text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Khaled Hosseini ( [ˈxɒled hoˈsejni] ; sinh ngày 4 tháng 3 năm 1965), là một tiểu thuyết gia và dược sĩ người Hoa Kỳ. Tên tuổi ông trở nên nổi tiếng nhờ hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, "Người đua diều" (2003) và "Ngàn mặt trời rực rỡ" (2007) bán được 38 triệu bản trên toàn thế giới. Ngoài ra, "Người đua diều" đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 2007.
Tiểu sử.
Hosseini sinh ngày 4 tháng 3 năm 1965 ở Kabul, Afghanistan, là con cả trong năm người con. Cả cha lẫn mẹ ông đều xuất thân từ Herat: cha ông - Nasser - là nhà ngoại giao ở Bộ Ngoại vụ Afghanistan (MPA) ở Kabul, còn mẹ ông là một giáo viên dạy tiếng Ba Tư ở một trường cấp ba cho nữ giới.
Năm 1970, gia đình ông chuyển đến Iran, ở đó cha ông làm việc cho Đại sứ quán Afghanistan ở Tehran. Năm 1973, gia đình ông trở lại Kabul và em trai nhỏ nhất của ông ra đời tháng 7 năm đó. Năm 1976, lúc Hosseini lên 11 tuổi, cha ông đã tìm được một công việc ổn định ở Paris, Pháp và chuyển cả gia đình đến đó. Họ không thể trở lại Afghanistan vì cuộc Cách mạng Saur diễn ra vào tháng 4 năm 1978, theo đó Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (PDGA) lên nắm quyền. Năm 1980, không lâu sau chiến tranh Xô Viết tại Afghanistan, gia đình Hosseini tìm đến sự bảo hộ của chính phủ Mỹ và rồi định cư ở San Jose, California. Lúc đó, Hosseini mới 15 tuổi, không nói chút tiếng Anh nào cho đến khi đặt chân lên đất Mĩ, và sau này ông mô tả cảm xúc khi đó là "một cú sốc văn hoá" và "rất lạ lẫm".
Ông tốt nghiệp trường Trung học Independence ở San Jose vào năm 1984 và theo học Đại học Santa Clara và giành được bằng cử nhân sinh học năm 1988. Năm tiếp theo ông đăng ký học trường Đại học California, San Diego, khoa Dược và có được bằng tiến sĩ năm 1993. Hosseini hoàn tất quá trình thực tập nội trú ở Nội khoa tại Trung tâm Dược liệu Cedars-Sinai ở Los Angeles năm 1996 và làm dược hơn 10 năm (cho đến một năm rưỡi sau khi phát hành tiểu thuyết "Người đua diều").
Ông còn là phái viên của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR) và tham gia hoạt động hỗ trợ nhân đạo tại Afghanistan thông qua Quỹ Khaled Hosseini. Hiện tại, ông đang sống ở Bắc California với vợ ông, bà Roya, và hai người con, Haris và Farah.
Sự nghiệp văn chương.
Năm 2003, Hosseini cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay tên "The Kite Runner" (nghĩa là: "Người đua diều"). Cuốn sách là câu chuyện về cậu bé Amir vật lộn để có hàn gắn quan hệ với cha mình và vượt qua nỗi ám ảnh về một sự việc thời thơ ấu. Bối cảnh truyện đặt ở Afghanistan, từ lúc chính quyền Taliban rệu rã đến khi sụp đổ hoàn toàn, và khu vực vịnh San Francisco mà cụ thể là Fremont, California. Trong các chủ đề được nói tới, bao gồm căng thẳng sắc tộc giữa người Hazara và người Pashtun ở Afghanistan, và những trải nghiệm di cư của hai cha con Amir đến Mỹ. Theo thông tin của Nielsen Bookscan, "Người đua diều" xếp thứ ba trong số những cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ năm 2005. Phiên bản sách nói của cuốn sách được đọc bởi chính tác giả.
Tháng 12 năm 2007, bộ phim cùng tên dựa trên cuốn tiểu thuyết được công chiếu. Hosseini có một vai nhỏ khúc gần cuối phim - một người lạ đứng ngoài nhìn Amir mua con diều để sau đó thả với Sohrab.
Tiểu thuyết thứ hai của ông "A Thousand Spendid Suns" (tạm dịch: "Ngàn mặt trời rực rỡ") được phát hành vào năm 2007, cũng lấy bối cảnh tại Afghanistan. Truyện theo dõi sự giao thoa giữa hai số phận của hai người phụ nữ cách nhau một thế hệ, Mariam và Laila. Thời gian trong tiểu thuyết từ lúc Afghanistan chịu sự chiếm đóng của Xô Viết, đến những năm dưới ách Taliban và hậu Taliban. Nhà sản xuất Scott Rudin và hãng Columbia Pictures đã mua quyền chuyển thể cuốn sách thành phim. Năm 2010, tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt và xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn.
Tiểu thuyết thứ ba của ông "And the Mountains Echoed" (tạm dịch: "Và những ngọn núi rền vang") đã được ra mắt công chúng từ ngày 21 tháng 5 năm 2013. Để bày tỏ cảm nghĩ của mình về cuốn sách, Hosseini cho biết:
"Lúc nào tôi hướng đến gia đình, lấy nó làm chủ đề trung tâm cho tác phẩm của mình. Các tiểu thuyết trước của tôi về cơ bản là những câu chuyện về tình cha và tình mẹ. Tiểu thuyết mới của tôi cũng lại là chuyện về một gia đình nhiều thế hệ, nhưng lần này là về các anh chị em và về việc họ đã yêu thương, làm tổn thương, phản bội, kính trọng và hy sinh cho nhau như thế nào. Tôi vô cùng hào hứng khi chia sẻ với độc giả về cuốn sách này."
Ảnh hưởng.
Thuở nhỏ, Khaled Hosseini đã đọc vô vàn thơ ca Ba Tư cũng như các tiểu thuyết được dịch sang tiếng Ba Tư, từ "Cuộc phiêu lưu của Alice vào Xứ sở thần tiên" đến loạt truyện Mike Hammer của Mickey Spillane. Tên của tiểu thuyết "Ngàn mặt trời rực rỡ" cũng xuất phát từ những câu thơ của nhà thơ Ba Tư sống vào thế kỷ 17. "Những ký ức thời thơ ấu trìu mến của ông tại Afghanistan thời tiền Xô Viết" đến những trải nghiệm riêng với người Hazara đã giúp ông viết nên tiểu thuyết "Người đua diều". Một người đàn ông người Hazara tên Hossein Khan làm việc cho gia đình tác giả lúc họ còn sống ở Iran. Năm Khaled Hosseini lên lớp ba, ông đã dạy cho người đàn ông kia đọc và viết. Tuy mối quan hệ với Hossein Khan ngắn ngủi và khá hình thức nhưng hồi ức về mối quan hệ này vẫn trở thành niềm cảm hứng để ông viết về Hassan và Amir trong "Người đua diều". Cuốn tiểu thuyết mới nhất phát hành năm 2013 của ông chịu nhiều ảnh hưởng từ khoảng thời gian gia đình ông sống tha hương ở Paris và kỷ niệm với trẻ em Afghanistan. | 1 | null |
Tuổi thơ im lặng là tên hồi ký xuất bản năm 1986, đồng thời là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn gốc Bắc Ninh, Duy Khán. Tác phẩm được xem là bước ngoặt lớn trong sự nghiệp cầm bút của tác giả, đã khiến cho Duy Khán "đang từ một người làm thơ, chuyển sang văn xuôi. Đang từ một người dễ dãi chạy theo các đề tài thời sự, Duy Khán trở lại với cái phần ký ức tuổi thơ nằm sâu và trở nên bền chặt trong tâm tư" .
Sơ lược nội dung.
Trong lời tựa, tác giả nói rằng ông viết cuốn sách này như là quà tặng ba người con của mình.
Hồi ký tập hợp gồm nhiều chương nhỏ trải dài từ lúc tác giả bắt đầu biết nhận thức cho đến khi gia nhập quân đội năm 15 tuổi. Mỗi chương là những ký ức sinh động về làng quê Bắc Ninh, từ thiên nhiên, phong tục, lễ hội đến mảnh đời những con người có số phận éo le, con vật nuôi, qua con mắt trẻ thơ, không định kiến của cậu bé Khán.
Ảnh hưởng.
Tác phẩm nhận được phản hồi tích cực từ lúc tác giả sinh thời và là tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp cầm bút của Duy Khán. Một đoạn trích từ hổi ký kể về trận chiến giữa chèo bẻo và chim cắt đã được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 6 dưới tiêu đề "Lao xao ngày hè". | 1 | null |
Nhạc rock tại Đài Loan phát triển riêng biệt với đối tác ở Trung Quốc đại lục, mặc dù có một số sinh lợi chéo diễn ra một cách tự nhiên, và các nghệ sĩ nhạc rock Đài Loan như Ngũ Bách và ban nhạc Ngũ Nguyệt Thiên biểu diễn thường xuyên tại đại lục (mặc dù có khó khăn về thị thực cho các nghệ sĩ đại lục đến thăm Đài Loan đã kém thường xuyên hơn), làng nhạc rock Đài Loan khá khác biệt trong về đặc điểm so với thể loại nhạc này của Trung Quốc đại lục.
Làng nhạc rock Đài Loan được nuôi dưỡng bởi các liên hoan âm nhạc được tổ chức thường xuyên, tiểu biểu là Spring Scream thường niên, Ho-Hai-Yan và các liên hoan âm nhạc Formoz.
Những nghệ sĩ nhạc rock Đài Loan có tên tuổi bao gồm: | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ lần thứ 41 sẽ được tổ chức vào ngày 24 tháng 11 năm 2013 tại Nhà hát Nokia Theatre ở Los Angeles. Lễ trao giải này tôn vinh những nghệ sĩ và album xuất sắc nhất trong năm 2013. Và sẽ phát sóng trực tiếp trên kênh ABC. Các đề cử đã được công bố vào ngày 10 tháng 10 năm 2013, bởi Kelly Clarkson và will.i.am. Macklemore và Ryan Lewis dẫn đầu với sáu đề cử, tiếp theo là Taylor Swift và Justin Timberlake với 5 đề cử. Vào ngày 05 tháng 11 thông báo rằng Pitbull sẽ dẫn chương trình.
Biểu diễn.
Bắt đầu
Giữa chương trình | 1 | null |
Đài tưởng niệm Phụ nữ ở Việt Nam (tiếng Anh: "Vietnam Women's Memorial") là một đài tưởng niệm hiến dâng cho những phụ nữ Hoa Kỳ đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, đa số là nữ y tá. Đài tưởng niệm này nhắc nhở tới tầm quan trọng của phụ nữ trong chiến tranh.
Đài gồm tượng của 3 phụ nữ mặc đồng phục với một thương binh. Người phụ nữ cầu nguyện tên là Faith (Đức Tin), người phụ nữ nhìn lên không gian tên là Hope (Hy Vọng), còn người phụ nữ đang chăm sóc một thương binh tên là Charity (Bác Ái) - tương ứng ba nhân đức đối thần của Kitô giáo là Tin-Cậy-Mến. Người thương binh tên là Michael Webb.
Đài tưởng niệm này là một phần của Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, nằm trong National Mall Washington, D.C., cách Bức tường tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam một quãng ngắn, ở phía bắc Hồ phản chiếu.
Đài tưởng niệm này do nhà điêu khắc Glenna Goodacre thiết kế, được khai trương ngày 11.11.1993. Có một mô hình thu nhỏ của tượng đài này tại Vietnam Veterans Memorial State Park ở làng Angel Fire, bang New Mexico. | 1 | null |
Robocon Pune 2014 là cuộc thi Robocon được tổ chức lần thứ 13 của Hiệp hội Phát thanh Truyền hình châu Á -Thái Bình Dương diễn ra tại Pune, Ấn Độ.
Luật chơi.
Trận đấu sẽ diễn ra trên sân đấu hình vuông có chiều dài mỗi cạnh là 12m. Sàn đấu được bao quanh bởi viền gỗ có bề ngang là 30mm, chiều cao là 50mm. Sàn đấu được chia thành 2 khu vực, gọi là khu vực ROBOT bố mẹ, 1 dành cho đội Đỏ và 1 dành cho đội Xanh. Khu vực xuất phát của mỗi đội trong khu vực của mình cũng có thiết kế hình vuông, mỗi cạnh dài 1m.
Bên trong sân đấu có 5 khu vực thi đấu được mô phỏng các khu vui chơi cho trẻ em gồm 2 khu bập bênh, 1 khu xích đu, 1 khu đi bộ trên cột và 1 khu cầu thang vận động.
Trong sân thi đấu, mỗi đội sẽ được dành riêng 1 khu bập bênh, còn ở các khu vực còn lại, 2 đội sẽ thi đấu chung.
Mặc dù vậy, hoạt động thi đấu của mỗi đội trong khác khu thi đấu chung sẽ vẫn được phân chia độc lập. 4 khu vực thi đấu gồm: khu bập bênh, khu đi bộ trên cột và khu xích đu được thiết kế theo hình tròn có đường kính là 2,5m. Khu cầu thang vận động có đường kính 3m.
Sẽ có 4 nhiệm vụ theo thứ tự sau
Nhiệm vụ 1: Bập bênh.
Đội thi sẽ đưa robot bố mẹ mang robot còn được đặt sẵn từ khu vực xuất phát đến khu bập bênh. Sau khi đặt robot con lên 1 đầu bập bênh, robot bố mẹ sẽ di chuyển tới đầu bên kia và chơi bập bênh đủ 3 lần. Sau đó, robot bố mẹ sẽ đến đón lại robot con. Đội hoàn thành nhiệm vụ này sẽ giành được 10 điểm.
Nhiệm vụ 2: Đi bộ trên cột.
Hai đội có thể chọn thi đấu ở khu xích đu hay khu đi bộ trên cột tùy theo chiến thuật của đội.
Ở khu đi trên cột, nhiệm vụ của đội thi là điều khiển robot bố mẹ đặt robot con lên cột đầu tiên. Sau đó, điều khiển robot con di chuyển từ từ sang các cột tiếp theo, cho tới cột cuối cùng và không được bỏ qua bất cứ cột nào. Sau đó, robot bố mẹ sẽ đón lại robot con. Hoàn thành nhiệm vụ ở khu vực này sẽ được 20 điểm.
Nếu đi trước ở khu đi trên cột thì phần 3 sẽ ở khu xích đu.
Nhiệm vụ 3: Xích đu.
Ở khu xích đu, nhiệm vụ của đội thi là điều khiển robot bố mẹ đặt robot con vào ghế ngồi của xích đu và hoàn thành đủ 3 lần đung đưa xích đu, robot bố mẹ đẩy xích đu đung đưa lần thứ nhất, 2 lần đu còn lại do robot con tự thực hiện (Chú ý: Mỗi lần đu chỉ được tính khi một chỗ của robot con chạm vào lá cờ cắm ở trước xích đu). Sau khi hoàn thành 3 lần đẩy, robot bố mẹ sẽ đón lại robot con của mình. Đội hoàn thành nhiệm vụ ở khu này sẽ dành 50 điểm.
Nhiệm vụ 4: Cầu thang vận động.
Để tiến tới nhiệm vụ thứ 4, các đội cần chinh phục 3 nhiệm vụ đầu tiên trước.
Ở bài thi này, nhiệm vụ của đội thi là điều khiển robot bố mẹ chuyển robot con tới chính xác hoặc gần vị trí bậc thang đầu tiên của cầu thang. Sau đó, đội thi sẽ điều khiển robot con leo lên tới đỉnh cầu thang, nhưng không được để robot con chạm vào 2 thành cầu thang giữa chừng trong quá trình leo. Sau khi leo tới đỉnh cầu thang, robot con phải giương cờ được để sẵn bên trong ra và vẫy chào để kết thúc game. Đội thi nào hoàn thành 4 nhiệm vụ trước trong thời gian 3 phút sẽ giành chiến thắng tuyệt đối. Chiến thắng này được gọi là "SHABAASH" trong tiếng Ấn Độ có nghĩa là "CHIẾN THẮNG". Nếu không đội nào hoàn thành tất cả bốn nhiệm vụ trong thời gian 3 phút thì đội chiến thắng sẽ được quyết định bằng cách tính điểm các nhiệm vụ đã hoàn thành.
Kiếm thêm điểm.
Để giành thêm điểm, các đội có thể thực hiện lại nhiệm vụ ở khu bập bênh với tổng số lần thực hiện là 3 lần, và thực hiện lại bài thi ở khu đi trên cột và khu xích đủ tổng số lần ở mỗi khu là 2 lần. | 1 | null |
Fairchild C-119 Flying Boxcar (tên định danh của Hải quân và Thủy quân lục chiến là R4Q) là một loại máy bay vận tải quân sự của Hoa Kỳ, được phát triển từ loại Fairchild C-82 Packet trong Chiến tranh thế giới II.
Tham khảo.
Tài liệu.
"Website of origin: USAF Museum | 1 | null |
Long Vu () là một khu thuộc địa cấp thị Ngô Châu, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Khu được thành lập vào tháng 3 năm 2013 trên cơ sở tách bốn trấn: Long Vu (龙圩镇), Tân Địa (新地镇), Quảng Bình (广平镇), Đại Ba (大坡镇) từ huyện Thương Ngô. Khu được đặt tên theo trấn Long Vu- nguyên là thủ phủ của huyện Thương Ngô. Huyện lỵ của Thương Ngô được chuyển tới trấn Thạch Kiều sau khi chia tách. Khu nằm ở bờ nam của Tầm Giang. | 1 | null |
Gordianus I (; 159 – 238) là Hoàng đế La Mã trong một tháng với con trai mình Gordianus II vào năm 238, năm của sáu vị Hoàng đế. Bị cuốn vào một cuộc nổi loạn chống lại Hoàng đế Maximinus Thrax nhưng ít lâu sau ông bị các lực lượng trung thành với Maximinus đánh bại trước khi tự sát.
Thiếu thời.
Ít biết được về thuở ban đầu và gia thế của Gordianus I. Không có bằng chứng đáng tin cậy về nguồn gốc gia đình của ông. Chỉ biết là gia tộc của ông thuộc tầng lớp kỵ sĩ vốn khiêm tốn và rất giàu có. Gordianus được cho là có mối quan hệ thân mật với các Nguyên lão nghị viên xuất chúng. Praenomen và nomen của ông "Marcus Antonius" nói rằng tổ tiên bên nội của ông đã được ban quyền công dân La Mã dưới trướng một trong Tam đầu chế Mark Antony, hoặc một trong các con gái của ông vào cuối thời Cộng hòa La Mã. Cái tên Gordianus còn đưa ra giả thuyết là gia tộc ông có nguồn gốc từ Tiểu Á, đặc biệt là Galatia và Cappadocia.
Theo cuốn "Historia Augusta" cho biết mẹ ông là một người phụ nữ La Mã gọi là Ulpia Gordiana và cha của ông là Nguyên lão nghị viên La Mã Maecius Marullus. Trong khi các sử gia hiện đại đã bác bỏ tên của cha Gordianus vì nó là giả, có thể có một số sự thật đằng sau danh tính của mẹ ông. Lịch sử gia tộc của Gordianus có thể được đoán thông qua bảng khắc. Cái tên Sempronianus trong tên họ của ông có thể chỉ ra một sự kết nối đến mẹ hoặc bà ngoại của mình. Tại Ankara Thổ Nhĩ Kỳ, một bảng khắc tang lễ đã phát hiện ra cái tên "Sempronia Romana", con gái của một người tên là "Sempronius Aquila" (một vị triều thần). Romana đã sai người dựng cái bảng khắc tang lễ không ghi ngày tháng cho chồng bà (tên bị mất) đã chết như một pháp quan được bổ nhiệm. Gordianus có thể liên quan đến thị tộc cổ La Mã Sempronia.
Sử gia người Pháp Christian Settipani ghi rõ cha mẹ của ông là Marcus Antonius (sinh khoảng 135), tr. pl., praet. des., và vợ Sempronia Romana (sinh khoảng 140), con gái của Titus Flavius Sempronius Aquila (sinh khoảng 115), Secretarius ab epistulis Graecis, và vợ Claudia (sinh khoảng 120), con gái của một người cha không rõ danh tính và vợ Claudia Tisamenis (sinh khoảng 100), em gái của Herodes Atticus. Xem chừng người có liên quan đến Herodes Atticus là mẹ hoặc bà ngoại của Gordianus chứ không phải vợ ông. Cũng theo "Historia Augusta" thì vợ ông là một phụ nữ la Mã tên là Fabia Orestilla, sinh vào khoảng năm 165, mà cuốn "Historia Augusta" xác nhận là hậu duệ của hoàng đế la Mã Antoninus Pius và Marcus Aurelius từ người cha của mình Fulvus Antoninus. Các nhà sử học hiện nay đã bác bỏ tên này và thông tin của bà là không chính xác.
Gordianus có với vợ ít nhất hai đứa con: một đứa con trai cùng tên đế hiệu Gordianus II và một đứa con gái là Antonia Gordiana (là mẹ của Hoàng đế tương lai Gordianus III). Vợ ông chết trước năm 238. Christian Settipani cho rằng cha mẹ của bà là chấp chính quan Marcus Annius Severus và vợ Silvana, sinh khoảng năm 140, con gái của Lucius Plautius Lamia Silvanus và vợ Aurelia Fadilla, con gái của Antoninus Pius và vợ Annia Galeria Faustina hoặc Faustina Trưởng Nữ.
Gordianus leo lên thứ bậc trong chính quyền cho đến khi ông bước vào Viện Nguyên lão La Mã. Sự nghiệp chính trị của ông bắt đầu khá muộn trong đời mình và có lẽ thuở ban đầu của ông chỉ có việc nghiên cứu văn học và thuật hùng biện. Là một quân nhân, Gordianus chỉ huy đạo quân lê dương Legio IIII Scythica khi quân đoàn này đóng quân tại Syria. ông từng làm thống đốc Britannia vào năm 216 và đôi lúc giữ chức chấp chính quan dưới thời Elagabalus. Những bảng khắc ở Britannia mang tên Gordianus đã bị xóa một phần cho thấy một số kiểu bất mãn triều đình khi ông giữ chức vụ này.
Trong khi Gordianus giành được danh tiếng vô tận nhờ những trận đấu và các pha trình diễn tuyệt vời mà ông đem lại như một aedile, cuộc sống về hưu và sự thận trọng của ông đã không kích thích sự nghi ngờ của Caracalla, cũng nhờ niềm vinh hạnh đó mà ông đã viết một bài thơ sử thi dài gọi là "Antoninias". Gordianus chắc vẫn duy trì sự giàu sang và ảnh hưởng chính trị của mình trong thời kỳ hỗn loạn của triều đại Severus, nó cho thấy cá nhân ông không thích dính dáng vào những mưu đồ chính trị. Philostratus đã dành tác phẩm của ông "Lives of the Sophists" (Đời các Triết gia) để viết về hai cha con nhà Gordianus.
Nắm quyền.
Dưới thời Hoàng đế Alexander Severus, Gordianus (lúc này đã vào độ tuổi sáu mươi), sau một thời gian dài làm chấp chính quan đến năm 223, đã cố lôi kéo viên thống đốc kiêm tỉnh trưởng tỉnh Proconsularis thuộc châu Phi mà ông sẽ đảm đương vào năm 237. Tuy nhiên, trước khi ông bắt đầu giữ chức promagistrate, Maximinus Thrax đã cho người ám sát Hoàng đế Alexander Severus ở Moguntiacum thuộc vùng Hạ Germania và đoạt lấy ngôi vị.
Maximinus không phải là một vị hoàng đế được lòng dân và sự bất mãn của dân chúng được khuấy động bởi nền thống trị tàn bạo của ông lên đã đến đỉnh điểm trong một cuộc nổi dậy ở châu Phi vào năm 238. Người châm ngòi cho cuộc bạo loạn này chính là viên biện lý của Maximinus ở châu Phi, người đã tìm cách bòn rút tối đa mức tiền thuế và tiền phạt có thể, bao gồm các khoản tiền giả dùng để chống lại tầng lớp quý tộc địa phương. Tuy nhiên phe ủng hộ lại không tán thành và lập tức nổi loạn giết chết viên biện lý, sau đó họ quay sang Gordianus và yêu cầu ông chấp nhận vinh dự nguy hiểm của ngôi vị hoàng đế. Gordianus sau một hồi phản đối rằng mình đã quá già để lên ngôi, cuối cùng đành phải nhượng bộ trước tiếng hò hét kêu la của đám đông rồi mặc hoàng bào và lấy tên Africanus vào ngày 22 tháng 3 năm 238.
Do tuổi tác đã cao, Gordianus cứ khăng khăng đòi con mình là Marcus Antonius Gordianus (Gordianus II) phải liên kết với ông. Một vài ngày sau, Gordianus tiến vào thành phố Carthage với sự ủng hộ áp đảo của người dân và các nhà lãnh đạo chính trị địa phương. Trong khi đó tại Roma, viên pháp quan thái thú ("praetorian prefect") của Maximinus bị ám sát và cuộc nổi dậy xem chừng thành công. Gordianus nhân cơ hội đó đã gửi sứ giả tới Roma dưới sự lãnh đạo của Publius Licinius Valerianus, nhằm giành được sự ủng hộ của Viện Nguyên lão cho cuộc nổi dậy của mình. Viện Nguyên lão thấy thế đã quyết định công nhận vị hoàng đế mới vào ngày 2 tháng 4 và nhiều tỉnh thành sẵn sàng đứng về phía Gordianus.
Tuy nhiên đã có sự chống đối bắt đầu bùng phát từ tỉnh lân cận Numidia. Capelianus, thống đốc Numidia là người ủng hộ trung thành của Maximinus Thrax cùng những kẻ có mối ác cảm với Gordianus, đã nối lại liên minh của ông với vị hoàng đế cũ và dẫn quân xâm chiếm tỉnh châu Phi với chỉ duy nhất một quân đoàn lê dương đóng quân trong khu vực là "III Augusta" cùng các đơn vị cựu binh khác. Gordianus II dẫn đầu một quân đội dân quân gồm các binh sĩ chưa qua huấn luyện nên chẳng mấy chốc đại bại trong trận Carthage còn bản thân mình thì tử trận. Gordianus hay được tin ấy và cũng vì quá đau lòng trước cái chết của con mình nên đã quyết định tự sát bằng cách treo cổ. Kết thúc triều đại với ba mươi sáu ngày trị vì ngắn ngủi.
Di sản.
Gordianus xứng đáng với thanh danh cao quý là nhờ vào tính tình hòa nhã của ông. Cả ông và con trai của mình đều là những người đàn ông mà theo như ghi chép thì khá chuộng văn học và đạt được những thành tích lớn, còn cho xuất bản các tác phẩm đồ sộ. Thế nhưng theo Edward Gibbon họ lại quan tâm nhiều hơn vào các hoạt động trí óc, cũng không sở hữu những kỹ năng cần thiết và nguồn lực để được coi là chính khách tài ba hoặc nhà lãnh đạo quyền thế. Sau khi chấp nhận các nguyên nhân xảy ra với Gordianus, Viện Nguyên lão buộc phải tiếp tục cuộc nổi dậy chống lại Maximinus, và bổ nhiệm hai Nguyên lão nghị viên già Pupienus cùng Balbinus làm đồng hoàng đế. Tuy nhiên, vào cuối năm 238, vị hoàng đế được công nhận lại là cháu nội của ông đế hiệu Gordianus III. Cải hai cha con Gordianus đều được Viện Nguyên lão phong thần. | 1 | null |
Gordianus II (; 192 – 238), là Hoàng đế La Mã trong một tháng với cha mình Gordianus I vào năm 238, năm của sáu vị Hoàng đế. Trong cuộc chiến lật đổ Hoàng đế Maximinus Thrax, Gordianus II đã tử trận trong trận chiến bên ngoài thành Carthage.
Thiếu thời.
Gordianus II sinh vào khoảng năm 192 và là đứa con trai duy nhất của Marcus Antonius Gordianus Sempronianus Già. Gia tộc ông xuất thân từ tầng lớp kỵ sĩ vốn khiêm tốn và rất giàu có. Gordianus được cho là có mối quan hệ thân mật với các Nguyên lão nghị viên xuất chúng. Praenomen và nomen của ông "Marcus Antonius" nói rằng tổ tiên bên nội của ông đã được ban quyền công dân La Mã dưới trướng một trong Tam đầu chế Mark Antony, hoặc một trong các con gái của ông vào cuối thời Cộng hòa La Mã. Cái tên Gordianus còn đưa ra giả thuyết là gia tộc ông có nguồn gốc từ Tiểu Á, đặc biệt là Galatia và Cappadocia.
Theo "Historia Augusta" thì mẹ cậu là một phụ nữ la Mã gọi là Fabia Orestilla, sinh vào khoảng năm 165, mà cuốn "Historia Augusta" xác nhận là hậu duệ của Hoàng đế La Mã Antoninus Pius và Marcus Aurelius từ cha mình Fulvus Antoninus. Các nhà sử học hiện nay đã bác bỏ tên này và thông tin của bà là không chính xác. Có một số bằng chứng cho thấy rằng mẹ Gordianus II của có thể là cháu gái của nhà triết học Hy Lạp, quan chấp chính và gia sư Herodes Atticus. Em gái của Gordianus II tên là Antonia Gordiana và sau này là mẹ của Hoàng đế Gordianus III.
Mặc dù trong ký ức của Gordianus từng được sự yêu mến của Viện Nguyên lão và do đó làm nảy nở mối thân tình trong bất kỳ tài liệu của Viện Nguyên lão trong thời kỳ này, tài liệu duy nhất về sự nghiệp lúc đầu của Gordianus còn tồn tại được lưu trong Historia Augusta, dù nó không đưa ra được sự mô tả chính xác hoặc đáng tín cậy về câu chuyện cuộc đời ông trước khi lên ngôi hoàng đế vào năm 238. Theo nguồn tài liệu này cho biết Gordianus từng giữ chức quaestor dưới thời Elagabalus rồi làm praetor và chấp chính quan thời Hoàng đế Alexander Severus. Năm 237, Gordianus đã đi đến tỉnh Proconsularis thuộc châu Phi trong vai trò một legatus dưới sự chỉ huy của cha mình như một thống đốc kiêm tỉnh trưởng.
Khởi binh xưng đế và cái chết.
Đầu năm 235, hoàng đế Alexander Severus và mẹ là Julia Avita Mamaea bị quân nổi loạn ám sát tại Moguntiacum thuộc vùng Hạ Germania. Người cầm đầu cuộc nổi loạn là Maximinus Thrax đã tự xưng đế bất chấp xuất thân thấp kém của ông và sự phản đối của Viện Nguyên lão La Mã. Phải đương đầu với đám đông dân chúng địa phương đã giết chết viên biện lý của Maximinus, cha của Gordianus bị buộc phải tham gia vào một cuộc nổi loạn quy mô lớn chống lại Maximinus vào năm 238 và trở thành "Augustus" vào này 22 tháng 3 cùng năm. Cũng do Gordianus I tuổi tác đã cao nên ông cùng đưa con mình là Gordianus II lên ngôi hoàng đế và tấn phong làm "Augustus". Giống như cha mình, Gordianus II cũng được ban tên riêng Africanus.
Hai cha con họ còn được sự ủng hộ và công nhận bởi cả Viện Nguyên lão và hầu hết các tỉnh khác, phần lớn là do sự cai trị hà khắc gây mất lòng dân của Maximinus mà ra. Tuy nhiên đã có sự chống đối bắt đầu bùng phát từ tỉnh lân cận Numidia. Capelianus, thống đốc Numidia là người ủng hộ trung thành của Maximinus Thrax cùng những kẻ có mối ác cảm với Gordianus, đã nối lại liên minh của ông với vị hoàng đế cũ và dẫn quân xâm chiếm tỉnh châu Phi với chỉ duy nhất một đạo quân lê dương đóng trong khu vực là III Augusta cùng các đơn vị cựu binh khác. Gordianus II thống lĩnh một quân đội dân binh gồm các binh sĩ chưa qua huấn luyện nên chẳng mấy chốc đại bại trong trận Carthage còn mình thì tử trận. Gordianus hay được tin ấy và cũng vì quá đau lòng trước cái chết của con mình nên đã quyết định tự sát bằng cách treo cổ. Theo cuốn "Historia Augusta" thì thi thể của Gordianus II chẳng bao giờ được tìm thấy. Vì vậy mà cuộc nổi dậy đầu tiên chống lại Maximinus Thrax đã không thành công nhưng vào cuối năm 238, một người cháu của Gordianus II đã được quần thần và tướng sĩ toàn La Mã tôn làm hoàng đế lấy hiệu là Gordianus III. | 1 | null |
Gordianus III (; 225 – 244), là Hoàng đế La Mã từ năm 238 đến 244. Ở tuổi 13, cậu trở thành vị hoàng đế La Mã hợp pháp trẻ nhất cầm quyền xuyên suốt sự tồn tại của Đế quốc La Mã thống nhất. Gordianus là con trai của Antonia Gordiana và một Nguyên lão nghị viên vô danh đã mất từ trước năm 238. Antonia Gordiana chính là con gái của Hoàng đế Gordianus I và em gái của Hoàng đế Gordianus II. Có rất ít thông tin biết được về thuở thiếu thời của cậu trước khi lên ngôi. Ngay khi lên ngôi, cậu đã lấy cái tên của ông ngoại mình làm đế hiệu là Gordianus III vào năm 238.
Nắm quyền.
Sau cái chết của Hoàng đế Alexander Severus ở Moguntiacum (nay là Mainz), thủ đô của tỉnh Hạ Germania thuộc La Mã, Maximinus Thrax liền tự xưng đế, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của Viện Nguyên lão và phần lớn dân chúng. Để đáp lại những gì mà Roma coi là một cuộc nổi loạn, ông và chú của Gordianus tức Gordianus I và II cùng tuyên bố là đồng hoàng đế ở tỉnh châu Phi thuộc La Mã. Cuộc nổi dậy của họ đã bị Cappellianus, thống đốc Numidia và là một người ủng hộ trung thành của Maximinus Thrax đàn áp chỉ trong vòng một tháng. Gordianus Già chết, nhưng dư luận lại lưu giữ về ký ức của họ như những người yêu chuộng hòa bình và đam mê văn học, chỉ là nạn nhân chịu sự đàn áp của Maximinus.
Trong khi đó, Maximinus đang trên đường hành quân về Roma và Viện Nguyên lão đã bầu chọn Pupienus và Balbinus làm đồng hoàng đế. Những Nguyên lão nghị viên này không phải là người được tin cậy và dân chúng thành Roma vẫn còn bị sốc bởi số phận của vị hoàng đế cao tuổi Gordianus I, vì vậy mà Viện Nguyên lão đã quyết định chọn cậu bé Gordianus và đổi tên cậu thành Marcus Antonius Gordianus giống như ông ngoại mình, rồi phong làm "Caesar" và được quyền kế thừa ngôi vị hoàng đế. Pupienus và Balbinus dẫn đại quân đánh bại Maximinus, chủ yếu là do sự đào tẩu của nhiều quân đoàn, đặc biệt là II Parthica về sau đã ám sát Maximinus. Nhưng sự trị vì chung của họ kết cuộc cũng sụp đổ từ khi bắt đầu với các cuộc nổi loạn của quần chúng nhân dân, bất mãn quân sự và một ngọn lửa khổng lồ bất chợt thiêu rụi thành Roma vào tháng 6 năm 238. Ngày 29 tháng 7 cùng năm, Pupienus và Balbinus đã bị Cấm vệ quân "Praetorian Guard" giết chết và Gordianus nghiễm nhiên trở thành vị hoàng đế duy nhất trên toàn đế chế.
Trị vì.
Do tuổi tác của Gordianus, triều đình đã phải trao lại quyền cho các gia đình quý tộc, những người kiểm soát công việc của Roma thông qua Viện Nguyên lão. Năm 240, Sabinianus nổi loạn ở tỉnh châu Phi, nhưng tình hình đã nhanh chóng được kiểm soát. Năm 241, Gordianus kết hôn với Furia Sabinia Tranquillina, con gái của viên pháp quan thái thú mới được bổ nhiệm Timesitheus. Là người đứng đầu đội Cấm vệ quân "Praetorian Guard" và cha vợ của Hoàng đế, Timesitheus nhanh chóng trở thành nhà lãnh đạo trên thực tế của Đế quốc La Mã.
Vào thế kỷ thứ ba, các vùng biên giới La Mã đã lực bất tòng tâm trong việc phòng ngừa các bộ tộc German tràn qua sông Rhine và sông Danube, ở phía Đông thì vương quốc Sassanid còn vượt qua sông Euphrates nhằm gia tăng các cuộc tấn công của riêng mình. Khi người Ba Tư dưới quyền Shapur I xâm chiếm Mesopotamia, vị hoàng đế trẻ tuổi đã cho mở cửa đền thờ thần Janus lần cuối cùng trong lịch sử La Mã, và gửi đại quân tiến về phía Đông. Quân Sassanid bị đẩy lùi trên sông Euphrates và đại bại trong trận Resaena năm 243. Chiến dịch này xem như thành công và Gordianus liền gia nhập quân đội, dự tính mở một cuộc xâm lược vào lãnh thổ của đối phương, khi cha vợ của ông qua đời mà không rõ nguyên nhân. Thiếu Timesitheus, chiến dịch và việc bảo vệ Hoàng đế có nguy cơ rủi ro cao.
Marcus Julius Philippus, còn được gọi là Philip Ả Rập, vào lúc này được bổ nhiệm làm pháp quan thái thú mới thay thế Timesitheus và chiến dịch được tiếp tục tiến hành. Vào đầu năm 244, người Ba Tư bắt đầu phản công. Các nguồn tài liệu của Ba Tư cho rằng một trận chiến giữa hai bên đã xảy ra (trận Misiche) gần Fallujah thuộc Iraq ngày nay và dẫn đến một thất bại thảm hại của quân La Mã khiến hoàng đế Gordianus III tử trận. Các nguồn tài liệu La Mã lại không đề cập đến cuộc chiến này và cho rằng Gordian đã mất từ lâu trên thượng nguồn sông Euphrates. Dù các nguồn sử liệu cổ đại thường mô tả Philip, người kế vị Gordianus làm hoàng đế đã ra tay sát hại Gordianus tại Zaitha (Qalat es Salihiyah), nguyên nhân cái chết của Gordianus cho đến nay vẫn còn mơ hồ.
Vị hoàng đế trẻ tuổi và bản chất tốt đẹp của Gordianus, cùng với cái chết của ông ngoại và chú mình cùng số phận bi thảm của cậu dưới bàn tay của kẻ cướp ngôi khác, mang lại cho ông sự kính trọng lâu dài của người La Mã. Bất chấp sự phản đối của Hoàng đế mới, Gordianus đã được Viện Nguyên lão phong thần sau khi cậu qua đời để xoa dịu người dân và tránh bạo loạn xảy ra.
Tham khảo.
Katrin Herrmann: Gordian III. - Kaiser einer Umbruchszeit. Speyer 2013. ISBN 978-3-939526-20-9 | 1 | null |
Năm của sáu vị Hoàng đế là đề cập đến năm 238, trong đó có sáu người được công nhận là Hoàng đế La Mã. Hoàng đế đầu tiên là Maximinus Thrax trị vì từ năm 235. Các nguồn tài liệu về sau như bộ sử "Historia Augusta" đều cho rằng nguyên nhân dẫn đến sự kiện này là do sự tàn bạo và độc đoán của Maximinus mà ra, đến tháng 1 năm 238, một cuộc nổi dậy đã bùng nổ ở Bắc Phi.
Một số nhà quý tộc trẻ đã sát hại viên quan thu thuế của triều đình và sau đó tiếp cận viên thống đốc tỉnh là Gordianus và cố nài ông tự xưng đế. Gordianus miễn cưỡng đồng ý, nhưng lúc này ông đã 80 tuổi, nên quyết định lập con trai mình làm đồng hoàng đế với quyền lực ngang nhau. Viện Nguyên lão đành công nhận hai cha con là hoàng đế với vương hiệu tương tự Gordianus I và Gordianus II. Triều đại của họ chỉ kéo dài 20 ngày. Capelianus, thống đốc của tỉnh lân cận Numidia, tỏ vẻ không bằng lòng trước trước sự phản nghịch nên đã đứng lên chống lại Gordianus. Ông tuân lệnh triều đình đã dẫn đại quân đi dẹp loạn và đánh bại họ trong trận quyết chiến ở Carthage. Gordianus II bại vong tử trận và khi nghe được tin này thì Gordianus I cũng treo cổ tự vẫn.
Trong khi đó Maximinus, giờ đây đã bị tuyên bố là kẻ thù nhân dân, đã bắt đầu tiến vào thành Roma với một đội quân khác. Các ứng cử viên trước đây của Viện Nguyên lão là cha con nhà Gordianus đã thất bại trong việc tiêu diệt ông, và biết rằng họ sẽ nguy khốn nếu để Maximinus thành công, do vậy mà Viện Nguyên lão rất cần một vị hoàng đế mới để ngăn ngừa hiểm họa này. Không có ứng cử viên khác xem được, ngày 22 tháng 4 năm 238 họ bầu hai Nguyên lão nghị viên già Pupienus và Balbinus (cả hai là một phần của một ủy ban nghị viên đặc biệt để đối phó với Maximinus) làm đồng hoàng đế. Tuy nhiên sự lựa chọn này lại không hợp lòng dân nên đám đông dân chúng đã hò hét phản đối và ném gạch đá vào các vị hoàng đế mới. Ngay lúc này có Marcus Antonius Gordianus Pius, đứa cháu ngoại mới mười ba tuổi của Gordianus I, được Viện Nguyên lão chọn làm hoàng đế nắm quyền trị vì trên danh nghĩa chỉ để nhằm xoa dịu người dân thủ đô, vốn vẫn còn trung thành với nhà Gordianus.
Pupienus được phái tới thống lĩnh quân đội để đương đầu với Maximinus và Balbinus thì ở lại Roma. Trong khi đó, Maximinus cũng gặp phải vấn đề. Vào đầu tháng 2 ông đến thành phố Aquileia để rồi thấy rằng nơi đây đã tuyên bố ba kẻ thù của mình. Maximinus tiến hành vây hãm thành phố, nhưng không thành công. Đến tháng 4, bất mãn vì thất bại này, sự thiếu thành công trong chiến dịch nói chung, thiếu tiếp tế và sự phản đối mạnh mẽ của Viện Nguyên lão đã buộc những đạo quân lê dương của ông phải suy nghĩ lại về lòng trung thành của họ.
Đám binh sĩ của quân đoàn lê dương II Parthica lập tức nổi loạn giết chết Maximinus trong quân doanh của ông, cùng với đứa con trai Maximus (được bổ nhiệm làm phó hoàng đế vào năm 236), và đầu hàng Pupienus vào cuối tháng 6. Thi thể của hai cha con Maximinus bị xử trảm và đầu của họ được mang đến Roma. Để cứu lấy Roma từ một kẻ thù nhân dân, các binh sĩ đã được hoàng đế mới tha tội và gửi trả lại cho địa phương họ. Đồng hoàng đế sau đó trở về Roma, để rồi chợt nhận ra thành phố đang chìm ngập trong cơn bạo loạn đẫm máu. Balbinus đã không thể kiểm soát được tình hình và thành phố bị đốt cháy trong ngọn lửa hùng tàn dẫn đến cuộc nổi loạn. Với cả hai hoàng đế hiện tại, tình hình đã có phần lắng dịu nhưng sự lo lắng vẫn còn để lại. Những đồng tiền xu từ triều đại yểu mệnh của họ cho thấy một trong số họ hiện trên một mặt và hai bàn tay siết chặt một mặt khác thể hiện quyền lực chung của họ, nhưng mối quan hệ của họ đã bị lung lay với sự nghi ngờ ngay từ đầu, với lại cả hai đều lo sợ một vụ ám sát từ những kẻ chống đối khác. Họ dự tính thực hiện một chiến dịch lớn gấp đôi, Pupienus thảo phạt người Parthia và Balbinus thảo phạt người Carpia (Grant còn nói có thêm cả người Goth và Ba Tư), nhưng họ cãi nhau thường xuyên và không đồng ý hoặc không tin tưởng lẫn nhau.
Đó là trong một trong những cuộc thảo luận nghiêm trọng, Vào tháng 5 hoặc ngày 29 tháng 7, đội Cấm vệ quân "Praetorian Guard" quyết định can thiệp. Họ xông vào phòng chứa các hoàng đế, bắt giữ cả hai, sai người lột đồ ra, lôi họ đi trên đường trong tình trạng lõa thể qua các đường phố ở thủ đô, tra tấn khốc liệt và cuối cùng là giết chết họ. Cùng ngày Gordianus III được tuyên bố là vị hoàng đế duy nhất (238-244), dù trong thực tế viên quan cố vấn của thiếu đế mới là người nắm giữ hầu hết quyền lực của cậu. Pupienus và Balbinus cùng nhau trị vì chỉ vỏn vẹn 99 ngày. Gordianus I và II được Viện Nguyên lão phong thần. | 1 | null |
Đồn Capuzzo là một đồn ở Libya dưới thời Libya thuộc Ý, nằm gần biên giới Libya-Ai Cập và kế bên Phòng tuyến dây thép gai của Ý. Đây là địa điểm nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Lịch sử.
Trong vòng một tuần kể từ khi Ý chính thức tuyên chiến với Anh vào ngày 10 tháng 6 năm 1940, đội Khinh kỵ binh số 11 của quân Anh (được hỗ trợ bởi các đơn vị của Trung đoàn xe tăng Hoàng gia số 1 và sự yểm trợ từ Phi đội số 33 của Gladiators và Phi đội số 211 của Blenheims) đã chiếm Đồn Capuzzo. Một vài ngày sau, Sư đoàn áo đen số 1 của Ý chiếm lại trong một đợt tấn công tới Sidi Barrani, Ai Cập.
Tháng 12 năm 1940, Lực lượng Sa mạc Tây chiếm lại đồn trong chiến dịch Compass. Rồi sau đồn bị Tướng Erwin Rommel chiếm lại trong đợt tấn công đầu tiên của ông diễn ra vào ngày 12 tháng 4 năm 1941.
Trong chiến dịch Brevity, đồn lại đổi chủ một thời gian ngắn từ ngày 15 đến 16 tháng 5, nhưng cuối cùng vẫn thuộc quyền kiểm soát của liên quân Đức-Ý khi chiến dịch thất bại và Liên đoàn của Anh đang tấn công buộc phải rút lui. Đồn lại bị Sư đoàn New Zealand tái chiếm vào ngày 22 tháng 11 năm 1941, trong suốt chiến dịch Crusader.
Lực lượng phe Trục một lần nữa lại sở hữu sau trận Gazala trước khi đồn được trả về cho Đồng minh kiểm soát lần cuối cùng sau trận El Alamein thứ hai. | 1 | null |
Văn hóa Nhị Lý Đầu () là tên gọi được các nhà khảo cổ học đặt cho một xã hội đô thị đầu thời đại đồ đồng có niên đại xấp xỉ từ 1900 TCN đến 1500 TCN. Nền văn hóa này được đặt tên theo một di chỉ được phát hiện tại thôn Nhị Lý Đầu thuộc quận Yển Sư, tỉnh Hà Nam, phổ biến rộng rãi trên địa bàn nay thuộc hai tỉnh Hà Nam và Sơn Tây, và sau đó lan đến các vùng nay thuộc các tỉnh Thiểm Tây và Hồ Bắc. Các nhà khảo cổ học Trung Quốc thường xác định văn hóa Nhị Lý Đầu thuộc về triều Hạ, song không có các bằng chứng, như văn tự, để xác nhận mối liên hệ này.
Di chỉ Nhị Lý Đầu.
Văn hóa Nhị Lý Đầu có thể phát triển trên nền tảng văn hóa Long Sơn. Ban đầu, nền văn hóa này tập trung tại khu vực hai tỉnh Hà Nam và Sơn Tây, sau đó lan đến các tỉnh Thiểm Tây và Hồ Bắc. Sau khi văn hóa Nhị Lý Cương nổi lên, di chỉ Nhị Lý Đầu suy giảm về quy mô song vẫn có người cư trú.
Di chỉ Nhị Lý Đầu được Từ Húc Sinh phát hiện vào năm 1959, đây là di chỉ lớn nhất có liên hệ với văn hóa Nhị Lý Đầu, với các tòa cung điện và xưởng luyện đồng. Nhị Lý Đầu là nơi duy nhất sản xuất bình tế bằng đồng thanh vào đương thời. Đô thị nằm ven sông Y, một chi lưu của sông Lạc- đổ vào Hoàng Hà. Đô thị có kích thước 2,4 km × 1,9 km; tuy nhiên do lũ lụt tàn phá nên chỉ còn lại . Văn hóa Nhị Lý Đầu được chia thành 4 thời kỳ, mỗi thời kỳ kéo dài khoảng 1 thế kỷ.
Trong thời kỳ thứ nhất, với diện tích , Nhị Lý Đầu phát triển nhanh chóng, trở thành một trung tâm khu vực, song chưa phải là nền văn minh đô thị.
Đô thị hóa bắt đầu trong thời kỳ thứ 2, với diện tích mở rộng lên . Một khu vực cung điện rộng được bốn con đường phân định. Nó bao gồm Cung điện số 3 có kích thước 150x50 m, gồm ba sân dọc theo một trục dài 150 mét, và Cung điện số 5. Một xưởng đúc đồng được thiết lập ờ phía nam tổ hợp cung điện.
Khu đô thị đạt đến đỉnh cao vào thời kỳ thứ 3, có thể có 18.000 - 30.000 cư dân. Tổ hợp cung điện được bao quanh bằng một bức tường đắp bằng đất dày 2 mét, các Cung điện 1, 7, 8, 9 được xây dựng. Các cung điện 3 và 5 bị bỏ và bị thay thế bằng 4200 m² Cung số 2 và Cung số 4.
Sơ đồ móng cung điện và Đại Môn của Nhị Lý Đầu (tiền thân của Ngọ Môn tại các cung điện Trung Hoa sau này) được định vị đông tây nam bắc khá chuẩn, sai số chỉ 5 độ góc, chứng tỏ người thời đó đã nắm khá vững thiên văn, có niên lịch và sử dụng đồng hồ mặt trời đo thời gian.
Thời kỳ thứ 4 trước đây được xem là thời kỳ suy giảm, song các khai quật gần đây thể hiện rằng việc xây dựng vẫn tiếp tục. Cung điện số 6 được xây dựng như một phần mở rộng của Cung điện số 2, các Cung điện số 10 và 11 được xây dựng. Thời kỳ thứ 5 gối lên hạ kỳ của văn hóa Nhị Lý Cương (1600–1450 TCN). Khoảng 1600 TCN, một khu đô thị có tường bao bọc được xây dựng tại Yển Sư, cách Nhị Lý Đầu khoảng 6 km về phía đông bắc.
Việc sản xuất đồ bằng đồng và các mặt hàng tinh hoa khác chấm dứt vào cuối thời kỳ thứ 4, đồng thời với việc khu đô thị ở Trịnh Châu thuộc văn hóa Nhị Lý Cương được hình thành, cách đó về phía đông. Không có bằng chứng sự phá hủy là do hỏa hoạn hoặc chiến tranh, song vào thượng kỳ văn hóa Nhị Lý Cương (1450–1300 BCE) tất cả các cung điện bị bỏ hoang, và Nhị Lý Đầu suy giảm thành một thôn rộng .
Liên quan với các ghi chép cổ.
Một mục tiêu chính của ngành khảo cổ học Trung Quốc là tìm kiếm thủ đô của các triều đại Hạ và Thương, vốn được mô tả trong các thư tịch cổ là nằm ở thung lũng Hoàng Hà. Những điều này được ghi chép trong các thư tịch rất lâu sau đó như "Trúc thư kỷ niên" (khoảng 300 TCN) và "Sử ký" (thế kỷ 1 TCN), và tính lịch sử của chúng, đặc biệt là phần liên quan đến triều Hạ, bị nhiều học giả nghi ngờ. Việc phát hiện ra giáp cốt văn ở Ân Khư thuộc An Dương khẳng định rằng đây là kinh đô cuối cùng của triều Thương, song những chứng cứ như vậy không được tìm thấy trong các di chỉ có niên đại trước đó.
Khi Từ Húc Sinh lần đầu phát hiện ra di chỉ Nhị Lý Đầu, ông khẳng định đó là Bạc, thủ đô đầu tiên của triều Thương dưới thời vua Thang trong thư tịch cổ. Từ cuối thập niên 1970, giới khảo cổ học Trung Quốc tập trung vào nghiên cứu mối liên hệ giữa văn hóa Nhị Lý Đầu và triều Hạ. Việc triều Thương lật đổ triều Hạ trong thư tịch cổ được các tác giả khác nhau xác định tương ứng với mốc kết thúc của mỗi một trong số 4 thời kỳ. Hạ Thương Chu đoạn đại công trình xác định toàn bộ bốn thời kỳ của văn hóa Nhị Lý Đầu là văn hóa triều Hạ, và việc xây dựng thành Yển Sư có tường bao bọc là mốc triều Thương thành lập. Các học giả khác, đặc biệt là ở bên ngoài Trung Quốc, chỉ ra việc thiếu một bằng chứng vững chắc cho nhận định như vậy, và cho rằng sự tập trung vào ghi chép sử học của khảo cổ học Trung Quốc là sự hạn chế thái quá. | 1 | null |
Văn hóa Nhị Lý Cương (二里岗文化, khoảng 1500–1300 TCN) là thuật ngữ được các nhà khảo cổ học sử dụng để đề cập đến một nền văn hóa khảo cổ học thuộc thời đại đồ đồng ở Trung Quốc. Di chỉ chính được phát hiện tại Nhị Lý Cương, thuộc Trịnh Châu, Hà Nam, vào năm 1951.
Đô thị cổ có một bức tường lớn bao quanh với chu vi khoảng 7 km. Các xưởng lớn nằm ở bên ngoài tường thành, bao gồm một xưởng chế tác từ xương, một xưởng gốm, và hai xưởng làm bình bằng đồng thanh. Phần còn lại của thành cổ Nhị Lý Cương nằm bên dưới khu đô thị hiện đại, do vậy việc khai quật khảo cổ không thể tiến hành được. Do đó, hầu hết các thông tin về nền văn hóa Nhị Lý Cương đến từ việc nghiên cứu các di chỉ khác thuộc nền văn hóa này.
Văn hóa Nhị Lý Cương tập trung tại thung lũng Hoàng Hà. Các sản phẩm đồ đồng của văn hóa Bùi Lý Cương phát triển từ kiểu dáng và kỹ thuật của văn hóa Nhị Lý Đầu trước đó, tập trung cách Trịnh Châu 85 km về phía tây. Nhị Lý Cương là nền văn hóa khảo cổ học đầu tiên tại Trung Quốc cho thấy việc sử dụng rộng rãi các bình được đúc từ đồng thanh, chúng cũng thống nhất về phong cách hơn so với văn hóa Nhị Lý Đầu.
Trong những năm đầu, văn hóa Nhị Lý Cương khuếch trương nhanh chóng, vươn đến lưu vực Trường Giang, bằng chứng là di chỉ Bàn Long Thành ở Hồ Bắc. Do Trịnh Châu chưa tiếp cận được các kim loại đồng địa phương, các di chỉ như Bàn Long Thành có thể được sử dụng để bảo vệ nguồn tài nguyên kim loại ở xa. Nền văn hóa này dần suy giảm kể từ thời điểm đỉnh cao vào ban đầu.
Nhiều nhà khảo cổ học Trung Quốc tin rằng thành cổ ở Trịnh Châu là một trong các kinh đô trước tiên của triều Thương- được đề cập đến trong các thư tịch cổ. Tuy nhiên, nhiều học giả và các nhà khảo cổ học phương Tây thì cho rằng không giống như Ân Khư, không có văn tự nào được phát hiện tại Nhị Lý Cương để có thể liên hệ các tàn tích khảo cổ với chính sử. | 1 | null |
François Pallu (1626-1684) là một Giám mục Công giáo người Pháp. Ông là một thành viên sáng lập của Hội Thừa sai Paris và là một nhà truyền giáo ở châu Á. Ông cùng với Pierre Lambert de la Motte là hai Giám mục đầu tiên cai quản mục vụ tại Việt Nam, đồng thời cũng là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Phúc Kiến (nay là Giáo phận Phúc Châu, Trung Quốc).
Tiểu sử.
François Pallu sinh ngày 31 tháng 8 năm 1626 ở Indre-et-Loire, (Tours, Pháp). Xuất thân trong một gia đình Công giáo lớn, năm 1650, ông thụ phong linh mục và làm công tác mục vụ tại Tours, nơi cha ông làm thị trưởng.
Một lần Pallu đã gặp gỡ với một linh mục Dòng Tên là Alexandre de Rhodes, được mời cộng tác và trở thành một giáo sĩ tình nguyện truyền giáo ở châu Á. Ông cùng với Pierre Lambert de la Motte và Ignace Cotolendi được gửi đến Viễn Đông làm công việc truyền giáo như các tông đồ.
Con đường truyền giáo.
Ngày 29 tháng 7 năm 1658, Giáo hoàng Alexanđê VII ban hành Đoản sắc bổ nhiệm các tân Giám mục Lambert de la Motte và François Pallu làm Đại diện Tông tòa tại Đại Việt. Giám mục Pallu được Tòa Thánh ủy nhiệm coi sóc Giáo phận Đàng Ngoài của Đại Việt . Ngày 17 tháng 11 năm 1658, tại đền Thánh Phêrô, Hồng y Tổng trưởng Bộ Truyền giáo Antonio Barberini đã cử hành lễ tấn phong Giám mục hiệu tòa Heliopolis cho Linh mục François Pallu, với sự phụ tá của Tổng Giám mục Lorenzo Gavotti và Giám mục Marco Antonio Bettoni.
Năm 1661, François Pallu đến châu Á bằng đường bộ, sau gần hai năm đi, ông đã đến Vương quốc Xiêm La, nơi đó có Pierre Lambert de la Motte đang chờ ông. Trong khi chờ tình hình thuận lợi để vào nhiệm sở tại Đại Việt, hai Giám mục và các linh mục của Hội truyền giáo Paris họp Công nghị tại Juthia vào cuối năm 1664 đến ngày 6 tháng 1 năm 1664 thì bế mạc.
Ngày 17 tháng 1 năm 1665, Pallu ủy thác giáo phận nhiệm sở của mình cho Giám mục Lambert giám quản để về Pháp lo xây dựng Hội Thừa sai Truyền giáo Hải ngoại Paris và lập Chủng viện đào tạo các linh mục Thừa sai Paris đi truyền giáo ở Viễn Đông.
Ngày 3 tháng 9 năm 1673, Giám mục Pallu trở lại Juthia, ông chuẩn bị ra nhiệm sở Đàng Ngoài lần thứ hai.
Ngày 20 tháng 8 năm 1674, Giám mục rời Juthia xuống tàu buôn của một thương gia Pháp, trực chỉ Đàng Ngoài. Khi tàu đi vào hải phận Thuận Hóa, bão lớn đánh giạt tàu sang tận Philippin. Ngày 19 tháng 10 năm 1674, chính quyền thực dân Tây Ban Nha tại Philippin bắt giam ông vì nghi ngờ là gián điệp của Pháp. Ông bị giam giữ 3 tháng ở Manila. Sau khi được trả tự do, François Pallu đến gặp Bề trên Tỉnh Dòng Đaminh Mân Côi ở Manila, nhờ cử người sang Đàng Ngoài hỗ trợ lực cho công cuộc truyền giáo. Tỉnh Dòng Đaminh Mân Côi ở Manila đã cử 2 giáo sĩ là Juan de Santa Cruz và Juan de Arjona sang Phố Hiến (Hưng Yên) Đàng Ngoài vào ngày 7 tháng 7 năm 1676, mở đầu giai đoạn truyền giáo cho miền Đông Đàng Ngoài sau này.
Ngày 1 tháng 6 năm 1675, Giám mục Pallu rời Philippin về Roma. Ông đệ đơn xin từ chức Đại diện Tông Tòa Giáo phận Đàng Ngoài bắt đầu từ tháng 11 năm 1679.
Ngày 1 tháng 4 năm 1680, Tòa Thánh thành lập Giáo phận Phúc Kiến và bổ nhiệm ông làm Giám quản Tông Tòa, coi sóc mục vụ ở 9 tỉnh và các hải đảo phía Nam Trung Quốc. Năm 1681, từ Roma, Pallu đi Xiêm và đến hải phận Hoa Nam thì bị nhà Minh bắt giam ở Đài Loan một thời gian. Sau khi được trả tự do, ông tiếp tục qua Phúc Kiến ngày 27 tháng 1 năm 1684. Ông tá túc tại một làng nhỏ tên là Chen Châu ở tỉnh Phúc Kiến.
Giám mục François Pallu làm việc tại giáo phận của ông được 9 tháng thì bị kiệt sức và qua đời ngày 29 tháng 10 năm 1684 tại làng Mai Dương (Mo-yang), huyện Phúc Ninh (Fon-Ning), tỉnh Phúc Kiến, hưởng dương 58 tuổi.
Ông được an táng trong nghĩa trang "Núi Thánh". Năm 1959 ông được cải táng và đưa di cốt về trụ sở Hội Truyền giáo ở Paris.
Mục vụ tại Việt Nam.
Giám mục François Pallu là Đại diện Tông Tòa tiên khởi của Giáo phận Đàng Ngoài và là một trong 2 Giám mục tiên khởi tại Việt Nam. Ông là người mở đầu giai đoạn truyền giáo tại Đông Đàng Ngoài của các giáo sĩ Đa Minh thuộc Tỉnh Dòng Mân Côi Manila.
Từ cuối năm 1679, tuy không còn là Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài, nhưng năm 1681, François Pallu đã cử người qua Thăng Long xin triều kiến vua Lê và chúa Trịnh dâng tặng vật và quốc thư của Hoàng đế Pháp Louis XIV xin triều đình Đàng Ngoài cho Công ty Đông Ấn được mở thương điếm ở Bắc Hà, lấy lý do này mà các giáo sĩ Thừa sai Paris có thể quá giang qua truyền giáo ở Đàng Ngoài dễ dàng hơn.
Tháng 9 năm 2009, phái đoàn Giám mục Việt Nam đã đệ trình hồ sơ xin phong Chân phước cho hai Giám mục Lambert de la Motte và Pallu vì đóng góp của hai Giám mục với Giáo hội Công giáo Việt Nam. | 1 | null |
Đài Phát thanh - Truyền hình Phú Yên (tiếng Anh: Phu Yen Radio - Television Station, viết tắt: PTP) là một đài phát thanh - truyền hình trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên.
Lịch sử phát thanh Phú Yên.
Ngày phát sóng chương trình phát thanh đầu tiên.
Đài phát sóng chương trình phát thanh đầu tiên lúc 17h15, ngày 1 tháng 7 năm 1989, nhạc hiệu "Đây là Đài Tiếng nói nhân dân Phú Yên, phát thanh từ thị xã Tuy Hòa" phát trên sóng FM tần số 96 MHz, chính thức đánh dấu việc tái lập tỉnh Phú Yên sau 13 năm sáp nhập với tỉnh Khánh Hòa thành tỉnh Phú Khánh.
Đổi mới chương trình phát thanh và tần số phát sóng.
Quá trình xây dựng và trưởng thành, từ phát thanh vài giờ mỗi ngày, đến nay PTP đã phát trên 36 giờ mỗi ngày trên các kênh sóng phát thanh, với nhiều nội dung chương trình phong phú. Tần số FM là 96 MHz.
Lịch sử truyền hình Phú Yên.
Lịch sử truyền hình từ tháng 7 năm 1989 đến năm 2012.
Năm 1989, từ sau khi chính thức đánh dấu việc tái lập tỉnh Phú Yên sau 13 năm sáp nhập tỉnh Khánh Hòa để thành lập tỉnh Phú Khánh, 7 người đầu tiên từ Nha Trang ra Tuy Hòa khi có quyết định thành lập Đài Truyền hình Phú Yên ngày 1 tháng 7 năm 1989 gồm: Tạ Tấn Đông, Trần Ngọc Dân, Nguyễn Tô Hà, Nguyễn Quang Vinh, Lê Ánh Dương, Võ Minh Thùy và một cô làm tạp vụ. Tất cả đều xem địa chỉ 23 Lê Thánh Tôn (vừa là trụ sở của đài, vừa là chỗ ở tạm) như mái nhà chung. Họ đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thiếu thốn để kênh sóng PTV chính thức phát đi từ Tuy Hòa không bao lâu sau đó. Đài Truyền hình Phú Yên mở sóng từ đó.
Những thành công tiếp đó của PTV như tiếp sóng, bình luận trực tiếp Cúp bóng đá thế giới, khai thác, biên dịch, chia sẻ bản quyền bộ phim "Người giàu cũng khóc "cho nhiều Đài Phát thanh - Truyền hình Tỉnh, đặc biệt là làm tốt công tác tuyên truyền dưới sự dẫn dắt của nhà báo Tạ Tấn Đông.
Ngày 22 tháng 8 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định về việc thành lập Đài Truyền hình khu vực Phú Yên (sau này là Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Phú Yên (VTV Phú Yên), từ năm 2016 đã sáp nhập với VTV8) trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam. Trong đó có viết:
"Điều 1. ''Thành lập Đài Truyền hình khu vực Phú Yên trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam. Đài Truyền hình khu vực Phú Yên có chức năng sản xuất, phát sóng phục vụ cho các chương trình chung của Đài Truyền hình Việt Nam và sản xuất, phát sóng các chương trình dành cho khu vực gồm các tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Lâm Đồng.<br>Điều 2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Đài Truyền hình khu vực Phú Yên do Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam quy định sau khi trao đổi thống nhất ý kiến với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ. <br>Điều 3. Giải thể Đài Truyền hình Phú Yên và chuyển giao toàn bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và biên chế của Đài Truyền hình Phú Yên về Đài Truyền hình khu vực Phú Yên trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam.""<br>"Theo đó, Đài Truyền hình Phú Yên trở thành Đài Truyền hình Khu vực Phú Yên, có chức năng phát sóng các chương trình dành cho khu vực Nam Trung bộ và trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam. Kể từ đó cho đến năm 2012, Phú Yên không có Đài Truyền hình riêng của tỉnh.
Lich sử truyền hình từ 2012 đến nay.
Ngày 16 tháng 1 năm 2012, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên Phạm Đình Cự đã ký quyết định về việc thành lập Đài Phát thanh - Truyền hình Phú Yên.
Ngày 19 tháng 7 năm 2013, Đài Phát thanh - Truyền hình Phú Yên đã phát thử sóng truyền hình. Chương trình thử nghiệm (từ 19/07/2013 đến 17h45 ngày 20/08/2013) chú yếu tiếp sóng HTV7 từ 9h00-21h00. Cũng từ đó, Đài Phát thanh - Truyền hình Phú Yên được bổ sung chức năng phát hình trên cơ sở Đài Tiếng nói nhân dân Phú Yên. Lúc 17h45 ngày 20 tháng 8 năm 2013, chương trình truyền hình của PTP bắt đầu phát sóng tạm thời và đến 17h45 ngày 2 tháng 9 năm 2013, chương trình truyền hình của PTP đã phát sóng chính thức.
Nhạc hiệu và lời xướng.
Đầu buổi phát sóng mỗi ngày trên kênh phát thanh của Đài đều có phát một đoạn nhạc không lời gọi là "nhạc hiệu" của Đài cùng một câu giới thiệu tên gọi và vị trí của Đài được gọi là "lời xướng" do các phát thanh viên gồm một nam và một nữ lần lượt đọc. Nhạc hiệu của Đài là bài "Bài Ca Phú Yên" của nhạc sỹ Phạm Văn Chừng, được dùng từ khi thành lập Đài cho đến nay.
Đài hiệu từ năm 2013 đến nay.
Thời lượng phát sóng.
Chương trình phát thanh của Đài phát sóng hàng ngày trên kênh sóng FM 96 MHz, từ 05h15 đến 24h00 hàng ngày (18h45/24h).
Chương trình truyền hình của Đài phát sóng hàng ngày trên kênh từ 06h00 - 24h00 (18/24h). | 1 | null |
Elisabeth Alexandra Luise của Hessen và Rhein (), sau là Đại vương công phu nhân Yelizaveta Fyodorovna (; 1 tháng 11 năm 1864 - 18 tháng 7 năm 1918); là vợ của Đại vương công Sergey Aleksandrovich của Nga, con trai thứ năm của Hoàng đế Aleksandr II của Nga và Đại Công nữ Marie của Hesse và by Rhine. Bà là cháu ngoại của Nữ vương Victoria và là chị gái của Alexandra, hoàng hậu cuối cùng của Nga.
Yelizaveta khá nổi tiếng trong xã hội Nga đương thời vì vẻ đẹp khả ái của bà và công việc từ thiện dành cho người nghèo. Sau khi Tổ chức chiến đấu Cách mạng Đảng Xã hội tiến hành ám sát chồng bà với một quả bom vào năm 1905, Yelizaveta công khai tha thứ cho kẻ giết người và vận động cho anh ta để được ân xá nhưng không thành công. Sau đó, bà rời khỏi triều đình và trở thành một nữ tu, thành lập tu viện Marfo-Mariinsky dành riêng để giúp người bị áp bức của Moskva. Vào năm 1918, bà bị bắt và cuối cùng bị chôn sống bởi những người Bolshevik. Năm 1981, Yelizaveta được Giáo hội Chính thống Nga bên ngoài của Nga phong thánh, và vào năm 1992 được phong thánh bởi Giáo hội Chính thống Nga.
Đại công nữ của Hessen.
Elisabeth sinh ngày 1 tháng 11 năm 1864, là người con thứ 2 của Ludwig IV xứ Hessen và Alice của Liên hiệp Anh, con gái của Victoria của Anh. Dù xuất thân từ một trong những dòng họ lâu đời và cao quý bậc nhất nước Đức, Elisabeth và gia đình sống khá là khiêm tốn so với tiêu chuẩn hoàng gia. Bà, cùng với chị và các em thì tự lau sàn và dọn phòng mình, trong khi mẹ bà tự may đồ cho những đứa con của mình. Trong Chiến tranh Áo-Phổ, Alice thường cùng với Elisabeth đi thăm những người lính bị thương ở một bệnh viện gần nhà. Nhìn chung, Elisabeth lớn lên trong một môi trường khá là hạnh phúc và an toàn, với những thói quen gia đình của người Anh, và tiếng Anh trở thành ngôn ngữ đầu tiên của bà. Sau này, bà đã kể với bạn rằng bà, cùng với chị và các em sẽ giao tiếng bằng tiếng Anh với mẹ và tiếng Đức với bố.
Vào mùa thu năm 1878, các thành viên trong gia đình của Elisabeth lần lượt mắc bệnh bạch hầu, khiến em gái Marie qua đời vào ngày 16 tháng 11 và mẹ bà - Alice qua đời vào ngày 14 tháng 12. Elisabeth đã được gửi tới nhà bà nội trước đó và là người duy nhất không mắc bệnh trong gia đình. | 1 | null |
Đại vương công Sergei Mikhailovich của Nga (tiếng Nga: Сергей Михайлович, ngày 07 tháng 10 năm 1869 - 18 tháng 07 năm 1918) là con trai thứ năm của Đại vương công Michael Nikolaievich của Nga và là một người anh em thuộc dòng đầu tiên của Alexander III của Nga.
Ông sinh ra và lớn lên ở vùng Kavkaz, nơi cha ông là phó vương. Năm 1881, gia đình chuyển đến St Petersburg. Ông trở thành một người bạn thân của Tsarevich Nicholas. Ông đã có một mối quan hệ lâu dài với nữ diễn viên ballet nổi tiếng Mathilde Kschessinska, người trước đây đã từng là tình nhân của Nicholas II của Nga. Cô cũng là tình nhân của Đại vương công Andrei Vladimorovich của Nga. Sergei công nhận có con riêng với Mathilde và vẫn bảo vệ họ cho đến khi ông qua đời.
Theo truyền thống gia đình, Đại vương công Sergei theo đuổi một sự nghiệp quân sự. Ông là Chánh Thanh tra của pháo binh với cấp bậc thiếu tướng. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông là người đứng đầu của bộ phận pháo binh, một vị trí ông bị buộc phải từ chức sau đó. Ông được bổ nhiệm làm Tổng Thanh tra thực địa của pháo binh ở Stavka. Sau sự sụp đổ của chế độ quân chủ, ông vẫn ở cố đô, sau sự thắng thế của người Bolshevist. Ông bị ám sát bởi người Bolshevik cùng với một số nhân vật thuộc nhà Romanov khác vào ngày 18 tháng 07 năm 1918, tại Alapayevsk, một ngày sau khi cái chết của Sa hoàng Nicholas II của Nga cùng gia đình tại Yekaterinburg. | 1 | null |
Bộ Cá chép răng hay bộ Cá bạc đầu (danh pháp khoa học: Cyprinodontiformes) là một bộ cá vây tia, bao gồm chủ yếu là cá nhỏ, nước ngọt. Nhiều loài cá cảnh, chẳng hạn như killifish và họ Cá ăn muỗi (Poeciliidae). Chúng có quan hệ họ hàng gần với bộ Cá suốt (Atheriniformes) và đôi khi được gộp chung với chúng. Trong tiếng Anh chúng được gọi là toothcarps (cá chép răng), mặc dù chúng không thực sự gần gũi với Bộ Cá chép thật sự. Bộ Cá chép thuộc về nhánh Ostariophysi, trong khi Cá chép răng thuộc nhóm Acanthopterygii.
Tên gọi Cá sóc.
Trước đây bộ này được sách báo, tài liệu Việt Nam gọi là bộ Cá sóc, vì chi Cá sóc ("Oryzias") được xếp vào họ Cyprinodontidae, thuộc bộ này theo hệ thống phân loại của Lindberg (Nga). Nhưng tại Wikipedia, chúng được xếp theo hệ thống phân loại của Anh Mỹ và thuộc họ Cá sóc (Adrianichthyidae), bộ Cá nhói. Do đó, để tránh trùng lặp và sai tên (vì lúc đó họ Cyprinodontidae và bộ Cyprinodontiformes không còn chứa cá sóc nữa và họ Cyprinodontidae cũng không có loài nào khác ở Việt Nam), nên bộ này phải mang tên mới là bộ Cá chép răng hay bộ Cá bạc đầu.
Mô tả.
Các thành viên của bộ này đáng chú ý bởi sự cư ngụ ở môi trường khắc nghiệt, chẳng hạn như nước muối hoặc nước rất ấm áp, nước chất lượng kém, hoặc các tình huống bị cô lập khi không có các loại cá khác xảy ra. Chúng thường là động vật ăn tạp, và thường sống gần bề mặt, nơi mà nước giàu oxy đền bù cho bất lợi về môi trường.
Chúng có miệng nhỏ, mắt to, một vây lưng đơn, và vây đuôi tròn. Loài lớn nhất là cá bốn mắt Thái Bình Dương ("Anableps dowei"), đo được 34 cm (13 inch) trong khi loài nhỏ nhất "Heterandria formosa"), chỉ dài 8 mm (0,31 inch) ở cá trưởng thành.
Hệ thống học.
Bộ Cá chép răng hay Cá bạc đầu Cyprinodontiformes | 1 | null |
Cessna 190 và 195 Businessliner là một dòng máy bay hạng nhẹ, trang bị động cơ piston, do Cessna sản xuất trong giai đoạn 1947 – 1954.
Quốc gia sử dụng.
Dân sự.
Cessna 190 và 195 được sử dụng rất phổ biến trong các công ty và tổ chức tư nhân. | 1 | null |
Acco (tiếng Anh: Arkose) là một loại đá trầm tích mảnh vụn, cũng là một loại đá sa thạch đặc biệt chứa ít nhất 25% fenspat.
Tính chất.
Về thành phần thạch học, thạch anh thường là khoáng vật chiếm ưu thế nhất, sau đó là một số loại mica cũng thường xuất hiện phổ biến. Ngoài khoáng vật, các mảnh đá cũng là một thành phần quan trọng. Acco thường chứa một lượng nhỏ xi măng canxit, lý do khiến nó sủi bọt nhẹ trong acid clohydric loãng, đôi khi xi măng còn chứa oxide sắt. Acco thường có màu xám cho đến hơi đỏ. Các hạt cát cấu thành đá Acco có cỡ hạt từ nhỏ đến rất thô, nhưng thường là thô. Hóa thạch rất hiếm thấy trong Acco, do các quá trình trầm tích hình thành nên nó, trong khi các mặt phân lớp có thể nhìn thấy rõ.
Hình thành.
Acco thường được hình thành từ quá trình phong hóa các đá mácma xâm nhập hay đá biến chất giàu fenspat. Granit phổ biến nhất trong số này, vì nó có thành phần chủ yếu là thạch anh và fenspat. Quá trình trầm tích phải được diễn ra nhanh chóng trong một môi trường lạnh hoặc khô, như vậy fenspat sẽ không bị phong hóa hóa học và phân hủy. Arkose thường đi cùng với các trầm tích cuội kết có nguồn gốc từ đá granit và thường được tìm thấy phía trên một bất chỉnh hợp. | 1 | null |
Lockheed Martin C-130J "Super" Hercules là một loại máy bay vận tải quân sự 4 động cơ tua bin cánh quạt theo module turboprop.C-130J là một phiên bản nâng cấp kéo dài thân máy bay của loại Lockheed C-130 Hercules.15 quốc gia đã đặt mua tổng cộng 300 chiếc C-130J,Hơn 250 chiếc đã được giao hàng đến với tất cả các khách hàng trên toàn thế giới bao gồm chính danh và ẩn danh .
Quốc gia sử dụng.
2010. Truy cập: ngày 3 tháng 12 năm 2010.</ref> | 1 | null |
sinh ngày 12 tháng 2 năm 1995 tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản là ca sĩ là nữ ca sĩ kiêm diễn viên người Nhật Bản, cô là cựu thành viên nhóm nhạc nữ thần tượng AKB48. Cô cùng với Iriyama Anna và Kato Rena thành lập nhóm nhỏ AnRiRe và xuất hiện trong đĩa đơn "Ikujinashi Masquerade" của Sashihara Rino đã đứng ở vị trí số 1 trong bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần của Oricon .
Sự nghiệp.
2012 – 2014.
Kawaei Rina bắt đầu sự nghiệp trong làng giải trí vào tháng 7 năm 2010, khi vượt qua buổi thử giọng thế hệ thứ 11 cho vị trí thực tập sinh của AKB48.
Vào tháng 3 năm 2012, cô được thăng cấp lên Team 4, và được chuyển sang Team A vào tháng 8. Ngay sau khi bộ phim truyền hình Shiritsu Bakaleya Kōkō kết thúc vào ngày 30 tháng 6, đã có thông báo rằng Kawaei sẽ tham gia vào bộ phim chuyển thể của nó. Phim có sự tham gia của một số thành viên từ nhóm Johnny's Jr. và AKB48.
Vào năm 2013, trong buổi phát sóng tập đặc biệt của chương trình Mecha-Mecha Iketeru ! đã tiết lộ Kawaei sẽ là center trong một bài hát của nhóm đặc biệt BKA48 sẽ có trong đĩa đơn "Sayonara Crawl" của AKB48 sẽ phát hành vào tháng 5.
Tại cuộc tổng tuyển cử năm 2013, cô đứng thứ 25 với 26.764 phiếu bầu, do đó đã giành được vị trí Under Girl cho đĩa đơn tiếp theo "Koi Suru Fortune Cookie"
Vào tháng 5/2014, trong sự kiện giao lưu với người hâm mộ ở thành phố Takizawa, tỉnh Iwate, Kawaei Rina và Iriyama Anna cùng một nhân viên nam khác đã phải nhập viện khẩn cấp sau khi bị Satoru Umeta- một người đàn ông 24 tuổi cũng là một fan cuồng cầm cưa tấn công. Ngay sau đó, hung thủ đã bị cảnh sát bắt giữ để phục vụ điều tra. Rina bị thương nặng ở đầu, gãy ngón cái tay phải còn Anna bị đa chấn thương. Quản lý nhóm cho biết Rina và Anna đã được phẫu thuật thành công và có thể xuất viện vào 26/5, đồng thời cho biết không ai bị đe dọa đến tính mạng trong tai nạn này. Dù vậy, show diễn ở Tokyo cũng như các buổi giao lưu với người hâm mộ đều bị hủy bỏ
2014 - nay.
Tại cuộc tổng tuyển cử năm 2014 , cô đứng thứ 16 với 39.120 phiếu bầu và do đó đã giành được một vị trí trong đội hình quảng bá cho đĩa đơn tiếp theo "Kokoro no Placard".
Cô rời nhóm vào ngày 26 tháng 3 năm 2015 Cô đã tổ chức lễ tốt nghiệp trong buổi hòa nhạc mùa hè của AKB48 tại Saitama Super Arena vào ngày 2 tháng 8 và có màn trình diễn cuối cùng trên sân khấu vào ngày 4 tháng 8.
Vào tháng 11 năm 2015, cô đóng cùng Takahata Mitsuki trong bộ phim truyền hình buổi sáng Toto Neechan của đài NHK.
Cô tham gia lồng tiếng cho Minifaruru, em gái của Faruru trong bộ phim hoạt hình PriPara Minna no Akogare Let's Go PriPari
Vào ngày 17/5/2019, Kawaei Rina cùng nam diễn viên Hirose Tomoki thông báo về việc cả 2 đã đăng ký kết hôn.Cô sinh con đầu lòng vào ngày 8/11 | 1 | null |
Cầu Seongsu là một cây cầu bắc qua sông Hán tại Seoul, Hàn Quốc, kết nối các quận Seongdong và Gangnam. Cây cầu đúc hẫng này được hoàn thành năm 1979 với tổng chiều dài 1160 m. Ngày 21 tháng 10 năm 1994 đã xảy ra thảm họa sập cầu.
Cây cầu bị sập vào sáng sớm khi mà một trong những tấm bê tông của nó rơi xuống do một sai sót trong cấu trúc hệ thống treo. Các khung thép của cấu trúc hệ thống treo nằm ở bên dưới đường bê tông của cầu đã được hàn không đúng cách.
Vụ tai nạn đã cướp đi sinh mạng của 32 người và làm 17 người khác bị thương. Về sau người ta định sửa chữa cây cầu nhưng vì những khuyết điểm trong kết cấu nên nó được thiết kế và xây lại từ đầu. Thiết kế mới được hoàn thành vào ngày 15 tháng 8 năm 1997, và cũng tương tự như thiết kế ban đầu. | 1 | null |
Julius Peter Hermann August, Bá tước và Lãnh chúa tôn quý xứ Lippe-Biesterfeld (tiếng Đức: "Julius Peter Hermann August Graf und Edler Herr zur Lippe-Biesterfeld"; 2 tháng 4 năm 1812 - 17 tháng 5 năm 1884) là bá tước xứ Lippe-Biesterfeld (1840-1884) và là cha của Ernst zur Lippe-Biesterfeld, nhiếp chính của Thân vương quốc Lippe. Ông là một tổ tiên trực tiếp của Nữ hoàng Beatrix của Hà Lan.
Sinh trưởng.
Julius được sinh ra tại Oberkassel, Vương quốc Phổ (nay là Bắc Rhine-Westphalia, Đức), ông là đứa con thứ năm và là con trai thứ hai của Bá tước Wilhelm Ernst zur Lippe-Biesterfeld và Modeste Dorothea von Unruh.
Hôn nhân.
Julius kết hôn vào ngày 30 tháng 04 năm 1839 tại Castell với Nữ Bá tước Adelheid Clotilde Auguste của Castell-Castell (1818-1900), con gái của Friedrich, Bá tước của Castell-Castell, và vợ ông, công chúa Emilie của Hohenlohe-Langenburg.
Họ đã có với nhau mười bốn đứa con: | 1 | null |
Thuyền tam bản () hay còn gọi là xuồng ba lá, là một loại thuyền gỗ có xuất xứ từ Trung Quốc, có đáy tương đối bằng phẳng và dài từ 3,5 đến 4,5 m. Đôi khi trên thuyền tam bản có dựng những lán nhỏ làm nơi trú tạm trên sông nước. Thuyền tam bản từ lâu đã được sử dụng rộng rãi làm phương tiện vận chuyển ở các vùng ven biển và sông nước hay để đánh bắt cá. Thuyền tam bản ít khi đi xa ra biển vì chúng gần như không thể chống chọi được với điều kiện khắc nghiệt.
Thuyền tam bản ngày nay vẫn còn được sử dụng tại những nơi hẻo lánh của Đông Nam Á, các quốc gia như Malaysia, Indonesia, Bangladesh, Myanmar và Việt Nam. | 1 | null |
Danh sách các quốc gia châu Phi theo diện tích được thống kê theo đơn vị km², cập nhật bởi Liên Hợp Quốc năm 2007 (UN 2007) có sự điều chỉnh ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ cho phù hợp với hiện tại. Bảng danh sách có 50 quốc gia và 5 Vùng lãnh thổ: Somaliland, Mayotte, Réunion, Saint Helena, Ascension và Tristan da Cunha và Tây Sahara. | 1 | null |
Astrophytum asterias là một loài xương rồng thuộc chi "Astrophytum", và có nguồn gốc từ các vùng nhỏ của Texas ở Hoa Kỳ và Mexico. Tên thường gặp bao gồm xương rồng đô la cát, xương rồng nhím biển, xương rồng sao và peyote dạng sao. Ở Việt Nam người ta có thể gọi là bánh bao, hay tên rút gọn là aster
Sự miêu tả.
"A. asterias" (còn được gọi là xương rồng sao / aster) có dạng nhỏ, tròn, không có gai và thấp lùn, có thể cao từ 2.5 đến 6 cm và đường kính từ 5 đến 15 cm. Dạng cây hình cầu dẹp, có thể chia thành 7 - 10 phần, được gọi là múi; ở giữa mỗi múi có các đốm lông. Cơ thể có màu nâu xanh và có thể xuất hiện lốm đốm từ lớp phủ vảy trắng (trichomes). Hoa của nó có màu vàng với phần gốc màu đỏ và các phần bên ngoài phủ lông. Quả hình bầu dục, quả chưa chính có màu xanh, quả chín màu hồng, bên ngoài được bao phủ bởi những sợi lông như ở hoa.
Miêu tả Sinh học.
Sinh sản diễn ra thông qua việc thụ phấn chéo; xương rồng aster đạt đến tuổi trưởng thành sau một vài năm, thường là đã đạt được 3 – 4 cm. Cây ra hoa từ tháng 3 đến tháng 6 (là mùa hè trong môi trường sống tự nhiên của nó) và kết trái từ tháng 4 đến tháng 6; có nhiều yếu tố giúp thụ phấn chưa xác định rõ, nhưng được cho là nhờ côn trùng. Cây này có kiểu hình rất giống với cây "Euphorbia obesa" nhưng không liên quan, Cây E. "obesa" mặc dù là một loại cây mọng nước, không phải là một cây xương rồng. Nó là họ Mủ đục.
Phân bố và môi trường sống.
Xương rồng aster có nguồn gốc từ thung lũng Rio Grande ở Texas ở Hoa Kỳ và ở các bang Nuevo León và Tamaulipas thuộc Mexico, và ở phía đông dãy núi Sierra Madre Oriental.
Trước đây cây phân bố rộng, ngày nay chỉ giới hạn ở một khu vực khoảng 200 mẫu tại Texas, nơi có khoảng 2.000 cá thể, và một vài địa điểm nhỏ ở Tamaulipas. Hiện tại loài này chen lẫn với cây bụi gai, hoặc vùng đồi đất đá; dù trước đây nó đã chiếm những đồng cỏ bằng phẳng, màu mỡ hơn để phát triển. Nó có lẽ đã biến mất ở Nuevo León.
Nuôi trồng.
Xương rồng Sand Dollar đã trở thànhcây trồng trong nhà từ những năm 1840, giống như các thành viên khác trong chi của nó và mặc dù rất hiếm trong tự nhiên. Cây này dễ dàng được nhân giống từ hạt, cũng như hầu hết các cây khác trong vườn ươm, đều được gieo từ hạt. Sự phổ biến của loài này là do các nhà sưu tập và những người đam mê cây nhân ra thành giống cây trồng có sẵn. Có một dạng là 'Super Kabuto', một giống được nhân có chủ đích, có lớp lông tập hợp thành các điểm lớn, dày đặc, được sắp xếp theo hoạt tiết rất bắt mắt.
Sự bảo tồn.
Cũng như một số cây xương rồng phát triển chậm khác, "A. asterias" được liệt kê là có nguy cơ tuyệt chủng bởi Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ, cây này dễ bị tổn thương nằm trong Danh sách đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, và bị quản lý nghiêm trọng bởi tổ chức The Nature Bảo thủ. được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật và thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng (CITES), có nghĩa là thu thập và khai thác cây hoang dã bị cấm mua bán giao dịch. Bất chấp sự bảo vệ này, các nhà sưu tập bất hợp pháp vẫn tiếp tục đe dọa tương lai của loài này. và sự suy giảm số lượng của nó trong tự nhiên chủ yếu là do thu thập và săn trộm quá mức. Nó đôi khi vô tình bị săn nhầm do nhầm lần với cây peyote vì kiểu hình tương tự ("Lophophora williamsii"). Các yếu tố khác được cho ảnh hưởng là sự phát triển đô thị và thuốc diệt cỏ. Sự hủy hoại môi trường sống đã và vẫn là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm ở loài này; một diện tích rộng lớn đã được chuyển đổi sang làm đất nông nghiệp và xây dựng đường bộ. Ở Texas, các kỹ thuật phát quang bụi cơ học và hóa học cùng với sự ra đời của các loại cỏ xâm lấn đã có những tác động tàn phá đến loài này.
Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ đã soạn thảo bản Kế hoạch phục hồi trong nỗ lực bảo đảm tương lai của loài này. Kế hoạch phục hồi nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ các quần thể hiện có của aster, thực hiện nghiên cứu về các quần thể mới và để xây dựng một thỏa thuận bảo tồn chính thức giữa Hoa Kỳ và Mexico. | 1 | null |
Astrophytum capricorne, xương rồng sừng dê, xương rồng dê, là một loài thực vật có hoa trong họ xương rồng Cactaceae, có nguồn gốc ở vùng Coahuila ở miền Bắc Mexico. Có thể phát triển cao đến 25 cm và bề ngang đến 10 cm, theo dạng hình cầu hoặc hình trụ bầu dục, nó có màu xanh xám với 7 đến 9 múi, khía sâu nổi bật, gai xoắn rất dài và ra hoa màu vàng với phần giữa màu đỏ vào mùa hè.
Tên chung của xương rồng sừng dê đến từ danh pháp loài "capricorne" ("capri" có nghĩa là dê và "corne" có nghĩa là sừng) tên này được miêu tả vì gai cong được cho là giống với sừng của dê.
Loài này được xếp vào nhóm "ít quan tâm" của IUCN vì nó được phân phối rộng rãi trong các sa mạc Chihuahuan.
Nuôi trồng.
Loài này được trồng, thường là từ hạt giống, như một loại cây cảnh vì nó có những bông hoa lớn màu vàng rất hấp dẫn với các cuống màu đỏ. Một số cây có vệt trắng trên thân cây, trong khi một số khác xanh trơn. Mặc nó dù chịu được nhiệt độ lạnh, nhưng nó nên được trồng ở nơi ấm áp, có mái che, không bị đóng băng trong mùa đông. Đất trồng nghèo, có tính kiềm và thoát nước rất mạnh. Ngoài ra, nó có thể được trồng trong nhà kính, bằng chậu với phân trộn dành cho xương rồng. Ở Anh, "Astrophytum capricorne" đã giành được giải thưởng của Hiệp hội vườn trồng trọt Hoàng gia.
Các dạng biến dị và kiểu hình bao gồm: | 1 | null |
Astrophytum caput-medusae (danh pháp đồng nghĩa "Digitostigma caput-medusae") là một loài xương rồng có nguồn gốc từ Mexico, loài đặc hữu ở bang Nuevo León; báo cáo chỉ ra cây mọc hoang tại một địa điểm duy nhất. Loài này có kiểu hình khác với dạng hình ngôi sao thông thường của các loài trong chi Astrophytum khác. Cây có dạng đặc trưng bởi một hình trụ trò, thuôn dài, trên có các nốt sần chỗ sẽ ra hoa màu vàng có phần viền màu cam quanh phần bao hoa. Cây được nhân giống bằng hạt, hoặc nuôi cấy mô hoặc thông qua ghép với xương rồng khác. Loài này được IUCN đánh giá là cực kỳ nguy cấp do khả năng phát triển chậm của cây, bị phá hủy do vật nuôi và do các nhà sưu tập thu thập mẫu vật hoang dã. | 1 | null |
Astrophytum ornatum, mũ của giám mục hoặc cây xương rồng của nhà sư, là một loài thực vật có hoa thuộc họ Cactaceae, loài đặc hữu của cao nguyên trung tâm Mexico. Đây là loài "Astrophytum" lớn nhất và cao nhất.
Mô tả.
Cây đơn hình trụ, không phân nhánh, nó có thể cao tới và bề rộng đạt 30 cm (12 in) trên cao nguyên Central Plateau. Có nhiều mảnh lông trắng trên thân để bảo vệ khỏi ánh nắng mặt trời. Nó ra hoa suốt mùa hè, những bông hoa dài 7 đến 8 cm màu vàng hoàng yến.
Nuôi trồng.
Đây là một loại cây gồ ghề ít khả năng bị thối rễ, và dễ trồng trong đất thoát nước tốt. Nó có màu xanh đậm dù trồng trong ánh sáng hoặc bóng râm. Cây có sức chống chịu đến lạnh .
"Astrophytum ornatum" đã giành được Giải thưởng Vườn khen của Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia. | 1 | null |
Brasiliopuntia brasiliensis là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được (Willd.) A.Berger mô tả khoa học đầu tiên năm 1926.
Loài cây này được tìm thấy ở Brazil, Paraguay, phía đông Bolivia, Peru và miền bắc Argentina, và đã du nhập Hoa Kỳ tại Florida..
Systematics.
"Brasiliopuntia brasiliensis" từng được đặt trong chi "Opuntia" khi chi rất lớn là "Cactus" được chia tách. Các đặc trưng khác biệt của loài này dược Karl Schumann nhận ra năm 1898 khi ông tạo ra phân chi "Brasiliopuntia" trong phạm vi chi "Opuntia". Năm 1926 Alwin Berger hoàn thành việc chia tách ra khỏi chi "Opuntia" bằng cách nâng cấp "Brasiliopuntia" thành chi. Trong quá khứ một loạt các loài đã được mô tả, nhưng hiện nay người ta chỉ coi chúng là các biến thể của "B. brasiliensis". | 1 | null |
Từ Hy Viên (, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1976) là nữ diễn viên, ca sĩ Đài Loan được biết đến qua phim truyền hình "Vườn sao băng", "Chiến thần", "Bong bóng mùa hè".
Tiểu sử.
Trước khi bước chân vào sự nghiệp diễn xuất, cô đã từng là ca sĩ. Từ Hy Viên cùng với em gái là Từ Hy Đệ đã tạo nên một nhóm nhạc song ca có tên là "S.O.S." (Sisters of Shu; Chị em nhà họ Từ). Để tránh liên quan đến vấn đề bản quyền tên SOS nên đổi tên nhóm thành (A Sisters of Shu). Album cuối cùng của họ mang tên Abnormal Girls.
Từ Hi Viên làm đại diện cho hãng đồng hồ Thụy Sĩ là Tissot từ năm 2005 và tiếp tục ký hợp đồng gia hạn 3 năm vào tháng 4 năm 2008.
Đời tư.
Ngày 22 tháng 3 năm 2011 Từ Hi Viên kết hôn với doanh nhân Trung Quốc Uông Tiểu Phi (汪小菲) tại đảo Hải Nam. Tháng 11 năm 2021, hai người li hôn. | 1 | null |
Echinocereus pectinatus là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được (Scheidw.) Engelm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1848.
Đây là loài đặc hữu của Chihuahua và Sonora ở Mexico và Arizona, New Mexico và Texas ở Hoa Kỳ. Nó là một loài phổ biến trong khu vực địa phương. | 1 | null |
Echinocereus reichenbachii là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được (Terscheck) J.N.Haage mô tả khoa học đầu tiên năm 1859.
Đây là loài bản địa sa mạc Chihuahuan và các khu vực của miền bắc Mexico và miền nam Hoa Kỳ, nơi chúng mọc ở độ cao lên tới 1.500 m (4.900 ft). Tên chi, "Echinocereus", xuất phát từ tiếng Hy Lạp "ekinos", có nghĩa là nhím gai, và "cereus", một từ tiếng Latinh nghĩa là giấy sáp. Tên loài được đặt để vinh danh nhà thực vật học người Đức Ludwig Reichenbach. Cây xương rồng này giành được 'giải thưởng Garden Merit' của Royal Horticultural Society. | 1 | null |
Dạ Quỳnh hay còn gọi quỳnh trắng (danh pháp khoa học: Epiphyllum oxypetalum) là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được (DC.) Haw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1829.
Miêu tả.
Hoa dạ quỳnh nở rất hiếm và chỉ vào nửa đêm và tàn khi trời sáng. | 1 | null |
Ferocactus pottsii là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được (Salm-Dyck) Backeb. mô tả khoa học đầu tiên năm 1961.
Là loại cây mọc riêng lẻ, thân hình cầu, hình trụ ngắn, hình cầu, đường kính 50 cm, cao 100 cm. Nó có 13-25 cạnh. Các gai thẳng và có màu xám. Cột trung tâm duy nhất dài tới 7,5 cm. Ba đến tám gai hướng tâm dài tới 4,5 cm. Những bông hoa màu vàng, hình cốc, dài đến 4,5 cm và có đường kính 3,5 cm. Quả dài 4 cm hình cầu, màu vàng. | 1 | null |
Tắc kè hoa lùn đầu đen (danh pháp khoa học: Bradypodion melanocephalum) là một loài thằn lằn của họ Chamaeleonidae. Loài này được Gray mô tả khoa học đầu tiên năm 1865. Đây là loài đặc hữu của KwaZulu-Natal, Nam Phi và còn được gọi là Tắc kè hoa sao lùn KwaZulu.
Mô tả.
Loài này thường có màu nâu; tuy nhiên giống với những loài tắc kè hoa khác, loài này có thể thay đổi màu sắc và hoa văn để ngụy trang bản thân với môi trường xung quanh. Người ta đã được quan sát thấy có dải màu từ màu nâu sậm, nâu nhạt, xanh ô liu, màu kem nhạt vào ban đêm trên cơ thể loài này. Đầu của tắc kè đôi khi có một màu tối hơn so với phần còn lại của cơ thể, nhưng không phải màu đen. Tên gọi chung "tắc kè hoa lùn đầu đen" bắt nguồn từ việc mẫu vật đầu tiên được nghiên cứu có phần đầu đã chuyển sang màu đen trong quá trình bảo quản.
Hành vi và sinh học.
Loài bò sát này bắt côn trùng như ruồi và châu chấu bằng cái lưỡi dài điển hình.
Các động vật ăn thịt loài này bao gồm "Philothamnus semivariegatus", "Halcyon albiventris" và mèo nhà.
Khi bị đe dọa, tắc kè có thể mở miệng để lộ phần trong có màu vàng cam sáng nhằm đe dọa kẻ thù. | 1 | null |
Hiểu về Đài Loan hay Nhận thức Đài Loan (chữ Hán: 認識臺灣; bính âm: "Rènshì Táiwān") là một cuốn sách giáo khoa cho trẻ em trong độ tuổi Trung học cơ sở, được sử dụng rộng rãi tại Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) từ năm 1997. Cuốn sách được chia thành các mục bao gồm các nghiên cứu xã hội, lịch sử và địa lý (社會篇、歷史篇、地理篇).
Bối cảnh.
Dưới quyền quản lý của Quốc Dân Đảng, học sinh ở Đài Loan bị yêu cầu học lịch sử Trung Quốc thay vì lịch sử địa phương của Đài Loan trong thời kỳ hậu chiến. Sau khi Tưởng Giới Thạch thoái nhiệm, con trai và là người kế nhiệm ông, Tưởng Kinh Quốc, bắt đầu tự do hoá hệ thống chính trị của Đài Loan, dỡ bỏ thiết quân luật vào năm 1986. Sau cái chết của Tưởng Kinh Quốc, Lý Đăng Huy, Tổng thống Đài Loan người bản xứ đầu tiên đã tiếp tục xu hướng tự do hoá và tổ chức cuộc bầu cử Tổng thống trực tiếp đầu tiên vào năm 1996.
Nội dung.
Cuốn sách "Hiểu về Đài Loan" được phát hành năm 1996 và được thông qua như là sách giáo khoa Trung học cơ sở vào năm 1997. Nó đã làm dấy lên nhiều sự quan tâm ở châu Á. Phần lịch sử được trình bày như "Lịch sử Đài Loan" và thời kỳ Đài Loan thuộc Đế quốc Nhật Bản đã được giới thiệu một cách tích cực với những sự thật và khảo sát khách quan. | 1 | null |
Tomáš Kalas (sinh ngày 15 tháng 5 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Cộng hòa Séc hiện đang chơi chơi cho câu lạc bộ Bristol City ở vị trí hậu vệ.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Sigma Olomouc.
Kalas bắt đầu sự nghiệp của mình ở quê nhà với CLB Sigma Olomouc và anh đã có trận đấu chính thức đầu tiên trong chiến thắng 2-0 trước Slovan Liberec vào 05/05/2010.
Chelsea.
Ngày 07/07/2010, anh đặt bút ký vào bản hợp đồng có giá trị 5,2 triệu bảng với nhà vô địch Premier League Chelsea. Nửa đầu mùa giải 2010-2011, Kalas được gửi lại cho Sigma Olomouc mượn. Kalas đến Chelsea nửa sau mùa giải 2010-2011 và hậu vệ này có trận ra mắt trong màu áo đội trẻ ngày 21/02/2011, hòa Aston Villa 2-2.
Cho Vitesse mượn.
22/08/2011, Kalas gia nhập Vitesse với bản hợp đồng cho mượn hết mùa giải 2011-2012. Tại đây anh được trao chiếc áo số 2. Anh có trận ra mắt Vitesse vâò ngày 17/09/2011 trong chiến thắng 5-0 trước Roda JC Kerkrade.
11/07/2012, Kalas tiếp tục được cho Vitesse mượn đến hết mùa giải 2012-2013. Cùng lúc đó, anh gia hạn hợp đồng với Chelsea đến hè năm 2017. Kalas ghi bàn thắng đầu tiên cho Vitesse vào ngày 16/09/2012 trong chiến thắng 3-0 trước FC Groningen.
Trở lại Chelsea.
10/07/2013, huấn luyện viên Jose Mourinho khẳng định Kalas sẽ ở lại Chelsea vào mùa giải 2013-2014.
Kalas đã có cơ hội thể hiện trong tour du đấu châu Á của Chelsea. Anh được ra sân trong 3 trận đấu gặp đội các ngôi sao Thái Lan, Malaysia và Indonesia. sau đó anh đã bị gãy xương mác và không thể tiếp tục du đấu hè cùng Chelsea.
Sự nghiệp quốc tế.
U17 Czech.
Anh có trận ra mắt U17 vào ngày 05/09/2009 khi vào sân phút 61 trong trận đấu với Belarus mà Czech thắng 1-0, trận đấu nằm trong giải vô địch U17 châu Âu.
Czech.
Anh có trận đấu ra mắt trong màu áo đội tuyển Czech trong chiến thắng 3-0 trước Slovakia vào ngày 14/11/2012 khi vào sân thay cho David Limbersky ở phút thứ 74. | 1 | null |
Lophophora williamsii (tên tiếng Anh: peyote () là một loài xương rồng nhỏ, không gai chứa những alkaloid tác động thần kinh, đặc biệt là mescalin. Tên tiếng Anh "peyote" đến từ tiếng Tây Ban Nha, vốn có nguồn gốc từ tên Nahuatl peyōtl , được cho rằng xuất phát từ nghĩa gốc là "lấp lánh" hay "long lanh". Dân bản địa Bắc Mỹ có vẻ đã sử dụng peyote trong ít nhất 5.500 năm.
Peyote có nguồn gốc tại Mexico và tây nam Texas. Được tìm thấy chủ yếu tại hoang mạc Chihuahua và tại các bang Coahuila, Nuevo León, Tamaulipas và San Luis Potosí. | 1 | null |
Danh sách các quốc gia châu Âu theo diện tích được thống kê theo đơn vị km², được cập nhật từ Liên Hợp Quốc năm 2007 (UN 2007). Danh sách ngoài 43 quốc gia có chủ quyền độc lập, còn có các vùng lãnh thổ, các lãnh thổ độc lập trên thực tế, gồm: Transnistria, Kosovo, Gibraltar, Jersey, Guernsey, Đảo Man, Svalbard và Jan Mayen, Quần đảo Faroe. Pháp là quốc gia rộng nhất Châu Âu nếu không tính các quốc gia có lục địa dàn trải trên 2 mảng Á-Âu. | 1 | null |
Mammillaria geminispina là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được Haw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1824.
Phạm vi bản địa của loài này là Đông bắc Mexico (đến Veracruz). Đây là một loại cây con mọng nước và phát triển chủ yếu ở sa mạc hoặc quần xã cây bụi khô.
Thông tin chung.
Nguồn gốc và nơi sinh sống: Guanajuato, Hidalgo, Querétaro, San Luis Potosí và có thể cả Veracruz. Mexico.
Độ cao: 1000 - 1850 mét so với mực nước biển.
Nơi sống và sinh thái: Loài này được tìm thấy trong cây bụi xerophyllous trên đất đá vôi trên đồi đá, cùng với "Cephalocereus senilis", "Gymnocactus horripilus", "Mammillaria schiedeana", "Mammillaria wildii", "Astrophytum ornatum", "Gymnocactus horripilus", "Selenicereus spinulosus", "Ferocactus glaucescens", "Cephalocereus senilis", "Stenocereus dumortieri", "Fouquieria purpusii", "Brahea dulcis", "Echeveria coccinea", "Tillandsia grandis", "Hechtia podantha", "Agavericta" và "Agave xylonacantha". Loài này hình thành "các thuộc địa". Trong một môi trường sống thích hợp, các loài rất phong phú. Trong lịch sử, loài này đã bị thu hoạch quá mức, tuy nhiên ngày nay mối đe dọa này đã giảm bớt.
Đặc điểm.
Mô tả: "Mammillaria geminispina" là một loài có mật độ gai rất cao. Một số mọc thành cụm mạnh và tạo thành các cụm lớn từ 30 đến 90 cm có màu trắng, trong khi một số khác dường như sống đơn độc hơn.
Thân: Hình trụ ngắn, mủ trắng màu xanh nhạt, cao tới 18 cm và đường kính 8 cm.
Củ: Tròn có nhựa mủ. Nách chứa đầy len trắng và 10 - 20 lông cứng dài màu trắng.
Gai: Gai cũng có thể thay đổi, một số cây rất ngắn trong khi những cây khác có gai dài.
Gai giữa: 2 (đến 6) gai trắng hoặc trắng tinh, đầu sẫm nhô ra xa so với phần còn lại, thẳng hoặc hơi cong, dài 0,5 - 4 cm (hoặc hơn).
Gai xuyên tâm: 16 đến 20 cái, màu trắng phấn, mọc xen kẽ dài tới 7 mm.
Hoa: Hoa hình chuông, màu hơi hồng đến đỏ carmine, với các gân giữa sẫm màu hơn, dài tới 20 mm và có đường kính thường xếp thành vòng ở đợt sinh trưởng của năm trước nhưng đôi khi mọc ngẫu nhiên hơn trên thân. Nếu được trồng từ hạt, M. geminispina có thể mất từ bảy đến tám năm trước khi ra hoa.
Trái cây: Màu đỏ
Hạt: Màu nâu. | 1 | null |
Mammillaria spinosissima (, tên tiếng Anh: spiny pincushion cactus) là một loài xương rồng đặc hữu hai bang Guerrero và Morelos của Mexico, chúng sống tại nơi có độ cao từ . Loài này được mô tả năm 1838 bởi James Forbes của Duke of Bedford. Nhà thực vật học David Hunt đã thu thập một mẫu vật năm 1971, khi ông tới một nơi gần Sierra de Tepoztlan, Mexico.
Loài cây này phát triển đến chiều cao và chiều rộng . Chúng đạt chiều cao tối đa sau năm đến mười năm. Gai có màu đỏ-nâu hoặc trắng, hoa hình phễu màu hồng dài chừng mọc quanh mép tròn. Nó mọc thấp đơn lẽ dưới đất hoặc theo nhóm. | 1 | null |
Chlopsidae, hay Họ Cá chình Moray giả là một họ cá chình được tìm thấy trong các rạn san hô trên toàn thế giới. Như tên gọi của chúng, Chúng phần nào giống cá chình Moray giả. Tuy nhiên, Chúng nhỏ hơn cá chình Moray thật, từ 11–42 cm (4,3–17 in) chiều dài.
Chi.
Họ này có các chi sau đây:
Họ Chlopsidae | 1 | null |
Chủ nghĩa Nhật Bản hay Sự sính đồ Nhật (tiếng Pháp: Japonisme, sử dụng lần đầu năm 1872) chỉ sự ảnh hưởng của nghệ thuật, văn hoá và thẩm mỹ Nhật Bản. Thuật ngữ này được dùng cụ thể để chỉ sự ảnh hưởng của Nhật Bản đến nghệ thuật châu Âu, đặc biệt là trong trường phái ấn tượng. Ở Pháp, thuật ngữ "Japonisme" ám chỉ đến một phong cách Pháp đặc biệt mà chủ yếu được thể hiện trong nghệ thuật từ năm 1864, trong khi ở Anh ban đầu nó có ảnh hưởng đến nghệ thuật trang trí với những mẩu tài liệu đầu tiên của đồ nội thất bị ảnh hưởng bởi Chủ nghĩa Nhật Bản vào năm 1862, ngay cả khi thuật ngữ Anglo-Japanese được sử dụng sớm như năm 1851. | 1 | null |
UEFA Europa League 2013–14 là giải đấu cao thứ nhì lần thứ 43 cho các câu lạc bộ châu Âu do UEFA tổ chức, và là mùa giải thứ ba kể từ khi UEFA Cup được đổi tên thành UEFA Europa League.
Trận chung kết của mùa giải sẽ được tổ chức tại sân vận động của Juventus ở Torino, Ý.Chelsea là nhà đương kim vô địch, nhưng vì đã chơi ở UEFA Champions League 2013-14 nên nếu Chelsea đứng ở vị trí thứ ba trở xuống ở vòng bảng mới có cơ hội bảo vệ chức vô địch.
Phân bổ đội bóng tham dự.
Có tất cả 194 đội tham dự mùa giải 2013-14,đến từ 53 hiệp hội bóng đá quốc gia của UEFA.Số đội bóng được tham dự ở mỗi quốc gia được dựa vào bảng tính điểm của UEFA:
Xếp hạng.
Dựa vào bảng xếp hạng sẽ quyết định số đội bóng mỗi hiệp hội được tham gia. | 1 | null |
Xương rồng Nopal ("Opuntia ficus-indica") là một loài xương rồng, một loài cây trồng quan trọng ở những vùng hoang mạc và bán hoang mạc trên thế giới. Nó được cho là có thể có nguồn gốc từ Mexico. Tên thông dụng là cây lê gai (prickly pear), lê gai ngọt (sweet prickly pear), lê gai sung Ấn (Indian fig prickly pear), hoặc có thể gọi là lưỡi long không gai, xương rồng bánh không gai vì nó cùng chi với loài lưỡi long của VN là O. dillenii (vợt gai). Chú ý tránh nhầm lẫn với xương rồng tai thỏ O. microdasys (bunny-ear prickly pear - lê gai tai thỏ).
Mô tả.
Opuntia ficus-indica là thể đa bội , lưỡng tính và tự phối. Vì các loài Opuntia phát triển trong môi trường bán khô hạn, yếu tố hạn chế chính trong môi trường của chúng là nước. Chúng đã phát triển một số khả năng thích nghi với điều kiện khô, đặc biệt là sự mọng nước.
Các cây bụi lâu năm Xương rồng Nopal có thể phát triển lên đến chiều cao 3-5 m, dày, mọng nước và thuôn dài để hình thìa thân cây gọi cladodes. Nó có lớp biểu bì dạng sáp chống thấm nước và phản xạ ánh nắng mặt trời. Những quả chùm từ 1–2 năm tuổi sẽ ra hoa, màu sắc của quả từ xanh nhạt đến đỏ đậm.
Cây ra hoa với ba màu rõ rệt: trắng, vàng và đỏ. Những bông hoa lần đầu tiên xuất hiện vào đầu tháng 5 đến đầu mùa hè ở Bắc bán cầu, và quả chín từ tháng 8 đến tháng 10. Quả ăn được, trừ lớp vỏ dày bên ngoài, sau khi để lạnh trong tủ lạnh vài giờ. Chúng có hương vị tương tự như dưa hấu. Phần thịt có màu đỏ tươi, tím, trắng hoặc vàng chứa nhiều hạt cứng nhỏ thường khó nuốt được, nhưng những người có vấn đề về tiêu hóa nên tránh dùng hạt.
Sử dụng.
Tiêu dùng của con người.
O.ficus-indica được tiêu thụ rộng rãi như thực phẩm. Quả của nó được thương mại hóa ở nhiều nơi trên thế giới, được ăn sống và có một trong những hàm lượng vitamin C cao nhất so với bất kỳ loại trái cây nào.
“Lá” (hay cladodes - về mặt kỹ thuật là thân) được nấu chín và ăn như một loại rau được gọi là nopalitos. Chúng được cắt thành dải, bỏ vỏ hoặc không, rồi chiên với trứng và ớt jalapeños , được phục vụ như một món ăn sáng. Chúng có kết cấu và hương vị giống như đậu que. Quả hoặc lá có thể được luộc chín, dùng sống hoặc trộn với nước quả, nấu trên chảo, dùng làm món ăn kèm với thịt gà, hoặc thêm vào bánh taco. Mứt và thạch được sản xuất từ trái cây, giống như dâu tây và quả sung về màu sắc và hương vị. Người Mexico có thể sử dụng Opuntia như một thức uống có cồn được gọi là thuốc giảm đau ruột kết.
Ở Sicily, một loại rượu mùi có vị lê gai được gọi là ficodi được sản xuất, có hương vị giống như một loại rượu khai vị . Ở Malta, một loại rượu mùi có tên là bajtra (tên tiếng Malta có nghĩa là lê gai) được làm từ loại quả này, có thể được tìm thấy mọc hoang ở hầu hết các cánh đồng. Trên đảo Saint Helena, lê gai còn có tên gọi khác là rượu mùi chưng cất tại địa phương, Tungi Spirit .
Thức ăn gia súc.
Ngành chăn nuôi gia súc của Tây Nam Hoa Kỳ đã bắt đầu trồng O. ficus-indica như một nguồn thức ăn tươi cho gia súc. [2] [8] Cây xương rồng được trồng vừa làm nguồn thức ăn vừa làm hàng rào ranh giới. Gia súc được cho ăn nhiều loại xương rồng không có gai. [8] Miếng đệm xương rồng có hàm lượng chất khô và protein thô thấp, nhưng hữu ích như một chất bổ sung trong điều kiện khô hạn. Ngoài giá trị lương thực, độ ẩm còn giúp hạn chế việc tưới nước cho gia súc trong thời gian khô hạn. Nhiều loài động vật hoang dã sử dụng quả lê gai làm thức ăn.
Chống xói mòn đất.
Opuntia ficus-indica được trồng trong hàng rào để kiểm soát xói mòn giá rẻ nhưng hiệu quả ở lưu vực Địa Trung Hải. Dưới những hàng rào đó và các khu vực lân cận, tính chất vật lý của đất, nitơ và chất hữu cơ được cải thiện đáng kể. Tính ổn định cấu trúc của đất được nâng cao, giảm thiểu nước chảy và xói mòn, đồng thời tăng cường khả năng trữ nước và khả năng thấm. Việc trồng lê gai cũng có tác động tích cực đến sự phát triển thực vật của các loài khác bằng cách cải thiện các điều kiện môi trường khắc nghiệt tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm chiếm và phát triển của các loài thân thảo.
Opuntia ficus-indica đang được sử dụng một cách thuận lợi ở Tunisia và Algeria để làm chậm và định hướng sự di chuyển của cát cũng như tăng cường phục hồi lớp phủ thực vật, giảm thiểu sự xuống cấp của các ruộng bậc thang đã xây dựng nhờ hệ thống rễ sâu và khỏe của nó. | 1 | null |
Leonore Marie Irene Enrica, Nữ bá tước xứ Oranje-Nassau, Nữ thiếu chủ nhà Amsberg (; sinh ngày 03 tháng 06 năm 2006 tại bệnh viện Bronovo ở The Hague) là con gái thứ hai và là người con nhỏ nhất của Hoàng tử Constantijn và Công nương Laurentien. Cô là thành viên của Hoàng gia Hà Lan và hiện xếp thứ 7 trong dòng kế vị ngai vàng của Vương quốc Hà Lan.
Bá tước Leonore được rửa tội tại nhà nguyện của cung điện Het Loo ở Apeldoorn vào ngày 08 tháng 10 năm 2006. Cha mẹ đỡ đầu của cô là Hoàng hậu Máxima của Hà Lan; Marius Brinkhorst; anh em họ đầu tiên của cha cô, Christina của Hà Lan; và Bá tước Jean-Charles de Ullens Schooten Whettnall. | 1 | null |
Opuntia littoralis là một loài xương rồng thuộc chi "Opuntia"có tên thông thường trong tiếng Anh là coastal pricklypear. Nó đôi khi được gọi là sprawling prickly pear do những cành ngắn và hay mọc gần mặt đất. "Littoral" có nghĩa là "thuộc về bờ biển".
Phân bố.
"Opuntia littoralis" là loài bản địa của miền nam California và Baja California, nó sinh trưởng trong những rừng cây bụi ven biển và chaparral. Bề ngoài của chúng có sự biến thiên; và những loài lai với nhiều loài liên quan đã được biết đến.
Mô tả.
"Opuntia littoralis" thường mọc thành những đám lớn lan rộng ra nhiều mét và cao khoảng một mét. Nhánh cây được chia những những đốt dẹp hình ovan dài , phủ gai màu hơi vàng, dài . Hoa màu vàng nhạt hoặc đỏ, xuất hiện vào tháng 5-6. Quả ăn được, màu đỏ tím dài . | 1 | null |
Peniocereus greggii là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được (Engelm.) Britton & Rose mô tả khoa học đầu tiên năm 1909.
Đây là loài bản địa Arizona, New Mexico, Texas (Hoa Kỳ); và Chihuahua, Coahuila, Durango, Sonora, và Zacatecas (Mexico).
Tên cụ thể "greggii" được đặt theo Josiah Gregg (1806 - 1850), một thương gia, nhà thám hiểm, nhà tự nhiên học, và là tác giả của miền Tây Nam Mỹ và Bắc Mexico. | 1 | null |
incinnati Masters tên chính thức, The Western & Southern Open (được đặt tên theo nhà tài trợ Western & Southern Financial Group) là giải quần vợt ngoài trời được tổ chức hằng năm tại Mason, Ohio (gần Cincinnati – thành phố ban đầu tổ chức giải). Sự kiện bắt đầu vào ngày 18 tháng 9 năm 1899 và là giải đấu quần vợt lâu đời nhất ở Mỹ được tổ chức tại thành phố ban đầu của nó.
Giải đấu là sự kiện quần vợt mùa hè lớn thứ hai ở Mỹ (sau US Open) và là giải đấu lớn nhất nằm trong hệ thống 9 giải Masters 1000 trong chuỗi các giải ATP Tour đối với nam và WTA 1000 trong chuỗi các giải WTA Tour đối với nữ.
Lịch sử.
Giải đấu được tổ chức vào năm 1899 với tên Cincinnati Open và được đổi tên vào năm 1901 thành Giải quần vợt Tri-State, một cái tên được giữ nguyên cho đến năm 1969 (sau đó nó được biết đến với một số tên khác, bao gồm cả ATP Championships) và cuối cùng phát triển thành giải đấu hiện được tổ chức ở Mason. Giải đấu ban đầu được tổ chức tại Câu lạc bộ thể thao Avondale và sau đó được chuyển đến một số địa điểm khác nhau do những thay đổi trong quản lý và bề mặt giải đấu. Giải đấu đầu tiên vào năm 1899 được tổ chức trên sân đất nện và sự kiện này chủ yếu được diễn ra trên sân đất nện cho đến năm 1979 khi nó chuyển sang sân cứng.
Năm 1903, giải đấu đã được chuyển đến Câu lạc bộ Quần vợt Cincinnati, nơi chủ yếu tổ chức giải cho đến năm 1972. Năm 1974, giải đấu gần như bị loại khỏi lịch quần vợt nhưng cuối cùng được chuyển vào đến Trung tâm Hội nghị Năng lượng Duke (Cincinnati, Ohio), nơi giải đấu được tổ chức trong nhà và lần đầu tiên thời gian kể từ năm 1919 không có lễ bốc thăm dành cho nữ. Năm 1975, giải đấu được chuyển đến công viên giải trí Đảo Coney trên sông Ohio và giải đấu bắt đầu có tín hiệu trở lại.
Từ năm 1981 đến năm 1989, đây là một giải đấu lớn trong hệ thống Grand Prix Tennis Tour của nam và một phần của Grand Prix Super Series.
Năm 1979, giải đấu được chuyển đến Mason, nơi một sân vận động cố định được xây dựng và bề mặt được thay đổi từ đất sét thành đất cứng (DecoTurf). Sau đó, hai sân cố định khác được xây dựng, biến Cincinnati trở thành giải đấu quần vợt duy nhất ngoài 4 sự kiện Grand Slam tổ chức ở 3 sân thi đấu: Sân trung tâm, Sân Grandstand và Sân số 3. Một Sân số 3 mới được xây dựng vào năm 2010, tăng số lượng sân thi đấu thành 4, với Sân số 3 hiện có được đổi tên thành Sân số 9. Giải đấu dành cho nữ đã được khôi phục vào năm 1988 trong một năm, và sau đó một lần nữa vào năm 2004 khi các nhà tổ chức, với sự giúp đỡ của cơ quan thể thao Octagon, mua giải Croatia Bol Ladies Open và chuyển nó đến Cincinnati.
Vào tháng 8 năm 2008, giải đấu dành cho nam đã được Hiệp hội Quần vợt Hoa Kỳ (USTA), chủ sở hữu US Open, mua lại.
Năm 2002, giải đấu lần đầu tiên được tài trợ bởi Western & Southern Financial Group, với công ty tiếp tục tài trợ cho đến ít nhất là năm 2016. Năm 2011, các giải đấu nam và nữ được tổ chức trong cùng một tuần và tên được đổi từ Western & Southern Financial Group Masters và Women's Open thành Western & Southern Open.
Địa điểm thi đấu.
Giải đấu diễn ra tại Trung tâm Lindner Family Tennis, nằm ở Cincinnati (ngoại ô của Mason). Nó có tổng cộng 17 sân thi đấu, bao gồm 4 sân tổ chức giải: Sân Trung tâm, Sân Grandstand, Sân số 3 và Sân số 9 (trước đây là Sân số 3). Đây là một trong số ít giải đấu (bên cạnh Madrid Masters), trừ 4 giải Grand Slam có nhiều hơn 2 sân thi đấu cố định.
Năm 2009, BTC giải đấu thông báo nâng cấp cơ sở vật chất trị giá 10 triệu USD, bao gồm việc xây dựng Tòa nhà phía Tây rộng 4800 m để thêm không gian cho các tay vợt, giới truyền thông và người hâm mộ. Tòa nhà mới, khai trương vào giữa năm 2010 và được đặt tên là Trung tâm Cầu thủ Paul M. Flory, cao xấp xỉ hai lần so với Tòa nhà phía Tây trước đó, cao 26 m so với mặt đất.
Năm 2010, giải đấu công bố kế hoạch mở rộng sân hơn 40% và thêm 6 sân mới. Một trong số đó là Sân số 3, đóng vai trò là tòa truyền hình thứ ba, trong khi một tòa khác có sức chứa 2.500 người. Một phòng vé mới, quảng trường nhập cảnh, khu ẩm thực và các khu vực triển lãm cũng đã được thêm vào.
Vào tháng 6 năm 2020, do đại dịch COVID-19, giải đấu tạm thời chuyển đến Trung tâm Quần vợt Quốc gia Billie Jean King ở Thành phố New York để giảm bớt sự di chuyển không cần thiết của các tay vợt bằng cách tập trung giải đấu và Giải Mỹ Mở rộng tại một địa điểm.
Vì những lựa chọn thiết kế có chủ đích cho Trung tâm Quần vợt Gia đình Lindner, Cincinnati Masters được biết đến như một trong những môi trường thân thiết hơn cho sự tương tác giữa người chơi và người hâm mộ. Cách bố trí của cơ sở này thúc đẩy sự tương tác của người hâm mộ khi người chơi đi bộ từ sân này sang sân khác giữa những người hâm mộ và giải đấu công khai thời gian luyện tập của tay vợt trên nhiều sân.
Các kỷ lục.
Đơn nam.
Roger Federer đang giữ kỷ lục là tay vợt giải nhiều nhất, sau 8 lần vào chung kết thì Federer đã vô địch 7 lần; lần cuối cùng Federer vô địch là vào năm 2015, sau khi đánh bại Novak Djokovic ở trận chung kết. Tại giải đấu vào năm 2018, Djokovic đã trở thành tay vợt đầu tiên giành Golden Masters (vô địch ít nhất một lần cả 9 giải Masters 1000). Djokovic sau đó hoàn thành điều này một lần nữa vào năm 2020 với 2 Golden Masters. | 1 | null |
Claus-Casimir Bernhard Marius Max, Bá tước xứ Oranje-Nassau, Thiếu chủ nhà Amsberg (; sinh ngày 21 tháng 03 năm 2004 tại Bệnh viện Bronovo ở The Hague) là người con thứ hai và là con trai duy nhất của Hoàng tử Constantijn và Công nương Laurentien. Cậu là thành viên của Hoàng gia Hà Lan và hiện đang xếp thứ 6 trong dòng kế vị ngai vàng của Vương quốc Hà Lan.
Ngày sinh của cậu đã không được chú ý đến bởi cái chết, chỉ một ngày trước đó, của bà cố của cậu, Nữ hoàng Juliana. Cậu là cháu trai duy nhất của Nữ hoàng Beatrix và chồng là Hoàng thân Claus. Cậu có hai chị em là Nữ bá tước Eloise và Nữ bá tước Leonore.
Lễ rửa tội của cậu đã diễn ra tại nhà nguyện của cung điện Het Loo ở Apeldoorn vào ngày 10 tháng 10 năm 2004. | 1 | null |
Tại Vương quốc Hà Lan, nền quân chủ lập hiến là cơ quan và được điều khiển bởi hiến pháp của Hà Lan. Một sự phân biệt giữa các thành viên vương thất và thành viên vương gia. Theo Đạo luật gia đình Vương thất được sửa đổi năm 2002, các thành viên của vương thất gồm:
Mất vai trò thành viên.
Các thành viên mất vai trò thành viên nếu quyền kế thừa ngai vàng Hà Lan bị mất, ví dụ như kết hôn mà không có sự chấp thuận của quốc hội. Điều này áp dụng cho một số thành viên của gia đình vương thất: | 1 | null |
Bruno Ganz (; sinh ngày 22 tháng 3 năm 1941 – 16 tháng 2 năm 2019) là một diễn viên người Thuỵ Sĩ, được biết qua vai diễn Damiel trong "Wings of Desire", Adolf Hitler trong "Downfall", và Giáo sư Rohl trong "The Reader".
Cuộc sống ban đầu.
Bruno Ganz sinh ở Zürich, có cha là một thơ cơ khí Thuỵ Sĩ và mẹ là một người Ý đến từ miền Bắc. Ông đã quyết định theo đuổi sự nghiệp diễn xuất trong thời gian học đại học. Ông diễn nhiều trong sân khấu và truyền hình nhưng lại thành công lớn hơn ở điện ảnh.
Cuộc sống cá nhân.
Bruno Ganz ly thân người vợ Sabine, cưới nhau vào năm 1965, và họ có chung một người con trai Daniel (sinh năm 1972). Ông không sống ở quê nhà Zürich mà ở Venice và Berlin. | 1 | null |
Ulrich Matthes (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1959) là một diễn viên người Đức.
Cuộc sống và sự nghiệp.
Ulrich Matthes sinh ra ở Berlin và học tại Evangelisches Gymnasium zum Grauen Kloster. Ông học diễn xuất vào những năm 1980 ở Berlin dưới Else Bongers. Trong bộ phim Downfall ông đóng vai Joseph Goebbels. Cùng năm đó, ông đóng vai Cha Henri Kremer, một linh mục công giáo bị giam giữ ở Dachau trong bộ phim "The Ninth Day". | 1 | null |
Stenocereus thurberi (tiếng Anh: "Organ pipe cactus", tức "Xương rồng đại phong cầm") là một loài thực vật có hoa trong Họ Xương rồng. Loài này là loài bản địa của Mexico và Hoa Kỳ và được tìm thấy ở các sa mạc đá. Hai phân loài của loài này đã được công nhận dựa trên cơ sở về chiều cao và phân bổ. Loài này được (Engelm.) Buxb. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1961.
Tên thông dụng trong tiếng Anh của loài này bắt nguồn từ sự giống nhau của nó với một chiếc đại phong cầm. Loài cây được người dân địa phương gọi là pitaya dulce, một từ trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "thanh long ngọt" hoặc quả xương rồng ngọt.
Mô tả.
Loài này có thân hẹp và mọc theo chiều dọc thẳng đứng, tất cả các nhánh nhỏ khác nhau đều được phát triển từ một thân ngắn duy nhất nằm trên mặt đất. Những nhánh cây này dày khoảng 15 cm và có thể cao 5 m nhưng loài này đã được biết là có thể cao tới 7–8 m. Những nhánh cây này hiếm khi phân nhánh và chỉ phát triển hàng năm từ đầu của nhánh đã phát triển vào năm trước. Khi trưởng thành thì loài cây này có chiều rộng khoảng 3,5 m. Quá trình trưởng thành của loài cây này kéo dài khoảng 150 năm. Loài cây này khi già sẽ sản sinh ra các bông hoa màu trắng có hình phễu với chiều dài khoảng 75 mm và thường sẽ mở vào ban đêm và đóng lại vào ban ngày. Loài này thường mọc vào tháng 4, 5 và 6. "Stenocereus thurberi" thường được thụ phấn nhờ vào dơi. Loài cây này cũng kết thành trái với kích thước của quả bóng tennis. Bên dưới lớp gai bên ngoài của quả là thịt màu đỏ được mô tả là có vị ngon hơn dưa hấu. Loại quả này theo truyền thống được thu hoạch bởi người Seri và được người Seri gọi là ool [oːɬ] và được sử dụng như một loại thuốc.
Phân bố.
"Stenocereus thurberi" chủ yếu được tìm thấy ở Mexico, Sonora, miền nam Baja California và miền Bắc Sinaloa. Loài này cũng được tìm thấy ở Hoa Kỳ, nhưng hiếm hơn, với số lượng đáng chú ý được tìm thấy nằm ở Đài tưởng niệm Quốc gia Organ Pipe Cactus. Loài cây này nhạy cảm với sương giá, vì vậy "Stenocereus thurberi" được tìm thấy rất hiếm tại những vùng sa mạc thấp. Đây là giống cây phát triển chậm và sinh trưởng tốt trong môi trường đất thoát nước có đầy đủ ánh nắng mặt trời. Tuy nhiên, khi ở giai đoạn cây non thì giống cây này cần trồng trong bóng râm và phát triển phía dưới một "cây tán lớn". Việc sinh trưởng này cần duy trì trong vài năm cho đến khi bộ rễ phát triển đầy đủ với tỷ lệ 10 cm mọc trên mặt đất.
Phân loài.
Loài "Stenocereus thurberi" có hai phân loài đã được công nhận là "Stenocereus thurberi thurberi và Stenocereus thurberi littoralis." Phân loài "S. t. thurberi" có kích thước lớn hơn và được tìm thấy ở phía nam Arizona, Mexico và phía bắc vùng Baja California. Phân loài "S. t. littoralis" có kích thước nhỏ hơn và thường mọc ở xung quanh 3 m. Chúng chỉ được tìm thấy ở phía nam vùng Baja California. | 1 | null |
Christian Berkel (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1957) là một diễn viên người Đức.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Berkel được sinh ra ở Berlin, Đức. Cha ông là một quân y và mẹ ông đến từ một gia đình Do Thái ở Đức. Từ năm 14 tuổi ông sống ở Paris, nơi ông đã học kịch với Jean-Louis Barrault và Pierre Berlin. Sau đó ông được đào tạo tại German Film and Television Academy ở Berlin và đã xuất hiện trên sân khấu ở Augsburg, Düsseldorf, München, Viên và ở nhà hát Schiller, Berlin.
Ông đã xuất hiện trong nhiều bộ phim truyền hình và điện ảnh Đức trong đó có bác sĩ Ernst-Günther Schenck trong bộ phim Downfall. Sau này ông đảm nhận những vai quan trọng trong những bộ phim như "Black Book" của đạo diễn người Hà Lan Paul
Verhoeven và những tác phẩm Hollywood như "Flightplan", "Valkyrie" (trong đây ông đóng vai Đại tá Albrecht Mertz von Quirnheim) và bộ phim được đề cử giải Oscar Inglourious Basterds.
Ông sống ở Berlin với nữ diễn viên Andrea Sawatzki và họ có hai người con trai. Ông còn thông thạo tiếng Pháp và tiếng Anh. | 1 | null |
Hãng phim Gaumont là hãng sản xuất phim của Pháp, được kỹ sư máy Léon Gaumont thành lập vào năm 1895.
Tính đến nay, Gaumont là hãng phim lâu đời nhất trên thế giới còn tham gia hoạt động trong nền công nghiệp điện ảnh. Với định hướng ban đầu là kinh doanh trong lĩnh vực thiết bị phát hình, năm 1897 hãng đã bắt đầu sản xuất các phim ngắn để tiếp thị cho các loại máy chiếu hình cùng máy quay phim mà hãng sản xuất. Bà Alice Guy Blaché (người thư ký của ông chủ Gaumont) trở thành người phụ nữ đầu tiên nắm quyền điều hành trong nền công nghiệp điện ảnh lúc bấy giờ. | 1 | null |
Ngôn Thừa Húc () còn có tên tiếng Anh là Jerry Yan, là một diễn viên người Đài Loan, thành viên nhóm F4. Anh có tên khai sinh là Liêu Dương Chấn.
Sự nghiệp.
Nhờ vai diễn Đạo Minh Tự () trong phim truyền hình Đài Loan "Vườn sao băng" (流星花園) và phần tiếp theo ("Vườn sao băng 2"), Ngôn Thừa Húc đã vang danh tại châu Á. Sau khi loạt phim khép lại, anh cùng với những thành viên khác của F4: Châu Du Dân (Vic Zhou), Ngô Kiến Hào (Vanness Wu), Chu Hiếu Thiên (Ken Zhu) tiếp tục biểu diễn cùng nhau và cho ra đời 3 album phòng thu.
Khi rời F4, anh cũng như các thành viên khác có sự nghiệp solo khá thành công với cả hai vai trò diễn viên và ca sĩ. Năm 2006, anh đóng vai bác sĩ Su Yi Hwa trong bộ phim truyền hình được đánh giá cao của Đài Loan "Bạch sắc cự tháp". Ngôn Thừa Húc tiếp tục diễn xuất trong nhiều phim truyền hình khác như "Hot Shot" (2008) cùng với Ngô Tôn của Phi Luân Hải và phim "Chỉ muốn dựa vào em" (2010) với Trần Gia Hoa của S.H.E.
Năm 2004, Ngôn Thừa Húc phát hành đĩa nhạc đầu tay mang tên "Jerry for You" ( - Đệ Nhất Thứ). Bài hát "一公尺" (Một mét) được xếp thứ 86 trong "Hit Fm Annual Top 100 Singles Chart" (Hit-Fm年度百首單曲) của Hit Fm Đài Loan năm 2004. Đĩa nhạc này được Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế chi nhánh Hồng Kông đánh giá là một trong "10 đĩa nhạc tiếng phổ thông bán chạy nhất của năm" tại "IFPI Hong Kong Album Sales Awards".
Đời tư.
Ngôn Thừa Húc thừa nhận hẹn hò với Lâm Chí Linh vào ngày 10 tháng 11 năm 2017. Điều này không được xác nhận cũng như phủ nhận bởi Lâm Chí Linh. Tuy nhiên, khoảng một năm sau, Ngôn Thừa Húc từ chối bình luận và Lâm Chí Linh phủ nhận hẹn hò với anh. | 1 | null |
Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Moskva hay Nhà thờ chính tòa Đức Maria vô nhiễm nguyên tội Moskva (, Sobor Neporotschnowo Satschatija Preswjatoj Dewy Marii, tên bình dân là: Костёл / Kostjol hay Кирха / Kirkha - "Nhà thờ Công giáo") là một nhà thờ kiến trúc tân Gothic được tổng giáo phận Công giáo Moskva dùng làm nhà thờ chính tòa. Nằm trong quận trung tâm, đây là một trong 2 nhà thờ duy nhất của Công giáo ở Moskva và là nhà thờ Công giáo lớn nhất ở Nga.
Việc xây dựng nhà thờ chính tòa này do chính quyền Sa hoàng đề nghị năm 1894. Lễ khởi công diễn ra năm 1899. Việc xây dựng bắt đầu từ năm 1901 và được hoàn thành 10 năm sau. Nhà thờ gồm 3 gian dọc, xây bằng gạch đỏ theo bản thiết kế của kiến trúc sư Tomasz Bohdanowicz-Dworzecki. Phong cách kiến trúc chịu ảnh hưởng của tu viện Westminster và nhà thờ chính tòa Milano.
Được các quỹ của các giáo xứ Nga và các nước lân bang đài thọ, nhà thờ được thánh hiến như một nhà nguyện dành cho giáo xứ người Ba Lan ở Moskva năm 1911. Do hậu quả của cuộc cách mạng Nga năm 1917, chính phủ lâm thời Nga bị những người Bolshevik lật đổ và nước Nga trở thành một nước trong Liên bang Xô Viết. Do chủ trương áp dụng chủ nghĩa vô thần chống mọi tôn giáo, chính phủ Xô Viết ra lệnh đóng cửa nhà thờ này vào năm 1938. Trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà thờ này đã bị đe dọa phá hủy, nhưng sau chiến tranh thì nhà thờ này được sử dụng cho các mục đích dân sự như nhà kho và sau đó là nhà ăn ở tập thể. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu năm 1991, nhà này được trả lại dùng làm nhà thờ từ năm 1996. Năm 2002 nhà thờ này được nâng lên hàng nhà thờ chính tòa. Sau một đợt trùng tu và trang trí lại tốn kém, nhà thờ này đã được tái thánh hiến trong năm 2005.
Sau 58 năm bị sử dụng vào những mục đích dân sự, nhà thờ này lại được dùng làm nơi thờ tự. Hiện nhà thờ có những nghi thức phụng vụ bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Nga, tiếng Ba Lan, tiếng Triều Tiên, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Armenia và tiếng Latin. Đàn đại phong cầm của nhà thờ hiện nay là đàn organ thứ ba kể từ khi xây nhà thờ, do nhà thờ chính tòa Basel (Thụy Sĩ) tặng.
Hiện nay, nhà thờ này được đưa vào danh sách di sản của Liên bang Nga và được bảo tồn.
Lịch sử.
Thời kỳ xây dựng đầu tiên.
Vào cuối thế kỷ 19, ở Moskva chỉ có 2 nhà thờ Công giáo: nhà thờ thánh Louis của người công giáo Pháp và nhà thờ thánh Phêrô và Phaolô dành cho người Công giáo Ba Lan. Do cộng đoàn người Công giáo Ba Lan ở Moskva tăng lên tới khoảng 30.000 người, ngôi nhà thờ của họ trở nên quá nhỏ bé, không đủ sức chứa. Sau khi nộp đơn lên thống đốc Moskva xin xây một nhà thờ mới, năm 1894 hội đồng thành phố đã biểu quyết cho phép xây một nhà thờ mới, với nhiều điều kiện trong đó có 2 điều kiện liên quan tới địa điểm xây cất: nhà thờ mới phải xây ở bên ngoài trung tâm khu thành cổ, và không được ở gần nơi thánh thiêng của Chính thống giáo Nga.
Theo điều kiện đòi hỏi của Hội đồng thành phố, ngày 16 tháng 5 năm 1895 giáo xứ đã thương lượng mua khu đất 10 hecta (22 acre) ở phố Malaya Gruzinskaya, thời đó khu đất này vẫn còn ở ngoại ô thành phố, xung quanh là ruộng đồng và vườn cây. Ngày nay khu này thuộc về khu trung tâm đô thị, ở bên ngoài đại lộ bao quanh khu trung tâm thành phố, ngay bên ngoài tuyến đường xe điện ngầm Koltsevaya bao quanh khu trung tâm thành phố, là khu có nhiều nhà cao tầng từ khi phát triển đô thị ở thế kỷ 20. Giá mua khu đất này thời đó là 10.000 rúp Nga bằng vàng (xấp xỉ 260.000 dollar Mỹ tính theo năm 2012). do tiền quyên tặng. Hợp đồng mua bán đất và danh sách đầy đủ mọi người quyên tặng tiền hiện vẫn còn lưu trong hồ sơ lưu trữ của thành phố Moskva và thành phố Sankt Peterburg.
Một điều kiện nữa mà Hội đồng thành phố áp đặt cho việc xây dựng nhà thờ mới như sau: "Xét vì đã có sẵn 2 nhà thờ Công giáo rồi, thì nhà thờ tương lai phải lớn hơn các nhà thờ cũ, với một thánh giá ở đầu hồi, nhưng không có tháp chóp nhọn và tượng điêu khắc ở bên ngoài". Bản đồ án xây dựng do kiến trúc sư người Nga gốc Ba Lan Tomasz Bohdanowicz-Dworzecki thiết lập. Mặc dù đồ án không tuân thủ điều kiện cuối cùng (về tháp nhọn) của hội đồng thành phố, nhưng vẫn được chấp thuận. Theo đồ án thì nhà thờ có đủ chỗ ngồi cho 5.000 tín đồ. Lễ khởi công diễn ra từ năm 1899, nhưng việc xây dựng bắt đầu từ 1901 tới năm 1911 mới hoàn tất. Chi phí xây dựng là 290.000 rúp Nga bằng vàng (xấp xỉ 7.500.000 dollar Mỹ tính theo năm 2012), phần lớn là do các thành viên trong giáo xứ Ba Lan ở Moskva đóng góp, số còn lại do các giáo xứ Công giáo khắp nước Nga, Ba Lan và Belarus quyên góp.
Nhà thờ được thánh hiến ngày 21 tháng 12 năm 1911 với danh hiệu "Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm". Buổi lễ thánh hiến được các báo Nga và Ba Lan loan tin rộng rãi. Tờ "Russkoye Slovo" của Moskva viết: Trên đường phố Malaya Gruzinskaya tồi tàn, bẩn thỉu, đã mọc lên một nhà thờ Công giáo mới kỳ diệu, có tính nghệ thuật cao, được cung hiến cho Đức Maria vô nhiễm nguyên tội. Có độ rộng và chiều cao lớn lao, ... với nhiều tháp nhỏ và tháp lớn cùng thánh giá. Nhà thờ chính tòa mới này gây một ấn tượng sâu sắc ... Mọi chi tiết đều trông rất ấn tượng và nổi bật: không hề thấy một sai sót nhỏ về phong cách nghệ thuật.
Từ năm 1911 tới năm 1917, người ta đã quyên tiền để mua sắm đồ nội thất, tương đối khá sơ sài, ngoại trừ bàn thờ chính rất đẹp. (Những đồ nội thất nguyên thủy vẫn còn giữ được cho tới thập niên 1930). Nhiều phần trong đồ án xây dựng đã bị bỏ: sàn nhà không được lát bằng đá cẩm thạch như dự thảo mà bằng bê tông thông thường; bên ngoài mặt tiền không có các tháp nhọn. Nhiều nguồn khác nhau về việc xây dựng các tháp nhọn: một số người cho rằng chúng được xây năm 1923, nhưng một số khác lại cho rằng chúng chưa hoàn tất cho tới khi tái thiết nhà thờ vào năm 1999. Những người nói các tháp nhọn được xây dựng năm 1923 cho rằng chúng đã bị hủy hoại trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai.
Bị đóng cửa và chuyển đổi mục đích sử dụng.
Sau cuộc Các mạng Nga năm 1917, chính phủ Nga lâm thời bị những người Bolshevik lật đổ, và Đế quốc Nga trở thành một nước trong Liên bang Xô Viết mới. Do chủ trương áp dụng chủ nghĩa vô thần chống mọi tôn giáo, chính phủ Xô Viết ra lệnh đóng cửa nhiều nhà thờ. Giáo xứ thánh Phêrô và Phaolô bị chính phủ cộng sản giải thể trong năm 1929, việc cử hành thánh lễ bị cấm triệt để.
Năm 1935 nhà thờ mới này bị tịch thu các khu vườn chung quanh để lấy đất xây một trường học trong năm sau, và cuối cùng nhà thờ bị đóng cửa ngày 30 tháng 7 năm 1938 (trước đó 9 ngày, nhà thờ thánh Phêrô và Phaolô cũng cùng chung số phận). Sau khi bị đóng cửa, nhà thờ đã bị lấy đi nhiều vật dụng, kể cả bàn thờ chính và cây đàn organ. Nhà thờ đã bị sử dụng làm kho chứa rau quả trong nhiều tháng, sau đó được xây lại thành 4 tầng lầu dùng làm nơi cư trú và ăn ở tập thể.
Chỏm nhọn của tháp chính bị gỡ bỏ trong thời kỳ diễn ra trận Moskva (1941) nhằm ngăn ngừa Luftwaffe ("Không quân Đức") dùng nó làm mục tiêu nhận ra vị trí tấn công. Ngay sau khi chiến tranh kết thúc trong năm 1945, các khu vườn cũ của nhà thờ bị sáp nhập vào khu nhà chung cư cao tầng. Năm 1956 một trận hỏa hoạn đã khiến cho phần cửa trời lấy ánh sáng phía trên vòm tháp chính bị sụp đổ. Các cư dân chiếm ngụ nhà thờ dần dần được đưa tới các nhà khác, và các thành viên của "Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt" (tiếng Nga: "Мосспецпромпроект") nắm quyền sở hữu ngôi nhà thờ cũ này. Việc làm của viện nghiên cứu này chủ yếu là lập ra các bản vẽ dự án cho các nhà máy công nghiệp, nhưng cũng thiết kế cái vạc đốt lửa cho sân vận động Luzhniki dùng trong Thế vận hội Mùa hè 1980.
Trong thập niên 1960 và 1970, phần bên ngoài của nhà thờ bị hư hại nhiều. Trong số những người quan tâm đến sự hư hỏng của nhà thờ, có ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác Vladimir Vysotsky, người sống ở bên kia đường phố đối diện nhà thờ. Vào cuối thập niên 1970 thành phố định tái thiết ngôi nhà thờ để có thể dùng làm phòng hòa nhạc cho đàn organ hoặc trung tâm văn hóa nói chung. Tuy nhiên các dự án này không hề được thực hiện, do sự phản kháng của Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt.
Được sử dụng lại cho mục đích tôn giáo.
Chính sách "glasnost" được áp dụng trong thời nắm quyền của Mikhail Sergeyevich Gorbachyov, đã đóng vai trò quyết định trong việc phát triển tự do tôn giáo trong Liên bang Xô Viết. Do vậy, năm 1989, một nhóm người Công giáo Moskva và hiệp hội văn hóa "Nhà Ba Lan" (tiếng Nga: "Дом Польский"), đề nghị đưa tòa nhà này vào sử dụng lại cho mục tiêu tôn giáo. Sau khi được thành phố đồng ý, nhà thờ này đã được dùng trở lại làm nơi thờ phụng tạm thời. Thánh lễ đầu tiên được cử hành tại cầu thang nhà thờ kể từ 60 năm qua trong lễ kính Đức Maria vô nhiễm nguyên tội ngày 8 tháng 12 năm 1990. Thánh lễ do linh mục người Ba Lan Tadeusz Pikus cử hành, người sau này trở thành Giám mục phụ tá của tổng giáo phận Warszawa.
Tháng 1 năm 1990, một nhóm người Công giáo ở Moskva đã chính thức thành lập giáo xứ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Ngày 13 tháng 4 năm 1991 giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành thư luân lưu Providi quae, thiết lập "Giám quản Tông Tòa cho nước Nga thuộc châu Âu". Tổng Giám mục giám quản tông tòa, Tadeusz Kondrusiewicz, ban hành giáo lệnh tái thiết nhà thờ ngày 21 tháng 4 năm 1991. Được sự cho phép của thành phố, một thánh lễ thứ hai lại được cử hành ở cầu thang nhà thờ nhân ngày quốc khánh Ba Lan vào ngày 3 tháng 5 năm 1991. Việc thiết lập giáo xứ được ban tư pháp của Hội đồng thành phố Moskva chính thức công nhận ngày 31 tháng 5 năm 1991. Trong thời gian đó nhiều phần của nhà thờ đã bị Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt cho nhiều công ty thuê lại.
Từ ngày 7 tháng 6 năm 1991, các thánh lễ được cử hành mỗi ngày chủ nhật ở sân nhà thờ, vì Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt vẫn chiếm đóng nhà thờ. Ngày 15 tháng 7 năm 1991, linh mục Josef Sanewski, thuộc Dòng Salêdiêng Don Bosco, được bổ nhiệm làm cha xứ. Việc dạy giáo lý được thực hiện thường xuyên dưới sự hướng dẫn của các nữ tu dòng Don Bosco từ ngày 29 tháng 11 năm 1991. Cùng thời gian đó, các hội từ thiện đầu tiên được thành lập để chăm sóc và giúp đỡ các người nghèo. Ngày 1 tháng 2 năm 1992 phó thị trưởng thành phố Moskva, Yury Luzhkov, đã ký một nghị định ra lệnh cho Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt trả lại tòa nhà từ năm 1994. Ngày 2 tháng 7 năm 1992 các thành viên của giáo xứ đã vào chiếm xưởng làm việc của Viện nghiên cứu trong nhà thờ. Hội đồng thành phố Moskva đã chấp nhận việc chiếm đóng này, nên sau đó đã xây một bức tường ngăn với phần còn lại của tòa nhà. Tại khu vực xưởng cũ này, thánh lễ đã được cử hành thường xuyên.
Ngày 7 tháng 3 năm 1995 bức tường ngăn cách nói trên đã bị các thành viên giáo xứ gỡ bỏ và bắt đầu lau chùi giàn kèo đỡ mái nhà. Viện nghiên cứu gọi đơn vị cảnh sát đặc nhiệm OMON tới ngăn cản. Ngày hôm sau đã xảy ra xung đột giữa giáo dân với cảnh sát, nhiều giáo dân trong đó có một nữ tu sĩ đã bị thương. Những người khác bị bắt, kể cả cha xứ và một chủng sinh, nhưng hôm sau họ đã được thả. Sau vụ việc này, vị giám quản Tông Tòa Tadeusz Kondrusiewicz đã viết một thư ngỏ cho tổng thống Nga Boris Yeltsin vào ngày 9 tháng 3 năm 1995, yêu cầu ông can thiệp, trong đó có đoạn: "Dường như sự bách hại giáo hội đã trở thành lịch sử rồi mà. Phải vậy không? Tôi không thể nhớ là (khi nào) đã nhìn thấy một linh mục bị bắt, và cũng không thể nhớ là (khi nào) đã nhìn thấy một nữ tu sĩ bị đánh đập".
Kết quả là viên thị trưởng thành phố Moskva Yuri Luzhkov, một người được Yeltsin bổ nhiệm, đã ký quyết định ngày 7 tháng 3 năm 1995 ra lệnh di dời viện nghiên cứu ra khỏi nhà thờ từ năm 1996. Cùng lúc đó, Viện nghiên cứu đã viết thư cho Luzhkov mô tả vụ việc xảy ra trước đó theo quan điểm của họ, và yêu cầu bồi thường việc họ mất tòa nhà. Trong một cuộc họp với Đại sứ Ba Lan, Stanisław Ciosek, ngày 15 tháng 3 năm 1995, quyền thị trưởng thành phố Moskva - Alexander Musykantski - đảm bảo với ông rằng việc trả lại nhà thờ sẽ được hoàn tất vào cuối năm.
Ngày 19 tháng 3 năm 1995, một thánh lễ do sứ thần Tòa Thánh John Bukowski chủ tế được cử hành trong phần nhà thờ đã đòi lại, trong đó vị sứ thần đã chuyển phép lành của giáo hoàng cho cộng đoàn giáo xứ. Trong một quyết định mới ngày 2 tháng 11 năm 1995, Luzhkov ra lệnh cho Viện nghiên cứu Mosspetspromproyekt di dời khỏi nhà thờ chậm nhất là vào cuối năm. Ngày 2 tháng 1 năm 1996 khi lệnh di dời không được thi hành, các giáo dân đã vào khu cực viện nghiên cứu và đem đồ đạc của viện ra ngoài. Giám đốc viện, Evgeny Afanasyev lại gọi cảnh sát tới, nhưng lần này họ từ chối can thiệp. Sau đó, viên giám đốc viện đã yêu cầu cha xứ gia hạn di dời 2 tuần lễ, và Viện Mosspetspromproyekt đã dời khỏi tòa nhà ngày 13 tháng 1 năm 1996. Ngày 2 tháng 2 năm 1996, tổng giáo phận Mẹ Thiên Chúa Moskva đã nhận được phép chính thức sử dụng vĩnh viễn nhà thờ này.
Trùng tu và tái thánh hiến.
Đầu thập niên 1990, "Cơ quan bảo vệ Công trình xây dựng lớn" đã lập kế hoạch tu bổ nhà thờ dự trù vào năm 1997 nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập thành phố Moskva lần thứ 850. Đề án này đã không được thực hiện do tranh chấp về việc chiếm giữ. Tuy nhiên, năm 1995 thành phố đã quyết định cho tu bổ và giáo xứ phải chịu các chi phí tu bổ. Một ban tái thiết đã được thành lập gồm linh mục chính xứ Josef Sanevski làm chủ tịch, các thành viên là sử gia người Nga Stanislav Durnin, nhà thầu xây dựng Ba Lan và chính trị gia Grzegorz Tuderek.
Từ năm 1996 tới năm 1999, việc tu bổ nhà thờ đã được thực hiện với sự giúp đỡ của các nhà tài trợ là công ty EnergoPol của Ba Lan, và Hiệp hội các nhà thờ Công giáo Đức Renovabis. Chính phủ Nga đã cấp vốn khi chấm dứt dự án. Việc trùng tu đã diễn ra ban đầu dưới sự chỉ đạo của các công ty Ba Lan PKZ và Budimex, họ đã phục hồi hoàn toàn mặt tiền nhà thờ và mái nhà. Từ tháng 9 năm 1998, linh mục Andrzey Stetskevich và kiến trúc sư Jan Tajchman của công ty Toruń của Ba Lan đã cùng trông coi việc tái thiết; trước đây họ đã cùng trông coi việc tái thiết Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ lên trời của Công giáo ở Sankt Peterburg. (linh mục Stetskevich sau này thăng lên làm tổng đại diện tổng giáo phận Công giáo Moskva). Các đồ đạc cố định và bàn thờ mới do các chuyên gia Ucraina, Belarus và Nga thực hiện. Các công ty ở Moskva thực hiện việc lắp ghép đá cẩm thạch ở bên trong và bên ngoài nhà thờ. Các đồ nội thất được các sinh viên của trường phục chế ở Sankt Peterburg sản xuất, dưới sự chỉ đạo của Vladimir Mukhin. Các kính màu dùng cho cửa sổ hình hoa hồng ngoài mặt tiền được làm ở Toruń, còn các cửa sổ khác được công ty Tolotschko của Belarus từ Hrodna sản xuất. Nhà thờ làm lễ tái khai trương ngày 12 tháng 12 năm 1999 và được hồng y quốc vụ khanh của giáo triều Rôma Angelo Sodano tái thánh hiến. Liên kết với nhà thờ chính tòa có một thư viện, một tòa soạn tạp chí Công giáo tiếng Nga "Sứ giả Công giáo – Ánh sáng Phúc âm" (tiếng Nga: "Католический вестник — Свет Евангелия") cũng như văn phòng Caritas địa phương.
Kiến trúc và các vật trang trí.
Nhà thờ chính tòa được xây theo phong cách kiến trúc tân Gothic, có 3 gian dọc và cánh ngang theo hình thập tự với gian cung thánh hình bán nguyệt. Nhà thờ được xây toàn bằng gạch đỏ, không trát vữa xi măng bên ngoài. Năm gian chính theo chiều dọc dài , mỗi gian này lại có nhánh phụ dài . Tháp cửa trời lấy sáng hình bát giác bên trên chỗ giao nhau giữa gian giữa và gian ngang cao . Mặt tiền nhà thờ dựa trên thiết kế của tu viện Westminster, còn tháp chuông thì hơi giống tháp của nhà thờ chính tòa Milano. Điển hình cho nhà thờ theo phong cách cũ, mỗi gian dọc ở hai bên đều được gia cố bằng 5 cột trụ tường, 10 trụ tường tổng cộng tượng trưng cho Mười điều răn. Các thánh giá được dựng lên bên trên mỗi tháp chuông; tháp nhọn ở giữa mặt tiền và 2 tháp nhọn ở 2 bên mang hình huy hiệu của Giáo hoàng Gioan Phaolô II và huy hiệu của tổng Giám mục Tadeusz Kondrusiewicz.
Muời bậc bước lên cửa chính tượng trưng cho 10 điều răn, còn bậc thứ 11 tượng trưng cho chúa Giêsu Kitô. Cửa chính tượng trưng cho cửa thiên đàng, nơi tới được bằng cách giữ 10 điều răn và những lời dạy của chúa Giêsu. Cửa chính có các cột bao quanh trên đầu là trán cửa hình tam giác. Trán cửa này được trang trí bằng một hình đắp nổi, ở giữa hình đắp nổi có các chữ cái lồng nhau màu vàng "VMIC" ("Virgo Maria Immaculata Concepta", chữ Latin có nghĩa là "Maria, được hoài thai không mắc tội tổ tông truyền") thay cho thiết kế kiến trúc ban đầu là Ngôi sao David, nhắc tới đức tin Do Thái giáo của đức Trinh nữ Maria. Bên trên trán cửa hình tam giác là một cửa sổ hình hoa hồng cao bằng đá trong mờ và sáng màu.
Nội thất.
Ở 2 bên lối đi phụ vào nhà thờ có một tượng thánh giá bằng đá và một bồn nước phép. Trên cao phía bên trái có một viên gạch từ Vương cung Thánh đường Thánh Gioan Laterano, còn bên phía phải là huy chương Năm Thánh 2000. Trong tầng hầm mộ có nhà nguyện nhỏ, các phòng dạy giáo lý và phòng của cơ quan từ thiện Caritas.
Gian dọc chính có kê các ghế dài, còn các gian dọc 2 bên có các tòa giải tội. Trước khi nhà thờ bị đóng cửa năm 1938 thì trong các tòa giải tội có kê ghế dài. Sau khi tái thiết thì phía bên trái được dành cho phụ nữ, còn phía bên phải dành cho nam giới. Cả hai gian dọc bên cạnh đều cách với gian dọc giữa bởi các hàng cột, gồm 4 cột lớn và 2 cột nhỏ. Các cột và mái nhà được sơn màu trắng, còn tường thì sơn màu kem. Sàn nhà thờ được ghép bằng đá cẩm thạch màu sáng và màu xám theo ô vuông.
Phần lớn các cửa sổ kính màu ở độ cao đều có các hoa văn trừu tượng. Những cửa sổ ở phía trước thể hiện huy hiệu của các sứ thần Tòa Thánh, John Burkowski và Francesco Colasuonno. Các cửa sổ ở cánh ngang nhà thờ thì hơi lớn hơn và có hoa văn phức tạp hơn. Cửa sổ kính màu ở cánh ngang phía bên phải mô tả hình thánh Phêrô và thánh Anrê, tượng trưng cho hai nhánh tây và đông của Giáo hội Công giáo. Cửa sổ kính màu ở cánh ngang đối diện bên trái mô tả đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đang nhìn ngắm đức Mẹ Fatima. Ở gian giữa, dưới các cửa sổ, là 14 hình đắp nổi mô tả 14 chặng đàng Thánh Giá.
Lối vào phòng áo lễ nằm ở cuối cánh ngang bên phải, gần gian cung Thánh; ở cuối cánh ngang phía bên trái là nhà nguyện kính Lòng Nhân từ Chúa. Tòa đặt Mình Thánh Chúa đặt trên bàn thờ của nhà nguyện này. Bàn thờ chính của nhà thờ được bọc bằng đá cẩm thạch màu xanh đen, có chứa thánh tích của các thánh Anrê, Zenon thành Verona, Gregory thành Nyssa, Gregory thành Nazianzus, Cosmas và Damiano, Basilissa và Anastasia, cũng như ảnh Áo đức Bà và một tặng phẩm của giáo phận Verona. Tòa giảng nằm ở phía bên phải của bàn thờ, được bọc bằng cùng loại đá cẩm thạch như bàn thờ. Phía sau bàn thờ, trên tường của gian cung thánh, có một Thánh giá bằng đá cao 9 mét với tượng chúa Giêsu chịu đóng đinh cao 3 mét. Các hình trên lớp vữa mô tả Maria và thánh Gioan Tẩy giả do kiến trúc sư Svyatoslav Sakhlebin làm, một ở bên trái và một ở bên phải của các rầm chìa. Đối diện với bàn thờ và ở phía trên của tiền sảnh là tầng gác đặt đàn đại phong cầm, ban đầu có sức chứa 50 người hợp ca; nhưng một phần lớn tầng gác này nay đã bị đàn đại phong cầm choán chỗ.
Đàn đại phong cầm và các chuông.
Đàn đại phong cầm hiện nay của nhà thờ là chiếc đàn thứ ba kể từ khi xây dựng nhà thờ, và là một trong các đại phong cầm lớn nhất ở Nga. Chiếc đàn organ thứ nhất bị Nhà nước tịch thu năm 1938; chiếc đàn thứ hai - một đàn organ điện với 60 ống điều chỉnh hơi - được đưa vào sử dụng trong dịp trùng tu nhà thờ năm 1999. Chiếc đàn này do tổ chức từ thiện "Trợ giúp Giáo hội Nga" của Hoa Kỳ tặng. Chiếc đàn này được thay thế bằng đàn đại phong cầm trong thời gian từ năm 2002–2005.
Đàn đại phong cầm này được công ty Orgelbau Kuhn AG ở Männedorf, Thụy Sĩ chế tạo năm 1955 cho Nhà thờ chính tòa Tin Lành Cải cách Basel Münster ở Basel,Thụy Sĩ. Nhà thờ chính tòa Basel Münster đã tặng chiếc đàn này cho Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Moskva bắt đầu từ năm 2002, nhưng tới năm 2005 mới chuyển hết các chi tiết được tháo rời ra - ngoại trừ ống đàn bè trầm chính số 65 dài tới 10 mét, được giữ lại. Khi vận chuyển, các ống đàn được bọc trong những quần áo mới do người dân Basel tặng, sau đó số quần áo này đã được phân phát cho người nghèo ở Moskva. Việc lắp ráp các chi tiết ở Moskva được thực hiện bởi công ty Orgelbau Schmid ở Kaufbeuren, Đức, dưới sự chỉ đạo của Gerhard Schmid, người đã từ chối không nhận tiền thanh toán cho công việc của mình. Trong thời gian lắp ráp, Schmid bị tử nạn vì bị rơi xuống từ giàn ráo vào ngày 9 tháng 9 năm 2004; sau đó người con của ông – Gunnar – đã hoàn tất việc lắp ráp.
Ống đàn bè trầm chính dài 10 mét được giữ lại, sau đó đã được dùng cho chiếc đàn organ mới của nhà thờ chính tòa Münster. Ống đàn này có khả năng tạo một âm 16,35 Hertz, với âm Đô trầm có 4 quãng 8 trầm hơn âm Đô trung, sau đó đã được tái tạo ở Moskva và được gắn thêm vào đàn đại phong cầm của nhà thờ trong năm 2009.
Năm quả chuông của nhà thờ được đặt trong vòm cuốn gồm 3 vòm đỉnh nhọn bên trên mái nhà thờ ở bên trái mặt tiền. Chúng được đúc tại xưởng đúc chuông Felczyński ở Przemyśl, Ba Lan, và được Giám mục Wiktor Skworc trao tặng. Chiếc chuông lớn nhất cân nặng mang tên "Đức Mẹ Fatima". Còn các chuông khác mang các tên - từ chuông nhỏ nhất tới chuông lớn nhất: "Gioan Phaolô II"; "thánh Juda Tông đồ", (theo tên thánh quan thầy của tổng Giám mục Tadeusz Kondrusiewicz); "Năm Thánh 2000"; và "thánh Victor" (theo tên thánh quan thầy của Giám mục Wiktor Skworc.. Bộ chuông này được kích hoạt bằng điện.
Thế kỷ 21.
Ngày 11 tháng 2 năm 2002, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thiết lập "Tổng giáo phận Công giáo Moskva" và bổ nhiệm Tổng Giám mục Tadeusz Kondrusiewicz làm quản nhiệm Tông tòa, đồng thời nâng nhà thờ Đức Mẹ vô nhiễm lên hàng Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận. Quyết định này đã bị Thượng phụ Chính thống giáo Aleksiy II chỉ trích, cho rằng đây là việc "thù địch", vì ông cho rằng Giáo hội Công giáo Rôma coi nước Nga là một cánh đồng truyền giáo.. Tháng 3 năm 2002, các thành viên của nhà thờ chính tòa và các giáo dân Công giáo từ các thành phố châu Âu khác đã tham gia buổi đọc tràng hạt Mân Côi do Giáo hoàng dẫn dắt thông qua phương tiện truyền hình.
Từ khi tái mở cửa, nhiều lễ nghi phụng vụ đã được cử hành hàng ngày trong nhà thờ. Ngôn ngữ chính trong thánh lễ là tiếng Nga, nhưng cũng có các thánh lễ được cử hành bằng tiếng Ba Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Triều Tiên, tiếng Latin và tiếng Armenia (theo Nghi lễ Armenia).
Đàn đại phong cầm tái thiết — với 74 nút điều chỉnh hơi, 4 dàn phím và 5.563 ống hơi — được Tổng Giám mục Tadeusz Kondrusiewicz thánh hiến ngày 16 tháng 1 năm 2005. Sau lễ thánh hiến là buổi hòa nhạc mở đầu "Liên hoan quốc tế nhạc đàn organ lần thứ nhất" (First International Festival for Organ Music). Liên hoan này kéo dài 1 tháng với nhiều buổi hòa nhạc organ trong nhà thờ chính tòa này. Buổi hòa nhạc kết thúc liên hoan diễn ra dưới sự điều khiển của nhạc sĩ chơi đàn organ James Edward Goettsche của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Đàn organ và các buổi hòa nhạc phụng vụ diễn ra thường xuyên trong nhà thờ chính tòa này; thông thường thì vào cửa miễn phí, ngoại trừ những buổi hòa nhạc chọn lọc phải mua vé vào cửa. Một buổi hòa nhạc tưởng niệm những nạn nhân của Vụ rơi máy bay Tu-154 của Không quân Ba Lan năm 2010 đã được tổ chức ngày 12 tháng 4 năm 2010. | 1 | null |
David R Moores (sinh ngày 15 tháng 3 năm 1946 - mất ngày 22 tháng 7 năm 2022) là cựu Chủ tịch (1991–2007) và bây giờ là chủ tịch danh dự của Liverpool F.C..
Ông qua đời vào ngày 22 tháng 7 năm 2022, hưởng thọ 76 tuổi, chỉ vài tuần sau cái chết của Marge. | 1 | null |
Ferdinand von Meerheimb, tên đầy đủ là "Ferdinand Ludwig Johann Freiherr von Meerheimb" (11 tháng 4 năm 1823 tại điền trang Gnemern, nay thuộc Jürgenshagen – 7 tháng 5 năm 1882 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thiếu tướng. Ông từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Ngoài ra, ông còn là một nhà viết tiểu sử quân sự.
Tiểu sử.
Thân thế.
Ferdinand sinh vào tháng 4 năm 1823, trong gia đình quý tộc cổ Meerheimb. Ông là người con thứ ba và là con trai thứ hai của cựu Thượng tá Jasper Friedrich Freiherr von Meerheimb (12 tháng 6 năm 1785 tại Reinstorf – 25 tháng 12 năm 1872 tại Gnemern) với người vợ của ông này là Emilie Sophie Cahrlottte Karoline, xuất thân trong gia đình quý tộc von Kleist (7 tháng 2 năm 1800 tại Stavenow – 10 tháng 3 năm 1887 tại Bützow).
Sự nghiệp quân sự.
Meerheimb theo học trường "Pädagogium" tại Halle (Saale), sau đó ông học tại Trung học Nhà dòng Magdeburg. Vào ngày 6 tháng 12 năm 1841, ông nhập ngũ quân đội Phổ với tư cách là lính tình nguyện ba năm trong Trung đoàn Bộ binh số 2 "Vua Friedrich Wilhelm IV". Với quân hàm Thiếu úy, ông là Giảng viên tại Trường Sư đoàn của Quân đoàn II. Cũng trong thời gian đó, vào tháng 3 năm 1848, ông đã tham gia giao chiến trên đường phố Berlin trong cuộc trấn áp phong trào cách mạng Đức và cùng năm đó, ông tham chiến trong chiến dịch tấn công Đan Mạch. Ông đã chiến đấu tại Schleswig và bị thương ở Düppel.
Trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, Meerheimb tham gia chiến dịch Böhmen trên cương vị là một đại đội trưởng, và trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông chỉ huy Tiểu đoàn I của Trung đoàn Bộ binh Dân quân số 2 chiến đấu tại Pháp. Kể ừ ngày 25 tháng 12 năm 1870 cho đến ngày 31 tháng 3 năm 1871, ông là Thống lĩnh quân đội tại Reims. Ngoài ra, ông cũng hoạt động trong Cơ quan phụ trách ("Nebenetat") của Bộ Tổng tham mưu từ năm 1867 cho đến khi nghỉ hưu vì lý do sức khỏe vào năm 1880.
Gia đình.
Vào ngày 7 tháng 5 năm 1850, Meerheimb thành hôn với bà Brunhilde Mathilde Hiltrud, xuất thân trong gia đình quý tộc cổ von Ramin (19 tháng 3 năm 1830 tại Schmagerow – 18 tháng 4 năm 1909 tại Berlin). Cặp đôi này có bốn người con:
Sự nghiệp sáng tác.
Mặc dù Meerheimb là một tướng lĩnh, sự nghiệp sáng tác của ông, nhất là về lĩnh vực lịch sử quân sự, còn nổi bật hơn sự nghiệp quân sự của ông. Ông đã cống hến nhiều bài viết cho các tạp chí và hợp tuyển, ngoài ra ông còn bổ túc cho Tuần báo Quân sự ("Militär-Wochenblatt") hai phụ trương "Nước Pháp và người Pháp" ("Frankreich und die Franzosen", 1872) và "Giáo dục và Khoa học quân sự" ("Militärbildung und Wissenschaft", 1873). Đến năm 1877, ông còn viết một phụ trương khác về tiểu sử Thống chế Friedrich von Wrangel, và phụ trương này được xuất bản thành sách. Ông cũng đóng góp nhiều bài viết cho bộ "Tiểu sử Tổng hợp Đức" ("Allgemeinen deutschen Biographie"). Kể từ năm 1873 cho đến khi từ trần tại Berlin vào năm 1882, ông cũng là biên tập viên của tờ "Báo Văn học Quân sự" ("Militär-Litteratur-Zeitung"). Một tác phẩm của ông viết về Vương tử Heinrich đã chuẩn bị được in thành sách. | 1 | null |
Ban đại diện công nhân là một tổ chức trong một doanh nghiệp, được các công nhân thành lập để bảo vệ quyền lợi của họ. Nhiệm vụ của ban này như thế nào, còn tùy thuộc vào luật lệ của mỗi nước. Bởi vậy ban đại diện công nhân ở các nước Âu châu cũng có các tên gọi khác nhau: Anh quốc ("Joint Consultative Committee"); Đức và Áo ("Betriebsrat"); Luxembourg ("Comité Mixte"); Hà Lan và Flanders tại Bỉ ("Ondernemingsraad"); Pháp ("Comité d'entreprise"); Wallonie tại Bỉ ("Délégués du Personnel"); và Tây Ban Nha ("Comité de empresa").
Âu châu.
Đức.
Tại Đức ban đại diện công nhân là một tổ chức để bảo vệ quyền lợi của nhân viên, và cũng góp phần vào các quyết định của doanh nghiệp. Luật lệ căn bản dựa trên luật Betriebsverfassungsgesetz, theo đó cứ mỗi hãng có trên 5 nhân viên làm việc thường trực là có quyền bầu ra một người đại diện công nhân.
Căn bản của mô hình này là như sau: Những thỏa hiệp lao động tổng quát được thỏa thuận trên phương diện quốc gia giữa (thí dụ công đoàn IG Metall) và Liên hội các doanh nhân (thí dụ Gesamtmetall), và những người điều hành các hãng xưởng hội họp với đại diện công nhân để điều chỉnh những thỏa hiệp quốc gia hầu thích ứng với hoàn cảnh địa phương, hay riêng biệt của hãng mình.
Quyền lợi và bổn phận của ban đại diện công nhân được ghi lần đầu tiên vào luật Betriebsrätegesetz vào năm 1920 trong thời Cộng hòa Weimar. Sau Thế chiến thứ 2 nó được biên trong luật
Betriebsverfassungsgesetz. Ngoài ra còn có những luật lệ nằm trong luật "Kündigungsschutzgesetz" (Quyền của người đại diên công nhân khi bị sa thải) hay luật "Arbeitsgerichtsgesetz" (quyền kháng cáo ra tòa của đại diện công nhân khi tranh cãi về quyền lợi của công nhân). | 1 | null |
Boeing KC-135 Stratotanker là một loại máy bay tiếp nhiên liệu trên không của Hoa Kỳ. KC-135 là biến thể phát triển hoàn toàn mới từ máy bay chở khách Boeing 707 được phát triển từ mẫu thử Boeing 367-80 .
Biến thể.
"Xem bài Boeing C-135 Stratolifter để biết thêm về dòng máy bay C-135." | 1 | null |
Boeing C-135 Stratolifter là một loại máy bay vận tải quân sự, được phát triển từ mẫu thử máy bay chở khách phản lực Boeing 367-80 (đây cũng là khung cơ sở cho loại 707) đầu thập niên 1950. Nó có thân hẹp và ngắn hơn 707. Boeing đặt tên ban đầu là Model 717. | 1 | null |
Dưới đây là danh sách 109 giám mục Công giáo ngoại quốc từng quản nhiệm các "giáo phận" tại Việt Nam được xếp theo thời gian nhiệm chức. Tất cả đều là giám mục hiệu tòa và đảm nhiệm chức vụ đại diện Tông Tòa hoặc phó đại diện Tông Tòa cho các hạt đại diện Tông tòa (còn là địa phận hoặc giáo phận Tông Tòa).
Khi Hàng Giáo phẩm Việt Nam ra đời với việc thành lập các giáo phận chính tòa vào năm 1960, về phía các giám mục ngoại quốc, có 4 vị ngừng làm đại diện Tông Tòa và nghỉ hưu (trong số đó, Jean-Baptiste Urrutia Thi của Huế được nâng lên bậc tổng giám mục hiệu tòa), trong khi đó có 2 vị khác được nâng lên bậc giám mục chính tòa là Paul Marcel Piquet Lợi của Nha Trang và Paul Léon Seitz Kim của Kon Tum. Vào năm 1988, có tất cả tám vị được tuyên thánh tử đạo là Berrio Ochoa, OP. Vinh, Etienne Cuénot Thể, Ignacio Delgado, OP. Y, Díaz Sanjurjo, OP. An, Pierre Dumoulin-Borie Cao, Melchor García Sanpedro, OP. Xuyên, Domingo Henares, OP. Minh và Jerónimo Hermosilla, OP. Vọng.
Trong danh sách này, có các giám mục dòng thuộc Dòng Phan Sinh (OFM. 1 vị), Dòng Barnabê (B. 1 vị), Dòng Âu Tinh (OAD. 1 vị), Dòng Đa Minh (OP. 34 vị). Có 70 giám mục triều thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP.), và có 2 giám mục triều không thuộc hội đoàn nào. Về sắc tộc thì có một người lai Xiêm La, 1 người Đức, 4 người Ý, 30 người Tây Ban Nha, và 73 người Pháp.
Trong số các giám mục kể trên, chỉ có Pierre Dumoulin-Borie chưa được tấn phong. Ngoài ra, các thông tin về việc bổ nhiệm giám mục cho Pierre-Marie Le Labousse không nhất quán nên tên ông không xuất hiện trong bảng dưới đây. | 1 | null |
Trung tâm Huấn luyện Quang Trung (1953-1975), (Tiếng Anh: "Quang Trung National Training Center", QTNTC) là một Quân trường cấp Quốc gia, trực thuộc Tổng cục Quân huấn trong hệ thống điều hành của Bộ Tổng tham mưu. Trung tâm tọa lạc tại địa phận Quán Tre, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định với mục đích đào tạo quân nhân và binh sĩ cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Lịch sử hình thành.
Trung tâm được thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1953 với danh xưng ban đầu là Trung tâm Huấn luyện Quán Tre. Trên danh nghĩa là Quân trường của Quân đội Quốc gia nhưng vẫn do Quân đội Pháp điều hành huấn luyện và Chỉ huy trưởng. Đến năm 1954 mới chuyển cho Quân đội Quốc gia điều hành và huấn luyện.
Ngày 1 tháng 6 năm 1955, Trung tâm được đổi tên thành Trung tâm Huấn luyện số 1. Ngày 1 tháng 6 năm 1957, để kỷ niệm vị Anh Hùng Dân tộc vua Quang Trung, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra quyết định cải danh Trung tâm thành Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung.
Trung tâm Huấn luyện Quang Trung là xương sống của Quân đội. Chuyên đào tạo và huấn luyện tới 80% các binh sĩ tình nguyện và tân binh quân dịch, cung cấp cho các quân, binh chủng trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thông thường các khóa sinh được huấn luyện trong thời gian là 3 tháng.
Ngoài ra, Trung tâm còn đảm nhận huấn luyện giai đoạn 1 "(căn bản quân sự)" cho các khóa sinh dự bị hạ sĩ quan, sinh viên dự bị dĩ quan để sau đó gởi đến các trường chuyên ngành, Trường Bộ binh Thủ Đức hoặc Trường hạ sĩ quan Nha Trang, học tiếp giai đoạn 2 để trở thành hạ sĩ quan và sĩ quan. Ngoài ra Trung tâm còn huấn luyện các khóa học do Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Quân huấn giao phó.
Có những giai đoạn Trung tâm cùng với Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam sơn đảm nhận luôn việc đào tạo hạ sĩ quan "(Quang Trung trách nhiệm Quân khu 3 và 4, Lam Sơn trách nhiệm Quân khu 1 và 2, thời gian khóa sinh thụ huấn là 6 tháng)
Trung tâm Huấn luyện Quang Trung đã tròn trách nhiệm của mình cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chấm dứt nhiệm vụ và giải tán. | 1 | null |
Nữ tình báo (tựa tiếng Pháp: "Les Femmes de l'ombre"; tiếng Anh: "Female Agents") là một phim lịch sử của điện ảnh Pháp năm 2008, đạo diễn Jean-Paul Salomé với các diễn viên Sophie Marceau, Julie Depardieu, Marie Gillain, Deborah François, và Moritz Bleibtreu , viết bởi Salomé và Laurent Vachaud, phim kể lại hoạt động cảm tử của các nữ tình báo trong thời kháng chiến của chiến tranh thế giới thứ II. Đạo diễn Jean-Paul Salomé, lấy cảm hứng từ một tin Cáo phó trên tờ The Times (Thời báo Anh) của Lise de Baissac (Lise Villameur), một trong số ít nhân vật nữ anh hùng được công nhận của SOE, có tên là "Louise Desfontaines" trong phim với diễn viên Sophie Marceau. Bộ phim được tài trợ một phần bởi BBC Films.
Diễn viên.
"Cùng với các diễn viên khác"
Tiếp nhận.
Phim nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình của Pháp, tuy nhiên các cựu chiến binh của thế chiến II đã chỉ trích rằng những nữ đặc vụ trong phim như bị "ép buộc tham gia kháng chiến", không tham gia thông qua lòng yêu nước. | 1 | null |
Perenco là một công ty dầu khí Anh-Pháp trụ sở tại Luân Đôn và Paris. Công ty có hoạt động thăm dò và khai thác tại 16 quốc gia trên toàn thế giới: Biển Bắc, Cameroon, Gabon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guatemala, Ecuador, Colombia, Peru, Venezuela, Brasil, Belize, Tunisia, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Việt Nam.
Perenco có những hoạt động trên đất liền và ngoài khơi với sản lượng vào khoảng 375.000 thùng dầu mỗi ngày .
Lịch sử.
Từ năm 1975, những quyết định kinh doanh khôn ngoan và chính sách phát triển hoạt động đã cho ra đời Perenco nhằm theo đuổi một chiến lược mở rộng ổn định.
Được thành lập bởi Hubert Perrodo (1944-2006), tập đoàn Perenco bắt đầu hoạt động trong ngành công nghiệp dầu khí từ năm 1975, khởi nguồn là một công ty dịch vụ hàng hải có trụ sở tại Singapore.
Trong vòng một vài năm, tập đoàn đã cung cấp tàu dịch vụ, sà lan, và tàu lai dắt cho hoạt động thăm dò và khai thác của các công ty trong khu vực Đông Nam Á và vùng Vịnh Ba Tư. Các dịch vụ sớm được đa dạng hóa với sự có mặt của tàu chở dầu và sà lan dịch vụ.
Năm 1980, tập đoàn thành lập công ty khoan Techfor và xây dựng một đội giàn khoan, giàn khoan tự nâng, sà lan khoan và giàn khoan trên đất liền. Trong năm 1982, tập đoàn đã mua lại công ty khoan Cosifor của Pháp. Perenco sau đó mở rộng sang hoạt động thăm dò và khai thác, có được một mỏ dầu và khí với trữ lượng đã được chứng minh trên đất liền ở Mỹ. Sau khi thoái vốn của mảng khoan vào năm 1992, Perenco đã thành công trong việc mua lại các hoạt động khai thác ở nhiều nơi trên thế giới .
Tại Việt Nam, toàn bộ số tài sản của ConocoPhillips đã được chuyển nhượng cho Perenco vào đầu năm 2012 bao gồm cổ phần của 2 lô 15-1, 15-2 thuộc mỏ Cửu Long và 16,3% cổ phần của đường ống Nam Côn Sơn dài 393 km dẫn khí từ mỏ này về Vũng Tàu . | 1 | null |
Lý Viễn Triết (; sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936) là một nhà hóa học Đài Loan. Ông là người Đài Loan đầu tiên nhận giải Nobel. Năm 1986, ông cùng với hai nhà khoa học John C. Polanyi người Canada gốc Hungary và Dudley R. Herschbach người Mỹ giành giải Nobel Hóa học "cho những đóng góp của họ về động lực học của các quá trình hóa học cơ bản". Từ 15 tháng 1 năm 1994 đến 19 tháng 10 năm 2006, ông làm viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung ương của Đài Loan. Năm 2011, ông được bầu làm chủ tịch Hội đồng Khoa học Quốc tế. | 1 | null |
Giải quần vợt Canada Mở rộng (Canada Masters, được biết đến với tên tài trợ là Rogers Cup) là một giải quần vợt được tổ chức ở Canada. Đây là giải đấu lâu đời thứ ba trong quần vợt (chỉ đứng sau Wimbledon và Giải quần vợt Mỹ Mở rộng), giải nam của Canada Mở rộng là một sự kiện Masters 1000 của Hiệp hội quần vợt nhà nghề (ATP). Giải nữ là một sự kiện Premier 5 tournament của Hiệp hội quần vợt nữ (WTA). Giải được chơi trên mặt sân cứng.
Giải được tổ chức luôn phiên hằng năm giữa 2 thành phố Montreal và Toronto. Kể từ năm 1980 thì vào các năm lẻ giải nam diễn ra ở Montreal, giải nữ diễn ra ở Toronto, và ngược lại với các năm lẻ. Trước năm 2011, hai sự kiện diễn ra khác tuần vào Tháng 7-Tháng 8, bây giờ cả hai đều diễn ra cùng một tuần vào Tháng 8. Giải ở Toronto diễn ra tại Aviva Centre và giải ở Montreal diễn ra tại Sân vận động IGA.
Hiện tại, tính đến năm 2018, nhà vô địch đơn nam đang là Rafael Nadal và nhà vô địch đơn nữ là Simona Halep.
Lịch sử.
Giải đấu nam lần đầu diễn ra vào năm 1881, và được tổ chức ở Toronto Lawn Tennis Club, trước khi giải đấu nữ lần đầu diễn ra vào năm 1892. Trong tất cả các giải đấu quần vợt ngày nay, chỉ có Wimbledon và Giải quần vợt Mỹ Mở rộng là giải đấu lâu nhất.
Từ năm 1968 giải được biết đến với Canadian National Championships. Giữa năm 1970 và năm 1989, giải là một phần của Grand Prix Tennis Tour của Grand Prix Super Series. Giải đấu được tài trợ vào một số năm bởi các hãng thuốc lá. Vào thập niên 1970, Rothmans International là nhà tài trợ, tiếp theo đó là Player's Limited vào thập niên 1980, và sau đó là Du Maurier từ năm 1997 đến năm 2000. Tuy nhiên, luật pháp liên bang đã có hiệu lực cấm quảng cáo thuốc lá. Rogers Communications, một công ty truyền thông và truyền thông của Canada, đã tiếp quản với tư cách là nhà tài trợ chính mới.
Giải đấu được chơi trên mặt sân đất nện đến năm 1979 khi nó được thay thế bằng sân cứng. Cả hai sự kiện nam và nữ đều chơi như là một giải đấu đơn tại Trung tâm Quần vợt Quốc gia ở Toronto đến năm 1981, khi giải đấu nam lần đầu tiên được diễn ra tại Sân vận động Jarry Park ở Montreal. Tương tự, vào năm 1982 là năm đầu tiên mà giải đấu nữ diễn ra ở Montreal.
Gần đây.
Năm 1989, hai nam vận động viên quần vợt người Canada, Grant Connell và Andrew Sznajder, đã vào vòng tứ kết của giải đấu. Họ đã bị loại bởi Ivan Lendl và Andre Agassi cùng ở vòng đó. Lendl đánh bại Agassi ở vòng bán kết và John McEnroe ở vòng chung kết. Lendl trở thành tay vợt thành công nhất giải đấu, vào chung kết 9 lần và vô địch các năm 1980, 1981, 1983, 1987, 1988, and 1989.
Năm 1995, Andre Agassi và Pete Sampras gặp nhau trong trận chung kết, ba trong số bốn lần hai tay vợt nam gặp nhau trong năm nay, sau Giải quần vợt Úc Mở rộng và Indian Wells Masters. Agassi đã vô địch giải đấu để giúp anh lên ngôi số 1 thế giới, và sau đó anh đã thất bại trước Sampras tại Giải quần vợt Mỹ Mở rộng.
Năm 2004, giải đấu trở thành một phần của US Open Series, một phần trong quá trình chuẩn bị cho giải Grand Slam Mỹ Mở rộng. Do đó, các tay vợt hàng đầu thế giới như Venus và Serena Williams, và Maria Sharapova thường rút khỏi giải đấu để chuẩn bị cho Giải quần vợt Mỹ Mở rộng. Năm 2009, Giám đốc điều hành Hiệp hội quần vợt nữ (WTA) Stacey Allaster đã thực thi các quy tắc phân loại sự kiện của nữ là Premier 5 và các quy tắc của WTA yêu cầu các tay vợt nằm trong top 10 trong năm 2008 phải tham dự ít nhất là bốn giải đấu Premier 5 trong mùa giải 2009, hoặc phải đối mặt với các hình phạt như tiền phạt hoặc điểm trên bảng xếp hạng. Do đó, 19 trong số 20 các tay vợt nữ hàng đầu đã tham dự vào vòng đấu chính của Rogers Cup 2009. ATP cũng ủy nhiệm cho giải đấu nam, là một sự kiện của ATP World Tour Masters 1000.
Bắt đầu từ năm 2011, giải đấu nam và giải đấu nữ Rogers Cup được diễn ra cùng tuần, rút lui với các giải đấu sau đó là quá gần với Mỹ Mở rộng. Các vòng tương ứng của mỗi trận đấu nam và nữ đều được tổ chức trong cùng một ngày, mặc dù cách nhau vài giờ để tránh các mâu thuẫn phát sóng trực tiếp.
Kỷ lục.
Nguồn: The Tennis Base | 1 | null |
Vườn quốc gia Yasuni () là một vườn quốc gia ở Ecuador với diện tích 9.820 km2 giữa hai con sông Napo và Curaray của tỉnh Napo và Pastaza tại Amazon. Vườn quốc gia này nằm trong vùng sinh thái rừng ẩm Napo và chủ yếu gồm rừng mưa. Vườn quốc gia có cự ly khoảng 250 km từ Quito và được UNESCO công nhận là một khu dự trữ sinh quyển UNESCO vào năm 1989. Nó nằm trong lãnh thổ của tổ tiên tuyên bố của người dân bản địa Huaorani. Yasuni là nơi có hai bộ tộc bản xứ Tagaeri và Taromenane. Vườn quốc gia Yasuni ở Ecuador là một trong những nơi cuối cùng trên Trái đất còn toàn vẹn vẻ nguyên sơ chưa bị con người tác động, được mệnh danh là "thiên đường" - khu rừng đa dạng sinh học nhất hành tinh.
Đa dạng sinh học.
Vườn quốc gia Yasuni được cho là vị trí đa dạng sinh học cao nhất trên Trái Đất. Vườn quốc gia này là trung tâm của một khu vực nhỏ, nơi các loài động vật lưỡng cư, chim, động vật có vú, và sự đa dạng thực vật có mạch tất đều đạt đến mức tối đa trong phạm vi Tây bán cầu. Hơn nữa, vườn quốc gia này phá vỡ kỷ lục thế giới về sự phong phú các loài cây, lưỡng cư và dơi ở quy mô địa phương (dưới 100 km2), và là một trong những điểm phong phú nhất thế giới cho các loài chim và động vật có vú ở quy mô tại địa phương. Vườn quốc gia này giữ một kỷ lục thế giới 150 loài lưỡng cư cho những nơi có cảnh quan tương đương. Nó cũng nằm trong nhóm đầu về sự đa dạng lưỡng cư so với các địa điểm lấy mẫu khác ở phía tây Amazon. Số loài lưỡng cư của nó là nhiều hơn Hoa Kỳ và Canada kết hợp lại. Loài bò sát trong vườn quốc gia này cũng có số lượng rất cao với 121 loài còn tồn tại được tìm thấy. Mặc dù có diện tích nhỏ hơn 0,15% của lưu vực sông Amazon, Yasuni là nơi có khoảng một phần ba động vật lưỡng cư và loài bò sát. Vườn quốc gia này cũng là nơi sinh sống với mức độ cao của sự đa dạng cá với 382 loài được biết đến. Con số này lớn hơn số lượng các loài cá được tìm thấy trong toàn bộ lưu vực sông Mississippi. Yasuni cũng là nơi có ít nhất 596 loài chim trong đó bao gồm một phần ba trong tổng số các loài chim bản địa Amazon. Vườn quốc gia này cũng rất phong phú với nhiều loài dơi. Trên một quy mô khu vực, lưu vực sông Amazon có khoảng 117 loài dơi nhưng trên quy mô địa phương, Yasuni được đánh giá có sự phong phú tương đương. Chỉ trong mỗi ha, Yasuni có hơn 100.000 loài côn trùng khác nhau xấp xỉ số lượng của các loài côn trùng có thể được tìm thấy trong tất cả Bắc Mỹ. Vườn quốc gia này cũng là một trong những nơi có mức độ phong phú nhất thế giới của thực vật có mạch. Nó là một trong chín nơi trên thế giới có hơn 4.000 loài thực vật có mạch trên 10.000 km2. Vườn quốc gia này có nhiều loài cây và bụi cây và có ít nhất bốn kỷ lục thế giới cho cây dây leo và cây tài liệu phong phú cũng như ba kỷ lục thế giới về sự đa dạng trong các loài thực vật thân gỗ. Vườn quốc gia này cũng có một danh sách các loài đặc hữu như 43 loài động vật có xương sống khác nhau và 220-720 loài thực vật khác nhau. Lophostoma Yasuni là một loài dơi đặc hữu của vườn quốc gia Yasuni.
Dầu mỏ.
Sau khi thăm dò, công ty dầu khí quốc gia Ecuador Petroecuador đã phát hiện ra Yasuni chứa tới 20% nguồn dầu lửa của Ecuador. Tổng thống Ecuador Rafael Correa muốn thế giới trả cho nước này khoảng 5,2 tỉ USD để đổi lấy việc Ecuador sẽ không khoan dầu tại vườn quốc gia Yasuni. Cho đến nay, Chính phủ Ecuador đã ra giá 350 triệu USD mỗi năm để họ không khai thác dầu tại Yasuni, khu vực có trữ lượng dầu thô ước tính 920.000 thùng. | 1 | null |
Nguyễn Phúc Bảo Ân (sinh ngày 3 tháng 11 năm 1951) là con trai út của Cựu hoàng Bảo Đại, hiện đang sống tại Westminster, California, Hoa Kỳ. Ông là con trai của bà Phi Ánh, người vợ không hôn thú của cựu hoàng Bảo Đại trong thời gian ở Đà Lạt. Bà Phi Ánh có 2 người con với cựu hoàng. Ông là con trai cuối cùng còn sống của Bảo Đại. Ông đã trở thành người đứng đầu của hoàng tộc nhà Nguyễn sau cái chết của anh trai cùng cha khác mẹ của mình là hoàng tử Bảo Thăng qua đời vào ngày 15 tháng 3 năm 2017.
Tiểu sử.
Nguyễn Phúc Bảo Ân sinh năm 1951 tại Đà Lạt. Năm 1953, khi Cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem 2 con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại, và trở thành Quốc trưởng. Sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Đà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà phải ra khỏi nhà sống nay đây mai đó, ở nhà thuê.
Tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Để giữ bí mật, khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ mẹ.
Sau đó bà Phi Ánh và 2 người con sống rất vất vả, vào cảnh không nhà lại chẳng ai cho ở nhờ, bà đành phải đi bước nữa bà lấy ông này chỉ vì lo cho 2 người con bà, bà đến với ông này không có hạnh phúc và 2 anh em Bảo Ân và Phương Minh không ưa gì ông này. Bà Từ Cung Hoàng thái hậu đem Bảo Ân về Huế ăn học. Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản nhiệm. Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Đà Lạt rồi về Sài Gòn. Năm 1970, khi 19 tuổi, ông vào quân trường Quang Trung, tham gia quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Vào sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ 2 phân khoa Thương mại tại Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Sau năm 1975, ông Bảo Ân cùng gia đình, sau nhiều lần vượt biên không thành, sống tại thành phố Hồ Chí Minh cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Thời gian ở Sài gòn này ông sống khá vất vả, kiếm tiền ở chợ trời bằng bỏ mối hàng.
Năm 1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Hoa Kỳ thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Hoa Kỳ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984.
Năm 1985, bà Nguyễn Phúc Phương Minh (1949-2012), chị gái ông, và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Hoa Kỳ.
Mãi đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh sang Hoa Kỳ và định cư tại quận Cam, California từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove, California. Ông cũng có quan hệ rất tốt với thứ phi Mộng Điệp, 2 người vẫn thường xuyên liên lạc thư từ thăm hỏi nhau và xem như mẹ con.
Con trai Bảo Ân, cháu nội của cựu hoàng Bảo Đại, Nguyễn Phúc Quý Khang tốt nghiệp đại học California tại Irvine về ngành thương mại và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở thành phố Hồ Chí Minh.
Gia đình.
Khi còn ở Việt Nam ông lấy một người vợ tên là Lê Kim Liên, sau khi lấy chồng bà theo họ chồng đổi tên là Nguyễn Phúc Lê Liên, 2 người sống với nhau đến bây giờ, 2 người có 2 người con trai. | 1 | null |
Boeing C-137 Stratoliner là một loại máy bay vận tải chuyên chở VIP, được phát triển từ loại máy bay chở khách phản lực Boeing 707. C-137 do Không quân Hoa Kỳ sử dụng.
Biến thể.
C-18.
C-18 là tên định danh của quân đội Hoa Kỳ cho những chiếc 707-320B hoán cải.
C-137 Stratoliner.
Không quân Hoa Kỳ mua một số chiếc 707 dưới tên định danh của C-137: | 1 | null |
Rome Masters (tên chính thức Internazionali BNL d'Italia) là một giải quần vợt được tổ chức hằng năm tại Roma, Ý. Đây là giải đấu nằm trong hệ thống 9 giải ATP World Tour Masters 1000.
Giải được tổ chức trên mặt sân đất nện vào tuần thứ hai của tháng 5 hằng năm và được coi là giải đấu sân đất nện hay nhất, chỉ đứng sau Pháp Mở rộng.
Trước đây giải còn có tên gọi là Giải vô địch Ý và từ năm 2002 còn được gọi là Roma Master
Giải được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1930 tại Milan và được thi đấu tại đây cho đến năm 1934 trước khi giải được tổ chuyển đến Roma vào năm 1935. Giải bị gián đoạn từ năm 1936 cho đến năm 1949 và được trở lại vào năm 1950. | 1 | null |
Trần Hiểu Đông (sinh ngày 3 tháng 9 năm 1975) là nam diễn viên, ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng Hồng Kông. Anh được biết đến nhiều nhất là một trong những tài năng âm nhạc trẻ tuổi của những năm 1990.
Gia đình.
Trần Hiểu Đông trưởng thành trong một gia đình không mấy hạnh phúc, ba mẹ anh đã ly dị khi anh còn rất nhỏ. Gia đình có hai anh em trai,Trần Hiểu Đông là anh cả. Lên cấp hai, Hiểu Đông sang Mỹ du học (học tại trường California International (USA) School). Sau khi tốt nghiệp trung học, Trần Hiểu Đông trở về Hồng Kông gia nhập làng giải trí. Chú ruột của Trần Hiểu Đông cũng là ca sĩ nổi tiếng Hong Kong trong thập niên 80 Trần Bách Tường .
Sự nghiệp.
Âm nhạc.
Anh bắt đầu sự nghiệp ca hát năm 1994, nổi tiếng từ rất sớm và được coi là một ca sĩ trẻ đầy triển vọng. Năm 1995, Trần Hiểu Đông được thầy dạy nhạc, nhạc sĩ Đới Tư Thông dìu dắt vào nghề, anh ký hợp đồng trở thành ca sĩ của Công ty Đĩa hát Hoàn Cầu. Cùng năm anh đạt giải thưởng Nam ca sĩ nổi tiếng nhất năm 1995. Ngay từ những ngày đầu gia nhập làng giải trí nhờ vào ngoại hình đẹp và ăn ảnh (Trần Hiểu Đông là một trong những mỹ nam nổi tiếng nhất xứ cảng thơm, năm 2010 anh từng được kênh CNN của Mỹ bầu chọn là một trong 19 diễn viên nam đẹp nhất Hồng Kông) cùng với giọng hát ngọt ngào và khả năng sáng tác nhạc, anh đã trở thành một trong những cái tên hot nhất của làng giải trí Hồng Kông trong thập niên 90.
Giai đoạn từ giữa những năm 90 đến đầu những năm 2000 là giai đoạn huy hoàng nhất trong sự nghiệp của anh, là người kế vị Tứ đại thiên vương , đồng thời trở thành người đứng đầu của tứ tiểu thiên vương (bao gồm anh, Trần Dịch Tấn, Tạ Đình Phong và Cổ Cự Cơ) và đạt nhiều giải thưởng uy tín về âm nhạc. Cũng trong năm 2000, sau cái chết của người quản lý Rebecca Leung, anh đã thay đổi phong cách hát của mình. Trần Hiểu Đông là người theo đạo Phật.
Tháng 4/2003, Trần Hiểu Đông rời Công ty Đĩa hát Hoàn Cầu, sau 8 năm gắn bó với 6 album phát hành. Các album nổi bật của anh bao gồm: Open Up The Sky,Fly With Me, Sentimental Remix, U R My Only Love, Heart Touch, Holiday, Electric Joy EP, Feeling, I want to be, Don't mention at all, Happier than me...
Khoảng năm 2005-2006, Trần Hiểu Đông xảy ra xích mích lớn với thầy giáo Đới Tư Thông, hai người tuyên bố từ mặt nhau, kể từ đó tên tuổi của anh không còn ở đỉnh cao.
Mãi đến năm 2008, sau 5 năm vắng bóng trên nhạc đàn Hong Kong, Trần Hiểu Đông mới trở lại với album tiếng Quảng Đông "Love Moments "và các tour diễn quảng bá album với phong cách âm nhạc có phần mạnh mẽ hơn trước. Album tổng hợp các bài hát nổi tiếng của anh cũng như một số bài hát mới như: Dễ đến dễ tan, tự viết thư cho mình...
Năm 2011, sau 3 năm, anh phát hành album tiếng Phổ thông "So hot", với thể loại nhạc dance, pop, cũng như biểu diễn các show quảng bá album. Tiếp đó 3 năm sau, anh trở lại với album "Circle" với hình ảnh trải nghiệm của một người đàn ông trưởng thành.
Cho đến nay, Trần Hiểu Đông đã phát hành khoảng gần 40 album gồmː 26 album tiếng Quảng Đông và 12 album tiếng Phổ thông trong gần 20 năm hoạt động ca hát của mình. Các bài hát nổi tiếng nhất của Trần Hiểu Đông bao gồm: Đoán đoán đoán, Hiểu mọi thứ về em, Tâm lý muốn đi lang thang, Quan tâm cảm thụ của em, Trong tim anh đang rất cô đơn, Cảm giác trao ánh mắt, Muốn biết cảm giác của em, Guitar (Nút thắt trong lòng người ấy), Bộ sưu tập người tình mới, You re my only love, Yêu em tránh em, Mỗi ngày thêm yêu em, Một vạn năm, So sánh hạnh phúc, Cung thủy bình, Bật hộp quẹt, Si mê em, Cà vạt đen...
Điện ảnh.
Về sự nghiệp điện ảnh, anh tham gia khá nhiều phim điện ảnh kể từ năm 1996. Năm 1996, vai diễn Vương Văn Tuấn trong phim Hổ Độ Môn của anh được đề cử Nam diễn viên triển vọng tại Giải thưởng điện ảnh Hồng Kông cùng năm (Liên hoan phim Kim tượng lần thứ 16).
Tuy nhiên, vai diễn đáng chú ý nhất trên màn ảnh rộng của anh là vai cậu học trò tuổi teen Thẩm Chí Hán trong phim teen nổi tiếng nhất của Hồng Kông trong thập niên 90 "Không ngăn được tình yêu" (First love unlimited), đóng cặp với nữ diễn viên kiêm ca sĩ nổi tiếng Lương Vịnh Kỳ, bộ phim từng gây cơn sốt tại Hồng Kông khi nó được công chiếu vào mùa xuân năm 1997. Hình ảnh cậu học trò tuổi teen Thẩm Chí Hán dễ thương hiền lành với mái tóc bồng bềnh, và nụ cười ngọt ngào của Trần Hiểu Đông khiến anh trở thành thần tượng của hàng triệu thiếu nữ Hồng Kông. Anh và Lương Vịnh Kỳ từng được xem là một trong những cặp đẹp đôi nhất trên màn ảnh rộng của Hồng Kông. Họ không những là một cặp tiên đồng ngọc nữ trên màn ảnh, mà còn có ngoại hình rất giống nhau. Điều này tạo sự thích thú cho các fan. Năm 1998 anh đã diễn xuất trong bộ phim được đầu tư lớn "Hạnh vận nhất điều long" (phát hành ở Việt Nam với tên: Hoàng tử bánh trứng) cùng với Châu Tinh Trì, Thư Kỳ, Trịnh Tú Văn... Sau đó năm 2000, anh đóng vai chính trong phim "A War of No Desire" cùng với ảnh đế Ngô Trấn Vũ và Lương Vịnh Kỳ. Cùng năm, anh cũng tham gia phim Đặc công bad boy cùng các diễn viên: Trịnh Y Kiện, Cổ Thiên Lạc, Thư Kỳ...
Năm 2001, anh tiếp tục khẳng định khả năng diễn xuất khi gây ấn tượng với vai Hứa Lạc trong phim điện ảnh Feel 100% II (Cảm giác 100% II) - bộ phim phóng tác theo truyện tranh nổi tiếng của Hồng Kông Feel 100% với sự tham gia của nhiều diễn viên, ca sĩ nổi tiếng như: Dung Tổ Nhi, Dương Thiên Hoa, Trần Dịch Tấn & Châu Lệ Kỳ. Ngay sau đó, anh lại tái ngộ với tiểu thiên hậu Hồng Kong Dung Tổ Nhi trong phim điện ảnh thần tượng khác là: Expect a miracale..
Năm 2002, anh tiếp tục tham gia dự án phim Feel 100% phiên bản truyền hình dài 20 tập (phần 1: 11 tập & phần 2: 9 tập)của hãng phim Mỹ Á trong vai Jerry. Bộ phim tập trung rất nhiều ca sĩ, diễn viên nổi tiếng đương thời của Hồng Kông như: Phương Lực Thân, Chu Lệ Kỳ, Lý Thi Hoa, Dương Thiên Hoa, Thư Kỳ, Trịnh Trung Cơ, Trần Quán Hy... Phim rất được giới trẻ Hong Kong yêu thích.
Năm 2004, anh tham gia bộ phim truyền hình Trung Quốc "Thiện nữ u hồn" hợp tác với Từ Hy Viên (đại S), cùng nhiều ngôi sao truyền hình nổi tiếng khác, vai diễn Ninh Thể Thần của anh được khán giả Đại Lục rất yêu thích, bộ phim cũng rất được yêu thích tại các nước trong khu vực châu Á.
Giai đoạn sau đó, sự nghiệp của Trần Hiểu Đông tụt dốc không phanh, anh không có được tác phẩm nào nổi bật, album phát hành cũng không gây được tiếng vang như trước.
Mãi đến năm 2013, khi tham gia phim truyền hình nổi tiếng của Đại Lục "Lan Lăng Vương", với vai hoàng đế Vũ Văn Ung, hợp diễn với Lâm Y Thần và Phùng Thiệu Phong, tên tuổi anh đã hot trở lại, trở thành một trong những cái tên được chú ý nhất trong làng giải trí Hoa Ngữ, sự nghiệp thăng tiến với cát sê tăng vụt. Hiện tại sự nghiệp của anh phát triển khá ổn định tại Đại Lục và Đài Loan.
Đời sống tình cảm.
Trần Hiểu Đông từng trải qua nhiều mối tình kể từ năm 15 tuổi. Nhiều nguồn tin cho biết, anh từng hẹn hò với người tình màn ảnh Lương Vịnh Kỳ trong những năm 90, khi họ hợp tác với nhau lần đầu trong phim Không ngăn được tình yêu. Sau khi chia tay, họ vẫn là những người bạn thân cho đến bây giờ. Tuy nhiên, mối tình ồn ào nhất và sâu đậm nhất là với nữ diễn viên nổi tiếng Trương Bá Chi - ngọc nữ một thời của màn ảnh Hồng Kông, những năm đầu của thập niên 2000, anh với Trương Bá Chi là cặp tiên đồng ngọc nữ của làng nghệ Hồng Kông. Năm 2000, Trần Hiểu Đông và Trương Bá Chi công khai tình cảm. Tuy nhiên vì thời điểm đó hai người quá nổi tiếng, cả hai đều là thần tượng của giới trẻ, do không chịu nổi áp lực từ công ty quản lý, sự săm soi của báo chí và fan hâm mộ, hai người quyết định chia tay.
Tuy vậy, Trần Hiểu Đông cho biết, lâu nay, hai người vẫn giữ liên lạc với nhau. Trần Hiểu Đông đã ví mối quan hệ giữa anh và Trương Bá Chi như “love story” trong phim Titanic, dù cuối cùng, Jack và Rose không đến được với nhau, nhưng họ đã có một mối tình “khắc cốt ghi tâm”.
Cuối năm 2014, anh đã lập gia đình với một nữ y tá người Đài Loan tên là Vương Duy Nhàn, kém anh 12 tuổi. Hai người đã có hai con gái. | 1 | null |
Từ Hy Đệ (sinh ngày 14 tháng 6 năm 1978) với nghệ danh Tiểu S, là nữ ca sĩ, MC Đài Loan của chương trình "Khang Hy đến rồi" nổi tiếng cùng Kevin Thái kể từ năm 2004. Hai người đã nhân giải "Người dẫn chương trình xuất sắc nhất lần thứ 40" vào năm 2005.
Sự nghiệp.
Trước khi trở thành người dẫn chương trình, Từ Hy Đệ và chị gái Từ Hy Viên là bộ đôi song ca và lập nên nhóm nhạc "S.O.S." (Sisters of Shu). Sau này hai chị em chuyển công ty quản lý để tránh những vấn đề bản quyền nên đổi tên nhóm thành A.S.O.S.(All Sisters of Shu) vào cuối những năm 90
Kể từ năm 1999, hai chị em ngừng sự nghiệp ca hát. Từ Hy Đệ chuyển sang dẫn các chương trình truyền hình trong đó tiểu mục "Tôi đoán" và "Khang Hy đến rồi" vào năm 2004 và nhanh chóng trở thành MC hàng đầu tại Đài Loan. Cô cũng là người phát ngôn của thương hiệu thời trang Shiatzy Chen.
Năm 2004, cô hợp tác cùng với La Chí Tường từng là bạn dẫn trong chương trình "100% Entertainment", song ca ca khúc "戀愛達人" (Chuyên gia tình yêu) và cùng tham gia với anh trong MV này. Bài hát được ra mắt trong album thứ hai của anh là "Expert Show".
Từ Hy Đệ kết hôn với doanh nhân Hứa Nhã Quân và ba cô con gái hiện đang cùng sống tại Đài Bắc. Hôn nhân và chuyện làm mẹ của cô luôn được ra đùa vui trong "Khang Hy đến rồi" khi phê bình các khách mời là nam giới.
Tai tiếng.
Từ Hy Đệ và chị gái Từ Hy Viên cùng với 400 nghệ sĩ khác của Đài Loan bị cáo buộc trốn thuế vào năm 2009.
Ngày 26 tháng 8 năm 2013, Từ Hy Đệ và chồng là Hứa Nhã Quân, cũng với bố chồng là ông Hứa Khánh Tường bị kiện về việc sử dụng chất phụ gia trong chuỗi cửa hành bánh mỳ Top Pot Bakery và nghi vấn gian lận chứng khoán. | 1 | null |
Đo đạc trong khi khoan (Logging while drilling - LWD) là một kỹ thuật của ngành công nghiệp dầu khí, sử dụng các công cụ và thiết bị đo đạc gắn chung với bộ khoan cụ (bottom hole assembly - BHA) đưa vào giếng khoan trong khi khoan, để thu thập các thông tin cần thiết trong giếng, thường là của phần đất đá quanh thành giếng.
Thiết bị đo đạc trong khi khoan, thường làm việc kết hợp với thiết bị định vị trong khi khoan (MWD), sẽ truyền một phần hoặc toàn bộ kết quả đo được lên bề mặt, thông qua những xung trong dung dịch khoan, qua dây cáp hoặc các phương pháp khác. Việc đo đạc được thực hiện cùng lúc với công tác khoan, khi các công cụ này vẫn còn trong giếng khoan, thông tin thu được gọi là "dữ liệu thời gian thực". Phần kết quả đo xuất ra từ các thiết bị này sau khi chúng được kéo ra khỏi giếng, được gọi là "dữ liệu bộ nhớ", thường có độ phân giải và chất lượng cao hơn.
Công nghệ đo trong khi khoan ban đầu được phát triển như một bản nâng cấp của công nghệ định vị trong khi khoan, để thay thế hoàn toàn hoặc một phần kỹ thuật đo địa vật lý giếng khoan dùng cáp (wireline). Với sự tiến bộ của công nghệ trong những thập kỷ qua, đo trong khi khoan hiện đang được sử dụng rộng rãi trong việc khoan giếng dầu, khoan định hướng, đánh giá vỉa (đặc biệt là đánh giá theo thời gian thực và khoan giếng có góc nghiêng cao).
Các phép đo.
Đo đạc trong khi khoan ban đầu được phát triển để thay thế việc đo địa vật lý giếng khoan dùng cáp. Với sự phát triển của công nghệ, rất nhiều phép đo mới đã được phát triển cho đo đạc trong khi khoan, thậm chí một số chỉ có thể ứng dụng với phương pháp này, mà không phải là đo địa vật lý giếng khoan dùng cáp. Dưới đây là một số phép đo phổ biến.
Ứng dụng.
Hầu như tất cả các giếng khoan trong ngành dầu khí đều có công tác đo đạc trong khi khoan. Tính chất của đất đá quanh giếng khoan là rất quan trọng đối với các kỹ sư khoan và kỹ sư địa chất... Một vài ứng dụng cơ bản của các thông tin này là:
Các công ty cung cấp dịch vụ.
Tại Việt Nam, Tổng công ty cổ phần khoan và dịch vụ khoan dầu khí (PetroVietnam Drilling) liên kết với Baker Hughes thành lập nên liên doanh PVD Baker Hughes có cung cấp dịch vụ này.
So sánh với đo địa vật lý giếng khoan dùng cáp.
Đo đạc trong khi khoan thường được so sánh với phương pháp đo địa vật lý giếng khoan dùng cáp (wireline) vì chúng có nhiều điểm chung. | 1 | null |
Mại dâm tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên theo quy định pháp luật sở tại là bất hợp pháp và bị Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên không cho phép tồn tại ở quốc gia này. CHDCND Triều Tiên có quan điểm thường coi các tệ nạn này là ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản và mạnh tay truy quét những người vi phạm nhưng tình hình thực tế thì tệ nạn mại dâm vẫn tồn tại ở đất nước CHDCND Triều Tiên Các nhà chức trách CHDCND Triều Tiên cho hay, họ sẽ có biện pháp để triệt phá các hoạt động mại dâm ngầm nhưng vẫn còn lưỡng lự vì cuộc sống của nhiều người phụ thuộc vào hoạt động này.
Diễn biến.
Trước nạn đói.
Cùng với văn hóa Á Đông, nhìn chung, xã hội CHDCND Triều Tiên có cách nhìn khắt khe với vấn đề tình dục nam nữ và mại dâm do đó cùng với nhiều xã hội Á Đông khác, mại dâm bị hạn chế nhiều, do đó trong quá khứ, mại dâm ở CHDCND Triều Tiên thường chỉ tồn tại gần các doanh trại quân đội hoặc các bến tàu, tuy nhiên hiện nay ngày càng nhiều cô gái trẻ ở Triều Tiên bán thân để nuôi miệng hoặc kiếm tiền mua mỹ phẩm, điện thoại hoặc trang trải cho chi phí lấy chồng.
Sau nạn đói.
Đợt đói kéo dài liên miên vào những năm 1990 khiến hàng nghìn người Triều Tiên phải tìm đến biên giới Trung – Triều để tìm việc và kiếm ăn và cũng từ nạn đói này đã đẩy nhiều phụ nữ đến với nghề mại dâm để nuôi sống gia đình và bản thân họ. Dần dà kể từ đó, chuyện tình dục cũng có quan niệm mở hơn, đồng nghĩa với nạn buôn bán người và mại dâm cũng gia tăng. Nhiều phụ nữ tình nguyện hoặc bị buộc phải làm gái mại dâm vì bán thân là cách duy nhất để họ duy trì sự sống lúc bấy giờ, Tỷ lệ ly hôn tăng cao, nhiều gia đình ly tán, nhiều cặp vợ chồng tự sống xa nhau mà không cần nộp đơn ly dị. Nếu các cặp vợ chồng sống ly thân, thực chất họ đã ly hôn. Phụ nữ bị bỏ rơi không được pháp luật bảo vệ và họ tìm đến mại dâm.
Từ năm 2000.
Một thời gian sau nạn đói, tình trạng mại dâm ở CHDCND Triều Tiên bắt đầu bùng phát từ giữa những năm 2000, và đến hiện tại ngay cả các sinh viên đại học cũng bắt đầu tìm đến với nghề mại dâm, và khách hàng của họ thường là các quan chức cấp cao. Hoạt động bán dâm diễn ra ở nhà ga, quán bar, nhà hàng... Một số phụ nữ tìm đến với công việc bán dâm trên đường phố sau khi hôn nhân tan vỡ, một số khác coi đó là nghề kiếm sống và tình nguyện làm mại dâm và có cô còn mang thai ngoài ý muốn. Ở một số vùng của Triều Tiên, các loại bệnh lây qua đường tình dục cũng đang gia tăng mạnh
Tệ nạn mại dâm đang ngày càng phổ biến ở CHDCND Triều Tiên, đặc biệt là ở các khu vực giáp ranh với Trung Quốc, tại đây, bao cao su là mặt hàng bán chạy nhất ở khu chợ Hyesan, tỉnh Ryanggang (giáp ranh với Trung Quốc). Sự bùng nổ về tình dục tại Triều Tiên bắt đầu từ những bộ phim khiêu dâm do Trung Quốc sản xuất và nhập vào CHDCND Triều Tiên. Cả hai giới đều dễ bị ảnh hưởng bởi các bộ phim này của Trung Quốc vì họ rất ít hoặc không được giáo dục về tình dục. Hậu quả là, nhiều người từng sống ở Triều Tiên bỏ trốn sang Hàn Quốc bị chứng nghiện tình dục sau khi xem những bộ phim của Trung Quốc.
Một kết quả kiểm tra sức khỏe cho những thanh niên 16 tuổi đăng ký nghĩa vụ quân sự ở Chongjin cho thấy hơn 60% thiếu nữ CHDCND Triều Tiên đã từng quan hệ tình dục và một ước tính khoảng gần 10.000 phụ nữ Triều Tiên đã sang Trung Quốc, nhiều người trong số họ trở thành nô lệ tình dục. Từ năm 2005, 60-70% những người Triều Tiên trốn sang Trung Quốc là phụ nữ, 70-80% trong số đó trở thành nạn nhân của nạn buôn bán người.
Mại dâm nhà nước.
Theo quan điểm của Phương Tây thì CHDCND Triều Tiên có tồn tại trong bộ máy chính phủ một nhóm phụ nữ gọi là Kippumjo hay còn gọi là Lữ đoàn phục vụ niềm vui bao gồm các thiếu nữ từ 14 đến 20 tuổi nhằm biểu diễn và phục vụ cho nhu cầu tình dục của các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước CHDCND Triều Tiên đặc biệt là phục vụ cho cha con Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật và lữ đoàn này do đích thân Kim Chính Nhật tổ chức và lựa chọn để phục vụ cho bố mình và cho bản thân mình. Đây được coi là những nô lệ tình dục, sau khi phục vụ cho các lãnh tụ vĩ đại và lãnh đạo thì những cô gái này được gả cho những cận vệ của các lãnh đạo Triều Tiên. | 1 | null |
là một võ tướng, kiếm hào Nhật Bản sống từ giữa đến cuối thời Muromachi. Ông là người sáng lập ra phái kiếm Tenshin Shōden Katori Shintō-ryū, một trong binh pháp tam đại nguyên lưu của kiếm thuật Nhật Bản. Ông được gọi là tổ trung hung binh pháp Nhật Bản, tổ trung hung đao thương. Hiệu và pháp danh của ông là Chō-isai (Trường Uy Trai), Chō-i (Trường Ý), tên chức quan là Yamashiro. Đệ tử của ông có những người nổi tiếng như Matsumoto Masanobu, Moro-oka Ippa, Tsukahara Yasumoto...
Cuộc đời.
Iizasa Ienao là con trai của Iizuka Kinbei, chào đời trong gia đình hào sĩ làng Iizasa, quận Katori ở xứ Shimōsa (nay là thành phố Tako) vào năm Chūgen thứ 4 (1387).
Đầu tiên ông theo thờ họ Chiba, nhưng vào năm đầu niên hiệu Kōshō (1455) thì đương chủ đời thứ 18 của họ Chiba là Chiba Tanenobu gặp nạn Makuwari Yasutane phản bội, phải chạy đến làng Chida và tự vẫn ở đó. Sau khi Sōke họ Chiba diệt vong, Ienao chứng kiến cảnh này bỗng thấy cuộc đời của m Võ sĩ sống dựa vào võ nghệ chỉ như hư vô nên quyết tâm bắt đầu tu luyện đạt đến cảnh giới áo nghĩa của võ nghệ, cực ý của kiếm thuật dựa trên nền tảng tín niệm "võ thuật không phải là thứ để dùng trong các cuộc chiến làm hai bên đổ máu".
Ienao lui về ẩn dật trên núi Baiki gần đền phía trong của Katori thần cung, nơi thờ phụng võ thần Futsunushi no kami, sau khi trải qua nghìn ngày khổ luyện thì cuối cùng ngộ ra rằng "binh pháp là bình pháp". Trong khi khổ luyện thì một lần nọ ông được thần Futsunushi no kami ám thị trên một cây mơ già rằng "ngươi về sau sẽ là thầy của các kiếm khách trong thiên hạ" rồi trao cho một cuốn sách thần. Vì việc này nên lưu phái võ nghệ do ông sáng lập ra được gọi là Tenshin Shōden Katori Shintō-ryū, trong đó "Tenshin Shōden" là "thiên chân chánh truyền", ý chỉ việc lưu phái này do thần thánh truyền thừa.
Khi Ienao sáng lập phái Tenshin Shōden Katori Shintō-ryū thì có dựa vào kiếm pháp Kashima, kiếm pháp Katori vốn chỉ được truyền thừa cho các viên tư tế ở hai đền thần Kashima thần cung và Katori thần cung và hệ thống hóa lại hết các môn võ nghệ vốn không hề tồn tại các bài Kata quy ước trong giới võ lâm Nhật Bản trước đó.
Ông dạy các môn đệ rằng "sự chân thật của võ đạo nằm trong tâm người, là cái đạo của người. Nếu tâm thiện thì võ nghệ sẽ là công cụ giúp người, xây dựng nên thời thái bình, do vậy tự bản thân phải luôn nỗ lực để tiến đến gần con người hoàn thiện", ông giáo hóa đông đảo từ Võ sĩ đến thứ dân đều như vậy.
Những năm cuối đời ông còn xây dựng Jifuku-ji (Địa Phúc tự) ở núi Nyoi (Như Ý sơn). Iizasa Ienao mất vào năm Chōkyō thứ 2 (1488).
Giai thoại.
Iizasa Ienao vốn không ưa tranh chấp, có kẻ đến võ đường thách đấu thì ông dẫn ra phía sau, nơi trúc Kumazasa mọc đầy, ném tấm thảm rơm lên bụi trúc rồi nhẹ nhàng ngồi lên đó như nổi trên hư không, chẳng làm bụi trúc lay động. Đương thời, các võ phái khác thường thách đấu lẫn nhau bằng mộc kiếm, có khi là kiếm thật và không ít trường hợp dẫn tới đổ máu. Nhưng kẻ đến thách đấu Ienao, thấy động tác của ông nhẹ nhàng như vậy thì tự biết chênh lệch tài nghệ nên rút lui mà không thương tổn gì. | 1 | null |
Secretly, Greatly (tên gốc tiếng Hàn: 은밀하게 위대하게) là một phim điện ảnh Hàn Quốc dựa trên bộ truyện tranh mạng nổi tiếng cùng tên của tác giả Hun (tên thật: Choi Jong-hun), công chiếu lần đầu vào ngày 5 tháng 6 năm 2013 tại Hàn Quốc. Bộ phim có sự tham gia diễn xuất của ba gương mặt diễn viên triển vọng của Hàn Quốc là Kim Soo-hyun, Park Ki-woong và Lee Hyun-woo.
Cốt truyện.
Thiếu tá quân đội nhân dân Triều Tiên Won Ryu-hwan, 24 tuổi, tài năng, mạnh mẽ, nhận được nhiệm vụ ẩn thân thành một tên ngốc mang tên Bang Dong-gu nằm vùng tại một khu dân cư nghèo tại Seoul, Hàn Quốc. Tại đây, anh sống cuộc sống phức tạp: một mặt tiếp tục cải trang thành tên ngốc, một mặt tiếp tục quan sát và chờ lệnh từ cấp trên. Trong thời gian hoạt động, anh luôn âm thầm bảo vệ, giúp đỡ những người dân vô tội nơi đây.
Tình cờ, một đồng đội cũ của Ryu-hwan tên Lee Hae-rang cũng nhận được nhiệm vụ nằm vùng tương tự với anh nhưng dưới thân phận ca sĩ nhạc rock tên Kim Min-su đang cố gắng thi vào một công ty giải trí. Một đồng chí cùng khu vực với Ryu-hwan ẩn thân là một nhân viên giao hàng cho cửa tiệm anh làm việc do uẩn khúc đã bị thay thế bởi một bộ đội viên Triều Tiên khác từng có quan hệ sâu sắc với Ryu-hwan có ẩn thân là học sinh trung học 17 tuổi tên Lee Hae-jin.
Khi cả ba người mới hội họp được ít lâu, cấp trên đột nhiên hạ lệnh tự sát khó hiểu gửi tới tất cả điệp viên tại Hàn Quốc. Đại tá Kim Tae-won dẫn theo nhiều đặc vụ đến Hàn Quốc để truy sát những điệp viên từ chối tự sát. Ryu-hwan nói lời tạm biệt với mọi người trong khu dân cư rồi rời đi cùng với Hae-rang. Cả hai đến một tòa nhà bỏ hoang, tại đây Seo Sang-gu tiết lộ ông ta chính là giáo sư khoa chính trị ở Triều Tiên, và cho một nhóm côn đồ tấn công cả hai. Sang-gu còn nói rằng người thân của các điệp viên đều đã bị chính phủ Triều Tiên xử tử, điều này có nghĩa là mẹ của Ryu-hwan đã chết. Một lát sau, Tae-won đến nơi, lực lượng cảnh sát Hàn Quốc cũng đến. Cuộc giao chiến tiếp tục diễn ra trên sân thượng. Hae-jin cải trang thành cảnh sát để đến giúp đỡ Ryu-hwan và Hae-rang. Cuối cùng Ryu-hwan, Hae-rang và Hae-jin đều bỏ mạng. Ở khu dân cư, bà chủ tiệm tạp hóa hàng ngày vẫn chờ đợi chàng ngốc Dong-gu trở về, nhưng bà không biết rằng anh không còn trở về được nữa.
Thành tích phòng vé.
Với số vé trong ngày đạt mức 498.282 vé trong thời gian trình chiếu, bộ phim ghi kỷ lục phim có lượng vé bán chạy nhất trong ngày mọi thời đại tại Hàn Quốc, vượt qua bộ phim "The Host" đạt được năm 2006. Chỉ trong 36 giờ đồng hồ, lượng xem đã đạt mức 1.011.025, trở thành bộ phim có tốc độ tăng trưởng lượng xem nhanh nhất trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc. Trong ngày thứ 2 trình chiếu (trùng với ngày lễ tại Hàn Quốc), lượng xem đạt 919.035 lượt và nhanh chóng đạt 2 triệu lượt xem chỉ trong 72 giờ. Vào ngày thứ 5, 3 triệu lượt xem được xác nhận và thiết lập một kỷ lục mới. Bộ phim đạt 3.491.294 lượt xem trong tuần đầu, chiến thắng kỷ lục của ""Transformers: Dark of the Moon" trong năm 2011.
Vào ngày thứ 8, 4 triệu lượt xem được xác nhận. Và tới ngày thứ 12, bộ phim chạm mốc 5 triệu lượt xem. Vào ngày 19, bộ phim chính thức cùng với "Miracle in Cell No. 7", "Iron Man 3" và "The Berlin File"" trở thành 4 bộ phim có lượng xem lớn nhất năm 2013 tại Hàn Quốc. | 1 | null |
Mèo gấu hay Olinguito (, danh pháp khoa học: Bassaricyon neblina) một loài thú thuộc họ Gấu mèo Bắc Mỹ ("Procyonidae") sống ở vùng rừng dãy núi Andes tại miền tây Colombia và Ecuador. Chúng được mô tả như một loài mới vào năm 2013. Tên loài ("neblina") trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là sương mù, ý rằng loài này sống ở các khu rừng sương mù.
Mô tả.
Olinguito là một khác biệt trong chi "Bassaricyon", trong tiếng Anh, chi này có tên là "olingo", và đôi khi bị gọi một cách sai lệch là kinkajou (kinkajou có bề ngoài giống olingo, nhưng không có họ hàng gần). Cân nặng trung bình của nó là , là nó trở thành loài nhỏ nhất trong họ Procyonidae. Loài vật này ăn tạp, chủ yếu là trái cây (như sung), nhưng cũng ăn cả côn trùng và mật hoa; phân của chúng có kích thước cỡ trái việt quất xanh nhỏ. Olinguito sống đơn độc, về đêm và thích trốn tránh. Olinguito có vẻ sống hoàn toàn trên cây. Chúng có một cặp tuyến vú, và có lẽ chỉ sinh một con một lần.
Phân bố và môi trường sống.
Các mẫu vật của loài này được tìm thấy ở khu rừng sương mù dãy Andes kéo dài từ miền tây Colombia tới Ecuador, ở độ cao 5,000 tới 9,000 feet. Việc phát hiện được công bố vào ngày 15 tháng 8 năm 2013. Olinguito hiện nay không bị đe dọa, nhưng ước tính khoảng 40% phạm vi phân bố thích hợp cho chúng đang có nạn phá rừng. | 1 | null |
Tĩnh mạch cảnh là một tĩnh mạch trong đôi tĩnh mạch ở cổ động vật bốn chân có nhiệm vụ nhận máu từ đầu và cổ để đưa về tim. Mỗi tĩnh mạch gồm nhánh ngoài và nhánh trong. Tĩnh mạch cảnh tập trung máu tĩnh mạch từ đầu và cổ, nhập với các tĩnh mạch dưới đòn rồi đổ vào tĩnh mạch chủ trước. | 1 | null |
Verax là phim ngắn sản xuất vào 2013 với độ dài khoảng 5 phút, phim miêu tả những sự kiện liên quan đến Edward Snowden trong thời gian lẩn trốn ở Hồng Kông. Phim được nhà làm phim nghiệp dư tại Hồng Kông sản xuất và được đăng lên YouTube vào tháng 6 năm 2013. Phim có tên là Verax – mật danh mà Snowden dùng để liên lạc với nhà báo. Theo các nhà sản xuất thì đây là bộ phim đầu tiên được sản xuất về Snowden.
Nội dung.
Bộ phim được chia làm bốn phần gồm: Phần một, nói cuộc đối thoại của các nhân viên ở văn phòng của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) ở Hồng Kông về Edward Snowden. Phần hai nói về thư từ của Snowden ký tên là Verax gửi cho một phóng viên của một cơ quan thông tấn Hồng Kông. Phần ba nói về cảnh sát Hồng Kông thảo luận về sự kiện Snowden và phần cuối cùng nói về sự chờ đợi về phần "người thổi còi". | 1 | null |
Ma đói hoặc cô hồn (孤魂, "hồn ma cô độc"), vong linh (亡霊) hoặc còn biết đến với tên gọi ngạ quỷ hay dã quỷ (餓鬼) hay quỷ đói, âm hồn, dạ quỷ, tội hồn cách gọi của dân gian chỉ về những con ma hay những vong hồn phiêu dạt không nơi nương tựa, không người thờ cúng hoặc chết vì đói, khát, bệnh tật mà theo quan niệm tại một số quốc gia thì các cô hồn không (hoặc chưa) được cõi nào tiếp nhận, những vong hồn vật vờ, không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Các con ma đói này phải lang thang và chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống để kiếm miếng ăn. Và nhiều người phải cúng cô hồn trong rằm tháng Bảy (Tết Trung nguyên) do người ta tin rằng, trong suốt tháng 7 và đặc biệt vào ngày Rằm tháng 7, những vong hồn từ dưới âm phủ, gồm cả vong hồn của tổ tiên và những cô hồn phiêu dạt sẽ từ dưới địa phủ quay về dương thế.
Ngày nay, đôi khi người ta còn dùng từ cô hồn dùng để chỉ về những người phu đào huyệt, lấy việc tiễn đưa người chết làm cuộc mưu sinh, để cải thiện bữa cơm thường nhật. Nhiều người gọi họ là những cô hồn sống, quanh năm suốt tháng chỉ biết bám víu vào người chết sinh tồn. | 1 | null |
Roger Yonchien Tsien còn có tên khác là Tiền Vĩnh Kiện, (1 tháng 2 năm 1952– 24 tháng 8 năm 2016) là một nhà hóa sinh người Mỹ gốc Hoa. Ông là giáo sư Khoa Hóa học và Hóa sinh của Đại học California tại San Diego. Ông đã được trao giải Nobel Hóa học năm 2008 cho những khám phá và phát triển của ông về GFP cùng với hai nhà hóa học khác: Martin Chalfie của Đại học Columbia và Osamu Shimomura của Đại học Boston và Marine Biological Laboratory.
Đời tư.
Theo gia phả dòng họ Tiền (Tsien), Roger Y. Tsien là hậu duệ đời thứ 34 của vua Tiền Lưu của nước Ngô Việt, Trung Quốc xưa.
Trong dòng họ của ông có nhiều kỹ sư tài năng, trong đó có cha ông là Hsue-Chu Tsien (Tiền Học Củ), một kỹ thuật cơ khí, và những người bác bên ngoại là các giáo sư cộng nghệ của MIT. Cả cha và mẹ của ông đến từ tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Nhà khoa học tên lửa nổi tiếng Tsien Hsue-shen (Tiền Học Sâm), là người đồng sáng lập JPL và Học viện Công nghệ California và sau đó làm giám đốc các chương trình không gian và tên lửa đạn đạo của Trung Quốc, là anh em họ của cha Roger Y. Tsien. Người anh Richard W. Tsien (Tiền Vĩnh Hựu) cũng là một nhà khoa học có tiếng của đại học New York. Ông đã từng nói rằng: "Vì di truyền tôi bị buộc phải làm loại công việc này".
Tsien sinh ra tại New York năm 1952. Ông đã lớn lên tại Livingston, New Jersey và từng học trường trung học Livingston tại đây.
Khi còn bé ông bị bệnh hen suyễn, do đó ông thường ở trong nhà. Ông thường dành hàng giờ làm thí nghiệm hóa học trong phòng thí nghiệm dưới tầng hầm của ông. Năm 16 tuổi, ông đã giành giải thưởng đầu tiên tại cuộc thi Intel Science Talent Search toàn quốc với dự án nghiên cứu bằng cách nào kim loại kết hợp với thiocyanate.
Ông đã theo học đại học Harvard bằng học bổng quốc gia rồi được bầu vào Phi Beta Kappa khi học năm thứ 3. Năm 1972 ông tốt nghiệp loại "summa cum laude" (cao quý nhất) với bằng cử nhân khoa học về hóa học và vật lý. Nhà kinh tế học và chính trị gia bang Iowa Herman Quirmbach, bạn cùng phòng năm nhất của ông, đã nói "Cũng chẳng phải cường điệu khi nói rằng ông ấy là người thông minh nhất tôi từng gặp... và tôi cùng từng gặp rất nhiều người tài giỏi". | 1 | null |
Ernst Karl Friedrich von Unger (5 tháng 6 năm 1831 tại Groß-Stöckheim tại Wolfenbüttel – 10 tháng 10 năm 1921 tại Falkenberg) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Kỵ binh. Ông từng tham chiến trong ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức từ năm 1864 cho đến năm 1871.
Gia đình.
Ernst sinh vào tháng 6 năm 1831, là người con thứ sáu và cũng là con út của Cơ mật đại thần ("Geheimen Kammerrates") và điền chủ vùng Braunschweig Friedrich von Unger (1792 – 1867) với người vợ của ông này là bà Henriette, xuất thân trong gia đình von Schrader (1795 – 1837). Ông đã kết hôn với Agnes Müller von Lauingen (1835 – 1914, đến từ Lauingen tại Braunschweig) và có ba người con: Hans (1856 – 1900), Kurt (1859 – 1931), về sau cũng là một Thượng tướng Kỵ binh giống như cha mình, và Hildegard (1864 – 1942), người đã kết hôn với Joachim von Alvensleben (1856 – 1932) đến từ Falkenberg tại Fürstenwalde.
Tiểu sử.
Thời trẻ, Unger học tại Trường Trung học Chính quy "Große Schule" ("Trường Lớn") tại Wolfenbüttel, sau đó ông học trường Thiếu sinh quân tại Potsdam và Berlin. Năm 18 tuổi, ông khởi đầu sự nghiệp quân sự của mình với cấp bậc Thiếu úy trong Trung đoàn Khinh kỵ binh Cận vệ tại Potsdam. Đến năm 1859, ông được thăng quân hàm Trưởng quan kỵ binh, thoạt tiên ông được bổ nhiệm vào Bộ Tổng tham mưu ở kinh đô Berlin, sau đó ông gia nhập Bộ Tham mưu của Sư đoàn số 6 ở Brandenburg. Trên cương vị là thành viên Bộ Tham mưu sư đoàn này, ông đã tham gia mọi quyết định quan trọng trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch vào năm 1864. Do những thành tích của mình, tại thời điểm cuộc chiến tranh kết thúc, ông trở thành vị Thiếu tá trẻ nhất trong quân đội Phổ. Sau đó, trong cuộc chiến tranh với Áo năm 1866, ông đã tham chiến với vai trò là sĩ quan Bộ Tham mưu trong ộ Chỉ huy Tối cao của Tập đoàn quân số 1 dưới sự thống lĩnh của Vương thân Friedrich Karl Nikolaus, cháu trai của vua Phổ khi ấy là Wilhelm I.
Vào ngày 2 tháng 7 năm 1866, ngày trước trận đánh quyết định tại Königgrätz-Sadowa, Friedrich Karl đã truyền lệnh cho Thiếu tá Unger tiến hành thám sát thung lũng Bistritz. Cùng với một hạ sĩ và 6 lính thương kỵ binh, ông đã dong ngựa lên ngọn đồi Dub, nơi ông tin rằng ông có thể nhìn được toàn cảnh thung lũng. Nhưng trước khi ông tới được mục tiêu này, ông đến một con suối nhỏ và gặp một đội tuần tiễu của kỵ binh Áo ở bờ kia. Quân Áo xem chừng đang chuẩn bị vượt suối mà không nhận ra lính Phổ, nhưng một trong các binh sĩ của Unger nã đạn vào họ và người Áo bỏ chạy – nhưng hai trong số họ ngã ngựa. Những người lính của Unger liền tóm lấy họ và thu được thông tin rằng có ít nhất là 4 chứ không phải 1 quân đoàn Áo đang tập trung tại khu vực giữa Bistritz và Königgrätz. Điều này cũng được chứng thực bởi những người dân làng trên đường đội tuần tiễu của Unger tiến qua. Sau đó, họ tiếp tục thúc ngựa đến làng Dub, vượt qua một số lực lượng kỵ binh Áo và, như đồi tuần tiễu trước đó của họ, lính Áo tưởng toán quân Phổ là đồng minh Sachsen của mình và vẫy chào thân mật. Nhờ đó, toán quân của Unger lên được đỉnh đồi Dub và quan sát được một số lượng đáng kể quân Áo đang đóng trại trong thung lũng và trên các ngọn đồi lân cận. Tuy nhiên, họ không có thời gian để ước tính quân số của Áo do họ cuối cùng cũng đã bị phát hiện ra là quân Phổ, và một đội thương kỵ binh Galicia của Áo truy đuổi họ từ Galicia. Kỵ binh Áo săn đuổi dữ dội toán quân của Unger trên đường rút chạy của họ, và bản thân ông suýt nữa bị một ngọn giáo Ba Lan giết chết, nhưng ông đã trốn được thoát mà không phải chịu thiệt hại nào. Khoảng từ 6 đến 7 giờ tối, toán tuần tễu của ông đã trở về Kamenetz cùng với thông tin mà toàn bộ tập đoàn quân đang chờ đợi. Cuộc trinh sát táo bạo này, cùng với tầm quan trọng của nó đối với việc lên kế hoạch và kết quả của trận đánh Königgrätz đã được mô tả trong tác phẩm "Der deutsche Krieg von 1866" ("Cuộc chiến tranh nước Đức năm 1866") của Theodor Fontane.
Công tích này đã mang lại cho ông phần thưởng quân sự cao quý nhất của Phổ – Huân chương Quân công. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông được thăng cấp hàm Đại tá vào ngày 26 tháng 7 năm 1870, và được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng của Quân đoàn VII. Trên cương vị này, ông đã tham chiến trong các trận đánh khốc liệt tại Spicheren, Colombey và Gravelotte cùng với cuộc vây hãm Metz. Tuy nhiên, vào tháng 11 năm 1870, ông ốm nặng và phải trở về Đức một cách bất đắc dĩ để chữa trị trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Sau khi khỏi bệnh, ông tiếp tục tiến lên con đường binh nghiệp của mình: vào năm 1874, ông được ủy nhiệm chức Lữ đoàn trưởng, đến năm 1875 ông được phong cấp Thiếu tướng, rồi vào năm 1881 ông là Trung tướng và Sư trưởng của Sư đoàn số 22 tại Kassel. Nhưng cuối cùng, khi đang giữ chức vụ này, ông buộc phải xin giải ngũ vì vấn đề sức khỏe, và vào ngày 3 tháng 12 năm 1887 ông được về hưu đồng thời được nhận cấp bậc Danh dự ("Charakter") Thượng tướng kỵ binh.
Trong những năm cuối đời của mình, ông sinh sống tại Berlin. Để ghi nhận những công trạng của Unger trong quá trình phụng sự của ông, vào ngày 13 tháng 9 năm 1916, Đức hoàng Wilhelm II đã tặng thưởng cho ông Vương miện Vàng đính kèm Huân chương Quân công của ông. Sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt (1918), ông chuyển đến cư ngụ tại Falkenberg ở Fürstenwalde cùng với người con gái của mình là Hildegard von Alvensleben, cho đến khi từ trần vào tháng 10 năm 1920 ở tuổi 90. Ông được mai táng tại nghĩa trang của gia đình ở đây. | 1 | null |
Androcymbium là một chi thực vật có hoa trong họ Colchicaceae.
Chi này được mô tả lần đầu tiên năm 1808. Các loài cây thân thảo sống lâu năm trong chi này là bản địa châu Phi, Nam Âu, Trung Đông và quần đảo Canary. Chi này đôi khi được gộp trong chi "Colchicum" nhưng đôi khi vẫn được coi là một chi độc lập.
Các loài.
Chi này chứa 56 loài như sau: | 1 | null |
Wurmbea là một chi thực vật có hoa trong họ Colchicaceae, bản địa châu Phi và Australia. Chi này chứa khoảng 50 loài, với khoảng 50% là đặc hữu cho mỗi khu vực.
Định nghĩa năm 2008 của chi "Wurmbea" đã được mở rộng để gộp cả "Onixotis punctata" và "Onixotis stricta".
Các loài.
Nhóm châu Phi.
Nhóm loài châu Phi được World Checklist of Selected Plant Families công nhận tại thời điểm tháng 1/2015 gồm:
Khu vực Australia.
Nhóm loài Australia được World Checklist of Selected Plant Families công nhận tại thời điểm tháng 1/2015 bao gồm: | 1 | null |
Fritillaria là một chi thực vật có hoa trong họ Liliaceae.
Chi gồm các loài sinh sống ở Á-Âu, Bắc Phi, Bắc Mỹ. Có khoảng 100-loài bản địa xứ ôn vùng Bắc bán cầu, đặc biệt là các vùng Địa Trung Hải, phía tây nam châu Á, và phía tây Bắc Mỹ. | 1 | null |
Chi Cỏ duyên linh (tên khoa học: Trillium) là một chi thực vật có hoa trong họ Melanthiaceae. Nó là chi thực vật sống lâu năm bản địa khu vực ôn đới Bắc Mỹ và châu Á.
Phân loại.
Trước đây nó được coi là họ Trilliaceae, một phần của bộ Liliales. Hệ thống APG III gộp Trilliaceae vào họ Melanthiaceae, nơi nó được coi là thuộc tông Parideae. | 1 | null |
Chi Dứa dại (danh pháp khoa học: Pandanus) là một chi thực vật có hoa trong họ Dứa dại (Pandanaceae), được Sydney Parkinson mô tả khoa học đầu tiên năm 1773. Chi này phân bố rộng rãi ở cựu thế giới, được tìm thấy nhiều ở Madagascar và Malaysia, và có trên 600 loài đã được công nhận. Năm 2012, dựa vào phân tích kiểu hình và giải trình tự DNA, một số loài thuộc chi "Pandanus", phân chi "Acrostigma" đã được tách biệt thành chi "Benstonea."
Các loài.
Theo Thực vật chí Thế giới Trực tuyến (WFO), tính đến nay có 605 loài, 21 thứ, 2 phân loài và 1 dạng thuộc Chi Dứa dại. Ở Việt Nam, có 20 loài đã được tìm thấy. | 1 | null |
Anigozanthos là một chi thực vật có hoa trong họ Haemodoraceae.
Chi này được Jacques Labillardière đặt tên trong cuốn sách "Relation du Voyage à la Recherche de la Pérouse" của ông, được phát hành năm 1800. Nhà thực vật học người Pháp đã thu thập và mô tả loài điển hình của chi là "Anigozanthos rufa" trong chuyến thám hiểm của Antoine Bruni d'Entrecasteaux tới tây nam Australia năm 1792.
Tên gọi phổ thông bằng tiếng Anh của các loài trong chi này là kangaroo paw (bàn chân kangaroo) hay cat's paw (bàn chân mèo), phụ thuộc vào hình dáng hoa của chúng.
Lai ghép thương mại.
Độ phổ biến của "Anigozanthos" như là một loại cây trồng trong vườn hay loại hoa cắt sản xuất quy mô công nghiệp, đã dẫn đến sự phát triển của nhiều giống cây trồng. Cơ quan Đăng ký Giống cây trồng Australia liệt kê 27 tên gọi và mô tả giống cây trồng đã đăng ký, bắt nguồn từ tên chi. Một lượng lớn bằng sáng chế cho các giống cây trồng này, được chấp nhận (accepted) hay công nhận (granted) là các 'variety', được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu Plant breeders' rights. | 1 | null |
Wachendorfia là một chi thực vật có hoa trong họ Haemodoraceae.
Chi này chứa các loài cây lâu năm với giả thân hành, đặc hữu tỉnh Cape ở Nam Phi. Nó được mô tả lần đầu tiên năm 1757. Chi được đặt tên như vậy để vinh danh người Hà Lan là Evert Jacob van Wachendorff (1703-1758), giáo sư thực vật học và hóa học tại Utrecht.
Lịch sử phân loại.
Mô tả sớm nhất về "Wachendorfia" là của Plukenet năm 1700 và ông đặt tên cho các mẫu vật thu được từ vùng Cape là "Erythrobulbus". Các mô tả này có lẽ dựa vào mẫu vật do Oldenland thu thập. Năm 1739 Breyne minh họa và mô tả những gì rõ ràng là "Wachendorfia" dưới tên gọi "Asphodelus". Hendrik Oldenland, người quản lý Vườn công ty Simon van der Stel tại Cape Town giai đoạn 1691-1699, đã thực hiện một số thu thập sớm nhất tại khu vực ven Cape Town. Tuy nhiên, bộ sưu tập mẫu vật và ghi chép này đã bị bỏ qua trong nhiều năm cho tới khi Johannes Burman công bố mô tả hậu Linnaeus đầu tiên về "Wachendorfia" trong chuyên khảo của ông về chi này. Khi đó ông mô tả rất chính xác hai loài là "Wachendorfia thyrsiflora" và "Wachendorfia paniculata". Năm 1758 Loefling vô tình dùng tên gọi "Wachendorfia" cho những gì mà hiện nay được coi là "Callisia" (Commelinaceae). | 1 | null |
Helmholtzia là một chi thực vật có hoa trong họ Philydraceae. Nó bao gồm các loài bản địa Australia (New South Wales và Queensland), Indonesia (tỉnh Maluku), và New Guinea.
Chi này được nhà thực vật học Ferdinand von Mueller đặt tên theo Hermann von Helmholtz, một bác sĩ kiêm nhà vật lý người Đức. | 1 | null |
Chi Lục bình hay còn gọi chi bèo tây (danh pháp khoa học: Eichhornia) là một chi thực vật có hoa trong họ Pontederiaceae.
Bị xem là loài xâm lấn.
Các loài trong chi này được du nhập rộng rãi vào Bắc Mỹ, châu Á, Úc, châu Phi và New Zealand. Chúng được tìm thấy trong các vực nước lớn như ở Louisiana, hoặc Kerala Backwaters ở Ấn Độ. Ở nhiều nơi, đặc biệt là loài "E. crassipes", là loài xâm lấn nguy hiểm. Từ khi được du nhập vào Bắc Mỹ lần đầu năm 1884, ước tính có khoảng 50 kg/m2 các loài này trong các vùng nước ở Florida, Khi không được kiểm soát, chúng sẽ bao phủ hoàn toán các ao hồ; điều này làm ảnh hưởng dòng chảy, ngăn ánh sáng chiếu đến các loài thủy sinh bản địa, giảm lượng oxy hòa tan, và làm chết cá. Các loài này thường gây ra các vấn đề nghiêm trọng đối với các hồ nhân tạo nếu không được kiểm soát, nhưng cũng có thể cung cấp nguồn thức ăn cho cá vàng, giữ nước trong sạch
Sử dụng.
Loài này có khả năng hấp thụ kim loại nặng như Cd, Cr, Co, Ni, Pb và Hg, nên thích hợp trong việc làm sạch sinh học học nước thải công nghiệp, , . Ngoài kim loại nặng, loài "Eichhornia crassipes" cũng có thể loại bỏ các chất độc khác như cyanide, đặc biệt có ý nghĩa đối với những khu vực đã chịu tác động của việc khai thác mỏ vàng.
Lục bình loại bỏ arsen trong nước uống bị ô nhiễm arsen. Đây là công cụ hữu ích trong việc loại bỏ arsen từ nước giếng bị ô nhiễm ở Bangladesh.
Lục bình làm thúc đẩy sự nitrat hóa trong các hệ thống xử lý nước thải dùng công nghệ sinh học. Rễ của chúng là môi trường thuận lợi cho cộng đồng vi khuẩn phát triển. | 1 | null |
Guzmania là một chi thực vật có hoa trong phân họ Tillandsioideae của họ Bromeliaceae với khoảng gần 220 loài đã biết.
Chi này được đặt tên theo Anastasio Guzman, một nhà dược học và nhà tự nhiên học người Tây Ban Nha.
Đặc điểm.
Các loài trong chi này chủ yếu là thực vật không thân, thường xanh, sống biểu sinh lâu năm, bản địa khu vực Florida, Tây Ấn, nam Mexico, Trung Mỹ, bắc và tây Nam Mỹ. Chúng được tìm thấy ở cao độ tới trong các rừng mưa Andes.
Cây chết đi sau khi ra hoa vào mùa hè, nhưng cây mới lại dễ dàng nhân giống từ các mầm xuất hiện khi cây mẹ chết. Chúng là thực vật biểu sinh nên dễ sống nếu như được buộc vào các miếng vỏ cây với rễ được bó trong rêu than bùn ("Sphagnum").
"Guzmania" cần nhiệt độ nóng ấm và độ ẩm tương đối cao. Nấm túi "Bipolaris sorokiniana" (dạng sinh sản vô tính của "Cochliobolus sativus") và các loài nấm túi khác có thể gây ra bệnh thối rễ ở "Guzmania" nếu rễ quá ẩm và lạnh.
Sử dụng.
Một vài loài trong chi này được trồng làm cây cảnh trong nhà hay ngoài vườn.Loài được biết đến nhiều nhất là "Guzmania lingulata" (sao đỏ tươi) với các lá bắc màu cam và đỏ.
Các loài.
Vào thời điểm tháng 9 năm 2014, World Checklist of Selected Plant Families công nhận 215 loài, bao gồm cả các loài lai ghép | 1 | null |
Chi Dứa râu (danh pháp khoa học: Tillandsia) hay chi Lan không khí, chi Dứa không khí, là một chi thực vật có hoa trong Họ Dứa (Bromeliaceae), được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Chi này gồm khoảng 650 loài, là những cây lâu năm, thường xanh, phân bố chủ yếu ở Trung Nam Mỹ và một phần lãnh thổ phía nam Hoa Kỳ. Chúng thường mọc trên những thân và cành của cây khác hoặc trên những vách núi đá, một số loài có thể thích nghi ở điều kiện sa mạc khô hạn, hấp thụ nước chủ yếu từ sương mù duyên hải, như dứa râu Landbeck ("T. landbeckii") và dứa râu lá rộng ("T. latifolia"). Lá của những cây dứa râu thường có màu bạc do trên bề mặt lá có nhiều tế bào mao thể, giúp cây hấp thu nước và dinh dưỡng nhanh chóng.
Tên gọi cây không khí (air plant) xuất phát từ bản chất sống không cần lấy dinh dưỡng từ đất của những loài thực vật này. Chúng thuộc dạng thực vật biểu sinh, có khả năng bám vào bất kỳ bề mặt nào một cách dễ dàng như dây điện thoại, cành cây, vỏ cây, đá trơ... và cây phát tán hạt giống dựa vào gió. Hầu hết các loài dứa râu thuộc dạng thực vật biểu sinh, số ít thuộc dạng thực vật khí sinh (bộ rễ kém phát triển hơn, mọc trên đất sa mạc di chuyển)
Phân loại học.
Tên chi "Tillandsia" (trước đây là "Tillander"), được Carl Linnacaeus đặt theo tên để tưởng nhớ nhà thực vật học người Thụy Điển Elias Tillandz (1640-1693). Theo Thực vật chí Thế giới Trực tuyến (WFO), tính đến nay có 659 loài, 82 thứ, 8 phân loài và 1 dạng thuộc chi Dứa râu đã được công nhận. Dứa tổ chim ("T. recurvata") và không khí tóc tiên ("T. usneoides") là hai loài điển hình trong chi Dứa râu. Tính đến năm 2016, chi Dứa râu được chia làm 6 phân chi:
Hiện tại, có 6 loài đang được bảo vệ dựa theo Công ước CITES, Phụ lục II: | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.