text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Pelophylax lessonae là một loài ếch châu Âu. Nó là một trong bốn loài. Nó là một trong bốn loài lưỡng cư được công nhận bởi chính phủ Vương quốc Anh bảo vệ theo Kế hoạch hành động đa dạng sinh học. Những lý do dân số của chúng từ sự xâm lấn, khiến giảm môi trường sống ao của và cũng như ô nhiễm không khí dẫn đến quá trình nitrat hóa của nước ao.
1
null
Ếch đầm lầy châu Âu ("Pelophylax ridibundus") là loài ếch lớn nhất bản địa châu Âu, thuộc họ Ếch nhái (Ranidae). Nó có bề ngoài rất giống với "Pelophylax lessonae" và loài lai "Pelophylax kl. esculentus". Ba loài này được xếp trong chi "Pelophylax". Đặc điểm. "P. ridibundus" sống trong và quanh quầng nước. Nó đạt chiều dài tối đa 17 cm, dù thường nhỏ hơn nhiều (con đực chừng 12 cm). Đầu to còn chân sau thì dài, giúp chúng có những bước nhảy dài. Có sự đa dạng lớn về tông màu và hoa văn, từ xanh đậm đến xám và nâu, có khi chúng có sọc xanh lợt; hay một sọc nhạt màu ở giữa sống lưng. Phân bố. "P. ridibundus" sống ở hầu khắp châu Âu, và cả một phần châu Á, gồm phần châu Á của Nga, về phía nam đến tây Iran và Afghanistan. Thậm chí, còn có một quần thể tách biệt ở Ả Rập Xê Út. Chúng ưa nhiệt độ nước khoảng 15 °C.
1
null
Anopheles albimanus (phát âm ə nóffə leez albi manəss) là một loài muỗi mà truyền bệnh sốt rét. Phân bố. A. albimanus xuất hiện tại Antigua và Barbuda, Bahamas, Barbados, Belize, Brazil, Cayman Islands, Colombia, Costa Rica, Cuba, Cộng hòa Dominican, Ecuador, El Salvador, Guatemala, Haiti, Honduras, Jamaica, México, Nicaragua, Panama, Turks và Caicos Islands, Peru, Puerto Rico, Suriname, United States, Uruguay, Venezuela và Virgin Islands.
1
null
Culex pipiens là một loài muỗi hút máu của họ Culicidae. Đây là một sinh vật trung gian truyền bệnh chẳng hạn như viêm não Nhật Bản, viêm màng não, và nổi mề đay. Tại Mỹ, nó có thể lây lan virus Tây sông Nile. Hiện diện. Nó xuất hiện tại các quốc gia: Argentina, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Canada, Síp, Cộng hòa Séc, Ai Cập, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Iran, Ai-len, Israel, Ý, Nhật Bản, Jordan, Hàn Quốc, Latvia, Liban, Litva, Luxembourg, Maroc, Pakistan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, România, Nga,A Rập Saudi, Slovakia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Việt Nam, Tajikistan, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh, Serbia, Mỹ, Uruguay, và Montenegro. Mô tả. Chiều dài cơ thể thay đổi từ ba đến bảy mm. Sinh thái. Con cái hút máu của các loài chim hoặc con người, và con đực hút phấn hoa, mật ong, và nước trái cây.
1
null
Diapheromera femorata là một loài bọ que được tìm thấy trên khắp Bắc Mỹ. Chiều dài trung bình của loài này là 75mm (3 inch) đối với con đực và 95mm (3.75 in) đối với con cái. Nó thường được tìm thấy trong rừng rụng lá trên cả Bắc Mỹ, nơi chúng tìm thấy nguồn thực phẩm của chúng mà bao gồm nhiều loại lá cây. Mặc dù Diapheromera femorata có xu hướng thích tán lá gỗ sồi và hạt dẻ.
1
null
Phạm Văn Ký, sinh ngày 10.7.1910 tại Thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, Việt Nam, từ trần ngày 27.4.1992 tại Créteil, Val-de-Marne, Pháp, là nhà văn người Việt Nam, đã đoạt Giải thưởng lớn cho tiểu thuyết của Viện hàn lâm Pháp năm 1961. Tiểu sử. Ông sinh ngày 10.7.1910; nhưng các nguồn khác nói là năm 1913 hoặc 1916, trong một gia đình có 13 người con. Theo nhà văn Nguyễn Vỹ thì ông Ký học Trung học ở Sài Gòn, còn theo Jack A. Yeager thì ông Ký học ở Hà Nội. Năm 1936, ông được trao giải "Premier prix de Poésie aux Jeux Floraux d'Indochine" cho một tập thơ viết bằng tiếng Pháp. Ông cũng là người đầu tiên viết lời giới thiệu cho tập thơ "Gái Quê" của nhà thơ Hàn Mặc Tử năm 1936. Ông từng làm biên tập viên cho vài tờ báo tiếng Pháp ở Bình Định, Huế, Sài Gòn, sau đó sang Pháp học ở đại học Sorbonne, nhưng không bao giờ hoàn thành được học vị của mình vì Chiến tranh thế giới thứ II. Ông cư ngụ ở Paris từ năm 1938. Từ năm 1946, ông kết hôn với nữ diễn viên kịch Yvonne Gaudeau, hội viên "Hội kịch nghệ Pháp". Năm 1970, ông cùng phái đoàn Việt kiều yêu nước về thăm quê lần đầu tiên sau 31 năm xa cách rồi lại quay lại Pháp. Ông đã cư ngụ tại Maisons-Alfort, ngoại ô thành phố Paris cho tới khi từ trần tại bệnh viện Henri-Mondor ở Créteil.
1
null
Acrophylla titan là loài bọ que dài nhất được tìm thấy tại Úc. Nó là loài đặc hữu của phía đông nam Queensland và New South Wales. Nó có màu nâu xám và có thể phát triển lên đến 30 cm (12 in). Những con cái có thể dễ dàng được xác định là lớn hơn con đực. Con đực có thể bay nhưng con cái thì không.
1
null
Giải thưởng lớn cho tiểu thuyết của Viện hàn lâm Pháp (tiếng Pháp:"Grand prix du roman de l’Académie française") là một giải thưởng văn học của Viện Hàn lâm Pháp, dành cho tiểu thuyết xuất sắc viết bằng tiếng Pháp. Giải này được Viện Hàn lâm Pháp thiết lập từ năm 1915 và được trao hàng năm vào tháng 10. Lịch sử. Giải này được Viện Hàn lâm Pháp thiết lập năm 1915. Trong 3 năm đầu, giải này được trao 2 lần cho toàn bộ tác phẩm của một nhà văn, sau đó giải được trao cho một tác phẩm được xuất bản trong năm. Ban giám khảo gồm 12 viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp Giải này cùng với Giải thưởng lớn Văn học của Viện Hàn lâm Pháp được coi là một trong những giải thưởng văn học cao quý của Pháp. Số tiền thưởng của giải hiện nay là 7.500 euro.
1
null
Wilhelm Karl Friedrich Gustav Johann von Scherff (6 tháng 2 năm 1834 tại Frankfurt am Main – 16 tháng 4 năm 1911 tại Venezia) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh, đồng thời là một tác giả quân sự. Ông đã từng tham gia chiến tranh thống nhất nước Đức. "Studien zur neuern Infanterietaktik" ("Khảo cứu về các chiến thuật bộ binh mới") của ông, ra đời sau cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), là một công trình nghiên cứu quan trọng về chiến tranh đương đại. Trong tác phẩm này, Scherff, khi ấy là một Thiếu tá, nhấn mạnh tầm quan trọng của súng nạp hậu, tiên đoán sự kết thúc của các cuộc tấn công ồ ạt bằng bộ binh, và nhìn nhận sự hiệu quả ngày càng cao của việc phòng ngự, trong thời đại mà tầm bắn và sự chính xác ngày một tăng của các vũ khí pháo binh lẫn bộ binh khiến cho các chiến thuật tấn công cũ trở nên bất khả thi. Tiểu sử. Thân thế. Wilhelm là con trai của Friedrich von Scherff (mất ngày 21 tháng 10 năm 1869 tại Wiesbaden) với người vợ của ông này là bà Karoline, họ von Arnoldi (21 tháng 12 năm 1794 tại Dillenburg – 24 tháng 12 năm 1868 tại Wiesbaden). Thân phụ của ông là Tư vấn Nhà nước và Đại sứ Hà Lan tại Hội đồng Liên bang ("Bundestag") ở Frankfurt am Main. Sự nghiệp quân sự. Thuở trẻ, Scherff học các trường Trung học Chính quy ("Gymnasien") tại quê nhà của mình và Wiesbaden. Vào ngày 16 tháng 10 năm 1849, ông trở thành một thiếu sinh quân tại Berlin, sau đó ông được chuyển vào Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 2 của quân đội Phổ với quân hàm Thiếu úy vào ngày 27 tháng 4 năm 1852. Để rèn luyện thêm, ông được lệnh vào học tại Trường Chiến tranh Tổng hợp ("Allgemeine Kriegsschule") kể từ tháng 10 năm 1856 cho đến tháng 6 năm 1859, tiếp theo đó ông là sĩ quan phụ tá của Lữ đoàn đồn binh Phổ kể từ năm 1860 cho đến năm 1866. Về sau, ông tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) với vai trò là một sĩ quan tham mưu. Từ năm 1873 cho đến năm 1878, ông là Giảng viên Chiến thuật tại Học viện Quân sự. Sau đó, Scherff là thành viên của Ủy ban Thường trực Biên giới ("Grenzregulierungskommission") tại Bulgaria cho đến năm 1879, rồi về nước làm Trung đoàn trưởng của Trung đoàn Bộ binh số 29 "von Horn". Vào năm 1882, ông được ủy nhiệm chức Tham mưu trưởng của Quân đoàn XI, tiếp theo đó ông được phong cấp Lữ đoàn trưởng vào ngày 13 tháng 2 năm 1883. Với cấp bậc nay, Scherff giữ chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Bộ binh số 41 kể từ ngày 4 tháng 9 năm 1884 cho đến ngày 11 tháng 6 năm 1888, sau đó ông được phong chức Tư lệnh Sư đoàn số 33 tại Straßburg đồng thời được lên quân hàm Trung tướng. Ông giữ chức vụ này trong khoảng 1 năm, sau đó được đổi làm Tư lệnh của Sư đoàn số 18 vào ngày 17 tháng 6 năm 1889. Mặc dù được các cấp trên của ông đề cử làm Tướng tư lệnh (Quân đoàn trưởng), tướng Scherff quyết định về hưu và vào ngày 14 tháng 2 năm 1891, ông được xuất ngũ ("zur Disposition") với một khoản tiền lương đồng thời được phong cấp hàm danh dự ("Charakter") Thượng tướng Bộ binh. Vào năm 1911, Scherff từ trần tại Venezia trong một chuyến du ngoạn ở Ý. Gia đình. Vào ngày 19 tháng 12 năm 1882, tại Metz, tướng Scherff đã thành hôn với bà Elsa Ernestine Johanna von Holleben (sinh ngày 4 tháng 10 năm 1861 tại Trier). Cặp đôi này không có con.
1
null
USS "Williams" (DD-108) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và đổi tên thành HMCS "St. Clair" (I65). Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo John Foster Williams (1743-1814), một sĩ quan Hải quân tiểu bang Massachusetts trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ. Thiết kế và chế tạo. "Williams" được đặt lườn vào ngày 25 tháng 3 năm 1918 tại xưởng tàu Union Iron Works của hãng Bethlehem Steel Corporation ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà H. G. Leopold, phu nhân Trung tá Hải quân H. G. Leopold, và được đưa ra hoạt động vào ngày 1 tháng 3 năm 1919 tại Xưởng hải quân Mare Island, Vallejo, California, dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân John H. Newton. Lịch sử hoạt động. USS "Williams". Sau khi hoàn tất chạy thử máy, "Williams" cùng tàu khu trục khởi hành từ Newport, Rhode Island vào ngày 5 tháng 6 năm 1919 hướng sang quần đảo Azores. Đi đến Ponta Delgada vào ngày 11 tháng 6, "Williams" tiếp tục đi đến Gibraltar, nơi nó thu thập thông tin về các bãi mìn hiện hữu trong biển Adriatic để báo cáo cho Tư lệnh Lực lượng Hải quân Đông Địa Trung Hải. Đợt bố trí ngắn của chiếc tàu khu trục tại khu vực này đưa nó đến Split, Vương quốc Serbs, Croats và Slovenes; Gallipoli ở eo biển Dardanelles, và Trieste, Ý, nơi nó hoạt động trong thành phần lực lượng hải quân Mỹ duy trì sự ổn định tại một khu vực bất ổn sau Thế Chiến I. Sau khi quay về Hoa Kỳ ngang qua Split và Gibralta, và về vế New York, New York vào ngày 1 tháng 8 năm 1919, "Williams" được điều động về Hạm đội Thái Bình Dương. Được phân loại với ký hiệu lườn DD-108 vào ngày 17 tháng 7 năm 1920, chiếc tàu khu trục hoạt động ngoài khơi San Diego cho đến khi được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 7 tháng 6 năm 1922 và được đưa về lực lượng dự bị. Việc Đức Quốc xã tấn công Ba Lan ngày 1 tháng 9 năm 1939 khơi mào Chiến tranh Thế giới thứ hai khiến Tổng thống lập tức công bố trang thái trung lập của Hoa Kỳ. Để củng cố cho các đơn vị hạm đội tham gia hoạt động Tuần tra Trung lập được vội vã thành lập ở bờ Đông và vùng vịnh Mexico, Hải quân cho tái biên chế 77 tàu khu trục và tàu rải mìn hạng nhẹ. Vì vậy "Williams" được cho tái biên chế tại San Diego vào ngày 6 tháng 11 năm 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Louis N. Miller. Sau khi được tái trang bị tại Xưởng hải quân Mare Island, chiếc tàu khu trục hoạt động tại khu vực San Diego cho đến khi nó lên đường đi Panama vào ngày 5 tháng 2, và băng qua kênh đào Panama vào ngày 16 tháng 2. Thả neo tại Balboa, Panama một thời gian ngắn, thủy thủ đoàn của "Williams" lập dàn chào để đón Tổng thống Franklin Delano Roosevelt vốn đang thực hiện chuyến viếng thăm không chính thức sự phòng thủ tại vùng kênh đào. Lên đường không lâu sau đó, "Williams" đi đến Căn cứ hoạt động hải quân Key West, Florida vào ngày 27 tháng 2. Trong những tháng tiếp theo, "Williams" hoạt động cùng với Hải đội Đại Tây Dương của hạm đội, tiến hành các cuộc tuần tra trung lập cùng các chuyến đi huấn luyện. Trong khi tiến hành các hoạt động thường xuyên từ Key West, chiếc tàu khu trục tham gia các cuộc tập trận tầm ngắn và thực hành cơ động trong khi vẫn tiếp tục theo dõi tàu bè lân cận. Vào tháng 3, nó tiến hành khảo sát thiên văn tại vùng quần đảo Bahamas. Đến ngày 9 tháng 4, "Williams" vận chuyển một đội khảo sát đến đảo Palmetto ở khu vực Tây Ấn thuộc Anh trước khi chuyển đến vịnh Guántanamo, Cuba. Sau khi quay trở lại Key West một thời gian, nó rời vùng biển Florida vào ngày 2 tháng 6 và đi đến New York vào ngày 4 tháng 6. Nó thực hiện hai chuyến đi huấn luyện cho nhân sự Hải quân Dự bị kéo dài cho đến cuối mùa Hè 1940. Sau một đợt tái trang bị sau cùng tại Xưởng hải quân Boston, "Williams" rời Charlestown, Massachusetts vào ngày 18 tháng 9 hướng đến vùng biển Canada, và đi đến Halifax, Nova Scotia hai ngày sau đó. Nằm trong số 50 tàu khu trục sàn phẳng được chuyển giao cho Anh Quốc theo thỏa thuận được quyền thuê các căn cứ quan trọng ở Tây bán cầu, "Williams" được chọn là một trong số sáu chiếc được chuyển tiếp cho Hải quân Hoàng gia Canada. Không lâu sau khi đi đến Halifax vào ngày 20 tháng 9 năm 1940, nó lên đường cho một chuyến đi làm quen ngắn dành cho thủy thủ đoàn người Canada. "Williams" được xuất biên chế khỏi Hải quân Hoa Kỳ và chuyển cho chính phủ Canada vào ngày 24 tháng 9; tên nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 1 năm 1941. HMCS "St. Clair". Tuân theo thực hành truyền thống của Hải quân Canada đặt tên các tàu khu trục theo tên các con sông, "Williams" được đổi tên thành HMCS "St. Clair" (I65), theo tên con sông St. Clair hình thành nên biên giới giữa Michigan và Ontario. Chiếc tàu khu trục được trang bị cho nhiệm vụ hộ tống vận tải, và đã lên đường đi sang quần đảo Anh Quốc vào ngày 30 tháng 11 cùng với các chiếc "St. Croix" và "Niagara" (nguyên là các chiếc và tương ứng của Hải quân Mỹ). Hoạt động cùng với Lực lượng hộ tống Clyde, "St. Clair" hộ tống các đoàn tàu vận tải đi và đến khu vực "tiếp cận phía Tây" quần đảo Anh vô cùng bận rộn vào mùa Xuân năm 1941. Vào cuối tháng 5, khi chiếc thiết giáp hạm hùng mạnh "Bismarck" cùng với tàu tuần dương hạng nặng "Prinz Eugen" của Đức vượt qua eo biển Đan Mạch, chiếc tàu khu trục đã tham gia vào một nỗ lực căng thẳng và rộng lớn nhằm tiêu diệt các tàu chiến Đức. Cuối cùng, một lực lượng Anh đã phát hiện và đánh chìm "Bismarck" vào ngày 27 tháng 5, nhưng chỉ sau khi chiếc tàu chiến-tuần dương lừng danh của Anh bị đánh chìm vào ngày 24 tháng 5. Việc truy tìm các con tàu Đức đã đưa một số đơn vị Anh vào mối nguy hiểm do thiếu nhiên liệu. Hai tàu khu trục thuộc lớp Tribal và bị máy bay ném bom tầm xa Phát hiện không lâu sau khi "Bismarck" bị đánh chìm, và bị đánh đắm sau một đợt không kích ác liệt. Đang ở gần khu vực chiến sự, "St. Clair" cũng bị lôi kéo vào cuộc chiến khi cũng bị tấn công. Tuy nhiên chiếc tàu khu trục đã phòng thủ vững chắc, bắn rơi ít nhất một, và có thể là hai máy bay đối phương. "St. Clair" sau đó gia nhập Lực lượng hộ tống Newfoundland khi đơn vị này được thành lập vào tháng 6 năm 1941, và đã hoạt động hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Newfoundland và Reykjavík, Iceland cho đến cuối năm 1941. Sau đó "St. Clair" lại được điều về Lực lượng Hộ tống Tại chỗ phía Tây sau khi được sửa chữa tại Saint John, New Brunswick vào đầu năm 1942, và đã hoạt động từ Halifax trong hai năm tiếp theo, hộ tống các đoàn tàu vận tải ven biển cho đến khi được rút khỏi nhiệm vụ này vào năm 1943 cho tình trạng vật chất của nó quá kém. "St. Clair" tiếp tục được sử dụng như một tàu tiếp liệu tàu ngầm tại Halifax cho đến khi được công bố "không phù hợp cho bất kỳ nhiệm vụ nào" trong tương lai vào tháng 8 năm 1944. Nó được sử dụng như tàu thực tập chữa cháy và kiểm soát hư hỏng cho đến năm 1946, khi được đưa vào danh sách để loại bỏ vào ngày 6 tháng 10 năm 1946, rồi bị tháo dỡ sau đó.
1
null
USS "Hazelwood" (DD-107) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tướng Hải quân John Hazelwood, một sĩ quan Hải quân Lục địa. Thiết kế và chế tạo. "Hazelwood" được đặt lườn vào ngày 24 tháng 12 năm 1917 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 6 năm 1918, được đỡ đầu bởi Cô Marian L. Neitzel, và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 2 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân A. A. Corwin. Lịch sử hoạt động. Sau khi chạy thử máy và một chuyến đi đến Norfolk để tiếp liệu, "Hazelwood" khởi hành từ New York, New York vào ngày 15 tháng 4 năm 1919 hướng sang Địa Trung Hải. Sau khi đi đến Gibraltar vào ngày 9 tháng 5, nó tham gia huấn luyện và hộ tống cho thiết giáp hạm . Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tuần tra tại Địa Trung Hải, nó rời Malta ngày 28 tháng 7 và về đến New York ngày 13 tháng 8. Ngay ngày hôm sau, nó khởi hành đi sang khu vực hoạt động mới tại Thái Bình Dương. Di chuyển ngang qua Cuba và kênh đào Panama, nó đến San Francisco vào ngày 5 tháng 9. Sau các hoạt động tại vùng bờ Tây, "Hazelwood" được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 7 tháng 7 năm 1922. "Hazelwood" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 4 năm 1925, và tham gia các hoạt động huấn luyện và tập trận cùng các đơn vị khác của Hạm đội Thái Bình Dương trong năm năm tiếp theo. Nó ngừng hoạt động lần cuối cùng vào ngày 15 tháng 11 năm 1930 tại San Diego, được bán cho hãng Learner and Rosenthal vào ngày 30 tháng 8 năm 1935, và được tháo dỡ từ ngày 14 tháng 4 năm 1936.
1
null
USS "Crane" (DD-109) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong cả hai cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Đại tá Hải quân William M. Crane (1776–1846). Thiết kế và chế tạo. "Crane" được đặt lườn vào ngày 7 tháng 1 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà M. McGuire, và được đưa ra hoạt động vào ngày 18 tháng 4 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân W. F. Gresham. Lịch sử hoạt động. Khởi hành từ San Francisco vào ngày 21 tháng 4 năm 1919, "Crane" đi đến Newport, Rhode Island vào ngày 13 tháng 5, rồi lên đường đi làm nhiệm vụ tại vùng biển Châu Âu vào ngày 5 tháng 6. Nó viếng thăm các cảng ở Anh và Pháp, tham gia đoàn hộ tống cho chiếc đưa Tổng thống Woodrow Wilson đi tham dự hội nghị hòa bình. Quay trở về New York vào ngày 27 tháng 7, "Crane" được điều động về Hạm đội Thái Bình Dương, và đi đến San Francisco vào ngày 1 tháng 9. Tại đây nó tham gia cuộc Duyệt binh Hải quân, được Bộ trưởng Hải quân Josephus Daniels thị sát vào ngày 4 tháng 9. Sau các hoạt động ngoài khơi bờ biển Washington, "Crane" được đưa vào thành phần dự bị tại San Diego từ ngày 26 tháng 1 năm 1920, thỉnh thoảng tham gia các cuộc cơ động cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 7 tháng 6 năm 1922 tại San Diego. Được tái biên chế trở lại vào ngày 18 tháng 12 năm 1939, "Crane" gia nhập lực lượng Tuần tra Trung lập tại Thái Bình Dương, thực hiện các chuyến tuần tra cùng các chuyến đi huấn luyện Hải quân Dự bị và Vệ binh vũ trang cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Nó tiếp tục ở lại khu vực bờ Tây Hoa Kỳ, làm nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm, hộ tống vận tải, huấn luyện và bảo vệ cho các cuộc tập trận đổ bộ cho đến ngày 22 tháng 4 năm 1944, khi nó được điều về Trường huấn luyện thủy âm bờ Tây. Sau chiến tranh, nó khởi hành từ San Diego vào ngày 2 tháng 10 năm 1945, đi đến Philadelphia ngày 19 tháng 10, và được cho ngừng hoạt động vào ngày 14 tháng 11 năm 1945. "Crane" bị bán để tháo dỡ vào ngày 1 tháng 11 năm 1946.
1
null
Kozure ōkami Sanzu no kawa no uba-guruma (Sói mang con: xe nôi qua sông Tam Đồ) là phần thứ hai trong loạt sáu phim Kozure Ōkami (sói mang con) do nam tài tử Wakayama Tomi-saburō thủ diễn. Bộ phim do Katsu Production chế tác. Đây là xưởng phim của Katsu Shintarō, em trai ruột của Wakayama Tomi-saburō. Phần này được chế tác sau khi phần đầu "cho thuê con, nhận giết mướn" trở thành hit ở Nhật Bản. Nội dung. Kiếm khách Ogami Ittō và đứa con trai 3 tuổi Ogami Daigorō đã quyết sống trong Minh phủ ma đạo, đi trên thích khách đạo, nhận 500 lượng vàng cho mỗi một mạng người. Dọc đường, Ogami Ittō nhận được ủy thác của phiên Awa, khử một thợ nhuộm trong phiên để giữ bí mật cho công thức nhuộm, tránh lọt vào tay Mạc phủ. Tuy nhiên nhân vật này đã được 3 huynh đệ Bentenrai là ngự hộ vệ của Mạc phủ hộ tống về Edo. Cùng lúc đó, Yagyū Retsudō tuy giữ lời hứa không truy sát cha con Ogami ở Edo, nhưng lại ngấm ngầm cho nhóm mật thám Kurokuwa và con gái là Yagyū Sayaka ở Akashi ra tay ám toán Ogami. Như vậy, cha con Ogami Ittō phải đương đầu với ba thế lực nguy hiểm...
1
null
USS "Hart" (DD-110) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sau đó mang ký hiệu lườn DM-8 như một tàu rải mìn hạng nhẹ. Tên của nó được đặt theo Ezekiel Hart và John E. Hart, các sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ. Thiết kế và chế tạo. "Hart" được đặt lườn vào ngày 8 tháng 1 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Daniel C. Nutting, và được đưa ra hoạt động vào ngày 26 tháng 5 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Harold Jones. Lịch sử hoạt động. "Hart" gia nhập lực lượng khu trục và hoạt động ngoài khơi bờ biển California cho đến ngày 17 tháng 7 năm 1920, khi nó được xếp lại lớp như một tàu rải mìn hạng nhẹ với ký hiệu lườn mới DM-8, và được gửi đến Xưởng hải quân Mare Island để lắp đặt các thiết bị rải mìn. Sau khi được cải biển, "Hart" được phân về chi đội rải mìn của hạm đội Á Châu, và lên đường đi sang quần đảo Philippine vào tháng 11 năm 1920. Nó hoạt động thường lệ tại vùng biển ngoài khơi Philippine và Trung Quốc trong giai đoạn thời bình. Được lệnh quay trở về San Diego, California để xuất biên chế, "Hart" khởi hành từ Manila vào ngày 12 tháng 12 năm 1930, và về đến San Diego vào ngày 24 tháng 1 năm 1931. Nó chính thức ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 6 năm 1931; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 11 tháng 11, và xác tàu được bán để tháo dỡ vào ngày 25 tháng 2 năm 1932 nhằm tuân thủ những điều khoản của Hiệp ước Hải quân London về hạn chế vũ trang hải quân.
1
null
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng mang cái tên USS "Hart"; chiếc thứ nhất được đặt theo Ezekiel Hart, người tử trận trong cuộc Chiến tranh 1812, và Thiếu tá Hải quân John E. Hart, người thiệt mạng trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ; chiếc thứ hai được đặt theo Trung úy Patrick H. Hart (1915-1942), người thiệt mạng trong trận Midway và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.
1
null
Ghost Online - còn được gọi là Ghost Soul, gọi tắt là GO - là một trò chơi hành động mô phỏng có lối chơi di chuyển theo màn hình ngang. Đây là một trò chơi nhập vai trực tuyến đã và đang phát hành ở nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia (tiếng Anh). Hiện tại phiên bản Global (Soul Saver Online) đã chính thức Open Beta vào ngày 11 tháng 7 năm 2012. Trò chơi được phát triển bởi Netgame - một bộ phận thuộc Mgame USA Inc. Cốt truyện. Thế giới của sự hỗn loạn: Hàng trăm năm trước, có vô số người không ngừng làm những điều ác khiến cho họ không thể nào siêu thoát khỏi thế giới lúc bấy giờ. Lẽ ra cõi vĩnh hằng là nơi họ phải đến, nhưng họ đã ở lại thế gian và tiếp tục gây hại những người lương thiện khác. Linh hồn của những người chết đi vì thế cũng bị lưu lại thế giới hiện tại, gây ra những tội ác giết chóc... Và điều này cũng như một vòng lẩn quẩn không có hồi kết. Yangak, đứa con của trời: Yangak bấy giờ là một đồ đệ của đại sư Taehwa’s, một người hội đủ điều kiện để làm người kế thừa Taehwa’s. Nhưng không may thay, Samuk mới là người mà Taehwa’s yêu quý và lựa chọn, vì lẽ đó nên Yangak đã bất đồng với quyết định của sư phụ. Cũng chính trong thời gian này, Yangak đã tập trung lực lượng quân lính, vũ trang mạnh mẽ và biến mình thành một nhà lãnh đạo. Khi các phản tặc trong triều chính họp bàn về việc lật đổ ngôi vương, đó cũng là lúc chúng đầu quân theo phe Yangak và lấy đó làm mũi giáo tấn công. Nhân thời cơ này, Yangak đã quyết định hạ sát hoàng đế và tất cả những người có thể kế thừa ngôi vị. Người thầy vĩ đại, Taehwa: Cuộc chiến với ma quỷ vẫn diễn ra như suốt 30 năm qua với số lượng quỷ dữ ngày càng tăng lên nhanh chóng. Và thời gian này cũng đã ra đời thêm 2 hệ phái là Justice (Chính) và Chaos (Tà) cùng đứng lên chống quỷ. Tại thời khắc quyết định này, Teahwa's đã ra trận cùng 12 đệ tử của mình (trong đó có Samuk và Yangak) nhằm xua đuổi quỷ dữ và trấn áp linh hồn chúng. Vì vậy ông đã sử dụng tất cả kỹ năng tuyệt vời của mình như một lá bùa để niêm phong tất cả quỷ dữ tại ngôi đền Tian ở vùng núi phía Bắc. Cuối cùng thì mọi người cũng đã quay trở về với cuộc sống bình yên vốn có. Tại thời điểm này Samuk cũng được chính thức trao cho danh hiệu Teahwa's cao quý. Đáng buồn là Yangak vẫn không đồng tình với quyết định đó, và điều đó càng làm cho Yangak cảm thấy bị hạ nhục, coi thường. Mưu đồ tạo phản: Sau sự tàn phá hoàn toàn, đất nước đã trở lại hòa bình. Mặc dù hoàng đế còn trẻ, nhưng đã có thể dự đoán được những hành động phá hoại của bọn gian thần. Người cho gọi tất cả bọn gian thần lại và chỉ trích chúng nghiêm trọng; nhưng bọn chúng đã có âm mưu lật đổ ngôi vua.Và để hoàn thành âm mưu của mình, chúng hối lộ để thu hút sự chú ý của các phe phái khác, kể cả Yangak.
1
null
Mác-ta thành Bê-ta-ni-a (tiếng Aramaic: מַרְתָּא "Martâ") là một nhân vật Kinh Thánh, được đề cập trong các sách Phúc Âm Luca và Gio-an. Mác-ta được mô tả là một người phụ nữ sống tại làng Bê-ta-ni-a gần Jerusalem cùng với hai em của mình là La-da-rô và Ma-ri-a. Cô đã là nhân chứng trong phép lạ Chúa Giêsu cho La-da-rô sống lại.
1
null
Hàn Hổ (chữ Hán: 韓虎, tại vị: ? – 425 TCN), tức Hàn Khang tử (韓康子), tên thật là Cơ Hổ (姬虎), là vị tông chủ thứ 10 của họ Hàn giữ chức quan khanh nước Tấn và một trong những người đặt nền móng cho sự hình thành nước Hàn - một chư hầu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Thân thế. Hàn Hổ là con của Hàn Trang tử, vị tông chủ thứ 9 của họ Hàn ở nước Tấn rồi đến Khang tử. Sử ký không nêu rõ năm mất của cha ông và thời điểm ông lên nắm quyền. Khi Hàn Hổ lên nắm quyền, nước Tấn còn lại 4 họ nắm chức khanh là Trí, Hàn, Triệu, Ngụy chia nhau nắm giữ quyền lực, vua Tấn chỉ còn hư vị. Mở rộng thế lực, cùng diệt Trí Bá. Hàn Hổ cùng Trí Bá Tuân Dao và 2 họ Triệu, Ngụy tự ý lấy đất cũ của họ Phạm và họ Trung Hàng (các thế lực mới bị tiêu diệt ở nước Tấn) chia nhau làm ấp phong, không cần lệnh của Tấn Xuất công. Đất đai thuộc quyền Tấn Xuất công cai quản không bằng bốn nhà, vì vậy vua Tấn bất bình, sai sứ đi liên lạc với các nước Tề và Lỗ cầu viện để tấn công 4 họ đại phu lộng quyền. Năm 458 TCN, bốn họ cùng nhau khởi binh chống lại Tấn Xuất công. Tấn Xuất công không chống nổi, phải bỏ chạy sang nước Tề. Trí Bá Tuân Dao lập Tấn Ai công lên ngôi. Trí Bá là khanh sĩ có quyền lực lớn nhất nước Tấn. Sau khi đuổi vua Tấn, Trí Bá lại đòi 3 họ Hàn, Triệu, Ngụy cắt đất. Hàn Hổ và Ngụy Câu sợ thế lực Trí Bá, phải cắt đất để lấy lòng Trí Bá. Riêng Triệu Vô Tuất không chịu cắt đất. Năm 455 TCN, Trí Bá bèn huy động quân Hàn, Ngụy cùng đánh họ Triệu. Triệu Vô Tuất bèn bỏ chạy đến thành Tấn Dương cố thủ. Ba họ Trí, Hàn, Ngụy vây Tấn Dương hơn 1 năm chưa hạ được. Tuân Dao dẫn nước sông Phần rót vào thành. Trong thành rất nguy cấp, Vô Tuất bèn cử Trương Mạnh Đàm nhân ban đêm bí mật trèo ra ngoài thành, đến trại Hàn Hổ và Ngụy Câu phân tích lợi hại, thuyết phục hai họ phản Trí Bá để tránh bị diệt trong tương lai. Hàn Hổ và Ngụy Câu vốn phải cắt đất cho Tuân Dao đã bất bình, nhân đó bèn đồng tình phản lại họ Trí. Năm 454 TCN, ba họ Triệu, Hàn, Ngụy hợp binh đánh úp Tuân Dao, đánh bại quân họ Trí, giết chết Tuân Dao. Ba họ cùng nhau chia đất của họ Trí và nắm quyền nước Tấn. Vua Tấn càng suy yếu, không còn quyền hành gì. Năm 425 TCN, Hàn Hổ mất, con là Hàn Khải Chương lên thay, tức là Hàn Vũ tử.
1
null
Giải bóng đá ngoại hạng Anh 2013–14 là mùa thứ 22 giải bóng đá cao nhất nước Anh được tổ chức kể khi đổi tên thành giải Ngoại hạng kể từ năm 1992. Lịch thi đấu mùa giải được công bố vào ngày 19 tháng 6 năm 2013. Mùa giải bắt đầu từ ngày 17 tháng 8 năm 2013 và kết thúc vào ngày 11 tháng 5 năm 2014. Vào ngày cuối cùng của mùa giải, Manchester City giành chức vô địch với chiến thắng 2–0 trước West Ham United, giành tổng cộng 86 điểm. Liverpool có cơ hội vô địch khi giải đấu chỉ còn hai tuần nữa là kết thúc, tuy nhiên một trận thua và một trận hòa trong ba trận đấu cuối cùng, cộng thêm việc Manchester City thắng cả năm trận đấu cuối, khiến cho họ chỉ về đích thứ nhì với 84 điểm. Chelsea về thứ ba trong khi Arsenal, đội dẫn đầu trong một thời gian dài, đứng thứ tư. Manchester United có một mùa giải thất vọng khi không thể bảo vệ chức vô địch và đứng thứ bảy chung cuộc. Norwich City, Fulham, và Cardiff City là các đội xuống chơi tại Football League Championship. Luis Suárez của Liverpool là vua phá lưới với 31 bàn, đồng thời là Cầu thủ xuất sắc nhất giải. Thủ môn Wojciech Szczęsny của Arsenal và Petr Čech của Chelsea cùng giữ sạch lưới 16 trận, nhiều nhất tại giải. Tony Pulis của Crystal Palace là Huấn luyện viên xuất sắc nhất. Đội bóng. Có tổng cộng 20 đội bóng sẽ thi đấu,trong đó có 17 đội từ mùa giải 2012–13 và 3 đội từ Giải bóng đá Hạng nhất Anh. 3 đội lên hạng sẽ thay cho 3 đội xuống hạng là Queens Park Rangers, Reading và Wigan Athletic.
1
null
Etienne de Vignolles, còn được gọi là La Hire (1390 – 11 tháng 1 năm 1443 tại Préchacq-les-Bains, Landes, Pháp), là một viên chỉ huy người Pháp trong Chiến tranh Trăm năm. Trong dân gian Pháp ông chính là biểu tượng của quân bài Jack cơ. Chân dung của La Hire thường được mô tả như là một chiến binh xù xì và thô lỗ. Ông có biệt danh của mình trên chiến trường bởi bản tính bạo lực và bản tính hay tức giận đã làm cho ông trở lên nổi tiếng (trong thực tế, "ire" trong tiếng Pháp vào thời điểm đó có nghĩa là sự tức giận). Gia huy của Đại úy La Hire, Charles đã tưởng thưởng cho La Hire vì chiến công của ông với danh hiệu Ngài Montmorillon.
1
null
John xứ Lancaster, Công tước thứ nhất của Bedford, KG (sinh từ ngày 20 tháng 6 năm 1389 – mất ngày 14 tháng 9 năm 1435), còn được gọi là John Plantagenet, là con trai thứ ba còn sống sót của vua Henry IV của Anh với công nương Maria de Bohun và làm nhiếp chính của Anh tại Pháp cho cháu trai của ông, vua Henry VI. Tiểu sử. John được phong là Bá tước vùng Kendal, Bá tước vùng Richmond và Công tước xứ Bedford trong năm 1414 bởi anh trai của ông, vua Henry V. Ngày 14 tháng 6 năm 1423, tại Troyes ông đã kết hôn với Anne, con gái của John Bạo dạn. Sau cái chết của Anne trong khi sinh nở Paris năm 1432, ông đã kết hôn với Jacquetta Luxembourg. Con ngoài giá thú, ông có một người con gái tên là Mary Plantagenet, bà này đã kết hôn với Pierre de Montferrand (mất 1454). Khi vua Henry V qua đời vào năm 1422, Công tước Bedford ganh đua quyết liệt với người em trai của ông, Humphrey, Công tước xứ Gloucester trong việc nắm quyền kiểm soát Vương quốc Anh. Bedford đã được chính thức phong làm quan Nhiếp chính nhưng ông lại chỉ tập trung vào các trận chiến đang diễn ra ở nước Pháp, trong thời gian ông vắng mặt Công tước Gloucester đã trở thành Hộ quốc công của Anh quốc. Bedford đã nhiều lần đánh bại quân Pháp ở các trận Cravant, Vernuil, Herrings… và giai đoạn đầu của cuộc bao vây thành phố Orléans cho đến khi có sự xuất hiện của Jeanne d'Arc ở phía quân Pháp. Vào năm 1431, Bedford đã cố gắng bắt giữ và hành hình Jeanne d'Arc tại Rouen sau đó ông dàn xếp cho một lễ đăng quang của vua Henry VI vốn đang là một đứa bé vị thành niên tại Paris. Mặc dù đã hành hình Jeanne d'Arc nhưng Bedford vẫn không thể xoay chuyển được chiến cuộc ngày càng trở nên bất lợi cho người Anh, đặc biệt Anne, vợ ông thì Liên minh giữa Anh quốc và xứ Bugund đã xụp đổ, lúc này không có sự hỗ trợ của quân đội Bugund, người Anh không thể kháng cự nổi trước sức phản công mạnh mẽ của người Pháp và phải liên tục tháo lui và bại trận bất chấp những nỗ lực của ông ta. Kế thừa. John đã chết trong khi Nghị viện của vùng Arras đang được tổ chức tại lâu đài Joyeux Repos của ông ở Rouen và được chôn cất tại Nhà thờ lớn Rouen. Ông không để lại một người thừa kế hợp pháp nào.
1
null
Chùa Giác Ngộ là một ngôi chùa Phật giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Nguồn gốc Chùa. Chùa Giác Ngộ được đức Hòa thượng Thích Thiện Hòa, Phó Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, xây dựng vào thập niên 60 của thế kỷ XX. Vào năm 1946, cư sĩ Trần Phú Hữu, một công chức của chính phủ, đã phát tâm xây dựng ngôi Chùa Giác Ngộ trên lô đất 695 m2, lòng những mong giúp cho người hữu duyên tìm về chánh đạo, tu tâm dưỡng tánh, ngỏ hầu xóa dần những hệ lụy thương đau của cuộc đời. Chùa Giác Ngộ lúc đó tọa lạc tại số 36 đường Jean Jacques Rousseau, sau đó đổi thành số 90 Trần Hoàng Quân và nay là số 92 đường Nguyễn Chí Thanh. Lúc ấy, ngoài chính điện nhỏ, chỉ đủ chỗ cho khoảng 80 Phật tử tu học, còn lại chỉ là mấy căn nhà nhỏ, xen lẫn với một số mồ mả. Vào ngày 21-5-1956, cư sĩ Trần Phú Hữu đã hiến cúng toàn bộ đất và chùa Giác Ngộ cho Giáo hội Tăng Già Nam Việt. Trị sự trưởng của giáo hội này lúc bấy giờ là Hòa thượng Thích Thiện Hòa, cũng là Giám đốc Phật học đường của Giáo hội Tăng già Nam Việt, đứng đại diện giáo hội tiếp nhận. Sau đó, cư sĩ đã phát tâm xuất gia và trở thành thầy Thích Thiện Đức. Trường Trung học Bồ-đề Chợ Lớn. Năm 1959, Giáo hội Tăng già Nam Việt xin phép Chính phủ thành lập trường Trung-Tiểu học Bồ Đề Chợ Lớn , đặt cơ sở tại chùa Giác Ngộ, do Thượng tọa Quảng Liên làm Hiệu trưởng. Từ năm 1964 đến năm 1975, Trường do Thượng tọa Quảng Chánh làm Hiệu trưởng. Chương trình đào tạo gồm 2 cấp tiểu học và trung học đệ nhất cấp. Về tiểu học có 12 lớp, mỗi lớp trên 120 học sinh, dạy từ lớp Năm đến lớp Nhất. Chương trình Trung học đệ nhất cấp có 16 lớp, dạy từ đệ nhất đến đệ tứ, mỗi lớp có trên 65 học sinh. Tổng cộng tiểu học có 1.440 học sinh, trung học đệ nhất cấp có 1.040 học sinh. Vào ngày 21/5/1970, Chùa Giác Ngộ được HT. Thích Thiện Hòa trùng tu theo giấy phép số 171 của Sở Thiết kế Đô Thành Sài Gòn. Đây là diện mạo của Chùa Giác Ngộ như chúng ta thấy hiện nay. Đây là trường tư thục Phật giáo đầu tiên tại Sài Gòn – Chợ Lớn, góp phần đào tạo thế học song song với minh triết Phật giáo cho hàng ngàn thanh thiếu niên Phật tử, nhờ đó giới trẻ Phật giáo sống có lý tưởng, an vui và hạnh phúc. Sau ngày 30/4/1975, cùng chung số phận của các trường tư thục lúc bấy giờ, Trường Bồ Đề Giác Ngộ - Chợ Lớn đã bị đóng cửa. Trường Sơ đẳng Phật học Thiện Hòa. Vào năm 1979, Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Cố vấn Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang, đã xin phép Viện Hóa đạo và Ủy ban Nhân dân thành phố thành lập Phật học viện Sơ đẳng Thiện Hòa, tại Chùa Giác Ngộ, nhằm đáp ứng nhu cầu tu học của Tăng Ni tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng cao. Chương trình học chia làm 3 cấp. Sơ cấp 1 gồm 2 năm, học tại Chùa Giác Ngộ. Sơ cấp 2 gồm 2 năm, học tại Chùa Giác Sanh. Trung cấp 3 năm, học tại Chùa Ấn Quang. Từ năm 1981 đến 1984, Phật học viện Sơ đẳng Thiện Hòa tại Chùa Giác Ngộ trực thuộc quản lý hành chính của Ban Giáo dục Tăng Ni Thành phố Hồ Chí Minh. Với số lượng hơn 300 Tăng Ni sinh, chia làm 3 lớp, trong suốt 6 năm, Phật học viện Sơ đẳng Thiện Hòa tại Chùa Giác Ngộ gặp nhiều khó khăn, do hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng lúc bấy giờ. Đến năm 1984, do chính sách giáo dục của nhà nước lúc đó, cùng chung số phận của các trường Phật học khác trên toàn quốc, Phật học viện Sơ đẳng Thiện Hòa tại Chùa Giác Ngộ đình chỉ hoạt động. Phần lớn các vị Tăng Ni tốt nghiệp tại Phật học viện Sơ đẳng Thiện Hòa tại Chùa Giác Ngộ đều trở thành các vị tăng tài trong Phật giáo, tham gia lãnh đạo các cấp giáo hội, đặc biệt là cấp Ban Trị sự Phật giáo tại một số tỉnh miền Tây và ở hải ngoại. Nơi đào tạo Tăng tài. Từ năm 1984 đến nay, suốt 28 năm qua, toàn bộ cơ sở giáo dục tại Chùa Giác Ngộ, dưới sự cố vấn quý Hòa thượng Tổ đình Ấn Quang, đặc biệt là Hòa thượng Viện chủ Thích Trí Quảng và Hòa thượng Trụ trì Thích Nhật Quang, đã trở thành nơi sinh hoạt tu học thịnh hành của khoảng 30 tăng sĩ và hàng trăm Phật tử. Nhiều thầy xuất thân từ Chùa Giác Ngộ đã xuất dương làm đạo thành công tại Hoa Kỳ, châu Âu, châu Úc và Canada. Trong nước, hiện có nhiều thầy đậu cử nhân Phật học và các ngành khoa học xã hội, 2 thầy đỗ thạc sĩ Phật học, 5 thầy đã đỗ tiến sĩ Phật học, Triết học và châu Á học. Cũng có thầy đang giảng dạy tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM. Có nhiều thầy làm trụ trì ở nhiều tỉnh thành, gánh vác nhiều Phật sự quan trọng của Giáo hội. Cũng có thầy hiện là giảng sư được nhiều Phật tử mến mộ trong cũng như ngoài nước. Trùng tu mới. Trải qua hơn 60 năm phục vụ, vào năm 2012 Chùa Giác Ngộ đã xuống cấp và không đủ điều kiện phục vụ các sinh hoạt tu học của Tăng đoàn và Phật tử như mong đợi. Chánh điện, lầu 1 và lầu 2 đã bị dột trên 15 năm qua. Sau gần 20 năm giải quyết tranh chấp đất, nhờ Tam Bảo gia hộ, dưới sự lãnh đạo của Thượng tọa Thích Nhật Từ, Chùa Giác Ngộ đã được Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (tại công văn số 129/GPXD, ký ngày 30-7-2012) cấp giấy phép xây dựng mới toàn bộ. Công trình xây dựng mới Chùa Giác Ngộ gồm 1 tầng hầm để xe và 7 lầu, với tổng diện tích xây dựng là 3476 m2. Chính điện mới của Chùa gồm 2 tầng, tầng 1 gồm 412 m2 và gát lửng ở tầng 2 gồm 300m có sức chứa khoảng 700 người làm lễ cùng một lúc. Tầng 3 là thiền đường. Tầng 4 là thư viện. Các tầng còn lại phục vụ các sinh hoạt giáo dục Phật học và các Phật sự khác. Bên cạnh tòa 7 tầng vừa nêu, phía sau còn có dãy Tăng xá và bên trái từ ngoài nhìn vào còn có dãy nhà thờ cốt của thân bằng quyến thuộc các Phật tử đã quá vãng. Tổng chi phí xây dựng mới Chùa Giác Ngộ trên 20 tỷ đồng VN. Công trình xây dựng mới Chùa Giác Ngộ dự kiến sẽ hoàn tất trong vào 24 tháng, kể từ tháng 10-2012. Trong suốt thời gian 2 năm trùng tu, một phân nửa Tăng đoàn của Chùa sẽ tạm trú và sinh hoạt tại đường Bác Ái, quận Thủ Đức, số còn lại tại đường Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận. Các khóa lễ tụng niệm chính sẽ được diễn ra tại số 139/5 đường Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận. Vì phải san bằng toàn bộ công trình Chùa hiện hữu để phục vụ cho việc xây dựng mới, kính mong các quý Phật tử có thờ cốt tại Chùa thông cảm hoàn cảnh của Chùa, hoan hỷ đến Chùa làm thủ tục tạm thời thỉnh cốt về nhà hoặc di dời cốt đến một ngôi Chùa khác, hoặc Chùa sẽ tạm thờ ở một nơi thích hợp. Sau khi Chùa xây dựng xong, khoảng 5000 lọ cốt được thỉnh về thờ tại Chùa Giác Ngộ. Pháp môn và Tông chỉ. Dưới sự hướng dẫn của Thượng tọa Thích Nhật Từ, Chùa Giác Ngộ chủ trương hình thái Đạo Phật Ngày Nay, tu tập theo pháp môn Tứ Thánh đế, nhấn mạnh tu thiền Vipassana, Tứ niệm xứ. Tông chỉ của Chùa Giác Ngộ là nhập thế và truyền bá Phật pháp qua các hoạt động giáo dục, hoằng pháp, văn hóa và từ thiện. Chùa sử dụng các nghi thức tụng niệm thuần Việt, đề cao văn hóa Việt Nam. Chùa thường xuyên tổ chức các khóa tu một ngày an lạc vào chủ nhật hàng tuần, quy y Tam bảo vào các ngày rằm lớn như rằm tháng giêng, rằm tháng tư, rằm tháng bảy, rằm tháng mười và các lễ hội văn hóa Phật giáo. Phật tử trung niên và lão niên tu học vào sáng chủ nhật, thanh thiếu niên Phật tử sinh hoạt vào chiều chủ nhật. Chùa thường xuyên tổ chức lễ cưới (lễ hằng thuận) cho các Phật tử, giúp họ sống hạnh phúc theo tinh thần Phật dạy. Có thể nói rằng, Chùa Giác Ngộ là nơi hoạt động tu học, Phật sự nhiều nhất và mạnh nhất của Việt Nam. Các chùa chi nhánh trực thuộc. Chùa Giác Ngộ dưới sự Trụ trì của Thượng Tọa Thích Nhật Từ, đến nay đã phát triển thêm các chùa chi nhánh và chùa trực thuộc, các đạo trạng Đạo Phật Ngày Nay 1. Chùa Giác Ngộ (Q. 10 - TP. HCM) 2. Chùa Giác Ngộ Vĩnh Long (TP. Vĩnh Long - T. Vĩnh Long) 3. Chùa Giác Ngộ Củ Chi (H. Củ Chi - TP.HCM) (Đang xây dựng) 4. Chùa Giác Ngộ Vũng Tàu (H. Đất Đỏ - T. Bà Rịa - Vũng Tàu) (Đặt đá năm 2019) 5. Chùa Quan Âm Đông Hải (TX. Vĩnh Châu - T. Sóc Trăng) (Đang xây dựng) 6. Chùa Linh Xứng (H. Hà Trung - T. Thanh Hóa) 7. Chùa Tượng Sơn (H. Hương Sơn - T. Hà Tĩnh) 8. Đạo tràng Đạo Phật Ngày Nay tại Hà Nội 9. Đạo tràng Đạo Phật Ngày Nay tại Hải Dương 10. Đạo tràng Đạo Phật Ngày Nay tại Hàn Quốc 11. Đạo tràng Đạo Phật Ngày Nay tại Hải Phòng 12. Chùa Việt Nam (Hàn Quốc) Đang xây dựng 13. Chùa Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ) Đang xây dựng Đạo tràng Bát Chánh Đạo. Đạo tràng Bát Chánh đạo Chùa Tượng Sơn do Thượng tọa Thích Nhật Từ, Trụ trì Chùa Tượng Sơn, sáng lập, gồm có 8 Ban như sau: 1. Ban A Nan gồm giới trí thức và giáo viên. 2. Ban Dược Sư gồm các bác sĩ, y tá, dược sĩ, lương y. 3. Ban Ca Diếp gồm các Phật tử kỳ cựu, mẫu mực. 4. Ban La Hầu La gồm giới thanh thiếu niên Phật tử. 5. Ban Cấp Cô Độc gồm những mạnh thường quân và người làm từ thiện xã hội. 6. Ban Hộ Niệm gồm những Phật tử tham gia cầu an cho người bệnh, hộ niệm cho người quá vãng. 7. Ban Diệu Âm gồm các văn nghệ sĩ Phật tử. 8. Ban Hậu cần gồm các Phật tử công quả, phục vụ, trang trí, vận chuyển. Xuất bản Kinh sách Phật giáo. Chùa Giác Ngộ là nơi biên tập và xuất bản Đại Tạng Kinh Việt Nam (MP3) trên 120 CD, tủ sách Đạo Phật Ngày Nay trên 200 quyển, sách nói Phật giáo trên 100 CD, Âm nhạc Đạo Phật Ngày Nay trên 100 CD và VCD và hàng ngàn pháp thoại của Thầy Thích Nhật Từ.
1
null
Chiến tranh Đông La Mã-Bungaria là một loạt các cuộc xung đột giữa Đông La Mã và Bulgaria bắt đầu từ khi những người Bulgars đầu tiên định cư tại Bán đảo Balkan trong thế kỷ thứ 5 và tăng cường với việc mở rộng Đế chế Bungari về phía tây nam sau năm 680. Đông La Mã và Bulgaria tiếp tục xung đột trong thế kỷ sau đó, cho đến khi Bulgaria, dưới sự lãnh đạo của Krum, đã gây ra một loạt các thất bại cho Đế chế Đông La Mã. Sau khi Krum qua đời năm 814, Omurtag, con trai ông đàm phán một hiệp ước hòa bình ba mươi năm. Năm 893, trong cuộc chiến lớn tiếp theo, Simeon I, Hoàng đế Bungaria đã đánh bại Đông La Mã, trong khi cố gắng hình thành một đế quốc lớn ở phía Đông châu Âu, nhưng những nỗ lực của ông đã không thành công. Trong năm 971 Ioannes I Tzimiskes, Hoàng đế Đông La Mã, chinh phục nhiều vùng đất của đế quốc Bungari bằng cách đánh bại vua Boris II và chiếm được Preslav, Thủ đô của Bungaria. Constantinopolis dưới sự lãnh đạo của Basil II chinh phục hoàn toàn Bulgaria trong năm 1018 như là kết quả của Trận Kleidion năm 1014. Có những cuộc nổi loạn chống lại chế Byzantine từ năm 1040-1041 cũng như trong thập kỷ 1070 và thập kỷ 1080, nhưng không thành công. Tuy nhiên năm 1185, Peter Theodore và Ivan Asen bắt đầu một cuộc nổi dậy và Đế chế Byzantine đang suy yếu vì phải đối mặt với những khó khăn nội bộ trong triều đình của riêng họ, đã không thể ngăn chặn các cuộc nổi dậy thành công. Sau khi quân Thập tự chinh thứ tư chiếm Constantinopolis vào năm 1204, Kaloyan, Hoàng đế Bungari, đã cố gắng thiết lập quan hệ thân thiện với thập tự quân, nhưng Đế quốc Latin mới được tạo lập đã từ chối bất kỳ đề nghị liên minh nào với Bulgaria. Do vậy, Kaloyan đã liên minh với Nicaea, một trong những quốc gia do người Đông La Mã tạo ra sau sự sụp đổ của Constantinople, và sự kiện này đã làm giảm sức mạnh của thập tự quân trong khu vực. Mặc dù Boril, cháu trai của ông liên minh với đế quốc Latinh, những người thừa kế của Boril vẫn liên minh với Nicaea, mặc dù có một vài cuộc va chạm vẫn tiếp diễn từ hai phía. Sau khi Đế quốc La tinh sụp đổ, Byzantine lợi dụng một cuộc nội chiến của Bungary đã chiếm giữ một phần của Thrace, nhưng hoàng đế Bungari Theodore Svetoslav đã chiếm lại những vùng đất này. Các mối quan hệ Đông La Mã-Bungaria tiếp tục biến động cho đến khi Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt Đế chế Bungaria vào năm 1422 và Đế chế Đông La Mã vào năm 1453. Cuộc chiến của Asparukh. Cuộc đụng độ đầu tiên Đông La Mã và Bulgaria khi Asparukh, con trai út của Hãn Kubrat di chuyển về phía tây, chiếm phía Nam Bessarabia ngày nay. Asparukh đánh bại Đông La Mã dưới sự chỉ huy của Konstantinos IV, người đang chỉ huy một chiến dịch thủy bộ kết hợp để chống lại những kẻ xâm lược và bao vây doanh trại kiên cố của họ ở Ongala. Đau ốm từ sức khỏe kém, hoàng đế đã phải rời khỏi quân đội, làm cho chính nó bị hoảng loạn và bị đánh bại bởi người Bulgaria. Năm 681, Konstantinos đã buộc phải thừa nhận vương quốc Bulgar ở Moesia và phải trả tiền bảo vệ để tránh sự xâm nhập sâu hơn vào Thrace của Đông La Mã. Tám năm sau, Asparukh dẫn đầu một chiến dịch thành công vào Thrace của Đông La Mã. Cuộc chiến của Tervel. Tervel, lần đầu tiên được đề cập trong các văn bản của Đông La Mã ở năm 704, khi hoàng đế Đông La Mã bị lật đổ Justinianus II đến với ông và yêu cầu trợ giúp của ông, hỗ trợ Justinianus trong nỗ lực khôi phục ngai vàng Đông La Mã để đổi lấy tình hữu nghị, quà tặng và con gái của ông trong hôn nhân. Với một đội quân 15.000 lính kỵ binh cung cấp bởi Tervel, Justinianus đột nhiên tiến về phía Constantinopolis và cố gắng chiếm được lối vào thành phố trong 705. Vị hoàng đế vừa mới phục hồi ngay lập tức hành quyết những kẻ hất cẳng mình, các hoàng đế Leontios và Tiberios III, cng với nhiều người ủng hộ họ. Justinianus trao cho Tervel nhiều quà tặng, và danh hiệu "kaisar" (Caesar), làm cho ông ta chỉ là hoàng đế đứng thứ hai và nguyên thủ nước ngoài đầu tiên trong lịch sử Byzantine nhận một như vậy và có thể là một nhượng bộ lãnh thổ Thrace ở phía đông bắc, một khu vực được gọi là Zagore. Việc Anastasia, con gái của Justinianus có kết hôn với Tervel như đã được sắp xếp hay không là điều không ai được biết. Chỉ 3 năm sau, chính Justinianus II đã vi phạm thỏa thuận này và dường như bắt đầu các hoạt động quân sự để khôi phục lại vùng đã nhượng cho Tervel. Tervel đã đánh bại ông ta tại Trận Anchialus (Hoặc Ankhialo) trong năm 708. Năm 711, phải đối mặt với một cuộc nổi loạn nghiêm trọng ở Tiểu Á, Justinianus một lần nữa tìm kiếm sự trợ giúp của Tervel, nhưng chỉ nhận được hỗ trợ nhỏ thể hiện ở một đội quân chỉ 3.000 người. Rõ ràng bị tràn ngập về số lượng bởi vị hoàng đế nổi loạn Philippicus, Justinian đã bị bắt và bị hành quyết, trong khi đồng minh Bulgar của ông được phép rút lui về đất nước của họ. Tervel đã lợi dụng sự rối loạn ở Đông La Mã để đột kích vào Thrace tại năm 712 và cướp bóc tới tận các vùng lân cận của Constantinopolis. Theo thông tin cuốn sách sử "Imennik", Tervel chết trong năm 715. Tuy nhiên, nhà sử gia Đông La Mã Theophanes Người thú tội cho rằng Tervel có một vai trò trong nỗ lực để khôi phục lại Hoàng đế bị phế truất Anastasius II trong năm 718 hoặc 719. Nếu Tervel có thể sống đến thời gian này, ông sẽ là nhà lãnh đạo Bungaria, người đã ký một hiệp ước mới (xác nhận nộp cống hàng năm của Đông La Mã cho Bulgaria, các nhượng bộ lãnh thổ ở Thrace, điều chỉnh các quan hệ thương mại và các biện pháp xử lý người tị nạn chính trị) với Hoàng đế Theodosius III tại năm 716 và cũng là vua người Bungaria đã giúp đỡ để phá hủy cuộc bao vây Constantinopolis lần thứ hai của người Ả Rập trong năm 717-718. Theo Theophanes, người Bulgar đã tàn sát khoảng 22.000 người Ả Rập trong trận chiến trước Constantinoplolis. Cuộc chiến của Konsantantinos V. Sau cái chết của vua Sevar, Bulgaria rơi vào một thời gian dài khủng hoảng và tình trạng bất ổn, trong khi Đông La Mã hợp nhất lại được các vùng đất của họ. Giữa năm 756 và 775, hoàng đế mới của Đông La Mã Konstantinos V dẫn chín chiến dịch chống lại quốc gia láng giềng phía bắc của mình để thiết lập một biên giới Đông La Mã tại sông Donau. Do sự thay đổi liên tục của các vị vua (8 hãn đã lên ngôi trong vòng 20 năm) và cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài, Bulgaria đang trên bờ vực của sự hủy diệt. Trong chiến dịch đầu tiên của mình ở 756, Konstantinos V đã thành công và cố gắng đánh bại người Bulgaria hai lần nữa, nhưng trong năm 759, Vinekh, Hãn Bungaria, đã đánh bại quân đội Đông La Mã một cách toàn diện trong trận Đèo Rishki. Vinekh sau đó tìm cách giảng hòa với người Đông La Mã, nhưng ông bị ám sát bởi các quý tộc Bungaria. Nhà lãnh đạo mới, Telets, đã bị đánh bại tại trận Anchialus trong năm 763. Trong các chiến dịch tiếp theo của họ, cả hai bên không thể đạt được bất kỳ thành công đáng kể, bởi vì người Byzantine không thể vượt qua dãy núi Balkan và hạm đội của họ đã bị phá hủy hai lần trong một cơn bão lớn (2.600 tàu thuyền bị chìm trong một trong những cơn bão trong năm 765). Năm 774, họ đánh bại một lực lượng Bungaria ít hơn nhiều tại Berzitia nhưng đây là thành công cuối cùng của Konstantinos V: như là kết quả của sự thất bại của họ, Bulgaria đã biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt để thoát khỏi những điệp viên Đông La Mã ở Pliska. Hãn Telerig đã gửi một sứ giả bí mật đến Konstantinos V, cho thấy ý định của mình là chạy trốn khỏi Bulgaria và tìm nơi ẩn náu ở chỗ hoàng đế và tìm kiếm sự đảm bảo hiếu khách. Telerig đã thành công trong việc làm cho hoàng đế phản bội lại điệp viên của mình tại Bulgaria, những người đã bị bắt giữ và hành hình. Các dự án trả đũa của Đông La Mã không thực hiện được vì Konstantinos V chết trong năm 775. Các hành động trả đũa thất bại của Konstantinos VI. Năm 791, hoàng đế Đông La Mã, Konstantinos VI bắt tay vào một cuộc chinh phạt chống lại người Bulgaria, để trả đũa cho cuộc tấn của Bungari vào thung lũng Struma từ 789. Kardam đoán trước được cuộc xâm lược của Byzantine và gặp kẻ thù gần Adrianople tại Thrace. Quân đội Đông La Mã đã bị đánh bại và bỏ chạy. Năm 792, Konstantinos VI lại dẫn một đội quân chống lại người Bulgaria và đóng trại tại Marcellae, gần Karnobat, nơi ông tiến hành củng cố phòng thủ. Kardam đến với quân đội của mình vào ngày 20 và chiếm đóng các cao điểm lân cận. Sau một thời gian trôi qua sau khi hai đội quân dàn trận, Konstantinos VI đã ra lệnh tấn công, nhưng kết quả của trận Marcellae là quân đội Byzantine lại một lần nữa bị vỡ trận và bị đánh bại rồi chuyển sang bỏ chạy. Kardam chiếm được lều và bắt được những người hầu của hoàng đế. Sau khi trở về Constantinopolis, Konstantinos VI đã ký một hiệp ước hòa bình và chấp nhận nộp cống hàng năm cho người Bulgaria. Vào năm 796, triều đình Đông La Mã cứng đầu không chịu cống nộp và Kardam thấy cần thiết phải đòi triều cống và đe dọa tàn phá Thrace nếu Đông La Mã không trả tiền. Theo nhà sử gia Theophanes, Konstantinos VI đã chế giễu nội dung của bức thư và thay vì gửi vàng ông ta lại hứa hẹn sẽ dẫn đầu một đội quân mới để chống lại vua Kardam lúc này đã cao tuổi tại Marcellae. Một lần nữa quân đội của hoàng đế lại tiến lên phía Bắc và một lần nữa nó lại gặp quân đội của Kardam trong vùng lân cận của Adrianopolis. Các đội quân đối mặt với nhau trong 17 ngày mà không lao vào trận chiến, trong khi hai quốc vương tham gia vào các cuộc đàm phán. Cuối cùng, xung đột đã được ngăn chặn và hòa bình lại tiếp tục với các điều khoản giống như trong năm 792.
1
null
Mil Mi-46 là một đề án trực thăng chở khách/chở hàng/cần cẩu bay được công bố năm 1992. Mi-46 được chia làm 2 phiên bản: Mi-46T và Mi-46K. "Mi-46T" là phiên bản chở hàng/hành khách, có trọng lượng bằng một nửa của Mi-26, dùng thay thế cho Mi-6. "Mi-46K" là phiên bản cần cẩu bay thay thế cho Mi-10K.
1
null
Robert Sanderson Mulliken (1896-1986) là nhà hóa học người Mỹ. Ông giành Giải Nobel Hóa học năm 1966 nhờ công trình nghiên cứu liên kết hóa học và cấu trúc electron của phân tử bằng phương pháp orbital phân tử. Ông cùng với Friedrich Hund đã phát triển phương pháp Hund-Mulliken. Đây là phương pháp quỹ đạo phân tử khó hình dung đối với các nhà hóa học những lại cực kỳ hiệu quả trong việc tiên đoán các tính chất so với phương pháp liên kết hóa trị. Phương pháp này chỉ dễ hình dung khi có sự giúp đỡ của máy tính. Ngoài ra, Robert Mulliken còn là người sáng tạo ra thuật ngữ orbital để ám chỉ quỹ đạo của các electron quay xung quanh hạt nhân. Thời điểm ông đưa ra thuật ngữ này là vào năm 1932.
1
null
Người Đài Loan tại Việt Nam bao gồm phần lớn là các thương gia và gia đình họ. Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh của Hiệp hội Phát triển Ngoại thương Đài Loan (trụ sở tại Đài Bắc) ước lượng khoảng 20.000 người Đài Loan đang sống tại Việt Nam (tính đến 2002). Theo số liệu của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, có khoảng 3.000 phụ nữ tại Việt Nam từng lấy chồng Đài Loan và sau khi họ ly dị thì không còn được nước nào công nhận tư cách công dân. Những phụ nữ này đã bỏ quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch Trung Hoa Dân quốc khi họ lấy chồng nhưng sau khi ly hôn họ đã về nước, bỏ quốc tịch Trung Hoa Dân quốc trong quá trình xin cấp lại quốc tịch Việt Nam. Những đứa con của họ mang duy nhất quốc tịch Trung Hoa Dân quốc, trước đây chưa bao giờ là công dân Việt Nam, không đủ điều kiện để nhập học các trường công ở Việt Nam.
1
null
Acheta domestica là một dế nhiều khả năng có nguồn gốc từ Tây Nam Á, nhưng đã lan rộng trên toàn thế giới. Chúng được nuôi thương mại làm thức ăn cho vật nuôi như động vật lưỡng cư, động vật chân đốt, các loài chim và các loài bò sát, nhưng có thể được lưu giữ như là vật nuôi, như là trường hợp ở Trung Quốc và Nhật Bản. Mô tả. Acheta domestica thường màu xám hoặc màu nâu, dài tới 16–21 mm (0,63-0,83 in). Con đực và con cái trông tương tự. Con người. Nó cũng được nuôi ở Thái Lan, nơi chúng phổ biến hơn so với các loài dế có nguồn gốc do hương vị ngon và hình dáng. Chúng thường được dùng như ăn một món ăn chiên.
1
null
Mil Mi-52 "Snegir" là một dự án trực thăng thông dụng hạng nhẹ 4 chỗ của Nga trong thập niên 1990. Một mô hình đã được chế tạo năm 2000 và có 2 phiên bản được lên kế hoạch chế tạo. Mi-52-1 trang bị 1 động cơ 199 kW VAZ-4265 và Mi-52-2 trang bị 2 động cơ Mi-52-2.
1
null
Mil Mi-60MAI là loại trực thăng hạng nhẹ 3 chỗ của Nga, mô hình xuất hiện lần đầu tiên lại Moskva Salon năm 2001. Dự kiến nó trang bị 1 hoặc 2 động cơ (1 loại 195 hp Textron Lycoming HIO-360-F1AD hoặc 2 chiếc loại 237 hp VAZ-426, hoặc 2 chiếc loại 113 hp Rotax 914F) (1 loại 195 hp Textron Lycoming HIO-360-F1AD hoặc 237 hp VAZ-426, hoặc 2 chiếc loại 113 hp Rotax 914F).
1
null
Metaplastes pulchripennis là một loài thuộc họ Tettigoniidae phân họ Phaneropterinae. Mô tả. Con trưởng thành có thể đạt chiều dài 17–18 mm (0,67-0,71 inch). Các màu sắc cơ bản của cơ thể là màu xanh lá cây nhạt, với một vệt màu nâu đỏ ở mặt sau. Chân chủ yếu là màu xanh lá cây, với đầu gối màu nâu nhạt. Râu có màu nâu và rất dài. Đẻ trứng là khá ngắn (9–10 mm (0,35-0,39 inch). Nó thường có thể gặp phải từ tháng sáu đến tháng bảy, đặc biệt là trên Cistus. Metaplastes pulchripennis khá giống với Barbistes, nhưng nó có thể được phân biệt bởi các Cerci của con đực và kéo dài hơn. Phân bố. Nó hiện diện tại đất liền của Ý, Sardinia, Corsica và Tây Ban Nha.
1
null
</ref> Benidorm là một thị xã ven biển và khu tự quản nằm ở "comarca" Marina Baixa, tỉnh Alicante, cộng đồng Valencia, Tây Ban Nha, bên bờ Tây Địa Trung Hải. Benidorm đã là một điểm đến du lịch ở Tây Ban Nha kể từ năm 1925, khi cảng của nó được mở rộng và những khách sạn đầu tiên được xây dựng, mặc dù phải đến những năm 1950, nó mới trở nên nổi tiếng như một điểm đến mùa hè cho những người đến từ nội địa Tây Ban Nha, đặc biệt là cư dân Madrid. Ngày nay nó được biết đến với ngành khách sạn, bãi biển và các tòa nhà chọc trời và đón nhiều khách du lịch từ nước ngoài đến Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số năm 2014, Benidorm có dân số thường trú là 69.010 người, làm cho nó trở thành thị trấn đông dân thứ năm ở tỉnh Alicante và thứ chín trong Cộng đồng Valencia.
1
null
Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần 1 (còn được gọi là Khủng hoảng eo biển Đài Loan 1954–1955) là một cuộc xung đột quân sự giữa hai chính thể là Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc (CHNDTQ) và Trung Hoa Dân Quốc (THDQ). CHNDTQ đã chiếm giữ quần đảo Nhất Giang Sơn (一 江 山 岛), buộc THDQ phải rút khỏi quần đảo Đại Trần (大陈群岛). Hải quân Hoa Kỳ và THDQ đã hợp tác với nhau để di tản quân nhân và dân thường từ quần đảo Đại Trần đến Đài Loan. Mặc dù quần đảo Đại Trần đã đổi chủ trong cuộc khủng hoảng nhưng truyền thông Hoa Kỳ tập trung chủ yếu đến quần đảo Mã Tổ và Kim Môn, nơi thường xuyên diễn ra những cuộc đấu pháo. Nội chiến Trung Quốc đã giảm về quy mô từ năm 1949 với việc chính quyền Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch cùng với 1,3 triệu người ủng hộ rời Trung Quốc đại lục chuyển đến Đài Loan (còn gọi là Formosa). Xung đột. Trong khi Hoa Kỳ công nhận chính quyền Tưởng là chính quyền hợp pháp duy nhất cho toàn Trung Quốc, tổng thống Harry Truman tuyên bố vào ngày 5 tháng 1 năm 1950 rằng Hoa Kỳ sẽ không dính líu vào bất cứ tranh chấp nào ở eo biển Đài Loan, và rằng ông cũng sẽ không can thiệp nếu CHNDTQ tấn công Đài Loan. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra ngày 25/6/1950, Truman đã tuyên bố rằng "trung lập hóa eo biển Formosa" là ưu tiên số một của Hoa Kỳ và ông điều hạm đội 7 của hải quân Hoa Kỳ đến eo biển Đài Loan nhằm ngăn chặn xung đột giữa Trung Hoa Dân quốc và Cộng sản Trung Quốc, đưa Đài Loan vào sự bảo hộ hiệu quả của Mỹ.
1
null
Rainbow (còn có tên là Ritchie Blackmore's Rainbow hay Blackmore's Rainbow) là một siêu ban nhạc rock người Anh trú tại Hertford, Anh và được thành lập bởi nghệ sĩ guitar Ritchie Blackmore vào năm 1975. Đội hình nhóm ban đầu được thành lập với ban nhạc rock người Mỹ Elf của Ronnie James Dio, nhưng sau khi cho phát hành album đầu tay trùng tên nhóm, Blackmore đã khai trừ các thành viên đánh nhạc đệm và tiếp tục hoạt đồng cùng Dio. Rainbow thu âm thêm hai album phòng thu nữa với Dio—"Rising" (1976) và "Long Live Rock 'n' Roll" (1978)—trước khi anh chia tay ban nhạc để đầu quân cho Black Sabbath vào năm 1979. Tác phẩm đầu tiên của Rainbow có ca từ huyền bí cùng phong cách neoclassical metal, rồi chuyển qua hướng pop-rock hơn sau khi Dio rời khỏi nhóm. Ba nhạc công người Anh gia nhập ban nhạc vào năm 1979—ca sĩ Graham Bonnet, nghệ sĩ keyboard Don Airey và Roger Glover (cựu tay bass của Deep Purple)—và đội hình này đã mang lại cho ban nhạc thành công đột phá về mặt thương mại với đĩa đơn "Since You Been Gone" trích từ album phòng thu thứ tư "Down to Earth" của nhóm. Ban nhạc tiếp tục gặt hái thành công ở đầu thập niên 1980 với ba album kế tiếp là "Difficult to Cure" (1981), "Straight Between the Eyes" (1982) và "Bent Out of Shape" (1983). Sau khi tan rã vào năm 1984, Blackmore tái lập Rainbow vào năm 1993 với một đội hình mới để thu âm album phòng thu thứ 8 và cuối cùng của họ tính đến nay là "Stranger in Us All" (1995). Định hướng âm nhạc của Blackmore thay đổi từ rock sang âm nhạc chịu ảnh hưởng bởi thời Phục Hưng và Trung Cổ là nguyên nhân làm Rainbow giải tán lần hai vào năm 1997. Ông tái hồi sinh ban nhạc một lần nữa vào năm 2015, và đôi khi họ vẫn biểu diễn trực tiếp. Trong nhiều năm Rainbow đã trải qua nhiều lần thay đổi nhân sự, mỗi album phòng thu nhóm lại thu âm với một đội hình khác nhau, làm cho Blackmore trở thành thành viên duy nhất gắn bó trung thành với ban nhạc. Hai ca sĩ Joe Lynn Turner và Doogie White thì theo chân Bonnet, nhiều nhạc công đánh đêm đã đến rồi lại đi. Ngoài Blackmore, đội hình hiện tại Rainbow gồm Ronnie Romero (hát chính), Jens Johansson (đánh keyboard), Bob Nouveau (đánh bass) và David Keith (chơi trống). Rainbow được liệt ở vị trí số 90 trong danh sách "100 nghệ sĩ hard rock xuất sắc nhất" của VH1. Ban nhạc đã bán ra hơn 30 triệu đĩa nhạc toàn thế giới. Lịch sử hoạt động. Thành lập (1975). Đến năm 1973, Blackmore đã trèo lái Deep Purple qua một thay đổi nhân sự đáng chú ý, với Ian Gillan và Roger Glover bị thay thế bởi David Coverdale và Glenn Hughes. Tuy nhiên, các thành viên mới hứng thú với việc tăng thêm các phong cách âm nhạc và Blackmore thấy đề nghị thu âm các bài "Black Sheep of the Family" (do Steve Hammond chắp bút sáng tác) với "Sixteenth Century Greensleeves" của mình bị ban nhạc từ chối. Thay vào đấy, anh quyết định thu âm bài hát với Dio, đồng thời tuyển dụng ban nhạc Elf của Dio làm nhạc công. Anh rất thích thành quả thu được và một album dài với tên gọi "Ritchie Blackmore's Rainbow" đã được ghi âm từ tháng 2 đến tháng 3 năm 1975 tại Musicland Studios ở Munich, Đức. Tên của ban nhạc lấy cảm hứng từ tên quán bar Rainbow Bar and Grill ở West Hollywood, California. Nhạc của Rainbow lấy cảm hừng một phần từ nhạc cổ diển vì Blackmore bắt đầu học chơi đàn cello để giúp anh xây dựng các chùm hợp âm hấp dẫn, còn Dio phụ trách viết lời về đề tài Trung cổ. Dio sở hữu một chất giọng vừa nội lực vừa linh hoạt giúp thể hiện tốt cả hard rock lẫn những bản ballad nhẹ nhàng. Blackmore cho hay: "Tôi cảm thấy rùng mình dọc sống lưng." Mặc dù Dio chưa bao giờ chơi một nhạc cụ trong bất kì album nào của Rainbow, ông lại được ghi công vì đã sáng tác và chuyển soạn nhạc với Blackmore, bên cạnh công đoạn viết toàn bộ lời ca khúc. Blackmore và Dio còn tìm thấy một điểm chung trong khiếu hài hước của hai người. Ca sĩ của Rainbow chia sẻ: "đó là cơ hội để tôi thể hiện những ngón nghề của mình. Tôi biết ơn Ritchie vì chuyện ấy suốt thời gian đã qua. Ritchie Blackmore là người trao cho tôi cơ hội để thể hiện giá trị của mình." Sau trải nghiệm thu âm tích cực cùng Dio, Blackmore quyết định rời Deep Purple, chơi nốt show cuối cùng họ tại Paris vào tháng 4. Album nhận được lời khen từ cánh phê bình, đồng thời lọt vào top 20 ở Liên hiệp Anh và top 30 ở Mỹ. Tin Blackmore chia tay Purple được thông báo vào ngày 21 tháng 6. Chuyến lưu diễn thế giới và thành công đầu tiên (1975–1978). Blackmore không thoải mái khi đem theo đội hình của Elf cùng mình đi trình diễn nhạc sống, vì thế anh đã sa thải tất cả ngoại trừ Dio sau khi album được thu âm, do lối nện trống của Driscoll và lối chơi bass kiểu funk của Gruber không phù hợp. Blackmore tiếp tục là người chỉ huy đội hình trong suốt thời kì sau của ban nhạc; tay trống và đồng đội cũ Ricky Munro chia sẻ "anh ấy rất khó gần bởi bạn không bao giờ biết khi nào anh ấy sẽ quay lưng và nói 'Cậu bị sa thải'." Blackmore kết nạp tay bass Jimmy Bain, nghệ sĩ keyboard người Mỹ Tony Carey và tay trống Cozy Powell (từng hợp tác với Jeff Beck và có những thành công nhất định trong sự nghiệp solo). Powell cũng rất hợp ý Blackmore bởi cả hai có chung sở thích những trò chơi khăm. Đội hình này cũng bắt đầu chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên của ban nhạc, với ngày diễn đầu tiên ở Montreal vào ngày 10 tháng 11 năm 1975. Điểm trang trí nổi bật trong các buổi trình diễn nhạc sống của nhóm là một cái cầu vồng do máy tính điều khiển, tập hợp 3.000 bóng đèn trải dài 40 feet khắp sân khấu. Album thứ hai "Rising" được họ thu âm vào tháng 2 tại Musicland. Tính đến thời điểm những ngày diễn ở châu Âu vào hè năm 1976, Rainbow đã gây dựng danh tiếng với những màn biểu diễn nhạc sống cực cháy. Ban nhạc còn đưa bài "Mistreated" của Deep Purple vào danh sách tiết mục của họ, và thời lượng ca khúc được kéo dài để thể hiện thêm những đoạn nhạc chơi ngẫu hứng. Carey nhớ lại lúc tập dượt khá đơn giản: "Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài phần kết cấu, kết bài... rất là linh hoạt và thực sự đúng kiểu progressive rock." Bìa album được thiết kế bởi nghệ sĩ kỳ ảo người Mỹ Ken Kelly — tác giả những bức vẽ Tarzan và Conan the Barbarian. Tháng 8 năm 1976, sau một đêm diễn tại Tòa thị chính Newcastle, Blackmore quyết định khai trừ Carey do tin rằng lối chơi của anh quá phức tạp đối với ban nhạc. Do không thể ngay lập tức tìm người thay thế thích hợp, Carey nhanh chóng được giữ lại, nhưng cho tới khi chuyến lưu diễn thế giới đặt chân đến Nhật Bản, anh thường xuyên là đối tượng của những trò chơi khăm và đùa giỡn của Blackmore. Sau đó Blackmore quyết định rằng Bain không đạt chuẩn và sa thải anh vào tháng 1 năm 1977. Ngay sau đó Carey bỏ ban nhạc vì mệt mỏi trước những trò chơi khăm của Blackmore. Tuy nhiên Blackmore lại gặp khó trong khâu tìm người thay thế mà anh thích. Ở vị trí chơi keyboard, sau khi thử việc các nghệ sĩ thành danh như Mark Stein của Vanilla Fudge, Matthew Fisher của Procol Harum và Eddie Jobson (thành viên cũ ở Curved Air và Roxy Music), Blackmore cuối cùng lựa chọn tay keyboard người Canada David Stone từ ban nhạc ít tiếng tăm Symphonic Slam. Ở vị trí chơi bass, Blackmore lúc đầu lựa chọn Mark Clarke (cựu thành viên của các ban nhạc Colosseum của Jon Hiseman, Uriah Heep và Tempest), nhưng trong một lần ở phòng thu để ghi âm album kế tiếp "Long Live Rock 'n' Roll", Blackmore ghét lối chơi fingerstyle của Clarke nhiều đến mức đuổi anh ta ngay tức khắc và tự mình chơi bass trong tất cả các bài ngoại trừ 4 ca khúc: "Gates of Babylon" (bài tiêu đề của album), "Kill the King" và "Sensitive to Light". Tay bass Bob Daisley (cựu thành viên của Widowmaker) được thuê để thu nốt những bài này, qua đó hoàn tất đội hình kế tiếp của ban nhạc. Sau khi phát hành đĩa và đi lưu diễn rộng khắp thế giới trong hai năm 1977–78, Blackmore quyết định muốn đưa ban nhạc đi theo hướng thương mại mới hơn thay cho đề tài "kiếm sĩ và pháp sư". Dio không tán thành thay đổi này và rời Rainbow. Thành công thương mại (1978–1984). Blackmore đã mời Ian Gillan (đồng đội cũ ở Deep Purple) để thay thế Dio, song Gillan từ chối anh. Sau hàng loạt buổi thử việc, Graham Bonnet (cựu ca sĩ kiêm guitar của The Marbles) được kết nạp. Powell ở lại nhưng Daisley bị sa thải, còn David Stone bỏ ban nhạc nên bị thay thế bởi nghệ sĩ keyboard Don Airey. Lúc đầu ban nhạc đăng tuyển mộ các nghệ sĩ bass, nhưng theo đề xuất của Cozy Powell, Blackmore đã thuê Roger Glover (một thành viên cũ nữa của Deep Purple) làm nhà sản xuất kiêm chơi bass và viết lời. Album đầu tiên với đội hình mới, "Down to Earth", đã gặt hái thành công trên bảng xếp hạng với những đĩa đơn như "All Night Long" và "Since You Been Gone" (do Russ Ballard sáng tác). Năm 1980, ban nhạc là nghệ sĩ diễn chính tại Nhạc hội Monsters of Rock đầu tiên ở Lâu đài Donington, Anh. Tuy nhiên, đây lại là buổi diễn cuối của Powell với Rainbow: anh đã thông báo bỏ nhóm do ghét hơi hướng ngày càng pop rock của Blackmore. Kế đó, sau nhiều lần xích mích với Blackmore, Bonnet rời đi để theo đuổi sự nghiệp solo. Ở album kế tiếp, các vị trí của Bonnet và Powell lần lượt bị thay thế bởi các nhạc công người Mỹ Joe Lynn Turner và Bobby Rondinelli. Bài tiêu đề trích từ album "Difficult to Cure" là một bản Giao hưởng số 9 của Beethoven. Album cho ra đời đĩa đơn thành công của nhóm tại Liên hiệp Anh là "I Surrender" (một bài hát nữa của Ballard) — đạt vị trí số 3. Sau chuyến lưu diễn quảng bá, Don Airey nghỉ việc do những khác biệt âm nhạc và bị thay thế bởi David Rosenthal. Rainbow kiếm được lượng phát sóng đáng kể trên các đài phát thanh Album-oriented rock (AOR) ở Mỹ với bài "Jealous Lover" — đạt vị trí số 13 trên bảng xếp hạng Rock Tracks của "Billboard". Lúc đầu được in làm đĩa mặt B của "Can't Happen Here", "Jealous Lover" sau đó đã trở thành bài tiêu đề trong một đĩa EP phát hành ở Mỹ với bìa đĩa giống "Difficult to Cure". Album dài kế tiếp của Rainbow là "Straight Between the Eyes". Album có tính nhất quán hơn "Difficult to Cure" và gặt hái thành công hơn ở Mỹ. Tuy nhiên ban nhạc lại làm người hâm mộ cũ xa lánh do thứ âm thanh hơi hướng AOR hơn. Đĩa đơn "Stone Cold" là một bản ballad có những thành công nhất định trên các bảng xếp hạng (ngôi quán quân trên bảng xếp hạng Rock Tracks của "Billboard"), còn MV của bài có tần suất phát dày đặc trên MTV. Chuyến lưu diễn quảng bá thành công đã bỏ qua hoàn toàn thị trường Liên hiệp Anh và chú trọng vào thị trường Mỹ. Một ngày diễn ở San Antonio, Texas trong tour này đã được ghi hình, và kết quả là "Live Between the Eyes" cũng có những lượt chiếu liên tục trên MTV. "Bent Out of Shape" chứng kiến tay trống Rondinelli bị khai trừ để nhường chỗ cho Chuck Burgi (cựu tay trống của Balance). Album có sự góp mặt của đĩa đơn "Street of Dreams". Blackmore ghi trên website của mình rằng MV của bài hát bị MTV cấm chiếu do mang đoạn video clip thôi miên gây tranh cãi, nhưng Tiến sĩ Thomas Radecki của Liên minh bạo lực trên truyền hình quốc gia lại chỉ trích MTV vì cho phát sóng MV, mâu thuẫn với lời của Blackmore. Chuyến lưu diễn sau đó chứng kiến Rainbow trở lại Liên hiệp Anh và cũng tới Nhật Bản vào tháng 3 năm 1984 để biểu diễn bài "Difficult to Cure" với cả một dàn nhạc. Buổi hòa nhạc này đã được ghi hình. Giải tán và tạm thời tái hoạt động (1984–1997). Quản lý Thames Talent của Rainbow đã phối hợp để tái lập đội hình MK. II của Deep Purple thành công. Đến tháng 4 năm 1984, Rainbow bị giải tán. Album cuối của Rainbow lúc ấy, "Finyl Vinyl" là một tập hợp các bản nhạc sống và đĩa mặt B từ các đĩa đơn, trong đó có bản hòa tấu "Weiss Heim" (mặt B của All Night Long), "Bad Girl" (mặt B của Since You Been Gone) và "Jealous Lover" (mặt B của Can't Happen Here). Năm 1988, sau khi gia nhập nhóm Impelliteri, Graham Bonnet đã cover bài "Since You Been Gone" trong album đầu tay của nhóm là "Stand In Line". Năm 1993, Blackmore rời Deep Purple vĩnh viễn do "những khác biệt sáng tạo" với các thành viên khác và tái lập Rainbow với đội hình hoàn toàn mới, đặc biệt là ca sĩ người Scotland Doogie White. Ban nhạc phát hành album "Stranger in Us All" vào năm 1995 và bắt chuyến lưu diễn dài toàn thế giới. Tour diễn đã gặt hái thành công, và live show ở Düsseldorf, Đức đã được ghi hình chuyên nghiệp cho chương trình truyền hình "Rockpalast". Show này bị thu đĩa lậu rất nhiều (và được nhiều nhà sưu tập xem là đĩa lậu tốt nhất của Rainbow), về sau được chính thức phát hành bởi Eagle Records trên đĩa CD và DVD dưới tên gọi "Black Masquerade" vào năm 2013. Trong các live show thường xuyên thay đổi danh sách tiết mục, và những khúc nhạc ứng tác trở nên phổ biến với những kẻ thu đĩa lậu và nhiều show vẫn còn được đem bán đĩa trong cả thập niên về sau. Tuy nhiên, Blackmore chuyển chú ý sang niềm đam mê âm nhạc từ lâu của mình, đó là âm nhạc thời Phục Hưng và Trung Cổ. Rainbow một lần nữa bị ngừng hoạt động sau khi nhóm chơi buổi hòa nhạc cuối tại Esbjerg, Đan Mạch vào năm 1997. Lúc ấy, Blackmore cùng với vợ là Candice Night làm giọng ca chính đã lập nên nhóm Blackmore's Night chịu ảnh hưởng chính từ nhạc Phục Hưng. Cùng với lúc sản xuất "Stranger in Us All" (1995), họ đã chuẩn bị thu âm album đầu tay "Shadow of the Moon" (1997). Tan rã (1997–2014). Nhiều bài hát của Rainbow được trình diễn nhạc sống bởi nhiều thành viên của nhóm kể từ khi họ tan rã vào năm 1984 và sau đó là vào năm 1997, đặc biệt là cựu giọng ca Ronnie James Dio, Graham Bonnet, Joe Lynn Turner và Doogie White trong nhiều năm gần đây. Ngoài ra, Don Airey thường biểu diễn các bài hát thuộc kỷ nguyên 1979-1981 trong những live show solo của mình. Blackmore's Night thỉnh thoảng thể hiện một hoặc hai tiết mục của Rainbow, với các bài "Ariel", "Rainbow Eyes", "Street of Dreams" và "Temple of the King". "Street of Dreams" còn được Blackmore's Night tái thu âm. Giai đoạn 2002–2004, dự án Hughes Turner Project đã thể hiện một số tác phẩm của Rainbow tại các buổi hòa nhạc của họ. Ngày 9 tháng 8 năm 2007, Joe Lynn Turner và Graham Bonnet chơi một đêm nhạc tri ân Rainbow tại Helsinki, Phần Lan. Buổi hòa nhạc tập hợp những bài hát trong kỷ nguyên 1979-1983. Năm 2009, Joe Lynn Turner, Bobby Rondinelli, Greg Smith và Tony Carey lập nên ban nhạc lưu diễn tri ân Over The Rainbow với Jürgen Blackmore (con trai Ritchie) chơi guitar. Over The Rainbow thể hiện các ca khúc trong suốt chiều dài lịch sử hoạt động của Rainbow. Sau tour diễn đầu tiên, Tony Carey phải rời nhóm do các vấn đề sức khỏe; vị trí của anh được trám bởi một cựu thành viên khác của Rainbow là Paul Morris. Tái hoạt động (2015–nay). Năm 2015, Blackmore thông báo anh sẽ chơi những đêm nhạc "toàn rock" vào hè năm 2016 dưới cái tên "Ritchie Blackmore's Rainbow", những show nhạc rock đầu tiên của anh kể từ năm 1997. Đội hình mới của Rainbow được công bố vào 6 tháng 11 năm 2015: Ronnie Romero (ca sĩ của Lords of Black), nghệ sĩ keyboard Jens Johansson (Stratovarius), tay trống David Keith (Blackmore's Night) và tay bass Bob Nouveau (Bob Curiano). Ban nhạc đã diễn chính tại Nhạc hội "Monsters of Rock" phiên bản Đức. Nhóm ra mắt vào ngày 17 tháng 6 năm 2016 tại Loreley Freilichtbühne — một live show ngoài rơi trước lượng khán giả ước tính là 15.000 người. Ngày 18 tháng 6 năm, họ chơi thêm một buổi diễn ngoài trời nữa trước 30.000 người hâm mộ Bietigheim-Bissingen (Festplatz am Viadukt). Show thứ ba và cuối cùng diễn san tại sân vận động Genting Arena của Birmingham, Anh. Tháng 5 năm 2016, khi được hỏi xem liệu Rainbow có định ghi âm một album mới không, tay bass Bob Curiano trả lời "Tôi rất muốn đi vào phòng thu cùng Rainbow chứ. Tất cả những gì chúng ta cần là Ritchie nói 'Hãy làm thôi!' Tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều cảm thấy áp lực bởi sự kỳ vọng của người hâm mộ. Với tôi, áp lục làm tôi làm việc siêng năng hơn và thu được kết quả tốt hơn." Tuy nhiên, Blackmore cho biết nhóm không có ý định làm một album hay chuyến lưu diễn toàn cầu mới, và dịp tái hợp "chỉ là vài ngày cho vui." Blackmore cũng nói rằng Rainbow đã nhận được nhiều đề xuất để làm thêm "vài show nữa" trong tương lai. Mặc cho quyết định trước đó là không ra nhạc mới, Blackmore tiết lộ trong cuộc phỏng vấn với tạp chí "Burrn!" vào tháng 5 năm 2017 rằng Rainbow đang ở trong phòng thu để ghi thêm hai bài nữa. Blackmore chia sẻ: "Tôi đã viết một bài hát mới, và cũng thu một trong số các bài cũ. Ronnie (hiện đang ở Madrid) đã thu giọng hát của anh ấy và gửi về. Thay vì làm một album, chúng tôi có thể ra các đĩa đơn."
1
null
Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của vua Lê chúa Trịnh. Sử học. So với các thế kỷ trước, sử học Đại Việt thế kỷ 17 – 18 dồi dào hơn về thể loại, phong phú hơn về số lượng và nội dung. Có hai loại tác phẩm sử học là: Chính sử có bộ đầy đủ nhất được hoàn thành và công bố năm 1697 là Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần triều Lê, chép từ thời Hồng Bàng đến Lê Gia Tông (hết năm 1675). Năm 1775, chúa Trịnh Sâm sai Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn và Vũ Miễn soạn tiếp từ năm 1676 trở đi, nhưng không rõ việc đó hoàn thành ra sao. Những tác phẩm địa lý lịch sử hoặc viết về một thời đại hay một địa phương, điển hình có: Ngoài những sách viết bằng lời còn có những tác phẩm sử học bằng thơ, điển hình là "Thiên Nam ngữ lục" với hơn 8000 câu thơ lục bát. Y học. Từ thế kỷ 17 trở về trước, y học Đại Việt mang tính chất cổ truyền trên cơ sở kinh nghiệm dân gian và những dược liệu vốn có trong dân. Sang thế kỷ 18, nền y học Đại Việt được nâng lên một tầm cao mới, nhờ cống hiến của Lê Hữu Trác. Ngoài việc tìm tòi các bài thuốc dân gian, Lê Hữu Trác kết hợp với nghiên cứu thời tiết, khí hậu và đặc điểm sinh lý cơ thể con người. Qua nghiên cứu, ông đã tìm ra phương pháp chẩn đoán bệnh hữu hiệu và chữa bệnh bằng các loại cỏ cây có sẵn trong thiên nhiên. Ông có công sưu tầm, phát hiện và bổ sung thêm 300 vị thuốc nam và thu thập gần 3000 phương thuốc của các vị thầy thuốc đông y đời trước. Ông để lại tác phẩm "Hải thượng y tông tâm tĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển đúc kết tinh hoa y học cổ truyền. Khoa học quân sự. Do chiến tranh với Đàng Trong kéo dài nhiều năm, các chúa Trịnh chú trọng tới việc phát triển các kỹ thuật quân sự. Khoa học quân sự thời kỳ này có những bước tiến cả về lý luận lẫn thực tiễn. Do sự du nhập của khoa học kỹ thuật từ phương Tây, chúa Trịnh đã mở xưởng đúc súng nhờ sự hỗ trợ của người phương Tây và những xưởng đóng tàu, thuyền tại Bãi Cháy và bến Thủy. Sản phẩm là những loại thuyền nhỏ như thuyền Thi hậu, thuyền Hải đạo, thuyền Hải mã, thuyền mui và thuyền Quan hành. Loại lớn nhất có chiều dài 67 thước, rộng 10 thước 5 tấc, có 48 cột chèo.
1
null
Adiantum raddianum là một loài thực vật có mạch trong họ Adiantaceae. Loài này được C. Presl mô tả khoa học đầu tiên năm 1836. Lá loài này có màu xanh đậm, ngoài mép lá có nhiều hình móc, trung bình có từ 8 đến 12 hình móc như vậy. Thân cây và các cành cây màu xanh bóng đậm.
1
null
Cổ Lãng Tự hay đảo Cổ Lãng là một hòn đảo nhỏ chỉ dành cho người đi bộ nằm ở ngoài khơi bờ biển Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến, phía đông nam Trung Quốc. Hòn đảo có diên tích khoảng 2 km², có dân số khoảng 20.000 dân, đây là một trong những điểm thu hút khách du lịch nhất Trung Quốc với khoảng 10 triệu du khách mỗi năm. Cổ Lãng Dữ không chỉ cấm xe ô tô, mà còn cấm cả xe đạp. Phương tiện cho phép duy nhất là xe điện dịch vụ của Nhà nước. Khách du lịch có thể ra đảo bằng phà từ đảo Hạ Môn. Người dân địa phương đi phà nhanh mất khoảng 5 phút, chạy từ 7 giờ 10 đến 17 giờ 50 và cứ 20 phút có một chuyến. Còn du khách và những người không phải địa phương thì phải đi phà từ bến phà du lịch quốc tế đi mất 20 phút và chi phí là 35 tệ. Sau 18 giờ thì du khách có thể đi thuận lợi hơn khi có thể đi được phà nhanh. Dịch vụ đó hoạt động suốt đêm và cứ 20 phút một chuyến. Từ 18 giờ đến 0h thì sẽ mất 35 tệ, và từ 0h đến 7h sáng hôm sau sẽ là 40 tệ. Cổ Lãng Tự nổi tiếng với những bãi biển, các con đường quanh co và kiến ​​trúc đa dạng của nó. Nó được đánh giá xếp hạng là điểm du lịch hấp dẫn 5A (mức độ cao nhất của Trung Quốc) bởi Tổng cục Du lịch Trung Quốc (CNTA) và đứng vị trí đầu bảng trong danh sách các danh lam thắng cảnh hấp dẫn của tỉnh Phúc Kiến. Về mặt hành chính, hòn đảo hiện nay là Cổ Lãng Dữ nhai đạo thuộc Tư Minh, thành phố Hạ Môn. Lịch sử. Trong một khoảng thời gian, Cổ Lãng Dữ là khu định cư quốc tế riêng biệt duy nhất tại Trung Quốc, ngoại trừ một khu định cư quốc tế ở Thượng Hải. Ngay sau khi Hạ Môn trở thành một cảng hiệp ước sau Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất và Điều ước Nam Kinh năm 1842, những người nước ngoài trên hòn đảo đã thành lập tổ chức không chính thức. Các cơ quan lãnh sự, nhà thờ, bệnh viện, trường học, trạm cảnh sát được xây dựng bởi những cộng đồng nước ngoài ở đây mang kiến ​​trúc theo phong cách thời kỳ Victoria. Năm 1942, hòn đảo bị chiếm đóng bởi Nhật Bản cho tới khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc năm 1945. Tiếng Phúc Kiến là phương ngữ được sử dụng trên đảo, cũng như tại Hạ Môn. Điểm du lịch. Là nơi định cư trong quá khứ của những người phương Tây thuộc địa phận Hạ Môn, Cổ Lãng Dữ nổi tiếng với kiến trúc của nó và là nơi có bảo tàng piano duy nhất tại Trung Quốc với 200 cây đàn trên đảo. Ngoài ra nơi đây còn có Bảo tàng Trịnh Thành Công, khu vườn nhiệt đới với nhiều loài cây được đem về bởi người Hoa ở nước ngoài, Bảo tàng Hạ Môn.
1
null
Gián núi Cape, Giáp khổng lồ hay Gián núi Table (tên khoa học Aptera fusca) là một loài gián lớn phổ biến rộng rãi trên thảm thực vật thấp trong khu vực mở trong quần xã sinh vật cây bụi của Cape Tây của khu vực Nam Phi. Con cái trưởng thành có thể dài từ 30 đến 40 mm (1,2-1,6 in). Con đực nhỏ hơn một chút (chiều dài cơ thể 29 mm (1.1 in)) và có cánh màu nâu sẫm, mà không có ở con cái.
1
null
Thời đại khúc (chữ Hán: 時代曲; bính âm: "shídàiqǔ") là một loại hình dân ca Trung Quốc/nhạc jazz fusion châu Âu có nguồn gốc từ Thượng Hải, Trung Hoa Dân Quốc những năm 1920. Lịch sử. Thuật ngữ "shídàiqǔ" (thời đại khúc) nghĩa đen là "ca khúc của thời đại" trong tiếng Quan thoại. Khi hát bằng tiếng Quảng Đông nó được gọi là 粵語時代曲 (Jyut jyu si doi kuk / Việt ngữ thời đại khúc), còn khi hát bằng tiếng Phúc Kiến Hạ Môn thì được gọi là 廈語時代曲 (Hạ ngữ thời đại khúc). Thời đại khúc đã truyền cảm hứng cho Gary Lucas cho album "The Edge of Heaven" và các DJ như Ian Widgery và dự án "Shanghai Lounge Divas" của anh. Mặt khác, nếu điện ảnh là nguồn gốc của nhiều bài hát, thì Vương Gia Vệ đã sử dụng chúng một lần nữa để minh họa cho bộ phim "Tâm trạng khi yêu"; Phan Địch Hoa (Rebecca Pan) một trong những nữ diễn viên trong bộ phim này, cũng là một trong những ca sĩ thời đại khúc (shidaiqu) nổi tiếng.
1
null
Cảng Đài (chữ Hán: 港台 hoặc 港臺; bính âm: Gǎng Tái) là các ca khúc, các nghệ sĩ và âm nhạc C-pop đến từ Hồng Kông hoặc Đài Loan. Thuật ngữ. Thuật ngữ này đồng nghĩa với nhạc Cantopop thập niên 1960 hoặc Mandopop thập niên 1970, một kiểu giai điệu ngọt ngào, ân ái, tình tứ thấy rõ trong C-pop mà không thể thấy trong bất kì thể loại nào khác của dân ca, nhạc rock hay âm nhạc truyền thống Trung Quốc. Thuật ngữ này còn có thể được dùng để ám chỉ việc các ca sĩ Trung Quốc đại lục bắt chước phong cách ca hát Hồng Kông/Đài Loan.
1
null
Edith Stein tức Thánh Têrêsa Benedicta Thánh Giá, cũng thường gọi là thánh Edith Stein (12.10.1891 – 9.8.1942), là một triết gia và nữ tu sĩ Công giáo người Đức, được Giáo hội Công giáo phong là thánh tử đạo và hiển thánh. Bà sinh trong một gia đình gốc Do Thái theo Do Thái giáo nhưng trở thành người theo chủ nghĩa vô thần từ thời thanh thiếu niên. Bà đã theo Kitô giáo năm 1922, được rửa tội trong Giáo hội Công giáo và làm tập sinh trong Dòng Carmel năm 1934. Mặc dù bà đã di chuyển từ Đức sang Hà Lan để tránh việc truy hại của Đức Quốc xã, nhưng năm 1942 bà vẫn bị bắt và đưa vào Trại tập trung Auschwitz, nơi bà bị giết chết trong phòng hơi ngạt. Bà đã được giáo hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm 1998. Bà là một trong 6 thánh quan thầy của châu Âu, cùng với các thánh Biển Đức thành Nursia, thánh Cyril và Methodius, Bridget của Thụy Điển và Catarina thành Siena. Cuộc đời. Bà sinh ngày 12.10.1891 tại Breslau (Wrocław), tỉnh Silesia, vương quốc Phổ thuộc Đế quốc Đức, trong một gia đình người Do Thái. Bà học tiểu học và trung học ở quê nhà, rồi học ở Đại học Breslau, sau đó sang học ở Đại học Göttingen từ năm 1913, đậu bằng tiến sĩ năm 1916 với bản luận án "Zum Problem der Einfühlung" (Về vấn đề đồng cảm) dưới sự bảo trợ của Edmund Husserl. Sau đó bà sang giảng dạy ở Freiburg. Trước đó, bà đã cộng tác với Martin Heidegger trong việc biên tập để xuất bản các tác phẩm của Edmund Husserl. Heidegger được bổ nhiệm làm phụ tá giảng dạy cho Husserl ở Đại học Freiburg tháng 10 năm 1916. Vì là phụ nữ nên bà đã không được Husserl giúp đỡ khi bà đệ trình luận án lấy bằng habilitation để được phép giảng dạy ở Đại học Freiburg (một đòi hỏi bắt buộc để được bổ nhiệm chức giáo sư) cũng như bản luận án "Psychische Kausalität" ("Quan hệ nhân quả tâm lý") của bà tại Đại học Göttingen năm 1919 đã bị khước từ. Dù bà đã sớm tiếp xúc với Giáo hội Công giáo, nhưng mãi tới khi bà đọc quyển tự truyện của thánh nữ Têrêsa thành Ávila trong kỳ nghỉ ở Bad Bergzabern năm 1921 bà mới quyết định theo đạo Công giáo. Được rửa tội ngày 1.1.1922, bà từ chức phụ tá cho Husserl để dạy học trong một trường của các nữ tu sĩ dòng Đa Minh ở Speyer từ năm 1922 tới năm 1932. Trong thời gian này, bà dịch quyển "De Veritate" ("Về sự thật") của thánh Tommaso d'Aquino sang tiếng Đức và làm quen với triết học Công giáo nói chung, đồng thời từ bỏ "thuyết hiện tượng" của Husserl để theo triết thuyết của thánh Tommaso d'Aquino ("Thomism"). Bà tới thăm Husserl và Heidegger ở Freiburg tháng 4 năm 1929, cùng một tháng mà Heidegger đọc bài chúc mừng sinh nhật thứ 70 của Husserl. Năm 1932 bà làm giảng viên ở Học viện sư phạm tại Münster, nhưng bộ luật bài Do Thái được chính phủ Đức Quốc xã thông qua đã buộc bà phải từ chức năm 1933. Trong một lá thư gửi giáo hoàng Piô XI, bà đã lên án chế độ Quốc xã và yêu cầu Giáo hoàng công khai lên án chế độ này để ngăn chặn việc lạm dụng danh chúa Kitô. Lá thư của bà đã không được hồi âm, và cũng không biết chắc liệu giáo hoàng Piô XI có được đọc thư này không. Tuy nhiên, vào năm 1937, Đức Giáo hoàng Piô XI đã ban hành một thư luân lưu viết bằng tiếng Đức, Mit brennender Sorge ("Với sự lo âu cháy bỏng"), trong đó Ngài đã phê phán chủ nghĩa Quốc xã, lên án chủ nghĩa bài Do Thái và cho rằng Đức đã vi phạm một thỏa ước ký kết với Giáo hội năm 1933. Năm 1933 bà vào tu ở tu viện St. Maria vom Frieden ("Đức Mẹ Hòa bình") của Dòng Carmel tại Köln, nhận tu danh là "Teresia Benedicta a cruce" ("Têrêsa Benedicta Thánh Giá"). Tại đây bà đã viết quyển siêu hình học "Endliches und ewiges Sein" ("Sự hữu hạn và Đấng Vĩnh cửu") nhằm kết hợp các triết học của thánh Tommaso d'Aquino và Husserl. Để tránh sự đe dọa gia tăng của Đức Quốc xã, tu viện ở Köln chuyển bà sang tu viện dòng Carmel ở Echt, Hà Lan. Tại đây bà đã viết quyển "Studie über Joannes a Cruce: Kreuzeswissenschaft" ("Nghiên cứu về thánh Gioan Thánh Giá: Khoa học Thánh Giá"). Di chúc ngày 6.6.1939 của bà ghi: "Tôi phó thác mạng sống và cái chết cùng mọi người thân thuộc của tôi cho Chúa, cho Thánh tâm Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và Hội Thánh, đặc biệt là phó thác Dòng tu thánh của chúng tôi, nhất là các tu viện Carmel ở Köln và Echt, như lễ chuộc tội cho sự không tin (Chúa Kitô) của dân Do Thái và Chúa sẽ được dân tộc của Người tiếp đón và vương quốc của Người sẽ đến trong vinh quang, cho sự cứu rỗi của nước Đức và hòa bình thế giới, cuối cùng cho những người tôi yêu thương, còn sống hay đã chết, và cho tất cả những gì Thiên Chúa đã ban cho tôi để không cái gì trong số đó sẽ bị hư mất". Tuy nhiên, bà không được an toàn tại Hà Lan — Hội đồng Giám mục Hà Lan đã ra một tuyên bố công khai đọc trong tất cả các nhà thờ của đất nước ngày 20.7.1942, lên án chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của Đức Quốc xã. Trong một phản ứng trả đũa vào ngày 26.7.1942, Reichskommissar của Hà Lan, Arthur Seyss-Inquart, đã ra lệnh bắt giữ tất cả các tín đồ Do Thái cải đạo (theo Kitô giáo), những người trước đây đã được tha. Bà và người em gái Rosa - cũng là một người cải đạo - đã bị bắt giữ cùng những người Do Thái khác. Sáng sớm ngày 7.8.1942, tất cả 987 người này được gửi tới trại tập trung Auschwitz. Ngày 9.8.1942 bà cùng với cô em gái Rosa và nhiều người Do Thái khác đã bị giết trong phòng hơi ngạt. Di sản. Phong thánh. Ngày 1.5.1987 Têrêsa Benedicta Thánh Giá được giáo hoàng Gioan Phaolô II phong là thánh tử đạo ở Köln, Đức, rồi 11 năm sau bà được Ngài phong lên hiển thánh vào ngày 11.10.1998. Ngày 1.10.1999 Giáo hoàng Gioan Phaolô lại nâng bà lên hàng thánh quan thầy của châu Âu. Phép lạ được dùng làm cơ sở cho việc phong thánh tử đạo của bà là việc chữa lành bệnh em Teresa Benedicta McCarthy, một cô bé đã nuốt một lượng lớn thuốc paracetamol (acetaminophen), gây hoại tử gan. Cha cô bé, linh mục Emmanuel Charles McCarthy, thuộc giáo hội Công giáo Melkite Hy Lạp, đã lập tức tập trung các người thân lại cầu xin Têrêsa Benedicta Thánh Giá cứu giúp. Ngay sau đó các y tá trong đơn vị chăm sóc đặc biệt nhìn thấy cô bé ngồi lên hoàn toàn khỏe mạnh. Tiến sĩ Ronald Kleinman, một chuyên gia nhi khoa tại Bệnh viện đa khoa Massachusetts ở Boston, nơi điều trị Teresa Benedicta, làm chứng về sự lành bệnh của cô bé trước tòa án Giáo hội, nói: "Tôi sẵn lòng nói rằng đó là phép lạ " Sau này bé gái Teresa Benedicta đã tới dự lễ phong hiển thánh cho Edith Stein ở Vatican. Sự việc gây tranh cãi. Việc phong thánh tử đạo cho Edith Stein đã gây ra một số chỉ trích và tranh cãi. Những người chỉ trích lập luận rằng Stein bị giết vì là người Do Thái bẩm sinh chứ không phải vì theo Kitô giáo sau này, và rằng theo lời của Daniel người Ba Lan thì dường như (việc phong thánh tử đạo) là "mang một thông điệp ngầm khuyến khích việc trở lại đạo (Công giáo) " bởi vì "việc thảo luận chính thức về sự phong thánh dường như coi sự kết hợp đức tin Công giáo của Stein với cái chết của bà cùng những người đồng đạo gốc Do Thái của bà ở trại tập trung Auschwitz là cần thiết". Lập trường của Giáo hội Công giáo Rôma là Stein đã bị giết vì Hội đồng giám mục Hà Lan đã công khai lên án chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của Đức Quốc xã trong năm 1942; nói cách khác, là bà đã chết vì lập trường đạo đức của Giáo hội, và như vậy là người tử đạo đích thực. Tác phẩm. Dịch sang tiếng Anh: Dịch sang tiếng Pháp: Sách viết về Edith Stein
1
null
Trần Thị Thu Hà (sinh 1989) là một nữ vận động viên aerobic người Việt Nam. Tại Đại hội Thể thao Thế giới (World Games) 2013, cô cùng với đồng đội Vũ Bá Đông đã giành được Huy chương Vàng ở nội dung đôi nam nữ. Sự nghiệp thể thao. Thu Hà sinh ngày 22 tháng 12 năm 1989 tại Hải Phòng. Với thể hình cao 1m52, nặng 43 kg, khởi đầu sự nghiệp thể thao với bộ môn thể dục dụng cụ và nghệ thuật, tuy nhiên cô không ghi được dấu ấn vì vậy đã chuyển sang thi đấu ở bộ môn Sport Aerobic. Cô bắt đầu tập luyện chung với đồng đội (và sau đó trở thành bạn trai) Vũ Bá Đông từ tháng 4 năm 2006 dưới sự kèm cặp của huấn luyện viên người Bulgaria, cựu vô địch thế giới, Mariyan Kolev. Chỉ sau 20 tháng tập luyện, bộ đôi đã bất ngờ giành được Huy chương Vàng bộ môn Sport Aerobic tại SEA Games 2007 tại Thái Lan ngay trong lần đầu tham dự. Tại Cúp Thế giới diễn ra tháng 4 năm 2013 tại Nhật Bản, bộ đôi đã giành được Huy chương Bạc, chỉ sau đôi Trung Quốc. Ngoài ra, còn giành được Huy chương Đồng ở nội dung 3 người (cùng với Nguyễn Việt Anh). Tại Đại hội Thể thao Thế giới (World Games) 2013 tạo Colombia, bộ đôi xếp thứ tư sau vòng loại và lọt vào thi đấu chung kết. Tại lượt thi đấu chung kết, cả bốn đội Pháp, Rumani, Tây Ban Nha và Việt Nam đều cùng số điểm 20,450, do đó ban tổ chức đã quyết định cho cả bốn đội đồng hạng Huy chương Vàng. Đây là chiếc Huy chương Vàng duy nhất của đoàn Việt Nam tại Đại hội này.
1
null
Vũ Bá Đông (sinh 1989) là một nam vận động viên Sport Aerobic người Việt Nam. Tại Đại hội Thể thao Thế giới (World Games) 2013, anh cùng với đồng đội Trần Thị Thu Hà đã giành được Huy chương Vàng ở nội dung đôi nam nữ. Sự nghiệp thể thao. Vũ Bá Đông sinh ngày 7 tháng 1 năm 1989 tại Hải Phòng. Có thể hình cao 1m68 và nặng 59 kg, xuất thân từ bộ môn wushu, chuyển sang thi đấu ở bộ môn Sport Aerobic và bắt đầu tập luyện chung với đồng đội nữ (và sau đó trở thành bạn gái) Trần Thị Thu Hà từ tháng 4 năm 2006 dưới sự kèm cặp của huấn luyện viên người Bulgaria, cựu vô địch thế giới, Mariyan Kolev. Chỉ sau 20 tháng tập luyện, bộ đôi đã bất ngờ giành được Huy chương Vàng bộ môn Sport Aerobic tại SEA Games 2007 tại Thái Lan ngay trong lần đầu tham dự. Tại Cúp Thế giới diễn ra tháng 4 năm 2013 tại Nhật Bản, bộ đôi đã giành được Huy chương Bạc, chỉ sau đôi Trung Quốc. Ngoài ra, còn giành được Huy chương Đồng ở nội dung 3 người (cùng với Nguyễn Việt Anh). Tại Đại hội Thể thao Thế giới (World Games) 2013 tạo Colombia, bộ đôi xếp thứ tư sau vòng loại và lọt vào thi đấu chung kết. Tại lượt thi đấu chung kết, cả bốn đội Pháp, Rumani, Tây Ban Nha và Việt Nam đều cùng số điểm 20,450, do đó ban tổ chức đã quyết định cho cả bốn đội đồng hạng Huy chương Vàng. Đây là chiếc Huy chương Vàng duy nhất của đoàn Việt Nam tại Đại hội này.
1
null
Nhạc vàng (chữ Hán: 黃色音樂; "huáng sè yīn yuè", "wong sik jam ngok"; Hán-Việt: "hoàng sắc âm nhạc") hay hoàng ca (chữ Hán: 黃歌; "huáng gē", "wong go"; Hán-Việt: "hoàng ca") là một thuật ngữ được gán là "thô tục, bẩn thỉu, ủy mị, khiêu dâm, tục tĩu" xuất phát từ ngôn ngữ tuyên truyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để mô tả những thế hệ đầu tiên của âm nhạc đại chúng tiếng Hoa ở Thượng Hải, Trung Hoa Dân Quốc trong suốt những năm 1920-1940. Nguồn gốc. Cái tên xuất hiện vì màu vàng ở Trung Quốc có liên quan tới khiêu dâm và tình dục. Những người theo chủ nghĩa Mao Trạch Đông trong thời Cách mạng văn hóa nhìn nhận nhạc vàng như sự không đúng đắn tình dục và gán mác thể loại nhạc C-pop như vậy. Thuật ngữ này được sử dụng liên tục cho tới thời kỳ Cách mạng Văn hoá. Trung Quốc. Sau Cách mạng Văn hóa, chỉ có âm nhạc được chính phủ phê duyệt mới được phép trình diễn trong chế độ Mao Trạch Đông. Nhạc vàng, âm nhạc đề cập đến các mối quan tâm cá nhân đặc biệt là về chủ đề tình yêu, đã bị chế độ cấm vì cho là suy đồi và "không tương thích với các giá trị của cách mạng". Nhạc vàng tiếp tục phát triển ở Đài Loan và Hồng Kông, khu vực mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không có thẩm quyền. Đặng Lệ Quân và Phụng Phi Phi là một trong những người biểu diễn nổi tiếng nhất, Lê Cẩm Huy (黎錦暉) là nhà soạn nhạc và nhạc sĩ nổi bật nhất. Tại Trung quốc, với sự tiếp quản quyền lực của Đặng Tiểu Bình vào những năm 1970, Trung Quốc cũng mở cửa với những ảnh hưởng âm nhạc phương Tây. Với "Thông tục âm nhạc" (tiếng Trung 通俗音乐, tongsu yinyue), một loại nhạc phổ thông mới, âm nhạc chế độ cộng sản Trung Quốc đã mang phong cách phương Tây, bắt chước nhạc vàng. Tuy nhiên, nội dung bài hát tiếp tục được kiểm soát và chủ yếu xử lý các chủ đề yêu nước, đề cao tính tập thể, chỉ đôi khi là chủ đề các mối quan tâm cá nhân. Với việc tư nhân hóa các công ty ở Trung Quốc, sự gia tăng phạm vi hàng hóa và tính cá nhân, ảnh hưởng của các cơ quan chính phủ tiếp tục giảm vào cuối những năm 1980, nhưng vẫn tiếp tục tồn tại. Nhạc vàng bây giờ có thể lan rộng hơn ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày nay, nhạc vàng rất phổ biến ở châu Á. Có một sự phục hưng vào đầu thế kỷ 21, ví dụ sự phổ biến của Thời đại khúc đã truyền cảm hứng cho Gary Lucas cho album "The Edge of Heaven" và các DJ như Ian Widgery và dự án "Shanghai Lounge Divas" của anh. Mặt khác, nếu điện ảnh là nguồn gốc của nhiều bài hát, thì Vương Gia Vệ đã sử dụng chúng một lần nữa để minh họa cho bộ phim "Tâm trạng khi yêu"; Phan Địch Hoa (Rebecca Pan) một trong những nữ diễn viên trong bộ phim này, cũng là một trong những ca sĩ Thời đại khúc (shidaiqu) nổi tiếng. Việt Nam. Nhạc vàng, lúc đầu được các cơ quan tuyên truyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng để chỉ âm nhạc được sản xuất ở miền Nam Việt Nam trong thời Chiến tranh Việt Nam, để khác biệt với "Nhạc đỏ" được chính phủ phê duyệt. Thể loại này chứa các chủ đề và đặc điểm được coi là "suy đồi, ủy mị" và bị cấm vào năm 1975 sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, với những người nghe nó bị trừng phạt, và thiết bị âm nhạc của họ bị tịch thu. Hầu hết nhạc vàng đã được liên kết với thể loại bolero. Sau sự sụp đổ của Sài Gòn, nhiều nghệ sĩ Việt Nam di cư sang Hoa Kỳ để theo đuổi sự nghiệp và ngành công nghiệp của họ ở đó. Lệnh cấm đối với nhạc vàng đã được nới lỏng vào năm 1986, nhưng lúc đó ngành công nghiệp nhạc vàng đã gần như không còn tồn tại.
1
null
Allkpop (viết kiểu thành allkpop) là một trang blog tiếng Anh có trụ sở ở Edgewater, New Jersey, Hoa Kỳ ra mắt ngày 30 tháng 10 năm 2007. Trang này do công ty mẹ 6Theory Media sở hữu và điều hành. Đây là một trong những trang thông tin về K-pop thu hút nhiều lượt truy cập nhất với hơn 4 triệu lượt đọc mỗi tháng, trong khi bài viết thì được nhiều xuất bản phẩm trên thế giới trích dẫn lại. Theo tờ "The Korea Herald", hiện allkpop là "trang đưa tin nhanh chóng nhất" về làng nhạc K-pop. Đón nhận. Năm 2010, allkpop thu hút số lượt truy cập nhiều hơn bất kỳ một cổng tin tức âm nhạc nào ở Hàn Quốc, và chiếm 1/4 tổng lưu lượng truy cập web đến từ châu Âu. Cùng năm đó, allkpop giành được quyền phát trực tiếp buổi trao giải Mnet Asian Music Awards (MAMA). allkpop được trao giải "Best Breaking News Site" tại Giải thưởng Mashable Open Web năm 2009 và "Must-Follow Brand" tại Giải thưởng Mashable năm 2010. allkpop Awards. Tháng 12 năm 2010, "allkpop Awards" lần đầu được tổ chức nhằm xác định nghệ sĩ K-pop phổ biến nhất trên toàn cầu dựa trên hệ thống bình chọn trực tuyến quy mô lớn. Năm 2012, giải thưởng này cổng thông tin điện tử Naver của Hàn Quốc giới thiệu và thu được tổng cộng 8,6 triệu lượt bình chọn. Thống kê trên mạng xã hội. "Thống kê tính đến 22 giờ 27 phút ngày 12 tháng 8 năm 2013 (UTC+7)"
1
null
Soompi là một website tiếng Anh cung cấp thông tin về K-pop. Nó là một trong những cộng đồng Internet lớn nhất mang tính quốc tế, chủ yếu tập trung vào các diễn đàn bao quát toàn diện. Tính đến năm 2012, có hơn 7,5 triệu lượt truy cập Soompi mỗi tháng ở các phiên bản website bằng tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha. Từ mốc thành lập vào cuối thập niên 1990, Soompi đã phát triển thành một nguồn thông tin đáng tin cậy về văn hóa đại chúng Hàn Quốc và là một trong những website về nhạc K-pop được ghé thăm thường xuyên nhất. Lúc đầu, khách viếng thăm website đa phần là người Hàn Quốc sinh sống ở hải ngoại với hơn 1,2 triệu người truy cập trang web. Tuy nhiên, hiện thời thì phần lớn các thành viên không phải là người Hàn, sống ở Hoa Kỳ, Canada, Singapore, Philippines, Malaysia... Khoảng 6 triệu người đăng nhập website hàng tháng và khoảng 40% lưu lượng truy cập là đến từ Bắc Mỹ. Lịch sử. Soompi được Susan Kang - nhà phát triển web người Mỹ gốc Hàn - thành lập vào năm 1998; trang web nhanh chóng thu hút sự chú ý của người hâm mộ khắp thế giới. Tháng 2 năm 2011, Enswers, Inc. - một công ty công nghệ thông tin đóng ở Seoul, chuyên về công nghệ tìm kiếm video - mua lại Soompi và điều hành nó như một công ty con 100% vốn do công ty mẹ sở hữu. Soompi khai trương trang web tiếng Pháp vào năm 2011 và trang web tiếng Tây Ban Nha vào năm 2012, đồng thời hợp tác chặt chẽ với các công ty giải trí lớn của Hàn Quốc như JYP Entertainment, SM Entertainment, và YG Entertainment. Soompi Awards. Lịch sử. Năm 2005, Soompi tạo ra một giải thưởng tên "Soompi Gayo Daesang Awards". Sau năm đó, Soompi lại đổi tên giải thưởng thành "Soompi Gayo Awards". Đến năm 2013, người ta quyết định đổi thành "Soompi Awards". Tính đến năm 2019, giải thưởng đã được tổ chức 14 lần.
1
null
KCON là một sự kiện âm nhạc K-pop thường niên đã được tổ chức tại nhiều nơi trên thế giới bởi Mnet Media, lần đầu tiên được tổ chức tại Hoa Kỳ. Bối cảnh. KCON được tổ chức bởi công ty giải trí và ghi âm Mnet Media của Hàn Quốc. Mục đích của KCON là thiết lập một sự kiện diễn ra thường niên để cải thiện trải nghiệm của người hâm mộ Mỹ bằng cách cung cấp cách thức hợp túi tiền để kết nối lẫn nhau cũng như kết nối với các nghệ sĩ và chuyên viên đến từ ngành âm nhạc K-pop. Trong sự kiện KCON năm 2012, Ted Kim của Mnet Media được nhà báo Michael Holmes từ đài CNN phỏng vấn về sự đi lên của K-pop tại Hoa Kỳ. Dòng thời gian. 2012. KCON 2012 được tổ chức vào ngày 13 tháng 10 năm 2012 tại Hý viện ngoài trời Verizon Wireless ở Irvine, California. Các nghệ sĩ âm nhạc được mời biểu diễn gồm có 4minute, B.A.P, EXO, NU'EST, VIXX và G.NA. 2013. KCON 2013 sẽ được tổ chức từ 24 đến 25 tháng 8 năm 2013 tại Nhà thi đấu thể thao Los Angeles Memorial. Đội hình nghệ sĩ có 2AM, DJ Koo, Dynamic Duo, EXO, F(x), G-Dragon, Teen Top, Yu Seung Woo. Đón nhận. Jeff Benjamin từ tạp chí "Billboard" viết rằng sự kiện KCON "đánh lên mọi nốt nhạc để cung cấp một cái nhìn mới về một thế giới âm nhạc vẫn đang tìm chỗ đứng ở đất Mỹ" và giải thích rằng với hàng nghìn người đến dự KCON '12 đến từ khắp nơi ở Bắc Mỹ, sự kiện này "thực sự chứng tỏ khả năng vượt rào cản ngôn ngữ và khởi động thứ mà có lẽ sẽ là một sự kiện âm nhạc thường niên". Joseph L. Flatley từ mạng truyền thông The Verge đã tham dự KCON '12 và đưa tin rằng điểm nổi bật của toàn bộ sự kiện này là buổi biểu diễn nơi nửa tá ban nhạc K-pop trình diễn, trong đó nhiều nhóm mới lần đầu diễn ở Hoa Kỳ. Tờ "The Orange County Register" mô tả KCON '12 là "một cuộc xâm lăng kéo dài cả ngày của K-Pop tại Sân khấu ngoài trời Verizon Wireless".
1
null
Just Like a Woman (tạm dịch: "Như một phụ nữ") là một bộ phim tiếng Anh của đạo diễn Rachid Bouchareb, diễn viên Sienna Miller và Golshifteh Farahani. Câu chuyện kể về một bà nội trợ người Mỹ và một người phụ nữ Bắc Phi trong chuyến đi từ Chicago đến Santa Fe để tham gia vào một cuộc thi belly dance (Múa bụng Ả Rập). Bộ phim là một sản phẩm hợp tác giữa các hãng phim tại Pháp, Anh và Hoa Kỳ. Bouchareb dự định nó là sản phẩm đầu tiên trong bộ ba về mối quan hệ giữa Phương Tây và thế giới Ả Rập. Nội dung. "Just like a Woman" kể về câu chuyện cảm động của hai người phụ nữ, chỉ là những người quen biết nhau hơn mức bình thường, khi thoát khỏi tù túng của cuộc hôn nhân không hạnh phúc, họ bắt tay vào một cuộc hành trình tiết lộ sự khám phá dẫn tầm quan trọng và ý nghĩa thực sự của cuộc sống và tình bạn. Mona (Golshifteh Farahani), 26 tuổi, một người nhập cư từ Bắc Phi, làm việc trong một cửa hàng tiêu dùng nhỏ tại Chicago. Cô kết hôn với Mourad, một người đàn ông yêu vợ, không dám chống đối người mẹ độc tài của mình. Mona thường bị mẹ chồng mắng mỏ vì sau năm năm chung sống với chồng, cô đã không thể có con, nó được coi là một sự xấu hổ và một điều cấm kỵ trong văn hóa của họ. Marilyn (Sienna Miller), 29 tuổi, là nhân viên lễ tân tại một công ty sửa chữa máy tính. Hôn nhân của cô với Harvey như một sự miễn cưỡng. Điều duy nhất trong cuộc sống làm cho cô thấy hạnh phúc là lớp học múa bụng của cô, cũng là niềm đam mê của Mona. Sinh hoạt tại lớp học giống như trong một gia đình, nâng cao tinh thần và làm cho cô quên những đau khổ của cuộc sống hàng ngày của mình. Marilyn thường đến mua đồ dùng tại nơi làm việc của Mona, và họ đã trở thành bạn bè. Một buổi sáng, mẹ chồng Mona được phát hiện đã chết trên giường. Mona biết mình đã đưa nhầm thuốc cho mẹ tối hôm trước. Nhận ra rằng cô có thể bị buộc tội ngộ sát, Mona vội vã trốn khỏi Chicago bằng xe buýt. Marilyn bị mất việc vì suy thoái kinh tế. Khi về nhà, cô phát hiện chồng đang lừa dối mình. Không còn gì để mất, Marilyn quyết định đi đến Santa Fe để tham gia một cuộc thi (Múa bụng), hy vọng sẽ vào một công ty tổ chức biểu diễn nổi tiếng. Mona và Marilyn gặp nhau trong một công viên ở bên cạnh của một đường cao tốc. Họ quyết định tiếp tục chuyến đi với nhau. Họ vượt qua khu đô thị, dựng lều qua đêm giữa hoang mạc. Họ kiếm được một số tiền mặt bằng vũ điệu của họ trong nhà hàng và quán bar. Tại khu vực cắm trại, họ có sự tranh chấp nhà vệ sinh công cộng với một gia đình cắm trại trên nhà di động. Marilyn bị chấn thương ở tay do hai cha con trên nhà di động hành hung. Mona đến tham dự cuộc thi dưới tên đăng ký của Marilyn O'Connor. Cô có hai phút để biểu diễn nhuần nhuyễn vũ điệu của mình và được giấy chứng nhận cuộc thi trong sự tán thưởng của giám khảo. Qua trải nghiệm khó khăn trong chuyến đi, Mona tự thấy trách nhiệm của bản thân và muốn quay lại Chicago để trình báo. Tại trạm dừng tàu trở về Chicago, Marilyn tìm gặp Mona, họ ôm nhau xúc động trong tình bạn vừa được thử thách trong chuyến đi. Sản xuất. Ngân sách của bộ phim bao gồm 2 triệu euro. Bộ phim được quay trong các đô thị của Chicago và trong tiểu bang New Mexico. Với bộ phim của phần thứ hai của bộ ba này, một thể loại phim bạn thân: "Belleville Cop", Rachid Bouchareb bắt đầu trong năm 2012. Phần thứ ba, tiêu đề chưa được biết đến, được sản xuất dưới sự chỉ đạo của ông.
1
null
Vườn quốc gia Vatnajökull là một trong số ba vườn quốc gia tại Iceland. Được thành lập vào ngày 7 tháng 6 năm 2008, nó bao gồm các vườn quốc gia cũ là Skaftafell ở phía tây nam và Jökulsárgljúfur ở phía bắc. Vườn quốc gia có sự đa dạng cảnh quan từ sông băng, hoạt động núi lửa, địa nhiệt. Vatnajökull là nơi có sông băng Vatnajökull nổi tiếng, đỉnh Hvannadalshnúkur cao nhất Iceland và Dettifoss là thác nước mạnh nhất châu Âu. Vào ngày 5 tháng 7 năm 2019, vườn quốc gia Vatnajökull đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Lịch sử. Được thành lập vào ngày 7 tháng 6 năm 2008, vườn quốc gia lúc đó có diện tích 12.000 km² nhưng sau đó được bổ sung thêm khu vực tự nhiên của đỉnh Lakagígar, hồ Langisjór, núi lửa Krepputunga và hồ băng Jökulsárlón nâng tổng diện tích lên thành 14.141 km², chiếm 14% diện tích của quốc gia, khiến nó trở thành vườn quốc gia có diện tích lớn thứ hai tại châu Âu ngoài Greenland về diện tích sau Vườn quốc gia Yugyd Va. Địa lý và địa chất. Tên của vườn quốc gia lấy từ tên sông băng Vatnajökull là sông băng lớn nhất châu Âu ngoài Bắc Cực với diện tích bề mặt là 8.100 km². Sông băng có bề dày là từ 400–600 mét, và lên tới 950 mét, bao phủ một số ngọn núi, thung lũng và cao nguyên. Thậm chí nó còn bao phủ một số núi lửa đang hoạt động ở khu vực trung tâm, trong đó có cả núi lửa lớn nhất Bárðarbunga và núi lửa hoạt động mạnh nhất là Grímsvötn. Sông băng nằm ở khu vực có độ cao từ 2000 mét xuóng đến -300 mét so với mực nước biển. Không nơi nào ở Iceland ngoại trừ khu vực sông băng Mýrdalsjökull có lượng mưa rơi nhiều như ở khu vực phía nam Vatnajökull. Trên thực tế, rất nhiều nước ngọt hiện đang được tích trữ ở Vatnajökull, đến nỗi sông Ölfusá là sông có dòng chảy lớn nhất Iceland cùng cần hơn 200 năm để đưa hết lượng nước này đổ ra biển. Khung cảnh bao quanh sông băng vô cùng đa dạng. Hướng về phía bắc, cao nguyên bị chia cắt bởi những dòng sông băng, với tốc độ dòng chảy mạnh hơn vào mùa hè. Các núi lửa nằm trên khu vực này là Askja, Kverkfjöll, Snæfell và cả Herðubreið. Hẻm núi Jökulsárgljúfur ở phía bắc của cao nguyên này bị khắc sâu bởi các khối băng hà khổng lồ từ lâu, bên trên thung lũng là thác nước Dettifoss hùng vĩ. Cảnh quan đá Hljóðaklettar và các vách đá cong hình móng ngựa của thung lũng Ásbyrgi được tìm thấy ở phía bắc của vườn quốc gia. Các vùng đất ngập nước rộng và phạm vi mở rộng của nó dễ dàng phân biệt nằm gần các khu vực sông băng và xa hơn về phía đông, xung quanh Snæfell. Những khu vực này là môi trường sống quan trọng của tuần lộc và ngỗng chân hồng. Phía nam của Vatnajökull đặc trưng bởi những rặng núi cao, hùng vĩ, với các dòng sông băng giữa các ngọn núi trên vùng đất thấp. Phần cực nam của sông băng bao phủ ngọn núi lửa Öræfajökull và đỉnh Hvannadalshnjúkur là đỉnh núi cao nhất của Iceland. Được bao bọc bởi những sông băng cao, ốc đảo thực vật của Skaftafell nhìn ra bãi cát đen tích tụ lại ở phía tây bởi sông Skeiðará. Những bãi cát này chủ yếu bao gồm tro núi lửa sau những trận phun trào của Grímsvötn và được đưa đến bờ biển bởi băng lũ. Hoạt động núi lửa đáng kể là đặc trưng cho phong cảnh phía tây Vatnajökull, nơi diễn ra hai vụ phun trào dung nham lớn nhất thế giới vào thời điểm nó diễn ra, tại Eldgjá năm 934 và Lakagígar 1783-1784. Vonarskarð nằm ở phía tây bắc sông băng là một khu vực địa nhiệt đầy màu sắc.
1
null
INS "Vikrant" là tàu sân bay được đóng bởi Cochin Shipyard Limited và Hải quân Ấn Độ sử dụng. Đây là tàu sân bay đầu tiên được đóng bởi Ấn Độ. Nó được hạ thủy vào 12 tháng 8 năm 2013 và dự kiến đưa vào hoạt động vào năm 2018.
1
null
Artpop (thường được viết là ARTPOP) là album phòng thu thứ ba của ca sĩ - nhạc sĩ thu âm người Mỹ Lady Gaga. Album đã được phát hành vào ngày 11 tháng 11 năm 2013. "Applause" đã là đĩa đơn mở đường cho album, bài hát được gửi đến đài phát thanh Mainstream tại Mỹ vào ngày 12 tháng 8 năm 2013. Bối cảnh thực hiện & ghi âm. Tháng 9 năm 2011, trong một cuộc phỏng vấn với Ryan Seacrest, Gaga nói rằng cô đang thực hiện album phòng thu thứ ba của mình. Một thời gian ngắn sau khi công bố, nhà sản xuất âm nhạc DJ White Shadow, người từng làm việc với Gaga trong album "Born This Way", cũng đã cho thấy sự tham gia của mình trong quá trình sản xuất và thu âm album. Nhà sản xuất nhạc Fernando Garibay cũng đã tuyên bố ông sẽ tiếp tục làm việc với Gaga trong album kế tiếp của cô. Gaga thu âm album cùng thời điểm với chuyến lưu diễn thế giới thứ ba, Born This Way Ball. Trong thời gian chuẩn bị và giai đoạn diễn tập cho tour diễn, Garibay và White Shadow đã gửi cho Gaga những thứ mà cô có thể sử dụng trong album. Garibay cho biết: "Các loại nhạc cụ mà tôi gửi cho cô ấy (Gaga) mà một trong số chúng thật điên rồ, thật sự tôi không biết bạn sẽ gọi chúng là gì nữa. Khi tôi tạo ra chúng...tôi biết cái gì sẽ thích hợp cho cô ấy còn cái gì không. Một số nhạc cụ có cấu trúc như một bản nhạc, một số trong chúng có cấu trúc như một sự nổi loạn, và cô ấy đi qua nó như một thợ đào mỏ vàng." Nhà sản xuất âm nhạc nổi tiếng thế giới RedOne vẫn tiếp tục cùng Gaga trong album này sau thành công của 2 album trước là "The Fame" và "Born This Way". Trong cuộc phỏng vấn với MTV News rằng phần lớn việc hợp tác giữa anh và Gaga diễn ra từ xa do hai người đang cách nhau nửa vòng Trái đất, anh nói: ""Dù không thể cùng vào phòng thu nhưng chúng tôi vẫn trao đổi ý tưởng với nhau và tập trung hết sức vào việc sáng tác hay với những giai điệu và thể loại khác nhau". Trong quá trình thực hiện album, gần như mọi thông tin liên quan đến album từ bài hát đến âm hưởng đều được giữ rất kín và bí mật; RedOne nói: "Tôi không muốn tiết lộ quá nhiều, vì tôi cũng không biết chuyện gì sẽ đến. Thật lòng, tôi không biết các ca khúc sẽ như thế nào...Ý định của tôi vẫn là: làm nên lịch sử. Nếu chúng tôi cảm thấy đó không phải là một phần của lịch sử, chúng tôi sẽ không thực hiện, nhưng hiện tại mọi thứ đều ổn. Chúng tôi thích sáng tạo âm nhạc, do vậy những điều sắp đến đều rất thú vị với chúng tôi". RedOne nói thêm: "Tôi không muốn hứa hẹn gì cả...nhưng, dĩ nhiên đó luôn là ý định của chúng tôi; Quan trọng nhất là có được những ca khúc tuyệt vời. Trong âm nhạc, bạn có thể điên rồ bao nhiêu tùy thích, đó luôn điều tôi cố gắng thực hiện...nhưng phải luôn đảm bảo có được những ca khúc hay. Và quan trọng nhất là sáng tác được những ca khúc khiến người nghe phải thốt lên kinh ngạc". Khi tour diễn bắt đầu, một số các nhà sản xuất của Gaga đã đi vòng quanh thế giới cùng cô để thực hiện ghi âm album. DJ White Shadow nói rằng: "Tôi muốn thử và càng gần nó càng tốt, như vậy tôi không cần phải thức dậy lúc 4h sáng và bay đến L.A hoặc bất cứ nơi nào hoặc Nhật Bản hoặc bất cứ nơi nào cô ấy bắt đầu làm việc với các nhạc cụ." Trong một cuộc phỏng vấn với MTV, Garibay tuyên bó rằng: "Cho dù cô ấy ở đâu chúng tôi cũng sẽ thực hiện nó". Trong tháng 5 năm 2012, quản lý của Lady Gaga, Vincent Herbert tiết lộ rằng album đã được hoàn thành và ông đã được nghe qua các chất liệu làm nên album, ông nói: "Một sự phá cách, điên rồ; một đĩa nhạc tuyệt vời"". Cùng tháng đó, Gaga tiết lộ thông tin về album mới của mình trên trang Twitter cá nhân rằng cô đã cho hãng đĩa nghe thử album và tên chính thức của album sẽ được cho ra mắt vào tháng 9 năm 2012.Nhưng điều này được chứng minh là sai khi tiêu đề album được Gaga công bố trước một tháng, đó là trong tháng 8 năm 2012. Vào đầu tháng 7 năm 2013, Interscope Records đã gửi e-mail đến các ấn phẩm âm nhạc liên quan việc cập nhật các sản phẩm đang phát hành, đoạn e-mail kết thúc với dòng chữ "Coming Soon: Lady Gaga". Và sau đó hãng đĩa cũng đã công bố tên của đĩa đơn mở đường cho album là "Applause", cùng với một video âm nhạc sẽ được phát hành vào ngày 19 tháng 8. Tuy nhiên, bài hát đã được phát hành sớm hơn vào ngày 12 tháng 8 do một đoạn của bài hát bị rò rỉ ra ngoài. Trong một cuộc phỏng vấn với NRJ 94,3 Montréal, Gaga khẳng định rắng sẽ có nhiều nghệ sĩ khác hợp tác với cô trong album lần này và mọi người chắc chắn sẽ "rất ngạc nhiên". Cô tiếp tục nói "trong album có một bài hát rất đặc biệt, nơi mà có những đám đông những con người thực sự tuyệt vời". Chủ đề album. Chủ đề của album được bắt đầu phát triển vào tháng 12 năm 2011. Trong khi thực hiện một buổi biểu diễn tại Australia, Gaga đã cho khán giả thưởng thức trước bài hát mang tựa đề "Princess Die", một bài hát mang chủ đề tự tử và nó viết về "Cái chết của Diana, công nương xứ Wales". Gaga nói rằng phiên bản "Princess Die" mà cô biểu diễn có thể sẽ không nằm trong album Artpop, nhưng một phiên bản nhạc dance của bài hát có thể phù hợp để hoàn tất danh sách bài hát cho album. Cô ấy cũng tuyên bố rằng album sẽ là một chứng minh cho sự "chưa trưởng thành & thiếu trách nhiệm"; "Artpop" sẽ là sự trái ngược hoàn toàn những gì mà album trước của cô "Born This Way" từng thể hiện. Vào tháng 11, Gaga tiết lộ thông qua trang Twitter của mình rằng cô đã viết đến 50 bài hát và đang xem xét nên đưa bài hát nào vào Artpop. Trong một cuộc phỏng vấn với Ryan Seacrest, Gaga nói rằng: "ARTPOP như là một kỷ niệm và là một hành trình âm nhạc đầy thơ mộng cùng với những người bạn của tôi; và tôi có một cuộc du ngoạn và thưởng thức nó như một ngôi sao nhạc pop". Gaga mô tả album như là "sự đảo ngược kinh nghiệm của Warholian"(Kinh nghiệm của Warholian là một tài liệu tham khảo từ họa sĩ người Mỹ Andy Warhol, là những kinh nghiệm làm nghệ thuật phổ biến dành cho mọi nghệ sĩ). Mục tiêu của Gaga với "ARTPOP" là làm ngược lại điều này. Trên trang web của mình trong năm 2012, Gaga tiết lộ rằng Artpop sẽ chứa trong đó nhiều thể loại nhạc bao gồm cả complextro, J-pop, dance và những gì mà cô mô tả là ""cái bẫy ngầm của dân đồng tính ở Chicago". Gaga và nhà sản xuất âm nhạc của cô đã có nhiều cách tiếp cận thực nghiệm cho album. Theo nhà sản xuất Zedd, "Có một bài hát bắt đầu bằng những gì cô ấy chỉ cho tôi, như là 10 từ để để miêu tả cảm xúc và sau đó tôi đưa chúng vào trong âm nhạc". Theo Gaga, điểm sáng của Artpop là đã để nhạc pop và nghệ thuật (art) có thể trao đổi với nhau, hòa quyện vào nhau. Gaga cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều khi cô ấy viết nhạc cho album này so với những album trước đây của cô. Artpop cực vui nhộn! Gaga đã từng chia sẻ: "Nó cực vui nhộn và tràn ngập niềm hạnh phúc bởi bạn biết đấy, tôi sống vì những tiếng vỗ tay của các bạn mà". DJ White Shadow cho biết thêm: "Nó rất thú vị. Tôi đã chơi thử nó cho một vài người bạn và họ đã nhún nhảy theo giai điệu bài hát"". Gaga mô tả Artpop như là "album thực sự đầu tiên" và mô phỏng nó với hình ảnh "phượng hoàng bay lên từ đống tro tàn" Phát hành. Ban đầu album được dự kiến phát hành vào đầu năm 2013 nhưng việc phát hành Artpop đã bị hoãn lại vô thời hạn khi Gaga bị chấn thương khớp hông và viêm màng hoạt dịch; vì thế cô cần được phẫu thuật và điều trị ngoại khoa, đồng thời đó cũng là lý do cô đã hủy toàn bộ số buổi diễn còn lại trong tour diễn Born This Way Ball. Gaga hứa sẽ hoàn lại tiền vé cho các khán giả và công khai xin lỗi người hâm mộ vì sự cố này. Cô giải thích về bệnh tình trên Twitter: "Tôi đã giấu ê kíp việc mình ngày càng đau hơn trong khoảng một tháng nay và cầu cho mình nhanh chóng bình phục. Tôi không muốn mọi người lo lắng. Tuy nhiên, sau màn trình diễn tối qua, tôi không thể đi lại và đến giờ vẫn không tiến triển gì. Điều này thật đáng ghét. Tôi rất yêu các bạn và vô cùng xin lỗi". Theo Vonda Wright, phát ngôn viên Học viện phẫu thuật chỉnh hình Mỹ, thì Gaga sẽ phải mang nạng trong vòng vài tuần và sau đó trong vòng từ 3-4 tháng, Gaga sẽ được tiến hành vật lý trị liệu với cường độ cao. Vào tháng 7 năm 2013, hãng đĩa của Gaga đã công bố rằng Artpop sẽ được phát hành vào ngày 11 tháng 11 năm 2013 thông qua ứng dụng được phát triển bởi đội ngũ công nghệ Haus of Gaga, mang tên "TechHaus". Nó được ứng dụng có sẵn trên tất cả các sản phẩm như iPad, iPod, iPhone, Android, và người sử dụng máy tính; nó bao gồm video cho mỗi bài hát trong album, "bonus music", các trò chơi, tán gẫu (chat), cập nhật xu hướng thời trang và còn nhiều hơn tiện ích hơn nữa.. Nó sẽ là album thứ ba được phát hành dưới dạng ứng dụng trong thị trường thương mại, hai album trước đó là Biophilia của Björk (2011) và Magna Carta... Holy Grail của Jay-Z (2013). Album cùng các ứng dụng của nó ban đầu được đặt hàng bắt đầu từ ngày 1 tháng 9 năm 2013, tuy nhiên, Gaga sau đó đã thông báo trên Facebook của cô ấy rằng các đơn đặt hàng cho album và các ứng dụng của album sẽ được phục vụ sớm hơn từ ngày 19 tháng 8 năm 2013. Lý do để đẩy việc bán album lên sớm như vậy vào tháng 8 là để phù hợp với kế hoạch phát hành đĩa đơn đầu tiên từ album "Applause". Quảng bá. Về thông báo việc phát hành album chính thức, ngày 12 tháng 7 Gaga có đề cập đến việc cô sẽ tổ chức các bữa tiệc đêm "artRave" trước ngày album ra mắt cũng như giới thiệu các dự án mà cô đã hợp tác với Haus of Gaga, bộ đôi nhiếp ảnh gia người Hà Lan Inez van Lamsweerde và Vinoodh Matadin, giám đốc nhà hát Robert Wilson, nghệ sĩ biểu diễn Marina Abramović và Jeff Koons. Những hình ảnh quảng bá đầu tiên cho album được tiết lộ đó là hình chụp Gaga bán nude, trên mặt cô mang một chiếc mặt nạ trong suốt (đây là thiết kế của Isabell Yalda Hellysaz đến từ trường Cao đẳng Thời trang London) và với mái tóc nâu xõa cùng hàng chữ "ARTPOP" được xăm trên tay trái. Một hình ảnh quảng bá khác được công bố là hình Gaga bán nude, đứng trong một tư thế đầy khiêu khích với cánh tay robot giả và mái tóc nâu dài xõa xuống. Bức ảnh chính thức thứ ba là hình ảnh Gaga khỏa thân hoàn toàn, cô ngồi lên một chiếc ghế làm bằng vi mạch điện tử, đeo một cặp kính mắt và để lộ ra ở đùi trái hình xăm kì lân của mình. Vào ngày 25 tháng 7 năm 2013, MTV đã công bố rằng Gaga sẽ biểu diễn "Applause" tại MTV Video Music Awards 2013 vào ngày 25 tháng 8 năm 2013. Gaga đồng thời quảng bá cho album của mình trong iTunes Festival diễn ra vào ngày 1 tháng 9 năm 2013. Đĩa đơn. "Applause" được phát hành là đĩa đơn mở đường cho album vào ngày 12 tháng 8 năm 2013, sau đó nó được phát trên đài phát thanh quốc gia của Mỹ vào ngày 20 tháng 8 năm 2013. Bìa đĩa đơn được Gaga tiết lộ trên Twitter, với hình ảnh cận cảnh gương mặt của Gaga với phong cách trang điểm ma quái "Pop-art" như một chú hề. Video âm nhạc cho "Applause" được phát hành vào ngày 19 tháng 8 năm 2013 trên kênh Vevo chính thức của cô. Video được quay tại Los Angeles bởi Inez van Lamsweerde và Vinoodh Matadin, cũng là những người thực hiện hình ảnh cho bìa đĩa đơn. Do sự rò rỉ video của bài hát, bao gồm cả phiên bản chất lượng cao và chất lượng thấp, "Applause" đã được cho phát hành sớm hơn vào ngày 12 tháng 8 năm 2013. "Do What U Want" là đĩa đơn thứ 2 trích từ album vào ngày 21 tháng 10 năm 2013, bìa đĩa đơn là hình ảnh vòng 3 của Gaga.
1
null
Lawrence Joseph "Larry" Ellison (sinh 17 tháng 8 năm 1944) là một ông trùm tư bản người Mỹ, đồng sáng lập và giám đốc điều hành của tập đoàn Oracle, chuyên về phần mềm quản trị. Tính đến tháng 3 năm 2019, ông được tạp chí Forbes liệt kê là người giàu thứ ba ở Hoa Kỳ và là người giàu thứ sáu trên thế giới, với khối tài sản 62,5 tỷ đô la, tăng từ 58,5 tỷ đô la vào năm 2018., và tính đến tháng 10 là 68 tỷ đô la Tuổi trẻ. Larry Ellison sinh tại thành phố New York, mẹ ông là một người Do Thái chưa kết hôn cha của ông là một phi công không quân Mỹ gốc Italia. Sau khi ông bị viêm phổi lúc mới chín tháng tuổi, mẹ ông đã đưa ông cho cô và chú của bà để làm con nuôi. Ellison đã không gặp lại mẹ ruột của mình cho đến khi ông 48 tuổi Ellison đã tốt nghiệp trường phổ thông Eugene Field ở Chicago tháng 1 năm 1958 rồi theo học trường trung học Sullivan ít nhất cho đến hết mùa xuân năm 1959 trước khi chuyển đến South Shore. Ông sống trong một căn hộ hai phòng ngủ tại khu trung lưu của người Do Thái ở South Shore, Chicago. Ellison nhớ lại rằng mẹ nuôi của ông, Lillian Ellison, là người đằm thắm và giàu tình cảm, trái ngược với người cha nuôi Louis Ellison khắc khổ, lạnh nhạt và hay xa nhà. Louis đã chọn họ Ellison để ghi nhớ nơi ông đã nhập cảnh vào Mỹ, đảo Ellis. Mặc dù Ellison lớn lên trong một gia đình theo đạo Do Thái cải cách, cha mẹ nuôi thường xuyên đến giáo đường Do Thái, ông vẫn là một người hoài nghi tôn giáo. Ellison đã nói rằng: "Trong khi tôi cho rằng tôi cũng là một người mộ đạo theo cách hiểu nào đó, những giáo điều đạo Do Thái lại không phải những giáo điều tôi chấp nhận. Tôi không tin rằng chúng là thật. Chúng là những câu chuyện thú vị. Chúng là những truyền thuyết thú vị và tôi chắc chắn tôn trọng những người tin đây là đúng theo nghĩa đen, nhưng tôi thì không... Tôi chẳng thấy thuyết phục gì với những thứ này". Khi 13 tuổi, Ellison đã từ chối nghi lễ "bar mitzvah" (đánh dấu tuổi 13 cho người Do Thái). Ellison là một học sinh sáng dạ nhưng thiếu tập trung. Ông đã rời đại học Illinois tại Urbana-Champaign sau năm thứ 2, không làm bài thi cuối năm vì mẹ nuôi của ông vừa qua đời. Sau mùa hè ở Bắc California, Ellison theo học đại học Chicago một học kỳ, tại đây lần đầu tiên ông tiếp cận với thiết kế máy tính. Năm 1966, 22 tuổi, Ellison chuyển đến bắc California. Sự nghiệp. Trong những năm 1970, sau một thời gian ngắn tại tập đoàn Amdahl, Ellison làm việc cho tập đoàn Ampex. Một trong các dự án của ông là xây dựng cơ sở dữ liệu cho CIA, ông đặt tên nó là "Oracle". Ellison lấy cảm hứng từ bài báo của Edgar F. Codd viết về các hệ thống cơ sở dữ liệu liên kết gọi là "A Relational Model of Data for Large Shared Data Banks". Năm 1977, ông thành lập "Phòng thí nghiệm Phát triển Phần mềm" ("Software Development Laboratories" SDL) với hai cộng sự và một khoản đầu tư 2.000 USD; riêng ông đóng góp 1.200 USD. Năm 1979, công ty đổi tên thành "Relational Software Inc.", sau đó lại đổi thành "Oracle" theo tên sản phẩm then chốt Oracle Database. Ông đã nghe nói đến cơ sở dữ liệu IBM System R, cũng dựa trên lý thuyết của Codd và ông muốn Oracle tương thích với nó, nhưng điều này là không thể vì IBM từ chối chia sẻ mã của System R. Oracle phát hành lần đầu là Oracle 2; không có Oracle 1.
1
null
Quan hệ ngoại giao Việt Nam-Angola được thiết lập tháng 8 năm 1971, bốn năm trước khi Angola giành độc lập, khi mà tổng thống tương lai của Angola Agostinho Neto sang thăm Việt Nam. Xây dựng quan hệ. Tháng 2 năm 1974, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hoan nghênh trận đánh năm 1961 tại Cassanje, trận mở đầu cho chiến tranh giành độc lập của Angola. Tháng 1 năm 1975, lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng Nguyễn Hữu Thọ đã gửi lời chúc mừng nồng nhiệt nhất đến các nhà lãnh đạo của Phong trào Nhân dân Giải phóng Angola (MPLA), Mặt trận Giải phóng Quốc gia Angola (FNLA) và Liên minh Quốc gia vì sự độc lập toàn vẹn của Angola (UNITA) sau khi ký kết thỏa thuận Alvor. Vào cuối tháng 10, Báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, có lời ủng hộ MPLA, lên án lực lượng đế quốc và bè lũ phân biệt chủng tộc Nam Phi. Thủ tướng Phạm Văn Đồng công nhận Cộng hòa Nhân dân Angola ngày 12 tháng 11, một ngày sau khi tổng thống Neto tuyên bố độc lập. Chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam đã ngăn chặn sự tham gia của nước ngoài vào cuộc nội chiến ở Ăng-gô-la vì cả Liên Xô và Hoa Kỳ đều không muốn bị lôi kéo vào một cuộc xung đột nội bộ có tầm quan trọng gây tranh cãi về mặt chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh. Walter Cronkite, phát thanh viên của CBS đã phát đi thông điệp này trong các chương trình phát sóng của mình để "cố gắng đóng vai trò nhỏ bé của chúng tôi để ngăn chặn sai lầm đó lần này." Bộ Chính trị tham gia vào cuộc tranh luận sôi nổi về mức độ mà Liên Xô sẽ ủng hộ tiếp tục tấn công bởi MPLA vào tháng 2 năm 1976. Bộ trưởng Ngoại giao Andrei Gromyko và Thủ tướng Alexei Kosygin dẫn đầu một phe ủng hộ ít ủng hộ MPLA hơn và nhấn mạnh hơn vào việc bảo tồn détente với phương Tây. Leonid Brezhnev, người đứng đầu Liên Xô khi đó, đã chiến thắng chống lại phe bất đồng chính kiến ​​và liên minh của Liên Xô với MPLA tiếp tục ngay cả khi Neto công khai tái khẳng định chính sách không liên kết của mình tại lễ kỷ niệm 15 năm của cuộc nổi dậy đầu tiên. Chiến tranh Lạnh. Ăng-gô-la tiếp tục ủng hộ Việt Nam trước sự phản đối của nước ngoài làm tổn thương mối quan hệ của Ăng-gô-la với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô. Agostinho Neto, Tổng thống Angola từ 1975 đến 1979, đã lên án cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam vào tháng 2 năm 1979. Neto, không tin tưởng vào sự lãnh đạo của Liên Xô sau một nỗ lực vào cuộc sống của mình, đã đứng cùng với nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro ở Havana khi ông gọi Ăng-gô-la, Cuba và Việt Nam là lõi chính chống đế quốc Hồi giáo vào tháng 7 năm 1976. Các chuyến thăm và thỏa thuận. Tổng thống Angola, ông Jose Eduardo dos Santos đã đến thăm Việt Nam vào tháng 4 năm 1987, Ngoại trưởng Paulo Jorge đã đến thăm năm 1979, Bộ trưởng Ngoại giao João Bernardo de Miranda đã đến thăm vào tháng 5 năm 2004 và Chủ tịch Quốc hội Roberto de Almeida đã đến thăm Việt Nam vào tháng 10 năm 2004. Phó Chủ tịch Việt Nam của Hội đồng Nhà nước Nguyễn Hữu Xương đã đến thăm Angola vào tháng 10 năm 1978, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp vào tháng 12 năm 1980, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm vào tháng 3 năm 1995, và Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã đến thăm vào tháng 10 năm 2002. MPLA và Đảng Cộng sản Việt Nam đã ký một thỏa thuận hợp tác vào tháng 5 năm 1983, một hiệp định thương mại vào tháng 5 năm 1978 và các hiệp định kinh tế khác nhau vào các năm 1979, 1984, 1995, 1996, 2002 và 2004. Đại sứ quán, lãnh sự quán. - Tại Việt Nam: - Tại Angola:
1
null
Ráng ổ phụng có tên khoa học là Asplenium nidus, là một loài thực vật có mạch trong họ Can xỉ Aspleniaceae. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. Phân bố tự nhiên. Ráng đuôi phụng có nguồn gốc từ miền đông nhiệt đới châu Phi (ở Tanzania, bao gồm Quần đảo Zanzibar); Châu Á vùng ôn đới và nhiệt đới (ở Indonesia; Đông Timor; đảo Kyushu và quần đảo Ryukyu của Nhật Bản; Malaysia; Philippines; Đài Loan và Thái Lan) và ở Australasia (ở phía bắc của Queensland). Môi trường sống. Ráng đuôi phụng là dạng thực vật biểu sinh hoặc mọc trên đất, nhưng luôn phát triển trên chất hữu cơ. Loại dương xỉ này thường sống trên các cây cọ, nơi nó thu thập nước và mùn trong lá dạng hoa hồng. Loài cây này phát triển mạnh ở những khu vực ấm áp, ẩm ướt trong bóng râm một phần hoặc hoàn toàn. Nó không ưa ánh nắng trực tiếp và thích ở trong bóng râm đầy đủ trên giá thể quay mặt về phía bắc.
1
null
Scent of a Woman là một phim điện ảnh Mỹ ra mắt năm 1992 do Martin Brest làm đạo diễn. Phim kể câu chuyện về một học sinh dự bị đại học làm thêm nhân dịp nghỉ Lễ Tạ ơn trong vai trò trợ lý của một vị sĩ quan quân đội khiếm thị, cáu kỉnh và đã về hưu. Phim có sự góp mặt của Al Pacino, Chris O'Donnell, James Rebhorn, Philip Seymour Hoffman và Gabrielle Anwar. Đây là bản làm lại của bộ phim Ý "Profumo di donna" ra mắt năm 1974 do Dino Risi làm đạo diễn. Phim được Bo Goldman chuyển thể từ tiểu thuyết "Il buio e il miele" (dịch nghĩa: "Bóng tối và mật ong") của nhà văn Giovanni Arpino và từ kịch bản phim năm 1974 của Ruggero Maccari và Dino Risi. Pacino đã đoạt Giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho diễn xuất, đồng thời bộ phim được đề cử Giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất, Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất và Giải Oscar cho kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất. Phim thắng ba giải lớn tại Giải Quả cầu vàng: Giải Quả cầu vàng cho kịch bản hay nhất, Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất và Giải Quả cầu vàng cho phim chính kịch hay nhất. Phim được quay chủ yếu ở vùng quanh New York của Hoa Kỳ. Một số phần của phim được quay tại Đại học Princeton ở Princeton, tiểu bang New Jersey; tại Trường nữ sinh Emma Willard ở Troy, tiểu bang New York và tại Trường Ethical Culture Fieldston ở thành phố New York. Cốt truyện. Charlie Simms là học sinh một trường dự bị đại học danh tiếng ở tiểu bang New England. Khác với các bạn đồng môn, Charlie không phải là đứa con của một gia đình giàu có. Để có tiền mua vé bay về tiểu bang Oregon dự Lễ Giáng sinh cùng gia đình, Charlie chấp nhận làm thêm nhân dịp Lễ Tạ ơn vào cuối tuần. Nhiệm vụ của cậu là chăm sóc Trung tá biệt động về hưu từng tham gia Chiến tranh Việt Nam là Frank Slade - một người khiếm thị hay gắt gỏng và mắc chứng nghiện rượu. Charlie và George Willis, Jr. - bạn học tại trường - đã chứng kiến cảnh một số học sinh bày trò chơi khăm thầy hiệu trưởng Trask. Sau vụ chơi khăm, Trask gây sức ép buộc Charlie và George phải tiết lộ tên của các thủ phạm. Trask đề xuất một khoản tiền và một lá thư giới thiệu hầu như đảm bảo một suất đến Đại học Harvard dành cho Charlie. Charlie tiếp tục giữ im lặng nhưng có vẻ mâu thuẫn trong suy nghĩ. Ít lâu sau khi Charlie đến nhà, Slade bất ngờ kéo Charlie bay cùng ông đến thành phố New York. Slade đặt phòng tại khách sạn Waldorf-Astoria. Trong bữa ăn tối tại một nhà hàng thượng hạng, Slade lém lỉnh nói về mục đích của chuyến đi đến thành phố, tận hưởng phòng nghỉ sang trọng ở New York trước khi tự sát. Charlie được Slade đưa về và không biết rằng liệu điều Slade nói là nghiêm túc hay không. Hai người bất ngờ đến ăn tối cùng người anh trai của Slade nhân dịp Lễ Tạ ơn. Chuyến thăm này là một điều bất ngờ không mấy thích thú xét về phía gia đình kia do Slade chủ tâm chọc tức tất cả mọi người, khiến buổi tối kết thúc trong sự gay gắt. Nguyên nhân Slade bị mù cũng được tiết lộ trong khoảng thời gian này. Sau khi hai người trở về New York, Charlie cho Slade biết về những phức tạp ở trường học. Slade khuyên cậu khai báo việc làm của các bạn và đến Harvard học, cảnh báo cậu rằng George hầu như chắc chắn sẽ bị ép phải nói ra sự thật. Lúc sau ở một nhà hàng nọ, Slade để ý đến Donna - một cô gái trẻ đang đợi tình nhân. Mặc dù bị khiếm thị nhưng Slade vẫn dẫn dắt Donna qua một vũ điệu tango ("Por una Cabeza") rất đẹp mắt. Đêm đó, Slade thuê phòng cùng một cô gái bán hoa. Sáng hôm sau, Slade tỏ ra vô cùng chán nản. Ông đáp lại lời đề nghị của Charlie rằng họ sẽ lái thử một chiếc Ferrari. Charlie để Slade lái xe, và ông bắt đầu tăng tốc, thu hút sự chú ý của cảnh sát viên (Ron Eldard) - người mà Slade cố gắng nhượng bộ nhưng vẫn không để lộ rằng ông bị mù. Sau khi quay về khách sạn, Slade đưa cho Charlie một danh sách các việt lặt vặt. Lúc đầu Charlie rời phòng nhưng nhanh chóng sinh nghi và quay lại. Cậu thấy Slade mặc quân phục và đang chuẩn bị tự sát bằng một khẩu súng; đây là khẩu súng mà lúc trước Charlie đã yêu cầu Slade hứa phải tháo hết đạn, tuy nhiên khi này Slade bảo "Tôi đã nói dối". Charlie can thiệp và cố giật lấy khẩu súng của Slade. Tuy nhiên, Slade dễ dàng chế ngự cậu và đe dọa sẽ bắn Charlie trước. Cả hai tranh cãi kịch liệt và đều cố giành giật khẩu súng. Tuy vậy, sau khi Charlie dũng cảm trấn tĩnh Slade thì ông đã rút lại ý định. Cặp đôi quay về New England. Tại trường, Charlie và George là đối tượng của một cuộc thẩm tra chính thức trước mặt các học sinh toàn trường và ủy ban kỷ luật. Khi hiệu trưởng Trask đọc lời mở đầu, Slade bất thình lình quay lại trường của Charlie và tham gia bảo vệ cậu tại hội trường. Để bảo vệ mình, George tranh thủ sự giúp đỡ từ người cha giàu có và khai ra tên những kẻ bày trò chơi khăm, đồng thời biện bạch rằng cậu không nhìn thấy rõ vào đêm đó. Khi bị ép phải khai chi tiết hơn thì George quay sang đẩy gánh nặng lên vai Charlie. Mặc dù phải đấu tranh nội tâm khi ra quyết định nhưng Charlie vẫn không khai ra, vì thế Trask cho rằng cần đuổi học cậu. Đến lúc này, Slade không thể chịu được nữa và liền đăng đàn phát biểu rất sôi nổi nhằm bảo vệ Charlie và chất vấn về tính chính trực của một hệ thống mà tại đó việc tố cáo bạn học lại được khuyến khích. Ông cho họ biết rằng Charlie đã tỏ ra chính trực trong các hành động của cậu, rằng ủy ban không nên đuổi học cậu do việc cậu làm đã thể hiện tố chất làm nên những nhà lãnh đạo vĩ đại và rằng cậu sẽ khiến họ thấy tự hào trong tương lai. Ủy ban kỷ luật quyết định tạm tha cho các học sinh mà George nêu tên, đồng thời không công nhận cũng như không khen ngợi lời khai của George. Họ tha tội cho Charlie và cho phép cậu không phải trả lời chất vấn nữa. Trong hội trường vang lên tiếng vỗ tay của đông đảo học sinh. Khi Charlie tiễn Slade ra xe limousine của ông, một nữ giáo viên dạy môn khoa học chính trị tên là Christine Downes - thành viên của ủy ban kỷ luật - đến khen ngợi bài phát biểu của ông. Charlie cho cô Downes biết rằng Slade từng phục vụ Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson. Phim cho thấy một viễn cảnh tình cảm giữa Slade và Downes khi họ chia tay nhau. Charlie đưa Slade về nhà rồi họ chia tay nhau. Slade bước vào nhà và đón chào cô cháu gái nhỏ một cách hạnh phúc. Sản xuất. "Scent of a Woman" được quay tại những địa điểm sau ở Hoa Kỳ: Đón nhận. Những lời phê bình tích cực dành cho "Scent of a Woman" chiếm vị thế áp đảo. Phim đạt 88% trên trang web Rotten Tomatoes, và 7,8/10 sao trên trang web IMDB.com dựa trên 29 phê bình. Pacino thắng Giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất - giải thưởng đầu tiên trong sự nghiệp của ông sau bốn đề cử nhận được trước đó. Một số người chỉ trích bộ phim vì độ dài của nó. Todd McCarthy từ tạp chí "Variety" cho rằng phim "dư thừa gần 1 giờ đồng hồ". David Ansen từ tạp chí "Newsweek" tin rằng "hình tượng hai nhân vật không đủ bảo đảm cho thời lượng 2,5 giờ". Công nhận của Viện phim Mỹ. Câu cửa miệng "Hoo-ah!" của Trung tá Slade được đề cử cho Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ Doanh thu phòng vé. Phim thu được 63.095.253 USD tại thị trường Hoa Kỳ và 71 triệu USD tại thị trường quốc tế, tổng cộng thu về 134.095.253 USD trên toàn cầu.
1
null
Matteuccia struthiopteris là một loài thực vật có mạch trong họ Woodsiaceae. Loài này được (L.) Tod. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1866. Phân bố. Đâylà một loài thực vật hình thành tán, hình thành quần thể, mọc ở các vùng ôn đới của Bắc bán cầu ở trung và bắc Âu, bắc Á, và bắc Bắc Mỹ. Loài cây này ưa thích các bờ sông và bãi cát, nhưng lan sang các lớp đá bên để tạo thành các quần thể. Do đó, chúng có thể hình thành các thuộc địa dày đặc có khả năng chống lại sự phá hủy của nước lũ.
1
null
Sphaeropteris cooperi là một loài thực vật có mạch trong họ Cyatheaceae. Loài này được (F. Muell.) R.M. Tryon miêu tả khoa học đầu tiên năm 1970. Đây là loài bản địa Australia, ở New South Wales và Queensland. "Sphaeropteris cooperi" là loài dương xỉ có kích cỡ vừa đến lớn mọc nhanh, cao đến với thân cây dày đến
1
null
KTM Sportmotorcycle AG là một nhà sản xuất xe ôtô, moto và xe đạp của Áo. Công ty được sáng lập vào năm 1934 bởi kĩ sư Hans Trunkenpolz tại Mattighofen. Khởi đầu là một cửa hàng gia công kim loại và được đặt tên là "Kraftfahrzeuge Trunkenpolz Mattighofen". Vào năm 1954, KTM bắt đầu sản xuất xe moto. KTM thường được biết đến với các mẫu xe địa hình(off-road), mặc dù những năm gần đây đã mở rộng sản xuất sang các loại xe dùng cho đường phố.
1
null
Chi Cần trôi (danh pháp Ceratopteris), còn có tên quyết gạc nai, ráng gạc nai, là một chi thực vật có mạch trong họ Pteridaceae. Các tên khác. Trong tiếng Anh, cần trôi có nhiều tên khác là "water sprite" (thủy thần), "Indian fern" (dương xỉ Ấn Độ), "water fern" (dương xỉ nước), "water hornfern" (dương xỉ sừng nước), "oriental waterfern" (dương xỉ nước phương Đông). Các loài. Có lúc, một số cơ quan chức năng công nhận chỉ có một chi nhưng ngày nay thì công nhận chỉ có bốn loài. Tuy nhiên, công trình gần đây của Masuyama và Watano đã xác định rằng "Ceratopteris" thực sự bao gồm bốn loài bí ẩn ("thalictroides", "froesii", "gaudichaudii", "oblongibloba"). Phân loại cao hơn. Ceratopteris từ lâu đã được đặt trong họ đơn bào "Parkeriaceae", được cho là duy nhất vì nó có thể thích nghi môi trường thủy sinh. Tuy nhiên, phân tích di truyền gần đây cho thấy nó liên quan rõ ràng với Acrostichum, trong họ Pteridaceae. Phân bố. Cần trôi là một chi thực vật thủy sinh phổ biến ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á. Ở Việt Nam thường gặp mọc nhiều ở các ao hồ, ruộng chua, nơi đất bùn, bờ suối, những nơi có bóng râm. Đặc điểm. Cần trôi là một chi dương xỉ sống trong môi trường có nhiệt độ 20 - 30 độ C, pH 5,8 - 7,2, ánh sáng từ thấp đến cao. Cây có thân rễ mọc đứng. Lá cây mềm mại nhỏ, có màu xanh ngọc và mọc thành túm. Cuống lá dày, mọng nước, trần, xốp, phiến không sinh sản nổi hay dựng đứng chỉ hơi khía ở cây còn non và xẻ lông chim sâu hai lần ở cây đã trưởng thành như là rau cần. Lá chét bậc nhất mọc so le, có cuống, các đoạn cuối cùng hình thuôn, dạng ngọn giáo, gân hình mạng. Các phiến lá mang bộ phận sinh sản ở mặt dưới thì hẹp hơn và phải nhánh như sừng nai. Cây sinh sản từ tháng 6 đến tháng 8. Màu chính xác của cây phụ thuộc vào lượng ánh sáng. Cần trôi tăng trưởng rất nhanh chóng, bền bỉ, hấp thụ rất tốt các chất hữu cơ thừa và sản xuất ra rất nhiều oxy trong nước. Một trong các lý do mà cần trôi nổi tiếng là do chúng có thể phát triển ngay cả khi không cần trồng xuống nền. Sử dụng. Thực phẩm. Rau cần trôi được làm thức ăn cho gia súc và được coi là một loại rau dại, khi cần thiết có thể lấy ăn. Các lá non cần trôi được dùng làm rau ăn như các loại cải, dùng xào luộc hay nấu canh và cũng dùng ăn giống như măng tây. Y học. Ở Malaysia, người ta dùng lá cần trôi để đắp trị các bệnh ngoài da, thuốc lợi tiểu, điều kinh. Thủy sinh cảnh. Do những đặc điểm có nhiều thuận lợi trên nên cần trôi lá lớn lẫn lá nhỏ là các loài thực vật thủy sinh phổ biến rất được ưa chuộng được trồng trên nền cứng, có thể gài cây vào khe đá, lũa hoặc các loại vật liệu trang trí khác hoặc thậm chí làm thực vật nổi để trang trí hậu cảnh các hồ cá thủy sinh.
1
null
Orlan-10 (Орлан-10) là loại máy bay không người lái tầm trung được phát triển bởi công ty Trung tâm Công nghệ đặc biệt tại Nga để trinh sát thu thập tin tức trong các khu vực có địa hình phức tạp và tìm kiếm cứu nạn. Máy bay đã vượt qua được các cuộc thử nghiệm cấp nhà nước để được đưa vào sử dụng trong cả quân đội và dân sự. Đại diện của Lục quân, những đơn vị sẽ khai thác trinh sát chiến thuật, đã hài lòng với loại máy bay này khi thử nghiệm. Thiết kế. Orlan-10 sử dụng động cơ xăng cánh quạt với lực cất cánh tối tối đa là 15 kg với tải trọng thiết bị của máy bay là 6 kg, tốc độ bay là 90–150 km/h, bán kính bay có điều khiển là 120 km hoặc 600 km nếu bay ở chế độ tự động, trần bay 5000 mét, có thể hoạt động liên tục trong 16 giờ. Máy bay sẽ cất cánh bằng một máy phóng cỡ nhỏ và hạ cánh bằng dù. Hệ thống phóng của máy bay có thể gắn trên xe tải hạng nhẹ UAZ-469 hoặc mọi loại xe có tải trọng tương đương. Máy bay có một thiết kế khí động học với độ ổn định cao cho việc hoạt động trong vùng thời tiết xấu. Vỏ máy bay làm bằng vật liệu composite đặc biệt, giúp giảm mức độ bộc lộ trước radar đối phương. Các trang bị trinh sát gắn trên máy bay như máy ảnh hay máy quay sẽ được giữ ổn định bằng con quay hồi chuyển cũng như có thể nhanh chóng tháo lắp các thiết bị chuyên dụng cần thiết cho nhiệm vụ. Hệ thống điều khiển mặt đất có thể điều khiển một lúc 4 máy bay, các trạm này có thể kết nối với nhau để vận hành cùng lúc 30 chiếc giúp mở rộng vùng hoạt động, nếu cần thiết thì việc điều khiển máy bay qua các trạm kết nối sẽ được giao cho một trạm chính. Máy bay có khả năng bay tự động và chụp ảnh, chỉ việc nhập tọa độ và độ cao máy bay sẽ tự động bay đến vị trí thông qua hệ thống định vị toàn cầu GLONASS hay GPS, thu thập thông tin sau đó mang về nếu vượt quá phạm vi liên lạc của trạm điều khiển. Orlan có vai trò chủ yếu là trinh sát. Nhờ thông tin của Orlan, pháo binh Nga có thể phản ứng chỉ trong vòng 3 phút kể từ khi Orlan bay qua vị trí của đối phương, khiến mục tiêu khó thoát kịp khỏi trận pháo kích. Nếu không có Orlan, thời gian phản ứng có thể kéo dài tới 20 phút và các mục tiêu có thể trốn thoát. Bộ Quốc phòng Ukraine đăng video một binh sĩ tháo dỡ một chiếc Orlan-10 của quân đội Nga bị rơi trên đất Ukraine. Đoạn video được chia sẻ trên Twitter cho thấy người lính Ukraine đang kéo ra một chiếc máy ảnh DSLR Canon EOS 750D dành cho thị trường dân sự và một nắp chai nhựa, có thể là chai nước khoáng được sử dụng làm nắp bình xăng. Một số linh kiện được gắn vào chiếc máy bay bằng cách sử dụng băng keo. Chiếc máy ảnh Canon DSLR được gắn vào máy bay không người lái bằng băng keo để máy ảnh không bị tắt vô tình trong chuyến bay. Trong chiến dịch ở Ucraina năm 2022, dựa trên kinh nghiệm chiến trường, Nga đã cải tiến các máy bay Orlan-10 trở thành máy bay ném bom mini thay vì chỉ dùng để trinh sát. Những chiếc Orlan-10 này được gắn một số quả lựu đạn bên dưới cánh và bụng, trông giống phiên bản lựu đạn 40mm VOG-25P. Khi phát hiện các mục tiêu nhỏ lẻ, không tới mức phải gọi pháo binh hoặc không quân oanh kích, Orland-10 sẽ thả những quả lựu đạn này để tấn công mục tiêu (thay vì bỏ qua mục tiêu đó như trước đây). Video do Bộ Quốc phòng Ukraine công bố cho thấy Orlan-10 của Nga không sử dụng công nghệ cao như người ta tưởng. Để phù hợp với vai trò của một UAV trinh sát hạng nhẹ giá rẻ, Orland sử dụng nhiều linh kiện dân dụng để giảm thiểu chi phí chế tạo Giá của mỗi hệ thống đầy đủ (gồm 2 chiếc máy bay Orland-10, bệ phóng di động, trạm điều khiển và bộ phụ tùng sửa chữa) là 5 triệu rubles, hoặc ~160.000 USD (năm 2013). Năm 2022, Orlan-10 được cho là có giá từ 5 đến 7 triệu rúp (87.000 đến 120.000 USD) cho mỗi chiếc máy bay. Orlan-10 được sản xuất bằng nhiều bộ phận được mua trên thị trường dân dụng từ nhiều nước khác. Một số công ty sản xuất các bộ phận được dùng cho máy bay không người lái Orlan-10 là Lynred (Pháp), AxisIPVideo (Thụy Điển), Cirocomm (Đài Loan/Trung Quốc), Ublox (Thụy Sĩ), XilinxInc (Mỹ), AllianceMemory (Mỹ), Sony Playstation, Saito (Nhật Bản, nhưng động cơ sản xuất tại Trung Quốc). Do là linh kiện dân dụng nên những nguồn cung này khá dễ tìm và không bị ảnh hưởng bởi các biện pháp cấm vận từ Mỹ và châu Âu Orlan-10 sử dụng động cơ FG-40 Saito Seisakusho sản xuất. Nhìn chung, tình hình xuất khẩu trái phép các sản phẩm "lưỡng dụng" không chỉ ở Nhật Bản mà trên toàn thế giới đang diễn ra khá phức tạp. Việc xuất khẩu như vậy rất khó kiểm soát thông qua các cơ chế kiểm soát xuất khẩu thông thường. Vụ án tham nhũng. Andrey Polshkov, 51 tuổi, Phó Giám đốc phụ trách tài chính của STD-Radiks LLC và giám đốc Công ty cổ phần Nhà máy Kazan Elektropribor Pavel Shatskikh đã bị tòa án ở Kazan buộc tội tham nhũng và bị bắt. Bằng cách tăng giá bất hợp pháp các thành phần để sản xuất máy bay không người lái Orlan- 10 ở St.Petersburg, họ đã biển thủ 446 triệu rúp từ ngân sách. Hoạt động chiến đấu. Orlan-10 đã được sử dụng trên chiến trường Nga - Ukraine năm 2022 và quân đội Nga đã mất 50 chiếc Orlan trong ba tháng chiến sự đầu tiên. Theo Bộ Quốc phòng Anh, tổn thất Orland với tốc độ hiện tại sẽ làm suy giảm khả năng tình báo của các lực lượng Nga, cản trở khả năng tiếp tục cuộc chiến của họ. Tuy nhiên, vào tháng 7/2023, Bộ trưởng quốc phòng Nga thông báo sản lượng chế tạo Orlan-10 và Orlan-30 của nước này đã tăng 53 lần kể từ đầu năm 2022 Thiết kế của Orlan có tính đa dụng cao, sử dụng phần lớn là các linh kiện dân dụng giá rẻ và dễ mua, nên quân đội Nga có thể dễ dàng sản xuất số lượng lớn để thay thế những chiếc Orland bị mất trong chiến đấu.
1
null
Vũ công thoát y còn được gọi là thoát y vũ, vũ công khiêu dâm hoặc vũ công nhảy gợi dục là những người phụ nữ biểu diễn một hình thức múa hiện đại với hình thức múa thoát y tại các tụ điểm giải trí như quán bar, vũ trường, hộp đêm, sàn nhảy hoặc những nơi triển lãm công cộng với hình ảnh đặc trưng là các vũ nữ múa cột (pole dance) với những cô gái uốn éo quanh những cái cột bằng kim loại sáng bóng. Việc biểu diễn múa thoát y gắn kết với sự tương tác của khách hàng và vũ công và theo đó là tốc độ cởi quần áo khi múa. Không phải tất cả vũ nữ thoát y sẽ kết thúc vai diễn của họ bằng cách hoàn toàn khỏa thân, mặc dù ảnh khoả thân là phổ biến mà pháp luật nhiều nước không cấm. Phần lớn ý kiến cho rằng các động tác trong múa cột mang tính gợi dục dù cố ý hay vô tình, và do đó không phù hợp với thuần phong mỹ tục của một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam và có ý kiến cho rằng vũ nữ thoát y là một hình thức mại dâm trá hình dưới dạng tiếp viên nữ ăn mặc hở hang và phục vụ cho mọi nhu cầu của khách hàng cùng với nhiều chiêu trò để câu tiền của khách hàng.
1
null
Gestaltzfall là một loại ảo giác do các tế bào thần kinh nhận biết của não bộ nảy sinh phản ứng. Ngoài ra, hiện tượng này còn được gọi là hoàn hình băng hoại. Khi liên tục nhìn vào những thứ tương đồng thì những tế bào đó sẽ trở nên mệt mỏi, khả năng nhận biết giảm sút, dẫn đến hiện tượng lo lắng, rối loạn vì không chắc chăn là mình đúng, dù đôi lúc chúng thật sự rất đơn giản. Bình thường, ai cũng có thể bắt gặp hiện tượng này nhưng phần lớn chúng ta hay bị vào những lúc mệt mỏi hay căng thẳng. Các số liệu lai cho thấy rằng những người sống ở các nước sử dụng hán tự là dễ gặp hơn cả. Ví dụ điển hình là chữ waka ở trong tiếng Nhật. Chữ waka trong bộ kanji viết gần giống chữ thanh niên và đây cũng là một trong những ký tự tiếng hán dễ bị hoàn hình băng hoại nhất.
1
null
Cantigas de Santa Maria ("Canticles of Holy Mary"; , ) là một bộ sưu tập gồm 420 bài thơ có ký hiệu âm nhạc được viết bằng tiếng Galicia-Bồ Đào Nha dưới thời cai trị của Alfonso X El Sabio và được cho là do ông sáng tác. Đây là một trong những bộ sưu tập đơn âm lớn nhất từ thời trung cổ với rất nhiều các hình thức vẫn còn đang được nghiên cứu. Sơ lược. Các Cantigas được viết bằng tiếng Galicia-Bồ Đào Nha. Các Cantigas gồm 420 bài thơ; 356 trong số đó nói về phép lạ Đức Mẹ, phần còn lại là các truyền thuyết liên quan đến Đức Mẹ. Có 280 hình thức trong 420 bài thơ mà phổ biến nhất là virelai và rondeau. Bản thảo. Các Cantigas được bảo quản trong bốn bản thảo: "To" (códice de Toledo, Biblioteca Nacional de España, MS 10069), "T" (Biblioteca de El Escorial, MS T.I.1), "F" (códice de Florencia, Florence, Biblioteca Nazionale, MS b.r. 20) and "E" (códice de los músicos, Biblioteca de El Escorial MS B.I.2). "E" có số lượng bài hát lớn nhất (460 cantigas), "To" chứa 129 bài hát, "T" chứa 195 bài hát có các tiểu cảnh minh họa, "F" có 111 ca khúc. Liên kết ngoài. Dưới đây là các bản ghi âm các Cantigas de Santa Maria
1
null
Chim cận biết hót Cựu thế giới hoặc Phân thứ bộ Mỏ rộng (danh pháp khoa học: Eurylaimides) bao gồm khoảng 53 loài chim cận biết hót, chủ yếu phân bố trong khu vực Cựu thế giới, trong đó có 33 loài đuôi cụt (Pittidae), 4 loài asity (đuôi cụt Madagascar, Philepittidae) ở Madagascar, 15 loài mỏ rộng (Eurylaimidae) và 1 loài Sapayoa ở châu Mỹ. Nhánh này đã được tổ chức lại trong thời gian gần đây. Irestedt và ctv (2006b) đã đề xuất việc phục hồi họ Calyptomenidae cho nhóm mỏ rộng bao gồm 2 chi "Smithornis" và "Calyptomena". Phân loại học. Loài Sapayoa mỏ rộng ("Sapayoa aenigma") sinh sống tại các rừng mưa vùng đất thấp ở Panama và tây bắc Nam Mỹ (bao gồm Columbia, Ecuador) cuối cùng đã tìm được vị trí trong nhóm này trong vai trò của thành viên duy nhất tại Tân thế giới cho nhánh Eurylaimides. Tuy nhiên, việc nó có quan hệ họ hàng gần với "Calyptomenidae" hay Philepittidae cộng Eurylaimidae nghĩa hẹp ("sensu stricto") vẫn chưa được giải quyết. Sử dụng các gen khác nhau, Irestedt và ctv. (2006b) thấy nó có quan hệ chị-em với "Calyptomenidae", trong khi Moyle và ctv (2006a) lại thấy nó là chị-em với Philepittidae + Eurylaimidae nghĩa hẹp. Trong cả hai trường hợp, sự chia tách là khá cổ xưa, theo ước tính của Moyle và ctv (2006a) là khoảng 52 triệu năm trước. Tính cổ xưa của sự chia tách, các khác biệt hình thái (như minh quản) cùng sự không chắc chắn về các họ hàng gần của nó có thể là biện minh tốt cho địa vị một họ tách rời của "Sapayoa aenigma". Chia tách chính trong phạm vi Eurylaimides dường như là giữa nhóm đuôi cụt với phần còn lại. Tuy nhiên, dù điều này dường như là có thể nhất nhưng không phải mọi phân tích đều phù hợp với nó. Fjeldså và ctv. (2003) thấy "Sapayoa aenigma" và "Calyptomenidae" gần với các loài đuôi cụt hơn là với phần còn lại của Eurylaimides. Moyle và ctv (2006a) thấy rằng việc gộp nhóm các loài mỏ rộng là một kiểu gộp nhóm không tự nhiên. Một vài loài mỏ rộng có quan hệ họ hàng gần với Sapayoa và asity hơn là so với các loài mỏ rộng khác. Như vậy, có một tùy chọn để phân chia các loài mỏ rộng ra thành 2 họ, một trong số này (ở đây gọi là Eurylaimidae nghĩa hẹp) là chị em với asity (đuôi cụt Madagascar), còn họ kia (ở đây gọi là Calyptomenidae) là chị em với phần còn lại của mỏ rộng + asity + Sapayoa. Năm 2008, Ủy ban Phân loại Nam Mỹ (SACC) của Hiệp hội Điểu học Mỹ (AOU) chỉ coi toàn bộ các loài mỏ rộng cộng asity và sapayoa như là một họ có danh pháp Eurylaimidae. Đề xuất của SACC năm 2006 về thay đổi tên gọi thông thường từ Sapayoa thành "Sapayoa mỏ rộng" đã không được phê chuẩn. Năm 2011, đề xuất của SACC về việc công nhận họ đơn loài Sapayoidae đã được thông qua. Điều này đồng nghĩa với việc phải công nhận họ Calyptomenidae để tránh tình trạng cận ngành cho họ Eurylaimidae. Phát sinh chủng loài. Sự chia tách giữa "Smithornis" ở châu Phi và "Calyptomena" ở Sundaland là khá sâu. Prum "et al." (2015) ước tính sự chia tách này diễn ra vào đầu thế Miocen, khoảng 20 triệu năm trước. Điều này cho thấy việc tách 2 chi này như 2 họ độc lập là hợp lý. Selvatti "et al." (2017) lại tìm thấy "Sapayoa" là chị em với toàn bộ phần còn lại của Eurylaimides, trong mối quan hệ như sau: "Sapyoa" + {[Eurylaimidae + Philepittidae] + [Pittidae + ("Smithornis" + "Calyptomena")]}. Cây phát sinh chủng loài dưới đây đề xuất một tam phân (trichotomy) cho nhánh chứa Calyptomenidae + Smithornithidae, Sapayoidae và nhánh chứa Philepittidae + Eurylaimidae như là một biện pháp thỏa hiệp giữa các kết quả hơi khác nhau của Irestedt và ctv. (2006b) và Moyle và ctv (2006a), có tính tới các ước tính của Prum "et al." (2015).
1
null
Stefanie Rabatsch ("nhũ danh" Isak; sinh ngày 28 tháng 12 năm 1887 - mất năm 1975) là một phụ nữ Áo mà theo lời Agust Kubizek, người bạn thơ ấu của Adolf Hitler, là mối tình đơn phương thời niên thiếu của vị quốc trưởng. Cũng vì điều này mà nhũ danh mang âm hưởng Do Thái của cô, Isak, từng trở thành một chủ đề được người ta đem ra bàn luận. Tuy nhiên, ngoài lời của Kubizek, không có bằng chứng nào khác chứng minh việc Hitler từng đem lòng quyến luyến Stefanie Rabatsch. Kubizek là bạn thuở nhỏ của Hitler, sau này trở thành một cây viết tiểu sử, viết về những trải nghiệm ấu thơ của mình với Hitler, đã đề cập đến Stefanie trong cuốn sách "Adolf Hitler, My Childhood Friend". Kubizek cho rằng Hitler bắt đầu yêu mến Stefanie khi cô cùng mẹ đi dạo thường nhật ở Linz và liếc nhìn ông. Cũng theo lời kể của Kubizek, mặc dù yêu Stefanie tới mức từng nghĩ tới chuyện tự tử, Hitler chưa bao giờ nói chuyện với cô, còn Stefanie Rabatsch thì sau đó kết hôn với một sĩ quan quân đội người Áo. Người ta có rất ít thông tin về cuộc đời của cô. Stefanie từng tuyên bố trong các cuộc phỏng vấn rằng bản thân hoàn toàn không biết về tình cảm mà Hitler dành cho mình. Mối tình đơn phương này là đề tài được thảo luận trong nhiều cuốn sách. Một số nghi ngờ tính chính xác của tập hồi ký mà Kubizek viết khi đây là nguồn duy nhất của câu chuyện. Vài người khác thì tin là nó có cơ sở thực tế, nhưng lại hạ thấp vai trò tác động của niềm si mê tuổi trẻ này đối với Hitler. Trong khi đó, cũng có người cho rằng mối tình đơn phương mà Hitler dành cho Stefanie đã mang lại một góc nhìn sâu sắc có giá trị, liên quan tới quá trình phát triển nhân cách của ông. Bối cảnh. August Kubizek, một sinh viên âm nhạc ở Linz, lần đầu tiên gặp Hitler khi cả hai đang tranh giành chỗ đứng trong một buổi biểu diễn opera. Theo Kubizek, Hitler bắt đầu đem lòng yêu mến Stefanie vào mùa xuân năm 1905 khi ông 16 tuổi, đang theo học ở Linz, còn Stefanie thì đã 17 tuổi; và chấm dứt mối tình của mình vào năm ông 20 tuổi. Kubizek mô tả về lần đầu tiên ông nghe Hitler thổ lộ niềm si mê của bản thân như sau: “Một buổi tối mùa xuân năm 1905, khi chúng tôi đang dạo bộ như thường lệ, Adolf chợt nắm chặt cánh tay tôi và hào hứng hỏi tôi rằng, cậu nghĩ gì về cô gái tóc vàng thanh mảnh đang đi bộ dọc theo đường Landstrasse, tay trong tay với mẹ mình. 'Cậu phải biết rằng, mình đã yêu cô ấy', anh nói với vẻ kiên quyết.” Stefanie Beata Isak sinh ngày 26 tháng 12 năm 1887 tại Mimoň, Vương quốc Bohemia. Cô xuất thân trong một gia đình thuộc tầng lớp có địa vị xã hội cao hơn Hitler và hơn ông một tuổi. Stefanie vừa trở lại Linz sau khóa đào tạo nghiệp vụ ở München và Genève. Cô có một người anh trai tên là Karl Richard Isak, đang theo học luật ở Viên. Vào những năm 1950, Tiến sĩ Franz Jetzinger có hai bức ảnh chụp Stefanie thời trẻ, một bức từ năm 1904 và một bức mặc váy dạ hội từ năm 1907. Kubizek mô tả Stefanie là "một cô nàng có vẻ ngoài nổi bật, cao và mảnh khảnh. Nàng có mái tóc dày kiểu công chúa, phần lớn được búi ngược ra sau và một đôi mắt rất đẹp". Tương tác với Hitler. Theo Kubizek, Hitler chưa bao giờ nói chuyện với Stefanie, và luôn thoái thác là mình sẽ làm điều đó vào "ngày mai". Kubizek viết rằng Hitler ghê tởm những người đàn ông tán tỉnh Stefanie, nhất là các sĩ quan quân đội mà ông thường gọi là "ngu si kiêu ngạo"; Hitler cảm thấy có một “mối thù không khoan nhượng” đối với tầng lớp sĩ quan nói chung và tất cả mọi thứ liên quan đến quân đội nói riêng. Ông vô cùng khó chịu bất cứ khi nào Stefanie giao thiệp với lũ người lười biếng đó, những kẻ mà ông nhấn mạnh là mặc áo nịt ngực và xức nước hoa". Mỗi khi về thăm mẹ hoặc gia đình, Hitler yêu cầu Kubizek phải tìm hiểu và gửi báo cáo thường nhật cho ông về các hoạt động của Stefanie. Một lần, Kubizek nói rằng Stefanie rất yêu thích và đã theo học bộ môn khiêu vũ. Cá nhân Hitler lại là người căm ghét khiêu vũ và được cho là đã trả lời: "Stefanie chỉ đi khiêu vũ vì bị trói buộc bởi cái lối sống mà không may nàng ấy phụ thuộc vào mà thôi. Một khi trở thành vợ tôi rồi, nàng sẽ chẳng còn chút ham thích nhảy nhót nào nữa đâu!" Vào tháng 6 năm 1906, khi chiếc xe ngựa của Stefanie đi ngang qua Hitler, cô đã mỉm cười và trao cho ông một bông hoa từ bó hoa của mình. Kubizek sau đó tả lại tình huống này: "Sẽ không có thêm một lần nào tôi được thấy Adolf rạng rỡ hạnh phúc như vào thời điểm đó. Khi chiếc xe đã đi qua, anh kéo tôi sang một bên, và với niềm xúc cảm, anh nhìn vào đóa hoa ấy, một chứng cứ rõ ràng cho tình yêu của nàng. Tôi vẫn có thể nghe thấy giọng nói của anh run rẩy trong sự phấn khích: 'Nàng yêu mình!' "Mẹ Hitler qua đời vào năm 1907 vì bệnh ung thư, đám tang của bà đi ngang qua Urfahr trên đường đến Leonding. Kubizek lưu ý rằng Hitler đã thổ lộ với ông là mình cảm thấy được an ủi một chút khi bắt gặp Stefanie trong tang lễ. Kubizek cho là “Stefanie không hề biết Adolf yêu cô sâu đậm như thế nào, nàng xem anh như một cậu bé hơi nhút nhát, nhưng vẫn là một kẻ ái mộ đầy kiên trì và trung thành. Khi nàng đáp lại cái nhìn tò mò của anh với một nụ cười, anh vô cùng hạnh phúc và có tâm trạng không giống với bất cứ điều gì mà tôi từng thấy ở anh. Nhưng khi Stefanie thường xuyên lạnh lùng bỏ qua cái nhìn của anh thì anh bị đè bẹp và sẵn sàng tiêu diệt chính mình và cả thế giới.” Kubizek kể về việc Hitler cuối cùng tuyên bố rằng ông đã lên kế hoạch bắt cóc Stefanie rồi giết cả cô và chính mình bằng cách nhảy cầu trên dòng sông Danube. Hitler không thực hiện ý tưởng điên rồ của mình, thay vào đó ông chuyển đến Viên, nơi theo như lời Kubizek, hình ảnh lý tưởng về Stefanie trở thành chuẩn mực phẩm hạnh mà ông tôn thờ. Stefanie chia sẻ trong cuộc phỏng vấn sau này là cô hoàn toàn không biết về Hitler vào thời điểm đó, nhưng đã từng nhận được một lá thư tình nặc danh yêu cầu cô đợi người gửi thư tốt nghiệp và sau đó kết hôn với anh ta, cô chỉ chợt nhận ra tác giả bức thư có thể là Hitler sau khi được nghe câu hỏi về ông. Stefanie hồi tưởng: "Tôi từng nhận được lá thư từ một người, nói rằng anh ấy sẽ theo học ở Học viện nghệ thuật, và rằng tôi nên chờ đợi anh ấy; anh ấy sẽ quay lại và cưới tôi! Tôi đã không thể biết người viết thư có thể là ai và tôi nên gửi trả nó thế nào." Vào Giáng sinh năm 1913, khi còn ở München, Hitler được cho là đã đăng một quảng cáo cá nhân ẩn danh trên tờ báo Linz với những lời chúc tốt đẹp nhất dành cho Stefanie, nhưng lúc đó cô đã kết hôn và đang sống tại Viên. Những năm sau đó. Có rất ít thông tin về cuộc sống của Stefanie. Cô đinh hôn với một sĩ quan thuộc một trung đoàn người Hessen đóng tại Linz vào năm 1908. Ngày 24 tháng 10 năm 1910, Stefanie kết hôn với Maximilian Rabatsch tại nhà thờ St. Gertrud, Gertrudplatz 5, thuộc giáo xứ Währing, thành phố Viên. Maximillian được bổ nhiệm chức đại úy vào ngày 1 tháng 11 năm 1909. Anh được thăng cấp thiếu tá vào ngày 1 tháng 10 năm 1917 và lên đại tá vào ngày 1 tháng 8 năm 1918. Theo Kubizek, Stefanie có chồng là một sĩ quan cấp cao, nhưng rồi cô trở thành một góa phụ và sống ở Viên sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc. Sau này, Stefanie nhận được những cuộc phỏng vấn, còn mối tình mà người ta tin là Hitler đã dành cho cô, được kịch tính hóa trên bộ phim truyền hình Áo-Đức ra mắt năm 1973, có tên "A Young Man From the Innviertel." Stefanie không thể hiểu nổi tại sao Hitler với cảm xúc mạnh mẽ như vậy, lại không cho cô bất cứ tín hiệu quyến luyến nào, và nói rằng, "Hitler không thể nhút nhát như vậy được". Tên thời con gái. Dù không phải là người Do Thái, Stefanie có tên thời con gái là Isak, mang âm điệu Do Thái. Nó được Kubizek đánh vần thành Isaak. Mãi tới năm 2003, cách viết đúng của cái tên mới được Anton Joachimsthaler xác định trong cuốn "Hitlers Liste". "Ein Dokument persönlicher Beziehungen" (Munich, 2003, tr. 46–52). Một số nhà sử học cho là Hitler từng nghĩ rằng Stefanie là người gốc Do Thái. Sử gia người Mỹ Grame Donald tin rằng Hitler đã suy đoán Stefanie là người Do Thái, nhưng ông chẳng mảy may bận tâm về điều này vào thời điểm đó. Quan điểm trên được ủng hộ bởi sử gia người Đức Anton Joachimsthaler, người đã khẳng định trong một cuộc phỏng vấn với BBC về việc Hitler hẳn đã cho rằng Stefanie là người Do Thái vì họ Do Thái của cô. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ, tác giả, nhà báo và nhà nghiên cứu các sự kiện huyền bí người Anh Paul Roland đã viết trong cuốn "Nazi Women" là không có bất cứ sự khác biệt nhỏ nào đối với Hitler, dù cho Stefanie có phải người Do Thái hay không. Phản ứng của giới học thuật. Đã có những nghiên cứu rộng rãi về vai trò của Stefanie Rabatsch đối với cuộc đời của Hitler. Sherree Owens Zalampas, trong một cuốn sách phân tích mối quan hệ giữa quan điểm nghệ thuật của Hitler và tâm lý của ông, lưu ý rằng những câu chuyện về Stefanie đã bị một số học giả bác bỏ nhưng vẫn có những người khác chấp nhận. Trong nhóm bác bỏ, có Franz Jetzinger và Bradley F. Smith. Câu chuyện tình đã được đưa ra thảo luận trong cuốn "Adolf Hitler; his family, childhood, and youth" (1967) của Bradley F. Smith và "Hitler's Youth" (1958) của Franz Jetzinger. Với tác phẩm của mình, Jetzinger tấn công kịch liệt Kubizek, nhưng xác nhận về sự tồn tại của Stefanie, dù vào thời điểm đó cô không biết về tình cảm được cho là của Hitler dành cho mình. Theo phân tích của Jetzinger, Kubizek đã phóng đại quá mức mối quan hệ giữa Stefanie và Hitler, và một số tương tác mà Kubizek mô tả là không thể có nếu xem xét dòng thời gian cuộc đời của các nhân vật. Sự tập trung của các nhà viết tiểu sử vào mối quan hệ này thể hiện một nỗ lực sai lầm, nhằm tạo ra một "niềm hứng thú tình yêu" sớm cho Hitler. Werner Maser đồng ý với quan điểm kể trên trong cuốn "Adolf Hitler: Legende, Mythos, Wirklichkeit" ra năm 1971 của ông, và cho rằng hành vi của Hitler đối với Stefanie là hoàn toàn bình thường với thanh thiếu niên Áo ở thời đại của ông ấy. Zalampas lưu ý về việc Kubizek từng nói rằng Hitler quan tâm đến giọng hát của Stefanie, mà Kubizek cho là một giọng nữ cao và phù hợp để hát trong các vở kịch của Wagner. Cô đề xuất là Hitler đã có một cách nhìn đậm tính ảo mộng về Stefanie, cho thấy sự pha trộn giữa thực tế và tưởng tượng của Hitler thời trẻ cũng như quan điểm của ông về nghệ thuật, chiến tranh, tiểu thuyết của Karl May và các chủ đề nhạc kịch của Wagner. Robert G. L. Waite trong cuốn "The Psychopathic God: Adolf Hitler" (1993) viết rằng Stefanie "được dùng như một biện pháp bảo vệ, chống lại cảm tưởng không hoàn hảo về giới tính." Ông đưa ra giả thuyết Hitler sợ phải tiếp xúc trực tiếp với Stefanie, vì thực tế cô có thể khác với những lý tưởng đức hạnh của người Đức vốn được Hitler gán cho Stefanie đại diện trong trí tưởng tượng của bản thân. Waite lặp lại niềm tin của Kubizek về việc Hitler đã rời Linz vì ông không thể chịu đựng được khi phải ở cùng một nơi với Stefanie. Câu chuyện của Kubizek đã tác động tới một số cây viết khác. William L. Shirer sử dụng lời kể của Kubizek về mối tình đơn phương của Hitler trong cuốn "The Rise and Fall of the Third Reich" (1960) của ông. Năm 1973, Der Spiegel đưa tin rằng các đài truyền hình ZDF và ORF của Đức và Áo đã sản xuất một tài liệu truyền hình về thời trẻ của Hitler, mô tả sự say đắm của ông dành cho Stefanie Rabatsch. Câu chuyện ở Viên của Hitler cũng được Brigtitte Hamann sử dụng cho cuốn "Hitler's Vienna: A Portrait of the Tyrant as a Young Man" (2010). Rose Montero dùng lời kể của Kubizek trong cuốn sách "Dictadoras: Las mujeres de los hombres más despiadados de la historia" (2013)"." Danielle Zumbo trích dẫn Kubizek trong "Operazione Stalingrado: Storia di un eroe" (2013)"." Hugh Trevor-Roper coi hồi ký của Kubizek là một khảo nghiệm quý giá về những năm tháng đầu đời của Hitler, ông nói, "... nó sẽ giữ một vị trí quan trọng trong số các nguồn sách lịch sử." Ian Kershaw kể lại câu chuyện trong cuốn tiểu sử "Hitler: A Biography" ra mắt năm 2008 của mình. Kershaw cảm thấy rằng Kubizek đã được một ký giả "ma" giúp tạo ra tác phẩm. Ông cho biết câu chuyện về Stefanie là phóng đại, và viết, "Khá chắc chắn về việc Kubizek đã tô vẽ rất nhiều điều mà nhiều nhất là về sự mê đắm niên thiếu một thời." Tuy nhiên, Kershaw kết luận rằng mặc dù cuốn sách của Kubizek có những điểm yếu nhưng nó cũng có giá trị nội tại như một bức chân dung của Hitler thời trẻ. Frederic Spotts trong cuốn "Hitler and the Power of Aesthetics" "(2009)" của ông, lưu ý rằng không có tài liệu hoặc nguồn nào ngoài cuốn sách của Kubizek cung cấp bất kỳ chứng cứ, chứng minh mối tình của Hitler dành cho Stefanie Rabatsch.
1
null
Chuột kangaroo Musky, tên khoa học Hypsiprymnodon moschatus, là một loài thú có túi chỉ có ở các rừng nhiệt đới Đông Bắc Úc, thuộc họ Hypsiprymnodontidae, bộ Hai răng cửa. Loài này được Ramsay mô tả năm 1876. Mặc dù vậy, một số nhà khoa học đặt loài này như là một phân họ Hypsiprymnodontinae của họ Potoroidae, trong lần phân loại gần đây nhất. Nó loài thú hai răng trước nhỏ nhất có bốn chân và chỉ sống ban ngày. Chuột kangaroo Musky dài khoảng 23 cm, nó có một cái đuôi không có lông, và ăn trái cây và các loại hạt lớn, cũng như cá loài không xương sống nhỏ. Nó di chuyển bằng cách kéo dài cơ thể của nó và sau đó đưa cả hai chân sau của nó về phía trước, và sử dụng một mấu đối diện ở chân sau để leo lên cây.
1
null
Hoàng thân Boun Oum (còn gọi là Hoàng thân Boun Oum Na Champassak; ; ; ; 12 tháng 12 năm 1912 - 17 tháng 3 năm 1980) là con trai vua Ratsadanay, hoàng thân cha truyền con nối của vương quốc Champasak và từng là Thủ tướng Lào. Tiểu sử. Ông sinh ra tại Don Talad, là con trai út của H.H. Brhat Chao Buarabarna Rajadhaniya, hoàng thân Champasak và người vợ thứ 4, công chúa Sudhisaramuni. Ông đã theo học trường Wat Liep Monastery Sch. và l'École de droit, Viêng Chăn. Ông đã gặp Mom Bouaphanh và cưới bà năm 1943. Hai người có sáu người con trai và ba con gái: các hoàng thân Keo Champhonesak na Champassak, Saysanasak na Champassak, Keo Halusak na Champassak, Simoungkhounsak na Champassak, Vannahsak na Champassak, Vongdasak na Champassak, và các công chúa Petchninchindasak na Champassak, Keosondarasak na Champassak và Keomanisak na Champassak. Sau khi cha qua đời, ông đã kế vị ngôi đầu của hoàng tộc Champassak, tháng 6 năm 1946. Cùng thời điểm đấy, ông đã từ bỏ quyền thành lập một vương quốc thống nhất, vương quốc Lào vào ngày 27 tháng 8 năm 1946 và trao quyền cho Sisavang Vong. Sau đó Boun Oum trở thành chủ tịch Hội đồng Hoàng gia năm 1948. Năm 1949, ông được chỉ định làm Tổng Thanh tra Vương quốc Lào. Thủ tướng. Ủng hộ việc thực dân Pháp cai trị Lào, Boun Oum đã chỉ huy 1.500 lính chống lại quân Nhật và lực lượng Lào Issara ở nam Lào. Là lãnh đạo trên danh nghĩa của phe bảo hoàng, ông đã giữ chức thủ tướng vương quốc Lào từ 1948-1950 và lần thứ hai từ 1960-1962 khi mà quốc hội đồng lòng bổ nhiệm ông với tỉ lệ phiếu 41-0. Ông đã rút khỏi chính trường để theo đuổi sự nghiệp kinh doanh từ các cơ ngơi của ông ở Pakxe và Champasak nhưng vẫn còn là một người có nhiều quyền lực cho đến khi ông lưu vong năm 1975, khi mà Pathet Lào lên nắm chính quyền. Năm 1975, ông tới Pháp để chữa bệnh nhưng không bao giờ quay lại Lào. Ông qua đời tại Boulogne-Billancourt và được chôn ở Meudon.
1
null
Trachycephalus resinifictrix là một loài ếch lớn sống trên cây. Nó là loài bản địa của rừng mưa Amazon ở Nam Mỹ. Đôi khi nó được gọi là ếch sữa màu xanh. Nó lần đầu tiên được phát hiện dọc theo sông Maracana ở Brazil. Loài này trước đây thuộc về chi Phrynohyas, mà gần đây đã được phân loại lại với Trachycephalus.
1
null
Cá chình vây lòe (tên khoa học Polypterus ornatipinnis) là một loài cá có xương sống trong hồ Tanganyika và sông Congo trong lưu vực Trung và Đông Phi. Nó gợi nhớ đến một số loài khủng long. Đặc điểm. Cá chình vây lòe dài 60 cm. Chúng có tên đó bởi vây và thân của chúng đầy những đốm lòe loẹt. Đây là một loài cá châu Phi hiện đại, sở hữu phổi để hít thở không khí và các vây ngắn tũn có thể kéo lê thân trên cạn. Cá chình vây lòe có nhiều đặc điểm tương tự như những gì quan sát được ở hóa thạch của các động vật 4 chân có xương sống nguyên thủy. Chúng rất dễ nhảy và có khả năng sống không cần nước trong một thời gian cho đến khi vảy của chúng không còn ẩm nữa, điều này giúp chúng sau khi thoát ra khỏi biển có cơ hội tìm tới vùng nước tự do. Cá chình vây lòe lớn lên trên cạn khác rất nhiều so với các cá thể cùng loài sinh trưởng dưới nước. Chẳng hạn như, cá nuôi trên cạn nâng đầu cao hơn, giữ các vây sát gần cơ thể chúng hơn, bước đi nhanh hơn, quẫy đuôi và ve vẩy các vây ít thường xuyên hơn cá sinh trưởng dưới nước. Cá nuôi trên cạn cũng trải qua những thay đổi về bộ xương và hệ thống cơ, dường như mở đường cho các thay đổi về hành vi của chúng. Nhìn chung, những biến đổi này giúp chúng di chuyển hiệu quả hơn trên cạn. Cá chình vây lòe dễ uốn nắn trong quá trình phát triển. Tính mềm dẻo này là yếu tố giúp loài cá này có thể lớn lên rất khác, phụ thuộc vào môi trường sống của chúng.Thức ăn Là loài cá dữ ăn thịt, cá chình vây lòe có thể ăn được các loại thức ăn từ tôm, cá, ếch nhái, côn trùng, giáp xác hay nhuyễn thể. Dù có nguồn thức ăn đa dạng trong tự nhiên, nhưng giống như nhiều loài cá quý hiếm khác, chúng từng đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, do môi trường sống bị xâm phạm. Sau này, cá chình vây lòe được bảo vệ thông qua dự án phát triển nuôi nhốt, và từ đó trở thành giống cá cảnh được ưa thích trên thế giới.
1
null
Mộ Dung Hàn (chữ Hán: 慕容翰, ? - 344), tên tự là Nguyên Ung, quê ở Chức Thành, huyện Xương Lê, là một tướng lĩnh và quý tộc người Tiên Ti cát cứ ở miền bắc Trung Quốc vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc, con trai của Liêu Đông công Mộ Dung Hối và là em trai của Yên vương Mộ Dung Hoảng, người được xem là vị vua đầu tiên của Tiền Yên, một trong mười sáu nước Ngũ Hồ. Chiến tướng người Tiên Ti. Mộ Dung Hàn là con trai thứ tư của Mộ Dung Hối, thủ lĩnh bộ tộc Tiên Ti cát cứ ở miền đông bắc Trung Quốc. Từ năm 318, khi triều đình nhà Tấn bị quân Hán Triệu đánh bại, phải dời xuống phía nam thì Mộ Dung Hối vẫn tiếp tục nhận tước phong của Tấn triều và trở thành một trong số ít các thế lực ở phía bắc còn quy phục vào nhà Tấn. Sử sách miêu tả Mộ Dung Hàn là người có tính cách hùng tráng, hào phóng, dũng lược, có mưu trí và cũng là một người giỏi bắn cung. Do đó ông rất được cha yêu mến, thường cử làm tướng chống lại sự xâm lược của các thế lực khác và thường xuyên giành được thắng lợi, lập được nhiều công trạng cho Mộ Dung bộ. Vào năm 311, hai thủ lĩnh tộc Tiên Ti là Tố Hỉ và Mộc Hoàn Tân đem quân liên tục công đánh vào quận Liêu Đông, khiến dân chúng kinh hoảng, nhiều người bỏ xứ đi nơi khác. Mộ Dung Hàn khuyên cha nên mau chóng đánh dẹp để tránh họa loạn tràn lan. Mộ Dung Hối chấp thuận, cử Mộ Dung Hàn làm tiên phong đem quân đánh Tố Hỉ và Mộc Hoàn Tân. Mộ Dung Hàn chém được hai tướng địch và quân Mộ Dung giành chiến thắng lớn, dẹp yên được bạo loạn. Về sau Mộ Dung Hàn được cử sang quản lý vùng đất Đồ Hà. Năm 319, Cao Câu Ly, Vũ Văn bộ và Đoàn bộ hợp quân tấn công Mộ Dung bộ. Mộ Dung Hối lúc đó triệu Mộ Dung Hàn về Chức Thành chống giữ. Cuối cùng quân Mộ Dung đánh tan được liên quân ba nước, giải nguy cho Chức Thành. Sang năm 321, khi Mộ Dung Hối được giao toàn quyền cai trị quận Liêu Đông thì Mộ Dung Hàn cũng ra sức thu nhận người tài, tiếp đãi kẻ sĩ, do đó được nhiều quan lại và tướng lĩnh coi trọng, đồng thời cũng nhận được sự tín nhiệm của cha, song điều này lại làm cho người anh trai trưởng của ông là Mộ Dung Hoảng trở nên ghen tị và nghi ngờ. Trốn sang Đoàn bộ. Năm 333, Mộ Dung Hối qua đời, Mộ Dung Hoảng lên nắm quyền cai trị Liêu Đông. Do lo ngại về sự nghi kị của anh trai đối với mình nên Mộ Dung Hàn trốn khỏi Mộ Dung bộ và chạy sang Đoàn bộ lân cận để tị nạn. Thủ lĩnh Đoàn bộ bấy giờ là Đoàn Liêu vốn ngưỡng mộ tài năng của Mộ Dung Hàn nên đã thu nhận ông. Năm 334, Đoàn Liêu cử Mộ Dung Hàn cùng em trai mình là tướng Đoàn Lan tiến công Liễu Thành thuộc vùng kiểm soát của Mộ Dung bộ. Tướng giữ Liễu Thành là Thạch Tông cố giữ chống giữ khiến quân Đoàn không thể công phá được. Về sau thấy Đoàn Lan đánh bại quân Mộ Dung, Mộ Dung Hàn lo lắng cho bộ tộc của mình, bèn bức Đoàn Lan truy kích quân Mộ Dung nhưng rốt cục không công phá được và bị Thạch Tông đánh bại. Năm 337, Mộ Dung Hoảng liên kết với Hậu Triệu mở cuộc xâm lược vào lãnh thổ Đoàn bộ. Sang năm 338, quân Yên đánh vào các thành ở phía bắc kinh thành Lệnh Chi của Đoàn bộ. Đoàn Liêu muốn cử đại quân chống lại, nhưng Mộ Dung Hàn nhận thấy rằng quân của Mộ Dung Hoảng mạnh và đông hơn nên cần phải đối phó với Hậu Triệu và chưa nên vội đánh quân Yên. Đoàn Liêu không chấp nhận đề xuất này và còn chỉ trích Mộ Dung Hàn về thất bại lúc trước ở Liễu Thành, vì thế trực tiếp dẫn quân truy kích quân Yên và bị Mộ Dung Hoảng đánh bại. Cùng năm đó, quân Hậu Triệu tiến công và chiếm được Lệnh Chi, Đoàn Liêu trốn sang Mật Vân sơn, sau đầu hàng quân Yên, còn Mộ Dung Hàn lại theo về với Vũ Văn bộ. Mộ Dung Hàn thường tự nhận mình là người tài giỏi, nhưng kể từ lúc sang Vũ Văn bộ, một nơi ít xảy ra chiến tranh thì ông lại ít có cơ hội cầm quân, do vậy sinh ra chán nản, trở nên nghiện rượu và thay đổi tâm tính. Thủ lĩnh Vũ Văn bộ là Vũ Văn Dật Dậu Quy biết việc đó nhưng thường bỏ qua cho Mộ Dung Hàn. Về nước. Năm 340, Mộ Dung Hoảng phái người thương nhân là Vương Xa sang Vũ Văn bộ, liên lạc với Mộ Dung Hàn nhằm thuyết phục ông trở về Yên. Sau Vương Xa trở về nước báo cáo lại tình hình, Mộ Dung Hoảng bèn phái Xa sang đón Mộ Dung Hàn. Vũ Văn Dật Dậu tức giận việc Mộ Dung Hàn bỏ trốn nên phái quân kị đuổi theo. Mộ Dung Hàn không muốn giết kị binh Vũ Văn nên chỉ bỏ chạy tới hơn một trăm dặm chứ không chống trả. Tuy nhiên quân kị Vũ Văn vẫn đuổi theo và giương cung bắn vào ông, nhưng không trúng đành tiếp tục truy kích. Cuối cùng Mộ Dung Hàn dùng cung tên bắn một phát vào viên tướng của quân Vũ Văn, kị binh đành phải rút lui. Mộ Dung Hàn thành công trở về nước và được Mộ Dung Hoảng tiếp đón trọng hậu. Năm 342, quân Cao Câu Ly tiến hành chiến tranh tiến đánh vào lãnh thổ Tiền Yên, Mộ Dung Hàn nhận thấy cơ hội để tiêu diệt Vũ Văn bộ đã đến, bèn kiến nghị Mộ Dung Hoảng nên tiến đánh Cao Câu Ly trước, sau khi quay về sẽ thừa thắng mà tiêu diệt Vũ Văn bộ, làm chủ toàn bộ miền phía đông và chuẩn bị tiến vào Trung Nguyên. Mộ Dung Hoảng đồng tình, quyết định phái quân chống trả với Cao Câu Ly, giành được thắng lợi, buộc Cao Câu Ly phải xưng thần vào năm 343. Cùng năm 343, Vũ Văn Dật Đậu Quy phái tướng Mạc Thiển Hồn tiến đánh Tiền Yên, bị quân Yên đánh bại. Đến năm 344, Mộ Dung Hoảng quyết định tấn công Vũ Văn bộ, bèn cử Mộ Dung Hàn làm tiên phong tướng quân, đối đầu với quân Vũ Văn do tướng Thiệp Dịch Vu chỉ huy. Mộ Dung Hàn đích thân dẫn quân ra trận, đại thắng quân Vũ Văn, chém Thiệp Dịch Vu và buộc Vũ Văn bộ rút về phía nam, thôn tính phần lớn đất đai của bộ tộc này. Tuy nhiên Mộ Dung Hàn cũng đã bị thương nặng trong trận chiến với Thiệp Dịch Vu, phải dưỡng thương một thời gian. Năm 344, sau khi khỏi bệnh, ông cho mua nhiều ngựa tốt về nhà, việc này có người phát giác, nói với Mộ Dung Hoảng. Mộ Dung Hoảng tin rằng Mộ Dung Hàn có ý làm phản bèn ép ông phải tự tử. Mộ Dung Hàn đành uống thuộc độc và qua đời.
1
null
Giải thưởng Tự do là một giải thưởng của Ủy ban Cứu trợ quốc tế ("International Rescue Committee") dành cho những đóng góp đặc biệt cho sự nghiệp của những người tị nạn và tự do nhân loại. Lịch sử. "Ủy ban Cứu trợ quốc tế" được thành lập năm 1933 theo yêu cầu của Albert Einstein. Năm 1957 Ủy ban này lập ra "Giải thưởng Tự do" và trao lần đầu cho chính trị gia người Đức Willy Brandt, người mà sau này đã đoạt Giải Nobel Hòa bình. Năm sau, giải được trao cho Winston Churchill, thủ tướng Anh trong thời Chiến tranh thế giới thứ II, vì đóng góp của ông cho tự do nhân loại. Các người đồng lãnh giải lần đầu là Lane Kirkland và bà vợ Irena, nhận giải năm 1981. Lane đã "cống hiến lâu dài cho sự nghiệp của các người tỵ nạn", còn Irena "là nhà hoạt động nhân quyền tích cực". Các nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc Li Shuxian và Fang Lizhi là những người đồng lãnh giải năm 1991; hai tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush và Bill Clinton là những người đồng lãnh giải năm 2005; nữ diễn viên điện ảnh Hoa Kỳ Angelina Jolie và Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn António Guterres cùng lãnh giải năm 2007. Từ khi thiết lập giải, Ủy ban Cứu trợ quốc tế đã trao giải này cho 45 người, trong số đó có, 23 người Mỹ, phần lớn là chính trị gia. Giải năm 1995 được trao vắng mặt cho bà Aung San Suu Kyi, chính trị gia Myanmar đấu tranh cho dân chủ kiêm lãnh đạo đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ đối lập. Giải năm 2008 được trao cho cựu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan. Ông được trao giải trong bữa tiệc kỷ niệm ngày thành lập Ủy ban Cứu trợ quốc tế lần thứ 75 trong tháng 11 năm 2008. Giải năm 2011 được trao cho gia đình Brokaw tại khách sạn Waldorf-Astoria, thành phố New York.
1
null
Đảo Ellis ở vịnh Thượng New York là cửa ngõ đón nhận hàng triệu người nhập cư vào Hoa Kỳ từ 1892 cho đến 1954, khiến nó từng là trạm kiểm soát nhập cư nhộn nhịp nhất nước Mỹ. Hòn đảo đã được mở rộng đáng kể nhờ lấn biển giữa những năm 1892 và 1934. Trước đó, hòn đảo nguyên thủy nhỏ hơn nhiều là nơi đặt pháo đài Gibson rồi sau đó là một kho chứa vũ khí của hải quân. Hòn đảo trở thành một phần của tượng đài Quốc gia Tượng Nữ thần Tự do năm 1965 rồi từ năm 1990 có một bảo tàng di dân được xây tại đây. Năm 1998 Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã ra phán quyết rằng phần lớn hòn đảo thuộc về New Jersey. Mặt phía nam của hòn đảo, nơi có bệnh viện Nhập cư Đảo Ellis, bị đóng cửa với công chúng. Toàn bộ hòn đảo cũng bị đóng cửa từ tháng 10 năm 2012 vì bão Sandy mà chưa biết ngày mở cửa trở lại.
1
null
Lupin (Hangul: ) là mini-album thứ ba của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Kara. Album lấy ý tưởng từ nhân vật hư cấu Arsène Lupin của nhà văn người Pháp Maurice Leblanc. Lịch sử. Đầu tháng 2 năm 2010, DSP Media cho biết Kara sẽ quay trở bằng bài hát "Lupin" với một hình tượng trưởng thành, bí ẩn hơn. Bài hát được phát hành trực tuyến vào ngày 17 tháng 2 năm 2010 và đã đứng đầu nhiều bảng xếp hạng âm nhạc. Han Seung-yeon cho biết mặc dù nhóm đã thể hiện hình ảnh dễ thương với những bài hát như "Pretty Girl" và "Mister", "Lupin" sẽ cho thấy một hình tượng cá tính. Quảng bá. Kara quay trở lại các chương trình âm nhạc trên "M! Countdown" của Mnet vào ngày 25 tháng 2 năm 2010 và sau đó là các chương trình âm nhạc khác. Ngày 4 tháng 3 năm 2010, Kara nhận được giải thưởng #1 đầu tiên dành cho "Lupin" trên "M! Countdown". Tuần tiếp theo, Kara tiếp tục chiến thắng giải thưởng này. "Lupin" cũng mang về cho Kara vị trí thứ nhất ba lần liên tiếp trên "Music Bank" và một lần trên "Inkigayo".
1
null
Alfred Wilhelm Ferdinand von Kaphengst (23 tháng 1 năm 1828 tại Potsdam – 25 tháng 12 năm 1887 tại Freiburg im Breisgau) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được phong đến cấp Thiếu tướng. Ông từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Tiểu sử. Alfred sinh tháng 1 năm 1828, là con trai của Thiếu tướng Ferdinand Eugen von Kaphengst (1795 – 1854). Kaphengst học Trung học Chính quy ("Gymnasien") tại Potsdam và Berlin. Sau đó, ông học Luật ở Đại học Bonn, tại đây ông gia nhập Liên đoàn Sinh viên Palatia vào năm 1849. Đến ngày 9 tháng 4 năm 1850, ông nhập ngũ trong Trung đoàn Long kỵ binh Cận vệ ở kinh đô Berlin với vai trò là lính long kỵ binh, và trong đơn vị này ông được phong quân hàm Thiếu úy vào ngày 15 tháng 7 năm 1851. Sau đó, ông nhập học Trường Kỵ binh ("Militär-Reitschule") vào ngày 1 tháng 10 năm 1854 và học tại đây trong vòng một năm. Tiếp theo đó, vào ngày 25 tháng 10 năm 1856, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá trung đoàn. Vào ngày 10 tháng 7 năm 1858, ông được thăng hàm Trung úy. Sau đó, ông được lên quân hàm Trưởng quan kỵ binh ("Rittmeister"), và vào năm 1864 ông được ủy nhiệm trong Sư đoàn Kỵ binh Cận vệ với vai trò là một sĩ quan phụ tá của Trung đoàn Long kỵ binh Cận vệ số 2. Trong Chiến tranh Bảy tuần năm 1866, Kaphengst đã tham chiến trong trận Königgrätz vào ngày 3 tháng 7, và được tặng thưởng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng IV kèm theo Thanh kiếm vì những thành tích của mình trong cuộc chiến tranh nhanh gọn này. Sau đó, ngày 30 tháng 10 năm 1866, ông được cử làm Đội trưởng một đội kỵ binh ("Eskadron") trong Trung đoàn Long kỵ binh số 16 (số 2 Hannover), đóng quân tại Northeim. Năm 1868, với cấp bậc Thiếu tá, ông được ủy nhiệm vào một chức sĩ quan tham mưu trong Trung đoàn Khinh kỵ binh số 10 Magdeburg. Sang năm sau (1869), ông được đổi vào Trung đoàn Thương kỵ binh Cận vệ số 2, và đã cùng đơn vị của mình tham chiến tại Pháp sau khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ vào năm 1870. Trong cuộc chiến, ông đã tham gia các trận đánh quyết liệt tại Gravelotte, Beaumont, Sedan vào cuối năm 1870, cũng như các trận chiến Bapaume và Saint-Quentin đầu năm 1871. Ngoài ra, ông cũng tham gia cuộc vây hãm Paris và trận đột chiếm Le Bourget vào ngày 30 tháng 10 năm 1870, đập tan một cuộc phá vây của quân Pháp vào ngày 30 tháng 10 năm 1870. Được phong tặng Huân chương Thập tự Sắt hạng II, Kaphengst được lãnh quyền chỉ huy ("Führung") Trung đoàn Long kỵ binh số 5 "Nam tước von Manteuffel" (Rhein) vào ngày 8 tháng 8 năm 1871, rồi được thăng Trung đoàn trưởng vào ngày 12 tháng 12 năm 1871. Trên cương vi này, ông được phong cấp hàm Thượng tá vào ngày 12 tháng 1 năm 1872 rồi lên cấp Đại tá vào ngày 13 tháng 9 năm 1874. Sau đó, vị Đại tá được thuyên chuyển sang Karlsruhe, nơi ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Long kỵ binh số 22 "Vương tử Karl" (số 3 Baden). Vào ngày 16 tháng 10 năm 1879, Kaphengst được xuất ngũ (zur Disposition) vì vấn đề sức khỏe, do một cơn bệnh thần kinh. Đồng thời, ông được trao tặng Huân chương Vương miện hạng II, đồng thời được phép mặc quân phục Trung đoàn Long kỵ binh số 22 "Vương tử Karl" (số 3 Baden). Ngày 12 tháng 2 năm 1881, ông được phong quân hàm Danh dự ("Charakter") Thiếu tướng. Tháng 12 năm 1887, ông từ trần.
1
null
Nhạc trot, đọc là tờ-rốt (tiếng Hàn: "teuroteu"; đôi khi được gọi là "ppongjjak" do nhịp điệu nền đặc biệt của nó) hoặc là trót là một thể loại nhạc pop Hàn Quốc và được công nhận là dạng lâu đời nhất của nhạc pop Hàn Quốc. Được hình thành trong suốt thời kỳ Triều Tiên thuộc Nhật đầu những năm 1900, thể loại nhạc này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố âm nhạc Nhật Bản, phương Tây và Triều Tiên. Ngoài ra, thể loại này còn trải qua những tên gọi khác nhau, chẳng hạn như "yuhaengga", "ppongtchak" và gần đây nhất là "t'urotu" (phát âm tiếng Hàn của từ Trot). Trong khi sự phổ biến loại nhạc này sụt giảm suốt thập niên 1990, thì gần đây nhất, nó đã là chủ đề của những cuộc phục hưng bởi các nghệ sĩ nhạc pop Hàn Quốc đương đại như Jang Yun-jeong và thành viên nhóm nhạc Big Bang là Daesung.
1
null
"Por una Cabeza" là một bản nhạc tango Argentina với phần nhạc của Carlos Gardel và phần lời của Alfredo Le Pera, viết vào năm 1935. Sáng tác. Tên bài hát là một cụm từ tiếng Tây Ban Nha liên quan đến đua ngựa, dịch nghĩa là "bằng cái đầu", ý muốn chỉ việc con ngựa đua chiến thắng nhờ chiều dài cái đầu của nó. Lời bài hát nói về một tay cờ bạc cá cược ngựa đua so sánh chứng nghiện ngựa đua của anh ta với khả năng thu hút phụ nữ của mình. Alfredo Le Pera là một người Brasil đến từ São Paulo - một khu vực chịu ảnh hưởng nặng của Ý. Le Pera và Gardel chết trong một vụ rơi máy bay tại Medellín (Colombia) vào ngày 24 tháng 6 năm 1935. Sự phổ biến. Bản nhạc tango này được rất nhiều dàn nhạc tango trình diễn. Các cảnh khiêu vũ tango trên nền nhạc "Por una Cabeza" xuất hiện trong các bộ phim như "Delicatessen" (1991), "Scent of a Woman" (1992), "Bản danh sách của Schindler" (1993), "Lời nói dối chân thật" (1994), "Titanic" (1997), "Bad Santa" (bản Không cắt, 2003), "All the King's Men" (2006), "Planet 51" (2009), tập 37 của "Nip/Tuck" (2003–2010), tập 9 của sê-ri phim Hàn Quốc "Sweet Spy" (2005–08), đoạn mở đầu và kết thúc của phim truyền hình Hàn Quốc "Xin lỗi, anh yêu em" (2004) và tập " trong sê-ri truyền hình " (2007). Trong bộ phim "Frida" (Salma Hayek, 2002), người xem có thể nghe thấy ca khúc này với tiếng hát của Gardel phát ra từ chiếc radio. Bài hát cũng được trích dẫn trong bài "Good News! Nilda is Back" của David Del Tredici (từ tập bài hát "Miz Inez Sez"). Trong phim "Scent of a Woman" (1992), bản tango này được thể hiện bởi nhóm "The Tango Project" gồm William Schimmel (đàn accordion), Michael Sahl (dương cầm) và Stan Kurtis (vĩ cầm). John Williams soạn lại bài nhạc dành cho solo vĩ cầm do Itzhak Perlman trình diễn và thu vào album "Cinema Serenade". Năm 2012, nhóm "Da Carrera" phát hành phiên bản dance của bài hát với phần hát gốc của Carlos Gardel.
1
null
Cồn Vành là một hòn đảo thuộc xã Nam Phú, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Địa lý. Cồn Vành nằm cách đất liền 7 km thuộc xã Nam Phú, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Cách trung tâm thị trấn Tiền Hải 25 km về phía Nam và cách trung tâm thành phố Thái Bình khoảng 45 km về phía Đông, có vị trí địa lý: Cồn Vành nằm trong Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng được UNESCO công nhận tại Việt Nam ngày 2 tháng 12 năm 2004 cho các vùng đất phía Nam vùng duyên hải Bắc Bộ. Diện tích. Cồn Vành có diện tích 1.696 ha; và Cồn Vành có bãi biển trải dài khoảng 6 km. Cồn Vành khoảng 700 ha rừng ngập mặn,56ha rừng phi lao Lịch sử. Cồn Vành được hình thành do kiến tạo bồi đắp phù sa và bùn cát của sông Hồng dưới tác động của dòng chảy giữa sông và chế độ thủy động lực vùng ven biển tạo thành nên có địa hình tương đối bằng phẳng. Hệ thống sinh vật. Cồn Vành có hệ sinh thái rừng ngập mặn khá phong phú với nhiều loài thực vật như sú, vẹt, bần, thông, cói, trên 200 loài hải sản có giá trị và nhiều loài chim quý hiếm. Khu du lịch sinh thái biển Cồn Vành. Năm 2007, UBND tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch chung Khu du lịch sinh thái Cồn Vành với diện tích 1.618 ha được giới hạn: Phía Bắc giáp Cồn Thủ, phía Nam giáp cửa Ba Lạt, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp đê PAM. Cồn Vành đã được định hình với tầm cỡ của khu du lịch quốc gia với quần thể sân bay, sân golf, khu biệt thự nghỉ dưỡng cao cấp, khu vui chơi giải trí tiêu chuẩn quốc tế. Cụ thể theo bản quy hoạch trong tương lai Cồn Vành sẽ bao gồm các khu: Khu du lịch nghỉ dưỡng chất lượng cao được bố trí ven biển kết hợp với bãi tắm và bể bơi; Khu vui chơi giải trí bao gồm các điểm tổ chức đua thuyền, du ngoạn, thể thao và các loại hình giải trí đa dạng; khu thể thao sân gôn; khu du lịch văn hóa; khu rừng ngập mặn và các khu cây xanh được bố trí gắn với sông, biển để tạo ra vùng sinh thái có một không hai ở ven biển Bắc Bộ. Với khung cảnh thiên nhiên huyền ảo hữu tình của một khu sinh thái phong phú sinh động đã làm say mê biết bao du khách đến đây, mỗi khi ngồi trong các chòi ven biển để thưởng thức các món hải sản tươi ngon hay ngồi trên đỉnh của ngọn Hải đăng Ba Lạt phóng tầm mắt ra ngoài khơi xa du khách mới cảm nhận hết được giá trị thực của biển cả quê hương. Ẩm thực. Cồn Vành nổi tiếng với các đặc sản biển như ngao, ngán, phi phi, tôm sú, cua, ghẹ, cá bớp, cá vược, cá song... Đường tới Cồn Vành. Những cung đường thường gặp Hà Nội – Thái Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh Hà Nội - Thái Bình – Nam Định Hà Nội- Thái Bình – Hưng Yên Hà Nội - Thái Bình – Ninh Bình Hà Nội - Hưng Yên - Hải Dương - Thái Bình Từ tp Thái Bình về Cồn Vành: Cách 1: Đón xe Bus Hoàng Hà số 01 từ thành phố Thái Bình bắt xe Bus số 01 về thị trấn Tiền Hải xong đón taxi hoặc xe ôm tới Cồn Vành; cung đường dài khoảng 20 km. Cách 2: Đón xe Bus Hoàng Hà số 08 từ thành phố Thái Bình đến bến xe xã Nam Trung rồi đi taxi hoặc xe ôm tới bãi biển Cồn Vành. Cung đường này khoảng 10 km. Vui chơi giải trí. Bên cạnh tắm biển, tìm hiểu đời sống động thực vật, tổ chức các cuộc picnic, nghỉ dưỡng bằng tàu thuyền với các trò vui chơi, giải trí trên biển như câu cá, lướt ván, bóng chuyền bãi biển, du khách còn có đi chợ mua hải sản tươi sống.
1
null
Scent of a Woman () là phim truyền hình của Hàn Quốc, có sự góp mặt của các diễn viên như Kim Sun-ah, Lee Dong Wook, Uhm Ki-joon và Seo Hyo-rim. Phim được trình chiếu trên Hệ thống Truyền hình Seoul (SBS) từ ngày 23 tháng 7 đến ngày 11 tháng 9 năm 2011 vào thứ Bảy và Chủ nhật, lúc 21 giờ 55 phút. Phim gồm 16 tập. Tóm tắt. Lee Yeon-jae (Kim Sun-ah) là một phụ nữ tuổi băm độc thân, nhu mì và rụt rè, bị xã hội xem là "bà cô ế chồng". Sau khi dành mười năm làm việc tại cùng một công ty du lịch do Kang Chul-man sở hữu, cô bị vu oan tội ăn cắp đồ của khách hàng. Ngoài việc phải chịu đựng những lời buộc tội của cấp trên thì cô còn được chẩn đoán mắc bệnh ung thư túi mật và chỉ còn sống được xấp xỉ sáu tháng nữa. Lấy hết can đảm, cô ký đơn nghỉ việc và tận hưởng sáu tháng còn lại của cuộc đời. Cô vung tiền chi cho áo quần và đi máy bay khoang hạng nhất đến đảo Okinawa của Nhật Bản. Tại đây cô gặp người đàn ông trong mơ là Kang Ji-wook (Lee Dong Wook) - không ngờ lại là con trai sếp cũ của cô. Ji-wook là một anh chàng trẻ tuổi giàu có, từng là một người hay giễu cợt và tẻ nhạt cho đến khi anh yêu cô. Hai người cùng nhau sống sót qua một chuỗi các tai nạn bất ngờ - cả khôi hài lẫn buồn vui lẫn lộn - khi Yeon-jae hoàn thành từng giấc mơ trong danh sách những điều cần làm trước khi chết của cô. Phát sóng ở nước khác. Tháng 9 năm 2011, người ta thông báo rằng quyền phát sóng phim đã được bán cho tám quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á gồm Philippines, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Campuchia, Malaysia, Indonesia và Việt Nam. Việc này diễn ra sau những sự kiện quảng bá phim của hai diễn viên chính là Kim Sun-ah và Lee Dong Wook vào ngày 5-6 tháng 12 lần lượt tại Singapore và Malaysia cho kênh ONE TV ASIA.
1
null
Trường Đại học Waterloo (tiếng Anh: "University of Waterloo", còn gọi là Waterloo, UW, hay UWaterloo) là một trường đại học nghiên cứu hệ công lập có khuôn viên chính đặt tại Waterloo, Ontario. Khuôn viên chính của trường đặt tại khu đất rộng 404 hécta phía Bắc thành phố Waterloo, gần công viên Waterloo. Trường cung cấp các chương trình học thuật dưới sự quản lý của 6 khoa và 10 trường chuyên khoa. Waterloo còn có 4 khuôn viên vệ tinh và liên kết với 4 trường đại học thuộc viện đại học. Waterloo là một thành viên của U15, một nhóm các viện đại học nghiên cứu chuyên sâu tại Canada. Trường Đại học Waterloo nổi tiếng với các chương trình hợp tác đào tạo ("co-op"), cho phép sinh viên áp dụng kiến thức chuyên môn vào môi trường làm việc thực tế. Đây cũng là trường đại học có hệ thống chương trình co-op lớn nhất thế giới, với hơn 17.000 sinh viên tham gia trong hơn 140 chương trình co-op. Trường được thành lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1957 dưới tên Khoa Liên kết Cao đẳng Waterloo, một tổ chức bán tự trị của Cao đẳng Waterloo và là hội viên của trường Đại học Tây Ontario. Tổ chức này sau đó tách khỏi Cao đẳng Waterloo và thành lập theo hình thức trường đại học dưới đạo luật University of Waterloo Act, ban hành bởi Hội đồng Lập pháp Ontario năm 1959. Trường được thành lập với mục đích đào tạo các kỹ sư và chuyên gia phục vụ nền kinh tế Canada hậu chiến tranh. Quy mô trường phát triển mạnh mẽ trong thập niên tiếp theo, với việc thành lập Khoa Nghệ thuật năm 1960 và Trường Nhãn khoa Ontario năm 1967. Tính đến năm 2016, có tổng cộng 30.600 sinh viên đại học và 5.300 sinh viên sau đại học đang theo học tại trường. Các cựu sinh viên Waterloo đang sinh sống và làm việc tại Canada và hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trường xếp hạng 152 theo 2018 QS World University Rankings, 201–250 theo 2018 Times Higher Education World University Rankings, 201–300 theo 2017 Academic Ranking of World Universities, và 240 theo U.S. News & World Report University Rankings. Đội thể thao của trường, còn gọi là Waterloo Warriors (tiếng Việt: "Những chiến binh Waterloo") tham gia thi đấu tại Hội thao Đại học ở Ontario.
1
null
Eo biển Drake (tiếng Anh: Drake Passage, tiếng Tây Ban Nha: Pasaje de Drake hay Mar de Hoces) là eo biển phân cách 2 lục địa Nam Mỹ và châu Nam Cực, là khoảng nằm từ cực nam của Nam Mỹ tại Cape Horn, Chile tới điểm cực bắc của Nam Cực tại quần đảo South Shetland. Eo biển này cũng nối liền phần đông nam của Thái Bình Dương với phần tây nam của Đại Tây Dương và kề với Nam Băng Dương. Lịch sử. Eo biển mang tên tiếng Anh của nó từ thương nhân kiêm chỉ huy tàu truy lùng người Anh thế kỷ 16 là Francis Drake. Con tàu duy nhất còn lại của Drake, sau khi đi qua eo biển Magellan, đã bị gió thổi trôi xa về phía nam vào tháng 9 năm 1578. Sự cố này ngụ ý một vùng nước mênh mông giữa 2 đại dương là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Nửa thế kỷ trước, sau khi một cơn gió bão đẩy họ về phía nam từ lối vào eo biển Magellan, đoàn thủy thủ của nhà hàng hải người Tây Ban Nha Francisco de Hoces nghĩ rằng họ đã nhìn thấy một điểm cuối của vùng đất liền và có thể đã suy đoán ra eo biển này vào năm 1525. Vì lý do này, một số nhà sử học và các nguồn tài liệu tham khảo của Tây Ban Nha và Mỹ Latinh đã gọi nó là "Mar de Hoces" (nghĩa đen: biển Hoces) theo tên của Francisco de Hoces. Chuyến đi đầu tiên qua eo biển được ghi chép lại là của tàu "Eendracht", được chỉ huy bởi nhà hàng hải người Hà Lan Willem Schouten vào năm 1616, đã đặt tên cho Cape Horn trong quá trình này. Sự quá cảnh bằng sức người đầu tiên (bằng cách chèo thuyền) qua eo biển này đã được hoàn thành vào ngày 25 tháng 12 năm 2019, bởi thuyền trưởng Fiann Paul (Iceland), thuyền phó một Colin O'Brady (Hoa Kỳ), Andrew Towne (Hoa Kỳ), Cameron Bellamy (Nam Phi), Jamie Douglas-Hamilton (Anh) và John Petersen (Mỹ). Địa lí. Tại khoảng cách hẹp nhất của eo biển là 800 km (500 dặm) giữa Cape Horn và Đảo Livingston ở phía bắc châu Nam Cực được xem là lối đi ngắn nhất từ ​​châu Nam Cực đến bất kỳ vùng đất nào khác trên thế giới. Ranh giới giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương đôi khi được coi là một đường thẳng được vẽ từ Cape Horn đến đảo Snow (130 km (81 dặm) về phía bắc của lục địa châu Nam Cực), mặc dù Tổ chức Thủy văn Quốc tế định nghĩa ranh giới này như là kinh tuyến đi ngang qua Cape Horn—67° 16′ W.. Cả hai đường ranh giới này đều nằm hoàn toàn trong eo biển Drake. Ngoài ra có 2 eo biển khác xung quanh khu vực cực nam Nam Mỹ (mặc dù không đi quanh Cape Horn) là eo biển Magellan và eo biển Beagle. Chúng đều rất hẹp và có ít không gian để thao diễn tàu thuyền. Chúng cũng có thể đóng băng, và đôi khi gió ở đây thổi rất mạnh đến nỗi không có tàu/thuyền buồm nào có thể bơi ngược chiều gió. Do đó hầu hết các tàu thuyền ưa thích eo biển Drake, một vùng nước rộng hàng trăm dặm, mặc dù điều kiện đi lại cũng rất khó khăn khi gió bão và biển động thường xuyên xảy ra. Khu vực eo biển này là một vùng gió bão hoạt động mạnh do nằm gần Nam Cực, với những trận cuồng phong giá lạnh có vận tốc đạt khoảng 10 mét/giây và nhiệt độ luôn dao động từ 5 °C xuống đến -3 °C. Ngoài ra, những dòng nước biển nóng và lạnh cùng tồn tại dưới các luồng nước eo biển Drake. Sự hòa trộn hai dòng nóng lạnh trong khu vực chỉ rộng khoảng 1.000 km (không có bất cứ khối đất đá ngầm nào giảm tốc) không chỉ khiến luồng nước di chuyển mạnh hơn mà còn tạo nên hàng loạt các cơn sóng thần lớn, hoàn toàn có thể nhấn chìm tàu thuyền của người đi biển bất cứ lúc nào. Không có vùng đất liền đáng kể nào ở vĩ độ của eo biển Drake, điều này rất quan trọng đối với dòng chảy không bị cản trở của hải lưu vòng Nam Cực mang theo những luồng nước chảy xiết với lượng nước khổng lồ lên tới 135 triệu mét khối nước mỗi giây (gấp khoảng 600 lần hải lưu của sông Amazon) qua eo và xung quanh Nam Cực. Quần đảo Diego Ramírez nhỏ nằm khoảng 100 km (62 mi) về phía nam-tây nam của Cape Horn. Tàu đi lại trong eo biển này thường có cơ hội tốt để nhìn thấy cá voi, cá heo và chim biển bao gồm cả hải âu và chim cánh cụt. Địa chất. Eo biển được biết là đã không xuất hiện khoảng 41 triệu năm trước theo một nghiên cứu hóa học về răng cá được tìm thấy trong đá trầm tích đại dương. Trước khi eo này mở ra, Đại Tây Dương và Thái Bình Dương hoàn toàn tách biệt, với Nam Cực ấm hơn nhiều và không có chỏm băng. Sự kết hợp của hai đại dương đã bắt đầu xuất hiện hải lưu vòng Nam Cực và làm lạnh đáng kể lục địa.
1
null
KURATAS (クラタス) là loại người máy mecha lớn có thể lái từ bên trong được thiết kế bởi nghệ nhân và thợ rèn Kurata Kogoro còn tập đoàn công nghiệp nặng Suidobashi lo việc hỗ trợ phát triển và chế tạo hàng loạt. Người máy được mang ra giới thiệu trước công chúng lần đầu tiên trong lễ hội Wonder Festival 2012 nơi mà những người yêu thích người máy tập hợp lại, tại đó nó được giới thiệu như là một công trình nghệ thuật để tiến một bước mang giấc mơ lớn trở thành hiện thực. KURATAS còn được dùng cho việc thương mại và trang mạng để đặt hàng người máy đã mở vào năm 2012. Phát triển. Kurata Kogoro nói "Khi tôi còn bé tôi đã mơ tới những người máy khổng lồ. Nhưng dù tôi có đợi bao lâu đi nữa người ta vẫn chỉ chế ra các người máy nhỏ như ASIMO vì thế tôi không đợi nữa tôi sẽ tự làm một con". Và người máy KURATAS đã tốn ba năm để rèn hoàn tất cái vỏ. Sau đó là gắn động cơ diesel thủy lực vào để các chi hoạt động. Việc phát triển người máy của Kurata hầu hết dựa vào các mô hình mà ông từng làm nhất là các mẫu lấy cảm hứng từ bộ anime Sōkō Kihei Botomuzu, sau đó ông lại thấy mình không có nhiều kiến thức về cơ khí hay điện tử và ông chỉ gắn những gì ông có được lại với nhau theo cách thích hợp nhất vì thế khi thử nghiệm người máy đã từng phát sinh một đống các lỗi và phải dần dần khắc phục. Kurata dự tính cho người máy có thể bước đi trên các chân nhưng do không thể tìm ra các nguồn cung cấp các thiết bị cần thiết nên kế hoạch không được thực hiện. Chương trình điều khiển 30 khớp nối của người máy là V-Sido do Yoshizaki Wataru thực hiện. Nó cũng dùng để vận hành các loại "Vũ khí" mà người mà người máy được trang bị dù chỉ là đồ chơi như hai súng hơi nòng xoay gắn trên tay có thể bắn 6000 viên/phút cùng các loại khác được phát triển để trang bị trên người máy, chương trình này có thể khóa mục tiêu và tự động chỉnh vũ khí nhắm vào mục tiêu dù đang di chuyển. Tập đoàn công nghiệp nặng Suidobashi đã tài trợ cho dự án và dự tính sẽ đưa chương trình vào sản xuất hàng loạt vì thế đã một trang mạng giới thiệu người máy và ra giá khởi điểm là 1,35 triệu đô một con với việc có thể chọn màu sơn và loại vũ khí được trang bị, trang mạng nhận được hơn 3.000 đơn hàng từ trong và ngoài Nhật Bản vì mọi người nghĩ đây là một trò đùa. Nhưng khi người máy được thật sự giới thiệu thì tất cả đều "chạy" hết. Dù sao thì tập đoàn Suidobashi cũng như nhóm phát triển chưa thực sự dự tính có lợi nhuận gì với chương trình hiện tại và nói đùa là "Chúng tôi tạo ra nó là để nhắm đến trước nhất là các ông trùm dầu khí". Thiết kế. KURATAS có bốn chân và có thể đứng thẳng lên để theo dõi xung quanh với chiều cao tối đa là khoảng 4 mét với trọng lượng khoảng 4,5 tấn cũng như có thể di chuyển với tốc độ tối đa là 10 km/h trên bốn bánh xe. Buồng lái có bộ điều khiển người máy và trang bị màn hình cảm ứng hiển thị những gì người máy "thấy" bên ngoài và đưa vào bên trong cho người lái xem. Khi khóa mục tiêu nếu người lái cười tức là sẽ kích hoạt cơ chế khai hỏa của vũ khí vì thế nếu cười quá nhiều người máy sẽ bắn tá lả. Nếu người sử dụng không thích vào trong lái vì lý do nào đó thì người máy vẫn có thể được điều khiển từ bên ngoài bằng điện thoại di động có cài chương trình điều khiển.
1
null
Blue Cat Blues là tập phim hoạt hình thứ 103 của loạt phim "Tom và Jerry", sản xuất năm 1955, đạo diễn và sản xuất bởi William Hanna và Joseph Barbera với phần âm nhạc của Scott Bradley. Các họa sĩ tham gia hoạt họa gồm Ed Barge, Irven Spence, Lewis Marshall và Kenneth Muse, với các lớp nền bởi Richard Bickenbach và bối cảnh nền làm bởi Robert Gentle. Tập phim là một ngoại lệ lớn của bộ phim "Tom and Jerry" khi Jerry nói và dẫn chuyện suốt chiều dài tập phim với sự lồng tiếng của diễn viên Paul Frees. Vì Jerry đóng vai người dẫn chuyện giấu mặt kể lại nên không phá vỡ quy tắc của phim là Tom and Jerry không trực tiếp nói trên màn ảnh. Tập phim phát hành năm 1956 bởi Metro-Goldwyn-Mayer. Nội dung. Tom và Jerry vốn là một đôi bạn thân không thể tách rời cho tới khi Tom gặp một ả mèo trắng xinh đẹp. Cậu ngay lập tức phải lòng mèo trắng và cố gắng bằng mọi cách tán tỉnh cô ả, và khi sự cạnh tranh từ tình địch là mèo Butch quá kinh khủng, Tom thậm chí còn cầm cố tài sản, bán thân và thực hiện hợp đồng nô lệ để đánh đu với cuộc chơi tình ái. Nhưng dẫu Tom có cố gắng tới mức nào đi nữa, mèo Butch vẫn giàu có hơn, và sau cùng làm đám cưới với mèo trắng. Tom đau khổ và quyết định ra đường tàu tự vẫn. Trớ trêu thay, vào thời khắc Jerry buồn thương cho bạn mình thì cậu phát hiện ra, bạn gái cũng đã cưới chuột khác giàu hơn. Đau khổ tột cùng, Jerry cũng ra ngồi cạnh Tom và sẵn sàng chết theo bạn. Thông tin thêm. Đây là một trong các tập phim mà Jerry cứu mạng Tom. Các tập phim còn lại là: Đây là tập phim Tom and Jerry duy nhất có nội dung bi đát. Đây cũng là tập cuối cùng có tựa đề kết cho tới Penthouse Mouse và là tập sau cùng dùng câu "An MGM Tom and Jerry Cartoon" trong phần kết.
1
null
Nguyễn Hồng Nhị (22 tháng 12 năm 1936 – 25 tháng 11 năm 2021) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam; Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân. Ông là một cựu phi công lái máy bay MiG 21 và là Phi công Việt Nam đầu tiên dùng MiG 21 bắn rơi máy bay Mỹ thuộc Trung đoàn không quân tiêm kích 921, Quân chủng Phòng không–không quân. Tiểu sử. Ông sinh ngày 22 tháng 12 năm 1936 tại Hoài Sơn, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh . Chưa tròn 18 tuổi, Hồng Nhị xin gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam và nằm trong đại đội 104 phòng tham mưu Khu 5. Năm 1954 khi đang tại ngũ đại đội 2 tiểu đoàn 365 trung đoàn 803 đại đoàn 305, Nguyễn Hồng Nhị theo đơn vị tập kết ra bắc. Sau đó được đi học phi công. Năm 1972 khi đang là Thiếu tá Chủ nhiệm bay của Trung đoàn không quân 921 ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng trung đoàn không quân 927 có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Sau đó là Sư đoàn phó sư đoàn không quân 371. Năm 1975 ông về làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn không quân 372. Năm 1985 được phong Thiếu tướng, Sư trưởng Sư đoàn không quân 370. Năm 1987 làm Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân. Năm 1989 chuyển ngành làm Tổng cục trưởng Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Năm 1998 ông nghỉ hưu, về sống tại trang trại ở Sóc Sơn. Ông qua đời ngày 25 tháng 11 năm 2021, thọ 84 tuổi. Chiến công. Ngày 4 tháng 3 năm 1966, ông bắn rơi một máy bay không người lái AQM-34 của không quân Hoa Kỳ, trở thành phi công MiG-21 đầu tiên của Việt Nam bắn rơi máy bay địch. Ông đã trực tiếp bắn rơi 8 máy bay không quân Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam, trong đó có ba chiếc được đối phương công khai thừa nhận. Trong thực tế là một số phi công Mỹ thường nói rằng họ bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không hoặc pháo phòng không vì họ cho rằng như thế sẽ "đỡ xấu hổ hơn" là thất bại trong một trận không chiến. Giữa năm 1966, trong một trận chiến với hàng chục chiếc F4, máy bay của ông bị trúng tên lửa khiến ông phải nhảy dù. Ông bị dân quân Cao Bằng bắt giữ vì nói giọng miền trong, phía dân quân nghĩ ông là phi công của Quân lực Sài Gòn. Mãi đến khi có điện xác nhận của Quân chủng thì ông mới được chuyển lên trên. Ông bị chấn thương khá nặng, nhưng đã hồi phục sau 3 tháng và bay lại. Ngày 1 tháng 8 năm 1968, biên đội ba chiếc MiG-21 gồm Nguyễn Đăng Kính (số 1), Nguyễn Mạo (số 2) và Nguyễn Hồng Nhị (số 3) đánh trận trên vùng trời Đô Lương, Nam Đàn (thuộc tỉnh Nghệ An). Ông bắn hạ 1 chiếc F-8, nhưng sau đó bị trúng hai tên lửa Sidewinder từ máy bay Vought F-8 Crusader của phi đội VF-51, hải quân Hoa Kỳ. Ông đã thoát hiểm thành công bằng ghế phóng. Sáng ngày 9 tháng 9 năm 1969, ông dẫn đầu biên đội 12 chiếc MiG-21 bay qua lăng Ba Đình trong lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 18 tháng 6 năm 1969. Năm 1972, ông được bổ nhiệm là trung đoàn trưởng trung đoàn không quân tiêm kích 927. Trung đoàn 927 trong 6 tháng cuối năm 1972 đã bắn rơi 42 máy bay của Mỹ, trong đó có một chiếc B-52 trong Chiến dịch Linebacker II. Những chiếc máy bay sau được Không quân nhân dân Việt Nam xác nhận do Nguyễn Hồng Nhị tiêu diệt: Danh hiệu. Trong quá trình tham gia chiến đấu, Thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị được Đảng, Nhà nước tặng thuởng:
1
null
Lê Thanh Đạo (sinh năm 1944) chính khách Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII, từng là một phi công lái MiG-21 của Trung đoàn Tiêm kích 927 không quân Nhân dân Việt Nam. Ông là một phi công "ách" trong Chiến tranh Việt Nam với 6 máy bay tiêu diệt được. Ông quê xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Tham gia lực lượng không quân. Năm 1965, ông được cử đi học lái máy bay ở Liên Xô. Năm 1968, ông hoàn thành nhiệm vụ học tập trở về nước tham gia chiến đấu trong Trung đoàn Không quân Tiêm kích 921 (Sao Đỏ). Năm 1973, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Những máy bay đối phương sau đây được Không quân nhân dân Việt Nam xác nhận do ông bắn hạ: Tham gia chính trường. Sau khi giải ngũ, ông tham gia công tác chính quyền, đã giữ các chức vụ: Bí thư thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa IV, khóa V; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1975), Ủy viên Hội đồng Nhà nước; Chủ nhiệm Ủy ban Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (từ 28-6-1982, thay Vũ Quang), Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1987 - 1992), Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1992 - 4-11-1996), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII (1994), Phó ban Dân vận Trung ương.
1
null
Cyclosorus parasiticus (hay còn gọi là "dương xỉ"') là một loài thực vật có mạch trong họ Thelypteridaceae. Loài này được (L.) Farw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1931. "Chiều cao: 15–30 cm Đặc điểm cây dương xỉ: L"à cây thân thảo, gần như không thân, cao trung bình khoảng 15 – 30 cm, rộng khoảng 15 – 20 cm. Cây dương xỉ có nhiều lá mọc thành cụm nhìn rất sum suê. Dương xỉ có lá kép, dài khoảng 20 – 35 cm, giống hình chiếc lược, thon nhọn ở đầu; lá non cuộn tròn, có lông. Lá dương xỉ hay được dùng để cắm hoa.   Cây dương xỉ thích hợp với mọi điều kiện tự nhiên bình thường, rất dễ trồng và chăm sóc; nếu thời tiết mát mẻ, độ ẩm nhiều thì cây phát triển mạnh hơn. Cây dương xỉ có khả năng hấp thụ Aldehyde formic, ức chế xylen và toluene từ máy vi tính và máy in, khiến không khí trong lành hơn, tinh thần thoải mái hơn. Lá và rễ cây dương xỉ được dùng làm thuốc chữa bệnh: thận hư, bong gân, cầm máu… Cây dương xỉ có thể trồng trong bồn, chậu đứng, chậu treo để làm cảnh hoặc để trang trí nhiều nơi như: lối đi, gốc cây lớn, đồi cảnh, hòn non bộ…Cây dương xỉ đặt trong phòng làm việc cũng rất thích hợp. Vài nét về dương xỉ. a. Cơ quan sinh dưỡng của dương xỉ đã tiến hóa hơn rêu là đã có rễ thật. Lá còn non thì cuộn tròn, lá đã già thì có cuống dài. Thân của loại cây này là thân ngầm, nằm ngang, hình trụ. Vì đã có rễ thật nên trong thân có mạch dẫn. b. Cơ quan sinh sản của dương xỉ là túi bào tử. Dương xỉ sinh sản bằng bào tử. Bào tử nảy mầm thành nguyên tản, cây dương xỉ con mọc ra từ nguyên tản sau quá trình thụ tinh. Một vài loại dương xỉ thường gặp. Cây rau bợ hay còn gọi là cỏ bợ, cỏ tần, tứ diệp thảo, điền tự thảo, dạ hợp thảo…. mọc dại khắp nơi ít được mọi người chú ý đến nhưng thực ra lại có thể làm nên những bài thuốc dân gian rất kỳ diệu cho người tiểu đường, sỏi thận, tiêu viêm, giải độc…Có tên khoa học là "Marsilea quadrifolia" L., thuộc họ Tần (Marsileaceae), bộ Dương xỉ (Hydropterides). Rau bợ mọc hoang ở những nơi ẩm hay ở dưới nước, có thân rễ bò mảnh, mang từng nhóm 2 lá một, cuống lá dài 5–15 cm. Cây lông cu li hay còn gọi là cẩu tích là một trong số ít các loài dương xỉ mộc mà Carl Linnaeus ban đầu đã đặt trong họ Polypodiaceae trong cuốn "Species Plantarum" của ông.
1
null
Họ Đuôi cụt Madagascar (danh pháp khoa học: Philepittidae) là một họ chim dạng sẻ nhỏ, đặc hữu Madagascar. Trước đây người ta cho rằng chúng có quan hệ họ hàng gần nhất với các loài đuôi cụt trong họ Pittidae, vì thế mà có tên khoa học cho họ này (Phile+pittidae), nhưng một nghiên cứu năm 1993 cho thấy chúng có quan hệ họ hàng gần với các loài mỏ rộng (Eurylaimidae) hơn. Hình thái minh quản của chúng cũng giống như của mỏ rộng Grauer ("Pseudocalyptomena graueri") ở châu Phi. Các loài thuộc chi "Neodrepanis" được biết đến như là "sunbird-asities" (đuôi cụt hút mật) và từng được biết đến như là giả hút mật. Phân loại. Hiện nay người ta công nhận 2 chi và 4 loài cho họ này. Cụ thể là: Phân bố và môi trường sống. Các loài đuôi cụt Madagascar được tìm thấy trong các môi trường sống nơi có nhiều loài thực vật có hoa ký sinh và biểu sinh. Chúng ưa thích các môi trường sống rừng mưa nhưng cũng có thể tìm thấy trong các rừng lá sớm rụng khô và các thung lũng ẩm ướt. Chúng được tìm thấy từ các vùng đất thấp cho tới cao độ khoảng 2.650 m. Đặc điểm. Cả bốn loài này được tìm thấy chủ yếu trong các rừng mưa. Chúng là các loài chim nhỏ tới trung bình với các đuôi ngắn. Chim trống có màu sắc sặc sỡ và có các yếm thịt màu xanh lam hay xanh lục xung quanh mắt. Các yếm thịt này, nổi rõ nhất trong mùa sinh sản, có màu từ các mảng các sợi colagen. Phương pháp nhuộm màu này là duy nhất trong giới động vật. Một vài đặc trưng khác tách chúng ra khỏi các loài mỏ rộng như chúng có 12 lông đuôi trên cái đuôi cực ngắn (gần như không tồn tại ở các loài "Philepitta"), minh quản của chúng được bọc trong một vành phế quản lớn và chúng có lưỡi chẻ thích nghi với việc hút mật. Hai loài đuôi cụt hút mật có mỏ cong xuống thích hợp cho việc hút mật từ các bông hoa. Chúng cũng ăn các loại quả, quả mọng và côn trùng. Người ta biết rất ít về tập tính sinh sản của chúng. Tuy nhiên, chúng được cho là đa thê. Chúng là các loài chim nhỏ tới trung bình với chiều dài trong khoảng từ 9 tới 16,5 cm và cân nặng từ 6,2 tới 38 g. Có dị hình giới tính rõ nét ở cả bốn loài với chim trống to lớn và sặc sỡ hơn. Chim trống có màu sắc sặc sỡ và có các yếm thịt màu xanh lam và/hoặc xanh lục xung quanh mắt, nổi rõ trong mùa sinh sản và dường như biến mất khi ở các mùa khác. Các loài của chi "Neodrepanis" cũng có mảng da tươi màu ở phần gốc mỏ. Chúng có các đuôi nhỏ và ngắn, chân ngắn và mỏ dài uốn cong. Chiếc lưỡi hình ống giúp chúng hút mật ra khỏi hoa. Chúng thay lông hai lần mỗi năm, lần thay lông thứ nhất là sau khi sinh đẻ, tạo ra cho chim trống bộ lông mờ tối của chúng. Các loài trong chi "Philepitta" là những con chim thuôn tròn với đuôi và cánh ngắn. Chúng có các lông vũ màu vàng, đen và lam ngũ sắc. Mỏ của chúng nhỏ hơn nhiều so với của các loài trong chi "Neodrepanis" và chúng không có lưỡi hình ống. Chúng thay lông một lần trong năm; ở các con trống thì các lông vũ mới có riềm màu ánh vàng mất dần theo thời gian, làm cho chim trống có bộ lông đen tuyền vào mùa sinh sản. Chim mái nói chung xỉn màu hơn (màu nâu ô liu với vài sọc vàng trên ngực) còn yếm thịt (nếu có) thì nhỏ hơn và ít rõ nét hơn. Một vài chim trống có sự thuần thục bộ lông bị trì hoãn lại và trông có thể giống như chim mái ngay cả khi chúng đã thuần thục về mặt sinh dục. Tập tính. Nói chung đuôi cụt Madagascar là chim tĩnh tại, mặc dù một số có thể di chuyển theo cao độ khi nguồn thức ăn dịch chuyển. Đuôi cụt hút mật thường có thể di chuyển tới 150 km trong phạm vi sinh sống của chúng. Đuôi cụt nhung là chim sống đơn độc và được biết đến như là chim dễ thuần hóa và dễ tiếp cận. Thỉnh thoảng chúng kiếm ăn trong các đàn hỗn hợp loài. Đuôi cụt Schlegel thường được tìm thấy trong các tầng tán. Chúng được tìm thấy trong các đàn hỗn hợp loài khi không trong mùa sinh sản, nhưng thường là đơn độc trong mùa sinh sản. Chim trống sẽ bảo vệ khu vực kiếm ăn xung quanh các cây có hoa. Các loài đuôi cụt hút mật (chi "Neodrepanis") là chim hung hãn và cạnh tranh thức ăn với các loài khác. Chúng được tìm thấy trong các đàn hỗn hợp loài khi không trong mùa sinh sản. Chúng có xu hướng không thân thiện đối với con người. Thức ăn. Các loài thuộc chi "Philepitta" chủ yếu là ăn quả. Chúng ăn các loại quả thuộc các họ Rubiaceae, Euphorbiaceae, Piperaceae, Melastomataceae và Apocynaceae. Chúng thường đậu xuống và rỉa quả hoặc rỉa nhanh trong khi bay lơ lửng trước cây. Chúng cũng ăn côn trùng, nhện và mật hoa. Các loài của chi "Neodrepanis" chủ yếu là ăn mật hoa, mặc dù chúng cũng ăn quả. Chúng kiếm ăn trên các loài tầm gửi (đặc biệt là thuộc chi "Bakerella"), Balsaminaceae, Zingiberaceae, Melastomataceae và Rubiaceae. Chúng cũng ăn côn trùng và các loài động vật không xương sống khác. Lưỡi của cả bốn loài đều chẻ với đầu lưỡi giống như cái chổi. Điều này giúp chúng hút mật từ hoa. Cái lưỡi hình ống của đuôi cụt hút mật thường và đuôi cụt hút mật bụng vàng hỗ trợ thêm cho chúng trong việc kiếm ăn mật hoa. Sinh sản. Người ta biết ít về tập tính sinh sản của đuôi cụt Madagascar. Chúng được coi là chim đa thê, nhưng hệ thống giao phối có thể thay đổi tùy theo sự dồi dào của nguồn thức ăn. Các con đuôi cụt trống phình to các yếm thịt khi thể hiện trước các con mái và các lông bay sơ cấp phía ngoài của chúng phát ra tiếng kêu vù vù khi chúng bay. Đuôi cụt nhung dường như tạo ra các sân tìm đôi phân tán, nơi các con trống chiếm giữ lãnh thổ để thể hiện các kiểu tìm chim mái kết đôi thích hợp. Các thể hiện của chúng là một loạt các bước và bao gồm việc thực hiện sự nhào lộn xung quanh chỗ đậu. Đuôi cụt Schlegel rủ cánh xuống,xù lông ngực và dựng đứng đuôi trong khi rít lên. Đuôi cụt hút mật thường và đuôi cụt hút mật bụng vàng thực hiện sự uốn cong với việc hạ thấp mỏ và đuôi, dựng đứng các lông trên chỏm đầu lên và rít lên. Đuôi cụt hút mật bụng vàng cũng thể hiện sự nhào lộn, mặc dù điều này được cho là để xua đuổi các con trống khác chứ không phải để thu hút các con mái. Thời gian sinh sản thay đổi tùy theo khu vực. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu từ mùa mưa ẩm của khu vực và trùng với thời gian có nhiều thức ăn nhất, từ khoảng tháng 9 tới tháng 11. Chim mái chịu trách nhiệm làm tổ. Tổ có dạng giống quả lê, treo trên cây và thường làm từ lá và cành tre, rễ, cỏ, rêu, mảnh vỏ cây, lá và tơ mạng nhện. Lối vào tổ được tạo ra vào cuối quá trình làm tổ bằng cách thọc một lỗ vào bên trong cấu trúc vừa tạo ra. Lỗ thường được che chở bằng cỏ treo phía trên. Tổ thường ở độ cao từ 2 tới 5 m trên mặt đất. Người ta cho rằng mỗi ổ khoảng 2-3 trứng. Không có thông tin về thời gian ấp trứng và nuôi con non. Chim mái chịu trách nhiệm ấp trứng và nuôi con non. Chim non chủ yếu được nuôi bằng thức ăn là côn trùng. Liên lạc và nhận thức. Các lông bay sơ cấp bên ngoài tạo ra tiếng kêu vù vù khi các loài đuôi cụt này bay. Tiếng kêu vù vù này có lẽ có chức năng trong việc kết đôi. Các con trống cũng phình to các yếm thịt của chúng để thể hiện với các con mái và các con trống khác. Tất cả các loài dường như cũng có một vài dạng biểu diễn kết đôi. Phần lớn thời gian các loài đuôi cụt Madagascar có các tiếng kêu không ầm ĩ và có âm vực cao. Một vài con trống có các tiếng kêu rít lên ồn ã hơn. Đuôi cụt nhung có tiếng kêu "uy đu" lặp đi lặp lại, hoặc một loạt các tiếng "huýt huýt". Đuôi cụt hút mật thường thực hiện một loạt tiếng xuỵt xuỵt và các tiếng kêu đơn lẻ, không ầm ĩ và có âm vực cao. Tiếng kêu của đuôi cụt hút mật bụng vàng giống như tiếng nhái kêu với các tiếng kêu đơn lẻ lặp lại. Tuổi thọ. Người ta chưa có thông tin gì về tuổi thọ của chúng trong tự nhiên. Kẻ thù. Người ta chưa có thông tin gì về kẻ thù của chúng trong tự nhiên. Vai trò sinh thái. Các loài đuôi cụt Madagascar có tác động tới tái sinh rừng. Chúng là quan trọng trong cả phát tán hạt lẫn thụ phấn hoa. Đuôi cụt Madagascar giúp thụ phấn cho các loài có tầm quan trọng thương mại như "Grevillea", "Albizia" và "Eucalyptus". Chúng cũng có vai trò quan trọng trong du lịch sinh thái và được những người nuôi chim tìm kiếm. Cho tới nay người ta vẫn chưa nhận thấy các tác động tiêu cực của chúng đối với con người. Tình trạng bảo tồn. Đuôi cụt Madagascar dễ bị thương tổn trước hoạt động của con người do chúng sống trong các khu rừng hiện đang bị đốn hạ phục vụ cho canh tác nông nghiệp, khai mỏ và lấy gỗ. Phạm vi phân bố vốn đã nhỏ của chúng ngày càng bị phân mảnh. Đuôi cụt hút mật bụng vàng ("Neodrepanis hypoxantha") được IUCN liệt kê như là loài dễ thương tổn còn đuôi cụt Schlegel ("Philepitta schlegeli") thì được coi là gần bị đe dọa
1
null
Theo nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wollfgang Strasdas (2009): "Du lịch sinh thái cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương". Theo tổ chức Respondsible Ecological Social Tours (1997) thì du lịch sinh thái cộng đồng là "phương thức tổ chức du lịch đề cao về môi trường, văn hóa xã hội. Du lịch sinh thái cộng đồng do cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép khách du lịch nâng cao nhận thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ". Ý tưởng đằng sau vế "dựa vào cộng đồng" của chiến lược môi trường là tạo cơ hội trao quyền cho cộng đồng, tăng cường sự tham gia của họ trong việc ra quyết định, nhưng cũng chỉ đơn giản là những điều này sẽ khuyến khích sự tham gia từ bản thân cộng đồng. Tóm lại: Du lịch sinh thái cộng đồng (DLSTCĐ) là loại hình du lịch do cộng đồng tổ chức, dựa vào thiên nhiên và văn hoá địa phương với mục tiêu bảo vệ môi trường. DLSTCĐ đề cao quyền làm chủ, chú ý phân bổ lợi ích rộng rãi và nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng. Với khách du lịch, DLSTCĐ tạo cơ hội tìm hiểu, nâng cao nhận thức về môi trường và giao lưu văn hoá, trải nghiệm cuộc sống hàng ngày của cộng đồng. Như vậy, du lịch sinh thái cộng đồng chính là nét tinh túy của du lịch sinh thái và du lịch bền vững. Du lịch sinh thái cộng đồng nhấn mạnh vào cả ba yếu tố là môi trường, du lịch và cộng đồng. Điều kiện hình thành và phát triển du lịch sinh thái cộng đồng. Điều kiện tiềm năng về tài nguyên môi trường tự nhiên và nhân văn có ý nghĩa quyết định đến phát triển du lịch sinh thái cộng đồng. Tiêu chí của du lịch sinh thái cộng đồng. Theo UNWTO (2008) cho rằng những tiêu chí của một du lịch sinh thái cộng đồng đang hướng tới gồm có các tiêu chí sau: Nguyên tắc của du lịch sinh thái cộng đồng. Võ Quế (2008) cho rằng các nguyên tắc để phát triển du lịch dựa vào cộng đồng bao gồm: Theo tổ chức WTO (2004), các nguyên tắc để phát triển du lịch cộng đồng cần phải dựa trên các nguyên tắc của du lịch bền vững: Thực trạng phát triển du lịch sinh thái cộng đồng ở Việt Nam. Các hình thức du lịch sinh thái cộng đồng thường thấy ở nước ta như: du lịch homestay, tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ cùng người dân bản địa, tham quan các bản làng dân tộc, tìm hiểu lối sống, văn hoá của người dân bản địa, tham quan nghiên cứu đa dạng sinh học,… diễn ra một số nơi như bản Lác - Mai Châu, Chiềng Yên - Sơn La, VQG Cát Bà, Khu bảo tồn Cù Lao Chàm - Hội An, v.v. Trong những năm gần đây, số du khách đến thăm các điểm du lịch tự nhiên, tìm hiểu cuộc sống của cộng đồng dân cư ở Việt Nam ngày càng tăng, nhưng vẫn thường mang tính tự phát, chưa được tổ chức bài bản và chưa đi vào thực chất. Các hình thức hoạt động của loại hình du lịch này mới chỉ mang ý nghĩa tham quan, hưởng thụ môi trường, ít đạt được mục đích nâng cao nhận thức, giáo dục môi trường và cảm nhận nét đặc sắc, cái hay, cái đẹp trong văn hoá của cộng đồng bản địạ Bên cạnh đó, một vài địa phương lại quan niệm phát triển DLSTCĐ gắn với phát triển kinh tế địa phương dựa trên lợi thế vùng miền, địa phương của mình. Vd như Đồng Tháp tận dụng cảnh quan nguyên sơ với những cánh đồng sen bạt ngàn tại Huyện Tháp Mười để phát triển mô hình du lịch sinh thái gắn với Sen: như chụp ảnh với đồng sen, tham gia thu hoạch chế biến sản phẩm từ sen, dệt lụa tơ sen... Hay như tại làng rau Trà Quế, Hội An, Quảng Nam lại cho du khách trải nghiệm nông nghiệp bằng cách tham gia trồng rau, làm đồng, thu hoạch sản phẩm nông nghiệp... Qua đó tìm hiểu nếp sống, tập quán và du khách được trực tiếp tham gia vào các hoạt động phát triển kinh tế đặc thù của địa phương.
1
null
Gián phương Đông, tên khoa học Blatta orientalis, là một loài gián lớn. Chiều dài khoảng 1 inch (2,5 cm) lúc trưởng thành. Nó có màu nâu sẫm đến đen và có một cơ thể bóng. Cá thể Gián phương Đông cái có ngoại hình hơi khác so với con đực, con cái có một cơ thể rộng hơn.
1
null
Phymatosorus scolopendria là một loài thực vật có mạch trong họ Polypodiaceae. Loài này được (Burm. f.) Pic. Serm. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1973..Loài dương xỉ này mọc hoang ở vành đai Tây Thái Bình Dương từ Úc đến New Caledonia đến Fiji và khắp Nam Thái Bình Dương đến Polynesia thuộc Pháp. Nó được giới thiệu ở Hawaii vào cuối những năm 1910 và sau đó đã nhập tịch nhanh chóng. Nó được tìm thấy trên tất cả các đảo chính.  Tên Hawaii của nó là lauaʻe  được cho là ban đầu được dùng để chỉ "loài dương xỉ bản địa Microsorum" . Tên khoa học "M. scolopendria" đã bị áp dụng sai cho "Microsorum Grossum" (và các từ đồng nghĩa của chúng trong "Phymatosorus" ).
1
null
Bọ ngựa khiên Peru, tên khoa học Choeradodis rhombicollis, là một loài bọ ngựa có nguồn gốc từ Nam Mỹ và được tìm thấy ở Belize, Costa Rica, Ecuador, Guyana thuộc Pháp, Guatemala, Colombia, México, Nicaragua, Panama, Peru, và Surinam. Trước đây nó được phân loại như Choeradodis columbica (Beier 1931), Choeradodis peruviana (Serville 1839), và Mantis rhombicollis (Latreille 1833).
1
null
Sói thung lũng Mackenzie (Canis lupus occidentalis) có lẽ là phân loài lớn nhất của sói xám ở Bắc Mỹ. Phạm vi của nó bao gồm các bộ phận của Tây Hoa Kỳ, phần lớn phía Tây Canada và Alaska, bao gồm cả đảo Unimak trong quần đảo Aleutian, và được du nhập vào vườn quốc gia Yellowstone và trung tâm Idaho. Phân loài kể từ đó lan rộng vào Washington, Oregon, Utah và các tiểu bang khác. Mô tả. Sói Mackenzie thường có chiều cao từ 32-34 inch (80–85 cm) tính tới vai và nặng khoảng 100 và 170 pounds (45–70 kg) đối với con đực. Một con sói hoang dã ở Alaska vào năm 1939 đã được ghi nhận là đạt kỷ lục nặng 175 pounds. Các chi của sói Mackenzie dài và lông dày cho phép chúng đi ngang qua các khu vực có địa hình gồ ghề như tuyết sâu hoặc các cạnh sắc nhọn của dãy núi Rocky. Ngực sâu với phổi lớn, cho phép con chúng thở hiệu quả hơn ở vùng đất có độ cao cao hơn, và cho phép nó có sức chịu đựng đáng nể khi đi bộ được tới 115 km (xấp xỉ 70 dặm) trong một ngày. Phần cổ mạnh mẽ của nó là một sự thích nghi rất quan trọng, để hỗ trợ chiếc đầu lớn trong việc săn mồi. Sói Mackenzie giữ nhiệt hiệu quả tối đa thông qua phương pháp như sử dụng phần đuôi rậm rạp lông của nó để che mũi trong mùa đông. Trong những tháng mùa hè, do các điều kiện nóng hơn nên bộ lông của chúng rụng và trở lên thưa hơn. Hộp sọ dài 31 cm (12 inch) và được trang bị những chiếc răng nanh sắc nhọn, khi kết hợp với các cơ hàm lớn tạo ra lực đủ sức mạnh để phá vỡ xương của con mồi và thậm chí nứt xương đùi của nai sừng tấm. Hành vi. Ở Alaska, chúng thường sống thành đàn từ 6-12 cá thể, thậm chí có thể lên tới 20-30 cá thể. Lãnh thổ của chúng có kích thước trung bình 600 dặm vuông (1.600 km 2). Những con sói ở vườn quốc gia Yellowstone, trung bình 9,2 con sói sống trên diện tích lãnh thổ rộng tới 348 dặm vuông (900 km2), trong khi sói ở Idaho trung bình là 11,1 con trên 364 dặm vuông (940 km2). Thức ăn. Thức ăn của sói Mackenzie bao gồm lợn rừng, Bò rừng bizon Bắc Mỹ, bò xạ hương, nai sừng tấm, nai, tuần lộc, mèo... Chúng là loài có khả năng thích ứng trong môi trường mới rất nhanh, bằng chứng là việc khi được thả trong vườn quốc gia Yellowstone chúng đã hạ gục được con bò rừng bizon đồng bằng (phân loài của Bò rừng bizon Bắc Mỹ). Tuy nhiên, những con mồi như nai sừng tấm hay tuần lộc, khả năng săn mồi thành công của chúng chỉ đạt 10%. Chúng sẽ chọn tấn công những con mồi đơn lẻ hoặc bị bệnh và theo chúng cho tới khi những con mồi đó từ từ bị gục ngã do mất máu. Những con mồi nhỏ hơn thì chúng chỉ cần tấn công vào tĩnh mạch và khí quản của con mồi.
1
null
Thạch vi hay còn gọi cỏ lưỡi mèo, ráng hỏa mạc lưỡi, kim tinh thảo (danh pháp khoa học: Pyrrosia lingua) là một loài thực vật có mạch trong họ Polypodiaceae. Loài này được Carl Peter Thunberg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1784 dưới danh pháp "Acrostichum lingua". Năm 1931 Oliver Atkins Farwell chuyển loài này sang chi "Pyrrosia".
1
null
Nhà di động (tiếng Anh: "Motorhome") là một loại phương tiện giải trí tự hành (Recreational vehicle – RV) hoặc nơi cung cấp chỗ ở kết hợp với một động cơ xe. Các "nhà di động" thường được sử dụng ở Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Canada. Lịch sử. Các "nhà di động" bắt đầu phổ biến vào năm 1920, mặc dù có những kiểu bị cáo buộc tự chế có trước thời gian này. Hãng Jennings gắn một "phòng ở" lên một khung xe trong năm 1938. Sản xuất bị tạm dừng trong năm 1939, do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra. Chiến tranh đã làm chậm sự cải tiến của phương tiện này, trong những năm 1950 nó tiếp tục phát triển trở lại. Những hãng sản xuất "nhà di động" lúc này có Dormobile, Paralanian và Westfalia.
1
null
Bò rừng bizon đồng bằng ("Plain bison") hoặc là một trong hai phân loài của bò rừng bizon Bắc Mỹ, phân loài còn lại là các bò rừng bizon núi ("Bison bison athabascae"). Có ý kiến cho rằng, bò rừng bizon đồng bằng lại được chia thành hai phân loài ở miền Bắc (Bison bison montanae) và một phân loài phía Nam, nâng tổng số lên ba. Tuy nhiên, điều này thường không được đồng tình. Có một dân số tự nhiên còn sót lại của bò rừng bizon đồng bằng trong vườn quốc gia Yellowstone (trong công viên đàn bò rừng bizon Yellowstone với khoảng 3.000 con bò rừng) và những đàn bò rừng nhỏ hơn ở nhiều nơi khắp Canada và Hoa Kỳ.
1
null
Bò rừng bizon núi (Bison bison athabascae) hay đơn giản là bò rừng núi (thường được gọi là trâu nâu hoặc trâu núi), là một phân loài sống hoặc kiểu sinh thái của bò rừng bizon Bắc Mỹ. Phạm vi sinh sống ban đầu của bò này bao gồm phần lớn các khu rừng phương bắc vùng Alaska, Yukon, phía tây các lãnh thổ Tây Bắc, đông bắc British Columbia, phía bắc Alberta, và tây bắc Saskatchewan. Hiện nay, bò rừng núi thuộc danh mục các loài động vật hoang dã bị đe dọa theo Luật đe dọa loài (SARA). Hình thái. So với bò rừng bizon đồng bằng (một loài/kiểu sinh thái khác tồn tại ở Bắc Mỹ) thì bò rừng bizon núi nặng hơn, với con đực nặng khoảng , khiến nó trở thành loài động vật trên cạn lớn nhất Bắc Mỹ. Điểm cao nhất của bò rừng bizon núi là ở phía trên chi trước, trong khi điểm cao nhất của bò rừng bizon đồng bằng là trực tiếp trên chi trước. Bò rừng bizon núi còn có lõi sừng lớn, đen hơn và lông xoăn hơn, ít lông mọc trên chi trước và râu. Bảo tồn. Ngoài việc mất môi trường sống và bị săn bắn, quần thể bò rừng bizon núi còn có nguy cơ bị lai giống với bò rừng bizon đồng bằng, qua đó làm ô nhiễm tính thuần chủng di truyền. Cũng như những loài bò bison khác, quần thể bò rừng bizon núi đã bị tàn phá bởi nạn săn bắn và nhiều nhân tố khác. Vào đầu thập niên 1990, chúng được xem là cực kỳ quý hiếm hoặc gần như có nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên một đàn khoảng 200 con đã được phát hiện ở Alberta, Canada năm 1957. Kể từ đó đàn này được phục hồi với tổng số lượng khoảng 2500 con, phần lớn là kết quả thành quả bởi những nỗ lực bảo tồn của cơ quan chính phủ Canada. Năm 1988, Ủy ban về Tình trạng Bảo tồn động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng ở Canada thay đổi tình trạng bào tồn từ "nguy cơ tuyệt chủng" thành "bị đe dọa". Ngày 17 tháng 6 năm 2008, 53 con bò rừng bizon núi Canada được chuyển từ Vườn quốc gia Đảo Elk ở Alberta, Canada đến Trung tâm bảo tồn động vật hoang dã Alaska gần Anchorage, Alaska. Tại đó chúng được tổ chức đợt kiểm dịch trong hai năm, sau đó đưa vào môi trường sống tự nhiên của chúng ở khu vực Minto Flats gần Fairbanks nhưng kế hoạch này vẫn bỏ ngỏ đến ngày 7 tháng 4 năm 2015. Vào tháng 5 năm 2014, Dịch vụ Hoang dã và Cá Hoa Kỳ đã công bố một quy định chính thức cho phép việc đưa trở lại một quần thể "thử nghiệm không cần thiết" bò rừng bizon núi vào ba khu vực tại Alaska. Hiện nay, khoảng 700 con bò rừng bizon núi vẫn còn trong tự nhiên, nằm trong các lãnh thổ Tây Bắc,Yukon, British Columbia, Alberta, và Manitoba. Năm 2006, là một phần của một dự án bảo tồn quốc tế, một tổ chức đã được thành lập ở Yakutia, Nga, nơi loài bò bison thảo nguyên họ hàng tuyệt chủng cách đây 600 năm. Một bầy bò biso bổ sung đã được gửi từ Alberta năm 2011 và 2013, nâng tổng số con ở Nga lên 120 con. Các loại bệnh. Các đàn thả rông được sở hữu công khai ở Alberta, British Columbia, Yukon và các lãnh thổ Tây Bắc chiếm 90% số bò rừng bizon núi hiện tại, mặc dù sáu đàn nhốt-chăn nuôi công cộng và cá nhân với những mục tiêu bảo tồn chiếm khoảng 10% trong tổng số (≈ 900 con). Những đàn bò nuôi nhốt này và hai đàn bò thả rông lớn bị cô lập ở Yukon và các lãnh thổ Tây Bắc đều xuất phát từ đàn vật nuôi khỏe mạnh và hình thái đại diện từ phía Bắc Vườn quốc gia Wood Buffalo, đông bắc Alberta và phía nam các lãnh thổ Tây Bắc. Các loại bệnh bao gồm brucellosis và lao vẫn còn hiện hữu trong các đàn thả rông ở trong và xung quanh Vườn quốc gia Wood Buffalo. Những căn bệnh này được coi là một vấn đề quản lý nghiêm trọng đối với các chính phủ, nhóm Thổ dân địa phương và ngành công nghiệp gia súc khi chúng nhanh chóng xâm lấn vào ranh giới của vườn. Tên gọi. Thuật ngữ "buffalo" (trâu) đôi khi được coi là cách dùng sai tên cho loài động vật này, vì nó chỉ là họ hàng xa với hai con "trâu thực" khác là trâu nước châu Á và trâu rừng châu Phi. Tuy nhiên, "bison" là một từ Hy Lạp chỉ những con bò như vậy, trong khi thuật ngữ "trâu" bắt nguồn từ những người bẫy thú người Pháp. Họ gọi những con quái vật to lớn này là bœufs, nghĩa là bò hoặc bò đực - vì vậy cả hai tên "trâu" và "bison" đều đồng nghĩa nhau. Mặc dù "bison" có thể được coi là mang đúng tính khoa học hơn, thì kết quả của việc sử dụng tên chuẩn "trâu" cũng được xem là chính xác và được liệt kê trong nhiều cuốn từ điển làm một cái tên được chấp nhận cho loài trâu Mỹ hay bison. Để liên hệ đến loài động vật này, thuật ngữ "trâu" bắt đầu có từ năm 1635 trong cách sử dụng Bắc Mỹ khi thuật ngữ lần đầu tiên được ghi nhận cho loài động vật có vú ở Mỹ. Do đó nó có lịch sử lâu hơn nhiều so với "bison", thuật ngữ mới chỉ được ghi nhận năm 1774.
1
null
Cá mập miệng bản lề đuôi ngắn, tên khoa học Pseudoginglymostoma brevicaudatum, là một loài cá mập trong họ Ginglymostomatidae, nó là thành viên duy nhất của chi Pseudoginglymostoma. Nó được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới phía tây Ấn Độ Dương giữa vĩ độ 0 ° và 27 ° S, và đạt đến chiều dài 75 cm.
1
null
Buddy film là một thể loại phim trong đó vai chính là hai người bạn thân cùng giới (trước đây trong điện ảnh thường là nam giới) được kết hợp. Hai người này thường tương phản trong tính cách, tạo ra một năng động khác nhau trên màn ảnh hơn so với một kết hợp của hai người khác giới. Sự tương phản tính cách nhân vật đôi khi được nhấn mạnh bởi một sự khác biệt giữa hai dân tộc. Thể loại "buddy film" này phổ biến trong điện ảnh Mỹ, không giống như một số thể loại phim khác, nó đã trải qua thế kỷ 20 với các cặp khác nhau và chủ đề khác nhau. Lịch sử. "Buddy film" phổ biến tại rạp chiếu phim của điện ảnh Mỹ hơn các nước phương Tây khác, trong khi tất cả có xu hướng tập trung vào các mối quan hệ lãng mạn nam-nữ hoặc một nam nhân "anh hùng". Nhà phê bình phim David Thomson nhận xét: ""buddy film" hiếm thấy ở phim Anh và phim Pháp, bạn sẽ không thấy ba người Anh cư xử theo cách người Mỹ, họ vui vẻ khi hợp tác với người đàn ông khác". Trước đây, các nhân vật Huck Finn và Tom Sawyer của tác giả Mark Twain thế kỷ 19 của Mỹ cũng đã xuất hiện sự liên kết này, như "một cậu bé tốt kết hợp với cậu bé xấu", cũng như Huck Finn và Nô lệ Jim trong năm 1884, tiểu thuyết "Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" của Twain. Phim hành động thế kỷ 20 tại Mỹ thường đặc trưng các cặp nhân vật nam giới cộng tác cùng nhau như đồng nghiệp. Mối quan hệ Nam-nam. Một bộ "buddy film" là sự ghép nối của hai người cùng giới, trong lịch sử nhân loại. Một tình bạn giữa hai người là mối quan hệ quan trọng trong một bộ phim. Hai người thường đến từ nguồn gốc khác nhau hoặc có tính cách khác nhau, và họ có xu hướng hiểu lầm nhau. Thông qua các sự kiện của bộ "buddy film", họ có được một tình bạn mạnh mẽ hơn và tôn trọng lẫn nhau. "Buddy film" thường xuyên đối phó với cuộc khủng hoảng của nam giới, đặc biệt liên quan đến giai cấp, chủng tộc và giới tính trong xã hội, hoặc mối quan hệ của "đôi bạn" được xen vào bởi một nhân vật nữ (xinh đẹp) như một động lực để phát triển nên tính cách của nhân vật "đôi bạn" trong phim mà khi đến đoạn kết, sau sự chia rẽ, họ bắt chặt tay trong sự thông cảm sâu sắc tình bạn, và mối quan hệ nam nữ của các nhân vật bị mờ nhạt trước tình bạn nam-nam này.
1
null
Khách sạn Rex là một khách sạn hạng sang nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc sở hữu của Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn (Sai Gon Tourist). Tòa nhà bao gồm 5 tầng cùng với 284 phòng này tọa lạc tại số 141 đường Nguyễn Huệ, quận 1, gần Trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố và Nhà hát Thành phố. Năm 2003, khách sạn Rex đã trải qua một đợt mở rộng và trùng tu kiến trúc, nội thất và kỹ thuật. Lịch sử. Được xây dựng năm 1927 cho doanh nhân người Pháp Bainier trong thời Pháp thuộc, tòa nhà này ban đầu là một khu nhà để xe và nơi bán ô tô hai tầng. Tại đây trưng bày các mẫu xe Citroën cũng như các dòng xe ô tô châu Âu khác. Từ 1959 đến 1975, ông bà Nguyễn Phúc Ưng Thi (thuộc dòng dõi hoàng tộc Huế) đã nâng cấp công trình thành khách sạn "Rex Complex" 100 phòng với 3 rạp chiếu bóng, một nhà hàng, một sàn nhảy và một thư viện. Suy tàn và hồi phục. Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, sở du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã sở hữu khách sạn này và đổi tên thành "Bến Thành". Khách sạn đã được sử dụng làm địa điểm cho buổi họp báo công bố Việt Nam thống nhất vào năm 1976. Năm 1986, khách sạn được trả lại tên Khách sạn Rex.
1
null
Tôi là người chiến thắng (tên khác:Tôi là... người chiến thắng – The Winner Is...) là một cuộc thi ca hát trên truyền hình có bản quyền từ chương trình "The Winner Is..." thuộc TALPA INTERNATIONAL (nhà cung cấp bản quyền "The Voice" & "Deal or No Deal)". Chương trình do Đài Truyền hình TP.HCM và công ty Đông Tây Promotion phối hợp sản xuất, là sân chơi chuyên nghiệp dành cho mọi đối tượng có tài năng và giọng hát hay trên toàn quốc, tham gia trình diễn qua các hình thức: đơn ca và nhóm ca. Chương trình đã phát sóng tại một số quốc gia trên thế giới như SBS (Hà Lan), NBC (Mỹ), SAT1 (Đức), HunanTV (Trung Quốc). Đây là chương trình giống luật của Đấu trường 100 đòi hỏi thí sinh phải có giọng hát hay để tranh tài với nhau và chinh phục 101 vị giám khảo là những chuyên gia âm nhạc tại trường quay. Tổng giá trị giải thưởng của chương trình lên đến hơn 1 tỷ đồng. Giải thưởng được nâng lên qua từng vòng thi từ Vòng Loại, Vòng Tứ Kết, Bán Kết và Chung Kết. Ngoài giải thưởng đạt được ở những vòng này, người chiến thắng cuối cùng sẽ nhận giải thưởng chung cuộc là 300.000.000 cùng một đĩa đơn do hãng ghi âm Universal thực hiện. "Tôi là người chiến thắng" đã ra mắt khán giả truyền hình vào 21h thứ 7 & Chủ Nhật hàng tuần trên kênh HTV7 từ ngày 25/05/2013 với 12 số phát sóng. Trong đó, Vòng Loại được phát sóng 8 số. Từ Vòng Tứ Kết, Bán Kết và Chung Kết trở đi, chương trình sẽ được truyền hình trực tiếp. Và hiện tại chương trình đã ngưng phát sóng vì lí do không đủ kinh phí thực hiện chương trình này. Mùa 1. 100 vị giám khảo là chuyên viên âm nhạc hay khán giả yêu thích âm nhạc cùng với giám khảo chính Siu Black là 101 vị giám khảo được chọn cho "Tôi là... người chiến thắng" mùa đầu tiên song trước loạt trận vòng 1/8 kết, Siu Black vì một số chuyện cá nhân đã không còn làm giám khảo chính cho chương trình và được chuyển cho Hoài Linh làm giám khảo chính. Vòng bảng. Episode 8: Nghệ sĩ. Vòng đầu tiên, Tú Vi, Minh Luân và Hùng Thuận đều có số điểm bằng nhau. Khán giả chấm lại lần thứ hai. Kết quả là Minh Luân bị loại với số điểm 47. Loạt trận vòng tứ kết. 16 thí sinh (hay nhóm thí sinh) xuất sắc nhất của tám bảng bước tiếp vào vòng tứ kết chinh thành hai nhánh biểu diễn 2 đêm tứ kết bắt cặp ngẫu nhiên với nhau, BGK sẽ chọn ra 8 trên tổng số 16 thí sinh này bước tiếp vào vòng sau. Đêm tứ kết 1. "Trực tiếp: 20 tháng 7 năm 2013" Đêm tứ kết 2. "27 tháng 7 năm 2013" Đêm thi bán kết. "3 tháng 8 năm 2013" 8 thí sinh vượt qua loạt trận vòng 1/8 kết bước tiếp vào đêm thi bán kết (8 thí sinh bắt cặp ngẫu nhiên thành 4 cặp thi đấu với nhau) chọn 4 người xuất sắc nhất bước vào đêm thi chung kết. Đêm thi chung kết. Ngày 10 tháng 8 diễn ra đêm chung kết, 4 thí sinh xuất sắc nhất lọt vào đêm thi này chia thành 2 cặp đấu với nhau ở bán kết, người chiến thắng 2 cặp này đấu trận chung kết cuối cùng. Tổng cộng 3 cặp trận trong đêm thi chung kết này, Hải Châu xuất sắc vượt qua nhóm Dòng thời gian ở trận bán kết và Huy Luân trong trận chung kết để trở thành quán quân của giải. Số điểm trận chung kết được tổng hợp bởi điểm của 101 giám khảo và số phiếu bình chọn của khán giả. Huy Luân giành được 27 trên tổng số 100 phiếu bình chọn của khán giả, số còn lại thuộc về Hải Châu.
1
null
Nai sừng xám hay còn gọi là Nai sừng xám Bắc Mỹ (tên khoa học: "Cervus canadensis") là một trong những loài lớn nhất thuộc họ Hươu nai trên thế giới và là một trong những lớp thú lớn nhất ở Bắc Mỹ và Đông Á. Loài này được tin rằng thuộc phân loài của hươu đỏ châu Âu ("Cervus elaphus"), nhưng các bằng chứng từ một nghiên cứu năm 2004 cho thấy ti thể DNA của loài này khác hẳn hươu đỏ châu Âu. Ngoài nai sừng tấm, thành viên khác duy nhất của họ Hươu có thể cạnh tranh với nai sừng tấm về mặt kích thước là loài nai Nam Á ("Rusa unicolor"). Khu vực sinh sống của hươu Bắc Mỹ là ở trong rừng và môi trường sống ở bìa rừng. Chúng ăn cỏ, cây bụi, lá cây và vỏ cây. Thiên địch của loài nai này chính là sói xám.
1
null
Giải Femina là một giải thưởng văn học Pháp được thành lập năm 1904 bởi 22 nữ cộng sự viên của tạp chí "La Vie heureuse" với sự ủng hộ của tạp chí "Femina", dưới sự lãnh đạo của nữ thi sĩ Anna de Noailles, nhằm tạo ra một giải thưởng khác đối lập với giải Goncourt mà "trên thực tế" là dành cho nam giới . Giải Femina được trao hàng năm vào ngày thứ Tư đầu tiên của tháng 11 ở khách sạn Crillon, Paris, cho một tác phẩm văn xuôi hoặc văn vần viết bằng ngôn ngữ Pháp, không phân biệt tác giả nam hay nữ. Ban giám khảo gồm toàn các nhà văn nữ. Lịch sử. Giải này ban đầu có tên là "Prix Vie heureuse" ("Giải Cuộc sống hạnh phúc") theo tên tạp chí La Vie heureuse do nhà xuất bản Hachette phát hành. Ban giám khảo lúc đó gồm 20 nhà văn nữ (gấp đôi ban giám khảo giải Goncourt gồm 10 nhà văn nam). Giải được trao lần đầu ngày 4.12.1904. Ngoài Anna de Noailles, những thành viên ban giám khảo đầu tiên còn có Caroline de Broutelles (giám đốc tạp chí), Julia Daudet (quả phụ của Alphonse Daudet), Jeanne Nette (vợ của Catulle Mendès), Lucie Faure (vợ của Georges Goyau), Séverine, Juliette Adam, Gabrielle Réval... Trong thập niên 1920, giải đổi tên thành giải Femina - theo tên tạp chí Femina do Pierre Lafitte sáng lập – và ban giám khảo gồm 12 thành viên. Trong thời kỳ này, Edmée Frisch de Fels - nữ công tước "de La Rochefoucauld" – làm chủ tịch ban giám khảo. Có sự tranh đua về kết quả trao giải giữa ban giám khảo của giải Femina và ban giám khảo giải Goncourt. Chẳng hạn như Antoine de Saint-Exupéry đã được trao giải Femina năm 1931 trong khi ông là người được trông đợi là sẽ đoạt giải Goncourt, đối với Marc Lambron cũng vậy, ông đã đoạt giải Femina năm 1993 thay vì giải Goncourt; trái lại Giải Goncourt đã trao cho André Schwartz-Bart năm 1959 thay vì giải Femina. Do đó đã có một thỏa hiệp giữa 2 ban giám khảo của 2 giải vào năm 2000 để có sự so le luân phiên giữa 2 giải Goncourt và Femina. Ngoài ra, từ năm 1985, còn đặt ra Giải Femina cho người nước ngoài ("Prix Femina étranger") và từ năm 1999 đặt thêm Giải Femina cho tác phẩm đầu tay ("Prix Femina essai") Ban giám khảo hiện nay. Thành phần ban giám khảo tháng 11 năm 2012:
1
null