text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
UEFA Europa League 2012–13 là giải đấu cao thứ nhì lần thứ 42 cho các câu lạc bộ châu Âu do UEFA tổ chức,và là mùa giải thứ hai kể từ khi UEFA Cup được đổi tên thành UEFA Europa League.
Trận chung kết của mùa giải sẽ được tổ chức tại Amsterdam Arena ở Amsterdam,Hà Lan.Trận chung kết diễn ra vào ngày 15 tháng 5 năm 2013 giữa câu lạc bộ của Bồ Đào Nha Benfica và câu lạc bộ của Premier League Chelsea.Chelsea đã giành chiến thắng 2-1,vô địch chiếc cúp Europa League đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ.Chelsea cũng trở thành câu lạc bộ thứ tư sau Juventus,Ajax Amsterdam và FC Bayern München đoạt cả ba cúp châu Âu.
Atlético de Madrid là nhà đương kim vô địch,nhưng đã bị loại bởi Rubin Kazan
Phân bổ đội bóng tham dự.
Có tất cả 193 đội tham dự mùa giải 2012-13,đến từ 52 hiệp hội bóng đá quốc gia của UEFA.Số đội bóng được tham dự ở mỗi quốc gia được dựa vào bảng tính điểm của UEFA:
Xếp hạng.
Dựa vào bảng xếp hạng sẽ quyết định số đội bóng mỗi hiệp hội được tham gia.
Vòng play-off.
Lễ bốc thăm cho vòng play-off diễn ra vào ngày 10/8/2012.
Vòng bảng.
Lễ bốc thăm cho vòng bảng diễn ra vào ngày 31/8/2012 tại Monaco.Có tổng cộng 48 đội tham dự vòng đấu bảng phân chia thành 4 nhóm,12 bảng,dựa trên hệ số UEFA.Là nhà đương kim vô địch,Atlético de Madrid được sắp xếp vào nhóm 1.
Trong mỗi bảng,các đội thi đấu với nhau trên sân nhà và sân khách.Vào các ngày 20/9,4/10,25/10,8/11,22/11 và 6/12 năm 2012,các đội đứng đầu và nhì bảng tiến thẳng vào vòng knock-out,nhập cùng với 8 đội bị loại ở vòng bảng UEFA Champions League.
Có tổng cộng 25 hiệp hội có đại diện ở vòng bảng.
Vòng knock-out.
Trong vòng knock-out,hai đội đấu với nhau hai trận lần lượt trên sân nhà và sân khách,trừ trận chung kết diễn ra trên sân chung(Amsterdam Arena).
Vòng 32.
Lễ bốc thăm cho vòng 32 và vòng 16 diễn ra vào ngày 20/12/2012.
Tứ kết.
Lễ bốc thăm cho vòng tứ kết diễn ra vào ngày 15/3/2013.
Bán kết.
Lễ bốc thăm cho vòng bán kết và chung kết diễn ra vào ngày 12/4/2013.
Chung kết.
Trận chung kết diễn ra vào ngày 15 tháng 5 năm 2013 tại Amsterdam Arena ở Amsterdam, Hà Lan.
Thống kê.
Thống kê tính cả vòng bảng và vòng play-off. | 1 | null |
Judge C. R. Magney State Park là một công viên bang tọa lạc ở bang Minnesota, Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ. Công viên này tọa lạc trên bờ bắc của hồ Superior. Nó được đặt tên theo Clarence R. Magney, cựu thị trưởng của Duluth và thẩm phán Tối cao Pháp Viện tiểu bang Minnesota, người đã có công cho việc thiết lập 11 công viên và wayside danh lam thắng cảnh được thiết lập dọc theo bờ Bắc.
Công viên này được biết đến nhiều nhất với Devil's Kettle (ấm của quỷ).
Thác nước đôi Devil’s Kettle có một dòng chảy vào hồ Superior, nhưng điểm đến của dòng kia thì vẫn còn bí ẩn, và là câu hỏi hóc búa với giới khoa học suốt hàng mấy chục năm qua.
Judge CR State Park Magney nằm trên Minnesota State Highway 61, 25 dặm (40 km) từ Hoa biên giới Canada-Mỹ. 8 dặm cuối cùng (13 km) của dòng sông Brule chảy qua công viên, đổ xuống độ cao 800 foot (240 m) và tạo ra một số thác nước, thác. Một nhánh của Brule, rạch Gauthier, chảy từ phía tây. Rạch Mons, một dòng liên tục trên biên giới phía đông bắc của công viên, tạo một đầm lầy nhỏ. Đoạn này của sông Brule có ba thác nước được đặt tên. 1 dặm (1,6 km) từ bờ hồ, Thác nước hạ đổ xuống 7 foot (2,1 m) trên hai bậc ngay trước cửa rạch Gauthier. Một khoảng cách ngắn thượng nguồn là Thác thượng, đổ xuống độ cao 25 foot (7,6 m), và Thác Ấm của quỷ. Từ Thác Ấm của Quỷ sông chảy qua một 0,25 dặm (0,40 km) đá hẻm núi, cũng như các 0,5 dặm cuối cùng (0,80 km) của rạch Gauthier. Các khu vực phát triển và đường mòn tiếp cận, bị hạn chế bởi phần một phần ba hạ lưu của công viên. Phần phía bắc là gồ ghề và khó tiếp cận, với rặng núi mở bước ra khỏi thung lũng sông. | 1 | null |
Cá lóc đốm vàng hoặc cá quả đốm vàng (tên khoa học: Channa aurantimaculata) là một loài cá quả. Cơ thể của nó là màu nâu trộn lẫn với các sọc màu vàng cam. Con đực có vây lưng cao với màu sắc đậm hơn, và đầu hẹp hơn. Nó là loài đặc hữu lưu vực sông Brahmaputra. Nó là loài địa phương Dibrugarh, khu vực đông bắc nhất của bang Assam, Ấn Độ.
Loài này phát triển đến 16 inch(40 cm). Nó có thể là một loài cá ấp miệng như hầu hết các loài cá quả nhỏ hơn. Một báo cáo được biết đến từ một người chơi cá cảnh Đức rằng một vài cặp cá của ông đã cho sinh sản.
Hồ cá.
"Channa aurantimaculata" là loài ăn thịt, vì vậy nó không được nuôi với các loài cá nhỏ hơn. Nó ưa thích nhiệt độ nước trong phạm vi 15-28 °C, và độ pH khoảng 7. Nó đòi hỏi một môi trường lớn, ánh sáng lờ mờ, cùng cây trong bể với những nơi để lẩn trốn. Nó hít thở không khí và sẽ chết ngạt nếu bị ngăn cản tới bề mặt nước. | 1 | null |
Cá dày hay cá dầy (danh pháp khoa học: Channa lucius) là một loài cá của Họ Cá quả. Nó sống trong suối trong rừng và có thể đạt chiều 40 cm. Cá dày được biết đến trong tiếng Thái như pla krasong (Thái: ปลา กระสง). Tên gọi cá dầy/cá dày còn được dùng để chỉ loài "Cyprinus melanes" (có tại miền trung Việt Nam).
Phân bố.
Phạm vi của nó bao gồm hầu hết Đông Nam Á như Indonesia (đông nam Tây Sumatra, lưu vực các sông Mahakam và Kayan ở miền đông Kalimantan, lưu vực sông Kapuas ở miền tây Kalimantan nhưng có lẽ đã tuyệt chủng tại Java - nơi mà Heinrich Kuhl và Johan Coenraad van Hasselt đã thu thập mẫu vật của loài này vào khoảng năm 1821), Malaysia (Sarawak, Sabah, Malaysia bán đảo), Brunei, Singapore, Lào, Campuchia, Việt Nam, Thái Lan. | 1 | null |
"Ever Ever After" là một bài hát do ca sĩ người Mỹ Carrie Underwood thể hiện. Viết bởi nhà soạn nhạc Alan Menken và người viết lời Stephen Schwartz, bài hát xuất hiện lần đầu tiên trong bộ phim của Disney, "Enchanted "(2007) và là bài hát thứ năm trong album nhạc phim. Là một bản ballad và country pop có tempo trung bình, "Ever Ever After" diễn tả những trải nghiệm truyền thống gắn liền với những câu chuyện cổ tích, như việc tìm kiếm một tình yêu đích thực và sống hạnh phúc mãi mãi về sau.
"Ever Ever After" được Menken và Schwartz viết để thay thế cho một bản song ca của hai diễn viên người Mỹ Idina Menzel và James Marsden ban đầu định sẽ đưa vào phần dẫn chuyện ở cuối phim. "Ever Ever After" xuất hiện ở phần nền ngay sau cao trào của bộ phim. Phần lớn các nhà phê bình âm nhạc đánh giá bài hát với thái độ nhiệt tình, khen ngợi giai điệu dễ nhớ, dễ thuộc và chất giọng của Underwood.
Bối cảnh.
Các bài hát xuất hiện trong phim "Enchanted" được sử dụng làm công cụ dẫn dắt cốt truyện, diễn biến từ từ và hiện đại hoá dần về mặt phong cách, chủ đề và chất liệu cho tới khi phim kết thúc, tiến triển từ một bài hát nhạc kịch truyền thống hay một bản nhạc nền thường thấy ở Broadway sang một phong cách hiện đại hơn. Với bài hát cuối cùng xuất hiện trong phim, nhà soạn nhạc Alan Menken miêu tả "Ever Ever After" là bài hát hiện đại nhất trong "Enchanted". Nữ diễn viên và ca sĩ Amy Adams, người đóng vai nhân vật nữ chính Giselle, bình luận, "chúng tôi kết thúc với bài hát 'Ever Ever After' của Carrie Underwood, vốn là một bản ballad và rock đồng quê. Và thế là phần âm nhạc cứ thế tiến triển và hiện đại dần lên suốt bộ phim".
"Ever Ever After" là bài hát cuối cùng viết cho "Enchanted". Ban đầu, một bài hát với phong cách Disney truyền thống có tên gọi "Enchanted", do Ashman và Schwartz biên soạn, định sẽ do nữ diễn viên và ca sĩ ở Broadway người Mỹ Idina Menzel, người đảm nhiệm vai diễn Nancy Tremaine, và nam diễn viên người Mỹ James Marsden, người đóng vai Hoàng tử Edward, thể hiện. Tuy nhiên, các nhà làm phim cho rằng bản song ca này sẽ làm chậm nhịp độ của phim đi. Menken giải thích, "thật sự sẽ cực kỳ khó khăn nếu ở cuối trò chơi chúng ta lại truyền tải loại bài hát này." Thay vào đó, họ quyết định sẽ thay thế nó với bài hát "Ever Ever After" do ca sĩ nhạc đồng quê người Mỹ ở phần nền.
Chất liệu.
"Ever Ever After" là một bản ballad đồng quê , theo như miêu tả của nhà viết lời bài hát Stephen Schwartz thì đây là "một bài hát pop hiện đại và trưởng thành". Bài hát này cũng có một chút chất liệu rock đồng quê. Theo trang Musicnotes.com, "Ever Ever After" là một bài hát có tempo trung bình viết ở nhịp 4/4, giọng Son trưởng với tempo trung bình đạt 112 nhịp/phút. Giọng ca của Underwood mạnh mẽ nằm ở giữa hai quãng tám, từ nốt thấp là G3 tới nốt cao là E♭5. Các nhạc cụ sử dụng bao gồm đàn guitar và piano, cùng với sự kết hợp giữa giọng hát chính và các giọng hát ở nền. Lời bài hát được viết bởi Schwartz, bắt đầu với "Storybook endings, fairy tales coming true" (Kết thúc những cuốn sách, mọi truyện cổ tích đều trở thành hiện thực).
Phản hồi từ giới chuyên môn.
"Ever Ever After" đã được giới phê bình âm nhạc đón nhận tích cực. Phóng viên Joy Piedmont của báo "Entertainment Weekly "miêu tả bài hát này rất "dễ nhớ, dễ đi vào lòng người". Anh cũng ca ngợi phần biểu diễn và giọng ca của Underwood, viết rằng, "cô ấy hát nghe thật tuyệt." Jacqueline Rupp của tờ Common Sense Media viết, "Bản power ballad của Carrie Underwood, 'Ever Ever After' sẽ được đón nhận rộng rãi và phù hợp với mọi lứa tuổi.". Allmusic bình luận, "Carrie Underwood đã độc chiếm buổi biểu diễn với chất pop mê ly". Nhà phê bình của Amazon.com, Elisabeth Vincentelli viết, "Carrie Underwood đã gọi chúng ta trở lại với thế kỉ 21 qua single 'Ever Ever After'". | 1 | null |
Trịnh Tắc Sĩ (chữ Hán phồn thể: 鄭則士, chữ Hán giản thể: 郑则士, tên tiếng Anh: Kent Cheng Jak-si, sinh ngày 22 tháng 5 năm 1951) là một diễn viên điện ảnh Hồng Kông. Ông đã hai lần được nhận Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.
Tiểu sử.
Trịnh Tắc Sĩ sinh ra trong một gia đình nghèo ở Hồng Kông. Ông đã mong ước trở thành diễn viên ngay từ khi còn nhỏ. Điều này đã được ông viết trong bài văn của mình nhưng nó đã bị giáo viên của ông chỉ trích nặng nề.
Năm 1972 ông tham gia vào một công ty điện ảnh nhưng không gặt hái được bất cứ vị trí nào trong công ty này cho tới khi ông gia nhập đài truyền hình TVB năm 1976. Sau đó ông làm diễn viên cho một số bộ phim truyền hình. | 1 | null |
Cá tràu mắt hoặc cá lóc suối (tên khoa học: Channa marulius) là một loài cá lóc có nguồn gốc từ Nam Á, nhưng đã di thực với Hoa Kỳ. Ở Nam Ấn Độ, nó thường được tìm thấy trong hồ chứa. Nó được tìm thấy tại đập Pechpparai, Chittar, Manimuthar, Bhvani và Mettur của bang Tamil Nadu và Thenmalai, đập Neyyar và Idukki của Kerala. Tại Assam nó được gọi theo tên địa phương là xaal. Nó là loài phát triển nhanh hơn hầu hết các loài khác thuộc cùng chi. Nó là một loài ăn thịt. Nó được mua bán trực tiếp và lấy giá cao trên thị trường. Thịt có giá trị dinh dưỡng cao và thịt của nó được cho là có tác dụng chữa lành vết thương và các thuộc tính thu hồi nhiệt. Nó rất thích hợp cho nuôi thâm canh do thói quen thở không khí của nó.
Nó là một loài xâm lấn tại Hoa Kỳ. | 1 | null |
Abies alba là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được Mill. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1759. Chúng có nguồn gốc từ các ngọn núi ở Châu Âu, từ Pyrenees đến phía bắc Normandy, tới phía đông dãy núi Anpơ và Dãy núi Karpat, Slovenia, Croatia, Bosnia, Herzegovina và đến tận phía nam của miền nam nước Ý và miền bắc Serbia. | 1 | null |
Abies amabilis là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được John Claudius Loudon công bố mô tả khoa học đầu tiên năm 1838 dưới danh pháp "Picea amabilis", dựa theo mô tả trước đó của David Douglas. Năm 1839 James Forbes chuyển nó sang chi "Abies".
Phân bố.
Là loài linh sam bản địa khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương ở Bắc Mỹ, xuất hiện trong khu vực dãy núi Duyên hải Thái Bình Dương và dãy núi Cascade từ vùng cực đông nam Alaska qua miền tây British Columbia, Washington và Oregon, tới vùng cực tây bắc California. Nó sinh sống từ sát mực nước biển tới cao độ ở phía bắc của phạm vi phân bố, và tới cao độ ở phía nam của phạm vi phân bố, luôn luôn trong các rừng mưa ôn đớivới lượng giáng thủy tương đối cao và mùa hè mát, ẩm ướt. Các loài cây thường thấy sinh sống cùng bao gồm thiết sam lá lạ ("Tsuga heterophylla") ở phía bắc của phạm vi phân bố, linh sam Douglas ("Pseudotsuga menziesii") ở giữa khu vực phân bố, còn tại vùng cực nam của khu vực phân bố là dẻ ngựa California ("Aesculus californica").
Tên gọi.
Các tên gọi thông thường trong tiếng Anh là "Pacific silver fir" (linh sam bạc Thái Bình Dương), "white fir" (linh sam bạc), "red fir" (linh sam đỏ), "lovely fir" (linh sam đẹp), "Amabilis fir" (linh sam Amabilis), "Cascades fir" (linh sam Cascades) hay "silver fir" (linh sam bạc).
Mô tả.
Là loài cây lá kim thường xanh mọc cao đến , đôi khi tới , với đường kính thân cây đạt , đôi khi tới . Vỏ thân cây non màu xám nhạt, mỏng và được vết phồng rộp do nhựa cây tiết ra che phủ. Ở các cây già hơn thì vỏ cây sẫm màu hơn và phát triển các vảy và các vết rạch. Lá hình kim, dẹt, dài , rộng , dày , màu lục sẫm xỉn phía trên, với 2 dải khí khổng màu trắng phía dưới, hơi khía chữ V ở đỉnh. Lá mọc vòng trên cành, nhưng các lá có mức độ vặn xoắn thay đổi tại đáy sao cho chúng nằm phẳng ở cả hai bên của cành và phía trên mặt phẳng cành, khong có lá nàu nằm phía dưới mặt phẳng này. Các cành màu đỏ-cam với lông nhung rậm. Các nón dài và rộng , màu tía sẫm trước khi thuần thục; các vảy bắc ngắn, ẩn trong nón khép kín. Các hạt có cánh được giải phóng khi nón phân rã khi thuần thục vào khoảng 6–7 tháng sau khi thụ phấn.
Linh sam bạc Thái Bình Dương có quan hệ họ hàng rất gần với linh sam Maries ("A. mariesii") ở Nhật Bản, chỉ phân biệt được là có lá ngắn hơn— chiều dài đạt —và nón nhỏ hơn, với chiều dài đạt .
Sử dụng.
Gỗ mềm và không rắn chắc; nó được sử dụng trong sản xuất giấy, đóng thùng thưa đựng hàng và các đồ gỗ xây dựng rẻ tiền khác. Lá có mùi thơm hấp dẫn và đôi khi được sử dụng để trang trí đồ vật trong lễ Giáng Sinh, bao gồm các loại cây Giáng Sinh.
Nó cũng được trồng làm cây cảnh trong các khu vườn lớn, mặc dù đòi hỏi phải có mùa hè mát và ẩm đã hạn chế khu vực mà nó có thể được trồng. Sự phát triển tốt khi rời xa khu vực bản địa của nó chỉ hạn chế trong khu vực miền bắc Scotland và miền nam New Zealand. | 1 | null |
Abies beshanzuensis là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được M.H.Wu miêu tả khoa học đầu tiên năm 1976.
Phân bố.
Đây là loài đặc hữu của tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, nơi loài này xuất hiện là ở núi Baishan-zu ở phía đông bắc Qingyuan trong dãy Tung-Kung.
Bảo tồn.
Loài này được đưa vào trồng từ cành giâm tại một trạm lâm nghiệp ở Qingyuan, nam Chiết Giang, Trung Quốc, để ghép trên gốc ghép Abies firma. Các cây còn lại trong tự nhiên đang được bảo vệ. Có một ex situ chương trình theo chiều và bây giờ họ đang nuôi lại cây giống được trồng trong canh tác trở lại vào môi trường sống ban đầu.
Dân số.
Chỉ được biết đến từ một số cá thể trưởng thành trong tự nhiên, không có sự tái sinh tự nhiên, trong rừng cây hạt kín bị suy thoái. Vào năm 1987, chỉ còn lại ba cây riêng lẻ (sau khi hai cây được chuyển đến Vườn Bách thảo Bắc Kinh và sau đó chết ở đó và đến Vườn Bách thảo Hàng Châu cũng chết) của một quần thể được phát hiện vào năm 1963 chỉ có bảy cá thể, trong đó bốn cá thể đang ra hoa và kết trái vào thời điểm đó. Dân số đã giảm đi đáng kể sau lũ lụt và các trận lở đất tiếp theo trong khu vực.
Liên kết ngoài.
[[Thể loại:
[[Thể loại:Thực vật Chiết Giang]] | 1 | null |
Vân sam hay sam lạnh (Abies delavayi) là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được Franch. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899. Đây là loài bản địa của Vân Nam, Trung Quốc và các khu vực gần biên giới ở đông nam Tây Tạng, xa hơn đền đông bắc Ấn Độ, bắc Myanmar, và tây bắc Việt Nam. Loài này mọc trên núi cao với độ cao 3.000-4.000 m (có thể xuống đến 2.400 m và đến 4.300 m), thường phân bố thành một đới cây theo chiều cao.
Tên khoa học của loài này được đặt theo tên người phát hiện ra nó là Pierre Jean Marie Delavay, ông đã thu thập mẫu ở độ cao 3.500-4.000 m ở vùng núi Cangshan gần Dali.
Ở Việt Nam, loài này phân bố thành một dải theo bậc hở ở Phan Xi Păng, có sự khác biệt về chồi màu nâu đỏ nhạt và các tế bào nón có lá bắc ngắn hơn, và được xem là một phân loài "Abies delavayi" subsp. "fansipanensis" (Q.P.Xiang) Rushforth (đồng nghĩa "Abies fansipanensis" Q.P.Xiang) và có tên gọi là vân sam Phan Xi Păng hay vân sam Hoàng Liên Sơn. | 1 | null |
Lãnh sam Hàn Quốc (Abies koreana; 구상나무, "Gusang namu" trong tiếng Triều Tiên) là một loài lãnh sam sống trên các dãy núi cao của Hàn Quốc (gồm cả đảo Jeju). Nó phát triển ở độ cao từ 1.000–1.900 m trong những khu rừng mưa ôn đới với mùa hè mát, ẩm, mưa nhiều và mùa đông đổ tuyết.
Đây là một loài cây hạt trần thường xanh kích thước nhỏ hoặc vừa đạt chiều cao chừng 10–18 m với đường kính thân đến 0,7 m. Vỏ cây có màu nâu-xám. Lá cây hình kim, dẹp, dài 1–2 cm, rộng 2–2,5 mm và dày 0,5 mm, có màu xanh sẫm bóng mặt trên và hai vạch khí khổng trắng rộng mặt dưới, hơi phân khía ở chóp. | 1 | null |
Cedrus atlantica là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được (Endl.) Manetti ex Carrière miêu tả khoa học đầu tiên năm 1855.
Đây là loài bản địa của núi Atlas thuộc Algérie (Tell Atlas, Saharan Atlas) và Morocco (ở Rif và Middle Atlas, và địa phương ở High Atlas). Phần lớn các tài liệu mới xếp nó là một loài riêng biệt Cedrus atlantica, nhưng một vài nguồn xem nó là phân loài của "Cedrus libani" (C. libani" subsp. "atlantica). | 1 | null |
Cedrus brevifolia là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được (Hook.f.) Elwes & A.Henry miêu tả khoa học đầu tiên năm 1908.. Đây là loài bản địa dãy núi Troödos miền trung Síp. Loài này mọc ở rừng quốc gia Pafos. Loài này thường được xem là một đồng âm của "Cedrus libani". | 1 | null |
Tuyết tùng Himalaya (tên khoa học: Cedrus deodara) là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được (Roxb. ex Lamb.) G.Don miêu tả khoa học đầu tiên năm 1830.
Loài này phân bố ở độ cao . Thân cây có thể cao đến , một số trường hợp ngoại lệ có thể cao đến với đường kính thâm đến . | 1 | null |
Tuyết tùng Liban, còn gọi là hương bách, hương bá hay bách hương, bá hương (tên khoa học: Cedrus libani) là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được A.Rich. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1823. Đây là loài bản địa của vùng núi khu vực Địa Trung Hải.
Tuyết tùng Liban là một loài cây lá kim thường xanh phát triển độ cao lên đến 40 m, với thân cây có đường kính lên đến 2,5 m.
Phân loại học.
Có hai thứ hay phân loài của Tuyết tùng Liban:
Một số nhà thực vật học còn xếp Tuyết tùng Síp và Tuyết tùng Atlas là phân loài của Tuyết tùng Liban. Tuy nhiên đa số các nguồn ngày nay xem chúng là các loài riêng biệt. | 1 | null |
Picea abies, có tên gọi khác là Vân sam Na-uy, là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được (L.) H.Karst. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1881.
Đây là loài bản địa châu Âu.
Đó là một loại cây lá kim thường xanh lớn, phát triển nhanh cao 35–55 m và có đường kính thân cây từ 1 đến 1,5 m. Nó có thể phát triển nhiên tới
(3 ft) mỗi năm trong 25 năm đầu tiên trong điều kiện tốt nhưng phát triển chậm lại khi trên 20 năm tuổi. | 1 | null |
Picea mariana là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được (Mill.) Britton, Sterns & Poggenb. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1888.
Loài này phân bố khắp Canada, được tìm thấy ở tất cả 10 tỉnh và 3 vùng đất vùng cực của Canada. Phạm vi phân bố loài này mở về phía bắc của Hoa Kỳ: ở Alaska, vùng Ngũ Đại Hồ, và Đông Bắc. Loài này thường tạo thành quần xã gọi là rừng taiga hoặc phương bắc. | 1 | null |
Picea maximowiczii là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được Regel ex Mast. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1879.
Nó là loài đặc hữu của Nhật Bản; phạm vi phân bố được giới hạn các núi Akaishi, núi Okuchichibu núi và dãy núi Yatsugatake trên Honshu. | 1 | null |
Picea pungens là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được Engelm. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1879.
Đây là loài bản địa dãy núi Rocky của Hoa Kỳ. Phạm vi tự nhiên của nó kéo dài từ Colorado đến Wyoming nhưng nó đã được du nhập rộng rãi ở những nơi khác và được sử dụng làm cây cảnh ở nhiều nơi vượt xa phạm vi nguồn gốc của nó. | 1 | null |
Pinus brutia là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được Ten. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1811.
Phạm vi phân bố ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng nó cũng mở rộng đến quần đảo Aegea của Hy Lạp, bán đảo Krym, Iran, Gruzia, Azerbaijan, miền bắc Iraq, phía tây Syria, Israel, Liban, và Síp. | 1 | null |
Pinus halepensis là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được Mill. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1768.
Đây là loài bản địa ở khu vực Địa Trung Hải. Phạm vi của chúng kéo dài từ Maroc và Tây Ban Nha về phía bắc tới miền nam nước Pháp, Ý và Croatia, và phía đông Hy Lạp, Malta và trên toàn miền bắc Tunisia và Libya với một số quần thể bên ngoài ở Syria, Lebanon, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan, Israel và lãnh thổ Palestine. | 1 | null |
Pinus jeffreyi (trong tiếng Anh gọi là Jeffrey pine, Jeffrey's pine, yellow pine và black pine) là một loài thông Bắc Mỹ. Nó sống chủ yếu tại California, nhưng cũng bắt gặp ở mạn tây Nevada, tây nam Oregon, và bắc Baja California. Tên loài được đặt để vinh danh nhà thực vật học John Jeffrey.
Phân bố và môi trường sống.
"P. jeffreyi" phân bố từ tây nam Oregon về phía nam qua California (chủ yếu qua Sierra Nevada) tới bắc Baja California tại México. Đây là loài thông nơi cao; ở mạn bắc phạm vi phân bố, chúng mọc rộng rãi trong độ cao , còn ở mạn nam chúng mọc ở nơi cao .
"P. jeffreyi" chịu được đất serpentin, thường là cây chiếm ưu thế ở nơi có đất này, dù nơi đó có khô và tương đối thấp. Trên những thứ đất khác, nó thường chỉ chiếm ưu thế tại nơi cao, nơi thông mọc nhanh như "Pinus ponderosa" khó sống. Chúng chống chịu giỏi, trên đất nghèo, khí hậu lạnh, khô cằn, "P. jeffreyi" vẫn sống tốt. | 1 | null |
Pinus serotina là một loài cây lá kim sống ở mạn đông nam của đồng bằng ven biển Đại Tây Dương, từ New Jersey về phía nam tới Florida và về phía tây đến Alabama. Loài thông này hay có dáng mọc cong, có thể đạt đến chiều cao , và trong trường hợp hiếm đến .
Loài này thường sống ở môi trường ẩm ướt, gần ao, vịnh, đầm, hay pocosin. | 1 | null |
Pinus sylvestris hay còn gọi là thông Scots (UK), thông Scotch (US) hay thông Baltic là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được Carl von Linné miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Các thứ.
Hơn 100 thứ (variety) dưới loài "Pinus sylvestris" đã được mô tả trong các tài liệu về thực vật học, nhưng hiện chỉ có ba hoặc bốn thứ được chấp nhận. Chúng chỉ khác nhau rất ít về hình thái, nhưng với sự khác biệt rõ rệt hơn về phân tích gen và thành phần nhựa. Các quần thể ở cực tây Scotland khác biệt về mặt di truyền so với những quần thể ở phần còn lại của Scotland và Bắc Âu, nhưng không đủ để được phân biệt là các thứ thực vật riêng biệt. Những cây ở cực bắc của dãy trước đây đôi khi được coi là thứ "lapponica", nhưng sự khác biệt chỉ ở cấp tính trạng mà chưa có khác biệt về mặt di truyền.
Làm thực phẩm.
Tầng sinh mạch của thông Scots có nhiều carbohydrate, vitamin C và sắt, được người Sami ở bắc Thụy Điển sử dụng như một nguồn lương thực chính dưới nhiều cách chế biến như xay bột (bột này có thể được trộn với sữa, máu tuần lộc, súp thịt hoặc cá), ăn tươi, phơi khô hoặc rang.
Trong văn hóa.
Thông Scots là huy hiệu thực vật của Clan Gregor. Nó cũng là quốc thụ của Scotland. | 1 | null |
Encephalartos altensteinii là một loài thực vật hạt trần trong họ Zamiaceae. Loài này được Lehm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1834.Đây là một loài thực vật Đặc hữu của Nam Phi. Nó được liệt vào danh sách loài dễ bị tổn thương do môi trường sống bị phá hủy, sử dụng làm dược liệu truyền thống và bị nông dân loại bỏ trong quá trình mở rộng đất nông nghiệp. | 1 | null |
Encephalartos villosus là một loài thực vật hạt trần trong họ Zamiaceae. Loài này được Lem. mô tả khoa học đầu tiên năm 1868.". Encephalartos villosus" là một loài cycad Nam Phi xuất phát từ vùng lân cận Đông London , nơi nó được tìm thấy gần bờ biển, đến biên giới phía bắc của Eswatini (Swaziland) nơi nó có thể phát triển tới 100 km vào đất liền. Loài này phổ biến trong phạm vi của nó và được trồng thường xuyên nhất ở Nam Phi, phần lớn là do giá cả phải chăng. Là kết quả của sự phân bố địa lý lớn của nó, nó đáng chú ý là thay đổi trong hình dạng lá và hình nón.
Một thân cây phần lớn dưới lòng đất dẫn đến rất ít thực vật có thể nhìn thấy được, do đó nó được mô tả như một loài lùn. Môi trường sống ưa thích của loài này là bụi cây ven biển không có sương giá. Nó lai dễ dàng với "Encephalartos altensteinii" ở Đông Cape và với "Encephalartos lebomboensis" ở khu vực Pongola .
Cây đực có thể mang tới 15 nón, trong khi chỉ có một hoặc hai nón xuất hiện trên con cái. | 1 | null |
Encephalartos woodii là một loài tuế trong chi "Encephalartos", đặc hữu của rừng oNgoye tại KwaZulu-Natal, Nam Phi. Nó là một trong những loài cây quý hiếm nhất trên thế giới, đã tuyệt chủng trong tự nhiên, với tất cả các cá thể đều là cây nhân bản. Loài này được mô tả khoa học đầu tiên năm 1908. | 1 | null |
Macrozamia fraseri là một loài thực vật hạt trần trong họ Zamiaceae. Loài này được Miq. mô tả khoa học đầu tiên năm 1842.
Đây là loài đặc hữu ở phía tây nam của Tây Úc, và bị hạn chế phần lớn ở vùng đất cát của đồng bằng ven biển Swan và đồng bằng cát Geraldton. Phạm vi của Macrozamia fraseri chồng lấn với Macrozamia riedlei. | 1 | null |
Macrozamia humilis là một loài thực vật hạt trần trong họ Zamiaceae. Loài này được D.L.Jones mô tả khoa học đầu tiên năm 1998.
Loài này là loài đặc hữu của Inverell ở New South Wales, Úc. Môi trường sống tự nhiên của nó là trên đất đá granit trong rừng cây bụi ôn đới. | 1 | null |
Macrozamia riedlei là một loài thực vật hạt trần trong họ Zamiaceae. Loài này được (Gaudich.) C.A.Gardner mô tả khoa học đầu tiên năm 1930.
Phân loại.
Mô tả loài đầu tiên được xuất bản là "Cycas riedlei" bởi Friedrich Ernst Ludwig von Fischer, dựa trên một mẫu vật thu được tại King George Sound và được lưu giữ tại bảo tàng Paris. Tên loài tôn vinh người làm vườn Pháp Anselme Riedlé. Một biến thể chỉnh hình học M. M. reidlei bản được sử dụng bởi tác giả sửa đổi, Charles Gardner, khi gán nó cho chi Macrozamia và trích dẫn các mẫu vật thu được gần Collie, Manjimup, Bow Bridge và các địa điểm khác ở phía nam Perth.
Các nhà thuộc địa đã áp dụng thuật ngữ zamia và zamia palm cho loại cây phổ biến một thời, điều này tiếp tục được đưa ra trong một số danh sách và hướng dẫn. Tên trong ngôn ngữ địa phương cho nhà máy là "baian", "djiriji", "koondagoor" và "quinning". Các tên khác nhau được áp dụng cho các bộ phận khác nhau của loài cây này và các sản phẩm của nó, hầu hết trong số đó đã có một số ứng dụng như thực phẩm hoặc tài nguyên vật liệu.
Phân bố.
Loài này mọc trên đất đá ong, thường là trong rừng Jarrah, nó là một loài đặc hữu của miền nam Tây Úc. Loài này được tìm thấy từ bờ biển phía tây nam đến Dwellingup và Albany. Loài này cũng xuất hiện ở phía tây đồng bằng Esperance và trên đồng bằng ven biển Swan. | 1 | null |
Zamia furfuracea (ở Việt Nam thường được gọi là Thiên tuế Mexico) là một loài thực vật hạt trần trong họ Zamiaceae, có nguồn gốc từ Đông Nam Veracruz, miền đông México. Loài này được L.f. ex Aiton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1789.
Mô tả.
Cây có thân ngắn, đôi khi mọc ngầm, rộng và cao tới 20 cm, thường có vết sẹo từ gốc lá già . Nó phát triển rất chậm khi còn non, nhưng tốc độ tăng trưởng của nó tăng nhanh sau khi thân cây trưởng thành. Tính cả lá, toàn bộ cây thường cao tới 1,3 m và rộng khoảng 2 m.
Lá tỏa ra từ giữa thân; mỗi lá dài 50–150 cm với cuống lá dài 15–30 cm và có 6-12 cặp lá chét cực kỳ cứng, màu xanh lục có lông (mờ). Những lá chét này dài 8–20 cm và rộng 3–5 cm. Đôi khi, các lá chét có răng cưa về phía đầu lá. Các tán lá hình tròn giống như lá dương xỉ hoặc lá cọ. Chúng mọc thẳng dưới ánh nắng đầy đủ, nằm ngang trong bóng râm. | 1 | null |
Leptodactylinae là một phân họ ếch nhái trong họ Leptodactylidae. Các loài thuộc phân họ này thường phân bố ở vùng Bắc Mỹ (như Texas, Hoa Kỳ, và Sonora, Mexico) và Nam Mỹ đến Brazil. Các phân loại gần của phân họ này gồm có các phân họ Leiuperinae và Paratelmatobiinae.
Các chi.
Có 4 chi được ghi nhận thuộc phân họ này: | 1 | null |
Amphiuma means là một loài kỳ giông giống rắn tìm thấy chủ yếu ở miền đông nam Hoa Kỳ. Đây là một loài phổ biến, nhưng được gọi một cách không chính xác "rắn Congo", "cá chình conger", "lươn mù". Là một trong những loài lưỡng cư lớn nhất còn tồn tại. Chúng có thể phát triển khối lượng từ 39 đến 1.042 g (1,4-36,8 oz) và chiều dài 34,8–116 cm (13,7–46 in). Chúng có bốn chân thoái hóa mà kết thúc là hai hoặc ba ngón chân mà hầu như vô dụng, và đôi mắt có mí. Chúng có màu xanh- đen. Chúng ăn cá nhỏ, ốc, và ấu trùng côn trùng. Chúng vô hại đối với con người, mặc dù có thể tạo ra một vết cắn mạnh. | 1 | null |
Manh giông (danh pháp khoa học: Proteus anguinus) là loài động vật có xương sống sống trong hang duy nhất được tìm thấy ở châu Âu. Đây là loài duy nhất của chi "Proteus". Trái ngược với hầu hết các động vật lưỡng cư, nó hoàn toàn sống dưới nước và ăn, ngủ và sinh sản dưới nước. Loài này sống trong các hang động được tìm thấy tại dãy Dinaric Alps và là loài đặc hữu cho vùng nước chảy ngầm qua đá vôi rộng lớn của vùng núi đá vôi thuộc miền Trung và Đông Nam châu Âu, đặc biệt là phía nam Slovenia, các lưu vực sông SOCA gần Trieste (Ý), Tây Nam Croatia và Herzegovina.
Nó cũng đôi khi được gọi là "cá người" vì màu da của nó, tương tự như của người da trắng (dịch nghĩa từ tiếng Slovenia: človeška ribica và Tiếng Croatia: čovječja ribica), cũng như "kỳ giông hang" hoặc "kỳ giông trắng". Tại Slovenia, nó còn được gọi bằng tên močeril. Nó lần đầu tiên được đề cập đến năm 1689 bởi một nhà tự nhiên học địa phương Valvasor tại Công viên quốc gia Glory của Carniola báo cáo rằng sau khi mưa lớn manh giông đã bị cuốn lên từ các vùng nước ngầm và làm cho người dân địa phương tin rằng họ nhìn thấy rồng hang còn non.
Sinh vật này đáng chú ý nhất ở sự thích nghi của nó với cuộc sống toàn bóng tối. Mắt manh giông thoái hóa, trong khi các giác quan khác, đặc biệt là khứu giác và thính giác thì rất phát triển. Nó cũng thiếu sắc tố trên da. Chi trước có ba ngón, chi sau chỉ có hai. Nó cũng có các biểu hiện nhi hóa, con trưởng thành có các đặc điểm khi còn là ấu trùng như mang ngoài, kỳ giông Mexico ở châu Mỹ cũng tương tự. Manh giông là loài duy nhất trong chi "Proteus".
Manh giông đen.
Manh giông đen ("Proteus anguinus parkelj" Sket & Arntzen năm 1994) là một phân loài được công nhận của manh giông, nó đặc hữu của vùng nước ngầm gần Črnomelj, Slovenia, một khu vực nhỏ hơn 100 km vuông (39 sq mi). Nó lần đầu tiên được tìm thấy vào năm 1986 bởi các thành viên của Viện Nghiên cứu Karst Slovenia đã khám phá nước từ núi đá vôi Dobličice mùa xuân tại khu vực White Carniola. | 1 | null |
Kế hoạch Hành động Hà Nội là kết quả Hội nghị không chính thức lần thứ hai của ASEAN diễn ra tại Hà Nội vào năm 1997. ASEAN xác định Tầm nhìn ASEAN 2020 "một hiệp đồng của các quốc gia Đông Nam Á, nhìn ra bên ngoài, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng, liên kết với nhau trong mối quan hệ đối tác, phát triển năng động và trong công đồng đùm bọc lẫn nhau". Đây là bước đi đầu tiên trong chuỗi hành động để giúp ASEAN đạt được những mục tiêu. | 1 | null |
Kat Walsh (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1982) là chủ tịch nhiệm kỳ thứ năm của Quỹ Hỗ trợ Wikimedia. Cô sống ở Khu vực vịnh San Francisco, California.
Quỹ Hỗ trợ Wikimedia.
Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Cô được bổ nhiệm vào hội đồng quản trị của Quỹ Wikimedia và được bầu làm chủ tịch.
Creative Commons.
Walsh là luật sư và hiện tư vấn pháp lý cho Creative Commons kể từ tháng 6 năm 2012.
Chú thích.
| 1 | null |
Dưới đây là "danh sách các nhóm nhạc thần tượng" của Hàn Quốc. Danh sách bao gồm các nhóm nhạc nam và nữ, xếp theo năm ra mắt. Các nhóm nhạc thần tượng ở Hàn Quốc bắt đầu xuất hiện sau thành công của nhóm Seo Taiji and Boys (ra mắt năm 1992) - được xem là bước ngoặt trong lịch sử nhạc pop Hàn Quốc. 2012 là năm kỷ lục của làng K-pop xét theo số nghệ sĩ tân binh: 33 nhóm nhạc nam và 36 nhóm nhạc nữ ra mắt. | 1 | null |
Trịnh Đăng Toàn (25 tháng 3 năm 1953), bút danh Đăng Toàn, là một nhà soạn nhạc cho sân khấu truyền thống và âm nhạc giao hưởng thính phòng người Việt Nam.
Tiểu sử.
Tuổi thơ và niên thiếu.
Trịnh Đăng Toàn được sinh ra trong một ngôi làng nhỏ ở huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh thuộc Việt Nam. Từ nhỏ ông được cho là có năng khiếu âm nhạc và được đào tạo chính quy qua nhiều trường lớp.
Năm 14 tuổi ông bắt đầu theo học lớp trung cấp nhạc dân tộc tại trường Nghệ thuật sân khấu Việt Nam (tiền thân của Đại học Sân khấu Điện ảnh) khóa 1967-1971. Sau đó tham gia dàn nhạc của đoàn nghệ thuật tỉnh với tư cách là nhạc công chơi đàn tam thập lục.
1976-1979, ông được cử đi học lớp sáng tác, chỉ huy dàn nhạc dân tộc (lớp nhạc trưởng) do trường Đại học sân khấu điện ảnh đào tạo. Thời gian này ông đã sáng tác âm nhạc cho một số vở chèo được phát trên truyền hình, đài Phát Thanh Tiếng nói Việt Nam, và cho các tiết mục biểu diễn của đoàn.
1981- 1985, ông theo học lớp sáng tác hệ chính quy 5 năm tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam)
1986, ông được mời về làm giảng viên âm nhạc cho Trường đại học Sân khấu điện ảnh Hà nội, khoa kịch hát dân tộc.
1997, ông là thành viên trong hội đồng nghệ thuật của Nhà hát chèo Việt Nam và thực hiện mạnh mẽ đường lối cách tân, cải tiến, hiện đại hóa âm nhạc chèo.
Những năm cuối thập niên 90, ông tích cực tham gia giảng dạy cho các lớp chính quy, tại chức cho Đại học Văn hóa Hà Nội, khoa âm nhạc của trường Đại học Sư phạm I, trường Đại học Sư phạm nghệ thuật, v.v…
Từ 2003, ông nhận được học bổng nhà nước đi tu nghiệp trên đại học tại Nhạc viện Quốc gia Paris - Cộng hòa Pháp (Consérvatoire national supérieur de Musique et de Danse de Paris) chuyên ngành sáng tác nhạc đương đại với hai giáo sư: Allain Gaussin và Michèle Reverdy, hai giáo sư này đều là học trò của nhà soạn nhạc Olivier Messiaen.
2005, trở về Việt Nam, ông nhận được nhiều lời mời giảng dạy tại các trường Đại học trong cả nước và tiếp tục con đường cách tân âm nhạc dân tộc.
Tư tưởng thẩm mỹ âm nhạc.
Âm nhạc của ông là sự kết hợp uyển chuyển, thành thục giữa tinh hoa âm nhạc dân tộc cổ truyền với tính bác học của âm nhạc Tây phương. Là nhạc sĩ cống hiến cho nghệ thuật Chèo lâu năm và có nhiều cách tân, hiện đại hóa, cải tiến để sự phát triển của âm nhạc Chèo bắt kịp hơi thở thời đại. Điều đó được thể hiện từ trong những nét giai điệu đến hòa âm, phối khí, tiết tấu đều là của nhịp sống hiện đại nhưng vẫn mang trong mình cốt cách, vẻ đẹp của Chèo cổ.
Còn trong các tác phẩm viết cho nhạc cụ phương Tây, ông chủ trương "Việt Nam hóa" các nhạc cụ phương Tây bằng cách đưa những chất liệu dân tộc đặc sắc của Việt Nam vào và kết hợp những tinh hoa trong thủ pháp sáng tác cổ truyền dân tộc với những kỹ thuật hiện đại cũng như hình thức, cấu trúc của âm nhạc phương Tây.
Các tác phẩm.
Thanh nhạc.
Ông viết không nhiều nhưng mỗi một ca khúc đều là sự chắt lọc cảm xúc và là sự kết hợp tinh tế giữa thơ và nhạc. Một số ca khúc đã được công bố trên phương tiện thông tin đại chúng gồm có: "Hạt mưa," "Ước hẹn màu xanh", "Dòng sông nỗi nhớ", "Hẹn ước dưới trăng", "Ngọn lửa hồng rực sáng biển Đông", "Một thoáng Vĩnh Long", "Hẹn gặp Ban mê", "Hẹn với dòng sông xanh"…
Trong đó bài "Hạt mưa" được thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam bình chọn là một trong bảy bài hát hay nhất năm 1981.
Nhạc cho sân khấu.
Ông đã sáng tác âm nhạc cho hàng trăm vở chèo với đề tài từ cổ điển, dã sử, lịch sử, đến hiện đại với nhiều lần đưa những ý tưởng cách tân của mình lên sân khấu biểu diễn và đã đạt được những thành công đáng kể. Nhiều vở tham dự các cuộc hội diễn toàn quốc đã gây tiếng vang trong dư luận, nhận được sự ngợi khen và ủng hộ của bạn bè đồng nghiệp, đặc biệt là từ các bậc tiền bối như cố Nghệ sĩ Nhân dân Tào Mạt, bộ trưởng Bộ Văn hóa - cố nhạc sĩ Trần Hoàn…. Những vở đã đạt huy chương vàng, bạc như: "Giông tố cuộc đời", "Chiếc bóng oan khiên", "Hồn hoa của núi", "Ngọc sáng Vương triều", "Nước mắt vua Đinh", "Nguyễn Bỉnh Khiêm", "Người tử tù mất tích", "Trầu cau", "Bà Huyện trong mơ"...
Năm 2011 ông được giải Nhạc sĩ xuất sắc ở kỳ hội diễn Chèo hiện đại tổ chức tại Thái Bình. Năm 2015, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Nghệ sĩ ưu tú". Hiện nay, ông chủ yếu tham gia công tác đào tạo cho các trường văn hóa - nghệ thuật trong cả nước và tiếp tục cống hiến những sáng tác mới cho nền âm nhạc của Việt Nam. | 1 | null |
USS "Lansdale" (DD-101) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sau đó mang ký hiệu lườn DM-6 như một tàu rải mìn hạng nhẹ. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Trung úy Hải quân Philip Van Horne Lansdale (1858-1899).
Thiết kế và chế tạo.
"Lansdale" được đặt lườn vào ngày 20 tháng 4 năm 1918 tại xưởng tàu Fore River của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation ở Quincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi Bà Ethel S. Lansdale, vợ góa của Trung úy Lansdale, và được đưa ra hoạt động tại Boston vào ngày 26 tháng 10 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân C. W. Margruder.
Lịch sử hoạt động.
Được phân về Lực lượng Tuần dương và vận chuyển, "Lansdale" đi đến Norfolk vào ngày 7 tháng 11 để gia nhập một đoàn tàu vận tải hướng sang Châu Âu vào ngày 12 tháng 11 như một tàu hộ tống. Đi ngang qua quần đảo Azores, nó đến Gibraltar ngày 26 tháng 11, rồi làm nhiệm vụ tuần tra tại Địa Trung Hải. Hoạt động ngoài khơi Gibralta cho đến tháng 1 năm 1919, nó đã thực hiện ba chuyến đi đến Tangier, Maroc và một chuyến đi đến Algiers, Algérie. Đi đến Venice vào ngày 13 tháng 1, nó gia nhập lực lượng hải quân Hoa Kỳ hoạt động tại vùng Đông Địa Trung Hải, làm nhiệm vụ vận chuyển trong biển Adriatic, chủ yếu là giữa Venice với các cảng Áo trên bờ biển Croatia (lúc đó còn là Vương quốc Serbia, Croatia và Slovenia). Khởi hành từ Split, Croatia vào ngày 10 tháng 6, "Lansdale" quay về nhà ngang qua Gibralta và Azores, về đến New York, New York vào ngày 22 tháng 6.
Trong năm tiếp theo, "Lansdale" hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương cùng với Lực lượng Khu trục trực thuộc Hạm đội Đại Tây Dương. Đi đến Philadelphia vào ngày 11 tháng 7 năm 1920, nó được cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ và được xếp lại lớp với ký hiệu lườn DM-6. Đi đến Newport, Rhode Island vào ngày 3 tháng 6 năm 1921, nó gia nhập Lực lượng Rải mìn thuộc Hạm đội Đại Tây Dương vào ngày 5 tháng 7 tại Gloucester, Massachusetts; và cho đến cuối tháng 10 đã thực hành rải mìn ngoài khơi bờ biển New England và Virginia. Sau khi được đại tu tại Boston, nó đi đến vịnh Guantanamo vào ngày 9 tháng 1 năm 1922 để thực tập cơ động, rải mìn và tập trận tại khu vực Tây Ấn cùng với Hải đội Rải mìn 1. Rời đảo Culebra vào ngày 19 tháng 4, nó về đến Philadelphia vào ngày 25 tháng 4, và được cho xuất biên chế vào ngày 25 tháng 6.
"Lansdale" được tái biên chế vào ngày 1 tháng 5 năm 1930 tại Philadelphia dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Frank R. Berg. Nó gia nhập Hải đội Rải mìn 1 tại Yorktown vào ngày 17 tháng 5, tham gia các cuộc thực tập chiến thuật và rải mìn dọc theo bờ Đông, rồi đi đến New London, Connecticut vào ngày 30 tháng 9 để phục vụ như một tàu mục tiêu cho tàu ngầm. Nó khởi hành vào ngày 12 tháng 11, và sau khi ghé qua Boston, đã đi đến Philadelphia vào ngày 22 tháng 12. Tại đây "Lansdale" lại được cho xuất biên chế vào ngày 24 tháng 3 năm 1931. Đến ngày 28 tháng 12 năm 1936, nó được đưa vào danh sách loại bỏ nhằm tuân thủ các điều khoản của Hiệp ước Hải quân London nhằm giới hạn và cắt giảm vũ khí hải quân. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 25 tháng 1 năm 1937, và nó được bán vào ngày 16 tháng 3 năm 1939 cho hãng Union Shipbuilding Company ở Baltimore, Maryland để tháo dỡ. | 1 | null |
USS "Mahan" (DD-102) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sau đó mang ký hiệu lườn DM-7 như một tàu rải mìn hạng nhẹ. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Alfred Thayer Mahan, nhà lý thuyết chiến lược và sử gia hải quân.
Thiết kế và chế tạo.
"Mahan" được đặt lườn vào ngày 4 tháng 5 năm 1918 tại xưởng tàu Fore River của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation ở Quincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 8 năm 1918, được đỡ đầu bởi Cô Ellen K. Mahan, cháu gái Chuẩn đô đốc Mahan, và được đưa ra hoạt động vào ngày 24 tháng 10 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân F. P. Conger.
Lịch sử hoạt động.
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy, "Mahan hoạt động ngoài khơi vùng biển Cuba cho đến tháng 5 năm 1919, khi nó đi đến vùng quần đảo Azores, trở thành một trong những tàu chỉ đường cho chuyến bay vượt đại dương của các thủy phi cơ NC-1, NC-3 và NC-4 của Hải quân. Quay trở về Boston vào ngày 21 tháng 6 sau khi ghé qua Brest, Pháp, "Mahan" được cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ, rồi được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới DM-7 vào ngày 17 tháng 7 năm 1920.
Ngoại trừ một chuyến đi đến Trân Châu Cảng để thực tập cơ động vào đầu năm 1925, "Mahan" chủ yếu hoạt động dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ, tại vùng biển Caribe và vùng kênh đào Panama trong mười năm sau đó. Nó tham gia các cuộc thực tập huấn luyện hạm đội, tuần tra trong các giải đua thuyền buồm quốc tế, tham gia cứu nạn cho tàu ngầm "S-51" vào tháng 9 năm 1925 ngoài khơi đảo Block và tàu ngầm "S-4" trong giai đoạn từ ngày 17 tháng 12 năm 1927 đến giữa tháng 3 năm 1928 ngoài khơi Provincetown, Massachusetts. Nó cũng tiến hành các chuyến đi huấn luyện lực lượng dự bị đến vùng biển Caribe từ năm 1928 đến tháng 9 năm 1929. Ngoài các nhiệm vụ thông thường, "Mahan" còn phục vụ như một tàu thử nghiệm các thiết bị mới mà Hải quân sử dụng trong tương lai.
Vào ngày 20 tháng 9 năm 1929, "Mahan" đi vào xưởng hải quân Philadelphia, nơi nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 5 năm 1930. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 22 tháng 10, và nó được bán vào ngày 17 tháng 1 năm 1931 cho hãng Boston Iron & Metal Company ở Baltimore, Maryland để tháo dỡ. | 1 | null |
Giữ gìn hòa bình (tiếng Anh: peacekeeping) bao gồm các hoạt động nhằm tạo điều kiện ủng hộ hòa bình lâu dài. Nghiên cứu thường thấy rằng việc gìn giữ hòa bình làm giảm các cái chết dân thường và tại chiến trường, cũng như giảm nguy cơ tạo thành chiến tranh mới.
Trong nhóm các chính phủ và tổ chức của Liên Hợp Quốc (LHQ), có một sự hiểu biết chung rằng ở cấp độ quốc tế, các nhân viên gìn giữ hòa bình giám sát và quan sát các tiến trình hòa bình ở các khu vực sau xung đột, và có thể hỗ trợ các cựu chiến binh thực hiện các cam kết hòa bình mà họ đã thực hiện. Sự hỗ trợ như vậy có thể có nhiều hình thức, bao gồm các biện pháp xây dựng lòng tin, sắp xếp chia sẻ quyền lực, hỗ trợ bầu cử, củng cố luật pháp và phát triển kinh tế và xã hội. Theo đó, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc (thường được gọi là Mũ nồi xanh vì đội mũ hoặc mũ bảo hiểm màu xanh nhạt) có thể bao gồm binh lính, sĩ quan cảnh sát và nhân viên dân sự.
Liên Hợp Quốc không phải là tổ chức duy nhất thực hiện các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình. Các lực lượng gìn giữ hòa bình ngoài Liên Hợp Quốc bao gồm phái đoàn NATO ở Kosovo (có sự ủy quyền của Liên Hợp Quốc) và Lực lượng đa quốc gia và Quan sát viên trên Bán đảo Sinai hoặc các tổ chức do Liên minh Châu Âu (như EUFOR RCA, với ủy quyền của Liên Hợp Quốc) và Liên minh châu Phi (như Phái đoàn Liên minh châu Phi tại Sudan). Lực lượng Hòa bình Bất bạo động là một tổ chức phi chính phủ được coi là có chuyên môn về hòa bình chung bởi các tình nguyện viên hoặc nhà hoạt động phi chính phủ.
Theo luật pháp quốc tế, những người gìn giữ hòa bình là những người không tham chiến do lập trường trung lập của họ trong cuộc xung đột giữa hai hoặc nhiều bên hiếu chiến (cùng mức độ với nhân viên trung lập và tài sản bên ngoài nhiệm vụ gìn giữ hòa bình) và luôn được bảo vệ khỏi các cuộc tấn công.
Định nghĩa và các loại hoạt động gìn giữ hòa bình.
Nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc.
Các loại nhiệm vụ Chương VI và Chương VII.
Có một loạt các loại hoạt động bao gồm trong gìn giữ hòa bình. Trong cuốn sách của Fortna "Giữ gìn hòa bình có thật không?", ví dụ, cô phân biệt bốn loại hoạt động gìn giữ hòa bình. Điều quan trọng, các loại nhiệm vụ này và cách chúng được tiến hành bị ảnh hưởng nặng nề bởi nhiệm vụ mà chúng được ủy quyền. Ba trong bốn loại của Fortna là các nhiệm vụ dựa trên sự đồng ý, tức là các nhiệm vụ được gọi là " Chương VI ", với loại thứ tư là Nhiệm vụ " Chương VII ". Các nhiệm vụ của Chương VI dựa trên sự đồng ý, do đó họ cần có sự đồng ý của các phe phái hiếu chiến có liên quan để hoạt động. Nếu họ mất sự đồng ý đó, những người gìn giữ hòa bình sẽ bị buộc phải rút. Ngược lại, các nhiệm vụ của Chương VII không yêu cầu sự đồng thuận, mặc dù họ có thể có nó. Nếu mất sự đồng thuận tại bất kỳ thời điểm nào, các nhiệm vụ của Chương VII sẽ không được yêu cầu rút lại.
Nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc trong và sau Chiến tranh Lạnh.
Trong Chiến tranh Lạnh, việc gìn giữ hòa bình chủ yếu là xen kẽ trong tự nhiên, do đó được gọi là gìn giữ hòa bình truyền thống. Các nhân viên gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đã được triển khai sau hậu quả của xung đột giữa các bang để phục vụ như một bộ đệm giữa các phe phái hiếu chiến và đảm bảo tuân thủ các điều khoản của một thỏa thuận hòa bình được thiết lập. Các nhiệm vụ được dựa trên sự đồng ý và thường xuyên hơn là nhiệm vụ quan sát không được vũ trang, đó là trường hợp của UNTSO ở Trung Đông và UNCIP ở Ấn Độ và Pakistan. Những nhiệm vụ khác có vũ trang, chẳng hạn như UNEF-I, được thành lập trong cuộc khủng hoảng Suez. Họ đã thành công lớn trong vai trò này.
Trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh, Liên Hợp Quốc đã thực hiện một cách tiếp cận đa sắc thái hơn, đa chiều hơn đối với gìn giữ hòa bình. Năm 1992, sau hậu quả của Chiến tranh Lạnh, sau đó, Tổng thư ký Boutros Boutros-Ghali đã đưa ra một báo cáo mô tả chi tiết các khái niệm đầy tham vọng của ông cho Liên Hợp Quốc và gìn giữ hòa bình. Báo cáo có tiêu đề "Một chương trình nghị sự vì hòa bình đã" mô tả một loạt các biện pháp đa diện và liên kết với nhau mà ông hy vọng sẽ dẫn đến việc sử dụng hiệu quả LHQ trong vai trò của mình trong chính trị quốc tế sau Chiến tranh Lạnh. Điều này bao gồm việc sử dụng ngoại giao phòng ngừa, thực thi hòa bình, hòa bình, gìn giữ hòa bình và tái thiết sau xung đột. | 1 | null |
Phim thương mại ("exploitation film") là một tên gọi có thể được áp dụng cho bất kỳ bộ phim thường được coi là ngân sách sản xuất thấp và ít có giá trị về nghệ thuật, do đó mục tiêu chính của nó để đạt được thành công về lợi nhuận bằng cách "khai thác" các xu hướng đang "ăn khách" hiện tại của số đông khán giả. Những bộ phim này khi sản xuất cần có những cách thu hút người xem, như có sự góp mặt của các diễn viên, người mẫu... nổi tiếng, hiệu ứng đặc biệt, những cảnh khiêu dâm, bạo lực. | 1 | null |
Trung Hoa Dân Quốc (中華民國) là nhà nước cộng hòa đã cai trị vùng lãnh thổ Trung Quốc đại lục từ năm 1912 đến năm 1949 trước khi rời sang vùng lãnh thổ đảo Đài Loan và trở thành chính phủ của Đài Loan hiện tại. Năm 1912, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ khiến triều đại nhà Thanh do người Mãn Châu lãnh đạo sụp đổ. Cách mạng Tân Hợi lật đổ chế độ quân chủ kéo dài hai nghìn năm tại Trung Quốc, kiến lập nước cộng hòa. Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn Trung Sơn thành lập Chính phủ lâm thời tại Nam Kinh, tuyên bố kiến lập Trung Hoa Dân Quốc. Sau Nghị hòa Nam-Bắc, Chính phủ lâm thời dời thủ đô đến Bắc Kinh. Tháng 10 năm 1913, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc chính thức thành lập, song liền bị phân liệt không lâu sau đó. Trải qua Chiến dịch Bắc phạt của Quốc dân Cách mạng quân, Chính phủ Quốc dân Nam Kinh thay thế Chính phủ Bắc Dương vào năm 1928, thống nhất phía đông Trung Quốc trên danh nghĩa, song sau đó lại rơi vào xung đột với Đảng Cộng sản Trung Quốc, các thế lực quân phiệt vũ trang ở các địa phương và Đế quốc Nhật Bản. Từ sau sự kiện tháng 7 năm 1937, Nhật Bản tiến hành xâm lược toàn diện Trung Quốc, tháng 12 cùng năm thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc thất thủ, Chính phủ Quốc dân rút đến Trùng Khánh. Tháng 12 năm 1941, Chính phủ Quốc dân chính thức tuyên chiến với Nhật Bản, đến năm 1945 thì giành được thắng lợi. Năm 1947, Chính phủ Quốc dân ban bố hiến pháp, cải tổ thành Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc.
Trung Hoa Dân Quốc tồn tại trong thời kỳ 1912-1949, là thời đại phân liệt trong lịch sử Trung Quốc, từ Cách mạng Tân Hợi đến Cách mạng lần hai, Chiến tranh Hộ pháp, Chiến tranh Bắc phạt, Quân phiệt hỗn chiến, Chiến tranh kháng Nhật, Quốc-Cộng nội chiến, chưa khi nào có được hòa bình và thống nhất thực sự. Nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ này chịu thương vong lớn do chiến tranh, nạn đói và thiên tai, nạn lạm phát phi mã. Đồng thời, nhiều cường quốc kiểm soát các vùng lãnh thổ Trung Quốc: Nhật Bản chiếm đóng vùng Mãn Châu và nhiều tỉnh thành phía đông Trung Quốc, Liên Xô ủng hộ Ngoại Mông Cổ tách ra độc lập (nay là nước Mông Cổ), Anh Quốc kiểm soát Tây Tạng. Bên trong thì các Quân phiệt cát cứ ở khắp nơi và giao tranh hỗn loạn với nhau. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc về danh nghĩa là nhà nước hợp pháp của toàn Trung Quốc, nhưng thực chất chỉ nắm quyền cai trị chưa đầy một nửa lãnh thổ Trung Quốc.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Quốc lấy lại Đài Loan và Bành Hồ từ Nhật Bản. Trung Hoa Dân Quốc cũng tham gia sáng lập Liên Hợp Quốc và là một trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Trung Hoa Dân Quốc được coi là một cường quốc sau Thế chiến 2 nhưng thực chất nội bộ bên trong đang gặp rối loạn nghiêm trọng.
Năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền Trung Quốc Quốc dân Đảng bị lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại trong nội chiến, do đó để mất quyền thống trị tại Trung Quốc đại lục. Ngày 1 tháng 10 cùng năm, Đảng Cộng sản Trung Quốc kiến lập Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh, chính thức nắm quyền trên toàn Trung Quốc đại lục, đến tháng 12 cùng năm thì Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dời đến Đài Bắc, tiếp tục duy trì chủ quyền riêng đối với khu vực đảo Đài Loan, hình thành cục diện chia cắt hai bờ eo biển.
Lịch sử.
Sơ kỳ kiến quốc.
Những năm cuối thời Thanh, xã hội Trung Quốc bất ổn, Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng phát khiến Liên quân tám nước phát động chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc, buộc chính phủ triều đình Thanh phải ký Điều ước Tân Sửu.
Ngày 30 tháng 7 năm 1905, khi Tôn Trung Sơn triệu tập hội nghị trù bị Trung Quốc Đồng Minh hội tại Tokyo, Nhật Bản, trong "Trung Quốc Đồng Minh hội minh thư" có đề xuất cương lĩnh "khu trừ Thác Lỗ (nhà Thanh), khôi phục Trung Hoa, sáng lập dân quốc, bình quân địa quyền". Ông nhận thấy dù các chế độ cộng hòa đại đa số thi hành chế độ dân chủ đại nghị, song để xác lập nguyên tắc phát triển chủ quyền quốc gia thuộc toàn thể quốc dân, và hướng tới tiến hành dân quyền trực tiếp như Thụy Sĩ và Hoa Kỳ đang thực thi, nên mới chọn quốc hiệu là "Trung Hoa Dân Quốc". Ngày 20 tháng 10 năm 1923, Tôn Trung Sơn khi diễn giảng tại Hội Liên Hiệp Thanh niên Toàn quốc Quảng Châu một lần nữa nhấn mạnh Trung Hoa Dân Quốc là để nhân dân làm chủ.
Năm 1908, nhà Thanh ban bố "Khâm định hiến pháp đại cương", tuyên bố "mười năm sau thực thi lập hiến" để đối phó với các tiếng nói cải cách. Ngày 27 tháng 4 năm 1911, Trung Quốc Đồng Minh hội phát động Khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương tại Quảng Châu, song bị quân Thanh trấn áp.
Ngày 10 tháng 10 năm 1911, Cộng Tiến hội và Văn học xã phát động Khởi nghĩa Vũ Xương, trong vòng bảy tuần lễ có 15 tỉnh tại Trung Quốc tuyên bố thoát ly triều đình Thanh để độc lập, hình thành Cách mạng Tân Hợi có tính toàn quốc. Những người cách mạng một mặt trù tính tổ chức chính phủ lâm thời, một mặt tiến hành đàm phán với Viên Thế Khải, đến ngày 8 tháng 12 thì đạt được nhận thức chung: Nếu như Viên Thế Khải bức Hoàng đế thoái vị thì ông sẽ được bầu làm đại tổng thống lâm thời trong bối cảnh nội chiến. Ngày 29 tháng 12, tại Nam Kinh đại biểu các tỉnh tuyên bố độc lập bầu Tôn Trung Sơn làm đại tổng thống lâm thời. Cùng ngày, Jebtsundamba Khutuktu đời thứ tám thành lập Hãn quốc Bác Khắc Đa, tuyên bố Ngoại Mông Cổ thoát ly Trung Quốc và độc lập cho đến ngày nay. Tại thủ phủ Lhasa của Tây Tạng phát sinh náo loạn, quan viên và quân đồn trú của triều Thanh Trung Quốc bị xua đuổi, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 từ nơi lưu vong tại Ấn Độ trở về quản lý chính quyền Tây Tạng cho đến năm 1951 thì được Trung Quốc thu hồi trở lại. Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố chính thức thành lập, Tôn Trung Sơn tuyên thệ nhậm chức đại tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc.
Ngày 12 tháng 2 năm 1912, Long Dụ thái hậu trước khuyến nghị và bức bách của các đại thần triều đình Thanh như Viên Thế Khải, quyết định thay mặt Phổ Nghi công bố chiếu thư thoái vị, đồng thời trao quyền cho chính Viên Thế Khải lập chính phủ lâm thời, nhà Thanh chính thức diệt vong từ đây
Ngày 15 tháng 2 năm 1912, Viên Thế Khải được bầu làm đại tổng thống lâm thời thứ hai, rồi tuyên thệ nhậm chức tại Bắc Kinh vào ngày 10 tháng 3. Trong tuyển cử nghị viên quốc hội Trung Hoa Dân Quốc lần thứ nhất vào cuối năm 1912, Quốc dân đảng do Tống Giáo Nhân lãnh đạo giành đa số ghế trong lưỡng viện. Ngày 22 tháng 3 năm 1913, Tống Giáo Nhân thiệt mạng do bị ám sát trong khi sắp nhậm chức thủ tướng nội các, chính quyền quốc gia bị phái Bắc Dương quân phiệt gồm Viên Thế Khải kiểm soát. Tháng 7 cùng năm, Tôn Trung Sơn lấy lý do Tống Giáo Nhân bị ám sát và vay nợ quá nhiều, chỉ huy một số tỉnh miền nam phát động Cách mạng Lần thứ hai, song cuối cùng thất bại. Ngày 6 tháng 10 năm 1913, Viên Thế Khải được Quốc hội bầu làm đại tổng thống thứ nhất của Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 31 tháng 10, Quốc hội thông qua "dự thảo hiến pháp Thiên Đàn", sử dụng chế độ nội các để hạn chế quyền lực của Viên Thế Khải. Sau đó, Viên Thế Khải dùng tội danh tham dự Cách mạng Lần thứ hai để cấm Quốc dân đảng, đồng thời hạ lệnh giải tán Quốc hội. Ngày 18 tháng 3 năm 1914, Viên Thế Khải triệu tập Quốc dân đại hội sửa đổi "Ước pháp lâm thời" năm 1912, đổi chế độ nội các thành chế độ tổng thống, vào ngày 12 tháng 12 năm 1915 tuyên bố đổi quốc hiệu sang Trung Hoa Đế quốc. Các tướng quân Thái Ngạc, Đường Kế Nghiêu tại Vân Nam lập tức tuyên bố độc lập, đồng thời tổ chức "Hộ quốc quân" thảo phạt Viên Thế Khải. Ngày 22 tháng 3 năm 1916, Viên Thế Khải tuyên bố thủ tiêu chế độ quân chủ nhằm tìm cách duy trì giữ chức vụ tổng thống, song bị Hộ quốc quân cự tuyệt, ngày 6 tháng 6 cùng năm Viên Thế Khải bệnh mất.
Sau thời Viên Thế Khải, chính phủ trung ương thiếu thực lực quản lý thống nhất các địa phương, Trung Quốc tiến vào thời kỳ quân phiệt cát cứ. Thế lực chủ yếu của Quân phiệt Bắc Dương có Hoàn hệ (phái An Huy) do Đoàn Kỳ Thụy đứng đầu, Trực hệ (phái Trực Lệ) do Tào Côn đứng đầu và Phụng hệ (phái Phụng Thiên) do Trương Tác Lâm đứng đầu, họ nhiều lần hỗn chiến nhằm khống chế Chính phủ Bắc Dương. Ngoài ra, còn có các quân phiệt Tấn hệ (phái Sơn Tây) của Diêm Tích Sơn, Tây Bắc quân của Phùng Ngọc Tường, Điền hệ (phái Vân Nam) của Đường Kế Nghiêu và Quế hệ (phái Quảng Tây) của Lục Vinh Đình cát cứ một phương. Năm 1917, Tôn Trung Sơn và Việt hệ (phái Quảng Đông) hợp tác, lập ra Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tại Quảng Châu, phát động Chiến tranh Hộ pháp.
Dù Trung Hoa Dân Quốc là nước chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất song Chính phủ Bắc Dương tại Hội nghị hòa bình Paris 1919 bị buộc phải trao tô giới của Đế quốc Đức tại Sơn Đông cho Nhật Bản, dẫn đến Phong trào Ngũ Tứ. Phong trào Ngũ Tứ và Phong trào Tân văn hóa tạo ảnh hưởng sâu rộng đối với Trung Quốc, giới trí thức bắt đầu tìm kiếm đường lối cứu quốc mới, chủ nghĩa Marx bắt đầu được hoan nghênh tại Trung Quốc. Ngày 10 tháng 10 năm 1919, Tôn Trung Sơn cải tổ Trung Hoa Cách mạng đảng thành Trung Quốc Quốc dân Đảng. Ngày 23 tháng 7 năm 1921, Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập. Năm 1922, sau khi Phong trào Hộ pháp thất bại, Tôn Trung Sơn chọn chính sách "liên Nga dung Cộng", tiến hành cải tổ Trung Quốc Quốc dân Đảng theo mô hình Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời phái Tưởng Giới Thạch đến Moskva để tiếp nhận bồi dưỡng và huấn luyện chính trị-quân sự. Liên Xô đồng ý từ bỏ các nhượng địa ở Trung Quốc, và xóa bỏ những điều ước bất bình đẳng giữa Nga hoàng và triều đình Mãn Thanh, hỗ trợ Quốc dân đảng về mọi mặt nhưng Tôn Dật Tiên phải cho Đảng Cộng sản Trung Quốc gia nhập Quốc dân đảng. Tưởng Giới Thạch sau khi từ Liên Xô trở về nước tham dự kiến lập Trường quân sự Hoàng Phố, đồng thời nhậm chức hiệu trưởng, nhờ vậy sau này ông có được sự tín nhiệm và trung thành của các tướng lĩnh cao cấp của Trung Hoa Dân Quốc, những người từng được đào tạo tại Hoàng Phố, với tư cách là học trò của ông.
Quốc dân đảng nhận được viện trợ tài chính, quân sự và các cố vấn Liên Xô do Mikhail Markovich Borodin đứng đầu để thành lập quân đội theo kiểu Liên Xô, đồng thời tổ chức lại Quốc dân đảng theo mô hình của người Bolsevik. Tháng 2 năm 1925, thầy trò Trường quân sự Hoàng Phố đánh tan thế lực Việt hệ quân phiệt. Tháng 7 cùng năm, Đại bản doanh đại nguyên soái lục-hải quân cải tổ thành Chính phủ Quốc dân, Uông Tinh Vệ nhậm chức Chủ tịch Chính phủ Quốc dân; cải tổ 'Hoàng Phố học sinh quân' và bộ đội các địa phương thành Quốc dân Cách mạng quân, Tưởng Giới Thạch nhậm chức tổng tư lệnh. Ngày 9 tháng 7 năm 1926, Quốc dân Cách mạng quân tuyên thệ Bắc phạt tại Quảng Châu. Cùng năm, Tây Bắc quân của Phùng Ngọc Tường, Tấn hệ của Diêm Tích Sơn lần lượt gia nhập Quốc dân Cách mạng quân. Liên Xô cũng cung cấp vũ khí cho cuộc chiến Bắc phạt của Quốc dân đảng. Dù sau này Tưởng Giới Thạch nổi tiếng chống cộng nhưng Liên Xô đã đóng vai trò rất lớn trong sự hình thành quân đội Trung Hoa Dân Quốc, trong việc Quốc dân đảng giành được chính quyền trung ương, cũng như trong sự phát triển của Quốc dân đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc lẫn Quốc dân đảng đều là những bản sao của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhờ cách tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ mà Quốc dân đảng có được sức mạnh tổ chức mà các đảng phái khác (trừ Đảng Cộng sản Trung Quốc) và các quân phiệt không có được. Sau này Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Trung Quốc theo lối "dĩ đảng trị quốc" cũng là học từ Liên Xô trước khi Đài Loan cải cách chính trị theo hướng cộng hoà đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập.
Thời kỳ huấn chính.
Ngày 7 tháng 9 năm 1926, quân Bắc phạt công chiếm Hán Khẩu, ngày 8 tháng 11 công chiếm Nam Xương, ngày 11 tháng 11, Chính phủ Quốc dân tại Quảng Châu quyết định dời về phía bắc đến Vũ Hán, Tưởng Giới Thạch thì chủ trương thiên đô đến Nam Xương đang do ông khống chế. Tháng 3 năm 1927, quân Bắc phạt chiếm xong Thượng Hải và Nam Kinh, song giữa thế lực chống cộng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu và thế lực dung cộng do Uông Tinh Vệ đứng đầu phát sinh phân liệt. Tưởng Giới Thạch sau thời gian ở Liên Xô đã trở nên căm ghét chủ nghĩa cộng sản. Ông hủy bỏ chính sách Liên minh với Nga của Tôn Trung Sơn. Mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Hoa Dân Quốc gia tăng tới mức vào tháng 4 năm 1927, Stalin gửi thư cho Đảng Cộng sản Trung Quốc kêu gọi nổi dậy vũ trang. Ngày 6 tháng 4 năm 1927, Stalin tuyên bố Quân đội Quốc dân đảng là kẻ thù và Tưởng phải bị lật đổ. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, bùng phát sự kiện Tứ Nhất Nhị tại Thượng Hải khi Tưởng Giới Thạch phát động chính biến tiêu diệt các đảng viên cộng sản, đến ngày 18 tháng 4 ông lập ra Chính phủ Quốc dân riêng tại Nam Kinh. Ngày 15 tháng 7, Uông Tinh Vệ tại Vũ Hán cũng bắt đầu tiêu diệt Đảng viên cộng sản, Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất do đó kết thúc.
Ngày 1 tháng 8 năm 1927, Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động Khởi nghĩa Nam Xương, bắt đầu sử dụng vũ lực đoạt chính quyền, mở màn Quốc-Cộng nội chiến lần thứ nhất kéo dài 10 năm liên tục. Tháng 5 năm 1928, Quốc dân Cách mạng quân tại Tế Nam bị quân đội Nhật Bản đánh chặn gây ra Thảm án Ngũ Tam, phải đi đường vòng để Bắc phạt. Tháng 6 năm 1928, quân Bắc phạt chiếm được Bắc Kinh. Ngày 29 tháng 12 cùng năm, lãnh đạo Phụng hệ là Trương Học Lương đánh điện đến Nam Kinh, tuyên bố tiếp nhận Chính phủ Quốc dân cai quản, đánh dấu thắng lợi của Chính phủ Quốc dân trong Bắc phạt, thống nhất Trung Quốc trên danh nghĩa. Tuy nhiên, không lâu sau giữa trung ương và quân phiệt địa phương bùng phát Trung Nguyên đại chiến, còn xung đột Quốc-Cộng tiếp tục tiến hành.
Năm 1927, sau khi Trung Hoa Dân Quốc định đô tại Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch căn cứ theo "Đại cương kiến quốc Chính phủ Quốc dân" do Tôn Trung Sơn đề xuất, thực thi cấu trúc huấn chính lấy Quốc dân đảng làm cốt lõi lãnh đạo quốc gia, tạm thời thi hành chế độ một đảng, đồng thời chế định "Ước pháp thời kỳ huấn chính Trung Hoa Dân Quốc" làm hiến pháp lâm thời. Trong thời kỳ này, Chính phủ Quốc dân có thành tựu trong phát triển quan hệ ngoại giao, giao thông vận tải, tài chính công cộng, sinh hoạt dân sinh, văn hóa, thậm chí do đạt nhiều thành tựu cải cách nên được tán tụng là Thập niên Nam Kinh. Trong đó, Chính phủ liên tục thành lập các cơ cấu như Viện Nghiên cứu Trung ương, Ngân hàng Trung ương, ngoài ra còn thi hành ổn định vật giá, cải cách ngân hàng và thống nhất chế độ tiền tệ, và các chính sách kinh tế-xã hội khác; đồng thời chính phủ mở rộng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, khiến tăng trưởng công nghiệp đạt trên 7,7%. Thời kỳ năm 1932, đoàn đại biểu Trung Hoa Dân Quốc lần đầu tiên được phái tham dự Thế vận hội Mùa hè.
Năm 1931, Đế quốc Nhật Bản phát động Sự biến 28/9 xâm nhập Đông Bắc Trung Quốc đồng thời kiến lập Mãn Châu Quốc, sau đó Nhật Bản không ngừng phát động các hành động đối địch như Chiến dịch Trường Thành, Sự biến Hoa Bắc, song Trung Quốc Quốc dân Đảng lại chọn chính sách ổn định bên trong trước khi dẹp trừ ngoại xâm, một mặt liên tiếp thỏa hiệp với Nhật Bản, một mặt tăng cường diệt cộng. Ngày 12 tháng 12 năm 1936, các tướng lĩnh Quốc dân đảng chủ trương đoàn kết kháng Nhật là Trương Học Lương và Dương Hổ Thành phát động sự biến Tây An, buộc Tưởng Giới Thạch phải đình chỉ diệt cộng, đồng thời tái khởi động hợp tác cùng Đảng Cộng sản Trung Quốc, cùng phản kích Nhật Bản xâm lược. Hồng quân Công-Nông Trung Quốc của Đảng Cộng sản được cải biên thành Bát lộ quân và Tân Tứ quân thuộc Quốc dân Cách mạng quân.
Kháng chiến và Nội chiến.
Ngày 7 tháng 7 năm 1937, Nhật Bản phát động Sự kiện Lư Câu Kiều, Chiến tranh Trung-Nhật bùng phát toàn diện. Đến tháng 12 cùng năm, thủ đô Nam Kinh của Trung Hoa Dân Quốc thất thủ, Chính phủ Quốc dân triệt thoái đến Trùng Khánh. Thời kỳ Chiến tranh kháng Nhật, Quốc dân Cách mạng quân ước tính có 1,7 triệu người nhập ngũ tác chiến, mặc dù Quốc dân Cách mạng quân ở thế yếu trong suốt chiến tranh do các nhân tố như trang bị và kinh tế, song vẫn cầm chân thành công quân Nhật trên chiến trường Trung Quốc, và giành thắng lợi trong một số chiến dịch. Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng mở màn Chiến tranh Thái Bình Dương, sang ngày 8 Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật, đến ngày 9 Chính phủ Quốc dân chính thức tuyên chiến với Nhật, gia nhập Đồng Minh, Anh Quốc cũng mở tuyến đường Vân Nam-Miến Điện để vận chuyển cung cấp vật tư. Nhật Bản lần lượt thành lập các chính quyền bù nhìn như Chính phủ Tự trị Liên hiệp Mông Cương, Chính quyền Uông Tinh Vệ, ngày 9 tháng 1 năm 1943 Chính phủ Quốc dân Uông Tinh Vệ tuyên chiến với liên minh Anh-Mỹ. Đầu tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản, đồng thời Liên Xô tuyên chiến với Nhật, xuất binh chiếm cứ khu vực Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Thiên hoàng Nhật Bản tuyên bố Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, đến ngày 2 tháng 9 cùng năm Nhật Bản ký vào Văn kiện đầu hàng. Ngày 9 tháng 9, Chính phủ Quốc dân tiếp nhận thư đầu hàng của Nhật Bản tại Nam Kinh, đến lúc này Trung Hoa Dân Quốc giành thắng lợi trong Chiến tranh kháng Nhật, đến năm sau dời thủ đô về Nam Kinh. Chính phủ Quốc dân căn cứ theo Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam không chỉ thu hồi lãnh thổ bị Nhật Bản chiếm cứ trong chiến tranh và khu vực Mãn Châu do Nhật Bản khống chế, mà còn tiếp quản Đài Loan và Bành Hồ bị nhà Thanh cắt nhượng cho Nhật Bản. Đồng thời, Chính phủ Quốc dân thông qua đàm phán khiến các quốc gia Âu-Mỹ triệt tiêu các điều ước bất bình đẳng, và cùng với các quốc gia như Anh Quốc và Hoa Kỳ đổi sang ký kết các điều ước bình đẳng.
Bắt đầu từ năm 1945, Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản triển khai hòa đàm thành lập chính phủ liên hiệp do Hoa Kỳ làm trung gian. Ngày 25 tháng 12 năm 1946, Quốc dân đại hội lập hiến pháp do Quốc dân đảng khống chế thông qua "Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc", song bị Đảng Cộng sản tẩy chay. Đầu năm 1947, sau khi Hoa Kỳ hòa giải thất bại, Quốc-Cộng nội chiến lần thứ hai bùng phát toàn diện. Đồng thời, Chính phủ Dân quốc có chính sách sai lầm, gây ra lạm phát phi mã, để mất lòng dân. Ngày 28 tháng 2 năm 1947, tại Đài Loan bùng phát sự kiện chống đối Quốc dân đảng. Cuối năm 1947, Chính phủ Quốc dân theo yêu cầu của các giới chính thức ban bố hiến pháp, thực thi hiến chính, đồng thời cải tổ thành Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1948, Tưởng Giới Thạch và Lý Tông Nhân được bầu làm tổng thống và phó tổng thống đầu tiên sau khi thi hành hiến pháp, chính thức nhậm chức vào ngày 20 tháng 5 cùng năm. Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu triển khai phản công chiến lược Quốc dân đảng, đồng thời đổi tên lực lượng vũ trang của mình thành Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, sau ba chiến dịch lớn Đảng Cộng sản Trung Quốc hoàn toàn khống chế khu vực Đông Bắc và khu vực Hoa Bắc.
Cuối tháng 1 năm 1949, Tưởng Giới Thạch tuyên bố từ nhiệm, Lý Tông Nhân tạm thời đảm nhiệm chức vụ tổng thống. Tháng 4 năm 1949, sau khi đàm phán giữa Chính phủ Quốc dân và Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bắc Bình tan vỡ, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc phát động chiến dịch vượt Trường Giang, chiếm lĩnh thủ đô Nam Kinh và trung tâm kinh tế Thượng Hải. Quyền tổng thống Lý Tông Nhân của Trung Hoa Dân Quốc nhận thấy đại thế đã mất nên đã bay sang Mỹ qua Hồng Kông, Tưởng Giới Thạch triệt thoái đến khu vực Tây Nam tiếp tục chỉ huy quân đội kháng cự.
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh, đến tháng 12 cùng năm Tưởng Giới Thạch hạ lệnh chính phủ trung ương từ khu vực Tây Nam triệt thoái và phòng thủ khu vực Đài Loan, đồng thời lấy Đài Bắc làm thủ đô lâm thời. Trong quá trình triệt thoái, ngoài việc đem ngoại hối vàng dự trữ đến Đài Loan, rất nhiều binh lính và cư dân Đại lục theo Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc rút sang khu vực Đài Loan.
Chính trị.
Chính phủ trung ương.
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là cơ cấu cai trị quốc gia, lịch sử sớm nhất có thể truy đến Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc được triệu tập tại Vũ Xương vào năm 1911, về sau trải qua nhiều lần thay đổi chính quyền như Chính phủ Lâm thời Nam Kinh, Chính phủ Lâm thời Bắc Kinh, Chính phủ Bắc Dương, Chính phủ Quốc dân. Ngay sau Khởi nghĩa Vũ Xương, Phủ đô đốc Quân đội Hồ Bắc Chính phủ quân sự Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Lê Nguyên Hồng nhậm chức đô đốc, đồng thời căn cứ theo "Cách mạng phương lược" của Tôn Trung Sơn, tuyên bố phế trừ niên hiệu Tuyên Thống của triều đình Thanh, đổi quốc hiệu thành Trung Hoa Dân Quốc. Đây là chính phủ quân sự cấp tỉnh đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc.
Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc chính thức thành lập tại Nam Kinh, đây là cơ cấu chính phủ trung ương đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi Ước pháp Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc được công bố thi hành, Chính phủ Lâm thời Bắc Kinh kế thừa Chính phủ Lâm thời Nam Kinh, đến ngày 10 tháng 10 năm 1913 Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc chính thức thành lập. Chính phủ Bắc Dương là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho Trung Quốc từ năm 1912 đến năm 1928, nhìn chung có thể phân thành bốn giai đoạn là thời kỳ Viên Thế Khải thống trị từ 1912-1916, thời kỳ Hoàn hệ quân phiệt thống trị từ 1916-1920, thời kỳ Trực hệ quân phiệt thống trị từ 1920-1924, và thời kỳ Phụng hệ quân phiệt thống trị từ 1924-1928. Từ sau Bắc phạt năm 1928, Chính phủ Quốc dân Nam Kinh thay thế Chính phủ Bắc Dương.
Ngày 2 tháng 4 năm 1921, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (Quảng Châu) được thành lập, Tôn Trung Sơn nhậm chức "đại tổng thống phi thường", lần đầu tiên sử dụng "Thanh Thiên Bạch Nhật Mãn Địa Hồng kỳ" làm quốc kỳ, nhằm phản đối tính hợp pháp của Chính phủ Bắc Dương, đến năm sau do Vận động Hộ pháp lần thứ hai thất bại nên giải thể. Ngày 2 tháng 3 năm 1923, Tôn Trung Sơn về Quảng Châu lập Đại bản doanh Đại nguyên soái Lục-Hải quân, tái lập chính phủ quân sự; đến ngày 1 tháng 7 năm 1925, cải tổ thành Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Bắc phạt thành công thay thế Chính phủ Bắc Dương làm chính phủ trung ương và cơ quan hành chính tối cao của Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 20 tháng 5 năm 1948, Chính phủ Quốc dân cải tổ thành Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, chức vụ Chủ tịch Chính phủ Quốc dân đổi thành "Tổng thống", duy trì đến nay.
Thời kỳ đầu, nguyên thủ quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc gọi là "đại tổng thống Trung Hoa Dân Quốc", sau Bắc phạt thì đổi thành "Chủ tịch Chính phủ Quốc dân"; đến sau khi thi hành hiến pháp năm 1947 thì gọi là "tổng thống Trung Hoa Dân Quốc". Tôn Trung Sơn là đại tổng thống lâm thời đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, Viên Thế Khải là đại tổng thống chính thức đầu tiên, chủ tịch Chính phủ Quốc dân đầu tiên là Uông Tinh Vệ, tổng thống Trung Hoa Dân Quốc đầu tiên là Tưởng Giới Thạch.
Quân phiệt cát cứ địa phương.
Ngoài khu vực chịu sự khống chế của chính phủ trung ương, trong lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc còn tồn tại rất nhiều chính quyền cát cứ địa phương hoặc thế lực cát cứ, trong đó chính quyền Ngoại Mông Cổ, Tây Tạng, chính quyền Đảng Cộng sản và chính quyền bù nhìn của Nhật Bản từng tuyên bố độc lập.
Chế độ pháp luật.
"Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc" là bộ luật căn bản của quốc gia, dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Tam Dân và Ngũ quyền phân lập của Tôn Trung Sơn. Chủ nghĩa Tam Dân chủ trương chủ nghĩa dân tộc bình đẳng cùng tồn tại giữa các dân tộc và quốc gia, chủ nghĩa dân quyền mà theo đó công dân được thi hành quyền lợi chính trị quản lý chính phủ, và chủ nghĩa dân sinh mà theo đó chính phủ vì nhân dân phục vụ và xây dựng kinh tế-xã hội phồn vinh, do đó "Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc chỉ rõ chế độ là "nước cộng hòa dân chủ của dân, do dân, vì dân". Ngũ quyền hiến pháp xác lập chế độ tư pháp độc lập với các quyền hành chính, quyền lập pháp, quyền khảo thí và quyền giám sát. Ngoài quy định ngũ quyền hiến pháp của thể chế chính phủ trung ương và chế độ chính phủ tự trị địa phương, hiến pháp còn làm rõ quyền hạn giữa chính phủ trung ương và chính phủ địa phương, chọn chế độ bình quyền, các quốc sách cơ bản khác.
Ngày 11 tháng 3 năm 1912, Tôn Trung Sơn công bố "Ước pháp lâm thời Trung Hoa Dân Quốc" để làm pháp luật cơ bản lâm thời của quốc gia, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc tư tưởng "chủ quyền tại dân" được đưa vào pháp quy.
Năm 1913, Quốc hội khóa I của Trung Hoa Dân Quốc đề xuất dự thảo hiến pháp (còn gọi là Dự thảo hiến pháp Thiên Đàn). Năm 1914, Viên Thế Khải giải tán quốc hội, đến ngày 1 tháng 5 cùng năm ông công bố "Ước pháp Trung Hoa Dân Quốc" (còn gọi là Ước pháp Viên ký"). Năm 1919, trong thời kỳ Đoàn Kỳ Thụy chấp chính, có đề xuất dự thảo hiến (Dự thảo hiến pháp năm thứ 8).
Năm 1923, trong thời kỳ Tào Côn nhậm chức đại tổng thống đã công bố "Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc (Hiến pháp Tào Côn). Năm 1925, Đoàn Kỳ Thụy trong thời gian tại nhiệm lần thứ hai lại đề xuất dự thảo hiến pháp (Dự thảo hiến pháp năm thứ 14) Năm 1928, sau khi Quốc dân đảng thống nhất Trung Quốc, vào ngày 3 tháng 10 cùng năm Ủy ban Thường vụ Trung ương của đảng này thông qua "Cương lĩnh huấn chính", vào ngày 5 tháng 5 năm 1931 trong Đại hội đảng thông qua "Ước pháp thời kỳ huấn chính Trung Hoa Dân Quốc". Ngày 5 tháng 5 năm 1936, Chính phủ Quốc dân công bố dự thảo hiến pháp, là tiền thân của Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc hiện nay. Ngày 25 tháng 12 năm 1946, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc được thông qua, được công bố vào đầu năm 1947 và thi hành từ ngày 25 tháng 12 cùng năm. Từ đó, Trung Hoa Dân Quốc kết thúc thời kỳ huấn chính, chính thức bước vào thời kỳ hiến chính. Tuy nhiên, Quốc-Cộng nội chiến khiến rất nhiều điều khoản mất hiệu lực.
Sau khi Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào năm 1912, Chính phủ Bắc Dương lấy phương thức "trên nguyên tắc kế thừa pháp chế triều Thanh" trong thời kỳ quá độ. Ngày 21 tháng 2 năm 1913, Bộ Tư pháp lệnh cho các tỉnh cải tổ tòa án: tại các tỉnh thành lập tòa án cao đẳng, tại khu hành chính cấp địa khu và thương cảng lập tòa án cấp địa phương, địa phương cấp huyện tòa án sơ cấp". Tháng 10 năm 1927, Chính phủ Quốc dân Nam Kinh công bố "Điều lệ tạm thời tổ chức Tòa án tối cao", thực hiện chế độ bốn cấp và ba lần xét xử. Bốn cấp tức là tại trung ương lập tòa án tối cao, tại địa phương lập tòa án cấp cao, tòa án địa phương, các huyện không lập tòa án địa phương thì lập cơ quan tư pháp. Tháng 10 năm 1932, ban bố quy định tổ chức tòa án, theo đó cơ quan thẩm phán phổ thông trung ương và địa phương, từ bốn cấp giảm còn ba cấp: trung ương lập tòa án tối cao, cấp tỉnh có tòa cao đẳng, cấp huyện có tòa án địa phương.
Đảng phái chính trị.
Tháng 3 năm 1912, Chính phủ Lâm thời Bắc Kinh ban bố "Ước pháp Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc", trong đó quy định: "nhân dân có tự do ngôn luận, sáng tác, lưu hành và tụ họp, lập hội", lần đầu tiên quy định dưới hình thức pháp luật về tự do và quyền lợi lập hội lập đảng, tham gia chính trị của mọi người, tạo hoàn cảnh xã hội thuận lợi để các chính đảng nổi lên. Sau đó, nhóm Chương Bỉnh Lân lập Thống Nhất đảng, Đồng Minh hội cải tổ thành Thể chế Nội chính đảng, các chính đảng đầu thời kỳ Dân quốc xuất hiện như nấm mọc sau mưa. Trong đó, các chính đảng có sức ảnh hưởng khá lớn là: Trung Quốc Tiến bộ Đảng, Trung Quốc Quốc dân Đảng, Trung Quốc Thanh niên Đảng và Trung Quốc Trí công Đảng.
Tháng 8 năm 1912, Tống Giáo Nhân liên hiệp thống nhất Cộng hòa đảng, Quốc dân Cộng tiến đảng, Quốc dân công đảng và Cộng hòa Thực tiến hội thành Quốc dân đảng, mục tiêu là lập nội các theo ước pháp lâm thời, quản lý thực quyền chính trị. Cuối năm 1912, trong tuyển cử Tham nghị viện và Chúng nghị viện của Quốc hội, Quốc dân đảng giành được 45% số ghế của lưỡng viện. Tháng 3 năm 1913, Tống Giáo Nhân ám sát thiệt mạng trước khi nhậm chức thủ tướng nội các. Tháng 11 cùng năm, Viên Thế Khải xác định Quốc dân đảng là tổ chức phi pháp, hạ lệnh giải tán. Ngày 10 tháng 10 năm 1919, Tôn Trung Sơn cải tổ Trung Hoa Cách mạng đảng thành Trung Quốc Quốc dân Đảng. Năm 1925, Trung Quốc Quốc dân Đảng lập Chính phủ Quốc dân bắt đầu Bắc phạt, đến năm 1928 thì thay thế Chính phủ Bắc Dương, chính thức thống nhất Trung Quốc về danh nghĩa.
Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập vào ngày 23 tháng 7 năm 1921 tại Nam Hồ, Gia Hưng, Chiết Giang, thời kỳ đầu lập đảng họ hợp tác với Quốc dân đảng "phản đế phản phong kiến". Sau khi Tôn Trung Sơn từ trần vào năm 1925, Quốc-Cộng hợp tác dần bất ổn định. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch thực thi "thanh đảng", phái hữu trong Quốc dân đảng chính thức đoạn tuyệt với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 1 tháng 8 năm 1927, Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động Khởi nghĩa Nam Xương, ngày 28 tháng 4 năm 1928 Hồng quân của Mao Trạch Đông và Chu Đức hội quân tại Tỉnh Cương Sơn, dần lập khu xô viết tại tại các khu vực giáp giới như miền nam Giang Tây, miền tây Phúc Kiến, trải qua năm lần Quốc dân đảng vây diệt trong giai đoạn 1930-1933, và Trường chinh trong giai đoạn 1934-1936, cuối cùng giành được thắng lợi trong Quốc-Cộng nội chiến, kết thúc thời kỳ thống trị của Trung Quốc Quốc dân Đảng tại Đại lục, lập ra nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Trung Quốc Thanh niên Đảng được sáng lập tại Paris, Pháp vào năm 1923, từng là chính đảng lớn thứ ba trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, vào năm 1949 theo Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan. Trung Quốc Trí Công đảng được thành lập tại San Francisco, Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 10 năm 1925, Trần Quýnh Minh làm chủ tịch, Đường Kế Nghiêu làm phó chủ tịch, hiện là một trong tám đảng phái dân chủ tại Trung Quốc.
Cương vực.
Ước pháp Lâm thời năm 1912 có quy định trong Điều 3 rằng lãnh thổ quốc gia gồm 22 tỉnh, Nội-Ngoại Mông Cổ, Tây Tạng, Thanh Hải. Ước pháp thời kỳ huấn chính năm 1931 có quy định trong điều 1 rằng lãnh thổ quốc gia gồm các tỉnh cùng với Mông Cổ và Tây Tạng. Trong Hiến pháp năm 1947 tại Điều 4 có quy định "lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc căn cứ theo cương vực cố hữu của mình", song không định nghĩa rõ phạm vi. Có thuyết nhận định, Trung Hoa Dân Quốc thời kỳ Đại lục có tổng diện tích là 11.418.194 km², là nước lớn thứ hai trên lục địa thế giới, cương vực xa đến đỉnh Sayan tại Tannu Uriankhai ở phía bắc; phía đông đến nơi hợp lưu của Hắc Long Giang và Ô Tô Lý Giang; phía nam đến đảo Hải Nam; phía tây đến sông Panj thuộc Cao nguyên Pamir.
Phân cấp hành chính.
Năm đầu tiên lập quốc, toàn quốc được phân thành 22 tỉnh cộng với Ngoại Mông Cổ, Nội Mông Cổ, địa phương Thanh Hải, địa phương Tây Tạng. địa khu Altai, Tarbagatai. Ngày 8 tháng 1 năm 1913, Chính phủ Bắc Kinh công bố lệnh xác lập chế độ hành chính gồm ba cấp là tỉnh, đạo, huyện, đơn vị hành chính cấp tỉnh gồm tỉnh, khu hành chính đặc biệt, địa phương và trực hạt thị. Năm 1914, Chính phủ Bắc Dương lập mới bốn khu vực hành chính đặc biệt, bốn địa phương, hai thương cảng cấp tỉnh và ba địa khu Tarbaghatai, Altay, Ili, tổng cộng toàn quốc có 35 đơn vị cấp tỉnh. Tháng 5 năm 1924, thu hồi vùng đất phụ thuộc đường sắt Trung Đông từ Nga, lập khu đặc biệt Đông Tỉnh. Năm 1926, ba địa khu Tarbaghatai, Altay, Ili được nhập vào tỉnh Tân Cương.
Sau khi Chính phủ Quốc dân định đô tại Nam Kinh năm 1927, phế bỏ cấp đạo, lập riêng khu đốc sát hành chính, đổi tên hai tỉnh Trực Lệ và Phụng Thiên là Hà Bắc và Liêu Ninh, nhập địa phương Kinh Triệu vào tỉnh Hà Bắc, chuyển bốn khu hành chính đặc biệt là Nhiệt Hà, Sát Cáp Nhĩ, Tuy Viễn, Xuyên Biên, và địa phương Thanh Hải thành tỉnh, trong đó Xuyên Biên đổi tên thành Tây Khang, lập mới tỉnh Ninh Hạ. Năm 1930, từ nhượng địa thu hồi từ Anh Quốc lập ra khu hành chính Uy Hải Vệ, đồng thời trước sau đặt 9 thành phố đặc biệt là Nam Kinh, Thượng Hải, Bắc Bình, Thiên Tân, Thanh Đảo, Vũ Hán (sau đổi thành Hán Khẩu), Quảng Châu (sau đổi sang thuộc tỉnh, sau thế chiến lại thăng cấp), Tây Kinh (sau đổi sang thuộc tỉnh, sau thế chiến đổi thành Tây An và thăng cấp), Trùng Khánh (đặt trong thời kỳ kháng chiến). Cho đến trước kháng chiến chống Nhật bùng phát, toàn quốc có 38 đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Sau khi đại chiến kết thúc vào năm 1945, Trung Hoa Dân Quốc tiếp nhận Đài Loan và Đông Bắc từ Nhật Bản, khu vực Đông Bắc đặt thành 9 tỉnh và ba thành phố, khu hành chính Uy Hải Vệ đổi sang thuộc tỉnh, đồng thời thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập. Năm 1947, tổng cộng có 35 tỉnh và 12 trực hạt thị, cùng với địa phương Tây Tạng. Năm 1948, đặt khu hành chính đặc biệt Hải Nam tại đảo Hải Nam và các đảo trên Biển Đông.
Thay đổi thủ đô.
Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc thành lập tại Nam Kinh, sau Nghị hòa Nam-Bắc thì dời đến Bắc Kinh. Sau đó, Chính phủ Lâm thời và Chính phủ Bắc Dương đều đặt thủ đô quốc gia tại Bắc Kinh. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân hoàn thành Bắc phạt, quyết định định đô tại Nam Kinh, đồng thời Điều 5 trong "Ước pháp thời kỳ huấn chính Trung Hoa Dân Quốc" có quy định rõ rằng đặt quốc đô tại Nam Kinh. Tháng 7 năm 1937, Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, ngày 21 tháng 11 cùng năm Chính phủ Quốc dân tuyên bố dời cơ cấu chính phủ trung ương từ Nam Kinh đến Trùng Khánh. Trung tâm tác chiến quân sự trước được dời đến Vũ Hán, sau khi Hội chiến Vũ Hán bùng phát thì dời đến Trùng Khánh. Sau khi kháng chiến thắng lợi, Chính phủ Quốc dân ban bố "lệnh hoàn đô", tuyên bố ngày 5 tháng 5 năm 1946 "khải toàn Nam Kinh". Trong Quốc-Cộng nội chiến, thủ đô Trung Hoa Dân Quốc nhiều lần di dời, cuối cùng đến tháng 12 năm 1949 được dời đến Đài Bắc.
Thành thị chủ yếu.
Thời kỳ đầu kiến quốc, Trung Hoa Dân Quốc đổi "phủ" trước đó thành huyện, đương thời từng có một số huyện xúc tiến chế độ đô thị, song đều bị Chính phủ Bắc Dương ngăn chặn. Tháng 2 năm 1921, Chính phủ quân sự Trung Hoa Dân Quốc đổi Quảng Châu thành "thị" (thành phố), mở đầu trào lưu các địa phương toàn quốc thi hành chế độ đô thị. Ngày 3 tháng 7 cùng năm, Chính phủ Bắc Dương ban bố "chế độ tự trị đô thị", phân đô thị thành hai loại là thành phố đặc biệt và thành phố phổ thông, toàn quốc tổng cộng có sáu thành phố đặc biệt là Kinh Đô, Tân Cô (nay là Nam Kinh), Tùng Hỗ (nay là Thượng Hải), Thanh Đảo, Cáp Nhĩ Tân, Hán Khẩu (nay là Vũ Hán). Năm 1930, Chính phủ Quốc dân ra "pháp lệnh tổ chức thành phố", phân ra thành "tỉnh hạt thị" và "viện hạt thị". "Tỉnh hạt thị" đồng cấp với các huyện, "viện hạt thị" đồng cấp với các tỉnh, yêu cầu nhân khẩu cần vượt quá một triệu, song cũng có ngoại lệ. Sau khi công bố Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc, "viện hạt thị" đổi sang gọi là "trực hạt thị". Năm 1949, toàn quốc tổng cộng có 12 trực hạt thị:
Ngoại giao.
Chính phủ Bắc Dương.
Sau Cách mạng Tân Hợi lật đổ triều đại Thanh, Trung Quốc rơi vào tình trạng cát cứ địa phương và hỗn chiến quân phiệt. Năm 1913, nhằm đổi lấy viện trợ và thừa nhận của Nga cho Chính phủ Bắc Dương, Viên Thế Khải ký kết "Hiệp ước Trung-Nga-Mông". Từ đó, thế lực người Nga xâm nhập Ngoại Mông Cổ. Cùng năm, Chính phủ Bắc Dương nhằm giải quyết vấn đề quốc khố trống rỗng nên đã vay từ tổ chức ngân hàng của năm quốc gia Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật tổng cộng 25 triệu bảng, đồng thời đồng ý lấy thuế muối, thuế hải quan để thế chấp, giao công việc quản lý muối cho người ngoài quản lý, bị nhìn nhận là làm mất chủ quyền, quốc gia chịu nhục. Ngày 29 tháng 5 năm 1914, Nhật Bản gây áp lực khiến Viên Thế Khải ký kết "Biện pháp thi hành giảm thuế vận chuyển hàng hóa Trung-Nhật giữa Nam Mãn Châu và Triều Tiên", thương nghiệp khu vực Đông Bắc do đó bị người Nhật lũng đoạn. Sau Cách mạng Thứ hai, Viên Thế Khải sợ Nhật Bản viện trợ cho Tôn Trung Sơn, do đó đặc phái hai nhân vật là Tôn Bảo Kỳ, Lý Thịnh Đạc sang Nhật Bản điều đình, Nhật Bản nhân cơ hội này đề xuất quyền xây dựng năm tuyến đường sắt tại Đông Bắc làm yêu sách. Tháng 7 năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng phát, tháng 9 cùng năm Nhật Bản tuyên chiến với Đức. Lúc đầu, Viên Thế Khải tuyên bố Trung Quốc trung lập, đồng thời cấm chỉ Đức và Nhật giao chiến trên lãnh thổ Trung Quốc, song do bị Nhật Bản uy hiếp nên sau đó phải thừa nhận miền đông tỉnh Sơn Đông là khu vực giao chiến. Sau khi quân đội Nhật Bản đổ bộ tại Sơn Đông, họ không tập trung binh lực tiến công quân Đức mà hướng về phía tây chiếm lĩnh toàn tuyến đường sắt Sơn Đông từ Thanh Đảo đến Tế Nam. Đương thời, Trung Quốc bị cô lập và không có viện trợ, Anh và Nga đều ngầm chấp thuận Nhật Bản xâm nhập Trung Quốc, Hoa Kỳ dù đồng tình với Trung Quốc song không muốn đối lập với Nhật Bản. Ngày 7 tháng 1 năm 1915, Chính phủ Bắc Dương yêu cầu quân Nhật triệt thoái về nước, hoặc tạm thời lưu trú tại Thanh Đảo. Nhật Bản thấy các quốc gia Âu Mỹ không rảnh để chú ý đến Viễn Đông, lại thấy được dã tâm xưng đế của Viên Thế Khải, ngày 8 tháng 1 công sứ Nhật Bản tại Trung Quốc đề xuất Yêu cầu 21 điều với Viên Thế Khải, quân Nhật chiếm lĩnh Thanh Đảo cho đến năm 1922. Ngày 14 tháng 3 năm 1917, Trung Quốc và Đức đoạn tuyệt quan hệ, ngày 14 tháng 8 cùng năm Chính phủ Bắc Kinh ban bố "Bố cáo Đại tổng thống" của Phùng Quốc Chương, chính thức tuyên chiến với Đức, Áo. Ngày 15 tháng 9 năm 1919, Trung Quốc tuyên bố kết thúc chiến tranh với Đức, song Trung Quốc với tư cách nước chiến thắng lại không bảo vệ lợi ích quốc gia tại Hội nghị hòa bình Paris, Trung Quốc yêu cầu thu hồi chủ quyền bán đảo Sơn Đông bị Đức cưỡng chiếm, song Anh, Pháp, Ý lại chuyển lợi ích của Đức cho Nhật Bản, dẫn tới Phong trào Ngũ Tứ. Đại biểu Trung Quốc chỉ có thể cự tuyệt ký kết hòa ước để kháng nghị.
Chính phủ Quốc dân.
Tháng 5 năm 1928, Nhật Bản cố ý gây ra Thảm án Tế Nam, sau đó phía Nhật phủ nhận tàn sát quân dân Trung Quốc, ngược lại còn yêu cầu Chính phủ Quốc dân (Nam Kinh) tạ lỗi, bồi thường, trừng trị hung thủ. Ngày 10 tháng 5, Chính phủ Nam Kinh phái Ngũ Triều Xu lập tức sang Hoa Kỳ cầu viện. Ngày 11 tháng 5, quân Nhật công chiếm Tế Nam . Ngày 15 tháng 5, Hoa Kỳ công khai biểu thị không bằng lòng với Nhật Bản. Đến tháng 3 năm sau, sau khi Chính phủ Quốc dân (Nam Kinh) và Chính phủ Nhật Bản ký kết hiệp định, quân Nhật rút khỏi Tế Nam. Tháng 6 năm 1928, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Nam Kinh là Vương Chính Đình phát động "cách mạng ngoại giao" với trung tâm là sửa đổi các điều ước bất bình đẳng, bao gồm khôi phục quyền tự chủ thuế quan, hủy bỏ đặc quyền miễn trừ của công dân ngoại quốc, thu hồi tô giới, thu hồi tô tá địa, cùng với thu hồi quyền lợi đường sắt, quyền đường thủy nội địa, quyền mậu dịch duyên hải. Tháng 7 năm 1929, người mới tiếp quản cai trị Đông Bắc là Trương Học Lương tích cực hưởng ứng, quyết tâm thu hồi đường sắt Trung Đông do Liên Xô khống chế, bắt đầu trục xuất viên chức Liên Xô tại đường sắt Trung Đông, niêm phong cơ cấu thương nghiệp của Liên Xô tại Cáp Nhĩ Tân, khiến Chính phủ Liên Xô tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Quốc dân (Nam Kinh). Ngày 14 tháng 8 năm 1929, Liên Xô bắt đầu tấn công phía Trung Quốc ven tuyến đường sắt Trung Đông, quân đội Trung Quốc chịu tổn thất to lớn. Ngày 26 tháng 11 năm 1929, Trương Học Lương đành yêu cầu đình chiến, đồng thời vào ngày 26 tháng 11 năm 1929 ký kết "Nghị định thư Hội nghị Khabarovsk Xô-Trung, khôi phục hoàn toàn quyền lợi của Liên Xô trên đường sắt Trung Đông như trước ngày 10 tháng 7 năm 1929.
Kể từ sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931, Nhật Bản xâm nhập Đông Bắc Trung Quốc, Chính phủ Quốc dân một mặt đề xuất "kháng nghị nghiêm trọng" với Nhật Bản, một mặt tố cáo đến Hội Quốc Liên, thỉnh cầu tổ chức này chủ trì công lý. Ngày 23 tháng 9, Chính phủ Quốc dân gửi công hàm về sự việc cho chính phủ Hoa Kỳ, hy vọng phía Mỹ quan tâm sâu sắc". Tháng 3 năm 1932, Mãn Châu Quốc thành lập. Tháng 7 năm 1937, Sự kiện Lư Câu Kiều bùng phát, Nhật Bản xâm lược toàn diện Trung Quốc. Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, đến ngày 8 Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản, Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát. Ngày 9 cùng tháng, Chính phủ Quốc dân tuyên chiến với Đức, Ý, Nhật, gia nhập Đồng Minh. Năm 1943, ba quốc gia Trung-Mỹ-Anh liên hiệp ban bố "Tuyên bố Cairo", yêu cầu "các lãnh thổ của Trung Quốc bị Nhật Bản cướp đoạt, như bốn tỉnh Đông Bắc, Đài Loan, Bành hồ, sẽ được trả lại cho Trung Quốc". Sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Hoa Dân Quốc trở thành quốc gia chiến thắng, thu hồi Đông Bắc và Đài Loan, Bành Hồ, tham gia sáng lập Liên Hợp Quốc, đồng thời do cống hiến trong chiến tranh chống Nhật nên được làm một trong năm ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Trung Hoa Dân Quốc và Liên Xô ký kết "Điều ước đồng minh hữu hảo Trung-Xô", đồng ý sau khi Liên Xô xuất binh đánh bại Nhật Bản, với điều kiện Liên Xô tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc tại Đông Bắc, không can thiệp nội bộ tại Tân Cương, Trung Hoa Dân Quốc sẽ quyết định về việc thừa nhận nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ dựa trên kết quả công dân đầu phiếu công bằng. Ngày 20 tháng 10 năm 1945, Ngoại Mông Cổ tiến hành trưng cầu dân ý, kết quả 97% số phiếu tán thành Ngoại Mông Cổ độc lập. Ngày 5 tháng 1 năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc chính thức thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập.
Quân sự.
Lực lượng vũ trang.
Thời kỳ đầu Dân quốc (1913-1927), Bắc Dương tân quân do Viên Thế Khải sáng lập là lực lượng chủ yếu của Lục quân Trung Hoa Dân Quốc. Các tướng lĩnh chủ yếu của lực lượng này hùng bá một phương, tại các địa phương tiến hành cát cứ quân phiệt, phân chia phạm vi thế lực. Đến năm 1924, Trung Quốc Quốc dân Đảng học tập mô hình chế độ quân sự của Đảng Cộng sản Liên Xô để lập ra Quốc dân Cách mạng quân, là lực lượng vũ trang quốc gia từ sau Bắc phạt đến khi thi hành hiến pháp, cũng là tiền thân của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc. Đồng thời, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng phát triển thế lực vũ trang lãnh đạo thời kỳ đầu của họ trong Quốc dân Cách mạng quân. Tháng 4 năm 1928, lực lượng tiến hành Khởi nghĩa Nam Xương do Chu Đức lãnh đạo và lực lượng tiến hành Khởi nghĩa Thu Thu do Mao Trạch Đông lãnh đạo hội quân tại tỉnh Cương Sơn, hình thành Quân đoàn số 4 Quân Cách mạng Công nông Trung Quốc. Quân Cách mạng Công nông Trung Quốc sau đổi sang gọi là Hồng quân, Hồng quân Công nông Trung Quốc. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát, Hồng quân công nông Trung Quốc được cải biên thành Bát lộ quân và Tân tứ quân, trên danh nghĩa là lực lượng thuộc Quốc dân Cách mạng quân. Sau khi đại chién kết thúc, do Quốc-Cộng hợp tác tan vỡ nên đổi sang gọi là Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Trước Chiến tranh kháng Nhật, "Sư đoàn Đức giới" là lực lượng được trang bị vũ khí ở mức độ cao nhất trong quân đội Trung Quốc, các binh sĩ được trang bị mũ tiêu chuẩn, có súng trường sản xuất ttrong nước theo mẫu súng trường Mauser do Đức chế tạo, súng máy nhẹ sản xuất trong nước phỏng theo ZB vz. 26 của Tiệp Khắc, súng máy MG 08... Sư đoàn Đức giới khi bắt đầu tác chiến với Nhật trong trận Thượng Hải còn có pháo hạng nặng sFH 18, 3 tiểu đoàn xe tăng - xe bọc thép mua của Đức, song sư đoàn này về cơ bản đã bị xóa sổ sau giao tranh tại Trận Thượng Hải và Trận Nam Kinh.
Hải quân Trung Hoa Dân Quốc thừa kế từ triều đại Thanh, giao lưu khá nhiều với Anh Quốc, tiếp đến là Nhật Bản. Năm 1928, khi thành lập Chính phủ Nam Kinh, Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch bổ nhiệm Trần Thiệu Khoan là Bộ trưởng Bộ Hải quân kiêm tổng tư lệnh. Thời kỳ đầu, hạm đội ước tính có 44 tàu, trọng lượng rẽ nước hơn 30.000 tấn; tới trước khi kháng chiến bùng phát, hạm đội tăng lên đến 58 tàu, trên 58.000 tấn. Trước khi chiến tranh bùng phát vào năm 1937, hải quân biên thành bốn hạm đội, nhiệm vụ chủ yếu là yểm hộ lục quân tác chiến phòng thủ. Đến thời kỳ kháng Nhật, hải quân bị phá hủy hầu như hoàn toàn, phải đến khi tiếp nhận tàu từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và Anh Quốc sau chiến tranh mới dần mở rộng biên chế, từ đó trở đi đối tượng giao lưu chủ yếu là Hoa Kỳ.
Không quân Trung Hoa Dân Quốc ban đầu là Cục Hàng không thành lập tại Đại Sa Đầu của Quảng Châu, đương thời chỉ có ba chiếc máy bay và hai chiếc máy bay huấn luyện JN-4 "Jenny". Năm 1927, Chính phủ Quốc dân thành lập Hàng không xứ, đến năm 1928 thì đổi thành Hàng không sảnh, chia thành 4 đội, tổng cộng có 24 chiếc máy bay. Sau Bắc phạt, quốc tế bãi bỏ cấm vận vũ khí áp đặt liên tục trong 10 năm với Trung Quốc. Từ năm 1934 trở đi, Chính phủ Nam Kinh hợp tác cùng Công ty Curtiss Wright của Hoa Kỳ lập xưởng chế tạo máy bay trung ương, và bắt đầu nhập khẩu linh kiện lắp ráp máy bay. Thời kỳ đầu, Không quân Trung Hoa Dân Quốc sử dụng Hawk-II và Hawk III đều do Hoa Kỳ sản xuất Từ năm 1937 đến năm 1941, Không quân Liên Xô cung cấp cho Chính phủ Quốc dân một lượng lớn I-15, I-16, SB-3, đồng thời Đội tình nguyện hàng không Liên Xô tham gia tác chiến kháng Nhật. Tỷ lệ chiến đấu cơ Hoa Kỳ trong không quân từng suy giảm, song sau khi Liên Xô rút viện trợ vào năm 1941, chính phủ lại bắt đầu sử dụng nhiều các loại máy bay của Hoa Kỳ. Ngoài ra, sau khi kháng chiến kết thúc, Chính phủ Quốc dân từng tiếp nhận một tốp Mosquito do Anh thiết kế, Canada sản xuất.
Trường quân sự.
Trường sĩ quan lục quân Bảo Định là học viện quân sự được thành lập sớm nhất, quy mô lớn nhất, chương trình chính quy nhất trong lịch sử giáo dục quân sự cận đại Trung Quốc. Từ năm 1912 đến năm 1923, tổng cộng đào tạo 9 khóa, với hơn 6300 người tốt nghiệp, trong đó không ít người về sau trở thành giảng viên Trường quân sự Hoàng Phố, đồng thời có hơn 1700 người tốt nghiệp từ đây trở thành tướng quân. Trường sĩ quan lục quân Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào năm 1924, là kết quả của Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất, được dời đến Nam Kinh sau Bắc phạt, sau khi chiến tranh kháng Nhật bùng phát lại dời đến Thành Đô, đại bộ phận học viên tốt nghiệp trong thời kỳ từ 1949 về trước đều từng tham gia Bắc phạt, chiến tranh kháng Nhật hay nội chiến với cộng sản. Ngày 17 tháng 10 năm 1933, Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập Đại học Hồng binh Công-Nông Trung Quốc tại Thụy Kim, sau Trường chinh thì hợp nhất cùng Trường Chính trị Quân sự Hồng quân Thiểm Bắc thành Trường Hồng quân Công-Nông Tây Bắc, về sau phát triển thành Đại học Hồng quân kháng Nhật Tây Bắc của nước Cộng hòa Nhân dân Xô viết Trung Hoa. Tháng 4 năm 1937, trường này đổi tên thành Đại học Quân-Chính kháng Nhật Nhân dân Trung Quốc.
Thời kỳ đầu lập quốc, Trung Hoa Dân Quốc kế thừa một số trường huấn luyện hải quân của triều đình Thanh, tuy nhiên do nhân tố quân phiệt cát cứ nên năng lực chiến hạm bị phân tán, đến thời kỳ Chính phủ Nam Kinh thống nhất thì hiện tượng đấu tranh nội bộ giữa các phe phái và tỉnh cực kỳ nghiêm trọng. Việc chiến tranh bùng phát ở mức độ nhất định cũng là cơ hội để Chính phủ Quốc dân chỉnh đốn, do chiến hạm bị quân Nhật tiêu diệt, để mất khu vực duyên hải nên toàn bộ lực lượng hải quân chuyển đến Tứ Xuyên, đơn vị huấn luyện hải quân chỉ còn lại Trường Hải quân Mã Vĩ Phúc Châu do Mân hệ nắm giữ.
Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.
Kinh tế.
Phát triển kinh tế.
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Năm 1915, Tổng thống Viên Thế Khải mời kỹ sư quân sự từ các quốc gia như Đức, Đan Mạch, giao ước mua máy móc chế tạo từ công xưởng quân sự tại bang Connecticut, Hoa Kỳ để thành lập xưởng vũ khí Củng Huyện. Năm 1919, xưởng này chính thức đi vào sản xuất, là một trong bốn xưởng vũ khí lớn tại Trung Quốc đương thời. Năm 1938, xưởng vũ khí Củng Huyện bị máy bay Nhật Bản oanh tạc, phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Năm 1921, Phụng hệ quân phiệt Trương Tác Lâm hạ lệnh thiết lập xưởng quân giới Phụng Thiên. Tháng 4 năm 1922, xưởng này đổi tên thành xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh, là xưởng vũ khí có quy mô lớn nhất toàn quốc vào đương thời. Năm 1931, xưởng chế tạo thử nghiệm thành công súng trường tự động 10 viên, song sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 thì bị quân Nhật chiếm lĩnh. Ngày 2 tháng 12 năm 1948, xưởng vũ khí Thẩm Dương bị Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu, trở thành trung tâm sản xuất súng cầm tay lớn nhất đương thời. Năm 1919, Công ty cổ phần hữu hạn quặng sắt Long Yên do chính phủ và tư nhân hợp tác được thành lập, sau đó quyết định lập xưởng luyện gang tại Thạch Cảnh Sơn Bắc Kinh Đầu năm 1922, xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn đã xây dựng được 2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi, công trình đã hoàn thành được 80%, song do thiếu vốn nên buộc phải ngừng xây dựng. Sau năm 1938, Công ty Hưng Trung do Nhật Bản khống chế đã chiếm lĩnh xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn, biến nó thành căn cứ gang thép hậu phương của quân Nhật. Từ năm 1919 đến năm 1949, xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn sản xuất được 286.000 tấn sản phẩm.
Từ năm 1931 đến năm 1936, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Trung Quốc đạt 9,3%, tình hình kinh tê-xã hội xuất hiện xu thế phát triển sôi nổi. Giá trị sản lượng công nông nghiệp của Trung Quốc đạt mức cao nhất cho đến thời điểm đó. Thời kỳ này, ngành điện lực mỗi năm tăng trưởng 9,4%, ngành than đá đạt 7%, ngành xi măng đạt 9,6%, ngành thép đạt 40%. Trên phương diện nông nghiệp, tiến hành xây dựng nông thôn với ba chủ thể lớn là hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục, cung cấp lượng lớn nguyên vật liệu và thực vật, đồng thời bắt đầu tiếp nhận chế độ kinh tế hiện đại do thị trường điều khiển.
Cải cách tiền tệ.
Sau khi thành lập, Trung Hoa Dân Quốc lập tức thi hành nghiêm ngặt cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt. Năm 1912 và 1913, Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc từng hai lần thiết lập Ủy ban chế độ tiền tệ, thảo luận vấn đề tiền tệ của quốc gia, song không đạt kết quả. Ngày 7 tháng 2 năm 1914, chính phủ công bố "Điều lệ Quốc tệ", quy định Trung Quốc sử dụng bản vị bạc, dùng đồng bạc làm quốc tệ. Tháng 12 năm 1914 và tháng 2 năm 1915, lần lượt Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân và Xưởng sản xuất tiền Giang Nam bắt đầu đúc tiền bạc mới có giá trị 1 nguyên. Năm 1935, Chính phủ Quốc dân ban hành pháp định mới, kết thúc gần 500 năm Trung Quốc sử dụng chế độ bản vị bạc. Năm 1918, sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được thành lập tại Bắc Kinh. Năm 1927, Chính phủ định đô tại Nam Kinh, trung tâm phát hành công trái cũng dời theo, sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình bị mất ưu thế, tình hình kinh doanh xấu đi. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình ngừng làm việc vào đầu năm 1939.
Chính phủ Quốc dân phát hành lượng lớn "pháp tệ", khiến Trung Quốc lâm vào siêu lạm phát, Lượng phát hành tiền tệ từ 556,9 tỷ năm 1945, năm 1946 tăng lên hơn 8,2 nghìn tỷ nguyên, năm 1948 tăng lên 660 nghìn tỷ. Năm 1947, phát hành tiền giấy mệnh giá cao nhất là 50 nghìn, trong năm 1948 đạt đến 180 triệu. Tháng 8 năm 1948, Chính phủ Quốc dân thi hành cải cách chế độ tiền tệ, sử dụng "kim viên khoán" mới phát hành để thay thế cho "pháp tệ", kết quả là trong vòng 10 tháng, mệnh giá "kim viên khoán" tăng đến 10 triệu, giảm giá trị hơn 20 nghìn lần, khiến dân chúng Đại lục tổn thất cực lớn về kinh tế, ngân hàng tỉnh Tân Cương thậm chí còn phát hành tiền giấy mệnh giá 6 tỷ. Tháng 7 năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành "ngân viên khoán" để thay thế "kim viên khoán" đã gần như mất hết giá trị. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Đại lục có biến động, "ngân viên khoán" do đó cũng sụt giá mạnh, cuối cùng bị Nhân dân tệ do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành thay thế Trong khi đó, "Đài tệ" do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành tại Đài Loan cũng sụt giá mạnh, gây nên siêu lạm phát, do đó trong tháng 6 năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải phát hành "Tân Đài tệ" để thay thế.
Cơ sở hạ tầng.
Năm 1933, tổng chiều dài đường điện thoại toàn quốc là trên 14.800 km, đến năm 1936 tăng lên đến hơn 48.000 km. Ngành đường sắt phát triển trên cơ sở từ thời Thanh, đồng thời tiếp tục mở rộng. Từ năm 1927 đến năm 1937, Chính phủ Quốc dân tổng cộng xây dựng 3.793 km đường sắt. Sau khi kết thúc đại chiến vào năm 1945, toàn quốc có ước tính có 30.190 km, gồm cả các đoạn được xây dựng trên lãnh thổ từng bị Nhật chiếm đóng.
Năm 1928, Bộ Giao thông khởi thảo kế hoạch công lộ toàn quốc, lấy Lan Châu làm trung tâm công lộ, phân công lộ toàn quốc thành ba loại là quốc đạo, tỉnh đạo, huyện đạo, dự kiến hoàn thành trong 10 năm. Năm 1928, toàn quốc tổng cộng có 29.127 km công lộ. Chính phủ Quốc dân đưa xây dựng công lộ vào hàng chính yếu trong xây dựng kinh tế quốc gia. Tháng 5 năm 1932, Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy. Đến cuối tháng 6 năm 1936, các tỉnh hoàn thành công lộ liên kết tổng cộng dài hơn 21.000 km, trên 30.000 km công lộ có thể qua lại. Từ năm 1935 đến năm 1936, xây dựng công lộ Tây An-Lan Châu ước tính dài 700 km, công lộ Bảo Kê-Hán Trung dài hơn 250 km, công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan dài hơn 150 km. Đến cuối năm 1936, toàn quốc tổng cộng có 108.117 km công lộ, mạng lưới công lộ Trung Quốc hoàn thành về cơ bản. Trước khi bùng phát chiến tranh kháng Nhật, Chính phủ Quốc dân xây dựng được 80.000 km công lộ, tạo điều kiện cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
Khoa học và Kỹ thuật.
Do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Trong lĩnh vực toán học, Trung Hoa Dân Quốc có một số nhà toán học kiệt xuất phải kể đến như Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh. Ngô Hữu Huấn là người tiên phong và khai sáng vật lý học cận đại Trung Quốc. Đại biểu của lĩnh vực hóa học là Hầu Đức Bảng, nhờ ông mà kỹ thuật sản xuất kiềm của Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới. Năm 1926, ông chế tạo được natri cacbonat đầu tiên tại châu Á, lấy "hồng tam giác" làm thương hiệu, giành giải vàng tại Triển lãm thế giới Philadelphia tại Hoa Kỳ, Triển lãm thương phẩm quốc tế Thụy Sĩ. Năm 1939, Hầu Đức Bảng phát minh "cách chế kiềm liên hiệp". Trúc Khả Trinh là người tiên phong trong lĩnh vực khí tượng học Trung Quốc, sáng lập khí tượng học hiện đại Trung Quốc. Lý Tứ Quang là đại biểu cho giới địa chất học Trung Quốc, ông từng theo học tại Nhật Bản, học tập đóng thuyền, muốn đóng tàu cần có sắt thép, ông lại sang Anh học tập địa chất học nhằm tìm kiếm quặng sắt. Thập niên 1920, ông đề xuất lý luận "địa chất lực học", nhờ đó tại các địa phương phát hiện tài nguyên dầu mỏ, phủ định luận điểm Trung Quốc nghèo dầu của giới khoa học phương Tây. Trên phương diện kiến trúc học, Mao Dĩ Thăng thiết kế và kiến tạo cầu Tiền Đường Giang, là cầu hai tầng đường bộ và đường sắt đầu tiên của Trung Quốc. Lương Tư Thành, Lâm Huy Nhân kế thừa và phát triển "phong cách kiến trúc dân tộc truyền thống Trung Quốc".
Xã hội.
Nhân khẩu.
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật từng xuất hiện giảm dân số do chiến tranh, song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao - tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Cải cách giáo dục.
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Hoạt động xã hội.
Sau Cách mạng Tân Hợi, với việc chế độ chuyên chế sụp đổ, báo chí tư nhân tại Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Năm 1913, toàn quốc có hơn 500 tờ báo, mức độ tự do ngôn luận tương đối phát triển. Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, do giới tin tức tường thuật sâu sắc khiến Chính phủ Bắc Dương rất bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, khiến lượng lớn ký giả gặp họa, ngành báo tiêu điều, sự kiện được gọi là "Quý Sửu báo tai". Trước khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát vào năm 1941, lần lượt phát hành tại Trùng Khánh hơn 200 báo dân doanh, thông tấn xã, trừ "Tân Hoa nhật báo" và "Tạp chí Quần chúng" của Đảng Cộng sản, còn có "Quốc dân công báo", "Thời sự tân báo", Tây Nam nhật báo" cùng vô số báo chí, không chỉ được tự do trong các vấn đề kinh tế và dân sinh, mà trong vấn đề chính trị cũng không chịu hạn chế. Thậm chí đến sau khi nội chiến bùng phát vào nửa cuối năm 1946, do trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán nên Chính phủ Quốc dân vẫn cho phép "Tân Hoa nhật báo" phát hành tại khu vực họ kiểm soát.
Phong trào xã hội trong lịch sử cận đại Trung Quốc phần nhiều bắt nguồn từ tình cảm chủ nghĩa dân tộc. Phong trào chính trị trọng yếu thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc tại Đại lục là Phong trào Ngũ Tứ năm 1919 do thanh niên học sinh làm chủ nhằm kháng nghị Chính phủ Bắc Dương yếu kém về ngoại giao, một trong những khẩu hiệu nổi danh nhất là "ngoại tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc". Ngày 30 tháng 5 năm 1925, tại các nơi như Thanh Đảo, Thượng Hải bùng phát Phong trào Ngũ Tạp kháng nghị xưởng bông sợi Nhật Bản sa thải và hành hung phi pháp công nhân, có 13 người tử vong do bị trấn áp. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, Quốc dân đảng và Cộng sản đảng cùng phát động phong trào phản đế tại Bắc Kinh, yêu cầu phế trừ tất cả điều ước bất bình đẳng, bị Chính phủ Bắc Dương trấn áp bằng vũ lực. Ngày 9 tháng 12 năm 1935, Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua "Bắc Bình học liên" phát động Phong trào 9 tháng 12, yêu cầu "đình chỉ nội chiến, nhất trí kháng Nhật" Tháng 2 năm 1946, học sinh Trung Quốc kháng nghị Liên Xô xâm phạm chủ quyền Trung Quốc, gọi là Phong trào phản Xô. Các phong trào cải cách trong thời kỳ này có phong trào cải tạo hí kịch Trung Quốc năm 1926 do phần tử tri thức phát động, yêu cầu phát triển hí kịch mang đặc sắc dân tộc Trung Quốc. Từ năm 1934 đến năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát động phong trào giáo dục công dân, đề xướng kỷ luật, phẩm đức, trật tự, ngăn nắp.
Hội Hiệp tiến Thể dục Toàn quốc Trung Hoa được thành lập vào ngày 24 tháng 8 năm 1924, năm 1931 được Ủy ban Olympic Quốc tế thừa nhận là Ủy ban Olympic Trung Quốc. Năm 1932, vận động viên người Đông Bắc Lưu Trường Xuân cự tuyệt đại diện cho Mãn Châu Quốc, mà đại diện cho Trung Hoa Dân Quốc tham gia Thế vận hội, cũng là lần đầu tiên Trung Quốc tham gia Thế vận hội. Đến Thế vận hội 1936, Trung Hoa Dân Quốc chính thức tổ chức đội đại biểu quy mô lớn sang Berlin, Đức thi đấu 7 môn. Trong Thế vận hội 1948 tại Luân Đôn, đoàn đại biểu Trung Quốc tham gia thi đấu 5 môn.
Văn hóa.
Tư tưởng.
Phong trào Tân văn hóa nảy sinh vào những năm đầu Dân quốc có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa Trung Quốc, đánh dấu giới tri thức Trung Quốc phá vỡ chủ nghĩa Trung Quốc trung tâm, phủ nhận giá trị văn hóa tự thân, đồng nhất văn hóa phương Tây với chế độ dân chủ cộng hòa, hướng tới chủ nghĩa châu Âu trung tâm. Văn hóa truyền thống Trung Quốc phải chịu sự cạnh tranh chưa từng có với Tây học. Do ảnh hưởng của Phong trào Tân văn hóa, phái cấp tiến mà đại biểu là Trần Độc Tú đề xướng dân chủ và khoa học, phê phán văn hóa truyền thống, truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Marx; phái ôn hòa với đại biểu là Hồ Thích lại phản đối chủ nghĩa Marx, ủng hộ phong trào Bạch thoại văn, chủ trương lấy chủ nghĩa thực dụng thay thế học thuyết Nho gia. Đầu năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc ban bố một loạt lệnh cải cách văn hóa như cấm chỉ bó chân, phế bỏ nghi thức quỳ bái, đình chỉ trường học giáo dục đọc kinh.
Văn học.
Đến cuối thập niên 1910, các tác gia và học giả phát động một phong trào cải cách văn học và ngữ văn, phản đối văn ngôn văn, đề xướng Bạch thoại văn. Hồ Thích phát biểu về cải cách văn học trong "Tân thanh niên" số tháng 1 năm 1917, đề xuất tám chủ trương như không mô phỏng cổ nhân, không tránh tục từ tục ngữ... đồng thời nhận định văn học Bạch thoại là dòng chính của văn học Trung Quốc Phong trào Tân văn học phê phán triệt để văn học phong kiến, khai sáng thế hệ văn học mới, xúc tiến hình thành hội nghiên cứu văn học, sáng tạo xã và các đoàn thể tân văn học khác, đột ngột xuất hiện lượng lớn tiểu thuyết gia, hí kịch gia, thi nhân, tạp văn gia kiệt xuất. Tháng 5 năm 1942, Mao Trạch Đông tại Hội tọa đàm văn nghệ Diên An có phát biểu đề xướng văn nghệ can dự chính trị, vì công-nông-binh phục vụ, có ảnh hưởng sâu rộng đối với phát triển văn nghệ sau này. Thập niên Diên An 1940, đại biểu của văn học cộng sản là "Tiểu Nhị Hắc kết hôn" của Triệu Thụ Lý, "Thái dương chiếu tại Tang Can hà thượng" của Đinh Linh, "Bạo phong sậu vũ" của Chu Lập Ba, "Bạch mao nữ" của Hạ Kính Chi và Đinh Nghị
Nghệ thuật.
Thời kỳ Dân quốc, các tài năng nghệ thuật liên tục xuất hiện. Thời kỳ đầu Dân quốc, trong lĩnh vực âm nhạc chủ yếu là đề tài thể hiện kháng cự Nhật Bản xâm lược, như "Nghĩa dũng quân tiến hành khúc" của Điền Hán, Niếp Nhĩ; "Hoàng Hà đại hợp xướng" của Tiển Tinh Hải. Họa sĩ tranh thủy mặc nổi tiếng thời kỳ đầu Dân quốc Từ Bi Hồng giỏi về vẽ ngựa, kỹ thuật dung hợp từ Trung Quốc và phương Tây; Tề Bạch Thạch thì dung hợp tranh thủy mặc truyền thống và hội họa dân gian, giỏi về vẽ tôm, hoa, chim, cá. Từ thập niên 1920 đến thập niên 1940, tổng cộng có 18 bộ phim trong nước đi ra thế giới, trong đó "Ngư quang khúc" của đạo diễn nổi tiếng Thái Sở Sinh năm 1934 được giải thưởng tại Liên hoan Điện ảnh Quốc tế Moskva. Ngôi sao điện ảnh Trung Quốc thập niên 1930 có Hồ Điệp, Nguyễn Linh Ngọc, Kim Diễm, Trần Yến Yến, Vương Nhân Mỹ và những người khác..
Lịch và các ngày lễ.
Trung Hoa Dân Quốc sau khi thành lập đã phế bỏ lịch Tuyên Thống, lấy Dân quốc làm lịch quốc gia. Phương thức lịch này lấy năm 1912 theo Tây lịch, tức năm lập quốc là năm đầu tiên, ngày tháng và quy tắc nhuận đồng nhất với Tây lịch. Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, Đại lục dừng sử dụng lịch Dân quốc, chỉ sử dụng năm theo Tây lịch. Tuy nhiên, khu vực Đài Loan do Trung Hoa Dân Quốc thống trị tiếp tục sử dụng lịch Dân quốc cho đến nay. | 1 | null |
USS "Champlin" (DD-104) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt nhằm vinh danh Stephen Champlin (1789–1870), một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ trong cuộc Chiến tranh 1812.
Thiết kế và chế tạo.
"Champlin" được đặt lườn vào ngày 31 tháng 10 năm 1917 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 4 năm 1918, được đỡ đầu bởi Cô G. H. Rolph, và được đưa ra hoạt động vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân F. M. Knox.
Lịch sử hoạt động.
"Champlin" đi đến Newport, Rhode Island vào ngày 12 tháng 12 năm 1918 để trình diện hoạt động cùng Hạm đội Đại Tây Dương. Sau các hoạt động huấn luyện tại vùng biển Caribe, nó rời New York, New York vào ngày 19 tháng 11 năm 1919 để hướng sang San Diego, California. Đến nơi vào ngày 24 tháng 12 năm 1919, nó gia nhập lực lượng dự bị của Hạm đội Thái Bình Dương và thực hiện các chuyến đi huấn luyện với một thành phần thủy thủ đoàn rút gọn, cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 7 tháng 6 năm 1922. Bị bỏ không tại San Diego, "Champlin" được đưa vào sử dụng cho các thử nghiệm vũ khí vào ngày 19 tháng 5 năm 1933, và cuối cùng bị đánh chìm trong một cuộc thử nghiệm vào ngày 12 tháng 8 năm 1936. | 1 | null |
USS "Mugford" (DD-105) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo.
Thiết kế và chế tạo.
"Mugford" được đặt lườn vào ngày 20 tháng 12 năm 1917 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California Quincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 4 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà George H. Fort, và được đưa ra hoạt động vào ngày 25 tháng 11 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John H. Everson.
Lịch sử hoạt động.
"Mugford" gia nhập hạm đội để tập trận mùa Đông ngoài khơi vịnh Guatanamo, Cuba vào tháng 1 năm 1919, rồi di chuyển lên phía Bắc để hoạt động dọc theo bờ biển giữa New York và Massachusetts cho đến ngày 21 tháng 11, khi nó rời Newport để đi San Diego, đến nơi vào ngày 22 tháng 12. Tại đây nó trở thành tàu tiếp liệu cho một đội thủy phi cơ; vào buổi bình minh của không lực hải quân, đã cùng với nhóm của nó thực tập dọc theo bờ biển California, viếng thăm vùng kênh đào Panama vào tháng 12 năm 1920 và tháng 1 năm 1921.
"Mugford" được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 7 tháng 6 năm 1922. Nó bị bán cho hãng Schiavone-Bonomo Corporation tại thành phố New York để tháo dỡ vào năm 1936. | 1 | null |
USS "Schley" (DD-103/APD-14) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc APD-14 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Winfield Scott Schley (1839-1911).
Thiết kế và chế tạo.
"Schley" được đặt lườn vào ngày 29 tháng 10 năm 1917 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 3 năm 1918, được đỡ đầu bởi Cô Eleanor Martin, và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 9 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Robert C. Giffen.
Lịch sử hoạt động.
Thế Chiến I và sau đó.
"Schley" khởi hành từ San Diego vào ngày 10 tháng 10 năm 1918 để đi sang vùng bờ Đông Hoa Kỳ, và vào ngày 12 tháng 11 đã rời New York đi sang Địa Trung Hải. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1919 tại Taranto, Ý, nó đón lên tàu Chuẩn đô đốc Mark L. Bristol, sĩ quan cao cấp Hải quân Hoa Kỳ tại Thổ Nhĩ Kỳ, để đưa ông đến Constantinople. Sau đó "Schley" làm nhiệm vụ tại khu vực biển Adriatic, hoạt động như là tàu canh phòng tại Pola, Ý từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 15 tháng 4, rồi viếng thăm các cảng Ý và Nam Tư trong biển Adriatic cho đến khi lên đường quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 7. "Schley" quay trở lại San Diego vào ngày 8 tháng 9 năm 1919, và ngoại trừ những chuyến đi đến San Francisco để sửa chữa, tiếp tục ở lại đây cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 6 năm 1922.
Thế Chiến II.
1940-1943.
Khi một lần nữa chiến tranh diễn ra tại Châu Âu và có nguy cơ lan rộng đến Thái Bình Dương, "Schley" được cho nhập biên chế trở lại tại San Diego vào ngày 3 tháng 10 năm 1940. Nó đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 17 tháng 12, để tuần tra và thực tập trong năm tiếp theo. Khi máy bay của Hải quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, chiếc tàu khu trục đang neo đậu cùng một nhóm các tàu đang được đại tu; và vì các khẩu pháo của nó đang bị tháo dỡ, nó chỉ có thể chống trả cuộc tấn công bằng vũ khí nhẹ. Việc đại tu nó được hối hả thực hiện, và đến ngày 20 tháng 12, nó bắt đầu đảm nhiệm việc tuần tra ở những lối tiếp cận Trân Châu Cảng. "Schley" hoạt động tại đây và ngoài khơi Honolulu trong gần một năm. Đến ngày 13 tháng 12 năm 1942, nó rời vùng biển Hawaii quay trở về Xưởng hải quân Puget Sound để được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc. "Schley" được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới APD-14 có hiệu lực kể từ ngày 6 tháng 2 năm 1943.
"Schley" quay trở lại Trân Châu Cảng vào ngày 22 tháng 2, và tiếp tục đi đến khu vực New Hebrides, đến Espiritu Santo vào ngày 24 tháng 3. Tại khu vực Nam Thái Bình Dương, nó khẩn trương huấn luyện cùng lực lượng biệt kích Thủy quân Lục chiến và các đơn vị khác; hoạt động như tàu tuần tra và hộ tống cùng là tàu vận chuyển giữa quần đảo Solomon, New Hebrides, Samoa thuộc Mỹ và New Zealand.
"Schley" thoạt tiên tham gia một cuộc đổ bộ trong hoàn cảnh tác chiến vào ngày 30 tháng 6 tại New Georgia. Cùng với hai chiếc ADP khác và một số tàu nhỏ, nó cho đổ bộ binh lính lên bờ tại bãi neo đậu Wickham ở phía Tây Nam Vangunu. Đến ngày 5 tháng 7, nó cho đổ bộ một nhóm thứ hai lên bãi neo đậu Rice thuộc New Georgia. Trong chiến dịch này, một lực lượng Nhật Bản đến tăng cường chậm trễ, và trong khi rút lui đã đánh chìm tàu khu trục bằng một quả ngư lôi tầm xa. Sau khi thực hiện một chuyến đi khác đến Rice để vận chuyển tiếp liệu và đạn dược, "Schley" khởi hành từ Espiritu Santo vào ngày 1 tháng 8 để đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island.
1944.
"Schley" rời vùng bờ Tây để đi Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 10, nhưng sự cố trục trặc động cơ khiến nó phải sửa chữa tại Trân Châu Cảng đến gần hết năm. Ngày 30 tháng 12 năm 1943, nó đi đến San Diego gia nhập một lực lượng đặc nhiệm được huấn luyện nhằm chuẩn bị cho việc chiếm đóng quần đảo Marshall. Lực lượng rời vùng bờ Tây ngày 13 tháng 1 năm 1944, đi đến ngoài khơi Kwajalein ngày 31 tháng 1. "Schley" cho đổ bộ binh lính lên bờ cùng ngày hôm đó, rồi thực hiện tuần tra chống tàu ngầm cho đến khi nó nhận lại binh lính vào ngày 7 tháng 2. Nó lên đường đi Eniwetok một tuần sau đó, chứng tỏ sự linh hoạt của những tàu vận chuyển nhỏ cao tốc. Nó đến nơi vào ngày 17 tháng 2, và trong đêm đó cho đổ bộ lực lượng lên đảo Bpgon để ngăn cản đối phương xâm nhập từ Engebi vốn bị lực lượng Mỹ tấn công cùng ngày trước đó. Sáng hôm sau, nó bắt đầu chiếm đóng các đảo còn lại về phía Tây đảo chính Eniwetok. Ngày hôm đó, binh lính của nó chiếm năm đảo và giúp bình định Engebi và Bogon.
Vào ngày 24 tháng 2, sau khi chuyển binh lính của nó lên các tàu vận chuyển khác, "Schley" lên đường đi Kwajalein hộ tống hai tàu vận tải đi đến khu vực hoạt động mới New Guinea. Nó đến nơi vào ngày 12 tháng 3, tiến hành các hoạt động vận chuyển trong tháng tiếp theo. Vào ngày 22 tháng 4, nó tham gia các cuộc đổ bộ tại Aitape, đưa binh lính lên bờ và cung cấp hỏa lực hỗ trợ. Ngày hôm sau tại đảo Tumleo, các xuồng đổ bộ của nó chuyển binh lính lên bờ từ một tàu vận tải lớn, trong khi "Schley" một lần nữa bắn pháo hỗ trợ. Sau khi sửa chữa một chân vịt bị hư hại, nó cho đổ bộ một đại đội lên đảo Niroemoar vào ngày 19 tháng 5 để thành lập một trạm radar; và vào ngày hôm sau, nó cứu vớt thủy thủ đoàn một sà lan Mỹ chở xăng bị đắm ngoài khơi đảo Wakde, rồi đánh chìm hai sà lan Nhật cùng vô hiệu hóa một khẩu đội pháo đối phương trên bờ. Nó lại cho đổ bộ binh lính lên Biak vào ngày 27 tháng 5, và lên mũi Sansapor ở phía cực Tây New Guinea vào ngày 30 tháng 7. Sau đó nó đi đến Úc để sửa chữa.
"Schley" sau đó tham gia hai chiến dịch đệm quan trọng nhằm tái chiếm Philippines: nó cho đổ bộ lực lượng lên Morotai vào ngày 9 tháng 9, và vào ngày 17 tháng 10 nằm trong thành phần đội ADP chiếm đóng các đảo nhỏ ở lối ra vào vịnh Leyte, dọn đường cho cuộc đổ bộ lên Leyte ba ngày sau đó. Sau một tháng hoạt động vận chuyển, "Schley" gia nhập đội đặc nhiệm tiến hành cuộc đổ bộ tại vịnh Ormoc vào ngày 7 tháng 12. Lực lượng phải chịu đựng các cuộc tấn công cảm tử kamikaze căng thẳng, khi một trong các tàu chị em với nó bị đánh chìm; tuy nhiên, "Schley" thoát được mà không bị thiệt hại. Sau đó nó tham gia cuộc đổ bộ lên Mindoro vào ngày 15 tháng 12 năm 1944 và tại vịnh Lingayen vào ngày 9 tháng 1 năm 1945. Ở mỗi nơi kể trên, nó đều né tránh được một máy bay kamikaze: máy bay tuần tra Mỹ đã bắn rơi một chiếc kamikaze cách "Schley" tại Mindoro; và tại Lingayen chiếc kamikaze chuyển hướng vào phút chót để tấn công một tàu khác nhưng bị trượt. "Schley" tiếp tục tuần tra ngoài khơi Lingayen cho đến ngày 18 tháng 12.
1945-1946.
Ngày 15 tháng 2 năm 1945, "Schley" cho đổ bộ binh lính lên cảng Mariveles nhằm cắt đứt con đường rút lui của quân Nhật trong cuộc tấn công vịnh Manila, và hai ngày sau đã cho đổ bộ lực lượng lên bờ dưới làn hỏa lực của đối phương tại Corregidor, hoàn tất các hoạt động của nó tại Philippines.
"Schley" đi ra khỏi vịnh Manila ngày 19 tháng 2, và rời Philippines ngày 25 tháng 2 quay trở về Ulithi. Sau đó nó hộ tống các đoàn tàu vận tải tại khu vực Tây Thái Bình Dương, từng có mặt một thời gian ngắn tại Okinawa cùng một đoàn tàu vận tải từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 28 tháng 4. Đến ngày 29 tháng 5, "Schley" đi đến San Diego để sửa chữa, và được xếp lại lớp với ký hiệu lườn DD-103, có hiệu lực từ ngày 5 tháng 7, "để hoạt động như tàu hộ tống và huấn luyện ở tuyến sau", vì nó tỏ ra quá cũ kỹ để có thể tiếp tục phục vụ ở tuyến đầu. Nó vẫn đang trong giai đoạn đại tu khi chiến tranh kết thúc, và sau khi có thể đi biển trở lại được, lại lên đường vào ngày 17 tháng 9 năm 1945 để được cho ngừng hoạt động tại Philadelphia. "Schley" xuất biên chế vào ngày 9 tháng 11 năm 1945; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 12, và công việc tháo dỡ nó hoàn tất vào ngày 29 tháng 3 năm 1946 tại Xưởng hải quân Philadelphia.
Phần thưởng.
"Schley" được tặng thưởng 11 Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. | 1 | null |
Amphiuma tridactylum, là một loài kỳ giông nguồn gốc ở Đông Nam Hoa Kỳ.
Mô tả.
Amphiuma tridactylum trông khá giống lươn, với một cơ thể dài, màu xám-đen hoặc nâu. Chân nhỏ thoái hóa. Chúng có khả năng phát triển đến độ dài 41 inch (1 m). Chúng có mắt và mí nhỏ, và khe mang. Chúng có bốn chân nhỏ đều có ba ngón chân và trung bình của 62 rãnh bên.
Phân bố.
Amphiuma tridactylum được tìm thấy tại Hoa Kỳ, dọc theo Vịnh Mexico, từ Alabama đến Texas và phía bắc đến Missouri, Arkansas, Tennessee và Kentucky. Nó thường được tìm thấy trong đầm lầy, nhánh sông, lạch, suối ở các vùng đồi núi. Thường chiếm hang tôm càng. | 1 | null |
Bảng xếp hạng Ca khúc tiếng Hoa Toàn cầu (tiếng Anh: Global Chinese Pop Chart; chữ Hán: 全球华语歌曲排行榜; bính âm: quánqiú huáyŭ gēqŭ páihángbàng; Hán-Việt: Toàn cầu Hoa ngữ Ca khúc Bài hạng bảng) là một bảng xếp hạng âm nhạc đại chúng tiếng Hoa do 7 đài phát thanh tiếng Hoa biên soạn. Bảng xếp hạng được thành lập năm 2001 bởi các đài: Đài phát thanh Âm nhạc Bắc Kinh, Đài phát thanh Nhân dân Thượng Hải, Đài phát thanh Nhân dân Quảng Đông, Đài phát thanh truyền hình Hồng Kông (RTHK), Hit Fm Đài Loan (sau đó được thay thế bằng Pop Radio Đài Bắc) và 988 FM của Malaysia. Định nghĩa bảng xếp hạng "tiếng Hoa" bao trùm tất cả ba nhánh chính của C-pop là: Mandopop, Cantopop và nhạc pop tiếng Phúc Kiến.
Lễ trao giải.
Các lễ trao giải và buổi hoà nhạc diễn ra trong tuần đầu tiên của tháng 9 hàng năm. | 1 | null |
Mục từ "Computer-generated imagery" dẫn đến bài này.
Công nghệ mô phỏng hình ảnh bằng máy tính () (viết tắt là CGI) (đọc là /siːʤiːˈʌɪ/) là một ứng dụng của đồ hoạ máy tính nhằm tạo ra hoặc sửa đổi hình ảnh trong nghệ thuật, sản phẩm truyền thông in ấn, trò chơi điện tử, phim, chương trình truyền hình, sản phẩm thương mại trên truyền hình, và công nghệ mô phỏng. Khung cảnh trực quan này có thể là động hoặc tĩnh, và có thể là dạng hai chiều (2D), mặc dù thuật ngữ "CGI" thường được sử dụng để chỉ đồ hoạ máy tính 3D nhằm tạo ra các cảnh hay hiệu ứng đặc biệt trong phim ảnh và truyền hình. Chúng cũng có thể được sử dụng bởi đối tượng người dùng gia đình và được chỉnh sửa trên các phần mềm như Windows Movie Maker hay iMovie.
Thuật ngữ "hoạt hình máy tính (Computer animation)" dùng để chỉ công nghệ CGI động vốn tạo ra các sản phẩm như phim ảnh chẳng hạn. Còn thuật ngữ "thế giới ảo (virtual world)" ám chỉ các môi trường tương tác, dựa trên công nghệ này.
Các phần mềm đồ hoạ máy tính được sử dụng để tạo ra các hình ảnh mô phỏng trên máy tính cho phim, v.v... Sự sẵn có và phổ biến của các phần mềm ứng dụng CGI và tốc độ máy tính ngày càng cao cho phép cá nhân các nghệ sĩ và các công ty nhỏ sản xuất các phim có tính chuyên nghiệp cao, trò chơi điện tử và các sản phẩm nghệ thuật từ chính các máy tính trong gia đình của họ. Điều này đã mang lại một nền văn hoá thứ cấp là Internet với những người nổi tiếng trên toàn cầu, những câu nói và các thuật ngữ kỹ thuật của riêng nó.
Hình ảnh tĩnh và tranh phong cảnh.
Không chỉ tạo ra các dạng hình ảnh hoạt hình, công nghệ mô phỏng hình ảnh bằng máy tính còn tạo ra các bức tranh phong cảnh trông rất tự nhiên, thí dụ như các tranh phong cảnh phân dạng thông qua các thuật toán máy tính. Một cách đơn giản để tạo ra các bề mặt phân dạng là sử dụng một phiên bản mở rộng của phương pháp mạng lưới ba bên, dựa trên việc xây dựng các trường hợp đặc biệt của đường cong de Rham, ví dụ như "đổi chỗ trung điểm". Ví dụ, thuật toán có thể bắt đầu với một hình tam giác lớn, sau đó phóng to bằng hàm đệ quy bằng cách chia nó thành bốn tam giác Sierpinski nhỏ hơn, rồi nội suy độ cao của mỗi điểm dựa vào điểm gần nhất với nó. Tạo ra bề mặt Brownian không chỉ bằng cách thêm sự nhiễu loạn mỗi khi các điểm mới được tạo ra, mà còn bằng cách thêm các nhiễu loạn phụ ở nhiều cấp độ khác nhau trong mạng lưới. Từ đó một bản đồ đo vẽ địa hình với nhiều độ cao thay đổi có thể được tạo ra bằng cách sử dụng các thuật toán phân dạng tương đối đơn giản. Một số loại phân dạng điển hình và dễ lập trình sử dụng trong công nghệ CGI là "phân dạng plasma" và "phân dạng đứt đoạn", vốn ít thực tế hơn.
Một số lượng lớn các kỹ thuật riêng biệt đã được nghiên cứu và phát triển để tạo ra các hiệu ứng mô phỏng máy tính có độ tập trung cao, ví dụ như việc sử dụng các hình mẫu riêng biệt, đại diện cho sự bào mòn hoá học của đá để tượng trưng cho sự xói mòn và tạo ra một "vẻ bề ngoài cũ kĩ" cho một bề mặt đá cho trước.
Các khung cảnh kiến trúc.
Các kiến trúc sư hiện đại sử dụng các dịch vụ của các hãng đồ hoạ máy tính nhằm tạo ra các mẫu vẽ ba chiều cho cả khách hàng và thợ xây. Các mẫu vẽ mô phỏng bằng máy tính có thể sẽ chính xác hơn các bản vẽ truyền thống. Hoạt hình kiến trúc (vốn cung cấp các đoạn phim hoạt hình về các toà nhà, thay cho các ảnh tương tác) cũng có thể được sử dụng để quan sát những mối quan hệ có thể xảy ra của một toà nhà với môi trường và các công trình xung quanh. Việc kiến tạo các không gian kiến trúc mà không dùng giấy và bút chì hiện đã được chấp nhận rộng rãi với nhiều hệ thống thiết kế kiến trúc có sự hỗ trợ của máy tính.
Các công cụ tạo mẫu kiến trúc cho phép các kiến trúc sư hoạt hoạ trực quan một không gian cụ thể và có thể "đi trong" không gian ấy với độ tương tác cao, từ đó mang lại "các môi trường tương tác" cả ở cấp độ đô thị và các toà nhà riêng lẻ. Các ứng dụng cụ thể trong kiến trúc không chỉ bao gồm đặc điểm kỹ thuật của các cấu trúc toà nhà như tường và cửa sổ, mà còn có các hiệu ứng ánh sáng và thấy được ánh nắng mặt trời tác động thế nào tới một thiết kế cụ thể vào các thời điểm khác nhau trong ngày.
Các công cụ tạo mẫu kiến trúc ngày nay ngày càng dựa trên Internet nhiều hơn. Tuy nhiên, chất lượng của các hệ thống dựa trên Internet vẫn còn thua kém so với các hệ thống tạo mẫu nội bộ phức tạp.
Trong một số ứng dụng, các hình ảnh kiến tạo bằng máy tính được dùng để tái tạo lại hình ảnh trong quá khứ của một công trình kiến trúc lịch sử nào đó. Thí dụ, một phiên bản dựng lại bằng máy tính của một tu viện ở Georgenthal của Germany dựa trên những tàn tính của tu viện này, cho phép người xem được "thấy và cảm nhận" tu viện đó trông như thế nào vào thời xưa.
Các mẫu vẽ kết cấu.
Các mẫu vẽ mô phỏng bằng máy tính sử dụng trong hoạt hình phác thảo thường không phải lúc nào chính xác về kết cấu. Tuy nhiên, các tổ chức như Viện điện toán khoa học và hình ảnh (Scientific Computing and Imaging Institute) đã phát triển các mẫu dựa trên máy tính có độ chính xác về mặt kết cấu cao. Các mẫu vẽ kết cấu mô phỏng bằng máy tính có thể sử dụng cả cho mục đích giảng dạy và thực hiện. Đến thời điểm này, các hình ảnh y học do một nhóm họa sĩ sản xuất tiếp tục được các sinh viên ngành Y sử dụng, như các bức ảnh của Frank Netter, như các bức ảnh về tim. Tuy nhiên, khá nhiều các mẫu vẽ kết cấu trực tuyến đang sẵn có ngày càng nhiều.
Một bức ảnh X-quang của một bệnh nhân không phải là một bức ảnh mô phỏng bằng máy tính, kể cả trường hợp các tia X đã được kĩ thuật số hoá. Tuy nhiên, trong các ứng dụng bao gồm cả quét CT, một mô hình ba chiều được tự động tạo ra từ một số lượng lớn các tia X đơn siêu mỏng, tạo ra một "ảnh mô phỏng máy tính". Các ứng dụng bao gồm ảnh cộng hưởng từ cũng mang lại một số các "ảnh chụp nhanh" (trong trường hợp này là qua các xung điện từ) để tạo ra một bức ảnh phức hợp về kết cấu bên trong.
Trong các ứng dụng y học hiện đại, các mô hình riêng biệt của bệnh nhân được xây dựng trong "các cuộc phẫu thuật có sự hỗ trợ của máy tính". Ví dụ, trong các cuộc phẫu thuật thay thế toàn bộ đầu gối, việc xây dựng một mô hình chi tiết của một bệnh nhân riêng biệt sẽ giúp lên kế hoạch cho cuộc phẫu thuật chính xác và cẩn thận hơn. Những mô hình ba chiều này thường được trích xuất từ một vài tấm ảnh quét cộng hưởng từ về kết cấu các bộ phận tương ứng của chính bệnh nhân đó. Những mô hình này cũng có thể sử dụng cho một ca cấy ghép van động mạch chủ, một trong những công đoạn chữa bệnh tim. Do hình dạng, đường kính và vị trí của cửa độngmạch/tĩnh mạch vành có thể có những thay đổi rất lớn giữa các bệnh nhân, việctrích xuất (từ các bản quét CT) của một mẫu vẽ mô phỏng gần đúng hình giải phẫu của van tim sẽ rất có tác dụng trong việc lên phương án điều trị.
Mô phỏng hình ảnh của vải và da.
Các mẫu vẽ của các loại vải thông thường được chia làm ba nhóm: cấu trúc hình học máy móc ở các đường chỉ cắt nhau, thứ hai là cấu trúc cơ học của các tấm vải xếp liên tục có tính đàn hồi và thứ ba là các tính năng hình học vĩ mô của vải. Đến thời điểm hiện nay, tạo vải và quần áo cho một nhân vật kỹ thuật số có thể gấp nếp một cách tự nhiên vẫn còn là thử thách với nhiều họa sĩ hoạt hình.
Cùng với việc sử dụng kỹ thuật này trong phim ảnh, quảng cáo và các loại hình khác của truyền thông/trưng bày đại chúng, các hình ảnh vải và quần áo được tái tạo bằng máy tính hiện được rất nhiều hãng thiết kế thời trang hàng đầu sử dụng thường xuyên.
Thử thách trong việc tái tạo hình ảnh da người bao gồm ba cấp độ "thực tế" khác nhau: hình ảnh thực tế trong việc tái tạo da thật ở dạng tĩnh; tính chất sinh lý thực tế trong việc tái tạo các chuyển động của nó và công năng thực tế trong việc tái tạo các phản ứng của da người trước các tác động từ bên ngoài.
Sự mô phỏng và trực quan hoá có tính tương tác.
Sự trực quan hoá có tính tương tác là một thuật ngữ chung áp dụng cho sự tái tạo dữ liệu có khả năng thay đổi và cho phép người dùng xem dữ liệu đó dưới khía cạnh khác nhau. Các lĩnh vực ứng dụng kĩ thuật này rất rộng, từ việc mô phỏng dòng chảy của những chất lỏng đang chuyển động đến các ứng dụng thiết kế có sự hỗ trợ của máy tính riêng biệt. Dữ liệu tạo ra được có thể tương đương với những hình ảnh thực tế riêng biệt nào đó mà chúng thay đổi khi có người dùng tương tác với hệ thống, ví dụ như các loại mô phỏng như hệ thống mô phỏng bay sử dụng thêm các kĩ thuật của công nghệ CGI nhằm tượng trưng cho thế giới bên ngoài.
Ở mức độ trừu tượng, quá trình trực quan hoá có tính tương tác bao gồm một 'đường ống dữ liệu' ở đó dữ liệu thô được quản lý và xử lý qua thành một định dạng thích hợp cho việc biểu diễn chúng. Đây thường được gọi là "dữ liệu trực quan". Các dữ liệu trực quan này sau đó được sắp xếp thành một "hình biểu diễn trực quan" có thể được đưa vào hệ thống mô phỏng. Đây thường được gọi là "hình biểu diễn có thể mô phỏng được". Bản biểu diễn này sau đó được xử lý thành một hình ảnh có thể trình chiếu cho con người xem được. Khi người dùng tương tác với hệ thống, ví dụ như dùng các cần điều khiển để thay đổi vị trí của họ trong thế giới ảo, dữ liệu thô được chuyển qua ống để tạo một ảnh mới đã biểu diễn, do đó làm cho hiệu suất xử lý của máy tính trong thời gian thực trở thành chìa khoá quan trọng trong các ứng dụng dạng này.
Hoạt hình máy tính.
Trong khi các hình ảnh phong cảnh được tái tạo bằng máy tính có thể ở dạng tĩnh, thuật ngữ hoạt hình máy tính chỉ áp dụng với các hình ảnh động ghép lại thành một bộ phim hoàn chỉnh. Tuy nhiên, nói chung, thuật ngữ "hoạt hình máy tính" ám chỉ tới các hình ảnh động nhưng không cho phép tương tác với người dùng, và thuật ngữ "thế giới ảo" được sử dụng với các môi trường hoạt hình có sự tương tác cao.
Hoạt hình máy tính chủ yếu là một người kế nhiệm kỹ thuật số của nghệ thuật hoạt hình stop motion (tự chuyển động) của các mô hình 3D và hoạt hình frame-by-frame (từng khung hình) của các hình vẽ minh hoạ 2D. Các phim hoạt hình mô phỏng bằng máy tính có khả năng điều khiển tốt hơn các quá trình thực hiện thực tế, thí dụ như dựng các mô hình nhỏ cho các cảnh quay cần hiệu ứng hay thuê thêm diễn viên cho các cảnh quay có đám đông, và bởi vì nó cho phép tạo ra các hình ảnh không thể thực hiện được bằng bất kỳ công nghệ nào khác. Nó cũng cho phép chỉ cần một họa sĩ đồ hoạ có thể tạo ra những nội dung như vậy mà không cần đến các diễn viên, đạo cụ đắt tiền.
Để tạo ra ảo giác của sự chuyển động, một hình ảnh được hiển thị trên màn hình máy tính và được liên tục thay thế bởi một hình ảnh mới giống với các ảnh trước, nhưng có thay đổi rất nhỏ về chu trình thời gian (thường ở tốc độ 24 đến 30 khung hình/giây). Kỹ thuật này giống với việc tạo ảo giác chuyển động được thực hiện trên truyền hình hoặc phim ảnh.
Thế giới ảo.
Thế giới ảo là một môi trường mô phỏng cho phép người dùng tương tác với các nhân vật hoạt hình, hoặc tương tác với những người dùng khác thông qua việc sử dụng các nhân hoạt hình được biết đến với tên gọi hình đại diện. Thế giới ảo được tạo ra với ý định cho phép người dùng sinh hoạt và tương tác, và thuật ngữ này giờ đây được sử dụng đồng nghĩa với những môi trường ảo 3D có tương tác, nơi người dùng, dưới dạng các hình đại diện, có thể nhìn thấy nhau trên đồ hoạ một cách trực quan hơn. Các hình đại diện này thường được miêu tả lại đúng theo nguyên mẫu, hoặc các sản phẩm đại diện ở dạng hai chiều hoặc đồ hoạ ba chiều, mặc dù ngày nay cũng có một số hình thức khác (ví dụ như qua nghe/ nói hoặc chạm). Một số, nhưng không phải tất cả, hỗ trợ cho nhiều người dùng. | 1 | null |
Lâm Đan hay Lin Dan (; sinh 14 tháng 10 năm 1983 tại Long Nham, Phúc Kiến) là một vận động viên cầu lông huyền thoại người Trung Quốc. Anh đã hai lần vô địch Thế vận hội, năm lần vô địch thế giới và 6 lần vô địch toàn Anh. Được công nhận rộng rãi là vận động viên cầu lông vĩ đại nhất mọi thời đại, ở tuổi 28 anh đã hoàn tất "Super Grand Slam", giành tất cả chín danh hiệu chính của cầu lông thế giới: Thế vận hội, giải cầu lông vô địch thế giới, cúp cầu lông thế giới, Thomas Cup, Sudirman Cup, Super Series Masters Finals, giải cầu lông toàn Anh, Đại hội Thể thao châu Á và giải cầu lông vô địch Châu Á. Anh là người đầu tiên và cũng là duy nhất đạt được thành tích này.
Anh được người hâm mộ đặt biệt danh là "Đan Siêu Cấp" (超级丹)/"Super Dan".
Cuộc sống cá nhân.
Lúc nhỏ, Lâm Đan từng được bố mẹ khuyến khích học để trở thành nghệ sĩ piano. Tuy nhiên, thay vào đó anh lại chọn chơi cầu lông. Bắt đầu tập luyện khi mới chỉ năm tuổi, anh được phát hiện và nuôi dưỡng tài năng bởi Đội Thể thao Quân đội Giải phóng Nhân dân sau khi giành chiến thắng ở Giải Nhi đồng toàn quốc ở độ tuổi mười hai, và sau đó được điền tên vào danh sách Đội tuyển cầu lông Trung Quốc năm 2001 khi 18 tuổi.
Lâm Đan hẹn hò với Tạ Hạnh Phương (Xie Xingfang), người cũng từng là nhà vô địch thế giới, từ năm 2003. Họ đính hôn lặng lẽ vào ngày 13 tháng 12 năm 2010 ở Hải Châu, Quảng Châu. Tạ Hạnh Phương ban đầu từ chối nhưng sau đó nhận ra có những kết nối tình cảm với Lâm Đan, người đã phản ứng rất giận dữ khi bị công khai mối quan hệ của họ, trích dẫn lý do về quyền riêng tư cá nhân. Hai người kết hôn vào ngày 23/09/2012, lễ cưới được tổ chức ở Trường Đại học Kỹ thuật Bắc Kinh.
Lâm Đan có năm hình xăm nhìn thấy được ở kỳ Thế vận hội mùa hè năm 2012. Phía trên tay trái có hình thập tự giá, thể hiện tình yêu dành cho người bà theo đạo Thiên chúa. Năm ngôi sao ở phía dưới tay trái đại diện cho các giải Grand Slam mà anh đã giành chiến thắng. Hình xăm ở phía trên tay phải là dòng chữ "until the end of world", tên tiếng Anh của bài hát "世界が終るまでは…" trong bộ phim hoạt hình yêu thích của anh Slam Dunk. Hai chữ "F" ở phần dưới cánh tay phải là viết tắt của "Fang Fang" (Phương Phương), tên thân mật của người vợ Tạ Hạnh Phương, và viết tắt "LD" của tên anh được xăm ở phía sau cổ. Những hình xăm này trở thành chủ đề thảo luận do lý lịch quân đội và tôn giáo của anh. Anh thuận tay trái và dùng nó để phát triển sự nghiệp cầu lông của mình.
Ngày 17/10/2012, anh trở thành vận động viên cầu lông Trung Quốc đầu tiên nhận bằng thạc sĩ được cấp bởi Trường Đại học Hoa Kiều khi vẫn đang thi đấu. Tự truyện của anh có tiêu đề "Until the End of the World", được phát hành sau khi anh bảo vệ thành công danh hiệu Olympic ở Thế vận hội mùa hè Luân Đôn 2012.
Sự nghiệp cầu lông.
Thời niên thiếu.
Lâm Đan được biết đến khi vô địch ở Giải cầu lông châu Á lứa tuổi thiếu niên năm 2000 ở cả nội dung đơn và đồng đội. Anh cũng là thành viên của đội cầu lông Trung Quốc vô địch Giải cầu lông thế giới lứa tuổi thiếu niên năm 2000 và lọt vào bán kết nội dung đơn nam.
2001 - 2003.
Năm 2001 đánh dấu bước khởi đầu sự nghiệp cầu lông chuyên nghiệp của Lâm Đan. Trong trận chung kết đầu tiên, tại Giải cầu lông châu Á, anh bị đánh bại hoàn toàn bởi tay vợt đồng hương Xia Xuanze.
Năm 2002, Lâm Đan có danh hiệu đầu tiên ở giải Hàn Quốc mở rộng. Anh là thành viên đội Thomas Cup năm 2002 của Trung Quốc đã đánh bại Thụy Điển (5-0), Đan Mạch (3-2), và Hàn Quốc (4-1) để vào bán kết. Tuy nhiên, Lâm Đan không đánh trận bán kết với Malaysia, và chứng kiến đội Trung Quốc bị gục ngã với tỉ số 1-3. Lâm Đan tham gia vào bốn giải đấu khác mà không đi đến được chiến thắng. Anh bị loại ngay từ vòng một giải Singapore và Indonesia mở rộng, vòng hai giải Đan Mạch mở rộng, và vòng ba giải Trung Quốc mở rộng. Vào tháng mười, Lâm Đan thua trong trận bán kết Cuộc thi đồng đội châu Á, qua đó trực tiếp thổi bay hy vọng giành vàng của Trung Quốc.
Lâm Đan bắt đầu mùa giải 2003 với thất bại ở vòng ba giải Toàn Anh mở rộng. Anh vào đến trận chung kết sau đó trong năm ở giải Nhật Bản mở rộng nhưng một lần nữa bị đánh bại bởi Xia Xuanze. Lâm Đan sau đó có trận ra mắt Giải Vô địch Thế giới ở Birmingham, Anh. Anh nhanh chóng vượt qua Per-Henrik Croona và Przemyslaw Wacha ở hai vòng đấu đầu tiên, nhưng lại bị Xia Xuanze loại ở vòng ba. Sau giải thế giới, anh bị loại ở bán kết giải Singapore mở rộng, vào vòng ba giải Indonesia mở rộng và vòng hai giải Malaysia mở rộng. Tuy vậy, Lâm Đan kết thúc mùa giải một cách mạnh mẽ bằng việc giành giải Đan Mạch, Hồng Kông và Trung Quốc mở rộng, á quân giải Đức mở rộng.
2004.
Lâm Đan khởi đầu năm 2004 tốt khi lần đầu tiên giành vị trí số một thế giới trong bảng xếp hạng của Liên đoàn Cầu lông Thế giới BWF vào tháng Hai. Anh giúp Trung Quốc giành chiến thắng trong vòng phân loại của Thomas Cup và sau đó vô địch giải Thụy Sĩ mở rộng. Anh giành danh hiệu Toàn Anh mở rộng lầu đầu khi đánh bại Peter Gade trong trận chung kết. Anh vào đến bán kết giải Nhật Bản mở rộng trước khi di chuyển đến Jakarta, Indonesia vào tháng năm để tham gia chiến dịch Thomas Cup.
Tại giải Thomas Cup, Lâm Đan giúp đội tuyển Trung Quốc khởi đầu thuận lợi khi lần lượt đánh bại tuyển Hoa Kỳ và đương kim vô địch Indonesia với tỉ số 5-0 để tiến vào tứ kết. Lâm Đan sau đó vượt qua Shoji Sato và Lee Huyn-il trong tứ kết và bán kết đối đầu với Nhật Bản và Hàn Quốc, các trận đầu đều kết thúc với tỉ số 3-0 nghiêng về Trung Quốc. Trong trận chung kết, anh đánh bại Peter Gade trong các trận liên tiếp mang lại lợi thế dẫn đầu cho Trung Quốc trước khi đội Trung Quốc cuối cùng giành thắng lợi với tỉ số 3-1. Trung Quốc qua đó có danh hiệu, chấm dứt cơn khát 14 năm ở các giải cầu lông..
Lâm Đan gặp trở ngại sau đó trong mùa giải 2004 khi bị hất cẳng ở tứ kết giải Malaysia mở rộng, sau đó được thông báo gặp chấn thương chân vào giữa tháng bảy, ngay trước thềm Thế vận hội mùa hè. Lâm Đan sụp đổ trong kỳ Thế vận hội đầu tiên của mình khi, với tư cách là hạt giống số một, anh bị loại sớm bởi Ronald Susilo của Singapore. Tuy vậy, Lâm Đan trở lại với ba danh hiệu ở các giải Đan Mạch, Đức và Trung Quốc mở rộng, kết thúc mùa giải khi vào đến bán kết giải Indonesia mở rộng.
2005.
Lâm Đan duy trì vị trí số 1 thế giới trên bảng xếp hạng trong năm 2005, giành danh hiệu Đức và Hồng Kông mở rộng thứ hai, cũng như thắng lợi ở các giải Nhật Bản mở rộng, China Masters và Vô địch Thế giới. Anh cũng giúp tuyển Trung Quốc giành lại Sudirman Cup khi loại cả đương kim vô địch Hàn Quốc ở bán kết và Indonesia ở chung kết.
Lâm Đan thất bại trong việc bảo vệ danh hiệu Toàn Anh, anh thua đồng đội Chen Hong trong trận chung kết kéo dài 3 set, và bị đánh bại trong chung kết Malaysia mở rộng bởi một ngôi sao đang lên khác, Lee Chong Wei. Trong cố gắng giành danh hiệu thế giới đầu tiên tại Anaheim California, anh liên tiếp đánh bại Kennevic Asuncion, Shoji Sato, Lee Huyn-il và Peter Gade để tiến vào trận chung kết. Tại đây, anh bị đánh bại một cách thuyết phục bởi Taufik Hidayat. Anh cũng bị loại trong bán kết giải Singapore mở rộng và tứ kết Trung Quốc mở rộng.
2006.
Lâm Đan khởi đầu mùa giải bằng việc vào đến bán kết Đức mở rộng, và có kết quả tương tự ở China Masters và Trung Quốc mở rộng. Anh thất bại ở giải Malaysia mở rộng vào tháng sáu, chứng kiến đối thủ Lee Chong Wei trình diễn xuất sắc để bảo vệ danh hiệu sau khi bị dẫn 13-20 trong set quyết định, anh cũng thất bại trước Taufik Hidayat ở chung kết Asian Games.
Tuy nhiên, Lâm Đan giành sáu danh hiệu đơn nam trong mùa giải. Anh lấy lại chức vô định Toàn Anh mở rộng, thắng giải Đài Loan mở rộng, Ma Cao mở rộng, Hồng Kông mở rộng, Nhật Bản mở rộng, và danh hiệu thế giới đầu tiên sau khi đánh bại tay vợt đồng hương Bào Xuân Lai trong trận chung kết.
Vào tháng năm, Lâm Đan và các đồng đội của anh đã kéo dài thời gian thống trị Thomas Cup của Trung Quốc, đánh bại Đan Mạch 3-0 để có danh hiệu thứ hai liên tiếp.
2007.
Lâm Đan khởi đầu năm 2007 với một thất bại trước Park Sung-hwan của Hàn Quốc ở vòng 16 giải Malaysia mở rộng. Một tuần sau đó, anh giành danh hiệu tại giải Hàn Quốc mở rộng khi đánh bại đồng đội tại tuyển Trung Quốc Trần Kim trong trận chung kết.
Anh tiếp tục giành thắng lợi tại giải Đức mở rộng và sau đó là vô địch Toàn Anh thêm một lần nữa sau khi đánh bại đồng hương Trần Uất với các tỉ số 21-13, 21-12. Vào tháng sáu, Lâm Đan là thành viên tuyển Trung Quốc trong giải Sudirman Cup, tổ chức ở Glasgow, Scotland. Tuyển Trung Quốc giữ cúp sau khi thắng Indonesia 3-0 trong chung kết.
Vào cuối mùa giải, Lâm Đan đánh bại Wong Choong Hann của Malaysia và trở thành nhà vô địch của giải China Masters năm 2007. Tháng tám, Lâm Đan duy trì vị trí thống trị giải Vô địch Thế giới khi đánh bại Sony Dwi Kuncoro của Indonesia 21-11, 22-20 trong trận chung kết tổ chức ở Kuala Lumpur, Malaysia. Lâm Đan qua đó trở thành người đầu tiên vô địch thế giới liên tiếp kể từ sau Yang Yang.
2008.
Lâm Đan khởi đầu với một thất bại tại giải Hàn Quốc mở rộng trước Lee Hyun-il. Đó là một trận đấu đầy tranh cãi khi Lâm Đan xô xát với huấn luyện viên Li Mao của Hàn Quốc sau một cuộc tranh cãi. Lâm Đan từ chối xin lỗi và không nhận án phạt nào từ Liên đoàn Cầu lông Thế giới (BWF) sau cuộc điều tra. Trong tháng ba, anh trải qua một thất bại khác trước đồng hương Trần Kim trong chung kết Toàn Anh mở rộng, theo đó truyền thông cáo buộc Lâm Đan cố ý thua để Trần Kim tăng điểm trong bảng xếp hạng phân loại Olympic. Tuần sau đó, Lâm Đan giành danh hiệu Thụy Sĩ mở rộng đầu tiên. Tại giải Vô địch châu Á, Lâm Đan một lần nữa bị cáo buộc giúp người đồng hương khi thất bại của anh trước Trần Kim trong bán kết giúp Trần Kim chắc suất đến Thế vận hội.
Ngày 10/4/2008, Lâm Đan lại dính đến một cuộc tranh cãi khác khi anh đấm huấn luyện viên Ji Xinpeng ngay trước các đồng đội và giới truyền thông trong giải đấu khởi động cho Thomas Cup. Sự việc được cho là xuất phát từ việc anh không hài lòng với sự sắp xếp đội hình xuất phát của Ji cho giải đấu. Cho dù việc này, Lâm Đan vẫn thành công trong mọi trận đấu tại giải Thomas Cup cho đến bán kết gặp Lee Chong Wei, và giúp Trung Quốc giành ba danh hiệu liên tiếp ở giải đấu này. Sau các chiến thắng dễ dàng trước Nigeria và Canada ở vòng bảng, Trung Quốc đánh bại Thái Lan ở tứ kết. Tuy Lâm Đan thất bại trước Lee Chong Wei ở bán kết, Trung Quốc vẫn vào được chung kết sau khi vượt qua Malaysia với tỉ số 3-2 và duy trì danh hiệu sau khi thắng Hàn Quốc 3-1.
Lâm Đan giành giải Thái Lan mở rộng, giải đấu cuối cùng trước Thế vận hội mùa hè 2008.
Tại Thế vận hội, anh đánh bại tay vợt Ng Wei của Hồng Kông ở vòng một, Park Sung-hwan ở vòng hai, và Peter Gade ở tứ kết. Sau đó, anh tiếp tục đánh bại đồng đội Trần Kim trong các set liên tục để tạo ra trận chung kết trong mơ với Lee Chong Wei. Tuy vậy, trận chung kết lại có diễn biến một chiều khi Lâm Đan đả bại Lee với tỉ số chênh lệch 21-12, 21-8 và trở thành tay vợt đơn nam đầu tiên giành huy chương vàng Olympic với tư cách hạt giống số một.
Mãi cho đến Trung Quốc mở rộng diễn ra vào tháng 11, Lâm Đan mới trở lại thi đấu và thắng Lee Chong Wei ở trận chung kết, trước khi thua Trần Kim một lần nữa tại giải Hồng Kông mở rộng. Lâm Đan đủ tư cách tham gia Masters Finals nhưng do sự rút lui của Trung Quốc, anh đã không tham dự giải.
2009.
Vào tháng ba, Lâm Đan giành danh hiệu Toàn Anh thứ tư khi đánh bại Lee Chong Wei, trong lần xuất hiện đầu tiên kể từ tháng 11/2008, tuy nhiên lại thua chính đối thủ này trong chung kết Thụy Sĩ mở rộng một tuần sau đó.
Anh sau đó tham gia vào Sudirman Cup và giúp Trung Quốc có chiến thắng 5-0 trước Anh và một chiến thắng trắng nữa trước Nhật Bản và Indonesia. Trong bán kết, đó lại là một cuộc tái đấu giữa Lâm Đan và Lee Chong Wei của Malaysia, và Lâm Đan đã tiếp tục chiến thắng để thiết lập cuộc chạm trán với Hàn Quốc trong chung kết. Trong trận chung kết, Lâm Đan không gặp khó khăn nào để đánh bại Park Sung-hawn, giúp Trung Quốc bảo toàn danh hiệu lần thứ ba liên tiếp mà không thua một trận nào trước bất kỳ đối thủ nào trong giải.
Tháng sáu, Lâm Đan thất bại tại Indonesia mở rộng sau khi bị loại khỏi từ tứ kết. Đó là giải thứ hai mà anh thất bại, bên cạnh thất bại trước Choi Ho-jin của Hàn Quốc vào tháng 12 tại Đại hội Thể thao Đông Á.
Lâm Đan sau đó tiếp tục quét sạch các danh hiệu tại các giải mà anh tham gia vào giữa tháng tám và tháng mười một. Anh trở thành người đầu tiên 3 lần vô địch Thế giới tại Hyderabad, Telangana, Ấn Độ sau khi thắng Trần Kim tại chung kết.
Lâm Đan sau đó tiếp tục giành danh hiệu China Masters thứ tư và danh hiệu Pháp mở rộng đầu tiên. Anh khép lại mùa giải với danh hiệu Trung Quốc mở rộng trước khi di chuyển đến Hồng Kông thi đấu tại Đại hội Thể thao Đông Á.
2010.
Lâm Đan khởi đầu mùa giải với thất bại trong việc bảo vệ danh hiệu tại Toàn Anh mở rộng khi thua ở tứ kết và bị loại ở một tứ kết khác tại Thụy Sĩ mở rộng. Anh chỉ giành danh hiệu đầu tiên của mùa giải ở giải Vô địch Cầu lông châu Á. Đây cũng là danh hiệu Vô địch châu Á đầu tiên của anh.
Lâm Đan có lần thứ 5 thi đấu ở Thomas Cup. Sau chiến thắng dễ dàng trước Peru, anh dành chiến thắng kép trước Park Sung-hwan của Hàn Quốc lần lượt trong vòng bảng và vòng tứ kết. Ở bán kết, anh loại Lee Chong Wei để giúp Trung Quốc tiến vào chung kết trước khi đánh bại Indonesia để có danh hiệu thứ tư liên tiếp.
Sau chiến thắng ở Thomas Cup, Lâm Đan tham dự giải Vô địch Thế giới ở Paris, Pháp. Anh thắng trận mở màn, và sau đó đánh bại Henri Hurskainen và Bào Xuân Lai ở vòng hai và vòng ba trước khi thất bại trước Park Sung-hwan ở tứ kết. Ngày sau đó còn chứng kiến đối thủ Lee Chong Wei bị loại khỏi giải. Lâm Đan trở lại khi giành chiến thắng ở China Masters, nhưng tiếp tục mùa giải thất vọng khi thua ở trận chung kết Nhật Bản mở rộng, và liên tục bị loại ở tứ kết Trung Quốc mở rộng và Hồng Kông mở rộng.
Tuy vậy, Lâm Đan cũng giành được huy chương vàng đầu tiên ở Á Vận hội vào tháng 11 khi đánh bại Lee Chong Wei ở chung kết, qua đó trở thành tay vợt đầu tiên thắng tất cả các danh hiệu quan trọng ở châu Á trong môn cầu lông, ở cả nội dung đơn và đồng đội.
2011.
Lâm Đan bắt đầu năm 2011 với việc rút lui khỏi giải Malaysia mở rộng ở tứ kết, đánh dấu lần rút lui thứ ba liên tiếp kể từ cuối năm 2010. Hành động này gây ra những chỉ trích chủ yếu từ Taufik Hidayat, người muốn Liên đoàn Cầu lông Thế giới điều tra. Mẹ của anh phủ nhận rằng anh cố ý bỏ cuộc và cho biết anh gặp chấn thương cổ tay. Tuy nhiên, anh trở lại để thắng giải cầu lông triệu đô đầu tiên, Hàn Quốc mở rộng khi đánh bại Lee Chong Wei ở chung kết. Sau đó anh cũng đánh bại đồng hương Trần Kim để giành danh hiệu ở Đức mở rộng.
Tuy vậy, hi vọng trở thành tay vợt đầu tiên dành năm danh hiệu Toàn Anh của Lâm Đan trong kỉ nguyên mở đã tan vỡ khi anh bị đánh bại bởi Lee Chong Wei ở trận chung kết. Anh sau đó lần thứ hai vô địch châu Á vào tháng tư trong ngày mà Trung Quốc giành hết cả năm danh hiệu. Lâm Đan giúp Trung Quốc có danh hiệu Sudirman Cup thứ tư liên tiếp vào tháng năm, đánh bại Đan Mạch 3-0 trong chung kết. Tháng sáu, Lâm Đan rút lui khỏi Singapore mở rộng vì đau dạ dày, khiến người hâm mộ ở nhà thi đấu chế nhạo. Chỉ vài ngày sau, anh bị đánh bại một cách bất ngờ bởi Sho Sasaki ở vòng hai Indonesia mở rộng.
Vào tháng tám, anh giành danh hiệu Vô địch Thế giới lần thứ tư sau khi đánh bại Lee Chong Wei ở chung kết tại Wembley Arena, nơi cũng sẽ tổ chức trận đánh tương tự ở Thế vận hội mùa hè 2012. Sự kiện này làm sụp đổ hy vọng của Lee về việc trở thành người Malaysia đầu tiên dành huy chương vàng trong các giải Vô địch Thế giới.
Tháng chín, anh bị loại ở bán kết China Masters, và rút lui khỏi bán kết Nhật Bản mở rộng. Việc này còn được tiếp nối với một cú sốc khác khi anh bị loại ở vòng hai Đan Mạch mở rộng bởi tay vợt Hồng Kông Wong Wing Ki, và bỏ cuộc ở bán kết Pháp mở rộng cho dù đang dẫn điểm, sự kiện được cho là do viêm móng tay. Đây là lần thứ sáu bỏ cuộc của anh trong mùa giải, nhiều đơn vị truyền thông nghi ngờ việc bỏ cuộc này là chiến lược để tuyển Trung Quốc có đủ hạn ngạch số vận động viên đơn nam tham dự Olympics 2012. Tuy vậy, Li Yongbo cho rằng việc rút lui của Lâm Đan không phải là một "món quà", điều này là vì BWF yêu cầu rằng các vận động viên top đầu bắt buộc phải tham gia vào một số giải đấu nhất định và Lâm Đan cần điều kiện tốt hơn để đến Olympics. Lâm Đan lên tiếng thất vọng rằng lịch thi đấu đỉnh cao là lý do anh phải bỏ cuộc nhiều lần trong mùa giải. Anh kết thúc ba giải cuối cùng với kết quả tốt, lần lượt dành danh hiệu Hồng Kông mở rộng và Trung Quốc mở rộng thứ năm, và danh hiệu Super Series Masters Finals đầu tiên trong sự nghiệp.
2012.
Lâm Đan khởi đầu năm bằng thất bại trước Lee Chong Wei ở chung kết Hàn Quốc mở rộng, và thất bại ở vòng hai Malaysia mở rộng. Anh thắng danh hiệu Đức mở rộng thứ năm vào tháng ba và là danh hiệu đầu tiên của mùa giải. Anh sau đó thắng giải Toàn Anh mở rộng vào tháng ba, qua đó trở thành người đầu tiên trong 33 năm có được năm danh hiệu này. Tháng tư, Lâm Đan rút lui khỏi bán kết giải Vô địch cầu lông châu Á do chấn thương cổ tay, và động thái này cũng giúp người đồng hương Trần Kim bảo đảm vị trí dự Olympics.
Anh giúp Trung Quốc có danh hiệu Thomas Cup thứ năm liên tiếp mà không thua một trận nào anh thi đấu. Anh sau đó bị loại ở bán kết Thái Lan mở rộng, nơi mà anh đã than phiền về sự mệt mỏi của mình trước khi giải đấu khởi tranh.
Ở Thế vận hội mùa hè 2012, Lâm Đan dễ dàng vượt qua Scott Evans của Ireland, và thi đấu vượt trội trước Taufik Hidayat ở vòng hai. Ở tứ kết, tay vợt Nhật Bản Sho Sasaki suýt chút nữa đã loại được anh. Anh có một chiến thắng dễ khác trước Lee Hyun-il ở bán kết để tạo ra cuộc tái đấu với đối thủ Lee Chong Wei. Lặp lại trận chung kết năm 2008, Lâm Đan lần này thua set đầu tiên nhưng trở lại giành thắng lợi ở set hai. Set ba trở nên kịch tính khi Lâm Đan giành huy chương vàng một cách suýt soát, đánh bại Lee Chong Wei chỉ với hai điểm cách biệt cho dù Lee liên tiếp dẫn điểm trong hầu hết thời gian. Lâm Đan cũng trở thành tay vợt đơn nam đầu tiên bảo vệ thành công danh hiệu Olympic.
2013.
Lâm Đan chỉ thi đấu giải duy nhất trong năm ở Giải Vô địch Cầu lông châu Á, giải đầu tiên kể từ Olympics Luân Đôn 2012. Anh chỉ vào đến vòng ba trước khi phải rút lui vì chấn thương. Lâm Đan cũng được trao vé đặc cách tham dự Vô địch Thế giới ở Quảng Châu, Trung Quốc nhờ vào năng lực và sự nổi tiếng của mình; cho dù xếp hạng thế giới của anh không đủ được tham dự. Anh cuối cùng biến việc được đặc cách thành danh hiệu thứ năm ở giải đấu, đánh bại đối thủ truyền kiếp Lee Chong Wei khi anh này bỏ cuộc. Tỷ số của trận chung kết này là 16-21, 21-13, 20-17. Tại đây Lee Chong Wei đã xin bỏ cuộc với lý do chấn thương sau khi Lâm Đan dồn lên ghi liền 4 điểm khi đang bị dẫn 16-17 và chỉ còn cách chiến thắng chung cuộc đúng một điểm.
2014.
Sau sáu tháng vắng mặt, Lâm Đan, xếp hạng thứ 104 trên bảng xếp hạng thế giới, trở lại và giành danh hiệu China Masters và tiếp đó thắng giải Vô địch Cầu lông châu Á. Tuy vậy BWF không trao vé đặc cách tham dự Vô địch Thế giới 2014 như họ đã làm vào năm 2013. Do vậy, Lâm Đan không thể bảo vệ danh hiệu và chức vô địch đã thuộc về đồng đội ở tuyển Trung Quốc Chen Long. Lâm Đan là thành viên tuyển Trung Quốc tham dự Thomas Cup, nhưng vì thứ hạng thấp nên anh chỉ có thể thi đấu với tư cách là tay vợt đơn thứ ba khi Trung Quốc bị đánh bại bởi Nhật Bản ở bán kết.
Tháng sáu, Lâm Đan thất bại ở tứ kết Nhật Bản mở rộng. Sau đó, anh thắng giải Australia mở rộng, danh hiệu Super Series đầu tiên kể từ Toàn Anh mở rộng 2012. Tháng 11, Lâm Đan thất bại ở chung kết Trung Quốc mở rộng bởi Kidambi Srikanth từ Ấn Độ.
2015.
Tháng tư, Lâm Đan vô địch đơn nam giải Vô địch Cầu lông châu Á ở Trung Quốc, bảo vệ danh hiệu anh đã giành được năm ngoái ở Hàn Quốc. Anh đánh bại người đồng hương Tian Houwei 21-19, 21-8 trong một trận đấu kéo dài 50 phút ở trung tâm thành phố Vũ Hán. Tháng năm, Lâm Đan đóng góp vao thắng lợi Sudirman Cup thứ 10 của Trung Quốc sau khi đánh bại Takuma Ueda một cách dễ dàng 21-15, 21-13 ở trận chung kết, cho dù vào thời điểm đó, thứ hạng của anh (2) thấp hơn người đồng đội Chen Long. Tháng chín, Lâm Đan thắng giải Nhật Bản mở rộng, danh hiệu Super Series đầu tiên trong năm của anh. Anh tạo ra một sự trở lại ấn tượng sau khi bị dẫn 3-11 ở set quyết định trận chung kết đơn nam đánh với Viktor Axelsen của Đan Mạch nhưng ngược dòng thắng lại với tỉ số 21-19, 16-21, 21-19 trong 1 giờ 18 phút.
2016.
Tháng ba, Lâm Đan đánh bại Chou Tien-Chen để thâu tóm danh hiệu đơn nam thứ bảy ở Đức mở rộng. Hai đối thủ thi đấu quyết liệt vào đầu trận đấu, khi Lâm Đan bị Chou đánh bại 15-21 ở set đầu tiên.
Đúng một tuần sau chiến thắng ở chung kết Đức mở rộng, Lâm Đan có lại được danh hiệu Toàn Anh mở rộng ở Birmingham, Anh, đem lại chiến thắng thứ 6 cho anh ở giải này. Với phong độ ấn tượng, anh đánh bại người bạn ở tuyển Trung Quốc Tian Houwei 21-9, 21-10.
Tháng tư, Lâm Đan thắng tay vợt số 1 thế giới Chen Long ở các set với tỉ số 21-17 và 23-21 để nâng cao chức vô địch thứ sáu ở giải China Masters tại Giang Tô, Trung Quốc. Lâm Đan cho thấy sự vững vàng khi trở lại ở set hai đúng phong cách của một người hai lần vô địch Olympic, bị dẫn 11-16 nhưng cuối cùng không bị thua cuộc ở set hai. | 1 | null |
Trong Kitô giáo, các Bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, do Đức Kitô thiết lập và uỷ thác cho Hội Thánh, qua các Bí tích, sự sống thần linh được trao ban cho các tín hữu.
Các bí tích.
Hội Thánh có 7 Bí tích:
7 Bí tích trên được phân chia thành 3 loại (hoặc 3 nhóm):
Trong các Bí tích thì có những Bí tích mà người Kitô hữu chỉ được lãnh nhận một lần và cũng có những Bí tích được trao ban nhiều lần cho một người:
Bí tích Hôn Phối là Bí tích khó có thể xếp vào nhóm lãnh nhận một lần hay nhiều lần, vì còn tuỳ vào hoàn cảnh gia đình, điều kiện lãnh nhận... và vấn đề ly hôn, tái hôn trong Công Giáo vẫn còn rất nhạy cảm. | 1 | null |
Mil V-12 (còn được gọi là Mi-12, tên mã NATO Homer) là một mẫu trực thăng lớn nhất và nặng nhất từng được chế tạo.
Phát triển và thiết kế.
Nghiên cứu về một siêu trực thăng khổng lồ được Mil manh nha từ hồi năm 1959 và nhận được sự phê chuẩn chính thức bởi Ủy ban Nhà nước về Công nghệ Máy bay ("Gosudarstvenny Komitet Po Aviatsionny Tekhnike" - GKAT), chỉ định hãng này phát triển một loại trực thăng có sức nâng tương đương . Một chỉ thị chi tiết hơn được ban hành sau đó, yêu cầu loại trực thăng mới này phải có thông số kích thước nâng giống như máy bay vận tải Antonov An-22, tức là phải vận chuyển được các vật thể cỡ lớn ví dụ như các tên lửa liên lục địa (ICBM) 8K67, 8K75 và 8K82.
Những hạn chế trong thiết kế gây nhiều khó khăn cho Mil trong việc lựa chọn cơ cấu cánh quạt. Các thử nghiệm và nghiên cứu cho thấy cơ cấu cánh quạt nâng đơn truyền thống không thể nào khả thi, còn kiểu cánh quạt nâng kép trước-sau giống như loại Boeing CH-47 Chinook đã bộc lộ nhiều vấn đề nghiêm trọng. Cuối cùng, kiểu cánh quạt nâng kép đặt hai bên trái-phải đã được chọn lựa. Hai cánh quạt nâng của V-12 được đặt ở hai đầu của hai chiếc "cánh" có sải cánh dài 30 mét nằm ở phần đầu máy bay. Việc sử dụng hai cánh quạt nâng quay trái chiều nhau khiến V-12 không cần cánh quạt đuôi như các trực thăng khác. Đây là lần đầu tiên Mil sử dụng cơ cấu cánh quạt như thế này, nhưng kiểu cánh quạt kép trái-phải đã xuất hiện ở một số kiểu máy bay khác tỉ như Focke-Wulf Fw 61, Focke-Achgelis Fa 223 Drache và Kamov Ka-22 Vintokryl.
Sau nhiều thử nghiệm căng thẳng với các mô hình và thiết bị thí nghiệm, bao hàm một hệ thống truyền động hoàn chỉnh, việc xây dựng mẫu thử đầu tiên của chiếc trực thăng V-12 cuối cùng cũng bắt đầu tại Panki vào năm 1965. Khung sườn máy bay được thiết kế theo kiểu tiêu chuẩn thông thường, sử dụng vỏ chịu lực kết hợp với các bộ phận có độ bền cơ học cao, được gia công từ phôi nguyên khối. Thân máy bay có kích thước lớn, bao hàm buồng lái kích thước 28,15 × 4,4 × 4,4 mét và khoang phi hành đoàn ở đầu mũi máy bay, trong đó phần phía dưới là nơi làm việc của phi công chính, phi công phụ, kỹ sư máy bay, kỹ sư điện tử, còn phần trên là nơi của hoa tiêu và người xử lý hệ thống liên lạc vô tuyến. Phần đuôi của thân máy bay nối thông với buồng lái bằng các cửa đóng kiểu vỏ sò và thang đóng mở theo kiểu sập với các giá đỡ có thể thu gọn được. Khoang chính cũng có thể với khoang chứa hàng hóa bằng 2 cửa ở mạn phải và 3 cửa ở mạn trái. Phía trên phần sau của thân là cánh đuôi với hai mặt gắn các cánh thăng bằng.
Phần khung gầm và càng bánh xe máy bay được lắp đặt một cặp bộ phận bánh xe với hệ thống giảm xóc dạng đòn bẩy sử dụng kết hợp khí nén và chất lỏng, đặt trên khớp nối của một hệ thống thanh giằng chống đỡ cho hai động cơ cánh quạt quay và đôi "cánh" lắp ở phần đầu máy bay, và được nối với phần giữa của thân máy bay bởi một hệ thống thanh giằng kiểu kiềng 3 chân với phần chân dạng mũi gắn ở vào chỗ sau đuôi của buồng phi hành đoàn. Hai bánh giảm xóc được đặt ở phần đuôi của đáy thân máy bay và cố định các miếng đệm chịu lực, giúp cho rầm của khoang hành lý nằm ở vị trí ổn định. Các thanh giằng được gia cố cũng nối hệ thống truyền động với phần sau của thân máy bay, phía trước cánh thăng bằng. Việc tải hàng thực hiện bởi các tấm nâng hạ, cần trục điện, hay các đòn thăng bằng.
Hệ thống động cơ và cánh được lắp đặt ở trên so với phần trung tâm của thân, với các trục nối liền và tương tác với nhau, có tác dụng đồng bộ hóa các cánh quạt quay chính, với mức độ chồng lấn vào khoảng . Thất thoát lực kéo và nâng được giảm thiểu bởi hai "cánh" nối cánh quạt với thân có dạng thon dần từ ngoài vào trong, và độ cong tối thiểu tại nơi dòng khí chảy lệch xuống dưới mạnh nhất. Trục nối liền hai động cơ cánh quạt cũng có tác dụng phân tán đều lực nâng của động cơ trong trường hợp một trong hai động cơ bất thình lình không hoạt động. Để tăng tối đa hiệu quả việc điều khiển các cử động quay trái-phải và nghiêng trái-phải, các động cơ quay được sắp đặt để xoay theo hướng ngược nhau với cánh quạt ở bên trái quay ngược chiều kim đồng hồ, còn cánh quạt bên phải quay theo chiều kim đồng hồ, đảm bảo rằng mỗi cánh quạt khi di chuyển "về phía trước mặt" thì nó luôn chạy qua thân máy bay. Mỗi hệ thống cánh quạt quay sử hai động cơ tuốc bin trục Soloviev D-25VF gắn ở dưới hộp truyền động. Một hệ thống bao gồm 5 cánh quạt, có đường kính , và trục đồng bộ chạt từ đầu cánh thân bên này sang đầu cánh thân bên kia. Mỗi cặp động cơ có các cửa sập để kỹ thuật viên mở ra, tiếp xúc với các bộ phận bên trong để thực hiện công tác bảo dưỡng, sửa chữa.
Khối lượng và kích thước cực lớn của máy bay cũng như việc bố trí các cánh quạt quay khiến việc thiết kế cơ chế điều khiển bay của V-12 nảy sinh một số vấn đề. Phi công chính và phi công phụ ngồi ở tầng dưới của buồng lái, nơi có cửa sổ rộng để tăng tối đa tầm nhìn. Người phi công sử dụng cơ cấu điều khiển thay đổi lực nâng, hướng nghiêng và hướng quay theo quy chuẩn giống như các máy bay trực thăng khác. Việc nghiêng trước-sau được điều tiết bởi thay đổi góc tấn chung của các cánh quạt bên trái hoặc bên phải, đảm bảo lực nâng do chúng tạo ra đủ để ngăn chặn hiện tượng nghiêng không kiểm soát. Động tác nghiêng trái-phải được thực hiện bởi việc nghiêng đĩa rôto về trước hay về sau, tùy theo hướng nghiêng mong muốn. Ở tốc độ cao, việc điều khiển các rôto khác nhau được thay thế bởi đuôi lái lớn ở cánh thăng bằng. Nâng và hạ độ cao được điều khiển bằng cách thay đổi góc tấn chung của cả hai cánh quạt cùng một lúc. Bộ phận nâng lớn tại đuôi điều khiển dáng điệu thân máy bay và giúp phản ứng với mômen dọc từ cánh và từ các góc nghiêng khác nhau của đĩa rôto.
Nhìn chung, kích thước lớn, ma sát cực lớn tại đòn bẩy và cần điều khiển, nhu cầu kiểm soát độ biến dạng của cấu trúc khiến hệ thống điều khiển trực thăng khá phức tạp. Một hệ thống kiểm soát được tích hợp theo từng chu kì để giảm thiểu lực điều khiển cảm nhận bởi phi công. Chu kỳ thứ nhất là điều khiển trực tiếp bằng cơ học, lực tác động của phi công giúp kích hoạt mở màn chu kì thứ hai. Chu kỳ thứ hai là giai đoạn chuyển tiếp với hệ thống khuếch đại thủy lực công suất nhỏ được kích hoạt, chuyển tín hiệu điều khiển sang chu kỳ thứ ba. Ở chu kỳ cuối này, đĩa dẫn động điều khiển công suất cao, phản ứng nhanh tại hộp số chính sẽ trực tiếp điều khiển hoạt động của đĩa lắc.
Hoạt động.
Mẫu thử nghiệm hoàn chỉnh đầu tiên được hoàn tất vào năm 1968. Trước đó, chuyến bay đầu tiên của một mẫu thử nghiệm không hoàn chỉnh vào ngày 27 tháng 6 năm 1967 kết thúc thất bại vì những trục trặc của khâu điều khiển, gây ra rung lắc máy bay; một bánh xe chính chạm đất quá mạnh gây nổ lốp và làm cong ổ trục bánh. Nguyên nhân của sự rung lắc này là do khuếch đại cộng hưởng của sàn buồng lái, truyền ngược vào bộ phận điều khiển khi phi công dự tính cho máy bay quay lên-xuống bằng cách điều khiển cần góc tấn chu kỳ ("cyclic"). Báo chí phương Tây đã rầm rộ đăng tin máy bay bị phá hủy trong tai nạn, nhưng tin tức này là sai sự thật.
Phiên bản thử nghiệm năm 1968 được đặt tên mã đăng ký là SSSR-21142 và thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 10 tháng 7 năm 1968 tại sân bay của nhà máy Mil ở Panki, bay tới đích là sân bay dành cho việc thử nghiệm máy bay của Mil tại Lyubertsy. Tháng 2 năm 1969, mẫu thử nghiệm đầu tiên này đã thực hiện kỷ lục nâng một lượng hàng cân nặng lên cao . Ngày 6 tháng 8 năm 1969, máy bay lại nâng lên độ cao , một lần nữa lập kỷ lục thế giới. Mẫu thử nghiệm thứ hai được Mil lắp ráp ở Panki, nhưng đã phải "đắp chiếu" suốt một năm để chờ lắp động cơ, và cuối cùng đã bay thử vào tháng 3 năm 1973 tại đây, từ Panki tới Lyubertsy. Giống như mẫu thứ nhất, mẫu thứ hai cũng mang tên đăng ký là SSSR-21142.
Hoạt động của các mẫu Mil V-12 này tỏ ra tốt hơn cả mong đợi, chúng đã lập nhiều kỷ lục về hàng không mà trong số đó vẫn còn đứng vững đến thời điểm gần đây, và khiến cho những người thiết kế ra chúng nhận được nhiều giải thưởng danh giá, ví dụ như Giải Sikorsky trao thưởng bởi Hiệp hội Trực thăng Hoa Kỳ dành cho những thành tựu xuất sắc trong công nghệ trực thăng. Thiết kế của V-12 đã được cấp bằng sáng chế ở Hoa Kỳ, Anh quốc và ở nhiều nước khác. Trong tháng 5 và 6 năm 1971, mẫu thử nghiệm đầu tiên của V-12 đã thực hiện nhiều chuyến bay biểu diễn ở châu Âu, trong đó có một lần biểu diễn tại triển lãm hàng không "Salon international de l'aéronautique et de l'espace de Paris-Le Bourget" tại Le Bourget với mã số tham dự là H-833.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, V-12 sau cùng không được đưa vào sử dụng trong Không quân Xô Viết vì nhiều lý do. Lý do quan trọng nhất là nhu cầu sử dụng của V-12 - việc vận chuyển các tên lửa đạn đạo chiến lược - đã không còn nữa. Đó cũng là lý do khiến việc sản xuất máy bay vận tải Antonov An-22 bị giảm xuống. Việc phát triển V-12 chấm dứt hoàn toàn vào năm 1974. Mẫu thử nghiệm đầu tiên vẫn được trưng bày ở nhà máy trực thăng của Mil tại Panki-Tomilino, quận Lyuberetsky gần Moskva. Mẫu thứ hai được quyên tặng cho Bảo tàng Không quân Monino cách Moskva về phía Đông.
Kỷ lục thế giới.
Mẫu thử nghiệm đầu tiên của V-12 thực hiện được 8 kỷ lục tính theo bảng phân loại E1 của FAI dành cho trực thăng thông thường. 4 trong số đó vẫn còn được giữ. Thành viên của tổ lái V-12 đó là: | 1 | null |
Mỡ Phú Thọ hay giổi Chevalier (danh pháp khoa học: Magnolia chevalieri ) là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được James Edgar Dandy mô tả lần đầu năm 1930 với danh pháp "Manglietia chevalieri". Gần đây với kết quả phân tích gen đã được Venkatachalam Sampath Kumar gộp lại vào chi "Magnolia" năm 2006 với danh pháp hiện tại. Tên loài được đặt như vậy là để vinh danh nhà thực vật học người Pháp (1873-1956).
Tại Trung Quốc nó được gọi là mục nam mộc liên (睦南木莲), và đây là nguồn gốc của tên gọi "Southern Peace Lotus Tree" trong IUCN.
Mô tả.
Cây gỗ nhỏ, cao tới 10 m. Thân cây có vỏ màu nâu xám nhạt. Các bộ phận non như búp lá, cành non, mặt dưới lá, cuống lá, và sẹo lá kèm có lông sát màu nâu xỉn đỏ nhạt. Cành non màu xanh lá cây. Sẹo lá kèm bán nguyệt đến nửa elíp, bằng 1/10-1/5 chiều dài cuống lá. Cuống lá dài 1,5–3 cm. Phiến lá có hình trứng ngược đến trứng ngược hẹp, dài 10–18 cm đôi khi dài tới 20 cm, rộng 3,5–5 cm đôi khi rộng tới 6,5 cm. Bề mặt lá chất liệu như da, mặt trên nhẵn, mặt dưới lá có 10-18 cặp gân phụ. Phiến lá có gốc (đuôi lá) hình nêm, đỉnh lá (đầu lá) nhọn đến có mũi. Hoa mọc ở đầu cành, tràng hoa có 9 cánh xếp thành 3 vòng; vòng ngoài cùng có 2 hoặc 3 cánh hoa hình thuôn-elíp, kích thước cánh hoa cao khoảng 7,5 cm và rộng khoảng 3 cm, dạng mỏng, mặt ngoài có màu hơi xanh; tràng hoa xếp ở 2 vòng trong cánh có màu trắng và hơi vàng nhạt, cánh hoa hình trứng ngược, nạc (dày hơn), gốc cánh dần dần vót nhọn và hình thành một vuốt dài; các cánh hoa vòng trong cùng nhỏ và hẹp hơn. Nhị hoa cao 6–9 mm; xếp sát nhau và hình thành một mũi chừng 1,5 mm. Bầu hình trụ, cao khoảng 1,7 cm, đường kính khoảng 1 cm; lá noãn hình trứng ngược hẹp, kích thước khoảng 6 mm, phần đỉnh lá noãn nhô ra có rãnh nông; có 8-10 noãn trên mỗi lá noãn, có cuống. Quả hình trứng đến elíp, kích thước quả có đường kính 4 cm và cao khoảng 5–9 cm. Cây cho hoa vào các tháng 2-4, cho quả vào các tháng 9-10.
Phân bố.
Bản địa Việt Nam (cũng được trồng rộng rãi ở phía bắc, gần với khu vực phân bố tự nhiên), bắc Lào và nam Trung Quốc (nam Vân Nam, cũng từng được trồng tại bắc Quảng Đông)
Giá trị sử dụng.
Được xếp vào nhóm cây trang trí, do có thời gian ra hoa dài nên cũng được trồng ở đường phố và vườn cây. Ở Việt Nam gỗ được dùng trong xây dựng và đóng đồ gia dụng. | 1 | null |
Dạ hợp hay dạ hợp nhỏ, cây trứng gà (danh pháp khoa học: Magnolia coco) là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được João de Loureiro mô tả khoa học đầu tiên năm 1790 dưới danh pháp "Liriodendron coco". Năm 1817 Augustin Pyramus de Candolle chuyển nó sang chi "Magnolia".
Tại Trung Quốc nó được gọi là dạ hương mộc lan (夜香木兰).
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại Đài Loan, Trung Quốc (Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam), Việt Nam. Môi trường sống là rừng; ở cao độ 600-900 m.
Mô tả.
Cây gỗ hay cây bụi, cao 2-4 m, nhẵn nhụi. Vỏ cây màu xám. Các cành màu xanh lục, nhẵn, hơi gồ ghề, bóng. Sẹo lá kèm đạt đến đỉnh của cuống lá. Cuống lá 5-10 mm; phiến lá hình elip, hình elip hẹp hoặc hình trứng ngược-elip, 7-14(-28) × 2-4,5(-9) cm, dạng da, mặt gần trục màu xanh lục sẫm, bóng và hơi nhăn lượn sóng, có 8-10 gân phụ ở mỗi bên gân giữa, các gân mắt lưới thưa, đáy hình nêm, mép hơi cuốn ngoài, đỉnh nhọn thon dài. Cuống hoa rủ xuống, có 3 hoặc 4 sẹo lá bắc. Hoa hình cầu, đường kính 3-4 cm. Cánh đài 9, hình trứng ngược, mọng thịt, mặt gần trục lõm; 3 cánh đài của vòng ngoài màu ánh xanh lục, ~2cm, 5 gân; các cánh đài bên trongxếp thành 2 vòng, màu trắng, 3-4 × ~4 cm. Nhị 4-6 mm; chỉ nhị màu trắng, ~2 mm; mô liên kết thò ra và tạo thành một mấu; bao phấn ~3 mm. Bộ nhụy màu xanh lục, hình trứng, 1,5-2 cm; lá noãn ~10, hình trứng hẹp, 5-6 mm, mặt xa trục có 1 rãnh hướng xuống đáy vòi nhụy; vòi nhụy ngắn, rụng sau khi nở hoa và để lại lá noãn với đỉnh cụt. Quả ~3 cm; các lá noãn thuần thục gần như hóa gỗ. Hạt hình trứng, ~1 cm, đỉnh có lỗ ở bên phía mặt gần trục, rãnh mặt bụng không dễ thấy, đáy hình nêm; áo hạt trong màu nâu. Ra hoa mùa hè (cả năm ở Quảng Châu, Quảng Đông), tạo quả mùa thu. "2n" = 38. | 1 | null |
Magnolia dandyi là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được François Gagnepain mô tả khoa học đầu tiên năm 1939, đặt theo tên vinh danh nhà thực vật học người Anh - James Edgar Dandy (1903-1976). Trong tiếng Việt loài này cũng được gọi là vàng tâm, giổi Dandy, dạ hợp Dandy. Trong tiếng Trung Quốc, cây được gọi là 大叶木莲 "(đại diệp mộc liên)".
Mô tả.
Cây thường xanh gỗ nhỡ hoặc lớn, chiều cao khoảng 25-30m có khi lên tới 50m, đường kính thân đến 40–60 cm đôi khi lên tới 100 cm. Toàn bộ phần non của cây đều có phủ lớp lông măng dài màu gỉ sắt. Lá đơn nguyên mọc cách tập trung đầu cành (5-6 lá). Cuống lá dài từ 2–3 cm, có vết sẹo lõm do kèm búp để lại dài từ 1/3 đến 2/3 cuống. Phiến lá hình xoan thuôn, đầu lá có mũi nhọn, đuôi lá tù, phiến lá bóng như chất liệu da, dài 25–50 cm, rộng 10–20 cm. Hệ gân phụ thứ cấp dạng lông chim có 20-22 cặp, gân phụ tam cấp tạo thành mạng lưới dày đặc. Kèm búp sớm dụng, búp non cao tới 3 cm, phủ lớp lông hoe đỏ ở búp non. Hoa có kèm bao hoa sớm rụng. Tràng hoa có 9-10 cánh tràng, xếp xoắn thành 3 vòng. Tràng hoa lớp ngoài cùng kích thước lớn hơn, hình trứng; cao 4,5–5 cm; rộng 2,5-2,8 cm. Nhị nhiều, cao từ 1,2 - 1,5 cm, bao phấn từ 0,8–1 cm. Bầu nhụy nổi hình trứng cao 2-2,5 cm, có từ 60-75 lá noãn rời. Quả hình trứng hoặc bầu dục tự nứt. Cây cho hoa vào tháng 5-6 và quả vào tháng 9-12. Bộ nhiễm sắc thể 2n=38.
Sinh thái và phân bổ.
Cây mọc vùng rừng thường xanh cây lá rộng từ cận nhiệt đới đến nhiệt đới ẩm đất thấp hoặc trên núi có độ cao 200 - 1900m trên mực nước biển ở Việt Nam và 450 - 1.500m ở Trung Quốc. Phân bố tại miền nam Trung Quốc (tây Quảng Tây, đông nam Vân Nam), miền Bắc Việt Nam và Lào.
Tình trạng bảo tồn.
Mộc lan Dandy được IUCN xếp vào loại ít quan tâm vì không có đủ dữ liệu về quy mô, số lượng loài và xu hướng phát triển, đặc biệt thiếu dữ liệu từ phía Việt Nam. Mộc lan Dandy được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) là dễ bị tổn thương A1cd và được liệt kê trong Sách đỏ Trung Quốc (năm 2004 và 2014) là loài nguy cấp.
Sử dụng.
Loài này có thể sử dụng làm cây xanh công viên hoặc vườn thực vật ở vùng có điều kiện tương thích sinh thái. Gỗ có thớ gỗ mịn, gỗ nhẹ mềm, thường có mùi thơm nên rất được đặc biệt ưa thích của cư dân địa phương và được sử dụng cho vật dụng nội thất có giá trị. | 1 | null |
Magnolia dixonii là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được (Little) Govaerts mô tả khoa học đầu tiên năm 1996. Đây là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Hàm tiếu, lan tiêu hay dạ hạp hương (danh pháp khoa học: Magnolia figo) là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được (Lour.) DC. mô tả khoa học đầu tiên năm 1817.
Hàm tiếu tuy không sặc sỡ, thường là màu trắng ngà, ngả màu tím nhưng có hương thơm ngát nên được chuộng trồng làm cây cảnh. Mùi hoa tương tự như mùi chuối chín.
Trong văn chương Việt Nam cây hàm tiếu được nhà chí sĩ Phan Bội Châu xem như là biểu tượng của một danh sĩ sống ẩn dật, không màu mè mà vẫn giữ danh thơm. Khi bị đưa an trí ở Huế, ông có bài thơ vịnh cây hoa này . | 1 | null |
Siren intermedia là một loài trong họ Sirenidae, có nguồn gốc ở miền đông Hoa Kỳ và phía bắc México. Chúng được gọi bằng nhiều tên gọi thông thường như cá chình hai chân, siren lùn và lươn bùn. Loài này là loài trung gian giữa "Siren lacertina" và "Pseudobranchus spp".
Phân bố địa lý.
"Siren intermedia" được tìm thấy ở Hoa Kỳ, chủ yếu từ Virginia đến Florida, phía tây đến Texas (dao động vào vùng đông bắc México như Veracruz) và phía bắc đến Illinois, Indiana và Michigan. | 1 | null |
Magnolia grandiflora, thường được biết đến như là Magnolia miền nam, là một loại cây họ Magnoliaceae có nguồn gốc ở vùng đông nam Hoa Kỳ, từ ven biển Bắc Carolina đến trung tâm Florida và phía tây đến Đông Texas. Với độ cao 27,5 m (90 ft), nó là một cây thường xanh lớn, nổi bật, với lá xanh đậm lớn lên đến 20 cm (7 3/4 in) dài và rộng 12 cm (4 3/4 in) và rộng, màu trắng, hoa thơm có đường kính lên đến 30 cm (12 in). Mặc dù đặc hữu cho các khu rừng cận nhiệt đới vùng thấp ở vùng Vịnh và vùng đồng bằng ven biển Nam Đại Tây Dương, mộc lan grandiflora được trồng rộng rãi ở các vùng nóng trên toàn thế giới. Gỗ cứng và nặng, và đã được sử dụng thương mại để làm đồ gỗ, pallet, và veneer. | 1 | null |
Giổi hay Giổi ăn quả, còn được gọi là quả Hồng bì (danh pháp khoa học Magnolia hypolampra) là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được Auguste Jean Baptiste Chevalier công bố tên khoa học đầu tiên là "Talauma gioi" năm 1918. Tuy nhiên, danh pháp này thiếu mô tả khoa học kèm theo nên năm 2010 được coi là danh pháp công bố không hợp lệ. Năm 1928, James Edgar Dandy công bố danh pháp "Michelia hypolampra". Năm 1998, Richard B. Figlar chuyển "Michelia hypolampra" thành "Magnolia hypolampra" trong "Proceedings of the International Symposium on the Family Magnoliaceae" diễn ra tại Quảng Châu (Trung Quốc) từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 5 năm 1998, nhưng toàn bộ nội dung của "Proceedings of the International Symposium on the Family Magnoliaceae" chỉ được in ấn và công bố năm 2000. | 1 | null |
Giổi đá hay mỡ, mộc lan đỏ (danh pháp khoa học: Magnolia insignis) là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được Nathaniel Wallich mô tả khoa học đầu tiên năm 1824.
Tại Trung Quốc gọi là hồng hoa mộc liên (红花木莲), nghĩa đen là cây sen gỗ hoa đỏ.
Phân bố.
Loài này có trong khu vực từ đông bắc Ấn Độ (Assam), Nepal, miền bắc Myanmar tới Trung Quốc (Quảng Tây, Quý Châu, tây nam Hồ Nam, tây nam Tứ Xuyên, đông nam Tây Tạng, Vân Nam), Thái Lan và Việt Nam. Môi trường sống là rừng lá rộng thường xanh; ở cao độ 900-1.650 m.
Mô tả.
Cây gỗ, cao tới 30 m, đường kính ngang ngực tới 20 cm. Các cành nhẵn nhụi hoặc các đốt có lông tơ màu từ nâu đỏ gỉ sắt đến nâu ánh vàng khi non. Sẹo lá kèm 0,5-1,2 cm. Cuống lá 1,8-3,5 cm; phiến lá hình trứng hẹp hoặc hình elip, 10-26 × 4–10 cm, dạng da, mặt gần trục nhẵn nhụi, gân giữa mặt xa trục có lông tơ màu nâu ánh đỏ hoặc có lông cứng nhỏ áp ép rải rác, phần gốc ~2/3 thon thành đáy, đỉnh nhọn thon đến nhọn thon-hình đuôi. Các cành ngắn mập và khỏe, đường kính 8–10 mm; sẹo lá bắc 1, ~1 cm ở đáy cánh đài. Hoa thơm. Cánh đài 9-12; 3 cánh đài bên ngoài có màu nâu ở mặt xa trục, màu từ ánh đỏ tới đỏ ánh tía ở mặt gần trục, hình trứng ngược-thuôn dài, ~7 cm, cong ra phía ngoài; các cánh đài giữa và bên trong màu hồng ánh trắng sữa, hình trứng ngược-hình thìa, 5–7 cm, thẳng đứng, gốc ~1/4 thon và có vuốt. Nhị 1-1,8 cm; chỉ nhị dài gần bằng phần thò ra của mô liên kết; mô liên kết thò ra và tạo thành một mấu nhọn hình tam giác; các mô vỏ hơi khác biệt. Bộ nhụy thon búp măng, 5–6 cm; các lá noãn nhẵn nhụi, mặt xa trục có rãnh hẹp. Quả màu đỏ ánh tía khi còn tươi, hình trứng-elipxoit, 7–12 cm; các lá noãn trưởng thành có mấu, nứt hoàn toàn dọc theo các đường ráp ở lưng. Ra hoa tháng 5-6, tạo quả tháng 8-9. "2n" = 38. | 1 | null |
Magnolia neillii là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được (Lozano) Govaerts mô tả khoa học đầu tiên năm 1996. Đây là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Magnolia" × "soulangeana (saucer magnolia) là một loại cây lai trong "Magnolia" và soulangeana. Đây là loài cây rụng lá với những bông hoa lớn, nở sớm với nhiều sắc thái khác nhau của màu trắng, hồng và tím. Đây là một trong những loài cây mộc lan được sử dụng phổ biến nhất trong nghề làm vườn, được trồng rộng rãi ở Quần đảo Anh, đặc biệt là ở miền nam nước Anh; và ở Hoa Kỳ, đặc biệt là bờ biển phía đông và phía tây.
Gốc lai.
"Magnolia" × "soulangeana" ban đầu được lai tạo bởi người làm vườn người Pháp Étienne Soulange-Bodin (1774–1846), một sĩ quan kỵ binh đã nghỉ hưu trong quân đội Napoleon, tại lâu đài của ông ở Fromont gần Paris. Ông đã lai tạo "Magnolia denudata" với "M. liliiflora" vào năm 1820, và rất ấn tượng với sự ra hoa sớm của cây con đầu tiên vào năm 1826.
Từ Pháp, cây lai nhanh chóng được đưa vào trồng trọt ở Anh và các khu vực khác của châu Âu, và sau đó cả Bắc Mỹ. Kể từ đó, các nhà nhân giống cây trồng ở nhiều quốc gia đã tiếp tục phát triển loại cây này và hơn một trăm giống cây trồng được đặt tên hiện được biết đến.
Mô tả.
Trồng như một loại cây bụi lớn hoặc cây nhỏ, "Magnolia" × "soulangeana" có thay thế, đơn giản, sáng bóng, đầy lá cây hình bầu dục màu đậm trên phần xuất phát của thân cây. Hoa của nó nổi bật trên cây trần vào đầu mùa xuân, với những chiếc lá rụng rơi ngay sau đó, kéo dài suốt mùa hè cho đến mùa thu.
Hoa "Magnolia" × "soulangeana" có kích thước lớn, thường có chiều dài 10–20 cm (4–8 in) và có nhiều màu trắng, hồng và nâu. Một giống Mỹ, 'Grace McDade' từ Alabama, được báo cáo là mang những bông hoa lớn nhất, với đường kính 35 cm (14 in), hoa nhuốm màu trắng với màu tím hồng. Một giống khác, "Magnolia" × "soulangeana" 'Jurmag1', được cho là có hoa màu tối nhất và độ chặt nhất. Thời gian nở và kéo dài của hoa khác nhau giữa các giống đã được đặt tên, cũng như khác biệt về hình dạng của các giống hoa. Một số là hình cầu, một số khác có hình dạng chiếc cốc.
"Magnolia" × "soulangeana" đáng chú ý vì dễ trồng, và khả năng chịu đựng tương đối của nó đối với gió và đất kiềm (loại đất có độ pH từ 7,5 – 9) (hai yếu điểm của nhiều loại mộc lan khác). Giống 'Brozzonii' đã đạt được Hội làm vườn Hoàng gia của Anh trao giải thưởng Garden Merit. | 1 | null |
Magnolia wolfii là một loài thực vật có hoa trong họ Magnoliaceae. Loài này được (Lozano) Govaerts mô tả khoa học đầu tiên năm 1996.
Vào tháng 8 năm 2006, các nhà khoa học đã đến thăm một khu rừng nhỏ rộng hai hecta nơi M. Wolfii đang phát triển tại đây. Họ tìm thấy khu vực này được trồng lấp các đồn điền cà phê ở mọi phía và chỉ có duy nhất ba cây Wolfii trưởng thành còn mọc ở đó, rõ ràng nó đang có hoa và trái, nhưng không có cây non nào được nhìn thấy. | 1 | null |
Nhục đậu khấu (danh pháp hai phần: Myristica fragrans) còn gọi là ngọc khấu là một loài thực vật có hoa trong họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae). Loài này được Houtt mô tả khoa học đầu tiên năm 1774. Gồm hơn 150 loài, phân bố ở Châu Á và phía tây Thái Bình Dương.
Các loài thương mại quan trọng nhất là "Myristica fragrans" (cây hạt nhục đậu khấu), từ đó làm ra gia vị mace (phần bao quanh hạt).
Nguyên từ học.
Tên gọi "" là từ tính từ tiếng Hy Lạp , có nghĩa là 'thơm, để xức dầu', đề cập đến việc sử dụng từ sớm.
Tính từ xuất phát từ danh từ (‘nước hoa, thuốc mỡ, dầu xức myron’). | 1 | null |
Siren lacertina là một loài Sirenidae giống lươn. Chúng là một trong những động vật lưỡng cư lớn nhất ở Bắc Mỹ, có chiều dài khoảng 1,5 cm (0,59 inch) khi nở và sau đó phát triển đến độ dài từ 18 đến 97 cm (7,1-38).
Trọng lượng có thể từ 55 đến 1,000 g (1,9-35 oz).
Chúng có màu sắc từ màu đen sang màu nâu, và có bụng màu xám nhẹ hoặc màu vàng.
Chúng có mang lớn và không chân sau. Chân trước với bốn ngón chân, rất nhỏ mà có thể được ẩn trong các mang. S. lacertina thường ăn thịt và ăn giun đốt, côn trùng, ốc, và cá nhỏ, mặc dù chúng cũng đã được quan sát thấy ăn thực vật. Họ sử dụng một đường bên cảm giác cơ quan cho việc tìm kiếm con mồi.
Chúng sống từ Washington, DC, đến Florida. Con cái đẻ trứng giữa tháng hai và tháng ba, như nhiều khoảng 500. Trứng nở hai tháng sau đó. Phương pháp thụ tinh trứng hiện đang không rõ. | 1 | null |
Cây hàm ếch, tên khoa học Saururus chinensis, còn có tên là trầu nước, tam bạch thảo (cây ra hoa thường có 3 lá bắc màu trắng), đường biên ngẫu (Lĩnh nam thái dược lục), là một loài thực vật có hoa trong họ Saururaceae. Loài này được (Lour.) Baill. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1871. Ở Việt Nam, cây này được dùng như một nguyên liệu dược trong Đông y.
Mô tả cây.
Hàm ếch là một loại cỏ sống lâu năm, ưa mọc ở những nơi ẩm ướt, cao 30–70 cm, thân phía dưới mọc bò, phía trên đứng thẳng. Lá mọc so le, có cuống dài 1–3 cm, phiến lá hình trứng, thon dài 5–12 cm, rộng 2–6 cm, phía dưới hình tim, phía ngọn lá nhọn. Trên lá nhìn rõ 5 gân, mép lá nguyên. Cụm hoa mọc thành bông, màu trắng, dài khoảng 14 cm, trên một cuống nhẵn, dài 4–5 cm. Hạt hình trứng, hơi nhọn ở đầu.
Mùa hoa: tháng 4-6 (Hình bên).
Phân bố, thu hái và chế biến.
Cây hàm ếch mọc hoang khắp nơi ẩm thấp (ruộng trũng, khe lạch) ở miền Bắc nước ta. Còn mọc ở Trung Quốc, Nhật Bản.
Dùng toàn cây hay chỉ hái lá. Thường dùng tươi. Hái vào lúc cây đang ra hoa.
Thành phần hoá học.
Toàn cây chứa tinh dầu. Trong tinh dầu có thành phần chủ yếu là metyl-n-nonylxeton. Lá còn chứa quexitrin, và hyperin C21H20O12 và izoquexitrozit.
Tác dụng dược lý.
Dung dịch cây hàm ếch 50% có tác dụng ức chế vi trùng Staphylococ và vi trùng thương hàn.
Công dụng và liều dùng.
Hàm ếch còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân để chữa bệnh thủy thũng, tiểu tiện khó khăn, bệnh dạ dày và ruột, lở loét, bệnh cước khí (chân sưng đau, khớp xương nhức, thở gấp v.v...)
Liều dùng hằng ngày: 10-20g tươi.
Có khi dùng lá giã nhỏ để đắp mụn nhọt. | 1 | null |
Kỳ giông lớn California (danh pháp: Dicamptodon ensatus) là một loài kỳ giông trong họ Dicamptodontidae. Đây là loài đặc hữu của tiểu bang California, Hoa Kỳ. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ôn đới, sông ngòi, hồ nước ngọt, và đầm nước ngọt.
Mô tả.
Kỳ giông lớn California có thể đạt tổng chiều dài 17-30,5 cm (6,7-12 inch). Như tất cả các loài kỳ nhông, nó có bốn ngón chân trên bàn chân trước và năm ngón chân trên bàn chân sau. Đuôi nó chiếm khoảng 40% tổng chiều dài của chúng và hẹp theo bề ngang. Đầu, lưng, và hai bên của kỳ nhông có một vạch màu cẩm thạch trên một nền màu nâu hoặc màu đồng sáng. Nó có một cái đầu lớn với một cái mõm giống như xẻng và nếp gấp của da trên cổ họng được gọi là lằn gular. Đôi mắt trung bình về kích thước và có một mống mắt đồng đốm và lỗ con ngươi lớn màu đen. Loài này là một trong số ít các loài kỳ nhông có khả năng phát ra âm thanh.
Con trưởng thành lên mặt đất tìm kiếm con mồi như ốc, ốc sên, xương sống khác, chuột nhỏ, chuột chù, có thể là loài bò sát, và các loài lưỡng cư nhỏ. Kỳ giông lớn California ăn thịt chuột chù nước Mỹ ("Sorex palustris") và "Thamnophis couchi".
Sinh sản.
Kỳ giông lớn California sinh sản từ tháng 3 đến tháng 5 với số lượng trứng đạt đỉnh vào tháng 5. Trứng được giấu vài mét bên dưới bề mặt nước trong, lạnh thường bên dưới những tảng đá và các mảnh vụn gỗ thô tại đáy suối. Con trưởng thành đôi khi ở gần tổ của chúng. Ấu trùng có thể bị mất mang ngoài và biến đổi để trưởng thành ở trên mặt đất sau 1 đến 2 năm. Nếu ở trong suối lâu năm, con trưởng thành có thể giữ lại mang và trưởng thành ở trong môi trường nước. | 1 | null |
Dicamptodon tenebrosus là một loài kỳ giông trong họ Dicamptodontidae. Đây là loài đặc hữu của Tây Bắc Thái Bình Dương bắc Bắc Mỹ. Có ba loài có liên quan chặt chẽ với loài này là "D. ensatus, D. copei" và "D. aterrimus". Môi trường sống tự nhiên là rừng ôn đới, sông, hồ nước ngọt và đầm lầy.
"Dicamptodon tenebrosus" được bảo vệ khỏi bị săn bắt giết hại theo Đạo Luật vật hoang dã của tỉnh bang British Columbia.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở miền bắc California, Oregon, Washington và miền nam British Columbia. | 1 | null |
Bá tước là một tướng lĩnh Lục quân Đế quốc Nhật Bản trước thế chiến thứ hai. Là một nhà lãnh đạo có uy tín và là một trong những nhà lý luận chính trị cánh hữu dân tộc Chủ nghĩa có tiếng tăm trong giai đoạn cuối của Đế quốc Nhật Bản, ông được coi là nhà lãnh đạo của phe cấp tiến trong quân đội Nhật Bản chính trị và từng là Bộ trưởng Bộ chiến tranh dưới thời Thủ tướng Inukai. Sau đó ông giữ chức Bộ trưởng Giáo dục trong chính quyền Konoe và Hiranuma.
Tiểu sử.
Araki được sinh ra tại Komae, Tokyo. Cha của ông là một cựu samurai, thuộc hạ của ngành Hitotsubashi của gia tộc Tokugawa. Araki đã tốt nghiệp trường Sĩ quan Lục quân Đế quốc tháng 11 năm 1897 và được phong quân hàm thiếu úy tháng 6 năm sau.
Được thăng hàm trung úy tháng 12 năm 1900 và đại úy tháng 6 năm 1904, Araki đã giữ chức chỉ huy đại đội thuộc Trung đoàn Đế quốc số một trong chiến tranh Nga-Nhật.
Sau chiến tranh Araki quay lại trường học và tốt nghiệp Đại học Lục quân với vị trí đứng đầu khóa của ông. Ông đã phục vụ trong Bộ Tham mưu Lục quân Đế quốc Nhật Bản tháng 4 năm 1908 và giữ chức vụ sĩ quan ngôn ngữ tại Nga từ tháng 11 năm 1909 đến tháng 5 năm 1913, khi ông làm tuỳ viên quân sự ở Saint Petersburg trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông được phong thiếu tá tháng 11 năm 1909 rồi trung tá tháng 8 năm 1915 và được bổ nhiệm vào đạo quân Quan Đông.
Được thăng đại tá ngày 24 tháng 7 năm 1918, Araki làm sĩ quan tham mưu tại trụ sở Lục quân Viễn chinh tại Vladivostok từ 1918-1919 trong vụ Nhật Bản can thiệp vào Siberia để chống lại Hồng quân Bolshevik, và là chỉ huy của Trung đoàn bộ binh số 23 Lục quân Đế quốc. Trong giai đoạn này ở Siberia, Araki đã thực hiện những nhiệm vụ bí mật ở vùng Viễn Đông Nga và hồ Baikal.
Được thăng thiếu tướng ngày 17 tháng 3 năm 1923, Araki làm chỉ huy của Lữ đoàn Bộ binh số 8. Ông là tư lệnh hiến binh từ tháng 1 năm 1924 cho đến tháng 5 năm 1925, sau đó ông tái gia nhập Bộ Tham mưu Lục quân với vị trí cục trưởng. Araki được phong trung tướng tháng 7 năm 1927 rồi trở thành chỉ huy trưởng Đại học Lục quân tháng 8 năm sau.
Ông chỉ huy lữ đoàn số 6 từ 1929–1931, cùng lúc đó ông được chỉ định làm phó Tổng Thanh tra Huấn luyện quân sự, một trong những chức vụ có uy tín nhất trong quân đội. Ông được phong đại tướng tháng 10 năm 1933. | 1 | null |
Robert Burns Woodward (1917-1979) là nhà hóa hoc người Mỹ. Ông giành Giải Nobel Hóa học năm 1965 nhờ những nghiên cứu về tổng hợp các chất hữu cơ. Woodward đã tổng hợp đương rất nhiều chất khác nhau như cholesterol, vitamin B12. Ông là đồng tác giả với Roald Hoffmann của tác phẩm Sự bảo toàn tính đối xứng của orbitan. Ngoài ra, cả hai nhà khoa học Mỹ này đã phát triển các quy tắc để giải thích các cơ chế phản ứng (quy tắc Woodward-Hoffmann). | 1 | null |
Quá trình xúc tác là quá trình làm thay đổi tốc độ của một phản ứng hóa học của một hay nhiều chất phản ứng, nhờ vào sự tham gia của một chất thêm vào gọi là chất xúc tác. Không giống các chất phản ứng khác trong phản ứng hóa học, một chất xúc tác không bị mất đi trong quá trình phản ứng. Với một chất xúc tác, cần ít năng lượng giải phóng hơn để đạt được trạng thái trung gian, nhưng tổng năng lượng giải phóng từ chất phản ứng sang chất tạo thành không đổi, có thể tăng tốc độ phản ứng hoá học lên nhiều lần, hàng chục lần, hàng trăm lần, nên rút ngắn được thời gian, tăng cao hiệu suất sản xuất.
Chất xúc tác sinh học (hay còn gọi là Enzym) là protein đẩy nhanh tốc độ phản ứng hóa học.
Chất xúc tác vật lý là chất có tác dụng thay đổi tính chất vật lý của chất bị tác dụng. Điển hình là các chất bôi trơn hoặc chất gây đông tụ.
Đặc điểm.
Chất xúc tác làm giảm năng lượng hoạt hóa của phản ứng.
Chất xúc tác làm xúc tác cho phản ứng thuận thì cũng làm xúc tác cho phản ứng nghịch nên chất xúc tác làm cho phản ứng nhanh đạt tới trạng thái cân bằng, không làm chuyển dịch cân băng, không thay đổi ΔH.
Trong sản xuất công nghiệp.
Trong các nhà máy sản xuất phân đạm người ta thường dùng sắt làm chất xúc tác để tăng vận tốc phản ứng giữa nitơ và Hydro qua tác dụng xúc tác bề mặt, nhờ đó nitơ và Hydro trong hỗn hợp dễ tạo thành amonia.Nếu không có chất xúc tác thì trong cùng điều kiện nhiệt độ và áp suất, phản ứng tổng hợp amonia sẽ xảy ra với tốc độ rất chậm, không thể tiến hành sản xuất với lượng lớn.
Chất xúc tác có thể giúp chọn các bước phản ứng phù hợp với con đường mà người ta đã thiết kế, phản ứng sẽ xảy ra theo con đường thuận lợi nhất cho quá trình sản xuất.
Ví dụ khi dùng rượu etylic làm nguyên liệu thì tuỳ thuộc việc chọn chất xúc tác và điều kiện phản ứng mà ta có thể nhận được các sản phẩm phản ứng khác nhau. Nếu chọn bạc làm chất xúc tác và đưa nhiệt độ lên đến 550 °C, rượu etylic sẽ biến thành axetalđehyd; nếu dùng nhôm oxit làm xúc tác và ở nhiệt độ 350 °C ta sẽ nhận được etylen; nếu dùng hỗn họp kẽm oxit và crom (III) oxit làm chất xúc tác và ở nhiệt độ 450 °C ta sẽ thu được butylen; nếu dùng axit sunfuric đặc làm xúc tác và giữ nhiệt độ 130 - 140 °C ta sẽ có ete etylic.
Ngày nay các nhà khoa học đã tìm được chất xúc tác chế tạo thành thiết bị xúc tác nối vào ống xả khí thải của ô tô. Khi khí xả ô tô qua thiết bị xúc tác sẽ được xử lý, các chất cháy còn dư thừa sẽ bị oxi hoá biến thành carbon dioxide và nước;nitơ oxit biến thành khí nitơ.
Phân loại xúc tác.
Tùy theo trạng thái của các thành phần trong phản ứng mà người ta chia các phản ứng xúc tác ra làm xúc tác đồng thể và xúc tác dị thể. Một loại xúc tác đặc biệt khác đó là xúc tác men. Xúc tác men có thể là xúc tác đồng thể hoặc dị thể. Xúc tác đồng thể thường gặp là xúc tác axit - base. Ngoài ra còn có xúc tác nucleofil, xúc tác electrofil, xúc tác bằng phức kim loại chuyển tiếp hoặc ion của nó...
Xúc tác đồng thể.
Xúc tác đồng thể là xúc tác trong đó chất xúc tác ở cùng pha với chất phản ứng.
Một số ví dụ về xúc tác đồng thể:
formula_1 (pha khí)
formula_2 (pha lỏng)
Thuyết xúc tác đồng thể.
Shpitalsky trình bày năm điểm về thuyết xúc tác đồng thể:
Tác dụng của xúc tác tỷ lệ với nồng độ của chất xúc tác..
Xúc tác axít-base.
Phản ứng trong dung dịch đặc biệt đối với hợp chất hữu cơ được xúc tác bằng axit, base rất nhiều. Đó là phản ứng có sự tham gia của nước, alcohol, amin. Các phản ứng có đặc trưng axit như thủy phân, alcohol hóa, amonia hóa, những phản ứng có sự tham gia của nhóm cacbonyl như andehyt, axit hữu cơ và dẫn xuất của chúng.
Phản ứng tự xúc tác.
Phản ứng mà tốc độ nó tăng lên do tác dụng chính chất phản ứng, có thể là chất đầu hoặc sản phẩm, gọi là phản ứng tự xúc tác. Phản ứng thủy phân este hóa, axít hữu cơ và rượu, phản ứng tự cảm ứng. Ví dụ:
formula_3
Đây là phản ứng xúc tác axít.
Xúc tác men.
Loại men (ferments, enzymes) cùng được làm chất xúc tác (xúc tác sinh hóa).Men là chất xúc tác có nguồn gốc protein, nghĩa là những phân tử được cấu tạo từ amin axit và có cấu trúc không gian xác định của mạch polypeptit. Tác dụng xúc tác là nhờ các quá trình lên men. Đó là những quá trình trong đó xảy ra sự thay đổi thành phần hóa học các chất gây ra do kết quả hoạt động của những vi sinh vật nào đó, ví dụ men rượu, nấm hoặc vi khuẩn. Trong những trường hợp này những chất men do vi sinh vật tạo ra là những yếu tố hoạt động xúc tác. chất men vẫn giữ được tính hoạt động và khả năng tác dụng của nó khi lấy nó ra khỏi vi sinh vật.
Xúc tác dị thể.
Xúc tác dị thể là xúc tác trong đó chất xúc tác ở khác pha với chất phản ứng.Chất xúc tác dị thể thường là chất rắn và phản ứng xảy ra trên bề mặt chất xúc tác. Thường gặp nhất là những hệ xúc tác dị thể gồm pha rắn và pha khí (các chất tham gia phản ứng và sản phẩm phản ứng).
Đặc điểm của phản ứng xúc tác dị thể là phản ứng diễn ra nhiều giai đoạn, có hai đặc trưng:
Một số thuyết về chất xúc tác.
Việc khảo sát một số lý thuyết về xúc tác cho thấy lý thuyết về xúc tác dị thể chưa có sự thống nhất về quan điểm ngay cả những vấn đề cơ bản.
Các thuyết trên mới có tính chất định hướng chỉ đối với một số phản ứng. | 1 | null |
Trận Stamford Bridge diễn ra tại một ngôi làng ở Stamford Bridge, East Riding of Yorkshire, Anh vào ngày 25 tháng 9 năm 1066, giữa một đội quân Anglo-Saxon dưới thời vua Harold Godwinson và quân xâm lược Na Uy dẫn đầu bởi vua Harald Hardrada của Na Uy (Tiếng Bắc Âu cổ: "Haraldr harðráði") và em trai của vua Anh Tostig Godwinson. Sau một cuộc giao chiến đẫm máu và khủng khiếp, cả Hardrada và Tostig cùng với hầu hết các người Na Uy đều trận vong. Mặc dù Harold Godwinson đã đẩy lùi quân xâm lược Na Uy, những chiến thắng của ông không kéo dài bao lâu: ông đã bị đánh bại và bị giết bởi người Norman ở Hastings chỉ chưa đầy ba tuần sau đó. Cuộc chiến tượng trưng cho sự kết thúc của Thời đại người Viking, mặc dù trên thực tế, vẫn còn nhiều chiến dịch lớn của người Scandinavia ở Anh và Ai-len xảy ra trong những thập kỷ sau, một trong số đó là của Sweyn Estrithson của Đan Mạch trong những năm 1069-1070 và vua Magnus Barefoot của Na Uy trong năm 1098 và 1102-1103.
Bối cảnh.
Cái chết của vua Edward the Confessor của Anh vào tháng 1 năm 1066 đã gây ra một cuộc chiến, khi mà các ứng cử viên từ khắp Tây Bắc châu Âu đã giao tranh nhau để giành ngai vàng nước Anh. Một trong những ứng cử viên là, Harald Hardrada, vua Na Uy, đã tập hợp một hạm đội gồm 300 chiếc tàu, có thể mang theo khoảng 15.000 quân, để xâm chiếm nước Anh. Đến ngoài khơi bờ biển Anh trong tháng 9, ông có sự gia nhập của lực lượng mới được tuyển dụng bởi Tostig Godwinson ở Flanders và Scotland. Trong cuối mùa hè năm 1066, đạo quân xâm lược đã đi ngược lên Humber và đốt cháy thị trấn Scarborough trước khi tiến vào thành phố York. Bên ngoài thành phố họ đánh bại một quân đội miền bắc nước Anh được dẫn đầu bởi Edwin, Bá tước xứ Mercia và anh trai của ông, Morcar, Bá tước xứ Northumbria tại trận Fulford, ngày 20 tháng 9. Sau chiến thắng này họ đã nhận được sự đầu hàng của thành phố York. Sau một thời gian ngắn chiếm thành phố và chuyển các con tin cùng đồ cung cấp từ các thành phố trở về tàu của họ tại Riccall. Họ đã chấp nhận trao hòa bình cho Northumbrians để đổi lấy sự hỗ trợ của họ (người Northumbrian) cho việc đòi hỏi ngai vàng của Harald và yêu cầu phải gửi nhiều con tin hơn nữa từ toàn bộ vùng Yorkshire.
Vào thời gian này vua Harold đang ở miền nam nước Anh, để chặn đứng một cuộc xâm lược từ nước Pháp bởi William, Công tước xứ Normandy, một ứng cử viên cho ngôi vua nước Anh. Khi nghe tin về cuộc xâm lược của Na Uy, ông tiến lên phía Bắc với một vận tốc như bão táp cùng với nhiều "thegn" (các khu quân sự) mà ông có thể tập hợp được, đi suốt ngày và đêm. Ông đã hành quân từ London đến Yorkshire, một khoảng cách khoảng 185 dặm chỉ trong bốn ngày, điều này cho phép ông ta có tấn công người Na Uy một cách hoàn toàn bất ngờ. Được rằng người Northumbrians được lệnh phải gửi thêm các con tin và bổ sung đồ cung cấp cho người Na Uy tại Stamford Bridge, Harold vội vã về đi qua York để tấn công họ tại làng Stamford Bridge nơi hai bên chạm trán nhau vào ngày 25 tháng 9. Cho đến khi quân đội Anh tiến vào, những kẻ xâm lược vẫn không biết đang có sự hiện diện của một đội quân thù địch ở tại bất cứ nơi nào trong các vùng lân cận.
Trong truyền thuyết "Heimskringla" về Harald III của Na Uy, được viết khoảng năm 1225, Snorri Sturluson đã mô tả sự sắp xếp của quân đội Na Uy. Snorri cũng tuyên bố rằng người Na Uy đã để lại áo giáp dạng lưới sắt của họ ở tại các con tàu và do đó đã phải chiến đấu chỉ với lá chắn, giáo và mũ sắt.
Địa điểm.
Không có ngôi làng nào ở Stamford Bridge trong năm 1066 và ngay cả trong năm 1086 khi quấn sách Domesday được biên soạn. Cái tên này được đặt và mô tả một địa điểm vượt sông Derwent được bắt nguồn từ một sự kết hợp của một chiếc pháo đài đá cũ nát và một cây cầu. Tại vị trí của ngôi làng hiện nay, trong lòng sông có một vệt đá lộ ra trên đó dòng sông chảy như một thác nước nhỏ. Ở chỗ có mực nước thấp nhất người ta có thể dễ dàng vượt qua con sông vào thời điểm đó bởi đi bộ hoặc bằng cưỡi ngựa.
Một dặm về phía nam dọc theo sông Derwent tại Scoreby là một thị trấn được người La Mã xây dựng từ thế kỷ thứ tư, được biết đến như là Derventio. Thị trấn này kéo dài 2,5 dặm dọc theo một con đường đông/tây từ thời La Mã. Thị trấn này nằm cả các bờ phía phía đông và phía tây của con sông, hai bờ của nó được kết nối một cây cầu được xây dựng thẳng theo tuyến đường La Mã. Không có bằng chứng khảo cổ cho thấy một cây cầu La Mã được xây dựng tại hoặc gần địa điểm hiện tại của Stamford Bridge.
Trận chiến.
Người Viking bị một bất lợi rất lớn. Quân đội của họ bị chia thành hai; với một số binh sĩ của họ ở phía tây sông Derwent và số lượng lớn khác lại ở phía đông. Họ không chờ đợi một đợt tấn công của người Anh và đó là một ngày ấm áp trái mùa vào cuối tháng chín, do đó, họ đã để lại binh giáp của họ phía sau tại chỗ các con tàu. Quân đội Anh đến và tiêu diệt sạch những người Viking lúc này đang chiến đấu một cách vô vọng ở phía tây của con sông. Vào lúc này một số lượng rất lớn quân Anh kéo đã đến, những người Viking ở phía tây đã hoặc bị giết hoặc phải vượt qua cây cầu để chạy trốn. Việc tiến quân của người Anh sau đó đã bị chặn lại bởi một điểm tắc nghẽn trên cây cầu. Có một câu chuyện dân gian như sau: đã có một tay rìu chiến khổng lồ người Bắc Âu (có thể được trang bị một rìu chiến kiểu Dane) đã đứng chắn giữa cây cầu và một mình chặn toàn bộ quân đội Saxon tại điểm hẹp nhất của cây cầu. Các sử gia người Anglo-Saxon nói rằng tay búa trận này đã cắt cổ khoảng độ 40 lính Anh. Người chiến binh này chỉ bị đánh bại khi một người lính Anh chui xuống dưới gầm cầu và đâm ngược ngọn giáo của mình qua chiếc sàn gỗ của cây cầu.
Những trở ngại này đã cho phép một số lượng lớn các chiến binh Bắc Âu tạo thành một bức tường lá chắn để đối mặt với cuộc tấn công của người Anh. Quân của Harold cũng vượt qua cây cầu và tạo thành đội hình một dòng đơn đối diện với quân Bắc Âu, họ xiết chặt các lá chắn và tấn công. Mặc dù cuộc chiến đã diễn ra ác liệt trong nhiều giờ, người Na Uy vì đã bỏ áo giáp của họ phía sau nên dần dần họ đã rơi vào thế bất lợi. Cuối cùng, đội hình của quân Bắc Âu bắt đầu bị vỡ ra từng đoạn, điều này cho phép quân Anh tiến lên và phá vỡ bức tường lá chắn này của vùng Scandinavia. Bị tấn công bọc sườn cùng với việc các thủ lĩnh của họ Hardrada và Tostig đã bị giết, quân đội Na Uy đã hầu như tan rã và bị tiêu diệt.
Trong giai đoạn sau của trận đánh, người Na Uy được tăng cường thêm tiếp viện, những người đã ở lại phía sau để bảo vệ các tàu tại Ricall, do Eystein Orri, chồng chưa cưới của con gái Hardrada chỉ huy. Một số người của ông được cho là đã đổ gục và chết do kiệt sức khi chạy tới chiến trường. Những người này, không giống như các đồng đội của họ, được vũ trang đầy đủ cho một trận chiến. Đợt tấn công của họ được mô tả trong truyền thuyết của Na Uy là "Storm of Orri – cơn bão của Orri", họ có thể chặn của người Anh trong một thời gian ngắn, nhưng rồi họ cũng đã nhanh chóng bị áp đảo và Orri bị giết. Quân Na Uy bỏ chạy và người Anh đuổi theo, một số người Na Uy bỏ chạy và bị chết đuối dưới dòng sông.
Vì có quá nhiều người đã chết trong một khu vực nhỏ bé như vậy nên người ta nói rằng ở đó vẫn còn nhiều xương trắng nằm rải rác tới 70 năm sau cuộc chiến.
Hậu quả.
Vua Harold chấp nhận thỏa thuận ngừng chiến với những người Na Uy còn sống sót, bao gồm cả Olaf, con trai của Harald và Paul Thorfinnsson, Bá tước của Orkney. Họ được phép trở về nhà sau khi cam kết không bao giờ được tấn công nước Anh một lần nữa. Thiệt hại của Na Uy là quá khủng khiếp, chỉ có 24 tàu từ hạm đội hơn 300 được dùng để chở những người sống sót chở về. Họ rút về Orkney nơi họ trú qua mùa đông và vào mùa xuân Olaf trở về Na Uy. Vương quốc này sau đó đã được chia sẻ giữa ông và Magnus, anh trai của ông, người mà Harald đã để lại để cai trị trong lúc vắng mặt.
Ba ngày sau, vào ngày 28 Tháng 9, người Norman dưới sự chỉ huy của William Nhà chinh phạt đổ bộ lên bờ biển phía nam nước Anh. Vua Harold đã phải vội vã đưa đội quân mệt mỏi của ông về phía nam để ngăn chặn một cuộc xâm lược mới. Chưa đầy ba tuần sau trận Stamford Bridge, ngày 14 tháng 10, Harold đã bị đánh bại và bị giết chết tại trận Hastings và cuộc chinh phục của người Norman vào nước Anh đã bắt đầu và từ đây kết thúc kỷ nguyên của người Anglo-Saxon. Vì rất nhiều quý tộc lớn nhỏ của Anh chết trong các trận Stamford Bridge và Hastings cho nên rất khó khăn cho người Anglo-Saxons để chống lại các lãnh chúa mới người Norman của họ; và còn có nghĩa là không có một vị thủ lĩnh tài ba, đứng lên tập hợp những người xung quanh để chống lại quân xâm lược.
Đài tưởng niệm.
Tại ngôi làng Stamford Bridge, một đài tưởng niệm đã được dựng lên. Dòng chữ trên đài tưởng niệm như sau (bằng cả tiếng Anh và Na Uy):
THE BATTLE OF STAMFORD BRIDGE
WAS FOUGHT IN THIS NEIGHBOURHOOD
ON SEPTEMBER 25TH, 1066
Tạm dịch:
TRẬN ĐÁNH STAMFORD BRIDGE
DIỄN RA TẠI KHU VỰC QUANH ĐÂY
VÀO NGÀY 25 THÁNG 9 NĂM 1066
Dòng chữ trên tấm bảng bằng đá cẩm thạch kèm theo dòng chữ:
THE BATTLE OF STAMFORD BRIDGE
KING HAROLD OF ENGLAND DEFEATED
HIS BROTHER TOSTIG AND KING HARDRAADA OF NORWAY HERE ON
25 SEPTEMBER 1066.
Tạm dịch:
TRẬN STAMFORD BRIDGE
VUA HAROLD CỦA ANH ĐÁNH BẠI
EM TRAI TOSTIG CỦA MÌNH VÀ VUA HARDRAADA CỦA NA UY TẠI ĐÂY
25 THÁNG 9 NĂM 1066. | 1 | null |
Eugen Keyler (1840 tại Königsberg – 1902 tại Berlin) là một tướng lĩnh quân đội Phổ, đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871).
Tiểu sử.
Năm ông 20 tuổi (1860), Keyler gia nhập Trung đoàn Phóng lựu số 1 (số 1 Đông Phổ) "Thái tử", và được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá Tiểu đoàn Bắn súng hỏa mai ("Füsilier-Bataillons") của trung đoàn này vào năm 1864. Trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, ông là sĩ quan phụ tá của Sư đoàn Bộ binh số 1. Sau khi ông học tại Học viện Quân sự Phổ kể từ năm 1866 cho đến năm 1869, ông được ủy nhiệm làm sĩ quan phụ tá của Lữ đoàn Bộ binh số 17, và đã tham chiến cùng đơn vị này trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt với sự bại trận của Pháp, ông được cử vào Bộ Tham mưu với cấp bậc Đại úy. Đến năm 1879, ông được phong hàm Thiếu tá trong Bộ Tham mưu của Quân đoàn VII.
Trong Năm tam đế 1888, ông được lãnh chức Trung đoàn trưởng của Trung đoàn Phóng lựu số 4 Vua Friedrich Đại đế (số 3 Đông Phổ). Kể từ năm 1894, ông giữ chức chỉ huy Đồn binh Königsberg ở Phổ. Ông được lên quân hàm Trung tướng vào năm 1895 và hai năm sau đó, ông về hưu (1897). | 1 | null |
Mặt trời của Chủ quân (Hàn văn: 주군의 태양, Phiên âm: Ju-gun-ui Tae-yang) là bộ phim truyền hình Hàn Quốc được sản xuất năm 2013, trình chiếu trên kênh SBS của nước này từ tháng 8/2013 với sự tham gia của các diễn viên chính: So Ji-seob, Gong Hyo-jin, Seo In-guk và Kim Yu-ri. Đây là tác phẩm tình cảm-hài-kinh dị của chị em biên kịch nổi tiếng họ Hong của Hàn Quốc: Hong Jeong-eun và Hong Mi-ran, những người nổi tiếng với các tác phẩm: "My Girl" (SBS), "Hong Gil-dong" (KBS), "You're Handsome" (SBS), "My Girlfriend Is a Nine-Tailed Fox" (SBS)...
Cốt truyện.
Ju Jung-won là CEO của một trung tâm mua sắm đồ sộ mang tên Kingdom, tính tình keo kiệt, lạnh lùng, hoàn toàn lý tính và luôn cân đong đo đếm các mối quan hệ của bản thân. Mọi người xung quanh gọi Jung-won là "Chủ quân" vì lẽ đó ("Kingdom" có nghĩa là "vương quốc", "chủ quân" có nghĩa là "đức vua"). Anh bị mắc chứng khó đọc sau một vụ bắt cóc và sự ra đi của người bạn gái thời trung học. Xung quanh anh tồn tại những lời đồn về "lời nguyền" về đường tình duyên: Bất cứ gia đình nào bàn bạc hôn sự với Jung-won đều có kết cục khuynh gia bại sản.
Tình cờ, Jung-won gặp Tae Gong-sil trong một đêm mưa bão. Đây một cô gái kỳ quặc, sau một tai nạn giao thông bỗng nhiên có năng lực nhìn thấy các hồn ma. Những hồn ma luôn tìm đến Gong-sil để nhờ vả cô thực hiện ước nguyện cuối khiến cuộc sống của Gong-sil bị đảo lộn. Cô không thể kiếm một việc làm ổn định và bị chứng mất ngủ. Gong-sil bắt đầu bám theo Jung-won sau khi cô phát hiện chỉ cần chạm vào người Jung-won, các hồn ma đeo bám cô sẽ chạy mất. Mới đầu, Jung-won không hề tin những gì Gong-sil nói, luôn coi cô là kẻ đeo bám, đào mỏ; nhưng dần dần, anh phát hiện những gì Gong-sil nói và những điều kỳ quặc diễn ra xung quanh anh thực sự có liên quan... | 1 | null |
Meteorium subpolytrichum là một loài Rêu trong họ Meteoriaceae. Loài này được (Besch.) Broth. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1906. Trong danh pháp hai phần thì "-subpolytrichum" trong tiếng latin mang nghĩa gần như nhiều lông để mô tả đặc điểm nhận dạng của loài này có phần lá vảy trông như là nhiều lông. | 1 | null |
Julia Cornelia Salonina (? - 268) là một "Augusta", vợ của Hoàng đế La Mã Gallienus và mẹ của Valerianus II, Saloninus và Marinianus.
Tiểu sử.
xxxxnhỏ|trái|Salonina được khắc họa trên một đồng tiền xu đúc.]]
Julia Cornelia Salonina không rõ nguồn gốc xuất thân. Theo một lý thuyết hiện đại thì bà vốn gốc Hy Lạp sinh ra ở Bithynia, sau là một phần của tỉnh Bithynia et Pontus, Tiểu Á. Tuy nhiên, tồn tại một số hoài nghi về điều đó. Bà kết hôn với Gallienus khoảng mười năm trước khi ông lên ngôi. Khi chồng bà trở thành đồng hoàng đế với cha mình Valerianus vào năm 253, Cornelia Salonina được phong là "Augusta".
Cornelia là mẹ của ba hoàng tử gồm Valerianus II, Saloninus và Marinianus. Số phận của bà từ sau vụ mưu sát Gallienus trong trận vây hãm Mediolanum vào năm 268 cho đến giờ vẫn không rõ. Có khả năng là bà được phe chủ mưu tha mạng sống hoặc bị xử tử cùng với các thành viên khác trong gia đình mình theo lệnh của Viện Nguyên lão La Mã.
Tên của bà được kể lại trên các đồng tiền xu với truyền thuyết La Tinh là "Cornelia Salonina", thế nhưng từ loại tiền đúc Hy Lạp lại có các tên "Iulia Cornelia Salonina", "Publia Licinia Cornelia Salonina" và "Salonina Chrysogona" (thuộc ngữ này có nghĩa là "sinh ra vàng"). | 1 | null |
Publius Licinius Egnatius Marinianus (? - 268) là con trai thứ ba và là con út của Hoàng đế La Mã Gallienus và "Augusta" Cornelia Salonina.
Gallienus bổ nhiệm cậu cùng với Paternus làm chấp chính quan vào đầu năm 268. Do hai người anh Valerianus và Saloninus đã chết trước đó nên ông được coi là người kế vị ngôi báu duy nhất của cha mình. Ít lâu sau thì Marinianus cùng với người chú Valerianus Nhỏ đều mất vào mùa thu năm 268 trong một cuộc thanh trừng những người ủng hộ Gallienus của phe chủ mưu hạ sát hoàng đế. | 1 | null |
Ingenuus là một chỉ huy quân đội La Mã và đại diện triều đình (Legatus) ở Pannonia, về sau trở thành kẻ soán ngôi vị của Hoàng đế Gallienus khi ông khởi binh nổi loạn trong một thời gian ngắn và thất bại vào năm 260. Được sự tín nhiệm của Gallienus, Ingenuus phò tá hoàng đế rất đắc lực nhờ có công đẩy lui một cuộc xâm lược của người Sarmatia và bảo vệ biên giới Pannonia, ít nhất là tạm thời. Ingenuus còn phải trông coi việc giáo dục quân sự của "Caesar" Cornelius Licinius Valerianus, con trai của Hoàng đế Gallienus, nhưng sau cái chết của cậu bé năm 258 thì địa vị của ông trở nên nguy hiểm.
Là một viên tướng được ưa thích và mến mộ, Ingenuus tìm thấy một cơ hội để trở thành Hoàng đế La Mã khi Valerianus bị vua Ba Tư Shapur I bắt được và giết chết. Thế là ông bèn quẳng nghĩa vụ trung thành với con trai của Valerianus ra và được các quân đoàn lê dương ở Moesia tôn làm Hoàng đế La Mã tại Sirmium vào năm 260. Gallienus đang ở Germania trên phòng tuyến sông Rhine thì nghe được tin này, do đó ông quyết định hành động ngay lập tức bằng cách triệu hồi quân đội từ Gaul về dẹp loạn và sau một cuộc hành quân cấp tốc, hai bên mau chóng bày binh bố trận tại Mursa. Quân đội của Ingenuus do binh lực có phần yếu thế nên chẳng mấy chốc đã bị đánh bại bởi Aureolus, tướng của Gallienus đã lợi dụng ưu thế có tác động lớn từ sự cơ động của thành phần kỵ binh cải tiến trong quân đội, được coi là sự đổi mới quân sự đáng chú ý dưới thời Hoàng đế Gallienus, nhờ đó đã giúp ông trấn áp thành công các cuộc nội loạn và ngăn ngừa hiểm họa ngoại xâm.
Còn về số phận của Ingenuus thì ngay sau trận đánh ông đã tự sát bằng cách nhảy xuống một con sông gần đó để tránh bị bắt. | 1 | null |
P. C(assius?) Regalianus (? - 260) là một viên tướng người Dacia đã khởi binh chống lại Đế quốc La Mã và tự mình xưng đế được một thời gian ngắn rồi sau bị thuộc hạ của mình phản bội giết chết.
Binh nghiệp.
Nguồn tài liệu chính của thông tin là bộ sử không đáng tin cậy "Historia Augusta". Các nguồn khác là Eutropius, người gọi ông là Trebellianus, thêm cả Aurelius Victor và cuốn "Epitome" còn gọi ông là Regillianus. Về nguồn gốc của mình, "Tyranni Triginta" nói rằng ông là một người Dacia có quan hệ bà con với Decebalus. Ông có lẽ là xuất thân từ tầng lớp Nguyên lão nghị viên và được Hoàng đế Valerianus phong làm tướng.
Sau thất bại quân sự ở Ba Tư và Valerianus bị vua Shapur I bắt giữ ở phía đông năm 260, các cư dân vùng biên giới cảm thấy bất an và quyết định bầu chọn một vị hoàng đế của mình để đảm bảo với họ là sẽ có các nhà lãnh đạo chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài. Dân chúng và quân đội tỉnh Pannonia bèn chọn Ingenuus và bầu ông làm hoàng đế nhưng chẳng bao lâu sau thì bị vị hoàng đế hợp pháp Gallienus đánh bại.
Sau khi Gallienus tiến quân tới Ý để đối phó với một cuộc xâm lược của người Alamanni. Người dân địa phương tại đây phải đối mặt với mối đe dọa của người Sarmatia liền bầu Regalianus làm hoàng đế, đồng thời ông còn phong cho vợ mình là Sulpicia Dryantilla, vốn xuất thân từ dòng dõi quý tộc, làm "Augusta" để củng cố thế lực. Regalianus đã dũng cảm chiến đấu chống lại người Sarmatia ngay sau đó. Một thời gian ngắn sau thắng lợi này, ông bị liên minh người dân nước mình và người Roxolani nổi dậy giết chết.
Một vài giai thoại còn lại về người đàn ông này, trong các ký họa tiểu sử ngắn gọn của ông được lấy từ trong cuốn sách Ba mươi Bạo chúa trong bộ sử "Historia Augusta": có nói ví dụ như ông được đưa lên ngôi là nhờ tên của mình (Regalianus nghĩa là "của một vị vua "hay "đế vương"); khi binh lính của ông nghe được lời chế giễu này liền chào đón Regalianus như là hoàng đế của họ. | 1 | null |
Lucius Mussius Aemilianus (mất 261 hoặc 262) là một kẻ soán ngôi La Mã. Aemilianus vốn xuất thân gốc Ý. Ông từng là một sĩ quan trong quân đội La Mã dưới thời Hoàng đế Marcus Julius Philippus và Valerianus. Về sau ông trở thành thái thú Ai Cập và được cho là đã ủng hộ cuộc nổi dậy của Macriani chống lại Hoàng đế Gallienus (260-261). Khi Macriani bị đánh bại thì ông liền tự xưng đế dấy binh làm phản. Gallienus bèn gửi tướng Aurelius Theodotus đến Ai Cập để đối phó với Aemilianus. Chỉ sau một cuộc giao tranh ngắn thì quân của Aemilianus đại bại hoàn toàn (khoảng 30 tháng 3 năm 262), bản thân ông thì bị bắt rồi sau bị bóp cổ cho đến chết. Đồng thời người hỗ trợ cho ông là Memor cũng bị xử tử. | 1 | null |
Kỳ giông kính phương Nam(Salamandrina terdigitata) là một loài kỳ giông trong họ Salamandridae.
Loài này chỉ được tìm thấy trong các Phạm vi Apennine ở Ý trong thung lũng ẩm ướt và bóng mát, sườn đồi ở độ cao từ 200 đến 1.200 m. Nó được coi là một loài chỉ thị sức khỏe môi trường quan trọng..
Kỳ giông kính phương Nam thường được tìm thấy ở gần suối, trong thảm thực vật dày đặc, dưới lá cây, thân cây đã chết, hoặc đá. | 1 | null |
Sa giông California hay Sa giông bụng cam (tên khoa học Taricha torosa) là một loài sa giông tìm thấy chủ yếu ở California. Chiều dài lớn nhất của nó có thể nằm trong khoảng từ 5 đến 8 inch (13–20 cm). Da của nó tạo ra một loại độc tố mạnh.
Độc tính.
Như các thành viên khác Taricha, các tuyến trong da của T. torosa tiết ra các chất độc thần kinh mạnh tetrodotoxin, mạnh gấp hàng trăm lần so với xyanua. Đây là chất độc được tìm thấy trong cá nóc và ếch harlequin. Các nhà nghiên cứu tin rằng vi khuẩn tổng hợp tetrodotoxin và các động vật có sử dụng các chất độc thần kinh có được nó thông qua mức tiêu thụ của các vi khuẩn. Chất độc thần kinh này là đủ mạnh để tiêu diệt hầu hết các vật có xương sống, kể cả con người. Tuy nhiên, chúng chỉ nguy hiểm khi nuốt phải, và có thể được giữ lại an toàn như là vật nuôi.
Do độc tính của chúng, sa giông California có vài kẻ thù tự nhiên. rắn sọc là phổ biến nhất, và một số loài đã phát triển một sức đề kháng di truyền đến tetrodotoxin.
Chế độ ăn uống.
Giun đất, ốc, ốc sên, sowbugs, trùn đất, ấu trùng muỗi, và không xương sống khác là những con mồi của Sa giông California. Tại Sierra Nevada, những con sa giông cũng ăn trứng cá hồi. | 1 | null |
Đại lễ nghị (chữ Hán: 大礼議), có nghĩa "Tranh nghị về Đại lễ", là một loạt những cuộc tranh luận về vấn đề tôn hiệu dành cho thân sinh của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế Chu Hậu Thông. Vấn đề xảy ra khi ông muốn tôn xưng cha ruột là Hưng Hiến vương Chu Hữu Nguyên làm Hoàng khảo (皇考), trong khi ban đầu ông được quyết định kế vị với tư cách là con thừa tự của Minh Hiếu Tông Chu Hựu Đường.
Tuy chỉ trên danh nghĩa là luận về tôn xưng, nhưng thực tế đây là loạt chiến tranh quyền lực giữa Gia Tĩnh Hoàng đế và Cựu thần đời Chính Đức đứng đầu là Dương Đình Hòa cùng Mao Trừng.
Cuộc tranh nghị này kéo dài trong 3 năm đầu đời Gia Tĩnh (1521 – 1524), trở thành một trường đấu tranh chính trị thu hút các phe phái. Triều đình chia làm hai phái: Hộ lễ duy trì lễ chế phong kiến và Nghị lễ ủng hộ nguyện vọng cá nhân của Hoàng đế. Kết quả, Minh Thế Tông dựa vào hoàng quyền hùng mạnh, giành được thắng lợi cuối cùng, những người phản đối bị phạt trượng, đình bổng (tiền lương) và đoạt quan chức. Dựa vào thành công của Đại lễ nghị, Minh Thế Tông đã giành được quyền lực tối thượng được gọi là quân chủ chuyên chế, bắt đầu cai trị một cách đầy bá quyền.
Chiến thắng của ông khiến cho Hưng Hiến vương cuối cùng được tôn miếu hiệu và thụy hiệu theo chuẩn một Hoàng đế nhà Minh, là Duệ Tông Hiến Hoàng đế (睿宗献皇帝) vào năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538), do đó được tôn thần chủ vào Thái miếu.
Bối cảnh.
Minh Hiến Tông Chu Kiếm Thâm qua đời, con trai thứ 3 là Minh Hiếu Tông Chu Hựu Đường kế vị, vì trước ông có 2 người anh đều chết sớm. Con trai thứ 4 của Hiến Tông là Hoàng tử Chu Hữu Nguyên, được thụ đất phong và sách phong làm "Hưng vương", lập ra một chi hệ Tiểu tông Hoàng thất, sinh ra con trưởng chết yểu, và người con thứ trở thành người con lớn nhất, chính là Chu Hậu Thông. Trong khi ấy, Minh Hiếu Tông sinh ra Minh Vũ Tông Chu Hậu Chiếu và Úy Điệu vương Chu Hậu Vĩ. Trong khi Chu Hậu Vĩ chết non, Minh Vũ Tông là con trai độc nhất, kế vị Hiếu Tông nhưng không có con.
Năm Chính Đức thứ 14 (1519), Chu Hữu Nguyên qua đời, thụy là Hưng Hiến vương (興献王). Thời điểm ấy Chu Hậu Thông lấy thân phận Thế tử cư tang. Năm thứ 16 (1521), tháng 3 (âm lịch), đầu tháng, Minh Vũ Tông lệnh Chu Hậu Thông tập phong tước Vương. Sang ngày 14 tháng 3 (âm lịch) cùng năm, Minh Vũ Tông băng ở Báo phòng, Chu Hậu Thông lúc này vẫn chưa chính thức thụ tước Hưng vương.
Thời điểm Minh Vũ Tông qua đời là không có người thừa kế. Một chi Đại tông truyền cho dòng trưởng từ thời Minh Thành Tổ Chu Đệ đến đây vô tự. Trước tình thế ấy, Từ Thọ Hoàng thái hậu Trương thị mệnh Nội các thảo luận lập người kế thừa Hoàng vị. Nội các Thủ phụ là Dương Đình Hòa căn cứ vào "Hoàng Minh tổ huấn" (皇明祖訓), đề nghị lập người kế tự của Chu Hữu Nguyên, tức Hưng vương Thế tử Chu Hậu Thông, được mọi người tán đồng. Lời tấu của Dương Đình Hòa như sau:
Lời tấu của Dương Đình Hòa nhanh chóng được Lương Trữ, Tưởng Miện và Mao Ký tán đồng, bọn họ cùng dâng sự việc lên Hoàng thái hậu và thông qua, Dương Đình Hòa dẫn đầu đại thần ở Tả Thuận môn (左順門) chờ sẵn. Khi ý chỉ được đưa đến, bọn họ . Ngày 15 tháng 3 ÂL, đoàn sứ thần mang theo di chiếu và ý chỉ của Thái hậu khởi hành đi An Lục đón Chu Hậu Thông, đến ngày 26 tháng ấy là đến nơi. Ngày 1 tháng 4 ÂL, Chu Hậu Thông từ biệt mộ cha, hôm sau từ biệt mẹ là Tưởng thị để lên đường, ngày 22 tháng ấy thì đến kinh sư. Sau một cuộc tranh luận nhỏ, theo đề nghị của Dương Đình Hòa, Lễ bộ Thượng thư Mao Trừng dùng nghi lễ dành cho Hoàng thái tử đón tiếp Chu Hậu Thông, theo lễ nghi này thì Chu Hậu Thông đi vào từ Đông Hoa môn (東華門) và ở tạm tại Văn Hoa điện (文華殿), chờ ngày chính thức làm lễ lên ngôi.
Quá trình.
Nhập tự hay kế thừa.
Trước cả khi Minh Vũ Tông băng hà, Dương Đình Hòa từng giúp Vũ Tông soạn ý chỉ về việc chỉ định ai là người kế vị. Và cũng chính tờ di chiếu do chính Dương Đình Hòa soạn này, Chu Hậu Thông đem làm vũ khí sắc bén, khơi mào cho "Đại lễ nghị" dai dẳng về sau. Tờ di chiếu nguyên văn là:
Chu Hậu Thông dựa vào di chiếu có 4 chữ [Tự Hoàng đế vị; 嗣皇帝位; có nghĩa "kế thừa Hoàng đế vị"], cho rằng mình là độc lập kế thừa ngôi vị, mà không phải là Hoàng tử mang danh nghĩa thừa tự kế thừa, nên không chấp nhận mình phải nhận Minh Hiếu Tông làm cha. Ông nói với Trưởng sử Viên Tông Cao (袁宗皋) thẳng thừng: ["Di chiếu là đem ta kế thừa Hoàng vị, không phải thân phận Hoàng tử"; 遗诏以我嗣皇帝位,非皇子也]. Lúc này Chu Hậu Thông vẫn chưa đến kinh sư mà vẫn còn ở ngoại ô, chưa làm theo lễ mà Lễ bộ bàn (đi từ Đông Hoa môn vào). Dưới sự dàn xếp của Trương Thái hậu, triều đình đưa Chu Hậu Thông vào Đại Minh môn (大明門) - cổng chính chỉ dành cho Đế - Hậu, và chính thức lên ngôi ở Phụng Thiên điện (奉天殿), với chiếu chỉ: ["Phụng Hoàng huynh di mệnh, nhập thừa kế dòng dõi"; 奉皇兄遗命, 入奉宗祧].
Tân Hoàng đế chọn niên hiệu cho năm sau là Gia Tĩnh, từ chối niên hiệu Thiệu Trị mà triều thần đề nghị. Từ đấy sử Minh gọi ông là [Minh Thế Tông].
Giằng co quyết liệt.
Ngày 27 tháng 4 ÂL, Tân Hoàng đế hạ lệnh quần thần nghị định thụy hiệu của Vũ Tông và người tế tự cùng phong hiệu của cha mình. Nội các Thủ phụ Dương Đình Hòa cầm đầu triều thần viện dẫn tiền lệ Định Đào vương Lưu Khang của nhà Hán (cha ruột của Hán Ai Đế Lưu Hân) và Bộc An Ý vương Triệu Doãn Nhượng của nhà Tống (cha ruột của Tống Anh Tông Triệu Thự), cho rằng Thế Tông vốn là dòng thứ [Tiểu tông; 小宗] vào kế thừa dòng trưởng [Đại tông; 大宗], nên phải tôn phụng chính thống. Chế độ này có thể hiểu là khi Đại tông không con, vì để bảo toàn chính danh nên phải lấy con của Tiểu tông kế thừa, với điều kiện người con này phải nhận thế hệ Hoàng đế trước làm cha, mà cha mẹ ruột chỉ có thể đối xử ở hàng bậc chú và thím với tư cách là cháu. Những vị Hoàng đế trường hợp này, được gọi là Tự tử (嗣子), tức "Con trai nhập Tự thừa kế", và phải gọi người mình nhận làm cha là Tự phụ (嗣父).
Vì thế, Minh Thế Tông phải làm theo đúng Tông pháp như sau:
Ngày 7 tháng 5 ÂL, Lễ bộ Thượng thư Mao Trừng và văn vũ quần thần hơn 60 người cùng tâu lên Hoàng đế bản kiến nghị này, trong đó còn viết "kẻ nào dị nghị tức là gian tà, đáng chém". Vị Hoàng đế mới 15 tuổi – đã từng khẳng định mình không phải là Hoàng tử - chẳng thể đồng ý với bản kiến nghị của triều thần, đôi bên bắt đầu giằng co. Khi lời nghị bàn của Dương Đình Hòa được tâu lên, Thế Tông không vui, cự tuyệt mãi. Trước tiên muốn vỗ về Dương Đình Hòa để thông qua ông mà hợp pháp hóa ý định truy phong cho cha ruột, Thế Tông còn tặng vàng hậu hĩnh cho Mao Trừng. Nhưng Dương Đình Hòa không thay đổi, Mao Trừng mềm mỏng hơn đôi chút, cho rằng tương lai Hoàng đế có con, thì lấy con trai thứ 2 thay Chu Hậu Huyễn làm Hưng vương.
Ngày 3 tháng 7 ÂL, Tiến sĩ Trương Thông cùng Thị lang Vương Toản (王瓚) là những người đầu tiên nói: ["Hoàng đế kế thừa Hoàng vị, không phải kế thừa Tự"], dẫn ra rằng di chiếu mệnh Thế Tông là [Trưởng tử của Hưng Hiến vương] để kế thừa Đại tông, mà Lễ ký nói Trưởng tử không phải đem thừa Tự cho người khác, khuyến khích Thế Tông thừa kế tư cách độc lập như Hán Văn Đế Lưu Hằng kế vị anh trai Hán Huệ Đế Lưu Doanh khi xưa, hoàn toàn không phải là nhập Tự nhưng vẫn hợp pháp. Trương Thông còn kiến nghị nên lấy cha đẻ của Thế Tông làm ["Hoàng khảo"], còn đề nghị cho lập miếu cho Hưng Hiến vương ở Bắc Kinh. Điều này khiến Dương Đình Hòa phải biếm quan của Toản đến Nam Kinh, còn mắng: ["Kẻ thư sinh như Thông chẳng biết gì!"]. Từ sau đó, tuy Thế Tông tích cực lôi kéo Dương - Mao, nhưng cả hai đều tỏ ra rất cứng rắn, vài lần Hoàng đế muốn thay đổi gia tôn cho cha mình, cũng đều bị hai người bác bỏ ngay.
Tháng 10 ÂL, Thế Tông dùng lễ nghênh đón Hoàng thái hậu đưa mẹ mình là Hưng Hiến phi Tưởng thị vào cung. Trước đó, Hoàng đế kiên trì dùng lễ Hoàng thái hậu để đón mẹ, thì bị Dương Đình Hòa phản đối. Quyết tâm thực hiện được ý nguyện, Thế Tông còn khóc lóc đòi từ vị, đưa mẹ về An Lục, nên bọn Dương Đình Hòa đành phải nhượng bộ. Trong tháng này, Chức phương Chủ sự Hoắc Thao (霍韜) dâng sớ kiến nghị lấy Hưng Hiến vương làm 『Hoàng khảo Hưng Hiến Đế; 皇考興獻帝』, chịu rất nhiều chỉ trích. Hồ Quảng Tổng đốc Tịch Thư (席書) và Lại bộ Viên ngoại lang Phương Hiến Phu (方獻夫) có cùng khẩu khí, nhưng đều không dám dâng sớ nữa. Cuối cùng, triều thần đứng đầu bởi Dương Đình Hòa kiên quyết đề nghị lấy Hiếu Tông làm Hoàng khảo, chỉ nhân nhượng đặt hiệu cho Hưng Hiến vương làm Đế, Tưởng phi là 『Hưng Hiến hậu; 興獻后』 mà không xưng [Hoàng]. Chỉ riêng bà nội, Hiến miếu Quý phi Thiệu thị, do là sinh mẫu của Hưng Hiến Đế vừa truy tôn, nên trở thành Hoàng thái hậu, đây cũng là trường hợp hiếm hoi bà nội của một Hoàng đế lại chỉ có tôn xưng Hoàng thái hậu.
Năm Gia Tĩnh nguyên niên (1522), Minh Thế Tông bất đắc dĩ làm chiếu chấp nhận Minh Hiếu Tông là [Hoàng khảo; 皇考], Từ Thọ Hoàng thái hậu là [Thánh mẫu; 聖母], còn cha mẹ ruột là Hưng Hiến Đế cùng Hưng Hiến hậu chỉ gọi Bổn sinh phụ (本生父) cùng Bổn sinh mẫu (本生母). Cùng năm tháng 2, nhân việc dâng tôn hiệu, Thế Tông cho tôn Hưng Hiến hậu làm 『Hưng quốc Thái hậu; 興國太后』.
Lễ chế đắc thế.
Năm Gia Tĩnh thứ 3 (1524), tháng giêng, Minh Thế Tông lúc này đã lên ngôi lâu, căn cơ đã nhiều, cực lực muốn vì cha mẹ thêm chữ [Hoàng] vào tôn hiệu. Những đại thần là Trương Thông và Quế Ngạc - vốn bị biếm đi làm Nam Kinh - dò biết ý Thế Tông, nối nhau dâng sớ nhắc lại việc cũ (sớ của Quế Ngạc là bản sớ cũ của Tịch Thư, Thư đã ngầm gửi cho Ngạc). Thế Tông đem tấu sớ của hai người giao cho triều thần bàn bạc. Dương Đình Hòa cũng biết ý, bèn xin hưu để tránh tai vạ. Lúc này, địa vị Thế Tông đã ổn định, không muốn phải chịu sự áp chế của ông ta nữa, nên dễ dàng chấp thuận, thế rồi Tưởng Miện thay Dương Đình Hòa làm Thủ phụ. Cuộc tranh luận về Đại lễ, sau một thời gian trầm lắng, được thổi bùng trở lại.
Tháng 2 ÂL, bọn Lễ bộ Thượng thư Uông Tuấn (thay Mao Trừng bệnh chết từ năm thứ 2) cả thảy 73 người dâng sớ xin giữ tôn xưng như cũ, trong lời tâu có đoạn: ["Cẩn thận tập hợp các chương tấu, duy Tiến sĩ Trương Thông, Chủ sự Hoắc Thao, Cấp sự trung Hùng Tiếp cùng Ngạc nghị định giống nhau, còn lại hơn 80 sớ của hơn 250 người, đều như bọn thần nghị"]. Thông lại dâng sớ nhắc nhở Thế Tông là con trai duy nhất của Hưng Hiến Đế, Thế Tông bèn tuyên chiếu triệu bọn Thông, Ngạc, Thư vào kinh. Bọn đại thần là Trâu Thủ Ích (鄒守益) mấy lần dâng sớ, lời lẽ gay gắt. Nam Kinh Lễ bộ Chủ sự là Hầu Đình Huấn (侯廷訓) còn dâng lên ["Đại lễ biện"; 大禮辨], phản đối ý tưởng của Thế Tông. Bọn Cấp sự trung Trương Trùng 32 người, bọn Ngự sử Trịnh Bản Công 31 người cũng dâng sớ ra sức tranh luận. Trạng nguyên thời Chính Đức là Đường Cao (唐皋) cũng dâng sớ nói mát: ["Bệ hạ nên xét kỹ để phân biệt với chính thống, làm dày tôn xưng của cha mẹ"] . Mặt ngoài là ở điều đình, trên thực tế có khuynh hướng phản đối. Tiếng tăm của bọn Trâu Thủ Ích và Đường Cao rất lớn, vì một là Đại đệ tử của Vương Dương Minh, còn một là Trạng nguyên, do đó sự phản đối của hai người gây ra ảnh hưởng mạnh mẽ. Thế Tông vừa buồn vừa thẹn, nên cả giận, những người dâng sớ đợt này bị tống giam, biếm chức, đình bổng (tiền lương) vài tháng, thậm chí bãi truất. Tưởng Miện xem chừng không thể lay chuyển ý Thế Tông, bèn xin hưu, Mao Kỷ thay làm Thủ phụ. Lại bộ Thượng thư Kiều Vũ nhiều lần phản đối, cũng xin hưu. Phái Hộ lễ rơi vào thế hạ phong. Qua 15 ngày, Thế Tông đáp lại tờ sớ của bọn Uông Tuấn, tỏ ý muốn tận hiếu với các đấng sinh thành, Uông Tuấn bất đắc dĩ tập hợp quần thần xin thêm chữ ["Hoàng"] vào tôn hiệu. Ngày sóc vọng đầu tháng 4 ÂL năm đó, Minh Thế Tông làm chiếu đặt tôn hiệu cho Hưng Hiến Đế làm 「Bổn sinh Hoàng khảo Cung Mục Hiến Hoàng đế; 本生皇考恭穆獻皇帝」, còn Hưng quốc Thái hậu làm 「Bổn sinh mẫu Chương Thánh Hoàng thái hậu; 本生母章聖皇太后」.
Tháng 5 ÂL năm ấy, Trương Thông và Quế Ngạc đến Kinh (riêng Tịch Thư đến vào tháng 8), được ủy làm Hàn Lâm Học sĩ, chuyên phụ trách việc lễ nghi. Từ đây bọn họ trở thành trung tâm của nhóm triều thần ủng hộ Hoàng đế, đương thời gọi là [Nghị lễ phái; 議禮派], đối lập với phái bảo vệ Cựu lệ là [Hộ lễ phái; 護禮派]. Thế Tông làm chiếu cho lập miếu của Hiến Hoàng đế trong Đại nội, Uông Tuấn cực lực phản đối, bị bãi chức, liền lấy Tịch Thư thay thế. Cuộc tranh đấu bước vào giai đoạn kịch liệt nhất.
Kết cục.
Cũng trong năm Gia Tĩnh thứ 3, tháng 7, ngày Giáp Tuất (11), tức ngày 11 tháng 8 dương lịch, Minh Thế Tông Chu Hậu Thông vì lấy cớ tôn xưng ["Bổn sinh"], mà dụ Lễ bộ, muốn vào 3 ngày sau sẽ tiến hành dâng Sách văn, cho tế cáo Thiên địa, Tông miếu Xã tắc. Ý tưởng này của Hoàng đế khiến quần thần như tức nước vỡ bờ, phản đối gay gắt.
Ngày Mậu Dần (15) tháng ấy, tức ngày 14 tháng 8 theo dương lịch, Lại bộ Tả Thị lang Hà Mạnh Xuân (何孟春) khẩn thiết nói: ["Thời Hiến Tông, đại thần quỳ ở Văn Hoa môn, vì chuyện lễ tiết hạ táng Từ Ý Hoàng thái hậu, khiến Hiến Tông phải nghe theo. Đó là bổn triều cố sự"]. Hàn Lâm viện Tu soạn Dương Thận (con trai Dương Đình Hòa) đồng thời kêu gọi: ["Nước nhà nuôi kẻ sĩ 150 năm, giữ vững tiết tháo đại nghĩa mà chết, là ngày hôm nay"]. Theo lời kêu gọi này, hơn 200 triều thần quỳ khóc ở Tả Thuận môn; từ giờ Thìn đến giờ Ngọ, hai lần có dụ chỉ mà vẫn không lui. Hoàng đế liền sai Cẩm Y vệ bắt giam 8 người cầm đầu, tiếng kêu khóc lại càng lớn. Thế Tông nổi giận, hạ lệnh tống giam từ Ngũ phẩm trở xuống, đình chức từ Tứ phẩm trở lên. Mao Kỷ xin tha cho mọi người không được, đành xin hưu (Kỷ ở chức Thủ phụ mới được 3 tháng). Liền sau đó, Thế Tông cho xử phạt trượng từ Ngũ phẩm trở xuống, đình bổng từ Tứ phẩm trở lên; 18 người bị đòn mà chết, 10 người bị sung quân ở biên thùy. Phái Hộ lễ không còn phản đối được nữa.
Tháng 9 ÂL cùng năm, Đế đổi xưng Hiếu Tông làm 「Hoàng bá khảo; 皇伯考」, cha đẻ làm 「Hoàng khảo; 皇伯考」, rồi cho biên soạn Đại lễ tập nghị (大礼集议) và Minh luân đại điển (明伦大典). Tháng giêng năm sau, đại điển soạn xong, thành viên của phái Nghị lễ được thăng tiến; phái Hộ lễ bị biếm trích, bãi truất, thậm chí tống giam; những người đã trí sĩ cũng bị đoạt quan chức.
Năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538), Minh Thế Tông dâng tôn miếu hiệu cho Chu Đệ từ Thái Tông là Thành Tổ, tức gọi [Minh Thành Tổ], cũng cho cải thụy hiệu, Chu Đệ được gọi là "Minh Thành Tổ" bắt đầu từ đây. Nhân đó, Thế Tông chính thức truy tôn cha đẻ Hiến Hoàng đế miếu hiệu là Duệ Tông, thụy hiệu Tri Thiên Thủ Đạo Hồng Đức Uyên Nhân Khoan Mục Thuần Thánh Cung Giản Kính Văn Hiến Hoàng đế (知天守道洪德淵仁寬穆純聖恭簡敬文獻皇帝), sau đó Thế Tông ra chỉ đưa thần chủ của Duệ Tông Hiến Hoàng đế vào thờ trong Thái miếu, bài vị còn đặt bên trên Vũ Tông. Sự kiện Đại lễ nghị đến đây thì chấm dứt.
Ảnh hưởng.
Trải qua 3 năm tranh luận, vị Hoàng đế trẻ tuổi Minh Thế Tông Chu Hậu Thông đã khám phá ra Hoàng quyền vô địch mà mình đang nắm trong tay, những kẻ chống đối đều bị tống giam hoặc phạt trượng. Từ đây về sau, độc đoán chuyên chế, cố chấp ngang ngược đã trở thành tác phong của triều đại Gia Tĩnh.
Mối bất hòa giữa Thế Tông và bọn đại thần Dương Đình Hòa đã khiến cho những cải cách cuối thời Chính Đức tan thành mây khói. Thế Tông ngày càng hủ hóa, xây dựng tùy tiện, mê tín phương thuật, tôn sùng Đạo giáo, ham muốn được trường sanh bất lão. Những thành viên của phái Nghị lễ chỉ mất lời suông mà được vinh hiển, khiến cho việc xu nịnh Hoàng đế trở thành trào lưu đương thời. Từ năm thứ 17 (1538) về sau, 9 trong 14 Nội các Thủ phụ: Từ Giai, Cố Đỉnh Thần, Nghiêm Nột, Hạ Ngôn, Quách Phác, Nghiêm Tung, Viên Vĩ, Cao Củng, Lý Xuân Phương nhờ làm Thanh từ (văn tế của Đạo giáo) mà thăng tiến, cho thấy tình trạng suy đồi của nền chính trị Gia Tĩnh. | 1 | null |
Sự kiện Tả Thuận Môn hay sự kiện cửa Tả Thuận (chữ Hán: 左顺门事件) phát sinh vào tháng 7 ÂL năm Gia Tĩnh thứ 3 (1524) đời Minh với hơn 200 triều thần tham gia, là nỗ lực cuối cùng của phái Hộ lễ trong cuộc tranh luận Đại lễ nghị. Minh Thế Tông cho phạt trượng những quan viên cấp thấp, khiến cho mười mấy người thiệt mạng, nên sự kiện này còn được gọi là Máu rưới cửa Tả Thuận (血溅左顺门, Huyết tiễn Tả Thuận Môn).
Diễn biến.
Ngày 12 tháng 7 ÂL năm Gia Tĩnh thứ 3 (1524), Minh Thế Tông làm chiếu sai Lễ bộ, vào ngày 14 dâng lên văn tế cha mẹ, để cáo với trời đất, tông miếu, xã tắc, quần thần (phần lớn là thành viên phái Hộ lễ) sôi sục. Vào lúc buổi chầu sớm kết thúc, Lại bộ tả thị lang Hà Mạnh Xuân kêu gọi: ""Thời Hiến Tông, bá quan ở trước cửa Văn Hoa khóc xin, tranh luận về lễ tiết hạ táng Từ Ý hoàng thái hậu, Hiến Tông mới nghe theo, đây là chuyện cũ của bản triều." Tu soạn Dương Thận (con Dương Đình Hòa) cũng nói: "Nước nhà nuôi kẻ sĩ 150 năm, giữ vững tiết tháo đại nghĩa mà chết, là ngày hôm nay."" Sau đó biên tu Vương Nguyên Chánh, cấp sự trung Trương Trùng ở phía nam cầu Kim Thủy giữ quần thần lại, Hà Mạnh Xuân, Kim Hiến Dân, Từ Văn Hoa hiệu triệu mọi người. Theo đó, hơn 200 triều thần hưởng ứng, cùng quỳ ở cửa Tả Thuận xin Thế Tông thay đổi chỉ ý.
Thế Tông ở điện Văn Hoa nghe tiếng khóc vang trời, mệnh thái giám truyền dụ các đại thần lui về, nhưng quần thần đến giờ Ngọ vẫn quỳ dưới đất không rời, ý đồ bức bách Hoàng đế phải chấp nhận. Thế Tông cả giận, sai Cẩm Y vệ bắt giam 8 người cầm đầu là Phong Hy, Trương Trùng, Dư Cao, Dư Khoan, Hoàng Đãi Hiển, Đào Tư, Tưởng Thế Phương, Mẫu Đức Thuần. Quần thần càng tỏ ra kích động, Dương Thận, Vương Nguyên Chánh lay cửa mà khóc, mọi người kêu khóc còn lớn hơn trước. Thế Tông lại hạ lệnh bắt giam tra khảo 134 quan viên từ Ngũ phẩm trở xuống; đình chức đợi tội 86 quan viên từ Tứ phẩm trở lên.
Hậu quả.
Nội các thủ phụ Mao Kỷ làm sớ xin tha cho mọi người không được, đành xin hưu. Ngày 20, Thế Tông xử đình bổng (cắt tiền lương) 1 tháng đối với quan viên từ Tứ phẩm trở lên; phạt trượng đối với quan viên từ Ngũ phẩm trở xuống, bọn biên tu Vương Tương 18 người bị đòn mà chết; 8 người cầm đầu cùng Dương Thận, Vương Nguyên Chánh bị sung quân ở biên thùy. Sau đó Hà Mạnh Xuân bị giáng chức đi làm Nam Kinh Công bộ tả thị lang. Nam Kinh chỉ cần 1 thị lang, vốn đã có Hữu thị lang Trương Tông, Mạnh Xuân đến đấy là thừa.
Phái Hộ lễ bị tổn thất nặng nề, không thể tiếp tục cuộc tranh luận Đại lễ nghị được nữa! | 1 | null |
Thứ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ (viết tắt: DEPSECDEF) là một chức vụ do luật () định và là chức vụ chính thức cao cấp thứ hai trong Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Thứ trưởng bộ Quốc phòng là người vụ chính thức đứng thứ hai trong Bộ trưởng Quốc phòng, và được bổ nhiệm bởi Tổng thống, với sự tư vấn và sự đồng ý của Thượng viện. Thứ trưởng bộ Quốc phòng theo luật, phải là người thuộc giới dân sự ít nhất bảy năm tính đến thời điểm nhậm chức. Thứ trưởng bộ Quốc phòng hiện nay là David L. Norquist. | 1 | null |
The Pursuit of Happyness (Mưu cầu hạnh phúc) là một bộ phim chính kịch của Mỹ dựa trên câu chuyện gần một năm ròng rã đấu tranh với tình trạng vô gia cư của Chris Gardner. Được đạo diễn bởi Gabriele Muccino, bộ phim có sự tham gia của Will Smith trong vai Gardner, một nhân viên bán thiết bị y tế nhiều lúc vô gia cư và đang muốn trở thành nhà môi giới chứng khoán. Con trai của Smith là Jaden Smith cũng tham gia đóng phim trong vai con trai của Gardner, Christopher Jr. Đây là bộ phim đầu tay của Jaden.
Kịch bản phim do Steven Conrad viết dựa trên cuốn hồi ký bán chạy nhất của Gardner. Bộ phim được phát hành ngày 15 tháng 12 năm 2006 bởi Columbia Pictures. Với diễn xuất của mình, Will Smith được đề cử giải Oscar và giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên xuất sắc nhất. Lỗi chính tả trong tiêu đề bộ phim xuất phát từ một biển hiệu Gardner đã thấy khi ông vô gia cư. Trong phim, "happiness" bị đánh vần sai thành "happyness" trên bức tường bên ngoài nhà trẻ của con trai Gardner.
Nội dung.
San Francisco năm 1981, Chris Gardner (Will Smith) đầu tư toàn bộ tiền tiết kiệm vào những cái máy quét mật độ xương lưu động mà anh phải bán cho các bác sĩ bằng cách chứng minh rằng đó là một phát minh nhảy vọt so với tia X. Nhưng thực tế anh rất khó khăn để để bán được những chiếc máy bị coi là đắt đỏ và vô dụng đó trong khi gia đình anh luôn thiếu tiền cho các nhu cầu đời thường. Cuối cùng vợ anh, Linda (Thandie Newton), một công nhân luôn phải làm ca để kiếm thêm thu nhập, đã rời bỏ Chris để đến New York kiếm công việc mới. Đứa con trai Christopher (Jaden Smith) của họ ở lại với cha vì Chris luôn muốn tận tay chăm sóc con mình. Trong một lần cầm máy quét đi chào hàng, Chris nhìn thấy một người đàn ông giàu có tự tin bước ra khỏi chiếc xe hơi sang trọng, anh đã hỏi anh ta làm nghề gì và anh chàng kia trả lời anh ta là nhà môi giới chứng khoán. Qua cuộc trò chuyện ngắn, Chris biết rằng để môi giới chứng khoán anh không nhất thiết phải tốt nghiệp đại học mà chỉ cần thành thạo với những con số và biết cách cư xử. Sau đó Chris nộp đơn để tham dự một chương trình đào tạo nhà môi giới chứng khoán của hãng chứng khoán Dean Witter. Tuy vậy không dễ gì để có được một suất học như thế. Sau một tháng đợi chờ, cũng trong khi đang đi chào hàng, Chris gặp Jay Twistle (Brian Howe), một người quản lý cho Dean Witter và xin đi cùng xe taxi với ông. Chris gây ấn tượng với Twistle bằng cách giải quyết một khối Rubik trong thời gian ngắn ngồi taxi. Twistle xuống xe trước còn Chris thì không có tiền trả cước taxi. Anh đã phải chạy thục mạng xuống ga tàu điện ngầm để thoát khỏi tay tài xế taxi đang tức giận nhưng đánh mất chiếc máy quét.
Mặc khác, mối quan hệ mới với Twistle giúp anh được giới thiệu đến ban giám đốc công ty. Ngay trước hôm phỏng vấn, Chris phải tự sơn lại căn hộ của mình (vì anh đang thiếu tiền nhà và sắp bị đuổi đi, chủ nhà nói rằng sẽ cho cha con anh ở lâu hơn một chút nếu anh sửa sang cho căn hộ sẵn sàng đón người thuê mới trước khi anh chuyển đi). Cũng đêm đó, cảnh sát đến và bắt anh do vé phạt đỗ xe chưa thanh toán. Bị giam một đêm với quần áo và đầu tóc vẫn còn dính sơn, Chris đến buổi phỏng vấn trong bộ dạng nhếch nhác. Dù vậy anh vẫn được nhận vào thực tập.
Trong lúc theo học chương trình đào tạo của hãng chứng khoán, Chris vẫn chưa thoát khỏi vận đen. Anh và con trai bị đuổi khỏi nhà, tài khoản ngân hàng của anh bị trừ tiền do anh nợ tiền thuế. Chris bị khánh kiệt, có chưa đến 30 đô la trong tài khoản. Kết quả là họ trở thành vô gia cư và buộc phải tá túc một đêm trong nhà vệ sinh ga tàu điện ngầm. Những hôm sau đó, Chris phải chạy đua điên cuồng từ văn phòng thực tập của mình đến một nhà thờ địa phương để xếp hàng dài dằng dặc chờ đến lượt xin một chỗ nghỉ qua đêm. Bất chấp những khó khăn của mình, Chris không bao giờ để lộ thân phận thấp kém của mình trước đồng nghiệp; thậm chí anh đã cho một trong những ông sếp của mình vay 5 đô la tiền taxi vì ông ta quên ví, trong khi trong ví anh chẳng còn được bao nhiêu.
Một lần dẫn Christopher đi công viên, Chris đã lấy lại được chiếc máy quét mà anh đã đánh mất tại ga tàu điện ngầm từ người đàn ông mất trí vô gia cư, người mà luôn cho rằng đó là chiếc máy thời gian. Chiếc máy bị hỏng, Chris phải bán máu để có tiền trang trải cuộc sống và mua thiết bị chữa cái máy. Anh bán được cái máy đó cho một vị bác sĩ và cuộc sống của anh dễ thở hơn một chút.
Kết thúc thời gian thực tập, Chris được nhận vào vị trí làm việc toàn thời gian mà anh hằng mơ ước. Cố kìm nước mắt, Chris chạy vội đến nhà trẻ của con trai mình, ôm lấy con. Hai người đi bộ xuống phố và nói đùa với nhau vui vẻ. Phần kết cho biết rằng Chris đã trở thành một người thành công và đã thành lập công ty môi giới chứng khoán nhiều triệu đô la cho riêng mình.
Sản xuất.
Phát triển.
Chris Gardner nhận thấy câu chuyện của mình có tiềm năng cho Hollywood sau buổi phỏng vấn nhận được nhiều phản hồi tích cực của ông với chương trình truyền hình "20/20" tháng 1 năm 2002. Ông đã xuất bản tự truyện của mình ngày 23 tháng 5 năm 2006 rồi sau đó ông trở thành nhà đồng sản xuất của bộ phim. So với câu chuyện đời thực của Gardner, nội dung phim có khác một chút. Một số chi tiết và sự kiện thực tế diễn ra trong giai đoạn vài năm đã được nén lại trong một thời gian tương đối ngắn và dù rằng Jaden tám tuổi đóng vai Christopher năm tuổi, con trai của Gardner khi đó chỉ mới biết đi.
Chọn diễn viên.
Chris Gardner đã nghĩ rằng Smith, một diễn viên nổi tiếng với các phim hành động, không phù hợp với vai diễn về ông. Tuy nhiên, ông vẫn chọn Smith vì con gái mình, Jacintha, nói rằng: "Nếu Smith có thể đóng Muhammad Ali, anh ấy có thể đóng vai cha".
Dựng phim.
Gardner làm diễn viên khách mời trong phim, ông bước ngang qua Will và Jaden trong cảnh cuối. Gardner và Will mỉm cười chào nhau; sau đó Will quay lại nhìn Gardner đi xa dần trong khi con trai anh vẫn tiếp tục chơi trò knock-knock joke.
Âm nhạc.
Phần nhạc cho phim được sáng tác bởi Andrea Guerra.
Trong phim còn có một đoạn ngắn của bài "Higher Ground" do Stevie Wonder thể hiện. | 1 | null |
Đại vương công Sergei Alexandrovich của Nga (Сергей Александрович) (11 tháng 05 năm 1857 - 17 tháng 02 năm 1905) là con trai của Hoàng đế Alexander II của Nga. Ông là một nhân vật có ảnh hưởng trong triều đại của anh trai ông là Hoàng đế Alexander III của Nga và cháu trai của ông Hoàng đế Nicholas II của Nga, cũng là em trai ông trong pháp luật thông qua cuộc hôn nhân với Sergei Elizabeth em gái của Hoàng hậu Alexandra.
Giữa năm 1891 và 1905, Đại vương công Sergei từng là Thống đốc Moscow. Chính sách của ông khiến ông trở thành một người chuyên quyền, bị chia rẽ và ông đã trở thành mục tiêu của Tổ chức chiến đấu SR, ông bị ám sát bởi một quả bom khủng bố tại điện Kremlin. | 1 | null |
Chích đuôi dài (tên khoa học: Graminicola striatus) là một loài chim trong họ Pellorneidae, nhưng trước đây từng xếp trong họ Sylviidae.
Phân loại học.
Trước đây chi "Graminicola" được coi là chỉ chứa 1 loài duy nhất là "Graminicola bengalensis". Do đó khu vực phân bố của nó được coi là trải dài từ bắc Ấn Độ qua bắc Việt Nam tới đảo Hải Nam Trung Quốc.
Tuy nhiên, sau khi chia tách phức hợp loài này thành hai loài riêng rẽ là "Graminicola bengalensis" và "Graminicola striatus" thì phạm vi phân bố của "Graminicola bengalensis" chỉ còn miền bắc Ấn Độ, nam Nepal, nam Bhutan và bắc Bangladesh.
Loài "Graminicola striatus" có phạm vi phân bố tại đông nam Trung Quốc ("G. striatus sinicus") và từ đông nam Myanma, nam-trung Thái Lan, đông bắc Việt Nam tới đảo Hải Nam ("G. striatus striatus").
Tên gọi chích đuôi dài trong tiếng Việt là tên chính thức của "Graminicola bengalensis" khi cho rằng chi "Graminicola" chỉ có 1 loài, nhưng theo nguyên tắc phải là của loài có ở Việt Nam, vì thế nó được chuyển cho "Graminicola striatus". | 1 | null |
Cryptobranchus alleganiensis là một loài lưỡng cư có đuôi lớn đặc hữu miền Đông Hoa Kỳ. Đây là một thành viên của họ Cryptobranchidae, là loài duy nhất trong chi "Cryptobranchus", và ở cấp họ thì được xếp chung với chi "Andrias". "C. alleganiensis", một loài kỳ giông to lớn, có cách hô hấp khác thường (hô hấp qua da nhờ mao mạch trong nếp gấp da ngang thân), và đóng vai trò đặc biệt trong ổ sinh thái — cả kẻ săn mồi và con mồi — một vai trò mà loài này và tổ tiên nó đã đóng trong khoảng 65 triệu năm. Đây là một loài sắp bị đe dọa.
Mô tả.
"C. alleganiensis" có hầu và cơ thể dẹp, mắt nhỏ nằm trên mặt lưng, da nhầy. Như hầu hết kỳ giông, chúng có chân ngắn với bốn ngón trên chân trước, năm ngón trên chân sau. Đuôi nó quẩy nước giúp đẩy người đi. "C. alleganiensis" có phổi, khe mang thường đóng kín (con non có mang thực sự); chúng thở nhờ mao mạch trong các nếp gấp da dọc thân. Chúng có mặt lưng màu nâu hay nâu-đỏ, mặt bụng nhạt màu hơn.
Cả con đực và cái đạt chiều dài khi trưởng thành từ mõm tới huyệt, với tổng chiều dài . Chúng là loài kỳ giông lớn thứ ba thế giới (sau kỳ giông khổng lồ Trung Quốc và kỳ giông khổng lồ Nhật Bản) và lớn nhất Bắc Mỹ. Con trưởng thành nặng , làm chúng trở thành loài lưỡng cư nặng thứ tư, sau hai loài kỳ giông trên và ếch Goliath, dù những con cóc mía to nhất có thể nặng ngang ngửa "C. alleganiensis". Chúng đạt thành thục sinh sản ở tuổi thứ năm, và có thể sống đến 30 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
"C. alleganiensis" mang những đặc điểm giúp nó dễ dàng được nhận ra, không kể đến kích thước, gồm cơ thể bè, dẹp theo mặt lưng bụng với những nếp gấp da hai bên thân, một cặp khe mang mở duy nhất, và chân sau năm ngón.
Phân bố.
"C. alleganiensis" có mặt ở một số bang miền đông Hoa Kỳ, từ nam New York tới bắc Georgia, băng qua Ohio, Pennsylvania, Maryland, West Virginia, Virginia, Kentucky, Illinois, Indiana, Tennessee, North Carolina, South Carolina, Alabama, Mississippi, Arkansas, Missouri, và thậm chí một phần nhỏ của Oklahoma và Kansas. Phân loài "C. a. bishopi" phân bố giới hạn ở dãy núi Ozark miền bắc Arkansas và nam Missouri, còn "C. a. alleganiensis" sống ở những nơi còn lại.
Một vài quần thể - cụ thể là ở Missouri, Pennsylvania, và Tennessee - trước đây đông đúc, nhưng nay giảm mạnh do ảnh hưởng từ con người. | 1 | null |
Ếch Hamilton (tên khoa học Leiopelma hamiltoni) là một con ếch bản địa nguyên thủy của New Zealand, một trong bốn loài còn tồn tại thuộc họ Leiopelmatidae. Những con đực giữ những quả trứng để bảo vệ chúng và cho phép những con nòng nọc để leo lên lưng của mình, nơi chúng đực giữ ẩm. Tên của nó được lấy theo Harold Hamilton. | 1 | null |
Shundō-xuẩn động (蠢動-しゅんどう) là một phim Jidaigeki dự định công chiếu vào ngày 19 tháng 10 năm 2013 của đạo diễn Mikami Yasuo. Đây cũng là phiên bản remake của bộ phim cùng tên vào năm 1982 của đạo diễn này, và cũng là bộ phim Jidaigeki đầu tiên sử dụng phim 16mm.
Bộ phim được cấu thành từ hai phần, phần đầu miêu tả các nhân vật nhất quán với lý tưởng chính nghĩa của từng người, phần sau là những cảnh chạy và chém nhau trong tuyết ở phiên Inaba.
Về cơ bản thì câu chuyện không có gì khác so với 45 phút của bộ phim năm 1982, bản remake lần này với sự tham gia của dàn staff và diễn viên kỳ cựu trong thể loại Jidaigeki, cũng như để khắc họa sâu thêm tính cách các nhân vật, giải thích nội tình trong phiên và sự có mặt của một nhân vật mới, thời lượng bộ phim được nâng lên 102 phút.
Và nhằm phân biệt với tiêu đề của phiên bản cũ, bộ phim mới có tên được ghi bằng hai chữ Hán "xuẩn động" được theo sau là chữ kana "shundō".
Nội dung.
Ba năm sau kể từ nạn đói lớn vào niên hiệu Kyōhō, phiên trấn Inaba ở vùng San-in tưởng chừng đã đi vào những ngày tháng ổn định.
Nhưng rồi quan Gia lão trong thành là Araki được mật báo về sự khả nghi của Matsumiya, tay kiếm thuật chỉ nam được Mạc phủ phái đến. Và Araki đã ra lệnh cho tên hầu cận là Funase theo dõi hành động của Matsumiya.
Mặt khác, trong phiên Inaba còn có một tay kiếm thuật chỉ nam khác là Harada vốn chỗ tin tưởng với phiên sĩ Kagawa và người chị gái Yuki. Là sư phụ dạy kiếm của Kagawa, Harada đã chạy đôn chạy đáo xin cho Kagawa được hành tẩu giang hồ một thời gian để trau dồi kiếm nghệ.
Trong lúc đó, Funase báo cáo lên Gia lão Araki rằng đã bắt được mật thư của Matsumiya gửi cho Mạc phủ. Trong thư viết đã nắm được nội tình của phiên Inaba. Giữa lúc đó lại có tin báo sứ giả Nishizaki từ Edo đến.
Nếu Matsumiya gặp được Nishizaki thì cả phiên trấn Inaba sẽ bị triệt tiêu, vì vậy Gia lão Araki phải chọn một nước cờ táo bạo... | 1 | null |
Wilhelm August Otto von der Schulenburg (2 tháng 12 năm 1834 tại Berlin – 5 tháng 1 năm 1923 tại Göttingen) là một Thiếu tướng quân đội Phổ, đã từng tham gia chiến tranh thống nhất nước Đức.
Tiểu sử.
Thân thế.
Ông xuất thân gia tộc von der Schulenburg, một gia đình quý tộc lâu đời có nguồn gốc từ Altmark. Ông là con trai của Thượng tá Friedrich Wilhelm von der Schulenburg (13 tháng 1 năm 1788 tại Stettin – 20 tháng 3 năm 1866 tại Brandenburg an der Havel) và người vợ của ông này là Henriette Charlotte, họ von Bomsdorff (15 tháng 5 năm 1798 tại Charlottenburg – 17 tháng 7 năm 1889 tại Potsdam). Người em trai của ông là Karl Ferdinand Wilhelm Werner (1836 – 1903) cũng theo đuổi sự nghiệp quân sự và được thăng đến cấp Trung tướng.
Sự nghiệp quân sự.
Thời trẻ, Schulenburg học trung học Trung cấp ("Realschule") tại Frankfurt (Oder), sau đó ông học Chính quy ("Gymnasium") tại Dessau. Sau đó, vào tháng 5 năm 1847, ông nhập học trường thiếu sinh quân ở Potsdam và 4 năm sau đó ông chuyển sang trường thiếu sinh quân Berlin. Đến ngày 29 tháng 4 năm 1854, ông được đổi vào Trung đoàn Bộ binh số 27 của quân đội Phổ với quân hàm Thiếu úy. Để đào tạo thêm, ông được lệnh vào học tại Học viện Quân sự Phổ từ ngày 1 tháng 10 năm 1859 cho đến ngày 31 tháng 7 năm 1862. Trong khoảng thời gian đó, ông được thăng hàm Trung úy vào ngày 13 tháng 12 năm 1860. Trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch năm 1864, ông đã tham gia cuộc vây hãm và đột chiếm pháo đài Dybbøl.
Trên con đường binh nghiệp của mình, Schulenberg, với cấp hàm Đại tá, đã được bổ nhiệm chức Tư lệnh của Trung đoàn Bộ binh số 129 vào ngày 13 tháng 1 năm 1885. Đến ngày 5 tháng 2 năm 1887, ông được phong danh hiệu à la suite của trung đoàn và được lãnh chức Thống lĩnh quân đội tại Sonderburg-Düppel. Vào ngày 18 tháng 8 năm 1888, Schulenburg được phong quân hàm Danh dự ("Charakter") Thiếu tướng, tiếp sau đó ông được tặng thưởng Huân chương Vương miện hạng II vào ngày 10 tháng 9 năm 1890 do sự phục vụ lâu dài của mình. Cuối cùng vào ngày 17 tháng 11 năm 1892, ông xuất ngũ (zur Disposition), đồng thời được trao tặng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng II đính kèm Bó sồi 17. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm phục vụ quân ngũ của ông, Đức hoàng Wilhelm II phong tặng Ngôi sao đính kèm vào Huân chương Vương miện hạng II vào ngày 29 tháng 4 năm 1914. Đầu năm 1923, ông từ trần ở Göttingen.
Gia đình.
vào ngày 25 tháng 5 năm 1867, tại Berlin, Schulenburg thành hôn với Hedwig Katharine Luise Hanssen (18 tháng 9 năm 1845 tại Leipzig – 23 tháng 4 năm 1932 tại Göttingen). Bà là con gái của nhà kinh tế quốc dân ("Nationalökonomen") và sử gia nông nghiệp ("Agrarhistorikers") Giáo sư Tiến sĩ Georg Hanssen (1809 – 1894) với người vợ của ông này là Maria. Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho ông những người con sau đây: | 1 | null |
John Dowland (1563 - 1626) là một nhạc sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ đàn luýt người Anh. Ông là một trong những nghệ sĩ đàn luýt lớn nhất và có ảnh hưởng nhất.
Cuộc đời sự nghiệp.
Ít được biết đến của cuộc sống đầu của John Dowland, ông thường được cho rằng sinh ra ở Luân Đôn. Nhà sử học Ai-len tuyên bố rằng ông sinh ra ở Dalkey, gần Dublin. Năm 1580, ông đến Paris. Cũng vào thời điểm này ông trở thành người Công giáo La mã. Năm 1584, ông trở lại nước Anh.
Từ 1598, Dowland làm việc tại triều đình vua Christian IV của Đan Mạch, mặc dù ông tiếp tục xuất bản ở London và ông được trả lương cao nhất tại đây. Năm 1606, ông trở lại Anh Vào đầu năm 1612, ông trở thành một trong những nghệ sĩ đàn luýt của vua James I
Hai ảnh hưởng lớn đến âm nhạc của Dowland là những bài hát phối ngẫu và nhạc khiêu vũ. Hầu hết các tác phẩm của ông đều là các sáng tác cho đàn luýt.. Bao gồm một số cuốn sách về các tác phẩm độc tấu cho đàn luýt, lute song, các tác phẩm nhạc đệm và một số tác phẩm phối ngẫu hứng với đàn luýt.
Ấn phẩm.
Năm 1597, ông công bố "First Book of Songs" ở Luân Đôn. Đây là một trong những ấn phẩm âm nhạc có ảnh hưởng và quan trọng nhất trong lịch sử âm nhạc phát triển của đàn luýt. Bộ sưu tập này của lute song bao gồm các tác phẩm solo và dàn nhạc cho luýt.
Dowland xuất bản hai cuốn sách các bài hát sau "First Book of Songs" vào năm 1600 và 1603, cũng như "Lachrymae" năm 1604. Tác phẩm cuối cùng của ông là "A Pilgrimes Solace" xuất bản năm 1612, theo ý kiến của nhiều học giả đây là tác phẩm hay nhất của ông. | 1 | null |
Pierre Attaingnant (hoặc Attaignant) (c. 1494 - cuối năm 1551 hoặc 1552) là một nhạc sĩ, thợ in nhạc người Pháp, hoạt động ở Paris.
Cuộc đời.
Attaingnant được xem là nhà xuất bản đầu tiên quy mô lớn duy nhất trong nghề in nhạc. Đóng góp lớn nhất của ông trong sự nghiệp in ấn là phổ biến các phương pháp in nhạc, các phương pháp in đã trở nên phổ biến trên khắp châu Âu vào các thế kỷ 16 và 17.
Sự nghiệp.
Ông đã xuất bản hơn 1500 bản nhạc của nhiều nhà soạn nhạc khác nhau, 36 bộ sưu tập chanson. | 1 | null |
Nam Thiên Tứ Thánh thực lục – Thuật cổ bản là một sự tích kể về sự hình thành 4 vị Thánh, sau trở thành Phật gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi, trong hệ thống Phật giáo Việt Nam, được lưu truyền ở nhiều chùa ven sông Đáy, thuộc tỉnh Hà Nam và được các triều từ thời nhà Đinh, nhà Lý đến nhà Lê, nhà Nguyễn sùng kính thờ phụng, phàm cầu mưa, cầu nắng, cầu cho dân an, quốc thái, tất thảy đều linh ứng (1).
Hệ thống các chùa thờ thần Tứ pháp ven sông Đáy Hà Nam.
Hà Nam, đặc biệt là các địa phương ven sông Đáy, chủ yếu là vùng đất của các huyện: Kim Bảng (trước thời Trần gọi là Cổ Bảng), Thanh Liêm, đều là vùng thuần nông, ngày xưa hay bị ngập úng nên còn được gọi là vùng chiếm trũng. công việc cày, cấy, được hay mất mùa, đều gần như phụ thuộc vào thờii tiết. Vốn là một vùng đất nông nghiệp cổ với những cánh đồng trũng, nên bản thân các thôn,xã đã hội tụ một tín ngưỡng dân gian, của văn minh lúa nước, là thờ các vị thần nông nghiệp để tồn tại với thời gian.
Thời xa xưa các thần Tứ Pháp được thờ ở vùng Dâu, thuộc thành Luy Lâu (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay), bao gồm các chùa: Chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi và chùa Dàn thờ Pháp Điện. Do tính chất linh ứng của các vị thần mà lan dần ra nhiều vùng quê ở đồng bằng sông Hồng, trong đó tập trung nhất là vùng đất ven sông Đáy từ xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng đến xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm của tỉnh Hà Nam. Tương truyền rằng: Vào thời Tam Quốc, nhiều làng quê vùng Hà Nam hay bị lụt lội, ốm đau bệnh tật, mùa màng thất bát, nghe tiếng Tứ Pháp ở Bắc Ninh rất là linh ứng, nên đã đến đó xin rước chân nhang các Thánh để thờ. Từ khi rước các Thánh trong Tứ Pháp về thờ phụng. Từ khi rước Tứ Pháp về thờ thì được mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Các nơi thờ Tứ Pháp ở Hà Nam cụ thể như sau:
- Thờ Pháp Vân có: chùa Bến hay còn gọi là bà Bến (Quế Lâm xưa giờ là thị trấn Quế), chùa Do Lễ (Liên Sơn, Kim Bảng), chùa Thôn Bốn (xưa Phù Vân, Kim Bảng, bây giờ thuộc Phủ Lý), Chùa Tiên (Thanh Lưu, Thanh Liêm).
- Thờ Pháp Vũ có: Chùa Bà Đanh (thôn Đanh Xá,Ngọc Sơn, Kim Bảng), Chùa Khánh Hưng hay còn gọi chùa Đặng (xưa thuộc thôn Đặng Xá, xã Đặng Xá, bây giờ là xã Văn Xá, Kim Bảng), Chùa Trinh Sơn (Thanh Hải, Thanh Liêm).
- Thờ Pháp Lôi có: Chùa Nứa (Bạch Thượng, Duy Tiên.
- Thờ Pháp Điện có: Chùa Bầu hay còn gọi là Bà Bầu (thôn Bầu và chợ Bầu thị xã Phủ Lý).
Một số chùa ven sông Đáy còn phối tự thờ Thần Tứ Pháp như các chùa: Quyển Sơn (Thi Sơn, Kim Bảng), Thanh Nộn, Phú Viên, Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Tranh Thôn (Văn Xá, Kim Bảng).
Nội dung truyền thuyết Nam Thiên Tứ Thánh -Thuật cổ bản.
Bấy giờ là thời nhà Tấn ( năm 266 – 420) tại thành Luy Lâu (Thành Luy Lâu, nơi đặt trị sở đô hộ của nhà Hán phương bắc đối với nước ta. Nay là vùng đất thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) trị sở cũ của Sỹ Vương ở Giao Châu có các ( tượng ) Phật: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi. Pháp Điện được Giao Châu coi là của báu là tượng lành của một phương.
Cứ theo báo cực truyện kể rằng: Xưa có vị Phạm tăng tên là Khâu Đà La là người nước Tây Thiên Trúc, vốn dòng tịnh hạnh Bà la môn. Các chốn thân ông ta huyện xã thường là những chỗ hang động, dưới cây, dưới đá; Ông ta chẳng y chỉ vào chùa chiền, mà đi chu du bốn biển, có sức mạnh lớn. Vào cuối đời Hán Linh Đế có vị tăng là Kỳ Vực, chống gậy tích trượng đi vân du. Họ đến thành Luy Lâu trụ sở ( cũ) của sở vương. Bấy giờ trong thành có vị Ưu bà tắc tên là Tu Đinh ( Đinh hay Định ) thấy họ bèn mời họ ở lại. Kỳ Vực không nghe vung cây tích trượng đi về phía đông, chỉ có Khâu Đà La là nghe theo. Tu Định thấy Khâu Đà La có lòng tôn kính ngưỡng mộ, liền mời đến trọ tại nhà mình.
Khâu Đà La thường ngồi tĩnh tọa cả ngàu không ăn, Tu Định thấy thế ngày càng tín ngưỡng. Tu Định chỉ có một mụn con gái, tuổi mới mười hai, thường hầu việc thắp đèn, hái rau, cung kính cẩn thận và có tiết hạnh, Sư cho là hạng kỳ nữ và gọi là Ả Nam. Sư ở được hơn một tháng thì cáo từ xin về. Tu Định khấu đầu xin làm đệ tử, xin được ( sư dạy ) một lời, một nửa câu để làm Thần không. Sư nói: ‘’ Sảy cám tối mắt thì bốn phương sẽ thay đổi vị trí, làm lú cái tâm. Làm lú cái tâm thì sẽ ngưng trệ ở địa vị phàm phu, trái với bậc thánh giả. Nay ngươi trong pháp của ta vốn có duyên xưa. Song tuy con gái người Ả Nam là phận thân nữ lại có duyên phận với đạo. Nế thấy đàn ông thì sẽ thành đại pháp khí. Hôm nay độ cho đúng như nguyện vọng của ngươi’’. Do vậy sư ở lại, sớm tối trì kính, thường kiễng chân suốt bảy ngày liền, rồi gọi Ả Nam đến trước mặt và giơ tay ra xoađỉnh đầu nói: ‘’ Ngươi sẽ thành pháp quyền của ta’’. Nhân đó sư lại bảo rằng: ‘’Sau đây 3 năm, trời ắt đại hạn. Chẳng những lúa má bị khô héo, mà người và gia súc cũng không có chỗ mà uống. Ta giúp sức cho gia đình ngươi một phen. ( nói xing) vào vườn lấy gạy cắm xuống đất sau đó nhổ lên thì nước rừ dưới đất trào lên, Sư bảo Tu Định đào giếng ở ngay chố ấy để đề phòng hạn hán.
Nói xong sư cáo từ ra đi thẳng vào núi xanh. Tu Định dắt con là Ả Nam theo dấu tới núi mới biết chỗ sư ở. Sư ngồi dưới cây, lấy động ở dưới làm nhà. Trong thời gian nàyTu Định cứ mùa nào thức ấy đem rau quả đến cúng dâng quanh năm chẳng mỏi, có lúc sai Ả Nam đi một mình, sớm đi chiều về. Ả Nam đã đến tuổi cài trâm ( 16 tuổi – nd ) mà vẫn chưa gả chồng, ( thế mà ) bỗng dưng có mang. Tu Định lấy làm xấu hổ, liền đến chất vấn sư: ‘’Con gái không chồng mà chửa là lỗi tại ai? ‘’. Sư biết ý Tu Định liền mỉm cười nói: ‘’Nhẫn ! Nhẫn! Nhẫn!”. Hết thảy oan gia từ đây tận! Ta với ngươi diệt ở đây! Chẳng biết lỗi gì ắt đến’’. Sau đó Tu Dịnh quay về nuôi nấng Ả Nam. Ả Nam mang thai 14 tháng, đến đúng giờ Ngọ ngày 8 tháng 4 thì sinh được một gái. Ả Nam ẵm con vào núi tìm sư, gọi đứa con đó là Ả Nam Đà La. Sư bảo với chúng rằng: ‘’ Hỡi các cây to, cây nào có thể vì ta mà bễ ẵm đứa con này thì hãy mở lòng dung nạp nó. Ngay sau ắt sẽ vì người, vì trời, vì lòng thành mà thỉnh mệnh và được tôn trọng muôn năm’’. Có một cây to hưởng ứng lời sư tự tách ra, sư đem đứa con ấy nhét vào giữa cây, cây lại liền như cũ.
Sư bèn thuyết bài kệ rằng:
Hình như khách trọ,
Tâm không cánh cũng không,
Tịch nhiên một vị Ngộ,
Ứng vận, vạn duyên đồng!.
Kệ xong thì biến mất. Nhưng đã nghe thấy tiếng tụng niệm ở ngọn nú phía Tây. Rừng rậm um tùm, Ả Nam ước đoán chẳng thể tới được liền bái vọng mà quay về.
Do đó đúng vào lúc đại hạn ba năm liền không mưa, khe đầm khô cạn, nhiều người chết khát, riêng nhà Ả Nam, nước giếng chẳng cạn, nhiều người trong thành được nhờ ơn. Sĩ Vương ( Sĩ Nhiếp - Thái thú Giao Chỉ (187 - 226) nghe tin, sai người đến hỏi, Ả Nam bẩm hết ngọn ngành. Sĩ Vương bèn sai người vào trong núi tìm sư. Sứ giả trở đi trở về ba lần chẳng tìm được chỗ sư ở, Sĩ Vương bèn triệu Ả Nam đến để hỏi ý của sư đã lệnh như thế nào, rồi nhờ Ả Nam đi thỉnh giúp. Ả Nam tới núi gặp sư ở dưới cây lớn bạch lại với sư mệnh lệnh của Sỹ Vương. Sư bèn đứng dậy kiễng chân, chỉ trong nháy mắt đã bỗng nhiên đổ mưa rào. Người trong nước nghe tin không ai không khâm phục ngưỡng mộ.
Thế là Sỹ Vương mang hương, tiền đến hiến dâng, Người kéo đến chặt cả cửa núi, như sư mảy may không hề đoái hoài chỉ một mực kinh hành ( cách đi dạo của người tu Phật ) suốt ngày đêm ở dưới cây, thường lấy Thiền – duyệt làm thức ăn, lấy pháp hỉ làm niềm vui. Sau này nổi trận gió to mù mịt, nhổ cả cây đó lên, nước lũ cuốn cây trôi vào sông Long Biên, tới bão bến thành Luy Lâu thì kẹt lại. Trong cây văng vẳng có tiếng âm nhạc, cây tỏa hào quang chói lọi, tỏa mùi hương ngào ngạt.
Người bản châu nghe tin bèn bẩm với Sĩ Vương, Sĩ Vương ngầm dò la, trong tâm cảm thấy rất kì lạ, bèn sai lực sĩ kéo cây tới bờ sông, thấy cây này cành cội rắn chắc nom rất tích, liền có ý muốn dùng làm gỗ nhưng trong bụng vẫn chưa quyết, Bỗng có một bậc đại nhân đến bảo rằng: ‘’ Hôm nay cùng Ngài nên mở mặt mở mày, nhìn lại quá khứ trong tám ngà năm!’’. Sĩ Vương tỉnh ngộ rồi bảo lại với khắp các bề tôi. Có người dâng lời rằng: ‘’Cây này rất thiêng, có lẽ muốn làm thần tượng chăng ?, Vì nếu dùng vào việc thường thì không được, thế mà xin làm tượng thì được liền’’.
Thế là Sĩ Vương bèn triệu người thợ làm tượng gỗ tên là Đào Tự Lượng tới, cưa cây gỗ ra làm 4 đoạn để tạc thành 4 pho tượng Phật, ở trong đoạn thứ nhất có bắt được một hòn đá. Thợ mang ra sông rửa, tay chân vụng về làm rơi xuống sông. Nay chỗ đá rơi còn gọi là vực Phật ở. Bốn pho tượng chia cho các phường thợ làm xong thì dựng chùa Thiền Định để thờ. Triều Lý đổi chùa Thiện Định thành 4 chùa: Diên Ứng, Thành Đạo, Phi Tướng, Trí Quả để đặt 4 pho tượng đó.
Ngày mới khánh thành, lúc chưa nhập tự, bấy giờ đang hạn hán nặng, dân bèn cầu đảo, lập tức ngấm ngầm cảm ứng, bỗng nhiên mưa to, bèn gọi tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Phá Lôi, Pháp Điện rồi đưa vào chùa. Ba tượng cùng một lúc kiệu khênh nhẹ tênh, riên tượng Pháp Vân nặng chẳng nhích nổi. Sĩ Vương gọi thợ đến hỏi, thpwj bẩm lại đầu đuôi câu chuyện bắt được hòn đá, Sĩ Vương sai dân chài lặn xuống vực sâu để tìm, thợ lặn thấy có ánh sáng xuyên thấu sợ hãi chẳng dám đến gần, trở về bẩm lại. Sĩ Vương bèn cho bủa lưới vét khắp lấy được đá lên để trước tượng Phật, thế là tượng Phật bỗng dưng nhẹ tênh. Lâu ngày thành ra chuyện lạ được người ta ca ngợi, mới biết cây này chính là cây đã ấp ủ nuôi dương con của Đà La, đó chính là con gái của Ả Nam Nương vậy. Sĩ Vương vì nhớ công đức của sư nên sai sứ giả mang hương nhang tín thí hậu hĩ vào núi tìm sư, nhưng bặt tăm chẳng biết tông tích đâu. Chỉ thấy giữa cây liền đề một bài kệ rằng:
“Tam kha tuế mạo lão dư linh
Thả lữ băng giang tứ hải thanh
Yến sử mộ mên quy sứ sở
Bạch vân thâm sứ trủng đình đình”
Tạm dịch là:
“ Năm thừa tuổi tác đáng thở than,
Mừng thấy nước nhà được bình an,
Muốn khiến cuối đời về nơi chốn
Ùn ùn mây trắng chỗ thâm san!”.
Có người nói sư đã hóa thân, có người thì nói sư đi giáo hóa ở nước khác, chẳng ai biết kết cục sư ra sao. Nay trước chùa có một ngôi mộ, người đời bảo đó là mộ Ả Nam, cũng gọi là mộ Phật mẫu, hằng năm sứ đến ngày 17 tháng giêng là ngày húy của Ả Nam, thường bằng cỗ chay, tịnh vật.
Tới thời Tam Quốc, Đào Hoàng (271 - 300 ) làm Thái Thú, Giao Châu cũng lấy nơi này làm trị sở, Hoàng khâm phục sự linh ứng của Phật, bén sai đắp đàn để trông nom gin giữ, cấm không để ai xâm phạm. Hoàng còn trùng tu 4 chùa, sai người đèn nhang thờ phụng quanh năm. Hoàng ở trị sở hơn 30 năm, ân uy ái mộ, kính tín khâm phục. Hoàng sở dĩ là người hiền, cũng là do đức của mẹ, bèn khắc văn bia vì thiên quốc mà ghi rằng: “ Phật Pháp Vân cổ chùa là thiêng nhất trong nước, phàm gặp các năm hạn hán, dịch lệ, bị nạn châu chấu, vâng mệnh nước đến cầu đảo, trừ tai đều lập tức có hiệu nghiệm ngay. Đến như công khanh, thứ dân không con đến cầu tự cũng đầu thấy cảm ứng ngay. Cho đến các việc liên quan ( đến ) mở chợ, chăn nuôi, ngả tằm… hễ cầu khấn là ắt được như nguyện. Cho nên danh tiếng linh ứng đồn khắp.
Vua Minh Đế nhà Đông Tấn nghe tin đã sai thứ sử Giao Châu là Đào Khản (từ năm 318 – 324 ) tới rước đem về Kiến Khang. Khản sai lực sĩ tới lấy, nhưng chẳng chuyển nổi, bén sai một ngàn lực sĩ tới chuyển đi, cũng lại chẳng nhấc nổi, lền tăng tới ba ngàn người để cố chuyển tượng đi, đi chưa tới cõi, mới tới Long Pha thì bọn chúng đều đã kiệt sức, ngã lăn gãy chân tay rất nhiều. Khản thắp hương bái tạ thỉnh trả về chốn cũ, thế là tượng Phật ngược lại thành nhẹ tênh. Do đó mà tiếng thiêng càng lừng lẫy.
Vào khoảng niên hiệu Thái Khang thời Đông Tấn, bấy giờ có vị tăng tên là Tỳ Ni Đa Lưu Chi thiền sư từ nước Tây Thiên Trúc đã đi vân du khắp các nước, nghe tiếng phương này có Phật xuất thế rất anh linh, liền tìm đến chùa này khai tràng thuyết pháp, giáo pháp thịnh hành.
Khoảng thời Tùy Cao Đế , Cao Đế sai sứ mang hòm sá lị của Phật Thích Ca sang, sai Lưu Phương ở Giao Châu chọn các địa phương ở Giao Châu để cùng dân cúng,những mong cho công đức của Phật được lưu truyền, Bấy giờ Giao Châu được Pháp Huyền Đại Sư cho là Phập pháp thắng địa, bèn xây tháp ở trong đó, để lại hòm xá lị để trấn. Đến nay vẫn còn. Số còn lại thì Hoan, Ái ( Châu Hoan, Châu Ái ) mỗi nơi một hòm.
Xương Khởi đời Đường (từ năm 618- 907 ) làm kinh lược Nam Bang, khâm phục uy linh của Phật, nên mới ghi lại công đức của Phật cùng núi non, sông nước bản quốc để dâng lên nhà Đường.
Năm Lý Nhân Tông lên ngôi, (từ năm 1072 – 1123 ) mùa thu mưa lâu hàng tháng, nhà vua sai rước Phật tới chùa Báo Thiên,( chùa tọa lạc tại khu vực phố Nhà Thờ Hà Nội nay không còn nữa ) nhà vua đích thân tới lễ bái cầu tạnh, thế là bỗng nhiên trời quang, mây tạnh. Vua mừng lắm liên ban sắc lệnh thỉnh với chùa Báo Thiên để rước Phật vào điện Hội tiên trong đại nội. Nhà vua đích thân dân sáu cung tới chiêm ngưỡng, lễ bái cung kính dâng, mọi ngươi đua nhau mang châu ngọc tới cúng tiến.
Năm Thái Ninh thứ ba, ( thời vua Lý Nhân Tông 1072 -1076 ) mùa thu hạn hán, vua bèn ra sắc lệnh sai Trung Thư tướng công Đỗ Kiệt, dẫn quần thần mặc triều phục làm Tả vệ, Tăng Thống Lý An Tịnh, dẫn các sư mặc cà sa làm hữu vệ, uy nghi pháp phục. Lại sai Hành khiển ty Trịnh Tả Tự dẫn đoàn âm nhạc kèn trống Thái Trường, uy nghi bội phần, dẫn pháp giá tới chùa Điển Linh Đông, làm rước Phật vào điện Thủy tinh trong đại nội. Vua đích thân mặc pháp phục, thắp hương lễ Phật. Thế là mưa to dạt dào.
Năm đầu niên hiệu Hi Thắng, mùa thu quân Tống cả hai đường thủy bộ cùng kéo tới xâm lược ( lần thứ 2 năm 1075 - 1077) để trả mối thù về trận Châu Khâm, Châu Lung. Tướng Tống là Cao Quỳ dẫn tám vạn quân đóng đồn ở sông Như Nguyệt, đại chiến với quân ta nhưng chẳng thắng. Bọn Tống đều cho rằng đó là do Phật linh thắng, vì vậy chúng bèn lấy trộm tượng Phật cưỡng dời về phía chúng. Từ cánh đồng Vũ Bình, chúng bị quân ta đuổi đánh, bọn giặc bị đánh bại, bản thân Cao Quỳ cũng phải lủi trốn, bỏ ( tượngj ) Phật lại trong bụi rậm. Người trong nước cứ ngỡ là ( tượng ) Phật bị mất về tay giặc. Mùa đông năm ấy cháy đồng, cỏ cây đều bị thiêu rụi, riêng chỗ Phật ( cây ) vẫn xanh tốt um tùm chẳng bị tổ hại. Người làng tới xem thấy Phật trong bụi cỏ, nghiễm nhiên không bị xây sứt, họ liền vội vàng tâu ngay lên vua. Vua ra lệnh rước về chùa, sơn thiếp sửa sang lại. Tiếng thiêng của phật ngày càng hiển hách. Từ đó trở đi, gặp nạn lụt lội, hạn hán đều đến cầu đảo, phần nhiều đều được cảm ứng. Sự tích được ghi chép tường tận trong sử sách.
Tháng sáu, mùa hạ năm Bính Thìn, tức năm thứ 17 đời vua Lý Anh Tông ( năm 1138 -1175), trăm quan sửa lễ rước Phật tới chùa Báo Thiên, thỉnh Thái Hậu đến lễ bái cầu mưa. Xa giá về tới ngoài gác Vĩnh Bình thì trận mưa rào ập tới. Tả hữu xin tránh. Thái Hậu nói: “ Trời lâu chẳng mưa, hại cả lúa má, may nay được mưa, tránh mưa chẳng được ”. Bèn sai bỏ lọng đi trần về tới cung. Liến mưa rất to, chuyến đi này chẳng mang Thạch Phật theo. Tới khi rước Phật về thấy mất Thạch Phật chẳng biết ở chỗ nào, tìm khắp phương đều chẳng thấy. Bắt tội bõ chùa chẳng biết trông coi giữ gìn cẩn thận. Bấy giờ có cái giêngs bỏ hoang, bỏ lâu chẳng sửa. Bõ chùa nhân hạn được mưa, tới sửa giúp thì tìm thấy Thạch Phật trong ngôi chùa cổ mạng về. Lúc đầu có cho là bõ chùa lấy trộm, nên sau đó lại mất, chẳng biết ở chỗ nào. Bỗng vườn chùa có cây táo lớn bị chết. Bõ chủa bảo rằng cây đổ tìm thấy Thạch Phật trong cây, bèn làm tráp ngọc gấm vàng để Thạch Phật vào trong đó, khi nào tế lại rước theo chẳng rời.
Thêm nữa Lý Tế Xuyên nói rằng: “Thời cổ” người Tống thường hội họp trai gái thiết lập đạo tràng mở hội bảy ngày liền vào dịp đầu năm và vào ngày mồng tám tháng tư hàng năm để khánh hạ ngày Phật Đản. Tới ngày đó, các xã nhân dân bốn phương chia nhau rước Phật bản phường. Họ kéo tới kinh thành, quan trên cùng người phương xa hàng hơn ngàn người cùng nhau mở hội vui chơi.
Tháng sáu, mùa hạ năm thứ 9, sai quan tới chùa Diên Ứng ( tức chùa Dâu – Thuận Thành Bắc Ninh ) dựng tràng phan, liền cảm ứng mưa to. Có bài tụng rằng:
Trong kinh thấy nói Phật nhân duyên
Thấy nói trong tâm mãi mãi tin
Từ độ sư Khâu này xuất thế
Ả Nam sinh dưỡng cổ lai truyền!.
Triều Lê hưng sùng Phật pháp, hàng năm sáu kỳ sai quan về tế chùa Diên Ứng để cầu cho vận nước dài lâu.
Năm Bính Tý, được Thái Tông, Thái Phi ban thêm cho long cổn, cẩn bào.( vua Lê Thái Tông 1433 – 1442 )
Năm Canh Thân, Thánh Vương ( tức vua Lê Thánh Tông 1442 -1497 ) đại giá thân chinh, đặc sai Nghĩa Tuyên Hầu Lê Kim Hội tới chùa Diên Ứng xin đổi trống pháp để làm hiệu lệnh, sau đại phá được giặc Ngân Già, bèn ban thêm cho mũ hoa, áo gấm, quạt lông để việc thờ cúng thêm long trọng.
Ngày 25 tháng 6 năm canh ngọ, bằng giờ trời đang đại hạn hán, Vua bén sai quan cầu kê là Trần Thọ về chùa Diên Ứng cầu mưa, liền được mưa to như trút.
Nguyên chùa Khánh Hưng xã Đặng Xá, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam, vào thời Tam Quốc, nhân dân bị ốm đau bệnh tật, (đã đến ) đạo Kinh Bắc cầu đảo Tứ Thánh thì dân được yên ổn mạnh khoẻ, Bấy giờ xã Đặng Xá bèn đến đạo Kinh Bắc xin rước Đại Thánh Pháp Vũ Tôn Phật về chùa Khánh Hưng ( chùa Đặng thôn Đặng Xá ) để đèn nhang thờ cúng rất là linh ứng. Phàm cầu tạnh, xin mưa thảy đều ứng nghiệm ngay.
Tới khi Đinh Tiên Hoàng dựng nước, cũng đích thân đến bản tự để cầu đảo, cầu Phật phù hộ cho thiên hạ thanh bình, được vậy thì sẽ gia phong sắc chỉ. Tới khi thiên hạ đã yên ( vua Đinh ) liền gia phong cho ngài là Thượng Đẳng Phúc Thần.
Tới khi Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn dựng nước ( năm 1009) cũng đến cầu đảo chùa này. Sau khi Lý Thái Tổ được nước, liền gia phong cho ngài thêm 2 chữ: Đại Thánh. Lại ban cho mỗi năm 100 quan tiền xanh giao cho bản xã, bản thôn để dùng vào việc tu tạo chùa và sai quan đến tế.
Tới khi Lê Thái Tổ tức Lê Lợi khởi nghĩa ( năm 1428 ), cũng cầu đảo ở chùa này. Khi bình định xong thiên hạ liền gia phong sắc chỉ, còn ban cho hàng năm100 quan tiền, cứ đến mồng tám tháng tư hàng năm lại sai quan đến cầu đảo, cầu Phật phù hộ cho vận nước dài lâu mãi mãi, Phật cùng vận nước lâu dài vô bờ. Thịnh vậy thay!
Sự tích Đại Thánh đều ghi đầy đủ trong Thực Lục để bản xã phụng thờ.
Nam mô Đại Thánh Pháp Vũ Tôn Phật Thượng Đẳng Thần./
Chú thích.
1. Nguồn gốc: Nam Thiên tứ Thánh thực lục - Thuật cổ bản, được ghi trong Ngọc phả, bản chính của Bộ Lễ triều Lê, do Nguyễn Bính – Đông Các Đại Học Sĩ biên soạn và niên hiệu Hồng Phúc (năm 1572. Năm Vĩnh hựu thứ 4 (1738), Tiến sĩ Nguyễn Hiền vâng mệnh sao chép lại rồi ban cho thôn Đặng Xá, xã Đặng Xá, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Trong đó ghi sự tích Thần, Phật được thờ tại đình, chùa, đền, miếu. Bản dịch từ chữ Hán của Giáo sư Trương Đình Nguyên – Viên Nghiên cứu Hán Nôm, phó hiệu trưởng trường cao cấp Phật học, năm 1994 và đã được giới thiệu trên báo Lao động.
Tham khảo..
1. .
Xem thêm.
2. Chùa tổ và phật mẫu Man Nương http://thuanthanh.bacninh.gov.vn/lich-su-van-hoa/chua-to-va-truyen-thuyet-phat-mau-man-nuong-6-1458.html
3. Ngược tìm thượng nguồn Phật giáo Luy Lâu
https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=52E612 | 1 | null |
Alfonso X của Castilla (cũng đôi khi Alphonso X, Alphonse X, hoặc Alfons X, 23 tháng 11 năm 1221 - 4 tháng 4 năm 1284), được gọi là khôn ngoan () là vua của Castile, León và Galicia từ ngày 30 tháng 5 năm 1252 cho đến khi ông qua đời vào năm 1284. Ông được cho là tác giả của Cantigas de Santa Maria.
Âm nhạc.
Alfonso X đã ủy quyền hoặc đồng tác giả nhiều tác phẩm âm nhạc trong thời kỳ trị vì của ông. Những tác phẩm này bao gồm "Cantigas d'escarnio e maldicer" và Cantigas de Santa Maria ("Bài hát cho Đức Trinh Nữ Maria") được viết bằng tiếng Galicia-Bồ Đào Nha và là một trong những bộ tác phẩm quan trọng nhất của ông. Bao gồm 420 bài thơ với ký hiệu âm nhạc, nội dung nói về những phép lạ của Đức Trinh Nữ Maria. Một trong những điều kỳ diệu mà Alfonso liên quan là sự chữa lành của chính ông ấy ở Puerto de Santa María. | 1 | null |
Pelophylax bedriagae, trước đây là thuộc chi "Rana", là một trong những loài ếch ở miền nam Châu Âu. Chúng có màu xanh đến nâu với vệt đen trên mặt lưng của chúng. Chúng là anh em của con ếch thủy sinh và sống hầu hết thời gian trong nước. Họ không có độc và khá lớn, đặc biệt là con. Nó đã được di thực tới một số nước mà không có nguồn gốc, một trong số đó là Man-ta. Loài này được lưu giữ lần đầu tiên như vật cưng, sau đó vào những năm 1990, nó đã cố tình giới thiệu với một số hồ đá nước ngọt tại Gozo, nơi nó được nuôi với một số lượng lớn. Mặc dù là một loài phổ biến và xâm lấn, nó bị hạn chế cung cấp nước sạch liên tục, vì vậy nó không thể lây lan tự nhiên trên các hòn đảo Địa Trung Hải khô cằn. | 1 | null |
Pelophylax kurtmuelleri là một loài ếch xuất hiện tại Hy Lạp, và ở một mức độ thấp hơn, tại Albania, Montenegro và Serbia. Loài này rất giống Pelophylax ridibundus.
Chiều dài trung bình là 72 mm đối với con đực, 78 mm đối với con cái. Mặt trên là màu xanh lá cây hoặc đôi khi màu nâu, thường có một sọc màu xanh lá cây ở giữa và với những đốm sẫm màu không đều. Màng nhĩ là màu đồng hoặc màu xanh lá cây bao quanh bởi một màu tối hơn.
Loài này được tìm thấy trên khắp Hy Lạp, ngoại trừ ở góc đông bắc, nơi P. ridibundus được tìm thấy để thay thế. Ở Tây Hy Lạp nó sống cùng với Pelophylax epeiroticus.Nó sống trên mực nước biển đến 1000 m, mặc dù số đông không được tìm thấy trên 600 m. Một số nhỏ sống ở Đan Mạch và Ý. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.