phản ứng nào.
Vào đầu năm 2014, cục diện chính trị của Nga đã thay đổi đáng kể: Sau các cuộc biểu tình của người Euromaidan và tình trạng bất ổn dân sự ở Kiev, dẫn đến việc thành lập một chủ tịch và chính phủ thân EU mới, một làn sóng phản đối các cuộc biểu tình và bất ổn dân sự bắt đầu ở miền Nam và miền Đông Ukraine, và ở Crimea, một "lực lượng tình nguyện tự vệ của Crimea" đã công bố một cuộc trưng cầu dân ý, câu hỏi đặt ra cuối cùng là, liệu Crimea có nên gia nhập Liên bang Nga hay không. (Sau đó, Putin công khai tuyên bố lực lượng tự vệ bao gồm quân đội Nga.) Sau cuộc trưng cầu dân ý, Crimea trên thực tế đã trở thành một phần của Nga. Trung tâm xã hội học đã đánh dấu thực tế là đánh giá của Putin đã tăng vọt: nó chỉ là 29% (trong số tất cả những người được hỏi, bao gồm cả những người không chắc chắn hoặc sẽ không bỏ phiếu) vào tháng 1 năm 2014, nhưng đã tăng lên 49% vào tháng 4 năm 2014, một con số sẽ chuyển thành 81% nếu những người không chắc chắn hoặc không sẵn sàng bỏ phiếu bị loại.
Vào ngày 14 tháng 11 năm 2014, hai đồng chủ tịch còn lại của RPR-PARNAS, Boris Nemtsov và cựu Thủ tướng Nga Mikhail Kasyanov, tuyên bố đây là thời điểm thích hợp để thành lập một liên minh rộng rãi các lực lượng chính trị, những người ủng hộ "sự lựa chọn của châu Âu"; Đảng Tiến bộ của Navalny được coi là một trong những thành viên tiềm năng. Tuy nhiên, vào ngày 27 tháng 2 năm 2015, Nemtsov bị bắn chết. Trước khi bị ám sát, Nemtsov đã làm việc trong một dự án của một liên minh (trong đó Navalny và Khodorkovsky sẽ trở thành đồng chủ tịch của RPR-PARNAS; Navalny tuyên bố các đảng hợp nhất sẽ gây ra những khó khăn quan liêu và đặt câu hỏi về tính hợp pháp của quyền tham gia bầu cử liên bang của đảng mà không có thu thập chữ ký ); vụ giết người đã đẩy nhanh tiến độ công việc và vào ngày 17 tháng 4, Navalny tuyên bố một cuộc thảo luận rộng rãi đã diễn ra giữa Đảng Tiến bộ, RPR-PARNAS và các đảng liên kết chặt chẽ khác, dẫn đến một thỏa thuận thành lập một khối bầu cử mới giữa hai nhà lãnh đạo. Ngay sau đó, nó đã được ký kết bởi bốn bên khác và được hỗ trợ bởi tổ chức Open Russia của Khodorkovsky. Các khối bầu cử không có trong hệ thống luật hiện hành của Nga, vì vậy nó sẽ được thực hiện thông qua một bên duy nhất, RPR-PARNAS, không chỉ đủ điều kiện để tham gia vào các cuộc bầu cử toàn tiểu bang mà còn không bắt buộc phải thu thập công dân ' chữ ký cho quyền tham gia cuộc bầu cử Đuma Quốc gia dự kiến vào tháng 9 năm 2016 nhờ vào ủy nhiệm của nghị viện khu vực do Nemtsov đảm nhận trước đó. Các ứng cử viên mà RPR-PARNAS chỉ định sẽ được chọn thông qua bầu cử sơ bộ.
Liên minh tuyên bố đã thu thập đủ chữ ký của công dân để đăng ký tại 4 khu vực mà họ nhắm tới ban đầu. Tuy nhiên, tại một khu vực, liên minh tuyên bố một số chữ ký và dữ liệu cá nhân đã bị thay đổi bởi những kẻ thu thập ác ý; chữ ký ở các khu vực khác đã bị ủy ban bầu cử khu vực từ chối. Khiếu nại đã được gửi tới Ủy ban Bầu cử Trung ương Nga, sau đó liên minh đã được đăng ký với tư cách là thành viên tham gia một cuộc bầu cử khu vực tại một trong ba khu vực tranh chấp, Kostroma Oblast. Theo một nguồn tin của "Gazeta.ru" "thân cận với Điện Kremlin", chính quyền tổng thống nhận thấy cơ hội của liên minh là rất thấp nên đã cảnh giác, nhưng sự phục hồi ở một khu vực đã xảy ra để PARNAS có thể "ghi một bàn thắng an ủi". Theo kết quả bầu cử chính thức, liên minh đạt 2% phiếu bầu, không đủ để vượt qua ngưỡng 5%; đảng thừa nhận cuộc bầu cử đã bị thua.
Bầu cử tổng thống 2018.
Vào ngày 13 tháng 12 năm 2016, Navalny tuyên bố tham gia cuộc đua tổng thống.
Vào ngày 8 tháng 2 năm 2017, tòa án quận Leninsky của Kirov đã lặp lại bản án năm 2013 (trước đó đã bị hủy bỏ sau quyết định của ECHR, phán quyết rằng Nga đã vi phạm quyền được xét xử công bằng của Navalny, xem trường hợp Kirovles) và buộc tội anh ta năm năm tù treo. Câu này, nếu nó có hiệu lực và vẫn còn hiệu lực, có thể cấm đăng ký chính thức trong tương lai của Navalny với tư cách là một ứng cử viên. Navalny tuyên bố sẽ theo đuổi việc hủy bỏ bản án rõ ràng mâu thuẫn với quyết định của ECHR. Hơn nữa, Navalny tuyên bố rằng chiến dịch tranh cử tổng thống của ông sẽ tiến hành độc lập với các quyết định của tòa án. Ông đề cập đến Hiến pháp Nga (Điều 32), chỉ tước quyền bầu cử của hai nhóm công dân: những người được tòa án công nhận là không phù hợp về mặt pháp lý và những người bị giam giữ ở những nơi bị giam giữ bởi bản án của tòa án. Theo Freedom House và "The Economist", Navalny là ứng cử viên khả thi nhất cho Vladimir Putin trong cuộc bầu cử năm 2018.
Vào ngày 26 tháng 3 năm 2017, Navalny đã tổ chức một loạt các cuộc mít tinh chống tham nhũng ở các thành phố khác nhau trên khắp nước Nga. Lời kêu gọi này đã được đại diện của 95 thành phố của Nga và 4 thành phố ở nước ngoài: London, Prague, Basel và Bonn hưởng ứng.
Vào ngày 27 tháng 4 năm 2017, Navalny đã bị tấn công bởi những kẻ tấn công không rõ danh tính bên ngoài văn phòng của ông trong Tổ chức Chống Tham nhũng. Họ phun hỗn hợp màu xanh lá cây rực rỡ, có thể với các thành phần khác vào mặt anh ta (xem cuộc tấn công của Zelyonka). Theo báo cáo, anh ấy đã mất 80% thị lực ở mắt phải. Navalny cáo buộc Điện Kremlin dàn dựng vụ tấn công.
Vào ngày 7 tháng 7 năm 2017, ông được ra tù sau 25 ngày bị giam cầm. Trước đó, Navalny bị bắt tại Moscow vì tham gia biểu tình và bị kết án 30 ngày tù vì tội tổ chức biểu tình trái phép.
Vào ngày 6 tháng 9 năm 2017, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã cáo buộc cảnh sát Nga can thiệp có hệ thống vào chiến dịch tranh cử tổng thống của Navalny. Hugh Williamson, Giám đốc khu vực Châu Âu và Trung Á tại Tổ chức Theo dõi Nhân quyền cho biết: "Hình thức quấy rối và đe dọa chống lại chiến dịch của Navalny là không thể phủ nhận. "Các nhà chức trách Nga nên để các nhà vận động của Navalny hoạt động mà không bị can thiệp quá mức và điều tra thích đáng các cuộc tấn công chống lại họ của những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan và các nhóm thân chính phủ."
Vào ngày 21 tháng 9 năm 2017, Ủy ban Bộ trưởng của Hội đồng Châu Âu đã mời các nhà chức trách Nga, liên quan đến vụ Kirovles, "khẩn cấp sử dụng các con đường tiếp theo để xóa bỏ lệnh cấm ông Navalny ứng cử".
Vào ngày 2 tháng 10 năm 2017, Navalny bị kết án 20 ngày tù vì kêu gọi tham gia biểu tình mà không được chính quyền nhà nước chấp thuận.
Vào tháng 12 năm 2017, Ủy ban bầu cử trung ương của Nga đã cấm Navalny tranh cử tổng thống vào năm 2018, với lý do Navalny bị kết tội tham nhũng. Liên minh châu Âu cho biết việc loại bỏ Navalny gây ra "nghi ngờ nghiêm trọng" về cuộc bầu cử. Navalny kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử tổng thống năm 2018, nói rằng việc loại bỏ ông có nghĩa là hàng triệu người Nga đang bị từ chối quyền bỏ phiếu của họ.
Navalny đã đệ đơn kháng cáo phán quyết của Tòa án Tối cao Nga vào ngày 3 tháng 1 năm 2018. Vào ngày 6 tháng 1, Tòa án tối cao của Nga đã bác đơn kháng cáo của ông.
Navalny đã lãnh đạo các cuộc biểu tình vào ngày 28 tháng 1 năm 2018 để kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử tổng thống năm 2018 của Nga. Navalny bị bắt vào ngày biểu tình và sau đó được thả cùng ngày, chờ xét xử. OVD-Info báo cáo rằng 257 người đã bị bắt trong cả nước. Theo các bản tin của Nga, cảnh sát cho biết Navalny có khả năng bị buộc tội tổ chức biểu tình trái phép. Hai cộng sự của Navalny đã bị phạt tù ngắn hạn vì kêu gọi mọi người tham gia các cuộc biểu tình chống đối không có chủ đề. Navalny tuyên bố vào ngày 5 tháng 2 năm 2018, chính phủ cáo buộc Navalny hành hung một sĩ quan trong các cuộc biểu tình. Navalny nằm trong số 1600 người bị giam giữ trong các cuộc biểu tình ngày 5 tháng 5 trước lễ nhậm chức của Putin; Navalny bị buộc tội không tuân theo cảnh sát. Vào ngày 15 tháng 5, anh ta bị kết án 30 ngày tù. Ngay sau khi được thả vào ngày 25 tháng 9 năm 2018, anh đã bị bắt và bị kết án vì tội tổ chức biểu tình bất hợp pháp và bị kết án thêm 20 ngày tù.
Cuộc bầu cử Duma thành phố Moscow năm 2019.
Trong cuộc bầu cử Duma thành phố Moscow năm 2019, Navalny đã ủng hộ các ứng cử viên độc lập, hầu hết trong số họ không được phép tham gia bầu cử, dẫn đến các cuộc biểu tình đường phố hàng loạt. Vào tháng 7 năm 2019, Navalny bị bắt, đầu tiên trong mười ngày, và sau đó, gần như ngay lập tức, trong 30 ngày. Tối 28/7, anh nhập viện trong tình trạng mắt và da bị tổn thương nặng. Tại bệnh viện, anh được chẩn đoán mắc chứng "dị ứng", mặc dù chẩn đoán này bị bác sĩ Anastasia Vasilieva, bác sĩ nhãn khoa, người trước đây điều trị cho Navalny, phản đối sau một vụ tấn công hóa học bởi một người biểu tình vào năm 2017. Vasilieva đặt câu hỏi về kết quả chẩn đoán và cho rằng khả năng tình trạng của Navalny là kết quả của "tác hại của các chất hóa học chưa được xác định". Vào ngày 29 tháng 7 năm 2019, Navalny được xuất viện và trở lại nhà tù, bất chấp sự phản đối của bác sĩ cá nhân của anh, người đã đặt câu hỏi về động cơ của bệnh viện. Những người ủng hộ Navalny và các nhà báo gần bệnh viện đã bị cảnh sát tấn công và nhiều người đã bị giam giữ.
Bỏ phiếu về sửa đổi hiến pháp 2020.
Navalny đã vận động chống lại cuộc bỏ phiếu về sửa đổi hiến pháp diễn ra vào ngày 1 tháng 7, gọi đây là một "cuộc đảo chính" và "vi phạm hiến pháp". Ông cũng nói rằng những thay đổi sẽ cho phép Tổng thống Putin trở thành " tổng thống trọn đời ". Sau khi kết quả được công bố, ông gọi chúng là một "lời nói dối lớn" mà không phản ánh được dư luận. Các cải cách bao gồm một sửa đổi cho phép Putin phục vụ thêm hai nhiệm kỳ nữa (đến năm 2036), sau khi nhiệm kỳ hiện tại của ông kết thúc.
Nghi ngờ ngộ độc.
Vào ngày 20 tháng 8 năm 2020, Navalny bị ốm trong chuyến bay từ Tomsk đến Moscow và phải nhập viện cấp cứu tại Bệnh viện Cấp cứu Thành phố Lâm sàng số 1 ở Omsk (), nơi máy bay đã hạ cánh khẩn cấp. Sự thay đổi tình trạng của anh ta trên máy bay là đột ngột và bạo lực, và đoạn video cho thấy các thành viên phi hành đoàn trên chuyến bay đang chạy về phía ông và Navalny kêu lớn trong đau đớn.
Sau đó, người phát ngôn của ông nói rằng Navalny đang hôn mê và đang thở máy trong bệnh viện. Cô ấy cũng nói rằng Navalny chỉ uống trà từ sáng và người ta nghi ngờ rằng có thứ gì đó đã được pha vào đồ uống của ông. Bệnh viện cho biết anh ta đang trong tình trạng ổn định nhưng nghiêm trọng, và sau khi thừa nhận ban đầu rằng Navalny có thể đã bị đầu độc, phó bác sĩ của bệnh viện nói với các phóng viên rằng ngộ độc là "một kịch bản trong số nhiều" đang được xem xét. Mặc dù ban đầu các bác sĩ cho rằng Navalny bị rối loạn chuyển hóa do lượng đường trong máu thấp, nhưng sau đó họ nói rằng Navalny rất có thể đã bị ngộ độc bởi thuốc chống loạn thần hoặc thuốc an thần kinh và các hóa chất công nghiệp như 2-ethylhexyl diphenyl phosphate đã được tìm thấy. Một bức ảnh trên mạng xã hội do một người hâm mộ chụp được cho thấy Navalny đang uống trà tại một quán cà phê ở sân bay Tomsk, nơi hãng thông tấn Interfax đưa tin rằng chủ quán cà phê đang kiểm tra đoạn phim CCTV để xem có bằng chứng nào không.
Đến chiều, vợ của Navalny, Yulia, đã đến bệnh viện từ Moscow. Cô mang theo bác sĩ riêng của Navalny, Anastasia Vasilyeva. Tuy nhiên, các nhà chức trách ban đầu từ chối cho phép họ vào phòng. Họ yêu cầu bằng chứng dưới hình thức một tờ giấy đăng ký kết hôn rằng Yulia thực sự là vợ của ông.
Một chiếc máy bay thuê do Tổ chức Điện ảnh vì Hòa bình chi trả đã được gửi từ Đức để sơ tán Navalny khỏi Omsk, Nga để điều trị tại Charité ở Berlin. Các bác sĩ điều trị cho anh ta ở Omsk ban đầu tuyên bố rằng ông quá ốm để được vận chuyển nhưng sau đó đã cho phép máy bay chở ông đi.
Bối cảnh.
Trong những ngày dẫn đến vụ đầu độc bị nghi ngờ, Navalny đã đăng video trên kênh YouTube của mình, trong đó anh bày tỏ sự ủng hộ đối với các cuộc biểu tình ở Belarus năm 2020, được kích hoạt bởi cuộc bầu cử tổng thống Belarus năm 2020 đầy tranh cãi. Navalny cũng đã viết rằng kiểu 'cách mạng' đang diễn ra ở nước láng giềng Belarus sẽ sớm xảy ra ở Nga. Trang tin tức địa phương "Tayga." "Thông tin" báo cáo rằng trong chuyến đi Siberia của mình, Navalny đã thực hiện một cuộc điều tra, cũng như gặp gỡ các ứng viên và tình nguyện viên địa phương. Khi được hỏi liệu anh ấy có đang chuẩn bị một cuộc triển lãm hay không, đồng minh của Navalny, Lyubov Sobol, nói: "Tôi không thể tiết lộ tất cả các chi tiết, nhưng Navalny đang đi công tác. Anh ấy không đến đây để nghỉ mát".
Người ta cho rằng Navalny bị đầu độc trong một cuộc tấn công có động cơ chính trị là 'sự trừng phạt' cho công việc đối lập của ông ta. Những người Nga nổi bật khác bao gồm các nhà hoạt động, nhà báo và cựu điệp viên đã phải hứng chịu các vụ tấn công bằng đầu độc trong những thập kỷ gần đây như Alexander Litvinenko năm 2006 và Sergei Skripal năm 2018, cả hai đều ở Vương quốc Anh. Trong trường hợp trước đây, chất độc được sử dụng bằng cách cho vào trà của Litvinenko. Các nhà chức trách Anh đổ lỗi cho cả hai cuộc tấn công nhằm vào các cơ quan tình báo Nga và một cuộc điều tra kết luận rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin "có lẽ" đã chấp thuận việc giết Litvinenko. Nhà báo và nhà vận động nhân quyền Anna Politkovskaya, nổi tiếng với những lời chỉ trích về Putin và Chiến tranh Chechnya lần thứ hai, đã ngã bệnh trong một chuyến bay tới bao vây trường học Beslan vào năm 2004 sau khi uống trà trong một vụ đầu độc rõ ràng. Sau đó cô bị ám sát vào năm 2006. Điện Kremlin phủ nhận liên quan đến các cuộc tấn công như vậy.
Theo nhà hoạt động Ilya Chumakov, người đã gặp Navalny cùng với những người ủng hộ khác một ngày trước chuyến bay của anh ta, khi Navalny được hỏi tại sao anh ta không chết, anh ta nói rằng cái chết của anh ta sẽ không có lợi cho Putin và nó sẽ biến anh ta thành một anh hùng.
Phản ứng.
Người phát ngôn Điện Kremlin Dmitry Peskov cho biết Điện Kremlin mong Navalny hồi phục nhanh chóng và cơ quan thực thi pháp luật sẽ mở cuộc điều tra nếu có xác nhận về vụ đầu độc. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố rằng Pháp sẵn sàng cung cấp "mọi hỗ trợ cần thiết... về chăm sóc sức khỏe, tị nạn, bảo vệ" cho Navalny và gia đình anh ta và yêu cầu làm rõ tình hình xung quanh vụ việc. Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng đề nghị hỗ trợ y tế cần thiết tại các bệnh viện Đức. Tổ chức Ân xá Quốc tế kêu gọi một cuộc điều tra về cáo buộc đầu độc. | 1 | null |
là một nữ diễn viên, người mẫu kiêm thần tượng áo tắm người Nhật Bản. Cô hiện là thành viên trực thuộc công ty Box Corporation.
Sự nghiệp.
Năm 2008, vai diễn đầu tiên của cô là Saki Rōyama / Go-on Yellow trong loạt phim "Engine Sentai Go-onger". Theo trang Oricon Style, cô xếp ở vị trí 249 trong tổng số 422.001 người.
Cô được chọn làm người hỗ trợ quản lý cho Giải đấu bóng đá giữa các trường trung học Nhật Bản lần thứ 87. Những người quản lý trước đây là những thần tượng như Maki Horikita, Yui Aragaki, và Kie Kitano. | 1 | null |
Các vườn quốc gia tại Tây Ban Nha được xác định theo Luật Tây Ban Nha 41/1997 - được thành lập như một mô hình mới về quản lý chia sẻ giữa Nhà nước và Chính quyền của các khu vực. Mỗi một địa điểm được gắn với một trang web tương ứng của Bộ Môi trường Tây Ban Nha. | 1 | null |
Vườn quốc gia Ordesa y Monte Perdido là một vườn quốc gia IUCN Loại II nằm trong dãy núi Pyrénées của tỉnh Huesca, Aragon, Tây Ban Nha. Trước đây, nơi đây đã được thành lập vườn quốc gia Thung lũng Ordesa từ năm 1918. Khu vực bảo vệ của nó đã được mở rộng vào năm 1982 bao trùm toàn bộ khu vực lên tới 156,08 km ².
Vườn quốc gia này bao gồm một khu vực được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển từ năm 1997 với tên gọi Khu dự trữ sinh quyển Ordesa-Viñamala. Trong cùng năm đó, vườn quốc gia cũng đã trở thành một phần của di sản thế giới xuyên quốc gia, Pyrénées-Mont Perdu .
Lãnh thổ của vườn quốc gia cũng bao gồm các đô thị Torla, Broto, Fanlo, Tella-Sin, Puértolas và Bielsa.
Thực vật.
Ở độ cao từ 1.500-1.700 mét, có những khu rừng rộng lớn các loài sồi (loài "Fagus sylvatica"), "Abies alba", thông ("Pinus sylvestris"), sồi ("Quercus subpyrenaica"), và một mức độ ít hơn của các loài Bạch dương ("Betula pendula"), tro ("Fraxinus excelsior"), liễu ("Salix angustifolia"). Ở độ cao trên 2.000 m, thông núi ("Pinus uncinata") chiếm ưu thế hơn cả. Ngoài ra, ở độ cao trên 1.800 m, cây bụi của gỗ hoàng dương ("Buxus sempervirens") được tìm thấy. Trong các đồng cỏ núi cao từ 1.700 đến 3.000 mét, có rất nhiều các loài thực vật đặc hữu bao gồm "Borderea pyrenaica","Campanula cochleariifolia", "Violet Pyrenean", "Silene borderei", "Androsace cylindrica", "Pinguicula longifolia", "Petrocoptis crassifolia", và Hoa nhung tuyết ("Leontopodium alpinum"), là một trong những biểu tượng của Vườn quốc gia.
Động vật.
Loài quan trọng nhất của vườn quốc gia là Dê núi Pyrenean, nhưng chúng đã bị tuyệt chủng trong tháng 1 năm 2000 bất chấp những nỗ lực bảo tồn. Vườn quốc gia còn có loài "Rupicapra pyrenaica" là một loài dê núi đá sừng nhcùng nhiều loài khác như sóc, heo rừng và chuột nước Pyrenean, và các loài chim lớn như đại bàng vàng, kền kền râu, kền kền Gyps, diều hâu, và cú hoàng gia.
Tình trạng.
Diện tích 21 km vuông bao trùm Thung lũng Ordesa được công nhận là vườn quốc gia vào ngày 16 tháng 8 năm 1918 bởi một Nghị định Hoàng gia. Ngày 13 tháng 7 năm 1982, nó đã được mở rộng như diện tích hiện tại là 156,08 km ² với tên chính thức là Vườn quốc gia Ordesa y Monte Perdido, một phần của Di sản thế giới của UNESCO. | 1 | null |
, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1987, là một cựu ca sĩ nhạc pop Nhật Bản, hiện đang là người dẫn chương trình truyền hình cho TV Tokyo. Cô được biết đến với vai trò là cựu thành viên thế hệ thứ năm của nhóm nhạc Morning Musume. Cô gia nhập nhóm vào tháng 8 năm 2001, cùng với các thành viên thế hệ thứ năm khác như Ai Takahashi, Makoto Ogawa và Risa Niigaki. | 1 | null |
Người Việt tại Séc là một cộng đồng dân tộc thiểu số hiện đang sinh sống tại Cộng hòa Séc. Hiện nay (năm 2013), có khoảng 65.000 người Việt Nam đang sinh sống hợp pháp tại quốc gia Trung Âu này.
Lịch sử.
Theo điều tra dân số năm 2001, số người có quốc tịch Việt Nam tại Cộng hòa Séc là 18.200. Con số này đã tăng lên thành 53.110 vào năm 2011, trở thành số người ngoại quốc đứng thứ ba tại nước này, chỉ sau Ukraina và Slovakia. Cộng đồng người gốc Á lớn nhất tại Cộng hòa Séc là người Việt Nam. Người Việt Nam đến Tiệp Khắc lần đầu vào năm 1956 để du học theo thỏa thuận về giáo dục giữa hai chính phủ cộng sản lúc bấy giờ. Số người Việt Nam nhập cư vào Cộng hòa Séc tăng nhanh cho đến khi chế độ xã hội chủ nghĩa tại nước này sụp đổ vào năm 1989. Thế hệ đầu tiên của người Việt Nam tại đây chủ yếu kinh doanh trong những cửa hàng nhỏ, còn thế hệ người Việt tiếp theo sinh ra tại Séc nổi tiếng với thành tích học tập rất tốt.
Mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Séc và Việt Nam được duy trì và phát triển từ mối quan hệ giữa Tiệp Khắc và Việt Nam (thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 2 tháng 2 năm 1950) .
Hòa nhập.
Ngày 3 tháng 7 năm 2013, chính phủ Séc đã mở rộng Hội đồng Dân tộc Thiểu số Quốc gia, bổ sung thêm đại diện của cộng đồng người Việt. Đại diện cho người Việt Nam Tại Séc hiện nay là Phạm Hữu Uyển, thuộc Hội Công dân Văn Lang, Và Đỗ Xuân Đông hiện là Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Cộng hòa Séc.
Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Séc vào năm 2016 là Hoàng Đình Thắng. Cơ sở thương mại chính đối với cộng đồng người Việt là Trung tâm thương mại Sapa Praha, thành lập từ năm 1999, thường gọi là "chợ Sapa" ở Praha 4, cách trung tâm thành phố khoảng 10 cây số. Nơi đây có siêu thị thực phẩm, hàng quán và cả trường mầm non.
Với quy chế là một dân tộc thiểu số, cộng đồng người Việt tại Séc sẽ có điều kiện và được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách để phát triển về văn hóa, truyền thống và đặc biệt là ngôn ngữ của dân tộc mình. Tại các địa phương có nhiều người Việt Nam sinh sống, trẻ em có thể được học kiến thức bằng tiếng Việt.
Quy chế này cũng đảm bảo cho người Việt Nam quyền sử dụng tiếng Việt tại công sở cũng như tòa án. Ngoài ra, cộng đồng người Việt Nam tại Séc có thể thành lập chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng Việt. Cộng đồng người Việt tại Séc là dân tộc thứ 14 tại Séc.
Tội phạm.
Ngày 17 tháng 11 năm 2008 đại sứ quán Cộng hòa Séc tại Hà Nội cho biết, sẽ tạm thời không cấp visa cho công dân Việt Nam giữa lúc có quan ngại về tình trạng tội phạm người Việt tại Séc. Đài phát thanh Praha đưa tin, việc ngưng cấp visa du lịch này sẽ kéo dài ít nhất tới cuối năm nay. Theo thông tấn xã CTK của Czech, bộ trưởng Nội vụ Cộng hòa Séc nói rằng người Việt sống tại nước ông "gây nhiều vụ tội phạm nghiêm trọng".. Ngày 3 tháng 3 2009, bộ Ngoại giao CH Czech thông báo sứ quán nước này tại Hà Nội đã mở lại dịch vụ cấp visa cho công dân Việt Nam.
Tháng 4 năm 2013, chính phủ Cộng hòa Séc ký thỏa thuận song phương với chính phủ Việt Nam về việc phối hợp công an Việt Nam và Cảnh sát Séc để đối phó với băng đảng tội phạm ma túy người Việt ở Séc; trong đó những người bị kết án sẽ bị giải về Việt Nam để lãnh án. Theo thông tin của bộ trưởng bộ Nội vụ Chovanec việc chế tạo ma túy hóa học Crystal Meth chủ yếu là do các băng đảng Việt Nam. Mặc dù Việt Nam có hứa giúp đỡ để phá vỡ cấu trúc của các băng đảng này, nhưng cho tới giờ (tháng 10/2015) họ vẫn chưa giữ lời.
Cộng hòa Czech đã thông báo ngừng nhận đơn xin thị thực của lao động Việt. Bộ Ngoại giao Czech cho hay quyết định trên được áp dụng cho các đơn xin thị thực dài hạn nhằm mục đích lao động hoặc kinh doanh từ ngày 18/7/2018. Ông Jan Hamacek, Bộ trưởng Nội vụ kiêm quyền Ngoại trưởng Czech, cho biết biện pháp trên được thực thi do "số lượng đơn xin thị thực quá lớn khiến cơ quan ngoại giao Czech tại Hà Nội bị quá tải và cũng do những nguy cơ mà Hội đồng An ninh Quốc gia Czech đã thảo luận gần đây". Hồi tháng 6, ông Lubomir Zaoralek, chủ tịch ủy ban đối ngoại Hạ viện Czech, từng nhận định "Việt Nam đang trở thành mối nguy cơ hàng đầu về an ninh" với quốc gia này. Ông nói rằng người Việt chiếm một phần lớn tỷ lệ tội phạm có tổ chức ở Czech.. | 1 | null |
Vương tử Carl Christian von Hohenzollern (tiếng Đức: "Carl Christian Friedrich Johannes Meinrad Maria Hubertus Edmund Prinz von Hohenzollern" ; sinh ngày 5 tháng 4 năm 1962) là một quý tộc Đức - Thụy Điển, thành viên vương tộc Hohenzollern và vương tộc Bernadotte. Ông là con trai cả của Vương tử Johann Georg von Hohenzollern và Công chúa Thụy Điển Birgitta - em gái của vua Carl XVI Gustaf của Thụy Điển.
Cuộc sống.
Vương tử Carl Christian sinh ra ở Munich, Bavaria, Đức.
Năm 1999, ông kết hôn với Nicole Helene Neschitsch (sinh ngày 22 tháng 1 năm 1968 tại Munich). Đám cưới dân sự của họ đã được tổ chức ngày 08 tháng 07 năm 1999 tại Munich. Đám cưới tôn giáo của họ đã được tổ chức ngày 26 tháng 07 năm 1999 tại Kreuzpullach. Họ có với nhau một đứa con:
Thân vương Carl Christian sống tại Munich. Ông làm việc cho Tập đoàn ARRI, một nhà sản xuất hàng đầu thế giới và phân phối các hình ảnh chuyển động phòng thu ánh sáng, máy chiếu, và máy ảnh.
Ông là khách mời tại đám cưới năm 2010 của Công chúa Victoria của Thụy Điển, và Daniel Westling. | 1 | null |
Thân vương tử Johann Georg xứ Hohenzollern (tên đầy đủ "Johann Georg Carl Leopold Eitel-Friedrich Meinrad Maria Hubertus Michael Prinz von Hohenzollern"; sinh ngày 31 tháng 07 năm 1932 tại Schloss Sigmaringen, Đức) một hậu duệ quý tộc Đức, thành viên vương tộc Hohenzollern. Ông kết hôn với Birgitta của Thụy Điển, là anh rể của vua Carl XVI Gustaf của Thụy Điển.
Vương tử Johann Georg là con thứ sáu của Vương tử Frederick von Hohenzollern (sinh tại Heiligendamm ngày 30 tháng 08 năm 1891 - mất tại Krauchenwies ngày 06 tháng 02 năm 1965) và Vương nữ Margarete Karola von Sachsen (sinh tại Dresden ngày 24 tháng 1 năm 1900 - mất tại Freiburg im Breisgau ngày 16 tháng 10 năm 1962). Ông là cháu ngoại của vị Quốc vương cuối cùng của Sachsen: Friedrich August III
Hôn nhân.
Johann George gặp Vương nữ Birgitta, em gái của nhà vua hiện tại của Thụy Điển Carl XVI Gustaf vào năm 1959 tại một bữa tiệc cocktail trong khi đi thăm bạn bè và người thân ở Đức.
Ngày 15 tháng 12 năm 1960, cuộc hôn nhân của họ đã được công bố tại Cung điện Hoàng gia Stockholm. Lễ cưới dân sự đã diễn ra tại Cung điện Hoàng gia Stockholm ngày 25 tháng 05 năm 1961, và lễ cưới tôn giáo được tổ chức tại cung điện của gia đình của chú rể ở Sigmarigen ngày 31 tháng 07 năm 1961.
Vương tử Johann Georg và công chúa Birgitta không ở chung với nhau nữa vào năm 1990, mặc dù họ vẫn là vợ chồng hợp pháp và vẫn tham dự các sự kiện gia đình hoàng gia Thụy Điển với nhau, bao gồm cả đám cưới năm 2010 của Công chúa Victoria của Thụy Điển. Họ kỷ niệm đám cưới vàng vào năm 2011. | 1 | null |
Christopher Froome (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1985) là một cua-rơ chuyên nghiệp người Anh sinh ra ở Kenya, người đang chơi cho UCI Proteam Israel – Premier Tech. Sinh ở Kenya và lớn lên ở Nam Phi, kể từ mùa xuân năm 2008, anh đã thi đấu dưới giấy phép Vương quốc Anh trên cơ sở hộ chiếu của mình và đất nước của cha và ông bà sinh ra.
Năm 2007 Froome chuyển sang chuyên nghiệp ở tuổi 22 với đội Konica Minolta. Anh chuyển đến châu Âu để tiếp tục sự nghiệp của mình, tham gia vào nhóm đóng ở Anh, . Năm 2010 anh chuyển sang chơi cho và anh đã trở thành một trong những tay đua xe đạp quan trọng của đội. Froome thực hiện bước đột phá của mình như là một ứng cử viên Grand Tour trong 2011 Vuelta a España nơi anh xếp thứ nhì tổng thể.
Trong cuộc đua 2012 Tour de France, anh thi đấu như một domestique cho Bradley Wiggins, trong chặng leo núi tính giờ từ Embrun đi Chorges dài 32 km, Froome đã cán đích đầu tiên với thành tích 51’33", nhanh hơn người thứ nhì Contador 9 giây và tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng tổng cá nhân dành các tay đua với tổng thời gian đua là 66h7’9", hơn chính Contador xếp thứ 2 là 4’34".
Đây là chức vô địch chặng thứ ba của Froome ở Tour de France năm nay sau 2 lần về nhất ở các chặng leo núi thứ 8 và 15. Với chiến thắng ở chặng 17 này, cua rơ người Anh của đội Sky cũng chiếm luôn áo chấm đỏ dành cho "Vua leo núi". Anh hiện có 88 điểm, xếp trên người thứ hai là Quintana Rojas của đội Movistar với 69 điểm. | 1 | null |
Cá kính, còn gọi là cá trê kính, cá thủy tinh (danh pháp khoa học: Kryptopterus vitreolus) là một loài cá của chi "Kryptopterus".
Loài cá nheo này thường được thấy trong buôn bán cá cảnh nước ngọt, nhưng cho tới gần đây thì phân loại của nó lại lộn xộn gây nhầm lẫn và chỉ được giải quyết trọn vẹn vào năm 2013. Nó là loài cá đặc hữu của Thái Lan, chỉ được tìm thấy tại các con sông ở phía nam eo đất Kra và đổ vào vịnh Thái Lan cùng các lưu vực sông trong dãy núi Cardamom. Cũng có báo cáo chưa được xác nhận về sự hiện diện của loài này tại Penang ở Malaysia.
Cho tới năm 1989, người ta cho nó là "Kryptopterus bicirrhis", một loài to lớn hơn nhưng hiếm khi nhìn thấy trong buôn bán cá cảnh. Sau đó, khi danh pháp "Kryptopterus minor" được đặt ra năm 1989 thì người ta lại cho rằng cá kính thường thấy trong buôn bán cá cảnh là "K. minor", nhưng tới năm 2013 người ta đã xác định được là các mẫu vật bể cảnh trên thực tế là loài khác hẳn, và được miêu tả như là "K. vitreolus". Loài "K. minor" thật sự thì chỉ hạn chế trong khu vực miền tây Borneo và cũng rất hiếm khi được buôn bán làm cá cảnh.
Mô tả.
Loài cá da trơn nước ngọt trong suốt này có 2 râu dài. Chiều dài tiêu chuẩn có thể đạt , nhưng chiều dài tổng cộng thường chỉ khoảng . Chúng trong suốt là do chúng không có vảy (như các loài cá da trơn khác) và thiếu các sắc tố ở phần thân (chỉ thấy ở "Kryptopterus"). Phần lớn các cơ quan nội tạng nằm ở gần đầu; với kính lúp người ta có thể nhìn thấy tim của nó đang đập. Khi chiếu sáng với góc chiếu phù hợp thì nó có thể tạo ra màu sắc cầu vồng óng ánh. Sau khi chết, nó chuyển thành màu trắng sữa. Tên khoa học "vitreolus" có nguồn gốc từ tiếng Latinh "vitreus" nghĩa là kính hay thủy tinh. Trong số các loài đã miêu tả của chi "Kryptopterus" thì chỉ hai loài "K. minor" và "K. piperatus" là có phần cơ thể trong suốt nhưng cả hai loài này gần như không xuất hiện trong buôn bán cá cảnh. Phần thân của các loài khác, bao gồm cả "K. bicirrhis", chỉ hơi trong mờ hay mờ đục.
Tia mềm vây lưng: 32; tia mềm vây hậu môn: 48 - 55; đốt sống: 44 - 47. Loài này khác các thành viên của các nhóm loài "K. cryptopterus", "K. limpok", "K. schilbeides" ở chỗ nó có 48-55 tia mềm vây hậu môn, trong khi các loài kia có 64-85 tia mềm. Nó được chẩn đoán từ các thành viên khác của nhóm loài "K. bicirrhis" (gồm "K. bicirrhis", "K. lais", "K. macrocephalus", "K. minor", "K. palembangensis" và "K. piperatus") là có sự kết hợp của các đặc trưng sau: chiều dài mõm 29-35% chiều dài đầu (HL), đường kính mắt 28-34% HL, chiều cao thân tại hậu môn 16-20% chiều dài tiêu chuẩn (SL), chiều cao cuống đuôi 4-7% SL, các râu hàm trên có thể vượt qua gốc của tia mềm thứ nhất vây hậu môn, tiết diện lưng với độ lõm gáy rõ nét, 14-18 lược mang trên cung mang thứ nhất, và 48-55 tia mềm vây hậu môn.
Sinh thái học.
Loài cá này sinh sống tại các con sông nước đục, chảy chậm hoặc nước lặng. Chúng thích nghi với môi trường có nhiệt độ khoảng 21-26 °C (70-79 °F). Cá kính là một loài săn mồi ban ngày và chủ yếu ăn bọ nước và thỉnh thoảng là cá nhỏ hơn. | 1 | null |
Kryptopterus bicirrhis, trong các tài liệu liên quan tới buôn bán cá cảnh trước đây thường được coi là danh pháp khoa học của cá thủy tinh (còn gọi là cá trê kính hoặc cá kính), là một loài cá của chi "Kryptopterus".
Cho đến năm 1989, khái niệm loài "K. bicirrhis" bao gồm cả một loài cá họ hàng có kích thước nhỏ hơn, mà tới năm 2013 mới được định danh lại là "Kryptopterus vitreolus" (cá kính/cá thủy tinh trong buôn bán cá cảnh, trong giai đoạn sau năm 1989 thì loài cá cảnh này lại bị coi nhầm lẫn là "K. minor").
Tên khoa học "K. bicirrhis" và tên gọi thông thường cá kính, cá thủy tinh thường được sử dụng trong buôn bán cá cảnh để chỉ tới loài mới được định danh lại là "K. vitreolus"; còn trong thực tế thì loài "K. bicirrhis" thật sự có kích thước lớn hơn và cũng hung hãn hơn và chỉ được dùng làm cá cảnh với số lượng không đáng kể.
Ở vùng phía Tây Borneo, nơi 2 loài "K. minor" và "K. bicirrhis" cùng có mặt thì chúng được gọi chung là "lais tipis" trong tiếng Mã Lai/tiếng Indonesia, nhưng khi người dân địa phương muốn phân biệt hai loài thì họ gọi "K. minor" là "lais kaca" và "K. bicirrhis" là "lais limpok".
Mô tả.
Sự khác biệt chính của cá kính với "K. bicirrhis" là vây hậu môn của "K. bicirrhis" có 55-68 tia mềm. "K. bicirrhis" cũng to lớn hơn – nó dài tới 15 cm (5,9 in). Phần lớn cơ thể của nó không trong suốt (chỉ rõ nét ở phần xung quanh đầu). Cơ thể của "K. bicirrhis" chủ yếu là mờ đục và hơi xám nhạt.
Khi chiếu sáng với góc chiếu phù hợp thì nó có thể tạo ra màu sắc cầu vồng óng ánh. Sau khi chết, nó chuyển thành màu trắng sữa.
"K. bicirrhis" cũng có hai sợi râu dài, khi xếp dọc theo thân thì dài tới vây hậu môn. Các vây lưng bị tiêu giảm thành một hình tam giác nhỏ, và vây ngực dài hơn so với đầu.
Sinh thái học.
"K. minor" và "K. bicirrhis" khá phổ biến ở vùng Tây Borneo. Ngoài ra, "K. bicirrhis" còn sinh sống ở một phạm vi rộng lớn hơn, bao gồm toàn bộ đảo Borneo, Sumatra, bán đảo Mã Lai và các lưu vực sông Chao Phraya và Mekong.
Loài cá này sinh sống tại các con sông lớn và nước đục; ưa thích nước chảy nhanh và thường sống gần bờ. Chúng thích nghi với môi trường có nhiệt độ khoảng 21-26 °C (70-79 °F). Là một loài săn mồi ban ngày và chủ yếu ăn bọ nước và thỉnh thoảng là cá nhỏ hơn. | 1 | null |
Dương Tôn Bảo (chữ Hán: 楊宗保), còn được viết là Dương Tông Bảo, là một nhân vật trong giai thoại Dương gia tướng thời Bắc Tống.
Lịch sử có tồn tại?
Theo Tống sử ghi nhận lại thì đời thứ ba của Dương gia tướng có danh tướng Dương Tông Bảo là con trai thứ ba của Dương Diên Chiêu. Một tài liệu khác đương thời là Long Bình tập cũng chi ghi nhận Văn Quảng là con Diên Chiêu mà không ghi nhận tên Dương Tôn Bảo hoặc tên 2 người con trai còn lại của Diên Chiêu.
Tuy nhiên, trong 2 quyển thần phả sưu tầm được ở huyện Đại và Nguyên Bình đều có ghi nhận Dương Tôn Bảo là một trong 3 người con trai của Dương Diên Chiêu. Trên một bia đá tìm thấy được ở Tân An, có ghi chép chi tiết Dương Tôn Bảo là cháu nội gái (chứ không phải là cháu nội trai) của Dương Nghiệp.
Giai thoại dân gian.
Theo giai thoại dân gian thì Dương Tôn Bảo là con trai của Dương Diên Chiêu và Sài Văn Ý, cháu nội của Dương Nghiệp và Xà Thái Hoa, vợ là Mộc Quế Anh cùng 2 người con là Dương Văn Quảng và Dương Kim Hoa (楊金花). Trong một lần chiến đấu với giặc Tây Hạ xâm lược biên cương nhà Tống, ông và cha Dương Diên Chiêu đã bị Bàng Thái Sư (Bàng Tịch) và thuộc hạ là Trương Hữu dùng gian kế thâm độc khiến cho cả hai người đều bị quân lính do tướng Tây Hạ là Lý Hán Kiệt chỉ huy vây hãm và giết chết tại thành Khai Châu. Ông sau đó đã được hoàng đế Tống Nhân Tông truy phong là Hộ Quốc đại tướng quân kiêm Dũng Liệt hầu. | 1 | null |
Tỉnh đến năm 2022, tỉnh Khánh Hòa hiện có 189 tòa nhà đã hoàn thành (bao gồm 35 tòa nhà chọc trời cao trên 100 mét và 154 tòa nhà cao tầng). Tòa nhà cao nhất tỉnh là Mường Thanh Luxury Nha Trang cao 166,1 mét. Cao thứ 2 và 3 là tháp đôi Gold Coast Nha Trang cao 157,3 mét. Cao thứ 4 là Panorama Nha Trang cao 156,6 mét và Khách sạn Vinpearl Condotel Beachfront cao 156,15 mét là tòa nhà cao thứ 5.
Hầu hết các tòa nhà chọc trời của tỉnh Khánh Hòa đều tập trung tại ven biển và khu vực trung tâm thành phố Nha Trang. Tính đến hiện tại toàn tỉnh có 9 tòa nhà cao trên 150 mét.
Tòa nhà đã hoàn thành.
Dưới đây là danh sách tất cả các tòa nhà tại tỉnh Khánh Hòa đã hoàn thành có chiều cao trên 70 m. | 1 | null |
Báo Ba Tư (Danh pháp khoa học: "Panthera pardus ciscaucasica" tên đồng nghĩa "Panthera pardus saxicolor"), hay còn gọi là Báo Caucasian là một trong những phân loài báo có kích thước lớn nhất trong các loài báo hoa mai với trọng lượng cơ thể lên đến 90 kg. Báo Ba Tư từng được coi là quái vật ngự trị khu vực Tây Nam dãy núi Caucasus ở Nga và khu vực phía Nam biển Caspian. Hiện nay chúng đang phân bố tại Đông Bắc Iran, Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ, Núi Kavkaz, Đông Nam Turkmenistan, và một phần phía Tây Bắc của Afghanistan.
Số lượng.
Hiện nay tổng cộng cả thảy có khoảng 871 đến 1,290 cá thể còn sinh sống. do nạn săn bắn và bị mất đi môi trường sống, báo Ba Tư đã bị liệt vào danh sách các loài động vật gặp nguy hiểm, chỉ với khoảng 1.290 cá thể được cho là còn sống trong môi trường tự nhiên. Do đó đây là một loài động vật cực kỳ quý hiếm. Số lượng phân bố của các con báo Ba Tư trên thế giới như sau | 1 | null |
Catherine Élise "Cate" Blanchett (sinh ngày 14 tháng 5 năm 1969) là một nữ diễn viên điện ảnh người Úc. Cô đã từng nhận rất nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood, 3 giải Screen Actors Guild, 3 giải Quả cầu vàng, 3 giải BAFTA và 2 giải Oscar.
Blanchett được công chúng thế giới biết tới qua vai diễn nữ hoàng Elizabeth I của Anh trong bộ phim "Elizabeth" vào năm 1998 mà nhờ đó cô nhận được cú đúp tại BAFTA và Quả cầu vàng, cùng với đó là đề cử Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Sau đó, cô vào vai nàng tiên Galadriel trong siêu phẩm "The Lord of the Rings" của đạo diễn Peter Jackson. Năm 2004, vai diễn Katharine Hepburn trong bộ phim "The Aviator" của đạo diễn Martin Scorsese đã giúp cô chinh phục hầu hết các giải thưởng danh giá nhất, trong đó có cả Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất.
Blanchett còn tham gia vào khá nhiều bộ phim đình đám khác như "Babel" (2006), "Notes on a Scandal" (2006), "Indiana Jones and the Kingdom of the Crystal Skull" (2008), và "The Curious Case of Benjamin Button" (2008). Từ năm 2004, cô tiếp tục cộng tác với đạo diễn Peter Jackson cho loạt phim "The Hobbit". Năm 2014, cô giành Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho bộ phim "Blue Jasmine" (2013) tại Giải Oscar lần thứ 86.
Đầu đời và giáo dục.
Catherine Elise Blanchett sinh ngày 14 tháng 5 năm 1969 tại vùng ngoại ô Ivanhoe của Melbourne. Mẹ của cô ấy người Úc, June Gamble,làm việc như một nhà phát triển bất động sản và giáo viên, và cha người Mỹ của cô, Robert DeWitt Blanchett Jr., người gốc Texas, là một Hải quân Hoa Kỳ Chief Petty Officer, người sau này làm giám đốc điều hành quảng cáo . Hai người gặp nhau khi con tàu của Robert bị hỏng ở Melbourne. Khi Blanchett lên 10, cha cô qua đời vì một cơn đau tim, để lại mẹ cô phải một mình nuôi nấng gia đình. Cô là con thứ hai trong ba người con, sau anh trai Bob (sinh năm 1968) và trước chị gái Genevieve (sinh năm 1971) Tổ tiên của cô bao gồm người Anh, một số người Scotland và gốc Pháp xa xôi.
Cô học tiểu học ở Melbourne tại trường tiểu học Ivanhoe East; để học trung học, cô theo học Trường ngữ pháp nữ sinh Ivanhoe và sau đó là Methodist Ladies' College, nơi cô khám phá niềm đam mê của mình đối với nghệ thuật biểu diễn.
Ở cuối tuổi thiếu niên và đầu đôi mươi, cô ấy đã làm việc tại một viện dưỡng lão ở Victoria. Cô học kinh tế và mỹ thuật tại Đại học Melbourne nhưng đã bỏ học sau một năm để đi du lịch nước ngoài. Trong khi ở Ai Cập, Blanchett được yêu cầu trở thành một hoạt náo viên của Mỹ, như một người phụ trong Egyptian phim quyền anh, " Kaboria "; trong lúc đang cần tiền, cô ấy nhận lời. Khi trở về Úc, và sau khi làm việc tại các nhà hát nhỏ của Melbourne, bao gồm La Mama, cô chuyển đến Sydney và ghi danh vào National Institute of Dramatic Art (NIDA ). Cô tốt nghiệp NIDA năm 1992 với bằng Cử nhân Mỹ thuật.
Sự nghiệp diễn xuất.
1992–2000: Công việc ban đầu và bước đột phá quốc tế.
Vai diễn đầu tiên của Blanchett là đóng cùng với với Geoffrey Rush, trong vở kịch "Oleanna" của David Mamet năm 1992 cho Sydney Theater Company. Năm đó, cô cũng được chọn vào vai Clytemnestra trong bộ phim "Sophocles 'Electra". Vài tuần sau khi diễn tập, nữ diễn viên thủ vai chính đã rút lui và đạo diễn Lindy Davies đã chọn Blanchett vào vai này. Màn trình diễn của cô ấy với tư cách Electra đã trở thành một trong những màn trình diễn được hoan nghênh nhất của cô ấy tại NIDA. Năm 1993, Blanchett được trao Giải thưởng Người mới xuất sắc nhất của Nhà phê bình Nhà hát Sydney cho màn trình diễn của cô trong vở "Kafka Dances" của Timothy Dalyvà giành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho màn trình diễn của cô trong Mamet's "Oleanna", khiến cô trở thành diễn viên đầu tiên chiến thắng cả hai hạng mục trong cùng một năm. Blanchett đóng vai Ophelia trong bộ phim Công ty B sản xuất năm 1994–1995 nổi tiếng của đạo diễn Neil Armfield, với sự tham gia của Rush và Richard Roxburgh, và được đề cử giải Green Room. Cô xuất hiện trong miniseries truyền hình "Heartland" năm 1994 cùng với Ernie Dingo, miniseries "Bordertown" (1995) với Hugo Weaving và trong một tập phim "Police Rescue" mang tên "The Loaded Boy". Cô cũng xuất hiện trong bộ phim truyền hình ngắn 50 phút "Parklands" (1996), nhận được đề cử của Viện phim Úc (AFI) cho Kịch bản gốc hay nhất.
Blanchett ra mắt bộ phim điện ảnh với vai phụ là một y tá Úc bị quân đội Nhật Bản bắt giữ trong Thế chiến thứ hai, trong bộ phim "Paradise Road" (1997) của Bruce Beresford , đóng cùng Glenn Close và Frances McDormand. Bộ phim chỉ thu về hơn 2 triệu đô la tại phòng vé với kinh phí 19 triệu đô la và nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình. Vai chính đầu tiên của cô đến vào cuối năm đó là người thừa kế lập dị Lucinda Leplastrier trong bộ phim lãng mạn "Oscar và Lucinda" (1997) của Gillian Armstrong, đối diện với Ralph Fiennes. Blanchett đã nhận được sự hoan nghênh rộng rãi cho màn trình diễn của cô, với Emanuel Levy của "Variety" tuyên bố, "người mới sáng chói Blanchett, trong vai trò ban đầu dành cho Judy Davis, nhất định sẽ trở thành một ngôi sao lớn". Cô nhận được đề cử Giải AFI đầu tiên với tư cách Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho "Oscar và Lucinda". Cô giành được giải thưởng Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất AFI trong cùng năm với vai chính Lizzie trong bộ phim hài lãng mạn "Thank God He Met Lizzie" (1997), đóng cùng Richard Roxburgh và Frances O'Connor. Đến năm 1997, Blanchett đã nhận được nhiều lời khen ngợi và sự công nhận tại quê hương Úc của cô.
Vai diễn quốc tế nổi tiếng đầu tiên của Blanchett là Elizabeth I trẻ tuổi của Anh trong bộ phim lịch sử được giới phê bình đánh giá cao "Elizabeth" (1998), do Shekhar Kapur đạo diễn. Bộ phim đã đưa cô trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới và màn trình diễn của cô đã được công nhận rộng rãi, mang về cho cô giải Quả cầu vàng và Giải thưởng Viện hàn lâm Anh (BAFTA), và đề cử giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (SAG ). Trong bài đánh giá của anh ấy cho "Variety", nhà phê bình David Rooney đã viết về màn trình diễn của cô ấy, "Blanchett truyền tải với vẻ duyên dáng, đĩnh đạc và thông minh rằng Elizabeth là một nhà tư tưởng thông minh, quyết đoán, tiên tiến, quá hiểu rõ bản chất đặc biệt của mình để cúi đầu trước bất kỳ người đàn ông nào. [Cô ấy] xây dựng nhân vật ngon lành gần như không thể nhận ra từ một phụ nữ trẻ thông minh nhưng cảnh giác, người có thể vượt quá giới hạn để trở thành một sinh vật mạnh mẽ do chính cô ấy sáng chế ra." Janet Maslin của "The New York Times" viết rằng màn trình diễn của Blanchett "mang lại tinh thần, vẻ đẹp và chất riêng cho những gì có thể đã bị biến thành một vai trống", và Alicia Potter viết cho "Boston Phoenix" nói rằng, "Cuối cùng, viên ngọc quý của Kapur là một câu chuyện về sự biến đổi sinh đôi, đó là Elizabeth trở thành một trong những người phụ nữ bí ẩn và quyền lực nhất lịch sử, và Blanchett trở thành một nữ hoàng màn ảnh chân chính."
Năm sau, Blanchett xuất hiện trong "Bangers" (1999), một bộ phim ngắn của Úc và một phần của "Stories of Lost Souls", một tập truyện ngắn có chủ đề. Bộ phim ngắn do chồng cô, Andrew Upton viết kịch bản và đạo diễn, Blanchett và Upton sản xuất. Cô cũng xuất hiện trong bộ phim hài "Pushing Tin" (1999) của Mike Newell, với màn trình diễn của cô được các nhà phê bình đánh giá cao, và bộ phim thành công về mặt tài chính và được đánh giá cao "The Talented Mr. Ripley" (1999), cùng với Matt Damon, Gwyneth Paltrow, Jude Law, vàPhilip Seymour Hoffman. Cô đã nhận được đề cử BAFTA thứ hai cho màn trình diễn của cô với vai Meredith Logue trong "The Talented Mr. Ripley".
2001–2007: "The Lord of the Rings" và diễn viên thành danh.
Vốn đã là một diễn viên nổi tiếng, Blanchett đã nhận được thêm một lượng người hâm mộ mới khi cô xuất hiện trong bộ ba bom tấn đoạt giải Oscar của Peter Jackson, "The Lord of the Rings", đóng vai thủ lĩnh yêu tinh Galadriel trong cả ba bộ phim. Bộ ba phim này là một thành công lớn về mặt tài chính và phê bình, thu về 2,981 tỷ đô la tại phòng vé trên toàn thế giới, và cả ba phim sau đó đều được xếp hạng trong top 10 phim giả tưởng hay nhất mọi thời đại trong một cuộc thăm dò do tạp chí "Wired" của Mỹ thực hiện năm 2012. Ngoài "The Lord of the Rings", 2001 cũng chứng kiến Blanchett đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình với một loạt vai diễn trong các bộ phim truyền hình "Charlotte Grey" và "The Shipping News và Bandits" tội phạm hài của Mỹ, nhờ đó cô đã giành được đề cử Quả cầu vàng và Giải thưởng SAG lần thứ hai. "Bandits" đánh dấu bước đột phá đáng chú ý đầu tiên của Blanchett vào thể loại phim hài, với Ben Falk của đài BBC tuyên bố cô và bạn diễn Billy Bob Thornton là "một diễn viên hài thực sự được tìm thấy" và gọi màn trình diễn của cô là một bà nội trợ không hài lòng bị kẹt giữa hai kẻ đã trốn thoát, "unhinged, mặc dù không thể phủ nhận sexy".
Năm 2002, Blanchett đóng vai chính cùng Giovanni Ribisi trong bộ phim do Tom Tykwer đạo diễn "Heaven", bộ phim đầu tiên trong bộ ba phim chưa hoàn thành của nhà văn kiêm đạo diễn nổi tiếng Krzysztof Kieślowski. Diễn xuất của cô trong phim trong vai một người phụ nữ đau buồn thực hiện một hành động khủng bố liều lĩnh đã được đánh giá cao, với Stephen Holden của "The New York Times" gọi đó là "màn trình diễn hấp dẫn nhất trong sự nghiệp của cô" và tiếp tục nói: "Mặc dù khuôn mặt của cô Blanchett luôn thể hiện cảm xúc với sự uyển chuyển nhẹ nhàng, nhưng cảm giác tức thì mà cô truyền tải trong" Thiên đường "thật đáng kinh ngạc." Năm 2003 chứng kiến Blanchett một lần nữa đóng nhiều vai: Galadriel trong phần ba và phần cuối cùng của bộ ba "Chúa tể của những chiếc nhẫn" (đoạt giải Oscar cho Phim hay nhất); Bộ phim kinh dị miền viễn Tây do Ron Howard đạo diễn ", Người mất tích" ; Jim Jarmusch 's "Coffee and Cigarettes" , đóng hai vai (cả hai đều chống lại chính mình), cô đã nhận được Giải thưởng Tinh thần Độc lập cho đề cử Nữ phụ xuất sắc nhất; và tiểu sử "Veronica Guerin", đã mang về cho cô đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Quả cầu vàng. Năm 2004, Blanchett đóng vai một nhà báo đang mang thai ghi lại hành trình dưới nước của một nhà hải dương học lập dị trong The Life Aquatic của Wes Anderson "với Steve Zissou".
Năm 2005, Blanchett giành giải Oscar đầu tiên cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất nhờ vai diễn Katharine Hepburn được đánh giá cao trong phim "The Aviator" (2004) của Martin Scorsese. Điều này khiến Blanchett trở thành diễn viên đầu tiên trong lịch sử giành được Giải thưởng Viện hàn lâm cho vai diễn một diễn viên khác từng đoạt Giải thưởng Viện hàn lâm. Cô cho Trung tâm Hình ảnh Chuyển động Úc mượn bức tượng Oscar của mình. Trong bài đánh giá của mình cho "Newsweek", David Ansen đã viết rằng Blanchett đã miêu tả Hepburn với "sự hoạt bát đánh môi" và Roger Ebertca ngợi màn trình diễn, mô tả nó là "thú vị nhưng vẫn cảm động; lịch sự và tomboy". Trong quá trình chuẩn bị cho vai diễn và theo yêu cầu của Scorsese, Blanchett đã xem lại bản in 35 mm của tất cả 15 màn trình diễn trên màn ảnh đầu tiên của Hepburn để học và ghi nhớ phong thái, cách cư xử và cách nói đĩnh đạc của bà. Trong một cuộc phỏng vấn với "The New York Times" , Blanchett nói về trách nhiệm thể hiện một ngôi sao mang tính biểu tượng như vậy, "Việc thể hiện Kate trong cùng một phương tiện, bộ phim, trong đó cô ấy tồn tại là điều rất khó khăn. Nhưng vì cô ấy rất riêng tư và ít mọi người thực sự biết đến cô ấy, về cơ bản chúng ta biết Hepburn qua các bộ phim của cô ấy. Vì vậy, tất nhiên bạn phải gật đầu với nhân vật màn ảnh của cô ấy khi đóng vai cô ấy."
Cũng trong năm 2005, Blanchett đã giành được giải thưởng Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của Viện Điện ảnh Úc với vai diễn Tracy Heart, một người từng nghiện heroin, trong bộ phim Úc "Little Fish" do cô và công ty sản xuất của chồng, Dirty Films đồng sản xuất. Mặc dù ít được biết đến trên toàn cầu hơn so với một số bộ phim khác của cô, "Little Fish "tỉnh táo, nhạy cảm"" đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ giới phê bình ở Úc quê hương Blanchett và được đề cử cho 13 giải thưởng của Viện phim Úc.
Năm 2006, Blanchett đóng vai chính cùng Brad Pitt trong bộ phim truyền hình nhiều ngôn ngữ, nhiều câu chuyện Babel của Alejandro González Iñárritu, "Babel", trong vai một nửa của một cặp vợ chồng đau buồn vướng vào một sự cố quốc tế ở Maroc. "Babel" đã nhận được bảy đề cử Giải Oscar. Cô cũng đóng vai chính trong bộ phim truyền hình "The Good German" được đạo diễn bởi Steven Soderbergh với George Clooney, và bộ phim kinh dị tâm lý nổi tiếng "Notes on a Scandal" cùng với Dame Judi Dench. Blanchett đã nhận được đề cử Giải Oscar lần thứ ba cho màn trình diễn của cô trong bộ phim thứ hai, nơi cô đóng vai một giáo viên cô đơn, người bắt đầu ngoại tình với một học sinh 15 tuổi và trở thành đối tượng ám ảnh của một phụ nữ lớn tuổi do Dench thủ vai. Cả hai màn trình diễn của Blanchett và Dench đều được đánh giá cao, Peter Bradshaw viết trên "tờ The Guardian" rằng "Đạo diễn Richard Eyre, với quyền lực không phô trương, đã khai thác tốt nhất Dench và Blanchett, và với sự khôn khéo tuyệt vời, đã khơi gợi từ hai diễn viên này tất cả những căng thẳng nhỏ và bực tức - cũng như sự dịu dàng thực sự - trong mối quan hệ đầy bi kịch của họ. "
Năm 2007, Blanchett được vinh danh là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới của tạp chí "Time", và xuất hiện trong danh sách 100 người nổi tiếng của "Forbes". Cô xuất hiện trong vai Janine, nhà khoa học pháp y và bạn gái cũ của nhân vật Simon Pegg, trong bộ phim hài hành động "Hot Fuzz" (2007) của Edgar Wright. Vị trí khách mời không được ghi nhận và cô ấy đã đóng góp phí của mình cho tổ chức từ thiện. Cô đóng lại vai Nữ hoàng Elizabeth I trong phần tiếp theo năm 2007 "Elizabeth: The Golden Age" do Shekhar Kapur đạo diễn, và miêu tả Jude Quinn, một trong sáu hóa thân của Bob Dylan trong bộ phim thử nghiệm "I’m Not There" của Todd Haynes. Cô đã giành được giải thưởng Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Venice, giải Tinh thần độc lập và giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất với vai diễn Jude Quinn. Tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 80, Blanchett nhận được hai đề cử - Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho "Elizabeth: The Golden Age" và Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho "I’m Not There" - trở thành nữ diễn viên đầu tiên nhận được đề cử thứ hai với sự trả thù của một vai trò. Về thành tích của cô năm đó, Roger Ebert nói, "Việc Blanchett có thể xuất hiện trong cùng một Liên hoan phim Quốc tế Toronto với vai Elizabeth và Bob Dylan, cả hai đều xuất sắc, là một kỳ tích về diễn xuất."
Giải thưởng.
Trong số vô số giải thưởng cho công việc diễn xuất của mình, Blanchett đã giành được hai giải Oscar, ba giải BAFTA, ba giải Quả cầu vàng, và ba giải Screen Actors Guild. Diễn xuất của cô với vai Katharine Hepburn trong phim "The Aviator" đã khiến cô trở thành diễn viên duy nhất giành được Giải Oscar cho vai diễn diễn viên từng đoạt Giải Oscar. Blanchett là một trong bốn nữ diễn viên duy nhất giành được Giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất sau khi giành được Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Cô là một trong sáu diễn viên (và là nữ diễn viên duy nhất) trong lịch sử Oscar hai lần được đề cử vì đóng cùng một vai trong hai bộ phim (Elizabeth I cho "Elizabeth" và "Elizabeth: The Golden Age"), và là diễn viên thứ mười một nhận được hai đề cử diễn xuất trong cùng một năm. Cô cũng là diễn viên Úc duy nhất giành được hai giải Oscar về diễn xuất.
Blanchett đã được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh công nhận cho những màn trình diễn sau:
Blanchett đã nhận được Giải thưởng Biểu tượng của tạp chí "Premiere" vào năm 2006. Năm 2008, cô nhận được Giải thưởng Bậc thầy Hiện đại của Liên hoan phim Quốc tế Santa Barbara để công nhận những thành tựu của cô trong lĩnh vực điện ảnh. Năm đó, cô nhận được Ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood, được giới thiệu tại 6712 Đại lộ Hollywood bên ngoài Nhà hát Ai Cập của Grauman. Cô nhận được Giải thưởng Crystal của Women in Film and Television International cho sự xuất sắc trong ngành giải trí vào năm 2014. Năm 2015, Blanchett được vinh danh tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Lợi ích của Phim vì những đóng góp xuất sắc của cô ấy cho ngành. Cô nhận được Học bổng của Viện phim Anh để ghi nhận đóng góp xuất sắc của cô trong lĩnh vực điện ảnh, do diễn viên Ian McKellen trao tặng cho cô. Blanchett cũng là người nhận được Giải thưởng AACTA Longford Lyell vào năm 2015, vì "đóng góp xuất sắc của cô trong việc làm phong phú thêm nền văn hóa và môi trường màn hình của Úc." Năm 2016, cô nhận được Hiệp hội Nhà thiết kế Trang phục Giải thưởng Lacoste Spotlight, để vinh danh "cam kết bền bỉ cho sự xuất sắc" và "sự đánh giá cao của cô ấy đối với tính nghệ thuật trong thiết kế trang phục và sự hợp tác với các nhà thiết kế trang phục."
Blanchett đã được chính phủ Úc trao tặng Huân chương Thế kỷ vì Phục vụ cho Xã hội Úc. Năm 2012, cô được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Pháp bổ nhiệm làm Chevalier của Huân chương Nghệ thuật và Văn học, để ghi nhận những đóng góp đáng kể của cô cho nghệ thuật. Vào năm 2017, Blanchett được Nữ hoàng phong là Bạn đồng hành của Order of Australia vì "đã phục vụ nghệ thuật biểu diễn xuất sắc với tư cách là một diễn viên sân khấu và màn ảnh quốc tế, thông qua những đóng góp danh nghĩa với tư cách là giám đốc của các tổ chức nghệ thuật, như một hình mẫu cho phụ nữ. và những người biểu diễn trẻ tuổi, đồng thời là người ủng hộ các hoạt động nhân đạo và môi trường." Cô đã được trao bằng Tiến sĩ Danh dự về Văn thư của Đại học Sydney, Đại học New South Wales và Đại học Macquarie để ghi nhận những đóng góp của cô cho nghệ thuật, hoạt động từ thiện và cộng đồng. Năm 2022, cô nhận được giải thưởng César danh dự từ Académie des Arts et Techniques du Cinéma cho "sự nghiệp và nhân cách hoàn toàn xuất sắc của mình." | 1 | null |
Capra pyrenaica pyrenaica hay còn được biết đến với tên dê núi Pyrénées hay trong tiếng Tây Ban Nha gọi chúng là bucardo, là một trong bốn phân loài của dê núi Iberia, một loài đặc hữu của bán đảo Iberia. Dê núi Pyrénées từng phổ biến nhất trong dãy núi Cantábrica, miền nam nước Pháp và ở phía bắc dãy Pyrénées. Phân loài này đã từng rất phổ biến trong thời Holocen và Pleistocen muộn, trong đó hình thái của chúng có đôi chút khác biệt, chủ yếu là vài hộp sọ của dê núi Pyrénées là lớn hơn so với các phân loài Capra khác ở tây nam châu Âu trong cùng một thời gian.
Lịch sử.
Có nhiều thuyết về sự tiến hóa và lịch sử di cư của "C. pyrenaica" vào bán đảo Tây Ban Nha. Các nhà khoa học, bao gồm cả các nhà cổ sinh vật học và di truyền học, nên tiếp tục tìm kiếm chứng cứ cổ sinh vật học, phát sinh chủng loài và các bằng chứng khác để phát hiện ra kết nối phân tử giữa các phân loài khác nhau. Hiểu biết lịch sử của loài có thể giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn làm thế nào các loài dê núi, "C. pyrenaica" ảnh hưởng tới khu vực, đồng thời có thể cung cấp một sự hiểu biết mới cho mối quan hệ giữa các phân loài.
Có một khả năng là loài "C. pyrenaica" tiến hóa từ một tổ tiên có quan hệ họ hàng với "C. caucasica" từ Trung Đông tại "đầu thời kỳ băng hà cuối cùng (120-80 ngàn năm trước)". "C. pyrenaica" rất có thể đã di chuyển từ phía bắc dãy núi Alps và đi qua miền nam nước Pháp vào khu vực Pyrénées ở đầu kỳ Magdalénien khoảng 18 ngàn năm trước. Nếu điều này là đúng thì "C. caucasica praepyrenaica" có thể đã khác biệt nhiều hơn so với ba loài dê hoang dã khác từng sống trên bán đảo Tây Ban Nha mà các nhà khoa học hiện đã biết. Vấn đề đối với giả thuyết này là di truyền học cho thấy hai loài "C. pyrenaica" và "C. ibex" có thể có chung một nguồn gốc, có thể là "C. camburgensis". | 1 | null |
Vương Thừa Ân (王承恩; sinh ngày 19 tháng 3 - mất ngày 25 tháng 4 năm 1644) là một hoạn quan sống vào cuối triều Minh, là người hầu cận trung thành của Minh Tư Tông Chu Do Kiểm.
Vương Thừa Ân nhập cung làm thái giám vào những năm Vạn Lịch , chăm sóc cho Minh Tư Tông ngay từ những năm đầu đời. Thời Minh Hy Tông , ông từng theo hầu Ngụy Trung Hiền , tuy nhiên sau đó đã bị đoạn tuyệt. Trong thời kỳ của Tư Tông , ông giữ chức vụ "Ti lễ giám" (司礼监) , ông không nắm quyền và nổi loạn như Ngụy Trung Hiền mà vẫn giúp đỡ Tư Tông , dù cho nhiều người nói rằng ông nắm giữ nhiều quyền lực trong cung.
Trong khi quân khởi nghĩa của Sấm Vương Lý Tự Thành đang gấp rút tiến vào thành Bắc Kinh, các thái giám và các đại thần lần lượt bỏ trốn hoặc phần lớn đầu hàng thì chỉ còn một mình Vương Thừa Ân ở bên Minh Tư Tông. Đến khi Minh Tư Tông treo cổ tự vẫn, Vương Thừa Ân đã tận trung tự vẫn theo cùng với 40 nội giám khác.
Để biểu dương lòng trung nghĩa của Vương Thừa Ân, hoàng đế Thuận Trị nhà Thanh đã cho mai táng ông ngay tại lối vào lăng mộ của vua Sùng Trinh để ông được mãi mãi yên nghỉ bên chủ nhân. Trên mộ có bia đá lớn, một khối đá khác được khắc đoạn văn dài 800 chữ do chính tay Thuận Trị viết để ca ngợi ông. Sau đó, hoàng đế Khang Hi cũng tự tay viết tặng thêm một đoạn văn 240 chữ nữa. Khu mộ Vương Thừa Ân đến nay vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn. | 1 | null |
Liên minh trên biển (chữ Hán: 海上之盟, "Hải thượng chi minh") là liên minh quân sự giữa hai nước Bắc Tống và Kim nhằm giáp công nước Liêu. Do hai nước bị ngăn cách về mặt địa lý bởi nước Liêu, đôi bên phải đi lại theo đường biển, thông qua bể Bột Hải, từ đó mà có tên gọi này.
Bối cảnh.
Từ khi Bắc Tống lập quốc ở Trung Nguyên, nước Liêu đã là cường địch ở phương bắc. Liêu đã từng có dã tâm xâm lược, Tống luôn muốn giành lại 16 châu Yên, Vân, hình thành cục diện nam – bắc đối địch. Sau khi ký kết liên minh Thiền Uyên (1004), hai nước có được khoảng trăm năm hòa bình, cũng là bởi không bên nào còn đủ khả năng tiêu diệt đối phương .
Năm 1115 (năm Chính Hòa thứ 5 nhà Bắc Tống), dân tộc Nữ Chân ở phía bắc nước Liêu dưới sự lãnh đạo của A Cốt Đả thuộc thị tộc Hoàn Nhan nổi dậy phản kháng, liên tiếp thắng lợi, rồi kiến lập nước Kim. Người đất Yên là Mã Thực, được Đồng Quán tiến dẫn, dâng lên Tống Huy Tông sách lược liên Kim diệt Liêu. Được xu nịnh bởi bọn gian thần Sái Kinh, Đồng Quán, Tống Huy Tông tin rằng nước Liêu sắp mất đến nơi, nước Kim sẽ thay thế, nếu tiến hành việc này thì có thể vừa hòa hảo với Kim, vừa giành lại 16 châu Yên, Vân; nên quá đỗi vui mừng, đổi tên Mã Thực ra là Triệu Lương Tự, cho tham dự cơ mưu .
Nội dung.
Năm 1118 (năm Trọng Hòa thứ 2), Vũ Nghĩa đại phu Mã Chính phụng mệnh từ Đăng Châu (nay là Bồng Lai, Sơn Đông) vượt biển đi sứ, gởi đến A Cốt Đả ý định "muốn cùng thông hảo, chung sức phạt Liêu", đôi bên bắt đầu tiếp xúc. Năm 1120 (năm Tuyên Hòa thứ 2), Huy Tông mệnh Triệu Lương Tự đánh tiếng mua ngựa, lần nữa đi sứ nước Kim, trước khi lên đường còn tự tay gởi thư cho Lương Tự, nhắc nhở ông ta ngoài 16 châu Yên, Vân, còn phải thương lượng lấy nốt Yên Kinh (kinh thành nước Liêu); riêng Yên Kinh thì có thể lấy đất, tài sản giao cả cho người Kim. Qua cuộc gặp gỡ này, hai nước định ra minh ước có nội dung như sau:
Kết quả.
Trong khi Tống đánh Liêu thất bại, quân Kim thuận lợi hạ được Thượng Kinh, Trung Kinh, Nam Kinh. Phía Kim sau đó chỉ trích phía Tống không thực hiện lời hứa "đánh lấy Nam Kinh của Liêu", nên cự tuyệt trả lại 16 châu Yên, Vân. Trải qua thương lượng, nhà Tống chấp nhận bỏ ra 20 vạn lạng bạc, 30 vạn xúc lụa, còn nạp 100 vạn quan thay cho tiền tô của Yên Kinh, Kim mới giao trả 6 châu (Cảnh, Đàn, Dịch, Trác, Kế, Thuận) cùng Yên Kinh. Quân Kim lấy hết tài vật và nhân khẩu đi khỏi Yên Kinh, để lại 1 tòa thành rỗng, nhà Tống đổi Yên Kinh làm Yên Sơn phủ.
Ảnh hưởng.
Sau khi "Liên minh trên biển" được ký kết, Tống – Kim thật sự hợp lực tiêu diệt nước Liêu. Nhưng sau khi nước Liêu diệt vong, nhà Tống đã mất đi bình phong ngăn trở quân Kim nam hạ. Chính quyền Tống ngày một bại hoại, quốc lực và quân lực không được chấn hưng, đến năm 1126, quân Kim đánh hạ Biện Kinh, gây nên sự biến Tĩnh Khang, Bắc Tống diệt vong. | 1 | null |
Cốc Cốc là công cụ tìm kiếm mặc định trên trình duyệt Cốc Cốc và được phát triển bởi Công ty TNHH Công nghệ Cốc Cốc. Ra mắt vào năm 2013, công cụ tìm kiếm Cốc Cốc tập trung tối ưu khả năng xử lý ngôn ngữ tiếng Việt nhằm đưa ra các kết quả phù hợp với nhu cầu tìm kiếm của người Việt.
Hiện nay, công cụ này cung cấp hơn 20 tính năng tìm kiếm dành riêng cho thị trường Việt Nam như sửa lỗi chính tả tiếng Việt, tìm kiếm địa điểm, giải toán, giải hóa, thời tiết, bóng đá, tin tức, công thức nấu ăn, chuyển đổi đơn vị, chuyển đổi tiền tệ, khuyến mại và giảm giá, phim chiếu rạp, phim ảnh, lịch âm, cung hoàng đạo, tử vi, kết quả xổ số, và cập nhật tình hình Covid-19.
Tính đến năm 2020, Cốc Cốc là công cụ tìm kiếm phổ biến thứ 2 tại Việt Nam với 6,43% thị phần vào tháng 09/2020, theo StatCounter.
Lịch sử.
Những ngày đầu.
Cốc Cốc khởi đầu là một dự án của ba sinh viên Việt Nam khi đang theo học Đại học Tổng hợp Quốc gia Moscow, Liên bang Nga.
Thời điểm ấy, Nguyễn Thanh Bình, Lê Văn Thanh và Nguyễn Đức Ngọc thường xuyên tra cứu tài liệu học tập trên Google và nhận thấy phiên bản tiếng Việt cho kết quả kém hơn phiên bản tiếng Nga. Ngoài ra, có một thực tế là người Nga ít dùng Google, mà ưa chuộng công cụ tìm kiếm nội địa Yandex. Chính vì vậy, ba chàng trai trẻ đã quyết tâm tạo ra một công cụ tìm kiếm cho người Việt thay thế Google ngay trên quê hương Việt Nam.
Năm cuối đại học, ba người này đầu quân cho Công ty Công nghệ Nigma.ru chuyên phát triển công cụ tìm kiếm của Nga để tích lũy kinh nghiệm. Chính vào lúc này, ý tưởng về một công cụ tìm kiếm và trình duyệt bằng tiếng Việt của cả ba đã thu hút sự chú ý của Victor Lavrenko, giám đốc điều hành của công ty công nghệ Nigma.ru. Ông Victor Lavrenko đánh giá cao khả năng phát triển của ý tưởng này và quyết định đầu tư vào dự án.
Trở về Việt Nam sau khi tốt nghiệp đại học năm 2008, Bình, Thanh, và Ngọc đã tiếp tục phát triển dự án dưới thương hiệu itim.vn. Năm 2010, sau khi gọi vốn thành công thương hiệu công ty chuyển thành Cốc Cốc.
Ngoài nguồn tài chính riêng của mình, ông Victor Lavrenko (CEO của Cốc Cốc từ lúc thành lập công ty cho đến năm 2018
) đã giúp Cốc Cốc nhận thêm nhiều vốn đầu tư của các nhà tài trợ khác từ Nga và Đức. Trong một cuộc phỏng vấn anh Nguyễn Thanh Bình tiết lộ: “Nếu không được Victor Lavrenko, Giám đốc Điều hành của Cốc Cốc hiện nay, chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật và đầu tư tài chính, có lẽ chúng tôi cũng chưa dám “phất cờ”. Chính Victor Lavrenko đã chỉ cho chúng tôi thấy những khoảng trống Google còn bỏ sót để những công ty bản địa có thể chen chân và cạnh tranh, bởi tiếng Việt là ngôn ngữ không dễ xử lý”.
Ra mắt trình duyệt và công cụ tìm kiếm Cốc Cốc.
Khi ba nhà đồng sáng lập bắt tay vào hiện thực hóa Cốc Cốc, những dự án công cụ tìm kiếm của người Việt như Timnhanh, Xalo, Hoatieu, Socbay… đều lần lượt dừng cuộc chơi. Trong khi đó, gã khổng lồ Google vẫn tiếp tục thành công mạnh mẽ tại thị trường Việt Nam. Trên quy mô toàn cầu, Google không chỉ là công cụ tìm kiếm mặc định của trình duyệt Chrome, mà thậm chí Google còn trả hàng tỷ đô la mỗi năm cho Apple để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định của trình duyệt Safari dành cho các thiết bị iOS. Mỗi ngày Google đều tiếp nhận và xử lý lượng truy vấn nhiều hơn bất kỳ một công cụ tìm kiếm nào khác.
Cốc Cốc không lựa chọn đối đầu trực tiếp với Google. Sau khi học hỏi kinh nghiệm từ Yandex (công cụ tìm kiếm chiếm 60% thị phần tại Nga) và Mail.ru Group (trước đây là Digital Sky Technologies, công ty Internet đứng thứ 7 thế giới), công ty đã mở ra 3 hướng tiếp cận: Thứ nhất là phát triển mảng tìm kiếm như tìm kiếm toán, tìm kiếm hoá. Thứ hai là phát triển tìm kiếm địa điểm "Nhà Nhà". Thứ ba là thử phát triển trình duyệt tìm kiếm.
Năm 2012, Cốc Cốc quyết định xây dựng trình duyệt nhằm hỗ trợ phát triển công cụ tìm kiếm. Càng nhiều người dùng, càng nhiều truy vấn thì chất lượng tìm kiếm sẽ được cải thiện. Đồng thời, trình duyệt mới cũng mở ra cơ hội thuyết phục người dùng vào thử một công cụ tìm kiếm mới.
Ngày 14 tháng 05 năm 2013, Cốc Cốc chính thức ra mắt với tên gọi đầu tiên là Cờ Rôm+. Chỉ sau hai tháng ra mắt, Cờ Rôm+ thu hút gần 02 triệu lượt truy cập.
Năm 2014, trình duyệt và công cụ tìm kiếm Cờ Rôm+ được nâng cấp và đổi tên thành Cốc Cốc. Lúc này, trang tải Cốc Cốc trở thành trang chủ, còn trang tìm kiếm được chuyển sang địa chỉ mới.
Cơ sở dữ liệu.
Các nhà phát triển Cốc Cốc tuyên bố đây là công cụ tìm kiếm có cơ sở dữ liệu tiếng Việt lớn nhất Việt Nam với hơn 2,1 tỷ trang web, trong đó số lượng dữ liệu từ tên miền ".vn", ".com.vn" nhiều gấp hai lần so với Google.
Riêng về tìm kiếm địa điểm, cơ sở dữ liệu địa điểm đồ sộ của Cốc Cốc bao gồm hơn 1,2 triệu địa điểm trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, cơ sở dữ liệu địa điểm của Cốc Cốc còn bao gồm các video quay khung cảnh địa điểm, ứng dụng công nghệ 360 độ panorama. Công nghệ này cho phép người xem có thể quan sát một địa điểm, sự kiện từ tất cả các góc nhìn như thể chính họ đang trực tiếp có mặt tại đó.
Đặc điểm.
Xử lý ngôn ngữ Tiếng Việt.
Theo Cốc Cốc, sự am hiểu địa phương là nhân tố quan trọng hàng đầu giúp tạo ra những kết quả hữu ích và nhanh hơn bằng tiếng Việt. Công cụ tìm kiếm này có khả năng phân tích, xử lý ngôn ngữ tiếng Việt với các đặc điểm riêng như dấu, âm tiết, từ đồng âm, phân tích từ ngữ và các từ viết tắt.
Tính năng Kiểm tra chính tả Tiếng Việt.
Tính năng Kiểm tra chính tả cho phép người dùng kiểm tra lỗi chính tả của một từ hoặc một đoạn văn bản tiếng Việt bất kỳ. Dựa vào quy tắc chính tả và văn cảnh của đoạn văn bản, hệ thống sẽ gợi ý cách sửa lỗi kèm theo lời giải thích chi tiết. Sau đó, người dùng có thể chọn sửa từng lỗi hoặc sửa tất cả các lỗi.
Tìm kiếm địa điểm.
Dịch vụ bản đồ số Cốc Cốc (Cốc Cốc Map, trước đây là Nhà Nhà) sở hữu kho dữ liệu hơn 1,2 triệu địa điểm tại 171 thành phố và thị xã trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Dịch vụ này có thể tự động định vị thành phố mà người dùng đang có mặt để đưa ra kết quả tìm kiếm địa điểm phù hợp. Nhóm phát triển của Cốc Cốc cũng triển khai việc cung cấp các thông tin về giá cả, thực đơn, xếp hạng từ 1 đến 5 sao từ cộng đồng nhằm giúp người dùng dễ dàng ra quyết định hơn. Trong đợt thi đại học tháng 7/2013, với sự hỗ trợ của Thành đoàn Hà Nội, Cốc Cốc ra mắt dịch vụ tìm nhà trọ miễn phí cho thí sinh dự thi đại học, cũng như các dịch vụ thiết yếu xung quanh chỗ trọ, điểm thi.
Dịch vụ bản đồ số Cốc Cốc hiện đã được phát triển thành ứng dụng trên Android và iOS, giúp gợi ý địa điểm theo chủ đề trong bán kính 1500m, định vị GPS và dẫn đường. Ứng dụng này từng lọt vào danh sách những ứng dụng tiềm năng nhất châu Á, theo đánh giá từ trang web công nghệ hàng đầu châu Á TechInAsia: "Nhà Nhà sở hữu một cơ sở dữ liệu khổng lồ về các địa điểm phù hợp và thích ứng với từng địa phương, điều mà các cỗ máy tìm kiếm khổng lồ khác không có. Đây trở thành lợi thế lớn cho Nhà Nhà so với Google và Apple, hai ông trùm công nghệ thế giới không hề có bất kỳ nhân viên hay văn phòng chính thức tại Việt Nam."
Tính năng Điểm dịch vụ.
Điểm dịch vụ (POI - Point of Interest) là một địa điểm có dịch vụ hoặc một địa danh có ý nghĩa tìm kiếm với người dùng trên bản đồ số, không phải một địa điểm bất kỳ. Điểm dịch vụ có thể là quán cafe, quán phở, quán bún chả, cây xăng, hiệu thuốc, và điểm đặt máy ATM. Khi người dùng gõ từ khóa hoặc nhóm từ khóa liên quan tới địa điểm, Cốc Cốc sẽ đề xuất 3 điểm dịch vụ gần vị trí người dùng nhất kèm theo địa chỉ, số điện thoại và trang web (nếu có).
Hình ảnh bản đồ số: Khi người dùng tìm kiếm địa điểm, Cốc Cốc cũng tự động tạo ra một bản đồ GPS giúp định vị chi tiết khu vực quanh 3 điểm dịch vụ đó.
Tính năng Tìm kiếm video.
Sau khi người dùng gõ tìm kiếm theo danh mục Video trên trang tìm kiếm Cốc Cốc, bảng tin kết quả sẽ hiển thị ở chế độ ô (grid view) và kéo dài đến vô tận, thay vì hiển thị ở chế độ danh sách (list view). Mỗi ô kết quả là hình ảnh đại diện (thumbnail) của một video; đó có thể là ảnh vuông hoặc ảnh chữ nhật. Trên hình ảnh thu nhỏ trực quan, người dùng xem được các thông tin hữu ích bao gồm tiêu đề, đoạn mô tả ngắn, phân loại và thời lượng video. Để xem video, người dùng cần bấm vào vị trí bất kỳ trên ảnh.
Tính năng Bảng tri thức.
Bảng tri thức (Knowledge Graph): Khi người dùng tìm kiếm một thực thể (con người, địa điểm, tổ chức, sự vật) nằm trong hệ thống kiến thức cơ sở của Cốc Cốc, bảng tri thức hay chính là các hộp thông tin (Infobox) ở bên phải các kết quả tìm kiếm (hoặc ở đầu trang trên di động) sẽ xuất hiện. Hộp thông tin này cung cấp các đoạn trích (snippet) hoặc nội dung tóm tắt về thực thể đó bao gồm hình ảnh đại diện, định nghĩa, mô tả, và các liên kết điều hướng. Chúng được tổng hợp từ nhiều nguồn và được trình bày theo một cấu trúc nhất quán để thuận tiện cho việc tìm hiểu nhanh và đối chiếu các thực thể trong quá trình tra cứu.
Hỏi đáp về thuộc tính của thực thể: Khi người dùng tìm kiếm thuộc tính của thực thể, hộp thông tin chứa nội dung tóm tắt về thuộc tính và liên kết đi tới thực thể chứa nó sẽ xuất hiện ở bên dưới thanh tìm kiếm.
Mọi người cũng tìm kiếm (People also search for): Sau khi người dùng nhấp vào kết quả tìm kiếm và quay trở lại trang tìm kiếm, Cốc Cốc sẽ đề xuất những từ khóa đã được tìm kiếm bởi những người có cùng truy vấn trước đó. Điều này giúp người dùng dễ dàng mở rộng tìm kiếm đến các từ khóa liên quan mà có thể họ chưa biết.
Tính năng Đoạn trích giàu thông tin.
Rich Snippet là đoạn trích giàu thông tin mà công cụ tìm kiếm lấy từ một trang web để hiển thị trên trang kết quả tìm kiếm. Đoạn trích giàu thông tin có thể xuất hiện dưới mỗi kết quả tìm kiếm hoặc nằm trong các hộp thông tin riêng biệt. Hiện nay, Cốc Cốc còn hỗ trợ thêm một số loại đoạn trích giàu thông tin hữu ích là:
Vé máy bay.
Khi người dùng gõ từ khóa liên quan đến vé máy bay, hộp tìm kiếm sẽ xuất hiện và cho phép người dùng tìm nhanh vé máy bay dựa trên điểm đi, điểm đến, ngày bay, hạng bay, loại chuyến bay (một chiều hay khứ hồi). Tất cả danh sách các chuyến bay kèm theo thời gian khởi hành và giá vé dự kiến được trích dẫn từ Skyscanner, công cụ tìm kiếm chuyến bay hàng đầu thế giới, đồng thời cũng là một đối tác của Cốc Cốc.
Định nghĩa/cách làm.
Khi người dùng tìm kiếm theo cú pháp "từ khóa + là gì" hoặc "cách + từ khóa", Cốc Cốc sẽ đề xuất câu trả lời tiêu biểu, phù hợp nhất với nội dung truy vấn. Câu trả lời này được trích dẫn từ một bài viết có liên quan mà hệ thống Cốc Cốc đánh giá là đáng tin cậy.
Tính năng Giải toán.
Tính năng giải toán cho phép người dùng giải các bài tập toán khác nhau với lời giải chi tiết và đồ thị minh họa. Một số dạng toán tiêu biểu mà Cốc Cốc đang hỗ trợ xử lý bao gồm: tính giá trị biểu thức, vẽ đồ thị, giải phương trình, giải bất phương trình, tính giới hạn, tính đạo hàm, tính tích phân, giải phương trình vi phân, tìm tập xác định, phân tích thành nhân tử, tìm ước chung/bội chung (lớn nhất/nhỏ nhất), khai triển đa thức, sắp xếp dãy số tăng dần/giảm dần, quy đồng mẫu số, và tính căn bậc hai/ba của đẳng thức.
Tính năng Giải hóa.
Tính năng giải hóa cho phép người dùng giải các bài tập hóa học khác nhau với lời giải chi tiết về các phản ứng hóa học. Cốc Cốc hiện hỗ trợ khá nhiều phản ứng Hóa vô cơ trong chương trình phổ thông như viết phương trình ion đầy đủ/rút gọn, viết phương trình phản ứng oxy hóa khử, giải bài tập chuỗi phản ứng hóa học, hay bài tập tìm ẩn trong chuỗi.
Tính năng Tìm kiếm theo chiều dọc.
Tìm kiếm theo chiều dọc ( hay tìm kiếm theo chuyên đề) là loại tìm kiếm tập trung xử lý các trang web có chứa một số chủ đề và loại nội dung nhất định. Số lượng kết quả sẽ nhỏ hơn đáng kể và người dùng không cần duyệt nhiều trang kết quả như hình thức tìm kiếm thông thường. Ở một số trường hợp, công cụ tìm kiếm có thể hợp tác với các bên cung cấp dữ liệu đáng tin cậy, đồng thời kết hợp thông tin từ nhiều nguồn web mở khác để đề xuất một câu trả lời có độ chính xác cao. Phần kết quả của tìm kiếm theo chiều dọc thường giàu thông tin, có hình ảnh minh họa, được hiển thị ở ngay đầu trang kết quả tìm kiếm và chiếm diện tích lớn.
Có hai cách thức tìm kiếm theo chiều dọc. Cách thứ nhất là người dùng thực hiện truy vấn theo từng danh mục Tin tức, Video trên trang tìm kiếm; kết quả tìm kiếm theo đó sẽ thuộc dạng thức tương ứng. Cách thứ hai là người dùng tìm kiếm như bình thường (danh mục Web mặc định) ở một số chủ đề và nhóm nội dung mà công cụ tìm kiếm có hỗ trợ tính năng tìm kiếm theo chiều dọc.
Sau đây là một số chủ đề và nhóm nội dung mà Cốc Cốc đang hỗ trợ tìm kiếm theo chiều dọc:
Thời tiết.
Cốc Cốc cho phép người dùng theo dõi thời tiết chi tiết đến từng giờ trong 3 ngày gần nhất và xem dự báo thời tiết theo buổi trong 11 ngày tiếp theo. Cụ thể, thông tin thời tiết bao gồm nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, khả năng mưa, sức gió, chỉ số đo lường chất lượng không khí (AQI).
Bóng đá.
Cốc Cốc cho phép người dùng theo dõi thông tin trận đấu qua tỉ số và liên kết xem trực tuyến khi trận đấu đang diễn ra. Ngoài ra, người dùng cũng có thể xem lịch thi đấu của giải với thời gian, kết quả từng trận và bảng xếp hạng chi tiết của giải đấu.
Tin tức:.
Cốc Cốc cho phép người dùng tìm kiếm và xem nhanh top 10 tin tức mới nhất về các lĩnh vực chính trị, thể thao, sức khỏe, giáo dục, giải trí, quốc tế...
Công thức nấu ăn.
Cốc Cốc cho phép người dùng tìm nhanh hàng nghìn công thức nấu ăn theo các tiêu chí khác nhau như thực đơn, ẩm thực, nguyên liệu, phương pháp nấu, dịp nấu, và mục đích nấu.
Chuyển đổi đơn vị.
Cốc Cốc cho phép người dùng chuyển đổi các đơn vị đo lường như phần trăm, độ dài, khối lượng, thời gian, nhiệt độ, lượng chất, cường độ dòng điện, cường độ sáng, góc phẳng, dung lượng dữ liệu, diện tích, thể tích, tốc độ, gia tốc, lực, áp suất, quang thông, độ rọi, và độ chói.
Chuyển đổi tiền tệ.
Cốc Cốc cho phép người dùng quy đổi hơn 160 đơn vị tiền tệ trên toàn thế giới, trong đó có các đồng tiền phổ biến là VND, USD, EUR, GBP, RUB, CAD, AUD, JPY, KRW, CNY, HKD, SGD, THB.
Khuyến mại và giảm giá.
Cốc Cốc cho phép người dùng xem thông tin khuyến mại, giảm giá từ các sàn thương mại điện tử và các thương hiệu lớn. Các thông tin này bao gồm hình ảnh, tên sản phẩm, giá và liên kết dẫn tới trang mua hàng trực tuyến. Ngoài ra, Cốc Cốc còn hỗ trợ tìm kiếm các ưu đãi mua ô tô, bất động sản, và tour du lịch.
Phim chiếu rạp.
Cốc Cốc cho phép người dùng tìm kiếm thông tin nhanh chóng về một rạp chiếu bao gồm trang web, địa chỉ, danh sách phim đang chiếu cùng điểm IMDB của mỗi phim. Một lựa chọn khác là người dùng tìm theo phim đang chiếu tại rạp với áp phích, thể loại, mô tả phim, đạo diễn, diễn viên, điểm IMDB, ngày khởi chiếu cùng đoạn phim giới thiệu. Sau khi chọn phim, người dùng có thể tìm lịch chiếu phim đó tại các rạp cũng như giá vé cho từng suất chiếu.
Phim ảnh.
Cốc Cốc cho phép người dùng tìm kiếm hàng ngàn bộ phim theo thể loại, theo xếp hạng yêu thích (dựa trên điểm IMDB) hoặc được đề xuất ngẫu nhiên. Người dùng có thể chọn xem phim trực tuyến hoặc tải về máy để xem.
Lịch âm.
Cốc Cốc cho phép hiển thị lịch âm theo tháng, song vẫn có thông tin hằng ngày như ngày âm, tháng âm, năm âm và giờ hoàng đạo của ngày hiện tại. Những ngày đặc biệt sẽ có thêm hộp thông tin giải thích cùng một bài khấn phù hợp.
Cung hoàng đạo.
Cốc Cốc cho phép người dùng xem thông tin lá số tử vi hằng ngày hoặc lá số tử vi năm theo cung hoàng đạo dựa trên ngày sinh.
Tử vi âm lịch.
Cốc Cốc cho phép người dùng xem thông tin lá số tử vi hằng ngày hoặc lá số tử vi năm theo lịch âm dựa trên ngày sinh.
Kết quả xổ số.
Cốc Cốc cho phép người dùng tìm nhanh kết quả xổ số dựa theo ngày và loại xổ số (Xổ số kiến thiết 3 miền, Xổ số điện toán Vietlott...).
Cập nhật tình hình Covid-19.
Cốc Cốc cho phép người dùng cập nhật các thông tin mới nhất về tình hình Covid-19 bao gồm: Bản đồ tình hình Covid-19 toàn cầu và Việt Nam (hỗ trợ ngôn ngữ tiếng Việt, tiếng Anh); Thông tin virus SARS-CoV-2; Thông tin y tế về các triệu chứng, cách phòng ngừa và điều trị; Danh sách các bệnh viện tiếp nhận và kiểm tra ca nghi nhiễm Covid-19; và Tin bài hàng đầu về Covid-19.
Tính năng Doodle.
Tính năng Doodle là một biểu tượng đặc biệt thay thế cho logo Cốc Cốc Search, mang ý nghĩa chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện đặc biệt của người Việt Nam hay quảng bá các tính năng nổi bật của Cốc Cốc. Doodle xuất hiện trên các trang tìm kiếm của Cốc Cốc và trên tab mới của trình duyệt Cốc Cốc Mobile. Khi bấm vào Doodle, người dùng sẽ được dẫn đến các trang kết quả tìm kiếm có nội dung liên quan để tìm hiểu thông tin.
Kiểm duyệt.
Vì Cốc Cốc có trụ sở tại Việt Nam, một số nhà quan sát tỏ vẻ lo ngại Cốc Cốc sẽ kiểm duyệt kết quả tìm kiếm theo lệnh của chính quyền, tương tự như Baidu ở Trung Quốc. Khi được hỏi Cốc Cốc có kiểm duyệt các kết quả tìm kiếm không, một trong những nhà đồng sáng lập đưa ra ví dụ: các từ khóa về lãnh đạo nhà nước sẽ không xuất hiện cùng với các từ ngữ phản cảm. Khi ban đầu đưa tin về dịch vụ của Cốc Cốc, các báo chí nước ngoài đã thử nghiệm các từ khóa được cho là "nhạy cảm" như "Việt Tân" và vẫn nhận các kết quả tìm kiếm. Tuy nhiên, ngày hôm sau khi thử lại thì khi tìm kiếm các từ khóa nhạy cảm, Cốc Cốc đã hiển thị một thông điệp nói rằng từ khóa không hợp lệ và dẫn lái người tìm đến trang kết quả của Google. Khi được hỏi về vấn đề này, một đại diện của Cốc Cốc nói rằng họ đã quyết định không phục vụ các tìm kiếm liên quan đến chính trị và khuyến cáo người tìm nên dùng Google khi muốn tìm kiếm bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, hay về đề tài chính trị trong tiếng Việt. | 1 | null |
Lý Hề (李谿) (theo "Tư trị thông giám" và "Cựu Ngũ Đại sử") hay Lý Khê (李磎) (theo "Cựu Đường thư" và "Tân Đường thư") (? - 4 tháng 6 năm 895), tên tự Cảnh Vọng (景望), tiểu tự Lý Thư Lâu (李書樓), là một quan lại triều Đường, từng giữ đến chức "Đồng bình chương sự" dưới triều đại của Đường Chiêu Tông. Trong tình cảnh quyền lực của Hoàng đế suy giảm, các quân phiệt Lý Mậu Trinh, Vương Hành Du, và Hàn Kiến tiến quân vào kinh sư Trường An năm 895, giết chết Lý Hề cùng đồng cấp Vi Chiêu Độ.
Thân thế.
Gia tộc ông xưng là hậu duệ của tướng Lý Mục (李牧) nước Triệu thời Chiến Quốc, và cũng xưng có tổ tiên làm quan dưới các triều đại nhà Tần, nhà Hán, và nhà Tấn. Tổ phụ của ông là Lý Dong (李鄘) từng giữ chức "Đồng bình chương sự" trong một thời gian ngắn dưới triều đại của Đường Hiến Tông, trước khi từ vị. Phụ thân của Lý Hề là Lý Thức (李拭), từng giữ chức "Khởi cư xá nhân" và một số chức vụ quan trọng khác, như Kinh Triệu doãn, Hà Đông tiết độ sứ, Phượng Tường tiết độ sứ.
Sự nghiệp ban đầu.
Lý Hề được miêu tả là "bác học đa thông văn chương", thi đỗ "Tiến sĩ" vào năm 859, ngay trong lần thi cử đầu tiên. Sau đó, ông được bổ nhiệm giữ chức "Hộ bộ lang trung", song nhậm chức tại đông đô Lạc Dương. Ông từng hặc tấu hoạn quan Hác Cảnh Toàn (郝景全) không giữ đúng phép tắc, đáp lại, Cảnh Toàn trích tấu Lý Hề phạm húy Đường Thuận Tông Lý Tụng (李誦) khi dùng chữ "tụng" (訟) trong tấu chương (mặc dù hai chữ này viết khác nhau), do vậy thoạt đầu Lý Hề bị cắt một phần bổng lộc. Lý Hề sau đó lại trình một tấu chương khác, nói rằng từ mà ông sử dụng từng xuất hiện trong chiếu chỉ của hoàng đế, vì thế ông không đáng bị trừng phạt, kết quả là ông không còn bị đoạt bổng lộc nữa.
Dưới thời Đường Hy Tông, quân nổi dậy Hoàng Sào công chiếm Lạc Dương vào năm 879, Lý Hề mang theo tám ấn của "Thượng Thư tỉnh" vượt qua Hoàng Hà, và chạy đến Hà Dương. Tướng lưu thủ Hà Dương là Lưu Doãn Chương (劉允章) trước đó đã đầu hàng Hoàng Sào, vì thế đã cử người đến chỗ Lý Hề yêu cầu giao lại ấn, song Lý Hề từ chối. Lưu Doãn Chương nhận ra rằng mình không cần thiết phải quy phục Hoàng Sào, và sau đó quyết định từ bỏ lòng trung thành với Hoàng Sào.
Tiếp đó, khi Tương vương Lý Uân xưng đế vào năm 886, Lý Hề khi đó đang ở tại Hoài Nam, ông cố gắng thuyết phục Hoài Nam tiết độ sứ Cao Biền không công nhận Lý Uân, song vô ích. Sau đó, Lý Hề được triệu về Trường An giữ chức "Trung thư xá nhân", "Hàn lâm học sĩ". Về sau, ông từ vị và lui về Hoa Âm, song một lần nữa lại được triệu đến kinh sư làm "học sĩ".
Làm Đồng bình chương sự.
Năm 894, Đường Chiêu Tông bổ nhiệm "Hàn lâm học sĩ thừa chỉ" Lý Hề giữ chức "Đồng bình chương sự". Tuy nhiên, do đồng cấp Thôi Chiêu Vĩ không ưa Lý Hề và lo sợ rằng Lý Hề sẽ khiến quyền lực của mình bị ảnh hưởng, Thôi Chiêu Vĩ do đó đã thuyết phục "Thủy bộ lang trung" Lưu Tri Chế (劉崇魯) mạng áo tang và khóc lóc trong lúc thượng triều. Lưu Tri Chế nói rằng Lý Hề gian tà và trở thành "Hàn lâm học sĩ" là do dựa vào các hoạn quan Dương Phục Cung và Tây Môn Quân Toại (西門君遂), vì thế xã tắc lâm nguy. Đường Chiêu Tông do vậy quyết định hủy bỏ việc thăng chức cho Lý Hề, thay vào đó cho ông giữ chức "Thái tử thiếu phó". Đáp lại, Lý Hề dâng 10 biểu để bảo vệ mình và buộc tội Lưu Tri Chế, còn nói đến chuyện phụ thân của Lưu Tri Chế là Lưu Phù (劉符) tự vẫn khi bị phát hiện tham nhũng, và cáo buộc Lưu Tri Chế và huynh đệ của ông ta là Lưu Sùng Vọng (劉崇望) mới là những người có quan hệ với các hoạn quan. Ông vẫn không dừng thượng biểu ngay cả sau khi Đường Chiêu Tông đình chỉ công tác của Lưu Tri Chế.
Đường Chiêu Tông vẫn xem trọng tài năng của Lý Hề, và đến mùa xuân năm 895, ông lại được bổ nhiệm là "Đồng bình chương sự", cùng "Hộ bộ thị lang". Thôi Chiêu Vĩ khi đó có quan hệ thân thiết với Phượng Tường tiết độ sứ Lý Mậu Trinh và Tĩnh Nan tiết độ sứ Vương Hành Du, Thôi Chiêu Vĩ thông báo với hai người này rằng Vi Chiêu Độ là người ngăn cản việc trao chức "Thượng thư lệnh" cho Vương Hành Du và tiến cử Lý Hề làm "Đồng bình chương sự"; thậm chí còn nói rằng Vi Chiêu Độ và Lý Hề ủng hộ tiến hành một chiến dịch chống lại Lý Mậu Trinh và Vương Hành Du như Đỗ Nhượng Năng lúc trước. Do đó, Lý Mậu Trinh và Vương Hành Du sau đó nhiều lần thỉnh cầu phản đối việc bổ nhiệm Lý Hề làm "Đồng bình chương sự", Đường Chiêu Tông buộc phải bãi chức Lý Hề, giáng ông làm "Thái tử thiếu sư".
Qua đời.
Ngay sau đó, Lý Mậu Trinh, Vương Hành Du và Trấn Quốc tiết độ sứ Hàn Kiến đã quyết định tiến vào Trường An để buộc Đường Chiêu Tông phải chấp thuận một kiến nghị khác của họ. Sau khi đến Trường An, họ yêu cầu Đường Chiêu Tông ra lệnh hành quyết Lý Hề và Vi Chiêu Độ. Đường Chiêu Tông từ chối, song họ đã tự ý xử tử Lý Hề và Vi Chiêu Độ. Con của Lý Hề là Lý Duyện (李沇) cũng bị giết. Sau khi Lý Khắc Dụng tiến công và đánh bại Vương Hành Du, Đường Chiêu Tông truy phục quan tước cho Lý Hề, truy phong là "Tư đồ".
Theo ghi chép thì Lý Hề là người ham học và có một bộ sưu tập sách lớn, do vậy mà có tiểu tự là "Thư Lâu", tức là lầu sách. Ông cũng là một nhà văn và nhà chú giải có nhiều tác phẩm. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời, bộ sưu tập bị thất lạc. | 1 | null |
"Ooh La La" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Britney Spears. Bài hát phát hành ngày 17 tháng 6 năm 2013, là ca khúc chủ đề của bộ phim hoạt hình "Xì trum 2". Bài hát được sáng tác và sản xuất bởi Lukasz "Dr. Luke" Gottwald, Joshua "Ammo" Coleman và Henry "Cirkut" Walter, với sự tham gia hỗ trợ viết lời từ Bonnie McKee, Jacob Kasher Hindlin, Lola Blanc và Fransisca Hall.
Bối cảnh và sản xuất.
"Ooh La La" được viết bởi Ammo, Fransisca Hall và Lola Blanc, dự định trở thành đĩa đơn đầu tay của nhạc sĩ này. Tuy nhiên, theo yêu cầu của nhà sản xuất là Dr. Luke thì một thỏa thuận mới đã được thực hiện, theo đó Spears được phép phát hành chính thức bài hát này. Dr. Luke đã cộng tác với các nhạc sĩ khác như Cirkut, Jacob Kasher, và Bonnie McKee để viết lại một số đoạn lời trong bài hát, biến nó thành một bài hát gần gũi hơn với trẻ em. Những nhà sản xuất bài hát là Dr Luke, Cirkut và Ammo. Spears quyết định thu âm bài hát và nó trở thành soundtrack của phim "Xì Trum 2" bởi vì theo như cô thì cô "luôn luôn yêu quý Smurfs như một đứa trẻ và hiện tại thì con trai của cô là một người hâm mộ Xì Trum. Tôi muốn gây bất ngờ cho bọn trẻ bằng một bài hát trong phim."
Video nhạc.
Video nhạc được đạo diễn Marc Klasfeld quay vào tháng 6. Trong video có sự xuất hiện của hai con trai của Spears là Sean Preston và Jayden James Federline, đồng thời có thêm sự xuất hiện ngắn ngủi của cháu gái Maddie Aldridge. Video được phát hành lần đầu tiên trên kênh Vevo chính thức của nữ ca sĩ vào ngày 11 tháng 7 năm 2013. MSN Music đã nhấn mạnh rằng những cảnh mở màn từ video "Ooh La La" nhằm tỏ lòng kính trọng đến video nhạc "Nasty" của Janet Jackson, nói rằng "Đoạn video nhạc diễn ra như một phiên bản trẻ con thân thiện của "Nasty" - video nhạc của Janet Jackson". | 1 | null |
Đại hội Giới trẻ Thế giới 2013 (thường được viết cách điệu là Rio2013) là kỳ Đại hội Giới trẻ Thế giới lần thứ 14. Đây là một sự kiện quốc tế lớn của Giáo hội Công giáo Rôma tổ chức cho giới trẻ Công giáo để củng cố đức tin của họ. Thành phố chủ nhà của kỳ đại hội này là Rio de Janeiro của Brasil. Các sự kiện chính của nó được tổ chức từ ngày 23 tháng 7 đến 28 tháng 7 năm 2013.
Đây là lần thứ hai một quốc gia Mỹ Latinh đăng tổ chức Đại hội Giới trẻ Thế giới (lần đầu tiên là vào năm 1987 ở Buenos Aires của Argentina) và là lần thứ ba được tổ chức ở một quốc gia nam bán cầu. Ngoài ra, đây cũng là kỳ đại hội đầu tiên do Giáo hoàng Phanxicô chủ sự. | 1 | null |
HMS "Kempenfelt" (I18) là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó đã phục vụ cho Hạm đội Nhà trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, từng được bố trí đến vùng biển Tây Ban Nha do cuộc Nội chiến tại đây để thực thi việc cấm vận vũ khí cho cả hai phe xung đột do Pháp và Anh chủ trương. "Kempenfelt" được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada vào năm 1939 và đổi tên thành HMCS "Assiniboine". Trong Thế Chiến II, nó hoạt động hộ tống các đoàn tàu vận tải trong Trận Đại Tây Dương, đánh chìm một tàu ngầm Đức, tuần tra chống tàu ngầm trong cuộc đổ bộ Normandy, và sau chiến tranh được dùng làm tàu chở binh lính để hồi hương binh lính Canada từ Châu Âu trước khi ngừng hoạt động vào giữa năm 1945. "Assiniboine" bị bán để tháo dỡ cùng năm đó, nhưng bị mắc cạn lúc đang được kéo đi tháo dỡ, và chỉ hoàn tất việc tháo dỡ tại chỗ vào năm 1952.
Thiết kế và chế tạo.
"Kempenfelt" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước . Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất cho phép đạt tốc độ tối đa . Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Yarrow hoạt động ở áp suất . "Kempenfelt" mang theo tối đa dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 175 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, "Kempenfelt" có một khẩu QF 3 inch 20 cwt giữa hai ống khói và hai khẩu QF 2-pounder Mk II phía sau sàn trước. Pháo 3-inch được tháo dỡ vào năm 1936, và các khẩu 2-pounder được tái bố trí trên các bệ giữa hai ống khói. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi . Ba cầu trượt được dùng để thả mìn sâu, mỗi chiếc chứa được hai quả mìn. Sau khi Thế Chiến II nổ ra, số mìn sâu mang theo được tăng lên 33 quả, được thả bởi một hoặc hai đường ray và hai máy phóng.
Các cải biến cho "Assiniboine" trong chiến tranh thoạt tiên bao gồm việc thay thế dàn ống phóng ngư lôi phía sau bằng một khẩu pháo phòng không 12-pounder, và các khẩu 2-pounder được thay bằng súng máy Vickers.50 phòng không Mk I bốn nòng. Sau đó, tháp pháo 'Y' được tháo dỡ lấy chỗ để chứa thêm mìn sâu lên ít nhất 60 quả. Tháp pháo 'X' sau đó cũng được tháo dỡ, khẩu 12-pounder được chuyển đến vị trí này để tăng thêm chỗ mang mìn sâu. Cải biến tiếp theo là việc trang bị một dàn cối Hedgehog chống tàu ngầm, được tách ra làm đôi gắn hai bên tháp pháo 'A'; thay thế hai dàn súng máy.50 calibre Vickers giữa hai ống khói bởi hai khẩu Oerlikon 20 mm phòng không và bổ sung hai khẩu Oerlikon khác trên bệ đèn pha. Bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa đặt trên nóc cầu tàu được thay thế bằng radar dò tìm mục tiêu Kiểu 271. Một bộ radar bước sóng mét Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn cũng được bổ sung cùng thiết bị định vị vô tuyến Huff-Duff đặt trên một cột ăn-ten ngắn.
"Kempenfelt" được đặt hàng vào ngày 15 tháng 7 năm 1930 tại xưởng tàu của hãng J. Samuel White ở Cowes trong Kế hoạch Chế tạo 1929. Nó được đặt lườn vào ngày 18 tháng 10 năm 1930, hạ thủy vào ngày 30 tháng 9 năm 1931 như là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Anh mang cái tên này, và hoàn tất vào ngày 30 tháng 5 năm 1932. Được chế tạo như một soái hạm khu trục, nó có trọng lượng choán nước nặng hơn 15 tấn dài so với những chiếc còn lại và mang thêm 30 nhân sự, vốn hình thành nên ban tham mưu của Tư lệnh Chi hạm đội khu trục.
Lịch sử hoạt động.
Trước chiến tranh.
"Kempenfelt" được phân về Chi hạm đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội Nhà sau khi nhập biên chế. Vào lúc này con tàu đã thử nghiệm trong một thời gian ngắn pháo trên tháp pháo ‘B’; nhưng được thay thế bằng pháo tiêu chuẩn. Nó đặt căn cứ tại Rosyth trong hầu hết năm 1932, viếng thăm Địa Trung Hải từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1933 trước khi quay trở về nhà, và được tái trang bị tại Devonport, hoàn tất vào tháng 1 năm 1934. Không lâu sau đó, "Kempenfelt" tham gia chuyến đi của Hạm đội Nhà đến Tây Ấn kết thúc vào tháng 3. Con tàu viếng thăm nhiều cảng tại khu vực Scandinavia trong thời gian còn lại của năm; tham gia cuộc Duyệt binh Hạm đội tại Spithead vào ngày 16 tháng 7 năm 1935 nhân kỷ niệm Lễ Bạc Đăng quang của Vua George V. Sau khi Ý xâm chiếm Abyssinia vào năm 1935, "Kempenfelt" cùng các tàu khác của Chi hạm đội 2 được gửi đến Hồng Hải vào tháng 8 để theo dõi sự cơ động của tàu chiến Ý cho đến tháng 4 năm 1936. Nó trải qua một đợt tái trang bị ngắn tại Devonport kéo dài cho đến tháng 6 sau khi quay trở về Anh. Trong giai đoạn đầu của cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào cuối năm 1936, con tàu đã giúp di tản kiều dân Anh khỏi nhiều cảng Tây Ban Nha.
Vào tháng 12, "Kempenfelt" bắt đầu một đợt tái trang bị rộng rãi tại Devonport kéo dài cho đến ngày 10 tháng 4 năm 1937, rồi quay trở lại vùng biển Tây Ban Nha làm nhiệm vụ phong tỏa tàu bè chở vũ khí cho các phe xung đột và bảo vệ tàu bè mang cờ Anh. Vào ngày 6 tháng 3, nó cùng với tàu khu trục đã cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu tuần dương hạng nặng "Baleares" của phe Quốc gia bị các tàu khu trục phe Cộng hòa đánh chìm trong Trận mũi Palos. Nó được sửa chữa tại Xưởng tàu Chatham trong tháng 5–tháng 6 năm 1938, và thực hiện một số chuyến viếng thăm các cảng Bắc Âu trong tháng tiếp theo. "Kempenfelt" được chuyển sang Chi hạm đội Portsmouth, và tiếp tục ở lại đây cho đến khi chiến tranh nổ ra vào tháng 9 năm 1939.
Trong và sau chiến tranh.
Con tàu được chuyển sang Chi hạm đội Khu trục 18 đặt căn cứ tại đảo Portland, nơi nó hộ tống tàu bè và tuần tra chống tàu ngầm. "Kempenfelt" đã được chính phủ Canada mua trước chiến tranh, nhưng thỏa thuận cho Anh giữ lại cho đến khi Hải quân Hoàng gia có thể bù đắp chỗ trống để lại khi có đủ các tàu phụ trợ hộ tống chống tàu ngầm. Vào lúc phía Anh sẵn sàng chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Canada, con tàu đang được sửa chữa sau một vụ va chạm, và việc bàn giao bị trì hoãn cho đến ngày 19 tháng 10. Nó được đổi tên thành HMCS "Assiniboine", và đi đến Halifax, Nova Scotia vào ngày 17 tháng 11. Con tàu chưa được trang bị hệ thống sưởi ấm bằng hơi nước vốn cần thiết để nó hoạt động tại vùng biển Canada lạnh giá, nên nó được chuyển đến vùng biển Caribe thay phiên cho tàu khu trục "Saguenay". "Assiniboine" đi đến Kingston, Jamaica vào ngày 8 tháng 12.
Được phân về Trạm Bắc mỹ và Tây Ấn, con tàu đánh dấu việc phục vụ tại vùng Caribe bằng việc chặn bắt chiếc tàu vượt phong tỏa Đức MV "Hannover" tại eo biển Mona giữa các đảo Hispaniola và Puerto Rico trong đêm 8-9 tháng 3 năm 1940. Thoạt tiên bị chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ ngăn chặn, thủy thủ của "Hannover" đã vô hiệu hóa bánh lái và bắt đầu đốt tàu. "Assiniboine" đã kéo con tàu đang cháy để khỏi lọt vào vùng biển của Cộng hòa Dominica trung lập trong khi chiếc tàu tuần dương phun nước chữa cháy. Hai con tàu tráo đổi nhiệm vụ vào lúc sáng, và chiếc tàu khu trục đưa một số thủy thủ lên "Hannover" giúp đội của "Dunedin" dập lửa trong khi chiếc tàu tuần dương kéo chiếc tàu chở hàng đến Kingston. "Assiniboine" đi đến Halifax vào ngày 31 tháng 3 để tái trang bị.
Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, con tàu đã hộ tống các đoàn tàu vận tải tại chỗ và chung quanh Halifax cho đến ngày 15 tháng 1 năm 1941, khi được chuyển đến Greenock và biên chế vào Đội hộ tống 10 thuộc Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương đặt căn cứ tại đây. "Assiniboine" đã cứu vớt những người sống sót trên chiếc SS "Anchises" vào ngày 28 tháng 2, nhưng bị hư hại do va chạm với chiếc MV "Lairdswood" vào ngày 5 tháng 4; việc sửa chữa chỉ hoàn tất vào ngày 22 tháng 5, và nó được chuyển sang St. John's, Newfoundland vào tháng 6 để tăng cường cho lực lượng hộ tống tại phía Tây Đại Tây Dương. Vào đầu tháng 8, "Assiniboine", tàu chị em HMCS "Restigouche" (H00) và chiếc tàu khu trục nguyên của Hoa Kỳ đã hộ tống thiết giáp hạm đi đến vịnh Placentia nơi Thủ tướng Winston Churchill lần đầu tiên gặp gỡ Tổng thống Franklin Roosevelt.
Đang khi hộ tống Đoàn tàu vận tải SC 94 vào đầu tháng 8 năm 1942 trong thành phần Đội hộ tống C1, radar Kiểu 286 trên "Assiniboine" đã phát hiện tàu ngầm Đức Quốc xã "U-210" vào ngày 6 tháng 8 trong sương mù dày đặc. Chiếc tàu khu trục tiếp cận đối phương, hai lần trông thấy thoáng qua chiếc tàu ngầm trước khi lẫn khuất vào sương mù. Đối thủ lại xuất hiện cắt ngang mũi chiếc tàu khu trục ở khoảng cách , và cả hai con tàu đồng thời nổ súng. Khoảng cách này quá gần khiến các khẩu pháo 4,7 inch của "Assiniboine" không thể tham chiến, nhưng các súng máy.50-calibre đã nhắm vào sàn tàu và tháp chỉ huy, khiến phía Đức không thể vận hành khẩu pháo , cho dù khẩu pháo flak phòng không đã khai hỏa. Hỏa lực này bắn thủng thành chiếc tàu khu trục, khiến một số thùng nhiên liệu bốc cháy và loại bỏ tháp pháo 'A' khỏi chiến đấu. Chiếc tàu khu trục không thể húc vào "U-210" cho đến khi khẩu pháo 4,7 inch phía đuôi bắn trúng tháp chỉ huy, giết chết toàn bộ thành viên trên cầu tàu, và súng máy.50-calibre đã khiến khẩu pháo flak im tiếng. Điều này đã khiến cho Trung úy Sorber, sĩ quan cao cấp nhất sống sót trên "U-210", ra lệnh cho chiếc tàu ngầm lặn xuống, nhưng điều này có nghĩa là nó phải giữ một hướng đi thẳng khi làm việc đó. "Assiniboine" tận dụng ưu thế này, húc trúng "U-210" phía sau tháp chỉ huy khi nó đang lặn, làm hỏng động cơ điện, hư hại chân vịt và khiến nước tràn vào chiếc tàu ngầm. Sober ra lệnh cho nổ các thùng dằn và bỏ tàu. Chiếc tàu khu trục lại húc trúng lần nữa khi "U-210" nổi lên mặt nước, thả một loạt mìn sâu được cài để nổ ở tầm nước nông, và bắn trúng thêm một phát đạn pháo 4,7 inch trước khi chiếc tàu ngầm cuối cùng bị chìm. Một số người sống sót được "Assiniboine" và chiếc tàu corvette Anh cứu vớt, trước khi chiếc tàu khu trục buộc phải quay về để sửa chữa do bị ngập nước bên dưới mực nước. Nó mất gần hai tháng sửa chữa tại Halifax, rồi được phân về Đội hộ tống C3 sau khi hoàn tất vào ngày 20 tháng 12.
Trên đường đi đến Londonderry, "Assiniboine" thả một loạt mìn sâu theo sơ đồ nông sau khi phát hiện tàu ngầm, và bị hư hại nặng đuôi tàu vào ngày 2 tháng 3 năm 1943. Con tàu được sửa chữa tại Liverpool từ ngày 7 tháng 3 đến ngày 13 tháng 7, rồi được phân về Đội hộ tống C1. Nó tiếp tục công việc hộ tống cho đến tháng 4 năm 1944 khi nó bắt đầu được đại tu tại Shelburne, Nova Scotia. Sau khi hoàn tất vào tháng 7, "Assiniboine" được phân về Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây. Trong tháng tiếp theo, Đội hỗ trợ 12, bao gồm "Assiniboine", đối đầu với ba tàu quét mìn Đức vào ngày 12 tháng 8 mà không đánh chìm được chiếc nào. Nó tiếp tục ở lại vùng biển Anh cho đến hết chiến tranh, bị hư hại do va chạm với chiếc SS "Empire Bond" vào ngày 14 tháng 2 năm 1945, và phải sửa chữa cho đến đầu tháng 3.
"Assiniboine" quay trở về Canada vào tháng 6, và được sử dụng một thời gian ngắn như tàu chở quân, cho đến khi một phòng nồi hơi của nó cháy vào ngày 4 tháng 7, đặt dấu chấm hết cho quãng đời hoạt động. Nó ngừng hoạt động vào ngày 8 tháng 8, và đưa vào danh sách loại bỏ. Trên đường được kéo đến xưởng tháo dỡ ở Baltimore, nó bị mắc cạn gần East Point, đảo Prince Edward. Nỗ lực kéo "Assiniboine" đi bị thất bại, và nó bị bỏ xó trong tình trạng rỉ sét cho đến khi được tháo dỡ tại chỗ vào năm 1952. | 1 | null |
Hey Girl là một nhóm nhạc nữ của Đài Loan. Kênh âm nhạc Channel V Đài Loan đã tổ chức một buổi thử giọng trong chương trình "Tôi yêu Hắc Sáp Hội" (我愛黑澀會/Wo Ai Hei Se Hui), một show truyền hình nhằm tạo ra những nhân vật nữ mới cho làng giải trí Đài Loan. Vào thời điểm cuối năm 2005, Channel V đã chọn ra chín thành viên đại diện cho những cô gái khác, đó là: Quỷ Quỷ, Tiểu Tiệp, Mei Mei, Apple, Tiểu Huân, Nha Đầu, Tiểu Man, Đồng Đồng và Đại Nha. Họ được các fan trìu mến gọi là Cửu Nữu Nữu (九妞妞/Jiu Niu Niu).
Sau đó (tức năm 2006), chín thành viên được tách ra thành hai nhóm nhỏ trước khi phát hành mini-album thứ ba. Đại Nha, Tiểu Man, Nha Đầu, Quỷ Quỷ và Apple tham gia nhóm "Phấn Hồng Cao Áp Điện" (). Còn Mei Mei, Tiểu Huân, Tiểu Tiệp và Đồng Đồng (sau khi Hey Girl được tách ra) đã lập thành nhóm "Điềm Tâm Oanh Tạc Cơ" (; tiếng Anh: "Sweet Heart Bomber"). Đến năm 2007, Hey Girl (lúc đó có tên gọi Hắc Sáp Hội Mỹ Mi) cùng nhóm nhạc nam Lollipop tham gia phim Vị ngọt Macchiato rất ăn khách trong giới teen.
Thay đổi tên.
Ban đầu, tên gọi của nhóm Hắc Sáp Hội Mỹ Mi là một sự chơi chữ từ cụm từ "Mỹ Mi" (chữ Hán phồn thể: 美眉; bính âm: Mei Mei; nghĩa là: "cô gái xinh đẹp") và "Hắc Sáp Hội" (chữ Hán phồn thể: 黑社會; bính âm: Hei Se Hui; có nghĩa là: "Xã hội đen"). Sau đó, khi nhóm chuyển tới hãng thu âm Warner Music Đài Loan thì tên gọi đã được chuyển thành 黑Girl, và tên tiếng Anh chính thức trở thành Hey Girl. Sử thay đổi tên gọi này là hậu quả từ mối quan tâm của công ty thu âm về tin đồn tai tiếng của các thành viên khác trong chương trình Tôi yêu Hắc Sắp Hội sẽ được liên kết với Hắc Sáp Hội Mỹ Mi. | 1 | null |
Rudolf von Schön (6 tháng 10 năm 1810 tại điền trang Friedrichsgabe, hạt Insterburg, Đông Phổ – 10 tháng 9 năm 1891 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ. Sau khi phục vụ quân ngũ qua các cấp bậc, ông đã xuất ngũ với quân hàm Thượng tướng kỵ binh.
Khi còn trẻ, ông học Luật tại các đại học ở Göttingen, Bonn và Königsberg. Trong thời gian này, ông từng là thành viên của các Liên đoàn Sinh viên Borussia Göttingen (1825) và Littuania (1829). | 1 | null |
Hoa diên vĩ là một trong nhiều tác phẩm hội họa về hoa diên vĩ của họa sĩ người Hà Lan Vincent van Gogh. Bức tranh được vẽ khi Vincent van Gogh đang sống ở nhà thương điên Saint Paul-de-Mausole tại Saint-Rémy-de-Provence, Pháp, vào năm cuối cùng của cuộc đời danh họa.
"Hoa diên vĩ" được vẽ trước lần lên cơn đầu tiên của ông ở nhà thương điên. Bức tranh không có sự căng thẳng cao độ thường thấy trong những tác phẩm sau này của ông. Ông gọi bức tranh là "cột thu lôi cho bệnh tình của mình", bởi ông cảm thấy rằng ông có thể ngăn mình phát điên bằng cách tiếp tục vẽ.
Bức tranh chịu ảnh hưởng của thể loại tranh khắc gỗ Nhật Bản ukiyo-e, tương tự như nhiều tác phẩm khác của van Gogh cũng như các họa sĩ cùng thời khác. Sự tương đồng bao được thể hiện ở những đường viền đậm, các góc độ khác thường và lối tô màu phẳng không dựa theo hướng của ánh sáng.
Theo, em trai van Gogh đã gửi bức tranh tới buổi triển lãm thường niên của Société des Artistes Indépendants vào tháng 9 năm 1889, cùng với bức "Đêm đầy sao trên sông Rhone".
Chủ sở hữu.
Chủ sở hữu đầu tiên của "Hoa diên vĩ" là một nhà phê bình nghệ thuật theo chủ nghĩa vô chính phủ người Pháp Octave Mirbeau, một trong những nhà tài trợ đầu tiên của van Gogh. Mirbeau đã mua bức tranh với giá 300 franc.
Năm 1987, "Hoa diên vĩ" trở thành bức tranh có giá cao nhất từng được bán lúc bấy giờ, lập nên một kỷ lục kéo dài trong hai năm rưỡi. Sau đó nó được bán với giá 53.9 triệu đô la Mỹ cho , nhưng Bond đã không có đủ tiền để trả cho bức tranh. Bức tranh sau đó được bán cho bảo tàng J. Paul Getty Museum ở Los Angeles vào năm 1990. "Hoa diên vĩ" hiện đang là bức tranh được bán với giá cao thứ 10 sau khi đã điều chỉnh so với lạm phát, và thứ 25 nếu không quan tâm đến lạm phát. | 1 | null |
Hermann Friedrich Wilhelm Alexander von Lüderitz (1 tháng 1 năm 1814 tại Orpensdorf ở Stendal – 13 tháng 11 năm 1889 tại Berlin) là Trung tướng và chính trị gia Phổ. Ông đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871).
Tiểu sử.
Lüderitz đã tham chiến trong trận Königgrätz vào ngày 3 tháng 7 năm 1866 và trận Gravelotte vào ngày 18 tháng 8 năm 1870, trên cương vị là Trung tướng Chỉ huy Trung đoàn Thiết kỵ binh Cận vệ. 5 năm sau đó, ông giã từ quân ngụ.
Vị tướng này làm chủ các thái ấp ("Rittergut") Lüderitz và Schernebeck, đều thuộc huyện Stendal. Từ năm 1877 cho đến năm 1889, ông là đại biểu Quốc hội Đức tại khu vực bầu cử ("Wahlkreis") Magdeburg-Osterburg. Ngoài ra, ông còn là một thành viên trong Hội đồng Đại biểu Phổ.
Mộ phần của ông, được ốp bằng khối đá hoa cương lớn, tọa lạc tại Lüderitzer Heide. | 1 | null |
Đêm đầy sao () là một bức tranh của họa sĩ hậu ấn tượng người Hà Lan Vincent van Gogh. Được vẽ vào tháng 6 năm 1889, bức tranh miêu tả khung cảnh bên ngoài cửa sổ phòng bệnh của ông ở Saint-Rémy-de-Provence, miền Nam nước Pháp về đêm, mặc dù ông đã vẽ bức tranh vào ban ngày qua trí nhớ. "Đêm đầy sao" nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở thành phố New York, một phần trong Di vật của Lillie P. Bliss, từ năm 1941. Bức tranh Đêm đầy sao là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Van Gogh, đánh dấu bước ngoặt mang tính quyết định chuyển sang sự tự do sáng tạo to lớn hơn trong nghệ thuật của ông.
Nguồn gốc.
Trong một bức thư gửi Emile Bernard vào tháng 4 năm 1888, Van Gogh bộc lộ mong muốn vẽ bầu trời về đêm, và hỏi rằng liệu ông có thể đạt được điều đó bằng cách vẽ thiên nhiên như các họa sĩ Trường phái ấn tượng.
Tháng 9 năm 1888, trước khi bị suy nhược và phải nhập viện ở Arles vào tháng 12, Van Gogh đã vẽ "Đêm đầy sao trên sông Rhone" vào ban đêm dưới ánh đèn gas.
Tháng 5 năm 1889, Van Gogh quyết định vào nhà thương điên Saint-Rémy, nơi ông sống trong suốt năm tiếp theo. Trong thời gian ở đây ông đã vẽ rất nhiều, cho dù bị gián đoạn bởi những lần lên cơn. Được gợi hứng từ cảnh vật xung quanh nhà thương điên, ông vẽ "Đêm đầy sao" vào tháng 6 năm 1889. Khác với "Đêm đầy sao trên sông Rhone", bức tranh này được vẽ vào ban ngày qua trí nhớ. Giữa tháng 9 năm 1889, sau một cuộc khủng hoảng nặng nề bắt đầu từ giữa tháng 7 cho đến hết tháng 8, ông nghĩ là sẽ bao gồm "Đêm đầy sao" trong lô tác phẩm tiếp theo được gửi cho em trai ông, Theo ở Paris. Nhằm giảm chi phí vận chuyển, ông giữ lại ba tác phẩm, trong đó có "Đêm đầy sao". Chúng được gửi tới Paris trong lần chuyển hàng tiếp theo. Khi Theo không báo tin ngay lập tức rằng bức tranh đã tới nơi, Vincent hỏi thăm một lần nữa và cuối cùng đã nhận được lời nhận xét của Theo về tác phẩm.
Chủ đề.
Phần chính giữa cho thấy ngôi làng Saint-Rémy dưới một bầu trời cuộn xoáy, dưới góc nhìn từ nhà thương điên hướng về phía bắc. Dãy Alpilles ở bên phải phù hợp với góc nhìn này, nhưng có ít mối liên hệ giữa khung cảnh thật với những ngọn đồi ở giữa, có vẻ như chúng được lấy từ một phần khác của cảnh vật xung quanh, về phía nam của nhà thương điên. Cây Hoàng đàn ở bên trái đã được thêm vào bố cục của bức tranh. Một điều đáng chú ý là Van Gogh đã thay đổi vị trí của chòm sao Đại Hùng từ phía bắc sang phía nam, ông cũng đã làm điều này trong bức "Đêm đầy sao trên sông Rhone". | 1 | null |
Vào năm 2013, Marte Deborah Dalelv, một người phụ nữ Na Uy sinh năm 1988, bị phạt tù 16 tháng tại Dubai, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) tội khai man, tình dục ngoài hôn nhân và tiêu thụ rượu bia. Vụ án này gây nhiều xáo động trên các trang mạng và cả những báo chí truyền thống, bởi vì người phụ nữ này bị buộc tội sau khi chị ta tường thuật với cảnh sát là mình đã bị hiếp dâm; Chị ta bị kết án với những buộc tội của nhà cầm quyền mà được xem là không có cơ sở. Dalelv được khoan hồng vào ngày 22 tháng 7, một vài ngày sau khi báo chí Na Uy tường thuật về tin này.
Dalelv nói là một cuộc khám nghiệm về y khoa để tìm những chứng cớ cho vụ hiếp dâm và thử máu xem lượng rượu đã được thi hành như là một thủ tục tiêu chuẩn. Dalelv sau đó theo lời khuyên của người quản lý trong hãng và đã phản cung, nói với công tố viên là bà đã đồng ý làm tình; tại tòa án bà đã nói ngược lại với những luận điệu ban đầu và bị buộc tội khai man, khi những lý lẽ bị hiếp dâm bị công tố viên cho là không có chứng cớ. Thêm nữa, Dalelv bị buộc tội làm tình ngoài hôn nhân và uống rượu không giấy phép, những điều mà bị cấm tại xứ UAE. Thượng cấp của Dalelv bị xử 13 tháng vì làm tình ngoài hôn nhân và tội uống rượu.
Những nhà hoạt động nhân quyền và các chính trị gia chỉ trích mạnh mẽ cái lối hệ thống tư pháp Dubai xử sự trong vụ án này và sự thiếu sót những phản ứng của nhà cầm quyền Na Uy đối lại với cái mà họ cho là đã vi phạm nhân quyền đối với một công dân Na Uy. Sự cố xảy ra vào tháng 3 và chỉ được tường thuật bởi báo chí Na Uy vào ngày
17 tháng 7 năm 2013. Dalelv đã chống án và sẽ được phỏng vấn theo dự định vào tháng 9 năm 2013.
Dalelv đã làm việc trang trí nội thuất tại Qatar từ năm 2011 cho tới khi xảy ra sự cố.
Được khoan hồng.
Dalelv và đại sứ Na Uy được có cơ hội nói chuyện với công tố viên vào ngày 22 tháng 7. Ở đó cô ta được cho biết là đã được khoan hồng và được phép rời khỏi Dubai. Khoan hồng được ban ra bởi Sheikh Mohammed bin Rashid Al Maktoum, thủ tướng và cũng là phó tổng thống của UAE, và là vua của Dubai. Theo luật việc khoan hồng này phải cho cả những người khác bị buộc tội trong vụ này cho nên người đàn ông bị tố cáo là hiếp dâm cũng được khoan hồng.
Marte Dalelv đã trở về Na Uy vào ngày 24 tháng 7.
Những vụ khác.
Dubai.
Trong khi Dubai là một thành phố quốc tế, bị chịu nhiều ảnh hưởng của Tây phương, nơi mà các du khách có thể uống rượu tại các quán nước, và nhà hàng, những cặp không hôn thú có thể ở chung phòng trong khách sạn, quốc gia này vẫn bám chặt vào luật lệ và truyền thống hồi giáo.
Qatar.
Một tòa án tại Qatar vừa kết án treo và trục xuất một phụ nữ Hà Lan vì tội quan hệ tình dục ngoài hôn nhân sau khi phụ nữ này nói với cảnh sát là cô bị hãm hiếp. Phụ nữ 22 tuổi bị án treo và bị phạt $824 và sẽ bị trục xuất. Luật sư của phụ nữ này cho biết đồ uống của cô đã bị bỏ thuốc tại một khách sạn ở Doha hồi tháng ba và cô tỉnh dậy trong căn hộ của một người lạ và nhận ra mình đã bị hãm hiếp. Người bị cáo giác đã hãm hiếp cô thì nói rằng việc quan hệ tình dục là đồng thuận. Người này bị án phạt 100 roi vì đã có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Ông này sẽ bị thêm 40 roi nữa vì tội uống rượu. | 1 | null |
Có 37 vườn quốc gia ở Phần Lan. Gần như tất cả đều được quản lý bởi Metsähallitus, cơ quan quản lý Vườn quốc gia của Phần Lan. Ngoại trừ Vườn quốc gia Koli do Viện Lâm nghiệp Phần Lan chịu trách nhiệm. Tổng cộng diện tích của các quốc gia là 8.873 km vuông (3.426 sq mi) - chiếm 2,7% tổng diện tích đất nước Phần Lan. Tổng cộng có 1,7 triệu du khách đến thăm các vườn quốc gia trong năm 2007.
Trong các vườn quốc gia, các hoạt động của khách du lịch bị hạn chế. Thường thì du khách không được phép rời khỏi con đường mòn được làm sẵn. Các lều trại và lửa trại chỉ được phép tại các địa điểm nhất định. Các hồ trong vườn quốc gia thường thì không cho phép du khách bơi, bơi xuồng, thuyền trong lòng hồ và đặc biệt là không được phép đi xe trong vườn quốc gia.
Trong một thông cáo báo chí mới đây vào ngày 27 tháng 2 năm 2013, Bộ Môi trường Phần Lan đang có các kế hoạch thành lập thêm 4 vườn quốc gia mới. Đó là tại các khu vực Teijo tại Salo ở phía tây nam Phần Lan; xung quanh hồ phía Nam Konnevesi trong khu vực các hồ ở trung tâm Phần Lan và Bắc Savo; vùng đất ngập nước Olvassuo ở miền Bắc Ostrobothnia và Kainuu (phía đông trung tâm Phần Lan) và trong Khu vực Fjell gần Käsivarsi-Wildnisgebiets ở Lapland.. | 1 | null |
Chiến dịch cái kẹp giấy (Operation Paperclip) là một chương trình của Cơ quan Tình báo chiến lược (OSS) (cơ quan tình báo tiền thân của Cơ quan Tình báo Trung ương CIA), dùng để tuyển dụng các nhà khoa học của Đức Quốc xã cho chính phủ Hoa Kỳ, sau Thế Chiến thứ 2, trong bối cảnh chiến tranh lạnh diễn ra, mục đích của chiến dịch cái kẹp giấy là để loại trừ khả năng chuyên gia khoa học Đức chạy sang làm việc cho Liên Xô, Anh, và cho chính Đông Đức và Tây Đức mới bị chia cắt. Trong chiến dịch này khoảng 1.600 nhà khoa học Đức (cùng gia đình của họ) đã được đưa sang Mỹ để làm việc cho nước này.
Liên xô cũng có một chương trình cạnh tranh tương tự gọi là chiến dịch Osoaviakhim.
Xuất xứ.
Chiến dịch bắt đầu từ một văn kiện mật của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, đề ngày 6 tháng 7 năm 1945 – ngay sau khi chiến tranh kết thúc ở Âu Châu và trước khi Nhật Bản đầu hàng. Những ý tưởng căn bản tuy nhiên đã có trước đó cả vài năm, là các chính trị gia và những người trong quân đội Hoa Kỳ nhìn lại đã thấy những sai lầm việc ngưng nghiên cứu quân sự sau khi thế chiến thứ nhất chấm dứt. Những người trong bộ tổng tham mưu đã nhận ra những khác biệt ngày càng gia tăng đối với Liên Xô dưới quyền cai trị của Stalin mà vừa mới là đồng minh. Chiến dịch mây mù như vậy là để tiếp thu kỹ thuật quân sự Đức, nhờ đó rút ngắn những công trình nghiên cứu của mình để chuẩn bị cho cuộc thi đua vũ trang sắp tới. Đồng thời để ngăn chặn Liên Xô không lấy đi những nhà khoa học và kỹ thuật Đức trong ngành công nghệ quân sự. Kỹ thuật quân sự của Đức đã phát triển về nhiều phương diện trước hơn phe đồng minh nhiều năm, đặc biệt là trong lãnh vực Động cơ phản lực không khí và việc sử dụng nó trong tên lửa hành trình và các máy bay (V1, Heinkel He 178, Messerschmitt Me 262), cũng như tên lửa (V-2).
Hoạt động.
Ban đầu chiến dịch gọi là "chiến dịch mây mù" (Operation Overcast), một chương trình quân sự bí mật của Hoa Kỳ vào năm 1945, để tuyển dụng khoa học gia và kỹ thuật gia Đức với những khả năng và kiến thức về kỹ thuật quân sự, sau khi đệ tam đế chế sụp vào cuối thế chiến thứ 2.
Sau đó chiến dịch cái kẹp giấy được thực hiện bởi Cơ quan tình báo Mục tiêu chung (JIOA), có nhiệm vụ di chuyển họ về Mỹ. JIOA là một đơn vị mới thành lập có mục tiêu thu thập nguồn lực trí thức Đức để giúp phát triển kho vũ khí hóa học, sinh học và tên lửa cho Mỹ, và để đảm bảo những thông tin mật đó không rơi vào tay Liên Xô. Mặc dù đã chính thức phê chuẩn chiến dịch, song Tổng thống Mỹ Harry Truman đã cấm cơ quan này tuyển những thành viên của đảng Quốc xã hay những ai tích cực ủng hộ đảng Quốc xã. Dù vậy, các quan chức JIOA và Văn phòng Dịch vụ Chiến lược đã lờ đi chỉ thị này và tiêu hủy hoặc thanh tẩy mọi bằng chứng về tội ác chiến tranh nếu có trong hồ sơ của các nhà khoa học này, vì cho rằng thông tin của họ có ý nghĩa sống còn với những công tác hậu chiến của Mỹ. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.